Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu nước ngoài => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2017, 07:30:24 pm



Tiêu đề: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2017, 07:30:24 pm
Tên sách: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Tác giả: Lucien Bodard
Người dịch: Đoàn Doãn
Nhà xuất bản: Công an Nhân dân
Năm xuất bản: 2004
Số hoá: ptlinh, chuongxedap


Cùng một dịch giả
SỰ LỪA DỐI HÀO NHOÁNG
NEIL SHEEHAN



Dịch từ bản tiếng Pháp:
LA GUERRE D’INDOCHINE



TỰA

Ba mươi lăm năm đã qua đi kể từ khi tôi viết lịch sử cuộc chiến tranh của người Pháp ở Đông Dương. Là nhà báo, tôi đã theo dõi cuộc chiến, kể lại, phân tích hàng ngày; như vậy không đủ đối với tôi. Tôi còn cố tìm hiểu làm sao có thể dẫn đến thảm họa của Đội quân viễn chinh ở Điện Biên Phủ. Tôi đã muốn tháo gỡ những tình huống chằng chịt, làm sáng tỏ mớ rắc rối những sai lầm, cẩu thả, hợm hĩnh, những tính toán hớ hênh, lăn lộn, nhập nhằng, những sự phản bội và ô nhục, có thể nói tình trạng mất phẩm giá dẫn đến thảm họa không tránh được. Kỹ thuật chiến tranh lúc đó cũng hấp dẫn tôi. Phương Đông như một cơn ma túy; cuộc đấu tay đôi lôi cuốn tất cả: vũ khí và tâm hồn, sức mạnh vật chất và bản năng, đất nước, bùn lầy, đêm tối, cây xanh, thể xác và mọi góc cạnh của trí óc, việc sử dụng tiền bạc, đạo đức, hành động xấu xa, lễ nghi và tàn bạo, khủng bố và thuyết phục. Cuối cùng Đông Dương đối với tôi như mang mầm mống những thất vọng ê chề sau này ở Algeria và Châu Phi, phải thử phân tích những việc làm ở đó và bằng cách nào để giải thích lịch sử mới đây nhất của chúng ta. Xứ sở Đông Dương định mệnh, Đông Dương làm khuôn đúc cho tất cả...

Như trong cơn sốt tôi viết hàng nghìn trang. Ba cuốn sách tập hợp vào đây, những cuốn khác tôi chưa hoàn thành.

Có một thời gian tôi quan tâm đến tai họa của Mỹ nảy sinh ở Việt Nam trong sự đổ nát của tai họa Pháp, điều đó lôi kéo tôi vào những chuyến đi mới và một bản viết khác định trình bày ở Pháp, những “Hồ sơ của Lầu Năm góc" đã bị lãng quên. Mối diễm tình và những lực lượng tăm tối bám chặt vào tôi tuy cuối cùng tôi mệt mỏi. Đúng ra lòng ham thích rồi sự táo bạo đã đưa tôi đến với tiểu thuyết. Bạn tôi, nhà xuất bản Jean-Clacede Fasquelle thúc đẩy tôi. Ông nói: "Bộ ba tác phẩm về Đông Dương đã báo trước một tiểu thuyết gia”. Được tâng bốc, tôi chấp thuận.

Nhiều năm qua đi và ngày nay là tác phẩm đồ sộ này trong đó tôi thấy lại tuổi trẻ của tôi và của bao nhiêu người... Tôi đọc lại những gì đã viết và tất cả tái hiện, de Lattre mà người ta vẫn gọi là “vua Jean”, Bảo Đại, nhân vật Hamlet da vàng vừa biến mất, Hồ Chí Minh với đôi mắt sáng, tính cách một vĩ nhân, các thống chế, những kẻ bất lương, các vai phụ, những xáo động và những hành vi phức tạp của Sài Gòn. Hà Nội trầm lặng đến thế, những nhà thờ và các phe phái, sự vững tin tầm thường của những người da trắng... Tôi đọc và hình dung lại tất cả: tính lãng mạn, anh hùng ca, bi kịch, sự nổi dậy của một dân tộc bị chà đạp, cuộc chiến tranh không cảm nhận được, kéo dài vì đẫm máu, nỗi mê hoặc và ghê tởm của tôi.

Tôi biết rõ Đông Dương. Từ bé, lớn lên ở miền Nam Trung Quốc, tôi đã đến Hà Nội cùng bố mẹ tôi. Ở đây tất cả thể hiện sống động. Những hồi ức về quân Cờ đen, trung sĩ Bobillot Pavie, kẻ chinh phục hòa bình, đất nước được cứu vớt trở thành viên ngọc của hệ thống thuộc địa Pháp. Nền tài chính, lúa gạo và cao su, công việc kinh doanh và Hội đoàn, các bà và những chuyện ngồi lê đôi mách, vẻ đẹp các thành phố, trật tự xã hội, sự huỷ hoại vô ý thức. Rồi đến cuộc chiến tranh, hiệp định Genevè, sự chia cắt... Tôi ở đấy tám năm cho đến lúc Diệm, tên độc tài được người Mỹ hỗ trợ, đuổi tôi ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Đấy là vào năm 1955. Tiếp đó người ta biết tính kiêu ngạo và ngây ngô của người Mỹ. Thực tế của Washington, thực tế của những người chăn dắt và con cái những người chăn dắt, thực tế của các quan chức dựa vào kỹ thuật với tính logic không hiểu nổi. Tính hãnh diện, sự hãnh diện muôn đời của phương Tây. Và rồi những ảo tưởng bị nghiền nát. Từ Kinh Thánh đến mưa bom, quyết liệt. Cuối cùng đội quân Hoa Kỳ tan rã, nước Mỹ tan rã vì đối tượng không là gì đối với họ, một nước rất nhỏ bé, một đường viền của Trung Quốc, mà họ muốn tiến hành cuộc Thập tự chinh.

Sống lâu, người ta thậm chí có thể chứng kiến điều không tưởng tượng được. Tôi cũng đã thấy người Pháp và người Mỹ trở lại Việt Nam, thấy đâm chồi và nảy nở những luyến tiếc vô cùng. Một số cũng đáng ngờ nhưng không quan trọng, thời gian sẽ sàng lọc.

Còn lại là những kỷ niệm, những thập kỷ, là hàng chục năm chiến tranh ngoại lai và lẫn lộn, sự giết chóc như một nạn dịch đen tối trên đất Việt Nam. Và lịch sử sự đam mê của Pháp bất chấp tất cả, luôn sống dai dẳng. Một câu chuyện về tình thương và căm hận rối rắm cuộn vào nhau mà những cuốn sách này kể lại trong chốc lát.

Tôi tuyệt đối không thay đổi gì hết: tôi nói trong chốc lát nhưng tôi nghĩ đó là thời điểm cơ bản.




Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Năm, 2017, 09:06:56 am

SỰ SA LẦY



LỜI NÓI ĐẦU

Tôi nhớ mãi năm đen tối 1954! Ngày tháng năm ấy ở Hà Nội phải có một cuộc diễu hành chiến thắng kỷ niệm mười năm Đức Quốc xã đầu hàng. Những người thợ Annam đã xây dựng khán đài bằng gỗ; đang mắc những chùm cờ Pháp và Việt Nam lên cây dọc đại lộ chính của thành phố, trước mặt đài liệt sĩ, thì người ta được tin Điện Biên Phủ tan vỡ. Nhưng các tướng của Bộ Tổng tham mưu, do kiêu căng hoặc khắc kỷ, quyết định vẫn tiến hành thao diễn.

Phải ổn định tổ chức thật lâu. Người ta sắp xếp các nhân vật dân sự và quân sự vào vị trí danh dự tùy theo ngôi thứ. Xa xa đội quân nhạc đang chơi một hành khúc ảm đạm. Tướng Cogny, người phốp pháp, đôi mắt rất xanh, nặng nề dựa vào chiếc can, bước chậm rãi đến đài liệt sĩ. Ông đặt một vòng hoa cho những người Pháp bị tử trận trong những cuộc chiến tranh trước kia, một vòng khác cho những người Việt Nam. Khuôn mặt đồ sộ của ông ngang tầm với bi kịch.

Buổi lễ tiến hành theo nghi thức quân sự. Tuy nhiên, khắp nơi là sự bại trận, trên những nét mặt, trong cử chỉ và trong lòng người. Viên tướng gắn huy chương cho những người có vẻ vừa thoát nạn. Các sĩ quan tùy tùng đưa lại những giải băng trên một chiếc khay. Ông găm chúng lên những tấm ngực, ôm hôn; công việc kết thúc, ông giơ tay và cuộc diễu hành bắt đầu.

Đây là cuộc thao diễn những chiếc bóng, những người sống sót, tất cả những người lính mà tình cờ không tới Điện Biên Phủ. Họ đi qua, làm những động tác quá cứng nhắc, hầu như gượng gạo. Họ thuộc vào những lực lượng dự trữ cuối cùng của Bắc Kỳ: một tiểu đoàn quân nhảy dù nhiều "da vàng", một số lính lê dương, những chiếc tăng. Phần lớn các sĩ quan dù, quần áo dã chiến, kéo lê chân vì những vết thương cũ. Chỉ khoảng một chục người; cách đấy vài trăm cây số, tất cả những người khác vừa đầu hàng.

Đây là khoảng một trăm lính lê dương, chân bước nặng nề và vô cảm. Họ thuộc về trung đoàn tử vì đạo của Đông Dương, trung đoàn lính đánh thuê thứ 3 ấy bị đánh bật ra khỏi Cao Bằng năm 1950. Những người tham gia diễu hành thuộc về tiểu đoàn không bị đưa lên Điện Biên Phủ nhưng mấy ngày trước đó rơi vào một cuộc phục kích khủng khiếp trên con đường Hà Nội - Hải Phòng. Cả trung đoàn chỉ còn lại họ.

Dân chúng Hà Nội, kể cả những người Pháp, không bận tâm về buổi lễ. Chỉ là những tàn dư đi qua và các nhà chức trách đứng nhìn. Trên khán đài, bên cạnh tôi, một đại tá bật khóc. Ông nói:

- Tôi không bao giờ nghĩ Việt Minh trong một đêm có thể tiêu diệt mười hai nghìn chiến binh Đông Dương giỏi nhất của chúng ta.

Nỗi đau càng lớn hơn khi hy vọng âm ỉ trong lòng. Người ta khẳng định sẽ cứu vớt được nếu còn cố thủ ít lâu. Những ảo tưởng ấy đã lan vào các ban tham mưu, bắt đầu tin vào sự tiêu hao của Việt Minh. Đêm trước xảy ra bi kịch, viên chỉ huy còn cho thả một tiểu đoàn lính dù. De Castries vốn đã yêu cầu từ nhiều tuần nay, lúc đầu người ta từ chối để không tăng thêm số người hy sinh. Rồi có quyết định, ngay trước thảm họa, như bỗng tăng thêm lòng tin.

Bây giờ trong âm thanh kèn đồng và những tiếng hô, có ai không nghĩ đến những hàng tù binh vô tận đi lên phía bắc? Ở Điện Biên Phủ mọi việc đang rộn ràng. Những chiếc xe Molotova chạy khắp vùng lòng chảo còn bốc khói để thu thập chiến lợi phẩm. Mặt đất cháy sém loang lổ với hàng nghìn chiếc dù đủ màu. Nhân công chôn vùi người chết không đếm xuể của cả hai phía. Những chỉ huy thua trận, de Castries, Bigeard, Langlais trải qua nhiều cuộc thẩm vấn có năm hoặc sáu nhân viên tốc ký ghi. Đối với họ đấy cũng là sự hạ thấp mình.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Năm, 2017, 09:09:47 am

Ở Hà Nội người Pháp không biết Việt Minh có chăm sóc cho binh lính Pháp bị thương không, người ta quyết định thả thực phẩm và thuốc men xuống cho họ, mong rằng không bị tịch thu.

Người ta vẫn không hiểu vì sao Điện Biên Phủ thất thủ. Có thể quân cố thủ Pháp trong núi rừng tan vỡ như một con tim bệnh hoạn. Cuối buổi diễu hành, người bên cạnh tôi, viên đại tá sụt sùi đưa ra quan điểm:

- Một trong những bí ẩn của chiến tranh là sự tan vỡ. Người ta không bao giờ dự kiến được lúc nào một đoàn quân hoặc một đội quân đồn trú kiệt quệ đến kết thúc. Điều đó đột nhiên đổ sụp xuống.

Tang tóc và cay đắng đè nặng lên Đội quân viễn chinh. Vì đối với mọi chiến binh ở Bắc Kỳ và Đông Dương, Điện Biên Phủ là cả cuộc sống. Vào đầu trận đánh một trung sĩ già của quân thuộc địa khẩn nài tôi:

- Không nên nói tình hình trên đó xấu, sẽ là một sai lầm chết người...

Khắp Đông Dương, những người đầu bếp, làm công vặt, thư ký, tình nguyện nhảy vào lò lửa. Có những người, mười ngày nữa về nước cũng xin được nhảy dù. Khi người ta báo với họ là sẽ đi vào chỗ chết hoặc bị bắt, họ trả lời:

- Không quan trọng.

Một người lính bị thương ở mắt vào đầu trận đánh ở Điện Biên Phủ, được một trong những máy bay cứu thương cuối cùng đưa về Hà Nội, thoát khỏi địa ngục. Một tuần lễ trước thảm họa, trong lúc chưa lành bệnh, đề nghị cho nhảy xuống vùng lòng chảo bị bao vây.

- Anh tôi đang ở đó, tôi muốn đến với anh ấy.

Ở Hà Nội sau thất trận, lính dù uống rượu một cách đáng sợ. Họ là lính của một đại đội dự phòng không ra mặt trận. Xấu hổ vì còn sống và tự do, họ van xin người ta "đánh" họ xuống núi rừng Điện Biên Phủ; họ muốn từ trên trời rơi xuống để giải phóng các bạn.

Ngoài ra, trong thành phố, quân lính mặt mày khắc khổ, im lặng. Thậm chí họ cảm thấy ghê tởm phải nói, phải thú nhận nỗi khổ tâm của mình. Bên dân sự, dốt nát còn là một hạnh phúc cuối cùng. Buổi sáng tôi thấy một phụ nữ Pháp trẻ, tóc hung và gầy đi xe đạp trên đường. Để mái tóc bay theo gió, chị giữ đứa con ngồi trên khung xe. Đấy là vợ người phát thanh đài Điện Biên Phủ vừa đưa tin của Bộ Chỉ huy de Castries; trong máy anh nói đơn giản với anh bạn ở đài Hà Nội:

- Quân Việt ở cách đây hai mươi mét: vĩnh biệt cậu!

Người đàn bà còn hớn hở ấy tên là Melien. Chị đang mang thai một đứa bé khác. Không bao giờ chị biết, nhưng rồi sẽ biết...

Tin tức lan dần trong thành phố rộng. Các ông bố bà mẹ thử bắt đài Việt Nam đang thông báo danh sách tù binh. Họ xấu hổ phải nghe làn sóng Việt Minh nhưng ham muốn quá mạnh, vả lại tin tức nghèo nàn ấy rồi cạn kiệt, người Pháp làm rối loạn làn sóng địch. Qua đài người ta chỉ còn nghe tiếng rít của kim khí.

Tuy vậy, với dân chúng bình thường, cuộc sống vẫn tiếp tục. Thương nhân buôn bán, vừa trao đổi những phán xét nghiêm khắc về cuộc chiến. Sau bữa ăn tối những rạp chiếu phim và vũ trường tràn ngập đám người ngoại kiều rất vui vẻ. Dạ hội đặc biệt náo nhiệt ở Ritz, vũ trường Trung Hoa ngoài trời, trên trần nhà cao nhất Hà Nội. Người ta giãy giụa trong tiếng nhạc của một ban nhạc Philippines. Gái nhảy mặc áo dài sẻ lườn đẹp và rất nhiều. Bỗng nhiên một loạt súng mạnh, gần và kéo dài hơn bình thường vang lên. Nỗi lo sợ bóp ngạt cử tọa, tất cả im bặt: ai cũng biết ông Giáp nói sẽ tiến vế Hà Nội trong mấy ngày tới. Rồi người nhảy, đã quen với những tình huống ngẫu nhiên ấy, bình tâm lại. Cuộc vui tiếp tục.

Trong thành phố, người Việt Nam chứng tỏ nỗi thờ ơ đặc trưng của Châu Á: không một cử chỉ khiêu khích đối với người Pháp; cũng không một nụ cười hay một lời nói. Có thể nghĩ họ mù tịt về các sự kiện nhưng họ biết rõ. Sự vô cảm của Phương Đông chưa bao giờ thể hiện cao và độc ác đến thế.

Những người Pháp dân sự dần dần lo lắng. Sau nhiều năm tin tưởng tính ưu việt của người da trắng, họ phát hiện ra Việt Minh có thể thắng. Thịnh vượng của họ bị đe dọa sau chiến tranh; họ nói với nhau:

- De Lattre sẽ không làm chúng ta như thế.

Họ quên mình vốn ghét de Lattre: viên tướng này coi khinh giới lắm tiền.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2017, 07:06:41 pm

Đêm cuối cùng của chiến tranh

Hoà bình sắp đến: hoà bình trong nhục nhã.

Một lá cờ đỏ, giữa là ngôi sao Cộng sản, phất phới trên một con sào dài. Lá cờ chỉ đường một đoàn xe nhà báo đến Trung Giã; tại đây tiến hành một hội nghị hòa bình sóng đôi với hội nghị Genève.

Về nguyên tắc, cuộc gặp quy định ở một vùng không có người. Nhưng lá cờ Việt Minh, lần đầu tôi thấy, chứng tỏ chúng tôi đi vào vùng chiếm đóng: người Pháp thương lượng với tư cách những kẻ bại trận trong vùng những người chiến thắng.

Dưới lá cờ, nửa tá chiến binh của cụ Hồ, nhỏ bé, trong những bộ quần áo quá rộng, có vẻ như không thấy chúng tôi. Thân hình họ kín trong những đồng phục xanh lá cây rất mới không một phù hiệu. Những khuôn mặt khuất hẳn dưới những chiếc mũ tre đan còn phủ lá cây để nguỵ trang. Ở những người này tôi chỉ nhận ra những mẫu khuôn mặt không thể hiện điều gì, không xúc cảm; họ có thái độ của những người tình nguyện đi đến cái chết.

Bỗng nhiên họ chĩa tiểu liên vào chúng tôi, xem kỹ giấy thông hành. Không một lời hay một cử chỉ. Không thể hiện khinh khi, đắc thắng. Cuối cùng họ nâng một thanh barie cản đường để chúng tôi đi qua.

Mấy mét xa hơn, những hiến binh Pháp đặc biệt mạnh khỏe, phô những khuôn mặt phương phi, cả một trang bị bằng da. Các nhà báo khó chịu tự hỏi làm sao những con người cao lớn da trắng và được nuôi dưỡng tốt như thế có thể bị những người mảnh khảnh da vàng nghèo khổ, đánh bại. Trên con đường nứt vỡ vì hố bom, hố mìn, những hiến binh này là biểu tượng sự bất lực mới của nước Pháp.

Tuy vậy vẫn còn đánh nhau. Chiến tranh tiếp tục, cả sau Điện Biên Phủ, cả sau khung cảnh quốc tế được dựng lên ở Genève để đàm phán hòa bình. Những sư đoàn Việt Minh ra khỏi núi rừng tràn xuống vùng châu thổ. Quân lính Pháp di tản, co cụm lại xung quanh con đường Hà Nội - Hải Phòng. Tướng Cogny chỉ trên tấm bản đồ rộng lớn của Ban tham mưu đất đai còn lại của người Pháp, nói: "Nó giống như một bộ phận sinh dục bị bệnh giang mai". Những trận đánh giận dữ và đen tối luôn luôn xảy ra. Phó của ông, tướng Vanuxem tung các đội cơ động, xe tăng, những tiểu đoàn cuối cùng ra chống trả mãnh liệt. Cũng có vài trận chiến thắng. Họ bám trụ nhưng lực lượng địch vô tận, xâm nhập khắp nơi.

Người Pháp chiến đấu dũng cảm, dù đã mất lòng tin. Đối với toàn Đội quân viễn chinh, Điện Biên Phủ là một biểu tượng cao cả nhất: phải có một bước ngoặt để tiến lên chiến thắng. Nhưng sau tai họa không thể tin được đó, quân lính cảm thấy chán ngấy cả chính mình. Chỉ trong mấy tiếng đồng hồ, toàn đội trở thành buồn tẻ. Dưới nắng nóng của mùa hè Bắc Kỳ các sĩ quan và quân lính còn làm những động tác cần thiết để giữ chân quân địch đang tràn tới. Nhưng chỉ vì kỷ luật. Tám năm ròng cái chết đã là kiểu cách trịch thượng cao nhất của Đội quân viễn chinh - họ lớn tiếng một cách khinh khi và khiếm nhã. Bỗng nhiên cái chết làm họ sợ. Lẽ phải đã thắng; ai cũng muốn sống, họ tính ngày giờ trước hòa bình sắp tới. Tôi đã nghe những câu tầm thường, trước đây là cả một sự sỉ nhục: "Bây giờ mà làm thủng da mình thì quá ngu đần".

Những người Pháp ở thời vinh quang nhận lấy cái chết vô ích nhất vào buổi kết thúc khốn khổ này của cuộc chiến tranh Đông Dương, không còn muốn nữa. Tuy nhiên họ nhục nhã vì khuây khỏa trước hòa bình.

Người Việt không đặt ra những vấn đề ấy. Ngay trước tuần lễ cuối cùng họ bị chết hàng loạt. Thi thể họ chất thành chùm trên dây thép gai các đồn bốt. Những người tình nguyện hy sinh ôm bom mìn nhảy vào các lô cốt, tuy mọi việc đã được thu xếp ở Genève.

Cuối cùng đến ngày kết thúc chiến tranh: 26 tháng bảy năm 1954. Đình chiến bắt đầu vào ngày hôm sau lúc tám giờ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2017, 07:08:08 pm

Tôi lái chiếc xe jeep đi trên con đường bất khả xâm phạm của Bắc Kỳ, con đường lớn từ Hà Nội đi Hải Phòng. Đây là con đường thất trận. Lề đường đầy đổ nát, xe chạy giữa dấu vết nhiều vô số và đáng ngờ do những trận phục kích để lại giữa nền đất cháy sém. Đá dăm lấp đầy những đường hầm đào cắt ngang đường hoặc lỗ đánh mìn. Đủ loại phế thải, thùng xe tải, đầu máy xe lửa bị lật đổ trên đường sắt bên cạnh, được đẩy xuống phía dưới, trong đống nhà đổ nát. Xa xa là làng xóm, có những mảng đang bốc cháy trên nước ruộng.

Dân chúng biến mất, dấu hiệu Việt Minh đã rất gần. Người ta chỉ thấy sự dàn trải vô vọng của binh lực Pháp. Những lô cốt bê tông, các đội pháo đang nhả đạn, xe tăng trực chiến nối nhau từ cây số này đến cây số khác. Những việc triển khai lực lượng ấy không chắc chắn gì vì nét mặt quân lính nhuốm vẻ sợ hãi. Ở Đông Dương tôi biết được quá nhiều mọi thể hiện lo lắng. Và dưới vành mũ, những nét nhăn, những đôi mắt đăm đắm ấy có nghĩa là quân địch ở ngay bên cạnh, rất đông, giấu mình trong những gì còn lại trong xóm, sau những bụi tre, trong bùn ruộng, có lẽ chỉ cách mấy mét.

Tôi muốn tìm một người nói với tôi là không phải đã mất tất cả và cần tiếp tục cuộc chiến, tôi nghĩ đến con người cứng rắn Vanuxem, viên tướng phụ trách việc chống trả cuối cùng. Đó nguyên là một giáo sư triết học, chiếc đầu tròn của loại ăn thịt đồng loại xứ Flandre. Ông có một vành râu hung, đôi mắt xanh màu men sứ và bộ răng nhô ra khi cười. Trước đây đã bao lần ông lặp đi lặp lại với tôi người ta sẽ thất bại ở Đông Dương vì không dám làm điều cần thiết! Tôi đến Bộ chỉ huy của ông ở gần Kẻ Sặt, nhưng ông không có ở đấy, ông đang tung một đội cơ động trong cuộc tấn công cuối cùng. Tôi nghe tiếng súng ca-nông của ông, hình dung ông tinh quái, tranh thủ thời cơ một lần nữa. Sau đó tôi hỏi, ông suy nghĩ và thân mật nói với tôi: “Chúng ta có thể trụ vững thêm mấy tuần lễ nữa”. Mấy xe thiết giáp nổi lên trên đoạn đường vòng, bắn vào một làng. Viên chỉ huy, đứng, nhìn thẳng về phía trước với đôi mắt trống rỗng như chẳng còn gì quan trọng. Đấy là một viên thiếu tá kỵ binh có tên tuổi, thân hình gầy gò khổ hạnh. Đội quân viễn chinh đầy những nhà quý tộc như ông ta, sùng đạo và kiêu ngạo. Họ là những sĩ quan thuộc tầng lớp đặc quyền và đối với họ, nhiệm vụ là không phải chịu đựng gì.

Ông nhìn tôi với đôi mắt nhợt nhạt, không cảm giác. Như vậy ông tỏ ra không thích gặp tôi, chắc linh cảm được câu hỏi tôi sẽ nêu ra. Ông không muốn phải cúi đầu, cố gắng lắm để nói với tôi, giọng lạnh lùng:

- Trong chiến tranh tôi khinh ghét sự khôn ngoan. Than ôi, đấy là giải pháp duy nhất còn lại cho chúng ta. Ông đã bao giờ thấy con bọ hung bị kéo vào tổ kiến chưa? Chúng ta đang trong tình trạng ấy. Chúng ta buộc phải chấm dứt cuộc chiến tranh này. Chào ông.

Tối đến tôi được một bốt thu nhận, một công trình bằng bê tông trên có những tháp nhỏ như người ta làm thời tướng de Lattre. Bốt được một đội quân đồn trú lính thủy đánh bộ bảo vệ. Đã đến giờ ăn và các sĩ quan dũng cảm của bộ binh thuộc địa ăn không nề hà. Bàn ăn là một chiếc thùng to và những hộp nhỏ làm ghế ngồi. Lính Sénegal mang những cà-mèn thức ăn tới. Thực khách mình trần, ngực nở đầy mồ hôi và lông lá, ăn uống nhồm nhoàm. Không có quạt máy, một cậu bồi người Annam kéo dây chiếc quạt tự tạo. Trong nhóm người này tôi không tìm thấy tính chất lãng mạn nào là lương tri của con người.

Một đại uý già, cựu binh của những cuộc chiến tranh thuộc địa, miệng đầy thức ăn giải thích cho tôi quan điểm của các sĩ quan chỉ huy đồn bốt; họ đã chán ngấy, họ vui mừng đón hòa bình.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2017, 07:08:43 pm

Trong vùng châu thổ, các đồn bốt bị vây hãm thường xuyên. Đây là những Điện Biên Phủ nhỏ. Không đêm nào Việt Minh không hạ một, hai bốt. Hoàng hôn xuống là cuộc xổ số bắt đầu, mỗi đơn vị đồn trú tự hỏi: "Đến lượt chúng ta chăng?" Người ta xấu hổ vì vui mừng thấy công trình bên cạnh bị tấn công. Chỉ còn việc theo dõi qua đài bi kịch diễn ra sát bên mình cho đến khi nó im lặng vì cái chết.

"Chúng tôi tất cả bị ám ảnh bởi những cuộc tấn công liên miên ấy. Vì đêm sau hoặc một đêm khác sẽ là hình ảnh kết thúc của bản thân chúng tôi. Chúng tôi biết trước sẽ chống cự được và không người nào đến cứu. Chỉ đến sáng ra một đội gọi là giải thoát sẽ đi khảo sát những gì còn lại. Đấy là kỳ hạn bị cưỡng chế; vì vậy thần kinh chúng tôi căng thẳng và những bột phát tâm thần tăng lên nhiều."

Tôi trải qua đêm cuối cùng của chiến tranh ở bốt này, giữa đội quân đồn trú chen chúc trong khối bê tông. Mọi quân lính ở Bắc Kỳ cũng như tôi, bó mình trong các bốt, các trại, các thành phố. Khắp nơi người ta chen chúc thành nhóm nhỏ để tự bảo vệ trong đêm tối đầy người Việt. Nhưng cả trong những chỗ ẩn họ cũng không cảm thấy an toàn; bị kích động bất thường với toàn bộ vũ khí chống lại hiểm nguy thực sự hoặc tưởng tượng khắp trong không gian và thiên nhiên. Những người Pháp chiến đấu với đêm tối, đồng minh của Việt Minh. Bầu trời sáng lên vì hỏa tiễn của họ. Một số như những áo dài có đuôi, số khác lơ lửng như khối thủy tinh mờ, vài hỏa tiễn lao lên như những mũi tên màu. Không trung là một trận hỏa pháo, mặt đất bên dưới là các loạt đạn đại bác. Súng Pháp bắn khắp nơi. Đêm cuối cùng này là một cơn thác đổ đạn và ánh sáng. Giữa những tiếng rít và tiếng nổ, hầu như từng phút những tia chớp xua tan bóng tối bao trùm mặt ruộng: đạn cối đang dội vào đất cày.

Không phải một trận đánh lớn, chỉ là một ảo giác do sợ hãi. Chỉ có những mục tiêu thứ yếu nhưng người ta tô vẽ lên và ưu tiên dội bom đạn vào: người ta không "đánh dùi cui" vào những người Việt thực mà vào những người Việt giả thuyết có thể tấn công. Người ta làm đảo lộn ban đêm. Mỗi bốt "bọc kín" những bốt bên cạnh để bảo vệ họ; tất cả các bốt dựng lên quanh những bốt khác thành một bức màn bằng thép. Vùng châu thổ Bắc Kỳ là một hình đa giác bốn cạnh đầy trọng pháo đạn dược bắt đầu từ Việt Trì và kết thúc ở Hải Phòng.

Chỗ của tôi không bị tấn công. Viên đại uý chỉ huy chỉ cho bắn đạn cối vào một điểm chốt tối tăm có vẻ đáng ngờ. Bình minh lên trên một quang cảnh không thay đổi. Còn một số vụ nổ, vài loạt tiểu liên lẻ loi. Tất cả ngừng lại lúc tám giờ. Kèn đình chiến vang lên, và rồi sau tám năm chiến tranh, tôi thấy cảnh yên lặng của hòa bình.

Sau mấy phút một dân quê già chậm rãi tiến lại. Ông lấy trong tay áo ra một lá cờ đỏ bằng giấy, bình thản treo lá cờ lên một cây to cách tháp canh mấy mét rồi ông đi.

Đại uý chỉ huy bốt cũng thấy cảnh ấy. Đầy ân hận, ông nói với tôi:

- Chính để đi đến chỗ ấy mà bao nhiêu người Pháp chết! Nhưng xấu hổ hơn bại trận là sự phản bội của chúng ta sắp tới. Chúng ta đã trụ vững lâu ở vùng châu thổ này vì hai trăm nghìn người Việt Nam là lính của chúng ta và một triệu đàn ông, đàn bà đã giúp đỡ chúng ta. Người ta sẽ phó mặc. Tôi tự hỏi phải chăng định mệnh trút xuống nước Pháp, buộc phải bỏ rơi người của mình để họ đi vào chỗ chết.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Năm, 2017, 07:09:05 pm

Trong buổi sáng một số người câm lặng đến bốt. Họ có những khuôn mặt kín đáo thể hiện sự đau khổ của Châu Á. Đấy là những vệ binh của một làng Thiên Chúa giáo chống cự hai năm với Việt Minh. Bao nhiêu lần họ ẩn náu trong nhà thờ bằng đá của họ như một đồn lũy cuối cùng! Cha cố làm lễ ban thánh thể cho những người chiến đấu và đàn bà cầu Chúa. Bây giờ họ đến trả lại vũ khí vô dụng cho người Pháp đã trang bị cho họ.

Cha cố nói thay họ. Ông cám ơn người Pháp. Tôi chỉ thấy ở ông một khuôn mặt vàng, tóc cắt ngắn với khăn choàng cổ màu đen. Viên đại uý trả lời, mời ông ở lại bốt cùng quân lính: người ta sẽ đưa họ đi. Cha cố lắc đầu bảo không. Ông trở về làng với đoàn người của ông sau khi trả những khẩu súng không một lời phàn nàn: nhưng vẻ lễ phép câm lặng ấy là một thái độ trách cứ đến mức nào!

Những khối chuông đồ sộ vang lên quanh vùng, khắp đồng ruộng. Tôn giáo ở đây như thời Trung cổ. Nhà thờ đè nát xóm làng khốn khổ, cha cố có quyền lực tối cao. Ở mỗi bàn thờ một linh mục giảng đạo. Ông ta khuyên nhủ con chiên giữ vững tinh thần trước sự truy bức và hành hạ sắp xảy đến: ông cầu xin Chúa thương xót họ. Ông nói người Pháp bỏ rơi họ nhưng Chúa sẽ bảo vệ họ.

Đội quân khốn khổ Việt Nam cũng trong một tình trạng thảm hại. Viên đại uý Pháp quyết định đến một trong những tiểu đoàn cách bốt một cây số. Tôi đi theo ông ta. Tất cả đều bình lặng. Một số đàn ông tắm trong một con ngòi. Xa hơn một ít, đàn bà mình trần, đang gội rửa. Họ thật đẹp với thân hình trơn tru và mảnh khảnh, mái tóc đen dài quấn xuống đến chân! Đây là những người lính cuối cùng của đơn vị và vợ họ. Mọi người khác đã đào ngũ, để lại vũ khí và lời xin lỗi.

Khi chúng tôi đến gần, đàn ông mặc lại xi líp, tới hỏi: "Chúng tôi sẽ ra sao đây?" Sĩ quan của họ đã biến mất. Bản thân họ thậm chí không biết có còn một chính phủ Việt Nam không. Đàn bà, đã quần áo nghiêm chỉnh, đến nghe chúng tôi nói chuyện. Trẻ con trần truồng, bụng to, đi đi lại lại thật buồn cười. Viên đại uý hứa người Pháp sẽ đưa họ vào Nam Kỳ. Nhưng một hạ sĩ quan già da vàng vỗ vào cánh tay đại uý:

- Chốc nữa khi quân Việt Minh đến, chúng tôi sẽ làm gì? Viên đại uý Pháp nhún vai tỏ ý bất lực. Lúc ra về ông ta nói với tôi:

- Tôi không nhận được lệnh, tôi chẳng biết làm thế nào. Về đến bốt chúng tôi thấy mỗi cây to xung quanh đã phấp phới một lá cờ đỏ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2017, 10:53:10 pm

Làn sóng đỏ

Làn sóng đỏ tràn lên vùng châu thổ, chỉ còn là một rừng cờ. Trong các làng, nông dân xây dựng các vòm chiến thắng, trên cùng là ảnh cụ Hồ. Các "Ủy ban hành pháp" ngồi thường trực trên các bệ. Cái mà người Pháp gọi là "rửa nát" trồi lên mặt, trở thành quyền lực hợp pháp mới giữa những tiếng hát và điệu nhảy. Tôi đi đến đâu, những đám đông đều tỏ rõ thân thiện tiếp đón tôi vừa hô lớn: "Nước Pháp muôn năm!" Vì đã có những chỉ thị cụ thể đưa xuống tận cơ sở, đến từng người lính, người dân. Hôm trước các uỷ viên chính trị đòi hỏi phải căm thù người Pháp, phải hy sinh để giết thêm mấy người. Họ ra lệnh cho quân du kích đặt mìn trên đường đi ngay trong đêm cuối cùng và kéo dây lật đổ những chiếc xe Pháp cuối cùng đi qua.

Nhưng đến tám giờ đúng, tất cả chỉ còn là tình thương và thân thiện. Không nói đến cuộc chiến tranh liên miên nữa. Những sự tàn bạo đối với nhau, những giết chóc không kể hết, những dòng thác căm hờn phải được quên đi. Điều quan trọng nhất là thỏa thuận Genève và việc thực thi "toàn vẹn", tay trong tay với người Pháp. Toàn dân, kể cả các bà già không biết chữ và những em bé sáu tuổi, học thuộc lòng các điều khoản của hiệp định. Các uỷ viên chính trị Việt Minh soạn thành sách dưới dạng câu hỏi và trả lời, bình luận những gì đúng, sai.

Quân đội của ông Giáp đêm trước còn vây hãm các đồn bốt Pháp và cắt con đường Hà Nội - Hải Phòng, đã biến mất như bốc hơi. Chỉ còn lại một số sĩ quan quân phục tề chỉnh; họ đến các ban tham mưu của Đội quân viễn chinh chào hỏi đúng điều lệnh và đề nghị tiến hành công việc với thứ tiếng Pháp rất chuẩn. Họ chỉ những chỗ đặt mìn trên đường, cắm những lá cờ nhỏ lên đấy làm dấu hiệu. Và họ ra đi sau những nghi thức quân sự lịch sự, vừa hô lớn: "Hòa bình muôn năm!"

Thay thế đội quân chính quy là phụ nữ, trẻ em và người già. Trong chốc lát làn sóng đỏ hân hoan biến thành một đợt triều dâng. Dân quê được huy động đấu tranh với những người khốn khổ khác, những người đàn ông đàn bà thất vọng muốn trốn vào Nam. Cuộc chiến chống những kẻ này kéo dài tám mươi ngày, từ lúc ngừng bắn đến lúc quân Pháp rút khỏi Hà Nội.

Đám đông bao vây tất cả, những đồn bốt nhỏ của quân Bảo an hoặc mấy người lính Việt Nam. Giờ đây quân vây hãm là thành viên Hội Phụ nữ Dân chủ, Đoàn Thanh niên mới, Hội Mẹ chiến sĩ, Phụ lão cứu quốc, Nông dân cứu quốc.

Ngày đêm dân chúng bao vây mọi tổ chức của chính quyền Bảo Đại bằng các chiến thuật khác nhau.

Các uỷ viên chính trị cầm loa kêu gọi với lời lẽ đầy vị tha. Nhưng các bà già đã rụng hết răng móm mém nói những lời đe dọa, bảo sẽ chém chết những kẻ ngoan cố. Người ta cử vợ con những kẻ bị vây hãm đến van nài họ đầu hàng. Nếu không họ sẽ làm nhân dân nổi giận và bị bao vây giữa những vòng người cầm gậy, tay không, gạch đá, chửi mắng. Đám đông có vẻ sẵn sàng xông lên, phá toang tất cả, nhưng không bao giờ xảy ra tấn công. Vì trong cuộc chiến nhân dân này không được đổ máu, mà phải "thuyết phục".

Nhiều đám đông dồn lại xung quanh những người lầm đường, thân mến và giận hờn thuyết phục cho đến lúc họ không còn chống cự: "Chúng tôi đã hiểu ra lẽ phải. Chúng tôi hối hận về quá khứ tồi tệ. Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!" Lúc ấy nhiều người tung hoa hoan nghênh và công kênh họ.

Đội quân viễn chinh cố cứu những người Việt Nam ủng hộ họ. Ban tham mưu của Hà Nội ra lệnh cho các trưởng bốt, các đơn vị giải thoát cho binh lính Bảo Đại bị bao vây. Đây là cuộc chiến lạ nhất trong cuộc chiến tranh lạ lùng ở Đông Dương. Các sĩ quan không đánh nhau với cái chết nữa mà với những lời hoan hô. Họ không có khí giới, đối đầu với những bức tường người gồm hàng nghìn dân quê hô vang: "Xin chào Quân đội Pháp". Họ phải qua những đám đông ấy đi đến binh lính Bảo Đại đang bị vây. Thật đáng sợ. Một trung uý nói với tôi: "Tôi sợ việc này còn hơn trong một trận đánh thật sự".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2017, 10:53:55 pm

Thực vậy, những tiếng hô thân thiện, những nụ cười, mọi thể hiện thân mật đều không thật. Nỗi căm hờn sẵn sàng bùng lên. Để khỏi bị tan xác, những người Pháp thực hiện việc cứu binh lính Bảo Đại chỉ có thể dựa vào kỷ luật của Việt Minh. Nhưng may mắn, kỷ luật ấy là triệt để.

Sĩ quan Pháp thường đến chậm. Đám đông dẫn lại cho họ những binh lính Bảo Đại mang đầy hoa, phất cờ đỏ và tuyên bố rất hạnh phúc được trở về với nhân dân. Có những lần khác những kẻ bị vây hãm vẫn trụ lại nhưng thật điên rồ. Họ chống cự vì lo sợ, thậm chí đầu hàng cũng sợ, đến mức không dám rời chỗ bị vây để đi theo người Pháp qua đám đông luôn hiện diện, nhiều hơn bao giờ hết, mắng mỏ và kích động. Đôi khi những người ấy phải tranh cãi nhau hàng giờ để quyết định trong lúc bên ngoài vẫn gào thét. Cuối cùng những sĩ quan Pháp trở ra, mặc quân phục giữ nguyên lon và vạch. Binh lính Bảo Đại bám theo họ như những kẻ dở sống dở chết, được dìu đỡ. Hàng nghìn dân quê xiết chặt quanh những toán người lạ lùng ấy trong tiếng chửi rủa lẫn tiếng hô "Nước Pháp muôn năm”. Nhưng một cán bộ - ủy viên chính trị - ra lệnh và người ta để họ đi qua.

Việt Minh vẫn không bỏ cuộc. Người Pháp xếp những kẻ bỏ trốn lên xe nhưng đàn bà, trẻ em trong đám đông lấy thân mình làm rào chắn, nằm chặn ngang đường. Dân chúng ào lên xe quân đội Pháp: binh lính Bảo Đại không một cử chỉ chống cự và bị lôi đi. Một tiểu đoàn bị lột hết quần áo trong cơn thịnh nộ của dân chúng. Người Pháp dùng thiết giáp hộ tống xe những người chạy trốn; các "nữ anh hùng", chạy tới trước bánh xích để ngăn cản.

Tuy thế người Pháp cũng thắng lợi trong cuộc chiến này. Trong vùng châu thổ họ đưa được về Hà Nội hàng trăm nghìn con người bị dồn đi, giáo dân, quân lính, bảo an, thân hào, các điền chủ, thương gia. Nhiều người trong số họ lúc đầu quyết định ở lại dưới chế độ Việt Minh. Nhưng rồi họ chạy trốn vì sợ bị trả thù.

Đối mặt với "niềm vui" Việt Minh, vô số đàn ông và đàn bà rời bỏ xóm làng sống lâu đời, bàn thờ tổ tiên, mọi tài sản ít ỏi để di cư vào Nam Kỳ xa xôi.

Giai đoạn tha hương đầu tiên là Hà Nội và những hè phố, tuy khung cảnh đẹp của thành phố này không nhằm để trưng bày cảnh khổ sở!

Ra khỏi một khách sạn Pháp sang trọng, tôi bước vào một con đường đông đúc. Lúc này không có ai nhưng một đoàn người bỏ trốn vừa tới đây. Tôi thấy những người dân quê này suy sụp đến mức nào về tâm lý. Xung quanh tôi chỉ là những người da nhăn nheo quá gầy hoặc bị phù thũng thường là mưng mủ. Một phụ nữ đang cho con bú. Đám người này ngồi xổm để chờ, lắc lư vô định. Tôi nhận ra những người lính bảo an qua tàn tích đồng phục Pháp nhưng đa phần là người Cơ đốc giáo đeo thánh giá ở cổ. Những bà già răng đen mang ảnh Chúa và Đức mẹ đồng trinh. Giọng chói tai, họ cám ơn Chúa đã kéo họ ra khỏi tay những người nghịch đạo. Một cha xứ chúc phúc cho giáo dân xung quanh: ông ta lôi kéo toàn bộ tu viện di dân vì lòng tin. Ông hỏi tôi:

- Chúng tôi đói rồi. Bao giờ người ta cho chúng tôi ăn? Cuộc di dân được tổ chức dần dần. Quan chức Việt Nam của tổng thống Diệm không làm gì hết; người Pháp vất vả vô cùng với những người trốn đi này, như vì hối hận đối với họ. Họ tổ chức một cầu hàng không kéo dài một năm để đưa vào Nam Kỳ những nạn nhân Châu Á của thảm bại Bắc Kỳ. Nước Pháp có một nỗ lực từ thiện rất lớn để chuyên chở hơn một triệu đàn ông, đàn bà đi hơn một nghìn cây số. Sau này Diệm tuyên bố cuộc di dân này vừa là công trình to lớn của ông ta vừa là một phép màu của Chúa. Thật là một định mệnh lạ lùng, trong sự kết thúc chiến tranh Đông Dương này mọi việc người Pháp làm quay ra chống lại họ. Vì khối lượng lớn những người trốn chạy này là công cụ Diệm dùng làm người Pháp thất bại lần sau ở Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Sáu, 2017, 09:14:49 pm

Một trăm ngày ở Hà Nội

Đội quân viễn chinh có một trăm ngày để rút khỏi Hà Nội. Trong ba tháng, thành phố chỉ là một đảo nhỏ người Pháp giữa làn triều đỏ bao trùm châu thổ.

Hà Nội chuẩn bị kết thúc. Đây là một công việc tỉ mỉ và có phương pháp, không tình cảm, không lộ rõ buồn vui. Lệnh đưa ra triệt để. Xe Pháp tuần tra liên tục. Việt Minh không lộ diện, thậm chí họ không treo một lá cờ trong thành phố. Tổng bộ, hội đồng tối cao đã quyết định như thế.

Cho đến hạn định, mọi việc xảy ra như dự kiến. Không phải nỗi thất vọng mà là sự uể oải. Tuần lễ này qua tuần lễ khác, các khu phố tư sản vợi hẳn, cửa chỉ còn rào dậu. Mọi đồ đạc của thành phố đưa ra bán ở chợ đồ cũ nhưng không ai mua. Ở châu Á những biến cố thường kéo theo nạn đầu cơ lạ lùng nhất. Đây không thế. Hà Nội biến dần vào hư vô.

Những khuôn mặt vẫn vô cảm tuy mỗi người dân thành phố đang trải qua một bi kịch nội tâm. Đấy là giờ lựa chọn không tránh khỏi, chấp nhận ở lại hay ra đi. Thời gian trung thực đã đến. Bao nhiêu tư sản Việt Nam sống trong chiến tranh giữa sự thịnh vượng Pháp, tự dối mình, dối những người khác cho rằng Việt Minh không phải cộng sản! Từ nay mọi sai lầm sẽ tai hại. Không còn ai có quyền lầm lẫn về vai trò thực sự của mình.

Ở Hà Nội mỗi người Việt Nam lo lắng tự hỏi: "Thực sự Việt Minh xếp mình vào giai tầng nào? Họ chuẩn bị cho mình số phận nào?" Khốn nạn cho người nào chọn lựa sai trong những ngày cuối cùng này vì sẽ trả giá rất đắt.

Những người Pháp dân sự đỡ khở sở hơn. Đối với họ chỉ là sự thanh toán một công việc kinh doanh béo bở. Họ không vội ra đi vì khi mà Đội quân viễn chinh còn đó thì họ còn kiếm ra tiền. Các vũ trường, khách sạn, quán rượu tồn tại cho đến ngày cuối cùng. Trong thành phố hấp hối, người ta nhảy, ăn, uống, những két nhận tiền loảng xoảng.

Nhà triệu phú M.G... tổ chức một bữa tiệc chia tay ở biệt thự đầy cột và hiên của ông ta. Giọng nói thân mật của ông át cả tiếng mở nút champagne. Ông ngồi chủ trì, người béo tốt, da rất nâu, vẫn tự phụ và rất vui. Các tướng lĩnh, quan chức cao cấp đến bắt tay ông như đối với một người bạn cũ. Họ giao du với những kẻ tái phạm tội, những kẻ trục lợi, các nữ chiêu đãi viên. Một dàn nhạc giúp vui và những người phục vụ, điệu bộ kiểu cách đi lại giữa những tủ thức ăn linh đình. Các bà bận áo dài nhiều lớp. Bà G... một nghệ sĩ lai Âu Á vừa mới cưới, tóc búi tó, phân phát quanh mình những nụ cười bí hiểm và cao đạo. Nhưng cô em gái bà gây bê bối. G... quở trách cô. Mọi người mỗi lúc càng vui vẻ, hầu như sau. G... lại kể một lần nữa thành công của mình.

- Tôi ở đất nước này đã ba mươi năm. Tôi quen biết cả, những người cấp cao và người thấp kém, tôi quan tâm nhất việc buôn bán. Nhưng năm 1950, khi biên giới Trung Quốc bị phá vỡ sau thất trận ở Cao Bằng, toàn thành phố có gì bán nấy. Tôi tự nhủ chưa thể là tai họa thực sự: nước Pháp sẽ hành động, cố sức tiêu tiền. Tôi mượn những đồng Đông Dương, mua nhà cửa, khách sạn gần như không mất gì. Và tôi đúng vì de Lattre đã sang.

- Lần này ông có đầu cơ như thế nữa không?

G... phá lên cười:

- Không! Tôi đã bán đi từ lâu, đưa tiền ra ngoài. Tôi biết cà-rôt được nấu chín rồi.

Kết thúc một nền văn minh chỉ là thế: ông G... tài ba, vua các thú vui của Hà Nội, chiêu đãi dạ tiệc linh đình này giữa sự lộn xộn, lẫn lộn các sĩ quan và những kẻ phiêu lưu, như không còn gì có giá trị.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Sáu, 2017, 09:15:31 pm

Tuy vậy thu xếp xong công việc, những người Pháp dân sự tiếp nhau ra đi. Thế nhưng trong lúc khai vị một số "ông già" thuộc địa thề sẽ ở lại Hà Nội. Người ta thấy những người về hưu này, khuôn mặt sạm nắng, đội mũ bê-rê, kích thích lẫn nhau. Họ yêu và khinh khi người Annam: họ biết rõ những người dân này, đúng không? Không vì dân quê trở thành Việt Minh mà họ, những người cũ sợ hãi.

Chỉ khoảng nửa tá trụ lại. Trong số đó có tình nhân của một người Pháp tên là Nini. Nini xấu nhưng cô tốt và biết tiêm thuốc phiện. Và người Pháp của cô có thể làm gì khác? Gầy gò, răng rụng, đau yếu, anh ta chẳng còn tích sự gì. Anh làm đủ mọi nghề, từ săn thú rừng đến làm báo; và anh không muốn thử vận may ở nơi nào khác. Thà nổ bung ra tại chỗ.

Những người khác, trong số những cặn bã da trắng - các tay nghiện thuốc phiện, "chạy theo con gái’', những binh lính cũ sống theo kiểu Annam - ra đi. Số phận của họ cũng bi ai. Không có tiền, không biết rõ nước Pháp, không có bà con, bạn bè ở đó. Cuộc sống của họ là thành phố Hà Nội này, xứ Bắc Kỳ này. Họ không thể thích nghi với kiểu sống hành chính sắp bắt đầu - đi lại tập thể trên xe Nhà nước chi trả, các trại, những chỗ nội trú. Họ sẽ trở thành những người ở đâu đó. Nhưng tất cả những điều ấy người ta không thấy được.

Cũng biết bao nạn nhân là người lai Âu Á! Tám mươi năm chế độ thuộc địa để lại ngoài lề một lớp người không cơ bản - dân lai với những nghề bị khinh rẻ, các bà mẹ Annam của con lai, vợ hoặc vợ lẽ da vàng của những người Pháp mất tích và vô số những đứa trẻ do Đội quân viễn chinh tạo ra. Không ai biết rồi họ sẽ như thế nào.

Có ai nhận thấy những bi kịch ấy? Xã hội tư sản thu vén tài sản nhưng không mang theo được các xí nghiệp và hầm mỏ của họ. Vì thế trong các hội đồng quản trị nổi lên ẩn ý: "Phải chăng chúng ta cũng có thể điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh để có cách nào đó tiếp tục hoạt động?" Vì những công ty mới đây rất tồi tệ ở Thượng Hải, các công ty lớn châu Âu, tất nhiên đề phòng mọi mặt, di tản toàn bộ nhân viên da trắng nhưng bí mật xúc tiến những thương lượng vô cùng tế nhị và bền bỉ.

Đến một lúc tôi không còn thấy người Pháp nữa: cuối cùng họ đi hết. Lúc đó những nhà tư sản da vàng đến than thở với tôi số phận khắc nghiệt của họ. Tôi ái ngại cho họ sao được? Họ hèn hạ xấu xa. Điều xảy ra do lỗi của họ, hèn nhát và kiêu căng. Họ đã nghĩ mình ranh mãnh, tuyên bố "trong lòng ủng hộ Việt Minh" nhưng vẫn ở lại các thành phố làm ăn được quân đội Pháp bảo vệ. Họ làm giàu ghê gớm bằng đồng bạc của nhà băng Đông Dương. Vợ họ mang đầy kim cương, con họ học ở Pháp. Tuy vậy họ đau khổ "về tinh thần”: rất mẫn cảm về tất cả những gì là của Pháp. Một lần tôi nói chuyện với một người trong bọn họ, ông ta mỉm cười cao đạo khẳng định: "Việt Minh khi vào Hà Nội sẽ cần đến những người như tôi".

Những người Việt sẽ đến. Và, vào phút chót, những nhà giàu Annam chạy trốn ngay vào Sài Gòn. Họ chuyển đồ đạc, mang đi tất cả, vợ lớn vợ bé, bố mẹ già, con cái không đếm xuể, đồ trang sức, các bảng nghi lễ, đồ gỗ đen. Tiền đã gửi vào chỗ từ lâu. Họ chỉ để lại một người bà con nghèo, giao trách nhiệm thoả thuận với phe đỏ.

Họ không xứng đáng được thương hại vì đã lợi dụng cuộc chiến tranh. Những tư sản đáng kính duy nhất, được ái ngại sâu sắc là một số yêu nước vì lý tưởng, đánh nhau chống Pháp. Những người ấy là kẻ địch thực sự, giết sĩ quan và binh lính Đội quân viễn chinh. Nhưng sau khi ở lại nhiều năm với người Việt, cuối cùng họ trở về trong một Hà Nội người Pháp tạm chiếm do chán ngán chủ nghĩa cộng sản. Những người ấy không nhiều nhưng họ trung thực và nghèo. Hơn những người Việt Nam khác họ sợ thế giới Việt Minh sắp tới.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Sáu, 2017, 09:16:39 pm

Một người trạc ngũ tuần, mang huân chương, tiếp tôi tại nhà - Ông được một Toàn quyền khen thưởng đã lâu, sau đó là một bộ trưởng trong Chính phủ Hồ Chí Minh. Bây giờ ông dẫn tôi lại trước bàn thờ tổ tiên nói với tôi:

- Tôi sinh ra trong ngôi nhà này. Nó là của bố tôi và các gia tiên quan lại của tôi. Đây là vật quý nhất của tôi trên đời. Mấy hôm nữa tôi sẽ bỏ nó đi vĩnh viễn. Tôi không muốn sống với Việt Minh, những người tôi biết rất rõ. Tôi ra đi không có một đồng bạc. Tôi mang theo bà mẹ già, một người đàn bà góa vốn không bao giờ rời thành phố này, vùng châu thổ này. Chắc bà sẽ chết vì điều đó. Tôi là tất cả của bà. Thế mà bà nói với tôi: "Đừng nghĩ ngợi về mẹ, con đi đi vì con cần phải thế." Bà muốn tôi để bà lại, sợ sẽ là một gánh nặng cho tôi trong cuộc sống khó khăn phía trước.

Thực lòng, là người Pháp, tôi cảm thấy có tội với những "con em", những viên chức hợp tác với chúng ta. Họ mất mát vì chúng ta và Việt Minh sẽ không lay chuyển với họ. Hòa bình cứu chúng ta, những người Pháp với giá những người khốn khổ ấy.

Tôi nghĩ đến đội quân làm thuê - bồi, bếp nam nữ, những ông thư ký và phiên dịch, đến những tên vô lại cần thiết, gái điếm; và có cả những mật thám, chỉ điểm, tất cả những người tay chân. Người ta sai họ phục vụ những thú vui, làm tất cả mọi công việc kể cả những việc xấu xa nhất. Có lẽ họ đáng khinh nhưng đó là lỗi của chúng ta. Người ta làm họ hư hỏng rồi bỏ đi. Những người Pháp của Hà Nội và cả những người Việt Nam giàu có đã đề phòng, họ "biết trước". Nhưng những người khổ sở này ngây thơ, tin tưởng; cho rằng nước Pháp không thể sụp đổ. Nhiều người làm không chỉ vì lợi lộc, họ "tận tâm", bao nhiêu người gian nguy vì chúng ta, bị tra tấn và ám sát; cũng vì chúng ta. Bây giờ họ là những người bị ruồng bỏ. Người ta hứa những khoản trợ cấp, người ta phỉnh nịnh: Hãy đi theo chúng tôi. Nhưng nếu họ làm thế họ sẽ khốn khổ, nếu không là cái chết.

Tôi đang trên bờ sông Hồng, ở Việt Trì, trên một bãi rộng, chỗ số lớn tù binh được trao trả cho chúng ta. Tôi chờ đợi hàng giờ dưới một bụi tre. Việt Minh đã biến đổi vùng cây xanh hoang vắng này thành một khu vườn Phương Đông đầy đá sỏi, đường mòn khúc khuỷu và cờ hoa. Các nhà báo của Chính phủ Hồ Chí Minh, da nhẵn như bộ đồng phục kaki, nói chuyện rất lễ độ đối với tôi và mời tôi uống nước chanh. Họ nói tù binh ở trong một trại cách đây mấy trăm mét nhưng họ không biết giờ trao trả: đấy là một bí mật quân sự.

Đến trưa điệu nhạc xa xa dội qua cây cối, tiến lại gần từng phút một. Đấy là một điệu vũ miền Provence, một lễ hội đồng quê.

Một sĩ quan liên lạc Việt Minh rạng rỡ nụ cười đôn hậu. Ông ta tâm sự với tôi:

- Họ đến gần rồi đấy. Ông nghe xem, họ sung sướng biết mấy.

Tiếng ồn tăng dần nhưng tôi vẫn chưa thấy gì. Chỉ mười lăm phút sau một dàn nhạc của quân đội nhân dân lộ ra khỏi cây cối. Một người đàn ông đi lui tiến về phía chúng tôi vừa đánh nhịp. Hai chiến sĩ nữ, tết tóc, theo sự chỉ huy vỗ đàn ghi-ta mang trước người. Một người lính đánh trống, một người khác thổi ác-mô-ni-ca.

Phía sau tốp nhạc, đoàn người được giải phóng tiến theo hàng tư. Họ vừa đi vừa nhún nhảy, múa hát, vỗ tay. Bên cạnh họ, một cán bộ đi theo đội ngũ, kích thích cuộc vui.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Sáu, 2017, 09:17:38 pm

Các tù binh bước bên cạnh không nhìn tôi theo nhịp hành quân của Lữ đoàn Sông Hồng. Đấy là quân lính lê dương và những người A Rập, khuôn mặt phồng lên và xanh xao nhưng họ tỏ ra sung sướng. Ít nhất quân trông giữ cũng đã dạy cho họ cách thể hiện vui mừng: lối vũ đập chân, hát đồng ca, vỗ tay. Họ được tập dượt nhiều về những động tác ấy, đặc biệt cứ năm giây lại vỗ tay vào nhau. Tóm lại là một nhịp điệu ám ảnh thể hiện sự hoan hỉ.

Nối đuôi đoàn người, một số đau ốm không đi được, chỉ hát; các nữ chiến sĩ dìu họ.

Cả đoàn vừa đi vừa nhảy, bước xuống tam cấp đưa ra bờ sông Hồng. Hàng nghìn nam nữ nông dân tôi không rõ từ đâu mang cờ và băng rôn hiện ra. Họ có một chỉ huy luôn hô lớn: "Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm", "Hòa bình muôn năm", "Tình đoàn kết giữa nhân dân Pháp và Việt Nam muôn năm". Mỗi lần như thế, đám đông sôi nổi lặp lại những khẩu hiệu ấy vừa vỗ tay. Các tù binh cũng hét lên, ban nhạc rung lên. Cả một cảnh cuồng nhiệt.

Khi đoàn người đến một nền cao dựng trên mép nước, tất cả im lặng. Phía bên kia một thanh chắn mỏng manh là nước Pháp, những sĩ quan tiếp nhận của Đội quân viễn chinh. Một chiếc tàu LCT sàn rộng, chờ chuyển người đi.

Sau cùng, trước vòng cuối, người cán bộ đọc danh sách. Cách mấy mét, quân lính Pháp mặc đồng phục phụ trách tiếp nhận ra hiệu thông cảm với tù binh. Những người này không trả lời, trông như chết. Đã đến thời điểm lo lắng nhất, thời điểm phán xét cuối cùng. Họ rất sợ cán bộ bỏ sót, không nghe thấy tên mình trong danh sách! Họ còn e ngại vào những phút chót đã vụng về làm Việt Minh nổi giận và đưa họ trở lại đất nước cộng sản này. Các sĩ quan Pháp tiếp nhận có thể ở bên cạnh; họ không đáng gì so với thực tế đỏ đang tồn tại.

Nhưng kìa, những người được giải phóng bước ra con đường giữa thế giới Hồ Chí Minh và người Pháp. Ban nhạc và tất cả những người Việt Minh đi theo họ trong niềm cuồng nhiệt ôm nhau và chúc sức khỏe. Hai chiến sĩ nữ vẫn bấm phím đàn ghi-ta; các cô cười, ôm hôn đứng đắn. Khi người cán bộ vỗ tay, mọi tù binh cũ của ông cũng đột nhiên cùng làm động tác như thế.

Người cán bộ chính trị này, một lực sĩ, tiến lên như một con mèo rừng trên đôi dép cao su, đứng trước cánh cửa sắt hạ xuống của chiếc tàu. Ông nổi lên bên cạnh viên trung uý hải quân mang lon vàng, những đại liên Pháp đã nạp đạn, lá cờ tam tài bay trên chiếc cán dài. Hình như ông không trông thấy bộ máy quân sự ấy, ông đưa bàn tay thân thiện cho tất cả những tù binh bước lên chiếc tàu Pháp: không ai từ chối ông. Và khi chiếc LCT nổ máy rời bến, ông kêu lớn:

- Hãy nói chúng tôi đã đối xử tốt với các anh như thế nào.

Chiếc tàu rời bến. Những người được giải phóng, trong bộ quần áo "dân dã” vẫn không tươi cười, cả khi một hội cứu tế xã hội la hét họ cũng không tỉnh lại. Chỉ khi chiếc tàu vào đúng dòng chảy đi xa khỏi Việt Trì họ mới bắt đầu hồi sinh, phản ứng lại những gì họ đã chịu đựng. Một người cầm chiếc mũ tre đan trên đầu ném xuống nước. Anh xua đuổi, phá bỏ quá khứ bị bắt. Rồi từng người một, những tù binh được giải phóng nghiêm trang làm động tác tượng trưng ấy, nên nhiều chục chiếc mũ trôi trên dòng chảy và chìm xuống.

Những khuôn mặt vẫn căng thẳng. Thủy thủ đoàn phân phát bữa ăn tạm. Những khúc dồi, những cốc rượu vang đầy đưa lại phép màu, nụ cười đầu tiên, một sự nhạo báng đầu tiên.

Tuy vậy, người lính lê dương, người đầu tiên ném mũ xuống sông nói với tôi:

- Đáng lẽ tôi phải đánh người cán bộ nhưng tôi lại bắt tay ông ta. Không bao giờ tôi tự tha thứ cho sự hèn hạ ấy.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Sáu, 2017, 09:18:25 pm

Mỗi người được giải phóng giữ trong mình một nỗi xấu hổ; ở với người Việt, họ nén nhịn. Làm khác đi họ có thể không được trao trả.

Ở bến tàu Hà Nội, quan chức Pháp cố xóa bỏ cảm giác tội lỗi ấy của các tù binh bằng một cuộc đón tiếp thắng lợi. Tướng Cogny với nắm tay rắn rỏi làm lu mờ nắm tay thân thiện của người cán bộ. Trong điệu Marseillaise do một ban nhạc của đội lê dương trình tấu, ông ôm chặt từng người được giải phóng. Các nhạc công trang phục đại lễ không thèm chú ý đến những quân lính lê dương bị bắt trở về - những đồ giẻ rách.

Binh lính người Maroc cảm thấy vinh dự, mắt ánh lên theo tiếng hô khàn khàn của viên sĩ quan; mắt những lính biệt kích vẫn lờ đờ và chắc sẽ thiếu khí sắc thế mãi.

Toàn thể Ban tham mưu kính cẩn tập họp sau tướng Cogny, con người khổng lồ hào hiệp và hoàn hảo ấy. Với ông, cả quân đội Pháp hết sức tỏ vẻ để tiêu huỷ những tác dụng của "niềm vui đỏ". Nhưng phải mất bao lâu để tái tạo linh hồn cho những kẻ khốn khổ đã bị hủy hoại khi trở về mà người ta tiếp đón như những anh hùng?

Các tù binh trở về trong nhiều tuần lễ. Mỗi ngày người Pháp lại đi Việt Trì đón họ mà không biết sẽ đưa về bao nhiêu người, còn được bao nhiêu. Người Việt tăng cường khó khăn kiếm chuyện vô cớ, yêu sách trong việc trao trả. Giá như không phải chịu đựng để rút những người này ra khỏi họ!

Và khi những người này về đến nơi, họ còn thuộc về một thế giới khác, họ không thể thích nghi, lạ lẫm, suy sụp. Phải tổ chức giải độc và tập cho họ xóa bỏ dấu vết đỏ.

Người ta đưa tất cả những người được giải phóng đến bệnh viện Lanessan. Ở đây người ta sàng lọc họ, sắp xếp theo mức độ thương tổn thể chất và tinh thần. Quân cảnh điều tra về một số phản bội hoặc hầu như phản bội. Nhưng những việc đó thật khó biết được chính xác! Người ta im lặng trước những trường họp nặng nề nhất.

Làm sao để không nghĩ đến những người được trao trả cho phía Việt Nam? Khi trao trả, họ đẹp đẽ, béo tốt, trang bị đồ đạc của quân nhu. Nhưng vừa lên xe, họ đã vứt bỏ thức ăn và quần áo người ta phát cho, hầu như ở trần; họ không muốn vấy bẩn vì những gì nhận của người Pháp. Đến Việt Trì họ hô vang "Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm", họ vừa vứt bỏ những vật dụng cuối cùng của tư bản. Các nữ y tá Việt Minh bận quần áo trắng, tập trung những đồ vật ấy lại và nhóm lửa đốt.

Việc trao trả kết thúc; còn thiếu hàng nghìn tù binh đối với người Pháp - số phận của họ vẫn mãi mãi không ai hay biết. Một người Pháp dân sự có mặt mỗi khi có đoàn xe đến, ông ta yêu một người lính lê dương. Nỗi đau khổ của một anh đồng tính luyến ái có vẻ thật thảm hại! Ông ta chăm chú nhìn những khuôn mặt, lo lắng, hy vọng nhận ra bạn mình. Ông khóc, chờ đợi trong nhiều tuần, đơn độc và thất vọng.

Gia đình các tù binh ở bên Pháp, rất xa. Họ chỉ nhận được một bức điện tín của bên quân sự.

De Castries là người cuối cùng. Đối với ông ta, kẻ chiến bại ở Điện Biên Phủ, người ta chuẩn bị một buổi lễ đặc biệt lớn cách Hà Nội mươi cây số. Tại chỗ này cách đây một thế kỷ, các đội quân đã tiến hành đánh chiếm vùng châu thổ. Bây giờ vinh quang Pháp kết thúc ở đây. Trên LCT đưa de Castries về, trước tiên tôi thấy chiếc ca-lô kỵ binh đỏ của ông - ông đã đội nó trên mọi chiến trường của Đông Dương, để chứng tỏ sự phóng túng quý phái. Bây giờ chiếc ca-lô đã xỉn màu. Bản thân ông cũng thay đổi nhiều. Khuôn mặt nhăn nheo, làn da trước đây căng và đầy khí sắc, bây giờ giống một găng tay quá rộng. Đôi mắt tinh nhanh trũng sâu trong hốc mắt. Ông đã già.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Sáu, 2017, 09:19:02 pm

Trước các đội quân, Cogny ôm hôn de Castries đang khóc và thấm nước mắt. Ông cố cười yếu ởt để nói về chiếc ca¬-lô của ông: quân Việt muốn lấy nó làm chiến tích nhưng ông đã giấu đi. Ông nói:

- Cử chỉ tự do đầu tiên của tôi là trước mặt những người Việt trao trả, tôi lấy chiếc ca-lô trong túi ra đội nó lên đầu.

Mặc dù có nhiều lời đồn thổi, de Castries có phải vẫn là một hiệp sĩ thời Trung cổ không? Ông ta cố gắng làm cho người ta tin thế một cách thảm hại! Ông muốn tự bào chữa, giận dữ kêu lên ông chỉ là một nạn nhân, là bung xung của cuộc thất trận. Nhưng lệnh chỉ huy bảo ông im đi; nếu không ông lộ ra hết những bất lực của mình ở Điện Biên Phủ.

Ít lâu sau tôi biết sự thật về de Castries. Tại Hà Nội do Việt Minh chiếm giữ, tôi ăn trưa với các phóng viên báo chí đỏ. Tôi ngồi bên cạnh Jensens, một người Do Thái Úc béo phệ, mắt lồi, râu tóc bờm xờm, chuyên viên lôgíc, một người cuồng tín. Anh ta ca ngợi de Castries, biết ông này rất rõ. Chính anh ta đi theo ông khi trao trả cho người Pháp. Anh nói:

- Ngồi bên cạnh nhau trong chiếc xe Molotova trong nhiều giờ, chúng tôi nói chuyện cởi mở với nhau. Ông ta nói bộ chỉ huy Pháp đã lừa dối và bỏ rơi ông! Bao nhiêu lời hứa trước trận đánh không được thực hiện. Tôi trả lời dù sao thì Điện Biên Phủ cũng tan vỡ. Ông công nhận, tán thành khi tôi nói về sự ngu ngốc của cuộc chiến tranh Đông Dương và thừa nhận chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng lợi ở Châu Á. Chúng tôi có cảm tình với nhau lắm.

Sao tôi không tin Jensens dù khó hình dung được tình bạn bè của một viên tướng đánh thuê cao đạo với một tay Do Thái dữ tợn. De Castries là con người trong sự chờ đợi lâu dài, trước đòn tấn công của người Việt, đã cho rải tờ rơi trên phòng tuyến địch vây quanh Điện Biên Phủ. Ông rêu rao khinh thường ông Giáp hèn nhát không ra lệnh tấn công. Điều đó xảy ra chỉ cách đây mấy tháng - nhưng dĩ nhiên người ta, cả de Castries cũng có thể thay đổi lạ lùng vì thảm bại.

Thực vậy, cả những quân lính giỏi nhất của Điện Biên Phủ, cả những lính dù đã hy sinh vô vọng, cũng bị tác động. Tôi hình dung được nỗi thất vọng của họ ở Normandie mấy ngày sau khi được giải phóng. Trong quán bar nổi tiếng này của Hà Nội mà nhiều "tù binh" ăn uống, tôi nhận ra ngay các chỉ huy lính dù của Điện Biên Phủ. Tuy bề ngoài giống những sĩ quan khác, họ vẫn toát ra một khác thường nào đó: họ không còn biết mình là ai, bối rối và lúng túng do bồn chồn. Một số nói quá nhiều, số khác không hề nói gì.

Ba anh hùng của Điện Biên Phủ uống champagne ở một bàn với các bà lai. Đấy là một tiệc rượu hoàn toàn vì lịch sự; họ đang mải mê với ý nghĩ của mình. Dở say, một người vỗ lưng tôi:

- Chúng tôi không thể nói với anh chúng tôi đã cảm thấy thế nào. Đó là điều không "nói được". Chúng tôi đã mất lòng tin.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Sáu, 2017, 09:19:34 pm

Một người khác, một đại uý nổi tiếng, nói với tôi như mộng du:

- Tôi uống để quên nhưng không quên được. Tôi chỉ huy quân lính đánh đến cùng; họ nghe theo. Ngày cuối cùng, tôi ra lệnh cho một anh chột và một anh cụt chân sử dụng súng cối. Một trong những hạ sĩ quan của tôi, bị thương ở bốn chỗ, tiếp tục ném lựu đạn. Họ đều bị tử trận. Phải chăng tôi có tội đối với họ? Vì nghề nghiệp mà tôi dẫn quân lính đến cái chết. Chúng tôi là lính dù. Nhưng tôi có quyền đày đọa người của tôi một cách vô ích như vậy không? Họ là những người tuyệt vời, là anh em của tôi. Chúng tôi đã ở bên nhau trong những trận đánh lớn. Tôi ân hận chính ở Điện Biên Phủ. Họ bị hy sinh chẳng để làm gì cả. Ngay từ đầu chúng tôi đã biết thất bại và Bộ chỉ huy đặt chúng tôi vào một cái bẫy chết.

Tôi nghĩ về mọi điều đó khi là tù binh của quân Việt. Tôi đã thấy họ đúng như người họ. Tình cảm của tôi đối với họ thật phức tạp. Có nỗi ghê sợ, lòng căm hận và cả sự thán phục. Làm sao không kinh ngạc về kết quả họ đạt được? Tôi không bao giờ nghĩ con người có thể cố gắng đến thế và thực hiện những kế hoạch chính xác và có tính toán đến thế. Tôi xấu hổ về lề thói Pháp già cỗi của chúng ta.

Người Việt giải thích cho chúng ta họ thắng vì họ có lý tưởng. Họ chê trách chúng ta thiếu điều đó. Tôi đã kể với họ về lòng can đảm ghê gớm của những lính dù trẻ của tôi ở Điện Biên Phủ. Họ trả lời: "Chủ nghĩa anh hùng phải chăng là một giải pháp?"

Than ôi, tôi biết là không. Thời gian bị giam giữ tôi đã suy nghĩ. Tôi hiểu sự dũng cảm vô vọng chỉ là một yếu đuối. Cùng với các bạn, sự suy sụp của các sĩ quan cao cấp. Chúng tôi đã kết luận, phía trên cấp bậc chỉ huy, người ta chỉ còn là bùn và mỡ,

Trong trại chúng tôi có một cách giải trí hơi độc ác: chúng tôi xem xét kỹ lưỡng các chỉ huy chính ở Đông Dương, chỉ tha thứ cho rất ít người trong bọn họ: Vanuxem, Bigeard, d'Alencon, cả Cogny nữa.

Chúng tôi đau đớn phát hiện thấy quân đội Pháp lún sâu trong thể chế già cỗi. Tất cả chúng tôi cùng một chẩn đoán. Đối với chúng tôi bi kịch chiến tranh Đông Dương là ở chỗ một Đội quân viễn chinh siêu hiện đại đã không thể đương đầu với một đội quân cách mạng.

Trong trại tù đụng chạm với thực tế Việt Minh, chúng tôi cảm thấy sự mù quáng của các ban tham mưu thật kỳ lạ. Trong tám năm các tướng tá đánh nhau với một cuộc cách mạng mà không biết nó là gì, vẫn dùng những phương pháp của cứng nhắc được dạy trong trường quân sự. Khi tình hình tồi tệ đi, Bộ Chỉ huy sử dụng biện pháp cổ điển - nói dối. Chúng tôi sát cánh thảm họa đã ba năm nay, và may mắn tránh được nó nhiều lần. Việt Minh luôn luôn tự phê bình và cải tiến tình hình. Về phía mình, chúng tôi luôn tỏ vẻ, tuyên bố mọi việc tiến triển tốt và các tướng tá hiềm khích nhau. Các ban tham mưu hoạt động tối đa, không ngừng xây dựng những chiến lược mới, luôn luôn lạc quan hơn, lý thuyết và trí tuệ hơn. Chỉ cần một sai sót là cả hệ thống chúng tôi đổ sụp. Tướng Navarre ủng hộ việc đó. Điện Biên Phủ không phải là một hậu quả tình cờ mà là một phán xét.

Nhưng chúng tôi, những người thua cuộc đã làm chết quân lính của mình, thì ra sao? Chúng tôi sẽ tin vào việc gì? Chúng tôi thất vọng, về bại trận thì ít mà về sự mục ruỗng thì nhiều.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Sáu, 2017, 06:11:01 pm

Việt Minh vào Hà Nội

Trình tự cuộc bại trận tiếp tục. Hà Nội chỉ còn là sườn, ngày di tản đã đến: mồng 9 tháng mười năm 1954.

Lá cờ Pháp được hạ xuống chiều tối mồng 8 trong một buổi lễ đơn giản. Đã về đêm và một cơn bão nổi lên. Bên trong sân vận động Mangin rất thô sơ với đường vòng bằng đất, gió mưa ùa vào những dụng cụ thể thao và cầu môn bóng đá; ở giữa dựng lên một cây cột, mờ đi trong hoàng hôn, biến trong mây mưa sát mặt đất. Khó khăn lắm mới thấy lá cờ treo trên đó, lá cờ Pháp cuối cùng ở Hà Nội. Tôi nghe thấy những mệnh lệnh khàn khàn. Vài trăm người bồng súng. Một hạ sĩ quan kéo lá cờ xuống, gấp vào và ôm hôn, trong lúc kèn thổi buồn bã. Im lặng bao trùm nhưng tôi thấy mãi khuôn mặt của tướng Cogny, tất cả những khuôn mặt khô cứng của quân lính ông, trong mấy giây, thể hiện đỉnh sâu cay đắng.

Ngày hôm sau quân đội Việt Minh, phân tán từ khi ngừng bắn, có mặt để chiếm hữu thành phố. Đây là lần đầu người ta thấy họ ban ngày. Tuy luôn luôn đe dọa và hiện diện, họ giấu mình từ nhiều năm nay trong núi rừng và đồng ruộng. Họ chỉ xuất hiện để chiến thắng.

Đội quân viễn chinh trao trả Hà Nội lại cho người Việt chưa bao giờ đẹp đẽ hơn thế. Những nghi ngờ về ngày mai của việc ngừng bắn đã biến mất. Bây giờ người ta không tìm ra một trong các sĩ quan, hạ sĩ quan Pháp không chửi rủa đáng lẽ phải tiếp tục chiến tranh. Người ta giấu kín những tù binh tìm lại được, nhân chứng của sự bất lực.

Than ôi! Họ không còn đánh nhau nữa mà là thực hiện những bổn phận nhục nhã của cuộc bại trận. Trong ngày tang tóc này phải chấp nhận chúng thật đẹp. Rời bỏ thành phố là một cuộc diễu binh, có những hàng xe tăng, các đại liên ở tư thế bắn, binh lính mũ sắt, các sĩ quan cao ngạo. Việc rút lui vững mạnh và trật tự diễn ra như một nhịp điệu đồng hồ, từ khu phố này sang khu phố khác, từ đường này đến đường khác đến tận sông Hồng và cầu Doumer1. Đấy là quang cảnh rất cổ điển.

Đấy cũng là tính kiêu ngạo thuần tuý và dửng dưng đặt lên trên thảm họa. Người Pháp thể hiện với Việt Minh một sự lễ độ hoàn hảo làm huỷ diệt hiệu lực của họ, lấy đi thực tế của họ. Người Pháp giúp đỡ họ vào Hà Nội - tiếp đón, bố trí chỗ ở, thậm chí cho họ mượn xe để chuyển quân vào.

Những người trong Đội quân viễn chinh xử sự theo lối hào hoa lịch thiệp, để lại cho những người tiếp nhận những tài sản đáng lẽ phải phá bỏ vì tai họa. Tính kiêu ngạo ấy thật đẹp nhưng không vì thế mà ngăn cản được một quân đội nhà nghề bị một đội quân nông dân đánh bại. Những Việt Minh tiến vào Hà Nội còn là những người dân quê. Quân phục chưa phải đã hoàn toàn đồng phục, mũ chưa ra mũ. Sĩ quan của họ luôn luôn vẫn là những người của nhân dân. Không phải vì họ không mang lon mà người ta không phân biệt được họ và người của họ mà vì tinh thần họ như nhau.

Việt Minh thắng trận với đôi chân đi hàng chục, nhiều chục nghìn cây số, đơn giản không ngờ được. Ngoài tiểu liên, mỗi chiến sĩ chỉ có ruột tượng gạo quanh cổ và trên lưng một ba lô nhỏ buộc vào đấy là chiếc ve lá cờ đỏ.
____________________________________
1. Cầu Long Biên


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Sáu, 2017, 06:11:41 pm

Trong mỗi đơn vị toàn bộ trang bị giảm thiểu trong mấy gói mang đầu gậy, nồi niêu. Việc chăm sóc thuốc men gần như không có. Và vũ khí phải luôn luôn vác trên lưng người.

Chỉ với mấy trọng pháo 75 ly và những khẩu súng cối mà Việt Minh đập nát ở Điện Biên Phủ những người Pháp có ca nông, xe bọc thép, máy bay rải khắp bề mặt Đông Dương.

Đấy là thực tế mà Đội quân viễn chinh cố quên đi một cách vô vọng qua thái độ của mình trong những giờ bi kịch rút lui khỏi Hà Nội.

Vì Hà Nội của Đội quân viễn chinh co lại như một tấm da buồn thảm. Đến trưa những lữ đoàn Pháp cuối cùng chỉ cách bến sông Hồng một cây số. Rồi đến lượt họ rút qua cầu Doumer, tác phẩm bằng sắt cũ, dài hai cây số mà Bộ chỉ huy Pháp đã sợ đến thế trong suốt cuộc chiến tranh! Họ vẫn luôn sợ Việt Minh phá đổ cầu nhưng Việt Minh đã không đụng đến, biết rằng có ngày cây cầu sẽ là của họ.

Trên bờ sông trước mặt Hà Nội chỉ còn lại một đại đội. Chỉ còn lại một toán sĩ quan chào nhau theo nghi thức, chỉ còn một đại tá ấp úng mấy câu xúc động với các nhà báo; quân đội Pháp chẳng còn lại gì. Lúc đó có một chiếc ô tô phía trước là một đại uý má phính, bụng phệ và dáng ẻo lả. Ông ta đưa cánh tay béo tròn ra vẫy và kêu giọng the thé: "Chờ tôi. Chờ tôi”.

Trong lúc Đội quân viễn chinh rút lui, Hà Nội nở ra như một bông hoa đỏ, từng cánh một.

Chỉ trong mấy giây không khí hồi sinh lan ra khắp nơi. Người Pháp lùi vào hư vô. Xung quanh họ, thành phố chết - không một bóng người, một tiếng ồn, một lá cờ. Nhưng Việt Minh chỉ phía sau họ mấy mét. Và bỗng nhiên đám đông khổng lồ của Châu Á xuất hiện sau bước chân họ. Trong quá trình giải phóng, vào giờ phút này đường phố, nhà cửa biến mất sau rừng cờ màu đỏ máu. Có thể nói một làn sóng đỏ tràn lên. Chí trong mười lăm phút, xã hội "tự do” đã được tổ chức. Giữa những băng-rôn, ảnh Hồ Chí Minh và các vòm chiến thắng, các uỷ viên chính trị dặn dò nhắc nhủ.

Tôi ở lại Hà Nội, thấy được "niềm vui" nảy nở dưới mắt tôi. Không hề là một kích động. Đám đông không tỏ ra quá khích mà rất đúng mực. Mỗi người dân làm theo lời chỉ dẫn. Những "cán bộ" đến cùng các đoàn người hô vang khẩu hiệu, dân chúng hô theo. Các uỷ viên chính trị, dân chúng, nhảy múa điệu vũ Giải phóng. Mọi việc đều được dự kiến, không bất ngờ.

Hà Nội năm 1954 này, Hà Nội chiến thắng của Hồ Chí Minh thật khác với thành phố đỏ năm 1946 say sưa nổi dậy và giết chóc.

Tính thụ động này không chỉ do chiến tranh bị huỷ diệt. Đây là vấn đề khác. Việt Minh đã thay đổi, không muốn để tự phát cá nhân mà chứng tỏ được niềm vui thích tập thể. Họ tổ chức "tình cảm”, đặt những thể lệ. Các cá nhân khi thực hiện thậm chí không còn biết họ có thành thực không. Họ không dám nêu vấn đề.

Để tự bào chữa, chiến binh của Đội viễn chinh nói: "Chúng tôi không bị đánh bại vì một quân đội mà vì một dân tộc." Không đúng. Người Pháp không bị đập nát bởi sự nổi dậy tự phát của quần chúng mà, do đường lối tổ chức cách mạng. Những người cộng sản Châu Á đã sáng tạo một phương pháp mới để chiếm lĩnh thể chất và tinh thần phục vụ cho mục đích của họ. Người Pháp không thể chống khoa học tâm lý quần chúng ấy. Ở Đông Dương chỉ có những người Pháp truyền thống với những đức tính và sai sót của lịch sử ngàn đời của họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Sáu, 2017, 06:12:12 pm

Việt Minh không chỉ khó phân định đối với người Pháp. Họ cũng như vậy đối với những người dân Hà Nội. Dân chúng chờ đợi các đoàn quân chiến thắng vào thành, nghĩ rằng Hồ Chí Minh sẽ xuất hiện trên một ban công vẫy chào chiến thắng. Nhưng Việt Minh phân tích tình hình và kết luận những thể hiện huy hoàng ấy phản tác dụng.

Không ai biết cụ Hồ và ông Giáp ở đâu. Không ai nói về họ. Chỉ mấy ngày sau nhân dân mới được thông báo trên một bài báo ngắn họ đã về Hà Nội, cũng không nói ở chỗ nào.

Thực tế, Việt Minh không tổ chức lễ hội chiến thắng mà là lễ hội "dân chủ", thành quả của chiến thắng. Tôi có tham dự một buổi lễ. Tôi thấy giai cấp tư sản trở thành dân tộc, thay đổi bản chất, ý thức được mình trong quá trình buổi lễ mang tính chất thiêng liêng. Trong hai ngày nhân dân mừng hoan hỉ. Cả thành phố như một bàn thờ trang nghiêm. Có huấn luyện viên hướng dẫn, người ta tập đi, tập hát, diễu hành và xử thế dân chủ. Ngày đêm trên đường phố từng đoàn người tập dượt, cả thành phố như một trường học trình diễn.

Cuối cùng là buổi sáng đoàn kết dân tộc. Năm giai cấp được biết - công nhân, nông dân, binh lính, tiểu tư sản, tư sản yêu nước - tập hợp nhau thể hiện tình thân ái.

Bốn giờ sáng toàn thể nhân dân đã sẵn sàng, tập trung từng tốp hàng trăm nghìn người trên đường phố. Mỗi hè phố là một khối sống động đàn ông, đàn bà như bao trùm dưới vòm cờ. Giữa những lớp bao quanh, những đám đông im lặng trong tư thế chuẩn bị, hàng trăm đoàn người chờ thời điểm rung chuyển trên đường. Có nhiều loại hàng ngũ. Đông nhất gồm thiếu niên mặc theo lối hướng đạo sinh - người Việt trước hết lo phân phối khăn quàng cho nam nữ thiếu niên dưới hai mươi tuổi. Người ta cũng thấy những hàng ngũ các ông già, phụ nữ, xã viên hợp tác xã, thị dân. Phụ nữ địu con trên lưng. Thợ giày yêu nước mang dụng cụ trước người.

Chỉ có nhân dân tồn tại. Tất cả là vì nhân dân. Không có khán đài chính thức, các nhân vật, đoàn ngoại giao. Phía trên khối người chỉ một bức ảnh, ảnh cụ Hồ Chí Minh. Các cô gái, bận quần áo trắng, kính cẩn đặt bức ảnh trên ngọn tháp hồ Gươm, nơi linh thiêng của Hà Nội.

Những đám đông ấy đứng tại chỗ cho đến mười một giờ. Rồi chỉ trong mấy giây những dòng người bắt đầu chảy khắp nơi trong trật tự kỳ lạ. Tôi tự hỏi làm sao trong một thời gian ngắn như thế Việt Minh có thể biến dân chúng không rèn luyện ấy trở thành một khối người đồ sộ biểu tình dân chủ? Tôi chẳng còn ngạc nhiên là trước đây, trong những điều kiện vô cùng khó khăn họ huy động những lực lượng đông đảo - những đoàn dân công, đàn ông và đàn bà theo đường mòn rừng núi tiếp tế cho quân lính bao vây Điện Biên Phủ.

Một tiếng hô vang lên từ chân trời bao trùm thành phố. Dân chúng chào đón quân lính trung đoàn Thủ đô, trung đoàn xuất sắc của Việt Minh đã dẫn đầu cuộc nổi dậy ngày 19 tháng mười hai năm 1946 để đồng loạt tiêu diệt hết người Pháp. Sau đó, trung đoàn là hạt nhân của sư đoàn 308, đơn vị bảo vệ sắt, tham gia vào mọi trận đánh và tấn công đòn quyết định ở Điện Biên Phủ. Quân Pháp sợ hãi mỗi lần phải chạm trán với sư đoàn này.

Trung đoàn Thủ đô xuất hiện trên bờ con hồ nhỏ mà đội quân viễn chinh đã bao lần diễu binh. Hôm nay không phải một cuộc diễu binh mà chỉ là buổi lễ của các đồng chí chiến sĩ. Những người chiến thắng bận đồng phục màu xanh lá cây. Họ không chú trọng bước đều, tiến về phía trước, mềm dẻo, lộn xộn như đi trong rừng. Mỗi người lính cầm vũ khí như dụng cụ làm việc của mình.

Đoàn quân này không tự phô trương để tác động dân chúng mà để nói chuyện với họ. Câu chuyện giữa quân lính với "dân chúng" là những bài hát, vỗ tay và hoa, tăng lên từng phút một. Đám đông hô vang và làm những cử chỉ nồng nhiệt. Nhưng tính chất mãnh liệt ấy được chỉ đạo, hướng dẫn có tính toán. Chính những uỷ viên chính trị đi trong hàng ngũ cách nhau mười lăm mét một là những chỉ huy dàn nhạc. Binh lính mang vũ khí "trả lời". Họ nhảy nhót, bước theo vũ điệu, giơ nắm tay, hét to lên, chào với những bó hoa lớn, chơi những bài hát ngắn bằng đàn măng-đô-lin và kèn ác-mô-ni-ca. Một số đơn vị nhảy múa, những đơn vị khác hát hoặc hô vang trời.

Dân chúng không ngớt khuyến khích quân lính vui hơn nữa. Quân lính kích thích dân chúng càng phấn khởi hơn. Lời qua tiếng lại dồn dập đến nỗi không phân biệt được yêu cầu và lời đáp lần lượt bung ra. Chỉ còn là một sự lẫn lộn tạm thời mà hàng trăm ngàn người, dân và quân như những cỗ máy làm hàng nghìn, hàng triệu cử chỉ được chỉ đạo. Đấy là một hình thức cao của trật tự đỏ. Đấy là mệnh lệnh từ trên xa qua đó cả thành phố tự hòa đồng vào chế độ. Từ nay Hà Nội hoàn toàn là Việt Minh: nước Pháp bị gạt bỏ vĩnh viễn.

Trong lúc ấy Đội quân viễn chinh rút xuống Hải Phòng. Quân Pháp bị đuổi khỏi Hà Nội vinh quang xuống thành phố cảng lớn này mà họ đã chiếm đóng nhiều năm và sẽ phải rời bỏ sau mười tháng. Tướng Cogny đứng thẳng người trên một chiếc xe. Tất cả các đội quân ở Bắc Kỳ chào tôn vinh ông và diễu binh hùng tráng. Tướng Cogny đề nghị giám mục Hải Phòng cho kéo chuông ở nhà thờ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Sáu, 2017, 06:13:40 pm

Đông Dương bị mất

Sự thất bại không dừng lại. Điện Biên Phủ và Hà Nội chỉ là hai giai đoạn đầu. Ở phần còn lại của Đông Dương người Pháp tiếp tục xuống dốc.

Những người Pháp hy vọng cứu vớt một số phần còn lại nhờ vào hiệp định Genève. Họ chia cắt Việt Nam làm hai, nghĩ sẽ có hai con bài để chơi. Đây chỉ là một ảo tưởng. Họ đã mất lực lượng và có những lực lượng mới xuất hiện. Từ nay Đông Dương thuộc Pháp cũ là Trung-Nga ở phía Bắc và Mỹ ở phía Nam.

Ở miền Bắc bí mật về "Hồ Chí Minh phúc hậu" biến mất nhanh chóng. Chỉ trong mấy ngày người ta nhận thấy Bắc Việt Nam chỉ là một vệ tinh đỏ. Chẳng bao lâu nước Pháp chỉ còn lại mấy chục người Pháp ở Hà Nội sống một cuộc sống tập trung cao sang trong "Ngôi nhà Pháp". Một Sainteny đã trở lại đây và sẽ thất vọng nhanh chóng.

Ở phía Nam người Pháp không còn cần thiết nữa. Từ khi họ thôi đánh nhau, người Việt Nam và người Mỹ không cần đến họ nữa. Miền Nam Việt Nam biến thành một quốc gia phụ thuộc vào lá cờ sao như Philippines, Thái Lan, Đài Loan. Tổng thống Diệm trước hết là công cụ loại bỏ họ.

Như vậy chủ nghĩa cộng sản đã đuổi họ, chủ nghĩa dân tộc cũng thế. Từ sau Điện Biên Phủ người Pháp không được kể đến ở Châu Á, hầu như bị xóa khỏi lục địa da vàng. Người Châu Á hoàn toàn không biết đến họ, những người da trắng khác ở Viễn Đông nghiêm khắc phán xét họ. Gay gắt nhất là người Mỹ.

Ở Hồng Kông, trong Câu lạc bộ các phóng viên, một nhà báo Mỹ - một người theo đạo Tin Lành, gầy và cuồng tín - nói với tôi:

- Ở Điện Biên Phủ, đáng lẽ chúng tôi phải làm cho các anh thắng. Có thể đấy, tuy quân đội các anh nghèo nàn nhất thế giới.

Một trong những đồng nghiệp của anh cố an ủi tôi:

- Tôi thì tôi thán phục vì là quân đội của "sự nghĩa hiệp”. Tôi muốn nghe nói đến sự nghèo nàn hơn là những cử chỉ đẹp. Chính tôi cũng dùng cách diễn tả ấy, đã viết nó. Nhưng tôi ghét nó từ miệng một người Mỹ vì biết nó có nghĩa như thế nào đối với họ. Điều đó muốn nói quân đội Pháp là sản phẩm của một nền văn minh chết, như chiếc ghế phô-tơi Luis XV.

Tôi có thể trả lời những người Mỹ ấy quân lính nước họ không bao giờ tiến hành được một cuộc chiến tranh Đông Dương, không chịu đựng được sự mệt nhọc, tàn bạo, thiếu tiện nghi ở đây. Nhưng đáp lại? Vì người Mỹ sẽ không đánh nhau như lính Pháp. Họ sẽ dàn thành hàng để tiến hành một cuộc chiến tranh khác, sẽ đưa tới bao nhiêu phương tiện. Và làm tan nát đất nước, dân chúng bằng bom đạn và đô-la. Cuối cùng rất có thể họ thành công hơn. Hơn nữa một lý do cơ bản bó tay người Pháp, vốn không có sự vượt trội bàn đầu như họ. Ở Đông Dương, Đội quân viễn chinh không bao giờ có những nguồn lực theo tầm của Mỹ. Thế mà họ đã áp đảo so với Việt Minh!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Sáu, 2017, 06:14:03 pm

Lúc đầu người Pháp vượt hẳn về lực lượng. Việt Minh khi ấy chỉ là những chiến sĩ du kích thiếu vũ khí: họ dựa vào Đội quân viễn chinh, theo nguyên tắc chính quân địch phải "bảo trợ" lực lượng nhân dân. Họ trang bị vũ khí bằng lấy trộm và phục kích. Thời kỳ ấy thực sự không có ai giúp đỡ quân lính của Hồ Chí Minh. Trung Quốc của Mao Trạch Đông còn ở xa, đang đánh nhau với quân đội của Tưởng Giới Thạch.

Đối mặt với Việt Minh khốn khổ, những người Pháp có Đội quân viễn chinh, cảnh sát và chính quyền, đồng bạc Đông Dương và cả hệ thống kinh tế. Đại bộ phận dân chúng dưới quyền họ, muốn tuyển mộ bao nhiêu binh lính và bảo an da vàng tùy ý. Chính quyền mỗi ngày cung cấp cho cuộc chiến tranh một tỷ phrăng. Sau đó đô-la và khí cụ Mỹ đổ vào.

Bây giờ không thể không đặt ra những câu hỏi: làm sao những người Pháp có thể bị đánh bại? Làm sao điều ấy xảy ra được? Mục đích cuốn sách này là tìm ra những câu trả lời.

Sẽ là một công trình đáng buồn vì cuộc kết thúc thất bại, càng buồn hơn vì thảm họa ấy là lôgic và xứng đáng. Tôi kể lại lịch sử một thời kỳ tàn lụi kéo dài tám năm, mỗi năm một tăng từ cuộc "chiến tranh thoải mái” trước 1950 cho đến “sự hấp hối của Điện Biên Phủ”.

Người ta sẽ thấy không có ai biết ngăn con đường cong dẫn đến thảm họa, kể cả de Lattre - ông ta đến quá chậm. Điều đáng phải làm vượt quá xa những tưởng tượng và định kiến của các tướng lĩnh và bộ trưởng Pháp. Trong những nhân vật quân sự cũng như dân sự không có một người tìm ra sự thật chẩn đoán, tìm và đặt ra một giải pháp. Vì phải “xét lại” tất cả.

Cuộc chiến tranh Đông Dương phản ánh sự bối rối của Pháp, người ta không biết mình muốn gì, không làm điều phải làm.

Cơ may thắng về quân sự đã mất trong ba năm đầu của cuộc chiến tranh, giữa năm 1946 và cuối 1949. Thời kỳ đó đã có thể nắm lấy cổ họng và bóp nghẹt Việt Minh. Nước Pháp không có sự cố gắng cần thiết, cho rằng không thể được (sau này họ có những cố gắng lớn nhiều mà không một hy vọng chiến thắng). Khi Trung Quốc của Mao Trạch Đông vươn đến cửa ngõ Bắc Kỳ thì họ hết cơ hội. Quân Pháp bị đánh bại trên đường số 4; đối với họ không còn vấn đề thắng lợi trong cuộc chiến tranh Đông Dương.

Tướng de Lattre sau những kết quả bước đầu, nhận thấy phải tiêu diệt cả Trung Hoa đỏ. Ông muốn có một cuộc chiến tranh lớn ở Châu Á, mở rộng sự xung đột ra khắp lục địa da vàng. McArthur sẽ chỉ huy ở phía bắc và ông ở phía nam. Nhưng McArthur bị đuổi về và de Lattre chết. Ý tưởng một cuộc xung đột chống Trung Quốc bị bỏ rơi để tái hiện vào phút chót một cách vô ích ở Điện Biên Phủ.

Trận đánh thảm khốc trên sông Đà diễn ra lúc de Lattre hấp hối ở Paris là một cảnh báo ghê gớm. Nó có nghĩa từ nay Việt Minh là lực lượng mạnh hơn cả: phải chuẩn bị điều đình với họ hoặc dù sao cũng phải thúc đẩy nó tung ra lực lượng tổng thể của nước Pháp. Nhưng người ta không làm gì, hòa bình không, chiến tranh cũng không.

Những người Pháp còn tiếp tục cuộc phiêu lưu Đông Dương lâu hơn mà không biết nó sẽ đưa họ đến đâu. Chính phủ Paris, các ban tham mưu chỉ tìm cách lảng tránh. Dễ dàng thôi vì xa xôi thế! Mục đích duy nhất là kéo dài, là tránh thảm họa luôn luôn đe dọa. Hậu quả là sự xuống cấp dần dần, không có ý tưởng mới trả giá bằng những trận đánh đáng sợ mà người ta nói đến ít nhất. Đấy là bước đi lôgic thảm họa. Người ta không phải luôn luôn biện minh được, cả trong sự vô lý, tất cả đều có một kết thúc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười, 2017, 09:41:05 pm

Chương I
CUỘC CHIẾN TRANH THOẢI MÁI


Có vẻ lạ lùng khi tôi bắt đầu câu chuyện dài và đau khổ về thất bại của Pháp ở Đông Dương bằng mô tả cuộc “chiến tranh thoải mái”.

Thế nhưng đấy là điều tôi thấy khi đến Sài Gòn làm phóng viên chiến tranh năm 1948. Tôi phát hiện ra một Đông Dương thời Trung cổ với tiểu liên và đồng bạc, dưới nhãn hiệu Liên hiệp Pháp. Tất cả đều đông cứng. Đội quân viễn chinh đã từ chối những “chuyến đi” lớn, tấn công và cơ động. Thời kỳ những đoàn quân của Leclerc, với tính chất lãng mạn bạo lực lao vào chinh phục, đã xa rồi.

Từ nay là cảnh sa lầy. Chỉ trên biên giới Trung Quốc trong núi rừng miền Bắc Bắc Kỳ, đang tiếp diễn cuộc chiến thực sự chống đội quân chính quy của Hồ Chí Minh. Cuộc chiến xa xôi và người ta không nói đến.

Vả lại khắp nơi người ta tiến hành cuộc “chiến tranh thoải mái” chống Kháng chiến. Cuộc chiến du kích, chống du kích ấy, khốc liệt, chắc chắn tàn bạo hơn nhiều những trận đánh diễn ra trên biên giới Trung Quốc. Nhưng đồng thời là “cuộc sống đầy đủ” và sự thịnh vượng cho mọi người.

Diễn biến hàng ngày là máu, cái chết, khoái lạc, mệt mỏi, lười biếng, lối sống xa hoa. Những người đánh nhau tự thấy mình là “chúa tể” và quan chức nhà nước đắm mình trong thừa thãi. Hai bên dồn ép và giết hại dân chúng theo cách của mình. Dân quê là vật cá cược chủ yếu những khi không bị tử hình họ tự bung ra, tranh thủ mọi lợi thế của đồng bạc, đạt tới một mức sống không ngờ được đối với những người nông dân da vàng.

Từ đó có một sự cân bằng bề ngoài không có lý do gì chấm dứt, càng được duy trì vì Bảo Đại được người Pháp lại đưa lên cầm quyền; ông ta làm ruỗng nát cả và làm rối ren thêm.

Bao nhiêu lực lượng đồng minh hoặc thù địch tranh giành nhau nhờ vào những đồng loã không ra mặt! Đông Dương năm 1948 là một bàn cờ vô số quân tốt nhưng hầu như bất động. Người ta chưa đoán được xứ sở này sẽ trở thành sân khấu, mà tất cả những yếu tố trên thắt nối với nhau trong một sự kiện cũng căng thẳng và bị lột trần như một bi kịch Hy Lạp: mấy năm sau tấm màn hạ xuống ở Điện Biên Phủ.

Nhưng năm 1948 người ta chưa nghĩ đến điều đó. Người ta quen dần với lề thói một cuộc chiến tranh không muốn nhưng không tránh được. Thậm chí người ta bắt đầu nhận thấy không phải không có lợi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười, 2017, 09:46:34 pm

Sự thất bại của những người thiện chí

- Ông ơi, nếu chúng tôi biết chặt vài tá đầu đúng lúc thì sẽ còn một Đông Dương thuộc Pháp. Ông nghĩ trước năm 1940 bất cứ một người Pháp nào, không một vũ khí, có thể đi lại tự do cả những vùng hoang dã nhất. “Thân hào” sung sướng lạy tiếp đón anh ta. Than ôi! Những “người Pháp từ nước Pháp” chúng tôi “tiếp xúc” năm 1945 đã gây nên tai họa khi nghĩ rằng tán tỉnh được Hồ Chí Minh.

Những người cũ ở Đông Dương tiếp đón tôi tại Sài Gòn với những lời như thế. Đây là những ông đáng kính no đủ và hiền lành. Họ có những chiếc bụng to - những quả trứng thuộc địa - trên đôi chân gầy.

Những nhân vật ấy mô tả Đông Dương thuộc Pháp của chế độ Bảo hộ, như một thiên đường. Họ nói:

- Phải chăng chúng tôi đã không làm gì cho dân quê? Chúng tôi lôi họ ra khỏi đói nghèo, xây dựng trường học, đường sá, bệnh viện và nhất là chúng tôi đưa lại cho họ sự công bằng và nền an ninh.

- Thế vì sao đất nước được ban thưởng nhiều ân huệ như vậy có thể “nổ bùng” chống lại chúng ta? Dân chúng sung sướng ấy phải chăng muốn nền độc lập hơn hết?

Những người đối thoại không hề xấu hổ về chế độ thực dân của mình. Ngược lại bực tức vì câu hỏi của tôi, họ ca thán:

- Chà! Nếu những người mới đến lắng nghe chúng tôi, những người biết rõ dân Annam, yêu mến họ và được yêu! Nhưng de Argenlieu và đồng bọn kết tội chúng tôi là bóc lột dân chúng Annam. Vậy mà không làm cho họ nghe theo.

- Các ông không nghĩ Đông Dương của các ông đã chết từ lâu rồi? Các ông nghĩ nó vững chắc nhưng chỉ cần một rạn nứt là nó đổ sụp.

- Chúng tôi sẽ cứu Đông Dương dù có biến cố, dù không có ảo tưởng của những chỉ huy mới do Paris chỉ định.

Những tay thực dân này tin vào quyền lợi của mình xiết bao! Nhưng họ ghét những người do de Gaule cử sang năm 1945 để hòa giải nước Pháp với những dân tộc nổi dậy ở Đông Dương.

Tranh cãi vô ích vì những người này người kia đều thất bại! Tôi ở trong một đất nước nằm trong lề thói chiến tranh liên miên. Tôi tự hỏi chiến tranh bùng ra như thế nào, có thể tránh được không, tôi dành những tuần lễ đầu tiên tái hiện lại quá khứ. Tôi nhận thấy tất cả những người Pháp đã thật thà khác thường đồng thời thật mù quáng.

Điều tôi phục hồi lại là những sự kiện trước thời tôi. Đấy là sự phá sản của tất cả những người thiện chí. Vì có hai loại. Những “thực dân” cũ muốn làm lại Đông Dương thuộc Pháp. Những người “Pháp tự do” từ chính quốc sang hy vọng điều đình với Hồ Chí Minh. Nhưng quan niệm của họ đều sai lầm. Kết quả là máu, là thù địch.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười, 2017, 09:48:29 pm

Nhưng trước bi kịch chiến tranh đã có những bi kịch của hòa bình không trọn vẹn, kéo dài gần bảy năm, từ 1940 đến cuối 1946. Cốt lõi phức tạp như sau:

Lúc đầu những người chiếm giữ Đông Dương thuộc Pháp không cố thử, không chịu đựng để cứu xứ sở này! Vì vào năm 1941, những kẻ thực dân cần rất can đảm, trong lúc giáo lý của người da trắng gần như không được vi phạm là không “hợp tác” với người da vàng. Tuy vậy khi chính quốc đổ sụp cách đấy mười hai nghìn cây số, khi Đông Dương bất lực trước lục quân và hải quân Thiên Hoàng, các đô đốc tướng lĩnh, viên chức, các điền chủ sẵn sàng chấp nhận sự chiếm đóng của Nhật: họ hy vọng theo cách ấy cứu được cái cần thiết nhất, nghĩa là sự hiện diện của lá cờ tam tài. Đấy là kinh nghiệm của Decoux, một hành động cá cuộc không tưởng tượng được.

Một thời gian lâu họ nghĩ đã đạt được. Vì người Nhật giận dữ nhấn chìm mọi thống trị da trắng ở Châu Á, ngoại trừ duy nhất chủ quyền Pháp. Chính quyền thuộc Pháp hoạt động, công dân Pháp tự do, lá cờ tam tài phấp phới khắp nơi.

Vào mùa xuân năm 1944 chỉ cần giữ vững thêm mấy tháng hoặc mấy tuần lễ là sẽ thắng lợi.

Tất cả đổ sụp trong một đêm. Ngày mồng 9 tháng ba năm 1945 Sài Gòn hoảng loạn: dân chúng đang ngủ thức dậy vì tiếng ồn ào kêu thét xen lẫn tiếng súng, tự hỏi: “Tai họa gì vậy?” Họ được biết ngay. Những người gác đêm trung thành, những lực sĩ da màu bí mật thông báo với các chủ Pháp: “Thưa ông, ông tắt đèn nhanh cho: người Nhật đang giết hết người da trắng”. Các gia đình sợ hãi chạy trốn mang theo trẻ em vào các khu vườn, hầm hào chờ cho đến sáng. Tuy vậy trong bóng tối xuất hiện những binh lính Nhật phát ngang mọi chống cự vào phá hủy tất cả. Trong thành phố vang lên chói tai lẫn lộn tiếng đàn bà rên rỉ, người chết hấp hối và tiếng bát đĩa đổ vỡ.

Người Nhật cho dán lên tường bố cáo bãi bỏ chủ quyền của Pháp. Người ta nghe chất keo chảy, tưởng họ rải một chất lỏng dễ cháy để đốt toàn bộ thành phố.

Tuy nhiên đấy chỉ là “cuộc đảo chính” của người Nhật, thanh toán Đông Dương, san bằng, hạ nhục một cách có hệ thống những người da trắng. Kampetai “tổ chức hiến binh Nhật”, truy lùng khắp nơi, bắt người Pháp cho vào nhà tù. Họ giam vào những căn nhà ghê gớm của sở mật thám, chỗ các cảnh sát “thực dân” đã “thẩm vấn” các thế hệ nổi dậy Annam. Sự trả thù mỉa mai! Những tù nhân da trắng phải ngồi xổm nhón chân hàng giờ, bị đánh đập khi mất thăng bằng. Cũng có những kiểu tra tấn thông minh hơn, hành hạ, chém giết hàng loạt. Toàn bộ lính trong bốt đồn trú Lạng Sơn bị gươm đâm chết. Chỉ vài đơn vị của Bắc Kỳ thoát được. Đoàn Alessandri sang Trung Quốc theo Tưởng Giới Thạch qua một chuyến đi dài và khốn khổ xuyên rừng núi.

Ở Sài Gòn họ không thể ẩn náu được. Trước cửa mỗi nhà phải treo một tấm biển gỗ ghi tên họ, đặc điểm, nghề nghiệp, dân tộc, giới tính và tuổi của những người trong nhà. Một trong những “trò hài hước” cuối cùng là nhận thấy thói làm dáng không hoàn toàn biến mất đối với các bà; hiếm khi họ thú nhận mình đã tứ tuần và những bà làm thế đã nguyền rủa mình thật ngây thơ.

Được dán nhãn như vậy, bị nhốt trong nhà không có quyền ra khỏi một chu vi nào đó, chịu đựng thiết quân luật tùy theo trạng thái của người Nhật, những người Pháp tự cảm thấy bị giam cầm, là những tấm bia sống, hàng ngày lo lắng tách biệt tổ quốc và thế giới đã nhiều năm nay, làm sao họ hiểu mình sẽ ra sao? Làm sao họ ngờ được Hiroshima và Nagasaki đã gần?

Người Nhật linh cảm sự thất bại sắp tới và muốn phá huỷ Đông Dương như cách trả thù cuối cùng. Và để chắc chắn xứ sở này không bao giờ vực dậy được, họ gây ra niềm tự cường dân tộc trong lòng dân chúng Annam. Đến lượt mình, dân chúng bắt đầu truy lùng những người da trắng bất lực và đòi “xử bắn” họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười, 2017, 09:49:23 pm

Thật khốn khổ. Cùng với hành động tàn bạo của cảnh sát và binh lính Nhật thêm vào lòng căm thù của dân chúng Sài Gòn. Tệ hại hơn nữa là những người Pháp luôn thất vọng, thiếu lòng tin.

Quả bom nguyên tử đã là phép màu cứu sống họ. Người da trắng thậm chí có những giờ sảng khoái, nghĩ rằng dân Annam lại trở thành dễ bảo, vô hại. Họ đã không hiểu mình sẽ đụng vào những lực lượng mới và không xoa dịu được: họ chưa biết gì về chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản.

Nỗi thật vọng - sự tỉnh ngộ cay đắng và tàn nhẫn - là những người Annam tỏ ra cừu địch nghìn lần hơn khi không có người Nhật. Cách mạng cháy bùng lên ở Đông Dương chỉ trong mấy ngày. Từ núi rừng xuất hiện một Hồ Chí Minh, nhà hoạt động có tên trong sổ sách mật thám, cùng một số đồng chí chiếm lấy Hà Nội. Sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ông trở thành người Cha của Dân tộc. Khắp nơi theo lời kêu gọi của ông, trong các thành phố, làng xóm, ruộng đồng, dân chúng sốt sắng tập hợp nhau tổ chức mừng tự do. Các uỷ ban và cảnh sát tăng lên nhiều. Việt Minh khởi nghĩa quét sạch cả đất nước Annam, trải rộng hơn một nghìn hai trăm cây số về phía nam, đến tận Sài Gòn.

Thành phố này cũng nằm trong tay Việt Minh. Ác mộng kéo dài một tháng. Ban ngày tất cả hình như tĩnh lặng. Vấn đề duy nhất là thực phẩm. Lợi dụng sự lơ là bên ngoài, phụ nữ Pháp luồn ra chợ mà người “Trung Hoa” đồng ý với giá cắt cổ bán cho những mẩu thịt và từng bó rau muống.

Hoàng hôn đưa tới nỗi sợ hãi. Trong bóng đêm bắt đầu một lối di cư lạ lùng: những gia đình gần nhau lén lút tập trung vào một nhà, mỗi đêm một nhà khác; họ hợp sự bất lực của họ lại. Đêm nào cũng dài dằng dặc. Việt Minh tuần tra quanh vùng. Bốn phía vang lên giọng nói lanh lảnh, tiếng quát tháo và những đợt còi. Đôi khi một đội tấn công bước theo nhịp điệu “một, hai” - và rồi khi họ dừng lại thì đó là dấu hiệu tấn công vào một biệt thự.

Những đêm không bao giờ chấm dứt. Tất cả các ngôi nhà cùng một nét mặt chờ đợi. Người ta để đèn sáng để tự trấn an. Đàn ông chơi bài, trong tầm tay là những con dao nhà bếp, vũ khí duy nhất của họ. Thỉnh thoảng họ ngừng chơi để trấn an các bà vợ sẵn sàng lên cơn thần kinh. Trẻ con dồn vào một gian bên cạnh, run lên vì sợ trên cùng một chiếc giường và nôn cả ra màn.

Cuối cùng, một hôm dân Sài Gòn điên lên vì mừng, được biết “họ” sắp tới. “Họ” là những người của thế giới bên ngoài, những người da trắng xa nhau bao nhiêu năm và đã thắng trận. Người ta chờ những ân nhân đến cứu. Thực vậy, người Anh đổ bộ, theo sau là quân lính dù Pháp.

Các đội quân Anh tỏ ra tế nhị. Nhưng thật kinh ngạc trước thái độ của “quân dù”! Họ xem những người Pháp ở Đông Dương xứng đáng như quân phản bội! Một hố sâu tinh thần chia cắt những người được giải phóng với người giải phóng mình.

Thật đúng lẽ nếu quân lính từ Pháp sang phải cứu những người ở Sài Gòn mà người Việt luôn tìm cách tấn công. Họ chỉ can thiệp dè dặt, trong trường hợp cuối cùng khi không làm khác được.

Một phụ nữ Pháp trong cuộc tấn công của Việt Minh vào một nhà, chạy đến báo với lính dù đóng trại gần đấy. Bà đã làm cho họ cảm động nhưng chỉ huy của họ, một đại tá, từ chối không đưa quân đến cứu.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười, 2017, 09:50:17 pm

Những lính dù đầu tiên này mang sang Đông Dương tình hình họ đã biết ở Pháp. Đối với họ chỉ có những người hợp tác và những người chống cự. Quân phản bội chỉ có thể là những người Pháp ở Đông Dương: họ đã không làm việc lâu với người Nhật rồi sao? Việt Minh có vẻ đáng khen hơn. Họ không ngừng nổi dậy chống phát xít Nhật; ngược lại họ nói với quân dù, họ yêu mến người Pháp, chỉ tấn công bọn “thực dân” đã thỏa hiệp với binh lính của Thiên Hoàng.

Lính dù vốn thực tâm. Họ có những ý tưởng rất đẹp: không muốn trấn áp người Annam mà ôn hòa thu phục lòng người. Thế nhưng mấy tuần lễ sau họ lao vào một cuộc chiến tranh ác liệt nhất.

Leclerc sang Đông Dương, đưa các đội quân ra ngoài Sài Gòn để ôn hòa chiếm lại đất nước; Nhưng rồi bị tấn công ngay. Chẳng bao lâu binh lính Pháp bị bắt, bị chặt khúc và làng xóm Annam bốc cháy. Vì bạo lực trả lời bạo lực. Những mơ mộng dịu dàng chuyển sang say mê tàn bạo chỉ trong một thời gian ngắn! Người Pháp chiếm lại Nam Kỳ, Căm-bốt, Lào, Trung và Nam Annam bằng những cuộc hành quân chớp nhoáng huỷ hoại. Nhưng các chi đội đỏ và tất cả những tổ chức du kích luôn luôn như tự nảy sinh. Cuộc chiến lan khắp đồng ruộng.

Tất cả trái ngược nhau. Qua mấy tháng bản thân Leclerc đã nghĩ không thể dùng sức mạnh chiếm lại Đông Dương. Người ta không đạt được mục đích với quần chung đông đảo Châu Á nổi dậy sử dụng chiến lược “chiến tranh nhân dân” theo những nguyên tắc Mao Trạch Đông. Hoặc sẽ bị kiệt quệ vì sự chống đối không dứt.

Người ta trở lại kết luận: cần điều đình với Hồ Chí Minh, ông già có bộ râu mảnh, thương yêu trẻ em và đã trở thành một huyền thoại sống. Ông có phong thái một nhà trí thức phúc hậu, không phải của một người cộng sản cuồng tín và lạnh lùng. Phải chăng có thể thỏa thuận với ông giữ sự có mặt của Pháp “ngay” trong lòng một nước Cộng hòa Việt Nam? Một người tin vào điều đó. Đấy là Sainteny - một anh hùng, đẹp, mạnh mẽ, hơi bí ẩn, vừa cứng rắn vừa lãng mạn. Trên hết ông tuyệt đối tin tưởng vào quyền lực của ý muốn và sự lôi cuốn của mình.

Đáng lẽ ông không nên có lòng tin như thế! Những mật sứ Pháp đầu tiên nhảy dù xuống Bắc Kỳ bị truy lùng, đôi khi bị sát hại. Bản thân ông đến Hà Nội Việt Minh với chức danh đặc phái viên Cộng hòa Pháp, bị giam giữ gần như tù nhân. Cả mùa đông là một ác mộng. Hàng ngày dân chúng tập hợp trong những cuộc mít tinh khổng lồ và những đoàn biểu tình không ngớt. Đấy là niềm cuồng nhiệt đỏ và trong sự hoan hỉ và căm hận, những đám đông thề “những tên thực dân” không bao giờ được trở lại. Hầu như từng đêm, những người da trắng - trong thành phố có mấy nghìn người Pháp dân sự và người lai bất lực - biến mất; sau này người ta tìm thấy tàn tích của họ trong những hố chôn xác chết.

Thế nhưng sau những tháng dài thê thảm ấy - vào mùa xuân năm 1946 - một điều ngạc nhiên khác thường. Hồ Chí Minh ký một thỏa ước cho phép đoàn quân Pháp đổ bộ lên Bắc Kỳ. Sau đó ít lâu một số lượng lớn người và xe cộ quân đội Pháp được chuyển từ Sài Gòn ra Hải Phòng, hải cảng lớn cách Hà Nội một trăm hai mươi cây số.

Than ôi, người ta không hiểu sự thay đổi của Hồ Chí Minh liên minh với Pháp là “giải pháp đúng” bất lợi của phép biện chứng: lấy một điều bất lợi để rũ bỏ một bất lợi khác lớn hơn. Việt Minh đưa quân đội Leclerc đến để tiến tới đuổi các đơn vị của Quốc dân đảng chiếm đóng Bắc Kỳ và sắp lật đổ Chính phủ Cộng hòa Nhân dân.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười, 2017, 09:51:16 pm

Tình trạng thật rối ren! Trước khi đế quốc mặt trời mọc sụp đổ, các “nước lớn” đã quyết định lực lượng quân Anh sẽ đến Nam Kỳ “giải giáp” quân đội Nhật. Họ đã tiến hành một cách hợp pháp vừa tạo điều kiện lập lại chính quyền Pháp. Ở Bắc Kỳ, quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng được giao đảm nhiệm công việc ấy. Nhưng họ dự định không ra đi nữa. Họ có chỗ dựa Roosevelt, vốn không muốn có một Đông Dương thuộc Pháp nữa: đối với ông này, Đông Dương trực tiếp hoặc gián tiếp phải trở về Trung Hoa Quốc dân đảng.

Nhưng Hồ Chí Minh người cộng sản quá nhanh chân. Từ khu du kích vùng Cao Bằng ông đã nhảy về Hà Nội trước khi các sư đoàn “con trời” chỉ mới bước vào châu thổ Bắc Kỳ. Khi họ đến nơi cùng những người Annam “hợp tác” của họ - những thành viên Đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân đảng, liên minh với Trung Hoa Quốc dân đảng - thì đã quá chậm: Việt Minh đã nắm chính quyền.

Sự lộn xộn thật phi thường. Thậm chí không phải một đội quân chính quy vào Bắc Kỳ: đấy là lũ hung bạo của Lư Hán, chúa tể chiến tranh của Vân Nam, tỉnh xưa kia như một bậc cao hai nghìn mét, giữa Hi Mã Lạp Sơn và đại dương. Nhân dân gọi Lư Hán là Con Báo Đen. Ông ta bắt đầu cuộc sống bằng trộm cướp. Bao nhiêu mưu mẹo và cứng rắn để trở thành tỉnh trưởng đáng sợ của Vân Nam, nhà độc tài tuyệt đối từ lâu độc lập đối với Tưởng và với tất cả! Ông ta bóc lột lãnh thổ của mình theo lối cổ, không đếm xỉa gì đến luật pháp và mạng sống. Tài sản của ông ta vô bờ. Nhưng con người sơn cước này tham lam nhìn xuống dưới, về đồng bằng, về Bắc Kỳ người đông như kiến; và bây giờ, những vùng ấy dâng hiến cho ông ta!

Một cuộc cướp bóc khổng lồ. Người của Lư Hán đi chân đất, trơ trụi, khổ sở, thành hàng dài vô tận. Họ tỏa ra khắp nơi như lũ sâu bọ phá hoại, không để lại cho các nhà kể cả cái đấm cửa. Chưa bao giờ có cuộc trấn lột hệ thống như thế. Binh lính, sĩ quan vỗ béo mình, nhưng lòng tham của họ không thỏa mãn.

Chính lòng tham lam ấy trước hết cứu Hồ Chí Minh. Thay vì thanh toán ông, chúng bảo: “Cho chúng tôi vàng”. Việt Minh chồng chất lên dân chúng những “khoản thuế yêu nước” để trả cho Lư Hán. Đầu năm 1946 Hồ Chí Minh và nhân dân ông đã kiệt quệ. Hơn một triệu nông dân vùng châu thổ chết đói. Nhận thấy Hồ Chí Minh không có lợi nữa, những người Trung Hoa chuẩn bị cho ám sát ông; họ quyết định thủ tiêu Việt Minh. Lúc đó mặc dù căm hận, Việt Minh cầu cứu người Pháp.

Kế hoạch thành công hoàn hảo. Ở Hải Phòng tàu của Leclerc được quân lính Lư Hán đón tiếp bằng ca nông; họ chống lại và giết chết mấy trăm người. Người Pháp đổ bộ lên và sau vài tuần lễ “mua chuộc” người Trung Hoa để họ ra đi. Cuộc mặc cả tiến hành thuận lợi nhờ một sự kiện bất ngờ nhưng hoàn toàn nằm trong truyền thống của Châu Á.

Vì tướng Lư Hán ghê gớm - kẻ đa nghi nhất trong các chúa tể chiến tranh - là nạn nhân của một sự bất chính khôn khéo của Tưởng Giới Thạch. Chính Tưởng đưa sự giàu có của Bắc Kỳ ra nhử mồi ông ta, đã bảo ông: “Hãy đưa quân sang Hà Nội. Tôi giao trách nhiệm cho chính ông và quân đội ông nhiệm vụ cao cả mà nước Trung Hoa đảm đương”. Lư Hán tuy rất khôn ngoan, cũng không cưỡng được lòng ham muốn: ông cử các lữ đoàn của ông vào vùng châu thổ. Những trong lúc các lực lượng Vân Nam xa cơ sở, bận vào việc vơ vét ở Bắc Kỳ, viên Tổng tư lệnh - Tưởng Giới Thạch - cho hai sư đoàn trung thành nhất của mình đột ngột vào Vân Nam không bố phòng, dễ dàng chiếm lấy vùng lãnh thổ của Lư Hán.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười, 2017, 09:52:02 pm

Tưởng Giới Thạch chỉ còn rũ bỏ vĩnh viễn các đội quân Vân Nam đầy vàng nhưng mắc bẫy ở Bắc Kỳ. Đúng lúc Bát lộ quân cộng sản - của Lâm Bưu, Napoléon đỏ - tấn công mạnh vào Mãn Châu Lý. Viên tổng tư lệnh cho chất binh lính Vân Nam lên những chiếc tàu cũ ở Hải Phòng; mấy tuần sau họ được đưa đến cách mấy nghìn cây số, gần Moukden, trên vùng đồng bằng bao la và băng giá; ở đấy hầu như họ bị nhấn chìm ngay bởi những tấn công của cộng sản.

Ở Bắc Kỳ không còn người Trung Hoa nữa. Trở ngại của “con trời” được gạt bỏ đối với Việt Minh cũng như với Pháp. Quân Pháp để cho cảnh sát của Hồ Chí Minh tiêu diệt hết những kẻ bảo vệ Trung Hoa - những băng nhóm Đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân đảng họ đưa về từ Vân Nam về để đưa lên cầm quyền và đã bỏ rơi khi họ rút lui.

Đội quân viễn chinh không can thiệp những cuộc tàn sát ấy. Chắc chắn người của Đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân đảng đã tỏ ra độc ác và thù ghét người Pháp hơn Việt Minh. Và rồi vấn đề duy nhất, hơn bao giờ hết là thỏa thuận với Hồ Chí Minh và nhân dân của ông.

Pháp và Việt Minh đối mặt nhau ở Bắc Kỳ. Giờ tỏ rõ sự thật sắp điểm: người ta sẽ biết chế độ nhân dân và những kẻ thực dân cũ có cùng tồn tại với nhau không.

Người Pháp còn hy vọng vì họ không biết lòng căm thù theo quan điểm của Mao Trạch Đông mà Hồ Chí Minh vận dụng toàn bộ là như thế nào: một sự kinh tởm siêu hình đối với cái xấu mà hình thể tối cao là chủ nghĩa đế quốc. Những gì nhắc lại sự thống trị của người nước ngoài, nhất là người da trắng, không bao giờ hết tồi tệ, bị trừng phạt và đền tội đủ...

Chủ nghĩa cộng sản da vàng là sự trả thù quyết liệt của tính kiêu hãnh. Họ sáng tạo ra một khoa học hiện đại về bài ngoại. Căm thù chốc lát không đủ, phải học căm thù, dạy cho mình, cho quần chúng hàng ngày hàng giờ vô cùng tỉ mỉ về lòng căm thù. Toàn thể nhân dân phải đoàn kết trong tinh thần căng thẳng trả thù, không có tình cảm nào khác.

Đối với Việt Minh, ý tưởng đơn giản nhất về một “thỏa thuận” thực lòng với người Pháp là không thể hình dung nổi. Những người này đã đóng vai trò của mình. Họ đã làm cho người Trung Hoa ra đi, bây giờ đến lượt họ phải đi. Tổng bộ - ban chỉ huy tối cao - phân tích tình hình và quyết định “giải pháp đúng đắn” là tiến hành nhẹ nhàng, cử ông Hồ Chí Minh thuyết phục người Pháp, bắt nhượng bộ nhiều đến nỗi sự có mặt của họ bị tước hết những phần chủ yếu; để sau này dễ dàng đuổi họ đi hoàn toàn.

Đến lúc đó, với một nghệ thuật vô song Hồ Chí Minh hoàn thành đóng nhân vật “Bác Hồ”, con người phúc hậu hình dáng trí thức truyền thống nhưng tinh thần bốc lửa, cao quý và hào hiệp. Con người kỳ lạ nhất trong những người cộng sản Châu Á đã làm cho hầu khắp thế giới tưởng lầm ông không phải cộng sản: vậy phải đưa lại cho ông những gì ông muốn.

Không may xung quanh những chiếc bàn xanh, trong những cuộc hội nghị ở Đà Lạt và Fontainebleau, những người Pháp và Việt Minh nhận ra những từ họ cùng dùng - tự do, dân chủ, liên hiệp - có những ý nghĩa trái ngược nhau, người Pháp nghĩ thiết lập một quốc gia Việt Nam nhân dân, có xu hướng xã hội, chặt chẽ, gắn liền với một nước Pháp không là thống trị nữa mà là cố vấn thân tình. Họ chưa chấp nhận cho độc lập mà đề nghị liên hiệp. Việt Minh đòi hỏi trước hết là chủ quyền và họ muốn một nước Việt Nam đỏ, trên cơ sở “quy chế dân chủ” của nhân dân.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười, 2017, 09:52:39 pm

Cuộc tranh chấp căng thẳng. Người Pháp đề phòng, thành lập nước Cộng hòa tự trị Nam Kỳ ở Sài Gòn với những chức sắc lớn da vàng. Không hoàn toàn là một sự vô lý và giả tạo. Xứ Nam Kỳ có nhiều tư sản và thành phần quốc gia hơn cộng sản; ở đó nền văn minh Pháp đã dành chỗ cho những lề thói Khổng Tử cũ; nhất là người Nam Kỳ giàu có và lười biếng trong địa đàng ngoại lai của họ, sợ những người Bắc Kỳ quá đông, trong cuộc sống làm lụng vất vả trên vùng châu thổ nghèo nàn, làm cho họ quyết liệt và chi phối nguy hiểm.

Tuy thế khi người Pháp khai thác những nỗi lo sợ và ẩn ý ấy của người Nam Kỳ, họ hoàn toàn làm tổn thương tinh thần yêu nước Việt Nam. Từ ngữ “nước Việt Nam thống nhất” luôn ở cửa miệng cùng với từ độc lập. Việt Minh tích cực phát động quần chúng chống sự chia cắt đất nước ấy; họ tổ chức kháng chiến trong toàn Nam Kỳ do người Pháp nắm giữ: ở đây người ta chém giết khắp nơi.

Mặc dù tình hình Đông Dương tồi tệ đi, Hồ Chí Minh vẫn không từ bỏ tác động dư luận Pháp. Ngược lại ông dùng cây gậy người hành hương. Trong lúc các phái đoàn Pháp và Việt Minh đối đầu nhau ở Fontainebleau, ông vượt sông biển đem tình thân mến đến cho nhân dân nước Pháp. Thật là một chiến dịch “khẳng định” thần kỳ. Anh “bồi buồng” cũ của tàu chở khách D’Artagnan đến nói chuyện với phụ nữ, trẻ con Pháp. Ông nói những câu rất đơn giản, với những từ cảm động thiết tha hòa bình của ông. Ông nhắc lại với các bà mẹ không nên để con trai họ chết vô ích trên đồng ruộng. Những người đàn ông, đàn bà của Việt Nam phải chăng không có quyền tự do?

Trong chuyến đi, Hồ Chí Minh được Chính phủ Pháp tiếp đón với những vinh dự như với một nguyên thủ quốc gia. Ông đi xe, có những đội mô tô tháp tùng, đến đặt một vòng hoa ở Đài Chiến thắng.

Tuy thế, người Pháp không nhường bước. Điều đó dẫn đến sự cắt đứt. Lúc đó, khi mọi việc xem như đã xong, Hồ Chí Minh một đêm, trên đầu bàn ở nhà Marius Moutet, ký một thỏa ước - không giải quyết được gì nhưng qua đó, ít nhất cũng tránh được sự tranh chấp và chiến tranh công khai.

Thực tế, bí mật Hồ Chí Minh bắt đầu. Người ta không bao giờ biết cử chỉ đột ngột của Bác Hồ, một mình ký tắt một mảnh giấy, là cố thử vô vọng cứu lấy hòa bình hay bước đầu chuẩn bị một lễ Thánh Barthélémy lớn cho người da trắng.

Còn hơn trước đây, Sainteny tin chắc vào sự “thành thật” của Hồ Chí Minh, bị Việt Minh của ông, những người Pháp, những người cực đoan dồn đến bước đường cùng và dựa vào uy tín lớn lao của mình trên cán cân, mạo hiểm những sáng kiến táo bạo của mình để máu khỏi chảy.

Nhưng đấy có phải là ý đồ thực sự của ông già không? Người ta cũng rất có thể nhìn ông với những sắc màu ngược lại. Ông có thể là người thực tế không lay chuyển, nhận thấy không thể đạt mục đích bằng thương lượng với người Pháp đã kết luận chỉ còn một cách: loại bỏ những người da trắng, tổ chức cuộc chống trả khắp nơi trong điều kiện có thể, trước hết là ở Hà Nội và Bắc Kỳ.

Một cuộc chiến như vậy cần tổ chức tỉ mỉ. Một đòn táo bạo - dứt khoát hoặc tăng gấp đôi - phải làm cho tất cả những người Pháp bị thủ tiêu bất ngờ. Trước khi chết họ cần có lòng tin. Và Hồ Chí Minh, với sự thỏa thuận lịch sự, tạo thời gian cần thiết thực thi giải pháp, hơn nữa ông trấn an nạn nhân tương lai để giao họ vô tư cho đao phủ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười, 2017, 09:53:31 pm

Mùa hè và mùa thu năm 1946 ở Bắc Kỳ rất lạ lùng. Cơn sốt nổi lên. Đấy là đêm quyết định. Đội quân viễn chinh ở chỗ nào cũng như bị bao vây bởi dân chúng, loa của các uỷ viên chính trị, quân du kích và những đám đông. Người ta cày xới đất, đào hầm, dựng chướng ngại vật xung quanh từng vị trí của người Pháp. Người Pháp ẩn nấp sau chướng ngại vật và súng đại liên. Đôi khi sức ép của dân chúng quá lớn, họ tung ra những đòn nặng - tấn công những người Việt bao vây họ, chiếm hoàn toàn những thành phố như Hải Phòng, Lạng Sơn v.v... Nhưng sau đó quân lính canh gác Pháp biến mất: họ bị bắt cóc và xử tử.

Trong không khí ngạt thở ấy, Sainteny đấu tranh dữ dội ở Hà Nội vì hòa bình. Nhiệm vụ khó khăn! Vì ông phải chống lại các chỉ huy Đội quân viễn chinh, các đại tá, các tướng đã nói với ông: “Chỉ còn lại sức mạnh thôi. Nếu chúng ta không đè nát Việt Minh bây giờ thì họ sẽ tiêu diệt hết chúng ta”. Ông khó làm cho họ nghe theo mình; hơn nữa làm sao phản bác một số biện pháp an toàn mà không gánh những trách nhiệm ghê gớm? Tình huống thật tai hại.

Sainteny nhìn Hồ Chí Minh như một đồng minh: phải chăng ông Hồ cũng đấu tranh với những người cuồng tín của ông, những người “cứng rắn”, những thành viên của cuộc chiến tranh như ông Giáp? Hai người trở thành bạn thân. Thấy rõ gần như hàng ngày họ cư xử với nhau như họ chiến đấu cho cùng một lợi ích - Hoà bình, trước mọi đe dọa, mọi sức ép, mọi định mệnh. Không người nào từ bỏ mặt trận của mình mà ngược lại. Nhưng họ hoạt động với tư cách đối thủ trung thực, “tự giải thích” để tránh thảm họa.

Cả trong tháng chạp năm 1946 Sainteny còn tin tưởng vào thực tâm của cá nhân Hồ Chí Minh. Tuy vậy quan hệ của ông thưa dần. Hà Nội đã căng thẳng tột độ. Không thể im lặng trước mức độ quan trọng của những chuẩn bị quân sự của Việt Minh.

Trong những trường hợp ấy binh lính Pháp ở Hà Nội tỏ ra dũng cảm. Nhận được lệnh chịu đựng thay vì chống trả, họ nhận những lời chửi rủa, đe dọa, tất cả những hành động khiêu khích. Họ chỉ phản ứng vừa phải cả những khi bạn họ bị bắt đi hoặc bị thương, nhằm tránh sai lầm không sửa chữa được.

Nhưng lúc đó ai tưởng tượng được “việc không sửa chữa được” ấy biến thành một cuộc diệt chủng, một trong những cạm bẫy ghê gớm ở thời hiện đại? Người ta đã không cảm nhận được điều đó.

Đêm 19 tháng chạp 1946, hàng chục nghìn Việt Minh quân lính đỏ, cán bộ chính trị, du kích, cảnh sát, đủ loại đàn ông, đàn bà, trẻ em - bắt đầu tiêu diệt người Pháp. Đấy là việc ám sát, tấn công có hệ thống, thục hiện theo một mệnh lệnh chiến đấu chuẩn bị đã nhiều tuần và chứa đựng trong hàng trăm chỉ thị. Tất cả những người da trắng phải thanh toán hết nhưng có một chương về phương pháp thực hiện theo từng đường phố, từng nhà.

Nỗi kinh hoàng tuyệt đối. Hơn thế còn là một sự tỉ mỉ. Tất cả đã được dự kiến. Và bản thân Sainteny cũng bị tổn thương - con người thân thiết của Hồ Chí Minh! Nhưng điều này có nằm trong kế hoạch không?

Sainteny không bao giờ muốn tin như vậy. Hai ngày trước bi kịch ông đã nhận được một lá thư trấn an của Hồ Chí Minh báo trước việc trở lại thương lượng. Lời lẽ được viết như để “xoa dịu” Sainteny và người Pháp trong lúc người Việt chuẩn bị bóp cổ họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười, 2017, 09:53:55 pm

Tôi không nói về vai trò của Hồ Chí Minh: ai có thể làm điều ấy? Nhưng làm sao không nhận thấy tất cả những sáng kiến của ông đều là kết quả cụ thể tăng thêm mưu kế khổng lồ? Làm sao không nhớ lại đối với một người cộng sản Châu Á như ông, thắng lợi của mục đích đòi hỏi tất cả, cho phép tất cả.

Dù sao, cuộc chiến đấu không thành công mặc dù tác động bất ngờ. Quân lính Pháp bị tấn công bốn phía đã trụ vững nhiều ngày đêm trong một Hà Nội đầy ác mộng. Không thể kể lại những cuộc hỗn chiến khốc liệt ấy, những trận giáp lá cà ấy trong các nhà, trên đường phố, dưới cống ngầm. Thành phố bốc cháy và người Việt chiến đấu điên cuồng.

Cuối cùng quân chi viện từ Hải Phòng tới. Hà Nội được cứu thoát. Tuy vậy những trận đánh còn kéo dài nhiều tuần. Phải chiếm lại từng “căn nhà” Hoa-Việt - mê lộ thương mại ở ngay sau chiếc hồ nhỏ tuyệt đẹp. Các đường phố gọi là đường hàng Đào, hàng Bông, hàng Buồm. Lính tập kích Pháp dựa vào xe tăng tấn công nhưng quân Việt sử dụng những đường hầm xưa, luôn trở lại. Sau rồi cuộc chiến cũng kết thúc.

Hà Nội còn lại người Pháp. Nhưng đấy chỉ là một thành phố chết, ngổn ngang đổ nát và hầu như cư dân bỏ đi hết.

Nhất là “giải pháp tàn sát” - người Việt nhằm loại bỏ vĩnh viễn nước Pháp ra khỏi Đông Dương - đã thất bại. Hồ Chí Minh không đạt được gì dứt khoát do thương lượng, hoà hoãn hoặc do cuộc cố gắng ám sát tập thể này. Người Pháp vẫn luôn bám trụ ở Đông Dương: chỉ có cuộc chiến tranh cho phép loại bỏ họ.

Hồ Chí Minh không ngần ngại. “Đòn đánh Hà Nội” vừa thất bại, ông ra đi - để đánh lạc hướng cuộc rút lui của ông, cảnh sát nhân dân đánh nhau trong khu Hoa - Việt. Ông thoát về phía nam châu thổ, theo đường sông Đáy và vùng núi Chi Nê. Đúng lúc một đội tuần tra Pháp suýt bắt được ông. Thoát được rồi, ông ngược theo sông Hồng vòng qua châu thổ và bố trí ở trên biên giới Trung Quốc trong núi rừng Cao Bằng, Bắc Kạn và Thái Nguyên - vùng đỏ truyền thống trước đây từ đó ông tiến về Hà Nội và bây giờ ông trở lại trong thiếu thốn. Nhưng không phải chỉ để ẩn náu; chủ yếu để từ đây lãnh đạo cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn sẽ bắt đầu.

Từ nay Việt Minh khẳng định cuộc đối đầu bằng vũ khí. Họ muốn nâng cao lòng căm thù không dứt, theo nguyên tắc chỉ có một “cuộc chiến tranh lâu dài” mới đưa lại chiến thắng cho nhân dân. Họ biết sẽ là một cuộc thử thách ghê gớm gần như vượt khỏi sức lực con người. Nhưng vừa tập dượt dân chúng, trong những hy sinh hầu như không tưởng tượng được mà khuất phục được họ, tạo thành một dân tộc Đỏ có khả năng chiến thắng một đoàn quân thật sự. Về lâu dài, sau nhiều năm, lớp bình dân được trau dồi chính trị với tinh thần lăn lộn kinh hoàng và hoan hỉ, sẽ khép lại như một làn sóng triều và nhấn chìm những người Pháp.

Thời kỳ những người có thiện chí đã kết thúc. Sau một lần thử hòa giải cuối cùng do giáo sư Mus dẫn đầu, những người làm như thế nào. Lúc đầu họ mở một đợt tấn công lớn rồi họ để kéo lê thê. Về phía mình, Việt Minh trước tiên thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”, phó thác cho ngọn lửa tất cả những nơi họ phải chuyển đi.

Tôi đã tới trong xứ sở Đông Dương ấy, một Đông Dương mà những người Pháp “cũ” và “mới” đều thất bại tuy họ đã hầu như giải hòa với nhau. Với một nghịch lý lạ lùng, từ nay tất cả đều như thỏa mãn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Một, 2017, 09:47:32 pm

Máu trên đường số 4

Đông Dương nhấn sâu vào chiến tranh như trong một sự lãng quên. Trên thế giới người ta không nói đến nữa.

Nhưng với tôi là một cuộc khám phá trong lòng một thế giới bất động đổ máu mà người ta gọi là “cuộc chiến tranh thoải mái”. Dần dần tôi phát hiện ra những yếu tố lạ lùng của sự cân bằng của người Pháp và người Annam. Tháng này qua tháng khác, ngày này qua ngày khác họ sống trong lề thói đã quen của đồng bạc và giết chóc.

Tình trạng trì trệ ấy không xảy ra ngay sau ngày mồng 9 tháng chạp năm 1946. Việt Minh đã không thành công trong cuộc chiến đấu. Đến lượt mình người Pháp thử một cuộc đánh lớn. Họ muốn dùng lực lượng quân sự trong mấy ngày tiêu diệt vĩnh viễn Hồ Chí Minh và quân du kích của ông. Một cuộc hành quân đồ sộ. Việc này cũng thất bại.

Đây phải là một cuộc săn đuổi thắng lợi. Người ta sẽ “tóm gọn” Hồ Chí Minh tại góc ẩn náu, trên biên giới Trung Hoa, nơi ông Hồ chỉ có xung quanh mình vài nghìn người sốt rét và thiếu vũ khí.

Điều này suýt thành công. Để tiêu diệt Việt Minh, bộ chỉ huy Pháp đã có một cố gắng khổng lồ. Họ tập hợp mọi lực lượng tập kích huy động được, mọi khí tài đã đưa ra trong cuộc chiến tranh ở Italia. Đây là một cuộc hành quân phối hợp chuẩn bị theo mọi quy tắc của các ban tham mưu. Quân nhảy dù phải được thả xuống Bắc Kạn, một thị xã nghèo rừng nhiệt đới thưa thớt, là trung tâm chỉ huy của Hồ Chí Minh. Ngay sau đó hai đoàn quân ào tới tiếp nối, đoàn xe bọc thép theo đường số 4, đoàn tàu chiến theo sông Đáy tiến lên.

Quân viễn chinh bắt đầu trong niềm hân hoan, chắc chắn sẽ “chấm dứt với người Việt”, về kỹ thuật nó gần như hoàn hảo. Nhưng tàu chiến không tiến lên được. Đội lính dù thả xuống Bắc Kạn với mệnh lệnh bằng mọi giá tóm lấy Hồ Chí Minh sống hoặc chết, chậm mất gần một tiếng đồng hồ. Vì giờ ấy mà cuộc chiến tranh Đông Dương tiếp tục, dần dần trở thành một bi kịch không tránh được.

Từ đó vấn đề bắt Hồ Chí Minh không được đặt ra. Về sau ông sẽ là một con người bí mật, không bao giờ người Pháp dò tìm được. Ông biến sâu vào rừng núi đến nỗi có những lúc Phòng Nhì tưởng ông đã chết. Việc đảm bảo an toàn cho ông người Pháp không tưởng tượng nổi. Ông di chuyển, thay đổi chỗ ở hàng đêm, có một tiểu đoàn đầy đủ bảo vệ. Ông được bao bọc bởi một bức tường bí mật. Cả những tướng tá, bộ trưởng cũng không biết ông ở đâu.

Hồ Chí Minh thoát, cuộc chiến tranh xoay về chiều hướng xấu. Đội quân viễn chinh cảm nhận sự thật tàn nhẫn của quy luật lớn đầu tiên của cuộc chiến tranh Đông Dương: mọi mưu đồ không hoàn toàn thành công dẫn đến thảm họa.

Đây là một sự phát triển mà bộ chỉ huy Pháp đã không dự kiến và lặp lại trong mọi mặt trận sau này. Một loại quy tắc, bao giờ cũng thế. Người ta tiến đánh, chẳng gặp ai thế nhưng tình hình trở nên không chịu nổi. Chống lại hàng ngũ bộ binh và quân nhảy dù của Pháp, Việt Minh sáng tạo những chiến thuật không làm sao được. Trước hết là vườn không nhà trống, không nắm bắt được và không có gì. Tuần lễ này tiếp theo tuần lễ khác, núi rừng trở thành đồng loã với quân địch, người Pháp không dám mạo hiểm vào. Họ bố trí trên bờ đường, trong các đồn bốt, những chỗ dễ dàng. Sau một, hai tháng, quân lính ma của Hồ Chí Minh tái xuất hiện để tấn công. Những cuộc phục kích các đoàn xe, tấn công đồn bốt trú quân bao giờ cũng liền hơn, giết hại nhiều hơn, tổ chức tốt hơn. Cuộc chiến tranh du kích quy mô.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Một, 2017, 09:48:08 pm

Đấy là điều xảy ra trên đường số 4. Máu của quân Pháp không ngừng chảy nữa ở đấy. Máu chảy càng luôn luôn nhiều hơn cho đến thảm họa đầu tiên của cuộc chiến tranh Đông Dương vào mùa thu năm 1950.

Quân lính hớn hở ra đi để bắt chộp Hồ Chí Minh chỉ cần mấy ngày thậm chí mấy giờ để hiểu việc ào ạt tiến trên đường số 4 là bước đầu của cuộc phiêu lưu tai họa.

Sau này một người trong bọn họ kể lại với tôi những linh cảm của anh:

- Tôi hài lòng được chỉ định tham gia đoàn quân tiến theo đường số 4. Tôi chỉ huy một chiếc xe gắn đại liên, mọi người đều tin tưởng. Làm sao Việt Minh có thể kháng cự với một lượng lớn người và xe cộ như vậy? Chỉ huy chúng tôi là đại tá Beaufre, một niềm hy vọng của quân đội Pháp. Ông có khuôn mặt tái xanh, người gầy, đôi mắt xanh rất nghiêm. Ông cho chuẩn bị một chiếc xe chỉ huy có phòng khách rất đẹp. Việc hành quân của chúng tôi thật lạ, quá dễ dàng, không có một phát súng; thế mà quân địch vô hình có mặt khắp nơi. Họ chỉ làm công tác phá hoại. Chúng tôi tiến lên qua những chiếc cầu sụp đổ, những đống gạch đá ngổn ngang. Chúng tôi đếm được một trăm hai mươi lăm chỗ đào cắt mặt đường, có những chỗ như “phím đàn dương cầm”, có những chỗ như “ổ gà”. Rừng rậm vẫn y nguyên nhưng tất cả các xóm làng bốc cháy. Chúng tôi không trông thấy một kẻ địch, một người dân cũng không.

Cuối cùng chúng tôi đến một Cao Bằng đổ nát đang bốc khói và cháy đen. Đại tá Beaufre ngự trị trên một thị xã chết, thảo ngay một nhật lệnh chiến thắng. Chúng tôi buồn bã bố trí quân trên chỗ đất không người này. Chúng tôi không có gì hết ngoài xăng và một số hộp khẩu phần. Tối đến quân lính đốt cháy giẻ rách tẩm dầu để sưởi ấm. Người bạn thân nhất của tôi, bị giết sau đó, thì thầm với tôi: “Chỗ này thật đáng sợ, may mà mọi việc xảy ra tốt đẹp.” Chúng tôi an ủi nhau để vững tâm. Không tự dối mình được, chúng tôi đã thấy lo lắng. Người nào cũng cảm nhận bị rơi xuống đáy cạm bẫy. Mấy ngày sau cuộc phục kích đầu tiên giết chết những người đầu tiên của con đường số 4. Một năm đã qua. Thậm chí người ta không đếm được số người chết.

Ở Đông Dương năm 1948 hàng nhiêu nghìn người bám vào con đường số 4 ấy. Cuộc chiến tranh của họ là bảo đảm cho những đoàn xe đi giứa những bẫy phục kích khổng lồ. Chiến dịch Tia chớp của đại tá Beaufre trở thành một tình trạng phục dịch ghê gốrm mỗi tháng tiêu tốn hàng tỷ, chữ thập trắng chất đầy các nghĩa trang ở Cao Bằng và Lạng Sơn.

Đường số 4 là một áp-xe mưng máu nhưng ở Sài Gòn, Hà Nội lệnh là quên nó đi. Người ta hoàn toàn quên được. Những người khởi xướng cuộc hành quân (Valluy, Beaufre) đã trở về Pháp.

Đông Dương có một cao uỷ mới và một tổng tư lệnh mới điều hành. Con đường chết chóc mỗi lúc càng là một việc của bên kia thế giới, xa các châu thổ, dân chúng, lợi ích kinh tế chính quyền, xa tất cả. Đấy là trong lòng cuộc chiến tranh Đông Dương không được biết đến, một cuộc chiến tranh riêng, còn không được biết đến hơn. Những toán quân đánh nhau ở đấy chuyên nghiệp hơn cả, để không nói là lính đánh thuê hơn cả của Đội quân viễn chinh: những người lính lê dương có thể chết ít phiền phức nhất.

Tuy vậy luận thuyết đã thay đổi ở cấp cao. Các quan chức không tin có thể đè bẹp Việt Minh bằng vũ lực nữa. Giải pháp mới là bình định. Nhưng - một vấn đề nghiêm trọng và nặng nề về phân giải trách nhiệm trong cuộc chiến tranh Đông Dương - tại sao người ta không rút khỏi đường số 4? Mọi người đều nói về việc đó nhưng không bao giờ làm vì tính chất bảo thủ cố hữu trong quân đội Pháp, họ không có khả năng quyết định. Trong đó cũng có tính tự kiêu quân sự, định kiến chủng tộc, vấn đề uy tín. Mỗi lần nói đến một cuộc rút lui, có ai đó kết luận trong các ban tham mưu:

- Đội quân viễn chinh không thể lùi bước trước những người da vàng khốn khổ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Một, 2017, 09:48:43 pm

Tuy thế người ta biết cuộc chiến tranh trên đường số 4 là một dị thuyết trái với những nguyên tắc sơ đẳng của chiến lược. Đường 4 thậm chí không nối liền với châu thổ Bắc Kỳ. Đây là một loại nhánh nhỏ riêng biệt, phải tiếp tế theo đường biển qua những khối đá tuyệt đẹp của vịnh Hạ Long - Mặc dù vậy nó trở thành một cơ sở, là vùng tác chiến của Bắc Kỳ với ban tham mưu ở Lạng Sơn.

Vùng tác chiến thu gọn lại là một “con đường - án ngữ” là con đường mà thậm chí người ta không làm chủ cả những bờ dốc. Thế nhưng dải băng tạm bợ ấy bằng đất nện sơ sài đi sâu ba trăm cây số vào nội địa Châu Á song song với biên giới Trung Quốc. Đi từ Móng Cái và vũng bùn Tiên Yên, con đường vào sâu trong vùng hoang dã ngổn ngang rừng núi kém khai thác. Chẳng có gì để hỗ trợ cho con đường ấy; như một cuống hoa; có ai đó đã ví nó như một sợi dây của thầy phù thủy lơ lửng trên không.

Con đường ấy, cuống hoa, sợi dây - như người ta muốn thế mà đi vào giữa đất nước địch. Đường số 4 thu nhỏ lại giữa hai khối khổng lồ. Về phía bắc, nước Trung Hoa chưa chính thức đỏ nhưng đã ruỗng nát vì du kích đỏ đến tận biên giới Bắc Kỳ. Phía nam, cái người ta gọi là “tứ giác” Việt Minh - một vùng phún xuất đá vôi mà những lòng chảo dùng làm căn cứ cho quân đội của Hồ Chí Minh. Các toán quân Trung Quốc và những đơn vị Việt đã cùng hành quân tay trong tay. Về nguyên tắc đường 4 chia cắt họ ra: chính họ phải đập nát con đường này.

Để tự biện minh, Bộ chỉ huy dù sao cũng có một lý luận dưới danh nghĩa “bịt lối đi”. Đường số 4 phải dùng “khóa chặt” biên giới, chia cắt Việt Minh với người Trung Hoa. Thực ra đây là chỗ qua lại và chính Việt Minh và người Trung Hoa liên minh đã “khóa chặt” người Pháp.

Mạo hiểm thật lớn và vô ích. Người Pháp không hề bóp ngạt được Hồ Chí Minh, thậm chí không làm ông phiền phức gì. Việt Minh hoàn toàn yên ổn trong “tứ giác” không xâm phạm được của họ vốn được tổ chức có phương pháp. Hồ Chí Minh tự lập cho mình tỉ mỉ, vững vàng một đảng cứng rắn - một Đảng Cộng sản trong sạch - và một quân đội nhân dân tác chiến. Kỹ thuật viên của Mao Trạch Đông đi qua những vùng thuộc Quốc dân đảng sang giúp ông. Cũng từ Trung Hoa đưa sang mọi loại hàng lậu, đặc biệt là vũ khí và đạn dược.

Nhưng chính từ phía nam, từ châu thổ Bắc Kỳ không đến một trăm cây số, những thứ thiết yếu được đưa đến: lúa gạo ở đồng bằng, những đồng bạc thu nhặt trong các thành phố Pháp chiếm đóng và nhất là dân quê đi lính. Hàng hóa và lính nhập ngũ đi dưới sự nguỵ trang tự nhiên của rừng dày, theo những đường mòn vô tận thành từng đoàn người lặng lẽ.

Chẳng bao lâu Hồ Chí Minh có một đội quân chiến đấu mười trung đoàn vững chắc, trang bị vũ khí đầy đủ, cuồng nhiệt. Rừng thưa giấu kín những thủ đô di chuyển, những bộ, những ban tham mưu không cố định. Ở đấy cũng có những doanh trại, trường quân sự, xưởng đúc vũ khí, các xí nghiệp, kho tàng, nhà in. Tất cả những cơ sở ấy tháo rời được, ít nhiều bằng tre. Khu rừng rậm ấy của: “tứ giác” nhìn trên máy bay thì hoang vắng; nhưng bên dưới che giấu bao nhiêu thứ.

Người Pháp được báo tin đầy đủ. Nhưng họ để bi kịch đường 4 tiếp tục, để bão tố Việt Minh dồn đống lại. Những báo cáo của Phòng Nhì mô tả khá kỹ mối nguy cơ của tình hình, dự kiến những gì sẽ đến. Tuy nhiên những nhà quân sự ở các ban tham mưu lớn được thông báo, có biết nhưng không tin những gì được nêu ra. Năng khiếu “không tin” của Bộ chỉ huy đúng là không thể tin được.

Vấn đề di tản sẽ đặt ra trong ba năm. Trong ba năm ấy người Pháp vẫn ở lại trên đường 4. Họ bị đổ máu từng nhóm nhỏ. Và cuối cùng trên biên giới Trung Hoa, trước sự sửng sốt của thế giới sẽ là cuộc tàn sát năm 1950.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Mười Một, 2017, 07:40:40 am

Bình định, chiến tranh du kích và sự tàn bạo

Cuộc chiến trên biên giới Trung Hoa đã có thể thắng lợi nếu, trong năm 1947 người Pháp đã như tổ tiên họ trong cuộc chinh phục thuộc địa, vào trong rừng rậm đánh giáp lá cà với quân địch. Nhưng họ kìm hãm việc làm của họ khi đông cứng lại trên đường, là tù nhân của xe cộ, khí tài.

Người Pháp không có can đảm đối mặt với người Việt trong rừng. Các ban tham mưu thì không dám công nhận cuộc phiêu lưu thất bại. Vậy là cứ tiếp tục - hơn nữa đối với Bộ chỉ huy việc đó không còn quan trọng. Vì con đường số 4 và “tứ giác” Việt Minh là gì so với phần còn lại của một xứ sở Đông Dương rộng lớn hơn nước Pháp và đang trên đà quy phục? Ý tưởng mới là việc bình định.

Người Pháp tiến hành việc đó năm 1948 do không thể dàn hàng ngang đánh Việt Minh. Luận thuyết lớn từ nay là để Hồ Chí Minh trong mảnh rừng rậm của ông và lấy hết phần còn lại, lấy của ông đất nước và người. Khi Việt Minh không còn đất đai phì nhiêu và dân cư đông đúc, họ sẽ bị tan nát hơn vì thất bại quân sự. Họ không thể tồn tại nữa. Quân lính của Hồ Chí Minh lúc đó sẽ chết vì đói và lẻ loi trên biên giới Trung Hoa.

Ở Đông Dương, người Việt, ngoài chốn ẩn náu ở vùng cao Bắc Kỳ chỉ có hai vệt đỏ, hai vùng nội địa dọc bờ biển Annam hoàn toàn thuộc về mình: vùng Vinh và Thanh Hóa, vùng Quảng Ngãi và Qui Nhơn. Nhưng Hồ Chí Minh chỉ có ở đó ba triệu người và nguồn lúa gạo, muối nghèo nàn.

Ván bài vậy là Đông Dương do Pháp chiếm đóng. Trên một diện tích bao la, dưới bóng ngọn cờ tam tài tiến triển cuộc đấu tranh quyết liệt giữa công cuộc Bình định và công cuộc Kháng chiến thứ yếu. Người Pháp đưa ra đủ phương pháp của họ, Việt Minh theo cách của mình, nhằm tác động và nắm lấy dân chúng. Hai nền văn minh xen kẽ, quyện vào nhau được vận dụng trong một trận đánh tổng thể. Người Pháp dựa vào những vật chất cụ thể, xã hội hợp pháp, đã được thiết lập. Người Việt phần lớn ở mặt sau dựa vào những gì ẩn náu. Hai bên kêu gọi lương tri đối ngược nhau của con người, người Pháp đem đến cuộc sống thường ngày, sự thịnh vượng, những lợi thế của Phương Tây, người Việt khêu gợi lòng kiêu hãnh, sự nổi dậy. Những người này tạo thuận lợi cho những người giàu, người có tài sản, những người kia hướng về người nghèo. Bên này bên kia, trong sự chèo kéo hai mươi triệu dân quê người ta cũng dùng khủng bố. Dân chúng bị đè nén giữa hai bộ máy khổng lồ.

Trên đường số 4 người Pháp đánh nhau với cộng sản, những người theo mệnh lệnh đỏ. Vả lại ở Đông Dương với việc bình định, trước hết họ chống một cuộc kháng chiến. Những người kháng chiến ấy có Chúa trời là Hồ Chí Minh; họ tôn sùng ông với một nhiệt tình kỳ lạ. Nhưng họ ca ngợi Bác Hồ theo một ý tưởng của họ; họ không biết rõ ông - ở Đông Dương đường sá xa cách cản trở việc hiểu biết. Đối với họ, Bác Hồ trước hết là người yêu nước, vị anh hùng đánh đuổi Pháp. Bản thân họ cũng không biết rõ lắm mình có là cộng sản không. Họ tránh nêu lên câu hỏi, thích nói mình là “những người yêu nước”, và Hồ Chí Minh cũng là thế.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Mười Một, 2017, 07:40:59 am

Những người kháng chiến ấy không có quân đội thực sự mà là những biệt động đội, những nhóm, những hệ thống tình báo với vô số chi nhánh. Để giết người Pháp họ sống bên cạnh, ăn bám vào người Pháp. Họ vừa săn đuổi và cũng bị săn đuổi. Vì những người Pháp nhờ vào tiền, tuyển mộ những chỉ điểm, quân bảo vệ, binh lính Việt Nam. Những người này rất đông, rất nguy hiểm đối với Việt Minh; cũng phải nhấn chìm họ.

Để giải quyết bao nhiêu quân thù như thế, Việt Minh mặc nhiên phải dùng mưu kế và tàn bạo. Cũng như trong mọi cuộc kháng chiến, có một ham thích giết chóc. Những người kháng chiến không mạnh hơn về sức lực thuần túy. Thậm chí họ không thể tấn công những bốt tre và những đồn cảnh sát Pháp. Giải pháp còn lại là ám sát. Việt Minh chính thức gọi những ban chính trị của họ là “ban ám sát”.

Để thanh toán những kẻ phản bội họ không cần chứng cứ, chỉ nghi ngờ cũng đủ. Một toà án xét xử những người tình nghi và đao phủ hạ sát. Người ta dán trên những xác chết tấm biển “Việt gian” và bản án xét xử có đóng dấu. Thân thể kẻ phản bội bỏ lại trên đường để dân chúng trông thấy và người Pháp tìm được.

Cuộc kháng chiến ấy đổ máu. Những người cộng sản thực thụ - những người của đường số 4 - giết không vì thích thú mà vì cần thiết. Họ phân tích tình hình và kết luận vì lợi ích của đảng đòi hỏi phải ám sát. Nhưng luôn luôn là những kẻ đã xác định rõ. Không có sai sót, tình cờ và nói chung Đảng muốn giáo dục lại các phạm nhân.

Nhưng những người kháng chiến gieo cái chết khá phiêu lưu. Họ làm nổ bom giữa những đám đông người, trong chợ và rạp chiếu bóng. Họ thuê người ném lựu đạn tự làm trong các xưởng, gây ít thiệt hại. Nhưng đôi khi để tấn công, họ sử dụng những lựu đạn khía vuông mua ở Bangkok hoặc Singapore giết cả nhóm người.

Ban đêm là của Việt Minh. Nhưng bình minh lên các đội tuần tra Pháp đi lùng. Họ nhặt được bao nhiêu xác chết! Có những xác găm bảng kết tội nhưng có những xác vô danh trôi theo dòng suối, phình lên như những túi da đựng nước. Đôi khi một con sông đưa những thân người đến; người ta không biết từ đâu, họ là ai và sẽ không bao giờ biết.

Người Pháp cũng tìm thấy xác của người mình. Nhưng có thể gọi đấy là xác người không? Có những lần người Việt dẫn tù nhân của họ, đến cách một đồn bốt Pháp mấy trăm mét: ở đó họ xử tù nhân để đội đồn trú bất lực nghe được tiếng kêu la của nạn nhân.

Chỉ có xác Việt Minh người Pháp không bao giờ phát hiện được. Quân địch luôn mang đi những người chết và bị thương. Mọi dấu vết mất mát của quân đỏ đều bị xóa. Những người Việt Minh chết đưa về các làng xóm trung thành, được tôn vinh kính cẩn: Dân chúng xây mộ cho họ, điểm ngôi sao đỏ. Trong những buổi lễ lớn tiễn đưa, những người sống sót, thoát khỏi những trận đánh hoặc bị giết hụt, thề trả thù.

Cuộc chiến tranh không thương xót. Sự tàn bạo đầy rẫy cả hai phía. Lính da vàng trong Đội quan viễn chinh luôn bị đe dọa vì một cái chết tàn khốc, họ diệt Việt Minh nếu không thỏa thuận được với họ. Cả những người Pháp thường cũng bị tra tấn và giết chết. Người Việt đẩy người Pháp hung dữ quá đà, không biết rằng về mặt tàn bạo, người Pháp vượt hẳn người Việt, vừa có hiệu quả vừa thành thạo hơn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2017, 07:10:43 am

Cuộc chiến ở các đồn bốt

Trong quá trình bình định, quân đội đóng chốt tại chỗ. Bố trí lực lượng quân sự ở những điểm mạnh cố làm vết dầu loang ra vùng xung quanh, sông suối và rừng núi Việt Minh. Không có những cuộc chiến lớn nhưng có hàng chục, hàng trăm cuộc chiến nhỏ ở địa phương.

Đội quân viễn chinh chiếm đóng đất nước theo một địa dư “cổ xưa” hơn hiện đại.

Những thành phố lớn tập hợp các ban tham mưu, cơ quan dịch vụ và quản lý. Ở đây người ta không đánh nhau mà làm công tác chính trị và kinh doanh. Hiếm có các đội quân, chỉ là những đơn vị dự phòng. Đấy là hậu phương cho dù nhân viên ám sát người Việt rất nhiều. Trước hết là cảnh sát đấu với họ.

Các tỉnh lỵ, thị trấn trung bình và nhỏ là thủ đô của việc bình định. Ở đấy bao giờ cũng có một đại tá, bốn văn phòng của ông này, một hoặc hai tiểu đoàn can thiệp, một quan chức hành chính dân sự luôn bất đồng với bên quân sự. Viên đại tá là một tiểu vương, chỉ huy cuộc chiến tranh của mình, với các đội quân của mình. Để tiến hành một cuộc hành quân ông cho chuẩn bị bản đồ trang trí những mũi tên màu lớn. Rồi những chiếc xe đưa các đơn vị đi đánh nhau, sau mấy ngày thì trở về. Thông thường nếu lực lượng mạnh người ta không tìm thấy quân địch. Nếu không mạnh người ta rơi vào một cuộc phục kích. Có những người chết nhưng cũng có thăng tiến và khen thưởng.

Cuộc chiến tranh ấy thuộc về cổ điển, gần như theo kiểu Châu Âu. Những lực lượng tham gia chủ yếu là Pháp - nghĩa là quân Bắc Phi, Sénégal, lê dương. Họ chiến đấu theo quy luật, bắn chuẩn bị chiến trường, cố bao vây, tấn công địch. Nhưng kết quả hầu như luôn luôn không có gì. Vì không tiêu diệt được Việt Minh nên cần thiết phải bảo vệ tất cả đối với họ, phải giữ những con đường, dân chúng, mùa màng. Vậy là người ta xây dựng nhiều nghìn đồn bốt. Đây là một cuộc chiến tranh mới.

Tôi như bị ám ảnh về bốt, cái bốt muôn thuở. Bao giờ cũng thấy như vậy. Dù được dựng lên bên bờ một con suối, trên một chỏm núi, lần nào cũng là một không gian khép kín, chế ngự bởi một lá cờ tam tài buộc đầu một cây sào. Người ta lại thấy khoanh rào là những cây gỗ tròn thô thiển, đài quan sát như hình thu nhỏ của tháp Eiffel và ở các góc, những lô cốt bằng đá và bằng tre, những hộp cổ sơ trong đó là súng đại liên. Tất cả đều sơ sài. Người ta không dùng xi măng, dây thép gai; ai đòi hỏi những thứ đó bị xem như người điên. Nguyên vật liệu ấy quá đắt; Người ta thay thế bằng những mảng cây gai, những bẫy tre vót nhọn, tôi trong lửa cho cứng.

Trong mỗi bốt, viên đội hoặc cai Pháp bao giờ cũng giống nhau. Người ta thấy ông ta mình trần giữa những binh lính da đen gớm ghiếc với bộ răng bằng vàng giả, và một chiếc khăn tắm quanh cổ. Ở đấy lúc nhúc vợ con những lính bổ sung tạm thời, là tiếng kêu của con gái người Pháp mang theo vào, cũng là bẩn thỉu, nóng nực; kiệt sức dần, rữa nát tại chỗ, thường thân hình có những đám da mưng mủ. Rồi những chai bia, rượu khai vị, ăn uống tốt. Trưởng bốt chấp nhận mọi sự thiếu tiện nghi trừ thiếu thốn cho “cổ họng”. Ông ta kiên trì biến một dân quê ở đồng ruộng thành một anh bếp có kinh nghiệm. Nhưng còn lại là thời gian vô tận, sự cô đơn vô biên. Đồn bốt nối với bên ngoài chỉ bằng chiếc đài nếu có. Và luôn luôn trong tiềm thức đinh ninh có mối nguy hiểm và sự phản bội.

Mỗi trưởng bốt biết nếu bị bắt mình sẽ bị hành quyết ra sao. Ông ta lao vào một cuộc đấu sống chết với cán bộ chính trị của đội du kích gần đấy. Trên toàn bộ Đông Dương, mỗi bốt kèm với một chi đội đỏ. Đôi khi người chỉ huy Pháp và người chỉ huy Việt Minh biết rõ nhau, có lúc trao đổi thư từ với nhau, thỏa thuận những cuộc gặp mặt, những đợt ngưng chiến ngấm ngầm. Nhưng cuối cùng người này phải bóp cổ người kia. Về nguyên tắc không thể chiếm được bốt vì Việt Minh mới chỉ có rất ít súng máy. Người Việt lượn xung quanh trong bóng tối. Trong cuộc chiến sống còn ấy người chiến thắng là kẻ có nhiều mưu kế hơn. Ai bị bất chợt thì sẽ mất mạng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2017, 07:11:11 am

Chính người Pháp phải giữ gìn hơn cả. Dù trong bầu trời khép kín của bốt mình, họ sống trong một chiếc lồng bằng kính. Những người Việt biết tất cả về họ, quan sát họ trong nhiều tuần lễ, nắm được các thói quen, tính tình, công việc - họ sống giữa những dấu hiệu quy ước chỉ những gì họ làm đang làm mà họ không biết. Đứa bé ở trần ngồi trên lưng con trâu đầm mình trong bùn ruộng bên cạnh, ông già đáng kính thả cần câu bên suối, hương chức trong làng búi tóc lễ phép lạy chào đều là những tình báo viên. Nếu người Pháp đi tuần tra, ông già câu cá chỉ cần giơ chiếc cần câu theo cách nào đó để chỉ hướng đi của quân Pháp. Tất cả đều tự nhiên. Một trinh sát chuyên nghiệp ngồi trên một cồn đất, trong bóng cây, dùng chiếc ống nhòm cũ theo dõi bên trong bốt.

Người cán bộ chính trị của khu du kích ghi vào sổ từng giờ một chương trình hành động của người Pháp. Sau nhiều tuần khi ông ta biết tất cả về người Pháp, khi đã ghi chép đầy đủ, cũng với sự tỉ mỉ ấy ông ta chuẩn bị giăng bẫy để đánh hạ họ. Việc thực hiện mưu kế, tập dượt kéo dài hàng tháng. Cả một kịch bản phức tạp. Nếu người Pháp không nhận thấy gì, không phát hiện ra một dấu hiệu nhỏ nào, mọi việc bỗng được phát động vào một ngày nào đó, một phút nào đó và họ sẽ đi đời. Bi kịch xảy ra trong mấy giây. Ở Sài Gòn, Bộ chỉ huy lại một lần nữa được tin một trong những bốt của họ bị hạ.

Không ai đơn độc hơn người trưởng bốt, ông ta chỉ có thể tin vào mình. Ông ta biết mình bị án tử hình, chỉ hơi lầm lỗi, sơ suất là phải trả giá mạng sống. Ông không bao giờ được lơi lỏng; mạng sống của ông phụ thuộc vào sự thận trọng. Cuộc chiến ở Đông Dương là một cuộc chơi ghê gớm, có luật lệ cụ thể, gần như, theo số học. Không bao giờ được làm trái, nếu vi phạm là cái chết.

Một số quy tắc thật sơ đẳng. Đi tuần tra trở về hai lần liền, cùng một con đường là một sự mạo hiểm chết người. Có thể, đến một làng nào đó chỉ ba người nhưng là tự sát nếu đến một xóm đúng như thế dưới một trung đội. Phải thuộc lòng mọi vật có vẻ yên ổn nhưng hình thái nguy hiểm luôn thay đổi. Mỗi ngày phải xác định hệ số hiểm họa của từng thước đất, cũng phải lường được sự đe dọa trên mỗi khuôn mặt vô cảm ở những người lính của mình cũng như ở những nông dân, hương chức xung quanh.

Người ta chỉ sống nếu có một linh cảm đặc biệt, vì mọi vật bao giờ nhìn bề ngoài cũng bình thường. Thế mà phải biết đọc những dấu hiệu vô hình. Người nào không hình dung rõ được sẽ bị thất bại trước.

Người Việt tính toán tất cả. Trưởng bốt cũng phải có logic không thương xót ấy. Ông ta cũng phải trở thành một con thú hoang lạnh lùng, thông minh mỗi lần cần một “giải pháp đúng”. Vì trong mỗi tình huống chỉ có một giải pháp và phải tìm cho ra. Khác đi sẽ bị huỷ hoại. Điều đó không có chỗ cho giá trị đạo đức, cho tình cảm. Lòng tốt là hiệu quả của một lập luận, sự tàn bạo cũng thế.

Cuộc chiến các đồn bốt là một ván cờ. Nó đòi hỏi có thần kinh thép, một sự suy nghĩ không bao giờ ngừng, một loại siêu sáng suốt nhưng chỉ làm được nếu người ta thích thú. Những người chơi có thiên bẩm về một thói tàn bạo, đặc biệt, về trí tuệ hơn về thể chất. Cuộc chiến tranh này là sự chiến thắng, sự điên rồ. Đưa cả tinh thần và thể xác vào cuộc đấu không đủ; cách kéo dài cuộc sống duy nhất là khả năng luôn luôn lập luận đúng. Không có gì đáng kể nữa trừ việc giết người để khỏi bị giết. Người ta thậm chí không căm thù nữa. Tất cả như thoát xác nhưng tất cả là nghị lực. Đấy là cuộc chơi với ý nghĩa tổng thể. Đấy là thế giới tính toán toàn vẹn mà luôn luôn phải thắng. Điều đó trở thành một niềm say mê lạnh lùng và ngấu nghiến, một căn bệnh, một sự phát triển quá độ của não phá huỷ hết mọi tính cách bình thường. Người ta không tự vực dậy được dù may mắn không bị hủy hoại thân thể.

Để như vậy phải có thú tính đặc biệt. Trong số những binh lính trẻ từ Pháp sang, một số có, một số không có: những anh này thật khốn khổ và sẽ mau chóng bị giết.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2017, 07:12:58 am

Những ngọn lửa trong đêm

Về phía chân trời đen, một ngọn lửa ánh lên trong đêm. Như vậy có nghĩa là một bốt không tồn tại nữa. Nó bị chiếm và đốt cháy sau một vụ phản bội. Không có tiến công nhưng cổng bờ rào do một đồng loã mở ra, những người Việt nấp xung quanh ào vào bên trong. Chỉ cần mấy phút họ đâm cổ người đội Pháp và những người lính trung thành chiếm lấy vũ khí, đạn dược và rút lui sau khi châm lửa đốt bốt. Nhân công mang vác chiến lợi phẩm của họ. Khi trời sáng, quân tăng cường Pháp đến, họ chỉ còn thấy đất cháy xém và xác người.

Bộ tham mưu không bao giờ nêu lên bao nhiêu đồn bốt bị hạ theo cách ấy.

Đối với những người Pháp đóng chốt trong các bốt phản bội là một nỗi ám ảnh. Họ không ngớt dò xét những khuôn mặt tươi cười hoặc thờ ơ của binh lính họ; và dù không thấy có gì đáng lo ngại họ cũng không ngăn cản được mình điên lên vì nghi ngờ. Một số trong bọn họ trở thành thẫn thờ do dò xét những lính bổ sung của họ không biết gì và không nói tiếng Pháp. Họ tưởng tượng ra những cách phòng vệ không tin nổi, giấu vũ khí trong máng cỏ, tập đi quanh chân đất. Ban đêm là một nhục hình. Đôi khi những người Pháp không ngủ trong nhiều tuần, kiệt sức vì đi lén, giật mình vì một tiếng động nhỏ trong đêm tối nhiệt đới.

Người Việt biết rõ nỗi lo lắng của những người Pháp trong bốt, thậm chí có cả một kỹ thuật làm tăng ám ảnh của họ. Họ bắn tin dọa tiêu diệt, gắn biển vào cây viết những câu giống nhau: “Đầu hàng đi hoặc trong một tháng nữa các anh sẽ chết”. Hàng ngày họ phát loa vận động lính trong bốt tự giải phóng mình bằng cách giết trưởng bốt Pháp. Ông này không hiểu những lời hô hào tiếng Việt ấy nhưng đoán được ý nghĩa. Phiên dịch của ông dịch từng đoạn nhưng ông không chắc người này không dối trá. Đôi khi bài diễn thuyết không dứt từ bên ngoài có những đoạn tiếng Pháp dành cho ông, tả tỉ mỉ cái chết đang chờ ông. Nếu thần kinh không vững vàng ông sẽ suy sụp.

Trường hợp thông dụng nhất là người Việt thu xếp để đưa người của họ vào làm lính trong bốt. Nếu trưởng bốt là người mới, vừa từ Pháp sang thì mọi việc đơn giản. Nhưng thường là người cũ có kinh nghiệm, dễ nghi ngờ và đặt ra những thử thách với người mới tuyển. Ví dụ ông bảo họ công khai giết những tù binh Việt Minh. Bằng cách này ông nghĩ có những người bị lên án tử hình vì không tránh khỏi bị người đỏ trả thù và chỉ còn cách trung thành tuyệt đối với ông để cứu mình. Biện pháp ấy không phải luôn luôn có kết quả. Đôi khi người Việt chỉ thị cho người của mình:

- Nếu viên đội Pháp ra lệnh cho các anh giết các đồng chí của Đảng, các anh cứ làm đừng ngần ngại. Các anh thu xếp mọi cách để chiếm lòng tin của ông ta, hãy sẵn sàng thực hiện những đòi hỏi của ông ta.

Vậy là lính ngụy giả hạ sát Việt Minh, chứng minh đầy đủ mãi đến khi người Pháp hết nghi ngờ. Lúc đó họ báo cho viên chỉ huy chi đội, hẹn ngày hành động. Họ chọn một người trong bọn gác bốt, chỉ giờ, phút, thường là lúc ba giờ sáng.

Lúc đó trưởng bốt quá mệt mỏi đã ngủ thiếp đi. Ông ta sẽ không bao giờ thức dậy nữa.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2017, 07:13:51 am

Khi không đưa được người của mình vào bốt thì việc làm lâu dài và phức tạp hơn. Thông thường người Việt tạo đồng loã trong lòng bốt, rất kiên trì với những kê sách kéo dài nhiều tháng. Mọi việc chuẩn bị trong bóng tối và im lặng. Mục đích là tha hóa một số lính ngụy.

Nói chung Việt Minh vận động gia đình những người mới bổ sung, trước hết là bố mẹ già của họ. Bà mẹ đến nói với con nếu anh ta không nộp bốt thì bà sẽ chết. Thậm chí bà đưa tới cho con lệnh thực hiện do chủ tịch ủy ban ký.

Đôi khi một cô gái làm việc ấy.

Các cô gái và đàn bà trẻ sử dụng sắc đẹp của mình vì lòng yêu nước chân chính; đấy là vũ khí của họ, một biện pháp giết Tây. Ở ngoại ô thành phố, họ lôi kéo quân lính ra những đường nhỏ hẹp để đồng đội đâm chết. Nhưng đấy là những phụ nữ tao nhã, thường là nữ sinh, làm những nhiệm vụ quan trọng nhất. Đôi khi họ nhận chỉ thị quyến rũ chính trưởng bốt hoặc một sĩ quan cấp cao. Và biết bao lần quân lính Châu Âu, cả những người cứng rắn nhất tỏ ra bất lực trước khoái lạc! Nhiều đồn bốt bị hạ vì điều đó.

Người ta kể nhiều trường hợp khác thường. Trong vùng châu thổ Bắc Kỳ, một “hoa khôi” rất đẹp trở thành tình nhân của một viên thiếu tá ở huyện. Cô thú thật với ông ta mình lao vào buôn bán, sắp phá sản nếu không vận chuyển được hàng hóa. Thiếu tá cho cô mượn những chiếc xe của Đội quân viễn chinh. Suốt nhiều ngày cô chuyển các hòm ở một người Trung Hoa, thương gia chính trong một thị trấn. Nhưng nơi tiếp nhận thực sự là một đơn vị Việt Minh. Khi đơn vị này được trang bị đủ vũ khí của quân đội Pháp, họ tấn công hàng loạt đồn bốt, chiếm được nhiều nơi.

Một lần khác, một cô gái nói với người yêu, một sĩ quan cấp cao, cô phải đi vắng mấy ngày về nhà mẹ. Cô không trở lại. Sau một tuần, người yêu nhận được của cô một thư bảo đảm theo đường bưu điện kèm theo bản sao kế hoạch tác chiến tối mật mà bản thân ông ta khóa kín trong két sắt. Trong lúc đó cuộc hành quân đã bắt đầu và viên sĩ quan hiểu tại sao một trong những tiểu đoàn của ông bị bí mật bao vây và tiêu diệt.

Trong cuộc chiến các đồn bốt, người Việt còn dùng nhiều cách khác nữa. Có vấn đề tiền bạc. Người lính ngụy có tiền còn ít hơn một người làm công. Một người môi giới - có thể là bà mẹ dọa chết, người tình Việt Minh hoặc một ông gặp ngoài đường - hứa với anh của cải, một mảnh ruộng và một con trâu. Làm sao anh ta không thử?

Có cả việc đầu độc. Có khi người trưởng bốt, sau bữa ăn bị đau bụng ghê gớm. Anh bếp đã trộn thuốc độc vào thức ăn của ông ta. Người Pháp chết hoặc hấp hối, một chiếc loa kêu gọi lính ngụy trong bốt ra hàng.

Có trường hợp, những mưu kế thông minh nhất thuộc về một anh con lai. Người bố Pháp bỏ rơi anh trong nghèo khổ với bà mẹ Việt Minh. Những người Âu châu khác không nhận, không yêu thương anh. Anh căm ghét tất cả những người da trắng. Anh lấy tên Việt rồi để trả thù, anh tuyển mộ một băng nhóm từ lâu phá phách trên bờ sông Cửu Long.

Người lai Á Âu ấy hình dung ra đòn những “người cung cấp”. Đây là một mưu kế thiên tài cho phép anh lấy được một bốt lớn không có đồng lõa, không có “tay trong”, chỉ cần táo bạo.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2017, 07:15:50 am

Đấy là một bốt ở Nam Kỳ, cũng như bao bốt khác, được dựng lên bên bờ một con sông nhỏ. Dòng sông là lối giao thông duy nhất, khu đồn trú xây dựng một cầu bên trên bờ, phía trong hàng rào. Dân quê đi xuồng đến bán cho quân lính rau quả vùng nhiệt đới. Người đội Pháp cấm họ cập bến, phải ở ngoài vài trăm mét cách ngoại vi cầu bến. Những người nhà bếp sẽ ra mua bán với họ. Sau ít ngày những người nhà bếp và dân quê trở thành thân thiết với nhau. Khi họ tranh cãi giá cả, nghe giống như một trận đánh nhau nhưng là việc bình thường. Nông dân có thói quen mang theo người trong gia đình; vì vậy những xuồng nhỏ của họ như đoàn thuyền đầy phụ nữ, trẻ em, lợn, gà vịt.

Những người nhà bếp lười, mỗi ngày lùi dần một ít. Do đó dân quê mỗi ngày tới gần thêm, từng thước. Ít lâu sau họ đến sát bờ rào, ở đấy lâu không tiến lên nữa. Đội canh gác quen dần với họ, không nghi ngờ nữa, cuối cùng để họ đến sát cầu bến, trước cây cột phất phới lá cờ tam tài. Lúc đầu một người lính gác theo dõi họ, không có gì xảy ra. Chợ họp giữa bốt trở thành một chỗ dành riêng. Một ngày thứ bảy, hai ba tháng sau việc đặt mối quan hệ mua bán ấy, dân quê như thường lệ đến với những thúng đầy dứa và bí. Lúa ấy vào giờ nghỉ trưa, trong bốt mọi người ngủ gà ngủ gật, tất cả ngủ. Trong chốc lát, những người nông dân ngây ngô lấy tiểu liên, lựu đạn và dao rựa giấu dưới xuồng ào lên bờ, tấn công bốt giết hết mọi người. Nỗi kinh ngạc lớn đến mức không ai làm một cử chỉ tự vệ. Những người dân quê ấy thực ra là quân thường trực của chi đội bên cạnh, đơn vị của người con lai.

Anh này còn sáng tạo ra chiến lược “lính lê dương đào ngũ”.

Các sĩ quan Pháp trong đội lê dương đi xe jeep đến một bốt để kiểm tra. Trang bị gậy cầm tay, mũ ca-lô đẹp, dáng kiêu ngạo, họ tự tôn nhau lên “thưa đại tá”, “thưa thiếu tá”. Họ đeo đầy lon, có mệnh lệnh của phái đoàn tam tài. Làm sao nghi ngờ được?

Viên trưởng bốt hốt hoảng: những vị khách quan trọng mặt mày nhăn nhó nhận xét về tất cả. Ví như lính ngụy nhìn tiều tụy quá, người mảnh khảnh, chắc chắn không tập thể thao nhiều. Viên “đại tá” ra lệnh làm thử một buổi tập thể dục ngay trước mặt ông. Mọi người phải có mặt đầy đủ. Viên “thiếu tá” hướng dẫn các động tác. Toàn bộ quân đồn trú, mặc quần đùi, cẩn thận lặp lại. Viên “đại tá”, “thiếu tá” mở cặp da để lấy tài liệu hướng dẫn theo phương pháp Thụy Điển. Họ rút tiểu liên ở đấy ra: vài loạt đạn bắn xối xả kết thúc buổi tập cũng như mạng sống mọi người trong bốt.

Viên “đại tá”, “thiếu tá” đúng là lính trong đội lê dương, không phải sĩ quan mà là binh nhì đã sang hàng quân Việt.

Nhưng những mưu kế cạn dần, người Việt phải luôn luôn tìm những kế mới. Cuối cùng hầu như bị lộ hết và một sự cân bằng thiết lập.

Nếu hàng chục bốt bị hạ thì hàng nghìn bốt khác trụ vững. Nếu người trưởng bốt “tốt” hầu như bao giờ cũng được lính ngụy báo trước, nói thẳng hoặc mật hiệu về âm mưu ngầm. Cũng lạ những việc phản bội không xảy ra liền hơn trong những bốt ấy, chỗ một hai người da trắng sống chung với người da vàng rất khác họ. Và cứ như vậy mặc dù sức mạnh của người Việt và phương pháp của họ được cải tiến.

Tuy nhiên tránh việc phản bội không đủ. Biết chơi, tế nhị và khôn khéo chưa đủ, còn phải có “vận may”!

Thực thế, người Pháp không thể ở lỳ trong bốt; ông ta cũng phải “ra ngoài” thiên nhiên.

Tôi được biết nhiều trưởng bốt đã vượt qua hàng chục cuộc phục kích. Người Việt là bậc thầy về ẩn nấp trong lòng suối, trong bùn ruộng hoặc vào sâu trong rừng dừa. Họ hóa trang rất giống cây cối hay bùn không thể phân biệt được.

Khi họ bắn một loạt đạn, người ta tưởng là nước hoặc bùn bắn ra.

Ngày này qua ngày khác người Việt tính toán đội tuần tra Pháp phải đi qua vào giờ nào, chỗ nào và tỉ mỉ chuẩn bị phục kích. Nếu không thành họ bắt đầu lại vào hôm sau, hôm sau nữa, không dứt, cũng tại đó cho đến khi bắt gặp. Vì vậy biết bao nhiêu đội tuần tra không trở về! Người trưởng bốt nói về “sự may mắn” của mình, đã bao lần thoát chết, cuối cùng cũng bị giết. Đấy là số mệnh.

Cuộc chiến là vô cùng. Dù bằng cách nào thì người trưởng bốt cũng đã bị lên án nếu ông ta chỉ có bốt của mình, nếu ông và binh lính của ông là những tù nhân sau khung hàng rào có người Việt xung quanh. Một đồn bốt chỉ là một đầu kim găm giữa cánh đồng Việt Minh đã bị án treo. Về lâu dài dưới sức ép của người Việt, trong hệ thống bảo vệ có một rạn nứt vì một sự bất chính hoặc không may nào đấy. Chỉ cần một quả lựu đạn găm trên đường mòn người Pháp phiêu lưu đi qua. Để sống sót ông ta phải liên kết với toàn dân chúng da vàng xung quanh. Chỉ có dân chúng mới bảo vệ được ông. Nhưng muốn thế thì phải chiếm lòng dân bằng một cuộc chiến tranh khác.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2017, 10:37:48 pm

Chinh phục dân quê

Cứu cánh của một trưởng bốt là chinh phục “quần chúng” Á châu xung quanh mình, mười nghìn hoặc một trăm nghìn dân quê đang vất vả trên đồng ruộng. Chính họ, với thân thể mình làm bức tường thành duy nhất có giá trị bao bọc đồn bốt. Nhưng muốn thế phải giành giật họ với Việt Minh.

Đối với người Việt dân chúng là cuộc sống vừa là tai mắt, tiền bạc, nhân lực của họ. Dân chúng thoát khỏi tầm tay họ sẽ phải lùi ra, đi xa hơn. Đồn bốt thay vì bị thám thính và bao vây, từ đó sống trong vầng hào quang an toàn.

Dân chúng là yếu tố quyết định của cuộc chiến giữa trưởng bốt và chỉ huy chi đội Việt Minh. Ở Đông Dương tất cả tuỳ thuộc vào những người cần giành giật. Người chiến thắng là người biết nắm dân chúng.

Đây là một cuộc đấu khó khăn.Có trường hợp các đội quân Pháp của thành phố lân cận tiến hành một cuộc hành quân lớn để nâng đỡ tinh thần một bốt. Nhưng đấy chỉ là một cuộc đột kích, một chuyến đi về không đáng kể thường có hại vì các đơn vị Pháp có xu hướng “đánh lớn”, chọn những mục tiêu để tiêu diệt. Rồi dân quê chịu thiệt hại vì những cuộc hành quân, quay trở lại với Việt Minh.

Người trưởng bốt vậy là đơn độc cùng lính nguỵ trong cuộc chiến. Con người bình thường này phải làm một việc không thể làm trong không khí quen thuộc là phản trắc và bạo lực. Người Việt xét thấy ông ta nguy hiểm sẵn sàng làm tất cả chống lại ông. Hơn bao giờ hết họ cố ám sát ông và bẻ gãy những phụ tá của ông. Để tự vệ ông phải chống lại, ra tay, có cả những việc hành quyết.

Trong hoàn cảnh ấy ông ta phải tranh thủ lòng nhân ái của xóm làng, đồng ruộng. Ông phải thuyết phục dân quê hợp tác với mình mà như vậy khi người Việt nghi ngờ phản bội thì họ dễ chết lắm.

Thường người ta ít suy nghĩ về điều kiện chiến tranh ở Đông Dương. Quan chức chính quyền hay than phiền dân chúng tạo thuận lợi cho Việt Minh hay ít nhất cũng chơi hai mặt. Điều tôi thấy khác thường, ngược lại, là nhiều nông dân và hương chức dựa vào lực lượng Pháp. Thực ra họ phiêu lưu mạng sống của mình. Vì chúng ta, hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn người bị rơi đầu. Dù vậy cho đến ngày cuối cùng của chiến tranh, thậm chí khi chiến thắng đỏ đã chắc chắn, có những làng, những vùng còn ủng hộ Pháp. Chính điều đó đã cho phép Đội quân viễn chinh trụ vững bấy nhiêu năm; Chính điều đó có lẽ đã đảm bảo thắng lợi cho họ nếu họ biết bảo vệ dân chúng. Nhưng đã nhiều lần thường vì lý do không đâu, một mệnh lệnh ngu ngốc của một ban tham mưu, họ bỏ rơi dân chúng!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2017, 10:38:40 pm

Một lần tôi chứng kiến công việc làm của một trưởng bốt. Tôi thấy người cai đi chiêu phục một làng được xếp là ủng hộ Việt Minh.

Chúng tôi ra đi từ sáng sớm. Xóm chúng tôi đến gần đấy, cách khoảng hai cây số - những cây dừa che khuất mái nhà tranh. Một toán lính nguỵ đi tháp tùng trong trường hợp gặp phải quân thường trực đỏ tuy chúng tôi nghĩ không có một “cuộc bám theo”.

Khi đi trên bờ đê, người Pháp giải thích với tôi:

- Một nhân viên tình báo cho tôi biết chi đội đóng ở đấy đã rút đi cách mấy cây số. Tôi phải lợi dụng cơ hội. Chúng ta sẽ đến một làng yên ổn, có hai uỷ ban lần lượt hoạt động, ban ám sát của Việt Minh và hội đồng hương chức truyền thống.

Quyền lực thực sự thuộc về ban ám sát gồm nửa tá đảng viên cộng sản trong làng, những người nghèo và thanh niên. Họ để cho hội đồng hương chức tồn tại, ít nhất cũng sau khi thanh toán một nửa người trong hội đồng. Vì phải có những người ủng hộ Pháp để đón tiếp khi quân Pháp đến.

Vậy là chúng ta sẽ được đón tiếp, theo phong tục xã giao bởi các hương chức địa phương còn sống sót. Tôi biết những người này dùng để bao che cho Việt Minh và chỉ là công cụ của họ. Điều tôi muốn giữ kín là “xoay” tấm kịch này lại có ích cho tôi, làm thế nào để đánh lừa Việt Minh chứ không phải tôi. Tôi sẽ tổ chức một cuộc đảo chính.

Để đề phòng, lính nguỵ được bố trí đội hình chiến đấu. Nhưng vô ích. Chúng tôi được trân trọng đón vào một ngôi đền cổ, ở đó trong bóng tối có một bàn thờ trưng bài vị thần hoàng và con rùa biểu tượng của sự trường thọ. Không có cờ đỏ, cũng không có ảnh Hồ Chí Minh; chắc họ đã cất đi khi chúng tôi đến gần.

Các hương chức, tóc búi tó mặc áo dài đen, trịnh trọng một cách lạ lùng. Xấu người, im lặng, nghiêm trang, tất cả cúi đầu trước mặt chúng tôi. Đấy là những ông già với những bộ râu cổ điển và da nhăn nheo. Họ mời nước chè và thuốc lá. Khuôn mặt họ tầm thường, như chết. Hai người có tuổi nhất, với đôi môi mỏng lên giọng triết lý nói về sự cần thiết giữ gìn trật tự, tôn trọng luật pháp và thờ kính trời phật. Làm sao tin được như thế giữa một cuộc chiến tranh đỏ.

Tuy vậy một người trong bọn họ, trẻ hơn, mặc quần áo Âu, nói tiếng Pháp rất giỏi. Anh này không cúi mình mà bắt tay chúng tôi. Anh làm phiên dịch, trong một tiếng đồng hồ, dịch những nguyện vọng và lời chúc mừng của hai bên. Anh không thay đổi giọng khi chuyển cho các ông già câu nói chờ đợi qua đó người trưởng bốt bắt đầu vào những vấn đề nghiêm túc.

- Tôi biết các ông phục vụ Việt Minh. Tôi sẽ triệt phá làng các ông.

Những khuôn mặt vẫn không thể hiện gì trong lúc người Pháp tiếp tục nói to, nắm tay đấm xuống chiếc bàn chạm gỗ mun:

- Tôi biết trong làng các ông, những người tử tế và giàu có trong làng này vốn căm ghét Việt Minh. Tôi đề nghị thế này. Tôi cung cấp súng cho các ông, các ông trang bị cho bà con và đầy tớ, giết Việt Minh trong ban ám sát và xây dựng một đội cảnh sát bảo vệ làng. Các ông là những người chỉ huy, lập những bốt nhỏ và tháp quan sát. Tôi và quân đội Pháp sẽ bảo vệ các ông.

Chỉ im lặng. Một trưởng lão trả lời giọng run run:

- Con dao của kẻ nổi loạn bao giờ cũng gần hơn khẩu súng của người bảo vệ. Chúng tôi mạo hiểm thế nào được trong khi người Pháp còn bấp bênh? Không bao giờ biết họ muốn gì. Năm 1945 em tôi tổ chức mừng quân đội các ông tới. Lính các ông ra đi bất thần, không báo trước với chúng tôi. Việt Minh hạ sát em tôi. Nếu một lần nữa chúng tôi tin tưởng vào các ông, tôi có sẽ bị giết, tất cả chúng tôi có sẽ bị giết? Ai đảm bảo các ông lại không ra đi lần thứ hai nữa?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2017, 10:39:32 pm

Không ai nói thêm một lời. Sau những chào hỏi cuối cùng chúng tôi trở về bốt. Viên cai nhăn mặt, sau đó giải thích với tôi:

- Ngay trong lúc này mọi việc đang được quyết định, uỷ ban Việt Minh sẽ xuất hiện trở lại. Họ hỏi các hương chức. Nếu họ nói dối, không lặp lại những gì tôi nói thì tôi đã thắng. Vì họ không lùi được nữa, phải giết Việt Minh nếu không có ngày họ sẽ bị nghi ngờ và thanh toán. Nhưng nếu họ giấu lời tôi nói, họ chắc sẽ tham gia. Trường hợp ấy tôi có thể dự kiến những sự kiện tiếp theo. Một đêm nào đấy một kẻ đưa tin đến bốt. Sẽ là một người không đoán trước được, một mụ ăn mày xấu xí hoặc một đứa trẻ không quen. Kẻ ấy nói với tôi cách các hương chức chuẩn bị vụ ám sát, một mưu kế phản bội hoàn hảo. Tôi cũng được thông báo về vai trò của tôi, về việc tôi cần hỗ trợ.

Một sự nghi ngờ đến với tôi:

- Ông không sợ bị phản bội ư? Các hương chức có lẽ đã thống nhất với Việt Minh. Họ có thể vờ chấp nhận kế hoạch của ông để nhận súng rồi đưa lại cho ban ám sát để giết ông.

- Tôi không nghĩ thế. Vì người Pháp sẽ san bằng làng xóm họ. Và các hương chức sợ mất tài sản còn hơn bản thân mình bị tiêu diệt.

Hôm sau khi tôi rời bốt, chưa có tin gì về quyết định của các hương chức, chưa có ai được cử đến báo.

Sau này tôi được biết sự việc xảy ra. Các hương chức chấp nhận kế hoạch. Một người đàn bà đi xe buýt từ Sài Gòn đến mang tới sự thỏa thuận. Hai quả lựu đạn nổ trong cuộc họp ban ám sát, giết hết các thành viên. Làng ấy được bình định, cả vùng xung quanh cũng thế. Hương chức lập một đội quân nhỏ nhưng kính cẩn đến nhận mệnh lệnh của “Ông cai”.

Chính lúc đó ông này mới rơi vào một cuộc phục kích tầm thường nhất, trên con đường lớn đi Sài Gòn, ngực trúng hai viên đạn, chết trong bệnh viện, cả công trình của ông bị phá huỷ trong vài tuần. Các uỷ ban của Việt Minh lại về trong các làng.

Việc xảy ra thường xuyên ấy thậm chí là quy trình của cuộc chiến tranh Đông Dương. Bao nhiêu lần tôi thấy những vụ tiêu diệt người Việt. Tôi biết ở một thị trấn người ta loại trừ liến tiếp bảy ban ám sát. Rồi có một ban thứ tám; tất cả luôn luôn được hình thành lại.

Về phía chúng ta hàng trăm người thành công. Nhưng hễ thành công là người đó chết hoặc ra đi. Những người Việt, họ chịu hy sinh. Điều thiết yếu là chế độ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Mười Hai, 2017, 07:51:48 am

Lính ngụy khốn khổ và những nhân viên ám sát đắc lực

Chống lại “chế độ” Việt Minh, người Pháp tiến hành “chiếm đóng” đất nước một cách có hệ thống. Đấy là một sự cai trị của người da vàng bởi người da vàng vì họ không đủ đông. Một cuộc chiếm đóng có dáng vẻ Trung cổ, đường sá, đồng ruộng, rừng núi mọc lên những công trình kiên cố và tháp canh.

Trong không gian cắm chốt bao la ấy, đội quân viễn chinh một trăm hai mươi nghìn người chỉ là bộ giáp sắt. Họ cần có một lực lượng bổ sung địa phương khổng lồ, cả một lớp người bình định. Người ta đã có thể tổ chức một quân đội quốc gia Việt Nam. Nhưng Bộ chỉ huy và các quan chức chống lại việc ấy vì tính toán và đa nghi. Điều người ta làm là tuyển dụng một thế giới hư ảo lính ngụy, lính đánh thuê, những nhân viên ám sát, những kẻ mạo hiểm, tôn thờ những nhóm huyền bí, tất cả được gọi chung là “quân bổ sung”.

Họ có đến hàng vạn nhưng nhiều loại khác nhau đến mức không bao giờ thống kê được.

Trên thực tế mỗi người có quyền lực tập hợp người của mình, thu xếp để được trả lương và tiến hành cuộc chiến tranh của mình với họ.

Những quân bổ sung ấy có tên trong sổ sách chưa đến một nửa. Những người khác không ai biết, vô danh, nằm trong các quỹ đen. Đội quân viễn chinh tăng lên gấp ba, gấp bốn nhờ có họ. Mỗi tiểu đoàn, đại đội tự tuyển dụng và phình lên. Nhưng quân đội không có những đội quân nhỏ. Mỗi quan chức chính quyền tổ chức một đội bảo vệ riêng để đảm bảo an toàn và làm chính trị. Những tỉnh trưởng Pháp tổ chức những toán hàng trăm người để tiến hành chiến tranh với Việt Minh theo phương pháp Việt Minh - họ cho rằng những người lính thực sự không có khả năng. Các hội và công ty tư bản chi tiền cho các nhóm riêng để bảo vệ những đồn điền, những vùng cao su và hầm mỏ của họ. Không chỉ người da trắng biến thành những chúa tể chiến tranh. Người da vàng ủng hộ Pháp cũng như thế. Tất cả những người cai trị, những vua con, những người lãnh đạo lớn bé đều có tay chân. Làng xóm củng cố và thành lập cảnh sát. Tôn giáo tự vũ trang và nhân danh Phật hoặc Đức Chúa xây dựng những vùng độc chiếm rộng lớn bằng bắn giết và trấn lột. Ở thành phố, kẻ cướp lấy tên các hội bảo vệ, tự cho là duy trì trật tự.

Người Pháp luôn phải trả tiến. Tiền ấy cho phép những người hưởng quyền lợi tập hợp quanh mình những người cuồng tín có vũ trang đặt các khoản thuế cho mọi người và tất cả. Toàn bộ Đông Dương sống và thịnh vượng lên với súng liên thanh trong tay.

Nhưng nhờ có đông đảo lính đánh thuê ấy mà nước Pháp giữ được đất nước này. Và trong chế độ phong kiến Trung cổ ấy sản sinh những loại người kỳ lạ - người lính ngụy nghèo khổ và kẻ ám sát đắc lực.

Người lính ngụy nghèo khổ thì không có vấn đề gì. Đấy là một dân quê đăng lính vì một số lương tệ mạt và nhất là một khẩu súng - một dụng cụ để được tăng lương.

Những lính ngụy trong các bốt thực sự, dưới sự chỉ huy của một hay hai người Pháp có đặc quyền đặc lợi. Họ có thể tự bạo vệ và sống sót. Nhưng phần đông được bố trí đơn độc, gần như không có vũ khí và phương tiện chống cự trong các tháp canh.

Đấy là những tháp canh nhỏ bằng gạch dựng lên từng chặng dọc đường, mỗi tháp không chi phí quá một trăm nghìn phrăng. Chỗ ra vào là một lỗ cách mặt đất ba, bốn mét. Ban đêm lính ngụy cất thang, chen chúc nhau trong gian phòng độc nhất cùng vợ con. Nằm dài phía sau lỗ châu mai, họ chờ sáng.

Luật lệ nhà binh Pháp cấm cung cấp cho họ tiểu liên hoặc những súng tự động khác vì họ có thể bán cho Việt Minh hoặc Việt Minh tấn công để chiếm lấy. Lính ngụy ở tháp canh chỉ có súng đã quá cổ, đạn mà thường không nạp vào được và mấy quả lựu đạn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Mười Hai, 2017, 07:52:54 am

Hầu như hàng ngày Bộ chỉ huy đều thông báo nhiều tháp canh bị hạ. Điều ấy không quan trọng; người ta xây dựng lại những cái khác, tuyển những dân quê khác. Vì bao giờ cũng tìm được. Có thể nói số phận, việc sống còn của họ thật vô tư nếu có một ít gạo và cá khô. Dân quê nghèo khổ quá, mạng sống họ cũng xem không giá trị gì mấy.

Những người ấy không có vẻ bất hạnh. Đôi khi họ cố thoát khỏi số phận mình, chấp nhận những đề nghị của Việt Minh. Ví dụ một chi đội giao ước sẽ để họ yên ổn nếu họ im tiếng: không báo với người Pháp những hoạt động của Việt Minh nhất là khi có đoàn người đi qua con đường họ theo dõi. Nhưng qua một thời gian việc cứ thường xuyên “không có gì cần báo cáo” tự nó là một thú nhận đồng loã. Sĩ quan Pháp cảnh cáo lính ngụy sẽ bắn ca-nông phá tháp canh nếu họ tiếp tục hợp tác với quân địch. Nói chung mọi việc trở lại đi vào trật tự. Nhưng chi đội đỏ tấn công, để lại đổ nát và xác chết.

Thông thường lính ngụy giữ tháp canh làm nhiệm vụ, chống cự khá anh dũng. Người ta kể họ có những cuộc chạm súng khác thường.

Trong vùng Sóc Trăng một tháp canh bị tấn công vào hai giờ sáng. Lính ngụy bắn trong đêm qua lỗ châu mai; vợ họ ngồi bên cạnh nạp đạn; các con đã quen tình hình ấy, vẫn ngủ. Một người trúng đạn vào trán tử vong. Vợ anh dịch xác chết ra, thay chồng cầm lấy súng bắn nhau với địch cho đến sáng. Sáng hôm sau chị dẫn đầu lễ tang: mọi người khóc lóc và ăn uống no nê.

Trên thực tế những người lính ngụy ấy không có quan điểm rõ ràng. Họ vâng lời. Nếu ở nhà họ cũng phục vụ tốt Việt Minh. Ở Châu Á cá nhân không là đáng kể, họ không có những ý tưởng riêng mà chỉ là một chi tiết trong bộ máy thống trị như chế độ thực dân, cộng sản, Nho giáo, vua quan, các chúa tể chiến tranh, những cán bộ chính trị. Con người không bao giờ được giải phóng. Nếu chính quyền thống trị hiện hành đổ, họ mặc nhiên rơi vào sự kiểm soát của chế độ tiếp đó.

Trong nề nếp thụ động khổng lồ ấy nhân viên ám sát đắc lực là ngoại lệ. Họ có lựa chọn. Đây là một kẻ chuyên nghiệp, chạy từ bên này sang bên khác vì lợi ích của mình. Vì vậy họ chắc chắn bị lên án hơn lính ngụy: mạng sống của họ là vấn đề tính hàng tuần hay hàng tháng.

Một kể giết người xứng đáng được mệnh danh là “đắc lực” nếu hết lòng phục vụ người Pháp. Gần như luôn luôn họ được người Việt đào tạo, thay vì giữ kỷ luật đỏ, họ chống lại, phản bội.

Kẻ giết người làm việc với Pháp đặc biệt cay cú với đồng bọn cũ. Cơ may kéo dài cuộc sống là giết nhiều. Phải loại bỏ họ để không bị họ loại bỏ. Những bạn bè làm việc cũ, những nhân viên ban ám sát được tách ra chống lại, bám sát theo rõi loại nhân viên này. Đây là một cuộc tàn sát giữa những người chuyên nghiệp. Mặc dù có những chiến tích, “nhân viên ám sát đắc lực” một ngày nào đó được tìm thấy bị đâm chết hoặc hành quyết. Người ta không bao giờ làm sáng tỏ được những cái chết này. Đôi khi cũng là một sự phiền phức đối với người Pháp.

Cũng như đối với lính ngụy, việc tuyển dụng nhân viên ám sát không hề cạn. Nhìn qua người ta biết ai là kẻ giết người chuyên nghiệp, qua thân hình và cách ăn mặc đặc biệt.

Bao giờ cũng là một người trầm ngâm, đôi mắt lạnh lùng và những nét đông cứng. Mặc toàn màu đen, đội một chiếc mũ phớt chật trên mớ tóc bù xù, đeo trên ngón tay những chiếc nhẫn rất to. Người ta thấy hắn ngồi hút thuốc giả vờ vô cảm nhưng giật mình ngay khi có một tiếng động nhỏ.

Người Pháp thường để kẻ giết người loại này làm việc riêng theo cách của hắn, được việc thì thưởng. Chỉ huy hắn rất nguy hiểm với những phản ứng không lường trước được; anh ta như điên rồ vì kiêu căng, tàn ác, nóng nảy. Như một con thú hoang.

Một số sĩ quan, hạ sĩ quan cũng tập hợp một số toán biệt kích. Đây là sự nghiệp kiêu hùng bởi mạo hiểm, máu và cái chết. Hãy tưởng tượng điều gì có thể đến với cuộc phiêu lưu của người Pháp, tập hợp quanh mình là những nhân viên ám sát cũ của Việt Minh để đi ám sát những ban ám sát giữa lòng đất nước đỏ.

Hơn cả những người Pháp, người Việt có những người lính nghèo khổ và những nhân viên ám sát đắc lực của mình. Hơn nữa họ xây dựng những đội quân thường trực để chống lại với Đội quân viễn chinh. Cuộc chiến thật vô tận trên toàn lãnh thổ Đông Dương. Tuy vậy có những mức độ tùy theo vùng, có bao nhiêu hình thức khác nhau trong chiến đấu, hình thức đặc biệt nhất là triển khai trong rừng rậm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Mười Hai, 2017, 07:54:38 am

Rừng rậm trung lập

Từ hai vùng đông dân cư là châu thổ Bắc Kỳ và Nam Kỳ, trừ viền dân cư ven bờ biển Annam, Đông Dương là một khu rừng rậm gần như không người ở.

Trên một diện tích rộng gần bằng nước Pháp, người ta đánh nhau trong bóng tối, không trông thấy nhau. Những nhóm người mất hút trong bao la, tìm cách bắt chợt nhau để giết nhau trong đêm và cây cối.

Không chỉ người Pháp và người Việt theo đuổi, tàn sát nhau. Họ lôi kéo vào cuộc chém giết ba vương quốc của Đông Dương với hàng trăm dân tộc khác nhau. Rừng rậm trở thành một hận thù lộn xộn mà người ta thanh toán nhau trong nền văn minh đi từ thời kỳ đồ đá đến sự tinh tế tột đỉnh của Phật giáo. Tất cả những tranh chấp xưa kia của các phe phái và các dân tộc được khai thác và nổ ra chém giết. Hàng nghìn cuộc chiến lẫn lộn với cuộc chiến lớn giữa những kẻ thực dân và những người cộng sản.

Sự lộn xộn thật khó gỡ. Người ta đánh nhau theo mọi cách. Vũ khí trang bị từ ống xì đồng, lao, thần chú đến tiểu liên và súng cối. Cũng có những cuộc chiến kinh tế vì muối, thực phẩm sống còn ở vùng rừng núi, nhất là vì thuốc phiện. Người Việt, người Pháp mua thuốc phiện, nâng cao giá để gắn bó với những ông vua miền núi đáng sợ. Không có một dân tộc nào không bị chia rẽ. Chính phủ hoàng gia Căm-bốt ủng hộ Pháp, Chính phủ hoàng gia Lào cũng thế. Nhưng ở Căm-bốt người Khmer liên minh với người Việt có thánh địa Angkor. Ở Lào, ông vua già ở Luang Prabang sùng đạo và trung thành. Trong tình thân thiện với Pháp, con trai ông, hoàng tử Savang muốn biến đất nước triệu voi thành một siêu Monaco ở núi rừng Châu Á. Nhưng các hoàng thân nhánh thứ vận động cuộc nổi dậy đỏ của Pathet Lào. Cả những người hoang dã cũng được lôi kéo vào cuộc chiến từ các dân tộc phù thủy săn voi ở biên giới Miến Điện đến những người thiểu số ở trần của cao nguyên Annam. Người Pháp phân phối súng tiểu liên cho một số chiến binh nhưng những người khác thì dẫn đường cho các phân đội đỏ. Đấy là một cuộc chiến tranh từ mỏm núi này đến mỏm núi khác.

Ở những dân tộc lạc hậu nhất, cuộc tranh chấp chủ yếu cũng vì lý tưởng. Những ý nghĩ chống đối nhau lan đến cả những bộ lạc ăn đất trong những vùng hoang vu để trắng trên bản đồ.

Khắp nơi người Pháp tiếp xúc với những nhà độc tài nhỏ, giải thích cho dân bản địa kẻ thù của họ là người Việt Nam, Việt Minh. Áp dụng đường lối đối với dân tộc thiểu số những người đi chinh phục lập ra các vương quốc, liên bang, quốc gia tự trị. Mỗi mảng trên bàn cờ rừng núi ấy có cờ, quốc huy, quân đội riêng và nhất là tiền. Ở Bắc Kỳ trên bờ vịnh Hạ Long, tướng cướp Vòng A Sáng hình thành những tiểu đoàn lính Nùng với huy hiệu mỏ dù. Gần sông Hồng, Đèo Văn Long, con trai của tướng Cờ Đen cách đây nửa thế kỷ là chúa tể thuốc phiện nhờ sự bảo vệ của Pháp. Người ta cứ xây dựng như thế trong những thung lũng và rừng thưa không thăm dò được rất nhiều vương quốc nhỏ khác.

Lúc đầu mọi việc tốt đẹp. Đội quân viễn chinh cắm bốt trên các chóp núi cao phía trên những khu vực đầy yên tĩnh, những rừng cây và sỏi đá. Máy bay cho phép làm được tất cả, chiến thắng mọi khoảng cách, đồi núi, cây cối. Những máy bay Junker già cỗi không ngừng đem thả xuống thực phẩm và đạn dược cho những chỗ đồn trú ở địa đầu thế giới cách thị trấn văn minh gần nhất nhiều tuần hoặc nhiều tháng đi bộ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Mười Hai, 2017, 07:55:25 am

Trong các bốt heo hút ấy bao giờ cũng có một hạ sĩ quan xứ thuộc địa, hơi say và sốt rét. Nhưng ông ta biết trả muối và vàng cho các ông vua nhỏ; biến những người ở trần, cổ đầy vòng bạc thành những người lính, có mũ, thắt lưng và súng tiểu liên - nhưng theo kinh nghiệm, ông ta không cung cấp giày theo điều lệnh cho những người miền núi Mèo, Mán vốn quen đi chân đất, những người đi bộ giỏi nhất thế giới. Ông chủ rừng xanh ấy làm tất cả mọi việc. Có khi ông ta sáng tác quốc ca hoặc vẽ cờ hiệu vương quốc. Nhất là ông không ngớt lặp đi lặp lại: “Tôi không bao giờ bỏ rơi các anh”.

Việt Minh mà ông ta nói, trưởng bốt người Pháp nghĩ họ ở xa. Họ ở ngay đấy. Sự hiện diện của họ được biết rõ khi đã quá chậm, do một trận phục kích, do những người chết. Sự tồn tại yên ổn chấm dứt.

Thực vậy, rừng rậm cũng chẳng phải ghê gớm, khắp nơi có hàng nghìn đường mòn bí mật. Cán bộ và quân lính của Hồ Chí Minh đi xuyên rừng núi vô tận, đi như không có thời gian. Đôi khi một cán bộ chính trị dừng lại ở một khoảng rừng thưa, tổ chức chỉ huy sở trong một căn nhà lá khốn khổ. Ít lâu sau xung quanh là một vùng cộng sản.

Những gì của Pháp - máy bay, bãi nhảy dù, đồn bốt - đáng sợ nhưng trông thấy được. Ai cũng biết đấy là cái gì. Nhưng những việc đi lại ấy, những tổ chức ấy không phân biệt được, thật ghê gớm, không có gì nắm bắt được.

Vũ khí chủ yếu của người Việt là đưa cuộc chiến tranh tư tưởng đến những bộ lạc cổ sơ nhất.

Người Pháp hứa hẹn với những người hoang dã giải phóng họ khỏi người Việt Nam. Nhưng khắp nơi Việt Minh đã hứa với họ một sự giải phóng khác, rũ bỏ người Pháp cho họ. Họ đưa cuộc kháng chiến vào rừng xanh, nơi mà Đội quân viễn chinh giải quyết công việc với những kẻ độc quyền. Phái viên của Hồ Chí Minh làm việc ngay với dân chúng.

Cuối cùng khi dân chúng trên rừng núi đã được cảm hóa tương đối, người Việt bắt đầu cuộc chiến tranh đường mòn chống Pháp. Cuộc chiến này có luật lệ riêng, còn dẻo dai, quyết liệt hơn cuộc chiến ở ruộng đồng.

Người ta chỉ có thể tiến lên theo những đường mòn. Đường hẹp đến nỗi hai hàng quân đụng nhau không triển khai, không đánh nhau được và chỉ những người đi đầu có thể bắn. Hậu quả là bất lực và dồn tắc. Vậy phải làm cách khác, không đụng vào quân địch, mà vượt lên và tấn công vào sườn. Chiến thuật là biến đi, như không có, để chỉ xuất hiện vào giây cuối cùng, lúc nhào vào con mồi.

Đối thủ vừa ngụy trang vừa tìm kiếm, đuổi theo trong hệ thống rối ren những đường mòn luôn luôn thay đổi, bất định. Đây là một cuộc trốn - tìm kịch tính giữa những người mù trong bóng tối rừng rậm. Tất cả bao la và mất sức lực, như một câu đố khó khăn. Chiến thắng là kẻ nắm bắt đúng, trong mạng lưới vô số đường mòn tìm được đoạn đường kẻ mình săn đuổi đi qua. Người ta nấp bên lề đường; hóa thân vào vỏ bọc cây xanh và chờ đợi. Nếu tính toán đúng, kẻ thù không nghi ngờ gì, xuất hiện theo hàng một. Đây là lúc phải tuyệt đối kiên trì, để quân thù đi sâu vào lưới; phải hạ tất cả một lúc, bằng một làn đạn của mọi loại súng như của đội hành quyết. Vì nếu bạn sớm quá, nếu để lộ ra không đúng lúc, nạn nhân sẽ thoát chạy vào rừng sâu và không trông thấy nữa. Ngược lại, quân phục kích có thể bị rơi vào bẫy tương tự như mình đã giăng và hỏng việc.

Cuộc săn đuổi ấy thường kéo dài hàng tháng. Phải đi bộ ngày đêm, phải mạnh về thể lực và tinh thần. Đấy là cuộc chơi tổng thể trong đó con người sử dụng mọi khả năng ở mức cao nhất trong không gian khắc nghiệt của địa ngục xanh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Mười Hai, 2017, 07:58:00 am

Tôi đã được chứng kiến cuộc chiến hư ảo ấy ở chân dãy núi Trường Sơn. Phía dưới thấp, bốt Đaktô dựng lên những hàng cọc bao la và tháp canh bằng đất đỏ. Những người thiểu số ngồi xổm, chỉ mặc khố, gùi trên lưng, chờ đợi. Phụ nữ mình trần, hút một loại ống điếu to. Sẽ là hội mừng trăng. Một con trâu buộc vào chiếc cọc; theo phong tục chốc nữa các chiến binh sẽ dùng lao giết nó. Người già không phân biệt rõ giới tính, tóc cắt ngắn, đào các chum rượu người ta sẽ uống. Những người khác bận quần áo lính Pháp, đứng canh gác.

Viên đội Belleau trưởng bốt, mặt đỏ, nặng một trăm kilô ngạc nhiên nhìn thế giới mà ông là Trời ở đây. Và rất tự nhiên, với triết lý hiến binh, ông mô tả với tôi “công việc” của ông - cuộc chiến tranh ông đang tiến hành:

- Trước hết phải hiểu rừng rậm vốn trung lập, không giúp đỡ ai. Người mạnh hơn sẽ thắng. Kẻ bị thương chịu tội, người ta không đảm đương, không mang đi được. Hầu như luôn luôn họ bị bỏ rơi.

Chỉ dần dần mới biết rõ, mới hiểu rừng rậm ghê gớm đến mức nào. Người ta chết đói giữa hoa lá, chết khát mặc dù thác lũ gió mưa ngập nước các khe đá. Tất cả thối rữa, bắt đầu là thịt. Người ta làm mồi cho sốt rét, những cơn ác tính; chỉ hơi xây xát là gây mưng mủ không chữa được. Tuy vậy vẫn phải tiến về phía trước qua những dãy núi luôn giống nhau, như răng cưa. Không thể dừng lại, bị quân địch săn đuổi và phải săn đuổi quân địch. Phải đi nhanh hơn để nắm được dấu vết địch trước khi địch nắm được dấu vết mình. Trong những trường hợp vô vọng người ta đào cắt đường đi của mình, mỗi ngày chỉ đi được hai cây số.

Người Việt là một đối thủ kiên cường, có thể đi một trăm cây số một đêm. Cái chết không là gì đối với họ. Trong phục kích họ biết chờ nhiều ngày, lẫn vào thiên nhiên, không một cử chỉ, một tiếng động, tiếng ho. Họ có kỷ luật khác thường, ẩn náu không lộ mình, ngón tay để trên cò súng cho đến khi hàng ngũ địch vào vị trí thích hợp và người chỉ huy hô “Bắn".

Chúng tôi phải ngang bằng với họ. Tôi cho quân lính tôi bỏ mọi trang bị quân sự cho nhẹ người: phải xông vào rừng gần như trần truồng, không mang vác gì, chỉ dùng sức. Tôi đi chỉ với súng và đạn. Mỗi người của tôi cũng có một đoạn tre như tủ đựng thức ăn, đựng cơm, một ít cá khô, muối, ký ninh, mấy viên côđêin để ngăn hắt hơi khi phục kích. Thức ăn nấu sẵn, không đỏ lửa. Khi ăn, ngồi xổm ngốn ngấu mấy miếng và nhất là chôn hết những gì còn lại. Người ta luôn xóa dấu vết của bữa ăn, của bước chân; dựng lại cỏ bị xéo; dấu viết ít nhất trông thấy được có thể gây tai họa.

Tôi có đồng minh là người Sêđăng, những người cao lớn ở trần rất đẹp, vẻ lòe loẹt và xăm đầy bùa. Da họ màu đồng đỏ. Họ trở thành điên loạn khi làm lễ hiến sinh trâu, chặt ngang đùi và uống máu, ăn ruột gan trâu. Đấy là những chiến binh, đánh nhau với bộ tộc bên cạnh, người Kàtu quy thuận Việt Minh.

Như tôi làm đối với người Sêđăng, Việt Minh tuyển dụng người Kàtu. Cuộc chiến rất gay go vì ở đây rất gần cơ sở xuất phát của quân đỏ - địa phận Việt Minh ở Quảng Ngãi và Quy Nhơn trên bờ biển Annam. Phía bên kia dãy Trường Sơn là biển, bờ biển với đồng ruộng, thành phố, đông dân cư, và văn minh. Các tiểu đoàn đỏ chỉ cách khoảng trăm cây số.

Tôi chống cự được nhờ người Sêđăng. Họ vững vàng và trung thành khi mà tôi chưa vi phạm một trong những điều cấm kỵ của họ. Những điều này nhiều đến mức hàng ngày tôi có nguy cơ vô tình xúc phạm. Tôi rất chú ý, không bao giờ tiến hành một cuộc hành quân chớp nhoáng nếu có con hươu tác bên phải hàng quân; Không có điềm xấu nào bằng và nếu tôi không kể đến, những người Sêđăng sẽ bỏ tôi.

Không có những người hoang dã ấy tôi sẽ như một đứa trẻ lạc lối. Họ dẫn tôi đi đúng như những người Kàtu dẫn người Việt. Nhất là tôi không thấy điều gì - họ là con mắt tôi. Họ nhận ra một cách không giải thích nổi những cạm bẫy không trông thấy mà người Kàtu bố trí trong rừng và trên đường đi, từ những chiếc bẫy sập trên cọc đến những mũi tên nhỏ găm ở mặt đất, có những cái mười phân xuyên bàn chân, ba mươi phân xuyên mắt cá và tám mươi phân đâm thủng ruột. Những mũi tên ấy đều tẩm thuốc độc. Người ta có nguy cơ bị xiên qua người ở từng bụi cây. Kho vũ khí của những người cổ xưa bao gồm những cạm bẫy ghê rợn khác nữa. Một cành cây một dây leo to tướng đập xuống đè nát người, hoặc một cây cong làm hai bật lên phóng mũi tên vào ngực anh. Những vũ khí lợi hại nhất là cây nỏ, hạ một người cách năm mươi mét với độ chính xác tuyệt đối.

“Những người Sêđăng của tôi” phát bỏ giúp tôi mọi cạm bẫy ấy. Họ cũng chữa khỏi bệnh cho tôi bằng những phương thuốc kỳ diệu. Một lần tôi toạc cả chân vì một mũi tên nhỏ, họ dán cho tôi một loại thuốc cao chế biến từ cỏ và tôi bước đi được.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Mười Hai, 2017, 07:58:41 am

Tôi yêu mến những người Sêđăng của tôi, họ cũng có một sự thương cảm nào đó mặc dù không ổn định. Người Việt cố gắng mua chuộc họ và phải trả giá bằng mạng sống. Những việc đó trong rừng cách đây khoảng hai tháng.

Một buổi tối năm Việt Minh vào trong một xóm Sêđăng, mang theo Quà và đề nghị hòa hoãn. Các cụ già tập họp nhau lại, hứa hẹn sẽ giao nộp tôi. Nhưng trong lúc chiêng trống vang lên trong buổi tiệc, họ cử một phái viên đến nộp đầu các vị khách cho tôi. Người ta chỉ con đường Việt Minh sẽ ra đi và tôi chỉ việc giết. Tuy vậy họ đề nghị một điều kiện. Sau đó phải di chuyển làng đến một chỗ khác, mất một ngày đường, để quân đỏ đi trừng phạt không tìm ra họ. Vận chuyển hoặc làm lại những căn nhà tranh không là gì nhưng sẽ không thu hoạch rẫy được. Tôi có chấp nhận bù lại số gạo tương đương không? Tôi đồng ý và việc mặc cả kết thúc.

Cuộc phục kích thất bại. Một lính ngụy bắn quá sớm, Việt Minh nhào vào rừng nhưng họ bị phân tán. Và một người đơn độc trong rừng là gặp rủi ro rồi, chỉ cần theo dấu vết cho đến khi họ kiệt sức ngã xuống. Trong tĩnh lặng có vẻ tuyệt đối có tiếng trống nổi lên, lại người thứ hai và những người khác nữa. Đấy là trống mời đến nhận phần con mồi. Người Sêđăng săn đuổi quân Việt nhưng chờ họ mất hết sức lực cuối cùng rồi tấn công và đâm họng họ.

Bốn trong những người Việt bỏ xác trong rừng. Người ta đem đến cho tôi người thứ năm làm quà chiến thắng. Đây là một đại uý, anh ta còn lại bộ xương, lở loét khắp nơi. Tôi cho chữa chạy, anh ta đâm thủng bụng mình bằng một đoạn tre nhọn. Người ta chữa cho một lần nữa rồi thấy cử chỉ anh thật dũng cảm, tôi cho thả ra.

Điều lạ lùng nhất là mặc dù tận tình làm việc tốt, luôn luôn tìm “giải pháp đúng đắn” nhất, đôi khi người Việt sa vào những sai lầm rất lớn. Điều này xảy ra khi họ nghĩ đã thắng lợi. Họ tỏ ra là những kẻ thống trị nhẫn tâm. Vì thế đã xảy ra cuộc nổi dậy của người H’rê từ lâu quy thuận Việt Minh ở Quảng Ngãi. Bây giờ tôi có một đội quân H’rê; với họ tôi xâm nhập đến ngoại ô Quảng Ngãi.

Thế đấy, trong rừng cuộc đấu thật vô biên. Người Việt có những thắng lợi, những thất bại nhưng họ tiến lên phía trước - dù những tiến bộ của họ rất chậm. Đấy là công việc của đàn mối để thực hiện bộ máy tâm lý - chính trị đỏ. Tai họa lan rộng dần. Sau hành trình của những cán bộ nói giỏi tiếp đến những phân đội mấy người lính rồi nhưng đơn vị quân sự nhỏ. Một khó khăn bất ngờ hạn chế quy trình - phải phân tích tình hình, tìm ra “sai sót”, lỗi lầm, tự sửa chữa, làm tốt hơn, cải tiến chiến thuật. Bao nhiêu lần ngã xuống và bắt đầu lại! Nhưng phong trào không lay chuyển được. Sau nhiều năm chuẩn bị, các sư đoàn đỏ chỉ còn đến đích. Cuối cùng sẽ là Điện Biên Phủ.

Ở Sài Gòn, Hà Nội, người Pháp không thấy mối nguy.

Họ tưởng rừng rậm là của họ, thế nhưng về sau khi người Việt thực sự chuyển sang hành động, tất cả đều đổ vỡ. Và sẽ là thất bại.

Đúng là cần có thời gian. Mục đích trước mắt của việc bình định không phải là rừng xanh, sự lẻ loi và những người cổ xưa của nó. Đấy là quần chúng da vàng, hai mươi triệu người dân quê.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2017, 06:07:14 pm

Cực điểm ở Nam Kỳ

Đất đai không đáng kể mấy. Trước hết người ta đánh nhau vì những diện tích hạn chế - những nơi đông dân, nhiều của cải, những thành phố, và lúa gạo trở nên rất quý mà người Việt nói mỗi hạt thóc là một giọt máu.

Nhưng cả những nơi đông dân cư ấy - lưu vực sông Hồng, bờ biển Annam, xứ Nam Kỳ, cường độ cuộc chiến thay đổi đáng kinh ngạc.

Hà Nội và châu thổ Bắc Kỳ có vẻ bình ổn, như vĩnh viễn rã rời vì những bi kịch năm 1946. Ở thành phố nhân dân không trở về bao trùm một tình trạng hoà hoãn vắng lặng, ở nông thôn, nông dân trốn tránh xa đường sá. Tất cả đều bỏ ngỏ.

Ở những thành phố bị đập phá, đổ nát hư hỏng trở nên xơ xác hơn. Chỉ thỉnh thoảng có một quán rượu mới, ở đó vang ra tiếng kêu của bà chủ gái điếm, giọng mũi của một chiếc máy hát và tiếng cười của binh lính. Hà Nội trống trải, im lặng như thành phố chết.

Ngoài các đô thị đượm nỗi u ám, chỉ còn nước và đất trống! Hà Nội hoàn toàn vắng lặng. Ở vùng châu thổ đông dân cư này có khi một cây số vuông hàng nghìn người, hầu như không còn dân nữa. Dân quê đi ẩn náu, cố để bị quên lãng, hy vọng không bị tai nạn vì chiến tranh.

Thực ra hầu như không còn đánh nhau. Đất nước bị phân chia như theo một thoả thuận ngầm. Phần người Pháp các thành phố và các trục đường. Việt Minh là các làng xóm và đồng ruộng. Cuộc chiến, đối đầu, tranh đua giảm xuống mức tối thiểu. Đấy là quyền lợi của các đối thủ.

Quân số dự bị của Đội quân viễn chinh được đưa ra trên đường số 4. Không còn quân để chiếm toàn vùng châu thổ. Người Pháp không quan tâm đến phần còn lại: nó nghèo quá! Hơn một triệu người chết đói năm 1946 khi gạo của Nam Kỳ không đưa tới. Việt Minh rút ra từ nạn đói và khổ sở này lợi thế gì?

Vậy là người ta cử đến Bắc Kỳ những viên chức và sĩ quan kém nhất. Trong bộ khung Hà Nội họ sống theo tập tục một nhiệm sở trì trệ và một khu đồn trú không mấy uy nghi. Ủy viên cộng hòa có chiếc trán đồ sộ, xương to, giọng nói như sấm. Viên tướng là một người đẹp trai kiêu ngạo, giàu có. Chính quyền và Quân đội ghét nhau. Trong những ngôi nhà bẩn, sửa chữa tạm thời, các văn phòng áp dụng những quy định cũ như chưa bao giờ xảy ra việc gì.

Việt Minh tránh đánh thức người Pháp dậy, không tấn công Đội quân viễn chinh. Họ khai thác cái không khai thác được vùng châu thổ đất bạc màu, nông dân gầy yếu, nơi quá nhiều người nên không đủ ăn. Và họ thu được kết quả nhờ kỷ luật cộng sản, với phương pháp phân mức, phong trào thi đua, đóng thuế yêu nước. Nhưng để thành công tối đa họ cần yên ổn. Chỉ thị của Đảng là để yên cho Đội quân viễn chinh để mình cũng được yên.

Hai bên đều tự kiềm chế. Không có lựu đạn ném trong làng, không phục kích trên đường nhưng quân lính Pháp đi trên bờ ruộng, không vào làng. Việc vi phạm luật lệ ấy rất hiếm, sẽ bị cảnh cáo.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2017, 06:20:22 pm

Chiến tranh chỉ thực sự bắt đầu ở phía nam, trên bờ biển dài dằng dặc miền Trung. Một chiến trường kỳ lạ. Dãy núi đổ xuống biển nhiệt đới trên những vành cát, đầm phá và đá ngầm. Không có ranh giới giữa nước ruộng đục ngầu và đại dương. Thảng hoặc có một vùng đồng bằng hẹp hoặc một thành phố.

Trong khu vực vừa dưới nước vừa trên cạn ấy kéo dài hơn một nghìn cây số, dưới chân dốc đứng của dãy Trường Sơn, những trận đánh nhau trở nên quyết liệt. Lực lượng tham chiến quan trọng. Nhưng cho đến tháng cuối năm 1954 người ta hầu như chưa bao giờ nói đến những trận đổ máu ấy - không có kết quả quyết định, không thể có vì đất nước bị chia cắt từng mảng một. Chỉ là những trận phục kích ở địa đầu bờ biển, bao giờ cũng thế, lặp lại vô tận. Xứ Annam không có giá trị, không có mục tiêu lớn; người ta bắn giết nhau ở đấy, co cụm lại mà không muốn nói đến.

Cực điểm là ở đầu kia Đông Dương, tại Nam Kỳ. Người ta thấy ở đây tất cả sự quyết liệt của Kháng chiến, tất cả sự cứng rắn của chế độ thuộc địa. Đây là hai lực lượng dữ dội, bám chặt nhau trong một cuộc đấu sống chết. Điều họ giành giật là của cải, là cuộc sống.

Tôi đã biết xứ Nam Kỳ phì nhiêu ấy, đồng ruộng bao la, những đồn điền và con người! Cuộc sống dưới rặng dừa và mặt trời gió mùa thật dồi dào. Dân quê ăn no mà không vất vả - ở đấy sản xuất khá nhiều lúa gạo, xuất cảng gần hai triệu tấn.

Tôi biết như mọi người, bên nào mất địa đàng ấy là hết thời. Năm 1948 chính Nam Kỳ là nơi quyết định. Vật cược là ở đấy, chiến tranh là ở đấy - một cuộc chiến tranh kinh tế vì lúa gạo, cao su và đồng bạc.

Vì vậy người Pháp cố gắng ghê gớm. Họ muốn thanh toán cuộc kháng chiến miền Nam. Không có xứ sở này Hồ Chí Minh sẽ đổ sụp trong “tứ giác” của ông về phía bắc hơn mười lăm nghìn cây số, trần trụi và nghèo đói. Châu thổ Bắc Kỳ cung cấp cho ông tân binh, một ít gạo tiền nhưng tài trợ lớn và trang bị đầy đủ đến từ miền Nam. Thuyền buồm không ngớt chạy dọc bờ biển giữa tàu chiến Hải quân Pháp để đem đến cho ông những hòm tiền và những bao ngũ cốc.

Việt Minh của Nam Kỳ còn quyết liệt hơn. Đối với họ không những không thua mà phải thắng. Họ biết rõ không có Nam Kỳ, người Pháp không kiếm được tiền nữa, không còn quyền lợi kinh tế, sẽ không quan tâm đến Đông Dương và ra đi.

Cuộc chiến này vừa tẻ nhạt vừa kịch tính! Cũng như mọi cuộc chiến tranh không có những trận đánh lớn, không quân đội dàn trận, không những đòn đánh khiếp đảm. Và đồng thời, hơn hẳn cuộc chiến tranh thực sự, đấy là một cuộc phiêu lưu.

Người ta thấy gì ở đấy? Chính quyền thực dân Pháp tiếp tục ở Sài Gòn như không có gì xảy ra. Nhưng Sài Gòn có hai mặt: mặt tốt người ta trông thấy che giấu khắp nơi cái không nêu tên, cái khó thăm dò.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2017, 06:21:04 pm

Ở đấy tất cả đều có. Có Sài Gòn văn minh, câu lạc bộ thể thao tuyệt vời với bể bơi thường xuyên có những cô gái có giáo dục của các đô đốc hải quân và tướng lĩnh, bơi lội. Có những tên đào ngũ và tín đồ các giáo phái cuồng tín và ngu độn. Có những nhà kinh doanh, đáng kính và sự thịnh vượng, có đồng bạc chúa tể và mọi buôn gian bán lận - mọi người sinh sống thoải mái trong khi cái chết đến bất cứ lúc nào. Khắp nơi có những đám đông tụ tập, đèn huỳnh quang, vui chơi; khắp nơi cũng có Việt Minh ngụy trang, không ngụy trang, những Việt Minh thật, Việt Minh giả, nửa thật nửa giả. Có những viên chức hình thức; có những kẻ giết người của mọi tổ chức - những cán bộ kháng chiến, của mọi phe phái, phòng nhì, cảnh sát, an ninh, của Cao uỷ Pháp, của Chính phủ Việt Nam. Những gia đình giàu đặc biệt có tay chân bảo vệ, các hội thương gia Hoa kiều cũng thế. Khi một nhân vật quan trọng hoặc không quan trọng bị giết người ta không bao giờ biết do ai - và khôn ngoan hơn là không tìm hiểu. Có Đội quân viễn chinh, những ban tham mưu khổng lồ, những tiểu đoàn đồn trú, quân lính được tuyển khắp thế giới, được trả lương hậu và những người chết của họ. Có những chế độ của phong kiến Trung cổ, các khoản thuế đánh vào tất cả mọi người, mọi luật lệ không thay đổi và trái ngược nhau mà dân quê phải gánh chịu.

Có lâu đài Norodom; ngày 14 tháng bảy có những đoàn diễu hành đẹp, khiêu vũ, tiệc rượu, hội chợ tráng lệ ở khách sạn Continental và trên đường Catinat, hòn ngọc “Paris” ở Viễn Đông. Có những người xích lô lo lắng, không biết mệt sẵn sàng làm mọi việc; vũ khí của họ là đôi dép đế gỗ. Có những người ăn mày và gái điếm Việt Nam trong những khu nhà tranh. Có đồng bạc Đông Dương trị giá mười bảy phrăng, nỗi ám ảnh “đổi tiền”, giao dịch ở sở Hối đoái và có giờ khai vị. Có những cuộc mua bán gạo, cao su. Có những bộ trưởng Việt Nam lợi dụng tình hình chơi trò bốn, năm mặt và bao giờ cũng bố trí một bà để thắng to trong mua bán. Có những lễ nghi Phương Đông, những bữa tiệc tưới rượu của người Trung Hoa, những gái gọi nổi tiếng mặc áo dài xẻ sườn, “Thế giới cao sang” và những bệnh nhân hủi không được chữa chạy sống trong nghĩa địa, đào ổ nằm giữa các ngôi mộ. Ngôi nhà thờ lợp ngói luôn sừng sững bên cạnh những ngôi nhà của sở An ninh mà cảnh sát suốt ngày đêm “tra khảo” phạm nhân.

Ở biệt thự Pagode, phòng trà hào hoa, trưởng các văn phòng đặc biệt, một đại tá, mời các nhân vật tên tuổi đến khu vườn có nhiều cây lạ ở biệt thự rất đẹp của ông xem hoa nở lúc nửa đêm - đúng sau những cốc whisky cuối cùng khi đồng hồ đánh mười hai tiếng thì hoa xòa cánh. Việc săn lùng đồng bạc Đông Dương bao giờ cũng cuồng nhiệt, lôi cuốn những vụ bê bối ngột ngạt và những qui luật máu trong tính toán.

Những người đảo Corse đưa từ Marsaille sang những gái đĩ da trắng. Một số đi với các tỷ phú Trung Hoa. Tôi đã nghe một cô trong số đó kêu lên: “Không sao cả. Tay Trung Hoa rất phấn khởi! Hắn làm xong trong một phút và cho năm nghìn đồng bạc Đông Dương.” Theo một quy định mới những quán hút thuốc phiện lấy tên là “trạm xá giải độc”.

Nguyễn Bình, người đứng đầu Việt Minh Nam Bộ, đến Sài Gòn trước râu mọi nhân viên cảnh sát. Bảy Viễn, “thủ lĩnh” băng nhóm Bình Xuyên, chơi hào hiệp với các bà vợ, với những con hổ và trăn trong tổng hành dinh ở cầu chữ Y. “Cũng có “giáo chủ” Phạm Công Tắc bao giờ cũng đội mũ có hình thêu ren quả sồi và “tướng” Sổ một sao. Trong các bệnh viện Việt Nam, người ta xếp ba người trên cùng một tấm ván, y tá bán mọi thứ, cả những cốc nước. Một người bị phẫu thuật chết đói ở đấy vì không có mấy xu mua cơm. Hè đến, vào mùa khô, những đám cháy lớn thiêu trụi có khi toàn bộ khu phố. Những điền chủ giàu có tàn ác cho phóng lửa vào những đợt kết thúc đầu cơ - đuổi những dân quê nghèo khổ tự xây dựng những “phố lau sậy”, khu dân nghèo ở Châu Á. Các bà vợ bộ trưởng và viên chức cao cấp đến phân phát bánh mì, thịt cho những người bị nạn. Đấy là tất cả những gì người ta làm cho họ. Thậm chí những kẻ đốt nhà cũng không bị truy lùng.

Có phần thưởng cho việc tố cáo. Những tên chỉ điểm mua bán, trao đổi thông tin. Hầu như luôn luôn là những tin sai; tin đúng quá nguy hiểm và dẫn đến những phức tạp được trả công bằng dao hoặc tiểu liên.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2017, 06:21:50 pm

Tất cả đều bí hiểm, đều để mua bán. Mỗi quan chức Pháp được tặng thưởng, bảo vệ, không bị nghi ngờ. Quyền doanh thương thiêng liêng. Người ta làm giàu ghê gớm. Nhưng người thương gia trung thực làm sao có thể nghĩ rằng hàng hóa mình bán đi vào vòng xoáy Việt Minh? Chính người Trung Hoa phụ trách tiếp xúc với khách hàng da vàng và họ không bao giờ để lộ ra.

Có Sài Gòn và vùng đất không người ở cửa ngõ Sài Gòn. Cách thành phố mấy cây số ở đồng bằng Tháp Mười ông Nguyễn Bình đáng sợ xây dựng các tiểu đoàn tình nguyện. Trên những con đường thuộc địa rộng đẹp hàng ngày nối đuôi nhau không dứt những chiếc “xe Trung Hoa” đầy ắp hàng hóa và hàng nhân đạo người ta không biết đi đâu. Việc đi lại trong vùng Việt Minh dày đặc trên đường Pháp đặt cách quãng nhau những bốt và tháp canh.

Trong những thành phố nhỏ còn lại vài “quan cai trị” người Pháp. Những người trẻ nhất đam mê giết người Việt. Những người già, ghét cay ghét đắng tất cả sự lộn xộn ấy, luyến tiếc thời xưa. Một trong số họ, trong vùng lửa đạn cả buổi sáng dạo trên những con đường tỉnh lỵ của ông để tin chắc công nhân quét rác đã nhặt hết lá rụng. Ngày càng nhiều tỉnh trưởng người Việt Nam. Phần đông khôn ngoan không bước chân ra khỏi nhiệm sở, ngôi “nhà Pháp” đẹp đẽ được chuyển lại cho họ nhưng thường thường họ biến thành nơi đánh bạc.

Ở các đồn điền người ta tiếp tục “cạo mủ” cao su giữa trận chiến du kích và chống du kích. Tuy nhiên, năm mươi người Pháp, những trợ lý trẻ cũng bị sát thương. Nhưng việc sản xuất vẫn tiến hành và việc mua bán cao su thật béo bở.

Nam Kỳ có tất cả những cái đó - và nhiều cái khác nữa. Người ta giết nhau, tra tấn nhau và sống bên nhau, sống với nhau. Người ta cùng nhau buôn bán và làm mọi cách để hủy diệt nhau. Đấy là sự cân bằng trong tính chất kỳ dị, tàn ác, phản bội, và tất cả những mánh khóe phản bội. Chưa bao giờ biết bao nhiêu trong sạch lại lẫn lộn với biết bao nhiêu vẩn đục như thế!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2017, 06:22:58 pm

Liên minh các phe phái

Người Pháp tổ chức tấn công. Gần như toàn bộ Đội quân viễn chinh đóng ở Nam Kỳ dành để làm việc ấy. Không phải một cuộc tấn công chính thức mà là lao động công cộng.

Người phát minh ra điều đó là tướng de Latour, một người dân Sahara. Có vẻ như thời gian còn dài, tại sao người ta không kiểm soát các nguồn nước. Ông biết Việt Minh cũng lỏng như nước, ở khắp nơi: đất là một chất xốp.

Người ta không tìm cách bắt Việt Minh, không nắm bắt được họ. Trước hết phải đẩy họ ra xa hơn như dồn nước. Người ta giải phóng đất đai từng mét một, với những phương tiện khổng lồ không tương ứng với số lượng và sức lực của du kích. Người ta chế ngự đất, quy tụ vào một bộ máy.

Công việc bình định xúc tiến với một bề ngoài kỳ lạ, làm nhớ lại thời Trung cổ. Người ta đặt ra trong thiên nhiên đủ thứ như những lâu đài phòng thủ và vọng lâu. Có nhiều đến nỗi chính quân địch ở bên ngoài, giữa không gian, bị ngột ngạt lùi ra xa để sống và thở. Nhưng thật nghịch lý, vượt qua các thế kỷ, vùng chiếm lại được cũng giống như một giếng dầu. Đủ loại siêu kiến trúc sẵn sàng khoan đất chỉ là để bảo vệ: một rừng nhân tạo những đài quan sát và tháp canh.

Việc lấn chiếm làm trong ba thời kỳ. Trong đợt “đẩy lui” những tiểu đoàn Pháp tấn công đuổi quân chính quy và phá huỷ căn cứ của họ. Rồi người ta đặt một bộ “giáp sắt”, xây dựng phía trước, trên biên giới mới, một vành đai những công trình lớn của Pháp - những đồn bốt vĩnh viễn có viên đội và lính ngụy. Cuối cùng bên trong là những công sự nhỏ và cảnh sát người địa phương để tự vệ, nhằm bảo đảm vùng đã giải phóng.

Ở giai đoạn này dân chúng được xem là có khả năng tự bảo vệ mình chống lại những người Việt cuối cùng. Họ phải xây dựng cảnh sát cho mình, về nguyên tắc không còn sự hiện diện của người Âu, thậm chí không còn một ông đội già đã vỡ mộng ban đêm “bắn vào bụi tre”. Từ nay là chế độ những hương chức trịnh trọng và lính của họ, nhỏ nhoi trong bộ soóc, ra dáng với chiếc mũ đội rất thích bồng súng chào.

Cách “chinh phục” xứ Nam Kỳ ấy trả giá một lớp người điên đòi hỏi những đám đông mặc đồng phục. Cách đó tạo ra một lớp dân chúng quân sự hóa bên trên dân thường: với một người dân phải có gần một người lính.

“Hệ thống” ấy vẫn không đủ. Việc đóng vách ngăn đất nước quân đội nghĩ là kín nhưng không. Sau một rạn nứt là rạn nứt khác và quân đỏ vẫn trở lại luôn. Mỗi lần như thế người ta tìm chỗ sai sót, bịt “lỗ” bằng một bốt nữa, thêm lính ngụy, thêm những chi tiêu mới. Cứ mỗi tiến bộ lại phải thêm nhân viên, kinh phí, phương tiện và rồi mọi thứ cạn kiệt.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2017, 06:23:29 pm

Đội quân viễn chinh chỉ là một giọt nước trong biển người Châu Á. Càng ngày nhu cầu dùng người da vàng càng trở thành không tin được. Không bao giờ đủ. Việc bình định Nam Kỳ đã hết mức, đến chỗ ngạt thở. Cách Sài Gòn năm cây số, những rừng dừa hai bên con đường lớn phía Nam bao giờ cũng là Việt Minh.

Trong tình trạng lúng túng ấy, tướng de Latour tìm ra một giải pháp: lôi kéo các phe phái, xúi họ đánh người Việt.

Con người hào hoa được đào tạo từ sa mạc ấy, viên sĩ quan cũ của Maroc ấy từng ít một khám phá ra Châu Á. Nhưng ông giữ lại của Châu Phi bài bản về nhiệm vụ khai hóa. Đấy là một trưởng giả quê mùa cưới một cô gái rất trẻ, con một viên tướng trạc tuổi ông, của thế giới ông. Hầu như mỗi năm ông sinh một đứa con gái, hy vọng sẽ có một đứa con trai thừa kế chức vụ của ông. Sự ngoan cố ấy cũng lớn gần như trong nghề nghiệp. Tóc vàng nhưng da màu nâu sáng, đôi mắt xanh giữa những nếp nhăn rắn rỏi, để ria mép, tóc cắt ngắn đã bạc, cường tráng, nhanh nhẹn nhưng sớm già, ông có vẻ duyên dáng với chiếc “quần ngắn bằng da”. Với nhiều cảm tính và xu hướng tốt, ông có những gợi ý ngắn, đơn giản, thực tế mà ông áp dụng với mưu mẹo nông dân. Những cái đó lẫn lộn đột ngột và khoan dung, với giọng trầm vang và đập tay thân mật là sự lôi cuốn đặc biệt những trưởng giả phục vụ nền Cộng hòa.

Dĩ nhiên ông thuộc về trường phái Lyautey. Vậy là ở Châu Á ông tìm các bộ tộc, các trưởng nhóm, những người thô lỗ và mạnh mẽ, trung thành với những ai họ thán phục - tầng lớp sĩ quan Pháp. Ông ký những bản thỏa thuận với các phe phái: họ cam kết chiến đấu bên cạnh Đội quân viễn chinh sẽ trả tiền và trang bị vũ khí cho họ. Hơn nữa người ta thừa nhận mỗi phe phái có một vùng độc chiếm, một mảnh đất của Nam Kỳ: ngoại ô Sài Gòn - Chợ Lớn cho Bảy Viễn và quân Bình Xuyên của ông ta, tỉnh Tây Ninh cho giáo phái Cao Đài, cửa sông Mékong cho Hòa Hảo.

Quan chức thực dân ở Sài Gòn rất mến tướng de Latour. Phong thái của ông làm họ yên tâm. Nhưng được biết những thương lượng của ông với các phe phái, họ vỡ mộng.

Phần lớn các quan chức của cơ quan thuế quan hầu như đêm nào cũng tụ tập ở sân thượng khách sạn Continental. Khí hậu tác động trái ngược nhau đối với họ, làm khô khốc những người này nhưng vỗ béo những người khác, trang bị cho họ chiếc “bụng thực dân” mang quần ngắn. Họ nói với tôi với sự giận dữ bất lực về kinh nghiệm không ai nghe cho:

- Ông tướng nghĩ điều đình với những bộ tộc trung thực. Nhưng các phe phái là những loại hội kín, những bộ máy thống trị ghê gớm và rất tỉ mỉ theo lối Châu Á, sự bịp bợm, ngu ngốc, khao khát quyền lực của họ không thể tưởng tượng nổi.

Khi các phe phái là Việt Minh nữa thì nỗi sợ hãi lan ra trong những người Pháp đến mức nào! Người ta kể cho tôi những câu chuyện kinh hoàng và đổ máu:

- Năm 1945 chính những người Cao Đài mặc đồng phục tàn sát người Pháp kinh khủng nhất. Những vụ bắn giết ấy được chuẩn bị có phương pháp. Người Nhật đã cung cấp vũ khí, đạn dược cho các “đội bay”, các tiểu đoàn của Giáo trưởng. Bí mật luồn vào thành phố, theo lệnh chỉ huy của các sĩ quan, rất kỷ luật họ giết hết người da trắng, phải tiếp tục cho đến khi không còn một ai sống sót. Vì những người lãnh đạo Cao Đài lạnh lùng tính toán chiến công của vụ tàn sát này sẽ làm toàn bộ Nam Kỳ rơi vào tay họ. Ông không thể tưởng tượng tham vọng của giáo phái này như thế nào và có thể đẩy họ đến mức nào đâu.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2017, 06:24:34 pm

Làm sao chấp nhận được bây giờ Cao Đài ủng hộ Pháp? Họ căm ghét chúng ta. Quân lính Leclere sau khi lấy lại Sài Gòn, đã đuổi theo họ đến Tòa thánh Tây Ninh của họ, xe gắn đại liên phá đổ tường, rồi làm một bãi để xe ở đấy. Sau này giáo phái ấy bắt chúng ta đền tội vì phạm thánh.

Còn lạ lùng hơn nữa là tin vào Bảy Viễn. Chính mùa hè năm 1945 ấy, khi Sài Gòn mất trật tự, ông ta đi đầu đoàn người của ông diễu hành trên các đường phố; đích thân vác một lá cờ xanh lá cây rất rộng thêu mấy chữ “Quân cướp Bình Xuyên”. Sau đó trong thành phố bao la, giữa nền “trật tự” Pháp, ông ta làm người thu thuế được Việt Minh chấp nhận. Ông ta thao túng quyền hành nhờ một hệ thống khác thường về ám sát, những sào huyệt bí mật, các kho vũ khí, các mối quan hệ trung gian, đồng loã, mật khẩu. Ông có mấy nghìn nhân viên - trinh sát, thừa hành, người thu góp. Ông biết hết, có thể làm tất cả, thu thập nhiều tỷ, cho giết những ai ông không vừa lòng. Những việc ấy mất hút, lẫn lộn trong đám đông mênh mông của Châu Á. Người Pháp không bao giờ phá huỷ được tổ chức có nhánh khắp nơi đó. Ký kết chính thức với ông ta thực ra là giao thành phố cho ông ta, để ông ta đốt phá! Thật xấu hổ!

Tuy thế, nhân dân Sài Gòn không hề nói đến Hòa Hảo. Họ không biết rõ lắm - vùng độc chiếm của phe phái này quá xa, bên kia sông Mékong về miền Tây phía Nam Kỳ, một vùng bao la đồng ruộng và đầm lầy chỉ có nước và bùn. Nhưng quân lính ở đấy trở về tả lại thì là một ác mộng cực độ.

- Thật như thú vật. Những người điên nhào đến trước đại liên của chúng tôi - họ ở trần và hét lên, vung mã tấu. Những kẻ điên cuồng ấy chạy ào tới, khinh thường làn đạn. Thánh sống của họ, Huỳnh Phú Sổ nói với họ các chiến binh tử trận thực ra không chết, họ sẽ sống lại và được ban thưởng.

Thế nhưng năm 1948, những phe phái ấy, kẻ địch sống còn của người Pháp với bàn tay tắm máu của họ, mang quần áo và lon của Pháp, chiến đấu bên cạnh người Pháp. Điều đó xảy ra sau những màn bi - hài kịch, những màn “trở về” đổ máu và kỳ cục. Có những dịp cần nắm bắt từng giây. Tướng de Latour đã chộp lấy.

Cao Đài, Bình Xuyên, Hòa Hảo đều ở trong mặt trận Việt Minh: Nhưng Xứ bộ Nam Bộ ngại và khinh thường họ quyết định thanh trừng họ, ra lệnh diệt các thủ lĩnh và sáp nhập những người sống sót vào cộng đồng đỏ. Đội quân viễn chinh nói chung muốn những kẻ địch của họ giết hại lẫn nhau; các đoàn tuần tra bắt gặp trên đường hàng nghìn xác chết thì hài lòng biết mấy! Nhưng Phòng Nhì lập luận: “Nếu họ thanh toán có kết quả, những người đỏ thực sự sẽ được củng cố, mạnh và nguy hiểm hơn thì sao? Vì sao không can thiệp, cứu và sử dụng các phe phái bị dồn đến đường cùng ấy? Thay vì giết chúng ta họ sẽ giúp chúng ta giết người Việt. Bản đồ chiến tranh ở Nam Kỳ sẽ thay đổi”.

Từ đấy các phe phái phục vụ quân sự như người Pháp mong đợi. Điều đó phải là bước đầu một cuộc liên minh kéo dài trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương, nhưng cuộc liên minh ra sao? Với họ, tướng de Latour phối hợp theo cách của Pháp với tầng lớp cơ sở xưa cũ nhất của Châu Á tái hiện trong thời kỳ hiện đại - sự lẫn lộn không giải thích được của một sự chống đối nhau, từ cổ xưa nhất đến tính toán bác học nhất, từ vô chính phủ đến một kỷ luật tàn bạo, từ vô sỉ tuyệt đối đến một chừng mừng nào đó không vụ lợi. Căm ghét tất cả, căm ghét nhau, sẵn sàng làm mọi việc để chiếm đoạt, lợi dụng nhiều hơn, từ nay họ gắn bó với Đội quân viễn chinh Pháp.

Các phe phái mới đây thôi, nhưng liên minh với họ người Pháp liên minh với quá khứ, với những gì người Việt Nam trung thực và hiện đại xấu hổ. Các bên thực hiện một chế độ phong kiến bẩn thỉu, một thế giới mua bán, khổ hình, nghi ngờ và phản bội, với khẩu súng là thành phố cơ bản. Sẽ là một sợi dây không dứt những bi kịch, đòi hỏi và tống tiền. Công cuộc bình định chỉ còn là bề ngoài.

Nam Kỳ trước hết bị chia cắt thành mảng. Giữa những đồn bốt Pháp hầu như bất lực, các đoàn Việt Minh đi lại những vùng của họ không bị đụng chạm gì. Ở những lãnh địa rộng lớn, Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên xây dựng nền chính trị thần quyền vũ trang gần như không đụng đến được.

Vấn đề Nam Kỳ sẽ không giải quyết được nữa. Khi Bảo Đại được đưa trở lại, vấn đề toàn vẹn của Việt Nam sẽ không còn. Việc này cũng sẽ quay về quá khứ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Hai, 2017, 07:35:02 pm

Đoàn người quy y

Mấy ngày sau tôi phát hiện ra mặt khác của đạo Cao Đài.

Tôi đi trên chiếc xe jeep với một trung uý Pháp, quận trưởng. Bỗng chân trời bị một vệt xám khu rừng cắt ngang. Người bạn đường bảo tôi:

- Chỗ này không tốt, khu vực của chi đội 6.

Xe chúng tôi đi vào giữa những cây cao su của một đồn điền bỏ phế. Con đường hẹp, những bụi cây bó chặt. Viên sĩ quan đi chậm lại ở đầu một đường vòng:

- Chúng ta tới ngay vùng phục kích. Ít nhất mỗi tuần có một lần. Hôm kia một đoàn tuần tra bị tiêu diệt nơi ấy và tôi đã đi nhặt xác.

Giữa vòm cây thấy một đám đông đáng sợ, tôi giật mình nhưng trung uý nói với tôi:

- Không phải Việt Minh mà là đoàn người Cao Đài. Chúng ta không gặp nguy hiểm gì nữa.

Chúng tôi vượt đoàn người mấy cây số. Đây là một cuộc di cư vừa cổ sơ vừa hiện đại một cách buồn cười. Châu Á truyền thống ở đây, đoàn xe vô tận rít lên theo nhịp đi chậm của những con bò vai u. Trên mỗi xe chất đầy như thường lệ người và đồ vật hư hỏng khốn khổ chấp nhận số phận. Theo lệnh tuyệt đối, trong im lặng nặng nề của đoàn người, người ta cảm thấy tất cả bị khống chế bởi một ý muốn cực mạnh, một sự thống trị không thương xót.

Trên đỉnh hình tháp lung lay chế ngự mỗi chiếc xe, một người đàn bà ngồi im giơ cao lá cờ vàng góc có một bánh xe răng cưa, biểu tượng của giáo phái Cao Đài. Người cầm cờ ngồi trên mớ lộn xộn của sự nghèo nàn - trẻ con, ông già, những bà mẹ cho con bú, những con lợn, chum vại, chiếu, mấy gói quần áo rách.

Viên trung uý thì thầm với tôi:

- Đây là đoàn chiêu hồi. Một “đội bay” trở về bốt khi cuộc hành quân chớp nhoáng kết thúc, với dân chúng bị càn quét đã quy phục hoặc sẽ quy phục; đám dân chúng này từ nay sẽ cấy lúa và nộp thuế cho họ.

Chiến lợi phẩm con người được canh giữ cẩn thận để Việt Minh không chiếm lấy trên đường đi. Quân lính Cao Đài bước đi trong tư thế chiến đấu rất lạ của cuộc chiến tranh da vàng. Tất cả ở họ toát lên sự uyển chuyển và phòng ngừa, hơn hẳn bất cứ đội quân Pháp nào! Đấy là tư thế hành quân chống sự bất ngờ, chỉ hiện đại hóa về vũ khí.

Ngang tầm chiếc xe kéo cuối cùng, hai người đàn ông mặc quần áo lao động màu xanh lơ, đội mũ Pháp thời Thế chiến lần thứ nhất tay đẩy xe đạp - quân “Bảo an” của đoàn. Rồi giữa những khoảng cách đều đặn các xe, các thanh niên mang vũ khí, bước đi linh hoạt của người Annam. Trang phục của họ gần giống như Việt Minh, vải bông nhẹ nhưng màu sắc phong phú hơn, đi từ đen đến hồng; Đây là quân thường trực, lực lượng tấn công. Giữa một toán quân, được bảo vệ bốn phía là một lính “súng cối” và một lính “đạn dược” - người đi trước mang chiếc ống giết người, người thứ hai phía sau đầy một thắt lưng đạn. Những lính chiến đấu ấy, ai cũng trưng trên mũ bê-rê huy hiệu tôn giáo mình: giữa vòng tròn cuộc sống, lưỡi gươm của lòng tin giao nhau với ngọn lửa của sự trong sạch.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Hai, 2017, 07:36:16 pm

Đoàn người không dứt đi mỗi giờ sáu, bảy cây số. Xung quanh đoàn, hầu như vô hình, những bóng dáng đi lại trong những lùm cây xanh: những lính bộ binh ưu việt bảo vệ sườn. Mỗi người trong bọn họ chỉ có một quả lựu đạn; nhiệm vụ của họ không phải đánh nhau mà trông chừng, thám thính quân địch có thể đang chuẩn bị phục kích. Họ có hàng trăm, trải rộng khoảng nửa cây số, thăm dò từng bụi cây ngọn cỏ. Mạng sống của họ không có giá trị. Họ chỉ là những người hỗ trợ, những Việt Minh cũ mà Cao Đài cho có dịp chuộc lỗi lầm hoặc những nông dân bị bắt buộc đầu quân, nếu sống sót và tỏ ra trung thành, họ sẽ trở thành quân thường trực.

Cuối cùng con đường có vẻ đã thông thoáng. Một phút sau chúng tôi gặp một nhóm dân quê hoàn toàn bình thường, có những người gánh, người xách xô phân bón. Bọn họ, đàn ông, đàn bà, cả trẻ con nữa, nhún nhảy và trò chuyện hết sức tự nhiên. Thế mà đấy là những nhân viên tình báo “dò đường” phía trước cho đoàn người. Ngay người Việt cũng không nhận ra họ được.

Trong suốt thời gian chúng tôi vượt qua đoàn, tôi không nghe một tiếng nói, thậm chí không thấy trên một khuôn mặt, có cảm giác gì. Chỉ là những mặt nạ căng thẳng, những đôi mắt sợ hãi một cách máy móc. Một lần nữa tôi tìm ra sự nghiêm túc của Viễn Đông, ngột ngạt nhất thế giới.

Xa xa nổi lên một đài quan sát rất mảnh khảnh, cao bốn mươi mét. Hàng rào tre hình răng bừa và những cọc nhọn nối tiếp nhau. Ở mỗi hàng rào một người lính canh cúi người kêu lên những tiếng hoang dã: một cử chỉ tôn trọng, lời chào trước kia học của người Nhật. Tôi đang ở trong một bốt của Cao Đài. Các sĩ quan chỉ giữ lại của việc đào tạo Nhật Bản, tiếng chào, và hành động cúi đầu để tự giới thiệu. Trong mấy tuần lễ họ đã trở thành hình ảnh theo kiểu quân đội Pháp: đồng phục màu trắng, quần dài bó, lon, ca-lô rực rỡ. Trong số họ nổi lên chiếc áo dài của một mục sư, uỷ viên chính trị của Đấng Tối cao.

Chỉ huy quân sự, một đại uý khuôn mặt cao nhẵn đón tiếp chúng tôi. Ở đây sạch sẽ và được giữ gìn hơn bốt người Pháp. Người ta ngột ngạt vì mùi thuốc sát trùng. Tường luôn luôn được quét vôi lại, những khẩu hiệu lớn tôn vinh Tổ quốc, Cao Đài và mười điều lệnh quân đội. Cờ rất nhiều. Những bức vẽ chỉ cách đánh răng hợp vệ sinh. Trong phòng ngủ những chiếc màn xếp gọn để đầu giường. Nhà bếp quàng những tấm choàng trắng. Trong mỗi phòng tôi thấy một chiếc bảng đen, phấn, những người đang học vì luôn luôn phải học để nâng cao kiến thức và tiến bộ.

Có một sự ngây thơ trong tìm tòi để cải tiến, trong việc áp dụng kỳ cục đến từng chi tiết nhỏ. Nhưng làm sao không cảm thấy sáng kiến cảm động ấy không đồng thời là căm ghét? Điều ẩn nấp là vết thương cũ nổi lên hơn bao giờ hết với phức hợp thấp kém là lòng tự kiêu và hận thù không lường được. Tôi là kẻ thù cũng như mọi người Pháp không thể giết và phải bắt chước, vượt lên để tiến tới chiến thắng sau này.

Người Cao Đài bắt chước người Pháp thậm chí một cách gàn dở. Họ sao chép phương pháp, kỹ thuật của Pháp. Tuy vậy về căn bản nguyên tắc hành động, điều làm nên sức mạnh của họ là đặc thù Châu Á! Đấy là sự huyền hoặc “quần chúng”, việc khai thác họ làm con người biến mất trong một trật tự tập thể cứng rắn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Hai, 2017, 07:37:22 pm

Trong bốt này quả là sự khắc nghiệt của một thế giới khác! Cả những quân lính thường trực của khu đồn trú cũng giữ im lặng và bất động thường xuyên. Họ không làm một cử chỉ không phù hợp với lệnh chỉ huy, giọng khàn khàn của cấp trên. Khi chúng tôi đến gần, mọi khuôn mặt xơ cứng trong mức độ tôn kính cao như chúng tôi là những vị thánh của họ.

Người ta cho chúng tôi xem hết, cả trại giam lợp tranh. Căn nhà sạch sẽ. Hai người đàn ông và một phụ nữ suy nhược trên một tấm ván với thái độ ngơ ngác và thờ ơ người ta đã khuất phục họ không thương xót trong đất nước này. Người ta bảo họ dậy chào chúng tôi. Họ đứng thẳng tuy gần như chết.

Đại uý Cao Đài giọng ngọt ngào nói đấy là các uỷ viên chính trị một chi đội bị bắt trong trận đánh lớn cách đây vài ngày. Cảnh ấy, những lời giải thích ấy nhằm làm chúng tôi hoan hỉ. Nhưng viên trung uý Pháp chỉ hỏi với giọng vô tư:

- Những tù nhân khác của các ông ở đâu? Ông có thông báo cho tôi trong trận thắng lớn tuần trước, các ông bắt được bốn mươi người kia mà?

Viên đại uý lắc đầu vẻ nhục nhã và có lỗi: chỉ bắt được ba kẻ thảm hại này thôi. Trung uý Pháp im lặng và khẽ nói vào tai tôi:

- Tôi không bao giờ biết được sự thật. Những người Cao Đài không muốn cho tôi biết họ đã làm gì những người Việt Minh.

Bốt này là hạt nhân một thế giới nhỏ của Đấng Tối cao, ở đó dân chúng được biến thành nguyên liệu. Mười nghìn dân quê là những con kiến lao động nuôi sống những con kiến quân lính. Người ta dẫn tôi vào làng. Một dạng hình học. Những con đường nhỏ giống nhau, giao nhau tại những góc vuông. Những mái nhà tranh cùng kiểu thành hàng thẳng tắp. Trước mỗi gia đình phấp phới lá cờ Pháp và Cao Đài. Cứ cách mười mét có một người canh gác.

Hai nhân vật gầy gò mặc quần áo complê, đội mũ thuộc địa đón chúng tôi. Đấy là các đại diện dân chúng, mang tới những lời chào mừng của nhân dân cần cù, nói với chúng tôi nước Pháp và Việt Nam là hai dân tộc Cao Đài ưa thích nhất.

Trung uý thì thầm với tôi:

- Đây là hai giáo viên bị bắt cóc ở tỉnh về. Khi bị bắt họ bí mật gửi cho tôi mấy chữ khẩn cầu tôi bảo vệ. Họ muốn tôi nhân danh dân chủ và tự do giải phóng họ! Dĩ nhiên tôi không làm gì được. Tôi nhận thấy ân huệ của Cao Đài đã ban cho họ và làm rạng rỡ họ. Có vẻ họ được tăng tiến nhanh.

Chúng tôi ra về. Đã là hoàng hôn. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy quân lính bước theo hàng do các mục sư mặc áo dài dẫn đi lễ buổi chiều; phía sau là đám đông Cao Đài với ban nhạc và hát.

Những hàng rào gỗ lại đóng trên đường. Không còn một người, đoàn người xe đã biến mất hoàn toàn. Trong khung cảnh vắng vẻ đó, trung uý nói với tôi:

- Chỗ những người Cao Đài cắm chốt đây trước kia chỉ là một vùng đầm lầy bệnh tật, hôi hám của Việt Minh. Người Pháp bất lực. Tướng de Latour đề nghị Giáo chủ cho sử dụng một “đội bay”. Đội này đến, trong ba tháng xây dựng bốt, đẩy lùi Việt Minh trong những trận đổ máu, tập trung hết dân quê, cải đạo họ để làm tình báo và nô lệ. Biểu tượng của Cao Đài là con mắt. Vì vậy tất cả tín đồ phải dành con mắt bảo vệ quyền lợi bổn đạo và dùng đôi tay để làm ruộng, cấy trồng để nuôi sống quân lính và mục sư của Đấng Tối cao.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Hai, 2017, 07:38:06 pm

Cao Đài không hề có tình thương. Con người là một vật dụng. Ý nghĩ của họ thuộc về Cao Đài, cuộc sống, lao động, gia đình của họ cũng thế. Họ không có quyền sở hữu, có tiền. Tất cả thuộc về Đấng Tối cao và Người xét có thể cho gì - đúng ra là để lại gì - cho từng người.

Thế nhưng “chế độ” ấy lại được các nạn nhân chấp nhận. Ở Châu Á mọi người đơn độc khó tồn tại và dù sao giáo phái Cao Đài cũng đưa tới sự bảo vệ. Tôi hiểu điều đó khi một nhà trí thức già đến với Đấng Tối cao, nói với tôi giọng mếu máo: “Thưa trung uý, thời gian vô địch, tương lai mờ mịt. Tôi là một ông già không có chỗ dựa, vợ tôi đã chết, các con tôi biến mất. Tôi ôm ấp lòng tin vào Cao Đài vì tôi tìm thấy ở đấy một sự cứu giúp cho con người gầy gò của tôi. Ông hẳn biết câu ngạn ngữ “Ai thông minh thì vào đúng cửa”.

Trong đất nước này dù sao giáo phái cũng đưa ra một luật lệ. Việc xét xử thật nhanh gọn. Tôi vừa đến, một chức sắc giáo phái xét xử một người lính Cao Đài tống tiền một nữ nông dân trong thị trấn tôi. Nét mặt con người thánh nổi điên lên: anh lính kia tự lấy cho mình, không phải trong một toán thu thuế. Ông hét bảo dẫn kẻ phạm tội đến, lấy dép đế gỗ đánh mạnh vào đầu anh ta. Mệt rồi ông giao cho những người phó lấy gậy đánh cho gãy lưng. Tôi về nhà. Một phái viên đến mời tôi được vinh dự đến dự buổi hành quyết người lính. Thực vậy, tôi thấy anh bị trói vào cọc trước nhà thờ Cao Đài địa phương; anh ta bình thản nói chuyện với đội hành quyết. Một đám đông là ngà say tập hợp đứng xem. Tôi sai lầm đề nghị họ tha thứ và bị phản ứng kịch liệt.

Điều mà tôi, một người phương Tây, một người Pháp không hiểu là giáo phái Cao Đài, tự “tạo ra” được sự cuồng tín thực sự. Hãy xem bất cứ người dân quê nào. Ông ta có quyền không vào đạo Cao Đài nhưng việc chuyển đạo của ông là bắt buộc, thậm chí không một lời bàn cãi. Người ta bắt ông tin, nhiệt thành, hoan hỉ, chịu mọi tận tụy hy sinh. Con người ấy trở thành, một cách máy móc, một tín đồ say mê, hưng phấn, mù quáng làm tất cả những gì được giao. Dân chúng cuồng nhiệt và những “đội bay” đánh nhau hăng hái như các chi đội Việt Minh. Quân lính của Giáo chủ là những người tự sát trước; họ giết và họ chết như cuộc sống không còn quan trọng gì! Đấy là “sự tẩy não” hoàn toàn, cũng toàn vẹn như ở những người cộng sản. Ở Châu Á hình như tất cả đều có thể.

Trên đất này, cái kỳ cục, thô lỗ thường chỉ là những mặt nạ che giấu những cái gì ghê gớm hơn.

Ông có biết ban đầu đạo Cao Đài là gì không? Những người Pháp già ở Sài Gòn biết rõ Lê Văn Trung, “người sáng lập”. Nợ nần chồng chất, từ lâu anh ta dùng nhiều “mánh khoé” để mượn tiền một người Ấn Độ cho vay nặng lãi lớn ở Sài Gòn. Nhưng ông này đuổi anh ta đi khi vừa mở miệng hỏi vay, ít nhất cũng cho đến ngày anh ta đến thốt ra: “Tôi sẵn có nhiều tiền; tôi thành lập một tôn giáo”. Lần này người Ấn Độ đưa anh ta vào phòng trong kéo một tấm màn dày lại. Mấy tuần lễ sau đó những tên chỉ điểm báo cáo với cảnh sát Pháp sự ra đời của đạo Cao Đài. Cảnh sát lúc đầu chẳng lo ngại gì về Lê Văn Trung nổi tiếng là “loại vô lại” không nguy hiểm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Hai, 2017, 07:38:47 pm

Vậy mà ông thấy đấy giáo phái Cao Đài đã trở thành như thế nào: một công cụ thống trị chưa bao giờ có. Quân đội, quản trị hành chính, tài chính của họ đã lên đến mức nào; thêm vào quyền lực của Đấng Tối cao. Bên trong tôn giáo của họ tất cả đều đơn giản, đơn giản không lay chuyển được nhưng để tiến lên nữa, chiếm cứ đất đai, dân quê, của cải, nhiều hơn, họ phải làm “chính trị lớn”. Về mặt này họ tiến hành mềm dẻo: mềm dẻo chỉ là một từ ngữ. Bịp bợm, phản bội, xảo trá là những từ đã được né tránh.

- Đấy là sự nghiệp bạo lực có chỉ đạo. Từ chỗ không có gì, do tàn ác, giả đạo đức và khôn khéo, giáo phái Cao Đài đã gần đến đích. Trên bước đường đi lên họ đã sử dụng và phản bội lần lượt người Nhật, Việt Minh, Pháp, cựu hoàng Bảo Đại và những phe phái khác. Lê Văn Trung là một kẻ vô liêm sỉ giả vờ ngây thơ. Sau khi đưa Cao Đài ra anh ta có ý tưởng thứ hai. Thời kỳ thực dân mọi tổ chức chính trị đều bị mật thám săn đuổi. Nhưng họ có thể làm gì được một tôn giáo? Đấng Tối cao vào phái đối lập, đã bắt đầu tuyên bố trong các lời truyền đạt là phải đánh người Pháp. Rồi có ngay tiền và kết quả. Giáo phái Cao Đài tổ chức nhân viên riêng, tay chân, quân đội bí mật. Những ông thầy đầu tiên của họ là người Nhật. Hoàng thân Cường Để, anh em họ của Bảo Đại lẩn trốn ở Vương quốc Mặt trời mọc đã hai mươi năm, được đưa lên làm Hoàng đế hợp pháp. Đầu năm 1945 Cao Đài lộ diện, là cảnh sát phụ của Nhật. Nhưng từ mùa hè họ là một yếu tố tấn công của Việt Minh. Bây giờ họ chính thức mến yêu người Pháp.

Cuối cùng chỉ là một nhóm người lợi dụng tình hình đất nước với một sự vô đạo đức hoàn hảo, với khoa học lừa dối. Nhưng đấy là khoa học “tiểu tư sản”. Không có quan lại, trí thức hoặc những tư sản lớn trong tôn giáo của Đấng Tối cao. Những lãnh tụ của họ nguyên là thư ký, viên chức thuộc “lớp người tầm thường” cổ áo trắng. Đấy là trường hợp của Phạm Công Tắc, của các chức sắc tôn giáo trang sức diêm dúa và cả một số mưu sĩ không ngờ vực được ở Sài Gòn. Tất cả thuộc về tầng lớp xã hội say mê tỉ mỉ nhất, lớp người hình thành ở Châu Âu chủ nghĩa phát xít và na-di.

Đối với phần lớn những người Việt Nam biết điều, đạo Cao Đài là một tổ chức đáng sợ. Nhưng ngay trong sự cứng rắn của họ. Trong khát vọng quyền lực, trong sự tàn bạo và mưu mô gian xảo của họ có một sức mạnh, một niềm tin vào sức mạnh đã lôi kéo nhiều lớp trẻ. Những người này cho rằng Đấng Tối cao là nguồn trong sạch. Một số tự xin cải đạo với lập luận: “Tôi không phải cộng sản. Không có gì khác tồn tại. Tôi gia nhập Cao Đài để có một lòng tin”.

Tôi cũng nghĩ Giáo chủ và các Hồng y giáo chủ không hoàn toàn là những kẻ lừa gạt. Giữa tất cả những trang trí bịp bợm, họ thực sự tin, thậm chí mê tín, vào sự giao liên với người thế giới bên kia và “chiếc giỏ có mỏ”. Tất nhiên những tin truyền đạt của bậc trên thường tối nghĩa phải sử dụng lối cắt bỏ. Lúc đó trong nơi thánh của các thánh xảy ra những tranh cãi lạ lùng. Người tự kết tội nhau đã làm những lời tiên tri sai. Người ta thảo luận trong nhiều ngày, người nào cũng cố làm cho Đấng Tối cao nói lên điều mình muốn. Nhưng nói chung Đấng Tối cao rất cao xa, hoàn toàn xứng đáng với giáo phái. Chính người cho những lời dạy vô liêm sỉ nhất.

Dù sao trong những tháng cuối này Cao Đài không ngớt ca tụng Pháp. Người ta đang trong trạng thái vui vẻ Pháp - Cao Đài. Mỗi lần có một mắt xích trong hệ thống bình định bị rời ra, chỉ cần Ban chỉ huy Pháp đề nghị Giáo chủ thêm một vài quân lính. Ông cung cấp ngay, không ghê tởm gì. Đổi lại ông chỉ xin một ít vũ khí, một ít tiền nữa. Người ta chấp nhận ngay những bổ sung ấy.

Mấy ngày nay Đấng Tối cao ít tử tế hơn. Ban tham mưu Sài Gòn bỗng phát hiện ra nguy cơ: toàn xứ Nam Kỳ có thể bị tràn đầy người Cao Đài. Người Pháp đảo lộn một nửa đường lối chính trị, từ nay tránh dùng những “đội bay”, tỏ ra ít cảm thông, kém độ lượng hơn.

Đây là thời kỳ quyết định. Vì phải chăng Cao Đài không thử buộc Pháp nhường bước? Họ có khả năng làm tất cả bài bản “tinh tế’ Châu Á, những dọa dẫm bê bối nhiều vô cùng! Họ sẽ làm tất cả trừ việc quay về lại với Việt Minh vì như thế sẽ bị huỷ hoại. Người ta vẫn giữ viễn tưởng thân thiện nhưng trong việc mưu sát.

Sau đó tình hình đã bắt đầu. Một số sĩ quan Pháp quá chặt chẽ - những “người gây trở ngại” chống lại khi Cao Đài đánh những quân lính bổ sung của họ, bắt cóc hương chức, lấy thuế trên đường - bị giết chết. Chính thức đưa ra là do Việt Minh nhưng toàn thể dân chúng biết rõ đấy là một “đội bay” thực hiện. Tôi không có quyền nói lên điều đó. Như vậy là bất nhã và đi quá xa. Vì trên những sự cố cá nhân vẫn luôn có đường lối chính trị lớn với những cần thiết của nó.

Vả lại nếu bản thân tôi bị thủ tiêu, có thể là do bất cứ ai, do mọi người, việc ấy xảy ra đối với Việt Minh, Cao Đài hoặc những người khác. Không bao giờ có ai biết tôi đã hết đời như thế nào. Công cuộc bình định là thế đấy.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Hai, 2017, 07:40:15 pm

Câu chuyện về một nhà sư

Sông Mékong chảy cách đấy một cây số. Bốt Cây Vông đóng trên bờ con đường lớn, ngay trước bến đò. Mười một giờ trưa, trưởng bốt trung uý Campadieu, mồ hôi chảy trên tấm thân trần nở nang và đầy lông. Đây là một người cao to, vui tính, bụng mềm vì những nếp mỡ. Ngả người trên một chiếc ghế dài, đôi chân gác lên chiếc bàn ping-pong, ông nốc bia. “Nước đá”, ông hét lên. Một anh bồi mang xô đá lại.

- Chà, bây giờ có thể uống bia lạnh, Campadieu thở phào khoan khoái nói! Từ khi Hòa Hảo liên minh, người ta mang từ Sài Gòn đến mọi sản phẩm văn minh của hãng bia, đá Đông Dương.

Chính ông Campadieu này nhân danh người Pháp sau những thương lượng khác thường đã ký kết hòa bình với quân Hòa Hảo. Với giọng ồ ề trong cổ họng của miền Trung nước Pháp, ông kể với tôi cuộc phiêu lưu của mình:

- Hôm ấy tôi đi tuần tra với một trung đội trong rừng sú vẹt dọc bờ sông. Tôi bỗng nhận thấy lá cờ màu đỏ hơi tím quân Hòa Hảo bao vây chúng tôi, người của họ sau mỗi gốc cây, trong mỗi bụi rậm. Có mấy giây căng thẳng, hai bên ngần ngừ giữa bắn hoặc thương lượng. Người ta nói chuyện. Một người Hòa Hảo ra khỏi gốc cây, ra hiệu cho tôi lại gần. Tôi tiến tới một mình. Lính của tôi và các chiến binh của giáo phái luôn trong tư thế chiến đấu, ngụy trang và ngón tay trên cò súng, sẵn sàng xả đạn vào nhau. Mọi việc tốt đẹp. Chỉ mấy câu, hai bên quyết định ngày mai không có tùy tùng và không vũ khí, tôi đến gặp Năm Lửa, một chỉ huy cao cấp trong trung tâm chỉ huy của họ ở rạch Cái Dâu không thể xâm chiếm được.

Tôi ra đi từ bình minh, vào một rừng dừa dày đến nỗi đến một xóm làng mà lúc đầu không nhận ra. Khoảng một trăm người nét mặt sợ hãi, nghi ngờ bao quanh tôi. Họ mặc rách rưới, tóc bù xù không cắt thả xuống thân hình. Vũ khí từ con dao đến súng tiểu liên. Giữa sân chính có một chiếc ca-nông 20 và hai đại liên, chắc là chiến lợi phẩm của một cuộc phục kích.

Đàn bà, trẻ con từ xa nhìn tôi hằn học như tôi phải bị họ xé nát. Người ta còn dẫn tôi đi mấy trăm mét nữa và nhốt tôi vào một căn nhà tranh có hai Hòa Hảo canh chừng, súng ngắn trước bụng. Nhiều giờ trôi qua. Tôi nghĩ mình bị kết tội, chờ đợi hành quyết, cửa bỗng mở, một cô gái đưa trà đến cho tôi. Thế là thoát nạn vì đó là dấu hiệu yên bình. Năm Lửa chấp nhận điều đình với người Pháp. Suốt thời gian tôi chờ đợi ông ta trầm tư cầu nguyện; ông khẩn cầu thánh sống của Hòa Hảo bị ám sát gợi ý cho ông quyết định đúng đắn.

Trung uý lấy cho tôi xem một bức ảnh. Chân dung một người đàn ông. Khuôn mặt khổ hạnh cổ điển, quá mỏng, quá đều đặn, đẹp với những người có trực giác về tương lai. Nhất là cảm giác tập trung ở đôi mắt “phù thủy” và trong nụ cười có lẽ của người mất trí như của bậc thánh.

- Đấy là Huỳnh Phú Sổ, vị Thánh sống, người sáng lập tôn giáo Hòa Hảo. Nhưng đối với dân chúng, ông ta chỉ biến đi - một Thánh sống không thể chết. Mỗi gia đình để hình ảnh tôn kính của ông trên một bàn thờ nhỏ dựng trước nhà, dâng lễ vật, cơm, hoa bên cạnh mảnh vải màu đỏ tím - màu sắc tượng trưng sự hài hòa các màu.

Và bởi vì Huỳnh Phú Sổ không trở về mà việc thương lượng suýt thất bại và tôi chết hụt. Trước đây ông ta tuyên bố cuộc thánh chiến chống người Pháp - phải kéo dài cho đến lúc ông ra lệnh kết thúc. Ông hãy hình dung Năm Lửa chờ ông ta cho đến lúc cho gọi tôi đến. Không thấy ông ta ra lệnh, Năm Lửa nghĩ tôi xúi dục mình phạm tội và định hiến sinh tôi.

Điều cứu tôi là một câu thơ phát hiện ra trong vô số lời tiên tri của thánh. Trước kia ông ta có tuyên bố với những người tôn thờ mình: “Mong không có gì làm các bạn ngạc nhiên. Sẽ có ngày các bạn là bạn bè của những kẻ thù địch hiện nay”. Hình như chính một nhân viên Phòng Nhì tìm thấy - hoặc làm ra - câu định mệnh ấy và chuyển kịp thời đến cho Năm Lửa. Vậy là ông này yên tâm, có thể chắp nối với người Pháp; Ông chỉ đòi hỏi một điều khoản đặc biệt, dự kiến thỏa thuận dứt khoát sẽ do Huỳnh Phú Sổ cho phép khi ông ta trở về.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Hai, 2017, 07:40:42 pm

Với Hòa Hảo, người ta luôn luôn ở trên thiên đường. Bây giờ tôi không còn lạ việc Huỳnh Phú Sổ là bất tử đối với họ. Điều ấy gần như bình thường khi biết rõ cuộc đời của ông ta rất khác thường. Tôi kể cho ông nghe câu chuyện của ông ta, ít nhất cũng là những gì người ta biết.

Và ông Campadieu tốt bụng, biết điều và nôm na kể lại cho tôi nghe chiến tích kỳ diệu nhất giữa sự gia ân và tội ác. Lúc đầu là một huyền thoại vàng như lóe sáng lòng tin cổ xưa xung quanh một người Nhà Trời. Nhưng đức Thánh kêu gọi chiều sâu tăm tối nhất của tâm hồn dân quê, về bản năng tội lỗi và chết chóc của họ.

- Những môn đồ kể lại với tôi cuộc đời của Huỳnh Phú Sổ đẹp biết mấy! Ông ta là con trai một “hương chức” nhỏ trong làng. Bị tật động kinh, sau một cuộc sống sa đọa ông ta đi một mình lên vùng thiêng Bảy Núi gặp một ẩn sĩ. Nhiều năm trôi qua ông dành cho việc cầu kinh, suy nghĩ và sám hối. Hai người sống trong một hang động giữa rừng. Người ẩn sĩ chết, Huỳnh Phú Sổ trở xuống đồng bằng; ông đã khỏi bệnh nhưng gầy đi, gò má nhô cao, tóc dài ngang vai. Ông đi từ làng này đến làng khác, không ăn, giảng về lòng tin trong sạch đã bị các nhà sư làm hư hỏng. Ông bảo dân quê khốn khổ:

- Đừng đưa tiền cho các nhà sư tham lam. Không vào chùa. Hãy ngồi trước Đấng chí tôn mà cầu nguyện. Huỳnh Phú Sổ lúc đầu là tông đồ của Phật giáo cách tân tôn giáo tinh khiết đưa tới đạo lý của niết bàn và nụ cười của phật Sakiamouni. Với đàn ông, ông nói phải tự thoát mình, ngày càng tiến gần tới việc chối bỏ ham muốn, lột xác bản thân mình. Ông cũng thông báo với họ qua những bài thơ đoán tương lai tối nghĩa đã tới gần thời khắc ghê rợn mà chỉ lòng tin thực sự mới cứu vớt được. Ông chữa những người bệnh hấp hối bằng lá cỏ và phù phép, làm những phép lạ. Một đêm ông thổ lộ chính mình là Thánh sống; từ đấy ông ra lệnh cho dân chúng tôn sùng mình. Dân quê quỳ lạy trước mặt và chẳng bao lâu ông có một triệu tín đồ cuồng nhiệt.

Tuy nhiên hồ sơ của Mật thám Pháp đưa ra một hình ảnh rất khác của Huỳnh Phú Sổ. Không còn là một ông thánh có những đức tính đến được chỗ cao siêu mà người ta gọi là một “nhà sư điên”. Đấy là một nghề nghiệp và trước ông ta cũng có nhiều người khác. Nhưng vận may của Huỳnh Phú Sổ là bắt đầu hành nghề vào thời Nhật chiếm đóng Đông Dương. Người Nhật “nhận ra” ông và sử dụng ông.

Chính họ cho ông ký ninh bỏ vào những bùa chú chữa những bệnh nhân sốt rét hấp hối và nói: “Hãy xem pháp thuật của ta”. Tiếng tăm lan rộng nhưng những lời phán bảo của ông vẫn luôn tối nghĩa. Thảm họa rùng rợn sẽ ập xuống trái đất. Phải rời bỏ những thành phố tội lỗi. Ông hô hào: “Những người khôn ngoan ở trong hang động, chỉ những kẻ u mê mới ở nhà cao cửa rộng”. Tuy nhiên ông sẽ đè bẹp cái xấu, ông sẽ là người giải phóng dân chúng. Và Huỳnh Phú Sổ tạo nên những “sư đệ điên” đi gieo rắc khắp nơi sự nổi dậy và tội ác. Ông hứa tín đồ nào giết được mười người Pháp sẽ lên Thiên đường. Ông cũng nói: “Khi các bạn nấu cơm, để một nắm gạo cho ta”. Với số gạo đó ông ta mua ở Sài Gòn những vũ khí đầu tiên cho băng nhóm mình.

Dù sao trong sự lộn xộn cũng có một lôgíc nào đó. Kinh hoàng bắt đầu từ năm 1945, trong những tháng biến động người Nhật đổ sụp xuống. Không còn người da trắng trong những vùng bao la miền tây, chỉ có Hòa Hảo và Việt Minh ký với nhau một thoả hiệp liên minh. Việt Minh giữ các thành phố và Hòa Hảo ở đồng ruộng. Chẳng bao lâu họ đánh nhau. Huỳnh Phú Sổ ra lệnh cho quân lính ào vào Cần Thơ, “hòn ngọc” vùng Mékong, nơi sản xuất lúa gạo chủ yếu. Bại trận. Hàng nghìn Hòa Hảo đứng chật sân vận động, bị một tòa án nhân dân xét xử và hành quyết. Hàng nghìn khác bị trói ném xuống dòng sông. Thánh sống thoát khỏi thật kỳ diệu. Ông ta quyết định tín đồ nào ám sát được mười Việt Minh, sẽ lên Thiên đường cao hơn Thiên đường chỉ mười “thực dân”.

Các đội quân của Leclerc đến vào lúc những người da vàng tiêu diệt nhau mà chẳng hiểu ra sao. Người Pháp lại vào các thành phố, trên đường bị những người Annam chém giết; họ đều giống nhau, cũng mặc quần áo đen nhưng giết lẫn nhau.

Việc đó kéo dài hai năm cho đến khi Huỳnh Phú Sổ “mất tích”. Kẻ chịu trách nhiệm bao nhiêu bi kịch ấy phải chết một cách độc ác, nạn nhân của một sự phản trắc. Thánh sống nhận được một bức thư thân thiện của Ban chấp hành Việt Minh Nam Bộ, đi không có tùy tùng. Người ta bảo ông: “Hãy đến thương lượng với chúng tôi ở tổng hành dinh Đồng Tháp Mười. Chúng ta nên chấm dứt cuộc chiến tranh huynh đệ, hãy hòa giải với nhau”. Nhưng Huỳnh Phú Sổ đã không trở về.

Tình hình thật phi lý. Hai triệu tín đồ của Thánh sống không khóc cái chết của ông, không trả thù - vì ông không thể chết được. Những chỉ huy chính của ông rất bối rối: làm gì đây? Họ nghi ngờ có sự phản bội. Và vì thế cuối cùng họ đến với chúng tôi. Họ như những đứa trẻ bí hiểm sợ sệt một cách đơn giản và hoang dã. Chúng tôi cố gắng khai hóa họ. Cũng đạt được một số kết quả nhưng không phải là một nhiệm vụ dễ dàng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2017, 10:52:24 pm

Niềm vui của sự khai hóa

Quang cảnh vui mắt của miền nhiệt đới. Những chiếc cầu trên không bằng tre, không nặng, đung đưa trong gió, bắc qua con rạch bùn lầy đầy sen và thuyền nan. Dọc bờ sông, làng xóm kéo dài những ngôi nhà tranh giữa những cây dừa; dây leo, hoa quả. Giữa thiên nhiên nóng rữa ấy, dân chúng Hoà Hảo sống không gò bó gì, hoàn toàn vui vẻ. Những người già nói đùa, các cô gái thủ thỉ và quân lính cầm tiểu liên, lựu đạn, không hề đề phòng, như là những đồ chơi.

Đâu là sở thích chết chóc mà Campadieu đã nói nhiều với tôi? Tôi ở ngay bốt chỉ huy của Năm Lửa, trong xóm ông ta thấy ghê gớm khi táo bạo đến cuộc hẹn gặp. Việc liên minh chỉ mới mấy tuần mà tất cả toát lên sự yên ổn và thân thiện.

Tôi là khách mời của Năm Lửa đến dự bữa tiệc chào mừng trong gian nhà đổ nát và rất đẹp của một ngôi chùa, giữa những tượng Phật không còn nguyên vẹn và những chiếc kích nghi lễ cũ kỹ; màu sơn đỏ trên những hàng cột lớn ánh lên trong bóng mờ. Bốn mươi thực khách tập họp quanh chiếc bàn đầy chén bát và cũng có mấy khẩu súng ngắn, cả ban tham mưu của giáo phái ở đấy: Những băng trưởng dữ tợn đã biến thành những quân nhân đẹp thân thiện. Hầu hết là những thanh niên mới trưởng thành, lực lưỡng và cân đối, thích thú bận quân phục Pháp mới. Họ hưởng thụ thú vui khai hóa không mặc cảm gì. Nhiều người còn thử dùng thìa, nĩa. Việc ấy có vẻ kỳ cục và họ cười.

Tuy vậy bên cạnh tôi, Năm Lửa - một nhân vật lớn tuổi hơn với khuôn mặt nông dân thô lỗ và tinh quái - ngồi yên lặng. Nhưng ông khôn ngoan vì ông ta sợ không được xem là một vị tướng thực thụ nếu nói năng không đĩnh đạc. Ông nghi ngờ. Người Pháp đã chơi ông một vố. Lúc đầu ông rất sung sướng khi người ta gắn cho ông một ngôi sao nhưng đến Sài Gòn, vào hiệu may, quân phục tốt nhất, ông được biết đáng lẽ ít nhất phải hai sao. Với quyền lực riêng của mình, ông đã thêm một sao nữa. Từ sự việc không may đó, ông rụt rè trong giao tiếp xã hội, biết rõ học vấn của mình còn không đầy đủ.

Làm sao nhận ra ông là một kẻ chuyên chặt đầu người, Năm Lửa cách đây một năm, mặc toàn đồ đen, một người lùn gân guốc, đầu to với đôi mắt nhỏ ánh lên, bẩn thỉu và thô lỗ, vô cùng tàn ác vì không có trí tưởng tượng? Máu đối với ông ta không là gì thậm chí không phải một vấn đề vui thích. Nhưng ông đã xây dựng quyền lực bằng một lời quát ngắn gọn: “Xuyên cọc vào người chúng, lột da chúng ra”, bản thân ông cũng sẵn sàng bắt tay vào những nhục hình ấy. Ông ta cùng tính chất với đồng ruộng, con ngòi, bùn lầy, như bốc ra từ những chỗ đó; vừa hăng say cao độ, mưu mẹo và đần độn, có một sức lực hoang sơ, một sức chịu đựng không ngờ được. Ông can đảm, điên rồ và không phức tạp nhưng không bao giờ bị thương như được phép lạ bảo vệ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2017, 10:53:25 pm

Năm Lửa từ tầng lớp thấp kém nhất sinh ra, đến mức cảnh sát không có hồ sơ về ông ta. Trong nhiều năm ông làm người dồn khách cho các “xe ca Trung Hoa”. Ở cửa ngõ Sài Gòn, trong đám đông lộn xộn, ông chộp lấy gói đồ đạc của một dân quê bỏ lên xe mình. Người kia chỉ tìm thấy lại hành lý của mình khi cùng lên đấy và lấy vé xe. Năm Lửa cùng làm rất nhiều nghề khác: bán cháo rong, chèo đò, đạp xích lô. Gần năm mươi tuổi thì nghe lời bốc lửa của nhà sư điên. Ông là một trong những người sùng đạo đầu tiên và với những chiến công và lòng trung thành, trở thành người chỉ huy chính, gần gũi nhất với Giáo chủ. Sự tận tụy của ông với Thánh sống thật vô bờ. Nhiều lần ông cứu Giáo chủ khỏi những chiếc bẫy của Việt Minh. Khi Huỳnh Phú Sổ đến Đồng Tháp Mười và bị ám hại mặc dù ông đã can ngăn, ông muốn tự sát để theo chủ lên thế giới trên kia, nhưng ông không làm sợ phạm thánh, vì như vậy là chấp nhận cái chết của con người Bất tử.

Nhưng quá khứ mới ấy bây giờ đã rất xa! Trong bữa ăn này, Năm Lửa thực lòng cố tỏ ra là một qúy ông có giáo dục! Không ai có được một nét mặt đáng kính đôn hậu hơn ông ta - rất tròn, da nhân, cứng rắn và có đôi ria mép rậm đã bạc cong vút lên. Cứ đúng năm phút ông cười với tôi, bảo phiên dịch, một thanh niên ăn mặc lịch sử kiểu thành phố nói rất hân hạnh có mặt tôi ở đây và với đôi đũa mà ông đưa thức ăn vào miệng, ông chọn đưa cho tôi những miếng ngon nhất trong đống thức ăn. Mỗi lần nhiệm vụ ấy làm xong ông lại rơi vào câm lặng, nhai, ầm ừ và nhổ nước bọt.

Đến món ăn thứ ba mươi Năm Lửa nói chuyện với tôi lâu hơn, giọng khàn khàn mà người dịch ăn mặc chải chuốt chuyển thành lời hùng biện giọng mũi và lố bịch:

- Tôi rất hổ thẹn phải tiếp ông khách mời trong một chỗ như thế này và nó hoàn toàn không xứng đáng với ông. Do chiến tranh cho đến nay Hòa Hảo không thể hưởng thụ những thành quả của cuộc sống hiện đại; Tôi đề nghị sau ba tháng mời ông trở lại để tôi được đối xử xứng đáng hơn. Tôi đã ra lệnh làm một ngôi nhà lớn ngay trên bờ sông Mékong này. Tôi muốn ngôi nhà được xây dựng theo thiết kế khoa học nhất, với những gì tốt và đắt nhất. Tôi bảo kiến trúc sư làm thật tốt như ở Pháp đối với những nhân vật quan trọng.

Bữa tiệc kết thúc, bà Lê Thị Ngoan, vợ Năm Lửa xuất hiện. Đây là bà vợ hai, thô lỗ hơn và rõ ràng dâm dật hơn. Cùng tuổi với ông, bà cũng lùn mập và gân guốc như ông, đầu còn to hơn, nhưng nét người rõ rệt hơn. Người đàn bà này, tóc buộc băng, mặc một loại quần áo đồng phục. Vì bà cũng là tướng, tổng chỉ huy Đội nữ binh Hòa Hảo; bà đến mời tôi đi duyệt binh.

Trên khoảng đất nện rộng lớn, khoảng một trăm cô gái mặc quần áo đen, những người hoang dã trẻ đẹp bồng súng chào - giáo, dao bầu, mã tấu, búa, tất cả những dụng cụ dùng để chém giết. Sau những động tác nghi thức ấy, các cô hét, vung vẩy, làm như hạ gục quân địch và cắt đầu chúng.

Bà Lê Thị Ngoan rất hài lòng, giải thích với tôi:

- Các nữ binh của tôi thường chiến đấu luôn; họ đã giết được nhiều Việt Minh. Nhưng dù có chiến công, họ vẫn rất ngoan. Rất trong trắng. Tôi chú trọng đến đạo đức của họ.

Một sĩ quan liên lạc Pháp nghe thế, nghĩ nên nói cụ thể với tôi:

- Các nạn nhân duy nhất của các cô ấy trước đây là những tù binh Pháp mà các cô chém thành khúc vì các cô là đội hành quyết. Nhưng đấy là những chuyện cũ, quên đi thì hơn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2017, 10:54:29 pm

Sau cuộc liên minh của Hòa Hảo, bà Lê Thị Ngoan đòi chúng tôi cung cấp tiểu liên cho quân của bà. Người ta cho họ. Việt Minh bị số vũ khí ấy hấp dẫn đêm sau đó tấn công bốt họ được giao bảo vệ. Họ chỉ kịp bỏ chạy theo một cánh cửa bí mật.

Bây giờ đội nữ binh Hòa Hảo sử dụng lại trang bị cũ từng mảnh. Họ dùng để đi diễu binh và cũng đi trừng phạt những bà vợ lẽ của viên tướng. Dưới sự chỉ đạo của bà Lê Thị Ngoan, họ vạch mặt những bà này, treo lên và đốt một ít nhưng không làm trọn vẹn. Năm Lửa không cho làm việc đó.

Tôi được biết ông tướng và bà tướng là một đôi hợp ý nhau. Năm Lửa không chống đối khi bà vợ cho ném lựu đạn hạ sát đại tá tham mưu trưởng của ông - hành động này gây ra một phản ứng kéo theo một loạt giết chóc trong những vùng quân lính Hòa Hảo.

- Trong nhiều tuần, sĩ quan liên lạc nói với tôi, tôi không dám đến văn phòng thứ nhất, hai, ba và bốn mà trong quá trình khai hóa, quân đội Hòa Hảo dựng nên theo kiểu Pháp. Mọi phòng đều có gài bẫy, cả ở đồ đạc nên người ta khi ngồi xuống có nguy cơ bị nổ tung.

Thực tế đại tá tham mưu trưởng không “lương thiện”. Ông ta muốn làm những phi vụ mà không chia phần cho Lê Thị Ngoan, một tội không tha thứ được và phải bị trừng phạt.

Trong những vấn đề quan trọng, Năm Lửa bao giờ cũng theo Lê Thị Ngoan. Chính bà là bộ trưởng tài chính của ông. Sự tham lam và tài xoay xở của bà không tưởng tượng được.

Từ khi Hoà Hảo rời bỏ đầm lầy về bố trí trong các bốt nhân danh những nhân vật được biết đến, họ lao vào làm giàu với sự tàn bạo vui thích của những “kẻ dã man” không bao giờ thỏa mãn. Họ bắt tay làm mọi việc. Nhưng không ai bằng được bà Lê Thị Ngoan. Bà có các khoản thuế -buộc phải trả - không tính đến những sự hùn vốn đặc biệt, những vụ tống tiền và đốt phá của bà. Bà tham gia vào những công ty mua bán ô tô, vào việc vận tải đường thuỷ, khai thác gỗ, thậm chí không cần bỏ vốn vì biết “thuyết phục” một số nhà giàu đầu tư cho bà không nói đến tiền lãi. Nhất là bà độc chiếm lĩnh vực kinh doanh lúa gạo. Vùng hoạt động của chồng bà là vùng sản xuất lúa rộng lớn nhất Đông Dương nên người đàn bà tồi tệ và độc ác này nắm trong tay tất cả vận mệnh cuộc chiến tranh kinh tế chống Việt Minh.

Trong mấy tháng viên tướng và vợ trở nên rất giàu, thành các tỷ phú. Năm Lửa mua những máy lạnh để than và xe hơi Mỹ, nghỉ ngơi thoải mái với vệ sĩ là những vũ khí sống. Bà Lê Thị Ngoan người phủ đầy kim cương.

Thế nhưng việc mua bán hoan hỉ nhất của Hòa Hảo là một chiếc thủy phi cơ nhỏ của một công ty Pháp muốn trút bỏ vì sợ không an toàn. Vậy là Năm Lửa mua với giá bằng vàng và thuê một đội bay phiêu lưu Pháp với những khoản tiền vô cùng lớn. Chiếc máy bay được trịnh trọng khai trương trước toàn thể nhân dân Cần Thơ tập hợp trên bờ sông Mékong. Những sứ giả đặc biệt triệu tập họ. Mỗi người đứng xem vung vẩy một lá cờ màu đỏ hơi tím. Phi công đã cảnh báo “Không quá hai hành khách.” Nhưng Năm Lửa không thể nghiêm chỉnh bỏ lại tay chân thân tín trong một sự kiện vinh quang như thế và chiếc thuyền theo cờ cập đến thuỷ phi cơ cắm neo giữa sông chở năm người, viên tướng và bốn người có chức quyền của Hòa Hảo. Tất cả dồn lên, chiếc máy bay nọ khởi động nhưng không cất cánh được. Chiếc thuyền trở vào bờ mang theo một người. Lần thử thứ hai và một người nữa ra. Lần thứ ba, một người nữa rút lui. Chỉ đến lần thứ tư chiếc thủy phi cơ treo cờ Hòa Hảo, đầy dây hoa mới bay lên giữa niềm say sưa của đám đông. Nhưng trên đấy chỉ còn Năm Lửa và sĩ quan tùy tùng, cả hai nhục nhã mặc dù tầm cỡ lớn của màn kịch, xác định do sự thiếu nhiệt tình của người lái, nghĩ rằng khi trở xuống đất sẽ trừng trị anh này.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2017, 10:55:03 pm

Những ngày tiếp đó đi khắp vùng đất Hòa Hảo, tôi nhận thấy người Pháp chỉ khai hóa bề ngoài. Mặc dù những món nợ giáo phái vay người Pháp - các đồn bốt, lễ tiết nhà binh, việc chào cờ, bệnh viện, nơi quân lính tập dượt không mệt mỏi đánh trống thổi kèn, cái cơ bản vẫn nguyên vẹn. Bên dưới vẫn là chất men vô chính phủ, máu và dâm đãng. Đúng, có một trật tự Hòa Hảo - Việt Minh bị đẩy lùi mấy tháng ra khỏi vùng này. Cũng có một lối xử Hòa Hảo, cha chú nhưng cương quyết. Đao phủ một tay nắm tóc của tội phạm và tay kia phạt một nhát gươm vào cổ. Tội phạm là bất cứ người nào bất bình.

Trật tự và lối xử phạt ấy dù sao cũng rất đặc biệt, làm đảo lộn những quan niệm buôn bán tuy rộng rãi của các thương gia Trung Hoa. Nguyên tắc của bề trên là trả không cau có tất cả những khoản tiền bất cứ một chính quyền vũ trang nào có thể đòi hỏi dù không bù đủ giá thành. Nhưng người Trung Hoa than phiền những đòi hỏi của Hòa Hảo quá lớn đến mức sẽ thủ tiêu thể lệ hiện hành của thương trường vốn tồn tại hàng nghìn năm nay. Còn người Pháp đã từ lâu không thể khôi phục lại nguồn điện: quân lính Hòa Hảo ăn cắp dây khi người ta vừa đặt để rồi hôm sau bán lại cho các kỹ sư chán nản của sở Công chính.

Những người Hòa Hảo mà từ nay người Pháp có, không phải một quân đội. Theo cách nói của người Annam, đấy là “một con rắn không đầu”. Chỉ là những công ty lớn và chủ của họ. Đất đai của Hòa Hảo không thống nhất. Một lẫn lộn vùng và tiểu vùng bên cạnh nhau mà mỗi chỉ huy làm chủ vùng của mình. Một khi rũ bỏ được Việt Minh, quân Hòa Hảo lại lao vào cuộc chiến du kích giữa họ với nhau.

Người Pháp vốn ưa chuộng Năm Lửa, muốn tạo mọi điều kiện cho ông ta và muốn đưa lên thành chủ soái chung. Vì vậy những trưởng băng nhóm khác giận dữ, nổi dậy và tuyên bố ly khai.

Lâm Tấn Nguyên đặc biệt tức tối. Ông ta lai Trung Hoa, cao lớn, bóng bẩy và mạnh không tưởng được, là một kẻ chém đầu không đếm xuể. Uy tín của ông ta vừa bị Việt Minh trói chân tay, buộc đá ném xuống sông Mékong và tái hiện bất tử sau mấy ngày ở lễ tang đồng bọn tổ chức tưởng niệm. Ghê gớm hơn nữa là Ba Cụt, có thể làm tất cả. Tên ông ta có nghĩa “ngón tay bị chặt đứt”. Trước kia đứng trước quân lính mình ông ta dùng búa chặt đứt ngón tay trỏ, thề chặt cổ tất cả những “tên thực dân” như thế.

Trong lúc Năm Lửa thỏa hiệp với người Pháp, có những tiếng đồn lạ lùng trong dân chúng Hòa Hảo. Thánh sống đã xuất hiện trở lại, chờ quân lính thiện chiến của người trong vùng Bảy Núi. Một biệt động Hòa Hảo giết luôn mười bốn thầy dạy người Pháp để chạy nhanh đến chỗ hẹn. Nhưng trong vùng Bảy Núi chỉ có Lâm Tấn Nguyên trước đây có quan hệ với bố Thánh sống, một giáo trưởng đồng tính luyến ái, là sợi dây linh hồn của con trai mình. Người lai Trung Hoa với Giáo trưởng cùng đi, tuyên bố với những người mới đến: “Thánh sống không xuất hiện lại vì các người nhiều tội lỗi. Hãy sám hối đi. Rời bỏ Năm Lửa đã phản bội lòng tin khi liên minh với người Pháp”. Mấy ngày sau Lâm Tấn Nguyên ký một thoả thuận với chính những người Pháp ấy, chấp nhận cho ông ta cấp bậc đại tá và vùng đất Châu Đốc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2017, 10:55:29 pm

Đến lượt Ba Cụt nổi dậy. Đội quân viễn chinh vừa cho ông ta tiền và vũ khí, vậy là không cần đến họ nữa. Ông phải chấp nhận quân lê dương nắm người của ông. Điều kiện ấy gây phiền phức cho ông. Một hôm sau một đợt cùng nhau đi tấn công trở về, một số lính Pháp mệt mỏi ngủ say trong thuyền: họ bị cắt cổ và không dậy nữa. Vậy là Ba Cụt có mọi thứ trong tay, trở lại cuộc sống tự do. Ông ta có phương tiện và nguồn cung cấp cho phép đánh nhau nhiều tháng - chống lại Năm Lửa và người Pháp, Việt Minh, Cao Đài, vì tất cả đều là thù địch của ông. Sau những chiến thắng và thất bại, nguồn lực cạn kiệt, ông ta lại được cung cấp, tỏ ra hối lỗi. Được chấp nhận ông lại được cung cấp và chuồn. Trong năm năm Ba Cụt quy thuận năm lần và năm lần ly khai liên tiếp, mỗi lần cũng một quy trình ấy, giết một số lính của Đội quân viễn chinh.

Tuy vậy, người Pháp hài lòng về Hòa Hảo. Có và có cho đến cuối cùng, những sự bất hoà. Hòa Hảo ám sát một ít người Pháp, người Pháp tước vũ khí một số Hòa Hảo; Nhưng sau đó họ dàn hòa, dạt dào “tình bạn bất diệt Pháp - Hòa Hảo”. Họ trở thành những người bạn tốt, bạn tốt thực sự. Năm Lửa và đồng bọn, (có lẽ trừ Ba Cụt) thích cuộc sống đầy đủ của liên minh thực dân. Năm Lửa tự tu chính, càng ngày càng ra vẻ một quân nhân hào hoa, bôi sáp bộ ria mép và xuất hiện rất tư thế ở những buổi lễ chính thức ở Sài Gòn. Đấy là một cột trụ của mình, và khi tiếp một tướng hay đại tá Đội quân viễn chinh, chính bà Lê Thị Ngoan tự làm đầu bếp. Năm Lửa ngồi trong chiếc trạm khách đồ sộ, một lâu đài hoàn toàn kỳ cục do ông đặt làm. Một đám đông đầy tớ, chủ hầu, vợ lẽ chen chúc ở tầng trệt. Viên tướng thích thú nhất làm cho khách mời xác nhận mỗi một trong bốn mươi phòng của ông ở tầng hai đều có phòng vệ sinh. Mỗi lần vào đấy đích thân ông không tự ngăn mình được kéo dây và xem trò xả nước. Ông ở đấy hàng giờ, cho là một sự tinh tế tột đỉnh. Qui trình Phương Đông đã kết thúc. Anh dân quê khốn khổ trở thành một chúa tể chiến tranh đàng hoàng. Chính lúc này ông lấy tên gọi cao quý hơn nhiều là tướng Suối.

Dĩ nhiên có một số chi tiết phiền phức. Một lần hai vị chức sắc của giáo phái đi Sài Gòn trên chiếc xe đẹp của họ, rút súng ngắn ra giết hết những người trong một chiếc xe bình thường vì không dẹp chỗ nhanh. Tình cờ một biên bản lên đến những người Pháp đại diện. Hòa Hảo cho việc đó lăng nhục họ và câu chuyện bị xếp lại. Bao nhiêu vụ việc loại ấy! Nói chung các cấp chính quyền không biết gì và cố gắng không biết. Vì Hòa Hảo tự khai hóa là một giáo điều. Thực tế họ “thối rữa”. Điều người ta có thể gọi sự trong trắng của họ - lòng tin cuồng nhiệt - mất đi. Cái tốt và cái xấu quá khích của sự huyền bí thay vì tự thanh lọc, cùng tồn tại lẫn lộn càng ngày càng tư sản hóa hơn, sự lẫn lộn của những kẻ mới giàu hãnh tiến. Hòa Hảo trở thành những người hoang dã rất xa xỉ.

Ngược lại, quan niệm đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu - của những người Thiên Chúa giáo - có một giá trị càng ngày càng tích cực ở những người Annam khác, những người Việt Minh. Đối với họ con người thay vì để mặc theo bản chất và xu hướng, phải tự hoàn thiện mình liên tục qua một cuộc đấu tranh thường xuyên và quyết liệt với bản thân mình. Không phải đến Thiên đường bằng sự gia ân mà phải xứng đáng hơn, có phẩm chất và hiệu quả hơn để phục vụ nhân dân. Mỗi người phải vượt lên chính mình. Chính trong cuộc đấu tranh nội tâm này Nguyễn Bình dẫn dắt thật quyết liệt: ông buộc hàng triệu người phải trở nên hoàn hảo, ông tự buộc mình phải hoàn hảo. Nhưng trong cuộc chiến vượt sức người này, ông đi vào cạm bẫy kiêu ngạo cá nhân mà không biết. Tôi sẽ kể về chiến thắng và về bi kịch của ông.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Hai, 2017, 11:48:57 am

Người anh hùng của cuộc kháng chiến

Năm 1948 ở Nam Kỳ người Pháp tập trung một sức mạnh rất lớn. Họ có vũ khí, những tiểu đoàn tấn công lùng sục những căn cứ Việt Minh không mệt mỏi. Họ có khối lượng người lớn dựa vào lính nguỵ và các giáo phái mua chuộc được. Họ chiếm đóng đất nước, phu khắp Nam Kỳ những công trình quân sự và đồn bốt. Họ có đồng bạc Đông Dương cho phép mua Cao Đài, Hoà Hảo và dùng làm mồi nhử, cố bẻ gãy những Việt Minh khác. Nhờ vào đồng bạc họ trả lương cho cả một thế giới chỉ điểm, cảnh sát, những kẻ hợp tác, lập các chính quyền, hội đồng và những cơ quan ủng hộ Pháp. Họ bố trí tăng cường vũ khí, thịnh vượng kinh tế, hàng hoá đầy ắp, sinh lợi cho mọi người. Người Pháp có tất cả, các phương tiện vô bờ ấy nhưng hầu như không tiến triển được vì một người không ai biết đến và sau khi làm tất cả cho Việt Minh, qua mấy năm đã bị ám sát.

Con người ấy là Nguyễn Bình. Người ta hầu như không biết gì về cuộc đời ông nhưng rất đơn giản. Đấy là cuộc đời một người cách mạng chuyên nghiệp, một người trưởng thành trong cách mạng. Từ thời trẻ ông đã là một người không chịu phục tùng, người của những âm mưu, của những sổ đen bị mật thám săn đuổi. Ông được đào tạo trong thử thách. Thay vì đấu tranh như bao nhiêu người khác, chịu bó tay, ông trở thành sắt thép, sẵn sàng cho những cơ hội lớn của lịch sử. Ông có mục đích kiên định lạ kỳ.

Dấu vết đầu tiên ông để lại là thấp kém, làm thợ giặt là trên một con tàu hàng hải. Sau đó, lúc hai mươi tuổi ông là người thanh niên bị buộc tội âm mưu lật đổ trước Toà Đại hình Sài Gòn. Xung quanh ông những bóng đen, đỏ của toà án thực dân. Trong năm ấy ông bị đày ở Côn Đảo, hòn đảo trừng phạt ở ngoài khơi Nam Kỳ, nhưng đoàn tù chèo thuyền ấy là nơi gặp gỡ của tất cả những người dân tộc. Nguyễn Bình học ở các đàn anh sự cần thiết phải căm thù, lạnh lùng trong quyết định, tất cả những kỹ thuật phải sử dụng. Điều ở ông mới chỉ là khát vọng trở thành một khuynh hướng vững vàng. Vừa được thả ra năm 1934 ông rời bỏ Đông Dương giữa cuộc đàn áp mạnh trở lại dưới ách hèn nhát và chấp nhận.

Ông đi khắp nơi, đến chỗ có thể học được về một nghề mới khuấy động, lúc đầu đến Trung Quốc, Quảng Đông, trường Hoàng Phố, nơi Quốc dân đảng còn nhiệt tình, đào tạo mọi người nổi dậy ở Châu Á. Nhưng những năm lưu vong kéo dài và chế độ Tưởng Giới Thạch sụp đổ trong thế chiến không dứt. Nguyễn Bình đi tìm những ông thầy mới. Đã đến lúc ông sang Moscow nhưng không gia nhập Đảng.

Năm 1945, với một lời đơn giản của Hồ Chí Minh, một người cử từ Bắc Kỳ vào Nam Kỳ để tổ chức cuộc chiến tranh chống Pháp. Đấy là Nguyễn Bình. Ở miền Nam không ai biết rõ ông. Người ta chỉ biết ông đầy quyền lực và không phải cộng sản.

Tôi đã thấy bức ảnh úa vàng của Nguyễn Bình thời kỳ ấy, nhặt được trong một sở chỉ huy đã rút bỏ. Đấy là một người vẻ ngoài tầm thường, thân hình mập lùn, đầu vuông của những người bình dân. Ông đội một chiếc mũ thực dân.

Những người Annam như vậy có hàng nghìn trên đường phố Sài Gòn. Những chi tiết đặc biệt chỉ là đôi kính đen và một khẩu súng Colt.

Thế nhưng chính Nguyễn Bình ấy, một mình xây dựng cuộc kháng chiến miền Nam, đã sáng tạo cuộc chiến tranh du kích giết người không dập tắt nổi, trên đồng ruộng và trong rừng rậm Nam Kỳ. Những vị tướng khác, bắc đầu từ ông Giáp chỉ là những vòng quay. Nguyễn Bình là Chúa tể, là Chiến binh, nhất là Con người.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Hai, 2017, 12:09:02 pm

Hồ Chí Minh biết việc mình làm khi chỉ định Nguyễn Bình vào miền Nam. Đảng thực sự của Việt Minh ở Bắc Kỳ với Bác Hồ, Tổng bộ Việt Minh và những đồng chí cộng sản cũ, quân đội đỏ, nắm giữ tất cả những người điều khiển chính trị. Nhưng chế độ này không được giới tư sản Nam Kỳ cách đây một nghìn năm trăm cây số chấp nhận. Ở Nam Kỳ, Việt Minh mới chỉ là "những người quốc gia". Vì vậy thay vì gửi và để lãnh đạo một người hoàn toàn, một người biện chứng đầy óc lạnh lùng, Hồ Chí Minh cử một người lãng mạn. Trong sáu năm Nguyễn Bình thực hiện nhiệm vụ của mình.

Từ năm 1945 đến 1948 là những năm vinh quang của ông. Ông là một anh hùng trong dân chúng, là người của mọi say mê. Ông hào phóng, độc đoán, tàn ác, không mệt mỏi, không thương xót. Ông bố trí tổng hành dinh ở cửa ngõ Sài Gòn, trong Đồng Tháp Mười, vùng đầm lầy trải rộng từ Chợ Lớn đến Căm-bốt. Ông thích làm việc lớn, bắt đầu tổ chức một đội quân bảo vệ cứng rắn, trang bị vũ khí tốt nhất và tận tuỵ với một mình ông. Ông có một đài phát kêu gọi kháng chiến. Ông lôi kéo vào con đường Việt Minh Nam Bộ - tự trị gần như hoàn toàn đối với Tổng bộ ở Bắc Kỳ quá xa. Chẳng bao lâu ông khống chế tổ chức này.

Trong mấy tuần lễ, Ban chỉ huy của ông trở thành rộng lớn, một thế giới cũng phức tạp như một ban tham mưu Pháp. Nhân viên, liên lạc viên, cán bộ chính trị lui tới không ngừng, những người đưa tin tức tới và đi truyền đạt mệnh lệnh. Các phái đoàn nối tiếp nhau đến gặp Ban chỉ huy. Nguyễn Bình vừa là sự say mê vừa là sự khiếp sợ.

Ban chỉ huy của Nguyễn Bình thường đóng trên đảo nhỏ, một trong những mảnh đất chỉ cao hơn mặt nước mấy phân. Xung quanh chỉ là cỏ, lau sậy, những cây sống dưới nước, thân rất lớn. Những cơ sở Việt Minh, nguỵ trang rất khéo, người Pháp chẳng thấy gì - chỉ là trống không và mùi hôi thối của đầm lầy.

Đồng Tháp Mười cạnh tranh bất hợp pháp với Sài Gòn. Đấy là đại bản doanh đỏ, vô hình, đứng lên chống lại thành phố tư bản rộng lớn, dựa vào sự nghiêm khắc và cuồng tín chống đồng bạc và lối sống hưởng thụ. Đấy là cơ sở cách mạng miền Nam, tương đương với khu "tứ giác" của miền Bắc. Đồng Tháp Mười là tứ giác bùn lầy, không như tứ giác rừng rậm. Nhưng ở đây cũng đầy trại lính, kho tàng, cơ xưởng, trường học, có mọi tổ chức của cuộc chiến tranh du kích quy mô lớn. Tất cả những cái đó di động, bằng tre tháo dỡ được dễ dàng chuyên trở trên thuyền đi từ đảo này sang đảo khác, luôn luôn cơ động. Những chuyến di chuyến nổi này lướt trên những mương rạch trước kia người Pháp cho đào để tiêu nước vùng đầm lầy. Bờ mương là những giải băng đệm cũng là những chỗ ở của Việt Minh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Hai, 2017, 12:09:50 pm

Nguyễn Bình từ Đồng Tháp Mười của mình làm tất cả, bao giờ cũng nhiều hơn. Ông huy động cả một dân tộc, đàn ông, đàn bà, những người chưa đi theo các giáo phái hoặc người Pháp. Với những tư sản và trí thức, ông cho mang thư đến trong đó viết: "Các ông hãy đến với tôi trong cuộc Kháng chiến. Tôi không ở đảng nào, tôi ở trên các đảng. Tôi chiến đấu vì Tổ quốc". Với nông dân ông hứa cấp đất đai - để bắt đầu họ chia nhau những vùng đất của các điền chủ lớn và không xứng đáng. Ông kêu gọi những người "hạ lưu", đàn bà, người già và trẻ con. Vì mỗi người ai cũng có thể có ích, mỗi người làm một nhiệm vụ như do thám, đưa tin hoặc tiếp phẩm, bắn súng, ném lựu đạn. Nguyễn Bình hình thành những băng nhóm, các uỷ ban, các đường dây khắp nơi.

Ông khơi ngọn lửa tinh thần, nói với mọi người lời lẽ của chủ nghĩa anh hùng và say mê. Trong những điều ông nói bao giờ cũng có tinh thần yêu nước, đẹp đẽ và chân thành. Đấy là một tình yêu trọn vẹn buộc phải đi đến cùng. Nguyễn Bình tự mình tuyên bố điều đó: "Vì lợi ích nước nhà, người ta không được lùi bước trước bất cứ việc gì, càng thất bại càng đứng lên..."

Ông cũng sử dụng tâm lý tập thể, máy móc xây dựng tình cảm, dạy cho dân chúng nhiệt tình và căm thù. Hàng ngày trong Đồng Tháp Mười hoặc bí mật ở Sài Gòn, các xưởng in đưa ra hàng tấn truyền đơn, áp phích, báo chí. Trên hình ảnh nhiệt tình, những bồ câu hoà bình bay đến Hồ Chí Minh. Nhất là có nhiều hình ảnh về căm thù. Người Pháp hoặc kẻ phản bội khúm núm xin dân chúng chiến thắng gia ân. Họ bị hành quyết và cái chết của họ là một bức ảnh giáo dục mọi người.

Bằng mọi cách, vật chất hoặc tinh thần, Nguyễn Bình tổ chức thúc đẩy cuộc chiến tranh. Ngoài lực lượng quần chúng ông đã có khoảng sáu trung đoàn "chính quy". Ông chia Nam Kỳ thành ba vùng chiến tranh, mỗi vùng có một mục tiêu đặc biệt.

Miền Đông là cuộc chiến về cao su. Trên vùng "đất đỏ” rừng rậm lộn xộn được thay thế bằng những hàng cây cao su không dứt. Ở bìa rừng mênh mông của Đông Dương, những đồn điền lớn của thế giới là mồi ngon của Việt Minh. Họ bao vây những mảng của hệ thống tư bản ấy - vùng đất của các công ty quốc tế - nhưng không phải để phá huỷ mà để cùng hưởng lợi.

Miền Tây là cuộc chiến lúa gạo. Ngoài công quốc Hoà Hảo ở cửa sông Mékong trải rộng một vùng đất Việt Minh. Đấy là bán đảo Cà Mau, rừng sú vẹt ngập nước đầy sốt rét và rắn - nơi tập trung bùn lầy sông Mékong đổ vào theo địa hình tự nhiên. Trong vùng hoang vắng không người ở này, kháng chiến đã di cư hàng chục, hàng trăm nghìn dân quê đến làm ruộng. Đây là vựa lúa của họ.

Ở giữa, trong phức hệ Sài Gòn - Chợ Lớn - Đồng Tháp Mười, là cuộc chiến với chính đồng bạc Đông Dương. Cuộc chiến quan trọng nhất, Nguyễn Bình trực tiếp chỉ đạo.

Ông tổ chức một hệ thống hoàn chỉnh cho cuộc chiến tranh du kích, đủ cung cấp cho mình. Ông chi phí toàn bộ cho cuộc chiến tranh hoặc đúng hơn là những cuộc chiến tranh. Ông có các khoản thuế - chủ yếu về lúa gạo và vận chuyển lúa gạo - có pháp chế tài chính, có bộ trưởng tài chính của mình, một chế độ kế toán vô cùng chính xác. Không một người dân, chức sắc nào của Sài Gòn hay Nam Kỳ, dù đã trả thuế má cho người Pháp, chính quyền Việt Nam và giáo phái, cũng không dám từ chối sự đóng góp ông đòi hỏi.

Sài Gòn là "con bò sữa" của ông. Để sống Nguyễn Bình bám chặt vào sự thịnh vượng do chiến tranh đưa lại. Đội quân viễn chinh, đồng bạc Đông Dương có giá trị mười bảy phrăng. Để có lợi nhất ông tạo ra một cân bằng giữa hai sự cần thiết đối lập. Mức độ tốt nhất là khủng bố đủ cho mỗi người nộp tiền mà không thủ tiêu hoạt động kinh tế.

Ông gửi một phần công quỹ ra Bắc, giữ phần còn lại để mua vũ khí, đạn dược ở nước ngoài, nhất là ở Bangkok. Trong việc mua bán này, ông thiết lập những con đường hàng trăm cây số qua rừng núi Căm-bốt và bán đảo Cà Mau: đấy là những con đường mòn được bố trí từng chặng và bảo vệ chu đáo. Những con thuyền lớn, cả những tàu hàng bốc dỡ những hòm vật liệu lên bờ hoang vắng của vịnh Thái Lan và lại ra đi chở đầy lúa gạo. Những đoàn dân công mang gạo tới, trở về còng lưng dưới sức nặng những gói súng cối và lựu đạn. Hành trình những "người mang vác" đặt trước sự kiểm soát của một số quân lính của Lữ đoàn Hải ngoại (gọi như thế vì lữ đoàn được tạo thành từ những người tình nguyện Việt Nam ở nước ngoài). Thường cũng có một đoàn thuyền thay thế người vượt qua Nam Kỳ trên những con rạch khúc khuỷu trong đất liền hoặc trên đường phân giác những con kênh nước đen ngòm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Hai, 2017, 12:10:18 pm

Điều Nguyễn Bình - người tổ chức cuộc chiến tranh du kích rộng lớn và tổng hoà này - đòi hỏi ở mình thật ghê gớm. Ông đi chiến đấu ở Sài Gòn không sợ hãi, hết sức mạo hiểm. Trong những cuộc di chuyển ông đi cùng đồng đội không nhận một ưu tiên gì. Không có thì giờ ngủ, có những cơn sốt ác tính. Bệnh tật làm người ông quắt lại, đôi mắt có quầng to ra trên khuôn mặt xương xẩu - nhưng ông không dừng bước. Phải chăng ông đã trở thành một người điên rồ?

Điều ông đòi hỏi ở quân lính cũng đáng sợ. Không hy vọng được sống sót, họ buộc phải hy sinh vì mệt mỏi hoặc vì chiến đấu. Nguyễn Bình không hề quan tâm đến mạng sống, ít hơn nhiều so với ông Giáp ở miền Bắc. Ngoài kia việc gì cũng đã được xác định. Tỷ lệ tối đa về thương vong đã được dự kiến trước. Khi đã đến mức đó lực lượng ông Giáp ngừng ngay lại, kể cả đang thắng lớn. Nguyễn Bình không bao giờ bỏ dở. Ông luôn thúc đẩy quân lính tiến lên cho đến lúc lính của ông bị dìm xuống vì họ chưa có vũ khí cần thiết, chưa đủ móc-chi-ê và ba-dô-ka.

Tuy vậy trong lúc những công trình Pháp ở Nam Kỳ đồ sộ như không thể chiếm được trừ bằng mưu kế Nguyễn Bình đã tấn công nhiều đợt từ cuối năm 1948. Do sử dụng "làn sóng người" với những hậu quả đáng sợ. Ông thích cái lãng mạn của nhiệm vụ mà quân lính lao vào súng đại liên, lớp này đến lớp khác công kích dữ dội một đồn bốt cho đến lúc những người chống đỡ chạy đi vì súng đỏ lên, bị nhấn chìm. Việt Minh của Nguyễn Bình nối tiếp nhau hét vang và ngã xuống. Họ xông lên qua những lớp xác đồng đội hị hạ gục trước đó. Cứ như vậy mỗi lần Nguyễn Bình quyết định hạ một bốt địch. Lúc ấy chẳng có gì đáng kể.

Thường cũng có thất bại và bị tàn sát. Nguyễn Bình cho xử lý những người sống sót, bị kết tội vì hèn nhát. Tính ông là vậy. Càng ngày ông càng bị ám ảnh vì nhiệm vụ to lớn của mình. Một lần ông nói: "Tôi những muốn có lòng thương xót nhưng không thể vì tôi yêu Tổ quốc tôi".

Dân chúng luôn yêu mến ông, coi ông hơn một người anh hùng, là một thánh sống.

Với cách dùng bạo lực, ông không tránh khỏi những sai lầm nghiêm trọng. Chính ông quyết định thanh toán các giáo phái. Ông ghê tởm họ như là hiện thân của những gì hạ thấp con người vì mê tín và ngu ngốc. Việc ám sát thánh sống của Hoà Hảo và việc ám sát hụt Bảy Viễn đẩy các giáo phái vào tay người Pháp. Nguyễn Bình là một người lý tưởng, tin vào sự tiến bộ của khoa học và lý luận. Vì lý tưởng chống những cái xấu xa về thể xác và tinh thần mà ông đổ bao nhiêu máu và vui thích làm việc đó.

Phái viên của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp vào kết tội ông. Có người đã hét vào mặt ông tại trụ sở Ban chỉ huy: "Anh chỉ là một người vô chính phủ. Thay vì phân tích đúng đắn tình hình, anh chỉ tự tin vào mình. Với những sai lầm quá lớn anh đã phản lại chiến thắng của dân tộc."

Nguyễn Bình nhẫn nhục nhận những lời trách cứ. Ông hối lỗi, được giữ lại chức vụ chỉ huy. Những người cộng sản chờ đợi ở ông một nhiệm vụ cuối cùng. Đấy là giữ lại những người quốc gia trong công cuộc kháng chiến, biết rằng ông hành hạ họ và tự hành hạ mình.

Những năm cuối đời của mình Nguyễn Bình là bi kịch ghê gớm nhất đối với một con người. Không những ông chứng kiến sự đổ vỡ những công trình của mình mà ông còn là một công cụ có ý thức, chấp nhận vì tin tưởng vào một bổn phận cao cả và không tránh được.

Đôi khi người ta nói Nguyễn Bình là một người quốc gia giả, rằng ông là một người cộng sản nguỵ trang: Tôi thường nói chuyện với những người ra khỏi cuộc kháng chiến, những người đã bị ông đuổi đi. Họ không tin thế. Họ vẫn khen ngợi ông, là một người yêu nước trong một tình hình không lối thoát, người anh hùng bị dồn đến đường cùng, đao phủ của chính ông cũng như của bao nhiêu người khác. Đối với họ, ông hy sinh mọi tình cảm nhân đạo cho một ý tưởng - điều ông Giáp khắc sâu vào tâm trí ông, ông không bao giờ chối bỏ, phải theo đến cùng, một cách tiên nghiệm "lòng trung thực".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:01:40 pm

Phép màu của sự thịnh vượng

Những cuộc chém giết ấy, những kinh hoàng ấy, dòng máu lan tràn trên các đấu trường ấy không đáng kể. Sự tàn ác được phủ bằng một sự thịnh vượng lớn lao, không ngờ được. Chưa bao giờ người ta lại sống sung sướng như thế ở Đông Dương, chưa bao giờ có nhiều người biết đến hạnh phúc như vậy.

Một ông thương gia một hôm hỏi tôi: "Ông nghĩ còn bao nhiêu năm làm ăn sung túc ở Đông Dương nữa? Miễn là những thù hận còn kéo dài!" Thực ra ý nghĩ ấy chất đầy mỗi đầu óc, không chỉ những nhà giàu có, quyền thế da trắng da vàng mà cả tầng lớp tiện dân, cu-li, dân quê. Bất kể các nạn nhân, có bao nhiêu người đương hưởng lợi!

Chính cuộc chiến tranh làm giàu mọi người, về nguồn gốc có những tỷ Chính phủ Pháp rót cho Đội quân viễn chinh để họ chiến thắng càng nhanh càng tốt - kết quả là tài trợ cho tất cả mọi người. Những tỷ bạc đổ xuống Đông Dưởng như một cơn mưa dồi dào. Việc sản xuất, công việc không còn đáng kể. Điều quan trọng là chi tiêu: buôn bán, vui chơi, nhập khẩu, vòng xoay tài chính, đầu cơ, buôn lậu. Trong nền kinh tế mới, giả tạo nhưng tuyệt vời, đồng bạc lăn qua, tất cả lúc nhúc hoạt động.

Phép màu của sự thịnh vượng đi đến đâu? Nó trải rộng đến người chết, cửa hàng Toby chuyên làm quan tài bọc kẽm, bảo đảm không rạn nứt cho phép đưa xác an toàn về Pháp mặc dù có "những phân huỷ nhiệt đới", công bố trên báo mỗi tháng làm lễ cầu kinh một lần cho linh hồn các khách hàng.

Số lượng người tự sát là chứng cứ trực tiếp của việc quản lý giỏi của Đại thế giới, cơ sở đánh bạc rộng lớn nhất trong thế giới. Toàn thể dân chúng Sài Gòn đến đấy, nó thu hút cả những đồng bạc nghèo nàn của những người cu-li đến tiền đút lót của các viên chức và tiền đầu cơ của các "nhà tỷ phú". Một trong những chủ sòng bạc tâm sự với tôi: "Bây giờ lớp bình dân cũng có khá tiền để thoả mãn nỗi đam mê của mình, trước kia họ quá khốn khổ về điều đó."

Chưa bao giờ gái gọi - lớp người màu mè của thú vui đắt tiền - tỏ ra "khó khăn” đến thế. Người ta biết rõ mức độ phẩm hạnh của họ là thước đo tốt nhất về tình hình kinh tế: thấp trong thời kỳ khủng hoảng, lên cao khi việc buôn bán phát triển ở Sài Gòn. Năm 1948 ở vũ trường cầu vồng các cô ra dáng những công chúa kiêu kỳ, đuổi thẳng những kẻ gạ gẫm thiếu tế nhị muốn chinh phục các cô bằng những xấp bạc và vật trang sức. Phải thêm vào đó lời cầu xin, thơ ca, những ngày hay những tuần chờ đợi. Mỗi cô có ít nhất hàng trăm áo dài lộng lẫy bằng lụa.

Ngược lại chưa bao giờ gái đĩ lại dễ thương đến thế. Họ nhiều lắm, vừa ra khỏi đồng ruộng, làm tình một cách rất đơn giản. Đối với họ như vậy ít nặng nhọc hơn cấy lúa! Thường là con gái chưa tới mười lăm tuổi. Họ cũng có lãi trong cuộc sống được nâng cao - không có chiến tranh họ không thể ra thành phố và tìm khách. Đối với họ khung cảnh có đáng khinh đến mức nào cũng không có gì là xuống cấp. Như họ thật ngây thơ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:03:02 pm

Trại Trâu, một nhà chứa rộng bao la của quân đội xoay vần như một xưởng máy. Phía trong một bức tường đơn sơ, cách một dãy nhà kiểm dịch của những y tá bẩn và lơ là là một khu đất có rào bao quanh. Ở giữa, trên vạt sân rộng bằng đất nện bố trí những căn nhà tranh chụm vào nhau năm cái một. Ra khỏi nhà, những hàng trăm con gái da vàng nhào vào quân linh đủ mọi màu da. Trong cảnh lộn xộn, xô đẩy nhau, vừa làm những cử chỉ tục tĩu, các cô hét lên bằng tiếng Pháp những tiếng rác rưởi những từ độc nhất họ biết. Những đối tượng to béo của họ bập bẹ những lời Việt Nam khuyến khích. Những cô chèo kéo được cùng con mồi vào trong lều bỗng nhiên im lặng; những cô thất bại ôm nhau nén cười.

Cũng khác thường là Trại Trâu này ở ngay trên bờ đại lộ Galliéni nối liền Sài Gòn - Chợ Lớn. Thay vì giấu giếm người ta bày ra trước mặt toàn thành phố.

Một người "thông thái" giải thích cho tôi:

- Việt Minh xây dựng đạo đức trong một sự bí hiểm độc ác. Người Pháp có lý khi chống lại họ bằng khuyến khích truyền thống khác của Châu Á, hạnh phúc hưởng thụ, thoả mãn mọi "ảo tưởng sung sướng".

Lạ lùng là chính quyền thận trọng đối với thuốc phiện; bỏ công ty quốc doanh và đóng cửa cơ sở sản xuất của nhà nước ngay tại Sài Gòn. Nhưng ma tuý vào lậu và chưa bao giờ có nhiều người hút hít đến thế. Những con đường dân dã đầy những tụ điểm cho dân quê: họ ở trần, thân hình xương xẩu và khô đét nằm dài trên những tấm ván xếp chồng lên nhau như những xác chết đặt trong nhà mồ. Những người chạy xích lô vừa đạp vừa ăn xái thuốc làm họ mệt nhoài, lảo đảo. Ngược lại, người giàu có thiên đường mơ màng của họ, ở đó những đứa con lai nghiền thuốc thành viên nhỏ nướng trên ngọn đèn.

Ngoài việc đầy rẫy tệ nạn xã hội có mọi thứ thừa thãi. Những viên chức Việt Nam mua xe đạp và thuốc pê-ni-xê-lin. Các kho hàng ở Sài Gòn, Hải Phòng đầy ắp hàng hoá và được đưa đến luôn. Hải quan là một nghề sinh lợi. Khối lượng lớn hàng hoá ấy đổ xuống những con đường của du kích, cũng tắc nghẽn như những đại lộ ở Paris. Đi qua khắp các vùng, hàng hoá đến đủ các bên giao tranh tận từng làng xóm. Cuộc chiến xảy ra giữa những hàng hoá tồi. Khắp nơi những người bán rong ngồi xổm theo lối Phương Đông, bán sản phẩm của người Phương Tây. Ngay bên cạnh đồng ruộng người ta thấy bày ra mời chào những lọ nước hoa của đường phố, xà phòng hảo hạng, bưu ảnh, nước chanh màu hồng và những chiếc mũ thuộc địa. Để mua hàng, các bà già có một cử chỉ rất riêng. Vén chiếc áo dài, các bà lục tìm nhanh phía dưới, ngay trước bụng, chiếc túi dấu kín, rút ra những đồng bạc cáu bẩn, xếp chồng lên nhau và bắt đầu the thé mặc cả, nửa bi nửa hài.

Một bốt Pháp bố trí dù trong vùng quân đỏ, cũng là một mỏ vàng. Xung quanh bốt mọc lên như nấm những căn nhà tranh các vợ lẽ, những bà bán hàng "ăn qua loa", chủ quán rượu, các chỉ điểm, phiên dịch, bồi, bếp. Đó là một việc làm trong thịnh vượng, không hẳn là hoà bình. Ngay Việt Minh trong vùng, những người thường phục kích và chém giết, cũng đi chợ bên cạnh hàng rào - nhiệm vụ đầu tiên của một trưởng bốt là xây dựng một cung cấm. Nếu họ quá lộ mặt thì cử bà con, bạn bè đi thay. Mọi người đều là khách hàng của thương trường Pháp; và họ mua với tiền của người Pháp, trực tiếp hoặc gián tiếp đến với họ.

Súng tiểu liên sinh lợi. Nền độc lập cũng thế. Các chính quyền Việt Nam chỉ thoả mãn yêu cầu của Cao ủy Pháp bằng cách thương lượng. Mỗi lần như vậy phải thắng sự đắn đo, ngần ngại của họ, biết cách thuyết phục họ. Các bộ trưởng cao giọng về chủ nghĩa dân tộc, thao thao nói ghê tởm đánh nhau với Việt Minh, những người yêu nước Việt Nam lầm đường. Lúc đầu người Pháp kiên nhẫn trả lời rồi bực tức bảo họ có một kẻ thù chung, cộng sản: vì vậy chính quyền Sài Gòn phải tham gia nhiều hơn vào cuộc chiến tranh. Sau nhiều ngày lý giải, các ngài da vàng làm như buộc lòng chấp nhận để đổi lấy tiền: số tiền chính thức cho Nhà nước, số bổ sung kín đáo cho bản thân họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:03:52 pm

Vậy là có hai chính quyền - Cao ủy Pháp và Chính phủ Việt Nam - đủ loại ghế ngồi, cấp bậc kinh phí. Nhờ vào thuế hải quan và tài trợ của Pháp, các quỹ rất giàu. Mỗi nhân vật chính phủ chỉ định tất cả người thân, vô số bà con vào những vị trí béo bở. Một cuộc tranh chia kịch liệt. Các viên chức da vàng tỏ ra nghiêm khắc và quá tỉ mỉ. Với cách ấy họ khai thác luật lệ và những quy định tốt hơn, chữ ký của họ rất đắt. Đến những người lương ít trong bọn họ cũng sống thoải mái. Nếu họ tỏ ra yếu mềm trong việc gây khó khăn và hối lộ, các bà vợ phản ứng ghê gớm. Các bà kêu van họ bị mất mặt vì những kết quả ít ỏi; đồng nghiệp của họ khôn ngoan được tôn trọng hơn nhiều. Những ông chồng run rẩy càng làm tới; hơn những người khác, ở Việt Nam họ sợ vợ, những người chủ thực sự trong gia đình, do đó cũng là chủ công việc xã hội; những con người thanh mảnh ấy hơn hẳn đàn ông, có một nghị lực sắt và sự tham lam không gì thoả mãn được.

Qua mọi đường lạch ấy, cả những con đường khác, sự thịnh vượng trở nên vô tận. Càng lớn hơn khi các tỷ rót vào chiến tranh - mỗi ngày một tỷ - nguyên liệu thô cho mọi hoạt động - được tăng gấp đôi, có lẽ gấp ba bởi một hành động phù phép của cơ quan quản lý tài chính gọi là chuyển đổi. Đấy là việc cho phép gửi sang Pháp những đồng bạc thu được ở Đông Dương với mức hối đoái mười bảy phrăng trong lúc giá trị thực chỉ bảy hoặc tám. Công việc này được thực hiện trong một ngôi nhà bụi bặm và tồi tàn ở Sài Gòn, sở hối đoái, là trung tâm xứ Đông Dương, hơn cả Cao uỷ Pháp hoặc Bộ tổng tham mưu. Ở đây các viên chức dưới quyền với vài nét bút nhân đôi những món lãi, vốn tổng hợp, mọi tiền nong trôi nổi. Và chính Nhà nước Pháp trả món chênh lệch ấy.

Tiền lãi càng tăng khi những đồng phrăng nhận được rất nhiều ở chính quốc trở lại Đông Dương. Tiền xuất hiện lại ở Viễn Đông dưới nhiều dạng khác nhau - hàng hoá, vàng hoặc ngoại tệ. Việc chuyển lại ấy hợp pháp hay bất hợp pháp: trường hợp sau là việc “đổi chéo” béo bở. Nhưng dù bằng cách nào, mọi việc đều được thương lượng, mua bán, bảo đảm công khai hay bí mật, bằng đồng bạc có giá trị tám phrăng. Chỉ còn tiến hành một cuộc chuyển đổi mới. Việc đó kéo dài vô tận.

Dù sao giữa Đông Dương và nước Pháp vòng xoay liên tục tiền bạc, việc qua lại thường xuyên là dịch vụ mua bán tốt nhất thế giới, trung thực hay không lương thiện, về cơ bản mọi việc bị xáo trộn. Ranh giới giữa hợp pháp và bất hợp pháp thật vô địch! Không có những tiêu chuẩn chính thức để xác định cái gì hợp pháp và cái gì gian lận. Việc đó do những viên chức nhỏ sợ sệt và ham muốn, bất lực trước những lực lượng đồ sộ về tài chính và chính trị hiện hành. Họ quy định theo mức độ quan trọng của những yêu cầu, chỉ thị, theo may rủi.

Thực tế thì tất cả đứng vững. Khắp nơi là chất men xung quanh đồng bạc Đông Dương được nâng giá. Đối với toàn bộ Đông Dương là lợi dụng lợi thế bất ngờ kỳ lạ. Những người có vị trí cao làm một chính thức, những người khác “tự xoay xở”. Khác nhau chỉ có thế.

Không ai biết tên thanh tra tài chính ấn định tỷ lệ hối đoái đồng bạc Đông Dương là mười bảy phrăng. Con người này muốn khuyến khích những người Pháp ở Đông Dương và những người dân Đông Dương ủng hộ Pháp. Đây phải là một phần thưởng cho việc làm - kế cả quân sự - và cho lòng trung thành. Những đồng bạc ấy, phần bù thêm, việc chuyển đổi và mua bán tạo ra lớp người thường trực của cuộc chiến tranh Đông Dương, làm cho tất cả đứng vững - những quốc gia đồng minh, Đội quân viễn chinh, Bảo Đại và Việt Minh. Không có những việc ấy sẽ không còn thương mại, đường lối, bình định và cả cuộc chiến nữa. Hoặc ít nhất mọi thứ đã khác, đã thay đổi sâu sắc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:11:31 pm

Sự liên minh của đồng bạc Đông Dương

Công cuộc bình định mà những người Pháp nỗ lực tiến hành thật chậm chạp! Thực tế tuy cố gắng nhưng họ không vội vã. Về lý thuyết họ biết mình đang lao vào một cuộc đua tốc độ nhưng thực ra họ không tin. Vì thế cuộc chiến tranh trở thành một sự hoạch định cơ chế được bố trí hoàn hảo đến mức nó tự tiếp tục vô tận như tất yếu thúc đẩy. Hơn hẳn một cuộc chiến tranh, đấy là một lối sống mới.

Dĩ nhiên người Pháp tạo dựng một liên minh “ủng hộ Pháp” chống lại Việt Minh, nhưng lại là liên minh của đồng bạc Đông Dương. Liên minh này tập hợp Đội quân viễn chinh và hàng trăm nghìn quân bổ sung, trung tâm Pháp - người da vàng làm nghề buôn bán và chuyển đổi do nhà băng Đông Dương chi phối cả thế giới chính trị với Cao uỷ, Chính phủ Việt Nam, những người hợp tác và những kẻ chờ thời của họ.

Đấy cũng lúc nhúc những căm thù và ẩn ý. Điều đó vẫn hầu như vững chắc do đồng bạc và mẫu số chung ấy cho phép mỗi người thỏa mãn lợi ích của mình. Nhưng trong hiện tình lợi lộc thường xuyên ấy không có gì biến chuyển, tiến bộ thực sự.

Bắt đầu từ Đội quân viễn chinh. Từ nay Đông Dương là một vùng chiến sự hoàn toàn, tài sản của một quân đội chuyên nghiệp. Gần khắp đất nước quân lính về phía Pháp là thực tế duy nhất. Vừa ra khỏi ngoại ô Sài Gòn, không còn nhà nước, chính quyền, luật pháp, lợi ích công cộng nữa - chỉ còn quyền lực của chiếc lon.

Đội quân viễn chinh bố trí một cách nặng nề, giữ lấy khắp nơi những gì thích hợp - một phần tư thành phố đẹp Sài Gòn bị trưng dụng cho các ban tham mưu, văn phòng, chỗ ở, nhà ăn tập thể. Trong những thị xã việc chiếm đóng còn rộng hơn. Sĩ quan, binh lính không bận tâm một vấn đề gì về cuộc sống. Tất cả đều được thu xếp, vật chất và tinh thần. Đầy đủ tiện nghi, sung mãn.

Cuộc chiến tranh Đông Dương là một chỗ ở thường xuyên. Biết bao chiến binh tình nguyện trở lại đấy lần thứ hai, thậm chí thứ ba! Đối với những người không tử trận, Đông Dương thuận lợi cho việc thăng cấp, chiến công, tuyên dương và cả kinh tế nữa. Đấy là cơn mưa khen thưởng. Nhà binh chúc tụng nhau, gắn huân chương dồi dào cho nhau. Mỗi tấm ngực là một nơi gắn huân chương. Cứ mỗi đợt hành quân, may mắn, hoặc bất hạnh, người ta “rung cây chuối” để rơi xuống vô số đồ chơi lúc lắc. Đến mức họ tiến hành những cuộc ra quân vô ích.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:12:19 pm

Vấn đề tiền nong dĩ nhiên cũng đáng kể. Lương ở nước Pháp khốn khổ, không như ở Đông Dương. Người lính biệt kích Bắc Phi để dành tiền mua một mảnh đất và cưới một cô vợ ở đất nước mình. Hạ sĩ quan Pháp đảm bảo cho gia đình bên chính quốc một cuộc sống đàng hoàng. Tôi biết một viên quản chiến đấu - không phải một viên quản hậu cần - để dành được năm triệu. Các “nhà bếp tập thể” là những kho tàng cho việc “bớt xén”. Bao nhiêu sĩ quan tích luỹ của hồi môn cho con gái họ! Trong quân đội này, bên cạnh những người khổ hạnh, tham vọng, bất lương cũng có những viên chức quân sự, những người bàn giấy của súng đạn. Họ đến chủ yếu để “kiếm xu”. Tích lũy được mấy đồng bạc với giá mạng sống mình cũng là một anh hùng!

Một thiếu tá trạc tứ tuần sống thoải mái, có một người vợ trẻ đẹp ở Pháp. Mỗi lần trở về chính quốc là một cuộc sống thời thượng trong hai tháng. Cuối thời hạn ấy, người vợ nói với chồng: “Chúng ta không còn tiền. Anh lại sang Đông Dương đi.”

Phép lạ của đồng bạc ban cho tất cả quân lính: họ thực hiện chuyển đổi một cách máy móc. Có những hiện tượng kỳ lạ. Hình như trong năm 1947 tổng số tiền chuyển đổi của quân đội vượt quá tổng số tiền lương.

Cuộc chiến tranh Đông Dương còn hơn một lý tưởng - là hoàn toàn thiên về quân sự. Để xứng đáng với truyền thống Quân đội Pháp, Đội quân viễn chinh không làm trái luật, từ chối những điều mới, những nhượng bộ. Khinh thường việc áp dụng theo người Việt những chiến thuật lạ lùng, chết người, họ áp dụng những bài đã học ở trường võ bị Saint -Cyr và trường Chiến tranh. Thà bị giết còn hơn xem quân địch quá quan trọng. Việt Minh bao giờ cũng chỉ được xem như một con mồi - con mồi khá nguy hiểm, đúng, để cuộc chiến là một môn “thể thao” thực sự cao quý. Đối với một sĩ quan có gì đẹp hơn là tiến lên trên đồng ruộng đi đầu hàng quân với bộ đồng phục, huy hiệu, gậy chỉ huy và chiếc mũ ca-lô? Lạnh lùng, vô cảm, ông ra lệnh qua đôi môi mỏng, và là bia bắn lừng lững trước những “quân bần tiện” ẩn nấp.

Đây là cuộc thập tự chinh của tầng lớp quý tộc: về phía người Pháp họ không có lính mới, không nhân dân. Vấn đề là thiết lập nền “văn minh” chinh chiến. Một số việc quan trọng, những việc khác thì không, đã được xếp đặt theo chú giải trong Kinh Thánh về danh dự, về sự tế nhị đáng ngạc nhiên trong một môi trường đơn sơ như vậy. Điều đáng kể trước hết là giọng nói, bước đi, phong cách.

Trong lớp người này kỷ luật chỉ là bề ngoài. Thực tế, mỗi người làm theo ý mình, chiến tranh, tiệc tùng, âm mưu hoặc chẳng làm gì. Đội quân viễn chinh về cơ bản đã là một tổ chức vô chính phủ rộng lớn.

Trong sự rời rạc ấy dần dần tạo ra mẫu người “chúa tể”. Đấy là loại tướng lính đánh thuê. Ông ta có thể làm tất cả. Ông uống champagne không biết mệt; tham gia cuộc chiến hoặc tiệc tùng đến sáu giờ sáng và dậy tỉnh táo lúc bảy giờ. Ông hiểu Einstein và bắn hạ người mình cách năm trăm mét. Cũng với sự phóng túng ấy ông tra tấn Việt Minh hoặc tha thứ cho họ. Sức lực của ông không tưởng được. Ông độ lượng hoặc tàn nhẫn. Ông đẹp người, quyến rũ, hiểu biết. Đấy vừa là một người, một siêu nhân và thậm chí một ông thánh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:12:53 pm

Một số sĩ quan đẩy điều đó đi quá xa. Họ không chấp nhận nguy hiểm. Phải vượt qua, khinh thường, nhận mọi sự mạo hiểm - thế nhưng không bao giờ “bị đụng đến”. Bị một viên đạn vào mình hoặc bị kiết lỵ là hạ thấp mình. Một đại uý nói với tôi: “Tôi phạt binh lính bị thương. Đấy là một dấu hiệu hèn kém, phụ thuộc vào số phận”.

Một Chúa tể là một nhà đạo đức học khoảng bốn mươi tuổi. Cuộc chiến tranh thực sự của những người đội thiếu uý, trung uý không nói lên điều gì, nó không là triết lý. Nhưng mỗi người trong bọn họ là một ông vua trong địa hạt của mình. Ông ta có quyền cho sống, chết mà không ai hỏi đến. Thật ngây thơ. Một số ở cấp bậc thấp ấy đã bắt đầu hiểu cuộc chiến của những người da vàng. Nhưng cũng không phải là hiểu rõ.

Bên cạnh, những quân lính ra trận, những người không đánh nhau rất nhiều. Vì quân đội cũng xây dựng thành một chính quyền để tự quản lý mình. Các thành phố đầy ban tham mưu và văn phòng lúc nhúc hàng chục tướng tá. Thật khác thường khi một quân đội trong tình trạng đình trệ tăng thêm và mở rộng các cơ quan để rồi thích tranh cãi viển vông về quân sự. Các sĩ quan cao cấp ở đấy có mọi điều lợi. Họ bận tâm nhiều nhất là đưa ra những lý thuyết làm hài lòng tướng Carpentier, chỉ huy trưởng. Để làm điều đó họ làm méo mó các sự việc.

Kết quả là hình thành một môi trường khép kín - một phe nhóm. Ở đấy có một số lượng bất thường những người bất lực và ngu dốt. Tất cả lợi ích của họ nằm trong “bếp nội bộ”. Họ bận bịu nhiều về việc đó.

Đội quân viễn chinh vậy là một thế giới tin chắc ở mình, ổn định trong những việc nhỏ nhặt và nguyên tắc. Mỗi người làm cuộc chiến tranh theo ý mình, như cách họ muốn, trong các văn phòng, trên rừng núi hoặc đồng ruộng, cổ điển, thủ cựu hoặc thích đánh nhau, thậm chí phiêu lưu nữa. Điều chủ yếu là có một dạng “tinh thần” - người ta chém giết, bị chém giết, hành quyết hoặc bị hành quyết, không bao giờ thành vấn đề. Không ai tò mò và có những vấn đề đạo đức. Đấy là niềm tin vững chắc.

Tư cách trước hết là sự trong trắng chủng tộc. Vì thế quân đội của đồng bạc không bao giờ nói tới đồng bạc ấy. Nói cho đúng Đội quân viễn chinh dùng đồng bạc làm tường thành. Sĩ quan và binh lính khai thác nó nhưng rất ít so với những “người lợi dụng” thực sự, so với những người không đánh nhau nhưng nhờ nó mà thành tỷ phú!

Sau này tướng de Lattre kêu lên: “Phải nói rằng quân lính của tôi chết vì những kẻ buôn bán và đồng tiền bẩn thỉu của họ!” Sẽ tới một lúc Đội quân viễn chinh cảm thấy mình hy sinh vì con Bò Vàng! Năm 1949 chưa phải đã đến lúc ấy. Những người chiến đấu cho “cuộc chiến tranh thoải mái” từ xa nhìn thấy, không ghen tị, nguồn lợi lớn chảy vào nhà những ông “đại thương gia” và những nhà “chính trị lớn”.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:13:50 pm

Đông Dương không chỉ là vương quốc của quân đội. Xứ sở ấy cũng là một áp-phe kinh tế-tài chính khổng lồ. Chưa bao giờ các công ty tư bản chia những phần lớn đến thế cho cổ đông. Hình như ở Paris các chủ tịch hội đồng quản trị hoảng hốt với các nhân viên tại chỗ: Các anh làm thế nào mà lãi được bấy nhiêu tiền?” Những người này trả lời đơn giản: “Cũng chẳng biết. Người ta không làm khác được. Mọi người đều nằm trong guồng máy”.

Thực tế cánh buôn bán phát hiện ra một điều chủ yếu: sự mất trật tự đưa lại nhiều hơn trật tự và khai thác tốt hơn.

Trong các xí nghiệp lớn có một sự vực dậy. Trước tiên những công ty lớn suy sụp khi chắc chắn Đông Dương hoàn toàn thuộc địa đã chết vĩnh viễn, không hy vọng trở lại nữa. Nhưng những người kỳ cựu ấy nhanh chóng biến mất, lớp người trẻ thay thế với suy nghĩ hoàn toàn khác: chủ nghĩa thực dân chết cũng chẳng cần, miễn là chủ nghĩa tư bản còn lại.

Thế giới của tiền bạc thích nghi rất tốt với hoàn cảnh. Xứ Đông Dương mới - độc lập trong lòng Liên hiệp Pháp, một tình trạng vô chính phủ do một lớp thượng tầng kiến trúc tam tài che phủ - tự thể hiện “hay ho” hơn chế độ cũ nhiều.

Những “nhân viên trẻ” mới của sở Thuế quan và Nhà băng hiểu sự lộn xộn bừa bãi là béo bở về tài chính. Ở Châu Á có sự cân bằng luật pháp, thậm chí có một số dạng kỳ dị về sự ổn định: cây lúa mọc lên, hàng hóa chu chuyến, hàng nhiều triệu người tiếp tục sống, sản xuất, có những nhu cầu. Một đất nước trong máu lửa có thể là một thị trường rất tốt, hơn bất cứ lúc nào vì mức tiêu thụ tăng. Đấy là trường hợp Đông Dương trong chiến tranh. Để khai thác chỉ cần biết bắt đầu một cách thông minh.

Thế nhưng giữa những hoạt động sinh lợi cần thiết có một ốc đảo tĩnh lặng. Đấy là vùng trung lập và có tổ chức, một vùng hòa bình khoảng mấy chục cây số vuông, ở đó những đại gia thương lượng làm nhiệm vụ: nhận những giấy phép và những chuyển nhượng, xuất, nhất là nhập khẩu, mua, và chủ yếu bán, nhận vào xe hàng, nộp thuế, xếp vào kho, bố trí thế nào cho có lợi nhất. Mảnh đất nội địa ấy dành cho hòa bình, phương Tây, nước Pháp cho cho chủ nghĩa tư bản, dĩ nhiên là Sài Gòn - không phải toàn thành phố, chỉ là khu người Âu. Nhỏ thôi nhưng rất đủ. Vì mỗi lần hàng hóa được khách hàng da vàng trả tiền, ai còn quan tâm theo dõi đến chỗ hàng biến đi trong không gian bao la của Đông Dương không được kiểm soát? Hàng hóa đến chỗ đất trống chỉ còn dân quê, Việt Minh và binh lính. Dù sao thì dân Sài Gòn không bao giờ đến những vùng nguy hiểm, họ không rời thành phố của họ. Họ luôn ở xung quanh đường Catinat, là tù nhân của đồng bạc.

Ý muốn không trông thấy gì cũng thể hiện có hệ thống. Một thanh niên Pháp ngây thơ, làm việc ở sở Thuế quan nêu lên yêu cầu về đèn pin bỏ túi: chắc chắn do việc mua khối lượng lớn của quân đội Việt. Nhưng ông chủ bảo anh im đi và nói: "Việc đó không liên quan đến anh. Nếu muốn giữ chỗ làm, anh đừng như thế nữa. Anh chỉ phải lo toan về lời lãi của việc buôn bán”.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:14:43 pm

Sài Gòn đã đặt ra nguyên tắc “sử dụng đồng bạc”. Đấy là một hoạt động yêu nước: Kết quả là phát triển nền công nghiệp Pháp, tạo việc làm cho công nhân chính quốc, đưa các khoản thuế vào quỹ quốc gia. Từ định đề ấy, tất cả đều được phép làm giàu - với điều kiện tuân thủ những thoả thuận với bên ngoài.

Đấy là tính của việc đổ xô theo vàng với những cách khôn khéo đạo đức giả. Tất cả đều được tha thứ trừ thái độ vô sỉ ý thức được việc mình làm nhất là nói ra việc đó. Một số người tốt đã dại dột thực sự có lòng trung thực.

Đó là trường hợp một dược sĩ già mà cửa hàng không được rộn rịp. Một hôm có người thô lỗ nói với ông: “Việt Minh biết ông nghiêm túc và có lương tâm nghề nghiệp, thích mua nhiều ở cửa hàng ông”. Ông không muốn công nhận, người ta nêu chứng cứ. Cuối cùng con người trung thực này kêu lên: “Tôi không bao giờ nghĩ thế. Nhưng làm sao được? Khách hàng đến với đơn thuốc hợp lệ, tôi phải phục vụ họ. Họ không mang trên mặt dấu hiệu cộng sản. Chính cảnh sát phải biết và báo trước với tôi. Ai làm nghề nấy”. Bình tâm về lập luận ấy người kia tiếp tục cung cấp nhiều theo yêu cầu và để tránh lúng túng anh ta không bao giờ hỏi nữa, thậm chí không hỏi thăm sức khỏe.

Ở Sài Gòn, những người thực sự phong lưu - đồng thời là những người “tranh thủ” được nhiều nhất - không rêu rao về tài sản của họ. Phơi bày hết những đồng bạc thu nhặt được cũng chẳng hay. Nguồn lợi lớn chảy trong một không khí tư sản đoan trang, ngăn nắp, thậm chí tiết kiệm. Thành phố thịnh vượng nhất thế giới nhìn bề ngoài bình thường. Không có sự xa hoa hối hả, những thú vui kỳ lạ, vừa đúng sự cần thiết. Sự khiêm tốn này rõ nhất ở những người Pháp. Vì khi một chiếc xe lớn chất đầy đường, người ta có thể chắc chắn là của một bộ trưởng Việt Nam. Khi một bà lấp lánh những viên kim cương đẹp, chỉ có thể đấy là vợ một vị cao cấp da vàng.

Sự hòa hợp ấy của Đông Dương không chỉ do quân đội, nhà băng, Sở Thuế quan; nó bao gồm cả mọi người Việt Nam trực tiếp hoặc gián tiếp được người Pháp trả tiền ở nông thôn, đấy là tất cả ngụy binh và giáo phái. Ở thành phố là mọi tư sản hợp tác hoặc chờ thời.

Vị trí tốt nhất là những người của Chính phủ - thủ tướng, các bộ trưởng, viên chức cao cấp, viên chức thường. Họ chỉ có quyền lực trong các thành phố lớn. Quỹ quốc gia không có, được thay thế bằng một cuốn sổ tay nhỏ thủ tướng giữ trong túi áo. Việc nhận hối lộ rất phổ biến. Những bộ trưởng được coi trọng nhất là những vị có nhiều quỹ đen. Thông thường thủ tướng có dự trữ nhiều nên ông cũng là bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ Kinh tế quốc gia và Bộ Chiến tranh. Phải trả tiền để được bổ nhiệm vào một vị trí. Giá cả định theo số tiền được cung cấp của từng vị trí, mỗi người trong bọn họ đáng giá theo đó; biểu giá của họ được xác định theo lợi lộc, những gì họ thu lại sau đó.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:15:14 pm

Tất cả đổ vào những tiệc rượu, điện tín, lời chúc mừng, diễn văn phô trương và duyệt binh. Không có đảng phái chính trị, nghị viện, bầu cử, trách nhiệm của các bộ, dư luận quần chúng. Không ai quan tâm đến nhân dân. Tất cả những gì tồn tại là các “nhân vật quan trọng”.

Đấy là những tư sản lớn béo tốt, khoan thai, giàu sụ lên nhờ khai thác những vùng đất bao la và hàng nghìn dân quê. Bị Việt Minh tịch thu hết ruộng đất, họ gỡ lại ở Sài Gòn bằng làm chính trị và mở các xí nghiệp phụ.

Việc thay đổi nghề nghiệp ấy tiến hành hai giai đoạn. Trước hết họ nhớ lại chính người Pháp thưởng công cho tổ tiên họ - những người hợp tác thời kỳ ấy - vô số héc-ta đất ruộng. Nhưng khi người Pháp tung ra nền độc lập, lớp tư sản Nam Kỳ hiểu đây là việc bù lại nguồn lợi lớn mới vô hy vọng đối với họ. Họ bám vào đấy và mau chóng nhận ra phải mở rộng nó để thực sự có lợi, được tự do hoạt động. Là những con người rơm, họ biến mình thành những nhà quốc gia giấu mặt, khao khát quyền lực, thu nhập, ngày càng thích làm tay đòn chỉ huy. Hiện tại cũng như quá khứ, tất cả phụ thuộc vào người Pháp, họ bắt đầu chua cay than phiền không ngừng tính mưu kế để rút được nhiều hơn.

Quan chức Chính phủ để thì giờ tạo những sự cân bằng phức tạp, đấy là mối bận tâm duy nhất của họ. Bao nhiêu trò nhào lộn! Không hề có một bộ trưởng hay viên chức cao cấp nào không có đường dây riêng với Việt Minh. Trước hết vì khôn ngoan, mỗi vị đều biết chỉ cần một “ám sát viên” do Nguyễn Bình cử tới là đủ chấm dứt cuộc đời. Thế là có một sự bảo đảm an toàn, còn hơn cả tính toán. Mỗi bộ trưởng tự nhủ: “Mình sẽ có quyền lực gì nếu người Pháp không nhượng bộ để cứu vãn tình thế? Họ chỉ nhượng bộ khi bị sức ép của Việt Nam. Vậy Việt Minh vẫn nên đủ mạnh để người Pháp nhượng bộ nữa. Tuy nhiên họ không trở nên quá mạnh vì họ sẽ thanh toán không chỉ người Pháp mà cả chính phủ mình, bản thân và toàn bộ hệ thống của mình.”

Cuối cùng chẳng bao giờ rút ra được gì cho người Pháp hay chống người Pháp. Đấy là bùn (sau này de Lattre dùng một từ mạnh hơn nhiều). Lý tưởng duy nhất của họ là đứng giữa sự cân bằng người Pháp và Việt Minh và nhất là kiếm được nhiều đồng bạc trị giá mười bảy phrăng. Thực vậy, họ cứ kéo dài, làm giàu, nghĩ mình rất “mạnh”. Tôi nghe một viên chức cao cấp nói: “Chúng tôi láu lỉnh lắm, ông thấy đấy, chúng tôi giật dây”.

Chẳng có ích gì khi cảnh báo người Việt Nam, có lẽ một ngày nào đó nước Pháp sẽ chán nước Việt Nam của họ! Họ nhún vai trả lời: “Đất nước chúng tôi rất đẹp, rất giàu. Nước Pháp sẽ không bao giờ tự nhả xứ Đông Dương ra đâu. Vì vậy chúng tôi tự gây phiền phức cho mình làm gì?”

Năm 1948 không còn giải pháp chính trị trong chiến tranh hoặc trong kinh doanh. Đấy là ngõ cụt; thực tế cả Việt Minh cũng tham gia vào việc liên minh với đồng bạc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2017, 02:50:54 pm

Con sâu trong quả ngọt

Một cựu binh trong lữ đoàn 2.DB đến Đông Dương với lữ đoàn mình. Trước kia ông là một anh hùng mảnh dẻ và nóng tính, đã trở nên to lớn, béo phệ, cả một khối ngăm đen, người miền Bắc nước Pháp, luôn luôn suy sụp. Ông là một trong số chiến binh chuyển sang dân sự đã thành đạt vững vàng. Ông xây dựng được một tài sản chắc chắn vất vả bằng đầu cơ, buôn lậu. Tất cả đối với ông có vẻ là “chuyện tầm phào” trừ những triệu đồng bạc và những thú vui. Đảo đôi mắt lồi, trong nội bộ ông dám tuyên bố niềm xác tín của mình như thế này:

- Mọi người đều buôn bán với kẻ địch. Làm sao khác được vì người ta sống với Việt Minh? Người ta ăn, người ta ngủ với họ. Nhà bếp của anh, các cô gái của anh chắc là Việt Minh cả - điều đó không ngăn cản họ nấu nướng cho anh, làm tình với anh. Trong việc buôn bán sự có mặt của họ càng chắc chắn hơn. Nếu nhìn sâu vào bất cứ vụ nào người ta cũng sẽ trông thấy họ. Người ta tránh biết đến điều đó và người ta đúng vì sự thật làm cho tất cả thành không thể. Thực tế mọi người Pháp đều đồng loã với việc cùng tồn tại bí mật và được chấp nhận ấy để đi săn đồng bạc.

Trước kia tôi ngây thơ tự chuốc lấy thương tích cho việc không đâu. Bây giờ tôi trở nên khôn ngoan. Mỗi ngày tôi phản bội một ít nhưng hòa thuận với mọi người. Và rồi tôi bất kể. Ở Đông Dương phải chọn lựa: hoặc tan xác hoặc tranh thủ. Tôi đã hiểu đúng lúc. Thay vì chiếc quan tài tôi có một tài khoản ở nhà băng.

Hơn ai hết tôi có thể nói Việt Minh len lỏi trong tất cả nền kinh tế Pháp ở Đông Dương như một con sâu trong quả ngọt.

Thực ra tất cả thật đơn giản. Thời kỳ ấy Việt Minh rất quan tâm đến những tỷ bạc của Đội quân viễn chinh, đến dòng chảy đều đặn của nó. Họ cũng ở trong hệ thống của đồng bạc trị giá mười bảy phrăng. Không thế thì họ làm sao chi phí cho cuộc chiến tranh? Họ đã cố gắng vô vọng tạo ra một đồng bạc nhân dân đối kháng lại đồng bạc thực dân do nhà băng Đông Dương phát hành. Nhưng “đồng bạc Cụ Hồ” không ngừng sụt giá và hầu như chẳng còn giá trị.

Vậy là Việt Minh móc nối với nền tư bản tam tài. Cách làm của họ tinh tế một cách thiên tài; họ trích các khoản thuế của thương gia và rồi mua những sản phẩm cần thiết trên thương trường.

Nhân viên thu thuế là ông mặc complê, đi đi lại lại với chiếc cặp da trong tay, có vẻ là viên chức nhà nước. Việc làm rất đều đặn. Mỗi chủ gia đình được báo số thuế phải nộp - ít nhất cũng cao bằng thuế của Chính phủ. Khi nộp tiền người ta đưa cho một tờ biên lai của Chính phủ Cộng hòa Đỏ.

Chỉ riêng ở Sài Gòn số tiền thu được lên đến những triệu đồng mỗi tháng. Tất cả những người Việt Nam và Trung Hoa đều nộp thuế, một số người Pháp cũng vậy. Ai dám từ chối? Tờ giấy cảnh cáo được gài lại; sau đó là cái chết.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2017, 02:52:00 pm

Việc mua hàng cũng kín đáo như khi góp tiền. Việt Minh không bao giờ mua gì nhân danh mình, họ không ra mặt. Lẽ dĩ nhiên các nhà hàng Pháp không cung cấp cho Việt Minh. Nhưng có biết bao nhiêu trung gian! Chính bộ phận người Trung Hoa trong các hãng bán cho ông “tỷ phú” không nghi ngờ gì được hoặc ông bộ trưởng nào đó, ông này bán lại cho một thương gia không kém đáng kính nào đó, ông này lại bán cho một nhà buôn rất đúng đắn, và sau hàng chục những người da vàng, hàng hóa đi thẳng vào các nhà kho Việt Minh.

Chính từ các nhà tư bản Sài Gòn và Hà Nội, mà các đơn vị của Nguyễn Bình và ông Giáp có được những vật dụng cần thiết cho cuộc chiến tranh nhân dân của họ - vải, kháng sinh, và những loại thuốc khác, dụng cụ, máy phát điện, đài. Việt Minh ở Đồng Tháp Mười chỉ cần mấy tiếng đồng hồ để có một đồ vật phức tạp nhất ở đường Catinat - mà quân đội Pháp phải nhiều tuần mới có được vì những quy định!

Mỗi lần Đội quân viễn chinh bắt được một vật liệu có giá trị, vật liệu ấy của Pháp, mua ở Sài Gòn. Bao nhiêu lần họ tìm thấy máy tiện, máy dập rất mới, những hóa đơn của các hãng nhập khẩu có tiếng! Dĩ nhiên các hãng ấy vô tội, chưa bao giờ có khách hàng là đại uý hoặc chính uỷ một chi đội nào đó nhưng là “người Trung Hoa” ở thị trấn gần đấy.

Đôi khi những vụ mua bán đặc biệt cho phép Phòng Nhì Pháp có những xác minh quan trọng. Họ dự kiến một cuộc tấn công của Nguyễn Bình vì giá sữa hộp trong các thành phố tăng lên rất nhanh. Sau khi điều tra người ta phát hiện ra chính Việt Minh đã vét hết các kho dự trữ và biết Việt Minh có thói quen phân phối sữa cho quân lính giúp họ thêm can đảm.

Tuy vậy Kháng chiến không hạn chế trong việc thu thuế để chi tiêu. Họ luồn vào những vòng xoáy phức tạp của chủ nghĩa tư bản do những nhân viên tài chính được cử làm phát triển những nguồn vốn của họ. Không ai biết những nhân vật này - người ta thì thầm tên của họ nhưng không có chứng cứ.

Trong cuộc chiến tranh Đông Dương chỗ này có một mảng bóng tối và bí mật. Không có gì chắc chắn nhưng rất nhiều điều dễ đoán, thậm chí rõ ràng! Người ta ở những chỗ sâu kín mà trong thương trường lẫn lộn những mục đích chính trị, những tính toán về công việc đặc biệt, những chỉ thị từ Paris tới - đấy là rắc rối không gỡ được của quyền lợi quốc gia và của tất cả những đồi trụy.

Có vẻ như người ta để Việt Minh sử dụng Sài Gòn - những nhà băng, những vòng xoay xuất nhập khẩu - để thực hiện việc buôn bán quốc tế. Vì họ có những sản phẩm bán ra nước ngoài; có gạo, muối, thuốc phiện, nhất là cao su. Và mọi cái đó một phần được những người Pháp tiêu thụ, có hoặc không ý thức.

Trong những việc buôn bán mờ ám ấy, mờ ám nhất là cao su. Người ta đã biết Việt Minh có những diện tích quan trọng về cao su - họ tự khai thác những đồn điền nhỏ và nhất là năm 1945 họ nắm hết việc sản xuất. Một hôm người ta biết được những khối dự trữ của quân đỏ được bán nửa công khai ở Sài Gòn và được các hãng tại chỗ xuất sang Singapore và thị trường thế giới.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2017, 02:53:14 pm

Việt Minh chắc chắn xâm nhập cả vào nền tài chính chung; họ bỏ vốn vào một phần lớn hoạt động mua bán đồng bạc Đông Dương. Mỗi vòng xoay - lần đi, về qua nước Pháp - tăng gấp đôi số tiền bỏ ra; và nhờ tiền lãi, Nguyễn Bình có vàng và ngoại tệ cần thiết để đặt vũ khí ở Manila và Bangkok ở những người bán hàng Hoa Kỳ dôi ra. Thời kỳ ấy Châu Á đầy máy móc giết người nhãn hiệu USA giá không đáng bao nhiêu, bán ra mua lại một lần, mười lần và cuối cùng tới Đồng Tháp Mười.

Phần của Việt Minh trong khối lượng buôn lậu này có đến hàng chục tỷ hay bao nhiêu? Không thể xác định được. Vì những người có tiền không chính chủ. Người ta bao giờ cũng chỉ biết những người da vàng “cấp dưới”, những viên thư ký được lệnh tự xưng là chủ. Nhưng phía sau họ có hàng loạt những người khác càng không biết rõ, vô danh, lẩn khuất dưới những tên họ giả và lý lịch thay đổi. Hơn nữa không có gì được hạch toán rõ ràng; bàn tính của Châu Á dưới những ngón tay thành thạo không để lại dấu vết gì. Cuối cùng tiền bạc thường đưa vào những nhà băng “Trung Hoa”, bề ngoài có vẻ là những cơ quan nhỏ, bẩn thỉu nhưng mạnh hơn những lâu đài Âu Châu của Bò Vàng đầy máy tính. Tất cả quyền lực ấy đến bí mật, hầu như không ghi chép gì và những gì được vào sổ sách là giả mạo.

Trong hoạt động phức tạp ấy, mỗi "phi vụ" gắn vào một dây xích khó gỡ về bù đắp, mua và bán, những "cú" nâng hoặc hạ giá, những thu gom, thủ đoạn, đổi tiền. Mệnh lệnh được đưa tới mọi chỗ trên thế giới bằng mật mã hay quy ước. Trong mỗi hoạt động có buôn bán hợp pháp, không hợp pháp, buôn bán, buôn lậu, đủ loại xảo thuật về đổi chác, vận chuyển hàng hóa thực hoặc ảo - không kể đến việc do thám, nhận hối lộ, chém giết. Một chuyến xuất cảng tôm khô có thể kết thúc bằng việc bốc dõ ở bờ biển Đông Dương những hòm súng đại liên - sau bao nhiêu giao dịch trung gian người ta không rõ.

Mối rối rắm về tiền bạc ấy không phải tất cả cho Việt Minh, còn lâu, nhưng tất cả ít nhiều đều có lợi cho họ. Những khoản vốn lớn của Trung Hoa, cả của những thực dân đều lẫn lộn với vốn của họ. Hơn nữa một số người Pháp bằng xương bằng thịt, để rút một số giấy phép của chính quyền trình bày với cấp thẩm quyền phần bình thường, hợp pháp của từng phi vụ và che đậy, mọi phần còn lại. Bản thân những người này không biết sự đồng lõa của mình đi đến đâu, chỉ biết điều cần thiết tối thiểu. Điều chủ yếu mù mịt trong bí ẩn bao la của Châu Á. Nhưng như vậy cuộc chiến tranh có thể tiếp tục.

Dưới sắc thái Sài Gòn tô vẽ lòe loẹt theo lối Phương Tây, những lợi ích móc nối vào nhau như dây leo trong rừng rậm. Việt và Pháp không có nhau, không cùng tồn tại thì không sinh sống được. Họ phải tiếp tục con đường đi của họ với nhau. Thế mà mục đích cuối cùng của họ là tiêu diệt nhau.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2017, 02:54:47 pm

Chủ nghĩa tư bản cần thiết cho Việt Minh đến nỗi họ chú ý không nhấn chìm nó. Vì họ có thể dễ dàng đánh những cú nặng hơn nhiều! Ai cấm họ đốt cháy tất cả những xe lớn trên đường, hạ người Pháp nhiều hơn trong Sài Gòn, đặt khắp nơi mìn hoặc thuốc nổ? Họ dễ dàng làm tê liệt cuộc sống kinh tế nhưng họ không làm. Thậm chí họ phê bình "giải pháp không đúng" về phá huỷ nói chung.

Một ví dụ: Năm 1945, trong tình trạng lộn xộn bước đầu có những toán Việt ào vào các đồn điền, những xí nghiệp khổng lồ của rừng rậm, thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Họ đốt cháy hoặc chặt phá cao su. Mấy tuần lễ sau có lệnh cấm nghiêm ngặt: Không được huỷ hoại gì nữa, nếu còn xảy ra sẽ bị phạt nặng.

Họ đặt ra việc bảo vệ những tài sản to lớn ấy sớm hay muộn, sau chiến thắng tài sản ấy sẽ thuộc về nền Cộng hòa nhân dân Việt Nam. Trong lúc chờ đợi, đấy là nguồn tài trợ, theo nguyên tắc chung mọi hoạt động của người Pháp phải mang lại lợi ích cho Việt Minh, ít ra là gián tiếp. Cho rằng các chủ đồn điền, các giám đốc, nhân viên của họ không bỏ tiền ra nhưng lương, thực phẩm hàng tháng trả cho công nhân cũng là những khoản trợ cấp dễ chịu.

Việt Minh rút bạc từ các đồn điền bằng mọi cách. Thay vì tiến hành chiến tranh như thường lệ, họ gây sức ép liên tục bằng sự khủng bố có mức độ - không nhẹ hay nặng quá; Để làm hài lòng hoặc tác động công nhân, thỉnh thoảng họ ám sát một trợ lý người Âu; nói chung đấy là một người khắt khe mà nhân viên da vàng kêu ca. Theo cách ấy trong cuộc chiến tranh Đông Dương, các đồn điền nói chung lãi to, Việt Minh cũng tranh thủ được nhưng khoảng dăm chục nhà sản xuất trẻ bị giết.

Ngay tại Sài Gòn, một Việt Minh giải thích cho tôi "con đường hợp tác" (thực ra thậm chí trên đường Catinat người ta thấy nhiều Việt Minh tự do nhưng công khai không phải Việt Minh). Người ấy nói với tôi:

- Mục đích của chúng tôi là giết binh lính các ông và giáo dục nhân dân chúng tôi; Hiện tại chúng tôi chưa đụng tới chủ nghĩa tư bản; không có nó, chúng tôi không thể trang bị quân đội chúng tôi và nuôi sống dân chúng. Thậm chí sự nghèo khổ có thể làm dân chúng chống lại chúng tôi.

Chúng tôi còn cần đến chế độ thực dân Pháp. Chúng tôi không ngăn cản đồng bào tranh thủ nó với điều kiện tuân theo chúng tôi nghiêm ngặt. Mối nguy duy nhất của chế độ tư bản là sự tha hóa. Chúng tôi dè chừng điều này. Chúng tôi chấp nhận rất nhiều việc với điều kiện về cơ bản dân chúng thuộc về chúng tôi. Bọn phản động không phải là những người Việt Nam hợp tác với người Pháp mà là những kẻ chúng tôi không tin tưởng được nữa. Chúng tôi thanh toán họ. Chúng tôi cũng có những hành động hỗ trợ - hoạt động bảo vệ để quần chúng biết rõ mặc dù cuộc sống Sài Gòn có những biểu hiện tư bản, chúng tôi vẫn là những người chủ thực sự.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2017, 02:55:32 pm

Điều lạ lùng là các quan chức Pháp chưa quy định chặt chẽ cuộc "chiến tranh kinh tế” này - việc hợp tác - rất có ích cho kẻ địch. Giải pháp hiển nhiên là hạn chế nhập khẩu những sản phẩm đặc biệt quý đối với Việt Minh. Điều đó thậm chí không được làm thử. Vì sẽ trái không chỉ với lợi ích thương mại mà còn với lý luận chính thức của công cuộc bình định về sự phồn vinh.

Cũng như người Việt, người Pháp có một lập luận về "sự hợp tác". Ít ra thì lập luận ấy được một viên chức cấp cao rất trẻ trình bày với tôi. Đấy là một chuyên viên kỹ thuật; thông minh đến khô khan, tự kiêu đến hoàn toàn trung thực. Ông ta nói:

- Ông đừng tưởng tôi mù. Tôi biết hết những gì xảy ra nhưng tôi dụng ý để cho làm vì tôi nghĩ đấy là lợi ích của nước Pháp. Trong thế giới hiện nay quan niệm đơn giản về buôn bán với kẻ địch đã qua rồi vì tất cả đều trụ vững và phải biết sử dụng hết. Tôi trước hết vì hoạt động kinh tế do đó vì mọi sự giao dịch, buôn bán, thoả hiệp, vì những gì lúc nhúc trên đồng bạc trị giá mười bảy phrăng.

Tôi phải có sự suy xét thực tiễn, có lợi, đó là điều không được lơ là. Chủ nghĩa thực dân đã chết nhưng vẫn còn những cuộc chiến tranh thực dân; trước kia người ta làm để chinh phục, bây giờ là để bao trùm lên sự rời bỏ chinh phục. Điều đó ít quan trọng; đấy luôn luôn là những phi vụ tuyệt vời.

Cuộc chiến tranh Đông Dương trước hết là một quả bóng dưỡng khí cho nền kinh tế Pháp vốn vực dậy rất khó khăn đang cần những yếu tố kích thích. Mà có liều thuốc nào hơn cuộc viễn chinh cách mười hai nghìn cây số, ở đó tuy cách xa mọi việc đều làm theo quỹ đạo Pháp, ở đó thậm chí những đối thủ của chúng ta cũng là khách hàng? Nhà nước phải chi mỗi ngày một tỷ nhưng nó đem lại nhiều hơn vô cùng cho người Pháp, không riêng cho những người ở đây mà còn nhiều hơn cho những người bên chính quốc. Thậm chí không mất đi, chẳng có gì thất thoát ở nước ngoài; ngược lại tất cả - tiền, hàng hóa, trang bị - vẫn ở lại trong vòng xoay Pháp - Đông Dương. Cả những khoản tiền lãi cuối cùng trở về Pháp ngon lành, nơi đã đầu tư. Tất cả những cái đó là một dạng lạm phát may mắn.

Còn một điều khác. Cứ cho rằng cuộc chiến tranh này có một mục tiêu cao cả hơn, đường lối chính trị lớn như là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản Châu Á. Vũ khí của họ là sự trong sạch, không bỏ rơi đạo đức đỏ để hòa nhập với sự thịnh vượng thực dân. Đấy là một thắng lợi lớn của chúng ta. Chúng ta dần dần tiến tới tha hóa và chia rẽ người Việt. Ngược lại với bề ngoài, chính chúng ta có lợi trong cuộc chiến tranh làm mục ruỗng.

Nhưng điều đó có đúng không? Năm 1948 không ai nói trước được bên nào đang lừa bịp bên nào trong việc "hợp tác giữa những kẻ địch" một dạng hiện đại của cuộc chiến tranh tổng thể. Sự mục ruỗng là một hiện tượng quá chậm, phức tạp khác thường đến nỗi không thể nhìn rõ, không phân biệt thất bại và thành công.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2017, 03:29:19 pm

Thực tế người Pháp đã bị đánh bại trong cuộc chiến đồng bạc nhưng họ không biết. Họ không nhận thấy Việt Minh chỉ đạo một cách khoa học sự thỏa hiệp của mình còn người Pháp không đạt được. Tất cả do luật cùng cần điều khiển. Dù sao cũng có một sự mâu thuẫn nào đó giữa lợi ích thương mại Pháp và lợi ích của nước Pháp.

Có lẽ người Pháp tha hóa được một ít người Việt ở Nam Kỳ (sau này Hồ Chí Minh đưa trở lại vào nền nếp). Nhưng nhất là họ tự huỷ hoại mình đến tột cùng. Cuộc chiến tranh Đông Dương anh hùng nhưng còn bẩn thỉu hơn. Cả những quân lính của Đội quân viễn chinh cũng không tránh khỏi lây nhiễm. Tệ hại hơn cả là những người Việt chống Việt Minh. Năm này qua năm khác họ càng nhụt chí. Không bao giờ người ta có thể nhận ở họ một sự cố gắng nghiêm chỉnh; họ bất lực đối mặt với Hồ Chí Minh.

Đến một hôm người ta sẽ nhận ra đối mặt với đồng bạc của chúng ta là "con người Việt Minh " một con người mới, một con người mà người ta tưởng là thuộc giống nòi khác về hình thức và tinh thần. Một trường hợp đột biến. Chỉ lúc đó người ta mới hiểu sự thịnh vượng quay lại chống chúng ta. Người ta phá giá đồng bạc Đông Dương nhưng đã quá chậm; người ta sẽ là những kẻ bại trận mục ruỗng trước khi vĩnh viễn bị đánh bại trên chiến trường Điện Biên Phủ.

Trong lúc chờ đợi, con lợn là biểu tượng tốt nhất của sự cân bằng trong mục ruỗng. Đây là nói về con lợn thật, con vật ưa thích của nhà bếp Phương Đông. Để tới được Sài Gòn nó đã trả tiền cho mọi người, thuế của Chính phủ, tiền trả định kỳ cho Việt Minh, cho các giáo phái, cảnh sát, đôi khi cho các bốt Pháp. Nó phải trả tiền cho tất cả những người mang vũ khí gặp trên đường. Cuối cùng một con lợn giá rất đắt, nhưng nhờ vào sự giàu có chung, người tiêu thụ không thiếu. Toàn dân chúng hoặc hầu hết Sài Gòn ăn thịt lợn.

Lợn có khắp nơi trong thành phố. Người ta chở nó, trong những xe lớn, trên máy bay. Con gái một cảnh sát trưởng Pháp chuyên chở lợn trên máy bay. Chúng cũng đến khiêm tốn hơn, do những người nông dân, buộc gánh trên đòn tre. Người ta đổ chúng xuống mọi đường phố, giết thịt treo từng mảng lớn ở các quầy, thái từng lát mỏng dần trong chảo những người bán cháo rong; những người giàu cắt thành khối thịt nhỏ nấu với nước cốt dừa tẩm đường.

Riêng Việt Minh không tiêu thụ. Họ đánh thuế vào gia súc đưa vào Sài Gòn. Theo cách đó con vật trở thành công cụ của chiến thắng đỏ.

Bài học về con lợn là những người sung sướng ăn nó không bao giờ đánh nhau vì nó, dù cần thiết để tiếp tục ăn. Ngược lại Việt Minh không ăn, họ đánh nhau rất hăng. Đơn giản, vấn đề con lợn họ không coi trọng trừ việc là một cách để có kinh phí. Việt Minh không đặt vấn đề gì ngoài phép biện chứng và chiến thắng.

Tóm lại, sự phồn thịnh không tạo được đà, chỉ là hưởng thụ. Và Việt Minh biết tranh thủ trong chừng mực phù hợp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười Hai, 2017, 01:57:54 pm

Lâu đài Norodom

Quyền lực Pháp tập trung ở lâu đài Norodom tại Sài Gòn. Đây là chỗ làm việc của hai "ông chủ" lớn của Đông Dương, tướng tổng chỉ huy Carpentier và cao ủy Pignon.

Norodom là một nhà vua Căm-bốt thời Bảo hộ. Đây là một nhân vật theo kiểu cũ: sống dưới cây lọng bảy tầng, xà rông quấn ngang chân, sùng đạo và quy phục. Người Pháp rất hài lòng về ông, lấy họ ông đặt tên toà nhà Toàn quyền Pháp ở Sài Gòn.

Mặc dù mọi biến cố, lâu đài Norodom không suy suyển. Nó luôn trên thảm cỏ như một chiếc vỏ hàu lớn, một loại tiết chất màu vàng. Đây là kiến trúc của thời thực dân huy hoàng với vẻ đẹp rườm rà, và của Đông Dương thuộc Pháp: những cầu thang đồ sộ, những bậc thềm đá hoa cương, nhiều đường viền và tượng hoa mỹ. Khắp nơi người ta thấy nó từ xa, sừng sững giữa lòng thành phố, giữa những đường phố lớn đầy hàng rào sắt phức tạp, Ban ngày, một lá cờ tam tài rất rộng bay phấp phới trước mặt tiền, trên cao chiếc cột mười mét, chỉ rõ uy quyền nước Pháp.

Ngôi nhà này, khống chế cả Sài Gòn, là biểu tượng của chủ quyền: những người ở đây là chủ nhân thực sự của đất nước. Chính phủ Việt Nam đã vô vọng đòi lại cho mình, thật tích cực nhưng không được. Người Pháp cho họ lâu đài La Grandierè cách đấy hai trăm mét, cũng đẹp gần như thế nhưng không có ý nghĩa, không biểu tượng. Người Pháp ở lại Norodom để khẳng định sự có mặt của họ còn khống chế nền độc lập, được đặt ở một mức cao hơn.

Quyền bá chủ Pháp thực hiện ở đây trong sự tĩnh lặng tuyệt đối. Tất cả ngủ gà ngủ gật giữa sự im ắng nhẹ nhàng. Người ta sẽ nghĩ ra những dằng xé của xứ Đông Dương biết bao! Đôi khi một cánh cổng mở, một chiếc xe con cắm cờ xiết bánh trên cát bằng phẳng của lối đi, lính lê dương bồng súng chào, những người tùy tùng vội vã. Sau mấy phút hoạt động ấy lu mờ đi, tan vào không khí những gian phòng rộng bao la và trống vắng. Quá lắm, thỉnh thoảng ở hành lang đi lại một nhân vật quan trọng, bí mật, cầm giấy tờ trên tay. Đầy tớ người Annam khăn đóng áo dài tỉnh dậy cúi chào. Cũng có lúc người ta nghe tiếng máy chữ, chuông điện thoại, một giọng nói to.

Trong cao trào bình định, vào cuối năm 1949, tất cả những gì được làm, tất cả những gì xảy ra ở Đông Dương tùy thuộc vào lâu đài này, vào công việc người ta làm ở đây. Mỗi "vụ việc" lên đây, từ đây trở ra, theo hệ thống chỉ đạo. Đây là toàn bộ máy móc bao la về chiến tranh, nơi "lãnh đạo mọi việc". Sự thật bi đát đến đây dưới dạng nhàm chán, những hồ sơ chuẩn bị công phu, sắp xếp gọn gàng. Những người giúp việc đóng dấu "mật" vào đây, những mưu sĩ ở các phòng xem xét rồi Carpentier và Pignon có những quyết định dội ra khắp nước lay động hàng triệu người để đi đến những hậu quả không ai dự kiến.

Nhưng đống giấy tờ ấy cũng bao phủ bi kịch của những người lãnh đạo. Carpentier là một người lo ngại ngay giữa lúc thỏa mãn. Pignon không tin tưởng nữa vào quân đội, vô vọng tìm một "giải pháp chính trị". Hai người cách biệt nhau, mỗi người trong cánh lâu đài của mình, vừa là đồng minh vừa là kẻ thù.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười Hai, 2017, 01:58:59 pm

Sức khỏe không tốt, tướng Carpentier khép mình trong mấy gian phòng, không muốn bị ai quấy rầy. Một thiếu tá, to lớn lưng còng khuôn mặt tư lự, làm người gác tiền sảnh,bảo vệ ông tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chính ông kiểm tra tất cả, những người khách và tin tức.

Carpentier trước đây là trưởng ban tham mưu của tướng Juin, người bảo trợ, bạn của ông. Nghe ông được cử làm tổng chỉ huy ở Đông Dương, Đội quân viễn chinh chờ đợi một người có kinh nghiệm về chiến tranh. Họ thất vọng ngay. Ông hiện diện như một người đóng thế, một người đầy tớ hăng hái nhưng không có khả năng chỉ huy. Đấy chỉ là một viên quản gắn lon.

Tôi nhớ không rõ về ông, ít quan tâm về con người này. Về hình thức ông là một loại nông dân tiến bộ nhưng đã mòn mỏi, chậm chạp. Ông có khuôn mặt dài xương xấu, thân hình vụng về của một người đồng đất, phong thái nông dân, lời nói mộc mạc vụng về. Ở ông chỉ còn lại bộ xương nhưng thịt và trí óc đã rỗng hết. Tuy vậy con người mệt mỏi này cố gắng gây ảo tưởng bằng một số tàn bạo khù khờ và hóm hỉnh của người chiến binh dũng cảm. Ông xoay theo cách của mình, giấu giếm theo lối "thật thà" của người lính, những gàn dở, những khéo léo, một chủ nghĩa bất động ích kỷ, cả một nỗi ám ảnh về bản thân.

Một số ngày ông trở nên hoạt bát, vui vẻ thô lỗ. Lúc ấy ông lên giọng cáu kỉnh vô cớ, thông báo với một bộ trưởng Việt Nam ông sẽ "vứt" cả ông và chính phủ của ông ta. Nhưng khi cuộc cãi nhau ấy được biết đến, đưa lên báo chí Sài Gòn, ông chối.

Thường ông cũng sợ. Trường hợp ấy khuôn mặt ông nhuốm một màu sắc rất đặc biệt, lẫn lộn cảnh giác thô thiển và mưu mẹo táo bạo. Bao nhiêu lần tôi thấy ông đứng thẳng trước bàn làm việc rãn những nếp nhăn và nheo mắt kêu lên với giọng nói nửa khóc nửa khoe khoang: "Tôi, người ta không đốt cháy được tôi đâu. Tôi có những bạn thân ở Paris, tôi viết thư nói sự thật với họ". Thực ra vào từng lúc, ông “mở ô dù" - nghĩa là ông nhờ che chắn - gửi một báo cáo cho Juin.

Điều đó vẫn chưa làm ông an tâm. Ông bèn khôn ngoan không bao giờ quyết định. Khi dù sao cũng không tránh được trách nhiệm, ông bắt đầu thanh minh trước, không dứt, bằng miệng, bằng viết như trong cơn mê sảng.

Tướng Carpentier bị những ý tưởng cố định săn đuổi nhưng tự bảo vệ mình. Ông không ngớt lặp lại: "Có lẽ tôi không có vẻ thế nhưng tôi thấy rõ, bao giờ tôi cũng biết cần làm thế nào". Mọi câu chuyện với ông sau mấy phút đều đi đến nói đi nói lại chán ngắt về ông, về sự nghiệp của ông, những mưu mô có thể làm hỏng sự nghiệp ấy. Nỗi ám ảnh đó gặm nhấm ông, làm khô người, tạo những nếp nhăn, khiến ông không tìm ra từ. Cũng không nên nghĩ ông có những tham vọng ngông cuồng; ông không mong có những khen thưởng về thiên tài vốn dành cho Juin. Ông chỉ đòi hỏi khoản lương đúng mức. Điều ông muốn là giữ vững điều mình có, nhận được hơn một ít, một ngôi sao nữa, một vị trí, sau này có mức lương hưu cao hơn, có lẽ một ghế trong Viện Hàn lâm Pháp (vì ông đã viết những nghiên cứu về sử dụng bộ binh trong chiến tranh 1914-1918).


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười Hai, 2017, 02:00:51 pm

Điều lạ nhất là nỗi lo lắng của ông không có lý do cụ thể. Carpentier thậm chí tin tưởng kỳ lạ ở chỗ ông có thể lo ngại. Ví dụ, ông không sợ Việt Minh. Ông phải chấp nhận họ biết tiến hành cuộc chiến tranh du kích, nhưng không bao giờ ở ông là một điều khẳng định - họ không bao giờ có khả năng tiến hành chiến tranh. Ông giải thích rất tiếc họ không đối đầu với Đội quân viễn chinh bằng dàn trận vì như vậy họ sẽ bị đập tan, kết thúc cuộc chiến. Ông càng không tin vào sự đe dọa của Trung Quốc, ngay cả lúc quân đội nhân dân của Mao Trạch Đông đang thanh toán những lực lượng to lớn của Quốc dân đảng ở Mãn Châu Lý. Thực ra đây là sự tin chắc những người da trắng bao giờ cũng trên người da vàng dù họ đông. Vì vậy ông chống đối kịch liệt việc xây dựng một Quân đội quốc gia Việt Nam bổ sung cho Đội quân viễn chinh.

Sự lo lắng của ông xuất phát từ một quan niệm trẻ con, vừa ngây thơ vừa thủ đoạn. Tất cả những thái độ mất tự chủ của ông đều do những sức mạnh bí mật và đáng sợ này: Chính phủ ở Paris, Nghị viện, những nhà chính trị Pháp và nhất là các vị tướng nửa chính trị gia ở đường phố Saint Dominique. Ông tin chắc tất cả thế giới dân sự và quân sự của Paris sẽ dội xuồng đầu ông nếu có một sáng kiến nhỏ nào.

Tuy vậy ông quyết giữ vị trí mình, thậm chí tàn bạo.

Thế là ông chẳng làm gì cả. Vả lại ông có gì để làm vì cuộc chiến tranh tự tiến triển? Carpentier trước hết là một chuyên gia, không phải về chiến lược mà về quy tắc, những việc của “môi trường” quân sự. Ông quan tâm đến những thù oán và thiên vị nhỏ của Đội quân viễn chinh, gọi việc đó là “bảo tồn tinh thần thực sự của quân đội”. Ông cảnh giác, nghiên cứu mỗi cô gái mặc đồng phục “ra ngoài” với những chàng bên dân sự. Ông phạt không thương xót một cô vì đã “lui tới” với một nhà báo: bị coi là nữ do thám nguy hiểm, cô bị hạ cấp theo điều lệnh trước đồng đội đứng nghiêm, vào tù và bị đuổi về Pháp một cách nhục nhã. Nhưng chủ yếu Carpentier để thời gian xem xét bảng thăng cấp, ghi từng sĩ quan một. Lúc ấy không ai gặp ông được.

Rất hiếm khi Carpentier rời văn phòng mình, càng hiếm khi ra khỏi Sài Gòn. Ông có một chiếc máy bay của Tổng chỉ huy nhưng hầu như không bao giờ dùng đến. Ông hoàn toàn không tò mò. Vả lại người chiến binh ấy - Carpentier từng là một anh hùng của những năm 1914-1918 - không biết nói với chiến binh. Ông chỉ tiếp xúc với các sĩ quan và quân đội qua giấy tờ. Chưa bao giờ có một người ít cảm xúc với quân đội như thế. Sau này người ta giải thích với tôi ông là một người thừa hành xuất sắc. Nhưng như thế tại sao người ta giao cho ông trách nhiệm đứng đầu một Đội quân viễn chinh?

Thực tế Carpentier được đặt dưới quyển một “ông chúa”, cao ủy Pignon. Ông bất bình về sự phụ thuộc ấy nhưng nín nhịn; thậm chí người ta nói ông hài lòng một cách không ý thức, như một cách trốn tránh trách nhiệm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười Hai, 2017, 02:01:33 pm

Bí mật của lâu đài Norodom là hai người chủ ở hai cánh đối diện nhau - Carpentier và Pignon rất ăn ý với nhau mặc dù những dáng vẻ bên ngoài. Carpentier sung sướng để Pignon có những quyết định lớn và ông này hoan nghênh sự ngu dốt của Carpentier.

Một sự hợp tác ngược đời vì Pignon là một người dân sự ngổ ngáo đến mức gần với đối kháng quân sự. Theo ông, viên tướng giỏi nhất là kẻ ngu ngốc nhất.

Người ta đang đứng trước tình hình này: toàn bộ Đông Dương nằm trong tay quân đội trừ một nửa lâu đài Norodom ở Sài Gòn và trong các thị xã là những ngôi nhà chính quyền. Điều đó cũng đủ để trong một đầu lâu đài, Pignon danh chính ngôn thuận thực hiện quyền lực tối cao của mình hầu như không đếm xỉa gì đến Đội quân viễn chinh.

Sự tin chắc trước tiên của Pignon là không có lối thoát cho chiến tranh, không có giải pháp bởi đánh nhau (hơn nữa không có đánh nhau thực sự, thậm chí không có chiến trường). Công cuộc bình định những nhà quân sự tung ra cũng không đi đến kết quả quyết định. Theo chủ thuyết Pignon nó không đầy đủ, là một điều tồi tệ. Vả lại nó được tiến hành rất không tốt. Thân cận của cao ủy tin sâu sắc đấy là sự ngốc nghếch quân sự. Để có một số kết quả Pignon đã gây cho một số quan chức trẻ của mình chống chiến tranh du kích, ganh đua với quân đội. Một trong những chàng trai ấy thậm chí đã nói với tôi:

- Thử hỏi Đội quân viễn chinh có gây thiệt hại nhiều hơn việc tốt không. Tuy vậy sự bất lực quân sự có lợi cho chúng tôi khi nó ở ngay tầm với Cao uỷ. Phải chăng chúng tôi sẽ rất phiền phức nếu tổng chỉ huy nghĩ mình thông minh? Thực sự ông ta muốn chỉ huy!

Thực tế Pignon để Carpentier và Đội quân viễn chinh lo việc của họ, lo những cuộc hành quân, không cản trở, làm phiền họ mà ngược lại. Mọi việc đó đối với ông tương đối thứ yếu. Vì ông để tất cả vào giải pháp “của ông” - ông đã theo đuổi từ lâu, trước khi Carpentier có mặt rất lâu, âm thầm, bí mật nhưng quyết tâm không tưởng được. Điều ông muốn là một công cuộc bình định theo cách Việt Nam, do người Việt Nam làm. Ông chống lại một quân đội da vàng xây dựng theo lối Pháp - sẽ là một bản sao, thêm những sai sót của Châu Á vào sai sót của Phương Tây. Mục đích của ông là dựng lên một trận tuyến chống Việt Minh đối phó với Việt Minh. Ý nghĩ xấu xa của ông là người Pháp, người da trắng sẽ luôn luôn bất lực trong việc giải quyết vấn đề Đông Dương: chống người Châu Á phải là người Châu Á; không có lính đánh thuê nhưng là những chiến binh thực thà và hung dữ lôi kéo một phần dân tộc chống chủ nghĩa cộng sản.

Mục tiêu của Pignon là cuộc chiến tranh nội bộ giữa những người Việt Nam. Từ nay ông tin có thể phát động với quy mô rộng vì cơn sốt dân tộc đang rơi xuống; những người sở hữu, những người thủ cựu, Khổng giáo, Phật giáo, quan lại và tư sản dần dần nhận thấy họ là kẻ thù tự nhiên của cách mạng mác-xít. Cuộc đấu tranh giai cấp cũng là một thực tế ở Viễn Đông. Điều phải làm là khêu gợi ý thức, đi đến chỗ “những người trung thực” có thể tuyên bố không hổ thẹn: “Chúng ta hãy đứng về phía người Pháp vì nguy hiểm chính không còn là chủ nghĩa thực dân suy yếu mà là chủ nghĩa cộng sản đã lộ mặt”.

Nhưng để được như vậy, người Pháp và Pignon có thể nhượng bộ rất nhiều trên bình diện chủ nghĩa quốc gia và nền độc lập. Họ có làm những điều ấy không? Pignon đã xác định tham vọng này có đi tới đích không? Chúng ta hãy xem Pignon là ai.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2018, 04:02:54 pm

Những người trở lại

Một người hiểu mối nguy cơ trì trệ. Đấy là cao ủy Pignon. Ông đã nhiều lần nói với tôi: “Chúng ta cũng cần có một anh hùng. Chống Hồ Chí Minh chúng ta phải có một người đối kháng Hồ Chí Minh”. Vì thế ông đưa Bảo Đại trở lại.

Trước hết tôi muốn kể Pignon đi đến quyết định ấy ra sao, theo những giai đoạn nào. Một câu chuyện kỳ lạ.

Phải biết, “giải pháp Bảo Đại” - con bài Bảo Đại như người ta nói lúc đó - không phải của một mình Pignon. Đầu tiên là của Phái đoàn dân sự ở Đông Dương mà ông là thành viên.

Những người trong chính quyền xung quanh Pignon là những người trở lại. Họ là những thực dân hoàn toàn mà cánh “De Gaulle” xấu hổ đuổi đi năm 1945. Ba năm sau, họ trở lại nắm quyền lực ở Đông Dương. Nhưng họ đã tự kiểm điểm thay thế chủ nghĩa thực dân cộng hòa bằng chủ nghĩa thực dân ít công khai hơn - một nền độc lập có kiểm soát mà công cụ sẽ là Bảo Đại.

Những người chủ trì độc lập ấy vừa mới đây đấu tranh quyết liệt chống độc lập! Khi quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương họ đã đi đến chỗ “hợp tác” với Nhật có hy vọng khác thường giữ vững sự chi phối của người da trắng đối với người da vàng khác dưới sự thống trị da vàng! Theo Decoux, họ chơi trò nguy hiểm ấy qua những thử thách, những nhục nhã tệ hại, những khó khăn không tưởng tượng được. Họ nghĩ đã thành công một thời gian dài. Mặc dù sự hiện diện nặng nề của Nhật, trong bốn năm dân chúng vẫn trung thành với nước Pháp bại trận của thống chế Pétain.

Những quan chức chính quyền ấy hành động vì lòng yêu nước, cũng vì tự hào. Họ có cảm giác thuộc về tầng lớp siêu đẳng, rất tự hào về tác phẩm của mình! Chính họ làm cho Đông Dương thuộc Pháp thành thuộc địa hoàn hảo - quá hoàn hảo. Vì trong ý thích hoàn thiện, họ thực thà khẳng định chỉ những người Âu, nhất là người Pháp như họ có thể “khai hóa” một dân tộc Châu Á. Điều ấy dẫn họ thực hiện một chủ nghĩa hoàn toàn cha chú. Giả tạo và duy ý chí, họ biết rõ hết. Vì vậy họ đã làm nhiều, không chỉ để “khai thác” mà cũng vì điều tốt cho “dân bản xứ” mà họ thương mến theo cách của họ. Cơ chế của họ như một bộ máy đồng hồ. Những người thông minh này tin vào trật tự nhưng không hề tin vào chủ nghĩa dân tộc: đối với họ một nền an ninh tốt chỉ để giải quyết những “kẻ nóng đầu”. Thực tế trong các thành phố, một trong mười người là “kẻ báo tin”. Một số người Annam gắn trước nhà như biểu hiện vinh dự như sau: “Ông X... chỉ điểm của mật thám Pháp”. Những quan lại dễ bảo mà người ta trông những tha hóa, “nắm” dân quê trên đồng ruộng cho chính quyền. Đói rét, dịch bệnh trở nên hiếm xảy ra. Vì vậy dân số phát triển thật kỳ diệu.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2018, 04:05:05 pm

Những nhà cai trị tuyệt đối tin chắc vào sự vững vàng gần như vĩnh viễn của Đông Dương. Họ không quan niệm đây là nhà tù của cả một dân tộc; không bao giờ họ tưởng tượng được bên dưới sự quy phục hình thành mầm mống nổi dậy. Tất cả bị đè nén. Vậy mà tất cả nổ ra trong bước đầu buông lơi, năm 1945. Người Nhật không muốn họ chỉ làm cho “dân bản xứ” hiểu Pháp yếu đến mức nào. Chỉ trong mấy giờ những ảo tưởng đổ nhào, kéo theo tất cả công trình kiên nhẫn và tỉ mỉ của những nhà cai trị ấy. Họ lại gửi Đội quân viễn chinh đi nhằm chinh phục lại - tiến hành cuộc chiến tranh Đông Dương để sau này kết thúc ở Điện Biên Phủ.

Trong ba năm họ hoàn toàn không gặp may. Những người nghĩ mình hy sinh vì nước Pháp cố thân thiện với người Nhật bị kết tội gần như phản bội. Đa số trong bọn họ bị thanh lọc, phán xét, kết tội. Có vẻ họ vĩnh viễn hết đời.

Điều cứu họ như có phép lạ, là những người kế tục họ - những người Pháp của nước Pháp như d’Argenlieu, Leclerc, Bollaert - chìm trong lẫn lộn và mâu thuẫn. Những người kháng chiến Pháp vừa giành lại Đông Dương trong tay những người kháng chiến Đông Dương, trong tay Việt Minh. Đồng thời họ bêu riếu những người của Decoux, nghĩa là những nhà cai trị dân sự, mọi người Pháp của thuộc địa và nói: "Chúng ta đã đuổi quân xâm lược Đức, chúng ta sẽ hiểu những nhà yêu nước Việt Minh". Những người mới đến chờ đợi tìm được những Việt Minh "tốt" - nhưng nếu Việt Minh không "tốt" thì họ giết. Thậm chí họ có một loại phấn khích như thần thánh hóa chiến tranh và cái chết. Vậy là họ thanh toán Việt Minh mà họ ve vãn cùng với những người Annam khác.

Thật không lôgíc. Người ta hy sinh những người Pháp thuộc địa bị lên án là thực dân, cho Việt Minh cho phép những người Pháp của nước Pháp thay chỗ. Lần lượt người ta săn đuổi Việt Minh rồi thương lượng với họ, tiến hành những cuộc tập kích đẫm máu trong lúc Hồ Chí Minh được đón tiếp ở Pháp với nghi lễ quốc gia, thảo luận không dứt với Việt Minh quanh những chiếc bàn xanh nhưng từ chối nền độc lập của họ. Đấy là ngây ngô hơn bịp bợm: thân thiện với những cuộc cách mạng tưởng rằng cách mạng tự đứng trong quỹ đạo Pháp. Dù nhận thấy Việt Minh chống Pháp người ta cũng tự thuyết phục mình họ mê nước Pháp, sẵn sàng để cho những người Pháp của nước Pháp, những người kháng chiến, thắng lợi, bám chắc vào ý tưởng cố định những người cộng sản Châu Á là những người nhân đạo.

Trong một buổi nói chuyện, một trong những người Pháp của nước Pháp ấy bảo tôi điều có thể đúng là Việt Minh nổi dậy, khai thác truyền thống tự do và khởi nghĩa của chúng ta. Tôi bèn hỏi: “Vậy tại sao các ông giết họ? Tại sao các ông muốn họ phụ thuộc vào các ông?"

Ở Paris bên cạnh Chính phủ và trong các bộ những người cai trị lấy lại can đảm. Quên những sai lầm, họ tố cáo sự bất tài của những người đã hất cẳng họ. Cả Phái đoàn dân sự xuất hiện tại ở các văn phòng, tiền sảnh, hành lang của nền Đệ tứ Cộng hòa nói trước rằng không bao giờ thỏa thuận được với Việt Minh: đấy là kẻ địch, những người cộng sản và chỉ có chiến tranh với họ. Và những việc làm hình như xác nhận đúng những kinh nghiệm của các cựu chiến binh bạc đầu với yên cương.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2018, 04:05:46 pm

Thực vậy Việt Minh lại cầm vũ khí vào cuối mùa hè 1946, sự phân tích biện chứng chỉ cho họ thấy phải trả giá quá đắt cho hòa bình. Họ không lay chuyển, dựa vào những năm đánh nhau để làm nản lòng nước Pháp, chán Đông Dương. Paris đã vô vọng thử xích lại gần lần cuối cùng. Chính phủ đã chọn một người trung dung - không "kháng chiến", không "thực dân", một vị cấp cao, đại diện Chính phủ ở tỉnh vốn là đảng viên xã hội đã cắt đứt mọi liên hệ. Được bổ nhiệm cao ủy, ông Bollaert cố gắng chấm dứt mọi hận thù năm 1947: Ông đã thất bại.

Chủ yếu do chánh văn phòng của ông, Mesmer - vừa đẹp người, đảng viên xã hội, anh hùng của nước Pháp tự do và cựu chỉ huy đội quân lê dương - chỉ đạo việc tiếp xúc. Nhưng đến một hôm bản thân ông đã than thở: "Với những người ấy, những Việt Minh, không còn làm gì được nữa".

Ở Paris cũng vậy, tình hình căng thẳng. Những người cộng sản ra khỏi Chính phủ. Và người ta đi đến kết luận: "Đã là chiến tranh thì phải giao cho những người dự kiến chiến tranh không thể tránh khỏi, cho những người phụ trách dân sự".

Thế là phái đoàn bị bêu riếu này trả được thù! Sau khi rơi xuống vực, những người cai trị lại là chủ của Đông Dương, với chỉ huy trưởng Pignon, được bổ nhiệm cao ủy năm 1948 vì ông là người đầu tiên "tái sáng tạo" Bảo Đại.

Pignon không bị làm hại thanh danh vì hợp tác với người Nhật. Nhân vật này còn trẻ không ở Đông Dương thời kỳ Decoux mà thuộc về bên kia với nước Pháp tự do. Với chức vụ này ông đã là bạn đường với Sainteny, phó của ông này trong những ngày bi kịch ở Hà Nội vào mùa đông năm 1946. Ông đã thấy người chỉ huy chơi trò thống thiết với thực tâm của Hồ Chí Minh. Sau vụ tàn sát tháng chạp, Sainteny bị đưa trở về Pháp và Pignon được thăng chức. Ông được chỉ định làm cố vấn chính trị cho đô đốc d'Argenlieu ở Sài Gòn. Chính ở vị trí này, từ đầu năm 1947 ông đã xây dựng những giải pháp "chính trị" của cuộc chiến tranh Đông Dương nhờ vào công cuộc "bình định" do người Việt Nam làm và sự trở về của Bảo Đại. Nhưng trong hai năm, suốt thời kỳ Bollaert, Chính phủ Paris thoái thác, từ chối những đề nghị của ông. Và rồi Bollaert thất bại, quyết định để cho Pignon thực hiện kế hoạch của mình. Ông kêu gọi ngay tất cả những đồng nghiệp cai trị.

Ngày nay ai nhớ đến Pignon? Chỉ là một viên chức cao cấp từ hàng ngũ trước kia đứng ra, thực hiện một công trình khốn khổ sau thất bại đi vào quên lãng. Thế nhưng ông suýt thành công, đã tới gần đích hơn mọi chỉ huy Pháp nào ở Đông Dương. Nhưng việc đó giúp gì cho ông vì cả công trình của ông sụp đổ. Pignon khốn khổ! Tên tuổi ông trong chừng mực, người ta nhớ lại, gắn với bi kịch ấy, với một trách nhiệm nặng nề. Nhưng với tôi, ông ta là một người không gặp may. Ông vừa bắt đầu thử thì cách Đông Dương nhiều nghìn cây số, Mao Trạch Đông thắng lớn trên chiến trường Mãn Châu Lý. Mao đi quá nhanh, không để ông có đủ thì giờ.

Và rồi Pignon khổ sở với Bảo Đại. Về lôgíc "con bài Bảo Đại" là tốt. Nhưng người ta quên con người ấy đã như thế nào, họ muốn ảo tưởng về ông ta. Không có gì thảm hại bằng giải pháp Bảo Đại mà người ta phải kéo lê thê như một gánh nặng cho đến đầu cuộc chiến tranh Đông Dương.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2018, 04:06:22 pm

Như vậy tất cả dần dần quay lại chống Pignon. Dĩ nhiên không phải chỉ do không may. Ông cũng đã lầm ở chỗ đã tin tưởng vào Bảo Đại. Nhưng nhất là ông vẫn quá "thực dân". Như tất cả những người cai trị dân sự, ông đã lầm một phần nhưng không đủ. Ông tán dương độc lập nhưng là một nền độc lập đầy phòng ngừa, với hàng ki-lô văn bản. Độc lập vẫn để cho người Việt Nam khao khát, không thể gây nên sự hoan hỉ.

Về căn bản kế hoạch của Pignon, với mọi khiếm khuyết, đã có thể thành công hai năm trước, lúc cuộc chiến tranh Đông Dương chỉ là một việc nội bộ giữa người Pháp và người Đông Dương. Nếu Bảo Đại trở lại sớm hơn, chắc có thế thẳng bước được. Nhưng quân đội Mao Trạch Đông tiến đến gần biên giới, không còn hy vọng cải tiến Hoàng đế: Bảo Đại không muốn dấn thân vào, chỉ làm giàu thôi, biết rằng làn sóng Trung Quốc tiến lên có nghĩa là báo trước sự sụp đổ của người Pháp.

Vậy Pignon không phải người có tội. Chính do Chính phủ Pháp bổ nhiệm ông quá chậm, khi tình hình sắp bị Trung Quốc khống chế. Pignon trung thực thực hiện kế hoạch của mình nhưng kế hoạch này đã lỗi thời ngay trước khi áp dụng. Ông không tính đến Mao Trạch Đông, đã sụp đổ dưới sức nặng của Mao.

Thời kỳ ấy Pignon chưa đến bốn mươi tuổi. Một người nặng nề, tóc vàng, hơi béo và nước da trắng. Tuy lực lưỡng ông bao giờ cũng cúi người, đầu nặng xuống như mệt mỏi, bề ngoài nhìn hơi mềm yếu. Ông ít nói và có một loại ý tưởng nội tâm, luôn nhắm mắt suy nghĩ. Pignon không có vẻ uy nghi của một người lãnh dạo. Ông trung thực, tính cách Pháp và Cơ đốc giáo, nói không hay, dùng những lập luận không rõ ràng và lối hùng biện cường điệu của một học sinh giỏi cũ. Ông không thích màu mè, những quyết định tàn bạo và sự huy hoàng, rất hạn chế nghi thức, không dùng tuỳ tùng và "thần hộ mệnh". Khi buộc phải mặc lễ phục ông có vẻ gò bó, vụng về. Trước hết ông vẫn sống như một viên chức tốt, vẻ tư sản. Vợ ông, gia đình ông chủ yếu từ miền quê Pháp, ở tỉnh lẻ.

Để gặp Pignon trong lâu đài, phải chờ ở tiền sảnh lát đá và bụi bặm với những tạp chí cũ rải rác trên bàn. Người ta đánh thức một người chạy giấy Annam đang quắt lại, vội vã ghi tên khách vào một cuốn sổ to. Một chiếc cửa hai cánh cuối cùng mở ra và trong một gian phòng lớn sơ sài, đồ đạc tồi, người ta thấy Pignon ngả người trên phô-tơi sau bàn. Ông có vẻ đang thiếp đi, mồ hôi chảy từng đám trên chiếc áo trắng. Tĩnh trí lại, ông đứng lên nói, cười. Không dễ mến đơn giản hơn thế được. Dù sao cũng là một cố gắng; suốt trong cuộc đối thoại dài ông phải tựa khuôn mặt với đôi mắt xanh, hơi dô và tròn, trên đôi cánh tay để trên bàn. Suốt thời gian ông vẫn bí hiểm, mẩu thuốc lá trên môi. Ông hút hết điếu này đến điếu khác, đầy cả đĩa gạt tàn trước khi khách đến, vừa viết các báo cáo nằm lẫn lộn trên bàn.

Có những ngày người ta thấy ông mặc sơ mi ngắn tay, vui vẻ, nói đùa có chút thô thiển. Lúc ấy ông đang hài lòng, công việc ông đưa ra tiến triển tốt.

Ông không lạm dụng. Kiệt sức hay không, Pignon vẫn rất đúng đắn, là một đao phủ trong công việc. Đôi khi tưởng như mụ người nhưng chỉ là một lúc trầm tư, đầu óc ông không dừng lại bao giờ. Không chỉ ông biết hết về người khách đang tiếp, nhã nhặn chơi trò mèo vờn chuột mà ý nghĩa đồng thời đang bận bịu về những toan tính khác.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2018, 04:35:56 pm

Thực tế Pignon là một nhân vật rất phức tạp, không tàn bạo nhưng bướng bỉnh, hành động thành thạo. Đạo đức hoàn hảo của ông thường là vô đạo đức. Đây là một trong những tín đồ khẳng định loài người do cái xấu chi phối. Nhưng ông không thực sự bị sốc, điều đó làm ông thích thú và là phương pháp lãnh đạo: kỹ thuật của ông là rút ra từ những tội lỗi của người khác để làm điều tốt. Ông tôn thờ những biện pháp nhỏ gián tiếp. Tóm lại, sự bí hiểm của ông hoàn toàn thực tiễn.

Pignon có sự tò mò của một cô gái già. Ông không những biết hết, nhớ hết mà sở thích của ông là mỗi ngày biết thêm những bí mật mới của từng người. Ông nắm được tất cả những thói xấu, điểm yếu của mọi người ở Đông Dương. Thời gian tốt nhất trong ngày là buổi sáng, khi người ta mang tới một bản in roneo trong đó ghi lại những đoạn sỗ sàng nhất của những bức thư hôm trước được mở xem ở bưu điện.

Cần biết rõ tất cả, những thông tin của cảnh sát không đủ cho ông - thế mà ở Đông Dương có toàn bộ tập quán cũ về kiểm tra và trinh thám chính thức! Ông còn dùng những nhân viên riêng, những nhân vật khác thường, da trắng hoặc da vàng, phần nhiều là người lai. Đấy không phải những kẻ phiêu lưu thô lỗ mà những viên chức từ "xã hội hư ảo". Đối với Pignon, họ lấy ra những gì quan trọng, trở nên chính thức hơn. Người ta thấy họ lẻn vào phòng ông mang tới hoặc đem đi những tin tức kỳ lạ. Chính họ làm công việc thực sự là công việc.

Thường thường Pignon tiến hành dịu dàng, theo lối Phương Đông, tăng cường trao đổi, những đề nghị, phản bác. Ông thích những mê lộ ấy! Nhưng nếu cần - khi người ta phản bội; bịp hoặc dọa ông, trước hết là để giữ "thể diện" - ông đánh. Lúc ấy ông ra đòn như người ta thường làm ở Châu Á trong những trường hợp ấy, bí mật, không cảnh cáo, không giải thích, và theo cách nhanh gọn nhất. Những quả bom nổ, một số người nào đó bị ám sát - và đôi khi một số chỗ nào đó bị biến dạng đều có bàn tay của Pignon.

Pignon chỉ đòi hỏi đạo đức trong nội bộ tầng lớp các nhà cai trị. Ông chỉ nghiêm khắc ở hai điểm: khốn khổ cho ai trong bọn họ "nhận hối lộ", cũng khốn khổ cho người không tin vào Đông Dương, không hoàn toàn tận tụy vì sự nghiệp ấy. Ngoài ra con người Pignon tốt, dễ thương, rất độ lượng, hơi vô sỉ ngay đối với người của mình.

Pignon thương yêu những người cai trị của ông, ông sống với họ. Họ tập hợp thành một kíp hơi lạ - một lẫn lộn những "con cua già" bảo thủ và những trai trẻ rất ngổ ngáo, tất cả đều trong những Phái đoàn dân sự, đều là "bạn thân tín" của nhau. Bên cạnh những lão thành cổ cồn cà vạt và nghi lễ rườm rà, có những chức sắc trẻ chưa đầy ba mươi tuổi, quần áo tuềnh toàng ra vẻ lực lưỡng. Những sản phẩm cuối của Trường Thuộc địa là những người thuộc trường phái triết học Nietzsche muốn vượt lên trên mọi bi kịch, thích hợp với mọi thú vui. Mục đích của họ là sống hết mình.

Pignon tán thành không khí ấy, để nó lôi cuốn ông. Khi cả nhóm ở Hà Nội, buổi tối thỉnh thoảng họ điện thoại cho mẹ Jo để báo tin đã tới. Đây là tình nhân cũ hấp dẫn của các tướng cai trị trước kia, một sắc đẹp đã trở thành một bà già nhăn nheo, đã xuống dốc nhưng đầy kỷ niệm. Bà chủ trì một tiệm hút sang trọng, hơi nhà thổ, ở trên một đường phố nhỏ. Khách đến, sau khi gõ cửa theo quy định, trèo một cầu thang trôn ốc lên giữa vẻ đẹp tuyệt vời Phương Đông, những chiếc lọng, bình phong sơn, tượng Phật, nền tường gỗ mun chạm trổ, những chiếc gối da vàng, những ngọn đèn. Những cô gái bé nhỏ người Việt Nam đến chuẩn bị thuốc. Đương nhiên khi Cao ủy đến, cả ngôi nhà dành cho ông. Thực ra Pignon chỉ hút một điếu vì lịch sự. Ông thưởng thức trước hết là Châu Á mà ông thích dưới mọi dáng vẻ, hương vị sâu sắc, trong sự khôn ngoan và điên rồ của nó.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2018, 04:36:48 pm

Viên chức Pignon chơi thoải mái trong trò chơi lớn của Châu Á. Bản thân ông cũng làm một người "đặc Châu Á" nhưng ông xác định Phương Đông bao giờ cũng tha hóa và tàn nhẫn và phải hành động trong khung cảnh mục ruỗng và độc ác ấy. Ông cố gắng đánh người da vàng theo cách của họ. Nhưng tuy khôn khéo, ông thấy những người Châu Á mạnh hơn mình. Ông tưởng "nắm" được Bảo Đại nhưng chính Bảo Đại nắm ông.

Nói đúng ra, phía "thẩm mỹ" của Pignon được sửa chữa bởi một nhân vật rất khác nhưng rất quan trọng, có mặt gần ông. Đấy là Bonfils, phụ trách chính trị. Không hẳn trong nhóm thân tín, không ở trong lâu đài Norodom nhưng ảnh hưởng của ông là cơ bản.

Bonfils, một nhà cai trị đã sẵn sàng phục vụ đô đốc Decoux, ít tín điều hơn Pignon nhiều, ít có vẻ "thông cảm" của một số linh mục nghe xưng tội: ông rất nguyên tắc và cương quyết. Khinh thường những sự việc đột xuất, ông đặt văn phòng trong một căn nhà gỗ lụp xụp, làm việc ở đó như một người khổ sai ít nhất mỗi ngày mười bốn tiếng đồng hồ. Người ấy, trên khuôn mặt dài, đôi môi mỏng, mắt sắc. Đây là uỷ viên chính trị chống đỏ, luôn sẵn sàng một cơn giận lạnh lùng. Say mê lôgíc, ông phát biểu dưới dạng định lý, đi đến những quyết định mệnh lệnh là những phán quyết. Khi ông đã có một quyết định từ giọng nói sắc cạnh, từ chữ ký cáu kỉnh thì không có gì ngăn cản ông được trừ khi đóng cửa văn phòng lúc tám giờ. Lúc ấy ông trở về nhà, bên cạnh bà vợ và các con ông, thay quần áo và ăn tối cùng những người buồn chán.

Bonfils là lý luận gia về sự trở lại của Bảo Đại. Ông luôn chứng minh sự cần thiết, lợi ích, mọi điều tốt bằng những lập luận không chối cãi được. Tuy vậy ngay trước khi vấn đề được kết luận, ông đã có những khủng hoảng, nghi ngờ và thất vọng. Vì hơn cả Pignon, ông dựa vào mặt đạo đức và ông nhận thấy rõ, theo các báo cáo, Hoàng đế người ta muốn đưa về rất có vẻ thiếu điều đó. Ông nói:

- Ông ta muốn chúng là “làm ma cô”.

Sử dụng một từ hình ảnh đến thế đối với Bonfils là một thể hiện rất giận dữ. Nhưng dùng những từ nào khác được nếu không muốn giữ gìn hơn trong những bài nói mà ông hăng say. Ông không muốn thể hiện nhiều.

Pignon, Bonfils và những nhà cai trị khác là những nhà kỹ thuật về Đông Dương. Họ nói lên rất rõ ràng điều phải làm. Họ chẩn đoán và nói:

- Trong tình hình hiện nay ở Đông Dương, phải biết nhường bước nhưng có ý thức. Chỉ riêng chúng ta có khả năng xác định khi nào phải nói "đồng ý" khi nào phải nói "không".

Mấy năm trước đây những chuyên gia ấy không muốn tin chắc có một thay đổi nào. Người ta biết rõ nỗi khổ tâm của họ. Từ khi những bộ phận dân sự được xóa tội, những người trở lại ấy sẵn sàng thử một kinh nghiệm lớn mới để cứu Đông Dương, đúng hơn là cứu những gì có thể cứu được. Từ giải pháp "chế độ thực dân" họ chuyển qua giải pháp độc lập cùng với niềm tin, lòng hăng hái ấy trong công việc. Nhưng là nền độc lập họ quan niệm, không như những người dân bản địa hiểu.

Chất liệu đầu tiên của những người cai trị vẫn là những người Annam bây giờ người ta gọi là người Việt Nam. Đáng buồn là những người này rất dè dặt khi thấy họ trở về nắm quyền. Họ nói:

- Đấy là những người trung thực, rất trung thực và rất có khả năng. Nhưng làm sao chúng ta có thể tin tưởng họ được? Bản chất sâu xa của họ không thể thay đổi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Giêng, 2018, 05:45:02 pm

Mua bán nền độc lập

Bảo Đại vốn đã mất hết, sống tha hương và khốn khổ, để xách tai trở về Đông Dương. Ông không chỉ muốn tiền và danh vọng, buộc người Pháp bước đầu công nhận sự thống nhất và nền độc lập của nước Việt Nam.

Thực tế lúc đầu người Pháp từ chối. Đó là vào thời kỳ Bollaert. Chính viên cao uỷ này - khi đường lối bắt tay Việt Minh bị phá sản - đã có những tiếp xúc đầu tiên với Hoàng đế. Đã có một cuộc trao đổi trịnh trọng trên một tuần dương hạm Pháp trong không gian kỳ lạ của vịnh Hạ Long. Nhưng Bollaert không thể nói lên những lời chủ yếu: Paris đã cấm ông.

Điều ấy được quy định tuyệt đối năm 1947. Thời kỳ ấy Bollaert phải tuyên bố ở Hà Đông - một thị xã cách Hà Nội mười lăm cây số - phương hướng mới của Pháp, nghĩa là cắt đứt hẳn với Việt Minh và tìm kiếm một thoả thuận với những người quốc gia không cộng sản. Ông muốn đưa lời kêu gọi của ông dưới dấu hiệu ma thuật của "nền độc lập". Những chỉ thị dứt khoát từ Paris tới ngăn cản ông.

Vì thế ông để lại cho Pignon và nhóm những người cai trị vận động những giải pháp ngược với truyền thống thực dân của Phái đoàn dân sự. Ông thuyết phục được Paris cần thiết phải "dựng lên" cuộc chiến tranh giữa những người Việt Nam với nhau. Phải đi xa hơn nữa - giành giật của Việt Minh sự độc quyền về chủ nghĩa dân tộc, chứng tỏ cho người Việt Nam thấy liên minh với người Pháp "mang lại" cho Việt Nam nhiều hơn đánh nhau với họ.

Từ năm 1948, Pignon trong văn phòng rộng bao la và kín đáo của ông, Bonfils trong phòng bé nhỏ của mình bắt tay vào sự nghiệp "Việt Nam hóa" cuộc tranh chấp.

Cho đến lúc đó hầu như không có gì được thực hiện theo hướng này. Chiến tranh là việc của người Pháp. Người Việt Nam tham gia với tính cách hợp tác hoặc đánh thuê. Vì hoàn cảnh người ta cũng có một vài nhượng bộ nhưng quá nghèo nàn và ngoài ý muốn! Và rồi những nhượng bộ ấy làm phức tạp thêm tình hình, được tính toán, không phải để "giải phóng" Việt Nam mà để gắng giữ trong trật tự cũ.

Năm 1946 đô đốc d’Argenlieu dựng lên một Chính phủ Nam Kỳ nhưng những bước đầu thật khổ sở! Nó được hình thành từ một nắm người làm thuê không có quyền lực, chen chúc trong một biệt thự đơn giản. Thủ lĩnh của họ, bác sĩ Thinh tự vẫn vì thất vọng, một dạng phản kháng của Châu Á, vì bị người Pháp coi thường và người Việt Nam bêu riếu.

"Chính phủ" này được tạo ra với một mục đích duy nhất: đối lập với sự thống nhất Việt Nam do Việt Minh và những người quốc gia đòi hỏi. Trong thời kỳ rối loạn ấy người ta muốn giữ lấy xứ Nam Kỳ màu mỡ như đất đai riêng biệt, tách rời với phần lớn của đất nước. Như vậy dù điều tệ hại xảy ra ở Hà Nội hay Huế, người ta vẫn luôn có Sài Gòn với tài sản ruộng đồng và đồn điền ở đồng bằng sông Mékong.

Thoạt nhìn thì không hoàn toàn phi lý. Gần một thế kỷ Nam Kỳ là một thuộc địa, một lãnh thổ hoàn toàn thuộc Pháp. Trong việc chinh phục người ta đã tách nó ra khỏi Vương quốc Annam vốn chỉ là một xứ bảo hộ. Việc "đồng hóa" ấy dẫn đến một Phương Tây hóa lớn hơn. Đạo đức Khổng Tử, việc tôn thờ hoàng đế đã chết: Các quan lại biến mất. Truyền thống hàng nghìn năm được thay thế bằng hiện đại hóa, cai trị trực tiếp và kinh tế phát triển rộng lớn.

Nam Kỳ vậy là có một bộ mặt riêng - ở đấy không có bị kịch ghê gớm của Châu Á, dân số quá đông. Đây là vùng đất mới của Việt Nam khi binh lính và thủy thủ thực dân đến đồng bằng sông Mékong và họ là những người chiến thắng của đội quân mở đường. Dù sao những người Pháp này làm cho những vùng đầm lầy hầu như chưa khai phá thành một vựa lúa. Trong vài chục năm Sài Gòn trở nên một trung tâm thương mại khổng lồ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Giêng, 2018, 05:45:58 pm

Trước hết, tiền, đồng bạc, sự đầu cơ ngự trị Nam Kỳ. Từ lâu đây là đất nước của những người mới giàu, da trắng cũng như da vàng. Nhưng nhân dân sung sướng. Ý thức được hạnh phúc của họ, những người dân Nam Kỳ dần dần sợ những người đồng hương của họ ở Bắc Kỳ khắc nghiệt và nghèo. Họ không muốn chia sẻ những gì họ có. Nỗi lo sợ ấy thể hiện trong câu ngạn ngũ: "Nếu một người miền Bắc đến nhà anh, người ấy sẽ ngốn hết gạo của anh trong mấy ngày và sau mấy tuần sẽ là người chủ trong nhà anh."

Vậy là có những người dân Nam Kỳ, nhất là những người giàu có, theo sự xúi giục của d'Argenlieu, nắm lấy khẩu hiệu "Trả lại xứ Nam Kỳ cho những người Nam Kỳ". Thậm chí họ muốn một Nam Kỳ thuộc Pháp. Nhưng những người Pháp sau khi khơi mào chỉ hỗ trợ nó một nửa. Ý muốn của họ thật trái ngược. Giữ Nam Kỳ là một lãnh thổ hoàn chỉnh cũng rất hấp dẫn. Nhưng khi Đội quân viễn chinh lấy lại Bắc và Trung Kỳ, họ tự nhủ: "Phải chăng sẽ thú vị hơn nếu có một đường lối lớn cho toàn bộ Việt Nam và thậm chí cho cả Đông Dương. Họ cho rằng sự nghiệp Nam Kỳ quá hạn chế.

Nhất là những người quốc gia các loại lên án các thành viên của chủ trương "Nam Kỳ cho người dân Nam Kỳ" với cái tên nhục nhã là "những kẻ chia cắt". Điều trở nên rõ ràng là tinh thần yêu nước tràn lên thuộc địa đã quét đi ở Việt Nam những ông già ích kỷ, những rào cản nhân tạo. Làn sóng quá mạnh: tốt hơn là thử phù hợp với nó.

Người Pháp không có cả sự chọn lựa. Vì những người họ tạo ra, ngay những bộ trưởng trong Chính phủ "chia cắt" Nam Kỳ bỗng đòi hỏi ghê gớm sự thống nhất, mấy chữ Nam Kỳ "thực dân địa" bị cấm chỉ. Chính phủ Sài Gòn bỗng được đặt tên là "Chính phủ miền Nam Việt Nam" với ý định có ngày trở thành chính phủ của cả nước Việt Nam, của Việt Nam độc lập.

Khi Pignon được cử làm cao ủy, những khái niệm về thống nhất, độc lập đã gắn chặt trong trí óc mọi người Việt Nam, vả lại thống nhất chỉ là bước đầu của nền độc lập.

Vậy là không còn vấn đề từ chối sự thống nhất. Tất cả vấn đề là nền độc lập: với ai và làm như thế nào? Nên chăng chấp nhận toàn bộ hay hạn chế, nên đi tới đó với những người "thủ cựu" hay "cấp tiến"?

Ngoài một số "ủng hộ thực dân" cuối cùng, người Việt Nam nhất loạt là những "người quốc gia", vả lại đấy là những người quốc gia chém giết lẫn nhau, thi nhau hành quyết; họ chia thành vô số phe phái, băng nhóm và tổ chức thù địch. Trong số đó có những Việt Minh cộng sản, Việt Minh không cộng sản ở lại với Kháng chiến, những Việt Minh không cộng sản chuyển sang "phía bên kia"; những người này, một số lẩn tránh trong các thành phố không làm gì, một số khác kinh doanh và buôn bán đồng bạc Đông Dương, một số phục vụ người Pháp thương lượng với ông ta; cuối cùng có Chính phủ Sài Gòn và cách đó hàng nghìn cây số, có Bảo Đại.

Thực tế trong sự lẫn lộn thần kỳ và đẫm máu ấy chỉ có duy nhất một lực lượng thực sự nhưng khổng lồ và ghê gớm. Đấy là lực lượng Việt Minh mà người ta phải đánh bại. Vì để tiêu diệt nó mà Pignon quay lại ý tưởng độc lập để chống nó, tạo ra một nền độc lập chống cộng sản.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Giêng, 2018, 05:47:42 pm

Trong số những "người quốc gia" phần lớn thù địch với Việt Minh. Không may họ đều bất lực; nhu nhược và không lương thiện, họ tạo thành một hỗn độn vô trật tự, một mớ bòng bong không bao giờ ra được gì. Những người ấy tê liệt vì sợ hãi, thiếu lương tâm, bóng của Hồ Chí Minh còn lởn vỏn trong trí họ.

Mùa hè năm 1948 là sự trống rỗng của người Việt Nam xung quanh Pignon. Trước hết phải có đồng minh. Nhưng ai? Bảo Đại vẫn ở nước ngoài trong các khách sạn, mánh khoé, còn ngần ngừ. Cơ quan Việt Nam xây dựng được là Chính phủ miền Nam Việt Nam với những yêu sách quá đáng từ khi trở thành chính phủ dân tộc. Nhưng gần như chẳng là gì cả.

Bên ngoài Chính phủ này đã có một ít "vẻ mặt" ở Sài Gòn, từng nấc một sau cái chết thảm hại của bác sĩ Thinh. Người Pháp cho họ lâu đài La Grandiere. Thủ tướng bây giờ là Trần Văn Hữu, một tư sản to béo với đôi mắt nhỏ tí, nguyên thanh tra của tín dụng nông nghiệp, rất giàu và rất được nhà băng Đông Dương coi trọng. Một lớp chính trị gia khoảng vài chục nhân vật, những bộ trưởng liên tục hoặc có thể trở thành bộ trưởng được tung ra: từ nay rất được người Pháp vỗ béo. Ngoài Hữu có Tâm được gọi là "Con hổ Cai Lậy", Hoạch một thầy thuốc đáng ngờ, hợp tác với Cao Đài, tướng Xuân, người bách khoa da vàng đầu tiên, khuôn mặt rất tròn và hợm hĩnh ngây thơ. Họ đều là những người giàu có, viên chức cũ của Pháp hoặc của tư sản. Họ hoàn toàn bị cắt đứt với dân chúng nhưng thậm chí không nhận thấy điều đó.

Mỗi vị không ngớt nói với người Pháp: "Cứ để tôi làm. Tôi là người quốc gia. Tôi sẽ chắp nối với những người quốc gia trong Việt Minh." Nhưng chính những người du kích và chờ thời cho Pignon biết họ không bao giờ muốn những kẻ "mục ruỗng" ấy: điều kiện đầu tiên đế xáp gần với người Pháp là loại bỏ họ.

Điều đó không sao. Đấy là tình trạng sa lầy. Những người cũ "hợp tác" với Chính phủ Nam Kỳ vừa được ân sủng đầy vinh dự và tiền bạc, đi đến chỗ phản bác những biện pháp có vẻ "chống yêu nước”. Họ tuyên bố với cao ủy: "Chúng tôi trung lập. Làm sau chúng tôi có thể đánh nhau với Việt Minh dù họ là những người lầm lạc? Đó là những người quốc gia như chúng tôi. Trước tiên người Pháp phải tỏ rõ thực tâm của mình." Thực tế người ta lấy được nhiều chữ ký nhưng với những cuộc bàn cãi dài dòng và những đồng bạc.

Pignon hiểu phải tìm một nhân vật chính trị tốt hơn. Ông đi vào - cùng lớp thân cận, nhất là người lai - móc nối với những môi trường Việt Nam để phát hiện ra những người có trình độ hơn, trong sạch hơn. Sức mạnh của ông là biết rõ mọi gia đình quan chức đáng kính trong nước.

Hầu như mỗi gia đình, giữa sự lộn xộn chung luôn đi đến một sự cân bằng có tổ chức. Họ chia thành ba bộ phận: đầu tiên đại diện với ông bố già, được thưởng Bắc đẩu bội tinh, làm việc trong Chính phủ Sài Gòn; bộ phận khác chờ thời; thứ ba đi theo Việt Minh. Trong một số trường hợp có một phần thứ tư sống ở Pháp, tại Sorbonne. Tất cả những lớp người này đều giàu, trừ những thành viên gia đình đi với Hồ Chí Minh. Nhưng những người này là anh hùng.

Tiếp cận những người trên, Pignon dùng một lập luận tấn công: "Công cuộc kháng chiến của các ông bị xé nát vì những bi kịch nội bộ. Những người cộng sản đang chi phối nó; họ chinh phục nội bộ bằng thanh toán các nhà tư sản ủng hộ Việt Minh, bắt đầu bằng những người trong khu du kích. Các ông để cho họ thanh lọc đến người cuối cùng mà không hành động, không làm gì hay sao?"

Những lời ấy hiếm có tiếng vang. Ngược lại những "người chờ thời" ở Sài Gòn càng cay độc hơn khi đả kích "chế độ thực dân". Hầu hết họ là những trí thức có nhiều bằng cấp ở Pháp - những luật sư, bác sĩ, dược sĩ. Họ bắt đầu từ tuyên bố họ rất yêu nước Pháp, nhưng là nước Pháp Cách mạng, không phải nước Pháp của chinh phục hoặc đế quốc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Giêng, 2018, 05:48:12 pm

Dĩ nhiên sau những tuần bàn cãi dài dòng, những "người chờ thời" thú nhận một ít. Nhưng như một điều luật, những người chờ thời càng thất vọng và lo sợ, họ càng chờ đợi thay vì thoát ra. Đối với một số trong bọn họ, đấy là loại tự sát vinh dự. Nhưng phần lớn bị lôi kéo vì những phản xạ mù quáng sợ hãi lẫn tính toán tư lợi. Mọi người thậm chí thú thật với tôi: "Tôi không muốn làm hại mình. Tôi có một bà vợ và chín đứa con. Là bác sĩ mỗi tháng tôi kiếm được một trăm nghìn đồng; ở Chính phủ những vị trí tốt đã bị chiếm hết, tôi không kiếm được đến thế.”

Những trí thức không chê được ấy, nói và ăn mặc tốt, ngớ ngẩn một cách đáng sợ. Họ say mê lợi lộc. Vì vậy họ khai thác cặp giấy tờ của họ. Ví dụ các thầy thuốc chuẩn bị trước đơn thuốc, rất nhiều bản cho thuốc phiện, cho các loại thuốc quý để sau đó bán lại nhiều lần.

Cứ như thế, không bao giờ kết thúc được với những nhà quốc gia trưởng giả ở Sài Gòn. Lúc ấy Pignon cho phép thực hiện "kế hoạch lớn": quan hệ với bản thân Nguyễn Bình, làm ông "chao đảo”. Mong kế hoạch này thành công và toàn bộ cuộc kháng chiến Nam Kỳ sẽ chuyển biến, quay lại chống đỏ, xây dựng ở Sài Gòn một chính phủ hoàn toàn mới, cứng rắn và trong sạch. Không khí ở Đông Dương sẽ được sạch sẽ hơn. Đối với người Pháp đó không còn là "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" nữa.

Việc tiếp xúc với khu du kích kéo dài hai năm. Đây là một trong những bí mật chính của cuộc chiến tranh Đông Dương và chắc là bí mật chủ yếu. Không có gì lộ ra nhưng chắc chắn những phái viên Pháp đều đặn đến gặp Việt Minh Nam Kỳ; họ mang những đề nghị, trao đổi ý kiến. Đấy là các sĩ quan Phòng Nhì đặc biệt, rất chuyên nghiệp, do một đại tá F... nào đó chỉ huy - một người nhỏ thó rất Châu Á với nụ cười hiền gần như bụt, chỉ làm tan im lặng bằng những lời nói như nở hoa. Ông văn minh một cách đáng ngại nhưng trong công việc ông nổi tiếng vì tính kiên định sắt thép, tính chính xác, một sự thông minh quá sắc sảo.

Tôi biết nhân viên của viên đại tá ấy đi lại thường xuyên nhưng không thể thăm dò những cuộc nói chuyện của họ đã đi đến đâu - không biết họ có gặp được Nguyễn Bình không. Dù sao những cố gắng đó đã đến chỗ thấm máu.

Một đêm những sát thủ Việt Nam vào trong một biệt thự ven đường Tân Sơn Nhất, sân bay Sài Gòn. Mọi người trong nhà đang ngủ. Những kẻ giết người, thực hiện kế hoạch chuẩn bị trước, lẻn vào phòng ngủ một đôi người Âu nằm trong giường. Họ bắn một phát giết chết người đàn ông rồi bỏ đi không lấy tiền bạc giấy tờ gì, để người vợ hét lên bên cạnh xác chồng.

Đấy là "vụ Abadie" mà cảnh sát không bao giờ làm sáng tỏ được. Việc điều tra nhanh chóng bị bãi bỏ như sợ nêu lên những bí mật quá nguy hiểm.

Người bị giết, Abadie đã trải qua một sự nghiệp phiêu lưu ở Trung Đông rồi Viễn Đông. Ông đã là đại tá trong quân đội của Quốc vương Iran, sau đó là giám mục Cao Đài ở Nam Kỳ. Gia nhập Đội quân viễn chinh với chức vụ đại uý, ông là "chủ bài" của những nhiệm vụ đặc biệt. Đôi khi ông biến đi nhiều tuần lễ: cải trang thành dân quê, đi hẹn gặp với những người du kích. Trong tất cả những người Pháp ông là người duy nhất được kháng chiến tin, chắc là người duy nhất có thể thành công; điều đó làm ông bị sát hại.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Giêng, 2018, 05:48:58 pm

Nhiều tin đồn trái ngược chạy khắp Sài Gòn nhưng không ai biết người cử những kẻ đi ám sát. Bao nhiêu người có lợi trong việc thủ tiêu Abadie! Trước hết là những người cộng sản, để ngăn chặn ông ta tha hóa những người quốc gia trong Việt Minh. Cũng có thể là Nguyễn Bình; đối với một số người là để chuộc lỗi vì ông cảm thấy bị phái viên ngoài Bắc vào phát hiện thấy; với một số khác ông vẫn là người anh hùng của cuộc kháng chiến, vẫn trung thành với Hồ Chí Minh, phải cho hạ sát ngay tại Sài Gòn phái viên nguy hiểm của Pháp khi đã luồn vào khu du kích. Nhưng cũng có những giả thuyết khác hẳn. Người ta đổ tội cho Bảo Đại và phe nhóm vì Hoàng đế sẽ mất hết giá trị nếu người Pháp điều đình với kháng chiến. Họ đặt ra những công việc đặc biệt chống lại việc làm của đại tá F.... và thậm chí cả cao ủy.

Chắc chắn là Phái đoàn dân sự, trong chừng mực họ để tiến hành cho những thương lượng với kháng chiến nhưng thực tâm không mong kết quả. Họ tin là không thể. Đối với họ đấy chỉ là những quả bóng thử nghiệm, những mưu mô mập mờ trong hàng ngũ Việt Minh. Nhất là sau thất bại mà họ chờ đợi, họ muốn có thể nói: "Các ông thấy không, chúng ta chỉ còn Bảo Đại".

Tôi nhớ đến một cuộc nói chuyện với Bonfils trong văn phòng khốn khổ của ông. Để thuyết phục tôi, ông rời khỏi ghế ngồi, đi lại trong phòng mà không trông thấy gì - một viên chức nhỏ nhen bị sức mạnh niềm say mê và lập luận không nhầm lẫn được chi phối.

- Người ta chỉ nói về việc thỏa thuận với kháng chiến. Tôi thấy không làm sao đạt được. Theo lôgic là không thể.

Khi mà những người trong khu du kích - những người quốc gia không hiểu cộng sản dành cho họ số phận ra sao sẽ không làm gì với họ được; họ căm ghét chúng ta cuồng nhiệt, họ đặt ra những điều kiện không chịu nổi. Chỉ khi bị thanh lọc hoặc thanh toán thì họ mới nghĩ đến chúng ta như một tấm ván cứu nạn, nhưng lúc ấy thì họ không ích lợi gì nữa, họ không đại diện cho ai nữa.

Tóm lại khi chúng ta thương lượng với quân du kích, hầu như bao giờ cũng quá sớm hoặc quá muộn. Phải tiếp xúc họ trong thời gian ngắn khi mà họ phát hiện ra mối nguy hiểm nhưng chưa bị nhấn chìm. Ngay vì một sự tình cờ chúng ta nắm được họ cũng không đi đến đâu do những nghi ngờ, ngập ngừng của họ. Không bao giờ họ quyết định đúng lúc.

Nếu chúng ta biết rõ những mặt trái của tấm màn bí mật cốt lõi vô cùng biến động và phức tạp của đối phương và những bi kịch của họ, có lẽ chúng ta có thể tranh thủ một số "trường hợp". Nhưng chúng ta có những thông tin sai, quá ít. Cũng quá chậm nữa. Lúc ấy chúng ta mày mò trong bóng tối. Vì chúng ta có nhiệm vụ nghi ngờ. Những người của Việt Minh tự xưng là "quốc gia" có thể chỉ là những bù nhìn của Hồ Chí Minh hành động theo mệnh lệnh. Ký với họ, thay vì cứu Đông Dương thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản, chúng ta lại giao nó cho họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Giêng, 2018, 05:49:25 pm

Thật ảo tưởng cho rằng có thể liên minh với kháng chiến. Tốt lắm chỉ thu hái được vài cặn bã, khốn khổ hoặc độc hại. Và với giá nào! Phải cho tất cả, chối bỏ mọi quyền hành của nước Pháp ở Đông Dương. Thế thì tại sao chúng ta chi những tỷ phrăng, hy sinh cuộc sống của bao nhiêu binh lính như vậy? Vì chúng ta thậm chí không thể rút ra, vẫn buộc phải trả tiền và đánh nhau chẳng để làm gì cả.

Cuối cùng Phái đoàn dân sự không muốn làm như người Anh ở Ấn Độ: tất cả dựa vào lòng tin và hy vọng. Chủ nghĩa thực dụng Anh cho rằng việc bỏ cuộc là cách làm hay nhất, kinh tế và chắc là có lợi nhất. Nhưng Pignon và những nhà cai trị của ông nói đường lối có tính toán ấy không thực hiện được ở Đông Dương: những điều kiện khác do Hồ Chí Minh và sức mạnh của những người cộng sản.

Nhất là vấn đề tâm lý. Phái đoàn dân sự, tất cả những người Pháp ở Đông Dương cũng vậy, biết quá rõ Châu Á, khả năng ăn mòn của nó. Họ tin chắc sự có mặt của lá cờ tam tài chẳng bao lâu sẽ bị tiêu hóa, triệt hạ, nhận chìm theo lối Phương Đông trong lòng một nền độc lập toàn vẹn. Phải luôn bảo vệ nó bằng những cam kết, đề phòng và kiểm soát những đòn bẩy chỉ huy. Mục đích là trong một Việt Nam thống nhất và độc lập, nước Pháp còn ở khắp nơi hơi bí mật và gần như còn mạnh. Tóm lại bề ngoài đất nước này sẽ thuộc về người Việt Nam, nhưng thực tế thuộc về người Pháp. Như vậy độc lập thực ra chỉ là một xứ bảo hộ.

Nhưng ai có thể chấp nhận nền độc lập ấy của Pignon? Những người kháng chiến không, những người tự cho là kháng chiến cũng không.

Từ đấy chỉ có Bảo Đại là có thể. Bản thân ông này cũng nhăn nhó nhưng người ta biết rõ cuối cùng ông sẽ nhận vì nếu không sẽ chỉ là một kẻ mất hút trong biển người.

Việc Bảo Đại trở về đã tới gần. Trước hết phải chuẩn bị những văn bản mà người Pháp quan tâm: người ta viết hàng nghìn trang thỏa thuận. Tất cả đều được dự kiến, quy định, khẳng định. Người ta cân nhắc từng chữ; một số lập luận tế nhị kéo dài hàng tuần. Đây là một trong những soạn thảo lớn nhất thế giới.

Pignon và ê-kíp của ông, những người bảo trợ ông ở Pháp gần đạt mục đích. Nhưng không khí vẫn xáo động. Ở Paris những kẻ thù của "lá bài Bảo Đại" giật mình. Trong lúc mọi việc tưởng như đã quyết định, một mưu đồ ngầm xảy ra. Do vậy tướng Revers chuẩn bị sang Đông Dương lúc Hoàng đế sắp về. Ông đến để phá hỏng việc đó, lấy lại giải pháp phe hữu với các tư sản Nam Kỳ, những người chờ thời, những người kháng chiến, các nhà quốc gia của những khu du kích, với Việt Minh và có lẽ cả với Hồ Chí Minh và những người cộng sản.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2018, 04:38:57 pm

Vị Hoàng đế bí hiểm

Pignon đã đâm lao. Từ nay ông gắn số phận mình vào số phận Bảo Đại. Nhưng Hoàng đế bí hiểm ấy là ai?

Người ta nói những người của Phái đoàn dân sự tự kỷ ám thị để có lòng tin vào Hoàng đế. Bảo Đại làm họ bối rối vì những mặc cả ở Hồng Kông, trên bờ biển Xanh, ở khắp nơi. Hình như để gây sức ép với ông mà Pignon cho phép tiếp xúc với Nguyễn Bình. Nhưng Bảo Đại cũng có chăng những tiếp xúc ấy?

Bề ngoài Pignon có vẻ thắng thế vì Bảo Đại sẽ trở về. Nhưng để chắc chắn thắng lợi, phải biết con người ông đặt tất cả hy vọng là như thế nào. Tôi hỏi một nhà cai trị cũ điều này, ông nhún vai nói không biết.

- Cuộc sống của ông ta lạ lùng, nhân cách thật phức tạp đến mức người ta có thể nói ra sao cũng được. Nói chung người ta cho rằng có hai Bảo Đại - hoặc đúng hơn, hai thể hiện của Bảo Đại. Ông ta là Hoàng đế của hộp đêm, của con người không tin vào gì nữa, con người đáng ngờ đối với mọi người vì ông lần lượt phản bội tất cả. Đối với người Pháp ông là người bạn không thực, đã bỏ rơi họ hai lần, đối với người Nhật rồi sau đó đối với Việt Minh. Phải chăng ngày mai ông sẽ đào ngũ đi với người Mỹ? Người Việt Nam xem ông là một đầy tớ ngoan ngoãn, làm công cụ cho chủ nghĩa thực dân Pháp rất lâu. Cả Việt Minh cũng cho ông là kẻ phản bội vì, là cố vấn tối cao của Hồ Chí Minh, ông trốn đi trên một chiếc máy bay Mỹ.

Mặt thể hiện khác dựa trên sự bắt buộc, cần thiết, về mặt này Bảo Đại là con người trong mỗi lần phải "tỏ ra mềm mỏng", phải "hợp tác" để cứu mạng sống của mình. Ở trong một vòng xoáy đáng sợ, để sống sót ông chỉ còn sự thông minh và ông khá thông minh để tỏ ra đạo đức, trung thành, mọi phẩm chất sẽ hành hạ ông vì ông ở trong tay những kẻ thù.

Một trong những anh em họ của Bảo Đại đã kể lại với tôi câu chuyện của ông này. Đây là lời kể, gần như trong tiểu thuyết đen:

- Ông biết khi Bảo Đại còn rất trẻ, được người Pháp nuôi dạy ở Paris theo uỷ thác như thế nào. Người con trong những Con Trời bắt đầu sống theo "kiểu hiện đại": Câu lạc bộ Racing, Riviera, Tout-Paris, những chốn lịch sự, giàu và quý phái. Mười tám tuổi, ông thấy có vẻ kỳ cục khi trở về Huế làm ông vua thần quyền, là thần tượng của quần thần, mặc chiếc áo dài dệt đầy rồng để giao lưu với Trời. Ông tưởng tượng chàng thanh niên "hiện đại" trong triều đình cổ xưa ấy với các quan lại, các thầy bói, những lăng tẩm tổ tiên, giữa một nhãn hiệu hàng ngàn năm! Thật ngạc nhiên phát hiện ra mẹ mình trong người đàn bà Annam cổ lỗ đần độn, bài bạc, ăn trầu, ghê gớm đến nỗi được mệnh danh là "Hổ cái". Bảo Đại những muốn cách tân toàn khung cảnh lỗi thời ấy và tự mình cai trị nhưng các công sứ Pháp kịch liệt phản đối. Ông đã thấy Hoàng đế Annam chỉ là đầy tớ của một viên chức Pháp nào đấy. Làm sao tôi không nhớ khi ông uể oải dùng cùi tay che những tài liệu chuẩn bị sẵn mà người Pháp đem tới cho ông ký tắt? Ông nói: "Tôi không đọc những gì tôi phải ký; tôi đã học được là phải mù, điếc và câm". Đấy là lúc ông bắt đầu suy nhược thần kinh; đi săn một mình liên tục. Những người quốc gia thời ấy không hiểu sự bất lực của ông, đã kết tội ông phản bội. Là Hoàng đế thậm chí ông không thể thanh minh.

Rồi xảy các sự kiện, trước hết là cuộc đảo chính Nhật tháng ba năm 1945. Tất cả tiến hành như chớp. Người Pháp bị săn đuổi, nhấn chìm. Bảo Đại chưa biết gì hết. Ông đi săn voi hoang rất sâu trong rừng, trở về đúng lúc một lữ đoàn Nhật bao xung quanh ông. Một viên tướng của Thiên Hoàng đưa cho ông một tập giấy da, ra lệnh ký nếu muốn sống. Vậy là Bảo Đại đóng ấn nhà vua lên chứng thư nói người Pháp mất quyền hạn và tuyên bố nước nhà độc lập. Làm sao ông có thể làm khác được? Cần tranh thủ thời gian cho đến khi Nhật thất bại mà ông biết không tránh khỏi được và sắp tới gần.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2018, 04:40:03 pm

Điều xảy ra trong lúc đế quốc Mặt trời mọc sụp đổ còn tệ hại hơn. Bảo Đại lại phải ký và lần này là sự mất quyền của chính ông. Mùa hè năm 1945 một phái viên của Hồ Chí Minh chiến thắng vào Huế buộc Hoàng đế thoái vị, không nể nang quá đáng. Bảo Đại thực hiện để cứu mạng sống của mình. Ông nghĩ hậu duệ của bao nhiêu đời vua Annam có thỏa mãn về chức danh cố vấn tối cao của Hồ Chí Minh mà người ta bổ nhiệm ông để đánh đổi không?

Thế là bao nhiêu thử thách! Người ta tách ông khỏi vợ và các con, giữ như làm con tin ở Annam. Ông phải ra Hà Nội bên cạnh Hồ Chí Minh, tham dự bên cạnh Chủ tịch nước những cuộc mít tinh cách mạng với tên người công dân Vĩnh Thụy. Cố vấn tối cao đã biết lấy giọng chấp nhận nền dân chủ, tỏ rõ ân hận, ra mặt nhiệt tình và Bác Hồ ôm hôn ông thắm thiết trước công chúng.

Bảo Đại vẫn sống ngày này qua ngày khác vì tuy thời trẻ ở Paris, ông tìm lại được mưu mẹo của tổ tiên, khả năng che dấu mình của Châu Á. Nhưng trò chơi thật chặt chẽ! Ông không bao giờ được phản lại mình dù chỉ là một lời nói, một giọng nói, một cử chỉ. "Giải pháp đúng đắn" tai hại của Hồ Chí Minh và ông Giáp vừa sử dụng là làm mất tín nhiệm Bảo Đại biến ông trở thành Vĩnh Thụy. Việc tuyên truyền nào hay hơn chỉ rõ ông vua "tình nguyện" xuống khỏi ngai vàng để liên minh với quyền lợi nhân dân! Nhưng các uỷ viên chính trị đã nói với dân chúng ông ta chỉ là một kẻ phản bội, người ta phải rũ bỏ ông và cả đống mê tín về ông.

Vào mùa xuân 1946 đầu của Bảo Đại vẫn luôn không đắt giá. Giữ nó trên vai là những đội quân của Lư Hán, ông chúa chiến tranh ghê gớm của Vân Nam chiếm đóng Hà Nội, dựa trên một thoả thuận quốc tế và nhân danh Tưởng Giới Thạch. Hồ Chí Minh và ông Giáp biết nếu đụng vào cựu hoàng là tạo cớ cho đội quân thù địch ấy thảm sát quân đỏ và nhấn chìm chế độ nhân dân trong biển máu. Nhưng với sự bảo vệ ấy Bảo Đại trở thành một đối thủ ghê gớm. Bất cứ ngày nào đó, người Trung Hoa cũng có thể nắm lấy ông ta dựng lại làm vua trong lúc họ tự mình chém giết Việt Minh.

Suýt xảy ra bi kịch khi một nhóm người tập hợp nhau dưới sự bảo vệ của quân lính Lư Hán và hô lên: "Bảo Đại muôn năm". Tổng bộ Việt Minh bèn quyết định đưa ông này đến một làng xa. Sau một tháng, chính Hồ Chí Minh bất ngờ đến thăm rất nhẹ nhàng và bao dung. Hôm ấy Bảo Đại làm yên lòng được Việt Minh; họ cho phép ông trở về Hà Nội. Ở đây Hồ Chí Minh và ông Giáp luôn bị đội quân Trung Hoa thô bạo đe dọa, đòi hỏi những khoản tiền, thậm chí họ cử ông đi thương lượng với Lư Hán. Ông lợi dụng lúc ấy điều đình với ông chúa chiến tranh đưa ông đi trên một chiếc máy bay Mỹ.   

Nhiều năm đã trôi qua. Khắp nơi người ta kể rằng Bảo Đại trở về Việt Nam chỉ vì đồng tiền của Pháp. Nhưng nếu ông là một người chỉ mua bằng tiền năm 1946 ông đã nhận lời chào mời của tướng Marshall, đại sứ đặc biệt của Hoa Kỳ bên cạnh Tưởng Giới Thạch. Ngay khi chạy trốn khỏi Hà Nội trên chiếc máy bay vừa hạ cánh ở Nam Kinh, viên tướng đã mời ông đến trụ sở của mình nói chuyện; đề nghị ông phục vụ ý đồ của Mỹ với số tiền công rất lớn. Người Mỹ có nói thêm "Ông đừng quá tham vọng. Việt Nam chỉ là một đất nước nhất thời. Dù sao xứ Bắc Kỳ là một tỉnh phía Nam của Trung Quốc, rồi phải trở về với Trung Quốc". Hoa Kỳ còn tin vào sức mạnh của Trung Hoa Quốc dân đảng, muốn thỏa mãn tất cả những tham vọng của Tưởng Giới Thạch! Họ muốn "mua" Bảo Đại để dễ dàng chia cắt đất nước ông! Về phần mình Hoàng đế trước mắt không có gì nhất là chẳng một hy vọng nào ở người Pháp đang cố gắng điều đình với Việt Minh. Thế nhưng ông trả lời với Marshall "Không" và chọn con đường sống lưu vong ở Hồng Kông, bị mọi người bỏ rơi trong cảnh khốn cùng.

Lời bào chữa này những người theo Bảo Đại nói với tôi nhiều lần. Đúng là Bảo Đại biết giữ đầu của mình; ông đã nhiều lần tỏ ra có khả năng ấy khi mạng sống bị đe dọa. Nhưng như vậy không có nghĩa khi bản thân không còn bị đe dọa, ông đã tỉnh ngộ và không mục ruỗng. Dù thế nào, có những bóng đen quá khứ chứng tỏ ông phụ thuộc vào một loại chủ nghĩa hư vô cơ bản, không có gì đáng làm. Tất cả những gì ông biết làm là phá hoại.

Ngay trước khi trở về Bảo Đại đã có giá rất đắt. Nếu năm 1946 ông từ chối đô-la Mỹ, chắc vì kiêu căng, người ta dành cho ông một vị trí quá nhỏ. Nhưng ông sẵn sàng lấy tiền của người Pháp. Những người này không vì lợi ích của họ sao?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2018, 08:17:06 am

Hai tòng phạm của cao ủy Pháp

Để chơi "lá bài Bảo Đại", Pignon bố trí hai người, Faugère và Cousseau. Thường lệ người ta không thấy họ cùng nhau, họ làm việc riêng rẽ. Vai trò của họ không hoàn toàn giống nhau: Faugère chuẩn bị đất nước cho nhà vua, Cousseau khắc sâu vào trí óc Bảo Đại những bổn phận của ông ta.

Cứ chín giờ sáng, Faugère thong thả nhấm nháp một tách cà phê ở Pagode, phòng trà trên đường Catinat. Ông ngồi một mình trên bàn và với một ngón tay gần như bất động, ra hiệu cho tôi đến với ông. Đấy là một người lai, cứng nhắc và to lớn, một khối tư cách. Hầu hết người lai Âu Á chọn Châu Âu, nhưng Faugère chọn Châu Á, thậm chí theo phong cách cổ nhất. Mọi thái độ của ông là sự nghiêm trang quan lại. Ông nói theo những quy tắc cổ xưa của sự khôn ngoan, thong thả như mỗi chữ là một biểu tượng. Ông thừa nhận đạo Khổng tuy ai cũng biết, là Chánh mật thám Bắc Kỳ, trước đây ông đàn áp ghê gớm. Đúng là có ngày ông tâm sự với tôi tôn giáo cho phép tàn ác, thậm chí áp đặt để giữ vững những luật đạo đức. Faugère tin vào những quy tắc hàng nghìn năm của Châu Á và trật tự không xê dịch của xã hội.

Trong thế giới tuyền thống ấy Faugère biết mọi điều, biết rõ tất cả các trí thức, chức sắc, quan lại. Trí nhớ của ông tuyệt vời; đấy là tập tin sống của Pignon. Khi người ta nêu lên một cái tên Annam, bất kỳ tên nào trong nhiều nghìn, ông nhắm mắt lại như đang ngủ rồi bắt đầu kể lể vô tận những thông tin. Không bao giờ ông nhầm trong nhung nhúc những người, các phả hệ, bà con, những sự việc gay cấn; mỗi lời đều đúng và dứt khoát.

Trong mấy tuần lễ, Faugère bận cho thông báo với các ông búi tó áo dài Việt Nam, Bảo Đại sẽ trở về. Phải hoạt động, họ và gia đình, cho Hoàng đế của họ.

Đôi khi tôi hỏi Faugère:

- Ông nghĩ các ông già Việt Nam ấy thực tâm trong việc đòi hỏi Bảo Đại trở về?

- Họ thực tâm đấy. Một vấn đề sống còn đối với họ. Ông sẽ hiểu điều ấy nếu ông biết rõ làng xóm vùng châu thổ Bắc Kỳ. Không người Pháp nào biết. Tôi đã được nuôi dạy ở đấy, là đứa bé ở truồng ngồi trên lưng trâu. Đó là sức mạnh của tôi. Ở Bắc Kỳ giữa vùng đồng ruộng trống trải thường nổi lên một vệt cây xanh. Đấy là một làng giống như hàng nghìn làng khác. Nó được bảo vệ chống những kẻ làm hại từ bên ngoài bằng một bức tường thành, một hàng rào tre không đi qua được. Hàng bao nhiêu nghìn năm nay không có gì thay đổi. Mỗi làng là một cộng đồng. Lãnh đạo là những "hương chức" được bầu, bảo đảm sự tồn tại của mọi người theo quy tắc đạo đức và tôn trọng thứ bậc. Mỗi người tuân theo tổ tiên, người già, Trời mà Hoàng đế là người can thiệp giúp với thần thánh. Mọi khiếm khuyết đều bị trừng phạt nghiêm khắc vì nó xúc phạm thần linh. Hoàng đế là gốc, là con Trời mang lại nguyên tắc sống. Vì hàng năm ông vạch đường cày đầu tiên trong hoàng cung Huế để rồi mùa màng phát triển trong vương quốc. Hoàng đế được tôn kính đến mức người ta không dám nhìn vào ông. Ông sống trong cung điện cách ly; nếu ai nhìn vào ông sẽ bị xử tử. Rất họa hoằn vua mới ra khỏi cung điện, dân chúng quỳ, mặt úp xuống bụi đường nhưng được nắm trong tay một chiếc gương con để có thể thấy hình ảnh của vua và Trời của mình.

Khi tôi còn bé những phong tục ấy đã hơi lỏng lẻo. Nhưng Việt Minh đã nhấn chìm tất cả những cái đó. Hồ Chí Minh khi cử Bảo Đại làm cố vấn tối cao đã buộc một ông Trời từ bỏ sự linh thiêng của mình. Và do không có Trời tất cả đổ nhào. Trở thành người công dân Vĩnh Thụy, Bảo Đại không chỉ rời bỏ ngai vàng mà cả toàn dân tộc, trật tự linh thiêng, nền nếp hàng nghìn năm của Annam.

- Trong trường hợp đó bây giờ Bảo Đại có thể làm gì?

- Ông ta có thể làm nhiều. Bánh xe đã quay, ông đã thoát ra và Việt Minh đã quá xa. Trong hoạn nạn, dân chúng đồng ruộng nhớ đến Hoàng đế của mình.

Cũng như tôi, năm 1945 tôi tưởng đã mất hết. Những ngày đầu của Cách mạng đỏ, dân quê lo sợ bị Trời trừng phạt. Nhưng không có gì xảy ra và cán bộ chính trị nói: "Bà con thấy đấy, không có thần thánh gì mà chỉ là những ảo tưởng mà thôi". Trời đã mất mặt, những người tin tưởng bỏ rơi Trời. Những ngày lo sợ qua đi, một thời đại vui sướng nổ ra cuối cùng vượt khỏi ách truyền thống tai hại. Các xóm làng tiếp thu được tinh thần tự do; ảnh hưởng của thời đại mới thấm sâu vào lòng mọi người.

Nhưng Việt Minh không chỉ giải phóng con người khỏi gánh nặng của Annam. Họ bắt đầu cuộc đấu tranh giai cấp trong làng xóm. Hương chức, nhà giàu bị lên án; tầng lớp thấp nhất trong nhân dân là đao phủ của họ.

Nhiều người trong số người giàu có, hương chức sống sót nhưng thụ động, sợ hãi, chờ đợi. Họ ở trong làng với đồng ruộng, ẩn náu, không có cách nào thể hiện. Họ không làm gì vì không tin vào quân đội Pháp, bị cho là bất lực. Nhưng họ kiên trì chuẩn bị trả thù. Họ thiết tha theo Bảo Đại, tận tụy cho đến chết với ông nếu ông trở về lãnh đạo cuộc thập tự chinh, một cuộc thánh chiến bằng dao.

Nếu Bảo Đại nắm lấy những thành viên ấy của mình, những người giản dị và hơi kỳ cục, nhất là ở Annam Bắc Kỳ, ông ta còn có thể huy động quần chúng chống lại Việt Minh. Nhưng trước hết, ngay khi trở về ông phải tỏ ra quyết tâm chiến đấu. Nếu ngần ngừ ông sẽ mất hết, nếu muốn ông còn có thể.

- Nhưng Bảo Đại có muốn không?

Faugère đấm nắm tay xuống bàn nói:

- Cousseau và tôi, chúng tôi biết cách buộc ông phải muốn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2018, 08:17:51 am

Cousseau, mưu sĩ khác của Pignon là người Tours chính gốc, da mềm, trắng, đôi mắt mơ màng và luôn vội vã. Ông đã hoàn toàn Á châu hóa. Nếu ông nói tiếng Việt sau một cánh cửa, những người da vàng không được báo trước lầm tưởng ông là người trong bọn họ. Ông có vẻ mặt thờ ơ hào hiệp phù hợp với một chúa tể chiến tranh, tiếp nhận được từ thời trẻ sau thế chiến 1914-1918 khi thương thuyết với các tướng và quân vô lại vùng biên giới Trung Hoa về mua bán thuốc phiện và vũ khí. Bây giờ với sức lực tuổi tác, người rất đẫy đà, ông là nhân viên những nhiệm vụ bí mật. Chính ông chỉ đạo những cuộc thương lượng mật. Là một người tính toán bẩm sinh tuy rất trung thực, ông có một nghị lực sắt, có khả năng làm tất cả.

Người Pháp vội vàng phái ông đến Hồng Kông gặp Bảo Đại năm 1947. Ông được lệnh dỗ dành nhanh chóng Hoàng đế; ông bỏ vào việc ấy hơn hai năm. Ông nói với tôi:

"Tôi đã nghĩ sẽ thành công ngay. Bảo Đại cần tiền đến thế! Đấy là một ông vua tầm thường bị hạ bệ, không một xu và chẳng hy vọng gì. Ông ta sống nửa nghèo khổ, phải tìm kiếm đô-la hàng ngày. Nhà băng Đông Dương giúp ông sinh sống với những đợt cho vay nhỏ và để ông làm một số đầu cơ.

Nhưng thực tế là một công việc nặng nề. Tôi đã tới với nhiều triệu nhưng không đủ. Chỉ việc tôi đến - tuy tôi đã cố giấu kín - Bảo Đại lấy lại một giá trị kinh khủng. Một triều đình hình thành xung quanh Hoàng đế, đủ loại người Việt chạy đến làm đầy tớ trung thành. Những mưu mô quốc tế bắt đầu.

Tôi phát hiện ra người Anh đặt trong phòng tôi ở khách sạn một máy ghi âm, loại hiện đại nhất.

Bảo Đại trở lại "cuộc sống xa hoa” và cứ để kéo dài. Tôi đến để nói với ông ta: “Ông phải nắm lấy hoặc không”. Chính ông từ đấy tống tiền tôi. Ông biết người ta càng gắn bó với ông, ông càng cần thiết. Ông nói điều ấy với tôi, giọng đều đều, vừa hút thuốc vừa phác một nụ cười. Tôi nổi giận, ông phớt tỉnh với những suy nghĩ đại loại: “Tại sao tôi không đòi những gì tôi có thể? Toàn bộ công trình của Pignon gắn liền với bản thân tôi”.

Bảo Đại không chỉ tăng thêm những đòi hỏi về tài chính. Ông còn đặt những điều kiện chính trị. Nhiều tháng trôi. Tôi như con thoi giữa Hồng Kông và Sài Gòn đi xin chỉ thị, trở lại với những đề nghị mới, và với tiền, nhiều tiền. Không có kết thúc. Bảo Đại có một sức ỳ đáng sợ. Người ta luôn bảo tôi: “Hoàng đế đang chạy theo cái cô gái. Ngày mai, ngày kia mời ông trở lại.” Tuy vậy khi đã đến bước đường cùng Bảo Đại chấp nhận một số điểm. Nhưng lúc sắp ký thoả thuận ông ta đặt lại vấn đề.

Đã đến lúc khủng hoảng. Ngô Đình Diệm khô khan, một quan lại lớn của Annam vừa Thiên Chúa giáo vừa Khổng giáo đến làm trợ lý cho Bảo Đại. Ông này không khoan dung như những người Việt Nam khác mà là một người xét nét, quyền uy. Ông nhắc nhở Bảo Đại về nhiệm vụ. Ở Hồng Kông ông như một chỉ huy. Bảo Đại ghét nhưng sợ ông, hứa hẹn lần này sẽ theo lời khuyên của ông.

Tôi rất lo lắng. Ông Diệm này chống người Pháp sâu sắc. Mỗi buổi sáng ông đến lãnh sự quán Hoa Kỳ. Người Mỹ đang hăng hái “chống thực dân”, nói với ông ngăn cản Hoàng đế trở về nước. Diệm quở trách Bảo Đại: “Ngài đừng chấp nhận những đề nghị của họ. Ngài sẽ vĩnh viễn bị mất danh dự. Ngài chỉ trở về khi có được nền độc lập thật sự. Không nên làm đầy tớ cho một nền độc lập giả tạo”.

Đã đến lúc rõ sự thật. Tôi nói với Bảo Đại: “Bây giờ ông phải tỏ rõ ông ở về phía nước Pháp hay chống lại”. Tôi đưa cho ông một tối hậu thư. Bảo Đại xiêu lòng. Ông không tín nhiệm Diệm - cuộc gặp mặt cuối cùng giữa hai người thật ghê gớm - rồi ông đi Paris thực hiện “những cam kết” với nước Pháp. Cuối cùng tôi cũng thành công. Tôi đã đưa ông tới chỗ cam kết. Bây giờ ông sẽ “trở về” Việt Nam thực sự của mình.”

- Nhưng ông có chắc Bảo Đại giữ vững những cam kết không?

- Tôi chẳng biết. Nhưng tôi không vất vả ở Hồng Kông để ông ta làm bậy ở đây. Tôi đã biết bắt buộc ông ta. Nếu cần tôi sẽ làm nữa.

Như vậy là đôi Faugère - Cousseau đã sẵn sàng. Hai “khỉ đột” chính trị của ông Pignon đã dự kiến tất cả chuẩn bị hết để buộc Hoàng đế dễ bảo, dù vui lòng hay không. Nhưng người ta nói Bảo Đại cũng đầy căm hận. Ông sẽ trở về với những điều kiện không được hài lòng. Thậm chí ông tuyên bố: “Tôi sẽ bắt người Pháp trả giá đắt”.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Giêng, 2018, 08:33:40 am

Bảo Đại trở về nước

Đầu năm 1949 những người của Phái đoàn dân sự gia tăng hoạt động, phải giải quyết mọi việc, đến từng chi tiết, để Hoàng đế người ta chờ đợi không có lý do rút lui, không lùi hơn nữa cuộc trở về. Đây là một cuộc chạy đua với thời gian, một cuộc chiến, một hành động mãnh liệt, ép buộc.

Cousseau, những phái viên khác cũng vậy, quấy rối Bảo Đại ở Cannes, trong các sòng bạc, khắp những nơi ông tới. Trong thời gian đó ở Sài Gòn, Pignon, Bonfils và những cộng sự càng kéo dài giờ làm việc; xanh xao và kiệt sức, họ thảo ra, bỏ đi, sữa chữa, thay đổi các văn bản vô tâm. Bảo Đại chỉ muốn trở về khi thống nhất và độc lập đã viết rõ trên giấy. Đối với ông chỉ mấy chữ cũng đủ, mấy chữ hoàn toàn nhận biết được. Nhưng đối với người Pháp phải hàng nghìn trang quy định, phòng ngừa, giảm nhẹ.

Ngay từ đầu là sự không thống nhất, về khái niệm độc lập. Những người Việt Nam muốn rõ ràng, thực chất, nhưng họ buộc phải chấp nhận bao bọc bởi hàng chục, hàng trăm quy định. Họ nói đây là một cái hộp rỗng người ta cho chúng tôi; bên trong chiếc hộp chẳng có gì cả.

Dù sao cũng có nguyên tắc của nền độc lập. Vì vậy dựa vào sự linh động, những người đàm phán của Bảo Đại và Sài Gòn đành phải chấp nhận những trở ngại người Pháp đặt ra: họ nghĩ sẽ nhanh chóng xóa bỏ sau đó. Một người trong bọn họ tâm sự với tôi: “Nếu người Pháp thông minh hơn, họ không ép buộc chúng tôi nhận những gì chúng tôi không muốn. Vì như vậy sẽ không giữ được. Trong thế giới hiện đại, không có gì mong manh hơn những “cam kết” bó buộc. Khôn ngoan là nên hỏi chúng tôi sẵn lòng cho lại những gì.”

Cuộc chiến từ ngữ kéo dài nhiều tuần. Việc biên tập văn bản - người Pháp và Việt Nam tập hợp lại - dài, chậm và gai góc. Hầu như ở mỗi đoạn đều có sự tách biệt xem ra không bỏ đi được. Dù sao cũng phải kết thúc, nhờ vào ngôn từ lạ lùng về pháp lý - chính trị cho phép che giấu đi mọi lời mâu thuẫn nhau.

Kết quả dù sao cũng là “chiến thắng” trước mắt của Pignon. Vả lại ông không chỉ thắng lợi ở Sài Gòn mà cả ở Pnôm Pênh và Viên Chăn. Ông không chỉ hài lòng về “Bảo Đại hóa” Việt Nam mà lợi dụng cơ hội để xây dựng lại thực thể Đông Dương theo một kiến trúc mới. Tất cả những cái đó giữ vững, bổ sung, chống đỡ nhau. Một nhà báo Annam ở Sài Gòn viết: “Người Pháp lẫn vào bao nhiêu tầng pháp lý như một ngôi chùa Châu Á có bấy nhiêu mái.” Thực tế người ta dựa vào ba “mức độ phòng ngừa” chính - những thỏa thuận hai bên với Việt Nam, Căm-bốt, Lào và thỏa thuận bốn bên với Liên hiệp Pháp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Giêng, 2018, 08:36:28 am

Về cơ bản, nước Pháp ký quy ước tay đôi với mỗi trong ba nước Đông Dương. Những văn bản giống nhau, không thay đổi; chỉ tiêu đề và chữ ký khác nhau. Trong thực tiễn, chế độ dự kiến cho Việt Nam của Bảo Đại được mở ra với Căm-bôt của Sihanouk và Lào của Si Savang Vông.

Cụ thể đấy là “chế độ quy phục” - cho dù từ ấy không được nói ra. Trung Quốc láng giềng - còn là của Tưởng Giới Thạch - vừa bãi bỏ nó sau một thế kỷ đấu tranh quyết liệt chống cái họ gọi là những “hiệp ước bất bình đẳng”. Điều đó không cản trở người ta áp đặt nó ở Việt Nam, Căm-bôt và Lào trong lúc cho họ độc lập.

Trong mỗi nước này người ta tổ chức việc xét xử hỗn hợp cả một hệ thống toà án đặc biệt. Một nửa thẩm phán người da trắng, chỉ một nửa người Da vàng. Đấy là để xét xử công bằng người Pháp và cả người Trung Hoa: Người ta giữ một Sở mật thám đặc biệt của Pháp bên cạnh sở cảnh sát quốc gia chuyển cho Nhà nước độc lập. Người ta nắm sở Hối đoái khống chế hoàn toàn đời sống kinh tế, nắm toàn bộ việc chỉ huy quân sự, Đội quân viễn chinh cùng những hội đồng chiến tranh và việc trưng tập, trưng dụng, để lại một bộ phận cho Nhà nước. Quyền đại diện quốc tế bị hạn chế; ngay cả Việt Nam cũng chỉ có ba phái đoàn ngoại giao trên thế giới và phải hoạt động “nhịp nhàng” với đoàn ngoại giao Pháp. Sự câu nệ pháp lý đi xa đến mức nước Pháp và Việt Nam giữ một quy ước toàn phần ở Viện Hải dương học Nha Trang - một cơ sở chỉ khoảng vài chục hộc cá.

Như vậy là mỗi quốc gia “phối hợp” riêng rẽ với Pháp trong sự cần thiết về công việc của mình. Điều đó không đủ, trong một số lĩnh vực Pignon cũng muốn gắn kết ba quốc gia thành một khối với chính quốc trong tổ chức “bốn bên”.

Vấn đề là cứu vớt quan niệm về xứ Đông Dương, do chính nước Pháp tạo ra trong việc chinh phục, bố trí cùng nhau trên bản đồ với màu hồng thuộc địa của mình, ba vương quốc khinh ghét nhau: Việt Nam lúc ấy gọi là Annam, Căm-bôt và Lào. Đây là một sự đồng hóa quá đáng trái tự nhiên, dùng sức mạnh tập hợp các dân tộc đối nghịch nhau về nòi giống cũng như về tôn giáo và văn hóa - Việt Nam từ truyền thống Trung Hoa, Căm-bốt và Lào từ vũ trụ Hindou. Tuy vậy xứ Đông Dương thuộc Pháp do hệ thống các toàn quyền lãnh đạo, đã có một thành công đáng kể, ít nhất về những giá trị và về khai thác kinh tế. Thậm chí đây là “thuộc địa kiểu mẫu”.

Nhưng đến năm 1948 khi sự thống trị của Pháp chính thức biến mất, xứ Đông Dương tan vỡ. Mỗi nước thành viên chỉ nghĩ đến chia tay, trở lại một quốc gia riêng rẽ, toàn vẹn với nền tự chủ của mình. Phái đoàn dân sự không muốn việc tách rời hoàn toàn ấy. Một hôm người phó của Pignon thống thiết chỉ cho tôi trên bản đồ khối Đông Dương vừa nói: “Nếu khối hợp nhất này tự tách ra, sẽ là thụt lùi đến hai thế kỷ, sự kết thúc công trình của chúng tôi, cảnh lộn xộn. Đây là một thân thể sống được tưới bằng những luồng hàng hóa và tiền bạc chúng tôi tạo ra. Lúa gạo Nam Kỳ đưa cứu trợ Bắc Kỳ. Những trợ cấp của Ngân khố chung cho phép nước Lào quá nghèo tồn tại. Đồng bạc Nhà băng Đông Dương điều hòa guồng máy tuyệt vời này. Về mặt chính trị chúng tôi buộc phải chấp nhận sự chia cắt. Nhưng về kinh tế dù hoàn cảnh nào chúng tôi cũng phải giữ vững sự thống nhất. Trong nội bộ Đông Dương không nên có nhiều đồng tiền quốc gia, những hàng rào thuế quan, đủ loại tấm ngăn cản trở sự đi lại tự do của người, vốn và sản phẩm. Nước Pháp sẽ hợp nhất với Annam, Căm-bôt và Lào để bảo vệ một sự thịnh vượng chung.”


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Giêng, 2018, 08:38:51 am

Tổ chức “bốn bên” là sự kéo dài Đông Dương dưới một dạng gián tiếp. Đối với nước Pháp đấy cũng là cách hiện diện thực tế mặc dù có những nước độc lập: là sức mạnh bảo trợ, Pháp hình thành với ba lực lượng bản địa một liên hiệp vì lợi ích chung. Khoảng cách không thành vấn đề nữa. Tuy nước Pháp cách xa mười hai nghìn cây số nhưng là thành viên thứ tư, thành viên chính trong một loại liên bang Đông Dương.

Hiệu quả vô cùng rộng lớn. Người ta đặt ra một đồng tiền chung, không còn là đồng bạc Đông Dương bị phê phán quá “thực dân” mà một đồng bạc mới. Người ta cũng đặt ra những thuế quan chung, công trình công cộng chung. Mọi việc cần thiết được hùn vốn chung. Và để quản lý tất cả những cái đó, người ta tạo những cơ quan bốn bên có nước Pháp và ba quốc gia.

Không thể tả hết những bất bình và tiếng kêu la do hệ thống kỳ cục này gây ra. Người Việt Nam, Căm-bốt, Lào đều nổi giận đối với người Pháp. Tất cả đều lên án Pháp “gian lận”, mánh khoé giật nốt của họ những đặc quyền chính về chủ quyền. Họ nói: “Nước Pháp nắm giữ kinh tế. Những nước chúng tôi vẫn là những mầm non không bao giờ kết thúc”. Nhưng họ còn quá chán nản đối với nhau. Bao nhiêu tranh cãi để chia nhau chiến lợi phẩm - sự hoạt động của Ngân khố chung trước đây! Nhất là tranh cãi về phân phối trách nhiệm và tiền lãi những công trình mới. Người Việt Nam, với tầm quan trọng đất đai và dân số của họ, đòi hỏi phần lớn hơn. Người Căm-bốt và Lào dựa vào nguyên tắc đồng đều giữa các quốc gia, cũng muốn có phần như thế.

Một sự lộn xộn không gỡ nổi. Phải thương lượng nhiều tháng để biết sẽ đặt các cơ quan bốn bên ở đâu. Người ta phân phối: Viện Phát hành, công trình phức tạp trên thế giới được bố trí ở Pnôm Pênh, thủ đô Căm-bôt. Vì đây là những cơ quan có máy móc đồ sộ. Nơi trước kia chỉ vài công chức của Sở Quản lý Đông Dương, người ta bố trí những ban tham mưu về kỹ thuật, được đối xử tuyệt vời, xây dựng cho họ những lâu đài, nơi họ chỉ việc giết thì giờ. Không có gì hoạt động lâu và biến mất nhanh như thế.

Những khó khăn của “bốn bên” càng nặng nề vì tăng thêm số nhân viên nhàn rỗi. Quý ông người Pháp “có tư thế’ đến từ Paris để giữ những vị trí quan trọng. Nhưng cũng còn nhiều chỗ cho các vị da vàng. Họ nhận thấy việc phân chia “bánh” đúng mức là một bước tiến lớn đến nền độc lập.

Vả lại những đối xử tương tự dẫn các quốc gia Đông Dương vào khối “Liên hiệp Pháp” không mấy nhăn nhó. Nhiều nhân vật Châu Á của Sài Gòn, Pnôm Pênh và Viên Chăn muốn sang Paris làm thành viên Hội đồng hoặc Hội đồng cấp cao, sống giữa nước Pháp với những thú vui và vinh dự, kinh phí của “nữ hoàng”. Những nhà “quốc gia” nghiêm khắc lên tiếng phản đối theo lý luận nhưng những người biết điều cho rằng tham gia vào một công việc vô hại như thế không phải là phản bội. Miễn rằng trong các diễn văn, nói về nền “độc lập trong khối Liên hiệp Pháp” không nhấn mạnh, tránh cho từ ngữ này có thể chứa đựng những mâu thuẫn. Đấy là một lối hành văn.

Tất cả những cái đó - những hiệp ước tay đôi với ba quốc gia, hiệp ước bốn bên, khối Liên hiệp Pháp - Pignon và Bonfils xây dựng với Bảo Đại, gặp trở ngại. Vì nếu Hoàng đế không trở về ngay họ sẽ có một cảnh trí trống rỗng. Sihanouk hoặc nước của họ quá nhỏ, chỉ đóng vai phụ. Trong việc xây dựng mới mọi việc tùy thuộc vào Việt Nam và do đó vào con người họ đã chọn. Trước đó, ngay trước khi trở về, Bảo Đại đã không thay thế được.

Tất cả vấn đề là nắm gấp lấy ông ta nhưng họ đã gặp phải một vòng luẩn quẩn. Phải hoàn thành các văn bản để Bảo Đại chịu về nước. Thế mà chỉ có sự hiện diện của ông ta mới bảo tồn được văn bản, làm cho chúng có giá trị. Người ta ở trong một tình thế mà không có ông, tất cả đều hư không.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Giêng, 2018, 08:41:49 am

Mùa xuân 1949, Paris nổi nóng, đòi Pignon giải thích. Bảo Đại tiếp tục nghỉ ngơi thoải mái ở Bờ biển Xanh, chơi những canh bạc lớn ở các sòng bạc. Ở Sài Gòn các quan chức hành chính giận điên người. Họ “cẩu thả” trong nhiệm vụ, dùng mưu kế trốn tránh. Vì những thỏa thuận với Việt Nam đặt điều kiện cho tất cả, những ký kết với Căm-bôt, Lào và bốn bên. Vì Bảo Đại vẫn không có mặt và phải có một đối tượng để điều đình và ký, người ta lấy Chính phủ Nam Kỳ làm Chính phủ lâm thời của Việt Nam. Thậm chí để đánh dấu sự thay đổi người ta đưa lên một người lãnh đạo mới. Tướng Xuân thay thế Hữu. Việc ấy lại thêm một phức tạp - viên tướng thấy Hoàng đế trở về cũng chẳng còn lợi ích gì và nghĩ đến một nền cộng hòa do ông lãnh đạo.

Cuối cùng Phái đoàn dân sự kết thúc nỗi thống khổ dai dẳng, hoàn thành những hiệp ước với Việt Nam, chỉ còn việc ký. Việc ấy tiến hành trong một loạt lễ tiết trong tòa Thị chính Sài Gòn - một chiếc bánh ngọt bằng đá trắng, một bánh, có kem, lối kiến trúc gô-tích với họa tiết trang trí vây quanh của năm 1900. Chính trong sản phẩm kỳ cục này của chế độ thực dân “thời kỳ hoàng kim” nền độc lập được sản sinh.

Một nghi lễ ngoại giao giả tạo càng in đậm sự khốn khổ của những “giờ lịch sử” này. Đấy là việc treo cờ tưng bừng; ngôi nhà như bao bọc bởi những lá cờ Pháp và Việt Nam to tướng. Đấy là vẻ huy hoàng quân sự: quảng trường thành phố đầy nhân viên thắt đai khắp mình, tay cầm tiểu liên, những đội kèn đồng mặc lễ phục, những phân đội danh dự bồng súng chào. Nhưng bên trong ngôi nhà, ở gian phòng lớn tầng một chỉ khoảng một trăm người da trắng hoặc da vàng, vẫn là những người ấy - các nhân vật chính quyền. Thế giới này tẻ nhạt. Những người Pháp, các nhà cai trị hoặc các tướng mặc lễ phục, dân sự mặc áo quần trắng thêu cành nguyệt quế, quân sự là cây sồi. Họ chúc mừng nhau rất khiêm tốn. Pignon mệt mỏi, Bonfils cáu kỉnh. Những người Việt Nam, tất cả là bộ trưởng hoặc nhân viên cao cấp, mặc quần áo comple. Họ nhiệt tình giả dối, đầy ẩn ý. Phần lớn đứng tách riêng, đứng đắn và bối rối; họ chẳng hào hứng gì về nền độc lập hạn chế cũng như về Hoàng đế được chờ đợi.

Vài tiếng cọ xát nữa trên giấy, những lần đóng dấu những đợt vỗ tay rời rạc: đấy là độc lập. Pignon nói mấy lời hài lòng. Các diễn giả Việt Nam thể hiện những bài nói có những từ tối nghĩa, được tính toán kỹ. Thay vì ca ngợi sự “hoàn hảo” của các hiệp ước, họ nói về sự “có thể hoàn hảo”. Như vậy có nghĩa, với lễ phép Phương Đông, họ đã ký vì sức mạnh chứ không vì tinh thần tự nguyện. Và đó là quan điểm của “những người hợp tác”!

Nhưng nhất là sự thờ ơ của thành phố, của toàn dân chúng Sài Gòn. Nhân dân không biết, không muốn biết việc gì đang xảy ra trong tòa thị chính, như nền độc lập theo lối Bảo Đại không liên quan gì đến họ, họ tiếp tục cuộc sống như mọi ngày - thậm chí Việt Minh cũng không có chỉ thị quấy rối. Chẳng có gì xảy ra. Một người Việt Nam nói với tôi: “Biểu tình chống hư không làm gì?”

Ít nhất Pignon cũng sắp “sờ đến” Bảo Đại. Đã định được một ngày nắm ông ta. Đến giờ chót một khó khăn bất ngờ thiếu chút nữa làm hỏng cả kịch bản. Thật ái ngại!

Bảo Đại đã chuẩn bị hành lý ở Bờ biển Xanh. Ở Sài Gòn chỉ còn một thể thức cần hoàn thành bãi bỏ quy chế thuộc địa của Nam Kỳ. Các nhà cai trị phát hiện ra rằng, theo Hiến pháp nước Pháp, một Hội đồng Nam Kỳ được bầu dân chủ phải tuyên bố nguyện vọng của xứ Nam Kỳ không muốn là một lãnh thổ Pháp nữa qua một cuộc bỏ phiếu long trọng. Hội đồng ấy không có. Pignon vội vã tạo ra từ một mớ tạp nham. Cuối cùng cũng bỏ phiếu, ngay trong ngày Hoàng đế chuẩn bị lên máy bay. Lúc đó một luật sư láu cá, người xứ Corse, một người cũ của thuộc địa, thông báo ông sẽ kiện lên Thượng viện: Cơ quan xác nhận sự chia tay của xứ Nam Kỳ không có thường xuyên. Nếu người ấy thực hiện lời đe dọa thì sẽ là một vụ bê bối và Bảo Đại thu xếp vali sẽ không trở về nữa.

Pignon triệu tập viên luật sư xảo quyệt. Ông cho ông kia một triệu đồng đổi lấy cái đơn kiện. Người kia chỉ chờ có thế, chấp nhận. Nhưng không có đủ tiền để tranh thủ mối lợi bất ngờ. Trong lúc Bảo Đại bay về mảnh đất của tổ tiên, ông đưa bán tại Sài Gòn những cước phí vận chuyển cho những người trả giá cao nhất. Bảo Đại đã có thể trở về như thế đấy!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Giêng, 2018, 08:42:36 am

Cuộc trở về kỳ lạ! Tác động đầu tiên là mở ra niềm say mê cuộc chơi. Nhân dân Sài Gòn bỗng nhiên quan tâm đến Hoàng đế của mình; ông tạo cho họ có dịp cá độ. Có những người bỏ ra hàng chục triệu đồng đánh cuộc về những điểm bí mật, ngày, giờ, phút Hoàng đế sẽ đến, nơi ông hạ cánh, phương tiện xe cộ ông sẽ dùng. Những người hiếm hoi dự kiến Bảo Đại sẽ đi máy bay Dakota ngày 27 tháng tư năm 1949, hạ cánh lúc mười một giờ ba mươi phút sáng, tại sân bay Đà Lạt, đã thắng được những số tiền khổng lồ. Thực vậy, có ai nghĩ thay vì long trọng bước vào thành phố sang trọng Sài Gòn của mình, Bảo Đại có thể “mưu toan” một cuộc trở về gần như bí mật? Thế mà bỏ chuyến bay thường lệ ở Singapore, ông thuê một máy bay đặc biệt đưa ông tới vùng núi, giữa miền vắng lặng Cao Nguyên, xa tất cả.

Việc đó bắt đầu không hay. Đối với toàn Việt Nam cách lựa chọn Đà Lạt có nghĩa: “Tôi rửa tay về những gì đã qua.” Việc cách ly bản thân mình, xa những thành phố lớn, xa những đám đông, xa nhân dân là công khai từ chối trước vai trò người Pháp chờ đợi ở ông. Họ những muốn một Bảo Đại hoàn toàn hợp tác, hạ cánh ở Sài Gòn, bố trí ở đó và làm việc tay trong tay với Pignon và phái đoàn của ông này. Nhưng Bảo Đại thoát khỏi họ với lời nói đơn giản: “Tôi không bao giờ ở Sài Gòn chừng nào tôi chưa có lâu đài Norodom. Không phải cao uỷ mà tôi ở đó. Tôi không muốn là người chủ thứ hai ở nước tôi, trong thủ đô của tôi”. Đấy là một tiếng “không” không thể bác bỏ. Vì hơn bao giờ hết ngôi nhà cũ huy hoàng đối với toàn Việt Nam, là biểu tượng thực sự của Chủ quyền: người ở đấy là người chủ đất nước.

Điều đó kéo dài mãi. Cho đến khi cuộc chiến tranh kết thúc, hàng năm những người Việt Nam đều đòi lại lâu đài Norodom luôn luôn quyết liệt, nhưng người Pháp không nhường bước. Lá cờ tam tài phất phới bay ở đó cho đến khi thất bại ở Điện Biên Phủ. Nếu đấy là lá cờ Việt Nam, tiến trình chiến tranh có thể đã thay đổi. Nhưng năm 1949, Bảo Đại rất hài lòng có cớ tránh né.

Dù sao chưa bao giờ có một người tỏ ra khó chịu đến thế. Như Bảo Đại, khi bước xuống từ chiếc Dakota ở sân bay Đà Lạt - một khoảng rừng thưa ở miền núi. Ông Bảo Đại này ngay trước khi đặt chân xuống đất, còn trên những bậc thang đã là hiện thân của sự chán nản. Tôi chỉ trông thấy đôi kính râm to lớn và chiếc mũ thực dân, vẻ ngoài phù hợp hoàn toàn với một hình ảnh thời thượng của cuộc săn bắn thuộc địa. Sau đó tôi nhận ra một mẫu khuôn mặt béo và tròn đôi môi dày, mũi tẹt như được tạc vào một củ khoai tây. Thế thôi.

Những bước đi đầu tiên trên quê hương, Bảo Đại tiến lên một cách máy móc, thậm chí không thèm nhìn. Ông không thấy lá cờ hoàng gia giống như mấy nét hoàng đới, cũng không thấy những toán cứng đờ “bồng súng chào”, hàng “chức sắc” áo dài, khúm núm cúi người và nhóm nhỏ bạn bè thân tín như Giáo, người quản gia, đều ăn mặc theo lối quan lại. Ông càng không thấy, bên trong nhà ga, cao uỷ Pháp đọc một diễn văn chào mừng. Ông trả lời với giọng nói mất tiếng, vẻ uể oải chính là sự ngạo mạn.

Trong mấy phút mọi việc kết thúc. Hoàng đế chui vào một chiếc li-mu-din lớn đưa ông về biệt thự của mình, cách xa núi rừng. Như là ông đến để rồi biến mất.

Tất cả diễn biến như không “thật”. Và tôi giữ cảm giác không thật ấy rất lâu.

Hôm ấy tôi hỏi Faugère và Cousseau liệu họ còn hy vọng không. Họ mỉm cười bực mình trả lời:

- Rồi sẽ khó đấy.

Vậy là phải chơi “lá bài Bảo Đại” với một ông vua không thích. Và việc đó ngay vào lúc tướng Revers sang Đông Dương để chứng tỏ lá bài đó chẳng có giá trị gì. Phần lớn tỏ ra phức tạp nhưng Pignon luôn quyết tâm, thậm chí say mê chiến thắng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2018, 06:54:53 pm

Chương II
CUỘC CHIẾN TRANH DU KÍCH



Những cuộc chiến tranh du kích ở Đông Dương kéo dài tám năm, không có những trận đánh lớn, không mặt trận, không mục tiêu quyết định, không tất cả những gì thường có của một cuộc chiến tranh. Đây là cốt lõi của Đông Dương cho đến Điện Biên Phủ. Nhưng qua thời gian người ta dần dần ít nói đến, gần như quên đi; trên báo chí thường dành chỗ cho cuộc chiến tranh nói chung.

Vì từ năm 1950 khi những sư đoàn của ông Giáp xuất hiện từ “khu tứ giác” phá vỡ đường Quốc lộ 4 tràn về Hà Nội, về châu thổ Bắc Kỳ, về phía Nam thì cũng bắt đầu có cuộc chiến tranh thực sự. Cuộc chiến tranh này có mặt trận, những trận đánh, những cuộc tấn công, một hậu cần, một chiến lược vận dụng cho rừng núi và đồng bằng. Rồi sẽ là Vĩnh Yên, Sông Đáy, Sông Đà, Na Sầm, Luang Prabang và Điện Biên Phủ.

Nhưng cuộc chiến tranh này chỉ thêm vào những cuộc chiến du kích vẫn tiếp tục ở khắp nơi. Cho đến thời kỳ cuối người Pháp phải dành bốn phần trăm quân số để giữ đất chống du kích. Đội quân viễn chinh bị nghiền nhuyễn rải ra trên Đông Dương, phân huỷ thành những cục nhỏ tản mác trong lòng chiến tranh du kích.

Vận mệnh của Đông Dương do sự bất lực của người Pháp trong cuộc chiến tranh chống du kích, sẽ kéo theo phần còn lại. Sa lầy khắp nơi, họ không “giải thoát” được một lực lượng tấn công cần thiết; chỉ mấy trăm tiểu đoàn và đội cơ động chống chọi với quân đội ông Giáp mỗi lẫn càng mạnh hơn và đánh vào chỗ họ muốn. Nhờ “phép lạ” quân Pháp còn trụ thêm được mấy năm rồi sẽ là thảm họa không tránh khỏi.

Chưa đến lúc đó. Các sư đoàn của ông Giáp vẫn chưa ra khỏi căn cứ. Trung Quốc đỏ chưa áp sát Bắc Kỳ. Những năm 1948 và 1949 thậm chí còn là những năm may mắn cuối cùng. Đội quân viễn chinh trong một nỗ lực rất lớn được sử dụng để thanh toán quân du kích trước khi đã quá chậm.

Người ta có thể nghĩ người Pháp sắp thành công nhưng rốt cuộc họ thất bại. Họ buộc phải thất bại. Điều bây giờ tôi muốn chỉ rõ, qua những câu chuyện sống, một cuộc chiến tranh du kích là bất diệt khi nó nằm giữa nhân dân như một con cá trong nước. Tôi miêu tả cuộc “chiến tranh cách mạng”.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2018, 06:56:23 pm

Về sự tàn bạo

Chiến tranh du kích không chỉ là nghệ thuật đánh nhau. Phải từ những lập luận biện chứng đi đến những “giải pháp đúng đắn” nhằm thống trị toàn bộ, tạo ra khối quần chúng có ý thức chính trị phục vụ lợi ích cách mạng, là chỗ dựa của cuộc chiến tranh du kích.

Kỹ thuật ấy dựa vào cơ sở tàn bạo lạnh lùng, từ nay là cuộc sống bình thường trên toàn Đông Dương. Người ta không thoát khỏi, nó ở trên không, lan rộng cả trong những người Pháp. Để chống du kích quân Pháp cũng áp dụng những quy luật này. Hạ bỏ là cần thiết và nó đúng một phần. Nhưng cũng có sự thích thú lây nhiễm. Cuối cùng là một căn bệnh tâm thần, những người bình thường nhất cũng có thể bị mắc phải.

Tôi đã sống trong lề thói chiến tranh du kích ở Hóc Môn. Thật kinh khủng nhưng có vẻ bình thường đối với mọi người, ở đây tôi quen biết một cặp vợ chồng người Pháp, đã quện với nỗi kinh hoàng, thành thói quen, sở thích, tuy vẫn là cặp vợ chồng mẫu mực những “người tử tế của phía chúng ta”.

Điều này xảy ra gần như trong một vùng ngoại ô Sài Gòn, cách thủ đô đúng mười sáu cây số, ở Hóc Môn. Nhìn bề ngoài đây là một thị trấn thuộc địa của Nam Kỳ như bao thị trấn khác, ngủ trong nóng nực và buồn chán. Thực ra đây là địa ngục của chiến tranh du kích và chống du kích. Gần như bị bao vây. Xung quanh lởn vởn những chi đội của Nguyễn Bình. Đã hai năm nay nửa lữ đoàn thứ 13 lê dương cố gắng đẩy lùi họ không được. Các chi đội này hầu như không thể nắm bắt, họ có những chỗ ẩn náu ngay gần đấy nhưng không chiếm được. Một phía Đồng Tháp Mười vươn tận đó. Phía khác núi rừng tiến đến Thủ Dầu Một, cách mấy cây số. Sát nách là Sài Gòn, nơi các nhà lãnh đạo Việt Minh bị săn đuổi, cải trang đủ cách.

Cuộc chiến ở Hóc Môn rất quyết liệt, vì thế thị trấn này chiếm một vị trí chiến lược sống còn, khống chế con đường lớn đi PnômPênh nằm trên một dải đất hẹp giữa vùng đầm lầy và rừng núi.

Tôi là khách của vợ chồng ông C... đại diện thống trị, hai mươi sáu tuổi, người rắn chắc, nhỏ và gân guốc, khuôn mặt hơi tròn có đôi mắt sắc, đa nghi. Muốn tỏ ra khắc nghiệt ông mặc thế nào cũng được, áo quần kaki, hét lên nhưng giọng vẫn mang dáng dấp của khu Latinh (Pháp) và lịch sự. Chàng trai trẻ này chỉ huy cuộc chiến với nhiều trăm binh lính nguỵ, bên cạnh đội lê dương.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2018, 06:57:02 pm

C... ở trong ngôi nhà một tầng ở rìa thành phố. Súng đạn rải khắp đồ đạc bụi bậm. Trong phòng ăn, bàn được bố trí rất tốt, đầy đủ cốc chén bát đĩa nhưng sứt mẻ. Bữa ăn thịnh soạn, nhiều thức uống. Nhưng tay chân những người hầu khá bẩn.

Bà C... thanh minh:

- Đây là những tù binh Việt Minh. Chồng tôi muốn thí nghiệm, lấy họ làm người hầu. Lúc đầu tôi sợ, hình dung không biết lúc nào họ sẽ bóp cổ hoặc đầu độc chúng tôi. Họ có thể dễ dàng làm việc ấy vì chẳng ai canh chừng. Bây giờ   thậm chí tôi không nghĩ họ là ai nữa. Nhưng tôi không bao giờ đưa họ vào nề nếp được.

- Vậy là tôi dự một bữa ăn do lính của Nguyễn Bình chuẩn bị và phục vụ?

Bà C... trả lời “đúng” vừa mỉm cười.

Người quản lý đã đứng tuổi, khuôn mặt xương, thay các món ăn với những cử chỉ tôn kính. Ông ta nguyên là một cán bộ chính trị. Tôi hỏi C... trước đây ông ta đã giết hay sai giết bao nhiêu người Pháp. C... nhún vai:

- Tôi chẳng biết. Điều đó không quan trọng.

Ra phòng khách tôi suýt ngồi lên những quả lựu đạn bỏ quên trên ghế phô tơi. C... phá lên cười:

- Không sao, lựu đạn chưa rút chốt.

Vợ ông lại rất bối rối kêu lên:

- Những anh bồi Việt Minh này thật lơ là; ít nhất họ cũng có thể thu xếp trật tự trong nhà.

Cuộc sống gia đình ở Hóc Môn là như vậy đấy! Vợ chồng C... tiếp tục sống kiểu “tiểu tư sản” trong khu vườn khổ hình của họ. Một sự gộp đôi kỳ lạ! Vợ chồng C... vẫn giữ những nguyên tắc của nước Pháp bảo thủ nhưng đồng thời họ hoàn toàn hòa nhập với kinh hoàng. Đối với họ sự tàn bạo là chuyện vặt.

Họ đã thay đổi qua một thời gian ngắn! Mới cách đấy ba năm C... tốt nghiệp Trường Thuộc địa và là anh chồng trẻ đi sang Đông Dương. Người ta bổ nhiệm anh về bốt Hóc Môn; anh nhận nhưng chẳng biết gì nơi đó, anh ở trong thị trấn với vợ và con. Nhìn ra thì có vẻ đơn giản. Nhưng không hoàn toàn thế. Có một sự khác biệt nhỏ giữa hai vợ chồng, C... hoàn toàn hạnh phúc nhưng vợ thì không, C... yêu thích Hóc Môn, vợ anh không thế; nhưng chị yêu anh, thế là chị cố gắng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2018, 06:58:21 pm

Bà C... đẹp và bình tĩnh, hơi mập, có những nét đều đặn, da rất trắng. Ở Sài Gòn người ta nói đấy là một “bà thực sự’. Người ta kể cho tôi nghe về cuộc sống của bà, luôn luôn chờ chồng đang đi chém giết. Người ta nói:

- Bà hao mòn đi trong những giờ vô tận ấy. Bà biết C... thiếu khôn ngoan, quá hăng say - có ngày Việt Minh sẽ lột da ông. Bà khắc khoải về những tin chẳng lành nhưng không để lộ ra, thậm chí vẫn tỏ ra không run sợ trong những đêm Việt Minh tấn công Hóc Môn. Không bao giờ bà sợ cho bà, mà chỉ lo cho ông.

Một lần vào lúc hoàng hôn, Việt Minh tấn công vào ngôi nhà họ. C... chưa về, bà tập hợp lính nguỵ đang sợ hãi chỉ huy họ chiến đấu. Việt Minh bắn đại liên và súng cối. Bà C... chỉ huy chiến đấu cho đến lúc ông chồng nghe tiếng nổ, từ xa chạy về nhà tổ chức phản công.

Người ta khuyên tôi không nên nói những chiến công của bà C... với ông chồng; ông không thích một người đàn bà được chú ý. Tôi chỉ hỏi bà chủ nhà:

- Nhưng làm sao bà chịu đựng được không khí Hóc Môn?

- Tôi phải quen thôi. Người ta quen với tất cả, thậm chí như tôi, chưa bao giờ rời khỏi người Pháp. Tôi dành cho cuộc sống này nhưng không say mê như chồng tôi. Tôi không thích sự tàn bạo.

- Đúng là Hóc Môn hơi lạ lùng, C... nói. Dân chúng không chỉ hốt hoảng vì sợ hãi. Qua quá nhiều sự kiện, họ bao giờ cũng căng thẳng, một cuộc sống điên tiết về mọi mặt. Tôi đã hiểu phải là người mạnh nhất, phải ghê gớm với tất cả, ngay trong sự tàn bạo. Nhưng tôi đã mất nhiều thì giờ hơn vào bài học thứ hai: sự tàn bạo ấy phải đúng như một phương trình. Tàn bạo lung tung cũng nguy hại. Phải tính toán.

Trong lúc nói, bà C... đăm đăm nhìn chồng. Rồi không nén được bà cũng nói lên sự thật:

- Anh muốn nói mình bị đầu độc vì môi trường nguy hiểm và điên loạn này. Anh là một người nghiện. Bây giờ những cái đó là sự cần thiết đối với anh.

Bà lấy tôi làm chứng:

- Ngay phía bên kia khu vườn có một vạt đất có rất nhiều bụi cây. Việt Minh luồn vào đấy thả sức bắn vào nhà. Đã bao nhiêu lần tôi đề nghị chồng tôi cho chặt quang cây cối đi. Anh ấy từ chối. Anh cần những loạt đạn của Việt Minh.

C... không bằng lòng, cản lại:

- Vợ tôi sẽ không bao giờ hiểu vấn đề “thể diện”. Tôi không muốn mất cái ít ỏi mà nhiều năm tôi mới đạt được. Tôi mà cho phá những bụi cây, dân chúng ở Hóc Môn sẽ nói ông đại diện sợ và nếu ông ấy đề phòng có nghĩa Việt Minh rất mạnh. Ngược lại, coi khinh những bụi cây ấy, tôi cũng khinh thường Việt Minh, chỉ cho cả thị trấn biết tôi coi họ không ra gì.

Bà C... yên lặng rút lui, để đàn ông lại với nhau. Thế mà C... sắp nói với tôi về một người đàn bà, Thị Bé, trưởng một chi đội, gần như ngang hàng với ông.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2018, 06:59:26 pm

Chi đội 12 của Thị Bé

Trong mấy tiếng đồng hồ tôi phát hiện ra thế giới hư ảo của Hóc Môn, những chi đội 6 và 12, bà Thị Bé, nửa lữ đoàn thứ 13, những lính lê dương đào ngũ, lính Nhật đánh thuê cho Việt Minh, ông Xích một người ám sát chuyên nghiệp, ông Thuần, con người bình lặng, cả một trò múa rối lớn.

Buổi chiều nóng như lửa đốt. Tiếng rít của những chiếc quạt là máy đo thời gian đều đều. C... đưa tôi vào cơn ác mộng của ông.

Hóc Môn đã luôn luôn đỏ. Chính ở đây, năm 1940 nổ ra cuộc nổi dậy đầu tiên kiểu “quần chúng” ở Đông Dương. Người đại diện Nhà nước thuộc địa lúc ấy lẩn trốn trên tháp nước, dùng chân tay đẩy những chiếc thang tre của dân quê đang trèo lên vung tay phạt. Ông sắp bị băm thành khúc thì đội hiến binh Sài Gòn đến.

Bây giờ là vùng du kích lớn. Xung quanh Hóc Môn, những chi đội 6 và 12 đã có nhiều cộng sản hơn người quốc gia.Chi đội 12 do Hồ Thị Hào, thân mật gọi là Thị Bé chỉ huy, một người bồi cũ khoảng 30 tuổi. Vị nữ tướng vững chắc này ra khỏi hàng quân là một người mập béo. Bó người trong bộ đồng phục màu đen, súng colt dắt thắt lưng và một súng các-bin trên vai, bà bất ngờ xuất hiện trong các làng với đội quân bảo vệ là lính lê dương đào ngũ. Bà cũng xây dựng những đội ám sát để tiến hành những đợt tấn công biệt kích vào ngoại ô Sài Gòn.

Chi đội 12 là một tập đoàn dân lao động hoàn toàn đỏ. Có ban tham mưu, toà án, một đội tuyên truyền, đội chính trị, đội kinh tế, đội an ninh và kèm theo một loạt đại biểu nhân dân. Ở đấy áp dụng một trật tự chặt chẽ mác-xít. Quân lính dù là dân quê buộc phải nhập ngũ hoặc tình nguyện từ giới trí thức, đều do điều lệnh chi phối, tạo họ thành những “người mới” qua tập luyện, những bài hát yêu nước, những mít tinh chiến thắng, sự kiêng nhịn vật chất, nhất là sự giáo dục. Ngày này qua ngày khác các chiến sĩ du kích đỏ lặp lại mười điều lệnh. Hàng ngày họ phải viết vào hai cuốn sổ khác nhau. Cuốn kia họ thú nhận những việc làm trong cuộc sống. Tối đến một “cán bộ” đọc những gì họ viết và ghi nhận xét. Cũng hàng ngày những người trong chi đội họp thành tổ ba người tự phê bình. Một người mới được tuyển quân đến không sờ vào một vũ khí nào, kể cả khẩu súng gỗ trong ba tháng, dành thời gian ấy cho việc giáo dục chính trị. Lòng nhiệt tình ấy lan ra đến những người dân làng bình thường. Họ cũng buộc phải làm điều tốt, chứng cứ là những quyết định của Thị Bé ghi nhận chém đầu những dân quê không biết đọc trong một thời hạn sáu tháng: mù chữ thực ra cũng là một dạng của điều xấu.

Quân đội lê dương không bao giờ biết chắc được chi đội 12. Những sự đề phòng vô biên; tất cả đều quy định thời gian chính xác. Phân tán nhỏ và di chuyển là quy luật an toàn của đơn vị hai nghìn người này. Cứ bốn, năm đêm lại một lần chuyển động. Phía trước, đàn bà, người già và trẻ em “soi đường”, báo hiệu có người nghi vấn và cạm bẫy. Sau lớp vỏ bọc ấy là các hàng quân đi vào đồng ruộng hoặc rừng núi. Đêm tối có tiếng còi hoặc kèn, được chiếu sáng bằng đèn điện thậm chí hỏa tiễn: những tiếng và ánh sáng ấy là dấu hiệu, tất cả thể hiện bằng ngôn ngữ mật với quy ước luôn luôn đổi mới. Thiên nhiên rộn ràng, lúc nhúc như trốn tìm của những trinh sát và lính canh dưới ánh trăng. Đôi khi có những loạt súng nổ, có nghĩa là lính lê dương phục kích tấn công nhưng thường cũng chính họ bị phát hiện và bị tấn công bất ngờ. Hai bên bắn nhau không bao giờ kéo dài. Tất cả lại rơi vào im lặng không hoàn toàn của miền nhiệt đới.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2018, 07:00:17 pm

Những ngày sau đó quân lính chi đội mặc quần áo thường trở thành những dân quê vô sự, phân tán từng nhóm nhỏ vào các xóm. Mỗi gia đình cung cấp “phần yêu nước”, nghĩa là chiếu và bát gạo họ luôn luôn sẵn sàng cho chiến binh có thể đến. Nhân dân nuôi và cho các “anh hùng” của họ trú ngụ theo hệ thống. Như vậy thì không cần có bộ phận hậu cần. Tuy vậy chi đội vẫn có những kho dự trữ đề phòng bất trắc trong rừng và một căn cứ hậu phương ở vùng đầm lầy. Việc tập luyện quân sự chính quy, những “diễn tập” tấn công đồn bốt và phục kích thực hiện trong một trại ở Đồng Tháp Mười. Vì người ta chết nhiều trong các bệnh xá của đơn vị, những người bị thương quan trọng - những người mạng sống quý giá đối với lợi ích nhân dân như các cán bộ và uỷ viên chính trị - thường được đưa lên Sài Gòn nhờ những thầy thuốc bạn bè chữa trị. Một số còn được đưa vào các bệnh viện Pháp nhờ sự mập mờ khéo léo với danh nghĩa lính nguỵ. Trên tất cả là vũ khí. Việt Minh tự trang bị súng đạn bằng buôn lậu, dựa vào sự tha hoá và giết quân lính địch.

Việc lưu thông vũ khí gần như theo một hướng độc nhất từ người Pháp đến người Việt. Thậm chí Việt Minh có chỉ thị những biện pháp chính để có vũ khí:

Giết lính Pháp để lấy vũ khí: Thường là mục tiêu của những cuộc phục kích, hầu như luôn luôn rất “lãi”. Mới đây việc tiêu diệt một đoàn xe gần Rạch Giá đưa lại cho người Việt một ca-nông, năm đại liên, khoảng năm chục súng trường. Họ cũng thực hiện với mức khiêm tốn hơn. Có những đợt giết lính riêng lẻ để chiếm một khẩu súng ngắn.

- Vận động binh lính địch đào ngũ mang theo súng đạn: Có những đợt truyền đơn vẽ hình hấp dẫn Đội quân viễn chinh: Những binh lính đào ngũ sung sướng nằm nghỉ trên đi văng miệng ngậm xì gà. Bên dưới là ghi chú giải thích: “Chúng tôi tiếp đón các bạn như anh em nếu các bạn mang theo vũ khí”.

- Mua vũ khí và đạn dược với bất cứ giá nào: Chắc chắn lính nguỵ và có lẽ cả một số lính Pháp - muốn có tiền, bán vũ khí của họ. Có một chợ đen ở Sài Gòn chuyên mua bán theo yêu cầu. Một súng tiểu liên được định giá năm nghìn đồng (tám mươi nghìn phrăng Pháp).

- Làm việc với địch để lấy cắp súng đạn: Mọi tầng lớp xã hội được kêu gọi đóng góp phần mình, các hội sinh viên, thư ký đánh máy, những cô gái nhẹ dạ, trẻ em bán rong (bán báo, đánh giầy) đặc biệt đối với những người làm bồi, bếp, lựa chọn họ trong số “tinh ranh và thông minh”. Ở Sài Gòn, “bếp trưởng” một viên chức cao cấp vừa bị bắt đúng lúc bắt đầu một buổi tiệc lớn: ông ta chỉ đạo cả một ban ám sát dưới sự bảo vệ của các đầu bếp trong chính quyền cai trị.

Trong cuộc chiến về vũ khí này Đội quân viễn chinh làm theo khả năng mình. Họ cũng định giá vũ khí mua được, với giá cao hơn giá của Việt Minh. Mọi binh lính nguỵ lấy được một khẩu súng của Việt Minh được một phần thưởng rất lớn. Kết quả của việc ‘thu thập lại” ấy không đạt được gì. Gần đây người Pháp quan tâm nhất là nếu không thể lấy vũ khí của Việt Minh thì đừng đánh mất vũ khí của mình. Bộ tổng tham mưu thường xuyên “đẻ ra” những chỉ thị nhắc nhở nghiêm khắc việc này. Có cả một quy chế rõ ràng, trong một đội, để mất chỉ một tiểu liên sẽ bị điều tra, khiển trách, rất phiền phức. Điều đó làm tê liệt không ít sĩ quan, họ không đưa người đi hành quân nữa, sợ mất vũ khí. Tuy vậy phần lớn các đơn vị có kế hoạch D. Nếu ở chiến trường họ bắt được súng cối hay súng trường của quân đỏ, họ chỉ báo cáo lên trên một phần, còn thì bí mật dự trữ lại. Trước hết là có nhiều vũ khí sử dụng và nhất là có thể thay thế “nhẹ nhàng” những gì biến mất sau này. Tất cả trong cuộc chiến tranh Đông Dương này đều gian lận, kể cả điều tốt cho công việc.

“Mặc dù thế Việt Minh vẫn tiếp tục tự cung cấp vũ khí từ chúng ta. Chúng ta là xưởng sản xuất của họ...”


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Giêng, 2018, 06:38:03 pm

Những kẻ đào ngũ không có tương lai

- Sáng nay chúng tôi tóm được Pierre rồi.

Một trung uý lê dương hét lên như thế. Ông vừa qua thềm bước vào nhà. Một người to cao còn trẻ tóc hung, mắt ngả màu xanh. Với vẻ hiền từ hoạt bát, thậm chí hảo tâm, viên sĩ quan kể cho chúng tôi nghe hai người trong đại đội ông giết nhau như thế nào: Anh người Đức trung thành thắng anh người Pháp đào ngũ.

Cách đây một tháng Pierre mang theo vũ khí về với Việt Minh. Chúng tôi đuổi theo không được. Sáng nay tôi và quân lính đi cả đoàn xe trên đường Thủ Dầu Một. Hans, bắn súng F.M ngồi trên mái một chiếc xe, thấy lá sen rung rinh ở con lạch gần đấy. Lúc đầu anh tưởng là một con trâu đầm bùn. Bỗng thấy ánh kim khí một khẩu súng trên mặt nước lăn tăn, anh bắn. Một xác chết nổi lên. Đấy là Pierre, đang chuẩn bị “đốt” chúng tôi bằng khẩu tiểu liên mang theo. Chúng tôi thu lại được khẩu súng trong bùn láng của con lạch.

Viên trung uý ra ngoài đi báo với các nhân vật khác của Hóc Môn về tin vui lấy lại danh dự của ông và đại đội.

Nhưng C... không choáng ngợp. Đối với ông đấy chỉ là một việc bình thường trong cuộc chiến tranh ở Hóc Môn. Ông giải thích cho tôi:

- Ông nên biết thực ra ở chi đội 12, các thiện xạ - những người sử dụng súng máy - nói chung là người nước ngoài.

Đầu tiên là thế hệ người Nhật. Vùng này có một trung đội thép Nhật liên minh với Thị Bé lúc Đế quốc Mặt trời mọc sụp đổ. Khi có một khẩu đại liên nguỵ trang dưới những cây dừa bắn vào một đoàn tuần tra Pháp, người ta thấy một sĩ quan của Quân đội Thiên hoàng đứng bên họng súng, đội mũ cứng, đi bốt đen, đang ra lệnh bắn. Hầu hết những người sẵn sàng hung bạo ấy đã chết, tuy rất khác nhau: trên chiến trường, tự sát, cũng có cả bị ám sát nữa.

Những người khác, khoảng ba trăm, được phái đoàn đại uý Becque thu gom lại. Phái đoàn này phái gấp một số sĩ quan Nhật đi kêu gọi những người nổi dậy theo lệnh Nhật hoàng: “Thiên hoàng muốn các anh thôi đánh nhau”.

Bây giờ các “kỹ thuật viên” của chi đội là lính lê dương đào ngũ. Có khoảng mười lăm người, Pháp và Đức. Người Pháp chủ yếu là thợ thủ công. Một người quản lý bệnh viện, một người khác đúc móc-chi-ê, một Marcel Maux nào đó làm bếp trưởng. Người Đức thì làm giáo viên hoặc xạ thủ.

Trong nông thôn Annam lan rộng truyền thuyết về người Âu nổi dậy chống người Âu. Để tác động dân chúng, Việt Minh giới thiệu những kẻ đào ngũ ở những buổi lễ long trọng trong các làng. Sự thật là họ thất vọng cay đắng, sự huỷ hoại, cái chết.

Có những vụ đào ngũ khác “không vụ lợi”, lý tưởng nếu muốn nói. Một số người Đức do căm hận nước Pháp và người Pháp. Một trong bọn họ trong một đêm trở về đến hàng rào bốt anh ở cũ để găm tấm danh thiếp ghi tên thật của anh, nguyên chuẩn uý quân đội Đức.

Nói chung thì đơn giản hơn nhiều. Chỉ là thói thường của sự phiên lưu với nỗi buồn chán, quán rượu, một người vợ và mọi hấp dẫn của Châu Á xa lạ.

Một số đào ngũ “cứng rỏi” chịu đựng được khí hậu, được người Việt tiếp nhận. Một trong bọn họ trở thành con nuôi của Hồ Chí Minh, lấy tên là Hồ Chí Long. Nhưng hầu hết đều là gánh nặng của người sử dụng họ và họ kết thúc khổ sở. Người Việt giữ họ lại cho đến khi chết. Họ không thoát qua rừng sang Thái Lan, xa quá. Cũng không có đường rút lui, để trở về với đội lê dương vì đội quân này xử không thương xót binh lính bỏ sang hàng ngũ địch.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Giêng, 2018, 06:39:54 pm

Cuộc chiến tranh của ông đại diện

C... bỗng đột ngột ngừng nói. Một ông người Annam kính cẩn gập đôi người đứng trước ông. Không nghe thấy ông ta bước vào. Một nhân vật kỳ lạ gần năm mươi tuổi, khuôn mặt mềm mại, nụ cười trịnh trọng, bó chặt người trong bộ quần áo vải trắng ngả màu vàng, chiếc mũ thuộc địa cầm tay.

- Tôi nghĩ có bổn phận báo với ông đại diện. Hai hương chức trong một làng vừa bị bắt cóc.

- Tốt lắm, ông Thuần. Chúng tôi sẽ đi điều tra. Ông cùng đi với chúng tôi.

- Như vậy quá nhiều vinh hạnh cho kẻ tận tâm nhưng khốn khổ như tôi. Tôi không xứng đáng với đặc ân ấy.

C... hét lên: “Ông sẽ đi”. Người kia bước thụt lùi ra, vừa khổ sở lẩm bẩm: “Vâng, thưa ông đại diện”. C... cười:

- Tên vô lại già này biến sắc mỗi lần tôi đưa theo đi hành quân. Nét xanh xao trên nước da vàng nhìn thật lạ. Tôi muốn ông thấy điều đó.

C... lấy lại vẻ nghiêm nghị:

- Ông Thuần là một người của Phủ Toàn quyền trước kia. Tôi để tay nhân viên văn phòng được đào tạo từ các đời cai trị này làm chánh văn phòng của tôi. Với chức vụ ấy ông ta có thể một mình là vai diễn của pháp luật và dân chủ ở Hóc Môn. Trong lúc mọi người chém giết nhau, ông tỉ mỉ áp dụng nguyên xi mọi quy tắc, cả những quy tắc cách đây năm mươi năm: ông thuộc lòng hết, rất tôn trọng. Nhờ ông tất cả mọi thể thức được thể hiện lên giấy, tránh được cho tôi những rắc rối của Chính quyền Sài Gòn. Vì ở các văn phòng trung ương vẫn còn những viên chức thâm niên làm việc với từng dấu phẩy như thời bình.

Tuy vậy ông đừng tin vào vẻ hiền lành của ông ta. Đấy là một kẻ bất nhân hiểu lợi thế của nền độc lập. Nếu tôi để cho ông làm ông nuốt sống hết dân quê. Một lần có người nông dân đến xin ông tờ giấy thông hành; anh ta đến, quỳ xuống nhưng tay không nắm một xấp bạc. Ông Thuần phúc hậu tuyên bố thẳng thừng: “Anh đứng dậy đi. Tôi không thể bỏ những cái lạy của anh vào tủ két được. Lần sau đến cần mang theo thứ khác”.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Giêng, 2018, 06:40:28 pm

Trong lúc này ông Thuần đứng ở bậc thềm, hình ảnh một người khổ sở lại hình thành, C... gọi ông lại:

- Này ông, vì sao ông yêu thích Chính phủ Việt Nam của Sài Gòn?

- Tuy tôi ti tiện nhưng tôi rất tán thành Chính phủ ấy. Họ rất tốt với những đầy tớ khiêm tốn của quốc gia như tôi, vừa tăng lương cho viên chức. Đấy là dấu hiệu của một quyền lực sáng suốt.

C... hân hoan hơn bao giờ hết:

- Thưa ông nhà báo, tôi sung sướng được giới thiệu với ông công dân độc nhất của Hóc Môn hài lòng với Chính phủ người ta vừa “sờ tới”. Toàn bộ dân chúng còn lại chẳng kể gì Chính phủ ấy, khó khăn lắm mới ngờ là nó có. Vì các ngài Bộ trưởng không tham gia chiến tranh; trong đất nước này đấy là sự thật duy nhất tôi sẽ chỉ cho ông xem.

C... nai nịch theo lối cao bồi, lớn tiếng ra lệnh. Trong mấy giây là sự chuẩn bị chiến đấu trong ngôi nhà. Ngoài sân, ba xe to đầy lính da vàng vui vẻ, lỉnh kỉnh vũ khí chờ chúng tôi. C...uể oải nói với tôi:

- Vì ông mà tôi mang theo đoàn tùy tùng này. Thường tôi đi một mình. Nhưng tôi sẽ rất phiền phức nếu có điều gì xảy ra với một ai đó trong hàng ngũ các ông!

Chúng tôi đi vào cuộc chiến tranh của ông đại diện. Không phải cuộc chiến tranh lớn chống lại các đơn vị của Nguyễn Bình - đấy là công việc của lữ đoàn bộ binh 13. Đây là cuộc chiến tranh nhỏ chống các ban ám sát và mọi tổ chức quần chúng. Tôi sắp trông thấy những kẻ giết người, mật thám, lính ngụy, biệt kích, quân lính, tháp canh của C... Tôi sẽ phát hiện ông làm thế nào để trả tiền và nuôi sống bao nhiêu người như vậy, cũng xây dựng như Việt Minh, đối đầu với Việt Minh, một “hệ thống” đầy đủ.

Tôi đã nói: Không có ai lương thiện hơn C... Lương ông thấp và ông sống nhờ vào đấy, không có gì hơn, gần như nghèo nàn. Nhưng để cho cuộc chiến tranh “của ông”, ông ít ngần ngại hơn. Nhiệm vụ nặng nề của ông là tìm kiếm tiền và ông đạt được rất tốt. Ông thấm nhuần hoàn hảo quy luật lớn của Châu Á: “Tôi bảo vệ anh, dù anh muốn hay không muốn; thì anh cũng trả tiền”. Bên cạnh cuộc chiến tranh của C... lẫn lộn vào đấy có nền “hòa bình” của ông. Đấy là những con đường vắng ông mở lại, những nhà trường ông xây dựng, những chợ búa ông lập nên. Tất cả lúc nhúc, người, xe cộ, hàng hóa.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Giêng, 2018, 06:41:03 pm

Chiến tranh, hòa bình là hai mặt bổ sung của cùng một sự thật ấy. Bằng chiến tranh C... làm tăng giá trị của hòa bình; hoà bình ấy tài trợ cho cuộc chiến tranh của ông. Ví dụ, C... cho rằng chính mình, ít nhất cái ông chuyển ngữ gọi là tổ chức an ninh, cho phép buôn bán thịnh vượng. Các thương nhân vậy là phải “trả tiền”. Họ tham gia vào cố gắng chiến tranh của C.... bằng những thuế chợ, lưu thông, cầu đường, bán đấu giá và nhiều biện pháp khác nữa. Tất cả những cái đó là hợp pháp. C... có quyền đặt ra các khoản ấy vì ông là đại diện nền thống trị. Qua đó ông sử dụng, ông lấy. Nghệ thuật là đừng làm người ta phá sản, chỉ lấy bớt phần tài sản của họ. Nếu làm tốt chẳng ai chống đối cả: đấy là đúng và từng người, mỗi thương nhân nhất là nếu họ dồi dào, biết quyền lợi của họ không phải là cãi bướng.

Gương mặt đầu tiên của C... tôi gặp ngay, ở Hóc Môn là của ông Xích. Một cuộc gặp bất ngờ.

Đoàn xe bắt đầu lăn bánh. Tôi ngồi trong chiếc GMS đầu, bên cạnh C... Thuần biến ra sau chiếc xe to, dưới chiếc mũ thuộc địa: nhìn ông chỉ còn là một đống nhỏ co quắp. Thị trấn, vào giờ kiệt sức và mồ hôi. Ở Hóc Môn duy nhất có một người bán phở đẩy chiếc xe vừa là bếp vào bóng mấy cây dừa. Tuy vậy một người khách đang ăn, khua đũa trong bát. Người cao lớn, gân guốc, thê thảm. Tôi nhận ra là một kẻ giết người.

C... nhảy xuống đất, bước tới chỗ người kia. Anh ta nhìn ông lại gần với đôi mắt đen như than, không động đậy. Chỉ khi C... gần như dẫm vào anh mới lơ đãng chào đưa một ngón tay lên chiếc mũ phớt nhăn nhúm.

Các thớ thịt của C... đanh lại. Tôi cảm thấy ông nổi giận và cố nén. Ông nói tiếng Việt với người kia, dằn mạnh, cứng rắn nhưng không to tiếng. Ông đứng cách xa một mét. Anh ta nhìn vào chân ông, vẻ buồn rầu, trả lời miễn cưỡng. Cuối cùng anh ta gật đầu tỏ “đồng ý”.

C... lại với tôi trên xe, tiếp tục đi.

- Nếu là một anh lính ngụy bình thường thì tôi đánh rồi. Lối chào khinh khi của anh ta là một sự xúc phạm. Đối với anh ta tôi không dám. Anh ta quá nguy hiểm, hoàn toàn có khả năng giết tôi ngay tức khắc. Đấy là Xích, giết thuê cho tôi, dân chúng gọi anh ta là Con Hổ, vì cách ám sát lén lút và quyết liệt theo cách của con thú.

- Ông nói gì với anh ta?

- Anh ta không bằng lòng, cho rằng tôi trả công không xứng nhưng thời gian gần đây anh ta chỉ hạ sát những “Việt Minh nhỏ”, dĩ nhiên tôi không trả như những “Việt Minh lớn” được. Chúng tôi đi đến một vụ mới. Tôi sẽ cho anh một phần thưởng đáng kể nếu anh giết một cậu bé mười lăm tuổi. Chính cậu này tham dự mười lăm vụ giết người ở Hóc Môn và vùng xung quanh. Nó thanh toán tất cả những hương chức của tôi.

C... kể lại. Xích trước đây cũng là một đứa trẻ giết người đúng như cậu bé anh sắp phải giết, cũng là một “anh hùng” Việt Minh. Như cậu ấy anh thuộc ban an ninh của chi đội 12, đã thanh toán hàng trăm phản động và một số người Pháp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Giêng, 2018, 06:41:49 pm

Một hôm ở văn phòng tôi người chạy giấy báo cáo có một người muốn gặp tôi. Anh ta không nói tên nhưng ông Thuần nhận ra Xích. Tôi để khẩu súng ngắn trong tầm tay và bảo đưa anh ta vào. Xích xin làm việc cho tôi, nói bị Việt Minh đối xử bất công. Tôi không hỏi thêm nhiều, nhận anh ta làm việc.

Lúc đầu anh thực hiện tốt nhiệm vụ, luôn luôn một mình. Hoàng hôn anh ra đi, ăn mặc lối dân quê, mang theo khẩu colt, lựu đạn, con dao. Sau hai, ba ngày anh trở về, hoàn thành công việc được giao.

Sau một lúc im lặng, C... nói thêm:

- Mấy tuần nay Xích có vẻ chán nản. Có cái gì đó đe doạ anh ta. Có lẽ Việt Minh quyết định dùng biện pháp mạnh đối với anh ta chăng? Cũng có thể không phải Việt Minh. Biết bao nhiêu người muốn giết Xích! Anh biết mình bị kết án, nhìn như mặt người chết. Khốn khổ! Lúc nãy tôi đã khó dễ với anh ta. Sống những ngày cuối đời chẳng vui vẻ gì!

Từng phút C... càng làm tôi ngạc nhiên. Đúng là ông bị đầu độc như bà vợ nói. Tất cả những sự việc trên hình như bình thường đối với ông. Ông thật quái gở nhưng vẫn là người tiểu tư sản Pháp gắn với đạo lý và nói hay. Người ta bảo không bao giờ ông tàn bạo vô ích. Tất cả những gì ông làm, cả cái tệ hại nhất, cũng có lý do cụ thể. Lý thuyết của ông là luôn luôn phải phân tích trước khi hành động, lạnh lùng, một cách “khoa học”. Điều đó không cản trở ông có lòng tốt khi có thể. Quân đội xem lính ngụy như những vật dụng. Đối với C... người của ông là những sinh vật sống, những người bạn. Ông thực sự làm những gì có thể đối với họ.

Trong cuộc đi này tôi nhìn rõ những mâu thuẫn ấy trong C... nhưng chính ông không nhận thấy. Đối với ông, xung quanh mình, nhân đạo, nhất là vô nhân đạo, đến cực điểm vẫn như bình thường, không lấy làm lạ nữa.

Con đường đi vào giữa một lối hai trăm mét đã quang hết cây cối. Nhưng giáp với hành lang ấy, những rừng dừa, bụi tre ẩn chứa nhiều đe dọa. Khắp nơi có những vật bị chặt phá, đốt cháy. Hoàn toàn vắng lặng và tôi biết dân quê, trâu bò, cả những chó mèo biến mất không bình thường có nghĩa là gì. Sẽ là cuộc chiến, phục kích - Việt Minh đã có mặt.

Chúng tôi vượt một con suối qua chiếc cầu sửa chữa sơ sài với những mảnh ván và tấm tre. Ngay giữa cầu C... hét lên với tôi: “Bắn đi, F.M bắn đi”. Ông giơ cánh tay chỉ cho tôi mấy dân quê đang chạy trên bờ, cách đấy năm trăm mét, gần ngôi chùa đổ nát. Tôi không bắn, C... nhào lại khẩu súng nhưng không thấy ai nữa. Những người kia đã biến mất trong lau sậy um tùm. C... vẫn nhả một loạt đạn rồi quay lại phía tôi:

- Tại sao ông không bắn? Ngôi chùa cũ kia là nơi ẩn nấp của một toán du kích đặt mìn trên những con đường và mổ bụng các hương chức của tôi. Bao nhiêu đêm tối lội bì bõm trong ruộng cùng ngụy binh đuổi bắt chúng! Và lần này gặp được, chỉ cần bóp cò là “có” chúng!

Tôi bảo C... tôi không thích đổ máu, đó không phải nghề của tôi. Ông rất ngạc nhiên, chằm chằm nhìn tôi trong mấy giây - vì ở Hóc Môn một người không chém giết đúng là một hiện tượng lạ. Lúc ấy tôi mới hiểu sự tế nhị của ông: ông đã nhường niềm vui thích bắn hạ Việt Minh cho tôi, khách mời của ông.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Giêng, 2018, 02:56:24 pm

Con đường được cắm những tháp canh từng cây số một, C... nói với tôi đấy là do ông cho làm, thấp và chắc chắn, không như cách quân đội đặt cho bọn thầu khoán ăn cắp làm khắp nơi.

Chúng tôi hầu như dừng lại ở từng vọng lâu. Lính ngụy bồng súng chào. C... chào lại. Thật trịnh trọng. Các gia đình quây quần xung quanh. Những người đàn ông nét mặt dữ tợn, mặc quần áo kỳ cục của quân đội Pháp đã lỗi thời. Không đoán được tuổi họ.

Trưởng một tháp canh mang khuôn mặt một tên cướp, có vết sẹo ở mặt, sún răng và chột. Ông cho đội tập dượt. Thật hảm hại. Họ không thạo sử dụng vũ khí, càng không biết đi đều bước. C... nói với tôi:

- Ông đừng tưởng lầm. Đấy là những con sư tử khi đánh nhau, những người bóp cổ Việt Minh thành thục. Tôi đã lựa chọn từng người một, lấy những người chứng minh được Việt Minh đã giết chết nhiều bà con họ, ưu tiên là một ông bố già. Việc báo thù gia đình còn là một điều bảo đảm. Vì vậy tôi không gặp “rắc rối”, trái ngược với bao nhiêu sĩ quan Pháp tuyển mộ tùy tiện; họ nghĩ chỉ cần làm cho lính ngụy giết ẩu tù binh là có thể nắm chắc được binh lính. Thật ngây ngô!

Mỗi quân lính của tôi chém Việt Minh không tính toán, không ân hận, cũng như tôi. Đấy chỉ là nghề. Tay cướp cũ sử dụng một con dao mẻ. Một ông bố tốt nhưng khi đánh nhau, hắn là một kẻ điên. Một lần hàng rào tháp canh bị phá, bản thân ông ta ngã xuống giữa các xác chết, mặt bị mất một nửa, ông ta bỗng đứng dậy ngay giữa chỗ bị phá, hét lên như loạn thần kinh, cầm khẩu tiểu liên tôi tặng ông xả đạn vào Việt Minh.

Nói ra cũng lạ, điều gắn bó những con người ấy với tôi là một loại tình thương yêu.

Dù sao, C... cũng rất tuyệt, vừa hảo tâm vừa quan trọng. Ông an ủi anh bạn, tay kẻ cướp đang phàn nàn người ta cung cấp đạn không đúng cỡ nòng súng. Lính ngụy nói chuyện vui vẻ. Các bà vợ đi thổi cơm. Bọn nhóc trần truồng đội mũ lính lên đầu. Đây là một cảnh hạnh phúc. Thế nhưng người ta trả lương khổ sở cho họ, vừa đủ sống với một ít gạo và cá khô. Và rồi tôi biết - C... biết - tháp canh sẽ bị hạ qua một đợt tấn công nghiêm túc, không bảo vệ được và chẳng có ai đến cứu.

C... cho rằng những người này và vợ con họ có được một “chỗ tốt”.

- Đây là những người được gia ân. Tôi có nhiều người tình nguyện. Theo tiêu chuẩn của Châu Á, phải chăng được bảo đảm ăn uống và không làm gì nhiều là tuyệt vời rồi sao? Còn cái chết họ không nghĩ đến, họ có ăn đã. Họ không dự định sống mãi mãi. Họ chỉ yêu cầu một ít quyền lợi, một ít tình thương. Điều đó tôi cho họ.

Triết lý của C... là như vậy. Chắc ông có lý. Ông chưa bị giết, đó là chứng cứ ông nhìn nhận đúng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Giêng, 2018, 02:58:01 pm

Đoàn xe lại lên đường - vùng hoang vắng thê thảm được tạo ra giữa sự phong phú nhiệt đới. C... nói với tôi về kỹ thuật.

- Chiến tranh du kích dạy cho mình. Ông thấy những khu rừng tán đen kia. Lúc đầu vì thiếu kinh nghiệm tôi suýt chết ở đấy. Tôi thực hiện cuộc tấn công chớp nhoáng đầu tiên vào đó chống một ban ám sát. Tôi đi đầu toán lính ngụy. Bỗng nhiên tôi còn lại một mình, đối mặt với Việt Minh ào tới khắp nơi. Vắt chân lên cổ, tôi lao vào gai, chạy nhiều cây số, phần người bên dưới rách nát vì gai.

Tôi chửi rủa người của tôi đã bỏ rơi tôi. Lê lết như sắp chết đến bốt gần nhất, tôi thấy tất cả bọn họ ở đấy chờ tôi!

Điều đã xảy ra rất đơn giản. Lính ngụy của tôi muốn bất ngờ bóp cổ Việt Minh. Đến một lúc họ nhận thấy Việt Minh đã phát hiện ra họ, thay vì giết quân địch chính họ sẽ rơi vào bẫy và sẽ bị giết. Trường hợp ấy chiến thuật duy nhất là tản ra, bỏ chạy. Chỉ tôi là không hiểu.

Tôi kể câu chuyện này để ông hiểu quan hệ của tôi với người của tôi. Họ thực sự trở thành những người bạn sau nhiều tháng, khi tôi cuối cùng đã nắm được xu hướng cuộc chiến tranh Châu Á - tuyệt đối vụ lợi.

Người ta nói về thuyết định mệnh Phương Đông. Đúng là cuộc sống hầu như không có giá trị gì. Nhưng cũng tồn tại món hàng duy nhất, đưa lại những hậu quả lạ lùng. Nếu cần chết, người ta chết vô tư. Nhưng họ không muốn chẳng để làm gì cả, phải vì danh dự, vì chiến thắng. Không chỉ riêng những người Âu Châu tự đánh giá mình ghê gớm mới có thể cho phép mình như vậy.

Chiến tranh không hề lãng mạn. Thậm chí không phải chiến trận mà là việc giết người. Vấn đề là bố trí những “cú” tiêu diệt chắc chắn kẻ thù. Nếu không thành thì bỏ chạy, chẳng xấu hổ gì.

Tất cả đều do thông tin. Trinh sát, dân chúng cung cấp. Để nắm được dân chúng người ta thanh toán hàng nghìn người. Dân quê phải là những nô lệ bị khủng bố, được tẩy não. Như vậy gọi là sự tin chắc.

Bản thân chiến tranh là những “tập kích chớp nhoáng”. Tôi đã “học” ở những “đội bay” của một bốt Cao Đài bên cạnh. Có bao nhiêu kinh nghiệm từ những tín đồ của con mắt không mi Cao Đài! Nghệ thuật là ở tiếp cận. Phải đi tới đích mà không bị những người rình mò phát hiện hoặc lộ diện vì chó sủa dai dẳng. Người tiến lên như những cái bóng. Nếu thuận lợi đám người mặc quần áo đen ào lên xả lựu đạn và tiểu liên. Mọi việc chấm dứt, trong mấy giây. Những kẻ tấn công nhảy vào con mồi, giết, trói tù binh, đốt nhà. Trở về là một cuộc chạy trốn, còn hớt hải hơn lúc đi; phải cắt đuôi những người đuổi theo tình cờ.

Cũng rất nhiều lần Việt Minh chờ chúng tôi! Tôi đã học được chạy cùng lúc với những người Cao Đài với sự nhanh nhẹn không ngờ. Nhưng Việt Minh làm sao mang đi những người bị thương thì tôi không biết. Đôi khi không hiểu vì lý do gì họ chỉnh đốn lại đội ngũ sau lần thất bại đầu để lao vào mục tiêu theo một hướng khác. Lại những loạt đạn, tiếng kêu, dồn đuổi, ào ạt như một cảnh phim quay nhanh. Bằng cách nào họ lại tập hợp được, không có ám hiệu, không có gì quy định, ở một chỗ khác trong thiên nhiên, đồng thời tìm được điểm yếu của quân địch và làm địch bất ngờ, từ lâu đối với tôi đã là ma thuật.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Giêng, 2018, 02:58:38 pm

Rồi tôi lại tiến hành cuộc chiến tranh ấy theo cách của tôi cùng với lính ngụy. Họ không "thả" tôi nữa, họ đã vô cùng tận tụy. Nhiều lần trong những lần chạy thác loạn ấy tôi gượng lại được nhờ có họ. Họ trung thành với tôi từ khi cho tôi là một người "am hiểu tường tận".

Cuộc chiến tranh của C... là như thế. Chúng ta nói đến hòa bình của ông trên một vùng đồng ruộng đã bình định. Mỗi thị trấn là một hòn đảo văn minh, có mặt văn hóa Pháp. Chúng tôi được đón tiếp ở mọi nơi giữa một quang cảnh bảo thủ phô trương và thông thái rởm. Các ông Annam đọc những bài diễn văn cường điệu. Trẻ em các trường vẫy những lá cờ bằng giấy. Có những bắt tay, những chén rượu chúc mừng, những tiếng hô "Ông đại diện muôn năm". Đây là một hình thức dân chúng ủng hộ những người Pháp đặc biệt là "ủng hộ C..."

Nhưng những cái ấy toát lên sự giả dối. C... vừa chúc mừng những người dân cần cù vừa nói nhỏ với tôi:

- Những kẻ đạo đức giả! Tôi tin tưởng vào binh lính ngụy khốn khổ của tôi bao nhiêu thì nghi ngờ những tay tư sản quá lễ phép này bấy nhiêu. Họ bao giờ cũng có mặt để tranh thủ đồng bạc nhưng không ngớt mưu toan với Việt Minh. Tôi đoan chắc chúng ta sẽ phát hiện ra một "thủ đoạn" lạ lùng trong làng mà hai hương chức bị bắt cóc.

Thế mà ở đấy, trong một xóm, một không khí tang tóc thực sự. Những chức sắc còn lại không ra mặt đau đớn vì giữ thể diện. Họ chỉ là những nhân vật im lặng, những bóng ma mặc áo dài, bực tức và nhăn nhó. Những người vợ và con cái kẻ đã hiến mình. Các gia đình họp thành một khoảnh vuông vức và gào lên; các cô gái tóc dài xổ ra, cào móng tay vào mặt.

C... tôn trọng nỗi đau khổ ấy, không hỏi. Lúc ấy ông Thuần mà tôi đã quên, lại xuất hiện. Ông vẫn luôn trịnh trọng tuy bộ quần áo trắng bị nhàu nát vì ngồi trên xe. Ông đi đi lại lại, nói những câu hòa giải, mỉm cười bí hiểm.

Chúng tôi ra đi. Ông Thuần báo cáo:

- Thưa ông đại diện, đấy là một hài kịch. Việt Minh buộc nộp con tin. Hội đồng xã chấp nhận với điều kiện bố trí một cuộc bắt cóc để lừa dối ông, sợ ông giận.

- Ở địa vị tôi thì ông làm gì, ông Thuần?

- Tôi sẽ chặt đầu họ, thưa ông đại diện.

C... suy nghĩ rồi lên tiếng, cân nhắc "lợi, hại":

- Như vậy ích gì cho tôi? Những người ấy luôn luôn sợ Việt Minh hơn tôi. Tôi có thể thử "nhẹ nhàng", cho nói với họ: "Ông đại diện biết rõ nhưng tha thứ cho các ông. Hãy lựa con đường đúng đắn và ông ấy sẽ bảo vệ các ông". Nhưng những dân quê ấy tin sao được vào những lời hứa như vậy? Họ biết tôi không bảo vệ họ được. Có quá nhiều chi đội ở đây.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Giêng, 2018, 02:59:03 pm

Không có vấn đề đốt phá, cũng không làm ngơ được, sẽ làm họ nghĩ tôi yếu hoặc ngây ngô, đằng nào cũng mất mặt. Phải có một cảnh cáo trực tiếp. Ngày mai tôi sẽ phái nhân viên, những trinh sát điều tra đến. Sau đó chẳng ai ngạc nhiên nếu có tai họa xảy ra, bí mật, với một, hai kẻ "có tí râu" được biết có quan hệ với Thị Bé. Đấy là cách tốt nhất để nói với dân làng.

Hãy chờ đã. Chúng ta hành động thật chắc chắn. Tình hình có lẽ tệ hơn tôi tưởng nhiều hoặc cũng không đến nỗi nào. Thật khó xác định: trong đất nước này khi mắt không nhắm lại thì miệng nói dối! Thế nhưng trong ba hoặc bốn ngày tới tôi sẽ có quyết định.

Sau lời phân tích dài ấy, C... im lặng cho đến khi về gần Hóc Môn:

- Tôi không giấu ông điều gì. Có lẽ ông sẽ viết tôi là một kẻ giết người. Thế nhưng tôi chỉ tổ chức giết những kẻ giết người, đồng loã của họ, những người của bộ máy đỏ. Nếu tôi không làm, tôi sẽ có cảm giác bỏ rơi dân chúng với một số phận thê thảm.

Tôi buộc phải vấy bẩn. Đánh nhau với Việt Minh phải có nhiều cách. Thật đáng sợ nhưng - tôi thề với ông - tôi có lương tâm của mình.

C... tỏ ra thật thà. Ông tin vào công việc của mình. Nhưng phải chăng ông lầm về những tình cảm sâu xa của dân chúng, thế mà trước hết ông đã nói với tôi về bản năng nổi dậy và tình trạng hỗn độn của dân chúng Châu Á.

Tôi, hình như tôi không thể biết rỏ tấm lòng của dân chúng da vàng. Tôi nghĩ họ không có gì phức tạp. Chủ yếu là phản xạ được sống ở những người đông không kể xiết bị giằng co bởi những lực lượng tung ra từ một thế giới luôn luôn cừu địch. Đấy cũng là tình trạng của những nông nô thời Trung cổ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Giêng, 2018, 03:00:08 pm

Cuộc chiến tranh của nửa lữ đoàn thứ 13

Một lâu đài lợp ngói dựng lên cách Hóc Môn ba cây số: thị trấn của nửa lữ đoàn thứ 13. Chính đội lê dương tự xây dựng lấy, rất đẹp. Viên đại tá kêu gọi: "Các kiến trúc sư, ra khỏi hàng; thợ máy, thợ nề, thợ mộc, thợ thạch cao, ra khỏi hàng". Họ ra khỏi hàng, họ xây dựng rồi trở về vị trí. Đội lê dương có tất cả các nghề nghiệp dưới phù hiệu quả lựu.

Viên đại tá hiển nhiên là một kẻ điên rồ. Đây là một người nhuyễn cốt, thon thả, mắt nhìn lóe sáng và cay độc kỳ lạ. Nhưng ông rất được kính trọng vì là một "chiến binh" tuyệt vời và có "nguồn gốc" truyền thống.

Ông nhận tiếp tôi. Nhưng tôi vừa vào văn phòng, ông đã cho mang tới một chiếc kèn trompet dài ít nhất hai mét.

- Ông muốn biết những bí mật trong cuộc chiến tranh của tôi? Trước hết là chiếc kèn này. Khi tôi cho thổi lên, quân lính lê dương biết hàng ngũ địch sắp đổ nhào như những bức tường thành của thị trấn sơ sài. Bây giờ tôi đã khắc tâm cho ông, ông có thể đi viết một bài thật hay. Tôi không giữ ông lại lâu hơn nữa.

May mắn tôi gặp lại trong thị trấn lê dương này viên trung uý tóc hung to lớn đến vui vẻ báo tin cái chết của kẻ đào ngũ Pierre ở nhà C... ngay sau bữa ăn trưa. Anh ta đưa tôi đến chỉ huy đại đội. Anh chẳng tiếp đãi gì, đưa đi tham quan tất cả.

Sau khi xem những chiến tích lấy của Việt Minh, ảnh những xác chết "Việt Minh có cỡ", tôi được vào một gian phòng nhỏ rất sạch sẽ. Trên chiếc giá là những đồ dùng như dụng cụ vệ sinh hoặc mổ xẻ. Tôi tưởng như ở trong một bệnh xá. Anh sĩ quan trẻ thật thà nói với tôi:

- Đây là văn phòng thứ hai của tôi. Ông thấy tôi có đủ dụng cụ cần thiết... đơn giản, rẻ tiền... C... kéo tôi đi, hy vọng tôi không hiểu. Tôi đành chỉ nói:

- Này, nếu độc ác như vậy...

Rồi chúng tôi uống rượu cô-nhắc sô-đa do lính lê dương phục vụ, những người hầu vô cùng khiêm tốn. Một chuẩn uý đến cùng ngồi với chúng tôi, trẻ đẹp, mới khoảng hai mươi tuổi. Họ kể về nghề nghiệp của mình rất đơn giản. Nhưng theo lời họ nói, công việc ở đây có lề thói khá vất vả. Đấy là bao giờ cũng chạy khắp vùng Đồng Tháp Mười để tiêu diệt một địch quân không thể tiêu diệt được. Luôn luôn là những cuộc hành quân, những người bị giết, bị thương.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Giêng, 2018, 03:00:51 pm

Một trong những sĩ quan trẻ ấy vừa đi tuần tra về. Hai giờ trước đây trông anh hốc hác, đầy bùn. Bây giờ là một cậu bé dễ thương hồng hào, rất hiền, rất dễ mến. Để làm vui lòng tôi anh kể lại chuyến đi của mình:

- Tôi có mục tiêu là một "cơ xưởng" Việt Minh, trên một đảo nhỏ ở Đồng Tháp Mười. Thông thường tôi đi đò cùng người của tôi, ngược theo những con kênh, hai bên bờ là dừa nước ken chặt như những bức tường nhà tù. Chúng tôi không thấy gì nhưng bị trông thấy. Lần này để tránh bị phát hiện, chúng tôi đi bộ, lội trong đầm lầy đầy lau sậy trải rộng vô tận.

Phải đến hai tiếng đồng hồ tiến lên trong nước bẩn đến thắt lưng. Chúng tôi ra đi từ nửa đêm, đến mờ sáng chưa bị phát hiện. Chỉ còn vài trăm mét cách "cơ xưởng". Bỗng có tiếng kèn báo động. Tôi đưa ống nhòm lên nhìn. Hòn đảo lúc nhúc người như một tổ kiến bị phá. Tôi nghe những tiếng nổ, thấy có ngọn lửa, hiểu ngay như thế nghĩa là gì. Việt Minh chuyển máy móc lên thuyền, còn lại thì họ thực hiện tiêu thổ. Bao giờ cũng như vậy.

Còn nửa tiếng đồng hồ nữa mới "lên bờ", đặt chân lên đất liền. Chỉ còn tàn phá và vắng lặng. Những căn nhà tranh cuối cùng tàn rụi giữa những con trâu sợ sệt; chúng tôi giết thịt chúng. Những bì gạo dự trữ bị tưới xăng đốt, chỉ còn những đống than. Chúng tôi tìm thấy một số dụng cụ bị đập gãy. Nhưng toàn bộ trang bị quý - lò sản xuất đạn cối, máy điện - tuy nặng nhưng đã bị chuyển đi.

Cũng không còn một người nào. Việt Minh chắc chắn còn ở quanh đấy hàng trăm nhưng ngụy trang thật kín đáo. Một số đã thành cây bụi; những người khác dầm người trong bùn loãng, thở bằng thân tre rỗng. Phần lớn chui xuống hầm ngầm được chuẩn bị rất chu đáo. Cả đám đông người ma ấy nấp ở chỗ ẩn nhiều giờ chờ chúng tôi đi.

Để tìm thấy những người Việt ấy chúng tôi phải ở tại chỗ, nhiều ngày, lục lọi khắp nơi. Không thể thế được vì quá nguy hiểm, vả lại đội lê dương cần chúng tôi ở những chỗ khác, làm nhiệm vụ khác. Trong một tháng nếu chúng tôi trở lại chỗ ấy, tất cả đã tu sửa xong, lại thấy "cơ xưởng" hoạt động nhộn nhịp. Đã mười hai lần chúng tôi cố tiêu diệt cơ sở này mà không được.

Tôi đã hành quân hàng trăm lần trong vùng Đồng Tháp Mười này. Đơn điệu không tưởng được. Có nhiều cuộc phục kích chúng tôi bố trí nhưng chủ yếu chúng tôi rơi vào. Đột nhiên những người vô hình, những sinh vật sống dưới nước và bùn bắn vào chúng tôi, thậm chí không biết từ đâu tới. Cũng có những cuộc đuổi nhau. Nhiều lần chúng tôi săn đuổi, nhiều lần bị săn đuổi nhưng bao giờ cũng thật lạ. Những con người ngập trong bùn dính, đau đớn rút chân ra để đuổi bắt những người khác cũng đang bết trong bùn. Người ta chỉ trông thấy đầu và Đồng Tháp Mười bằng phẳng đến nỗi lầm tưởng là những chấm cắm trên mặt nước. Khi có một con kênh, con rạch cắt ngang, người ta bơi lặn dưới nước để khỏi làm bia hứng đạn. Tất cả những gì nổi lên mặt nước là bàn tay nắm khẩu tiểu liên hoặc bộ phận súng cối không được để ướt. Thường tôi bắt được những người chết đuối.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Giêng, 2018, 03:01:23 pm

Sự yếu kém lớn của chúng tôi là thương binh. Tôi không rõ Việt Minh giải quyết thương binh của họ ra sao, có vẻ chẳng có gì lúng túng. Nhưng khi một lính của chúng tôi trúng đạn, tôi buộc phải ngừng cuộc hành quân. Để chuyển khỏi vùng đầm lầy mênh mông tôi cần cả đội: tám người khiêng, những người khác bảo vệ. Như vậy trở thành một cuộc rút lui vất vả và nguy hiểm. Nếu quân địch đủ lực lượng đuổi theo tình hình trở nên bi đát, với gánh nặng ấy chúng tôi đi rất chậm, tuy bình thường Việt Minh vẫn tiến nhanh hơn chúng tôi.

- Vậy là các anh chỉ giết được ít Việt Minh?

- Chúng tôi hạ sát họ nhiều, nhưng bao giờ cũng còn lại từng ấy, có khi nhiều hơn, không cạn kiệt. Và chúng tôi không giết hại những Việt Minh thật sự. Có đủ loại người trong số bị giết. Thường là dân làng, chỉ một nửa, một phần tư là Việt Minh.

Viên sĩ quan kể lại một cảnh cảm động:

- Chúng tôi vừa thanh toán một lúc ba trăm. Một chỉ điểm dẫn lính lê dương đến một cuộc mít tinh trên bờ sông Sài Gòn. Cuộc mít tinh được nguỵ trang trong một ruộng ngô, nhưng chúng tôi đã biết và ào thẳng đến đó. Việt Minh nhảy xuống sông, ngâm mình trong nước và bùn của vùng cây ngập nước, cuộn mình lại quanh rễ những cây sú vẹt. Nhưng sông Sài Gòn chịu ảnh hưởng của nước triều lên xuống. Đang lúc nước xuống, chỉ cần chờ đợi. Sau hai tiếng đồng hồ, Việt Minh trần truồng, bị lộ ra. Họ cố dìm mình xuống sâu hơn, dùng tay bới bùn. Chúng tôi hạ sát như bắn thỏ. Nước vẫn rút xuống và mỗi thước bùn lộ ra đưa lại con mồi cho chúng tôi. Đúng là Việt Minh nhưng không rõ là loại nào.

Lại uống cô-nhắc sô-đa, vẫn lính lê dương vô cảm phục vụ. Bây giờ người ta nói đến một sĩ quan của nửa lữ đoàn 13 cải huấn Việt Minh. Nhưng việc ấy chỉ là "vỏ bọc”.

- Người ta ít gặp ông ta, không biết rõ ông. Đấy là một người Ba Lan ra khỏi hàng ngũ, làm việc cho Phòng Nhì. Thực ra ông đến các trại tù binh, lựa chọn những người khỏe mạnh nhất, đề nghị với họ cộng tác và họ trở thành mật thám của ông. Phần lớn họ chấp nhận; ông lập một đội đặc công tình báo.

Ông cử những người được tuyển chọn vào vùng Việt Minh dò xét, nghe ngóng. Nói chung người được chỉ định cải trang thành dân quê, đi xe đẩy hoặc đò, chở theo món hàng rau quả. Anh ta cùng đi với một cô gái, vài trẻ em để có vẻ là một gia đình. Người ta làm cho anh một giấy thông hành Việt Minh bắt chước rất khéo. Anh nói với quân du kích mình là một nông dân đi chợ bán hàng.

Phiền toái là có khi người sĩ quan cũng ở trên xe, nằm dưới một đống chuối hoặc bắp cải. Náu mình ở đấy, nín thở suốt thời gian Việt Minh nghi ngờ, hỏi kỹ anh nông dân cải trang, người vợ và mấy đứa con giả. Ông nghe họ muốn lục soát xe và nhân viên của ông rên rỉ thuyết phục:

- Làm như vậy sẽ hỏng hết hàng hóa của tôi, không thể bán được nữa. Thế mà chủ tịch Việt Minh đã hứa không bao giờ những người nghèo khổ phải lo lắng nữa!

Người Ba Lan ấy không bị bắt. Nhưng mới đây tên mật thám giỏi nhất của ông được tìm thấy gần Hóc Môn, bị trói chặt vào một bánh xe của anh ta mà một con bò vô tư kéo lê trên đường.

Trời sắp tối. Có lệnh đưa tới. Các trung uý, chuẩn uý đứng dậy chạy đi. Đại đội của họ phải giải thoát cho một đội tuần tra bị vây cách Hóc Môn mười cây số. Họ phải làm thật nhanh trước khi tối mù mịt; nếu không sẽ quá chậm và thêm vài lê dương nữa, ngã xuống trên chiến trường danh dự Đồng Tháp Mười, chỗ bùn lầy bẩn thỉu ấy.

Cuộc chiến tranh của một nửa lữ đoàn thứ 13 tiếp tục.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Hai, 2018, 05:11:50 pm

C... kẻ sống sót

- Ông không có cảm giác đụng phải một lực lượng không tránh được, đối mặt với một định mệnh? Ông không bao giờ thắng được Việt Minh tuy làm theo phương pháp của họ, không thể đi xa như họ trong cái tốt và cái xấu. Chính họ sẽ đập nát ông. Số phận hẩm hiu của ông là người nước ngoài.

- Tại sao? Đấy là vấn đề kỹ thuật. Ở Châu Á con người không là gì, chỉ hệ thống thống trị những con người ấy là đáng kể. Việt Minh có hệ thống của họ, không lay chuyển được và mềm dẻo. Nhưng tôi kiên trì xây dựng hệ thống của tôi từng ngày một. Lúc đầu Việt Minh cũng yếu và không ổn định. Họ chủ động được sau nhiều năm: họ tự phê bình, sửa chữa sai lầm, không ngừng cải tiến. Tôi có thể cố gắng như vậy, cũng quyết tâm như thế.

Đấy là cuộc nói chuyện cuối cùng của tôi với C... đi sâu vào công trình đáng sợ của ông hơn bao giờ hết. Chia tay ông tôi thấy hình như để lại sau mình một xác chết. Vì C... sẽ không thoát khỏi bị giết; và nếu ông sống sót vì phép lạ, ông sẽ chết về tinh thần, bị đầu độc bởi bùa mê của Châu Á.

Sau này, khi trở lại Hóc Môn, tôi hầu như không gặp người nào. Tôi cố gắng nói về Xích và Thị Bé, người ta khó nhớ về họ. Xích bị bắn hạ bằng súng ngắn ngay ở trung tâm thị trấn, chẳng bao lâu sau lần tôi qua đấy. Không có điều tra. Thị Bé đã biến mất, có lẽ vì có “quan hệ” với một lê dương đào ngũ.

Đại tá chỉ huy nửa lữ đoàn 13 bị đưa trở về Pháp. Người ta chính thức nhận thấy ông điên. Ông muốn dẫn đầu trung đoàn mình tiến về Sài Gòn để giải phóng mấy người lính lê dương bị cảnh sát cho vào nhà tù vì tổ chức vui chơi gây rối loạn thành phố.

C... vẫn sống, thoát khỏi mọi cuộc ám sát. Ông đã "trụ lại" năm năm ở Hóc Môn. Khi được điều động đi, người kế nhiệm, một chàng trai tuyệt vời bị giết sau mấy tuần lễ, tan xác vì mìn.

Tôi không nhận ra ông nữa. Không còn là con người ấy. Buồn rầu, trầm tư, ông làm văn phòng ở lâu đài Norodom, một vị trí bình lặng của cơ quan Cao ủy. Đấy là một viên chức khôn ngoan không bao giờ nói về quá khứ của mình. Tuy vậy, thực sự ông có quên được không? Hình như không có trường hợp nào một con người chữa khỏi được nền giáo dục về sự tàn bạo của mình.

Chỉ sau rất nhiều năm C... mới thú nhận với tôi. Khi đó ông cũng còn ở Châu Á nhưng xa Sài Gòn, xa Hóc Môn, trong một nước đang rung lên những niềm say mê về độc lập. Và C... tham gia phong trào, lại đầy nghị lực, và nhiệt tình, nhưng với niềm tin khác hẳn niềm tin tôi đã biết, thậm chí đối lập. Ông nói ra với tôi những lời đáng ngạc nhiên:

- Tôi không thực sự hối hận, tuy tôi đã có tội. Lý giải duy nhất của tôi là cái mà tôi gọi là trong trắng. Ở Hóc Môn tôi để hết tâm trí và sức lực như một người có thể làm, vào việc tôi đã nghĩ là điều tốt. Nhưng thật lệch lạc! Tôi đã mất những năm tháng đẹp nhất trong cuộc đời vì một việc làm không chỉ bị kết án trước mà còn bất công!

Tôi đã không làm khác được mà không hèn nhát. Vì tôi được chú ý vì tuổi trẻ, vì môi trường sống. Vâng tôi đã "cam kết". Bây giờ tôi cố sửa chữa vì sau bao nhiêu máu, bao nhiêu sự thật, cuối cùng tôi đã hiểu. Người ta không nên bôi nhọ mình. Không thể lấy cái xấu chống lại cái xấu. Không thể lấy sức mạnh áp đặt cái tốt, nhất là với một dân tộc lạ. Vì cái xấu và cái tốt của chúng ta không bao giờ là của họ; họ căm thù, họ chống lại những cái đó.

Thời kỳ những người chinh phục và những phái đoàn đã hết. Nếu họ ngang bướng, họ chỉ có thể mang lại những chiến thắng giả, kết thúc bằng những thất bại kinh khủng. Phải để cho từng dân tộc trở về với cội nguồn của họ, trong sạch hoặc không trong sạch, tốt hoặc xấu - không cần chúng ta phán xét. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là giúp đỡ, là truyền bá nền văn minh trong chừng mực người ta chấp nhận. Muốn thế, phải thương yêu - không như tôi, dựa vào thanh kiếm mà cần vô tư sâu sắc, dũng cảm, đứng trên mọi trở ngại, biết chịu đựng”

Dĩ nhiên ở một số nơi người ta kể là C... trở thành một người "ôn hòa" nếu không nói là tiến bộ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Hai, 2018, 05:12:47 pm

Người trở thành vua

Ở Đông Dương có những người, được định trước một cách kỳ lạ, như "những con cá dưới nước" giữa lòng dân chúng. Bên cạnh họ, C... chỉ là một anh thợ học nghề. Vì họ không cần giáo dục về sự tàn bạo, họ đã có trong máu thịt mình, được sinh ra với năng khiếu của Châu Á. Khi đến họ cũng không biết điều đó, không khác gì những người Pháp khác. Thế mà chỉ trong mấy ngày họ thể hiện rõ mình và cho những người khác, họ như ở nhà họ, giữa những biện chứng và những hành hạ của núi rừng và đồng ruộng.

Đối với họ không có vấn đề gì. Họ tự nhủ: "Mình sẽ là vua". Một số trở thành như vậy. Có những vương quốc đủ cỡ, trải rộng trên một làng, nhiều làng, một góc tỉnh. Nhưng ở đâu những vị "hoàng đế" ấy cũng có một quyền lực tuyệt đối, ngoài điều người ta có thể cảm nhận, lớn hơn nhiều quyền sống chết của chúng ta. Với bạo lực họ tiêu diệt mọi dạng bạo lực, quyền hành của Việt Minh; họ lập nên quyền hành của họ để thay thế, cũng chặt chẽ, tỉ mỉ như vậy. Đấy là sự thống trị toàn bộ mà dân chúng bị lôi kéo theo một người.

Có bao nhiêu những vị vua như thế? Vài chục người rải trên khắp Đông Dương. Mỗi một người biết chiến thắng trên lãnh thổ nhỏ của mình với sức mạnh duy nhất và tính cách Châu Á của họ.

Những ông vua ấy là những người của cuộc phiên lưu hiện đại, đủ nguồn gốc. Đôi khi là những cai, hạ sĩ quan vừa biết đọc, biết viết. Trong số đó cũng có những "người hào hoa" được nuôi dạy tốt, những nhà quý phái nhạy cảm và tế nhị. Có những người Pháp từ nước Pháp, những người Pháp thuộc địa, nhất là những người lai Âu Á. Người ghê gớm, đáng sợ nhất là một người lai Âu Á, đại uý L...

Tôi đã nghe nói về ông ta ra sao? Không tưởng tượng nổi. Đại uý L... đã bình định tỉnh Bến Tre ở Nam Kỳ, vùng cửa sông Mékong. Trong lãnh địa của ông, người ta có thể đi xe đạp ban đêm, điều không thể thấy ở khắp những nơi khác của Đông Dương. Ông đưa lại nền trật tự đầy đủ. Để được như vậy, ông làm cho mình thành một kẻ chuyên chế, Con Trời. Ông có quân đội riêng, đội cảnh sát Thiên Chúa giáo. Ông khoác vào đội quân của ông nhãn hiệu công giáo, rất thuận lợi để người ta tưởng là văn minh, không lẫn lộn với những băng nhóm Cao Đài, Hòa Hảo. Điều đó cho phép ông huy động nghị lực của các cha cố da vàng; chỉ những người cuồng tín này có khả năng đương đầu với các ủy viên chính trị. Nhưng bản thân ông giữ ý không cải giáo hoặc rửa tội cho binh lính; có đủ loại trong số họ.

Đại úy L... không chấp nhận một ưu thế nào trên trần gian hoặc của thánh thần ngoài sự chiếu cố nào đó với những người Pháp công nhận mọi quyền lực dân sự, quân sự của ông. Ông chỉ có một người chủ: chính ông. Ông chi phối tất cả người, vũ khí, tiền bạc, công việc, ý nghĩ, nội tâm, tóm lại là cuộc sống.

Tôi đến chỗ ông, xem một con người làm sao từ chỗ không có gì đã có thể đạt được một vùng độc chiếm chống lại Việt Minh phi thường như vậy. L... hẹn gặp tôi ở đảo An Hòa, nụ hoa đẹp nhất trên vương miện của ông.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Hai, 2018, 05:14:26 pm

Dân chúng quỳ gối

Phải mười lăm phút đi đò từ Mỹ Tho chở đầy người để qua sông Mékong. Người cầm lái mình trần, gầy dơ xương, đang ăn mía. Trên con sông mênh mông, nắng gắt; vài đợt gió lay động dòng nước đặc ngầu như bùn đỏ hoe. Con đò cập bến trên một bãi thấp và trù phú.

L... đứng trên bờ, chống can, một mình trước đội quân danh dự. Tôi tiến lại gần. Ông thong thả chào tôi với sự chậm rãi khác thường. Nhìn bề ngoài, ông rất Annam, vẻ trịnh trọng nghiêm khắc. Người ông nhỏ nhưng rất đĩnh đạc trong bộ đồng phục đại úy. Khuôn mặt, vàng như một quả mộc qua, có cái gì đó ba cạnh của loài rắn; trên đó tất cả đều kín đáo, bất động. Những cử chỉ cũng như giọng nói, thể hiện một loạt chuyển động đều đặn và có kiểm soát. Khống chế mình đến mức ấy phải có một ý chí ghê gớm. Tự cao điên rồ, thường xuyên tính toán. Nhưng tôi cảm thấy phía sau chiếc mặt nạ ấy, những dây thần kinh rung lên và tính mẫn cảm nổi dậy như sóng tuy nội tâm ông chẳng có gì thể hiện. Cái nhìn thẳng; đôi môi dày, cắt ngang. Không có một khả năng thương xót gì. Ông là một quan lại ăn mặc lối Pháp.

L... giơ cánh tay; với cử chỉ ấy ông bảo dân chúng tỏ thái độ nô lệ đối với tôi. Vì cả toàn dân ở đấy, đứng chật bờ đường chúng tôi đi trên xe jeep, thực hiện những dấu hiệu phục tùng theo lề thói cũ. L... lấy lại phong tục xưa. Ông không đòi hỏi, dân chúng tôn sùng ông trong lòng, ông muốn họ tỏ rõ sự hèn kém của họ. Có hàng trăm nghìn người dọc theo con đường, quỳ gối trước ông, trước tôi. Có đủ mọi nghi lễ quân sự. Có vòm chiến thắng, băng-rôn “Ông nhà báo muôn năm”, những lớp hương chức mặc áo dài đen láng bóng đọc diễn văn tỏ rõ niềm vui, vừa lạy lia lịa. Có những đoàn múa lân múa rồng, tiếng cồng vang lên, những cảnh sát bồng súng chào, thậm chí có cả tiếng còi nhà máy. Mỗi làng bày hương án trên đường cùng những chiếc bàn giáo, kích, gươm đao.

Tất cả mọi thể hiện xu nịnh quá đáng ấy, L... tiếp nhận với vẻ khinh khi. Đôi mắt ông nghiêm khắc không cảm giác, như không trông thấy gì. Nhưng tôi biết không có gì lọt khỏi mắt ông. Thỉnh thoảng ông gọi một người tuỳ tùng, nói rất nhỏ: Ông không vừa lòng về những cái gì đó, ra lệnh phạt.

Vào thị xã, ông vẫn luôn như đá. Một trăm nghìn đàn ông đàn bà khác dồn chặt trên sân chợ trang trí lá cây xanh. Những trăm nghìn người ấy lại cúi xuống trước L... và tôi. Chúng tôi đứng trên một bệ rộng sắp xếp như bàn thờ, phía trên những chiếc đầu im lặng cúi xuống. Ông ra hiệu và sự im lặng ấy bung ra. Những tiếng hô muôn năm át cả tiếng trống, chiêng, kèn đồng. Súng cối bắn những loạt chào mừng. L... nói với tôi câu đầu tiên từ khi tôi đến:

- Tôi cho làm những súng cối ấy trong các xưởng của tôi. Cảnh sát của L... diễu hành. Mặc quần áo đen và đội mũ miền rừng, họ mang tiểu liên và dao, những gì cần thiết để giết người. Mỗi đại đội vác đi đầu chiếc thập tự của Chúa trên lá cờ thêu với những dòng chữ hứa hẹn nền hòa bình Thiên chúa giáo.

Những chiếc loa gào lên. Một người đàn ông vùng vẫy quanh một chiếc loa. Ông ta không quần áo như người của L... Không có thái độ kính cẩn kiểu cách như thế. Ông mặc xuềng xoàng, áo sơ mi ngắn tay, quần soóc, đi dép. L... chỉ giải thích cho tôi, vẫn dửng dưng:

- Đấy là một cán bộ chính trị tôi bắt được.

Người kia bị kích thích quá độ, bập bẹ lời hối hận và hát ca ngợi L... Ông này không nhấp nháy mắt, lắng nghe bực dọc như cũ. Nhưng ông nhìn thẳng vào người cán bộ Việt Minh làm người này càng giãy dụa nhiều. Những mảng lớn làm ướt cả áo may ô: mồ hôi đổ ra vì sợ, không phải vì nóng nực.

Bình thường không phải như vậy. Một cán bộ chính trị không bị mất giá đến mức ấy. Ông người lai hẳn đã dùng những biện pháp kinh khủng để cảnh báo: "Tôi tha thứ hoặc hạ sát anh tùy theo lời anh sẽ nói trước cuộc mít tinh". Người kia biết L... tàn nhẫn đang quyết định sau những lời nói ấy: Ông ta nói vì mạng sống của mình.

Tôi nhìn L... Ông đoán ra ý nghĩ của tôi, ra hiệu. Người kia bị cảnh sát đưa đi. Và không bao giờ biết ông đem giết đi hoặc gia ân.

L... mỉm cười với tôi, nụ cười thực sự bí hiểm của Châu Á:

- Người ta nói với ông tôi là một đồ tể. Không đúng đâu. Tôi thích thu phục con người. Tôi chỉ giết khi cần phải giết.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Hai, 2018, 05:17:55 pm

Cuộc thẩm vấn

Chúng tôi lại xuất phát, còn đi bộ một giờ nữa. Đến trước một con lạch nhỏ, L... nói với tôi:

- Chúng tôi phải làm một nút chặn ở kia. Kế hoạch là quân Pháp vây chặt Việt Minh dồn họ lại đây. Nhưng chúng ta có thể bình tĩnh ăn trưa tại đây, quân Pháp sẽ chẳng dồn được ai cả.

L... dẫn tôi vào một ngôi chùa sơn đỏ thơm mùi hương khói và bụi bặm. Quân lính dọn bàn; chúng tôi có một bữa ăn thịnh soạn. Có những tràng đại liên nổ. L... không bận tâm, lên tiếng gọi. Một trung uý vào đứng nghiêm báo cáo:

- Một trinh sát của chúng ta thấy hai người qua lại trên cánh đồng bên phải. Tôi đã ra lệnh bắn vào họ.

- Tốt, đừng giết họ, hãy bắt sống.

L... cho mắc một chiếc võng vào hai cột gỗ. Ông nằm đấy thiu thiu ngủ. Đôi mắt không nhắm hẳn. Tuy nằm, ông đang nghĩ ngợi. Tôi đi ra cổng chùa. Trước mặt tôi biển lúa nặng hạt ngút ngàn; người ta săn đuổi Việt Minh ở đấy. Việc bắt quân địch khá dễ dàng. Để trốn thoát, họ bò như những con vật. Đạn bắn theo họ, bao vây, xiết chặt thành vòng hẹp dần. Họ nằm im. Đất nổ bung bên cạnh đầu họ. Cuối cùng họ thong thả đứng dậy, vẫy tay hàng. Lính đến tóm lấy họ.

Tôi vào trong chùa. L... vẫn nằm dài trên võng, đã châm hút một điếu xì gà to. Không nói một tiếng. Khoảng nửa tá lính lặng lẽ đi vào, đẩy hai Việt Minh đi trước. Họ như hai bức tượng bùn, chỉ mặc quần lót. Hai người cũng câm lặng. L... vừa thong thả hút thuốc vừa ngẩng dậy nhìn họ một lúc. Các tù binh chịu đựng cái nhìn ấy. Họ ẩn mình trong lớp bùn đất và sự câm lặng, nhưng chưa bỏ rơi tư thế của mình, giữ thải độ thách đố. Một người to lớn, một Hercule thời xưa và bướng bỉnh. Người kia mảnh dẻ, tỏ ra căng thẳng, cố gắng ghê gớm để khỏi suy sụp. Chắc là một học sinh, đôi tay thanh tú, gương mặt thông minh.

Sau khoảng ba mươi giây, L... lại nằm xuống, không mở miệng. Không ai nói gì. Ông ta giơ tay cầm xì gà ra hiệu. Lính dẫn Việt Minh đi, họng súng tiểu liên dí cạnh sườn. Tôi đi theo toán ấy. L... nhìn tôi nhưng không ngăn lại. Đi qua những mái nhà tranh bỏ hoang, chúng tôi đến một ngôi nhà vương giả, chắc chắn, bằng gỗ mun chạm trổ. Những hòn non bộ trang trí khoảnh sân trong lát gạch lớn. Những cây bụi, bị cắt tỉa thành hình dáng kỳ dị. Chúng tôi đi qua các gian phòng tranh tối tranh sáng bí hiểm. Không một bóng người.

Binh lính dẫn những người bị bắt vào một gian phòng lớn trống trải. Viên trung uý chỉ huy phân đội mang một chiếc thánh giá ở cổ. Anh vừa trông thấy hai chốt sắt cắm sâu vào chiếc xà chủ. Người ta hối hả, làm việc khéo léo tuyệt vời. Họ cuốn dây thừng quanh thân và chân tay tù binh vẫn có vẻ khinh khi. Rồi họ luồn đầu dây vào chốt sắt, ra sức kéo. Tôi thấy hai người Việt Minh dần dần bị đưa lên không, đầu lắc lư xuống dưới, chân tay doãng ra. Xương kêu răng rắc. Việc làm ấy không hề gây ra một kích thích gì, hoàn toàn vô cảm. Các thân hình như bị trật khớp. Tôi có cảm giác như chúng sẽ nổ rời thành mảnh. Sĩ quan của L... thấy như vậy chưa đủ. Với sức nặng của mình, dùng hết sức lực tì trên những thân hình cong queo để xé nát thêm. Thấy răng rắc càng mạnh. Một người lính đá vào những chiếc đầu lộn ngược, thõng xuống gần sát đất. Binh lính không nói; Việt Minh không rên la. Quang cảnh trở nên không chịu được. Tôi đi ra, trở lại ngôi chùa.

Tôi thấy L... đã đứng dậy. Ông không hỏi về những gì tôi đã thấy nhưng không hề băn khoăn gì. Đối với ông đó là một việc đơn giản. Ông đang bận tâm về những ý nghĩ lớn. Khuôn mặt ông căng thẳng như lên cơn sốt. Đôi mắt, mũi, môi, tất cả trở nên chật hẹp. Giọng ông ráo hoảnh:

- Bốn giờ rồi; mất một ngày. Đại tá chỉ huy cuộc hành quân vừa điện thú nhận với tôi các chi đội lọt mất rồi. Không chỉ tôi và quân lính chẳng làm gì mà bây giờ chúng tôi có nguy cơ bị phục kích trên đường trở về.

Đôi mắt L... là những đường nứt kim khí, dấu hiệu một nỗi giận dữ lạnh lùng:

- Tại sao người Pháp không giao cả cho tôi? Tôi sẽ bình định, ít thiệt hại và ít chi phí nhất, cả toàn bộ nhiều tỉnh. Họ không muốn thế mà thích tiếp tục cuộc chiến tranh lối ông lớn của họ.

Quân đội Pháp hôm nay huy động ba tiểu đoàn, phương tiện khổng lồ và với ban tham mưu đồ sộ! Cuộc hành quân này tiêu tốn nhiều triệu đồng. Dĩ nhiên Việt Minh không chờ họ.

Cuộc chiến tranh của tôi là của đất nước này. Giăng bẫy phục kích, biệt động đội, phản trắc. Trinh sát của tôi dò thông tin hàng tuần. Tôi nghĩ về tất cả, về mọi dữ liệu. Rồi một ngày nào đó tôi hành động, thật chắc ăn. Tôi đi với đội quân nhiều tiếng đồng hồ để làm việc trong mấy phút. Tất cả là gieo sự ngạc nhiên, mình không bị bất ngờ. Như thế rất kinh tế và có hiệu quả, là cách duy nhất. Nhưng không phải cuộc chiến của ban tham mưu.

Tôi phá huỷ những làng cần phá huỷ. Tôi giết những người cần giết. Nhưng người Pháp phá huỷ và giết tuỳ hứng vì họ không biết và không thể biết. Dân quê cho tôi là đúng nhưng họ sợ Đội quân viễn chinh vì luôn không dự kiến được.

Người Pháp mù, rơi vào mọi cạm bẫy của quân địch. Một lần họ thấy xác một người của mình bị hành hạ khổ sở ở bìa làng. Họ đốt làng, không nghi ngờ là làng ủng hộ Pháp. Việt Minh đem xác ấy đến, báo trước với dân chúng đừng đụng đến, phải để nguyên tại chỗ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Hai, 2018, 05:18:50 pm

Cuộc sống của dân quê là một bi kịch. Họ bị giằng xé bởi hai lực lượng không thương xót. Mỗi ngày, mỗi đêm là vấn đề sống chết của hàng nghìn đàn ông, hàng nghìn đàn bà. Ban đêm Việt Minh luồn vào bảo: "Nếu bà con giúp Pháp, ngày mai chúng tôi vứt đầu những người đàn ông ra ruộng". Ban ngày người Pháp đi xe đến, có đại liên và vũ khí hiện đại. Một sĩ quan khua gậy bảo các hương chức sợ sệt: "Các ông phản bội, đã tham gia vào cuộc phục kích mà Việt Minh giết người của chúng tôi. Các ông thanh toán thương binh của chúng tôi. Chúng tôi sẽ trừng phạt các ông". Theo lề thói, người Pháp không nắm được cảnh ấy. Họ không hình dung được, không hiểu họ không có quyền buộc bất cứ ai trung thành tận tuỵ, mà không mang tới sự bảo vệ người ta. Họ không hề bảo vệ ai, ở đâu cũng thế; họ bó mình trong các bốt. Khi đơn vị đóng tại một vùng, chỉ huy bao giờ cũng tuyên bố: "Dân làng, hãy đến với chúng tôi; chúng tôi ở đây để che chở các ông". Mấy tháng sau, những người Annam tin tưởng bị Việt Minh ám sát. Người Pháp giết những người khác và nói ráo hoảnh: "Quân vô lại".

Cuộc chiến tranh này là của dân chúng. Phải có dân chúng, phải giành giật với Việt Minh. Điều kiện đầu tiên là phải biết khi nào tốt, khi nào phải hung bạo. Không phải lòng tốt và sự hung bạo bình thường, quá đơn giản, thậm chí nguy hại, mà có chất lượng - tôi dám dùng từ này - đẩy lên tới đỉnh cao. Như vậy đối với binh lính Đội quân viễn chinh sẽ quá phức tạp. Người Pháp không bao giờ tập hợp dân chúng. Tay họ đẫm nhiều máu, máu của tất cả những người bị chết vì bị lừa dối, của tất cả những người họ lừa dối và bỏ rơi. Máu ấy sẽ khó được tha thứ.

Lính của L... tháo võng của ông. Tôi nghe những tiếng còi. Chúng tôi sắp ra đi. Nhưng L... đang phấn khích vẫn tiếp tục:

- Có những việc không ngờ. Ông có thấy ở thành phố bên cạnh, ban tham mưu, những bộ phận quá thừa ấy, những sĩ quan quan trọng ấy chuẩn bị những cuộc hành quân trên bản đồ với các gạch lớn bút chì màu? Nhưng viên đại tá có một cô gái báo tin cho Việt Minh. Trung uý Phòng Nhì không nói được tiếng Việt. Ông này có phiên dịch, một ông mảnh dẻ cung kính, bao giờ cũng mặc hoàn toàn lối Âu, áo vét và cả vạt cả ngày nóng nực. Nhưng đấy là một "con hổ” như dân quê nói. Hắn làm tiền. Đầu mỗi cuộc tham vấn, hắn rỉ tai bị cáo: "Nếu đưa cho tôi một nghìn đồng tôi sẽ cứu anh". Tất nhiên để chuộc mình đối với Việt Minh, hắn đều đặn gửi một kẻ tin cậy - vợ, mẹ hoặc khi thì ông chú - báo hết mọi điều bí mật: Vì thế hai ngày trước khi cuộc hành quân triển khai, không một chủ quán nào không nói với bất kỳ người lính Pháp nào tới mua chai rượu: "Nào đến thứ ba trong tuần chứ, chúc may mắn!"

Nói với họ thật vô ích. Một lần tôi đưa cho họ danh sách đầy đủ những thư ký, phiên dịch, những bồi và gái điếm phản lại họ. Họ bảo tôi xen vào những chuyện không quan hệ gì đến tôi.

Biết bao nhiêu người Pháp chết vì những gì không đâu! Không hiểu; không muốn hiểu. Nói chung vì quá can đảm, đôi khi vì quá hèn nhát. Trái với những lề thói quân sự, một cuộc chiến tranh có ích đối với sĩ quan và binh lính Pháp như là một nền sản xuất sa sút. Họ muốn bị giết khi kiên trì theo những thói quen. Tấn công quân địch mà như đi diễu hành cho đến khi viên đạn của người bắn giỏi trúng ngay giữa trán. Đi xe không hộ tống trên con đường thường có phục kích cho đến khi người ta thấy trên đường chiếc Jeep bị đốt cháy và xác của họ tan tành. Nhưng họ vẫn xem thường những biện pháp phòng ngừa cho đến một ngày hoảng hốt thì trở nên đề phòng quá mức.

Rồi những đồn bốt bị phá bỏ. Hãy tưởng tượng sự điên rồ này - một người Pháp từ xa xôi tới để chỉ huy khoảng một trăm lính nguỵ hung dữ. Cuộc sống của người ấy sẽ ra sao giữa thế giới Châu Á mà ông ta không hiểu gì? Đôi khi trưởng bốt nổi giận đấm đá, đánh những người bổ sung cho mình. Tôi biết một trưởng bốt ở làng bên, triệu tập tất cả hương chức đến nhà hội đồng. Họ lễ phép đến chuẩn bị nước, đặt một gói thuốc lên bàn trà trang trọng. Nhưng ông người Pháp la hét, ném khẩu súng ngắn lên gần chiếc đĩa gạt tàn, nắm lấy cổ họng một hương chức. Ngày hôm sau ông ta bị ám sát.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Hai, 2018, 05:19:41 pm

Có người Pháp mòn mỏi vì sợ. Một trong bọn họ thú nhận với tôi khi được chuyển đi: "Trong hai năm tôi không nhắm được mắt. Ban đêm tôi bước quanh bốt cho đến sáng, theo dõi lính ngụy ở vị trí chiến đấu. Tôi nắm tiểu liên đi đi lại lại. Trong nỗi ám ảnh bị bóp cổ lúc ngủ, tôi dùng thuốc kích thích để không thiếp đi. Ban ngày tôi nhặt vũ khí của binh lính treo vào giá đỡ chỉ một mình tôi có chìa khóa. Tôi trông chừng thức ăn sợ bị đầu độc, cho chó ăn thử trước đã.”

Cũng có người Pháp lấy vợ, trở thành nô lệ cho cô gái, bố trí cô ở trong bốt. Đôi khi cô gắn bó với chồng và để bảo vệ chồng cô điều đình với Việt Minh, đi đến mua bán. Họ sẽ không tấn công bốt nhưng hàng tháng được nhận một hòm lựu đạn.

L... nhìn tôi với đôi mắt sắt đá. Tôi cảm nhận ông sẽ nói với tôi sự thật:

Tôi thán phục quân đội Pháp. Họ chiến đấu với sự ngoan cường. Nhưng cuộc chiến của họ không còn thích hợp. Người Pháp đứng trước một cuộc cách mạng mà họ tỏ ra bất lực. Tôi thì không. Tôi biết làm cho dân chúng sợ tôi và cũng yêu mến tôi hơn Việt Minh. Tôi biết làm như thế nào từ khi mới sinh. Tôi ra đời ở đảo An Hòa. Ông sẽ gặp bố tôi. Ông là một người Pháp đã đến An Hoà năm mươi năm. Chính ông tiêu nước vùng đầm lầy, làm ruộng, đem lại sự sống. Tôi biết rõ từng tấc đất, từng người. Dân quê tin khi tôi nói: "Hãy đến với tôi để cùng tiêu diệt Việt Minh. Tôi không bao giờ bỏ rơi các người". Quân đội tôi bảo vệ dân chúng, đúng là quân đội của dân chúng An Hoà, có kỷ luật sắt.

Nói đúng ra tôi đã từng nghe nói về kỷ luật của các đội quân L... Ông không cho phép quân lính hạch sách gì trong vùng ông bình định. Đấy là những vùng cấm trộm cắp hiếp dâm. Không như ở những vùng đất đai không phải của ông, ít nhất trừ khi ông tính toán sự khủng bố phục vụ cho đường lối của ông.

Không may cho những binh lính nhầm vùng. Sự trừng phạt không lay chuyển là một lôgíc tuyệt đối. Tội nhân bị trừng phạt ở chỗ anh ta lầm lỗi. Cảnh sát hiếp dâm trong một vùng cấm sẽ bị thiến ở thành phố, trong một cuộc duyệt binh, trước đông đúc dân chúng. Người ta kể thậm chí L... tự mình làm việc ấy với một con dao trong buổi lễ nhưng tôi không chắc chắn lắm.

Dù sao những người tin cậy nhất là những người bảo vệ ông, không oán giận gì ông, thậm chí có sự tận tuỵ của loài chó.

Chúng tôi ra đi, phải vượt hơn ba mươi cây số trước khi trời tối. Bỗng tôi thấy một dây người. Một anh lính dắt mũi hai người. Tôi nhận ra hai Việt Minh bị bắt, bị treo ngược trước mặt tôi. Tôi nghĩ là họ đã tan xác. Nhưng họ bước đi hoạt bát. Tôi không phân biệt được một dấu vết gì trên người, nhìn ngoài không có vẻ đau đớn. Họ tiến lên như những người quen đi xa, anh lính không cần giật dây thúc.

L... cười gằn trước sự kinh ngạc của tôi:

- Việt Minh của ông đó; họ không bị nhấn chìm, đúng không? Lúc nãy chỉ một chút thẩm vấn, không độc ác gì. Lính của tôi được tập dượt mãi, biết dừng đúng lúc. Tôi biết những người này là ai: Trong cuộc chiến này phải biết. Tôi nghĩ sẽ làm cái gì đó với anh chàng mảnh khảnh. Đúng là một sinh viên, con nhà tư sản. Tay Hercule không nói; tôi chắc chắn hắn là một kẻ giết người, một kẻ đã tra tấn và ám sát. Không thể cho hắn có dịp may.

Khi đã gần tối chúng tôi về đến con lạch biên giới, đi đò qua dòng nước nửa sông nửa đầm lầy. Giờ và địa điểm đều buồn: Muỗi bay thành những đám. L... kéo tôi lên xe Jeep. Mấy cây số nữa là hoà bình - đồng ruộng bố trí có trật tự. Những ngôi làng lúc nhúc dân chúng chào. L... không nói gì với tôi. Nhưng sự im lặng của ông có nghĩa: "Công trình của tôi đấy. Những gì tôi đã làm. Tôi đã mang lại hạnh phúc cho họ."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2018, 05:38:34 am

Kỹ thuật tra tấn

Ngày hôm sau nữa người Hercule bị bắn.

Việc đó làm lúc rạng đông, hết sức đơn giản. Tù binh được dẫn ra bờ một con mương, trên một bến nhỏ. Một người đội của L... nói với anh: "Anh bị bắn chết". Người kia chắp tay van nài: "Hãy thương tôi, đừng giết tôi". Anh cầu khẩn vì thường như thế. Nhưng câu nói của anh là hoàn toàn lễ nghi, cũng như câu trả lời của viên hạ sĩ quan: "Tôi thương anh. Nhưng anh phải chết". Đối với hai người đấy là một công việc phải làm cùng nhau - một phải nhận một viên đạn vào đầu, người kia bắn.

- Cho tôi một điếu thuốc, anh Việt Minh nói.

Viên đội đưa cho anh sau một phút ngần ngừ, vì là một điều mới trong buổi lễ hành quyết. Anh Việt Minh hút, ngồi xổm nhìn xuống con lạch. Anh không nói gì. Thân hình anh ngang dọc nhiều vạch. Anh lại vừa bị thẩm vấn.

Viên đội sốt ruột:

- Anh đứng dậy đi, đến lúc rồi. Hãy đứng kia; hơi nghiêng mình xuống nước.

Anh Việt Minh ngoan ngoãn làm theo, cùng hợp tác trước cái chết. Anh tiến lại gần bờ; viên đội hoàn chỉnh vị trí đứng của anh, chỉ cho anh nên cúi xuống ra sao. Sau khi viên đạn bắn ra, thân hình tự đổ xuống con lạch. Viên đội bắn; Anh Việt Minh đổ xuống nước. Con lạch đưa anh đi. Những xác chết như thế rất nhiều ở Nam Kỳ. Khi một hình người dạt vào bờ gần làng xóm, nông dân chỉ đẩy trở lại dòng nước.

Cái chết của Hercule tôi được nghe một người chứng kiến kể lại. Người ấy bảo L... bố trí những phòng tra tấn đủ trang bị. Hai anh Việt Minh được dẫn đến đó sau ngày bị bắt, rất sớm lúc tôi còn ngủ. Gần như phải xé nát người khổng lồ để cuối cùng anh mới nói. Anh xưng tên và thế là đủ. Đấy là kẻ giết người hung dữ nhất của Cường, chỉ huy quân Việt Minh. Như L... đã cảm thấy, không có cách nào dùng lại con người cuồng tín này. Anh kia, người mảnh khảnh đã bắt đầu "thú nhận" một ít khi bị treo trong chùa. Sau đó anh bị tra tấn đúng mức hơn để nói hết sự thật. Anh thú nhận hoàn toàn và L... quyết định cho anh vào đội cảnh sát công giáo của ông.

Bây giờ tôi đã hiểu cách đối xử của L... với tù binh và những người tình nghi. Đấy là sự "tra tấn có ích". Nguyên tắc tuyệt đối. Mọi Việt Minh - và cả bất cứ người nào bị nghi là Việt Minh - bị tra tấn cho đến khi thú nhận hết. Chỉ có nỗi đau đớn mới dứt được sự thật từ chỗ sâu thẳm của con người: không thế thì ai cũng giấu kín trong mình. Ở Châu Á, nơi chỉ là mưu mẹo và giấu giếm, con người bị lộ rõ sự thật là một người đã bị tước vũ khí, bất lực.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2018, 05:39:27 am

Ngược lại, để tiến hành cuộc chiến L... cần phải biết tất cả, cần lột trần những đầu óc và con tim. Đấy là cách bảo vệ của ông. Khắp nơi đều bị đe dọa; nếu không biết từng điều nhỏ nhặt, có lẽ "chế độ" của ông kết thúc, là tự sát. Đối với ông không có vấn đề thương xót; thương xót không phù hợp với cách của ông. Vì vậy tuổi tác, giới tính cũng không được nương nhẹ. Trẻ em, phụ nữ khả nghi đều bị tra tấn.

Việc tra tấn đẩy tới lúc phải thú nhận đầy đủ, với nghệ thuật tăng dần. Hiếm có người bị hành hạ giữ được bí mật đến cùng, đến lúc người nát nhừ mà chết.

Có ba loại phán quyết - hành hình, tha thứ, chuộc tiền. L... xác định mỗi trường hợp dựa vào "giá trị" của con người vừa được phát hiện. Ông căn cứ trước hết vào sự hối hận, nhịn nhục, vào khả năng cải tạo và sử dụng lại. Không phải một việc xét xử mà đúng như phía Việt Minh, nhằm thiết lập một "giải pháp đúng đắn".

Tử hình chỉ thực hiện đối với những kẻ "không cải huấn được". Nói chung việc xử tử làm nhanh gọn, kín đáo, không tàn bạo, chỉ bắn một phát đạn vào đầu. Vì đấy không phải trừng phạt mà chỉ vứt bỏ những kẻ "trở ngại", những người thừa. Tuy vậy, đôi khi nếu L... thấy có lý do để làm cách khác, việc hành quyết sẽ là một cuộc tụ tập quần chúng, có vui chơi, giải trí. Lúc ấy là vấn đề uy tín để ổn định dân chúng sau một thất bại, hỏng việc. Hoặc đàn áp để trả đòn một người của ông bị xử tử bằng những cách xử tệ hại hơn. Sự tàn bạo là một hành động thống trị, một thách đố công khai Việt Minh.

Hầu như L... luôn luôn bắt trả giá đắt sự tha thứ của ông. Người được gia ân chuộc lại lỗi lầm một cách vất vả, nguy hiểm, để được "xứng đáng". Đấy là trường hợp anh sinh viên mảnh khảnh L... cho vào trong đội quân làm trinh sát. Nghĩa là anh sẽ khua bụi bờ, rừng rậm, đi trước hàng quân với chỉ một quả lựu đạn để tự vệ. Sự thử thách kéo dài ít nhất ba tháng. Kẻ khốn nạn ấy có nguy cơ bị mìn nổ hoặc nhận một loạt đạn vào bụng. Nhưng nếu thoát khỏi, anh trở thành một người lính thực thụ của L..., một con người với khẩu tiểu liên và tư cách, sẽ bảo vệ nền văn minh dưới nhãn hiệu chữ thập.

L... chỉ hoàn toàn độ lượng cho những người thật sự vô hại. Ba dân quê rất già được dẫn đến chỗ ông trước mặt tôi. Họ ở chỗ Việt Minh đến, quỳ gối, câm lặng sợ hãi. Phải khai thác họ từng lời. Họ nói phải đi làm công cho Việt Minh theo lệnh của hội đồng xã, cách đây hai năm. Từ đó ông chúa L... tiêu diệt hội đồng, giết hết các uỷ viên, thay thế hội đồng của mình vào, đưa lại bình yên. Ba ông già đã đào ngũ, muốn về nhà sống nốt quãng đời còn lại ở làng.

L... cho đưa những ông già tới. Tôi sợ cho họ nhưng ông nói:

- Câu chuyện của họ có thật đấy. Tôi sẽ cho họ về làng. Tôi báo với các hương chức là họ rất hối hận, hội đồng cũng phải tha thứ cho họ. Và thậm chí tôi bảo cho mỗi người một mảnh ruộng. Như thế họ có thể sinh sống và làm chỉ điểm cho tôi. Những ông già ấy có thể biết được nhiều điều. Họ còn có gia đình ở với Việt Minh...


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2018, 05:40:14 am

Điều đáng khen và đáng sợ ở L... là ông có thể đưa lôgic lợi ích của mình đến mức nào, vượt qua mọi tình cảm, mọi ý niệm tốt xấu. Theo quan điểm đạo đức thông thường điều ấy đưa đến những ghê tởm nhất. Nhưng ông không bao giờ tự hỏi điều ông làm là cao quý hay ghê tởm. Ông không quan tâm đến những cái đó, chỉ nghĩ đến "hiệu quả" của hệ thống mình. Ông nói với tôi:

- Một trong những điều tôi ân hận là đã cho xử tử những kẻ ám sát anh tôi. Tôi có một người anh bị giết dã man ngay trên hòn đảo này bởi những người dân quê được chúng tôi bảo vệ. Họ giết để cướp của vì Việt Minh nói làm việc gì đối với người Pháp cũng được phép cả. Tôi tự bắt những người ấy, hỏi vì sao lại có thể làm quá đáng như vậy. Họ xin tôi tha lỗi. Tôi cho bắn họ ngã xuống vừa hô: "Nước Pháp muôn năm". Và ngay lúc đó tôi nghĩ mình sai lầm khi trả thù.

Nhưng cũng chính ông L... ấy hối tiếc đã không tha cho những kẻ ám sát anh mình, lại buộc bố tố cáo con. Thực ra ra điều này hơi phức tạp hơn việc "do thám" đơn giản. L... có trong tay mình nhiều người bố mẹ có con đi theo Việt Minh. Ông cho nói với họ:

- Tôi chấp nhận cho con ông bà thỉnh thoảng về thăm. Ông bà báo cho tôi khi chúng đến, nói lại với tôi những gì chúng nói. Nếu không sẽ tai họa cho ông bà.

L... để những người con trai ấy ra đi, chắc chắn họ sẽ bị Việt Minh trừng trị. Nếu không thế hẳn chúng đến chuẩn bị một cạm bẫy; lúc ấy những người bố mẹ coi chừng.

Bao nhiêu điều tế nhị! Đôi khi L... bố trí cho chúng biết một số việc trước khi ra đi: ví dụ những anh Việt Minh nào đó là nhân viên của ông. Thực tế không phải mà ngược lại là những người nguy hiểm, đáng sợ. Dù sao rồi L... cũng loại trừ họ được. Vì những "người đi phép" khi trở về chi đội, để cứu mạng mình hoặc để tôn giá trị sẽ báo cáo tên những người ấy. Vậy là L... làm cho Việt Minh thanh toán những người của họ mà ông sợ nhất.

Tất nhiên Việt Minh cũng tìm mọi cách thanh toán L... nhưng ông vững tin ở mình. Ông không ngừng lặp lại với tôi:

- Để "tóm" tôi, trước hết Việt Minh phải lừa được tôi. Nhưng "chế độ" của tôi được bố trí đến mức có việc gì gian dối là tôi biết. Biết rồi thì không nguy hiểm nữa.

Đúng là "chế độ" của L... thật hoàn hảo. Ông chiếm cả một lãnh thổ, xây dựng một bộ máy thống trị không thương xót với quân đội cai trị, các uỷ viên chính trị. Những vòng quay thắt chặt đến lúc toàn dân chúng bị khống chế. Việc làm ấy tự động một cách máy móc. Dân quê bị tê liệt như trong một mạng nhện, đã vâng lời, quy phục. Một kỹ thuật kích thích nào đó đưa họ vào sự nô lệ tuyệt đối. Mọi người tố cáo lẫn nhau.

Một biện pháp kỹ thuật khác thường nhưng cũng làm tôi khá nao lòng, không phải đến mức tàn bạo bao quanh - người ta thấy trên khắp Đông Dương, và L... không hề bạo tàn như Ba Cụt của Hoà Hảo hay Trịnh Minh Thế của Cao Đài. Nhưng ông có như một sở thích cay đắng trong việc tàn sát người, trong chiến thắng về tổ chức, trong cách thường xuyên đẩy nguỵ binh cầm súng, những hương chức lạy chào, trẻ em các trường vẫy cờ. Thật bạc nhược.

- Tôi chẳng sáng tạo ra gì cả, L... nói với tôi. Đấy là cách làm của đất nước này, không có cách gì khác. Nhưng sự chuyên chế của tôi sáng suốt. Tôi khuyến khích thương mại và công nghiệp, tôi tăng gấp đôi sản lượng đồng ruộng. Tôi làm cho dân quê thành một người mới, mạnh hơn, tân tiến hơn. Ông nghĩ tôi có thể thành công với cả cái mà ông gọi là "chế độ" của tôi, nếu không dân chúng tâm đắc với tôi ư?

- Ông làm như thế nào?

- Ông đến nhà tôi. Ông sẽ hiểu rõ hơn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2018, 05:43:38 am

Lịch sử của L...

Đêm cuối cùng tôi ở đấy, L... đưa tôi về trong một ngôi nhà đẹp, vững chắc và yên tĩnh. Người ta tưởng gần như ở tỉnh, ở nước Pháp.

Bà L... đan áo, im lặng, hiều dịu, một đứa con trên đùi. Bà sống ẩn dật - mái tóc vàng nhạt, khuôn mặt xương đeo đôi kính gọng sắt. Một bà tư sản rất nhỏ. Tôi thích bà với sự đoan trang lịch lãm, xa cách cuộc chiến của L..., xa những tàn bạo, những lập luận không thương xót của ông! Làm sao tôi ngờ được đây là một nữ nhân viên Pháp mà tướng Latour đặc biệt chọn cho ông, để giám sát ông một ít.

Bố của L..., trong một bức ảnh, một tộc trưởng nông dân Pháp ở Tourane nhưng đã mòn mỏi chỉ còn bộ râu thưa bạc trắng và khuôn mặt láng bóng. Ông chào tôi với sự lễ phép xưa kia rồi chập chờn ngủ.

- Ông hãy nhìn bố tôi. Vì ông cụ, trước đây ra sao, đã làm những gì, đại diện cho những ai, mà tôi lao vào cuộc đấu này không thương xót. Đấy là cách của tôi để xứng đáng với ông cụ. Cuộc đời của ông trên hòn đảo này, đơn giản và sung sướng. Ông yêu dân chúng ở đây và cũng được yêu. Ông sống như một dân quê, cày ruộng với chiếc cày gỗ do một con trâu kéo. Ông cưới một bà vợ người đảo này, bà mẹ tôi. Bây giờ ông không hiểu những gì xảy ra, không hiểu mối hận thù này. Ông nghĩ một người già như ông ít nhất cũng không ai đụng tới. Ông biết người con trai khác của ông, anh tôi đã bị giết chết thê thảm.

Ngược lại, tôi từ nhỏ đã bị căm thù bao quanh, thích cái chết và tàn phá ẩn sâu trong tâm hồn người Annam. Điều ấy được tôi luyện rắn như thép trong tôi. Khi anh tôi bị ám sát, tôi hiểu phải tích tụ nhiều căm thù hơn. Để khỏi bị giết tôi phải giết. Để dân chúng không chống lại tôi, tôi phải lôi kéo họ về với tôi. Cuộc đời tôi là thường xuyên cảnh giác.

Tôi sống với tiểu liên cầm tay. Chưa đầy hai mươi tuổi, tôi vào rừng rậm Bắc Kỳ chống lại quân Nhật, trong nhiều tháng. Tôi là một trong những người Pháp đơn độc chống cự trong rừng mà không bị bắt hoặc chết vì kiệt sức.

Trở lại Nam Kỳ tôi tập hợp một nắm bạn bè hướng dẫn các đội quân của Leclerc. Một hôm đại tá của Đội quân viễn chinh thông báo với tôi nhiều người trong đội tôi bị bắt. Tôi nói nếu họ không được thả ngay, tôi sẽ tấn công nhà tù. Mọi người cười. Mấy ngày sau thì việc đó làm xong.

Đội quân lê dương giữ đảo An Hoà nhưng đột nhiên chuyển đi hết. Việt Minh sắp vào. Những đám cháy đã nhuộm đỏ chân trời. Hương chức sợ hãi van nài tôi. Tôi cho đánh mõ, phân phối một số vũ khí cho dân chúng. Tôi đi Sài Gòn mua chợ đen những vũ khí nghiêm chỉnh hơn. Tôi đã bắt đầu như thế đấy và bây giờ tôi đi đến cùng.

Cuộc phiêu lưu khác thường của L... sẽ dẫn ông đi đến đâu? Tôi rời An Hoà với một linh cảm chết chóc. Vì L... đã trở thành một người say - say chiến thắng. Và một ngày nào đó, loại lính đánh thuê ấy gặp lúc quá đáng, sẽ hết đời.

Tôi có nhầm một phần L... còn kéo dài ba năm. Ông đã có những tỉnh, trở thành đại tá. Vì lên cao mà ông đã ngã xuống. Dần dần "chế độ" của ông phân thành mảng. Các hương chức phản bội ông, các trung uý chối bỏ ông, quân đội phân tán, Việt Minh đã trở lại.

Sức mạnh chế độ của L... là chính L... Và cũng là điểm yếu. Tất cả dựa vào ông. Ông trở nên điên rồ. Ông là người dành cho An Hoà và đồng ruộng ở đây. Ông bị nghiền nát vì một số mệnh quá lớn.

Ông vẫn sống là người của những ân oán và mánh khoé, những cuộc âm mưu, những liều lĩnh điên rồ, hầu như mê sảng, không còn chút ý nghĩa nào. Và khi Đông Dương hoàn toàn "kết thúc" đối với người Pháp, ông lại chuyển đi với phần lý luận và kỹ thuật còn lại, sang những lục địa khác để đổ máu. Nhưng chỉ còn là một người làm thuê lệ tràn nước mắt, làm việc theo yêu cầu - một chuyên gia tốt không cá tính, về những nhiệm vụ đặc biệt. Ông làm lâu ở Algéria.

Nhưng L... không phải người duy nhất như thế. Tất cả những người khác thường đã có những thành công tương tự, có những vương quốc riêng, đều kết thúc như ông - hoặc tệ hơn là nhận một viên đạn vào đầu. Tôi nghĩ đến Vanderberghe, đến Rusconi và bao nhiêu người khác. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương này kẻ phiêu lưu không đưa lại một giải pháp gì - chỉ có một vai trò phụ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2018, 05:44:21 am

Con đường đi Cà Mau

Sài Gòn - Mỹ Tho - Vĩnh Long - Cần Thơ - Sóc Trăng - Bạc Liêu - Cà Mau. Tôi đọc tất cả những tên xa xôi ấy trên một tấm biển chữ Pháp treo phía trước một trong những chiếc xe ca Trung Hoa to, sơn đỏ, đầy chữ, bò trên đường như con bọ hung chở quá tải. Thế nhưng chiếc xe sẽ vượt hơn bốn trăm cây số đến tận đầu xa nhất, hoang dã nhất xứ Nam Kỳ, mũi Cà Mau đâm ra biển như một chiếc răng hỏng.

Chính qua trạm du khách lăn bánh này tôi được biết con đường đi Cà Mau được mở lại toàn bộ. Vì ở cuối, nơi con đường đi qua bãi sú vẹt hôi thối đã bị Việt Minh cắt đứt. Cả đoạn sau bị bỏ phế. Nghe nói người ta đã để lại Cà Mau, thị xã duy nhất xưa kia mọc lên giữa vùng đầm lầy sốt rét của Viễn Đông, khoảng một trăm lính lê dương để tượng trưng sự hiện diện của Pháp. Đã nhiều tháng họ bị chặn đứng lại, bị bao vây và đói.

Bây giờ Cà Mau đã được giải phóng. Hàng hoá của các nhà buôn Sài Gòn đổ về đấy với sức mạnh đồ sộ của thương mại. Tôi cũng quyết định đến đó.

Đấy là con đường 16. Suốt dọc đường từ Sài Gòn đến Cà Mau, Việt Minh tấn công, quân Pháp đẩy lùi họ. Không có con đường chiến lược nào thiết yếu hơn con đường này, nối liền với cửa sông Mékong và những nước Phương Tây xa xôi; và cũng là con đường lúa gạo, thậm chí là dải băng văn minh. Việt Minh muốn phá hoại nó và người Pháp cứu nó bằng mọi giá.

Các chi đội của Nguyễn Bình ẩn nấp quanh đấy, trong thiên nhiên, người ta không thấy. Nhưng Đội quân viễn chinh dồn đống ngay trên đường với những đồn bốt, tháp canh, các tiểu đoàn, không có chỗ nào quan sát thực trạng hơn ở đây được. Tôi sống tại đó nhiều tuần, đi từ chỗ đại tá này đến đại tá khác, từ đội này đến đội khác. Và như thế tôi nhận thấy không chỉ có một Đội quân viễn chinh mà hàng nghìn.

Bộ máy quân sự không thống nhất, tuyệt đối phân tán, chắp vá. Không có chính quyền và lãnh đạo trung tâm. Tất cả đều do các đơn vị và người, mỗi người làm theo ý mình với điều kiện tuân theo một luật nào đó.

Tôi viết lại những gì đã thấy. Thật khó rút ra kết luận vì tất cả mâu thuẫn nhau. Nhật kí viết về Đội quân viễn chinh của tôi là một loại bi-hài, không ngừng đi từ thái cực này đến thái cực khác, từ cực điểm hài hước và tàn bạo đến những đức tính cao cả của sự quên mình và chủ nghĩa anh hùng. Đôi khi tất cả những cái đó đồng thời, xen lẫn vào nhau không gỡ ra được.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2018, 05:45:25 am

Cái chết ở Lương Hạ

Hành trình này bắt đầu bằng một cảnh hài hước. Vì gọi thế nào khác được buổi lễ mà một đại tá Pháp nghiêm chỉnh, nhân dịp này đến để tổ chức theo quy chế quân sự? Cảnh sát Lương Hạ - những người còn lại - đứng thành hình vuông. Viên đại tá ấp úng độc lời tuyên dương, gắn huân chương, mồ hôi nhỏ giọt. Ông khen thưởng trung uý Paul, một người Việt Nam ba mươi tuổi, đẹp như một bức ảnh quảng cáo lính bổ sung, ăn mặc rách rưới. Việc tuyên dương vẫn tiếp tục. Bây giờ người ta thưởng những người chết, vẫn những từ ấy. Nhưng anh ngụy binh ấy đã bị giết, như bao nhiêu người khác. Đại tá phân phối huân huy chương cho gia đình những người chết. Đây đến lượt một bà góa trẻ búi tó, rồi một ông bố cao quí, cả hai vô cảm, con họ không bị bóp cổ trước mắt họ mấy giờ trước đây. Chuông nhà thờ khua vang, quân lính sống sót bồng súng chào, đại tá hô to: "Cử nhạc khai mạc, kết thúc buổi lễ." Điệu Marseillaise vang lên.

Buổi lễ này là tất cả những gì người Pháp đưa lại cho những bất hạnh của làng công giáo Lương Hạ. Thế mà chính họ là những người chịu trách nhiệm về bi kịch này. Lương Hạ là một làng Gia-tô giáo phía tây nam Đồng Tháp Mười, cách đường 16 khoảng vài chục cây số. Nhân dân sống yên bình nghe theo Việt Minh - nhưng ở Sài Gòn một ban tham mưu đã chuẩn bị một kế hoạch mở rộng việc bình định. Một hàng quân ập đến Lương Hạ. Người ta tập hợp cha cố và dân quê, tổ chức một đội cảnh sát nông dân, xây dựng cả một bốt và tháp canh xung quanh làng để tự vệ. Rồi cả phái đoàn ra đi, để lại một trung đội do một đại uý Pháp chỉ huy. Hậu quả là việc tàn sát làng Công giáo lúc nửa đêm. Việt Minh chỉ cần một tiếng đồng hồ để tấn công, đốt và giết.

Cả làng bị san bằng trừ nhà thờ. Bình thường với khối lượng lộng lẫy, nhà thờ đã đè bẹp cảnh nghèo nàn, như trong mọi làng Gia-tô giáo Annam. Bây giờ trong không khí buồn bã, ngôi nhà của Chúa có vẻ càng đồ sộ hơn.

Lương Hạ khốn khổ! Những người sống sót, trên đất cháy đen, lượm lặt những tàn dư một cách máy móc, rất kiên trì. Họ sắp xếp lại những mẩu dây thép, những mảnh chum vại vỡ, những hạt thóc gạo cháy sém, tất cả những gì còn lại. Im lặng lan rộng đến trẻ em. Không có tiếng khóc. Những người chết được chôn cất và như bị quên đi. Hoàn cảnh sống quá tối tăm làm những người sống không nghĩ đến họ nữa. Vẻ xinh đẹp duy nhất giữa đám người già nhăn nheo và những đàn bà không có tuổi, là những thiếu nữ tóc dài đến gót, là những Eva Phương Đông chưa sợ hãi lắm. Họ cười vô tư. Nhưng nụ cười của những cô bé ngây thơ này càng làm sự buồn bã của nơi này thêm cay đắng.

Viên đại tá sau khi gắn huân chương vào trong tu viện. Vị linh mục muốn nói chuyện với ông. Một ông già Annam, cao gầy, khổ hạnh - chỉ còn là nỗi sợ hãi đáng thương. Giọng nhỏ nhẹ bề trên, ông khẩn cầu đại tá cho ông một chữ ký để ông có thể lên Sài Gòn; quá mệt mỏi, ông muốn nghỉ ngơi trong một nhà hưu trí.

Nhưng viên đại tá, to khỏe, hoạt bát, vui vẻ nói với linh mục bổn phận của ông này là phải ở lại với con chiên để an ủi họ bằng tấm gương của mình.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2018, 05:46:06 am

Vị linh mục ánh lên vì màu da và chiếc áo dài đen, nhân danh giáo dân Lương Hạ, trình bày với viên đại tá:

- Giáo dân còn có thể hy vọng gì? Không ai cày bừa, làm lại nhà cửa. Tướng Việt Minh, chỉ huy chi đội 308 đã nói với chúng tôi cuộc tấn công vừa rồi chỉ là đòn cảnh cáo: lần sau nếu vẫn theo Pháp, đàn ông sẽ bị bắn chết. Chúng tôi đề nghị người Pháp để lại những lực lượng quan trọng trong làng. Cũng đề nghị gửi gạo và thuốc men cho chúng tôi. Nếu không Việt Minh sẽ tiêu diệt làng hoặc chúng tôi chết vì đói và bệnh tật.

Để trả lời đại tá chỉ đũa cánh tay lên trời. Ông ngoảnh lại phía tôi nói một cách ngây thơ:

- Những người này không thể thỏa mãn được. Tôi không phải Chúa trời. Không thể để quân đội lại khắp nơi, trước hết là tôi không có. Về gạo tôi không có một khoản kinh phí nào. Dù sao tôi cũng báo cáo việc này lên cấp trên.

Viên đại tá có bao nhiêu điều bận tâm, quan trọng hơn nhiều. Sáng nay ông đã sẵn sàng cho tôi biết. Ông không ngớt lặp lại:

- Ông nghĩ, một sáng thức dậy mà tôi không thấy chiếc cầu của tôi!

Đây là chiếc cầu sắt rộng lớn trên đường 16 vượt con sông đổ nước từ Đồng Tháp Mười ra, một loại tháp Eiffel nằm. Nó có tầm quan trọng quyết định, một lực lượng giao thông rất lớn qua lại đây.

Một trong những đêm trước, ông kể lại, một Việt Minh trần truồng, một người nhái thực thụ, theo dòng nước đưa đi không bị phát hiện cho đến cột cầu giữa. Anh ta đặt ở đấy một quả bom hẹn giờ vào tám giờ sáng, giờ một đoàn xe lớn đi qua. Quả bom không nổ.

Chúng tôi lại lên thuyền ra đi, để mặc Lương Hạ với số phận cùng một ki lô huân chương thừa. Trong lúc chúng tôi trôi theo dòng nước, viên đại tá tỏ ra bận rộn, vẫn vì chiếc cầu. Trong lúc chúng tôi hành quân nó có bị phá đổ không? Khi thấy nó nguyên vẹn, ông thở ra nhẹ nhõm! Ông bèn nói nhiều về việc bố trí phòng thủ để tôi thán phục hệ thống đèn chiếu, những phao tiêu, những tấm lưới.

- Dù thế tôi vẫn không yên tâm, ông kết luận với tôi. Những người Việt Minh ấy ranh mãnh lắm.

Viên đại tá này gặp may. Cuối cùng Việt Minh đặt bom làm sập cầu nhưng mãi về sau, khi một sĩ quan cao cấp khác phụ trách khu vực này.

Dù sao, chia tay với viên đại tá Lương Hạ tôi biết vì sao người Pháp sẽ không thắng được cuộc chiến tranh Đông Dương. Vì đối với ông cũng như bao sĩ quan khác, một chiếc cầu quan trọng hơn một làng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Ba, 2018, 04:46:49 am

Cuộc chiến lạ lùng nhất

Những con bọ cánh cứng lớn bị cả đàn kiến tấn công - đấy là hình ảnh của cuộc chiến lạ lùng nhất trên đường 16. Thực vậy, cả "khối" dân quê ra khỏi đồng ruộng và đêm tối, với số lượng người, nhấn chìm những chiếc xe bọc thép Pháp mà quân lính chính quy với mìn và đại liên không tiêu diệt được. Người Pháp đã thắng nhưng kinh hoàng tận cùng.

Việc đó xảy ra quá Mỹ Tho, chỗ con đường 16 đi qua đoạn nhô lên của Đồng Tháp Mười. Con đường hẹp lại, chỉ còn là một dải trông như nổi lên trên nước hôi bẩn. Người ta cảm thấy nguy hiểm, không thấy bóng dân quê. Xe cộ, từ những chiếc "ca Trung Hoa” lớn đến những chiếc Jeep quân sự, chạy hết tốc độ trong sự vắng lặng. Vì con đường không chỉ là giao thông mà còn là mặt trận. Việt Minh trong lau sậy rất đông, rất gần. Cứ từng cây số - trên năm mươi cây số - sừng sững một tháp canh đồ sộ màu hoàng thổ, hình vuông, một loại nhà thờ Hồi giáo. Cảm giác thật lạ lùng! Tôi đang trong đoàn Spahis thứ 3, trong số các đội quân hỗn độn người Maroc.

Trung đoàn những chiến binh quý phái này từ nhiều tuần nay đã đẩy lùi những đám đông không kể xiết của Châu Á. Từng đêm, "khối người" nhận chìm các tháp canh và những xe của trung đoàn như con thoi, đến giải phóng. Muốn thế phải cắt một con đường qua đám đông khốn khổ đang tấn công, đè bẹp họ, giết họ.

Tôi dừng lại ở Cai Lậy, trung tâm chỉ huy, pháo đài chính chỗ để những xe bọc thép. Đêm thù địch sắp xuống trên bốt, trùm lên diện tích bao la đầm lầy bắt đầu từ cách đấy mấy mét, sát ngày bờ rào tre, bao trùm con đường, mảnh băng cần bảo vệ, là chiến trường trong mỗi đêm.

Tôi ngồi trong "phòng ăn chung" cùng các sĩ quan trẻ và "cuồng nhiệt".Trời vừa tối mà trong rừng dừa gần đấy đã nổi lên tiếng trống dọa dẫm. Rồi im lặng; chỉ có tiếng kêu của cóc nhái; chẫu chuộc, nhưng là lúc chờ đợi căng thẳng.

Trong bốt mọi con mắt đăm đăm nhìn vào đêm tối, mọi bàn tay nắm lấy vũ khí, sẵn sàng nhả đạn. Binh lính, sĩ quan như chìm trong sự chú ý cực điểm. Hình như chẳng còn gì tồn tại. Dấu hiệu duy nhất của cuộc sống là tiếng nổ đều đều của chiếc máy phát điện.

Rồi cuộc sống tập trung trong một gian phòng. Tiếng người đối thoại không dứt. Đây là tổ đầu não của toàn bộ sự bố trí. Đài Cai Lậy nói chuyện với các đài khác trên đường 16 - cứ sáu cây số có một điện đài, ở những tháp canh chính. Những tin tức nối tiếp nhau rất lâu, bình thản, cả một nhịp điệu tên, nghe hầu như kỳ cục. Bỗng đến nửa đêm vang lên những từ ngữ chiến tranh: "Đây là Tignasse. P29 được báo có một sự đụng độ nghiêm trọng, địch tấn công bằng súng tự động..." "Đây là Tapir, P29 vừa bắn pháo đỏ đề nghị hỗ trợ..."

Tôi nhớ đến P29; khi tới đây tôi đi qua tháp canh ấy. Mọi vật ở đấy thật nên thơ. Ở chân tháp, một đứa bé câu cá trong lạch. Bây giờ còn gì ở đấy?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Ba, 2018, 04:48:08 am

Có người vỗ vai tôi. Trung uý M... hỏi: "Tôi đi cùng đội tuần tra xe bọc thép đến cứu viện P29. Ông có đi không?" Tôi ngồi cùng ông trong chiếc A.M dẫn đầu, một chiếc tăng chín tấn, dò từng mét đường với con mắt độc nhất - chiếc đèn chiếu gắn ở đỉnh tháp. Trong lúc đi trên con đường hư không này, một hồi tưởng khó chịu nảy ra trong óc tôi: ngay chiều nay khi chiếc xe Jeep tôi đi qua, một chú nhóc kéo sợi dây ở đầu buộc chiếc hộp sắt. Tôi biết Việt Minh cho nổ mìn theo cách này.

Ngay lúc ấy đèn chiếu rọi trên bờ đường có tấm bia một ngôi mộ người Trung Quốc. Trung uý M... nói với tôi:

- Chính phía sau tảng đá này hôm kia một Việt Minh ẩn nấp cho nổ mìn phá huỷ một chiếc xe hướng đạo của một đội tuần tra chúng ta.

Tôi cảm thấy ông theo dõi từng vệt bánh xe, xem ít đất nào bị xáo hoặc đá sỏi lộn xộn. Vì mọi thứ đều là cạm bẫy. Không chỉ có mìn kéo dây đáng sợ. Việt Minh còn đào đường chôn những bánh thuốc nổ có thể lật nhào những chiếc xe A.M như của chúng tôi. Đấy là những thiết bị mạnh không tránh khỏi được. Người ta gọi chúng là "mồ chôn" từ khi một chiếc xe bị đốt cháy vì a xít, bật lên và lật nhào trong một chỗ có quái vật này.

Chúng tôi tiến lên. Phía sau là những chiếc xe hướng đạo đầy lính Sénégal và nguỵ binh. Cách hai trăm mét, một chiếc A.M khác đi tập hậu, bóng nó như một con quái vật. Một cuộc tuần tra ban đêm là như thế. Có vẻ như nó chống chọi được một tiểu đoàn Việt Minh, ít nhất là theo lý thuyết. Vì vừa biến mất một đội, người và của tương tự, gần Sóc Trăng. Không một người nào trở về.

Chúng tôi vẫn đi. Trong đêm tối chỉ có tiếng những chiếc xe lạo xạo, chỉ có ánh đèn pha và đèn chiếu. Bỗng tiếng đạn cối rít trên đầu chúng tôi nhưng nổ phía trước hai, ba cây số: những viên đạn của hai khẩu 88 của Cai Lậy. Ở sở chỉ huy trung tâm người ta bắn bảo vệ P29.

Chúng tôi vẫn không gặp trở ngại gì, qua các bốt P25, P26, P27 có vẻ đang ngủ phía sau hàng rào cũ. Đến P28, một lính nguỵ ra hiệu có nhiều Việt Minh ở phía xa.

Đi thêm mấy trăm mét. Viên trung uý qua ống nói, hét lên với người lái xe A.M "Chậm lại". Một khối bùn khổng lồ cao hơn một mét chắn ngang đường. Không gian hoang vắng nhưng tôi chắc chắn đêm tối lúc nhúc người hơn bao giờ hết. Không một bóng người, không một tiếng động nhưng viên trung uý khẳng định trước đây mấy giây hàng nghìn dân quê hối hả bê những tảng bùn dưới đầm lầy chất lên đường. Đám đông ấy vẫn ở đấy, rất gần, nằm trong lau sậy như người chết.

Chúng tôi dừng lại. Tĩnh lặng tuyệt đối. Người ta cũng chẳng bắn ở P29, chỉ cách rào chắn bùn khoảng trăm mét. Đội tuần tra xe bọc thép bắt đầu phá bỏ trở ngại. Công việc tiến hành chính xác và nhanh gọn. Những chiếc A.M chuyển bùn thả xuống diện tích lau sậy bên cạnh. Lính Sénégal, cũng đen như đêm tối tới những bờ cao bên đường nắm chặt súng máy nằm xuống. Từ trong những chiếc hướng đạo, đám tù binh được mang theo phục vụ, nhảy xuống, những bàn tay trần phá huỷ những việc làm của những bàn tay đúng như thế, có lẽ của bạn bè, bà con họ vì họ cũng là dân quê trong vùng.

Trong thời gian ấy viên trung uý đi lại với vẻ chán nản:

- Đêm nay P29 không thực sự bị đe dọa. Khi làm công việc này ở một tháp canh sắp bị hạ ở phía kia thì khác thường hơn nhiều. Lúc ấy người ta san đất giữa tiếng trống, tiếng hét, những lời nguyền rủa và các loạt đạn. Thỉnh thoảng thấy Việt Minh ném những thanh củi cháy lên đốt tháp canh. Để tranh thủ mấy giây, người ta bắn ca-nông vào rào chắn. Như vậy tạo nên những ngọn lửa pháo vì do tiếng đạn cối nổ, tất cả lựu đạn và những "rác bẩn" Việt Minh đặt bẫy cũng nổ khắp nơi. Đất tung lên như suối phun, dân quê của họ và một số của chúng tôi bị xé nát. Tôi cho lính Sénégal tấn công vào những tàn dư và thịt ấy rồi chúng tôi đi.

Nhưng đêm ấy việc công kích rất bình lặng. Chúng tôi lại đi và vào trong P29, chỉ hơi thiệt hại một ít. Lính nguỵ trên tháp đã bắc thang đưa một người xuống, bị thương rất nặng.

Với điện đài trong chiếc A.M viên trung uý hỏi tất cả các bốt, nhưng các nơi đều cùng trả lời "Không có gì cần báo cáo”.

- Những đêm trước ông không có ở vùng này, trung uý mỗi lúc càng thất vọng nói với tôi. Ông ta thấy hàng nghìn dân quê trên đường; hàng chục rào cản, tất cả các bốt bị tấn công, một số cháy dở. Một cuộc chiến lạ lùng chống lại bùn và "khối lượng người" tỏa ra từ khắp nơi. Đội tuần tra xe bọc thép lao vào những rào cản như một loại bơ, nhưng ngay sau khi họ đi qua, dân chúng ẩn mình trở lại, làm những gì họ đã phá huỷ. Tuy vậy phải đến đúng lúc dùng ca-nông giải phóng những tháp canh đầy kẻ tấn công. Không bao giờ kết thúc được, luôn luôn phải bắt đầu lại từ đầu. Việc đó kéo dài liền bốn đêm vì những đám đông không cạn từ đồng ruộng ra mang bùn lại ào tới. Tuy thế mỗi sáng con đường vẫn được “mở”.

Chúng tôi đã giết bao nhiêu đàn ông, đàn bà và trẻ em? Tôi cũng không biết. Chỉ có sự tàn sát mới cứu được chúng tôi. Việt Minh đã dự kiến cuộc tàn sát ấy. Họ tổ chức đẩy dân chúng ra trận, nghĩ rằng chúng tôi không tiêu diệt được bao nhiêu và sẽ bị thác người đánh bật đi và bị tiêu diệt. Họ đã nhầm nhưng thật kinh hoàng!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Ba, 2018, 04:48:49 am

Một buổi tối, trống nổi liên hồi và các mồi lửa rơm bện phá tan đêm tối - những ngọn lửa, dấu hiệu tấn công. Vai trò của "dân chúng" cuối cùng xuất hiện trước mắt chúng tôi. Việt Minh "thả" họ trên đường nhằm làm chán nản một nhóm người Pháp trước làn sóng người không vũ khí. Đội quân chính quy mai phục phía sau.

Tất cả bắt đầu cùng một lúc. Ở Cai Lậy đài chúng tôi chỉ còn là một hợp âm chói tai những lời gọi thất vọng. "Đây là Tignasse. Tất cả những tháp canh của chúng tôi đều bị tấn công. P21 đang bốc cháy". "Đây là Tapir. Những làn sóng tấn công ào vào P26 và P27". Khắp các nơi đều như vậy. Bốn mươi hai tháp canh lần lượt bị tấn công. Tôi lo lắng tự nhủ: "Bao nhiêu tháp gục ngã?" Nhưng tôi còn lo hơn cho những chiếc cầu.

Với hai khẩu 88 chúng tôi bắt đầu bắn chặn bao lấy những tháp bị đe doạ nhất - tầm bắn đã được tính toán trước. Đêm đỏ rực lên. Tôi có cảm giác đạn cối mất đi vô ích trong khoảng không bao la. Hai đội tuần tra xe bọc thép đã ra đi. Và tôi chỉ huy, buộc phải ở lại vị trí, tự hỏi chúng có vượt qua được rào chắn không. Người ta báo cáo có hàng chục, một số cao đến hơn hai mét. Và rồi bỗng nhiên Cai Lậy bị dội móc-chi-ê. Không quan trọng lắm.

Bây giờ đã có nhiều chi tiết. Từng phút một các đài báo tin. Trên suốt phần đường chúng tôi, Việt Minh tiến hành rất giống nhau. Quân chính quy ngụy trang trong các rừng dừa lân cận, dội vào tất cả các tháp canh bằng móc-chi-ê và đại liên. Khi một tháp bị trúng đạn, dân quê cầm đuốc ùa vào. Họ điên lên, hầu như chỉ có dao dựa, luôn tiến tới vừa cười vừa hô, nhào lên dây thép gai và tre vót nhọn. Trong số đó có cả đàn bà, trẻ em.

Bên trên, lính ngụy bị vây trong những vọng lâu bốc cháy, ném lựu đạn xuống hạ sát từng đám người. Nhưng hầu như vô ích, đám đông phục hồi lại nhanh chóng, bao giờ cũng nhiều và hăng say.

Giữa các tháp canh bị quần chúng bao vây, có những đám quần chúng khác cũng nhiều vô số làm rào cản, cho đến lúc những chiếc tăng A.M tiến lại gần bắn vào họ. Lúc đó họ mới tản ra, mang người chết và bị thương đưa lại các hố. Việc biến mất này như có ma thuật. Nhưng những chiếc xe bọc thép vừa đi qua, đám dân quê trở lại bù đắp lỗ hổng, cũng cố rào cản.

Vượt một rào cản, đội tuần tra đến một tháp canh bị vây hãm, càn quét dân chúng ở đây rồi tiến tới các rào cản và các tháp canh khác.

Cảnh ấy tiếp tục suốt đêm. Những chiếc A.M không ngớt đi, lại trên năm mươi cây số của con đường. Mỗi lần đi qua họ lại thấy những tháp canh ấy bị bao vây, những rào cản ấy được tổ chức lại. Đấy là cuộc chạy đua với thời gian, phải làm nhanh, trở lại đúng lúc, trước khi dân quê hình thành được những rào cản không vượt qua được, chưa chiếm được hoàn toàn các tháp canh. Chỉ một lần xe bọc thép đến chậm, họ thấy tháp bị phá hủy, những người bảo vệ và gia đình bị tàn sát.

Tuy vậy, cuối cùng những chiếc xe A.M đã thắng sau đêm thứ tư chiến đấu. Phải cả thời gian ấy để đánh bật khối người được tập hợp lại. Sắt thép đã chiến thắng. Lần này chúng ta đã thắng được số lượng người Châu Á, thật đáng sợ.

Điều lạ lùng, vào buổi sáng sau mỗi đêm như thế không còn dấu vết nào của những lộn xộn ấy, của đám dân chúng và xác chết. Người ta sửa sang lại con đường. Các nhóm nhân công phá bỏ nốt các rào cản, ngụy binh làm lại hàng rào bao quanh. Đến mười giờ giao thông lại tiếp tục: các "xe Trung Hoa" nối đuôi nhau chạy với những khối hàng lớn. Thương mại tiếp sau chiến tranh. Dân chúng Việt Minh của khu đầm lầy hoàn toàn biến mất làm người ta nghĩ là một giấc mộng xấu. Nhưng hoàng hôn tới, cơn ác mộng vẫn thành sự thực cho đến đêm nay không còn nữa.

Tôi tưởng việc những đám đông quần chúng kết thúc, và bây giờ là hòa bình theo lề thói của chiến tranh du kích thông thường. Nhưng phải chăng người ta sẽ thất vọng? Đông Dương vẫn biến động hơn, vẫn tạo cho ta một hư ảo thường trực.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2018, 07:52:39 am

Cuộc hành quân hư không

Xuống phía dưới một trăm cây số nhưng vẫn còn gần với con sông lớn Bassac, cuộc sống trở lại. Đấy là Sóc Trăng, thủ đô lúa gạo. Với danh hiệu này các bên đều để yên thị xã ấy trong hòa bình, với những hoạt động thương mại.

Thay vì cảnh vắng vẻ, tôi đến một thị trấn, một nơi đầy những chủ đại gia tầm thường, hơi suy sụp vì lẫn lộn thành thị thuộc địa, đông đúc Châu Á, rác bẩn, hôi thối và mọi thứ thô thiển.

Sự kiện lớn là cứ hai, ba tháng đoàn tàu thuyền đồ sộ chở vụ thu hoạch lên Sài Gòn. Có hàng cây số thuyền mành do tàu kéo và được bảo vệ bởi những sà lan trang bị vũ khí của Hải quân Pháp. Lượng lớn người, xe cộ ấy hàng nhiều tuần lễ ngược dòng sông Bassac, Mékong và những mương đào lên thủ đô. Đoàn thuyền đầy lúa gạo, trị giá nhiều triệu đồng. Các bên đều tính toán về chỗ đó; đoàn thuyền gạo đại diện cho bao nhiêu cuộc thương lượng, dàn xếp, mua bán bí ẩn! Đôi khi xảy ra sự không thống nhất về tài chính và Việt Minh tấn công. Lúc ấy thật lộn xộn, bê bết những dây cáp và tàu, dân lái thuyền biết bao kinh hãi. Đàn ông thất vọng chèo lái, đàn bà và trẻ em kêu la, trong khoang thuyền, trên những bì gạo giữa những tiếng súng nổ. Dòng nước trôi xuôi phá vỡ khối người và vật ấy. Các sĩ quan hải quân Pháp, luôn mặc đồng phục, ra lệnh vô vọng. Đại liên nhả đạn và các tàu kéo rít lên.

Thực tế ở Sóc Trăng, cuộc chiến chính là giữa tỉnh trưởng trẻ, một người chột lầm lì và đại tá chỉ huy quân khu. Một cuộc tranh chấp lúc nào cũng nặng nề và quyết liệt. Hàng ngày người ta đấu đá nhau, báo cáo gửi lên cấp trên, cao uỷ và tổng chỉ huy để tố cáo lẫn nhau.

Dù thế nào Việt Minh cũng không xa. Để giành lấy vinh quang, nhất là để được chính quyền Sài Gòn tín nhiệm hơn, thỉnh thoảng viên đại tá tổ chức những cuộc hành quân truy quét địch. Tôi đến đúng lúc ông đang chuẩn bị một cuộc như thế - nhưng là một điều rất bí mật.

Cuộc hành quân không có tên. Vì việc các chỉ huy đặt tên cho những cuộc giết người của mình chưa được tung ra thành mốt. Sau này họ lấy tên vợ, con gái mình đặt cho chiến dịch, đi đến cả thuật ngữ của gia đình bất hợp pháp như ở Điện Biên Phủ.

Ở Sóc Trăng năm 1949, chưa đến lúc đó nhưng không quan trọng. Dù cuộc hành quân vô danh, viên đại tá rất chu đáo: ông muốn chiến dịch thật hoàn hảo.

Sự thực đã có một mẫu chuẩn cho loại chiến dịch này. Vấn đề là bố trí xung quanh mấy người Việt Minh định tiêu diệt một thiết bị đồ sộ. Phải tiến hành một cách khoa học, bí mật, không để lộ việc chuyển quân và phương tiện. Sau đó chỉ còn "thu hẹp vòng vây", "xiết gọng kìm" và "bắt mồi trong lưới".

Thông thường người ta chẳng bắt được gì trừ những lời tuyên bố. Vì vậy người ta luôn bắt đầu lại năm này qua năm khác cũng những người ấy, thiết bị ấy, theo cách ấy - bao vây và càn quét. Những cuộc hành quân nặng nề và vô ích như vậy đã có bao nhiêu và sẽ còn có bao nhiêu nữa ở Đông Dương? Hàng trăm, hàng nghìn.

Sau một tuần hoạt động sốt sắng trong các văn phòng ban tham mưu quân khu, ngày N sắp tới. Một tối viên đại tá triệu tập tôi đến. Ông làm một cuộc "hội ý" lớn trước những tấm bản đồ ban tham mưu chiếm hết cả một bức tường. Giọng nói ông giản dị và thỏa mãn. Dĩ nhiên ông tự hào về "chiến lược" của mình trải rộng dưới ánh sáng qua những mũi tên đủ màu sắc.

- Ngày mai tôi đưa ông đi cùng. Chúng tôi sẽ tiêu diệt một chi đội Việt Minh. Căn cứ của họ là một làng trên bờ con kênh lớn nối liền Sóc Trăng và sông Bassac. Chúng ta lên một chiếc LCT lúc hai giờ sáng. Rạng sáng đã trông thấy mục tiêu. Tiểu đoàn lính Maroc ùa sâu vào quét sạch làng. Họ sẽ không tìm thấy Việt Minh, tôi biết, nhưng nhiệm vụ chính của họ là gây sợ hãi, dồn Việt Minh về phía Bassac. Lúc "quân vô lại" tưởng đã chạy trốn được là lúc chúng rơi vào bẫy của tôi. Vì trong lúc đó một chiếc tàu chiến của hải quân Cần Thơ ẩn vào một khúc sông sẽ đổ bộ một đội biệt kích chặn hậu. Việt Minh bị dồn đuổi sẽ đụng phải đội quân này, chỉ còn việc đánh hạ. Mọi việc đã được dự tính. Điều kiện thắng lợi là khi thoát ra chúng không lẩn xuống bờ - như vậy thì phải vượt qua con kênh. Nhưng chiếc LCT của tôi sẽ xô tới không chậm trễ; tôi có cả một máy bay truy tìm và xả đạn vào quân địch nếu chúng láu lỉnh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2018, 07:53:51 am

Làm sao tôi không tin vào đại tá được? Bốn mươi lăm tuổi, hồng hào, quý phái và phong thái rất đẹp. Ông thể hiện biết bao quyền lực khi mình trần, đội mũ ca-lô đỏ, tự mình lái chiếc xe jeep khinh thường chạy trên những con đường của thủ đô! Ngồi vào tay lái bao giờ ông cũng có bên cạnh một người Maroc quấn khăn trên đầu và dữ tợn, để nhắc nhở ông là một sĩ quan phụ trách công việc địa phương, một ông chúa cao cấp hơn nhiều những sĩ quan trong quân đội bình thường.

Nhưng tôi vừa ra khỏi văn phòng ông thì viên đại uý tham mưu trưởng níu lấy tôi:

- Ông sẽ không thấy bóng một Việt Minh, tôi có thể cam đoan với ông như vậy; Chính tôi làm kế hoạch, đã sáng tác ra ý tưởng thiên tài của "ông chủ".

Ở Sóc Trăng có những sĩ quan tham mưu không hề giống chỉ huy của họ, ít nhiều họ sinh ra từ tầng lớp dân chúng. Đại tá thì không bao giờ nắm chi tiết những cuộc hành quân; chính thuộc hạ ông chỉ đạo cuộc chiến, nhất là đại uý trưởng ban tham mưu.

Đây là một người thể trạng ốm yếu, ăn mặc lôi thôi, khô cứng lại như tấm da cũ nhưng thực tế khỏe mạnh và ranh mãnh, chịu đựng được mọi thử thách. Nguyên hạ sĩ quan ông đã qua các trận địa, các cuộc chiến tranh, bao giờ cũng ở những bốt tồi tàn nhất, vươn lên được do những công sức đáng khen của cấp dưới, những vết thương và khen thưởng; ngực ông là một mảng ngân hàng huân chương.

Ở Sóc Trăng ông làm việc rất có lương tâm nhưng luôn kêu ca, rên rỉ, khóc lóc. Lạ là con người này, đã thấy đủ màu sắc, ghét cuộc chiến tranh Đông Dương, như quá sợ hãi. Vừa mở miệng là tuôn ra hàng tràng chán nản tinh thần.

Nỗi buồn của viên đại uý thường vào giờ khai vị. Vào giờ này đáng lẽ vui vẻ, ông như chìm đắm vào những suy tư, ông tỉnh ra là để càu nhàu:

- Các ông biết không, anh ấy, một người bạn cũ vừa bị giết trong một trận phục kích; anh kia trúng mìn, mất một chân; anh nọ phát điên; một anh được đưa về nước cách ly, vấn đề lỵ amip, thật may mắn! Tôi thì như một xác chết thối rữa người ta đưa trở về Pháp.

Thế là toàn ban tham mưu vừa nhấm kẹo và uống cô nhắc - sôđa, cũng than vãn theo. Chủ yếu cũng vì lịch sự và bắt chước chứ các sĩ quan khác không phải là những người nhiều tưởng tượng. Nỗi buồn chán chấm dứt ngay khi đại tá xuất hiện - gậy chỉ huy cầm tay, nét mặt nghiêm trang và cao quý, nói năng chậm rãi. Vì ông không bao giờ suy sụp tinh thần. Ngược lại, là chỉ huy, ông biết nói với cấp dưới.

Nhưng mọi người biết ông sẽ không làm gì. Vì quân khu Sóc Trăng sẽ sụp đổ nếu không có đại uý; tất cả những lời than vãn dai dẳng không ngăn cản được ông là người nhẫn tâm nhất trong những con "bò cái", thực sự "vắt được nhiều sữa" vì biết mọi đường dây.

Sự phối hợp giữa hai người tiến triển rất tốt. Vùng xa xôi này của Sóc Trăng gần như được bình định. Lẽ tự nhiên đại tá cho rằng nhờ có ông. Ý của ông là Việt Minh đã rất suy yếu do những cuộc tàn sát ông tiến hành trong khu.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2018, 07:55:39 am

Thực ra xung quanh Sóc Trăng có một dân tộc ít người, vài trăm nghìn Khmer. Dọc con đường 16 đổ máu, Sóc Trăng như một ốc đảo, nhuốm vẻ thanh bình phật giáo của người Khmer. Dù sao cũng còn khá nhiều Việt Minh để làm hài lòng đại tá và làm đại uý không hài lòng. Vì những làng Khmer có xen lẫn những làng "bất hảo" Annam và một số Khmer đã bị lây nhiễm.

Điều đó cho phép đại tá âm ỉ chuẩn bị những cuộc hành quân như chiến dịch tôi được chứng kiến. Sau đó ông gửi báo cáo thắng lợi lên Sài Gòn, bất kể những lời cay độc của cấp dưới!

Ban đêm khi chúng tôi lên tàu với toán lính Maroc, viên đại uý không vui nhưng đại tá mặt mày rạng rỡ. Thái độ vui vẻ của ông không hề mất đi khi con tàu quá nặng và quá lớn so với con kênh nhỏ khúc khuỷu nên bị sa lầy. Để trục nó lên, đoàn thủy thủ phải mất mười phút chửi rủa và chèo chống. Tôi sợ sự huyên náo ấy báo động Việt Minh. Đại tá thân mật trấn an tôi: "Chúng ta tóm chúng ngay tại sào huyệt".

Mọi việc khó khăn, kéo dài. Trời sáng đã lâu chúng tôi mới cập bến trên bờ bùn lầy và nhảy lên đất liền. Tôi nhận thấy ngôi làng cần đến, một đám đen cuối chân trời. Phải qua một cánh đồng rộng; chúng tôi tiến lên hàng đôi. Tôi lội bì bõm theo đại tá, trong lớp bùn bẩn và hôi thối. Bùn hút lấy chân, bám chặt vào và làm đen chân. Lớp bẩn của đồng ruộng dính vào da. Tôi hiểu vì sao ở Đông Dương, chiến binh nhận ra nhau ở "bàn chân" của họ; chỉ những người "vớ được công việc bở" bàn chân mới sạch sẽ.

Trong lớp bùn lầy đáng sợ này chúng tôi tiến lên chậm chạp đến thất vọng, vừa mệt nhọc. Mọi phía đều có thể thấy chúng tôi, dù ở xa người ta cũng trông rõ đám người nôn nóng và bí mật của đại tá!

Không một tiếng động, một phát súng, một con người. Chúng tôi đơn độc với nhau, những người Pháp, Maroc nặng nề, đang thực hiện hoạt động đã dự kiến, đúng theo mũi tên chính trên tấm bản đồ của đại tá. Nhưng làm sao chúng tôi không bị phát hiện được?

Đến tám giờ rưỡi chúng tôi đang giữa cánh đồng. Mỗi phút viên đại tá lại sửng sốt nhìn đồng hồ. Không chịu nổi nữa, ông hỏi tôi:

- Ông có nghe một tiếng nổ nào không?

- Không, thưa đại tá.

- Có việc gì xảy ra vậy? Vào giờ này chiếc tàu của Hải quân bỏ neo ở Bassac đã phải bắn một phát ca-nông báo cho chúng ta đội quân chặn hậu đã được bố trí.

Đại tá tiếp tục xem đồng hồ; mỗi lần xem lại hỏi tôi cùng câu ấy:

- Ông không nghe thấy gì sao?

Tôi không nhận ra một tiếng động nào. Đến chín giờ mười lăm, đại tá nhăn mặt triết lý; ông đã quen với những bất ngờ của chiến tranh.

- Tôi cảm thấy có "trục trặc" rồi, ông tâm sự với tôi. Một anh lính già như tôi, việc ấy nhận ra ngay. Tôi cam đoan là ở chỗ Hải quân!

Điện đài liên lạc được với Hải quân. Họ rất ngạc nhiên, nghĩ việc chặn hậu dự kiến vào ngày mai. Sai sót thời gian...

Dù sao đại tá cũng không hài lòng. Ông càu nhàu sẽ viết báo cáo lên Sài Gòn đề nghị trừng phạt. Vì, không có quân chặn hậu, cuộc hành quân thành vô nghĩa. Việt Minh thoát đi như họ muốn.

Tuy vậy đại tá lấy lại sự thanh thản để kết luận:

- Vì kế hoạch đã được bố trí, chúng ta cứ tiếp tục. Biết đâu! Cuối cùng, hết khoảng bùn lầy, đồng ruộng, chúng tôi đi hàng một trên một bờ kênh, đến những mái nhà tranh đầu tiên. Làng hoàn toàn vắng vẻ - không một người dân, không một Việt Minh. Mọi người đã ẩn nấp trong bụi bờ, đầm lầy lân cận từ lâu. Chúng tôi tiếp tục tiến lên, không có việc gì khác. Cứ đi bộ như vậy hai, ba cây số vì khu dân cư trên khoảnh đất liền này dài vô tận. Vẫn tuyệt đối hoang vắng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2018, 07:56:15 am

Tôi đi dọc hàng quân: đội quân đi đầu làm trái ngược hẳn với đội sau, theo đường lối chính trị mềm mỏng; Một sĩ quan ra lệnh triệt để cấm đốt phá. Ông cho thả truyền đơn khuyến khích dân chúng về với sự bảo vệ yên bình của người Pháp - những người này được cơ quan tâm lý chiến Sài Gòn cử tới.

Ngược lại, ở phần đuôi người ta quyết tâm thực hiện thông tư của Văn phòng 3 Đội quân viễn chinh ghi rõ phải diệt cơ sở của quân địch bằng mọi cách. Quân lính cố đốt những mái tranh bằng diêm và bật lửa nhưng nó ẩm ướt quá không bắt lửa. Thế là họ đập vỡ mọi thứ - chum vại lúa, bình, giường chõng, những tài sản nghèo nàn của dân quê. Và rồi đi xa hơn, mang theo lợn gà.

Bỗng tất cả ngừng lại. Giữa hàng quân, đại tá biến mất, Cả một sự lộn xộn. Viên đại uý cử tuần tra đi mọi hướng để tìm. Mười lăm phút trôi qua trong lo lắng, vẫn không thấy đại tá! Đột nhiên ông xuất hiện, chúa tể hơn bao giờ hết từ phía người ta không ngờ tới. Ông kêu lên ngay, giọng chỉ huy:

- Mất trật tự như vậy là thế nào? Vậy là tôi không đi xa được mấy phút mà việc không tồi tệ đi sao?

Chúng tôi lại ra đi, theo con đê, sau nhiều khúc quanh đến được chỗ con kênh tàu LCT chờ chúng tôi. Chiếc máy bay thám thính độc nhất đưa về cho quân khu - chiếc máy bay đại tá đã kể với tôi - cũng ở đấy. Phi hành đoàn có phát hiện ra quân lính Việt Minh người ta định tiêu diệt. Họ chỉ cách chúng tôi hai trăm mét, trước mặt, bên kia con kênh. Mười lăm phút trước đây họ qua kênh trong những con đò, trước mắt chiếc LCT mà người ta chẳng thấy gì.

Con "mồi" rất gần, bây giờ đã phát hiện ra nhưng đuổi theo làm gì? Vì phải vượt qua kênh mà chúng tôi chỉ có chiếc LCT. Thời gian lên tàu từ bờ bên này, đổ bộ ở bờ kia thì còn đâu Việt Minh. Việc đó cũng phải mất hơn một tiếng đồng hồ.

Rất khôn ngoan, đại tá quyết định bỏ rơi chi đội mặc số phận của họ. Và bước ngoặt của những sự kiện cũng cho phép ông tự an ủi một phần về "trục trặc" từ đầu.

- Kết cục, việc Hải quân Cần Thơ nhầm một ngày cũng chẳng quan trọng. Vì dù đội quân "chặn hậu" có mặt tại chỗ cũng không được việc gì, sẽ chẳng thấy ai. Việt Minh không đi theo con đường được dự kiến. Họ rẽ theo hướng khác. Quân súc vật!

Chúng tôi lại lên chiếc LCT, nhưng để đi xuống phía dưới mấy cây số của sông Bassac, chỗ con tàu Hải quân cắm neo. Dù sao đại tá cũng nói thẳng ý nghĩ của mình với số lính thuỷ. Ông cũng muốn "mắng chửi" viên đô đốc có mặt trên tàu.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2018, 07:57:49 am

Vị trí Cà Mau

Điều ngạc nhiên ở Đội quân viễn chinh là khả năng lột xác, nặng trĩu những yếu kém, những kỳ cục; cuộc chiến chỉ còn là một hài kịch tầm thường đẫm máu. Nhưng đột nhiên, những nhân vật tầm thường - những kẻ khoe khoang, kiêu ngạo, khoác lác, mánh khoé; ngu xuẩn - làm cho người ta khâm phục vì sức dẻo dai và tính không vụ lợi. Đức tính sâu xa của tất cả những lính đánh thuê Pháp, sĩ quan cũng như binh lính, trong hoàn cảnh bắt buộc, tự quên mình, quên những định kiến, vươn tới tầm cao.

Viên đại tá của Sóc Trăng là thế, biến đổi dưới mắt tôi thành một chỉ huy thực sự, điều độ và tỉ mỉ.

Một hôm ông bảo tôi:

- Tôi sẽ đưa ông đến làm vinh dự cho Cà Mau. Đây còn trong khu tôi.

Ông nói với tôi theo kiểu một chủ trại hào hoa đưa khách đến thăm đất đai mình. Một chuyến đi nguy hiểm. Phải gần trăm cây số người ta mới đến vùng cuối Đông Dương, giữa rừng ngập nước, giữa vũ trụ sống dưới nước, trong lãnh địa của lữ đoàn hải ngoại đáng sợ. Con đường là đoạn cuối đường 16 bị cắt đứt nhiều tháng mới sơ bộ sửa chữa lại. Qua con đường người ta đến một nơi đồn trú tưởng đã mất đi và chỉ là một đầu đinh ghim trong khu vực bao la để lại cho sốt rét và Việt Minh.

Ngày ra đi đại tá rất thoải mái, phong cách đẹp hơn bao giờ hết. Tôi ngồi bên cạnh ông trên chiếc xe jeep ông tự lái lấy, dĩ nhiên mình để trần. Người lính Maroc quấn khăn chuyển xuống ghế sau. Một đoàn tùy tùng nhỏ đi theo chúng tôi.

Vừa rời khỏi Sóc Trăng con đường Cà Mau đã thê thảm. Chỉ còn là con đường đất nện đi thẳng, vô tận đến một vùng bằng phẳng dọc theo một con kênh, cảnh đông đúc Châu Á nhường chỗ cho một sự vắng vẻ tuyệt vời; nhịp sống, giao thông chấm dứt. Người ta bước vào cái chết toàn bộ, thiên nhiên cũng bị huỷ hoại. Người Pháp áp dụng đường lối tiêu thổ khắp các vùng chung quanh.

Chỉ ở xa, phía chân trời người ta mới thấy tán cây rừng và màu xanh đồng ruộng. Ở gần hơn là cỏ cây bị đốt cháy, cây bị hạ; trạng thái tự nhiên chỉ còn nước tù hãm hôi thối. Đại tá bỏ một bàn tay mang găng ra khỏi tay lái, khoát rộng chỉ cho tôi khoảng mênh mông chẳng còn gì:

- Chúng tôi phải cấm mọi sự hiện diện của người, cả cây cối trong vòng hơn một cây số bên này và bên kia đường để tránh việc phục kích. Các làng bị dỡ ra, chuyển đi từng nhà một ra khỏi "vùng trắng" của con đường. Tôi ra lệnh cho quân lính bắn vào bất cứ ai, một sinh vật sống nào có mặt ở đấy không cần cảnh báo. Riêng đoàn xe "ca Trung Hoa" cho đi lại - có thể xóa bỏ tất cả trừ thương mại.

Nhưng tôi thấy khoảng không cũng không đưa lại sự an toàn. Dù thiên nhiên đã bị cạo trơ trụi những cuộc phục kích vẫn phát triển. Phải xây dựng những chiến tuyến dọc con đường.

Thực vậy, con đường mang sự hiện diện đều đặn về quân sự, gần giống như một con đường sắt với hệ thống biển báo. Một lần nữa tôi nhận ra những yếu tố chuẩn của cuộc chiến tranh Đông Dương. Với vẻ đơn điệu mệt mỏi, chúng tôi đi qua những đồn bốt to nhỏ, tháp, vọng lâu, trước vô số lô-cốt, dây thép gai, súng máy, cờ và binh lính mọi chủng tộc. Nhưng ở đây, trong cảnh điêu tàn của con đường 16, trong cái hư không tạo ra, việc bố trí trải dài này cho tôi một cảm giác lạ lùng không phải thể hiện sức mạnh mà một vũ trụ tập trung trong đó mỗi người là tù nhân của người vô hình, của miền cực tây, của sự đe doạ thường trực.

Vì quân địch luôn luôn ở đó mặc dù mọi cải tiến về hạ tầng kiến trúc, mọi sáng kiến, tất cả những triệu bạc chi phí, mặc dù tất cả những kho tàng của trí tưởng tượng quân sự. Quân đội phí công tìm một áo giáp nguyên vẹn cho con đường, Việt Minh vẫn không ngừng tiếp cận và tấn công. Họ luôn tìm được những chỗ rạn nứt.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2018, 08:00:34 am

Chúng tôi lăn bánh trong nhiều giờ. Tôi nhận ra những chỗ phục kích nhờ những cử động đầu của viên đại tá. Khi đến một góc đáng ngại, ông nhìn vội sang phải, sang trái nhiều lần liền, như việc đung đưa người của khán giả cuộc đấu tennis: để tìm xem phía dưới chỗ nào có thể xuất phát cuộc tấn công, vả lại trong các xe hộ tống tất cả những cái đầu đều cùng động tác ấy, thể hiện nỗi sợ hãi một cách máy móc, kỳ lạ.

Vượt qua nhiều cây số không khí mỗi lúc càng nặng nề. Toàn cảnh hoang dã. Xung quanh chúng tôi ngút ngàn một vùng đầm lầy, bùn đen điểm những chấm trắng là vô số chim. Trong các bốt, các sĩ quan báo cáo có ba chi đội tập hợp cho một cuộc tấn công. Giông tố sấm rền, cả tiếng ca-nông nhả đạn. Xa xa ngọn lửa một đám cháy lớn bốc lên. Một làng đang cháy.

Thị xã Bạc Liêu là nơi văn minh cuối cùng, với những đường phố, cửa hàng thực sự, đông dân. Tiếp đó ngột ngạt hơn. Những nơi đồn trú rào kín, đóng chặt hơn. Tuyệt đối trống không. Quang cảnh chỉ lầy lội và năn lắc, nước đỏ ngầu đầy rác bẩn dập dềnh đến vô tận.

Và rồi xung quanh con đường cả những công sự bảo vệ cũng giảm thiểu và biến mất. Đường 16 chỉ còn là một giải đất hoàn toàn đơn độc, hoang vắng, nổi lên trên mặt nước.

Sau hàng chục cây số trống vắng hoàn toàn tôi bỗng thấy một khoảng đất liền - có xây công sự, vuông vắn, xung quanh là tháp và vọng lâu. Nhưng gần như là một ảo ảnh. Vì lại gần chỉ có vài bức tường mỏng manh bằng tre bao quanh mấy căn nhà tranh trên một vạt đất bùn nện. Chỉ là khổ sở và nghèo nàn, cũng buồn và trơ trụi như môi trường xung quanh.

- Đấy là làng lính ngụy của chúng tôi, đại tá giải thích. Người ta đưa họ từ xa tới đây cùng với gia đình vì trong vùng ngập nước hoang vu này không có dân cư, không làm cách nào tuyển mộ được. Chỉ những toán Việt Minh bám trụ lại được - nhưng trong những hoàn cảnh thật đáng sợ!

Bố trí người của chúng tôi ở đây là cả một vấn đề. Không có gì hết, thậm chí không có mấy mét vuông đất cứng. Trước hết, với những chiếc thúng nhỏ, làm một chiếc bánh bùn khổng lồ, san ra, để cho khô - đấy là nền. Sau đó để xây dựng chẳng có đá, gỗ; chỉ lau sậy và một ít tre. Kết quả là một xóm dân nghèo chứ không phải bốt. Trong ổ chuột này không một người Pháp, không có cả một hạ sĩ của thuộc địa. Thế mà quân lính trong đó không phàn nàn, thậm chí tự bảo vệ nữa.

- Tại sao ông không cho làm một bốt Pháp thực sự?

- Sẽ quá nghiêm trọng nếu bị hạ, mà gần như chắc chắn sẽ bị hạ.

Còn đi nhiều cây số trong hoang vắng và chúng tôi vào trong khu rừng lớn ngập nước. Giống như trong đêm tối. Từ mặt nước đen ngòm trồi lên những thân cây chằng chịt dây và rêu. Một mớ rối beng khổng lồ những hình thù vô định, tối tăm, cuộn vào nhau mơ hồ gần như ác mộng. Hầu như không thấy gì, nghe gì. Nhưng chẳng có gì dọa dẫm hơn cảnh tĩnh lặng trong rừng.

Thực vậy, trong im ắng bỗng nổi lên những tiếng cồng. Có những dấu hiệu, những đám khói rất gần. Đại tá tăng tốc nhưng không đi nhanh được vì cây cỏ mọc trên đường. Tiếng trống đuổi theo chúng tôi, hình như sắp bắt kịp.

Rồi trong mấy giây là ban ngày, ánh sáng mặt trời. Đột ngột ra khỏi bóng xanh mờ tối, chúng tôi đi vào một lòng chảo đầy song mây mục nát, nửa dầm trong nước - một trong những vùng trũng thường thấy trong rừng. Chúng tôi đến Cà Mau, nơi tận cùng thế giới.

Không còn nỗi o ép của rừng. Lại là cảnh buồn chán của một không gian trống không, của vùng đất bị cháy. Lần này thì do Việt Minh phá huỷ và đốt. Họ nhấn chìm cả một thành phố, trước đây là một thị xã thuộc địa xinh xắn. Một lớp cỏ và cây bụi không gỡ được đã phủ lên toàn vùng.

Chỉ có một số đổ nát cây cối trùm lên. Sú vẹt thỉnh thoảng bị ngắt quãng vì những đống gạch đá - những gì còn lại của các ngôi nhà. Những cây phượng thẳng hàng còn xác định được ranh giới nhưng con đường đã biến mất. Và cứ nghĩ vì những đổ nát ấy mà tôi đến từ xa như thế!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2018, 08:01:28 am

Tuy vậy, sa mạc xanh này chứa đựng bao nhiêu người, nhưng họ ở đây để chém giết lẫn nhau. Đấy là những lính lê dương, chốt chặt trong một loại thành trì. Xung quanh họ là Việt Minh ẩn nấp trong những đống đá vụn và bụi cây. Lô cốt của họ đã sụp đổ nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục.

Lính lê dương rút vào một góc xây cứng cát giữa khoảng bốn cạnh là kênh mương. Họ sống sau những vị trí nổ súng, bắn chặn, trong những lô cốt và công sự, ít bị vây hãm hơn trước đó. Và bây giờ so lại, họ thật sung sướng! Vì nếu đại tá đôi khi "tự đến" theo con đường được mở lại bia rượu cũng đến và cái này bù đắp cho cái kia. Và rồi họ còn sống sau khi cứ nghĩ sẽ chết! Sự thử thách thật ghê gớm.

Những người ở đây kể lại với tôi:

- Chúng tôi suýt bị điên; đến đây đã gần một năm, trong những đổ nát bệnh hoạn này, trong một thành phố bị đốt cháy luôn luôn có những trinh sát và xạ thủ Việt Minh. Người ta từ trên cây cao bắn hạ chúng tôi. Ban đêm những chi đội toàn vẹn dội súng cối vào chúng tôi. Họ ở bên kia con kênh, vẫn múa hát.

Một thời gian vô tận chúng tôi bị cách ly với thế giới bên ngoài; con đường bị cắt. Một hôm việc tiếp tế không đến, người ta báo trước sẽ không có nữa. Chúng tôi là quân lính lê dương bị mất hút ở Cà Mau. Tuy thế chúng tôi sống sót, đánh nhau cả ngày lẫn đêm. Khi không cầm tiểu liên thì nắm lấy bay. Chúng tôi nỗ lực xây dựng lại trong sáu tháng thành trì đã sụp đổ, không tự vệ được. Phải có những đợt hành quân biệt kích để thu nhặt đá ở những đống đổ nát gần nhất. Không có nước uống, phải dùng tay đào lại chiếc giếng sâu bốn mươi mét bị Việt Minh lấp đất và mìn. Thật kinh hoàng khi vét lại chiếc lỗ không đáy này! Bao nhiêu người chúng tôi bị tử nạn khi gỡ đá từng nắm tay một!

Thức ăn chỉ một bát cơm mỗi ngày. Chúng tôi đi mò tìm như mù, kiệt sức trong đầm lầy, sú vẹt, những gì ăn được để sống. Nhưng thiên nhiên trống không, thù địch, bao la. Một hôm chúng tôi dắt về được một con trâu - thật vui mừng, thật thịnh soạn! Nhưng một lần khác trong lúc đi kiếm thức ăn như thế chúng tôi bị cả một tiểu đoàn Việt Minh bao vây. Phải chiến đấu dữ dội để thoát thân và chúng tôi có những người bị giết. Sau lần đó chúng tôi không ra ngoài nữa.

Cơn điên rình mò chúng tôi trong thành trì chết tiệt này, trong mấy mét vuông nhà tù bị nóng nực, sốt rét và đói khát hành hạ. Bị thương, bị bệnh cũng không có thuốc. Chúng tôi u buồn, dễ nổi cáu, bạc nhược gần đi đến chỗ tự sát hoặc nổi loạn. Nhưng chúng tôi vẫn trụ vững, không tưởng được con người có thể chịu đựng được như thế. Việt Minh gọi hàng, chúng tôi trả lời bằng nhả đạn. Nhưng chúng tôi chẳng còn hy vọng gì.

Chúng tôi chỉ còn chờ chết, không thể kéo dài lâu nữa. Chính lúc đó nghe đài biết người ta sẽ đến cứu chúng tôi. Mấy ngày sau các tiểu đoàn hành quân giải phóng xuất hiện. Chúng tôi là những người bị kết án tử hình trở về với cuộc sống. Thật tuyệt vời. Từ đó Cà Mau cũng là một bốt như mọi bốt khác. Chà, nếu ông đến được vào thời kỳ ấy...


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2018, 08:03:31 am

Cái chết của viên đại uý

Mấy tháng sau tôi gặp một sĩ quan Sóc Trăng ở Sài Gòn.

Chúng tôi cùng uống khai vị ở khách sạn Continental. Trong tiếng ồn của đại lộ Catinat, ông cho tôi những tin tức của quân khu:

- Ông đại tá sắp hết nhiệm kỳ, sẽ trở về Pháp, sắp tới chẳng còn người cũ nào.

- Thế còn ông đại uý phó chỉ huy?

- Thế nào, ông không biết sao? Ông ấy bị giết cùng hầu hết ban tham mưu. Thật ngu ngốc. Ông bị tiêu diệt trong một cuộc phục kích bình thường cách Sóc Trăng vài cây số, đi trên chiếc xe jeep cùng các sĩ quan trong một chuyến thanh tra trở về. Việc đó xảy ra trên con đường lớn, trong vùng được xem là đã bình định, chắc chắn sẽ không có trở ngại gì, vì đã ở ngoại ô thị xã. Một khẩu tiểu liên xả đạn vỗ mặt.

Ông đại uý khốn khổ! Ông chết đúng như ông đã dự kiến. Tôi nhớ rất rõ giọng nói thảm hại của ông khi tuyên bố cuộc chiến tranh này "sẽ diệt" ông như sẽ diệt mọi người và ông sẽ trở về Pháp trong một chiếc quan tài. Điều ấy đã đến.

Ông đã đau đớn nhiều trước khi tắt thở! Một viên đạn bắn trúng chân xoáy trong chân thành vòng quanh xương. Ông chết vì hoại thư ở bệnh viện Sài Gòn.

Cái chết của ông làm các nhà chức trách quân đội bối rối. Họ phát hiện ra ông có hai bà vợ. Vợ chính của ông và các con ở với bà mẹ. Nhưng sau Giải phóng ông cưới một cô gái đẹp ở Strasbourg và cũng đã có con. Và đám cưới hoàn toàn hợp pháp, trước mặt thị trưởng. Tôi không rõ quân đội giải quyết tiền tuất ra sao với các bà góa. Có vẻ hai bà cố gắng dàn xếp tốt nhất để không nhấn chìm thanh danh của ông đại uý.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2018, 08:04:20 am

Những chúa tể của cuộc chiến tranh

Cách xa Nam Kỳ chìm đắm trong tàn bạo, xa những đám dân chúng người ta giành giật bằng mọi kỹ thuật, xa sự hoạt động của lớp đông người và đồng bạc, có một cuộc chiến tranh du kích khác.

Điều này xảy ra trên xứ Thái, được gọi thế vì nhân dân chủ yếu ở đây là một nhánh xa của dòng tộc Thái.

Vùng này thiên nhiên hung dữ và bao la, chỉ là những rừng rậm không được biết đến, những rặng núi đáng sợ, những vực thẳm. Gần như không tiếp cận được: trước kia để tới đó phải mất hàng nhiều tháng vì xa xôi và sốt rét!

Vả lại có ai tới đó? Một vùng hoang dã núi rừng cách biệt tất cả, ở phía nam dải sông Hồng, dưới chân cao nguyên bao la Vân Nam. Để lên đấy phải đi xuồng ngược dòng sông Đà tuần lễ này qua tuần lễ khác hoặc đi bộ không dứt theo đường mòn. Hành khách thật hiếm hoi.

Thế nhưng khi đã lên đến xứ Thái, người ta phát hiện ra đấy là địa đàng. Vì trong cảnh vắng lặng ấy, qua nhiều thời đại Châu Á nó vẫn giữ nguyên vẻ đẹp và cổ kính nhất - cuộc sống êm dịu, tình yêu và sắc đẹp, sự tàn bạo ngây thơ. Và những chúa tể của chiến tranh bảo vệ những phong tục tổ tiên ấy.

Đến vùng ấy là đắm mình trong bóng tối thời gian. Những điều ấy vần còn, nhưng được bao lâu?

Vì muốn đến xứ Thái chỉ phải mất hơn hai giờ đi máy bay. Bỗng nhiên vùng này bị cuốn vào guồng máy chiến tranh hiện đại. Cán bộ chính trị và quân lính Việt Minh đã lên đấy. Người Pháp cử các đội quân lên đánh. Các bên lôi kéo vào những rối rắm của họ nhân dân vùng núi và thung lũng vốn hạnh phúc trong sự lười biếng, chỉ lắng nghe lúa mọc và trồng một ít cây thuốc phiện.

Tôi cũng sẽ tới đó, muốn xem sự đụng độ giữa Châu Á cổ kính và Châu Á mới. Thậm chí tôi phải nhanh chân, sợ thiên đường xứ Thái rồi sẽ biến mất, do những lực lượng ghê gớm của thời đại này tàn phá.

Thực tế, người Pháp nắm lấy người Thái, chỉ làm chậm lại sự thất bại thảm hại trong mấy năm. Bản thân họ, để chống sự thâm nhập và tấn công của Việt Minh, ngày càng dấn sâu vào núi rừng xa xôi ấy. Cuối cùng họ hoàn toàn bị nhận chìm: các tiểu đoàn xung kích của họ sẽ bị tiêu diệt trong lòng chảo Điện Biên Phủ do các sư đoàn của ông Giáp vây hãm.

Năm 1948 chỉ là bước đầu một quá trình. Chỉ những phân đội yếu tham chiến. Chủ yếu vì Việt Minh tự lựa chọn vùng rừng núi để đụng độ với người Pháp: ở đây họ chiếm ưu thế. Bi kịch đã bắt đầu nhưng người ta còn chưa biết. Có ai hình dung xứ Thái có thể là mồ chôn Đội quân viễn chinh. Người nào nói trước điều đó sẽ bị cho là điên và bị giam kín.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2018, 05:37:04 am

Chọc thủng màn mưa bụi xuống Sơn La

Mưa phùn. Một lớp bông bao trùm châu thổ Bắc Kỳ. Làn mưa bụi không dứt. Trời mây u ám lẫn trong đất ngập u ám. Dù sao vẫn phải tiến hành cuộc chiến trên châu thổ trơ trụi và ướt át này, trong một vũ trụ bể kính, trong bùn, nước bẩn đồng ruộng, trong lầy lội những bờ đê và đường sá.

Tôi sắp bay đến vùng rừng rậm đầy nắng, tới Sơn La, Lai Châu và Lao Cai. Tôi đang ở sân bay quân sự Bạch Mai, Hà Nội. Khoảng vài chục máy bay Junker lụ khụ, xếp hàng bên nhau như bị sương mù nuốt chửng. Những chiếc máy bay khốn khổ này, bị thế giới bỏ quên, là toàn đội không lực Pháp ở Bắc Kỳ. Chúng làm cầu nối tất cả những đồn bốt ở miền cao Bắc Kỳ và Lào, đóng trong rừng rậm như địa ngục rộng lớn bằng một nửa nước Pháp.

Một điều lạ của cuộc chiến tranh Đông Dương là dải rừng rộng lớn này còn thuộc về người Pháp hoàn toàn bị cắt khỏi châu thổ Bắc Kỳ. Nó bị ngăn cách bởi "hành lang" Việt Minh vùng hạ lưu sông Đà nối tứ giác Hồ Chí Minh với Annam đỏ của Vinh và Thanh Hóa. Vậy là những chiếc Junker này chơi trò nhảy cừu trên hành lang ấy đến những bốt trong vùng rừng núi, đảm bảo sức sống cho quân lính giữa nơi cô quạnh.

Ngày này, qua ngày khác, những "tảng thép" sửa chữa qua quít ấy bay đi. Mặc mưa phùn mùa đông, gió mưa mùa hạ với những giông tố bão bùng, mặc núi rừng ngổn ngang, chúng phải thực hiện toàn bộ kế hoạch tiếp tế những khu đồn trú ở địa đầu thế giới. Chúng phải nặng nề quay vòng trên những vùng "bị rơi đột ngột", giữa những chỏm núi, mây mù, thả xuống những hộp quý giá cuối những chiếc dù nhiều màu sắc; đối với những người ở dưới, cuộc sống đến từ trời cao. Vì vậy cầu hàng không chẳng bao giờ ngừng lâu. Junker phải vượt qua mọi thời tiết.

Không có một sự "hướng dẫn" nào từ mặt đất. Các đội bay tự định hướng, thường tan vỡ vì đụng phải một chỏm núi cao xuất hiện bất ngờ. Ngày nay ở Bạch Mai một nhà kho tạm biến thành một nhà nguyện cho người chết. Trang trí bằng mấy mảnh vải dù, vài cánh chong chóng; bàn thờ dựng lên trước một chiếc máy bay bỏ đi. Nhưng xác không ở đó mà nằm tan tác đâu đấy trong rừng biên giới Trung Quốc, ở chỗ nào không biết, không tìm ra, chỗ máy bay bị va đập. Không may, máy bay không chỉ chuyên chở tiếp phẩm mà cả người. Một toán hai mươi quân nhảy dù chết. Đấy là tai họa thứ năm loại này trong một tháng.

Người ta đến tìm tôi để chuẩn bị bay. Tôi đi lại trong sân bay, hình ảnh của thiếu thốn mọi thứ. Khắp nơi là dấu vết những vật dụng quân sự cũ, quang cảnh của một trại lính bỏ bê.

Không có máy bay tiêm kích cũng không có máy bay bỏ bom ở Đông Dương. Cũng không ai đòi hỏi. Phi công giải trí bằng cách ném đạn cối qua cửa Junker xuống Việt Minh họ nhìn thấy. Khi mệt họ bảo thợ máy mắc bom dưới buồng máy bay. Nói chung hệ thống hoạt động nhưng người ta không bao giờ chắc chắn bom rơi. Vả lại cũng chẳng quan trọng, đấy chỉ để giải trí. Việc hạ cánh sẽ thích thú hơn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2018, 05:37:38 am

Hôm ấy, giữa sân bay chết một chiếc Junker ầm ì như một con bọ hung. Đấy là chiếc tôi sẽ lên. Phi hành đoàn báo trước sẽ cất cánh dù không thấy gì, về nguyên tắc phải cấm bay. Người ta vẫn đi vì là một nhiệm vụ ưu tiên tuyệt đối. Phải hạ cánh ở Sơn La để nhặt năm thương binh nặng đang hấp hối chờ mang đi. Phi công lái cuối cùng nói với tôi:

- Dù sao "chọc thủng" sẽ gay go.

Tôi không hiểu điều đó có nghĩa ra sao nhưng không dám hỏi.

Vừa cất cánh gặp ngay trở ngại, không gian gần như đông đặc. Với những đợt dồn lực máy, với tiếng rú mệt nhọc, chiếc Junker lên dần, khó khăn. Rồi trong hai tiếng đồng hồ dai dẳng, máy bay vào trong đêm trắng. Tôi cảm thấy nguy ngập nhưng "những người ném hàng" uống rượu nho và ngồi xổm trên sàn.

Cuối cùng Junker quay vòng tìm kiếm cái gì đó. Bên ngoài bầu trời đục hơn bao giờ hết. Một hành khách khác, một sĩ quan bộ binh co ro trong tấm chăn giải thích cho tôi:

- Chúng ta đang ở khoảng phía trên Sơn La. Để đến đây chúng ta phải theo một hướng định trước. Về nguyên tắc sau một thời gian - hình như hai giờ mười lăm phút chúng ta ở thẳng đứng với Nà Sản, sân bay Sơn La. Bây giờ là lúc "chọc thủng" xuống, không một dấu hiệu nào từ mặt đất mù mịt, tất cả đều do bản năng. Đội bay đang tìm một chỗ sáng hơn trong mây mù để lao vào và hạ cánh gần như an toàn. Nếu không tìm thấy chỉ còn cách nhắm mắt lao xuống, một loại cá cược may rủi. Vì bên dưới địa hình "nhấp nhô” và nhiều khả năng đâm vào một ngọn núi hơn là xuống đúng bãi đáp.

Chiếc Junker bỗng bổ nhào xuống. Qua những đám mây tôi nhận thấy một đám đen lớn lao vào chúng tôi. Đấy là một chỏm núi. Chỉ trong một phần giây, phi công lái lật chiếc máy bay, đúng lúc tránh được cú va chạm. Cuối cùng chúng tôi vào một ánh sáng mờ, bay trong hành lang kỳ lạ ở trong lòng một hình tam giác sáng giữa nền trời mây và hai cánh thẳng đứng một thung lũng hẹp và sâu, chật đến nỗi từng lúc máy bay sắp chạm cánh. Sau mười phút chúng tôi ra khỏi đường hầm; những dãy núi liên tiếp đáng sợ đến mức người ta khó hình dung con người sống được ở đó chứ đừng nói đánh nhau.

Một đường máng mở ra trước mặt chúng tôi, máy bay đậu xuống. Tôi chỉ thấy một đường băng đầy cỏ giữa núi rừng. Thế mà chiến tranh đã ở đấy trên sân bay rẻ mạt này thể hiện trước hết dưới hình thức một chiếc Junker tan thành mảnh trên một bờ thấp gần đấy. Một chiếc xe cứu thương cổ xưa kỳ cục. Từ toa xe trước hết bước ra một đại uý gầy như người chết hoặc vừa thoát chết. Ông tới gần khập khểnh trên đôi nạng. Đấy là một bóng ma gắn lon, với những cử chỉ giật giật và nghiêm túc, chào phi hành đoàn Junker. Viên sĩ quan này trong người còn mảnh đạn đum-đum bị bắn ở chỗ xa, đi mất nhiều ngày đường. Suốt mười lăm ngày ông được người Mèo khiêng cáng qua các đường mòn trong lúc sốt rét và khát.

Sau đó người ta kéo từ xe cứu thương ra bốn chiếc băng ca. Trên mỗi chiếc là một mớ chăn, vải đầy máu trong đó nhô lên một cái đầu, hốc hác và im lìm. Trong số hấp hối đó có một người Pháp, một lê dương, hai ngụy binh. Họ cũng được khiêng vô kỳ hạn qua rừng nhưng quá đau đớn không còn cảm thấy gì, như đã cam chịu. Thậm chí họ cũng chẳng còn hy vọng khi được chuyển lên máy bay; thế nhưng sau mấy tiếng đồng hồ họ sẽ được giải phẫu ở bệnh viện Lanessan, Hà Nội và chắc được cứu sống. Biết bao nhiêu thương binh khác, cũng bất tỉnh, chết trong rừng trước khi tới được đây!

Chiếc Junker lại bay đi. Trong nhiều tuần tôi sống trong vẻ quyến rũ kỳ cục của thời Trung cổ của họ. Trong rừng núi chiến binh, nô lệ, các gái xoè của họ. Trong rừng núi vùng cao Bắc Kỳ này tôi sẽ có rượu và cơm nếp, những buổi lễ hội linh đình, những trang sức loè loẹt của các cô gái và những con ngựa, những đoàn ngựa người đi bộ và những đoàn xuồng vượt thác nước. Tôi đi giữa các dân tộc vùng cao, sẽ thấy những ông, bà phù thủy, những thị thần quấn băng, các chiến binh cầm dao găm, đao phủ vui vẻ, các bà vợ lẽ với đồ trang sức bằng bạc. Tôi không ngớt nghe những điệu nhạc ai oán và tiếng rít của ống điếu thuốc lào truyền từ miệng này sang miệng khác.

Tuy vậy ở một hậu trường bi thảm, thế giới thế kỷ XX sẽ ở đấy với chiến tranh, tiểu liên và mua bán thuốc phiện.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2018, 05:41:02 am

Vua Canh trả thù

Người Thái là dân tộc thống trị chiếm những vùng thung lũng, để những chỏm núi cho các dân tộc cổ xưa hơn ít nhiều quy phục. Khắp nơi là chế độ phong kiến. Có ba "vương quốc" chủ yếu do những ông vua thống trị liên kết với nhau - Bạc Canh Quy ở Sơn La, Đèo Văn Long ở Lai Châu, Đèo Văn Ân ở Phong Thổ. Mới đây người Pháp cũng xây dựng với những vương quốc ấy một Liên bang Thái liên minh với nước Pháp.

Những người Thái ấy ở Đông Dương chia thành hai nhánh chính, Thái Đen, và Thái Trắng, được gọi theo màu quần áo của họ.

Sơn La là thủ đô của Thái Đen. Tất cả miệt mài với màu đen và vẻ đẹp của thị xã đối với tôi có vẻ tang tóc. Một nỗi buồn dịu và nghiêm trang thấm vào thiên nhiên và người. Nhưng trong hòa âm man mác ấy như có một sự hưởng thụ. Đấy là một ngôi làng gắn vào một ngọn đồi đơn độc một ụ đất đỏ nổi lên giữa đất sét đỏ của khu đất bằng. Những mái nhà sàn lợp tranh tách ra trên một khu ruộng tứ giác. Cảnh đó trải rộng trên mấy cây số vuông, những ngôi làng, ụ đất, khu đất bằng bị núi vây lại như một bức tường rào hình tròn. Người ta ở trong một bồn chậu có hình những núi đá vôi nát vụn bao quanh, dốc đứng màu trắng nhuốm bẩn vì những dải xanh của cây rừng.

Trong quang cảnh lớn lao ấy, người Thái Sơn La thích vẻ long trọng của vải màu tối, bao giờ cũng viền ánh bạc. Trang sức kim khí rải trên người, những tấm nặng trước ngực, vòng cổ, vòng tay. Đàn bà trong trang phục màu ban đêm, giống như các nữ tu sĩ. Có sự mất cân đối mang trên đầu vì những búi tóc - con gái để sau gáy, các bà vợ ở đỉnh trán.

Người chết luôn hiện diện. Những lều nhỏ bên cạnh những mái nhà tranh dành cho vô số những người đã khuất. Rừng bao giờ cũng gần nhà, được điểm những tấm vải to để tôn vinh người chết. Một thầy địa lý tra cứu những chữ Hán thiêng liêng chọn nơi đặt mộ. Ông chỉ cho ngày và giờ đưa tang - đôi khi phải chờ nhiều tuần để gặp ngày lành tháng tốt. Trong thời gian đó kéo dài nghi lễ. Nhân dân hoan hỉ uống rượu bên cạnh xác chết khô lại hoặc thối ruỗng giữa không gian; và những thầy mo múa hát để người chết được lên "thiên đường".

Nền văn minh Pháp chiếm đỉnh đồi Sơn La, sản sinh một thành trì cho quân lính và một "ngôi nhà Pháp" cho người cai trị. Viên đại tá, quan chức dân sự, ông R... Một nhân vật kỳ lạ!

Ông R... này là con trai một điền chủ lớn, sinh ra ở Đông Dương nhưng dòng máu thuần túy Pháp. Bố ông thực tế có quyền sinh sát hàng nhiều nghìn dân quê. Đất đai bao la của gia đình ở dưới chân Tam Đảo - ngọn núi bao quát châu thổ Bắc Kỳ - bị Việt Minh phá huỷ - Nhưng R... vẫn giàu. Người như tủ gương nhưng đẹp, loại người có khuôn mặt khéo tô điểm, có bộ ria mép cong và đôi mắt xanh. Ông không thích nghĩ ngợi. Những cần thiết của cuộc sống đưa lại cho ông một két Champagne, một chiếc ghế dài và một súng các-bin chính xác. Ông hơi nói lắp nhưng dữ tợn, cũng có kiểu cười to, không tốt. Ông chỉ bằng lòng chịu phiền phức để quyến rũ hoặc đánh một ai đó - và để tham gia cuộc chiến.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2018, 05:44:00 am

Tôi thấy R... nằm dài trên thềm, đang quạt mát và ngáp. Không một lời, ông tò mò nhìn tôi, muốn thấy một nhà báo là giống vật nào. Ông hét lên và một người bồi máy móc đưa chai Champagne đến. Chúng tôi cùng uống. Những chai khác nối tiếp. Khả năng tiêu thụ của tôi làm ông yên tâm. Dù sao tôi cũng có vẻ một người đàn ông. Cuối cùng ông bảo tôi:

- Ông đến vừa hay. Một trung đoàn Việt Minh đang tập trung cách Sơn La mấy cây số, báo trước sẽ tấn công. Tôi thấy trước cửa văn phòng tôi có tờ rơi cắm đầu một chiếc gậy. Đấy là lời cảnh báo người Pháp rất liều lĩnh khi ở lại đây.

Trước mặt chúng tôi hoàng hôn xuống từ những ngọn núi có Việt Minh, bổ sung vào bóng dọa dẫm của vùng đất bằng Sơn La.

- Ông đi với tôi. Tôi phải đến trấn an ông già Bạc Canh Quy thủ lĩnh Thái Đen. Mỗi lần Việt Minh tới gần Sơn La ông rất sợ.

Chúng tôi đi xe jeep, chạy mấy cây số trong đêm tối. Có ánh sáng nhấp nháy, chúng tôi đến nơi. Những đàn chó dữ, lính gác cầm tiểu liên, những bừa răng tre bảo vệ ngôi lầu kiểu Trung Hoa của ông vua con. Người ta mở khóa liền năm cánh cổng, thong thả rút những cây gỗ chèn từng cửa một. Bên trong những bờ rào ghê gớm ấy, trong một ngôi nhà gạch chỉ có ông già nhỏ người da nhăn. Đấy là Bạc Canh Quy. Hình như ông đang run. R... nói với ông hơn một giờ bằng ngôn ngữ lạ. Rồi chúng tôi trao đổi về chuyện đó.

- Ông ấy còn "sợ hãi" hơn bình thường, R... nói với tôi. Cháu ông, hoàng tử Canh đã cho mang đến một lá thư. Anh ta viết theo những công thức kính trọng nhất rằng tự mình sẽ cắt cổ ông một trong những ngày sắp tới.

R... kể lại với tôi bi kịch vẫn còn làm màn hậu cho cuộc chiến ở Sơn La.

- Trước năm 1940 ở đây có một quan cai trị tên là Saiunt Pulov, một người Nga trắng to lớn. Thời kỳ ấy, Sơn La, ba mươi ngày đi xuồng mới tới Hà Nội, được biết đến như nghĩa trang của người da trắng, chết vì một dạng ghê gớm của bệnh sốt rét. Saint Pulov sống sót vượt lên tất cả, là người tiên phong trong vùng. Chính ông cho làm con đường duy nhất trên xứ Thái, con đường 41. Về hưu ông sống trong một căn nhà như một vua chúa Thái, mỗi ngày uống hết mười hai sừng trâu đầy rượu. Một cô gái Lào xinh đẹp tiêm thuốc phiện cho ông.

Canh, thủ lĩnh trẻ Thái Đen phải lòng cô gái này. Đôi tình nhân quyết định loại bỏ Saint Pulov quái gở và đồ sộ. Cô gái Lào đều đặn cho thạch tín vào rượu của ông. Phải nhiều tháng tích luỹ chất độc ông mới tắt thở trong sự hấp hối đơn độc. Ít lâu sau cô gái chết một cách kỳ lạ. Hoàng tử Canh bị người Pháp bắt và kết án, đày ra Côn Đảo.

Năm 1945 Canh được người Nhật giải phóng. Người Pháp gia ân cho anh cũng vô ích: anh đã theo Việt Minh. Hồ Chí Minh phong anh đại tá. Từ đó anh lôi kéo phần lớn người Thái Đen cùng nổi dậy. Chúng tôi không có kẻ thù nào quyết liệt hơn. Thậm chí anh không vâng lời mẹ. Bà già ở xóm Mai Sơn, một vùng độc chiếm của gia đình do chúng tôi kiểm soát, khẩn cầu anh trở về và quy phục người Pháp nhưng vô ích. Cuối cùng chúng tôi chỉ định chú anh Bạc Canh Quy làm thủ lĩnh Thái Đen. Nhưng đối với dân chúng thì ông này tiếm ngôi và luôn chờ đợi có ngày ông bị băm thành mảnh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2018, 05:46:47 am

Ở nhà R... bữa ăn tối thịnh soạn. Đến mười một giờ chuông điện thoại reo, R... nhắc máy rồi mặt ông nhăn lại; "A-lô, a-lô, nói tiếp đi". Nhưng chẳng nghe gì nữa.

R... đổ người xuống một chiếc phô-tơi, nói với tôi:

- Một giọng nói không phân biệt rõ thì thầm với tôi: "Đây là bốt Mai Sơn. Một đại đội Việt Minh tấn công. Súng cối phá một lỗ hổng ở rào. Chúng tôi chờ đợi cuộc tấn công từng giây. Làng cháy. Chúng tôi sợ...” và giọng nói im bặt. Đối với R... là sự bất lực hành hạ, không làm gì được.

Ông điện thoại cho viên đại tá rồi Bạc Canh Quy nhưng chẳng ai có thể làm gì. Mai Sơn bị ngăn cách trong đêm. Cuộc chiến xảy ra cách đây hơn ba mươi cây số. Không một tiếng động nào vang tới. Sẽ là điên rồ nêu cử một toán quân đi giải vây; nó sẽ bị diệt tận gốc trong cuộc phục kích không thiếu được trên con đường vào duy nhất. Chỉ còn chờ trời sáng.

R... nặng lòng nói với tôi:

- Chính Canh tấn công làng mình, nơi mẹ hắn sống, cùng một đại đội Thái Đen do Việt Minh huấn luyện. Chỉ có thể là anh ta!

Và hai bên không cân sức! Bốt bị tấn công chỉ là một ngôi nhà sàn có những lỗ châu mai. Tôi chỉ có ở đó năm mươi ngụy binh trang bị súng cũ. Còn Việt Minh giao cho Canh vũ khí Mỹ tốt nhất mua ở Trung Quốc.

Bốt bị hạ thì trách nhiệm của tôi thật lớn. Đấy là công trình của tôi; tôi muốn có nó. Hơn nữa tôi không tin người Thái Đen trong cuộc chiến chống Canh nên đề nghị người của Đèo Văn Long, thủ lĩnh ghê gớm của Thái Trắng Lai Châu. Ông ta cung cấp cho tôi ngay. Không mong gì Canh thương xót; họ sẽ bị hành hình thôi...

Ban đêm trôi qua trong lúc uống champagne và ngủ gà gật. Đến bốn giờ sáng những cú đấm lung lay cả cánh cửa. Một phái viên của bốt, không phải người thoát nạn mà anh ta đến báo tin chiến thắng. Canh và người của anh bị đẩy lùi. Khu đồn trú không bị bất ngờ và tiêu diệt, ngược lại đã xoay chuyển bất ngờ; họ được mật báo trước. Mười giờ tối có một viên đá do bàn tay bí mật ném xuống chân một lính gác. Hòn đá buộc một tin báo không có chữ ký: "Các anh sẽ bị tấn công sau một giờ nữa. Quân địch đang trên đường đến, theo hai đường mòn từ hướng bắc". Quân lính Thái Trắng bố trí phục kích trong rừng. Toán quân của Canh thấy bị lộ, bắn mấy quả đạn móc-chi-ê rồi rút lui.

- Sự việc khác thường thật! R... lẩm bẩm. Chỉ mẹ Canh mới dám báo tin cho bốt. Tôi muốn biết rõ điều này. Ngay trời vừa sáng chúng ta đi Mai Sơn.

Trên đường đi, cả vùng này tôi thấy có vẻ hòa bình như thường thấy ở Đông Dương ngay giữa chiến trường. Và phong cảnh thật hài hòa! Làng xóm ẩn dưới dốc núi trước những thửa ruộng bậc thang, là những mảng nấm dại, cao ráo, sít nhau. Nét duyên dáng là sự nhẹ nhàng của chất liệu - những tấm tre đan vào nhau như ren thêu. Mỗi xóm nổi lên "lâu đài" của trưởng bản, một ngôi nhà như những nhà khác nhưng rộng mênh mông, nhất là ở hai đầu mái cong vòng cung có hai chữ thập trắng, biểu tượng của sự quý phái.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2018, 05:49:02 am

Ở Mai Sơn cũng thanh thản như thế. Tuy có khoảng một chục nhà cháy, song dân chứng vẫn bình thường. Bốt đồn trú hoàn toàn phấn khởi mặc dù một số bị giết và bị thương. Binh lính tặng chúng tôi hoa; trung uý trưởng bốt mời uống rượu. Làm sao tin được đêm trước suýt xảy ra bi kịch?

Chúng tôi, kính cẩn chào bà mẹ của Canh. Một bà vợ để tang chồng rất đúng mực nhưng sáng sủa. Còn duyên dáng, mang đầy trang sức, bà cười nhăn nheo, nói đùa, dèm pha. Bà bê trên tay một bé gái thông minh, cháu nội, con gái của Canh.

Những cô hầu xinh xắn mang rượu và bánh lên như một bữa tiệc. Bà già rất quyền uy và mến khách, hướng dẫn mọi thứ bằng ngón tay và mắt. Bà vẫn cười nhiều hơn nhưng bỗng rên rỉ, đập tay và khóc. R... vừa nói đến Canh.

- Tôi chẳng biết gì, bà than thở. Tôi chỉ biết mình sắp chết. Con trai tôi không kính trọng tôi nữa. Tính kiêu căng làm nó điên rồ, chắc do thần ác nào đó ám ảnh. Vả lại toàn thế giới bị những ảnh hưởng xấu, thiên văn đã báo tai họa.

Người đàn bà khốn khổ! Giữa những nức nở bà không muốn nói gì cụ thể, bà muốn giữ kín bí mật nặng nề đêm trước. Nhưng R... tấn công với sự nhẹ nhàng độc ác:

- Đêm qua có phải bà đã tố cáo với những người Thái Trắng kế hoạch của con trai bà? Người ta bảo một trong những đầy tớ của bà vứt giấy báo tin cho họ nên đã cứu được họ.

Bà mẹ Canh liền chối một cách khổ sở, dùng những lời thanh minh, thề độc. Bà nói chẳng biết gì hết bà đã gần trăm tuổi, và sắp về vương quốc của những bóng ma. Bà xin lỗi, nước mắt chảy đầy má. Chúng tôi từ biệt bà.

R... tin chắc do bà. Trên đường về ông hơi buồn:

- Tôi đã thương hại bà già tuy biết ở Châu Á lòng thương hại khá nguy hiểm. Tôi sai lầm khi không hỏi sâu thêm.

Nhưng R... vừa về đến Sơn La đã hô hố cười vui vẻ. Trong phòng khách một nhân vật kỳ lạ đang cởi trang bị trên người. Một người lai rất trẻ nhưng đã có cục ghèn ở đôi mắt nhỏ. Con người này đầy vũ khí: tiểu liên cầm tay, hai súng ngắn trên hông, một con dao dắt thắt lưng, băng đạn khắp nơi và một quả lựu đạn. Phụ tùng là một chiếc mũ cứng, đôi bốt khổng lồ và cả một hệ thống dây nhự.

Anh ta sắp xếp những trang bị chiến binh thành một đống ngăn nắp. Giải phóng xong anh đổ người xuống một chiếc ghế phô-tơi, kêu lên:

- Lần này thì tôi bỏ. Tôi về Lai Châu, không muốn bị giết nữa. Tham gia cuộc chiến theo lệnh người Pháp chính là tự sát! Tôi đã báo trước với ban tham mưu là không muốn có việc nhảy dù xuống hàng ngũ tôi: đấy là cách làm cho Việt Minh nhận biết tốt nhất. Nhưng người ta vẫn làm. Một giờ sau đó là cuộc phục kích. Chúng tôi đi dọc một vực sâu bờ cao mười mét. Việt Minh trên cao bắn xuống như bắn những con thỏ. Cuộc chiến kéo dài một giờ. Mười người của chúng tôi bị bắn chết và nhờ phép lạ mà chúng tôi thoát được.

R... vui vẻ vỗ thân mật vào người anh:

- Nếu anh trở về Lai Châu, bố vợ anh sẽ nói sao?

- Ông ấy sẽ không bằng lòng. Tôi chỉ ở lại Sơn La nếu tôi chính là chỉ huy của tôi. Tôi muốn có thêm vũ khí và tiền. Ông xoay xở đi.

Rồi anh ta lăn ra ngủ, ngáy vang. R... hở những chiếc răng nhọn qua một nụ cười bí hiểm. Trời lại tối, lại uống champagne. Ông giải thích:

- Đấy là B... Mẹ anh người Thái. Anh cưới một trong bốn cô gái của Đèo Văn Long, tên độc tài ở Lai Châu. Tuy vẻ ngoài nhu nhược, anh ta làm hết mọi việc, là người tin cậy của ông bố vợ. Với anh ta, những chiếc đầu rơi nhanh và thuốc phiện đắt giá.

Anh ta đến đây với tôi nhiều tuần lễ nay. Vì ngoài năm mươi nguỵ binh ở bốt Mai Sơn, Đèo Văn Long cử đến bảo vệ Sơn La bị Việt Minh đe dọa một đội biệt phái Thái Trắng. Chính B... chỉ huy đội này. Đồ con lợn, anh ta muốn tăng thêm phần thưởng đã hứa.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Năm, 2018, 04:22:53 pm

Cuộc chiến tranh thuốc phiện

Hôm sau R... nhận được điện của Hà Nội: cuộc tấn công Sơn La chỉ để đánh lạc hướng. Cuộc tấn công thực sự, do nhiều tiểu đoàn Việt Minh, nhắm vào Lao Cai và thượng lưu sông Hồng; tình hình ở đây đã đến lúc quyết định.

Lao Cai là trung tâm hội tụ của vùng cao Bắc Kỳ, một thị xã thương mại và buôn lậu, một thị trường thuốc phiện, vũ khí và thông tin, một căn cứ có tầm quan trọng chiến lược chủ yếu. Đấy là đầu nguồn sông Hồng từ những ngọn núi cao xa xôi Châu Á chảy về vùng rừng rậm Bắc Kỳ - qua một lưu vực rộng nhưng không điều hòa, lắm bệnh tật không người, không có gì hết. Ở Lao Cai có một chiếc cầu bắc qua sông đi về Hà Nội và vùng đồng bằng cách đấy ba trăm cây số một cửa ngõ "Trung Quốc" đi Vân Nam, lên vùng cao nguyên, những vực sâu núi hoang là phần nhô ra của Tây Tạng, tới "con đường Miến Điện". Đây là lối ra tự nhiên một vùng rộng lớn của Trung Quốc chưa được thăm dò bao nhiêu. Để khai thác nhiều hơn những biên giới huyền thoại giàu khoáng sản, thuốc phiện và dầu quý ấy, trước kia người Pháp đã xây dựng một đường sắt xâm nhập, đến tận Côn Minh. Với công trình này hàng chục nghìn cu-li đã chết vì sốt rét và kiệt sức.

Bây giờ là Trung Quốc đã trở nên nguy hiểm, đầy quân du kích, đe dọa tràn xuống vùng cao Bắc Kỳ. Năm 1945, quân đội của ông chúa chiến tranh Lư Hán qua Lao Cai ào về Hà Nội. Nút Lao Cai mở ra một lần nữa và những người cộng sản Trung Hoa đã có nhiều ở Vân Nam tiếp tay cho Việt Minh. Cả một cánh sườn Bắc Kỳ sẽ sụp đổ.

Vì vậy tôi muốn đến Lao Cai. Có thể đi qua xứ Thái, một cuộc du hành sóng gió năm trăm cây số. Một chiếc xe jeep đưa tôi đến Lai Châu. Từ đó là đường mòn, đi ngựa một, hai tuần lễ qua một vùng bấp bênh, thậm chí cả biên giới Trung Quốc.

Ngày hôm sau tôi ra đi không tùy tùng trên đường 41. Mấy năm nữa đây sẽ là con đường lớn tiếp tế cho Việt Minh bao vây Điện Biên Phủ; máy bay Pháp cố gắng tích cực dội bom cắt đường nhưng vô ích. Đầu năm 1949 đây còn là con đường thuộc địa của xứ Thái, hầu như đang yên bình. Chỉ có nguy hiểm giữa đường, ở đèo Mẹo, do cuộc chiến tranh thuốc phiện, trong vụ thu hoạch cứ bắt đầu lại vào mùa xuân.

Sau khi ra khỏi mớ hỗn độn đá vôi bao quanh Sơn La, lái xe và tôi chạy lâu trong một thung lũng dày đặc cây chuối dại trổ hoa màu máu. Tre gai để rơi bầu đầy đường. Rồi con đường ra khỏi nhà tù cây cối - sự ngột ngạt dành chỗ cho cảm giác bao la; Những ngọn núi phủ cây cỏ, đắm mình trong sương nối tiếp nhau vô tận, luôn cao hơn, bí hiểm hơn đến dãy Himalaya xa xăm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Năm, 2018, 04:24:35 pm

Con đường 41 vượt dãy núi đầu tiên, lên cao mãi và bỗng xuất hiện con người ở vùng chỏm núi. Những sinh vật nửa người nửa loài vật bước đi nối đuôi nhau. Những quái vật quần áo lôi thôi màu xanh, mang trên lưng như bướu những chiếc gùi lớn. Trên trán rộng trần trụi, hói rất xấu, thả rơi xuống phía sau một đuôi tóc tết, cổ mang đầy vòng bạc, chân là những ngấn bắp thịt; nhiều người bị bướu cổ.

Đấy là những người Mèo, nông dân vùng thuốc phiện, chúa của những đỉnh núi cao, những người trèo giỏi nhất thế giới. Họ không chịu đựng một luật lệ nào, không tin vào một tôn giáo nào, hoàn toàn tự do. Hơn nữa họ say mê bảo vệ sự tự do của họ.

Không có nòi giống nào bí ẩn hơn. Người Mèo nói là họ sinh ra từ con Chó thiêng, nhưng với các nhà nhân chủng học đấy là người vùng Bắc Cực, những người Et-ki-mô. Dù thế nào họ cũng mới đến Đông Dương chưa đến một thế kỷ. Họ tiến đến bằng một cuộc nhập cư chậm rãi và bí mật, luồn từ đỉnh núi này đến đỉnh khác, ở những độ cao không có ai để bắt họ. Đôi khi họ ở lại mấy tháng hoặc mấy năm trên đỉnh một ngọn núi dốc đứng hầu như những người khác không trèo lên được. Ở đấy họ đốt rừng cháy cả một vùng đồi núi và trên tro tàn họ trồng loại cây duy nhất: thuốc phiện.

Khó tiếp cận được với người Mèo. Họ không bao giờ xuống khỏi độ cao; người ta nói hệ hô hấp làm họ chết nếu ở dưới thung lũng. Dữ tợn và đa nghi, họ sống trong những tổ đại bàng của họ, cấm người lạ vào. Vì những người này hầu như luôn luôn là những người có vũ khí, kẻ cướp hoặc quân lính mọi chủng tộc, đến chỉ để cướp bóc chất ma túy quý.

Con đường 41 đưa tôi đến vương quốc của họ. Sau một đợt trèo lên rất lâu, con đường dựng đứng trước khoảng không một chục đỉnh và trên mỗi đỉnh có mấy nhà thấp bằng đất trộn rơm và những thửa ruộng màu sắc rực rỡ. Đấy là một làng bên cạnh kho báu, những bông hoa tuyệt đẹp của cây thuốc phiện mà hàng ngày người ta kiên trì chích lấy nhựa - chỉ còn đun lên làm cô đặc thành chất keo màu nâu và độc.

Người Mèo giàu vì thuốc phiện. Họ nhận một số người buôn lậu có tín nhiệm, nói chung là các "ông Trung Hoa" tư sản, đôi khi những người Pháp phiêu lưu, đến để mua "kẹo", thuốc phiện còn hơi lỏng. Để trả, không có giấy bạc, ngân phiếu nhà băng Đông Dương mà những đồng bạc thật, những bì muối và gạo.

Nhìn bề ngoài cổ xưa và khổ sở nhưng người Mèo sống trên những chỏm núi trong sung túc, hạnh phúc và vô chính phủ. Một xóm nhỏ nhất là một cộng hòa độc lập, thù ghét thế giới, thù ghét cả những xóm Mèo bên cạnh. Vì vậy mỗi cộng đồng - một nhóm mấy nhà cùng ở trên một ngọn núi - bố trí ở phía dưới quả núi một loạt bẫy như bãi mìn của những người văn minh. Đường vào là một con đường nhỏ đi lên thẳng đứng. Không nên rời xa con đường ấy. Trên cao chất đống những tảng đá to, họ sẽ cho đổ xuống những người họ không cho vào.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Năm, 2018, 04:25:56 pm

Người Mèo là những chiến binh đáng sợ, những người chủ của đèo và dốc. Họ lẫn lộn với núi, ẩn nấp sau những chỏm và các tảng đá. Không bao giờ người ta bắt được họ; họ đi thẳng về phía trước, coi thường những vật cản, vượt núi theo đường dốc gần như thẳng đứng - đứng trên thành vực như những con ruồi đậu trên viên gạch. Và họ là những thiện xạ khác thường dù chỉ có súng tự chế.

Người Mèo luôn lo sợ. Hầu như cả năm họ sống những ngày yên bình kiên trì. Ai muốn gì làm nấy, phong tục rất lơi lỏng. Con gái bận quần áo vải thô, đầu chít khăn, chân cuốn xà cạp thường vào rừng yêu nhau. Ban đêm đàn ông nhảy một mình. Giữa một vòng những khuôn mặt dịu mến, từng chàng trai quay người, ngồi xổm trên chân và thổi khèn cho đến khi nhảy lên và đổ nhào.

Nhưng đến tháng năm sau mùa thu hoạch, tất cả những người Mèo mai phục trên ngọn cây và đường mòn. Đấy là sự tổng động viên của những người trên núi cao chống lại những đám cướp; từ những biên giới vô định của Trung Quốc chúng đến hàng trăm, hàng nghìn. Các dãy núi đầy những cuộc đánh nhau, phục kích, giết người, mua bán. Những việc đó xảy ra không ngừng. Nhưng bây giờ với cả Đông Dương trong lửa đạn, hàng năm có một chiến dịch chính thức về thuốc phiện. Điều ấy đã trở thành một cuộc chiến tranh thực sự, với những tiểu đoàn.

Thuốc phiện là một mục tiêu quân sự đối với Việt Minh và người Pháp. Việt Minh muốn có nó, bán lại ở Hà Nội, Sài Gòn, Hồng Kông, những thủ đô "tư bản" của Châu Á, được lãi rất lớn.

Người Pháp cũng muốn thuốc phiện như thế. Nắm lấy nó là ngăn cản Việt Minh tích lũy tài chính nhờ việc buôn bán béo bở ấy. Ngược lại nó cho phép Đội quân viễn chinh và Chính quyền làm đầy quỹ đen của họ.

Thuốc phiện vậy là sức mạnh của chiến tranh ở Đông Dương. Nhưng để giành giật nhau, để cũng giành giật ở người Mèo, Việt Minh và người Pháp đã có những trận đánh nhau nhỏ. Một hỗn hợp rất phức tạp. Người ta sử dụng mọi cách. Vừa đánh nhau vừa giành giật người Mèo - tấn công hoặc xoa dịu tuỳ trường hợp. Trước sự ganh đua ấy người Mèo cố để vừa khỏi bị giết vừa đòi hỏi được giá cao nhất. Tình hình không ngừng thay đổi, càng không thể giải thích được khi có những thèm khát, những can thiệp khác xen vào.

Ở đèo Mẹo còn yên ổn. Nhưng không gian rộng lớn đầy những toán người; tình trạng chiến tranh các loại đã sẵn sàng. Ẩn nấp ở các khe núi có Việt Minh, người Pháp, Trung Quốc, lính của Đèo Văn Long. Một cuộc hành quân chuẩn bị tiến hành, một tiểu đoàn Pháp được lệnh săn đuổi một chi đội đỏ. Giữa đám người ấy, người Mèo từ đỉnh núi này đến đỉnh khác sẵn sàng đánh nhau và mặc cả mua bán.

Tôi nhìn mãi toàn cảnh im ắng của chất ma túy. Nhưng người lái xe bảo tôi:

- Chúng ta không nên chậm trễ, người Mèo có thể đến giết chúng ta đấy.

Tình hình thật lạ! Có vẻ chúng tôi chẳng gặp nguy cơ gì về phía quân chính quy Việt Minh. Họ muốn lặng lẽ "thu nhặt" thuốc phiện. Chính những người miền núi mới nguy hiểm.

Trong phần lớn những vùng núi ở Đông Dương người Mèo thích người Pháp hơn. Những người này trả nhiều hơn và không nói về lý tưởng. Vì vậy họ chặt đầu các phái viên Việt Minh ngay. Nhưng trên đường 41, trước hết là họ chặt đầu người Pháp, cho là đồng loã với Đèo Văn Long. Ông chúa chiến tranh Lai Châu với lý do thu thuế, có thói quen cử cảnh sát với tiểu liên lên chỗ những người Mèo giết và cướp.

Điều ấy gắn chặt người Mèo với Việt Minh, dẫn đến một cuộc chiến tranh du kích làm kiệt quệ quân đội Pháp. Nhiều sĩ quan tức giận Đèo Văn Long. Nhưng ở Sài Gòn, người ta nói đấy là người duy nhất giữ được xứ Thái chống Việt Minh bởi nắm tay sắt của ông ta. Chính thức người ta chơi con bài Đèo Văn Long.

Ai nghĩ rằng, việc lựa chọn này về sau có một ảnh hưởng quyết định đối với cuộc chiến tranh Đông Dương? Người Mèo đường 41 sẽ chống lại Đội quân viễn chinh. Ngược lại Đèo Văn Long bỏ trốn.   


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Năm, 2018, 04:27:48 pm

Con người ghê gớm Đèo Văn Long

Sau ngọn đèo Mẹo người ta sắp đánh nhau. Chúng tôi vào trong lãnh địa độc chiếm của Đèo Văn Long, chỗ những người Thái Trắng mà Việt Minh không đến được - họ sẽ bị giết không chậm trễ.

Chúng tôi trở xuống rừng rậm, đi đò vượt những thác nước đá đen làm tung bọt trắng, lại trèo lên núi và thấy ở chân trời nổi lên đỉnh Phansiphăng ngọn núi mây mù. Đấy là dấu hiệu Lai Châu đã gần.

Bỗng con đường đổ xuống hai nghìn mét trên một nút vực xoáy. Nhìn như một ngôi sao ba nhánh đào trong đất ba đường hầm khổng lồ, ba vực sâu giao nhau. Thật kỳ lạ. Dưới những con sông hợp lưu: sông Đà tiếp nhận hai nhánh. Ở nơi tập hợp mọi thung lũng và nước ấy, chỗ thấp nhất là Lai Châu.

Chúng tôi đi xuống. Tôi có cảm giác vào sâu trong lòng đất, mỗi bên là cạnh dốc đứng. Phía trên bầu trời chỉ còn một dải dài và hẹp. Nhưng ánh sáng từ đấy xuống lan tỏa trên đất sét tươi bờ dốc một màu trời phớt xanh, một loại bóng mờ mềm dịu. Cảnh vật đẹp.

Không phải con đường xuống địa ngục. Vì ở đáy vực sâu đáng sợ ấy tôi thấy thiên nhiên thật tinh tế, một nền văn hóa thật đáng mến. Như mọi sức mạnh của rừng và của núi dùng làm trang sức cho cuộc sống êm dịu cổ xưa, bảo vệ và cất giấu cuộc sống ấy.

Có vẻ đôi lúc các nhà thám hiểm sau khi vượt qua những vùng đáng sợ, tìm ra thung lũng hạnh phúc, không nghi ngờ gì và cách biệt tất cả. Đấy là cảm giác tôi có ở Lai Châu.

Vực thẳm bên dưới! Một chiếc máy bay xuất hiện cách xa những ngọn núi sắp hạ cánh. Tôi thấy máy bay bổ nhào quay vòng xoắn ốc như giữa bờ khung một chiếc lồng hẹp. Điều mà phi công gọi là động tác xoắn nút chai. Trò nhào lộn ấy là cách duy nhất để hạ cánh ở Lai Châu.

Thế nhưng ở đáy vực thẳm ấy là một giấc mơ duyên dáng và gợi cảm. Khắp nơi là đồng cỏ như nhung, những bánh xe gỗ đồ sộ nước kéo, những xóm làng ẩn trong vĩnh hằng. Và cả một vườn hoa đẹp!

Hình ảnh đầu tiên thật tuyệt vời! Chúng tôi gặp trên đường đi những chiếc lọng rơm, rộng và tròn. Đấy là mũ của các cô gái Thái; các cô khẽ hất mũ ra sau và tôi thấy những con người, khuôn mặt dài thanh tú, thân hình duyên dáng thon thả. Quần áo các cô cũng được trang trí nhẹ nhàng - một chiếc áo cánh trắng có hàng cúc bạc bó chặt chiếc váy đen với chiếc thắt lưng đỏ thắm. Trong trang phục sát người tinh tế ấy, những thân hình hầu như toàn là chân, được thiên phú cho âm điệu và nhịp điệu: Phụ nữ Thái Trắng là những vũ nữ nổi tiếng.

Các cô gái Thái thể hiện vừa cách điệu hóa vừa đơn giản đối với tôi! Không biết đến những tư thế cứng nhắc và sự thanh thản cao xa của đạo Phật, các cô có nụ cười tuyệt đẹp, sống động, hơi ngạc nhiên, tươi vui đến cả nét cong nhẹ của miệng và khóe mắt. Đúng là những cô gái một dòng dõi vô thần, chỉ tin vào sắc đẹp, lười biếng và hưởng thụ. Những người Thái Trắng hơn Thái Đen, là những người tôn thờ khoái lạc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Năm, 2018, 04:29:00 pm

Nhưng sự yên bình của Lai Châu không phải chỉ vì xa cách, núi cao vực sâu bảo vệ. Chủ yếu là do Đèo Văn Long, kẻ độc tài với những biện pháp đẫm máu.

Trong cảnh trí lớn lao đó, ngay giữa hợp lưu ba con sông một mỏm đá vươn ra tới bờ sông. Ở đây nhân vật đáng sợ ấy cho xây dựng một lâu đài kiên cố bằng xi măng và đá lớn với những lô cốt và lỗ châu mai. Để vào đấy phải đi đò qua những dòng nước dữ dội, phải trèo những bậc thang không dứt. Trước hết người ta thấy những lính gác quá nhiều đai nịt, đáng sợ. Những tù binh rách rưới, đáng thương, đang vác đá làm những tường bao mới, những công trình tự vệ mới.

Người ta dẫn tôi vào phòng khách đồ sộ, có một người đàn ông ngự trên chiếc phô-tơi lớn bằng gỗ mun và đá hoa. Tôi nhận ra ngay vị chúa tể chiến tranh theo đúng mẫu Trung Quốc. Vì toàn xứ Thái này mang vết tích Trung Quốc chứ không phải Việt Nam.

Đây là một nhân vật khoảng tuổi sáu mươi, to béo, mạnh khỏe. Khuôn mặt như mặt nạ, lời nói chậm rãi, không màu mè. Không bao giờ ông có vẻ hoạt động, ngồi một chỗ, bó người trong bộ quân phục đơn giản kiểu Quốc dân đảng. Nhưng đây là tính cách không thực của một lãnh chúa Châu Á, quen lối chỉ hơi mỉm cười và giấu kín sau thái độ không nao núng ấy một sự hung bạo tính toán và những khát khao không giới hạn.

Việc đầu tiên của Đèo Văn Long là đưa tôi lại trước bức chân dung vẽ trên lụa một quan lại Trung Hoa rất già, quần áo sang trọng. Đấy là bố ông ta, Đèo Văn Try huyền thoại, thủ lĩnh Cờ Đen, bọn giặc Trung Hoa hung dữ mà người ta nói đến trong sách lịch sử thời trước. Chính ông này vây hãm đội Bobillot ở Tuyên Quang rồi sang Lào, chiếm Luang Prabang và thực hiện nhiều chiến công trước khi quy phục.

Tên tướng cướp này trở thành vua Lai Châu bằng một tội ác khủng khiếp. Hắn cho thắt cổ ông vua Pháp họ Đèo rồi lấy con gái ông, bản thân cũng lấy họ Đèo. Người Pháp, khi hắn quy phục, để lại cho hắn lãnh địa chưa được bình định.

Con trai của kẻ sát nhân và công chúa bị cưỡng bức là Đèo Văn Long. Ông ta tiếp tôi tại lâu đài. Trong huyết quản ông là dòng máu quân cướp Trung Hoa nhưng nhận được một nền giáo dục tốt của phương Tây; ông thích kể chuyện đã học ở Pháp, cùng trường trung học với Vincent Auriol. Có vẻ tình bạn học cũ ấy còn đóng một vai trò trong cuộc chiến tranh Đông Dương.

Nhưng sự lại giống đã chiếm ưu thế! Đèo Văn Long thống trị trong trật tự tuyệt đối. Việc xảy ra như thế nào người ta không bao giờ biết và tai họa cho ai nói ra! Dù sao, không có Việt Minh, không có những kẻ chống đối trong vương quốc ông. Trong lâu đài mình, ông chúa chiến tranh có một quyết định và liên lạc chạy ngày đêm trên đường mang mệnh lệnh đi các nơi. Ông tự dán những sợi lông chim lên những chỉ thị - một để buộc phải mau chóng, hai là ghi nhận khẩn, ba, người đưa phải chạy nhanh như chim bay và đến nơi chậm một ít cũng bị chặt đầu.

Khi Đèo ra lệnh hành quyết, người ta đưa tai những người bị xử tử trong một cái giỏ đến làm chứng cứ. Vả lại đấy là một phong tục cũ của người Thái. Một sĩ quan Pháp hứa thưởng cho lính ngụy giết được Việt Minh cũng nhận được một chuỗi tai để chứng minh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Năm, 2018, 04:29:39 pm

Đèo Văn Long mở rộng quyền lực ra ngoài lãnh địa của mình. Ông ta bị những ông hoàng khác căm ghét vì bố ông là kẻ giết người nhưng họ là anh em về đàng mẹ. Vì vậy những ông vua con ấy, những người cùng khổ, khi bị Việt Minh đe doạ, khúm núm cầu cứu ông. Đèo cử lính tới, thu xếp cho họ một cuộc hôn nhân. Ông cho cưới con trai, con gái ông với những hậu duệ của họ. Đấy là những buổi lễ trang trọng ở Lai Châu. Ngay dưới lâu đài ông là xuồng của bà con phấp phới cờ đuôi nheo. Những bãi cát, sỏi đen nổi lên những đám lửa vui - cả một tập hợp những người chèo thuyền, binh lính, đầy tớ, những chức sắc nhỏ ngồi quanh ngọn lửa ăn uống. Trong lâu đài là bữa tiệc theo phong tục gồm năm mươi món ăn. Nhưng giữa không khí vui vẻ ấy, Đèo vẫn đề phòng khỏi bị đầu độc.

Đèo Văn Long chỉ say mê hai thứ, chúa tể của chiến tranh: vũ khí và kim loại quý. Lâu đài của ông là một xưởng vũ khí, một kho báu. Ông tích lũy trong những hầm bọc thép các hòm tiểu liên và những thỏi bạc, vàng.

Vũ khí, ông muốn phải là hiện đại, giết người, mua ở Trung Quốc, đòi hỏi ở người Pháp. Nhưng thay vì phân phát cho người của ông để chiến đấu, ông dồn lại trong hầm ngầm sâu mấy mét dưới lâu đài. Vì những đống vũ khí ấy, luôn nhiều hơn, đối với ông là biểu tượng tối cao của sức mạnh.

Đèo rất giàu vì ông ta là một trong những đầu mối thuốc phiện ở Đông Dương. Ông tổ chức thật tốt để thu thập và bán, nắm trong tay một hệ thống thu nhặt, vận chuyển, phân phối. Người Pháp để cho ông ta làm, thậm chí là đồng loã vì họ dựa vào tính chất phong kiến để đánh lại chủ nghĩa cộng sản, không biết rằng đánh vào những "bạo chúa" như Đèo, thuyết biện chứng đỏ có nhiều sức mạnh hơn. Đèo rất mạnh nhưng bị căm ghét và hễ "hệ thống" của ông ta hơi yếu đi là tất cả sụp đổ.

Nhưng năm 1949 là đỉnh cao. Cao uỷ Pháp để bên cạnh Đèo hai đại diện để "kiềm chế" ông ta một ít nhưng họ tay trong tay tiến bước cùng Đèo. Đấy là hai viên chức, một trưởng phụ trách hành chính và phó của ông. Thực ra đấy là những người phiêu lưu, có khả năng làm tất cả cũng như Đèo.

Những nhân vật lạ lùng ấy và những người xung quanh - họ cũng có vợ, các con họp thành một loại "hội kín". Chỉ có họ là đáng kể, còn lại không là gì cả. Nhóm người ấy có lối nói riêng. Mỗi buổi chiều chia tay nhau họ cùng nói: "Ngày mai gặp lại". Và khi người ta hỏi tại sao thế, họ trả lời: "Vì đối với chúng tôi ngày nào cũng là chủ nhật".

Nhưng hội kỳ lạ ấy không thích người ta dúng mũi vào công việc của họ. Tôi cảm thấy mình là một người lạ. Vì vậy tôi ra đi xa hơn, đến Phong Thổ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Năm, 2018, 04:53:36 pm

Châu Á cổ xưa nhất

Ra khỏi Lai Châu không có đường lớn, chỉ đường mòn vô tận. Đèo Văn Long tổ chức một đoàn nhỏ đưa tôi đi, do cháu ông ta hướng dẫn.

Trong ba ngày chúng tôi đi ngựa trên một con đường không rõ ràng giữa những ngọn núi tuyệt đẹp, qua vùng cao nguyên ngát mùi hương - những vạt hoa huệ và dâu tây dại, những bụi hoa hồng, những rừng đỗ quyên. Chúng tôi lao xuống các thung lũng, giữa những cây gỗ với những cây dương xỉ khổng lồ và dây nhợ cong queo như hàng nghìn cánh tay của một Phật bà Ấn Độ. Giữa những đống đá sụt lở và những cây cổ thụ, toán người cứ tiến lên, hàng một, với tư thế những người quan trọng. Trước chúng tôi là một chiến binh danh dự mang trên người một khẩu súng bắn đá. Phía sau là đám người giữ ngựa và loài vật kéo, người và vật cùng cam chịu.

Tôi thực sự có cảm giác đi sâu vào trong lòng Châu Á. Như là không còn biên giới nữa. Người ta gặp những đoàn người ngựa đi hàng nhiều tuần lễ từ vùng sâu Trung Quốc, từ Tây Tạng - đi theo con đường cũ buôn chè hoặc xạ hương, đã dành cho hàng hóa hiện đại. Người ta gặp những dân tộc hầu như không được biết đến như người Xá, trần truồng và gầy còm ăn đất, đá thạch anh phân huỷ. Không gì ngạc nhiên hơn nhìn thấy trong bóng mờ cây cối thân hình xám đen của họ cuốn dây quanh người treo những chiếc ống điếu, tài sản duy nhất của họ.

Trên đường đi chúng tôi gặp nhiều dòng tộc khác, thuộc mọi mức độ văn minh. Vùng cao Bắc Kỳ là một bảo tàng về những dân tộc ở khắp nơi đã biến mất. Nhưng đôi khi chỉ còn một làng, một xóm không đến mấy chục người. Vùng Phong Thổ là một nơi có những chủng tộc đã mất, những nhóm nhỏ đàn ông và đàn bà tên tuổi và phong tục rất lạ.

Khi chúng tôi đến gần, những người miền núi ấy đứng im, không một cử chỉ, một thể hiện gì như họ không trông thấy chúng tôi. Thế nhưng đôi mắt họ nhìn chằm chằm vào chúng tôi, nhất là vào tôi, với cách làm tôi sợ. Hình như không phải thù địch mà chỉ vì tò mò, không có nguy cơ gì. Nguy hiểm chỉ có người Hà Nhì, những kỵ sĩ răng đỏ, tóc dài như tóc đàn bà, thường dùng giáo đâm thủng khách bộ hành. Nhưng họ ở ngay biên giới, trên những đầm lầy hôi thối, phải mất hai ngay đường.

Hoàng hôn ngày thứ ba, rừng rậm dành chỗ cho các khu vườn. Chúng tôi lội qua một dòng nước xiết. Một vòng đồi bao quanh thị trấn ngọt ngào, tươi vui nhất. Tôi đã đến Phong Thổ, thị trấn huyền thoại của ông già Đèo Văn Ân.

Tôi đã như bị mê hoặc vì khoảng cách, bây giờ là vì thời gian. Tôi thấy như sống lại một biên niên sử xa xưa, được đưa đến một Châu Á cổ xưa và hào hiệp hơn Lai Châu của Đèo Văn Long, ông chúa tể chiến tranh! Phong Thổ, dưới thời Đèo Văn Ân - một ông già con trai của ông Đèo bị tướng Cờ Đen bố của Đèo Văn Long thắt cổ trước kia - là một thiên đường tuyệt đối giản dị mà sự tàn bạo cũng có phần nhân từ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Năm, 2018, 04:54:51 pm

Qua nhiều thế kỷ chẳng có gì thay đổi. Công trình của nước Pháp chỉ là một chiếc cầu gỗ. Trước chiến tranh một quan cai trị yếm thế cho phá đi để tự cách ly với tất cả những người kế nhiệm đã cho làm lại.

Trong công quốc huyền thoại vàng này, lâu đài là một trạm du khách suy tàn đầy một đám đông ăn mặc khác thường. Tôi đi qua một hàng rào tre có những con ngựa nhỏ đang gặm cỏ và hí vang lên. Trong khoảnh sân hôi thối vô số chức sắc hoạt động - các bộ trưởng, những người vợ lẽ, đao phủ, đầy tớ, một nhóm trẻ nhỏ ở truồng và có cả lợn, chó hung dữ. Người ta thấy khắp nơi ánh lên những lưỡi dao găm và vật trang sức. Nhưng lẫn lộn với các lãnh chúa và sủng thần có cả dân chúng, chẳng làm gì ngoài đùa vui. Chỉ mấy người hành khất làm việc giơ tay và cầu khẩn. Cũng có một nhà thông thái đang viết đơn thỉnh cầu một nông dân.

Đấy là Trung cổ - thực sự, không phải Trung cổ của tiểu liên khắp nơi ở Đông Dương. Trong đám lộn xộn này tôi không thấy binh lính mặc quân phục.

Đèo Văn Ân đang chờ tôi. Lâu đài của ông xây bằng bùn khô và gỗ ít đẽo gọt, là một ngôi nhà sàn. Tôi phải trèo lên bậc thang. Suốt thời gian tôi đi lên, người chủ lễ đánh chiếc trống đồng treo bằng một sợi dây. Cuối cùng với bao cố gắng tôi đến được gian phòng chúa tể. Và đấy là một nhà kho nổi trội những quà tặng chính thức của các đời cộng hòa Pháp: một tháp Eiffel thu nhỏ, một tờ lịch, những bưu ảnh trong đó những người yêu trong trắng ôm nhau, chân dung tổng thống Fallières. Trong góc tường một người đàn bà bình thản bắt chấy trên mái tóc. Cuối bên trong một ông già ngồi trên chiếc ghế gỗ trắng đứng dậy và cầm tay tôi dẫn lại trước một tấm bảng đầy giấy chứng nhận và bằng. Tất cả những quan cai trị đã qua xác nhận trên giấy bóng và chữ viết đẹp, những tình cảm ủng hộ Pháp của chủ nhà. Nhưng tấm bằng quý nhất là giấy khen do một toàn quyền cấp đã khoảng bốn mươi năm nay.

Đèo Văn Ân rất vui. Một chiếc mũ ca-lô nhỏ trên đầu, ria mép trắng rủ xuống, da nhăn nheo, mặc một bộ quần áo dạ Trung Quốc, trông rất lạ. Nhưng trước hết ông là một tộc trưởng sùng bái khoái lạc. Ông không chỉ nghĩ về mình - ông là bố của người Thái, Kôuchus, Nhắng, Mèo, Mán, của tất cả những dân tộc ở từng bậc núi của ông như cư dân một nhà chọc trời. Ông đem sự cô đơn của ông đến từng dân tộc, thậm chí cả ở một bộ tộc ăn thịt người. Nguyên tắc thống trị của ông là vui chơi, bắt buộc hưởng thụ thường xuyên cho tất cả thần dân. Vì vậy ông bắt họ tôn trọng phong tục tập quán cũ, đảm bảo họ hạnh phúc trên vùng đất ảo tưởng này.

Về pháp luật, ông tha thứ cho những kẻ trộm cắp, đào ngũ, không làm tròn nhiệm vụ nhưng không bao giờ nương nhẹ cho người lơ là nhảy múa. Ông phạt tù người nào trong năm đoàn ca vũ của ông vắng một buổi tập duyệt. Ông có một trường dành cho những cô gái quyền quý. Đây cũng là thú vui dân tộc.

Buổi tối hôm tôi đến, Đèo Văn Ân chiêu đãi một buổi lễ hội. Toàn dân Phong Thổ đến, ngồi xổm trên sân lâu đài. Đèo Văn An ngồi ở một chiếc phô-tơi, các tên hề vây quanh. Ông nghiêm nghị nhìn các toán biểu diễn. Thật thần tiên! Dưới ánh đuốc những cô gái Thái lắc lư như những con bướm say sưa vì vui, những cô gái Lào uốn người một cách gợi cảm và lười biếng. Đấy là Châu Á của hoan lạc. Ngay sau đó phụ nữ Nhắng, những người nặng nề dòng giống Trung Hoa đến thực hiện những động tác lao động với nhịp điệu chậm, đau đớn và bi ai - vì cũng có một Châu Á cố gắng mà lượng người quá đông phải vất vả không mệt mỏi để sống sót. Chỉ còn là những quay cuồng hoang dã, lẫn lộn tiếng kêu, sáng lên những ánh thép qua đó những người Mán, Mèo, rất lực lưỡng và cân đối, đàn ông cũng như đàn bà, thể hiện sự hỗn độn của những người ở đỉnh, khinh thường những gì ở phía dưới họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Năm, 2018, 04:55:33 pm

Giờ của loài người đã qua. Bây giờ bốc lên không khí cõi âm của những phù thủy nam nữ. Bọc người trong những tấm thêu lớn hình rồng ở địa ngục, kéo theo những viên ngọc khổng lồ, họ hành lễ rất lâu. Điệu múa của họ là việc dầm chân liên hồi kèm theo những câu thần chú rên rỉ dai dẳng. Những động tác thô lỗ ấy, lời đọc đều đều những công thức ma thuật ấy tạo ra như một sự mê hoặc huyền bí. Buổi lễ kỳ lạ kéo dài bao nhiêu phút, bao nhiêu giờ tôi không biết. Cuối cùng tôi như tỉnh dậy. Một bà đẫy đà, hách dịch vẫn vừa giãy giụa trên đôi chân vòng kiềng vừa lẩm bẩm trong cái miệng đã sún răng, đốt những nén hương và loại cỏ đáng sợ. Qua những trang sức rườm rà tôi nhận thấy khuôn mặt thảm hại của bà, như chiếc mặt nạ, khuôn mặt của tử thần.

Những người phù thủy ấy có quyền lực ghê gớm. Người ta nói đấy là những kẻ buôn bán cái chết. Trong vùng núi này ai muốn rũ bỏ một người, đến định giá với họ. Thỏa thuận xong họ cầu khấn "ác thẩn" xuống tay sát hại; họ cũng gây ra được cảnh hấp hối êm dịu hoặc đau đớn theo yêu cầu của khách hàng.

Đèo Văn Ân hài lòng về những điệu vũ và những phù thủy của ông. Trong niềm hân hoan ông vỗ mạnh vào đít các vũ nữ, nhưng đây là kiểu hoan nghênh của địa phương. Đầy tớ đưa lên những mâm đầy các tảng thịt còn chảy máu và các vò rượu. Đấy là lễ hội, là "bun". Thật giản dị! Ngựa hí trong đêm, trống vang. Người người ăn thịt, uống rượu, ợ, lăn ra nôn. Vũ nữ bón thức ăn vào họng các nhân vật tên tuổi đã quá no nê không nuốt nổi nữa.

Đèo Văn Ân có mười ba vợ và khoảng năm chục đứa con. Khi thầy bói Trung Hoa nói không có ngày lành tháng tốt trước ba tháng để chôn bà vợ thứ năm vừa chết, ông bảo: "Ông nghĩ kỹ xem, nếu không tôi quá tốn kém". Thực thế, theo phong tục, lễ hội phải kéo dài không ngớt từ lúc người chết đến lúc chôn cất xong. Người thầy bói bị khiển trách và sợ rơi đầu, ấn định một ngày hợp lý hơn, hai tuần sau khi chết có thể an táng. Như vậy cũng rất tốt, dân chúng được ăn uống thoải mái mà không làm cạn hầm rượu và của cải của Đèo Văn Ân. Thật say sưa! Ngày đưa tang là một hoan hỉ chung, phải thấy ông chúa già cưỡi ngựa, dưới cây lọng, giữa rừng cờ. Trong dịp này ông cũng trưng diện bộ quần áo hiện đại, gắn đầy lon. Điều ấy cũng không ngăn cản ông lảo đảo trên lưng ngựa vì ông say. Khi ông đi qua, đám đông thét vang tình thương mến, lòng biết ơn, sự trung thành đối với ông. Thị trấn là một rừng cờ, một việc thần thánh hóa.

Ông vua tốt bụng bao giờ cũng vui vẻ và hào hiệp, ngay cả khi trừng phạt. Ông cũng biết làm rơi đầu, làm dân chúng phấn khởi. Việc ấy trở thành một trò hề lố lăng.

Một lần ông mời hàng trăm thuộc hạ đến dự tiệc. Giữa cuộc chè chén, ông đứng dậy giơ ngón tay chỉ vào một thực khách kêu lên: "Anh đã dẫn đường bọn cướp Trung Hoa, anh phải chết". Theo cách ấy ông chỉ hàng chục người. Lập tức việc hành hình thực hiện tại chỗ. Đèo Văn Ân ra lệnh cho những người bị xử tử chặt đầu lẫn nhau - người ta phân phối gươm cho họ và cắt cổ nhau. Đầu được cắm vào những cây cọc trước chỗ chém giết. Buổi tối có những cuộc vui chơi cho dân chúng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Năm, 2018, 04:57:18 pm

Thiên đường mất đi

Phong Thổ, lẩn khuất trên biên giới, bao giờ cũng có kẻ cướp Trung Hoa qua lại. Chỉ cách đây mấy tháng, một toán hai nghìn người bao vây thị xã trong nhiều tuần - chính là những đồng lõa Thái của những người bị Đèo Văn Ân vui vẻ hạ sát. Cuộc chiến tranh nhỏ này cũng thật vui nhộn. Khi ấy có một đội quân đồn trú nhỏ của Pháp đóng trên một ngọn núi cao. Từ chỗ ấy họ hàng ngày dội bom đạn vào người Trung Hoa tập hợp bên dưới quanh lâu đài họ bao vây. Có lúc một quả đạn cối rơi xuống lâu đài giết chết người con cả của Đèo Văn Ân - Ông chúa phúc hậu có vẻ không buồn phiền lắm. Thời gian thường trôi qua chủ yếu bằng đấu miệng giữa hai bên. Người Trung Hoa kêu gọi những ngụy binh của Ân hơi bị đói: "Đến với chúng ta, các anh sẽ có gạo". Những người này cao đạo trả lời: "Chúng tôi không thèm. Chúng tôi đã có rượu". Và súng nổ - bum, bum! Và ca-nông người Pháp nã đạn - còn bum, bum nhiều hơn.

Than ôi, tôi cảm thấy mảnh đất Châu Á này rồi sẽ biến mất. Tất cả thay đổi xung quanh nó. Những toán người Trung Hoa đã do những người cộng sản nắm; các giáo viên từ phía bắc tới, cán bộ chính trị cải huấn họ. Việt Minh cũng phối hợp với họ. Và đối với lực lượng mới này, Phong Thổ, ông già Đèo Văn Ân không thể làm gì được với mấy chục nguỵ binh. Đồn trú Pháp cũng rút đi, Bộ chỉ huy thấy họ trống quá.

Đèo Văn Ân biết rõ sự bất lực của mình. Một buổi chiều ông chỉ cho tôi một hẻm núi - đường mòn từ Trung Hoa đi qua đó, chỉ khoảng ba mươi cây số. Toán người Trung Hoa có thể theo đường ấy, chỉ cần nửa ngày là ùa vào Phong Thổ. Ân rên rỉ với tôi: "Tôi làm gì được? Tôi làm gì được?" Thậm chí ông hy vọng đủ thì giờ chạy trốn lên ngọn núi cao gần đấy, chỗ quân đồn trú Pháp đóng. Ở đấy chắc ông cùng ngụy binh có thể chống cự mấy ngày chờ quân nhảy dù.

Công việc lớn của Đèo Văn Ân là chọn người và vật mang theo mình lên núi cao. Của cải đã đóng gói hết: một số chức sắc đã được chỉ định. Còn lại đành để mặc; trong số còn lại này có tất cả các bà vợ, vợ lẽ. Ông bảo đến tuổi ông có thể bỏ qua các bà rồi.

Một nhân vật khác cũng bị ám ảnh vì ngọn núi cao đó, cũng lựa lọc những gì có thể mang theo. Đấy là viên đại diện Pháp trẻ. Ông luôn lặp lại với tôi:

- Miễn là tôi lên đấy kịp thời! Vấn đề là phải trèo khá nhanh để thoát khỏi người Trung Hoa và Việt Minh. Tôi đã bấm tính thời gian đi lên. Phải mấy nửa tiếng đồng hồ. Tôi đang tập dượt để rút xuống hai mươi phút.

Viên đại diện đã có dự phòng để khỏi bị chết trên đó. Ông cho mang lên núi một lượng dự trữ thức ăn khô, đồ hộp, cả những két champagne và cognac.

Ở Phong Thổ kỳ lạ này điều kỳ lạ nhất có lẽ là viên đại diện. Con trai một đô đốc, ba mươi tuổi, có vẻ đẹp yếu ớt, nhiều nét thon thả, đôi mắt mơ màng, da trắng màu sữa. Hàng ngày ông nằm dài trên giường trong bóng mờ tối cho đến năm giờ chiều - có vẻ bệnh sốt rét làm yếu sức ông. Ông đã có lệnh cấm bất cứ ai, bất cứ vì lý do gì đến quấy rầy ông trước hoàng hôn.

Đêm xuống tôi tới gặp viên đại uý năng động, cũng rất niềm nở, ngây thơ tuyên bố với tôi:

- Người Thái tưởng tôi hơi yếu tinh thần nên họ thương tôi lắm. Ông cho tôi biết tin tức về Lao Cai: Thị xã bị bao vây. Việt Minh ở khắp lưu vực sông Hồng. Ở Trung Quốc, phía bên kia biên giới, quân du kích đỏ dồn quân lại rất nguy hiểm, như muốn đánh úp bốt đồn trú Pháp.

- À, tôi quên, ông ngọt ngào nói. Ba đồng nghiệp tôi, người phụ trách Sa Pa đã di tản rồi.

Tôi không còn đi Lao Cai theo đường thẳng được nữa vì con đường này qua đúng Sa Pa, trạm miền núi của "thực dân", cách đây ba mươi cây số ở phía nam sông Hồng. Bây giờ Việt Minh nghỉ ngơi thoải mái trong các nhà một tầng của người Pháp.

Tôi được biết có một con đường mòn khác ngay trên biên giới Trung Quốc, trèo qua dãy núi Phansiphăng. Phải lên đến đèo Mây cao hơn ba nghìn mét theo một con đường lát gạch xưa của Trung Hoa luôn có nước thác chảy qua. Tôi quyết định đi theo con đòng ấy. Đèo Văn Ân tổ chức cho tôi một đoàn người ngựa, cho tôi một đội tuỳ tùng những người có vũ khí.

Trước hôm ra đi tôi nhận được một công điện. Tuyệt đối cấm đi theo con đường đèo Mây, nó đã bị một toán người Trung Hoa xâm nhập vào Đông Dương cắt đứt. Vậy là tôi ở Phong Thổ trong một ngõ cụt, chỉ còn đi trở lại ngược với cuộc hành trình trên xứ Thái. Tôi phải trở về Hà Nội qua Lai Châu, Sơn La. Có lẽ tôi sẽ tìm được một chiếc máy bay đưa tôi đến Lao Cai, thị xã lớn đầu tiên bị đe dọa từ khi Đội quân viễn chinh sang đánh nhau ở Đông Dương.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Năm, 2018, 04:58:01 pm

Ngọn gió bại trận

Chính ở Lao Cai tôi có sự tiết lộ đau đớn này: khả năng bại trận trong cuộc chiến ở Đông Dương.

Cho tới lúc đó tôi đã sống trong ảo tưởng. Như tất cả những người Pháp, tôi công nhận Việt Minh có ưu thế của chiến tranh du kích, sự né tránh tấn công và đẫm máu. Nhưng tôi tin vào các nhà quân sự của Đội quân viễn chinh khi họ nói: "Chà, nếu Việt Minh dàn trận đối mặt với chúng tôi, chúng tôi sẽ đập nát họ!" Từ nay tôi không còn chắc chắn điều đó đúng nữa.

Vì ở Lao Cai tôi thấy các trung đoàn của ông Giáp dùng lực lượng mạnh tấn công Đội quân viễn chinh. Lần đầu tiên quân chính quy Việt Minh luồn ra khỏi "tứ giác" của họ, tổ chức một cuộc tấn công thực sự. Và trước sự tấn công đó, chỉ qua mấy ngày, mấy giờ, các sĩ quan Pháp từ tự phụ sang lo sợ, từ phức cảm ưu thế sang phức cảm yếu thế. Họ thể hiện một sự dũng cảm đáng khen và đồng thời gần như những người bại trận tương lai.

Tôi, người chứng kiến những sự kiện kỳ lạ ấy, tôi đã hiểu sức mạnh những yếu tố chống lại Đội quân viễn chinh, vừa là những lực lượng thiên nhiên bí ẩn của chủ nghĩa Cộng sản và trọng lượng to lớn của Trung Quốc. Tôi đã cảm thấy sự yếu kém của người Pháp đứng trước sự tập hợp người và sự kiện ấy.

Năm ấy Lao Cai đã chống giữ và Bộ tổng tham mưu đã nói đến chiến thắng. Nhưng tôi có cảm giác thời gian chưa chín muồi - Việt Minh chưa hoàn toàn sẵn sàng. Mao Trạch Đông chưa chính thức bố trí ở biên giới. Vào mùa xuân năm 1949 này trong núi rừng Bắc Kỳ chỉ là những trận đánh chuyển tiếp: Châu Á cũ chưa hoàn toàn biến mất trước Châu Á mới gay gắt, thực chất và không thương xót. Trong vài tháng nữa tình hình sẽ như thế. Lúc đó việc gì sẽ xảy ra?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2018, 05:05:50 am

Lính dù rơi từ trên trời xuống

Ở Hà Nội, mưa phùn là một tấm khăn liệm người chết. Bầu trời quá thấp rỉ rả xuống mặt đất. Nhưng mặt trời lạc quan ánh lên trên "thành trì" - Tổng hành dinh của Ban tham mưu Bắc Kỳ. Một đại tá nói với tôi:

- Ông có thể đi Lao Cai. Chúng tôi đã có những biện pháp để đẩy lùi Việt Minh. Ông sẽ thấy chúng tôi hoàn toàn làm chủ tình hình.

Than ôi, bầu trời vẫn nhớp nháp. Không một chiếc Junker nào cất cánh được. Giải pháp duy nhất là bay trên châu thổ sông Hồng, dưới trần mây với một chiếc máy bay nhỏ gần như một đồ chơi. Một buổi sáng tôi đi trên một chiếc Nord-1000 bay trong tranh tối tranh sáng qua một vùng bấp bênh mà tầng mây bên dưới bám vào rừng. Để hướng dẫn phi công chỉ có dải sông Hồng khó phân định rõ; phải xuống cách năm mươi mét để bay theo ánh nước thoáng qua của dòng sông. Khắp xung quanh có những ngọn núi dốc đứng, khó đoán được chân núi. Một đám mây một lúc nào đó che khuất sợi dây nước chỉ đường là hầu như chắc chắn tan xác. Và cứ thế kéo dài ba trăm cây số.

Lao Cai thật tang thương, chỉ những đổ nát với nỗi lo sợ chờn vờn đâu đó. Tất cả các loại quân đội gây nên những đổ nát ấy - binh lính của Thiên hoàng, những "người giải phóng" Mỹ, quân đói khát của Tưởng Giới Thạch, Việt Minh khi họ chiếm thị xã năm 1945, người Pháp khi họ chiếm lại. Vì hầu hết những quân đội trong tình trạng chiến tranh đều đi qua Lao Cai, cửa ngõ qua lại Trung Quốc.

Những tàn tích ấy đã cũ, gần sụp đổ, có sửa chữa lại một phần. Dân chúng khổ sở sống trong cảnh hoang tàn ấy. Nhưng ngày nay họ ẩn nấp, sống trong hầm hố - Lao Cai như không có người ở.

Đường phố duy nhất của thị xã như chết. Không một con người, một tiếng động, chỉ toàn rác rưởi, cửa ngõ có cọc chắn, phía trước nhà đóng ván kín. Chốc chốc là một lính gác qua lại.

Khi một thành phố bị đe dọa, nhân dân làm vườn không nhà trống là tục lệ ở Châu Á. Đấy là phản ứng tự vệ. Dân cư chờ đợi, ẩn nấp như biến mất, mặc số phận đưa lại một người chiến thắng. Lúc ấy họ lại ra mặt để hoan nghênh, thân thiện.

Chỉ dựa vào cảnh không người ấy, dạng lo sợ ấy, tôi hiểu Lao Cai có thể bị hạ. Cho đến lúc ấy tôi không tin một vị trí quan trọng nào được Đội quân viễn chinh bảo vệ có thể bị chiếm. Bây giờ tôi cảm thấy ngọn gió bại trận.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2018, 05:07:43 am

Tôi cũng sợ. Hình như ở đâu cũng sợ hãi, ngay cả trong văn phòng của đại uý C... trưởng đồn. Nơi chỉ huy của ông chỉ là một phòng tồi tàn, trơ trụi: một chiếc bàn gỗ trắng, những bản đồ của bam tham mưu trên tường và một máy điện thoại dã chiến. Viên đại uý là hiện thân của sự vững chãi, một quân nhân đồ sộ, nhưng tôi cảm thấy ông rùng mình khi nói với tôi:

- Nếu Việt Minh xuất hiện trong thị xã, những cộng sản Trung Hoa sẽ đột nhập vào và thế là hết.

Tôi biết thị xã này hầu như không thể bảo vệ được. Đây chỉ là một con đường dài ở dưới thấp, trong lưu vực sông Hồng, xung quanh rừng, phía trên là Trung Quốc, cả ba phía rừng núi ở trong tay Việt Minh. Phía kia, cách mấy trăm mét, thị trấn Trung Quốc Hà Khẩu khống chế Lao Cai từ trên đồi cao. Bất cứ lúc nào, ca-nông của thành trì này có thể đè bẹp Lao Cai, khu đồn trú Quốc dân đảng ở đây có thể đầu hàng quân du kích Mao Trạch Đông cùng vũ khí và thiết bị.

- Nhưng sự đe dọa trước mắt là trung đoàn Việt Minh ở khu tứ giác Hồ Chí Minh đã xuất phát được một tháng với mục tiêu là Lao Cai. Chắc bây giờ đoàn quân ấy rất gần, nguỵ trang trong thiên nhiên mà không bao giờ người ta phát hiện ra. Cuộc tấn công chưa biết sẽ xảy ra một đêm nào đó trong lúc ở Lao Cai chỉ có đại đội chỉ huy của tôi.

Viên đại uý đến bên cửa sổ, chỉ bầu trời nặng như chì:

- Hy vọng cuối cùng của tôi là ở đó, trông vào một đợt lính nhảy dù. Tôi đã yêu cầu và vừa yêu cầu lại. Hà Nội cho biết tiểu đoàn dù đã sẵn sàng. Máy bay Junker cũng thế nhưng phải quang đãng một ít đã. Suốt ngày tôi chờ không thấy. Đêm nay thị xã như để phó mặc.

Hoàng hôn xuống. Khu rừng rất gần thật yên tĩnh khi đêm tối bao phủ! Thế nhưng Việt Minh có lẽ chỉ cách một, hai cây số, sẵn sàng xông vào.

Ngày trở lại, có tiếng máy bay ầm ĩ. Trên bầu trời sáng đục người ta không trông thấy được những chiếc máy bay quay vòng đi lại rất lâu. Chúng cũng mù - không nhìn thấy mặt đất, phải tìm kiếm qua mây. Bỗng tiếng máy bay tăng lên. Trên bầu trời xám xịt bung ra một chuỗi chấm đen, chao đảo. Lính dù đã được thả, họ xuống dần.

Có một đại đội, được tập hợp lại sau một giờ. Quân dù theo hàng dài bước tới khu rừng bắt đầu từ cuối con đường. Họ biến mất vào bí mật, tôi không biết họ đi đâu - một bí mật tuyệt đối. Chính đại uý C... giao nhiệm vụ cho họ; ông bố trí người hướng dẫn, cu-li, ngựa thồ. Dù bằng cách nào, nơi đến của họ là đòn "đánh mạnh”.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2018, 05:08:18 am

Đây là lần đầu tiên tôi thấy lính dù hành động ở Đông Dương. Cho đến lúc đó người ta ít sử dụng họ. Làm sao dự kiến được cuộc chiến tranh từ nay chủ yếu là của họ? Vì trong những hỗn độn lớn trong tương lai, họ sẽ là những chuyên gia bám địch: Chính họ là những người cầm chân các sư đoàn Việt Minh. Họ trở thành những chiến binh vô vọng mà máy bay ném xuống vì những nhiệm vụ cụ thể, không tranh cãi được.

Trong buổi sáng ở Lao Cai này, quân lính dù tôi thấy hình như khác với những quân lính khác! Đấy là những vô lại siêu nhân, ngược hẳn lê dương: những người này, lính hoàn hảo chuyên nghiệp của thế giới hiện đại, tự hào về việc tuân theo mệnh lệnh và âm thầm: họ đánh nhau theo đội hình vững chắc, được trả công để chết khốn khổ - người ta nắm họ trong kỷ luật của cái chết tương lai. Lính dù trước hết là người theo chủ nghĩa cá nhân, một nghệ sĩ, đấu sĩ. Mỗi trận đánh là một cuộc đấu tay đôi mà anh ta phải thắng. Cuộc đời của anh ta là sự thách đố thường xuyên, những trận đánh liên tiếp - những cuộc đấu tay đôi mà anh luôn phải thoát do "giá trị" của mình, sức mạnh của tính cách mình. Cuộc "chơi" là trải qua mọi mạo hiểm và với tính cách ưu việt, phải chiến thắng thậm chí phải giết. Đấy là vinh dự. Bị giết hầu như là sự hổ thẹn. Tôi có nghe nói đến một sĩ quan dù bỏ tù những người bị thương vì như vậy là thấp kém.

Kẻ thù của lính dù là cái chết, luôn luôn có mặt nhưng bất lực. Lính dù không sợ hãi. Sống sót không phải bản năng của sự hèn nhát mà là chiến thắng của nghị lực. Lính dù có một triết lý. Điều đó đưa họ lên trên tất cả, cả những khái niệm thông thường của cái tốt và cái xấu. Lĩnh vực của họ là sự khốc liệt tự nguyện chọn lựa nhưng được họ thăng hoa vì sự trong sạch, không vụ lợi.

Thực tế, lính dù thán phục Việt Minh dù chưa có ý thức. Đấy là những kẻ thù xứng đáng với Việt Minh. Trên mọi cuộc đấu tay đôi đặc biệt, có cuộc đấu lớn giữa những tiểu đoàn dù chống các sư đoàn của ông Giáp. Việc này kết thúc bi thảm ở Điện Biên Phủ. Ở Lao Cai tôi chứng kiến một trong những giai đoạn đầu của cuộc đấu khổng lồ này.

Sau khi đoàn lính dù đi, tôi chờ đợi trong văn phòng đại uý C... Sự chờ đợi cũng là cuộc chiến đối với ông. Ông chờ tin tức của trận đánh không biết rõ ở đâu đó trong thiên nhiên. Vì ông không bảo vệ Lao Cai tại Lao Cai mà trong một khu rừng lớn như cả toàn vùng với hàng nghìn đường mòn, núi cao với cây cối um tùm khắp nơi. Trong mênh mông đó một số phân đội địch thủ mất hút trong thiên nhiên. Thế nhưng những nhóm người ấy tìm nhau, tránh hoặc bám vào nhau - Việt Minh, để đi qua và lính dù, để ngăn cản họ đi qua.

Viên đại uý ngồi trong phòng hướng dẫn trận đánh, trừu tượng nhất trong các trận đánh. Dụng cụ của đại uý là máy điện thoại và điện đài. Với ông, tôi thấy một bi kịch ở trạng thái thực chất, không trang trí, chỉ với những tiếng chuông điện thoại và điện tín. Mỗi lúc có thể là tin báo một sự kết thúc, một sự phản bội, một bốt bị hạ, một cuộc phục kích. Cũng có thể là hy vọng. Trong suốt thời gian ấy, trong gian phòng tầm thường này, dựa vào những thông tin nghèo nàn hoặc suy đoán, đại uý có những quyết định qua đài sẽ đến một bốt hoặc một đoàn quân. Và tuỳ theo ông có nhầm lẫn hay không trong văn phòng ông ở Lao Cai, sẽ là chết hoặc sống của bao nhiêu người.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2018, 05:09:24 am

Bốn mươi tám tiếng đồng hồ chậm rãi trôi qua, viên đại uý bí mật điều khiển các đơn vị của ông trên bàn cờ rừng rậm. Sáng ngày thứ ba có chứng cứ ông ta tính toán đúng, ông chiến thắng. Tin báo đêm trước bốt Bản Phiệt đập tan một đại đội Việt Minh. Sáng ra những đống xác chất cao bằng hàng rào. Một cuộc tàn sát dã man. Trưởng bốt ra lệnh bắn như dội đạn vào quân chính quy khi chỉ cách năm mét.

- Tôi biết việc gì sẽ đến, đại uý nói với tôi. Việt Minh sẽ tấn công Bản Phiệt bằng mọi giá, lợi thế của tôi là họ không biết tôi có đại đội lính dù đó; lính dù đã tàn sát họ.

Và đại uý kể cho tôi nghe một câu chuyện về rừng và Châu Á độc ác và lạ lùng như bao câu chuyện khác. Đấy là việc đi tìm một số xác chết đã cứu Lao Cai. Năm Việt Minh đi hàng một trên con đường mòn trong rừng bị tan xác vì một quả lựu đạn cài sẵn. Nguỵ binh đi chôn xác tìm thấy trên người họ một cuốn sổ giấy úa vàng, đầy dấu và chữ. Đấy là toàn bộ kế hoạch tấn công Lao Cai, hai mươi trang viết tỉ mỉ. Năm đại đội Việt Minh đã tập trung trước mặt thị xã. Để tấn công, họ phải chờ sự ráp nối với quân lính cộng sản Trung Quốc. Cần có một đại đội thứ sáu chiếm Bản Phiệt, bốt chỉ huy con đường dễ đi nhất qua núi rừng biên giới. Nhiệm vụ có vẻ chẳng khó khăn gì vì khu đồn trú Bản Phiệt bình thường rất yếu...

Chúng tôi đã không bị thiệt hại gì, ít nhất là trong mấy ngày, thời gian họ phê bình kiểm điểm và lên kế hoạch mới. Những lý do thực sự là những đại đội trước mặt chưa "chín muồi". Để chắc thắng, Việt Minh đề nghị những người cộng sản Trung Quốc đánh chiếm Lao Cai từ phía sau. Những người này chỉ muốn tham gia với một lời hứa. Vậy là Việt Minh phải cố gắng để liên hệ với họ; như vậy thì phải làm bật nút Bản Phiệt.

Giữa quân đỏ, việc mặc cả rất phức tạp, rất Phương Đông. Và như vậy là xảy ra sự cố tai hại. Cuốn sổ tìm thấy đủ để làm hỏng cả một công trình vì nó cho tôi tìm ra giải pháp. Tôi cho quân dù đến bốt hết sức bí mật, dẫn họ đi lắt léo trong rừng. Và quân địch vốn biết hết, lần này mù tịt.

Viên đại uý giải thích cách làm của ông đúng như anh hùng trong cuốn truyện trinh thám, khi sắp đặt hoàn chỉnh mưu kế của mình.

Một giờ sau, thị xã đã hoàn toàn thay đổi. Đường phố đông người, các quán hàng mở cửa trở lại, chất đầy hàng ít có giá trị; bên trong các nhà đã có tiếng chơi cờ. Dân chúng Lao Cai biết cơn nguy hiểm đã qua, ít nhất là tạm thời.

Quân lính dù vẫn theo hàng ngũ, trở lại và ra đi. Những nét mặt mệt nhọc. Họ tiến bước im lặng, nặng nề, một cách máy móc vì nghị lực. Vào từ một đầu phố, họ đưa một số bị thương vào bệnh viện rồi tiếp tục đi. Sau khi đi qua thị xã, họ lại mất hút trong rừng, trong chiến tranh.

Những tuần lễ tiếp đó, đoàn quân dù lại xuất hiện nhiều lần ở Lao Cai, chỉ để đưa tới những người bị thương và người chết. Trong số những xác ấy có một người tự sát. Một lính tình nguyện trẻ từ Pháp sang mấy tuần trước, nghĩ rằng mình đã không dũng cảm, đã tự bắn vào đầu. Anh ta cho mình làm mất danh dự. Tuy vậy sĩ quan đã xử sự tốt. Chắc rằng như thế chưa đủ...

Thực ra ở những người lính dù, những người quá căng thẳng ấy, người ta chết vì quá nhạy cảm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2018, 05:13:12 am

Ngón khéo léo của Châu Quán Lồ

- Cả tuyến biên giới... đi đời...

Đấy là câu viên đại uý tiếp đón tôi trong buổi sáng tôi vào văn phòng ông.

- Tuyến biên giới vỡ ở Hoàng Su Phì, bốt xa nhất của chúng tôi phía trên sông Đáy. Nếu trên ấy tan tành thì rồi ở ngay đây, Hà Khẩu, Lao Cai cũng sẽ sụp đổ; họa Việt Minh vừa lu mờ thì đến mối nguy Trung Quốc.

Đại uý đưa cho tôi một bức điện. Sĩ quan chỉ huy ở Hoàng Su Phì báo tin Tchou Kia Py - uỷ viên chính trị của Mao Trạch Đông - đã cho Việt Minh mượn một tiểu đoàn trong một tháng, thời gian đủ để lấy bốt.

Bi kịch Hoàng Su Phì kéo dài nhiều tuần, diễn ra trong những núi đá vôi thể hiện trên bản đồ bằng một vệt trắng. Đấy là bi kịch một bốt ngày này qua ngày khác đã chống cự với những trăm, nghìn Việt Minh, lộn xộn kinh khủng. Lúc đầu chỉ có năm người Pháp và ngụy binh. Họ đã tưởng bị mất thì lính dù nhảy xuống góc cuối này. Lính dù lấy lại từng đỉnh núi cao khống chế bốt. Việt Minh đưa từng làn sóng người phản công nhưng thất bại và bây giờ xuất hiện quân Trung Hoa cộng sản.

Trung Quốc của Mao chính thức còn cách hàng nghìn cây số nhưng du kích đỏ đã bố trí sát cạnh Đông Dương. Người tổ chức các toán này là Tchou Kia Py, một trí thức gầy và dữ tợn, trực thuộc Ban tham mưu của Mao Trạch Đông, từ vùng giải phóng phía bắc Trung Quốc xa xôi đến Vân Nam chỉ với một số tùy tùng. Trong mấy tháng ông ta đã thành lập các đội ngũ với quân hiệu ngôi sao đỏ.

- Đất Vân Nam này, đại uý nói, là nước Trung Quốc suy thoái tột độ. Những sân bay rộng lớn do người Mỹ xây dựng trong chiến tranh đã trở lại với rừng. Vũ khí US đưa qua theo đường Miến Điện được bán khắp nơi: người ta có thể mua ở chợ Côn Minh. Nhưng tình trạng vô chính phủ bắt đầu từ năm 1946; khi tướng Lư Hán từ chối chia sẻ khối chiến lợi phẩm thu được ở Bắc Kỳ khi sang giải giáp quân đội Nhật. Ông ta giữ tất cả cho mình. Những tướng, tá của ông thất vọng và giận dữ, nổi dậy trở thành giặc cướp. Họ hoan nghênh những đề nghị của Tchou Kia Py, nghĩ rằng mình sẽ có lợi hơn.

Sự huỷ hoại càng nhanh vì Lư Hán mất mặt. Tưởng Giới Thạch chơi ông thảm hại, lợi dụng lúc cử Lư Hán sang Bắc Kỳ để chiếm lãnh địa của ông, đặt những khu đồn trú của mình ở những thị trấn chính của Vân Nam. Sau đó những người cộng sản đã có thể "lũng đoạn" tất cả nhờ vào sự bất bình chung.

Trong tình trạng sa sút ấy chỉ với mấy trăm du kích, năm ngoái Tchou Kia Py chiếm Mong Tseu, thị trấn thứ hai của tỉnh, vùng giàu thép, cách Lao Cai không đến một trăm cây số. Không có chống cự. Sau đó cả một nửa Vân Nam bao bọc phía trên Đông Dương chuyển sang phe đỏ; cả vùng biên giới chỉ còn lại với Quốc dân đảng một khối, khu Hà Khẩu khống chế chúng tôi. Nhưng thị trấn này đơn độc, hoàn toàn bị du kích thiết chặt. Một ngày nào đó quân lính ở đây gia nhập với Tchou Kia Py và sẽ là tai họa.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2018, 05:15:41 am

Từ nay, hơn cả Việt Minh, Tchou Kia Py là kẻ thù thực sự của tôi, đáng sợ nhất. Ông ta liên minh với Việt Minh, tung du kích tấn công các bốt của tôi, đe dọa tôi tận Lao Cai. Tôi phải đọ sức với chính ông ta. Không phải bằng vũ khí mà theo "cách của Châu Á". Tchou Kia Py đã dụ dỗ các ông chúa chiến tranh; tôi sẽ rủ rê, lung lạc họ về với mình.

- Trước đây, đặc ủy tâm sự với tôi, tình bạn với các thủ lĩnh băng nhóm, với những vị làm giàu vì buôn vũ khí đã rất quý giá đối với tôi. Không có tình bạn ấy tôi không bao giờ lấy lại được Lao Cai với người của tôi cách đây bốn năm. Và chắc người Pháp sẽ không có mặt ở đây.

Chính nhờ sự tận tụy của Nùng mà tôi chiếm lại được thị xã này. Anh ấy chỉ là một lính biệt kích người Thổ. Nhưng câu chuyện của anh rất đẹp, tôi kể cho ông nghe.

Thời kỳ Nhật chiếm đóng tôi chỉ huy một đại đội dân bản xứ ở Lao Cai. Trong cuộc đảo chính tháng ba năm 1945 tôi vượt qua Cầu quốc tế với người của tôi sang tìm chỗ lánh nạn ở Trung Quốc. Khi đế quốc Mặt trời mọc đầu hàng, tôi được lệnh trở lại Lao Cai. Nhưng Việt Minh đã chiếm đóng thị xã và toán quân của tôi đã kiệt sức không đuổi họ được. Lòng hiếu khách của Trung Quốc chỉ là một dạng trại tập trung.

Thay vì trở lại cầu với đại đội mình, tôi chỉ thị cho Nùng quay về Lao Cai một mình, nói là đào ngũ, xin gia nhập Việt Minh và tự xoay xở lấy. Mấy tuần lễ sau đó anh báo tin cho tôi, anh được chỉ định chỉ huy trưởng và tôi có thể trở về, tất cả đã sẵn sàng.

Đến ngày đã định chúng tôi về thị xã, nghi ngờ, dưới đội hình chiến đấu. Chúng tôi thấy một Lao Cai hoan hỉ kéo nhiều cờ tam tài. Trên quảng trường chính hai trăm người cưỡi ngựa giơ cao súng chào chúng tôi. Trang bị của họ, từ những kho Mỹ theo những đường bí mật cung cấp, tương phản khác thường với quần áo rách rưới của chúng tôi. Tôi nhận ra Nùng tuốt gươm chào chúng tôi. Những kỵ sĩ ấy của anh trong đại đội Việt Minh: đấy là những người miền núi, tin cậy, bà con mà anh tự tuyển mộ với sự khuyến khích của những cán bộ chính trị. Xa hơn một ít là những tù binh, lính của một đại đội Việt Minh khác, người Annam thuần túy. Nùng đã bất ngờ giữ họ.

Bây giờ Nùng đã chết trong chiến đấu. Nhưng bạn thân, tôi có rất nhiều người khác! Tôi có Se Co Tinh. Tôi có Châu Quán Lồ. Và để giữ Lao Cai đối với Tchou Kia Py, trước hết tôi dựa vào họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2018, 05:16:30 am

Ngày hôm sau tôi làm quen với Se Co Tinh. Một người Lao Cai khoảng ba mươi tuổi, giống một người học trò mẫu mực của các cha. Nhỏ nhẹ, nụ cười e thẹn, anh giữ được nét đẹp của tuổi trưởng thành. Nhìn bề ngoài anh hoàn toàn Phương Tây hóa, nói tiếng Pháp, mặc bộ quần áo comple là kỹ và cho xây dựng một biệt thự như ở ngoại ô Paris. Nội thất kiểu hiện đại trang trí những dây hoa giả và tranh ảnh tiệc tùng. Những chiếc xô-pha, bàn, giường, đàn dương cầm được máy bay chở đến từ những cửa hàng sang nhất ở Sài Gòn và Paris. Ở châu thổ sông Hồng như thế là quá sang trọng.

Se Co Tinh sống một cuộc đời yên ấm ở gia đình; anh có một người vợ đẹp im lặng và những đứa con hay la hét. Nghề của anh là sở hữu năm trăm khẩu súng - được hàng nghìn người sử dụng trên bờ tây sông Hồng, không quan tâm quá đáng đến biên giới. Nhưng anh không phải một trưởng băng nhóm thô lỗ, đấy là một người kinh doanh. Hầu như anh không bao giờ bám sát vốn của mình, nghĩa là súng và người của anh. Anh chỉ đạo việc "buôn bán" từ Lao Cai, cụ thể hơn là từ biệt thự của mình nhờ một đài thu phát.

Se Co Tinh không có một luật lệ nào, kể cả luật lệ trưởng băng nhóm. Anh làm việc cho mình nhưng với sự che chở của người Pháp mà anh là người đưa tin tốt nhất.

Ngược lại tôi không có vinh dự tiếp cận với Châu Quán Lồ. Ông ta quá bận bịu trên những ngọn núi Mường La, đánh nhau và trao đổi mua bán với đủ loại người Trung Quốc như một chiếc răng, sát Hoàng Su Phì, cách Lao Cai khoảng một trăm cây số về phía đông bắc.

Châu Quán Lồ là một chúa Mán ở lưng chừng núi, ngay dưới người Mèo. Những bước khởi đầu của ông không rõ, rất có thể là một tên cướp, về già ông lãnh đạo dân tộc mình một cách đàng hoàng và tư cách. Đi đâu ông cũng ngồi trên lưng một con ngựa yên cương thật đẹp phía sau đoàn tuỳ tùng chức sắc - người cầm cờ hiệu, quân hầu rượu luôn cầm vò rượu, quân mang ống điếu, mấy vệ sĩ luôn để ngón tay vào cò súng tiểu liên, vài chư hầu và cuối cùng là ông che tán tránh nắng cho khuôn mặt vương giả. Thế nhưng khuôn mặt ông thật đáng sợ, sẹo khắp nơi, khâu vá khắp nơi, một con mắt chột mí mắt to lớn khép kín, con mắt kia sưng húp đầy ghèn.

- Ông ấy trung thành triệt để với người Pháp, viên đại uý nói với tôi. Ngay cả khi đã mất hết trong cuộc đảo chính Nhật năm 1945, giữa rừng núi của mình hàng ngày Châu Quán Lồ vẫn chủ trì lễ chào cờ tam tài. Trên toàn Đông Dương lúc ấy chỉ trên lãnh địa ông còn phấp phới lá cờ Pháp. Bao giờ ông cũng tận tâm như vậy; bây giờ ông giết tất cả những người cộng sản, không phân biệt Việt Minh hoặc Trung Hoa. Bao nhiêu đầu bị chặt! Ông muốn đều đặn gửi cho tôi một thúng và hơi phật lòng khi tôi từ chối món quà đó.

Hai, ba ngày sau viên đại uý thông báo cho tôi:

- Xong rồi. Châu Quán Lồ làm thất bại cuộc tấn công của Tchou Kia Py vào Hoàng Su Phì rồi: ông đập tan cuộc tấn công không một phát súng, với mấy nghìn đồng bạc.

Một tướng cướp Trung Hoa tên Chung đến gia nhập theo quân Tchou Kia Py cách đấy ba tháng; đêm trước anh ta nổi dậy chống lại. Lâu nay anh ta cay đắng than phiền không nhận được tiền cứu trợ cộng sản đã hứa; họ làm anh không kiếm được nhiều vì phải chuyển sang sống lương thiện. Biết được những lời kêu ca đó, Châu Quán Lồ đề nghị sẽ cung cấp số tiền đó nếu anh ta quay lại chống quân đỏ. Thế là chiều hôm qua Chung cướp hết mọi tiếp viện thực phẩm của tiểu đoàn quân Tchou Kia Py đang tiến đến Hoàng Su Phì - đoàn quân đói đành phải trở về.

Không kể việc Chung ngày nay bị một băng nhóm cạnh tranh do cộng sản chi phối đánh tập hậu một sự lộn xộn không gỡ nổi giữa những người Trung Hoa đủ loại trên biên giới. Nhưng Tchou Kia Py không chiếm Hoàng Su Phì sớm được.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2018, 05:19:16 am

Những khẩu đại liên của thị trưởng

Chiến thắng ấy không có ngày mai. Vì lúc tôi đến, Lao Cai đã là một thị xã chết, nhân dân trốn tránh, ẩn mình sau những cọc và tấm ván. Tôi lại thấy nỗi sợ hãi. Viên đại uý cũng giật mình khi nói với tôi.

Trong văn phòng ông, những tấm bản đồ ban tham mưu đầy những mũi tên đổ từ mọi phía chĩa vào Lao Cai.

- Cuộc tấn công đã bất đầu lại. Lần này quân địch muốn kết thúc cho xong. Thậm chí tôi nghĩ những đợt thả lính dù mới cũng không cứu được chúng tôi. Hôm trước lãnh đạo Trung Hoa và Việt đã họp cấp cao tuyệt mật: thay vì kết tội nhau, họ đều phê bình, công nhận có những ẩn ý và nghi ngờ nhau. Từ nay họ sẽ hành động với tình "anh em", tất cả tấn công Lao Cai cùng một lần, cả mọi phía, lao về phía trước không chờ đợi, không trông chừng nhau, không bận bịu về những kế hoạch phức tạp. Chiến thuật duy nhất của họ là nhấn chìm thị xã bằng người.

Tchou Kia Py hứa cho các đội quân đốt phá. Vì vậy mọi loại băng nhóm Trung Hoa bị chiến lợi phẩm hấp dẫn, đang vượt sang Đông Dương, phía bắc cũng như phía nam sông Hồng. Biên giới chỉ còn là một cái vá vớt bột.

Không phải chỉ có thế. Điều tệ hại - nghiêm trọng nhất là Trung Hoa mà Việt đã quyết định trước hết chiếm Hà Khẩu. Hiện tại các tiểu đoàn của Tchou Kia Py và các tiểu đoàn Việt Minh đang tập trung phía sau, Thị trưởng Quốc dân đảng - vốn luôn luôn từ chối chi phí cho cảnh sát - vội vàng tuyển cu-li, ăn mày, phân phối súng cũ cho họ. Đấy là toàn bộ sự chống trả của ông ta, đúng một hài kịch để khỏi mất mặt. Và khi cộng sản ở Hà Khẩu, họ sẽ dội đạn xuống chúng tôi với súng ca-nông của pháo đài cũ khống chế cả vùng lưu vực sông Hồng.

Từ cửa sổ văn phòng tôi thấy Hà Khẩu rất gần, nghiêng nghiêng, còn trong yên tĩnh của hòa bình. Lá cờ Quốc dân đảng vẫn phấp phới đầu cán, trên cao thành trì Trung Hoa.

Nếu quân đỏ từ trên ấy bắn xuống Lao Cai, tôi sẽ ra lệnh dội bom Hà Khẩu. Sẽ tiến hành trả đũa dù có gây nên một khủng hoảng quốc tế. Tôi đã xin Hà Nội một khẩu ca-nông 105. Chốc nữa người ta sẽ chở tới.

Trong ngày đại uý không chỉ nhận được khẩu ca-nông mà hàng trăm cu-li kéo, đẩy lên một hòn núi cao trước mặt Hà Khẩu. Ông cũng nhận được một bức thư của thị trưởng mong mỏi ngay chiều nay trưởng khu đồn trú Pháp đầy quyền lực chiếu cố đến thăm ông.

Chúng tôi đi ngay. Chiếc cầu quốc tế chỉ còn là một đống sắt cong queo; chúng tôi đi đò qua thác nước dùng làm biên giới, rời chỗ trống không đến chỗ đông người. Hà Khẩu không trong cảnh lo sợ như Lao Cai, dân cư đông đúc lúc nhúc trên những con đường lát đá và hôi hám. Họ nhìn chằm chằm vào chúng tôi nhưng không nói gì, hoàn toàn thờ ơ. Những người ấy thậm chí không cần ẩn náu. Họ biết sẽ không đánh nhau ở Hà Khẩu, tất cả xảy ra theo thông lệ. Vào một giờ nào đó trong một ngày nào đó, thị trưởng sẽ khăn gói ra đi. Mấy phút sau các đội cộng sản chiến thắng sẽ xuất hiện, sẽ thổi kèn, diễu hành. Mọi người dân treo cờ cộng sản mà họ chuẩn bị từ lâu. Và họ đi dự một cuộc "mít tinh" lớn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2018, 05:20:05 am

Chúng tôi trèo lên lâu đài của thị trưởng trên đỉnh núi, bên cạnh lô-cốt. Dĩ nhiên mọi việc đã được thu xếp. Không có quân lính; chỉ vài ma-cà-bông cầm súng mút-cơ-tông còn lại từ thế kỷ trước. Thị trưởng vừa thành công hoạt động tài chính cuối cùng. Ông ra lệnh tổng động viên nhưng mọi người đàn ông đều mua giấy miễn nhập ngũ ở ông. Chỉ một số khổ sở ở lại phục vụ.

Lâu đài đang chuyển đồ đạc. Chúng tôi đi qua các cửa, sâu khắp nơi có hàng trăm chiếc hòm; đầy tớ đang sắp xếp, một đám cu-li chờ để mang đi. Trong cảnh sôi động ấy một viên thư ký đến thì thầm với chúng tôi, thị trưởng đang ốm. Tuy nằm liệt giường, ông cố gắng tiếp ông đại uý trong phòng - chỉ một mình ông đại uý thôi.

Sau nửa giờ, ông này trở ra, khó nhịn cười cho đến khi chúng tôi đã khá xa:

- Không tưởng tượng được. Tôi thấy thị trưởng nằm nghiêng trên giường, một ông già quạt đầu cho ông. Sau những lời lịch sự dài dòng ông trịnh trọng tuyên bố gửi nhờ tôi một kho quý. Tôi nghĩ đến những vật thông thường, một kho của nhỏ, thuốc phiện, có lẽ các vợ ông cũng nên. Nhưng quái lạ hơn nhiều. Đó là mười hai khẩu đại liên, những khẩu súng rất đẹp, còn mới và vẫn để trong hòm, ông ta nói cụ thể với tôi như thế. Ông đề nghị tôi lấy danh dự cam đoan trả lại cho ông khi quân đỏ đe dọa thị trấn sẽ bị đập tan. Do khôn ngoan tôi nói lên ý muốn xem những vật quý đó và tôi nhận ra mười hai khẩu đại liên mà quân đội Lư Hán cướp của tiểu đoàn tôi ngay tại Lao Cai năm 1945. Tôi liền nhận ngay. Tối nay chúng tôi sẽ có thêm mười hai đại liên dù việc xảy ra như thế nào, viên thị trưởng cũng không bao giờ thấy lại chúng nữa.

Chúng tôi thắng lợi trở về Lao Cai. Đến sáu giờ tối một đoàn cu-li đưa các hòm vũ khí đến. Việc chuyển giao không ngờ ấy có nghĩa Hà Khẩu rõ ràng sẽ mất, chắc chắn ngay trong đêm đó; Tuy vậy sáng hôm sau, lá cờ Quốc dân đảng vẫn treo trên pháo đài. Cả ngày trôi qua mà cộng sản không vào thị trấn Trung Quốc đã sẵn sàng tiếp nhận họ như thế. Ngày tiếp theo cũng vậy. Đại uý băn khăn vì không hiểu, cả Se Co Tinh cũng không biết gì.

Hoàn toàn bí ẩn. Sự chờ đợi trở thành quá mức. Trong nhà ăn, các sĩ quan khu đồn trú, những nhân vật nhỏ nhen và tiết kiệm đến bốt Lao Cai để khỏi hoang phí, ngẩng mặt lên khỏi đĩa ăn tự hỏi: "Vì sao Tchou Kia Py không lấy Hà Khẩu?" Riêng những hạ sĩ vẫn thanh thản. Họ có khoảng mười người, những "ông già" thuộc địa, đã mười, mười lăm năm ở thuộc địa, sống như đế vương trong một ngôi nhà cách biệt. Họ đã thu lượm được mọi kinh nghiệm, mọi khôn ngoan trên đời. Những biến động của Lao Cai không làm họ bối rối, đã có quá nhiều triết lý đối với những sự việc bất ngờ ấy.

Khi tôi hỏi cần phải làm gì khi gặp tình trạng nguy kịch, có người nhìn tôi ngạc nhiên:

- Ông nghĩ có thể thoát khỏi đây bằng con đường hàng không ư? Trong tình trạng như ở Lao Cai, không bao giờ có chuyến máy bay cuối cùng, hoặc người ta bị lỡ dịp. Ông phải "làm" con đường mòn Lào, đi hàng trăm cây số.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2018, 05:21:44 am

Cả một tuần lễ không xảy ra việc gì. Vào ngày thứ tám chờ đợi, một đoàn lính kéo vào Hà Khẩu. Nhưng trên mũ thay vì ngôi sao đỏ là mặt trời của chính quyền ánh lên; đây là một trung đoàn quốc gia. Dân chúng Hà Khẩu hoan nghênh nhiệt liệt Tưởng Giới Thạch thay vì Mao Trạch Đông và bỏ vào hòm những lá cờ Trung Quốc nhân dân, treo những lá cờ Quốc dân đảng vẫn khôn ngoan giữ lại.

Ngay lúc ấy một phái viên đặc biệt của thị trưởng mang bức thư chính thức thông báo giải thoát Hà Khẩu. Thị trưởng văn vẻ viết: "Ý đồ kiêu căng của quân địch đã bị trừng phạt. Đoàn quân kiên cường của chúng tôi, sau khi tiêu diệt bọn cướp thô bỉ muốn cản đường, vừa thắng lợi vào thị trấn chúng tôi giữa sự hân hoan của dân chúng. Mọi nguy hiểm đã bị đẩy lùi". Để kết luận, thị trưởng mong ông đại uý hoàn lại, tốt nhất là ngay trong ngày, mười hai khẩu đại liên gửi nhờ ông giữ.

Đấy là một sự việc: Hà Khẩu đã được cứu và do đó Lao Cai cũng thế. Nhưng vẫn hoàn toàn bí ẩn. Trung đoàn quốc gia ấy có thể từ đâu xuất hiện vốn không ai ngờ có mặt trong vùng?

Se Co Tinh cuối cùng giải đáp bí ẩn một cách đơn giản, hơp lý và hoàn toàn Trung Hoa. Trung đoàn quốc gia do đại tá danh tiếng Ly chỉ huy không bắn một phát súng. Họ đến từ rất xa. Vũ khí trên vai, đi qua cả vùng cộng sản từ Mong Tseu đến Hà Khẩu. Wan Pao Pang, nhân vật đỏ cao nhất của Vân Nam sau Tchou Kia Py đã cấp cho họ một giấy thông hành.

- Wan Pao Pang ấy, đại uý nói với tôi, là một tướng của Tưởng Giới Thạch cho là mình không được bù đắp xứng đáng về công sức phục vụ. Bất bình ông ta rút về những đất đai bao la của mình ở Pin Ping - Vân Nam, là tên độc tài khét tiếng, chúa tể chiến tranh lớn nhất trong vùng. Ông xây dựng một trung đoàn riêng từ những nô lệ của mình để đánh nhau với Lư Hán và quân Quốc dân. Cuối cùng ông về trung thành với Mao Trạch Đông, được cử lãnh đạo các đội quân nhân dân cả tỉnh. Nhờ sự giúp đỡ của ông mà Tchou Kia Py - cộng sản thực sự, phái viên chính trị mới đến trong vùng - đã có thể chiếm được Mong Tseu.

Nhưng sau đó, Wan Pao Pang, người phong kiến đỏ bỗng lo ngại. Tiến bộ của Tchou Kia Py quá lớn: bao vây vùng lãnh địa của ông, kiểm soát quân đội ông. Wan Pao Pang đã sử dụng cộng sản chống Lư Hán, từ nay ông sử dụng Lư Hán để chống lại cộng sản. Vì vậy chỉ huy các đội quân nhân dân ra lệnh cho tất cả băng nhóm và du kích đỏ trong vùng không tấn công đoàn quân của đại tá quốc gia Ly. Điều đó lập lại sự cân bằng trong tỉnh.

Đối với một chúa chiến tranh như Wan Pao Pang, không một phe nào quá mạnh và quá thắng lợi. Đấy là điều kiện để ông thịnh vượng, thậm chí sống sót.

Tôi sắp rời Lao Cai, thành luỹ vững chắc, được cứu thoát lạ lùng vì những tính toán Trung Hoa của một chúa chiến tranh nào đó. Nhưng Wan Pao Pang ấy, tên phong kiến cải hối nửa vời luôn có trò chơi hai mặt, còn kéo dài thân phận mình bao lâu nữa? Ông ta đã bị lịch sử lên án.

Tuy vậy nhờ ông mà Lao Cai được nghỉ một giai đoạn. Mùa mưa bắt đầu lũ dìm hết mọi khả năng tấn công của quân đỏ. Nhưng sẽ như thế nào, khi cộng sản tấn công trở lại?

Những lời nói cuối cùng của đại uý là:

- Chúng tôi có thể giữ Lao Cai khi mà Trung Quốc cũ còn ở vùng biên giới. Than ôi, nó đang hấp hối. Khi những sư đoàn của Mao Trạch Đông chiếm Vân Nam thì chúng ta không còn lâu nữa, ít nhất là ở Lao Cai này.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Bảy, 2018, 10:17:56 pm

Sai lầm của phi công

Tôi chờ một chiếc máy bay đã nhiều ngày để ra đi. Mưa phùn còn dày, trải trên đầu chúng tôi như một chiếc khăn ướt. Đường băng lầy lội. Ở Lao Cai hoàn toàn cấm hạ cánh và cất cánh.

Người ta nhận được một thông báo của đội quân dù; có hai lính dù bị thương nặng được cáng đến Lao Cai vào ngày mai. Hai người bị thương nhất định phải đưa về Hà Nội để mổ.

Đại uý xin một máy bay Morane cứu thương vào ngày kia - một máy bay rất nhỏ chở được hai chiếc cáng. Ông đòi hỏi ưu tiên số một nhưng mưa phùn vẫn như bông vải và e ngại ngay chiếc Morane cũng không đỗ xuống được. Thế nhưng hai người bị thương sống chết nhờ vào sự may rủi ấy, ít hay nhiều sương mù hơn trong vài giờ trên châu thổ sông Hồng.

Ngày hôm sau, đoàn quân dù đến Lao Cai vào buổi trưa. Họ đi lảo đảo, nhìn không ra người, còn đáng sợ hơn lần đầu từ núi rừng trở về. Trong một tháng họ đi bộ hơn một nghìn cây số trên những đường mòn. Còn một số người chết họ đã chôn trong rừng, chỉ mang về hai tấm cáng treo dưới các đoạn tre trên đó nằm dài hai thân người đầy máu.

Không có Morane. Một điện báo máy bay phải quay trở lại vì thời tiết xấu, nó sẽ cố gắng đến vào buổi chiều. Hai người đã được đưa ra sân bay phải đưa về lại bệnh xá. Họ hoàn toàn bất tỉnh. Một người bị thủng bụng vì đạn; người kia vỡ sọ. Thầy thuốc buộc đầy băng cho họ. Hoàng hôn lẫn với mưa mù. Đêm tối, không một chiếc máy bay đến.

Ngày hôm sau ánh mặt trời le lói, người bị thương ở bụng chết lúc vừa sáng. Đến mười giờ một chấm đen xuyên bầu trời. Người ta dành chỗ người chết cho tôi. Vả lại tôi có thể có ích trong việc giữ người sống sót đang kéo băng để gãi vào sọ.

Chúng tôi cất cánh. Thời tiết tốt. Người hấp hối bình tĩnh. Phi công lái, một người tóc vàng hai mươi tuổi kêu lên với tôi sau nửa giờ bay:

- Bực quá. Đi dọc vùng châu thổ này như đi trong tàu điện ngầm. Tôi chuyển theo một con đường tắt. Đồng ý chứ?

Anh lao vào một khe hở, có đủ chỗ cho đôi cánh. Phải lượn qua những tảng núi đá. Phía dưới mấy mét một thác nước sủi bọt.

- Lạy Chúa, phi công kêu lên, tôi nhìn lầm khe hở rồi.

Chúng tôi bay vào một ngõ cụt. Phía cuối, không đến một cây số là một dãy tường thành. Thung lũng quá hẹp không quay trở lại được. Hy vọng duy nhất là bốc lên cao để cố vượt qua những bờ núi bó chặt chúng tôi và chuyển theo sông Hồng. Nhưng không biết chiếc Morane có leo được không.

Anh phi công dùng hết sức kéo cần lái. Tôi có cảm giác anh sẽ đâm máy bay vào núi dựng đứng trước mặt chúng tôi nhưng không thấy va chạm. Chúng tôi đã vượt qua dãy đầu tiên nhưng dốc tiếp tục lên và phải lên theo dốc. Chiếc máy bay đụng nhẹ vào đá và cây cối. Đỉnh núi còn hơn một trăm mét; chúng tôi cố lên cao từng mét. Tôi thấy hình như sẽ có sự va chạm tai hại.

Người bị thương cho đến khi đó hôn mê, chỉ khẽ rên. Đúng lúc này anh giật mình điên loạn. Với sức mạnh không ngà anh tìm cách dựt băng, cho tay vào chiếc sọ làm anh đau đớn. Tôi phải giữ chặt anh, sợ anh chết trong cuộc đấu này.

Máy bay lên gần ngọn. Mưa mù dội xuống như một tấm màn đen. Chúng tôi không thấy gì nữa, cũng không thấy quả núi đang lên cao như chúng tôi. Anh phi công cong người trên cần lái, như mù. Tôi vẫn cố giữ chặt người bị thương vùng vẫy, thở hổn hển.

Tôi có cảm giác gặp tai nạn. Qua mấy giây cực điểm rồi phi công hét lên: - Vượt đỉnh núi gần một mét. Chúng ta thoát rồi.

Lại vệt sông Hồng khổng lồ. Chúng tôi lao theo đó. Vẫn mưa to gió lớn, xung quanh tối sầm. Chiếc Morane bay đúng phía trên dòng sông, dựa vào ánh mặt nước, đúng như hôm tôi đi Lao Cai. Người bị thương lại rơi vào sự đờ đẫn im lìm.

Chúng tôi hạ cánh ở Hà Nội. Một xe cứu thương đang chờ. Họ đưa người bị thương lên, bất động, trông như ở những phút chót hấp hối. Anh phi công nói riêng với tôi:

- Nếu anh ấy chết thì tôi buồn lắm: tôi không muốn vất vả mà chẳng ích gì.

Chỉ về sau lâu tôi mới biết người sắp chết ấy đã khỏi bệnh. Theo các bác sĩ đó là một phép lạ.

Ở Ban tham mưu Bắc Kỳ người ta đón tôi như vừa đi dạo chơi về. Ở Hà Nội các nhân vật quân và dân sự luôn luôn cho Lao Cai là một biến cố bình thường của chiến tranh, không quan trọng. Thậm chí họ đánh giá viên đại uý trước mặt tôi là bi quan; tôi sợ sự nghiệp của ông sẽ xuống dốc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Bảy, 2018, 10:20:05 pm

Cuộc chiến tranh đỏ thực sự đã xẩy ra

Ở Đông Dương thời kỳ quân lính hai bên thực sự bắn giết nhau nhiều chỉ trên đường số 4. Con đường ấy đã là một đài tưởng niệm của Đội quân viễn chinh.

Khắp các nơi khác là cuộc chiến du kích tàn bạo, giết nhau từng ít một. Thế nhưng ở Lao Cai tôi thấy cuộc chiến du kích dưới dạng hé mở của mặt trận: đáng sợ những vụng về và phối hợp kém. Quân chính quy của ông Hồ từ "tứ giác" xâm nhập vào đến đây quá xa căn cứ. Trên đường 4 họ hoàn toàn ở nhà mình. Và đấy là bước đầu của cuộc chiến tranh đỏ thực sự, kéo dài nhiều năm, tiến dần từ chiến trường này đến chiến trường khác, mấy năm sau kết thúc ở hàng nghìn cây số dưới thấp, trong lòng chảo Điện Biên Phủ.

Trên hầu hết diện tích của Đông Dương, người Việt dùng "chiến tranh nhân dân" là cuộc chiến giữa lòng dân, cuộc chiến mà mỗi con người từ em bé đến cụ già là một chiến sĩ. Vai trò của quần chúng "được tổ chức" là kéo dài hầu hết Đội quân viễn chinh dính vào một cuộc đấu vô tận, dưới mọi hình thức trừ cuộc đánh lớn.

Người Việt không tiến hành cuộc chiến này trên đường số 4, không có dân chúng - gần như không có. Ở đây quân chính quy đánh đồng minh của họ không phải người mà là thiên nhiên ghê gớm, là rừng rậm. Ở đồng bằng họ làm chủ về số lượng. Trên biên giới Trung Quốc là không gian mênh mông. Trong địa ngục xanh họ bắt đầu từ nắm chắc việc kiểm soát những con đường mòn, chỏm núi, hốc đá, cây cối và toàn vùng. Và trong trường hợp nào họ cũng bao chặt lấy người Pháp.

Đây thực ra là một sự vây hãm nhưng là loại đặc biệt. Những người bị vây hãm không trông thấy những người vây họ. Thế nhưng những người này, Việt Minh, dính kết xung quanh họ, bám lấy họ, lẫn lộn trong núi rừng, vừa là chòm xóm thân mật, kẻ địch kiên cường, ký sinh trùng chết người của họ. Chiến thuật của Việt Minh là bóp ngạt.

Không thể "nắm giữ" thiên nhiên, người Pháp tập trung trên một địa điểm tự tạo. Thời kỳ ấy là con đường số 4; họ sống trên đó, xung quanh đó, gần kề đó, trong các bốt, các khu đồn trú như Lạng Sơn và Cao Bằng. Người Việt ở xa hơn mấy mét. Người Pháp hoàn toàn phụ thuộc vào con đường. Người Việt độc lập với con đường. Dân công đi theo đường mòn mang gạo và đạn dược đến cho họ. Chiến thuật của họ lúc ấy là cắt đứt đường số 4. Để làm việc ấy họ có những trung đoàn đầy đủ, sau đó có những sư đoàn. Việc phục kích trở thành một trận đánh quy củ, giao tranh với những điều kiện đáng sợ của Pháp.

Vấn đề đối với Đội quân viễn chinh là đi qua. Những đoàn xe phải vượt qua để con đường sống. Mồi tuần lễ càng đổ máu, khó khăn hơn. Một vấn đề ghê gớm, không giải quyết được.

Người ta đi đến chỗ bịt kín con đường số 4. Trong cuộc chiến tranh núi rừng ở Đông Dương, những cầu hàng không thay thế những con đường, máy bay thay thế xe ô tô. Người Pháp đóng kín trong những lòng chảo gọi là căn cứ hàng không - mặt đất. Người Việt tấn công. Họ bị đẩy lùi ở Na Sầm, không bị đẩy lùi ở Điện Biên Phủ. Nhưng trong năm 1949 chưa tới lúc đó. Tôi đã đi trên đoàn xe của đường số 4 và có thể nói - một cuộc đi ngựa không chịu được.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Bảy, 2018, 10:22:10 pm

Đoàn xe đi lên

Con đường số 4 chỉ là một vết cắt nhỏ trong dãy đá vôi bao la. Một con sông xoáy nước dưới vực sâu, bên kia là vách bờ thẳng đứng, phẳng lì vô tận. Những chiếc xe ngựa kéo cổ điển đã biến mất. Một đoàn dài và nặng nề những đại liên, xe hướng đạo, GMC, xe Jeep đang rít lên, hì hục, thở dốc. Cũng có hàng chục hàng trăm chiếc cam-nhông của thương gia Trung Hoa và Việt Nam mái tranh và những chữ to trông rời rạc giữa những con quái vật sắt. Dù sao cũng tạo nên những cây số xe ngược lên Cao Bằng.

Đoàn xe đối với tôi như những con vật đang bò, một con sâu bộ lông kim khí là những đại liên cặp đôi, những súng đại liên, đủ loại ống dùng giết người. Những vật ấy dữ dội, căng thẳng quá mức. Quân lính đều ở dạng quá cường độ và cam chịu, dấu hiệu quen thuộc của sự mệt nhọc và chiến đấu. Họ có tất cả mọi cấp bậc và nòi giống. Họ chỉ phân biệt nhau ở cách đội mũ, từ phớt rộng vành kiểu Châu Úc đến chiếc kê-pi trắng của quân lê dương.

Tôi ở trong một chiếc xe thu phát tin, đi giữa đoàn. Cần ăng-ten chĩa ra ngoài đôi khi đụng vào vách đá hoặc cây rừng nhô ra. Hệ thống đài có lẫn lộn tiếng ồn ào và tiếng rít. Đôi khi có giọng nói vang ra. Đây là những mệnh lệnh. "Chú ý, chú ý. Có dấu hiệu khả nghi phía trước đoàn xe. Tất cả các xe đảm bảo cự ly. Đi cách nhau ra". Ngồi cạnh tôi viên đội điện đài, sau khi phát ra từng tiếng đều đặn rõ ràng hét vào ống nói: "Hiểu rồi". Rồi ông ngoảnh lại phía tôi nhún vai:

- Chỗ này không thực sự nguy hiểm. Chúng ta đang leo lên đèo Dứa. Nhìn như cắt cổ thế nhưng đoạn này yên tĩnh. Ông hiểu chứ, những vách phía trên con đường quá dốc đứng kể cả đối với người Việt. Họ không thể tấn công được. Còn trên chỏm núi họ không nhắm được vào chúng ta. Mỗi lần ném lựu đạn tung ra ngoài và rơi xuống vực. Việc họ có thể làm là "bắn" chúng ta trước mặt, từ chỏm núi bên kia vực, nhưng quá xa sẽ không có hiệu quả.

Viên đội chỉ vào phía bên kia vực sâu những ngọn đồi đầy cây:

- Một lần Việt Minh ở chỗ kín dội súng cối vào đoàn xe. Nhưng bây giờ quân lê dương đã bố trí bốt ở đấy.

Viên đội, một người gầy và buồn với đôi mắt đầy ghèn, cười gằn nói thêm:

- Sau Thất Khê mới có những chuyện đụng độ.

Ông châm một điếu thuốc hút, tiếp tục giọng đều đều:

- Chúng ta sẽ chết ở đây hết. Trên đoạn đường ấy người Việt bắn vào chúng ta như bắn thỏ. Tôi đã bị sáu cuộc phục kích lớn, hai chiếc xe cháy sém. Ông xem tay tôi còn bỏng nặng đây.

Ngày hôm ấy tôi rời Lạng Sơn từ bình minh với đoàn xe. Người ta bảo nếu mọi việc tốt đẹp, ngay chiều hôm đó tôi sẽ đến Cao Bằng. Người ta cũng nói, trên một trăm bốn mươi cây số của cuộc hành trình, cứ hai đoàn xe thì một bị tấn công. Trong chuyến đi trước, khoảng hai chục xe bị cháy.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Bảy, 2018, 10:25:42 pm

Chúng tôi đến phía trên đèo Dứa. Một bốt lớn cắm trên chỏm cỏ một quả núi. Lá cờ tam tài phấp phới. Lính lê dương. Những người Đức tóc vàng gần như trần truồng vừa cười vừa dội những xô nước lên người. Họ dừng lại để đưa tay vẫy chúng tôi. Tất cả yên tĩnh và đẹp, có vẻ một nền hoà bình vĩnh viễn. Thực tế là hoà bình đang rình cái chết.

Đường số 4 đi xuống lại giữa vô số những chỏm núi trắng có hàng tràm hàng nghìn, một loại phun trào của núi lửa giữa thảm rừng. Đây là một vùng nứt nẻ, hang động, lĩnh vực của cái đói khát. Vùng hoang vu này làm nản lòng cả người Việt, người Pháp thì sợ.

Cuối cùng ở phía dưới, tôi thấy một lòng chảo, một khu ruộng vuông cạnh, những nông dân Thổ - họ mặc quần áo vải xanh, bình thản kéo những con trâu khó bảo. Đoàn xe dừng lại ở trung tâm vùng trũng, thị trấn Thất Khê. Đợt nghỉ một tiếng đồng hồ. An toàn, thậm chí văn minh. Những máy móc rên rỉ, gây một phức cảm về chiến tranh và kim khí đã im tiếng. Bình yên tuyệt vời. Những khuôn mặt nhăn nheo lúc nãy trở lại là những khuôn mặt lính.

Tôi tới thành trì Thất Khê. Đây là một trại lính mà mọi người đang ngủ. Ở nhà ăn sĩ quan, một chỉ huy lê dương ngồi một mình uống khai vị. Đấy là trưởng khu đồng trú. Ông có vẻ lo lắng, nói với tôi, Việt Minh đã tập hợp hai nghìn người trên những chỏm núi xung quanh lòng chảo; họ cảnh báo sẽ tấn công Thất Khê trong hai ngày nữa.

- Điều phiền phức, viên chỉ huy giải thích với tôi, là đôi khi họ làm. Còn tôi chỉ có hai trăm lính lê dương.

Tôi trở về đoàn xe. Chúng tôi lại ra đi. Cả đoàn mênh mông đã lấy lại cuộc sống chiến tranh. Những khuôn mặt như mặt nạ. Quân lính ngồi trong xe nghiêm trang khác thường, im lặng, suy nghĩ. Tôi cảm thấy đoàn xe không phải vật vô tri mà có một tâm hồn tập thể, cả một triết lý cảm xúc. Dĩ nhiên mỗi người tự co mình lại, lo âu trong lòng và mỗi đại liên sẵn sàng nhả đạn.

Riêng những hành khách Trung Hoa, không nao núng, có vẻ không cùng chia sẻ giờ nghiêm trọng này. Đấy là những lái xe dân sự chở đầy mọi loại hàng hóa, từ những thẻ hương đến các hòm rượu cô-nhắc. Họ mạo hiểm với cái chết trên đường số 4 vì mọi thứ chở lên đến Cao Bằng đáng giá một tài sản. Trong lúc này những "vị con Trời" mặc quần áo thợ máy, đeo kính đen chống nắng đang buộc hàng hóa linh tinh của mình.

- Đồ súc vật, những tên ấy, viên đội tôi vừa gặp lại nói với tôi. Chúng chẳng lo gì. Xe của chúng không bao giờ cháy; chúng trả tiền cho người Việt.

Chúng tôi lại lăn bánh. Không còn phong cảnh nữa. Rừng rậm đến mức như một tấm màn mây mù xanh, che cả hình dáng những quả núi. Con đường là một đường hầm dưới cây cối.

Trong cảnh tranh tối tranh sáng ấy, tiếng đài phát bên tôi:

- Tình hình không ngớt trầm trọng thêm. Đã ba tháng nay hầu như không một đoàn xe nào đến Cao Bằng mà không có người chết và bị thương. Mỗi lần thu nhặt thiệt hại sau vụ đụng độ, người ta chất đầy hai, ba xe cam-nhông. Làm thế nào được, một đoàn xe dù nhét đầy ô tô đại liên và xe bọc thép, cũng là miếng mồi, không tự bảo vệ được. Vậy là phải "định cư" trên đường, bố trí cả một hệ thống đồn bốt và đội tuần tra. Nhưng người ta đã chiếm đóng những điểm nguy hiểm, đưa mọi lực lượng có thể có vào rừng để bảo vệ, cũng gần như chẳng được việc gì. Việt Minh tấn công cả những đoàn xe không dứt với nhiều nghìn người. Chỉ huy trưởng đã cố dùng mọi hình thức ngăn chặn khác, những cách tiếp cận và tấn công khác. Chỉ trong vài tuần, ngón khôn khéo của người Pháp bị lật tẩy, và quân chính quy của Việt Minh vẫn đạt được, mục đích, đến sát những chiếc xe, giết người và nhặt chiến lợi phẩm.

Viên đội giải thích cho tôi sự bất lực khi bảo vệ một đoàn xe tuy người ta đã thử và làm mọi cách.

Việc bảo vệ ấy bắt đầu rất đơn giản. Quân đội xây dựng bốt ngay chỗ phục kích. Phải xây dựng nhiều vì người ta vừa bố trí một bốt thì việc phục kích tiếp đó tiến hành ngay bên cạnh, cách mấy trăm mét, lại xây một pháo đài mới. Chẳng bao lâu thiếu tiền để làm những công trình khác, thiếu lính để bổ sung: người ta bèn bắt đầu thực hiện "mở đường”. Những ngày có đoàn xe, mỗi bốt cử một toán tuần tra đến tận bốt kế cận để thăm dò đường, đuổi quân Việt và lấp những đoạn bị đào cắt. Đoàn xe chỉ ra đi khi từ suốt con đường số 4 có tin báo "đường thông". Thường thường không được thế. Người Việt ẩn nấp ở các gò đồi, những bức tường cây xanh hai bên đường và đoàn xe vẫn bị tiêu huỷ; cùng thường thường việc "mở đường" bị nhấn chìm ngay từ đầu.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Bảy, 2018, 10:29:12 pm

Công việc lại phức tạp thêm. Người ta "mở" cả rừng, phát quang hàng trăm mét mỗi bên đường. Mỗi tuần hai lần quân lính phải leo từng chỏm núi khống chế con đường số 4 khi đoàn xe đi và về. Có hàng trăm chỏm núi; phải chiếm giữ tất cả suốt thời gian đoàn xe đi qua. Phải leo trèo nhiều giờ, thường kèm theo dao phạt cây để tiến lên. Phải nhìn vào từng hang động, khám phá những đường mòn quân Việt có thể đi tới. Một cuộc thăm dò không tưởng được, sử dụng cả những tiểu đoàn vẫn phải đòi hỏi thêm nhiều. Làm việc này cũng không đủ quân số.

Chỉ để cho một đoàn xe bình thường đi qua, từ nay buộc phải dùng tất cả mọi lực lượng của vùng biên giới. Mỗi lần như vậy phải bố trí đầy đủ, từng chi tiết phải đúng khớp, tất cả đều được nghiên cứu tỉ mỉ. Người Việt vẫn có lợi thế. Thật khôi hài khi nghĩ rằng có thể như "chải lược dày" cả khu rừng rậm, cả những ngọn núi rải khắp như thế. Việc làm đó không ngăn cản được quân chính quy Việt luồn vào hàng nghìn khi họ muốn, như họ muốn qua hệ thống đề phòng của Pháp và tập hợp bên bờ con đường: cũng như trước đây họ nấp sau bờ dốc cho đến khi đoàn xe đến để họ tiêu diệt toàn bộ hoặc từng phần. Và rồi nhiều khi người Việt "làm đổ máu" những người đi mở đường, đánh nhau trong rừng như mù.

Tuy vậy chúng tôi đi hai mươi cây số mỗi giờ trên đường số 4; nó chỉ còn là một vệt đất dài sửa chữa, chắp vá, đen; một loại đường hầm vặn vẹo trong dáng hùng vĩ ngột ngạt của khu rừng lớn.

Trong bóng đêm cây cối này tôi thậm chí không thấy những quân lính phải bảo vệ chúng tôi. Tôi hỏi người đội phụ trách điện đài "vỏ bọc" - từ chuyên môn - có được bố trí cẩn thận không. Có đấy. Từ bình minh người của các bốt đã đi, "leo chỏm núi" hàng giờ, đến những nơi nguy hiểm nhất. Có lẽ trong quá trình bố trí trong thiên nhiên ấy có những mất mát - tôi không biết, không bao giờ biết, đấy là thủ tục thông thường. Dù thế nào thì những người lính lê dương, lính thuỷ đánh bộ, biệt kích Châu Phi, ngụy binh da vàng, tất cả những bộ phận của Đội quân viễn chinh đã chờ chúng tôi, đang mang vũ khí bảo vệ chúng tôi. Và khi chúng tôi đã đi qua, họ "rút về", còn đi không dứt, sẽ ẩn mình trong các bốt. Có thể họ không bắn một phát súng, cũng có thể họ phải chiến đấu để cứu sống mình hoặc đoàn xe. Họ là những nhân viên giao thông hư ảo nhất trên đời.

Và công việc ấy họ bắt đầu lại vô tận, không thể làm gì khác; họ cũng là tù nhân của con đường số 4.

Tôi cố nhìn, vẫn không thấy gì về hệ thống bảo vệ chúng tôi, trừ thỉnh thoảng một bốt bên đường. Chẳng thấy gì trong rừng, bạn và thù đều không trông thấy.

- Ông cầm lấy khẩu súng ngắn này, viên đội nói với tôi, có thể giúp ích cho ông đấy. Chúng ta đang vào trong vùng thực sự nguy hiểm.

Ông cho tôi những lời khuyên, giải thích khi gặp phục kích phải xử trí ra sao.

- Dù đạn quét trên đường, đập vào xe cũng không nên nhảy xuống đất, ít nhất khi có thể lăn người. Phải lao lên, càng nhanh, càng lâu càng tốt, không chống cự. Lái xe của chúng ta đã quen thế, phải thật dũng cảm để lao xe giữa những loạt đạn súng máy vô hình. Trong những cuộc phục kích lớn, có hàng chục khẩu nhắm vào giữa đường. Tai họa là khi có xe cháy ở phía trước. Tê liệt cả đoàn.

Nhưng nếu chúng ta bị chặn lại, phải ngược lại, nhào ra khỏi xe trước khi quân Việt tấn công chúng. Trong xe không tự vệ được, sẽ bị cắt cổ ngay. Trước tiên phải tập hợp lại trên mặt đất, tổ chức những nhóm nhỏ chống trả khối quân Việt. Thật không tả nổi. Người ta đánh nhau xáp lá cà hàng trăm mét, đôi khi hàng cây số, ngay trên đường hoặc bờ dốc. Cuộc chiến lộn xộn, phân tán. Người Việt đông vô kể. Tuy vậy hầu như luôn luôn có những phần của đoàn xe chống lại, thậm chí phản công. Những nơi khác bị quân Việt hét lên, nhào đến tiêu diệt.

Giải pháp vô vọng là chạy vào rừng, cố ẩn nấp. Nhưng nhất là nếu chạy trốn phải thật xa, không dừng lại bên dưới đường trong các bụi cây. Vì quân Việt dùng dao phát "dọn sạch" cẩn thận lắm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Bảy, 2018, 10:32:13 pm

Chúng tôi lên đến đèo Luông Phai, "góc" đổ máu nhất trong toàn Đông Dương. Con đường leo theo sườn dốc đứng một quả núi, một bậc thang vòng theo những đoạn cong chóng mặt. Không một đường cong nào không dùng cho một cuộc phục kích, không là cảnh hỗn độn khốc liệt. Viên đội kể lể dài dòng với tôi:

- Ở đây mười người bị giết. Ở đây một thiếu tá, một đại uý bị thương. Ở đây hai chiếc ô tô đại liên và hai mươi cam nhông cháy. Chỗ này có một cuộc phục kích lớn. Chúng tôi mất năm mươi người...

Cuộc kể lể không dứt. Câu chuyện của sợ hãi. Tôi cảm thấy sự lo lắng của đoàn xe qua những động tác đầu một cách máy móc. Rất xa chỗ này, ở Nam Kỳ trên con đường đi Cà Mau tôi đã thấy những người, tất cả, cùng một giây, nhìn, dò xét lúc bên phải lúc bên trái. Nhưng chỉ có mấy chục người. Trên đường 4 chúng tôi hàng trăm, có lẽ hàng nghìn người cùng quay đầu qua lại, cùng một phản ứng tương tự. Một "hiện tượng" hài - và bi đến mức nào! Và vũ khí chĩa vào khắp nơi theo động tác đầu, đôi mắt tìm tòi mối đe dọa.

Xe vòng theo sườn cây xanh của quả núi. Quân lính của đoàn xe thuộc lòng con đường. Theo bản năng họ nhìn xoi mói những chỗ nguy hiểm, cả những chỗ chưa bị tấn công nhưng có thể có một cuộc phục kích đang chờ. Tôi cũng làm như họ, nhìn vào chỗ họ nhìn. Trong lúc tiến dần đến một trong những địa điểm không hay ấy tôi cũng tự nhủ như từng người ở đó, trong lúc này, hàng nghìn quân Việt chuẩn bị nhảy xổ vào chúng tôi. Tôi cũng nghĩ quân chính quy của họ ẩn trong hang động của những ngọn núi nứt nẻ này, đang chỉnh đại liên vào những chiếc xe chậm chạp, chậm chạp đến thất vọng, quá to và nặng nề.

Đoạn đường đi lên kéo dài một tiếng rưỡi đồng hồ. Chúng tôi gần tới đỉnh đèo. Một quả núi dốc đứng phía trên chúng tôi. Sườn núi bị xói lở thành một lỗ khổng lồ, một loại hố núi đen ngòm. Người Thổ khẳng định lỗ ấy mang tai họa đến; họ nói là "lỗ rống lên".

Viên đội cũng tin hố ấy là công trình của ma quỷ.

Chúng tôi vượt đèo. Một vệt nứt qua đỉnh núi nhọn. Một đầu rắn hổ mang bằng đá phun ra dòng nước. Đấy là cái giếng.

- Trong vùng đất hôi thối này, đây là nguồn nước sạch duy nhất không lẫn lộn lòng ruột người. Người ta cho những người bị thương trên đường số 4 uống nước này, làm giảm nỗi khát ghê gớm của cơn sốt.

Chúng tôi đi xuống lòng chảo Đông Khê, phiên bản chính xác của Thất Khê. Ở đây cũng có một khoảng đất bằng tròn, những nông dân Thổ bình tĩnh, gái điếm, lính lê dương, một thành trì. Chúng tôi cũng nghỉ lại một giờ. Rồi lại ra đi trong mớ chằng chịt như trước những rừng núi, chỏm, ngách núi, đèo. Trong thiên nhiên bao la này không một con người. Thỉnh thoảng có một bốt. Chỉ thấy một thôi chúng tôi đã thấy có luồng gió nóng, một ít nhẹ nhõm trong lòng. Rồi cuộc hành trình trong sợ hãi tiếp tục.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Bảy, 2018, 10:35:03 pm

Viên đội lại kể lể về những cuộc phục kích:

- Ở đây, đường ngách núi là "đại lộ" của đại đội công binh phụ trách bảo dưỡng đoạn đường này, suốt thời gian làm lại những chiếc cầu đều đặn Việt Minh phá hỏng.

Tháng hai chỗ này xảy ra cuộc phục kích lớn, kỹ thuật hoàn hảo nhất, khoa học, chính xác. Tôi có mặt ở đấy.

Trước hết Việt Minh làm tê liệt đoàn xe. Mìn nổ ngay phía sau những ô tô đại liên đi đầu, tách chúng khỏi xe cam-nhông. Ngay sau đó hàng chục đại liên đặt trên cao vách núi đá vôi xả đạn dọc suốt đoàn xe. Rồi một trận mưa lựu đạn. Quân chính quy ẩn trên bờ dốc khống chế con đường tung ra chính xác, mỗi xe khoảng một chục quả. Một trận hỏa hoạn lớn. Xe cam-nhông cháy hầu như khắp nơi làm tắc nghẽn hẳn lối đi. Tất cả diễn biến không đầy một phút. Nghe có tiếng hô to: tấn công. Hàng nghìn người cởi trần xuất hiện rất gần, từ dưới bờ đường ào tới đoàn xe. Chúng tôi đang ở bên trong nhưng kịp nhảy xuống đất trước khi làn sóng người tràn đến. Mục đích là trèo lên bờ dốc tập hợp lại trên đó những nhóm nhỏ hơn. Bên dưới những nhóm người Việt quyết liệt chém giết những người không đến được chỗ chúng tôi. Chỉ trong mấy giây họ mất hút.

Việt Minh tiến hành rất có phương pháp. Quân chính quy đến từ xe này đến xe khác lấy vũ khí và hàng hóa bỏ lại, rồi họ châm lửa đốt xe. Những quân chính quy khác tấn công những người Pháp còn chiến đấu trên bờ dốc. Dân công dùng dao phát hạ nốt những người bị thương trên đường. Khắp nơi là cuộc đấu xáp lá cà; có hàng trăm cuộc chiến đấu riêng, hàng trăm cuộc tiêu diệt lẫn nhau. Trong cảnh hỗn độn ấy, các uỷ viên chính trị, rất bình tĩnh, theo dõi trận đánh, ra lệnh cho quân chính quy và dân công.

Phần giữa đoàn xe bị nhấn chìm. Những chiếc ô tô đại liên phía sau bắt đầu xả đạn liên hồi vào những chiếc xe rơi vào tay người Việt. Những sĩ quan đỏ đi lại giữa trận đánh kêu lên bằng tiếng Pháp: "Đại tá đâu? Đại tá đâu?" Đấy là hỏi về đại tá Simon, chỉ huy đội quân nước ngoài thứ Ba, người đang có viên đạn trong đầu đã nhiều năm nay, bị thương trước cuộc chiến tranh Đông Dương. Ông Giáp có chỉ thị bắt sống ông ấy.

Tôi ở trong đoàn xe bị tiêu diệt, lên chỗ bờ dốc cùng một số lê dương. Chúng tôi chống trả dữ dội trong nửa tiếng đồng hồ rồi bị đập tan. Tôi chạy vào rừng, trốn vào một bụi rậm.

Tôi không biết cơn ác mộng ấy kết thúc ra sao. Hình như đại tá Simon tập hợp được khoảng một trăm người đẩy lùi nhiều đợt sóng người Việt và lựu đạn. Sau ba giờ quân tiếp viện đến, những xe bọc thép hạng nặng. Mấy phút trước khi nghe rõ tiếng xích sắt, quân Việt Minh rút lui. Từ đầu, để tấn công họ đã thổi một hồi kèn; ra lệnh rút lui, họ lại thổi một hồi kèn. Họ biến vào rừng theo một trật tự hoàn hảo, đơn vị này tiếp theo đơn vị khác. Có những đội dân công đặc biệt mang đi những người chết và bị thương cùng mọi chiến lợi phẩm.

Chúng tôi bảo vệ trận địa. Con đường là một nghĩa trang, chất đầy xác chết. Từ đoàn xe chỉ còn lại một đống lộn xộn những xác người thủng bụng và những chiếc máy cháy đen. Đã có mùi hôi thối. Những người sống sót tập hợp lại, thông đường, nhặt người chết và bị thương. Và đoàn xe, số còn lại ra đi.

Sau đó một anh bạn kể với tôi anh thoát chết vì giả làm người chết. Anh nằm dài bên cạnh một người chết, vỡ cả đầu, lấy máu bôi đầy mặt rồi kéo người chết lên thân mình, làm như anh ngã xuồng trước người ấy. Quân Việt đốt phá xe cộ xung quanh, lại gần; anh nín thở như một xác chết. Họ lại đi xa hơn, lục lọi, tìm kiếm. Anh bạn khẳng định có những người da trắng trong số họ.

Trong lúc viên đội nói, chúng tôi leo lên một đèo khác - đèo Hầm. Con đường thay vì trèo lên ngọn, xuyên qua một cái hang khoảng một trăm mét.

- Sau một loạt bị ba, bốn lần phục kích ngay tại đây, người ta xây dựng một bốt trên đỉnh núi dốc đứng, chồm phía trên lỗ hầm. Những bậc đá chữ chi lên tới đó. Nhưng không có nước, hàng ngày nhóm trực phải xuống lấy ở con suối phía dưới cách mấy trăm mét. Thường quân Việt bắn vào họ; vì vậy ngoài nước, họ còn mang về một người chết hoặc bị thương.

Chúng tôi còn đi qua một số đèo không tên. Vẫn là những điểm chết chóc. Đoàn xe vẫn đi. Đến năm giờ chiều vào đến Cao Bằng, không bị tấn công.

Buổi tối cả đoàn uống rượu say. Một tập quán, được chỉ huy quân sự cho phép. Lần này thì không có gì. Những khi có những người chết và bị thương, những người sống sót uống cho quên đi, cho đến lúc mất hết những nhận thức và kỷ niệm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Bảy, 2018, 10:38:24 pm

Lương của tôi là cái chết

A... nói với tôi:

- Trên biên giới, cuộc sống chẳng là gì cả. Với những người ở Cao Bằng, đã bị kết án, chỉ còn tự hào coi khinh cái chết. Bao nhiêu lần, buổi tối trong các quán rượu tôi nghe lính lê dương người Đức hát theo ngôn ngữ họ: "Tôi đã có một người bạn". Ngay sau đó tôi biết những người kia sáng hôm ấy đã ra nghĩa địa, ăn mặc chỉnh tề, với cầu vai - tiễn biệt người bạn ấy. Họ chôn anh, bồng súng chào, bắn một loạt, cắm chữ thập trắng trên nấm mồ, thêm vào những chữ thập trắng cắm theo hàng câu đối, của những người đã chết ở Cao Bằng. Buổi lễ kết thúc, ngày qua đi, lại có bài hát ấy - lời tiễn biệt, ý nghĩ cuối cùng. Ở Cao Bằng người ta không khóc, không tiếc nuối gì. Ở đấy người ta vượt lên trên số phận; điều cho phép sống.

A... là người cai quản Cao Bằng. Một người Israel - người Do Thái, cao lớn, đầy bắp thịt màu nâu đôi mắt mượt như nhung, to đầu. Ông biết rõ mọi sâu kín của sự tàn bạo, mọi bản năng cơ bản của cái sống và cái chết. Theo cách của mình ông là chuyên gia về sự độc ác, về những điều không thể hiện được, về những gì trong con người vượt ra ngoài tính chất nhân đạo. Ông đã ở trong những trại chết chóc của Đức, ông không chết vì như có thiện cảm của "môi trường", có trí thông minh của "trò chơi" tiêu diệt, vì ông hiểu cái có thể tồn tại quyết liệt, cổ xưa nhất. Ông bắt đầu cuộc đời như một trí thức của kinh hoàng, như một người phân tích có thể da diết rút ra những hậu quả thực tiễn cho việc sống sót. Ông đã sống sót.

- Nhưng bây giờ, ở Cao Bằng, ông có chấp nhận mình là một người bị kết án, một người chết đang sống giữa bao nhiêu người khác?

- Tôi muốn sống. Tôi cũng muốn sống vô cùng như khi tôi ở trại tập trung Mauthausen. Ở đấy đàn ông, đàn bà, tất cả những người bị lưu đày là những nạn nhân cam chịu, chấp nhận trước mọi máy móc huỷ hoại họ. Những người ấy là những người văn minh bất lực trước sự dã man. Tôi đã muốn họ chết trong một cuộc nổi dậy thay vì theo tuần tự của suy sụp và thanh toán.

Đối với tôi việc chống lại thực sự là chiến thắng cái chết. Tôi không muốn chết vì đấy là điều người ta chờ đợi ở tôi. Người ta đặt tôi vào trong những điều kiện tinh thần và thể chất tạo ra để tôi kết thúc cuộc sống trong vài tuần hoặc vài tháng - hoặc tôi tự chết vì kiệt sức hoặc người ta thiêu hoặc treo tôi lên vì không có khả năng làm việc hoặc vì một sự "cứng đầu" nào đó. Nhưng chống lại khoa học tiêu diệt, tôi tạo cho mình một khoa học sống sót. Không phải bằng "do thám" vì càng hèn hạ và đánh mất mình hơn. Trong trò chơi cái chết mà không chết, tôi chỉ có cơ may thành công một phần trăm. Không được phạm một sai lầm, một suy sụp; dù hấp hối cũng không để lộ ra. Ngày này qua ngày khác, ngay khi chỉ cân nặng ba mươi ki-lô, tôi ý thức được việc mình làm, tôi giữ vững lòng quyết tâm, tính toán từng cử chỉ, từng miếng ăn, từng hơi thở. Tôi tiết kiệm sức lực còn lại như một con vật. Tôi tồn tại vì tôi đã đứng vững; thế nhưng tôi không tả được với ông tôi đã chịu đựng và làm như thế nào.

Đúng là A... không chết được. Tôi cảm thấy ở Cao Bằng, ông cũng sẽ không chết, tuy đã gặp hai mươi cuộc phục kích. Bây giờ ông đi trên đường một mình, tự lái chiếc xe jeep, súng tiểu liên trong tầm tay. Một trong những lý luận của ông là Việt Minh nhắm vào cả đoàn xe, không bỏ công đánh một chiếc jeep đơn lẻ. Họ phục kích không để lộ diện vì một chiếc xe.

- Tại sao sau khi đã ở Mauthausen, ông đến Cao Bằng, giữa những mối nguy hiểm này?

- Tôi lên biên giới theo lời đề nghị vì tôi muốn thế. Đây cũng là một địa điểm của cái chết và tôi quan tâm đến cái đó. Vị trí của tôi đặc biệt, không phải một người bị kết án trước như một lính lê dương. Ở đây cũng có một vũ trụ hư ảo tôi phải chơi: ở đây tôi cũng phải tính toán tất cả. Đội quân lê dương như có một mật lệnh mà mọi người lính dũng cảm đi đến chỗ hoàn toàn quên mình. Châm ngôn của quân lính dù "Chết là nghề nghiệp của chúng tôi"; của lê dương có thể "Chết là lương của chúng tôi". Tính lãng mạn của họ là vâng lời đến lúc kết thúc không tránh khỏi, không phân biệt hèn kém hoặc anh hùng. Tai họa cho ai tỏ ra yếu đuối. Vì thế tôi phải mạnh.

Ông nên biết Cao Bằng có hai trung đoàn được khen thưởng nhiều nhất của nước Pháp - trung đoàn người nước ngoài thứ Ba và trung đoàn RICM. Ông nhìn những khuôn mặt lính và sĩ quan vô cảm, bướng bỉnh, không một dấu hiệu tưởng tượng. Ông cũng sẽ thấy họ lao tới như những con vật chỉ biết đánh nhau và nhà chứa. Lúc ấy ông sẽ hiểu Cao Bằng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Bảy, 2018, 10:39:27 pm

Để khai tâm cho tôi nhiều hơn, A... dẫn tôi đến một cuộc duyệt binh giữa quảng trường chính của thị xã. Lính lê dương quân phục ngày lễ xếp hàng trên khoảng mấy mét vuông san bằng trong những đổ nát. Đại tá Simon gắn huy chương cho những quân nhân bảo vệ phủ Tổng Hóa. Đây là bốt đầu tiên bị tấn công mạnh bởi những đơn vị ông Giáp trên đường 4. Tôi đã biết tất cả kinh hoàng của một bốt bị nhận chìm.

Viên đại tá đọc một bài tuyên dương. Từ đôi môi ông toát ra những lời cần mẫn theo lối quân sự. Nhưng qua những từ bình thường ấy xuất hiện sự thật, một sự thật mới và gây cấn. Cuộc chiến tranh đỏ đã bắt đầu, của những sư đoàn quân chính quy, những binh lính đông như kiến, những phản xạ có điều kiện, với vũ khí hạng nặng vác trên lưng người. Đấy là cuộc chiến tranh vượt xa chiến tranh du kích, một nghệ thuật quân sự mới mà người ta không tìm ra cách chống đỡ.

Đại tá đọc thận trọng, như một câu chuyện chiến đấu. Nhưng hơn thế nhiều. Dù từ ngữ nghèo nàn nhưng là sự mô tả một dạng chưa biết về tấn công, đụng độ, đôi mắt. Những quân lính bình thường - vì lê dương là những người lính như vậy, dù ở một hình thức rất cao - đối mặt với những quân lính trước đấy chưa từng có, những người đỏ, những chiến binh đủ điều kiện của chủ nghĩa cộng sản Châu Á.

Không tưởng tượng được. Việt Minh để ra nhiều tháng để bố trí kỹ thuật tấn công Tổng Hóa. Họ xây dựng mô hình bốt này theo độ lớn tự nhiên. Rồi hàng nghìn quân chính quy tập đi tập lại vai trò của mình, cho đến lúc mỗi người biết làm một số động tác họ sẽ phải làm như một người mộng du. Đấy không chỉ là làn sóng người - có cả một sư đoàn công việc giữa đám xông tới ấy. Và đến ngày tấn công bốt Tổng Hóa thật, làn triều người xông lên theo động tác máy đồng hồ. Một vở ba-lê vừa đáng sợ vừa chính xác mà những người tấn công hình như không còn cảm giác về cuộc sống, về sự tồn tại của họ. Đấy là những dụng cụ của cái chết.

Tôi lắng nghe ông đại tá - không biết đang nghe ông kể hay những câu chuyện tương tự hàng chục, hàng trăm lần ở Đông Dương. Đấy sẽ là bài viết hầu như hàng ngày về cuộc chiến tranh. Và luôn luôn bài viết chiến thắng thông thường ấy ẩn dấu vô số sự đau đớn, cái chết và sau này là sự thất bại.

Có một thời kỳ các tiểu đoàn của ông Giáp chiếm những bốt mạnh nhất như ý họ muốn chỉ trong vài giờ. Họ đập tan chúng dưới hàng trăm hàng nghìn đạn cối và ba-dô-ka rồi tấn công không chống lại nổi. Bí mật dồn người và vũ khí trước một bốt, đơn độc, người Việt hành động chắc chắn, với thắng lợi được tính toán.

Năm 1948, Việt Minh chiếm hầu hết các bốt nhưng không hoàn toàn và khu đồn trú với nhiều nỗ lực gần như luôn luôn đẩy lùi được họ, ngay cả lúc tất cả có vẻ đã mất hết. Đấy là việc đã xảy ra ở Tổng Hóa. Do đó đại tá Simon làm lễ chiến thắng khốc liệt và vinh quang của quân đội lê dương của mình. Ông cho mọi chi tiết và tôi viết lại.

Bốt Tổng Hóa án ngữ trên một chỏm núi xa xôi, do đại đội hai của tiểu đoàn lính nước ngoài bảo vệ. Cả một sư đoàn Việt tập trung xung quanh nó trong ngày, nhưng không bị phát hiện. Bỗng nhiên lúc hoàng hôn xuống, súng cối và đại liên quân địch dội bão lửa vào những lô cốt bằng đất và tre bốc cháy và sụp đổ. Trưởng bốt, đại uý Cardinal bị tử thương do mảnh đạn, ông nằm trên cáng tiếp tục chỉ huy chống trả cho đến khi tắt thở. Trung uý Charlotton nắm quyền chỉ huy bị giết sau mấy phút. Tiếng tù và vang lên: dấu hiệu tấn công. Việt Minh lao vào dùng chất nổ phá hàng rào và dùng dao phát mở rộng những chỗ hổng. Rồi từ đó những làn sóng người tràn lên. Một nửa bốt bị hạ. Thiếu uý Bevalet, sĩ quan lành mạnh duy nhất, hướng dẫn ba đợt phản công. Cuối cùng quân lính dồn vào một góc tung lựu đạn không ngớt. Trong bóng tối đỏ rực vì đám cháy Việt Minh bước lên xác người tiến lên. Một lựu đạn Việt giết chết người sử dụng điện đài; những lê dương khác thay thế ngay. Trong đổ nát của Tổng Hóa Việt Minh và lê dương hỗn loạn trong trận xáp lá cà không gỡ ra nổi. Cuộc chống cự được tổ chức lại dần dần. Lính lê dương từng nhóm nhỏ cùng nhau chống trả. Đến nửa đêm cuộc tấn công bị bẻ gãy. Người Việt rút lui, mang theo phần lớn những người chết và bị thương.

Bình minh ngày 26 tháng bảy, sân bốt đầy xác người. 22 lê dương và 62 Việt Minh chết nằm lẫn lộn: một mắt xích của cái chết qua chân tay co quắp bấu chặt họ với nhau. Người ta nhặt được 33 lê dương bị thương. Trong ngày 28, Tổng Hóa vẫn đơn độc, lại bị tấn công. Đoàn quân tiếp viện đến vào buổi chiều, 30 người còn chiến đấu được hoan nghênh nhiệt liệt. Trong khoảnh sân quét sạch, một tiểu đội mười lính lê dương mặc quân phục ngày lễ - mũ kê-pi, lon, cầu vai và thắt lưng xanh - nghiêm chỉnh bồng súng chào người chỉ huy đoàn quân đến cứu.

- Anh hùng như thế để làm gì, A... nói với tôi sau buổi lễ, lính lê dương sẽ đổ máu hơn bao giờ hết, và rất vô ích. Cao Bằng đã là một công trình vô vọng. Từ đầu đã thất bại; người ta không "bịt" được biên giới Trung Quốc dù đã đặt bốt ở các "lỗ hổng" ở Bắc Kạn, Nguyên Bình, Trà Lĩnh và xa hơn nữa. Việt Minh vẫn đi qua bên cạnh. Bây giờ người ta phải trả giá vì sự thất bại ấy. Vì lực lượng quân Việt tăng lên ghê gớm và còn phát triển nữa - chúng ta thì vẫn ở tại chỗ. Sắp tới lực lượng ông Giáp sẽ chiếm lợi thế trên vùng biên giới này. Đến một lúc nào đó, Việt Minh sau khi phá huỷ các bốt phụ sẽ bao vây ngay Cao Bằng. Mọi hệ thống bố trí của người Pháp sẽ tan tành. Mấy nghìn lính viễn chinh mất hút trong khu rừng không tiến lên nổi phó mặc cho quân địch. Ngay từ bây giờ phải giải thoát khỏi con đường 4, nếu không sẽ lâm vào tai họa.

- Nếu ông không tin vào vai trò của Cao Bằng, tại sao ông vẫn ở lại đấy?

- Vì tôi muốn trông thấy. Tôi đã thấy những trại tử thần. Tôi đang "thấy" con đường số 4. Tôi là người chứng kiến điều con người có thể làm và có thể chịu đựng, và thật quái lạ. Rồi ở đây tôi có thể làm điều mà không ở chỗ nào khác tôi làm được, tôi ở giữa một cuộc thí nghiệm thần kỳ. Tôi tạo dựng một thế giới, tạo cuộc sống ở đây. Vì bên cạnh cái chết luôn luôn có cuộc sống. Điều đó cho tôi một cảm giác khoan khoái, cho dù công trình của tôi ngắn ngủi và kết thúc trong đổ nát và trong máu.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Bảy, 2018, 10:41:28 pm

Cuộc chiến tranh bẩn thỉu

Tôi đã thấy một hình thức của cuộc chiến tranh du kích và chống du kích. Và đã bao nhiêu lần tôi những muốn hỏi một sĩ quan Pháp, với tư cách đàn ông với nhau: "Ông có cảm thấy mình có quyền làm những gì ông đã làm không? Ông có thể bảo vệ nền văn minh khi để mình bị lôi kéo vào những gì ngược lại với văn minh không - vào cả tinh thần bạo lực, sự tính toán khốc liệt và tra tấn dằn vặt? Thậm chí nếu ông nghĩ mọi biện pháp đều tốt nhằm chống lại cái xấu - dù nếu ông sẵn sàng sa sút về đạo đức, ông có chắc cuối cùng không làm trò chơi của Việt Minh đưa ông đến thất bại dứt khoát?”

Nhưng trong nhiều tháng, trong cả năm tôi không tìm được một đối tượng. Các sĩ quan không bao giờ nói về những vấn đề thực của mình, không thèm giải thích, thanh minh. Họ không thể giải mã được, không có tính nhạy cảm của loài người, tách rời tất cả đề ẩn mình kỹ hơn trong lý tưởng chiến binh, trong một đạo lý hiệp sĩ khốc liệt.

Tuy nhiên trung uý, đại uý của Đội quân viễn chinh biết mình không được lòng dân chúng, gần như bị căm ghét ở Pháp. Họ im lặng chịu đựng sự lên án đau khổ ấy. Nhiều người rút ra một chút tự hào gần như thích thú cảm thấy cô độc và không ai hiểu: họ tiếp tục cuộc "chiến tranh bẩn thỉu" của họ càng kiên cường và kiêu hãnh hơn.

Dĩ nhiên các sĩ quan, nhất là những người cấp bậc cao, có những điểm yếu - Bên cạnh chủ nghĩa anh hùng đơn thuần của "lớp trẻ" có chủ nghĩa anh hùng khoác lác - cả một nghệ thuật gây tai hoạ ở một số lớn những người "kỳ cựu".

Người ta cũng gặp được giữa số đông mang lon, một vài sĩ quan thông minh, trong thâm tâm nghi ngờ "có cái gì đó không ổn ở Đông Dương". Họ có những ý tưởng riêng nhưng cẩn thận dấu kín để tránh nguy hại. Ban chỉ huy rất rộng lượng với sự bất tài, kỳ quặc thậm chí với những thói xấu vì không đụng tới "tinh thần quân đội". Họ không thương xót đối với sự thông minh và tính độc lập. Người sĩ quan tốt tin chắc chắn vào lý thuyết của tổng chỉ huy vì ông này luôn luôn có những lập luận chính xác và rất lạc quan.

Rốt cuộc tôi là người chứng kiến cuộc chiến tranh và khó biết được nó tiến hành ra sao. Vì xung quanh tôi tất cả là bảo thủ và ngột ngạt. Tất cả do tướng Carpentier đưa ra. Ông thực hiện những sợi dây cũ từ Thế chiến thứ nhất: miệng bị khâu lại và sự tin tưởng bắt buộc. Còn lại là tự do hành động, với điều kiện những công việc của chiến tranh nằm trong khuôn khổ những học thuyết hợp lề thói được Bộ tổng tham mưu phổ biến rộng rãi.

Chỉ thị là "không sinh chuyện". Mỗi sĩ quan, hạ sĩ quan tự xoay xở trong khu vực mình. Không có mệnh lệnh cụ thể, không có thông báo. Điều cần thiết là tránh "phiền phức", điều cuối cùng biến thành chính thức; không có gì được đăng lên báo, lên tới Chính phủ ở Paris.

Không ai biết rõ sự thực. Điều xảy ra phải là một bí mật. Người ta không tìm thấy dấu vết những sự việc ở đâu cả, nhất là trong hồ sơ quân đội, trong giấy tờ của Ban tham mưu, trong vô số báo cáo chuyển từ cấp này đến cấp khác. Có ý thức hoặc không ý thức, tất cả đều lừa bịp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Bảy, 2018, 10:43:11 pm

Một điều lệ tuyệt đối: “không bao giờ đặt những câu hỏi thiếu kín đáo" dù với một sĩ quan quen biết hoặc với một người lính thường; Trong tôi không phải là tra tấn mà thăm dò những cách tra tấn của người Pháp. Vừa là sự giáo dục rất sai vừa là phản bội. Mới sơ bộ ám chỉ, các bộ mặt đã rắn lại, những giọng nói trở nên không có thiện cảm. Câu trả lời bao giờ cũng đe doạ: "Chúng tôi không vi phạm quá đáng. Nếu ông nghi ngờ, ông không phải một người yêu nước, là kẻ địch, làm trò chơi của những người cộng sản." Phóng viên chiến tranh quá tò mò không được gặng hỏi, nếu không sẽ bị trục xuất, kiện cáo, mọi điều sét đánh, mọi giận dữ. Trường hợp ấy không có thương tiếc gì.

Đấy là cả một âm mưu im lặng bao la. Nếu nó hoàn hảo, rộng khắp và không suy suyển như vậy, không phải chỉ do ban chỉ huy. Bởi vì trong mỗi chiến binh của Đội quân viễn chinh, đâu đó trong tâm hồn có một vùng tối. Mỗi người lính có bí mật của mình. Anh ta phải làm những việc không nói lên được - và anh đã làm. Sẽ không tha thứ được nếu anh không giữ những điều ấy xa anh, xa lương tâm anh, xa cả sự hiếu biết của những người khác. Trước tất cả, không nên cho những điều ấy một cái tên, một sự tồn tại, không ghi chúng vào danh mục. Những nỗi kinh hoàng ấy thuộc về thế giới không có nguồn gốc và không tránh được này.

Thế nhưng làm sao bao nhiêu binh lính Pháp có thể vô tâm chịu đựng sự dối trá này như vậy? Hầu hết họ là những người trung thực. Có những người Kháng chiến Pháp, những quân du kích ở Auvergne hay núi Alpes những người nguyên là cộng sản nhưng họ đánh những du kích, những người kháng chiến Đông Dương không ân hận. Có những giáo dân vào cầu nguyện và chịu rửa tội trong các nhà thờ với thái độ vô cùng nhiệt tâm - nhưng lòng sùng đạo là của những thần chiến tranh dâng lưỡi gươm cho Chúa. Cũng có những cha tuyên uý mặc quần áo sĩ quan cổ đeo thánh giá - nhưng họ làm phúc cho những tiểu đoàn biệt kích. Cuối cùng có rất nhiều những ông bố gia đình mang lon, những tiểu tư sản của quân đội, nhưng họ bình thản ăn uống trong nhà ăn tập thể.

Đôi khi tôi tự nhủ những người ấy không phải đạo đức giả. Họ có lương tâm. Luật lệ của cuộc chơi là nín lặng, đỡ phức tạp hơn. Vì họ "tin" cuộc chiến tranh Đông Dương nêu lên những vấn đề, phải nghiên cứu, phải giải quyết. Và việc đó có thể thay đổi những dữ kiện nói chung đã "thoả mãn". Ở Đông Dương mọi người bị trói buộc vào sự hài lòng.

Và làm thế nào nghi ngờ được "điều xảy ra" - sự tra tấn, những khốc liệt, tất cả những gì người ta phạm phải trên diện tích câm lặng của đồng ruộng và rừng núi?

Ở Sài Gòn, Việt Minh cho tôi xem những hình ảnh thê thảm, hàng ki-lô những bức ảnh hành quyết, những nông dân bị bắn hạ trong khi chạy khỏi làng đang cháy, những người đàn bà trần truồng bị mổ bụng, tre nhọn đâm vào cửa mình, những đứa trẻ chân tay tan tác. Việt Minh cũng cho tôi xem báo cáo về một sĩ quan Pháp, mỗi lần bắt được tù binh, hắn trói vào cây to, dùng dao cắt họng hứng máu vào đầy cốc, vừa uống vừa nói "Chúc sức khỏe mày".

Dĩ nhiên về phía mình, người Pháp cũng trưng bày những bức ảnh tương tự. Ở đấy người ta cũng thấy những nhếch mép nhăn nhó của những người bị hành hình, hàng tấn xác chết bị chặt tay chân. Người Pháp nêu những kinh hoàng ấy do Việt Minh với những chi tiết có vẻ không chối cãi được - ngày, tên, họ, hoàn cảnh. Điều đó chứng tỏ Việt Minh phạm vô số tội ác. Than ôi, điều đó không chứng minh Đội quân viễn chinh không phạm tội.

Khắp nơi đều có không khí như thế, như có một môi trường chung về tàn bạo, đưa đến cùng những việc làm như nhau.

Bản thân tôi chưa chính mắt mình thấy những tàn khốc của người Pháp nhưng tôi đã thấy những hành động đốt phá và ăn cắp vặt. Biết bao nhiêu lần các đội tuần tra ra khỏi những làng họ lùng sục, mang theo những sinh vật sống duy nhất còn lại - gà vịt, lợn, trâu bò. Mỗi người lính, tay cầm tiểu liên, oằn người dưới sức nặng của gà vịt, buộc thành dây đeo vào cổ hoặc nhét đầy các túi áo quần. Một cảnh tượng lạ lùng, những người lính bước lảo đảo vì mang cả vũ khí và sản phẩm chăn nuôi Việt Nam. Còn trâu bò, họ cho lên xe chở đi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Bảy, 2018, 10:44:27 pm

Một hôm, cách Sài Gòn vài chục cây số tôi vào một ngôi chùa trống tìm một ban tham mưu. Chỉ có một ông già ở đấy. Ngay khi thấy tôi, ông có cử chỉ đáng ngạc nhiên là tuột quần đùi, dơ đít ra cho tôi. Sau đó tôi được biết một tiểu đoàn Bắc Phi vừa đóng ở đấy.

Cũng có lúc tôi nghe các "hương chức" một làng than phiền.

- Chúng tôi biết chiến tranh là như thế nào. Chúng tôi phải bằng lòng khi lính các ông chiếm lấy gia súc, đồ trang sức, những tượng Phật của chúng tôi. Chúng tôi không tán thành việc họ cưỡng hiếp đàn bà, con gái của chúng tôi nhưng chúng tôi đành chịu. Nhưng chúng tôi chống đối khi họ cũng làm như thế đối với con trai và cả bản thân chúng tôi, những người già, những người có tư cách.

Dù thế nào thì hầu như bao giờ dân quê cũng sợ các tiểu đoàn Pháp đến gần mình. Họ ẩn nấp trong ruộng, trong đầm lầy, lặn sâu vào bùn và nước trước khi quân Pháp đến.

Một số biện pháp đề phòng còn lạ hơn. Ở vùng châu thổ Bắc Kỳ có hai làng thù địch nhau vì truyền thống, căm ghét từ nhiều thế kỷ sau. Vì vậy một làng theo Việt Minh, một theo Pháp. Tuy thế mỗi lần một phân đội quân viễn chinh đến làng đồng minh, dân chúng ở đấy chạy đến cộng đồng đỏ để gửi ở đây những vật quý giá - đàn bà con gái, lợn gà, gạo.

Tất cả những điều đó đã thành thường lệ. Vì cũng có sự khủng bố, tàn bạo. Một cuộc chiến ám sát, ngay giữa dân cư, giữa những người ở nông thôn. Trong tất cả những người da vàng ấy, không người nào biết những ai là Việt Minh, những ai không phải hoặc chỉ một nửa, những ai căm thù Việt Minh, lẫn lộn hết. Tất cả rối mù khi lính Pháp xuất hiện giữa đám đông - đôi khi là lòng trắc ẩn, đôi khi là bản năng người ta gọi là "sự thích thú của chiến binh", đôi khi là phản xạ trả thù mù quáng nếu có bạn mất tích hoặc bị tra tấn đau đớn, thường là sự thờ ơ của người lính cứng rắn không có thì giờ phân tích tình hình, phân biệt đối xử và cứ đánh trống ào tới. Kết quả là giết người và đốt nhà mặc sức, vô ích, không công bằng bởi những toán quân vô trật tự.

Vì cũng có những cuộc tàn sát do ban chỉ huy ra lệnh. Đôi khi vì một hành động "chống đối Pháp" không tìm ra thủ phạm người ta trừng phạt cả một cộng đồng, thường là cả một làng. Việc trừng phạt từ phạt tiền, lao động đến việc tiêu diệt cả làng, đốt cháy cả đất đai. Tôi không rõ người ta bắt và bắn con tin có theo lệnh trên không nhưng việc các làng bị cháy, tiêu diệt bằng thuốc nổ, xảy ra thường xuyên.

Những lý do chiến lược cũng có. Nhiều khi người ta làm những vành đai trống, những vùng trắng xung quanh các con đường, các bốt nào đó, trù tính vùng đất không người bảo vệ được tốt hơn.

Và rồi công tác tình báo, khai thác tin tức. Phần lớn các sĩ quan Phòng Nhì có dụng cụ chuẩn - một máy phát điện, một loa, v.v... để tra hỏi. Phần nhiều họ không tự tay làm mà có những người giúp việc Việt Nam. Nói chung đấy là một công việc không cầu kỳ, hoàn toàn thực dụng. Người ta làm đúng, "theo cần thiết", nêu câu hỏi, dùng dụng cụ tra tấn cho đến lúc có được câu trả lời.

Người ta kể trường hợp một tên "mật thám" đưa người bị tình nghi lên máy bay. Hắn đẩy ba người trong số đó xuống không trung rồi nói với những người khác: "Bây giờ các anh nói đi; nếu không sẽ chung số phận như thế".

Đấy, tất cả những gì tôi có thể biết, có thể đoán ra; nó là một cảnh ghê rợn. Đúng là vấn đề tàn khốc xảy ra ghê gớm ở Đông Dương. Hoàn toàn không như người ta nghĩ ở Pháp, ở các trí thức cánh hữu và những người cấp tiến.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Bảy, 2018, 10:41:19 pm

NỖI NHỤC NHÃ


Chương I
SÀI GÒN - ĐỘNG CƠ CỦA CUỘC CHIẾN TRANH

Cuộc "chiến tranh thoải mái" gồm những trận đánh du kích và những tra tấn tiếp tục ngày này qua ngày khác không mệt mỏi. Con đường số 4 đổ máu, Đội quân viễn chinh cố định trong ý niệm anh hùng của mình, người Việt "trụ vững" trong lúc chờ quân đội Mao Trạch Đông xuống sát biên giới, ông Pignon mơ về một "đường lối chính trị ở Việt Nam", Hoàng đế Bảo Đại trở về trên đất đai của tổ tiên. Đấy là diễn biến thời sự ở Đông Dương những năm 1948 và 1949 này.

Nhưng một động cơ lớn đang quay không ngừng, đều đặn, có hiệu quả đối với mọi người. Động cơ ấy là Sài Gòn cung cấp đồng bạc mà không có nó sẽ không có lịch sử, sự kiện, cuộc chiến tranh Đông Dương. Chính dân cư thành phố này, hai triệu người miệt mài vào đồng bạc, nuôi sống cuộc chiến tranh và bù lại từ đó rút ra một sự thịnh vượng tuyệt vời. Vì Sài Gòn với khu ngoại ô Trung Hoa của nó, là thành phố giàu nhất thế giới nhờ vào đồng bạc có hối đoái mười bảy phrăng Pháp.

Tôi cố gắng làm sáng tỏ động cơ này.

Trước hết phải biết có nhiều Sài Gòn. Phần chủ yếu - Sài Gòn của những tỷ phú, chỉ lớn bằng một chiếc khăn tay. Sài Gòn văn minh này, giống như một đô thị tư sản, bề ngoài rất trật tự và có lương tâm, nhìn vào tất cả bình thường đến nỗi tôi nghe một bà già Pháp trong thành phố kêu lên: "Nhưng những Việt Minh mà người ta nói nhiều đến thế trong nhiều năm là cái gì?" Và đấy là vợ một viên chức cao cấp.

Một thành phố bằng phẳng, xưa kia được xây dựng trên đầm lầy. Thời tiết nóng nực, bầu trời không bao giờ xanh, luôn luôn u ám vì ẩm ướt. Và trong cái lò ngột ngạt ấy chẳng có gì khác thường. Không phải một Thượng Hải hay Hồng Kông. Không kiêu hãnh, không vô sỉ, cũng không ham mê vô độ. Sài Gòn không có các tập đoàn công nghiệp, ngân hàng, không có giao dịch chứng khoán. Không một nhà chọc trời nào. Cảng sông tởm lợm và đơn sơ. Đường phố Catinat nổi tiếng chỉ là một con đường tầm thường mà các cửa hàng sang trọng, chậm mấy năm về mốt so với Paris. Những ngôi nhà chính còn là những gian nhà tôn và gỗ từ buổi đầu. Người Pháp ở trong những biệt thự cũ từ thời “thực dân" sau cuộc chiến tranh trước. Điều hòa nhiệt độ chưa được biết đến. Điện hoạt động không tốt vì công ty điện lực không muốn đầu tư. Điện thoại còn kém hơn. Trong hoàn cảnh thiếu tiện nghi ấy, người ta khát và hoạt động của nhà máy "Bia và nước đá Đông Dương” tăng giá trị lên gấp đôi. Ô-tô buýt thật thảm hại và những chiếc taxi hiếm hoi không có đồng hồ. Xe con khá nhiều nhưng phù hợp với mức độ tương đối cao trong hệ thống xã hội nên những người "da trắng bình thường" đi xích lô.

Tất cả mang dấu vết cung cách tỉnh nhỏ ở Pháp. Phô trương ở Sài Gòn không phù hợp lắm. Xã hội chia thành khung bậc, có nhãn hiệu, thích thú quanh quẩn cuộc sống trong nhà theo một luật lệ tỉ mỉ. Những nguyên tắc - tôi muốn nói một số nguyên tắc nào đó - có tầm quan trọng lớn.

Vì vẫn phi đạo đức về bản chất. Chỉ tiền là đáng kể. Người Pháp ở Sài Gòn để hoạt động tiền bạc và tất cả mọi biện pháp đều tốt. Nhưng đồng tiền là thực chất. Vẫn có những nhà doanh thương rất bẩn buôn bán dưới dấu ấn nghiêm khắc của những ông hội đồng quản trị nhất thiết bám vào danh dự. Những nhà này đòi hỏi nhân viên phải có phẩm chất trung thực và tư cách, tóm lại là tinh thần tốt.

Sài Gòn những tỷ phú ấy nắm giữ ảnh hưởng ở Paris, có "hành lang" ở Paris, đến Phủ Cao uỷ ở Sài Gòn gần như về nhà mình. Chính Sài Gòn này "nắm" Chính phủ Việt Nam hơn cả Cao uỷ Pháp. Những quan chức chế độ, trong quá khứ ít nhiều là viên chức và bây giờ vẫn là bù nhìn của hệ thống Sài Gòn ấy. Chánh văn phòng hoàng gia, ngài Nguyễn Đệ là một người môi giới cũ của Nhà băng Đông Dương. Còn thủ tướng Hữu nguyên là thanh tra tín dụng địa ốc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Bảy, 2018, 10:42:58 pm

Sức mạnh của người biết suy nghĩ là đưa những hình thức hợp pháp vào việc buôn bán, tạo ra một phương pháp khoa học. Nhưng bên dưới chủ nghĩa tư bản lớn ấy, có một vũ trụ quá mức nấp bóng - những người môi giới, thương lượng phiêu lưu, nghèo túng. Qua nhóm người thường xuyên này người ta thấy lại không khí của Paris giấy bạc. Đồng bạc, trước hết là một bệnh tâm thần. Tài chính trở thành một bí ẩn, một kích thích cao độ kéo theo mọi khao khát, nhất là mọi sự tưởng tượng.

Những người da trắng của "đồng bạc cao cấp", những người thấp hơn và những đại gia đóng kín trong một khu và quanh vùng. Bên cạnh Sài Gòn chặt chẽ về nguyên tắc và điên rồ về bộ máy đồng bạc, có Sài Gòn da vàng của những người vô tận, dân cư tăng gấp bốn lần trong mấy năm. Những người ấy của Sài Gòn cũng bị lây nhiễm. Người Việt Nam và Trung Hoa đông như kiến bị giày vò vì đồng bạc của người nghèo, tờ giấy bẩn thỉu giấu trong quần áo rách rưới.

Đấy là một Sài Gòn không được biết rõ, một mảnh đất không trong sạch, nguy hiểm, xa xôi gần như ở địa đầu thế giới. Người Châu Âu chỉ biết ở đấy xảy ra những việc khó chịu, phù hợp với quân đội và dân quê. Trước hết đối với họ - và phần còn lại ở Đông Dương - đây là cái chợ người ta cung cấp và người ta không đến đó.

Sài Gòn này là điều bí mật. Đây là hố sâu xã hội, nhưng có những bậc đi xuống của sự không thăm dò được ấy.

Trên cao nhất là những "tỷ phú" da vàng ngọt ngào và luôn luôn tươi cười. Nhiều người môi giới Trung Hoa - mỗi nhà băng hoặc hãng quan trọng đều có. Hơn viên chức, họ là các mưu sĩ về đồng bạc. Chính họ điều chỉnh chủ nghĩa tư bản Pháp vào tư bản Trung Hoa, phụ trách khai thác Đông Dương ở mức dưới, mức những "người bản xứ". Hai chủ nghĩa tư bản liên minh và chính những người môi giới tạo dựng sự liên minh ấy. Họ là linh hồn của thị trường, của những vụ đầu cơ, đổi chác, buôn lậu. Mỗi người trong bọn họ có tài sản riêng, thường hàng nhiều chục triệu đồng. Mỗi người có tổ chức riêng. Những bù nhìn, dồn khách cho đến những kẻ "giết người". Gia đình họ là cả một bộ tộc. Thường họ có bà con với những dòng họ lớn Trung Hoa ở Hồng Kông và Singapore nắm giữ bộ phận lớn nhất những hoạt động tài chính trên thế giới để đầu cơ tiền bạc và nguyên liệu.

Hoạt động của một môi giới của bất cứ tỷ phú nào là vô cùng. Nhưng tất cả những gì anh ta làm là bí mật, với vẻ ngoài luôn luôn lương thiện, vẻ ngoài đáng kính ấy tỏ ra trong những bữa tiệc linh đình. Người ta nâng cốc uống cạn, đọc diễn văn và vui đùa đúng mức. Bà vợ tỷ phú, già nhất, khô cứng và nhăn nheo, ngồi đấy không một lời, hết sức tôn kính.

Người ta không biết gì về hoạt động vô vàn của những môi giới và tỷ phú. Trước hết những ông chủ của họ hoặc các hội viên Pháp không muốn biết gì. Dù những tay ấy làm thế nào họ cũng vừa có lương tâm trong sạch vừa có những khoản lãi khổng lồ, và việc đó không bao giờ gây ra bê bối, thậm chí không bị nghi ngờ. Hơn nữa các môi giới không bao giờ nói gì. Cơ sở của việc buôn bán ở Châu Á, rất bí mật. Một lời nói thừa có thể chết người - có biết bao nhiêu điều tế nhị! Hơn nữa, Việt Minh, những băng nhóm và cảnh sát mà họ quan hệ, trong một số trường hợp đã có xu hướng nói với họ: "Khoản tiền của anh quá lớn. Hãy cho chúng tôi một ít". Tài giao thiệp tinh tế giữa tống tiền và chống tống tiền thật vô tận, với những vụ bắt cóc, tiền chuộc, giết người. Nói chung, các "đại gia Trung Hoa" dàn xếp, trả tiền và lại làm những phi vụ mới có lợi cùng những kẻ tra tấn của họ.

Đồng bọn của nhà tỷ phú da vàng có mặt khắp nơi, làm việc khắp nơi nhưng ẩn danh. Đấy là đồng tiền lạ, không ai biết người sở hữu nó. Người ta không thể đi ngược về nguồn gốc, quá phức tạp không lần ra được trừ phi chộp lấy nhân vật ấy và nói: "Nếu anh không "nhả ra", chúng tôi sẽ chặt anh từng khúc". Bọn trộm cướp có thể làm thế nhưng sở thuế thì không. Vả lại các đại gia Trung Hoa biết những bọn trộm cưóp khác những nhà chính trị, những người có vũ trang khác có thể cầu cứu; ông ta cũng có vũ khí của mình, có những đe dọa trả đũa về thương mại và tài chính. Thương mại, buôn lậu, tài chính, bắt cóc, tất cả cùng tiến hành. Người ta bàn cãi luôn luôn nhưng không bao giờ có gì thể hiện lên bề mặt. Thế nhưng đấy là Sài Gòn, thực chất nhất, quan trọng nhất, và cũng kín mít nhất. Nếu người ta biết được việc gì xảy ra người ta sẽ hiểu nhiều bí mật của Đông Dương, nhưng không thể biết được.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Bảy, 2018, 10:44:07 pm

Bên dưới "khôi tiền lớn" quá vô hình ấy, vượt khỏi hư không và nghèo khổ "Sài Gòn những căn nhà ngăn ô” còn mang dấu ấn giàu có Pháp là vòng đầu tiên vây quanh Sài Gòn các tỷ phú Pháp - dân nghèo hợp lệ, "dân bản xứ" khá giả tranh thủ được một ít và sống trong "các ngăn". Một ngăn là một hành lang dưới mái, dài mười mét, rộng hai mét. "Đường hầm" nhưng là dạng nhà tư sản Châu Á: thẳng góc với đường phố, chia làm một quán hàng mở rộng trên hè phố, một gian phòng để làm mọi việc, một sân người ta xây dựng "vững chắc" những căn nhà ngăn ấy với hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn mà các công ty bất động sản thuê rất đắt.

Những căn nhà ấy nối tiếp nhau vô tận trên đường phố này đến đường phố khác hàng nhiều cây số. Tất cả luôn giống hệt nhau, những khoang như nhau, cùng bố trí một cách.

Khắp nơi người ta thấy từng dãy quán rồi các phòng, các sân trong bố trí số học. Khắp nơi cũng những hàng hóa, những nghề lặt vặt ấy, cũng dân quán hàng và thợ thủ công ấy. Thật yên tĩnh, vui vẻ, đông người, hơi hôi hám, nhìn bề ngoài là cảnh lương thiện của những người "làm ăn nhỏ", cả gia đình vất vả suốt ngày từ mờ sáng đến đêm khuya. Ở đây, những người thợ may mình trần ngồi xổm cắt những bộ quần áo đẹp trong hai mươi bốn giờ. Những gì buôn bán, lao động có thể làm, người ta làm cả.

Những khu phố này có vẻ chẳng có gì bí mật. Đường còn vạch, có đèn và cảnh sát mặc đồng phục. Dân cư có tên họ, lý lịch, phương tiện sinh sống có xác nhận. Thực tế tính cách gian lận đã bao trùm rất rộng.

Phải chăng những ngăn nhà ấy không che giấu gì? Mỗi gia đình có vẻ sống công khai trước mắt mọi người, bố, mẹ, các ông bà, con cái; thư ký và thợ chen chúc trong cửa hàng hoặc xưởng thủ công trống trải nhìn ra hè phố không có tấm ngăn hoặc cửa kính tách biệt. Nhưng cũng có những gì ở phòng trong hoặc sân sau. Tất cả đều gian dối.

Khu phố lúc nhúc tiệm hút, những nhà chứa nhỏ, phòng xoa bóp, những cơ sở phá thai, cảnh sát nhắm mắt lấy tiền thù lao và cũng vì không biết cái gì hợp pháp, không hợp pháp theo tục lệ và vệ sinh. Khu phố cũng đầy những ban ám sát, những phòng thu thuế của Việt Minh, trung tâm chỉ huy các băng nhóm, các kho vũ khí. Lẫn lộn với những người "da trắng bình thường" trong cảnh khốn khó có những viên chức cổ cồn trắng của Chính phủ, những chỉ điểm của người Pháp, những người hợp tác, "kẻ phản bội", có cả một thế giới những kẻ giết người, bọn khủng bố có vũ khí, kẻ ném lựu đạn, nhân viên thu thuế bất hợp pháp. Nhưng cảnh sát chẳng làm gì được.

Việc đề phòng tốt nhất là tình trạng kỳ lạ giữa người và vật - của hàng trăm nghìn người giống hệt nhau, của hàng chục nghìn căn nhà như nhau. Kẻ giết người ăn mặc như một viên chức bàn giấy, quần áo comple tồi nhưng là ủi cẩn thận. Cũng khuôn mặt như thế. Làm sao phân biệt được giữa những đầu người da vàng, giữa những người Annam, tất cả đều đứng đắn, cẩn thận và sạch sẽ như vậy? Dĩ nhiên tất cả, công dân tốt cũng như kẻ giết người đều có những giấy tờ người Pháp cấp rất hợp lệ.

Và rồi còn việc bố trí chỗ ở. Các căn nhà biến thành một mê lộ duy nhất. Khắp nơi, từ nhà này sang nhà khác, người ta khoét lỗ ở vách ngăn và ngụy trang lại. Phía sau, sân nhà kế tiếp nhau vô tận thành một con đường nhỏ bí mật giao nhau với những đường khác loại ấy. Vì vậy khi một người cảm thấy bị cảnh sát hoặc một đội tuần tra đe dọa chỉ cần chui qua lỗ ở vách ngăn để ra đường, mất hút trong đám đông, biến vào căn nhà bên cạnh rồi trong khu phố vô số căn nhà. Vả lại con đường bí mật ấy có những người gác, những hệ thống báo động. Do đó việc tìm kiếm, lục lọi hiếm khi có kết quả.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Bảy, 2018, 10:46:02 pm

Sài Gòn những căn nhà ngăn ô là Sài Gòn của Việt Minh nghiêm túc. Những đường dây bố trí tốt, che đậy kỹ, tranh thủ mọi lợi thế của quy hoạch đô thị và sự văn minh, có thể tha hồ "làm việc", cách Sài Gòn những tỷ phú người Âu rất gần, ở đầu đường phố, đôi khi sự chuyển tiếp không cảm thấy rõ. Nói chung họ để Sài Gòn của những người da trắng yên bình để "bơm" đồng bạc tốt hơn, đôi khi Nguyễn Bình cũng đòi những liều lượng nào đó bằng ám sát.

Cách xa những căn nhà ngăn ô là những mái nhà tranh mê cung tuyệt đối, một "thành phố lau sậy" gần hai triệu người không tên. Ở đây những gì là Sài Gòn, những gì cấu tạo nên thành phố gần như đã biến mất. Không có đường phố, hàng quán, luật lệ. Người dân tự làm nhà ở ngay trên đất trần hôi hám, trên đầm lầy, giữa những con lạch - những con lạch cũng đầy người, những xóm thuyền trôi nổi, những gia đình đầy đủ, các thế hệ sống vĩnh viễn trên những tấm ván của chiếc thuyền cũ nát. Biết bao lần một con lạch hiện lên trước mắt tôi như một rừng ván rỗ mang hàng nghìn người từ lúc sinh đến lúc chết, trên dòng nước đặc ngầu.

Cả đám dân cư các "thành phố lau sậy" là những người "mất gốc", không có công việc thường xuyên, không nguồn thu lương thiện. Để sống qua ngày, những người dân quê cũ làm cu-li, đạp xích lô, bán rao vặt. Cũng có những thầy bói toán, lừa gạt, những kẻ ngoài pháp luật, một số thợ, viên chức lương còm cõi. Có một số đông hành khất, tàn tật, những người gần như thây ma, bị bỏ rơi, bị những căn bệnh ghê tởm hành hạ. Có cả trộm cắp. Ban ngày những người ấy ra khỏi ổ chuột của mình rải khắp Sài Gòn và Chợ Lớn đi tìm kiếm đồng bạc - đến tối trở về đổ sụp xuống chỗ nằm. Đấy là khổ cực, huỷ hoại. Một người đạp xích lô, to lớn vui vẻ mình trần trong ba năm trở thành người bệnh lao. Phi đạo đức đã thành bản chất nên nó tự nhiên, ngây thơ. Một người có thể làm những gì vì mấy đồng bạc? Và dĩ nhiên đối với con gái không còn vấn đề đức hạnh.

Nỗi khổ vô bờ, nhưng chưa phải là mức cuối của sự khổ cực. Không ai, hoặc gần như không ai chết đói, ngược lại với nhiều thành phố Viễn Đông khác. Điều đó dựa chủ yếu vào những nguồn lợi nhỏ của chiến tranh. Sự thịnh vượng của đồng bạc đến tận những thành phố lau sậy, đến cả những người nghèo khổ tệ hại, cho họ bát cơm hàng ngày cũng như những ảo ảnh sung sướng về thuốc phiện, mại dâm, đánh bạc.

Cũng không hề buồn. Rất vui. Để hiểu cường độ sống, phải thấy sự háo hức của những người cu-li ngồi xổm vòng tròn và cơm vào mồm. Để hiểu niềm say mê, phải thấy những người hành khất chơi suốt đêm dưới ánh sáng một ngọn nến, đánh bài đến cùng với của bố thí ban ngày. Thường có những xác chết bỏ rơi nhưng chẳng bận bịu gì đến ai. Những bà lắm mồm, hách dịch, những mụ tú bà huyên thuyên từ sáng đến tối. Nhiều khi các bà nắm tóc nhau, cào cấu nhau rách nát trong những cuộc cãi lộn điên tiết, những người bên cạnh nhìn cười. Và có gì đẹp hơn lúc hoàng hôn cảnh bên giếng nước? Những cô gái tết tóc, mặc áo quần đen láng bóng mang xô tới đó đùa dỡn nhiều giờ với những chàng trai bên cạnh.

Tuy vậy chiều sâu của Sài Gòn thành phố lau sậy này không bao giờ dấy lên một làn sóng căn bản - một đà nhảy, một lý tưởng vươn tới - hoàn toàn là tính ích kỷ, mỗi người đấu đá cho mình, không hề thương xót. Con người có thể làm tất cả vì một đồng bạc, nhưng đồng bạc ấy những quyền lực trên không ngừng tìm cách giật lấy. Chống lại những sức mạnh, những tổ chức đáng sợ ấy, con người dưới đáy xã hội quá đơn độc, để tự bảo vệ chỉ có vâng lời, mưu mẹo và phản bội khi có thể. Tầng lớp dưới của Sài Gòn là như vậy, dân chúng tìm cách để không bị tước đi hết. Có một cách đặc biệt dễ dàng vươn lên. Đấy là cờ bạc, cờ bạc trong khu nhà Đại thế giới, nơi toàn thành phố đến để tự phá sản.

Hơn nữa, ba tổ chức chính dồn ép quần chúng bằng sức mạnh: Việt Minh, Bình Xuyên, cảnh sát. Họ đấu với nhau trong một cuộc chiến tranh tay ba để nắm độc quyền "tống tiền" trong thành phố. Những thù địch bí mật này đầy những giai đoạn bi hài với nhiều xác chết và cũng nhiều tay hào hoa dễ chịu.

Năm 1949 cuộc đấu của họ đặc biệt quyết liệt. Các "tổ chức" đánh nhau để kiểm soát Đại thế giới - "phi vụ" thần kỳ nhất của Sài Gòn. Chính lúc đó Hoàng đế Bảo Đại tham gia cuộc đấu và can thiệp với trọng lượng quyết định lợi thế cho những người bạn Bình Xuyên của ông. Đấy là sự thông đồng chính thức, thậm chí là sự liên kết giữa Nhà nước, Chính phủ và băng nhóm bất lương.

Tất cả những cái đó là Sài Gòn. Chúng ta hãy phân tích chi tiết.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Chín, 2018, 11:27:20 am

Những tù nhân của đồng bạc

Hơn ba phần tư người Pháp ở Đông Dương, những người dân sự, tập hợp trong Sài Gòn đồng bạc ở một đầu của thành phố bao la. Đấy là những tù nhân của sự tráng lệ. Nhưng họ không cảm thấy bị cầm tù, thậm chí rất sung sướng. Hạnh phúc của họ là săn lùng tiền.

Sài Gòn của những "kẻ săn đồng bạc" được bố trí tốt. Có tất cả những gì cần thiết. Trước hết, dĩ nhiên có một góc để "giao dịch về đồng bạc", gồm cảng và khu tài chính bẩn thỉu, vừa chính thức vừa bí mật ở sau bến tàu. Ở đây bên cạnh sở Hối đoái có những hãng buôn bán lâu năm, Nhà băng Đông Dương và những cơ quan đáng kính nhất, những gì cần thiết để "sinh lợi". Chỗ này, tập trung những quán bar đảo Corse mà các "thủy thủ" đến tiếp nhiên liệu mang theo vàng lậu. Ở đây những nhà băng Trung Hoa mạnh chuyên tài trợ cho những vụ việc bất hợp pháp ẩn dưới vẻ ngoài những nhà thuốc hôi hám. Chỗ này, trên con đường nhỏ Lefèvere, mỗi sáng có chợ đầu cơ ngoài trời, trong nắng nóng và lúc nhúc người.

Cũng có những góc ăn ở - trước hết để ngủ: trên "Đồi" - một vùng đất ít bùn lầy hơn, cao mấy mét khống chế phần thành phố còn lại. Dọc những đại lộ cây xanh nối tiếp những biệt thự nặng nề của những người Pháp "có tư cách", những viên chức cấp cao và nhân viên điều hành nhà băng và sở Hối đoái. Cứ tám giờ sáng, những chiếc xe con với lái xe đưa các ông đến văn phòng. Các bà đi bên cạnh, đến "Câu lạc bộ thể thao" mà người Việt Nam và Trung Hoa không được nhận làm thành viên, dù không còn lệnh cấm chính thức.

Có góc quản lý hành chính vùng rìa Đồi. Ở đây tập hợp tất cả những dinh thự cần thiết cho việc điều hành xã hội - lâu đài Cao uỷ đặt trong công viên riêng, lâu đài Chính phủ Việt Nam kém đẹp hơn, Nhà thờ lợp ngói đỏ, nhà tù có vọng lâu bên cạnh lâu đài Chính phủ, ngôi nhà dài của ngành an ninh lô nhô hàng rào sắt cách nhà thờ mấy mét, lâu đài tòa án xa hơn một ít.

Đường phố Catinat là rốn của Sài Gòn, nối các "góc" chủ yếu. Bắt đầu cao sang từ viền Đồi, những dinh thự đẹp và lâu đài kéo dài một cây số và kết thúc thô thiển ở cảng. Đoạn cuối là lãnh địa "trung tâm" đảo Corse. Ở đây người ta thấy những khuôn mặt nâu và đáng ngờ của những "chàng trai không tốt" đến từ hòn đảo của sắc đẹp. Sở chỉ huy của họ là những cửa hàng bia hào nhoáng, nic-ken và đèn ống, bình lọc cà phê, điệu nhạc dịu, cái nhìn lâu và im lặng, những tấm gương lớn phản ánh lên tất cả, cách chào của chủ cửa hàng, phong vũ biểu đích thực của thế giới này; và rồi nhìn qua cô thủ quỹ đẫy đà, khuôn mặt đẹp thường xuyên theo dõi phía sau những cánh cửa không bao giờ người ta bước vào là tất cả những bí mật của "việc trao đổi".

Phần giữa của con đường Catinat là con tim Sài Gòn. Khi không suy tư và không ngủ, thường người ta đi dạo ở đấy. Có Sài Gòn của tiền bạc, của cao uỷ, ban tham mưu và cũng của những người Pháp trung bình, của những kẻ phiêu lưu, những "kẻ đần", tất cả những cái Sài Gòn có thể có, lẫn lộn. Trên mấy trăm mét dành riêng, ba mươi nghìn người Pháp trong thành phố đi qua lại ngày này rồi ngày khác, luôn là những gương mặt ấy. Vòng tròn của những tù nhân không biết mình bị cầm tù.

Đây là nơi gặp mặt chung. Người đàn bà thời thượng gặp cô gái đĩ Marseille. Viên tướng đụng phải anh lính lê dương. Thanh tra cảnh sát nhìn theo "khách hàng" vừa ra khỏi khách sạn. Mọi người đều ở đấy và mọi người biết rõ nhau. Mỗi người qua đường biết rõ những chuyện bẩn thỉu, những bí mật sâu kín của mọi người qua đường khác. Nhưng họ không hỏi chuyện nhau, cẩn thận như không biết nhau. Luât lệ thật phức tạp. Phải cùng tầng lớp mới chào nhau, bắt tay nhau.

Cuộc dạo chơi muôn thuở ấy có những giai đoạn, những điểm ngừng bắt buộc. Vì ở đây có những nơi cao sang của Sài Gòn - khách sạn Continental, phòng trà Pagode, nhà hàng Bodega nơi các chủ tài chính ăn tối, nhà hàng La Paix lãnh địa những người cũ, cửa hàng của "phòng trưng bày Eden" mà phụ nữ lịch sự đến mua tác phẩm nghệ thuật, hiệu sách Portail các trí thức vào mua "những tờ báo Pháp" ở các bà bán quá màu mè, thường là vợ góa sĩ quan.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Chín, 2018, 11:29:49 am

Đáng kể là những nền thềm cà phê lúc khai vị. Buổi trưa và bảy giờ tối, tất cả những người Pháp Sài Gòn, coi thường lựu đạn nguy hiểm ngồi chật ních dồn ép nhau xung quanh những chiếc bàn nhỏ. Và từng nhóm bí mật thì thầm với nhau. Lúc ấy tất cả Sài Gòn nói về những diễn biến lớn trong ngày. Theo thứ tự quan trọng tăng lên là "việc ăn nằm với nhau", thuốc phiện, nhận hối lộ, những vụ tống tiền bị dìm đi, nhất là đồng bạc, đồng bạc ám ảnh. Trong nhiều giờ người ta bàn luận về những vụ lớn, luôn luôn là những mánh khóe trong đổi chác và đầu cơ. Các bà than thở. Đối với họ sức mạnh nam tính bao gồm cả lối tưởng tượng về tài chính.

Cuộc huyên thuyên của tất cả Sài Gòn về tất cả Sài Gòn ấy, việc xem xét chung mỗi ngày hai lần ấy, là cái người ta gọi "Đài Catinat".

Nhưng không ở đâu ở một hội nào người ta nói về chiến tranh, một đề tài không ai quan tâm. Báo chí tiếng Pháp ở Sài Gòn cung cấp tin tức chất lượng tốt về những cuộc hành quân, những hành động thù địch làm Sài Gòn sinh sống mà Sài Gòn chẳng bận lòng. Tuy vậy đôi khi thoảng qua một làn gió lo ngại, nhưng các nhà chức trách nhanh chóng xoa dịu tình hình. Dân cư Pháp rút ra kết luận "điều đó” còn kéo dài và người ta lại lao vào các phi vụ.

Thế nhưng chiến tranh ở ngay bên cạnh. Người ta nghe thấy nó. Đôi khi ban đêm những người ăn tối hoặc chơi bài và nghe tiếng súng canông hay đại liên. Bao giờ cũng có một ông già Sài Gòn chẩn đoán: "Tối nay việc ấy xảy ra ở phía Gia Định. Chắc một bốt trong vành đai bị tấn công". Rồi chẳng ai chú ý đến những tiếng quen thuộc ấy nữa. Người ta vui chơi, sống thoải mái trong lúc bên cạnh những người khác đánh nhau và chết. Người Sài Gòn chẳng hề phiền phức gì. Tự nhiên thôi.

Thậm chí đôi khi người ta trông thấy chiến thắng. Chỗ nhìn tốt nhất là khách sạn Majestic.

Từ năm 1950, khách sạn Majestic sừng sững trên bờ sông Sài Gòn, trên cảng. Đấy là khách sạn sang trọng mới, Franchini cho xây dựng để "lấy đô-la", khách là người Mỹ và người nước ngoài. Khối nhà đập vào mắt và vô giá. Tầng sáu là một phòng bar bao la với dàn nhạc jazz. Ở đây tập họp những người chạy theo thời trang ở Sài Gòn và những người Mỹ vui vẻ, nổi lên vì áo sơ mi bay bướm in hình. Ở đây Whisky đánh bật rượu truyền thống và cognac sô-đa "thực dân".

Phòng bar này nhô thẳng ra sông Sài Gòn đầy tàu thả neo và người lúc nhúc. Từ bên bờ kia cũng nhô ra, một quang cảnh bùn và đầm lầy là đất Việt Nam, ngay trước mặt, cách mấy trăm mét. Buổi tối là sự đối nghịch hoàn toàn: người ta thấy hai thế giới bên cạnh nhau. Trước mặt mảng sáng bao la của Sài Gòn là mảng tối không một ánh đèn. Có những ngọn lửa ở các tàu đậu, rồi chẳng còn gì - đêm tối bao phủ hết. Khoảng đen nước và cỏ ấy, chỗ này chỗ kia có một làng, là chiến trường của cuộc "chiến tranh bẩn thỉu".

Một lần trước nửa đêm một ít, những người uống thấy nhưng đám cháy phía dưới, gần như bên cạnh mình, thực ra cách đấy bốn, năm cây số. Đã là thường lệ, chẳng ai lo lắng gì. Tuy thế một làng Việt đang cháy, bốn mươi dân quê bị giết. Và do những lính thủy Pháp, tân binh, đốt nhà và gieo rắc cái chết. Mấy ngày trước đó họ từ nước Pháp đến không hận thù. Bây giờ họ bung ra, chỉ nghĩ trả thù cho mấy người bạn, một buổi tối vui, "đi chơi lông bông" trong xóm nhìn bên ngoài yên ổn, đã bị chặt thành khúc.

Như vậy "miền đất lạ" của người Việt, của Châu Á, của chiến tranh, bao vây những người Pháp Sài Gòn khắp nơi, gò bó trong một cuộc sống tự tạo trên một diện tích mấy cây số vuông tự tạo. Ở "góc" này, khôn ngoan là đừng cử động và phần lớn người Pháp sống bình lặng. Tất cả những gì họ làm là đi giải trí ở một số "câu lạc bộ" của Sài Gòn văn minh, những địa điểm phụ không nguy hiểm đặt ở những khu hiểm. Có thể trong những chỗ an toàn nhỏ ấy, một sân golf được dây thép gai bảo vệ. Cũng có một trường đua ngựa mà thói thường là việc lừa bịp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Chín, 2018, 11:31:32 am

Vệ tinh chính là Chợ Lớn, cách năm cây số, ở đầu con đường vắng vẻ Gallieni. Thực ra đây là một thành phố sinh đôi, một trung tâm văn minh thứ hai. Đấy là Trung Hoa cũ, liên minh với tư bản da trắng. Người Âu không ở đây nhưng thường đến đây vì những thú vui tinh tế, các món ăn nổi tiếng của khách sạn Palais de Gade và Arc-en-Ciel, nghệ thuật về thuốc phiện, vì tình cảm của những vũ nữ kiêu căng. Đôi khi một nhà tài chính da trắng thì thầm với một tỷ phú da vàng trong nhà hàng, có thể đang nhờ cậy người Trung Hoa môi giới cho một nữ hoàng vũ trường. Nhưng thường là một điều đình rất kín đáo về tài chính.

Cũng có những thanh niên da trắng bình thường đi tìm thú vui ở khu nhà ngăn ô. Nguy hiểm hơn nhưng giá rẻ hơn. Và rồi tùy theo sự chọn lựa! Nhiều kẻ chơi bài thích gái điếm Việt Nam hơn Trung Hoa. Những cô gái Annam nhỏ nhắn, rất đơn giản, và cả những cô phấn son, tự phát hơn nhiều! Và cũng làm tình tốt hơn. Một người lịch lãm nói với tôi:

- Nhiều kinh nghiệm, dễ thương nhất là những cô đã là các xơ rồi phục vụ trong Lục quân thuộc địa. Các nữ tu sĩ thu nhặt những cô bé trần truồng, bị bỏ rơi, tạo thành những thiếu nữ Cơ đốc giáo, cầu kinh và thêu thùa. Trưởng thành, họ tìm việc cho - làm người hầu trong các gia đình khá giả. Mấy tháng sau các cô đã là người tình của các ông hạ sĩ, tiếp tục được nuôi dạy.

Những lớp trẻ Sài Gòn đi lông bông, không xa các khu người Âu lắm, trong những quán bar bình thường, những vũ trường khả nghi, những tiệm hút - nhà chứa. Ở đây cả một dân chúng gái điếm, chủ quán, mật thám, chỉ điểm, một "xã hội hư ảo" khác thường. Đôi khi cũng có người bị giết.

Mặc dù có những nơi để khuây khỏa như thế, một số người da trắng ở mãi trong Sài Gòn "của họ", ám ảnh bị giam cầm, chán cảnh đơn điệu. Vậy là họ đi trên đường, không dự kiến gì, không trả thuế giao thông cho người Việt. Cứ như thế họ đi vào cuộc chiến tranh. Và biết bao lần hậu quả là những bi kịch vì những người ấy không tuân theo luật lệ chặt chẽ của hiểu biết.

Tôi từ Mỹ Tho trở về bị hỏng xe cách Sài Gòn năm cây số, thấy một khu ngoại ô xa xa. Đã sáu giờ kém mười lăm phút buổi chiều. Tôi không lo lắng gì, xe cộ còn đi lại nhiều. Chỉ mấy phút sau khi tôi dừng lại không còn gì qua lại nữa. Đêm tới gần. Tôi bỗng thấy con đường bị kẹp giữa hai rừng dừa đã tối. Trước mặt tôi hai trăm mét, lính ngụy trong một vọng lâu giơ tay vẫy, tôi đẩy xe lại phía họ, đang hết sức cố gắng thì họ bắt đầu bắn. Đạn rít lên. Tôi đến chỗ vọng lâu, trèo thang lên; thang được rút ngay. Lính ngụy cười, bảo tôi chỉ mấy giây nữa là bị bắt. Họ bắn vào một toán người Việt đang bò lại phía tôi.

Người chỉ huy lính ngụy giải thích cho tôi "người Pháp cấm đường lúc sáu giờ rưỡi nhưng Việt Minh cấm đường lúc năm giờ rưỡi. Vì vậy sau năm giờ rưỡi không còn ai đi trên đường; người Việt tấn công những gì đi lại".

Tuy hiểu biết người ta cũng có nguy cơ bị chết trên đường. Vì vậy những người thực sự khôn ngoan chỉ đi máy bay: sân bay Tân Sơn Nhất cho phép an toàn thoát khỏi nhà tù Sài Gòn; nối Sài Gòn với phần còn lại của Đông Dương, của thế giới. Trước đây sơ sài, nhuốm cảnh buồn bã thuộc địa, bây giờ sân bay này trở thành một thành phố với kho hàng, tháp, lều trại tạm, cả một khối quần thể được bảo vệ bằng dây thép gai, đèn chiếu, lính và đại liên. Đấy là lá phổi thép của Đông Dương, thậm chí là một trong những nơi hội tụ lớn của bầu trời, các chuyến bay gần với Orly, với những sân bay lớn thế giới. Trong ngày cứ gần một phút có một máy bay đi, về, tiếng động rất nhẹ. Tân Sơn Nhất đóng cửa về đêm.

Nhờ Tân Sơn Nhất người Sài Gòn có thể đi khắp Đông Dương. Qua cửa hông họ nhận thấy quang cảnh yên bình của rừng rậm và đồng ruộng - đất đai chết người của Việt Minh. Và khi họ đến một thành phố, họ lại rơi vào một Sài Gòn thu nhỏ, một "nhà tù" bé hơn với một số người Âu. Đúng như ở thủ đô, mỗi thị xã bị bao kín trong "đất lạ" - nhưng cũng là một trung tâm bình định với những gì cần có. Vậy là có việc buôn bán trao đổi, những đồng bạc thu nhặt.

Tân Sơn Nhất cũng đóng một vai trò thiết yếu trong cuộc sống thời thượng của người Sài Gòn. Để kiếm đồng bạc hàng ngày những người Pháp ở Sài Gòn đến đón hoặc tiễn những người tới hoặc ra đi. Một ý nghĩa tượng trưng, khuyến khích vào "nhà tù", hoan nghênh việc phóng thích. Một thủ tục không lay chuyển. Nhân viên, thuộc hạ không đi đón tiếp một ông chủ sẽ bị thất sủng, có thể bị đuổi, nên họ không thiếu mặt. Vậy là sân bay thường xuyên đông người với nhiều trăm xe, vô số người đi tiễn biệt hoặc gặp lại. Tầm quan trọng của hành khách gần như dựa vào số lượng người bận bịu tôn vinh họ.

Đây cũng là trung tâm, cuộc sống chính trị và quân sự dựa vào những lễ nghi tổ chức tỉ mỉ theo thứ bậc. Mỗi lần một nhân vật lớn lên hoặc xuống máy bay, viên chức, quân lính, các ngài quan chức Việt Nam bận những bộ đồng phục đẹp nhất và kính cẩn đứng thành hàng. Nếu đón Bảo Đại, Cao uỷ hoặc một tướng nhiều sao, có đội kèn, duyệt binh, diễn văn. Con đường cách sân bay với thành phố được quân đội bảo vệ, mười mét một người lính, quay lưng về phía đường, về phía đoàn, để theo rõi kỹ hơn những đầm lầy, những ngoại ô có thể Việt Minh sẽ xuất hiện. Và việc đó mỗi tháng tiến hành nhiều lần.

Dù sao cũng có những ngày người Sài Gòn không đến Tân Sơn Nhất. Họ quay tròn ở Sài Gòn như những con sư tử trong lồng, những con sư tử hòa nhập với đồng bạc và quen lệ thuộc vào nó. Ít nhất khi họ ở trong Sài Gòn những tỷ phú, sự an toàn gần như thỏa mãn. Phải thật không may mới ở trong vùng có lựu đạn nổ. Vì cũng có lựu đạn và những người Pháp bị giết chết trên nền thềm cà phê hoặc khi đi ra khỏi những rạp chiếu phim. Tệ hại hơn thỉnh thoảng cũng có những vụ giết người ghê tởm. Đôi khi người ta nghe tin một cậu bé ở trường ra bị bắt cóc; xác cậu được tìm thấy đẫm máu. Những tai nạn ấy là giá của đồng bạc - một trong hàng nghìn nguy cơ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2018, 04:24:02 pm

Đồng bạc của những người giàu

Ở Sài Gòn năm mươi người khống chế đồng bạc. Người ta gọi họ là những "Ông lớn". Trong chiến tranh chỉ một lần tôi thấy họ tập họp với nhau, ở khách sạn Continental trong một bữa tiệc chiêu đãi giới tài chính do giám đốc Viện Phát hành - cơ quan Nhà nước và bốn bên, vừa xây dựng để in những đồng bạc của Đông Dương độc lập.

Trước một bàn ăn bình thường là những nhà tỷ phú Sài Gòn dưới dạng những ông đã có tuổi, được khen thưởng nhiều và lịch sự, rất tự chủ. Đấy không phải những ông chủ - những người này ở Paris. Đây là những viên chức cao cấp đến đây vì công việc và hạnh kiểm tốt. Công chúng không biết tên. Họ hầu như vô danh mặc dù nhiều quyền lực biến sau những lý do xã hội thần kỳ của các công ty mình.

Tất cả giới nhà băng đều có mặt - Nhà băng Đông Dương, Pháp Hoa, BNCI của tài chính, Nhà băng Chartered; Tất cả các hãng lớn ở đó - Denis Frères, Descours và Cabaud, Diethelm... Có đồn điền lớn... cũng có những trụ cột của thương mại và công nghiệp, hàng không dân dụng.

Đây là một cuộc họp kín. Các đại diện của những công ty khổng lồ ấy tập hợp thành ba hay bốn theo những hoạt động tương tự và các chi nhánh là cơ sở tấm màn bí mật của Đông Dương. Đứng, ăn mặc khiêm tốn, bắt tay nhau thân mật, các nhóm họp với nhau hoặc tản ra theo những lý do bí mật nhưng đầy ý nghĩa. Ví dụ các ông nhà băng Đông Dương trao đổi với nhau lâu, bề ngoài không một căm hận, với chủ bữa tiệc, nhân viên quan trọng, hơi còng lưng và lịch sự, vừa từ Pháp sang để lãnh đạo Viện Phát hành Pháp - Việt Nam - Lào - Khmer, xóa bỏ ân huệ phát hành giấy bạc Đông Dương. Ân huệ ấy chắc chẳng quan trọng nữa.

Ông Franchini đi từ nhóm này đến nhóm khác, nhiệt tình, vẻ hiểu biết, thân mật. Thực tế ông không chỉ là "chủ khách sạn" mà còn là thành viên của giới siêu đẳng, ít hay nhiều cũng là tỷ phú. Cũng có một áo thầy tu bẩn và đẫy đà qua lại rất thoải mái trong hội đồng của đồng bạc ấy. Đấy là cha Moreau, thủ quỹ của những phái đoàn nước ngoài ở Đông Dương, có nét mặt tinh ranh trơn bóng và bụng to, một nhân vật tài chính rất lớn. Các phái viên nghèo nhưng những phái đoàn rất giàu. Và cha Moreau biết làm cho vốn của họ sinh lợi: ông có vẻ là một trong những người kinh doanh có khả năng nhất ở Viễn Đông.

Bên cạnh những "ông lớn" có một số vai phụ. Đặc biệt một ông rõ ràng không đúng chỗ trong xã hội này. Ông thô thiển, không có huân huy chương và quần áo vải thường. Nhìn ông không là gì. Từ chỗ không có gì trong mấy tuần hoặc mấy tháng ông lại rơi vào chỗ không có gì ấy. Tuy vậy mỗi người đều gia ân cho ông. Vì chữ ký của ông này đáng giá vàng, cả đối với những "ông lớn" ở Sài Gòn. Đấy là giám đốc Sở Hối đoái, nơi đổi chác.

Có những vai phụ khác, người Việt Nam và Trung Hoa. Những vai phụ Việt Nam là các bộ trưởng. Những vai phụ Trung Hoa là môi giới.

Đến một lúc có tiếng ồn ào. Tiếng còi, tiếng mô-tô, còi dài. Các ngài quan chức Việt Nam đến. Quảng trường Nhà hát trước khách sạn Continental đầy cảnh sát. Giao thông trên đường Catinat bị gián đoạn. Rồi vài chục người đi mô-tô, yếm che ngực, trang bị vũ khí, đến trước khách sạn. Khoảng một chục chiếc xe Mỹ rất đẹp, cờ hiệu Việt Nam tiếp đến. Từ xe bước xuống Thủ tướng Hữu to béo và Tâm gầy gò. Vừa vào đến phòng tiệc họ cảm thấy như về nhà. Tinh thần dân tộc của họ thể hiện trong đường lối chính trị, trong kinh tế ít hơn nhiều. Nhất là Hữu chủ yếu là tình bạn bè. Quan niệm của ông ta trước hết là tài chính - đúng ông được đào tạo bởi chính các nhà tài chính. Tâm có xu hướng tư bản ít hơn. Ông là sản phẩm của nền hành chính Pháp, gắn bó với nền hành chính này.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2018, 04:25:37 pm

Mọi người phiền phức nhiều với Hữu. Ông thường cứng đầu với cao uỷ. Nhưng ông không bao giờ tăng thuế, cũng không nói về dân tộc hóa. Không gây phiền phức cho các công ty Pháp mà ngược lại. Vậy là hoàn toàn thân thiện, yên tâm vì lợi ích của người Pháp. Rõ ràng năm mươi "ông lớn" tập hợp dưới nụ cười của ông Franchini, điều khiển người Việt Nam nhân danh đồng bạc dễ hơn ông Pignon nhân danh nước Pháp nhiều.

Thực khách sốt ruột chờ một "bạn thân" khác, ngài Nguyễn Đệ, đổng lý Văn phòng nhà vua, mưu sĩ dưới bóng Bảo Đại. Ông này cũng am hiểu về tài chính, lúc trẻ ông là môi giới của Nhà băng Đông Dương. Bây giờ ở đỉnh cao vinh dự và quyền lực, ông điều hành những khoản tiền đồ sộ hơn trước kia, cho ông hoặc cho Hoàng đế. Thầy ông và ông, để mang lại đồng bạc và đặt đúng chỗ, cần những "ông lớn" Sài Gòn giúp kín đáo; đổi lại họ có thể dựa vào hai người ấy.

Người ta được tin ngài Nguyễn Đệ xin cáo lỗi, vì ông không tới được.

Ngoài các ngài của chế độ, có những ông Châu Á khác, nếu có thể càng dễ mến hơn: hai hoặc ba nhà môi giới lớn nhất của thành phố, những tỷ phú Trung Hoa. Trong số họ một người còn trẻ, phương Tây hóa, Huy Bon Hoa. Tổ tiên làm giàu bởi lòng sùng đạo và cho vay nặng lãi. Hậu duệ đông vô số, có giấy thông hành Pháp, những câu lạc bộ riêng, ô tô thể thao và những ổ con gái đẹp, nhất là họ thống trị việc buôn bán lúa gạo ở đồng bằng Nam Kỳ.

Đến tám giờ bữa tiệc kết thúc. Các ngài Việt Nam ra đi giữa tiếng đưa tiễn long trọng; các nhà môi giới biến mất trong những chiếc li-mu-din lớn nhất mua ở Hoa Kỳ. Những "ông lớn" bước thong thả, từng người một, rất hài lòng, vững tin vào tương lai của đồng bạc. Một số chậm lại để trao đổi về những bí mật tài chính không nói được giữa đám đông.

Như vậy là chủ nghĩa thực dân chết dần dần nhưng chủ nghĩa tư bản vững chắc hơn bao giờ hết ở Sài Gòn. Tuy thế trong số những nhân vật tư sản lớn ấy tôi không giữ lại kỷ niệm của một "khuôn mặt" nào. Chỉ là những kỹ thuật gia về tiền bạc, gần như thoát xác do sống trên đỉnh tài chính và thương mại. Họ đã đạt đến lĩnh vực lợi ích tính toán đơn thuần, tiền lãi chắc chắn. Nghề của họ là khai thác sự hợp pháp, vắt nó như một quả chanh, cả một khoa học có nhiều đức tính, tài năng.

Những "ông già" thuộc địa, những người đi chinh phục, đang trong quá trình bị loại bỏ, kể cả "bố Ganay", thực tế chỉ một mình ông trong hơn hai mươi năm ở Nhà băng Đông Dương, ở Sài Gòn. Một nhân vật đáng gờm! Người ta nói ông bắt đầu trong tối tăm, là thủ quỹ nhỏ ngồi sau cánh cửa - nhưng đã đánh bại tất cả. Chưa bao giờ có một người tàn tệ như vậy đối với mình và những người khác. Biết bao người phá sản, trong suy thoái những năm 1930 trong lúc ông vơ hầu hết của cải của Đông Dương vào nhà băng của ông! Ông nổi tiếng với cách cười gằn khi một con nợ đến đề nghị ông gia hạn: "Tay này chắc yêu mẹ lắm đây, xử anh ta đi thôi!"


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2018, 04:26:27 pm

Ông Ganay bị đẩy đi ấy đã là một người "kiến lập" Đông Dương thuộc Pháp. Ông vốn chẳng yêu gì cả, và đã yêu Đông Dương: ông bao phủ xứ này bằng những đồn điền, hầm mỏ, đồng ruộng, cầu đường, thành phố như những vật trang sức. Và ông, một người bị căm ghét, vui thích làm đao phủ đôi khi hiếm hoi cũng biết gia ân. Thay vì đánh hạ con mồi theo như thói quen, đôi khi ông chiếu cố cho ông ta vì nhận thấy cũng say mê, khắt khe như ông.

Ganay không bao giờ lầm. Có những lúc ông tinh quái phê phán người ta cho vui. Ông biết rõ mọi "mánh khoé" của Viễn Đông, cả những "thủ đoạn" kỹ càng nhất của những người Trung Hoa cỡ lớn. Lục địa vàng của chủ nghĩa thực dân, lừa đảo, đầu cơ, của mọi thèm khát là thế giới của ông. Không một khả năng nào thoát khỏi ông. Ông mạo hiểm, chơi lớn và mỗi lần thắng, luôn thịnh vượng hơn giữa những nạn nhân của ông.

Nhưng rất lạ, giữa Đông Dương béo bở như thế với đồng bạc trị giá mười bảy phrăng, ông không hoàn toàn trong cuộc. Với kinh nghiệm, ông còn có ích trong việc điều phối - nhưng một yếu tố chủ yếu của tình hình tuột khỏi tay ông. Ông không hiểu chủ nghĩa cộng sản là như thế nào, ông không hiểu sự không vụ lợi cơ bản của Việt Minh là như thế nào.

Bây giờ ông Ganay này là ông già "khó chịu", nửa lẩm cẩm nửa huyền thoại, đơn độc, càng đơn độc hơn. Ông không có gia đình. Bây giờ ông chỉ bạn bè với những "bồi" của ông, những con mèo và những bộ sưu tập nghệ thuật Phương Đông rất đẹp. Mọi sự có mặt của phụ nữ làm ông ghê sợ. Ông ở trên cao tít ngôi nhà băng Đông Dương, một tủ két bằng cẩm thạch và đá, nặng nề đặt trên bờ sông Sài Gòn. Ngôi nhà chỉ là một biểu tượng. Đấy là hình ảnh tượng trưng của sự thống trị, của quyền lực giày xéo mà Ganay đã là người thợ xây dựng.

Vô cùng giàu, Ganay sống trên đó trong một căn hộ rất đẹp, khách quan, lạnh lùng. Mỗi buổi sáng ông chậm rãi bước xuống theo bậc thang đồ sộ, đầu thẳng, đôi chân run thô thiển lộ ra khỏi chiếc quần soóc. Người ta nghe tiếng ông lanh lảnh, cái cười bao giờ cũng làm mọi người sợ. Nhưng tính cách gàn dở của ông đầy sáng suốt đáng ngạc nhiên, đầy tinh quái diễu cợt. Không có gì làm ông phiền phức nữa. Trong nhiều tháng ông bí mật thương lượng với Việt Minh tìm lại những gì ông quí nhất: một đầu bếp thân tín và một tượng Thần Tài cũng thân tín, cả hai bị lấy mất.

Ông già quái gở vừa cảm động vừa ghê tởm. Tôi gần như thương hại khi lần cuối cùng thấy ông ở văn phòng nhà băng. Rất nhiệt tình ông dẫn tôi lại một tấm bản đồ Đông Dương trên tường, nói với tôi: "Thưa ông, xứ Đông Dương này là một tổng thể rất đẹp, xây dựng rất hài hòa. Một nền kinh tế hoàn chỉnh. Không nên tự chia cắt, sụp đổ, không nên..." Trong lúc ấy một chàng trai rất trẻ, tóc vàng, mắt xanh, tóc cắt kiểu bàn chải, vào nói: "Thưa ông Ganay, một trong những hòm vàng của chúng ta bị phá hỏng ở sân bay Tân Sơn Nhất!” Ganay run run với giọng nói của kẻ hà tiện: "Người ta có lấy cắp đi không? Tôi phải đến xem, tôi đi đây". Và ông nhảy đôi chân bé nhỏ ra phía cửa.

Ganay chết sau đó mấy năm. Một người cháu lạ mặt tới nhận thừa kế.

Thực ra từ năm 1950 Ganay đã là một người hết thời, một xác chết sống, đúng hơn là một người sống sót. Ngay trước khi ông chết, Đông Dương của ông - của lá cờ tam tài, của sự khai thác trực tiếp - đã chết rồi. Ở Paris, kíp mới của Nhà băng Đông Dương, mà nhiều người trẻ xuất sắc từ cơ quan Tài chính, mềm dẻo và thầm kín chuẩn bị "cải tổ" ngôi nhà có tiếng trước thời đại mới. Trước tất cả mọi người, giữa cuộc chiến tranh Đông Dương, trong lúc Trung Hoa đỏ đang là kẻ thù, tổng giám đốc bí mật đến chỗ Mao khai thác những khả năng hợp tác và sinh lợi với những chế độ cộng sản ở Viễn Đông. Những kết luận rất khôn ngoan. Không nên quá lao vào. Điều cần làm là "lợi dụng" tối đa nguồn béo bở trước mắt của chiến tranh, của đồng bạc. Và với tiền lãi, người ta đầu tư lớn ngoài xứ Đông Dương, ngoài Châu Á, đề phòng tương lai không vững chắc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2018, 04:27:04 pm

Như vậy Nhà băng Đông Dương có một vụ kinh doanh rất lớn nhờ Đông Dương, sẽ chẳng là gì nữa vào thời kỳ chiến tranh kết thúc. Ngược lại nó sẽ có mặt ở hầu hết mọi nơi khác trên thế giới. Nhiều công ty theo gương nó với những kế hoạch khiêm tốn hơn. Nhà máy Bia và Nước đá ở Algéria, mua lại phần lớn những hoạt động của hãng Vichy. Tư bản Đông Dương nhờ những nguồn lợi của chiến tranh, sẽ rời Đông Dương để trở thành toàn thế giới. Ít nhất cũng là thử vận may vì cũng sẽ có nhiều thất bại.

Công thức mới là "những người suy nghĩ" ở Paris và những người thực hiện tốt ở Sài Gòn. Nhất định với "những người mới" tôi đã thấy trong bữa tiệc, lợi ích của nhà băng và thương mại được bảo vệ kỹ. Những ông ấy tỏ ra có đạo đức và yêu nước. Quá quan trọng, cũng quá thông minh để không được thế. Họ là một thế hệ mới đến với yêu cầu, hiện đại và kỹ thuật cầm quyền, thành công trong việc xây dựng vòng quay hoàn toàn hợp pháp của đồng bạc tự động.

Đấy là đồng bạc lương thiện, không để ai nói về mình, mang lại nhiều lãi nhất. Để có quyền lương thiện phải là một "khối" mạnh về vốn và bảo trợ.

Hệ thống dựa vào đầu óc con buôn: trong quá trình bình định, Đông Dương phải thịnh vượng, ngập tràn sản phẩm. Những nhà buôn lớn đảm nhận việc nhập khẩu cần thiết. Để làm phi vụ ấy họ đòi hỏi thường xuyên "luân chuyển" để việc "kinh doanh" tiến hành thuận lợi - không bao giờ bị từ chối nếu có danh tiếng. Vậy là các hãng chính được đặc ân chuyển đổi đồng bạc sang phrăng, mỗi đồng bạc mười bảy phrăng để mua hàng hóa ở Pháp cho xứ Đông Dương. Khi đã chuyển tới và bán đi, hàng hóa tất nhiên lại sản xuất ra đồng bạc, thế là những chuyển đổi mới, mua mới ở Pháp, bán mới ở Đông Dương. Vòng quay thường xuyên, không để ứ đọng vốn. Mỗi lần đi về dôi ra những đồng lợi nhuận không dùng vào việc mua hàng, cũng cần chuyển đổi, nhưng không trở lại. Công việc lớn là cho dầu vào bánh xe dựa vào pháp luật và vai trò ảnh hưởng. Đây là một cuộc chiến nhỏ, thường xuyên, vừa bảo vệ vừa tiến công mà các hãng luôn luôn có lãi.

Nhưng ngoài sự hợp pháp khôn khéo, có chăng nhiều sự bất hợp pháp được che đậy? Đường Catinat đầy tiếng đồn thổi bê bối về mỗi nhà băng, mỗi công ty thương mại. Người ta nói những thiệt hại vì chiến tranh (do quân đội Nhật, và những nhân vật chức quyền ở Đông Dương đã đòi bồi thường nhiều tỷ) chỉ được trả cho những hãng lớn vẫn không hạ được tham vọng và con số của họ. Không người nào khác được nhận. Những đồn điền cao su chỉ trừ ở Lộc Ninh, từ chối tổ chức tự bảo vệ. Họ buộc quân đội phải đảm bảo an ninh cho họ, làm cho Đội quân viễn chinh bị lệ thuộc rất nhiều. Một trong những chủ đồn điền nói với tôi: "Chúng tôi không muốn đánh nhau. Chúng tôi là thương gia, không phải là lính". Nhưng làm sao không nghĩ việc "trung lập" ấy làm mếch lòng Việt Minh có thể là những người chủ sau này? Người ta bảo tàu Hải quân thường phát hiện những xà lan buôn bán thả neo bí mật trong những khúc sông, lạch nguy hiểm nhiều Việt Minh, như để giao hàng lén lút. Một đại đội hàng không bị nghi ngờ thả dù cho người Việt. Những máy bay ấy mỗi lần bay trên vùng đỏ thường chậm mười lăm phút, nửa giờ so với lịch trình. Không ai bắt được tại chỗ. Nhưng nếu có thật thì những vụ buôn lậu, việc buôn bán với quân địch ấy được tổ chức rất tốt, do những hãng rất mạnh, không bị nghi ngờ gì nên khó có thể tố cáo và dẹp bỏ.

Người ta nói việc buôn bán đồng bạc ở Đông Dương thực sự nằm trong sổ sách vô bờ và hoàn hảo của các nhà băng và hãng buôn. Việc ấy không sờ tới được, che giấu dưới chữ viết, trong phức hợp hoạt động buôn bán, bởi tầm quan trọng của các nhân vật, trong kinh tế tư bản cũng như trong bí mật quốc gia. Ở một tầm mức nào đó, tất cả đều không ai biết được.

Ở Đông Dương không có gì làm mờ, làm bẩn đồng bạc của những người giàu. Vì đạo đức của họ là sức mạnh của họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười, 2018, 09:52:26 pm

Đồng bạc của những người nghèo

Bên dưới chủ nghĩa tư bản ấy, trong bóng của nó, ít nhiều phụ thuộc vào nó, có một thế giới bực tức về đồng bạc. Ba mươi nghìn người Pháp hàng ngày đổ xô vào đồng bạc.

Thực tế, việc buôn lậu mà người ta cho là không xứng đáng ở Pháp, là việc "quen thuộc" - được làm do lớp vô sản da trắng, những lớp trung lưu, do "môi trường". Chắc chắn, trong dân chúng Sài Gòn, nhiều nghìn người lấy việc buôn lậu làm hoạt động chính nhưng nhiều nghìn người khác xem là nghề phụ, chỉ đồng loã. Nhìn chung đấy cũng là nghề thủ công. Nó không lớn, không đồ sộ, không quyết định đối với Đông Dương.

Người ta gọi là "đồng bạc của những người nghèo", đối chiếu với "đồng bạc của những người giàu", đồng bạc của nhà băng, xuất cảng, môi giới và Bảo Đại.

Cũng như của những người giàu, đồng bạc của những người nghèo có hệ thống cấp bậc của nó, thậm chí phức tạp hơn nhiều. Đấy là một túi du lịch có những băng nhóm, những ông gần như lương thiện, cả một môi trường trung gian hành nghề không đủ tư cách, một thế giới những người hưởng phần trăm, một lớp người điên, trộm cắp, phiêu lưu, thủ đoạn.

Mọi người Pháp ở Sài Gòn đều ít nhiều nhúng tay vào việc buôn lậu. Bao nhiêu người trong bọn họ khá đạo đức để không bị cám dỗ? Không nhiều. Trên cùng có đồng bạc của các băng nhóm; Đấy là những "tổ chức" được các cơ quan dành riêng, đúng như các nhà băng và hội thương nghiệp - nhưng bí mật. Người ta chỉ hơi biết nhưng không chiếm lĩnh được, thoát thai từ hai nhóm xã hội mạnh và có kỷ luật, từ lâu đã tạo ra những lãnh địa kín ở Đông Dương. Đó là "tổ chức" những người đảo Crose, những người chủ của thế giới cặn bã da trắng. Đó là "tổ chức" những kẻ đầu cơ Trung Hoa, vừa của việc đổi chác chợ đen. Cả hai là những nhóm đe dọa, tống tiền hoàn toàn sẵn sàng, không thương xót. Chính thức, các băng nhóm ấy bị tất cả chống lại. Chúng có thể có lúc bị "đánh mạnh" nhưng không bao giờ bị tiêu diệt thậm chí không thiệt hại nặng. Năm này qua năm khác chúng cứ tiếp tục khai thác, với những nguồn lãi 100%.

Sài Gòn của những người Corse đi từ ông Franchini lương thiện đến các chủ quán rượu, những thủy thủ đi qua và những tên ma cô đưa từ Marseille sang những gái điếm da trắng. Các cô dễ dàng kiếm một nghìn đồng bạc mỗi lần qua đêm với một người Trung Hoa, nhưng "quan hệ" gần như vụng trộm để không "giảm giá" người đàn bà; Trong thế giới khép kín này, hoàn toàn da trắng, thậm chí hoàn toàn người Corse - những người Pháp khác chỉ có thể là "khách hàng mà người ta buôn bán" một cách thô bạo, chuyên chở hàng hóa giấu diếm, lậu thuế, với mật hiệu, súng ngắn, luật lệ thanh toán.

Nhóm Trung Hoa còn bí mật hơn, cũng tế nhị hơn không dấu vết, qua việc bù đắp trên đường. Để thực hiện ở Đông Dương phần lớn đang là thuộc địa, cần phải có một số trợ giúp của người Âu, chọn lọc, phù hợp với phong tục phương Đông. Một trong những người này nói với tôi: "Người ta có thể làm tất cả với những “con trời". Họ hiểu hết ít nói. Việc giữ gìn lời nói là sự trung thực duy nhất trong sự không trung thực. Nhiều người Pháp nhẹ dạ, ngu ngốc bịp bợm họ, bị "cháy" ngay. Tôi gây cho họ lòng tin cậy, có một hay hai tỷ phú da vàng trong tay nên yên tâm làm giàu."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười, 2018, 09:53:10 pm

Bên dưới các băng nhóm là đồng bạc của sự thêm bớt trộn lẫn, của những kẻ gian dối, nửa gian dối, một phần tư gian dối trong mua bán. Ở Sài Gòn các hiệp sĩ tài chính nở rộ khắp nơi. Phần lớn chuyên nghiệp một cách lạ kỳ, làm việc ở một mức độ xác định mưu mô và gian xảo. Có những người cho công việc đều đặn, công việc tế nhị, công việc đáng ngờ, công việc nguy hiểm, vả lại đấy cũng là sự phân phối công việc với các luật sư và thầy thuốc.

Như vậy là có một tầng lớp xã hội con buôn và nửa con buôn, được tôn kính, thường được khen thưởng, thu lãi chắc chắn. Những người này dễ dàng làm được nhiều triệu mỗi tháng. Những người đứng đắn nhất có bằng cấp, có thư ký, hồ sơ, phòng làm việc đàng hoàng. Thấp hơn thì ở cánh cửa có tấm biển một nhà xuất nhập khẩu giả, thường có tên họ người ấy. Dưới nữa chỉ có một gian phòng trần trụi, bẩn thỉu, với một máy điện thoại.

Vốn của các ông ấy là trí thông minh. Những người được vì nể nhất "phục vụ" các "ông lớn", nhà băng, nhà buôn và cả các băng nhóm. Trong thực tế ở Sài Gòn tất cả hơi lẫn lộn với nhau. Dù sao những "ông lớn" tư bản cũng như những tay "cứng cựa" của các băng nhóm, có những lúc như cần những người bù nhìn chắc chắn, không bao giờ lộ mình và biết rõ mọi người. Họ là những người đưa đề nghị đến những thư ký bất lương nhất của sở Hối đoái, đến những bà vợ hợp pháp và các bà vợ lẽ các bộ trưởng Việt Nam, những cảnh sát và nhân viên thuế quan dễ thông cảm nhất, thầy thuốc châm cứu và những người tình cuối cùng của hoàng đế Bảo Đại, Bảy Viễn và những sát thủ tin cậy của hắn, ông Franchini, toà Giám mục, những "người dễ thương" của giáo chủ Cao Đài, những tỷ phú Trung Hoa chỉ mười lăm ngày người ta mới thấy mặt, những ông ăn mặc đứng đắn đại diện Việt Nam, và bao nhiêu nhân vật có tiếng, bao nhiêu nhân vật đáng ngờ khác. Và hầu như luôn luôn họ hoàn thành nhiệm vụ giao phó.

Bên dưới cùng của thế giới hỗn tạp là những người khổ sở, bèo bọt, lê dép vô vọng bám vào những vụ điều phối kỳ lạ. Thường họ sống vì những "lâu đài xây trên cát", ốm đau, điên dại, ám ảnh, được một cô gái bảo trợ cho đến lúc chỉ ăn phở và mọi cái đổ sụp. Những người cùng khổ về đồng bạc ấy bê tha vất vưởng, thỉnh thoảng biến mất trong bệnh viện hoặc nhà tù vì đối với họ chỉ ăn cắp vặt cũng bị đưa vào trại giam.

Cũng có đồng bạc của hối lộ. Một sự tha hóa lì lợm gán cho viên chức nhỏ, nhân viên thuế quan, đội trưởng cảnh sát, thư ký bàn giấy. Đồng lương có hạn, được kích thích về quyền lực, họ không cưỡng lại những người Pháp, Việt Nam đến với họ với một tập giấy bạc để làm họ nguôi giận và gia ân. Lớp viên chức trung bình và cao cấp thường tỏ ra liêm khiết, thường nói về việc đút lót và cho mình là thánh.

Nhưng ngay trong nhân viên cao cấp của chính quyền, có một số ngoại lệ và một số trường hợp không xác định được. Thật dễ dàng trở thành kẻ nhận hối lộ ngoài ý muốn, không biết đến! Những người Trung Hoa biết đứa viên chức xuống dốc nguy hiểm. Từ những món quà nhỏ không từ chối được vì lịch sự việc biếu xén quan trọng dần và đến một lúc nào đó, nếu không biết nói "không" thì đã mắc vào khớp bánh xe, buộc phải hạ bút ký theo yêu cầu của họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười, 2018, 09:54:26 pm

Đồng bạc được "tạo ra" thường thường ở ngay Sài Gòn, không nguy hiểm. Ở Đông Dương cũng có đồng bạc anh hùng, người ta đặt mạng sống của mình vào đó. Đấy là đồng bạc của những phi công, lái xe. Phần lớn là những người của Đội quân viễn chinh giải ngũ. Họ tập hợp nhau ở những quán bar nhỏ, tìm cách làm tiền. Với một chiếc GMC cũ, họ đi chuyên chở trên đường rừng, qua hàng trăm, hàng nghìn cây số, đến tận Lào, qua những vùng người Việt.

Cả một bản anh hùng ca! Vì tất cả là kẻ địch - người, thiên nhiên, sự vắng lặng, nóng bức, bệnh tật, sự đơn điệu. Họ chạy xe trên đường, đơn độc, qua những toán Việt Minh, những cuộc phục kích và mìn. Phải vượt những chiếc cầu hỏng, sông suối, đầm lầy, đồi núi. Họ luôn ở trong rừng không dứt, thường trên những đường đi đã bỏ phế, sụt lở. Có nhiều ngày không thấy một người nào. Máy xe hỏng họ sửa chữa lấy; người mệt mỏi, họ ngồi lại ở tay lái.

Những "người chuyên chở" ấy ra đi khoác đầy vũ khí. Ở những chỗ nguy hiểm đôi khi họ bắn trước vào những người qua lại, vì cả những công nhân sửa đường đang quét dọn cũng có thể là Việt Minh. Dừng lại giữa rừng, ngủ một chốc lác cũng có nguy cơ bị "thủ tiêu". Nhất là việc chạy đua trong buôn bán, "bạn thân" là kình địch. Sau khi mua "hàng", từ Sài Gòn ra đi là phải đến trước một thị trấn vắng, cắt đứt với tất cả, để bán "loại hàng hóa xấu" giá như vàng. Những kẻ đến chậm thì chẳng béo bở gì nữa.

Dần dần việc buôn đường dài ấy được tổ chức hẳn hoi. Ở những trị trấn buồn tẻ Hạ Lào đã có những người gom hàng, chỉ điểm, có cả những quán rượu, khách sạn! Trên cao nguyên Boloven, người chủ trì là một giáo trưởng râu bạc, đông con. Ông nói với con chiên: "Hãy uỷ thác tiền bạc, trang sức, những gì quý giá của các con cho cha. Nhờ Chúa, cha sẽ giữ chúng trong kho đồ thánh, bảo vệ chúng cho các con”. Tiền của thu thập lại, ông đưa sang Lào, mang theo cả chiếc chuông bạc của nhà thờ. Từ đó ông sống những ngày sung sướng, với các bà vợ và đàn con.

Cách đấy không xa, "bà chủ" một khách sạn luống tuổi, đẫy đà và gan dạ, một người đẹp xưa của Thượng Hải, những ngày nóng nực, đưa cho những người đi đường ở trần, lăn lóc vì bia rượu, xem những di tích thời huy hoàng: hai chiếc áo khoác cổ lông, bà nói là lông chồn.

Than ôi, thời kỳ những "người chuyên chở" lạ lùng ấy kết thúc vào năm 1950. Khi an ninh được phục hồi một ít, họ không còn những chiếc "xe ca Trung Hoa" lan tràn trên đường như nước thủy triều vừa lợi dụng những đoàn xe quân sự Pháp vừa sử dụng giấy thông hành Việt.

Những anh hùng vận chuyển khốn khổ! Họ có nhiều đồng bạc, hàng trăm nghìn, hàng triệu nhưng không biết tổ chức đưa nó vào trong vòng quay của việc kiếm lãi đều đặn. Tiền tiêu hết, họ trở thành suy sụp, sống lang thang nghèo khổ, dự vào mưu mô và tòa án. Trong xứ Đông Dương đầy giết người và khốc liệt này không có chỗ cho những người nghèo.

Trong những anh hùng của đồng bạc cũng còn có những đầy tớ tối tăm của chủ nghĩa tư bản, những kẻ vì đạo không được trả công đúng mức - các trợ lý đồn điền. Họ chết vì một khoản lương ít ỏi với mười hai giờ làm việc mỗi ngày, cuộc sống hết sức đơn điệu. Trên nhiều nghìn hec-ta cao su là mệnh lệnh tuyệt đối về vật dụng cũng như công việc của con người. Ngày nào giờ giấc, động tác cũng lặp đi lặp lại. Buổi sáng lúc bốn giờ, mỗi người Âu đến khu vực được phân công cùng toán cu-li của mình. Ở đây anh ta theo dõi việc chăm sóc cây, cạo mủ, thu gom nhựa. Không có gì nhạt nhẽo bằng, không gì nguy hiểm hơn. Vì trật tự trong đồn điền thật sinh tử - người trợ lý không được bảo vệ, người ta ám sát anh ta giữa những cây cao su, trong xe jeep hoặc nhà ở, bất cứ đâu khi Việt Minh muốn giết. Cu-li cũng là Việt Minh, chỉ cần một cán bộ chính trị ra lệnh là xong. Xung quanh cũng có quân chính quy đỏ. Tiểu liên, súng ngắn mang theo người và không bao giờ rời ra cũng chẳng được việc gì nhiều. Vì mỗi lần như thế là sự bất ngờ, loạt đạn từ một bụi cây tới hoặc bóp cổ trong đêm.

Và sau mỗi vụ giết người, những người Âu sống sót sáng sáng lúc bốn giờ lại ra đi với cây cối, cu li của mình. Vì đã có nhiều tỷ đầu tư - không gì ngăn cản được đồn điền sản xuất, bán cao su để các cổ đông chia tiền lãi. Nhất là trợ lý không được phàn nàn, cấp trên nhận xét; anh lệ thuộc vào trật tự tinh thần của đồng bạc. Và như thế với mấy nghìn đồng bạc mỗi tháng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười, 2018, 09:55:07 pm

Nhưng quyết liệt "lao vào đồng bạc" dù do băng nhóm bất lương, do thêm bớt trộn lẫn, hối lộ hoặc anh hùng - bị một quyết liệt khác vượt rất xa: việc chuyển đổi. Đấy là từ chủ của Đông Dương, có khắp nơi, trong tất cả những con tim, những ý nghĩ, những cuộc trò chuyện. Đấy là ý tưởng cố định. Người ta vừa chào nhau vừa hỏi: "Có chuyển đổi được không?" Mọi trí thông minh cùng theo một hướng duy nhất ấy. Kết quả là một sự méo mó kỳ cục, một tư duy như của tên lừa đảo căng thẳng do thành công của vụ lừa đảo mình đang làm. Người Sài Gòn căng thẳng, hướng về kết quả của việc chuyển đổi. Mỗi người đang có một vụ. Điều ấy là của mọi người, một căn bệnh tập thể.

Cái xấu của sự chuyển đổi là tuỳ tiện võ đoán. Về nguyên tắc đấy là một việc làm được hoan nghênh, nhằm thưởng công cho những hoạt động hợp pháp. Nói một cách khác, chỉ đồng bạc "yêu nước" có thể chuyển đổi. Đồng bạc ám muội của đầu cơ và hủy hoại thanh danh bị loại trừ. Nhưng trong mỗi trường hợp, chính quyền là người quyết định thế nào là đồng bạc tốt, xấu. Chính quyền không làm được. Chính do sự bất lực ấy mà người ta phát triển đồng bạc - vượt xa nền công nghiệp loại nhất của Sài Gòn.

Về việc này tất cả đều bất thường. Không chỉ lừa bịp chính quyền để có đồng bạc. Người ta cũng dùng đồng bạc tốt, mua chuộc để chuyển đổi đồng bạc đã bị từ chối theo tỷ lệ phần trăm. Nghĩa là người ta mua sự trung thực. Như vậy, thực tế ở Sài Gòn chẳng còn người nào trong sáng.

Kỹ thuật là dùng những người trung thực hoặc cho là trung thực có quyền chuyển đổi. Có những nhân vật không bị nghi ngờ, những quân nhân, viên chức. Có những người "kinh tế lớn", những người ít nhất cũng chứng minh được thu nhập, đều đặn và hợp pháp, như những thương gia có lãi nhiều, những chủ quán rượu, chủ khách sạn, những nhân viên và giám đốc các hãng có tiếng.

Những người đạo đức nhất cũng chấp nhận. Tôi đã thấy một nhân viên cao cấp vô cùng liêm khiết, hãnh diện về bàn tay và lương tâm trong sạch, không bao giờ nhận một đồng bạc hối lộ hoặc gia ân, cuối cùng đã làm việc đó. Ông không có tiền tiết kiệm và có một cô con gái sắp cưới. Và rồi ở Đông Dương, cả những người không bị tha hóa cũng thấy không có gì xấu khi sử dụng sự trung thực của mình để nhận hoa hồng cho việc đổi tiền ở sở Hối đoái. Kỹ thuật gian lận, sự dễ dàng, thông thường, cuối cùng tạo cho họ một tính cách vô tội.

Như vậy là có những ông "tốt" có quyền chuyển đổi nhưng không có tiền để chuyển đổi. Có những người "không tốt" có tiền để chuyền đổi nhưng không có quyền chuyển đổi. Rút cuộc đều thu xếp được.

Tuy vậy những mánh khóe, những biến đổi, công việc tài chính làm cho những đồng bạc không có giá trị lớn thành những đồng phrăng và những vật dụng quý hơn nữa phải qua hai cơ quan, hai bộ máy bổ sung cho nhau, sở giao dịch bí mật ở đường Lefèvre và sở Hối đoái.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười, 2018, 08:56:32 am

Những cỗ máy của đồng bạc

Kỹ nghệ đồng bạc khoanh giới hạn không đầy một cây số vuông. Tất cả đều đổ vào đó, những đồng bạc của người giàu cũng như những đồng bạc của người nghèo, tiền lương thiện cũng như tiền bất lương, những vòng quay hợp pháp và không hợp pháp. Ở đây tất cả nhào trộn trong hai xưởng máy chính, bề ngoài nhìn tiều tụy, nhưng trị giá mỗi chỗ nhiều tỷ, nhiều trăm tỷ. Đấy là Sở Hối đoái trên đường Guynemer, cơ sở chủ, cỗ máy cho phép với vòng tròn nhà băng bao quanh. Cách không đầy một trăm mét, trên đường Lefèvre, sở giao dịch không chính thức, giữa trời, của mọi phi vụ. Như phần bổ sung, ở góc đường Guynemer và đường Lefèvre có văn phòng Cảnh sát Tư pháp hỗn hợp nhằm trấn áp những gian lận kinh tế. Tất cả tiến hành trước đồn cảnh sát hình như không ai sợ ấy.

Đường Lefèvre như một con đường nhỏ, nghèo ở Phương Đông, không có cao ốc, biển quảng cáo, đèn ống. Buổi chiều và tối lang thang ở đấy những người bán cháo, hành khất và gái điếm. Xung quanh là những tiệm hút nhỏ và rác rưởi. Một góc buồn phía sau cảng. Nhưng mỗi sáng trừ những ngày lễ và chủ nhật, bộ mặt đường phố thay đổi hoàn toàn. Mặt đường đầy xe con sang trọng nhất Sài Gòn. Hè phố lúc nhúc các ông Trung Hoa; nhưng cũng có những người Pháp, Việt Nam, Hindou, được gọi thô thiển là "Malabars". Đám đông ấy tập hợp thành nhóm thì thầm nhưng thong thả, không bị phiền phức gì. Họ bàn về tất cả, những vụ việc lương thiện và bất lương hàng tỷ đồng. Không bao giờ có gì viết ra giấy, có chữ ký. Thế nhưng lớp người thì thầm trên đường Lefèvre buôn bán mọi loại giấy bạc, mọi hàng hóa, ở mọi chỗ trên thế giới.

Tất cả đều trao đổi bằng miệng, không một dấu vết vật chất, trừ những mảnh giấy bướm nhỏ có ý nghĩa đã được chấp nhận. Mỗi mảnh giấy đại diện cho số tiền bao nhiêu, ngoại tệ gì lấy ở chỗ nào. Đỉnh cao của sự vô danh hẳn là một quán bẩn trên đường Lefèvre, không biển hiệu, một loại quán lều. Thế nhưng đấy là chi nhánh một nhà băng Trung Hoa mạnh gần như Nhà băng Đông Dương, khối nhà ở ngay sau lưng nhà băng này. Bí mật trong quán nhà băng ấy đi xa đến nỗi không có tài vụ - hai hoặc ba người Trung Hoa ngơ ngác, mặc áo may ô vừa dùng ngón tay gẩy bàn tính vừa ngáp.

Trên đường Lefèvre tiến hành tất cả những điều phối - xung quanh một vụ chuyển đổi, kéo theo việc buôn lậu vàng và đô-la, sợi dây "bù đắp" vô tận, những hoạt động lạ lùng nhất về chính trị và thương mại. Nhưng trước hết cần có một chuyển đổi. Không thể có việc buôn bán béo bở nếu không rút được ở Paris nhiều phrăng do các đồng bạc có ở Sài Gòn. Việc chuyển đổi - chìa khóa của cuộc chiến tranh Đông Dương, của cuộc sống thương mại, kinh tế và chính trị của các quốc gia liên hiệp (Việt Nam - Cam-bôt - Lào) - là điểm xuất phát của các vòng quay lớn. Vì vậy đường Lefèvre còn hơn các chỗ khác của Sài Gòn, bị ám ảnh bởi sở Hối đoái gần ngay đấy - Đây là khu chợ đen của đồng bạc gắn chặt với sở Hối đoái.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười, 2018, 08:57:18 am

Ở đường Guynemer, người ta bước lên một cầu thang cũ kỹ. Một cánh cửa tầng hai mở vào các văn phòng: sở Hối đoái. Tất cả bẩn thỉu không tưởng tượng được. Một đám đông ken chặt trước cửa song sắt, trên mấy mét vuông lát gạch. Những tầng lớp người lẫn lộn còn khác thường hơn ở đường Lefèvre. Những giám đốc lớn của sở thuế quan, mặt lạnh như tiền, vò khăn tay, ngồi trên những chiếc ghế gỗ tồi bên cạnh anh ma-cô người đảo Corse, ông luật sư hành nghề không đủ tư cách, cô gái điếm người Pháp và đủ loại người Việt Nam và Trung Hoa. Đây là nơi hành tội. Trong lúc chờ đợi kéo dài, tất cả những người bị dồn nén ấy tỏ ra đúng mực khác thường, không dám phàn nàn, chống đối. Một số đang lẩm nhẩm những lập luận, để chốc nữa trình bày. Cả một lớp người đóng băng trước đồng bạc.

Ngồi chờ đồng bạc thật lâu. Mỗi người khi đến, điền vào một mảnh giấy màu vàng do người tùy phái Annam đưa cho rồi chỉ còn kiên nhẫn. Thỉnh thoảng có tiếng gọi tên họ. Và một ông biến vào bên kia rào ngăn. Những người được chọn luôn là những nhân vật quan trọng. Mọi người khác, từ anh người đảo Corse đến người Trung Hoa, tiếp tục chờ với một sự khôn ngoan mẫu mực.

Bên kia song sắt là một dồn nén khác. Trong gian phòng, khoảng mười lăm người Pháp và bốn mươi Việt Nam ngồi giữ những núi hồ sơ, máy chữ, các loại, lọ mực, bàn thấm, con dấu. Không có gì còn mới. Bàn ghế, tài liệu có vẻ như từ cổ xưa. Nơi này, chỗ quyền hành cai quản của cải hiện đại nhưng nghèo nàn thảm hại.

Viên chức cũng chẳng sáng sủa hơn. Người Việt Nam, những thư ký bình thường, ẩn mình trong sự nhẫn nhục khó chịu. Những người Pháp mỗi người có một chiếc bàn gỗ trắng. Hai hay ba người, trưởng hoặc phó phòng có bàn giấy, thu xếp giấy tờ trước khi lắng nghe khách trình bày. Tất cả đều trẻ, mắt sắc cạnh, vẻ cao đạo bề trên, vô sỉ, kín đáo. Họ ăn mặc theo lối nhà thông bái vô tâm, để ria mép, quần soóc. Cũng có một số phụ nữ trẻ.

Đấy chỉ là những "nhân viên hợp đồng", những chàng trai đến Đông Dương không rõ bằng cách nào, phần lớn bị các nhà buôn đuổi việc vì bất lực hoặc làm tùy hứng. Nhiều người không quá trình độ tú tài, không thông thạo về tài chính, quan tâm nhiều hơn đến thơ ca hoặc ô tô. Họ được tuyển chọn tình cờ - gặp ai nhận người ấy. Vì những viên chức thực sự trốn khỏi sở Hối đoái này vì ở đây chỉ tạm thời và đầy nguy hiểm! Những viên chức nhỏ này là những tiểu vương ở Đông Dương. Vì họ có "chữ ký" trong những vụ chuyển đổi ít và trung bình cũng đã là rất lớn. Mỗi người trong bọn họ quyết định chấp nhận hoặc từ chối chuyển đổi. Ý thích của họ là luật vì thậm chí không có quy tắc cụ thể, không có tiêu chuẩn có giá trị để nói "được" hoặc "không". Thế là những người không ra gì ấy ngây ngất giữa những phỉnh nịnh và cám dỗ. Một số sống cuộc đời vua chúa, mua những biệt thự ở Bờ biển Xanh. Người Trung Hoa đưa họ vào sự tha hóa hoàn toàn, mời mọc, tiệc tùng, quà cáp và rồi phong bì giấy bạc. Vũ nữ có hạng ngã vào cánh tay họ quá dễ dàng. Dần dần thành thói quen. Người ta biết một vụ chuyển đổi với viên chức nào đó là bao nhiêu. Một trong số họ có cả một hệ thống dồn con mồi. Một người khác, xấu trai, đòi hỏi khách hàng phụ nữ.

Một tấm ngăn cửa kính phân cách gian phòng chung với góc ngồi của giám đốc. Đấy là viên chức chính công duy nhất, trong hệ thống Bộ Tài chính, cấp bậc rất thấp. Vì không một viên chức nào muốn tan sự nghiệp ở sở Hối đoái này. Giám đốc là một người cạo giấy bình thường chấp nhận phiêu lưu. Ông tự coi mình như một anh hùng vì phải bơi trong vô số những tỷ bạc, những bí mật quốc gia, chỉ thị của cao uỷ và thậm chí của thủ tướng ở Paris, những sổ đen, ý kiến của Phòng Nhì, những luồn lọt của các liên hiệp xí nghiệp, mệnh lệnh và chiếu cố của đường lối chính trị. Ông này bao giờ cũng chỉ một ý nghĩ - tự bảo vệ mình. Vậy là ông giữ gìn mọi văn bản giấy má, tuy thường cũng thay đổi như một cọng rơm giữa những lợi ích hoặc quyền lực ghê gớm. Dù làm thế nào vị trí của ông cũng khó khăn. Nếu tỏ ra quá dễ dãi ông có thể dính vào một vụ bê bối; nếu hơi cứng nhắc cấp trên cho là ông bất lực, kém thông minh, không hiểu lợi ích của nước Pháp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười, 2018, 08:57:58 am

Sở Hối đoái hàng năm vẫn nổ ra những vụ bê bối tuy không lớn. Mỗi lần như vậy trước hết là những tiếng đồn ghê gớm ở Sài Gòn. Ở đường phố Catinat người ta thì thầm tên nhiều người, những nhân viên thiếu tế nhị, nhất là của những hãng tha hóa. Điều đó không bao giờ kéo dài. Vài nhân viên sở Hối đoái bị đuổi việc, những người khác cũng giống hệt họ, được nhận vào thay chỗ. Thảng hoặc giám đốc điều hành bị thay thế. Và tất cả lại tiếp tục như trước đó.

Có nghĩa con buôn lừa bịp đủ mọi cách với sự đồng loã hay không của nội bộ sở Hối đoái để chuyển đổi tiền. Kỹ thuật thường dùng nhất là "tạo ra" một thương vụ giả định.

Dù sao thì những đồng bạc cũng được đưa sang Pháp nhưng hàng hóa không bao giờ về Đông Dương, hoặc giá trị rất ít.

Có biết bao nhiêu kịch bản kỳ cục! Đủ loại người lập ra những cơ sở. Nhưng những hãng mới ấy bí mật bốc hơi sau một đêm, khi đã đổi được tiền!

Một lần đội tuần tra phát hiện một chiếc tàu nhỏ bị bỏ lại trên bờ sông Sài Gòn. Quân đội huy động rầm rộ, nghĩ là của Việt Minh và bố phòng chống một vụ tập kích của địch vào ngoại ô Sài Gòn. Sau đó người ta nhận ra chỉ là một vỏ tàu hỏng. Cuộc điều tra cho thấy chủ nhân là một ông người Pháp quan trọng, vừa đổi một số tiền lớn để mua một chiếc tàu lớn ở Pháp. Ông ta nói muốn lập một công ty chuyên chở và kéo tàu trên sông Mékong. Chiếc tàu cũ nát ấy là "chiếc tàu lớn". Tiền đổi được đưa về Pháp, nếu không cũng trở lại Đông Dương dưới dạng đô-la hoặc vàng để mua bán ngoại tệ.

Những câu chuyện như vậy ở Đông Dương có hàng trăm hàng nghìn. Điều lạ là sở Hối đoái không phát hiện ra kẻ nhập khẩu mà không nhập gì, kẻ xuất khẩu cứ giữ lấy ngoại tệ hoặc người Pháp về nước hẳn tới lần thứ mười (người về hẳn được chuyển đổi vốn). Cũng thật khó hiểu.

Tất cả đều rối loạn, do đồng bạc Đông Dương được định giá mười bảy phrăng Pháp, ít nhất cũng ở một nhà băng nào đó ở Paris. Điều này do một cố vấn tài chính quyết định năm 1945, không có lý do gì lớn. Người này hơn ai hết, hơn điều gì hết, đã kéo dài cuộc chiến tranh Đông Dương, tha hóa nó. Vì nó đưa lại cho Đông Dương nguồn lợi cụ thể trong việc chuyển đổi.

Toàn bộ "thể chế" không lành mạnh, nhưng người ta giữ nó vì lý do quốc gia. Tầm quan trọng của sở Hối đoái không về kinh tế mà về chính trị. Đấy là một công cụ của chính quyền. Trong những văn phòng tiều tụy ở đường Guynemer đổ vào mọi bí mật lớn của Đông Dương thời chiến, của Đông Dương các lâu đài và các ban tham mưu.

Cũng phải xây dựng những quỹ đen, dân sự và quân sự. Thuốc phiện dùng làm việc đó nhưng một số hoạt động tài chính phải qua sở Hối đoái.

Nhưng không chỉ "hoạt động tích cực" ở Đông Dương. Ở Paris phải hoạt động vì cuộc chiến tranh Đông Dương, theo cách dẫn dắt cuộc chiến. Đây là một lý do khác của quốc gia. Các đảng phái chính trị hầu hết đã lợi dụng việc chuyển đổi. Họ được tài trợ nhờ vào đồng bạc, các đảng tán thành có sự đồng tình thậm chí giúp đỡ của chính quyền Sài Gòn, các đảng đối lập tự xoay xở theo cách của họ. Tiếng đồn rất phổ biến nhưng không có chứng cứ; tất cả vẫn bí mật với một mức độ nào đó. Điều gần như chắc chắn là, sở Hối đoái đôi khi nhận được chỉ thị chấp nhận một vụ chuyển đổi không điều tra kiểm chứng gì mà người yêu cầu không biết là ai, một ông sử dụng tên giả, hồ sơ giả tạo từ đầu đến cuối.

Trong những điều kiện ấy, sở Hối đoái khó trong sạch, khó tỏ ra nghiêm khắc, xiết chặt được. Dù thế nào cuối cùng cũng có được một "sổ đen" những con buôn "bị cháy", ngày càng có nhiều đợt từ chối. Sự không nhượng bộ ấy - nếu có thể nói thế - chỉ đưa lại một hậu quả: phát triển việc đổi tiền qua chợ đen, một thể chế cần thiết nữa của cuộc chiến tranh Đông Dương.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười, 2018, 09:37:31 am

Người Corse quốc tế của đồng bạc

Năm 1950 "trung tâm" người Corse ở Sài Gòn rất thịnh vượng. Những người "cũ" năng nổ "làm việc lặt vặt" thời kỳ thực dân, đưa những người trẻ sang để làm những công việc nghiêm chỉnh. Họ đưa hy vọng tới cho những tầng lớp thấp trong xã hội Paris và nhất là Marseille. Những khuôn mặt của họ không dễ mến lắm.

Có chỉ một băng nhóm hay nhiều? Người ta không biết rõ lắm. Dù sao không chắc Franchini là lãnh tụ, dù là bí mật, của trung tâm Cosre; có thể là Andréani.

Andréani này là chủ nhân của Croix du Sud - một quán cà phê lớn có đèn ống, đồ kền, đồ giả da trên đường Catinat gần bến cảng. Buổi tối, dưới ánh điện thảm hại, những khuôn mặt trông tang thương. Lớp khách hàng rời rạc, chủ yếu là các hạ sĩ quan và nhân viên ngồi đầy phòng. Họ giết thì giờ bằng buồn bã nhìn khoảng một tá phụ nữ áo quần có hình trang trí và mũ có chòm lông của một ban nhạc nữ. Cách một khoảng, gần quầy hàng có những bình lọc cà phê và sổ két, Andréani đứng với các bà trong gia đình, anh em họ và bạn bè.

Đường bệ và nặng nề giữa đám người theo rõi ấy, Andréani đầy tư cách đạo đức giả. Ông đã gần năm mươi, người lực lưỡng, ăn mặc sang, vững vàng, một vòng tóc quanh trán và thái độ nghiêm trọng. Các bà của Andréani làm việc không ngừng cộng sổ và thu tiền; những phụ nữ mạnh khỏe son phấn, có nụ cười xã giao và độc đoán. Những người bạn, đứng xung quanh Andréani là những thanh niên đảo Corse, mắt sáng, lông đen, hống hách.

Quán Croix du Sud không phải một "chỗ xấu". Không ma túy, gái điếm, kỷ luật chặt chẽ. Người ta chỉ có quyền uống và từ xa nhìn những đôi chân của các cô gái. Những cuộc gây gổ được dẹp ngay. Tuy thế nơi đoan trang này có một không khí nặng nề. Thậm chí đây là dấu vết "trung tâm" của tất cả những người Corse ở quầy hàng giả bộ vô tư. Người ta cảm thấy họ đầy vụ việc và bí mật.

Đôi lúc Andréani biến mất. Ông ta vào trong văn phòng, một gian phía sau hoàn toàn kín đáo, trao đổi về những vụ việc "thực sự". Chính ở đây, trong an toàn và tĩnh lặng, ông chủ trì hội đồng quản trị của băng nhóm ông. Cảnh sát khẳng định những ông của hội đồng nhỏ ấy là những người chủ thực sự của vòng quay chính về đồng bạc; họ quản lý một cách uy quyền việc buôn lậu.

Andréani rất được vì nể ở Sài Gòn. Đây là một người "tư cách" của địa phương. Người ta thấy ông có nhiều mặt đáng khen, biết ông tự xây dựng cho mình nhờ làm việc nhiều và thông minh. Thế mà ông bắt đầu cuộc đời là một kẻ chăn gia súc không biết chữ, thủy thủ, ma cô. Xuống tàu ở Sài Gòn trước chiến tranh rất lâu, với tiền tiết kiệm ban đầu, ông mua "ngôi nhà lớn" thời ấy, nhà chứa có tiếng và phù hợp với những cô gái da trắng. Với tuổi tác càng có những vụ việc lớn - đều đặn hoặc bất thường. Một việc gì đó, vì lương thiện, không làm ông phiền phức. Nếu không lương thiện cũng không phiền phức gì.

Quán Croix du Sud, thực tế là trung tâm chỉ huy của ông. Ở đây ông điều khiển một loại đầu não tin cậy người Corse. Đủ loại người đến đề nghị, nêu ý tưởng. Người ta nghiên cứu cẩn thận lợi ích. Câu trả lời chỉ là "đồng ý" hoặc "không". Cả Sài Gòn tin rằng "việc buôn bán" chủ yếu của Andréani là đồng bạc. Rất có thể là thế nhưng ông ta còn những hoạt động khác nữa. Dù sao toàn bộ được tổ chức theo hệ thống băng nhóm, không thương xót, với những "luật rừng". Với Andréani, băng nhóm hoạt động như một công nghệ, không lãng mạn, có hiệu quả.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười, 2018, 09:41:34 am

Andréani không chỉ là một kẻ vô lại. Ông ta cũng là một nhà tư bản, một người Corse chính cống, một người bố tốt của gia đình. Ông có tài sản minh bạch, là một người có quyền bầu cử trên đảo quê hương, bạn thân của tất cả các bộ trưởng Corse. Toàn bộ tiền "không sạch" kiếm được trong việc chứa gái điếm hoặc buôn lậu, ông cố đưa hết vào những vụ buôn bán đáng kính. Ngay từ buổi đầu, là một chủ quán bình thường ông đã mua một đồn điền cao su. Từ đó ông đã là một chủ sở hữu, ở Pháp cũng như ở Đông Dương. Một trong những cửa hàng tạp phẩm đẹp ở Nice là của ông, giao cho bà em dâu quản lý. Ông có những biệt thự, quán bar, những ngôi nhà các loại. Tài sản của ông không kể xiết. Và ở đâu ông cũng giao cho bà con.

Andréani không rời bỏ "trung tâm". Nhưng ông là chủ một "trung tâm" nghiêm chỉnh, hoạt động giống như hoạt động thương mại. Vì thế ông luôn mở rộng quan hệ với các tỷ phú Trung Hoa, các bộ trưởng Việt Nam và một số quan chức quan trọng. Người ta thấy một nhà cai trị chóp bu và bà vợ công khai tham dự, như khách mời vinh dự ở bữa tiệc lớn ông chiêu đãi các bạn bè trong thế giới thượng lưu.

Những nhân vật Corse khác, có lẽ ít quan trọng hơn nhưng ghê gớm, đáng sợ hơn. Như S... và N... một đôi không xa rời nhau.

Nỗi sợ hãi N... gieo rắc, tình cờ tôi bắt gặp trong mấy giây. Người quản lý một nhà hàng nhỏ trên đường Catinat đang nói chuyện với tôi. Bỗng ông xanh mặt, run lên, chạy đến cúi sát đất chào một ông. Ông này rõ ràng là một chủ nhà thổ trẻ nhưng thành đạt, dữ tợn. Không gì thiếu ở ông ta, con mắt độc ác, cử chỉ hung bạo, giọng nói giận dữ. Ông nắm lấy áo người quản lý, lôi kéo mắng mỏ một lúc rồi ra đi. Như một ông vua. Người quản lý suy sụp hẳn. Khi tôi hỏi người ấy là ai, ông hoảng hốt trả lời: "Thế nào, ông không biết sao? Đấy là ông N...."

Giờ giấc của N... cũng cổ điển như phong cách của ông ta. Ban ngày ông ngủ trong một tụ điểm người Corse trước mặt khách sạn Continental của Franchini. Buổi chiều, tắm rửa rồi đến ngó qua nhà số 90 đường Pellerin, các cô gái Pháp làm việc cho ông ở đấy. Đến đêm ông đến Đại thế giới, đặt những số bạc lớn từ những bàn tay đầy nhẫn để nhân số vốn của mình. Chơi lối chúa tể khinh thường có đêm ông mất ba trăm đến sáu trăm nghìn đồng bạc nghĩa là năm đến mười triệu phrăng.

Ghép cặp đối với "nỗi khủng khiếp" ấy là một ông khoảng năm mươi tuổi, tóc hoa râm, to bè bè, mánh khoé và sung túc tên là S... Một ông "tư thế", cuộc sống tạm vững chắc ở Marseille, ở đó ông có một quán bar choáng lộn. S... cư xử theo lối hào hoa. Ở Sài Gòn, ông vào khách sạn Continental của Franchini, không mặn mà lắm với ông này. Ông không làm hại thanh danh mình, không có đàn bà trong công việc. Về buôn bán ngoại tệ, ông còn "không bị nghi ngờ" hơn những người Corse khác. Đối với N... ông đối xử như người bố, đi kèm ông kia không rời, an ủi, khuyên bảo. Trong cờ bạc, trong lúc N... đặt những món tiền hàng trăm nghìn đồng, S... môi dưới trề ra thận trọng, chỉ mạo hiểm đánh cược mấy đồng.

Đối với người Sài Gòn, N... và S... là những "tên giết người". Người ta biết chúng rũ bỏ những kẻ làm phiền phức bằng hành động dữ tợn. Cảnh sát được báo tin rõ về những tội ác của chúng - biết từng chi tiết - nhưng không có chứng cứ cụ thể để bắt chúng.

N... và S... có óc tưởng tượng. Đối với chúng là những kịch bản loại đen. Và làm những việc đó trong mọi trường hợp mang lại lợi ích, thậm chí với một người đàn bà. Có lần thừa ra một ông. Một y tá quân đội cũ, nghiện thuốc phiện, và cờ bạc chuyên nghiệp, sống đầy đủ nhờ bà vợ; bà "tiếp khách". Ông bố trí cho bà vợ một "phòng trà" ngay giữa phố. Công việc tiến triển tốt. Ông chồng thịnh vượng thiếu khôn ngoan đi nghỉ một thời gian ngắn ở Pháp. Trong lúc ông vắng nhà, ông N... đẹp người được bà vợ yêu thích và trở thành chủ nhân của phòng trà. Ông chồng trở về thấy bị chiếm chỗ, tỏ vẻ bực bội, vướng víu.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười, 2018, 09:45:42 am

Một tối tháng năm, N... con người quyến rũ, khéo nói, thân tình mời ông y tá đi dạo: "Anh bạn, chúng ta hàn gắn lại những rạn nứt; chúng ta bình tĩnh giải thích với nhau". Ông S... phúc hậu cùng đi. N... cầm lái...

Chiếc xe dừng lại ở một ngoại ô vắng vẻ. N... bảo: "Xuống đây ta nói chuyện với nhau". Ông y tá ra khỏi xe chẳng ngờ vực gì. Ông vừa bước xuống thì có có tiếng lên đạn phía sau. Ông S... tròn trĩnh dí khẩu súng tự động vào gáy ông nhưng đạn không nổ. N... bèn đưa một con dao, S... đâm hàng chục lần vào bụng ông y tá.

Công việc xong hai người Corse lên xe phóng đi, để lại nạn nhân trên đường. Lạ nhất là ông y tá không chết, không biết làm thế nào mà bị bỏ lại trong máu lúc hoàng hôn giữa vùng đất Việt Minh, mò về được Sài Gòn. Sau nhiều tuần lễ hấp hối trong bệnh viện, ông hồi phục, nhưng không bao giờ đi khiếu nại.

Của cải và quyền lực của hai "anh bạn" tăng lên hàng năm. "Phi vụ" lớn của họ vẫn là đồng bạc. Một hôm N... bị một trung gian tiêu phí tiền gửi đổi. Hắn bèn tỏ rõ tài đóng kịch để lấy lại tiền với số lãi lớn.

"Thế anh đã đổi hay chưa đổi được?" Một hôm N... hỏi anh Callard nào đó đã là nhà báo rồi làm môi giới bất lương, chơi tennít chuyên nghiệp, nhân viên cảnh sát. Cảnh này xảy ra ở một chỗ uống cà phê. Callard thú nhận anh ta đã tiêu phần lớn trong số 600.000 đồng N... đưa cho anh để chuyển đổi.

"Thôi được, chúng ta sẽ nói về chuyện ấy sau" N... nói. Mấy hôm sau, N... triệu tập Callard, ném lên một chiếc xe. Hai người, một tái xanh vì giận dữ, người kia vì sợ hãi, xuống trước cổng một khách sạn. Trong phòng, N... trói Callard vào một chiếc ghế, trong hai ngày cho ăn cá muối và bánh khô, không cho uống nước - một cách tra tấn. Vài anh bạn Corse canh tù nhân. Đến cuộc chơi cao tay N... vung khẩu súng ngắn vừa hét lên với đồng bọn: "Giữ nó cho tôi”. Đôi khi bàn tay nắm một quả lựu đạn dọa rút chốt: "Tao có nổ tung lên cùng mày cũng được".

Đến ngày thứ hai Callard ký tờ giấy đầu tiên. Anh nhường chiếc xe đẹp Mercury của anh cho N... Hắn lại bảo: "Không phải thế là xong. Anh phải trả lại 600.000 đồng, đưa thêm 350.000 đồng và trả phí tổn 150.000 đồng nêu muốn ra khỏi đây".

Thất vọng, Callard được phép gửi mấy chữ cho một ông bạn tỷ phú Trung Hoa. Người này đến; băng nhóm cởi trói cho tù nhân. Callard quỳ xuống trước nhà tỷ phú khẩn nài thảm hại. Người Trung Hoa xiêu lòng, ký tờ séc 800.000 đồng. N... bèn thân mật vỗ lưng Callard, cho một điếu thuốc, một cốc cô-nhắc sô-đa. Mấy ngày sau phát hiện ra chiếc Mercury đã cầm cố đến ba phần tư hắn cũng chẳng phật lòng.

Trong thời kỳ của người Corse ở Sài Gòn, không chỉ có N... và S... giết người. Biết bao câu chuyện bi hài lố lăng được đánh dấu bằng xác chết!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười, 2018, 09:48:27 am

Một trong những bi kịch ấy của đồng bạc có nạn nhân là một Lacascade nào đó, được tìm thấy chết trước lâu đài Cao uỷ. Cảnh sát điều tra thấy Lacascade thuận tay trái. Viên đạn vào đầu từ thái dương bên phải. Vậy là một vụ giết người. Người bị giết chỉ là một chủ quán ăn cũ, gần như không nhà cửa nghề nghiệp. Nhưng trong vụ này dính vào cả một tập hợp nhân vật Sài Gòn nhất - một viên chức ở bộ thừa hành các quyết định của tòa án, một người chuyên quảng cáo, một nghị viên Pháp, một quan chức quan trọng và một người Corse bí mật. Tất cả tham gia vào một "vụ" chống Sở Hối đoái. Việc điều phối thất bại và Lacascade khốn khổ bị trả giá.

Nghị viện có một vụ đổi tiền lớn ở sở Hối đoái. Phải thoả thuận chợ đen, nhận tiền hoa hồng. Chủ quán ăn cũ, người quảng cáo và viên chức tòa án, những người dồn con mồi chạy tìm khách hàng. Họ gặp một quan chức cao cấp có 450.000 đồng - chắc hẳn tiền hối lộ, đưa số tiền cho họ. Đến phút chót, viên nghị sĩ kém ảnh hưởng và vụ chuyển đổi bị từ chối. Những kẻ thông đồng không thể trả tiền lại vì đã tiêu hết phần lớn.

Trong lúc gay cấn ấy người Corse bất ngờ xuất hiện, một trong những ông vua của môi trường đó. Quan chức cao cấp chỉ là danh nghĩa, số tiền là của hắn. Những kẻ thông đồng kia bị tra tấn, tố cáo lẫn nhau. Người Corse quyết định thủ phạm thực sự là Lacascade. Cả một ngày anh này lang thang trong thành phố, kể chuyện: "Người ta buộc tôi phải trả 450.000 đồng, cộng thêm 230.000 đồng tiền phạt. Tôi tìm đâu ra số tiền như thế?" Buổi tối anh ta bị giết. Ông nghị viện trở về Pháp. Sự việc kết thúc.

Mặc dù có những vụ như thế, vòng quay đồng bạc của người Corse nói chung trôi chảy. Người ta không biết chắc chắn tung tích những ông "chủ" lớn, chỉ đoán ra thôi. Họ không sờ đến được, mọi đề phòng được bố trí để đảm bảo không bị trừng phạt. Những ông vua thực sự của các băng nhóm là một vài người khép kín trong văn phòng, ở quán cà phê lớn Croix du Sud hoặc đâu đó, từ xa ra lệnh cho những đội quân thừa hành. Bản thân họ không bao giờ nhúng tay vào việc, không làm việc gì gian dối. Công việc của họ là theo dõi, chỉ đạo thực hiện, chỉ cần vài lời. Và cũng là bỏ tiền vào túi.

Bắt đầu một vòng quay, những kẻ cầm đầu ấy lấy trong két sắt ra một tập giấy bạc, đưa cho một anh nào đấy, gọi là xuất vốn. Khi vòng quay kết thúc, anh kia trả lại một tập lớn hơn để bỏ vào cũng két sắt ấy. Thế thôi. Những kẻ ấy chỉ chuyển dịch đồng bạc - hoàn toàn hợp pháp.

Tất cả được che chắn. Tất cả đều do trung gian làm. Nhưng có một loạt hành động khá tế nhị phải đạt cho được.

Màn thứ nhất thực hiện ở Sài Gòn. Một người tin cẩn, anh Corse là trưởng văn phòng hoặc vệ sĩ chịu trách nhiệm "mua" những chuyển đổi. Nói chung anh ta cũng không ra mặt, ẩn sau những bù nhìn, những người chào hàng không có gì là Corse cả. Kíp này trước hết tìm những người càng lương thượng càng tốt, hơi ngây thơ và ít đòi hỏi. Quân nhân, nhất là những viên quản rất được ưa chuộng. Chiến thuật là không làm "khách hàng" lo lắng, không thổ lộ gì với họ, họ không được biết đang giao dịch với một băng nhóm. Người ta hấp dẫn họ với một tỷ lệ hoa hồng, cho một địa chỉ vô tư ở Pháp để gửi trả số tiền đổi được.

Nếu "người lương thiện" thông cảm ấy không thành công những kẻ dồn con mồi quan hệ với những nhân vật ít nhiều có tật nhưng cũng còn có thể đổi tiền được.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười, 2018, 09:49:49 am

Màn hai diễn ra cách Sài Gòn mười hai nghìn cây số, ở đâu đó bên Pháp. Việc thu lại tiền phrăng chuyển đổi. Người của băng nhóm nhận được tin vào giờ nào, chỗ nào, một ông sẽ giao lại một số tiền bao nhiêu. Cuộc hẹn gặp hết sức bình thường. Thông thường người kia theo địa chỉ "người trả tiền". Nếu ở quán cà phê hay một góc phố, có một dấu hiệu nhận biết nhau. Nếu công việc suôn sẻ, người Corse đếm tiền, chào rồi bỏ đi.

Nhưng cũng có thể là trò "thỏ đế". Người được chờ đợi không đến. Hoặc ấp úng với những lời giải thích mờ ám. Những người chủ ở Sài Gòn được báo cáo ngay. Rồi là việc săn đuổi người kia, việc "trừng phạt".

Vòng quay tiếp tục, đến lượt trở về. Màn kịch diễn trên những con tàu Pháp đường Marseille - Sài Gòn. Những đồng phrăng đã trở thành một hộp quý, đầy vàng và ngoại tệ. Cả một kho của phải đưa về đúng chỗ không bị bắt. Thực ra không có những mạo hiểm lớn. "Trung tâm" Corse ở Sài Gòn có những đồng loã cần thiết trong thế giới các cảng, trong vũ trụ những người đi biển. Gói hàng nhỏ trị giá hàng chục nhiều khi hàng trăm triệu được uỷ thác cho một thuỷ thủ bình thường - nhưng là một người chắc chắn, cứng rắn, có được sự im lặng của cả đoàn thủy thủ. Vả lại trên tàu có ai không biết rõ luật của băng nhóm? Chẳng người nào tố giác. Những cuộc lục soát chính thức không bao giờ phát hiện được gì. Lên bờ, người áp tải được một tỷ lệ nào đấy.

Công việc thực sự diễn ra ở Sài Gòn, khi tàu neo đậu ở bến cảng. Phải đưa hàng lên qua những cản trở của thuế quan. Nhân viên thuế quan hăng hái với triển vọng bắt được sẽ có phần. Nhưng "trung tâm" đã tiếp xúc với một số trong bọn họ, đã mua được họ. Trong số nhân viên thuế quan có nhiều người Corse thường là anh em bà con với thành viên băng nhóm, dễ thông cảm với nhau. Việc đưa "món hàng" ra vào lúc những người "bạn thân" làm nhiệm vụ.

Tất cả được bố trí hoàn hảo. Vai trò của "người đi biển" kết thúc. Một ông có tiếng tăm tốt, không có tên trong sổ đen, không quan hệ công khai với băng nhóm, đảm nhiệm tiếp. Một nhân vật loại này còn dễ tìm, nhất là khi cứ một ki-lô vàng đưa ra được nhận ba nghìn đồng bạc. Ông này lên tàu lúc năm giờ, lẫn lộn trong số đông khách hàng. Mấy phút sau ông trở xuống, vẫn kín đáo, rời khu vực cảng. Sau khi đi bộ vài trăm mét, ông lên một chiếc xe không có người lái đang chờ. Ông lái rất nhanh, nhiều vòng, dích dắc để không bị "theo rõi". Nếu không có gì khả nghi, ông nhào đến Chợ Lớn, dừng lại giữa khu Trung Hoa, gõ theo quy định vào một cửa to đóng kín. Một "người nhà Trời" mở cửa, đóng lại, quan sát kỹ vàng và đô-la. Khi "món hàng" đúng đắn, chủ nhà đưa cho ông kia những cuộn bạc lớn. Không bàn cãi, mặc cả. Giá cả đã được định trước. Việc mua bán này luôn luôn tiến hành lúc hoàng hôn, vào sáu giờ tối. Đấy là một điều bắt buộc của người Tàu vì khi trời đã tối, nhân viên thuế quan không còn có quyền vào những chỗ ở đặc biệt và khám xét.

Ra khỏi nhà người Trung Hoa, ông kia gặp một người khác lại gần ông lấy số bạc. Người này là một người Corse, của băng nhóm, đưa ngay tiền về cho những ông chủ chỉ huy vòng quay vừa kết thúc. Thấy người của mình về, những kẻ cầm đầu rất yên tâm. Trong hơn hai tiếng đồng hồ, họ nóng lòng chờ đợi, vừa uống rượu péc-nốt vừa nói chuyện.

Vì đôi khi cũng có "tai nạn". Trường hợp rõ nhất là "phi vụ chiếc đàn gió". Những ki-lô vàng được giấu trong nhạc cụ này. Để đảm bảo hơn, người "chuyển hàng" đề nghị với một anh lính mang giúp đàn lên bờ: "Tôi già quá không xuống cầu tàu được với chiếc đàn gió này, món quà cho đứa con trai sinh nhật hai mươi tuổi. Anh giúp cho được không?" Anh lính trơn nhận lời nhưng cố chơi một điệu nhạc và tất cả bị lộ ra hết.

Việc buôn lậu của người Corse không ngừng được cải tiến. Những tiếp viên trên máy bay cũng tham gia, nhưng nguy hiểm vì máy bay dễ lục lọi hơn tàu thủy. Những "món hàng lớn" luôn thực hiện qua tàu thủy nhưng có những cải tiến về kỹ thuật. Đôi khi người ta chuyển vàng lên dọc bờ biển Nam Kỳ hoặc ở cửa sông Sài Gòn qua những chiếc thuyền đưa vào. Cảnh sát vẫn luôn bất lực - chỉ nghi vấn mà không có chứng cứ. Những người Corse ở Đông Dương làm giàu đến mức mấy năm sau, khi yên ổn trở về Pháp, họ trở thành những "phú gia có hạng" ở giữa Paris và trên Bờ biển Xanh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Mười, 2018, 09:11:21 pm

Ông Franchini thành đạt

Trong tất cả những người Corse ở Sài Gòn, nổi tiếng nhất là ông Franchini. Nhưng trái với ý nghĩ của toàn nước Pháp, ông không phải vua của lãnh địa và các băng nhóm. Ông là một nhân cách Sài Gòn.

Franchini đến đây sau Thế chiến thứ nhất, làm phục vụ phòng trên tàu thủy. Rất nhanh, ông ý thức được khả năng của mình: làm vừa lòng mọi người. Thay vì làm "chàng trai không ra gì" như bao người khác, ông đi từ số không xây dựng một sự nghiệp thần kỳ, một tài sản tỷ phú, luôn luôn với cách đáng kính.

Ngay từ đầu ông đã chọn thế giới tầng lớp trên, từng bước một làm cho xã hội sang trọng của Đông Dương, kiêu ngạo và nghi ngờ: Nhà băng, sở thuế quan, Cao uỷ, nhà thờ, các hoàng thân Việt Nam và những người Trung Hoa. Bí quyết thành công của ông là gợi nên sự tin tưởng về khả năng kỳ lạ nhờ nó tất cả những người có quyền lực ở Sài Gòn đều chăc chắn. Franchini, đã vượt biển, là người của họ. Thế giới đáng kính này có thể cần "một người hoàn toàn tin cậy được" cho những hoạt động "tế nhị" nhất, hơi ngoài lề nhưng đôi khi quan trọng khác thường. Franchini là con người ấy, chuyên gia "tế nhị" trung thực, trước hết đối với các phái đoàn ngoại giao, nhà băng Đông Dương, sau đó với hoàng đế Bảo Đại và Bảy Viễn. Với ông công việc luôn đảm bảo thành công. Vì ông cũng luôn luôn theo nguyên tắc quan hệ tốt với các chính phủ, quan chức, những cảnh sát nối tiếp nhau cũng như với các băng, giáo phái, các tổ chức, các nhóm bất lương có thể có. Và điều ấy kéo dài đến phút chót, cho đến khi người Pháp bị chìm vì Ngô Đình Diệm. Thời gian ấy, ông là biểu tượng thực sự của Sài Gòn, không hề là trưởng băng nhóm.

Những buổi đầu thật khó khăn. Một ông già Corse bị phá sản vì thuốc phiện và rượu, một người bạn của Franchini, sau này phải rời Đông Dương và chết vì thất vọng trên tàu, kể chuyện với tôi:

- Franchini sống khổ sở. "Trung tâm" bỏ rơi anh ta, anh làm thư ký đưa đón khách ở miền Tây Nam Kỳ. Anh đẹp trai, may mắn thứ nhất là quyến rũ được cô con gái một ông chủ ở Mỹ Tho. Những gia đình đứng đắn Việt Nam không bao giờ cho con gái lấy người Pháp. Nhưng cô ta yêu anh, anh bắt cóc và cưới cô. Và thay vì bị giết hoặc đầu độc anh hòa giải được với bố vợ và bà con họ hàng! Từ đấy Franchini trở thành một ông chủ có ruộng, tá điền và một ít tiền. Anh ta giữ lại khi vợ chết.

May mắn thứ hai của Franchini là khách sạn Continental. Khách sạn được rao bán, không ai mua. Nó là một ngôi nhà tàn tạ, luôn lỗ vốn: thời kỳ ấy ở Sài Gòn rất ít khách! Franchini đứng lên mua. Anh thuyết phục các phái đoàn nước ngoài cho mượn tiền. Là chủ khách sạn, anh nắm đằng đuôi. Có những ngày thậm chí anh không có một ít tiền trả cho những người cung ứng, cửa hàng thịt và người bán rau. Khi không có gì cho khách ăn uống, anh báo động với các bạn, rên rỉ sẽ tự sát. Thế là bạn bè cầm mũ quyên góp cho anh. Với cách đó, khách sạn kéo dài đến thời kỳ chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Mười, 2018, 09:12:47 pm

Và bây giờ, năm 1950, Franchini tổ chức mừng tỷ bạc đầu tiên của mình trong một bữa nhậu nhẹt rất lớn với các bạn Corse. Nhưng số tiền ấy ở đâu ra? Franchini không ngớt giải thích của cải của mình là của một "người chủ khách sạn". Đúng là các "sự kiện" đã tạo cho Continental khổ sở một việc thần kỳ, đưa lại lãi ròng một triệu đồng bạc mỗi tháng. Thực vậy dù bẩn thỉu và cũ kỹ, với dư vị của chủ nghĩa thực dân, có thể đấy là khách sạn đắt nhất thế giới. Nhưng đây là chỗ tới của những người Pháp của cuộc chiến tranh Đông Dương, một thể chế và Franchini cũng là một thể chế trong lòng chế độ ấy.

Các phòng đầy ắp người. Để có một phòng phải được chiếu cố, phải quan hệ tốt với Franchini. Khai vị buộc phải tiến hành trên nền thềm Continental, thậm chí trên hè đường Catinat. cả Đông Dương lạ lùng và hỗn tạp nhiều màu sắc thời kỳ ấy, nói chung chia rẽ vì những nơi ngăn cách chặt chẽ, lẫn lộn tất cả ở đây. Có thể giới quân sự của tiểu liên và của bàn giấy tham mưu, mọi lớp người của đồng bạc, tất cả các ông "có ria mép" và cũng có các ông viên chức. Mỗi ngày của cuộc chiến tranh trút ra ở đây mọi điều bí mật, giết chóc, những vụ bê bối kìm nén, đầu cơ, kế hoạch hành động với những câu chuyện khác thường. Sĩ quan đi xe jeep đến kể về cái chết của anh bạn; sĩ quan ra từ phòng ở ban tham mưu đầy ắp dự án của các vị tướng. Những nhà kinh doanh thì thầm với nhau, các bà vợ trưng bày trang sức và vai trần; những kẻ phiêu lưu nói về ước mơ; các nhà báo luôn luôn đấu tranh với kiểm duyệt, chuẩn bị một kháng nghị chính thức; nhân viên về công việc bí mật - những ông ria mép - nói chuyện nhiều: họ rất huyên thuyên! Mọi người đàn ông đều mặc áo sơ mi, tay áo cuốn lên, mồ hôi toát ra. Chỗ này chỗ kia một thanh tra cảnh sát mặc dân sự, ngồi lắng nghe, hiền lành. Ai cũng biết rõ họ. Hình như những người bồi Việt Nam cũng lắng nghe, cho Việt Minh hoặc sở Mật thám, chắc là cho cả hai. Điều đó không quan trọng. Uống xong người ta qua bàn ăn, trong phòng ăn rộng lầy nhầy, dưới những cánh quạt lớn với tiếng ồn của máy móc. Thực đơn thật dồi dào. Tuy tên các thức ăn rất ngon lành, người ta cũng chẳng nhận ra những gì trên đĩa. Có ai quan tâm đến điều ấy? Buổi trưa người ta vừa ăn vừa ngủ trong không khí oi bức. Ai cũng ngủ gà ngủ gật. Riêng những quản lý khách sạn tỉnh táo, nằm dài trên gạch lát nền.

Khách sạn Cotinental là một chiếc máy "làm ra tiền bạc”. Franchini theo rõi, thu thập đến tận cùng. Tuy vậy tiền của khách sạn không đủ để giải thích bí mật này: làm sao một người nghèo đến thế năm 1940, chỉ mấy năm sau rất giàu, như lăn trên vàng? Mọi việc xảy ra như mỗi ngày hàng triệu đồng bạc "làm việc" cho ông trên lễ đường của những vòng quay lớn. Đấy có phải là việc "buôn lậu" không?

Việc Franchini làm không bao giờ để lại một dấu vết gì, không thể có. Ông phối hợp với những người không sờ đến được, không nghi ngờ được. Ông thực hiện "sự hợp pháp" trong mục ruỗng. Ông bỏ vốn vào nhà băng để kinh doanh những việc lớn lãi nhiều, cố vấn của Bảo Đại và cả triều đình, ông khai thác Đông Dương cùng với họ. Là chuyên viên tài chính của Bảy Viễn và Bình Xuyên, ông tham gia hùn vốn với băng nhóm này. Nhưng tất cả những cái đó là "đồng bạc lương thiện", "đồng bạc của những người giàu”.

Franchini có đi xa hơn không, có phải "ông chủ lớn" không tên, mưu sĩ của những băng nhóm Corse về đồng bạc? Chẳng ai biết. Bề ngoài thì chắc chắn không phải. Xem ra ông không phải một kẻ buôn lậu, ông chủ bí mật, người chỉ huy một "tổ chức bí mật chống đối". Ngược lại ông ca ngợi chính quyền đã có những gì là chính thức! Ông rất ghét những "người" ngoài vòng pháp luật! Ông không ngừng nói đi nói lại: "Tôi không ăn loại bánh đó". Hình như ông sợ "trung tâm". Những "tay cứng rắn", nhất là lớp trẻ tống tiền ông.

Rõ ràng cuộc đời của Franchini là một cuộc đấu tranh hướng tới đến vinh dự và sự kính trọng quý tộc. Nhưng sự kinh hoàng của ông về "trung tâm" phải chăng là dàn dựng? Tư cách đáng tôn kính của ông phải chăng trước hết là "vỏ bọc"? Không ai có thể trả lời. Đây lại là một bí mật nữa của Sài Gòn.

Theo tôi, Franchini là tất cả, chỉ không là kẻ giết người. Trước hết ông là "người bỏ vốn". Ông đưa tiền vào tất cả các hoạt động đồng bạc, vào mọi vòng quay. Ông "buôn lậu" một cách lương thiện. Nếu ông "buôn lậu" bất lương với các băng nhóm thì nó được che chắn rất kỹ, không hề bị "đốt cháy" giữa Sài Gòn, vẫn quan hệ tốt nhất với nhà băng và thương mại lớp trên, những khách hàng chính của ông. Franchini là Sài Gòn của đồng bạc trong tầm vóc lớn, tư cách và tính cao cả giả tạo.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Mười, 2018, 09:13:54 pm

Đến năm 1950 Franchini đạt tới đỉnh cao của quyền lực. Đây là một người to lớn đã đứng tuổi, đường bệ, khuôn mặt hồng hào, sùi đỏ, đôi mắt lồi hơi ngơ ngác, giọng nói vang. Một con người lo ngại luôn luôn suy nghĩ. Để trấn tĩnh mỗi ngày ông hút thuốc phiện sau bữa ăn sáng, vừa phải, trong phòng mình, một nơi ẩn dật đầu hành lang.

Năm giờ rưỡi, hút đã đủ liều, Franchini rời nơi ẩn, trịnh trọng bước vào vương quốc Continental của mình. Đã thành tục lệ. Bỗng chốc ông như trẻ lại, trở thành ông chủ sung sức, hơi già dặn, rất quý phái trong bộ comple và cà vạt.

Bi hài kịch bắt đầu với một nhà báo của Bordeaux tố cáo trên các bào báo "Franchini kẻ buôn lậu". Người trẻ nhất xuất sắc nhất trong các phóng viên Pháp đến Sài Gòn, Armorin muốn đánh một đòn lớn. Ở khách sạn Continental, anh lại gần chiếc bàn Franchini đang bình lặng, ngự giữa triều đình của mình. Không chào hỏi, anh lớn tiếng trước cả Sài Gòn, hỏi Franchini, như ông này là kẻ thiếu thật thà hạng bét, đổi đô-la của anh với tỷ lệ hối đoái bao nhiêu. Franchini tê liệt vì hoảng hồn trước kẻ lạ mặt này, cuối cùng la lên phản bác. Armorin cố nài: "Ông đổi bạc chợ đen, tôi biết". Thế là thong thả, nặng nề, Franchini đứng dậy và từ cả tầm cao của mình, quát một tiếng "ông..." trong cơn thịnh nộ. Tất cả những "người bạn" cùng đứng lên một lần với "Mathieu". Hăng nhất là một người Corse tên đáng sợ, mặt đáng sợ: một nhân viên bưu điện nghỉ ốm, nhỏ người và ho lao giai đoạn cuối, đứng không vững nữa. Nhưng với tình cảm mãnh liệt dành cho Franchini, anh không nén được, tát mạnh vào mặt tên nhà báo "bôi nhọ" Mathieu. Armorin bỏ chạy, nghĩ rằng mình bị những "kẻ giết người" bao vây. Người ta giải thích anh đã nhầm về "những tay ám sát", những cặn bã vô hại của thuộc địa là "băng rượu hồi" của Franchini.

Lẫn lộn tất cả. Armorin sống như một kẻ bị săn đuổi, dưới sự bảo vệ của những lính lê dương anh biết. Anh viết cho tờ báo của anh rằng nếu anh gặp tai họa thì đó là một tội ác của Franchini. Mấy tuần lễ sau anh gặp tai họa thật. Anh đi Calcutta, từ đó đi Paris bằng một chuyến bay của Hàng không Pháp. Chiếc máy bay bị nạn ở Bahrein. Armorin chết. Khi đưa về Paris anh chỉ còn là một xác người, đúng lúc tòa báo nhận được bức thư anh gửi trong đó nói: "Franchini cho người ám sát tôi". Toà báo tin vào bức thư người chết, tố cáo Franchini đã cho tiêu huỷ máy bay để loại bỏ Armorin và những tài liệu anh mang theo.

Bi kịch này xảy ra khi Franchini trở thành một trong ba tên tuổi lớn được ghi nhận trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Sau này có de Lattre chết, có những người lính dù vô danh của Điện Biên Phủ. Nhưng Franchini, qua nhiều năm, vẫn là "kể thô bỉ" ghê gớm và quái đản của cuộc "chiến tranh bẩn thỉu".

Armorin không hoàn toàn nhầm. Con người thực của Franchini không ở tầm cỡ anh nghĩ. Thực tế hàng ngày ông ta có ý nghĩa hơn. Ông Franchini gan dạ, bạn bè gọi là Mathieu, tổng hợp vào mình cả Sài Gòn, tất cả Sài Gòn có thể có trong thời kỳ đồng bạc Đông Dương.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Mười, 2018, 09:15:36 pm

Liên minh nhà trời của đồng bạc

Còn hơn liên minh những người Corse, liên minh Hoa kiều ở Sài Gòn rất mạnh. Chính từ xa họ làm những vụ buôn lậu lớn nhất. Không một người da trắng nào biết việc xảy ra thực sự ra sao. Tất cả là phi vật chất, chỉ đơn thuần tính toán, việc đầu cơ không để lại dấu vết.

Trong những năm ấy, những nhà băng lớn Trung Hoa được thiết lập ở Sài Gòn. Không phải những cơ quan chính thức gắn liền với Chính phủ Trung Hoa. Đây là những nhà băng của các "hội kín", của nền tài chính Á Châu, không tổ quốc, không biên giới. Ở Singapore họ chơi với cao su, ở Hồng Kông là buôn lậu, ở Sài Gòn họ đến để lợi dụng đồng bạc Đông Dương. Họ có những phương tiện khổng lồ và tính chuyên môn khác thường. Bên cạnh họ, những tỷ phú "nhà trời" ở địa phương chỉ là những cậu bé.

Người ta không biết gì về những nhà băng ấy, không sờ thấy, không nắm bắt được. Chỉ có tên và là tên giả. Hoạt động của họ bí mật. Mọi mệnh lệnh được truyền từ những đài vô danh. Luật lệ làm bằng những bù đắp, những động tác phức tạp về hàng hóa. Ngân phiếu không ai biết. Thế mà họ hoạt động sôi nổi với những phương pháp Á Châu bí mật, rất phù hợp với những bộ máy tài chính hiện đại nhất, phức tạp nhất của phương Tây.

Nguy hiểm nhất là những nhà băng ấy gối vào những tổ chức rộng hơn, vô danh hơn nữa. Trừ một vài trường hợp rất hiếm hoi, người ta không bao giờ biết những người chỉ huy thực sự là ai. Thế nhưng những "ông chủ" bí mật - hoàn toàn đứng ngoài các chính phủ và luật lệ - là những chủ thực sự của đồng tiền ở Viễn Đông. Người ta cũng không biết những chi nhánh của họ dàn trải đến đâu. Trên toàn Châu Á, họ có những hệ thống bà con, hội viên, chỉ điểm, thông tin, giết người, dồn mồi, dụ dỗ. Mọi phương tiện đều tốt, chỉ cần một quy ước để thủ tiêu một người cách nhiều nghìn cây số. Nhưng những tư sản Trung Hoa, những người vô danh này ở Châu Á, thích tha hóa, thuyết phục hơn giết người. Họ nghĩ thỏa thuận được với nhau sẽ kiếm được nhiều tiền hơn là cắt cổ nhau.

Ở Sài Gòn người ta chỉ biết đấy là "tổ chức của người Ma Cao”, mới nhất và đáng sợ nhất ở Viễn Đông, chuyên nghiệp về cờ bạc và đổi tiền, cơ sở xuất phát từ Ma Cao thuộc địa nhỏ bé của Bồ Đào Nha đầy chuông, tường tu viện và nhà chứa. Ở đây trị vì tối cao nền văn minh Cơ đốc giáo. Từ bốn thế kỷ nay khu vực này dần dần tạo thành một giống nòi đặc biệt, người Ma Cao, lai 5% dòng máu Bồ Đào Nha và 95% máu Trung Hoa - một tỷ lệ rất tốt về tính phiêu lưu và buôn lậu. Xưa kia đây là “địa ngục cờ bạc” phụ thuộc vào một số băng nhóm và trưởng băng nhóm, những băng này của những "kẻ giết người", những băng khác của các chủ nhà băng, các tỷ phú, những đại gia Trung Hoa. Khi địa ngục tự dập tắt, tất cả những ông ấy, vẫn luôn chung sức với nhau, trở thành những ông vua vàng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Mười, 2018, 09:16:22 pm

Từ năm 1945 đến 1950, Ma Cao là bàn xoay thế giới về buôn lậu vàng. Không có sân bay. Những thủy phi cơ đặc biệt mang những thỏi vàng sau đó biến mất trong chiều sâu của nước Trung Hoa bên cạnh đang chiến tranh nội bộ khốc liệt: Nhà băng Đông Dương có một chiếc. Lợi nhuận thật khổng lồ. Việc làm đó có sự đồng loã của các chính quyền, gần như hợp pháp. Một người nhỏ con xấu xí, một người lai, lai hơn những người Ma Cao khác, lẫn lộn mọi dòng máu của Châu Á, một ông Lobo nào đó, sinh tại Timor, nắm các cơ quan kinh tế của Ma Cao, tổ chức một vụ tống tiền đồ sộ. Chính thức, nhân danh viên chức Bồ Đào Nha, ông ta bán giấy phép nhập khẩu vàng với biểu thức không tưởng tượng được. Khi kim loại quý đã vào trăm cây số, con đường của vàng, con đường vua chúa của phi vụ buôn lậu lớn, nối Ma Cao đến Quảng Đông, dưới sự bảo trợ "được trả tiền" của một ông chúa chiến tranh.

Nhưng sau cờ bạc, vàng ở Ma Cao cũng cạn kiệt, vào năm 1948. Những người Ma Cao, vẫn tập hợp trong một tổ chức không lay chuyển, đặt trung tâm chỉ huy ở bên kia, trong thủ đô tiền bạc của Châu Á, ở Hồng Kông. Tại đây, bố trí những thông tín viên trên toàn cầu, họ bắt đầu mai phục những "cơ hội" lớn. Sài Gòn, họ thấy có thể là một.

Những người Ma Cao bắt đầu bằng "tưới tiền" kín đáo, bí mật, không đòi hỏi bù đắp, không phân biệt vào tất cả các chính quyền có thể mua được, tất cả những đội tiểu liên: một sự phân phối chưa bao giờ được biết ở Đông Dương vốn là xứ sở cổ điển về tiền hoa hồng. Sau đó họ kết thân với những người môi giới thống trị tại chỗ. Đặc biệt hợp tác với kẻ môi giới lớn nhất của nhà băng Châu Âu chuyên cho họ sử dụng đội quân dồn mồi và do thám. Trong mấy tuần lễ họ quan hệ với Chính phủ Việt Nam, với các phái viên Việt Nam, đại diện các giáo phái, những tên ma cô Corse, cảnh sát, luật sư, những người Pháp đầy kinh nghiệm từ Thượng Hải đến. Họ liên lạc chặt chẽ với Nhà băng và Sở thuế quan của "đồng bạc lương thiện" cũng như với mọi loại gian giảo và quán bar. Chắc hẳn họ cũng tiếp xúc với Franchini có quyền lợi ở Đại thế giới - không phải trong cờ bạc mà trong vũ trường của ngôi nhà này.

Chiến thắng đầu tiên của những người Ma Cao là việc ký hợp đồng thầu Đại thế giới nhờ lòng khoan dung của thủ tướng Hữu và các quan chức Việt Nam. Đây là một cú quyết định vì nếu Ma Cao không còn là địa ngục cờ bạc thì Sài Gòn đã trở thành như thế.

Đồng thời họ thành lập tuần tự một "đường dây đồng bạc" trên địa cầu. Đấy là cách buôn lậu khoa học, buôn lậu ma. Người ta chỉ biết họ phải có những chuyển đổi ở Paris. Khi trở lại, tất cả biến mất trong vòng quay trừu tượng. Ngoại tệ, vàng không mang theo thực chất. Những đồng phrăng rút ở Pháp đổi liên tiếp ở các quỹ và các chợ lớn trên thế giới, ở Thụy Sĩ, Hoa Kỳ, Hồng Kông, Singapore với các loại tiền và hàng hóa rất khác nhau. Mọi mệnh lệnh đều được truyền đi bằng điện tín số. Hàng loạt bán, mua, hạn định đổ về Sài Gòn. Việc bù đắp cuối cùng cho ra những đồng bạc. Vòng quay trọn vẹn từ Sài Gòn trở về qua Paris và toàn cầu kéo dài tám ngày. Vòng quay của người Corse phải mất hai tháng và vất vả, nguy hiểm hơn, ít có lãi hơn nhiều. Trong việc buôn bán này, những người Ma Cao không bao giờ lộ mặt. Họ ở trong bóng tối, không ai biết, khó xác định. Hiện tượng cụ thể duy nhất là những người Trung Hoa trẻ, hiện đại, lịch sự, rất Phương Tây, đến tại các điểm chiến lược của vòng quay, bắt đầu từ Paris. Họ đăng ký là sinh viên các trường đại học. Cảnh sát có thể quở trách gì họ?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Mười, 2018, 09:16:50 pm

Không bao giờ có dấu vết. Nhờ những phòng vệ tỉ mỉ, kỹ xảo khác thường, đường dây buôn lậu của những người Ma Cao tiếp tục trong nhiều năm, không một sai sót, tai nạn. "Hệ thống" đã nắm vững đến mức không một bất ngờ nào xảy ra. Các nhà chức trách Pháp, lo lắng về những tinh tế không len vào được ấy và tự hỏi bên dưới đó có bàn tay của Việt Minh hoặc một tổ chức nước ngoài nào không đã giăng bẫy để lột mặt nạ và đuổi ra khỏi nước những "ông chủ” Ma Cao một cách vô ích.

Những gì cảnh sát biết được là ban tham mưu Ma Cao ở Sài Gòn họp mỗi tuần một lần ở khách sạn Lớn ở Chợ Lớn - một trong những ngôi nhà Trung Hoa nổi tiếng vì làm mọi việc, đủ mọi thú vui và mọi phi vụ buôn bán. Nhưng khi "cảnh sát" đến, họ chỉ thấy những người nhà trời đáng kính đang tiệc tùng, nhắm món vây cá mập.

Tuy vậy có một ông chủ Ma Cao người ta có biết một ít. Một ông Trung Hoa kiểu cổ, khoảng năm mươi tuổi, mặc áo dài, người béo tròn, vui như chim thanh tước và chỉ nói tiếng Quảng Đông. Ông tôn thờ phong tục cũ và lễ nghi theo lối xa xưa.

Tôi biết nhân vật già cỗi, bề ngoài lịch thiệp đến thế là một người kinh doanh hiện đại khác thường. Ông cũng rất nghiêm khắc. Đôi khi dừng lại giữa lúc đang chúc mừng một vị khách, ông kêu lên giận dữ, cách nhận xét các trợ lý của ông, những thanh niên Trung Hoa tuấn tú ăn mặc theo mốt mới nhất của Châu Âu và biết hết mọi tinh tế của ngôn ngữ Anh. Nguôi giận, ông già phúc hậu quay lại với các ông da trắng dự tiệc, tiếp tục những lời ca ngợi đúng chỗ ông đã dừng, cũng với sự độ lượng như thế.

Thái độ thân thiện ấy có một ý nghĩa cụ thể, cực kỳ ích kỷ. Bữa tiệc là một thủ tục, lễ nghi, là một hợp đồng về đồng bạc. Những người Trung Hoa không có tình cảm tốt đẹp, chi có quyền lợi. Vì vậy ông Wu sau nhiều nghi lễ nhã nhặn, nói thẳng với khách mời: "Tôi tiếp các ông như thành viên danh dự của tổ chức bí mật thấp kém của chúng tôi. Nhưng từ nay các ông phải theo luật lệ của chúng tôi. Nếu vi phạm là tai họa đấy". Dĩ nhiên không ai dám không vâng lời ông Wu đáng sợ.

Cảnh sát Pháp tìm thấy ông ta trong chiều sâu ở hầu hết các vụ buôn lậu nhưng không bao giờ có bóng một chứng cứ. Vả lại gốc gác của ông ta không rõ ràng. Hơn nữa phải chăng ông ta thực sự là trùm các hệ thống Ma Cao của đồng bạc? Có lẽ chỉ là một vai phụ, "ông chủ" thực ở Sài Gòn hoàn toàn không ai biết và nghi ngờ được. Một thanh tra già, người cũ của Thượng Hải "nhượng địa" Pháp khẳng định với tôi quan tâm đến những chi tiết ấy rất vô ích. Vì tò mò loại ấy nguy hiểm và chắc chắn mất công - công việc tài chính của những người Trung Hoa không thăm dò được.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Mười, 2018, 10:44:37 pm

Những thú vui nhà trời ở Chợ Lớn

Những người Ma Cao xảo quyệt và tàn nhẫn đến thế vẫn bị một thất bại ghê gớm. Họ mất khu Đại thế giới. Bình Xuyên đã giành giật của họ sau một cuộc chiến vô danh. Và việc đánh nhau giữa các băng nhóm ấy về sau để lại những hậu quả không tính nổi cho Đông Dương. Vì đấy là chiến thắng của Bảy Viễn, là cơ sở chính thức của băng nhóm bất lương với sự đồng tình của Hoàng đế Bảo Đại. Cuối cùng một tên cướp trở thành cảnh sát trưởng Sài Gòn; băng của hắn sẽ là Sở Cảnh sát.

Chưa đến lúc đó. Năm 1948 còn là cuộc đấu bí mật giữa những người Ma Cao và Bình Xuyên. Chiến trường là Chợ Lớn. Trong Chợ Lớn vật cá cược là khu Đại thế giới nổi tiếng.

Chợ Lớn đúng là thành phố "Nhà trời" với mọi truyền thống cũ. Đây là một câu lạc bộ bao la, đóng kín với 800.000 cư dân sống theo lối khôn khéo theo quan niệm cũ của thế giới người Trung Hoa. Mục đích duy nhất của tồn tại là sự hưởng thụ. Vậy phải kiếm tiền bằng mọi giá để vui chơi và có cuộc sống tuyệt vời. Lý tưởng là dễ dàng có tiền bằng đầu cơ tàn bạo và mọi hình thức bóc lột. Những người thông minh có nhiệm vụ đè bẹp khối dân chúng để lao vào những thú vui tinh tế. Không một thể hiện thương xót. Đồng bạc khoái lạc và nghèo khổ gắn chặt vào nhau. Hàng trăm nghìn người phải làm việc nặng nhọc, bệnh tật và chết để vài nghìn "đại gia" đắm mình vào nền văn mình những trò tế nhị, tiệc tùng liên tiếp, thuốc phiện, cờ bạc, vào mọi dạng có thể có của tính cách khiêu dâm dựa vào những "thức ăn bổ dưỡng".

Phép lạ của nước Trung Hoa là sự tàn ác ấy không làm suy nhược mà tạo ra một sức sống khác thường. Không có những vị trí chực sẵn. Mỗi ngày đối với từng người là cuộc đấu tranh vì cái sống và cái chết. Tất cả là nghị lực để tranh thủ, sống sót, thoát khỏi. Chợ Lớn vậy là một đấu trường, việc gì cũng có thể có. Nhưng cũng là trật tự bên ngoài vì cuộc đấu hàng ngày có những luật lệ cụ thể, cả một hệ quy tắc bí mật.

Ban ngày thành phố như đang ngủ. Chỉ là một cảnh trí nghèo nàn, sử dụng kém, những kho tạm, đất trống, tường lở lói, nhà cửa đóng khóa. Chỉ gạo là sôi động, mỗi ngày đến hàng nghìn tấn trên thuyền, đò, dọc theo kênh rạch. Ở các tỉnh, những Hoa kiều bình thường - những người bà con nghèo, những người dồn hàng, những kẻ cho dân quê vay lãi - chiếm lấy gạo; và như không có chiến tranh, họ đưa về cho những ông chủ, những người "Nhà trời" ở Chợ Lớn.

Chợ Lớn vậy là nhà kho, xưởng máy, túi tiền của lúa gạo. Cả ngày, những tỷ phú, những người chủ của việc buôn bán, gà gật sau những song sắt dày, xây dựng mưu kế về những phi vụ trong đầu óc không mệt mỏi của họ. Ở đầu giường ngọn đèn nhỏ của bàn thuốc phiện không lúc nào tắt. Trong suốt thời gian ấy một đám người vất vả bốc dỡ, xay xát giần sàng. Không có máy móc. Rẻ nhất là con người, bắp thịt, sự tiêu hao của họ.

Vào buổi chiều, thành phố như chết. Nhưng cách xa đó, trên bờ kênh rạch lúc nhúc một đám người khổ sở. Trong khu phố này nước và đất gần như không phân biệt, cả hai đều là bùn cả một số đông người cố sống trong những chiếc thuyền buộc kề nhau giữa những hôi thối và rác bẩn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Mười, 2018, 10:46:28 pm

Thỉnh thoảng một chiếc thuyền đẹp và to chở đầy khoang, ánh lên những buồm và ròng rọc, rẽ khối người và vật vào đậu ở một đầu bến. Lúc ấy những con vật mang vác là người đi lại không dứt. Những người cu-li trần trụi, gầy gò vác lên lưng những bao hàng trăm ki-lô từ mạn thuyền lên. Họ là những người lâu đời của người Trung Hoa, oằn người dưới những khối nặng nhưng vẫn vác. Cả một kỹ thuật. Tất cả đều cùng có một cách bốc hàng loạng choạng đưa lên vai, lao về phía trước với những hầm hè ngắt đoạn để người qua lại tránh đường và đi theo đà. Họ bước nhún nhảy để giữ vững trọng lượng đang muốn đổ lật xuống. Điệu vũ ấy kéo dài mười, mười hai giờ liền. Có cả cu-li đàn bà, trẻ con. Những người cai, một số trang bị súng ngắn, hét lên và đánh đập. Không ai ngã xuống.

Tuy vậy, trong vất vả của ban ngày, lúa gạo tập trung lại ở Chợ Lớn. Gạo đưa lại cuộc sống cho thành phố, mua bán lan rộng, chảy đi bằng hàng nghìn cách, trở thành nguyên liệu cho việc buôn lậu để người ta tìm được tất cả - đồng bạc, ngoại tệ, vũ khí. Gạo sinh ra óc hám lợi khác thường của người Trung Hoa, nghệ thuật kiếm lời tuyệt đối mà họ sẽ mất phẩm giá nếu tự tay mình làm.

Những đại gia Trung Hoa thức dậy vào sáu giờ chiều. Cả ngày họ đã biến người ta thành những cu-li chết sớm luôn được thay thế bằng những người khác. Nhưng nhất vào buổi tối họ mới chiến thắng, khi cả toàn dân chúng phục vụ cho thói dâm đãng của họ, khi toàn bộ Chợ Lớn chỉ còn là đĩ điếm.

Hoàng hôn xuống các đại gia Trung Hoa mới đi ra. Ông ta rời bà vợ số một, những bà vợ lẽ, đàn con cái rất đông, vô số bà con và đầy tớ. Ông để gia đình đông đúc ấy trong một ngôi nhà gần như pháo đài, được bảo vệ ghê gớm chống thế giới bên ngoài và những mối nguy hiểm. Ông ta một mình, với khuôn mặt to béo "nhà trời", gần như ẩn danh, bắt đầu ngày thực sự, cuộc sống thực sự của ông. Ông đi vào chợ thương mại và vui chơi. Cả Chợ Lớn là cái chợ ấy.

Bỗng chốc thành phố thay đổi hẳn bộ mặt, đầy ắp cường độ Trung Hoa - không có gì trên đời sánh được. Đấy là một khoa học kích thích bằng mọi cách, tiếng ồn, ánh sáng, đám đông lúc nhúc. Tất cả đều được định giá, mời chào, mua được, đồng thời vẫn bí ẩn. Một bóng đèn ống chói chang, những chữ Hán khổng lồ phình to qua ánh điện màu làm nổi lên trong đêm, trên những con đường nhỏ, một nhân loại bao la, vừa quyết liệt vừa vô cảm, chảy đi bằng mọi kiểu xe cộ, đi bộ, xích lô, xe con Mỹ, nhưng không bao giờ cạn. Chợ Lớn của ánh sáng chói chang và bóng tối tàn nhẫn và dâm đãng đập vào mặt; tuy thế vẫn bí mật và đáng lo ngại.

Điều người ta thấy, trước hết là đông người. Không phải đám đông bình thường mà là đối tượng bán và mua. Tất cả như những đôi bít tất sặc sỡ quá đáng, những thùng gạo, những chất kích dục từ sừng tê giác đến gan hổ; người ta mua bán những nụ cười, tiếng hát, lễ nghi, danh tiếng, những cậu bé, những trinh tiết, cuộc sống, giết người, bắt cóc. Không có đạo đức và phi đạo đức, không có gì nhắc nhở đến tội lỗi - một khái niệm không có nghĩa. Chỉ là thỏa mãn những cần thiết, dù không bình thường đến mấy, và như vậy thì phải trả, được trả tiền; thương lượng, mặc cả.

Tất cả được dâng hiến, nhưng tất cả được dấu kín. Những gì người ta thấy là cô gái đẹp, son phấn, kiêu kỳ và cứng rắn trong chiếc áo dài lụa, xuống xe xích lô để biến mất sau một cánh cổng. Cô đến với những người khách đáng kính mà cô hạ cố nhận lời mời. Vì luôn luôn, cô quan tâm đến thể diện, sự kiêu hãnh và đẳng cấp của mình. Xã hội mua bán Trung Hoa này thực ra, dù trong say đắm, cũng có những luật lệ phức tạp, cả một mớ lễ nghi và lịch sự, cả một nghệ thuật, tiến tới, một loạt công việc thêm vào sự khoái lạc. Và tất cả được làm giữa những người "am hiểu" nhau.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Mười, 2018, 10:47:53 pm

Trên đường phố, người Trung Hoa chỉ phơi bày thói phàm ăn. Cái bụng là vua. Ở Chợ Lớn không có đói kém, ngược lại. Cả thành phố cho đến trên hè đường chỉ bày bán thức ăn với kỹ thuật nấu nướng vô bờ. Xung quanh hàng nghìn người bán cơm cháo, vô số người ngồi xổm dùng đũa đưa cơm cháo vào miệng liên tục. Biểu tượng của thức ăn ngon rẻ là anh hàng thịt nhà trời, vô cùng tươi vui, bụng ba ngấn lòng thòng trên núm rốn khó coi. Anh khoe khoang những mảnh mỡ hồng, thịt vịt thái mỏng như giấy, những con lợn tô màu giống những vật thần thánh hóa man rợ.

Mọi thú vui khác được thưởng thức sau những bức tường có những anh gác cổng dữ tợn bố phòng. Đêm xuống tất cả những người Trung Hoa tai mắt tập họp thành nhóm nhỏ, bạn bè, trong hàng nghìn hội kín tiến hành "cuộc sống vui vẻ". Lúc ấy người ta làm mọi việc, quyết định mọi việc.

Nơi tập trung thường ở "khách sạn Trung Hoa", một cơ sở rộng rãi. Trên một đường phố cách xa và nghèo, người ta chui qua một loại lỗ qua tường, vào một gian phòng bẩn thỉu, trống không chỉ có đèn ống, những tấm gương soi và ông nhổ. Một người Trung Hoa mặc áo may-ô cao đạo xác định giá trị những người đi vào. Đối với những người lạ, thái độ lơ là thể hiện cách từ chối tuyệt đối. Với những người có quyền, anh ta khúm núm, cúi xuống và chỉ chiếc cầu thang gỗ trắng, dẫn lên những tầng trên luôn luôn có những tiếng xầm xì bí mật. Khách sạn là một nhà máy hoạt động hầu như không ngừng, suốt đêm và phần lớn trong ngày, chỉ vài giờ tạm yên vào sáng sớm và đầu buổi chiều. Đây là một chiếc hộp lớn ngăn thành từng xô đặt cạnh nhau hoặc xếp chồng lên nhau. Có một điều lạ: trong từng ô ấy, khách có thể thỏa mãn mọi ý muốn. Không có gì không thể; chỉ cần yêu cầu và không bao giờ có ai đến quấy rầy.

"Việc buôn bán" kéo theo mọi thú vui Nhà trời. Trước hết là người ta ăn hàng nhiều giờ liền. Phải có những thức ăn hiếm, rất ngon, mỗi miếng ăn giá hàng trăm ngày công của cu-li. Và để ăn thêm ngon miệng, lần lượt phải có những cảnh tinh tế thơ ca hoặc ái tình. Với các thú vui, những đại gia "Trung Hoa" có cả một hệ thống người chuyên nghiệp, một đám đông phụ nữ với công việc cụ thể - những người xoa bóp múa hát, bông hoa nhỏ, gái đĩ hạng sang, vũ nữ.

Những "bông hoa nhỏ" phải biết chiều lòng bằng mọi cách. Trước hết làm say mê khách bằng câu chuyện chọn lọc và bác học, đầy lời lẽ văn chương và điển tích. Sự thông minh nâng giá trị các cô gái. Nhưng vừa nói, rủ rỉ, đùa vui vừa phục vụ. Họ tiếp các ông khách no nê, đưa những thức ăn chọn lọc kỹ lên miệng khách. Họ chuẩn bị những liều thuốc phiện cho các ông nằm dài trên ván. Họ im lặng, hiền dịu và chăm chú khi các đại gia lao suốt đêm vào bài bạc. Chính trong cờ bạc người ta có thể thấy đầy đủ lý trí của người Trung Hoa, sự tập trung lạnh lùng, cao độ, không lay chuyển được. Những người chơi bài Âu Châu dễ xúc động, không là gì bên cạnh những người to béo bất động, vô cảm này mà trí óc hoạt động như một cỗ máy điện tử, để chiến thắng những trí óc khác cũng căng thẳng không kém. Trong không khí độc ác ấy các "bông hoa nhỏ" là những người hồ kỳ, bàn tay quý giá của họ thay thế bồ cào, và đếm những tập tiền đồ sộ mà các cô bĩu môi trên cao đạo. Vì "thể diện" đòi hỏi vừa làm rất đẹp nghề nghiệp mình, các cô phải luôn luôn đứng trên tất cả tách rời ra. Thực tế các cô cũng bị cuốn rũ bởi những người đàn ông này, bởi cuộc chiến say mê của họ, bởi những đống giấy bạc ấy. Tiền, cuộc đấu tranh không khoan nhượng vì đồng tiền là điều mọi người phụ nữ Trung Hoa đều hiểu, là điều họ yêu thích thực sự.

Những "bông hoa nhỏ" làm tình nếu đại gia Trung Hoa muốn. Khi những tiếng hát, nhảy múa, những đĩa thức ăn bổ dưỡng đốt lên dục vọng của các ông ấy, điều hợp lý là các cô làm dịu bớt đi: không có gì là không được thỏa mãn. Nhưng những người thực sự đúng mức chỉ đòi hỏi nghệ thuật vui chơi, không phải xác thịt họ. Đến lúc thích khoái lạc, họ đi tìm những cô gái khác, những gái đĩ hạng sang thông thạo mọi kỹ thuật dâm đãng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Mười, 2018, 10:50:09 pm

Cả lớp người ấy, những bông hoa nhỏ, ca sĩ, gái đĩ, đoàn người truyền thống của nước Trung Hoa cũ ấy nói chung không phải sở hữu của "khách sạn Trung Hoa". Họ gọi từ ngoài đến theo yêu cầu. Mỗi cô gái thuộc về một bà già, "mẹ đỡ đầu", "người bảo trợ" mua của bố mẹ cô từ bé, những người cu-li, với khoảng một trăm đồng bạc. Người đàn bà đẫy đà, hách dịch kia chi phí khá nhiều để nuôi dạy cô cẩn thận. Bà lấy lại phần lớn vốn khi cô bé đã mười tuổi, bán trinh tiết cho một ông nhà giàu - giá rất cao, từ mười đến mười lăm nghìn đồng. Đây là một khoản được yêu cầu nhiều vì những người Trung Hoa già tưởng rằng việc phá trinh đưa lại cho mình một tác dụng chữa bệnh, làm trẻ lại và tăng sức lực. Khi cô bé mười ba tuổi, người bảo trợ bảo: "Ta đã tiêu cho con rất nhiều tiền, từ nay con phải làm việc trả lại cho ta". Bông hoa nhỏ phải nhắm mắt thực hiện lệnh của bà, tuân theo những lời chỉ dẫn của một chiến lược kinh tế và khiêu dâm khôn khéo. May mắn được giải thoát duy nhất là có một người giàu có mua lại cô để làm vợ lẽ.

Lối mãi dâm ở Chợ Lớn là thế, một nét văn hóa, một trật tự được thiết lập trong xã hội, một triết học về cuộc sống và vũ trụ. Tất cả là không thay đổi, thành từng nhóm và bí mật. Trước hết có sự cần thiết rất Trung Hoa ấy để tụ họp với nhau, hình thành những câu lạc bộ, ở những người giàu cũng như người nghèo. Những tỷ phú có ngay trong nhà những "câu lạc bộ" còn khép kín và bí mật hơn "khách sạn Trung Hoa". Đủ loại người bảo vệ, tay chân, đầy tớ, khóa và song sắt bảo vệ. Bên trong có vẻ những tinh tế thật kỳ lạ. Ai ở Sài Gòn không nghe nói đến "câu lạc bộ" Trung Hoa, một thiên đường nhân tạo không sánh được trên đời? Có lần một người Pháp được mời, sau hai ngày trở về kiệt sức và điên lên vì khoái lạc.

Nói chung người Âu bị loại trừ ra ngoài những thú vui đó. Thực tế họ bị cấm vào "khách sạn Trung Hoa", họ không đụng đầu với một sự từ chối tàn bạo, chỉ gặp sự lạnh lùng. Khi họ vào một trong những ngôi nhà ấy, họ chẳng thấy gì cả. Phải thương lượng hàng giờ mới có quyền uống một chai bia, tất cả chỉ có thế.

Sự kín mít ấy phổ biến ở cả những nhà chứa dành cho người nghèo. Có hẳn một khu phố cuối Chợ Lớn gần một nhà thờ Cơ đốc giáo. Nhưng những nhà này cũng thế, trong khung cảnh bẩn thỉu, vẫn là những câu lạc bộ vừa gia đình vừa thân mật.

Vào các đường phố nhỏ, bình dị, người ta thấy những căn nhà như hàng trăm nghìn căn nhà ở Sài Gòn. Tất cả thậm chí hợp lý và bình lặng không bình thường. Trong mỗi tiền sảnh, một tấm ngăn dành cho bố mẹ, cho cả gia đình. Một bức ảnh đường bệ của bà chủ nhà, bây giờ là một quả phụ tóc cắt ngắn trước trán, cười với hàm răng sún ngả màu đen, lúc còn trẻ cùng với chồng và đàn con. Khoảng dăm chục bức ảnh khác nhỏ hơn, là con cái của các con bà. Cuối gian phòng là một bàn thờ tổ tiên, đầy đủ với lủng củng những tấm biển nhỏ, tượng phật, kích, xà mâu. Hương cháy dần tỏa khói mùi hăng hắc. Một giấy chứng nhận chủ nhân là một người đàn bà đáng kính, thánh thiện, năm 1927 đã cúng một trăm đồng bạc xây dựng chùa.

Thế mà đấy là những "nhà chứa". Trên hè đường ngồi trên những chiếc ghế nhỏ theo lối cổ điển là những gái điếm Trung Hoa một chân trắng, béo duỗi ra" gợi cảm" khách hàng. Những người này vào trong gian phòng đầy ảnh và tượng Phật. Ở đây bao nhiêu người, đàn ông, gái điếm, bà chủ, ông chồng và con cháu, chuyện vãn đến mười một giờ đêm. Người ta ăn uống, hút thuốc phiện. Đây cũng là một xã hội độc quyền. Để được vào phải quen biết và trả ba mươi lăm đồng bạc.

Quy luật hợp lề thói rất chặt chẽ. Làm tình trước mười một giờ không tiện - là cách của những kẻ dã man, như người Âu. Trước nửa đêm, những kẻ hiếu kỳ đi hết. Chỉ còn lại một số đã quen. Như một nhà trọ gia đình, họ đến giá lấy khăn, sạch bẩn tuỳ lúc - không phải để lau sau khi ăn mà dùng vào việc khác. Làm tình phải trả năm mươi đồng. Mọi khách thực hiện lần lượt trong những phòng nhỏ cửa mở ra hành lang chính. Những căn phòng ấy chỉ ngăn cách nhau bằng tấm ngăn tre, cao bằng đầu người. Đồ đạc chỉ là một chiếc chõng thấp trải chiếu, một bình xách nước và một ống nhỏ. Từ "phòng này" đến phòng kia, xã hội đáng kính ấy vẫn tiếp tục nói chuyện.

Người Pháp hiếm khi đến những nơi này, trừ cảnh sát - người ta tâng bốc họ, khúm núm, đút lót.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Mười, 2018, 10:51:48 pm

Cách đấy không xa, trên những đường phố nhỏ khác, trong những khu khác, có hàng trăm, hàng nghìn quán bar, nhà chứa mà gái đĩ lao ra tấn công dữ dội, chèo kéo, bám khách. Con mồi của họ là người Pháp, những người lính viễn chinh, nhưng tay buôn bạc nhỏ.

Người Trung Hoa giữ gìn ở Chợ Lớn lòng tự hào bao la, sự phân biệt chủng tộc, tính bài ngoại. Họ không chia sẻ những thú vui, giữ lấy bằng mưu mô im lặng, rất lễ phép và tươi cười. Chợ Lớn vẫn luôn là nước Trung Hoa cổ khép kín, nhưng cũng là nước Trung Hoa tranh thủ những người nước ngoài mà không làm van đục mình, tạo ra một nghệ thuật quan hệ đúng tập tục. Phải tiếp xúc nhiều vì những cần thiết của thương trường. Người ta tổ chức những bữa tiệc, buổi lễ, nhưng chỉ là giả tạo, sao chụp lại, tạo hưng phấn cho những khoái lạc "Nhà trời".

Chợ Lớn là nước Trung Hoa cổ điển, phản động, khép kín nhất. Hiện đại chỉ có những "phòng nhảy" với vũ nữ. Đấy là những công trình nhập khẩu từ Thượng Hải, Hồng Kông, những thủ đô hư ảo mà giới tư sản Trung Hoa trong quá trình phát triển cũng đã tha hóa và quốc tế hóa. Những vũ trường ấy là những đền thờ quái đản. Ở đây Nhà trời du nhập của Phương Tây một số chất liệu, sự khiêu dâm và nhạc jazz - nhưng làm cho nó trở nên kinh khủng. Người ta không còn biết ở trong vườn hành hình hay thiên đường. Tinh thần tra tấn cổ của Châu Âu hiện diện hơn bao giờ hết. Người Châu Á được vào nhưng lạc lõng trong những chỗ bí mật, đầy quy ước.

Những "vũ trường" chính của Chợ Lớn là Paradis và Arc-en-Ciel. Tất cả tranh tối tranh sáng. Như một chốn mê hoặc huyền bí. Trên đường, những trang trí kỳ quặc, bóng dáng nghệ thuật vị lai, cây cối lẫn người, gợi lên đại dương, rừng hoặc cảnh quan hệ tình dục rộng rãi. Giữa cảnh trí ấy, những dây nhợ khác, những cô gái hoa, những vũ nữ rất đẹp. Các cô nhảy múa, uốn éo, hoặc cứng đờ, chuyện vãn hoặc khinh khỉnh giả tạo với đôi mắt trống vắng, lướt nhìn những người đàn ông nhìn thẳng. Tất cả mặc áo dài hiện đại khêu gợi một cách kỳ lạ - bó chặt cổ nhưng ở dưới bó sát hở hang, phô bày chân ngà, tạo thân hình thành một dáng người như nét bút vẽ. Và theo một cách nào đó, sự sỗ sàng ấy vừa ranh mãnh vừa đoan trang.

Vì "vũ trường" cũng là một xưởng máy không biết thương xót. Vũ nữ phải quay vòng nhanh, tiếp được càng nhiều khách càng tốt. Mua vé một trăm đồng là có quyền nhảy và trò chuyện trong một giờ. Nhưng hầu như luôn luôn cô gái rút ngắn thời gian ấy. Cao đạo, có vẻ chán, không trả lời, cô bỏ đi sau mấy phút.

Vẻ thẹn thùng kéo theo quyền lợi. Nghệ thuật của "vũ nữ", là đức hạnh. Cô làm ra vẻ bối rối tối đa. Với cách ấy cô loại bỏ những ông ít quan trọng và rút được lời chúc tụng, quà cáp ở những người được chọn. Những việc đó thật phức tạp. Các "vũ trường" - những chợ con gái đồng thời là những ngôi đền giăng bẫy của tư bản Trung Hoa. "Vũ nữ" vừa là ni cô, vừa là những kẻ mồi chài, phiêu lưu và "chuyên nghiệp". Tài năng của họ nhằm tạo "bộ mặt". Những "hoàng hậu" có ba trăm chiếc áo dài và cả một triều đình tỷ phú. Họ nhạy cảm ghê gớm. Không nên thiếu tôn trọng vì sờ soạng thô lỗ, bỏ tay vào phía sau, họ hét lên và sẽ rất bê bối. Nhưng không âu yếm cũng xúc phạm họ. Thái độ lạnh lùng là một lời chửi rủa sắc đẹp của họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Mười, 2018, 10:54:33 pm

Nghề nghiệp khó khăn. Mỗi "vũ nữ" phải giữ tiếng cho mình. Phải có một đường lối, biết làm cho người ta thích mình bằng sự lẫn lộn tế nhị đồng tình và từ chối, háo hức và vô tâm, hiền dịu và dữ tợn. Cô có thể bỏ rơi những người giàu và có những "tình cảm thoáng qua". Tất cả đều được tính toán.

Trò chơi cao tay của "vũ nũ" là làm dáng và ve vãn. Đối tượng tốt phải tỏ ra rộng lượng, không đòi hỏi ân huệ trước một thời gian nào đó. Thường anh ta nghĩ đã đến lúc thì bị rơi, nếu không có kinh nghiệm. Biết bao người Pháp bị phá sản vì tiền mua vé! Có tối, cuối cùng họ mua cả cuốn sổ vé để có quyền đưa nữ mưu sĩ "ra ngoài". Và khi vừa đi ra, cô bốc hơi mất.

Người Trung Hoa từng trải chờ đến giờ của mình. Ông ta biết cô sẽ trở lại. Những thú vui Nhà trời cũng là những thị trường phức tạp. Bao giờ cũng có yếu tố cần thiết là cuộc đấu tranh, vì những ý muốn. Tinh tế nhất là không nói về tiền. Nhưng tất cả những thái độ cao quý, thờ ơ, độ lượng nhất là những mánh khoé tế nhị đi đến một con số. Cuộc sống và những gì có giá trị trên đời - kinh doanh và cảm xúc - chỉ là một việc như nhau, nghệ thuật điều đình đồng tiền thống lĩnh tất cả. Nhưng để thực sự dễ trông, hoàn toàn thỏa mãn sự kiêu ngạo, việc ấy phải làm có "thể diện", mỗi người biết rõ vai trò của mình, như trên sân khấu.

Các "bông hoa nhỏ" là một tập quán của Trung Hoa cũ, là "thú vui của bố”, trong sự quy thuộc hoàn toàn của cô gái. Đấy là một nô lệ, phải thảo luận gay gắt, bẩn thỉu với mụ tú bà. Với những vũ nữ, thanh niên Trung Hoa lao vào ảo tưởng lãng mạn, càng tuyệt vời vì dù sao kết quả cũng đã biết trước. "Vũ nữ” đúng là độc lập - nhưng cần tiền ghê gớm. Hầu như luôn luôn các cô phải nuôi một bà mẹ già, người chồng ho lao và các con. Thường những cô gái tốt, phải đi làm điếm, dù là gái điếm lịch sự, vì gặp lúc rủi ro. Các cô gái bị mất danh giá ở Sài Gòn phần lớn là từ các gia đình phá sản. Vả lại đây là một đề tài hàng nghìn năm vẫn thấy trong tiểu thuyết và truyền thuyết Trung Hoa.

Có một thực tế rõ ràng. Thanh niên Trung Hoa rất hiểu nếu tỏ ra vội vàng sẽ là người thô lỗ. "Vũ nữ" lên "mặt" kiêu kỳ giả tạo. Nhưng khách hàng cũng lên "mặt" bằng trả nhiều vé, công khai tặng quà. Sự hào hoa ấy của kẻ tán tỉnh chỉ nhằm một mục đích - tỏ rõ quyền lực và của cải. Cuối cùng, vào thời gian thích hợp sẽ đến quy tắc của sự việc, vả lại mỗi cô gái có giá cả trên thị trường như cá khô. Ở Hồng Kông và Manila, người ta đều biết "vũ nữ" nào giá bao nhiêu.

Các "vũ nữ" rất mốt. Khách là những thanh niên, con trai các ông bố ưa chuộng hiện đại. Mỗi buổi tối những người bố mặc quần đùi đến khách sạn hoặc câu lạc bộ. Con trai họ mặc vét-tông, rất diện, đến các "vũ trường".

Thực tế vẫn còn những "ông già" nắm giữ Chợ Lớn. Và họ nắm giữ theo những phương pháp cũ - tranh thủ tất cả và hợp tác với tất cả. Phải ranh mãnh ghê gớm vì trong Chợ Lớn nhà trời của lúa gạo và đồng bạc, có một băng cướp đáng sợ người Việt Nam; Đấy là tổ chức Bình Xuyên, lấy khu Đại thế giới làm thành trì sau khi chiếm đoạt nó.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Một, 2018, 04:49:49 pm

Cuộc đấu của Đại thế giới

Có ai chưa bao giờ nghe nói về cuộc đấu của Đại thế giới mà con người Ma Cao quyền lực và yên bình bị tên cướp bình thường Bảy Viễn đè bẹp với sự nâng đỡ của hoàng đế Bảo Đại. Điều này sau đó điều chỉnh câu chuyện Sài Gòn, xứ Nam Kỳ và Việt Nam.

Đến Sài Gòn, Đại thế giới ở đầu ngõ Chợ Lớn. Con đường phố vui với những ngôi nhà được khống chế bằng những bức tường bao la, màu vàng, thành luỹ để che dấu và đóng kín. Dây ngăn đưa người ta đến hai cổng vào, có người kiểm soát. Những người đàn bà cặn bã mặc đồng phục ngồi trên ghế, nhăn nheo và cười gằn nắn bóp phụ nữ. Những vô lại trẻ miệng ngậm thuốc lá mặc áo may-ô đi dép lục soát đàn ông, sờ kỹ túi. Đấy là những trợ lý cảnh sát, đảm bảo người vào không mang theo súng ngắn và lựu đạn. Thủ tục này thực hiện khắp Sài Gòn, cả ở những rạp chiếu phim. Nhưng ở đây thô bạo hơn.

Qua khỏi hàng rào, là một khoảng sân rộng bao la bằng đất nện, hôi hám, rác bẩn, sụt lở nhiều. Ban đêm hàng nghìn bóng đèn trần chiếu sáng những khung lợp tôn đặt ngay trên xi-măng. Có khoảng dăm chục, mỗi khung nhà có bốn hay năm bàn đánh bạc. Cả một đám đông người chen chúc nhau, hàng nhiều nghìn con người. Tôi nhận ra đám người ở đường phố và mương lạch, những người cu-li xương sườn nhô ra, những người tai mắt nghèo có râu, các bà nông dân răng đen, cả một khối người buôn bán, bồi bếp, gái điếm. Số đông là các bà mang thai và các bà địu con trên lưng. Có những bà già quá, theo tục lệ cắt tóc ngắn bàn chải, giống những ông già không giới tính trông kỳ cục. Trẻ con nam nữ âu yếm nắm tay nhau. Nhưng rồi thả tay, sờ vào đáy túi tìm mấy tờ bạc bẩn - đặt cược. Những cô gái điếm còn mặc quần áo tiếp khách, son phấn đáng sợ, đôi mắt quá to, áo váy vải mỏng để lộ thân hình, nhưng không làm việc. Tiếp khách xong các cô chạy đến đánh bạc ngay.

Trong khu Đại thế giới, cả đám người Châu Á này như không còn là người. Người ta không nghe họ nói, câm lặng, "không tồn tại", một hư không vắng tiếng động, vắng dấu vết tình cảm. Những khuôn mặt chết như nhau. Người ta là những chiếc bóng, không thực tại, đang chơi. Lòng say mê cao độ đến mức mất hết cảm giác, không tránh khỏi trông thấy mình chôn vùi những đồng tiền lương khổ sở. Mỗi ngày họ lại đến như trong trạng thái bị thôi miên.

Cờ bạc, trước đám đông bị chinh phục ấy, là một hiện diện nghiền nát những người đam mê. Đại thế giới là chỗ làm điên đầu, một máy nghiền đơn giản và tổ chức bẩn thỉu. Đây là công việc theo dây chuyền, các bàn nối tiếp nhau liên tục. Đấy chỉ là những tấm ván vẽ màu, bôi bác những số và chữ. Có mọi thứ chơi trên đời, khoảng vài chục loại từ bài lá, xúc xắc, quả bu-lơ, bi, chuyển trên tay những quân xướng và nhiều loại khác. Phố biến nhất là những loại bài Trung Hoa có phối hợp rất phức tạp.

Ở mỗi bàn một toán hồ lỳ thu tiền, chi tiền. Tiếng người duy nhất là của người hồ lỳ nữ, trẻ và son phấn, chiếc áo dài Trung Hoa bó sát người. Sau khi lắc chiếc chuông thủy tinh đựng những quân xúc xắc tài xỉu, cô thông báo kết quả bằng một điệu hát buồn và khàn như tiếng rên. Những nam hồ lỳ mặc may-ô, vô cảm, cánh tay dài như gọng kìm, nhặt bạc, xếp lại từng tờ. Những người chơi khốn khổ mất tiền không run tay. Từng phút một họ lấy ra từ những chỗ lạ nhất ở bộ quần áo rách rưới mấy đồng bạc gấp tư, đặt lên bàn và lại mất. Những người không còn tiền ra đi; những người mới đến thay chỗ. Đám người vẫn luôn luôn dày đặc.

Trên cao từng bàn, trên chiếc ghế hai mét, một người ngồi dáng như ngủ. Đấy là trưởng bàn theo dõi cuộc chơi. Anh ta không bao giờ can thiệp vì không có chống đối, cãi cọ. Tất cả đã được bố trí chặt chẽ cho mọi bất ngờ nhỏ nhất.

Cứ như thế, hàng ngày từ sáng đến tối dân lao động đến bị bóc lột hết tiền với thú vui cay đắng của số phận. Không có một cơ may nào đánh thắng, Những loại cờ bạc Trung Hoa được tính toán chặt chẽ không thương xót. Nhưng điều đó không đáng kể đối với những cu-li, gái điếm, với tất cả những người Việt Nam. Vì họ say mê cờ bạc, mất cả mồ hôi nước mắt, họ sống với thú vui khốc liệt ấy, đó là khoái lạc thực của họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Một, 2018, 04:50:27 pm

Điểm tận cùng của sự khai thác vào lúc mười giờ đêm. Trong một loại giảng đường bẩn thỉu vang lên tiếng cồng chiêng, những ngọn đèn đỏ chiếu sáng suốt một buổi lễ. Chỉ có tiếng ầm ĩ và ánh sáng. Trước một bức tường người, cả một đám đông sững sờ, một ông mặc veston bước lên bục và bắt đầu nói. Ông ta vừa tuyên bố con vật trúng hôm ấy trong trò chơi "Ba mươi sáu con vật". Bên cạnh ông ta là một nhân vật ăn mặc theo kiểu nhà nho cũ giải thích một cách uyên bác lý do.

Trò chơi Ba mươi sáu con vật còn tệ hại hơn những gì xảy ra ngay bên trong Đại thế giới. Chúng ra khỏi hàng rào, lan ra khắp Sài Gòn, tìm từng đồng bạc, đến tận những nhà tranh, những con thuyền rách nát. Chúng chỉ trở về ban đêm để bóp nát người ta.

Việc đó tiến hành như sau: Mỗi ngày hàng nghìn kẻ vận động đến tận nhà, chạy khắp các khu, các đường phố nhỏ kêu lên "Ba mươi sáu con vật, ba mươi sáu con vật". Họ phân phát khắp nơi những tờ giấy vàng nhạt đầy hình vẽ và thơ ca nói về lịch sử hàng ngàn năm của Trung Quốc, theo truyền thuyết cuộc chiến tranh Tam Quốc, về những bi kịch lớn của sân khấu Trung Hoa, của những cuốn tiểu thuyết cổ. Trong quá khứ phi thường ấy mọi sự kiện đều hiện ra dưới dấu hiệu những con vật tốt lành hoặc có hại, tương trưng cho số phận, tổng số ba mươi sáu con. Từ việc đó những người Trung Hoa hiện nay lấy làm trò cờ bạc, ghê gớm và động não lạ lùng.

Khắp nơi, trong nhà hoặc ở chỗ làm việc, lớp dân bình thường lao vào, những tờ giấy vàng. Mỗi người, cả bà mẹ già, cô vũ nữ đẹp, ngắm nghía lâu những hình nguệch ngoạc tối nghĩa, những chữ viết khó hiểu. Cuộc chơi là tìm ra mẩu chuyện tả trong đó nghĩa là con vật nào, do ảnh hưởng tốt hoặc xấu của nó, đưa đến sự kết thúc. Trong khắp Sài Gòn ai cũng đoán, ai cũng tìm điều bí ẩn, cược về con vật "của mình", mỗi người nhận được một biên lai của số tiền đặt cược.

Và tối đến mỗi người nhận ra mình đã lầm.

Cũng có một Đại thế giới cho những người giàu có. Bên ngoài khoảng sân rộng người ta moi tiền của dân chúng, ngoài giảng đường của ba mươi sáu con vật, có ngôi nhà tách xa ở cuối một đường phố nhỏ, là nơi đánh bạc của người giàu.

Ngôi nhà có nhiều phòng nối tiếp nhau, luôn trở thành nhở hơn, bí ẩn hơn. Những tấm ngăn bằng gỗ di động được nên mỗi ngày có thể bố trí những gian phòng khác nhau. Tổng thế là một mê lộ thay đổi, vận dụng thích hợp với hoàn cảnh. Mặc dù các phòng trần trụi, được chiếu sáng mạnh, mặc dù nội thất chỉ là những bề mặt bằng ván hoặc kính mờ, ở đây chứa đầy bí mật.

Phòng thứ nhất cũng giống như phòng của bất cứ du hí trường nào, được dành cho mọi người có tiền. Người ta không dùng giấy bạc mà là những thẻ có giá đến một nghìn đồng bạc. Chỉ có ba hoặc bốn bàn, chơi may rủi, viên bi đi từ lỗ này sang lỗ khác nhiều phút trước khi dừng lại hẳn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Một, 2018, 04:51:41 pm

Sau nửa đêm, những nhân vật quan trọng nhất, khoảng mười lăm người, đi xa hơn, vào một phòng nhỏ hơn. Không còn người da trắng nữa - họ không đủ giàu. Chỉ là những gương mặt da vàng cỡ lớn, những tỷ phú một trăm kilô và các bà quả phụ già. Mỗi vé cược là cả một tài sản lớn.

Chỗ này chưa phải là cấm địa. Mỗi người có thể khúm núm vào xem các ông, các bà ngồi nặng nề, không xúc động đặt hàng trăm nghìn đồng bạc. Nhưng người ta không thể đi quá nửa. Như một chỗ không người, có những vách ngăn, những phòng khác chẳng thấy gì, chỉ tuyệt đối trống rộng. Không một bảo vệ, một đầy tớ nào ngồi ngăn chặn những người vào quấy rầy. Nhưng với một sức mạnh kỳ lạ, người ta có cảm giác không nên cố vào sâu hơn. Vả lại cũng chẳng ai thử. Châu Á có cách cảnh cáo của mình.

Thế nhưng đấy là thánh của các thánh ở Đại thế giới. Giữa những vắng lặng và phòng vệ, tiến hành những canh bạc khác thường. Cách tổ chức đến mức "mật thám", cũng không biết được. Đặt cược bằng ngân phiếu, một số lên đến hàng triệu đồng.

Xa hơn nữa, khuất tất cả là lĩnh vực của ông Lam Giong. Ông ta sống một mình với những bảo vệ và két sắt. Nhưng trong trí trong óc ông nắm cả khu Đại thế giới với thiên tài chỉ đạo của mình.

Trong ba năm Lam Giong đưa Đại thế giới lên một mức cải tiến kỳ lạ. Suốt thời gian ấy ông bình thản trị vì vương quốc cờ bạc của ông. Bản thân ông là một chuyên nghiệp được đào tạo ở Ma Cao, đã có tuổi, béo mủm mỉm, tươi cười, cứng rắn: một người Trung Hoa thực sự. Phía sau ông là cả toán người Ma Cao.

Đại thế giới, tổ chức hoàn hảo, là một cột trụ của Việt Nam. Hàng năm Chính phủ lại cho Lam Giong ký hợp đồng đấu thầu mở sòng bạc.

Ngoài 400.000 đồng mỗi ngày trả cho Nhà nước, ông Lam Giong ngày nào cũng chi một triệu đồng không chính thức - tiền cho việc bảo trợ, tiền trả ơn. Các quan chức Chính phủ nhận, bắt đầu từ thủ tướng Hữu, người ta nói thế. Triều đình hoàng gia và Hoàng đế Bảo Đại nhận, tuy ít hơn. Việt Minh nhận, nguyên tắc là bằng Chính phủ. Cảnh sát nhận, theo cấp bậc và nhiệm vụ. Các giáo phái, nhất là Bình Xuyên những người bảo vệ Chợ Lớn nhận. Tất cả các tổ chức - những tổ chức có ích hoặc có thế làm hại - nhận. Cơ chế trợ cấp được giải quyết tốt đến nỗi trong nhiều năm không một quả lựu đạn nổ ở Đại thế giới và các chi nhánh.

Với những chi phí lớn như thế, phải khai thác cường độ cao ông Lam Giong đẩy con số kinh doanh của Đại thế giới lên thật thần kỳ. Trí tưởng tượng của ông không có giới hạn. Nghệ thuật của ông là biết hấp dẫn khách hàng.

Để làm việc này có một số phương pháp. Đại thế giới tỏ ra ưu đãi những người đánh bạc khổ sở. Thay vì bỏ mặc họ, ban giám đốc cố gắng vực họ dậy - để có thể lại đến chơi.

Người ta dẫn tới đây những nhân vật quan trọng thua bạc. Một nhân viên hoạt bát chăm sóc họ. Vịt tẩm dầu rán, rượu champagne, những "bông hoa nhỏ”, thuốc phiện, được chuẩn bị cho họ. Khi người thua bạc cảm thấy khá hơn, một chiếc xe Mỹ dành cho ông ta sử dụng, ông có thể về nhà tìm nguồn vốn mới và lại đến chơi.

Lam Giong có một văn phòng thứ hai ở thành phố để thám thính những nhà giàu Trung Hoa và biết ngân khoản của họ ở nhà băng. Ông ta cũng biết khi nào có mấy tỷ phú ở Thượng Hải hoặc Singapore đến Sài Gòn. Theo cách ấy ông có thể hoạt động chắc ăn, chọn những đề tài thú vị để nhử mồi họ. Ông không dùng đàn bà để dụ khách và những thương gia tai mắt, có tiếng, không nghi ngờ gì được. Nói chung người giàu có sẽ bị lột như tình cờ gặp một người quen đi đến chỗ ăn tối, rượu và các thú vui. Cuối cùng, để tô điểm cho buổi tối, người du khách đề nghị rất tự nhiên: "Chúng ta đến Đại thế giới chứ?" Lời đề nghị này không gợi lên một nghi ngờ gì, vì có gì bình thường hơn đến chơi vài canh bạc thú vui cao nhất ấy? Ở Đại thế giới hai ông bạn lôi kéo lẫn nhau, để giữ "thể diện" đặt tiền mỗi lúc càng nhiều. Ngày hôm sau ông bạn "bịp bợm" đến gặp Lam Giong lấy lại số tiền mất và lĩnh một tỷ lệ hoa hồng và trò bịp của mình.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Một, 2018, 04:52:28 pm

Đầu năm 1950 mọi người Trung Hoa ở Sài Gòn, Chợ Lớn khâm phục, kính trọng Lam Giong. Đỉnh cao vinh quang của ông thể hiện nhân dịp lễ cưới con trai cả. Những buổi lễ vui vẻ, rầm rộ hơn đám ma một tỷ phú. Trong nhiều ngày, Chợ Lớn hoan hỉ do ông chi phí. Tục lệ Trung Hoa cũ muốn ông bố chồng tỏ rõ lòng biết ơn bằng những bữa tiệc thịnh soạn mời tất cả những người "chiếu cố” đến dự lễ cưới. Đám đông nhiều đến mức phải lần lượt xếp hàng những bàn tiệc - bàn dành cho bà con, cho các bộ trưởng và nhân viên cao cấp, các thương gia lớn, các nhà báo, cảnh sát. Mỗi lần như thế thực khách hơn một nghìn người. Họ được bố trí ở những bàn nhỏ nổi bật với món lợn sữa tẩm dầu rán. Không thể tả hết số lượng món ăn tinh tế ngon lành. Những chiếc khăn tay gói làm quà, những vé vào Đại thế giới và những liều thuốc phiện.

Ít lâu sau những huy hoàng ấy bỗng bắt đầu cuộc chiến của Đại thế giới mà Lam Giong và ê-kip Ma Cao bị đè bẹp.

Lời cảnh cáo là một quả lựu đạn - loại nguy hiểm nhất, có khía ô vuông - ném vào bên trong Quả chuông vàng, một chi nhánh của Đại thế giới. Sáu mươi người đang đánh bạc quanh một chiếc bàn bị tan xác. Chưa biết "tổ chức" nào hành động chống lại Đại thế giới của những người Ma Cao.

Sau đó là vụ bắt cóc. Lúc đầu việc đó có vẻ bình thường. Chỉ là một ông già Trung Hoa lạ mặt bị bắt cóc lúc mười giờ sáng trên đường Chợ Lớn. Ông già đang đi xích lô. Một chiếc ô tô ép chiếc xích lô vào lề đường. Hai người vũ trang nhảy ra chộp lấy ông già đưa lên ô tô đi. Dĩ nhiên không ai thấy gì.

Nhưng rồi Chợ Lớn không vô tư nữa. Người ta được biết nạn nhân, ông già nhìn ngoài bình thường như thế, thực ra là một người Ma Cao - một trong những ông chủ da vàng của liên minh cờ bạc và đổi tiền, đi qua Sài Gòn. Tất cả đều bí mật. Một người quyền lực như thế sao lại đi xích lô. Và ai dám bắt cóc ông ta? Cảnh sát muốn tiến hành điều tra nhưng Đại thế giới phản đối kịch liệt. Chính thức "cảnh sát" không biết thủ phạm nhưng ông Lam Giong biết, thậm chí đang thương lượng với chúng. Một khoản tiền chuộc phải trả. Sau vài tuần ông già được thả; ông hoàn toàn im lặng và bay về Hồng Kông ngay chuyến đầu tiên.

Bây giờ cả Chợ Lớn đã biết. Vụ bắt cóc không phải do Việt Minh mà là do Bảy Viễn và quân Bình Xuyên.

Tên tù khổ sai cũ đã cảm thấy khá đủ lực để nắm lấy Đại thế giới, trở thành người chủ chính thức của nguồn lợi khổng lồ mà cả Việt Nam thèm muốn. Bảy Viễn đã trở thành người bảo trợ của Bảo Đại - vũ khí thực sự của ông ta là tình bạn của Hoàng đế. Ông ta là dụng cụ của Hoàng đế để triều đình khai thác toàn bộ Đại thế giới. Tất cả đã được chuẩn bị kỹ, bàn bạc cẩn thận giữa hai người, tên cướp không hối cải và Quốc trưởng một nước, chia nhau các nguồn lợi.

Dĩ nhiên khi trở lại Việt Nam tay Lam Giong ranh mãnh đã lót tay cho Bảo Đại một khoản lớn. Nhưng dù sao Đại thế giới, Ma Cao vẫn nằm trong ảnh hưởng của thủ tướng Hữu và Hoàng đế muốn nó vào tay mình, cả nền chính trị Việt Nam năm 1950 là cuộc tranh chấp nặng nề giữa Quốc trưởng và Thủ tướng vì Đại thế giới.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Một, 2018, 04:54:02 pm

Bằng hành động trực tiếp Bảy Viễn đã làm những người Ma Cao sợ hãi. Bảo Đại đưa hết trọng lượng vào cuộc đấu. Hữu và những người Ma Cao bị thất bại trong việc bỏ thầu lại du hí trường. Hữu buộc phải theo ý muốn của Bảo Đại - ông ta sẽ không bao giờ tha thứ việc này. Nhưng trong năm 1950 này Đại thế giới chính thức giao cho Bảy Viễn.

Lam Giong biến mất vĩnh viễn khỏi Sài Gòn: ít nhất ông ta cũng cứu được thân mình. Bảy Viễn thậm chí độ lượng với những người Ma Cao khác trong buôn lậu đồng bạc - tiếp tục những hoạt động kín đáo.

Bề ngoài Đại thế giới vẫn thế, bẩn, đông người, nặng nề nhưng công trình của Lam Giong chẳng bao lâu không còn nhiều. Thay thế việc kinh doanh kiểu mẫu - hòa bình, kỹ thuật đơn thuần và đầu óc của Lam Giong - là căn cứ của băng nhóm. Những người nắm tiểu liên ẩn nấp khắp nơi, xuất hiện khi có một sự cố nhỏ. Sau những bức tường cao, Đại thế giới trở thành một pháo đài, một lãnh địa riêng biệt. Bảy Viễn phải vũ trang bảo vệ nó - ông ta tuyệt đối không chia lãi với những "tổ chức" khác. Tiền thuế Lam Giong đóng cho mọi người bị bãi bỏ. Ông ta thậm chí không muốn trả 400.000 đồng hàng ngày cho Việt Minh. Buộc phải trả tiền thầu chính thức cho Nhà nước, ông ta bỏ những khoản thu đặc biệt, mọi khoản nộp thêm cho thành viên Chính phủ Sài Gòn và các cấp cảnh sát. Bảy Viễn giữ tất cả cho riêng mình và nhà bảo trợ, Hoàng đế và văn phòng Quốc trưởng. Việc độc quyền tay đôi ấy sẽ có những hậu quả to lớn trong lịch sử Việt Nam: nó gây ra biết bao nhiêu ghen tức, kéo theo việc sụp đổ của Bảy Viễn rồi của Bảo Đại năm năm sau đó.

Nguồn lợi hàng ngày của Đại thế giới vẫn phi thường. Tiến lãi còn tăng lên vì Bảy Viễn thêm vào cờ bạc những lợi tức hỗ trợ. Bên trong hàng rào, ở một chỗ kín đáo ông ta cho xây dựng một lò nấu thuốc phiện, kiểm soát việc bán buôn chất mua túy ở Sài Gòn. Đại thế giới còn dùng vào những việc buôn bán khác. Các cơ sở, lò xưởng xây dựng cho việc buôn vàng, đô-la, thuốc lá, làm giả các loại. Tất cả những cái đó đều bất khả xâm phạm, cảnh sát, thuế quan không vào trong Đại thế giới, không nghĩ đến một đợt xuất hiện nào. cả Việt Minh cũng tránh "đụng chạm" đến Đại thế giới, đến băng vũ trang của Bảy Viễn bố trí tính hợp pháp và vũ khí trong cái xấu.

Không ai dám hở ra một lời về việc Bảy Viễn làm. Vì ông ta nhạy cảm, trả thù ghê gớm. Có lần một nhà báo Việt Minh ám chỉ trong một cột báo những hoạt động của Bảy Viễn. Hôm sau anh ta và cô vợ bị bắt cóc đưa đến Đại thế giới. Người ta dẫn họ vào phòng tra tấn. Bảy Viễn đích thân chỉ bộ dụng cụ tra tấn, giải thích chi tiết việc sử dụng từng cái. Cuối cùng ông bảo: “Tôi để anh chị chọn. Anh chị thích dụng cụ nào hơn?" Đôi vợ chồng quỳ xuống van lạy. Bảy Viễn thân mật vỗ vào đầu hai vợ chồng: "Lần này tôi tha cho. Nhưng đừng viết như thế nữa, tôi sẽ không thương xót đâu".

Sự im lặng đặc biệt bao trùm Đại thế giới, trong lúc hoạt động mạnh, Bảy Viễn, xung quanh có ban tham mưu cận thần bảo vệ, buổi tối đi kiểm tra các chỗ! Ông ta mặc đồng phục cấp tướng vì Bảo Đại có chỉ dụ tấn phong. Ông ta cũng mặc như thế khi rời Đại thế giới, hoặc Trung tâm chỉ huy hành quân ở cầu chữ Y gần đấy - là nhân vật tham dự mọi buổi lễ chính thức và yêu nước. Khi ông ta xuất hiện quân nhạc tấu quốc ca Việt Nam. Cao uỷ Pháp, các chỉ huy đội quân viễn chinh chào ông ta. Với tiền bạc và băng nhóm của mình ông là một người chủ của chính trường. Xã hội Pháp, dân cũng như quân sự chào mừng ông. Từ lâu những nhà kinh doanh đã quên định kiến với các "giáo phái" và các "tổ chức", nhất là thấy Bình Xuyên văn minh đến thế! Giới "máu mặt" ở Sài Gòn mời Bảy Viễn dự những bữa tiệc đứng. Các bà chủ nhà cười duyên, những ông chồng đối đãi theo đủ loại xã hội thương trường. Bảy Viễn mua tất cả những bất động sản bán trong thành phố. Phải giúp ông ta đặt tiền đúng chỗ. Giữa sự thịnh vượng ấy, thậm chí Bảy Viễn trở thành trọng tài của phong cách hào hoa. Chiếc Jaguar của ông ta - độc nhất ở Sài Gòn - tham gia những cuộc thi ô tô.

Ông có một con hổ mà ông vuốt ve như con chó; một con trăn to bằng thân cây lớn cuộn tròn xung quanh ông.

Và giữa tất cả những cái đó, ông ta vẫn to lớn, vô văn hóa, nặng nề, không học một chữ Pháp nào, vừa chuyên chế vừa dân quê mà ông gọi là "vinh dự" của mình.

Nhưng, cả với Việt Minh, số phận của Bảy Viễn là ngoại hạng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2018, 09:12:12 am

Một tên tướng cướp da vàng

Thế nhưng gần hai năm trước đây, tôi đã thấy chính Bảy Viễn suy sụp gần như tuyệt vọng. Ông ta vừa thoát khỏi tay Nguyễn Bình nhưng thân tín giỏi nhất của ông bị giết, bản thân ông đã chán nản.

Lúc ấy thiếu tá Savani, một người Corse cứng rắn và mặt đầy sẹo, trưởng Phòng nhì ở Nam Kỳ, dẫn tôi cùng đến gặp Bảy Viễn đang bị săn đuổi, đề nghị hợp tác với Pháp.

Buổi hẹn xác định trong cảnh bùn lầy khổ cực ở ngoại vi Chợ Lớn. Chúng tôi qua một con kênh tưới tiêu; du kích dẫn chúng tôi theo con đường mòn trên vùng đất trống. Dân chúng rách rưới bên lề đường nhìn chúng tôi đi qua ra vẻ đồng minh. Đấy là dân Bình Xuyên - mấy ngày trước đây thì họ đã băm nát chúng tôi. Một ông già miệng ngậm điếu thuốc nháy mắt với chúng tôi. Xa hơn một ít một người Annam mảnh khảnh mặc âu phục rất lịch sự, tự giới thiệu: "Tôi là thư ký của ông Bảy Viễn, được giao trách nhiệm đưa các ông đến gặp ông ấy". Rồi con đường từng chặng có thanh niên cầm tiểu liên. Chúng tôi đi vào làng, vào "nhà chung" có bàn thờ tổ tiên sơn đỏ ánh lên trong bóng mờ. Ở đấy có những thanh niên Âu hóa, đặc biệt có hai anh em Thái và San, cố vấn chính trị và quân sự của Bảy Viễn. Họ bắt tay chúng tôi. Cách đấy mấy mét, trong góc tối nhất của gian phòng, một người to lớn bận áo dài quần ống, bụng nổi lên trong chiếc phô-tơi gỗ mun. Nhân vật này có vẻ đang ngủ, mắt nhắm. Đôi vai to lớn sụp xuống, chiếc đầu đồ sộ cũng thế, lắc lư đều đều. Đây là Bảy Viễn, trầm tư trong thất vọng. Đôi khi với chiếc quạt cầm tay phe phẩy. Nhiều giây im lặng trôi qua. Bảy Viễn mở mắt và thiếu tá Savani nói:

- Ông không có giải pháp nào khác, Việt Minh đang lần theo dấu vết ông. Nếu không hợp tác với chúng tôi, ông chỉ còn sống vài giờ nữa thôi.

Từ đống con người khác thường ấy rơi mình xuống ghế, một tiếng kêu vang lên.

- Tôi không thể. Ông nghĩ tôi là gì - một tội phạm, một tướng cướp.

Mấy ngày sau tôi một mình gặp lại Bảy Viễn. Thỏa thuận với người Pháp đã ký. Người ta đưa ông ta về Chợ Lớn, ở số nhà 31 trên đường Canton. Bên ngoài là một quán hàng bình thường, màn sắt đóng kín. Tôi nói mật hiệu và vào một trạm du khách tường lơ lói, cầu thang mục, hành lang vô tận. Khắp nơi lính canh gác ngón tay trên cò súng, mặt lạnh băng và vô cảm của những tên giết người thực thụ. Dưới đất, nằm trên chiếu cả một đám người lẫn lộn đàn bà, ông già, trẻ con. Rõ ràng đây là một sào huyệt tổ chức cho công việc bí mật trong thành phố thời kỳ gần đây lúc Bảy Viễn còn giết người Pháp.

Tôi thấy Bảy Viễn ở trên tầng cao ngôi nhà kỳ lạ này, trong một gian xép lờ mờ sáng qua một lỗ tường. Xung quanh ông ta là những người dưới quyền chỉ huy trực tiếp. Trên bàn một tượng Phật cũ kỹ đội chiếc mũ phớt của một trong những người kia. Những chiếc súng colt để rải rác trên ghế. Những chùm tỏi treo ở xà nhà. Trong cảnh lộn xộn ấy, không khí hoàn toàn thượng võ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2018, 09:13:41 am

Bảy Viễn đã hoàn toàn lột xác. Không hề là một người suy sụp nữa mà là một trưởng băng nhóm đưa hết nghị lực vào việc "kinh doanh" mới. Ông ta đã ăn mặc theo lối lao động - áo sơ mi kaki và quần soóc.

Ông có cái đầu vuông vắn không bình thường, một khối tàn ác được tô đậm thêm vì tóc cắt ngắn để lởm chởm. Tất cả những gì ở ông rõ nét, sạch sẽ, cụ thể, dáng người đáng sợ. Đôi mắt ông ánh lên trên khuôn mặt nhẵn nhụi như những hòn than nhỏ khi ông nói với tôi về những đầu tư cần thiết. Mỗi lời tung ra sắc cạnh. Trong suốt bài diễn giải, ông ngự trên một chiếc phô-tơi kiểu tốt nhất ở đường Catinat, gõ trên thành ghế với những chiếc nhẫn to cả khối. Ông nói với tôi:

- Tại sao người Pháp không hiểu tôi là ai? Nếu họ cung cấp cho tôi tiền bạc và vũ khí, tôi sẽ thanh toán hết Việt Minh ở Sài Gòn, thậm chí họ không cần dính vào.

Trước hết phải có cho ông ta một tổng hành dinh xứng đáng với bốn, năm "văn phòng" quân đội chính quy. Ông có thể tổ chức, bắt tay hành động. Phải chăng tôi không biết đầu ông được bản thân Nguyễn Bình treo giải năm triệu đồng bạc? Và Bảy Viễn khẽ cười kết luận:

- Tôi biết quá rõ Việt Minh không để bị ám sát như bất cứ thằng ngốc nào. Tôi, tôi sẽ ám sát chúng.

Cuộc tiếp kiến kết thúc. Tôi bắt tay và rút lui. Tôi hiểu Bảy Viễn muốn có Chợ Lớn, như một người chủ chính thức. Nhưng người Pháp từ chối cho ông thành phố Trung Hoa giàu có này, chỉ cho những ngoại ô vắng vẻ và đầm lầy bẩn thỉu làm vùng hoạt động. Ông lại lao vào chinh phục nó, lần này bằng mưu mẹo, nửa hợp pháp nửa không hợp pháp.

Đúng là Bảy Viễn chỉ tiếp tục công trình toàn bộ cuộc đời ông - một cuốn tiểu thuyết ghê rợn và khác thường. Ông đã làm biết bao nhiêu để "kiểm soát" Chợ Lớn đầy tiền bạc này!

Giữa thời kỳ thực dân khi ông ta mới là một tên vô lại hai mươi tuổi như bao tên khác, sự táo bạo đã đặt ông vào hàng đạo tặc. Lúc ấy ông ta có một băng nhóm bị cảnh sát săn lùng, cướp bóc theo lối cũ. Chúng tấn công những người không tự vệ được, đòi tiền chuộc, cắt của con tin những mảnh nhỏ thân thể gửi qua bưu điện cho những gia đình mặc cả. Đó là đám cướp Bình Xuyên, Bảy Viễn vượt tù Côn Đảo trở thành thủ lĩnh. Ông ta có tài tổ chức lại xã hội cổ sơ của những tên trộm vặt với một kỹ thuật hoàn toàn hiện đại. Thay vì bóp nặn dân nghèo, Bảy Viễn bắt những kẻ giàu có chi tiền. Dọa họ bằng vài "cú", ông ta sau đó nhận làm người bảo vệ bằng trả tiền thuê bao. Ông ta lấy ở thành phố Maurice Thiện, con trai một gia đình có học vấn và có một trường đua ngựa làm người đi vận động. Anh này đi rao hàng cho những đại gia Trung Hoa lớn tình bạn của Bảy Viễn: “Đấy là một người dễ gần, anh ta nói. Hãy thỏa thuận với ông ấy nếu không muốn bị phiền nhiễu".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2018, 09:14:36 am

Như thế, "chủ” mới của quân Bình Xuyên tạo ra ở Sài Gòn lối cướp bóc theo cách Thượng Hải, nâng lên mức những vụ việc một Phòng Nhì, một đường dây. Ông ta mua những khẩu tiểu liên đầu tiên, chỉ huy hàng nghìn người cuồng tín với kỷ luật sắt. Giá trị con người không là gì đối với ông ta. Nhưng ông giết người vì "công việc", không bao giờ tùy hứng.

Bảy Viễn biết che giấu sự lạnh lùng thực tế ấy, tạo một hào quang lãng mạn quanh mình. Ông xây dựng truyền thuyết cho mình, là hiệp sĩ, là người vực dậy những ai sai lầm, là người bảo vệ dân chúng bị áp bức. Ông nói với người nghèo: "Tôi là một người của các bạn. Như các bạn, tôi sinh ra trong đói khổ. Vì các bạn mà tôi khai thác những kẻ giàu có". Đồng thời ông tự tuyên bố là người yêu nước, cho những người dân tộc bị săn đuổi trú ngụ. Ông là thần tượng của lớp dân nghèo, là người trả oán - nhưng ông đã bắt đầu quan hệ với cảnh sát thực dân.

Ông ta đã là một lực lượng mạnh ở Chợ Lớn. Dù sao tài của ông bị trật tự Pháp, chế độ thực dân dồn nén. Nhưng khi Đông Dương thuộc Pháp sụp đổ vào đầu năm 1945, không có gì ngăn ông được nữa - ông ta chồm vào mồi, chiếm lấy Chợ Lớn. Ngay những xáo trộn đầu tiên, ông vét sạch các kho vũ khí, các xưởng chế tạo để trang bị cho người của mình, tập hợp lại những người dưới quyền được quân Nhật thả ở Côn Đảo ra. Lần đầu tiên ông là chúa tể của Chợ Lớn. Việt Minh phải điều đình với ông ta, công nhận lãnh địa này, thậm chí cử ông làm uỷ viên của Việt Minh Nam Bộ. Người ta biết sau đó Bảy Viễn, người chủ bí ẩn của thành phố Trung Hoa nhân danh Việt Minh, kẻ thù quyết liệt và không tóm được của người Pháp, khi trở lại với Đội quân viễn chinh. Nhưng ông ta đã không có khả năng chịu đựng mọi sức ép vì tính vô chính phủ, tự cao, ngu ngốc. Và cả niềm khao khát được sống; được hưởng thụ. Lần đầu tiên ông ta trở nên rất giàu, quá giàu dưới con mắt Nguyễn Bình. Tất cả ở ông đều ngược lại với nguyên tắc chặt chẽ của Nguyễn Bình. Lúc ấy xảy ra bi kịch. Bảy Viễn bị triệu tập về Đồng Tháp Mười, may mắn được sống sót. Và ông ta thay đổi chiến trường bằng một chữ ký.

Tất cả làm lại từ đầu. Người Pháp cứu ông nhưng buộc ông phải rời bỏ Chợ Lớn, miếng mồi, tài sản của ông, như lấy đi tâm hồn ông. Vào giờ đen tối nhất của thất bại, ông đã nghĩ đến vẻ đẹp của tự sát. Thay vì tự giết mình ông đã thỏa hiệp với thực dân bằng hai sự xấu hổ - là người yêu nước phản bội, là tên về cướp quy phục trật tự. Từ nay ông muốn cái giá đầy đủ việc từ bỏ của mình. Liên kết chặt chẽ với người Pháp, không thể công khai bác bỏ họ, ông chỉ còn lừa bịp tha hóa họ, bắt đầu kiểm soát ngầm Chợ Lớn như thời gian còn là kẻ thù của họ. Lại là cuộc chơi lớn - với những dữ liệu hơi khác.

Bước tiến tới của ông thật bất hủ. Mấy tuần lễ sau, ông đã xây dựng một thị trấn quân sự Bình Xuyên đầu cầu chữ Y, một mớ sắt dị dạng và hoen rỉ của chế độ thực dân cũ bắc qua một con kênh. Những vùng nước bẩn là địa phận người ta đặt cho ông. Nhưng từ văn phòng mình ông thấy những cột khói của những nhà máy gạo, nhà máy rượu và cả khối hấp dẫn như dâng hiến của Chợ Lớn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2018, 09:16:19 am

Trong mấy tháng người ta không nghe nói đến Bảy Viễn. Ban tham mưu Pháp hài lòng về ông. Xung quanh Sài Gòn, cả trong Sài Gòn ông giữ đúng lời hứa, tiến hành một cuộc chiến tranh quyết liệt chống các chi đội đỏ. Đối với ông không có khó khăn gì về những phản bội, tống tiền thường xảy ra với những giáo phái khác. Quân đội Pháp xem Bình Xuyên là đồng minh chắc chắn. Vì thế họ bỏ ngoài tai những kháng nghị của cảnh sát khẳng định Bảy Viễn đã bí mật lấy lại Chợ Lớn, thống trị thành phố Trung Hoa còn hơn dưới thời Việt Minh.

Đúng vậy. Thời kỳ ấy tôi được một thiếu tá tôi quen trong quân đội Bảy Viễn quy phục Bình Xuyên mời về trại cầu chữ Y. Một buổi tối kỳ lạ!

Khi tôi lại gần cầu, lính gác lúc nhúc khắp nơi. Không còn là những "kẻ giết người" mặc đồ đen mà đã là những máy tự động mặc đồng phục, vẫn là thái độ vô cảm cuồng tín những khi tôi đưa xem giấy phép, họ sửng sốt bồng súng chào. Trong khung cảnh kỷ luật mới này tôi thấy họ có vẻ nguy hiểm hơn trước đây. Trại ở bờ kênh, dưới nhịp cuối cầu, còn đầy rác bẩn, nhà gianh, đàn bà, trẻ con trần truồng và lợn. Nhưng giữa vùng bẩn thỉu ấy, dây thép gai ngăn ranh giới, một vùng sạch sẽ: thị trấn quân sự mới của Bảy Viễn. Khoảng vài chục căn nhà mới, vừa là các ban tham mưu và trại lính hầu như giữ gìn quá mức. Đáng chú ý là số lượng khác thường bản đồ, cặp hồ sơ và những mũi tên chỉ. Bảy Viễn ở giữa, trong một nhà gỗ bình thường. Nhưng nhìn vào những sổ ghi và tấm biển, ông ta đã bố trí nhiều công việc như một tướng tổng chỉ huy Pháp.

Có thể cảm động về nghị lực ấy của Bảy Viễn biến băng nhóm của mình thành một đội quân đáng kính! Nhưng tôi nhanh chóng nhận ra trong cảnh trí phương Tây ấy, tinh thần Châu Á ngự trị mạnh hơn bao giờ hết với sự lẫn lộn không hiểu nổi giữa sự độc ác ghê gớm, sư thuần túy dữ tợn và lối hưởng thụ tham lam.

Điều tôi thấy trước hết là những tù nhân người ta dồn trên xe xuống. Họ gầy gò hốc hác như không còn tồn tại. Những người lính đối xử với họ không tàn bạo nhưng tỉ mỉ ghê gớm. Viên thiếu tá Bình Xuyên ra đón tôi thích thú về cảnh ấy: "Đấy là ban ám sát Việt Minh đã giết một tình báo viên của chúng tôi".

Cái tôi thấy sau đó là đài tưởng niệm binh sĩ Bình Xuyên, một tấm bia có tính cách phô trương, chắc chắn đắt nhất Sài Gòn trên khắc hàng nghìn tên tuổi. Viên thiếu tá tự hào chỉ cho tôi: "Cho người tử tiết, những anh hùng của chúng tôi đã chết trong những trận chiến đấu chống quân Pháp đàn áp".

Viên thiếu tá dẫn tôi vào ngôi nhà ông ở. Tôi được tiếp ở một gian phòng trang trí vô số ảnh. Những bức ảnh của cuộc kháng chiến. Có một bức chính ông Giáp đề tặng - ông đi duyệt các đội quân. Khắp nơi, những đồn bốt Pháp bị tấn công đốt cháy. Đấy là những chiến công cũ của Bình Xuyên.

Thế nhưng ở vị trí danh dự, đúng bên cạnh những bức ảnh ấy được đóng khung một bằng khen tam tài: một tướng Pháp ca ngợi các đội quân Bình Xuyên về lòng trung thành.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2018, 09:18:08 am

Chúng tôi đến dự một bữa tiệc nhỏ. Các sĩ quan của Bảy Viễn và những thương gia giàu có Chợ Lớn - nhiều tai mắt về đồng bạc đã liên kết với Bình Xuyên - uống cô nhắc sô-đa không mệt mỏi. Trong không khí vui vẻ ấy một ông Annam cắm loa vang lên một điệu hát thống thiết và buồn. Thực khách cùng hát theo. Họ bỗng trở nên nghiêm trang, hầu như có cảm hứng. Ông Annam nói với tôi:

- Đấy là hát bài hát Kháng chiến. Chúng tôi nghĩ đến những người du kích yêu nước ngay lúc này cũng hát bài ấy. Họ ở trong nước đầm lầy, đang ở tiền đồn, đối mặt với ca-nông Pháp. Cuộc sống của họ thật kinh khủng. Trong đêm tối nhiều giờ họ nghĩ đến vợ con đã bao nhiêu năm không gặp và không có tin tức. Đôi khi họ cũng nghĩ đến những tư sản Sài Gòn sang trọng, có tiền, có gia đình. Họ, những người kháng chiến, chẳng có những thứ ấy, họ chỉ có tuổi thanh xuân và có lẽ có cái chết. Họ bèn hát lên để tăng thêm lòng can đảm và nỗi căm giận.

Tôi rất ngạc nhiên vì người đối thoại khoe với tôi về cuộc kháng chiến trong sở chỉ huy của những quân Bình Xuyên vừa phản bội này. Hơn nữa, ông ta đúng là một trong những tư sản hưởng thụ ở hậu phương mà ông vừa tố cáo. Tôi càng ngạc nhiên hơn khi, ngay sau đó, ông ghé sát đầu hỏi tôi có ảnh hưởng gì không đối với sở Hối đoái và Cao uỷ. Vì nếu có người ta có thể mua bán cùng nhau và được rất nhiều tiền.

Bữa tiệc mỗi lúc càng nhộn nhịp. Tiếng cười rộ lên. Loa phóng thanh tung ra điệu nhạc jazz. Rượu liên tiếp, cuồng nhiệt. Mỗi người lần lượt ra lan can nôn oẹ. Đêm xuống và tôi chợt nhận thấy viên thiếu tá đã biến mất. Mười lăm phút sau ông trở lại. Ông đã bỏ bộ quân phục Pháp mặc quần áo thường, bộ comple màu kem và chiếc mũ rơm. Ông đề nghị tôi đi cùng trong một đợt kiểm tra ông phải tiến hành ở Chợ Lớn. Chúng tôi đi trên một chiếc jeep vô danh, không cờ, không phù hiệu.

Trong nhiều giờ chúng tôi đi vòng quanh các lớp hạ tầng với tính cách chuyên nghiệp. Trước hết vào những đường phố nhỏ bẩn thỉu, đen và hôi hám, vào những lều tranh. Mấy ngọn đèn dầu chiếu sáng những người cu-li da sần sùi ngồi xổm quanh mấy tấm ván vẻ thô kệch, đang đánh bạc với đồng xu bát cơm cuối cùng. Cũng có những người hút thuốc phiện, khô quắt người và đắm đuối, nằm lẫn lộn trên những tấm chống nhớp nhúa. Những người cờ bạc nghiện hút ấy đã như người chết. Cuộc sống của họ nhờ vào gái điếm. Họ cười vui. Mới hai mươi tuổi, những cô gái ấy đã sún răng, bị tổn hại, đến nấc tận cùng của cuộc sống con người.

Chúng tôi đến đâu, ở đấy im lặng kính cẩn. Bà chủ nhà khúm núm đưa đến như được vinh dự, những chiếc cốc lầy nhầv và một chai cô-nhắc. Một tên lưu manh lướt lại gần viên sĩ quan báo cáo mấy câu. Đấy là một trong những nhân viên khắp nơi của Bình Xuyên.

Tôi thấy cuộc đi kiểm tra giữa cái nghèo đói và thói xấu ấy hình như vô tận. Đâu đâu cũng là dân chúng đông đảo - dưới sự "bảo vệ" hoàn toàn của Bình Xuyên.

Sau đó chúng tôi đến những khu ăn chơi. Ở đây cũng vậy, khắp nơi - trong các vũ trường, các tiệm hút lịch sự, các nhà chứa loại sang, đều có nhân viên Bình Xuyên đến thì thầm. Nhưng họ kín đáo lại gần chúng tôi, mặc comple và thậm chí bập bẹ một ít tiếng Pháp.

Chúng tôi vào như thế hàng mấy chục nhà. Bốn giờ sáng, khi chúng tôi chia tay nhau, thiếu tá Bình Xuyên nói với tôi:

- Ông thấy Bảy Viễn duy trì trật tự ở Chợ Lớn thế đấy. Mất bao nhiêu sức lực để bảo vệ dân chúng!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2018, 09:19:53 am

Trong trại cầu chữ Y của mình, Bảy Viễn không chỉ củng cố đặc quyền về thói xấu ở Chợ Lớn. Ông ta khôi phục lại mọi hành vi chiếm đoạt cũ, trong đó có cả bắt cóc và thuế, bảo kê. Ông ta đặt ra mọi sự đóng góp, thuế yêu nước, khống chế việc buôn bán. Không một bao gạo nào vào Chợ Lớn mà không trả phí giao thông cho Bình Xuyên - Bảy Viễn đặt trạm thu thuế ở tất cả các cầu đường và kênh mương. Một sự khai thác cao độ.

Cố vấn tài chính chủ yếu của Bảy Viễn là một chú lùn dị dạng Trung Hoa, có trí tưởng tượng ma quái. Hắn không từ một sáng kiến nào để rút bạc. Hắn bị những "nhà trời" giàu có ở Chợ Lớn căm ghét - nhưng họ chỉ thể hiện bằng vái lạy. Chính chú lùn này khác Bảy Viễn quyết định chế độ sòng phẳng giữa chủ nợ và con nợ. Bảy Viễn mua lại với quyền lực và giá rẻ mạt tất cả những món nợ khó đòi. Sau đó những tên giết người Bình Xuyên đi đòi con nợ tiền vốn và toàn bộ tiền lãi.

Tên lùn này cũng thuyết phục Bảy Viễn tham gia vào sự yên bình xã hội. Quân Bình Xuyên đến gặp những người chủ và nói: “Nếu các ông không muốn có đình công thì phải trả từng này. Chúng tôi sẽ bảo đảm trật tự trong công nhân của các ông". Như vậy là có những "nghiệp đoàn" Bình Xuyên cầm súng ngắn theo dõi để công nhân làm việc tùy theo ý thích của những người chủ.

Chú lùn dị dạng ít ra mắt, hắn có một loạt tên họ. Anh ta hợp tác với Bảy Viễn đã hai mươi năm. Lúc đầu là một thương gia Trung Hoa giàu có thịnh vượng, thuê Bảy Viễn làm lái xe. Hai người cùng gặp hoạn nạn, gặp lại nhau ở nhà tù Côn Đảo. Khi họ ra khỏi đó tình thế thay đổi ngược lại. Bảy Viễn trở thành chỉ huy.

Chưa bao giờ hai người bạn cũ, Bảy Viễn can trường và chú lùn tinh tế, làm việc có hiệu quả như năm 1948. Nhờ nghệ thuật trấn lột, Bảy Viễn có hàng trăm triệu đồng cần thiết để xây dựng đội quân của mình, của cải của Chợ Lớn cho phép ông ta nhanh chóng có những toán quân ấy, ông ta có thể càng bóp nặn Chợ Lớn nhiều hơn.

Tất cả tiến hành nhẹ nhàng, người ta không nghe nói đến. Ai dám không quy phục luật lệ bất thành văn của Bình Xuyên? Và rồi dù đồng bạc đem lại thịnh vượng đến mấy, Bảy Viễn cũng không làm cạn kiệt được Chợ Lớn. Những thương gia Trung Hoa giàu có thoải mái nịnh hót và tặng quà. Băng nhóm bất lương cuối cùng chỉ thêm vào một chất men kinh tế nữa.

Ngược lại, thời kỳ này Bảy Viễn bắt đầu trở thành một nhân vật "được tôn kính". Người ta hỏi ý kiến ông ta về những cuộc khủng hoảng chính phủ. Quân đội Pháp đánh giá cao ông ta. Những nhà băng Pháp, sở Thuế quan, ông Franchini coi ông là một khách hàng nghiêm túc. Các giáo phái khác ghen tỵ với ông. Vô số con trai tầng lớp chính trị và tài chính cao đổ xô về trại cầu chữ Y.

Đối mặt với bao nhiêu việc như thế, Bảy Viễn xây dựng một "bộ não tin cậy" nhỏ. Ông thu thập quanh mình một bọn vô lại đủ mọi chủng tộc và dòng máu, có khả năng làm tất cả, mỗi tên có chuyên môn riêng. Ngoài người Việt Nam, Trung Hoa, trong số nhân viên ấy có những kẻ phiêu lưu người lai, thậm chí một số người Pháp.

Hai anh em Thái và San, những người Việt Nam mặt cáo, bị gia đình tư sản của họ chối bỏ từ lâu, chịu trách nhiệm những vấn đề lớn về chính trị và quân sự. Thái, chính trị viên, người bạc nhược, mềm mỏng, ba hoa về lớp sơn học vấn. San, con người quân sự, lực lưỡng và ít nói hơn. cả hai là cố vấn "thân tín" của Bảy Viễn là tai mắt của ông ta. Họ quan trọng ở chỗ Bảy Viễn luôn rụt rè kỳ lạ, cảm thấy bối rối trước "xã hội lịch sự". Đôi khi ông ta cũng đến đó, trịnh trọng và đàng hoàng như một ông chúa nhưng không nói câu nào. Ông thích ở trong trại cầu chữ Y của mình, giữa vô số vợ lẽ, những con thú và binh lính. Ở đó ông sống luộm thuộm, tự quyết định những việc lớn nhưng Thái và San đi ra ngoài để nắm tin tức hoặc thương lượng.

Còn có năm, sáu thân thuộc chính. Vinh, một con vật to béo, trong những tổng chỉ huy, được đoàn quân tôn thờ. Đấy là một trong những đồng bọn đầu tiên của Bảy Viễn. Luôn đi bốt, thắt đai, đội mũ, anh ta đóng vai người lính thô lỗ, cục cằn và trung thành.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2018, 09:23:49 am

Những vụ trấn lột, cướp bóc và cảnh sát hạ đẳng - được giao phó cho Maurice Thiện và Sanmarcelli, người lai. Đây là hai chuyên gia giỏi nhưng có xu hướng xấu muốn ám sát lẫn nhau. Maurice Thiện kết thúc tồi, bị một phát đạn vào đầu trong lúc đang cắt tóc. Đó là viên đạn của Bình Xuyên.

Những biến cố trong xã hội thượng lưu do chiếc lò xo của Jacques Long, tùy tùng của Bảy Viễn, người thân tín yêu thích của ông ta.

Trong băng từng người cố sức làm việc, biết rằng Bảy Viễn không bao giờ bỏ rơi họ. Ông ta làm bất cứ điều gì để cứu họ. Khi người ta đụng đến Bình Xuyên ông lồng lên như một con sư tử. Đổi lại ông đòi hỏi phải hoàn toàn trung thành. Ông trừng phạt không thương xót bất cứ kẻ nào không bình thường, làm vụng trộm cho riêng mình. Ông tha thứ một sai lầm - nhưng không bao giờ tha thứ một hành vi không trung thành, ích kỷ. Thậm chí ông không nương tay với Jacques Long tuy rất yêu mến anh ta! Jacques đã ăn cắp những khoản tiền rồi nói dối. Anh ta bị nhốt vào ngục tối rất lâu.

Bảy Viễn yêu mến người của mình, và muốn được họ yêu mến. Nhưng tình cảm ấy không bao giờ làm ông tê liệt sự nghi ngờ thú vật, ông biết lúc nào mình cũng có thể bị phản bội. Người ta luôn thấy ông bình thản, tươi cười lắng nghe những thân tính báo cáo. Tuy thế đầu óc ông luôn rình rập để khám phá một dấu hiệu khả nghi nhỏ. Nếu nghi ngờ, ông bùng lên giận dữ, ra những mệnh lệnh điên khùng, dã man.

Một lần người ta dẫn vào hai trong số các sĩ quan của ông tiếp xúc với Việt Minh. Ông bắt đầu than thở: "Thế nào, anh, anh, hai người bạn cũ của tôi...” Và vì thất vọng, đau đớn, ông ra lệnh hành tội đặc biệt tinh tế.

Bảy Viễn kỳ lạ! Ông ta còn có thể có những cử chỉ đẹp, không vụ lợi, độ lượng. Đồng thời càng giàu ông càng tham lam, càng ham muốn không cạn. Ông có một nhạy cảm bệnh hoạn. Trước kia ông từng ngây ngô nói: “Tôi là một tên cướp". Từ nay ông bị ám ảnh bởi một vị trí xã hội, ông cần được sự kính trọng. Trước hết phải nói với ông, ông là "người lương thiện". Tuy được mọi nịnh bợ, ông không bao giờ yên tâm. Ông rình rập từng lời, từng chữ, sẵn sàng nghĩ mình bị nhục mạ, sẵn sàng trả thù.

Và rồi là sự nhìn nhận khác thường - ân sủng đột nhiên, tình bạn nhiệt tình của Bảo Đại. Điều đó nổ ra như tiếng sét ở Đà Lạt, nơi tất cả các bộ trưởng, các chúa tể chiến tranh được Hoàng đế triệu tập để bổ nhiệm một tổng tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam vốn chưa có. Tên Bảy Viễn được Văn phòng Quốc trưởng đưa ra. Bất ngờ đến nỗi kết quả là một sự khinh bỉ ghê gớm.

Giáo - người của Bảo Đại ở Huế - không biết những ý đồ mới của Hoàng đế. Hung hăng, ông ta tuyên bố với một ông lạ mặt ăn mặc rất lịch sự, ở gian chính khách sạn lớn Langbian: "Thật xấu hổ khi giữa chúng ta có mặt Bảy Viễn, tên tù khổ sai, tên cướp!". Không may người lạ mặt là đại diện của Bình Xuyên. Được báo Bảy Viễn chạy tới, giận sôi lên, với một khẩu colt to tướng. Ông ta hét lên, vung khẩu súng ngắn: "Tên chó Giáo ấy đâu, tôi sẽ tự mình bắn nó?" Giáo chỉ kịp chạy trốn vào biệt thự hoàng gia, ở kín đấy mấy ngày - cho đến khi Bảo Đại thu xếp một cuộc hòa giải giữa hai người, nhân danh lợi ích quốc gia.

Sự nghiệp khác thường của tên tướng cướp da vàng ấy là như thế. Dù sao Bảo Đại cũng không dám cử Bảy Viễn làm tổng tham mưu trưởng năm 1949; Cao uỷ Pháp cũng không thích. Quốc trưởng bèn tác động cho ông ta làm chủ Đại thế giới. Từ đấy là sự giàu có đáng kính, vinh dự công khai. Ông ta trở thành không ai đụng tới được, đứng trên pháp luật. Thay vì là một tên cướp được tha tội, ông ta là một trong những cột trụ của Việt Nam "quốc gia". Mỗi lần Bảo Đại cử một chính phủ mới ông đều đặt điều kiện là không làm gì chống Bảy Viễn, vả lại cũng không còn Bảy Viễn nữa - tên tù khổ sai cũ lấy tên được tôn trọng là tướng Lê Văn Viễn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2018, 09:25:55 am

Năm năm sau tên tướng cướp hoàn thiện giấc mơ của mình, được trả thù hoàn toàn ngoài khả năng có thể tưởng tượng cho một tên vô lại. Vẫn nhờ Bảo Đại, Bảy Viễn chính thức trở thành chỉ huy tất cả cảnh sát và an ninh của Quốc gia Việt Nam. Quân Bình Xuyên trước kia bị cảnh sát săn đuổi, trở thành những siêu cảnh sát viên. Ý muốn của băng là luật, là sự hợp pháp không chỉ ở Chợ Lớn mà cả ở Sài Gòn bao la. Băng chiếm những ngôi nhà của an ninh đường Catinat, tất cả các sở cảnh sát - những tên cướp trở thành cảnh sát viên. Và chúng truyền bá nền văn minh của thói xấu, trật tự xã hội của thói xấu. Một trong những hành động đầu tiên của Bảy Viễn - Cảnh sát trưởng, là xây dựng một lâu đài mãi dâm, cả một đội quân con gái, được quân đội Bình Xuyên bảo vệ, được coi như một lực lượng chính thức của trật tự. Khách làm tình giữa những tấm gương và súng tiểu liên, được chính quyền tán thành.

Đạt tới đỉnh cao - và rồi vực thẳm. Việc ông ta sụp đổ thậm chí sẽ có những hậu quả không lường được - Bảo Đại sụp đổ, kết thúc sự hiện diện của người Pháp ở Sài Gòn, việc xây dựng chế độ thân Mỹ của Ngô Đình Diệm. Thật mỉa mai! Sau bao nhiêu hy sinh, người Pháp chỉ có quán quân cuối cùng, một quán quân thất bại, tướng Lê Văn Viễn, tức Bảy Viễn. Có cái gì đó đúng chất vô lại xưa kia. Bảy Viễn cũ cướp bóc bằng mọi cách. Nhưng tướng Lê Văn Viễn ở phía những người hữu sản, những kẻ tư bản, giàu có. Ông ta không bao giờ là người anh hùng của dân chúng. Và đấy là lý do làm ông thất bại, vào giờ vinh quang nhất, khi tên cướp trở thành cảnh sát trưởng.

Chưa đến năm 1950. Bao nhiêu bi kịch lớn và đẫm máu xảy ra ở Đông Dương trước sự kết thúc đen tối và khốn khổ! Bảy Viễn chỉ là nhân vật cuối cùng, người anh hùng kỳ cục của cuộc chiến tranh thất bại.

Năm 1950 Bảy Viễn còn ở Đại thế giới, sở hữu, khai thác hợp pháp Chợ Lớn. Giai đoạn dài, hưởng thụ sung sướng lãnh địa của mình nhờ tình bạn của Bảo Đại. Quân Bình Xuyên chuyển từ cướp bóc anh hùng sang cướp bóc văn minh. Họ không làm một số hành động quá lộ liễu như bắt cóc, tấn công có vũ khí nữa. Nhưng họ không tha thứ cho một vụ chính trị hoặc thương mại nào không điều đình với họ. Thay vì chỉ là quân cướp, họ trở thành những cổ đông.

Đấy cũng là thời gian mềm yếu, nội bộ mục ruỗng dần dần. Bảy Viễn sống như một ông tổng trấn, trước đây chưa bao giờ đi quá Côn Đảo, ông ta kín đáo sang Paris, ở đó những người bạn Corse mới khuyên nên để những tỷ tiền thừa vào đâu. Các tướng chỉ huy của ông còn phô bày một lối sang trọng trâng tráo hơn. Thái, cố vấn chính trị, cho làm một lâu đài với những màu đèn ống khắp nơi, sáng liên tục, kể cả ban ngày. Bốn chiếc xe Mỹ thường trực chờ anh ta trước cổng.

Nhưng trong thời kỳ Đại thế giới, Bảy Viễn vẫn không thỏa mãn. Một chúa tể chiến tranh như ông ta không bao giờ thấy quá đủ. Điều ông ta muốn là làm chủ Sài Gòn, Nam Kỳ, Việt Nam. Ông ta sẽ rơi vào tai họa vì điều ấy. Năm 1950, ông ta còn phải chờ thời, kiên nhẫn lâu dài, vô tận.

Vậy là tạm nghỉ. Bảy Viễn ẩn mình, vừa làm giàu vừa tăng cường lực lượng. Ông ta để mặt trước sân khấu cho những người chủ chốt khác. Ông để lại cho Việt Minh và cảnh sát bắt đầu đánh nhau sinh tử trong Sài Gòn.

Năm 1948, trong cơn giận dữ, Bảy Viễn ra lệnh cho quân mình tàn sát Việt Minh. Từ đó ông yên tâm, hài lòng thực hiện chặt chẽ những ký kết với quân đội Pháp - và làm việc của mình. Vì vậy những nơi nào không có Bình Xuyên, Việt Minh tự khôi phục lại trong khu dân cư bao la. Và bỗng nhiên những người Việt ấy vốn tiến hành hợp tác với "thực dân" và "tư sản" lao vào một cuộc tấn công khủng bố dữ dội. Họ đánh vào Sài Gòn và đối phương là cảnh sát.

Từ Đại thế giới và trại cầu chữ Y, Bảy Viễn bình thản theo dõi cuộc chiến tiêu diệt giữa Việt Minh và cảnh sát. Ông ta để cho họ giết lẫn nhau tùy thích, biết có ngày mình phải nắm lấy họng và thanh toán kẻ chiến thắng. Việt Minh và cảnh sát, kẻ địch không đội trời chung của nhau cũng là kẻ địch không đội trời chung của ông trong tương lai.

Vậy là năm 1950 Bảy Viễn rửa tay trong lúc lựu đạn rơi như mưa xuống Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2018, 08:42:57 am

Thời của lựu đạn

Từ lâu dân Sài Gòn đã quen với sự bất lực của cảnh sát và với lựu đạn. Mùa hè năm 1949 những vụ nổ tăng lên nhiều. Mặc dù thế sự thịnh vượng và cuộc sống thoải mái vẫn tiếp tục. Hàng quán chật ních, đường phố đầy người, việc chuyển đổi phát triển. Cơn sốt đồng bạc không cho phép nhiều tình cảm uỷ mị - mặc cho các nạn nhân, cuối cùng cũng chỉ mấy chục người Pháp, không kể quân nhân.

Người ta tiếp tục nghi Việt Minh không tìm cách tiêu diệt những người Pháp của đồng bạc. Lựu đạn chất lượng kém, nhiều khi không nổ. Những "người ném " được tuyển dụng bất kỳ, không phải những Việt Minh thực thụ. Có thể nói "việc ném lựu đạn" ấy trước hết là một loại trình diễn - những người Pháp ở đường Catinat không thấy vì lý do gì và cũng không tự hỏi về điều ấy.

Những người Pháp rán chịu, nhất là thực ra thì người Việt Nam chết nhiều.

Việc ném lựu đạn cho đến năm 1949 không phải là một cuộc chiến tranh. Đấy chỉ là chiến tranh tâm lý. Những quả lựu đạn là cách giữ vững tinh thần dân chúng, cũng là những tờ giấy thuế. Chúng phù hợp với tình hình, cần thiết với mức độ thích hợp về chính trị trong thủ đô, là một phần của sự cân bằng ở Sài Gòn. Dân chúng hiểu sự cần thiết ấy một cách vô thức. Vì vậy họ khiếm nhã, chịu đựng sự bất lực của cảnh sát.

Sự cân bằng ấy tồn tại lâu nhưng mùa thu 1949 lựu đạn tăng lên thực sự quá nhiều. Những người Pháp của đồng bạc bỗng thấy quyền miễn trừ của mình đã hết, họ phát hiện ra từ nay mình là mục tiêu. Tất cả những nơi tập hợp xã hội giàu sang: những quán ăn ngon, vũ trường đẹp, rạp chiếu phim. Hộp đêm là những ổ lựu đạn. Đường Catinat ở Sài Gòn, đường Thủy Thủ ở Chợ Lớn là những đường phố chính của lựu đạn. Mỗi đêm tiếng nổ liên tiếp thành dây, vang cả thành phố. Mỗi vụ nổ chỉ trong mấy giây. Mỗi quả lựu đạn là một tiếng bùng đanh gọn, vài tiếng kêu của nạn nhân, một hay hai bóng đen chạy đi và nhiều phút sau tiếng còi xe cứu thương hoặc xe cảnh sát. Và không bao giờ, kể cả ở những khu người Âu, người ném lựu đạn bị bắt.

Lúc đó Sài Gòn đúng cảnh một nhà tù, bao bọc lưới sắt - hàng ăn, quán rượu, vũ trường nhốt mình trong những tấm màn thép. Ngồi chỗ được che chắn người Pháp đang ăn uống lắng nghe tiếng nổ. Có những đêm họ đếm được hàng trăm. Giờ nguy hiểm nhất là lúc đêm xuống, tranh sáng tranh tối.

Việc che chắn như thế ở Chợ Lớn bắt đầu trên đường Thủy Thủ trong một tiệm ăn tồi tàn, chủ tiệm rán bít tết cho những "người da trắng bình thường". Đến quả lựu đạn thứ mười, chủ nhà đáng kính cân nhắc thiệt hơn, quyết định những chi phí đặc biệt. Càng đáng khen là đồng thời ông ta thách thức Việt Minh. Ông đóng kín tiệm mình trong một màng lưới thép dày. Và một người gác bụng to đứng trước cổng chỉ mở cửa cho những khách hàng chắc chắn. Người ta ăn tối trong yên ổn - và trong lồng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2018, 08:45:14 am

Cả Sài Gòn tự nhốt mình sau những song sắt. Nhưng Sài Gòn ấy xấu hổ vì sự khôn ngoan. Vì vậy người ta cũng tranh thủ chút vinh dự, như không có gì xảy ra, lui tới những thềm khai vị. Ở đây không có lưới sắt. Đông đúc hơn bao giờ hết. Chủ và khách tự cho là mất danh dự nếu có biện pháp đề phòng ở những nơi dành cho người Pháp này. Giới siêu việt tiếp tục nhấm nháp quanh những chiếc bàn nhỏ trên hè phố như không có gì nguy hiểm. Trước hết không nên có vẻ nhìn những cậu bé đánh giày hoặc bán kẹo bất cứ lúc nào cũng có thể ném chất nổ. Coi như không có chúng ở đấy. Việc khinh khi những trường hợp đột xuất ấy không ngăn cản được những quả lựu đạn.

Rất lạ là ít xảy ra điều đó trên thềm khách sạn Continental của ông Franchini, nhưng đặc biệt nhiều ở phòng trà Pagode có lưới sắt - thường người ta không kéo lại. Khách ăn đã quen với tình hình. Nghe mỗi tiếng nổ mọi người - chủ nhân trẻ hơi mập, cô thủ quỹ, các bà đứng đắn uống trà và những ông Annam thích sôcôla, những anh bồi xấc xược và chậm - tất cả cùng một lúc nằm xuống sàn nhà. Sau vụ nổ người ta lại đứng dậy. Những người vẫn nằm lại là bị thương hoặc chết. Rồi cảnh sát đến, xe cứu thương mang đi những người chết và hấp hối. Bồi lấy giẻ chùi những vũng máu, sắp xếp lại bàn ghế. Một giờ sau những người khách mới đến ngồi vào chỗ các nạn nhân đã nằm. Và các bà Sài Gòn lại ngồi vào bàn, trước chén nước và thìa bắt đầu nói về điều thực sự quan trọng - vũ hội sắp tới của Câu lạc bộ thể thao.

Tuy vậy về lâu dài phải thấy rõ người Việt không chơi trò đánh bạc nữa, không kính trọng đồng bạc nữa. Điều họ làm là một cuộc tấn công hẳn hoi vào đồng bạc trị giá mười bảy phrăng và những gì kèm theo nó - việc chuyển đổi, các vòng quay, các khoản lãi béo bở. Về điều đó những người Pháp ở Sài Gòn không tha thứ cho họ được. Đúng là một sự phản bội.

Dân chúng Pháp, bị thương tổn và đe dọa cũng căm ghét Việt Minh. Họ không có điều kiện trả thù. Người Việt muốn làm gì thì làm. Từ thỏa thuận ngầm, đồng lõa bí mật, họ bất ngờ chuyển sang tắm máu khi quyết định, cả đám đông da vàng chủ động hoặc bị động đứng về phía họ, bảo đảm cho họ khỏi bị trừng phạt. Thất vọng, các ông các bà ở Sài Gòn kêu lên: "Chà, nếu bắt được một trong những "kẻ ném lựu đạn ấy".

Cuối cùng, một hôm các ông bà ấy nắm được không phải một mà hai. Việc bắt giữ ấy xảy ra trước cửa hàng cà phê - ăn uống La Paix, nơi tụ họp của những ông thuộc địa "cũ" không phải những ông "lớn" của Sài Gòn mà những nhân vật trung bình của đồng bạc. Đấy là những ông già còn mạnh khỏe nhưng đã ngả màu tím và thô thiển. Họ đến đây hoàn toàn thoải mái với cái bụng và củ tỏi. Chủ nhân là một thùng tô-nô, tròn ngắn cũn cỡn. Tất cả đều thân tình nhưng các bà cũng có những vật trang điểm kim cương.

Một buổi tối những người đang ăn thấy hai người Annam đi qua đường cùng ngồi trên một chiếc xe đạp. Hai đứa trẻ gầy đét, một đạp xe, đứa kia tung một quả lựu đạn. Có mấy người bị thương nhẹ. Cả nhà hàng hét lên: "Bắt lấy chúng, bắt lấy chúng!". Những ông thanh thoát nhất chạy đuổi theo những "kẻ ném lựu đạn" chỉ cách phía trước năm mươi mét. Hai đứa hoảng sợ. Đứa đạp xe đứng lên đạp mạnh hơn, đứa ném lựu đạn ngồi sát vào. Đường phố đầy tiếng kêu, tất cả những người Pháp trong khu đổ xô ra. Chỉ qua hai trăm mét những "kẻ khủng bố đi ngoằn ngoèo, yếu sức và bị đuổi kịp, lật nhào gần Bodega - một cửa hàng ăn khác rất sang trọng. Khách hàng, đầy huân chương, ra tham gia cùng đám đông. Hai đứa trẻ Annam khuất trong khối người đấm đá chúng. Các bà kích thích cao độ, la eo éo: "Phải đánh chết chúng ngay. Chắc chắn hơn vì cảnh sát đáng nguyền rủa có thể thả chúng đấy". Nhưng "cảnh sát" xuất hiện, kéo dưới những mét khối người Pháp ra hai kẻ "giết người". Tôi nhận thấy hai cậu bé chưa đầy mười lăm tuổi. Sau đó chúng kể lại với cảnh sát có một ông gặp chúng ở cảng bảo: "Các em ném quả lựu đạn này vào nhà hàng La Paix". Ông ấy chỉ cho chúng cách rút chốt lựu đạn, cho chúng hai mươi đồng bạc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2018, 08:47:00 am

Người ta còn bắt được một số "tên khủng bố” khác. Điều đó không thay đổi được gì, lựu đạn rơi khắp nơi. Trong một rạp chiếu phim hầu như mỗi tuần nổ một quả trong phòng chiếu. Người ta lục soát người đi xem trước cửa rạp nhưng vô ích. Cuối cùng phát hiện ra chính người quay máy thỉnh thoảng thả một quả qua rãnh phòng chiếu.

Đấy là thời gian ở Sài Gòn các bà chủ nhà Pháp phát hiện ra "bồi” của họ là trưởng một ban ám sát. Phía sau lò nấu ăn, anh "bếp", một viên chức cao cấp chỉ huy một đường dây. Người ta không tin chắc vào gì nữa, kể cả đầy tớ trong nhà. Tất cả những người Việt Nam im lặng.

Mỗi tuần lễ tình hình càng trầm trọng thêm. Vào mùa thu Nguyễn Bình cử vào Sài Gòn những "kẻ giết người" thực thụ. Và những người này làm việc khoa học, với những quả lựu đạn khía vuông.

Những cuộc chém giết ngay bên cạnh đường phố Catinat, nhất là trong những phòng khiêu vũ của con người và binh lính. Ở Paprika một loa phóng thanh tuôn ra một điệu nhạc Java trong đêm cản trở nghe tiếng nổ. Người ta bất chợt thấy gái đĩ và lính ngã xuống nằm dài trên đất. Lựu đạn khía vuông "quét sạch" phòng nhảy. Không có xe cứu thương. Các lái xe mang những người bị thương đi. Tôi nhận vào xe một cô gái điếm và hai lính thủy hấp hối. Những bóng khí từ phổi một thủy thủ phun ra. Cô gái son phấn, béo chảy một dòng máu đen xuống đệm. Bệnh viện quân đội từ chối nhưng tôi đã thuyết phục để họ nhận cho.

Một buổi tối ở Đa Kao, ngại ô các thú vui của binh lính, tôi ăn phở trong một quán rượu. Một quả lựu đạn nổ phía xa trong sự thờ ơ chung. Mấy phút sau, một viên cai vỗ vai tôi bảo: "Ông trả tiền cho tôi một cốc chứ? Vì những hồi hộp của tôi!". Ông ta đầy huân chương, uống và nói:

- Chúng tôi không thấy quả lựu đạn. Tôi không xây xước gì nhưng bạn gái tôi tuôn máu ra trên lề đường. Xung quanh chúng tôi dân quê cười gằn. Những chiếc xe chở đầy tư sản da vàng chạy đi. Không thấy bóng một cảnh sát. Tôi chặn một chiếc taxi. Người lái đòi ba mươi đồng để đưa chúng tôi đến bệnh viện, bảo máu sẽ làm bẩn đệm xe. Ở bệnh viện, bác sĩ tỏ ra dễ mến, giải thích cô gái sẽ khỏi - có những lỗ to, không phải lỗ nguy hiểm. Rồi ông ta bảo tôi đi đi trong lúc người ta đưa cô bạn lên bàn. Nhưng tôi cứng rắn và chỉ thấy khát.

Chúng tôi từ Tourane đến để về Pháp trên cùng một chuyến tàu. Đi trên đoàn năm, sáu chiếc tàu nối đuôi nhau. Để tiến lên, phải làm lại đường sắt dần dần; qua mỗi chiếc cầu, chúng tôi tự hỏi có bị lao xuống vực không. Mìn nổ ngay dưới đầu máy. Việt Minh tấn công hai lần. Chúng tôi ở trong những toa bọc thép và bắn trả quyết liệt. Phải mất mười ngày. Chúng tôi chỉ ở Sài Gòn trong mấy tiếng đồng hồ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2018, 08:48:57 am

Ở Sài Gòn chỉ có chạy trốn. Người ta không bảo vệ người lính. Ông xem, người ta lấy súng ngắn của tôi, trước khi để đi dạo phố. Ở miền Trung tốt hơn. Có Việt Minh khắp nơi, họ giả dân làng, chức sắc nhưng cuộc sống vững vàng. Tôi có một người nắm được tình hình, dân quê không qua mắt ông được. Ông khuyên họ đừng đụng đến một sợi tóc người của ông. Ông nói khi dân quê đã ám sát thì họ không ngừng lại nữa. Nếu để họ làm, họ sẽ làm liên tục, chặt chúng ta thành từng khúc. Nhưng với ông ấy, họ không mạo hiểm...

Nói đúng ra, ở Đa Kao, biên giới văn minh ngay gần đấy. Cách một trăm mét, ở chiếc cầu rất đẹp bằng xi măng bắc qua một con lạch. Lạ lùng là điểm tận cùng của nền văn minh ấy, trên bờ nước bẩn, là một quán rượu mà giới thượng lưu Sài Gòn thường đến ăn uống. Ở đầu khuất vắng của Sài Gòn này vào các bữa ăn người ta thấy những ông bà lịch sự ra khỏi những chiếc xe nhãn hiệu có tiếng và chui vào một ngôi nhà hư nát. Người đầu bếp giỏi nhất thành phố mở quán ở đây. Nhiều buổi sáng ông bắt đầu ngày làm việc của mình bằng đếm những xác chết đêm trước dạt vào bờ, không xa tủ lạnh của ông.

Qua chỗ ấy là hư ảo của sự giết chóc và "trò đùa". Sự tồn tại của con người tuyệt đối không đáng kể; cái sống và cái chết chỉ là những trò đùa. Trước hết là một đầm lầy cây cối xanh tươi, con đường lớn đi qua, rộng và tráng nhựa. Vượt hai cây số là Gia Định, một ngoại ô thuộc địa đẹp đầy vườn và những khu đất nở hoa. Đấy vừa là địa ngục vừa là thiên đường. Ở đây tập trung lẫn lộn những lính dù, lê dương, Việt Minh, nhà chứa, cảnh sát. Không bao giờ ngừng đánh nhau ở giữa Gia Định. Những biệt thự đẹp dùng làm nơi đóng quân của các đội xung kích. Nhưng bên ngoài, nhất là từ hoàng hôn, con đường thuộc về Việt Minh, quân chính quy, những nhân viên ám sát của họ. Điều ấy không ngăn cản lính đến những chỗ vui chơi. Ở đấy họ có mọi thứ để tự bảo vệ. Ban đêm họ vào quán rượu, vào nhà các bà mẹ bán quà vặt khắp nơi. Những nhà nhiều người lui tới nhất do bạn bè gắn bó với các cô gái Việt Minh quản lý. Người ta uống sau những cánh cửa đóng kín, khóa chặt. Việt Minh ở bên ngoài đến bắn vài tràng đạn hú họa qua cửa sổ, qua tường. Người Pháp cũng rống lên tiếng kêu thảm thiết. Cô gái chủ nhà hàng trúng đạn.

Gia Định là chỗ nghỉ ngơi của những đội dự phòng. Vậy là cuộc sống đàng hoàng. Một trong các đại tá "đỡ đầu" cho một mụ tú bà. Trong nhà ăn lính dù, các hạ sĩ sau khi uống vội những lít rượu nho, so sánh một cách ly kỳ chiến công của họ trong nhiều giờ; “Tôi nói với anh những gì anh đã làm là số không bên cạnh tôi..." Trong một bữa ăn, những người lính nóng nảy gọi người "bồi" Việt Nam lại để bạt tai, sau đó cho anh ta tờ giấy năm đồng. Đầu tháng những người đạp xích lô chạy vội đến để chở những mũ nồi đỏ, nối tiếng hào phóng. Nhưng cuối tháng họ chạy trốn như có bệnh dịch, vì để trả công, những người này đá vào đít họ hoặc lật đổ xe. Tối thứ bảy thật phóng đãng. Để tiêu khiển với những người Việt không đủ. Hầu như khắp các quán rượu đều có đánh nhau giữa lính dù và lê dương. Theo truyền thống cũ, lính thuỷ bao giờ cũng đứng về phía lê dương.

Gia Định hiền lành! Cảnh sát Việt Nam làm nhiệm vụ, nói với các sĩ quan Pháp: "Khi chúng tôi thẩm vấn đến mức thứ ba các ông đừng nhìn. Các ông, người Âu quá nặng về tình cảm".

Đại tá quận trưởng là một gương mặt. Một buổi chiều chiếc xe jeep chở phi công từ Sài Gòn tới. Họ nói: "Việt Minh đang bắn chúng ta ở nhánh sông cụt". Đại tá kêu lên: "Tiến lên", và lao đi. Người bảo vệ chạy thoát về báo động. Hoảng hốt, một toán quân chạy đi cứu đại tá, chẳng hy vọng gì - chắc chắn ông đã bị chặt thành khúc. Người ta thấy ông bình thản ngủ trong hố, bên cạnh chiếc xe nát vụn sau khi uống hết rượu.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2018, 08:51:06 am

Một câu chuyện khác. Một đoàn xe Pháp bị tiêu diệt trong khu vực đại tá. Ban tổng tham mưu ra mệnh lệnh: "Đem hết các toán quân của ông đuổi bắt Việt Minh phục kích và tiêu diệt hết”. Đại tá hành quân. Bốn giờ chiều ông dừng lại trong một đồn điền kiên cố và mến khách. Người ta mời ông uống rượu. Đến bốn giờ sáng ông vẫn còn đấy, đang uống. Sáng hôm sau ông có một quyết định lớn, cho thả một đại đội lính dù giữa rừng dày đến nỗi họ lạc nhau. Không quân phải tìm họ và hướng dẫn ra khỏi mê lộ cây cối. May mắn không có Việt Minh ở đấy.

Người Việt căm ghét viên đại tá ấy, đặt giá đầu ông 100.000 đồng. Họ muốn giết ông, không ngừng, bằng mọi cách; ông luôn thoát khỏi. Họ rải mìn, đạn cối lên thềm nhà, đường đi trong vườn nhưng ông không bao giờ dẫm phải. Một lần thức dậy ông thấy bên giường mình một chùm mười bảy quả lựu đạn nhưng dây giật bị hỏng. Quân chính quy trèo lên cây trong vườn bắn qua cửa sổ vào nhà lúc ông ăn, ngủ hoặc làm việc nhưng không trúng. Đại tá sống sót trở về Pháp.

Chính con trai ông, sĩ quan trẻ ở Đông Dương bị giết khi ông bố đang chỉ huy ở Gia Định. Đám tang ở nhà thờ Sài Gòn rất trọng thể. Tất cả những nhân vật cao cấp trong quân đội tham dự. Bốn trung uý mặc lễ phục trắng vác xác anh trên vai. Trong buổi lễ họ cảm thấy xác đã thối rữa qua chiếc quan tài không kín chảy xuống đồng phục của họ.

Trong cuộc chiến tranh Đông Dương này hài kịch luôn luôn đi với bi kịch. Phòng Nhì chắc chắn quân Việt sẽ tấn công lực lượng lớn vào Gia Định và Sài Gòn. Có báo động quan trọng. Đội thiết giáp Gia Định được bổ sung lính Sénégal: họ vừa lên tàu chưa đến hai giờ! Người ta vẫn sử dụng. Đêm hôm sau đi tuần tra một trong bọn họ biến mất. Tìm kiếm không thấy. Làm sao phát hiện ra một người da đen trong đêm tối. Sáng hôm sau người ta thấy lại anh vô cùng bối rối - anh rơi xuống đáy một cái giếng.

Trong số trưởng ban ám sát, người nổi tiếng nhất là một người bị liệt hai chân. Người Pháp chỉ biết anh là một người tàn tật bán quán. Họ không nghi ngờ gì anh một thời gian lâu. Làm sao họ nghĩ chính anh lãnh đạo tại chỗ những cuộc phục kích và giết người? Một người to lớn bế anh như một đứa bé. Công việc xong, khi cần ẩn nấp để tránh quân tuần tra Pháp lùng sục khắp nơi, lực sĩ nhấn đầu vùi anh xuống bùn lút cả người, sau đó moi lên.

Người to lớn bị bắt, khai ông chủ bị liệt. Sau đó nói với viên sĩ quan Pháp đã bắt anh ta:

- Đáng lẽ tôi đã giết chết ông cách đây một tháng. Sau vụ ném lựu đạn, ông một mình đuổi theo chúng tôi. Khi dìm chỉ huy tôi xuống bùn lầy và nấp sau bụi cây tôi đã ngắm ông ở đầu súng. Tôi sắp bấm cò thì ông kích thích trí tò mò của tôi. Ông dừng lại, lật áo sơ mi gãi lưng. Trong lúc tôi tự hỏi ông đang làm gì thì người của ông theo kịp. Thế là chậm mất rồi.

Viên sĩ quan chỉ phủi kiến đỏ ở lưng và gãi vì ngứa không chịu được.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2018, 08:52:06 am

Tất cả đều có thể. Ở Gia Định và Đa Kao, một người có thể giết rất nhiều - hoàn toàn thờ ơ - và là một chàng trai xuất sắc với tấm lòng vàng. Như anh lính lê dương người như chiếc tủ gương, đôi bàn tay rất to, chăm sóc như một người mẹ các bạn ít dày dạn hơn. Đã biết bao lần anh đi tìm dưới lửa đạn những anh bạn bị thương vác trên lưng đưa về! Và đồng thời anh không quan tâm đến mạng sống những người khác cũng như của anh.

Một buổi tối anh buồn, hối hận, tâm sự với bạn:

- Tôi xấu hổ đã giết một người vì một ít tiền. Mạng sống phải đáng giá hơn mấy đồng bạc.

Sau một bữa tiệc ở Gia Định anh đi bộ về Đa Kao lúc khoảng nửa đêm. Đang đi trên đường vắng và tối giữa cánh đồng lầy thì nghe tiếng một chiếc xe "tac tac" do lừa kéo, loại taxi của người nghèo, cũng gọi là "hộp diêm". Anh lê dương mặc cả giá với người đánh xe - một ông già hiền lành ngồi xổm phía trước cầm dây cương. Anh ta ngồi trên chiếc ghế dài ngay sau ông lão chỉ thấy lưng. Anh chồm lên bóp cổ nhưng chỉ tìm thấy hai mươi đồng bạc trên xác chết.

Và hôm sau anh không ngớt nhắc đi nhắc lại, giọng Đức:

- Nếu biết ông dân quê chỉ có từng ấy tiền, chắc chắn mình không bóp cổ ông ta.

Đấy là một trung uý SS cũ. Trong chiến trường Nga anh lo ngại nhận thấy tinh thần toán quân sụt hẳn: người của anh mệt mỏi vì giết Do Thái. Một công việc quá đơn điệu, không một chút gì khác lạ.

- Tôi phải tìm thú tiêu khiển. Một hôm tôi được lệnh thanh toán một cộng đồng Do Thái và phải phá huỷ làng. Tôi nảy ra một ý, đưa ô tô đến, cho trói những người Do Thái sau tường nhà họ và đầu dây kia buộc vào ô tô. Xe chạy, những người Do Thái bị siết chết và làm đổ nhà cả làng; Việc ấy có vẻ kỳ lạ đối với lính của tôi, và họ cảm thấy can đảm hơn một ít.

Lạ hơn cả, hai anh bạn mà anh lê dương kể lại việc làm cao cả ấy, một là Do Thái, người kia là một trí thức vừa rời Sở chỉ huy Pháp. Nhưng không người nào cảm thấy bị đụng chạm. Họ hiểu rất rõ chỉ là một vấn đề chỉ huy, thuần túy kỹ thuật.

Ba người sống như anh em dưới bậc tam cấp một sân vận động quân đội mà anh lê dương là người bảo vệ. Họ sinh sống bằng dạy võ Jiudo. Với dây và những tấm ván, họ dựng lên một gian phòng, những "tay táo tợn" đến tập luyện. Là công việc nghiêm túc với mọi kỹ thuật về xiết cổ, bóp ngạt, làm tê liệt, ngừng tim, bẻ gãy xương sườn và chân tay. Một môi trường rắn rỏi.

Ba người có phòng ngủ. Một trong những trò vui là làm rơi một chiếc chuông chùa nặng mười ki-lô xuống đầu anh bạn đang ngủ. Nhưng nếu một trong bọn họ đau yếu, hai người kia chăm sóc ngày đêm, đun thuốc lá, lau trán, nói với người bệnh những từ nhỏ nhẹ cảm động.

Thời của những quả lựu đạn ở Sài Gòn là thế. Và mỗi tuần lễ tình hình trầm trọng thêm. Có những vụ giết người, kế hoạch hoàn chỉnh về một cuộc nổi dậy và sẽ là cuộc chiến ở Sài Gòn.

Đối với lính lê dương có gì thay đổi? Chỉ thêm một tí "trò đùa". Nhưng những người Pháp của đồng bạc, mỗi ngày càng gặp tai họa, họ không ngừng tự hỏi: "Vậy Nguyễn Bình muốn gì? Việt Minh muốn gì? Họ chẳng tôn trọng gì nữa sao?"

Để trả lời câu hỏi ấy phải nhìn ra ngoài Sài Gòn. Vào đầu năm 1950, cuộc chiến tranh Đông Dương đã tới một giai đoạn quyết định mà người ta không hình dung tới. Mỗi bên sẽ dùng những gì mình có, tối đa, trong cuộc đối đầu toàn diện. Trong thời kỳ này, tất cả có thể tiến hành nhanh chóng, được quyết định đầy đủ với hướng này, hoặc hướng khác.

Vì thế Việt Minh từ bỏ lợi ích tài chính của Sài Gòn tư bản một thời gian. Họ thử chinh phục thành phố này. Chỉ sau đó khi thấy cuộc chiến tranh Đông Dương phải kéo dài mấy năm nữa họ mới buông lỏng, trả lại cho Sài Gòn vai trò độc quyền về đồng bạc có lợi cho tất cả mọi người. Và lần này kéo dài vẫn có đồng bạc giá trị mười bảy phrăng, cho đến gần thời kỳ Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2018, 07:22:18 am

Những con người quá khích của Sài Gòn

Ở Đông Dương có những người làm thuê của chiến tranh và những người làm thuê của đồng bạc. Người ta ở đấy vì họ thích đánh nhau; những người khác vì họ thích đồng bạc. Điều lạ lùng của tình hình là những người đổ máu, những người vì đồng bạc ấy bị Châu Á mà họ khai thác chinh phục. Theo cách của mình, họ bị đánh dấu, không thoát ra được nữa. Tim họ đã bị chiếm đoạt. Và đấy là nét cao quý của cuộc chiến tranh tàn khốc và vô tận này, tính cách độc nhất của nó. Trong những ô nhục tệ hại người ta vẫn có chút không vụ lợi; trong những ghê tởm xấu xa nhất vẫn có chút lòng tốt. Và luôn luôn về các mặt có không khí như say sưa, một sự vui vẻ thường trực. Về căn bản tất cả là sự hưởng thụ. Châu Á là thế giới bí mật của sự phản trắc, tàn bạo và căm hờn. Thế nhưng - giải thích ra sao được? - không phải là một thế giới xa xôi, riêng lẻ. Người ta không đứng trước chân tường như ở những người Hồi giáo. Ngược lại Châu Á đổ bùa mê tha hóa những con tim và tâm hồn; có thể làm điên tiết mọi khả năng con người, đẩy lên cực điểm một cách nguy hiểm, đau thương. Người ta sống hoàn toàn vì nó, chết vì nó. Nhưng trước mắt, mặc dù mọi khoa học về tra tấn và lo âu, nó là một thiên đường, vương quốc của thú vui.

Có thành phố nào vui vẻ hơn Sài Gòn, của chém giết và buôn lậu? Và không phải một niềm vui giả tạo là niềm vui ấm cúng thực, quyến rũ; Đấy là thực chất của Sài Gòn, cái bẩn thỉu, quái đản nhất của tất cả các thành phố. Đấy là điều chuộc lại tội lỗi cho thành phố này cũng như nó chuộc lại toàn cuộc chiến tranh Đông Dương.

Cả những người ngu ngốc và tàn ác nhất cũng có điểm yếu của một bông hoa xanh dù là bông hoa của tội ác. Vì nó nảy nở trên những tình cảm thực, lẫn lộn sự dịu hiền của con người, những khoái lạc và những điên rồ. Trong xứ Đông Dương mà tất cả là nguy hiểm, người ta có thể nói con người không hoàn toàn thuộc về mình nữa. Và người ta tìm thấy ngay trong phép biện chứng, máu và tiền bạc những con người thực sự quá khích.

Ông bạn tôi nguyên là người Phòng Nhì đã làm được bao nhiêu triệu đồng nhờ vào những vụ buôn lậu khôn ngoan và tài tình mà mọi cái đều được tính toán, tinh tế và lương thiện trong cái không lương thiện? Tôi không bao giờ biết được. Ông chết đi còn hơn là tự thú với tôi.

Châu Á làm ông say đắm, đốt cháy đầu óc và các giác quan ông. Với mấy người bạn, ông ở trong một ngôi nhà to trên cao nguyên - một chỗ trú ngụ đầy hộp thực phẩm, chai rượu uống dở, những ống điếu thuốc phiện, ruồi muỗi và những con người càu nhàu bằng tiếng Quảng Đông. Ông đắm mình dưới một chiếc quạt, nhăn nhó vì đau bụng. Ông là một nhân viên được đánh giá cao ở sở thuế quan, về nhà lúc sáu giờ. Nhưng cuộc sống của ông bắt đầu từ đêm, khi ông biến mất ở Chợ Lớn đến các nhà tỷ phú Trung Hoa cũng như các cô gái điếm khổ sở.

Ông tự hào vì chiếm được lòng tin của các "đại gia", đấy cũng là nguồn gốc tài sản của ông. Ông để nhiều năm tán tỉnh họ, được cùng chè chén, tham dự những buổi thảo luận của họ - tiến hành sau hệ thống tường và lưới sắt được đoàn quân đầy tớ và tay chân bảo vệ.

Ông không chỉ thích thú tiền bạc. Đấy là ý tưởng nhà trời về tiền bạc, tinh thần tuyệt đối về cờ bạc, lý luận vững chắc, khó hiểu đối với người Âu. Nhưng ông hiểu.

Việc vui chơi cũng như thế với các cô gái điếm bình thường. Đấy là vấn đề trí não, cũng là "cuộc đấu tranh những ý nghĩ". Ông biết rõ ông không thể được yêu với thể chất của mình. Ông chi tiền; nhưng ở Châu Á tiền là cuộc chiến mưu mẹo, và hơn hẳn ở Châu Âu! Đó là vấn đề làm ông say mê.

Nói chung ông không chỉ hài lòng về những cuộc thoáng qua. Để có một đối tượng xứng đáng với mình, ông đưa một gái đĩ về nhà, đối xử như bà hoàng. Nhưng thường thường ông bị thất bại.



Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2018, 07:23:40 am

Cô gái đẹp nhất là My phải trở thành có tiếng. Đấy là con gái một đại tá Bình Xuyên. Mẹ cô có một nhà chứa nhỏ giữa vùng đầm lầy trong khu nhà tranh. Tuyệt đối đơn giản, không điện không nước. Người ta đến trong một căn nhà tre tối tăm. My, đẹp và ít nói, giúp đỡ mẹ. Khách là những cu-li cục cằn. Khi quá nhiều người My cũng tiếp, thỏa mãn họ, không làm sao cả. Nhưng cô cũng còn e thẹn. Khi ông bạn nguyên Phòng Nhì dẫn tôi đến nhà gặp cô, ông bảo cô cởi áo cho xem bộ ngực mới lớn, cô kêu lên chạy trốn. Sau đó mấy cảnh sát Bình Xuyên đuổi chúng tôi đi.

Ít lâu sau My đến ở với ông. Cô vẫn ăn mặc theo lối quê, áo quần vải đen. Với những nét duyên dáng, thường bĩu môi, người ta có thể nói cô là một cô bé. Suốt ngày cô ăn và léo nhéo với đám người trong nhà. Cô cũng học. "Chồng" cô rất hài lòng về cô, dạy cô tập đọc qua những truyền thuyết, hình ảnh khỏa thân mà ông cần để có thể hoạt động.

Không bao lâu My tỏ ra ngọt ngào suy đồi. Một hôm một thanh niên Pháp đến nhà ông bạn Phòng Nhì cũ - ông ta đi vắng. Một bà già bảo rằng My sẽ thay thế tiếp anh. Cô trần truồng trong nhà tắm, đưa miếng xà phòng bảo anh: "Hãy tắm cho em". Cô cười. Điều đó xảy ra êm dịu, dễ dàng nhất trên đời. My cũng không đòi tiền nhưng một tuần lễ sau gặp chàng trai, cô bập bẹ tiếng Pháp vẫn rất vui vẻ:

- Anh biết không, em muốn có những chiếc áo dài đẹp. Anh mua cho em một chiếc máy khâu.

Điều ấy trở nên nghiêm trọng hơn khi "người chồng" nhận thấy hầu như mỗi ngày có một đồ vật biến mất. My bán đi lấy tiền trả nợ. Vì niềm say mê chính của cô, cuộc sống của cô là đánh bạc. Cô ở cả ngày ròng trong Đại thế giới. Đôi khi người ta không thấy cô trong hai ba ngày. Cô đến những hang ổ khốn khổ, ngồi xổm liên tục trên chiếu bạc, giữa những người đáng lo ngại, nhóm cặn bã giết người, ma cô, gái gọi. Ở đây cô là bà hoàng.

Ông "chồng" nói với My: "Cô là một đứa ăn cắp. Nếu cô còn bán đồ đạc của tôi nữa, tôi sẽ gọi cảnh sát". Cô cười hô hố nhưng nghe lời. Một tháng trôi qua. Bỗng một tay cho vay nặng lãi người Nhà trời đến bảo: "Cô My vay tôi một nghìn đồng, bảo vinh dự được ông bảo trợ. Tôi đã cho vay để khỏi xúc phạm đến ông". Rồi những người cho vay khác đến đòi mười nghìn đồng, một trăm nghìn đồng. Vì My không còn là gái điếm tầng lớp dưới nữa. Ở đâu cô cũng tuyên bố: "Tôi là vợ của ông X." Cô đã vào phòng riêng của Đại thế giới, trong giới sang trọng của Sài Gòn, những ông vua buôn lậu và các bà vợ bộ trưởng đầy kim cương. Lơ đãng, cô vứt xuống thảm xanh những tấm thẻ trị giá cả những tài sản, thua vẫn cười vui vẻ.

Ông bạn Phòng Nhì tự thấy đứng trước vực thẳm. Ông muốn đuổi My nhưng rất sợ. Vì bằng lời lẽ tối nghĩa và đe doạ cô nói về bố mình, đại tá Bình Xuyên sẽ không để cho con gái bị mất mặt. Bà mẹ ma cô đến trao đổi với cô những lời hòa giải bí hiểm. Ông không mạo hiểm ra ngoài nữa để giữ mạng sống của mình. Cuối cùng sau những thương lượng phức tạp và phải trả một món tiền đáng kể, ông được người đẹp My đồng ý ra đi.

Vừa thoát khỏi tai họa, mấy tháng sau ông thấy trên báo chí Sài Gòn, bên năm cột báo, bức ảnh lớn của một sắc đẹp say đắm - một bà trang điểm tuyệt vời, đầy vật trang sức, mặc áo lụa dài. Đấy là My. Vì cô, một người Pháp được một xưởng lớn tin cậy, một ông nghiêm túc, cẩn thận, có vợ, ông bố trong gia đình, đã thụt két nhiều triệu đồng. Ông bị đưa ra tòa án, lãnh mấy năm tù. My chẳng băn khoăn gì về việc ấy.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2018, 07:25:08 am

Thỉnh thoảng tôi có gặp lại My. Cô có một hậu vận danh giá, là vợ lẽ một ông Việt Nam trưởng phòng ở Bộ Nội vụ. Nhờ ông này che chở, cô mở một tiệm hút rất đẹp gần phố Catinat, thậm chí không ai dám đánh thuế. Rất đĩnh đạc, khiêm tốn, mặc chiếc áo dài đen, cô lướt qua từ phòng này đến phòng khác theo dõi các hoạt động. Trong bóng mờ những chiếc đèn nhỏ các bàn thuốc phiện chiếu sáng mơ hồ những hình người nằm dài của các khách sang, cô có vẻ uy nghi, như một linh mục. Ở đây các ông già gầy đét nằm tiêm; không có những cô gái đẫy đà, bán dâm, chỉ là sự chiêm ngưỡng trang trọng, không xê dịch bởi chất ma túy. Tiệm hút của cô nổi tiếng nhất trong dân làng nghiện. Họ là những người chặt chẽ, về nguyên tắc thú vui không được xáo trộn; họ kinh hoàng cả mọi khoái lạc chỉ nằm kéo ống điếu tre và thả hồn vào thiên đường cực lạc.

Sau My con người về đồng bạc còn có nhiều "bà vợ" khác. Vì bao giờ ông cũng cần có một người đàn bà da vàng - một nô lệ ân cần bên cạnh những thái độ kỳ cục và cái diện mạo xấu của ông. Nhưng tất yếu rồi người ấy sẽ là kẻ thù, căm ghét và cố gắng làm hại ông. Biết bao nhiêu bí ẩn không gỡ nổi, bao nhiêu mưu mô rối rắm! Nhưng những cuộc đấu ấy kích thích con người Phòng Nhì cũ. Ông có cảm giác nằm với một người đàn bà Châu Á gợi cảm đến chết người. Ông thích như vậy và có được với số tiền của mình. Vì ông trả tiền, dù ít nhất nếu có thể. Vậy là công bằng. Đấy là việc bù trừ, tiền ông thu nhặt với những tỷ phú - những người Trung Hoa vô liêm sỉ mua các cô gái nhưng luôn sợ họ đầu độc mình.

Con người vì đồng bạc ấy không chỉ yêu thích đồng bạc mà cả nền văn minh mua bán Châu Á, một nghệ thuật đầy đủ trong cuộc sống, tất cả chắt lọc và tinh tế, kể cả trong những thô lỗ tệ hại, những tàn ác tệ hại. Ông đã "vàng hóa" nhiều.

Trong Sài Gòn ngốc nghếch này người ta cũng thấy một số "người quá khích" không vụ lợi, hoàn toàn đứng ngoài ám ảnh của đồng bạc. Đối với họ chỉ Châu Á với những vẻ đẹp của nó là đủ. Họ hoàn toàn bị mê hoặc.

Đấy là trường hợp người bạn thân nhất của ông Phòng Nhì cũ. Châu Á của ông là khoái lạc thơ mộng và quyến rủ. Ông tâm sự:

- Chỉ với ý nghĩ làm tình với đàn bà da trắng làm tôi chán ngấy. Thật kinh hoàng so với những thân hình quý giá, gợi cảm của những cô gái nhỏ mảnh mai!

Con người này đẹp bao nhiêu thì ông Phòng Nhì cũ xấu bấy nhiêu. Ông có sắc đẹp quyến rũ, thùy mị, hay đỏ mặt. Tóc vàng, cao và gầy, ông hình như bao giờ cũng có vẻ xa vắng, đôi mắt xanh trống vắng. Ông ít nói, giọng rụt rè và ngọt ngào nhưng luôn tươi cười. Có thể nói đó là một người ngây thơ. Tuy thế, không lộ rõ nhưng muốn gì được nấy, ông có một quyền lực khác thường đối với mọi người.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2018, 07:28:59 am

Đấy là con trai một gia đình tư sản tốt ở miền bắc nước Pháp. Cuộc đời như đã được vạch sẵn. Tốt nghiệp Y khoa, là chồng chưa cưới của một cô gái trẻ đẹp và sắp lập gia đình. Đúng trước lễ cưới anh đăng ký vào quân đội, sang Đông Dương và ra đi, bỏ lại tất cả, thậm chí không từ biệt.

- Một việc làm không cưỡng lại được, anh giải thích. Một hôm tôi hiểu ra là mình sa lầy vĩnh viễn. Thế là tôi chạy trốn như một kẻ trộm.

Đến Sài Gòn anh được cử làm y sĩ trong một đơn vị hiến binh Pháp. Đây là những người rất tốt nhưng ăn quá nhiều, rất mạnh và máu xấu. Vì vậy họ đặc biệt thường mắc bệnh ngoài da. Người thầy thuốc của chúng ta nhận thấy quần đùi theo quy định của Quân đội Pháp thô cứng và nặng, gây ngứa không chịu được. Anh viết một báo cáo dựa vào nhiều tài liệu để khuyến cáo hiến binh cần mang xi líp. Những kết luận của anh được cấp trên chuẩn y. Vậy là chiến công đầu tiên của anh là cách mạng đồ lót của những người bảo vệ trật tự.

Hết thời hạn quân ngũ, anh đến sống trong một mái nhà tranh, gần dân chúng khổ sở nhất, ngay giữa "thành phố lau sậy". Anh là người da trắng duy nhất trong một "vùng" mà cảnh sát chỉ đến để tiến hành trừng phạt.

“Tất cả những hiểu biết của tôi về Sài Gòn cho thấy tôi sẽ bị cắt cổ. Nhưng không. Vì sao người ta giết tôi khi tôi không làm gì sai trái? Xung quanh, dân quê đều là Việt Minh nhưng họ là bạn của tôi. Dĩ nhiên bất cứ ai trong bọn họ cũng sẽ chặt tôi thành khúc nếu cán bộ ra lệnh. May mắn tôi là một số lượng không đáng kể để Đảng quan tâm. Và tôi rất nghèo, không ai "giết" tôi để cướp bóc.

Xác chết khắp nơi nhưng tôi cảm thấy không bị đe dọa. Tôi biết rõ luật chơi. Mỗi nhóm mười nhà có một "cán bộ chính trị" đỏ. Và cũng có những chỉ điểm của Pháp. Nhưng số này giữ mạng sống của mình, chơi trò hai mặt. Họ biết nếu "độc ác" người ta hạ họ ngay.

Cảnh sát thường đột kích bằng lực lượng mạnh. Họ lục soát bốn phía, người và nhà cửa xiêu vẹo, rất tàn ác. Phải ra ngoài. Tôi lẫn vào đám đông im lặng chờ cho xong. Đôi khi có những phát đạn súng ngắn và có người ngã xuống; cũng đôi khi cảnh sát lôi những người bị tình nghi đi; Không ai nói gì.

Thế nhưng tôi sống ở đấy những ngày đẹp nhất trong đời.

Vì những ngày bình thường không khí chung thật vô tư! Đám dân chúng cu-li, ma-cô, đĩ điếm, viên chức nhỏ, thợ thuyền ấy rất vui! Và những cô gái xinh xắn, dễ dãi, vui thích, chỉ cần một ít dịu dàng, ít đồng bạc. Họ kể với tôi: "Anh biết không, những người Pháp khi làm tình với chúng tôi, họ rất chán, rửa ráy, sợ bị bệnh, nói tục tĩu và không cả cám ơn. Anh sau đó còn dễ thương hơn". Đúng là tôi tôn thờ họ, những cô bé mương lạch, mặc áo vải đi chân đất, hơi hoang dại nhưng trong sự quê kệch họ rất văn minh! Trong sự vô đạo đức của họ có cái gì đó rất đẹp. Khác xa những gái đĩ Châu Âu của chúng ta! Với họ tôi phát hiện ra sự tự do. Tất cả đều bình dị. Những giờ rảnh tôi nói chuyện với các bà mẹ đẫy đà hách dịch hơi ma-cô một ít cùng với những cậu bé sống bám vào họ".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2018, 07:32:29 am

Cuộc sống thần tiên ấy - thiên đàng của bùn lầy - kết thúc khi bác sĩ trở thành si tình. Anh lần lượt lấy hai người vợ, một Trung Hoa một Việt Nam. Phải mất nhiều công giữ hoà khí giữa hai người. Cũng có nhiều con với họ. Rất logic, anh quyết định các con gái được giáo dục theo Phương Đông và các con trai theo Phương Tây.

Để nuôi sống thế giới nhỏ ấy, anh làm thầy thuốc ở Chợ Lớn bên một con đường nhỏ trước Chùa Lớn. Khách của anh toàn "người nhà trời". Để lôi kéo khách anh bố trí một bệnh xá theo sở thích Trung Hoa hiện đại. Thật đáng sợ. Có thể nói là một nhà xác: những viên gạch trắng và đen, khắp nơi là những tấm ngăn kính mờ, đèn ống và bóng điện chói chang, những ống nhổ lớn, một tập hợp bình, ống nghiệm, dụng cụ mổ xẻ giống như dụng cụ hành hình. Một không khí hỗn tạp không tên. Sạch sẽ trông thấy nhưng đáng ngờ, bông băng thấm máu nằm đầy góc. Anh mặc áo blu trắng thái độ luôn hiền lành và xa vắng, giống như một thiên thần rất phúc hậu và hơi lang vườn.

Công việc của anh phát đạt. Những tai mắt Chợ Lớn đến bệnh xá anh. Các vũ nữ sang nhất khi có bệnh phiền phức tin tưởng vào chữa trị và sự kín đáo của anh. Các cô son phấn với mọi trang sức và những chiếc áo dài xẻ tà tuyệt đẹp. Nhưng các cô cởi quần áo không nề hà, quên hết mọi lễ nghi cần thiết để giữ thể diện trước một người khách. Những bà già thời cũ kim cương lẫn vào những nét nhăn, có vẻ khó khăn hơn. Một số thẹn, từ chối để khám bệnh. Nhưng các bà đem theo các hầu gái để bác sĩ chẩn đoán thay thế.

"Nhưng rắc rối hơn cả là các "tỷ phú" da vàng. Người ta thường nghĩ người Trung Hoa bình tĩnh và không nao núng. Thật sai lầm! Lối bình lặng của họ chỉ là mặt ngoài. Thực tế tất cả những người Nhà trời đều loạn thần kinh, ảo giác, gần như điên, vả lại làm sao họ bình thường được khi sống trong cảnh lộn xộn của tiếng ồn ào và ánh sáng và lúc nào cũng suy nghĩ, tính toán, lập luận như những tù khổ sai. Đầu óc họ căng thẳng hơn nhiều một người kinh doanh ở New York. Điều lạ là tất cả những người giàu có gàn dở ấy đều biết giữ thể diện trong xã hội. Họ chỉ nghĩ sự khác thường của họ do những ảnh hưởng không tốt, do rủi ro, muốn tôi chữa khỏi ngay cho họ. Vì vậy tôi phải có phần là một phù thủy.

Biết bao lần một ông được cả Sài Gòn kính trọng đến tâm sự với tôi điều tự nhiên nhất trên đời: "Khi tôi đi ngược gió, có một vị thần vào từ mắt cá. Nếu tôi cứ đi, ngài lên dần, lên dần, đến đầu gối, bụng, rồi ngực. Dần dần với móng tay sắc ngài xé thịt tôi. Tôi biết nếu ngài lên đến óc, tôi sẽ chết. Tôi bèn quay lưng lại với chiều gió, vị thần độc ác không làm gì được nữa. Tôi mang vị thần ấy đến cho ông đây. Ông dùng loại thuốc nào hiện đại nhất, đắt nhất giết đi cho tôi". Dĩ nhiên tôi chẳng lạ lùng gì, tôi hỏi lâu về bản chất, đặc điểm của vị thần. Sau đó nét mặt trang nghiêm, tôi tiêm cho ông một mũi brô-mua. Mấy ngày sau một người đầy tớ đem đến cho tôi món quà quý và một bức thư cám ơn, trang trọng ví tôi như danh y nổi tiếng nhất Trung Quốc. Ông khách của tôi đã khỏi bệnh".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2018, 07:36:23 am

Than ôi, bản thân bác sĩ bị một "ảnh hưởng không hay" từ bà vợ Việt Nam ông yêu thích hơn. Bà là Việt Minh.

Có lần một cô gái nông thôn đến chỗ chắn đường để vào Sài Gòn. Lính gác Bình Xuyên bảo cô vào trong trạm. Mười hoặc mười lăm đứa lần lượt hiếp cô ở đấy: Ông nội cô, một nhà nho bảo cô cháu gái: Trong thế giới đau khổ này chỉ còn một người công bằng. Không phải là Phật nữa. Đấy là Hồ Chí Minh. Điều ấy đưa lại cho cô niềm tin vào phe đỏ.

Bác sĩ trở nên ngày càng tiến bộ. Bạn ông, người Phòng Nhì cũ chứng minh với ông: "Anh chỉ là một người da trắng hưởng lạc. Điều anh yêu thích trong đất nước này là sự khoái cảm. Anh chờ đợi gì ở Hồ Chí Minh?..." Bác sĩ nhẹ nhàng bác lại. Ông chắc chắn tình yêu sẽ đẹp hơn khi đạo đức đỏ thống trị.

Trong Sài Gòn quá khích bởi đồng bạc và xác thịt, đôi khi người ta phát hiện thấy một nhân vật không có gì đặc sắc hy vọng sống một cuộc đời tuyệt vời với sự thanh thản.

Có gì ít hấp dẫn hơn ông cảnh sát gầy đét, già, đầu cá khô này? Tất cả ở ông đều tiều tụy, buồn như chết. Quần áo cũ sờn, đôi mắt lờ đờ, da xám, người như một ngày không ăn, chỉ mở miệng để chào hỏi không đúng cách. Hàng ngày vào giờ cố định ông đến một ngôi nhà tạm bằng gỗ, văn phòng của ông, chép lại tỉ mỉ vào thẻ hồ sơ những gì bẩn thỉu nhất - những lời tố cáo, thông tin của mật thám, chỉ điểm, "bồi", ma cô. Đấy là người ghi chép mạt hạng trong cuộc chiến tranh Đông Dương "bẩn thỉu" này. Ông làm công việc của mình đều đặn, không say mê, không suy nghĩ, với tư cách một nhân viên trung thực. Tôi thấy ông có vẻ không phải con người mà là một bánh xe của luật pháp. Tôi rất ngạc nhiên khi biết một người như thế trước đây bị một vụ bê bối ở Alger. Bị cách chức, thuyên chuyển, ông được đưa sang Đông Dương. Việc ấy xảy ra đã lâu, lúc ông còn trẻ. Ở Sài Gòn ông trở thành ông già sầu não, được tin cậy, thực hiện những nhiệm vụ tẻ nhạt và bí mật này. Không ai biết gì về ông nhưng không ai tò mò gì đến vấn đề của ông. Ông không đi lại với ai: hết giờ làm việc ông biến mất.

Bỗng một hôm ông bảo tôi:

- Mời ông đến nhà tôi ăn trưa.

Ông dẫn tôi về một khu chung cư, đến một trong những căn nhà ở đấy. Tôi vào gian phòng tối, trước một bàn thờ tổ tiên. Giữa những tấm biển nhỏ huy hiệu và hương hoa, một ngọn đèn nhỏ chiếu sáng chân dung một bà Annam, đĩnh đạc, đáng kính, to béo, bận quần áo trang nghiêm theo lối cổ.

- Đây là vợ tôi. Bà chết đã được một năm. Chính bà dạy khôn cho tôi.

Và ông thành kính quỳ xuống:

- Tôi trong trạng thái thất vọng, gặp bà là một người vợ góa đông con, không được học hành nhiều. Nhưng bà nói với tôi: "Ông nên hiểu cuộc đời là một ảo ảnh. Ông rũ bỏ những say mê đi, hãy đọc những cuốn sách này, nó dạy ông dửng dưng với tất cả. Và để dễ đạt được điều đó, tôi cho ông dung dịch nước phép làm dịu lòng lại". Với bà tôi biết niềm hạnh phúc thực sự.

- Như thế nào vậy?

- Tôi không thấy mất phẩm giá vì công việc cảnh sát nữa. Tôi làm tốt nhiệm vụ, biết không có cái tốt cái xấu, cũng không có sự tự hào, sự nhục nhã. Mọi tra tấn, giết người, dâm loạn, ô nhục đầy trong giấy tờ chẳng quan hệ gì tới tôi. Tôi ghi chép, không để tâm vào đấy. Suốt ngày tôi chỉ mong đến giờ về nhà. Tất cả đã được chuẩn bị. Tôi nằm dài trên chõng, vợ tôi nằm bên cạnh làm những động tác tiêm thuốc phiện với một thái độ dịu hiền, một lòng tốt tuyệt vời. Vì bà biết bà đưa lại sự bình lặng cho tôi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2018, 07:39:23 am

Một người đàn bà xuất sắc, rất có lý. Khi tôi đã hút khói đen ba mươi lần, bà bảo: "Ông hài lòng rồi, đừng hút nữa". Vì bà luôn nhắc lại với tôi nếu hút quá nhiều, thay vì giải thoát và ánh sáng là sự nô lệ, sự cần thiết không cưỡng được, nỗi ám ảnh. Cuộc đấu tranh thật khó khăn nhưng bà không lay chuyển: "Đủ rồi. Nếu không ông không dậy nữa, sẽ như một xác chết, không còn nghị lực. Và đến văn phòng ông sẽ như một mớ giẻ dằn vặt, sẽ làm bất cứ việc gì, sẽ thụt két". Vì vậy khi tôi đã hút đủ liều, bà đem đến hộp bút mực - và tôi bắt đầu viết một cuốn văn phạm Annam, đẹp, đầy đủ nhất chưa bao giờ có. Tôi tìm tài liệu không mệt mỏi về những lời nói cổ, những công thức vua chúa và thầy tu. Công trình này là công trình của đời tôi, tôi vẫn tiếp tục. Sang một trang mới tôi nói với bà vợ đã mất. Vì trong cõi âm, bà vẫn lắng nghe tôi, cho tôi những lời khuyên. Hôm qua tôi đã báo tin với bà cuộc đời tôi sắp kết thúc, tôi sẽ về theo bà. Bà rất sung sướng.

Một cô bé Annam bước vào. Chân đất, áo nâu, khuôn mặt rất tròn, tóc tết sau lưng, một cô gái quê mộc mạc. Cô bưng một cái khay thuốc phiện và dụng cụ. Ông cảnh sát nằm dài trên chõng, bạc phếch như người chết. Cô bé ngồi lại bên cạnh, bắt đầu làm nhiệm vụ, vẻ nghiêm túc của những đứa bé khôn ngoan. Đôi mắt trong sáng, nét mặt vô cảm, những ngón tay thật nhanh gọn. Khi viên thuốc chuẩn bị xong người đàn ông rướn mình hút ngấu nghiến, lâu, tiếng ro ro. Không mệt mỏi, vẫn thái độ nghiêm trang trẻ con trong vai trò một người lớn, cô bé làm lại một viên thuốc, làm mãi cho đến khi ông thỏa mãn. Đã nghiện rồi, ông nói với tôi:

- Nét lớn lao của Châu Á là lòng tận tụy. Ông vừa chứng kiến một cảnh ấy. Vì cô bé này là con gái tôi - theo tục lệ cũ đến hiếu kính chăm sóc bố.

Khi vợ tôi sắp chết, bà mời một vị sư đến và trước bàn thờ tổ tiên những đứa con của bà trở thành con tôi. Trong buổi lễ bà nói với chúng: "Nếu các con quên bổn phận đối với bố bóng ma của mẹ sẽ đến ám ảnh các con". Bà dạy những đứa con gái chăm sóc tôi cẩn thận. Ngay trong lúc hấp hối bà còn hướng dẫn chúng chuẩn bị tiêm thuốc cho tôi.

Vì vậy trước chân dung vợ, tôi sống như trước đây nhờ vào các con - hai gái hai trai. Không có gì thay đổi. Vả lại những đứa con gái cũng như bà mẹ, bảo tôi: "Đủ rồi". Khi sự cám dỗ quá mạnh, tôi sắp nhường bước thì bản thân bà vợ đã chết xuất hiện bên tôi. Bao giờ tôi cũng cảm thấy bà gần gũi tôi như không có cuộc sống và cái chết, sắp tới tôi sẽ ở với bà trong vương quốc những bóng ma - nhưng ở đây tôi sẽ có tên họ ghi ở biển trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh tên bà và người ta sẽ đốt hương cho chúng tôi, thờ cúng chúng tôi.

Cảm giác kỳ lạ! Ông cảnh sát này được người ta hóa thành xác ướp và ông phấn khởi. Những đứa con đối xử vô cùng kính trọng, tỉ mỉ như người bố trong gia đình. Nhưng họ khác biệt nhau quá! Chúng có yêu ông không? Chưa bao giờ tôi cảm thấy một hố sâu như thế giữa người da trắng và da vàng trong gia đình này.

Những cô gái chỉ có những tiếng cười khẽ vì lịch sự, làm việc, bận rộn nhưng bí hiểm, vả lại các cô không biết một tiếng Pháp nào. Chính bà mẹ muốn các cô vẫn là con gái dân quê.

Hai đứa con trai, ngược lại, chạy theo mốt hiện đại: sơ mi kẻ ô vuông, quần chật ống, giày đen. Chúng tuyệt đối không làm gì, suốt ngày chơi bóng bàn. Tôi hỏi:

- Các cháu định sẽ làm việc gì?

- Chúng cháu muốn theo Việt Minh nhưng không thể vì vị trí của bố. Chúng cháu nghĩ sẽ đi với Bình Xuyên.

Ông già lại nằm hút. Cô con gái thứ hai, cũng kiên trì như chị, chuẩn bị những viên thuốc. Những đứa con trai lại chơi bóng bàn. Đêm xuống. Tôi ra về, để ông cảnh sát thiu thiu, tù nhân của Cháu Á, đã gần được giải thoát vĩnh viễn. Thực vậy, mấy tháng sau bộ xương người sống tắt thở. Chết tự nhiên hoặc tại sao không ai tìm hiểu. Từ lâu ông chỉ còn là cái bóng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Giêng, 2019, 03:11:14 pm

Cô gái điếm tuyệt vời

Tất cả những gì cảm động, cao quý nhất ở Đông Dương, niềm đam mê, công việc bình thường, kháng chiến, những giằng xé về tình yêu, cái đẹp của sự hy sinh, khoái cảm gạn lọc vì những tình cảm lớn - tất cả được hiện thân ở một nữ anh hùng Việt Nam bằng xương bằng thịt. Thực ra cô không tự mình tồn tại mà là một sản phẩm của trí tưởng tượng, một kỳ quan được tạo nên. Một thiên tài không thành đạt đã phát hiện ra cô. Và hai nhà văn tài năng của Đông Dương - Hougron và Graham Greene - cả hai với tầm nhìn khác nhau, đã đưa cô lên trong những cuốn tiểu thuyết của họ, trong những buổi trình diễn khác nhau nhưng luôn trong sáng và xúc động.

Người sáng tạo là B..., hiệp sĩ của nền văn hóa, người đại diện độc nhất của Hội các nhà văn ở Đông Dương và cũng là người hướng dẫn hoàn hảo để khám phá những tâm hồn và thể xác vấy bẩn. Người ta không thể hoàn thiện mô tả Sài Gòn mà không đề cập đến ông vì ông cũng là một hiện thân: Ông ước mơ từ bùn lầy; bản thân ông là bùn và ước mơ. Và bởi ông là một người không thành đạt, cao thượng, nhất là năng nổ, cuối cùng ông đóng một vai trò rất quan trọng.

Đây là con người của những mâu thuẫn. Nhìn bề ngoài ông rất đẹp và yếu đuối - nhỏ, đầu nặng nề, tay cầm can có núm, một chiếc nhẫn vàng ở ngón tay, ngậm bót thuốc lá quý, phong thái đĩnh đạc và thậm chí cao đạo, không ngớt cao giọng kêu ca, giận hờn, van nài, nhã nhặn. Ông làm người ta choáng váng, một việc không có gì cũng làm ông cuống cuồng. Bao giờ cũng với những triết lý cao siêu, bạn lớn của nhân loại, ông không ngừng dèm pha như một gái già độc ác. Ông luôn hành hạ và là nạn nhân. Ở ông vừa có những cử chỉ cao quý nhất và những bẩn thỉu đáng khinh. Hay trả thù, hà tiện, tính toán, ông lại vừa không vụ lợi và độ lượng. Mặc dù khôn ngoan và hèn nhát thường ông lao vào những việc dại dột không tin được. Có khi do kiên trì nô lệ, ông sắp đạt được mục đích thì vì một lời nói, một sự vụng về, ông làm hỏng tất cả. Mỗi lần nghĩ đã thoát được thì gặp vực thẩm trước mắt. Nhưng bao giờ ông cũng có lý do. Nhất là nhờ sự năng nổ không mệt mỏi, ông sống sót trong mọi trường hợp. Bị mọi đau đớn về thể xác, luôn luôn được mang hấp hối đến bệnh viện để giải phẫu nguy kịch, ông vẫn không chết. Ông vẫn còn đủ sức khỏe để thỏa mãn những tò mò của mình, làm hầu như mọi thói xấu nhưng chỉ ngoài rìa vì hơi bất lực. Với tài thuyết phục ông làm cho người ta có cảm giác mọi cái ở ông đều giả - là điều hơi quá. Thực sự giả chỉ là tên họ ông: rất dài rất Ba Lan, đầy phụ âm - ông sửa lại để làm một hiệp sĩ Pháp, thêm một tước vị rất kêu. Và ông rất gắn bó với giới từ đứng trước tên họ.

Tất cả những gì ông nói không hoàn toàn khoác lác. Quá khứ huy hoàng của ông không phải đều tưởng tượng. Gần như là sự thật khi ông công bố: "Trước chiến tranh tôi là một nhà bình luận trẻ rất nổi tiếng ở Paris. Người ta tranh nhau đọc thời sự của tôi. Tôi vào trong các phòng khách và câu lạc bộ. Tôi thân thiết với các nữ công tước, nữ cố vấn, các viện sĩ, những người nổi tiếng. Tôi cũng có tiếng nói của mình". Nhưng sau đó xảy ra điều gì? Tại sao ông không theo đuổi cuộc sống tinh tế rất phù hợp với phong cách tế nhị của ông thay vì cuộc sống chó má ở Sài Gòn? Tại sao ông lạc vào xứ Đông Dương đẫm máu của chiến tranh?

Tôi nghĩ đấy là một điều bí ẩn. Một sự lại giống - ông muốn là người thay mặt Chúa, như trong Kinh Thánh. Ông thật lòng khi ngâm nga: "Tôi là người lính viễn chinh của Thánh thần. Tôi đấu tranh vì sự hòa giải của Châu Âu và Châu Á. Triết lý phải thắng phía sau vũ khí!" Thế là như một người sùng đạo, một cuồng tín, ông lao vào một công trình lớn sẽ đưa lại hoà bình: xuất bản hàng tháng một tạp chí, với đạo Phật đại và tiểu thừa, Yoga, Thiền Tông, siêu hình học Hin-đu, Thiên chúa giáo, chủ nghĩa Mác-xít nhân ái. Từng trang là cuộc trường chinh đến sự thật và là một sự tìm tòi bác học. Cũng có vấn đề chính trị. Những ám chỉ tốt đẹp về Hồ Chí Minh chìm đắm trong thác lũ lời khen dành cho những người dân tộc "sáng suốt" như thủ tướng Hữu, Hoàng đế Bảo Đại, Hoàng đế Sihanouk, và có từng trường hợp ông Pignon. Cao uỷ Pháp ở Đông Dương.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Giêng, 2019, 03:12:23 pm

B... kiếm bài bằng cách hàng ngày gửi bốn, năm chục bức thư cho những tai mắt nghiên cứu về Châu Á - một hội thông thái rởm và nhiệt tình đủ mọi màu da và mọi quốc tịch sống ở Châu Á. Những sự việc thông thường được cung cấp bởi những người Pháp ở Đông Dương - một loại chuyên nghiệp về văn hóa mà người ta ít nói tới. Về tính chất ngoại lai, màu da, cuộc sống, B... tranh thủ một hội đặc biệt sáng suốt, những thánh nhân hiền triết, những nhà thám hiểm, đạo trưởng, những người vô thần. Ông quan hệ với những người Anh hơi có tài và hơi điên biết về đạo Phật Lạt-ma, với những người Mỹ trẻ học vấn cao, tin chắc vào đạo đức. Ông gửi những lời kính trọng đến UNESCO và các tổ chức quốc tế nhiều ngân sách.

Không may là B... hầu như không có người đọc. Ông bèn đến các "ông lớn" của thế giới này, lúc đầu đàng hoàng, sau quỵ luỵ đề nghị giúp đỡ. Ông thông báo với những viên chức cao cấp và nhà doanh nghiệp: "Chính tôi sẽ cứu sự kiện của người Pháp ở đây". Như vậy là các ông ấy có vị trí và đồng bạc nhờ vào ông sau này - trong lúc chờ đợi phải có nhiệm vụ yêu nước là tài trợ cho ông. Những người kia cũng muốn giúp nhưng nghi ngờ, không biết B... có bỏ phần lớn tiền vào túi không. Để thắng không khí hoài nghi ấy, một hôm ông đi tới chỗ tự sát - cắt mạch máu và được người ta cứu chữa. Sau việc đó ông nhận được một khoản tiền trợ cấp lớn; phục hồi công việc được mấy tháng cho đến cuộc khủng hoảng sau ông lại phải tìm cách làm xúc động lòng người.

René - tên ông - biết rõ toàn Đông Dương, nhân viên Phòng Nhì cũng như phái viên của Nguyễn Bình, những quan lớn da vàng cũng như những tay ma-cô Chợ Lớn, những quan chức dân sự đĩnh đạc cũng như những tên buôn lậu gian dối. Và ít hay nhiều, cả Đông Dương đang hấp hối ấy có đủ loại tiếp xúc và mưu mô về đồng bạc và bình định cùng nhau giúp đỡ ông, người ta bảo từ Ban tham mưu Đội quân viễn chinh đến Ủy ban Nam Bộ. Rốt cuộc trong năm 1950 ông vượt lên chiến tranh, là biểu tượng tạm thời và tốt đẹp về sự thoả hiệp của những người thiện chí - thực tế không có thật hoặc là những ảo tưởng như ông.

Nhưng từ ảo tưởng ấy, ông tồn tại, có phần thịnh vượng một ít. Điều đáng khen là sự bướng bỉnh. Ông ngâm nga: "Tôi làm việc hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ". Người ta không tin nhưng dù sao ông cũng là một đao phủ trong công việc.

Buổi sáng khi cảm thấy phấn chấn, ông đến văn phòng, phía trên một cửa hàng tạp hóa Trung Hoa đầy mùi gừng, một góc tối tăm đi lên bằng một cầu thang gỗ trôn ốc. Nhiều người khách vẻ căng thẳng, rình mò. Khi người khách xuất hiện, ông nấp sau một tấm ngăn rồi sau nhiều giờ lẩm bẩm, ông xuất hiện thanh thản. Ngược lại có những lần nghe tiếng chân bước lại gần, ông giật mình như một kẻ điên, lo lắng tái mặt như những kẻ giết người đang tới. Nhưng nhận ra là một người bạn, ông chào "rất thân mến" và chơi trò làm duyên. Xung quanh ông hoàn toàn lộn xộn, hàng nghìn sách chất đống, hàng tấn giấy má trong khung cảnh nghệ thuật những mặt nạ, đèn Trung Quốc, tượng, cờ, cung nỏ.

Phòng ở của B... trên tầng hai một ngôi nhà lớn bình thường cho những viên chức nhỏ, gần cuối đường Catinat. Gian phòng nghèo nàn, một chiếc giường rộng choán gần hết chỗ. Ngoài giường ngủ, đấy cũng là bàn làm việc, phòng biên tập, bàn ăn, phòng khách, phòng riêng. Ông có trong tầm tay mọi vật dụng cần thiết và có thể nằm dài một thời gian vô định, có khi mười, hai mươi ngày. Một cảnh lẫn lộn kinh khủng. Cả một biển giấy tờ phủ lên bát đĩa bẩn, ống điếu thuốc phiện, quần áo bẩn, đồ trang sức, thuốc bệnh và kim tiêm. Giữa tất cả những cái ấy, ông ngồi dựa vào chăn gối: Giới trí thức của Sài Gòn trên bình diện văn học ở dưới chân ông, trên bờ giường hoặc vài ba chiếc ghế thấp hư hỏng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Giêng, 2019, 03:13:56 pm

Cô M... ở trong nhà B... Ông gặp cô ta ở đâu? Cô là ai, bí mật nào, sự khác thường nào làm ông gắn bó với cô, giữ cô lại? Những gì người ta biết về quá khứ cô gái là cô từ làng đến, hành lý là hai con trăn sống, đưa cho B. Ông ''tống khứ" ngay một con, quá lớn. Con kia ông để nuôi.

Ở Sài Gòn có một sự kinh hoàng: một người đàn bà trong cuộc đời của B... Thậm chí ông công khai là người si tình dẫn cô đi khắp nơi, mơn trớn, cầm tay cô, đôi mắt đắm đuối. Niềm say mê ấy, thay vì tàn lụi, tăng lên với ngày tháng. Mặc cho những người tự nhủ: "Ông ta có thể làm gì được?”

Cô M... mười tám tuổi. Một cô gái Việt Nam gầy, còi xương, có duyên. Khuôn mặt thanh mảnh, có những nét nhăn hơi giống khỉ sóc. Nhưng ở cô có một năng lực cảm nhận dồi dào. Cô sôi sục nội tâm. Hầu như luôn luôn câm lặng, đôi mắt như than hồng, miệng như dao. Đột nhiên cô cười, để lộ đôi răng ngọc như trong một tiếng cạch chặn máy. Đấy là một đứa trẻ tàn ác, không cởi mở người ta đưa ra xã hội. Cô không thổ lộ gì về mình; người ta không đoán được trong môi trường mới này cô căm ghét hay bị ép buộc. Dù sao không có gì làm cô ngạc nhiên. Nhìn thẳng trước mặt, cô ngoan ngoãn, hơi vụng về với những gì René rỉ tai cô. Theo hướng dẫn của ông, cô bắt tay, nói lời chào. Cô chỉ biết làm thế. Ngồi vào bàn ăn ở Câu lạc bộ báo chí cô ăn vụng về, lúng túng vì những đồ dùng lạ - nĩa, thìa, các món ăn. Cô còn là một cô gái quê đích thực, bận quần áo vải tồi tàn, khó khăn mới bập bẹ được vài tiếng Pháp.

Không có gì làm René nản lòng. Với lòng nhiệt tình xuất thần, ông kêu lên với các bạn:

- Cô gái này khác thường, rất đặc biệt. Không phải chỉ là một thể xác, một dụng cụ, một sắc đẹp như bao cô gái khác. Trước hết cô sinh động, cô là con quái vật thiêng liêng, người đàn bà hoàn hảo. Cô có nhiều năng khiếu, trí thông minh, sự nhạy cảm, duyên dáng, nhất là khía cạnh nhập nhằng làm nên tính cách. Với một nghị lực sắt cô chỉ là những mâu thuẫn, lẫn lộn tế nhị và sỗ sàng, ở mức độ tối cao. Hiểu biết, cô có thể làm tất cả nhưng với một cách nào đó cô vẫn luôn trong trắng và tự hào. Hiện tại cô còn ở trong vỉa quặng của mình, một viên kim cương tinh khiết. Nhưng trong mấy tháng nữa sẽ là kỳ quan của Sài Gòn, một bà hoàng. Và tất cả các anh sẽ tán tỉnh, nịnh bợ.

Người ta không tin vào "ông René xộc xệch". Tuy vậy cũng phải nhớ tới tài đánh hơi của ông. Vì bỗng nhiên là sự lột xác không tin được. Con người nhốp nhúa chuyển thành một sinh vật trong mộng - có thể nói cô thoát ra từ một bức ảnh từ bản khắc. Đây là một bà lớn áo dài lụa, son phấn, trang điểm, ăn mặc tinh tế vô cùng. Cô có phong thái thoải mái, thậm chí nói chuyện - có thể trao đổi triết lý với B... và các bạn ông! Như phép lạ! Vì hơn thế, cô tự nhiên và cả châm biếm nữa. Đôi môi mỏng - như phương Đông gọi là những cánh hoa hồng - đưa ra những lời đùa cợt, những nét đúng, nhận xét rất hay. Ân cần, cô vẫn còn cái gì đó hơi khó khuất phục nhưng không hề hấn gì. Hầu như luôn luôn trong mắt cô có một ánh lạ - vừa là sự thách thức vừa là lời hứa.

Thực ra sự đột biến ấy - việc nở hoa bất chợt ấy - là kết quả một công việc bao la của hai người. Với bề ngoài thờ ơ, cô che giấu một quyết tâm không ngờ tự biến dạng mình. Hàng ngày cô đã học nhiều giờ liền - cô học tất cả: đọc, nói, ăn không mệt mỏi, luôn luôn bắt đầu lại. Về phần mình. René tận tuỵ dễ mến ngoài tưởng tượng nhưng khi cần, chế ngự thái độ dã man với một nghệ thuật nén giữ nóng bỏng và uy quyền không lay chuyển. Để bày dạy cô M... ông dành nhiều tháng, cạn kiệt sức lực, tiêu tốn gần hết tiền. Ông không để có điều gì tình cờ xảy ra, chọn cho cô trang sức, quần áo, chỉ dẫn ăn mặc như thế nào, làm đẹp ra sao.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Giêng, 2019, 03:14:56 pm

Trước hết thầy giáo được cô học sinh bù đắp một cách khác thường. Vì cô M... hơn cả cần cù, sẽ là tác phẩm vinh quang của ông. Ông đưa cô lên không chỉ ở Sài Gòn mà cả toàn thế giới nhờ vào văn học. Và than ôi, ông cũng sẽ mất cô, thành công sẽ mang cô đi.

Ở thành phố, đối với dân chúng cô trở thành "người đàn bà mồi chài" mà chân dung trang trí những tờ báo. Nhất là cô lần lượt gây cảm hứng cho Hougron và Graham Greene; cô là đối tượng khen ngợi, tôn vinh của họ và thậm chí họ yêu cô say đắm.

Khắp nơi cô là nữ anh hùng - cô gái mãnh liệt và làm nao lòng người, sự khoái lạc bi kịch, sự hy sinh cao quý, nạn nhân của chiến tranh, tình yêu của những người đàn ông và chính mình. Nhờ cô, những người đọc trên các lục địa bị mê hoặc vì sắc đẹp Việt Nam; họ phấn khích nghĩ về những cô gái để xúc động và khoái cảm của đồng ruộng và mương lạch; họ có một hình ảnh đau nhói về Châu Á.

Trong thực tế, cuộc sống thô thiển hơn - như luôn luôn vẫn thế, thậm chí hơi đầy bùn. Những đam mê rất đẹp trong sách thực tế xảy ra thấp hèn hơn nhiều. Có những việc ăn nằm với nhau, nạo thai, cãi cọ bẩn thỉu về tiền bạc. Người ta cũng tranh luận vô biên giữa những người bố về việc có nên giữ gìn con cái tốt hơn không. Tất cả những điều đó ở trong một không khí "bạn bè" hơi căm giận, đồng loã, trải qua những đợt khủng hoảng - ở người này mệt lả và giảm sút, ở người khác giận giữ, đe dọa, không thỏa hiệp, con cái thì cười gằn vừa khinh khi, nhục nhã và kiêu căng, kêu lên: "Con sẽ ra nhảy xuống sông Sài Gòn". Lẽ thường trong nhiều đêm liền người ta ba hoa, uống rượu, hút thuốc và sau nhiều nhõng nhẽo, tất cả gần như thu xếp xong; thế nào thì rồi cũng tiếp tục như trước đó.

Nhưng René, người sáng tạo không làm chủ được sáng tạo của mình, có thực sự bị đánh bại, có đau khổ không? Hình như không hẳn thế. Ông yêu tác phẩm của mình hơn là bản thân sáng tạo. Nỗi buồn của ông vơi đi nhờ sự thỏa mãn.

Lẽ tự nhiên có nhiều giai đoạn của bi-hài kịch. Không như với Graham Greene, người Anh cao lớn điển hình sầu muộn bắt đầu lang thang ở các bar: Phần lớn thời gian anh đứng một mình ở quầy hàng trước cốc rượu cô-nhắc sô-đa. Anh cứ thế trong nhiều giờ, uống nhiều, hình ảnh của nỗi chán đời da diết. Đôi mắt ướt mờ xanh, anh ngắm gian phòng mình đang đứng nhưng mơ hồ như không thấy gì. Có thể như một cận thần của Hoàng đế đắm mình trong hư vô cố làm tan nỗi buồn một cách vô ích. Có người nào cho anh là có tài?

Thực tế anh đang như con diệc sẵn sàng bắt cá. Anh đang tìm kiếm chất liệu. Và tìm thấy ở đâu hơn chỗ B... và kỳ quan của ông? Ở chỗ họ có tất cả những gì anh cần, môi trường lộn xộn, tội lỗi, sự vui vẻ và một hy vọng có thể không thành. Nhân vật kỳ lạ! Hình như anh trở thành người không chia cắt được với đôi vợ chồng, người cùng hội, đồng bọn, đồng loã. Nhưng ở đây có phải anh chỉ quan sát, anh có chia sẻ những ân huệ của cô M... không? Dù thế nào mọi việc qua đi giữa những tài tử và giai nhân, giữa những người của thế giới tốt đẹp nhất, không bê bối, hết sức kín đáo.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Giêng, 2019, 03:16:06 pm

Không phải trường hợp với Hougron, nhà viết tiểu thuyết người Pháp. Đây là quan hệ tình dục mãnh liệt, say mê, sỗ sàng. Và B... có những dằn vặt ghen tuông u ám. Một hôm nhà văn ôm cô bạn ông trong một chiếc xe con dừng lại trên con đường nhỏ, B... xuất hiện từ bóng tối, thong thả, dữ dội như một con ma gầy gò, tay run run cầm súng ngắn nhắm vào - nhưng không bắn. Tiểu thuyết gia bị quấy rối phóng xe đi với người đẹp để đến làm việc cách đấy mấy trăm mét. Nhưng B... lại xuất hiện, vẫn như mơ nhưng cũng với khẩu súng. Tiểu thuyết gia bực bội, giải thích với ông và bảo: "Việc đùa vui ấy, anh biết không, tôi sẽ trả tiền”, và B... bỗng cảm động, ôm lấy anh nói: "Anh hào phóng lắm, đúng là một người bạn”.

Vả lại, ít lâu sau cô M... kỳ diệu mà B... tạo ra rời bỏ văn chương đi buôn bán. Cô lại rơi xuống khi không còn ở trong tay ông nữa - số phận của cô trở thành bình thường. Kết thúc thời kỳ những tình yêu xuất chúng, kết thúc mọi vinh quang. Chỉ còn là cô gái phiêu lưu đơn độc, thả mình cho những người giàu có, những ông vua đồng bạc, để có tiền. Dần dần cô biến mất không nuối tiếc gì, vào sang trọng và bóng tối. Người ta không biết sau đó cô ra sao. Bây giờ cô ở Pháp, làm thợ tô móng hoặc uốn tóc.

Thế mà cô gái ấy có sức quyến rũ. Không phải vì sự trong trắng - còn rất xa thiên sứ mà những tác giả hay nhất mô tả. Cũng là một loại tự hào. Khi đùa vui, cô kêu lên như cô gái điếm nhưng triết lý, đưa sự vật, người, toàn nhân loại về đúng chỗ của họ: "Tôi là gì? Chẳng là gì cả. Vốn liếng của tôi là đôi mông: đó cũng là niềm vui của tôi. Còn lại chỉ là chuyện tầm phào. Các vị tài cao, các vị đưa tôi ra làm trò vui. Sự thật chỉ là cái mông đít nhưng than ôi! Chẳng kéo dài mãi được".

B... cũng còn lại một mình. Cô M... phản bội ông đúng lúc tất cả rời bỏ ông khi ông chỉ còn là một người bị đào thải, bị nghi vấn. Vì đồng thời với người đàn bà, các sự kiện tàn nhẫn quay lại chống ông. Tông đồ đáng ngờ, ông vẫn rao giảng về sự hòa giải, thỏa hiệp, hòa bình. Việc ấy còn có thể khi Pignon và Nguyễn Bình, hai kẻ thù đấu tranh giữa những khốc liệt, khi đang là thời kỳ đường lối chính trị với công cuộc bình định, hợp tác không dám thú nhận, sự mục ruỗng và chống mục ruỗng, khủng bố, chiến tranh du kích, chạy theo đồng bạc. Điều đó dù sao cũng có một bên lề nào đó cho những người nhu B... Họ sẽ quá thừa khi mọi việc đơn giản hơn, khi trước hết là chiến tranh, đánh nhau và máu. Đã đến lúc lịch sử tiến lên không lay chuyển được. Quân đội Mao xáp lại gần Đông Dương. Tất cả từ đó phát sinh - việc hoàn thiện lực lượng tấn công của ông Giáp, sức mạnh, sự ào ạt, những chiến thắng của họ, việc cố gắng vô vọng của người Pháp chống trả quân chính quy và du kích trong rừng và rồi chiến trường Điện Biên Phủ. Cũng từ đấy phát sinh - hậu quả nhỏ nhặt và không dự kiến được giữa bi kịch mênh mông ấy - sự thất bại không cứu chữa được của B... Vì giữa tiếng va chạm của vũ khí ông ta bị lên án thảm hại.

René khốn khổ. Đối với de Lattre ông là "nhà văn tồi" bị khinh rẻ; thậm chí ông ta không thèm trục xuất mà để sa lầy trong nghèo khổ, tàn tạ và bệnh tật. Sẽ như một cơn hấp hối không kết thúc. Vì B... từ đó kiệt quệ và mệt mỏi thật sự cố vùng vẫy lâu dài, không kết thúc. Ông sống như một kẻ tử vì đạo, luôn luôn sôi sục ý nghĩ ra một số của tạp chí, đôi khi cũng có ra được. Ông không chết nhưng thật tệ hại. Cuối cùng về sau này, mười năm cuộc đời mất đi, ông chỉ còn là một chiếc bóng, nghèo, không có gì trên đời - không một Tổ quốc thực sự, không một gia đình thực sự - ông rời bỏ xứ Đông Dương vô ơn đã từ chối thông tin của ông.

Vả lại sau đó cả giới trí thức cũng phân tán, "người có tính cách "cũng biến mất. Câu lạc bộ báo chí sau cảnh sa sút từ từ, cuối cùng phải đóng cửa. Thay vào đó ở Hà Nội thủ đô của "mặt trận", có một Trại báo chí do de Lattre sáng lập. Một ngôi nhà nghiêm chỉnh, nửa tu viện nửa trại lính cho những "phóng viên chiến tranh" thực thụ, những kỳ cựu quốc tế của tất cả các phe thu thập tin tức, những người chuyên nghiệp nhẫn tâm - không hề là những trí thức. Đây là chiến trường của những máy chữ, những tiếng lách cách truyền đi trên thế giới những tiếng súng và ca nông của những đội quân hoạt động cách đấy mấy chục cây số.

Khi cuộc chiến nổ ra Sài Gòn vẫn vui vẻ. Vẫn luôn luôn có đồng bạc và tình yêu nhưng không còn hoàn toàn như trước. Trong mọi thú vui, mọi lợi lộc lẫn vào một nỗi buồn thầm kín. Hơn bao giờ hết các sĩ quan từ các trận đánh trở về tổ chức tiệc tùng; nhưng hơn cả các cô gái, rượu champagne là đáng kể: niềm vui đầu tiên là quên đi.

Chưa đến lúc đó. Năm 1949 khi Bảo Đại trở về, dân chúng cần cù ở Sài Gòn chỉ quan tâm đến lựu đạn. Không ai lo ngại người Trung Hoa và ông Giáp. Thế nhưng chẳng ai biết đã bắt đầu thời kỳ khó khăn. Đấy là cuộc "chạy đua tốc độ": người Pháp có bóp ngạt được Việt Minh trước khi ông Giáp, tổ chức tổng tấn công? Việc chạy đua đầy những biến cố lạ lùng nhất và những tình tiết phức tạp nhất kéo dài một năm - cho đến phán quyết, sự thất bại đầu tiên của người Pháp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2019, 10:38:16 pm

Chương II
ẢO TƯỞNG CHIẾN THẮNG

Mùa thu năm 1949, quân đội Mao Trạch Đông tới biên giới - và không ai biết việc ấy sẽ đánh dấu số phận của Đông Dương. Lúc đó người ta có nhiều ảo tưởng! Đó là thời kỳ người ta tin vào những người cộng sản Trung Hoa "tốt", cả tướng Alessandri chỉ huy lực lượng Bắc Kỳ cũng nói với tôi:

- Tôi hài lòng vì những người cộng sản Trung Hoa bố trí bên cạnh chúng ta. Như vậy sẽ đưa lại trật tự.

Tướng Alessandri là một trong những người "già đời" ở Châu Á. Đối với họ những người Trung Hoa, mầm mống hàng nghìn năm vô chính phủ, không bao giờ có thể thực sự cộng sản.

Vậy là nước Trung Hoa của Quốc dân đảng sụp đổ như một lâu đài cát. Các sư đoàn của Lâm Bưu, tướng Napoléon đỏ bắt tay với các sư đoàn của ông Giáp. Từ nay sáu trăm triệu người "nhà trời" là đồng minh của kẻ địch, của Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh. Nhưng có ai hình dung tương lai gần ra sao - sức nặng ngày càng tăng của Châu Á sẽ đập nát Đội quân viễn chinh. Ý nghĩa của sự gần gũi ghê gớm ấy ít nhân vật quan trọng nhận thức được đầy đủ. Pignon băn khoăn, thậm chí lo lắng. Nhưng phần đông các nhà lãnh đạo dân và quân sự cao giọng tuyên bố: "Trung Hoa vẫn luôn luôn là Trung Hoa. Dù là đỏ vẫn vô cùng yếu kém, mục ruỗng. Chúng ta sẽ mua "các đồng chí" của Mao cũng như mấy năm trước đây chúng ta đã mua những người quốc dân của Tưởng Giới Thạch. Cho dù những người cộng sản Trung Hoa có những ý đồ xấu họ cũng không bao giờ có thể giúp đỡ Việt Minh một cách hệ thống, đủ và kịp thời. Bất kể Mao! Ở Đông Dương, chiến thắng đang trong tầm tay chúng ta."

Mù quáng ghê gớm! Lạc quan tràn đầy. Mọi việc có vẻ tốt đẹp đến nỗi ở Paris Chính phủ muốn đưa các đơn vị Pháp về nước, sẽ an ủi được dân chúng, trong chiến dịch bầu cử. Đấy là dấu hiệu cuộc chiến tranh sắp kết thúc thắng lợi. Ở Đông Dương các tướng lĩnh đồng ý.

Đúng là từ mùa khô năm 1949 đến mùa khô năm 1950, hầu hết tin tức đều tốt lành. Người ta đang hoàn thành bình định Nam Kỳ, chinh phục lại toàn bộ châu thổ Bắc Kỳ. Việt Minh đói, đã phải nêu khẩu hiệu: "Một hạt gạo là một giọt máu". Người Mỹ, những người “trầm lặng" ấy, những người chống thực dân kịch liệt ấy, mới đây còn thù ghét Đông Dương thuộc Pháp, từ nay cho hàng khối đô-la và khí cụ - cuộc chiến tranh như vậy càng ngày càng là "công việc tốt". Cuối cùng cuộc chiến tranh Triều Tiên nổ ra làm cho Trung Hoa trở thành kẻ thù của cả nhân loại văn minh. Và người Việt cũng được đặt vào một rọ.

Đội quân viễn chinh có ý thức tốt đến mức thanh thản che giấu những thất bại đẫm máu đang có. Con đường số 4 bị cắt đứt phải tiếp tế bằng hàng không cho Cao Bằng. Những một lần nữa việc ấy xảy ra trong rừng rậm vùng cao Bắc Kỳ, xa tất cả và không người nào hoặc hầu như thế, biết điều đó. Ban chỉ huy nói dối nhưng với lý do chính đáng, để không ảnh hưởng đến chiến thắng đã tới gần.

Sau một năm im lặng, ông Giáp đã có thể tuyên bố từ nay ông đã có một đội quân tập kích thật sự, ông sẽ tổng "phản công", tràn ngập biên giới, nhấn chìm tất cả quân đội Pháp. Nhưng người ta cho ông là kẻ khoác lác. Thế nhưng người ta biết được thông tin đầy đủ ông đã tăng số lượng quân chính quy trong những trại tập dượt ở Trung Hoa đã trang bị ghê gớm về vũ khí. Quân lính Việt rất nhiều trong rừng, có hỏa lực mạnh, có phương tiện để đập nát những công sự Pháp lẻ loi. Phòng Nhì đánh giá quân Việt có hơn ba mươi sư đoàn xung quanh đường số 4, có ca-nông, móc-chi-ê ba-dô-ka. Người Pháp chỉ không đến mười lăm sư đoàn và đáng lẽ tăng cường quân số ở biên giới, họ càng rút bớt đi.

Một năm kỳ lạ! Giữa những thành công, người ta tập hợp mọi điều kiện của tai họa. Người ta đi thẳng đến định mệnh, bước tới một số phận logic, không tránh khỏi, thấy rõ trước nhưng không ai dự kiến. Sự vô ý thức của con người, nhất là trong quân đội, là một hiện tượng đáng sợ hơn bản thân quân địch.

Đấy là thời kỳ ảo tưởng sung sướng. Hố sâu ở trước mặt những người ta không thấy. Tất cả đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Lúc ấy tại sao phải bận tâm? Trên bề mặt thật yên tĩnh nhưng phía dưới, thời kỳ giờ chót này đã "mục ruỗng" chưa bao giờ người ta xuống thấp đến thế trong xu hướng tranh cãi viển vông về quân sự. Những giận dữ của các tướng xoay sang điên rồ lấn át cả những kế hoạch. Các chỉ huy có sao che giấu nhau, lừa gạt nhau trong những cãi cọ bẩn thỉu, những ganh đua thô bạo. Tất cả được nhìn nhận, được làm trong hoảng loạn mất trật tự, giữa sự rối ren về thứ bậc không ngờ được. Thêm vào đó là những mưu mô, tính toán từ khắp nơi dội đến, nhất là từ Paris. Trong tất cả có những lý do không thú nhận được về chính trị. Những gì xấu xa ở các bộ, các tiền sảnh ở Paris, các ban tham mưu của Pháp và của Đông Dương xuất xứ từ "vụ Revers". Tuy đã kết thúc, nó để lại cả một gia tài tinh thần mâu thuẫn, kình địch, nghi ngại, ngu dốt tự giác hay không tự giác, bi quan bất cần và nhất là lạc quan. Chính sự lộn xộn ấy dẫn đến sự thất bại trong vùng núi đá vôi Đông Khê.

Ít nhất cũng ngoạn mục. Vì giữa máu, đồng bạc, sự đam mê vô độ; những tra tấn, tính chất anh hùng và những ý đồ đen tối, người thấy một loạt nhân vật, tất cả được số phận hướng dẫn như trong một bi kịch của Shakespear. Tất cả là tập hợp mẫu người, từ hèn nhát đến cuồng tín, từ tội lỗi đến trong trắng. Người ta thấy trong vai trò của họ, Nguyễn Bình đi đến cái chết, tướng Chanson bị nổ tan thành mảnh, Bảo Đại suy nhược thần kinh vì khoái lạc, Nguyễn Đệ mưu sĩ bất lực, tướng Carpentier khép kín trong gian phòng có máy điều hòa, Tâm, mệnh danh "con hổ Cai Lậy", tướng trung thực Alessandri hơi nghĩ mình là Jeane d'Are của Đông Dương, Pignon xuất sắc luôn đem lại cho mình nhiều điều dở, Đức cha Lê Hữu Từ giám mục thời Trung cổ, nhà tư sản sợ lựu đạn và học sinh, tướng Marchand sáng tác những câu ví von, tướng Xuân táo tợn rất muốn thế chân Bảo Đại, tướng Revers chính thức mưu phản, đại tá Constant chỉ huy vùng biên giới không bao giờ đi máy bay vì yếu tim. Cũng có Hồ Chí Minh và ông Giáp, vô hình và ít hiện diện, ẩn trong lòng rừng rậm để chuẩn bị lực lượng.

Và kết thúc những cái đó là nỗi nhục nhã, sự thất bại cay đắng, sửng sốt, không ngờ trên biên giới Trung Hoa. Sau đó người ta tưởng sẽ vượt qua được. Nhưng thực tế chẳng bao giờ người ta hồi sức, cho đến Điện Biên Phủ. Vì người ta phát hiện ra Châu Á mới mà người ta đã không tin. Luôn luôn người ta biết Châu Á hiện đại, ghê gớm, về sau quá mạnh đối với một đội quân viễn chinh cô độc, xa tất cả. Sau căn bệnh tự kiêu sẽ là căn bệnh lo sợ, ít nhất là không ý thức.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2019, 10:41:35 pm

Cuộc "trường chinh"

Mùa thu năm 1949, bốn quân đoàn của Mao tiến xuống biên giới Bắc Kỳ. Họ có tiếp tục đi xa hơn, chiếm lấy Đông Dương trên đà tiến - hoặc cuối cùng dừng lại, kết thúc cuộc "Trường chinh” kéo dài đã hai mươi năm?

Vì bản anh hùng ca của cộng sản Trung Hoa đã bắt đầu hơn hai mươi năm. Đấy là công cuộc thần kỳ nhất trong những cuộc phiêu lưu của loài người: xưa kia ai có thể ngờ Mao sẽ thắng? Ông bắt đầu quá khổ sở, rất ít phương tiện, có những kẻ thù, những lực lượng vượt rất xa lực lượng của ông, của Quốc dân đảng, vương quốc mặt trời mọc, Mỹ, lần lượt hoặc xen kẽ. Thế mà ông, người nông dân nổi dậy, đơn độc, nghi ngờ tất cả, kể cả Moscow, cuối cùng chinh phục nước Trung Hoa bao la. Ông có nuốt luôn Đông Dương không?

Làm sao không thán phục, không khiếp đảm được? Một lực lượng vật chất và tinh thần hoàn toàn mới sinh ra trên thế giới. Nhưng thật ghê gớm! Tất cả những gì tôi biết về vấn đề này không thể tin được. Thế mà đấy là sự thật.

Lịch sử của Mao, những tháng trước, trong không khí nặng nề của gió mùa, tôi viết lại tại chỗ. Ở Hồng Kông, nhất là tôi đã ở Trung Hoa, trong Quảng Đông bị bao vây và xa hơn trên một chiến trường thực sự lộn xộn của thảm bại Quốc dân đảng. Và tôi đã hiểu chủ nghĩa Mao là quyền lực tuyệt đối, không đo được, như siêu hình về ý muốn, căm thù, che đậy. Đấy là một nghị lực quá kỳ lạ, máy móc ghê gớm mà người ta - ít ra là như tôi trông thấy và sờ được - không thể rõ được là cái gì. Thật không hình dung được.

Sự quyết liệt kinh hoàng! Tinh thần ấy bắt đầu khi cuộc Cách mạng Trung Hoa phát động nhân dân đô thị nổi dậy kỷ niệm những ngày tháng Mười bị Tưởng Giới Thạch tắm trong máu. Malraux tả, những vụ tàn sát, hành hình ấy là giai cấp vô sản bị đánh bật gốc từng đống người vứt vào lò cháy bỏng của đầu máy xe lửa, xác người chặt khúc đầy đường. Lúc ấy một kẻ gây náo loạn lạ mắt tên họ là Mao, có đường lối khác đã tuyên bố cuộc Cách mạng Trung Hoa thực sự là của những người nông dân. Ông thét lên với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hàng trăm triệu nông dân sẽ đứng lên như một cơn gió xoáy.

Những bước đầu thật kinh khủng. Đấy là thời kỳ một Mao còn trẻ để tóc dài, chỉ đạo dựa vào tinh thần và sự kinh hoàng. Ở miền Nam Trung Hoa, trong núi rừng Giang Tây, ông xây dựng nền Cộng hòa nông dân và quân đội nhân dân sau nhiều năm chống cự quyết liệt, nền Cộng hòa tan rã dưới sự tấn công của một triệu lính đánh thuê của Tưởng Giới Thạch. Nhưng không phải là tất cả đã hết vì bắt đầu cuộc "Trường chinh", một công sức vô vọng và hư ảo, một cuộc đi, về, kéo dài hai mươi năm vượt nhiều chục, nhiều trăm nghìn cây số.

Đó là một cuộc chạy trốn. Ngày 16 tháng tám năm 1934, một trăm nghìn đàn ông, đàn bà, trẻ con chọc thủng vòng vây của Quốc dân đảng xung quanh Juling. Họ phải đi qua toàn nước Trung Hoa do những đoàn quân đông đúc của Tưởng Giới Thạch và các "chúa chiến tranh" chiếm giữ, lên phương Bắc xa xôi lẩn trốn ở Diên An đất hoàng thổ, trơ trụi không cây cối với cái rét miền Siberi. Ở đấy có một căn cứ đỏ phụ tới nơi sẽ thoát được. Để tránh các toán quân đuổi theo, họ phải đi vào các vùng hoang vắng ở biên giới Tây Tạng, vừa tiến vừa chiến đấu ở những chỗ chỉ có núi cao vực sâu, thác nước không qua được, rừng và đầm lầy, chết nhiều vì sốt rét. Cuộc "Trường chinh" kéo dài mười tám tháng, mỗi ngày đi năm mười cây số. Hàng ngày nhiều người chết nhưng những người sống sót vẫn tiến lên với những chiến công, hy sinh và đau khổ. Những người cộng sản mười quân đoàn, vượt qua mười tám dãy núi và hai mươi bốn con sông lớn, chiếm sáu mươi hai thành phố khi đi qua. Nhưng đến Diên An họ chỉ còn lại hơn ba mươi nghìn người. Chính họ hơn mười năm sau chinh phục toàn bộ nước Trung Hoa.

Vì ở Diên An, Mao sáng tạo ra "cuộc chiến tranh nhân dân". Ông ở trong một hang động, ban đêm làm việc dưới một ngọn đèn dầu. Ông Mao trưởng thành ấy đã tự phê bình: sự tàn bạo không đủ, cũng phải thuyết phục để nắm lấy tinh thần. Nhân danh lòng yêu nước ông kêu gọi toàn dân vào quân đội, tung ra chống một kẻ địch mới ghê gớm hơn nhiều quân Quốc dân đảng. Nhật xâm chiếm Trung Hoa. Tưởng Giới Thạch cũng chống Nhật nhưng theo cách cổ điển nhất: dàn quân chính quy đối mặt với quân đội Thiên Hoàng và bao giờ cũng bị đập tan. Mao đối đầu với bộ máy quân sự kinh khủng của Nhật bằng dân chúng. Dưới sự bảo trợ của cộng sản, ông gợi ý, tổ chức họ, làm thành một khối. Ông là nhà lý luận thiên tài của cuộc chiến tranh nhân dân, xây dựng bốn nguyên tắc của chiến tranh du kích.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2019, 10:43:58 pm

Dần dần các sư đoàn quân Nhật trở thành bất lực. Họ không còn mục tiêu Trung Hoa bao la, luôn luôn khép kín trước họ. Hàng triệu đàn ông đàn bà, hàng chục triệu bị những người lính cục cằn Nhật Bản giết hại tàn ác hoặc chết hàng loạt vì đói khát, bệnh tật, vì mọi tai họa của chiến tranh. Nhưng những điều đó ít quan trọng và thậm chí sự đau khổ còn "tốt" vì nó tôi luyện lòng quyết tâm của nhân dân, làm nên nhân dân. Đồng thời với chịu đựng những kinh hoàng và tội ác, du kích đỏ nẩy nở, phát triển rất nhiều. Quân nhân thô bạo Nhật Bản không giết được hết người Trung Hoa, bị mòn mỏi đi. Do mải đuổi theo quân du kích không nắm được lẫn lộn với dân chúng, và thiên nhiên, bản thân họ trở nên bị thương tổn. Cuối cùng sau nhiều năm đánh, giết, quân đội tự hào, mạnh mẽ của Thiên Hoàng biến thành mồi của các chiến sĩ ma của Mao.

Sau đó chung cuộc thật nhanh chóng! Từ nay lại là cuộc "Trường chinh" trở về, xuống lại phía Nam, nơi Mao và quân lính bị săn đuổi đã thoát khỏi hai mươi năm trước. Nhưng cuộc "Trường chinh" bây giờ là thiên anh hùng ca.

Tất cả diễn ra chỉ trong mấy tháng. Trong thời gian chống Nhật, Mao đã ký kết hợp tác với Tưởng Giới Thạch để toàn Trung Hoa chiến đấu chống kẻ thù chung. Sau Hiroshima, quân Nhật sụp đổ và đầu hàng, trước con mắt thế giới, chiến thắng thuộc về Tổng tư lệnh. Nước Mỹ hoa mắt có muốn xây dựng Trung Hoa của Quốc dân đảng thành "cường quốc" thứ năm trên thế giới không? Họ không muốn nhận thấy việc thử thách đã quá khó khăn đối với chủ nghĩa dân tộc tư sản của Quốc dân đảng, rơi vào đủ loại âm mưu hối lộ, cám dỗ, xuống đến mức suy sụp. Họ không biết đối với tầng lớp thanh niên Trung Hoa, với toàn dân chúng đông đảo, Mao - người cộng sản thầm kín là hiện thân của cuộc Kháng chiến, là người Anh hùng, vả lại cho đến lúc Nhật thất bại, ngoài các đội quân nhân dân, ông đã có một triệu quân lính thực thụ, những người cuồng tín. Có ai biết rõ những điều ấy? Kể cả Staline khuyên Mao hãy khôn ngoan: "Hãy kiên trì. Chờ thời cơ. Các đồng chí còn yếu chưa nắm lấy vũ khí và chinh phục lại đất nước được". Và Staline thỏa hiệp với Tưởng Giới Thạch.

Tuy vậy mọi việc được thanh toán nhanh chóng kỳ lạ. Mao không quan tâm đến gì hết, Staline, Mỹ, toàn thế giới, Quốc dân đảng cũng thế: thời cơ đã đến, phải kết thúc. Đối với ông, nước Trung Hoa của Quốc dân đảng, dưới niềm hãnh diện, chỉ là một sự yếu kém vô biên, sự thối nát mưng mủ chỉ hưởng thụ và lạm phát, tuy có nhiều quân lính, cảnh sát nhẫn tâm, tuy có cả hệ thống nhà nước, có sự liên minh và giúp đỡ của Mỹ. Những người cộng sản, họ trong sạch hơn, đạo đức hơn bao giờ hết. Không thấy rõ nhưng tương quan lực lượng đã đảo ngược nhưng Mao biết rõ sức mạnh của mình.

Đây là bước ngoặt lớn của lịch sử: thời điểm sét đánh. Mao đã phân tích đúng. Sau bao năm dài, bao cố gắng bi thảm và thất vọng, bướng bỉnh ghê gớm bao thử thách, cái chết và máu, ông đánh một đòn quyết định thật dễ dàng, cả thế giới kinh ngạc vì các sư đoàn đỏ trưởng thành từ quân du kích đập nát vụn quân đội bao la, trang bị tối ưu của Tưởng Giới Thạch ở Mandchouria. Mao chỉ còn gặt hái nước Trung Hoa như một quả chín.

Và như vậy cuộc "trường chinh" mới - không còn khổ sở mà vinh quang, không còn từ Nam lên Bắc mà từ Bắc xuống Nam - trên ba nghìn cây số, chiếm giữ thắng lợi nước Trung Hoa mênh mông với sáu trăm triệu dân. Các nơi hạ vũ khí, đầu hàng. Vào Bắc Kinh, thủ đô cổ kính và tráng lệ, những người chiến thắng tuyên bố thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Mao trở thành "Hoàng đế Đỏ" kế tục bao nhiêu "Con Trời". Vào Thượng Hải, độc quyền to lớn và thần kỳ của chủ nghĩa tư bản và đế quốc, Mao sẽ giáo dục lại để biến thành một thành phố của dân chúng. Cuối cùng, mùa hè năm 1949 tiến vào Quảng Đông, ở thành phố này của nước Trung Hoa, của tất cả đã được đẩy lên đến cực điểm, những thú vui của cảnh khổ cực, những tinh tế và những ti tiện giữa sự lúc nhúc không tưởng được của con người, hàng hóa và xác chết. Ở đây xưa kia phát sinh cuộc Cách mạng, đã bị phản bội và khốc liệt đập tan. Hai mươi năm sau Mao đến đây như một người trả thù.

Có thể nói không có kháng cự. Là sự cuồng nhiệt, niềm kích thích cao độ của những đám đông, đợt sóng thần những lá cờ năm ngôi sao đỏ, ngày hội anh hùng của nhân dân. Quần chúng chưa bao giờ xuất hiện đông đến thế. Hàng triệu đàn ông, đàn bà, bước theo chân quân lính trong niềm vui sau đó nghiêm túc vào trong các phòng, rạp chiếu bóng, nhà kho, những nhà nuôi lợn, bất kể ra sao - để tham dự những buổi mít tinh đầu tiên. Ở đây các uỷ viên chính trị lạ mặt mảnh dẻ, nhẵn nhụi, mặc quần áo lao động xanh lơ, vừa đáng sợ vừa hiền lành, phổ biến những lời nói của Mao. Đây là những người như người ta chưa từng thấy, những lớp mới đầy nhiệt huyết, đơn giản khác thường. Tất cả những kẻ thù của nhân dân, những kẻ "phản động", cả những chúa tể chiến tranh, những tư sản lớn bóc lột cầu xin được tha thứ. Chỉ những đội quân Quốc dân đảng cuối cùng còn chạy trốn được cuộc "Trường chinh" cuối cùng, không lay chuyển được của những người cộng sản.

Những người bị đuổi và những người đuổi theo, những người thua chạy trước những người thắng một ít, tôi đã thấy họ ở gần Quảng Đông. Những đoàn quân lính bao la! Tất cả đi như ảo giác, cả ngày đêm không dừng lại, những người cộng sản chạy theo tiêu diệt nốt, những người dân tộc cuối cùng cố gắng thoát nạn. Một tháng sau, xuống dưới một nghìn cây số nữa, tôi lại gặp họ, tất cả sẽ vấp phải Đông Dương. Và tôi không ngớt tự hỏi: Việc xấu đi, mấy sư đoàn quân Pháp, đã vất vả đánh nhau với người Việt, có thể làm gì trước vô vàn những đoàn quân ấy? Quân số của Đội viễn chinh chỉ là một tấm màn mỏng manh đối mặt với những khối lượng sẽ xuất hiện, hàng chục, hàng trăm nghìn, có lẽ hàng triệu người với những ý đồ không rõ, nhưng sẽ quét sạch tất cả những cọng rơm nếu họ muốn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2019, 10:45:30 pm

Tôi lo lắng nhiều vì tôi biết chủ nghĩa Mao là thế nào: bí hiểm không lường được ở thời hiện đại. Đấy là lòng tự hào không giới hạn của dòng giống Trung Hoa, bị lệ thuộc gần một thế kỷ và muốn trả thù tất cả. Đuổi ra khỏi đất nước họ tất cả những đế quốc, thực dân, tất cả những kẻ bóc lột, những người da trắng không đủ - phải trừng phạt, vì chúng tự thân là cái xấu. Phải tiêu diệt chúng hoặc đúng hơn là đưa chúng về sự hối hận và về cái tốt - bất cứ chúng ở khắp nơi, trên cả toàn cầu.

Vậy là cuộc thập tự chinh, vừa chỉ mới bắt đầu. Nhiệm vụ của nước Trung Hoa là chinh phục thế giới để đảm bảo cái tốt thắng vĩnh viễn cái xấu như một tội lỗi từ gốc ở mỗi con người, mỗi dân tộc, cho dù trong sạch nhất. Cái xấu không thể tha thứ được và chủ nghĩa Mao phải đánh cho, đến lúc nó được đánh bật khỏi hành tinh, khỏi con người cuối cùng. Chiến thắng là chắc chắn, không tuột khỏi tay dân chúng. Quần chúng đông đảo "thổi như một trận cuồng phong trên mặt đất" quét sạch mọi lâu đài sâu mọt của quá khứ và sẽ xây dựng thay vào đó những công trình tuyệt vời của chủ nghĩa xã hội.

Thật điên rồ. Đối với Mao nếu cần thiết, nửa dân số trên quả đất bị tiêu diệt cũng không hề gì. Một tai họa nguyên tử cũng không quan trọng. Sau đó những người sống sót sẽ tới thời kỳ vàng, thiên đường mà "gió đông thổi bạt gió tây", những người da vàng sẽ thống trị những người da trắng.

Tôi sợ vì lò tiêm nhiễm đầu tiên cần quét sạch là xứ Đông Dương này mà Đội quân viễn chinh chiến đấu cho những gì Trung Hoa căm ghét. Nhấn chìm nó rất dễ. Quân lính Mao chỉ tiếp tục đi mấy trăm cây số sau khi đã qua hàng trăm nghìn cây số. Hệ tư tưởng chỉ đạo là như thế. Nhưng phải chăng đấy là "giải pháp đúng"?

Trong mùa hè 1949 này, may mắn duy nhất của Đông Dương là Mao đã kết luận chưa đến lúc Trung Hoa đỏ của ông "lộ diện" về sự thật, về hệ thống kinh hồn những căm hờn tham vọng, bài ngoại trước một thế giới không biết rõ họ, không nghi ngờ gì. Phải chăng tốt nhất là lợi dụng sự không biết gì, sự thật thà này để "thanh lọc" không phiền phức nước Trung Hoa đã khuất phục nhưng cơ bản vẫn là tiểu tư sản và không hề nghi ngờ chủ nghĩa Mao thực sự ra sao? Bước đầu phải thanh toán hai mươi đến ba mươi triệu người Trung Hoa một cách khoa học, giáo dục lại đầy đủ hàng trăm triệu người khác - nghĩa là tra tấn tinh thần, đầu óc trong thân thể họ trước khi chủ nghĩa Mao, được xây dựng vững chắc, đối mặt bằng mọi cách với toàn thế giới nhân danh cái tốt.

Đấy là giả thuyết thuận lợi. Có lẽ cuộc "Trường chinh" sẽ dừng lại ở ranh giới Đông Dương dù chỉ là việc làm chứ không dứt về tinh thần. Chỉ là một đợt nghỉ mấy tuần, mấy tháng, mấy năm, là một án treo. Trong lúc đó Mao có biết bao cách gián tiếp để đè nặng lên cuộc chiến tranh Đông Dương, làm cho nó trở thành cửa tử đối với người Pháp!

Nhưng cấp trên cao không biết đến điều ấy! Người ta chỉ đề phòng những gì người ta gọi là "sự cố kỹ thuật". Người ta lo ngại không phải những người cộng sản mà những người dân tộc Trung Hoa. Nỗi lo sợ là tàn quân Quốc dân đảng quay trở lại Đông Dương từ chối để người Pháp giải giáp vũ khí. Họ tự biến thành du kích chống quân đỏ trong núi rừng Bắc Kỳ, quân đội Mao có thể đuổi theo đến đấy. Và xung quanh đường số 4 và núi rừng sẽ có sự trộn lẫn liên miên giữa những sư đoàn Mao Trạch Đông, tàn quân Quốc dân đảng, Việt Minh, Đội quân viễn chinh, mọi người ít nhiều là kẻ thù của mọi người.

Mặc dù vậy, bộ máy chính quyền vẫn hoạt động. Những tiểu đoàn biên giới bố trí ở những điểm qua lại chính. Người ta hình thành ba nhóm, một sự bố trí mà tướng Alessandri rất hài lòng. Trông rất mạnh - có đội lê dương, lính dù, lính thuỷ đánh bộ, kỵ binh, một số ca-nông, lô-cốt, cả mấy máy bay ném bom không ngừng quay vòng trên bầu trời. Trong những đồn bốt giữa núi đá vôi và rừng rậm, thế giới nhỏ ấy nhìn về phía nước Trung Hoa chờ không biết những gì từ đó ra, sẽ kết cục thế nào. Tướng Carpentier chịu phiền phức lên thăm các đội quân của ông ở biên giới. Bao giờ cũng thế, có những nếp nhăn, những cơ bắp tin tưởng. Nhưng bao giờ cũng thế ông có những nghi ngại, sợ có "rắc rối". Vì thế ông đành nói với các sĩ quan có trách nhiệm ngăn chặn làn sóng vàng: "Có lẽ sẽ là khối tuyết lở. Có thể có một triệu, hai triệu người Trung Hoa. Chưa biết được. Trường hợp ấy thì phải có lực lượng bổ sung".

Rồi vị tướng suy nghĩ, thanh thản nói thêm: "Tôi có thể gửi lên cho các anh một đại đội."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Giêng, 2019, 11:17:20 pm

Chờ đợi ở Móng Cái

Tôi đi trước ngọn thủy triều Trung Hoa - làn sóng có thể đến hàng trăm nghìn người. Tôi đến Móng Cái, thị trấn cuối cùng của Đông Dương, trên bờ biển, để trải qua một cuộc phiêu lưu.

Phải theo đường thủy từ Hải Phòng, trên chiếc xà lúp Trung Hoa - một chiếc ca-nô lớn mái tre đan quét hắc ín, giữa đám đông người Châu Á, trong sự đơn sơ tệ hại. Bên trong như một chiếc hộp chật ních người với trẻ con, lợn gà và những gói kỳ lạ. Trần mái thấp đến nỗi không đứng lên được. Trong gian nhà tù bằng gỗ này nóng đến ngột ngạt. Nhưng mọi người cười nói vui vẻ. Tôi cũng tham gia một nhóm rất nhộn. Hai, ba chàng trai còn trẻ nhưng đã làm nhiều điều – kiểu những kẻ khờ dại của Câu lạc bộ báo chí Sài Gòn: ăn ở đấy nhiều, họ trở thành nhà báo một ít. Nhất là có hai ba nữ mưu sĩ của Sài Gòn. Lẽ tự nhiên họ là những "bà chúa" - chính họ chọn những người đàn ông, những "ông chúa". Để được công nhận là "một người đáng mặt" ở Đông Dương, phải có sự nhìn nhận của những người đẹp ấy. Họ tôn vinh hoặc lên án theo một triết lý sâu sắc và cuộc đấu loại vừa đáng sợ, tinh tế và không xác định được. Trước hết họ chấp nhận "nam tính", không như của một con vật mà của "anh hùng" biết làm mọi việc thật tốt, giết người cũng như yêu đương, lao vào cái chết cũng như hưởng thụ cuộc sống. Việc ấy trở thành đạo đức, thậm chí là đạo lý - tất cả đều được phép, từ sự tôn trọng nguyên tắc đến dâm đãng. Lúc đó là cuộc sống mê ly, sự điên rồ mà tất cả dễ dàng, vui vẻ, đỉnh cao của hoan lạc: họ là phần thưởng xứng đáng.

Từ Hải Phòng, trai gái chúng tôi đi Móng Cái như một "trò đùa". Chúng tôi ra đi ban đêm, nêm chặt trên mái như nằm ở hạng sang. Sau một ván bài dưới áng sáng nến, chúng tôi ngủ thiếp đi. Tôi tỉnh giấc vì tiếng ken két của gỗ và ròng rọc. Bình minh lên. Chúng tôi vẫn ở trong một con ngòi buồn tẻ của vùng châu thổ Bắc Kỳ không dứt này. Xà-lúp của chúng tôi nép vào bờ nhường chỗ cho một đoàn thuyền lớn. Chúng đi hàng một, những cánh buồm nặng nề trải rộng bất động, không có gió. Thuyền trưởng của chúng tôi lướt lại gần bảo:

- Các ông vào trong nhanh lên. Đấy là đoàn thuyền Việt Minh mua lậu vũ khí Trung Hoa đưa về.

Rồi suốt hai ngày liền cuộc hành trình tiếp tục trên cảnh trí diệu kỳ của vịnh Hạ Long. Chúng tôi để lại phía sau Hòn Gai và cảng Cẩm Phả có những đồi than xuống đến biển rồi Tiên Yên, bến cảng của đường số 4. Chúng tôi vượt qua cả cảng Wallut cơ sở tiền tiêu của Hải quân. Xa hơn là biển Trung Hoa với những hải tặc, tàu cướp biển và các băng tổ chức áp mạn tàu; bây giờ có cả tàu thuyền của Mao nữa. Chặng đường kết thúc, chúng tôi đến gần một bãi biển thấp đầy bùn, mương lạch và mùi hôi hám. Chúng tôi bước chân lên Móng Cái.

Mấy giờ sau tôi ở trên một đỉnh đồi cách biên giới mười mét. Hai lính lê dương ở đây, thường xuyên cảnh giác và sẵn sàng, một ngồi sau khẩu đại liên đã lên đạn, người kia đứng nâng ống nhòm theo dõi quang cảnh. Tôi cũng nhìn nước Trung Hoa, gần dưới chân tôi giữa một con sông có chiếc cầu bắc qua - chính thức người ta gọi là "Cầu quốc tế". Bên kia bờ là Đông Hưng, thành phố Trung Hoa chị em với Móng Cái. Xa xa là đồng ruộng, những mảnh xanh vàng lên theo bậc thang. Chân trời khép lại do một gọng kìm đồi núi, có tên Một trăm nghìn ngọn núi.

Tất cả thật trong suốt và tĩnh lặng đến vĩnh cửu! Trên Cầu quốc tế cu-li mang vác qua lại chẳng thủ tục gì. Bên kia, đối diện với lô cốt Pháp, bay phấp phới lá cờ Quốc dân đảng với hình mặt trời. Một lính Quốc dân đảng đứng gác. Một đám đông thường ngày đi lại đầy những con đường nhỏ của Đông Hưng có các quán hàng mở cửa. Tôi không hề thấy dấu hiệu của sự kiện.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Giêng, 2019, 11:21:16 pm

Thế nhưng lần đầu tiên ở Đông Dương tôi thực sự bị đè nát vì cảm giác bất lực. Bên cạnh tôi, đại uý G... trưởng đồn, tất cả có một đại đội, còn bị ngột ngạt hơn tôi. Ngắm mãi dãy núi, bình lặng, màu tươi dịu, những trăm nghìn ngọn núi, ông nói với tôi:

- Ông đừng lầm vì vẻ bất động bên ngoài của người và vật - dân chúng Đông Hưng như chẳng làm gì và những dãy núi đẹp và thanh trong ấy. Trong mấy ngày, mấy tuần, mảnh đất không di dịch ấy sẽ lúc nhúc quân lính Trung Hoa đủ loại. Và với số ít người của mình, tôi sẽ phải nói với họ: "Xin các ông nhẹ tay cho".

Những khối lượng người sẽ từ những ngọn núi ấy đổ ra. Số phận đến không tránh khỏi được. Dù sao tôi nghĩ còn một ít thời gian nữa, ít nhất mấy tuần lễ. Vì trước đây một tháng sư đoàn Quốc dân đảng còn giữ Quảng Châu Loan, "nhượng địa" cũ của Pháp trên bờ biển Quảng Đông, cách khoảng bốn, năm trăm cây số. Tướng Quốc dân đảng cho lính treo lên cây những hộp bít-quy rỗng có khe hở rồi kêu gọi lòng yêu nước của dân chúng bỏ giấy vào đấy tố cáo những người cộng sản ẩn nấp. Hàng ngày quân tuần tra đi thu thập những lời tố cáo. Người ta chẳng xác minh gì. Ai được nêu tên là tội phạm. Nếu nghèo người ta bắn ngay. Nếu giàu phải nộp tiền chuộc tội.

Nhưng bây giờ ở Quảng Châu Loan phải là một sư đoàn đỏ, cũng đề nghị dân cư còn lại, với lòng yêu nước tố cáo những kẻ chống đối và phản bội, giao cho nhân dân xử tội. Người ta tiếp tục bắn giết...

Đại uý G... lo lắng nhưng trong thâm tâm ông "thích thú" - ông thích kỳ lạ tất cả những cái đó, những "trò chơi" của Phương Đông. Vui đùa, hay nói, kín đáo, lối sống thoải mái, không bao giờ người ta biết thực tế ông nghĩ gì. Ông quan hệ lịch sự nhất với phó thị trưởng Quốc dân đảng ở Đông Hưng, quân du kích đỏ trong núi, những băng nhóm Việt Minh, nhà tỷ phú Chong, người đàn bà đẹp và nổi tiếng "Milady" và thủ lĩnh người Nùng, đại tá Vòng A Sáng. Tất cả những cái đó giữa tình trạng lộn xộn kỳ lạ nhất bởi phản trắc, tiền bạc, máu, buôn bán, tống tiền. Dĩ nhiên những sư đoàn chính quy của Mao sắp đến sẽ phá vỡ thế cân bằng ông đã giữ từ lâu vì ông ta, vì thú vui, vì nước Pháp, một cách vô sỉ nhưng hoàn toàn không vụ lợi.

Lẽ tự nhiên viên sĩ quan này cũng có "tình báo viên". Ông đều đặn cử những mật thám, đồng bọn cũ sang Trung Hoa. Một trong bọn họ vừa về từ rất xa kể lại những chuyện kinh hãi. Đoàn quân của Pai Chung-si, viên tướng ở lại cuối cùng trên lục địa của Tưởng Giới Thạch rút lui, trở thành cuộc tháo chạy tán loạn đánh giết lẫn nhau. Trong một số tiểu đoàn, lính giết các chỉ huy muốn hàng; trong khi một số khác giết các chỉ huy không muốn hàng. Sĩ quan bắn vào những kẻ nổi dậy, nhưng vô ích. Không có gì ăn. Trong sự tan vỡ ấy quân du kích đỏ trên núi phục kích - và cán bộ của Mao Trạch Đông xuất hiện khắp nơi - những "người tuyên truyền". Một số bị xử cực hình. Những số khác cho người mình xử cực hình các sĩ quan. Làng xóm bốc cháy, dân chúng chạy vào rừng, trên đường đầy xác chết - lính bị giết và nông dân chết đói. Sự hỗn độn ấy càng tăng vì cuộc tấn công kết thúc của các đoàn quân Lâm Bưu xuất phát từ Mandchouria cách đây một năm. Ba đoàn quân đỏ, tiến về phía trăm nghìn ngọn núi, cũng đói nhưng trong trật tự hoàn hảo.

Một nhân viên khác trở về từ Nam Ninh, nơi lẩn trốn của Pai Chung-si, và Ban tham mưu, cách biên giới khoảng hai trăm cây số. Anh ta tả sự kết cuộc xứng đáng của Trung Hoa cổ điển, trong hệ thống những phản bội, tha hóa và chém giết. Bản thân Pai Chung-si cố thử "bán mình" cho cộng sản: họ không muốn cho ông ta tiền. Ông chúa chiến tranh bèn điện cho Washington đòi những triệu đô-la đã dành cho Quốc dân đảng: "Tưởng Giới Thạch chỉ là một tên đào ngũ lẩn trốn ở đảo Đài Loan. Tôi còn chiến đấu. Số tiền ấy là của tôi. Tôi thề chiến đấu cho đến chết."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Giêng, 2019, 11:23:44 pm

Tuy vậy xung quanh Pai Chung-si hiến thân cho chủ nghĩa anh hùng, những ai có thể, từ các tướng đến các tá từng người một quy phục cộng sản. Họ đầu hàng với cả sư đoàn, trung đoàn của họ. Một số sĩ quan cao cấp không thể đầu hàng - tên tuổi họ đã được ghi vào sổ đen của chế độ đỏ. Những người này với một số đội quân nòng cốt, luôn chạy trốn xa hơn, ra biển hoặc xuống biên giới Bắc Kỳ. Họ vô vọng chạy vòng quanh trong núi, chém giết.

Được những tin tức ấy, đại uý G... buồn rầu nói với tôi:

- Đôi khi tôi cũng hèn. Mềm lòng, tôi mong những con người ấy bị tiêu diệt hết đi! Như vậy mọi việc đơn giản ngay được! Thật nhẹ nhàng! Thế nhưng họ là cơ may cuối cùng của Đông Dương - họ trụ vững càng lâu càng tốt. Nếu họ sụp đổ hoàn toàn và không gượng dậy được nữa, quân lính Mao sẽ áp sát biên giới. Họ có lệnh - tôi biết - hoàn toàn hòa giải với người Pháp. Rồi sau một năm đường lối "mềm dẻo" ấy khi công việc đã ổn định thì sẽ là sự kinh ngạc, tai họa khủng khiếp trên con đường quốc lộ 4.

Nhưng chẳng làm gì được. Ngày đêm người ta chờ đợi trước khung cảnh không di dịch, nơi lính gác Quốc dân đảng vẫn ở đấy. Bổ sung lực lượng là hai đại tá Pháp đưa đến những chỉ thị còn cương quyết hơn: hơn bao giờ hết phải giải giáp và tập trung.

Đại uý là chuyên gia về "đường lối chính trị lớn" đã hai, ba năm nay. Kế hoạch của ông tiến hành rất tốt. Phó thị trưởng Đông Hưng là bạn thân. Dĩ nhiên ông này để Việt Minh Liên khu - vùng quân sự - tự trang cấp bằng mọi cách trong thị trấn của ông, có báo trước. Hàng hóa đến từ Móng Cái, chính thức đưa qua cầu quốc tế hoặc lội sông, theo con đường buôn lậu. Chẳng có gì dễ dàng hơn. Mọi sản phẩm được đưa đến từ Hải Phòng do ông Chong, nhà tỷ phú Trung Hoa, chủ một lò gốm và đại diện một công ty dầu hỏa. Ông đều đặn chiêu đãi các sĩ quan Pháp đồn trú những bữa ăn bốn mươi món. Cũng là một người bạn và là người thông tin của đại uý. Nhờ việc buôn bán thịnh vượng mọi người đều hài lòng. Đại tá Vòng A Sáng, chủ lãnh địa và thủ lĩnh người Nùng liên minh với Pháp làm giàu bằng đánh bạc theo công thức cũ. Từ một hành lang trên cao thả xuống những chiếc giỏ nhỏ để người chơi đặt cược. Sau khi đổ xúc xắc, những chiếc giỏ được kéo lên cùng tiền những người thua. Theo truyền thống cũ mỗi lần đại uý tham gia đưa lại vinh dự cho cuộc chơi, ông được thắng trong ba lần đặt tiền đầu - sau đó tùy vào may rủi. Sau cùng trong tiệm hút - nhà chứa, "Milady" sống sung sướng, ban phát hạnh phúc và thỉnh thoảng cho những ý kiến quý báu.

Đại uý vừa kể lại những việc ấy vừa nhếch mép hơi độc địa - một nụ cười đặc biệt, vui và có một ít thê thảm:

- Đừng cho tôi là một người tốt. Nghề nghiệp của tôi là chiến tranh. Tôi yêu mến nó dù không suôn sẻ. Còn buồn cười hơn nếu tôi là một tên lính đánh thuê. Dù sao trong ba năm tôi đã hầu như tiêu diệt hết người Việt ở đây, bằng cách thương lượng, vũ khí ở đất nước này. Trước hết tôi "sờ". Ông Chong không mang gì đến Đông Hưng mà không có giấy phép và hoa hồng cho tôi. Quỹ đen dồi dào nên tôi muốn có bao nhiêu nhân viên, mật thám và kẻ giết người cũng có. Đấy là những người biết việc, có thể làm mọi việc. Trong nghề cướp bóc họ thuộc lớp quốc tế - có truyền thống từ bố đến con. Cướp là công nghiệp lâu đời ở vịnh Bắc Kỳ. Từ xa xưa những vùng ấy là nơi ẩn nấp các đội tàu nhỏ của hải tặc da vàng, những làng xóm ở đấy là hang ổ các băng cướp. Trong phố có những ông "lớn" chỉ huy mọi việc - trong đó có cả giặc cướp và bọn vô lại. Nhưng tôi đã thành đồng loã với những kẻ chuyên chế ấy. Đó là những nhân vật xuất chúng như phó thị trưởng Quốc dân đảng, chỉ huy đồn trú quốc gia. Qua họ tôi nắm được mọi tin tức, bên này bên kia biên giới. Tất nhiên họ cũng thông tin cho người Việt nhưng ít hơn tôi. Đối với họ, người Việt là khách mua còn tôi là người cung cấp, người đại diện cho đồng bạc và cho phép đưa từ Hải Phòng đến những thực phẩm quý nhất.

Cứ thế ngày này qua ngày khác viên đại uý lần ra những kỷ niệm, ý thức được hoàn toàn thời kỳ tốt đẹp đã hết và tương lai thật đáng sợ. Có lẽ là bi kịch không ngừng - có lẽ về sau này. Nhưng bận tâm làm gì? Người ta tiếp tục cuộc sống thoải mái.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Giêng, 2019, 08:11:40 am

Cuộc trốn chạy của Pai Chung-si

Thế nhưng ở Móng Cái nhân dân bắt đầu kín đáo di cư đến Hải Phòng. Một người đến từ Pakhoi, một cảng Trung Hoa còn ở thời Trung cổ, một trăm nghìn dân, đẹp, khốn khổ, lúc nhúc trong thuyền dùng vào tất cả - buôn bán, chở lậu, câu cá hoạt động phức tạp, cướp bóc. Rất gần đây, chỉ mấy ngày đi bộ. Qua người này người ta biết Pai Chung-si và quân lính chưa hoàn toàn bị tiêu diệt. Ngược lại ông chúa chiến tranh này, xung quanh có năm mươi nghìn quân lính trung thành, lùi vào trong thị trấn. Quân đội Lâm Bưu kéo đến - sẽ đánh nhau to. Và tất cả sẽ dồn về Móng Cái, lúc ấy việc gì sẽ xảy ra?

Những người biết điều nhất, khôn nhất ra đi! Người đầu tiên lên "xà-lúp" đi Hải Phòng chính là ông Chong, nhân vật nắm tin tức biên giới rõ nhất, trung lập và dính vào tất cả. Ông mang theo các con trai và những người vợ lẽ. Trước khi đi ông đến thăm xã giao các sĩ quan Pháp: "Tôi đi vắng mấy ngày vì công việc". Không thể khai thác ở ông một lý do nào khác. Việc ra đi này là một dấu hiệu đáng lo ngại. Có nghĩa lần này ông Chong cảm thấy quá sức mình: những sự kiện vượt ra ngoài nghệ thuật khác thường của ông, dàn xếp thỏa hiệp và môi giới.

Sự xúc động còn lớn hơn khi "Milady" lên tàu cùng các “con gái", đồ trang sức, các khoản tiết kiệm, những con gà còn sống, thúng trái cây, những bức ảnh của những người yêu - trong đó có trung uý Salan, người trước đây phát hiện ra cô còn là một bé gái vùng núi và gây dựng cô. Sau này rất lâu, trở thành tướng có uy thế ông trở lại kiểm tra Móng Cái. Cô xếp hàng đầu cùng dân chúng nhưng ông đi qua không nhận ra! Đáng buồn!

Chuyện này báo trước điều gì? Vì không phải chủ một tiệm bình thường. Khoảng năm mươi, xương xẩu, dáng cứng cát, thể hiện mọi tư cách của thuốc phiện, bà đã trở thành một biểu tượng - sự hiện diện liên tục của Pháp ở Móng Cái. Bà đặc biệt dành cuộc đời mình cho quân đội Pháp, hết lòng.

Gần bốn mươi năm bà đặc quyền là tình nhân của chỉ huy đồn trú và sĩ quan nào không theo truyền thống ấy sẽ là thô lỗ và cũng là một lỗi nặng về chính trị. Vì "Milady" được cả Móng Cái kính nể, ảnh hưởng của bà nổi trội. Và khi từ chiếc xà-lúp Trung Hoa, một "Milady" khóc lóc vĩnh biệt, người nào cũng biết có nghĩa đã kết thúc một thời kỳ - thời kỳ của chúng ta.

Riêng đại tá Vòng A Sáng giữ vững lòng tin. Ông ta chỉ huy 200.000 người Nùng bố trí ven bờ biển. Đây là một nòi giống đặc biệt, từ bọn cướp Trung Hoa cũ ở lại đây, phát triển về dân số và thịnh vượng lên. Vòng A Sáng bản thân nguyên là một tên cướp. Nhưng trong mùa xuân 1944 thê thảm ông ta đã cứu một số người Pháp bị Nhật săn đuổi. Gia tài của ông nổi lên từ đó. Trừ lần ông để cho băng người chú tàn sát khu đồn trú Móng Cái vì lòng kính trọng chú, ông tuyệt đối trung thành với người Pháp. Sáng tin tưởng vào nước Pháp đến mức từ chối cấp tướng của Quốc dân đảng và của Việt Minh - cả hai đề nghị với ông gần như đồng thời. Biểu tượng của ông, của dân tộc ông là lá cờ tam tài có chiếc thuyền. Hơn thế ông đưa quân lính của mình vào một cuộc chiến toàn diện bên cạnh và trong lòng Đội quân viễn chinh. Ban chỉ huy thực tế cũng hoàn toàn tin tưởng vào lính Nùng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Giêng, 2019, 08:12:46 am

Không dân tộc nào ở Đông Dương làm tổn hại thanh danh mình như thế bên cạnh người Pháp. Kết quả, sau Điện Biên Phủ là sự di cư toàn bộ: người Nùng rời bỏ biển, bờ biển, chỗ ở của mình để phiêu bạt về phía nam sống trong nghèo khổ.

Nhưng trong mùa thu 1949 Vòng A Sáng vẫn rất tin chắc vào lực lượng Pháp - và lực lượng của mình. Tôi đến gặp ông ta trong chỉ huy sở. Đây là một người lực lưỡng bụng to, đôi tay của người bóp cổ và khuôn mặt phì nộn. Ông nói với tôi một cách bí ẩn:

- Cộng sản không bao giờ tấn công Móng Cái đâu. Họ biết những người Nùng không thể bị đánh bại.

Lòng tin ấy không cản trở ông cho chuyển ngay trong ngày đó một số đồ vật đặc biệt quý đến Hải Phòng.

Và chính Vòng A Sáng có lý. Vì đầu tháng chạp việc di chuyển chấm dứt hẳn. Tiếng đồn ông Chong và "Milady" sẽ trở lại. Móng Cái biết được một kết luận của "thỏa thuận" ở Pakhoi giữa Pai Chung-si và quân đội Lâm Bưu. Ông chúa chiến tranh từ bỏ chủ nghĩa anh hùng và mọi hành động thù địch ở Trung Hoa và Đông Dương. Đổi lại, những người cộng sản để ông tiến xuống đóng quân ở đảo Hải Nam, kiểm soát vịnh Bắc Bộ. Như vậy, các sư đoàn đỏ dừng lại ở ngưỡng cửa Pakhoi, để các đội quân của Pai Chung-si có thì giờ lên hàng nhiều nghìn chiếc thuyền, thậm chí cho mượn cả phương tiện vận chuyển của họ. Pai Chung-si muốn di chuyển theo đường hàng không. Tướng Chenault - tướng đánh thuê Mỹ, chủ bài cũ của những "Cọp bay"- tổ chức cho ông ta một cầu hàng không với đại đội đặc biệt. Bằng lối con thoi không dứt ngày đêm, máy bay của Chenault chở Pai Chung-si, các bà vợ, tài sản, ban tham mưu và đội bảo vệ sắt năm nghìn người của ông ta.

Dù sao, đại uý G... cũng rất hài lòng, nói với tôi:

- Những người cộng sản Trung Hoa sẽ không bao giờ tha cho kẻ thù muốn làm gì thì làm. Phải có những lý do đặc biệt nào đấy. Tôi chỉ thấy có một. Đấy là Mao đã quyết định không nên làm gì có nguy cơ gây lộn xộn ở biên giới Bắc Kỳ. Trong lúc này chúng ta yên ổn. Ở Móng Cái những gì người ta chờ đợi đã không xảy ra, không giải thích được: cộng sản Trung Quốc vẫn không tới. Tiếp tục chờ đợi, có phần lo âu, nhất là đã bắt đầu buồn nản. Các nhà báo lê la, các bà cũng thế. Báo chí đã mất đi lòng mong chờ.

Bỗng nhiên một bức điện tối mật và quan trọng từ Bộ chỉ huy đến Móng Cái đang chập chờn ngủ - lệnh báo động trên suốt tuyến biên giới. Gần Lạng Sơn có nguy cơ bị vỡ, hàng nghìn, có lẽ hàng chục nghìn quân Quốc dân đảng đang tập trung. Họ muốn dùng lực lượng xâm nhập vào Đông Dương và theo chân họ là nhiều sư đoàn cộng sản. Tình hình có thể "nổ ra" bất cứ lúc nào.

Tôi có được một chiếc jeep và lệnh đi làm nhiệm vụ. Mờ sáng hôm sau tôi lao trên đường số 4 đến Tiên Yên- đi Lạng Sơn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Giêng, 2019, 08:36:51 am

Một "chiến thắng” của quân Pháp

Mấy nhà báo chúng tôi trên xe jeep, chạy hết tốc lực trên Móng Cái đường số 4 bắt đầu từ Móng Cái. Chỉ qua Tiên Yên con đường mới trở thành đẫm máu, đi về phía Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn.

Buổi trưa chúng tôi dừng lại ở bốt Đầm Hà. Một công trình kiên cố phía trên vùng đồi rộng bao la. Tất cả chắc chắn đồ sộ không ngờ. Bờ bao là những tường thành dốc đứng, bên trong sân là một tháp bê-tông tường dày hơn một mét làm chỗ ẩn với ca-nông bảo vệ. Chính một trung uý bình thường không có lệnh và trái lệnh, không phương tiện và kinh phí, tự cho xây dựng những công sự này. Viên trung uý khốn khổ! Sau đó anh không bao giờ trả được xi-măng cho kỹ sư. Anh có một báo cáo điều tra, một hình phạt vì tiêu lạm công quỹ. Thế mà gần một năm sau bốt Đầm Hà, thành trì anh xây dựng, đã có tác dụng xuất sắc.

Vào cuối năm 1949 trường hợp của anh càng nặng khi không khí lạc quan lại dấy lên trong các ban tham mưu. Buổi chiều hôm ấy tôi vào Tiên Yên đầy niềm vui, người ta đang chúc tụng lẫn nhau. Tất cả chỉ huy quân sự ở Đông Dương trao đổi điện mừng. Họ cũng khen ngợi các đội quân của họ như vừa đưa lại một chiến thắng lớn.

Ngay trước khi tôi ra khỏi xe jeep, một đại tá thấy tôi, hét lên:

- Ông đến quá chậm; mọi việc xong rồi. Chúng tôi chờ đoàn tù binh thứ nhất trong một tiếng đồng hồ. Gần Lạng Sơn chúng tôi đã "nhặt" khoảng ba mươi nghìn Quốc dân đảng. Tôi vẫn luôn nói với ông - những người da vàng vẫn còn sợ chúng ta, mỗi lần chúng ta nổi nóng lên là họ nhượng bộ.

Trong lúc đó một chiếc xe ca hướng đạo từ con đường số 4 trong đám mây bụi đến từ Lạng Sơn, trước một đoàn rất đông Trung Hoa đi bộ, những quân lính bị tập trung. Chồm người trên tay lái, một trung uý quần áo dã chiến kể lại cho tôi nghe việc bắt quân địch. Một tiếng chuông khác:

- Người ta vui mừng. Nhưng không trở thành thảm họa là một phép lạ. Chỉ cần một việc không ra gì là đủ. Đông đúc không ngờ được. Và những người Trung Hoa ấy, những người Quốc dân, những người cộng sản, tất cả đều có vũ khí, đều dữ tợn.

Báo động vào ngày 9 tháng chạp. Khu đồn trú Chima, một đồn nhỏ mất hút trên biên giới, báo cáo một đám đông người tập trung trước mặt đồn, trên đất Trung Hoa cách mấy trăm mét. Lúc đầu người ta cũng không biết là Quốc dân đảng hay Cộng sản. Đám đông ấy bất động, không trông thấy được, ẩn dưới lòng suối và trong một số nhà tranh một làng vùng rừng. Rồi nghe tiếng súng, những tràng đạn đại liên và mọi tiếng ồn ào của một trận đánh gần. Những người ở đấy là đoàn quân Quốc dân mà Cộng sản đang tấn công phía sau.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Giêng, 2019, 08:38:48 am

Sáng ngày 11 người ta thấy quân lính đông đúc ấy giương lên những lá cờ trắng - mọi loại vải cũ mà người Trung Hoa vùng vẫy không ngớt đầu những con sào dài. Một lúc sau toán người tiến về Chima là các tướng tá Quốc dân đảng, quân phục rách rưới nhưng bản thân họ còn có vẻ nhà xác hơn. Người ta tiếp nhận họ.

Suốt cả ngày bên trong công sự đơn sơ và im lặng cuộc thẩm vấn là một bi kịch. Nhiều lần gần như bị đổ vỡ. Thỉnh thoảng người Trung Hoa khẩn cầu và khóc. Nhưng thường họ đe dọa, giọng lạnh băng. Đôi khi một người nổi nóng, bắt đầu ra điệu bộ, hét lên như điên. Họ không muốn vào Bắc Kỳ với vũ khí, như những người đồng minh. Người ta bảo nếu vậy thì phải đánh nhau. Người ta không hiểu rõ nhau, dùng ngôn ngữ Anh không thông thạo và phải qua phiên dịch. Sau này người ta biết người đại diện chính của Trung Hoa, tướng Ho Chan-pen tuy thế nói tiếng Pháp rất chuẩn.

Tình hình mỗi lúc càng tồi tệ. Bên Trung Hoa không còn cảnh lúc nhúc của một đoàn quân tháo chạy mà những toán Quốc dân đảng bây giờ là một khối vững chắc, dồn lại ngay trên biên giới. Phía sau là cuộc chiến ác liệt. Những người cộng sản dồn ép họ, như một khối, mưng mủ sắp vỡ. Và đối đầu, về phía người Pháp chỉ có một số lính của bốt Chima: họ rút vào sau những hàng rào tre, tranh luận trong nhà ăn tập thể.

Trời tối dần. Lúc ấy người thương lượng Pháp bỗng nói: "Các ông không thể tràn qua nữa nếu chúng tôi không muốn. Ngay trong lúc này các tiểu đoàn xung kích của chúng tôi đang chiếm giữ những đỉnh núi khống chế biên giới".

Người Trung Hoa bèn chấp nhận. Họ ký một văn bản đầu hàng. Họ quá mệt mỏi.

Mờ sáng, quả thực những chỏm núi phía trên Chima đã có lính lê dương và ta-bo chiếm giữ. Họ nằm trên đất. Ca-nông và ô-tô đại liên đã ở vị trí, về phía sau một cây số. Có thể nói là một cảnh chờ nổ súng.

Gần như thế. Từng lúc một có gì có thể xảy ra? Tất cả tuỳ thuộc vào một biến cố nhỏ nhất. Phía Pháp chỉ có mấy trăm người trước một biên giới mơ hồ có nhiều nghìn Quốc dân đảng Trung Hoa; cộng sản Trung Hoa, Việt Minh. Để tránh lẫn lộn tai hại, mỗi phân đội Pháp được dương lên một lá cờ. Nhưng ngay trước mắt, bên Trung Hoa, cảnh lẫn lộn hình như tăng lên. Không chỉ nghe tiếng súng mà những tiếng khác nữa, những đợt kèn. Phải chăng Quốc dân đảng tập hợp để tràn qua hay những người cộng sản ra hiệu tấn công?

Tuy vậy công việc tiến hành tốt. Quân Pháp đã chuẩn bị một hành lang, nơi quân Quốc dân đảng phải trình diện từng toán năm trăm người. Sau một lúc lâu chờ đợi, đến chín giờ sáng những người đầu tiên xuất hiện - các tướng cùng các ban tham mưu của họ. Quân lính tiếp theo mang những vật gói trong quần áo cũ. Đấy là súng, họ để từng khẩu vào một đống với cử chỉ từ bỏ. Người ta nhận thấy nhiều người giấu dưới quân phục dày những súng ngắn và dao găm nhưng không có thì giờ lục soát.

Việc ấy trôi qua nhanh chóng. Cứ mười lăm phút một bước tới một toán người. Bên cạnh những sĩ quan có tư cách và buồn có bao nhiêu kẻ cướp biển khuôn mặt hèn hạ, bao nhiêu kẻ khốn nạn bị thương kinh tởm! Trong đó có cả dấu vết những cuộc di cư với những người già, trẻ con và đàn bà. Những đống vũ khí trở nên đồ sộ. Khi đã trút hết vũ khí, từng toán nhỏ dẫn những người Trung Hoa, lưỡi lê dí vào lưng, đi ra phía sau, đến một bãi bằng cách một cây số. Họ bước đi, những khuôn mặt vô cảm, chập choạng trên đất ướt như một đàn kiến cần mẫn. Đến đấy, họ dồn đống lại, nằm xuống chờ số phận.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Giêng, 2019, 08:41:13 am

Về cơ bản là buồn. Mọi thất bại đều bi thảm. Tệ hơn nữa là thời tiết đáng sợ, mưa phùn, nước đẫm da thịt, gió rét thấu xương và mây che khuất cảnh vật.

Nhưng từ mười giờ không thể kiểm soát nổi những người Trung Hoa nữa. Họ tới từ khắp nơi, từ mọi con đường, mọi sườn núi. Tất cả vừa chạy vừa hét: "Làm nhanh lên: cộng sản đến đấy". Trong đám đông bây giờ có cả những nông dân quang gánh cồng kềnh.

Làn sóng người ấy trào lên không ngừng. Tôi lo ngại - sự sợ hãi tràn lên cả mọi người Pháp. Nếu quân đỏ đến giữa cảnh này thì người ta có thể làm gì được? Và họ vẫn càng gần hơn, không đến mấy trăm mét. Cuộc chiến lại gần chúng tôi. Một số quân lính bị thương trước đây một, hai giờ, lê đến chỗ chúng tôi. Sắp đến lúc kết thúc. Quân chặn hậu Quốc dân đảng cố đánh trận cuối cùng để đại bộ phận trốn chạy đủ thì giờ sang Đông Dương, đã không kháng cự nổi nữa, cũng sắp "vượt” biên giới.

Đứng trưa giữa những người chạy trốn xuất hiện một toán hoàn hảo, có kỷ luật, đồng phục màu xanh, vũ trang đến tận răng. Đấy là trung đoàn riêng của ông chúa chiến tranh của Kouang-si. Người ta muốn tiến hành giải giáp. Ông ta từ chối không cho làm: "Tôi chẳng ký một thỏa thuận nào, không có một sự bắt buộc nào cả. Vả lại cộng sản đang sau chân chúng tôi. Các ông lo đối phó với họ thì tốt hơn". Người ta tranh cãi. Sau một lúc giận dữ, im lặng hằn học, ông ta chịu hàng. Vũ khí đoàn quân của ông làm một đống mới.

Đã đến lúc. Những tràng đạn đại liên rít lên quanh chúng tôi. Những người cộng sản bắn sang. Trong mưa bụi người ta không thấy họ nhưng họ chiếm toàn tuyến biên giới, thậm chí tràn sang cả Đông Dương. Những người di tản mạnh ai nấy chạy. Đàn bà hét lên. Phải đấm đá để duy trì trật tự. Súng quân đỏ vẫn bắn - một hạ sĩ lê dương ngã xuống, một lính Quốc dân đảng chết, ba người khác bị thương. Quân Pháp được lệnh chống lại. Ca-nông, xe bọc thép, súng tự động bắn hết cỡ. Những người cộng sản lùi lại.

Hôm sau tình hình yên tĩnh. Một nhân viên cho biết quân đỏ đã rút khỏi làng Ái Điểm. Lính Quốc dân đảng, nhất là những người bị thương vẫn còn ra trình diện. Nhưng ngày 15 tháng mười có báo động mới.

Ba giờ chiều nghe có tiếng hét lạ từ Ái Điểm, xóm làng như đã chết. Khoảng ba chục người từ đấy chạy lại phía bên này như những người điên rồi bỗng quay trở lại. Người ta thấy những người khác chĩa đại liên về phía này; quân Pháp cũng chĩa súng sang bên ấy. Người ta nghĩ đấy là quân Quốc dân đảng đã vượt Trung Hoa đến tận Ái Điểm nhưng không dám đến tận quân Pháp. Chỉ huy toán quân quyết định đi về phía họ ra hiệu cho họ lại gần.

Đấy là đại tá Charton, nhỏ người và quyết đoán, một con người của chiến tranh, vững chắc, nóng nảy, đợi lâu trong toán lê dương, đã bỏ đi với người phiên dịch Việt Nam và ba bốn lính lê dương thân tín. Cách biên giới năm mươi mét, ông bị khoảng năm chục kẻ hung hăng hét lên bao vây, tiểu liên lên đạn, lựu đạn tháo chốt cầm tay. Khoa chân múa tay họ vây chặt toán mấy người Pháp. Lao vào người phiên dịch, họ lột hết mũ áo. Anh này chạy hốt hoảng về đồn Chima kêu lên: "Cộng sản!... Cộng sản!..." Thực tế đúng họ.

Chỉ huy, một người cao lớn của miền Bắc Trung Hoa, càng đồ sộ với bộ đồng phục dày, giận dữ, nắm chặt tay rống lên. Đột nhiên ông ta nắm lấy cánh tay đại tá Charton muốn kéo về Ái Điểm và về trong đất Trung Hoa. Lính lê dương giữ ông này lại, gỡ ra khỏi tay người kia. Thời điểm căng thẳng hơn bao giờ hết. Hai bên đều để tay vào cò súng; nếu một người bắn thì sẽ là cuộc đánh nhau chung. Lúc này quyết định chiến tranh hoặc hòa bình với nước Trung Hoa của Mao.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Giêng, 2019, 08:42:47 am

Người ta vẫn nắm chặt những khẩu súng đã lên đạn nhưng không ai bắn. Người khổng lồ bắt đầu diễn giải. Không ai hiểu ông nói gì. Charton lo ngại nhất là các đội quân Pháp không trông thấy mình: bị một mô đất che khuất. Vì vậy trong lúc người cộng sản khổng lồ hăng hái tiếp tục nói ông kín đáo tiến từng mét một đến gần biên giới. Người Trung Hoa say sưa thuyết giảng hùng hồn, bước dần theo ông mà không nhận thấy. Rồi bỗng ông ta và người của ông ở vào giữa mạng lưới của ca-nông và thiết giáp đội quân Pháp chĩa vào; các tiểu đoàn của Charton trên các chỏm núi chỉ còn chờ ông này giơ tay - dấu hiệu đánh trả.

Trước tình thế ấy, quân đỏ hơi dịu đi. Charton thoải mái hơn, bắt đầu lại cuộc thương lượng. Phải tìm các phiên dịch: từ tiếng Pháp sang tiếng Quảng Đông, từ tiếng Quảng Đông sang tiếng Bắc Kinh và từ tiếng Bắc Kinh sang ngôn ngữ miền Bắc Trung Hoa. Người khổng lồ lại bắt đầu xì xồ, đòi phải giao lại tất cả những quân lính Quốc dân đảng đã vượt biên giới - họ đuổi theo chúng đã lâu, sẽ bắn tất cả bọn chúng. Charton giọng rất vô tư chỉ trả lời: "Đây là nước Pháp. Chúng tôi không tiếp nhận lệnh của một người nước ngoài”. Người khổng lồ lại dẫm chân bực tức, đưa súng lên vai như để bắn thủng ngực ông. Nhưng xung quanh lính lê dương tập hợp từng nhóm. Họ cũng trở nên giận dữ, muốn bắn hạ người điên kia và đoàn tùy tùng. Dễ thôi, chỉ cần có lệnh bằng một tiếng nước ngoài mà những người cộng sản không hiểu, thế là xong đời trước khi họ thấy cái chết đến.

Charton kêu lên với người mình: "Hãy tự chủ!". Nhưng quân lính lê dương tiếp tục cáu kỉnh một cách đe dọa. Người khổng lồ như hiểu ra bỗng rất lễ phép. Ông ta hỏi Charton. "Ít nhất ông cũng cho biết quý danh?” - Charton. Người Trung Hoa cố lặp lại nhưng không được. Charton bèn cho ông ta bức ảnh cũ của mình đứng với tướng Monclar, người "Bố của đội quân lê dương". Đôi mắt người cộng sản ngời sáng vui mừng, ông ta có tài liệu để giải thích với cấp trên vì sao không tiêu diệt hết quân Quốc dân đảng. Ông ta cám ơn, bắt tay và quay trở về Trung Hoa. Trong lúc trao đổi thân mật như vậy, lính lê dương giơ cao nắm tay và hô lớn: "Giết bò đi thôi".

Những ngày tiếp theo thật yên tĩnh. Sĩ quan và binh lính cảm thấy buồn. Dân làng Ái Điểm nói những người cộng sản đã ra đi hết. Họ quyết định sang thăm Trung Hoa, dĩ nhiên không báo cáo với Ban chỉ huy.

Người ta đi từng nhóm nhỏ, không mang theo vũ khí, chỉ vài súng ngắn giấu trong túi một số người. Dân làng Ái Điểm đã trở về. Trong xóm làng bẩn thỉu người ta cũng thấy gà, trâu thả tự do - dấu hiệu chắc chắn không còn quân lính Trung Hoa trong vùng. Một đám đông tò mò đến vây quanh những người mới sang. Sự đón tiếp không nhiệt tình. Một số người cười ngượng nghịu, số khác nhìn họ căm thù. Rõ ràng họ có vũ khí dưới lớp áo bông. Không la cà chậm trễ là hơn. Họ vỗ má mấy đứa trẻ bẩn để đỡ lúng túng và rút lui. Một người cai chỉ huy, đái lên đất Trung Hoa trước khi bước qua cột mốc biên giới. Ông nói: "Thêm một chuyện để sau này kể lại với mấy đứa con tôi".

“Chúng tôi đã có nguyện vọng trẻ con là sang đất nước Trung Hoa. Thế là đạt rồi. Chúng tôi muốn tỏ cho những người cộng sản biết chúng tôi không sợ. Nhưng về căn bản chúng tôi đã thách thức họ vì có lẽ chúng tôi sợ họ mà không muốn thú nhận. Dù sao chúng tôi cũng đã chiến thắng! Đối với những người Quốc dân đảng tôi đã nhận được lệnh dẫn họ đi. Tôi đưa ông tới xem họ. Chỉ cách đây mấy cây số thôi".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Giêng, 2019, 08:46:51 am

Tất cả những việc ấy xảy ra một, hai ngày trước và bây giờ ở Tiên Yên tôi chỉ xem những "người bại trận" trên đường đến các trại tập trung. Trước hết là những xe cứu thương - một xe là một thế giới thờ ơ. Tôi mở cửa một trong những chiếc xe ấy. Mùi hôi thối thật ghê tởm. Màu sắc thịt nát còn tươi, tất cả mưng mủ qua những lớp băng từ bùn và cỏ. Họ vẫn trong tình trạng như lúc đi đường thất trận, không được chữa chạy vì không có y tá. Bây giờ cũng chẳng người nào rên rỉ chỉ biết chịu đựng - họ nằm trong tay số phận. Mọi người im lặng như một đàn gia súc dễ bảo. Mọi người im lặng như vậy: thậm chí có hai người chết trong xe mà không ai nhận thấy.

Người ta ra hiệu có đoàn đi bộ đầu tiên và tôi lại thấy một đợt tạm nghỉ trong làng. Tôi lại thấy vẻ thờ ơ có lẽ còn hơn cả sự thơ ơ bình thường. Người ta chưa cho những người Trung Hoa ăn nên họ moi cả những đồng bạc lớn ra mua bánh rán ở những người bán hàng rong. Những việc làm ấy không cãi cọ, không vui, không gì cả; Rồi một tiếng còi, đoàn người lại tập hợp, lại đi, bước tới vô tận như họ đã đi hàng nghìn, hàng nghìn cây số trong những tháng, những tuần, những ngày trước đó.

Sau đoàn người đầu tiên này, những đoàn khác tiếp theo, không hết. Vâng theo và ra lệnh đã thuộc về "quân tập trung". Tôi nhận ra kỷ luật buồn tẻ của những người tù và lối kiêu hãnh của quân lính Đội viễn chinh đi, lại theo các hàng, súng tiểu liên nghênh ngang và tiếng hô khàn giọng. Say sưa chiến thắng khắp nơi, nhất là trong các nhà ăn và các ban tham mưu có lon. Tôi được biết những chi tiết nặng nề. Hình như trong một bốt lớn dùng làm nơi chọn lọc, quan đồn trú đã tàn sát người Trung Hoa, dọa dẫm, lục soát, lấy đi tất cả những gì họ có trong người, tiền bạc, vật trang sức, bất cứ thứ gì. Trưởng bốt để lại riêng cho mình những vũ khí đặc biệt hiếm và quý. Và từ khắp Bắc Kỳ, khắp Đông Dương, ông ta nhận được những bức điện của bạn bè hoặc cấp trên nói: "Tôi sẽ đến, sẽ chọn một vật kỷ niệm trong những vật anh thu thập. Anh có khẩu các-bin đẹp nào không?"

Làm như Đội quân viễn chinh lần đầu cảm thấy hưởng thụ của những người "bại trận" vô tội vạ. Có vẻ chính những người Quốc dân đảng ấy là kẻ thù của quân Pháp - không hề là những người cộng sản của Mao Trạch Đông.

Tuy vậy những người Trung Hoa bị cầm tù ấy đi qua Tiên Yên. Đoàn người đến chỗ tập trung đầu tiên trên nền một mỏ than đã bỏ không khai thác, trên khu vực bờ vịnh Hạ Long. Người ta chuẩn bị một cổng vào có trang trí; ngoài ra chỉ là đất trống và đen. Các cấp chính quyền nghĩ như thế là đủ với những người Trung Hoa đã hạ vũ khí và không còn gì đáng sợ. Vả lại người ta cũng khá nhanh chóng đối xử với họ tốt hơn - chăm sóc bệnh, cho ăn mặc, cung cấp thực phẩm. Tất cả tốt đẹp. Lương tâm không cắn rứt gì, còn lâu!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Sáu, 2019, 11:00:53 am

Trung Hoa "mềm mỏng"

Vào tháng chạp, hai tháng sau, cả vùng biên giới rộng lớn của Đông Dương, từ Mường Sinh ở Lào đến Móng Cái trên vịnh Bắc Bộ do Trung Hoa đỏ chiếm giữ. Và đấy là Trung Hoa của sự "mềm mỏng".

Trước đó còn biết bao tuần lễ nguy hiểm, biết bao mạo hiểm! Thậm chí phải chiến đấu thực sự với bảy đến tám nghìn quân Quốc dân đảng ở Na Sầm, giữa Lạng Sơn và Cao Bằng, nơi con đường số 4 đã là con đường máu với những cuộc phục kích lớn của Việt Minh, cả một khu "tứ giác" Việt, xung quanh là những trung đoàn của ông Giáp! Thủ lĩnh của những người Trung Hoa Quốc dân đảng ấy là Vũ Hồng Khanh, một người Việt Nam theo Quốc dân đảng. Khi khu đồn trú Na Sầm muốn giải giáp người của ông ta, ông kêu lên: "Vũ khí của chúng tôi, cứ đến mà lấy!" Và ông ta cùng người của mình biến mất vào thiên nhiên. Ở Lạng Sơn, trong Ban chỉ huy vùng biên giới là sự hốt hoảng. Thành phố sơ tán và có vẻ Vũ Hồng Khanh sắp tấn công vào. Người ta cấp tốc điều từ Chima về đoàn quân thiện chiến, đại tá Charton và đội lê dương xung kích, bố trí ở cửa ngõ thành phố. Charton chuẩn bị trên đường số 4 một cuộc phục kích, bố trí đầy đủ kéo dài ba cây số để tiếp đón người Trung Hoa nhưng chỉ có một nghìn đến và đầu hàng.

Vũ Hồng Khanh và sáu nghìn người trung thành lẩn vào rừng rậm, trong những núi đá vôi đồ sộ và đáng sợ trải rộng từ đường số 4 đến vùng châu thổ. Mục đích của họ là ra vùng đồng bằng gần Hà Nội. Mệnh lệnh giao cho Charton tìm kiếm và tiêu diệt họ bằng mọi giá. Cùng lính lê dương và lính ta-bo, ông đi sâu vào vùng quân Pháp chưa bao giờ tới này. Đoàn quân tìm nhiều ngay trong rừng xanh mênh mông. Máy bay trinh sát bay sát ngọn cây và đỉnh núi không thấy gì. Các đội tuần tra sục liên tục không phát hiện được gì. Nhân viên, mật thám các loại cũng chẳng biết.

Đang thất vọng thì một buổi chiều vào lúc năm giờ một người Trung Hoa từ bụi cây đứng lên cách một trung uý Pháp mấy mét - chắc một người gác ngủ thiếp đi giật mình tỉnh dậy. Viên sĩ quan người Anh, điềm tĩnh nói với người Nhà trời: "Anh thấy đấy, các đội quân Pháp đã vào đến đây. Anh đi tìm các bạn và bảo họ khôn ngoan ra hàng đi". OK, người lính trả lời. Năm phút sau liên tục những tràng móc-chi-ê và đại liên. Người Trung Hoa lùi vào trong một lòng chảo, nã hàng loạt đạn vào quân lê dương rải trên đường mòn. Tình hình xấu đi, một trận đánh gian khố. May mắn Charton có mang theo súng ca-nông và những quả pháo 105 ly nổ vào những chỗ người ta nghĩ có người của Vũ Hồng Khanh. Chắc đã bắn trúng đích vì từ vùng ấy có tiếng kêu của những người bị thương và tiếng rên của những người hấp hối. Nhưng đã gần tối. Người Pháp cảm thấy không đủ đông để ở lại đối chọi. Họ đề nghị cho bắn chặn và dưới sự bảo vệ của đạn rốc-két, rút lui không thiệt hại gì.

Ngày 31 tháng chạp. Nửa đêm, đội quân lê dương tiệc mừng năm mới. Từ đỉnh núi bố trí, họ lại bắn đạn 105 vào người Trung Hoa. Mờ sáng hôm sau một phân đội đi đến những chỗ đã bắn. Không còn người nào nhưng xác chết rải rác và những hố chôn tập thể được đào, lấp vội vàng. Hương còn bốc khói. Hơn một trăm Quốc dân đảng bị giết.

Những ngày hôm sau còn có những đợt dội pháo và bom; những người Nhà trời nữa bị trọng pháo và máy bay thanh toán. Ngày 6 tháng giêng một lính ta-bo kêu cứu - trước mặt anh ta có sáu người của Vũ Hồng Khanh. Đoàn quân này xin ra hàng; lính lê dương không đủ đông để tước khí giới. Việc đầu hàng tiến hành gần Lục Nam, ở cửa rừng, bắt đầu vùng châu thổ - người Trung Hoa cũng đã đến được tận đấy.

Sau này một trong những người Trung Hoa kể lại với tôi:

- Chúng tôi không thể kháng cự nữa. Chẳng có gì ăn đã nhiều ngày, mọi người kiệt sức. Từ khi vào Đông Dương chúng tôi có hơn hai nghìn người chết và bị thương. Và nếu chỉ có người Pháp, dù với ca-nông và máy bay thám thính, cũng không bao giờ bắt được chúng tôi; chúng tôi sẽ chiếm được một lãnh địa tốt nào đấy ở Bắc Kỳ. Nhưng người Việt ở khắp nơi, trên mọi con đường, tấn công, săn đuổi chúng tôi, bắn giết, làm chúng tôi phát điên. Chúng tôi hy vọng họ cũng đánh nhau với quân lê dương nhưng họ không bắn một phát súng vào quân Pháp. Một sự khôn khéo tai hại. Người Việt tổ chức để lính lê dương không trông thấy họ, ngụy trang khi quân lính này đến gần, làm sao để người ta không nghi ngờ họ có mặt. Đồng thời họ dồn đuổi chúng tôi về phía ấy, cho hứng chịu làn đạn của lê dương. Cứ như thế mà chúng tôi bị tiêu diệt - người Việt sử dụng người Pháp tuy người Pháp không biết.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Sáu, 2019, 11:03:38 am

Đỉnh cao của Vũ Hồng Khanh và những người Trung Hoa của ông ta là một trong những bí mật được giữ kín nhất của cuộc chiến tranh Đông Dương. Trong lúc đó không có gì lọt ra ngoài. Tất cả do mệnh lệnh nghiêm khắc của Cao uỷ. "Vụ việc ấy" không được cho biết, sẽ bộc lộ sự mỏng manh của tuyến biên giới. Vì cuối cùng mấy nghìn người "Nhà trời" trốn chạy đã phá hỏng cả sự bố trí trên đường số 4 trong gần hai tuần lễ. Việc đó kết thúc tốt đẹp chỉ vì người Việt đã muốn như thế; vì trong phân tích tình hình ông Giáp và ông Hồ đã xây dựng một trật tự thanh toán: Quốc dân đảng trước, sau đó là Đội quân viễn chinh.

Thời gian ấy cả hai phe thù địch cùng có một kẻ thù. Mối nguy hiểm chưa phải đã qua. Vì nếu đoàn quân nhỏ của Vũ Hồng Khanh trụ vững ở Bắc Kỳ thì những sư đoàn đầy đủ có gì mà chẳng có thể làm? Bây giờ người ta sợ Lư Hán, ông chúa chiến tranh ghê gớm của Vân Nam. Người ta nghĩ đã kết thúc với Quốc dân đảng nhưng mỗi lần lại nhận thấy chưa kết thúc được. Một nước Trung Hoa sụp đổ, dù như một khối đất sét rơi xuống nhưng nó quá rộng lớn.

Thiên nhiên đã làm cho Vân Nam như một pháo đài. Đối với quân đỏ, ở đấy còn xa hơn Bắc Kỳ; phía sau là một góc hoang dã của Châu Á dưới chân dãy Himalaya. Và có bao nhiêu khó khăn để tới đó! Vì đấy là một cao nguyên đồ sộ, cao hai đến bốn nghìn mét, bờ dốc đứng, hang động mênh mông. Khắp nơi chỉ là rừng, sốt rét, các dân tộc không phục tùng, xa lạ và thế mà vùng đất này vẫn có sự hấp dẫn kỳ lạ do truyền thuyết rất giàu của cải. Biết bao nhiêu kẻ phiêu lưu mơ về thuốc phiện và khoáng sản quý của nó! Cuối cùng Vân Nam, cả khối trên cao, khống chế Châu Á vùng đồng bằng. Dưới thấp là những con sông rộng làm giàu cho dân chúng da vàng. Vì vậy tầm quan trọng chiến lược của nó thật quyết định. Trong thế chiến trước ở đây đổ về con đường huyền thoại Miến Điện xây dựng trên sườn những ngọn núi cao nhất thế giới, do hàng chục, hàng trăm nghìn cu-li làm mà nhiều người chết ở đấy. Ở đây người Mỹ đã xây dựng những sân bay mênh mông, từ đó những pháo đài bay của họ đi đổ bom xuống những căn cứ, những đường sá và thành phố của Nhật.

Nếu muốn, trong căn cứ của mình Lư Hán còn có thể chống cự nhiều tuần, nhiều tháng trong cuộc chiến biên giới Đông Dương, vô cùng nguy hiểm. Và hình như ông ta muốn, theo lời ông nói với tôi.

Tôi đi Côn Minh, thủ phủ Vân Nam nhờ "cầu hàng không" thép. Một thuận lợi của Phương Đông là việc buôn bán cố sức xen vào tình hình nguy kịch. Ý nghĩ duy nhất của các xí nghiệp lớn Đông Dương, của nhà băng và những người môi giới, là "đưa ra" đúng lúc khỏi Vân Nam trước những sự kiện sắp xẩy ra, càng nhiều càng tốt loại thép thuận lợi này, rất đắt, rất bán được. Tiền lãi đủ để các công ty lớn thuê những máy bay rảnh. Tất cả những phi đoàn phiêu lưu đều sẵn sàng. Thế là con thoi đi về không dứt, người ta đi trống rỗng và trở về với mấy thanh kim khí và có lẽ cũng, bí mật - khoản lãi của phi hành đoàn - mấy ki-lô thuốc phiện.

Cuộc hội kiến với Lư Hán kéo dài nhiều giờ trong lâu đài của ông ta. Khắp nơi là những quân lính vũ trang bảo vệ ông. Ông tiếp tôi trong một phòng khách rộng, vương giả, dưới những bức ảnh đàn bà trần truồng. Ông có đôi mắt buồn giữa khuôn mặt quá nhẵn như tạc trong một cây gỗ cứng ở rừng, vẻ vô cảm của một ông chúa chiến tranh thực sự, có thể ra lệnh làm mọi việc mà không bao giờ chuyển biến. Giọng nói ông không màu sắc và uể oải, không uyển chuyển. Nhưng quyết định của ông đưa ra có vẻ không thay đổi được. Ông nói với tôi về sự trung thành tuyệt đối với Tưởng Giới Thạch, về nỗi căm thù quân đỏ. Với những lời trịnh trọng ông tuyên bố không chỉ kháng cự - ông sẽ làm cho Vân Nam trở thành một pháo đài và từ đó chinh phục lại đất nước.

Nhưng tin thế nào đây? Dưới những lời nói ấy ông chuẩn bị làm gì? Sự lựa chọn thật kinh khủng: giữa lòng căm thù và nỗi sợ hãi. Ông ghê tởm, ghét Tưởng Giới Thạch với sự quyết liệt của bản chất vốn có của lòng tự cao bị tổn thương thảm hại. Điều ấy không xê dịch được. Viên tổng tư lệnh đã phản trắc không ngờ, triệt ông xuống chỉ còn là một bù nhìn, cầm tù ông. Quân lính đi lại xung quanh chúng tôi là những người trung thành với Lư Hán, những người bảo vệ riêng của ông: đó là những gì ông còn lại. Nhưng trong Côn Minh có hai sư đoàn Quốc dân đảng đã ở đây nhiều năm nay để giám sát ông, hãm ông vào thế bất lực, đánh bại ông nếu cần. Những sư đoàn ấy, vào đây năm 1945, khi Lư Hán điên rồ đưa quân sang Bắc Kỳ bắn giết ghê gớm. Từ đấy hai sư đoàn này ở lại.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Sáu, 2019, 11:05:45 am

Lòng căm thù phải nén lại, làm gì được với nỗi sợ hãi đáng ghét, nỗi lo âu của ông về quân cộng sản đang đến gần? Ông đã là đao phủ hung dữ nhất của quân đỏ, đã giết hàng nghìn, hàng chục nghìn trong những phương pháp hành hình sáng tạo nhất. Đầu của ông đã được đặt giá, nhất là ông có tên trong sổ đen của Mao Trạch Đông, trong danh sách những "tội phạm" không thể tha thứ. Do vậy, dù bất đắc dĩ, Lư Hán có vẻ buộc phải chơi con bài của Tưởng Giới Thạch.

Đấy ít nhất là cảm tưởng của tôi khi ra đi. Vì căn bản mặc cảm nổi bật của thế giới da vàng là lòng căm thù - lấn át cả mọi sợ hãi. Lư Hán, ông chúa chiến tranh, kẻ phong kiến tỷ phú, bóc lột, "kẻ thù điển hình" của quần chúng, một hôm điện cho Mao: "Tôi thật lòng hối cải. Hãy có lòng nhân hâu tiếp nhận sự quy phục của tôi". Hôm sau nhận được câu trả lời của Mao: "Tôi tin vào sự hối hận của ông. Tôi chấp nhận việc ông đầu hàng". Vì đối với những người cộng sản, quyền lợi của nhân dân, những gì người ta gọi là "giải pháp đúng đắn" được đặt lên trên hết. Và trước mặt việc liên minh của Lư Hán rất có ích.

Từ đó mọi việc xoay chuyển nhanh chóng. Lư Hán được cử làm tỉnh trưởng Vân Nam nhân danh Chính phủ Cộng hòa lần này hài lòng trả thù. Ông phát động quần chúng nổi dậy đẩy họ tấn công hai sư đoàn Quốc dân đảng vốn là công cụ làm ông nhục nhã. Quốc dân đảng trốn chạy và ông chiến thắng, chỉ còn tiếp nhận những đội quân đỏ yên bình bước vào.

Lư Hán khốn khổ! Về sau này, khi cuộc chiến tranh Đông Dương đã kết thúc, tôi gặp lại ông ở Bắc Kinh. Người ta bảo tôi đấy là một nhân vật quan trọng, một thứ trưởng Bộ Thể thao. Thực tế là trò cười. Người ta chỉ cho tôi một ông già hốt hoảng, một cái bóng, một kẻ khổ sở nói như đọc bài với tôi và không dám nhớ đã gặp tôi bao giờ chưa. Không còn gì là một ông chúa chiến tranh mà chỉ là một người khốn khổ run rẩy, vô vọng. Làm sao ông trở thành như vậy? Ông như bị huỷ hoại từ bên trong vĩnh viễn không còn gì. Ông chỉ còn lại nỗi sợ hãi.

Thế nhưng vào cuối năm 1950 và đầu năm 1951 ông đã phục vụ được nhiều cho những người cộng sản! Vì chính ông, những đam mê của ông - lòng căm hận và trả thù - đã làm cho quân đội đỏ chiến thắng trong một thời hạn vô giá, ít nhất là nhiều tháng. Không có ông, không có sự liên minh khác thường của ông, họ không bao giờ bố trí, được nhanh, vững chắc, hoàn toàn như vậy trên cả tuyến biên giới Đông Dương. Và thời gian tiết kiệm ấy nhờ ông thật quý báu đối với họ! Nó cho phép nước Trung Hoa của Mao không chậm trễ một ngày, bắt tay ngay vào mục tiêu mới - "xây dựng" đội quân Việt. Kết quả không đầy một năm sau sẽ là cái chết của biết bao nhiêu người Pháp trên con đường số 4.

Nhưng đầu năm 1950 ban chỉ huy Pháp hân hoan biết mấy về việc thanh toán Quốc dân đảng! Cuối cùng cũng đã kết thúc được. Người ta hài lòng thu nhặt thêm mấy nghìn quân Quốc dân, những kẻ chậm chân ra trình diện ở vùng biên giới, chỗ này chỗ kia từng toán nhỏ không quá khó khăn, nhất là ở Lai Châu. Nhưng làm thế nào đưa họ qua hành lang Việt Minh cắt đôi Bắc Kỳ? Người ta không tổ chức hành quân - để họ tự đi, hướng dẫn họ qua vùng nguy hiểm bằng những máy bay nhỏ. Người Việt không tấn công như đã có lệnh: "Đừng làm chuyện gì với quân Quốc dân đảng Trung Hoa". Điều họ quan tâm là vĩnh viễn loại bỏ đám quân này. Và biết sẽ như thế, họ dựa vào người Pháp để rút quân số này về lâu dài ra khỏi chiến trường.

Việc xảy đến đã như vậy. Nỗi bận tâm của Chính phủ là đưa những kẻ "trốn chạy", khoảng ba mươi, bốn mươi nghìn người Trung Hoa đi càng xa càng tốt. Riêng các tướng Quốc dân đảng được hưởng chế độ ưu đãi - họ biết cuộc sống nhẹ nhõm ở các thành phố, nhất là Sài Gòn mà họ tham gia vào việc buôn lậu. Còn số đông, người ta mang họ ra khỏi Nam Kỳ, đưa đến đảo Phú Quốc trong vịnh Thái Lan. Phải có hàng chục tỷ để nuôi sống cả số lượng người này (vì như vẫn thế, quân đội Pháp cuối cùng vẫn làm việc cần thiết theo cách của mình, vừa bủn xỉn vừa tốn kém). Phải gần một tiểu đoàn bảo vệ những người ấy. Người Trung Hoa ở chung trên đảo với người Việt, tự xây dựng lại về chính trị, quân sự, tập thể dục với súng gỗ nhưng cất giấu những vũ khí thật. Rốt cuộc đội quân bảo vệ Pháp như tù nhân của những tù nhân của họ - không ra khỏi bờ rào quanh đồn. Tình trạng ấy kéo dài nhiêu năm giữa những phức tạp tệ hại.

Chỉ việc chuyển những người ấy cho Đài Loan bực tức đòi họ và họ rất muốn đi. Nhưng trước hết người ta không muốn làm mất lòng Mao Trạch Đông. Sau đó khi không còn đánh giá mơ hồ về Trung Hoa đỏ, người ta sợ họ, lo ngại về phản ứng của họ. Chỉ ít lâu trước khi cuộc chiến tranh Đông Dương kết thúc, người ta giải quyết chuyển lại những "tù nhân" ấy cho Tưởng Giới Thạch: những người cộng sản Trung Hoa và Việt không bỏ công phản kháng nghiêm chỉnh! Như vậy người ta run rẩy trong nhiều năm ngược đãi tù nhân, chồng chất chi tiêu vì một việc không ra gì.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Sáu, 2019, 11:09:40 am

Nhưng năm 1950 người ta ít nghĩ về số phận những người Quốc dân đảng ấy. Bộ chỉ huy còn những bận tâm cao hơn nhiều! Trước hết họ vui mừng, cũng nhẹ nhõm nữa, vì dù sao họ cũng hơi "run" về những người cộng sản Trung Hoa. Sự đúng mức của họ cho phép hy vọng. Điều cần làm là tán tỉnh họ cho được, kết bạn với họ. Có cả một kế hoạch lớn - thương lượng với Mao Trạch Đông để ông bỏ rơi người Việt, để cho Đội quân viễn chinh đập tan họ. Lẽ tự nhiên là có cho có trả. Nhưng tướng Alessandri đã nói và không ngừng lặp lại: "Có nên thu xếp điều đình với người Trung Hoa?"

Trong cảm giác sảng khoái, Carpentier và Alessandri gửi báo cáo về Paris hứa hẹn sẽ có cuộc chiến thắng quyết định. Chính phủ Pháp rất hài lòng. Việc bầu cử sắp tới làm họ bận tâm: có thể đưa về nước một phân đội đầu tiên của Đội quân viễn chinh được không, để cho cử tri biết cuộc chiến tranh Đông Dương đã kết thúc và thậm chí thắng lợi? Các tướng ở Hà Nội và Sài Gòn trả lời: "Đồng ý. Nhưng chờ một ít nữa thì tốt hơn".

Tôi trở lại Móng Cái, muốn xem tại chỗ nước Trung Hoa "mềm mỏng" ấy là như thế nào mà người ta tin tưởng đến thế.

Tôi lại lên ngọn đồi nhìn sang nước Trung Hoa trong số phận mới. Trước mắt tôi là niềm "vui" của dân chúng. Dưới rừng cờ Đông Hưng chỉ còn làm một bó hoa đỏ. Pháo nổ suốt ngày đêm, loa phát thanh vang lên không dứt những bài nói nồng nhiệt.

Cũng như lần trước, bên cạnh tôi là đại uý G... Ông tàn tạ, nhăn nheo hơn bao giờ hết nhưng vẫn vui đùa như thế. Nhưng chẳng phải đùa cợt ông chỉ cho tôi một số người rời bỏ những hân hoan "yêu nước" trần truồng ào xuống nước con sông quốc tế. Ông bảo tôi:

- Đấy là mấy người du kích. Họ luôn ra tắm ở đấy. Cách đây mười lăm ngày, người ta báo với tôi có những người lạ mặt bình thản tắm ở ngọn thác biên giới này. Tôi cho tìm hiểu, thì ra là những người cộng sản! Nhờ cách ấy người ta mới biết họ đã tới vì không thấy họ hành quân vào Đông Hưng.

Việc chiếm đóng kín đáo đến nỗi người ta không nhận thấy ít nhất cho đến lúc lá cờ đỏ đầu tiên giương ra. Đấy là một công trình theo cách Trung Hoa thực hiện ba bước. Trước hết quân lính Quốc dân đảng các loại ở Đông Hưng, từ bảo vệ của đại tá trưởng khu đồn trú cho đến lính cảnh sát ăn mặc xộc xệch, ban đêm chạy trốn bằng thuyền. Những công dân tai mắt nhất của thị trấn lúc đó báo cho quân du kích ở vùng một trăm nghìn ngọn núi có thể đàng hoàng vào thị trấn không có đụng độ nguy hiểm gì. Theo lời khuyên ấy quân du kích chiến thắng kéo vào - tính hợp pháp giữa hai chế độ chỉ đứt đoạn trong mười lăm phút. Những đội quân chính quy của Lâm Bưu còn cách mấy ngày đường. Khi đến lượt họ vào chiếm lĩnh Đông Hưng, lễ hội còn tuyệt vời hơn, bước chiến thắng thực sự.

Ít lâu sau chính quyền đỏ cho đưa tới một bức thư mong xây dựng quan hệ hữu nghị với người Pháp. Lòng thỏa mãn của tôi bị sự xấu hổ làm mờ đi. Vì theo như lệnh nhận được, tôi đã đóng cửa cầu Quốc tế, đuổi trở lại một toán Quốc dân đảng không biết từ đâu xuất hiện. Họ khẩn cầu tôi, muốn cố vượt qua cầu cũng không được. Những người khốn khổ ấy bám vào hàng rào sắt kêu gào cho đến lúc những người cộng sản đến lôi họ trở lại. Hình như rồi họ bị bắn chết.

Tóm lại, đối với viên đại uý G... mọi việc trôi chảy, cả việc buôn bán mà ông thu một tỷ lệ cho quỹ đen cũng đã trở lại. Những hàng hóa Pháp của ông Chong, nhà tỷ phú Móng Cái lại vào Trung Hoa. Đúng là không được đều đặn. Có những ngày không biết vì sao chính quyền đỏ đóng cửa cầu Quốc tế, phải điều đình mãi họ mới cho mở lại. Những hôm sau lại có "phiền phức" khác, người Móng Cái có thể sang Đông Hưng nhưng người Đông Hưng không sang Móng Cái được.

- Ông lưu ý cho, đại uý G... lại nói, đấy là việc của tôi. Những người cộng sản không cấp giấy thông hành cho người Đông Hưng thì tôi cho họ, đúng hơn là tôi bán cho họ mỗi tờ từ mười đến năm mươi đồng bạc. Tôi giao từng tập giấy có chữ ký của tôi cho phòng thương mại Đông Hưng, cơ quan cũ của những nhà giàu và những kẻ buôn lậu mà cán bộ chính trị vẫn để cho tồn tại. Phòng này sẽ phân phối cho dân, dĩ nhiên với những khoản hoa hồng lớn. Mọi người ai cũng muốn có. Ở bên ấy khổ sở, không còn gì. Người ta chỉ có ý nghĩ sang bên này mua thực phẩm, trở về mang theo gạo, dầu đốt, vải, bất cứ thứ gì. Những người cộng sản để cho dân làm. Chỉ có nguyên tắc là những người Trung Hoa khách hàng, có giấy phép của tôi, không đi qua cầu Quốc tế, sẽ bị la mắng đuổi trở lại mà lội sông ở phía trên hoặc phía dưới mấy trăm mét. Không ai bắn vào họ. Người ta gọi đấy là có sự "thỏa thuận của những người đàng hoàng".

Tóm lại, trong những tuần lễ đầu những người cộng sản của Mao tỏ ra không hề ghê gớm gì. Ở Đông Hưng không có hành quyết tư sản hay phản động nào, không có sự thanh lọc. Những người chủ đỏ để cho các "Nhà trời" trong thị trấn sống như trước, theo tục lệ tổ tiên - chỉ cần họ tham dự các buổi mít tinh và hoan hô. Thậm chí, chính quyền cảm thông khi dân chúng thiếu những nơi giải trí quen thuộc; những lò chơi đều ở nhà Vòng A Sáng bên Móng Cái, khi muốn chơi không dễ dàng đi sang được. Nhưng nhờ lòng tốt của chính quyền nhân dân, người ta tìm ra được một thỏa thuận.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Sáu, 2019, 11:10:54 am

Sau nhiều lần thương lượng giữa những người Pháp với cộng sản, người ta xây dựng ở đầu cầu Quốc tế một khoảnh đất trung lập bốn trăm mét vuông. Ở giữa là một căn nhà mới làm sòng bạc. Cả một đám người hỗn độn. Cả Đông Hưng đổ xô vào đấy. Nhưng Vòng A Sáng dĩ nhiên là chủ, than thở: để đặt cược người Trung Hoa chỉ có tiền cộng sản không có giá trị gì. Mới đây tôi đã có dịp. Ông Chong báo với tôi ông bán cho Trung Hoa một số lượng xăng rất lớn, nhiều nghìn tấn. Điều này chỉ có nghĩa quân đội đỏ chuẩn bị xâm chiếm Hải Nam đang bị Quốc dân đảng nắm giữ. Hòn đảo đồ sộ này khống chế đường vào vịnh Bắc Kỳ và đe dọa mọi giao thông trên biển giữa Sài Gòn và Hà Nội. Hải Nam trong tay những người cộng sản là một mối đe dọa lớn đối với Đội quân viễn chinh ở Bắc Kỳ sẽ ở vào đáy ngõ cụt và có nguy cơ bị cắt đứt với tất cả.

Tôi suy nghĩ. Bán xăng cho cộng sản là hợp tác vào việc chiếm đảo Hải Nam, là một trọng tội. Nhưng ngăn chặn lại là hút mất khoản tiền đáng kể cho quỹ đen của tôi, cần được chất đầy hơn bao giờ hết, sẽ là một sai lầm. Cuối cùng sau khi đã nghiền ngẫm, tôi bảo ông Chong: "Là thương gia đứng đầu, ông phải thực hiện việc đặt hàng thôi."

Thế là bờ bên Trung Hoa của con sông quốc tế chất đầy thùng phuy hai trăm lít. Cạnh đấy ba, bốn trăm thuyền máy neo ở bờ một lượng người và phương tiện. Đoàn hàng sắp chuyển đi thì bỗng xảy ra tai họa. Một đám cháy lớn ngốn hết các thùng xăng; một cuộn khói đen bùng lên. Người kêu lên và chạy thoát, nhiều người bị chết cháy. Ngọn lửa lan tới những con thuyền nhưng các đoàn thủy thủ không lái đi được vì đạn pháo, lựu đạn chất đầy khắp nơi nổ tung. Người ta nghĩ là một trận máy bay oanh tạc. Cuối cùng phần lớn thuyền bè đi xa được nhưng thị trấn bị đe dọa.

Dĩ nhiên chính tôi cho giấu mấy ngòi nổ định giờ vào hàng hóa của ông Chong. Nhưng tôi đã không biết là đạn được xếp lẫn giữa những thùng xăng. Tóm lại cú ấy quá thành công.

Các nhà bắt đầu bén lửa. Những người cộng sản không có bơm. Tôi đề nghị sử dụng máy bơm của tôi, họ nhận. Đông Hưng cứu được nhờ sự can thiệp của người Pháp. Trong mấy ngày các cán bộ chính trị cười luôn với tôi. Tôi nghĩ họ không bao giờ nghi ngờ vai trò thực của tôi.

Tóm lại ở Móng Cái cuộc sống vẫn thoải mái. Đại uý G..., Vòng A Sáng, ông Chong và "Milady" vẫn luôn trung thành với người Pháp, trước mặt những lá cờ đỏ cách không đến một trăm mét. Không có gì thay đổi. Tin tức mới, quan trọng hơn nhiều cuộc chiến tranh hoặc đường lối chính trị, là "Milady" vừa tuyển dụng trong các dân tộc miền núi hai cô gái đẹp mười lăm tuổi.

Sau mấy ngày đại uý G... bảo tôi:

- Ông có thể đi được rồi. Ở đây sẽ yên tĩnh trong nhiều tháng. Những người bên kia sông còn quá bận không khuấy động gì. Nhân viên của tôi đã xác định: người Trung Hoa đang bắt tay vào "xây dựng" người Việt. Kế hoạch giúp Hồ Chí Minh bắt đầu khởi sự. Có những trại rộng lớn ở đó các đội quân của ông Giáp, dưới sự hướng dẫn của hàng nghìn sĩ quan, hạ sĩ quan Trung Hoa, được biến thành những đơn vị chiến đấu thực sự. Từ đấy sẽ đi ra các tiểu đoàn, trung đoàn, có lẽ cả sư đoàn, được huấn luyện và trang bị cơ bản, sẵn sàng chiến đấu. Vũ khí không thành vấn đề - chỉ cần chuyển cho người Việt súng trường, tiểu liên, móc-chi-ê lấy của quân Quốc dân đảng - toàn vào loại tốt nhất, hầu hết là có từ Mỹ. Chưa hết. Đã có những cu-li mang trên lưng những gói lớn để xây dựng các kho đạn dược, thực phẩm ở những chỗ bí mật, ngụy trang, được bảo vệ, vẫn trên đất Trung Hoa nhưng rất gần đường số 4. Vả lại trong những dãy núi ở Quảng Đông và Quảng Tây, nhiều toán đàn ông, đàn bà, trẻ em đào đất làm đường ra những vị trí chiến lược trên biên giới. Sự cố gắng tối đa. Làm thế phải mất bao nhiêu thời gian? Tôi nghĩ cũng mất mấy tháng.

Cả Đông Dương trong mù quáng do sự "khôn ngoan" của những người Trung Hoa ấy dừng lại ở biên giới. Đấy chỉ là một "giải pháp đúng đắn". Bắc Kinh đã đi tới một kết luận, đuổi người Pháp ra khỏi Đông Dương. Chiến thuật cũng đã được xác định. Quân đội Mao không cần tiến sang, sẽ là điều vụng về. Người Việt đã thừa đủ, với điều kiện xây dựng, trang bị, thúc đẩy họ.

Tôi nói với ông, số phận quyết định. Người Trung Hoa thực hiện hoàn hảo những gì họ đã quyết định, cho đến cùng - sự thất bại của chúng ta, đuổi được chúng ta đi.

Từ nay cuộc chiến tranh Đông Dương phần lớn là cuộc chiến tranh của nước Trung Hoa. Nhưng ở Sài Gòn người ta không muốn biết điều ấy. Vì nếu biết, phải không làm gì, chuẩn bị làm gì? Phải bắt đầu suy nghĩ lại tất cả.

Ông nên trở về Sài Gòn nhanh. Vì trong lúc Bắc Kỳ sẽ đắm mình vào một giấc ngủ giả vờ, Nam Kỳ sẽ "cựa quậy". Quân địch cần giữ chân Đội quân viễn chinh ở đây để có thể yên ổn chuẩn bị ở đấy.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2019, 05:40:02 pm

Cuộc chiến của Sài Gòn

Tôi trở lại Nam Kỳ. Mọi việc xảy ra như viên đại uý Móng Cái đã dự liệu. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vừa yên ổn thiết lập bên cạnh Bắc Kỳ thì bắt đầu cuộc chiến của Sài Gòn, khủng bố, tra tấn và ám sát. Không thiếu thứ gì.

Những công dân Pháp của nhà băng, sở thuế quan và chính quyền không hiểu được. Làm sao họ có thể ngờ rằng mọi việc nối liền với nhau với logic sâu sắc, rằng đây là hậu quả trực tiếp của sự kiện đã xảy ra cách đấy 1.500 cây số, việc những người Trung Hoa đến sát biên giới? Không ai chú ý, không ai nghĩ đến điều đó.

Sài Gòn là thành phố đồng bạc không che chở được nữa. Không còn chỉ là lựu đạn mà cái chết đủ các dạng, là sự chém giết. Đầu năm 1950 mọi việc xấu đi, như trở thành hóa lỏng. Không có gì lạc quan trong một thành phố bị tiêu tan, chỉ còn nỗi sợ hãi khi mà cảnh sát bị giải giáp, những "mật thám" Pháp của cơ quan này được lệnh không lộ diện.

Nói đúng ra sẽ không thể tan rã như vậy nếu không có nền độc lập Việt Nam "nền độc lập của Pignon". Bảo Đại sau khi làm mình làm mẩy trên đồi núi, chính thức về Sài Gòn. Từ sân bay vào đến thành phố, đoàn xe chạy suốt năm cây số giữa cảnh sát trang bị vũ khí tối đa đứng cách nhau năm mét mỗi bên đường lát đá dăm và chỉ quay lưng lại - họ quay mặt ra ngoài, nhìn vào chân trời đất trống và nhà tranh, nơi có thể phát sinh nguy hiểm. Một buổi lễ rất tẻ nhạt được tiến hành ở khách sạn cố hữu của thành phố, với những nhân vật cố hữu Việt Minh và Pháp. Ngoài đường phố mặc dù có lệnh treo cờ, không có một lá cờ. Cũng không một bóng người, chỉ trống không và lặng lẽ thể hiện sự khinh bỉ. Tuy vậy xe ô tô chở đi một số người "nhiệt tình" - năm đồng bạc một đầu người. Các giáo phái cũng muốn tỏ rõ thiện ý - Một số chiến binh Hòa Hảo diễu binh, một chiếc mũ lớn màu xanh hình ông bố trên trán. Cao Đài có "tín đồ" đại diện, đàn ông, đàn bà bước đều theo hàng, vung vẩy mẩu bánh mì vừa nhận được. Xe ô tô thu thập lại mọi lớp người ấy. Bảo Đại sau khi giải sầu, lại đi Đà Lạt.

Tuy vậy Hoàng đế cũng phải có một thủ tướng. Ngài đã mệt mỏi với Xuân, ông tướng lãnh đạo chính phủ lâm thời. Xuân ân cần, nịnh bợ, cũng được việc giúp Hoàng đế che giấu một số việc tế nhị nhưng đồng thời cũng mưu mô chống lại khắp nơi kể cả với những bộ trưởng Pháp. Thế là Bảo Đại dùng một người khác đứng đầu chính phủ thực sự của nền độc lập. Ông chọn Nguyễn Phan Long.

Ông này là tín đồ giao lưu linh hồn, hơi Cao Đài, tham gia những tranh cãi ghê gớm xung quanh "giỏ có mỏ", dụng cụ của giáo phái Cao Đài dùng nhận thông tin của thế giới bên kia - và đã nhận những thông tin linh thiêng bằng thơ của Victor Huygo mà người ta vẫn cho là tự ông ta làm lấy. Đây là một nhân vật kỳ lạ, một nhà báo chuyên cần, hiểu biết, hầu như có tài, viết tiếng Pháp, bắt chước rất giỏi - Trong ba mươi năm, ông ta đã qua đủ loại vỏ bọc, cũng đủ loại tệ nạn nhưng hòa nhã - vừa nghiện hút, nghiện rượu, cờ bạc chuyên nghiệp, trác táng, quá nhiều vợ và con cái. Chúa tể theo cách của mình, xấu đến nỗi làm người ta sợ, khuôn mặt kỳ cục vì vết thương cũ, cáu kỉnh vì những nỗi khổ sở trước kia, vì những sỉ nhục đã chịu đựng, ông ta cao thượng vì quá vô sỉ. Người ta kể lại năm 1945, ông xin làm việc với Pháp nhưng họ chê bai vì giá quá đắt. Để trả thù, từ đấy ông là "ngòi bút" của chủ nghĩa quốc gia nửa tư sản và rất chạy theo lợi nhuận, "màu sắc" thực của Sài Gòn. Nhiều năm ròng ông công kích "thực dân" trên tờ báo của mình, không phải vì thực sự ghét họ - ông hoàn toàn là người Việt Nam, và hoàn toàn là người Pháp, tạo cho ông một tính cách nước đôi, phức tạp. Nhưng ông trả thù họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2019, 05:41:08 pm

Một người bị khinh rẻ như ông mà nắm quyền lực, thích thú biết mấy! Không ngần ngại, ông ra tay. Đầu tiên ông tự nắm lấy bốn bộ "quan trọng", những bộ có mật quỹ lớn. Một buổi tối một nhà báo Pháp bắt gặp ông trong văn phòng, một mình. Ông đang ngồi xổm trước một két sắt mở rộng, đầu chui vào trong đó. Ông mân mê sờ mó những tập giấy bạc lớn với thái độ ngỡ ngàng, đầy khoái cảm. Con người đã khúm núm cầu xin ấy bây giờ là người phân phát!

Nhưng phải thực hiện nền độc lập. Và những người Pháp phải chuyển giao công việc, cả những công việc quý như Sở An ninh và Cảnh sát cho chính Nguyễn Phan Long mà họ đã làm nhục (Họ vẫn giữ một Sở An ninh thứ hai do ông Perrier điều khiển để "bảo vệ" Đội quân viễn chinh). Ngôi nhà của Sở An ninh - phía trên đường Catinat, cách nhà thờ lớn mấy mét - được chuyển cho người Việt Nam. Ngôi nhà ấy là biểu tượng của toàn Việt Nam về sự "áp bức" Pháp, số đông là những "người quốc gia" trong quá khứ xa xôi và mới đây được dẫn tới đó giữa những bàn tay "mật thám" Pháp. Và Nguyễn Phan Long, thủ tướng chính phủ tuyên bố thời đại hữu nghị. Ông nói chính "thực dân” chia rẽ dân tộc Việt Nam, bây giờ tất cả những người Việt Nam phải nhớ là cũng một dòng máu. Nguyễn Phan Long thực hiện "đưa bàn tay ra" theo nguyên tắc Việt Minh, trước hết là những người quốc gia và chắc chắn thỏa thuận được với họ. Theo lệnh ông mọi niềm nở tiếp theo sự tàn bạo. Vì vậy ông chỉ định đứng đầu an ninh Việt Nam là một luật sư nhân đạo có thái độ nhẹ nhàng, cử chỉ đầu tiên của con người này là cho thả hết những bị can, những người tình nghi, làm trống các nhà tù. Ông ta cấm những cuộc "thẩm vấn" và mọi biện pháp tra tấn. Sự năng nổ của cảnh sát là không còn biết gì, không bắt giữ một ai và điều họ làm sợ cho tính mạng của mình - không được mang vũ khí nữa, họ thuyết phục thay thế súng ngắn và tiểu liên.

Nguyễn Phan Long khốn khổ! Ông ta, con người thủ đoạn già dặn, xảo quyệt, không ảo tưởng, con người "không ai lừa bịp được" lại ngây thơ đến vậy. Vì ông có vẻ thật thà, như các nhà tư sản lớn ở Nam Kỳ. Những người cơ hội da vàng ấy tin chắc Nguyễn Bình, Kháng chiến, Việt Minh Nam Bộ, Hồ Chí Minh và ông Giáp, Tổng bộ Việt Minh sẽ rơi vào vòng tay họ! Các ông ấy cũng phải biết rõ Việt Minh và tính kiên định của họ. Nhưng đấy là định mệnh của giới tư bản tài chính Việt Nam - cũng như ở những nơi khác - là không thấy sự thật trước mắt, ở ngay cửa ngõ, đụng chạm đến họ, hàng ngày. Cũng có một nỗi vui "được rửa hận" ở tất cả những "người hợp tác" với Pháp vì mọi sự hợp tác đều có gai, làm tổn thương và đẫm máu. Họ tin chắc xoay chuyển được tình thế, nghìn lần hơn Cao uỷ và Đội quân viễn chinh: trong mấy ngày họ sẽ giải quyết hết các vấn đề, sẽ kết thúc cuộc chiến tranh với sự hòa giải chung. Làm sao tiếng nói của họ không được hưởng ứng vì những tài sản, đặc ân, vị thế của họ - vì họ chắc chắn giữ được những cái ấy. Một bộ trưởng, một ông chủ đã nhiều năm không dám đặt chân tới đất đai của mình, nói với tôi:

- Mọi việc sẽ kết thúc và tôi sẽ lấy lại ruộng đất, dân quê và những trang trại của tôi.

Thế nhưng cảm giác sảng khoái về nền độc lập ấy bị đập tan trong những ngày đầu của năm 1950, khi Nguyễn Phan Long cho đưa tới Nguyễn Bình những đề nghị hòa bình. Câu trả lời như sét đánh. Mấy ngày sau đó, "Tiếng nói Nam Bộ" - đài phát thanh của Nguyễn Bình - vang lên rằng nền độc lập ấy là một sự phản bội hơn bao giờ hết. Thời kỳ kết thúc đã đến - tất cả các bộ trưởng, viên chức, những kẻ lợi dụng chế độ sẽ được thấy và trả giá. Việc đó sẽ được giải quyết gần đây, trong cuộc chiến đưa Sài Gòn vào trong tay Việt Minh.

Đây là giờ cao điểm của Nguyễn Bình. Thực tế Sài Gòn như đã đưa lại cho Việt Minh và Nguyễn Bình cơ hội. Ông hành động theo mệnh lệnh của Hồ Chí Minh những cũng là giấc mơ của ông, công việc của đời ông. Niềm đam mê bốc ông lên. Ông dốc toàn lực vào tất cả. Cuối cùng một năm sau ông trả giá cuộc thất bại bằng cuộc đời ông vì không thành công, vì muốn quá nhiều, đi quá xa.

Nhưng chưa đến lúc ấy. Tháng giêng năm 1950 gần như ông trên đường thắng lợi. chiến thắng đã ở trong tầm tay. Ông biết "làm việc" trong mấy tuần, lợi dụng ảo tưởng của Nguyễn Phan Long để làm mục ruỗng tất cả, bí mật bố trí người vào khắp nơi! Ông này bỗng nhận ra mình chẳng còn cảnh sát, chính quyền, chẳng còn gì nữa. Người ta vẫn ở tại chỗ, là những viên chức mẫn cán nhưng thay vì vâng lời ông họ vâng lời Nguyễn Bình. Ông bị tước hết khí giới, tự trói tay chân mình. Trong mấy ngày như mọi tư sản, ông chuyến từ lạc quan tếu sang sợ hãi ti tiện.

Cuộc chiến của Sài Gòn bắt đầu như vậy. Không phải quân lính đánh nhau. Cũng không phải quân đội nổi dậy, trường hợp đó xe tăng các đội quân Pháp sẽ đập nát. Chỉ làm thế nào cho Đội quân viễn chinh không có lý do can thiệp, mục đích là làm cho người Pháp đứng trước một việc đã rồi, một việc mà họ không cản trở được - một Sài Gòn luôn thiên về Việt Minh, một Sài Gòn hoàn toàn Việt Minh và cuối cùng một Sài Gòn chính thức Việt Minh.

Có một chiến thuật cho mục đích ấy: cuộc đấu tranh cách mạng toàn bộ, tăng cường quấy rối cho đến lúc Sài Gòn của đồng bạc rơi xuống như một quả chín. Mỗi ngày, mỗi giờ thành phố phải đỏ hơn, có một trạng thái đỏ hơn. Người ta lún sâu vào sự chi phối của Việt Minh như vào đống cát di động. Không cưỡng lại được. Một mặt phải phá vỡ tất cả, mặt khác phải tổ chức tất cả. Cuối cùng, kháng chiến, hoạt động bí mật ngày càng nổi lên cho đến lúc trở thành những người chủ duy nhất.

Đấy là kế hoạch, việc nắm giữ hay là cuộc giải phóng hai, ba triệu người như người ta muốn.

Tháng giêng, hai và ba là thời gian bố trí, sau đó thì hành động.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2019, 05:42:49 pm

Sài Gòn Việt Minh

Ngày 18 tháng 4 năm 1950 tôi bình thản đi trên đường Catinat lúc tám giờ sáng, lại ăn điểm tâm ở nhà hàng Pagode. Ở góc đường tôi gặp các nhân viên an ninh Pháp. Một người trong bọn họ kêu lên với tôi: "Có máu đấy". Vừa hay tôi suýt bước vào vũng máu đang khô dần. Viên cảnh sát lại nói:

- Bazin đấy, đưa vào bệnh viện rồi. Bị đạn xuyên thủng người, ông ấy đang hấp hối.

Một cuộc mưu sát hoàn hảo, của những kẻ giết người đã được tập dượt. Một người Annam mặc comple, cặp da xách tay, đi bách bộ trước ngôi nhà của Bazin lúc bảy giờ hai mươi phút. Như mọi ngày, Bazin ra khỏi nhà lúc bảy giờ rưỡi để đến văn phòng. Ông cách chiếc xe của mình mấy bước. Thấy ông, kẻ giết người ẩn vào một góc cửa, lấy khẩu colt trong cặp da. Khi Bazin cách anh ta một mét, anh bình tĩnh bóp cò; trong lúc Bazin ngã xuống anh hạ súng tiếp tục bắn. Ba hoặc bốn người Việt Nam khác cầm colt bảo vệ cách đấy hai mươi mét. Cả đám đông bỏ chạy. Bắn xong nhóm người chui vào một chiếc ô tô phóng đi.

Bazin là trưởng cơ quan an ninh xung kích Pháp. Chính ông ta đấu nhau với an ninh xung kích Việt Minh ở Sài Gòn.

Một tuần lễ trước tôi đã đến văn phòng ông. Ông nói với tôi:

- Tôi đánh nhau vì mạng sống của mình. Hàng ngày đài Việt Minh nhắc đi nhắc lại: "Bazin anh sẽ chết". Tôi đứng ở đầu sổ đen những người phải hạ sát. Những kẻ thực hiện đã vào Sài Gòn. Tôi chỉ có mấy ngày để thanh toán chúng, nếu không...

Đấy là một người nhỏ thó, vai hẹp, khuôn mặt chồn. Nghề của ông là đàn áp và ông thực hiện xuất sắc. Ông là một "mật thám" quá năng nổ, không còn tàn bạo và thương xót nữa mà chỉ là làm tốt phận sự. Ông là viên chức hoàn toàn vô cảm, trung thành và có trí nhớ tuyệt vời. Hàng nghìn khuôn mặt da vàng của những tay chân Sài Gòn bí mật ông biết rõ hết. Một phần cuộc đời ông để xây dựng những hồ sơ hoàn hảo, một phần khác để "thẩm vấn", thu thập thông tin. Thì giờ còn lại là "khai thác". Điều đó diễn ra trong những phát súng ngắn, lựu đạn trong các tầng lớp hạ tầng của xã hội giữa những con lạch, trong khung cảnh của Sài Gòn băng nhóm.

Bazin luôn trầm tĩnh, nhạo báng, với thần kinh thép. Môi trường của ông bi thảm và đẫm máu. Ông chết và cái chết phải là của ông. Thuộc hạ khóc thương - những người Việt Nam ông đào tạo cho những công việc tệ hại. Họ thề báo thù cho ông.

Khi tôi gặp Bazin ông biết mình sẽ thua:

- Người ta trói tay chân tôi trao cho người Việt. Trói tôi lại lúc họ sắp chiếm lấy Sài Gòn.

Thành phố hoàn toàn có người "cài vào". Việt Minh khắp nơi, cho ám sát những ai họ muốn, bắt mọi người nộp thuế. Không đâu không có phái viên của Nguyễn Bình: Khắp nơi có một chính quyền bí mật bên cạnh chính quyền chính thức, được bố trí trong chính phủ, các bộ, ở mỗi khu, mỗi đường phố, mỗi nhà. Hàng nghìn người lấy đưa mật lệnh hàng ngày, điều khiển gần như công khai việc tuyên truyền, thám thính, thu thập tin. Ông biết tất cả những điều đó.

Cái mới là Ủy ban Nam bộ đã thảo cho Sài Gòn một mệnh lệnh chiến đấu không dứt với hàng trăm trang và chương mục. Tất cả đều được dự kiến - tài liệu ấy có hướng chỉ đạo mọi hệ thống - các ban chính trị, kinh tế, các ban phụ trách tạo "nhiệt tình phấn khởi", các đội bảo vệ tấn công. Từ nay họ không còn khai thác thành phố nữa mà nắm lấy bằng một "chiến dịch nhân dân".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2019, 05:44:56 pm

Việc ám sát trước đây chỉ là một biện pháp thuyết phục. Mấy trăm ban ám sát đủ để quần chúng sợ và kính phục. Bây giờ Nguyễn Bình đưa chiến tranh vào Sài Gòn để chiến thắng.

Chính Nguyễn Bình đưa ra mệnh lệnh tối cao. Nhưng để nắm tại chỗ chiến dịch yêu nước ấy, ông xây dựng một tổ chức đặc biệt ở cách Sài Gòn chỉ tám cây số. Trung tâm chỉ huy ở làng Tân Nhứt với người lãnh đạo là Trần Văn Trà. Để tiến hành cuộc chiến ám sát trong thành phố rộng lớn, người Việt xây dựng tiểu đoàn 905 - quân lính là những người tình nguyện quyết tử. Công việc của họ là theo dõi, trinh thám cài người, tống tiền, những vụ ám sát loại hai, thôi thúc thuế, những lựu đạn, đình công, biểu tình - họ sống trong cộng đồng dựa vào các cơ sở, đường dây của họ và hội họp, nhận mật lệnh. Đấy là những yếu tố cơ bản của “hoạt động cách mạng"; của chiến đấu; họ là "trọng lượng" Việt Minh trong cả thành phố.

Tiểu đoàn 905 thực hiện nhiệm vụ ám sát; Đối với những nhiệm vụ chính xác, họ dùng súng colt hạ sát những kẻ bị kết tội tử hình, những "kẻ thù điển hình" của nhân dân được Nguyễn Bình và Ủy ban Nam Bộ xác định, có tên trong sổ đen, do những ám sát viên thành thạo thực hiện. Công cụ thanh toán quan trọng là Đội biệt động Việt Minh, do Lê Văn Linh chỉ huy. Quân số mấy trăm người được lựa chọn cẩn thận, họ tổ chức một cách khoa học trong một trại đặc biệt ở Đồng Tháp Mười, do lính đào ngũ Đức thực hiện.

Đội biệt động có căn cứ ở ngoài Sài Gòn, cử người vào thành phố với những nhiệm vụ chính xác. Họ bình thản, từng người một, đi bộ hoặc "xe ca Trung Hoa”, ăn mặc như dân quê hoặc viên chức nhỏ. Họ không mang theo gì trên người, không vũ khí, không giấy tờ; nếu tình cờ bị hỏi dọc đường họ xưng một tên họ nào đó. Làm sao xác minh được?

Mỗi ám sát viên chỉ biết địa chỉ phải đến. Có thể bất cứ đâu, một mái nhà tranh, ngôi nhà đàng hoàng của một tư sản hoặc một văn phòng. Ở đấy anh ta gặp người lãnh đạo các ban, nhận chỉ thị, súng colt và tiểu liên. Vũ khí và đạn dược được các môi giới chuyển vào Sài Gòn - không thể theo dõi được đám đông vào ra thành phố, lớp tiện dân gồm các ông già, phụ nữ, trẻ con, những người cu-li các loại liên tục đi lại lúc nhúc. Lựu đạn, súng ngắn đưa vào cũng được giấu kín trong thuyền, trong xe, giữa những đống rau hay bì gạo. Thấy sao được?

Những ám sát viên ở lại Sài Gòn càng ít thời gian càng tốt. Công việc của họ đã được chuẩn bị sẵn, người ta đưa cho họ hồ sơ và kế hoạch chi tiết. Các "mục tiêu" - những tên phản động cần hạ sát - đã được "lực lượng dân chúng" rình rập nhiều ngày, nhiều tuần. Chương trình hoạt động đã được xây dựng từng giờ, bản vẽ địa điểm đã có sẵn. Đồng loã được chọn trong số đầy tớ và người làm công của người bị kết tội. Vào giờ cuối một chiếc xe bị lấy cắp, sơn và đối biển số. Quân biệt động đến chỉ còn hoàn tất, hạ sát.

Trước hết là tập dượt rồi thực hiện. Toán ám sát thường gồm bốn, năm người. Công việc tiến hành ngay ở đường phố hoặc trong nhà nạn nhân. Một phút là đủ. Sau sự việc ám sát viên ẩn lại mấy ngay trong những nơi đặc biệt bí mật. Rồi họ ra khỏi Sài Gòn như đã đến.

Tổ chức ấy đôi khi bị tiêu diệt một phần nhưng chỉ thế thôi. Và lại được củng cố ngay: Vì tổ chức ấy đã đạt đến mức hoàn hảo từng chi tiết. Việc phân công và phối hợp đạt mức tối cao. Vì vậy khi "bắt" một vụ cũng không đi xa, không "khai thác" được. Thẩm vấn chẳng được việc gì, người bị bắt biết rất ít! Cả điều anh ta nói ra cũng vô ích. Vì người ấy vừa bị bắt thì người ta đã cắt cơ sở móc nối, đường dây. Nhóm hành động, hệ thống của anh ta đã bị giải thể. Mấy ngày sau đó tất cả được xây dựng lại trên những cơ sở mới không thăm dò được. Người bị bắt cũng thay thế bằng người mới, hoàn toàn không biết được. Tổ chức bao la ấy không gián đoạn bao giờ - những mắt xích bị phá bao giờ cũng được nối lại ngay.

- Chúng tôi tiến hành một cuộc chiến không thương xót. Nhưng làm sao có thể đi đến kết quả vì xung quanh chúng tôi mà mục ruỗng, bất lực, hèn nhát, đồng lõa và phản bội?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2019, 05:46:27 pm

Mọi việc xảy ra với Bazin như ông ta đã dự kiến. Đúng trong những hoàn cảnh ông đã tả cho tôi. Tôi tự nhủ chưa bao giờ một người biết được đến thế điều gì sẽ xảy ra, thực sự xảy ra cho mình. Bazin biết tất cả, thế mà con người ghê gớm ấy không thể làm gì được.

Sau cái chết của ông ta, trong Sài Gòn là luật lệ của Nguyễn Bình. Luật lệ ấy kéo dài hai tháng.

Lớp tư sản da vàng da trắng ẩn náu. Họ nhận thấy không an tâm được với cảnh sát, với những viên chức chỉ còn là những cái bóng, với chính quyền Pháp tham gia vào bi kịch mà không thể làm gì - từ khi độc lập, họ bị cấm can thiệp vào Sài Gòn. Và trong lúc bộ máy chính phủ suy sụp, tất cả Việt Minh bí mật hiện diện khắp nơi, rất nhiều và muốn làm gì cũng được.

Đến lúc ấy, những đám đông cầm cờ đỏ tràn lan trong lòng thành phố. Quần chúng hô lớn: "Hồ Chí Minh muôn năm!" Các diễn giả trèo lên mui xe nói chuyện với dân chúng, kích thích họ hành động. Một hôm đám đông đốt chợ trung tâm. Lửa thiêu các lều, các quầy hàng chỉ còn là lốp vỏ cháy đen. Không ai dám làm bất cứ điều gì. Hình như đã đến lúc kết thúc.

Bằng mọi biện pháp, Nguyễn Bình còn làm nỗi lo sợ lan rộng hơn. Những cuộc biểu tinh nối tiếp nhau, dưới danh nghĩa những "ngày cách mạng", được thông báo trước chuẩn bị tỉ mỉ. Mỗi cuộc biểu tình có một tên gọi. Đấy là "ngày thứ mười lăm Rửa hận", ngày "Hoan nghênh chế độ Dân chủ nhân dân", ngày "Hồ Chí Minh". Mỗi lần như thế đài Việt Minh đưa ra những chỉ thị bốc lửa và đe doạ, vận động tổng đình công. Cán bộ ở các tổ đến từng nhà từng quán hàng kêu gọi đóng cửa, nhân dân xuống đường.

Đến ngày đã định, cả thành phố như chết. Những cửa hàng người Annam khóa cửa; người Pháp tránh ra ngoài. Đường phố trống vắng, vài chỗ có vài "mật thám" không mang vũ khí, sợ sệt. Có những nhóm thanh niên trai gái cầm xe đạp: họ đứng phân tán, thường dọc theo hè phố, hiền lành chờ đợi. Đó là những thành viên các toán xung kích tập hợp quần chúng. Đúng giờ khởi sự bọn họ đồng thời tập trung lại một chỗ vắng, bắt đầu cuộc bạo động. Không khí trong thành phố thật khác thường. Trong mấy phút cả một làn sóng, người, nỗi căm hờn đỏ - khắp nơi bí mật xuất hiện đám đông vô bờ. Cuộc biểu tình - cờ, la hét và diễn giải - rầm rộ trong lúc chính quyền vẫn còn chưa biết. Trong thời gian ấy cả phần còn lại của thành phố sửng sốt lo sợ.

Mỗi lần như vậy có vẻ quần chúng sẽ mang đi tất cả. Nhưng nếu thế thì không phải là "giải pháp đúng". Cũng nhanh như khi tập hợp, cũng theo cách ấy, theo hiệu lệnh những người ấy quần chúng giải tán. Ngay tối hôm đó cả thành phố, toàn dân chúng tự kiểm điểm. Cán bộ các tổ phê bình những người không tuân theo triệt để, tìm cách mưu mẹo - ví dụ những người buôn bán không đóng hẳn cửa mà hé mở một cánh để khách có thể lén lút vào.

Trong việc lấn chiếm Sài Gòn ngày càng tăng không lay chuyển ấy khắp nơi là bạo lực. Lựu đạn nổ ở mọi chỗ. Mỗi đêm các bốt ngoại vi bắn pháo sáng và người ta ngủ trong tiếng đạn cối. Đài "Tiếng nói Nam Bộ" thông báo cảnh lộn xộn càng nghiêm trọng hơn. Họ nói việc cung cấp cho Sài Gòn sẽ cắt trong sáu tháng; mỗi người phải dự trữ bốn mươi cân gạo và một cân muối. Loa phóng thanh cũng báo tin việc trừng phạt bọn phản động và đao phủ đã bắt đầu: các toán thi hành luật pháp đã vào thành phố và bắt tay vào việc. Sau đó là danh sách những kẻ bị kết tội và thường sau một tên họ có ghi chú thêm: "Đã kết liễu". Việt Minh cũng đặt giá: đầu của Bảo Đại là mười nghìn đồng, người ta chỉ đặt ông ta với giá rẻ.

Mỗi ngày mọi người lại sợ hơn, nhất là những nhân vật quan trọng. Vì tuần lễ này sang tuần lễ khác nhân viên ám sát súng colt thi hành nhiệm vụ liên tục. Bao giờ cũng tỉ mỉ như thế - "kẻ thù của nhân dân" bị theo dõi bắn hạ ngay trong nhà, trong xe, trên đường, ở sân ten-nít. Đấy là cái chết không vô tình, trong phút chốc, được chọn lọc do Đội biệt động thực hiện.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Sáu, 2019, 05:47:39 pm

Tôi nhớ tới Perrier, phụ trách tất cả các sở mật thám cũ, hiện vẫn là trưởng một bộ phận mật thám Pháp, có tên trong danh sách "phản động" của Việt Minh. Trong "mỗi vụ" ông ta đến tại chỗ trên chiếc xe jeep có an-ten dài cùng hai phụ tá trang bị vũ khí siêu hạng, lựu đạn và tiểu liên cầm tay. Hơn bao giờ hết ông ăn mặc đẹp, tinh thần còn trẻ nhưng hơi già vì mệt mỏi, cái nhìn sắc sảo, giọng nói mạnh mẽ, phong thái phóng túng gượng gạo. Mỗi lần gặp tôi ông nói:

- Lại một người nữa bị giết, sắp đến lượt tôi rồi. Với những kẻ giết người ấy không thể làm gì được, hoàn toàn không. Họ muốn giết tôi lúc nào cũng được.

Nhưng người ta không làm gì Perrier. Có lẽ Nguyễn Bình cho là ông ta không nguy hiểm. Thế mà ông không trừ ai, tấn công cả các nhà tư sản - cho thanh toán hai nhà công nghiệp vừa là vua thuốc lá, và chủ xưởng lớn. Trời vừa tối, giữa Sài Gòn và Chợ Lớn, một tiếng còi dừng xe họ lại và các nhân viên ám sát cải trang cảnh sát bắn vào họ. Chắc Việt Minh quyết định những cuộc mưu hại ấy để thỏa mãn công nhân đã than phiền về họ.

Nhất là các ngài cao cấp Việt Minh như không sống nữa: Phần lớn không ra ngoài, xung quanh là quân bảo vệ. Những người buộc phải ra ngoài thì cho bọc thép xe hộ tống.

Trong tình hình như thế người ta bỗng được tin như sét đánh là Nguyễn Bình mở cuộc tấn công lớn vào toàn Nam Kỳ, một cuộc tấn công "quân sự". Hàng chục đồn bốt bị bao vây; các thành phố như Trà Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ bị đe dọa. Nguyễn Bình đã tập hợp được tám nghìn quân chính quy, được tung ra đánh các lực lượng Pháp rải rác cắm chốt ở cửa sông Mékong trong trận quyết định ở phía Nam.

Nam Kỳ sôi sục chiến tranh, Sài Gòn hỗn độn. Vũ khí sắc bén của ông Pignon, sự thịnh vượng cho mọi người cũng lạc điệu. Trong mấy ngày giá cả tăng lên gấp đôi. Nếu cứ tiếp tục như thế thì mua bán đồng bạc để làm gì?

Sài Gòn vô chính phủ đến mức trẻ con các trường nổi dậy, chỉ còn thiếu chưa chiếm lấy thành phố. Tất cả nam nữ, học sinh trung học tuyên bố: "Chúng tôi cũng là những chiến sĩ Việt Minh". Các trường học là những thành trì đỏ, các giáo viên không dám lên lớp nữa và học sinh tổ chức mít tinh, tự kiểm điểm, khơi dậy lòng nhiệt tình. Một hôm cả đoàn học sinh, thanh niên diễu hành trước lâu đài Chính phủ Việt Nam. Ngài Hữu bây giờ là bộ trưởng Bộ Nội vụ. Béo tốt, trịnh trọng và vẻ cha chú, ông đến trước đoàn người một mình, không có bảo vệ: những chàng trai cô gái này chẳng phải cũng là con cái các gia đình tư sản tốt nhất đó sao? Ông dùng lý lẽ Khổng Mạnh khuyên họ vâng lời và khôn ngoan nhưng nhận được gạch đá và tiếng hô đả đảo; tuy phì nộn ông cũng cố sức chạy càng nhanh càng tốt. Đoàn trai trẻ la ó. Không có cảnh sát dẹp trật tự. Những đứa trẻ trai gái mười lăm tuổi làm chủ tình hình.

Lần này thật quá đáng. Vì mọi nguyên tắc đạo đức truyền thống bị nhạo báng. Qua cá nhân ông Hữu, người bề trên đáng kính, mọi bố mẹ đều bị chửi rủa. Nếu con cái không nghe lời bố mẹ nữa thì toàn xã hội Việt Nam bị tiêu diệt. Đã đến lúc phải bảo vệ trật tự cũ.

Những tư sản Sài Gòn, những tư sản ấy trong chính phủ đã đưa tay cho Nguyễn Bình, nhận thấy tính mạng, của cải của mình bị đe dọa, trở nên dữ tợn. Không còn "mềm mỏng", không còn vấn đề "dân tộc" với Việt Minh nữa. Đấy là sự tàn sát trong máu và tra tấn, một trăm lần độc ác hơn người Pháp trước kia.

Mọi việc qua rất nhanh. Nguyễn Phan Long - con người lắt léo tỏ ra khờ khạo trong chính phủ đến thế - được "bố Hữu" già dặn thay thế. Và xâm nhập vào quyền lực với Hữu là đồng tiền, tầng lớp địa chủ, sự liên minh của những người giàu. Và không ở đâu những chủ sở hữu, khi sợ cho tài sản của mình, lại tàn nhẫn đến thế.

Hữu tổ chức các cuộc họp báo. Đôi mắt ông lõm sâu vào thịt người ta không thấy; ông vỗ những bàn tay mũm mĩm vào nhau để nhấn mạnh những câu quan trọng. Sau những phút im lặng trầm ngâm, ông cười khẽ, ngắc ngứ: đấy là một quan lại thời tư bản chủ nghĩa.

Và sau một loạt thể hiện vui vẻ tinh ranh ông thông báo tin mới khác thường: ông vừa giao phó cơ quan an ninh Việt Nam cho đốc phủ Tâm, con người trước đây bị cả Sài Gòn tư sản phỉ nhổ là "con hổ Cai Lậy", là tay "đao phủ".

Chính ông Tâm này chỉ trong mấy tuần lễ chiến thắng ở Sài Gòn tương đối dễ dàng. Ông ta diệt hết mọi đường dây của Nguyễn Bình và người Pháp dốc sức trong bao năm không có hiệu quả - và công việc làm rất tốt đến nỗi Việt Minh không bao giờ cắm lại thực sự ở Sài Gòn.

Để làm được như vậy Tâm dùng những biện pháp kinh hoàng khó tả.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Sáu, 2019, 10:09:20 pm

Con Hổ Cai Lậy

Mấy ngày sau tôi đến Sở An ninh trên đường Catinat, trong văn phòng bao la của Tâm. Một con người khô khan và lục cục, khuất phía sau chiếc bàn của người chỉ huy - chiếc ghế không nâng ông lên đủ chiều cao. Ông có vẻ vừa xởi lởi vừa vụng về với đôi kính cổ xưa trên mũi, nhiều nếp nhăn, đôi tay dài bỏ thõng bên một thân hình rất bé! Ông mỉm cười với tôi - nét nhăn mặt phúc hậu của một dân quê thô lỗ.

Thực ra chúng tôi là những quen biết cũ. Tôi biết nụ cười của ông là cả cuộc đời ông - nụ cười vui vẻ, đập nát người ta nhân danh trật tự. Tâm trước hết là một công cụ để chế ngự. Ông đàn áp một cách cha chú, bằng mọi cách, với sức mạnh và mưu kế tệ hại, sự táo tợn chết người và niềm vui. Ông dốc hết sức mình vào công cuộc thanh lọc và rất có ý thức về điều đó.

Vì thế ông trở thành "con hổ Cai Lậy", một thị trấn nhỏ ở đầu vùng Đồng Tháp Mười. Năm 1940 khi chỉ là một đại diện bình thường, ông tiêu diệt ở đây những nhóm khởi nghĩa nông dân đỏ đầu tiên.

Trước kia đã nhiều lần ông kể với tôi về chiến công của mình:

- Tôi chỉ có hai mươi quân tư vệ. Nhiều nghìn dân quê nổi dậy tiến về Cai Lậy với dao quắm và hận thù. Tôi cùng người của tôi đến trước mặt họ; Thấy toán quân họ nổi giận la ó. Tôi bảo quân giải tán, một mình đến nói tử tế với họ, chuyện trò với người này người khác. Rồi tôi đề nghị "Chúng ta cùng chơi cho vui". Tôi rút máy ảnh trong túi ra, chụp mấy kiểu như cùng chơi. Sau đó tôi dễ dàng xác định những kẻ cầm đầu, cho bắt và trừng phạt.

Hình như tự tay Tâm bắn chết những kẻ nổi loạn chính. Loại nhẹ tội hơn ông ta áp dụng lối tra tấn của Pháp thời Trung cổ. Dụng cụ là một khung gỗ đóng phía trên, guồng nước lớn mà tội phạm bị treo cánh tay vào khung gỗ, chân thõng xuống đạp bánh xe quay, để một thời gian lâu giữa nắng. Tâm đến, cho lấy roi quất vào người đang bước trên những gàu nước, vừa hào hiệp giải thích phải sửa lỗi lầm vì lợi ích của anh ta và làm cho anh ta hiểu rõ sai sót của mình.

Không lay chuyển đối với người khác, ông thấy quân thù không thương xót gì ông cũng là lẽ tự nhiên. Ông hài lòng kể lại với tôi mật thám Nhật đã tra tấn ông năm 1945 như thế nào. Tát nước ngột ngạt, đánh gậy vào gan bàn chân. Cảnh sát Nhật buộc ông ta vào quạt gió và dùng thắt lưng đánh làm quay cả người và quạt. Sau mười vòng ông bất tỉnh - chúng dội nước vào mặt rồi lại tiếp tục. Tâm nói:

- Tuy vậy người Nhật có thể có những cử chỉ cao thượng, hiểu được cái lớn lao: Một lần tôi nói với họ: "Các ông tôn thờ tình bạn. Tôi chịu ơn người Pháp, tại sao các ông trừng phạt tôi về lòng trung thành đối với họ?" Sau đó họ không bao giờ tra tấn tôi nữa.

Sau đó Tâm bị Việt Minh cầm tù ở khám lớn Sài Gòn vào những tháng đầu năm 1945 trước khi người Pháp chiếm lại thành phố. Tất cả những tư sản bị bắt đều tuân theo người bảo vệ trừ Tâm tuyên bố: "Tôi nằm trong quyền lực của những kẻ thù tệ hại nhưng không hạ thấp mình." Người ta chặt một ngón tay ông, giết hai đứa con trai. Tâm kể lại chuyền này như một việc bình thường, không liên quan gì đến ông tuy ông rất yêu con mình.

Trong Chính phủ Nam Kỳ, thời kỳ d'Argenlieu rồi Bollaert, Tâm là bộ trưởng. Những quan chức khác thả tù Việt Minh đều có những buổi lễ cảm động. Tâm thì chửi họ và hét lên:

- Tôi biết các anh là đồ rác rưởi, các anh sẽ lại theo cộng sản nhưng tôi chẳng cần để ý. Tôi thả các anh ra chính vì tôi khinh ghét và không sợ các anh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Sáu, 2019, 10:11:10 pm

Ông Tâm mà tôi gặp ở sở An ninh đường Catinat có dáng một viên chức nhỏ, thoải mái và hưởng thụ. Ngay từ những lời đầu tiên tôi cảm thấy đối với ông mọi việc rất đơn giản, biết mình phải làm gì. Tất cả tài năng của ông nằm trong một số ý tưởng sơ sài, rất logic; logic ông đang vận dụng vào Sài Gòn đỏ.

- Tình hình đã rõ ràng. Chống lại tôi có nền an ninh xung kích đỏ với mười bảy khu phố, chi nhánh khắp nơi, đang tích cực hoạt động. Tôi chỉ có văn phòng này, sở An ninh của tôi mục ruỗng và các chỉ điểm im lặng vì sợ. Từ nhiều năm nay người Pháp để nhân viên của họ tự huỷ hoại mình mà không nhận thấy, họ bị phản bội ngay trong sở này.

Tôi đơn độc nhưng chẳng sao. Tôi thấy ngay trong ngôi nhà này khắp nơi đều có người được cài vào. Tôi bèn làm những gì cần thiết đối với cảnh sát và mật thám của tôi - chỉ có thế mới thay đổi hoàn cảnh ở Sài Gòn. Vì khi tôi đã có những công cụ làm việc thực sự với sở An ninh được thanh lọc, những chỉ điểm tin cậy có những "đường dây" chắc chắn, hãy tin vào sự khai thác của tôi. Trong ba tháng tôi tiêu diệt hết Việt Minh ở Sài Gòn. Người Pháp không làm gì được vì bị lừa. Tôi làm dễ thôi vì không còn bị lừa bịp nữa.

Tâm nói với tôi về những phương pháp của ông. Trước hết phải xây dựng một nhóm an ninh chắc chắn trong lòng Sở An ninh rộng lớn đã bị lây nhiễm. Muốn thế ông phải dựa vào những người của Bazin bị ám sát, nhất là vào Mai Hữu Xuân. Không ai có thể làm ông Xuân này run sợ: ông ta có một cái đầu cứng rắn, vừa trơn tru vừa ương ngạnh, không hề thể hiện gì và quá lễ độ. Ông ta thông minh và độc ác, sự độc ác lạnh lùng, vô cảm, có kỹ thuật. Tâm còn nhân đạo bên cạnh Xuân. Mọi người Việt Nam, Việt Minh hay không, đều phát điên nếu rơi vào tay Xuân. Nhưng đấy cũng là một cảnh sát xung kích do Bazin đưa lên từ lớp thấp kém, được Bazin yêu thương đào tạo, cộng thêm những bản năng Châu Á vào "kỹ thuật" Pháp.

Mai Hữu Xuân được giao trách nhiệm xem xét kỹ lưỡng lại mọi nhân viên sở An ninh, nói với Tâm rằng thư ký của ông là một Việt Minh nên những mệnh lệnh bí mật nhất chỉ mấy giờ sau là Ủy ban Nam Bộ đã biết rõ. Tâm gọi người ấy lên - trong những trường hợp ấy ông rất sợ - đứng bám vào anh ta, hét: "Anh là cộng sản, tôi có đủ chứng cứ, thú nhận đi". Anh thư ký nói: "Vâng". Một cuộc khám xét trong căn nhà tranh anh ở phát hiện ra từng tập bản sao mật lệnh của Sở An ninh. Từ nhiều năm nay anh đưa tin hàng ngày cho Nguyễn Bình. Anh bị xử tử sau khi đã nói những gì mình biết.

- Sở An ninh đã được thanh lọc kỹ, Tâm tâm sự với tôi một tuần lễ sau đó. Bây giờ người ta sợ tôi - tôi còn làm họ sợ hơn Việt Minh. Mọi chỉ điểm chuyên nghiệp đã làm việc cho Việt Minh nên tôi chẳng biết điều gì. Nhưng nếu họ cho tôi là kẻ nguy hiểm nhất, rồi tôi sẽ biết tất cả, họ sẽ nói với tôi tất cả. Tôi sẽ "ra tay".

Chẳng bao lâu sau đó người ta thấy nhiều xác chết trên đường phố. Họ bị đâm bằng dao găm và trên lưng có biển đề lý do bị xử. Một cảnh bình thường Việt Minh thanh trừng "phản động" - nhưng câu viết thật không bình thường: "Đây là một nhân viên ám sát của cộng sản, bị xử tử vì có nhiều tội ác". Đây là cái chết của một trong những người tình nguyện của tiểu đoàn 905 bị sở An ninh của Tâm bắt ít lâu trước đó. Tâm bảo tôi:

- Bây giờ tốt hơn rồi. Các chỉ điểm bắt đầu hoạt động trở lại.

Tôi nói với Tâm, ông không đề phòng chu đáo cho mình. Bất cứ kẻ nào qua khỏi cửa cũng có thế bắn hạ ông trên ghế ngồi sau chiếc bàn đầy giấy tờ; Gật gù đầu, ông trả lời nhẹ nhàng với tôi: một khẩu súng ngắn đang chĩa vào ông. Nó đấy, trước mặt tôi, gắn dưới bàn, bao giờ cũng lên đạn sẵn. Tôi chỉ làm một động tác nhỏ là viên đạn xuyên qua ghế ông ngồi. Mọi việc đã được điều chỉnh chính xác.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Sáu, 2019, 10:12:44 pm

Một hôm, Tâm rõ ràng đang vội. Câu chuyện vừa kết thúc, ông đứng dậy, theo thói quen xoa tay:

- Xin ông tha lỗi. Người của tôi đang tham vấn bên cạnh đây. Một Việt Minh vừa bắt được hôm qua, không chịu khai báo gì. Tôi phải đến xem sao.

Tôi thường quay lại chỗ Tâm. Ông vẫn nhã nhặn trò chuyện với tôi. Đôi khi một nhân viên cao cấp sở An ninh làm ngắt quãng rỉ tai Tâm mấy câu tiếng Việt. Nếu là tin xấu, ông gầm lên. Nhưng thường thường Tâm có những cử chỉ có ý nghĩa cụ thể: bỏ tù, đưa thẩm vấn, hành quyết, cả một loại ngôn ngữ riêng.

Và trong tháng bảy, đúng ba tháng sau thắng lợi của Tâm, người đồng chức Việt Minh, người cộng sản tương đương với ông, Lê Văn Linh, trưởng ban an ninh đỏ, cũng như ông là trưởng sở An ninh trắng, bị bắt vào tay ông. Và hệ thống tổ chức của ông ta bị phá vỡ.

Một người đàn ông đến tìm Tâm nói:

- Tôi xin sáu mươi nghìn đồng bạc. Đổi lại, tôi cung cấp cho ông địa chỉ ngôi biệt thự hiện Lê Văn Linh đang ở.

Tâm trả lời:

- Tôi sẽ cho anh vào tù cho đến khi biết anh nói có thật không. Anh đưa ngay địa chỉ đây. Nếu đúng anh sẽ có số tiền, nếu không đúng anh sẽ chết.

Người kia không nao núng:

- Tôi không nói dối đâu. Ngôi biệt thự ở đường Anh em Louis. Nhưng hãy chờ tối mới hành động. Thường Lê Văn Linh đi vắng cả ngày.

Buổi chiều Tâm vay trưởng An ninh Pháp - Perrier, số tiền ấy. Ông không đủ tiền vì theo thủ tục, Thủ tướng vừa là bộ trưởng Nội vụ giữ mọi tiền quỹ bí mật. Perrier rất ngập ngừng, cho rằng quá đắt với một vụ không chắc chắn. Nhưng Tâm nhận trách nhiệm: "Việc nghiêm túc đấy. Tôi cảm thấy và biết rõ điều ấy". Perrier xiêu lòng, đưa số tiền cho ông.

Ngay tối hôm đó biệt thự bị bao vây và tấn công. Hoàn toàn bất ngờ, không chống cự. Lê Văn Linh đang ngủ, bị bắt cùng ba nhân viên ám sát. Chỗ này nguỵ trang rất khéo. Một tủ sách che kín góc làm kho, ở đấy có những súng colt và tiểu liên dùng trong những vụ giết người vừa qua. Một gian phòng khác chứa đầy hồ sơ những người sẽ thanh toán, có chương trình thực hiện từng giờ. Hồ sơ nổi cộm là của chính bản thân Tâm: chuyên gia giỏi nhất, chủ bài ám sát sẽ đến từ Đồng Tháp Mười một ngày gần đây để ra tay. Cảnh sát cũng tìm thấy dưới hầm ngầm một tư sản Trung Hoa bị bắt cóc. Người Việt đòi một triệu đồng bạc tiền chuộc. Người "Nhà trời" chi ngay một trăm nghìn đồng cho những người cảnh sát giải phóng mình, thế là giải quyết được vấn đề tiền thưởng cho kẻ tố cáo.

Ngày hôm sau Mai Hữu Xuân bắt hàng loạt, "thu nhặt" được bốn mươi kẻ giết người. Mười ngày sau, cả ban tài chính bị bắt ở một biệt thự khác, đại lộ Luro. Người chỉ huy - Văn San - một nhân viên ám sát cũ được giao trách nhiệm kiếm tiền bằng mọi cách, thân hình xăm đầy người với dòng chữ đại loai: "Trong cuộc sống tình yêu chẳng là gì cả. Chỉ có đấu tranh mới xứng đáng với một người đàn ông". Lần này nữa một trăm Việt Minh xung kích bị bắt.

Từ đó là làn sóng "mật thám" trong Sài Gòn. Cùng với “nhân viên đặc biệt" là cả một chương trình - khắp nơi tiểu liên và mũ mềm. Nhưng làn triều chỉ điểm còn rộng lớn hơn. Một phần năm dân số "đưa tin" để nhận tiền. Như vậy có đến bốn trăm nghìn thông tin viên đủ mọi lứa tuổi, giới tính và tôn giáo. Sở An ninh của Tâm "nhặt" những nhân viên ám sát mới Ủy ban Nam Bộ tiếp tục cử vào một thời gian, gần như một trò chơi cho đến lúc họ thôi không cử nữa.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Sáu, 2019, 10:14:30 pm

Băng nhóm của cảnh sát

Việt Minh thất bại trong cuộc chiến ở Sài Gòn. Ủy ban Nam Bộ ở đâu đó trong Đồng Tháp Mười tự kiểm điểm nhận thấy có sai lầm. Họ lên án việc khủng bố đơn thuần, tuyệt đối, là một giải pháp "không đúng" và lạc hướng. Vì không thể chiếm một thành phố hơn hai triệu dân chỉ bằng những vụ mưu sát. Phải để cho Tâm và cảnh sát hưởng vinh quang chiến thắng và thật bí mật "khai thác lại lợi ích" của một Sài Gòn kinh tế thịnh vượng. Vậy là không còn giết người, lựu đạn. Quan trọng là xây dựng lại các đường dây kinh tế đỏ cùng những hệ thống thông tin và trinh thám, quân sự. Người ta gửi những cán bộ tốt nhất sang Trung Quốc của Mao Trạch Đông vào những trường chuyên đào tạo các nhà "khoa học".

Việt Minh không biến mất khỏi Sài Gòn nhưng họ bắt đầu "lặn". Bài học được vận dụng đến mức, ngay trong các thành phố dễ hoạt động, ở Hà Nội, Huế chẳng hạn, họ cùng nằm im. Từ nay trong tất cả các thị trấn, thị tứ phẳng lặng cho đến cuối cuộc chiến tranh Đông Dương - người Việt tiến hành một công việc kín đáo, thật có ích mà không ra mặt.

Tuy vậy Sài Gòn đỏ bao la trở thành một Sài Gòn cảnh sát nhanh chóng kỳ lạ (trừ Chợ Lớn vẫn thuộc về Bảy Viễn và Bình Xuyên). Điều ấy không thể có nếu trong lòng nhân dân thành phố là Việt Minh. Dân chúng không có những tình cảm sâu sắc, họ chỉ tuân theo sức mạnh. Tâm đã "đánh gãy" tổ chức Việt Minh lãnh đạo và lẽ tự nhiên dân chúng theo băng nhóm chiến thắng mới - băng nhóm cảnh sát.

Trong lúc người Việt từ bỏ "chinh phục" Sài Gòn, một nhà nước mới được hình thành trong nhà nước chung - cảnh sát. Ngay Tâm cũng bị qua mặt. Đúng ra là ông ta đi theo một con đường khác, con đường bên ngoài có vẻ to lớn, chính thức, được thừa nhận, ông trở thành bộ trưởng Bộ Nội vụ, thủ hiến Bắc Kỳ, thủ tướng Chính phủ. Nhưng ở những vị trí chính trị cao ấy, ông không còn đáng giá như trước đây chỉ là một nhân viên "mật thám" - Tâm biến mất trong những vinh dự, Sở Cảnh sát Việt Nam chuyển thành một tổ chức thống trị mạnh, trở thành băng nhóm Mai Hữu Xuân.

Một trong những người chủ của Sài Gòn là Bảy Viễn. Từ nay có một người khác nữa là Mai Hữu Xuân, điên cuồng kiêu ngạo, đàn bà và tiền bạc nhưng vẫn luôn lạnh lùng, can đảm. Việt Minh đã không hoạt động gì trong thành phố, từ nay sẽ là cuộc chiến giữa các băng nhóm, giữa kẻ vô lại cũ bây giờ là người thân tín của Bảo Đại và nhân vật cũ được Bazin tạo dựng bây giờ là vua các nhân viên mật thám. Ngấm ngầm trong nhiều năm cuộc chiến sau này tắm trong máu đến khi Diệm lên nắm quyền.

Nhưng trong ba, bốn năm, Sài Gòn có bộ mặt hòa bình. Bảy Viễn trị vì trong Đại thế giới. Mai Hữu Xuân ngồi yên ở Sở An ninh, Việt Minh tự kiểm điểm trong vùng Đồng Tháp Mười khôi phục lại sự cân bằng của đồng bạc, thuận lợi cho "việc mua bán" và mọi nguồn thịnh vượng. Vì vậy có sự thỏa mãn chung trong lòng nhân dân thành thị.

Nhìn bề ngoài là sự hài hòa. Hầu như khắp nơi đều có hệ thống cùng thống trị, cùng tồn tại - một tổ chức liên kết ba bên. Trong mỗi xóm nhà tranh trên mỗi đường phố nhỏ, người ta thấy mấy tên chỉ điểm của Mai Hữu Xuân, vài chỉ điểm Bình Xuyên, ít nhất một chỉ điểm Việt Minh, chưa kể những người làm cho Pháp, dĩ nhiên đôi khi người ta cũng thấy những xác chết bị đâm chém, nhất là ở những khu phố xa. Nhưng điều này trở thành hiếm hơn. Nói chung những "kẻ bình thường" làm nghề báo tin thỏa thuận với nhau, thậm chí bàn bạc để làm vừa lòng cao nhất những ông chủ của mình. Việc bán "nguồn tin" trở thành một kinh doanh béo bở và tổ chức tốt - thường người Pháp mua lại khá đắt những cái mà các "tổ chức" khác không cần.

Riêng tổ chức cảnh sát Pháp dè dặt: họ tự ái vì Tâm và những người cuồng tín của ông ta thành công trong việc họ đã thất bại thảm hại. Mật thám Pháp giải thích nhiều với tôi ngành cảnh sát là một nghệ thuật tinh tế và phân tích, mỗi "vụ việc" phải gỡ ra rất thận trọng như gỡ một tổ kén, tiến hành tỉ mỉ và khôn khéo để đạt kết quả tối đa.

- Người của Tâm, họ nói với tôi thế, không phải những cảnh sát thực sự. Chúng không biết "khai thác" những gì một người có thể khai báo. Cách duy nhất của họ là bắt hàng loạt và đánh cho đến chết. Chúng làm hỏng hết và không nhân đạo.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Sáu, 2019, 10:15:45 pm

Thực ra Tâm không giết hết mọi người, thậm chí không biết làm sao với tù nhân, quá nhiều và không thể bắn hạ tất cả khi họ vượt ngục. Ông không muốn giao cho luật pháp Việt Nam. Các quan tòa sợ hơn những người Sài Gòn khác tiếp tục thả ra hàng loạt. Một chánh án già bị Tâm khiển trách nặng, trả lời: "Tôi có chín đứa con. Nếu tôi xử nặng, Việt Minh giết tôi thì ai nuôi chúng?"

Tâm bèn chuyển những "tên khủng bố của ông cho toà án quân sự Pháp, một trong những quan tòa quân đội nói với tôi về những "kẻ giết người" Việt Minh trong đội an ninh xung kích họ đang cầm tù:

- Tôi không gặp một ai chối bỏ Việt Minh. Những người họ đưa đến cho tôi đều xanh xao, sưng sỉa, mang đủ di chứng của nhà tù. Trước mặt tôi họ có thái độ như đã ghi sẵn phải làm. Họ chối như đã được chỉ thị, không phải cho riêng mình nhưng là một sự chối cãi của sự trung thành vô vọng. Họ cũng chẳng cần tự bảo vệ như không còn quan tâm đến số phận nữa. Họ đứng đấy không cá tính, thờ ơ, đôi khi lẩm bấm những mẫu câu: họ không nhớ nữa, không làm như điều tôi nói. Một số thậm chí không nghe lời tôi hỏi. Một lúc duy nhất khi kết thúc cuộc phỏng vấn, họ tĩnh trí lại và hỏi tôi "thế là 76 hay 83". Đấy là hai điều khoản trong luật quân sự người ta vận dụng đối với họ, có một khác biệt chủ yếu - 76 là xử tử và 83 là đi tù, nghĩa là còn sống.

Khá lạ lùng là những chỉ huy cao cấp nói nhiều. Không hề để hối hận, xin xỏ mà chỉ để "giải thích", tự hào về sự giải thích. Họ như có sự vui thích cuối cùng nói lên mọi tên họ, chi tiết, bí mật. Chắc chắn những điều đó không còn quan trọng, đã thuộc về lịch sử vì toàn bộ tổ chức đã thay đổi. Trong mọi trường hợp, những "lời thú nhận ấy" chẳng ích lợi gì cho chúng tôi cả.

Những Việt Minh lớn ấy, những cán bộ chính trị đều có học thức. Họ nói được tiếng Pháp nhưng làm như không biết. Một lần, trong lúc tôi ra hiệu cho phiên dịch hỏi, một ám sát viên khát máu đứng dậy tuyên bố: "Tôi là thành viên của Liên hiệp Pháp. Tôi đề nghị được nghe bằng tiếng Pháp". Một lần khác tôi tuyên bố án tử hình, người bị kết tội nhớ lại tiếng Pháp kêu lên: "Dù sao cũng muôn năm nước Pháp".

Cái chết của những Việt Minh thật đáng khâm phục. Hơn cả lòng can đảm. Những tử tù bị nhốt ở đảo Côn Lôn. Một lần tôi phải tới đó. Hai mươi người chờ hành hình. Họ bị nhốt trong những hầm đặc biệt. Khi tôi tới khu biệt giam ấy, họ hát đồng ca những bài "yêu nước", họ biết một tiểu đội lê dương đã đi cùng tôi để xử bắn họ.

Tôi bảo họ im lặng, cho biết mười một đơn chống án được chấp nhận và mười một đơn bị từ chối. Vậy là mười một người bị xử tử ngay. Tôi tiến hành thủ tục thường lệ, phân phối thuốc lá, cho phép viết thư. Suốt thời gian ấy những người sắp chết cười, không phải để chế nhạo tôi mà như vui đùa. Rồi đến những phút cuối cùng họ cùng nhau hát.

Viên quản chỉ huy quân lê dương điều khiển tiểu đội hành hình đến than phiền với tôi, thực sự bất bình: "Tôi không hiểu tại sao người ta làm phiền một anh lính già như tôi - hai mươi năm tại ngũ và có huy chương, đi bắn vài anh Việt Minh này. Bất cứ ai cũng có thể làm việc ấy. Khi người ta cử tôi đi, tôi nghĩ ít nhất cũng để thanh toán hai, ba trăm.

Một trong những người sắp tử hình là người Thiên Chúa giáo, đề nghị cho rửa tội. Một linh mục làm lễ cho anh ở phòng bên cạnh. Khi trở lại các bạn chế nhạo anh. Anh cũng dũng cảm như những Việt Minh khác nhưng không hát trong lúc các bạn hát đến những giây chót. Không một câu nguyền rủa, không một lời, chỉ những bài hát Việt Minh tiếp tục dưới làn đạn.

Những người ấy bị hành hình ba người một. Về nguyên tắc họ phải bịt mắt, quỳ xuống. Họ đề nghị tôi cho họ đứng và không bịt mắt. Tôi cho phép. Mọi việc diễn ra nhanh chóng. Họ đổ xuống trong lúc hát. Và tôi tự nhủ không ân hận gì vì đấy là những kẻ giết người tội rất nặng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Sáu, 2019, 09:08:26 pm

Sự thất bại đỏ ở Nam Kỳ

Mùa xuân năm 1950, sau cuộc chiến ở Sài Gòn là một thời kỳ duy nhất trong cuộc chiến tranh Đông Dương, thời kỳ người ta nghĩ chiến thắng đã trong tầm tay. Đấy là giai đoạn ngắn người Pháp tưởng họ sẽ thắng trong cuộc chạy đua tốc độ: chiếm hoàn toàn hai châu thổ Nam Kỳ và Bắc Kỳ và quân đội ông Giáp vẫn chưa sẵn sàng tuy được Mao Trạch Đông giúp đỡ nhiều. Ở Sài Gòn và Hà Nội người ta tin chắc các toán quân Việt Minh không thể trụ vững lâu. Họ sẽ tan rã vì những gì đảm bảo sự tồn tại của họ - người, lúa gạo, tiền của những châu thổ - thoát khỏi tay họ, chuyển sang sự kiểm soát dứt khoát của người Pháp và sức mạnh của nước Trung Hoa nhân dân cũng chẳng làm gì được.

Thời kỳ những ảo tưởng! Nhưng dù sao cũng đúng là hình ảnh xứ Đông Dương lúc ấy là sự thất bại đỏ vì hai viên tướng Pháp, Chanson ở miền Nam và Alessandri ở miền Bắc "bình định" thực sự. Ở Nam Kỳ Chanson đập tan có phương pháp Nguyễn Bình, kẻ thua trận ở Sài Gòn, trong đợt bộc phát dữ dội cuối cùng, tiến hành cuộc chiến trên đồng ruộng. Ở Bắc Kỳ Alessandri bắt đầu chiếm hầu hết vùng châu thổ không gặp chống cự lớn. Ông tiến hành một loạt hành quân có phương pháp, kín đáo, bố trí tốt, ông lấy cả tòa giám mục phát Diệm và Bùi Chu cùng hàng triệu giáo dân rất xa, gần như ở Annam. Kết quả những cuộc "chinh phục" ấy đúng là "bóp ngạt" Việt Minh như người Pháp tuyên bố. Để tin chắc chỉ cần nghe đài của Hồ Chí Minh đưa ra khẩu hiệu "một hạt gạo là một giọt máu." Các loa phóng thanh luôn kêu gọi nhân dân hy sinh, chịu thiếu thốn, hết sức tiết kiệm. Đổi lại những lời kêu gọi ấy là lời hứa chiến thắng, là cuộc tổng tấn công của quân đội sẽ quét sạch người Pháp, đội quân viễn chinh và "chế độ thực dân".

Nhưng trong những ngày ấy, ai tin vào điều ấy? Chỉ là những câu nói. Vì quần chúng chỉ thấy những chiến thắng của quân Pháp, thực tế, không chối cãi được và ở ngay cửa ngõ Sài Gòn và Hà Nội.

Hãy bắt đầu từ Nam Kỳ. Nguyễn Bình ngày càng bị dồn đến đường cùng từ khi cuộc chiến của ông ở Sài Gòn chuyển hướng xấu, chơi đòn liều lĩnh: ông tấn công quân đội Pháp ngay tại đồng bằng, dốc toàn lực lượng tổng tấn công. Kế hoạch của ông nằm trong sự bất ngờ, xung kích khắp nơi, là nỗi sợ hãi của binh lính, của các phân đội, tất cả các đơn vị phân tán vì nhiệm vụ bình định trước cơn thác đổ đột nhiên, không tin được của người Việt. Bộ Chỉ huy Pháp tưởng rằng, và Nguyễn Bình biết điều ấy, quân đội Kháng chiến đã kiệt sức sau bao nhiêu năm chiến đấu. Thực tế họ không bao giờ mạnh như thế, đông, trang bị ổn định đến vậy. Kiên trì quyết tâm kỳ lạ, Nguyễn Bình bí mật phát triển số lượng các tiểu đoàn các trung đoàn tuy đã thất thoát. Ông tìm cách trang bị vũ khí tốt nhất cho quân đội. Và tất cả những hiện tượng nản lòng, phân tán, những đối chọi giữa những người quốc gia và cộng sản trong lòng Việt Minh, ông lại một lần nữa quét đi bằng những câu nói thần kỳ: "Chúng ta hãy đập nát vĩnh viễn người Pháp. Sau đó chúng ta thỏa thuận với nhau với tư cách những người tự do".

Trong nhiều tuần lễ, Nguyễn Bình tập hợp tất cả các đơn vị chính quy, có những hoạt động phức tạp làm người Pháp không nghi ngờ về việc họ tập trung quân. Và đột nhiên, nhiều nghìn người Việt bận quần áo đen trang bị tốt có kỷ luật và cuồng tín ào lên. Ở các tỉnh họ xuất hiện từ các rừng dừa, rừng đước lao vào các đồn bốt và thị trấn của người Pháp đang thiu ngủ trong nóng nực đầu vụ gió mùa. Vô cùng mạo hiểm khi bỏ chiến thuật du kích để đánh dàn trận. Nguyễn Bình thực hiện như vậy, đánh luôn ba trận cùng một lúc. Ông tấn công một tuyến rồi tuyến thứ hai quan trọng hơn, cuối cùng tuyến thứ ba hoàn toàn chủ chốt. Đây là chiến lược cao, một lối tăng cường khôn ngoan về những trận đánh mỗi lúc càng mạnh, càng bất ngờ, vào những chỗ khác nhau, nhịp điệu càng gấp gáp làm quân Pháp mất phương hướng, hoang mang, bị dìm xuống trước khi hiểu được điều gì xảy ra. Sau đợt chọc thủng thị xã Trà Vinh, sau một cuộc tấn công thị xã Sóc Trăng đông đúc là cuộc tấn công lớn vào Cần Thơ - "hòn ngọc" của sông Mékong, thủ đô lúa gạo, thành trì của miền Tây Nam Kỳ. Cần Thơ bị chiếm, Nguyễn Bình làm chủ được hầu hết xứ Nam Kỳ và của cải của nó.

Một cảnh hỗn loạn ghê gớm. Trong lúc quân chính quy lao vào mồi, cả khối dân quê từ đồng ruộng, và trong đêm ra cắt đứt đường 16, con đường duy nhất lực lượng Pháp có thể đến bổ sung và tiếp viện cho quân đội bị vây hãm ở vùng Mékong và Bassac.

Nguyễn Bình dốc ra tất cả. Một sự cá cược khổng lồ: Toàn bộ công trình, thậm chí cả cuộc đời của ông. Nếu thắng, đấy là chiến công tuyệt vời mà ông có thể hy vọng mọi thứ. Nếu thất bại, ông mất tất cả vì chẳng chuẩn bị gì cho mình, ông sẽ không có một dự trữ gì. Và rất có thể Tổng bộ và Hồ Chí Minh sẽ phê phán ông kịch liệt - sẽ bị "toà án nhân dân" xét xử.

Và Nguyễn Bình thất bại! Một lần nữa chứng tỏ nếu một cuộc kháng chiến tự bộc lộ - tấn công như một đội quân dàn trận với một đội quân thực sự - là tự hãm hại mình, sẽ là sự tan vỡ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Sáu, 2019, 09:09:35 pm

Dĩ nhiên, cuộc chiến bước đầu không phân định rõ. Ngày đầu tiên vô số đồn bốt Pháp bị bao vây khắp nơi, hàng chục tháp canh bị san phẳng và cầu, đường bị phá hỏng không kể xiết. Quân chính quy của Nguyễn Bình đánh vào đến ngoại ô các thành phố. Họ ngụy trang, tự bảo vệ một cách khác thường nhất, Ví dụ người ta chỉ thấy những khối rơm lăn tới nhưng bên trong là quân lính. Họ bố trí cờ đỏ đầy các ngôi chùa lôi kéo máy bay bắn vào đấy thay vì xả súng trên những đám ruộng xung quanh quân lính đang ẩn nấp chờ đợt tấn công mới.

Nhưng những chiến thuật ấy cũng chẳng giải quyết được gì. Sức mạnh xung kích của người ở các toán quân đỏ bị sức mạnh vũ khí của Đội viễn chinh đè bẹp. Máy bay tiêm kích Pháp xả súng vào những chỗ tập trung, lính dù nhảy xuống những đồn bốt bị đe dọa nhất, xe tăng bò theo mương lạch, ruộng đồng mỗi giờ ba mươi cây số, từ bùn và lau sậy xuất hiện đánh vào phía sau Việt Minh.

Lần đầu tiên trong cuộc chiến tranh Đông Dương một vầng hào quang sáng lên trên cảnh chết chóc, một chiến trường thực sự có hàng trăm xác chết nằm ngổn ngang bên cạnh vũ khí.

Cuộc giáp lá cà kéo dài suốt đêm. Một đại đội Pháp bị bao vây, lùi vào một làng, ẩn sau những bao lúa gạo, bắn vừa hết đạn thì xuất hiện những chiếc tăng của trung đoàn 1 kỵ binh nước ngoài. Lính lê dương trên xe phía sau lưng người Việt, dùng đại liên quét sạch từng hàng dài.

Và còn bao nhiêu cảnh giết chóc nữa! Trong mười ngày chiến đấu, quân chính quy sống sót bỗng từ bỏ "chiến tranh theo lối Châu Âu". Giấu vũ khí vào bùn, bỏ quân phục cải trang thành dân quê, từng tốp nhỏ chạy về căn cứ Đồng Tháp Mười; ở đây họ lao vào tấn công điên cuồng quân đội Pháp đuổi theo họ. Dù thế nào, biết bao nhiêu người không trở về vì lòng kiêu ngạo của Nguyễn Bình! Quân đội của ông hoàn toàn bị bật gốc rễ.

Thực ra cuộc kháng chiến của Nam Kỳ không bao giờ khôi phục lại được sau trận thất bại ấy. Không còn là mối nguy về quân sự đối với người Pháp nữa. Cả hệ thống đồ sộ của Nguyễn Bình rơi thành từng mảng. Ông phải giải thể cả sáu trung đoàn đã xây dựng với bao quyết liệt và vui mừng - không khi nào đơn vị Việt Minh ở miền Nam vượt quá một tiểu đoàn nữa. Ông phải chia nhỏ ban tổng tham mưu của ông bố trí rất tư thế gần Sài Gòn thời kỳ còn rất mạnh. Cùng ban chỉ huy, đội bảo vệ Ủy ban Nam Bộ, ông phải mỗi lúc càng lùi xa, tránh sự "càn quét" của Pháp, cả toán người bị săn đuổi, càng đi sâu vào những vùng hẻo lánh, khó thâm nhập nhất của Đồng Tháp Mười, gần biên giới Căm-bôt. Rồi vùng Đồng Tháp Mười cũng không chắc chắn nữa. Cuối cùng ông phải ẩn náu ở bìa rừng, chỗ bắt đầu miền rừng núi bao la của Đông Dương. Cũng nhiều lúc người ta phát hiện thấy ông ở vùng sú vẹt mũi Cà Mau.

Cuối cùng cuộc kháng chiến quân sự chỉ còn lại một số dấu vết ở Nam Kỳ. Và trước sự huỷ hoại đó nỗi căm uất của Nguyễn Bình cũng bất lực. Sự nổi giận điên cuồng đưa ông tới chỗ càng thất bại. Nguyễn Bình thua trận không chỉ giận mình mà còn phải chịu đựng sự ngờ vực của những người cộng sản, sự bực tức của những người kháng chiến. Cuối cùng ông cảm thấy bị khống chế, giữa đàn ông với nhau, bởi tướng Chanson, người kế tục tướng Boyer de Latour ở miền Nam.

Cuối năm 1950 Nguyễn Bình vẫn chính thức chỉ huy ở Nam Kỳ nhưng ông chỉ còn là một người bệnh, gầy gò, một bộ xương bị sốt rét hành hạ. Giữa lúc khốn đốn đó, Lê Duẩn và nhóm uỷ viên chính trị từ Bắc Kỳ vào. Nhiệm vụ của họ là củng cố lại Ủy ban Nam Bộ bị kết tội "lạc hướng", thanh lọc và nắm lấy việc chỉ đạo. Lê Duẩn đưa cho Nguyễn Bình một bức thư của ông Giáp triệu tập ông ra miền Bắc: "Đồng chí thân mến - ông ấy viết - đồng chí có một đoàn tùy tùng ba mươi người. Tôi uỷ nhiệm đồng chí một công việc sống còn cho tất cả, tìm một trục đường mới thông ra miền Bắc qua các tỉnh Kông-pông-chàm, Kratié và Strung Streng của Căm-bốt".

Qua nhiều ngày vượt rừng, đến Srépok toán người qua đêm trong những căn nhà sàn khổ sở của xóm Romphé. Năm giờ sáng, một bàn tay đánh thức Nguyễn Bình dậy đi tiếp. Rồi người ta bảo kiên nhẫn chờ một lúc. Người thiểu số nhận cung cấp gạo nhưng phải đi lấy hơi chậm: Thắp một ngọn đèn ông viết những dòng nhật ký cuối cùng của đời mình. Tám giờ ông xuống thang, ra bìa rừng gần làng với đồng đội. Mọi người lo ngại mơ hồ. Đã chờ quá lâu, gần trưa rồi nhưng với mối nguy hiểm chưa chắc chắn, không thể bỏ trốn, họ lao vào rừng với bụng rỗng.

Nhưng đây là một sự phản bội. Người thiểu số đã cử người đến báo với viên quản cùng toán trinh sát Căm-bôt ở cách đấy chừng năm mười cây số. Việc hứa cung cấp gạo chỉ là mưu mẹo giữ chân người Việt. Trong lúc họ mất thì giờ đắm mình ở bìa rừng, quân lính Căm-bôt tắt đường, lội qua sông Srépok đi gấp tới. Một giờ chiều họ đến trước Romphé và đột ngột xuất hiện. Sự việc chỉ xảy ra trong mấy phút. Người Việt quá kiệt sức không quan tâm bố phòng và tự bảo vệ. Quân lính Cam-bốt đến gần cạnh cũng chẳng nghe thấy gì. Toán người đờ đẫn cũng cố vùng dậy chạy vào rừng. Nguyễn Bình suy nhược nặng hiểu ra thì đã quá muộn. Súng nổ, ông bị trúng đạn và hầu như bất động.

Lời ghi cuối cùng trong cuốn nhật ký đề ngày 21 tháng chín năm 1951, Nguyễn Bình viết: "Cả đêm tôi không ngủ được. Thức dậy tôi mệt mỏi rã rời. Chúng tôi chỉ còn gạo đủ một bữa ăn. Tôi ở trong số những người hôm nay không ăn, nhường phần cho những người bệnh khác. Tuy vậy chúng tôi chuẩn bị lên đường".

Nguyễn Bình chết. Một sự tình cờ đầy ý nghĩa là mấy tuần lễ trước đó, một gương mặt lớn khác của Nam Kỳ, người đã chiến thắng ông - tướng Chanson bị giết. Ông này chết vì một cuộc mưu sát bình thường, bằng một quả lựu đạn khi đến kiểm tra một buổi lễ chính thức ở tỉnh Sa Đéc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Sáu, 2019, 09:11:57 pm

Kẻ tiên tri

Năm 1950 người Việt bị dồn đến đường cùng còn hơn thất bại của Nguyễn Bình, vì mất vùng châu thổ Bắc Kỳ. Một viên tướng Alessandri nào đó chiếm lấy như lén lút, không gặp chống cự mà người ta cũng chẳng nói đến.

Con người ấy, nhìn có vẻ khiêm tốn và đơn giản nhưng rất tự cao, đến mức nghĩ: "Tôi có lý. Chỉ mình tôi đúng. Chỉ mình tôi hiểu hết và có thể làm tất cả". Và cứ như thế, từ những kế hoạch hợp lý ông đi đến những dự án khác thường, sống trong ý nghĩ cố định, trong ám ảnh, tiên tri, giận dữ lạnh lùng và truy hại phức tạp khi người ta phản đối ông - không bao giờ từ bỏ điều gì, bí mật và khôn khéo miệt mài bằng mọi cách cho đến lúc thất bại và trở thành kẻ chịu tội cho tất cả. Alessandri khốn khổ mỗi lần xứng đáng lên tới mức cao thì lập tức lại đổ nhào xuống, trở thành nạn nhân, một con người mệt mỏi, bị khinh thường.

Thoạt nhìn ông là một viên tướng tốt - một loại kiểu mẫu - qua bề ngoài thô lỗ, lối quân sự đột ngột, là việc phải có mưu mẹo, kiên quyết, và tình cảm giản dị vì ông mong là người trung thực, yêu nước và dũng cảm. Với vẻ vờ tự ti vì thân hình không cao lớn và thiếu quan hệ, ông nghĩ mình là người tiên tri, chắc chắn là người sẽ cứu Đông Dương.

Và ông có cảm giác những ngôi sao của mình đạt được thật vất vả, quá xứng đáng. Ông là con trai một nhà binh sành sỏi, người đảo Corse, cựu hạ sĩ quan, bố của mười đứa con, bộ râu ngắn theo kiểu Napoléon III, một người muốn con mình phải là sĩ quan để trả thù cho nước Pháp bại trận năm 1870 và lấy lại vùng Alsace-Lorraine lúc ấy phải nhường cho Đức. Chàng thanh niên Maurice tràn đầy hy vọng: tốt nghiệp trường võ bị Saint-Cyr, sáu lần tuyên dương, được thưởng huân chương, và bị thương trong chiến tranh 1914-1918. Sau đó là các chiến dịch sau chiến tranh ở Maroc, Taza, Tây Phi, thậm chí trở thành giáo viên ở trường chiến tranh năm 1935-1938. Lúc này cách phán đoán của anh đưa anh đến sai lầm đầu tiên. Một hôm anh nói với học sinh về cuộc chiến tranh thế giới sắp xảy ra: "Chúng ta từ lớp học này ra đi để đánh nhau, cầm con suốt chống một kẻ địch cầm gậy". Anh bị cử đi thật xa, sang Đông Dương.

Ở Alessandri, vừa có lòng tin khác thường vào bản thân và sự ngờ vực bệnh hoạn vào vũ trụ còn lại. Điều này do lịch sử kỳ lạ của ông. Đã có biết bao nhiêu vinh quang và nhục nhã!

Chiến công lớn của ông, điều làm ông rất tin chắc, là "đoàn quân Alessandri", vào cuối thời thử nghiệm của Decoux, khi người ta cố giữ một Đông Dương thuộc Pháp dưới sự chiếm đóng của Nhật. Sau này ông kể lại với tôi:

- Tôi chỉ huy lữ đoàn Sông Hồng ở Bắc Kỳ. Đầu năm 1945 tôi đã biết quân Nhật sẽ tấn công chúng tôi, nhưng Ban chỉ huy còn chưa thực sự tin. Vả lại nếu trường hợp "sự kiện" xảy ra, mệnh lệnh là chiến đấu tại chỗ. Tôi quyết định đưa người của tôi xuyên rừng qua Trung Hoa. Thực tế ngày mồng 2 tháng ba tất cả những đồn trú khác bị tấn công như chuột, tàn sát hoặc cầm tù. Khi các trung đoàn Nhật tiến tới gần căn cứ, tôi đã ra đi với hàng nghìn người của tôi rồi. Tất cả đã được chuẩn bị trước cẩn thận. Tôi đã cho phá huỷ mọi khí cụ nặng vì muốn quân lính của tôi có thể vừa đi vừa chiến đấu không ngừng. Sáng ra những gì trước đây là trại lính chỉ còn đổ nát; chúng tôi hành quân trong trật tự và im lặng hoàn hảo.

Bao nhiêu gian truân! Ngay từ đầu suýt bị tiêu diệt. Chúng tôi đi vào một dải đất giữa sông Đà và sông Hồng, xung quanh là nước. Cơ may cuối cùng là con đò Trung Hà cách đấy năm mươi cây số, không biết đã vào tay quân Nhật chưa? Đoàn quân bao la tiến về phía ấy, lặng lẽ, với quyết định vô vọng. Vùng này còn tự do nhưng con sông Đà thật đáng sợ, rộng ba trăm mét, sóng dồn lên những ghềnh đá nhọn, nước chảy xiết như điên! Không bơi qua được. Chỉ có hai con đò. Một đò bị chìm ngay. Quân lính thay nhau chèo con đò kia. Phải thật nhanh: quân Nhật đang tới gần. Và người ta biết chúng không kiêng nể gì ai. Những gì bắt được qua đài là những lời kêu gọi vô vọng của các đơn vị Pháp bị tàn sát trong các trại lính, các thành phố.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Sáu, 2019, 09:13:06 pm

Khi đã qua sông, trước mắt chúng tôi là rừng rậm vô tận. Chúng tôi đi từ 17 tháng ba đến mồng 2 tháng năm năm 1945, vượt trước được năm mươi cây số, nhưng quân Nhật đuổi theo không nghỉ, đuổi kịp dần. Phải chiến đấu, vừa "đánh vừa rút lui" trên một nghìn cây số. Không được để bị chia cắt, bao quanh, o ép bởi quân địch xuất hiện khắp nơi, hai bên sườn cũng như phía sau. Tôi tổ chức lực lượng thành hai toán tiếp sức cho nhau: toán này tiến lên thì toán sau chặn hậu. Tôi cũng bảo vệ cạnh sườn. Tất cả những động tác ấy phải tính toán, tuyệt đối đồng bộ để không có chỗ hở quân Nhật có thể len vào. Nhưng việc đó đòi hỏi sĩ quan và binh lính phải có kỷ luật cao trong tình trạng "suy sụp" vì kiệt sức.

Tôi còn tự hỏi làm sao người của tôi có sức mạnh chiến đấu, vươn tới cả ngày đêm không nghỉ vừa thực hiện những động tác như của đồng hồ tôi chỉ thị cho họ. Mọi căn bệnh nhiệt đới huỷ hoại họ - sốt rét, bệnh gan, kiết lỵ. Không có bộ phận y tế phục vụ, chỉ có mấy bác sĩ, không có thuốc. Gặp gì ăn nấy, gạo nếp, thịt trâu, xác súc vật. Nhiều khi mệt mỏi quá hoặc vì bệnh tật, người ta lăn ra không đi được, phải dìu họ, mang họ đi và cuối cùng, đành bỏ rơi họ.

Chung cuộc thật ghê gớm. Phải chống cự hai trận đánh ở Phông-sa-lỳ và Long Tu. Quân Nhật quyết liệt gấp đôi để nắm được con mồi đang thoát thân. Người ta chiến đấu với những viên đạn cuối cùng, hầu như không còn điện đài - khí cụ cũng cạn kiệt. Cuối cùng sau năm mươi ba ngày chúng tôi sang đến Trung Quốc và cuộc đuổi theo cũng dừng lại. Tôi thiệt hại mất nửa quân số; những ai sống sót chỉ là những bộ xương và quần áo rách rưới. Lần đầu khi tôi nhìn vào gương soi, tôi không nhận ra mình; tôi còn chưa tới năm mươi kilô, là bóng ma của mình.

Chúng tôi đến Szemao, một thị trấn heo hút, xa xôi, không có gì. Phó thị trưởng đến gặp tôi bảo: "Chúng tôi sẽ giải giáp các ông". Tôi trả lời: "Các ông thử xem." Nhưng khi đi qua đất Thái tôi đã lấy những ki-lô thuốc phiện và những đồng bạc trong kho. Đấy là những lập luận mạnh, và người ta để chúng tôi tiếp tục đi đến Côn Minh, chỗ đóng quân của các ban tham mưu của người Mỹ, Wedemeyeret và người Trung Hoa Ho Hin Shin. Chúng tôi còn đi mấy trăm cây số nữa.

Cứ thế tôi cùng đồng đội đến thành phố đông đúc, các đội quân đàng hoàng với những người lính Mỹ có cuộc sống thoải mái. Việc tiếp đón lạnh nhạt. Người ta uỷ thác chúng tôi cho ban hậu cần Trung Hoa sẵn sàng để chúng tôi chết đói. Nhưng may thay Trung Hoa vẫn là Trung Hoa. Với những đồng bạc, tôi sớm mua được các viên chức Trung Hoa, kiếm được thực phẩm ngon của Mỹ, thuốc bệnh Mỹ, đại liên Mỹ. Không muốn mặc quân phục Mỹ, tôi cho mua vải kaki, thuê thợ may cắt những bộ quân phục Pháp. Sau mấy tuần lễ, đoàn quân của tôi đã lấy lại phong thái.

Trong mấy tháng, Alessandri đầy vinh quang. Sau khi Nhật đầu hàng, tất cả những người của Decoux bị trừng phạt, phán xét, kết tội hoặc thất sủng, bị lên án hợp tác với Nhật, viên tướng đã rất trung thành với đô đốc hải quân bị bêu riếu, nhưng con người Corse không chối bỏ gì về quá khứ của mình, được đối xử là một nhân vật mà de Gaulle uỷ nhiệm xây dựng lại một Đông Dương mới, lớn hơn và đẹp hơn. Ông được nhìn nhận là chuyên gia về Châu Á, được phong chức tước và giao nhiều nhiệm vụ. Khi cùng đoàn quân đến Côn Minh, một bức điện đang chờ ông, từ thiếu tướng thăng lên trung tướng; người ta lại cử ông làm tổng tư lệnh các đội quân Pháp ở Trung Hoa, đại diện nước Pháp tại miền Bắc Việt Nam, tạm quyền Toàn quyền Đông Dương, trưởng phái đoàn Pháp ở Hội nghị Đà Lạt lần thứ hai. Đối với ông đây là "vận hội lớn", được đối xử ngang với mọi "ông lớn" ở Châu Á, với mọi "ông lớn" trên thế giới. Và đây là lần thứ nhất ông nghĩ đó là do tiền định.

Nhưng chỉ để rồi lại rơi xuống thấp, rất thấp. Một hôm ông nhận thấy người ta không cần ông ở Đông Dương nữa, ông như một quả chanh đã kiệt. Ông trở về Pháp với vài ảo tưởng tự hào cuối cùng, đến gặp Bidault để nói "sự thật", phát biểu ý kiến của "con người trung thực" biết rõ vấn đề. Bidault chỉ trả lời: "Tôi cấm ông nói với tôi theo cách ấy".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Sáu, 2019, 09:14:09 pm

Alessandri khốn khổ! Ở Pháp ông là con số không - chẳng có người bảo vệ, chẳng đảng phái chính trị, không có trọng lượng. Thậm chí ông là con mồi của giá treo cổ - người ta không nhớ đến "đoàn quân" của ông nữa mà nhớ về sự hợp tác của ông với Decoux. Người ta đưa ông ra trước những ban điều tra mà các tướng chính trị, như diều được gió, những nhân vật thoải mái biết cấp trên muốn gì, tăng cường phiền nhiễu ông. Họ lý sự cả với công trình của ông, cách ông đưa quân sang Trung Quốc.

Đấy là thời kỳ chán nản. Một năm ròng Alessandri đến các bộ, các ban tham mưu tìm kiếm một nhiệm vụ chỉ huy: người ta không giao cho ông việc gì cả. Con số không ấy kéo dài cho đến lúc những người ở Đông Dương trở về, những quan chức dân sự với Pignon. Điều ấy đã cứu ông. Carpentier chưa tới, ông có tổng chỉ huy là một Blaizot nào đó, không có gì đáng phàn nàn. Ông này chỉ huy ít, nhưng bộ máy Đội quân viễn chinh tự hoạt động, theo trọng lực. Dù sao, các tướng trong vùng mình, các tá trong khu mình không muốn người ta quấy rầy mình. Nhất là họ không muốn vâng theo lệnh Alessandri được cử chỉ huy bộ binh: họ nói họ thuộc về Blaizot chứ không thuộc về ông. Việc người ta bổ nhiệm chỉ là danh nghĩa.

Trong năm ấy đầu óc ông luôn hoạt động - tất cả những gì có thể suy nghĩ, trăn trở, nghiền ngẫm! Ông không tham gia vào cuộc sống chính thức và thời thượng, người ta không thấy ông trong hội hè Sài Gòn. Thảng hoặc ông mới xuất hiện, thái độ căng thẳng và tập trung, đôi khi vào trong văn phòng Pignon: nói từng giờ liền, lặp lại những điều tự mình đã nói hàng nghìn lần, những lập luận hoàn hảo của mình.

Ông tin tưởng vào tất cả sức mạnh trong đó và người ta cũng cần phải tin; nếu không sẽ mất hết.

Điều ông diễn tả là tất cả những gì đã làm là số không.

Khắp nơi bất lực, không có tầm nhìn tổng quát, không một nhận định quân sự có giá trị, một sự phân tán cố gắng buồn cười khắp Đông Dương. Ông so sánh Việt Minh như một con bạch tuộc: nếu vòi phủ khắp Đông Dương thì đầu vẫn ở Bắc Kỳ. Phải vung dao chặt đứt tại đây.

Và ai có thể giết con rắn thần đó nếu không phải ông? Phải cử ông làm tổng chỉ huy - Pignon đồng tình. Nhưng khi Blaizot ra đi, thay vì ông, Paris chọn một ông tướng thâm niên, già dặn với những ngôi sao, kinh nghiệm và những giới thiệu, tướng Carpentier. Ông này được biết đến nhiều hơn nhưng chẳng biết gì về Đông Dương.

Alessandri muốn rút lui như đã bao lần sau này muốn ra đi mà không đi. Ông vẫn nói: "Tôi không muốn đại diện cho một sự phá sản". Pignon giữ ông lại với những lời nói ngọt ngào nhất: "Chính phủ Pháp bổ nhiệm ông chỉ huy các lực lượng quân đội và làm cao uỷ của nước Cộng hòa ở Bắc Kỳ. Họ tin vào kế hoạch của ông, muốn ông thực hiện nó. Như vậy ông sẽ có mọi quyền lực dân sự và quân sự. Chỉ cần ông thỏa thuận với tôi và với Carpentier - ông ấy rất sẵn lòng tin tưởng ở ông, để ông hành động theo ý mình. Ông ấy nói với tôi thế, sẽ lặp lại với ông thế."

Thực vậy khi Carpentier từ tàu bước lên Đông Dương với khuôn mặt to ranh mãnh và thân hình lớn rã rời, ông đưa ra với Alessandri những lời hứa tốt đẹp và chắc chắn của người lính già. Ông ta vui vẻ nói: "Về đất nước này tôi chẳng biết gì hết. Tôi biết vậy, ông không phải chống đỡ. Nhưng ông, ông am hiểu sâu. Ông cứ ở Bắc Kỳ, tôi không quấy rầy ông đâu. Thậm chí cám ơn ông trước về những điều ông sẽ làm."

Vì thế năm 1950 tôi gặp ông ở Hà Nội. Đối với ông lại là những ngày sáng sủa. Vì ông nghĩ sẽ thành công điều mà ông không làm được năm 1945: cứu vớt xứ Đông Dương. Ông là Jeanne d'Arc, người cứu nước Pháp nhưng ông không nói lên điều đó. Mọi ý nghĩ ông giữ cho mình, một cách ghen tị. Nhân vật lạ lùng, vừa say sưa tin tưởng và ngờ vực!

Điều ấy xuất xứ từ quá khứ của ông. Tôi đã nói nhiều về câu chuyện quên lãng "đoàn quân Alessandri" vì nó là chìa khóa của tính cách ông. Quan điểm khác thường của ông là từ đó. Khi tất cả các tướng thời kỳ ấy yếu kém đến vậy, chẳng phải ông đã biết tiến hành cuộc chiến tranh rừng núi và đồng ruộng? Ông đã dẫn dắt quân lính chiến đấu trong những điều kiện đáng sợ. Điều ông đã làm đối với những người Nhật ghê gớm, tại sao ông không bắt đầu lại với quy mô rộng lớn hơn đối với người Việt, người Trung Hoa, với cả thế giới? Dĩ nhiên không phải là chạy thoát thân nữa mà là chinh phục, tấn công, vả lại cũng như nhau thôi - toàn bộ ban chỉ huy là bất lực và chỉ một mình ông có tài.

Tuy vậy không nên bộc lộ tính ưu việt của mình quá rõ ràng. Người ta sẽ bẻ gãy ông vì ghen tị, như trước đây, sau 1945, vinh quang của ông bị lu mờ sau mấy tháng bị quên lãng, dẫn đến nhục nhã nặng nề, ông lại trở thành như trước "chiến tích quang vinh", hầu như chẳng là gì cả.

Từ nay, xỉn màu, tàn ác như một quả mận khô nhưng vững chắc như ai, khô khan, đôi mắt sắc bén, trước hết ông im lặng. Những dự án tuyệt vời ông giấu đi, rất ngờ vực! Trong quá khứ người ta bắt ông trả giá quá đắt về mỗi chiến công! Theo cách của mình, ông có cái đầu hơi ngốc nghếch. Câu chuyện của ông gần như của một sĩ quan vô danh, đột nhiên nổi tiếng như có phép lạ tại sao lại khoe khoang vì ông chỉ làm nhiệm vụ theo khả năng của mình? - và rồi bỗng chốc chẳng là gì nữa vì "sự bất công"! Nhưng lần này người ta sẽ "không đối xử được với ông" như thế nữa, ông sẽ đi đến cùng, biết giấu giếm, kiên trì, bám chữa; một mình ông với các sĩ quan và binh lính của ông ở Bắc Kỳ sẽ thắng trong cuộc chiến tranh Đông Dương.

Ông lại có vẻ bí hiểm. Ở Hà Nội, ông ít nói, thái độ khó chịu, khép kín, không lộ diện, căng thẳng vì công việc, có vẻ vô tư với những việc đột xuất thô lỗ tuy rất mẫn cảm! Không cần khen ngợi ông, tác động hoặc tranh cãi với ông. Vì trong mọi vấn đề ông có "quan điểm" của mình, trầm ngâm như một khổ sai, làm việc rất khác thường, nghiêm túc. Điều ông không chấp nhận là cố biện bác. Vì vậy xung quanh người ta giữ không đụng chạm với ông. Người ta vâng lời không chối cãi. Cứ như thế, ông là một người tốt, người ta mến ông, dân sự cũng như quân sự, hài lòng có ông ở đấy vì dù sao ông cũng nổi tiếng có kinh nghiệm, thông minh và người ta biết ông muốn hành động.

Bây giờ ai nhớ đến ông nữa? Thế mà ở Đông Dương không ai dám thế, kể cả de Lattre. Chỉ có ông muốn mạo hiểm trong cuộc chiến tranh lớn ở Châu Á. Điều đó có lẽ là tai họa. Dù sao cuối cùng người ta không để cho ông làm. Người ta chẳng làm gì cả và tai họa cũng không tránh khỏi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Sáu, 2019, 09:15:50 pm

Việc chinh phục châu thổ Bắc Kỳ

"Tất cả ở trong đó", ở Hà Nội người ta ca ngợi Alessandri như thế, chủ yếu bởi cái đầu. Mỗi ngày mười hai, mười bốn, mười sáu giờ ông đưa ra những kế hoạch hành quân, tất cả đều là những tác phẩm hợp lý và chấp nhận được. Tất cả được tính toán, dự kiến. Trong mấy tháng ông làm vài chục kế hoạch như vậy. Ông ngồi lỳ trong văn phòng ở ngôi nhà cũ hư hỏng của ban tham mưu hoặc ở lâu đài mới tinh của Cao uỷ. Ông "đẻ" chúng một cách bí mật - không riêng đối với người Việt mà nhất là nghi ngờ thế giới bên ngoài. Ông ghét các nhà báo nhưng không hề thích các "thế lực" ở Sài Gòn và Paris. Ông muốn một mình làm tất cả, không biết gì đến ai - trừ những thuộc hạ tốt - và thế giới không biết ông. Tất cả những gì ông cần là vài sĩ quan tham mưu, không phải những thiên tài mà những người "làm việc không nghỉ", khiêm tốn, vô danh, chắc chắn, rất cẩn thận. Và ông cần một đoàn quân tốt.

Trước hết ông "quan tâm" đến vùng châu thổ, quyết định chiếm lấy toàn bộ. Đấy là giải pháp đúng đắn mà các "trí tuệ" lớn đã qua Đông Dương như Salan, Valluy, Beaufre từ chối trong ba năm. Điều ấy quá thấp đối với những người cấp cao ấy. Như họ sợ số đông người, sự bao la của Châu Á nên thay vì chiếm đóng họ thích chiến lược thiên tài hơn là "bao vây". Đáng lẽ nắm lấy vùng châu thổ, người ta bố trí xung quanh, bóp ngạt từ xa, cách ly với Trung Quốc và các sư đoàn của ông Giáp đang xây dựng trong "khu tứ giác". Do "đóng kín" mênh mông như vậy, hàng nhiều triệu dân quê sẽ rơi vào khốn khổ, không giúp được gì cho Việt Minh - ngược lại là gánh nặng của họ. Và điều ấy làm một cách máy móc không cần quan tâm đến dân chúng vô tận của đồng ruộng Bắc Kỳ.

Vì thế người ta bố trí trên đường số 4, ở biên giới Trung Quốc, trong rừng núi chằng chịt. Vì thế người ta bỏ rơi vùng châu thổ, chỉ giữ một số thành phố, một số trục giao thông, nhất là con đường lớn Hải Phòng - Hà Nội - Tất cả "hệ thống” Pháp bó gọn trong hai dải song song, hai con đường, số 4 lẩn trong rừng, số 1 bất lực trước vùng châu thổ. Kết quả của chiến lược lớn ấy như người ta đã biết: đấy là bi kịch ngày càng đổ máu trên đường số 4 mà người Pháp, thay vì cô lập và chia cắt quân địch thực tế đã bị cầm tù và là sự khai thác vùng châu thổ của Việt Minh. Những gì trái ngược với dự kiến đã xảy đến. Không có tình hình nào thuận lợn hơn cho ông Hồ Chí Minh và ông Giáp triển khai quân đội trong vùng "tứ giác" - với việc Đội quân viễn chinh cố định trên đường số 4 và không hoạt động gì ở vùng châu thổ.

Việc đó kéo dài cho đến thời Alessandri. Con người đảo Corse là viên tướng đầu tiên có đủ cá tính để nói: "Thật phi lý". Và nói rồi ông chuyển ngay sang hành động. Ông quyết tâm chiếm lấy vùng châu thổ, bắt đầu chiêm những vùng trong tầm tay, các tỉnh, đồng ruộng, dân chúng. Không đủ quân làm một lúc - không đến hai mươi tiểu đoàn, ông giành giật vùng châu thổ từng mảng một, trong các cuộc hành quân liên tiếp hầu như êm ả với ba, bốn hoặc năm tiểu đoàn. Đợt này xong thì bắt đầu đợt khác, mỗi lần như vậy lãnh địa Pháp tròn trĩnh thêm. Chiến tranh với những tên chiến dịch dễ mến, chiếm lấy vùng biên châu thổ, chỗ sông Đà đổ vào sông Hồng, chỗ đồng ruộng kẹt giữa những dãy núi Ba Vì và Tam Đảo, chỗ mà đồng bằng, sông núi đặt dưới sự kiểm soát của các vị trí then chốt của Việt Trì, Vĩnh Yên, Hưng Hóa; rồi các chiến dịch giải phóng miền bắc Hà Nội, đảm bảo cho thành phố một vỏ bọc chống sự tấn công của những người Trung Hoa hoặc quân chính quy ông Giáp - từ đây mở ra hai cánh chọc thẳng vào lòng châu thổ.

Mọi cuộc hành quân đều giống nhau. Các đội quân Pháp xuất hiện, chắp nối với nhau, nắm mục tiêu, tiến hành càn quét, xây dựng lô cốt, tuyển ngụy binh. Đôi khi có kèm theo những đội tàu nhỏ ngược theo những khúc quanh các dòng sông bùn lầy; họa hoằn là một cuộc nhảy dù. Các đội quân liên tục triển khai, tập trung, tiến lên các bờ vùng, lội qua đồng ruộng, vượt những hàng rào tre các xóm làng, vào các thị trấn và thành phố. Rồi lại bắt đầu ở những chỗ khác, không lúc nào kết thúc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Sáu, 2019, 09:16:24 pm

Xem như tính cách của Alessandri thể hiện trong các tiểu đoàn của ông ở đồng bằng châu thổ. Họ làm công việc của mình theo thứ tự, khiêm tốn, một cách kiên trì và tích cực. Ở đây không có anh hùng đẹp đẽ, không có những "ông chúa" tuyệt vời; chỉ là những quân lính dẻo dai và không sinh chuyện. Đấy là lần cuối cùng tôi thấy ở Đông Dương một đội quân viễn chinh mà chủ nghĩa anh hùng không "phô trương", không một đòi hỏi.

Các đội quân ấy cũng không kêu ca gì. Họ không có xe tăng, không nhiều ca-nông và ô tô, phương tiện cũ kỹ và nghèo nàn. Alessandri rất hài lòng về việc thiếu thốn phương tiện ấy. Điều đó buộc quân lính chiến đấu trong thiên nhiên, đi bộ, làm như Việt Minh. Họ không phiền toái, không đòi hỏi, không sợ mệt nhọc, đụng độ, theo cách xưa kia, việc chinh phục cách đây một thế kỷ, cuộc chiến tranh giữa người và người. Điều đó cho phép viên tướng ngồi trong văn phòng hình dung những cuộc hành quân phức tạp nhất, có tác dụng nhất, những hoạt động tinh tế nhất - sẽ được thực hiện.

Với cách đó, Alessandri lấy cả vùng châu thổ không kèn không trống - ở Sài Gòn người ta chỉ biết đại khái kể cả các nhà báo. Lẽ tự nhiên, là cấp dưới ông báo cáo lên Carpentier - nhưng, như đã thỏa thuận, tổng chỉ huy không can thiệp gì. Điều duy nhất ông ta không muốn là gửi lực lượng tăng cường, không một đại đội. Trong lúc này, ông người Corse cũng chẳng cần thiết; nếu cần ông sử dụng "vốn dự trữ" và tự xoay xở lấy.

Thực tế, trong chiến dịch vùng châu thổ này, người Việt không phải là một khó khăn lớn - quân chính quy ở chỗ khác, trong "tứ giác" hoặc ở các trại huấn luyện Trung Hoa. Quân du kích ở đây không hề cố gắng chống trả - chỉ vài cuộc va chạm, nhất là việc phá hoại. Một lần hơn sáu trăm quả mìn cùng nổ một lần trên đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, phá hủy hai trăm đoạn đường ray. Lần khác một biệt động vào trong sân bay quân sự Bạch Mai, đốt cháy ba máy bay, làm hư hỏng ba chiếc. Một lần khác nữa, những thợ điện giả danh giấu những gói thuốc nổ trong hai mươi hai máy biến thế ngoài rìa Hà Nội, bảy máy bị phá huỷ và thành phố mất điện một số vùng. Nhưng những sự cố ấy không xảy ra nhiều - người ta đề phòng như thường lệ, tăng cường các đội tuần tra, các phiên gác, bố trí đèn chiếu. Thế là đủ.

Tất cả diễn biến dễ dàng, có lẽ quá dễ dàng. Chiến thuật của người Việt không đánh nhau, họ đi sâu vào dân chúng, lẫn lộn trong dân chúng. Lệnh của Hồ Chí Minh là không làm quân địch chú ý, biến vào trong quần chúng để kiểm soát, khai thác, vận động quân chúng - dù có mặt quân Pháp và nhất là có sự trả thù của những người "quốc gia" Việt Nam.

Alessandri là một người bạn của Pignon, suy nghĩ như ông ấy: phương pháp duy nhất đuổi người Việt ra khỏi hang ổ và tiêu diệt họ là giao họ cho những người như họ, cùng nòi giống. Ở Bắc Kỳ không như Nam Kỳ, giàu có, tiêm nhiễm lối sống tự do, những tư sản nhiều tiền dại dột có những ảo tưởng. Ở đây tất cả là cứng rắn - cộng sản, quốc gia cũng thế. Và máu đòi hỏi máu. Vì vậy viên tướng tìm những người cho công việc mình, những người có khả năng bị đồng tiền, nhất là sự hận thù thôi thúc.

Ở vùng châu thổ, những người "quốc gia" căm ghét Việt Minh còn hơn người Pháp - họ giết vì những người này cũng giết họ. Đây là những "tổ chức" bán mình cho người nước ngoài. Đồng minh hội dựa vào người Nhật; Việt Nam Quốc dân đảng là công cụ của Quốc dân đảng Trung Hoa. Năm 1945 những thành viên đảng này đến Bắc Kỳ trong các toa chở hàng của những đội quân Lư Hán và Tưởng Giới Thạch có cả một tổ chức cảnh sát và các đơn vị quân đội. Mục đích vẫn là giết người Pháp nhưng còn hơn thế là giết Việt Minh, những người chiếm quyền sau cuộc cách mạng. Sau đó Trung Hoa Quốc dân đảng phải ra đi, Hồ Chí Minh để quân lính Leclerc vào và Đội quân viễn chinh để Việt Minh "tiêu diệt" tất cả những "người quốc gia" chứa chất căm thù và bài ngoại ấy. Đấy là sự hủy diệt của họ - hoặc gần như thế.

Những người sống sót bây giờ vượt lên sự ghê tởm cũ, "làm việc" với người Pháp. Thủ hiến Bắc Kỳ, Nguyễn Hữu Trí được Bảo Đại bổ nhiệm là một trong số đó. Alessandri đối với ông ta như hai ngón trong bàn tay. Tất cả những gì ông chinh phục được của vùng châu thổ, ông giao cho Trí "bình định". Muốn thế ông ta phải truy đuổi Việt Minh thật tàn khốc. Ông lại đặt dân chúng tuân theo những tập tục cũ. Gần như là một cuộc "khủng bố trắng". Nhất là "tổ chức chống lại" của quần chúng - tổ chức trật tự thay thế tổ chức cách mạng của người Việt. Trong các làng người ta xây dựng cảnh binh, tự vệ, phân phối súng. Mọi "chức sắc" tóc búi tó mặc áo dài láng bóng được chỉ định làm chỉ huy. Hầu hết chấp nhận nhiệm vụ.

Alessandri rất hài lòng. Vì dân chúng tự bình định lấy, ông không cần phân tán quân đội ra ở các bốt. Ông giữ các tiểu đoàn lại như lực lượng tấn công - ông muốn đánh những đòn mới vào Việt Minh thực sự, xa hơn, ở chỗ của họ.

Thời kỳ ấy Nguyễn Hữu Trí nói với tôi:

- Việc làm ấy có vẻ vững chắc đấy nhưng chưa được. Tai họa là người Việt cách đây hai, ba năm đã giết hết những người già dặn không cộng sản! Họ biết rõ việc họ làm: Vì bây giờ chúng tôi chỉ còn một nắm "người quốc gia" để quản lý quần chúng bao la ấy và không phải chỉ có thế. Việt Minh còn ở khắp nơi mà chúng tôi thì không. Người ta đang trên đà chống lại họ nhưng còn ngần ngại, còn sợ. Và chỉ cần một sự thất bại của người Pháp là tất cả sụp đổ.

Vì "chủ nghĩa quốc gia" không đủ, Alessandri chơi một lá bài khác, "Thiên Chúa giáo". Ở Bắc Kỳ có hơn một triệu giáo dân - tuyệt đối cuồng tín nhưng là một sự cuồng tín phức tạp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Sáu, 2019, 09:19:16 pm

Đức cha Lê Hữu Từ ít hòa đồng

Một trong những cuộc hành quân Alessandri gọi là than đá "Anthracite", một cuộc hành quân đặc biệt chiếm giáo phận Phát Diệm - Bùi Chu, những cơ sở chính trị thần quyền khác thường.

Dĩ nhiên đồng bạc đã đóng vai trò của nó trong việc liên minh những người Thiên Chúa giáo. Một sự giải quyết bằng tiền bạc. Một đại uý lính dù của Đội quân viễn chinh - một người Việt Nam tên Vy - cải trang thành dân quê để "tiếp xúc", mang đến một lá thư của hoàng đế Bảo Đại. Mấy tuần lễ sau anh lại nhảy dù xuống, lần này bận quân phục, cùng hai trăm lính dù khác, tất cả cũng là người Việt Nam, trước thánh địa Phát Diệm. Giám mục Lê Hữu Từ kín đáo báo trước ông "buộc phải" bảo vệ sự trung lập của mình. Vệ binh tôn giáo dàn trận chiến đấu sau một con kênh; sau vài lời kêu gọi thông thường nghĩa là sau khi hô "Chú ý", họ bắn mấy loạt đạn phía trên kênh theo hướng những kẻ xâm chiếm. Những người này cũng chống trả mấy loạt lên không trung, rồi giám mục "buộc phải chấp nhận thua và ký kết đình chiến".

Thực ra mọi việc đều ám muội - còn ám muội hơn người ta nghĩ về hài kịch nhỏ này ở giáo phận. Phát Diệm và Bùi Chu là một "giáo phái" ở đầu vùng châu thổ, đối diện với Annam đỏ. Ở đây tôn giáo hết sức vươn lên quyền lực thống trị. Đây là vũ trụ tính toán của lòng tin mà đất đai con người, tất cả đều được các cha xứ tạo ra như Chúa trời đã tạo ra thế giới. Thế kỷ trước chỉ có đầm lầy, nước ngập lụt quanh năm. Nhưng ở chỗ chỉ có bùn và muối mặn ấy các nhà truyền đạo đã đào hệ thống mương máng, xây dựng những ô vuông xanh, đưa dân cư đến làm lễ rửa tội hàng loạt. Và rồi giới tu sĩ trở thành hoàn toàn Việt Nam - nhanh chóng trở thành một chế độ phong kiến mới, chế độ phong kiến "đen" nhân danh Chúa.

Quang cảnh cũng buồn tẻ. Mỗi khung ô vuông có một công trình nhà thờ khống chế tất cả - đồng ruộng, con người, nhà cửa, làng xóm nghèo nàn. Mỗi khung ô vuông với nhà thờ ở giữa là một tu viện với tu sĩ là ông chúa và các tín đồ là những nô lệ. Nông dân, để giữ quyền lợi về thể xác và tâm hồn, được đặt dưới sự khống chế của một đội quân tu sĩ da vàng khuôn mặt béo tốt và áo dài láng bóng; và các bà xơ Annam nhiều vô số.
Trị vì tất cả là Lê Hữu Từ và cha Chi. Nhất là Lê Hữu Từ, giám mục mặc quần áo trắng của Phát Diệm - tu sĩ dòng Trappe hốc hác vì kiêu căng và cuồng tín. Khi là tu viện trưởng tu viện Châu Sơn ở vùng núi rất gần Trung Quốc ông bắt các tu sĩ sám hối và tự hành hạ mình bằng roi. Ở Phát Diệm ông như một quan tòa về lòng tin - một lòng tin không tình thương, nhân ái mà chỉ là một kỷ luật tàn bạo. Nhà thờ Phát Diệm thật đáng sợ - một kiến trúc kỳ cục đồ sộ, như một khu rừng mê tín. Từ chỗ này, giữa hương hoa và những điệu hát, Lê Hữu Từ, trang nghiêm và tàn tạ chỉ còn đôi mắt, chỉ huy dân chúng của mình trong các đám rước hoặc quỳ lễ. Đấy là một người thay mặt Chúa. Bên cạnh ông, giám mục Chi của Bùi Chu, tròn trĩnh, đạo đức giả, rất nhẹ nhàng; thực ra cũng độc đoán, nhưng âm ỉ, giả tạo.

Các giáo chủ ấy quyết liệt xây dựng chủ quyền đầy đủ của mình nhân danh Chúa - một vị Chúa cho phép làm mọi cách! Vì thế năm 1946 Lê Hữu Từ nhận làm cố vấn tối cao của Hồ Chí Minh. Ông làm vì căm thù người Pháp trước kia muốn kiểm soát ông và vì Hồ Chí Minh công nhận ông có quyền tín ngưỡng, cho phép ông xây dựng những lãnh địa công giáo toàn vẹn trong lòng Nhà nước Việt Minh. Theo cách ấy các giám mục có các khoản thuế, kho quỹ, tòa án và đao phủ riêng, nhất là có đội vệ binh do cha Quỳnh chỉ huy. Năm 1949 những địa phận thuộc quyền giám mục là những vùng chính trị thần quyền trọn vẹn, dưới sự sắp đặt của giới tu sĩ Việt Nam - tu sĩ nước ngoài duy nhất là một người Bỉ làm mọi việc, giữ mọi thu chi của Lê Hữu Từ, chỉ đạo việc do thám và giải phẫu các bà xơ với những chiếc dao rỉ; ông ta luôn có một con chó to lớn như chó sói xuỵt đuổi những người ngoại đạo.

Nhưng ở bên dưới mọi việc không trôi chảy. Việt Minh ngày càng lộ diện phổ biến tư tưởng vô thần, tuyên truyền chống "mê tín”, chống Chúa trời. Chuông nhà thờ gọi tín đồ vào làm lễ còn loa phóng thanh đỏ triệu tập dân chúng tham dự các cuộc mít tinh. Lê Hữu Từ rồi cũng có loa và đài của mình. Ông ta trừng phạt nghiêm khắc những "con chiên xấu" bắt đầu tôn sùng hình ảnh của Staline và Mao Trạch Đông. Chống lại các tổ chức Việt Minh ông tạo ra "Hội những người Công giáo cứu nước" - không bao lâu nắm lấy toàn bộ dân chúng, các tu sĩ là những uỷ viên chính trị của Chúa chống lại các uỷ viên chính trị kẻ thù của Chúa. Có cả Hội Công giáo Việt Nam, những đội tự vệ công giáo, vô số các hội nông dân, các mẹ, các nữ đồng trinh, các chiến binh công giáo, v.v... Toàn thể giới tu sĩ đi chiến đấu với vũ khí, sử dụng lễ thú tội chống lại sự tự phê bình, lễ ban thánh thể chống lại "tinh thần nhiệt tình", lời cầu nguyện chống lại "phong trào thi đua" và mọi biện pháp đỏ. Đấy là sự tẩy não nhân danh Chúa chống lại sự tẩy não nhân danh Nhân dân. Việc này đôi khi tập hợp rộng lớn mà người ta gọi là "truyền giáo". Và để hỗ trợ thánh ý, Lê Hữu Từ tìm kiếm lựu đạn, súng trường, súng ngắn: Các bên giết nhau một ít. Nhất là Việt Minh cử những cảnh sát đặc biệt ám sát vị giám mục ít hòa đồng tuy vẫn mang chức danh cố vấn tối cao của Hồ Chí Minh. Việc mưu hại được tổ chức rất tốt nhưng thất bại.

Sự cân bằng kỳ lạ ấy kéo dài cho đến lúc Alessandri chiếm vùng châu thổ. Việt Minh liền cử các đội quân chiếm lấy các giáo phận là cửa ngõ của Bắc Kỳ tới miền Bắc Annam đỏ - cửa ngõ, không để cho người Pháp nắm giữ. Họ chịu tạm thời mất vùng châu thổ Bắc Kỳ, không hơn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Sáu, 2019, 09:19:48 pm

Trong cuộc khủng hoảng này các giám mục dựa vào cầu nguyện - những buổi lễ trong khắp các làng - và làm đi làm lại. Lúc đầu họ nói với Việt Minh và người Pháp đừng tới; với những người này họ tuyên bố trung thành với cách mạng, với những người kia họ đòi tiền và vũ khí. Rồi họ đồng thời cầu cứu cả người Việt và người Pháp. Với việc nhảy dù, người Pháp đến trước và Lê Hữu Từ ký kết với họ - đúng ra là với Bảo Đại. Nhưng những ngày sau là hối hận, ngập ngừng muốn phản bội. Lê Hũu Từ trên thánh đường trong nhà thờ oang oang đả kích "thực dân" và tất cả con chiên hét vào mặt quân dù Việt Nam của đại uý Vy là "phản động". Nhưng các giám mục bí mật tâm sự với người Pháp “Vì các ông mà họ sẽ giết hại chúng tôi - các ông cho chúng tôi ngay tiểu liên như đã hứa". Người ta chở đầy vũ khí đến, vừa giao cho vệ binh xong thì một Lê Hữu Từ bình tĩnh lại, nói với các linh mục phụ tá: "Bây giờ ta đã có vũ khí để đón tiếp quân Pháp". Và sau đó ông gặp lâu một phái viên của Hồ Chí Minh. Đức cha chuẩn bị một đợt "quay trở lại" - ý nghĩ sâu xa của ông là làm cho người Việt, người Pháp bắn giết lẫn nhau để rũ bỏ cả hai hai bên. Nhưng Phòng Nhì biết được việc thương lượng ấy và hôm sau Lê Hữu Từ lúng túng thanh minh: "Tôi nói hơi vội." Cuối cùng không phải người Pháp bị tấn công - chính người đại diện Việt Minh bị ám sát. Việc đó xảy ra trong một buổi lễ. Đến một lúc nào đó Lê Hữu Từ, các linh mục phụ tá tách ra; một loạt đạn nổ và người Việt cũng đang hành lễ, ngã xuống.

Thế rồi từ thuyết giảng này đến thuyết giảng khác, Đức cha dịu dần với những "kẻ thực dân" - thay mặt họ bên cạnh ông là một đại tá hào hoa, bí ẩn, người xứ Bretagne rất nhiệt tình với ông Hoàng - Giám mục. Như vậy, Lê Hữu Từ giữ được mọi quyền lợi nhận được ở người Việt, thêm vào đó nhiều tiền và vũ khí. Triều đại các giám mục đầy đủ hơn bao giờ hết, thậm chí họ ép buộc cải giáo một số lớn người "lương" sống trong giáo khu. Hình như trong địa phận giám mục Bùi Chu, một số không phục tùng bị chặt đầu bằng búa. Dù sao thì cũng có sự khủng bố công giáo hoành hành trong nhiều tháng.

Điều đó không ngăn cản việc "tiếp xúc" lại với Việt Minh. Những địa phận giám mục thậm chí trở thành vùng buôn lậu lớn đi các tỉnh đỏ Thanh Hóa, Vinh. Hơn nữa Lê Hữu Từ và cha Chi tuyệt đối từ chối tuân theo thủ hiến Bắc Kỳ, kết tội ông này trước giáo dân. Thỉnh thoảng họ trở lại chủ nghĩa quốc gia quá đà và chửi người Pháp. Trong những tháng, những năm sau này còn rất nhiều sự phản bội và bi kịch trong những giáo khu ấy, một lẫn lộn máu và lời cầu nguyện. Và de Lattre sau này, căm ghét các giám mục vẫn luôn khẳng định do tính phản trắc của họ, do họ để người Việt tiến quân không báo trước mà Bernard, con trai ông bị giết ở vùng núi đá Ninh Bình.

Dù sao, việc liên minh ấy của những giám mục Phát Diệm và Bùi Chu, tuy đầy mánh khóe, ẩn ý và "gian ngoan", đã đẩy toàn Thiên Chúa giáo Bắc Kỳ vào cuộc chiến tranh bên cạnh người Pháp. Từ đấy đúng là một cuộc thập tự chinh tôn giáo - cho dù vì khôn khéo, các tu sĩ chỉ thích nói về cuộc đấu tranh của "chủ nghĩa duy linh" chống lại "chủ nghĩa duy vật vô thần". Khối hai giáo phận này lôi kéo tất cả những người Thiên Chúa giáo rải rác trên vùng châu thổ. Khi giữa vùng cây xanh mờ mịt của các làng Phật giáo, người ta thấy một chiếc thập tự nổi lên trên tán lá và những cây dừa thì đấy là một vùng Thiên Chúa giáo. Đây là một cộng đồng rất khác với những cộng đồng khác, khép kín trong niềm tin cháy bỏng, trong cuộc đời bị khống chế bằng luật lệ. Và trong sự "khác biệt" đó có mọi bi kịch của những người Thiên Chúa giáo Việt Nam - vừa tự hào là những người được Chúa lựa chọn vừa nhục nhã vì cả một dân tộc ruồng bỏ. Vì đối với dân chúng họ vẫn là những kẻ phản bội, những người xưa kia từ bỏ nòi giống, cho phép những người Pháp ở thế kỷ XIX chinh phục đất nước. Dần dần họ bị ám ảnh vì "phức cảm những người chuyển giáo", kêu lên với những người Việt Nam khác: "Chúng tôi cũng yêu nước như các anh, còn hơn các anh nữa". Vì vậy năm 1945 giới Thiên Chúa giáo gia nhập chủ nghĩa quốc gia cách mạng, tăng thêm giá - hợp tác với Hồ Chí Minh.

Nhưng tai hại thay đến một lúc tôn giáo bị cài người, bị huỷ hoại từ bên trong và bên ngoài. Thậm chí Hồ Chí Minh muốn thành lập một Nhà thờ quốc gia tách rời Rome. Những người Thiên Chúa giáo lúc ấy lựa chọn trước hết lòng tin và sau đó mới là Tổ quốc; họ vốn không muốn là công cụ của người Pháp nữa, là trở thành như thế.

Việc đó mang lại gần một phần năm nhân dân Bắc Kỳ chống lại Việt Minh và một giáo lý bí ẩn cũng cứng rắn, vững vàng như lý luận biện chứng của Hồ Chí Minh. Không nên quên ở Bắc Kỳ chính các giáo sĩ Tây Ban Nha ở Philippines đưa đến chân lý, điều làm cho Thiên Chúa giáo này không thể ngờ tôn giáo của một thời đại, một thế giới khác, dễ dàng trở thành Thiên Chúa giáo chiến đấu đến cùng có những người tử vì đạo.

Đến năm 1949 khắp vùng châu thổ đã xảy ra như thế, mỗi giáo phận có một đội quân - vệ binh - và biến thành một công sự mà tu sĩ là người chỉ huy.

Cứ như vậy dần dần các giáo phận trở thành những điểm tựa của người Pháp giữa dân chúng vùng châu thổ. Một lợi thế lớn - nhưng cũng là một bất lợi. Vì Đội quân viễn chinh lại dựa vào một "thiểu số” mà bỏ rơi đa số dân chúng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Sáu, 2019, 08:48:17 pm

Cuộc chiến tranh lúa gạo

Tháng 5 năm 1950 đúng là Pháp đã "tổ chức" vùng châu thổ Bắc Kỳ. Đồng bạc và hàng hóa lan tràn đồng thời với các đội quân viễn chinh. Và như Alessandri nói: "Khi nền kinh tế ổn định thì mọi việc ổn định". Viên tướng rất tự hào về hòa bình và thịnh vượng do ông đưa lại. Một mình với anh vệ sĩ trong một chiếc xe jeep đơn sơ cắm cờ hiệu, không tùy tùng, ông đi xem công trình của mình trong những vùng tồi tệ nhất. Ông đi trên đường mòn và thậm chí trên những con đê sông Hồng trước đây là những chướng ngại vật không xâm chiếm được của người Việt. Bây giờ ở đâu cũng là cuộc sống, sự náo nhiệt, đông đúc, một sự "hồi sinh" thực sự ở những nơi vốn chỉ là cảnh điêu tàn căm hận. Đây là Châu Á hòa bình - những đám người vui vẻ chen chúc trong các chợ, dân làng chuyện trò trước nhà mình và trên bờ vùng bờ thửa từng đoàn phụ nữ bước nhịp nhàng để cân bằng đôi gióng gánh trên vai. Nhất là trên đồng ruộng hàng triệu dân quê bình tĩnh gặt hái.

Khắp nơi phấp phới lá cờ Pháp hoặc cờ Việt Nam. Không chỉ là sự no đủ. Mọi việc diễn ra như dân chúng hưởng tất cả không chia sẻ cho Việt Minh. Làm sao biết được chính xác? Cảnh vật xám xịt của vùng châu thổ không nói lên điều gì, khuôn mặt hàng triệu dân quê cũng thế. Nhưng nếu thực sự việc cung cấp không tới các sư đoàn của ông Giáp thì họ sẽ bị khốn đốn.

Đấy là việc bình định. Dù sao hầu như người ta không đánh nhau trong vùng châu thổ ở những tháng báo hiệu mùa gặt. Mặt đất và bầu trời đều ướt át, gần như không phân biệt được qua màu xám đẫm nước. Mặt đất là một tấm màn nước tuy khắp nơi người ta nhận ra những bóng mờ đàn ông, đàn bà còng lưng trên đồng ruộng.

Công việc đồng áng - là công việc của hoà bình, người ta nói thế. Thế mà không đúng vì chiến tranh theo đuổi bí mật nhất, quyết định nhất. Đấy là cuộc “chiến tranh lúa gạo". Nếu Việt Minh thất bại, chẳng bao lâu họ sẽ tự đánh mất mình.

Gạo là tất cả ở Châu Á. Năm 1945 khi Bắc Kỳ thiếu gạo, một triệu người chết đói. Xác chết nằm trên đường phố Hà Nội - mỗi sáng phải huy động xe đi nhặt. Làng nào cũng có hàng đống xác chết.

Đối với người Việt, gạo còn hơn tất cả: không chỉ để nuôi sống. Với khẩu hiệu "gạo hoặc súng đạn", trước kia gạo cho phép mua những vũ khí đầu tiên; bấy giờ gạo là hệ thống kinh tế của Hồ Chí Minh. Trước hết, đấy là đồng tiền; một ki-lô gạo là đơn vị tiền tệ chính thức sau khi mất giá "đồng bạc cụ Hồ". Thuế được trả bằng gạo, "công trái yêu nước" cũng thế. Thậm chí ngân sách cũng tính bằng gạo - cơ sở để dự kiến chi, thu. Lương quân đội và công chức trả bằng gạo. Tiêu chuẩn đo lường đối với những vật bán mua cũng là gạo. Nếu thiếu gạo, không chỉ nạn đói - mà cả cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh sụp đổ vì dựa vào đó.

Vì thế suốt thời gian đánh nhau với Đội quân viễn chinh, người Việt ám ảnh về lúa gạo, quyết tâm chiếm lấy. Điều đó có tác dụng lạ lùng, không ngừng đến cuộc chiến tranh, hầu như chỉ huy cuộc chiến tranh. Để tiếp tục cuộc "chiến tranh tổng thể" họ phải chấm dứt từng giai đoạn để làm cuộc "chiến tranh lúa gạo".

Mục tiêu này rất đặc biệt - trước hết không phải giết người Pháp, chỉ "vô hiệu hóa" họ để tiến hành thu thập hạt lúa, cũng có quy luật. Thời kỳ đầu khi dân quê vào mùa gặt là thời kỳ tạm yên - các bên để họ yên ổn làm việc, chỉ theo dõi. Nhưng họ vừa thu hoạch mùa màng xong là cuộc chiến tranh lúa gạo nổi lên dữ dội. Việt Minh và người Pháp xuất hiện khắp nơi để giành giật lấy.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Sáu, 2019, 08:49:14 pm

Để chiếm lấy lúa gạo phải "kiểm soát" hoàn toàn dân cư. Người Việt "đưa ra tất cả". Quân chính quy và nửa chính quy từng đơn vị to nhỏ rải khắp nơi. Nhiệm vụ đầu tiên của họ là tước đi của Đội quân viễn chinh thời gian cần thiết, khống chế đất đai, giành lại "quần chúng" càng nhiều càng tốt. Tuỳ tình hình mà áp dụng những biện pháp thích hợp. Ở những nơi các bốt Pháp đang ngủ, quân lính Việt Minh luồn vào từ làng này đến làng khác, giữ không đánh động họ dậy; ở những đồn trú hoạt động hơn, người ta quấy rối, giăng bẫy phục kích làm cho họ sợ và nấp kín trong lô-cốt. Đôi khi ban chỉ huy Pháp tổ chức những cuộc hành quân lớn cử các tiểu đoàn truy kích các phân đội đỏ. Trong trường hợp ấy, những người này được lệnh chống cự, thế là đánh nhau, có lúc quyết liệt: "Cuộc chiến tranh lúa gạo" dưới dạng "chiến tranh lớn" vì bao giờ cũng vẫn có quân Việt Minh.

Dựa vào quân đội đỏ, hệ thống chính trị - kinh tế đỏ hoạt động mạnh để đảm bảo đủ lúa gạo. Mọi tổ chức của Việt Minh được huy động cho công việc này - quân lính, du kích, toàn Đảng, những uỷ viên chính trị quan trọng nhất, các tổ chức quần chúng. Mục tiêu duy nhất là lúa gạo với số lượng tối đa, thông qua thuế, vay mượn, đóng góp, chỉ để lại cho dân quê đủ sống. Kỹ thuật sử dụng là "thuyết phục", làm sao nhân dân đóng góp "tự nguyện, vui vẻ, với tinh thần yêu nước". Hai tiếng Tổ quốc vang lên như một ám ảnh. Những trận chiến đấu chống Pháp được nhân đôi lên do lễ hội "quần chúng" rộng rãi, lễ mừng công, mít tinh, phong trào thi đua, những buổi khen thưởng anh hùng và xử phạt phản động, nhất là trong các chiến dịch yêu nước như "chiến dịch góp gạo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh hay là "bát gạo cho chiến sĩ". Và rồi những lời kêu gọi của Hồ Chí Minh luôn luôn truyền lại trên các loa phóng thanh, được "cán bộ" bình luận, được "quần chúng" phân tích. Nhưng rồi người nghèo cũng cho, những người giàu cho - để tránh tiếng "phản động" và có những tờ giấy chứng nhận có lẽ một ngày nào đó sẽ cứu sống họ.

Trong lúc quân đội Việt bảo vệ việc thu gom ấy, Đôi quân viễn chinh nỗ lực cản trở họ để cũng nắm lấy lúa gao với lợi thế trả bằng đồng bạc Đông Dương.

Một thời gian dài người Việt có khá nhiều gạo. Sự việc thay đổi khi ở Sài Gòn và Hà Nội người ta hiểu phương pháp duy nhất để thắng người Việt là qua lúa gạo, qua "cuộc chiến tranh lúa gạo". Ở Nam Kỳ là sự cấm vận trên sông Bassac. Alessandri, chiếm đóng vùng châu thổ Bắc Kỳ buộc người Việt thất bại, dân quân, cán bộ chính trị phải ẩn náu và việc thu gom giảm gần năm mươi phần trăm.

Một nửa dân chúng Bắc Kỳ phụ thuộc hẳn vào sự kiểm soát của các bốt Pháp. Phần còn lại cũng không hăng hái đóng góp nữa.

Năm 1950 người Việt hốt hoảng về gạo. Trong khu tứ giác xảy ra thiếu đói. Khẩu phần đầy đủ chỉ dành cho quân đội xung kích của ông Giáp. Những tầng lớp khác - chiến sĩ bình thường, viên chức, cán bộ của Đảng - hạn chế mỗi ngày một bát gạo. Bản thân Hồ Chí Minh làm gương trong hoàn cảnh này.

Sau này một người lúc ấy là bộ trưởng bên cạnh Hô Chí Minh nói với tôi:

- Thật ghê sợ. Tôi ốm vì đói và yếu hẳn trong nhiều tháng ròng. Không riêng thiếu gạo mà tất cả, không còn muối, thuốc bệnh, quần áo. Nhiều người chết trong núi! Người Pháp chặn họng chúng tôi. Người ta đã nói không "trụ vững" lâu được, ít nhất là phải bẻ gãy gọng kìm. Phải chuẩn bị chiến đấu, nghĩ rằng đấy là cơ may cuối cùng, trong mấy tháng phải thắng hoặc là bị tiêu diệt.

Thời kỳ ấy đài phát thanh của Hồ Chí Minh thú nhận sự thiếu thốn mọi thứ ấy - nói phải còn gian khổ, thiếu thốn hơn. Việc tuyên truyền, "giải pháp đúng đắn" lâu dài của các uỷ viên chính trị là tiết kiệm, tiết kiệm hơn nữa. Cuối cùng là lời kêu gọi tối cao: "Chịu thiếu thốn một ít để tích luỹ cần thiết cho cuộc tổng phản công". Như vậy, người Việt gần như đã tận lực, họ tự biết như thế. Không có lối thoát nào khác ngoài tổng phản công, quân đội ông Giáp sẽ lần đầu tiên thực sự đối mặt với quân đội Pháp. Đấy là giải pháp họ tự chọn.

Nhưng về phía người Pháp có ai hình dung ông Giáp có thể thắng? Người ta nhớ lại Nguyễn Bình bị dồn đến đường cùng ở Nam Kỳ cũng tìm lối thoát qua một cuộc "tổng phản công" - kết thúc bằng thất bại. Cả Đội quân viễn chinh - trừ một số đơn vị trên đường số 4, tin rằng đối với ông Giáp cũng như thế, sẽ tệ hại hơn. Vì sự thất bại của Ủy ban Nam Bộ đánh một tiếng chuông cho toàn Việt Minh, cuối cùng sẽ kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương.

Người Pháp càng tin tưởng vì từ nay bên cạnh họ có chỗ dựa của Mỹ. Không phải họ thay đổi mà toàn cầu - sự xâm lược Triều Tiên, những lá cờ Mao ở biên giới Bắc Kỳ, cả Châu Á cầm vũ khí và nguy cơ về cuộc đụng độ thế giới. Đội quân viên chinh tiếp tục đánh nhau với Việt Minh theo cách ấy, với những mục tiêu ấy nhưng chỉ trong mấy tuần lễ chiến tranh của thế giới tự do chống chủ nghĩa cộng sản. Lúc trước người Pháp tự cảm thấy là "những người bị ruồng bỏ" và trong số đông quân lính có ý thức làm một cuộc "chiến tranh bẩn thỉu". Bây giờ người ta chào đón họ như là quân đội khai hóa và những đồng đô-la, khí cụ nhãn hiệu USA đưa tới không chậm trễ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Sáu, 2019, 08:51:47 pm

Liên minh đầy sao

Tháng sáu năm 1950. Phương tiện Mỹ bắt đầu chảy vào Đông Dương, bắt đầu khiêm tốn bằng việc cung cấp máy bay Dakota cũ. Phi công quân sự Mỹ bàn giao cho phi công quân sự Pháp tại Sài Gòn, ở sân bay Tân Sơn Nhất. Không lễ tiết, không diễn văn. Phi công đứng đối diện chào nhau. Rồi những người lính trơn xách những hộp sơn, thay ngôi sao trắng của hàng không U.S bằng phù hiệu cờ tam tài.

Mấy tuần sau một tàu hàng đầu tiên, tên là Steelrover cập cảng Sài Gòn, lần này trước mắt mọi người - mang tới những vật dụng quân sự. Hôm nay quả là một ngày trọng đại - nước Mỹ đứng về phía người Pháp. Người Việt cũng biết ý nghĩa của sự kiện này, đài của họ nói sẽ làm nổ tung tàu Steelrover. Vì vậy người ta bố trí đề phòng rất cẩn thận. Trên đường tàu đi lên, toàn đáy sông Sài Gòn, trên tám mươi cây số được nạo vét vì mìn (trước đó một ít, một chiếc tàu thương mại lớn bị nổ tung ở đây). Đến ngày đã định, chiếc Steelrover tiến dần dần trên con lạch đầy bùn và khúc khuỷu, giữa những rừng đước chằng chịt, là trung tâm của sự bố phòng khác thường, chiếc tàu dò mìn đi trước, tàu hộ tống vây quanh, máy bay trên cao và quân lính rải khắp bờ. Ở cảng còn đề phòng cẩn thận hơn. Khi chiếc Steelrover neo ở bên và người ta chuyển xuống những chiếc jeep đã sơn màu xám xanh của chiến tranh, kèm theo mỗi bọc hàng là một cảnh sát với súng ngắn và một lính Maroc cầm tiểu liên. Tôi lên tàu, thấy đoàn thủy thủ mũ lưỡi trai, mình trần, vai u, phong thái dữ tợn; thuyền trưởng là một người khổng lồ tên họ Ailen, mái tóc hung ánh lên dưới nắng. Ông ta mời tôi một chầu Whisky thân mật nói không biết rõ vì sao ông đến Sài Gòn nhưng bất kể. Tôi nhìn tất cả những người xăm mình, to lớn và thờ ơ ấy, tôi hiểu thực sự Mỹ đã khởi động, nhắm vào Đội quân viễn chinh.

Sự thay đổi đã rõ, không ngờ được. Nước Mỹ không muốn trục xuất Đội quân viễn chinh nữa mà liên minh. Và toàn cơ chế Mỹ bắt đầu quay ngược lại, vì đáng lẽ bỏ rơi nước Pháp họ giúp đỡ. Các tướng U.S, nghị viện, nhà báo U.S nối tiếp nhau nhận xét hiệu quả của Đội quân viễn chinh, cần phát triển nó. Đồng tiền Mỹ tặng cho Đông Dương để hỗ trợ quân sự kinh tế. Đấy là bước đầu của con sông lớn đô-la đổ vào, cuối cùng làm cho nước Pháp chẳng phải mất gì về cuộc chiến tranh Đông Dương; một số người nói thậm chí họ có lãi. Một tỷ phrăng hàng ngày - sau này vượt nhiều càng ngày càng do Thế giới mới rót cho.

Hãy nhìn lại sau bao biến cố! Vì những người Mỹ này từ nay hỗ trợ người Pháp ở Đông Dương chính là những người đã lên án họ có mặt ở Châu Á, đã làm mọi cách để xua đuổi họ. Rossevelt với lực lượng cuối cùng đã tuyên bố khai trừ Pháp ra khỏi khối. Truman ở Potsdam, đã nêu lại lý thuyết "chống chủ nghĩa thực dân". Tất cả đã được dự kiến - Đông Dương phải trở về với Tưởng Giới Thạch bằng gạt bỏ Hồ Chí Minh đỏ. Thế nhưng có một thời kỳ nhiều nhân viên đặc biệt của Chú Sam cũng thử chơi con bài Hồ Chí Minh. Người nổi tiếng, thấy rõ nhất là một sĩ quan cao cấp tên là Patty. Chính ông này và các phụ tá đưa Hồ Chí Minh lên ngôi ở Hà Nội vào mùa hè 1945. Họ ở bên cạnh ông Hồ, là những người bảo trợ và bảo đảm trong những cuộc biểu tình khổng lồ lúc ấy, khi mà hàng trăm nghìn người Pháp chịu mọi nhục nhã, như sẽ bị tàn sát, cầm tù.

Lúc đó đã có một hoạt động của người Mỹ cố ý theo đuổi, ngăn cản nước Pháp "trở lại". Người Mỹ hoàn toàn chịu trách nhiệm về không khí Hà Nội năm 1945, ở đó những "tình báo viên" của họ như những ông vua và người Pháp là những người phải đánh đổ và người ta đã đánh đổ. Patty đầy quyền lực và Sainteny bị nhốt trong một ngôi nhà, cấm đi ra ngoài.

Tất cả những việc đó không đưa lại kết quả. Người Mỹ bị thất bại kép. Tưởng Giới Thạch đánh vào họ ở Bắc Kỳ. Và rồi họ nghi ngờ về giải pháp Hồ Chí Minh. Bộ Ngoại giao và Lầu Năm góc nhận ra Hồ Chí Minh thay vì là một người quốc gia hoàn toàn như báo cáo của Patty và nhân viên ông này, có thể là một người cộng sản. Vậy là ông Hồ bị USA bỏ rơi sau mấy tuần lễ, thậm chí người Mỹ không giữ một kỷ niệm gì về giai đoạn ấy. Không vì thế mà không phải chính Hoa Kỳ đã giúp Hồ Chí Minh và điều đó vào lúc quyết định cho người Việt nắm quyền lực. Họ đã rộng rãi "làm" cho Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Sáu, 2019, 08:53:48 pm
Trong những năm tiếp theo, sau những thất vọng ghê gớm ấy, thái độ của Mỹ thể hiện bối rối hoàn toàn. Có vẻ như Mỹ không biết làm thế nào, đành để người Pháp hành động, vừa giữ lối bài xích về nguyên tắc. Đây là cách bất đắc dĩ, và chờ cơ hội để lại chơi lá bài chủ nghĩa quốc gia với việc vận dụng: vì Hồ Chí Minh là cộng sản, phải tìm ra người quốc gia, con người yêu nước sẽ thắng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa cộng sản, tốt hơn người Pháp với sự đàn áp. Tất cả những người Mỹ ở Sài Gòn - ở Đại sứ quán. Phái đoàn quân sự và nhiệm vụ đặc biệt, ở USIS (Cơ quan thông tấn Hoa Kỳ) không kể các nhà báo - đều bài Pháp, đau xót thấy Pháp lập lại "chế độ thực dân". Họ có một lòng tin sâu sắc và thực thà khác thường rằng tất cả những cái ấy là xấu! Và họ tin chắc nước Mỹ sẽ làm tốt hơn nước Pháp nhiều, bản thân họ hơn người Pháp nhiều! Đã bao lần một người trong bọn họ nói với tôi: "Các ông, người Pháp thật kỳ cục và các ông vẫn tin vào thủ đoạn xảo quyệt tiến hành ở Đông Dương! Đấy không chỉ là ghê tởm mà hoàn toàn lỗi thời". Tất cả say sưa mong rằng thay chỗ cho Việt Nam là mồi cho người Pháp là một Việt Nam thực sự của tình bạn Mỹ! Lúc ấy họ có thể áp dụng đầy đủ tất cả những gì họ học được trong các trường đại học, thánh đường và một số "cơ quan" U.S - môn khoa học bành trướng Mỹ với những tình cảm tốt và lối sống Mỹ. Chống lại "thủ đoạn" của người Pháp là tăng cường cuộc thập tự chinh tiến bộ trên cơ sở thông thái rỏm, đạo đức, chiến tranh lạnh, là ngày càng có thái độ của người làm sáng tỏ chân lý bị thất vọng.

Đầu năm 1950 giữa người Pháp và người Mỹ ở Sài Gòn là sự nổi giận nghiêm trọng: họ căm thù lẫn nhau, không thường qua lại với nhau nữa, ít tiếp đón nhau. Giữa Sài Gòn của đồng bạc và Đội quân viễn chinh, những người Mỹ tự giam hãm trong đồng đô-la, trong xa hoa, tiệc tùng, mưu mô, trong chuyên môn của mình, mỗi người có một "nghề nghiệp" rất cụ thể. Luôn luôn đông hơn, rất giàu và rất cay cú họ mua những ngôi nhà đẹp nhất cho "cơ quan" và nhà ở của họ, tổ chức ở đó những hòn đảo nhỏ chống giữ, sống riêng biệt, làm việc, chú trọng đến vệ sinh tới mức chỉ tiêu thụ thực phẩm và đồ uống - kể cả nước lã - từ Mỹ mang sang. Nhưng mặc dù chặt chẽ về nguyên tắc, buổi tối họ thả mình vào những tiệc cốc-tay, uống quá nhiều và vui chơi kỳ lạ.

Cả môi trường U.S nổi lên chống đại sứ Heath, bị kết tội tiêu cực; quán quân của "lối sống Mỹ" là phó của ông này, Gullion. Heath vào tuổi năm mươi, khôn ngoan và nhăn nheo, nhỏ người với khuôn mặt dài như cá ướp lạnh nhưng Gullion là một chàng đẹp trai, tóc nâu, thậm chí lợi thế, trên đà đi lên, dễ dàng "cau có". Tôi nhận thấy cơn giận nội tâm ấy một hôm ở nhà ông ta, đứng trước một bàn thức ăn lạnh, tôi vô tình tâm sự với một người Pháp rằng tôi không thích ăn đứng theo lối Mỹ. Gullion nghe thấy, lao lại kêu lên với tôi: "Ông có biết trong bất cứ thành phố nhỏ nào ở Mỹ, cũng có nhiều người yêu Beethoven và Bach hơn cả toàn Paris không?"

Nhất là khi người Pháp bắt đầu tạo ra nền độc lập Việt Nam thì "kiểu sách Mỹ" ấy thức dậy. Việc ấy bắt đầu ở Hồng Kông, lãnh sự U.S hàng ngày khuyên Bảo Đại đang sắp nhận đề nghị của Pignon: "Ông đừng nhường bước. Đừng xiêu lòng. Từ chối đi". Khi Bảo Đại vẫn nhận và sống tách biệt ở Đà Lạt trong tình trạng suy nhược thần kinh và hội hè ở Sài Gòn như có một sự nổi giận cao độ - người Mỹ đủ loại đến rỉ tai với đủ loại người Việt Nam: "Cứ đòi hỏi nhiều lên. Các ông đừng đầu hàng. Đừng để bị tác động bởi người Pháp vốn biết chờ cơ hội, hy vọng "tranh thủ được", khi ngụy trang vấn đề thực dân của họ trong việc chống cộng sản". Họ ra sức chống người Pháp. Bằng mọi cách, nhất là bằng đô-la, người Mỹ hình thành một lớp "khách hàng". Những cơ quan đặc biệt đi xa hơn: họ cung cấp vũ khí cho Ba Cụt - Hòa Hảo, cho Trịnh Minh Thế - Cao Đài, cho tất cả các trưởng băng nhóm ở các giáo phái tiếp tục căm ghét, giết người Pháp nhân danh chủ nghĩa quốc gia.

Chiến dịch rầm rộ vào thời kỳ Nguyễn Phan Long là thủ tướng chính phủ. Lúc đó người ta nói về một dự án theo gợi ý của Mỹ thay thế Đội quân viễn chinh bằng một quân đội quốc gia 200.000 người với khung người Mỹ hoặc thậm chí người Nhật. Trong lúc chờ đợi, ngay khi Sài Gòn đang trong tình trạng vô chính phủ, Nguyễn Phan Long không muốn Việt Nam là một nước liên hiệp với Pháp nữa, thực sự mong muốn thay thế nước Pháp bằng nước Mỹ, thành một chế độ như Philippines thay vì Khối Liên hiệp Pháp.

Đấy không phải đường lối chính thức của Mỹ - nhưng sắp là như thế. Người ta càng cảm thấy số phận người Pháp ở Đông Dương sẽ có số phận người Hà Lan ở Indonesia, bị sự chặt chẽ về nguyên tắc Mỹ gạt ra ngoài. Và trong lúc Đội quân viễn chinh bình định, người Mỹ làm việc chống lại, đến một giai đoạn họ sẽ nói: "Không cần một lực lượng quân sự Pháp nữa: chúng ta hãy hành động, loại bỏ lực lượng ấy đi".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Sáu, 2019, 08:57:24 pm

Như vậy, ở Đông Dương người Pháp đứng trước tình thế lạ lùng nhất: nếu họ thắng Việt Minh, họ chắc chắn bị dồn vào một cuộc thất bại khác. Họ không tránh khỏi đi vào ngõ cụt khi tất cả thay đổi trong mấy tuần lễ. Vì đấy là những tuần lễ của nỗi lo sợ Mỹ - Triều Tiên bị xâm chiếm đã cứu Đông Dương. Sự chặt chẽ về nguyên tắc tạm thời bị chủ nghĩa thực tiễn quét đi. Trên cấp cao, ở Washington từ nay chỉ có một điều đáng kể - có một quân đội Pháp giữ sườn phía nam của Trung Hoa đỏ đáng sợ. Washington "để" nước Pháp ở lại Đông Dương: nước Pháp có một đội quân lính đánh thuê, bản thân cũng trở thành lính đánh thuê cho Hoa Kỳ tiến hành một cuộc chiến tranh Đông Dương, trong khuôn khổ chiến lược lớn của Mỹ ở Châu Á.

Vì nước Mỹ cung cấp cho Đội quân viễn chinh thực tế không phải vì Việt Minh - trước hết để chống nước Trung Hoa của Mao. Có một hợp đồng ngấm ngầm. Với Trung Hoa thân xác mình người Pháp sẽ dựng lên một bức tường để chủ nghĩa cộng sản không xâm chiếm vùng Đông Nam Châu Á. Và người Mỹ trả tiền thuê họ, cung cấp những phương tiện để đánh nhau vô biên.

Trong những tháng, những năm tới, những quy định ấy được hai bên tuân thủ, vừa trung thực vừa không trung thực. Tình hình thật lạ lùng.

Về kế hoạch quân sự, người Mỹ sẽ nghiêm túc. Sau bước khởi đầu rất chậm, họ cung cấp một khối lượng lớn khí cụ - mãi về sau này - đến mức Đội quân viên chinh không tiếp thu hết. Dĩ nhiên các sĩ quan U.S cũng áp đặt sự "kiểm soát" chiến lược; nhưng sau một cố gắng vô ích họ quyết định để toàn bộ cho chỉ huy Pháp gắn chặt ghê gớm với những đặc quyền của họ. Cuối cùng tất cả "chuyên gia" của MAAG (Phái đoàn cố vấn quân sự) lùi ra, đành để cuộc Chiến tranh Đông Dương giữ tính cách chiến tranh "theo lối Pháp".

Đối với người Mỹ, Đội quân viễn chinh chỉ là một mưu kế tạm thời. Dù không thực sự tin tưởng, họ cố làm chủ nợ vì thực tế nhất là sử dụng đội quân này như vốn có.

Tuy vậy tính chất hai mặt khá rõ ràng. Lần lượt tất cả những người Mỹ chuẩn bị, lần này rất kiên trì, có hệ thống cũng rất kín đáo, một giải pháp thay thế. Vì cuối cùng có thể một ngày nào đó người Pháp "mất nhuệ khí", từ bỏ vai trò "đẩy lùi" quân đỏ, hoặc họ điều đình hoặc họ thua. Trong trường hợp ấy không có vấn đề những đội quân Mỹ thay chỗ trong rừng - Triều Tiên đã đủ cho họ. Nếu Đội quân viễn chinh phá sản hoặc không thích hợp nữa, phải chăng người ta có thể "đưa lên" một hệ thống chính trị chống Pháp dựa vào công thức nổi tiếng của Mỹ bảo vệ những nền độc lập và chủ nghĩa quốc gia? Như vậy chắc sẽ có hiệu quả hơn.

Đấy là cách nước đôi. Những chuyến tàu biển không ngừng chở tới Sài Gòn những gì cần thiết cho phép Đội quân viễn chinh tiến hành tốt cuộc chiến tranh với cờ tam tài. Nhưng những "người Mỹ trầm lặng" mới cũng không ngừng đến Sài Gòn và khắp Đông Dương. Một lạm phát khổng lồ về cơ quan và về người. Tất cả tăng lên gấp bội. Với những tổ chức cũ phát triển không chừng mực, thêm vào những cơ quan khác - nhất là cơ quan viện trợ kinh tế, một "bộ máy" đồ sộ ở Sài Gòn lúc nhúc những viên chức kỹ thuật, tình báo Mỹ - có hầu như hàng nghìn ghi đủ một danh bạ điện thoại đặc biệt dày hàng trăm trang.

Mỗi trang càng tăng cường xâm chiếm. Đã mua hết những ngôi nhà đẹp, người Mỹ cho xây mới, đẹp hơn nhiều. Sài Gòn của Pháp cũ với những biệt thự và nhà một tầng bị những cao ốc Mỹ, như những nhà chọc trời nhỏ che khuất. Lá cờ đầy sao phấp phới hầu khắp các đường phố.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Sáu, 2019, 08:58:31 pm

Người Mỹ thậm chí được Hải quân gác trước cửa Đại sứ quán và những cơ quan chính, với thái độ khinh miệt kỳ cục. Heath sống trong nỗi ám ảnh bị ám sát. Để trấn an, cảnh sát của Tâm tưởng tượng tạo ra một "âm mưu" chống ông ta - cho phép cảnh sát tiến hành mọi loại bắt bớ. thẩm vấn gây ấn tượng mạnh. Nhưng bằng chứng cảnh giác ấy của chính quyền không làm Heath yên tâm mà càng thêm lo lắng: ông bèn đòi hỏi phải được quân lính Mỹ thực thụ bảo vệ.

Về nguyên tắc hoạt động tràn ngập ấy của Mỹ không hề thù địch với người Pháp mà ngược lại. Các chỉ thị chính thức không ngớt tự hào về tình hữu nghị Pháp - Mỹ. Thực tế đấy là một công việc phá hoại ngầm rộng lớn. Một làn sóng sản phẩm USA tràn ngập vào Việt Nam. Ở mỗi gói hàng khâu một nhãn lớn, có cờ Việt Nam và cờ Mỹ đan chéo nhau, bên dưới là câu: "Quà của nhân dân Mỹ tặng nhân dân Việt Nam".

Những chuyên gia của Phái đoàn viện trợ kinh tế phát không những quà tặng ấy. Họ đi khắp Đông Dương lặp đi lặp lại trước dân chúng: "Người Pháp bóc lột các bạn nhưng người Mỹ là bạn của các bạn". Sự năng nổ của họ không hề lay chuyển tuy nhận thấy một số quà của họ thay vì người thừa hưởng cảm thấy ân huệ, được đưa ra bán ngay ở chợ đen. Phần nhiều dân quê ngần ngại sử dụng.

Thất vọng càng chồng chất người Mỹ càng tích cực. Như họ cố gắng thương yêu dù với định kiến về nòi giống người Việt Nam! Họ lui tới, chiêu đãi ăn uống. Vợ họ hàng ngày họp nhau lại mở các lớp tiếng Anh cho những tín đồ mới xứng đáng nhất. Những nhà truyền giáo đạo Tin lành, đặc biệt được cấp đô-la, tham gia cuộc thập tự chinh này. Họ mang những nịt vú lên cho phụ nữ ở cao nguyên. Họ có máy bay riêng. Một trong bọn họ tổ chức phép màu, làm cho nghe tiếng nói của Chúa trên trời cao bằng một cái radio treo vào chiếc dù.

Công trình của Phái đoàn viện trợ kinh tế là Thị trấn Hạnh phúc - một làng kiểu mẫu hoàn toàn mới, xây dựng gần Hà Nội để những người dân quê khốn khổ học biết rõ một cuộc sống "hợp lý" là như thế nào. Than ôi, tất cả những năm tiếp đó Việt Minh tấn công, phá hủy và những người Mỹ phải xây dựng lại không biết bao nhiêu lần.

Người Mỹ càng gặp trở ngại càng căm ghét người Pháp - không công khai như trước thời kỳ "liên minh" mà bên trong, có lẽ còn mạnh hơn. Do họ "phá hoại" - họ chịu trách nhiệm về tất cả. Tôi nhớ tới một phụ nữ Mỹ, một hôm không tự chủ được, rên rỉ trước mặt tôi về sự "quái dị" của những kẻ "thực dân" ngăn cản chồng bà dạy cho dân làng đánh răng. Mọi người Mỹ đều khẳng định sự "quái dị" ấy.

Liên minh là cuộc chiến bí mật bên dưới. Ở cấp cao, Washington, đại sứ Heath, người ta thẳng thắn - bên cạnh ảnh hưởng của Pháp, họ xây dựng một "ảnh hưởng" Mỹ có thể thế chỗ một ngày nào đó. Nhưng đấy là tương lai, không chắc chắn. Trước mắt là hoạt động gián tiếp: theo lệnh trên, bô máy kinh tế - chính trị ở Sài Gòn không hoạt động triệt để như phải làm để thủ tiêu sự hiện diện của Pháp. Vì vậy trong tất cả vô số cơ quan và văn phòng Mỹ biết bao bực tức, giận dữ, chua cay, kêu ca "những nhân vật quan trọng" bất lực, không hiểu gì người Pháp vẫn tiếp tục là những ông vua! Dĩ nhiên những người Mỹ cấp thấp ấy, nung nấu vì ý thức, bốc đồng vì lòng hăng say, vượt qua những chỉ thị, vui vẻ làm những gì là chống Pháp. Đối với "thủ đoạn" hèn hạ của người Pháp, họ đối kháng một thủ đoạn đạo đức, đầy đức tin, Chúa trời và rượu Whisky. Thế nhưng họ khốn khổ, căng thẳng quá mức, họ tưởng tượng đầy cảnh sát, mật thám, những kẻ khiêu khích người Pháp hoặc do Pháp trả lương đang theo dõi, săn đuổi họ, sẵn sàng làm tất cả. Có người Mỹ nào không nghĩ theo chân mình đủ loại người, trong bóng tối phá huỷ những gì họ làm, có lẽ đe dọa cả mạng sống của họ? Để tự vệ người Mỹ lại "mua" nhiều người hơn nhưng vừa nghi ngờ mọi người hơn. Họ xây dựng những tập hồ sơ dày, đưa mọi người vào phiếu theo dõi. Tất cả đối với họ đều đáng ngờ, những người Pháp vốn chỉ tỏ ra đáng mến để phạm tội xấu xa nhất, các ông Việt Nam mà người ta không bao giờ biết họ là ai, có lẽ là chỉ điểm cho cảnh sát Pháp, có lẽ là Việt Minh ngụy trang.

Đúng là người Pháp cản trở chức năng các tông đồ Mỹ bằng mọi cách. Tất cả những "mánh khóe", nhưng âm mưu không ngớt của "đồng minh" làm họ tức giận. Đáp lại là phá hỏng đi. Nhưng họ ít quyết liệt hơn người Mỹ tưởng, họ không là những kẻ nguy hiểm vì vụng về.

Thực ra thời kỳ ấy người Pháp không sợ bóng người Mỹ ngày càng trải rộng trên Đông Dương. Họ tự nhủ khi Đội quân viễn chinh còn ở Việt Nam họ vẫn là những người chủ. Và không phải ngày mai họ sẽ ra đi vì có cuộc chiến tranh Triều Tiên, có Mao Trạch Đông, có những việc khác nữa. Thời gian còn nhiều.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Sáu, 2019, 08:59:07 pm

Thực tế người Pháp có một mối quan tâm lớn hơn việc "gây trở ngại" cho người Mỹ. Đấy là rút được tối đa, "lợi dụng" ngày càng nhiều, với cách vượt quá sự khôn khéo, mưu mô mà giới quân sự thành thạo. Người ta đòi hỏi ca-nông, đạn dược, ra-đa, tăng, ô tô, máy bay tiêm kích - tất cả những gì Paris không cung cấp được. Muốn thế, ban chỉ huy, vốn không tin vào hiểm họa Việt Minh, càng không tin vào mối nguy Trung Hoa, hành động như rất khẩn cấp tác động "nham hiểm" với Washington; Họ tung những tin rất nghiêm trọng tuy biết là không chính xác. Ví dụ họ cho làm một hiệp ước mật cho rằng Mao Trạch Đông ký với Hồ Chí Minh, nói rằng Trung Quốc "xây dựng" một đoàn quân xung kích Việt lớn với khí cụ, kỹ thuật Trung Quốc, do Trung Quốc huấn luyện. Đoàn quân ấy sẽ tràn sang, có lẽ với cả người Trung Hoa. Nhưng sau khi gieo rắc sợ hãi cho Lầu Năm góc, ban chỉ huy Pháp vội vàng kết luận Đội quân viễn chinh có thể chặn đứng một chiến dịch xâm chiến của Hoa - Việt với quy mô như việc xâm lăng Triều Tiên, với điều kiện họ được trang bị vũ khí "đầy đủ". Và chính việc "đầy đủ" ấy cho phép người Pháp tiến hành chiến tranh trong nhiều năm.

Mọi việc đều tế nhị. Vì người Mỹ giúp Đội quân viễn chinh nhưng vẫn tự hỏi mình có bị "lừa" không vừa cố gắng một nửa "lừa" người Pháp. Dĩ nhiên người Pháp không hoàn toàn thật thà; chiến tranh Triều Tiên là một dịp họ nắm lấy ngay, khai thác đến cùng. Ban chỉ huy Pháp nói với người Mỹ: "Những gì xảy ra với các ông ở vĩ tuyến 38 có thể xảy ra với chúng tôi ở biên giới Bắc Kỳ - đối diện với mối đe dọa Mao. Các ông hãy cung cấp nhiều cho chúng tôi". Nhưng thực tế họ chỉ muốn tiêu diệt người Việt và giữ Đông Dương cho nước Pháp bằng cách sử dụng những người Mỹ này vốn muốn đuổi họ đi. Tất cả chiến thuật là dùng người Mỹ làm "vỏ bọc" trước Trung Quốc, để quân đội McArthur và Lâm Bưu "giải thích với nhau" ở Triều Tiên - và đánh mạnh vào Hồ Chí Minh và ông Giáp trong thời gian ấy. Cuộc chiến này tiến hành với tiền Mỹ, khí cụ Mỹ nhưng không có sự chỉ huy Mỹ.

Điều kỳ lạ nhất là người Pháp "tự lừa mình" mà không ngờ tới. Vì tất cả những tin tức về tai họa họ lan truyền, nghĩ rằng hoàn toàn viển vông, không có cơ sở - về cuộc tấn công lớn của quân đỏ, các sư đoàn của ông Giáp, về các trại huấn luyện Trung Hoa, v.v... - tỏ ra có thật trên thực tiễn. Và mưu mẹo ấy vừa là một sai lầm về nhận định - dẫn thẳng đến tai họa ở vùng núi Đông Khê, trận thất bại bi thảm nhất trong toàn cuộc chiến tranh Đông Dương. Tuy vậy không phải tất cả đều vô ích: khí cụ giành được ở người Mỹ với những lý do giả dối sau đó cho phép de Lattre ngăn chặn những người Việt chiến thắng ào vào Hà Nội.

Những tháng mùa xuân 1950 thực sự là những tháng lạc quan của ban chỉ huy Pháp. Chưa bao giờ Carpentier và Alessandri đưa về Paris những đảm bảo thuận lợi như vậy; một cuộc thi giữa hai người làm vừa lòng Chính phủ. Ở cấp trên người ta còn chắc chắc đến mức cho rằng chỉ cần mấy đơn vị Pháp cũng đủ nhấn chìm toàn quân đội ông Giáp nếu dàn trận đánh nhau! Tuy vậy phía sau bộ mặt vui vẻ, phía sau những tin chắc dàn trải, phức hệ tổng thể về ưu thế mạnh không còn như trước. Dù sao trong đầu óc các tướng lĩnh cũng có những nghi ngại nhỏ mà người ta che giấu hoặc cẩn thận ngụy trang. Vì thế Carpentier quyết định lùi đợt hồi hương phần đầu tiên của Đội quân viễn chinh như Chính phủ đã yêu cầu, các ban tham mưu đã xác nhận và đang được nghiên cứu thực hiện.

Dĩ nhiên việc chậm trễ ấy chỉ có một mục đích: cho phép đưa lại chiến thắng nhanh hơn, toàn diện hơn. Đúng là Carpentier, Alessandri, hầu hết Đội quân viễn chinh vẫn tin vào kết quả. Nhưng vị tổng chỉ huy khôn ngoan vẫn e ngại một "phiền phức" có thể làm lu mờ chiến thắng đang chờ đợi. Ông muốn thắng - theo bản tính - vẫn giữ chừng mực. Còn Alessandri muốn thắng bằng cách ào tới - vậy là phải có người.

Thực tế những bóng đen lo ngại ấy là những phản ánh mờ của tình hình. Bên cạnh những thành công đạt được cũng nảy sinh một số sự kiện người ta không muốn cho là quan trọng - nhưng đã có. Dù sao, với những người mở to mắt, chỉ cần xác định đúng với tướng Revers, nhà tiên tri khốn khổ. Nhưng ông luôn bị thất sủng, bị đè bẹp vì một vụ bê bối - và ở Đông Dương người ta luôn mù hoặc gần như thế.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Sáu, 2019, 09:11:28 pm

Nhà tiên tri

Hiếm có những "nhà tiên tri về tai họa". Tướng Revers muốn qua một âm mưu lớn "phá vỡ" tất cả những gì đang tiến hành, kết thành ở Đông Dương, tất cả những gì đóng băng thành một khối với Bảo Đại, Pignon, chủ nghĩa bán thực dân, đồng bạc, sự bình định, cuộc chiến trên đường số 4 - một khối nhiều rạn nứt. Nhưng khối ấy, bỗng tập hợp nhau chống lại ông Revers bướng bỉnh, cuối cùng chính ông "bị vỡ", bị đập tan vì bê bối.

Việc ấy xảy ra một năm trước, khi Bảo Đại trở về vào mùa xuân 1949. Đã là một "vụ việc" cũ. Revers, tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp, thất bại, bị bôi nhọ, bạn bè bỏ rơi, từ lâu đã biến mất trong hư không. Vào giờ lựa chọn trời định, "hệ thống" - cái có thể gọi nhóm có thể lực ở Đông Dương - đã làm cho con người đáng sợ xảo quyệt và quyền lực ấy thành một người bị đào thải bình thường.

Nhưng bây giờ tôi muốn nói về ông vì ông còn lại bản "báo cáo" xuất sắc - là công cụ của vụ bê bối cũ - tỏ ra ngày càng có tính chất tiên tri, ngay càng đè nặng lên các sự kiện.

Một vụ việc lạ lùng, vừa đơn giản vừa phức tạp đến thế! Trước hết có một phía rất tồi tệ, tuyệt đối bẩn thỉu của mọi quyền lợi, tính toán say mê, xảo trá nhất. Do Revers, cả lớp bùn lắng dần, âm ỉ xuống đáy hàng nghìn mê lộ của những thứ được đưa lên bề mặt vì Đông Dương. Như khi một đứa bé ngỗ nghịch ném một hòn đá xuống mặt hồ phẳng lặng và một con quái vật trồi lên. Những việc ấy - những "vụ bê bối" ấy - có lẽ là những điều cần thiết tất yếu, những rủi ro không tránh khỏi. Đôi khi thậm chí vì khuấy động rác bẩn mà quét sạch được. Nhưng người khám phá ra bao giờ cũng là nạn nhân và đó là điều đã xảy ra với Revers.

Lẫn lộn với cuộc đấu tồi tệ này có một cuộc đấu khác, về kỹ thuật, cao quý, vô tư. Phía sau vụ "bê bối Revers" cũng có cuộc tranh cãi kịch tính về Đông Dương, lựa chọn có nên kiên trì trong những việc đã làm hay không! Chính thức Revers được cử sang Đông Dương xác định tình hình có đúng "lạc quan" không và ông trở về nói "không" - mọi việc chỉ là giả tạo. Ông đưa ra hai lý do, việc thử nghiệm Bảo Đại là một thất bại ngay trước lúc bắt đầu và Đội quân viễn chinh một mình không trụ vững được trước một "cuộc tấn công" của Trung Hoa, thậm chí của Việt Minh. Như vậy do những việc vừa xảy ra - thất vọng về Bảo Đại và sự kiện Trung Quốc - phải thay đổi lại tất cả trước khi quá chậm; nếu không sẽ không có thì giờ và là thảm họa.

Các nhân chứng nói Revers là thủ đoạn và trí thông minh. Ở ông trộn lẫn tất cả: phải chăng vì ông là sản phẩm của một thời đại tất cả đều trộn lẫn? Không có chiến tranh và cuộc kháng chiến ông chẳng là gì cả hoặc chẳng đáng giá bao nhiêu - là một nhân viên bưu điện, một sĩ quan dự bị, với quân đội vậy là không cao quý. Nhưng ông hoạt động không mệt mỏi. Thân hình nặng nề, vạm vỡ, cằm nhọn và khoằm hay giận dữ, mau nước mắt cũng như dễ cười, ông hay "mánh khoé". Ở Vichy, ông bị "dìm", không ăn cánh với nhóm Darlan. Vận may của ông là một hôm viên chỉ huy tổ chức đội quân Kháng chiến hỏi người phó, đại tá trẻ đẹp Cogny vừa thoát khỏi trại tù binh qua một cống ngầm:

- Nếu tôi bị bắt, ai là người có khả năng thay thế tôi?

- Revers.

- Một con vật.

- Vâng, nhưng anh ta "xứng đáng".

Mọi việc diễn ra như vậy. Viên chỉ huy bị bắt. Revers thay thế - một người kế nhiệm xuất sắc. Không có gì trục trặc. Ông ra khỏi chiến tranh với vầng hào quang của cuộc "Kháng chiến vĩ đại", vả lại ông hoàn toàn xứng đáng.

Lẽ tự nhiên nền Đệ tứ Cộng hòa rất phù hợp với ông. Đây là một người thợ chăm chỉ trong nhiệm vụ, không phải nghệ nhân, không một chút thiên tài hoặc điên rồ nhưng có lương tri, một gã láu lỉnh, tính vui vẻ thô lỗ biết nghiêm túc đúng lúc. Ông có vị trí cấp tướng vững chãi, không lo ngại như một de Lattre hoặc Leclerc - người được tin tưởng mang sao trong mọi công việc gồm cả công việc quân sự. Cũng dĩ nhiên ông là người của "cánh tả" - không phải phái tả cách mạng, mà cánh tả của hội SFIO1, hội Tam điểm, một số môi trường lớn, của OTAN và của Mỹ. Chẳng có ai ông không biết rõ không cùng nhậu nhẹt. Chẳng có gì ông không hiểu. Phần lớn thời gian bên dân sự, nắm tay nhiệt tình đã càng ngày càng thay thế động tác chào quân sự khô khan.
_________________________________
1. Đảng xã hội - ND.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Sáu, 2019, 09:13:53 pm

Tướng Revers khốn khổ! Với các tính cách ấy, nhưng ông là một người trung thực, yêu nước, yêu quân đội. Và ngay trong "mưu mô” ông vẫn giữ "chất ngây thơ" của những quân nhân có ý tưởng lớn và nghĩ mình biết làm. Thực ra ông biết làm nhưng thiếu khôn ngoan! Dần dần ông nghĩ "phải tiến lên" nữa, ông có xung quanh mình những đồng bọn ít nhiều là những người đao búa. Và rồi ông cũng có những thói quen kháng chiến, làm bất cứ việc gì bất cứ điều gì, với bất cứ ai, cuối cùng cũng sẽ được.

Revers giúp đỡ người ta. Người ta giúp đỡ ông. Ông chắc chắn sẽ thành công với cách đó. Vả lại, ông đã được đặt cao hơn de Lattre - chính ông là tổng tham mưu trưởng Quân đội Pháp! Vinh quang xiết bao! Và viên công sứ Pháp ở Tunisia, tướng Mast bạn ông cho ông thấy vận mệnh còn cao hơn. Ông ta bảo ông, muốn vậy làm thân với tổng thống Cộng hòa, chủ tịch Hội đồng an ninh và các bộ trưởng chưa đủ, cũng cần quen biết những người ít nổi tiếng hơn nhưng nắm rõ nhiều vấn đề, xâm nhập khắp nơi và giật dây không để lộ. Mast giới thiệu với ông một người giàu có ở Tunis tên là Cost; ông này giới thiệu một ông Peyré - và Peyré này trở thành cố vấn của tướng Revers vốn cho mình rất ranh mãnh.

Số phận dẫn đường, nhưng Revers không biết. Ông chưa bao giờ nghĩ đến Châu Á, đến Hồ Chí Minh và những người da vàng. Ông đang bình thản ở Hoa Kỳ trao đổi với những người Mỹ Hiệp ước Đại Tây Dương thì nhận được lệnh từ Paris đi Đông Dương. Lúc đầu Revers rất ngập ngừng. Tuy là tổng tham mưu trưởng Quân đội Pháp, ông gần như không được Lầu Năm góc biết đến; đối với các tướng Mỹ, những người mới về quân sự, nông nổi và đáng sợ, tôn thờ nghị lực đơn thuần, sự cường tráng, sự cứng rắn, cuộc chiến tranh, ông là một sản phẩm đáng ngờ của nền văn minh Pháp đang suy đồi. Bằng mọi giá phải trấn an, mê hoặc, nắm lấy họ. Còn gì hơn xứ sở xa xôi này và một cuộc chiến tranh thuộc địa mà lúc đó Washington rất không thích?

Nhưng trở về Paris đối với Revers mọi cái đã thay đổi: trí tưởng tượng của ông chỉ ra những khả năng tốt nhất. Ông có linh cảm Đông Dương là bộ máy chiến tranh làm chao đảo nền chính trị Pháp và đảm bảo chiến thắng của "những ông bạn". Thời kỳ rối ren. Đây là lực lượng thứ ba, một hội lu mờ và ít thân thiện. Đứng đầu Chính phủ, ông bố già Queuille, phe xã hội không có nhiều ý tưởng. Nhưng ở bên dưới là một cuộc đấu bằng dao giữa tổ chức MRP1. Với những nhân vật "lớn" Coste - Floret và Bidault, MRP thắng, đặt "cuộc phiêu lưu Đông Dương" nhân danh nước Pháp, Phương Tây, nền văn minh và Thiên Chúa giáo. Đối thủ bướng bỉnh của họ là "Bố Ramadier" được cử làm bộ trưởng Quốc phòng một cách lạ lùng. Ông già - cả một quá khứ ngoại đạo và tư tưởng cộng hòa theo lối cũ lẩm bẩm trong bộ râu là việc đó sẽ kết thúc xấu và tốt hơn là nhón chân rời bỏ Đông Dương. Ông bộ trưởng chiến tranh này không thích lắm chiến tranh cũng như các nhà quân sự xuất sắc. Với ý tưởng đó và những thái độ kỳ cục, ông có lòng quyết tâm. Nhưng ông không nói quá nhiều vì Vincent Auriol, người đồng chí SFIO có con mắt như thủy tinh ngồi trong điện Elysée. Chính ông này ký thỏa thuận với Bảo Đại nhưng ông rất phiền toái về việc này. Ông có sợi dây yêu nước thậm chí hơi ái quốc cực đoan. Với ông không nghĩ tối việc rời bỏ Đông Dương. Nhưng ông rất hài lòng để người ta tìm một giải pháp dàn xếp được tất cả và nhanh chóng, chấm dứt được những cự nự của phái tả và dẹp yên dư luận.

Trong không khí đáng ngờ ấy người ta không biết rõ lắm ai đã "tưởng tượng" ra phái đoàn Revers vào lúc người ta sẽ "khánh thành" Bảo Đại. Người ta nói đấy là Coste-Floret, ngây thơ tìm bảo chứng của một ông chủ lớn trong quân đội để "bao che" món hàng Đông Dương của ông. Nhưng rất có thể vụ này được nhóm Ramadier dàn dựng. Dù sao việc đó cũng do bàn tay bậc thầy tiến hành. Lúc đầu không ai băn khoăn, cả Coste-Floret đã đồng ý, cả Pignon đang ở Paris. Việc thanh tra ấy còn gì bình thường hơn? Vả lại Revers đầy lòng khoan dung. Trong văn phòng mình ông trấn an Pignon về sự hỗ trợ toàn bộ - ông sang đấy chỉ để giúp đỡ ông ta, sắp xếp trật tự một ít về sự lộn xộn trong Đội quân viễn chinh. Pignon vốn khốn khó về các tướng bất lực của mình, rất hoan hỉ. Ông tuyên bố:

- Cuộc thăm của ông đáp ứng đầy đủ nguyện vọng của tôi. Tôi rất mong một nhà quân sự lớn như ông đến xem xét tại chỗ và có những quyết định cần thiết!

- Với những công việc đang chịu trách nhiệm, tôi không có nhiều thì giờ, Revers trả lời. Nhưng tôi sẽ thu xếp để sang Đông Dương.

Sau đó ở Paris có một bữa tiệc rất thân mật và đến cuối xuất hiện một nhân vật lạ lùng tên là Peyré. Người ta không để ý đặc biệt đến ông này. Mọi việc tốt đẹp.

Nhưng rồi mọi việc ít tốt đẹp hơn rất nhanh chóng. Đủ loại đồn thổi lan truyền. Ở Paris một anh Văn Co, một người túng thiếu với nụ cười nhạt nhẽo, trước là viên chức nhỏ của Vichy và tự xưng là đảng viên xã hội, bắt đầu một chiến dịch gấp gáp về tiệc tùng và quà cáp. Về nguyên tắc do Bảo Đại trả tiền nhưng người ta không biết thực sự anh làm việc cho ai và phản bội ai. Ở Sài Gòn Peyré xuất hiện như là sĩ quan hậu cần, cũng mời ăn khắp nơi với lý do công việc nhưng tránh ra mặt với chính quyền. Tác động thật kỳ lạ. Rồi với việc Phái đoàn chính thức đến thì không còn nghi ngờ gì nữa. Đổ bộ lên Đông Dương là một đội tập kích thực thụ - một đội tập kích phá huỷ. Phái đoàn từ chối ở chỗ cơ quan Cao uỷ như lệ thường: họ phải ở riêng tránh mọi sự kiểm soát để hoàn toàn độc lập. Sự nghi ngại công khai ấy gần như một lời tuyên bố chiến tranh.
____________________________________________
1. Tập hợp vì nền Cộng hòa - ND.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Sáu, 2019, 09:14:40 pm

Hàng ngày cảnh sát của Pignon mang đến cho họ những thông tin đáng lo ngại nhất. Xung quanh Revers lúc nhúc những nhân vật lạ, hoạt động đáng ngờ. Peyré sử dụng "kẻ dồn con mồi": đem đến cho ông những cha xứ tiến bộ là những hội viên bí mật giác ngộ, những giáo viên dũng cảm, những người hoạt động nghiệp đoàn Pháp trở thành tư sản Việt Nam tối phản động! Nhưng tất cả đều giận dữ lên án những "yếu kém" và "sai lầm" hiện tại, hình thành một bức tranh u ám và đáng xấu hổ về tình hình. Tất cả là những kẻ thù quyết liệt của "Pignon nhu nhược” và "Bảo Đại hư hỏng". Họ nói phải xóa bỏ tất cả, bắt đầu lại tất cả, muốn thế nước Pháp phải được đại diện ở Đông Dương là một người Pháp lớn, ưu tiên một chỉ huy quân sự lớn có mọi quyền hành và sẽ cứu tất cả.

Thật rắc rối. Revers không mệt mỏi, không cạn kiệt, luôn tích cực hoạt động. Ông thu thập mọi dư luận, cả những điều trái ngược căn bản nhất, của những người nói phải thương lượng với Hồ Chí Minh cũng như của những người cho rằng phải tiêu diệt Việt Minh bằng một cuộc chiến tranh thực sự. Pignon có những "mật thám" tin cậy cho biết tỉ mỉ mọi việc. Ông biết Revers quan hệ chặt chẽ với Nhà băng Đông Dương mà người giám đốc ở Paris, Jean Laurent, nghĩ phải làm ăn với Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh hơn là gây chiến với họ. Ông biết Revers tiếp tại Sài Gòn hai Việt Minh từ Đồng Tháp Mười tới mang giấy thông hành số 910 cấp theo lệnh một đại uý Touraine nào đó. Ông biết Revers có những hòa giải lâu với các sĩ quan cứng rắn, như đại tá Le Pulloch vốn xem Bảo Đại như bọt xà phòng.

Đấy là một cuộc thập tự chinh. Revers sử dụng tất cả phái tiến bộ, phái tả hạn hẹp, phái quân sự! Ông vừa hoan nghênh công lao của đô đốc hải quân Decoux vừa đưa tay cho Việt Minh! Từ nay mục đích chủ yếu của ông rủ bỏ Pignon, Bảo Đại, đường lối của MRP, trao quyền lực cho quân đội và lấy lại "đường lối" trước đây được một trong những gương mặt lớn, tướng Leclerc, khuyến cáo - thương lượng với Hồ Chí Minh một loại "hòa bình của những người đứng đắn". Ý nghĩ sâu xa của ông là Hồ Chí Minh phải lo sợ về người Trung Hoa, dù là những người cộng sản. Thay vì đẩy ông về phía Mao Trạch Đông phải chăng có thể thỏa thuận với ông một nền độc lập, không còn là xứ bảo hộ trá hình mà là tình hữu nghị thực thụ có lợi cho văn hóa, thương mại, cho những quyền lợi của nước Pháp? Sẽ giữ lại một số căn cứ quân sự. Và tất cả mọi người sẽ thỏa mãn - những trí thức cánh tả, đảng SFIO, ông Vincent Auriol và Chính phủ, Nhà băng và có lẽ cả Đội quân viễn chinh. Mọi người sẽ hài lòng - trừ MRP, nhưng đấy là kẻ thù. Và rồi đối với ông. vinh quang biết mấy!

Nhưng MRP biết mình bị lừa. Cuối cùng họ thấy chiếc bẫy họ rơi vào khi chấp nhận phái đoàn Revers, vả lại chính Revers cung cấp cho họ những đường nét cụ thể nhất của ý đồ đen tối của mình. Ông khôn ngoan mánh khoé đến thế mà đã ngây thơ gửi cho các bạn ông Mast, Ramadier và nhiều người khác - những bức thư ghê gớm và giận dữ. Lẽ tự nhiên văn phòng đen đã đọc những bức thư ấy. Và trong văn phòng bộ Pháp quốc Hải ngoại của mình, Coste-Floret tự nhủ: "Sẽ nắm được tay này. Nhưng cứ chờ hắn công bố bản báo cáo đã".

Revers không nghi ngờ gì. Ông kéo dài thời hạn ở Đông Dương, vẫn gặp nhiều người hơn, gửi nhiều thư hơn, bắt đầu viết bản báo cáo đồ sộ - quả bom ông sẽ mang về với ông. Ông đắc thắng. Xung quanh bí mật đấu đá lẫn nhau nhưng ông chẳng để tâm - chẳng phải ông đã có mọi chủ bài trong tay rồi sao? Các "bạn'' ông trong Chính phủ và các đảng phái chính trị đã được hun nóng hàng loạt. Những kẻ thù của ông để cho làm gì thì làm. Trong quân đội, phái "thuộc địa" và những người chuyên nghiệp về chiến tranh hải ngoại không hài lòng; họ sắp mất nguồn sinh sống; nhưng tướng Blanc và các ban tham mưu chính quốc rất thỏa mãn rũ bỏ được gánh nặng chiến tranh Đông Dương phải kéo dài ngay lúc tổ chức lại quân đội Pháp. Và rồi điều ấy làm vui lòng Lầu Năm góc. Cuộc đấu quyết liệt hơn trong các cơ quan mật. Các thám tử rình mò lẫn nhau, theo dõi Revers, Pignon từ những cử chỉ, những tiếp xúc nhỏ nhất. Một sự quá tải chỉ thị mật, phiếu theo dõi, báo cáo, giả thuyết về công việc bí mật, về một số nhân vật cao cấp và một số nhân vật khác trong bóng tối. Người ta "cam kết với nhau" hoặc phản bội nhau, chơi đủ các mặt "tình báo viên" đủ loại sôi động trong các "ổ tình báo" các cỡ lớn nhỏ giấu tên, tất cả những cơ quan tên gọi vô tư, nói chung là D. chỉ "hồ sơ tài liệu" và L. chỉ "liên lạc". Không còn là nước Pháp, quân đội và Chính phủ - chỉ là những vỗ về cá nhân đối với những "ông chủ" đặc biệt, những người của các nhóm phiến loạn hoặc đảng phái lần lượt chơi các trò khác nhau và tranh cãi viển vông.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Sáu, 2019, 09:15:36 pm

Đôi khi người ta cùng lầm các tên gọi và càng tăng thêm rối ren. Bao nhiêu lời chú giải để biết ai là Paul - tên thường được nêu lên trong những bức thư của tướng Revers. Nói chung người ta tưởng đấy là con trai của tổng thống Cộng hòa. Nhưng không phải; anh ta không nằm trong vụ này. Đấy là tướng Xuân - một quân cờ cần thiết trong kế hoạch của Revers. Chính ông này, với sự bảo trợ của tướng Mast, phải thay thế Bảo Đại để thành lập một chế độ cộng hòa chịu trách nhiệm về hòa bình và thương lượng với Hồ Chí Minh. Dù thế nào thì ông Paul này làm Bảo Đại rất lo lắng - can thiệp ngay với ông Vincent Auriol bố, nhắc lại những lời hứa và cam kết. Hơn nữa hoàng đế theo những cách riêng của mình bằng cách dùng sắc đẹp, xã giao, tiền bạc, gây mọi ảnh hưởng ở Paris và khắp nơi.

Không có gì ra mặt. Pignon và Reveis gặp nhau ít và bao giờ cũng tử tế. Nhưng Pignon còng xuống hơn, chăm chú và mệt mỏi hơn bao giờ hết, khép mình dần dần xung quanh Revers luôn tiến lên phía trước. Revers "làm việc tỉ mỉ". Ông cố đưa Mỹ, Anh vào cuộc để bảo vệ quyền lợi Phương Tây ở Châu Á. Ông khôn ngoan giải thích hòa bình với người Việt sẽ là giữ lại nước Pháp ở Đông Dương, là tấm chắn tốt nhất chống chủ nghĩa cộng sản và mọi hành động lật đổ. Bao nhiêu thăng bằng, bao nhiêu công việc nhào lộn. Ngay trên đường về ông cũng tiếp tục làm việc. Ở Bangkok ông dừng lại để ca ngợi kẻ độc tài nước Xiêm, thống chế Pibul, một người chống cộng sản dữ dội và mẫn tiệp, hoàn toàn nằm trong tay Hoa Kỳ. Nhất là ông nghe một thời gian ngắn ở Home - người hội viên Tam điểm ai cũng biết muốn đưa giáo hoàng vào cuộc chơi của mình. Đức Giáo hoàng tỏ ra "cảm thông" trong một cuộc tiếp kiến riêng. Thắng ván bài thì thật quan trọng. Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu Vatican có những chỉ thị phù hợp cho giáo dân Việt Nam và cho MRP của nước Pháp!

Và tất cả những cái đó - chiến dịch đồ sộ ấy - sụp đổ một cách đáng xấu hổ mấy tuần lễ sau đó ở Paris trong một cuộc đấu đá nhỏ, có thể là khốn nạn nhất về loại này! Tôi còn nhớ lại niềm vui dã man của một người dưới trướng Pignon - Cousseau - thông báo với tôi về "vụ bê bối" sau một bữa ăn ngon ở Sài Gòn. Những năm sau anh ta phải thú nhận với tôi không hề tình cờ - đúng là một đòn bố trí, một cái bẫy. Ý tưởng đơn giản thật tài tình: tạo ra một cuộc xô xát giữa một lính viễn chinh cũ và một người Việt Nam; cảnh sát bắt hai người vì làm mất trật tự công cộng - và lục túi người Châu Á, họ kinh ngạc thấy một bản sao tối mật báo cáo của Revers. Từ cuộc ẩu đả nhỏ ấy người ta đi đến chứng minh điều gì? Chỉ cần phát hiện ra người Việt Nam ấy là một Việt Minh; sau đó có gì dễ hơn nhấn chìm Revers xuống nước, kết tội ông bất tài, thiếu khôn ngoan, thậm chí phản bội. Phải chăng ông đã chuyển tài liệu của ông cho tình báo Hồ Chí Minh để phá huỷ đường lối chính trị của Chính phủ và đưa ra đường lối của mình? Bằng cách nào thì vụ việc đã bung ra. Revers hết đời.

Việc này do một cơ quan đặc biệt thuộc bộ Pháp quốc Hải ngoại chuẩn bị, do thiếu tá Maleplatte chỉ đạo. Như trong một vở kịch, người ta chọn diễn viên, đã cho tập dượt. Người Việt Nam là một phần tử tiến bộ hối cải người ta nắm trong tay. Chiến binh Đông Dương là một lính giải ngũ cần tiền. Người ta bảo người Châu Á: "Chúng tôi giao cho anh một chiếc cặp đựng giấy tờ. Anh lên chiếc xe buýt nào, vào giờ nào, chỗ nào và sẽ đứng ở bến xe". Người ta nói với người lính cũ: "Anh lên chiếc xe ca; đến gần người Việt Nam, nhất là có vẻ không quen biết anh ta". Sự việc xảy ra tiếp đó. Người Châu Á vô ý bước lên chân người Pháp. Anh này mắng: “con khỉ Châu Phi bẩn thỉu". Thế là chửi rủa xô xát nhau phía ngoài vùng ga xe.

Mọi việc diễn ra như dự kiến. Sau đó người ta phát hiện ra những gì? Trước hết những bản sao báo cáo Revers lan tràn khắp nơi. Chính thức chỉ được có ba bản, tài liệu đồ sộ ấy nói về tất cả đường lối và chiến lược Pháp ở Viễn Đông. Nhưng ai cũng có bản ấy kể cả Hồ Chí Minh trong "tứ giác" của mình chăng? Việc truyền bá ấy vẫn là một bí mật. Giả thuyết đưa ra nhiều, ít hay nhiều chắc cũng đúng. Có giả thuyết do cho rằng do thiếu khôn ngoan và kiêu căng - Revers và Mast tự phân phối bản tài liệu quan trọng ấy cho các bạn để "kích động" họ và "khoe khoang". Có kẻ cho là một sự phản bội và rò rỉ có tổ chức - ví dụ nhân một Văn Co, con người lạ lùng, đáng ngờ, khó tả nên lời, được giao trách nhiệm chuyển tài liệu cho Bảo Đại, cũng đã đưa cho những kẻ thù của hoàng đế chăng? Và nếu không phải anh ta, phải chăng là một vị cao cấp nào đó xung quanh Hoàng đế? Tất cả đều có thể. Cũng có lập luận cho là một vụ khiêu khích - một loại "rò rỉ" khác, không phải phản bội mà bố trí có mục đích. Bảo Đại, bộ Pháp quốc Hải ngoại. Ông Coste-Floret có thể làm việc ấy. Người ta cho in sao bản báo cáo, tung ra khắp nơi: một cái bẫy để nắm được quả tang Revers - có thể nói thế. Tất cả đều đáng ngờ nhưng kết quả chắc chắn: màn kịch ở bến xe.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Sáu, 2019, 09:16:10 pm

Revers muốn xóa bỏ một đường lối chính trị, những người của đường lối ấy. Ông làm một cách bất chính. Nhưng là sự bất chính của "viên tướng thật thà", của một người không biết rõ cuộc đời hoặc làm với ý tưởng sai, với hàng loạt nông nổi; dễ dàng cho những người ông muốn "hạ bệ" quay lại "tóm lấy ông". Sau đó họ chỉ còn "khai thác" chống lại ông đủ mọi loại âm mưu, vận động ám muội, quan hệ đáng ngờ. Mỗi ngày vụ bê bối càng lớn, dễ dàng bổ sung bằng một lời đồn mới! Tất cả vào đó, đúng hay sai - lớp người thân tín lạ lùng của ông, những chuyện tiền bạc, cả một mớ chính trị hạ cấp, thói chạy theo lợi nhuận, tham vọng. Xung quanh ông là cảnh chạy tán loạn. Revers cũng đã rất xa, xa nhiều lắm. Mọi người đồng tình hy sinh tay "ngu xuẩn" này - và trở lại nguyên trạng tốt xưa kia.

Vậy là đi để lật đổ tất cả đường lối chính trị Pháp ở Đông Dương, trong tai họa của mình, Revers chỉ đi đến củng cố nó thêm vững chắc. Chính ông, qua đợt bị phản công lại, đã đảm bảo thắng lợi cho Bảo Đại, Pignon, MRP để họ rảnh tay trong cuộc chiến tranh chống người Việt và bản báo cáo bị chôn vùi sau khi bị quật trên xe buýt.

Trong nhiều tháng ở Chính phủ người ta không nói đến Đông Dương nữa. Có những mối lo ngại, những đụng độ khác. Tuy nhiên, dù người ta không biết rõ lắm, các sự kiện ở bên kia ngày càng xác minh cho Revers. Con người lạ lùng ấy trong mình có cả cái tốt nhất và xấu nhất, với sự thông minh tuyệt vời, đã phát hiện ra những sự thật xấu xa của cuộc chiến tranh Đông Dương mà người ta vẫn che giấu. Ông thấy trước sẽ thất bại trong cuộc "chạy đua tốc độ". Thực tế thời gian từ nay sẽ phản lại người Pháp. Từ mùa thu 1950 họ lao vào một cuộc chiến liên miên chống chủ nghĩa cộng sản thuần túy, trong những điều kiện xấu hơn làm tiêu tan lá bài "chủ nghĩa dân tộc" vùng du kích, không nắm được dân chúng thực thụ, liên kết với những kẻ mục ruỗng và phản tiến bộ. Họ phải tiếp tục theo vết xe cũ không thoát ra được, luôn luôn khó khăn hơn, khốc liệt hơn cho đến cuối cùng phải từ bỏ sau Điện Biên Phủ.

Việc "thanh toán" Revers không phải là một biến cố đơn giản. Đây là lúc quyết định trong cuộc chiến tranh của pháp ở Châu Á, sự "cam kết" cuối cùng trước một số dữ liệu xấu, cơ hội mất đi trong việc thử những phương pháp, những giải pháp khác. Từ nay người ta sẽ thấy hậu quả không tránh được của việc đã lựa chọn trong diễn biến tiếp theo.

Có lẽ trước đây đã không có một lối thoát ở Đông Dương. Có thể kế hoạch Revers nếu được áp dụng, dù với một cách khác chăng nữa, cũng dẫn đến tai họa tồi tệ. Nó chứa đựng nhiều đường lối thấp kém, không chính xác, ảo tưởng - nền hòa bình Revers mong có với Hồ Chí Minh chỉ là lặp lại một ảo tưởng cũ. Tất cả chứng tỏ người Việt đã chọn "cuộc chiến tranh trường kỳ" theo công thức của chủ nghĩa cộng sản Châu Á. Tất cả chứng tỏ giữa mối nguy người Pháp và mối nguy Trung Hoa, họ đã chọn - đứng về phía Trung Hoa của Mao Trạch Đông.

Báo cáo của Revers - với phần quân sự, chính trị, năm phụ lục, mười tám bổ sung và sáu bản đính kèm - là cả một công trình. Tất cả được phân tích tỉ mỉ, từ Bảo Đại, con đường số 4, Việt Minh, Trung Hoa cho đến những vấn đề hậu cần bình thường nhất. Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có một công việc như vậy nữa. Và nếu báo cáo yếu về phần tích cực thì ít nhất cũng là một tiếng kêu cấp báo khác thường. Đấy là điều chủ yếu. Biết bao điều sẽ đã thay đổi nếu lúc ấy người ta thoát khỏi lạc quan, chuẩn bị cho mình trước thực tế nặng nề.

Dù sao tài năng của Revers là đã thông báo rất chính xác điều gì sẽ đến nếu người ta tiếp tục theo con đường đang đi - và đúng như thế nếu không có giải pháp thay đổi. Mọi việc diễn ra như ông dự kiến, gần như theo số học.

Từ đấy nảy sinh bi kịch về lương tâm của Pignon. Không ai hơn ông đã góp phần dìm nát Revers. Ông làm việc ấy với những biện pháp đáng ngờ, nhưng với mục đích căn bản "trung thực". Đối với ông những "ý tưởng" của Revers sẽ dẫn Đông Dương đến thất bại. Vì vậy ông hết sức lên án những ý tưởng đó. Ông chắc chắn vào mình, tin tưởng sâu sắc vào quyền lợi của mình. Thế mà mặc dù ông cố gắng, kiên trì, dù có những kết quả bên ngoài, ông thấy mọi việc hư hỏng xung quanh ông - như Revers đã dự kiến. Ông lo ngại đến chết nhưng âm thầm, không dám lộ ra với Chính phủ, với các tướng vẫn rất thỏa mãn.

Revers bị nhấn chìm, quên lãng, khinh thường, dù sao vẫn ở khắp nơi - ít nhất là bóng dáng ông và ông đã đúng. Ông ở Đà Lạt: đã lên án Bảo Đại và Pignon đã bảo vệ. Nhưng Bảo Đại, tất cả nhờ vào Pignon, thể hiện hết sức "mục ruỗng" với chứng loạn thần kinh, thủ đoạn và bất lực. Từ kế hoạch ấy là nền độc lập của Việt Nam như Pignon nhận định, tỏ ra vô ích, không tầm cỡ, không có giá trị. Về bình diện chính trị, tất cả bị hẫng hụt.

Revers cũng ở trên đường số 4; ở đây là cách rõ ràng nhất. Đã xác định chuyển hết quân ở Cao Bằng để tập hợp, tổ chức lại Đội quân viễn chinh ở những vị trí tấn công cho đến lúc thương lượng. Nhưng phải làm nhanh khi còn thì giờ. Sau vụ bê bối, quyết định không chính thức bị loại bỏ nhưng lùi thời hạn đến vô cùng. Vậy là ở lại Cao Bằng. Nhưng sau đó nó trở thành một cạm bẫy chết người. Vì quân đội mới của ông Giáp được người Trung Hoa tổ chức lại, đánh những đòn điếng người đầu tiên: không chỉ còn phục kích mà những trận tấn công, xung kích, những trận đánh lớn. Không thể ở lại nữa nhưng không biết giải thoát bằng cách nào. Và thế là bắt đầu bi kịch về quân sự; cuộc "chiến tranh thoải mái" chuyển sang cuộc "chiến tranh thất vọng".

Năm 1950 lạ lùng, rất lạ lùng! Người ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác nhưng vực thẳm ở đấy. Người ta không muốn thấy nó nhưng vẫn đi thẳng vào đấy, suy sụp gấp gáp; sau khi rơi vào lỗ hổng trống không về chính trị ở Đà Lạt là thất bại chết người của những tiểu đoàn trên đường số 4 trong những núi đá vôi khổng lồ ở Đông Khê.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2019, 08:47:00 pm

Chế độ Bảo Đại

Tai hại đầu tiên của Pignon là Bảo Đại gần như quật lại ông ngay.

Trong lúc Revers cho là một mối họa, Hoàng đế đã rất lịch sự. Rồi ông không bận tâm nữa, chẳng nói không, chẳng có nghị lực, là một con sứa. Và Pignon phát hiện ra ở Bảo Đại một kỹ xảo kỳ lạ để không hiểu, không hoạt động, huỷ hoại mọi mong muốn. Bao sức mạnh phủ nhận thể hiện ở nụ cười và đôi mắt to lim dim của Bảo Đại!

Pignon không thuyết phục được Bảo Đại, dù cố gắng ép buộc, thúc đẩy. Ông đặt bên cạnh Hoàng đế hai thần hộ mệnh, hai chiến sĩ xung kích, Cousseau và Faugère, người da trắng quỷ quyệt và người con lai quan cách. Đây là hai người quen biết cũ của Hoàng đế - Cousseau là người mang tiền từ Hồng Kông tới cho ông. Hai ông bạn ở Đà Lạt trong một biệt thự của phủ Cao ủy, Bảo Đại ở trong biệt thự riêng, cách nhau mấy cây số. Giữa những người thân cũ ấy lúc đầu là thời kỳ trăng mặt. Bảo Đại giãi bày với hai phụ tá của Pignon những ý tưởng đầy thông minh, sáng sủa, hữu nghị. Nhưng sau mấy ngày Bảo Đại không nghe nữa, không nói nữa, lim dim ngủ gà gật trước mắt họ, bắt họ chờ đợi, đứng trước mặt như chưa bao giờ quen biết họ.

Thế là hai tháng giông tố, đủ mọi sức ép theo cách Châu Âu, Châu Á trôi đi trước sự thờ ơ thân tình của nhà vua. Mỗi ngày Cousseau càng tái mặt và Faugère càng nghiêm nghị họ đứng trước việc bất ngờ là không "lay chuyển" được hoàng đế. Cả Cousseau kiên định cũng chán nản và một hôm nói với tôi: "Chúng tôi thạo nghề chứ, đã thử mọi cách nhưng vô ích". Sau đó ít lâu là kết thúc.

Màn cuối cùng diễn ra trong một buổi tối qua điện thoại trước mặt tôi. Tôi đang ở trong biệt thự Cousseau và ông đang gọi tới biệt thự nhà vua, càng nói và nghe, Cousseau, con người hào hiệp một cách độc ác và rất tự chủ, chuyển thành một Cousseau giận sôi lên. Con người rất mạnh mẽ ấy đã quá mức điên loạn và gần như đau đớn, kêu gào chửi rủa - một cảnh đáng thương. Cuối cùng ông bất lực quăng máy, sau mấy giây bình tĩnh lại nói với tôi:

- Bảo Đại nghĩ mình là người ranh mãnh nhất, mặc kệ. Ông ta muốn làm việc gọi là cuộc chơi của mình. Điều ấy sẽ kết thúc xấu cho chúng tôi nhưng còn xấu hơn đối với ông ta - ông hãy nhớ lời tôi.

Một tuần lễ sau Bảo Đại buộc Pignon gọi Cousseau, Faugère về và hai người ra đi. Từ nay Bảo Đại được tự do. Còn Pignon đã đưa Bảo Đại về Đông Dương, buộc phải giữ Hoàng đế và thậm chí chính ông là tù nhân của Bảo Đại.

Điều Bảo Đại từ chối là ra Bắc Kỳ. Ông ta không muốn ở Sài Gòn, nơi ông chỉ là "người thứ hai". Cao uỷ đã từ chối thả ra cho ông lâu đài Norodom, biểu tượng của quyền lực. Nhưng ở Hà Nội không có vấn đề ngôi thứ. Người ta cho ông lâu đài Puginier, một xưởng làm bánh đồ sộ, trang hoàng quá mức năm 1900, vốn là chỗ ở của các toàn quyền. Tất cả được chuẩn bị để đón tiếp ông. Ở đây Bảo Đại sẽ là người thứ nhất, nhà vua, người kế tục không chối cãi được của quyền lực Pháp. Nhưng như vậy có nghĩa ông đi vào trung tâm cuộc ẩu đả, tham gia hỗn chiến, điều ông tuyệt đối không muốn. Vậy là không làm sao chuyển ông đi được. Cousseau sau khi chứng minh hàng nhiều giờ một cách vô ích cho Bảo Đại rằng dân quê vùng châu thổ chờ đợi ông và xuất hiện lại giữa họ ông lại trở thành "Con Trời", đã lặp đi lặp lại với tôi: "Thật là một đồ đít chì".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2019, 08:48:11 pm

Pingon cũng hiểu rất rõ Bảo Đại "lợi dụng" ông để trở thành tỷ phú một siêu tỷ phú. Nhưng tại sao không làm thẳng thắn, với những khoản tiền lãi lớn và đều đặn? Người ta đề nghị với Hoàng đế tổ chức cho ông những phi vụ lớn, những nhà băng, công ty, những công ty hàng hải, hàng không, cơ sở với 51% vốn Pháp còn lại là của ông tuy ông không có một xu vốn. Nhưng Bảo Đại không thích thế. Ông muốn nhận đút lót theo phong tục cũ Châu Á. Ý tưởng lớn đầu tiên của ông là biến Đà Lạt thành một "địa ngục cờ bạc" thay thế vị trí của Ma Cao suy sụp. Sẽ xây dựng những sòng bạc đồ sộ, những khách sạn rất lớn. Đây sẽ là vùng thực sự vui vẻ. Máy bay đi, về sẽ đưa khách hàng tới, những tỷ phú của Hồng Kông, Singapore và những nơi khác. Những người Pháp cho rằng một quốc trưởng không nên chính thức là một siêu hồ lỳ. Bảo Đại bèn thoả thuận với Bảy Viễn, giao cho anh này khu Đại thế giới ở Sài Gòn.

Dù sao suốt những tuần lễ sau khi về Đà Lạt, mối quan tâm duy nhất của Hoàng đế là bố trí chỗ ở, để trở lại một mình trong "nhà mình" với cận thần xa mọi phiền phức và phiền muộn. Biệt thự của Hoàng đế, không đồ sộ rộng rãi nhưng đủ mọi tinh xảo tiện nghi và cuộc sống huy hoàng, chưa sẵn sàng. Giáo quát thợ bảo sẽ treo cổ họ lên. Bảo Đại vui đùa: "Bình tĩnh, anh đừng ngu xuẩn". Việt Minh; không chắc chắn lắm về người bếp trưởng, anh ta kêu lên: "Thưa ngài, hãy cho phép tôi nếm thức ăn trước; nếu có thuốc độc tôi sẽ chết thay". Bảo Đại cả cười đầy chế giễu: "Giáo, anh chỉ! là một kẻ khờ khạo nhưng tôi rất thích anh. Nếu anh muốn có những đầy tớ tin cậy, đừng lấy những người đạo đức mà hãy dùng những kẻ bất lương".

Biệt thự cuối cùng hoàn chỉnh xong, ở trên chỏm đồi, hoàn toàn riêng biệt giữa rừng hoa và cây thông. Bảo Đại sống khép kín ở đây với thế giới nhỏ của mình, có Bửu Lộc người anh em họ ở Paris đã kéo lê lâu dài trong khổ cực và các tiền sảnh, Đắc Khê, luật sư nổi tiếng "ở Pháp" luôn huênh hoang, Vĩnh Cảnh, cậu con trai duyên dáng và rụt rè, là người bảo vệ Giáo luôn mặn mà lo những điều cần thiết và một nha sĩ, một bác sĩ châm cứu, một số vai phụ. Ngoài một số người mua vui, tất cả những nhân vật ấy là các ông hoàng: hậu duệ các gia đình hoàng tộc Huế trở thành những người hào hoa phong nhã hiện đại, những người mẫu của xã hội rộng lớn quốc tế. Họ có đủ các ngón khéo léo của sự thanh lịch, lễ nghi và thô lỗ, tất cả khoa học về môi trường quý tộc. Chỉ duy nhất họ, những quý tộc chán chường và tham lam ấy có thể chịu đựng Bảo Đại với tính cách vô lại thực sự.

Với họ, Bảo Đại sống như trong một cuộc cắm trại thường xuyên; phần còn lại không tiếp cận được với họ, Bảo Đại biến biệt thự của mình thành một "thị trấn cấm" - vì tuy lăn lộn trên thế giới ông vẫn rõ ràng là Con Trời, ghét đám đông, ghét tiếp xúc. Vậy là Bảo Đại đóng cửa sống cùng "người của mình" không trông thấy được và khi báo chí đề nghị một cuộc hội kiến, những người bao quanh trả lời: "Hoàng đế không thể - ngài đang suy nghĩ". Thực ra những ngày đầu dành cho việc "trang trí" mua bán với khối lượng khổng lồ những chiếc xe Mỹ, tủ lạnh, máy quay phim, tất cả những gì cần cho sự lộng lẫy và thú vui. Và cuối cùng khi Bảo Đại đã được bố trí hợp lệ, nghỉ ngơi và đầy đủ tiện nghi quanh mình, ông bắt đầu những buổi tiếp kiến. Vì dù sao ông cũng phải hình thành một chính phủ. Điều đó làm ông thích thú.

Xung quanh Bảo Đại, vẫn ở trong biệt thự của mình, luôn đầy người vì Bảo Đại là tiền và vị trí. Hoàng đế hân hoan về lòng tham ấy, nói: "Tôi sẽ cần mười nghìn chiếc ví để khen thưởng tất cả những sự tận tụy". Và khi một người thân đoán chắc với ông chỉ là bọn vô lại chạy đến đây, Bảo Đại thốt lên: "Càng tốt". "Thực tế ở Đà Lạt người ta thấy - Phạm Công Tắc, các tướng Hoà Hảo, các bộ trưởng Nam Kỳ, những quan lại Annam, một số tu sĩ và cả những người môi giới, những tỷ phú Trung Hoa, những người kinh doanh Pháp. Tất cả những ai là Đông Dương "thuộc Pháp" đến hòa nhập với Bảo Đại. Cũng có cả gia đình đến, bắt đầu từ đại tá Didelot (lấy em gái bà hoàng hậu đạo đức và nghiêm khắc Nam Phương mà Bảo Đại cẩn thận để lại ở Pháp và các con). Còn có tầng lớp dưới là những phái viên và nhân viên, đầy những "quan sát viên" Việt Minh: họ rất lịch sự, không ngớt nhắc lại Bảo Đại trước đây là cố vấn tối cao của Hồ Chí Minh. Lúc nhúc những "phóng viên đáng kính" của tất cả những cơ quan có thể có và không tưởng tượng nổi. Thêm vào là những người quen biết cũ ở Phòng Nhì và của tình báo Anh. Đà Lạt cũng đầy những ông "ria" Mỹ đang tự hỏi: "Bảo Đại có phải là một tay chơi hay không?" Tất cả những cái đó không hề ngượng ngùng - một loại hỗn độn xung quanh một khúc xương mới để gặm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2019, 08:49:04 pm

Trái với sự bình lặng của ngôi biệt thự, Bảo Đại tiến hành những cuộc "hội kiến" mà khách sạn Lang Bian là nơi tụ hội. Đây là một khách sạn âm mưu trên bờ hồ nhân tạo của Đà Lạt do một thiếu tá Pháp già quản lý, phẩy tay trước những thì thầm của các ông Annam chào nhau rất phức tạp và nói không dứt về các tình huống, nghĩa là những "kế sách" họ đưa ra. Các ông ấy hài lòng - họ biết Bảo Đại "hiểu".

Tuy vậy bề ngoài tất cả vẫn nghiêm trang trong những bộ comple, áo sơ mi hồ bột. Mỗi người có Bắc đẩu bội tinh, gọi nhau là "ngài", "hoàng thân'' hoặc "đức ông". Luôn luôn người ta nghe những từ theo nghi thức: "Hoàng đế đã hứa với tôi..." Hoàng đế ở cửa miệng mọi người, vô cùng tôn kính.

Chỉ có một trường hợp thông tục của một sắc đẹp hoạt bát rất trẻ nhưng đã đồ sộ, béo tốt. Đấy là "trưởng" phòng chiếu phim của Hoàng đế, đặc biệt đến từ Paris để quay một cuốn phim về Hoàng đế. Nhóm của cô gồm các ông tóc nâu của các bar ở Bờ biển Xanh, có những máy quay phim thật đẹp. Cô gái tóc vàng là một hướng dẫn viên của Cannes, bô bô khắp khách sạn Lang Bian về câu chuyện của mình: "Bảo Đại nói sẽ đem tôi theo nhưng tôi không thể đến đất nước ông ta không có lý do. Ông bảo tôi phải làm một cuốn phim; tôi trả lời "cục phân ấy". Ông cười, giải thích cuốn phim làm cho có chuyện ấy mà, không phải điều ông cần. Tôi bèn mang theo mấy ông bạn và thế là chúng tôi đến đây". Nhưng rồi cô gái tóc vàng uống rượu say, các ông bạn uống rượu say và những lời than phiền ghê gớm nổi lên vào ngày các nhà quay phim được đề nghị đi cùng Hoàng đế vào rừng. Những người kia giận dữ, hét lên qua hành lang khách sạn: "Chúng tôi không đến đây để đi chơi bời". Khi có ám chỉ kín đáo thổ lộ với Bảo Đại về những việc đó, Hoàng đế trả lời: "Tôi biết lắm nhưng làm thế nào được, cô gái ấy hôn như một nàng tiên". Ông nói thêm: "Cô ta làm nghề nghiệp của mình nhưng chính tôi mới là đĩ điếm thực sự". Trong biệt thự luôn như ngủ gà gật, Bảo Đại đang làm vui cho toàn Việt Nam. Chiếc xe buổi sáng đưa cô gái đến sau đó đưa tiễn "người khách" thứ nhất. Cả ngày hàng người tiếp tục. Bảo Đại làm việc với từng người một, người này sau người khác. Ông ngồi như tê cứng trên ghế phô tơi, thỉnh thoảng liếc nhìn có ý nghĩa: "Tay này dùng được. Tay kia hỏng, phải loại bỏ thôi". Với hướng thông tin khác thường, với bản năng, ông phát hiện đúng cái xấu trong con người đối thoại, biết anh ta muốn gì. Và khi quyền lợi ấy thấp kém, Bảo Đại biết người ấy sẽ là của ông. Dù thực tế bên trong ti tiện đến mức nào, các vấn đề cũng được đề cao theo phong tục tốt nhất của giới quý tộc Phương Đông. Tất cả là tự hiểu lấy. Bảo Đại có một nhìn nhận rõ ràng, nói ra bằng tiếng Pháp (ông nói tiếng Việt kém). Trước hết ông nói mình là một người yêu nước Việt Nam. Phải biết sử dụng người Pháp nhưng không phải là công cụ của họ. Thế là người đối thoại tuyên bố trung thành, bày tỏ ủng hộ Bảo Đại. Qua đó Phạm Công Tắc mang tới cho Hoàng đế hai triệu "con chiên" của mình - nhưng để giáo phái độc lập hơn đối với người Pháp về phần mình Hoàng đế có thế đảm bảo một khoản tài trợ cho quân đội Cao Đài hoặc ít nhất đưa một người Cao Đài vào chính phủ, ở Bộ Tài chính hoặc Bộ Chiến tranh chẳng hạn. Bảo Đại khen ngợi ông ta, nói thêm để ông suy nghĩ, xem xét (nhất là ông không muốn cho tiền). Mọi việc diễn biến theo cách đó và trong mấy ngày Bảo Đại kéo được một số khách hàng - do sự kích động lòng tham. Khi có người thực bụng hoặc vô tư thì Bảo Đại lên án - con người ấy nguy hiểm.

Vậy là Bảo Đại đang trong vận mệnh lớn của mình. Vì lúc đó ông nói, và lần này nói đúng: "Tôi không muốn là một kẻ làm vì". Vận mệnh ấy là dựng lên "chế độ Bảo Đại" đưa ông thành người chủ trên tất cả mọi việc. Ông buộc phải khôn khéo, vì không thể trở lại là ông vua thực sự - ông những muốn trở lại là một ông vua hợp pháp, như không có sự thoái vị năm 1945. Ông giải thích: "Vì lúc ấy tôi chỉ có một vị trí và mọi việc sẽ dễ dàng cho tôi". Nhưng người Pháp không muốn thế - vì sao người ta không rõ khi họ đã đặt tất cả vào ông ta, chắc do vài điều lo ngại khôn ngoan. Dù sao Bảo Đại chỉ được đưa lên sau một thu xếp đáng ngờ với người Pháp chứ không phải có toàn quyền. Người ta gọi ông là Hoàng đế nhưng thực tế ông không phải một Hoàng đế. Ông chỉ là quốc trưởng và do những sắp đặt tự ông ký, không hề có ý kiến dân chúng, không thực hợp pháp. Ông không ngớt nói với Pignon: "Nếu như thế tôi chẳng là gì cả mà tôi phải làm". Tóm lại Bảo Đại được người Pháp đưa về, đầy căm hận đối với họ. Ông thường nói: "Tôi yêu người Pháp nhưng họ buộc tôi phải chống lại Pháp. Tôi luôn phải tỏ ra không phải là bù nhìn của họ. Mặc họ! Điều ấy không như thế nếu tôi có thể ngồi trên ngai vàng."

"Tự làm lấy" là tất cả ám ảnh của Bảo Đại và cũng là bi kịch của ông. Vì đối với ông, tự làm lấy là thực hiện gián tiếp ở bên dưới, là mưu mẹo, lừa gạt, tha hóa, thối ruỗng- và lúc ấy ông nắm lấy. Trong toàn Việt Nam không Việt Minh, không có gì hết, lỗ hổng, về quyền lực không một đảng phái chính trị, một tư tưởng chính trị, thậm chí không một dư luận xã hội và Bảo Đại có thể muốn làm gì thì làm. Nhưng muốn thế tự mình phải điều khiển. Phải rất phiêu lưu trong hành động, phải trở thành chỉ huy, người độc tài, người dẫn dắt nước Việt Nam dù chống lại chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa thực dân, tùy lựa chọn. Đó là điều một người bình thường sẽ làm. Nhưng Bảo Đại không phải con người bình thường ấy; ông bị tê liệt, bị khống chế bởi nỗi lo lắng và chỉ bình tâm lại trong rắc rối và hèn hạ, ông tiêu phí trí thông minh để chẳng đi đến đâu.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2019, 08:50:31 pm

Một Hamlet da vàng

Bảo Đại không phải con người chỉ biết hưởng lạc; đấy là một người cảm thấy lo âu, hiểu quá rõ hành động là như thế nào. Thậm chí ông không thể đối mặt với thế giới bên ngoài nên việc đi Sài Gòn là một cực hình đối với ông. Trong các lễ tiết ông đứng đó không một cử chỉ, một lời, gần như đần độn với sự khó chịu của mình. Sài Gòn căm ghét - nhưng Bảo Đại cũng tỏ ra mệt mỏi như thế ở Bắc Kỳ khi ra đấy lần thứ nhất được hàng trăm nghìn dân quê hoan nghênh vì nghĩ ông vẫn là vua. Nhưng ở đây cũng thế, không một động tác một câu nói và vẫn chiếc mặt nạ ủ ê, khinh thường. Mấy tháng sau ông trở lại Bắc Kỳ nhưng dân chúng không hoan nghênh ông nữa.

Bảo Đại có mắc chứng mất ngủ, nhiều tuần liền ông không ngủ được. Thường cũng có những đợt đau đầu ghê gớm. Sau này ông đau mắt và có những thời kỳ, hầu như không trông thấy nữa. Chẳng bao giờ ông ngớt suy nghĩ và chính ý nghĩ ấy huỷ hoại ông. Như thế ông có nhiều mánh khóe. Có những bữa tiệc sang trọng, những trác táng, "hôn hít". Ông có nhiều đàn bà, hàng đống con gái đủ các nòi giống, màu da, Giáo, thủ hiến Annam, cung cấp cho ông, đưa từ Hồng Kông và khắp thế giới đến. Dù đầy sức lực nhưng nhiều quá, ông chán việc làm tình và say việc đánh bạc, thành thạo nhất là chơi Pô-khơ và britje vì ông là chúa ở những nơi cần mưu mô, tính toán, ranh mãnh. Ông thích rừng: đây là chỗ ông cảm thấy một mình, rũ bỏ tất cả. Cả biệt thự Đà Lạt của ông cũng quá "thượng lưu" và càng ngày ông càng lẩn tránh ngôi nhà bên hồ. Ở đây xa tất cả, ở khu rừng hoang sơ nhất, giữa những ngọn núi ngay trên một vùng đầm lầy đầy lau lách. Đấy là quang cảnh nhiệt đới tuyệt đối, hoang sơ tiền sử. Ngôi nhà ở trên một gò đất cách mặt nước đục mờ mấy mét, xung quanh là màu đen của rừng rậm nhiệt đới. Ở đấy Bảo Đại sống nhiều tuần, sung sướng giữa những người cổ sơ và thú vật hoang dữ. Ngồi sau cửa sổ, ông đeo kính ngắm nhìn những đàn gấu, đẹp và hung dữ nhất trên đời, những con trâu hoang u vai trên hai mét, chạy nhanh như gió. Ở đấy ông sống giữa những người thiếu số có phong tục mê tín và những con voi - ông rất thích voi. Ông tìm những con mẫu đẹp nhất, mua của những bộ tộc "phù thủy săn voi", có hàng chục con voi đã thuần hóa ông luôn vuốt ve.

Bảo Đại cũng thường vào rừng đi săn, một mình hoặc với trưởng nhóm săn của ông người lai, một anh chàng tử tế mặt như kẻ cướp. Ông là một người săn bắn giỏi, và xem ra ông không bao giờ sợ. Nhưng cuối cùng ông cũng không bắn nữa, ông ngồi dưới cây hàng nhiều giờ liền chẳng làm gì cả.

Tuy vậy Bảo Đại không bị rối loạn thần kinh. Bệnh tâm thần của ông là của người quá thông minh nhìn tất cả đều là mối nguy hiểm. Trong cuộc đời ông bị đập nát vì những lực lượng mạnh hơn, bị phản bội bằng mọi cách, và ông cũng phản bội. Nhưng hơn bao giờ hết, ở nước Việt Nam mà vận mệnh đưa ông về làm quốc trưởng, ông cảm thấy những lực lượng mạnh hơn đang rình mò ông. Ông thường mỉm cười lạ lùng nói: "Các ông biết, Việt Nam là một đồ chơi trong các nước lớn, đúng là một vật cá cược. Chúng ta bị đường lối chính trị quốc tế thống trị, chúng ta chỉ là con số không". Ông cũng bí hiểm nói: "Điều tôi làm chắc sẽ bị phá huỷ. Việt Nam sẽ có những năm khó khăn, có lẽ mười hoặc mười lăm năm. Điều tôi sẽ xây dựng và trước khi bị nhấn chìm có lẽ sẽ phục vụ được, cần phải nghĩ nước Việt Nam là trường tồn".

Nhưng đấy là mâu thuẫn của con người ấy - điểm nút bệnh tật của ông ta. Vì Bảo Đại nói về tương lai như thế nhưng không xây dựng nó mà ngược lại. Trong mối lo lắng lạ lùng và thầm kín, ông nghĩ những gì ông có thể làm ở Việt Nam - mọi hành động ông chỉ huy, mọi sức lực tung ra - trước hết làm ông thất vọng và quay lại chống ông. Thế là trong điều kiện có thể, ông phá huỷ. Ông có tài chia rẽ, gieo rắc ghen tỵ, cản trở. Và những ai không khá mục ruỗng, không ở trong tay mình thì ông đánh bại. Ông làm như thế vì bản chất và cũng vì đường lối có dụng tâm - chế độ Bảo Đại là nghệ thuật tâm lý điều hành sự đê tiện, tinh tế, loại bỏ tất cả vì sự đê tiện. Ông thường tuyên bố: "Tôi đã học được cách tin tưởng vào bọn đều giả". Thế là giữa những đổ nát, "chế độ" của ông đi đến sự đồng loã của một băng, thậm chí có thể nói một "băng cướp" ở một nước Việt Nam xuống cấp. Và ông tự cho mình đủ mạnh, do sự khôn khéo để luôn ở trên cao, để giữ "băng cướp" ấy chống lại tất cả nhờ vào một loạt đòn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2019, 08:51:14 pm

Mục đích của ông trước hết là bất động: Nếu người ta đề nghị một kế hoạch sáng tạo, bao giờ ông có những lập luận rất hợp lý để chống đối. Chưa lúc nào trí thông minh phê phán, phủ nhận đến mức ấy. Sự sáng suốt của ông như một bệnh ung thư.

Tất cả được phân tích rất rõ. Trước hết ông nhìn tình hình từ trên cao, ông là một trong những người Việt Nam hiếm hoi làm được điều ấy. Hơn ai hết ông biết thực lực ở Việt Nam là chủ nghĩa cộng sản quốc tế và Mỹ. Nước Pháp quá yếu quá xa, không đủ nghị lực và phương tiện để có thể thực sự "chơi" ở Châu Á - hơn nữa chính phủ ba đảng phái của họ lu mờ, không gây được sự tin tưởng nào. Vậy không nên quá gắn chặt với họ, cũng không nên máy móc đánh bại họ vì trong lúc này họ đang chiếm đất và nếu không có Đội quân viễn chinh thì Việt Minh sẽ tràn tới. Từ đó theo suy nghĩ của Bảo Đại, tình hình chỉ tạm bợ, kéo dài đến lúc những sự thực sâu xa của thế giới quyết định vận mệnh của xứ Đông Dương. Phải dùng tài năng giữ cho đến ngày ấy. Phải phong tỏa tất cả, ngăn chặn nước Pháp muốn lôi kéo Bảo Đại đi theo con đường của mình - nhưng cũng phải ngăn chặn Mỹ muốn sử dụng ông. Ông nói: "Tôi không muốn là bù nhìn của người Pháp, cũng không là quả chanh ép của người Mỹ".

Ở Việt Nam ông cũng chống lại tất cả, rất cương quyết, không phải chống đối thẳng thừng, ngớ ngẩn mà theo lối trơ lì bất động. Ông chống lại nhân dân và những gì thuộc về nhân dân vì ông có sự hiểu biết ghê sợ, đến mức không chịu đựng được những tiếp xúc gây cho ông mất tự chủ. Vậy là đối nghịch hoàn toàn với những cuộc bầu cử, với những gì có thể "đánh thức dậy" số đông: vì khi họ cảm thấy mình quan trọng thì có gì họ không đòi hỏi? Đấy là sự bướng bỉnh càng kỳ lạ khi mà trong lúc đó Việt Minh làm tất cả, bằng mọi cách để động viên dân chúng da vàng đông đảo. Và dân quê đáng lẽ đi theo một Bảo Đại quan tâm đến họ, cuối cùng ngả theo Việt Minh chăm sóc họ dù là quá đáng. Bảo Đại không hiểu sự miệt thị có tính cách vua chúa, lối khôn ngoan theo đạo Khổng đã lỗi thời, loài người không muốn thế nữa và làm điều tốt nhất cho nhân dân mới là cơ may của ông để chống lại được Việt Minh.

Bảo Đại chống chủ nghĩa quốc gia. Ông tự nhận là người quốc gia, lãnh tụ của tất cả những người quốc gia các loại nhưng chỉ để "phá huỷ". Lúc đầu ông vờ tiếp xúc với quân du kích. Ông dùng một thành viên trong văn phòng ông có mười ba người bà con trong Kháng chiến để đặt quan hệ. Nhưng những điều đình ấy không có kết quả gì. Và những người liên minh hiếm hoi - những người tự rời bỏ hàng ngũ phía bên kia, bị thô lỗ đuổi khéo khi ra mắt Hoàng đế, nếu không ít nhiều là bà con thì cũng thuộc về gia đình quý tộc nào đó ở Huế.

Bảo Đại sâu sắc chống chủ nghĩa cộng sản và Hồ Chí Minh - ông biết quá rõ nếu họ thắng thì điều gì sẽ chờ đợi ông vì lần này họ không để ông "lọt lưới". Nhưng ông không tỏ rõ, không nói gì về mối căm thù ấy. Ngay lúc đầu thậm chí ông phác họa một số thương lượng mơ hồ với Tổng bộ Việt Minh. Điều đó làm người Pháp không bằng lòng nhưng chứng tỏ ông quan trọng - đấy là chứng cứ phô trương mà cả những người nghiêm khắc nhất cũng không coi ông như trong số có thể bỏ qua và cũng sợ ông. Những chỉ thế thôi trừ việc ông Hồ Chí Minh đã hứa người ta sẽ không giết ông. Rất khôn ngoan Bảo Đại sợ lời hứa ấy chỉ là một mưu kế để giết ông dễ dàng hơn. Ông bố trí quanh biệt thự một đội bảo vệ với những ngự lâm quân được trả lương rất cao và đẹp - có trách nhiệm cứu mạng sống của ông, đó là "ý tưởng" tích cực duy nhất.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2019, 08:51:45 pm

Trong lúc này, người thù địch thực sự và duy nhất là giới tư sản lớn Nam Kỳ đã nhúng tay vào vụ Revers và bỏ qua ông. Vì thế Bảo Đại chống lại mọi hội đồng - vì ông rất biết các hội viên, dưới ảnh hưởng của các trí thức và nhà giàu của Sài Gòn sẽ nhanh đi đến kết luận ông hoàn toàn không tích sự gì. Về việc này ông cũng chẳng thể làm gì hoặc không được bao nhiêu. Ngược lại ông sẵn sàng giao Chính phủ cho những tư sản này. Không nguy hiểm vì tất cả đã được tính toán để làm họ thất bại, phá sản. Đây là một "cuộc chơi" mà ông chắc chắn mình sẽ thắng.

Cuộc chơi tiến triển theo cách sau: Dù thế nào cùng phải có một người lãnh đạo Chính phủ. Có thể là Bảo Đại nhưng ông ta không muốn. Ông không thích ra mặt mà chỉ nấp trong bóng tối. Ông nói với những người xung quanh: "Tất cả những người khao khát hành động và trách nhiệm kết thúc một cách khốn khổ. Quyền lực giết người ta. Những ai khôn ngoan và không ra mặt là những người lãnh đạo thực sự quốc gia". Mánh khóe của Bảo Đại là bình thản sống ở Đà Lạt và để Chính phủ xa mình ở Sài Gòn. Đứng đầu Chính phủ ông cử một kẻ thù, một người phải rũ bỏ. Vì Chính phủ là chỗ dùng làm cho "bất tỉnh". Đấy là lý thuyết lớn về sự huỷ hoại - sử dụng những người quấy rầy cho đến khi không còn nữa, cho đến ngày Hoàng đế có thể tổ chức Chính phủ tin cậy. Chính phủ của "băng nhóm". Tiến trình huỷ hoại bao giờ cũng giống nhau, giữa mèo và chuột; Bảo Đại là mèo vì theo thể chế quốc gia - thể chế của ông ta - chính ông thành lập hoặc giải tán các chính phủ dựa vào lương tâm ông vì họ chỉ chịu trách nhiệm trước riêng ông. Vũ khí duy nhất của Chính phủ là nắm công quỹ. Một lần có người thân tín của Bảo Đại tâm sự với tôi: "Chúng tôi cũng phải khôn ngoan vì Chính phủ như có tiền".

Tuy vậy không bao giờ Bảo Đại hỏng việc. Người ta cảm thấy ông thích thú khi hành động, ông chỉ đạo công trình tiêu huỷ từ biệt thự Đà Lạt hoặc trong ngôi nhà ven hồ giữa cuộc sống đầy thú vị. Đấy là việc cho chết từ từ, bao giờ cũng thế. Lúc đầu ông "mềm mỏng" hết sức thân mật với viên lãnh đạo mới của Chính phủ, rất khéo tán dương và đối xử tử tế! Rồi ông chờ cho Chính phủ tự tan rã vì chính ông làm những "việc bẩn thỉu". Khi tình hình có vẻ chín muồi, Hoàng đế bắt đầu tỏ thái độ khác; bằng lời lẽ chọn lọc điện đi "sự ngạc nhiên" của mình. Những bức điện của nhà vua tiếp nhau, nhanh chóng làm Chính phủ tê liệt, thủ tướng lo sợ. Tiến trình ấy tiếp tục và thủ tướng chỉ còn là một mảnh vải rách sống trong sự ám ảnh của Đà Lạt, của tính khí thất thường, của những bức điện. Ông ta khúm núm chạy chọt, cho Bảo Đại cả lớp cận thần tiền dưới mọi hình thức. Điều ấy cũng chẳng có tác dụng gì. Nếu thủ tướng cố gắng hoạt động và lãnh đạo, Hoàng đế ngạc nhiên về những "sáng kiến không phải lúc" của ông; nếu ông không làm gì nữa, Hoàng đế sẽ ngạc nhiên về sự "bất lực của Chính phủ". Đôi khi thủ tướng muốn đến Đà Lạt thanh minh. Bảo Đại cho biết không tiếp ông được và để chắc chắn hơn, ông tự bảo "bị bệnh" hoặc đi săn nhiều ngày trong rừng. Thỉnh thoảng thủ tướng cố chống lại, thậm chí nhờ người Pháp can thiệp. Thế là đi đến gần kết thúc. Nói chung bỗng có sự gia ân trở lại, Hoàng đế vui vẻ cười; khi thủ tướng đã yên tâm, Hoàng đế cho biết ngài chấm dứt nhiệm vụ của ông. Thường là người kế vị được chỉ định, rất tinh tế, được giao đưa thư thải hồi cho người bị thất sủng. Và rồi toàn bộ chu kỳ ấy lại bắt đầu.

Ở Viễn Đông gọi cách ấy là "vận động khéo" - nghệ thuật làm khánh kiệt và bóp nặn đến cùng. Việc "vận động" ấy càng hoàn hảo khi bên cạnh chính phủ khốn khổ Sài Gòn Bảo Đại có chính phủ "của mình". Đấy là văn phòng nhà vua, những người cầm quyền của hoàng gia. Đấy là lớp cận thần phiêu lưu hoặc chơi bời, người Việt Nam, người lai, cũng có một số người Pháp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2019, 08:54:35 pm

Lớp cận thần quyền thế

Bảo Đại sống giữa cận thần. Nhưng bí mật quyết định là Văn phòng Nhà vua - thậm chí là mùi vị của Hoàng đế, lớp cận thần của ông. Không có gì được xác định rõ ràng và về nguyên tắc chỉ là ban thư ký. Nhưng văn phòng này thực tế là một loại phòng soi sáng tất cả những gì xảy ra ở Việt Nam, công cụ của mọi tác phẩm cao và thấp. Vũ khí của họ là con triện của Hoàng đế và nhờ vào đó họ can thiệp vào tất cả. Rất khó gỡ là những mưu mô của Văn phòng với nửa tá người mù quáng phục vụ những đam mê, những lợi ích của Hoàng đế, và của họ. Bảo Đại nhu nhược với bạn và khi ông lợi dụng ông cũng cho phép họ lợi dụng.

Bảo Đại không đi vào chi tiết nhưng con người của các chi tiết là chánh văn phòng nhà vua, Nguyễn Đệ. Đây là một ông bé nhỏ kể cả đối với người Việt Nam, ăn mặc chải chuốt, người Thiên Chúa giáo, rất trịnh trọng. Bảo Đại gần như quá một con người. Nguyễn Đệ không phải một con người, đấy là sự tàn bạo. Ông ta chỉ bắt người ta làm mọi công việc đều qua ông. Trong cả thời kỳ chế độ Bảo Đại, chắc chắn. Người ta ít thấy ông, không nói về ông, ông như người ở ẩn. Bí mật là phương châm nhưng ông biết hết. Nguyễn Đệ bao giờ cũng ở trong văn phòng khô khan của mình cách phòng khách Hoàng đế ngồi chơi đùa mấy mét. Ông không có thú vui, đúng hơn chỉ có một thú vui - lừa bịp. Có lẽ đấy là một ân huệ của tự nhiên. Tôi thường tự hỏi làm sao ông lừa bịp người ta được khi mà sự giả dối thể hiện rõ trên khuôn mặt nhỏ bé của ông ta, trơn lì, trong giọng nói vờ nhân từ và những tiếng cười ngắt quãng. Tuy là người hiện đại nhất về tài chính trong những người Việt Nam (ông là một người môi giới cũ của Nhà băng Đông Dương), ông còn thuộc về Châu Á cũ mà nghệ thuật cao nhất là sự lừa bịp. Ông ta rất thành thạo trong việc phức tạp hóa một âm mưu mà chỉ có ông mới tìm ra và đấy là sức mạnh của ông. Một hôm Bảo Đại bảo ông: "Anh nói sự thật cho tôi nghe". Nguyễn Đệ chỉ khôn khéo cười không trả lời. Bảo Đại lại nói: "Tôi thấy anh thậm chí không biết mình đã làm gì". Đối với mọi vụ việc ông có hàng tá giải pháp vòng vèo. Nguyễn Đệ tin vào nét đẹp của tính phức tạp "lôi thôi". Ở Việt Nam Bảo Đại bị khinh miệt với một sự độ lượng nào đó; Nguyễn Đệ thì bị căm ghét. Một hôm ông ta nói với tôi: "Các bộ trưởng lớn xưa kia đều bị căm ghét. Sự kinh tởm là dấu hiệu một nền cai trị tốt." Trong thế giới hiện đại Nguyễn Đệ có thể là một bộ trưởng lớn nếu không có tính tai ác, sở thích làm điều xấu. Chính ông ta lôi kéo Bảo Đại vào trò chơi tinh ranh, luôn tìm cách lừa bịp, điều mà mấy năm sau để hoàng đế một mình, bị cả những người ông cho ăn uống quá nhiều bỏ rơi. Trong lúc chờ đợi, Nguyễn Đệ làm giàu thoải mái ở Văn phòng nhà vua. Người ta đánh giá tiền lãi của ông đến một tỷ phrăng, nhất là việc bán chức tước đưa lại cho ông. Bảo Đại biết nhưng chấp thuận nhận phần của mình.

Trong "chế độ Bảo Đại" cũng có những thủ hiến, đại diện trực tiếp của Hoàng đế trong nước. Có ba người.

Thủ hiến Nam Kỳ, đúng ra là thoát gần như hoàn toàn khỏi chính quyền nhà vua. Ông này lệ thuộc vào chính quyền tư sản Sài Gòn. Nói chung là một tư sản lớn bình thường, hơi có bà con với thủ tướng Chính phủ. Vì vậy ở miền Nam đất nước mình Hoàng đế dựa vào đủ loại vô lại - tổ chức Bình Xuyên, các giáo phái vũ trang Cao Đài, Hòa Hảo, các tầng lớp cặn bã chống lại các "nhà giàu" đầu sỏ, đầy tiền bạc, ít nhiều tự do, ít nhiều là người cộng hòa, đang cầm quyền. Ngược lại các thủ hiến Bắc và Trung Kỳ là những quân vương thực tế độc lập đối với Sài Gòn, phục tùng quyền bá chủ của Bảo Đại, do Hoàng đế đào tạo. Thủ hiến Bắc Kỳ, Nguyễn Hữu Trí là một ông chúa lớn, một quan lại, hậu duệ của vô số nhà nho. Đây là một người thanh mảnh, đẹp, khoảng năm mươi tuổi, mái tóc bạc với những nét đặc biệt kiểu Phương Tây, quần bao giờ cũng thẳng nếp, nước da ngăm ngăm như màu nghệ sĩ, vẻ đẹp hơi buồn gần như thơ mộng trong đôi mắt hiền, nụ cười đắm đuối! Ông quý phái đến mức người ta quên ông là người da vàng không có vẻ mặt bí hiểm của Phương Đông, tỏ rõ những cảm xúc, nỗi đau đớn. Ông có thể nói hàng giờ về những bất hạnh của Tổ quốc mình với thái độ thực sự khổ sở. Nhưng những xúc cảm của ông bao giờ cũng đi đến kết luận: phải để ông giết hết Việt Minh, lũ thô thiển, kẻ thù của trật tự xã hội và nhân loại. Thường ông cũng tỏ ra suy sụp vì không thể làm được gì nhiều. Đã bao lần trong các văn phòng lớn của ông ở Hà Nội, một mình và tế nhị, ông than thở với tôi: "Chà! Nếu người Pháp hiểu...". Một lần thậm chí ông nói: "Chà! Nếu Hoàng đế hiểu...". Vì ông Nguyễn Hữu Trí khốn khổ yêu nước và gần như trung thực, rất bất lực một mặt vì Đội quân viễn chinh hoạt động một cách độc tài trên vùng châu thổ tùy theo tính khí của các sĩ quan, hạ sĩ quan, mặt khác vì Bảo Đại trong những thú vui ở Đà Lạt: Hoàng đế chẳng cần đến xứ Bắc Kỳ xa xôi, nghèo nàn và nguy hiểm như thế - ông không muốn đến đó.

Thủ hiến Trung Kỳ là một người thô lỗ - Giáo, nguyên dược sĩ. Ông ta run giọng và đầy nước mắt cảm thông khi nói về Bảo Đại. Trước mặt ông này, ông kêu lên: "Tôi kính yêu Hoàng đế". Hoàng đế trả lời: "Giáo, đừng ngốc nghếch". Thực tế Giáo rất quan trọng, một nhân vật chủ yếu của "chế độ Bảo Đại".



Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2019, 08:55:41 pm

Vì Bảo Đại có thể uống Whisky hàng ngày ở Hồng Kông nhờ vào Giáo nên Giáo trở thành thủ hiến Trung Kỳ. Giáo kể với tôi; "Hoàng đế sống cuộc đời cay đắng ở nơi lưu vong. Tôi đã thuyết phục vợ tôi mang tiền tiết kiệm của tôi đến cho Hoàng đế. Ngài lúc ấy nói chỉ có tôi là người duy nhất làm việc đó. Tôi đã làm đầu bếp, lái xe cho Hoàng đế và trong lúc tôi ở dưới gầm xe bôi dầu mỡ tôi đã nghe những người Việt Nam khác nói với ngài: "Giáo là một tay mánh khóe. Giáo là một tên lươn lẹo để ngoi lên". Nhưng vì tôi đã làm những việc đó mà Hoàng đế giữ được địa vị của mình và ngài nhớ lắm".

Giáo thủ hiến lúc đầu xuất hiện trước tôi trong thủ đô Huế là quán quân đua xe đạp, áo may-ô sát người và ruột xe quấn quanh người - ông đang bận tranh giải với một "cô người Mỹ” trên một chiếc xe tay nắm cong do ông tự đặt làm. Tôi khen ngợi và ông nói: "Giáo thủ hiến buộc phải thắng nếu không sẽ phải bỏ tù các tay đua vì tội làm tổn thương thủ hiến"- và đúng vậy. Đấy là một tính cách riêng của Giáo khi nói về mình - ông ta thích nói với tôi: "Giáo hơi điên nhưng muốn điều gì làm điều ấy". Phần lớn thời gian ông muốn mình là Mussolini. Bắt chước lối huy hoàng phát xít, ông cho làm một lâu đài kiến trúc hiện đại. Trong đó có một văn phòng dài năm mươi mét, rộng hai mươi mét, cuối phòng một chiếc bàn giấy dài năm mét rộng ba mét và sau chiếc bàn là Giáo. Gian phòng trống trải, bao la. Trang trí chỉ ở giữa có hai con hổ nhồi rơm, con mắt thủy tinh và xung quanh một đường viền bằng chậu xanh lấy ở bảo tàng công cộng. Phải mất một phút mới bước tới chỗ Giáo ngồi chờ, cái nhìn không thiện cảm, hàm răng nghiến chặt, đưa cằm lên và đến giây chót, nếu là một "người bạn", ông ta phá lên cười và vỗ mạnh vai. Làm sao biết được nếu Giáo là một Mussolini làm hề hay một anh hề làm Mussolini? Thâm tâm Giáo là con người ghê gớm nhưng ông dí dỏm luôn tự chế giễu mình. Làm sao không cười được khi ông ta khẳng định nguyên tắc cai trị của mình là "để cho dân chúng được hạnh phúc, lò xo giường của thủ hiến suốt đêm phải rung lên". Vì vậy lẽ tự nhiên sẽ làm tổn thương thủ hiến khi một người đàn bà từ chối không góp sức với Giáo vì hạnh phúc của dân chúng. Không thể chấp nhận việc đó. Giáo cũng giải thích: "Tôi là giáo dân, giáo dân quá sùng đạo để xưng tội, làm phép thánh. Vì linh mục sẽ hỏi: "Giáo con có hối hận về tội thông dâm không?" Tôi không muốn nói dối linh mục và Chúa. Tôi sẽ đi xưng tội khi đã quá già không thông dâm được nữa.”.

Giáo cũng nói về mình: "Giáo tinh ranh lắm, biết nên làm như thế nào". Khi ra lệnh cho dân chúng thủ đô Huế tổ chức lễ mừng hoàng đế Bảo Đại, cả trăm nghìn dân hoan nghênh nhà vua không thiếu một người, cả khối người, biển cờ, sư sãi tụng kinh, có những cô gái trang trí hoa bức ảnh rộng lớn của Hoàng đế, có Giáo đứng trên bục cao hét lên: "Hoàng đế muôn năm" - và cả đám đông hô như điên. Một cảnh như vậy không được chấp nhận ở một nơi nào khác. Giáo tâm sự với tôi: "Những "đồng bọn" khác của Bảo Đại không dám, họ không liều lĩnh. Nhưng ở Huế tôi bảo: "Ai không thích Bảo Đại, không thích Giáo nào? Kẻ nào không thích Bảo Đại, không thích Giáo tôi chặt đầu ngay! Thế là mọi người thích chúng tôi.".

Giáo có quân đội - đoàn vệ binh, do người Pháp cung cấp lương. Với số lương quy định trả cho một người lính, Giáo có hai và ông ta còn lấy đi gần nửa tổng số tiền. Có một chỉ huy trưởng cũng nhận phần. Một hôm Bảo Đại nói với Giáo: "Chỉ huy đoàn quân của anh quá đáng, ăn quá nhiều". Giáo cao đạo trả lời nhà vua: "Thưa ngài, tôi đã bảo anh ta hứa danh dự, anh ta thề lương thiện. Thưa ngài, tôi tin vào lời nói của một người lính". Dù sao quân đội của Giáo cũng đánh nhau, giết và bị giết, ít nhất trong một chừng mực nào đó. Vì vậy Giáo rất tự hào về họ. Ông ta khoe khoang: "Khi tôi đã nói chuyện với những người của tôi thì họ là những con hổ. Dần dần Giáo bị ám ảnh về quyền lực quân sự, ông đề nghị với Bảo Đại cử ông làm chỉ huy trưởng quân đội Việt Nam tương lai. Hoàng đế muốn lắm nhưng người Pháp dứt khoát chống. Để an ủi Giáo, Bảo Đại phong ông làm tướng - viên tướng thực sự đầu tiên của Việt Nam - và Giáo đóng một bộ đồng phục có vẽ hoa lá, lộng lẫy, mỗi ống tay áo thêu một con rồng.

Rồi Giáo có một ý tưởng lớn khác: Chinh phục Annam của Việt Minh, đưa quân đội của mình đánh chiếm những tỉnh và thành phố đỏ Thanh Hóa và Vinh. Việc này cũng bị người Pháp từ chối, bảo Giáo nên bình định vùng nông thôn xung quanh Huế đang có Việt Minh thì tốt hơn. Giáo giận sôi lên. Một hôm ông cầm một quả cam trong đĩa: "Đây là bằng chứng. Quả cam này là một giống đặc biệt chỉ có ở Vinh. Những người đã có thể mang đến đây cho tôi sẽ nổi giận hàng loạt khi biết Giáo ra giải phóng họ. Nhưng người Pháp không muốn tin, ngay cả khi tôi đưa cho họ xem quả này."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2019, 08:56:14 pm

Sức tưởng tượng của Giáo được trau chuốt đến mức người ta không biết được ông ta điên hay có tài, vì bản thân ông cũng có tài. Cách ông loại trừ những "Việt Minh có tầm cỡ" của Huế là một điều kỳ diệu. Ông kể lại: "Tôi không cần giết họ. Khi nghi ngờ người nào là Việt Minh, tôi bỏ tù anh ta vì một vi phạm luật pháp nào đó, rồi tôi thả ra không lý do gì. Từ đó anh bị Đảng nghi ngờ. Tôi thu xếp chuyển những thông tin giả, anh ta sẽ đưa cho tổ chức, họ thanh toán anh ta rồi mới biết là sai lầm. Nếu người ấy có giá trị, tôi triệu tập đến, chứng minh cho thấy nếu ở với họ anh ta sẽ "chết cháy" suốt đời và tôi nhận anh vào làm việc để cứu anh ta. Bằng cách ấy tôi tuyển dụng được những viên chức tốt nhất".

Giáo nói thêm, chỉ cho tôi một ông già có râu, mặc theo lỗi cũ, bước vào phòng cúi gập người vì tôn kính. "Đấy là nhân viên tài chính của tôi. Ông biết cách tìm những phương pháp hái ra tiền không ai bằng. Ông không thể biết được đâu... Ông ta lại thuộc lòng thơ tường tận, một trong những người hiếm hoi nắm được những bí mật đáng tôn kính của nghệ thuật tướng số. Nhưng đồng thời cũng là một uỷ viên chính trị. Vì thế thay vì cho giết đi, tôi đã thu nhận ông. Ông ta hiểu và rất trung thành".

Đôi khi Giáo cũng thực sự điên rồ. Trong lúc suy sụp hoặc quá giận dữ, ông ta đến gặp Bảo Đại. Hoàng đế bảo: "Tại sao anh quấy rầy tôi và hành hạ mình như thế? Tại sao anh làm cho cả hai chúng ta khổ sở?". Nếu cơn khủng hoảng kéo dài quá, Bảo Đại "tống cổ", ông ta. Qua một thời gian, Giáo đau khổ quá nên Bảo Đại lại cử ông ta làm thủ hiến. Vả lại bà mẫu hậu can thiệp với con trai cho ông. Đây là một bà già Annam ghê gớm, hoàn toàn theo lề thói cũ, ở một lâu đài nhỏ tại Huế. Ở đấy có những bàn cờ bạc và bà gia ân cho những người thua - Giáo thua bạc nhiều. Sau này ông xoay xở với bà mệnh phụ đẹp đẽ và dữ tợn - nhưng việc đó không quan trọng vì Bảo Đại bao giờ cũng có một điểm yếu đối với Giáo. Không người nào ở Việt Nam biết làm cho Hoàng đế vui chơi, có những "khám phá sở thích ông." Trong lúc Bảo Đại "bực tức" đến cùng với thủ tướng Hữu bị kết tội dùng con bài Pháp, Giáo cho chụp ảnh mình gập mình, cúi đầu tận đất, gửi cho Hoàng đế với câu nói huyền thoại: "Tôi phải là thủ tướng. Tôi là người dẻo nhất."

Cuối cùng, vấn đề tiền bạc kết nối Bảo Đại và Giáo. Giáo chẹt của Trung Kỳ vì lợi lộc của Hoàng đế - ông đưa cho nhà vua những số tiền khổng lồ đến mức bà Giáo, một người đàn bà tinh tế sống đầy đủ ở Paris viết thư cho chồng: "Anh dốc sạch đến mức hầu như chúng ta chẳng còn gì. Anh nên nghĩ việc đó không kéo dài mãi được." Nhưng Giáo, theo một cách nào đó, khá vô tư. Đây là chư hầu trung thành làm tiền mọi mặt cho chủ. Vả lại khi ông nói: "Tôi kính yêu Bảo Đại", là thật - trong triều đình, ông là người duy nhất thật thà. Ông trả cho tất cả. Chỉ cần một bức thư của Nguyễn Đệ ra lệnh đưa số tiền bao nhiêu cho một người nào đó hoặc nộp vào két nào đó. Với lời trách móc giận dữ của vợ. Giáo trả lời: "Hoàng đế nắm quyền mãi mãi; dù ngài có phải rời bỏ thì cũng không để cho chúng ta rơi". Lo lắng, bà Giáo về thăm Huế để khuyên nhủ Giáo phải khôn hơn nhưng chẳng có kết quả gì.

"Chế độ Bảo Đại" lúc ở đỉnh cao có một nhóm người xung quanh Hoàng đế tính tình phức tạp. Đấy là Nguyễn Đệ con người bé nhỏ thủ đoạn của Văn phòng nhà vua. Là Bảy Viễn, tên du côn khai thác Đại thế giới ở Sài Gòn kiếm lãi cho mình và cho Bảo Đại, cuối cùng là trưởng cảnh sát và an ninh. Sau này là tướng Nguyễn Văn Hinh, một "người lập dị" khác về sau xây dựng một quân đội Việt Nam hơi quá theo hình ảnh của Bảo Đại. Và suốt cả thời gian là Giáo, con người gần nhất của nhà vua. Ông ta thậm chí đạt tới những tham vọng quân sự của mình. Vì mấy năm sau đó ông sẽ là chỉ huy "cuộc hành quân Atlanta", kế hoạch lớn cuối cùng của tướng Navarre trong lúc mọi cơ đồ sắp đổ vỡ ở Điện Biên Phủ. Ông được giao - điều ông đã từng mong muốn thiết tha - chiếm lấy Trung Kỳ đỏ, với rất nhiều phương tiện. Cơ may cuối cùng của Đông Dương sẽ đặt vào tay Giáo và ông ta làm hỏng việc. Người ta thấy quá chậm, ông ta là một tên hề hơn một người tài năng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2019, 08:57:33 pm

Vinh quang đế vương

Với "thể chế" của mình Bảo Đại cuối cùng thành công trong việc thuyết phục ông là người cần thiết. Dân tộc ông vứt bỏ ông nhưng toàn thế giới bắt đầu "tin" ở ông. Bảo Đại là tiền đề của đường lối chính trị Pháp, Bộ Ngoại giao Mỹ sử dụng ông và Cao uỷ Anh ở Malaysia, con người hoạt bát Malcolm Mac Donald ca ngợi ông.

Việc đó xảy ra bao giờ cũng theo một cách. Người nào mới đến Đông Dương cũng bị nhà vua mê hoặc, bị phong cách lịch lãm, trí thông minh của Bảo Đại quyến rũ. Bộ trưởng, tướng tá, viên chức cao cấp, nghị viên, không ai thoát khỏi Bảo Đại. Ông bèn lợi dụng để tăng thêm lợi thế của mình. Ông tạo dựng những vẻ mặt ngoài của vương quốc, càng ngày ông càng là vị Hoàng đế và mọi chỉ trích đều không có tác dụng. Chính phủ bị Văn phòng nhà vua đập tan vĩnh viễn. Khi có một quân đội Việt Nam, Bảo Đại sẽ "ra tay". Trước hết ông phình to đội vệ binh và trung đoàn ngự lâm quân đẹp đẽ. Ông tự cấp cho riêng mình một "Địa phận của Nhà vua" bao la gồm cả vùng cao Bắc Kỳ và vùng cao nguyên rộng lớn ông đang tiếp tục sống, uể oải, hưởng lạc và cảnh giác. Ông hạ kẻ thù từng người một. Tài sản đã dồi dào. Ông có các đồn điền, một đội bay màu cờ hoàng gia, (nổi tiếng vì buôn lậu, sắc đẹp của các nữ chiêu đãi viên, sự liều lĩnh của phi công, những chàng trai vận chuyển bất cứ gì, các cô gái, thuốc phiện ngoại tệ, những loại Hoàng đế thích và họ thích) và những tỷ bạc gửi ở khắp thế giới. Bảy Viễn và Giáo vẫn làm tiền cho ông nhiều hơn. Người Pháp tiếp tục "tác động ông" bằng những vụ đổi tiền, giấy phép xuất khẩu, những "trợ cấp". Địa phận nhà vua - với quỹ đen - có lợi nhuận rất lớn. Nhưng ngân sách của Chính phủ cũng gian lận vì lợi ích của Bảo Đại; thêm vào bản chi tiêu chính thức ghi đủ loại chi tiêu khống, thực tế để giấu những bội chi của Bảo Đại. Ví dụ trong mục công trình công cộng dự kiến làm bốn chiếc cầu thì chỉ xây dựng ba, chiếc thứ tư trở thành tiền bỏ túi của Bảo Đại. Chính phủ mới nào cũng cam kết "không đụng chạm" đến Bảy Viễn và Giáo. Không làm trở ngại bất cứ hình thức nào đến các khoản tài chính của Bảo Đại. Ảnh hưởng của Hoàng đế bao giờ cũng được trả giá đắt hơn. Và khi viện trợ Mỹ đổ thêm vào những tỷ của Pháp cung cấp, một phần cũng rót cho Bảo Đại bằng những con đường không trông thấy được. Về việc giữ và quản lý tiền bạc, Bảo Đại được những chuyên gia giỏi nhất từ Franchini đến nhà băng Đông Dương chỉ dẫn. Vì nếu đôi khi Hoàng đế bất bình với các đại diện chính trị của Pháp, ông vẫn luôn quan hệ thân mật nhất với những nhà kinh doanh lớn và những ông cấp cao tài chính: sự thông cảm lẫn nhau và thường xuyên.

Nhưng việc tăng cường ấy không được việc gì vì Bảo Đại ngày càng cắt đứt với dân chúng và thực tại; "Thể chế Bảo Đại" dẫn đến hư không vì đứng đầu chỉ có Bảo Đại - một Bảo Đại từ chối hành động. Một người thân cận của ông giải thích cho tôi: "Để hiểu Hoàng đế, phải thấy ngài chơi trong sòng bạc. Ngài xem rất lâu không tham gia, tìm người chơi thua vì đặt liên tục vào một số và thua nhiều nên phải bỏ. Khi ông ta đi, Bảo Đại đặt số tiền lớn vào số ấy và thắng." Đúng, đấy là thực thể của Bảo Đại - tin vào một sự tinh tế cho phép "người thông minh" đánh một cú. Nhưng điều đó dẫn Bảo Đại đi đến đâu ở Việt Nam vì cú này rồi cú khác ông bao giờ cũng chỉ là một người đánh bạc, không thể là một con người khác?

Có ai không biết tất cả sự "vinh quang" đế vương ấy là mỏng manh? Mỗi thắng lợi đưa Bảo Đại tới chỗ càng cô độc, càng khép kín trong thuyết hư vô của ông? Ông đắc thắng nhưng xung quanh trống không, chẳng có gì để dựa. Điều ông muốn, ông cho rằng chiến thuật của ông tài tình, nhiều ngày khác ông cảm thấy sẽ rất nguy hại đối với ông. Nhưng ông không làm sao được, không thay đổi, bị một sự cần thiết bên trong thúc đẩy không cưỡng lại được.

Khi Bảo Đại được tất cả là ông huỷ hoại tất cả. Ở nước Việt Nam vương triều, giữa những đổ nát của mọi đường lối chính trị và tư tưởng cuối cùng chỉ còn một "thể chế" giả tạo và như thế không đủ. Mỗi cú thắng của Bảo Đại đưa ông lại gần cái mất và sự thất bại.

Và Bảo Đại càng lôi kéo người Pháp đi với mình nhiều hơn. Biết bao người cố gắng thúc đẩy ông hành động - lúc đầu nhẹ nhàng sau đó ép buộc. Nhưng luôn luôn thất bại vì Hoàng đế là một đồng bọn đáng sợ. Tình trạng đó kéo dài cho đến Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Sáu, 2019, 08:58:07 pm

Bảo Đại làm với các cao uỷ và tướng lĩnh Pháp như với các thủ tướng Chính phủ của mình - sử dụng họ. Cũng đường cong ấy. Khi người Pháp ở lâu đài Norodom đã hao mòn, ông ta ra đi. Với người kế nhiệm, lúc đầu là "tuần trăng mật". Hoàng đế rất thông cảm, thiện chí và người mới đến hứa hẹn những điều thật tốt đẹp: Ông tự nhủ trước đây người ta đối xử không tốt với Bảo Đại và mình sẽ là người dẫn dắt ông ấy. Ngay lập tức ông giải quyết thỏa mãn một số yêu cầu (vì Bảo Đại bao giờ cũng đòi hỏi). Hoàng đế bỏ túi nhưng chẳng có gì thay đổi. Thời kỳ hòa hợp nhanh chóng kết thúc. Người mới tới, không còn mới lắm nữa, cho phép mình đưa ra vài lời khuyên. Khi chuyển sang đả kích, nhận xét thì trở thành bất hòa: người Pháp giận dữ từ chối một số lợi ích Hoàng đế muốn nắm giữ và Bảo Đại biến vào rừng đi săn. Ngài đình công đòi tăng công và cả "thể chế Bảo Đại" đứng ở điểm chết. Người Pháp bèn làm dữ, tố cáo Bảo Đại ở Paris. Nhưng đúng lúc Hoàng đế mật báo trước với Paris : "ông sẽ không trả lời gì nữa nếu không thay thế người Pháp này".

Ở Paris, nhà vua có "nhóm thế lực" của mình. Ông phân phát tiền bạc cần thiết – tiền "của ông" trước hết là của Đông Dương và vào trong quỹ nhà vua. Hoàng đế gửi trở lại một phần sang Pháp để "thuyết phục" một số nhân vật có ảnh hưởng. Cuối cùng Bảo Đại rũ bỏ được "kẻ trở ngại" và cả chu kỳ bắt đầu lại với người thay thế. Lại một "tuần trăng mật" và người kế vị cho ngay Bảo Đại một số ân huệ như người tiền nhiệm, cuối cùng cũng nổi giận và bắt đầu từ chối. Ở Paris lời bình luận duy nhất là: "Bảo Đại không hoàn hảo. Nhưng làm gì đây? Không có người để đặt vào vị trí ông ta".

Cứ như vậy người Pháp đi xuống vực vì Bảo Đại.

Càng kịch tính hơn khi thường thường ông ta "thấy" rõ hơn họ - ông thậm chí có tài nhìn nhận thực sự. Thường thường ông hiểu tình hình hơn người Pháp nhiều - biết rõ sức mạnh của Trung Hoa đỏ, sự mục ruỗng nội bộ Việt Nam, những ngập ngừng của Mỹ, những ảo tưởng, sự bất lực, thiếu quyết đoán của người Pháp. Cũng rất thường có những tháng, những năm, trước mọi người, ông đưa ra những giải pháp tốt. Rồi ông nhún vai: "Việc đó chẳng đi đến đâu", ông nói. Và nêu việc ấy cứ làm, ông làm hư hỏng tất cả. Sau này khi có quân đội quốc gia, ông phong tướng, tá cho những kẻ xu nịnh hèn hạ. Tất cả sẽ rất đẹp nhưng bên trong Bảo Đại để sự thấp hèn thống trị, ông yêu thích nó hơn là nhận thấy điều gì lớn hơn.

"Thể chế" Bảo Đại còn kéo dài nhiều năm. Nhưng từ mùa xuân năm 1950, khi Bảo Đại tinh quái, cũng hơi sợ, hỏi Pignon: "Ông nghĩ sao về sự có mặt của những Trung Hoa đỏ ở biên giới?" Viên cao uỷ biết mình sẽ một mình đối mặt với nguy hiểm. Bảo Đại tuy có cơ may, nhưng không thể giúp đỡ được nữa, chỉ có thể trở nên nguy hiểm.

Với Pignon, con người dân sự, một viên chức tốt, một giáo dân hơi đạo đức giả, người da trắng hơi Á châu hóa, chuyên gia về chính trị và cảnh sát, chẳng còn gì - trừ những lính đánh thuê của tướng Carpentier. Từ nay ông bị bỏ qua, là khán giả của cuộc chiến giữa Đội quân viễn chinh và một quân đội nhân dân, theo hình ảnh những đội quân của Mao, từ quần chúng mà ra nhưng thắng lợi trước quân Nhật và Quốc dân đảng.

Pignon cảm thấy bất lực: ông nghĩ đến việc từ chức. Sự nghi ngờ gặm nhấm ông. Bộ chỉ huy Pháp còn lạc quan nhưng biên giới đã đổ vỡ. Phải chẳng tướng Revers cũng đã nói đúng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Bảy, 2019, 05:22:58 pm

"Con nhím'' Cao Bằng

Trong thời gian ấy bi kịch vùng biên giới bắt đầu. Ngay trước khi sức mạnh của Trung Hoa đỏ lộ rõ, trước khi quân đội Mao bố trí hẳn ở biên giới, trước khi lực lượng xung kích của ông Giáp sẵn sàng, Bộ chỉ huy Pháp cuối cùng quyết định áp dụng kế hoạch Revers mà người ta đã vứt vào sọt rác. Nhưng họ làm việc đó chậm mất nhiều tháng và làm từng phần - làm nửa vời và càng tăng thêm rối ren. Người ta tiến hành bí mật, một cách xấu hổ, nói về một cuộc "bố trí co cụm lại".

Người ta di tản con đường số 4 nhưng chỉ một đầu, rút tất cả những gì xa Cao Bằng, những vị trí tuyệt đối không làm chủ được, quá xa xôi, mất hút giữa thiên nhiên như Trà Lĩnh, Nguyên Bình, Bắc Kạn, An Lãi, bỏ giải băng mỏng manh của đường số 4, trên bốn mươi cây số giữa Thất Khê và Cao Bằng. Nhưng giữa khu rừng núi để cho người Việt ấy, người ta giữ lại hai "con nhím hai pháo đài hoàn toàn cô lập trên bộ, nối với bên ngoài độc nhất bằng đường hàng không với những sân bay và cầu hàng không, cả chính Cao Bằng và Đông Khê. Họ ở lại đó càng lâu càng tốt. Ở Cao Bằng, viên đại tá Simon nói: "Tôi không muốn rút một người bỏ một mét đất nào". Đấy là tay đại tá cứng cởi, còn một viên đạn trong đầu. Nhưng sự bướng bỉnh ghê gớm của ông làm bản thân và người của ông phải chịu đựng vô ích. Ông đã phải cuốn cờ Pháp, bỏ các bốt, đưa về phía sau những khu đồn bị bao vây, thiếu đói, bất lực. Họ không giữ được nữa và đi đến chỗ "rắn tự cắn đuôi", rút bớt các bốt để bảo vệ các đoàn xe tiếp tế cho các bốt. Tất cả binh lính kiệt sức bởi những nhiệm vụ ấy - những đoàn xe, những bốt ấy. Không còn quân số để hành quân, để đẩy lùi quân địch. Người Việt muốn làm gì thì làm. Và ngày càng không thể tiếp tế cho Cao Bằng bằng đường bộ.

Cuối cùng tình hình xấu đến nỗi Sài Gòn được thông báo. Người ta cử đến Lạng Sơn một siêu đại tá, một nhà chiến lược họ tên R... nhằm giúp đỡ đại tá cục cằn Vicaire vẫn chỉ huy bình thường vùng biên giới.

R... nói với Vicaire: - Tôi sẽ chỉ cho ông xây dựng một hệ thống hậu cần hợp lý qua rừng rậm như thế nào, sau đó ông không phải lo gì nữa.

Siêu đại tá tổ chức một đoàn xe, triển khai rầm rộ các đội quân và máy móc, chiến cụ; mọi "hoạt động" được bấm nút gần như từng giây. Đoàn quân bao la tiến lên tuần tự, có phương pháp và khoa học, đến Cao Bằng nguyên vẹn không một người bị thương.

Trong lúc cơn mưa khen thưởng sắp đổ xuống các anh hùng của chiến công, Vicaire chân chất hỏi R...:

- Vậy mục đích của một cuộc hành quân tiếp tế là gì?

- Để tiếp tế chứ sao!

- Nếu vậy vụ này hỏng rồi. Đoàn xe của ông nặng nề chậm chạp đến mức dọc đường ngốn hết những gì cần đem tới. Như vậy thay vì mang xăng tới, đoàn xe phải lấy xăng ở những dự trữ ít ỏi của Cao Bằng mới về được Lạng Sơn.

Cuối cùng ở Cao Bằng khu đồn trú thấy đoàn xe đến thì kinh hoàng: sau khi cạn kiệt thực phẩm qua chuyến đi, họ "vay mượn" khẩu phẩn của lính lê dương. Cuối cùng đành "co cụm" lại... A... tỉnh trưởng Cao Bằng cho tôi biết thế. Ông kể:

- Tôi cũng di tản, như phụ nữ, trẻ con và người già ở Cao Bằng. Có lệnh của nhà chức trách quân sự tất cả những nhân viên dân sự không cần thiết đều đưa về Lạng Sơn. Tôi được xét không cần thiết. Chỉ được phép ở lại mấy trăm thương nhân và mấy chục gái đĩ. Và tôi đi đoàn xe cuối cùng của Cao Bằng.

Trong thành phố, ngoài một số quán xá còn lại, chỉ có một nghìn lính ta-bo và lê dương. Tôi đi rồi họ tổ chức như một chỗ bị vây hãm thường xuyên, đào hầm hào, dỡ nhà đặt mìn và hàng rào dây thép gai khắp nơi. Cảnh phá hoại của Cao Bằng khốn khổ, thành phố tôi đã xảy dựng đẹp đẽ đến thế. Những quân lính có vẻ thích thú trong sự bố trí mới, có vẻ hoàn toàn sung sướng. Thế mà họ đã là những người sắp chết sau những đại liên, sẽ bị xua tan khi ông Giáp ra lệnh tấn công, khi hàng chục nghìn quân chính quy xông tới. Tôi thương hại sự vô lo của họ, cũng thán phục họ vì họ chẳng hy vọng gì chỉ với một sân bay tồi nối liền họ với phần thế giới bên ngoài.

Tôi biết khi ra đi tôi cứu được mạng sống của mình. Suốt năm 1949 đã là cảnh hấp hối của con đường số 4. Mỗi đoàn xe trở thành một trận đánh bao giờ cũng khốc liệt hơn, lâu hơn. Không chỉ những cuộc phục kích, bây giờ Việt Minh dàn mặt, chặn đường. Đối với mỗi đoàn xe phải huy động toàn lực lượng biên giới trong một cuộc chiến thực sự. Phải nhiều tuần lễ - chiếm lần lượt lại từng chỏm núi, từng mét đường.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Bảy, 2019, 05:24:40 pm

Đến một hôm thì không đi qua được nữa. Tôi cũng ở đó, trong một chiếc jeep. Nhiều nghìn quân Việt bám chặt vào mặt đất ở đèo Luông Phai, giữa Đông Khê và Thất Khê. Sau một tuần tấn công không ngớt để đẩy lùi họ, với những tiểu đoàn trọn vẹn đại tá Vicaire nói với tôi: "Không thể đánh bật đi được. Tôi đã cố bằng mọi cách, quân Việt vẫn bám vào hang ổ của họ". Bên dưới đèo đoàn xe chờ đợi vô ích. Để dù sao cũng phải đưa qua, người ta thử một kế sách ít hy vọng. Cũng có thể được vì quân địch không chiếm con đường có thể dội bom: họ ở trong các hang động, kiểm soát con đường bằng hàng chục đại liên. Người ta quyết định mỗi chiếc xe thử vận may - một mình lao lên con đường số 4 không có bảo vệ, cho đến quá bên kia đèo. Và chỉ khi nào nó đến phía ấy thì chiếc xe tiếp theo đến lượt mình lao lên; cứ như thế cho đến chiếc cuối cùng.

Rồi đến tôi, với chiếc jeep. Thật đáng sợ. Trên năm cây số ngược dốc ngoằn ngoèo, tôi lái như một người điên. Có những làn đạn đại liên - phải vượt qua lưới đạn bắn vào mặt đường. Lúc nào tôi cũng nghĩ nếu trúng đạn thì chẳng còn hy vọng nào. Thế mà không bị trúng đạn. Hôm ấy quân Việt ngạc nhiên; từng chiếc một xe qua được hết.

Một tháng sau người ta bắt đầu lại. Tám mươi lăm chiếc cam-nhông trong tổng số một trăm mười bị phá hủy. Lửa cháy khắp nơi. Từ đó con đường số 4 bị cắt đứt ở Luông Phai.

Đến lúc ấy bộ chỉ huy quyết định bỏ đường số 4 gần Thất Khê. Nhưng tại sao để lại những đội quân ở Cao Bằng? Quan chức tối cao ở Đông Dương có hỏi tôi có thể bảo vệ một "Cao Bằng - con nhím" không. Tôi đã trả lời "không" trong một báo cáo dài. Nhưng họ vẫn quyết định giữ lại ở đó một đội quân đồn trú, vì danh dự, để bảo vệ những người chết, không thể để Việt Minh chiếm lấy những người bị giết và những chữ thập trắng của chúng tôi. Bộ tổng tham mưu vẫn tin tưởng - họ nghĩ đơn giản có những phiền phức trên đường số 4 nhưng không nghiêm trọng đến thế. Họ chắc chắn những "con nhím" của chúng tôi khá mạnh để chống cự. Báo cáo của tôi bị bỏ qua.

Và A... cau có, chia tay với tôi để đi lấy vé máy bay về Pháp - ông có quyền nghỉ phép một đợt.

Như vậy không phải do một sự phân tích - ví dụ do các sư đoàn Mao áp sát biên giới - mà bộ chỉ huy hành động như thế. Họ chỉ vì quá cấp thiết, không thể đi trên đường số 4 nữa. Thực tế họ vẫn kiên trì khi còn có thể - chỉ từ bỏ hệ thống "đường" số 4 để áp dụng một hệ thống "con nhím", nguy hiểm hơn. Người ta đã chuốc lấy những nguy cơ lớn hơn chẳng phục vụ được bất cứ mục đích gì: đang trấn giữ biên giới, dù nắm con đường số 4 vẫn không làm được thì làm sao có thể làm được với hai "con nhím", hai điểm mất hút trong bao la? Thực ra tất cả bị chi phối bởi cảm tính của ban tham mưu - có những ngôi mộ quân lính ở Cao Bằng, có tướng Carpentier vừa nắm quyền chỉ huy không muốn "rút lui" hoặc lùi ít nhất, tướng Alessandri quyết định đánh nhau với Việt Minh dù ở trong rừng khi đã sẵn sàng. Cũng có sự cân nhắc về chính trị; Ông Pignon nghĩ về hậu quả xấu nếu lùi trong lúc người ta nói với người Việt Nam "Hãy đến với chúng tôi, chúng tôi là những người mạnh nhất". Chính phủ Paris nổi giận về việc đó vì những tỷ phrăng.

Tóm lại người ta "bẻ gãy" tướng Revers rồi làm theo những khuyến cáo của ông nhưng làm nửa vời và vụng về đến nỗi dấn thân vào nguy hiểm hơn trên vùng biên giới đối mặt với người Việt, với người Trung Hoa, vì không thể để mất những "con nhím" ấy. Nhưng bảo vệ như thế nào? Như thường lệ, người ta yên tâm về một lập luận lôgic và sai do Phòng Nhì và Phòng Ba tạo ra để làm vui lòng. Rất đơn giản. Người ta công nhận quân Việt biết ẩn náu, bám trụ, có thể tổ chức những cuộc phục kích và thậm chí "cấm" con đường số 4. Điều họ không thể là tấn công các "pháo đài" vì hành quân tồi và không có sức mạnh hỏa lực cần thiết. Như vậy Carpentier ở Đông Dương cho đến Navarre - trừ de Lattre. Đây là "đánh gia thấp" người Việt. Vì sự đánh giá thấp ấy, Carpentier làm "con nhím" Cao Bằng cũng như Navarre sẽ làm Điện Biên Phủ và sẽ là thảm họa vì cũng như lý do như nhau.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Bảy, 2019, 05:28:02 pm

Quân đội mới của ông Giáp

Trái với những dự kiến của Bộ chỉ huy tối cao là những trung đoàn, thậm chí những sư đoàn Việt Minh được tập luyện và trang bị hoàn hảo, đáng sợ bởi năng lực hành quân và sức mạnh tấn công. Quân đội chính quy của ông Giáp, như người ta biết rõ từ lâu, tốt nhưng còn gần với du kích chiến sơ đẳng. Chỉ cần mấy tháng với người Trung Hoa để xây dựng thành "một quân đội nhân dân" theo bước tiến của quân đội Mao Trạch Đông.

Mọi việc xảy ra đúng như người ta đã nói với tôi ở Móng Cái khi tôi chứng kiến các đội quân của Lâm Bưu đến biên giới. Người Trung Hoa không tấn công Đông Dương, trừ một lần, không có sự cố gì đối với quân lính họ. Trong lúc này họ đang chuẩn bị tung vô số sư đoàn lên miền Bắc xa xôi chống quân Mỹ. Đấy đã là một cuộc phiêu lưu, ghê gớm và các nhà lãnh đạo của Bắc Kinh không muốn có một mặt trận thứ hai ở miền Nam. Họ biết rõ nếu có một can thiệp nhỏ nào vào Bắc Kỳ, thủy quân và những máy bay ném bom của Chú Sam cũng sẽ nhảy vào. Nước Trung Hoa sẽ bị bao vây bởi lực lượng USA - và sẽ là cuộc chiến tranh toàn bộ. Mao không muốn điều đó. Bằng mọi giá, ông cần các tỉnh miền Nam yên ổn trong lúc ông tình nguyện vào Triều Tiên, nơi cần giữ với mọi sức người, hy sinh và máu.

Nhưng điều đó không ngăn cản hành động gián tiếp. Vì chẳng có nguy cơ gì khi tiến hành chiến tranh với người Pháp đế quốc, đồng minh của Mỹ, qua trung gian Việt Minh bằng tạo khả năng cho họ. Thế là nước Trung Hoa "hoàn hảo" của Mao công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh trong rừng. Hồ Chí Minh tuyên bố tổng động viên và việc "tạo dựng" bắt đầu. Việc làm theo lối cộng sản với sự vận dụng tỉ mỉ và dữ dội của những người thông minh - một mục đích được xác định, một kế hoạch được thiết lập, mọi phương pháp được áp dụng, và tất cả những cái đó chính xác tuyệt đối như không có sự bất lực của loài người.

Công việc tiến hành trong một khu trung lập, bên này và bên kia biên giới, một vùng đặc biệt kế tiếp nhau theo mọi kế hoạch. Đầu tiên là hạ tầng, phải có những con đường từ Trung Hoa sang chỗ Hồ Chí Minh qua các tỉnh lạc hậu Quảng Đông, Quảng Tây, những "trục giao thông". Người ta tập hợp một "khối" người hơn một trăm nghìn tù binh Quốc dân đảng và nhân công Bắc Kỳ, lao động bằng tay và "thúng mủng". Trong mấy tháng làm xong bốn con đường xuyên vào các bản lề vùng biên giới đến Lao Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn và Móng Cái. Đấy là những con đường làm cho xe cam-nhông và súng ca-nông.

Sau đường là con người. Người ta giáo dục lại ở Trung Quốc, trong các trại lớn như ở Nam Kinh, Trùng Khánh, Montseu, bắt đầu bằng "giáo dục chính trị". Theo ông Giáp, đây là "nâng cao lập trường tư tưởng của quân đội, gắn liền cuộc Cách mạng quốc gia với Cách mạng quốc tế đang phát triến mạnh trên toàn thế giới". Nói một cách khác, quân đội của ông Giáp, không gọi là cộng sản, trở thành một quân đội đỏ như một quân đội khác. Chủ nghĩa dân tộc được "quần chúng hóa" - từ nay là men đặc thù của quần chúng nhưng "chủ nghĩa dân tộc tư sản" bị loại bỏ. Muốn vậy có sự "thanh lọc" lớn trong quân đội. Những người "không trong sạch" cho đến nay được dùng vì khả năng kỹ thuật, được thay thế bằng những người "trong sạch" được đào tạo hàng loạt ở các trại. Việc "chính trị hóa" làm toàn diện, uỷ viên chính trị đặt trên sĩ quan quân sự. Ban chính trị quân đội, do Nguyễn Chí Thanh lãnh đạo có đặc quyền trên Bộ tổng tham mưu của tướng Giáp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Bảy, 2019, 05:31:34 pm

Nhưng việc "giáo dục lại về quân sự" cũng tăng cường mãnh liệt, Việt Minh được huấn luyện chính trị cũng học sử dụng vũ khí hiện đại, học chiến thuật "Trung Hoa". Đối với họ từ nay chiến tranh không phải hét lên lao vào tấn công nữa mà là hành quân không ngừng giữa thiên nhiên, im lặng, sử dụng tối đa địa hình, không bao giờ mệt mỏi, nản chí. Đấy là lúc xây dựng năm sư đoàn chủ công - 304, 308, 312, 316 vào 320 sẽ theo cuộc chiến tranh Đông Dương đến cùng.

Phương pháp giáo dục là "tự động hóa" mỗi người với một số cử chỉ, một số phản ứng cần thiết, thấm nhuần đến mức thực hiện một cách tự nhiên. Đấy là đào tạo hàng loạt quân lính đơn giản và hoàn hảo, chỉ biết việc mình phải làm dù đi đến thiệt hại tính mạng. Khi một người được nâng cấp, người ta sẽ dạy thêm một số cử chỉ, phản xạ bổ sung được xác định chặt chẽ, phù hợp với cấp bậc mới. Cứ như vậy người ta đào tạo "cán bộ" hết sức đơn giản, cũng hết sức hiệu quả.

Đấy là hệ thống nâng cấp không ngừng đối với những người còn sống. Mỗi chiến binh "tốt" sau trận đánh được qua một lớp giáo dục lại về chính trị và quân sự - cần thiết để bổ sung lên hàng ngũ cao hơn. Bằng cách ấy, những quân lính tiếp tục "tiến bộ", dù là những người bình thường nhất cũng lên đến vị trí cao. Vì vậy có những đại tá Việt Minh xuất sắc cũng chỉ mới biết đọc biết viết.

Trong quy trình ấy không một sự yếu đuối nào được chấp nhận, cảm giác sợ hãi bị loại trừ, dập tắt; kỷ luật và tinh thần hăng hái được đẩy lên mức tuyệt đối. Từ một "mặt trận" trở về, trong mỗi đơn vị quân lính buộc phải tự phê bình. Họ học tập để chiến đấu tốt hơn và những người không thể tiến bộ bị phạt, được giáo dục bằng mọi phương pháp.

Quá trình những người sống sót được thăng tiến, những người hy sinh bị loại bỏ về chính trị - được bổ sung bằng những quân du kích, những tân binh các làng xóm gửi vào các đơn vị, trở thành quân lính chính quy. Từ "quần chúng" lại rút đi những dân quê thay thế họ, trở thành du kích, tự vệ và những người này đến lượt được bổ sung vào các đơn vị chính quy.

Trong cuộc chiến tranh Đông Dương, người Pháp giết hàng trăm nghìn người Việt, không chỉ quân không thường trực mà cũng nhiều quân lính chính quy. Nhưng luôn luôn đối mặt với họ cũng đủ quân số như thế do chế độ đào tạo quân lính thay thế như vậy.

Quá trình quân đội ông Giáp được huấn luyện dưới sự chỉ đạo của các cố vấn Trung Hoa, họ nhận được vũ khí và đạn dược của Trung Quốc. Hai trăm xe cam-nhông "Molotova" chạy không ngớt qua miền Nam Trung Quốc, từ Quảng Châu trên những con đường đang hoàn thiện, cung ứng cho những kho rộng lớn cách biên giới mấy trăm mét, phục vụ những trung tâm phân phối cho các đơn vị Việt Nam tập huấn xong trở về Đông Dương để hành động.

Người Việt từ nay được trang bị đầy đủ, sẽ thay đổi bộ mặt cuộc chiến tranh. Cho đến lúc đó họ buộc phải tự mình cung cấp cho mình. Sự nỗ lực của họ khó tưởng tượng nổi. Họ có hàng trăm "cơ xưởng" - những hang động trong rừng - không có loại thép đặc biệt, hầu như không dụng cụ, sản xuất những súng móc-chi-ê, thậm chí những ba-dô-ka, mà họ gọi là DKZ, cả những "bom bay". Tuy vậy những khí cụ thô sơ ấy làm Đội quân viễn chinh kinh ngạc, đã rất đáng sợ.

Dù sao cũng chỉ là "đồ vặt vãnh", góp nhặt. Bỗng nhiên quân đội khốn khổ của ông Giáp cũng có hỏa lực như các đội quân Pháp - một tiểu đoàn Việt cũng trang bị bấy nhiêu tiểu liên, móc-chi-ê, ba-dô-ka, ca-nông không giật, đại liên như một tiểu đoàn của Đội quân viễn chinh. Và đều là những vũ khí hiện đại. Cũng với "ống dẫn" ấy với việc cung ứng từ Trung Quốc sang, việc thiếu thốn ghê gớm về đạn dược được giải quyết lâu dài. Bây giờ những chiếc xe Molotova mang đến tận biên giới hàng tấn băng đạn, mìn, lựu đạn, dạng súng cối có cánh, đạn ba-dô-ka. Trước đây quân lính Việt chỉ có thể bắn với sự tính toán chi li, thật chắc chắn. Từ nay họ cũng tung ra một hỏa lực địa ngục.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Bảy, 2019, 05:34:12 pm

Người Trung Hoa cung cấp cho người Việt theo mức họ có thể tiêu thụ, không hạn chế. Người Pháp chỉ còn ưu thế về vũ khí hạng nặng. Người Việt chỉ có một số ca-nông. Trước hết vì họ không thuận tiện trong sử dụng - phải một trăm người để dùng một chiếc 75 ly. Và rồi vì họ không muốn trong lúc này: chiến thuật của họ là không ổn định trong "tấn công", bằng cách người xuất hiện và nổ súng. Điều ấy bù lại thừa thãi những ca nông, máy bay, xe tăng của những người Pháp nô lệ vào khí cụ - những khí cụ chỉ ghê gớm bề ngoài không đè nát được thiên nhiên nhiệt đới và quân Việt hành quân trong đó.

Vào mùa hè 1950, các sư đoàn ông Giáp đã hầu như sẵn sàng - người Pháp biết điều đó. Điều họ không biết là ai thực sự chỉ huy họ, đưa họ vào cuộc chiến và như thế nào. Các Phòng Nhì của họ nói nhiều rằng các kế hoạch do các tướng Trung Quốc và Nga xây dựng. Bên cạnh Bộ chỉ huy Việt có một Phái đoàn quân sự Trung Hoa ba trăm người, gồm những "cố vấn" quan trọng. Cũng có một số chuyên gia Nga. Nhưng ai là người quyết định cuối cùng người ta không biết.

Có lẽ "chủ nhân" của cuộc chiến chỉ là ông Giáp, thời trẻ ở Hà Nội đã say mê những trận đánh của Napoléon? Dù thế nào, trong bộ đồng phục không gắn phù hiệu, từ hang động dùng làm trụ sở Bộ tổng tham mưu, ông xuất hiện trước toàn quốc Việt Nam là người sẽ đánh và sẽ thắng. Không phải một lời hứa hẹn mà là chắc chắn. Theo cách của mình, ông Giáp cũng khiêm nhường. Vì những gì sắp xảy ra, không thuộc về tài năng của ông mà do biện chứng pháp vững chắc và dẫn đến "giải pháp đúng đắn" này: Nhân dân sẽ thắng. Điều ấy ông chứng minh trong một bản báo cáo một trăm trang phân tích hết mọi mặt. Tác phẩm lôgic này là tài liệu cốt lõi của cuộc chiến tranh Đông Dương.

Lập luận rất đơn giản. Người Pháp chạy tốc độ về bình định, người Việt chạy tốc độ về tấn công. Đội quân viễn chinh rải khắp Việt Nam - nhưng quân đội nhân dân khi đã sẵn sàng sẽ ồ ạt tấn công. Quyết định sẽ mang lại khi mùa mưa kết thúc, vào mùa thu, trước năm 1951. Vì không bao giờ có điều kiện thuận lợi như năm 1950: thực tế việc viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam vượt nhiều viện trợ Mỹ cho người Pháp. Quân đội nhân dân được xây dựng thành một lực lượng chiến đấu hiện đại mạnh trong lúc Đội quân viễn chinh vẫn yếu vừa mới bắt đầu củng cố và nhận khí cụ đầu tiên của Mỹ. Ông Giáp viết rất đúng: "Lực lượng Pháp ít phát triển trong lúc lực lượng chúng ta tăng trưởng hàng ngày. Nhưng phải làm nhanh vì nếu chúng ta để quân địch có thì giờ trang bị vũ khí và tổ chức lại, khó khăn của chúng ta sẽ vô cùng lớn". Và ông Giáp nói tiếp: "Chúng ta sẽ bắt đầu giai đoạn ba của cuộc chiến tranh. Lúc đầu là cuộc chiến du kích tự phát rồi du kích có tổ chức. Bây giờ chúng ta sẽ chuyển từ phòng ngự qua tấn công bằng vận động chiến. Trong cuộc phản công sắp tới, quân đội ta sẽ bao vây đối phương và tiêu diệt chúng đến những trung tâm thiết yếu. Trong mấy tháng phải thanh toán vĩnh viễn những căn cứ cuối cùng của lực lượng chống đỡ thực dân".

Đúng là dốc tất cả để chiến thắng vì viện trợ Trung Hoa không giải quyết việc thiếu gạo. Ngược lại miền Nam Trung Quốc đói đến nỗi chính người Việt thiếu đói phải cung cấp gạo cho người Trung Hoa còn thiếu đói hơn. Và Ông Giáp biết những vùng châu thổ ngày càng tuột khỏi tay mình.

Nhưng ông Giáp tin tưởng. Ông tiến hành rất có phương pháp. Ngay khi các đội quân được "tập huấn" ở các trang trại xong ông đưa đi hành quân ở vùng cao Bắc Kỳ. Đấy đã là những "đòn" đánh vào tinh thần người Pháp. Nhưng nhất là để tập dượt, thực hành vận dụng những bài đã học trên thực địa, tổng diễn tập những gì sẽ làm quy mô sắp tới.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Bảy, 2019, 05:37:02 pm

Những đòn cảnh cáo

Suốt cả mùa xuân định mệnh những đòn cảnh cáo gia tăng.

Phải có nhiều như thế để thức tỉnh Bộ chỉ huy Pháp. Tướng Carpentier ngày 21 tháng 3 năm 1950 viết trong một chỉ thị riêng và bí mật: "Tình hình Bắc Kỳ rõ ràng đã sáng sủa trong nhiều tháng nay." Ông phấn khởi cả việc các lực lượng Mao chiếm Hải Nam - trong lúc chờ đợi lấy Đài Loan. Thanh toán những nơi lẩn tránh cuối cùng của quân Quốc dân đảng đối với ông là sự củng cố một nước Trung Hoa cộng sản vững chắc. Khi đã ổn định, thỏa mãn, họ có thể dành cho những nhiệm vụ to lớn xây dựng lại nội bộ, sẽ muốn khắp nơi được hoà bình.

Việc chinh phục Hải Nam quá dễ dàng. Những người cộng sản ít lộ diện bỗng xuất hiện ở các vùng bờ biển Quảng Đông: thuyền chở tới mấy nghìn quân đỏ và hàng chục nghìn Quốc dân đảng đầu hàng không chiến đấu.

Đối với Sài Gòn đấy là một tin tốt lành. Thế nhưng nhìn vào bản đồ: Hải Nam khống chế toàn vịnh Bắc Kỳ, phía cuối là vùng châu thổ đông người, các thành phố lớn, rừng và núi, chỗ người Pháp đang đánh nhau. Một mối đe dọa ghê gớm. Từ nay các lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ hẳn bị cầm tù như nằm trong một cái bẫy. Nếu quân đội cộng sản đánh vào đường số 4 và xuất hiện trước Hà Nội, Đội quân viễn chinh không thể di tản theo đường biển vào Sài Gòn nữa - Hải Nam sẽ dùng làm cái chốt.

Nhưng ý nghĩ thường xuyên của các ban tham mưu Pháp là Mao luôn luôn thiện chí. Vì thế Carpentier kinh ngạc khi ông ta "công nhận" Hồ Chí Minh và nước "Dân chủ Cộng hòa Việt Nam". Lúc ấy vị tổng chỉ huy chậm hiểu bắt đầu cũng lo ngại.

Về phía những người Trung Hoa, mọi việc tốt đẹp: sau khi chiếm Hải Nam quân đội Mao không động đậy nữa. Vùng biên giới yên tĩnh một cách bất thường. Nhưng chính lúc ấy người ta phát hiện ra quân đội ông Giáp, xa hơn, ở phía Tây Bắc, gần Lao Cai và lưu vực sông Hồng- cả vùng rộng lớn họ đến tập dượt trước khi trở lại đánh vào đường số 4. Và người ta cũng phát hiện ra sự bất lực của Đội quân viễn chinh không đối chọi được với họ trong rừng; nhưng việc phát hiện ấy mất hút trong những tổng hợp dành cho các ban tham mưu.

Đấy là bước ngoặt thật sự của cuộc chiến tranh, hoàn toàn không ai biết. Bốt Phố Lu trong lưu vực sông Hồng sụp đổ theo cách xảy ra, báo hiệu những gì sẽ lặp lại vô biên trong những năm tiếp theo. Đất là sự chứng minh người ta không làm được gì nhiều để chống lại.

Phố Lu là nơi có thể hình dung lẻ loi, xa xôi, bị quên lãng, tan tành và ngoại lai nhất - chiếc bốt xây dựng bằng những khúc gỗ tròn trên bờ thẳm nước bao la, không có gì khác ngoài rừng vô tận hàng trăm cây số. Chẳng có gì, chỉ là cảnh quạnh hiu, rừng rậm bao la không vào được và con sông Hồng dữ dội chảy trong lưu vực đáng nguyền rủa, đầy sốt rét, hầu như không có người. Tất cả im lặng trong không gian bao la. Nhưng ở đây một hôm ông Giáp tung ra đợt tấn công đầu tiên đông quân và tỉ mỉ với hàng chục tiểu đoàn, với một sư đoàn đầy đủ đột ngột xuất hiện trong rừng. Sư đoàn 308, thiện chiến, ghê gớm nhất. Lần đầu tiến hành động nhưng sư đoàn này trở thành cơn ác mộng của Đội quân viễn chinh ở yếu tố xung kích trong các trận đánh lớn tương lai - nó đưa tới đòn kết thúc ở Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Bảy, 2019, 05:40:37 pm

Ở Phố Lu là cuộc chiến tranh mới của ông Giáp, cuộc chiến mạnh và khoa học. Như trước đây, người Việt ở khắp nơi nhưng đây là những đơn vị mạnh tấn công và hành quân rất khoa học. Lúc đầu trong mười ngày liên tục, các tiểu đoàn ông Giáp tấn công các chỏm núi chồm xuống lòng chảo Phố Lu. Sau đó là cuộc "nã pháo", ba-dô-ka, móc-chi-ê, ca-nông không giật, loại vũ khí người ta nghĩ họ không thể có, đập nát bốt Phố Lu ở đáy lòng chảo. Cách tổ chức thật hoàn hảo. Trước khi bắt đầu dội pháo, quân Việt đã đào hệ thống trú ẩn súng đạn trên các chỏm núi: vũ khí được ngụy trang, không phá huỷ được, máy bay không phát hiện ra. Và suốt thời gian trận đánh, "hậu cần" đỏ là những đoàn dân công đi lại từ các kho dự trữ ở biên giới như nhịp điệu vận động của đồng hồ. Cũng có những đoàn thuyền trên sông Hồng được điều chỉnh như máy.

Đối mặt với cả một sư đoàn, Phố Lu được một đại đội chống giữ rất tốt. Bộ chỉ huy cố sức cứu bốt như thường lệ. Từ Lao Cai phái đi một đội tiếp cứu nhưng không đến nơi vì bị lạc trong núi. Và cảnh cuối cùng là bốt bốc cháy - bị quân Việt chiếm thiêu trụi rồi bỏ đi.

Nhưng bi kịch thực sự là Bộ Chỉ huy không hiểu. Tất cả đều không giải thích được. Những gì họ làm là kết tội "lính dù" hèn nhát - không chỉ họ không cứu được bốt mà để tự cứu mình, họ bỏ lại những người chết. Đấy là một trọng tội không tha thứ được dưới con mắt của tướng Carpentier.

Trưởng đội quân dù trung uý Planey giải thích cho tôi điều ông buộc phải làm, là nỗi xấu hổ theo đuổi ông trong nhiều tháng.

- Người ta không thả chúng tôi vào bốt mà vào rừng, cách khoảng ba mươi cây số, ở bờ bên kia sông Hồng. Chúng tôi có tất cả một trăm năm mươi người, đi nhiều giờ trên đường mòn cho đến bờ sông, trước mặt Phố Lu vẫn đang chống giữ - nhưng chúng tôi rơi vào trận địa Việt Minh, một trận địa ghê gớm. Mười lăm tiểu đoàn tấn công Phố Lu nhưng hai tiểu đoàn được để lại trên bờ sông, chỗ chúng tôi. Họ bao vây ngay, vừa chạy, vừa bắn vào chúng tôi. Không chống cự nổi chúng tôi trốn qua một "lỗ hỏng", phá hỏng trang bị điện đài để chạy thật nhanh. Vô số quân Việt bên kia sông tràn sang, lội nước đến cổ, giơ súng lên cao. Tôi bèn quyết định bỏ lại những xác chết trên bờ đường, phủ cành cây lên và chạy nhanh hơn được một ít nhưng phải đỡ những người bị thương. Từng tiểu đoàn Việt khép chặt vòng vây từ mọi phía. Điều đã cứu chúng tôi là sáu chiếc máy bay tiêm kích nhận thấy những tấm biển trắng tôi cho dăng ra; xuống thấp hơn thả bom. Ngay lúc đó trời vừa tối, chúng tôi leo lên một ngọn núi và "thoát khỏi" quân địch, đi đến tận Lao Cai. "Chiến dịch" còn kéo dài ba tháng, tôi đã cứu được người của tôi nhưng bị xét xử là làm mất danh dự. Cấp trên bảo tinh thần chúng tôi hèn kém. Hãy nhìn xem việc gì đã đến với Nha-đo.

Đúng là Nha-đo, một bốt rất giống Phố Lu, cũng bị cả sư đoàn 308 tấn công, được cứu thoát. Người ta thả lính dù trực tiếp xuống cả một tiểu đoàn và một đại đội của tiểu đoàn tôi. Quân Việt sợ khối lượng dù ấy, tôi không hiểu vì sao, vì họ có thể đập tan toàn bộ nếu họ muốn. Mấy ngày sau cả khu đồn trú được lệnh di tản khỏi vị trí không thể giữ được ấy - việc rút lui vì chiến lược chứ không phải do sức ép của địch. Vì vậy không vi phạm danh dự mà được đánh giá tốt.

- Lúc đầu các ông chủ đội quân dù cũng không tin. Nhưng rồi cũng phải thấy sự thật dù chỉ một ít. Bắt đầu từ đại uý tiểu đoàn 3 của tôi, Cazeaux, bị đánh "tơi tả" cùng hai đại đội đến Lao Cai, sau khi giải phóng một bốt: thật vì phép lạ mà thoát được. Ông cũng bị rơi vào các tiểu đoàn đầy đủ của quân Việt. Ông nói với tôi rất đơn giản. "Planey, anh nói đúng. Tôi đã không đánh giá đúng những người Việt ấy." Sau đó là một đại tá tên là Dabayal. Ông này chẳng hiểu gì về tình hình. Đây là một sĩ quan của Sài Gòn, hàng ngày nhận được những tin tức rất lạ: các tiểu đoàn Việt khắp nơi, hầu hết đồn bốt vùng sông Hồng bị bỏ chạy, các đơn vị rút về miền núi Pa Kha, đảm bảo an toàn với nhiều nghìn ngụy binh Mèo, Mán. Viên đại tá tự nhủ: "Quân dù sợ Việt Minh rồi. Mình phải đến khiển trách nặng mới được". Nói là làm: ông nhảy xuống Pa Kha diễn giải ghê gớm và muốn trở về Sài Gòn - qua sân bay gần Lao Cai. Người ta lưu ý ông: "Không được. Dọc đường có năm tiểu đoàn Việt án ngữ, không thể vượt qua". Đại tá nổi giận rồi nhận ra tình hình nghiêm trọng. Cuối cùng người ta san bằng một vùng đất nhỏ để một chiếc Morane đến đưa ông đi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Bảy, 2019, 05:43:32 pm

Dù sao chúng tôi cũng có gần hai tiểu đoàn dù bị sư đoàn 308 bao vây trong vùng Pa Kha. Tình thế ấy làm Bộ chỉ huy bực tức. Họ ra lệnh chúng tôi phải dùng lực lượng mạnh vượt qua quân Việt đến Lao Cai. Muốn thế phải lội qua sông đến Bảo Nai. Chúng tôi thử lần đầu, bị đánh tan tác. Thử lần thứ hai với lực lượng đông hơn, lại bị đánh tan tác hơn, phải trở về Pa Kha. May thay sư đoàn 308 ra đi trong tháng tư, ngược lên đường số 4, sau thời kỳ thử sức cho những nhiệm vụ mới quan trọng hơn. Nhưng đối với Bộ chỉ huy đấy là dấu hiệu quân địch thất bại, bất lực. Mọi việc vậy là rất tốt, tất cả "phù hợp" trừ sự "sa sút" kỳ lạ của quân lính dù.

Như vậy, trong nhiều tháng các tiểu đoàn của ông Giáp đã đánh chiếm các bốt, không nhờ vào hy sinh và mưu mẹo nữa mà bằng những đòn cảnh cáo chậm, chắc thắng buộc những người chống giữ bất lực, ngăn cản viện trợ đến từ bên ngoài, đưa tới chiến thắng đỏ thật chắc chắn. Các tiểu đoàn ông Giáp hoàn toàn khống chế trên những đường mòn và các chỏm núi rừng những đội quân Pháp yếu đuối trong thiên nhiên, buộc họ chạy nhục nhã để tránh bị tiêu diệt. Và những việc đó tiến hành trên những diện tích đáng kể, hàng nhiều trăm cây số, trên những vùng bao la, không chỉ sông Hồng mà đến tận sông Đà, cách Hà Nội khoảng một trăm cây số, trong vùng Hòa Bình rất gần châu thổ.

Ở đây cũng thế, các bốt lẻ loi, phân tán, êm thấm với rượu và con gái cũng rơi rụng. Còn hơn Lao Cai, ở Hoà Bình tình hình càng vô vọng - nhưng đây là lãnh địa của quân đội lê dương, lao vào cuộc sống yên ổn thậm chí không quan tâm đến những tai họa của mình. Điều cứu vớt Hoà Bình là ở đây bắt đầu định mệnh ngoại hạng của "ông thầy" Vanuxem, chuyển từ chống quân phiệt sang hoàn toàn quân phiệt tuyệt đối và lôgic - cũng là một triết lý mà con người bị chi phối bởi bản năng chủ yếu, kế thừa là chiến tranh chứ không phải hoà bình. Vanuxem lao vào chiến tranh với sự nghiêm túc của học thuyết của mình, sự khát khao của con người sống sót, thái độ vô sỉ của tướng lĩnh đánh thuê. Đối với ông ta chiến tranh phải triệt để - dĩ nhiên không thương xót nhưng nhất là tiến hành vừa thông minh vừa cương quyết, kéo theo cả niềm vui về công việc. Ông chống lại sự ngốc nghếch bóng bẩy của các ban tham mưu, cũng như chống sự kích thích tự tạo của quân dù, lối anh hùng quá chủ động của lính lê dương. Trước hết ông là ông. Ông lấy một cô y tá sinh ra mười đứa con; rồi ông dựng lên với người Mường ở vùng núi địa phương hai tiểu đoàn nổi tiếng. Ông là vua, trả giá bằng những cuộc vui chơi. Ông Vanuxem không sợ các tiểu đoàn của ông Giáp nhưng biết rõ sức lực ghê gớm của họ. Ông nói với một niềm vui độc ác: "Thế mới là công việc".

Nhưng đối với phần lớn các đơn vị hành quân trong rừng chống lại sư đoàn 308, từ nay sẽ là một nỗi sợ hãi không thú nhận, sự bất chấp vô vọng - người ta phải dũng cảm hơn vừa đấu tranh với mình, với thần kinh, với những tưởng tượng của mình. Điều này có cả ở quân dù: từ nay họ biết trong rừng quân Việt là những người mạnh nhất.

Bộ chỉ huy không hề có một chút cảm giác về sự bất lực của mình. Đối với họ tất cả những gì xảy ra trong những vùng xa xôi, không quan trọng lắm ở sông Hồng và sông Đà chỉ là những "trận đánh nhỏ". Hết sức trung thực, họ giữ lòng thanh thản và tin tưởng.

Nghiêm trọng đến mức khi một người hành nghề khôn ngoan cố can đảm báo trước với họ. Đây là một viên chức một người quản lý công việc hành chính Lao Cai - thân hình cũng thấp nhỏ như một người lùn, hơi dị dạng nhưng thông minh, tính toán, tham vọng, bao giờ cũng biết nên làm gì, nói gì. Một hôm ông ta lên máy bay đi Hà Nội và dám nói với tướng Alessandri đúng đắn - cố gắng báo động với ông. Ngay từ những lời đầu tiên, viên tướng cũng rất nhỏ người, sa sầm mặt, thái độ căng thẳng, khó chịu, sốt ruột. Ông ta biết, phải làm cho kẻ thiếu khôn ngoan im miệng, đập ông viên chức bằng mấy câu khô khan, quyết đoán qua đôi môi mỏng và khinh miệt: "Ông hoảng hốt quá rồi. Tình hình không nghiêm trọng, thậm chí không đáng quan tâm. Gặp thời cơ tôi sẽ sử dụng những biện pháp cần thiết, và ông sẽ thấy".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Bảy, 2019, 05:45:05 pm

Trong lúc ấy sư đoàn 308 biến mất sau "chiến dịch" xa xôi đánh Lao Cai và những vùng Tây Bắc. Không một tín hiệu, một dấu viết. Thực ra hàng chục nghìn quân lính và dân công của họ ngược lại theo dọc những đường mòn tiến lên "tứ giác" Hồ Chí Minh, Trung Hoa và những "căn cứ" lớn. Sau mấy ngày nghỉ ngơi, vào cuối tháng năm đúng đầu mùa khô sư đoàn xuất hiện trên đường số 4. Một bi kịch nhanh gọn và dữ dội, đấy là sự tan vỡ trong bốn mươi tám giờ "con nhím" Đông Khê - pháo đài được tiếp tế bằng đường hàng không giữa mảng lớn Cao Bằng và đoạn đường cuối Thất Khê.

Lần này đối với Bộ chỉ huy Pháp là một sự kiện không ngờ. khẳng định những gì họ chối - hiện diện của một quân đội đỏ rất mạnh. Vì Đông Khê là thần tượng về trang bị vật chất, một pháo đài trong lòng khu vực bố trí của Pháp, một công trình đồ sộ, địa danh toàn Đội quân viễn chinh biết rõ bao nhiêu đoàn xe dừng lại dưới bóng lá cờ Pháp. Đông Khê là vật không thể rơi vỡ được.

Điều đáng sợ nhất là cách quân Việt đánh chiếm có tính toán, rất dễ dàng. Một phần sư đoàn 308 chốt chặt xung quanh, bốn tiểu đoàn nhẹ và một tiểu đoàn vũ khí hạng nặng xuất hiện trên những chỏm núi khống chế vùng lòng chảo, đập tan công trình với những chục móc-chi-ê và ca-nông, nghiền nát những lô cốt, công sự của khu đồn trú, phá huỷ đội pháo. Sau một đợt nã pháo hai ngày hai đêm họ mới xung phong từng khối qua những kẽ hở. Đêm 27 sáng 28 tháng năm, mọi kháng cự kết thúc vào lúc ba giờ sáng.

Không làm gì được mặc dù có những lời kêu gọi thất vọng và chết chóc của điện đài Đông Khê. Không thể làm gì trừ việc các ban tham mưu bất lực chứng kiến sự hấp hối từ xa, trong những văn phòng đầy bản đồ, vừa đọc những tin tức dồn dập đánh tới. Vì không thể có cứu viện nào được, không một đội quân giải vây nào đến kịp. Mây mù bao phủ khắp núi rừng, bầu trời hoàn toàn âm u. Quân Việt đã chọn những ngày thời tiết xấu, mưa phùn dày đặc máy bay không làm gì được. Trên các sân bay Lạng Sơn và Hà Nội, máy bay tiêm kích chờ có một đợt quang mây để cất cánh và thay vì dội sấm sét vào quân Việt, các phi công chơi bài hoặc uống trong các bar, ngắm nhìn chân trời không bao giờ sáng sủa.

Đối với Bộ chỉ huy Pháp việc đó như một điều bộc lộ - cuộc chiến đã thay đổi tính chất và họ phải tự củng cố lại. Đến lượt quân đội ông Giáp kiểm điểm, xác nhận những sai lầm. Những người chống cự, không đến một trăm cuối cùng thất vọng ra khỏi đồn bốt bốc cháv, thoát được. Nhất là người Việt chiến thắng, làm chủ vị trí chỉ trong nửa ngày. Đông Khê mà họ chiếm được lại bị mất ngay.

Vì cuối cùng bầu trời quang đãng, hơn ba chục máy bay Junker cũ thả cả một tiểu đoàn quân dù số 3 họ tập hợp lại trước Đông Khê, lao vào vị trí và lấy lại Đông Khê sau một giờ rưõi đánh giáp lá cà trên những đống đổ nát. Cuộc phản công ấy bất ngờ, trong lúc kẻ địch đang thu lượm chiến lợi phẩm. Việc đó vô cùng mạo hiểm - mỗi chiếc Junker trong lúc thả quân, nặng nề quay vòng trên vùng lòng chảo, đều trúng đạn phòng không quân Việt bố trí trên các mỏm đồi. Nhưng quân Pháp đã hoạt động tốt. Các đội cứu viện từ Thất Khê chiếm lại các độ cao, chiếm lại đèo Luông Phai và nối được với quân dù bố trí vững chãi ở Đông Khê bị tàn phá. Quân Việt tưởng lầm đã chiến thắng, bỏ chạy để lại ba trăm xác chết và một khối lượng vũ khí lớn. Họ bốc hơi, biến mất trong rừng, rất xa không biết ở đâu. Người ta xây dựng lại Đông Khê vững chắc hơn nhiều, để lại một đội quân đồn trú mạnh hơn và bắt đầu chờ đợi.

Cứ như vậy những cảnh báo của định mệnh không được hiểu rõ ràng tuy đã được viết ra giấy. Trên người một uỷ viên chính trị bị giết ở Đông Khê người ta tìm thấy một cuốn sổ tay ghi rõ: "Đến ngày 20 tháng chín chúng ta tấn công. Chúng ta sẽ mạnh hơn nhiều - ngoài sư đoàn 308 còn có hai hoặc ba sư đoàn khác đã sẵn sàng. Chúng ta chiếm Thất Khê, Cao Bằng hoàn toàn bị cô lập rồi dùng tổng lực tấn công Lạng Sơn. Công việc sẽ dễ dàng, viên tướng Đội quân viễn chinh bị dao động thực sự vì những chiến thắng đầu của chúng ta."

Nhưng viên tướng Pháp không biết như thế nào là phép biện chứng - nghệ thuật phân tích mà sau thất bại hoặc thành công, người ta kiểm điểm lại tất cả, tự phê bình, tìm những "sai sót", thay thế những "giải pháp đúng" cả bằng những “giải pháp đúng" mới, được cải tiến đế làm tốt hơn. Thay vì hân hoan về "chiến thắng" Đông Khê, nếu biết rõ những người cộng sản, các tướng Pháp phải lo sợ. Vì sau một kế hoạch thất bại, bao giờ quân đỏ cũng bắt đầu lại. Và trong những điều kiện như thế đã được chuẩn bị, lần sau họ hành động chắc chắn, gần như buộc phải thành công.

Từ thất bại rồi chiếm lại Đông Khê, các ban tham mưu Pháp rút ra một kết luận lạc quan. Người ta công nhận quân Việt có khả năng chiến đấu mạnh nhưng cũng có cơ may họ lộ diện, làm cho Đội quân viễn chinh có dịp phản công, đối mặt, tiêu diệt họ.

Cuối cùng người ta không làm, không quyết định gì cả, bỏ rơi thời cơ duy nhất. Vì sau việc chiếm lại Đông Khê đã có thể di tản "những con nhím” không gặp nguy hiểm - quân đội ông Giáp chưa có khả năng chống lại. Nhưng người ta để nhiều tuần lễ, nhiều tháng trôi qua, khi buộc phải làm thì đã quá chậm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Bảy, 2019, 10:23:19 pm

Chương III

NHỮNG NÚI ĐÁ VÔI ĐÔNG KHÊ


Như cả một guồng máy thất bại. Từ những sai lầm ban đầu, thất bại tăng theo cấp số nhân tiến tới thảm họa. Đấy là điều đã xảy đến trong những núi đá vôi Đông Khê, "sự bất hạnh" do định mệnh.

Mấy nghìn người chết trong rừng, giữa núi đá. Những người này di tản từ Cao Bằng tới, những người khác đến với họ, gặp nhau để cùng bị tiêu diệt mà người ta không làm gì được cho họ, không cứu được. Họ bị dìm xuống sau năm ngày chiến đấu, cho đến lúc bị huỷ diệt hết hoặc bị bắt.

Làm sao kể hết được? Người ta đều biết rõ sức mạnh và ý đồ của quân Việt mà vẫn rơi vào cạm bẫy chết người. Đối với Đội quân viễn chinh tai họa là bất ngờ về chiến lược, chiến thuật cũng như về chính trị. Hầu hết hoàn toàn không ý thức, tuy vẫn biết nhiều vấn đề nhưng đã không tin.

Tất nhiên kể từ năm 1950, có thể làm bất cứ điều gì, điều động cả lớp thanh niên Pháp cho cuộc chiến tranh Đông Dương cũng không thoát ra được. Người ta đụng đầu với cái gì đó mạnh hơn mình. Nhưng cuối cùng nếu chấp nhận hoặc nhường bước sẽ không buộc phải chịu trước hết là những tai họa như Đông Khê và sau này là Điện Biên Phủ. Đã có thể bại không với nhiều nhục nhã, đau đớn, nhiều nạn nhân đến thế; đã có thể "giữ được" cho đến lúc hiểu và rút ra hậu quả. Nhưng trên con đường số 4, người ta đã đi tới chỗ hy sinh, bước vào tai họa.

Vụ việc càng kỳ lạ hơn vì từ xuất xứ đã có như một phản ứng khôn ngoan. Nhưng sự khôn ngoan ấy lẫn lộn với một sự điên rồ, mơ hồ đến mức trở thành khiêu khích.

Nguyên nhân không phải vì lực lượng quân Việt vừa hình thành: họ còn chưa chắc chắn và vụng về. Nhưng người ta tạo dịp cho họ chiến thắng trước khi tin vào ưu thế của mình. Họ chỉ lợi dụng được tình trạng rối ren về chính trị, quân sự của người Pháp.

Đông Khê là bi kịch của sự rời rạc tuyệt đối. Quân lính chết nhưng những người có trách nhiệm ở đâu đó, xa về thời gian và không gian. Trước đó là cả một quá trình rệu rã, mâu thuẫn, ngần ngại và không biết gì, cả một rối beng về lập luận lẫn lộn từ nhiều tháng, nhiều năm ở Lạng Sơn, Hà Nội, Sài Gòn, Paris ở trong các ban tham mưu, các bộ, trong Chính phủ. Tất cả đều sai lạc, đấy là hình phạt của mọi ngu dốt và đạo đức giả.

Tất cả đều mơ hồ. Ở Paris, Chính phủ luôn luôn khoan khoái chờ chiến thắng. Ngoài ra họ không quan tâm đến Đông Dương, họ tin tưởng vào các tướng. Hai tướng chủ yếu ghét nhau. Trong mùa khô, khi quân Việt đã sẵn sàng, hai người lần lượt công bố ở Pháp. Một người nói: "Mọi việc tiến triển tốt nhưng tôi muốn đánh quân Việt ở vùng biên châu thổ; có lẽ trước hết di tản Cao Bằng thì tốt hơn". Người kia nói: "Mọi việc tiến triển tốt nhưng tôi muốn đập tan quân Việt tại các căn cứ. Bằng mọi giá phải giữ Cao Bằng". Chính phủ không có quan điểm. Cao uỷ Pignon người duy nhất thực sự sáng suốt, thất vọng. Ông cũng làm một vòng ở chính quốc nhưng không dám trình bày quá rõ những lo sợ của mình. Chính phủ cho Carpentier là có lý vì ông ta là tổng chỉ huy nhưng nói với Alessandri đang đi vận động các bộ ở Paris: "Ông trở lại Đông Dương đi; ở đó rõ hơn".

Người ta chẳng làm gì. Và khi quân Việt tấn công chiếm thành trì Đông Khê lần thứ hai, chưa có gì sẵn sàng. Carpentier nghĩ về vinh quang của mình, ông bố trí một cuộc hành quân tuyệt đẹp với nhiều tiểu đoàn để chiếm trong tầm tay bên cạnh vùng châu thổ một "thủ đô” Việt Minh mà không có Việt Minh, tên là Thái Nguyên. Việc đó nhằm đánh lạc hướng dư luận thế giới về việc rút khỏi Cao Bằng vào thời gian ấy - ông quyết định vì sợ một điều "phiền phức" mười lần tệ hại hơn sự tan vỡ của "con nhím". Alessandri nghĩ về vinh quang của mình, chỉ giận dữ và cay đắng, ngày này qua ngày khác kháng cáo, thất vọng, làm mọi cách để chống lệnh thủ trưởng; ông không huỷ bỏ được mà ngược lại chính ông phải chỉ huy cuộc rút lui. Người ta áp dụng một kế hoạch cũ đã hai năm, hai đội quân Pháp phải cụm lại với nhau ở Đông Khê đã mất hai lần và quân đội ông Giáp đã tập hợp tại đấy. Và chính bên cạnh pháo đài định mệnh, trong khung cảnh lớn lao và đáng sợ của những ngọn núi đá vôi, các đội quân Pháp của đường số 4 bị tấn công khắp nơi, bị thảm họa đầu tiên của cuộc chiến tranh Đông Dương, là tiếng chuông báo tử. Không làm gì được để giúp những tiểu đoàn ấy chìm ngập dưới những khối người Việt, vì bộ phận lớn những tiểu đoàn Pháp ở cách đấy mấy trăm cây số, ở vùng biên châu thổ, đang chiến thắng một Thái Nguyên trống rỗng và rồi phải rút đi.

Tất cả thật vô lý, đến cặn bã, đến máu. Còn vô lý hơn nhiều nữa ở Điện Biên Phủ sau này. Năm 1950, ra mặt trận được chờ đợi chống lại ông Giáp là một Đội quân viễn chinh không có chỉ huy, hãnh diện lẫn dễ dãi và lo sợ, nhưng người ta không để tâm tính toán, phân tích, dự kiến. Và biết bao chi tiết không tưởng tượng được! Hai chỉ huy trưởng hai đoàn quân phải tập hợp với nhau trên đường số 4 căm ghét nhau - một người, đại tá Charton, một "chúa trời" của quân lê dương không sợ gì, nhất là người Việt. Người kia, đại tá Lepage, một sĩ quan pháo binh bạc nhược, chắc chắn sẽ đi vào chỗ chết và cầu nguyện Chúa. Carpentier ở Sài Gòn, trong phòng điều hòa nhiệt độ. Alessandri bay trên các đoàn quân nhưng không bao giờ thấy họ, không liên lạc điện đài được với họ. Còn chỉ huy trưởng vùng biên giới, đại tá Constans, một người thời thượng có nhiều quan hệ, không muốn phiền phức, không thích đi máy bay. Vậy là ông ở Lạng Sơn sống như chúa tể giữa đội bảo vệ lính lê dương chọn theo cỡ người và viên quản lý vốn là một thứ trưởng ngoại giao Chính phủ Vichy cũ. Đây là sân khấu kịch, một nghi thức không tin được về sự lớn mạnh quân sự giả tạo chủ yếu để "khoa trương", vả lại ông Constans này chỉ là đạo diễn, không vâng lệnh của chỉ huy trực tiếp là con người Corse bé nhỏ Alessandri mà tuân theo viên tướng nhiều sao Carpentier đã đưa ông từ Paris sang vì những mối quan hệ. Cuối cùng cũng không nên quên tướng Marchand, một người xuất sắc đã sáng tác những bài hát ngắn và khi được tin tạm quyền Alessandri trong mùa hè dài chờ đợi, đã kêu lên: "Chúa ơi, Chúa ơi, thật tai họa bất ngờ!"

Trách nhiệm thuộc về sự bất lực dần dần lan khắp các guồng máy của Đội quân viễn chinh, hoàn toàn đóng cáu lại - một sự bất lực toàn diện tuy đầy mưu mô và ranh mãnh, sự bất lực làm de Lattre gầm lên tức giận và xấu hổ khi ông đến Đông Dương quá chậm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Bảy, 2019, 10:25:31 pm

Sự chờ đợi lâu dài

Suốt mùa hè, từ tháng bảy đến tháng chín là mùa mưa cuộc chiến tranh Đông Dương ngừng lại trong nước như một đợt ngưng chiến.

Không có gì xảy ra. Những trận tấn công hàng loạt dừng lại hẳn. Chỉ có một số Việt Minh không xông xáo lắm nhưng luôn cảnh giác canh phòng. Trên toàn tuyến biên giới, quân lính chờ đợi - vì họ biết những việc sẽ xảy ra. Đời sống chẳng có gì thay đổi nhưng không ai không biết trên núi rừng người Việt đang chuẩn bị, họ ở trong các trại, học tập, tăng gấp đôi, gấp ba số lượng tiểu đoàn cho "chiến dịch" tới sẽ diễn ra vào cuối tháng chín, chậm lắm là tháng mười khi hết mùa mưa.

Tôi nghĩ đến các đồn bốt vùng biên giới, những căn nhà trát bùn và bằng gỗ cùng đám cư dân lẫn lộn những ngụy binh, con gái, lính Maroc rậm râu, lính lê dương đội mũ kê-pi, lính Sénégal luôn cười cợt. Vẫn không có dây thép gai và mìn! Trong một bốt rách nát, viên cai bắn pháo hiệu khi người Việt đến quấy rối quá đông. Ca-nông ở Lạng Sơn bắn những loạt đạn đã tính toán, cày xới sườn núi chỗ họ đóng quân. Và đấy là một bốt may mắn, dưới tầm bảo vệ của trọng pháo. Biết bao nhiêu bốt không được như thế!

Tuy đơn độc, những nhóm người cách ly với bên ngoài trên các chỏm núi hoặc ở đáy lòng chảo, được tiếp phẩm bằng thả dù hoặc rất hiếm các đội quân tới, giữa tĩnh lặng khó chịu của mùa hè, biết rõ những dấu hiệu báo nguy hiểm. Khắp nơi có những điềm xấu. Ở Cao Bằng gọng kìm khép lại. Lính lê dương chỉ cần nhìn qua ống nhòm để nhận thấy quân lính Việt Minh mặc đồng phục đen đứng gác. Loa phát thanh Việt thường vang lên: "Các anh đã bị bao vây: chỉ mấy tuần lễ nữa các anh sẽ ở trong tay chúng tôi." Thời hạn đến gần, những lính lê dương không đứng gác xây dựng những lô cốt mới với xi măng, gạch đất, những gì chịu đựng được đạn cối. Trong thành phố bị bao vây hầu như người ta không ngủ nữa tuy tinh thần vẫn tốt.

Suốt mùa hè quân đỏ tiếp tục chuẩn bị dữ dội. Nhiều nền đất bao la ở Trung Quốc cũng như ở Bắc Kỳ. Ở Trung Quốc những sân bay ở Côn Minh, Quế Lâm, Hải Nam, trước đây người Mỹ làm tạm giúp Tưởng Giới Thạch chống Nhật đã thành rừng cây nay trở thành những bãi xi-măng. Người ta cũng biến đường rải đá sỏi của đường sắt Vân Nam, công trình cũ của thực dân Pháp ở Trung Quốc, thành một con đường chiến lược, từ những núi đá vôi, những cao nguyên Vân Nam xuống đến lưu vực sông Hồng. Ở Bắc Kỳ người Việt cố sức kéo dài những con đường Trung Quốc ấy đến trước các "mục tiêu" Thất Khê, Đông Khê và Cao Bằng, tất cả ở đầu đường số 4. Trong các trại đóng quân ở Trung Quốc, ông Giáp cho tạo mô hình thật đúng - Đông Khê được xây dựng lại kích thước như thật, các công sự thật chính xác và việc bố trí quân toàn Cao Bằng cũng thế. Rồi các đội quân xung kích Việt Minh học đánh chiếm hàng ngày, diễn tập không dứt. Sau những việc chuẩn bị ấy, họ bố trí tại chỗ để hành động. Các sư đoàn Việt Minh ra khỏi các trại, tập trung trên các "đường trục tấn công", vẫn ẩn náu trong rừng nhưng đã sẵn sàng lao vào các mục tiêu.

Các đội quân Trung Hoa ở phía sau, còn đông hơn nhiều, ít nhất là hai trăm nghìn người. Về nguyên tắc những đội quân này không can thiệp nhưng họ vẫn tấn công Đông Dương nếu tình hình xấu đi, nếu cuộc chiến tranh Triều Tiên vừa mới bắt đầu trở thành cuộc đại biến ở Châu Á, có lẽ của cả thế giới. Điều đó cần ít thôi, tùy theo quyết định của một người! Chỉ cần người buôn cà-vạt trước kia, tổng thống Truman, con người dân sự, bị McArthur tác động, nghe theo lời khuyên nguy hiểm của ông này. Vì McArthur muốn tiêu diệt chính nước Trung Hoa nhân dân. Và sẽ là phản ứng dây chuyền nêu máy bay ném bom Mỹ tàn phá Mãn Châu Lý công nghiệp, nếu Hạm đội 7 bắn phá các cảng và bờ biển nước Cộng hòa Mao và thậm chí nếu quân đội Tưởng Giới Thạch khôi phục lại ở Đài Loan đổ bộ lên lục địa kêu gọi dân chúng nổi dậy. Đối với những người cộng sản Trung Hoa lúc ấy là những tuần lễ lo sợ; để đề phòng ngăn cản mọi cuộc nổi dậy, trong ba "chiến dịch quần chúng" lớn, họ lạnh lùng, có phương pháp, xử lý từ hai mươi đến ba mươi triệu "tư sản" và "kẻ thù của nhân dân". Mặc dù vậy, nếu điều tệ hại xảy ra, nếu nước Mỹ lao vào cuộc chơi lớn, nước Trung Hoa chẳng còn gì để mất, tung các đội quân, các đội quần chúng bao la trong cuộc chiến tranh nhân dân vào tất cả những người thực dân, tư bản gần với các nước đế quốc, bắt đầu từ cái gọi là Đông Dương thuộc Pháp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Bảy, 2019, 10:26:20 pm

Về phía người Pháp chỉ có mấy nghìn người ở vùng biên giới. Không có mệnh lệnh nào, không một chỉ thị đặc biệt nào, họ như bị bỏ rơi mặc số phận. Người ta không tăng cường mà tước mất của họ, rút đi của Bắc Kỳ sáu tiểu đoàn đưa sang Lào, Căm-bốt mà các nhà vua than phiền có sự thâm nhập; phải làm cho họ vui lòng vì những lý do chính trị.

Trong không khí nóng bỏng, tất cả là mối nhập nhằng và mánh khóe. Những người trên đường số 4 biết: họ buộc phải chiến thắng nếu không muốn bị thiêu cháy trong các bốt hoặc bị tiêu diệt trong rừng. Nhưng làm sao không bị nhấn chìm trước những gì sắp tràn tới? Làn sóng triều không như một năm trước đây, chỉ là giả thuyết: nay là sự chắc chắn.

Nhưng trên biên giới, mặc dù lo lắng, mọi người im lặng không một tiếng nói cảnh báo, dự kiến. Bộ phận ưu việt, lính lê dương, quân dù, lính ta-bo biết tỏ ra khinh thường nguy hiểm. Trong các ban tham mưu, không phải vì tự hào mà vì quyền lợi và tham vọng mà người ta im lặng. Bị kết tội "thất bại chủ nghĩa" là thất sủng, là kết thúc sự nghiệp. Phải tỏ ra ân cần với các tướng không muốn biết sự thât và dù cách nào cũng không tin vào sự thật.

Trong tình hình ấy, giờ của ông Giáp đã điểm. Mùa mưa chưa kết thúc. Đột nhiên, theo cách của cộng sản, cuộc tấn công dữ dội xảy ra sau phút không ngờ. Ngày 18 tháng chín Đông Khê biến mất như một con tàu chìm trong biển cả, không để lại một dấu vết, không nhặt được một người. Cuộc "tập dượt" tháng năm, việc tự kiểm điểm đã phát huy tác dụng: Lần này không một sai lầm - người ta nghĩ không người nào trốn thoát và không có vấn đề "chống cự".

Cả một tai họa. Bốt bị tiêu diệt vươn dậy, được củng cố, bảo vệ với những gì lính lê dương có tốt nhất, kéo dài trong sáu mươi tiếng đồng hồ. Người ta chỉ biết cảnh hấp hối qua vài tin tức điện đài và rồi sự im lặng của kết thúc. Vì cuộc chiến tranh Đông Dương là thế, những người chiến đấu chết đơn độc và Bộ chỉ huy thậm chí không biết họ chết như thế nào. Nhận được chỉ là giọng lạ lùng của lối quân sự thông thường, quá xa với cảnh hấp hối thực sự, với cái chết thực xẩy ra đâu đó ở xa, rất xa. Trưa một ngày thứ bảy, bức điện đầu tiên từ Đông Khê báo cáo ông Giáp đã mở màn các "sự kiện", bắt đầu cuộc "tổng phản công". Cũng như đợt tháng năm với các tiểu đoàn Việt trên núi cao bắn xuống, nhưng hỏa lực mạnh hơn nhiều, ở Đông Khê cũng vậy. Đấy là cuộc đọ pháo tay đôi đầu tiên, cũng như sau này rất nhiều, quân Việt từ trên cao với những trọng pháo đặt phân tán, quân Pháp bắn từ dưới lên với những trọng pháo tập trung. Ở Đông Khê quân Việt thắng trong cuộc đọ súng, cũng như trong cuộc đọ súng lớn hơn nhiều họ sẽ thắng sau này ở Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Bảy, 2019, 10:26:56 pm

Tuy vậy trong ngày đầu kết quả chưa rõ ràng. Tin tức của Đông Khê cho biết thiệt hại không đáng kể và thậm chí trọng pháo của khu đồn trú đã làm câm họng hai ca-nông Việt. Nhưng ngày thứ hai, một ngày chủ nhật dài, tin điện càng hiếm và ngắn gọn hơn, với mọi công thức "thiệt hại": đến buổi hoàng hôn ngày chủ nhật ấy hơn một nửa lính lê dương chết hoặc bị thương. Tin cuối cùng không hoàn toàn thất vọng nên ban đêm đã im lặng hẳn - Đông Khê không trả lời nữa. Sáng thứ hai trong sự im lặng ấy, bầu trời thấp đến nỗi vùng cao Bắc Kỳ chỉ là một tấm màn xám, núi mây lẫn lộn. Tuy thế một máy bay Junker được lệnh đi "xem" Đông Khê - như một chuyến bay không thể thực hiện giữa những chỏm núi và gió mùa. Phải qua đèo Luông Phai đầy mây trong bầu trời mờ đục chui mãi đến "lỗ" Đông Khê. Cuối cùng khi chiếc Junker đã đâm thủng mây mù, quay vòng trong lòng chảo như ở đáy chiếc bát, biết được tình hình. Trên cột cờ danh dự bị gãy, lá cờ Pháp đã biến mất, những đám lửa lớn tỏa khói đen, bốt chỉ là đổ nát và điêu tàn. Người Việt còn ở đấy vì khắp nơi những nòng súng phòng không theo dõi chiếc máy bay cũ và chậm chạp trong đó phi hành đoàn đang quan sát thảm họa. Lần này người Việt không lộ mình, ngụy trang trong thiên nhiên theo luật chiến trường để tiêu diệt quân dù được thả xuống hoặc một đội cứu viện từ đường số 4 tới. Chắc chắn họ hy vọng một món mồi bổ sung.

Lần này Bộ chỉ huy chẳng làm gì cả. Họ không dám dùng quân dù chiếm lại Đông Khê như lần đầu, sợ mắc bẫy. Mùa xuân năm 1950 ấy - tuy chỉ mới mấy tháng trước đây - đã ra rồi, lúc người ta sửa chữa thất bại bằng những trận táo bạo và khinh thường, như người Việt còn là những đối thủ kém xa mình!

Ông Giáp không thể tăng người ngay cho vị trí chiếm được vì sự bất động khôn ngoan của Pháp, thông báo thắng lợi trên đài phát thanh, đã bắt chín mươi tám tù binh. Không phải một con số quá lớn nhưng than ôi! Đây là thông báo đầu tiên của những thông báo trong những tháng, năm tiếp đó mà người Việt công bố đã nhặt được hàng nhiều trăm, nhiều nghìn quân lính của Đội quân viễn chinh.

Vào thời điểm đó người ta tưởng số còn lại của khu đồn trú đã chết hết. Chỉ mấy tuần lễ sau, giữa thảm họa của vùng biên giới, một toán quân nhỏ và sắp chết từ rừng "chui ra", một sĩ quan và mấy người lính của Đông Khê và những gì mấy người sống sót này kể lại càng khẳng định hơn quân lính Việt là những người người như thế nào và sức mạnh không giải thích được của họ. Họ đập tan bốt này bằng những khẩu ca-nông vô hình. Và việc làm đó theo mọi phương pháp. Trước hết là triệt hạ bốn lô-cốt liên tiếp theo nhau, đạn cối dội vào làm vỡ tung bê tông, giết những người canh phòng tại chỗ. Trong đổ nát của vành đai, những người bị thương bắn vào người Việt không xác định được rõ cho đến khi họ tràn tới. Những người chạy được hoặc còn khỏe, ít bị trúng đạn, trốn vào góc trung tâm. Ở đây tất cả lại bắt đầu, những vụ nổ, đổ vỡ, số lượng đông người Việt hét lên, ra lệnh bắn trong đêm, ào ạt tiến công. Đến những phút chót, đạn thiếu, điện đài không hoạt động, chỉ còn vài chục người chiến đấu được lao vào cuộc giáp lá cà cuối cùng. Một nhóm trong bọn họ cố "thoát ra", chạy vào bóng tối và rừng trong lúc quân Việt "bao trùm" thành trì vừa la hét chiến thắng.

Việc thất thủ Đông Khê lần thứ hai này không chỉ mất "những con nhím"; đây là chứng cứ toàn tuyến biên giới đổ vỡ, chứng minh quân đội ông Giáp là một thực tế đe doạ. Người ta đi chiến đấu chống lại họ lẫn lộn những mặc cảm thua kém và mạnh hơn, đã ra những chỉ thị không rõ rệt tung quân vào những hoàn cảnh thác loạn. Cuối cùng buộc phải thực hiện những mệnh lệnh ngu ngốc, lòng can đảm của sĩ quan và binh lính trên chiến trường càng dẫn họ đến một thất bại tàn khốc hơn.

Nhưng sự ngu ngốc về quân sự không đơn giản như người ta tưởng. Không có gì phức tạp, tinh tế, đầy đủ lý do hơn. Từ những mưu mô xấu xa lẫn lộn mánh khóe và ngây thơ dưới uy lực những sự cần thiết và cạnh tranh, người ta xây dựng những luận thuyết hoàn toàn sai sẽ được áp dụng. Năm 1950, thảm họa trên biên giới Trung Quốc chỉ giải thích được bằng các "trò chơi của các tướng", tất cả những ngón của họ trong các tháng trước ở mọi lĩnh vực có thể tưởng tượng được. Nguy hiểm nhất là với những động cơ ích kỷ, người nào cũng chắc chắn có lý, hành động vì lợi ích lớn của nước Pháp và Đội quân viễn chinh trong lúc có khả năng làm bất cứ việc gì, sau đó họ hoàn toàn "bỏ mặc".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Bảy, 2019, 10:28:15 pm

Sự từ chối của tướng Carpentier

Trong mấy tháng cách nhau giữa thất bại Đông Khê lần thứ hai và thảm họa lớn trên đường số 4 xảy ra một "mánh khóe mờ ám" giữa các tướng. Trước hết, tướng tổng chỉ huy chống lại thuộc hạ Alessandri, con người hiền, rất ngoan cố. Và đến lượt Alessandri nổi dậy chống cấp trên.

Cuộc xích mích kỳ lạ này là nguyên nhân sâu xa của các thảm họa nối tiếp nhau. Nhưng phải lùi về trước, nắm lấy từ đầu, trong các ban tham mưu và các bộ, bên cạnh những người quan trọng xử sự như trẻ con. Và tất cả việc đó xẩy ra giữa bộ máy trịnh trọng của quyền lực.

Đã nhiều tuần, "con người chăm lo công việc" Alessandri xây dựng "công trình lớn", đề án chủ đạo của ông. Đang là tháng 5 năm 1950. Hơn bao giờ hết, mặc dù có những chức danh và phẩm cách chính thức, ông là nguyên mẫu của "người thực dân ưu tú" cứng rắn, chặt chẽ về nguyên tắc, có một lòng tốt nào đó trong thái độ dứt khoát. Thức dậy lúc năm giờ sáng, buổi trưa nhấm nháp mấy quả nho, buổi tối không ăn vì không có thì giờ. Không mệt mỏi, ông làm việc một ngày từ mười sáu đến mười tám giờ trong văn phòng. Chăm chú khác thường, tự ông làm mọi việc, bên cạnh chỉ vài sĩ quan loại "làm việc không nghỉ", mang đến những hồ sơ dày mà họ thuộc lòng, có thể trả lời ngay bất cứ câu hỏi nào.

Viên tướng nhỏ người nhìn lên những tấm bản đồ rộng lớn tra cứu những con số khổng lồ và hàng nhiều giờ liền ông suy nghĩ, đắm mình trong ý tưởng, xung quanh tất cả là im lặng và chờ đợi. Đôi khi ông đột ngột hỏi một chi tiết và hầu như bao giờ cũng nổi giận nói: "Không phải thế; không đúng". Rồi đến thời điểm thư giãn, ông nói: "Đấy là cuộc hành quân chúng ta sẽ tiến hành". Tất cả rất cụ thể, được tính toán tỉ mỉ. Không có ai bố trí, sắp xếp các tiểu đoàn như ông.

Việc đó dẫn đến một kế hoạch đồ sộ. Điều tướng Alessandri muốn làm là tự mình đưa cuộc chiến vào miền Trung và vùng cao Bắc Kỳ, ngay trong rừng, trong "tứ giác" Hồ Chí Minh.

Đấy là dốc tất cả cho tất cả. Việc chinh phục vùng châu thổ hoàn thành. Người Việt đói trong những căn cứ của họ, chuẩn bị vô vọng cho những trận đánh lớn "phản công" nhưng chưa sẵn sàng. Là lúc đánh trận quyết định, đuổi theo họ về căn cứ, các trại để tiêu diệt, phá huỷ những cơ sở bố trí kho tàng của họ, ngăn cản việc chuyên chở khí cụ Trung Hoa.

Chỉ có ông, Alessandri, mới có thể chỉ đạo một cuộc chiến như thế. Những gì đã làm trước đó không đáng kể. Những thất vọng não nề trước đây không quan trọng - nhất định phải không tránh khỏi, hậu quả của quan điểm chiến lược mơ hồ. Thực vậy còn gì vô lý hơn khi bám vào chỉ một con đường, chiến trường chỉ là đường số 4? Người ta làm như vậy vì sợ, dễ làm và đã trả giá đắt. Đưa mình ra hứng chịu đòn địch. Vì tất cả những đồn bốt, những đoàn xe trên đường số 4, đều làm mồi cho Việt Minh rình mò, khi họ ở khắp nơi, muốn làm gì thì làm. Hệ thống ấy đã được các tướng nổi tiếng, những Valluy, Salan thừa nhận. Nhưng ông, Alessandri khiêm tốn, sẽ làm việc họ không dám làm: tung quân vào thiên nhiên, đưa quân theo những con đường mòn, những mỏm núi, sẽ hành quân, chỉ đạo các tiểu đoàn của ông chiến đấu với người Việt theo cách người Việt, ông sẽ chiếm cả vùng rừng núi, quét sạch địa bàn, và sẽ là sự kết thúc Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Bảy, 2019, 10:29:06 pm

Tất cả đã sẵn sàng. Ông có một đoàn quân chiến đấu gồm năm mươi tiểu đoàn, sẽ tung ra đồng loạt chống quân đội ông Giáp. Trong thời kỳ đầu họ chiếm những vị trí gần và các đường tiến; thời kỳ thứ hai họ trải rộng trong núi rừng với từng nhóm, năm, sáu tiểu đoàn. Sáu cuộc hành quân hủy diệt được tiến hành đồng thời, đi từ Yên Bái, Việt Trì, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn để đi sâu vào trung tâm núi rừng quân địch. Sẽ cùng một lần đánh khắp nơi nếu không người Việt luồn qua ngón tay như thủy ngân.

Tất cả đã rà soát kỹ. Phòng Nhì đã để nhiều tháng khám phá, xác định vị trí các "mục tiêu", những gì người Việt đã ngụy trang rất cẩn thận, các kho tàng, doanh trại, xưởng máy. Phòng Ba đã nghiền ngẫm không dứt các kế hoạch hành quân sẽ tiến theo các đường mòn, không ngừng, vào trong những chiến địa thực sự mà các toán quân, các tiểu đoàn sẽ phân tán rồi tập hợp lại với nhau để càn quét tất cả, bao vây tất cả; người ta chuẩn bị mặt bằng khắp nơi để đổ bộ quân dù.

Sẽ tổ chức săn lùng nhưng không dùng trọng pháo, quân lính phải nhẹ người, động tác nhanh, tất cả làm hết cỡ. Sẽ là cuộc chiến đấu tuyệt đối, thực thụ giữa người với người theo hệ thống "dàn quân" thực dân cũ. Phòng Bốn chất đống thực phẩm và đạn dược ở tất cả các điểm chốt, chuẩn bị cho nhiều tuần lễ của cuộc chiến săn đuổi này.

Tất cả được ấn định trước như một bộ máy đồng hồ. Chỉ đạo mọi hoạt động sẽ là đích thân Alessandri. Có ai biết rõ hơn ông vùng cao Bắc Kỳ, núi rừng, các dân tộc và các trưởng bản? Trước kia phải chăng ông đã đi bộ suốt các đường mòn? Vả lại đã không bỏ qua việc gì, kể cả chuẩn bị về mặt tâm lý. Tự nhiên là người bạn cũ, tham dự những buổi lễ lạ lùng, Alessandri tặng quà và hứa hẹn nhiều với người Mán, Mèo, Nùng, những người xa lạ và đáng sợ của miền núi, ông cho mua thuốc phiện của họ với giá gần gấp đôi. Ông tuyển mộ những người miền núi vào đủ loại ngụy binh, dùng làm người dẫn đường và cả một toán du kích chống Việt Minh làm chỗ dựa cho các cuộc hành quân của Đội quân viễn chinh. Ông cũng cử Bigeard và một đại đội lính dù đến với tên độc tài Đèo Văn Long để huấn luyện "quân đội" của hắn, Bigeard nhanh chóng bất hòa với chúa chiến tranh của Lai Châu; Đèo Văn Long gửi tối hậu thư cho Alessandri: "Ông ta hoặc tôi, một trong hai người phải ra đi." Nhưng cũng chẳng sao. Bigeard bị thuyên chuyển xuống châu thổ; ở đây với những phương pháp riêng ông biến một tiểu đoàn Việt Nam kém cỏi thành một tiểu đoàn dù xung kích da vàng.

Người ta làm cả một cuộc tập dượt. Một toán quân gồm bốn tiểu đoàn, chỉ huy trưởng là đại tá Carbonel, một thực dân cũ gân guốc và dày dạn kinh nghiệm, xông vào rừng rậm cho đến Tuyên Quang, rất xa trên vùng Việt Minh. Trong mười lăm ngày đoàn quân đi các hướng khác nhau theo điện đài hướng dẫn, dựa vào các nguồn tin về các kho tàng Việt Minh. Theo cách ấy, ngoằn ngoèo tiến lên họ phá được một cơ sở vật liệu khá lớn của người Việt, nhưng trên đường trở về họ cũng suýt bị tan vỡ. Tuy vậy Alessandri thỏa mãn, xác định kinh nghiệm rất thành công.

Chương trình kỳ diệu ấy Alessandri soạn thảo rất công phu trong bí mật tuyệt đối, chỉ với đầu óc mình và mấy sĩ quan chắc chắn, cũng câm lặng như ông. Không có điều gì được thoát hơi ra ngoài. Tổng chỉ huy không biết, cao uỷ cũng không, ít nhất ông nghĩ thế. Viên tướng nhỏ người dành cho họ sự ngạc nhiên và niềm vui, ông chỉ không có ý nghĩ người ta có thể nói "không" với ông. Chẳng phải ông đưa lại chiến thắng trên một vùng cao, những gì ông đòi hỏi là gửi cho ông mấy tiểu đoàn bổ sung. Thế mà mấy ngày sau, ngày mồng 1 tháng sáu năm 1950, là phản bác của Carpentier. Câu trả lời là một lời chú thích rất ngắn, tệ hại nhất, cao điệu và dứt khoát: mọi cuộc tấn công đều bị cấm. Và Carpentier nói thêm ông có sự đồng ý của ông Pignon đã lên án những dự án này quá phiêu lưu. Đây là sự xúc phạm cao độ, thực sự là lưỡi dao đâm vào lưng vì lúc nào Pignon cũng là người bạn, người bảo vệ, người cùng nhóm với Alessandri.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Bảy, 2019, 10:30:24 pm

Không thể hình dung sự giận dữ, nỗi thất vọng của Alessandri. Con người khô khan và ngẫu hứng tưởng tượng mình là nạn nhân của một âm mưu ghê tởm với những tính toán thấp hèn nhất. Đối với ông, Carpentier không biết gì về Đông Dương, không thích ông ra mặt, để cho ông làm, cho phép ông đưa lại chiến thắng, chinh phục vùng châu thổ khi có lợi cho ông ta, khi việc đó lóe sáng trên ông ta. Nhưng khi đã nắm chắc được ngôi sao thứ năm, ông chỉ còn một nỗi lo sợ. Alessandri làm lu mờ ông, vượt trên ông bởi chiến thắng lớn là tiêu diệt vĩnh viễn quân Việt. Vì thế ông ta trói tay Alessandri, ngăn cản tung vào rừng cuộc tấn công quyết định. Chắc chắc chắn Carpeentier nói với người xung quanh: "Ông ấy hãy để chúng ta yên".

Một điều chắc chắn: hai người không thích nhau. Người ta biết Alessandri được dự tính cử làm tổng chỉ huy và Carpentier đã vượt lên. Dù sao lúc đầu đã có "một sự thỏa thuận cao thượng" giữa hai viên tướng. Dần dần những mối quan hệ giữa Hà Nội và Sài Gòn xấu đi. Tất cả đều mập mờ. Alessandri hành động như không có Carpentier, chỉ dựa và Pignon. Carpentier đã có thể nhân danh tổng chỉ huy đưa thuộc hạ của mình vào kỷ luật và tuân lệnh. Nhưng ông không muốn nổ ra va chạm hay những hành động quyết liệt: không có trong truyền thống quân đội. Bằng cách mò mẫm và tỉ mỉ, ông chỉ hạn chế trong việc gây phiền phức, lo lắng cho cấp dưới nhưng không làm gì đến cùng. Giữa hai viên tướng là cuộc chiến với những "đòn nhẹ nhàng".

Carpentier cũng để một thời gian "vượt lên" trên Alessandri. Ông đến Châu Á không khỏi có chút lo ngại. Trong thâm tâm ông không muốn đi, sợ mất tiếng tăm trong một cuộc phiêu lưu ở Cận Đông. Vì cho đến lúc đó ông là một "ông hạnh phúc", dưới bóng thuận lợi của thống chế Juin ông đã thành công không "tì vết", không "đổ vỡ", thậm chí hơn mong ước của mình. Kỷ niệm nặng nề duy nhất về quá khứ là được ông chủ cho de Lattre mượn ông làm tổng tham mưu trưởng trong mặt trận Đức. De Lattre đã nhanh chóng trả ông lại cho Juin vì bất lực. Nhưng sự cố ấy được quên đi từ lâu rồi.

Khi Carpentier được Chính phủ chọn làm tổng chỉ huy ở Đông Dương, Juin khuyến cáo ông nhận; ông chỉ còn vâng lời. Nhưng ông bối rối. Sau này Carpentier kể lại: "Khi được bổ nhiệm, việc đầu tiên là tôi mua một tấm bản đồ Đông Dương vì không biết nó được hình thành như thế nào". Ít lâu sau ở Sài Gòn ông tiếp hai nhà báo Pháp rất trẻ, bốn mươi năm trước, ở Tours, ông là bạn nhảy hấp dẫn của mẹ một người trong bọn họ. Ông tâm sự với hai người. "Tôi không thích Đông Dương". Họ hỏi ông: "Thế vì sao ông ở lại đây?" Tuy họ xấc láo như vậy, viên tướng vẫn cho họ mượn chiếc xe tổng chỉ huy đầy sao. Lái xe quên giấu những ngôi sao đi khi các bạn trẻ dùng xe đến khu nhà chứa bao la cho binh lính ở đường Gallieni. Ngày hôm sau cả Sài Gòn biết Carpentier đã đi "nhà thổ" - khốn khổ cho Carpentier!

Tổng chỉ huy giam mình lâu trong văn phòng ở Sài Gòn, tóc bàn chải và một chiếc hòm sĩ quan lồ lộ ở một góc phòng. Dần dần không hài lòng là một "chiếc bóng" của Juin nữa ông xác định mình là một "chỉ huy". Tuy vậy ông vẫn chẳng làm gì. Khi đi trên đường hoặc đi kiểm tra, ông chẳng thấy gì nhưng trở về bàn giấy ông bực tức nhận thấy lọ mực không còn mực.

Carpentier khá phức tạp trong cách đơn giản của mình, đầy tin tưởng cục mịch và rất sợ "phiền phức". Ông khiêm tốn và kiêu ngạo, anh hùng rơm và không có nhuệ khí. Phô trương chức danh, ông có một cách chỉ huy lạ lùng. Đối với ông một tổng chỉ huy không phải để chỉ huy. Ông chuyển quyền lực cho các tướng chỉ huy các khu vực - họ đánh như thế nào theo ý họ, ông không xen vào. Điều quan trọng là họ đến gặp ông, biết nói với ông và tâng bốc ông như những quân nhân tốt phải làm. Ông nghe khắp mọi người miễn họ nói mọi việc tiến triển tốt. Khôn khéo nhất là tuyên bố: "Tôi đã làm sạch sẽ vùng tôi nhưng ông đừng rút đi những phương tiện của tôi". Carpentier không hề có một ý tưởng chung về cuộc chiến tranh Đông Dương, về cách dẫn dắt nó. Ông đã gần như nói việc đó cho người biết làm ông hài lòng - và chờ kết quả. Theo ông vai trò của mình là làm Paris "sáng tỏ" có nghĩa là làm Paris yên tâm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Bảy, 2019, 10:32:33 pm

Thế nhưng Carpentier sau bao nhiêu tháng thanh thản bị kéo ra khỏi sự bình lặng. Việc ấy do đại tá Domergue, một người cao lêu nghêu, gầy, dữ tợn và thô lỗ, một nhân vật ông chọn làm tổng tham mưu trưởng Đội quân viễn chinh. Ông có mũi to, gãy, giọng nói khàn, đôi mắt hơi đỏ và lờ đờ. Thực sự ông uống nhiều, rất nhạy cảm với rượu. Hơn nữa ông tàn bạo và độc ác theo tính cách một người đau khổ vì không được khen thưởng đúng mức. Nhưng Domergue có một sức làm việc đồ sộ và thái độ luôn cau có ấy, theo nhận định chung, là quân nhân thông minh nhất, có nghị lực nhất Đông Dương. Con người thô bạo sáng suốt ấy không tôn trọng truyền thống. Ông muốn cắt gọt, tổ chức lại toàn bộ - bằng sắt thép và lửa - Đội quân viễn chinh vốn chỉ là một tập đoàn phong kiến lớn. Nhất là ông đã nói với Carpentier: "Ông hãy tự chỉ huy lấy. Phải dựa vào sáng kiến thay vì áp dụng những chương trình làm việc người ta giao cho ông."

Tóm lại Domergue muốn biến Carpentier, viên tướng ít chiến đấu, quen nhận mệnh lệnh thành một người chỉ huy thực sự của cuộc chiến tranh. Ông đã thành công trong một chừng mực nào đó khi kích thích lòng kiêu căng của viên tướng chống Alessandri. Đối với Carpentier, Alessandri là một ám ảnh, chỉ chờ dịp để nổ ra chống lại. Chỉ cần Alessandri có một ý kiến kiên định thì Carpentier có một ý kiến kiên định ngược lại.

Trong tâm trí Carpentier, tất cả liên kết lại để chống viên tướng dưới quyền. Từ nay ông có thể lên án ông kia ngay về kế hoạch cuộc chiến. Domergne đã nói với ông: "Alessandri có lý khi khẳng định số phận của Đông Dương phụ thuộc vào những tháng tới ở Bắc Kỳ. Tai hại vì ông ta điên rồ. Sẽ là thảm cảnh nếu ông ta lôi kéo các tiểu đoàn của Đội quân viễn chinh vào núi rừng vùng cao Bắc Kỳ chống người Việt: đoàn quân sẽ bị đánh tan tành hoặc thất bại nặng." Carpentier đã chịu khó cho xây dựng bản án về những kế hoạch lớn lao của Alessandri. Thật hài hước! Alessandri bí mật chuẩn bị những kế hoạch trong văn phòng mình ở Hà Nội. Không hề ngờ các văn phòng trong ban tham mưu Sài Gòn cũng làm những kế hoạch để đi đến những kết luận hoàn toàn ngược lại. Ở Phòng Nhì một chuyên viên kỹ thuật gầy gò, mắt rực lửa, tên là Boussary, có thể chứng minh tất cả và tin vào những chứng minh của mình. Ông ta đã làm một tác phẩm, tài liệu cụ thể và chính xác về quân đội ông Giáp, điểm tên tất cả các đơn vị và trang bị vũ khí. Phòng Ba nghiên cứu mọi giả thuyết chiến lược tấn công ở vùng cao như Alessandri mong muốn để phản bác ông có hiệu quả hơn, ghi rõ những gì cần thiết về quân số, khí cụ, các loại phương tiện, và người ta đã kết luận: "Điều đó không thể được".

Carpentier cũng có nỗi căm hận. Dù sao ông cũng là tướng tổng chỉ huy, nhất thiết cần có những biểu hiện kính trọng. Và ông cảm thấy rõ Alessandri không kính trọng ông, thậm chí khinh ông. Ông chỉ là một kẻ "ngu ngổc" đối với viên tướng nhỏ người vốn tự cho mình là một thiên tài. Carpentier vẫn để cho ông ta làm. Alessandri kiêu hãnh một cách đơn độc, không nghi ngờ gì, bị lôi cuốn vào mọi cuộc hành quân, khôn khéo, lừa bịp Carpentier. Sài Gòn chờ đợi ông ở bước ngoặt. Địa bàn đã chuẩn bị tốt, đã đặt mìn - người ta đã xúi bẩy cả Pignon.

Thế là đến ngày mồng 1 tháng sáu năm 1950, ngày Caroentier ra khỏi trạng thái bất động, làm cuộc đảo chính - ông đặt lại Alessandri, chúa tể chiến tranh, chuyên gia về Đông Dương vào hàng ngũ của mình. Ông kết tội ông ta không làm gì, không là gì ngay lúc ông ta thông báo: "Tôi đưa lại cho ông giải pháp; tôi đưa lại chiến thắng".

Sau viên tướng nhỏ không còn ai - kể cả de Lattre - nghĩ đến việc đưa Đội quân viễn chinh tổng tấn công vào núi rừng chống người Việt. Người ta chỉ tiến hành một cuộc phòng thủ ngày càng khó khăn, ngày càng vô vọng. Theo lý lẽ Alessandri đã đúng khi nói: "Phải ở lại vùng biên giới Trung Quốc. Nhưng người ta chỉ giữ được khi chiếm lấy toàn bộ vùng cao. Mục đích của tôi là như vậy: phải giữ cho quân Việt càng xa càng tốt. Cuộc tấn công của tôi là cơ may cuối cùng - nếu không Cao Bằng, Lạng Sơn sẽ đổ vỡ hết. Lúc ấy sẽ thật nguy hại vì các đội quân Giáp và các đoàn xe Molotova bao giờ cũng đi xa hơn. Vô cùng ảo tưởng nghĩ rằng có thể tiêu diệt quân Việt khi họ xuống trước vùng châu thổ! Họ sẽ làm tan rã vùng châu thổ, tan rã cả nước và Đội quân viễn chinh bị dồn đến đường cùng, đi từ thất bại này đến thất bại khác cho đến thảm họa cuối cùng. Bây giờ là lúc còn có thể đưa cuộc chiến đến đấy, có thể còn đập nát quân đội Hồ Chí Minh, trong khu tứ giác của họ". Alessandri nhìn vấn đề đúng như một nhà lý thuyết, một tiên tri - tương lai sẽ chứng minh điều đó. Thế nhưng việc ông đề nghị, việc chiếm lĩnh núi rừng với số lượng lớn người và xe cộ của Đội quân viễn chinh, chiến dịch lớn, vinh quang của ông phải chăng đã là một giấc mơ, một ảo tưởng? Chắc chắn trong thực tế là một điều không thể - người Việt đã quá mạnh và điều đó sẽ kết thúc xấu.

Dù sao chống lại sự lãng mạn của Alessandri, Carpentier tung ra trọng lượng của lý trí. Nhưng là lý trí mơ hồ, chỉ cần mấy tuần lễ để kết thúc rất tồi tệ. Vì Alessandri chống lại, không chấp nhận, và những gì tiếp theo thực sự bẩn thỉu, chỉ rõ việc tranh cãi viển vông trong quân đội có thể đi tới đâu. Đúng là khó phân biệt được trong những cuộc xô xát ấy giữa các tướng nặng nề và ti tiện đến thế, đâu là lợi ích cá nhân, tính ích kỷ, kiêu căng, lòng hận thù, tham vọng đâu là lòng trung thực, sự tin chắc hóa thân vào giả thuyết chiến lược đúng. Chắc lẫn lộn cả hai như giữa những người khác nhưng ở các quân nhân những xích mích ấy được đưa lên đến mức độ quyết liệt, cả những thảo luận nghiêm túc nhất cũng trở thành những việc cá nhân khó tin, hoàn toàn sỗ sàng - thế nhưng liên quan đến nước Pháp, thất bại hoặc chiến thắng, đến mạng sống nhiều nghìn và nhiều nghìn binh lính.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Bảy, 2019, 10:33:50 pm

Những trò chơi nhỏ của các viên tướng lớn

Ra tay rồi Carpentier rất khôn ngoan: phải lấy phong cách tổng chỉ huy, dĩ nhiên thẳng thắn để chứng tỏ quyền lực, hơi than phiền như là nạn nhân của một sự hiểu lầm nhưng cũng hơi hiền lành như sẵn sàng lắng nghe. Ông phải mưu mẹo. Vì Alessandri có những đồng minh mạnh tại chỗ, đặc biệt đô đốc Ortoli, chỉ huy lực lượng hải quân Pháp ở Viễn Đông, cũng là người đảo Corse nhưng trăm lần ghê gớm hơn; ông ta không sợ gì và vốn rất trong sạch nên rất đáng sợ. Một người như Carpentier ngại làm trái ý ông ta, sợ vì tính tình và nhân cách, và vì ông ta là người bạn rất gần gũi của tướng de Gaulle.

Alessandri cũng có thể dựa ở mức độ kém hơn, vào tướng chỉ huy không quân Hartman, vừa mới đến, một người khỏe mạnh khô khan và đen, loại "chủ bài" cũ hơi õng ẹo, hơi cằn cỗi nhưng rất biết việc của mình. Ông thấy ở Đông Dương đầy "chuyện tầm phào" và phải nghiêm túc chấn chỉnh. Nhất là về không quân, sẽ làm lại tất cả và sau đó người Việt sẽ hiểu.

Cũng có cả Pignon, Pignon trung thực đã mất vui trong cuộc sống, đau khổ, đắm mình trong ý thức của mình. Ông không phải nhà quân sự, muốn có một giải pháp chính trị nhưng hỏng việc, và các nhà quân sự bao vây ông. Thâm tâm ông đồng tình với Alessandri người đồng chí cũ, cũng trung thực, thật thà; và ông biết cơ may duy nhất là tấn công, phá vỡ tứ giác Hồ Chí Minh, chiếm hết vùng rừng núi biên giới Trung Quốc. Nhưng Carpentier đã chứng minh với ông, dựa vào chứng cứ, số liệu, hồ sơ trên tay, là không thể được. Thế là ông đứng về phía ông này nhưng bất đắc dĩ, lương tâm không thanh thản. Không thể tham khảo ý kiến ở Paris, ở Chính phủ; ở đấy chẳng có người nào hiểu rõ tình hình. Pignon cảm thấy cô độc, thất vọng. Ông ngần ngừ. Những người xung quanh Carpentier tự hỏi, Pignon phân vân, dè dặt như vậy rồi có thay đổi quan điểm, đứng về phía Carpentier không.

Carpentier lo ngại trước hết là Hội đồng phòng vệ. Đây là uỷ ban tối cao "chịu trách nhiệm về những cuộc hành quân ở Đông Dương" - một cuộc họp gồm tổng chỉ huy, cao uỷ, chỉ huy trưởng Lục quân, chỉ huy trưởng Hải quân, chỉ huy trưởng Không quân. Nếu nhóm họp Carpentier sẽ là thiểu số với Pignon lưng chừng, Alessandri, Ortoli và Hartman vốn tích cực chống lại. Hội đồng này đã chính thức được bãi bỏ nhưng thường vẫn có một thời gian quá độ còn mập mờ nên những người chống đối có thể vẫn đòi hỏi triệu tập.

Đối với Carpentier tấm ván cứu nạn là Paris. Ông phải về nước để nói với những ai có quyền, với Juin, với bộ Chiến tranh, các nhân vật cao cấp quan trọng có thế lực. Ông phải về trước Alessandri, vì ông người Corse câm lặng khinh thường báo chí và các hình thức truyền thống, quyết định về ngồi ở nền Đệ tứ Cộng hòa, thuyết phục mọi người để cứu vớt kế hoạch của mình, cứu Đông Dương, và do không thể ra đi chính thức, ông nói về việc từ chức, đòi trả ông về chính quốc.

Để giữ ông lại một ít, Carpentier điện cho Alessandri ở Hà Nội: "Nhiệm vụ gọi tôi về Pháp mấy tuần lễ. Ông hãy vào Sài Gòn thay tôi lãnh đạo cho đến khi tôi trở lại". Ông buộc phải chờ Alessandri. Và ở lâu đài Norodom là sự đối mặt giữa người ra đi trước và người đi sau. Trả lời những trách móc của một Alessandri tái người, thiếu não, nhăn nhó vì cay đắng, Carpentier nói: "Tôi đã để ông làm phó vương Bắc Kỳ, ông lạm dụng quá nhiều. Việc ấy không tiếp tục được nữa". Alessandri chỉ còn than phiền với Pignon: "Tôi nghĩ chúng ta hoàn toàn thống nhất về quan điểm. Tôi rất tiếc ông đã không thừa nhận việc tôi làm." Pignon cố khẳng định thiện ý của mình.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Bảy, 2019, 10:35:30 pm

Ở Paris Carpentier làm ra vẻ một tướng tổng chỉ huy dũng cảm, có lẽ không xuất sắc lắm nhưng chắc chắn, ông trình bày những sự việc rất đúng mức. Nhờ ông không có gì đáng lo ngại. Ông có mọi thứ cần thiết, không cần phải tăng cường gì thêm. Tình hình tốt, rất tốt, chắc chắn chiến thắng, nhưng có lẽ phải hành quân. Ông đảm nhiệm việc ấy. Ông đã nghiên cứu mọi tình huống bất ngờ, đã ngăn chặn hết. Có lẽ phải di tản Cao Bằng mất hút trong rừng núi - để chờ quân Việt ở chiến trường tốt hơn, đập tan họ ở rìa vùng châu thổ. Người ta có thể tin tưởng ở ông. Chắc hẳn sẽ có mấy tuần lễ hơi khó khăn nhưng với một người lính kỳ cựu như ông, việc đó không hề gì. Ở Đông Dương có những viên tướng kiêu căng, vô kỷ luật dễ rơi vào cạm bẫy quân Việt - ông, ông sẽ để thời gian cần thiết nhưng sẽ "tóm được" quân địch một cách khoa học. Vả lại trong mấy tháng nữa, mọi việc tốt hơn nhiều - và cuối cùng ông có thể đưa về Pháp những tiểu đoàn của Đội quân lê dương mà ông hoãn chậm lại vì khôn khéo.

Carpentier trở lại Sài Gòn rất phấn khởi với những lời tán thành, khen ngợi của Chính phủ. Về cơ bản Alessandri sẽ đỡ gây rối ở Pháp hơn ở Đông Dương - dù ông ta tổ chức chiến dịch vận động ở đấy. Vì ông, Carpentier có nguy cơ gì khi luôn luôn có chỗ dựa không lay chuyển được là ông chủ Juin? Ngược lại, ở Paris Alessandri sẽ bị gãy răng.

"Con người Corse" ra đi trong tình thế ấy, không ai biết có đi hẳn không, đi phép, từ chức hay bị thải hồi. Người ta nói mơ hồ về một viên tướng khác thay thế ông - nhưng không có gì thay đổi, Pignon cũng không biết.

Riêng Alessandri biết được thực sự ông muốn gì: Carpentier để ông trở về vị trí. của mình. Và như vậy ông nhận trách nhiệm rất lớn khi đi Pháp vào đầu "thời gian chờ đợi lớn", lúc quân đội ông Giáp tập hợp ở biên giới chuẩn bị tràn ra. Ông tưởng vẫn còn thì giờ. Đối với ông điều cần thiết là có lợi thế ở Paris, giành giật quyền lực, loại bỏ Carpentier hoặc đưa vào thế bất lực. Trở lại ông sẽ trong khí thế đánh thắng người Việt.

Alessandri đi máy bay. Và điều thần kỳ là ông gần như thành công ở Pháp. Viên tướng nhỏ người ấy, không được nâng đỡ, không quan hệ, thuyết phục được những người đối thoại. Trong hai tháng ngày này qua ngày khác ông gặp các quan chức của chế độ từng người một, kiên trì, lâu dài. Ông "bán kế hoạch của mình" cho tổng thống Cộng hòa, thủ tướng, các bộ trưởng, các chính trị gia, các nhà tài chính lớn. Ông nói chung vốn trầm tư ít nói bỗng trở nên lắm lời và quyết đoán, đưa ra những lập luận, lý lẽ, ví dụ nhằm chiếm lòng tin. Trước tiên và thường xuyên ông nhắc lại mình là "người biết rõ Châu Á" thực sự biết những người Annam, Trung Hoa, các loại người da vàng bí hiểm ấy như thế nào. Và ông nói những điều ấy rõ ràng, tin chắc tuyệt đối! Ngay trong cuộc vận động chèo kéo, trong nghệ thuật thuyết minh ấy, tất cả nổi lên không phải vì ích kỷ mà vì tình yêu nước Pháp.

Điều ông hứa hẹn quyến rũ hơn nhiều những gì con người nặng nề Carpentier đã nói! Nếu người ta để ông làm, chỉ trong mấy tuần, quá lắm là mấy tháng ông sẽ giải quyết vấn đề khó gỡ của cuộc chiến tranh Đông Dương. Nếu người ta để ông tấn công, bổ sung cho một số phương tiện thì không đầy một năm ông sẽ thanh toán Hồ Chí Minh và ông Giáp, sẽ đưa trở về nước toàn bộ Đội quân viễn chinh.

Carpentier đã lạc quan. Nhưng những điều Alessandri nói là mật ong rót vào tai các nhà lãnh đạo nền Đệ tứ Cộng hòa. Bộ trưởng mới bộ Pháp quốc hải ngoại Letourneau bị tác động, càng mạnh khi ông ta chẳng biết gì về Châu Á, như một toàn quyền cũ xây dựng sự nghiệp ở Châu Phi và chỉ nói về người da đen. Và ông nghĩ viên tướng này nắm vững công việc của mình - cần sử dụng.

Người thích thú, hoan hỉ, sung sướng nhất là chính bản thân Vincent Auriol. Mùa hè ấy, như mọi người, như Pignon, Bảo Đại, tôi cũng có mặt ở Paris. Tôi được vinh dự có một cuộc tiếp kiến với tổng thống Cộng hòa. Ông tiếp tôi trong văn phòng lớn của ông. Ông không dễ mến, vẻ quan trọng và lạnh lùng tuy giọng nói miền Nam. Ông nhìn tôi với đôi mắt trong vắt rồi hỏi tôi tình hình bên Đông Dương ra sao. Tôi trả lời kết quả công cuộc bình định rất to lớn nhất là ở đồng bằng Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Ông ngắt lời tôi: "Thế là sắp thắng chứ?" Chiến thắng là ám ảnh của ông vừa vì đất nước vừa vì bầu cử. Tôi sơ ý nói rằng theo ý tôi có một sự đe dọa nghiêm trọng đè nặng lên biên giới Trung Quốc. Vincent Auriol quát ngay: "Tôi không có những thông tin như ông, hoàn toàn không như ông nói. Chào ông". Thực ra Alessandri đã đến đây báo cáo với ông.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Bảy, 2019, 10:36:05 pm

Viên tướng nhỏ thắng lợi trên sân khấu Paris đến nỗi ở Sài Gòn Carpentier lo lắng. Lại dùng mưu mẹo, ngày 25 tháng tám 1950, ông viết thư cho Alessandri: "Tôi thực ngạc nhiên khi thấy ông được ông Vincent Auriol tiếp. Mấy ngày sau tôi được biết ông Jules Moch rồi ông Pleven cũng tiếp ông. Tôi tự nhủ đối với một đợt "đi phép" đấy là một thủ tục kỳ cục". Một lần nữa Carpentier thay đổi nhận định. Rút cuộc Alessandri ở Đông Dương ít nguy hiểm hơn ở Pháp. Vậy là ông viết thêm trong thư: "Về việc trả phép, tôi nghĩ có sự hiểu lầm. Ông nói với tôi vắng mặt từ một tháng rưỡi đến hai tháng. Và bây giờ ông báo sẽ trở lại sau đợt nghỉ phép hai tháng rưỡi như đã thỏa thuận. Tôi tuyệt đối không chấp nhận việc kéo dài thời hạn ấy".

"Viên tướng nhỏ" không hề vội vã trở về. Vì dù có những vinh quang nhờ tuyên truyền, không có gì thể hiện ra cụ thể: những lời nói tốt đẹp, hứa hẹn, chúc mừng nhưng không có một kết quả nào. Bộ máy cộng hòa và chính phủ tỏ ra nặng nề đáng sợ; có cái gì đó bám chắc không thể lay chuyển, cả khối bất động, thế giới hư không, vả lại vì Alessandri tô hồng tất cả, việc gì phải vội, phải có những quyết định? Trong các hội nghị bộ trưởng người ta không bao giờ nói về Đông Dương. Nhưng ông không từ bỏ, tiếp tục thăm viếng, vận động, chứng minh táo bạo hơn. Không có gì làm ông nản lòng. Ông chắc chắn cuối cùng mình sẽ được thỏa mãn, sẽ chiến thắng trở lại Sài Gòn như người chủ. Người ta trao đổi về những ảo tưởng của ông. Vincent Auriol, Jules Moch, Max Lejeune đều nói với ông: "Tướng Carpentier đang bị bệnh. Chờ khi tình trạng ông ấy trầm trọng đã. Lúc đó ông sẽ là người kế nhiệm."

Sau mọi cố gắng ấy Alessandri đi nghỉ ở Cannes. Một hôm ông nhận được điện thoại của Bảo Đại, cũng đang ở Bờ biển Xanh:

- Ông hãy đến gặp tôi, ông Letourneau và ông Pignon muốn nói chuyện với ông.

Ông Letourneau với khuôn mặt trang trọng nhất:

- Đại tướng, ông đã có một ấn tượng mạnh đối với tổng thống Cộng hòa. Ngài đề nghị ông trở lại Đông Dương ngay. Ở đấy người ta tuyệt đối cần có kinh nghiệm của ông. Ông là người của thực tại. Chỉ có ông mới có thể chỉ đạo những cuộc hành quân đã dự kiến.

Alessandri thăm dò về đường lối quân sự phải theo - có phải là của ông không. Nếu ông được giao áp dụng một đường lối ngược lại, ông muốn ở lại Pháp, nơi ông đã bắt đầu điều trị bệnh. Letourneau thoái thác. Tuy vậy "viên tướng nhỏ" yếu thế, hỏi:

- Tôi có phải hiểu ý muốn của tổng thống Cộng hòa là một mệnh lệnh không?

- Một mệnh lệnh đấy.

Alessandri chỉ còn phải vâng theo. Thực tế ông kiêu hãnh tin chắc rằng tại chỗ, ông sẽ áp dụng những nhận thức của mình. Ông bay sang Sài Gòn ngày 17 tháng chín, đầy hy vọng. Tuy vậy một người bạn, đại tá R... cảnh báo ông: người ta chờ ông để chơi một vố xấu, biến ông thành kẻ hiến sinh.

Sự thực Chính phủ không có ý đồ xấu. Người ta giữ Carpentier vì ông ta có chỗ dựa và thấy ông khôn ngoan. Về nguyên tắc người ta cho ông có lý: không tấn công lớn vào rừng. Nhưng trong thực hiện người ta không tin tưởng ở ông. Tốt hơn nên có Alessandri, chuyên gia về thực địa. Trong ý nghĩ của Chính phủ, con người thủ cựu quá khôn và kẻ kích động trẻ quá mạo hiểm bổ sung cho nhau làm một cặp tốt, vào tầm trung cần thiết giữ sự lẩm cẩm và sự thiếu khôn ngoan. Người ta chỉ quên mất sự căm hận ghê gớm giữa họ, sự chống đối nhau mọi mặt, chắc chắn sẽ làm tất cả để chống nhau.

Thực ra mà nói, Carpentier cay độc hơn. Alessandri đến sau cuộc thất bại Đông Khê lần hai để làm những việc to tát. Carpentier nói ngay ông chẳng có việc gì làm hoặc gần như thế: chính ông ta, tướng tổng chỉ huy đã xây dựng những kế hoạch hành quân và đã có người để thực hiện. Carpentier từ lâu đã là tướng bàn giấy, không hề rời văn phòng mình. Nhưng dù sao ông cũng đã biến mình thành lính chiến - tai họa, cuộc chiến tranh của ông là ngu dốt.

Alessandri khốn khổ! Ông thật sai lầm khi vắng mặt cả mùa hè! Carpentier đã nắm lấy tất cả. Và khi con người Corse trở lại, ông hoàn toàn bất lực, bị tước vũ khí; giận dữ cũng chẳng làm được gì. Ông hợp tác, thậm chí đồng loã với một chiến lược ông ghê tởm, thấy trước thảm họa. Do kiêu căng, tự phụ, tính tình yếu đuối, cuối cùng ông bị bó tay. Ông đi đến những tai họa thực sự không quy tội cho ông được, nhưng đối với ông là đáng trách, thật đau đớn, nó suốt đời dằn vặt ông. Về cơ bản trong cuộc chơi lớn, chính Carpentier với dáng thô thiển nặng nề ấy là người tinh ranh nhất. Ông ta là người chịu trách nhiệm lớn nhất nhưng lại trả giá ít nhất, thậm chí tiếp tục sự nghiệp lớn, đơn giản vì những quan hệ của mình.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Bảy, 2019, 10:42:13 pm

Số không to tướng

Trong những tuần lễ Đội quân viễn chinh đợi đòn tấn công trên biên giới, Carpentier và Alessandri đều không cảm nhận được gì, lao vào cãi vã nhau. Người nào cũng muốn tự mình đảm bảo chiến thắng trong tương lai. Giữa những tranh giành bẩn thỉu ấy, tổ chức lộn xộn đến mức có thể nói thực tế không có sự chỉ huy. Carpentier kết tội Alessandri làm đảo lộn trật tự của mình còn Alessandri kết tội Carpentier cản trở mình. Từ lâu đã có một trục Hà Nội - Sài Gòn, đúng ra là Alessandri - Pignon. Cũng có một trục Lạng Sơn - Sài Gòn, đúng ra là Constans - Carpentier, vì ở Lạng Sơn, con đường số 4 và toàn vùng biên giới, về nguyên tắc phụ thuộc trước hết về Alessandri. Carpentier đã bổ nhiệm một người của mình, đại tá Constans trực tiếp báo cáo và nhận mệnh lệnh của ông. Theo cách đó công việc ra sao cũng được.

Nhưng mùa hè năm 1950, Sài Gòn muốn chỉ huy toàn bộ. Đúng ra thì Sài Gòn và Carpentier nắm lực lượng cách nào cũng chỉ chỉ huy chỗ trống, con số không. Đội quân viễn chinh không chỉ ở vào sự chờ đợi lớn nữa mà là một giấc ngủ lớn.

Đối với Carpentier, đây là cơ hội của mình, không còn bóng người nào cản trở, Alessandri đang ở Pháp. Ngay ở Sài Gòn chỗ dựa của ông, viên tham mưu trưởng có tài vì nát rượu của Đội quân viễn chinh, đại tá Domergue cũng biến mất vì thất sủng hoặc bị bệnh. Vị trí của ông được giao cho những người vô cùng lịch sự và bình thường, rất đáng kính nhưng hoàn toàn không có khả năng giúp tổng chỉ huy nên ông ta chỉ còn tin vào mình.

Trong văn phòng của mình ở lâu đài Norodom, Carpentier là ông vua. Ông trị vì trên mấy mét vuông sàn, những gì trải ra giữa cánh cửa canh gác cẩn thận việc ra vào và chiếc hòm cũ của ông đặt ở góc; đối với ông đấy là Đông Dương. Sức khỏe ông tốt hơn. Những nét nhăn mờ nhạt nói chung mang dấu vết khoan dung vui vẻ, nhưng đôi lúc có nếp biểu hiện của sự kết tội không nói ra. Thực ra lòng khoan dung của ông càng ngày càng chuyển sang độc đoán. Tai vạ cho kẻ làm ông mất lòng!

Bản chất sâu xa của ông không đổi. Đấy là bản năng cũ về tính anh hùng rơm và phản xạ cũ về sợ hãi Paris. Ông luôn dựa vào vinh quang của quân đội Pháp, của Đội quân viễn chinh và của chính mình, luôn chiều theo ý những người lớn và những người quyền lực. Nhưng trong sâu kín của mình, từ nay ông có một sợ hãi mơ hồ - như một người nông dân lo trời sập. Đấy là ông bắt đầu có cái nhìn nghiêm túc đối với người Việt và người Trung Hoa - ít nhất nếu ông không làm ra vẻ nhìn họ nghiêm túc.

Biết sao được? Carpentier, với bề ngoài ngây thơ giả hay thật, về căn bản rất ranh mãnh. Từ nay ông thu xếp để không chỉ trở thành Carpentier dũng cảm mà còn là Carpentier người biết điều. Tất cả là ở thái độ, biết xen lẫn vào nhiều lạc quan một ít bi quan. Ông luôn nói: "Ông Giáp cứ đụng vào chúng ta, sẽ bị đập tan ngay". Lần khác ông nói thêm, tâm sự như bộc lộ một bí mật lớn: "Các ông thấy những đòn liên tiếp người Mỹ nhận ở Triều Tiên đấy. Dù sao những người da vàng ấy cũng là những chiến binh". Ông cũng muốn tin vào "cuộc tổng phản công của người Việt" sắp tới trên biên giới đông bắc Bắc Kỳ. Nhưng có ông ở đấy, sẽ dùng các biện pháp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Bảy, 2019, 10:43:00 pm

Carpentier rất thoả mãn vừa biết thỉnh thoảng thể hiện lo lắng. Tuy không giải quyết được gì nhưng ông tăng nhiều chỉ thị, lẫn lộn trái ngược nhau. Như ở ông có hai người - ông già Carpentier đánh nắm đấm xuống bàn và một Carpentier mới sợ "phiền phức" không riêng về chính trị vốn ám ảnh ông mà cả phiền phức trong chiến tranh, vẫn còn là ông già Carpentier chiếm ưu thế nhưng đôi khi thể hiện rõ một Carpentier mới sợ hãi, ít nhất sẵn sàng sợ hãi và trong trường hợp có dịp, có thể sợ hãi thực sự - không thẹn thùng xấu hổ dưới danh nghĩa lương tri vĩnh cửu của ông.

Kết quả lạ lùng là Carpentier chuẩn bị cả một chiến lược "khôn ngoan" nhưng với những chiến thuật điên rồ, bất chấp, thiếu khôn ngoan, thách đố, rời rạc, cũng đầy những nhận định không liên quan đến nghệ thuật chiến tranh làm để vừa lòng hoặc không mất lòng những ai ông cần.

Tổng hợp tất cả những cái đó là một tài liệu được biết như "chỉ thị riêng và mật về việc phòng thủ biên giới Trung Hoa - Bắc Kỳ" đề ngày 18 tháng tám năm 1950. Người ta vẫn phòng thủ con đường số 4 những chốt công sự Cao Bằng, Thất Khê, Lạng Sơn, Đồng Đăng, làm "lưỡi dao chắn" cuộc tấn công của địch. Cao Bằng và Lạng Sơn được phòng thủ không có hy vọng quay trở lại. Những bốt thứ yếu có thể rút, nhưng những đội quân Việt vượt qua đường số 4 sẽ bị tấn công trên đường tiến trong rừng bởi các "yếu tố tập hậu". Cuối cùng là cuộc chiến quyết định ở rìa vùng châu thổ với những "biện pháp tối đa".

Tài liệu được soạn thảo như dùng trong trường học chiến tranh, giáo điều, khoa học với từ ngữ thích đáng và lý thuyết kiểu Napoléon. Người ta không kể đến rừng là gì, quân địch là ai - muốn không biết gì về cuộc "chiến tranh nhân dân". Tất cả là điên rồ. Carpentier ghê tởm phải di tản đường số 4 vì sẽ có tác động xấu đến Paris: thay vì bỏ hoàn toàn hoặc củng cố thật vững chắc - hai cách làm dĩ nhiên - ông bỏ rơi mấy nghìn quân lính, tạo một trận thua tan tác, làm quân địch xuất hiện ghê gớm hơn bình thường nhiều, "bẻ gãy" lòng can đảm và tinh thần của Đội quân viễn chinh. Và trong thất bại hầu như chắc chắn, việc rút quân ở những bốt nhỏ sẽ là việc tùy nghi di tản hoặc đầu hàng thảm hại. Còn những "yếu tố tập hậu" có trách nhiệm làm chậm bước tiến của quân Việt không hề tồn tại, quá lắm là chỉ mấy đại đội chìm ngập trong lực lượng đông đảo của quân địch. Không phải đã hết. Sau thảm họa thấy trước của biên giới, tinh thần của bộ phận lớn Đội viễn chinh không còn là tình trạng chống cự trước vùng châu thổ vì quá ngạc nhiên, kinh hoàng, mệt mỏi. Họ cũng không chống đỡ được về vật chất, vì Carpentier vô ý thức, vừa thông báo những trận đánh lớn ở Bắc Kỳ, đáng lẽ gửi các đội quân tới đó lại rút bớt đi: nhiều tiểu đoàn lên tàu ở Hải Phòng để vào Trung Kỳ hoặc những vùng khác xa xôi nơi các tướng chỉ huy đòi quân bổ sung. Ông gửi quân đến vì ở đấy là những người bạn và vì ở Bắc Kỳ đã đủ quân số để cho ông Giáp một bài học.

Nhưng biện pháp thực sự duy nhất của Carpentier là truyền tin chiến công của ông ra toàn thế giới, thông báo đầy đủ những chiến thắng sắp tới của quân Pháp. Vị tổng chỉ huy không hề hài lòng về các nhà báo chuyên nghiệp ông cho là đưa tin sai, không đúng lúc hoặc với dụng ý xấu. Ông bèn hình dung tự mình phải phổ biến tin tức. Từ chỗ chẳng có gì ông bỗng tạo ra một Cơ quan Thông tấn quân đội khổng lồ - một cuộc hành quân thực sự bằng cây bút. Biên chế lên đến khoảng năm mươi sĩ quan và hạ sĩ quan, tất cả được biết có tư duy tốt. Lãnh đạo là một tập hợp kỳ lạ các đại tá, thiếu tá bên dưới một số trung uý trẻ nổi tiếng về "ngọn bút": sau khi tham gia các cuộc hành quân, họ viết những "phóng sự" cân nhắc kỹ, sửa chữa, bổ sung, được hệ thống chức quyền trong quân đội và bản thân Carpentier phê chuẩn rồi được tặng miễn phí cho báo chí toàn thế giới. Trong lúc làm công việc "sửa chữa báo" ấy, biết bao tranh luận giữa những người có lon! Và người ta đứng nghiêm chào nhau theo lối quân sự và những người cấp dưới tỏ thái độ tôn kính đối với cấp trên!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Bảy, 2019, 10:44:27 pm

Carpentier với tính nông nổi của mình, hình dung những bài báo "xuất sắc" như thế, biếu không, sẽ được hối hả in ra trên thế giới. Ý nghĩ sâu xa là thuyết phục những cơ quan báo chí Pháp và quốc tế không gửi phóng viên, những người dân sự, sang Đông Dương nữa; tốt hơn là dựa vào các "sĩ quan trí thức” của cơ quan Thông tin quân đội, những người ở tầng lớp cao nhất đồng thời là những “người lính" vì danh dự và kỷ luật. Thực tế dù bấy nhiêu cố gắng, những triệu đồng, những phương tiện, chỉ một trong các bản ấy của quân đội được in ở Pháp, chỉ một lần trong một tờ báo nhỏ ở tỉnh lẻ và vì tác giả, một trung uý, có người thân ở đấy.

Không loại bỏ được các nhà báo chuyên nghiệp ở Đông Dương, Carpentier bèn có sáng kiến vuốt ve họ. Trong lúc tất cả được giữ bí mật tuyệt đối, ông cho soạn thảo những thông báo chính thức dành cho các nhà báo. Ông chỉ định cả một "phát ngôn viên", vai trò này - của một người tin cậy có nhiệm vụ quyến rũ và thuyết phục những người đáng ngờ và hơi đáng khinh - ông chọn trong các đại uý, người đẹp nhất, nhiều huân chương nhất, một chàng trai mắt xanh, phong thái quý phái thân mật, bắt tay thật chặt, với lòng tin nồng nhiệt: anh đàng hoàng đến nỗi có vẻ không thể nói dối, thế mà đấy là nhiệm vụ của anh. Chính anh sẽ truyền cảm lòng tin, ngọn lửa của anh cho các phóng viên chán chường nhất; chính anh, trong một niềm hân hoan, rắn rỏi và thận trọng, thông báo những chiến thắng trong chiến dịch mùa thu sắp tới.

Cứ thế ở Sài Gòn người ta hoạt động, chuẩn bị tất cả, ít nhất là xung quanh tướng Carpentier, trong các văn phòng của những người trung thành với ý tưởng của ông. Nhưng ở nơi phải đánh nhau, ở Bắc Kỳ, là sự bất động tuyệt đối. Không người nào lo việc gì cả. Ở Hà Nội, trong các ban tham mưu của Alessandri người ta chẳng làm gì hết - tự hỏi ông ấy có về không vừa sợ cơn giận của "ông chủ" nếu ông chiến thắng ở Paris và xuất hiện trở lại. Chính thức, trách nhiệm thuộc về tướng Marchand, phó của Alessandri, chỉ hai sao. Ông ta không mong muốn thế! Ông là người đầu tiên kêu lên không thể đảm nhiệm dù chỉ vài tuần lễ, sự chỉ huy quan trọng, nguy hiểm như thế. Ông không ngừng van lên đủ giọng, trước mọi người: "Tôi chỉ muốn hạ cánh an toàn! Chúa ơi, thật nguy hiểm! Việc gì sẽ xảy ra với tôi đây?" Trước khi đi Alessandri có giao một số mệnh lệnh rất cụ thể. Nhưng rồi một đại tá của Carpentier ra Hà Nội với bản "chỉ thị riêng và mật ngày 18 tháng tám" hỏi ông: "Ông tán thành chứ?" Ông Marchand khốn khổ buộc phải đồng ý nhưng có cảm tưởng mình là một kẻ phản bội lại Alessandri.

Nếu ở Hà Nội tất cả như chết thì tất cả là vinh quang ở Lạng Sơn, thủ đô đẹp của vùng biên giới. Nhưng một vinh quang như trên sân khấu, những kẻ điên chơi trò hiệp sĩ thời Trung cổ trước khi đổ nhào xuống máu và sự kỳ quặc.

Ở đây đại tá Constans là đại diện thường trực, ông là người anh hùng, toàn thành phố là cảnh trang trí và lính lê dương được sử dụng làm diễn viên. Bề ngoài viên đại tá này hứa hẹn một tương lai tuyệt đẹp, là tướng, thống chế, người lãnh đạo nước Pháp. Ông là một người hoàn hảo về mọi mặt, vừa là người lính đẹp đầy tháo vát, người diễn viên có tuổi, ông chúa lớn khinh khi và tốt bụng, con người thời thượng mà mỗi tiếng nói, mỗi nụ cười cho thấy ông biết rõ những ông lớn, những người quyền lực, những người giàu trên khắp thế giới. Và đúng thế. Tư sản của một gia đình giàu có, ông có một quá khứ thần kỳ vì những quan hệ và những giải trí của ông. Ông nói rất giỏi và quyến rũ còn giỏi hơn. Đã quá tứ tuần, ông chỉ còn thiếu – để leo lên cao - sự thành công của một chỉ huy lớn. Vì có chứng chỉ ban tham mưu, sĩ quan lê dương, ông chưa bao giờ thực sự tham gia cuộc chiến. Vậy là ông đến tham gia ở chỗ nguy hiểm nhất, chỗ sẽ làm ông nổi danh hơn, ở Lạng Sơn, chỉ huy trưởng vùng biên giới.

Ông được bổ nhiệm bất kể Alessandri. Nhưng về tiềm lực ảnh hưởng, ông hơn hẳn viên tướng nhỏ người Corse thực dân quá nóng nảy! Ngược lại, Carpentier có chỗ dựa là Juin, cảm thấy cùng Constans cả Paris đứng sau mình, sẽ hóa thân cả Paris vào rừng rậm. Carpentier và Constans, hai đồng minh - viên tướng bốn sao và viên đại tá năm vạch lon - vậy là cùng nhau làm chiến tranh, sóng đôi bạn bè, như Alessandri không tồn tại.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Bảy, 2019, 10:45:19 pm

Nhưng lạ lùng là Constans ở Lạng Sơn cũng bất động, còn hơn cả Carpentier ở Sài Gòn. Ông rất ít di chuyển, họa hoằn mới đi xem các đội quân, các bốt trên đường số 4. Duy nhất một lần ông đến Cao Bằng sau khi ông sang. Ông không trở lại đấy nữa vì không thích đi máy bay - một số người nói do ông yếu tim, một số khác cho là do thầy bói dự báo ông sẽ gặp tai nạn. Ông ghét hàng không đến mức lúc đầu hơi khác với Carpentier. Ông này đã chọn ông, mất nhiều công sức rút được ông sang từ Bộ Chiến tranh, nóng ruột chờ ông ở Sài Gòn. Nhiều ngày qua đi chẳng thấy gì. Vì từ Pháp sang, đáng lẽ theo đường không, Constans đi trên một chiếc tàu thuỷ sang trọng. Khi đến trình diện, Carpentier giận dữ ra lệnh: "Ông quay lại ngay sân bay Tân Sơn Nhất. Một chiếc Dakota quân đội sẽ đưa ông tới vị trí chỉ huy của ông ở Lạng Sơn”.

Lẽ tự nhiên cơn giận không kéo dài. Ngược lại Constans là "cục cưng" của Carpentier. Đổi lại, đại tá hết sức tâng bốc tổng chỉ huy. Một lần ông cho làm một bức chân dung của Carpentier thêu theo lối Trung Hoa đưa tặng thủ trưởng. Và Carpentier lẩm bẩm: "Tay Constans này thật tế nhị!" Hơn nữa, Constans khôn khéo khẳng định với Carpentier rằng trong những thư gửi về Paris, ông không ngừng khoe công tích, nói mọi điều tốt đẹp ông nghĩ về tổng chỉ huy.

Nhưng đặc biệt Constans huy hoàng không hiểu gì về cuộc chiến, còn kém hơn con người cần mẫn Carpentier. Ông không thảo được một mệnh lệnh hành quân, phải là Charton con người "cứng rắn" người ta để làm phó cho ông, làm việc ấy. Xung quanh ông cách vài cây số tất cả là bi kịch nhưng ông biết rất lơ mơ. Ông muốn làm cho Lạng Sơn thành Versailles của ông, lãnh địa tuyệt vời về tầm quân sự, vẻ đẹp thời thượng và cả sự tế nhị chính trị.

Và giữa cảnh ấy biết bao sang trọng tinh tế! Trên đời, không có hình tượng nào đẹp hơn quân lê dương. Mọi lễ tiết, phong tục cũ được khai thác triệt để nhằm phục vụ từ những công việc khiêm tốn nhất trong nhà, những buổi thao diễn hùng tráng; những con người đẹp, những bức tượng sống tuyệt vời. Và từ sáng đến chiều vang lên những nhịp điệu rộn rã của quân nhạc. Như vậy chưa đủ đối với đại tá. Ông xây dựng đội "Hoàng gia”, phân đội bảo vệ riêng cho sáu mươi người, từng người một, ít nhất cao một mét chín mươi, chỉ luôn luôn đi lại quanh ông, là những gia nhân lãng mạn. Con người cứng rắn Charton, để khỏi lạc hậu, xây dựng một đội phát xít nhỏ lính lê dương cũng đẹp, cao lớn nhưng trước hết là những "người thích chiến đấu". Ông ta sử dụng như đội tác chiến, ban đêm làm những đợt hỗ trợ gần Lạng Sơn trong lúc Constans tổ chức chiêu đãi.

Mọi việc được tính đến hiệu quả. Khi Constans tiếp một vị khách tầm cỡ ở Lạng Sơn, ví dụ một tướng Mỹ đến tìm hiểu, ông điện thoại cho các bộ phận: "Hãy chuẩn bị trò chơi lớn". Làm sao chống lại, không tin ông được khi trong phòng những bản đồ, tất cả những sĩ quan đứng nghiêm trong một không khí nghiêm túc kỳ lạ, ông tả mọi bố trí "của ông" trên biên giới với thái độ rất thanh thản, với sự giản dị mê hoặc? Và những gì ông nói, ông chứng minh bằng những việc làm, những con số, những chi tiết cụ thể không tưởng được mà những nhà quân sự Mỹ đến đầy lòng nghi ngờ ấy rất thích. Ông trả lời những câu hỏi, dù thâm ý nhất, cũng rất dễ dàng! Ông thuyết phục, chinh phục họ không cưỡng lại được. Đối với họ, ông là người luôn tích cực hoạt động, nghiên cứu tất cả, hăng say tìm những chiến lược có hiệu lực hơn, theo dõi việc thực hiện như một con mèo rừng. Một màn kịch tuyệt vời, vì Constans chẳng biết gì hết.

Sau đó, làm việc xong là vui chơi. Những bữa ăn với một nghệ thuật lớn. Quanh chiếc bàn đẹp bố trí lần lượt các chiến binh, rất thượng võ, rất thời thượng, những hình nhân tuyệt đẹp về các loại quân phục, các loại huân chương của Quân đội Pháp. Họ được xếp ngồi vào bàn theo biển thứ tự chặt chẽ. Những món ăn ngon nhất nối tiếp được những người khổng lồ vô cảm của đội "Hoàng gia" mang ra. Constans chỉ đạo buổi nói chuyện như một bà chủ nhà, tất cả có định lượng, những đề tài quan trọng, những câu đùa, những tiếng cười. Constans, từ một cử chỉ không là gì, một phút im lặng, một bóng mờ không bằng lòng hay tán thưởng, làm cho những người này nói những người kia im lặng. Và khi ông nói người ta cảm thấy thể hiện cả sự duyên dáng, như chất lỏng tuôn trào. Suốt thời gian ấy âm vang tiếng hát trầm, những bài hát Đức tuyệt diệu. Giờ điểm tâm cũng có hoạt cảnh, ban nhạc thính phòng, những nghệ sĩ kịch câm, có cả vũ công hóa trang. Đội lê dương cung cấp tất cả những tiết mục ấy.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Bảy, 2019, 10:46:41 pm

Nhân vật kỳ lạ nhất là Burgens, người quản gia. Trước kia tôi đã thấy ông ở Cao Bằng, phụ trách tài chính của A... tỉnh trưởng. Ông A... nói với tôi vẻ thán phục: "Ông ta có thể làm tiền trong mọi việc, lừa được cả người Trung Hoa". Người ta tìm được ông đang làm đội ở Thất Khê, gặp một số phiền phức. Pháp luật dân sự muốn nhận lại ông nhưng đội lê dương che giấu, giữ ông lại. Rất đĩnh đạc, Burgens giải thích: "Tôi đã năm mươi tám tuổi. Thời kỳ giải phóng chẳng có gì buộc tôi phải đăng lính nếu không phải là lương tâm. Với tài sản tôi có, ông nghĩ tôi có thể là một ông già phóng đãng ở Thụy Sĩ chứ?"

Ở Lạng Sơn ông là người chủ các lễ hội, có trọng lượng khác thường đối với Constans. Ông suy nghĩ đến nỗi đôi khi lầm lẫn: Khách mời cúi chào ông, nghĩ ông là đại tá tuy ông này đứng ngay bên cạnh. Nhưng đại tá không mất lòng, nói về ông: ”Một hòn ngọc đấy". Burgens được phép làm mọi việc. Khi có một tiệc đứng hoặc bữa ăn nguội, ông nói trước cử tọa như một nhân vật lớn. Ông diễn giải lâu về Đông Dương, Pétain và De Gaulle, về Staline, bom nguyên tử, nền tài chính Pháp. Và điều ông nói thông minh, thú vị đến nỗi không ai nghĩ đến việc ngắt lời ông, cả những sĩ quan cao cấp cũng quên đấy chỉ là một viên đội.

Tuy vậy nếu ở Sài Gòn Carpentier bắt đầu "nghĩ" về người Việt thì Constans cho rằng họ không tồn tại. Một hôm Carpentier sốt sắng giới thiệu hai nhà báo đến, người ta tổ chức chiêu đãi. Các chàng trai nêu câu hỏi: "Ông nghĩ có thể chống lại được cuộc tấn công sắp tới của ông Giáp?" Nụ cười ngạo mạn của Constans được tán thưởng - thực ra họ chỉ là những sĩ quan tham mưu của ông: "Những quân lính Việt dữ tợn, các sư đoàn ông Giáp là sáng tác của đồng nghiệp các ông, các vị trong giới báo chí. Chỉ là trò bịp. vẫn là quân du kích mà chúng tôi sẽ giải quyết với họ. Các ông đừng sợ cho chúng tôi mà nên sợ cho họ". Tối hôm sau, hai anh bạn nhà báo đến các bar và những nơi ám muội. Họ làm quen với một de Fontange, đại uý phi công. Khi họ hỏi, anh này trả lời giọng vỡ ra:

- Không có quân Việt ư? Vớ vẩn! Ngày mai tôi sẽ chỉ và các anh sẽ thấy họ đang nhung nhúc.

Anh Fontange ấy là con thứ một gia đình quý phái. Bố là nghị viên, anh là thanh tra tài chính. Nhưng anh ta bất kể gia đình. Một kẻ hư hỏng. Thân hình cao lớn õng ẹo, khuôn mặt dài xương xương, bao giờ cũng khinh mạn, bất kể tất cả. Anh chẳng làm gì hết nhưng khi người ta đề nghị có một người tình nguyện cho nhiệm vụ nguy hiểm, giữa những hàng ngũ im lặng, người ta thấy anh bước lên, vẫn khinh miệt vô tư, nói với giọng lè nhè: "Tôi đi". Và với những gì không thể, anh thực hiện cùng thứ yêu thích cũ của mình, một chiếc Junker đáng vứt đi, thậm chí người ta không đoán được anh say rượu hay không.

Ít lâu hai chàng trai cầm một mệnh lệnh công tác, bay lên Cao Bằng cùng Fontange. Anh này cẩn thận bổ nhào trên đất Trung Hoa, vượt một quả núi, bay trên một khoảng rừng thưa và họ trông thấy người Việt, nhiều trăm, nhiều nghìn đang tập luyện, vẫn bay trên Trung Quốc, anh lại vượt một quả núi khác, bay trên một khoảnh rừng thưa khác, vẫn nhiều nghìn người Việt đang tập luyện. Cứ như thế cho đến lúc cuối cùng, anh chuyển hướng bay về Cao Bằng, nơi mọi việc có vẻ êm đẹp.

Mấy ngày sau hai nhà báo trở lại Lạng Sơn. Lại một buổi chiêu đãi. Constans kiêu ngạo hỏi: "Thế nào, các ông có thấy quân Việt không? "Các chàng trai trả lời:" Có, thưa đại tá rất nhiều, hàng chục nghìn, khi bay ngoặt lại một ít trên đất Trung Quốc". Giật mình. Im lặng hoàn toàn. Nét mặt tái vì sợ hãi của Constans. Người ta chỉ nghe tiếng nĩa các sĩ quan tham mưu hoảng hốt bỏ rơi xuống đĩa.

Sự thực mọi người biết tình hình trên biên giới, chắc chắn Constans cũng biết, những bữa tiệc vui vẻ ở Lạng Sơn đã là những lễ hội tang tóc. Không ai không biết tình hình nghiêm trọng. Con sông Kỳ Cùng - dòng nước đục ngầu bao quanh thành phố. Những ngày qua đi, tin tức vẫn luôn đáng lo ngại hơn, hội hè vẫn tiếp tục.

Một trung uý trẻ từ Pháp sang, trình diện ở ban tham mưu Hà Nội. Một đại tá hỏi: "Anh có vợ chưa? - Chưa - Thế thì tôi buộc phải chỉ định anh lên Lạng Sơn. Trên đó người ta chỉ còn cử tới những người độc thân, những người có thể chết mà không quá nhiều chuyện về gia đình".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Bảy, 2019, 10:47:21 pm

Ở Lạng Sơn trung uý ấy gặp những người trầm tư, lo lắng. Và ở đây anh tham gia vào việc anh gọi là "vòng quay Nga". Đội biệt kích I có một tiểu đội ở Thất Khê. Người chỉ huy ốm nặng phải có người thay thế. Thế là ba sĩ quan xe bọc thép ở Lạng Sơn rút thăm người phải đi: trung uý Pascal. Ba người bạn uống rượu suốt đêm, Pascal, người bị kết án và hai người khác có một ít may mắn hơn được sống sót.

Không ai ra lệnh, không ai nhận lệnh. Ở Lạng Sơn giữa cuộc sống xả láng, các chỉ huy nhìn nhau: làm sao khác được vì lực lượng dự trữ chỉ còn hai trung đội can thiệp? Thậm chí người ta không dám cử đi các đoàn xe tiếp tế trên đường số 4 trừ đoạn đầu đến Na Sầm. Không chỉ còn Cao Bằng và Đông Khê là những "con nhím" mà cả Thất Khê và nhiều bốt khác. Tất cả như đã bỏ mặc cho người Việt.

Không ai biết điều gì sẽ xảy ra. Việc quân Việt tấn công là tất nhiên rồi. Nhưng Bộ chỉ huy Pháp vẫn câm lặng, như không tồn tại.

Ngày 8 tháng chín, sửng sốt, Constans ra lệnh tổ chức một đoàn xe đi Đông Khê. Chính thức là để đưa lính ta-bo ở đấy về nước. Nhưng người ta nghĩ đúng ra là để di tản Cao Bằng.

Dù sao những chiếc cam-nhông đi không, thành hàng dài trên con đường số 4 mà người ta không dám phiêu lưu nhiều tháng nay. Một cuộc hành quân tự sát. Chỉ có một toán "mở đường" và một toán bảo vệ gần. Quân Việt có thể tàn sát hết nếu họ muốn. Ở mỗi chỗ ngoặt, những người Pháp tự nhủ: "Đây rồi; sắp nổ bùng này". Không có gì xảy ra: thật may mắn đến được Thất Khê nguyên vẹn.

Nhưng người ta còn ít biết Bộ chỉ huy muốn gì. Có một tiểu đoàn lê dương ở Thất Khê. Phải đưa một nửa đến Đông Khê, nơi rút lính ta-bo khi trở lại Lạng Sơn. Tóm lại với việc điều quân lạ lùng ấy, thay vì có hai khu đồn trú mạnh ở Thất Khê, Đông Khê, sẽ có hai khu đồn trú yếu. Đoàn xe hoàn thành nhiệm vụ, trở về với những người lính Maroc cười nói thảnh thơi. Điều bí hiểm là lần trở về cũng không gặp "rắc rối" hơn lúc đi.

Những lê dương được đưa về Đông Khê biết sự cố gì chờ đợi họ nhưng họ chẳng cần. Trên biên giới sắp tan vỡ này, dù sao cũng có những táo bạo kỳ cục. Ví dụ tay trưởng bốt đã biến "con bồ câu" đi máy bay đến, một bạn lính khá ngây thơ mà ba người liên kết vặt hết lông anh ta trong những ván bài pô-khơ một trò khác của nhân vật này là bắn vào lính của mình. Phải cử một đại tá đến để hạn chế những cuộc hành quyết. Mẫu người khác là một trung uý lê dương gốc Hà Lan. Chuyên môn của anh là tổ chức nướng người Việt. Khi anh thăm dò được họ trong một góc rừng, anh thực hiện như sau: "Tôi phân phát rượu cho lính để họ thêm hăng hái, phân phát những chai xăng và bảo ném vào chỗ nào. Cuối cùng phân phát lựu đạn để họ ném vào cùng chỗ ấy, để đốt cháy ngôi nhà tranh tẩm xăng và người Việt ẩn nấp trong đó." Nhưng một lần có đội tuần tra hành quân, anh ta đang uống rượu và cho lính uống. Mọi người đùa cợt thoải mái.

Con số không khổng lồ của Bộ chỉ huy Pháp trong mùa hè 1950 là như vậy - kết thúc vào lần thất bại thứ hai của Đông Khê ngày 18 tháng chín. Lúc ấy Carpentier mới chuyển từ thụ động sang hoạt động mạnh khác thường. Nói một cách khác, trong mấy tuần lễ, người ta sẽ chuyển từ con số không sang thảm họa.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Bảy, 2019, 10:48:32 pm

Ngón bịp lớn

Suốt mùa hè tướng Carpentier đã không muốn có một quyết định nào, không triển khai một "vụ việc" nào. Ở các trận địa, các sĩ quan mệt mỏi vì "sự chờ đợi", Bộ chỉ huy lo thu nhỏ mối nguy và dẹp yên dư luận. Làm sao quên được khuôn mặt của những người thua trận đầu tiên như còn in dấu của bóng ma thất bại. Nhất là ở những người thoát nạn trở về có dáng điệu ngơ ngác của người đã thấy điều không nói lên được - có cái gì đó kinh hoàng trước những thảm họa sẽ lớn hơn nhiều. Tất cả các sĩ quan trên biên giới chỉ còn cảm thấy một trách nhiệm cuối cùng và tối cao đối với quân lính họ. Có nên để họ chết, chắc hẳn chẳng vì gì cả hoặc để họ thoát đi một cách nhục nhã? Và trong đơn độc họ tìm kiếm vô vọng một giúp đỡ vật chất, một chỗ dựa tinh thần ở cấp trên. Nhưng Bộ chỉ huy chẳng làm gì cả!

Chính người Việt vào lúc họ lựa chọn đã mở màn "việc lớn" với lần tan vỡ thứ hai của Đông Khê. Tiếp theo đó là bốn mươi ngày đêm giông tô, của một thất bại liên tiếp choáng váng, ngột ngạt. Sự sụp đổ đến nỗi cả "hệ thống" quân đội Pháp hình như không có nguồn lực, không có khả năng phản ứng gì. Không còn "ông chủ" loại nào nữa, chỉ hoàn toàn rối loạn tinh thần. Đông Dương và Bắc Kỳ sẽ chìm ngập trong giông tố đến từ biên giới Trung Quốc, còn có thể cứu vãn được không?

Sự đe dọa rất cụ thể nên từ sau Đông Khê tan vỡ, Bộ chỉ huy nhận ra sai lầm: "Quân đội ông Giáp là một thực tế. Sự phát hiện chính thức những sư đoàn chính quy ấy là không với tới được, khó xác định vị trí và xuất hiện với một sức mạnh khác thường để tiến đánh cũng thật đột ngột. Hiện có hai nơi tập trung quân đội Giáp - một trên đường số 4 mà các bộ phận tiền tiêu đã chiếm Đông Khê và một đang bao vây Lao Cai và tướng Carpentier hầu như chẳng có dự kiến nào, nói theo cách của ông rằng "các vị trí tỉnh phải rút bỏ, dựa vào một cuộc phòng thủ cơ động cùng việc chiếm đóng các chỏm núi". Vì người ta dễ bị đánh trong lỗ, mệnh lệnh là rút các bốt ở lòng chảo và trèo lên các chỏm núi. Đấy là việc diễn ra xung quanh Lao Cai. Nhưng người ta có khả năng đánh nhau giữa thiên nhiên, ngay trong rừng hơn chống cự trong các bốt không?

Thời kỳ ấy Carpentier làm một loại điếu văn về cái bây giờ người ta gọi là những "cần an-ten trong rừng". Ông nói đấy là tự nguyện, có cơ sở để ông mạo hiểm giữ những con nhím như Cao Bằng và thậm chí Lao Cai. "Bằng cách ấy chúng tôi có thể làm quân địch bối rối, nhưng những vị trí ấy không hề là chủ yếu đối với chúng tôi. Chỗ ấy chỉ ở đoạn đầu hệ thống chúng tôi - Lao Cai cách cơ sở cung cấp gần nhất 250 cây số. Quân Việt ở xung quanh, hoàn toàn trên vùng đất của họ, trong "tứ giác" của họ cách Trung Quốc mấy cây số như vậy quân Việt có thể đạt được một số kết quả gây ấn tượng đối với những cần an-ten tiền tiêu - những con nhím - bằng tập trung người và cố gắng tối đa vào những điểm được chọn ấy. Nhưng đối với chúng tôi đấy là cuộc chiến ngoài lề. Tôi khẳng định quân Việt không thể đối mặt với "tứ giác" Pháp, cùng châu thổ Bắc Kỳ và đoạn kéo dài lên vùng cao. Như vậy, thay vì giữ như trước đây, sự nguyên vẹn của hệ thống Pháp, Carpentier công nhận có một "tứ giác" Việt, đối kháng là một "tứ giác" Pháp mà ông công bố rõ ràng. Nhưng điều đó có thông báo sẽ bỏ những gì ở ngoài phạm vi ấy không? Điều đó có báo trước sẽ rút Cao Bằng không? Carpentier cải chính gần như mãnh liệt. Tuy vậy, đã có quyết định rồi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Bảy, 2019, 10:49:04 pm

Thực ra Carpentier không tìm kiếm cuộc chiến mà né tránh. Việc rút quân Cao Bằng đúng như ba tiếng gõ mở màn - dưới mắt ông không là một bi kịch mà hài kịch sân khấu. Về bước đầu tổng tấn công quân Việt đường số 4 Carpentier trả lời bằng một ngón bịp đôi - bịp đối với quân Việt bằng làm ra vẻ tăng cường đường số 4 để quyết chiến đấu đến cùng trong lúc ông chỉ muốn trốn chạy. Và bịp đối với nước Pháp bằng tổ chức một cuộc hành quân lớn dễ dàng đánh chiếm Thái Nguyên, “thủ đô” của Hồ Chí Minh rất gần vùng châu thổ. "Chiến thắng" ấy được tuyên bố rùm beng làm quên đi việc rút quân ở rừng sau này.

Màn kịch chủ yếu chỉ đạo ngón bịp đôi ấy là mệnh lệnh số 46 ngày 16 tháng chín năm 1950 trong đó ông viết:

"Tôi quyết định chiếm đóng Thái Nguyên vào một ngày càng gần ngày mồng 1 tháng mười càng tốt."

"Tôi quyết định rút khỏi Cao Bằng, sẽ tiến hành khi nắm được vùng Thái Nguyên."

Trong tất cả việc đó, người ta không nghĩ đến bi kịch có thể có nhưng lo việc trình diễn tốt. Một khi đã có quyết định rút khỏi Cao Bằng, theo Carpentier, việc thứ nhất cần làm là phải che đậy trước sự thất bại có thể rơi vào ông, người luôn lặp đi lặp lại phải ở lại Cao Bằng. Muốn thế cần thiết có một chiến thắng: vì phải "cho" người Việt một thành phố rời bỏ, nhưng phải bù lại bằng chiếm lấy một thành phố khác quan trọng hơn.

Hoạt động của Carpentier là thế, nói chung điềm tĩnh ra khỏi phòng mình, khỏi lâu đài Norodom, Sài Gòn, lên máy bay tổng chỉ huy của mình đi Hà Nội và Lạng Sơn. Lần này ông cũng có nhiều ý kiến trong đầu nhưng không ở tầm chiến lược lớn như Alessandri mà là mưu kế nông dân. Ông nghĩ mình khá ranh mãnh đánh lừa được những người Việt, ông Giáp và ba mươi tiểu đoàn của ông. Điều cần thiết - "mưu kế" - ông giữ bí mật tuyệt đối, hoàn toàn, phía sau khuôn mặt khéo ngụy trang, sau những nếp nhăn của ông. Không ai, trong ban tham mưu cũng như những người thực hiện được biết hoặc đoán ra được. Việc phải làm là tạo cảm giác sức mạnh, nổi giận, đánh mọi phía. Carpentier cho chuẩn bị tuyên truyền tối đa công trình lớn cuộc thập tự chinh Thái Nguyên. Nhất là từ Lạng Sơn người ta cho một đoàn quân ra đi theo con đường số 4 đáng nguyền rủa, như muốn tăng cường Thất Khê bị đe dọa, thậm chí như muốn lấy lại Đông Khê. Và những gì có thể chấp nhận ở Cao Bằng, với một cuộc chiến dứt khoát, toàn bộ, không thương xót, người ta cử người chỉ huy đi đến cùng, Charton, "chúa trời" của quân lê dương người không sợ gì, dù loại đạo đức hoặc vô đạo đức. Người ta đưa ông này đi vì dưới con mắt người Việt và mọi người, ông là biểu tượng của cuộc chiến quyết liệt, và cũng có điều - người ta giấu diếm cẩn thận - rảnh nợ vì ông là phó của Constans vốn xem Constans là một kẻ yếu hèn. Thực sự người ta làm tất cả để lừa bịp ông Giáp, làm cho ông tưởng sẽ gặp một sự chống cự không lay chuyển được. Những ngày bầu trồi u ám đã sáng sủa một ít, qua cầu hàng không với những chiếc Junker yếu sức, người ta chuyển đi những gì vô ích cồng kềnh, trở ngại cho cuộc chiến, những người ốm đau, tất cả những người ở bệnh viện và cả những gái đĩ, chủ quán, mọi đàn ông đàn bà Việt Nam vẫn phục vụ những cần thiết và tăng cường cho các đội quân. Và người ta đưa tới những chiến binh, những lính ta-bo.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Bảy, 2019, 10:49:41 pm

Khi ông Giáp đã hoàn toàn lạc hướng, hoàn toàn sai lầm, Carpentier sẽ hạ bài: khu đồn trú Cao Bằng, hết sức kín đáo, không đánh động vì trò phá huỷ, "chuồn theo lối Anh" theo đường số 4 trước khi quân Việt hiểu ra và hành động. Tất cả ở chỗ di chuyển nhanh và đến Đông Khê họ sẽ tiếp nhận đoàn quân đi từ Lạng Sơn đã mười lăm ngày không ai biết rõ để làm gì kể cả viên chỉ huy, đại tá Lepage. Kín đáo, kín đáo, tất cả của tướng Carpentier là điều ấy. Thực ra mà nói vị tổng chỉ huy không sáng tạo gì về hệ thống kèn trống, sự im lặng và mưu mẹo; ông chỉ lấy lại kế hoạch cũ nằm trong hồ sơ ban tham mưu từ thời Revers khi người ta đã bắt đầu hình dung việc di tản Cao Bằng. Nhưng vào thời gian ấy chưa có quân đội ông Giáp với vô số những tiểu đoàn Việt trên đường số 4. "Không sao, Carpentier nói. Chúng ta làm họ bất ngờ." Và ở Sài Gòn, trong bí mật êm thấm của Phòng Ba Bộ Tổng tham mưu, người ta chỉ đưa ra một số phần rút ra từ chương trình đáng kính cũ.

Với Carpentier, chính là Constans, con người trung thành chỉ huy toàn bộ từ trung tâm chỉ huy đẹp đẽ của ông ta ở Lạng Sơn. Nhưng bỗng nổ ra giông tố một cách bất ngờ. Tất cả được đặt lại vấn đề do viên tướng nhỏ Alessandri mà để chắn chắn hơn, nước Pháp đã cử trở lại Đông Dương ở vị trí tướng chỉ huy Bắc Kỳ, với những ý định tốt nhất trên đời nhưng không chỉ thị gì, không báo trước những gì đang chờ đợi ông. Alessandri hình dung sang đây với tư cách người thắng cuộc, sẽ áp đặt những quan điểm của mình. Chỉ mấy phút sau ông thấy mình bị thừa và còn bị kéo vào "sự đê hèn". Nhưng trước khi chấp nhận những trận đánh "thất bại" Carpentier muốn có trong rừng và trên đồng ruộng, ông đưa cuộc đấu của đời mình vào các ban tham mưu, phủ Cao uỷ và các chức quyền. Nhưng đã là quá chậm và ông bỗng phát hiện ra mình đơn độc, rất đơn độc và bất lực.

Khi đến Sài Gòn, nhảy lên một chiếc Dakota bay ra Hà Nội có Carpentier và Pignon, Alessandri đứng trước một sự thật thảm hại: tất cả đã sẵn sàng. Việc rút khỏi Cao Bằng trong vài ngày nữa sẽ bắt đầu. Mọi thể thức hành quân đã được tham mưu trưởng của Carpentier, đại tá Lennuyeux bố trí. Những người thực hiện chính chỉ được biết trước lúc mở màn hai mươi bốn giờ - do bí mật, con bài bí mật của Carpentier. Trong lúc đó những gì một người thất vọng, quyết liệt, điên lên vì tức giận có thể làm, Alessandri đều làm. Vô ích, tuy ông đã cố gắng! Ông đụng phải cả một "hệ thống".

Cuộc chiến kéo dài mười ngày. Trước hết là sự đối mặt, như hồi tháng sáu, giữa tướng tổng chỉ huy và tướng chỉ huy ở Bắc Kỳ. Lúc đầu chỉ là những địch thủ bất đắc dĩ, còn có lễ nghi. Bây giờ là những địch thủ thực sự, chính thức, quyết liệt, mọi đòn đánh đều được sử dụng.

Cuộc tranh cãi vô ích. Những lập luận giữa hai viên tướng căm ghét nhau, ai cũng chắc chắn về chiến lược chống chọi nhau của họ thật vô ích. Đối kháng toàn bộ, và không có gì chuộc lại được sự kình địch giữa những viên tướng. Alessandri đề nghị đi Paris để Chính phủ giải quyết những quan điểm trái ngược nhau của họ. Nhưng Carpentier từ chối: "Tôi là tổng chỉ huy. Ông chỉ việc vâng lời, thực hiện những mệnh lệnh của tôi."

Alessandri không chịu thua. Ông cầu cứu Pignon làm trọng tài - Carpentier khó từ chối ông ấy. Luôn luôn vẫn thế, cao uỷ rất bối rối, hơn nữa hai tướng lại đặt ông trước những tối hậu thực sự; Carpentier với lối hùng hồn quyết liệt, Alessandri nói những câu ngắn gãy gọn. Pignon để Alessandri trình bày rất lâu kế hoạch của mình, càng làm Carpentier bực tức, nhưng cuối cùng sau khi cân nhắc ông nghiêng về phía Carpentier. Alessandri cảm thấy mặt đất sụp đổ dưới chân mình, khẩn cầu Pignon đi Paris "để Chính phủ có trách nhiệm khi biết rõ sự tình". Cao uỷ chán nản và mệt mỏi nói: "Không thể được, nhưng tôi hứa sẽ trình bày lên thủ tướng cuộc nói chuyện của chúng ta bằng điện tín ghi số”. Có gửi đi không? Chẳng ai biết.

Alessandri còn một nguồn lực - cuộc họp của Hội đồng Phòng thủ mà ông sẽ thuộc phía đa số vì có đô đốc Hải quân Ortoli và tướng Không quân Hartman. Ông nhận được sự đồng ý về nguyên tắc nhưng người ta lùi triệu tập hết tuần này đến tuần khác để không bao giờ có. Mọi cuộc chơi đã đưa ra cả. Pignon trở lại Sài Gòn. Alessandri gửi cho ông một bức thư, kêu cứu thất vọng. Cao uỷ trả lời: "Tôi nghĩ hoàn toàn như ông nhưng rất khó chuyển về Paris những xác tín của chúng ta".

Alessandri không làm gì được nữa. Carpentier là người thắng trên bàn thảm xanh. Thế nhưng tất cả đều mập mờ. Carpentier làm mọi loại hài kịch mà người ta không biết để lừa bịp Alessandri hay người Việt. Có hàng loạt mệnh lệnh đa nghĩa mà mọi người lẫn lộn. Theo thứ bậc Alessandri là chỉ huy của Constans, thế nhưng Constans - không bao giờ rời khỏi Lạng Sơn - là người Carpentier tin tưởng. Carpentier kết tội Alessandri làm cản trở mệnh lệnh của ông. Alessandri kết tội Carpentier vượt qua mình. Những việc đó có phần đúng.

Về cơ bản, đáng lẽ con người Corse phải từ chức hơn là trở thành dụng cụ của một chiến lược ông tiên đoán gặp tai họa: ông không có can đảm. Và rồi Pignon nói như vậy là một sự đào ngũ. Thế là ông ở lại. Ông chờ một phép lạ - than ôi! Ông chỉ dựa vào thời tiết xấu có thể lui lại cuộc hành quân Thérèse, nghĩa là rút khỏi Cao Bằng. Tướng Carpentier thì nóng lòng và đầu tháng mười, chẳng còn gì làm hơn là thực hiện - thực thi "Thérèse".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2019, 06:17:35 pm

Điểm hẹn của cái chết

Lúc đầu chỉ là những thông báo về chiến thắng. Ngày mồng 1 tháng mười, lúc năm giờ chiều, các toán quân Pháp đầu tiên vào Thái Nguyên, thủ đô của Hồ Chí Minh cách Hà Nội tám mươi cây số: đấy là cuộc hành quân "Phoque" dùng làm quên lãng cuộc hành quân "Thérèse". Hệ thống thuật ngữ quân sự thật lạ chinh phục cũng như rút lui! Nhưng sau một cuộc chinh phục vinh quang như "Phoque", còn ai nghĩ đến "Thérèse” và cuộc rút khỏi Cao Bằng?

Có lẽ cái tên "Phoque" được chọn vì thời tiết. Hai ngày trước ngày J. là bão, mưa như dội nước, ngập lụt, giông tố, rét lạnh. Chưa bao giờ vùng châu thổ thê thảm như vậy. Việc bố trí hành quân tiến hành trong những điều kiện đáng sợ. Ở Đáp Cầu, cảng sông tỉnh Bắc Ninh, người ta chất dưới trời mưa dữ dội những tiểu đoàn, trọng pháo, lừa, những dự trữ thức ăn đạn dược và vũ khí. Những chiếc tàu LCT chuyên chở những thứ đó ra mặt trận phải lướt đi trong những con lạch. Bộ binh do cam-nhông chở đi ban đêm về căn cứ Phù Lỗ đèn pha bật sáng vì trời tối và thời tiết xấu. Mọi tác dụng bất ngờ hoàn toàn bị loại trừ.

Mặc dù thế cuộc hành quân triển khai ngày 29 tháng chín. Giông tố đã tan nhưng đợt mưa phùn lạnh thấu xương. Ban đêm trời tối om. Lực lượng quân Pháp đồ sộ và do viên đại tá kỳ lạ nhất Đội viễn chinh - Gambiez - chỉ huy, một chú lùn dị dạng, mặt to người nhỏ bé với giọng nói quí phái, phong cách dịu dàng. Như người bố, ông dạy cho quân xung kích thực hiện một cách có hiệu quả nhất, bằng mọi phương tiện, đôi tay, dao găm và dao lớn, dây, súng ngắn, súng tiểu liên. Ông nhẹ nhàng chiều chuộng những kẻ thô bạo bẩm sinh như những đứa "con yêu”. Dĩ nhiên ông rất sùng đạo. Và cũng dĩ nhiên, tuy đôi chân ngắn rất buồn cười, ông nhảy lúp xúp rất nhanh, đi trước binh lính chạy hết sức đến mười mét - và như vậy mỗi lần nhả đạn.

Một cuộc viễn chinh với gần mười nghìn người và gần hàu hết vũ khí hạng nặng của Đội quân viễn chinh đi từ châu thổ để chiếm đóng Thái Nguyên vẫn còn trong châu thổ về đâu phía bắc và là vùng biên miền trung du. Có ba đoàn quân. Bên phải, một "dinazo" (sư đoàn hải quân xung kích) ngược con sông Cầu bùn lầy. Bên trái đoàn lính ta-bo lùng sục những đường mòn dưới chân núi Tam Đảo. Ở giữa là nơi tập trung cuộc chiến - đoàn quân theo con đường số 43 với những thiết giáp, ca-nông, bộ binh trên các xe cam-nhông và những tiểu đoàn khác đi bộ không dứt phía sau.

Nhưng dù lực lượng phương tiện mạnh, việc tiến quân rất chậm. Không phải vì quân địch hầu như không có mà do sa lầy khắp nơi - tàu, vũ khí các loại cũng như người. Phải hàng nghìn cu-li để đẩy ca-nông 155 ly, và FMC. Người ta thu nhặt dân quê nhưng được rất ít vì họ đã được lệnh biến đi. Bước tiến chậm đến nỗi ngày 1 tháng mười, đại tá Gambiez đi Hà Nội xin ban tham mưu có quyết định thả dù một tiểu đoàn xuống Thái Nguyên - quyết định chậm, vô ích nhưng có hiệu quả rất đẹp.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2019, 06:18:31 pm

Thực tế, khi bộ phận lớn các đội quân chỉ còn cách Thái Nguyên vài cây số, như đã đến kết thúc thì có đợt thả quân dù. Những chùm lớn lính dù rơi xuống thành phố, xe tăng xông lên tiếp nối và sau mấy loạt đạn, thành phố thuộc về người Pháp. Đấy là một Thái Nguyên hoang vắng không một người dân như sau mọi cuộc di tản của người Việt, nhưng không "đốt phá" vì người Việt nghĩ nó vô ích, vùng này chẳng bao lâu sẽ trở thành của họ.

Như vậy, Thái Nguyên từ lâu trong tầm tay, cuối cùng Carpentier đã "nhặt" được. Điều lạ là việc đó quá dễ dàng. Quân Việt thậm chí không chống giữ thành phố linh thiêng của họ - chỉ đánh nhau sơ sơ. Có sáu người Pháp chết, năm mươi tám người Việt mà bốn mươi sáu là địa phương quân. Thực tế không có đội quân nào ở Thái Nguyên, chỉ là mấy cảnh sát viên. Theo một hiệu lệnh, tất cả những cơ quan, tổng bộ và các uỷ ban đơn giản biến vào núi rừng cách vài cây số. Mọi việc xảy ra như người Việt đã biết từ lâu người Pháp muốn chiếm Thái Nguyên và họ quyết định không đánh nhau mà chỉ di tản. Quân đội họ giữ cho chỗ khác - cho đường số 4 nơi họ chờ những đoàn quân của Charton và Lepage.

Vậy thì - đây là trách nhiệm lớn của Carpentier, tại sao dồn lực lượng như thế trong khi mấy tiểu đoàn cũng đủ và nhất là khi quân lính Cao Bằng lên đường theo cuộc phiêu lưu chết người? Trong lúc mấy ngày sau đó biên giới bắt đầu tan vỡ người ta cầu cứu, cần chi viện rất nhiều thì không có quân cử đi? Tất cả những gì có thể dùng cứu các đoàn quân trên đường số 4 đều ở Thái Nguyên, xung quanh Thái Nguyên để "bình định", mở rộng vùng chiếm đóng. Người ta không có thì giờ lấy những lực lượng ấy đưa tới cuộc chiến "thực sự" cách đấy hai trăm cây số qua vùng núi Mậu Sơn bao la. Khi quân đội ông Giáp đang nhấn chìm mấy tiểu đoàn của Charton và Lepage, ở Thái Nguyên người ta có mười nghìn người không đánh nhau, không dùng làm gì hết. Và thậm chí họ không biết họ vô tích sự! Tướng Carpentier, viên tướng của "câm lặng triệt để", cũng không báo trước Gambiez rằng trong lúc ông vinh quang chinh phục Thái Nguyên, người ta rút êm Cao Bằng. Ngày 10 tháng mười, khi trên đường số 4 đã là thảm họa ghê gớm, đại tá Gambiez vẫn không biết, đang bận hoàn thiện việc chiếm đóng theo những kế hoạch đã chuẩn bị cẩn thận. Sau này ông xác định "Tôi chẳng biết gì cả". Hôm ấy ông có một trục trặc nhỏ, ông xin Hà Nội một máy bay trinh sát bổ sung. Kinh ngạc xiết bao khi ông nghe trả lời: "Không thể cho ông được vì những lý do nghiêm trọng, về những gì đang xảy ra trên đường số 4". Bằng cách ấy mà Gambiez hiểu! Ít lâu sau ông được lệnh rời bỏ tất cả những gì ông đã chiếm đóng, Thái Nguyên và toàn vùng.

Thực tế, khi quân ông Giáp chiến thắng trên biên giới, mười nghìn người của Gambiez không dùng làm gì, phải rút khỏi Thái Nguyên, hơn bao giờ hết sẽ là thành phố đỏ lớn: Họ rút vội vã để chuẩn bị phòng thủ vô vọng vùng châu thổ, phòng thủ Hà Nội mà quân đội ông Giáp sẽ ào tới. Rút cuộc người ta chiếm Thái Nguyên và thông báo là "chiến thắng"- trong hai tuần.

Cuộc hành quân ấy sẽ có một ý nghĩa nếu Đội quân viễn chinh ở lại Thái Nguyên để giơ tay giúp Charton rút khỏi Cao Bằng - một Charton đáng lẽ đi về bướng Nam qua đường núi Mậu Sơn ra đến đấy. Nhưng cũng không phải trường hợp ấy vì ông ta theo một hướng khác hẳn, theo đường số 4 xuống Thất Khê và Lạng Sơn. Vậy là ở Thái Nguyên người ta hoàn toàn ngoài cuộc. Chỉ làm vui lòng Chính phủ, để họ chiếm được đa số trong Nghị viện.

Trong thời điểm ấy, trong lúc "chiến thắng”, việc rút lui Cao Bằng đã bắt đầu. Người ta biết rõ sẽ dễ dàng hơn nếu trước đó mấy tháng, khi quân đội ông Giáp chưa được "tổ chức" lại, khi họ vẫn còn trong các trại. Bây giờ theo cấp cao, điều ấy có vẻ mạo hiểm - nhưng chỉ mạo hiểm thôi. Chưa ai nghĩ - tuy có "ngạc nhiên" một quân đội Việt mạnh đến thế - quân đội ấy có thể dàn trận chiến thắng hàng chục tiểu đoàn Pháp trên biên giới. Carpentier không hề nghi ngờ điều đó. Cả nhân vật thông minh nhất, cảnh giác nhất về Đông Dương, cao uỷ Pignon, con người dân sự không tin vào khả năng của quân đội cũng nói: "Nào, nếu người Việt muốn "đụng" vào chúng ta thì cứ đụng vào. Điều ấy sẽ chữa cho họ ý muốn bắt đầu lại".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2019, 06:19:03 pm

Cả ban tham mưu đã nghiên cứu lâu về vấn đề di tản. Có thể có ba giải pháp. Trước hết di tản bằng máy bay, theo một cầu hàng không ngắn về Lạng Sơn. Điều ấy rất có thể vì tỉnh trưởng A... trước khi rút đi cách đây một năm, đã hoàn thành một sân bay đẹp cho Junker và Dakota. Đấy là vùng dễ bảo vệ và chống đỡ; hơn nữa bộ phận lớn quân Việt không gần Cao Bằng mà vẫn ở Đông Khê, cách sáu mươi cây số. Chỉ cần chờ thời tiết tốt và sẽ làm quân Việt bất ngờ về việc "chuyển quân". Việc ấy có lẽ rất nhanh. Trong hai, ba ngày khoảng ba chục chiếc máy bay lui tới liên tục có thể đưa đi những gì là người sống ở Cao Bằng - một số dân sự còn lại và toàn bộ khu đồn trú, tất cả lính lê dương và ta-bo. Nhưng Carpentier từ chối vì như thế không "cao thượng". Những đoàn quân cuối cùng - dù chỉ một hoặc hai đại đội - phải hy sinh: họ đẩy lùi quân Việt trong lúc "thu nhặt" bộ phận lớn khu đồn trú.

Giải pháp thứ hai là cuộc "hành quân đường dài" - cuộc viễn du khó khăn và vô tận, nhiều ngày đêm, về phía nam qua dãy núi Bắc Sơn, xuyên rừng núi tệ hại. Thuận lợi là có con đường rất tốt, đường số 3 đi từ Cao Bằng đến Bắc Kạn và Thái Nguyên. Đúng là con đường mười nghìn người của đại tá đi đầu kia để chiếm Thái Nguyên: họ có thể đi ngược lên một ít để giơ tay giúp đỡ chăng? Nhất là trên con đường này không có "đại quân quân Việt ", chỉ mấy đại đội địa phương - các Sư đoàn ông Giáp vẫn ở trên đường số 4 về phía Đông Khê, cũng không gần Cao Bằng. Khi ra đi nếu ông Giáp được báo cáo và tổ chức quân đuổi theo thì khu đồn trú đã vượt quá năm mươi cây số. Nhưng dù sao cũng có nguy cơ quân Việt đi nhanh hơn và trong cả đoạn đường dài như vậy họ có thể "đuổi kịp".

Chính giải pháp đường số 4, vượt qua "lỗ" một trăm cây số giữa Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê mà người ta luôn giữ. Có một kế hoạch cũ chuẩn bị trước đây một năm đề phòng “tình huống bất ngờ". Dự kiến sẽ có một đoàn quân cứu viện đi từ Thất Khê sẽ gặp đoàn quân rút lui - điểm hẹn xác định ở Đông Khê. Kế hoạch ấy làm lúc quân Việt còn yếu và Đông Khê nằm trong tay người Pháp. Thế nhưng người ta rút nó trong hồ sơ ra và áp dụng. Việc điều chỉnh duy nhất là đoàn quân cứu viện được đẩy xa hơn trên đường số 4. Điểm hẹn gặp sẽ là ngôi làng nhỏ Nậm Nang, cách Cao Bằng ba mươi cây số. Khi toàn thể đã tập trung tại đó, họ sẽ dùng lực lượng mạnh cùng rút lui về Thất Khê.

Điểm hẹn ấy ấn định trên đường số 4, đâu đó giữa Đông Khê và Nậm Nang, đúng là của cái chết. Vì mấy tiểu đoàn quân Pháp ấy gặp nhau ở ngay chỗ tất cả các sư đoàn ông Giáp mai phục, nơi ông Giáp chờ mồi. Chưa bao giờ khái niệm "lao vào miệng sói" chính xác đến thế. Carpentier cũng ý thức được điều đó. Vì vậy, trước hết ông cố lừa quân Việt, làm trò rút lui ảo thuật. Tất cả dựa vào "sợi dây lớn" này - làm cho họ tưởng người ta bảo vệ Cao Bằng hơn bao giờ hết, lợi dụng kế đó để nghênh ngang chuồn theo đường số 4. Carpentier chuốc lấy nguy cơ lớn này, lừa ông Giáp nhưng bị thảm họa. Ngay từ đầu ông Giáp đã biết quân Pháp sẽ rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4. Tất cả chứng tỏ điều đó, bắt đầu từ những mưu kế khốn khổ của Carpentier. Sau này ông khăng khăng nói tai họa đến vì mệnh lệnh của ông được thực hiện không đúng. Chẳng phải. Tai họa đến vì những mệnh lệnh không đúng; ông Giáp chỉ việc chờ.

Đúng ra Alessandri cố "thuyết phục" Carpentier, cảnh báo ông này về cạm bẫy chết người ông Giáp chuẩn bị trên đường số 4. Ông đã dám nói: "Là tướng tổng chỉ huy ông có quyền quyết định rút khỏi Cao Bằng; nhưng là tướng chỉ huy Bắc Kỳ, những thể thức thuộc về tôi, chính tôi chỉ đạo cuộc hành quân. Thế nhưng ông muốn áp đặt cho tôi giải pháp xấu nhất mà tôi không tán thành, tôi sợ. Thật điên rồ khi rút lui trên đường số 4, bên cạnh biên giới Trung Quốc, giữa đám đông quân lính Việt. Thật điên rồ đưa hai đoàn quân yếu đến chỗ tướng Giáp đang chờ mà không có gì bảo vệ, không dựa vào trọng pháo trong lúc thời tiết xấu làm tê liệt máy bay. Ông hãy để tôi làm. Tôi sẽ không mất một người." Và con người Corse lại nêu lên những khả năng tránh được, trước hết là về hàng không: "Tôi cam đoan với ông, danh dự quân đội không bị đụng chạm, sẽ không có những người hy sinh. Lính ngụy Thổ của tôi bảo vệ sân bay cho đến lúc chiếc máy bay Pháp cuối cùng đưa đi hết những người lính Pháp cuối cùng. Đối với những người Thổ, ông đừng ngại gì. Là chỉ thị, tôi chỉ nói "Lạng Sơn". Và họ sẽ từng nhóm nhỏ, băng rừng, đến đấy hết, tôi đảm bảo với ông đấy". Nhưng Carpentier nói không. Alessandri thử một cố gắng cuối cùng: "Nếu phải rút lui trên đường bộ, ông hãy lấy con đường số 3 chứ không phải số 4, tôi khẩn cầu ông. Vì sẽ ít nguy hiểm hơn hàng nghìn lần."

Nhưng Alessandri chỉ là một người khốn khổ, bóng của bản thân mình từ khi thất bại trong cuộc đấu thực sự của mình - người ta huỷ bỏ chiến dịch lớn đánh vào rừng và hy sinh Cao Bằng của ông. Ông chỉ còn đau khổ, chìm sâu trong thất vọng. Ông khinh bỉ Carpentier! Và Carpentier hai lần dìm ông vào hư không. Từ nay ông sợ chỉ nói với ông ta theo lương tâm mình, những chống đối nhỏ kết thúc bằng lẳng lặng phục tùng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2019, 06:29:19 pm

Bí mật bị tiết lộ

Làm sao bí mật không bị tiết lộ ngay từ khi người ta nói loanh quanh, "bắt bẻ nhau từng li" trong các ban tham mưu ở Sài Gòn, Hà Nội, Lạng Sơn về việc di tản Cao Bằng qua con đường số 4? Dĩ nhiên chỉ những "đầu óc suy nghĩ" lớn biết và người ta khẳng định mạnh mẽ ngược lại với Đội quân viễn chinh, với toàn Việt Nam. Nhưng trong những trường hợp ấy mọi người "biết". Bao giờ cũng có chạy ra ngoài - chuyện nhảm hoặc phản bội thì kết quả vẫn là một. Dù thế nào ông Giáp cũng đã biết tin và với tất cả các sư đoàn, ông ở lại Đông Khê, chờ rơi vào tay mình ít nhất bảy đến tám tiểu đoàn. Và ông chắc chắn sẽ tiêu diệt chúng vì ông cũng được báo bộ phận lớn của đội viễn chinh - 16 tiểu đoàn, 2 đội tăng, bốn đội trọng pháp, 800 xe và hầu hết máy bay - bận vào đánh chiếm Thái Nguyên, quá xa không can thiệp được. Ở đấy quân Pháp bắn mười tám nghìn phát ca-nông 105 trong ba ngày đầu vào khoảng không. Trên đường số 4 thì họ không có ca-nông.

Ở Đông Khê ông Giáp chẳng làm gì cả; không vị trí mai phục nào tốt hơn ở đây và từng ngày ông thấy con mồi tiến lại gần. Trước hết là đoàn quân Lepage đi từ Lạng Sơn đến Thất Khê, Đông Khê - đoàn này yếu nhưng ông không vội vã tiêu diệt. Ông kiên nhẫn, hy vọng đánh đòn đôi, muốn nhấn chìm cả đoàn quân Charton chắc chắn sẽ rời Cao Bằng đến điểm hẹn của cái chết.

Tù trận thất bại lần thứ hai của Đông Khê, đoàn quân Lepage ra đi, không có chỉ thị cụ thể theo con đường đường số 4 chết chóc. Chỉ toàn lính Bắc Phi, đội lính ta-bo và đội RTM1 thứ 8 - tập hợp lộn xộn những người mệt mỏi, chẳng muốn gì nữa, thiếu tổ chức. Đoàn quân kém tinh thần và hình như người chỉ huy cũng thế. Ông ta là một nhà pháo thủ ít được biết đến, không quyền lực, chưa bao giờ hành quân ở rừng núi. Không biết vì sao ông được bổ nhiệm.

Đoàn quân đi đến nơi lạ với bao nỗi sợ hãi. Ngay từ đầu sau Na Sầm, đã có những đoạn đường bị cắt, những va chạm mất mát. Xa hơn, con đường bị phá hoại. Khắp nơi có những hố sâu, những đống đất đá, cầu bị phá, không có cách gì đưa ca-nông, vũ khí hạng nặng, cam-nhông qua được, phải trả lại về Lạng Sơn. Phải tiếp tục đi bộ, không dứt, qua những chỗ giết người, nhưng không có đại quân Việt. Cuối cùng ngày 19 tháng chín, sau bốn đêm hành quân nặng nhọc, quân lính mệt nhoài, tưởng đã thoát nạn: xa xa họ thấy thành trì vẫn nguyên vẹn dưới lòng chảo Thất Khê và nhất là tiểu đoàn có tiếng của Đội viễn chinh, đội quân dù BEP thứ nhất vừa nhảy xuống hai đợt hôm trước.

Tình hình lạ lùng. Thất Khê bị quân Việt áp sát chặt nhưng không bị tấn công. Một trong những đội ta-bo được trả về phía sau - đội quân dù thay thế. Những sĩ quan trẻ này, những người sắt thép không biết về Lepage, thấy ông quá mềm yếu. Vả lại quân dù hầu hết người Đức không tin vào lính ta-bo. Việc tập hợp chắp vá ấy có lẽ là "Bayard", vẫn không có kỷ luật. Mỗi người tự hỏi: "Tại sao mình lại ở đây?" Chẳng ai biết, kể cả Lepage. Trong tám ngày, như đã có công việc, người ta tiến hành những cuộc hành quân nhỏ gần Thất Khê. Một lần có kết quả. Sau một cuộc đi đêm dài, quân dù đi đầu hàng quân xuất hiện lúc mờ sáng, trong sương mù, trước một đoàn nhân công đang chuyển súng cối. Họ tàn sát đoàn người nhưng quân chính quy Việt phản công phía sau và lính ta-bo tan tác hết. Vụ này được giới thiệu là một "chiến thắng" nhưng tác động tâm lý thật thảm hại. Càng ngày quân dù càng tự thấy đơn độc, không tin vào Lepage chỉ huy tồi, không tin vào lính Ả Rập họ thấy không vững chắc.
___________________________________
1. Tiểu đoàn lính Maroc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2019, 06:31:19 pm

Sau một tuần lễ có vẻ Bộ chỉ huy đã có ý đồ. Rõ ràng người ta chuẩn bị làm một "việc gì đó". Sân bay Thất Khê. một mẩu đất mà Junker cũng không đỗ được, được sửa chữa; có những đợt thả dù thực phẩm, đạn dược, cả những giày săng đan - quân lính thấy mình không biết sẽ có việc gì.

Hôm sau, ngày 30 tháng chín thì ông biết. Một điện tín số đến Lạng Sơn, bằng mật mã, do Constans ký. Mệnh lệnh giao cho đoàn quân Bayard đánh chiếm Đông Khê ngày 9 tháng mười, vào buổi trưa, tại sao? Đối với Lepage như một mệnh lệnh tự sát. Thất vọng ông điện về Lạng Sơn, nêu lên những mối nguy hiểm trong nhiệm vụ, viên đại tá quá kỷ luật không nói đây là sự điên rồ. Với không đến hai nghìn người ông phải xông vào rừng lạ để chiếm Đông Khê mà người ta không biết gì ngoài một đống đổ nát. Vả lại tất cả mù tịt nếu không chỉ biết trong thiên nhiên có vẻ trống rỗng quân Việt tập trung rất đông, trang bị trọng pháo. Người Pháp không có ca-nông. Chỉ có mấy chiếc trong thành Thất Khê nhưng không thể đưa đi xa trên đường số 4, qua cầu Bascou đã bị phá hỏng. Trên đường số 4 tất cả bị phá hoại hơn bao giờ hết. Những người đi trước chỉ biết dựa vào chính mình và những gì mang theo, rất khó tiếp tế, cứu viện. Chỉ máy bay có thể giúp họ nhưng mưa phùn, bầu trời hoàn toàn mù mịt.

Lạng Sơn trả lời: dứt khoát phải bắt đầu ngay. Một sự trỗi dậy cuối cùng, Lepage đề nghị lùi lại hai mươi bốn tiếng đồng hồ hy vọng bầu trời sáng sủa thêm. Từ chối.

Chiều ngày 30 tháng chín có cuộc hội nghị trang trọng các chỉ huy đơn vị của đoàn quân Bayard. Xung quanh Lepage là thiếu tá Scretain của đội quân dù BEP1 thứ nhất; thiếu tá Arnaud của đội RTM thứ 8, thiếu tá Delcos của đội Ta-bo 11, đại uý Faugas của đội Ta-bo thứ nhất. Thật sầu thảm. Sau khi phổ biến chỉ thị của Lạng Sơn, Lepage nói thêm: "Hy vọng duy nhất của tôi là quân Việt không chiếm đóng Đông Khê. Không thế thì tôi chẳng biết làm như thế nào để chiếm được". Các chỉ huy đi ra, lệnh cho các đội quân. Các sĩ quan trẻ và binh lính dù đùa cợt như lối khiêu khích quen thuộc. Lính dù có những khuôn mặt định mệnh, nhưng trong lòng có bị huỷ hoại không? Trong binh lính người ta kể với nhau đáng lẽ Lepage phải nói: "Người ta không bao giờ trở lại nữa". Đáng ra ông ta phải khóc rồi đi sám hối.

Ngay tôi hôm ấy đoàn quân đi vào đêm tối, vào sự khốc liệt của núi rừng - bốn tiểu đoàn chống lại ba mươi tiểu đoàn. Đây là chiến thuật nối tiếp nhau vượt lên, các đơn vị tiếp nhau đi đầu. Phần lớn thời gian quân dù đi trên đường, quân ta-bo "soi sáng" cạnh sườn. Lại một lần nữa quân Pháp trèo lên ngọn đèo máu, đèo Luông Phai. Và quân địch không cố gắng chống cự, không sử dụng rừng, chỏm núi, hang động để ngăn chặn bước tiến của đoàn quân. Binh lính lo lắng bảo: "Thật quá dễ dàng". Trời sáng đã lâu khi đoàn người đi qua dãy núi đá vôi chính, lên đến đỉnh đèo. Bước đi chậm, quân dù vẫn ở đầu hàng quân. Đây là cảnh hàng trăm chỏm núi - không một người Việt. Qua đường, quân Pháp chiếm chiếc bốt cũ ở Nà Pá, trống rỗng thê thảm. Chính lúc đó, qua một khối đá khống chế con đường, tiểu đội học viên đã mang lon của đội dù, do trung uý Faulke chỉ huy, gặp một toán tuần tra địch, họ hạ sát ba người Việt nhưng hai người chạy được, về báo động ở Đông Khê.

Đại uý Jeanpierre nói với Faulke:

- Tiểu đội anh liều chết lao tới đi. Đây còn là cơ may cuối cùng để chiếm Đông Khê bất ngờ, nếu ở đấy không có quân Việt.

Tiểu đội ào lên, theo sau là một đại đội quân dù. Khoảng một trăm người chạy nhiều cây số. Bỗng rất sâu phía dưới, họ thấy lòng chảo cùng đồng ruộng ở giữa, thay vì bốt là những vật bị cháy còn lại. Quân địch có ẩn náu đông đúc trong "lỗ" ấy không hay chẳng có người? Faulke và tiểu đội nhảy xuống vùng ấy qua đường số 4 - không một bóng người, một con vật, chẳng có gì cả. Và chẳng ai biết cảnh trống không lạ lùng ấy là tốt hay xấu. Nhóm lính dù cách Đông Khê tám trăm mét, không có thể hiện gì. Đã khoảng mười bảy giờ, phải vượt một con suối qua chiếc cầu nhỏ dưới chân núi. Ở chỗ này, quân dù bị chặn đứng lại với vật dụng trên người do những loạt đạn rất chính xác của tiểu liên và móc-chi-ê, từ những đổ nát của chiếc bốt cũ và một ngôi chùa nhỏ trước đây quân đồn trú đã biến thành lô cốt. Xa hơn, đại đội đi theo bố trí súng để phản pháo những vũ khí tự động của quân Việt nhưng vô ích - không vượt được làn đạn bắn chặn. Đại uý Jeanpierre lại nói với Faulke: "Chắc chắn không có nhiều quân Việt trong lòng chảo Đông Khê. Nếu Lepage vận động chiến, tung cả đoàn quân vào tấn công tất sẽ chiếm được". Nhưng không, tất cả dừng lại. Đại tá thấy không còn "bất ngờ" được nữa, quyết định phải tổ chức, một cuộc "hành quân lớn", lùi lại ngày mai vì phải có máy bay, trọng pháo. Ông điện về Lạng Sơn đề nghị thả dù xuống cho hai súng ca-nông.
____________________________________
1.Tiểu đoàn lính Lê dương.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2019, 06:33:13 pm
Ban đêm tình hình thật lạ. Lòng chảo Đông Khê có vẻ hoang vắng. Chiều hôm ấy như là bên nào cũng sợ bị đập tan ở đáy chậu này. Quân Pháp không dám đi xuống cả đoàn, ở lại trên cao, bố trí giữa các chỏm núi. Về phía họ, năm tiểu đoàn Việt chiếm Đông Khê mười lăm ngày trước đây cũng hầu như rút ngay và cũng bố trí trên những núi đá vôi rất gần, không ở lối ra đường số 4 mà ở con đường tiếp vận của họ với Trung Quốc. Và đằng sau năm tiểu đoàn ấy có nhiều tiểu đoàn khác gần như cả quân đội ông Giáp dự trữ ở đấy. Và tất cả lực lượng ấy chỉ cách mấy giờ đoàn quân Lepage đóng trên đỉnh 615, Na Chiang, Nà Keo, Ngaum, bốt cũ Nà Pá, những chỏm núi cuối cùng ôm chặt đường số 4 đoạn con đường này đi vào Đông Khê.

Tuy vậy trong lòng chảo trống không còn tiểu đội dù đại đội đi theo đã thoát ra được. Những học viên mang lon bị bất động, ẩn sâu vào các hố xung quanh con đường, hầu như lộ ra hết. Họ bị bắn như những con thỏ. Những người bị lộ nằm dài như xác chết - mưu mẹo lừa quân Việt. Lúc ấy Jeanpierre đứng dậy giữa làn đạn nói với Faulke: "Chúng ta đi thăm dò lên phía bắc một ít: có lẽ có một góc chết nào đó có thể lại gần Đông Khê", Mấy người đứng dậy đi theo họ, một trong bọn họ ngã xuống ngay. Jeanpierre và Faulke tiếp lên mấy trăm mét lại gần thành trì bị phá huỷ. Một anh dùng điện đài nhỏ mang theo xin mệnh lệnh của Lepage: "Có lẽ tôi gặp cơ may cuối cùng đây". Trả lời không làm gì cả: có dịp thì trở lên chỏm núi. Trời tôi, lợi dụng bóng đêm cả tiểu đội leo núi dốc lên đến trung tâm chỉ huy của quân dù. Jean Pierre và Faulke càu nhàu: Nếu để chúng ta làm, với một trăm người chúng ta đã lừa được quân Việt.

Hôm sau, ngày 2 tháng mười, là cuộc tấn công của quân Pháp. Ý của Lepage là nắm lòng chảo Đông Khê theo gọng kìm, một mũi từ phía đông và một phía tây, bỏ đường số 4 và đội dù lính ta-bo, đội RTM thứ 8 đi dọc theo các chóp núi đổ xuống đồng bằng, cả một vùng rừng núi - một mớ lẫn lộn ngọn núi, hang động đồi dốc. Trong dãy liên tiếp khoáng chất và cây cối ấy, cách hai mét không trông thấy nhau đấy, vẫn nhiều, quá nhiều lẫn lộn với rừng cây không lay chuyển nổi.

Một cuộc chiến kỳ lạ. Nhiệm vụ đội quân dù là luồn vào khối núi đá đồ sộ phía đông đường số 4, kết thúc ở dốc đứng cách Đông Khê mấy trăm mét. Đại đội 1 đi. Lúc đầu không có gì, cho đến lúc một viên quản khát, đi múc một bi-đông nước dưới suối, thấy một người Việt cũng đang uống nước. Hai người đều bất ngờ, bắn vào nhau và bỏ chạy. Viên quản đến báo với đại uý của mình: "Có quân Việt bên cạnh." Cây cối rậm rạp đến nỗi không có chỗ đặt súng để sử dụng. Quân Pháp tiến lên từng mét một. Bỗng đội tuần tra thấy ở bìa rừng mấy người Việt ngồi trên cỏ, cúi xuống bản đồ tranh luận. Người bắn súng FM ngắm cẩn thận và nổ súng: một người chết. Nhưng xung quanh đầy quân địch và họ bắn trả ghê gớm. Quân dù chỉ một đại đội nhưng cả một trung đoàn Việt ngay cạnh, ẩn náu, phục kích. Lính dù bị bắn từ nhiều phía, "bị tưới như chuột". Việc tự bảo vệ duy nhất là "nấp" vào cây cối. Họ không thấy quân Việt nhưng có lẽ quân Việt cũng không thấy rõ họ, lưới lửa chết người hình như không nhằm đúng địch. Dù sao cũng phải lùi lại vài chục mét. Quân dù trở lại bìa rừng, có thể nhận ra nhau, nhưng quá hẹp cho cả mọi người. Đại uý tổ chức phòng vệ, năm xạ thủ dàn thành hàng ngang trên hai mươi mét, súng tiểu liên cầm tay, còn lại ở phía sau, lẩn trong rừng. Việc xô xát kéo dài hơn một giờ. Sau một đợt dội súng cối, quân Việt tấn công hai lần nhưng bị đẩy lùi. Chỉ hai lính dù bị giết. Quân Việt rút đi, sát ngay cạnh, rất đông, chờ cơ hội. Không tiến lên được. Quân tiếp viện không được việc vì không triển khai được. Cuối cùng quân dù cũng rút lui về trung tâm chỉ huy. Một đợt thất bại.

Đội RTM8 và ta-bo cũng thất bại; Mặc dù những khó khăn không tưởng được, lúc đầu họ đã tiến khá xa, một lính ta-bo đã tới gần địa giới sân bay Đông Khê. Họ bị phản công và lùi lại. Càng đáng lo ngại hơn vì máy bay - trời đẹp hơn và máy bay tiêm kích đã lên được - báo hiệu các bên đều có những đoàn lớn quân Việt xông tới. Không còn vấn đề chiếm Đông Khê bằng sức mạnh nữa, dù hai ca-nông và xạ thủ đã được thả dù xuống theo yêu cầu.

Đây là lúc quyết định. Bộ chỉ huy Pháp còn có thể từ bỏ việc di tản Cao Bằng theo đường số 4 vì điều kiện tiên quyết - việc đoàn quân Lepage chiếm Đông Khê không làm được. Hình như lúc đó Alessandri điện cho Carpentier: "Huỷ bỏ đi. Nếu cố bám ông sẽ mắc một trọng tội." Nhưng Carpentier ngoan cố. Lepage không chiếm được Đông Khê, phải quay về phía tây vào sâu trong rừng núi hoàn toàn hoang dã. Ở đấy có một con đường vừa vạch ra, chưa được biết lắm nhưng đi về Cao Bằng, ra đúng đường số 4 gần Nậm Nang - ở đây đoàn quân Charton phải đi tới, chỉ cách ba mươi cây số trên đường. Dự kiến hai đoàn quân gặp nhau ngày 3 tháng mười.

Lúc 14 giờ ba mươi phút ngày 2 tháng mười nhận được lệnh ấy qua một chỉ thị đến Trung tâm Chỉ huy hành quân của ông. Cuối cùng Charton biết trong mười lăm ngày đoàn quân của ông phải làm gì - đưa tay ra với khu đồn trú Cao Bằng. Nhưng ông biết điều đó trong những hoàn cảnh bi đát nhất, sau thất bại của ông ở Đông Khê, khi người ta ra lệnh cho ông đi sâu vào núi rừng đáng sợ mà quân Việt đã rất nhiều sẽ còn đáng sợ hơn, là một cuộc tàn sát.

Vào trong khu ngổn ngang núi đá phía nam Đông Khê thường con người không chịu đựng được, phải mang theo tất cả, thậm chí nước cũng không có trong núi rừng khô nẻ ấy. Quân lính Pháp sẽ đi vào một vùng đáng sợ, một mê lộ của thiên nhiên không có người hướng dẫn, không được tiếp tế, không có gì. Ngược lại, Việt Minh ở đó như ở nhà, thường là một trong những nơi ẩn náu của họ. Có hàng nghìn nhân công mang những thứ cần thiết cho binh lính, những vò nước và những gùi đạn. Đạn dược từ nước Trung Hoa ngay cạnh, chỉ cách vài chục cây số.

Đây là giờ hành động của Giáp. Ông đã đoán trúng, cố  nén lại khi vấn đề chưa thật rõ ràng. Ông ngờ đoàn quân Lepage dù Lepage cũng không biết, không có mục đích thực sự chiếm lại Đông Khê và bố trí lâu dài - mà chỉ là một cuộc đi về. Ông để họ kéo dài thời gian xung quanh đường số 4 không tấn công, biết rằng họ ở đây chỉ để chờ đợi, để "đón" đoàn quân đồn trú Cao Bằng rút lui. Lúc ấy sẽ tiêu diệt tất cả. Dĩ nhiên không chắc chắn tuyệt đối vì ở Cao Bằng đang hoạt động mạnh như để tăng cường sức chống cự, xây dựng lâu dài. Nhưng phải chăng là một sự dàn cảnh cho cuộc rút lui sắp tới? Dù sao, để "xem rõ", tốt nhất là ở lại gần Đông Khê - và cả quân đội ông Giáp yên tĩnh ở trong những ngọn núi đá vôi ấy, để Lepage và quân lính Pháp đi tới.

Rồi mọi việc đã chắc chắn. Sau việc móc mồi là rúc tù và báo hiệu, là lúc đánh. Hai ngày đầu tháng mười, ông Giáp còn hạn chế trong chống đỡ, cản trở Lepage chiếm Đông Khê. Nhưng ngày 2 tháng mười ông cũng có thông tin chủ yếu - quân đồn trú Cao Bằng chuẩn bị lên đường. Đoàn quân lặng lẽ đi đến Nậm Nang, không thấy Lepage, không có quân cứu viện. Tiếp tục đi, họ mất hai, ba ngày để tới vùng phụ cận Đông Khê. Công việc phải tiến hành trong thời hạn ấy, phải tấn công đoàn quân Lepage đang lang thang giữa núi rừng, đuổi theo, bao vây, đập tan. Khi đoàn quân Charton, kiệt sức vì cuộc di tản, không thấy quân Pháp đón mình mà hàng nghìn, hàng chục nghìn quân Việt tấn công, đến lượt mình, sẽ dễ dàng bị tiêu diệt nốt.

Kế hoạch của ông Giáp gần như được thực hiện toàn bộ. Vì một phép màu, một số tiểu đoàn quân Pháp có thể cầm cự lâu hơn nhiều dự kiến của ông. Nhưng kết quả như ông đã chờ đợi - thảm họa gần như hoàn toàn của quân Pháp, sự tháo chạy trong những hoàn cảnh thê thảm nhất. Không đến vài trăm người trốn thoát. Lần đầu tiên ở Đông Dương những người da vàng đập tan người da trắng và lần đầu tiên luận thuyết biện chứng đỏ chiến thắng chiến lược của trường chiến tranh. Như các thánh thần sụp đổ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2019, 08:29:32 pm

Một ông thánh của đội quân Lê dương

Ở Cao Bằng, mọi việc tốt đẹp từ khi Charton, không hòa hợp tính khí với Constans mà ông là phó mấy tháng ở Lạng Sơn, trở về làm "ông chủ". Ông cũng như lính lê dương của ông, với sức mạnh của thiên nhiên, thích thô bạo, nhưng biết chiến đấu. Ở Cao Bằng ông không hề bị phiền phức, người của ông cũng thế. Một thiên đường hơn bao giờ hết. Không còn dây dưa với đường số 4 và những đoàn xe từ khi là một "con nhím". Máy bay càng tốt hơn nhiều. Chỉ nửa tiếng đồng hồ người ta đã ở Hà Nội và trở về hoàn toàn "êm thấm". Có gì máy bay không đưa lên như "hàng hóa" cho đến rau tươi, dâu tây! Và những người dân sự di tản trước đây một năm như thành phố bị bao vây, thu xếp để trở lại. Lại có ít nhất đến ba nghìn, tất cả những gì cần phải có như gái đĩ, các bà bán điểm tâm, chủ khách sạn, quản lý, chủ quán. Đầy nhung nhúc. Chẳng có gì không thấy! Lại các nhà chứa, rạp chiếu phim, quán rượu. Có tất cả những gì quân lê dương thích - tình, rượu, chiến tranh và cả sự bình lặng với ý nghĩa không một "người có ảnh hưởng" nào của Sài Gòn, Hà Nội đến đây. Vậy là không rắc rối. Đội lê dương như ở nhà mình, sống theo ý thích. Đạo đức xuống cấp ghê gớm, không chỉ ở binh lính da trắng hay da vàng mà cả nhân dân ở đây cũng để thỏa mãn mọi yêu cầu cần thiết.

Bất kể những loa phóng thanh Việt hầu như mỗi đêm đều hét lên: "Các anh hàng đi. Trong ít ngày nữa chúng tôi sẽ tấn công Cao Bằng. Và tai họa cho lính đánh thuê và phản động!" Không ai tin. Họ nghĩ thành phố không thể chiếm được. Đây là một bán đảo, giữa hai con sông sâu không lội qua được. Giữa những dòng nước bảo vệ ấy, Cao Bằng được xây dựng trên một ngọn đồi dốc đứng, để chống giữ. Trên đỉnh thành trì xưa kia bị người Trung Hoa phá hoại - chẳng có gì chắc chắn hơn những đổ nát từng mảng trong việc tránh bom đạn, lại có những đường hầm sâu bốn mét. Cuối cùng, bên ngoài người ta tăng thêm nhiều hàng phòng ngự và lô cốt. Quân Việt khó lại gần vì xung quanh là "đồi núi thả bò", không đá vôi, không có rừng, máy bay dễ phát hiện những chỗ tập trung và trọng pháo dội vào đấy.

Vì vậy Charton chắc chắn có thể giữ được ít nhất hai năm: để chiếm Cao Bằng, ít nhất ông Giáp phải hy sinh 15.000 đến 20.000 quân chính quy, điều ông không thể cho phép mình làm vì đấy là nòng cốt của quân đội mới của ông. Đã nhiều tháng nay Charton không ngớt nhắc lại với Sài Gòn và Hà Nội: "Các ông đừng lo cho chúng tôi. Không bao giờ quân Việt tấn công chúng tôi, họ có những mồi dễ dàng hơn như Đông Khê và Thất Khê. Nếu muốn các ông di tản những chỗ ấy, không để làm gì, không khống chế con đường nào từ phương bắc xuống cả. Vả lại tinh thần quân đồn trú ở đấy không tốt lắm. Không như ở đây. Cứ để chúng tôi ở Cao Bằng kiểm soát con đường lớn, đường huyết mạch từ Trung Quốc sang Bắc Kỳ. Chúng tôi tất cả đều hài lòng ở đây. Nếu các ông muốn làm những việc lớn, hãy gửi cho chúng tôi bốn khẩu ca-nông 155 ly và hai khẩu 105 ly nhưng loại hiện đại - đấy là những gì tôi thiếu. Trọng pháo của tôi hơi yếu."

Thực ra tinh thần ở Cao Bằng không cao lắm trước khi Charton đến - nhất là đội RTM thứ 8 có tiếng xấu (đấy là một trung đoàn bây giờ có một phần trong đoàn quân Lepage). Viên đại tá đã nhanh chóng vực dậy tình hình. Charton với những phương pháp riêng, bắt đầu "giáo dục" quân lính. Để nâng cao tinh thần chiến đấu, ông tăng cường những cuộc hành quân xung quanh Cao Bằng, mỗi đêm tổ chức khoảng mười lăm cuộc phục kích. Kết quả là cuộc chiến tiến hành tốt và việc buôn bán cũng vậy. Quân Việt không dám lại gần Cao Bằng nữa; trong thị xã chưa bao giờ đồng tiền quay nhanh đến thế.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2019, 08:30:38 pm

Charton cũng có cách làm đối với dân chúng, những người Việt Nam đáng kính và những Trung Hoa trong vùng. Một hôm ông tập hợp tất cả những trưởng khu, chủ công ty, chỉ huy ngụy binh. Và ông giảng giải như sau:

- Các ông đã lựa chọn sống với người Pháp, tôi muốn nói với quân đội lê dương. Có những người đã đến đây năm năm nay. Có thể có ai đó trong các ông đã nghĩ khác, hối hận chăng. Nếu có người đến nói với tôi: "Tôi đã lầm, bây giờ lòng tôi hướng về Việt Minh", sẽ không ai làm hại gì họ cả. Đơn giản chỉ là chào tạm biệt và cám ơn - tôi sẽ cho dẫn họ ra cách Cao Bằng năm cây số để họ muốn đi đâu thì đi. Các ông có mười lăm ngày để suy nghĩ, lựa chọn. Nhưng sau đó nếu tôi biết bất cứ ai có một tí tiếp xúc, trực tiếp hoặc gián tiếp với quân địch, tôi bắn ngay lập tức".

Hình như sau bài diễn văn ngắn gọn ấy không có một đề nghị nào cho đi theo Việt Minh, không có một phản bội nào. Ngược lại toàn dân chúng hứa hẹn trung thành. Cao Bằng - một đầu đinh ghim giữa đất Việt Minh - là hạnh phúc vừa quân sự và tư bản. Và những cái đó nhờ vào Charton, ông thánh của đội lê dương.

Nhưng vào cuối tháng chín đã thể hiện những điềm báo tai họa. Không phải do quân Việt mà bộ phận lớn đang ở khá xa (chỉ những trinh sát và hai, ba tiểu đoàn của ông Giáp "bám"), mà do những nhân vật khá lớn vốn không có thói quen khinh suất, đến Cao Bằng, thường đến bất chợt và liên tục. Một hôm máy bay có giường nằm của tổng chỉ huy, tướng Carpentier hạ cánh. Ông vui vẻ, thân mật, thậm chí như người bố của quân lính. Với các đội quân ông làm một bài "diễn văn" yêu nước, rất hùng hồn: "Sẽ không có việc di tản. Các anh chống giữ Cao Bằng cho đến cùng, cho đến người cuối nếu cần. Nhưng các anh hãy tin tưởng; Chỉ huy các anh đã có Charton. Ông ấy có vận đỏ. Với ông, các anh không có gì rủi ro”. Với bản thân Charton, ông nói: "Ông có nhiệm vụ giữ vững Cao Bằng cho nước Pháp. Ngay ngày mai, tôi cho một cầu hàng không đưa tới cho ông một đội quân ta-bo và chuyển hết đàn bà trẻ em đi. Như vậy ông có những điều kiện tốt nhất để chiến đấu và đẩy lùi những cuộc tấn công hàng trung đoàn tôi biết có mục tiêu sắp tới là Cao Bằng."

Như vậy Cao Bằng được công khai trụ lại để chiến đấu đến cùng. Hàng ngày máy bay Junker đưa tới những đợt lính Maroc quân số đầy đủ của đội Ta-bo thứ 3. Đổi lại mỗi máy bay chở đi những chuyến phụ nữ Việt Nam và Trung Hoa đầy đủ trẻ con và gồng gánh. Tóm lại cầu hàng không liên tục đưa lực lượng tới - quân lính - và chuyển những yếu kém đi, những miệng ăn vô ích.

Nhưng giữa hành trang chiến đấu ấy, dấu hiệu báo động đầu tiên đã đưa tới cho Charton. Một chiếc máy bay đầy sao khác - chỉ có một hoặc hai chiếc - cũng hạ cánh ở Cao Bằng. Đấy là tướng Alessandri, con người vẫn luôn suy sụp. Không chỉ ông đau yếu về tinh thần mà cả thân xác: sức yếu, sốt, bệnh lỵ. Nhưng nỗi đau gặm nhấm ông là phải chỉ đạo cuộc hành quân " Thérèse" - việc di tản Cao Bằng mà ông đã đấu tranh chống lại, mà ông ghê tởm. Ông đến tại chỗ để "xem xét" để chuẩn bị. Hơn nữa ông có những chỉ thị nghiêm ngặt phải chơi màn hài kịch như Carpentier, không được nói gì về việc thực sự chuẩn bị, kể cả với Charton: mệnh lệnh rút quân chỉ đưa ra trước hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Trong lúc chờ đợi ông phải lừa bịp Charton.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2019, 08:31:57 pm

Alessandri khốn khổ! Ông bị chẹt giữa kỷ luật quân sự và điều ông nghĩ là nhiệm vụ cấp trên. Vì sao Charton thu xếp được trong một thời hạn ngắn như thế? Alessandri bèn không tuân theo lệnh tổng chỉ huy và thông báo với Charton những gì sẽ xảy đến. Cuộc nói chuyện thật xúc động, cũng thật thân mật vì hai người là bạn thân, ngưỡng mộ nhau từ lâu. Alessandri không nén được, khóc trong phòng Charton vừa nói:

- Người ta chuẩn bị cho anh một cú bất ngờ. Sẽ rút quân khỏi Cao Bằng qua đường số 4. Anh nghĩ thế nào? Tôi cho rằng không bao giờ anh thành công được.

- Thật điên rồ, Charton trả lời. Ở đây tôi còn chống giữ được. Nhưng nếu phải rút quân thì rất khó khăn, nguy hiểm. Đưa một đoàn quân đi trên đường số 4 trong những điều kiện như thế, trong lúc từ đây đến Thất Khê không còn một đồn bốt và quân Việt ở khắp nơi là có nguy cơ bị tiêu diệt hết.

- Hãy đi thật nhanh. Luồn giữa chân quân Việt.

- Nói thì dễ. Với những con người ấy chơi thế không được. Tốt hơn là làm việc cẩn thận, vững chắc, với mọi phương tiện.

- Chỉ còn rất ít hy vọng. Carpentier khi đi Paris, đã báo trước với Bidault, thủ tướng, rằng ông dự tính bỏ Cao Bằng. Bidault trả lời: "Tôi là giáo sư sử học. Những gì người Pháp học qua sách vở về Đông Dương là Hà Nội, Lạng Sơn, Cao Bằng. Nếu tôi để rút quân khỏi Cao Bằng như thế, Chính phủ của tôi sẽ đổ. Vậy đồng thời phải có cho tôi một chiến thắng gây ấn tượng mạnh." Lúc ấy người ta nghĩ đến Thái Nguyên, dễ mô tả là thủ đô của Hồ Chí Minh. Bộ phận lớn các đội quân Bắc Kỳ tập trung ở đấy. Dù sao sẽ có một đoàn quân đến với anh trên đường số 4, càng xa càng tốt.

- Đất này tôi biết rõ. Chỉ với quân số của mình tôi không thể phiêu lưu. Tôi đề nghị đoàn quân cứu viện đến chờ tôi ở km 28, tốt hơn nữa là km 22. Trong khoảng cách ấy tôi cố mở đường, đưa người và khí cụ tới; nhưng không quá chỗ ấy.

- Tôi hứa đoàn quân sẽ đợi anh ở km 28.

Về nguyên tắc mọi việc đã rõ. Công việc của Charton là đến cây số 28. Tai họa chính ông sợ là người ta "đặt cho ông một con thỏ" ở đó. Ông không tin cả Lepage và các đội quân của ông này. Trong nhiều ngày ông liên tiếp điện cho Trung tâm Lạng Sơn đề nghị tăng cường cho đoàn quân Lepage, sửa chữa đường giữa Na Sầm và Thất Khê, đưa ca-nông, tiếp tế, người, tất cả những gì cần có cho ông. Có thể lùi " Thérèse" lại mấy ngày, đủ thời gian hội tụ những điều kiện tốt nhất. Vả lại ông, Charton, còn một số công việc phải làm ở Cao Bằng - ví dụ di tản bằng cầu hàng không 180 lính không đi bộ được và 40 người đàn bà, phần lớn mang thai chưa chuyển được. Một cơn bão, làm một, hai ngày không có Junker. Thật sự chẳng có gì thúc bách. Phải chuẩn bị kỹ, tổ chức tốt đảm bảo hơn nhiều.

Nhưng ở Lạng Sơn, đại tá Constans không đồng ý. Carpentier ngại Alessandri phản bội ông nên ngày càng gạt ông ra ngoài. Constans như một máy tự động nhắc lại mãi những chỉ thị của tổng chỉ huy đã trở lại Sài Gòn. Theo ông, thành công của "Thérèse" dựa vào bí mật và nhanh chóng. Về bí mật không nên có sự chuẩn bị gì lộ liễu, không nên phá huỷ một khí cụ nào dù sau đó quân địch có thể sử dụng. Về sự nhanh chóng, trước hết phải ra đi, hành quân thật cấp tốc để quân địch bất ngờ, không tổ chức chiến đấu được. Vậy là không cần mang theo quá nhiều vũ khí đạn dược, vật dụng vì mục đích không phải để đánh nhau mà "chuồn". Dù thế nào xung quanh có quân Việt hay không, thời tiết tốt hay xấu, Thérèse phải bắt đầu chậm nhất vào mồng 3 tháng mười.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2019, 08:32:37 pm

Ngày J. vẫn là mồng 3 tháng mười. Sau bao lần cố mánh khóe, mưu mẹo, Charton trở lại là người lính lê dương táo tợn. Thị xã Cao Bằng của ông không để lại như vậy, không suy suyển với vẻ đẹp, của cải của nó cho người Việt. Một sự tàn phá, ít nhất phần lớn thành phố. Charton ở đấy trong xe jeep của mình, ra lệnh: "Phá nát cái này. Đập tan cái kia". Tất cả bùng cháy - xưởng điện chỉ còn là cái vỏ; người ta phá huỷ mọi vật dụng, kho tàng - không tưởng tượng một khu đồn trú có thể tích luỹ một "mớ hàng hóa" như vậy qua nhiều năm! Phải làm cho quân Việt chẳng còn gì: người ta giết cả ba trăm con trâu, nguồn dự trữ thịt sống - những con vật rống lên. Những vụ nổ ghê gớm nhất - vừa như giông tố, động đất, cháy lớn - là một trăm năm mươi tấn đạn dược của thành trì.

Những tàn phá ấy đã "loan báo" cho người Việt biết việc rút quân quá rõ ràng! Không ai nghĩ về mặt này vì thực ra Cao Bằng đã biết từ nhiều ngày nay, Đội viễn chinh lâu nay vốn thiếu kín đáo. "Tin tức" được mang tới Cao Bằng rất sớm do các Junker cầu hàng không, các Junker tiếp vận. Lính lê dương biết, dân chúng được báo tin - quân Việt cũng thế. Đối với họ việc nhận định và báo cáo trinh sát đối chiếu với nhau. Hình như trước hôm rút quân loa phóng thanh của họ chúc quân đồn trú "lên đường mạnh khỏe". Còn đội quân lê dương, họ không hề giấu phải ra đi. Charton lợi dụng sự lộn xộn lúc ra đi để đưa ra một mưu mẹo chiến tranh, ông cố loan tin ngầm đoàn quân sẽ đi qua con đường số 3 và Bắc Cạn.

Charton cũng rất đẹp với dân chúng. Tất cả những người Việt Nam, Trung Hoa ở Cao Bằng, tận tụy và trung thành với quân lê dương - dù chỉ vì nguồn lợi, vì đồng bạc - ông tự mình đặt họ, theo ý nghĩa này hoặc ý nghĩa khác, dưới sự bảo hộ của nước Pháp. Ông tập hợp họ lại, chính thức thông báo việc di tản, nói với họ: "những ai muốn đi theo, chúng tôi đưa họ cùng đi nhưng phải có khả năng đi bộ." Khoảng năm trăm người, hầu hết đàn ông xin đi theo cùng đoàn quân.

Ngày hôm sau, mồng 3 tháng mười là ngày rút quân, cuộc hành quân lớn theo ý nghĩ của chính quân lê dương, chậm chạp, nặng nề, vững chắc, có hệ thống. Đây là công việc tổ chức tốt, dự kiến tất cả để dũng cảm đối đầu, không phải để mau chóng tẩu thoát, vả lại đoàn quân Lepage ra đi với dấu hiệu sợ hãi bao nhiêu thì đoàn Charton càng tin tưởng bấy nhiêu, quá tin tưởng. Lính lê dương tinh thần tốt, vui vẻ. Trong lòng, trên nét mặt thể hiện cảm nghĩ: làm sao những người như họ bị quân Việt đánh bại được, những người từ hơn một năm nay không dám tấn công Cao Bằng đơn độc của họ? Riêng Charton có lo ngại nhưng tỏ ra vững vàng như mọi người và ông cũng không thực sự tin vào thảm họa lớn.

Giờ J vào nửa đêm nhưng đến trưa ngày 3 tháng mười người ta mới chuyển động, cả đêm tiếp tục tàn phá càn quét. Những gì về người và của mang theo được Charton đều làm. Cả buổi sáng để sắp xếp đống người và vật dụng ấy. Phải rút mười lăm bốt ở vành đai Cao Bằng và nhất là tổ chức đoàn quân dài nhiều cây số! Đây là tập hợp người hỗn tạp nhất: lính ta-bo phong thái tự hào, lê dương mặt như đá, ngụy binh - phần lớn nhăn nheo, đã già, rất trung thành nhưng làm bếp nhiều hơn đánh nhau - đoạn đuôi là đám đông dân thường, hầu hết là những "tư sản" da vàng, chủ quán, thương nhân, một số phụ nữ, gái điếm. Và tất cả những người ấy, quân phục hoặc không quân phục đều ngổn ngang, những gì quý nhất: tài sản riêng hoặc lấy được trong thành phố bị bỏ lại. Giữa đoàn người có hai khẩu ca-nông 37 và 105 ly và một dãy xe chất đầy thực phẩm, đạn dược và vật dụng mang theo được.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2019, 08:33:01 pm

Trách cứ gì được Charton về trọng pháo và ca-nông ấy! Đúng, ông không tuân theo lệnh. Mệnh lệnh là đi bộ, mang theo tối thiểu để "đi nhanh hơn". Nhưng ông già dặn, người cũ của đường số 4 biết rõ con đường chết chóc, đầy mai phục, cạm bẫy. Qua từng cây số, ở những nơi có một ngọn núi, một mô đất, một ngách rừng ông có thể nói: "chỗ này bị chết bao nhiêu người; chỗ kia là cả một vụ tàn sát; nơi ấy mình đã mất người bạn tốt nhất". Thế là ông làm như trước đây, thực hiện việc "mở đường" - cử người lên chiếm mọi góc đáng ngờ xung quanh. Lần này ông càng thận trọng vì đấy không phải chỉ là một đoàn xe quân sự mà đoàn người di tản, dễ làm mồi với đám dân chúng lề mề phía sau. Đây là một con sâu khổng lồ trên đường, rất cồng kềnh, ít những người lính thực sự.

Tất cả những cái đó đi trên đường số 4, dĩ nhiên không tiến nhanh được. Tuy vậy người Việt không phá hoại mặt đường gần Cao Bằng. Không có gì thực sự va chạm, chỉ vài loạt đạn xung quanh cây số 10. Quân Việt đang rình mò nhưng không làm gì được. Đám đông đi vững tin, hài lòng. Có đầy đủ những gì để ăn, uống.

Đoàn người vượt qua một ngọn đèo cũ, không khó khăn gì. Về đêm dừng lại; Charton bố trí chỉ huy sở ở cây số 16. Xung quanh quân lính canh gác tỉnh táo nhưng trên mặt đường suốt nhiều cây số, người dồn đống với nhau nằm ngủ. Giấc ngủ bình yên - vẫn không có gì, không bị tấn công. Khi mặt trời lên, người ta tiếp tục đi nhưng không vội vã. Nhanh làm gì vì Charton biết đoàn quân cứu viện còn xa chỗ hẹn? Mọi việc tốt đẹp cho đến trưa, họ đến km 28, nơi hẹn gặp; Không có người nào. Nhưng điều tệ hại, "khó khăn" ghê gớm là hai bức điện của Constans đến liên tiếp - hai tin điên rồ và thảm họa. Lepage không đi đường Đông Khê. Bị xô xát mạnh ở phía nam Đông Khê mấy cây số, ông ta đi theo đường Quang Liệt để cũng đến được điểm hẹn km 28. Thực tế ông ta bị bao vây, hoàn toàn bị dồn đến đường cùng, không di chuyển được, sắp bị tiêu diệt. Chính Charton lại phải theo đường Quang Liệt đến cứu Lapage. Muốn vậy ông phải bỏ tất cả, vứt đi mọi trọng lượng vô ích, đi suốt ngày đêm - phải đến đó trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ.

Đây là lời kêu cứu. Những giờ sau đó là bối rối. Các sĩ quan, hạ sĩ quan hỏi từng người dân, từng ngụy binh: "Anh có biết đường Quang Liệt không?" Câu trả lời luôn là không. Dù sao cũng phải nhẹ gánh đi. Cả buổi chiều người ta phá huỷ, đốt hai chiếc cam-nhông đầy đồ đạc. Mỗi người rũ bỏ những đồ vật quý của mình, giấu tiền bạc vào túi trong, vào những chỗ kín đáo nhất. Con đường như một buổi chợ hàng hóa đủ loại không có người mua. Quân lính còn tươi tỉnh nhưng phía dân sự khổ sở, có những gương mặt bị tai nạn, họ biết từ đây có nhiều khả năng chết dọc đường.

Đoàn quân bao la tuy vậy vẫn còn tổ chức tốt. Vấn đề cuối cùng đặt ra là tìm con đường Quang Liệt. Sau nhiều lần mò mẫm người ta phát hiện được dấu vết có thể đây là một con đường. Cả đoàn quân đi vào đấy, những cây số người theo hàng một, càng kéo dài thành nhiều cây số người. Nhưng vẫn có trật tự tương đối: ngụy binh đi đầu làm một "vỏ bọc nhẹ", nghĩ rằng biết đường hơn và dễ phát hiện quân địch; tiếp đó là quân lê dương, theo sau là Charton, và dân chúng "của họ"; cuối cùng đội ta-bo chặn hậu. Trong lúc quân bảo vệ phía sau cũng đã chui vào rừng, Việt Minh trên đường số 4 bắn tới tấp. Nhưng không là gì; điều đáng sợ là hàng chục nghìn Việt Minh trong núi rừng. Trời sắp tối lúc đoàn quân Charton vào hết trong rừng, bóng tối chẳng trông thấy gì, không thấy quân Việt, những người trong hàng nối đuôi nhau cách hai mét khó nhìn thấy nhau.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2019, 10:39:19 pm

Con đường mòn Quang Liệt

Ngày 3 tháng mười, bi kịch đã thắt chặt lại - một đoàn quân bị bao vây, trong tình thế tuyệt vọng và đoàn kia đi vào chỗ thất bại trong rừng rậm bao la. Tôi đang ở Sài Gòn, một Sài Gòn không hề lo ngại, không ai biết gì từ người trong những ban tham mưu luôn giữ bí mật. Tướng Carpentier làm việc trong phòng có điều hòa tin chắc đến nỗi triệu tập đặc biệt viên đại uý đẹp trai phát ngôn viên vừa được ông bổ nhiệm để giải thích, phải công bố như thế nào với báo chí về những "chiến thắng" sắp tới, làm sao để tôn giá trị lên. Ông này không nói gì với các nhà báo nhưng ngày mồng 4, xuất thần ông thông báo "tin lớn". Và như vậy người ta biết được diễn biến "tốt đẹp" của những cuộc hành quân. Lúc đầu ai cũng biết việc chắp nối hai đoàn quân là "dĩ nhiên". Ngày mồng 5 được biết chưa chắp nối được nhưng vẫn dĩ nhiên. Ngày mồng 6 được thông báo đã chắp nối được - toàn bộ đoàn quân Charton đã đến vị trí "tiếp nhận". Tôi nhớ lại lời bình luận của viên đại uý ấy: "Bây giờ có thể nói việc khó khăn nhất đã làm được, việc hành quân táo bạo rút khỏi Cao Bằng đã thành công. Ngay trong lãnh địa núi rừng của họ, người Việt đã không thể cản trở những hoạt động của hai đoàn quân Pháp đơn độc giữa thiên nhiên, rất xa căn cứ." Ngày mồng 7 những bộ phận đầu tiên của hai đoàn quân gắn chặt vào nhau, đã đến cách Thất Khê mấy cây số. Ngày 8 có thông báo toàn bộ các đoàn quân đang dưới sự bảo vệ của ca-nông Thất Khê. Ngày 9 người ta truyền đạt với chúng tôi bộ phận tiền tiêu đã ở Thất Khê và phát ngôn viên nói về "thắng lợi quân sự". Thế nhưng ngay lúc nói như thế nhiều nghìn lính Pháp nằm dài trong rừng, chết hoặc hấp hối. Thảm họa đã đến giai đoạn mà kiến đỏ bâu, đục khoét mắt người chết.

Tệ hại là chắc viên đại uý không "nói dối" hoàn toàn và vẫn tin một phần vào điều mình nói. Tướng Carpentier và ban tham mưu Sài Gòn để nhiều thì giờ "thể hiện" tình hình: họ là nạn nhân của nghệ thuật quân sự "trình bày" sự việc trong những thông báo từ Hà Nội, Lạng Sơn đến. Vả lại ở đây họ cũng không biết rõ lắm về những gì xảy ra. Tướng Alessandri thận trọng bay nhiều ngày không ngớt trên rừng rậm, chỉ thấy tán cây dày đặc, không phát hiện ra đoàn quân Charton. Hơn nữa trong rừng núi, những chiếc đài thu phát nhỏ hoạt động rất kém, nghe không rõ, hiếm hoi lắm mới trao đổi được vài tin tức ngắn, phần lớn quá rời rạc.

Chỉ đến ngày mồng 8 tháng mười những "nơi được thông báo" mới cảm nhận bước đầu về bi kịch. Họ bắt đầu nói đến những trận đánh gay go, thậm chí rất ghê gớm. Tướng Carpentier lên máy bay ra Bắc Kỳ vẻ quan tâm nhưng còn tin chắc vào việc làm của mình. Hôm sau khi trở lại là một người của thất bại, một niềm kiêu hãnh bị sét đánh, ông lẩm bẩm: "Những gì đến đã đến". Không thể moi được một tiếng nữa, không làm ông giải thích thêm được. Chỉ buổi chiều mới biết phát ngôn viên, chính ông này hôm trước rất tin tưởng nói về thắng lợi! - thốt ra những câu về cái chết: "Những đội quân tiên tiến ấy là những đơn vị duy nhất đến được Thất Khê, không có những đơn vị khác đến nữa". Tôi nhớ rất lâu giọng nói thất vọng ấy khi thông báo những đoàn quân Charton và Lepage đã bị các sư đoàn của ông Giáp tiêu diệt.

Thực tế, ngay chiều mồng 4 tháng mười hầu hết đã trong tình trạng thất vọng. Chiều hôm ấy ở Lạng Sơn, đại tá Constans hoảng hốt điện cho Charton: "Đi nhanh. Trong mấy giờ nữa phải đến gặp Lepage, ngay đêm nay." Phải mất ba ngày đoàn quân Charton mới đến được vừa đúng lúc gặp thảm họa như lao vào trận tuyết lở để bị cuốn đi và tiêu diệt.

Trong ba ngày ấy cuộc hành quân thật đáng sợ! "Nhanh hơn, nhanh hơn" thỉnh thoảng điện tín ở Lạng Sơn thúc giục nhưng không có đường, phải tiến lên giữa thiên nhiên, xuống vực hoặc lên núi giữa những tảng đá khổng lồ và những cây to cao năm mươi mét, bị ám ảnh, phục kích giữa rừng rậm quỷ quái này. Cũng có sự lo lắng không bao giờ biết chắc mình ở đâu, có bị lạc chăng giữa vũ trụ tất cả đều giống nhau này. Đoàn quân không dứt và chẳng bao lâu mọi người mệt mỏi, như chính mình là những gánh nặng, phải đẩy lên phía trước - không thì chết. Rồi phần cuối những "người lê thê" ngã xuống, nhất là dân thường, một số tuy thế vẫn gượng dậy đi thêm mấy cây số. Người nào cũng bị ám ảnh. Và càng đi càng cảm thấy sự hiện diện của quân Việt, lúc đầu gần như ảo ảnh của trí tưởng, rồi trở thành sự thật. Chẳng bao lâu người ta đoán ra họ ở khắp nơi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2019, 10:40:43 pm

Phải có mặt ở Đông Khê chiều mồng 4 hoặc sáng mồng 5 để cứu "đoàn quân cứu viện". Thật mỉa mai. Hôm ấy đoàn quân Charton đi không tới mười cây số và trong những điều kiện thật khắc nghiệt! Con đường mòn giống như đã tìm thấy bỗng biến mất không dấu vết. Giữa bụi cây um tùm chỉ có một con suối rộng ba mét đầy dây rừng, cành nhánh bó chặt như tường nhà tù. Phải đi vào đấy dọc theo bờ, khấp khểnh, nước đến đầu gối có khi đến bụng, giữa những đám mây muỗi. Quân lính, với hai ngày đạn và ba ngày thực phẩm, bước đi nặng nề; hơn nữa họ phải nâng đỡ những người đau yếu. Cây rừng trở nên dày đặc chiếm hết lòng suối - phải phát hiện từng mét một trong lúc tiến lên. Đoàn quân đi giữa cảnh ấy không thấy gì, kể cả những ngọn núi cao gần đấy, những chỗ có lẽ các trung đoàn Việt đã sẵn sàng tấn công.

Đêm xuống, tối đen, lính lê dương đề nghị dừng lại, họ sợ bị phục kích. Charton nói "đồng ý". Mọi người nằm trên bờ suối, bố trí canh gác bảo vệ. Chỗ này gọi là Quy Sơn. Bốn bề im lặng.

Bình minh vừa lên, ngày 5 tháng mười đoàn quân lại đi. Sau mấy giờ nữa dòng suối cạn hẳn. Cảnh vật hỗn độn, cây cối che khuất địa thế, chỉ đoán được chỗ này chỗ nọ hình khối là những ngọn núi, những tảng đá vôi chìm trong cây cỏ. Vấn đề là trong thế giới không rõ ràng này, là tìm ra ngọn đèo vượt ra thung lũng Quang Liệt về phía bên kia. Thiếu tá Forget đi đầu cùng lính lê dướng cố tìm mãi trong các bản đồ, vừa cử người đi lùng sục.

Cuối cùng sau nhiều khó khăn và dừng lại lâu, họ tìm ra ngọn đèo. Từng đơn vị vượt lên, xuống phía bên kia trong một thung lũng đẹp và rộng - thung lũng Quang Liệt. Chartcn bảo Forget: "Cử một phân đội đi thăm dò quân địch". Đây là tất cả bí mật của cuộc chiến trong rừng; trên những vùng cao ấy, có thể chỉ một nhóm người Việt, nhưng cũng có thể là cả một sư đoàn.

Dù sao quân Việt cũng rất gần, chắc rất đông. Ở lại dưới thung lũng là giam mình vào cuộc tàn sát: Phải trèo lên cao. Charton nhận thấy về phía tây một dãy núi dài, liên tục, vươn mãi đến những núi đá với Đông Khê, chỗ Lepage bị vây hãm. Ông quyết định nhanh: phải đi theo dãy núi cao ấy. Để lính lê dương dưới thấp để "chặn đứng" hàng chục hoặc hàng nghìn quân Việt có thể tấn công phía sau, ông lệnh cho đoàn quân leo lên cao và tiến lên từ chỏm núi này đến chỏm núi khác. Mục đích là tránh cuộc mai phục lớn của quân Việt chắc đã bố trí theo con đường Quang Liệt. Nhưng ở đây đi lên giữa núi cao, vực sâu, trong khu rừng gai xé da thịt, cuộc hành quân còn đáng sợ hơn đi dưới lòng suối hôm qua nhiều. Dần dần hàng người dãn ra thành từng nhóm xa nhau, không nâng đỡ nhau được. Lính Ta-bo, vững vàng nhất, đi đầu. Nhiệm vụ của họ là lên tới và "khống chế" cốt 590, ngọn núi cao nhất - theo bản đồ vì trong thiên nhiên này, mọi đỉnh cao đều rất giống nhau, không xác định được giữa những khối cây xanh và những dốc đứng trắng. Hoàng hôn. Đội ta-bo 3 lên tới đỉnh một ngọn núi, cho biết: "Chúng tôi đã bám vững ở cốt 590." Có một khoảng trống giữa đội ta-bo và phần còn lại của đoàn quân - theo thứ tự tiếp nối là Charton, ban chỉ huy, dân, lính ngụy, lê dương. Họ đã hoàn toàn kiệt sức, loạng choạng giữa thiên nhiên không một con đường nhỏ. Nhiều người không còn gì ăn uống. Binh lính chỉ còn giữ súng đạn. Nhưng tất cả đều cảm thấy có quân ta-bo trên ngọn núi chính bảo vệ, ngủ ngay trên núi đá trong đêm. Charton bố trí ban chỉ huy trên một dãy núi ngang dễ chống giữ, cùng với ông chỉ là những "người dân thường" ông tự dẫn đi như đã buộc vào lời hứa danh dự. Ông lo ngại.

Thực ra có sự sai lầm và trong chiến tranh, những sai lầm kéo theo nhau - là điều sẽ xảy ra. Quân ta-bo bỗng nhận ra không ở trên "cốt" cao nhất - ngọn 590 còn xa hơn nhiều. Lợi dụng ánh sáng không ổn định trước bóng đêm, họ bước đi tới đó. Rồi đêm tối hẳn buộc họ dừng lại cách hai cây số. Nhưng đến đây, phía dưới quá trống trải và mọi người đứng lên, cố tới được ngọn núi phía trên họ. Charton quyết liệt nhất, như điên ông có ý nghĩ đã phạm sai lầm lớn khi đi phía sau. Bằng mọi giá ông muốn lên với quân Ta-bo - chỗ của ông là ở đó, ở phía trước. Phía sau ông, mọi người tiến lên - một chuyến đi không thực, ảo ảnh. Càng bi đát hơn, Charton vừa liên lạc đầu tiên qua điện đài với Lepage tình trạng thất vọng, ngay gần đấy, đang kêu cứu. Thế nhưng đêm tối quá ông cũng buộc phải dừng lại, sợ bị mất mình, mất cả đoàn quân trong bóng đêm và rừng rậm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2019, 10:42:07 pm

Như có phép lạ. Tất cả vẫn bình lặng cho đến bình minh. Charton đưa ra mệnh lệnh tuyệt đối: "Bằng mọi phương tiện, mọi cách, bất kể tất cả, hãy đi dọc sườn núi thật nhanh dù phải dốc hết sức còn lại. Phải đến kịp để tiếp nhận đoàn quân Lepage." Mặc dù những trở ngại ghê gớm trên địa hình, lúc đầu mọi việc suôn sẻ. Đoàn người tiến lên. Đội Ta-bo 3 chiếm đỉnh 590, đỉnh núi thật. Đến lúc đó thì định mệnh can thiệp vào, với những việc không đâu nhưng trong tình hình ấy, dẫn đến tai vạ. Trước hết không nên để mất một phút. Và người ta mất hàng giờ, do hai điều ngốc nghếch.

Chỉ đến mười một giờ trưa Charton mới đến cốt 590. Trước ông ba đại đội ngụy binh đi qua thung lũng, đã lên đến vị trí, gần như cùng lúc với quân ta-bo. Chỉ huy của họ là một "thực dân" can đảm, nói với thiếu tá chỉ huy ta-bo: "Tôi muốn là người đầu tiên bắt tay người của Lepage. Chắc chắn họ ở trên những chỏm núi trước mặt chúng ta. Tôi đến đó gặp họ với một trong những đại đội của tôi". Chỉ huy ta-bo trả lời: "Nếu có Charton ở đây, ông ấy sẽ khuyên ông không nên thế". Họ cố liên hệ với Charton qua điện đài. Không được. Người lính thủy đánh bộ đi cùng đội quân của mình đến chỗ quân Việt mà ông nghĩ sẽ gặp quân lính Lepage. Phải đấu tranh lâu để kéo ông ra khỏi cạm bẫy.

Một chậm trễ tai hại. Còn một việc khác, ghê gớm, ngốc nghếch hơn. Nhóm "dân thường" càng ngày càng cứng đầu, khó chỉ huy. Bỗng nhiên không ai biết vì sao, họ tự dừng lại. Hai đại đội lê dương đi sau họ tưởng có lệnh tạm nghỉ, cũng dừng lại. Charton đang ở trên cốt 590 với Forget, chỉ huy quân lê dương, bảo ông này:

- Ông đưa nhanh hai đại đội ông đang nắm lên cốt 515. Đến đấy có ca-nông Thất Khê bảo vệ, sẽ cứu thoát được.

Forget trả lời:

- Tôi không thể bỏ quân lính lại người nào cả. Hai đại đội tôi có đây nhưng phải chờ những đại đội phía sau.

Thật vô lý và bi kịch. Quân Việt ở khắp nơi xung quanh, sẵn sàng tấn công. Đoàn quân Lepage hấp hối cách đấy vài cây số. Thế mà Charton và Forget tranh luận với nhau - họ nói như đang ở trong nhà ăn ở trại lính.

Thậm chí chỉ huy quân lê dương nói:

- Ông không tin tưởng ở tôi. Không sao. Người của tôi rồi sẽ đến kịp.

Họ không đến. Không biết được việc gì xảy ra - điện đài không hoạt động. Forget dũng cảm, quyết định đi xem sao. Ông trở lại đoàn người vô tận, dãn ra trên nhiều cây số,  nhưng khập khễnh, đi khó khăn, mỗi lúc càng nặng nhọc, mất thời gian vô tận, khoảng mười ba, mười bốn giờ. Ở tại chỗ, Charton dẫm chân nóng lòng. Nhiều giờ trôi qua không có tin tức. ởng biết đấy là những giờ quyết định vì có thể "đẩy" ít nhất nửa đoàn quân tới chỗ không còn nguy hiểm nữa, đến tiền tiêu khu đồn trú Thất Khê dựa vào ca-nông và tiểu đoàn dù vừa được tăng cường. Sẽ là việc "tiếp nhận”.

Nhưng tiến lên trước đến chỗ thoát nạn với số người có trong tay thì ông không thể. Phải đợi Forget trở lại với hai đại đội mất tích. Và rồi thay vì đến Thất Khê và "tiếp nhận", ông đang trong tình hình khác thường này: bản thân ông còn nguyên vẹn nhưng bị đe dọa, phải được Lepage "tiếp nhận". Chính sự chờ đợi tiếp nhận lẫn nhau lần lượt đó sẽ gây ra sự tiêu diệt toàn bộ sau này.

Buổi chiều không dứt mà không có gì xảy ra ấy làm Charton cảm thấy bị bó tay! Càng bất lực hơn khi đặt ông dưới mệnh lệnh của Lepage mà người ta chẳng thấy đoàn quân ẩn nấp trong hố sâu, bị bao vây khắp nơi, nhưng hôm nay, mồng 7 tháng mười, cố gắng thoát ra, vươn tới chỗ Charton. Đoàn quân ông này không được di chuyển bất cứ vì lý do gì. Vì thế ông ngăn đội Ta-bo 3 đã đi đến cốt 477 phải dừng lại.

Đến sáu giờ chiều, cuối cùng Forget trở lại, đã tìm thấy hai đại đội của mình và phân đội dân thường. Những người ấy chẳng làm gì trong nhiều giờ, vẫn tưởng trong đợt nghỉ. Khi Forget tìm được, họ lại lên đường nhưng phải chiến đấu gay go vì quân Việt xuất hiện, tấn công hàng loạt. Một số lê dương và nhiều dân thường bị giết.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2019, 10:42:50 pm

Đêm mồng 6 sáng mồng 7, đoàn quân Charton vẫn trật tự còn đầy đủ. Sau này ông nói: "Nếu tôi tiếp tục đi cả đêm tối đã vượt qua được. Trên núi cao còn một "lỗ" quân Việt không đóng chốt". Một lần nữa Charton cố gắng thoát khỏi định mệnh. Ông điện cho Lepage: "Tôi đề nghị cho phép tiếp tục đi theo sườn núi. Tôi đang còn hầu như nguyên vẹn - chỉ khoảng chục người bị thương và năm hoặc sáu người chết. Đến Thất Khê tôi sẽ trở lại với tất cả lực lượng ở đấy, theo đường số 4 tôi mở đường đến tận chỗ ông ẩn nấp. Ông chỉ có việc chờ tôi." Lepage không đồng tình, từ chối. Làm sao những người thất vọng như thế nhận lời để cho đoàn quân Charton ra đi, như bỏ rơi họ! Từ phía dưới, ở thung lũng hẹp bị bó chặt khốn khổ, họ nhìn vào đoàn quân vững chắc của sáng mồng 6, tiếp xúc lần đầu tiên qua điện đài, khi nghe tiếng nói của đoàn Charton, họ đã kêu lên: "Chúng ta thoát rồi!”. Và trong vui sướng, họ trả lời "rõ ràng": Lepage chỉ còn chờ đợi.

Vì vậy buổi hoàng hôn ngày mồng 6 - đoàn quân của phép lạ đáng lẽ ra đi, bố trí tại chỗ giữa cốt 590 và 477. Quân lê dương giữ đỉnh 590 và những ngọn núi gần đấy. Quân Ta-bo 3 giữ 477 và những dốc xung quanh. Lính ngụy cũng giữ những chỏm ngoài lề - hai đại đội ở Quy Sơn, gần thung lũng Cốc Xá, phần còn lại của đoàn Lepage phải thoát ra; một đại đội đến chỏm Bản Ca, gần Thất Khê. Lính ngụy còn lại xen lẫn vào lê dương và ta-bo. Dân thường có thể ở đâu thì ở. Tóm lại nhìn chung có vẻ vững chắc, dù những người chống cự ít hơn - những nhóm người đối mặt với tất cả những Việt Minh sắp đến tấn công.

Từ sáu giờ cuộc tấn công bắt đầu vào đoàn quân Charton. Với lượng khí cụ đồ sộ, ca-nông, mọi loại súng cối và vũ khí tự động, quân Việt ào lên ngọn 590. Cuộc tấn công kéo dài suốt đêm nhưng họ bị lính lê dương đẩy lùi, tàn sát. Không một vị trí nào của Charton bị phá huỷ. Nhưng Charton mỗi lúc càng lo lắng hơn. Ông biết rõ việc này chỉ mới bắt đầu.

Trước bình minh, toàn khu rừng đầy những ánh sáng lạ. Đấy là đạn pháo của các trung đoàn Việt chạy tới không giấu diếm nữa, như đã chắc chắn chiến thắng.

Charton lo nhất là không biết được việc gì có thể đến với Lepage và quân lính. Lepage đã báo trong đêm, lúc ba giờ sáng, ông sẽ dốc hết sức lực lần cuối - tung quân ra trong một cố gắng vô vọng, cuối cùng. Và lúc ba giờ sáng nghe tiếng ầm ĩ khác thường, những tiếng nổ chói tai từ bên dưới trong thung lũng Cốc Xá. Những tiếng động ấy, với tiếng vọng từ các vách núi đá vôi dội vào nhau, tiếp tục cho đến mờ sáng mà không ai biết, không đoán ra điều gì. Không một người xuất hiện. Tất cả như đấy là sự thất bại hoàn toàn, như cả đoàn quân Lepage đang bị tiêu diệt hết trong quá trình chiến đấu để ra khỏi thung lũng Cốc Xá đáng nguyền rủa.

Rồi lúc sáu giờ sáng, Charton có những phiền phức khác. Lần này là đợt xông tới của quân Việt, những đòn đánh bất ngờ, những lần tấn công ghê gớm. Thế trận của ông vỡ từng mảng. Lính lê dương mất chỏm núi Bản Ca chỉ huy hướng Thất Khê. Nhất là đội quân ta-bo 3 quá sợ hãi, bị dồn đuổi không hề chiến đấu từ chỏm này đến đồi khác. Charton sau đó nói: "Họ tẩu thoát, quân lính bỏ chạy khi quân Việt còn cách xa hàng trăm mét. Tôi được biết một trung uý ta-bo nêu gương chạy thoát thân". Những gì còn thực sự vững vàng, là đội quân lê dương. Charton tung họ ra phản công, lấy lại được một chỏm núi thì mất một chỏm khác. Thiếu tá Forget bị tử thương khi dẫn quân tấn công lần thứ hai. Mười lần ông cố trèo lên thành núi dốc cùng lính lê dương trước khi bị trúng đạn rơi xuống.

Dù sao đoàn quân Charton còn chống cự, còn chiến đấu. Và trước bình minh một ít xuất hiện những người sống sót trong đoàn quân Lepage. Họ lần lượt đến, đầy ảo giác. Không có gì đáng ngạc nhiên hơn lòng can đảm của lính Maroc nhưng cũng không có gì đáng ngạc nhiên hơn nỗi sợ hãi của họ khi lòng can đảm sụp đổ, một lúc, như rơi xuống vực thẳm. Và những người sống sót ấy là những lính Maroc, những kẻ không nghị lực, điên cuồng vì sợ hãi, căm hận, không giấu diếm gì nữa về bản thân và việc mình làm - đúng là những bóng ma râu ria, con mắt lồi ra, loạn trí, chỉ còn bản năng sơ khai là "không bị chết". Muốn thế họ hét lên, chạy lung tung, bắn vào tất cả, bạn bè, kẻ địch, những người Maroc khác, như chỉ có làn đạn làm họ yên tâm.

Là những tấn hoảng loạn tinh thần rơi xuống đoàn quân Charton. Bị lây nhiễm đầu tiên là quân lính ta-bo, rời bỏ những chỏm núi mà cho đến lúc đó họ đã chiến đấu tốt. Giữa những điểm cao, người Việt chiếm được có một khoảng dài gần một cây số; trong rối loạn cuồng nhiệt, người của Lepage lẫn lộn vào người của Charton ở đây, lôi kéo nhau vào tâm trạng kích động. Trên chỏm núi hẹp ấy, một đám đông dồn ép, chất đống mê muội; quân Việt xả đạn vào đấy, đúng là một cuộc tàn sát kinh người. Riêng đội lê dương còn vững vàng, Charton vẫn chỉ huy họ tấn công các chỏm núi tuy quân Việt đã ở khắp nơi trong từng khe núi, từng bờ bụi, từng tảng đá. Và qua mỗi đợt tấn công, đội lê dương mất biết bao nhiêu người nên chẳng mấy chốc hầu như chẳng còn gì nữa.

Trong lúc đó các chỉ huy của đoàn Lepage nhảy đến chỗ Charton và ban tham mưu như nắm lấy chiếc phao cứu nạn. Họ quyết định cố tập hợp lại các đơn vị. Làm thế nào được! Charton để Lepage đến chỗ tệ hại, đám người bỏ trốn đang nhốn nháo không biết chạy đi đâu, làm gì. Ông ta hết sức tổ chức lại hàng ngũ không được. Những chỏm núi cuối cùng của người Pháp sụp đổ. Quân Việt đông không kể xiết lao vào tất cả những gì còn lại - đã là sự kết thúc, cảnh hấp hối chung.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2019, 10:44:44 pm

Lỗ hổng Cốc Xá

Thực ra trong năm ngày, từ mồng 2 đến mồng 7 tháng mười - cái người ta gọi là đoàn quân Lepage bị săn đuổi đẩy lùi, cuối cùng bị đập nát dưới một lỗ hổng, thật thảm hại. Nhớ lại vào đầu buổi chiều mồng 2 tháng mười toán quân Lepage không chiếm được Đông Khê, nhận mệnh lệnh quay lại lòng chảo giữa các núi đá vôi, đi đón đoàn quân Charton. Đấy là lệnh hy sinh một cách vô ích. Quân lính hoàn toàn kiệt sức ý thức được điều đó. Đoàn quân Lepage đã bị ông Giáp huỷ hoại tinh thần; trong mười lăm ngày gần Thất Khê, gần Đông Khê, binh lính bị căng thẳng, xói mòn vì sự hiện diện của quân Việt, khắp nơi trong rừng, chưa tấn công mà chỉ theo dõi, chỉ bị giết một ít. Trong mười lăm ngày ấy hầu như không đánh nhau nhưng vô vàn khó khăn, thiếu tiếp vận, không chuyển đi hết thương binh, họ bị cắt liên lạc với Thất Khê. Sự phức tạp của núi rừng dễ dàng làm tan nát người của Lepage. Mỗi ngày trôi qua họ cảm thấy không còn hy vọng ở sự tiếp cứu nữa. Mỗi ngày thêm lên họ biết càng tăng số lượng quân địch trên những con đường từ Trung Quốc sang, vô hình, không dứt với nhiều binh linh gấp gáp chạy sang, hàng chục nghìn dân công luôn mang về càng nhiều vũ khí và đạn dược. Một người của đoàn quân Lepage sau đó thổ lộ: "Không có cách nào thoát khỏi lo lắng về sự chuẩn bị của người Việt." Người Việt dù vô hình cũng đặt ra khốc liệt như một sự thật và rừng rậm cũng là sự thật; cả đoàn quân cảm thấy yếu đuối, cô độc. Trung tá Lepage không phải là người để "khích lệ" người của mình, càng ngày người ta càng thấy rõ ông, một pháo thủ già sức khỏe yếu, đã quá mệt mỏi.

Tuy vậy đoàn quân đã dũng cảm thực hiện nhiệm vụ tấn công Đông Khê. Nhưng chỉ sau thất bại của họ trước thành trì khi họ đi vào vùng núi đá vôi thì quân Việt - từ lâu đã ở xung quanh họ - đột nhiên "tự bộc lộ". Với lá xanh dắt trên mũ, họ xuất hiện hàng nghìn sau từng cây to, từng tảng đá. Quang cảnh chết chóc - đại liên bố trí hàng dãy ở các ngách núi, ca-nông đưa lên đỉnh, súng cối bố trí nhiều ngày trước đó, cách người Pháp mấy trăm mét mà họ không thấy gì. Phần lớn thời gian, người Việt xuống từ những ngọn núi trước mặt gần Trung Quốc, đi qua thung lũng Đông Khê và trèo lên những sườn dốc có người Pháp, làm công việc đồ sộ là biến thiên nhiên ở đây thành cạm bẫy; kiên trì chuẩn bị mà chẳng lộ ra điều gì trong rừng núi mênh mông.

Dĩ nhiên quân Pháp rất nghi ngờ việc bố trí người và vũ khí ấy. Những họ chỉ thực sự nhận ra để bị găm chặt xuống đất, để chết, chỉ để đối mặt với lòng can đảm của họ. Và rồi hầu hết thời gian trời mưa phùn, phủ làn bụi xám xẩm trên núi cản trở việc dùng máy bay. Khi người Pháp cố hành quân họ buộc phải dán mình xuống đất và có ngay khối người Việt, màu của mưa phùn, rừng cây và đất, đến tiếp cận. Đấy là những tiểu đoàn, những tiểu đoàn hoàn toàn im lặng, tiến lên theo tiếng còi, bò hoặc nhảy chồm lên - trong những cuộc tấn công ấy như có một lực lượng không phải người, còn đáng sợ hơn làn sóng người nhiều.

Cảnh người Pháp bị tiêu diệt thật đơn giản! Đoàn quân Lepage ẩn trên chỏm núi như lên cao chạy lụt nhưng nước lụt tràn chỏm núi và có những trận đánh khốc liệt. Những người lính chống lại một "hiện tượng." Những chỏm núi bị chiếm đi chiếm lại và mỗi khi quân Pháp thua thì chỉ còn trốn chạy. Phân tán nhiều nhóm, họ chạy về phía tây, càng nhiều rừng núi - mệnh lệnh là đến đấy với hy vọng nối kết với đoàn quân Charton đã bỏ đường số 4 đi theo con đường mòn. Nhưng đoàn quân của Lepage này có nhiệm vụ "tiếp nhận" chỉ còn hai hoặc ba nghìn người khốn khó, hoàn toàn bị săn đuổi. Ban đêm - đêm trong núi rừng không đi được - họ vẫn đi đến kiệt sức, cố thoát, cố cách xa hơn. Ban ngày họ tiếp tục đi cho đến khi người Việt tìm thấy, đuổi kịp họ. Thế là đoàn quân - thực tế là từng mảng - ẩn vào một hoặc nhiều ngọn núi để chống cự cho đến đêm tiếp theo, có thể chạy trốn xa hơn. Cuối cùng mỗi lần có người Việt - nhiều lần những người bị săn đuổi cũng phải dừng lại để Lepage - ông già không quen mệt mỏi quá đáng như vậy có thể nghỉ ngơi. Cũng đôi khi Lepage, ra lệnh đơn vị nào đấy dừng lại trên vị trí nào đó vì ông đã đọc bản đồ, phù hợp với quân Việt sắp bao vây chặt bộ phận lớn của đoàn quân và bên cạnh không có cao điểm nào để trèo lên, chỉ có một lỗ hổng rộng, một trong những vực sâu thường thấy giữa những ngọn núi. Lepage bèn ra mệnh lệnh xuống đấy. Các đơn vị bị săn đuổi thực hiện lệnh như một người gặp lỗ để qua đêm, qua ngày sau đó và đêm tiếp theo nhưng đến bình minh hôm sau quân Việt đã ở cả trên bờ với vũ khí tự động, chỉ cần bắn từ trên xuống đám người để thành một cuộc thảm sát. Riêng đội quân dù không xuống trong vực thẳm. Nhưng chẳng mấy chốc, trên bờ viền, họ vội vã, bị dồn ép đến nỗi cũng phải lao vào lòng đất. Mũi kìm khép chặt hơn vào những gì còn lại của đoàn quân Lepage chen chúc trong lỗ. Trước mặt, trên một chỏm núi hẹp, đoàn quân đàng hoàng tiến tới. Để ra khỏi vực thẳm, đi tới đoàn Charton đang đi trên núi, phải làm một việc tuyệt đối vô vọng, theo một vách núi ít dốc hơn của lỗ tử thần, đi qua một loại vòm đá vôi, nhất là chui qua một ngách rất sâu và hẹp như một đường hầm. Và để tấn công bất đắc dĩ - một cuộc tấn công sống chết của đám tàn quân của mình - Lepage chỉ còn đội dù BEP, quân số đã hụt nhiều nhưng tinh thần vẫn tốt. Lúc ấy trong đêm tối quân dù lao ra, trèo qua những bờ dốc, dựa vào tay, chân và dựa cả vào người chết. Đại liên quân Việt bắn vào họ như bia ngắm và thân người đổ xuống, vẫn còn một số người trèo được lên bờ vực dùng lựu đạn ném vào trọng pháo địch. Tiểu đoàn bị tiêu diệt gần như hoàn toàn; những ai còn lại từ đoàn quân Lepage có thể chạy thoát một lần nữa qua ngách núi chật hẹp. Những người từ đấy ra là những ta-bo loạn thần kinh, những người lính Maroc đến với đoàn quân Charton, điên rồ, còn huỷ hoại đoàn này hơn cả người Việt. Buổi gặp nhau cuối cùng là như vậy, buổi hẹn gặp của hai đoàn quân trên cốt 470, và sau mấy giờ chẳng còn gì nữa.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2019, 10:45:52 pm

Nỗi thống khổ dằng dai của đoàn quân Lepage là thế. Có vẻ đáng ghi nhớ như một huyền thoại, nhưng đúng, như vậy. Từ lúc đó câu chuyện những ngày thảm hại ấy đã rất cụ thể.

Trở lại ngày 2 tháng mười. Để giơ tay ra với Charton, khi đã không chiếm được Đông Khê, Lepage chấp nhận một kế hoạch chiến lược lớn. Ý tưởng chủ đạo là "tập trung cố định" giữ chặt bộ phận lớn quân Việt gần Đông Khê bằng chiếm giữ những khối núi đổ xuống đường số 4 như cốt 615, Nà Keo, bốt cũ Nà Pá. Để lại đây đội dù BEP và hai đội ta-bo, với nhiệm vụ để cho các trung đoàn chủ yếu của ông Giáp bao vây thật lâu, mục đích giam chân họ lại đấy. Trong thời gian ấy, bản thân Lepage cùng đội lê dương RTM và một đội ta-bo xuyên rừng đến với Charton qua chỗ có ít quân Việt.

Thế nhưng chính cũng trong ngày mồng 2 ấy quân Việt tỏ ra ở khắp nơi, đông đúc đầy mọi phía. Kết quả là ngay từ đầu đoàn quân Lepage bị cắt thành hai khúc, cách nhau một ngày đường, không giúp đỡ gì được nhau và sẽ nối đuôi nhau vào thung lũng Cốc Xá để bị tiêu diệt cùng nhau - và cũng cùng đoàn Charton nữa. Thực sự là sự tập hợp để cùng chết.

Buổi chiều mồng 2 tháng mười, như người Pháp luôn luôn thế, là những chuẩn bị nặng nề, lâu, về việc triển khai "kế hoạch Lepage" sẽ bắt đầu vào mồng 3. "Đoàn quân di động", tập hợp gần Nà Pá để ra đi khi bình minh. Bỗng nhiên lúc 17 giờ ba mươi phút một trung đoàn Việt như từ hư vô, bắt gặp đại đội lê dương RTM8, giết chết đại uý chỉ huy và sáu mươi người. Đến 21 giờ, trọng pháo và súng cối dội xuống Nà Keo chỉ có một đội ta-bo. Quân Việt xâm nhập khắp nơi. Lính Maroc thiệt hại ghê gớm, người ta tập hợp lính bị thương được bao nhiêu thì được, lộn xộn, đưa vào bốt cũ Nà Pá. Chỉ huy ta-bo kêu cứu quân dù: "Các anh đến nhanh. Quân địch đã bao vây. Nếu lê dương không cứu thì xong đời”.

Dù vậy ngày hôm sau "đoàn quân di động" vẫn ra đi như dự kiến. Trong lúc đó đội quân dù BEP đến Nà Keo - hàng nghìn quân Việt lại bắt đầu tấn công vào 8 giờ sáng, tiêu diệt một số. Một đại đội dù phản công rồi toàn thể BEP. Súng quân Việt không ngớt xả đạn, những làn sóng người lao tới. Quân dù đẩy lùi ba đợt - dốc núi đầy xác chết. Máy bay Junker tách ra đi trên đường, lao vào những trận đánh lớn. Đêm xuống, vẫn càng nhiều quân Việt. Không khí trở nên nặng nề, thảm họa.

Từ lúc 17 giờ Nà Keo không giữ được nữa, một chỏm núi quá chật không tổ chức chống cự lâu được. Và rồi quả nhiên lính bị thương, hàng trăm, nêm chặt trong bốt của Nà Pá, rên rỉ hấp hối, cần chuyển đi. Nhưng làm thế nào? Quân Việt tăng cường đánh phá. Hai chỉ huy đơn vị, Delcros của đội ta-bo và Secretain đội quân dù, hai trong những người cứng cỏi vốn không quen rút lui, thú nhận với nhau: "Chúng ta sẽ bị nhấn chìm. Phải rời bỏ thôi". Đêm xuống. Phải lựa chọn, đi theo gặp Lepage trong núi, bỏ lại những người bị thương hoặc trở về đường số 4 đến Luông Phai để họ lại đã. Họ quyết định thế.

Dự kiến sẽ đi vào lúc nửa đêm. Đến ba giờ sáng chưa xuất phát. Phải phá huỷ hai ca-nông được thả dù xuống ngày 2 tháng mười, giết những con la và làm băng-ca chở thương binh. Sĩ quan, hạ sĩ quan không tìm thấy quân. Cuối cùng hai đội ta-bo ra đi, quân dù đi đầu chờ mãi, bị nghẽn lại giữa đồi dốc Nà Keo rất nguy hiểm. Đoàn người đi vào một đường hầm tự nhiên đồ sộ phía cuối có đường số 4. Chưa được một cây số đại đội Ta-bo đi đầu mang thương binh rơi vào một cuộc phục kích. Hầu như chẳng còn lại gì, chỉ mấy người lính Maroc chạy trở lại đội quân dù đang bất động. Chỉ huy của họ, Delcros biến mất. Bối rối toàn bộ. Đã có chứng cứ người Việt cảnh báo quân Pháp khắp nơi trong rừng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2019, 10:46:53 pm

Đối với đội dù BEP và đội ta-bo còn lại, cơ may duy nhất là chạy thoát, lao vào dãy núi đá vôi mà Lepage đã đi cùng đội lê dương RTM8. Trong phần đêm cuối cùng, gần như chẳng trông thấy gì, đội quân dù tiến lên mỗi giờ không tới hai trăm mét trong rừng đá, không cây cối. Còn những người bị thương cần khiêng đi. Đến mờ sáng đoàn quân vào trong rừng. Xa xa nghe tiếng người Việt hô chiến thắng, họ đã chiếm Nà Pá. Bây giờ họ sẽ đuổi theo. Phải bước nhanh. Không có cả nước uống. Đến hai giờ chiều dừng lại, như bị bệnh thiếu ngủ, họ lăn ra đất ngủ - đã bốn đêm không được nhắm mắt. Đoàn quân như một đoàn vật tê dại, ngủ mê mệt bất chấp nguy hiểm.

Secretain và các sĩ quan biết việc nằm lại này có nghĩa là sẽ bị tiêu diệt, không được kéo dài. Họ xin mệnh lệnh Lepage qua đài và kinh hoàng biết ông này cùng các đội quân đã xuống "lỗ hổng" Cốc Xá, thực ra là hai vũng sụp lở lớn của núi đá vôi ngăn cách nhau bằng một dãy đá xung quanh là những vách thắng đứng. Chiều sâu đến hai hoặc ba trăm mét. Nhưng làm gì khác nếu đội dù không vào đấy với bộ phận lớn của đoàn quân Lepage - để mọi người tụ họp với nhau. Lại đứng dậy tiến lên trên một con đường đáng sợ. Phải trèo qua chỏm núi rất cao, cốt 765. Những bộ phận đi đầu gặp lưới lửa của quân địch nhưng Lepage khẳng định không quan trọng: ông đã để lại trên đỉnh núi một phân đội lớn của đội lê dương cho đến khi đội quân dù đi qua hết. Đành tiếp tục tiến lên. Đi đầu là đội ta-bo không bị tiêu diệt trên đường số 4 và vẫn ở lại với quân dù. Chỉ trong mất phút chẳng còn lại gì; đến lượt họ cũng rơi vào phục kích. Không báo trước với bất cứ ai, đội lê dương bỏ cốt 765, quân Việt thay thế vào chỗ ấy. Một lần nữa trong ngày thảm hại này quân Pháp bị người Việt vượt lên trước.

Trong đêm xuống, đội dù rất cô độc. Dù sao họ cũng cố tìm một lối xuống "lỗ hổng" Cốc Xá, tránh đỉnh 765. Đội dù chỉ còn vài trăm người, lang thang trên địa hình hỗn tạp. Sau nhiều lần tìm lối ra họ theo hướng thiên về phía nam hơn. Bỗng họ dừng hẳn lại, đứng ngay đầu một vách đá dựng đứng, bên dưới hình như có một thung lũng nhỏ dẫn đến thung lũng Cốc Xá. Có lẽ sẽ thoát nạn.

Đội dù cố gắng xuống nhanh theo dốc đứng này nhưng sau nhiều lần không kết quả, họ đành chịu, chờ sáng để tìm lối đi. Những giờ còn lại trong đêm cả tiểu đoàn ở trên bờ vực, mỗi người chỉ có thể dựa vào mình, thức trắng đêm với khẩu súng trong tay, biết rằng quân Việt luôn ở bên cạnh.

Bình minh lên họ vẫn không xuất hiện. Secretain và các sĩ quan tìm ngay một lối xuống. Trung uý Faulke cuối cùng tìm được một con đường nhỏ khó nhận ra, có lẽ do hoang thú đi lại. Ông thăm dò cùng với tiểu đội của mình xuống được đến dưới cùng. Họ đưa ngay hàng trăm thương binh xuống thung lũng, đi như sâu bò, từng tấc đất một.

Kỳ quan trong thung lũng là nước. Mọi người cúi xuống một con suối nhỏ dùng tay vốc nước uống và lấy cho thương binh. Xung quanh rất yên tĩnh. Hy vọng trở lại.

Bây giờ phải đưa bộ phận lớn của đội quân dù xuống hết. Faulke bố trí phòng vệ; mọi việc đã sẵn sàng nhưng không có việc gì xảy ra. Lepage lại một lần nữa thay đổi ý kiến ra lệnh nghiêm ngặt tiểu đoàn phải bố trí trên đó.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2019, 10:48:28 pm

Ngày dài vô tận. Chỉ huy đoàn dù lên xuống thung lũng nhiều lần nhưng không làm gì được. Có một lúc từ một góc núi người ta thấy xuất hiện như một tốp ma - ba mươi hoặc bốn mươi lính Maroc trốn thoát cuộc phục kích trên đường số 4 lang thang trong rừng cho đến bây giờ. Trong số họ có thiếu tá Delcros. Về sau một toán khác chui ra, có trật tự, họ đi từ "lỗ hổng" Cốc Xá sang thung lũng này. Đấy là toán "liên lạc" Lepage cử tới tiếp tế thực phẩm và mang thương binh đi. Trung uý Lefebure chỉ huy. Họ cho biết vòng vây bắt đầu xiết chặt quanh "vực thẳm" Cốc Xá. Quân Việt xâm nhập rất đông trên các điểm cao xung quanh. Máy bay cố thả đạn dược xuống cho người Pháp ở dưới thấp nhưng phần lớn rơi quá xa, vào chỗ quân Việt. Và những chiếc Junker lại là những bia ngắm của rất nhiều súng tự động. Tiêm kích đến bỏ bom, san bằng các chỏm núi có quân Việt nhưng sự can thiệp ấy không mấy hiệu quả, quân Việt "nấp kín" trong lỗ và các hầm hào. Không có tin tức gì về Charton. Cuối buổi chiều có chỉ thị mới của Lepage cho Secretain: "Đi xuống thung lũng và trèo lên những ngọn núi trước mặt. Charton sẽ từ đó tới." Nhưng đã quá chậm - đêm xuống và cả người Việt nữa. Lúc ấy, trong bóng tối diễn ra giai đoạn đi xuống thần kỳ theo con đường nhỏ dọc bờ dốc đứng phát hiện ra trong buổi sáng. Đoàn người nắm tay nhau bước đi không trông thấy gì, mò mẫm trên một ít đất không phải vực. Cuối cùng đại đội thứ nhất xuống đến phía dưới. Bỗng có tiếng huyên náo đáng sợ trên chỏm núi trước mặt thung lũng lúc sáng Faulke bố trí một phân đội "bảo vệ" cuộc hành quân. Sau hai phút chẳng còn gì nữa rồi tiếng kèn chiến thắng của quân Việt, cả phân đội bị tiêu diệt. Đại đội vừa xuống đến thung lũng lao lên phản công trên ngọn núi trước mặt. Một cuộc bắn giết nhau trong đêm tối.

Tuy vậy bộ phận lớn của đội quân dù vẫn đang lần xuống theo con đường nhỏ. Quân Việt bám được vào thành vực, nổ súng tấn công. Hoàn toàn hỗn loạn. Con đường bị quân Việt cắt đứt, phần cuối đoàn quân bị cô lập. Lính lê dương không biết mình đang ở đâu nữa. Đủ loại tai nạn, người rơi xuống khoảng không; lẫn lộn không tưởng tượng nổi! Một bàn tay giơ ra - tay người Việt - giật khẩu đại liên của người mang. Không còn cách nào tiến lên nổi. Phải ở nguyên tại chỗ, mỗi người trên mấy phân đất, dán chặt chân giữ cho người khỏi rơi xuống vực. Xung quanh quân Việt lùng sục tìm mồi. Một trung đội đi lạc, đến một vùng đất cao trên vực. Một người bị gãy xương sống, người bên cạnh bịt miệng lại khỏi rên la - không được để người Việt nghe tiếng, sẽ đến tàn sát hết. Bao nhiêu mong đợi trời sáng! Bình minh vừa lên, lính lê dương lại bắt đầu đi xuống. Cuối cùng cả đội dù ở trong thung lũng, nhưng mất đi một trăm người, chắc đã bị giết.

Đội dù hết đạn, chỉ còn đến tập trung với bộ phận lớn của đoàn quân trong "lỗ hổng" Cốc Xá.

Trong vực thẳm đã lan tràn nỗi lo lắng. Phần lớn những chỏm núi xung quanh ở ngoài tầm súng quân Pháp và dần dần bị quân Việt chiếm giữ. Người Việt luồn xuống dưới, đến những lòng chảo, thâm nhập vào lòng chảo bên dưới, đến mãi "đầu nguồn". Đây là lối đi đoàn quân Lepage có thể "ra" khỏi vực thẳm đáng sợ để lao tới đoàn Charton. Vì người ta thấy đoàn quân này đến từ xa, ngay ở ngọn núi trước mặt, rất trật tự. Thế nhưng trong Cốc Xá suốt ngày không ai làm gì, cũng không chú ý canh giữ lối ra chính là sự sống.

Đấy là đêm mồng 6 sáng mồng 7 tháng mười. Chỉ còn khoảng một chục đạn cối, một số lựu đạn. Không còn điện đài, liên lạc phải đi bộ, trong những điều kiện như thế và phải bò. Không còn gì ăn. Quân Việt càng tấn công hầu khắp, quyết liệt hơn. Ở chỉ huy tiểu đoàn, Secretain, Jeanpierre, Faulke cùng nhau bàn luận: Sẽ chết hết nếu không ra khỏi vòm này và dĩ nhiên đội quân dù của họ phải xông ra trước. Nhưng họ cũng không biết lối ra, chỗ "đầu nguồn" do ai nắm giữ. Lúc hoàng hôn đích thân Jeanpierre đi thăm dò. Ông nhận thấy các bờ đầu nguồn đều có quân Việt bố trí, ông báo tin cho Lepage vốn không biết rõ.

Như vậy có nghĩa chỉ ra khỏi vòm bằng cách đánh nhau một trận lớn giữa mấy trăm người lộ liễu chống lại nhiều nghìn người Việt phục kích đang chờ họ.

Nửa đêm. Sĩ quan và binh lính mệt mỏi, ngủ trong các hốc đá. Bỗng Jeanpierre đánh thức Faulke: Lepage ra lệnh đi bây giờ. "Đi thôi". Phải truyền mệnh lệnh tìm kiếm, đánh thức dậy, tập hợp quân. Rất lâu vì đi bộ, trong đêm tối không được có ánh đèn, không tiếng động. Cuộc chuyển quân bắt đầu lúc ba giờ sáng, luồn nhanh qua lòng chảo phía dưới, theo hai đường mòn. Phải đi theo con đường phía nam, nằm hoàn toàn dưới chiều thẳng đứng của các vách núi đá vôi, lợi dụng được một góc chết. Nhưng phần lớn họ nhầm lẫn, đi theo con đường phía bắc - con đường tử địa.

Tuy vậy mọi việc tiến triển tốt cho đến khi cách "đầu nguồn" mấy trăm mét. Ở đây, sau mỗi lùm cây, tảng đá, quân Việt bắn vào những ai tiến lên. Cuộc chiến trở thành khốc liệt ngay. Đội dù tiến lên được mấy chục mét, từng mét một, "quét sạch" những ai sau mỗi cây, mỗi tảng đá. Lưới lửa thật ghê gớm. Người ta xả đạn thực sự không thấy gì mà chỉ đoán chừng, dựa vào ánh sáng những loạt trước. Một cuộc giáp lá cà mò mẫm, gần như mù. Người đổ xuống. Đội quân dù ra đi 450 người, chẳng mấy chốc chỉ còn lại hơn 120, xác lính lê dương chết hoặc bị thương rải từng mét, theo bước tiến. Hầu hết các sĩ quan ngã xuống. Trung uý Faulke tử thương. Có một ngôi làng khốn khổ với mấy mái nhà tranh người ta nhào vào đấy. Rồi đội dù hầu như chẳng còn lại gì không bước lên được nữa. Những người sống sót ngồi trên đất, co quắp, còn số đứng lên để tiến. Nhưng đạn bắn vào lưng họ - chẳng biết quân Việt hoặc lính Maroc.

Phía sau quân dù sắp bị tiêu diệt hết lẫn lộn những lính Maroc điên loạn - căng thẳng đến mức họ bắn vào lính lê dương trước mặt - những người này quay lại chống cự và cảnh ấy chỗ nào cũng có giữa quân Việt. Không thể tưởng tượng sự tắc nghẽn cuồng điên hơn - sự tắc nghẽn của cái chết.

Thế nhưng chính những người lính Maroc mở được lối ra. Còn một đại đội của đội lê dương RTM8, đại uý Faugas tung vào chỏm núi khống chế lối đi. Quân lính xông lên theo hàng xiết chặt, vai kề vai, hát một bài trong Kinh thánh. Họ cũng ngã xuống hầu hết nhưng chiếm được điểm cao, mở được đường.

Than ôi! Để sử dụng, chẳng còn người nào hoặc gần như thế. Từ một đại đội dù chỉ còn một người, từ toàn đội dù BEP còn vài chục người, đặc biệt có hai sĩ quan, thiếu tá Secretain và đại uý Jeanpierre. Những ai chạy trốn về phía trước chỉ là đám người điên, số người vốn đi tập hậu. Những người thác loạn ấy leo trèo bằng chân, tay, gần như cả bằng răng, lên khỏi một bờ vực bốn mươi đến năm mươi mét - gặp được đoàn quân Charton, không phải để cứu mà để phá huỷ họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2019, 10:50:01 pm

Sự kết thúc của hai đoàn quân

Quân Charton nhìn vào quần áo, vào đôi mắt ngơ ngác của những người trốn thoát từ đoàn quân Lepage, hiểu ngay mức độ của thảm họa. Nhưng Charton đã rời bỏ Lepage và các sĩ quan của ông này đang "quấy rầy" mình, đi lên phía trước, bỏ qua đám hỗn độn những kẻ thất bại để chơi ván bài cuối cùng. Chính tiểu đoàn lê dương REI ông mang theo từ Cao Bằng còn là lực lượng có tổ chức trong mớ bòng bong này. Với tiểu đoàn này ông cố gắng "chọc thủng" dọc các mỏm núi đến với vị trí đội tiếp nhận của Thất Khê ém quán chỉ cách đấy mấy cây số. Từ sáng, đội lê dương bắn liên tục để chiếm lại những ngọn núi đã mất là những chướng ngại vật. Charton ra lệnh tấn công, rồi ông cũng tấn công - và cũng xảy đến như đội quân dù BEP lúc bình minh - không còn người nữa. Charton bèn điện gấp cho Lạng Sơn đề nghị thả dù một tiểu đoàn sẵn sàng chiến đấu và ông sẽ vượt được. Ban chỉ huy trước hết nghĩ phải hạn chế thiệt hại, họ phải báo cáo số người chết cho Paris sau này. Họ thả một tiểu đoàn, đội BCCP3, nhưng không thả xuống chỗ hỗn độn ấy mà ở Thất Khê, không xa, sẽ tiến đến hỗ trợ mà không mạo hiểm. Điều ấy cũng không tránh được tiểu đoàn này bị tiêu diệt mấy ngày sau đó. Charton đề nghị cho đội bay nhưng họ không đến hoặc gần như không. Bị bỏ rơi rồi.

Lúc 16 giờ 30 phút Charton được tin ngọn 477, chỏm núi quyết định, cho phép ông hy vọng, đến lượt bị mất. Điều ông không biết là hai đại đội ngụy binh - những ngụy binh người ta khinh thường, chiếm lại được nó. Trong lúc đó, nghĩ đã mất hết, Charton bước đi, một mình chui vào rừng, tới những chỏm đồi, ngọn suối ông tưởng theo hướng Thất Khê. Trước khi đi, ông quay lại, hô lớn: "Mọi người đi theo tôi!" Quân lính nhìn ông và bước theo sau. Chỉ ba, bốn lê dương tiến lên cùng Charton theo tư thế chiến đấu. Phía sau, không tả nổi. Lepage không có đấy, số lính dù còn lại cũng không, chỉ là lính Maroc. Charton hét lên với đám lộn xộn ấy: "Ai chỉ huy ở đấy?" Không ai trả lời. Hình như các sĩ quan trong đám đông ấy đã bỏ lon ra.

Đoàn người đi như vậy hai cây số không bị phiền phức gì. Charton làm mũi dẫn đường, đi theo địa bàn. Ông bị một mảnh đạn - lần thứ hai trong ngày - nhưng không dừng lại. Họ đi qua phía dưới một ngọn núi; quân Việt bắn như dội đạn. Trong rừng Charton nghe có tiếng nói. Ông bảo: "Dừng lại xem sao". Nhưng phía sau có tiếng hô trong đám đông khốn khổ: "Quân Việt, quân Việt đấy". Trong một lát cả đoàn tan rã, đám đông đi theo Charton biến mất. Chỉ còn lại với ông mấy người lính Lê dương và kỵ binh. Đúng đấy là quân Việt; họ bắn - Charton còn bị hai phát, một làm vỡ mũi, một xuyên bụng. Ông bắn hạ một người Việt. Nhưng mỗi lúc càng nhiều quân Việt xung quanh nhóm người, bao vây họ, tấn công bằng lưỡi lê, lựu đạn. Cận vệ của Charton đứng lên phía trước bảo vệ ông, anh ta bị giết ngay. Bên cạnh ông viên đội nhất Schlumberger ngã xuống, thân bị cắt làm hai. Charton bị bắn, trúng đạn khắp người, đổ sụp xuống. Một người Việt chạy tới đâm nhưng cán bộ chính trị ngăn lại: "Đây là một đại tá Pháp. Phải bắt sống để thẩm vấn". Vậy là Charton, con người không khoan nhượng, ông "thánh của đội lê dương" luôn chiến thắng, bắt đầu bị bắt trong một thời gian dài. Và như vậy ông đã kể lại sự thất bại của mình.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2019, 10:50:52 pm

Về cơ bản trong những thảm họa lớn không có sự thật. Tất cả rời rạc như một thế giới bỗng mất hết lôgic, rơi vào địa ngục bất lực, mâu thuẫn, quá sơ lược và khó gỡ nổi. Những gì người ta có thể dựng lên sau này chỉ là một số sự việc, còn lại tất cả đều khác đi. Vì vậy về sự kết thúc của đoàn quân Charton, tôi kể lại một bằng chứng khác của một trong các trung uý mà mọi việc đều giống nhau và mọi việc trái ngược nhau.

- Trong mấy giây, trước những gì xảy ra với đoàn quân Lepage, tôi cảm thấy chúng ta đã thua trận - quân Việt mạnh hơn. Những con người bại trận đến đây rất sợ hãi, gieo nỗi sợ hãi vào hàng ngũ chúng tôi. Chẳng mấy chốc chúng tôi trở thành một đội quân sợ hãi và im lặng. Mỗi người nghĩ xung quanh mình quân Việt dồn đến, vô hình, bố trí cuộc mai phục vô cùng lớn. Người của Lepage vẫn ở đó trong nhiều giờ, lẫn lộn trong chúng tôi nhưng quá kiệt sức không nói được gì, chỉ bập bẹ được mấy tiếng. Lepage chạy tới ôm lấy Charton vừa nói: "Thế mà tôi đã nghĩ trong năm nay tôi được đầy đủ các ngôi sao". Đến bốn giờ chúng tôi vẫn ở đấy trên cốt 470 mà không hiểu vì sao người ta không đi, tự nhủ mình đang tạo cho quân Việt một thời gian quý giá. Sau bốn giờ một số chúng tôi bắt đầu bước đi, đến Thất Khê cách một ngọn đồi nhỏ, không phải núi lớn như gần Đông Khê. Đoàn quân rất dài, phía cuối còn có những người "dân thường" Cao Bằng! Charton bị thương vì mảnh lựu đạn từ một bụi cây. Khi đoàn quân đến gần một ngọn đèo, cuộc phục kích triển khai - tất cả kết thúc rất chóng. Hàng chục nghìn quân Việt ào tới, tấn công đột ngột không đề phòng, không hành quân, để kết thúc, thanh toán hết. Đoàn quân quyết liệt chống cự trong mấy phút chuyển thành hàng nghìn nhóm giáp lá cà giữa vô vàn cây cỏ đá núi; những con người đánh nhau gần như không trông thấy nhau, đại liên hầu như không bắn từ mặt đất. Quân Việt quá nhiều, những người ngã xuống người chúng tôi, phải sống trong những giây phút kịch tính, là những vật bị đánh hạ. Và điều đó còn lẫn lộn ở một số người với ý nghĩ người da trắng không thể bị người da vàng nhấn chìm. Nhưng đã là cảnh hấp hối của nhiều nghìn người giữa vô số quân địch đang phá huỷ tất cả, đang hoàn thành công việc của mình. Người ta bị sát hại bằng những gì có thể giết người, còn nhận đạn cối nhưng dần dần trực tiếp hơn, lựu đạn và dao; nhất là có bao nhiêu quân Việt lao vào chúng tôi - từ rừng ra, nhỏ và nhanh nhẹn, cành lá dắt trên mũ. Tuy vậy vẫn còn thì giờ cho một số thể hiện thất vọng lớn. Tôi thấy bên cạnh mình một đại uý đổ sụp xuống khóc, xa hơn một ít là một viên đội đi lang thang, vô cảm với viên đạn bắn hạ. Nhiều sĩ quan tự sát trong tay người của mình. Những người lính Maroc bị vây chặt, vừa bắn vừa hát những lời buồn cho đến khi bị giết hết. Cũng còn những lời chào nhau, tạm biệt và vĩnh biệt giữa bạn bè; rồi tất cả chấm dứt.

Vây bủa đoàn quân bị tiêu diệt là im lặng, tử khí và mùi. Ông biết đấy, cảnh im lặng với những tiếng rên và mùi bốc ra từ xác chết trên chiến trường, những thực tế đầu tiên về bại trận. Rồi có một thực tế khác lạ hơn nhiều - trật tự Việt Minh. Người ta chờ đợi sự dã man nhưng điều được lập lại sau làn đạn cuối cùng mấy giây là việc làm vô cùng tỉ mỉ. Các sĩ quan Việt đi khắp chiến địa nhưng không hề với tư cách chiến thắng, đơn giản như một nhiệm vụ đã hoàn thành và một nhiệm vụ mới bắt đầu. Tôi không nhận ra ở họ một nét kiêu hãnh, chiến thắng nào. Họ quan sát, ghi chép, ra lệnh cho quân lính. Những y tá Việt, bịt mảnh bông trên miệng, xếp gọn những người chết và bị thương nằm từng đám, theo lớp xen kẽ ngay trên đường mòn và xung quanh ở những vùng không có cây cối. Người chết dồn thành đống; người bị thương được buộc vào các mảng tre để nhân công khiêng đi. Bên ngoài những người lính cầm tiểu liên tập hợp tù binh, sắp xếp họ thành toán dẫn đi. Tất cả những việc ấy không hung bạo, không tàn ác, cũng không thương xót, như những gì là nhân đạo và vô nhân đạo không đáng kể, như người ta đang trong một vũ trụ của những giá trị mới.

Tôi đã đứng trước đạo lý của trật tự đỏ, cái gì đó tuyệt đối, nghìn lần vượt qua điều chúng ta gọi là kỷ luật. Thay vì tàn sát, người Việt chăm sóc thương binh, "giáo dục lại tù binh". Người Việt phải có chất liệu "có giá trị" cho việc cải tạo giáo dục đó. Vì vậy họ "khai thác" rất có phương pháp chiến trường này. Đêm xuống khu rừng đầy những bó đuốc của người chiến thắng. Và tôi nghĩ đến một số quân lính chúng ta chạy thoát được vào rừng, đang ẩn nấp, luồn lách để tới được Thất Khê. Than ôi, trong số những người lẩn trốn đó hầu hết bị bắt từng người một."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2019, 10:51:42 pm

Thực tế, suốt ngày đêm có những người cố luồn lách như những chiếc bóng trong rừng để đến Thất Khê. Trong số họ khoảng một trăm người còn lại của đội quân dù. Sau việc chắp nối của hai đoàn quân sáng mồng 7 tháng mười, họ ở ngọn núi phía sau với Lepage, bỗng thấy Charton biến mất, thực ra ông lên phía trước đánh nhau và thất bại trận cuối cùng. Họ đơn độc, bại trận khắp nơi và Lepage nói: "Không còn cách gì chiến đấu được nữa. Tôi để cho mỗi sĩ quan tự do hành quân với người của mình để tới Thất Khê." Có nghĩa là phải thoát từng nhóm người một, len lỏi trong rừng đầy người Việt. Và dù như vậy, với giải pháp "nhục nhã" ấy, vận may cũng thật ít ỏi.

Đấy là đỉnh cuối cùng của quân dù - còn có những người chết, những tù binh nhưng hai mươi ba người "qua được". Trong số những người "trở về" ấy có đại uý Jeanpierre.

Trong quân đội lê dương, cả một "cuộc trốn chạy" cũng được tổ chức tốt. Ra đi trong cuộc phiêu lưu cuối cùng, những người còn lại ở đội quân dù quá lớn. Người ta chia nhỏ thành năm phân đội, mỗi đội hai mươi người, một sĩ quan có bản đồ và địa bàn chỉ huy. Đoàn quân theo con đường dọc một thác nước. Đi mở đầu là viên cai Hallert, viên cai Constans, viên cai Hai, ba người chiến đấu rất giỏi. Đến năm giờ họ phát hiện một xác chết trên bãi sông, vậy là có quân Việt gần đấy. Mệnh lệnh là đi giữa dòng nước, sâu và chảy xiết, nhưng ít nhất tiếng thác át tiếng động của người. Tuy họ cố gắng để không gây tiếng động, ở những người "cứng rắn" ấy như có một nỗi sợ hãi bị thấy, bị nghe, và do đó bị giết.

Đêm đến, họ nằm ngủ trên bờ. Bỗng trong tối tăm có tiếng kêu gọi - loạt đạn đại liên đầu tiên quét vào thác nước và trên bờ, một loạt thứ hai lâu hơn rồi những loạt súng các loại. Quân lê dương "tóe ra" khắp rừng và đêm tối. Sercetain mệt quá, đứng nguyên tại chỗ trong một góc bờ, bảo những người khác chạy đi: "Mỗi người thử tìm lấy vận may." Ông nhắc lại lệnh ấy với viên cai Constans không muốn bỏ ông. Ông ở lại một mình, bị thương nặng ở bụng. Sau đó quân Việt biết tin, đến tìm ông ở đấy, hấp hối và đơn độc. Họ cáng ông đến Đông Khê. Ông chết ở đấy và được chôn cất như một người lính.

Cuối cùng trong rừng chỉ còn lại những người đơn độc hoặc từng nhóm ba, bốn người. Họ bò, đúng hơn là bước đi, những con vật bị săn đuổi, chỉ tiến lên mỗi lần mấy trăm mét rồi ẩn nấp lâu dài trước một dấu hiệu khả nghi. Một số đến Thất Khê đúng lúc. Nhưng rồi biết bao nhiêu người, sau những cuộc viễn du như thế, đến tận những ngôi nhà đầu tiên của Thất Khê, điên lên vì mừng. Trước mắt, họ thấy thành trì: đối với họ là nơi đầy ân huệ, một sự giải thoát tuyệt vời. Nhưng vào bên trong, thay vì lính đồn trú Pháp, họ thấy những người Việt Minh - lính đồn trú đã di tản. Thật mỉa mai! Những người ấy cố gắng ngoài sức chịu đựng của mọi thân xác và tâm hồn để đến tự nộp mình, bị bắt ngay trong tổ! Họ được dẫn đến một văn phòng nhỏ, ngay trước một Việt Minh không tên, không phù hiệu cấp bậc, chẳng có gì cả nhưng hỏi họ rất nghiêm chỉnh, bằng ngôn ngữ Pháp tuyệt vời:

- Các ông nghĩ như thế nào về cuộc chiến tranh các ông tiến hành ở Việt Nam? Các ông có thấy đấy là một cuộc chiến tranh bất công không? Một cuộc chiến tranh thật bất công. Vì sao các ông không muốn nhận ra điều ấy?

Một người Pháp bị bắt bỏ trốn. Anh ta bị bắt lại.

Những ngày lạ lùng cùng với Việt Minh ở Thất Khê! Thị trấn đầy ắp dự trữ người Pháp bỏ lại. Có những kho lớn quần áo và thực phẩm. Quân lính Việt Minh, những chiếc cặp trên tay, họ ghi lại tất cả. Và mỗi ngày quân lính và sĩ quan Pháp, riêng lẻ hoặc từng nhóm, được quân lính Việt Minh dẫn đến. Khi đã khá đủ, người ta tổ chức họ thành hai hàng dài, đi mười ngày trong rừng đến những trại, làm tất cả để thay đổi đầu óc họ. Họ phải tham gia một trận chiến đấu còn ghê gớm hơn trận chiến trong thiên nhiên, cuộc đấu tranh của lý luận biện chứng, khoa học phức tạp và không cạn kiệt chống cả tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Và luôn luôn họ tự hỏi: "Có nên từ chối và chết để vẫn hoàn toàn là những sĩ quan Pháp? Nhưng bốn phận phải chăng là mưu mẹo, làm ra vẻ, để sống sót và sau này phục vụ Tổ quốc? Nhưng giả vờ như thế nào để khỏi bị cuốn vào vòng quay, không vô tình phản bội, không xứng đáng? Thật tiến thoái lưỡng nan và cuối cùng kể cả những người cương quyết nhất cũng không còn biết họ làm gì, họ ở đâu, thực tế họ nghĩ như thế nào! Những người ấy sẽ được ghi nhận vĩnh viễn.

Thực tế chỉ có mấy trăm lính ta-bo thoát khỏi thảm họa của hai đoàn quân - những người của thiếu tá Chargé, tìm được "lỗ hổng" đến Thất Khê trước lúc rút đi. Nhưng những người lính Maroc ấy, khi tràn ra vùng đồng bằng đã mang dấu tích trong mình. Chính họ, khi kể lại những gì đã chịu đựng và thấy, lan nhiễm dần mọi lực lượng Bắc Phi trong Đội quân viễn chinh mà năm này qua năm khác người ta dựa vào ít đi và sau này trở về nước, phục vụ cách mạng. Chính trên biên giới Trung Quốc, tiếp xúc với Việt Minh, theo gương họ nảy nở những ý nghĩ, những chiến thuật sẽ đưa lại nền độc lập cho Tunisia, Maroc và Algéria.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2019, 04:03:16 pm

Việc rút khỏi Thất Khê

Sau khi các đoàn quân Charton và Lepage bị tiêu diệt trong núi rừng Đông Khê, quân Pháp chỉ còn phản xạ - rút quân. Người ta di tản tất cả. Trước hết là Thất Khê, ngày 10 tháng mười trong những điều kiện thảm hại, một cuộc "chạy tán loạn" thực sự. Tuy vội vã thế người ta vẫn mất một tiểu đoàn.

Chỉ huy quá bất lực vẫn đặt ra một vấn đề khó nghĩ: có nên ném những tiểu đoàn mới vào lò lửa để cứu tàn quân Lepage và Charton đang lê lết trong rừng? Nhưng phải chăng như thế là để cuốn vào guồng quay, thiệt hại thêm nhiều người và làm tăng chiến thắng của Việt Minh? Người ta đành thả lỏng cho cuộc chém giết, sợ bị chém giết nhiều hơn. Động tác duy nhất là thả dù xuống Thất Khê một tiểu đoàn, tiểu đoàn BCCP số 3, với mệnh lệnh không đánh nhau mà chỉ "nhặt" những người trốn chạy. Họ thu nhặt được mấy trăm. Ngày 10 tháng mười người ta rút khỏi Thất Khê, bỏ rơi những người trốn chạy còn có thể có cho số phận, núi rừng và người Việt. Và việc rút lui ấy cũng còn quá chậm vì tiểu đoàn BCCP số 3 vẫn ở lại đó.

Chính trang nhục nhã bắt đầu ở Thất Khê và chỉ kết thúc với de Lattre.

Trong những ngày 8, 9 và 10 tháng mười, Thất Khê đầy áp cảnh bại trận của những người trốn thoát trong tình trạng kiệt sức và thương tật không tả nổi. Bốt chỉ là một chỗ trú, một bệnh viện. Các thầy thuốc làm việc từng hàng. Những chiếc máy bay Morane nhỏ đậu xuống mảnh đất chật hẹp để mang đi những trường hợp nặng nhất. Vả lại Thất Khê chỉ đầy những gì còn lại của các đoàn quân. Trong hàng rào bao bọc bốt lẩn trốn cả lớp người sợ hãi bên ngoài, gái đĩ, những người buôn bán của thị trấn, hàng trăm người Annam với con cái hoặc những túi vải vác trên lưng, cả tài sản của họ. Cũng có những cha cố, các bà xơ. Tất cả dồn đống lại.

Nhưng người ta đã được tin bộ phận lớn quân đội Việt đã tiến lên cấp tốc, vượt Thất Khê, hàng nghìn dân công phá huỷ con đường đi Lạng Sơn, những bốt phụ đã bị "sờ đến". Quân Việt đã khép chặt chúng tôi lại, phải ra đi ngay kẻo quá chậm. Chúng tôi yếu quá không chống cự nổi, dù có cả đội BCCP số 3 vừa được thả dù xuống. Một trường hợp lương tâm cắn rứt. Những người trốn thoát vẫn còn chạy đến: họ điên lên vì mừng khi gặp chúng tôi, nói về nỗi sợ ghê gớm đã chạy khỏi. Và tất nhiên còn những người khác len lỏi trong rừng cùng với nỗi ám ảnh ấy và người ta hình dung họ sẽ tìm được một bốt bỏ lại, quân Việt ở trong đó, một cái bẫy chuột thay vì được cứu. Nhưng người ta cũng tự nhủ ở lại Thất Khê thêm một giờ nào, có lẽ đi vào chỗ chết không riêng quân lính đồn trú mà cả những ai đã vào đấy, vừa nghĩ là mình thoát nạn. Họ không nên đi quá chậm vì đoàn quân ra đi không thể tự bảo vệ - sẽ nặng nề, chậm, không dứt, gồm tất cả những cặn bã của cuộc bại trận, những người bị thương, đau yếu, những người không chiến đấu vẫn đến ngày càng nhiều.

Những bốt phụ xung quanh đến họp nhau với Thất Khê cùng mọi người làm việc và khí cụ. Trong đêm được lệnh ra đi. Đám đông hỗn hợp này khó có sức vượt nổi sáu mươi cây số khoảng cách. Có đến mấy nghìn người; những người chiến đấu được chỉ có đội lê dương Thất Khê và lính dù của đội BCCP số 3 vừa trở về. Đội lê dương Thất Khê làm nòng cốt của đoàn quân; đội lính dù tập hậu. Mọi việc đã bắt đầu không tốt từ khi ra khỏi Thất Khê cách thị trấn một cây số. Quân Việt đã đánh đổ chiếc cầu trên sông Kỳ Cùng; phải mất suốt đêm để qua sông bằng đò, thoát được vừa đúng lúc. Quân Việt kéo đến rất đông, lính dù phải tự hy sinh để "cầm chân" quân địch. Qua điện đài họ đề nghị đoàn quân trở lại giải thoát cho mình nhưng không thể mà phải tiến, đẩy đoàn người nhanh hơn. Quân dù bị tiêu diệt trong trận này, nhưng đoàn quân thoát được. Mọi người đi trong nỗi thống khổ vì mệt mỏi, với ý nghĩ duy nhất phải cách xa quân Việt, đến chỗ không có họ vì đấy là vận may cuối cùng. Khi con đường đường số 4 có vẻ nguy hiểm, họ theo đường mòn trên núi hoặc giữa rừng. Mệt mỏi ghê gớm! Qua một ngọn núi là một ngọn núi khác, vô tận, phải leo trèo như những con vật, tay chân rách nát vì cạnh sắc của đá núi. Cũng có những bi kịch, khát và đói, chẳng có gì ăn, chẳng có gì uống. Cứ như vậy trong hai ngày hai đêm. Dân thường chịu đựng tốt hơn chúng tôi, họ quyết liệt để sống. Và thực ra trong mười ngày đi không ngớt chúng tôi, thám hiểm khu rừng lớn quanh Thất Khê để tìm những người sống sót. Vì vậy trong đoàn người khốn khó, chúng tôi còn rách nát hơn những người chúng tôi bảo vệ. Khi tới Đồng Đăng có hàng đoàn cam-nhông đang chờ, chúng tôi sẽ đổ lăn ra nếu phải đi thêm mấy mét nữa. Đám đông này tới Đông Dương thật quái dị, được chất lên xe GMC rồi lên máy bay đi xa, được tắm rửa, tẩy uế, băng bó, giấu diếm như không được lộ ra. Mọi dấu vết về câu chuyện của họ bị xóa sạch. Chỉ có chúng tôi, những người lính chiến đấu, được giữ lại ở Lạng Sơn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2019, 04:03:54 pm

Đám đông thảm hại ấy, nhặt nhạnh từ cuộc bại trận, những người chạy trốn, bị thương, những kẻ điên khùng và cả những kẻ lợi dụng đồng bạc chỉ nghĩ đến cứu mạng sống - buôn bán, gái đĩ, những người Châu Á cần cho sự chiếm đóng của Đội quân viễn chinh - chỉ thoát được nhờ vào sự huỷ diệt gần như tự sát của tiểu đoàn "đẹp" trên con đường số 4. Việc thanh toán này - kết quả của quá nhiều dũng cảm và độ lượng - một trong những sĩ quan đội lính dù BCCP số 3 sau này mô tả:

- Tiểu đoàn đóng quân đã nhiều tháng trong rừng vùng Sầm Nưa sát Lào, rất xa đường số 4 và biên giới. Ở đấy cũng rất khó khăn: chỉ còn lại hơn một nửa, 280 người đã rất mệt mỏi. Sau khi hết hạn và kiệt sức vì những chuyến đi ở Đông Dương, giữa rừng núi và quân Việt, chúng tôi chỉ chờ một mệnh lệnh: lên tàu ở Hải Phòng. Thay vào đó chúng tôi nhận một lệnh khác - hành quân nhanh trở lại Na Sầm và Hà Nội. Ở đây chúng tôi biết sẽ được thả dù xuống Thất Khê. Dĩ nhiên chúng tôi tự hào đi cứu bạn, những đồng đội bị săn đuổi trên đường số 4 nhưng chúng tôi cũng tự hỏi: tại sao người ta chọn đi làm nhiệm vụ khó khăn như thế một tiểu đoàn thiếu thốn, kiệt lực như chúng tôi? Hơn nữa ở Hà Nội chẳng có gì sẵn sàng, thậm chí không có dù tốt. Cuối cùng người ta cũng tìm ra dù nhưng thật bi đát: ẩm ướt, bẩn, cả không xếp gọn nữa phải xếp lại vội vàng. Kết quả là lúc được "thả xuống" vào năm giờ chiều, có hai dù rơi thẳng - dấu hiệu xấu ngay từ đầu. Chúng tôi chôn ngay hai xác người bị nạn.

Ở Thất Khê, không khí ghê rợn. Trưởng khu đồn trú viết chúc thư và tìm một phi công Morane để uỷ thác. Khắp nơi dấy lên nỗi "lo sợ", không có tin gì về các đoàn quân Lepage và Charton, chỉ biết là "hỏng hết rồi". Người ta không chậm lại ở lòng chảo Thất Khê đầy tàn tích đủ loại thất bại. Chúng tôi leo lên một ngọn núi theo hướng Đông Khê, cắm lại để tiếp nhận những người trốn thoát, cả ngày không có gì. Trong đêm chúng tôi được lệnh "rút quân" rồi bố trí trên con đường số 4, phía trước Thất Khê mấy cây số, ở đây bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Những người đầu tiên chạy khỏi các đoàn Charton và Lepage đến với chúng tôi, Jeanpierre và khoảng ba chục lê dương, mấy trăm lính Maroc.

Tất cả những người "tìm được" ấy được đưa dần xuống Thất Khê. Ở đây, người ta chuẩn bị di tản. Constans từ Lạng Sơn ra chỉ thị: "Phá hủy ít nhất để không tạo cảm giác rút lui, không báo động đến người Việt như trường hợp Cao Bằng". Ở Thất Khê nỗi lo lắng bao trùm khắp nơi. Việc đầu tiên là phải bố trí đoàn quân rút chạy như thế nào, thứ tự sắp xếp các đơn vị ra sao. Các sĩ quan cao cấp tranh cãi trong nhiều giờ.

Bi kịch là trước hết phải vượt qua sông Kỳ Cùng, cầu đã bị phá sập, chỉ còn dựa vào mấy con thuyền có mái chèo để đưa hết đám đông hỗn tạp quân lính và dân thường này. Sau nhiều tranh cãi người ta bố trí ưu tiên qua sông: đội quân Lê dương đi "mở đầu", chỉ huy, đội lính dù BCCP số 3, bảy trăm xạ thủ và ta-bo của các đoàn quân Charton và Lepage rồi các đại đội ngụy binh của Thất Khê; giữa các đội quân lính xen kẽ dân thường. Tóm lại, phía sau là những người yếu.

Cuộc hành quân bắt đầu lúc sáu giờ chiều và kéo dài suốt đêm. Hãy tưởng tượng cả khối lượng người như thế dồn lại trước con sông rộng khó nhìn trong đêm tối, những con thuyền qua lại rất chậm, chỉ nhận ra qua tiếng mái chèo. Những người lên thuyền mừng rỡ và những người còn phải chờ vô cùng lo lắng, tính từng giờ, phút cho đến lượt mình. Lúc đầu mọi việc suôn sẻ dù nó rất chậm so với dự kiến trong kế hoạch.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2019, 04:04:37 pm

Đội lính dù BCCP số 3 vẫn giữ lòng chảo Thất Khê, một lần nữa phải "rút đi" và đến bến sông rất muộn. Đội ta-bo phải chờ họ và để cho họ đi trước nhưng đã nhảy xuống thuyền, chẳng bận tâm đến ai, chỉ mong ra xa. Đội dù đến nơi thấy đã bị cướp đi lượt của mình. Trên bờ một trung uý kỵ binh cùng quân lính của mình, đang cố phá hủy những chiếc ôtô đại liên mà không đốt cháy. Cuộc chờ đợi kéo dài, nửa đêm, ba giờ sáng rồi năm giờ sáng. Mỗi chuyến qua sông càng kéo dài. Đến một lúc tất cả phải dừng lại. Trong sáu chiếc thuyền chỉ còn một chiếc hoạt động. Và khi đưa những lính ta-bo cuối cùng sang bên kia nó cũng hỏng nốt. Không còn thuyền cho lính dù.

Một số lính dù bơi qua sông, đưa về sáu chiếc thuyền lính Maroc bỏ lại. Sau một tiếng đồng hồ cố gắng chèo, toàn tiểu đoàn an toàn ở bờ bên kia. Vừa đúng lúc vì quân Việt bắt đầu bắn như tưới đạn.

Ban ngày đoàn quân bao la và khốn khổ bước đi, theo hướng Na Sầm và Lạng Sơn. Một cuộc chạy đua tốc độ - chúng tôi trên đường, quân Việt trên núi. Vượt lên trước, chúng tôi biết chỗ nguy hiểm là một khoảng đất bằng phía cuối là ngách núi. Vào đấy thấy có một số ta-bo, những người của trung đội cuối cùng. Họ nói:

"Đoàn quân vừa bị cắt làm hai. Chúng tôi đang ở giữa thung lũng thì bỗng từ trên núi đại liên xả đạn xuống đường thành một tấm màn lửa. Những người phía bên kia, bộ phận lớn của đoàn, hàng nghìn người, chạy thoát được. Chúng tôi bị kẹt lại."

Đội dù BCCP số 3 nói ngay: "Chỉ có một giải pháp. Chúng ta gần bốn trăm người, cả tiểu đoàn cần lao tới, phá vỡ điểm chốt quân Việt."

Chín giờ sáng, tiểu đoàn đi vào ngách núi. Thật ấn tượng - một bên là vực sâu của sông Kỳ Cùng, bên kia là thành núi dốc. Đại đội thứ nhất vừa tiến lên vài trăm mét thì lưới đạn chụp xuống. Mọi người nhảy vội xuống các hố, không làm sao "lao tới" được. Trên cao có hai bốt Pháp, số 41 Đông và 41 Tây khống chế con đường. Đội quân đồn trú đã bỏ chạy, quân Việt xông vào, đặt đại liên ở đấy, họ chỉ cần lẫy cò súng là làm cho con đường số 4 trở thành một địa ngục. Đội dù BCCP số 3 rút về khoảng đất bằng với những người bị thương. Không có vấn đề tấn công để vượt qua, trên các điểm cao ít nhất có hai tiểu đoàn Việt với vũ khí hạng nặng. Phải cử một phân đội đi trong núi tìm một con đường mòn.

Năm giờ chiều, quân Việt tiến lại gần. Đội dù băng bó cho những người bị thương, đặt họ nằm cẩn thận trên bờ đường - bỏ họ lại cho người Việt rồi đi sâu vào rừng.

Chuyến đi trong đêm không người hướng dẫn, không bản đồ, đoàn quân đi vòng quanh một rừng tre nứa. Mờ sáng họ tìm một con đường mòn khác, đi cho đến chiều, đến một vòm núi đá không lối ra. Tuy vậy gần đấy có một bốt. Đài bắt được một mệnh lệnh cho bốt ấy: "Các ông chờ đội dù BCCP số 3 cho đến nửa đêm; nếu lúc đó họ không đến thì các ông cứ đi". Nửa đêm, họ nghe tiếng xe nổ máy ra đi.

Suốt đêm cả tiểu đoàn ở trên sườn núi, lính ngủ từng nhóm chỗ này chỗ kia. Hôm sau đến mười một giờ sáng họ mới tìm được một lối ra khỏi vực sâu. Lúc đó một chiếc máy bay trên đầu họ, ra hiệu và thả một gói những bức không ảnh và lời nhắn tin: "Các ông theo con đường ấy và đêm nay có mặt ở Na Sầm trước ba giờ sáng".
Mọi người lấy lại can đảm, theo đường núi, bị một thung lũng và một con đường cắt ngang. Trong thung lũng, con đường, loại đường nhỏ đi về hướng bắc, hướng Trung Quốc, qua một con suối bằng chiếc cầu; Đoàn quân khôn khéo tới ẩn mình dưới vòm cầu. Tiếu đội đi đầu vừa vào tới thì quân Việt xuất hiện mọi phía. Trong mấy phút tiểu đoàn tan tác, bị cắt thành phân đội mà quân Việt lần lượt tiêu diệt hết. Một số người vượt qua đường bị đuổi theo giết chết. Một bộ phận của tiểu đoàn bỏ con đường lao vào rừng; một toán đi suốt đêm nhưng lần nào cũng gặp lại con đường, trước những người Việt dàn ba, bốn hoặc năm trung đoàn dọc theo đường. Cả đội dù BCCP số 3 còn lại bốn mươi người trong tư thế chiến đấu rồi hai mươi, rồi chẳng gì nữa - đúng còn mấy người đơn độc.

Một người trốn thoát đi về Đồng Đăng. Dân chúng xuất hiện vung mã tấu. Một người nhảy lên lưng anh ta đánh đập. Một lính dù khác gặp một đứa trẻ chỉ cho anh con đường dẫn đến một toán quân Việt. Một số lính dù đến được Na Sầm, gặp quân Việt trên một chiếc cầu bèn bắn chết. Họ đi tới cổng thành - nhưng ở đây cũng quân Việt và lần này họ không thể bắn chết mà phải hàng. Thế nhưng mấy người lính dù vượt quá Na Sầm, gần đến đích. Mưa to, họ bị kẹt trước một ngọn thác - quân Việt đến nhặt họ. Cuối cùng trong toàn đội quân dù BCCP số 3 chỉ năm người đến được Lạng Sơn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Chín, 2019, 09:01:45 pm

Trọng lượng cao cả của Lạng Sơn

Về những thảm bại ấy Đông Dương không biết gì. Họ được tin thái độ sửng sốt, và sau đó chuyển sang hốt hoảng. Từ sửng sốt đến hốt hoảng chỉ trong mấy tiếng đồng hồ. Bị tác động nhiều nhất là Đội quân viễn chinh và trong đó, tất cả những người cao cấp nhất, toàn Bộ chỉ huy. Ở những người lính như một luật lệ, tin tưởng quá nhiều rồi bị dồn dập vì biến cố, thái quá trong những thái quá trái ngược nhau, trong sợ hãi, hèn nhát. Lúc ấy lộ ra, như một căn bệnh của Đội quân viễn chinh - tư tưởng buông xuôi. Từ đấy trong nhiều tuần lễ là một cuộc trốn chạy, với lời các tướng: "Hãy ra đi trước khi đã quá chậm". Và khắp nơi người ta cũng nghe dự báo đúng hoặc sai: "Quân Việt tiến đến gần". Điều đó trong các thông tư gọi là "di tản" hoặc "thu hẹp lại".

Tình hình đúng là nghiêm trọng. Ngày 9 tháng mười, sau những trận tiêu diệt trên đường số 4, biên giới mở và Hà Nội sẽ bị đe dọa trong mấy tuần tới. Chống lại quân đội ông Giáp, từ Trung Quốc và từ rừng ra, người Pháp thậm chí không có những đoàn quân chiến đấu; một ít bộ phận xung kích đã có vừa bị tiêu diệt và tất cả phần còn lại không dùng được vào "trận đánh lớn" rải rác hầu khắp Đông Dương trong vô số đồn bốt.

Điều tệ hại là sự thất bại về tâm lý. Lúc đầu người ta bắt đầu trốn chạy hợp lý như ở Thất Khê. Nhưng việc bỏ chạy có thành một việc tự có, không dừng lại, một cách tự động không?

Trước tiên, trong những ngày đen tối trên đường 4 mà sự thất bại không tưởng tượng được đặt ra như một sự thật, có một quyết định. Bộ chỉ huy phải dứt khoát: chống đỡ hoặc rút khỏi Lạng Sơn, cột trụ của biên giới và là cửa ngõ xuống đồng bằng, vốn đã rất tai hại trong lịch sử quân sự Pháp ở Đông Dương? Nếu muốn chiến đấu vì Lạng Sơn, phải có một cố gắng rất lớn vì ở đây chỉ có sáu tiểu đoàn thử nghiệm và phục vụ. Phải mạo hiểm ghê gớm, rút từ vùng châu thổ những lực lượng bổ sung lớn; nhưng ở vùng châu thổ người ta cũng sợ, đang sử dụng những gì hiện có để đối phó với việc tấn công Hà Nội.

Thật khó khăn nguy hiểm. Bỏ Lạng Sơn là mất mặt, một thảm họa cả về quân sự, chiến lược, chính trị và tinh thần. Nhưng giữ Lạng Sơn có được không, có đi vào một thảm họa toàn diện hơn không? Dù sao Bộ chỉ huy vẫn câm lặng- Tướng Carpentier không đưa ra một lời tuyên bố nào cho các đội quân, thậm chí không đi gặp những người bị thảm bại. Trong văn phòng ở Sài Gòn, ông điện về Paris để "thanh minh" - trình bày như không có gì quy cho ông được.

Bảo vệ hoặc rút khỏi Lạng Sơn? Để biết, phải đến đấy "xem sao" và không ngờ tôi được phép. Ngày 14 tháng mười, một chiếc Dakota đưa tôi đến. Từ chiếc máy bay đang hạ cánh tôi nhận ra cảnh đẹp hùng vĩ! Mặt trời chiếu lên những dãy núi đá trọc bao bọc thị xã trong một lòng chảo rộng. Những đồn bốt cắm trên những điểm cao ấy, đơn giản và sạch sẽ, bình lặng như những đồ chơi - bảo vệ Lạng Sơn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Chín, 2019, 09:02:57 pm

Máy bay đỗ xuống. Từ không trung tôi chỉ nhận thấy toàn cảnh bình lặng. Bây giờ vẫn yên tĩnh, còn hơn thế tuy chiến tranh đã tới gần cổ họng. Tất cả ngưng đọng như chết, ngừng lại hoàn toàn. Các chiến binh tổ chức trong trống vắng, không có dân cư, những người không theo không chống, ẩn mình chờ đợi một bên thắng. Sự hiện diện duy nhất là những người "hợp tác", quá gắn bó với người Pháp, rất sợ phía bên kia. Và có mặt để tổ chức cuộc di tản từ thị xã nguyên vẹn như là một việc chảy máu nhỏ.

Đấy là đám đông đi ra sân bay, có một cầu hàng không cho dân chúng Lạng Sơn muốn di tản. Nhàm chán và đáng thương. Những người thường gặp, các phụ nữ mang thai, các bà mẹ trẻ tập trung đám con cái ở trường, các bà nhai trầu khạc nhổ, những cô bé cười cợt và gần như khiêu khích. Cũng có các ông mực thước vốn là những người hầu và những ông già đạo mạo nguyên phiên dịch hoặc chỉ điểm. Giữa đám đông da vàng có những giáo sĩ râu dài, già như mọi người, trong đó có cha Bardol bốn mươi năm bỏ đạo ở trong những vùng Thất Khê và Đông Khê. Tất cả những ai đã ăn nằm với nước Pháp, phục vụ nước Pháp đều ở đấy, chờ đến lượt chuyển đi. Một hàng lính lê dương bao giữ lớp người này: mỗi lần có máy bay đỗ xuống, hoàn toàn thờ ơ, họ đưa món hàng người tiến lại, món hàng cũng hình như thờ ơ.

Cách đấy một khoảng, một người nhỏ thó bận quân phục đúng một mình, đơn độc: tướng Alessandri. Ông vừa đến truyền mệnh lệnh cho đại tá Constans - lại sắp ra đi. Ông nhìn tôi mà như không thấy. Viên tướng khóc từ đôi mắt khô và đôi môi mỏng không lộ ra. Đôi mắt hơi đỏ. Ông khóc vì Bắc Kỳ và những người lính của ông. Con người này có lẽ quá tự phụ nhưng không chịu trách nhiệm về sự thất bại, thật căng thẳng. Ông cố chịu đựng nhưng như bị sét đánh. Tôi chưa bao giờ thấy một hình ảnh chiến bại như thế.

Một chiếc jeep đưa tôi vào thị xã, một hoang mạc. Chỉ còn là một cảnh trang trí, những căn nhà đều đặn, những tòa nhà đẹp, đường phố rộng, trật tự của chủ nghĩa thực dân. Trống vắng hoàn toàn. Người ta chỉ nghe tiếng máy bay trên bầu trời, những chiếc Dakota của cầu hàng không và máy bay "thám thính" nhỏ lượn trên rừng rậm.

Trong những khu vực dân địa phương không chỉ tất cả đóng kín mà hàng cây số những cọc, phiến gỗ, thanh chắn tăng cường cho hàng rào chung. Những gì tồn tại, đang sống nấp sau càng nhiều gỗ càng tốt, chuẩn bị đóng gói trước những sự kiện không tránh khỏi. Phía trong tất cả những cái đó, đóng kín, là dân chúng những người ở lại, sẵn sàng theo Việt Minh. Xe tôi tiếp tục lăn bánh rất lâu. Không có quân lính; đôi khi vài chiếc tăng nổi lên ở các ngã tư đường, mấy người lính lê dương xây ụ chắn, mấy lính Maroc nấu ăn dưới vải bạt. Tôi hình dung các toán quân được bố trí trên những ngọn núi quanh vùng. Thực ra không có gì cụ thể chỉ rõ có chiến tranh, Người ta không nghe tiếng đánh nhau, tuy đang xẩy ra cách đấy vài chục cây số, ở Đồng Đăng cửa ngõ Trung Quốc. Thế nhưng việc thiếu vắng tất cả ấy có lẽ là cường độ tối đa. Tôi đến một trung tâm chỉ huy của quân lê dương. Ở đây những sĩ quan nhẵn nhụi gân guốc, đẹp đẽ người ta gọi là "những người đàn ông". Họ từ Thất Khê đến và tôi nhận ra dấu vết để lại của cái không đo lường, nói lên được không chỉ là sự bại trận. Những lính lê dương này sợ tất cả, như đứng trước một điều bí mật đáng sợ. Họ nói về người Việt họ với giọng nói của những người bị ám ảnh: "Họ sẽ tấn công. Họ đang đứng trước Lạng Sơn. Vào một giờ nào đấy, cuộc tấn công có thể bắt đầu, họ đến rất nhanh, rất đông, như không có gì ngăn họ lại được". Và tuy không muốn, lẫn trong nỗi sợ hãi ấy có sự thán phục. Những sĩ quan lê dương khốn khổ! Họ không chỉ bị người Việt săn đuổi mà bị cả chính họ săn đuổi. Họ nhục nhã vì nỗi lo sợ và sự thán phục ấy. Đại uý của họ nói với tôi: "Thà để bị giết còn hơn rút lui nữa. Làm sao tôi tha thứ cho mình được vì đã lùi trước quân Việt và trông thấy quân Pháp rút lui?" Đối với những người bình thường và không hiểu, chỉ có một giải pháp hy sinh. Và viên đại uý lại nói: "Chúng tôi chỉ còn việc làm bổn phận theo truyền thống quân đội Pháp, chiến đấu trong danh dự cho đến người cuối cùng. Tôi muốn một thất bại mới hơn một cuộc rút lui mới".

Chúng tôi nói chuyện lâu và tôi luôn thấy ở họ sự ám ảnh của Việt Minh. Họ như bị đập nát bởi những gì Việt Minh có thể làm để đạt mục đích, bởi sự quyết liệt của tổ chức.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Chín, 2019, 09:03:33 pm

Cuối cùng tôi chia tay với những người lê dương này với những gì họ trình bày về quyết định thất vọng, nghi ngờ những vấn đề họ không biết trả lời. Thành phố chết chìm trong cái chết của ban đêm. Một ụ súng Pháp bắn mấy quả đạn cối vào đỉnh núi xa; trong bầu trời tối đen người ta còn phân biệt được bóng một chiếc Morane phía chân trời. Bốn bề im lặng. Nhưng đến nửa đêm, trên chiếc cầu sắt lớn bắc qua sông Kỳ Cùng đèn pha một đoàn xe chọc thủng bóng tối, cứ mười mét có một mảng sáng trên nhiều cây số. Những đoàn GMC ấy từ Tiên Yên đến theo đường số 4 như đã ở đấy chuyên chở khí cụ. Đấy là dấu hiệu duy nhất tôi cảm nhận được những ý định của Bộ chỉ huy về Lạng Sơn, một dấu hiệu bỏ rơi mong manh.

Hôm sau tôi được đại tá Constans tiếp. Ông có khuôn mặt một người lính đối mặt với bi kịch. Nỗi buồn về những binh sĩ chết được cách giải quyết của người chỉ huy bù vào: kết quả là một tình trạng nghiêm trọng cao cả, hơi bị che đậy, hơi buồn, rất thấm đượm vẻ đẹp hiện đại của người anh hùng trong chiến tranh, rất "nhân đạo". Vừa xót xa vừa với ngọn lửa của chủ nghĩa anh hùng, đại tá Constans tâm sự ông sẽ bảo vệ Lạng Sơn. Ông nêu những lý lẽ, những lời giải thích rõ ràng và cụ thể. Ông cũng nói về kỹ thuật: tất cả những đỉnh núi xung quanh đều trơ trụi, không có rừng nên quân Việt tấn công bị trống trải. "Khi các sư đoàn ông Giáp xông tới, tôi sẽ đập tan họ bằng trọng pháo và máy bay tiêm kích. Dù mọi liên lạc với Bắc Kỳ bị cắt đứt, tôi sẽ giữ nhờ cầu hàng không. Tôi có những khối lượng lớn về thực phẩm và đạn dược, có thể tiến hành chiến tranh ở đây trong nhiều tháng nhiều năm."

Tôi ở chỗ đại tá ra, khi vào trong thị xã không trông thấy dân cư, tôi nghe như có một bản nhạc ma, đẹp và hùng tráng. Trên quảng trường đội kèn chơi một hòa tấu ngày chủ nhật. Lính lê dương mặc lễ phục mũ kê-pi, cầu vai và thắt lưng rộng, chơi như thường lệ hoàn toàn coi thường những việc đột xuất; khán giả chỉ mấy chú bé không biết từ đâu ra. Nhạc trưởng tung cao chiếc gậy điều khiển. Buổi tấu nhạc ngày chủ nhật này kéo dài đến giữa trưa. Chuông nhà thờ ngân vang, lính lê dương bước đi, theo nhịp chân và điệu nhạc, vẫn luôn trong lễ tiết lớn.

Tôi rời Lạng Sơn. cảnh trí sẵn sàng cho bi kịch lớn. Viên đại tá và buổi tấu nhạc hầu như làm tôi tin chắc thị xã sẽ được bảo vệ cho đến người cuối cùng. Ở sân bay vẫn là cuộc di tản và sự khổ cực. Một phụ nữ trẻ Việt Nam ôm trên tay một em bé rất trắng, đấy là vợ một sĩ quan Pháp vừa bị giết. Một người đàn bà có bốn đứa con lai bám theo và một ông bếp già giữ trong tay chiếc mũ lính thuộc địa. Tôi lên chiếc Dakota cùng với họ.

Chiếc máy bay cất cánh. Tôi ngắm nhìn thị xã nguyên vẹn ấy chẳng bao lâu chắc sẽ còn là lửa và đổ nát. Chúng tôi bay trên những ngọn núi và một thung lũng rất ấn tượng mà phi công đã gọi là thung lũng Việt Minh - bên dưới Việt Minh bắn đại liên vào máy bay. Cuối cùng trở lại Hà Nội. Tôi sẽ phát hiện ở Hà Nội những gì đây?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Chín, 2019, 09:04:57 pm

Vẻ huy hoàng của bại trận

Mấy giờ sau điều tôi thấy ở Hà Nội là thông báo Lạng Sơn đang trên đường di tản. Như vậy là đại tá Constans đã nói dối tôi vì quyết định đã có khi tôi đang ở đấy. Sau này ông bảo buộc phải lừa tôi. Dù sao ông cũng đã rất thành công trong màn kịch của mình. Lúc ấy tôi mới hiểu từ nay không nên tin vào các nhà quân sự vì bổn phận của họ thường phải nói trái với sự thật.Và họ trở nên thành thạo.

Tôi thấy cuộc rút lui của Lạng Sơn giữa những vẻ huy hoàng chính thức - vẻ huy hoàng của bại trận! Đấy là đợt đi kiểm tra của những nhân vật lớn chạy đến tai họa. Có Juin và Letourneau - một gương mặt bự quân sự và một dân sự, luôn luôn đi cùng nhau, ghép đôi - vội vã từ Pháp sang. Có Pignon và Carpentier, tất cả những "văn phòng" dân sự và quân sự, tất cả các loại người bắt tay nhau, thì thầm với nhau có vẻ bí mật, không ngớt tập hợp trong các buổi thỏa thuận, trong các buổi tiệc. Và tôi nhận thấy trong không khí của những "ông lớn" ấy, của lời nói và những nghi lễ của họ, tất cả giảm cường độ, tất cả mất tiếng vang, trở lại hầu như bình thường. Thảm họa trên đường 4 và những gì tiếp theo, những cuộc rút bỏ chỉ còn là những "biến cố”.

Trong lúc chờ đợi những đội quân Lạng Sơn về đến nơi, trước hết người ta đi gặp những người bại trận, sống sót từ vùng núi đá Đông Khê, hiện ở bãi biển Đồ Sơn cũ. Có ngay những người bồng súng chào, những lính Maroc nét mặt nhợt nhạt. Họ có vẻ từ bên kia thế giới trở về, thực tế là những người trốn thoát khỏi Cao Bằng. Juin và Letourneau làm hết những gì họ có thể - gắn huân chương, ôm hôn, có những lời tốt đẹp, những nụ cười vô cùng thân mật. Nhưng như thế hình như chưa đủ, thật mỉa mai! Không có mức độ chung giữa những trao tặng, những lời khen với những đau khổ phải chịu đựng. Những người lính Maroc theo kỷ luật đưa má và ngực ra cho những huy hiệu và ôm hôn, nhưng còn lâu họ mới hiểu! Họ đang mờ ảo về những nỗi sợ hãi của mình. Tôi tìm hiểu làm cách nào họ "vượt qua", thoát được, nhưng họ không biết rõ. Những câu chuyện của họ rời rạc, từng mẩu, lẫn lộn buồn chán - họ bị tấn công, bắn lại, vượt qua những cuộc phục kích, trèo lên núi, đi liên miên và cuối cùng đến đây. Những gì tôi rút ra được là những lời này của một giáo trưởng: "Tôi chỉ nhớ đang nấp sau một tảng đá cùng một viên cai, cũng người hồi giáo. Việt Minh ở sau những tảng đá khác và chúng tôi bắn nhau hàng giờ. Viên cai ngã xuống chết ngay và tôi lao vào rừng, cứ đi mãi, không biết làm sao tôi tới đây được". Các sĩ quan Pháp của đội ta-bo cũng có mặt, giải thích cho tôi: "Những người này vượt qua được vì họ đi phía trước và bộ phận lớn quân phục kích xông lên phía sau họ. Họ đi không nghỉ, chịu đựng đủ mọi thứ; đấy cũng là những thú rừng, các giác quan căng lên, cả toàn thân làm việc có ý thức hoặc không có ý thức để sống sót.

Tôi đi theo đoàn kiểm tra, lên máy bay. Lần này đi xem những gì đưa đến thất bại và phát hiện "lực lượng" Việt Minh, đi xem Lạng Sơn bị bỏ rơi. Đi từ Hải Phòng và biển, lúc đầu bay trên rừng những tảng đá chìm - vịnh Hạ Long. Rồi trên địa bàn những núi sừng sững, ngược lên từ Tiên Yên trên con đường số 4 mỏng manh đến Lạng Sơn. Bên dưới chỉ là cảnh vắng lặng thê thảm của cuộc chiến tranh Đông Dương, bao la rừng cây và núi đầy dã thú. Không một dấu vết người Pháp ngay Việt Minh trên con đường trắng này. Uốn khúc trơ trọi trong hoang vắng. Tuy thế đoạn này vẫn còn những bốt cắm cách đều nhau mà Đội quân viễn chinh vẫn giữ về nguyên tắc. Tôi nhận ra Đình Lập, Lộc Bình nhưng đều có vẻ trống không, những căn nhà tồi tàn người ta chạy bỏ lại. Phải chăng thảm họa đã lan đến đây? Cũng không có những đoàn quân trên đường. Còn dọc theo con đường số 4 mấy phút nữa rồi máy bay lấy độ cao, phía trên Lạng Sơn, một Lạng Sơn phải là anh hùng và hy sinh, vẫn ở đây nhưng ghê rợn, vừa Việt Minh vừa nguyên vẹn. Thị xã xuất hiện lại trước mắt tôi một lần nữa, trải rộng đầy đủ và với đường băng dài, nhà thờ. những ngôi nhà công sở đẹp, trại lính mà người ta gọi là thành trì, với tất cả dấu vết của nước Pháp. Nhìn bề ngoài không có gì thay đổi. Tôi phải chăm chú nhìn lâu cảnh đẹp đô thị này mới nhận ra một số nét của các sự kiện - những bốt vành đai trên các điếm cao hơi bị hư hỏng, một vòm cầu trên sông Kỳ Cùng sập đổ, vài ba đám khói bốc lên, chỗ này chỗ kia. Tôi thấy thị xã nguyên vẹn, đúng hơn là tấm vỏ thị xã nguyên vẹn vì bên trong chẳng có gì. Người ta không nhận ra dấu hiệu nào của sự sống. Tôi chẳng thấy dân, cờ, quân lính, như chỉ còn lại đá và loài người đã biến mất. Thói quen của quân Việt là không vào đông người ngay, sợ bị dội bom. Họ ở trong rừng, xung quanh mồi của họ nhưng ban đêm họ vào Lạng Sơn, tích cực làm mọi việc. Có một lúc, máy bay chúng tôi tản ra, những chiếc tiêm kích đến và bổ nhào xuống. Kết quả là một số vụ nổ nhưng thật nhỏ bé trên xác chết khổng lồ của thị xã! Số phận cuối cùng của Lạng Sơn là như vậy, là thừa, chưa phục vụ cho người Việt, chưa bị người Pháp phá hoại, vẫn ở đấy như niềm kiêu hãnh của cuộc chiến tranh này.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Chín, 2019, 09:05:51 pm

Một ngày khác, phái đoàn Juin-Letourneau gồm một đoàn xe jeeps dài, đi ngay sau cơn bão. Xe chạy trên đường đê, một vạch đất trong cảnh nước bao la mặt ruộng sau lụt. Trong vùng nông thôn đông dân này chỉ thấy một số dân quê run rẩy trong những chiếc áo tơi lá. Đoàn đi qua các thành phố, các làng, đã bị phá hủy từ nhiều năm. Con đường càng gập ghềnh, không ngớt bị đào đắp và sửa chữa tạm. Qua một chiếc cầu hư hỏng trên sông Cầu ngập nước và cuối cùng là phủ Lạng Thương.

Cách Hà Nội bốn mươi cây số về phía bắc, là những đổ nát, chỉ nhà thờ còn nguyên vẹn. Lúc ấy về phía ngược lại, cũng trên con đường ấy, những chiếc xe lê dương đồ sộ. Họ dừng lại, dài nhiều cây số, trong trật tự và sức mạnh. Thế nhưng đấy là đoàn quân di tản từ Lạng Sơn. Cuộc hành quân được bí mật bố trí trong sáu ngày, từ 12 đến 18 tháng mười, nhờ vào những đoàn xe lớn, lần lượt đưa đi bộ phận hậu cần, công binh, tài liệu. Sau đó là những ta-bo và lính Maroc. Rồi trong đêm 17 sáng 18, chính đội quân đồn trú lên đường. Lính lê dương và các đội quân đi bộ, ban đêm trên đường số 4 ẩn mình trong bóng tối và sương mù. Họ phải đi ba mươi cây số như chạy, cảnh giác với phục kích, cho đến bốt Lộc Bình. Ở đây có hai toán vận chuyển của Tiên Yên chờ họ đưa đến phủ Lạng Thương này không có dân và đầy các nhân vật. Đội cơ động duy nhất ở Đông Dương GMNA Bắc Phi của đại tá Massiez, đến đón họ tại Chu, lối vào núi. Tất cả tiến triển không có một đụng độ nào.

Ở phủ Lạng Thương là những cuộc gặp lại nhau. Đại tá Constans nhảy từ một chiếc jeep xuống, rạng rỡ, quân phục chiến đấu, bắt tay mọi phía. Có vẻ là một người chiến thắng. Trong lúc các đội quân giải khát xung quanh, đại tá được tiếp trang trọng trong nhà thờ biến thành ban tham mưu nhỏ. Một bản đồ lớn treo trước bàn thờ. Và ở đây, trước những nhân vật lớn, Constans hùng hậu giải thích cuộc hành quân của ông - việc nhanh chóng quyết định di tản Lạng Sơn như thế nào, việc bất ngờ hành quân đã đánh lạc hướng kế hoạch quân Việt, đã cứu nhiều nghìn con người ra sao. Xa hơn, phân tán thành nhóm nhỏ ở các góc nhà thờ là những nhân vật ít quan trọng hơn, các đại tá, nhà báo, nhân viên văn phòng. Ông Letourneau, các viên chức ông Pignon mang theo - chờ cuộc hội nghị bí mật rất lâu mới kết thúc. Người ta ngạc nhiên nhận thấy tướng Alessandri không được tham dự những cuộc trao đổi quan trọng ấy. Ông cũng có mặt ở phủ Lạng Thương, không đến với phái đoàn chính thức mà bay trên một chiếc Morane theo dõi, chỉ đạo các đoàn quân đi. Để đến phủ Lạng Thương máy bay của ông đậu xuống một thửa ruộng nhỏ, trong những điều kiện nguy hiểm nhất. Ông ra khỏi buồng máy gầy yếu, tái xanh, suy sụp, với bộ râu mười ngày không cạo. Nhưng vừa đặt chân xuống đất, ông là người không mong muốn, người mà người ta không muốn nghe, muốn nói. Ông bị loại trừ khỏi cuộc hội nghị lớn không dứt trong nhà thờ. Ông bực tức, muốn chống lại nhưng một sĩ quan thân cận của Carpentier rỉ tai ông:

- Người ta tránh hỏi ông.

- Nhưng tôi chỉ huy ở Bắc Kỳ.

- Ông cứ giữ quyền chỉ huy của ông. Nhưng lúc này người ta không muốn ông nói.

Tuy thế trong quá trình hội nghị bí mật diễn ra trong nhà thờ, những gương mặt "lớn" tối dần lại. Constans nói trong sự trống không mỗi lúc càng không được tán thành và căm ghét. Ngoài Alessandri phản bác ông ta, ở đây tập hợp khoảng năm mươi nhà quân sự quan trọng của Đông Dương và của Pháp, với những ngôi sao và lon, mỉm cười với nhau, chào nhau. Mỗi lúc họ càng bất động trong sự im lặng khô khan, chán chường. Juin tỏ ra cau có. Sau Constans, Carpentier, giải thích vì sao việc di tản Lạng Sơn rất cần thiết và cấp tốc. Những sĩ quan khác lần lượt trình bày. Juin không nói gì nhưng nét mặt mỗi lúc càng thiếu thiện cảm. Letourneau vẻ bí hiểm, khuôn mặt mỗi lúc càng thể hiện sự nghiêm khắc của một quyền lực dân sự bị lăng nhục. Mọi dấu vết thỏa mãn, hài lòng biến mất, không riêng ở những "ông lớn" mà những ai ở phủ Lạng Thương, trong các đội quân, các sĩ quan và binh lính. Bỗng nhiên như trong lòng tất cả đều thắt lại - như làn sương hối tiếc lan khắp Đội viễn chinh.

Carpentier còn có Constans can đảm thanh minh, chống chế tốt. Nhưng sau những gì họ lộ rõ, bây giờ mọi người biết sự di tản Lạng Sơn như đã làm, từ nay là nỗi "xấu hổ của quân đội Pháp - dù chỉ là nỗi xấu hổ ở Đông Dương mà họ đã chiến đấu dũng cảm như thế, vô vọng như thế trong bao năm vì một lý do không rõ ràng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Chín, 2019, 09:21:35 pm

Nỗi xấu hổ và bùn nhơ

Sau một đợt an ủi ngắn Đội quân viễn chinh lâm vào suy sụp hoàn toàn, tệ hại hơn bao giờ hết, với cảm giác không tha thứ được vì hèn nhát. Chỉ còn hối hận và xấu hổ. Vì những tin tức không ngớt đưa tới về "vụ việc Lạng Sơn". Người ta biết những gì đã nói, trình bày, chứng minh để thanh minh việc trốn chạy, nhằm tránh cuộc bị tàn sát, là sai. Tất cả chỉ là ảo ảnh từ sợ hãi, lo lắng.

Một sĩ quan nói:

- Chưa bao giờ có việc như thế xảy ra trong lịch sử quân đội chúng ta. Trong một đêm, nhiều nghìn lính Pháp, và là trong số tốt nhất, rời bỏ trại, theo lệnh, chẳng đối mặt với gì cả. Trong mấy tiếng đồng hồ, họ "bỏ trống" các chỗ, chạy khỏi Lạng Sơn và để lại một khối vật liệu, một nguồn cung cấp không tưởng tượng được, đủ tiếp tế cho toàn thể Việt Minh trong nhiều tháng. Họ bỏ chạy như những bóng ma, không phá huỷ gì, sợ quân địch để ý; họ ra đi trong một cuộc trốn chạy có tổ chức, không bắn một phát súng, không phá đổ bất cứ thứ gì. Và việc làm đó chỉ với ý nghĩ duy nhất là các sư đoàn Giáp ở đấy, đang bao vây thị xã và sẽ tấn công. Thế là ban chỉ huy bị ám ảnh: phải đi nhanh, nhanh hơn nữa, không chiến đấu, bỏ lại tất cả, để không bị mắc vào "lưới". Nhưng, bây giờ người ta có chứng cứ, quân Việt còn ở gần Na Sầm, cách xa năm mươi cây số. Người ta đủ thì giờ chuẩn bị chống cự hoặc nếu những người chức quyền quyết định không đánh nhau ở Lạng Sơn có thể chuẩn bị một cuộc di tản đầy đủ, có hệ thống và xứng đáng, chỉ để lại cho ông Giáp một vỏ bọc thị xã.

Nỗi lo sợ quá đáng! Sau việc rút khỏi Lạng Sơn, phải còn nhiều tuần lễ nữa các sư đoàn ông Giáp mới vào đấy. Trong những ngày đầu cũng có vài bộ phận nhẹ len lỏi vào. Một trung uý kỵ binh trẻ kể lại:

- Một buổi chiều người ta bảo chúng tôi: "Tối nay mọi người ra đi". Tôi chỉ huy một tiểu đội xe đại liên. Mọi việc xảy ra nhanh đến nỗi chúng tôi không kịp nhận thực phẩm vừa hết. Tôi đi cuối đoàn cùng người của mình. Cách Lạng Sơn sáu mươi cây số tôi được lệnh ở lại đấy trông chừng. Trong hai ngày chúng tôi nhịn đói. Tôi bèn cử hai xe trở lại Lạng Sơn lấy một số thực phẩm trong các kho bao la bỏ lại. Người của tôi vào một thị xã ma, chẳng có gì xảy ra, không một bóng người, không một quân Việt. Giữa chỗ hoang vắng ấy họ chỉ lấy trong các kho hàng nghìn tấn khẩu phần ướp lạnh và trở lại không gặp người nào. Họ nói: "Chúng tôi không hiểu sao lại thế". Các bạn sĩ quan và tôi cũng không hiểu. Buồn cười nhất là hậu cần lại lấy đi những khẩu phần mà chúng tôi cử người đi tìm kiếm giữa tất cả những gì để lại cho quân Việt.

Lạng Sơn vậy là rút bỏ quá sớm. Nhưng vì sao có sự vội vã bỏ chạy và không phá huỷ gì. Tất cả do suy luận ở Cao Bằng, Charton và Lepage đã báo động quân Việt vì phá huỷ và sự ồn ào khi ra đi - được xem là lý do của thảm bại. Vậy là để thành công. Lạng Sơn phải áp dụng nguyên tắc ngược lại, phải là một sự biến mất, bốc hơi. Mệnh lệnh đưa ra nghiêm ngặt và đại tá Constans theo dõi việc áp dụng lệnh nghiêm ngặt ấy, phải làm sao để quân địch không đoán được cuộc hành quân, phải tuyệt đối không phá huỷ gì. Như vậy các sư đoàn ông Giáp sau đó tìm được ở Lạng Sơn những gì để ăn, mặc, chữa bệnh trong nhiều năm. Nghiêm trọng hơn rất nhiều là vấn đề đạn dược và vũ khí. Gần như tất cả những gì sau đó người Việt dùng bắn vào người Pháp là những gì người Pháp bỏ lại Lạng Sơn trong ám ảnh đe dọa lúc họ không bị đe dọa. Người Việt thu nhặt như quà tặng tuyệt vời 11.000 tấn đạn dược trong đó 10.000 tấn đạn cối 75 đúng lúc họ có súng ca-nông 85 mà đạn cối 105 và 155 ít có tác dụng hơn vì không có trọng pháo cỡ ấy - họ dùng để đặt mìn trên đường. Quân Việt cũng tìm được 4.000 súng tiểu liên mới, 600.000 lít xăng, tóm lại là những kho của khác thường của chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Chín, 2019, 09:22:26 pm

Sự thật, những áo quần, thực phẩm, thuốc men, đạn dược, vũ khí ấy phải phá huỷ do một "bộc phá nổ chậm" ngay sau khi đơn vị cuối cùng rút đi. Tất cả đã được chuẩn bị cẩn thận. Nhưng rồi không có gì bị phá hủy, không rõ vì sao. Hình như người ta để lại Lạng Sơn một tiểu đội công binh chịu trách nhiệm châm ngòi nổ theo lệnh do một sĩ quan tham mưu của Constans đưa tới. Lệnh ấy không tới, những người của công binh chờ mãi không dám tự động phá huỷ và cuối cùng bỏ đi, để lại nguyên vẹn.

Thế rồi những gì hàng không Pháp có ở Đông Dương, bao nhiêu máy bay đều dội bom xuống Lạng Sơn trong nhiều ngày, nhiều tuần. Những máy lạnh trong nhà Constans còn đầy champage và những giấy tờ mật của Phòng Nhì, Phòng Ba tan tác trong cống rãnh. Người ta muốn phá huỷ các kho dự trữ bỏ lại nhưng vô ích. Vì tất cả đã được đưa vào các hầm ngầm xây dựng công phu - có mười lăm mét cát và đất sét phủ trên đạn dược, trên những bình xăng, trên mọi thứ. Máy bay liên tục thả những tràng bom mà không có gì nổ hoặc cháy.

Sau khi mọi việc lộ ra tất cả thật thảm hại, những nỗi nhục nhã và hậu quả của việc rút quân, vấn đề được đặt ra không chối cãi được: ai là những người chịu trách nhiệm? Người ta nhận ra nỗi sợ hãi lan rộng trong Đội quân viễn chinh, gặm nhấm họ mãi, đến từ trên; nảy sinh từ cấp tướng.

Thực tế, để gỡ rối những sai phạm trong việc thê thảm này, phải trở lại trước đây mấy ngày, sau thất bại ở vùng núi đá vôi Đông Khê; người ta vẫn chưa biết sẽ làm gì với Lạng Sơn. Lúc ấy các tướng hốt hoảng làm hốt hoảng Chính phủ Paris, phủ Cao uỷ Sài Gòn và cả các đội quân, các sĩ quan và binh lính của họ. Trước hết chính Bộ chỉ huy "mất tinh thần" và đã làm tất cả "mất tinh thần".

Câu chuyện lạ lùng về sự bất lực ở tất cả các cấp, các bậc, khắp nơi! Trong những ngày nguy nan này phải xem lại và nghĩ lại tất cả, về nguyên tắc, do Paris giải quyết dứt điểm. Nhưng ở Paris không ai ngờ, không hiểu gì về những tai họa không dự kiến, không giải thích được, và những báo cáo của các ban tham mưu ngày càng đáng lo hơn. Từ khi các đoàn quân Charton, Lepage, tổng thống Cộng hòa, thủ tướng Bộ Chiến tranh, khắp nơi: "Phải di tản Lạng Sơn". Thế là không biết gì, sợ hãi, không chắc chắn về tất cả, Chính phủ ngần ngừ, thoái thác, trả lời lúc thì "cứ di tản" lúc thì "không di tản". Chính phủ khốn khổ! Trước hết họ không muốn mất thêm một tiểu đoàn nữa, ra lệnh cho Carpentier, con người khôn ngoan, thậm chí của chủ nghĩa thất bại, không nên mạo hiểm, không đưa ra một lực lượng mới nào, rút lui hơn là xung đột. Nhưng đồng thời các bộ trưởng đều bối rối, xấu hổ về những tai họa khó giải thích được với hội đồng bầu cử - và rồi đặt vấn đè không tiến hành những chi phí mới nhưng vẫn rất muốn Đội quân viễn chinh trả thù, mang lại một chiến thắng đẹp.

Trong mớ khó hiểu, mâu thuẫn ấy, cách giải quyết của Paris là cử sang tại chỗ hai "vị cấp cao" Juin và Letourneau để có những quyết định. Máy bay đến chậm nhưng vài giờ sẽ đến và chính họ lựa chọn cho Lạng Sơn - chiến đấu hoặc rút lui ít nhất cũng là dự kiến như thế. Nhưng điều đáng ngạc nhiên, tuyệt đối khác thường là trong tình trạng suy đồi Bộ chỉ huy còn sợ quân Việt hơn cả hai phái viên cao quý của Paris: trong đêm hoặc ngày phải chờ đợi họ là sự tàn sát Lạng Sơn, thanh toán đội quân thường trú, giết chết nhiều nghìn người Pháp; họ bèn tự ra lệnh tuỳ nghi di tản hay đúng hơn là di tản theo cách nào đó - rút lui cả đoàn xe tổ chức rất đúng kỹ thuật - tự bắt đầu theo lệnh mà không biết ai đã ra lệnh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Chín, 2019, 09:24:06 pm

Đêm trước khi chiếc máy bay bốn động cơ của các "vị cấp cao" hạ cánh xuống Sài Gòn, có một chiếc Dakota đỗ xuống sân bay: tướng Alessandri bước xuống mà không ai chờ đợi. Và là một tướng Alessandri trong giờ thất bại, suy sụp hoàn toàn. Con người Corse nhỏ bé cứng rắn, chói sáng đã rất tin chắc chiến thắng quân Việt, khống chế họ bỗng trở thành một người không còn nghị lực gì, là cái gì đó run rẩy trước ông Giáp và các sư đoàn Việt. Chính ông ở Hà Nội đã nhảy lên máy bay ra lệnh cho phi hành đoàn: "Đi Sài Gòn nhanh, hết sức nhanh". Vì ông vào đấy đúng lúc để kêu gào: "Đừng chậm thêm một giờ nào nữa ở Lạng Sơn không thì hỏng hết". Vừa đặt chân xuống Tân Sơn Nhất, Alessandri, đúng hơn là những gì còn lại ở ông, chiếc bóng, chạy vào lâu đài Norodom, chỗ Pignon - cuống cuồng báo tin, sợ hãi. Trong chốc lát người ta tập hợp những nhân vật dân sự và quân sự của Đông Dương, chèo kéo họ từ những nơi họ ăn uống, chơi bài, hút thuốc phiện hoặc làm bất cứ việc gì - họp Hội đồng Phòng thủ. Những người ấy đến nhà Carpentier đánh thức ông này dậy vì ông đã bình thản ngủ lúc chín giờ tối. Và rồi, trong đêm, bắt đầu một cuộc tranh cãi kịch tính. Alessandri nói: "Phải di tản Lạng Sơn ngay". Pignon và các nhà cai trị muốn lùi lại bốn mươi tám tiếng đồng hồ chờ Juin, để ông này có lời quyết định. Nhưng rồi những bức điện của Constans đến, hoàn toàn mê sảng, nói ông ta không chịu trách nhiệm gì nữa nếu để chậm lại dù một ít, thông báo những tai biến tệ hại, nếu không di tản ngay trong đêm sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Cách đấy 1400 cây số Constans sụp đổ tinh thần - nhưng ở cuộc hội nghị Sài Gòn, tất cả những cấp cao quân sự xa mối hiểm nguy, cũng xuống thấp như ông. Những người phía dân sự còn cố chống cự, vẫn nói phải chờ Juin. Hình như một sĩ quan cao cấp, hét lên với họ: "Trong bốn mươi tám giờ các ông đòi hỏi, các đội quân ở Lạng Sơn đã bị tiêu diệt hết. Các ông sẽ chịu trách nhiệm nếu có máu trên tay... ". Nhưng Pignon không lùi bước. Và còn có Carpentier, vị trí không rõ ràng, rất bối rối - cũng lo lắng như Alessandri và Constans nhưng có thói quen không làm việc gì nếu không có ý kiến Juin. Tất cả kết thúc hết sức mập mờ. Những cuộc họp, bàn bạc rối mù ấy đưa lại kết quả là người ta không làm gì dứt khoát ở Lạng Sơn trước khi Juin tới nhưng tiến hành mọi biện pháp chuẩn bị. Alessandri trở lại Bắc Kỳ ngay.

Nhưng khi các ông lớn Paris đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất thì Lạng Sơn đã là một việc đã rồi. Ai ra lệnh bỏ chạy, Carpentier, Alessandri hay Constans? Không biết rõ được, tình hình quá bê bối - cả ba đều rất muốn, đã chuẩn bị tùy nghi di tản nên sự việc khởi động như một bộ máy, một cách tự động.

Juin tỏ ra thất vọng. Rất tự chủ khi người ta đưa ông vào phòng tham mưu, nghe Carpentier kể lại tất cả và kết thúc bằng "Thế đấy", Juin chỉ hất hàm nói: "Thật ngốc". Ông còn có thể ra lệnh cho các đội quân trở lại Lạng Sơn. Ông không làm như sợ mình bị mắc vào vòng quay cuộc chiến tranh Đông Dương, như việc ấy không liên quan đến ông, như sợ làm mờ uy tín lớn của mình trong một "vụ việc xấu". Thế nhưng Đội quân viễn chinh sẵn sàng liều mình vì ông hơn bất cứ người nào khác, còn hơn cả de Lattre.

Sự nhập nhằng của Juin thật lạ lùng! Gần như sự phóng túng. Ông chỉ thị những việc làm tạm thời, chỉ là điều cần thiết, những việc cần làm mà Carpentier đã bỏ sót. Trước hết ông ra lệnh làm cho xong việc di tản không dứt đã trở thành một cuộc chạy tán loạn tự phát có nguy cơ đưa Đội quân viễn chinh tới con số không. Và khu đồn trú Đình Lập, đã xuống đến vùng châu thổ phải trở về lại: tám ngày sau họ chiếm lại bốt mà quân Việt chưa vào đấy, họ còn rất xa!

Juin làm để làm gì - như một giáo sư đứng trước bảng đen những chứng minh chiến lược trên bản đồ, càu nhàu, sơ lược, có vẻ u mê nhưng với ngón tay vững tin chỉ vị trí cần giữ, cuộc hành quân phải làm! Điều các sĩ quan và quân lính Đội viễn chinh chờ ở ông là những lời nói hy vọng - ông không nói. Điều họ cũng muốn là ông nổi giận ghê gớm đối với những chỉ huy bất lực, cũng không. Có vẻ ông cũng rất giận Carpentier, nhưng là trao đổi bí mật, dưới dạng người thầy "quở mắng" môn đồ có lỗi nhưng giữa người với người, không chính thức.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Chín, 2019, 09:25:07 pm

Và rồi chẳng có gì giống một hình phạt, một phản bác công khai trước mọi người, Juin "bao che" Carpentier, nguyên tổng tham mưu trưởng, một người bạn của ông. Vì vậy hơn bao giờ hết căn bệnh tinh thần tiếp tục trong các đoàn quân vì sự bận bịu của Juin trong đợt đi kiểm tra là "cưng chiều" Carpentier. Lối thiên vị ấy đi xa đến nỗi từ nỗi xấu hổ người ta rơi vào sự bất công, vào bùn đen. Trước hết thậm chí Juin từ chối tiếp Alessandri khốn khổ.

Vì trong số những người thất bại là sự lộn xộn, cuộc đấu tranh để có thể nói: "Không phải lỗi của tôi; đấy là lỗi của những người khác". Và việc đó xảy ra dưới những ngôi sao quang vinh của Juin, vốn lừa bịp tất cả, thiên vị người mình bảo trợ, chấp nhận tất cả của ông này. Carpentier, người khổng lồ yếu và lo lắng, luôn dãn những nếp nhăn, như chiếc bóng mờ của tướng Juin, tươi cười, đồ sộ, vững tin ở mình, vui vẻ, tàn ác. Cứ thế, trước một cuộc họp báo, với các nhà báo trên toàn thế giới, Carpentier tướng tổng chỉ huy đổ hết tội lỗi lên những người thừa hành - nhận định của ông rất tốt, thậm chí hoàn hảo, nhưng Charton quá chậm, Lepage quá do dự, Alessandri...

Alessandri như người bị đào thải, chống trả hết sức mình bướng bỉnh khác thường, với khả năng của một nạn nhân. Bị Juin và Carpentier gạt ra, ông quay lại phía dân sự, được ông bộ trưởng Letouneau tiếp, có mặt cao uỷ Pignon. Ông "thả hết nỗi uất ức" của mình, như ông nói. Letourneau mặt trắng bệch, quay lại Pignon: "Lời trình bày của tướng Alessandri có đúng không?" Pignon tuyên bố: "Tôi buộc phải công nhận những gì tướng Alessandri nói là sự thật". Do đó cuối cùng Alessandri gặp được Juin, kể lại câu chuyện của mình. Theo Alessandri, Juin càu nhàu với ông: "Đáng lẽ ông phải không tuân lệnh." Nhưng theo một ý kiến khác, Juin chỉ càu nhàu: "Anh chàng Carpentier của tôi không thể làm như ông nói".

Thực ra Juin thể hiện sự thờ ơ diễu cợt, ích kỷ ấy với một tính chất hoàn toàn sáng suốt. Cuộc chiến tranh Đông Dương này ông đánh giá rất rõ. Ông không thể, không muốn làm gì cho nó, nếu không là cho một số lời khuyên trước khi ra đi thật nhanh. Những lời khuyên không được thực hiện, ông biết thế, nhưng chẳng cần. Phần của ông ở nơi khác, ở Maroc, ở Bắc Phi. Ông chẳng quan tâm đến Châu Á.

Trước khi đi, ông nói sự thật, ông trình bày trong một hội nghị lớn về chiến tranh ở Hà Nội, ông viết một báo cáo cho Chính phủ Pháp và cho cả các nhà báo biết. Đúng ra là ông nói những sự thật đã trở thành hiển nhiên nhưng ông là người đầu tiên nói rõ ra nó tuy "trước đây" hình như không thể chấp nhận được. Ông nói tất cả phải làm lại hết. Phải thay đổi hoàn toàn cơ cấu Đội quân viễn chinh vốn dĩ là một sự phân tán vô số bốt, có ích cho việc bình định nhưng bất lực trong cuộc chiến; phải nhanh chóng "tạo ra" bằng mọi cách những đội cơ động mạnh có khả năng hành quân và xung kích ở vùng nông thôn. Phải có một "khối lượng lớn máy bay" vì đấy là yếu tố quyết định chống người Việt, cho phép đánh thẳng vào "hậu cần", vào nơi tập trung của họ. Nhưng phải có nhiều trăm, nhiều nghìn máy bay để đánh vào số đông mặc dù ngụy trang, dù có tấm màn rừng rậm. Juin nói: Để tấn công quân Việt phải tập trung. Lúc ấy có thể đập nát họ bằng những cuộc dội bom cả vùng, không nhắm vào mục tiêu, không chi tiết mà đổ chất nổ vào một chu vi nhất định cho đến lúc không còn gì trong đó nữa. Nhưng một Đội quân viễn chinh mạnh, từng khối máy bay chưa đủ, trước hết phải xây dựng quân đội quốc gia Việt Nam. Juin là người đầu tiên tuyên bố: "Tôi nghĩ chìa khóa của cuộc chiến tranh Đông Dương là trong sức mạnh và lòng tin của một quân đội Việt Nam. Thời gian đầu chúng ta chuyển cho họ dần dần và có chừng mực những khu vực bình định, chúng ta tập trung những người Pháp đánh nhau với các sư đoàn chính quy của Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ thứ hai họ cũng phải đối mặt, hàng nhiều nghìn quân chính quy da vàng chống lại những nghìn chính quy da vàng khác, tất cả cùng làm theo cách đó."

Chưa hết. Trước mắt không nên "chịu đựng". Phải chấm dứt những cuộc rút lui, chuyển sang "chống cự và phản công". Đối mặt với người Việt nghĩ mình là những người chiến thắng phải vận động chiến như họ. Có những chỗ còn có thể bỏ nhưng có những chỗ khác phải lấy lại, như Lạng Sơn. Đơn thuần chống cự sẽ dẫn đến sự thất bại hoàn toàn, rút lui này đến rút lui khác và tinh thần Đội viễn chinh cuối cùng suy sụp. Vậy phải có tấn công, trước hết là chiến lược, sau đó là phương pháp chữa bệnh về thể xác và tinh thần cho sĩ quan, binh lính còn nhục nhã vì con đường số 4, còn vương vấn về bại trận: phải đưa lại niềm tự hào cho họ.

Đấy là lối chẩn đoán của Juin, những phương thuốc trên lưng ngựa. Để áp dụng, cả toàn nước Pháp phải có một nỗ lực lớn, tự mình lao vào cuộc chiến thay vì để cho những quân lính đánh thuê của một Đội viễn chinh. Như vậy nước Pháp phải hy sinh hơn, hy sinh vô cùng nhiều hơn, về người và tiền của như vì quyền lợi sống còn của đất nước. Nhưng có như thế được không? Juin nêu lên câu hỏi trong báo cáo. Ông không trả lời nhưng viết nếu không thực sự làm điều cần thiết để chiến đấu tốt thì phải dựa vào những giải pháp khác hoặc điều đình với Hồ Chí Minh rồi ra đi hoặc quốc tế hóa việc tranh chấp. Và Juin kết luận: "Đấy là điều nước Pháp phải lựa chọn".

Như vậy Juin đặt rõ ràng vấn đề. Ông không tin nước Pháp tiến hành tốt cuộc chiến tranh, cũng không tin nước mình sẽ thương lượng với người Việt hoặc đi đến kéo người Mỹ và Liên hiệp quốc cùng đánh nhau ở Đông Dương. Ông nghĩ nước Pháp chẳng làm gì hoặc gần như chẳng làm gì và cuộc chiến tranh Đông Dương sẽ kéo dài, năm này sang năm khác cho đến lúc kết thúc tồi tệ.

Những vị tướng khác cứ việc "vỡ đầu". Ông Juin đã tuyên bố những sự thật lớn, nhanh chóng trở về nước Pháp sau khi kích thích Đội quân viễn chinh một ít. Thực ra ông bỏ rơi họ cho số phận. Và điều đó mọi chiến binh đều cảm thấy, đều hiểu: Juin không thích họ, không muốn cùng với họ. Vì vậy khi ông đã rời Đông Dương. Đội quân viễn chinh trở lại với căn bệnh của mình, suy sụp, trong trạng thái vật chất và tinh thần tệ hại hơn trước.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Chín, 2019, 09:32:08 pm

Nỗi chán nản tột cùng

Nhìn bề ngoài Đội viễn chinh đã bình tĩnh trở lại. Nhưng bên dưới sự huỷ hoại lan rộng, nặng thêm. Vì chẳng có gì thay đổi. Giá những người chết đã được trả, rất ít thôi, do một mình đại tá Constans. Đấy là sự sa sút của ông ta. Trong mấy ngày ông trở thành người bị ruồng bỏ. Lúc đầu ông vùng vẫy chống lại làn sóng khinh bỉ, vẫn ăn mặc đẹp, vẫn kiêu hãnh, tự cao. Ban tham mưu Lạng Sơn trung thành với ông. Như một thách thức ông tổ chức chiêu đãi ở khách sạn Metropole, dưới những cái nhìn của cả Hà Nội. Xung quanh bàn ăn thịnh soạn, khách ăn mặc quân phục, vừa tươi cười vừa cứng nhắc, đầy huân chương. Nhân viên khách sạn kính cẩn mang những thức ăn nhiều món. Cuối cùng rượu champagne và chúc mừng - các sĩ quan uống chúc sức khỏe Constans, Constans chúc sức khỏe họ. Xem ra ông rất thoải mái, đeo đầy người tất cả vinh dự của quân đội. Tuy vậy bữa ăn ấy chẳng có tác dụng gì, Constans ngày càng bị dồn vào đường cùng: ông cho mời các nhà báo người này rồi người khác vào trong chỗ ông ở khách sạn Metropole, với từng người ông "giải thích" vô tận. Ông cũng đã giải thích với tôi. Bề ngoài ông vẫn có phong thái quí phái toát ra như khi ông tiếp tôi ở Lạng Sơn, nhưng có ích gì? Tôi chỉ còn cảm thấy trước mặt tôi một người bị săn đuổi! Điều ông nói trở thành non nớt, cuồng tín. Ông thề với tôi đã cứu các đội quân vì biết lợi dụng một cơn bão. Ông nói với tôi, với cả quyền lực của mình:

- Điểm khủng hoảng, chỗ sống còn của việc di tản là chiếc cầu cách Lạng Sơn vài chục cây số. Từ phía biên giới Trung Quốc một sư đoàn quân Việt tiến rất nhanh đến đấy nếu họ chiếm chiếc cầu thì chúng tôi bị tiêu diệt. Nhưng trong đêm có một cơn bão và tôi được tin sư đoàn ấy bị chậm lại, không qua được một con sông ngập lũ. Tôi bèn quyết định phải lợi dụng hoàn cảnh này. Chúng tôi ra đi trong mưa bão, đến cầu trước quân địch, vượt cầu trước khi mắc vào cạm bẫy.

Constans khốn khổ cố chống chọi đủ cách! Cuối cùng khi đã thực sự hy vọng, ông có một cử chỉ cao cả. Bản thân đã mất hết, ở cửa khách sạn ông nắm lấy một phóng viên rất trẻ kéo vào quầy bar, khẩn khoản nhẫn nhục: "Anh nhất thiết phải đến gặp bác sĩ Huard, nói rằng tôi sắp ra đi và không thể chịu đựng ý nghĩ khắc nghiệt quân lính của tôi sẽ ở trong tay người Việt, những người bị thương chết mòn mỏi trong một khoảng rừng thưa nào đấy chỉ được chăm sóc bằng bôi thuốc đỏ. Để lương tâm tôi được thanh thản, nhờ ông ta đề nghị với ông Giáp thả họ ra bằng bất cứ giá nào trước khi tôi xuống tàu về Pháp". Cuộc vận động lạ lùng ông Huard, một người đáng ngại. Ông ta có hành động vì lòng tốt, tính toán lý tưởng, người ta không biết, nhưng tuy nhiều chức tước, tài năng, ông vẫn rất bị mật thám nghi ngờ, bị mọi loại nhân viên theo dõi. Vì vậy, nhà báo trẻ hỏi Constans: "Nhưng tại sao ông không tự mình đến đấy?" Ông này chỉ trả lời: "Tôi sẽ bị Quân cảnh bắt giữ".

Ít lâu sau đó Constans biến mất, rất may cho ông vì các sĩ quan đội lê dương muốn "lột da" ông. Từ đó người ta gần như không nghe nói về ông nữa nếu không chỉ biết tin ông được thăng cấp tướng những năm sau đó, và về hưu. Tôi không biết có phải ông là người có tội nhất không; ít nhất thì cũng là nạn nhân chính.

Nhưng ngoài ra vẫn có Carpentier, vẫn có Alessandri, Đội quân viễn chinh không chỉ còn xấu hổ về Lạng Sơn, về quá khứ: càng ngày họ càng sợ hơn. Vì với hai người ấy - những kẻ bại trận - chắc chắn sẽ đi tới những thất bại mới, mất hết Bắc Kỳ và Đông Dương.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Chín, 2019, 09:40:27 pm

Có bốn mươi ngày kinh hoàng, bốn mươi ngày sa sút liên tục, ngột ngạt, choáng vánh. Nhưng chẳng làm được gì và thảm họa cuối cùng có vẻ đã rất gần. Một sĩ quan tham mưu nói: "Chỉ trong hai tháng tới số phận vùng châu thổ sẽ được định đoạt. Từ nay đến đó, tùy theo Sài Gòn và Paris hiểu hay không hiểu người ta sẽ biết Hà Nội còn cứu vãn được hoặc sẽ bị giam hãm".

Những cảm giác thật mập mờ. Dĩ nhiên các sĩ quan và binh lính muốn hành động. Nhưng như thế phải có người nói và ra lệnh nhưng chẳng ai làm. Ngược lại ở Bộ chỉ huy tối cao như có sự chấp nhận ngầm rằng quân Việt mạnh hơn nên phải chịu đựng, phải lùi bước.

Cả một bi kịch về sự bất lực. Người ta chờ đợi, không làm gì hết. Quân đội thấy những chỉ huy cao cấp tạm ngừng quyết định, chỉ huy, hành động, như đặt hy vọng vào những quyết định sáng tạo của những người kế nhiệm, nhưng vẫn không có kế nhiệm. Chỉ có Carpentier, Alessandri.

Carpentier là người đầu tiên nhiễm nặng sự thất bại. Một hôm ông tiếp tôi, chỉ trên bản đồ rộng lớn của Đông Dương và nói với tôi:

- Các văn phòng của tôi đã làm việc. Từ nay chúng tôi có thể liên tục thu hẹp lại, không thể giữ cả Bắc Kỳ trước các sư đoàn ông Giáp dựa vào lực lượng Trung Hoa. Tôi dự kiến bảy đường dồn quân: đường cuối nằm giữa Trung Kỳ, trong vùng bó hẹp của Đông Dương gần vĩ tuyến hai mươi. Ở đây chúng tôi có thể xây dựng một mặt trận thực sự chặn bước tiến quân Việt. Chỉ còn phải bảo vệ hơn một trăm cây số và Nam Kỳ giàu có vẫn thuộc về chúng tôi.

Nhưng chiến lược hoàn toàn phòng thủ ấy, vị tổng chỉ huy không dám thực hiện công khai. Hơn nữa, Letourneau, ở lại Đông Dương sau khi Juin bay về, quá bực tức về tất cả những quân nhân suy sụp ấy. Cảm thấy "sự thối rữa", ông từ Sài Gòn ra Hà Nội, mặt bự đỏ như của người nông dân, có thái độ đầy nghị lực cộng hòa thực hay giả - mà những nhà chính trị biết cáng đáng trong những dịp quan trọng. Ngày 20 tháng mười, ông họp Hội đồng Phòng thủ, với những nhân vật tám ngày trước đây khi có Juin. Nhưng một bộ trưởng có thể làm gì trước lập luận của các tướng? Nhân danh kỹ thuật, họ vinh quang đổ ra hàng tấn bại hoại tinh thần và đạo lý. Tất cả Letourneau có thể làm là cãi bướng. Dũng cảm, ông kêu lên: "Cách mấy ngày các ông nói với tôi quân Việt có 60 tiểu đoàn, bây giờ là 103 tiểu đoàn. Làm sao có thể thế được?!" Tuy vậy Carpentier, giọng nhẹ nhàng của những người có trách nhiệm lớn, nói chưa có nguy hiểm gì trước mắt, không phải rút lui mà phải dự kiến tất cả. Nhiệm vụ của ông là chuẩn bị một sự phòng thủ co dãn, một cơ sở cuối cùng ở Hải Phòng. Phải hình dung đưa về nước những gia đình Pháp, riêng ở Hà Nội đã có 1.200 đàn ông, 1.200 đàn bà, 2.000 trẻ em. Nhưng việc này chắc phải chờ một tháng nữa.

Đấy là thông báo việc chấm dứt tồn tại. Letourneau kêu lên: "Tôi không hiểu. Phải chăng chúng ta đã dứt khoát bị đánh bại?" Người ta làm cho ông an tâm, nhưng vị bộ trưởng không giấu nổi thất vọng. "Cách đây một tuần các ông nói mọi việc tốt đẹp. Chắc vì có tướng Juin ở đấy và các ông sợ ông ấy. Bây giờ các ông không có gì làm phiền phức nữa. Những gì các ông nói ra không tưởng tượng được. Tình hình không thể xấu đi đến thế trong một thời gian rất ngắn. Người ta không thể thay đổi nhận định trong tám ngày. Tôi lệnh cho các ông bảo vệ Bắc Kỳ trên những vị trí dự kiến, theo cách dự kiến."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Chín, 2019, 09:40:58 pm

Nhưng sau cuộc cãi vã ấy Letourneau trở về Pháp, bên cạnh những cử tri của mình. Carpentier rảnh tay. Dĩ nhiên để làm vừa lòng Chính phủ Paris, ông dùng mánh khóe, có những báo cáo trong đó còn có vấn đề lấy lại Lạng Sơn. Nhưng chủ yếu là những hàng phòng thủ lùi dần, đường A là 400 cây số, đường B chỉ 300 và rồi có đường còn mấy cây số. Xứ Bắc Kỳ co dần như da lừa.

Chỉ thị chính thức vẫn là chiến đấu nhưng những ý kiến không chính thức thiên dần về sự khôn ngoan. Tất cả là mâu thuẫn, không chắc chắn, lúng túng. Càng khó hiểu khi Alessandri người cứng đầu hiền lành này bỗng lại nhảy lên con ngựa của mình tấn công lớn. Carpentier nói: "Chúng ta sắp ra đi", nhưng Alessandri tâm sự với những người thân tín: "Chúng ta để qua cơn giông tố rồi sẽ lao vào quân Việt trong rừng".

Nhiều tuần lễ liền không ai biết làm thế nào, không ai tin tưởng. Tôi thấy sự hoàn toàn rời rạc ấy ở Móng Cái, điểm cuối cùng nhìn sang Trung Quốc, ngay đầu bờ biển, chỗ trước kia tôi đến chứng kiến các đoàn quân Mao Trạch Đông đến biên giới. Tôi trở lại đó vì muốn ở đấy một lần nữa trước khi có quyết định di tản. Nhưng tôi vừa đến thì một mệnh lệnh ngược lại đưa tới - người ta ở lại.

Ở Móng Cái là cảnh hòa bình kỳ cục, đúng hơn là cảnh chiến tranh kỳ cục. Về nguyên tắc là hòa bình giữa Móng Cái của Pháp và Đông Hưng của Trung Hoa; đám đông người Châu Á tiếp tục đi về trên chiếc cầu quốc tế. Nhưng không còn sự "hiền hòa" nữa vì 3.000 Việt Minh và 2.000 Trung Hoa tập trung xung quanh. Đông Hưng cắm đầy đại liên và ca-nông, thường bắn từng loạt trên biên giới. Ở Móng Cái mọi người sống lo ngại. Chỉ có một đại đội lê dương, biết không thể tự bảo vệ được. Các sĩ quan nói: "Có đáng bị giết chết tại chỗ trong lúc mấy tuần nữa thì Bộ chỉ huy bỏ tất cả không? Thay vì chờ cuộc tấn công, chúng ta nên thoát bằng thuyền ra biển". Nhưng thâm tâm họ vẫn áy náy, họ không biết bổn phận của mình là sống hay chết. Đúng lúc đó một chiếc máy bay hạ cánh ở sân bay và bước xuống một Carpentier vui vẻ, như không có vấn đề gì. Đại uý chỉ huy đại đội đứng nghiêm chào, kính cẩn, quyết tâm xin mệnh lệnh của vị tướng. Ông hỏi: "Thưa đại tướng, xin cho chúng tôi chỉ thị. Nếu quân địch tấn công, chúng tôi có phải chiến đấu đến chết hoặc rút theo con đường vịnh Hạ Long? Và tôi có bắn vào người Trung Hoa không nếu họ tiếp tay cho quân Việt?" Tôi nhớ mãi sự ngơ ngác của Carpentier và cử chỉ của ông - ông giơ tay lên trời và cuối cùng nói: "Tôi biết sao được?" Ông lại ra đi không nói thêm một lời.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười, 2019, 10:02:13 pm

Việc rút khỏi Lao Cai

Đối mặt với Việt Minh rất đông, Đội quân viễn chinh quá yếu: không thể ở đâu cũng giữ được. Vậy là phải tập trung, dồn quần về một số điểm, sẽ mạnh hơn, có thể phòng thủ. Mỗi ngày "đường phòng ngự" của Carpentier càng lùi dần. Thậm chí ông thỏa mãn về việc rút lui ấy: "Lần này nữa tôi đã tránh được một cạm bẫy".

Người ta ở lại Móng Cái nhưng những nơi khác người ta co cụm lại - danh từ che đậy sự rút lui: trong quân đội người ta không bao giờ gọi việc làm theo tên thật. Nhưng có ai không cảm thấy loại từ đạo đức giả ấy chỉ việc suy thoái có tính toán, được chấp nhận, dù không nói ra?

Việc ấy bắt đầu từ Thái Nguyên mà việc chiếm đóng không phải đánh nhau được tổ chức như một chiến thắng của quân Pháp cách đấy vài tuần. Ngay khi có những trận tiêu diệt trên đường số 4 ba đoàn quân chiếm đóng vô ích thành phố mang súng trên vai trở về Hà Nội còn nhanh hơn lúc đi. Thái Nguyên chỉ vào tay quân Pháp khoảng mười ngày và cho đến chiến tranh kết thúc họ không bao giờ trở lại đấy nữa, đó bao giờ cũng là "thủ đô của Hồ Chí Minh" vùng đất thiêng của Việt Minh bên cạnh Hà Nội.

Sau đó là việc bỏ rơi Hòa Bình - một việc từ bỏ lớn hơn nhiều. Vì từ đây quân Pháp đe dọa con "đường huyết mạch" của Việt Minh, nối "tứ giác rừng núi" của Tổng bộ và các sư đoàn ông Giáp với kho người và gạo từ vùng đỏ lớn Bắc Trung Kỳ.

Ở Hoà Bình là bóp họng quân Việt, ngăn chặn họ. Bỏ rơi vùng này là trả lại tự do hoàn toàn cho họ hoạt động: từ nay không chỉ bảo đảm "hậu cần" mà họ còn có thể hành quân các sư đoàn xung quanh vùng châu thổ. Người Pháp đóng kín trong vùng châu thổ này như trong một vỏ sò và quân Việt khắp xung quanh muốn làm gì thì làm.

Sau cuộc di tản Lạng Sơn và cửa ngõ lớn sang Trung Quốc là việc rút khỏi Lao Cai, cửa ngõ nhỏ ở sườn kia của Bắc Kỳ nhìn sang Vân Nam. Từ nay mọi trục xâm nhập ở trong tay người Việt. Lao Cai mất, lưu vực sông Hồng, mảng đất rộng xuyên thẳng núi rừng cũng vào tay họ. Như vậy tạo những khả năng mới, rộng lớn - cơ hội đồng thời hoặc xen kẽ tiến hành hai cuộc chiến, một trong rừng và một ở đồng bằng; như vậy là thừa một đối với người Pháp.

Lạng Sơn sụp đổ cho người Việt chìa khóa xuống vùng, châu thổ, từ đây các sư đoàn Giáp có thể ào tới Hà Nội, tràn núi rừng đường số 4 tấn công trực diện vào vùng đồng ruộng mở rộng đối với họ. Không có gì ngăn cản được họ vượt qua núi rừng, sau nhiều trăm, nhiều nghìn cây số dẫn đến tận trung tâm chiến lược của Châu Á.

Đấy là vấn đề mấu chốt: Việt Minh tiến hành hai cuộc chiến, trên đồng ruộng vùng châu thổ và trong rừng rậm, các đội quân tiến mãi xa hơn, người Pháp không có cách nào chặn lại được. Lúc đầu ông Giáp thực hiện khi cuộc chiến này khi cuộc chiến kia; nhưng lúc ông đã khá mạnh để thực hiện cả hai cuộc chiến đồng thời thì giờ bại trận của quân Pháp sẽ điểm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười, 2019, 10:02:54 pm

Lúc đầu Bộ chỉ huy Pháp còn ngập ngừng trong việc hy sinh Lao Cai. Bao nhiêu điều thoái thác! Nhưng làm sao bảo vệ được con "nhím" này, cách hơn ba trăm cây số, và làm việc ấy khi phải nổ súng toàn diện, tập hợp tất cả những người lành lặn huy động những gì có trong Đội viễn chinh cho vùng châu thổ? Cuối tháng mười, có quyết định rút khỏi Lao Cai.

Thế rồi, thêm vào bi kịch chiến tranh là bi kịch tuân thủ kỷ luật quân sự của sĩ quan và binh lính khu đồn trú họ không muốn ra đi. Từ nhiều năm nay họ chống lại mọi cuộc tấn công của Việt Minh tuy họ không nhiều. "Chủ nhân" Lao Cai - là đại tá Coste, điện nói chuyện với Hà Nội.

Thực ra Alessandri muốn giữ Lao Cai, chiến đấu vì thị xã, nhưng Carpentier ra lệnh di tản và từ nay ông sợ Carpentier, không đối đầu nữa. Khi Coste nói: "Chúng tôi có thể chống cự", ông cho trả lời: "Phải đi, tổ chức một đoàn quân đi về đất Thái." Coste gần như chống lại với câu trả lời chính thức: "Chúng ta phản bội tất cả những ai đã tin tưởng vào chúng ta. Sau khi chúng ta đi, nhiều đầu bị rơi đấy". Hà Nội chỉ nhắc lại: "Phải đi".

Cuộc chiến đấu gần thị xã. Hai trung đoàn Việt Minh được báo đã rất gần. Ở Lao Cai chỉ có hơn một tiểu đoàn lính Maroc. Lại một lần nữa, trên biên giới Trung Quốc quy trình ra đi, di tản bắt đầu. Đấy là cầu hàng không những Junker và Dakotas chở vật liệu, người bệnh và đàn bà, trẻ con. Cũng phải chở một khối lượng dự trữ thuốc phiện, hàng tấn. Và phi công Fontange kêu lên: "Tôi là một con vật, các chỉ huy của tôi là những con vật. Vì đáng lẽ cứu người, trước hết người ta cứu thuốc độc." Những dân thường đi được người ta tổ chức thành hai đoàn ra đi theo đường mòn, không có bảo vệ, đến thị trấn Phong Thổ, thủ đô của ông chúa cũ Đèo Văn Ân. Tất cả những cái đó thể hiện sự khắt khe không cưỡng được của việc bỏ rơi; mọi việc làm theo lối số học của di tản mà người ta bắt đầu có kỷ luật.

Trong lúc những gì "vô ích" ở Lao Cai biến đi, đến lượt những bốt sâu trong rừng như Pakha, Hoàng Su Phỳ, những vị trí bị đánh nhiều. Ở Hoàng Su Phù, đại uý B, trưởng bốt hổ thẹn nói với Châu Quán Lồ, thủ lĩnh người Mán ở Mường Khương: "Chúng tôi đi đây. Ông đi với chúng tôi. Đưa đi theo cả dân tộc ông." Châu Quán Lồ, chột mắt, trả lời: "Nước Pháp hứa không bao giờ bỏ chúng tôi nhưng họ vẫn bỏ. Các ông đi đi. Tôi ở lại, dân tộc tôi ở lại. Đấy là đất đai chúng tôi. Chúng tôi tiếp tục chiến đấu chống người Việt."

Lẩn khuất trong rừng và căn cứ của mình. Châu Quán Lồ còn đánh nhau dữ dội với người Việt hai năm nữa. Máy bay Pháp thả vũ khí, đạn dược xuống tiếp tế cho nhưng từ đầu năm 1952 ông ta và người của mình bị tiêu diệt.

Chỉ còn lại màn cuối cùng - rời bỏ Lao Cai. Khó khăn thực sự của việc di tản là chọn thời gian - phải đi hết sức muộn nhưng đừng quá muộn: Muộn quá như ở Cao Bằng, là cảnh bị tiêu diệt. Sớm quá như Lạng Sơn là sự xấu hổ. Sau những tai họa ấy Bộ chỉ huy cao cấp không dám tự mình ra lệnh nữa. Vậy là do Coste quyết định, chỉ duy nhất ông ta có trách nhiệm để nói: "Đã đến lúc ra đi".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười, 2019, 10:03:43 pm

Quân Việt tập trung đông trước Lao Cai, chiếm các vị trí, khống chế sân bay dưới tầm đạn. Máy bay không hạ cánh được nữa. Nhưng lạ lùng, trong các đợt tấn công, họ tỏ ra có phần mềm yếu, kích thích khu đồn trú vẫn ở lại. Phải chăng đấy là mưu mẹo giữ quân lính Pháp lại Lao Cai để các đội quân khác của Giáp có thời gian đi cắt đứt đường rút lui? Dù sao, ngày 31 tháng mười, quân Pháp tổ chức một đợt phản công và sau khi giáp lá cà, đẩy lùi quân Việt mấy cây số. Sân bay được giải phóng, một chiếc Junker hạ cánh ngay để mang thương binh đi. Sau thành công ấy Coste cao giọng nói với Hà Nội: "Không còn vấn đề di tản nữa. Chúng tôi có thể tiếp tục phòng thủ". Ngay tối hôm ấy ở Hà Nội các tướng tranh luận trước sự lựa chọn: có nên tranh thủ lợi thế vừa đạt được ở Lao Cai để củng cố và giữ vị trí này hoặc ngược lại, nhanh chóng di tản với nhiều may mắn hơn? Cuối cùng không giải quyết được gì; quyết định dành cho Coste, cho nhiệm vụ, trách nhiệm của ông này.

Giữa tình trạng ấy, một nguồn tin quyết định tất cả. Người ta được biết các trung đoàn Việt Minh, thành hàng dài đi trên những con đường hẹp dọc bờ phía nam sông Hồng đang mùa nước lũ. Vậy là họ đã vượt qua con sông nước ấy, hành quân cấp tốc đến chỗ bắn giết người Pháp hàng loạt; họ phải đến trước trên những dãy núi Thái, trên con đường khu đồn trú rút lui. Theo lối rút cổ điển, dẫn đến chỗ hàng nghìn quân Việt Minh phục kích ẩn nấp trong rừng sẽ xông vào đoàn người Pháp kéo dài trên đường.

Đấy là tin tức chắc chắn do nguỵ binh đi thăm dò trong rừng đưa về, không hề là cơn sốt tưởng tượng như ở Lạng Sơn. Vậy là Coste ra lệnh rút quân, một cuộc chạy đua giành cuộc sống với từng giờ từng phút. Quân Việt ra đi trước một ngày nhưng bắt đầu chỗ xa hơn, phải vượt khoảng năm chục cây số nữa. Dịp may bằng nhau, chính xác đối với mỗi bên.

Mờ sáng ngày thứ tư trong tuần, quân lính Mao Trạch Đông ở Hà Khẩu trên cao, thấy đoàn quân Pháp lướt ra khỏi Lao Cai giữa những đám lửa phá hoại. Việc rút khỏi vị trí dự kiến tốt. Coste cho những bộ phận bảo vệ ém quân ở những chỗ nguy hiểm trên đường đi. Trước hết là hành quân trên lưu vực sông Hồng, rồi cuộc leo núi dài đến Sa Pa, từ những bui cây gai góc phía dưới lên những rừng thông trên đỉnh, phía sau là dãy núi Phan Xi Phăng đồ sộ đầy thác ghềnh. Chỉ vài tiếng súng từ những thành núi, đoàn quân đang len lỏi rồi bỗng họ được tin quân Việt ngay sau lưng, không đến nửa tiếng đồng hồ. Thế là cuộc săn đuổi bắt đầu. Những người đã kiệt sức cũng không thể dừng lại, phải tiến lên, thất vọng hơn bao giờ hết những quân địch tới gần từng phút một. Sa Pa, trạm khí tượng cũ đã bỏ lại phía sau. Ngày đêm không nghỉ quân Pháp tiếp tục đi gấp đến những ngọn núi cao ngăn cách lưu vực sông Hồng và sông Đà.

Kế hoạch của Coste là chọn chỗ tốt, đẩy lùi cuộc tấn công của quân Việt ở đèo Sam Sao. Nhưng quân địch không để cho quân Pháp có thì giờ bố trí phòng thủ: hai phút sau khi tiểu đoàn kiệt sức đến nơi, họ lao vào tấn công theo những kỹ thuật hiện đại nhất, theo từng toán nhỏ, trang bị những dụng cụ biệt kích, lựu đạn, tiểu liên, súng liên thanh. Trong lúc đó những toán khác xâm nhập phía trên đèo bắn đại liên vào sườn. Thêm vào đó là những viên đạn súng cối không biết từ đâu đến, rơi từng chùm dày đặc và chính xác. Sau nhiều giờ chiến đấu, tiểu đoàn lính Maroc hết đạn, lại phải chạy. Đèo Sam Sao bị quân địch khống chế, vùng đất Thái mở ra trước mặt họ.

Quân Việt đuổi theo đoàn quân hơn lúc nào hết. Một cuộc rút lui rất kỳ lạ. Bão tố cản trở máy bay thả dù và tất cả đều thiếu, thực phẩm, đạn dược. Những toán Việt Minh luồn về phía trước, tấn công vào sườn đoàn quân tan rã - phía sau bị khối lực lượng chính chặn lại. Một nỗ lực ghê gớm. Cảnh tượng ấy xảy ra trên núi rừng hoang dã nhất, ghê gớm vì bùn và mưa, đường đi chỉ còn là những mảng lở lói tiếp những sườn núi bao la rậm rạp. Một người Pháp trong chuyến đi ấy nói: "Lúc ấy người ta như ở trên răng cửa, mỗi răng cao đến hai cây số. Cuối cùng, sau nhiều ngày đoàn quân thoát nạn vào chỗ ẩn, họ đến phía sau những ngọn núi do quân đội Đèo Văn Long, độc tài ở Lai Châu chiếm giữ. Quân Việt đến lượt cũng thiếu đạn dược và lương thực, đành từ bỏ, đoàn dân công hậu cần của họ bị tan vỡ. Và thế là mồi của họ thoát được.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười, 2019, 10:04:18 pm

Đối với người Pháp, việc di tản kịp thời ấy thành công, gần như một chiến thắng. Thực tế đấy cũng là một thất bại, dù đáng khen. Vì việc săn đuổi đưa người Việt đến gần lòng đất Thái, và lần này không phải quân du kích mà những đội chính quy của ông Giáp. Họ chiếm Phong Thổ, Bình Lư phía bên kia những ngọn đèo, giữ ngay trước mặt Pu Sam Cáp, dãy núi ôm chặt Lai Châu, thị xã chính của người Thái.

Đối với người Pháp bắt đầu một cuộc chiến mới ở vùng rừng núi. Những bước đầu rất tăm tối. Nhưng đấy là cuộc chiến, sau nhiều diễn biến không ngờ, những đụng độ quyết liệt - giữa quân dù và lính lê dương với quân chính quy - sẽ đạt đỉnh cao bi thảm ở Điện Biên Phủ. Lúc ấy sẽ là trận đánh lớn nhất mà những tinh hoa của hai quân đội của những người da trắng và của những người da vàng hủy diệt nhau ở chỗ có vẻ không thể được, ở đáy núi rừng, xa tất cả, cách biệt tất cả. Đấy sẽ là cuộc chiến lớn nhất giữa rừng của lịch sử nhân loại.

Chưa tới lúc ấy nhưng đã có dạng cuộc chiến tương lai trong lòng rừng cây xanh bao la. Không chỉ như trên đường số 4 đưa những đoàn xe đi trên đường cho đến lúc không thể được nữa và rút lui trong tai họa. Từ nay là sự lẫn lộn trong lòng thiên nhiên: các đoàn quân Pháp đi trên đường mòn, chỉ liên hệ với thế giới bằng một số sân bay. Những đội quân tham chiến, để được tiếp phẩm, hướng dẫn, bảo vệ, chỉ có những máy bay từ vùng châu thổ, qua những chuyến bay mạo hiểm, phải vượt mọi hiểm nguy của gió mùa và thiên nhiên. Quân Pháp có khả năng tiến hành cuộc chiến tranh rừng núi ấy không? Lúc ấy người ta chưa nêu ra vấn đề, thậm chí chưa nghĩ đến sức mạnh hàng không cần phải có.

Dù thế nào đi nữa, tôi cũng đi Lai Châu để xem sao. Việc tôi nhận thấy đầu tiên là Đèo Văn Ân chạy trốn khỏi thị trấn Phong Thổ của ông bị người Việt chiếm đóng, ông đang bước lên chiếc xuồng nhà vua của ông vượt qua những thác nước của sông Đà. Ông cười buồn bã với tôi. Phong Thổ đã ra tro và dân chúng của ông đã chạy trốn lên núi. Nỗi sợ hãi lan tràn ngay trước khi quân Việt đến; một người chạy thoát khỏi Lao Cai bị chiếm kể lại tình hình ở đấy khi quân Việt xông vào.

Những tai họa của Đèo Văn Ân không hề ảnh hưởng đến người anh em họ Đèo Văn Long, kẻ độc tài của Lai Châu. Ông này còn hài lòng nữa. Tinh thần hăng hái chiến đấu của ông càng tăng lên khi những chiếc máy bay xuất hiện, đưa tới một khối lượng vũ khí, đạn dược nhiều vô kể. Ngay Pignon, cao uỷ cũng chở không tiếc lời khuyến khích, Đèo Văn Long rất thoải mái nói: "Chưa đủ. Cung cấp thêm cho tôi mấy chục đại liên và súng cối, tôi đảm nhiệm tất cả. Cũng cần nhiều tiền nữa để tôi có thể tổng động viên." Thực tế một phần lớn khí cụ tiền bạc người ta cho máy bay đưa tới đi thẳng vào kho của ông ta để tăng thêm dự trữ riêng. Phần còn lại mới chất lên các đoàn xe ngựa chở ra "tiền tuyến" - trên đỉnh núi Pu Sam Cáp. Việc đó đúng ra là một "vụ kinh doanh tốt" để Đèo Văn Long phát triển của cải và quyền lực.

Người Thái tin chắc sẽ đập tan quân Việt. Thực ra họ chỉ biết quân du kích, không hề biết những sư đoàn chính quy của Giáp mạnh ghê gớm ra sao.

Việc báo động ở Lai Châu chỉ kéo dài trong mấy ngày. Giông tố không nổi lên ở đây, mà ở vùng châu thổ. Thời gian chưa đến để người Việt phân tán các đội quân ra toàn Đông Dương rộng lớn, khắp núi rừng. Trước hết ông Giáp muốn đánh một trận lớn, chí tử, trong lòng để kết thúc tất cả một lần - ông muốn lấy Hà Nội.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười, 2019, 10:05:12 pm

Mối đe dọa vùng châu thổ

Từ đầu tháng 11, người Pháp chắc chắn quân Việt đang chuẩn bị tỉ mỉ, không tránh được, xung quanh vùng châu thổ cho một cuộc tấn công lớn. Mỗi ngày việc đó càng cụ thể, hình thành, được xây dựng rõ ràng hơn.

Bao giờ cũng như thế, nhưng chẳng làm gì được. Chỉ thấy trống không, người ta nắm bắt được vài dấu hiệu mơ hồ, hạn chế trong giả thuyết, bất lực. Thế nhưng người ta biết có ngày việc đó "sẽ nổ ra", có lẽ sẽ không làm gì được, cũng vẫn bất ngờ. Mối nguy hiểm chắc chắn và ghê gớm cứ tăng lên - mối nguy hiểm sẽ xảy ra như một bất ngờ, không biết bao giờ, ở đâu - gây ra trong lòng người nỗi lo lắng. Đấy là thời kỳ chờ đợi đáng sợ.

Nhiều tuần lễ trôi qua không việc gì xảy ra. Nhưng mỗi người tự nhủ trong núi rừng vùng cao Bắc Kỳ, vô số dân công đang chuyển những vật nặng đến vùng ven đồng bằng. Có hàng trăm nghìn, vài trăm nghìn, theo yêu cầu, ngày đêm đi trong rừng rậm, theo số đường mòn và những con đường đã chiếm được. Cho đến lúc đó không có gì, chỉ những đám đông người đang chở những vật cung ứng Trung Hoa từ biên giới đến cơ sở xuất phát không rõ ở đâu của cuộc tấn công tương lai. Khi đã bố trí các kho thực phẩm và đạn dược, đến lượt quân lính đến vây quanh vùng châu thổ. Họ cũng đi như các đoàn dân công, mỗi ngày sáu mươi cây số trong rừng, với khẩu súng, nắm cơm và lá cây trên mũ. Khi đến nơi, họ ở trong rừng, không ai thấy, chẳng ai đe dọa họ nhưng trong tầm châu thổ, trước miếng mồi ngon Hà Nội. Người ta biết hết và không biết gì, họ diễn tập một lần nữa những hành động cần thực hiện. Các uỷ viên chính trị "hâm nóng" tinh thần, hứa hẹn thắng lợi nhưng cũng nói rất khó khăn, mỗi người cần hy sinh tất cả, dựa vào nhiệt tình và lòng yêu nước.

Cứ như thế, quân đội nhân dân của ông Giáp tập trung dưới bí mật của thế giới cộng sản, càng không biết rõ trong bí mật núi rừng. Người Pháp cố bằng cách khai thác một số mẩu, một số tin tức về mệnh lệnh chiến lược ấy, nhưng quá ít ỏi! Máy bay đi chụp ảnh nhưng in ra chỉ thấy lớp rừng đồng đều. Những đội tuần tra thám thính nhưng không dám vào sâu nơi cần thiết vì sẽ bị tiêu diệt. Nếu trong những đợt xung kích ấy bắt được vài tù binh, dù có nói họ cũng chẳng biết gì, cả tên các sĩ quan, phiên hiệu đơn vị. Dĩ nhiên những phòng nhì vẫn "mua" tin tức nhưng rất khó xác định: dù đúng cũng không có tác dụng bao nhiêu, vì không tin tưởng, không dám dựa vào. Càng nghi ngại và chắc chắn một số tình báo chuyên nghiệp ấy làm việc cho người Việt, nhắc lại những gì họ bảo nói, sai lạc hay có một ít đúng và nhiều cái sai. Thậm chí hình như có một tổ Việt Minh trong số tình báo viên của Pháp.

Những việc đó, chuẩn bị thật và giả kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng trong sự căng thẳng ngày càng tăng, cho đến lúc người Việt sẵn sàng, "nổi dậy" đánh mạnh, ào lên tiêu diệt.

Tuy vậy vào cuối tháng 11 theo một ít điều họ biết đã đủ sợ. Ông Giáp tập hợp phần lớn phương tiện, khoảng một trăm tiểu đoàn sẵn sàng hành động. Có ba chỗ tập trung chính, mỗi chỗ ở một cạnh của hình tam giác là vùng châu thổ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười, 2019, 10:06:00 pm
Mối đe doạ chết người nhất ở phía bắc, chỉ cách Hà Nội bốn mươi cây số, nơi những con đường Lạng Sơn, Cao Bằng ra tới đồng bằng. Theo hướng này đất đai người Việt vươn tới thủ đô: từ các đại lộ và đường phố người ta thấy những đội quân sẽ tiến về. Và đấy là những đơn vị biên giới, các sư đoàn sắt của ông Giáp. Nhiệm vụ của họ là xung kích, ào lên nhanh và mạnh, mũi chọc thủng quyết định vào đến trung tâm thành phố.

Một mối đe doạ cũng gần nghiêm trọng như thế đến từ phía tây của đầu vùng châu thổ, chỗ ngã ba sông nơi sông Hồng tiếp nhận một bên là sông Đáy, bên kia là sông Đà. Hợp lưu này được hai đồn gác đồ sộ khống chế, hai núi dốc ở vùng biên đồng bằng, Tam Đảo và Ba Vì. Mũi tập trung thứ hai ẩn trong vùng dốc đứng ấy, do các đội quân vùng trung du Bắc Kỳ, đã chiếm Lao Cai và chiến đấu ở những trận lội nước sông Đà. Khi Coste và tiểu đoàn của ông chạy thoát, bộ phận lớn những người đuổi theo, thay vì tiếp tục đến Lai Châu và sang Lào, đã trở lại phía sau vì mục tiêu lớn Hà Nội. Ở đâu cũng vậy, thành phố chỉ cách bốn mươi cây số, theo đường sông Hồng tỏa ra vùng châu thổ.

Tóm lại, mọi việc xảy ra như ông Giáp muốn lấy Hà Nội bằng gọng kìm của hai mũi tập trung - phía bắc và phía tây - sẵn sàng khép lại ở miếng mồi ngon rất gần.

Sự khác biệt là chỗ tập trung thứ ba, về phía nam, nhằm lật đổ chính quyền hiện hữu. Nhìn vào bản đồ vùng châu thổ: những gì sống còn trước mắt là ở miền Bắc. Đấy là Hà Nội, con đường Hà Nội - Hải Phòng, là Hải Phòng. Ngược lại miền nam như là phần phụ, một phần phụ khổng lồ. Ít quan trọng hơn về chiến lược, ở đây là chỗ đông người, mật độ dân số trên một cây số vuông cao nhất thế giới, miền khổ cực chủ yếu. Đây là vùng dân quê Châu Á, ngược với diềm miền Bắc là vùng các thành phố, của nền kinh tế Châu Âu, có sự hiện diện người da trắng. Từ phía trên Hà Nội, sông Hồng tỏa rộng ở miền nam này, mỗi năm sáu tháng biến thiên nhiên thành trận lụt lớn nước đục ngầu. Ở đây tất cả đều thuận lợi cho người Việt - tương đối xa, thiếu đường sá, chỉ đất và nước, người chồng chất, nghèo đói, men truyền thống của nổi dậy. Nhưng người ta không thể đưa lại tính quyết định ở vùng này, chỉ có thể hỗ trợ nhiều với những phương pháp thích hợp. Địa thế và dân số ấy đặt ra cho ông Giáp có những kế hoạch của mình. Trong lúc quân đội phía bắc, phía tây sẽ đánh người Pháp tận những công trình sống của họ, quân đội phía nam sẽ tỏa ra trên ruộng đồng, nắm lấy quần chúng nông thôn. Họ sẽ tiến hành một công việc đặc biệt, một chiến thuật riêng; sẽ là sự huỷ hoại lớn, với mức độ chưa từng thấy.

Việc đó sẽ do các lực lượng từ bắc Trung Kỳ: trang bị kém, không tập huấn ở Trung Quốc nhưng rất đáng sợ vì gần gũi quần chúng. Cơ sở của họ là Chi Nê - vùng lổn nhổn đá sỏi, một vịnh Hạ Long trên đất liền đầy hang động đình chùa, phía nam là đồng bằng châu thổ - dải rộng bùn lầy hoặc trồng lúa tùy mùa. Ở đây mũi tập trung ở ngay phía trên vùng đồng bằng, chỉ đi xuống, vượt sông Đáy là vào giữa vùng đông dân.

Cuộc chiến tranh mới bắt đầu từ đây. Trong lúc quân chính quy từ phía Trung Quốc xuống bố trí quanh Hà Nội, những quân bán chính quy của bắc Trung Kỳ luồn vào đồng ruộng. Trước khi đánh vỗ mặt vùng châu thổ, ông Giáp cài người vào lũng đoạn những gì xảy ra ở Nam Định, Thái Bình rất giống chiến tranh du kích nhưng quan trọng hơn nhiều với những tiểu đoàn, trung đoàn toàn vẹn. Những thông báo Pháp chỉ nói về sự thâm nhập; thực tế trước những đội quân Việt từ Chi Nê tới, tất cả những mắt xích về sự thống trị của Pháp sụp đổ. Các chức sắc bị giết, đường bị cắt đứt, thậm chí các đồn bốt bị triệt phá. Trong vùng châu thổ đã được bình định, tất cả đổ nhào cùng lúc và người ta không biết làm cách nào ngăn chặn tai họa ghê gớm và vô hình lan tràn. Không thấy đối thủ. Thế mà chỉ cần vài người lính quân phục hoặc mặc quần áo thường đến một làng là những ai giấu mặt, ẩn nấp xuất hiện khắp nơi - tình báo, hội đồng, uỷ viên chính trị, các loại phường hội, thông tin viên, tiếp phẩm, du kích, ám sát viên, các đội quân của tỉnh, của vùng. Trong mấy ngày, cả hệ thống Việt Minh có mặt trong miền nam châu thổ và nhân dân lại thuộc về Hồ Chí Minh. Dấu hiệu của việc nắm lại ấy, biểu hiện chung là sự xuất hiện "làng chiến đấu" - ngôi làng trở thành thành trì đỏ với những bức tường đất, những vị trí súng máy, mê lộ hầm địa đạo.

Bốt đầu tiên bị phá là Hoi Tung, do một đội đồn trú Việt Nam giữ, chỉ huy là một trung uý Việt Nam vừa học ở một trường quân sự Pháp trở về. Đây là một bốt tiền tiêu của cái người ta gọi "hàng phòng ngự sông Đáy", đối diện với cơ sở địch ở Chi Nê. Năm tiểu đoàn tấn công, súng ba-dô-ca bắn tới tấp. Không còn hy vọng gì. Sĩ quan chỉ huy bị thương ra lệnh cho quân lính ban đêm bò ra, qua Việt Minh, đến đơn vị quân Pháp gần đấy nhất - rồi ông tự sát.

Đối phó với những tiểu đoàn Việt thâm nhập, Bộ chỉ huy cho tiến hành "cuộc càn quét lớn" đầu tiên trong vùng châu thổ, nhưng là cuộc chiến tranh thực sự, đông quân, khí cụ nặng nề, ngay trong lòng quần chúng, đánh vào quần chúng. Mỗi lần như thế người ta đưa ra nhiều nghìn quân lính cứng rắn, các đội lính nhảy dù, những xe lội nước, những đoàn trọng pháo, những máy bay thám thính và tiêm kích. Muc đích là lấy lại những làng kháng chiến có quân chính quy, kể cả quần chúng, vế lý thuyết, chiến thuật bao giờ cũng thế, rất đơn giản. Trước hết là đập tan tất cả bằng ca-nông hoặc trọng pháo, đưa xe lội nước càn nát đồng ruộng, theo sau là những bộ binh tấn công vào các cụm cư dân. Trường hợp có chống cự thì máy bay tiêm kích can thiệp.

Có vẻ dễ dàng, hơi đơn giản. Nhưng không. Thật thê thảm, khó khăn, tàn ác. Những quân chính quy ấy lẫn lộn trong quần chúng không làm sao diệt hết được. Trong những năm tiếp đó để tiêu diệt họ, người ta tiến hành hàng nghìn cuộc "hành quân phối hợp" với một loạt mánh khoé. Kết quả là mỗi tuần, mỗi tháng hàng nghìn dân quê, hàng triệu đàn ông, đàn bà, trẻ em luôn luôn sống trong kinh hoàng, cận kề cái chết dưới bom đạn. Vì thế họ căm ghét người Pháp, đồng hóa hẳn với quân chính quy. Và để đạt được như vậy người ta mất biết bao người trên bờ ruộng và trong bùn - vì Đội quân viễn chinh cũng đổ máu ghê gớm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười, 2019, 10:07:59 pm

Cái chết trên đồng ruộng

Tôi được biết cuộc chiến tranh vùng châu thổ thực sự như thế nào ở Hà Nội, trong sàn khiêu vũ Paramount. Một gian phòng dài một trảm mét chất đầy quân lính, hàng nhiều trăm lẫn lộn xộn mọi cấp bậc, mọi đồng phục. Hầu như không có những người bên dân sự. Tất cả có vẻ thất vọng, từ những gái gọi tiều tụy đến dàn nhạc ầm ĩ. Đây là chỗ vui chơi của quân lính: bàn gỗ trắng, chao đèn bằng giấy, ánh sáng và nhạc điệu chói chang, tất cả thảm hại mặc dù những ý đồ sang trọng. Những người đến đây để quên chiến tranh họ vừa trải qua như buồn nôn sống lại.

Binh lính uống rượu trong cơn sốt vui; mọi khuôn mặt giống nhau ở chỗ thô lỗ và bạo lực, cùng đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại. Nhất là họ nói, tranh cãi, chán ngán nhắc lại những gì đã xảy ra đối với họ. Ngay trong bọn họ cũng không tốt, sẵn sàng đánh chửi nhau vì một tiếng nói. Trong những nhóm khác là đùa nghịch và những giọng nặng nề.

Tôi như ở trong một lò sát sinh. Những người ở đây biết họ sắp bị giết chết vì không có gì ngăn cản họ cả: trước hết họ là nạn nhân của sự nhu nhược. Sau này, thời kỳ Điện Biên Phủ là nỗi đau đớn tự hào và khắc kỷ. Ở đây như là một sự buông thả thú tính, thực tế sự tàn bạo ấy là sức lực tệ hại nhất của tình trạng mất tinh thần.

Tôi ngồi vào bàn những anh lính dù trẻ tôi quen biết một người. Họ uống Champagne và giãy dụa trên ghế theo điệu nhạc như người cô đơn thất vọng. Chủ thầu gái gọi đề nghị gái nhảy mỗi giờ năm mươi đồng bạc. Họ chấp nhận và lập tức những cô gái Trung Hoa hạng cuối đến, xấu và tàn tạ, với những mụn cóc trên má. Anh lính dù tôi quen nâng cốc: "Chúc sức khỏe ông hoặc đúng hơn là chúc sức khỏe những người đẹp ấy - mạng sống chúng tôi không vững chắc lắm." Anh nghiêng về phía tôi, dở say tâm sự:

- Chúng tôi muốn đùa vui vì vừa hành quân ở miền Nam châu thổ về. Đây là lần đầu tôi và những anh bạn trong đại đội đánh nhau. Chúng tôi vừa sang Đông Dương. Trận đánh kéo dài bốn mươi lăm ngày và chúng tôi mất mười chín người. Gay go nhất là trong các làng kháng chiến, chúng tôi ba trăm chống lại ba nghìn quân Việt. May mà không tử vong nhiều hơn."

Những lính dù cùng bàn không uống nữa. Họ sững sờ vì những việc xảy ra và tất cả rối rắm tuy không muốn, kể lại trận chiến của họ:

- Nhìn bề ngoài ba làng cũng như mọi làng khác, những mảng cây xanh giữa đồng bằng ngập lụt. Một thông tin viên báo trước có quân chính quy trong đó. Có lệnh đến xem sao. Để tới chỗ ấy phải qua một con ngòi và vượt nhiều trăm mét đồng ruông. Không chuẩn bị trọng pháo vì không thể đưa ca-nông đến từng làng. Xe lội nước đi trước, chúng tôi bì bõm theo sau.

Không có gì xúc động bằng đi như thế, nguy hiểm và lộ ra qua tấm màn nước, đến các làng dày đặc và bí hiểm, những hình khối trên cảnh lụt. Và không biết có tìm thấy gì không. Lần này, mới nửa khoảng cách, từ ba làng có vẻ yên bình và đóng kín, người ta đồng loạt dội súng cối vào chúng tôi. Chúng tôi dừng lại ngay; trong một giây tất cả nhào xuống nước, không có ai bị thương, mọi người cố tránh được. Xe lội nước lùi lại. Chúng tôi không thể cử động, phải ẩn trong nước chỉ vừa để thở. Quân Việt tiếp tục bắn. Chúng tôi yêu cầu trọng pháo nhưng họ ở xa quá, ngoài tầm bắn can thiệp. Những người bắn ca-nông để một giờ đưa súng lại gần, đẩy trên đường lầy lội và bị cắt đứt.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười, 2019, 10:08:34 pm

Trong lúc người ta đưa trọng pháo tới thì hàng rào tre làng gần nhất, loại hàng rào này dùng làm tường thành bao quanh đột ngột mở ra, tung lên như bởi một sức mạnh khó hiểu. Từ lỗ hổng ấy nhiều trăm quân Việt xông vào đại đội 1 đi đầu. Chúng tôi bắn điên loạn, xe lội nước xả lưới lửa địa ngục. Nhiều người Việt trúng đạn, ngã chìm trong nước nhưng vẫn còn nhiều. Họ vẫn im lặng tiến lên, đến tận đại đội 1 lính dù trận giáp lá cà xảy ra ngay trong bùn. Tình hình xấu đi. Nếu trong những làng cũng có những đoàn quân Việt Minh xông ra thì sẽ ra sao? Chúng tôi sẽ bị bao vây và có lẽ bị tiêu diệt.

Trong lúc đó trọng pháo gầm lên. Mấy phút sau tiếng máy bay rú. Khói và lửa phủ khắp các làng. Tất cả kết thúc rất nhanh. Quân Việt bỗng rút về làng cơ sở; người ta đuổi theo đánh bằng mọi cách, một số nữa bị giết. Khi những người sống sót về đến nơi, hàng rào khép lại phía sau họ, cũng kỳ lạ như mở ra hai giờ trước đó. Chúng tôi quá yếu không đuổi theo tấn công nên bỏ đi. Hôm sau, chúng tôi trở lại với quân tăng cường, một đội trọng pháo và máy bay bảo vệ vào làng không một tiếng súng; làng bị huỷ hoại non một nửa và hoang vắng. Quân chính quy đã im lặng rút đi, mang theo dân chúng. Suốt cả ngày người ta tuần tra khắp vùng không có gì cả.

Cả cuộc chiến tranh Đông Dương gói gọn trong câu chuyện trên và trước hết người ta không bao giờ nắm bắt được người Việt, đưa họ vào chỗ có thể giết họ. Bao giờ cũng thế trong sự phức tạp vô biên của việc hành quân có điều gì đó không ổn. Có thể như trường hợp trên là trọng pháo quá xa. Nhưng thường thường cuộc săn đuổi bị kẹt tại chỗ do thời tiết, một chiếc xe sa vào bùn lầy, việc truyền tin rối loạn, một tiểu đoàn đi lạc lối, con đường bị cắt đứt, một tin tức giả. Chỉ cần như thế, vì một điều không đâu ấy mà tất cả hỏng hết; thường thì không những quân Việt thoát được mà họ còn lợi dụng "sai sót" để làm hại.

Nhìn vào vùng châu thổ Bắc Kỳ, nước và ruộng chỉ gián đoạn vì những điểm tập trung các làng, tưởng mọi việc dễ dàng. Thế mà tất cả thật phức tạp, không làm được, không có giải pháp dù đã nhiều năm cố sức vô ích.

Mùa thu ấy người ta đã cố làm! Vì Bộ chỉ huy muốn thanh toán các "làng kháng chiến", dựa vào một vùng châu thổ đã được thanh lọc, khỏe chắc, để tiếp nhận cuộc tấn công tất nhiên của các sư đoàn ông Giáp đóng ở phía bắc và mỗi ngày càng sẵn sàng xông vào Hà Nội. Trong lúc chờ đợi là cuộc chiến chống "mục ruỗng". Than ôi! Kết quả đáng thất vọng. Trong mấy tuần lễ tình trạng mục ruỗng lan khắp miền Nam vùng châu thổ, trên một phần ba diện tích và hơn một phần ba nhân dân, đến vùng giáp ranh Hà Nội. Có một cuộc tấn công vào bốt Ngã Ba Thá cách thành phố hai mươi lăm cây số về phía nam. Bốt suýt bị chiếm tuy vào loại chắc chắn nhất ở vùng châu thổ, một loại công sự xi-măng với đội quân đồn trú đông.

Tôi đến đấy sau cuộc tấn công mấy giờ, vào buổi sáng tiếp theo đêm ghê gớm ấy. Tôi thấy người Việt dùng kỹ thuật "đánh mạnh", kỹ thuật dùng đối với những công trình đường số 4. Từ nay trong rừng cũng chẳng hơn đồng ruộng, không có gì là không lấy được; Ngã Ba Thá khởi đầu nỗi kinh hoàng của các bốt vùng châu thổ, kéo dài đến năm năm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười, 2019, 10:09:13 pm

Sáng hôm nay hàng nghìn cu-li trong đó có đàn bà, trẻ em trong các làng - xây dựng lại bốt với những chiếc thúng nhỏ, khổ sở, khúm núm, những người quy phục André Bardou, người da trắng vừa là chúa tể trong vùng vừa là chúa trời.

Trước hết vị chúa tể chỉ cho tôi một số mảnh vụn kim khí:

- Đây là những mảnh bom bay người Việt ném vào chúng tôi bằng một đoạn tre và đốt điện: loại lắp đặt tạm bợ. Nhưng phá huỷ, đâm thủng lớp bê tông sáu mươi phân là những đạn cối tám ki-lô súng DKZ người Việt làm trong các hang động Chi Nê. Rất cổ xưa nhưng chỉ cần mấy phát để đạp nát vọng lâu của chúng tôi.

Tôi đang trên nền cao. Một con lạch hai bên là bờ đê lượn quanh về ba phía. Xa xa cảnh vĩnh cửu của Bắc Kỳ, đồng ruộng tận cùng đến mãi chân núi. Yên bình. Bốt đặt trong thiên nhiên tĩnh lặng này như một cái hộp. Đây là một khoảnh vuông, tường gạch, trong một góc là khối xi-măng vọng lâu. Phía trong một cái sân, một nửa bị khối nhà ngủ chiếm sát tường và cùng chiều cao với tường. Toàn bộ được tăng cường bằng lô cốt.

André Bardou kể lại quân Việt đã làm thế nào suýt đập tan Ngã Ba Thá, cả sức mạnh địa hình vừa quân sự của bốt này:

- Tối hôm 12 tháng 11, đội đồn trú đã ngủ, không thấy có gì bất thường. Đến một giờ rưỡi sáng, nghe như có trận động đất. Những tên lửa lớn rơi xuống. Trời tối như bưng không trông thấy gì. Sau đó được biết một tiểu đoàn Việt Minh bố trí ngay dưới chân tường chúng tôi. Họ đào hố cá nhân và bố trí súng máy - làm việc lặng lẽ đến mức lính gác chúng tôi không nghe thấy. Làn đạn chính xác đến kinh hoàng - một quả đạn cối rơi xuống hầm đạn, những quả khác trúng lô cốt và vọng lâu thủng như một cái rây. Trong mấy phút chiếc bốt đẹp đẽ trở thành một vật lỗ chỗ khắp nơi. Chúng tôi chạy đến vị trí chiến đấu nhưng chỉ còn đổ nát, thậm chí không đứng được vào chỗ nào. Dưới làn đạn mạnh tất cả sụp đổ. Chúng tôi ít nhiều đều bị thương, vì đá hơn vì đạn. Vọng lâu không giữ được nữa phải bỏ lại. Chúng tôi ẩn vào nhà ngủ, chỉnh đại liên và bắn xối xả.

Quân Việt đã trèo lên vọng lâu, nhảy xuống sân, bị hạ sát dần bằng các loạt đạn mạnh. Một lô cốt còn giữ được bắn hết ba mươi két đạn. Chỉ khi sân đầy xác chết quân Việt mới không nhảy xuống nữa, ở lại trong vọng lâu nâng súng DKZ, trong suốt bốn tiếng đồng hồ bắn vào nhà ngủ. Tất cả đổ nát xung quanh nhưng chúng tôi chống cự. Lúc ấy bộ phận lớn của tiểu đoàn quân địch ngoài hàng rào tấn công vào các chỗ hổng nhưng bị nghiền nát bởi đường chắn của trọng pháo. Chúng tôi được cứu thoát.

Ca-nông của bốt bên cạnh Canh Hoạch khép chặt Ngã Ba Thá trong lưới lửa bao quanh, đạn cối nổ cách nhau từng hai ba mét. Vì vậy ít quân Việt đến được sát tường. Những người tới nơi ném thang trèo lên bị chúng tôi hạ ngay. Dù vậy cuộc tàn sát lớn xảy ra bên kia tường, nơi những làn sóng quân Việt nối tiếp nhau vượt đường bắn chặn của trọng pháo.

Cuộc tấn công vẫn không chấm dứt. Không có đoàn quân nào đến tiếp ứng chúng tôi trong đêm, quân Việt đã chặn các lối vào và chắc chắn không có người Pháp cố tới gần. Chúng tôi chỉ dựa vào lực lượng trong bốt và làn đạn cối bắn chặn bảo vệ. Phải cố thủ trong những điều kiện ấy cho đến sáng. Chúng tôi hoặc trọng pháo hơi chùn lại là xong đời. Thì giờ trôi qua chậm chạp không tưởng được. Mọi người tự nhủ: "Đêm vừa qua xảy ra những gì?" Không có gì xảy ra. Trời vừa sáng quân Việt ra đi, có lực lượng dân công mang theo những xác chết.

Tôi nhận thấy - người ta không chỉ sửa chữa bốt mà còn dọn sạch khu này; người làm nhặt nhạnh tất cả những gì họ thấy, những mảnh kim khí và những mảnh người - các vật nhỏ cứng, lớng lánh và các vật lớn, mềm và đầy máu.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười, 2019, 10:09:44 pm

Rồi trên một con đê nhỏ, một hàng người bận quần áo đen đang đi, giữa là một người cao lớn quá khổ. Ông chủ vùng này nói với tôi:

- Đấy là Vandenberghe cùng đội biệt kích. Họ sẽ chui vào rừng núi Chi Nê thám thính để biết tiểu đoàn tấn công Ngã Ba Thá ra sao rồi. Chỉ có anh ta mới dám làm công việc ấy.

Vandenberghe: Chúa của chiến tranh, một kẻ thô lỗ, con của trại trẻ, chăn gia súc, mù chữ, đi lên từ tầng lớp thấp nhất của xã hội. Con người tàn bạo ấy, trong sâu kín của tâm hồn, trong hố sâu của bản chất, có tất cả những gì để trở thành một ông thánh hoặc một tên sát nhân - đấy là một tên sát nhân sinh ra để giết người không chờn tay, thủ lĩnh, tuy có tính cách lãng mạn của những người da đen thông tục, của những bài ca dân gian bi ai. "Đại lộ Sát thủ" của anh là cảnh đẹp chỗ con sông Đáy khúc khuỷu ôm lấy những tảng đá vỡ của vùng núi Chi Nê, đoạn cuối những đồng ruộng đơn điệu. Nhưng vì chiến tranh, anh ta là một anh hùng.

Người ta kể về anh rất nhiều, về sự tàn ác và mưu mẹo của anh, về sự táo bạo không lay chuyển nổi. Anh tập hợp xung quanh mình nhiều trăm tên giết người Châu Á, những kẻ khát máu, lạnh lùng tính toán và ẩn náu - nhưng anh chỉ huy chúng như chơi, thoải mái, dễ dàng đáng kinh ngạc. Anh có một đao phủ là một thầy tu cũ, tinh tế kỳ lạ trong việc chặt đầu và róc xương. Bản thân anh là một đồ tể thiện nghệ. Đấy là một tướng lính đánh thuê - mọi người thoải mái trong băng nhóm anh ta được ở tổ chức như một hội anh em về hưởng thụ, chiến công và cái chết; có đủ loại âm mưu, đồng loã như vẫn có ở đáy xã hội.

Bây giờ Vandenberghe đuổi theo quân Việt. Bốt đã cứu thoát nhưng sau bao thời gian! Đêm trước quân Việt suýt chiếm được. Mọi điều kiện đã hội tụ đủ, kế hoạch không sơ hở, chi tiết, chính xác và mọi việc bắt đầu thuận lợi. Khi chỉ còn kết thúc thì họ không biết làm thế nào. Như trong quá trình hành động, họ "bồng bềnh" vì một số việc làm đã không dự kiến và họ không thể phản ứng tức thời.

Chủ vùng này nói với tôi:

- Quân Việt thiếu yếu tố quyết định.

Tất cả lặp đi lặp lại ở Đông Dương! Đấy là việc bắt đầu lại vĩnh cửu và bi thảm. Cũng câu nói ấy trước kia tôi đã được nghe ở đường số 4, ở đấy cũng thế quân Pháp đã thoát khỏi tình thế vô vọng do thiếu điểm quyết định cuối cùng ấy. Người ta biết sẽ kết thúc ra sao; qua kinh nghiệm ở biên giới, người Việt sẽ áp dụng ở vùng châu thổ và rồi bất cứ Ngã Ba Thá nào cũng sẽ đổ.

Vì trong lúc quân Việt cải tiến, chậm nhưng chắc chắn, tình hình quân Pháp xuống cấp dần. Carpentier, vị tổng chỉ huy biết điều đó viết những chỉ thị giải thích "làm thế nào để tăng cường khả năng phòng vệ của các bốt". Ông hướng dẫn phủ đầy đất để chống ba-dô-ka, đưa lưỡi sắt ra ngoài, xa các công trình để tiếp xúc làm mìn nổ sớm, cho ít vôi vào xi măng. Nhưng đấy chỉ là những biện pháp tạm thời. Phải nghĩ những phương pháp mới để "giữ" vùng châu thổ, để các bốt khỏi là bẫy chôn những người bảo vệ. Phải tìm cách chống lại các sư đoàn sắp tràn tới và đã tin chắc vào chiến thắng. Phải chữa bệnh cho Đội viễn chinh, nhất là vấn đề nghị lực và lòng tin. Nhưng ai có tinh thần ấy?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2019, 09:48:49 pm

Những ngày buồn tẻ nhất

Về một mức độ nào đấy, kinh hoàng là điều tẻ nhạt không có gì xảy ra nữa và không còn hy vọng. Suốt tháng mười một những tuần lễ không dứt trống rỗng, là sự sa sút tâm hồn, chấp nhận một số phận hiển nhiên và bi thảm. Việc chờ đợi trận đánh lớn, cuộc tấn công hàng loạt của những sư đoàn ông Giáp mỗi ngày càng trở nên nhức nhối, bực bội: có ai không biết việc bố trí quân lâu dài của người Việt kết thúc đúng vào phía bắc Hà Nội? Người ta thậm chí chắc chắn vào cuối tháng chạp hoặc đầu tháng giêng, hàng chục nghìn quân chính quy sẽ lao tới đánh đòn quyết định vì lúc ấy mưa phùn phủ bức màn xám xuống vùng châu thổ, máy bay hầu như không cất cánh được nữa, xe tăng và ca-nông ngập vào bùn trên đường và khí cụ của người Pháp sẽ mất phần nửa hiệu quả.

Về phía người Pháp là con số không hơn bao giờ hết, nhìn bề ngoài thậm chí không còn sự chỉ huy. Cuối cùng tướng Carpentier đã loại bỏ được Alessandri vào đầu tháng mười một. Ông người Corse xin từ chức hoặc bị từ chức. Tại sao việc thất sủng này đến đúng lúc ấy, không ai biết. Hợp lý hơn là đưa ra sau những tai họa của đường số 4 một kẻ hiến sinh, có lẽ có ích về tinh thần. Nhưng người ta đã chờ đợi. Có sự giải thích nhưng đưa ra ở nhà ăn - rất bẩn thỉu.

Người ta nói Carpentier hiểu rõ nguy hiểm nếu tự mình làm, tự đưa ra chiến lược, đã thông minh lẩn tránh vấn đề Lao Cai và những cuộc di tản mới. Xảo quyệt ông thấy để cho Alessandri làm sẽ có lợi cho mình hơn: nếu ông này thành công, ông ấy đã quá mất uy tín nên không là điều quan trọng và nếu ông ta thất bại thì còn gì đơn giản đề cho nhận xét: "Các ông thấy rõ là ông ấy bất lực, là kẻ chịu trách nhiệm thực sự về thảm họa đường số 4". Và lúc đó tướng tổng chỉ huy sẽ vô can về sự thất bại qua những thất bại mới.

Mọi việc ở Lao Cai diễn ra suôn sẻ. Đột nhiên ông người Corse trở thành vô ích, là người thừa. Mối căm hận giữa hai viên tướng vẫn nguyên vẹn, không khoan nhượng, cho dù sau những tai họa chung họ làm ra vẻ nhã nhặn với nhau, chơi trò ú tim với nhau. Carpentier biết việc phục tùng của Alessandri là giả dối. Ông này đau khổ nhưng có đặc tính càng bất hạnh càng nghĩ nhiều, càng kín đáo hơn, càng mơ trả thù, trả thù cả thế giới, nhất là Carpentier và ông Giáp, hai người liên kết để làm hại số phận ông. Alessandri khốn khổ! Sau mấy ngày suy sụp, sau mấy tuần lễ khúm núm giả tạo và bực bội khôn ngoan, ông không chịu là kẻ thất bại nữa, bắt đầu lại nói: "Để giông tố qua đi rồi chúng ta lại phản công". Muốn thế ông lại bí mật lao vào những tính toán phức tạp trên giấy. Ông chính thức tuyên bố: "Tôi phải có nhiều hơn nữa để phòng lại lực lượng cần thiết để làm người cứu tinh, để vào đập tan quân ông Giáp trong núi rừng.”

Alessandri hoàn toàn ảo tưởng. Trong mù quáng, với ý tưởng cố định, ông không kể gì đến nỗi chán chường của Đội quân viễn chinh, sự suy sụp tinh thần, số lượng ít đối mặt với các sư đoàn ông Giáp. Trong ảo giác thậm chí ông không có những biện pháp sơ khai để chặn đứng mối đe dọa vào Hà Nội - ông không làm gì cả, chỉ mơ màng, tất cả là làm thế nào để Carpentier khỏi đoán ra, tránh một cuộc gây rối mới. Dĩ nhiên Carpentier chẳng khó gì mà không đoán ra và ông báo cáo với Paris "Con người này điên. Ông ta sẽ đưa chúng ta đến một thảm họa ghê gớm hơn ở vùng biên giới". Paris sợ hãi thỏa mãn tổng chỉ huy, không báo trước, tìm một người ít có chủ trương thất bại thay thế ông ta.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2019, 09:49:44 pm

Thế là Alessandri ra đi, như sét đánh vì ông không chờ đợi điều ấy. Cuộc đời còn lại ông là hình ảnh của người nặng trĩu bất công nhưng luôn tranh đấu quyết liệt, tăng cường giấy tờ, vận động, lập luận không mệt mỏi để nêu rõ: "Không phải tôi, không phải lỗi của tôi." Lại vẫn là sự bướng bỉnh vô ích! Do chạy chọt nhiều ông trở thành cố vấn riêng của Bảo Đại, mơ hồ, gần như vì thương cảm. Rồi ông biến mất vĩnh viễn, một viên tướng về hưu vô danh trong một căn nhà ở Bờ biển Xanh, thành quả tiết kiệm của ông. Không bao giờ ông hiểu mình là nạn nhân đồng thời của những ảo tưởng của mình và của một thế giới quá phức tạp. Ông vẫn rất khổ sở vì một lần nữa chịu đựng một hội đồng điều tra thanh minh cho Carpentier, gần như thanh minh cho Constans nhưng đè nặng ông, người có tội ít nhất về đường số 4 và những thảm bại. Nhưng điều đó vẫn là vận mệnh ông, muốn trèo lên cao hơn, thật thà tin mình thiên tài để rồi sụp đổ.

Trừ một số trung thành, vấn đề Alessandri ít làm Đội quân viễn chinh xúc động: chịu trách nhiệm hay không, ông đã quá tàn tạ, mang dấu vết thảm họa, thậm chí là mẫu người kết thúc xấu. Lời bình luận duy nhất là: "Nhưng tướng Carpentier cũng không ra đi nốt?"

Carpentier vẫn đấy, thậm chí không biết lấy ai thay thế Alessandri; trước hết theo ông, thực tế chẳng có ai. Một tướng Garbey nào đó có vẻ là một người mạnh, được thăm dò sau khi đến xem xét tại chỗ.

Đối đầu với người Việt đang rất tích cực chuẩn bị là một Hà Nội trống không, chỉ những người làm ra vẻ. Không ai chỉ huy - người ta để cho quân đội tự xoay xở. Lúc ấy không có gì lạ lùng hơn thành trì, chỗ ban tham mưu Bắc Kỳ đang làm việc. Đây là pháo đài cổ của người Annam bị người Pháp chiếm cách đây một thế kỷ, còn lại một bức tường thành ghép đá to và xù xì, vẫn còn lại lỗ một viên đạn do lính thủy đánh bộ Pháp bắn trước kia. Bây giờ đây là một khu bàn giấy bao la, bẩn, bỏ phế. Những ban, phòng không kể xiết của chiến tranh được bố trí trong các căn nhà của vùng quân sự cũ được làm dần theo sự cần thiết của chế độ bảo hộ dở thức dở ngủ. Ở đây đầy các sĩ quan, vẻ thảm hại của tầng lớp tiểu tư sản: tất cả gắn chặt vào phạm vi hẹp hòi của công việc, ai biết nhiệm vụ nấy, dựa vào áp dụng chặt chẽ những điều quy định. Tất cả rất hạn chế. Một nhà báo có ngày đến đó với tôi nói tôi: "Tất cả đám người ấy đều có đầu óc làm cuộc chiến thất bại".

Thế nhưng trong những ngày kịch tính này, chính những người kém cỏi ấy, những người vô danh tuy mang lon, chỉ huy Bắc Kỳ. Thiếu các nhân vật quan trọng khác, mọi trách nhiệm đè nặng lên đại tá Gambiez giữ nhiệm vụ tham mưu trưởng: con người nhỏ thó gân guốc đã chiếm và rút khỏi Thái Nguyền. Vẫn là khuôn mặt khó coi đối với một quân nhân. Và ở bàn giấy cũng như trước đây trong chiến đấu, ông chỉ huy rất nhã nhặn, tinh tế, với những cách thức tỉnh lẻ. Trong ban tham mưu ông làm những gì có thể làm một cách vô vọng, nhưng không có trọng lượng. Ông chỉ là đại tá và ông có một sự khờ dại nào đó mà không ai cho là khôn khéo hoặc đạo đức giả bề trên; vì ông có tài, không ai biết làm thế nào mà ông luôn thoát khỏi những "ngây thơ" đó. Cuối cùng ông chẳng được việc gì nhiều.

Tất nhiên sự trống không đáng sợ ấy không ngăn cản Bộ chỉ huy mỗi ngày càng nảy nở những lý thuyết mới; tôi vẫn kinh ngạc về khả năng trí tuệ của các ban tham mưu đã sáng tạo những lập luận xuất sắc để thanh minh, giải thích. Đã đến lúc phổ biến quan điểm việc bình định đã qua rồi, phải thay đổi, chuyển sang chiến đấu. Ý tưởng cơ bản là hình thành một đoàn quân thực sự chiến đấu, với những đội lưu động, trọng pháo, máy bay xung kích, những gì là sức mạnh về lưới lửa. Người ta đang ở mức tiểu đoàn trong lúc quân Việt đi đến trung đoàn, thậm chí sư đoàn. Người ta chuyến sang đội lưu động. Đấy là một đoàn quân nhỏ được trang bị cần thiết để tự chiến đấu, gồm ba tiểu đoàn bộ binh, một số ca-nông, xe tăng, một ít công binh. Cũng có vài ý kiến bổ sung: hệ thống hóa quân biệt kích, các ban ám sát để gây bất ngờ và khủng bố người Việt; lập vùng trắng, quanh vùng châu thổ xây dựng một vành đai đốt phá ngăn cản sự xâm nhập và mọi tiếp vận của quân địch.

Nhưng chương trình ấy vẫn ở dạng suy nghĩ - chỉ là những ý tưởng trên không, không bắt đầu vận dụng. Vả lại từ Hà Nội cho đến các quân khu, khắp nơi không đồng lòng. Mọi người công nhận phải chiến đấu, phải có những đội lưu động. Nhưng khi yêu cầu có một đơn vị, thậm chí một người để xây dựng, chỉ huy quân khu đưa tay lên trời kêu lên: "Tôi không thể. Nếu lấy người của vùng tôi đi, công cuộc bình định sẽ ra sao?" Trở ngại khắp nơi, làm khổ những người ở văn phòng điều chỉnh kế hoạch. Vậy là người ta dè dặt chẳng làm gì cả như còn nhiều thì giờ, như cuộc sống, cái chết không phải chẳng còn mấy tuần nữa. Người ta biết, và chịu đựng may rủi của sự kiện.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2019, 09:50:39 pm

Tính thụ động ấy càng đáng sợ hơn không chỉ vì quân Việt tập trung hướng về Hà Nội và huỷ hoại vùng châu thổ. Bỗng nhiên trong tháng 11 có mối nguy hiểm nghìn lần lớn hơn. Nỗi sợ hãi quân Việt chồng chất thêm nỗi sợ quân Trung Hoa. Cách đây nhiều nghìn cây số, quân đội Mao - hàng trăm nghìn có lẽ hàng triệu người bỗng lao vào các đội quân của McAurthur, nhấn chìm quân lính Hoa Kỳ nhiều lần lớn hơn, được nuôi dưỡng, trang bị vũ khí tốt gấp đôi. Chỗ ấy là thảm họa của người Mỹ. Nhưng khắp nơi ở Hà Nội người ta tự hỏi giông tố tàn phá Triều Tiên có tràn ra xung quanh Trung Quốc, trước hết là lan sang Bắc Kỳ không.

Tác động của sự thất bại Hoa Kỳ ở Triều Tiên thật rộng lớn. Mọi người tự nhủ: "Đây là cuộc đấu cuối cùng của người da vàng chống người da trắng, là sự kết liễu người da trắng ở Châu Á." Từ nay Trung Quốc là lò lửa sáu trăm triệu người ở đỉnh cao say mê. Sau nhiều thế kỷ ngủ, con rồng nhà trời đã thức tỉnh - và tai họa cho ai gần nó, trong tầm tay nó!

Ở Hà Nội là ý nghĩ nhức nhối: "Quân đội đỏ có can thiệp vào Bắc Kỳ không?" Trong lúc ở vùng châu thổ này người ta chẳng làm gì cả, Đội quân viễn chinh sa lầy trong tình trạng bị hành hạ vì định mệnh. Vả lại cố gắng làm một việc gì đó phỏng có ích gì? Nếu từ Trung Quốc nổi giận tràn ra làn sóng người không dứt, Bắc Kỳ vô vọng sẽ là bước đường cùng của các đơn vị Pháp, bẫy chuột chết người, sẽ bị nhấn chìm toàn bộ.

Nếu bị thua riêng người Việt, người ta chắc còn rút bộ phận lớn quân qua Hải Phòng. Nhưng nếu quân lính Mao phối hợp với quân lính ông Giáp, nếu họ ào qua biên giới thì sẽ là thảm họa không cùng, không một đơn vị, một chiến binh nào trở về nước được.

Nhưng vẫn chẳng xẩy ra việc gì. Những ngày trôi đi tẻ nhạt hơn, còn những tưởng tượng đầy giả thuyết càng ngày càng đáng sợ. Sau bao đảm bảo hoà bình, bên cạnh không còn là một Trung Hoa mềm mỏng nữa mà đầy giận dữ. Những lời nói và việc làm cũng đầy đe dọa. Chu Ân Lai tuyên bố trên radio: Đông Dương chỉ còn là một mặt bằng xâm lược của Mỹ. Chúng tôi không thể chịu đựng tình trạng ấy lâu hơn nữa. Ở Quảng Đông trên các bức tường trong thành phố Châu Giang đều viết khẩu hiệu: "Chúng ta sẽ chặt đứt những bước chân đẫm máu của chủ nghĩa đế quốc Pháp." Mỗi ngày mối nguy cơ càng thể hiện cụ thể: ngoài người Việt, người Trung Hoa cũng có những chuẩn bị quân sự rộng lớn. Họ tiến hành điều quân: quân đoàn 2 tập trung ở Vân Nam, quân đoàn 3 ở Quảng Tây, tập hợp trên hai trục xâm chiếm, một theo đường Lao Cai, trục kia qua Cao Bằng - Lạng Sơn. Họ bố trí một ban tham mưu lớn ở Nam Ninh, cách biên giới hai trăm cây số, do một viên tướng nổi tiếng chỉ huy.

Thực tế, tin tức tình báo cho biết Trung Quốc không tấn công Đông Dương vì bản thân Đông Dương, vì những gì nó có. Nhưng họ có thể đánh để chống lại những gì xảy ra ở những nơi khác.

Như vậy, Đông Dương tê dại trong cuối năm này đầy kịch tính, cuộc phản công chắc chắn của Việt Minh, cuộc phản công Trung - Việt rất có khả năng. Và trước sự biến động rất đẹp của cấp trên, những người thực sự hiểu là các sĩ quan trong các đội quân, vật cá cược là mạng sống của họ. Họ không muốn chết như vậy, do lỗi của người khác do sự ngu ngốc.

Tất cả triết lý của tướng Carpentier chứa đựng trong mấy câu thân mật với đại tá Gambiez, tổng tham mưu trưởng ở Hà Nội và dùng làm chỉ huy thay thế: "Tôi có một điều phiền phức lớn, tôi không muốn có những quấy rầy khác nữa. Ông tự xoay xở lấy". Và đấy rõ ràng là cách đi tới những phiền phức lớn hơn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2019, 09:51:39 pm

Người cứu tinh giả mạo

Lúc ấy bỗng xuất hiện người cứu tinh, nhưng đúng không phải một người cứu tinh thật mà là giả mạo. Trước hết người ấy phải có ngọn lửa và sự trong sạch, nhất thiết phải có tính chất hai mặt ấy.

Ông ta không có vẻ thế. Đấy là tướng Boyer de Latour đã khô héo và sạm nắng ở Sahara. Cuối tháng mười một ông đến với hai vị chúa, những gương mặt chính, đại tá Edon, người tròn, luôn có dáng vẻ một chủ đất đi thăm đồn điền, và đại tá Meric, đẹp gần như khổ hạnh, gầy, không ngừng cắn rứt "lương tâm" tự nhủ có phục vụ sự thật không.

De Latour - người ta biết rõ ông ở Châu Á. Vì một, hai năm trước ở Nam Kỳ ông đã liên minh các giáo phái, sáng tạo việc bình định. Vậy là ông có tiếng tăm lâu dài. Ở Paris, Chính phủ bất ngờ nắm lấy ông, đưa lên một chiếc máy bay bảo đi cứu Đông Dương nhưng gần như không có chỉ thị, không nói làm thế nào, không gì cả.

Vậy là ông "nhảy xuống" Bắc Kỳ cùng số thân tín của mình. Bao giờ cũng thế, ông xuất hiện có phong cách, thậm chí cường điệu, sẵn sàng mang vỏ bọc một ông già càu nhàu, nông dân, nhưng rất tinh quái, "mánh lới" kinh khủng và tự nhủ mình đến làm gì trong tình hình khó khăn này.

Những quân nhân có vẻ ngoài đơn giản nhất, thô ráp vui vẻ nhất thường giấu trong lòng những phức tạp kỳ lạ: đấy là trường hợp de Latour. Lúc đầu mọi tham vọng của ông không có giới hạn. Trước kia ông ra đi chẳng là gì cả. Ông muốn tất cả. Juin đã nói với ông ở Paris: "Ông xoay xở cho tốt ở đấy. Trong mấy tuần nữa ông sẽ thay thế Carpentier." Vậy là Juin bắt đầu thả Carpentier trung thành của ông mà ông ta không nghi ngờ gì.

Nhưng nhất là de Latour này không chỉ dẫn, không hiểu biết thực sự có một dạng thông minh, trí thông minh nguyên chất, trong trạng thái thiên nhiên, cấu thành mưu mẹo dưới dạng tàn ác. Trước tiên, điều ông thích là viên tướng "thoải mái", khéo léo theo cách của mình vừa càu nhàu, phân phát phần thưởng cho những người cuồng tín mình, những kẻ mình nâng đỡ, trước hàng quân sau những "chiến thắng".

Bắc Kỳ đối với ông là một cơ hội, miễn là phải khéo léo. Vì có thể đây là một hố sâu và ông không muốn rơi vào đấy. Khi đến nơi, ông tuôn ra với những người thân tín: "Tôi không muốn giam hãm mình trong tổ ong bò vẽ này. Tôi, các anh biết đấy, tôi không thích chơi bài pô-khơ với một đôi chín chống lại người có đôi át. Mà ở đây ông Giáp có những lá bài tốt".

Thâm tâm, ông có ý tưởng của mình, trình bày mật trong một báo cáo ngày 16 tháng chạp: Rút chân rút khỏi Bắc Kỳ và "đánh lớn" ở Nam Kỳ dễ phòng thủ hơn nhiều, có gạo, những lợi ích kinh tế và tài chính. Ông muốn mình là thống đốc Sài Gòn của đồng bạc và cao su.

Lẽ tự nhiên de Latour không bộc lộ hoàn toàn. Trong những văn bản viết cho ông Letourneau và những nhân vật khác, ông gợi ý người ta có thể xây dựng khoảng một trăm tiểu đoàn Việt Nam để chiến đấu ở miền Bắc còn Đội viễn chinh Pháp rút về miền Nam. Cũng là một cách bỏ Bắc Kỳ không nói ra.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2019, 09:52:12 pm

Ngay từ đầu, de Latour "khù khờ" - thực tế ông chỉ khù khờ ngoài mặt - đầy mâu thuẫn, đúng ra là đầy thủ đoạn. Ông muốn rút khỏi Bắc Kỳ nhưng có vẻ phòng thủ vùng này vì đấy là nhiệm vụ chủ yếu của ông được giao. Thế là bên ngoài, trước hết ông làm những gì cần thiết để chuẩn bị chiến đấu. Và là một con vật giả danh, ông đặt ra những biện pháp mạnh, thông minh. Ở Nam Kỳ ông đã nói: "Mỗi cây số phải có một vọng lâu", ở Bắc Kỳ ông tuyên bố: "Phải có sáu đội cơ động để chiến đấu." Vì vùng châu thổ sắp bị tấn công này không có một loại dự trữ nào: tất cả rải rác ở các bốt khắp nơi. Ông độc ác rút đi của các đại tá, thiếu tá, đại uý giữ đất đai, những tiểu đoàn, đơn vị, người để xây dựng các đoàn quân chiến đấu. Tất cả rên rỉ rồi sẽ mất hết, quân Việt sẽ thâm nhập khắp nơi nhưng de Latour làm cho họ im lặng một cách đơn giản: "Tôi bất kể... Các ông thu xếp lấy. Gửi cho tôi những gì tôi cần". Hơn nữa ông bố trí mặt trận trước Hà Nội, cho làm pháo đài nhẹ khắp nơi, các loại hầm hào, học theo một ít của chiến tranh 1914-1918 - làm chỗ dựa cho các cuộc hành quân.

Tai họa là tinh thần trong lòng Đội quân viễn chinh ngày càng xuống, sĩ quan và binh lính cảm thấy de Latour tuy làm những việc ấy nhưng không tin vào đấy, ông ta nghĩ ở miền Bắc đã thất bại và chỉ nghĩ ra đi. Căn bản là thiếu tác động về tâm lý. Khá kỳ cục là ông de Latour giỏi tập hợp này không tiếp xúc với các đội quân, không biết nói với họ. Ông ta cũng chỉ thực sự thoải mái với cận thần, với những người ủng hộ mình, các nhóm ở Bắc Phi. Những đơn vị ông đến thăm, trước hết các đội quân ta-bo, pháo thủ Maroc và Algéria: đấy là thế giới của ông. Thì giờ còn lại ông bận bịu, không riêng vì tình hình mà còn vì ông bị bệnh kiết lỵ và lo lắng về bà vợ trẻ, rất trẻ ông phải để lại ở Pháp.

Tinh thần uể oải tiếp tục. Mối nguy hiểm càng hiển nhiên về người Trung Hoa lu mờ đi, về người Việt trở nên o ép. Sau một thời gian dài chờ đợi, đã đến lúc mỗi ngày các sư đoàn ông Giáp càng gấp rút. Họ đã tung ra cuộc phản công đầu tiên - mới chỉ là một hành động phụ, với một sư đoàn, xa nhưng là điềm báo bão, chứng tỏ bộ máy phá huỷ đã khởi đầu. Đấy là vùng bờ biển gần vịnh Hạ Long, đường đi Tiên Yên và đầu đường số 4 - một lần nữa phải di tản, rút đi các bốt, các khu đồn trú. Mệnh lệnh là vừa đánh vừa rút lui. Nhưng Bình Lư muốn chống cự, mất đi một trăm năm mươi người và cũng phải bỏ lại.

Sức nặng tăng lên, sức nặng đè bẹp của người Việt. Dù sao Đội quân viễn chinh còn chiến đấu tốt. Vì sau đợt tạm ngưng là cơn ác mộng. Quân chính quy của Giáp "sờ đến" vành đai các công sự phía bắc Hà Nội.

Vào tháng chạp bắt đầu nỗi sợ hãi lớn ở Hà Nội. Lúc đầu thành phố này không tin có sự đe dọa. Trước kia đây là thành phố của chính quyền cai trị. Sau những "tai họa" năm 1946 nhân dân hồi cư dần dần - và là sự thịnh vượng của những "trung lưu", những chủ quán rượu, cửa hàng, gái đĩ, những viên chức. Trong Hà Nội này cái gì cũng nhỏ, u ám dưới bầu trời thấp, xung quanh mặt hồ ngọt ngào và nhỏ nhoi¬, với những ngôi nhà có kính, ngược hẳn với Sài Gòn ngoại lai. Những người ở đây không sống cuồng loạn, trừ những người sẽ chết cho chiến tranh. Những người này làm việc trong các văn phòng, những người khác buôn bán với lính trơn. Không có những ý đồ lớn, thậm chí không có đầu cơ đáng kể.

Dân thường người Pháp là những mẫu người cổ xưa sống bằng ký ức, loại cựu chiến binh 1914-1918 sau đó làm việc ba mươi năm ở "thuộc địa". Họ đều ít nhiều dân quê hóa nhưng vô cùng khinh dân quê tuy nhuốm chút lòng tốt. Không có gì làm thay đổi được bản chất họ, suốt ngày họ chứng minh "dân quê không biết đánh nhau", cả những người Việt Nam trong thành phố, mặc dù trước sức mạnh Việt Minh, vẫn không tin chắc một quân đội Pháp có thể bị ông Giáp và binh lính da vàng đánh bại hoàn toàn, cả Hà Nội lúc đầu rất bình tĩnh vì ngu ngốc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2019, 09:52:41 pm

Rồi dần dần nỗi lo lắng thâm nhập, không vì sự tuyên truyền Việt Minh. Đấy là do nỗi sợ hãi của quân đội Pháp, tất cả những triệu chứng lo lắng của quân lính và viên chức lây nhiễm bất kể những bảo thủ lạc quan. Lâu dần Hà Nội tự nhủ có thể quân Việt nói thật, có thể họ sẽ vào Hà Nội ngày 19 tháng chạp như Hồ Chí Minh đã công bố. Có những dấu hiệu liên quan thật ghê rợn. Hình như một con rùa khổng lồ, mai dài hơn một mét rưỡi, xuất hiện một lúc trên mặt nước Hồ Gươm, bên cạnh ngọn tháp linh thiêng; con vật sau đó lại biến mất trong nước sâu. Ngay chiều hôm đó cả thành phố nói về sự xuất hiện ấy. Vì trong dân chúng chẳng ai không biết đấy là điềm báo. Theo truyền thuyết con quái vật đáng tôn kính ấy chỉ nổi lên trước một biến động lớn, khi sắp có một tình hình mới. Như vậy là lời cán bộ Việt Minh thông báo sẽ chiếm thành phố trong mấy ngày nữa, được trời xác nhận.

Sự chờ đợi lâu dài tăng lên hàng ngày. Dưới trời mưa phùn Hà Nội chuyển từ thiu thiu ngủ bình thường sang trạng thái chết: mọi hoạt động ngừng lại, chấm dứt, cảnh tê liệt lan rộng. Không có những tụ họp trên đường, không có những khuôn mặt lo âu, những lời nói run rẩy nữa; dân chúng chấp nhận điều hiển nhiên.

Tai vạ rơi xuống cả những dân thường Pháp từ lâu, cho đến tuần lề cuối cùng, vẫn bám vào bản năng xưa, Hà Nội là của họ, không tin vào biên giới đã mở, vào quân địch đã tập trung cách đấy mấy cây số. Sự sụp đổ của họ người ta thấy qua tờ báo lá cải địa phương dày đặc những thông báo "rao bán". Chẳng mấy chốc không còn mấy nhà không có biển "Bán ngay", cả một khu phố trở thành "một chợ trộm cắp", ở đó mọi nền văn minh Pháp, những gì đại diện cho nó đưa ra bán đồ cũ không có ai mua.

Cả Hà Nội đang trong kinh hoàng. Một đợt chuyển đi những tài sản, đồ vật. Tướng de Latour làm ăn có kết quả ở Nam Kỳ với những người của đồng bạc, dĩ nhiên không hề an tâm mà ngược lại.

Khi ông đến Bắc Kỳ, mọi người, kể cả dân thường, biết ông đến làm gì. De Latour tuyên bố sẽ phòng thủ Hà Nội đến cùng, những điều ông làm là di tản, với "danh nghĩa đề phòng". Ông gửi đi Hải Phòng trên những đoàn xe đồ sộ mọi nhân viên, dịch vụ và những dụng cụ lớn. Có vẻ để "giải tỏa" Hà Nội, tránh tình trạng lệ thuộc khi bắt đầu đánh nhau. Nhưng ai cũng biết đấy là sự di tản và tiếp tục không ngừng.

Vả lại nỗi ám ảnh của de Latour là chiếc cầu Doumer, chiếc cầu sắt mênh mông hai cây số, con đường, rút duy nhất, phương tiện duy nhất vượt sông Hồng: nếu cầu bị cắt, Đội quân viễn chinh sẽ bị tắc nghẽn. Ông tăng cường phòng vệ, dùng lực lượng gần như một sư đoàn để giữ cầu, phải bảo đảm cầu nguyên vẹn. Điều làm cho dân Hà Nội lo lắng là một thông báo của tướng de Latour. Ông tuyên bố người Hà Nội nên thu vén nhanh đồ đạc và ra đi, vì nếu có lúc nào đó quân đội rút đi, sẽ không lo gì được cho họ. Quân đội giành cho riêng mình, cho những vận chuyển lớn, việc qua cầu Doumer và con đường Hà Nội - Hải Phòng, không một dân thường nào được đi qua đó.

Đòn cuối cùng đánh vào tinh thần dân chúng là lệnh di tản phụ nữ và trẻ em Pháp. Lần đầu tiên sau bao lần di dân người da vàng tôi thấy cuộc di dân người da trắng ở Đông Dương. Chính phủ chịu trách nhiệm đối với những người quá nghèo, gần bốn nghìn. Những người ấy là những người da trắng, lai da vàng, hầu như người da vàng, những người thuần túy da trắng có phương tiện tự di tản, không phải giúp đỡ. Thật thảm thương. Tôi thấy ở Hải Phòng một chỗ tập trung lên tàu của những người Pháp ấy - có những người phụ nữ ăn trầu, trẻ con, là những bà con, gia đình người Pháp bản thân cũng đã là người Việt hơn người Pháp. Họ đi về chỗ không quen, chẳng có một xu, sẽ thất bại ở một nơi nào đấy, đó là toàn bộ thảm kịch của người lai. Giữa cảnh tàn tạ ấy tôi nhận thấy một đôi vợ chồng già hoàn toàn da trắng. Họ lo lắng hỏi tôi: "Không biết ở Pháp chúng tôi có bị chết rét không? Chúng tôi chẳng biết ra sao nữa; đã bốn mươi năm chúng tôi chưa trở về bên ấy."

Ngày 14 tháng chạp đến gần. Tương lai bí mật tuyệt đối. Nhịp điệu di tản tăng nhanh: ở sân bay Gia Lâm một dãy máy bay đặc biệt chuyển đi tất cả những gì có thể được khi còn có thời gian. Máy bay ầm ì trên thành phố nhợt nhạt trống vắng mãi. Các thềm bán cà phê là những nơi ẩn cuối cùng của cuộc sống, ở đây những người ở lại tỏ ra can đảm. Chính quyền hứa bảo vệ từng đường phố, từng mái nhà nếu cần. Phòng Nhì nói các sư đoàn ông Giáp đã chuẩn bị xong, cuộc phản công hàng loạt sẽ bắt đầu vào bất cứ ngày nào, giờ nào. Các đội quân Pháp đã vào vị trí nhưng hầu như chẳng còn hy vọng gì.

Trong nỗi thất vọng ấy, Bernard de Lattre viết thư cho bố: "Chúng con phải có một chỉ huy biết chỉ huy, những kíp mới, những khí cụ thay thế, không "đánh nhau chập chờn" nữa và với tinh thần chúng con cố giữ, chúng ta có thể cứu được tất cả."

Ở các điểm ấy, giữa nỗi nhục nhã, giữa mọi nhục nhã là lời kêu gọi vô vọng đến ông bố. Và phép lạ là ông ta đến. Khắp Đông Dương radio báo tin tướng de Lattre de Tassigny được bổ nhiệm làm cao uỷ Pháp và tổng chỉ huy các đội quân Pháp ở Đông Dương. Việc này có một ý nghĩa rõ rệt, tuyệt đối, toàn diện đến mọi sĩ quan, mọi người trong các nhà ăn, bếp tập thể, nhà hàng quân đội, những nơi người ta chuyện trò và hơn thế, ở những nơi người ta chiến đấu, ở các đồn bị tấn công, những tiền tuyến bị đe dọa. Việc này cũng có một ý nghĩa rất cụ thể trong các ban tham mưu, nơi người ta đã lừa bịp nhau quá nhiều, nơi đã làm bao nhiêu kế hoạch giả, non nớt, tai họa. Chứng tỏ nước Pháp, đúng hơn là những chính phủ rời rạc, dốt nát của nước Pháp dù sao cũng từ chối sự thất bại, muốn vinh quang hơn xấu hổ.

Mọi việc đang trên bờ vực thẳm. Những người thông minh tự nhủ làm sao một người, đơn giản chỉ là người, có thể thay đổi tiến trình không lay chuyển được của lịch sử - người ta sẽ thấy ông ta nghĩ thành công như thế nào, ông tự lạm dụng mình và chết ra sao. Nhưng đây sẽ là đỉnh cao cuối cùng rất lãng mạn, thần kỳ nhất trong thời hiện đại.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2019, 09:53:29 pm

Sự lựa chọn lớn

Để thu xếp mọi việc ở Đông Dương, Chính phủ Pháp - vẫn không hiểu gì ở đấy hết - cử sang một anh hùng, như một giải pháp, như thế là đủ. Và sau một thời gian, vị anh hùng sẽ đưa Đội quân viễn chinh ra khỏi khốn khổ, trả lại tư cách, niềm tin cho nó. Nhưng bản thân ông sẽ quá sáng suổt để nhanh chóng nhận ra mình chỉ tạo ra một ảo tưởng. Ông hăng say, thử mọi phương pháp, tiêu huỷ mọi sức sống về tiềm năng, nghị lực, trí thông minh vượt ngoài những gì chấp nhận được - đến cực điểm của sự cố gắng. Trong nhiệm vụ này, con người thép và lửa ấy tự hủy hoại mình - cái chết của ông như một vụ tự sát gián tiếp. Nhưng trước khi tàn lụi, ông có câu nói: "Nếu tất cả thất bại, tôi sẽ đưa Đội quân viễn chinh trở về Pháp thay vì để quân Việt tiêu diệt thành mảnh hoặc chịu thảm họa."

De Lattre năm 1951 đã kéo Đội quân viễn chinh ra khỏi nỗi nhục nhã, nếu còn sống thì sẽ làm gì? Người ta không biết. Nhưng cách này hoặc cách khác, bao giờ để rơi lại vào những nhục nhã tệ hại, ông sẽ không để bị dồn cùng đường vào một Điện Biên Phủ nào đấy. Thực tế de Lattre đến quá muộn. Vì sự thất bại trên đường số 4 - các đoàn quân bị tiêu diệt, việc rút chạy Lạng Sơn, vây hãm Hà Nội - là dấu hiệu định mệnh: thế là hết. Bản thân những diễn biến ấy rất quan trọng, chỉ là khâu kết liễu thê thảm, không tránh khỏi được. Nhưng điều báo tin ấy người ta không muốn đọc, người ta bó mình trong mù quáng và phi lý.

Cuộc chiến tranh, người ta đã chọn trước hết là quyết định năm 1945 chiếm lại Đông Dương đã mất do người Nhật rồi người Việt: thu mềm mỏng, thương lượng rồi chuyển sang đổ máu. Người ta chọn cuộc chiến tranh lần thứ hai sau đợt "tấn công" Hà Nội tháng chạp năm 1946 mà Hồ Chí Minh thử giải pháp tiêu diệt. Đấy là lúc người ta tung ra Đội quân viễn chinh chống nhân dân - tưởng đã gần thắng lợi và tất cả đã sụp đổ trên biên giới Trung Quốc, đối mặt với một thực tế mà người ta phủ nhận. Tháng chạp năm 1950, người ta lại chọn cuộc chiến tranh lần thứ ba - đúng lúc đáng ra đã phải biết. Từ đấy người ta hoàn toàn nhận thấy đây là một công cuộc không thể, bị lên án, đối mặt với tiềm lực to lớn của chủ nghĩa cộng sản, với chủ nghĩa bài ngoại nói chung của lục địa da vàng: toàn Châu Á không còn muốn một loại chinh phục thuộc địa nào nữa, dù trực tiếp hay gián tiếp; người da trắng khắp nơi đang nhường lại lãnh thể trong lúc ở Đông Dương người ta vẫn muốn giữ. Và rồi có một sự giúp đỡ nào đó của người Mỹ, nước Pháp không được những nước Phương Tây khác ủng hộ. Trong cố gắng lỗi thời, nước Pháp đơn độc một cách bi đát - không chỉ những lực lượng không có giới hạn chống lại mà cả xu hướng lịch sử nhân loại.

Thế nhưng người ta vẫn tiếp tục. De Lattre đã một thời gian như thể ngôi sao băng đẹp, hiện thân và biểu tượng của việc từ chối chấp nhận. Nhưng để làm điều đó, ông đã có gì? Thiên tài của ông và những người lính đánh thuê, quá ít lính đánh thuê. Với Đội quân viễn chinh nghèo nàn, ông sử dụng thật đẹp nhưng một Đội quân viễn chinh có thể làm gì được khi chống lại một tư tưởng, chống lại ngọn gió đông bùng lên như bão tố. Dĩ nhiên ở một số cấp, một số ngành, có những người trông thấy ngõ cụt, cạm bẫy người ta sẽ rơi vào. Nhưng họ nói ít hoặc không nói gì, và rồi nhanh chóng buộc phải im lặng hay bị quét sạch. Chính phủ Pháp muốn chiến thắng - như trận Verdun. Nhưng họ muốn một cách đơn giản, thậm chí không cung cấp phương tiện, không nhận thấy toàn cầu đã thay đổi mà người ta không làm gì được. Và rồi sự ngoan cố ấy cũng có những sức đàn hồi thấp kém, xấu hổ như đồng bạc, như sự thịnh vượng.

Năm 1950 có nên điều đình với người Việt chăng? Nhưng không thể được vì họ không muốn có sự thoả hiệp nào, phải tiến hành một "cuộc chiến tranh lâu dài" để toàn thắng với chủ nghĩa cộng sản hoàn chỉnh. Điều người ta đã có thể làm là thay vì đánh nhau khắp nơi, rút về một số vùng mạnh để có thể chờ đợi. Đấy là lý luận của Carpentier - nhưng ông ta chỉ nghĩ đến tránh "rắc rối". Là lý luận hợp lý của de Latour nhưng ông ta mưu mô mà không dám nói ra.

Còn có vấn đề khác nữa. Tất cả những việc ấy không làm được trong sự hổ thẹn. Không có chiến thắng toàn bộ thì cũng ít nhất phải chiến thắng ở một chiến trường để khôi phục tinh thần Đội quân viễn chinh. De Lattre đã hiểu điều ấy, ông đã chữa bệnh sợ người da vàng cho sĩ quan và binh lính bằng diệt hàng nghìn quân Việt ở Vĩnh Yên, cất cao giọng hát chiến thắng vinh quang. Nhưng sau đó? Người ta nhận thấy trước tiên là de Lattre chẳng đem lại được gì. Phải thủ một ván bài khác, bất kể ván bài nào. Những vị tướng chết, như những người điên, những người thất vọng, người ta bám vào công trình của ông mà không muốn thấy nó luôn giảm sút, cũng mang những mầm mống thất bại và cái chết.

De Lattre không chỉ là một tên tuổi, một sự nghiệp anh hùng không sánh được, một sự hy sinh tuyệt đối. Nhưng ông đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác mà không đưa lại thắng lợi thực sự, không giải quyết được cơ bản vấn đề vì không thực hiện được nữa, vì ông đụng phải những trở ngại quá lớn. Việc ông làm được, trong mấy tháng ít ỏi - trả lại tư cách cho một đội quân, đấy là điều đáng kể - đáng lẽ phải tranh thủ, khai thác để có một giải pháp đáng kính. Người ta thậm chí đã không thử làm. De Lattre chết một cách vô ích, để rồi đi tới Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2019, 08:33:52 pm

CUỘC PHIÊU LƯU

 
Chương I

SỰ MÊ HOẶC

Tôi chưa bao giờ thấy một diễn viên "ra sân khấu" đạt như de Lattre ở Đông Dương. Vai trò của ông không phải hận thù và miệt thị. Giây phút đầu tiên của ông trên đất Đông Dương là khinh bỉ, đánh dấu việc cắt đứt hoàn toàn với một quá khứ thất bại, xấu hổ và ngu dốt. Không người nào biết như ông, tỏ ra chán ngấy cảnh bị nghiền nát; lúc ấy ông có vẻ uy nghiêm cao đạo.

Điều ấy xảy ra ở sân bay Sài Gòn, cả Pignon và Carpentier ra đón người kế nhiệm họ vì ông thay thế hai người cùng lúc, cao uỷ và tướng tổng chỉ huy. Đã được báo tin ông sẽ nắm quyền lực của họ, dưới sự bảo trợ của một bộ trưởng ở Paris, "người tiến cử" Letourneau cũng đi trong chuyến này.

Mọi giới chức của Đông Dương đều chờ ở đấy, đủ làm một đám đông lớn. Chồng chất nhàm chán những lon sao và huân chương của những nhà chức trách dân sự. Phòng đón tiếp như một nhà kho tách riêng, bên cạnh những ngôi nhà của sân bay. Im lặng nặng nề trong xã hội sang trọng khi tập hợp ở đấy nhân danh thuộc địa, mà thông thường vẫn nói chuyện rôm rả.

Mỗi người cố gắng nghiêm chỉnh, ra vẻ hồ hởi. Trên sân các đội quân dàn hàng đặc biệt cẩn thận. Cùng chẳng thay đổi được gì với những khuôn mặt thiếu tự tin, quần áo sơ sài. Một cố gắng nhỏ không đủ. Điều sẽ xảy ra ở đây là thảm họa thực sự. Mọi người đều tin chắc thế. Chẳng làm gì được với những điều sắp tới tuy có vài cố gắng vờ vịt, thái độ cam chịu của những người bị kết tội. Đã là số phận. Cuối cùng, trong cảnh phó mặc tình thế, việc tiếp đón chuẩn bị như một nghi lễ bình thường và đơn điệu.

Bỗng bài La Marseillaise vang lên, những lá cờ phất phới, tiếng hô ra lệnh của các hạ sĩ. Từ một ngôi nhà lụp xụp, hàng ngũ cao cấp nhất của Đông Dương, Carpentier và Pignon dẫn đầu, bước vội ra đường băng. Máy bay vừa hạ cánh trong nắng chói chang ban chiều, khoảng bốn, năm giờ. Một chiếc bốn động cơ đặc biệt, trong hai ngày hai đêm dùng làm sở chỉ huy và chỗ ở của các nghệ sĩ nhưng không phải phòng ngủ: cấm gà gật. Phải xem xét tất cả những gì là hồ sơ, phiếu, điện tín để tìm hiểu xứ Đông Dương xa lạ mà đại tướng và những thân cận bước xuống. Ít nhất cũng phải biết nên ra sao. Một điều chắc chắn, bắt buộc, là cách ăn mặc. Vào giờ cuối, cả toán người thay quần áo, bận đồng phục màu trắng rất đẹp cắt may ở một cửa hiệu lớn Paris, dưới sự chỉ dẫn của chính de Lattre: "Thử nhiều đi. Phải đẹp. Khi chúng ta đặt chân xuống nơi chúng ta chẳng biết gì hết, phải thật lộng lẫy."

Thế nhưng người ra khỏi máy bay đầu tiên chẳng lớn lao đặc biệt. Đấy là bộ trưởng Letourneau béo tròn đỏ đắn và tươi cười hơn bao giờ hết, trong bộ comple bình thường nhưng khuy áo cài một chiếc nơ hoa hồng, vẻ ngoài đầy duyên dáng dân chủ. Rồi de Lattre, cả một hình mẫu cao lớn, áo quân thẳng nếp, lộng lẫy khắc khổ uy nghi, tỉ mỉ hàng giờ. Biểu tượng của sự kiêu ngạo. Vốn được biết như công tử lập dị, ông xuất hiện những trang điểm cổ điển nhất nhưng rất được chọn lọc! Một chiếc cà vạt đen làm nổi màu trắng của bộ comple nhiệt đới. Những hàng huân chương trên ngực, bằng chứng thực của giá trị một chỉ huy lớn. Và rồi, tương phản, để tô đậm tính chất qúy phái của người chỉ huy cuộc chiến, có những phụ tùng thậm chí thời thượng: một chiếc áo chống thấm, đôi găng tay da hoãng trắng, nhất là một chiếc can dùng điều chỉnh bước đi thong thả theo nhịp. Tóm lại, tất cả những gì tượng trưng cho một quân nhân chúa tể, tất cả những gì là hình dáng của một ông lớn đến vì một nhiệm vụ lớn.

De Lattre đứng im một lúc đầu cầu thang máy bay, dừng lại để nhìn bao quát với đôi mắt không cân đối. Ông ngắm chủ yếu bằng con mắt trái, nhỏ hơn, mở hẹp hơn nhưng là con mắt sáng hơn khi ông mở thật to, ít nhất khi ông không muốn làm đẹp nữa, khi không kèm theo cái nhìn chăm chú, một nụ cười hoặc khẽ nhếch mép. Lúc ấy không còn quyến rũ. Ông muốn "mạnh tay". Và trong việc nhìn ngắm nghiêm khắc chốc lát này, đảm nhận trách nhiệm về một xứ Đông Dương nhu nhược và bại trận đang trải rộng dưới chân ông, đang giả tạo đưa cho ông những đôi tay nồng nhiệt, những khuôn mặt thân mật. Đúng, trước hết ông phải tiêu diệt tất cả sự mục ruỗng ấy.

De Lattre thong thả bước xuống các bậc thang, đặt chân lên đất. Bao quát và câm lặng. Vừa hết sức chú ý đến cảnh vật, đến khuôn mặt cuối cùng, chi tiết cuối cùng, ông tập trung đôi mắt để không nhìn thấy, không cúi mình trước những lễ nghi, lịch sự. Không thỏa hiệp. Từ chối tất cả.

Phía sau, những người của ông, từng người một ra khỏi buồng máy bay. Đấy là những quân nhân mặt bự đỏ bừng, cũng cùng thái độ vô cảm gây gổ, lối trâng tráo lạnh lùng ấy. Không thô lỗ, không nhân đạo hoặc vô nhân đạo. Chỉ là phong cách những người được dựng lên và khuất phục nhưng không như nô lệ những dụng cụ mà bản thân họ cũng tạo dựng lên và khuất phục. Tóm lại, họ là những đầu rô-bốt của chiến tranh, mù quáng sau "ông chủ" vẫn sống và nghĩ cho họ vì họ là "chiến binh tối cao".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2019, 08:35:46 pm

Trước đấy mấy ngày de Lattre gọi điện thoại gọi họ về từ khắp nước Pháp, Châu Âu, khắp thế giới. Mỗi lần như thế là những lời ấy hoặc gần thế: "Anh đấy à, anh bạn? Ở Maroc tốt chứ? - Vâng, thưa đại tướng. - Còn vợ anh? - Cũng thế. - Con gái anh? - Cũng thế. - Thế này, chuẩn bị hành lý và đến đây. Tôi sang Đông Dương, đưa anh đi cùng. Ngày mai có mặt ở văn phòng. Anh không biết gì về đất nước ấy ư? Tôi chẳng cần. Nhưng anh hình dung tổ chức công việc ở đấy ra sao đi..." Tất cả đều lên tàu theo cách ấy và bây giờ họ đến Sài Gòn sau ông chủ của họ để là những người chắc chắn nhất, những cột trụ của cuộc phiêu lưu. Ngoài Allard le Viking sẽ là tham mưu trưởng, có Cogny lực lưỡng và thông minh sẽ là chánh văn phòng, Beaufré xanh xao là chiến lược gia, Goussault, thị thần đẹp mắt xanh đảm nhiệm một số công việc tin cậy. "Bộ tham mưu của tôi" như de Lattre thích nói khi đụng chạm với người Anh ở Fontainebleau. Tất cả cùng một lò, tất cả thoát thai từ khuôn đúc chiến tranh danh dự. Đối với họ không có, không thể có "chiến tranh bẩn thỉu": chỉ cần đưa nghệ thuật vào.

Trong toán người này, không hài hòa một ít có Salan. Ông hơi bị ngờ, không hoàn toàn trong "nhóm". De Lattre lấy ông đi vì dù sao ông ta cũng phải có một "Trung Hoa", một người thuộc địa, biết rõ xứ sở, gần như người bản địa. Lúc đầu ông ta nghĩ đến Valluy nhưng ông này xét thấy nguy hiểm, ông ta quá nhiều ý tưởng, quan hệ với Paris nhiều, bám rễ vào lính thuỷ đánh bộ, với bộ binh thuộc địa khống chế Đông Dương từ lâu xem như lãnh địa của mình. Ngược lại có thể đối xử với Salan tùy ý, không phiền phức gì.

Cũng hơi rời rạc, có Gauthier và Aurillac. Một là toàn quyền các thuộc địa và người kia cũng gần như thế. Trong toán tùy tùng thượng võ của ông vua Jean ấy, hai người là những tay cạo giấy, vô ơn, tiểu tư sản. Gauthier, tóc trắng bàn chải trên chiếc đầu to, mắt lồi, phong thái mạnh mẽ, người béo tròn, giọng nói và cử chỉ lộn xộn, là một con voi vụng về. Aurillac, ăn mặc chải chuốt, là con chồn luôn cảnh giác, cái nhìn sắc sảo, lo ngại, thụt vào trong mõm. Họ được đặt thật không đúng chỗ giữa những "kẻ lang thang bất lương" của de Lattre với những lễ nghi, quí trọng, những lời nói tỏa mùi băng phiến! Viên tướng đã tìm các ông chỗ Decoux. Chính đô đốc hải quân đã nâng đỡ họ, giới thiệu cho Paris: "Trước kia họ chân thành giúp đỡ tôi bên ấy chống người Nhật. Họ sẽ phục vụ tốt trong những thách thức chờ đợi ông. Theo lệnh tôi, họ sẽ mang lòng trung thành đến với ông, sẽ là đôi mắt, đôi tai của ông. Ông hãy nghe họ và họ sẽ tránh cho ông những sai lầm ghê gớm..." Những lời nói không khôn khéo lắm. Vua Jean vẫn nhận món quà, nhưng trên đất Tân Sơn Nhất này ông nhận thấy hai ông bạn không được "thoai mái" lắm. Họ ra khỏi máy bay sau cùng, xa các chiến binh, với tư cách dân sự, vậy là đáng nghờ. Làm sao không cảm thấy phiền lòng khi họ đã là những kẻ thất bại và là một trong những "thực dân" thua cuộc trên xứ sở mà de Lattre tới tìm kiếm vinh quang.

Những vết nhơ nhỏ. Điều đáng kể là ông, de Lattre thái độ của ông, với nhóm "trung thành" bừng sát khí, đối mặt với hàng trăm quan chức Đông Dương trước mặt ông của thảm họa Đông Khê, rút bỏ Lạng Sơn. Cuộc tiếp xúc trong mấy phút rầm rộ nhưng trống rỗng. Người ta chờ đợi những bùng nổ điên loạn, những kiểu cách thô lỗ. Không có gì hoặc gần như thế, chỉ có cuộc duyệt binh, chào cờ, lễ tôn vinh Đội quân viễn chinh. Chỉ là những nét giá lạnh của vua Jean, đầu chúi về phía trước khi đi hoặc khi nói. Có sự giận dữ nội tâm làm hồng đôi má, ông không quát tháo vì chưa đến lúc: ông chưa biết gì nhiều. Vậy là ông tự hạn chế mình ở đấy, tỏ rõ trọng lượng, sức nặng của sự bài tiết. Điều ông cần là việc nhỏ, biểu tượng của sự hoàn hảo, có nghĩa là tất cả.

Và Carpentier dùng vào việc đó, dùng được lần cuối ở Đông Dương. Mánh khoé của de Lattre là đè nặng lên ông, đập nát ông như bởi trọng lượng, bởi những tấn. Sự lăng nhục kỳ lạ. Carpentier ở đây, với những ngôi sao của người phục vụ tốt, giọng nói mạnh mẽ bị hủy hoại qua năm tháng, thân hình gầy đi vì những vất vả trong các chiến dịch và nhất là trong suy nghĩ. Ông can đảm đứng ở vị trí của mình, trong hàng đầu các giới chức với những cảm nghĩ tốt, những giải thích, chúc tụng, chỉ mong được tuôn ra qua dấu hiệu đầu tiên. "Thưa đại tướng, sự rủi ro, tất cả chỉ là sự rủi ro trong những tai họa! Không phải lỗi của tôi..." Đúng, ông chấp nhận đóng vai trò hợp lý đáng kính, cấp dưới xứng đáng nhưng không may, bị lu mờ trước thiên tài, như vừa rồi ông thể hiện với Juin khi sang kiểm tra sau thảm họa biên giới.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2019, 08:36:38 pm

Ông mong có một sự thân mật giữa công chúng và một trách mắng riêng nhẹ nhàng như nhân danh tình anh em trong quân đội. Ông cố tươi tỉnh, thậm chí với nụ cười khẽ. Ông chào lối quân sự và chờ đợi. Nhưng không có gì đến với ông. Không một động tác, một lời nói, một cái nhìn. Đối với de Lattre, người tiền nhiệm không còn tồn tại.

Hai người cách nhau một mét. Jean như bức tượng. Da diết im lặng. Carpentier ở đấy, nửa vụng về, nửa săn đón, hy vọng và cam chịu. Ông không bắt tay, không nói một tiếng, không giấu diếm nhìn sang phía khác. Một cách loại ra khỏi. Carpentier bỗng già đi, nhăn nheo, càng mệt mỏi hơn. Nhưng ông gắng như không nhận thấy sự nhục mạ. Và suốt thời gian ông chịu đựng, de Lattre vẫn xa xôi, lạnh như một tảng đá.

Đoàn xe các giới chức chạy một trăm cây số mỗi giờ qua những đường rộng nhiệt đới của thành phố. Pignon và Carpentier, những người thua trận được chất lên cùng xe. De Lattre chiếm một chiếc xe khác, ngồi cùng ghế với Letourneau, rất "hào hiệp" làm tất cả những gì có thể để sửa chữa. Lúc ấy, bên cạnh nhau, viên tướng mới nổ ra lần đầu:

- Thưa bộ trưởng, tại sao ông dễ mến như vậy đối với tay Carpentier ấy? Ông có thấy các đội quân của ông ta bồng súng chào chúng ta một cách thảm hại như thế nào không? Một số người thậm chí không cài cúc áo! Quân đội của Carpentier là như thế đấy. Thật xấu hổ! Không có kỷ luật, rệu rã, tinh thần bạc nhược. Rồi bao nhiêu bụng phệ, béo bệu tàn tạ, những xã xệ mang lon! Tôi sẽ phải quét sạch hết...

Sau đó, suốt dọc đường còn lại là hờn dỗi. Cuối cùng de Lattre đến lâu đài Norodom, ở đó với những người của mình trong những chỗ Carpentier đã ngập ngừng và Pignon mánh khoé. Ở đây một trong những cử chỉ đầu tiên của ông là gọi Allard:

- Ghi, ghi vào sổ tay của anh. Chỉ huy quảng trường Sài Gòn, tay đần độn bẩn thỉu đã dám giới thiệu với tôi một cuộc diễu binh thảm hại khi tôi đặt chân xuống Đông Dương. Anh tống cổ tay ấy về Pháp trong chuyến bay đầu tiên. Và tìm một người tốt thay thế, một quân nhân giỏi, sĩ quan kỵ binh tồi nhất mà anh biết chẳng hạn.

Phải nhiều tuần lễ mới tìm được người thích đáng. Một đại tá đầu tiên, người quá nhỏ, vừa đi vừa nhảy, luôn luôn thắt đai như con cá trích sấy khô. Trong lúc chờ đợi, de Lattre tiếp tục quyết liệt với Carpentier. Sau đó ông nói với tôi:

- Tay ấy bao giờ tôi cũng gặp. Đáng lẽ phải đuổi ông ta lần thứ nhất trên chiến trường Pháp lúc người ta cử làm tham mưu trưởng. Ở đây tôi phải làm lại, cứng rắn hơn, vì ông ta luôn luôn chấp nhận thất bại. Ít nhất trong lúc tôi còn sống thì ông ta sẽ chẳng là gì cả.

Về phần mình, Carpentier nuốt rắn nhưng vẫn giữ một sự thanh thản kỳ lạ. Chắc nhà quân sự vững chân này nghĩ de Lattre là một thiên tài chân đất sét, sẽ sụp đổ, nhưng ông vẫn còn đấy. Lập luận tỏ ra đúng chỉ sau một năm. De Lattre, kiệt sức bởi nhiệm vụ vừa chết thì Carpentier được bổ nhiệm trong số những người đứng đầu NATO. Vậy là ông vẫn chiến thắng de Lattre, trên xác ông ấy.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2019, 08:37:27 pm

Trong những ngày cuối cùng ở Đông Dương ông phải chịu bao điều sỉ nhục! De Lattre có một nghệ thuật tấn công vừa đế vương vừa như đàn bà. Người tiền nhiệm của ông ta, một tổng chỉ huy cũng có gần những ngôi sao như thế, ông ta không muốn tiếp, thậm chí không gặp, là điều không tưởng tượng được theo mọi quy chế quân sự. Tuy vậy ông ta cũng phải chịu đựng suốt buổi lễ chính thức bàn giao quyền lực trong gian phòng danh dự của lâu đài Norodom, buồn bã và mong cho được trịnh trọng. Một bên là khối sĩ quan cao cấp, với Carpentier. Bên kia các viên chức dân sự với Pignon. Letourneau và de Lattre ở giữa. De Lattre vẫn xem Carpentier như không tồn tại; đối với ông không có Carpentier, thậm chí không một bóng ma của Carpentier. Vẫn không một lời, một động tác, một liếc mắt, chỉ là cái nhìn hư vô. Nhưng khắc kỷ, can đảm, cam chịu, thấp hèn, tính toán hoặc thụ động, Carpentier cố chịu đựng, theo cách một nông dân già trước thảm họa. Thế nhưng Letourneau phát biểu đầu tiên, nói nhiều về ông, rất ca ngợi. Điều ấy đủ làm de Lattre giận điên người, tím mặt nhưng buộc phải im lặng. Một giờ sau, buổi lễ kết thúc, ông đến gặp bộ trưởng và sừng sộ trong chừng mực khôn ngoan ông vẫn đối xử với các nhà chức trách Đệ tứ Cộng hòa: "Làm sao ông có thể nịnh hót thậm chí cám ơn tay Carpentier ấy nhân danh Chính phủ? "

De Lattre bỉ ổi đến nỗi Cogny, lực sĩ, chịu trách nhiệm về mọi công việc cần khôn khéo và tế nhị tự đến gặp Carpentier. Nguyên tổng chỉ huy lấy lại niềm vui, rất hài lòng về điều đó. Ông kể lại cuộc chiến của ông, lúc đầu hơi lúng túng. Càng ba hoa ông càng tô vẽ tình trạng ông để lại, gần như cho mình là một người chiến thắng. Chán quá, Cogny phải cắt ngang tâm trạng sảng khoái ấy. Sau đó ông kể lại:

- Nếu tôi tiếp tục để cho nói, ông ta sẽ cho rằng đã thắng cuộc chiến tranh. Đúng như Gamelin sau mấy tuần thảm họa năm 1940.

Cogny, con chó ngao cao đạo dễ mến ấy có khả năng, chẳng biết vì khôn khéo hay độ lượng, có tình người, là một anh chàng tốt khi có thể, khi không phải trả giá đắt. Dù sao khi Carpentier ra đi, ông lén lút tổ chức một lễ nhỏ tiễn biệt ở sân bay. Ông cũng đến đấy. De Lattre biết được mắng chửi ông nhưng không nhiều. Và rồi, kết cục như vậy có lẽ tốt hơn.

De Lattre cũng thu xếp để dội lên khinh bỉ Pignon nhưng không công khai, đạo đức giả nhiều hơn. Vì vậy trong ngày chuyển giao quyền lực ở lâu đài Norodom, nguyên cao ủy đọc một bài diễn văn: di chúc chính trị của ông, với những câu rối rắm và xúc động. Cuối cùng giọng nói đầy nước mắt ông đề nghị đại tướng gia ân cho những cộng tác viên của ông. Khi ông nói xong, de Lattre tiến lên mấy bước, nai nịt gọn ghẽ với bộ đồng phục, đứng nghiêm mấy giây, cúi xuống, hướng đầu và ngực về phía con người xuất sắc, ông nói:

- Tôi xin gửi tới ông cao uỷ Pignon những lời chào nhiệt liệt.

Cử chỉ và câu nói ấy rơi vào không khí im lặng của cử tọa. Người ta biết rõ Pignon không xứng đáng được đối xử như thế. Vì với de Lattre, không chờ đợi được một sự công bằng, thương xót nào khi đã đưa ra đường lối của mình. Phải huỷ hoại người tiền nhiệm dân sự cũng như ông đã hủy hoại người tiền nhiệm quân sự. Ông phải dìm hết những gì có trước thời đại ông, trước giây phút ông đạp chân xuống đất Đông Dương.

Ít nhất gia đình Pignon - vị cao uỷ rất mệt mỏi, bà vợ tư sản, ba cô con gái tóc vàng - có quyền cho một số đối xử. Thậm chí vị tướng có mặt ở sân bay lúc gia đình này lên máy bay về Pháp lúc tám giờ sáng. De Lattre cũng tạo cho mình một chút hào hoa: ông tặng bà Pignon một bó hoa to. Khi máy bay cất cánh trong những bàn tay đưa lên chào tiễn biệt, bàn tay của đại tướng, mang găng da, hạ xuống cuối cùng.

De Lattre đã rủ bỏ được hết. Còn vướng víu một ít chỉ là Letourneau, vị bộ trưởng nông dân phúc hậu. Cũng là một kẻ tinh ranh, nhiều mánh khóe. Hơn nữa chính nhân vật này đã chọn de Lattre, đề nghị bổ nhiệm sang Đông Dương với đầy đủ quyền hành dân sự và quân sự. Lạ lùng là nhà tư sản thích yên bình ấy lại say sưa với cuộc chiến tranh dữ dội ở Đông Dương. Thậm chí ông tự hào về con "quái vật linh thiêng" của mình, vua Jean. Ông giới thiệu trống không, khen ngợi với một chút tợ hào kín đáo, không ngớt có vẻ nói: "Thiên tài đấy. Hãy tha thứ cho những thái quá của ông ta..."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2019, 08:38:15 pm

Thực tế Letourneau, người làm trò con gấu không đến nỗi quá nhiều phiền nhiễu. Ông hơi mềm lòng: chỉ phải ở lại Đông Dương mấy ngày so với những người bầu ông ở vùng Sarthe. Tai hại là ông có quyền ngồi trên de Lattre. Với chiếc bụng, mũi to và đôi mắt tròn, ông đứng trước ông này trong các buổi lễ, chiếm mất vị trí danh dự. Vị tướng càu nhàu trong răng: "Làm sao dưới bóng nhân vật kỳ cục này mình nêu lên được ý nghĩ về sự lớn lao của mình, của nước Pháp mà mình đại diện?" Đôi khi vị tướng gây những màn rắc rối cho bộ trưởng. Letourneau vui vẻ chịu đựng và rồi de Lattre sau lúc giận dữ, chú ý bình tĩnh lại. Thậm chí ông tỏ ra rất tốt, ông biết rõ quyền lực của nền Cộng hòa và những đại diện: một Anh hùng có là gì bên cạnh một quý Ngài?

Điều ấy trở thành trò trẻ con. Trong những bi - hài kịch ấy, Letourneau đóng vai trò người bố trong gia đình đối với một đứa con ngỗ nghịch. Một hôm de Lattre không mở miệng, tỏ ra hờn dỗi. Ông im lặng mãi cho đến lúc bộ trưởng phải hỏi:

- Có điều gì không ổn?

- Tôi ngạc nhiên thấy ông không hiểu.

- Không.

- Ông đọc một bài diễn văn. Tôi đã bấm giờ suốt buổi, không thấy nêu tên tôi một lần nào. Tôi không hiểu.

Ngày hôm sau de Lattre rất vui vẻ.

- Tôi cám ơn ông, ông đã nêu tên tôi năm lần trước công chúng. Thậm chí ông cho tôi mọi chức danh, gọi tôi là đại tướng Jean de Lattre de Tassigny, cao ủy và tổng chỉ huy quân đội ở Đông Dương. Monette, vợ tôi, sẽ rất hài lòng khi biết điều đó. Tôi sẽ điện cho bà ấy.

Thực ra de Lattre rất chú ý đến tính tình của Letourneau. Vị bộ trưởng này cũng nhạy cảm. Ông giả nhân nghĩa với những cãi cọ của ông ta nhưng chánh văn phòng của ông thì thầm ở hành lang: "Nếu ông tướng ấy ngáng trở chúng ta quá, chúng ta sẽ thay thế một ông khác". De Lattre biết thế. Giữa những lúc tính khí thất thường, ông luôn có cách "nịnh hót" Letourneau. Ông không ngớt nhắc đi nhắc lại: "Tôi nhờ ông nâng đỡ tôi ở Paris. Ở đấy những kẻ ngu dốt không thích tôi, không hiểu tôi, tìm cách phá tôi. Nhưng ông biết tôi là lịch sử, là người viết một chương mới về chiến thắng và vinh quang."

Lẫn lộn nịnh bợ, một ít hèn hạ, tự phụ có mức độ, ngây thơ thật hay giả, thành thật vô sỉ, de Lattre đi tới chỗ "vô hiệu hóa" quản tượng của mình, đảo ngược vai trò. Ông trở thành người chủ và từ nay một mình ông cùng những người thân tín đối mặt với Đông Dương.

Vậy là bằng kỹ thuật của sự khinh bỉ, de Lattre đã gạt bỏ tất cả. Nhưng ông ở lại một mình trong trống không, ông là ai? Thiên tài thực sự hay một anh hùng rơm? Ở Đông Dương chẳng ai biết. Người ta khó gặp ông vì trong hai ngày ông đóng kín trong lâu đài Norodom hầu hết thời gian, một mình cùng hai, ba người tin cậy, không ngớt tự hỏi: "Tại sao tôi đến đây? Bây giờ tôi sẽ làm gì và làm như thế nào? "Một nghiền ngẫm lớn.

- Mình phải làm to chuyện.

Đấy là điều de Lattre càu nhàu trong lâu đài Norodom. Các sĩ quan, viên chức của Pignon và Carpentier đã chạy trốn như trước nạn dịch và công trình thực dân cổ điển này khép lại trên những cầu thang, hàng hiên, những gian phòng bao la những bức tường đồ sộ. Không có gì buồn hơn, lạnh giá hơn: triều đại cũ chỉ còn lại những người bồi quấn khăn mà việc xun xoe không giấu hết sự thỏa mãn. Và rồi có hàng tấn bụi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2019, 08:38:55 pm

De Lattre đi lại trong những hành lang lát đá, bực tức: "Rác bẩn của một thế giới chết". Những người trung thành của ông, khoảng hơn một chục bạn bè ông mang theo bận bịu trong công việc. Giữa nơi trống không, họ chọn những gian phòng tốt, dĩ nhiên không phải những phòng đẹp nhất để làm những trung tâm chỉ huy nhỏ. Họ tự đóng biển chức danh, tên họ ở cửa. Tóm lại là một cuộc chia chác. Vị tướng để cho họ làm, biết lúc thích hợp cũng dễ dàng đưa lại trật tự và thứ bậc cần thiết.

Trong thời gian ấy, lâu đài Norodom như mắt bão, yên bình, tuyệt đối tĩnh lặng giữa tâm giông tố. Toàn Đông Dương lơ lửng, tự hỏi: "Sẽ nổ ra như thế nào đây?"

Cả Đông Dương thì thầm, gièm pha, ước chừng nhưng không người nào dám nói to, ai lo việc nấy, đối mặt với de Lattre chắc chắn sẽ bắt đầu những sai trái của mình nhưng vẫn còn đe dọa và bí mật.

Trong lâu đài Norodom, de Lattre thích thú về sự sợ hãi đó bởi tên tuổi của mình. Ông khoan khoái, không ngớt hỏi:

- Bên ngoài người ta nói về tôi thế nào?

- Họ sợ ông, thưa đại tướng. Họ co vòi lại nhưng hễ có sai lầm họ chẳng từ ông đâu...

- Thế thì sẽ chẳng có ai làm hại được tôi. Ở Paris cũng vậy, người ta chờ tôi ở bước ngoặt. Tôi sẽ không lỗi lầm.

Tuy vậy ý nghĩ về những khó khăn làm ông suy tính. Trong những giờ đầu tiên này ông không bộc lộ với những người thân cận xung quanh, không tin họ. Người tin cẩn là Petcho-Bacquet, "v sĩ" quân y của ông "thả ra" hai năm trước và đã sang Đông Dương. Khi ông lao vào cuộc phiêu lưu Phương Đông, ông thấy cần đến anh hơn bao giờ hết. Trước khi đến nơi ông viết thư cho anh: "Chúng ta lại ở cùng nhau Anh nghĩ tôi nhận việc này có đúng không? Dù sao cũng là bổn phận". Sau đó ở sân bay Tân Sơn Nhất, đám đông các ngài và các quý ông thấy vị tướng ghê gớm vừa xuống máy bay đã chạy tới góc sân gặp một sĩ quan nhỏ, bình thường của quân y - Petcho.

Ở lâu đài Norodom, họ tìm lại nhau. Petcho đến phòng vệ sinh, nơi vị tướng đang trang điểm một ít vào cuối buổi chiều. Những câu nói đầu tiên:

- Anh thấy việc này thế nào?

- Sẽ không tồi tệ.

- Yên tâm đi. Tôi sẽ làm ra trò.

Trong đêm, mọi người đi hết, de Lattre ở lại một mình với Petcho trong phòng. Ông nói to, rất khiêm tốn, trung thực, tự vấn lương tâm. Hai bàn tay đặt lên bàn giấy, ông nói một mình, không nhìn ngó, thật tập trung. Ông nhìn lại đầy đủ cả ngày của mình, tự vấn, hỏi và đột nhiên im lặng, để cho anh ta kết luận.

Rồi de Lattre đưa tay lên trán, trở lại ý tưởng cố định của mình:

- Tôi không đề nghị đến đây. Người ta yêu cầu tôi. Nhiệm vụ sẽ khó khăn, tôi biết. Tôi không phải Chúa trời, nhưng tôi sẽ làm hết sức mình. Anh hiểu chứ, ở Châu Âu có một sự cân bằng, Trung Đông tồi tệ, chỉ Châu Á xứng đáng với tôi. Thế nhưng, với tên tuổi mình tôi có thể mất tất cả ở đấy. Thêm vào vinh quang của tôi như thế nào? Thành công sẽ chẳng đưa gì lại cho tôi; hơi thất bại là người ta sẽ hành hạ tôi. Nhưng nhắc lại với anh, tôi sẽ không thất bại. Thực sự anh nghĩ về tình hình như thế nào?

- Một lần nữa, sẽ không tồi tệ.

Petcho không nói hơn. Anh biết de Lattre của anh! Là thầy thuốc giỏi anh có nghệ thuật chăm sóc ông, không bao giờ bêu xấu căn bệnh hoặc mệt nhọc. Và nhất là anh biết đặt ông vào tư thế tốt nhất. Muốn vậy phải vượt nhiều sự hiểu biết về y tế. Anh là nhân chứng, người gần gũi nhất của ông, người "hiểu rằng" hoàn toàn không bao giờ ngạc nhiên, phật lòng, người thấy mục đích sâu xa, nghiêm túc, kịch tính của những thể hiện kỳ cục nhất. Và điều ấy anh không chứng tỏ mình hiểu ông, chỉ làm ông đoán ra qua cử chỉ, thái độ, lời nói hoặc im lặng cần thiết.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2019, 08:39:50 pm

Vị tướng không thể bỏ qua Petcho. Ông không thú nhận thật sự, chỉ nói với anh điều sâu xa, quan trọng nhất nhưng theo một "mật hiệu" rất phức tạp. Petcho "giải mã de Lattre", giải mã những từ lạ lùng rút tỉa từ sự mơ hồ thường xuyên và sự lộn xộn cao độ anh đang sống và thật thần kỳ, anh bỗng rút ra những ý tưởng, linh cảm, giận dữ, những quyết định chợt lóe sáng.

Cuối năm 1950, một ngày mùa đông bình thường ở Paris. Trong điện Elysée, tổng thống Cộng hòa chiêu đãi quốc vương Maroc. Đông đảo các sĩ quan cùng gia đình tham dự một cuộc đua ngựa. Những câu chuyện của các cựu chiến binh. Trong khung cảnh tầm thường, hàng ngày ấy "rơi xuống" tin tức về sự thất bại thê thảm ở Cao Bằng. Các vị bộ trưởng choáng váng, kinh hãi, rì rầm với nhau như đàn ruồi. "Phải gửi sang đấy người có uy tín nhất trong các nhà chỉ huy quân sự Pháp". Nhưng họ để hai tháng tìm người có thể đảm nhiệm việc ấy.

Lúc đầu thậm chí không ai nghĩ đến de Lattre. Lượt của ông đến sau khi những người được chọn đầu tiên từ chối. Tên tuổi lớn dĩ nhiên là Juin ông này tâm sự với vua Jean: "Tôi sẽ nắm Đông Dương. Tôi đã nhận." Gian xảo hay thủ đoạn vận động? Vì Juin quyết định chắc chắn không sang đấy trừ trường hợp đi mấy ngày. Juin có một trí thông minh chiến lược hơn hẳn de Lattre. Nhìn qua ông đủ hiểu một cuộc chiến tranh và cuộc chiến ấy báo trước cho ông chẳng có gì tốt đẹp. Ông cũng tin chắc nước Pháp không bao giờ có cố gắng cần thiết. Vậy là ông không nhìn đến Đông Dương. Món quà tẩm thuốc độc ông để lại cho de Lattre, chỉ loanh quanh một ít để ông này cắn câu. Còn ông, ông ở lại để chơi con bài Bắc Phi. Vì tình cảm cũng như tham vọng, ông nghĩ sẽ cứu được Bắc Phi khi gặp khủng hoảng. Đấy là nước Pháp thứ hai mà ông quan tâm.

Nhục nhã cho de Lattre, Juin được chọn thay vì ông và ông ta khinh thường... Ít nhất vua Jean cũng có thể tự nhủ đấy là một nhân vật gần bằng mình, gần cùng tầng lớp với mình. Nhục nhã sau đó càng tệ hại. Koenig được chọn trước ông. Người xưa kia đã thay vị trí của ông ở Đức. Hơn nữa không phải một người nổi tiếng, không phải chúa, không phải một chỉ huy, chỉ là một viên tướng trung thực, dũng cảm, nổi lên vì tính anh hùng - lớp dưới. Và chỉ vì Koenig đặt những điều kiện quá tỉ mỉ, đòi hỏi, mà người ta không chấp nhận ông. Đông Dương không đáng được bầu cử, số phiếu sẽ mất đi vì một số lính nhập ngũ bị giết ở Bắc Kỳ. Sự xem xét càng quan trọng khi de Gaulle đang chinh phục lại quyền lực, tấn công mạnh trong những cuộc bỏ phiếu bầu. Chỉ còn lại de Lattre. Chính phủ vẫn còn do dự. De Lattre hoàn toàn yên tâm. Không ngần ngại, không điều kiện: "Tôi chẳng đòi hỏi gì. Đội quân viễn chinh lâm nguy, tôi đi cứu, với những phương tiện sẵn có. Các ông phán xét theo kết quả. Chỉ sau những kết quả đầu tiên, sau việc củng cố lại ban đầu tôi mới có một số yêu cầu nhỏ để hoàn thành công việc."

Những lời cãi bướng, vì dù sao cũng có một điều kiện. De Lattre muốn có toàn quyền ở đó về dân sự và quân sự. Ông nói nhiều: "Tôi đi một mình. Chống lại thảm họa tất yếu, sẽ chỉ có tôi. Tôi nhận Đông Dương như vốn có, có vẻ bị kết án. Các ông muốn tôi làm nên một phép lạ. Nếu vì yêu nước tôi nhận những trách nhiệm, những nguy cơ đáng sợ thì tôi phải tự mình chỉ huy toàn bộ, chơi ván bài toàn bộ." Thái độ ngập ngừng của các bộ. Nhưng ở Bắc Kỳ luôn luôn sa sút hơn. Nếu có những tai họa mới, de Gaulle có thể tranh thủ dư luận đưa lại đa số phiếu cho ông được không? Tốt hơn là tung de Lattre ra, chỉ giao cho một bộ trưởng cộng hòa, Letourneau, theo dõi.

Chính phủ tỏ ra mềm mỏng. Vị tướng cảm thấy đã đến lúc bèn quyết định. Ông tâm sự với Cogny: "Việc chỉ định tôi sắp kết thúc". Trong lúc chờ đợi, ông như bận rộn, căng thẳng, sợ điều ông bao mong muốn. Hung hăng, ông cuống cuồng nói với mọi người: "Tôi nghĩ họ sắp đến tìm tôi. Như vậy có tốt không?" Ông sợ gì vào lúc cuối - không bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm ông? Chẳng ai biết. Ngày 4 tháng chạp được chính thức công bố. Trong mấy giây, de Lattre, người biến hóa được biến hóa. Một sự hồi sinh. Điện khí hóa vua Jean, chế độ năm nghìn vòng. Khi biết, ông chạy vội vã đến điện thoại như một kẻ điên, báo trước với những người tin cẩn: "Tôi sang Đông Dương. Tôi mất tất cả". Đấy là nghệ thuật. Bà de Lattre có nghệ thuật trọng lực nghiêm trang. Còn hơn ông, bà như lên với thiên thần. Theo bà có ngón tay của Thánh thần, Chúa trời muốn như thế. Phải tuân theo thôi. Nhưng vẻ trịnh trọng quá đáng, không phải với một niềm vui quá nhân đạo. Trong những tuần lễ cuối, bà luôn thúc đẩy "Jean" sang Đông Dương. Qua một đường dây khác, bà tích cực thông báo sự kiện với những "bà" vợ các ông: "Chồng tôi đã nhận. Ông đi Hà Nội, một sự hy sinh lớn. Nhưng tôi sẽ nâng đỡ ông, sẽ chóng theo ông sang đấy".

Tiếng ồn ào vang lên khắp xung quanh. Những lời chúc mừng nhiệt liệt. Nhưng nhiệt tình của những đám đông chóng tàn! Để kéo dài sẽ không hay. Phải thực hiện ngay một cuộc đi chớp nhoáng, cuộc đi của cứu tinh xứ Đông Dương.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2019, 08:40:31 pm

Vậy là chỉ mười ngày để chuẩn bị. Không hơn một ngày. Điên rồ, thời gian ấy chỉ đủ cho những gì cần thiết. Nghĩa là để chèo kéo những "ông bạn" lần lượt đến, để xây dựng lại đội "cận vệ cũ". Để sẵn sàng những chi tiết tối cần thiết cho thắng lợi: máy bay, y phục.. Phải mất nhiều giờ. Lúc ba giờ sáng de Lattre và người của mình thử những bộ đồng phục màu trắng tại nhà, chú ý từng đường gấp nếp, sửa đi sửa lại mười lần, hàng trăm lần, hành hạ người thợ may quỳ trên đất với kim găm và kéo. Mười ngày để che phủ người, lần này về chính trị. "Điên khùng" ngọn lửa táo bạo, ông thích có một vỏ bọc phía sau. Trước đây ông đã bị vấp ngã vì điều đó.

Mười ngày để gặp triều đình và thành phố, tất cả mọi người trong các phái. Luôn kèm theo Cogny, người khổng lồ Cogny rất mạnh trong giao tiếp với các bộ, các văn phòng. De Lattre cũng gặp những người trước đây nắm quyền lực như Decoux và người của Chính phủ Vichy và những người có thể trở lại nắm quyền như người của phái de Gaulle. Ông gặp de Gaulle, hơi gò bó vì giữa họ có một quá khứ căm ghét nhau, kẻ thù đang có thế lực. Tốt nhất là ký đình chiến với ông ta trước khi đi vào rừng núi Châu Á.

Vậy là con đường thập tự chinh được quét sạch. Vượt qua "đầm lầy" của nền Đệ tứ Cộng hòa, qua "ngọn núi" de Gaulle. Qua cả "phái chống đối" cuộc chiến tranh Đông Dương. Vì vua Jean với phong thái rất lịch sự đồng thời gặp những người đã Việt Minh hóa, những người xã hội, nhân văn chống thực dân, tất cả những người tin vào Hồ Chí Minh. Đối với tất cả, ông tuyên truyền về chương trình độc lập dân tộc. Ông không nói gì cụ thể nhưng gợi ý mục đích của ông là hòa bình, có thể không chỉ bằng vũ khí và cả bằng thương lượng. Trong lúc ấy đối với những ông ở phía hoàn toàn khác, ông đặt vấn đề chiến thắng, chinh phục Châu Á, trả thù cho nước Pháp.

Để chuẩn bị cho "chiến trường Đông Dương" de Lattre đã biết sử dụng sự nhập nhằng hai mặt. Không có tiếng la ó "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" khi ông tuyên bố với ông thì sẽ sạch sẽ. Không có những nổi dậy, chống dân chúng khi ông hiện thân là thiên sứ sấm sét của lưỡi gươm. Như vậy ông che chắn cho tương lai, cho mọi trường hợp ngẫu nhiên, mọi đường lối chính trị nảy sinh. Nhất là ông che chắn cho hiện tại, được bảo vệ khắp nơi, đưa ra với từng người sự thật họ muốn có.

Buổi ra đi dù sao cũng là của người lính viễn chinh, người hiệp sĩ mang vũ khí. Lên máy bay ban đêm, đèn chiếu sáng. Mấy trăm người hoan nghênh. Giữa màu đen được chiếu sáng ấy, giữa thời tiết lạnh gần lễ Giáng sinh, de Lattre như một người anh hùng đi bảo vệ Đất thánh. Một ông vua Jean huyền thoại, như không thật nhưng thật vững vàng, tính toán tất cả, tính toán những cử chỉ khi đến để đạt được mục đích, sự lớn lao. Của nước Pháp, cũng là của ông. Vì nước Pháp là ông và ông là nước Pháp.

Và hai ngày sau, thế là ông ở trong lâu đài Norodom, suy ngẫm. Phải chiến thắng tại chỗ. Một chiến thắng cần có ngay, trên đồng ruộng hoặc trong rừng núi. Ông không biết sự việc ấy như thế nào, không biết người Việt, Châu Á ra sao. Ở Paris ông đã lục lọi mọi tài liệu, thông tin, đã hỏi đủ mọi phía. Trên máy bay ông ngốn ngấu mớ tài liệu hỗn tạp: tập sưu tầm đẫm máu. Nhưng ông vẫn không có một khái niệm gì, chỉ một số ý tưởng cố định, một số định kiến có ích. Và vì những điều ấy ông hỏi Petcho rất nhiều và không thích anh này rầu rĩ mất vui. Ông muốn có những khó khăn nhưng không quá đáng...

Bất kể! Ông đang ở đây, nắm vận mệnh mình trong đôi tay và khối óc. Và lớp trẻ sẽ làm ông khỏe lại. Vì những người cầu cứu ông sẽ đến, những người nghĩ là con cái ông, sĩ quan tùy tùng của ông khi ông, đấu tranh trở thành một người quyền lực. Ông hài lòng. Chương trình: một hai ngày thu xếp tư thế và rồi cú đầu tiên. Không súng đạn mà biểu tượng. Một đòn quyết định.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2019, 08:41:27 pm

Sáu mươi ba tuổi của vua Jean. Lứa tuổi luôn đáng ghét chỉ chịu đựng được với những chỉ huy lớn như ông, trên con đường vinh quang. Ở những người khác, nhất là những quân nhân bình thường đã là thời kỳ tàn phế, thất bại, khôn ngoan, những gì về tinh thần và thể xác xấu đi rồi. Vậy không phải cùng với những người già mà ông, Vua Jean, đã là "ông già" lao vào cuộc phiêu lưu lớn mà chỉ lớp trẻ, đóa hoa thanh xuân, mới hiểu được sự lớn lao của ông.

Chính lớp trẻ, những trung uý, đại uý của Đội quân viễn chinh lúc ấy chưa người nào nghĩ đến ông, đã kêu cứu: "Mời ông đến! Chỉ có ông mới cứu được chúng tôi". Lời kêu gọi cảm động nhất là của Bernard, đứa con trai hai mươi tuổi, đã hai năm đánh nhau giữa lòng Bắc Kỳ mục ruỗng. Đứa con viết cho ông: "Con cú mèo phải mặc lại chiếc quần lao động thắt đai". Khi de Lattre được bổ nhiệm và ra vẻ bị đè nặng vì nhiệm vụ ghê gớm, ông bỗng nhún vai: "Ít ra tôi cũng sẽ gặp lại Bernard." Một tiếng lòng của de Lattre. Dĩ nhiên thành thật nhưng có lẽ cũng là một "ngón khéo léo" để có lý do nhanh chóng chấp nhận Đông Dương. Bà de Lattre, sốt sắng vì tình mẹ, nói với chồng: "Ông cứ đi để đến cùng con trai, để nó được bảo vệ. Sau mấy ngày ông sẽ gặp nó. Và sau đó mấy ngày nữa tôi sẽ sang đấy với ông và con". Tóm lại cả nhà de Lattre, bộ ba phức hợp ấy cuối cùng họp lại với nhau trên cùng một chiến trường.

Tình cảm, gia đình và chính trị - quan hệ của lớp trẻ - tất cả lẫn lộn với vua Jean. Trước hết, trong cảnh vắng vẻ của lâu đài Norodom, ông chờ đợi Bernard, đã ở Đông Dương một ít và cũng phải phục vụ ông một ít.

Ngày 18 tháng chạp Bernard từ Hà Nội vào. Anh lao vào tay ông bố vốn khó nhận ra anh. Trước mặt de Lattre là một sĩ quan trẻ đẹp lạ lùng, cao ráo, tóc vàng và gầy, thể hiện một niềm vui buồn hơn nghị lực thực thụ. Ông khó khăn để hiểu được cậu bé này rất khác ông, thực sự vô tâm, không có tham vọng. Sức sống của anh chỉ hạn chế trong việc làm những sai lầm của tên vô lại trẻ quý phái, khoác lác. Nhưng những quá khích ấy thể hiện sự cố gắng vì thực tế Bernard rất dễ mến nhưng bị dằn vặt. Anh muốn làm người ta quên anh là con trai của de Lattre nhưng không làm quên đi hoàn toàn.

Anh đau khổ vì sự che chở đè nặng trên mình nhưng không thể thoát ra được. Rồi như một loại u uất, anh chiến đấu dũng cảm gần như quá dũng cảm, vừa muốn rời bỏ quân đội, mong được từ bỏ tất cả.

Tuy thế lần này ở lâu đài Norodom là phép lạ, sự thông cảm tuyệt vời. Vị tướng thấy lại một Bernard chín chắn, rắn rỏi qua mười tám tháng tham chiến ở Đông Dương; Bernard thấy lại một người cha đường bệ, lóe sáng. Ba giờ liền ông bố hỏi và người con trả lời: anh nói những điều mình biết về Đội quân viễn chinh, dân quê, đồng ruộng, Việt Minh, về toàn cuộc chiến tranh. Với cách của mình, chàng trai còn hơi trẻ con ấy, khá khôn ngoan, buồn, là một nhà quan sát rất tốt. Anh chỉ mô tả tỉ mỉ, với những từ đơn giản, điều anh đã thấy đã sống, tất cả sự phức tạp cuộc chiến của mấy nghìn người da trắng sa lầy giữa những khối người da vàng. Bức tranh màu xám, đen hơn bức tranh của Petcho, nhưng lần này de Lattre hào hứng, chỉ nói: "Càng khó khăn sẽ càng thích thú".

Tối hôm ấy, đi nằm, ông hỏi Petcho:

- Anh có gặp Bernard chứ?

- Vâng.

- Anh biết đấy, nó trẻ đẹp, thánh thiện, lập luận tốt, có cái nhìn rõ nét về tất cả...

Trước đó Allard đã "hội ý" với Petcho, thì thầm tâm sự:

"Chẳng thể yên tâm nếu cả ông bố và cậu con cùng ở Đông Dương. Nếu Bernard trở về tiểu đoàn, sẽ là một mồi săn của người Việt. Họ sẽ phục kích, giết chết và có lẽ tệ hơn nữa là bắt sống. Anh ấy đã phục vụ lâu ở Đông Dương. Sẽ là bình thường nếu đưa anh ta vào một chỗ không nguy hiểm".

Vì vậy Petcho tranh thủ lòng tự hào của ông bố để làm nhiệm vụ:

- Bernard chiến đấu ở đây đã từ lâu. Ông nên đưa anh ấy lại gần mình. Chẳng ai thấy có điều gì để nói.

- Anh đừng nói về việc đó. Điều tôi muốn hứa với tất cả những sĩ quan trẻ của tôi là chỉ huy họ hoàn hảo, để họ thấy tôi luôn ở cùng họ dù có việc gì xảy đến. Nếu họ chết sẽ chết xứng đáng. Bernard không còn lâu ở Bắc Kỳ nữa, phải để nó ở đấy.

Bỗng de Lattre nheo mắt hỏi:

- Ai uỷ nhiệm anh khuyên tôi điều ấy?

- Những người yêu mến ông.

- Nếu có ai đó làm việc gì cho Bernard thì không phải tôi. Câu nói nhập nhằng. Giữa vai trò chỉ huy chớp nhoáng và ý thức cha con, chắc de Lattre để cho làm mạnh tay. Phải có một ai đó có khả năng bố trí Bernard vào một chỗ dễ chịu không ai để ý, không ai nói nhiều. Nhất là không để đứa con trai nhận thấy. Mỗi lần Bernard cảm nhận có một ân huệ nào đấy, chàng trai dễ mến này bùng lên giận dữ, đi đến chỗ "cãi cọ" với ông bố ghê gớm của mình.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2019, 08:42:01 pm

Ở lâu đài Norodom, khi có vấn đề về danh dự của mình. Bernard nhã nhặn trở nên rất kích động. Có lúc anh bị cúm, Petcho bảo: "Anh ở thêm mấy ngày nữa, bên cạnh bố anh". Bernard hét lên: "Nếu tôi bị bệnh tôi muốn được chữa trị như mọi người, không phải trong lâu đài mà trong một bệnh viện quân đội. Và tôi cũng chán rồi, tôi muốn trở về Bắc Kỳ".

Những lời nói đi đáp lại ấy có lẽ đóng dấu vào số phận của cuộc chiến tranh Đông Dương. Chỉ liên quan đến một trung uý rất trẻ, không có gì quan trọng ngoài tên họ của anh. Nhưng giữa những cân nhắc tế nhị ấy đã diễn ra thời kỳ kết thúc của cuộc phiêu lưu; với cái chết của Bernard, de Lattre cũng bị dồn đến cái chết.

Trong lúc này ngoài những vụ nổ nhỏ, chỉ là vui vẻ. Thú vui sống hết mình với lớp trẻ. Với Bernard, với một chàng trai cũng rất quý và thân thiết, hơi lớn tuổi hơn con trai ông một ít: trung uý de Royer. Anh này từ Bắc Kỳ vào để làm trưởng nhóm tùy tùng. Trước đã làm nghề này bên cạnh vị tướng, theo kinh nghiệm, anh thu xếp để có mặt chậm. Ở Sài Gòn anh thấy "ông chủ" rất vui vẻ, không hề nổi giận. Gặp nhau, de Lattre chỉ nói: "Anh đã ở Đông Dương hai năm, đã ở ngay trong nỗi xấu hổ ở Lạng Sơn. Anh đã tả lại cho tôi tất cả những khốn khổ ấy trong những bức thư của anh. Anh cầu cứu tôi nhưng không có mặt để chào tôi khi tôi đặt chân xuống Đông Dương."

Sau mấy tiếng đồng hồ, de Rover lại ở tầm cao đầy đủ. Vừa là người gác cổng dữ tợn vừa là cố vấn chín chắn đến hoàn hảo. Người ta không nhận ra tầm quan trọng của anh ngay lập tức. Lúc đầu chỉ thấy là một sĩ quan gương mẫu. Không hề nóng nảy, buông thả, mảnh mai và tóc vàng như đang là mốt ở Đông Dương, như sở thích của de Lattre. Anh ngược lại. Rắn chắc, da nâu, thấp đậm, cao lớn trung bình, bình lặng. Anh có lối lễ phép không phải của một thị dân, không kiêu kỳ, chỉ tuyệt đối trung lập, một đức tính đáng sợ, của những đao phủ lớn, những thám tử lớn, những người xung kích. Sự có mặt thường xuyên, một cách nào đó để khi nào cũng hiện diện ở mấy tiếng nói, mấy cử chỉ luôn luôn có chừng mực và rất phù hợp, hình như đứng trên mọi hoàn cảnh, mọi tình huống đột xuất: đối với de Lattre, đấy là dấu hiệu am hiểu sâu.

De Rover rất bình tĩnh, đúng đắn mà người ta có thể coi thường. Thế nhưng người ta nhanh chóng cảm thấy anh có trọng lượng. Những gì từ miệng anh nói ra, dù dưới dạng những câu thông thường với giọng nói chính xác, rõ ràng và không đặc sắc, vẫn có một ý nghĩa. Có thể là lời phán truyền, sự cảnh báo được che đậy về những gì sẽ đến. Có thể là một lời khuyên nhưng đã là một mệnh lệnh. Có thể là bản án không chính thức trước khi có sự kết tội chính thức. Những việc ấy chẳng có gì quanh co. De Royer không có tính chất độc ác, phức tạp. Chỉ là kẻ cơ hội thích giật dây bên dưới, không có gì mạo hiểm vì đã biết quá rõ de Lattre.

De Lattre là một kỵ sĩ, xử sự với người như với ngựa. Ông đưa họ ra trước trở ngại để xác định giá trị của họ. Tất cả tùy thuộc vào thái độ của đối tượng. Ông không bao giờ lầm. Chớp mắt ông cảm thấy điều ông bắt họ phải chịu đựng hoặc ông có thể chấp nhận.

Sự cãi lại đặc biệt là ân huệ cho "cậu bé" de Royer. Đôi khi sĩ quan tùy tùng này, thay vì chịu đựng lăng nhục, đã chống cãi lại. Anh xuất sắc nhất trong trò chơi này. Hơn cả Cogny và Allard, những nhân vật rất quan trọng. Hơn cả Petcho, thân tình của de Lattre, như một "vú nuôi" mù quáng hy sinh và phục tùng.

Ở Sài Gòn, như Petcho, Bernard, điều de Royer nói về Đông Dương không khích lệ lắm. De Lattre nổi giận:

- Nhưng có tôi ở đây. Và rồi anh yêu mến tôi, tất cả những chàng trai như anh yêu mến tôi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2019, 08:42:40 pm

Để tăng cường niềm vui và hy vọng của mình, giữa đêm ông ra khỏi lâu đài Norodom đi thăm các chỗ trú quân. Ông hét lên: "Tập hợp cho tôi tất cả các trung uý, đại uý". Với những người này, ông nói: "Các anh cũng rất đẹp như tôi nghĩ. Với các anh, những chàng trai chưa đến ba mươi tuổi, tôi sẽ làm những việc lớn." Đi bên cạnh Cogny lẩm bẩm rất khẽ, điệu hát ấy với những đàn em, những "kẻ cuồng tín" vừa mới ra trường, chỉ là lối mị dân.

Cũng là sự thương mến cần thiết vì de Lattre cũng phải có điều ấy. Nhìn những khuôn mặt trơn tru, đầy sức sống, đôi mắt chăm chú vào mình, ông thấm thía tình cảm quân nhân. Trở về lâu đài Norodom, ông tâm sự với Petcho, với Bernard và de Rover: "Sự trong trắng của những đứa trẻ ấy làm tôi yên tâm, tôi tin tưởng." Rồi ông nói thêm: "Nhưng cũng có những kẻ đáng ghét cần phải nghiền nát. Tôi sẽ xáo trộn tất cả".

Ở lâu đài Norodom tiến hành một đợt ngắn "độc ác". De Lattre phải bác tất cả, cho đến nút bấm ở cửa. Trong lâu đài cũ, tuy đáng kính, chẳng có gì ổn. Vua Jean xem xét lại chi tiết toàn bộ, không có gì quá thấp đối với ông.

Suốt hai ngày, giông tố đến tận những bếp núc và phục vụ. Ông cho di dịch những bức tượng, bàn ghế, tranh ảnh. Phải gọi người quản lý lâu đài, các trưởng bếp, kiểm tra bát đĩa, dụng cụ bằng bạc, xoong chảo. Ông tự mình hỏi những bồi bếp từng người một.

Một quan tâm lớn khác là bố trí các phòng.

Phòng lớn nhất là của ông nhưng cũng phải có một phòng rất đẹp, không xa, không gần quá, cho bà de Lattre mấy hôm nữa sẽ sang. Vì ở Pháp không là gì, ông tính bà rất có ích cho ông ở Đông Dương, ít nhất như là một biểu tượng. Có sự hiện thân cao quý của gia đình người Pháp nào hơn gia đình đại tướng de Lattre de Tassigny ở Viễn Đông: bà mẹ nội trợ, con trai đang chiến đấu, ông bố trên chín tầng mây?

Dĩ nhiên trong việc xáo trộn nhà cửa này de Lattre có những phát hiện lạ lùng. Ông kêu lên: "Tại sao những đĩa bạc có trong danh sách thống kê lại thiếu? Vì sao bếp bẩn và cũ như vậy? Thế mà người ta không muốn tôi chõ mũi vào ngôi nhà chứa này! Tôi chắc chắn ở Đông Dương tất cả đều như thế". Ông nổi giận khi thấy một người lai, những người Pignon yêu thích, một trong những người tin cậy của ông này, phụ trách đón tiếp, đã mưu mô với các hộp đêm. Thật đúng lúc, ông hét lên: "Tất cả mục ruỗng, phải quét sạch khắp nơi".

Như vậy bận tâm với những vấn đề tầm thường nhất, de Lattre đang sẵn sàng với những nhiệm vụ lớn. Đuổi Pignon và Carpentier chưa đủ, phải thanh toán cả hệ thống và những người của họ.

Trong những giờ đầu tiên này de Lattre không nhìn Đông Dương dưới dạng nguyên tắc, vấn đề, giải pháp. Ông chỉ nghĩ về người, "chơi trò" con người. Phải đuổi những kẻ xấu, tìm những người tốt, từ trên xuống dưới.

Việc đánh gục bộ phận lớn được uỷ thác cho tướng Allard. De Lattre muốn ít nhất hạ ba trăm người. Ông này phải tìm cho ra. Nhưng phải tỉ mỉ, không ầm ào, nhất là không tùy hứng. De Lattre và Allard là "đôi cơ bản" cần thiết có lợi tối đa cho đoàn quân. Thiên tài cần có một người bàn giấy quanh guồng máy hàng ngày.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2020, 10:53:57 pm

Vua Jean ít gặp ông này, vừa nói mấy câu là đủ. De Lattre - con người quá nghi ngờ người khác, luôn luôn theo dõi, xác minh, củng cố mình - tuyệt đối tin tưởng vào ông nên chỉ càu nhàu trước mặt ông: "Anh làm cái này, anh làm cái kia", không bình luận, không giải thích. Và bao giờ cũng được thực hiện, hoàn hảo, dù điều ấy không thể được. Tuy vậy chẳng phải có phép lạ. Do hai người rất khớp với nhau. De Lattre biết rõ Allard của mình, đòi hỏi hơi quá điều "thực hiện được" sự tối đa được tính toán một cách lạ lùng, hơn lên một tí. Allard nhận lệnh, đứng nghiêm chào: "Vâng, thưa đại tướng". Rồi ông cho bộ máy của mình hoạt động, nghĩa là gần như tất cả trừ chiến lược và chính trị. Nhưng không có ông và những người của ông, de Lattre và những "khói óc lớn"- Beaufre, Cogny, v.v... - sẽ rất lúng túng trong chiến tranh và những ý đồ lớn. Nhờ ông, mọi "đạn dược khí cụ" các loại bao giờ cũng sẵn sàng, lúc nào cũng có những bản đồ lớn cần thiết cho "cuộc chơi lớn".

Ông không bao giờ ở lâu bên vua Jean. Khi thấy ông, ông này kêu lên: "Anh làm gì đấy? Thế công việc?" Thực vậy, Allard sống xa các ông lớn, trong những văn phòng trại lính ở ngoại ô Sài Gòn. Ở đấy ông là vua hậu cần, của việc cung cấp, kỷ luật, tổ chức. Ông chăm lo đến tất cả những gì khô khan bao gồm cả tài chính, vấn đề rất không xứng đáng. Để xem xét các phiếu, để ghi chép, ông mang trên chiếc mũi to đôi kính của bà già, làm việc cật lực. Sức khỏe ông rất tốt. Nhờ có ông Đội quân viễn chinh trở thành một cỗ máy được bôi trơn hoàn hảo, các tiểu đoàn "sáng bóng" đúng mức, với những chỉ huy đẹp, quân lính đẹp, những đạn cối, trang bị vận chuyển, thông tin liên lạc. mọi cái cần thiết. Không bao giờ bị bất ngờ, đụng chạm, phiền phức.

Đấy là một người phục vụ lý tưởng. Khiêm tốn, bao giờ cũng ẩn mình, tận tụy cả thể xác và tâm hồn. Ông là "phục vụ và phục vụ" nhưng ở mức những việc lớn. Tất cả ở ông là lòng tự hào nhưng tự hào trên cơ sở vâng lệnh những "ông chủ" lớn vốn vượt ra ngoài chuẩn mực, có thể cho phép tất cả mọi điều khác thường.

Lúc này là việc săn lùng người; de Lattre muốn đầy một rổ, bất cứ những ai miễn là có nhiều để tung ra trước mặt mọi người. "Thi hành” - phải nói như thế. Allard săn đuổi nạn nhân của mình trong ban tham mưu bao la Carpentier để lại. Mỗi phòng ban là một vương quốc đặc biệt mà các lon rất được nuông chiều. Allard tỉa gọt trong đó như đối với bụi cây. Ông chỉ muốn cắt những cành nhánh vô ích để có một khu vườn hợp lý, hoạt động tốt, bình lặng không ồn ào. De Lattre mắng nhiếc ông: "Anh làm nhanh lên. Tôi muốn chuyến tàu sắp tới đi Pháp chở đầy những kẻ ngu xuẩn. Tìm đi, tìm đi cho tôi". Cuối cùng Allard bực mình:

- Ông để tôi yên. Tôi cũng cần có những viên chức trong quân đội. Việc đó ông không quan tâm nhưng tôi có đấy. Tôi không muốn đổ vỡ tất cả. Ông sẽ nói thế nào nếu các phòng ban của tôi không hoạt động nữa. Tôi biết rõ người của tôi, những lao động vô danh và cần thiết mà đối với ông chỉ là những kẻ hiến sinh. Tôi giữ những người tốt, loại bỏ những kẻ xấu. Nhưng phải có thì giờ.

De Lattre im lặng. Trong lúc này một chiếc xe nhỏ đầu tiên cũng đủ. Vả lại ông không dứt khoát phản bác, không có nguyên tắc tuyệt đối. Tìm được cái tốt ở đâu thì ông nắm lấy kể cả trong cái ông vừa long trọng loại trừ. Vì vậy trong số Carpentier và Pignon để lại, ông chọn một người của Carpentier và một của Pignon, hai người sẽ đóng một vai trò to lớn bên cạnh ông, trong lớp thân cận, giữa lòng lớp người xung quanh ông.

Trong đó có một quản nhân, một con bài "A" về thông tin đảm bảo. Salan đã có thể làm việc ấy, vì rất giỏi trong những chuyện lôi thôi, dựa vào những đường dây riêng những tình báo viên già thừa hưởng của cảnh sát Thượng Hải, băng riêng của ông do "Hươu cái" ghê gớm, bà Salan, khống chế và đủ loại dân thường kỳ cục, nhà sư hoặc những viên quản cũ thuộc địa bố trí trong cửa hàng tạp phẩm. De Lattre rất lo ngại về tất cả cái đó. Ông muốn có một kỹ thuật viên bách khoa. Ông tìm được, dù người ấy đã do Carpentier đào tạo. Đấy là Boussary. Ông ăn mặc tồi, vụng về, một dáng vẻ hề với chiếc đầu bạc. Boussary làm ông thích thú vì đó là cỗ máy điện tử, một chiếc máy tính, phân tích. Một trí óc không mệt mỏi, luôn lập luận, số liệu và rút ra kết luận. Đấy là kỹ thuật viên thực sự và nhanh chóng về thông tin. De Lattre hỏi: "Quân Việt ở đâu?" Boussary lên ngay một bảng rõ ràng và thông minh. Ông nắm số lượng quân Việt, chia, cộng, nhân, thực hiện mọi phép tính sơ và cao cấp. Tuy vậy ông luôn thiếu một kết luận, lúc nào cũng còn một ẩn số cơ bản. Ông biết rõ có thể quân Việt ở mười, một trăm chỗ nhưng không biết thực tế hiện họ ở dâu. De Lattre lóa mắt về những tính toán lô-gic ấy: Điều ấy cho phép ông nổ ra khi muốn bất chợt: "Anh chỉ là một con lừa, Boussary. Quân Việt ở đây, dĩ nhiên là chỗ này." Cuối cùng de Lattre không bỏ qua được, ông này rất quan trọng. Ông thường xuyên dựa vào Boussary cho dù trước mỗi trận đánh, do những định đề của ông này, Đội quân viễn chinh bị bất ngờ vì quân Việt.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2020, 10:55:28 pm

De Lattre tự nhủ những chiến thắng tương lai ấy để làm gì nếu không có văn chương? Ông không bao giờ đọc, kể cả các tác phẩm của những tác giả đang lên đề tặng. Ông ra lệnh cho một trong những tuỳ tùng: "Anh nói xem trong đó viết về những gì?" Lần lượt ông rất chú trọng đến văn chương, viện Hàn lâm Pháp, các văn sĩ lớn. Theo ông, chiến tranh thắng trên giấy cũng như trên thực địa. Vậy là ông thực hiện những văn bản đẹp về quân sự. Ông có tiền đề hiếm thấy ở một tổng chỉ huy: "Một nét phẩy cũng quan trọng như một trận đánh." Xung quanh ông, Cogny, Beaufré, Goussault và những nhân vật lớn hàng ngày để nhiều giờ trau chuốt lối hành văn quý phái, những kilô thông điệp, báo cáo, tường thuật. Sau đó đọc các bài, de Lattre dừng lại ở từng chữ: "Cái này là cái gì? Không tốt".

Tuyệt vời! Trong số những người của Pignon, ông tìm được một cây viết. Một biên tập chuyên nghiệp. Một thủ khoa cũ của trường sư phạm và hơn thế, một chiến binh thực thụ, một sĩ quan dự bị đã được thưởng huân chương ở mặt trận Ý. Đấy là người thứ hai, ông Dannaud.

Một người phái dân sự rất đẹp, có loại đầu lãng mạn, được các bà yêu thích khác thường. Thời kỳ Pignon, khi ông lãnh đạo nền giáo dục ở Đông Dương, các nữ sinh trung học ngất xỉu khi ông đến gần họ trong đợt đi thanh tra. Ông cưới một phụ nữ lai rất đẹp, đôi mắt xanh nhạt màu, thân hình gợi cảm mà người chồng trước bị bắn chết. Chắc chắn là tự sát: Tuy vậy giới tư sản Sài Gòn bàn tán chính bà vợ giết. Dannaud thú vị về lời đồn ấy, thích làm cho người ta tin ông cũng có thể có số phận tương tự. Ông luôn đưa cho bạn thấy con dao ông có trong người để tự vệ.

Chuyên môn của Dannaud là cảm nhận, mọi sự cảm nhận. Ông muốn tin nhưng vì quá thông minh không bám được vào một ý, một hệ thống. Ông có một vẻ buồn nhớ, mơ hồ trong tâm hồn mà tùy tình hình có thể là một niềm tin mãnh liệt hoặc khinh miệt cao độ. Ông ở trong hư vô, nhìn từ cao từ xa và bỗng thức tỉnh, lao vào một ai đó và bắt giữ.

Nghề thực sự của ông là sự quyến rũ. Khi ông tấn công, không ai cưỡng được từ một bộ trưởng đến một người đẹp. Khi tấn công de Lattre ông thành công hoàn toàn - điều làm thay đổi cuộc đời ông. Ai chinh phục de Lattre cũng bị ông ta chinh phục.

Dannaud chấp nhận một ông chủ, và cống hiến tài năng. De Lattre đưa ông vào công việc, viết những bài diễn văn tuyệt vời. Dannaud như ở với thiên thần, trong bầu trời de Lattre. Đôi khi vị tướng quát: "Không phải thế". Ông giao cho những quân nhân tốt như Cogny, Beaufré chữa những bài rất hay của người sinh viên sư phạm. Đôi khi ông cũng nhúng tay vào việc đó. Ông, người không biết viết, không thể đưa ra một tia đầu tiên, đượm máu và nước dễ dàng kỳ lạ khi biến bài viết của Dannaud thành của de Lattre. Lúc ấy sẽ là văn cổ điển thêm vào cái gì đó. Trong những sửa chữa ấy, Dannaud đau khổ, khủng hoảng và khóc. De Lattre nhận xét: "Dannaud có luật lệ của anh ta."

Như thế trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ ở lâu đài Norodom, de Lattre đã bổ sung thân cận của mình. Ông đã tăng cường đội biệt kích đến cùng ông từ Pháp. Nhưng còn cần những người khác, những kẻ vô lại, trí óc, những chiến binh, các cận thần. Có những người đã ở Đông Dương, những người khác ở Pháp hoặc khắp thế giới. Hàng trăm điện tín gửi đi để tuyển mộ ê-kíp lớn. Những người đến được tính toán: từ nồng nhiệt đến khinh khi. Cho dù những người ấy không phải siêu nhân cũng được, ông sẽ biết đào tạo lại họ.

Thế nhưng de Lattre không có thì giờ chờ đủ người cho gánh xiếc. Một mình ông sẽ làm "trò chơi lớn". Trong tất cả những gì người ta nói với ông về Đông Dương, có một "nguồn" tác động đến ông, đun nóng sự tưởng tượng của ông: Hồ Chí Minh tuyên bố sẽ diễu binh, chiến thắng ở Hà Nội vào ngày 19 tháng chạp, kỷ niệm ngày Việt Minh kháng chiến năm 1946.

De Lattre đến Đông Dương từ 17 tháng chạp, ông quyết định vào ngày 19 tháng chạp chính ông sẽ duyệt các đội quân trong Hà Nội được giữ lại, Hà Nội mà ông không bao giờ nhường lại. Đây là biểu tượng của sự quyết tâm, sự thách thức khó tin đối với kẻ địch, vở bi kịch lớn kéo màn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2020, 10:56:50 pm

Sài Gòn, thành phố của đồng bạc mà de Lattre rất khinh, lơ là và vui vẻ - một niềm vui không liên quan gì với việc cứu tinh, một tổng chỉ huy xuất sắc đến. Trong thành phố này chẳng có gì quan trọng, ngoài việc hưởng thụ. Phần đông những người đến chào đại tướng De Lattre de Tassigny sau đó đi uống với nhau ở quán rượu Le Chalet gần ngoại ô Chợ Lớn. Trong lúc người ta "tỏa ra", đi lại nhiều, một đám cháy khổng lồ (tấn công, quấy phá hoặc do sáng kiến một chủ đất muốn phá huỷ những mái nhà tranh để xây dựng kiên cố) bao trùm bên bờ đường phía kia. Lửa và khói nghi ngút bốc lên trời. Hơi nóng càng làm tăng nhiệt độ phòng nhảy. Không một xúc động nào. Ban nhạc chơi, các đôi trai gái quay cuồng, rượu champagne chảy. Có ai đó thì thầm trong sự thờ ơ: "Hình như Vua Jean ra Hà Nội. Để xem ông ta có ra gì không đối với người Việt."

Ở Hà Nội là sự lo lắng, cảm giác của kết thúc, của cái chết đã rõ ràng. Ngày đêm súng ca-nông nổ rất gần. Thành phố vơi đi. Viên chức đốt hồ sơ. Những đoàn xe dài di tản phụ nữ và trẻ em da trắng, thường đã ngả màu vàng. Những đoàn xe khác chuyển vũ khí hạng nặng của quân đội. Quân lính bị ám ảnh về chiếc cầu Doumer, công trình cũ thời thuộc địa bắc qua sông Hồng và là con đường chạy thoát duy nhất. Người ta đưa cả những tiểu đoàn đầy đủ bảo vệ cầu. Ban chỉ huy thông báo cho dân chúng, đàn ông phải tự xoay xở đi thật sớm, sau đó cầu sẽ dành cho Đội viễn chinh rút quân. Dân bản địa ẩn lại trong các khu phố của mình. Đường sá vắng vẻ, cả những đường phố nhỏ trước đây buôn bán tấp nập: Hàng Đào, Hàng Bông, Hàng Buồm. Chiếc hồ nhỏ giữa lòng Hà Nội hiu quạnh với những tháp, những chùa, cảnh hoang phế...

Sự lo lắng tăng khi càng gần đến ngày 19 tháng chạp. Một số người Pháp ở lại nhớ đến những kỷ niệm kinh khủng trước đây: ánh sáng vụt tắt, những người bận đồ đen xuất hiện trong đêm tối, bóp cổ, xử cực hình. Tiếng la hét, tiếng nổ, đánh nhau giáp lá cà ở cửa cống, trong nhà, ở các ngõ cụt hầu như không trông thấy nhau; lẫn lộn mù quáng giữa những đao phủ, nạn nhân và binh lính. Chẳng ai biết ra sao. Chỉ là những ngọn lửa và tiếng ồn ào. Những cái đó có lặp lại không?

Ít hy vọng. Ngay ngày de Lattre đến Sài Gòn, 17 tháng chín, quân đội Pháp rút khỏi vị trí Đình Lập, trên đoạn cuối đường số 4. Vậy là tiếp tục rút chạy. Tất cả hình như sụp đổ. Các sư đoàn chủ yếu của ông Giáp tập trung thành hình vòng cung xung quanh Hà Nội, trên những ngọn núi cách không đến bốn mươi cây số. Những lực lượng đó xuống vùng đồng bằng rất gần, đã bắt đầu tấn công những tiền đồn ngoại vi. Cuộc tổng tấn công sắp xảy ra. Về phía người Pháp vẫn không hoạt động gì. Tướng de Latour chỉ huy các đội quân Bắc Kỳ đi Sài Gòn gặp tổng chỉ huy. Ông trở về lo ngại không có niềm tin, sẵn sàng chối bỏ. Vua Jean vẫn không làm gì ở Hà Nội, như đã chối bỏ trước.

Ngày 19 tháng chạp. Trời mưa phùn. Tiếng ì ầm của trọng pháo đến từ phía bắc, từ những đồi núi, quân Việt sẽ xông lên chăng? Thành phố vẫn vắng vẻ, chỉ có các đội tuần tra. Thời gian kéo dài. Những người ẩn nấp trong nhà tự hỏi: "Chưa có gì, nhưng chốc nữa sẽ xảy ra việc gì đây?" Đủ loại đồn thổi o ép nhất. Tiếng súng ca-nông vẫn ở xa. Bỗng có tiếng truyền miệng nổi lên. Không có thông báo chính thức nào. Sau những cửa sổ, người ta trông thấy các nhân vật quan trọng người Pháp và Việt Nam, trang sức đầy đủ trên những chiếc xe cắm cờ hiệu chạy ào ra sân bay. Rung chuyển mới làm những người cam chịu rùng mình, không tin. Chắc chắn rồi, đại tướng de Lattre chốc nữa sẽ đến.

Chờ đợi lâu. Ở sân bay các giới chức trang điểm diêm dúa kết thành từng nhóm buồn chán, nói ít. Cả buổi chiều lệnh đi, lệnh lại. Đối với quân lính nai nịch vội vã, là một việc mất thì giờ. Nhưng Nguyễn Hữu Trí, thủ hiến khô khan và kiêu ngạo của Bắc Kỳ, áo dài, chít khăn, có khuôn mặt quá nhẵn, khuôn mặt không bằng lòng. "Đợi mãi" theo cách này, vị đại diện của hoàng đế Bảo Đại "mất mặt".

Ngày bắt đầu tàn, buổi chiều êm dịu và sáng sủa. Trong vẻ xám xịt của hoàng hôn, các nhân vật đứng chờ từ lâu thấy có ánh sáng trên bầu trời, đèn xác định vị trí trên chiếc Dakota của de Lattre. Đêm xuống. Chiếc máy bay của vị tướng hạ cánh, đèn pha các xe ô-tô dùng làm đèn chiếu. Một ít lễ nghi rồi ào đi. Qua những con đường của thành phố trở lại trong bóng tối và hoang vắng, đoàn xe các quan chức chạy gần một trăm cây số mỗi giờ. Trong xe, de Lattre thúc anh lái: "Nhanh hơn, nhanh hơn nữa". Phía sau, những xe của chính quyền và quân sự chạy đua để khỏi bị cắt quãng. Trên các hè phố tụ tập một đám đông, kinh ngạc về việc vào thành phố phi cổ điển như vậy. Họ nói: "Đấy là vua Jean, chỉ có thể là ông ta thôi”.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2020, 10:58:58 pm

Chiếc hồ nhỏ với nước in dấu Châu Á rất bình lặng, một cảnh bình lặng đời đời. Trên bờ hồ này, đại tướng de Lattre leo lên chiếc bệ dựng xong mấy giờ trước. Đứng đây, ông ra lệnh: "Các tiểu đoàn diễu hành”. Đột nhiên xuất hiện tám tiểu đoàn mang dấu vết chiến trường, bước tới theo trật tự chiến đấu, rất bẩn, rời rạc, mệt mỏi. Những đội quân này vừa rút về từ vị trí chiến đấu, được chở trên những đoàn xe đặc biệt, theo mệnh lệnh của de Lattre ngay sáng nay. Và vì chờ họ có mặt, sẵn sàng diễu hành trước mặt ông ở trung tâm Hà Nội mà ông bắt chờ đợi lâu như vậy. Phải để họ đủ thì giờ đến nơi, vì biểu tượng hoàn hảo, vì cuộc duyệt binh hoàn hảo. vì ảnh hưởng của chỉ huy và quân đội.

Cuộc diễu hành hư ảo vì lẫn lộn sự hào hùng và vẻ đẹp, nhãn mác của vinh quang và tất cả những kiệt quệ của chiến tranh. Gậy chỉ huy quân nhạc, kèn trống và vũ khí mới. Những dấu vết dầu mỡ hoặc máu trên quân phục. De Lattre như bị thôi miên, bị thúc đẩy vì một sức mạnh vượt quá mức, một mình từ bục danh dự bước xuống, đi thong thả nhìn vào mặt những người lính, ông kêu lên: "Các ông thấy không, họ thật đẹp". Bản thân de Lattre cũng chăm chú cao độ, cái nhìn diều hâu trong những dịp lớn. Đôi hàm răng nghiến chặt, những đường gân nhỏ hằn lên trán, ông giơ bàn tay đeo găng hầu như vô ý thức ra hiệu như khuyến khích các đấu sĩ của mình. Cách một mét gần sát khuôn mặt hóa đá và những ngón tay đưa ra của ông, các đội quân bước theo lối cường điệu long trọng và cứng đờ, theo nghi thức quân đội là sự thách thức kẻ thù và cái chết. De Lattre biết biểu hiện cường độ niềm say mê chinh chiến! Và người của ông, những người của Đội viễn chinh ông nắm trong tay cũng có sự máy móc ghê gớm ấy. Đấy là niêm quyết tâm chiến thắng, chỉ trong mấy giây tạo dựng được giữa người chỉ huy và các chiến binh.

Tuy vậy nhìn bề ngoài không có gì giả tạo, nhàm chán hơn cuộc diễu binh rất hợp thể thức quân đội này. Ít nhất cũng là sự thay hình đổi dạng, gỡ rối tình hình. Và điều đó như một sự điên rồ đáng khen, thác loạn nhưng mang một ý nghĩa tối cao. Vì de Lattre để quân lính tôn vinh để đồng tâm nhất trí với họ, đã rút người từ mặt trận. Trong những giờ đẹp đẽ này trước mặt quân Việt chỉ trống trải. Nếu họ tấn công sẽ là thảm họa. Ở khán đài, bên cạnh tôi, một đại tá nói:

- Chỉ de Lattre mới mạo hiểm như vậy. Cũng rất có thể đưa ông ta ra trước tòa án quân sự.

Vua Jean hoàn toàn có ý thức. Đấy là cú "liều" đầu tiên của ông, món cược lớn đầu tiên. Vì bằng bất cứ giá nào ông cũng phải có một sự xuất hiện ma thuật để chinh phục những con tim và tâm hồn trước khi tung những thể xác được hồi sinh vào bắn giết. Kỹ thuật cũ của vua Jean. Trước hết chữa "tinh thần" để sau đó là vỏ bọc. Phương thuốc chữa? Lối phù thuỷ về chủ nghĩa anh hùng và mọi biện pháp của tiếng gọi cao thượng. Đi đầu cuộc diễu binh là những con sói gầy và có kỷ luật, khuôn mặt khô khan, đôi mắt tự hào, bước những bước dài rất hiệu quả vì không có bắp chân. Đi đầu hướng dẫn là một người Pháp cao lớn điềm tĩnh và uy nghi, đại tá Edon. De Lattre ngắm những quân Bắc Phi của mình, tập trung nghị lực và bất động. Thậm chí ông không lay động khi một nhịp kèn "lạc điệu" làm hỏng nhịp bước của đội quân.

Ông chờ đợi đến đỉnh cao của những huy hoàng ấy để "làm" một sự cố. Sau khi đẩy tinh thần chiến binh lên cao, phải có một sự thô lỗ như để làm tăng giá trị. Lại một trong những mẹo của ông.

Đôi mắt de Lattre nhìn đăm đăm vào những bộ quân phục màu xanh lóa mắt, rất xấu một số người đang mặc. Sau mấy giây nheo mắt, vị tướng nhìn quanh mình một cách nguy hiểm. Ông đang tìm nạn nhân, rồi dẫm chân hét lên:

- Người ta cho quân đội ta mặc loại giẻ tồi tàn gì thế này? Một sĩ quan của văn phòng bốn thì thầm với ông:

- Đấy là quần áo hậu cần vừa cung cấp. Tôi đã báo về việc đáng tiếc này.

Còn hơn cả tiếng kêu là quát mắng:

- Thế nào? Những loài súc vật dán những đồ giẻ rách này vào chiến binh của tôi, những người giỏi nhất thế giới? Tay quản lý hậu cần chịu trách nhiệm đâu rồi?

Trong "màn kịch" của de Lattre, quản lý hậu cần vẫn được định kiến, là người xấu. Thế nhưng người đến trình diện rất bình tĩnh, rất xứng đáng trước cơn thác đổ:

- Người ta đã nói với tôi hậu cần ở Bắc Kỳ rất tệ hại. Đấy là một minh chứng. Tôi xác nhận.

Người kia đã biết trò chơi, chỉ còn xin xỏ. De Lattre tiếp tục hăm dọa:

- Anh ở Đông Dương bao lâu rồi? Ai bổ nhiệm anh? Anh về Pháp trong chuyến tàu tới. Salan, ghi nhớ!

Vài thể hiện ngạc nhiên trong những người tham dự; các tuỳ viên nước ngoài đứng nghiêm, im lặng trước sự quở mắng trong gia đình này. Các sĩ quan Pháp chia làm hai phe. Những người không hiểu biết tường tận tỏ vẻ xúc động. Những người đã biết và chán chường lấy làm thích thú.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2020, 10:59:50 pm

De Lattre nhận thấy màn kịch hơi quá đáng. Ông im lặng, bình tĩnh, lấy lại tư cách của mình. Sau những người Châu Phi mộc mạc của đội lính cơ động, sau lính lê dương cứng rắn của đoàn quân nước ngoài số 3 là những người da vàng nhỏ thó, ngụy binh, diễu hành trước mặt ông. Gầy gò không đẹp đẽ trong quân phục Pháp, bước đi lúng túng. Nhưng người ta nói với vị tướng đấy là những chiến binh tốt có lẽ tốt nhất trong tất cả những người trên thực địa. Trước những người xấu xí ấy, de Lattre còn tuyên bố với một cử chỉ rộng rãi, một cử chỉ của nhà vua:

- Các ông thấy họ cũng đẹp đấy chứ!

Buổi lễ kết thúc. Chỉ huy cuộc diễu binh đến chào de Lattre. Thanh thản. Và bỗng nhiên lại rơi vào cảnh to tiếng, đại tướng "mắng nhiếc" những người thân cận, những tùy tùng của mình. Giám mục Hà Nội dám rời khán đài trước ông. Ông ra lệnh đi tìm lại nhưng không được.

Chẳng quan trọng. Hà Nội đã tìm lại sức sống. Đêm đã khuya, cả một dân chúng đàn ông, đàn bà, người Pháp, người Việt Nam đổ ra đầy đường trước đây chỉ là vắng lặng trên đá sỏi và hè phố. Từng nhóm quân lính lại lên những chiếc xe chở họ tới. Các tiểu đoàn trở về chiến đấu ở những vị trí của họ trong đêm tối. Thật nguy hiểm. Từng lúc một người ta có thể được tin họ rơi vào phục kích, bị tiêu diệt trên đường.

Không có việc gì như thế xảy ra. Nhưng de Lattre vẫn phân vân, buồn vì một nghi ngại. Vì thế ông hỏi tôi, tuy mới biết tôi mấy tiếng đồng hồ:

- Thế nào, tôi làm có tốt không? Trong thành phố người ta kể về tôi ra sao?

- Người ta chỉ trách ông không công bằng với người quản lý hậu cần ở Hà Nội. Anh ta vừa được bổ nhiệm chưa được một tháng trước đây và là người đầu tiên trong loại ấy có cố gắng nhiều.

- Công việc khốn nạn! Tôi chẳng kể những chuyện ngồi lê đôi mách của bọn ngu dốt. Công bằng hoặc không công bằng có quan trọng gì khi cần phải thắng, phải cứu Đông Dương? Tôi phải làm một thí dụ. Lần thứ nhất phải là lần tốt nhất. Và nhất là tôi không có thì giờ để biết quá nhiều.

Thực vậy de Lattre không có thì giờ quan tâm đến số phận một con người. Buổi tối của ông vừa mới bắt đầu. Ông phải khai thác ngay sự tán dương, cú sốc do sự có mặt không mong mỏi của ông, do cuộc diễu binh không ngờ tới. Điều ấy với cao ngạo, với những lời bốc lửa. De Lattre trong vô thức biết nói với quân đội những lời đúng những gì họ muốn nghe. Tất nhiên đấy là những từ ở cửa miệng những chỉ huy lớn đã hàng nghìn năm nay. Nhưng vua Jean chuyển lời hùng hồn ấy theo ý thích hiện đại phù hợp với hoàn cảnh, với Hà Nội, với đêm ấy. Đám khách ông tâng bốc dĩ nhiên là lớp trẻ. Ông nêu lên với họ vinh dự có dư vị khoái cảm; một cách khác ông hứa với họ cái chết cao đẹp.

Tập hợp tất cả các sĩ quan đồn trú, nhất là các trung uý trong văn phòng ông. Có những hiệu quả kịch tính lớn hơn. Việc bộc lộ, lòng thật thà của chỉ huy - đã được chuẩn bị trên giấy nháp dài. Từ đôi môi của ông toát ra một bản giao hưởng đẹp và mở rộng. Lối nói của Napoléon, thêm vào đấy là tấm lòng:

- Tôi đến vì các trung uý, các đại uý. Tôi thấy họ kêu gọi. Tôi nói với họ chúng ta sẽ cùng nhau làm được những việc lớn. Tôi thề từ nay các anh sẽ được chỉ huy. Chúng ta không nhường một tấc đất. Và tôi thề với các anh cuộc chiến đấu của chúng ta không vụ lợi. Trong xứ Bắc Kỳ này chúng ta bảo vệ cả nền văn minh thế giới. Chúng ta chiến đấu không để thống trị mà để giải phóng. Chưa bao giờ cuộc chiến tranh cao quý như thế. Tôi mang lại cho các anh cuộc chiến tranh nhưng cũng là lòng tự hào của cuộc chiến tranh ấy.”

Sau bí hiểm là thực tiễn. De Lattre chứng minh thực tế cách giải quyết của mình. Cá cược là quyết định ngừng việc di chuyển các gia đình. Ông quát: "Một sự hèn nhát, bỉ ổi. Những ai đã ra đi sẽ trở về, phụ nữ, trẻ em và nhất là khí cụ hạng nặng".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2020, 11:01:21 pm

Tướng de Latour, người của thời cũ đã ra lệnh cuộc di tản, hiện còn là chỉ huy các đội quân Bắc Kỳ. Ông đứng gần de Lattre, khuôn mặt đanh lại. Có lúc ông định cãi nhưng nhanh chóng tự chủ lại. Vì vua Jean đang hiến dâng cho Bắc Kỳ, cho chiến tranh, cho cuộc Thập tự chinh điều ông quý nhất: bà vợ ông. Con trai ông Bernard đã trở về bốt gần Hưng Yên. Trong mấy ngày nữa bà de Lattre tự mình sẽ đến Hà Nội đang bị đe dọa. Vua Jean trịnh trọng thông báo tin ấy:

- Từ nay tôi sẽ cùng các anh ở trong thành phố này. Bà De Lattre cũng sẽ ở đây. Tôi dẫn bà ấy đến với các anh. Bà phải là tấm gương dũng cảm và tin tưởng. Hà Nội đã thân thiết với lòng bà và lòng tôi.

Thực tế bà de Lattre sang sau đó không đến mười lăm ngày, giữa đêm quyết định, ngay hôm sau là những đụng độ lớn. Sau sự xuất hiện lóe sáng của vị tướng là sự xuất hiện nghiêm trang của bà vợ, còn trẻ nhưng mang dấu vết khắc khổ và bổn phận. Như để bù trừ tính chất quá xuất chúng của mình, de Lattre đã khéo chọn hình ảnh hoàn hảo của tỉnh lẻ, quý phái và nghiêm khắc.

Trong lúc chờ đợi, vua Jean muốn gặp ở vị trí chiến đấu những quân lính đã đến tôn vinh mình ở Hà Nội. Chỉ trong mấy giờ. Nhưng đi đâu? Theo người ta nói thì chỗ nào cũng căng thẳng. Hình như ông Giáp sẽ đánh cú đầu tiên ở vùng bờ biển, một dải rừng lẫn lộn với biển và đất liền, đối diện vịnh Hạ Long. Sự thực người ta chẳng biết gì. Tuy vậy de Lattre quyết định xuất hiện ở vùng thiên nhiên hoang dã ấy, giữa người của mình. Những người này sẵn sàng chết vì tổng chỉ huy của họ, không hề nghĩ đến việc gặp ông. Sẽ là bất ngờ. De Lattre muốn từ vùng trời Móng Cái rơi ngay xuống biên giới Trung Quốc, nghĩa là đi máy bay hạ cánh ở đấy.

Cuộc hành trình buồn! Ở trạm dừng chân Hải Phòng, cảng lớn nhất của Bắc Kỳ, de Lattre nhận thấy tuy có ông và cú sốc tâm lý, Đội viễn chinh chưa hoàn toàn hồi phục. Và họ bồng súng chào với vẻ thờ ơ, thậm chí diễu cợt. Vị tướng cay đắng. Ông phiền lòng đến mức không nổ ra quát mắng. Nỗi buồn, như một người bố trong gia đình thất vọng, nói với đội bay của ông đang chờ ở cầu thang, cũng khá luộm thuộm.

- Các anh thấy các bạn ăn mặc tồi thế đấy. Các anh không biết điều ấy làm tôi rất buồn. Tôi đặc biệt đến đây từ Pháp là vì họ, vì các anh, vì tất cả quân lính đang chiến đấu ở Đông Dương. Các anh không chú ý vì tôi. Thái độ, phong thái của các anh chứng tỏ các anh không hiểu vinh dự vì các anh mà tôi đến, tôi, tổng chỉ huy và cao uỷ của nước Cộng hòa. Chiếc máy bay thiếu chu đáo, năm ngôi sao nhỏ vẻ kỳ cục ở thân máy bay khó trông thấy! Các anh phải làm tôi vui lòng, phải ăn mặc nghiêm chỉnh, phải biết rõ và đáp ứng những sở thích của tôi.

Máy bay lại cất cánh. Nhưng thiên nhiên cũng chống de Lattre. Mưa phùn phủ một lớp bông che kín bầu trời. Máy bay buộc phải quay lại, là trở về Hà Nội giữa cảnh hoàng hôn lẫn núi, mây đen, bay phía trên những ngọn cây bao la, chỉ cao ba mươi, bốn mươi mét. Đội bay ông đã quở trách thế vẫn diễu cợt nhưng rất vui vẻ, thành thạo trong nghề. Cảm giác nguy hiểm làm de Lattre thích thú, ông bỗng phấn chấn lên. Ông cũng hài lòng nghĩ về cuộc vui chờ ông tối nay ở Hà Nội. Thủ hiến Bắc Kỳ, Nguyễn Hũu Trí sẽ chiêu đãi ông một bữa ăn trịnh trọng. Ông thích nhân vật này, một người thực sự hào hoa, lễ nghi hoàn hảo, chuyên gia về những tinh tế giả tạo, có kiểm soát, dễ thương. Người da vàng này, mặc lối Luân Đôn, được giáo dục theo Phương Tây, cũng có tài thể hiện là một chúa lớn Châu Á. Ông ta biết tỏ ra là một quan lại truyền thống, có khả năng đấy nghệ thuật sống Châu Á lên mức tinh tế kỳ lạ. Đối với de Lattre, Nguyễn Hữu Trí vượt hẳn về những sự chuẩn bị. Ông bận chiếc áo dài quan chức tối cao của triều đình Annam. Cả một đội đầy tớ ăn mặc lối cổ, có nề nếp, khiêm tốn, phục tùng hơn cả lính lê dương. Chiếc bàn năm mươi mét là cả một trưng bày kỳ quan. Bát đĩa mỏng tanh ánh lên màu phớt xanh; đũa ngà voi ngả vàng theo nhiều thế kỷ; những chiếc khăn thêu, hoa lụa, là công trình của hàng trăm thợ phụ nữ nhà quê; thức ăn với sự chuẩn bị và hương vị quý đến mức cách ăn cũng không còn là vật chất thô thiển.

De Lattre mặc lễ phục trắng, thân hình bó sát gi-lê, khuôn mặt ánh lên thỏa mãn. Trí khép kín trong một nụ cười độc nhất, thường xuyên. Vị tướng tự nhủ sự nhếch mép dễ mến ấy có phải là sự oán giận không. Đúng thế: phép lịch sự Phương Đông của vị đại diện Bảo Đại che dấu kỷ niệm về sự xúc phạm đã chịu đựng. Ông ta không tha thứ sự chờ đợi lâu hôm qua ở sân bay Hà Nội. Ông trả thù theo cách của mình gửi gắm trong sự nhún nhường ý nghĩa không bằng lòng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2020, 11:02:10 pm

Để xoa dịu người chủ, de Lattre muốn mời ông ta vào hôm sau. Trí đầu cúi xuống, xin lỗi nhiều, diễn giải dài dòng về những tiếc nuối, tự trách mình. Nhưng ông khăng khăng nhắc lại là không thể nhận lời, tuyệt đối không. De Lattre không lấp lánh nữa. Ông tái mặt, không đụng vào thức ăn. Bữa tiệc một trăm món vừa kết thúc trong im lặng nặng nề thì ông rút lui.

Tức giận. Ông triệu tập ngay Aurillac và Gauthier, hai người Decoux cung cấp nhân danh chuyên gia về Châu Á.

- Thế nào, de Lattre hỏi họ, giải thích cho tôi rõ cái gì xảy ra trong một đầu óc Annam, các ông vốn rất giỏi về những vòng vèo của những người da vàng.

Diễn giải của những ông này không rõ ràng. Những lời ấy toát ra rằng những người Việt Nam, dưới bề ngoài vô cảm, đều là những bệnh nhân thần kinh, tự hào, dễ bị kích động, nóng giận. Và người dễ hờn dỗi nhất đúng là Trí.

- Nhưng một con người, dù là người da vàng, điều đó thể hiện bằng một çách này hay cách khác. Vậy tôi phải làm gì với ông ta? Dù sao ông Trí của ông cũng thông minh. Nói rõ với ông ta tôi hạ cánh chậm để cuộc diễu binh được sẵn sàng, tổ chức tốt. Ông ta sẽ hiểu không có gì xúc phạm.

Nhiệm vụ hòa giải. Nhưng triết lý của các phái viên đại tướng không ích lợi gì. Viên thủ hiến chỉ lắc đầu vẻ quí phái và buồn nản: "Tôi cũng có tư cách của tôi".

Từ đó de Lattre biết rằng Châu Á là khó khăn, không lay chuyển được. Thiên nhiên cũng như con người, tất cả cong queo, biến dạng. Tuy vậy ông quyết định mê hoặc thiên nhiên, như trước đó mấy giờ ông đã mê hoặc Đội quân viễn chinh.

Nhưng một ông Trí dù sao cũng là một hạ cấp ở Châu Á. Phải nhắm chỗ cao hơn, người đứng đầu, đầu tư tâm trí vào chính ông vua, hoàng đế Bảo Đại. Nói đúng ra, ghế của nhà vua đã được bắt đầu bởi vua Jean, trước cả những tiếng ồn ào của Hà Nội. Một chiếc ghế khó khăn rất lâu. Đấy cũng là một bí mật nhỏ của lịch sử.

Ngày 19 tháng chạp de Lattre bị mất mấy tiếng đồng hồ - hoặc được trước khi xuất hiện ở cuộc duyệt binh ở Hà Nội. Ông tự hỏi: "Trong lúc chờ đợi ở ngoài kia chuẩn bị sằn sàng làm gì?” Ông bỗng có ý muốn dừng lại Đà Lạt để đối mặt với vị hoàng đế bí ẩn. Như vậy, trước khi lên đường tới trận chiến lớn của Hà Nội, của máu và quân lính, trận chiến thứ nhất của ông là một trận chiến chính trị, làm bí mật, giấu diếm. Cuộc đấu tay đôi giữa hai người.

Trước khi đến chào nhà vua trên cao nguyên, vị tướng tự hỏi mình rất lâu, độc thoại với chính mình: "Mình có hạ thấp mình, phạm một sai lầm ghê gớm vì đến chỗ tay ăn chơi ấy khi mà ông ta thậm chí không đến Sài Gòn tiếp mình? Ông ta không ra sân bay Tân Sơn Nhất khi lần đầu tiên mình đặt chân xuống Đông Dương. Mọi người đều nhận thấy ông ta vắng mặt, một cách tuyên bố chiến tranh. Mình phải làm gì? Là một đại tướng de Lattre giận dữ hoặc một đại tướng de Lattre duyên dáng? Mình phải là một tổng chỉ huy bị xúc phạm hay là vị cao uỷ tế nhị không muốn nhận thấy gì? Vì như vậy mình có thể lại tung người ấy ra và nhẹ nhàng "có ông ta?" Băn khoăn lâu rồi quyết định: "Mình không được bỏ qua việc gì vì kẻ làm vì đó có thể cũng quan trọng như quân lính mình trong cuộc thập tự chinh này. Mình sẽ bắt đầu những cuộc hành quân bằng kẻ làm vì này vì ngay trên đường đi giữa Sài Gòn và Hà Nội".

Tóm lại vị tướng thử ra tay. Mục tiêu: nhấn bước, bỏ Bảo Đại vào túi áo. Vua Jean rất tin ở mình, ông đã chinh phục bao nhiêu người như thế, nhanh chóng, bằng xa hoa, không vụ lợi vừa làm như toàn tâm toàn ý.

Nhưng Hoàng đế đã được cảnh báo. Viên tướng ầm ĩ này quấy rầy ông mà ông rất muốn yên tĩnh. Khi bị tổn hại, ông cũng độc ác với những quyến rũ của mình, cũng không chịu đựng được trong lịch sử xã giao của mình.

Bảo Đại đã chú ý khi ở Pháp đặt vấn đề cử de Lattre sang Châu Á. Ông làm việc ấy với lối đạo đức giả không trông thấy được và tính toán kỹ với xu hướng cụ thề của hai sự phóng túng lẫn lộn của Phương Đông và Phương Tây. Ông có thể là con Trời bay trên không trung thanh thản xa xôi. Ông có thể là chàng trai không đứng đắn được nuôi dạy phần lớn ở các hộp đêm Pháp. Nói chung ông là cả hai để chứng tỏ trước rằng người ta không khuất phục được ông bằng duyên dáng uy tín hoặc sức ép. Bảo Đại như một động vật thân mềm, mềm dẻo, co dãn khó lay chuyển. Đấy là con ốc sên thu mình trong vỏ. Ai còn có thể khoe khoang đã làm ông hoạt động?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2020, 11:03:25 pm

Vậy là Bảo Đại đã bố trí chống lại de Lattre từ lâu. Từ khi ông sang Pháp nghỉ ngơi vào mùa hè trước. Dĩ nhiên ông đã gặp "bố Auriol". Ông này nhân dịp ấy đã triệu tập tất cả những người Pháp quen biết của Châu Á và những công việc chung, những nhân vật cố hữu, những mưu sĩ. Bảo Đại có mặt như một chàng trai trẻ có giá, xung quanh là những "nhà thông thái" quá đáng.

- Tôi đã ở đấy, sau này ông kể lại, với tất cả những người thường xuyên có mặt trong loại tập hợp này. Trước hết là Bidault, "đại sứ vĩnh cửu của Pháp". Ổng rất yêu mến tôi, tôi rất yêu mến ông. Nhất là có ông thầy của tất cả, Paul Reynaud, biết rõ tôi khi còn bé và đã làm bố nuôi tôi. Ông lên giọng sang sảng cho những ý kiến tiên tri. Tất cả những người ấy "quấy rầy nhiều lắm". Thực tế họ chẳng hiểu gì. Lúc ấy sau đợt Cao Bằng, tất cả nhận thấy phải thay thế ngay Carpentier. Nhưng bởi ai? Tôi linh cảm người ta gắn cho tôi một kẻ hay làm phiền. Người ta hỏi ý kiến, tôi trả lời: "Các ông biết không, một trung tá chỉ huy Đội quân viễn chinh cũng tốt như một đại tướng năm hoặc sáu sao". Cả cuộc họp la ó tôi và ít lâu sau tôi được biết người ta đã chọn de Lattre. Đối với tôi đấy là một người hoàn toàn xa lạ. Tôi thăm dò mọi nguồn tin, ai cũng cảnh báo: "Một tay không chịu nổi". Tôi bèn quyết định đón ông ta theo cách của tôi, tôi lại biết ông ta thông đồng với Hữu, tỷ phú Sài Gòn, kẻ thù của tôi - tôi đưa lên làm thủ tướng chính phủ để sử dụng và tiêu diệt thuận tiện hơn. Nhưng với một kẻ điên như de Lattre thì tay Hữu trở thành nguy hiểm, có thể thúc đẩy nhau hạ bệ tôi để thành lập nước Cộng hòa. Tệ hơn nữa de Lattre mang theo hai "đôi giày rách", hai người giới chức cũ đã làm cho Decoux nhiều điều bậy bạ. Họ ở lại theo lối cũ trước đây, sẽ bắt đầu lại với de Lattre. Tôi biết mình dính vào một phe táo tợn...

Vậy, Bảo Đại không biết vua Jean là ai, nhất là không muốn biết. Khi đại tướng De Lattre de Tassigny nhảy xuống Đông Dương như một cứu tinh, Hoàng đế ở núi rừng yêu thích trên cao nguyên với triều đình, những kẻ tin cẩn và những con trâu rừng của ông. Ông thích những con vật này hơn vua Jean nhiều, chỉ gửi một bức điện rất ngắn, nghi thức, khách quan. Ông nói giọng hạ cố: "Tôi sẽ tiếp ông ở Đà Lạt vào lúc ông thấy thích hợp."

De Lattre giận điên người, dĩ nhiên giấu kín vì một người như ông không thể tỏ ra bị "đụng chạm". Nhưng về với đám thân cận, ông mạt sát Bảo Đại với những từ rác bẩn nhất. Vì nếu Bảo Đại "bố trí" chống lại ông từ lâu thì ông cũng chống lại Bảo Đại từ khi biết mình sẽ sang Đông Dương.

Nhà vua chỉ là một sản phẩm không đáng giá của Pignon, một tồn tại của quá khứ xấu hổ và mới đây mà ông đến để xóa đi? Vấn đề là phải thanh toán tay bù nhìn vô lễ này cũng như số còn lại. Một cách tuyên truyền đẹp, dễ dàng và rẻ tiền. Như vậy sẽ tỏ ra mình thuộc phái tả, cộng hòa, tiến bộ là một viên tướng bạn của nhân loại. Cũng là cách bước vào chiến tranh rất đẹp, có thể chờ đợi chiến thắng trên chiến trường. Mặt khác không có gì dễ dàng hơn một chiến thắng chính trị loại lành mạnh, đề cao đạo đức. Vả lại ở Sài Gòn ông có trong tay những người Việt Nam nhân danh yêu nước và đạo đức luôn tôn vinh ông là một người vĩ đại. Họ không ngớt nhắc lại với ông: "Thưa đại tướng, ông chẳng làm gì được với loại mục ruỗng Bảo Đại ấy". Như thủ tướng Hữu, dĩ nhiên chẳng đẹp đẽ gì, một con khỉ không đuôi nhưng ranh mãnh.

De Lattre "chửi bới" Hoàng đế nhưng không làm gì. Tuyệt đối không. Đôi khi ông nói: "Ông vua vẫn là một ông vua. Hợp tác với một ông vua còn hơn với một tay tư sản như Hữu. Anh nào có điều gì căn bản? Phải chăng chỉ là một kẻ chạy theo đồng bạc, được nhà băng Đông Dương ưa chuộng? Đồng tiền phải chăng cơ bản vẫn bẩn thỉu hơn thói xấu? Bảo Đại dù sao vẫn là một quý tộc lớn. Và nhà chính trị đại tướng cũng tính toán: Bảo Đại trác táng phải chăng là kết quả của Letourneau và cả chính phủ Cộng hòa, những thành viên chính của cuộc chiến tranh Đông Dương?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2020, 11:04:20 pm

Ngày 19 tháng chạp. Dĩ nhiên là cuộc duyệt binh ở Hà Nội. Nhưng cũng có Bảo Đại... Phải ước lượng giá trị anh chàng này, phải tạo vận may cho anh ta. Letourneau nhiệt liệt tán thành. Vì ông vẫn còn đấy. Lệnh cho thân cận: "Chuẩn bị cho tôi một bức điện". Những từ được cân nhắc kỹ để thông báo cuộc viếng thăm. Những câu chữ dễ mến, Hoàng đế điện trả lời cũng với những câu chữ dễ mến. Chính thức, không có gì hơn một bữa ăn theo nghi thức.

Trước hết là thế đã. Một bữa tiệc nhiệt đới kéo dài, ở đó vua và đại tướng nhận biết nhau như thành viên cùng một hội quốc tế lớn nhỏ vào giọng thân mật, chuyện kể và những câu vui đùa. Hai người, da vàng và da trắng, biết rõ những người cần biết ở Paris, Luân Đôn, New York. Bảo Đại mặc veston thể thao hoàn hảo, như một người Âu từ xa tới. Đôi mắt ẩn sau đôi kính đen. Dáng người to béo, vẻ khoan dung thái độ hơi khinh khi và rõ nét. Vị tướng rất hồ hởi, tâm sự với một tùy tùng: Tay này chẳng ngốc nghếch, không lạm dụng đâu.

Sau khi uống cà phê là câu chuyện thân mật. Vua Jean tác động mạnh: "Tôi không phải thực dân, cũng không phải kẻ bóc lột. Tôi đến vì khẳng định nền độc lập của các ông. Một đại Pháp muốn có một đại Việt Nam". Bảo Đại, đôi mắt và nụ cười hé mở, tán thành rất hờ hững: "Thưa đại tướng, tôi và dân tộc tôi đặt mọi niềm tin vào ông".

De Lattre bèn lên giọng:

- Tôi đi Hà Nội, đến thành phố của chiến tranh. Tôi đi duyệt các đội quân sẵn sàng chiến đấu. Vị trí của ông là cùng tôi, bên cạnh tôi. Tôi đưa ông tới đó. Ông hãy hình dung sự kỉnh ngạc, sự thán phục khắp thế giới: ông, vị vua và tôi, tổng chỉ huy cùng đến trong thành phố bị đe dọa này để cứu nó.

Trong một phần giây, Bảo Đại nhắm mắt, không cười, khép lại tất cả. Việc từ chối càng đầy đủ khi ông nói nhẹ nhàng. Như của một người mù dễ mến:

- Thưa đại tướng, tôi không đi cùng ông đâu. Tôi rất tiếc. Nhưng như vậy sẽ chỉ rõ cho cận thần tôi như người tù, con tin của ông. Sẽ rất vụng về cho cả hai chúng ta. Hơn nữa ông cần gì đến tôi? Nhân cách của ông là đủ. Nếu ông muốn dạo chơi với những người có tiếng tăm ông có đại sứ Hoa Kỳ Henth, cao uỷ Anh ở Malaysia Macom Macơonald. Họ sẽ rất hân hoan nhận lời mời của ông. Tôi chắc chắn ông tha hồ chọn.

De Lattre nhận thấy rõ người ta chế nhạo mình, nhưng ông kinh ngạc về cách thể hiện. Hét lên sao được? Ông thử "đi vào tình cảm" với một tiếng kêu chua chát:

- Tôi có cảm tưởng làm việc cho vua Phổ. Ông biết tôi có một huyền thoại về việc này.

- Không may cho ông, huyền thoại của ông ở cách đây mười hai nghìn cây số. Huyền thoại của tôi ngay chỗ này, trong đất nước xa lạ đối với ông nhưng với tôi thì không.

Việc cắt đứt nhẹ nhàng. Vị tướng lên chiếc Dakota của mình không có ông vua. De Lattre thất vọng nhưng từ nay Bảo Đại "hiện diện" trong ông. Ông tự nhủ: "Chàng trai này còn nghi ngại. Nhưng mình sẽ nắm được hắn sau cuộc chiến thắng đầu tiên, khi chứng tỏ mình có khả năng như thế nào. Lúc ấy mình sẽ làm như mình muốn."

Một sự phân tích rất đơn giản. Dĩ nhiên Bảo Đại đánh giá đúng de Lattre. Ông biết vị tướng này là cơ may cuối cùng của Đông Dương, vậy là cơ may của "ông ta". Nhưng vấn đề được đặt ra với Hoàng đế như sau: Làm sao sử dụng vua Jean mà không để ông ta "lấn át" mình và nếu có thể, "lấn át" ông ta vì lợi ích của mình? Muốn thế phải để "chờ đợi lâu", bắt trả giá đắt. Vũ khí chỉ là sự thân mật và hư không.

De Lattre mơ ước. Về lâu dài ông buộc sẽ đưa Bảo Đại về Hà Nội mà ông đã duyệt binh không có ông ta. Vị tướng biết mình chỉ mơ thôi. Một chỉ điểm báo cáo lại với ông những lời của Bảo Đại nói với thân cận: "Tôi không muốn là con cún của đại tướng". De Lattre ngỡ ngàng. Hoàng đế được Pignon dựng lại không phải số không như ông nghĩ. Đấy là nhân vật chủ của Việt Nam. Nhưng phải chăng là một đối thủ hay cùng bọn? Ông không rõ.

Dần dần de Lattre dính vào "phức hệ Bảo Đại”. Ông bị ám ảnh. Nhân vật này làm ông thích thực sự. Đây là một người vua Jean có thể nói chuyện, quyến rũ và thuyết phục. Cuộc chơi phải lâu dài, giữa hai người ngang nhau, cùng một môi trường và có thể nói cùng nòi giống.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2020, 11:05:23 pm

Ở mỗi cuộc gặp gỡ là một cuộc thi về lễ nghi giữa vị tướng tổng chỉ huy và ông vua hộp đêm. Khó xác định ai có những cách tốt hơn vì ai cũng rất giỏi. De Lattre để thì giờ chinh phục Bảo Đại cho đến khi quân Việt thất bại. Biết bao ngày, giờ hai người nói chuyện với nhau vừa giấu kín ý nghĩ của nhau. Và luôn luôn dưới trò chơi quyến rũ, vị tướng bực bội: ông không đoán ra Bảo Đại nhưng Bảo Đại không ngừng đoán ra ông. Ông thậm chí không xác định được giữa họ là một cuộc đấu tay đôi hay là một thủ đoạn bất chính.

Một trò chơi trong bóng tối. De Lattre cho nói với Bảo Đại ra Bắc Kỳ nhân danh con Trời rao giảng về cuộc chiến tranh thần thánh. Nhưng Hoàng đế trả lời: "Tôi rất muốn gặp ông trước nhân dân tôi, nhưng ở Sài Gòn, và để phê chuẩn hiệp ước Pau".

De Lattre nhăn mặt. Vậy là ông đứng cùng Bảo Đại, không phải trước các đội quân của mình mà trước các "thương nhân đền chùa", những người chạy theo đồng bạc. Phải ra mặt là đồng bọn với một Bảo Đại quá gắn liền với lợi ích kinh tế chia những khoản lời đồ sộ trên máu. Ông vốn rất khinh ghét đồng tiền, sẽ bảo lãnh một Bảo Đại rất thích vai trò của "đồng tiền" trong thành phố "đồng tiền", dưới bóng của Pignon. Vì hiệp ước Pau về bốn bên (nghĩa là thành lập một Đông Dương liên hiệp gắn chặt chẽ Việt Nam, Cam-bốt, Lào và nước Pháp) là tác phẩm của cao uỷ cũ. Đối với vua Jean, vấn đề làm cho người ta nghĩ là tác phẩm của ông.

Vở hài kịch thật tao nhã. Buổi lễ phê chuẩn hiệp ước Pau ấn định vào năm giờ. Bảo Đại từ Đà Lạt vội vã tới, phải xuất hiện lúc năm giờ năm, de Lattre lúc năm giờ bảy phút. Nhà vua có mặt theo giờ quy định. Không có vua Jean. Người ta điện thoại hỏi khắp nơi. Đến năm giờ mười de Lattre xuất hiện. Với đôi mắt thép hoàn toàn bất động ông chăm chú nhìn chiếc bàn ký kết. Ông quan sát tỉ mỉ bút, giấy thấm, những chiếc ghế, mọi dụng cụ cần thiết cho việc ký kết. Bỗng giọng sắc lạnh ông nói với Letourneau vốn bao giờ cũng hài lòng:

- Tôi không ở lại thêm một lúc nào nữa. Người ta bố trí tôi ngồi không xứng đáng.

- Ông ngồi bên cạnh tôi mà.

- Tôi không muốn ngồi bên cạnh ông mà muốn ngồi bên phải Bảo Đại. Và người ta dám bố trí chỗ ấy cho người tên là Trần Văn Hữu, thủ tướng Chính phủ.

Đôi mắt trong của Letourneau đảo dưới kính. Đại tướng tổng chỉ huy và cao uỷ đang làm một việc giấu diếm với sự thành thạo của một ông quen lấy cắp những chiếc thìa nhỏ. Bàn tay trái thay đổi những mảnh bìa, ông ngồi vào chỗ của Hữu và đưa Hữu lại chỗ của mình. Việc làm đó phía sau tấm che lưng của Letourneau vẫn sửng sốt và một số tùy tùng lại giúp.

Như vậy vị tướng de Lattre thực sự là người đỡ đầu của Bảo Đại, là chỗ dựa của ngôi vua. Thực ra de Lattre chưa biết rõ lắm trong những tuần tới ông sẽ làm gì với Bảo Đại. Ông rất có thể bảo vệ ngai vàng cũng như tuyên bố nước Cộng hòa. Tất cả sẽ tùy thuộc...

Bàn cãi không ngớt giữa đám cận thần. Bảo Đại? Không Bảo Đại? Hữu chăng? Đại tướng lại kêu gọi Gauthier và Aurillac, hỏi ý kiến với vẫn câu ấy:

- Các ông, tôi phải làm thế nào?

Hai người quản lý công việc dân sự luôn luôn lặp lại:

- Ông hãy dùng chiến thuật của Lyautey, vị chúa cũ ở Bắc Kỳ và biên giới Trung Quốc: Chia để trị. Không tin tưởng vào người nào cả. Đừng chơi trò Bảo Đại, chỉ là kẻ ngáng chân. Không chơi bố Hữu, phản trắc đến tận cùng, sẽ lừa gạt chế nhạo ông khi có thể. Ông giữ lấy cả hai người, dùng người này chống người kia. Như vậy ông vô hiệu hóa tham vọng vô biên của họ, ông sẽ là chủ.

De Lattre tán thành lời khuyên của hai người cũ. Ông tô vẽ thủ tướng Hữu lên mây: Tôi muốn thực hiện đường lối chính trị của tôi với ông... - Thưa đại tướng... Mặt khác ông nói với Bảo Đại: Một ngày nào đó ông sẽ hiểu tôi. Nhưng đừng quá chậm. Tôi không muốn chờ đợi quá lâu...

Vị tướng đã tự chọn. Nhất định là Bảo Đại rồi, với điều kiện ông ta "không lắt léo". Để thúc đẩy, đưa Hữu ra trước mặt ông, sẽ dùng ông này nếu Hoàng đế không tự mình quyết định. Như vậy là vua Jean dấn thân vào một mê lộ không gỡ nổi. Vì tống tiền Bảo Đại, một tay chúa tống tiền là một công việc buồn cười. Lừa gạt bố Hữu, ranh mãnh lừa gạt cả thế giới cũng là một công việc đáng kể. De Lattre rất thiếu khôn ngoan.

Với Bảo Đại công việc mới chỉ bắt đầu. Còn phải làm hoa mắt, quán triệt, sở hữu cả phần còn lại của Đông Dương. Trước hết là nắm lấy các ông vua đang lo ngại trong các thủ đô của họ. Và những đội quân phân tán trong những khu rừng xa xôi của các vương quốc này. Phải ra mắt khắp nơi, trước cuộc tấn công quyết định ngay gần Hà Nội. Còn bao nhiêu ngày, giờ nữa? Kỳ nạn trận chiến vẫn ở đấy, có thể xảy tới bất cứ lúc nào, ngay trong lúc de Lattre đang tiến hành công du Phương Đông, xa tất cả, ở Pnom Pênh hoặc Luang Prabang.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Giêng, 2020, 11:06:48 pm

Một cuộc dạo lớn của de Lattre bằng Dakota. Không còn phân biệt ngày đêm. Có chỗ nào, giờ nào ông không hạ cánh để tiêm sức mạnh cho Đông Dương mềm yếu? Điện tín từ Hà Nội tới qua điện đài trên máy bay đều đen tối. Nhưng mối nguy hiểm, những việc không ổn định, những dọa dẫm kích thích vua Jean thay vì làm nản chí ông đang trên đường kiểm tra tình hình, đi từ cửa này đến cửa khác. Mỗi giây phút được sử dụng làm mọi việc: chính trị, chiến lược, dèm pha. Không còn thì giờ để ngủ.

Đám người thân cận cũng buộc phải dẻo dai như de Lattre, sẵn sàng trước mọi việc, nghiên cứu những bản đồ tham mưu, nhận tặng hoa, để các nhà sư chúc phúc, đứng nghiêm trước quốc ca. Đấy là Đông Dương không nguy hiểm, trừ đối với những người của de Lattre.

Cuộc đi càng kéo dài nét mặt de Lattre càng tối sầm lại. Ông ta đã chán những sự kiện không quan trọng ấy, nhất là sự có mặt thường xuyên của hướng dẫn viên Letourneau. Vì ông bộ trưởng theo hệ thống đẳng cấp, là người đầu tiên: ông ta ngồi bên phải những ông vua, không phải ông.

"Thật cả một bài thơ", de Lattre nói khi đến thành phố nhà vua Luang Prabang ở Thượng Lào, gần Tây Tạng. Đây là thiên đường của nước và hoa. Trong vĩnh hằng tiếng nước reo xen lẫn tiếng tụng kinh của các nhà sư trong hàng trăm ngôi chùa. Ở đây người ta chìm trong không gian, thời gian, xa tất cả. Và phong tục thật giản dị! Nhưng giữa những hoan lạc mộc mạc ấy, sự băn khoan của vị tướng rất đặc biệt, vẫn là Letourneau.

Bi kịch ở Luang Prabang, ít nhất cũng là một sự bùng phát lớn. Một nhà cai trị thuộc địa trẻ dành gian phòng tốt nhất trong tư dinh cho ông bộ trưởng. Ông đưa vị khách lên tầng hai, để đại tướng một mình ở chân cầu thang tầng trệt. Khuôn mặt xám lại, im lặng. Sau mấy phút nhà cai trị trẻ trở lại, ngây thơ săn đón ông. Ông ta được mắng như tát nước: "Anh là một kẻ thô lỗ, một tên ngu độn ghê gớm. Anh có biết ai chỉ huy ở đây? Ai là thủ trưởng? Tôi, chỉ có tôi! Anh lên tàu về Pháp". Chàng trai ấp úng nói bộ trưởng quan trọng hơn, ít nhất là về phương diện chính thức. De Lattre sôi sục lên, mắng chửi ghê gớm hơn: "Anh nên biết bộ trưởng của anh, tôi đặt dưới mông đít!" Lúc đó một ông tóc muối tiêu, khoảng năm mươi tuổi xuất hiện nhẹ nhàng, một nhân vật loại rất tinh tế, dịu dàng và xảo trá, với thái độ thông cảm đầy thoái thác, thái độ của những nhà ngoại giao và tương đương. Đấy là cao uỷ Pháp ở Lào. Một De Lattre giận ứ máu thô lỗ nắm lấy vai con người lịch sự ấy: "Anh chỉ là một thằng ngu bẩn thỉu, cũng sẽ lên tàu về nước. Và anh có thể nói với Letourneau của anh rằng..." Ngay khi ấy, đầu của ông Letourneau được nói tới xuất hiện ngọt ngào và ngạc nhiên trên cầu thang. De Lattre nín lặng. Vị bộ trưởng khẽ ho. Mọi người lúng túng. Ông trang sức lịch sự, người đặc trách của nước Cộng hòa, cao quý nói ông sẵn sàng xin từ chức. Letourneau "Hum hum...", de Lattre im lặng như đá. Bĩu môi hoan hỉ và ranh mãnh, Letourneau thông báo với một quyền lực trẻ con: "Bình tĩnh lại, ông Cao uỷ. Tôi sẽ thảo luận thân mật trường hợp của ông với đại tướng. Chỉ là một sự hiểu lầm. Không là gì đâu." Vua Jean lần đầu hơi ngượng ngùng, kéo tôi cùng đi trên một con đường ngoài vườn. Vừa bước dài, ông vừa nắm chặt cánh tay tôi như để tâm sự: "Ông đừng nghĩ tôi là một thằng điên, bốc đồng. Đáng lẽ tôi không được nổi nóng, nhưng làm sao chịu đựng được! Vì lúc nào tôi cũng nghĩ sẽ thắng trong cuộc chiến tranh nhưng bị trói tay vì một bộ trưởng bình thường".

Một giờ sau de Lattre mặc lễ phục trắng dự bữa tiệc lớn do Si Savang chiêu đãi. Ông vua già mắc bệnh thống phong, to lớn, hiền dịu, khuôn mặt vuông có những nếp nhăn, tóc cứng cắt ngắn. Chối bỏ tất cả, chấp nhận cái chết hoặc lên Niết bàn, Si Savang cũng đến với thuyết duy linh, đắm mình vào đạo Phật đến nỗi tất cả những sinh vật đối với ông chỉ là những vẻ bên ngoài. Ông chỉ bám vào những truyền thống cũ. Con trai ông cũng đẹp và tham vọng như bố, bứt phá và dở dang, muốn phải đàng hoàng. Triều đình ở thị trấn cuối thế giới này đầy nghi thức.

Một buổi lễ làm de Lattre thích thú. Những chức sắc cao nhất vương quốc, bò bốn tay chân dưới ánh đèn dầu, đến buộc vào cổ tay ông hai sợi len trắng. Đấy là hành động liên minh với các thánh thần đảm bảo chiến thắng. Từ nay thêm vào Đội quân viễn chinh, de Lattre có một quân đội ma linh thiêng. Bỗng nhiên trên ngọn đồi trước mặt ánh lên hàng ngàn ngọn lửa ngoằn ngoèo. Một con rắn lửa leo lên cao mãi. Đấy là toàn nhân dân thành phố, mang đuốc, cả đoàn tiến lên những ngọn núi thiêng của Luang Prabang. Trên đỉnh là chùa Phật. Tượng Phật của Lào đứng vươn cao. Dân chúng đến trước tượng cầu kinh cho đại tướng de Lattre de Tassigny, cao uỷ và tổng chỉ huy. Ông đã hứa bảo vệ "vương quốc triệu voi" cùng với binh lính của ông. Phải làm thế nào để thần thánh hỗ trợ ông.

Lại cuộc ngoại lai. Một cuộc ngoại lai thời Trung cổ đôi khi với những pha hiện đại thú vị, rất kỳ cục thêm đậm hương vị. Ở Pnom Pênh, Cam-bốt, vua Jean ngủ trong lúc các vũ nữ Khmer, các nàng công chúa bó mình trong quần áo nhung và vàng, múa những điệu cứng ngắc, vô cùng cao quý và chậm, biết bao biểu tượng. Một cuộc trình diễn bi kịch Hindu cổ từ bốn nghìn năm. De Lattre bắt đầu hơi ngáy một ít nhưng tuỳ tùng kín đáo đánh thức ông. Và ông vua nhỏ Sihanouk nói khẽ vào tai: "Ông biết không, tôi đã từng là học viên kỵ sĩ ở Saumur". De Lattre tỉnh lại, sốt sắng hỏi: "Là kỵ sĩ, ông có từ ngựa qua xe chiến đấu không?" “Không, tôi vẫn trung thành với con vật. Vả lại tôi đã cho hiệp sĩ Orgeix đến. Nhưng đề nghị ông cho tôi một đội kỵ binh thiết giáp..."

Đến lượt các nhà sư. Có khoảng hai chục người trán to đầu trọc đọc kinh bằng tiếng Phạn, ngôn ngữ linh thiêng cổ nhất thế giới. Với đôi môi không động đậy, họ tụng bài kinh đưa lại hạnh phúc. Đôi môi de Lattre cũng mím chặt nhưng do buồn chán. Gần ông, Sihanouk béo tròn từng phút một cười khuyến khích ông, một tiếng khởi động kèm theo nụ cười khẽ. Ông vua nhỏ mặc rất lạ. Ngực căng tròn trong một chiếc áo vét dài trắng, đôi chân đi tất đen, phần thân dưới quấn phức tạp trong một tấm săm-pô lụa luồn từ chân lên buộc vào cổ. Người ta nghĩ tấm vải sẽ rơi những không bao giờ.

De Lattre chỉ còn nói chuyện với Sihanouk. Đề tài muôn thuở; giải thích ông là ai. Sihanouk ngạt lên vì tán thưởng với giọng kim. Hai bên các chức sắc lắng nghe, các sĩ quan cứng đờ thân cận của de Lattre và các vị quan lại của Sihanouk tươi cười và phì nộn vì mỡ và vải. Cảnh này làm nhớ lại những hình ảnh ngây ngô của thế kỷ trước các đại diện toàn quyền được pháo thuyền đưa đến tiếp kiến một độc tài Phương Đông cần khai hóa. Nhưng không còn là tối hậu thư. Đấy là "sự thông cảm". De Lattre nói "quý ngài thân mến" với đứa trẻ đưa từ trường trung học Chasseloup - Laubat ở Sài Gòn để đặt lên ngai vàng mấy năm trước đây: ông ta được xét là vô tư. Điều ấy không cản trở ông gây khó khăn cho Pignon đã xử sự không tốt và đòi hỏi đủ thứ. Vì thế de Lattre tỏ ra ngay với ông lòng khoan dung và hơi có tình bố con, nhưng không chơi trò tế nhị.

Hôm sau, ông tỏ ra hài lòng, tuyên bố với thân cận: "Chàng trai ấy thấy rõ không nên đụng độ với tôi. Vậy là tôi yên tâm về phía sau để dốc lực vào cuộc chiến ở Bắc Kỳ". Bỗng rất phóng khoáng, ông hỏi:

- Có đúng ông ta chơi xácxôphôn không? Có đúng ông phải tu nhiều tuần lễ trong một ngôi chùa như một nhà sư bình thường, như một hành khất, đầu cạo trọc và mặc áo dài màu vàng nghệ? Có đúng ông có ba đứa con với mấy bà dì, em mẹ? Châu Á thật ngộ nghĩnh: Như vậy những ông vua hoang mang sau thất bại của Carpentier tự hỏi có dựa đúng chỗ không và đang sẵn sàng phản bội, đã được ổn định lại vị trí. Ông nắm lại họ. Nhưng nếu de Lattre đánh nhau ở Bắc Kỳ thì sự vá víu những ông vua ấy giúp gì được cho ông? Vua Jean dẫm chân nóng lòng. Ông phải ở Sài Gòn, phải ở Hà Nội để tổ chức cuộc chiến.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 07:39:50 pm

Sài Gòn. Trạm dừng chân ngắn. Chỉ đủ thời gian ra lệnh cho Chanson, viên tướng chỉ huy Nam Kỳ. Một kỹ thuật viên, đa tài, nhìn gầy gò, đôi mắt hơi rụt rè, buồn, lặng lẽ, thái độ lễ phép thực - điều rất hiếm thấy ở các nhà quân sự. Con người "tri thức" này năng động và cứng rắn ghê gớm. Ông quan hệ không tốt lắm với vua Jean vì ông ở đây trước ông ta và đã gần thành công.

Thực vậy, ông Chanson mảnh khảnh "đã bình định" Nam Kỳ một cách có phương pháp trong lúc những đội quân Pháp bị bê bối trên đường số 4. Trong lúc Hà Nội bị đe dọa, ông đang lần lượt đánh bại Nguyễn Bình, người chỉ huy lớn của cuộc kháng chiến miền Nam, với những trận lặp lại và tính toán kỹ. Chỉ còn dồn ông này đến đường cùng, thanh toán hẳn. Những người của đồng bạc nói, dù Bắc Kỳ có mất, người Pháp vẫn còn nhiều của cải, nghĩa là lúa gạo và cao su ở miền Nam. Chanson vậy là vị tướng của họ.

Một diễn biến bất ngờ. Một chỉ thị ghê gớm của đại tướng de Lattre gửi Chanson:

"Tôi không quan tâm đến Nam Kỳ của ông. Chiến trường của tôi là Bắc Kỳ. Ông hãy gửi những tiểu đoàn tốt nhất của ông ra đó. Ông xoay xở tại chỗ với số quân còn lại."

Chanson có đi khiếu nại. Ông không dám đối mặt với de Lattre, đề nghị với Cogny, cũng một kỹ thuật viên đa tài và được xem là tai mắt của vua Jean:

- Các ông sẽ huỷ hoại công trình của tôi, cạo sạch tôi. Dù sao ông cũng nói điều đó với ông chủ.

- Ông ấy biết. Nhưng trước hết là Hà Nội. Trận Verdun của ông ấy đấy.

Thực tế Chanson không than vãn nhiều, những hoạt động trước đây trung bình, tăng lên nhiều. De Lattre nhận xét: "Ông tướng số học ấy tuy không bằng lòng nhưng biết vâng lời. Tốt đấy".

Ngày 24 tháng chạp. De Lattre trở về một Bắc Kỳ lo sợ chết người, lạnh lẽo và nghiêm nghị. Trở về trong sự lớn lao, trong bi kịch. Niềm vui của ông muốn ở với quân lính vào đêm lễ Giáng sinh.

Trên chiếc Dakota thực sự phong phú. Toàn bộ những người thân cận chơi trò thu thập tên, chọn những kẻ đáng mặt. Điện đài của đội bay liên tiếp gửi điện tín triệu tập họ. De Lattre muốn ngay tối hôm ấy họ có mặt ở Hà Nội với những huân chương, kiêu hãnh trên bàn tiệc tối của ông.

De Lattre hạnh phúc. Vững tin số phận, ông tuyên bố:

- Rút bớt quân của Nam Kỳ và dồn lực lượng cho Bắc Kỳ, tôi không để một lối ra nào, đặt mình vào trường hợp thắng hoặc bị tiêu diệt. Nhưng với cách ấy, dốc tất cả, tôi có may mắn thắng cái may mà Carpentier và đồng sự không bao giờ dám tranh thủ. Điều ấy đã đủ cho tôi. Chúng ta sẽ chiến thắng.

De Lattre ở trong một Bắc Kỳ nhấn sâu hơn trong guồng máy chiến tranh. Chưa phải cuộc tổng phản công của người Việt nhưng các sư đoàn quân Hồ Chí Minh cọ xát khắp nơi. Trên mặt trận phía Bắc đã là việc đánh mạnh, triệt hạ vành đai các bốt Pháp. Mỗi đêm lại bắt đầu những cuộc tấn công, mười lăm hoặc hai mươi tiểu đoàn ông Giáp được tung vào các công trình đã bắt đầu bị phá hủy nhưng còn đứng vững. Đánh nhau gần Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phù Lỗ, khắp nơi. Các đội đồn trú Pháp phòng thủ bằng những trận giáp lá cà. Một số bị hạ, một số khác bị mất rồi chiếm lại. Tất cả chống cự cho đến bình minh, đêm này rồi đêm khác. Mờ sáng những làn sóng tấn công biến mất và các đội cơ động Pháp dọn sạch đổ nát, đưa lực lượng bổ sung tới. Thường thường dưới làn đạn móc-chi-ê của người Việt, những người sống sót đào lỗ trong những mục nát tiếp tục bắn. Có sự đơn điệu thảm hại, sự lặp lại thường xuyên những đợt xông tới của quân chính quy, trọng pháo Pháp bắn chặn, những lẫn lộn ban đêm giữa gạch đá, những đội quân cứu viện tới lúc trời sáng. Lề thói đổ máu thông thường. Nhiều người chết ở cả hai bên. Đối mặt với đông đảo người Việt, người Pháp dần dần tổ chức một mặt trận liên tục. Các tiểu đoàn xung kích bố trí giữa thiên nhiên, trên đồng ruộng, ở những khoảng cách giữa các bốt hoặc ngay phía sau. Họ sử dụng đường, đê, đồi, các làng để xây dựng những điểm dừng. Họ đào hầm, chăng dây thép gai, làm những chỗ đặt súng. Gần như cuộc chiến bộ binh những năm 1914-1918. Làm được thế vì trên rìa miền Bắc châu thổ có đất thật, gần như bình thường, không phải nước và bùn, không phải thế giới sống trên cạn và dưới nước thông thường của Châu Á.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 07:49:46 pm

Những xô xát buồn tẻ ấy không làm ảnh hưởng đến sự thanh thản của vị tướng. Đến nơi, trước hết là nghỉ trưa. Quần áo chỉnh tề, ông vào thành. Ở đấy, ngồi trong văn phòng ông hài lòng nhận thấy mọi chiến binh của ông đã được tập hợp, một số đã thực hiện những chiến công, những cuộc chạy tiếp sức vượt rào từ trung tâm chỉ huy cách năm mươi, một trăm cây số để đến đấy đúng giờ. Dĩ nhiên nhẵn nhụi, sạch sẽ, quần áo thắng nếp. De Lattre nhìn họ lâu, có tính chất đánh giá. Ông chắc chắn chiến thắng đến mức phân phối giải thưởng trước cho họ:

- Chúng ta tổ chức tám đội cơ động, chỉ huy là những người hiếu chiến: Castries, Vanuxem, Edon, Erulin và những người khác chúng ta sẽ chọn. Chúng ta cắt ba vùng chiến sự của Bắc Kỳ vốn quá nặng nề. Việc đầu tiên là tạo một cơ sở ở Hải Phòng: một hệ thống đồn bốt không xâm phạm được do một công binh chỉ huy, Gazin, một người sinh ra để tổ chức, tôi biết rõ. Tôi cử anh ta làm chỉ huy công binh. Nhưng Gazin đâu? Chưa đến ư?

Lúc đó người được nói trên xuất hiện, một người Pháp trung bình, rất biết điều, bình thường về các mặt, thân hình, giọng nói, màu hồng trên má. Anh thở dổc. Được gọi gấp từ Sài Gòn ra, anh nhảy lên máy bay, đến đây rất vội vã.

- Gazin của tôi kia rồi. Anh trở thành người trụ vững ở Hải Phòng, làm ở đấy cho tôi một công sự đồ sộ... Và nếu cần anh sẽ chết tại đó. Khi nào thì xong?

Gazin nghiêm túc, tập trung suy nghĩ. Chỉ hai, ba giây, nếu không đại tướng sẽ nổi giận. Anh nói với tính cách người xây dựng, đề nghị thời hạn phù hợp. Vị tướng không chấp nhận thời hạn, thậm chí không lắng nghe những giải thích, biện bạch, những đòi hỏi rụt rè. Rồi nét mặt rạng rỡ, ông hỏi Gazin: "Tôi nói có đúng không?- Nhưng ông bao giờ cũng đúng thưa đại tướng", Gazin trả lời không nao núng.

Vui vẻ. Trong "câu lạc bộ nhỏ" này không khí vui vẻ thân mật. De Lattre chuyển sang những vấn đề tiếp theo bao giờ cũng với tư cách con người "biết hết" - trong lúc ông ta không biết gì về Đông Dương:

- Ở phía Tây, vùng bị đe dọa, quan trọng, phải có cho tôi một người vững vàng về hình thức cũng như trên thực địa; Du Biest... ở Hà Nội, một chuyên gia về phòng thủ thành phố: Quinche... ở vùng giữa, Vidai... Về phía Nam, chỗ cất giám mục và linh mục, một người điềm đạm, nổi tiếng bởi giá trị tinh thần: Gambiez; Quá về phía Đông, nơi tôi muốn mở rộng việc bố trí, cần một lính dù quen nhìn từ trên cao và từ xa: Bollardière... xa hơn nữa, cần chọn một người chưa biết là ai... ở đầu vị trí chúng ta, trong vùng bờ biển có nhiều dân tộc lạ có phần hơi kẻ cướp, một người cũ ở đất nước này, hiểu cặn kẽ vấn đề: Carbonnel.

Buổi làm việc kết thúc. Tiếng ồn ào. Làm điều gì cho lớn lao trong đêm Giáng sinh đây? Không có dự kiến gì. De Lattre nghĩ phải đi dự lễ ở ngay giữa lòng châu thổ, trong vùng ruộng bùn vắng vẻ Như Quỳnh, bốt do con trai ông, Bernard chỉ huy: anh này sẽ rời quân lính của mình mấy tiếng đồng hồ lên Hà Nội chúc mừng bố.

Đêm Giáng sinh này, tiếng súng ca-nông vang âm ỉ xa thành phố. Không khí nghiêm trọng thấm vào buổi lễ tổ chức tại nhà thờ Tử vì đạo. De Lattre cùng đám đông nghiêm khắc và bóng loáng những sĩ quan thân cận đến đây, cả ngài bộ trưởng, ông Letourneau cũng có mặt. Ông, vị đại tướng - tổng chỉ huy và cao uỷ đến hành lễ ở nơi nghèo, trần trụi nhất. Nhà thờ ở trong vùng phụ cận thành. Một ngôi nhà rộng mênh mông bằng xi-măng cốt sắt, trần trụi, lạnh lẽo, chỉ có những đồ thờ cần thiết, rẻ tiền. Một linh mục Pháp rất trẻ, khuôn mặt khổ hạnh, tổ chức lễ Chúa giáng sinh một cách đơn giản nao lòng. Bên cạnh ông là hai lễ sinh Việt Nam. Không có hang đá, máng cỏ, không trang trí chiếu sáng, chỉ mấy bông hoa trắng trên bàn thờ. Vật duy nhất sang trọng là chiếc đàn oóc rung lên đệm giọng chói chang của các bà hát thánh lễ Giáng sinh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 07:50:59 pm

Đại tướng và bộ trưởng được bố trí trong giàn hợp xướng. Quì gối, họ cầu nguyện. Letourneau cúi đầu thành kính, de Lattre đầu thẳng. Nhưng vì nhún nhường hay tự cao mà vị tướng đã chọn thánh đường khốn khổ này để chúc mừng Chúa Trời? Nếu vì tự cao, ông đã bị trừng phạt. Chúa không đợi ông. Buổi lễ bắt đầu không có ông vì tới chậm. Đến nơi chính ông phải "đợi mãi" trước cánh cửa khép kín cho đến lúc làm lễ dâng bánh Thánh. Lúc ấy ông mới vào được. Lần này ông bị đánh bại.

Cả buổi tối ông đi từ khu đồn trú này đến khu đồn trú khác không để lơi quân lính. Hai lần tuỳ tùng de Royer lưu ý ông về thời gian trôi qua: linh mục đã báo trước buổi lễ bắt đầu đúng mười hai giờ đêm, dù có mặt đại tướng hoặc không. Ông chỉ càu nhàu với de Royer: "Điện cho ông ấy làm chậm buổi lễ lại. Tôi ra lệnh cho ông ta đấy". Vị tướng không vội. Ông tới nhà thờ Tử vì đạo lúc mười hai giờ mười lăm, đụng phải cửa vào đã khóa và người ta không mở. Buổi thuyết giáo đã bắt đầu. Và trong Gia tô giáo, chặt chẽ, tuyệt đối áp dụng ở Việt Nam đối với những người Việt Nam, luật lệ là các cửa đóng kín cho đến cuối buổi de Lattre giận dữ vì đã quen với những thể thức ở Châu Âu. Chẳng làm gì được. Vị tổng chỉ huy, bộ trưởng, các sĩ quan, những người của ông đứng từng nhóm trên sân giáo đường. Phải mất mười phút. Tái mặt, de Lattre tự hỏi có nên bỏ đi như ông thường làm khi không bằng lòng với bất cứ ai, vua hoặc bộ trưởng. Không thể được vì đây là Chúa Trời. Chỉ còn cằn nhằn mấy câu mạt sát giới tu sĩ.

Việc đền tội kết thúc. Khi vị tướng vào, chẳng còn oán giận nữa mà chỉ còn niềm tin. Ở nhà thờ Tử vì đạo, ông cầu Chúa như một người cao cả, tập trung và bất động. Đối mặt với Chúa Trời ông chấp nhận là bề trên. Chính Chúa đã đưa lại cho ông những gì xảy ra trong đêm nay, "lý do chính đáng” của ông, cả cuộc chiến tranh này. Chắc ông cũng có xin người giúp đỡ.

Phía sau de Lattre và các quan chức là lớp người vô danh, cầu nguyện với một niềm tin tuyệt vọng. Đây là đám đông cùng khổ nhất đến đầy ngôi nhà các loại quân chủng và màu da. Một vài dân thường Pháp, hầu hết di tản và chưa trở lại Hà Nội. Mọi người tham dự vậy là thuộc lớp người thứ hai và phần đông là dân quê. Nhưng những quân nhân khiêm tốn và những lớp trẻ vô danh đều căng thẳng khi cầu nguyện. Những người thấy cái chết, cùng kêu gọi Chúa về những mối nguy hiểm và những lời cầu cứu. Tất cả khẩn cầu bảo vệ, đầu cụng vào nền bê tông, bàn tay nắm chặt và đôi môi thì thầm. Một cảnh tượng thời Trung cổ.

Niềm tin kỳ lạ này là nỗi sợ hãi thăng hoa. Làm sao không nghĩ đến những gì diễn ra lúc này trong bóng đêm vùng châu thổ! Những giáo dân trong làng tổ chức những buổi lễ bí ẩn trong các nhà thờ kiên cố, linh mục da vàng khuyến cáo nỗi căm hờn những người "cộng sản không theo đạo”, các bà ngồi xổm kêu gọi trả thù, chiến binh co quắp người với súng sau lỗ châu mai. Lính đồn trú ở các bốt Pháp không làm lễ. Đêm Giáng sinh này không có vấn đề đình chiến; khác với những năm trước, quân Việt không đề nghị, Giáng sinh của những người lính chiến là mấy chai rượu và thức ăn giữa vũ khí đã lên đạn. Vào giờ này có những bốt bị tấn công, có lẽ bị qụy. Trong toàn vùng châu thổ phải làm mọi động tác chiến tranh. Các đội tuần tra tiếp tục lên đường để bắn giết.

Ban đêm trên đồng ruộng, có câu chuyện Giáng sinh thật và lạ lùng. Một chỉ huy biệt kích bố trí quân, những ngụy binh Gia tô giáo phục kích. Phải tiêu diệt một đoàn xe Việt Minh sẽ đi qua lúc nửa đêm theo một nguồn tin chắc chắn. Nhưng về khuya, chuông nhà thờ gọi cộng đồng giáo dân đi dự lễ Chúa hài đồng; Ngụy binh ra khỏi nơi ẩn nấp đang chĩa súng, nói với người Pháp: "Đấy là tiếng nói của Chúa. Không lắng nghe sẽ là một tội chết. Phải đến nhà thờ cầu nguyện. Chúa sẽ ban thưởng cho chúng ta: nếu đêm nay chúng ta tha cho người Việt, ngày mai chúng ta sẽ giết được gấp trăm lần".

Viên hạ sĩ cố giữ đội hình, nhận mọi tội lỗi về mình, đưa mọi người trở lại chỗ ẩn nấp. Tất cả lại lẫn vào đêm tối và thiên nhiên. Bùn, thân hình ngụy trang, miệng như không còn hơi thở, tay nắm tiểu liên chờ nhả đạn. Cách mấy trăm mét trên đường bờ ruộng có ánh lửa nhấp nháy. Đoàn quân Việt tiến lại, gần rơi vào bẫy. Người Pháp sắp hô "Bắn". Thay vì tiếng súng nổ là một bài thánh ca vang lên, ngay trong bóng tối và trên đồng ruộng. Các ngụy binh hát bài "Nửa đêm giáo dân" vì giờ linh thiêng đã tới. Khi họ im tiếng thì quân Việt chạy đã rất xa, thoát nạn. Và đúng là ngày mai những ngụy binh, giáo dân ấy, cũng nhân danh chiếc thập tự, chặt thành khúc những du kích rơi vào tay họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 07:53:11 pm

Cũng có phép lạ Giáng sinh, của hai trung uý dù Kermarec và Leduc. Họ tạ ân Chúa vì được cứu một cách kỳ lạ. Hai người vừa thoát khỏi một trại Việt Minh. Hôm trước khi lê lết cho đến Hà Nội, họ là hình ảnh của người bị bắt và thất trận. Quần áo rách nát, râu tóc rối bù bẩn thỉu. Qua thân hình và đôi mắt chỉ là những nét ảm đạm, mệt mỏi, những vết thương và sẹo, cáu bẩn. Tinh thần, tri giác ngây dại đến mức phải hàng giờ để hiểu ra mình đã tự do, ở giữa những người Pháp nhà mình và trên khuôn mặt bạc nhược ánh lên một nét vui mừng. Những người Pháp tiếp nhận, hỏi họ phải rất lâu mới tin vào điều họ kế lại.

- Chúng tôi bị bắn trên đường số 4 ở Đông Khê, bị giữ lại trong một làng Mèo vùng cao Bắc Kỳ, giữa rừng núi. Tất cả tám sĩ quan. Được đối xử tử tế. Thế nhưng là sự tiêu hao, kiệt sức, hấp hối kéo dài nằm trên đất trần trong những ngôi nhà tranh. Thân thể chúng tôi bị thiên nhiên nhiệt đới hành hạ, đầu óc ngập trong những bài học buồn chán về duy vật biện chứng nhằm "cải tạo tư tưởng" chúng tôi; cán bộ chính trị là những viên chức chế độ thuộc địa cũ nhiệt tình giáo dục lại chúng tôi.

Trong tám người sĩ quan, hai bị chết về sốt rét, kiết lỵ và yếu sức. Không có thuốc men. Sáu người còn lại chúng tôi chỉ nghĩ làm thế nào để sống sót. Phải trốn khỏi xóm làng này trước khi được đưa đến các trại tù binh, những bệnh xá khoa học chữa trị những phản động và đế quốc cho đến khi trở thành "những người mới", rửa sạch "con người cũ".

Chúng tôi ở trong ngôi làng xa vắng, có một ám ảnh trốn thoát. Trong sáu người, ba đã là cảnh hấp hối, tàn tật, không cố được, ba còn có sức liều đi. Những việc chuẩn bị sơ đẳng, thăm dò, vẽ một bản đồ tương đối.

Chạy trốn. Chúng tôi bò trong bóng tối ban đêm và rừng núi mờ sáng ẩn mình vào cây cối. Không biết bao nhiêu đêm lướt nhanh trên đường mòn, bao nhiêu ngày nấp trong rừng rậm. Không còn biết mình ở đâu. Không còn gì ăn. Sức lực yếu dần. Lúc ấy chúng tôi dừng lại trước nền đường sắt Vân Nam cũ, cây cối choán hết đường. Một trạm gác của người Việt. Một trong chúng tôi bị bắt; hai chạy sâu vào rừng.

Tiếp tục những đêm đi bộ, đói khát, sợ hãi. Bỗng rồi, không còn rừng nữa. Trời sáng. Vùng châu thổ trống trải với dân quê đông đúc, không trông thấy nhưng cảm nhận họ rất gần đấy. Họ lao vào chúng tôi, dẫn tới trước một cán bộ, một uỷ viên chính trị. Chúng tôi không biết hôm ấy ngày lễ Giáng sinh, thế mà đối với chúng tôi là phép lạ của đêm thần thánh. Ông cán bộ Việt Minh, thay vì nghi ngờ, rất tử tế hỏi chúng tôi: "Chắc các anh là tù binh được trả về với người Pháp theo sự khoan hồng của Chủ tịch Hồ Chí Minh? - Vâng. - Các anh có giấy chứng nhận không? - Có nhưng đang ở chỗ một anh bạn quá kiệt sức chúng tôi phải để lại cách đây mấy cây số. - Được rồi, tôi sẽ cho người dẫn hai anh đến trước một bốt Pháp. Các anh nghỉ cho lại sức và uống nước đi trong lúc chờ đợi.” Ông cán bộ cho chúng tôi một người đưa đường, chúc may mắn và từ biệt chúng tôi. Đúng là cuộc sống, sự hồi sinh, Chúa Trời đã cứu vớt chúng tôi.

Thành phố Hà Nội vẫn như chết, đường sá vắng lặng. Đèn tắt từ lâu trong những quán bar cuối cùng. Nhưng trong các khu đồn trú là đèn, tiếng ồn ào, thú vui, lễ hội anh hùng. Vì thế sau khi tôn vinh Chúa của quân đội trong nhà thờ Tử vì nạn, de Lattre chuyển sang hoạt động quân sự: đến với các đội quân. Cho đến mờ sáng ông đi kiểm tra các bếp ăn của những tiểu đoàn xung kích lớn, lực lượng dự trữ cao nhất ở Hà Nội.

Mỗi binh chủng có những lễ Giáng sinh đặc biệt. Đấy là đêm hôn lễ của de Lattre với Đội quân viễn chinh. Ông đến để mê hoặc họ. Ông cũng bị cám dỗ. Từ nay ông gắn bó thân mật với tất cả những người lính đánh thuê ấy, những kỵ binh, lính dù, lê dương - họ có một tính cách cao cả của họ.

Trong đêm Giáng sinh này ở Hà Nội, de Lattre xúc động sâu sắc, rung cảm về tinh thần yêu nước và duy mỹ của mình. Con người thiếu nhiệt tình về con người đến thế tìm thấy ở đây những chiến binh lý tưởng. Những người chỉ quan tâm đến thái độ, đến một cách xử sự bắt buộc và gần như hoàn hảo. Có nhiều loại. Ông thích thú thái độ kiêu kỳ và kính cẩn của kỵ binh, về "cánh" của họ. Ông thích thú sự nóng nảy quá đáng của lính dù, những tên vô lại cao thượng. Ông thích sự lặng lẽ tự cao của lính lê dương, những tay hầu phòng danh dự. Ông biết để đi đến kiểu cách ấy phải vừa có lề thói ngàn đời vừa đụng chạm với hiện đại. "Những con vật" thật đẹp!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 07:54:59 pm

De Lattre sung sướng. Sẽ dễ dàng tác động những con người như vậy, làm theo ý muốn, sở thích của mình. Riêng một mình ông sẽ làm công việc của tất cả những uỷ viên chính trị ở quân Việt Minh. Riêng một mình, ông sẽ giáo dục lại toàn bộ với những phương pháp không phải theo biện chứng pháp mà theo Gia tô giáo. Cách nào cũng thế cả.

Dĩ nhiên de Lattre đang thăng hoa. Vừa thật thà vừa mưu mẹo. Từ nay ông quất vào người của mình với Thánh tín. Ông cũng dùng mọi biện pháp đã biết mơn trớn những yếu điểm của con người, những tự hào, quyền lợi vốn là truyền thống trong quân đội. Những chùm sao băng, rừng lá cọ - những biểu hiện khen thưởng khéo phân phát làm nổi giá trị con người. Từng chuỗi tăng lương, bổ nhiệm, nâng cấp chỉ huy. Quân đội cũng từ điều ấy.

Tiền bạc, ông khinh ghét, nhưng cũng là một biện pháp. Đấy là dây thần kinh của chiến tranh và với danh nghĩa này ông cần rất nhiều. Những quyết toán chính thức ông không quan tâm nhưng ông chú ý nhiều về những quỹ mật. Triệu tập những quản lý lên, bao giờ ông cũng hỏi: "Trong quỹ anh có bao nhiêu?" Và ông hoan hỉ nếu két còn đầy.

Hà Nội. Chương trình khắc khổ. Cũng có chương trình rất sang trọng. Phải chăng vua Jean cần có một khung cán bộ xứng đáng với ông, với cuộc chiến tranh, với nước Pháp? Tóm lại là sự đơn giản trong cái đẹp. Đẹp người, đẹp các đội quân, đẹp các cuộc hành quân, đẹp của những cái chết đẹp. Sở chỉ huy của các đội cơ động sẽ là những "trại thảm vàng". Trong thành phố phải có cho ông một "ngôi nhà Pháp" của ông. Đã có một lâu đài thuộc địa nhưng ông để trống, dành cho Bảo Đại, nghĩ có thể nhử mồi. De Lattre chọn một khu các biệt thự của "nhà máy bia và nước đá Đông Dương", một công ty tư bản thu lãi lớn nhất ở Đông Dương, giải khát cho quân lính đến tận rừng sâu. Vậy là công bằng khi lấy của các tỷ phú này những ngôi nhà đẹp nhất của họ ở Hà Nội. De Lattre sẽ sử dụng với những tiện nghi tuyệt đẹp, làm thánh đường của mình. Trước mắt ông đi thăm các ngôi nhà đẹp với kịch bản quen thuộc: mắng chửi các quản lý, hỏi han các bồi v.v... Ở đây cũng phải thay những gì sẵn có cho đến những lọ hoa. Tìm lời nói cao cả thanh minh cho cách làm của mình, ông tuyên bố: "Tôi không muốn thừa hưởng bụi bặm của các nhà buôn, lợi dụng Đội quân viễn chinh. Họ bán "nước giải khát tồi" cho quân lính của tôi, không những chỉ trả bằng tiền mà cả bằng máu. Ở đây, tôi muốn là nước Pháp thực sự."

Như vậy de Lattre tạo ra cả một địa lý về thể chất và tình cảm cho cuộc Chiến tranh Đông Dương của ông. Từ nay vị tướng sẽ ở luôn tại Hà Nội nhân danh chỉ huy cuộc thập tự chinh. Vợ ông khi đến cũng sẽ ở đây, con trai ông cũng gần đấy. Ở đây ông vượt lên giữa triều đình của mình, giữa đoàn quân chiến đấu, giữa trận chiến. Và ông sẽ sung sướng ở đấy cho đến khi bị đè bẹp vì sức nặng cố sức.

Một tháng mê hoặc. Một tháng chèo kéo dụ dỗ. Hà Nội được chọn như Thánh địa. Nhưng de Lattre luôn quay cuồng như một dã thú trong Đông Dương. Để hoàn thành công việc. Ông cũng cần những nhà báo chịu khuất phục cũng như những quân lính cuồng tín, những ông vua nhiệt tình. Ông nói rất đúng và là quân nhân đầu tiên khẳng định: "Đưa lại chiến thắng làm gì nếu thế giới không biết đến, nếu người ta không đọc những chuyện kể lại trên báo, với hàng tít lớn. Đánh quân địch là tốt, đánh vào trí tưởng tượng của người ta còn tốt hơn". Và ông trở lại Sài Gòn để tán tỉnh các phóng viên chiến tranh, những người đích thực.

Có những người giả danh. Năm mươi nhà báo có lon trong đó năm đại tá mà Carpentier đã cay đắng do thiếu thông cảm của những phái viên đặc biệt, những nhà chuyên nghiệp viết bài. Họ không "đi vào" những dối trá và những bí mật yêu nước. Ông thành lập một bộ máy biên tập khổng lồ mà mỗi lần xuất bản báo phải qua sự kiểm duyệt có hệ thống. Tám lần phê duyệt liên tiếp kết thúc bằng sự chuẩn y cua chính tổng chỉ huy. Tổng kết lại: nhiều trăm triệu bỏ ra không một dòng chữ được in ấn.

Giận dữ, de Lattre bỏ việc làm ngu ngốc ấy mà Carpentier rất tự hào. Ông kêu lên: "Lên tàu. Không. Đi máy bay. Thanh toán họ càng nhanh càng tốt. Tôi không muốn những phóng viên thực thụ phát hiện ra những tay giả danh bạc nhược này. Không muốn họ gặp, họ trông thấy chúng. Vì họ sẽ bất bình hoặc chế giễu chúng ta. Tôi biết các ông báo chí ấy. Nếu xử sự tệ họ rất hung dữ. Còn tôi, tôi sẽ quan hệ tốt với họ, bằng bất cứ giá nào."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 07:57:05 pm

Trực giác kỳ lạ của de Lattre. Ông biết từ nay ông không thể chống lại giới báo chí hiện đại. chế ngự hoặc mua chuộc họ một cách thô lỗ. Việc ấy quá sức mình, quá sức nước Pháp. Đấy là một kỹ thuật mới và ghê gớm mà người ta không thực hiện lề thói dối trá cũ được nữa. Không thể buộc báo chí im miệng, phỉnh phờ lá cờ tam tài, gian dối, nông nổi nhân danh Tổ quốc, quân lính và các tướng, lý do đúng và cái chết đẹp. Tương lai phải đưa ra sự thật, ít nhất một sự thật phù hợp với mọi người. Phải tạo ra những bí ẩn chấp nhận được. Nhất là biết nắm lấy tầng lớp phái viên đặc biệt. Công việc buồn cười đối với một vị tướng năm sao?

Giai đoạn thứ nhất, tàn sát các "nhà báo" quân đội. Một người duy nhất thoát được. Một "tên Do Thái bẩn thỉu” như de Lattre trìu mến nói. Và thường ông thêm: "Tay ấy giỏi đấy. Thậm chí anh ta tìm được cách trở thành trung uý kỵ binh". Nhiệt tình ấy càng khác thường vì nhân vật này có mọi cái để người ta không thích: hình ảnh phác họa của một người Israel trẻ quá cơ hội, khuấy động, quá đà trong "nịnh hót" cũng như khiêu khích. Hơn nữa lại nhỏ người, xấu, hơi nâu, gầy, nguồn gốc không rõ ràng. Anh ta liều lĩnh xum xoe bên cạnh de Lattre và vị tướng bị chinh phục. Ông tuyên bố nửa tự hào nửa đùa cợt: "Tôi cũng sẽ có một tay Do Thái của mình." Vả lại phải chăng đấy là truyền thống của những ông vua có tiếng nhất ở Pháp? Và rồi gặp anh ta ở đâu cũng đối xử tốt.

Vị tướng nóng nảy và anh Do Thái tế nhị hiểu nhau ngay. Hơn nữa anh này mang đến một ý tưởng, phỉnh phờ:

- Thưa đại tướng, tên tuổi ông trải khắp những tờ báo trên thế giới chưa đủ. Khuôn mặt ông cũng phải có ở đấy. Làm sao để người ta bị ám ảnh về hình ảnh, cử chỉ, lời nói cua ông, về quân lính, trận chiến, Đông Dương của ông. Tất những cái ấy phải đưa vào ảnh, vào phim. Tôi đề nghị ông hình thành phòng báo chí của quân đội, mà ông và người của ông là những ngôi sao. Tôi đảm bảo sẽ làm ngập thế giới bằng phim ảnh của chúng ta.

- Thế nào? Một de Lattre cắn môi ngay, hỏi.

- Các nhà báo viết bài trong phòng sau một số cuộc đi dạo thu thập nguồn tin bất cứ ở đâu, bằng cách nào. Họ không cần bị giết, không thích thế. Nhưng "bấm máy" thường là công việc chết người. Theo dấu vết của ông để chụp ảnh, đồng ý. Nhưng sẽ ít người chuyên nghiệp đi vào giữa những trận đánh nhau, chết chóc. Tôi sẽ tìm được những hạ sĩ, đưa máy cho họ, họ sẽ xông xáo giữa trung tâm trận địa. Một đội lê dương về phim ảnh.

- Anh có biết gì về việc ấy không? Ví dụ phải chụp ảnh tôi ở góc cạnh nào?

- Luôn luôn ở mặt nghiêng bên trái. Đấy là đẹp nhất, gây ấn tượng nhất.

- Lạy Chúa, đúng quá!

Vậy là chàng trai được sử dụng, đưa vào lớp người thân cận. Anh ta mau chóng trở nên cần thiết đối với vua Jean, luôn luôn phải có mặt. Mặc dù vị tướng chửi mắng hầu như hàng ngày, anh không nao núng.

Nhân vật này ngày càng thắt đai, đi bốt, thượng võ, mặc quân phục, vươn lên như một con gà trống, nhưng không thái quá. De Lattre không muốn anh thực sự trở thành một chiến binh cao quý. Ông bảo: "Đừng làm hội hóa trang, đừng tự biến thành anh hùng mà tạo nên những anh hùng". Điều này anh rất thành công. Nôm na và tinh quái, anh sản xuất hàng loạt ảo vọng, huyền thoại, vinh quang, mọi vẻ đẹp khắc nghiệt của chiến tranh với các dạng hưởng thụ, những cử chỉ đẹp và cái chết. Muốn thế phải tìm kiếm sự thực đổ máu dĩ nhiên đã được thu xếp lại, trình bày tốt.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 07:58:34 pm

Kẻ mới nổi lên trong lớp thân cận này không tự mình thực hiện. Vì de Lattre có năng khiếu kẻ buôn người, ông có bản năng xây dựng người. Về người thừa hành ông lựa chọn từng người một trong số người thường, những anh cai có vấn đề, những dân thường lê dép, buộc phải ký hợp đồng với quân đội. Ông, khô khan và nhất là không lố lăng, tạo dựng được một đám đông những kẻ điên, cuồng tín, những kẻ ngông cuồng với ống quay. Những người đi săn hình ảnh ấy, chỉ vũ trang bằng máy của mình và những thủ thuật, mê say, có bao nhiêu người? Vài chục, có lẽ ba chục. Là cuộc chạy đua tự sát, cuộc chiến cao độ không bảo vệ. Lính dù thoát thân bằng nhấn vào cò súng tiểu liên, đại liên; về phần họ, giữa những trận đánh dữ dội nhất - những điều họ thích, họ tìm kiếm - bấm nút sản xuất ra những bức ảnh.

Họ đúng có tính chất hiệp sĩ. Bẩn thỉu, luộm thuộm, những chàng trai này không cần đến những gì quân lính dữ tợn nhất quan tâm: việc khen thưởng và thăng cấp. Họ chẳng mong chờ gì. Người ta trả công kém, đối xử theo cách những người cấp dưới. Một loại khinh khi bao lấy họ của vô số những sĩ quan tiêu chuẩn. Họ gần như là rác thải trong quân đội.

Vậy là họ thăng hoa, hoàn toàn vô tư. Cuộc chiến tranh này là sự đam mê, vui thích của họ. Vấn đề của họ là sự quý mến của những đồng bọn phim ảnh, của những chiến binh khó khăn nhất: lê dương, lính dù, vốn phán xét không thương xót. Nhưng họ phải làm sao để được bạn bè trong nghề và Đội viễn chinh quý mến? Phải có chiến công thường xuyên. Một số có ý thức tự nhiên về nguy hiểm. Một số phải cố gắng quá sức mình, khắc phục nỗi sợ hãi, thần kinh căng thẳng. Vừa đam mê vừa hành xác.

Tóm lại, tính tự cao buộc họ lăn vào những đoàn biệt kích, những trận đánh, những vụ ám sát, khắp những chỗ vừa đùa cợt vừa run sợ. Tốt nhất là bình tĩnh trỗi dậy, đứng vững như không có gì trong địa ngục lửa đạn. Hơn nữa họ phải nhìn để bắt lấy những chi tiết thực thể hiện cả cuộc đánh nhau. Đồng thời để hành nghề và sống sót, phải là những người biết rõ chiến tranh, những dấu hiệu, chỉ tiêu của cuộc chiến. Họ biết mỗi đơn vị có giá trị đến đâu, dưới mặt nạ chiến binh che giấu những gì, mỗi người lính có điều gì trong lòng, bí mật thiết tha về sự can đảm hoặc hèn nhát. Tất cả có một ý nghĩa đối với họ: một giọng nói, tiếng rừng, bước đi, một nguồn tin thì thầm trong nhà ăn, sự nhàm chán của một "cuộc hội ý" hay kế hoạch một cuộc hành quân, khung cảnh thiên nhiên, thái độ một sĩ quan, tất cả những gì quân đội giấu giếm, thú nhận hoặc chuẩn bị. Không điều gì lọt khỏi mắt họ. Họ biết cả những sự đối đầu, buôn lậu, vận chuyển thuốc phiện, những dằn vặt, trai gái, những mặt dưới của các ban tham mưu. Trong số sĩ quan họ biết ai là kẻ điên, ai "huênh hoang", ai bẩn thỉu. Những người này thu xếp không để họ nói gì, sợ bị "cháy", bị tố cáo lên cấp trên vì tinh thần yếu kém.

Nỗi ám ảnh về tư cách và cái chết. Nỗi ám ảnh không bao giờ rời, ngay ở Hà Nội, trong biệt thự dành riêng cho họ. Ở đây là gấp gáp hôn, thuốc phiện, rượu, đơn giản chỉ để quên mà không được. Phần lớn sẽ bị giết trong thời kỳ điểm cao hèn hạ và đẹp đẽ. Một số bị thanh lọc như những bèo bọt trôi sông. Chỉ ba hoặc bốn người qua thử thách được lột xác trở thành những "ngôi sao" trong vũ trụ yên bình.

Năm 1951, de Lattre chỉ nghĩ đến vinh quang của mình và của cuộc chiến tranh. Ông biết vào đầu thế kỷ XX, vinh quang trước hết là một sản phẩm của tuyên truyền. Vậy là ông rất bằng lòng với những chàng trai không quen biết vẫn quay phim, chụp ảnh cuộc chiến tranh Đông Dương của ông hàng ngày, tại chỗ. Đấy là hoạt động đầu tiên của loại này, lần đầu con mắt ống kính thấy tất cả. Vua Jean và anh Do Thái của ông chỉ còn chọn lựa, sắp xếp sự việc. Như vậy một hình ảnh - chủ nghĩa anh hùng toát lên từ nỗi kinh hoàng, trong một hiện thực đạo đức và khắc nghiệt, chứng minh đẹp đẽ cho Đội quân viễn chinh về những khổ cực, sự lớn lao, những đau thương và những chiến công của họ. Và trên tất cả có một cái đầu chụp ở góc cạnh đẹp của đại tướng de Lattre.

Con người Israel quả có thính giác tốt, dự báo các nhà báo lớn trên thế giới sẽ đến nhiều. Họ chạy đến hàng tá, nhất là giới báo chí Mỹ. Tất cả không biết gì về Đông Dương. Hầu hết chưa rõ mình sẽ "chống", vì chống chủ nghĩa thực dân đang là một món hàng tốt hoặc sẽ "ủng hộ", vì de Lattre có lẽ là một "khuôn mặt" có thể khai thác cho những đợt xuất bản lớn. Vị tướng dù sao cũng có lo ngại. Những người ấy, đích thân ông sẽ phụ trách. Vừa là chỉ huy cuộc chiến tranh, ông sẽ là chỉ huy như thế về thông tin, báo chí. Có nghĩa là ông cũng để thì giờ gần như thế để "phỉnh phờ", "hội ý", chăm sóc đến các nhà báo "của ông" cũng như các sĩ quan quân đội của ông. Gần như mỗi cuộc họp tham mưu đều kèm thêm một cuộc họp báo chí. Vua Jean chuyển từ cuộc họp này sang cuộc họp khác, không có chuyển tiếp. Nhưng ông vất vả với những phóng viên luôn luôn không chắc chắn hơn với các đại tá hoàn toàn lệ thuộc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 08:44:26 pm

Cả một vấn đề. Trước hết vua Jean làm thế nào để biến đổi những phái viên đặc biệt sang đây thành những người ông gọi là các nhà báo "của ông"? Mệnh lệnh phải tìm hiểu về họ ở tất cả mọi cơ quan. Đại tướng nghiên cứu các phiếu, cau mặt: "Không được tốt lắm. Anh này là ai? Anh kia là ai? Tôi muốn biết hết, dĩ nhiên là các thói xấu, nhưng cả đức tính nữa. Phải theo dõi họ nhưng đừng làm họ nghi ngờ vì sẽ là tai họa!"

Các ông ấy hay càu nhàu. Lúc đầu họ có thái độ thách thức rêu rao khắp các bar: "Người ta không nắm được chúng tôi đâu. Chúng tôi đấu tranh quyết liệt cho tự do báo chí. Không lừa chúng tôi được. Nhân dân Hoa Kỳ chi phí cho cuộc chiến tranh này có quyền biết đồng tiền của mình dùng làm gì".

Dĩ nhiên họ đến đây để gây "ấn tượng". Phần lớn hy vọng Pháp thất bại đậm, bi thảm, tả mùi mẫn với những xác chết, xấu hổ, với "cử chỉ đẹp". Những người to tiếng nhất là những cựu chiến binh già dặn trên chiến trường. Thực tế họ không phải là những người xấu nhất: họ la ó để đặt mình vào đúng vị trí, để xem gió đến từ phương nào. Và rồi họ vứt bỏ tất cả, không có cảm xúc, không tin vào gì cả. Chẳng có gì làm họ quan tâm ngoài nghề nghiệp, rượu và vòng tay lớn vô vọng tình thân mật của những người ở tuổi năm mươi phải sống với nhau, chửi nhau, cãi nhau, chơi khăm nhưng một cách "giả tạo" để giết thì giờ.

Ngay trong nghề nghiệp, họ làm việc vừa ghen ghét vừa thờ ơ sâu sắc. Chắc họ chỉ quan tâm đến chữ ký, những cột và đầu đề bài báo nhưng nhất là sợ tổng biên tập đối xử không hay, sẽ đưa họ về hưu. Thế là với một mẩu tin, họ làm cả thế giới nhảy lên không hề chau mày. Hơn nữa những "ông già" này, biết rõ mọi đường dây, ẩn dấu, mưu mô, nghi ngờ tất cả. Hoàn toàn vô cảm. Làm sao tác động được? Đối với một de Lattre, họ có thuận lợi là gửi bản sao đi một cách vô tư ở hướng này hoặc hướng khác.

Những phóng viên trẻ bướng bỉnh hơn. Họ có lòng tin tin vào báo chí, vào nước Mỹ, Kinh thánh và đạo đức. Họ không ngớt lặp đi lặp lại nghề của họ là một chức vụ tôn nghiêm, long trọng thề thốt: "Người Pháp là cái xấu. Không phải một đại tướng huyênh hoang như de Lattre làm chúng tôi thay đổi chính kiến được". Với những bản phim, bản chữ và những khuôn mặt vô ơn, họ nghĩ mình là những tông đồ của đạo đức, sẵn sàng đẩy lùi những tấn công của vua Jean, những đòn quyến rũ ôi thiu cũng như những đòn tàn ác được trang điểm.

Vậy là các phóng viên có sự huy động chống de Lattre. Họ hầm hè. Đổi lại vua Jean mời họ ăn tối gần như hàng ngày. Bao giờ cũng có hai, ba người ở bàn ăn của ông: những ông rất kinh ngạc và lạc điệu với không khí ấy. Vua Jean làm cho họ thoải mái, tạo mọi điều kiện; là khách danh dự của ông, được ưu tiên hơn các đại tá và thậm chí các tướng. Tất cả đều được thể hiện: sự cao cả và tình gia đình, một bĩu môi đẹp hoặc nhăn mặt thân mật, một điệu bộ đặc biệt, một cử chỉ nhỏ. Niềm tâm sự thật hay giả, thường đại tướng bắt đầu câu nói đùa bằng tiếng Pháp và kết thúc bằng tiếng Anh bếp núc: "Đấy, tôi đang làm cho anh hiểu ra".

Với tôi, một hôm de Lattre thực sự thổ lộ tâm tình:

- Tôi biết rõ tĩnh thế của tôi. Súng đại liên đã biến đổi theo lối Mỹ, dù là câu chuyện tệ hại nhất. Tất cả những gì xảy ra ở bất cứ điểm nào trên thế giới từ nay dần dần bị hàng trăm triệu người nhấm nháp. Họ là những người thích nhìn ngó. Các nhà báo là những người truyền đạt. Còn hơn thế, họ là những người tạo ra sự kiện. Một sự kiện không tồn tại nếu không sáng rực trên báo chí. Ví dụ khi Chính phủ Pháp nhận báo cáo của tôi, họ thường vứt vào sọt. Nhưng nếu họ đọc cũng điều ấy trên mặt báo, họ sẽ bị tác động.

Tôi cải tổ lại việc nói dối trong quân đội. Trước kia trong quân đội thói quen là nói dối 95%. Điều ấy gọi là giữ vững tinh thần. Một sự ngu ngốc. Tôi đưa tỷ lệ sự thật lên cao hơn, khoảng 50% trừ trường hợp đặc biệt. Như vậy tôi trình bày sự kiện có vẻ có thật và có lợi cho tôi. Tôi không nói tất cả, dĩ nhiên. Vì trong hành động tất cả đều được phép - những xáo trộn, lầm lẫn, ô nhục. Để không bẩn tay tôi mang găng trắng. Trách nhiệm của chỉ huy rất lớn nhưng tôi không sợ, tôi yêu thích nó. Một mình tôi với lương tâm và Chúa Trời, với bổn phận kiên trì phải có kết quả. Sự thật đáng xua đuổi nhưng thắng được nó đẹp xiết bao. Một sự căng thẳng khác thường vì phải tìm cái không có, mưu mẹo, mánh lới, ý tưởng sẽ làm thay đổi tất cả. Tất cả những cái đó tôi không nói với ai. Đấy là bí mật của tôi, phải quên đi, ở lại trong bóng tối.

Tôi nhắc lại, sự thật duy nhất là bề ngoài. Đến một lúc nào đó tôi sẽ kêu lên: Đây là ánh sáng, là sự việc, những gì đã xảy ra. Đôi khi tôi chờ có kết quả mong muốn để trình bày theo cách của tôi, đưa ra các dạng phù hợp. Đôi khi tôi đi trước để xóa bỏ một bước ngoặt có thể có bằng cách giải thích trước. Không được để bất ngờ. Luôn luôn phải ra vẻ điều khiển quá trình các sự kiện. Luôn luôn nhắm chính xác.

Hôm ấy de Lattre giải thích rõ cho tôi về triết lý của ông. Điều mà tôi thấy ông luôn luôn áp dụng. Nhiều tháng sau, một hôm ông nói với tôi chỉ nửa đùa: "Nào, Bodard không có việc gì lớn xảy ra. Anh và tôi, chúng ta làm ra một thắng lợi chăng?"


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 08:46:17 pm

Lúc này là trận đánh quyết định: cuộc họp báo chí lớn đầu tiên của đại tướng de Lattre de Tassigny. Ông sẽ có mặt một mình trong đấu trường đối mặt với đám đông phóng viên. Nếu không nắm bắt họ, ông sẽ bị họ ngấu nghiến. Ông biết điều đó. Chỉ một việc không ra gì, một lầm lỗi, có thể làm hỏng tất cả. Vì thế những việc chuẩn bị rất tỉ mỉ! "Đưa đạn dược cho tôi, các hồ sơ, giấy tờ". Những giờ điên rồ. De Lattre, và cả đám thân cận đều trang bị vũ khí, nghĩa là giấy tờ. Dannaud gật đầu, nhắm mắt suy nghĩ: anh phải hình dung tất cả những câu hỏi có thể đặt ra cho de Lattre và tìm những câu trả lời tổng quát. Các quân nhân, Cogny Goussault và trong nhóm còng lưng cho nhỏ người lại. Không thoát khỏi giọng của "ông chủ". "Làm cho tôi những bản tóm tắt về tất cả mọi vấn đề. Gợi ý cho tôi..." Người ta mang tài liệu đến. Không đọc hết, ông bắt họ giải thích cho mình nghe. "Không phải thế". Ông tự thấy mệt mỏi, kiệt sức; bỗng kêu lên. "Cuối cùng, các anh không có khả năng nói điều tôi muốn nói, muốn làm". Giận dữ, mệt mỏi. Một de Lattre cần mẫn lải nhải và đọc ngắc ngứ như học sinh.

Ban ngày. Tiệc đứng chiêu đãi các nhà báo: bánh ngọt và rượu champagne. Không khí lấp lửng. Các phóng viên nhấm nháp như đám người quá lễ phép, nhiều kiểu cách. Một người hỏi: "Đại tướng đâu?" De Lattre vẫn chưa tới. Chờ đợi. Những nụ cười gượng. Thái độ nhã nhặn bối rối của một số sĩ quan làm nhiệm vụ nghi thức.

Vua Jean long trọng bước vào, nét mặt nghiêm khắc. Các đại tá và tùy tùng cũng cứng rắn. Nhưng đại tướng vừa trông thấy những "vị khách ấy" thường xấu bụng phệ, ông đã chuyển sang nhiệt tình. Nét mặt ông rạng rỡ. Ông kêu lên: "Giới thiệu các ông ấy với tôi từng người một; họ đã là những người bạn của tôi rồi đấy". Với từng người ông nói một vài tiếng; bắt tay đến nát xương, nhất là cái nhìn thẳng thắn, vào mắt nhau. Tóm lại, đó là cuộc tấn công.

"Thưa các ông, tôi sẽ nói hết với các ông". Tiếng ồn ào, hoài nghi. "Thưa các ông, tôi nói tất cả với các ông, vì tôi tin ở các ông." Một số tiếng xì xầm. "Thưa các ông, chúng ta bắt đầu ngay."

Khỏi đầu nhanh như chớp. Trong mấy giây vua Jean "bán rẻ" danh dự quân đội Pháp - đã lỗi thời - cho người Mỹ. Cử tọa há miệng khi ông kêu lên: "Thưa các ông, quân đội chúng tôi ở lại đất nước này để giữ lời của nước Pháp. Duy nhất vì độ lượng, vì chúng tôi đã hứa với người Việt Nam bảo vệ họ chống chủ nghĩa cộng sản. Chúng tôi ở đây cũng là bảo vệ toàn thế giới tự do trong đó bao gồm cả nước Mỹ. Vì nhiệm vụ ấy mà chúng tôi đổ máu của con cái chúng tôi, chi phí những đồng phrăng của những người đóng góp của chúng tôi. Lợi ích ích kỷ của chúng tôi dĩ nhiên là ra đi". Có ai đó hét lên: "Thế còn đồng bạc?" Thực tế vị tướng đã dự kiến câu hỏi này. Câu trả lời của ông làm hội nghị báo chí và các nhà báo nổi giận. "Thưa ông, không nên cho người Pháp là những kẻ đần độn. Vì chúng tôi thật ngu dốt nếu chúng tôi đánh nhau vì lợi, vì bóc lột thực dân! Tất cả vốn liếng của chúng tôi ở Đông Dương không lấy đi mỗi ngày một tỷ. Ông thấy bảng cân đối như thế đấy!... Ông không hiểu sao, có những giá trị khác, vì giá trị nhân đạo, đạo đức, tâm linh mà nước Pháp hy sinh ở đấy".

Phép tính ấy làm những người Mỹ bàng hoàng. Làm sao không tin được vào những con số từ một miệng nhiệt tình như vậy! Màn kịch tuyệt vời. De Lattre đưa ra vài con số thống kê một cách khinh thường, vô vọng cho một "vụ làm ăn" tốt, chỉ dành chỗ cho sự lớn lao, tình cảm của ông. Và bằng cách ấy ông được cử tọa "mua chuộc", được đánh giá là một giá trị chắc chắn, như người anh hùng, người anh hùng thực sự, lớn lao được cả đoàn nhà báo bảo đảm trước người đọc. Hiệu năng đến mức thuyết phục được người nghe cho rằng có thể khai thác vua Jean về tính chất cao thượng đang rất thiếu hụt trong thị trường thông tin. Bên cạnh tôi, một ông già cáu kỉnh lão luyện trong nghề thì thầm: "Tôi cho ông người Pháp này như một Napoléon, đại loại như vậy. Dĩ nhiên theo cỡ nước Pháp ngày nay, nhỏ thôi. Thế đấy..."

Sau giai đoạn cực mạnh là đoạn cực nhẹ. Sau cú đánh de Lattre cảm thấy phải hạ giọng, hơi tếu. Những trò hài hước nối tiếp nhau. Những nụ cười thông cảm, đôi mắt đồng loã. Điều khám phá mới là nói tiếng Anh trong hoàn cảnh trịnh trọng này. Như ngẫu hứng, ông gầm lên: "Anh phiên dịch giữa người và người, thẳng thắn, với các bạn Anh và Mỹ của chúng ta. Tôi tự mình sử dụng ngôn ngữ của Shakespeare vậy." Ngôn ngữ Shakespeare của đại tướng là tiếng la-tinh của bếp núc, nếu có thể nói thế. Nhưng đạt được cái cao thượng trong lối diễn đạt không đúng cách là một mánh khóe về sức mạnh, làm tôn giá trị mình lên biết mấy. Một mưu mẹo hay. Càng tốt khi cũng là một lễ nghi tế nhị, là chứng cứ của sự thân thiện. Một đại tướng chỉ huy đặt mình vào hàng ngũ những người nghe vốn quen không ai phải vất vả vì mình! Thực vậy de Lattre nói tiếng Anh thật cực nhọc! Ông đổ mồ hôi vùng vẫy với ngôn ngữ; bao nhiêu động tác nhỏ để nói ra lời! Bao nhiêu giây sốt ruột, bập bẹ để tìm ra đúng từ. Nhưng vua Jean tự mình làm trò cười không kỳ cục, ông rất đẹp theo cách của mình. Cả cử toạ hiểu và thích thú. Đại tướng cùng hớn hở, vui cười.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 08:47:12 pm

Trong lúc de Lattre có thể rơi xuống trong trò hề, bao giờ ông cũng lấy lại uy thế, cái nhìn sắc cạnh, đấm tay xuống bàn, câu nói "Tôi đòi hỏi" nhắc nhủ ông không phải một kẻ pha trò mà là một anh hùng vui tính, thân mật với các nhà báo.

Kết thúc là sự thắng lợi. Chủ nghĩa anh hùng và ngôn ngữ khó hiểu lẫn lộn với nhau ở mức kỳ lạ. Âm thanh kèn đồng. Hứa hẹn chiến thắng: "Tôi mang lại cho các ông trên một chiếc khay bạc". – Ông người Pháp bao giờ cũng trở lại lời tiên tri ấy. Nhưng khi nào? Ông nhấp nháy mắt để cho thấy là đại tướng có kinh nghiệm, ông không nắm chắc được những bất ngờ của chiến tranh. Một chống cự cuối cùng của cử tọa bung ra. Một giọng nói nặng của miền Tây kêu lên: "Các ông thậm chí không có máy bay. Không thể thắng được". De Lattre bùng lên, xen lẫn tiếng Anh: "Sao? Tôi không có máy bay? Tôi có hàng đống." Ông bắt chước ngay máy bay tiêm kích ném bom bằng đôi tay và môi, nghiêng đầu về phía này để nhắm vào một cánh, nghiêng đầu phía kia để nhắm vào cánh khác. Ông khạc "bum-bum" làm tiếng bom nổ. Ông rít lên đến ngạt thở chứng tỏ đang bổ nhào, phun nước bọt như những làn đạn. Chiến thắng trong trận đánh máy bay với các nhà báo, ông nói thêm sẽ đưa họ đi theo trên máy bay khi ông ra trận. Một lần nữa, đưa hai tay lên tai, ve vẩy như những chiếc cánh. Tinh ranh và thân tình, de Lattre rút ra kết luận, bằng tiếng Anh: "Và rồi, nếu tôi không đủ máy bay, nhiệm vụ của các ông là nói với nước Mỹ cung cấp cho tôi nhiều hơn."

Kết thúc cuộc họp. Nét mặt de Lattre rạng rỡ. Nhưng lớp người thân cận mừng quá, khen ngợi quá. Điều ấy đủ làm vị tướng nhăn nhó, bỗng tìm cách trách mắng người của mình: "Tôi nói nhiều quá. Các anh đã để cho tôi nói quá nhiều. Không nên thế. Bí mật quân sự chứ? Các anh nghĩ sao về điều ấy?" Dĩ nhiên, giận dữ là giả tạo, giận dữ hài lòng. Thực tế, công việc xong, mục đích đã đạt. Từ nay các phóng viên bị buộc vào chiếc xe de Lattre. Ông sẽ bắt họ kéo càng! Ông xử sự tốt đến nỗi họ khó biết được mình trở thành những con vật kéo xe.

Hệ thống hoàn hảo. Những phóng viên tự đóng chặt mình vào. Trong những bản tin, họ bắt đầu cung cấp tài liệu về "con người lớn lao". Chủ của họ không ngớt điện: "Gửi tin tức nhiều hơn. Công chúng đòi hỏi". Các phái viên đặc biệt không thể chạy sau, phải luôn luôn đi trước de Lattre. Chính de Lattre thúc đẩy họ theo ý mình đơn giản bằng sử dụng những luật lệ không viết ra và chặt chẽ của công nghệ báo chí. Chẳng ai biết rõ nhưng ông đã nắm được họ từ lâu. Bí mật nào vậy? Dù sao ông đưa các nhà báo vào một vụ mua chuộc thường xuyên, dĩ nhiên với tình bạn bè nhưng rất có hiệu quả. Bây giờ, khi họ đã thoả hiệp với ông, ông buộc họ lao mình vào cuộc đua ca ngợi, nhờ vào các "đường dây" và "điện tín".

Ai có thể cung cấp những vấn đề về de Lattre tốt hơn de Lattre? Một trong những nhiệm vụ hàng ngày của ông là nhồi nhét cho phóng viên thức ăn ngon về tin tức. Họ chỉ còn trang điểm lại, thêm mắm muối và gửi đi.

Vua Jean từ nay ở trên thế mạnh. Ông chỉ còn để cho mỗi nhà báo nghe tiếng: "Nếu anh không thông cảm với tôi, tôi sẽ không dễ dãi với anh, chỉ chuyển cho anh những thông báo". Mỗi người được đối xử với sự xứng đáng và lợi ích. Có những người dễ bảo người ta chuyển cho nguồn "đường dây"; đối với những người bướng bỉnh người ta chẳng nói gì hết. Những người này hiểu ngay tai họa của họ, sẽ nhận được những bức điện khó chịu của các ông chủ ở xa: "Anh làm những gì thế? Tờ báo cạnh tranh thông báo de Lattre giết được 5 nghìn quân Việt. Anh chỉ đưa tin có năm trăm". Con người bất lực phải đến khẩn khoản xin lỗi vua Jean, xin cho được một mẩu tin và tạo ra cho ông một chiến thắng lớn hơn.

Dù có nhiều lợi thế, ông luôn cảnh giác, mưu mẹo để nắm dây cương thế giới nhỏ này vốn là tất cả và ngược lại tất cả quy phục và thường xuyên gay gắt ở hậu trường, có thể bung ra vì một việc không đâu và báo động toàn thế giới, phá huỷ công việc tốt nhiều tháng.

Tổng quát lại, nhóm hợp tác này theo de Lattre ở mức độ tương đối. Một vật phẩm thay thế trong lớp người thân cận. Một số người Mỹ hơi khó bảo. May thay de Lattre tìm được ông bạn J…, phóng viên một cơ quan báo chí Anh. Anh ta sẵn sàng bán mình cho quỷ dữ, vua Jean có vẻ đối xử được, có mối quan hệ rất tốt. Cứ thế nhân vật này vô danh, bị quên lãng, đã chủ yếu xây dựng huyền thoại Đông Dương về de Lattre. Một cách có ý thức những "có cho, có trả". Một tình cảm cao cả giả tạo thật tế nhị! Đấy là một người Úc khuôn mặt như thịt sống, và đôi mắt nguy hiểm. Làn da ông ta thành rãnh, sạm nắng và hun nấu bởi không biết bao nhiêu mặt trời, bí ẩn, âm mưu, công việc và tình tiết. Đấy là "hiệp sĩ phiêu lưu" của những bức chạm trổ thời trước. Răng trắng, mái tóc dày màu sẫm, bao giờ cũng với một dáng điệu khiêu khích ngầm, kiêu kỳ miệt thị tưởng như ông ta đang bay, khinh thường tất cả. Thế nhưng khi nói về báo chí ông tỏ ra dữ dội, sắc sảo, nham hiểm. Ông không tin vào một sự thật nào. Nguyên tắc của ông là lao vào một chàng trai nào không may có một chiếc cúc quần không gài. Ông vung vẩy, thì thầm, đỏ mặt xấu hổ mà không dám dùng lời cụ thể để báo với đương sự. Ông đỏ ửng mặt khi người ta nói trước mặt ông những điều không trang nhã, kể cả về tình cảm. Lẽ tự nhiên người ta nghi ngờ ông có những thói quen đặc biệt nhưng chẳng ai biết gì. Ông sống một mình trong một phòng khách sạn, xem ra như một thầy tu. Thói xấu duy nhất của ông, lên đến cực độ là "tia chớp" - tin tức không biết rõ và gây ấn tượng mạnh bung ra trên mọi bản tin của thế giới.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 08:48:13 pm

Dĩ nhiên ông J... này có nhiều thiện cảm với vị tướng. Ông thực hiện lề thói Anh cũ về tính vô sỉ được nâng cao tính tàn ác thông minh - lối chơi đẹp của Anh gần gũi với lối thủ đoạn của ông vua. Chưa đến bốn mươi tuổi, ông chỉ thích những trò chơi lớn bí mật của thế giới. Cốt lõi của những đam mê và những lợi ích người ta gọi là lý do quốc gia. Sự thành thực của ông là chỉ tin vào "đường lối chính trị lớn" được tô vẽ một cách bẩn thỉu, với lúc nhúc thường xuyên các phòng ban cơ quan, quân đội, tiền bạc. Đôi khi ông tỏ ra buồn, hất đầu trước sự chểnh mảng của những lãnh đạo và thừa hành người Pháp. Ông có lòng tốt nói: "Các ông biết đấy, những điều nặng nề này đôi khi cũng đến với chúng tôi, những người Anh". Vì vậy ông rất phấn khởi phát hiện ra de Lattre. Dù ông không phải cận thần của hoàng hậu, không hoàn toàn là một người Anh hào hoa, thì ông cũng là một nghệ sĩ thiên tài về những điều ấy. Ông thán phục ông ta thực sự.

Ông là ai? Ông làm gì? Ngủ ít; phần lớn thời gian ông biến mất đi đâu đó, ở lâu đài Norodom, nhà băng hoặc trong một nhà tranh rách nát. Đôi mắt khiêu khích ẩn sâu dưới sự hiền từ màu mè, ánh lên như chớp khi đưa ra câu hỏi. Giọng nói hạ xuống nhẹ hơn trở lại lè nhè và dữ dội như của một lính thủy say rượu. Đôi bàn tay to đưa phía trước, ông lao thẳng vào đối tượng quan trọng trả lời ít hoặc sai. Khi ông nghi ngờ là một mẩu tin tốt, ông cắn như một con chó, giật ở sổ ghi chép tin tức để tung ra toàn thế giới.

Những nhà báo khác không thường thấy nét mặt đỏ bừng của ông ta. Họ sợ thấy J... xuất hiện, to lớn, thấp lùn, trâng tráo, bề ngoài có vẻ không hoạt động. Những cuộc xuất hiện ban ngày được tính toán, nói chung vì những việc xấu. Các nhà báo tuy vậy cũng an tâm khi khuôn mặt ông đe dọa như giông tố, quát nạt, tuôn lời bỉ ổi, thách thức giận dữ, những từ gây gổ. Đấy là chứng cứ ông ta không bằng lòng về mình, không tìm được tin tức gì. Nếu ông đến với nụ cười thân thiện mơn trớn những người cạnh tranh, đấy là ông đã thành công trong một thủ đoạn ngầm. Khi các đồng nghiệp ra đi, còn lại một mình ông ta lẻn vào bưu điện, đặt chiếc hòm nhỏ lên một mặt bàn, chiếc máy chữ xách tay, và giữa đám dân quê kinh ngạc, ông gõ máy cho đến khi đưa một tờ giấy bí mật cho một nhân viên đã được đút lót - quả bom của ông có nghĩa là bức điện mà hôm sau cả thế giới nói đến. Ông ra hiệu "suỵt" với anh nhân viên và bỏ đi.

Nỗi ám ảnh của ông ta là bị bắt gặp. Vậy là ông thuê một trợ lý. Ông Tumoo Rami, cũng nhạy cảm và xông xáo. Một người quốc tịch Malabare gốc Pháp, đen hơn một người da đen, trịnh trọng hơn một con cú, thành thạo trong ngốc nghếch, dài dòng lý luận suông, xấu và giọng nói đầy nghi ngờ. Nhân vật đen tối này - ông mang theo cùng đi giữa ban ngày, mồ hôi nhễ nhại - là kẻ "bới rác" cuồng tín nhất Sài Gòn. Vì anh ta mày, tao với những người Ấn Độ khác trong thành phố, những kẻ cho vay nặng lãi từ Bombay tới, những cảnh sát nhập cảnh từ Pondichéry, tất cả những ông đen bóng đáng kính biết hết mọi chuyện.

J... không đi đâu nhưng Tumoo Rami đi khắp nơi. Vào những giờ nào đấy anh ta đến gặp ông chủ lựa chọn trong hộp rác rưởi nhặt tin tức cho báo. Con người Malabare không hiểu gì về việc ấy. Nhưng J... tìm được nguồn dự trữ trong mớ tạp nham đó. Ông ta biết cách sử dụng anh ta.

J... tính toán tất cả. Khôn khéo giữa những táo bạo. Quan hệ nguy hiểm duy nhất của ông ta là viên lãnh sự Anh ở Hà Nội, một người tốt, mẫu mực về tình báo viên giỏi của cơ quan tình báo Anh, cũng là kẻ hèn hạ thô bỉ nhất không giấu diếm, tự hào về việc đó, nói chuyện như một con sáo, bao giờ cũng đề nghị người khác một công việc hoặc một cốc, nhiều "đường dây". Say từ tám giờ sáng với liều lượng mỗi ngày hai chai whisky không kể rượu vang và những thứ khác. Như vậy, con người bao giờ cũng đỏ đắn, to, tròn, bụng phệ, có ria mép, đôi mắt quá ranh mãnh. Ông ta không che giấu có quan hệ với người Việt, là người của họ. Như vậy không có nghĩa ông chống Pháp ở Đông Dương. Tập quán cũ và trong sáng của những cơ quan bí mật của Anh là đồng thời có nhiều đường lối. Tế nhị, không đam mê, rất khôn khéo, ông làm cho J... hạnh phúc. Những vị lãnh sự đi quá xa và làm tổn thương ông này. Ông dễ dàng rút lui và trong mấy tuần lộ rõ là bạn thân hơn bao giờ hết của đại tướng người đồng lõa, nâng cao giá trị của đại tướng.

Giữa de Lattre và ông có một hấp dẫn: cũng sự lẫn lộn nước đôi ấy, sự rõ ràng, nam tính và tranh cãi viển vông, cũng hiện tượng lưỡng tính ấy, khả năng chỉ tin vào những gì người ta đưa ra từ hư không nhờ tưởng tượng và nghị lực. Hai nhà sáng tạo. Bao giờ cũng sẵn sàng đưa ra, một người về trận đánh, người kia một bức điện về trận đánh. Họ yêu mến nhau quá để không chơi xỏ nhau ngọt ngào, để không giúp nhau một số công việc nhỏ. Cũng có những bất hòa.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 08:48:56 pm

Trong những cuộc họp báo chí của đại tướng, J... lấy giọng và thái độ một người dữ tợn. Ông nêu những câu hỏi khó chịu hầu như luôn luôn chuyển một cách thần kỳ có lợi cho de Lattre. Sau màn hài kịch chửi rủa họ bắt tay nhau. Tất cả những điều đó không quá lộ liễu. Nhưng có những ngày các câu hỏi của J... khó chịu thực sự, loại tệ hại. Để chứng tỏ ông ta độc lập với đồng sự, cả với vua Jean. Ông này điên lên. Một lần trong cơn giận dữ không kìm được, ông tiến lại chỗ J... như muốn đánh. J... còn đỏ mặt hơn, hét lên to hơn, giọng vỡ ra:

- Nếu ông đụng đến tôi, tôi đấm ông vỡ họng.

Cơn giận của vị tướng chuyển sang vui đùa. J... thường làm ông vui vẻ, nhất là khi ông ta nói dứt khoát:

- Nếu ông muốn tôi gửi những bức điện tốt, ông phải cho riêng tôi những "tin đặc biệt". Nếu không tôi chẳng có lý do gì để giúp ông. Đã một tuần nay ông quên tôi...

De Lattre nói đùa:

- Tôi biết rõ anh không bằng lòng tôi đã tám ngày. Điều ấy thấy rõ trong giọng các bức điện của anh.

Tình bạn giữa hai người nhưng cũng vì lợi ích của nhau. Vị tướng gia ân cho J... một cách có tình ý. Đôi khi cũng thổ lộ rõ với ông này. Điều ấy ông không bao giờ làm với các cơ quan thông tin Mỹ mà ông không tin chắc. Còn cơ quan thông tin Pháp vì sao phải nâng đỡ một cách máy móc? Dù sao cũng đã thuộc về ông hoặc phải thế. Và rồi một chế độ ưu tiên với người mình sẽ bị các nhà báo nước ngoài, mà ông rất cần, xem là không tốt. Ông đóng vai trò nước Pháp, tất nhiên, nhưng còn rộng rãi hơn nữa.

J... giải thích cho tôi:

- Tôi không biết de Lattre có thắng được trong cuộc chiến tranh không. Nhưng chắc chắn ông ấy không thất bại ngay, sẽ giữ khá lâu để lên mặt "chỉ huy lớn". Người ta sẽ có bi-hài đủ mọi cách. Và điều ấy bán chạy trên mọi thị trường, trong đó có cả Hoa Kỳ vì Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng nhắm vào Đông Dương, ủng hộ Pháp, ủng hộ de Lattre. Tôi tạo cho ông thành một yêu tinh thực dân. Nhưng tôi hiểu tốt nhất là ngược lại, miêu tả ông là con người lớn lao, một quán quân chống chủ nghĩa cộng sản.

Bằng cách ấy J... làm đầu tàu của vua Jean. Ông kéo theo mình tất cả các phóng viên, bị buộc vào những luật lệ cạnh tranh và không khí quốc tế, theo sát gót ông.

Vừa tỏ thái độ là kẻ thù của vị tướng, chính J... là người sáng tạo thực sự huyền thoại vàng - dù sao cũng không quá về de Lattre ở Đông Dương.

De Lattre có hàng trăm đôi. Đấy là cách của ông. Ông chỉ giấu bàn tay sắt đối với các nhà báo. Nhưng để kiểm soát các nhà báo tốt hơn nữa, khi bắt đầu cuộc chiến ông sẽ tập trung họ tại một trại dễ chịu ở Hà Nội. Mấy tuần nữa sẽ làm việc đó. Trước mắt, mỗi lần đi đối mặt với kẻ thù ông đưa họ từ Sài Gòn đi như một cuộc vận chuyển hàng không. Sự chèo kéo lớn các đội quân, những ông vua và các phóng viên báo chí sắp hoàn thành. Từ nay ông đi vào cuộc chiến.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Hai, 2020, 10:17:47 pm

Chỉ mới hai tuần kể từ khi de Lattre đến Sài Gòn. Hai tuần lễ mê hoặc. Hai tuần lễ ông buộc mình vào một Đông Dương đổ nhào, lăn tới thất bại. Xem ra như một phép thần. Thế nhưng bao nhiêu người không bị thuyết phục thực sự! Mỗi người vẫn đặt câu hỏi: đấy là việc cứu chữa thực sự hoặc những trò ảo thuật?

Có những đại tá đã không tin vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Đặc biệt những người đã quá bi kịch trên đường 4, một trong bọn họ, một người luôn có ý thức, nói:

- De Lattre chỉ làm trò nhào lộn. Về cơ bản chẳng có gì thay đổi. Ngược lại tình hình càng trầm trọng vì vua Jean sẽ tự rơi vào bẫy của chính mình trong đất nước này, nhất là ở Bắc Kỳ. Ông lừa Đội quân viễn chinh - chưa bao giờ bi đát đến thế. Ông gây ảo tưởng bằng chơi con bài bịp về nền độc lập, với hàng tỷ và những cuộc sống, nhưng những người Châu Á ấy không thích chúng ta, không bao giờ thích. Để ngụy trang những điều ấy de Lattre triệt để sử dụng các nhà báo.

Vì vua Jean, chúng tôi sẽ là tù nhân của một loạt sự kiện không kiểm soát được nữa. Chúng tôi bị tóm họng về đạo đức, quân sự, chính trị. Về đạo đức chúng tôi có trách nhiệm với dân chúng, những người hợp tác vẫn còn tin vào sự vững chãi của chúng tôi làm họ sẽ phải trả giá đắt. Về quân sự chúng tôi bị khép kín trong vùng châu thổ như một chỗ vây hãm khó bỏ rơi. Về chính trị chúng tôi bảo trợ một Bảo Đại và những quan chức chỉ có thể củng cố mình bằng thờ ơ, nâng cao giá và chống đối.

Thế thì giải pháp ra sao? Tôi chỉ thấy hai cách. Một thực tiễn: giải quyết bất cứ giá nào và vô thời hạn. Cách kia thật vô vọng: hy sinh đến người cuối cùng. Thực sự tôi không tin khả năng chiến thắng bằng vũ khí nữa. Và tai hại là de Lattre sẽ lại đưa cuộc chiến kéo dài nhiều tháng, nhiều năm cho đến thảm họa.

Đấy là quan điểm của những người gọi là "kẻ chủ trương thất bại" de Lattre nhanh chóng làm tiêu tan và không còn ai dám nói về hòa bình trong nhiều năm. Đúng là Đội quân viễn chinh được tăng sinh lực, muốn đánh nhau, muốn trả thù. Bộ phận lớn sĩ quan và binh lính rất dè dặt với vua Jean mười lăm ngày trước đây từ nay nhiệt tình. Nhưng bản thân vua Jean mù quáng lao tới, chẳng bao lâu sẽ nhận thấy là việc này không thể? Trước mắt, chưa biết điều gì chờ đợi mình, ông xông vào, xông vào rất hăng. Với tư cách hiệp sĩ của vinh quang.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Hai, 2020, 06:51:57 pm

Chương II
ĐÊM QUYẾT ĐỊNH


Hai tuần lễ mê hoặc. Hai tuần lễ mà hàng ngày de Lattre tự nhủ: "Hôm nay ông Giáp có xông vào mồi không, có tung các đội quân tấn công Hà Nội không? Lúc mình còn phải làm một anh gia sư, lừa phỉnh, lang thang khắp nơi để thu thập những tâm hồn và thể xác bị vỡ! Nếu quân Việt lao vào trận đánh quyết định mình sẽ thất bại với những bộ phận rải rác ở Đông Dương chưa được chỉnh đốn thành một khối, một hệ thống. Miễn là mình có thì giờ. Miễn là quân địch để cho mình có thì giờ. Thì giờ là tất cả đối với mình."

Thực tế, sai lầm của ông Giáp rất lớn. Ông đã sẵn sàng, gần như sẵn sàng. Nhưng ông mắc căn bệnh của những người cộng sản: cầu toàn. Ông phải "chuẩn bị tỉ mỉ" tất cả cho đến khi cuộc phản công tự tiến hành gần như tự động, theo một kịch bản khổng lồ mà mỗi chi tiết tự nó là một kỳ quan. Có hàng triệu chi tiết gồm những động tác giả, những bề ngoài giả, không rõ ràng để đầu độc quân Pháp. Cả một chiến lược tập trung dự trữ, người, tập hợp những khối người bao la chuẩn bị tấn công ở trong rừng, chỗ không có gì. Cả một chiến lược lặp lại không dứt những nghi binh, tấn công để quân lính thật nhuần nhuyễn. Cầu toàn để ngày một cải tiến hơn về phía Việt Minh. Nhưng cầu toàn đã cho de Lattre những ngày may mắn ông rất cần.

Ngày 28 tháng chạp. Kết thúc những cuộc thị sát. Kết thúc cuộc lắp đặt, vá víu đầu tiên, những trò chơi hoàng tử của vua Jean. Và bây giờ hoàn toàn một mình de Lattre đứng trước câu hỏi đồ sộ: "Cuộc chiến tranh, tiến hành như thế nào đây?" Việc này, hơn bao giờ hết, cũng đòi hỏi nhiều ngày, nhiều tuần lễ để tổ chức quân đội. Người Việt có để thời gian cho ông không?

Điều tệ hại là ông phải ở lại Sài Gòn vì một số việc không quan trọng: trước hết là thân mật rũ bỏ Letourneau. Vị bộ trưởng làm xong bổn phận, thái độ thỏa mãn, sẽ trở về Pháp. Vua Jean muốn tâng bốc ông, tổ chức một buổi lễ trang trọng ở sân bay Tân Sơn Nhất. Ông sẽ có mặt vì cũng là nghệ thuật chiến tranh khi tranh thủ ân huệ của một nhân vật như Letourneau. Hơn nữa ông có một dự kiến cao cả, lớn lao hơn. Trở lại với Bảo Đại, đưa đi theo mình, trình diện ông ta trước dân chúng Bắc Kỳ và nói: "Hoàng đế của bà con đây". Ông điên người phải ở lại Sài Gòn không biết tí gì về tình hình Bắc Kỳ. Nếu ở đấy, ông sẽ hiểu, sẽ đánh hơi được quân Việt, những người lạ lùng có chiến thuật lạ lùng, khó hiểu, nguy hiểm, gây nên nỗi sợ hãi đến thế. Ông sẽ tìm ra một chiến lược, lại phát minh một cuộc chiến chống "chiến tranh nhân dân" ghê gớm. Hơn nữa ở đấy ông cảm thấy có phần bị phản bội. Tướng de Lattre, một người còn lại của thời kỳ trước vẫn còn chỉ huy Hà Nội.

Cũng lo lắng nữa. Khi trở lại lâu đài Norodom, nét mặt ông căng thẳng, trong lòng phân vân. Với những người của mình, Boussary, Salan, Cogny và đồng sự, ông nêu lên mười lần, một trăm lần cùng những câu hỏi đó. Đấy là cách ông tìm ý, đi đến ánh sáng. Chẳng có gì, chỉ mây mù và bối rối. Những chuyên gia lớn của Đội quân viễn chinh có vẻ lúng túng. Bao giờ cũng là câu trả lời: "Ở Châu Á người ta chẳng biết được gì bao giờ". Và ông càu nhàu: "Các ông làm tôi hối tiếc một cuộc chiến tranh thực sự, chiến lược thực sự. Một tướng chỉ huy như tôi có một kẻ thù thực tế chứ không phải là những bóng ma. Như vậy tôi mới có thể chiến thắng."

Thời gian kéo dài, nặng nhọc. Vua Jean đến Đông Dương với biết bao lời thề chiến thắng, không "cảm thấy" gì. Trước mắt không có hành quân, không có kế hoạch. Bất lực trước khi bắt đầu.

Giẫm chân, quát tháo. Bỗng một ý đầu tiên: họp những người trung thành, de Lattre quyết đoán và cáu kỉnh, hỏi họ: "Làm thế nào để loại bỏ de Latour?" Phải tống cổ ngay tay này. Vấn đề tế nhị. Phải làm cho ông ta bỏ cuộc mà không bị xúc phạm: con người thô lỗ thông minh này là chỉ huy đám cận thần đội quân Bắc Phi đã chiếm các đòn bẩy chỉ huy thời kỳ Carpentier. De Latour còn có trọng lượng, nhiều quan hệ và phong cách dữ tợn, thậm chí đáng sợ. Dù sao cũng phải vô hiệu hóa ông ta bằng mọi giá. De Lattre phấn khích kêu lên: "Tôi biết tay này chống tôi, chống cuộc chiến tranh của tôi. Đấy là một kẻ thất bại chủ nghĩa phá tôi." Nhưng không ai tìm được mưu kế thanh toán nhẹ nhàng.

Bỗng đầu óc chính de Lattre lóe ra một ý. Mệnh lệnh: "Salan ra Bắc Kỳ ngay". Giọng nói của vị tướng vui vẻ, thoải mái. Thế nhưng Salan nhăn mặt; miệng bạnh ra, đôi mắt nhấp nháy, dấu hiệu xúc động khác thường ở con người bí mật này. Việc lựa chọn này là ân huệ hay không may, một cạm bẫy hay lời đề nghị? Salan chua xót cho vị trí của mình. De Lattre lấy ông sang Đông Dương nhưng không thích ông. Giữa hai người là ngày và đêm, không hề tiếp xúc, không chút thân thiện. Đối với de Lattre, đấy là người "Trung Hoa" bị đầu độc, luôn sống lơ lửng, không bao giờ đụng tới đất, trời, người, sống trên mọi người, một mình, giấu diếm những tình cảm sốt sắng trong im lặng, cay đắng vì bà vợ "Hươu cái" chỉ lui tới với những người lạ lùng, những kẻ phiêu lưu, đáng ngờ, vô lại và chỉ điểm nhưng trước hết là những "tay cờ bạc" như bà - những tay chơi da trắng trong Châu Á da vàng. Salan giá lạnh, thực tế là con người về tướng số tương lai, huỷ hoại thanh danh, sống nội tâm và với những quan hệ bí mật, những mê tín và đặt quẻ. Bất kể bộ phận lớn các sĩ quan và binh lính, ông chỉ quan tâm đến một số người cùng nhóm chơi, chỉ tin vào sự may mắn - không phải ngẫu nhiên mà là số phận qua bói bài và xúc xắc. Theo de Lattre, đưa ông ra Hà Nội là nghệ thuật sử dụng người "Trung Hoa", kẻ mất gốc chẳng còn hiểu gì Phương Tây mà có lẽ nắm được bí mật của Phương Đông. Ở đấy ông ta sẽ quỳ lạy trước những tượng Phật, những biểu tượng mang lại hạnh phúc mà tùy tùng của ông luôn mang theo trong cặp. Ông ấy sẽ "thần giao cách cảm" với ông Giáp để đoán những ý nghĩ của ông Giáp, đi hút thuốc phiện trong những hang hầm với những nhân vật khó xác định chỉ xuất hiện ban đêm từ những nơi tăm tối, không minh bạch. Vậy là người ta gửi ông đi thăm dò, mò mẫm ở Bắc Kỳ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Hai, 2020, 06:53:18 pm

Một nhà tiên tri, tốt rồi, với điều kiện để ông ta một mình với những lời sấm truyền. Bên cạnh phải có một người theo dõi, trí óc sáng suốt, một trí óc hoàn hảo của Phương Tây. Ghép cặp đối với Salan, de Lattre cử Beaufré, một gương mặt khác xanh xao và lạnh lùng, nhưng là "đại tá trong nhóm chủ đạo" của ông, một máy tính điện tử, chuyên gia chiến lược, chỉ vài giây chuyển logic sang quyến rũ. Salan quanh co và trực giác; Beaufré là sự thông minh hoàn hảo, trở thành nét đẹp, Salan trông thấy vấn đề quanh co và đúng, Beaufre thấy rõ ràng và sai. Một đôi đối nghịch như de Lattre vẫn thích. Hai phần tử trái ngược nhau ấy đều nhận cùng những mệnh lệnh: "Không tự mình làm gì. Chỉ thực hiện chỉ thị này: các đội quân không lùi một tấc, trong bất cứ tình thế nào, không kể đến những hoàn cảnh."

Hai kẻ tử vì đạo này, de Lattre cử ra Hà Nội chống tư tưởng thất bại, lùi bước đang lan rộng ở đây. Linh cảm không lừa dối ông. Đã đến lúc đối với tướng de Lattre, mối nguy hiểm của quân Việt mạnh hơn mối nguy của de Latour.

Những màn sân khấu nối tiếp nhau. De Lattre đã quyết định quá chậm. Hai phái viên đến Hà Nội không đúng lúc, thậm chí đi từ Sài Gòn không đúng lúc. Vua Jean phải có những điện tín nhanh, bất ngờ, từ lâu đài Norodom.

Tất cả lẫn lộn vì đúng ngày Letourneau ra đi. Salan và Beaurfe ở bên cạnh vua Jean trong lễ tiễn; buổi chiều họ mới lên máy bay. Đã gần trưa de Lattre và tùy tùng chúc mừng vị bộ trưởng ở sân bay Tân Sơn Nhất. Giữa lúc duyệt đội danh dự, ông mở một bức điện khẩn từ ban tham mưu Hà Nội. Bên trong là mấy chữ viết trong thảm họa, thông báo những đợt tấn công lớn của quân Việt vào vùng châu thổ và ở Tiên Yên trên bờ biển. De Latour xin mệnh lệnh. Vua Jean kêu lên: "Ông ta phải trụ vững, trụ vững khắp nơi. Nhất là không được nao núng..." Mười lăm phút sau, lại có tin mới của de Latour. Lần này đề nghị cho phép áp dụng hướng chỉ dẫn của một chỉ thị mật đề ngày 11 tháng 11 năm 1950. De Lattre vẫn đang tiễn Letourneau lên máy bay, gầm lên: "Nó là cái gì?" Trong nghi lễ từ biệt, các quân nhân vùng vẫy cuồng nhiệt. Ở lâu đài Norodom nơi người ta chờ đợi đại tướng từng giây, lớp thân cận hốt hoảng lục hồ sơ, giấy tờ tìm ra chỉ thị không biết đến ấy. Đấy là tài liệu rút lui, bỏ chạy. Phải bỏ Móng Cái, Tiên Yên, những bốt cuối cùng trên đường gố 4 trên bờ biển Trung Hoa. Và do sức ép không đáng kể của quân Việt.

Một cảnh lộn xộn ồn ào. De Lattre vội vã về như nước cuốn; chiếc xe của ông vượt nhanh các khúc quanh, giữa những xe xích lô và những người bán mía. Ông bước lên thềm nhà từng bốn bậc thang một. Cuối cùng ông vào đến văn phòng vẫn vò trong tay bức điện của de Latour. Một tuỳ tùng đưa đến chỉ thị ngày 11 tháng 11 do Carpentier ký. Tay Carpentier này dám hồi sinh để cản đường ông, ngăn ông lại, đưa đến thất bại. Không có cả thì giờ giận dữ. Ông nắm lấy bút nguệch ngoạc. Chợt nhớ ra mình viết khó khăn, ông đọc chỉ thị này cho tướng de Latour, giọng giá lạnh: "Thứ nhất, tất cả những chỉ thị trước khi tôi đến Đông Dương bị huỷ bỏ. Thứ hai, chỉ một chỉ thị cho ông: phải chiến đấu. Thứ ba, Salan và Beaufré lên một chiếc Dakota ra Hà Nội lúc mười bốn giờ. Khi đặt chân xuống đất, Salan phụ trách việc chỉ huy thay thế ông. Thứ tư đích thân tôi sẽ đến." Ký: Đại tướng de Lattre de Tasigny.

Bức điện gửi đi rồi là cả một sự lộn xộn. Lệnh chống lệnh. Lo lắng trong đám thân cận. Ai sẽ theo? Ai không theo? Các loại đại tá chạy đến, các sĩ quan liên lạc, gấp gáp. Trong đêm, xem lại các đồng phục và ý kiến. Và tiếng ông chủ luôn vang lên: "Salan đã bay chưa? Chưa. Được, ông ta có thể mang theo vợ". Vì không có "Hươu cái", Salan kém hăng hái. May mà Beaufré không có vợ ở đây. De Lattre không thích bà to lớn ấy, quá lắm chuyện, vả lại ông đã cấm đại tá của ông mang bà ấy sang Châu Á.

Việc này nhắc ông bà de Lattre sẽ đến Sài Gòn trong hai ba ngày tới. Ông sẽ không đón tiếp. Điều rất quan trọng, ông muốn đề cao bà, để bà thành một nhân vật chính thức hiện thân của tất cả các bà mẹ Pháp. Ông bỗng nói, với ngôn từ trong những công việc lớn: "Nhất là Bernard phải có mặt để đón bà. Đấy là mệnh lệnh. Không được gượng gạo. Phải để Bắc Kỳ của anh lại, tới đây mấy ngày. Tôi muốn Monette có niềm vui này: khuôn mặt đầu tiên bà gặp ở Đông Dương là con trai bà."

Tình trạng hỗn độn: "Điện ngay cho Vanuxem đi theo tôi ra Bắc Kỳ. Rover, đi gọi anh ta ở Nam Kỳ đưa ngay về đây, không để cả thì giờ thay quần áo."

- Allard đâu? Phải có phương tiện nhiều nữa cho Bắc Kỳ. Cố gắng lên. Tìm cho tôi những tiểu đoàn tốt, những sĩ quan tốt nữa cho ngoài ấy. Danh sách đây. Lấy hết khí cụ trong các xưởng, các kho. Tìm ca-nông, tăng, máy bay chiến đấu, những gì giết được nhiều. Có những khẩu trọng pháo để khắp nơi không dùng đến. Thật xấu hổ! Tôi muốn có tất cả. Tìm hết mọi pháo thủ - nhiều người bị phân tán, bị sử dụng như bộ binh. Thống kê lại đạn dược. Không đủ cho cuộc chiến tôi muốn triển khai, tuyệt đối không đủ. Hơn hoặc thiếu đi mấy nghìn viên đại cối có thể quyết định số phận của Đông Dương. Đòi hỏi người Mỹ cung cấp ngay cho. Bảo họ cho cả bom na-pan nhưng kín đáo để người Việt không biết. Tôi cho anh một tuần lễ để gửi người và hàng cho tôi. Giải quyết vấn đề vận chuyển như thế nào tuỳ anh: Không kể đến tiền bạc, luật lệ cũng không." Những tiếng hét khác: "Ortoli, ông đô đốc hải quan đâu? Đây là lúc ông sử dụng con tàu của ông cho một số việc. Đưa lại gần bờ biển, trước mặt Tiên Yên sẽ là đội trọng pháo của tôi... Đáy thấp quá ư? Thủy thủ tìm một đường lạch!" Lại kêu lên: "Tôi sẽ đưa theo các nhà báo. Phải bí mật báo với họ chuẩn bị sẵn sàng. Họ sẽ nói về những trận đánh. Bất kể! Các anh phải xoay xở tìm họ cho được, kể cả họ ở trong nhà chứa..."

Không có thì giờ tìm một chiến lược. Không cần. Chưa biết gì nhưng rồi để xem. Điều cần thiết là có "những gì cần cho cuộc chiến" đầy đủ: Đội quân viễn chinh được trang bị lại đầy đủ. Huy động tất cả cho Bắc Kỳ và quân Việt "sẽ nhấm nháp”. Dù thế nào cũng có khả năng xoay xở: Phải làm tất cả để đưa ra lúc muốn có. Chủ bài tối cao: Bảo Đại. Đừng từ bỏ, phải đưa ông ta lên với tác dụng tối đa. Trước hết, ngay trước khi ra chiến trường, bắt cóc ông ta bằng quyến rũ. Dùng mọi cách. Cả sắc đẹp, vì đấy cũng là một vũ khí.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Hai, 2020, 06:54:18 pm

Trong lúc de Lattre chuẩn bị để ra đi, Salan cùng bà vợ. Beaufré không có vợ, đến Hà Nội. Để đón họ ở sân bay - trong quân đội bao giờ người ta cũng đón tiếp, dù tốt hay xấu - có mưu sĩ của tướng de Latour, đại tá Meric. Một quân nhân khổ hạnh và nhân đạo: loại lệ thuộc và cấp cao trong quân đội, vừa giết người vừa thích nhân đạo, càng ngày càng ít tin vào cuộc chiến tranh nói chung, đặc biệt vào chiến tranh Đông Dương. Ông đẹp người, mảnh mai nhưng không kiệt sức, có niềm tin chắc và sự thành thật là những dấu hiệu của tinh thần cao cả. Trong xe đưa hai đồng sự về, ông mô tả tình hình rất đen tối. Quân Việt quá mạnh dù đối với một vua Jean. Mọi phương tiện ông ta đưa vào một cuộc chiến không lối thoát. Điều ông muốn làm rất nguy hiểm. Beaufré có vẻ chấp nhận nhưng nói thêm: "Đấy không phải vấn đề. Chúng tôi có lệnh, chúng tôi thực hiện lệnh."

"Cuộc hội ý" long trọng hơn ở sở chỉ huy của tướng de Latour với các phái viên của vua Jean. Như để tác động họ, tình hình còn bi quan hơn Méric mô tả. Người ta chỉ cho họ trên bản đồ các sư đoàn ông Giáp tấn công suốt chiều dài mặt trận. Chưa ồ ạt, không lộ mặt, không chứng tỏ nơi nào ông Giáp sẽ đánh nhưng trong tình thế không chắc chắn ấy, chống cự ở chỗ nào? Có thể chống cự khắp nơi được chăng? Làm sao được nếu không co cụm dần như da lừa?

Qua những trình bày ấy đúng là xung quanh Hà Nội tất cả đều chết, rơi lại vào điểm chết. Xem như dân chúng đã quên những xuất hiện của vị tướng mấy ngày trước đây, cuộc duyệt binh ngày 19 tháng chạp, buổi lễ Giáng sinh, những lời nói bốc lửa, khuôn mặt đầy hy vọng của ông.

Nỗi sợ hãi. Nghĩa là khi de Lattre sau lễ Giáng sinh đi giám sát tình hình ở Đông Dương thì chỉ còn lại trọng lượng của thực tế. Vua Jean vừa biến mất, cuộc đánh nhau to đã bắt đầu. Những cuộc tấn công không dứt vào những bốt vành đai phía bắc Hà Nội, ngay gần thành phố. Không chỉ ban đêm mà cả ban ngày. Ba ngày đêm liên tiếp. Không còn là những tiểu đoàn mà những trung đoàn trọn vẹn như quân chính quy hàng nhiều nghìn ra khỏi chỗ ẩn để đánh giáp lá cà. Mỗi khi hoàng hôn xuống, trên mảnh đất còn yên tĩnh, người ta đã biết những khối người sẽ xuất hiện từ hư không xông vào ba hoặc bốn công trình chỉ huy một khu, cả một vạt tường chống giữ. Và khi những cuộc tấn công ấy không thành, tối hôm sau ông Giáp lại cho bắt đầu lại ở chỗ khác, xa hơn, như bằng mọi giá phải chọc thủng "một lỗ" để vào Hà Nội.

Đa Phúc, Yên Châu, Phù Lỗ... một số bốt bị kết tội tử hình đã trải qua cơn khủng khiếp. Họ bị nhấn chìm nhưng không lấy được, bao giờ cũng có một số sống sót ẩn mình trong đổ nát để bắn vào những đám đông trong đêm. Như trước đây, như bao giờ cũng thế, sự đơn điệu nhục nhã nhưng tệ hại hơn, sâu rộng hơn. Sự yên tĩnh, cảnh cuồng loạn, ba-dô-ka nghiền nát cảnh vật, những bóng người tràn tới, các loạt bắn chặn của một đội trọng pháo Pháp ở xa, cái chết, lửa khói, những tiếng nói tắt ngấm, những tiếng khác còn ra lệnh và đôi khi một đoàn quân Pháp xuất hiện.

De Lattre ở xa. De Latour, vị tướng dũng cảm sạm nắng chỉ huy dẻo dai, nhưng không tin tưởng. Thế nhưng biết bao kỳ tích của những người bị dồn đến đường cùng trong những công trình bị đốt cháy trong đêm tối. Những hình ảnh của chủ nghĩa anh hùng. Một nhúm người chống lại năm tiểu đoàn, trong hầm chống đạn mà họ thấy nhân công đang thu dọn chiến trường. Và rồi những người Sénégal gan góc: Trước đây họ thất vọng, nặng nề, chậm chạp giữa thiên nhiên, trong trận chiến ở rừng. Nhưng sau một bức tường, sau những tấm ván và bê-tông, họ tỏ ra ghê gớm. Chỉ còn sáu người chống giữ trong lô-cốt cuối cùng ở góc một bốt bị phá huỷ. Trời vừa sáng họ ra chào mừng một đoàn quân vừa tới. Những người da đen này có một ngôn ngữ rất ngây thơ. Họ nói với một đại tá, lính thủy đánh bộ cũ chỉ huy cuộc hành quân giải thoát: "Ông bằng lòng chứ? Chúng tôi biết ông là ai; xưa kia đã gặp ông ở Sudan. Còn ông, ông có nhận ra chúng tôi không? Chúng tôi đã giết nhiều quân Việt và nhân danh Chúa, Thuộc địa muôn năm."

Từ đó, tình hình tạm lắng trước Hà Nội. Đội quân viễn chinh trả giá bảy trăm bị thương, chết hoặc mất tích, nhưng vành đai bảo vệ Hà Nội không bị vỡ. Tuy vậy de Latour và Méric chú ý không ca bài chiến thắng. Đối diện với Salan và Beaufre họ thật thê thảm. Không có gì làm những phái viên không lay chuyền được tỏ ra cảm động. Họ còn có vẻ đe dọa hơn với thái độ vô cảm của họ, như không có quan điểm gì, không tán thành không phản đối, ghi chép tất cả để báo cáo với de Lattre.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Hai, 2020, 06:55:48 pm

Tuy vậy lần này de Latour và Méric chồm dậy, nói hết sự thật về những ngày sau lễ Giáng sinh. De Latour nặng nề, cục mịch, ít nói, đôi mắt khôn ngoan một cách dữ tợn. Méric bên cạnh bức tượng nông dân tinh quái ấy, tỏ ra rất say sưa, thuyết phục. Ông cố đánh vào hai bức tượng tổng chỉ huy cử đến, những trận thất bại, nửa thất bại, bắt đầu thất bại, bằng thông báo ra hết.

Cho đến lúc đó, de Latour đã nhấn mạnh một số tin tức làm lu mờ vinh quang của vua Jean đang bận bịu. Dù sao ông này cũng không hề xác nhận. De Latour loanh quanh tự hỏi phải sợ ai hơn ông Giáp hoặc vua Jean, vẫn còn sợ de Lattre hơn nhưng ông tự nhủ: một sự điên rồ. Vẫn đi theo những bức điện của de Lattre vốn là những cú đá vào vào đít nhưng ông cảm thấy luôn bị con "người lớn lao" nghi ngờ và vẫn lặp đi lặp lại: "Nếu mình làm theo những gì ông ta chỉ thị, mình sẽ đi đến thảm họa hoàn toàn với các đội quân. Phải tranh thủ từng giờ để thoát ra chứ không xông vào.Vua Jean chẳng ý thức được". Thế là để rút khỏi công việc ít tồi tệ nhất, de Latour mưu mẹo đủ cách. Ông chỉ làm một nửa những gì được lệnh, dùng những biện pháp nhẹ, bí mật di tản xuống Hải Phòng, hải cảng, để bất chợt phải lại lên tàu. Tất cả những việc đó kín miệng ám muội, ám ảnh bởi ý nghĩ: "Nếu vua Jean biết được...". Bên cạnh ông, một Méric đau khổ và nồng nhiệt trách cứ ông mất tinh thần, thiếu can đảm, không theo quan điểm của ông: việc rút lui co dãn.

Đối với de Latour và Méric, tuần lễ vừa qua thật nặng nề! Dĩ nhiên họ biết rõ quân lính Đội viễn chinh có khả năng đụng độ với quân Việt nhưng khép kín trong lô-cốt, phía sau những vành đai, những ụ bê tông, với đội trọng pháo rất gần. Những cái đó làm họ yên tâm, bảo vệ họ chống Châu Á. Ngược lại, khi đoàn quân ra ngoài, họ rất e ngại quân Việt không thấy được dù khi quân Việt xuất hiện cả những trung đoàn, sư đoàn hoàn chỉnh, bước đi, bao vây, bất chợt, tiêu diệt. Đã biết bao người da trắng và đồng đội bị thiệt hại trên đồng ruộng! Trong rừng núi và đầm lầy, quân lính Đội quân viễn chinh như những con bọ hung nặng nề bị vô vàn đàn kiến xâu xé. Ở đây họ không thích nghi được. Cũng để trụ lại họ phải có một nỗ lực đáng sợ, đôi khi vươn tới chủ nghĩa anh hùng như có ma túy tác động. Nhưng với những mức độ khác nhau trong các đội quân. Trên cao lính dù giam hãm mình vào sự kích động thăng hoa. Dưới thấp những người da đen được thả vào cảnh vật chẳng hiểu được gì, kể cả những người tốt nhất.

Những ngày ấy, bên cạnh một de Latour xuất hiện trước công chúng vờ yên tâm, Méric tiên đoán. Trong lúc vị tướng của mình càu nhàu ở Hà Nội, ông đi thực địa, đến những vùng tình hình xấu để trở về nói: "Lúc nhúc khắp nơi. Thật tồi tệ. Trụ vững trước Hà Nội để làm gì trong lúc mặt trận sụp đổ hai đầu ở những nơi quân Việt còn dựa vào rừng? Những chỗ ấy họ dễ dàng gây bất ngờ và cuốn đi hết để rồi ào vào thành phố, chúng ta sẽ là những con chuột nếu vâng theo lời de Lattre".

De Latour ngập ngừng. Méric dứt khoát và từ xa, qua vô tuyến điện, một cú sét đánh, một lò lửa tiêu diệt một tiểu đoàn do mệnh lệnh de Latour và Méric buộc phải thực hiện. Trong lúc này hai người đang trình bày hết với Salan và Beaufré vẫn bí hiểm theo cách của họ.

Sự việc xảy ra ở vùng biên châu thổ, nơi sông Hồng vươn tới và dãy núi Ba Vì nhô ra như một chiếc răng hàm. Quân Việt từ núi xuống "lúc nhúc" mỗi lúc mỗi lúc một nhiều. Hà Nội dự tính di tản vùng này, ngầm gợi ý. Bức điện rất ngạc nhiên của de Lattre: "Tổ chức một đội cơ động, cử đi thăm dò vùng đang biến động". Có nghĩa là đưa đi đánh nhau một tổ chức tạp nham gồm những đơn vị chưa sử dụng - vì hèn kém, là hành động điên rồ theo những người biết suy tính như de Latour và Méric nhưng họ phải vâng theo lời Chúa.

Chuẩn bị trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Theo chỉ thị, de Latour tổ chức một đội cơ động, thậm chí đặt số hiệu GM3. Để hình thành, người ta rút chỗ này chỗ kia ba tiểu đoàn hỗn tạp, tung vào Vĩnh Yên. Đến đây, không ai biết rõ ai, không ai nắm chắc sẽ phải làm gì. Chỉ huy là một đại tá Muller nào đó, một người "dũng cảm". Ông hỏi tình hình ở các sĩ quan quân khu: đại tá Gallibert và thiếu tá Fossev-Francois: "Có bao nhiêu quân Việt trong vùng? - Rất ít. - Đáng ngờ lắm. Tôi cảm giác có lực lượng mạnh ở đây, có lẽ một sư đoàn hoàn chỉnh." Mơ hồ như vậy, không biết làm thế nào với người của mình, ông quyết định cử đoàn quân vào rừng thăm dò cách đấy vài cây số.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Hai, 2020, 06:57:19 pm

Cảnh vật thảm hại. Các đoàn quân đi bất cứ ra sao. Một tiểu đoàn Sénégal thật gớm ghiếc, giữ các bốt dọc sông Đáy đã nhiều năm trong lười biếng và bỏ mặc tất cả. Chỉ huy là một người có tên F.T.N, do hội cứu trợ xã hội đặt cho thời gian anh ta ở trong đó. Một kẻ điên, giận dữ, nghiện ma tuý, thường xuyên lên cơn. Khi một phó của đại tá Muller hỏi có bao nhiêu quân lính, anh ta trả lời: "Điều ấy không liên quan gì đến anh. Anh đi lục tìm lấy để biết". Người ta cách chức anh, vị trí giao cho một thiếu tá được gửi gắm, từ văn phòng một bộ trưởng ở Paris đến thẳng đây để lấy thêm một lon nữa ở Đông Dương.

Như một cuộc đi dạo trong rừng. Những người đàn bà Annam mang túi của những người đàn ông da đen mà họ đã trở thành vợ. Cũng có những trẻ em da nâu. Muller rất lo ngại nhưng không làm gì được. Lính Sénégal vô ý thức đến mức chẳng sợ hãi gì. Họ đùa cợt.

Suốt cả ngày không có gì. Trời sắp tối Muller gửi chỉ thị cho các đội quân: "Tôi sợ có xô xát lớn vào nửa đêm. Quân lính cần lại gần thị xã Vĩnh Yên để nằm trong vòng bảo vệ của trọng pháo." Lính da đen trả lời qua điện đài: "Chúng tôi mệt quá không đi được nữa. Chúng tôi ở lại tại chỗ." Đêm tối đến họ gửi một báo cáo lên sở chỉ huy của đại tá: "Nghe tiếng đào hầm gần chỗ chúng tôi - Các anh đi đi. - Không, chúng tôi kiệt sức rồi". Sáng hôm sau, khi lính Sénégal muốn chuyển quân, đại liên hạng nặng phạt nhào họ gần hết. Viên sĩ quan bỏ chỗ tốt ở Pháp, dưới bóng quyền lực, để được thăng cấp nhanh ở Châu Á, bị thương ở bụng và bị bắt.

Ở Hà Nội, Méric nói với de Latour: "Tôi đến đó xem sao. - Tốt, anh đi đi". Và con người bi quan Méric, tại chỗ, sửng sốt về sự vô lý của bị kịch này. Những chi tiết lệch lạc. Một lần nữa anh lại suy nghĩ: chỉ một de Lattre nói "Tôi ra lệnh" không đủ để tất cả thay đổi. Mặc vua Jean với những huy hoàng của mình, tình thế tiếp tục tồi tệ.

Cãi cọ và run sợ khắp nơi. Ngay ở Việt Trì, thị xã chủ yếu trong vùng, trên bờ sông Hồng, bị bóp ngạt giữa hai khối lớn Ba Vì và Tam Đảo, hai khối Việt Minh. Tất cả các sĩ quan đồn trú lặp đi lặp lại cùng những giọng: "Phải đi thôi để khỏi bị chẹn họng trong một đêm nào đó." Méric, chấp nhận. Trở về Hà Nội ông muốn de Latour đồng ý. Nhưng một tiếng "Không". Vì de Lattre sẽ đến đây sau mấy giờ nữa, chậm nhất là một, hai ngày.

Vả lại de Lattre giải quyết vấn đề Vĩnh Yên theo cách của mình. Ông chỉ định kẻ cứng rắn, mặn mà nhất trong số vô lại cỡ lớn của ông, Vanuxem nắm lấy đội GM3 chuyển thành một đội mạnh. Đẩy Vanuxem mới mấy giờ trước ở Nam Kỳ đến chân núi Tam Đảo. Tuỳ tùng chính, de Royer được cử đi gọi về để tranh thủ thời gian, có lệnh gặp Vanuxem nói thay lời vua Jean: "Anh đừng bao giờ quên anh là Vanuxem."

Bắc Kỳ có chìm xuống trong số ít giờ trước khi de Lattre đến không? Vì một cuộc tấn công đỏ rất lớn đã triển khai ở xa, trên "vùng bờ biển". De Latour càng lung lay, tự hỏi mình: "Bổn phận phải chăng là không tuân lệnh, rút lui ngay trước khi được vua Jean đồng ý? Phải tính từng giây một".

Đã mấy giờ nay người ta biết ông Giáp vừa tập trung quân ở vùng châu thổ vừa đưa sư đoàn thép mấy tháng trước đây tiêu diệt các đoàn quân Charton và Lepage ở Cốc Xá, tiến đến Tiên Yên, bến cảng của đường số 4. Tất cả đã bắt đầu lại. Đối mặt với quân Việt đi trên đoạn đường số 4, từ Đình Lập đến Tiên Yên quân Pháp còn nắm giữ là một phức hệ trốn chạy. Bỏ rơi bốt trong trật tự hoặc sợ hãi, những cuộc chạm súng mù quáng, những người sống sót đổ xô vào rừng, không biết gì hết và cái chết khắp nơi.

Thác đổ xuống "vùng bờ biển". Vì sao? Đây là núi và rừng ra đến biển, một dải đá ngầm và vịnh trải dài ba trăm cây số từ Hải Phòng đến Móng Cái - vị trí cuối cùng quân Pháp còn giữ trên biên giới Trung Quốc. Lẻ loi, xa tất cả, không có giá trị. Dân chúng là người Nùng, không đông nhưng là những sát thủ. Chỉ huy của họ, đại tá Vòng A Sáng, gần như một chúa chiến tranh vừa ở đất liền vừa trên biển. Biểu tượng là một chiếc thuyền của những cuộc tấn công xưa kia. Bây giờ là của những chuyến vượt biển buôn lậu. Để vận chuyển chỉ có biển, làn nước đục của vịnh Hạ Long giữa hàng nghìn ngọn núi và đá ngầm. Có một con đường thực sự nhưng có mười bảy bến đò ngăn cách. Ở mỗi nơi phải mất ba ngày mới đưa được một chiếc xe ô tô qua.

Đây là thiên đường cách xa tất cả. Cho đến lúc đó không có đông người đến xâm chiếm. Tại sao họ đến trên dải đất miền biển rất đẹp, nghèo nàn và tầm quan trọng chiến lược không rõ ràng này? Tại sao quân Việt bây giờ đến đây?

Vòng A Sáng kêu cứu. Phải chăng dân tộc ông sẽ chết vì đã phục vụ quân Pháp? De Latour lạnh lùng bỏ mặc. Vùng này chỉ là một mảnh không quan trọng và phải để quân viễn chinh giữ vùng châu thổ. Dấu hiệu bỏ rơi rõ nhất: rút tiểu đoàn bảo vệ Móng Cái. Sau đó thiên nhiên đầy người Việt và các thị xã trở thành đất không người. Các nhà giàu chạy trốn bằng thuyền đò. Di tản. Lại bắt đầu cuộc di tản liên miên.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Hai, 2020, 06:58:04 pm

Quân lính, các đơn vị, các ban chỉ huy "vùng bờ biển" cũng run sợ. Tình thế nguy hiểm: các khu đồn trú không đủ mạnh để chống cự mà không ai bảo rút. Sự chờ đợi trong hư không. Ở Hà Nội người ta chẳng làm gì. Ở Sài Gòn de Lattre không biết de Latour và Méric không muốn hành động. Méric vẫn luôn luôn đưa ra lý do rút lui. De Latour không quyết định mặc dù viên đại tá than vãn khẩn thiết.

- Muốn chống cự khắp nơi như de Lattre chỉ thị sẽ vướng víu. Cố tìm hiểu chiến thuật rối mù của quân Việt, nhìn rõ "lầm lẫn" của họ mà không biết, chỉ là một cái bẫy. Họ có một trật tự thật hoàn hảo, tuyệt đối cho phép ông Giáp có hàng nghìn chiến lược nhìn ngoài như rời rạc, mâu thuẫn. Nhưng ông đã tính toán, phân tích tất cả. Sự rối mù ấy chỉ để làm chúng ta rối trí, phân tán, đưa chúng ta đến chỗ lãng phí phương tiện, dễ bị đánh, làm chúng ta không phòng vệ được. Và rồi, đừng quên chúng ta chỉ còn rất ít lực lượng mạnh. Ở Bắc Kỳ này các đội quân của chúng ta là một hộp mục ruỗng có đủ loại, tệ hại và thật tốt. Việc lẫn lộn tốt xấu có cả ngay trong vũ khí, trong các đơn vị. Như trường hợp đội quân thuộc địa với người Sénégal: có những tên tệ hại không chỉ bị giết vì hèn nhát mà vì hoàn toàn nhu nhược. Cũng có những chiến binh chống cự rất đẹp ở những bốt tiền tiêu Hà Nội. Đội quân viễn chinh quá ô hợp không thể liều được. Như vậy mặc dù là de Lattre phải rút ngay khỏi Tiên Yên, đó chỉ là một điểm phụ.

De Latour không làm hại thanh danh mình, trả lời Méric:

- Ông đến tại chỗ xem sao đã, ở Tiên Yên ấy.

Khi Méric hạ cánh với chiếc Morane, hoàn toàn vắng lặng: xung quanh không có người. Không một người lính. Im lặng và cảm giác quân Việt ẩn nấp đâu đó bên cạnh.

Méric biết mình đã thấy cái mình tìm, cái mình sợ. Hoàn toàn để mặc, chấp nhận tình hình, chịu đựng thảm họa.

Một cột số: "Tiên Yên: 3 cây số”. Viên đại tá đi bộ đến thị xã, đầu đội chiếc kê-pi xanh, vai đeo xà cột, mặc quần dài. Ông đến một con đò ở cửa sông hôi thối. Trên đò một người lính thất thểu, mơ hồ đưa tay lên mũ, hỏi:

- Ông ở đâu đến một mình như vậy, thưa đại tá?  Ở bờ bên này chúng tôi chẳng còn ai. Trên bờ trước mặt là thị xã cũng không có nhiều người nữa.

Qua sông là Tiên Yên. Vẫn không có nhóm dân cư nào. Chỉ là những nhà nhỏ, không một bóng người. Cuối cùng sở chỉ huy với lá cờ tam tài. Một lính gác chịu khó bồng súng chào. Chỉ huy quân khu biết công việc của mình, nói rất nhiều, độc nhất lặp đi lặp lại: "Hỏng hết rồi".

Ở rừng cũng hỏng đã mười ngày nay. Các khu đồn trú "chuồn" êm. Ngày 19 tháng chạp vừa qua, ngày mà ở Hà Nội trong cuộc diễu binh thật đẹp de Lattre thề thốt Đội quân viễn chinh của ông không bỏ một tấc đất, bốt lớn Đình Lập rút đi. Đấy là công trình của quân Pháp ở đầu đoạn đường số 4 mà người ta giữ lại sau thảm họa Lạng Sơn. Công trình ở đầu đoạn đường khoảng hai trăm hoặc ba trăm cây số. Rừng khắp xung quanh; nguy hiểm khắp xung quanh. Chỉ cần một lời đồn đơn giản: "Quân Việt đến" là cuộc di tản lại bắt đầu. Không có vấn đề gì. Người ta đi rất lâu trước khi các đội quân địch tới gần.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Hai, 2020, 06:58:43 pm

Mấy ngày sau, cũng vấn đề như thế ở Bình Liêu, một bốt cũng rất quan trọng kế tiếp đó, gần Tiên Yên hơn, khoảng mươi cây số, vẫn là sự lựa chọn giữa hai đường: tẩu thoát một cách xấu hổ hoặc chần chừ nguy hiểm. Ở đây ông "chủ" là một "vị chúa", không muốn bỏ chạy khi chẳng có gì trước mặt. Ông ta chờ và dĩ nhiên đi quá chậm. Từ đó là bi kịch. Bình Liêu bị vây hãm, bị tấn công, không còn tin tức của Bình Liêu. Đấy là logic của cuộc chiến tranh Đông Dương mà người Pháp làm đi làm lại.

Ở Tiên Yên, chỉ huy quân khu suy nhược, dù sao cũng nói với Méric: "Tôi đã cử một đoàn quân cứu viện, miễn không bị mất nốt". Người ta cũng không biết diễn biến ra sao, cách ở đấy khoảng một trăm cây số. Méric lại bay trên chiếc Morane nhỏ, cố đi tìm hiểu điều bí mật. Chỉ toàn rừng. Khi máy bay bay trên bốt, một đám người Việt từ những đổ nát chạy trốn. Chắc họ sợ đạn rốc-két. Từ đó đã chắc chắn: Bình Liêu bị phá hủy. Những người bảo vệ ra sao rồi? Đoàn quân cứu viện ra sao?

Méric chỉ còn bay trở về Tiên Yên. Máy bay theo con đường số 4, một vạch đỏ nhạt trên nền xanh của rừng. Đại tá nhìn ống nhòm, thấy quân chính quy Việt phục kích ở một ngọn đèo. Ông cũng thấy đoàn quân cứu viện nặng nề, đi dần vào bẫy. Viết vội một mảnh tin, ông gói vào túi vải vàng quăng trước tầm đoàn quân: "Người Việt nấp cánh các anh một trăm năm mươi mét. Chú ý cẩn thận"...

Trưa. Đoàn quân có nhận được tin cấp cứu không? Chẳng rõ. Họ tiếp tục đi đến Bình Liêu. Quân Việt đi xung quanh nhưng không tấn công, thậm chí để cho họ lấy lại bốt, một vỏ cháy đen. Người Việt chắc chắn quân cứu viện sẽ vào kéo lá cờ tam tài trên những đổ nát ấy rồi lại ra đi lúc năm giờ chiều, tránh cuộc đụng độ kinh khủng ban đêm. Các trung đoàn ông Giáp chờ cuộc rút lui ấy để tiêu diệt. Tất cả đã sẵn sàng và sẽ vào mười giờ đêm.

Đầu buổi tối. đoàn quân Pháp đã kiệt sức, cồng kềnh thêm bởi đàn bà, trẻ con và ngụy binh không biết từ đâu tới. Cả đoàn đi vào một lòng chảo giữa rừng. Quân Việt xuất hiện từ những cây to, bao vây, tấn công, sẽ là đòn kết thúc. Đoàn quân thoát nạn nhờ phản xạ của một đại uý, chăm chú tìm trong đêm tối - dịp may duy nhất là có một khe hở trong trận địa quân Việt. Ông nhận thấy phía bên trái có con sông rộng nhìn qua có vẻ không vượt được. Ông khẽ ra lệnh cho quân lính, truyền miệng từ người này đến người khác giữa tiếng ồn ào của trận đánh: "Chúng ta thử lội qua sông. Quân địch có lẽ không "bịt kín" bờ bên kia". Một số bị nước cuốn đi nhưng phần lớn của đội hình qua được. Những chiếc băng-ca nâng thương binh lên trên mặt nước. Tất cả diễn ra trong mấy phút. Bên kia sông không có quân Việt.

Tóm lại, trở lại không khí của đường số 4. Hình như người ta lặp lại những câu chuyện anh hùng nghèo nàn, nặng nhọc ấy, hàng chuỗi nhục nhã và bại trận. Cũng nỗi sợ hãi ấy ở từng người. Những người anh hùng trước hết buộc phải tự thắng mình. Trong các ban tham mưu lại lan tràn "chủ nghĩa Carpentier", không lộ liễu như trước mà kín đáo vì có vua Jean.

Méric đã báo cáo, điện về cho de Latour như thế nào? Dù sao ông cũng đã quyết định. Viên tướng cố can đảm gửi de Lattre một đề nghị cho áp dụng chỉ thị ngày 11 tháng 11. Chỉ thị của chính Carpentier.

Tất cả những điều đó de Latour và Méric kể hết với Salan và Beaufré, tai mắt của de Lattre vừa tới dây. Hai người này vẫn giữ lịch sự, lối lịch sự nguy hiểm. Quá lắm, hình như một trong hai người lẩm bẩm:

- Các ông nói muốn chống người Việt, vậy chỉ thắng được nếu tất cả binh lính phải là những người anh hùng. Nhưng để chỉ có những người anh hùng, phải chăng trước hết không lùi bước trước việc gì hết?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Năm, 2020, 07:44:44 pm

De Lattre đối mặt với "thất bại" của mình, những thất bại nhỏ. Việc mê hoặc không đủ. Kết hợp vuốt ve với giận dữ cũng chẳng hơn được. Đội quân viễn chinh vừa chứng tỏ sự không dày dạn, mặc dù sự xuất hiện đầy uy thế của ông, vua Jean. Lần này ông phải nắm lấy trong tay, xử trí bằng sức mạnh và bằng cuộc chiến. Không tha thứ điều gì. Lôi kéo họ vào máu và chiến thắng với bất cứ giá nào.

De Lattre một mình, đối mặt với chính mình, với các đội quân, với ông Giáp. Đêm quyết định. Nhưng tình hình nghiêm trọng không phải là lý do để thay đổi chương trình mà ngược lại. Còn có thời gian, ít nhất là mấy giờ để thực hiện giấc mơ mới cách đây không đến mười lăm ngày: nắm lấy Bảo Đại.

Lên đường ra Bắc Kỳ nhưng một lần nữa ghé gặp nhà vua. Ông này không ở Đà Lạt mà ở Buôn Mê Thuột. Điều ấy muốn nói lên tất cả. Việc ông có mặt ở đây đã là một tiếng "Không". Vì ông không lo công việc mà vui chơi, trong một khu rừng cảnh trang để tiệc tùng, đi săn và ngủ trưa dưới bóng những cây phượng vĩ. Bảo Đại tiếp viên tướng tổng chỉ huy trong căn nhà bên hồ, giữa cảnh hoang dại nên thơ, bên cạnh đầm lầy cổ như từ thời cổ.

Những nghi lễ từ chối. Bảo Đại càng ít muốn lao vào khi những khởi đầu cuộc chiến không chắc chắn. Những gì xảy ra ở Vĩnh Yên và Tiên Yên cho đến nay không mấy hứa hẹn. Dù sao cũng phải chờ xem ông Giáp hay de Lattre mạnh hơn.

Những kiểu cách hoàng gia đánh lừa vị tướng. Ông đi tấn công. Ông bốc lửa. Chiếc Dakota lại cất cánh. Không giận dữ, chỉ là những mệnh lệnh. Thậm chí hơi vui thích - thử kiểm soát bản thân mình: "Beaufré đừng chờ tôi, hãy đi chỉ huy hành quân ở Tiên Yên. Anh này chuộng mốt thích tước vị. Nếu thành công cho làm quận công ở Tiên Yên. Anh ta sẽ thành công vì khi có mình đứng sau, anh ta thực sự thông minh." Đối với Salan, những bức điện không chắc chắn bao dung. Ông ta bị nghi ngờ không đánh giá tình hình đúng theo cách de Lattre. Và vì sao lại có một phó vương khi de Lattre đến làm vua ở Bắc Kỳ. Ở Hà Nội Salan hiểu ngay ý nghĩa của những bức điện. Ông nói: "Tôi bình tĩnh. Tôi cần bình tĩnh hơn nữa". Trong lúc chờ đợi thời cơ tốt hơn, ông quan lại này vào trong tháp ngà của mình.

Ngày 31 tháng chạp. De Lattre khởi đầu chiến dịch của mình ở Bắc Kỳ. Lệnh cho đội bay: "Không đi Hà Nội. Đậu xuống Hải Phòng, thật gần chiến trường." Ông mở màn cuộc "chiến tranh lớn" của ông như thế trong hải cảng thực dân này, hải cảng nhân tạo những xí nghiệp, bùn lầy, những máy nạo vét sông, dùng làm căn cứ hậu phương "trận đánh lớn" của ông ở Tiên Yên,

Ông cần gây một đòn bất ngờ, một đòn tâm lý bất ngờ chưa bao giờ có. Giận dữ và có ý tưởng, ông không tỏ thái độ gì. Đến nơi ông nhẹ nhàng bảo: "Tập hợp cho tôi tất cả các sĩ quan của căn cứ. Tôi muốn gặp từng người một". Những người có cấp bậc, từ trung uý đến đại tá xếp thành hàng, ngỡ ngàng tiến đến trước mặt vua Jean đứng chào. Vị tướng hỏi từng người, có vẻ thường tình: "Trong tháng mười năm 1950 anh ở đâu?" Với giọng nói vô tư và đôi mắt đáng sợ nhất ông thể hiện thích thú, dữ tợn ghê gớm mỗi giây ông chờ một người khốn khổ khẽ nói: "Tôi ở Lạng Sơn - ở Lạng Sơn à? Lên máy bay về Pháp. Ghi tên anh ta, Allard”.

Bỗng giữa những giọng nói khổ sở ấy một gã lực lưỡng dập gót giày hô lớn: "Vâng, thưa đại tướng, thời gian ấy tôi cũng ở Lạng Sơn. - Tên anh là gì? - Tharaud. - Tôi đuổi anh đi. Anh là người đi đầu tiên". Lúc ấy, tùy tùng chính của ông, de Royer ngắt lời de Lattre: "Thưa đại tướng, không thể được. Trong Đội viễn chinh không ai hơn Tharaud, không có chiến binh nào dũng cảm, được khen thưởng, được đánh giá cao hơn. - Bất kể, anh ta cũng phải đi. Tất cả những người của Lạng Sơn và đường số 4 là những kẻ hèn nhát. Tôi xấu hổ vì họ. Tôi muốn ở Đông Dương của tôi không còn một người nào như họ nữa, thậm chí không một cai, lính nào. - Thưa đại tướng tôi sẽ cùng đi với anh ấy vì tôi cũng đã có mặt ở Lạng Sơn. - Đồ ngốc, ở lại vậy. Nhưng anh phải hiểu có những điều không xóa đi được, phải giết chết cả kỷ niệm đi. Lạng Sơn không chỉ là một tội ác mà còn là mối nguy hiểm lây nhiễm. - Giữ Tharaud lại chứ, thưa đại tướng? - Để rồi xem, đồ ngu".

Màn kịch lớn thất bại vì "con sâu" de Royer. Và rồi vì Allard giải thích sự trục xuất hết những người ở biên giới sẽ làm lộn xộn tổ chức quá nhiều tiểu đoàn. Không phải là lúc làm như thế được. Vị tướng đành nén giận vào lòng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Năm, 2020, 07:48:58 pm

Cơn giận tiếp tục ấp ủ, thậm chí ôi thiu khi hình dung hết sự nhục nhã của Lạng Sơn. Năm lính lê dương Đức tả lại với ông, họ bị cầm tù ở đấy và đã trốn thoát khỏi thị xã hoàn toàn trống rỗng ban ngày. Quân Việt và dân chúng rời bỏ thị xã lúc vừa sáng để lên núi, chen chúc trong các hang động. Họ sợ máy bay Pháp sau khi mất Lạng Sơn ba tháng vẫn ném bom những kho vật liệu mênh mông hậu cần bỏ lại. Chỉ ban đêm họ mới về thị xã ngủ. Thường xuyên ở lại đó chỉ có bốn trăm tù binh quân viễn chinh, những người mạnh khỏe nhất bố trí thành ba trại, trại lê dương ở trong một nhà thờ Hồi giáo cũ, trại Bắc Phi trong một nhà xe, trại "lính Pháp" ở Sở Thủy lâm cũ. Họ được chia thành ba đội lao động. Nhiệm vụ của họ là chất những trang bị, đạn dược, vũ khí bỏ lại lên những chiếc xe do người Trung Hoa lái. Các đoàn xe rỗng từ Trung Quốc sang, ra đi chất đầy khí cụ sẽ được phân phối cho các đơn vị Việt Minh hoàn thành tập huấn trên đất Mao Trạch Đông. Cứ như thế họ trở về mặt trận trước Hà Nội đúng lúc cho trận đánh quyết định.

De Lattre kêu lên: "Do hành động ô nhục của vụ Lạng Sơn quân địch sẽ giết quân Pháp bằng đạn dược Pháp, vũ khí Pháp. Làm sao tha thứ được cho những kẻ thiếu trách nhiệm? Họ vấy bẩn quân đội Pháp."

De Lattre đã nghĩ tổ chức một cuộc duyệt binh để khen thưởng những người hùng này nhưng rồi từ bỏ ý định ấy. Họ chỉ muốn sống sót thôi, thậm chí đã phản bội, làm phu khuân vác trong thảm họa. Chẳng ai lạ gì những trường hợp ấy. Những người trốn khỏi Lạng Sơn không có vấn đề bồi dưỡng lại sức khỏe ở Pháp. Vừa được tóm lại, họ vào các hàng ngũ lê dương để tiến hành cuộc chiến tranh của ông.

Trạng thái muốn lấy lại sức lực. Mới đến Hải Phòng chưa đến hai tiếng đồng hồ nhưng ông cần ngay một chiến thắng. Không chuẩn bị trước, ông họp ban tham mưu ngay tại sân bay, ăn bánh nhân thịt. Allart, Cogny và Salan vừa ở Hà Nội xuống; ông bảo: "Tôi muốn các anh cho biết nên phòng thủ Tiên Yên như thế nào? Làm sao đập tan được quân Việt ở đấy?" Không có trả lời. "Tôi đến tại chỗ xem sao". Nhưng chẳng có gì sẵn sàng; không có máy bay rảnh. Tìm máy bay rảnh. "Tìm máy bay cho tôi". Mấy phút sau những chiếc Morane nhỏ chở de Lattre và những đầu lớn đi. Allard chuẩn bị lên một chiếc, chắc chắn, như có quyền vì là tổng tham mưu trưởng. Giọng nói của de Lattre cắm ông xuống đất: "Anh không có chỗ. Tôi chỉ muốn những người có ích, các nhà báo". Vị tướng cần báo chí hơn ông nhiều. Ông cũng đạo diễn sân khấu với quân đội để cả thế giới phải nói đến việc trình diễn của ông: đại tướng de Lattre de Tassigny trên một vị trí tiền tiêu cùng với quân lính.

Đoàn bay theo hình chữ V, đi đầu mũi nhọn là chiếc Morane của vị tướng. Tiếp đó, ở hai bên là bốn chiếc chở các phóng viên. Máy bay tiến lên như những đồ chơi nhỏ, ú tim trên những ngọn nham nhở cây cối vùng núi Đông Triều. Phong cảnh thật đẹp. Xa xa, những tảng đá của vịnh Hạ Long, đồ sộ, được đại dương tỉa gọt. Bên dưới những mỏ than lộ thiên Hòn Gai, một tảng bánh màu đen do máy cắt thành mảnh dài. Xưa kia than được hàng nhiều nghìn cu-li khai thác chỉ với "thúng mủng". Nhưng từ khi những đám người Châu Á nổi dậy, những nhà tư bản Pháp thích máy cào, máy ủi đất hơn, đắt hơn nhưng không ám sát. Thậm chí nhờ vào những cỗ máy đồ sộ mua hàng tỷ đồng, mỏ than được khai thác rầm rộ dù ở gần các tiểu đoàn quân Việt.

Tất cả trở thành dày đặc, sẫm màu hơn. Rừng bao quanh mặt nước như đêm tối. Giữa trưa. Đoàn bay đến trên một vịnh bùn lầy thu hẹp dần chỉ còn là một cửa sông, một con ngòi quanh co trong núi rừng. Và rồi một vệt trắng: Tiên Yên.

Đường băng đầy cỏ của sân bay. Đồi núi dốc đứng, chắc có nhiều quân Việt. Không là Méric mà vua Jean đến. Thực địa thật thảm hại nhưng rất khác: màn kịch hài những quân lính bất ngờ, sửng sốt, sợ hãi nói với nhau: "Ông ấy đấy, làm thế nào đây?" Có tất cả làm de Lattre nổi giận, nét đẹp của tính khí ông. Nhân vật đầu tiên chỉ vào là một nhà báo không thuộc về ông, không do ông đưa tới mà có ở đây ông không biết. Một chàng trai rất trẻ, trán cao, mặt kéo dài với một bộ râu nhỏ. Loại khốn khổ, trí thức khốn khổ. De Lattre kêu lên: "Tôi không biết anh. Anh không tồn tại. Anh không tồn tại. Anh làm gì ở đây?" - Tôi đã đi nhiều ngày đêm, theo các đội quân Pháp nhiều tuần lễ; đã lấy và mất Thái Nguyên cùng với họ." Anh ta lẩm bẩm, ốm yếu, quần áo luộm thuộm thân hình như một bộ xương, vầng trán cao đầy nếp nhăn mệt mỏi, chỉ còn đôi mắt ánh lên. Anh nói: "Thay vì ở lại trong thành phố và bên cạnh các ban tham mưu để chờ đợi tôi đã thấy chiến tranh, mô tả nó. - Nhưng không ai đưa đến cho tôi một bài báo nào của anh. - Những bức điện của tôi không đến nơi. Gửi chúng đi trong quá trình hành quân thật phức tạp. Và rồi việc kiểm duyệt... - Tôi chẳng cần. Anh không được phép. - Có chứ." Người kia đưa ra một tờ giấy phép, do Carpentier ký đã một tháng. "Tấm giẻ rách này là cái gì? Anh điên rồi. Anh là một nhà báo vụng trộm. Cạo râu đi anh bạn. Và khi trên mặt anh không còn mớ bụi cỏ chán ngấy, xứng đáng là anh râu ria xấu nhất trong đám tượng người chết năm 1914 xấu nhất, anh đến xin chữ ký tắt của tôi, của riêng tôi mới có giá trị ở Đông Dương. Ngày mai, tại Hà Nội. Bây giờ thì anh đi đi, biến thật nhanh để tôi không thấy anh nữa hoặc tôi sẽ cho bắt anh như một kẻ do thám". Người phái viên đặc biệt, vì đấy cũng là một, mở miệng cãi về quyền của mình. De Lattre vung tay như chiếc cối xay gió: "Lôi anh ta đi, lôi anh ta đi". Việc ấy được làm ngay. Đôi tay của vị tướng không quay nữa, nó trở lại để yên.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Năm, 2020, 07:49:36 pm

Cơn giận không mất đi: không có phân đội danh dự đón tiếp ông. Các sĩ quan khu đồn trú Tiên Yên nối tiếp nhau chạy đến, cấp bậc cao dần. Họ chạy bộ, đi xe jeep, bất kể ra sao, tất cả hổn hển, lo sợ, trình bày lý do. Một de Lattre sôi sục giận dữ chờ họ. Khinh khi cao độ, ông lắng nghe một thiếu tá ấp úng: "Thưa đại tướng, chúng tôi được báo tin quá chậm, không tổ chức đón tiếp được theo cấp bậc của người. Không có các đội quân để người duyệt binh. Họ đang đi chiến đấu hết." Vị tướng bảo: "Anh nên biết, không có hoàn cảnh nào tôi không đón tiếp theo chức danh và vinh dự của tôi. Trừ trường hợp tôi ra lệnh bỏ qua luật lệ ấy". Bực bội. Một người cao lớn, muốn xoa dịu cấp trên cố lôi ông ra hướng khác: "Thưa đại tướng, ông nhanh cho, ở lại đây rất nguy hiểm đối với ông. Quân Việt chắc chắn do sự đi lại trên thực địa báo động; họ sẽ mau chóng nã súng cối vào đây. - Tôi vội vào lúc nào tôi thích, không khác được. Tôi bất kể cả anh và quân Việt". Ông rề rà trên đường băng khốn khổ, xe của vua Jean và những chiếc Morane tập trung ở một đầu. De Lattre, thong dong, ăn mặc rất lịch sự đi kiểm tra những gì có thể kiểm tra: chẳng có gì. Trong mấy phút ông là một tấm bia bắn hoàn hảo. Nhưng phía người Việt cũng chẳng có gì. Không tiếng nổ, làn đạn. Không có những đợt nổi giận. Rất bình lặng.

Qua đò trên con sông. De Lattre cũng muốn nhìn thấy thị trấn nhưng không được. Người ta bảo chỉ cách mấy trăm mét trước mặt, dưới một lòng chảo bị núi và cây cối che khuất đầy Việt Minh. Dân chúng tiếp tục chạy trốn. Con sông ông đi qua đầy sà lúp và xà-lan. Đấy là những phương tiện di tản hai, ba nghìn người đến Hải Phòng, các gia đình cảnh sát và ngụy binh theo Pháp. Không còn một thương gia, một tỷ phú nào. Một số nhóm người trong dân chúng ở lại, thuận lợi với người Việt, nhất là thờ ơ. De Lattre trông thấy cả những hình ảnh cấm di tản và chịu đựng.

Vượt qua xóm nhà tranh là trung tâm thị trấn, nơi xây dựng kiên cố, có vẻ tốt hơn. Ở chỗ là đường phố, đất không người hai mươi bốn tiếng đồng hồ trước đây, bây giờ có quân lính đang làm việc. Họ đào lỗ, hầm hào, những hố ngăn, hang, đề phòng bị vây hãm. Đấy là những ngụy binh người Nùng - những người da vàng lực lưỡng và cân đối, luôn luôn vui. Chỉ huy của họ là một viên quản thuộc địa, loại triết gia gầy đét, hơi bị đầu độc. Vừa nhìn quân lính làm việc, ông bình luận: "Nhớ lại ở đây, thật hạnh phúc với cờ bạc, tiệm hút, nhà chứa, rượu, lễ nghi và một vài vụ giết người nhỏ, đồng bạc và những chiếc thuyền nhỏ chẳng biết buôn lậu thứ gì. Và nghĩ rằng bây giờ người ta chui như chuột. Ở trong đáy lỗ và chỉ còn đào lỗ vì sắp tắc cổ họng. Quân Việt đang chuyển ca-nông lên đỉnh núi để bắn xuống chúng ta. Hình như chúng ta cũng sẽ có trọng pháo. Nhưng chúng ta sẽ bắn vào đâu? Chẳng tiếc gì, chúng ta mù trước rừng rậm. Tôi biết sẽ kết thúc ra sao. Quân Việt từ núi xuống, đến nhặt cả chúng ta và súng đạn".

Đấy là lời nói kinh nghiệm. Nhưng đối với de Lattre, kinh nghiệm của người khác chẳng là gì cả. Ông là niềm tin sinh động. Hai giờ ở Tiên Yên đủ cho ông đặt viên đá đầu tiên của cuộc chiến. Người ta tìm được trong khu đồn trú một số sĩ quan khá trẻ, đẹp, để nghe ông nói:

- Cách đây mấy ngày, tôi đã thề sẽ luôn bên cạnh các đội quân trong những trận chiến khó khăn nhất. Tôi đến đây với các anh, giữa các anh, những chiến binh của tôi, ở thị trấn Tiên Yên này đang bị những tổ chức quân địch nhiều và mạnh đe dọa nghiêm trọng. Để bảo vệ mình, các anh không chỉ có lòng can đảm. Tôi sẽ cho các anh những phương tiện cần thiết để đẩy lùi quân xâm chiếm, làm chúng bất ngờ và đập tan chúng. Trong khi các anh không có gì, tôi cho các anh hỏa lực. Tôi để lại cho các anh người thành thạo nhất để sử dụng trang bị hiện đại một cách khoa học, đại tá Beaufre.

Hôm ấy ở Tiên Yên chưa có một cái gì mang dấu vết de Lattre trừ khuôn mặt Beaufre. De Lattre là cuộc sống. Thế nhưng hình ảnh phản chiếu, công cụ của ông, là con người này bề ngoài rất ít giống ông. Một người da tái, môi mỏng, đôi mắt có khẽ nứt. Không bao giờ ông tỏ rõ gì ra ngoài. Im lặng, tự cao ghê gớm, một người vờ khiêm tốn có niềm tin tối cao vào mình.

Beaufre mới đến Tiên Yên cách đây vài giờ. Bây giờ, một bước sau "ông chủ" ông giữ sự câm lặng cứng rắn qua những việc làm nóng, lạnh của de Lattre. Sự im lặng thán phục nhấn mạnh bằng nụ cười khẽ tán thưởng. Và khi trả lời những câu hỏi là sự nhanh gọn trong lời nói. Đặc điểm nghị lực trong những tình hình nghiêm trọng. Điều đó không ngăn cản Beaufre rất hoạt bát trong nói và viết vào những thời gian bình lặng hơn. Nhưng hiện tại, ông đang trong nhiệm vụ một "đại tá chỉ huy quân đội".


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Năm, 2020, 07:50:09 pm

Khi nói về Tiên Yên, người ta đã nghe de Lattre nêu lên tên: Beaufre. Vì đấy là người thân tín của ông về khoa học quân sự. Ông đưa ông này sang Đông Dương là để làm "người suy nghĩ", chiến lược. Dĩ nhiên vua Jean biết Beaufre, đã phục vụ trước ông ở đất nước này. Chính Beaufre trước kia trong chiếc xe xa-lông của mình, đã chỉ huy khối lượng lớn xe cộ chinh phục con đường số 4. Việc ấy xảy ra trong năm 1947. Sau đó ông đi ngay, để những người khác hứng chịu hậu quả đáng sợ "chiến thắng" của ông, kết thúc ở Đông Khê và Lạng Sơn. Kỷ niệm de Lattre vẫn giữ lại trong trí nhớ, nếu có trường hợp... Trong lúc chờ đợi vua Jean tin tưởng nhất ở ông, bảo:

- Anh sẽ thắng cho tôi ở trận chiến Tiên Yên. Bằng mọi cách và bất kể như thế nào. Để người ta thấy tôi là ai...

- Vâng, thưa đại tướng.

Thế thôi. Đã giải quyết với Beaufre trước dự đoán: về phía quân Việt, đây là một cuộc phản công thật hay "giả"? Phòng Nhì và Ba suy tính mãi. Tại sao ông Giáp để một phần lực lượng trước Hà Nội nếu không phải để đánh quân Pháp ở một vùng xa? Đâu là cạm bẫy: chấp nhận hay từ chối trận chiến Tiên Yên? De Lattre dứt khoát:

- Cạm bẫy, tôi thấy rõ, ông giải thích. Tiên Yên, ông Giáp chẳng cần. Mục đích ông ta là làm mất uy tín tôi, de Lattre. Ông nghĩ tôi không dám rút bớt vùng châu thổ để nhận thách thức của ông bất cứ nơi nào, ví dụ như ở góc này. Thực ra nếu tôi mất nhuệ khí, tất cả sẽ mất theo tôi, những lời hứa, tinh thần của Đội viễn chinh. Tôi chỉ còn là một viên tướng bại trận, không thể ngăn chặn việc xông vào Hà Nội nữa, trận cuối cùng sau khi tôi mất tín nhiệm.

Nếu ông Giáp đi Tiên Yên, tôi cũng đi. Nhưng với cách ngắn gọn thôi. Đông lực lượng. Phá hỏng kế sách của ông Giáp với cường độ bắn, tập trung khí cụ giết người, hoạt động hậu cần trước nay chưa từng có để đưa đến tại chỗ tất cả những gì cần thiết. Sẽ là ông Giáp chứ không phải tôi nhường bước về vấn đề Tiên Yên - một Tiên Yên trở thành mạnh mẽ ghê gớm trong mấy ngày. Sau đó dĩ nhiên phải thu xếp bộ máy cũng nhanh như khi bố trí để đưa trở lại vùng châu thổ - ở đấy sẽ là trận địa thực.

De Lattre sẽ ra đi nhưng "hệ thống" của ông đã bắt đầu hoạt động. Người ta nhận thấy các loại máy bay đang lượn vòng trên một vùng khoảng mười cây số. Một điệu vũ trên không. Điệu vũ đầu tiên của de Lattre. Những chiếc "Kingcobras" bổ nhào không dứt xuống một dải rừng và đá vô danh, rộng mấy trăm mét vuông giống như hàng nhiều triệu mét vuông ở Đông Dương. Đấy là để cứu một bốt tên là Đồng Ngư, không phản biệt rõ dưới bóng cây cối mà quân Việt đang tấn công, ở đấy chỉ là những ngụy binh khốn khổ, người Nùng mà viên đội đã kêu cứu qua đài. Thay vì bỏ rơi như thường lệ, de Lattre đã cho huy động những phương tiện lớn Máy bay tiêm kích, ca-nông, quy trình công nghệ giết người. Nhưng thực sự nó giải quyết được chăng những con người và thiên nhiên được ngụy trang mà người ta chưa bao giờ có thể? Phải chăng đây là sự thực mới chua chát hay lại thêm một ảo tưởng, người ta chưa biết rõ.

Ở Tiên Yên vậy là đã khởi đầu. De Lattre và các nhà báo của ông trở về. Lại ghé Hải Phòng để lên chiếc Dakota có phòng ngủ và bàn giấy của tổng chỉ huy. Chiếc máy bay đã biến mất. De Lattre kêu lên: "Lấy bất cứ chiếc máy bay vận tải quân sự nào." Họ lên cả đấy. Không có ghế. Đám thân tín hoảng sợ. De Lattre đùa cợt nói với người của mình: "Lấy băng-ca ra nằm lên trên đó. Các ông ơi, chiến tranh là chiến tranh." Và cuối cùng về đến Hà Nội.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Năm, 2020, 07:51:19 pm

Tám ngày ở Bắc Kỳ. Những ngày xây dựng lại, de Lattre sắp đặt mọi bánh xe để chứng tỏ sự huy hoàng của mình. Ông không muốn chỉ là một "người lính" nắm quyền chỉ huy. Phải là một ông vua lên ngôi - hơn vua Jean nhiều, một cách gọi kiêu căng hoặc tình bạn mà ông chấp nhận. Đây là một ông vua bắt đầu triều đại của mình, một triều đại lớn. Chế độ quân chủ này là phương tiện để ông thắng cuộc chiến tranh.

Tám ngày trò chơi bắn súng trên mình ngựa, của mọi hoạt động về các hướng, của mọi kế hoạch - trận chiến, duyệt binh, tiệc tối và cả gia đình nữa. Tất cả là lịch sự thượng võ, thậm chí những người chết chỉ còn là những "cái chết đẹp"; vấn đề là có đúng số người chết, không nhiều quá không ít quá. Những người sống sót, ra khỏi cảnh hỗn độn, phải biết làm đẹp, sạch sẽ, trịnh trọng, cao quý, vừa mãnh liệt vừa dửng dưng như vị tướng - đôi khi ngay tại chỗ, hầu như tươi tốt, không quá xa các xác chết bắt đầu thối rữa - gắn huân chương cho họ trên ngực. Ở Hà Nội, những bữa tiệc của vị tướng đều "lớn", những buổi lễ gần hai tiếng đồng hồ, được bố trí tốt, với bao nghi thức!

Dĩ nhiên cũng có những "hội ý", những hòa giải, luôn luôn những tìm tòi ý kiến và rồi mệnh lệnh, những cuộc viễn du, xuất hiện, niềm vui hành động. Tất cả đều gấp gáp. Anh ta tự tổ chức chiến đấu lấy - ba, bốn ngày sau vua Jean sẽ trở lại xem kết quả. Trong lúc chờ đợi ông có việc cần làm hơn: nắm chặt lấy Đội viễn chinh, sử dụng lại thế giới hầu như không biết gì về chủ nghĩa anh hùng.

"Đại uý Coulandre, nhân danh Tổng thống Cộng hòa tôi tặng thưởng anh Bắc đẩu bội tinh. Trung uý Lajouane, nhân danh Tổng thống Cộng hòa, tôi tặng thưởng anh Bắc đẩu bội tinh." Tiếng của de Lattre vang lên giữa những hàng quân bồng súng chào. Ông lấy Bắc đẩu bội tinh, huân chương các loại trên khay đệm được kính cẩn nâng lên do các tùy tùng còn rất trẻ, nhưng phong thái đã cứng rắn, được tôi luyện trong chiến tranh, có khả năng lăn lộn trong môi trường không thương xót của de Lattre. Ông gắn huân chương, ôm hôn trong tiếng quân nhạc. De Lattre ôm hôn mọi cấp bậc, mọi nòi giống người Pháp, lê dương, Sénégal, A-rập, các loại người Việt Nam. Việc ấy xảy ra ngày 2 tháng giêng trên quảng trường đất đỏ Phúc Yên, nơi quân Việt tấn công các bốt tuần trước. Và de Lattre khen thưởng những anh hùng của các bốt ấy, ngay gần chiến trường của họ.

Sau lễ long trọng là cuộc đi thăm các đội quân. Tình cảm thân mật. Các sĩ quan trở nên thông minh hơn, bây giờ biết đánh giá người Việt, không máy móc khinh thường họ như những năm trước, không sợ họ như mấy tháng gần đây nữa. Họ nói một cách sáng suốt hơn:

- Bây giờ chúng tôi đánh giá đúng quân địch sau khi đã đánh giá thấp hoặc cao quá. Quân Việt là những chiến binh tốt loại đặc biệt, rất đặc biệt. Từ nay chúng tôi biết mưu mẹo của họ. Đối với họ phải chiến đấu nghiêm túc. Những muốn vậy phải có một chỉ huy nghiêm túc, như de Lattre.

Vậy là ngày hôm sau, Đội quân viễn chinh "phát hiện" ra de Lattre. Đấy là thành công thực sự đầu tiên của vua Jean. Đội viễn chinh đã thay đổi, công nhận quân Việt là người, đối thủ, chiến binh mà người ta có thể tiến hành một cuộc chiến thực sự, quyết liệt.

Ở Phúc Yên từ nay lan rộng một cảm giác sảng khoái trong lòng các đội quân. Họ không tin vào "bí mật" vào "bất ngờ" nữa. Đối với họ quân Việt chiến thắng ở đường số 4 vì họ đã xây dựng một quân đội chính quy. Bây giờ Đội viễn chinh đã trở thành một quân đội cổ điển, lớn, mạnh, trang bị tốt hơn quân đội ông Giáp. Người ta chờ đợi những quân đội ấy đụng độ, cả hai, với mẫu mực nhìn có vẻ bình thường. Lần này quân Pháp sẽ thắng bởi sức mạnh khí cụ vì sẽ là dạng hiện đại của cuộc chiến tranh mát mẻ và vui vẻ. Dù có khó khăn, dù nhiều mất mát.

Chờ đợi các trận chiến. De Lattre hân hoan cũng như những chiến binh đẹp của các tiểu đoàn xung kích. Cảm giác một "quả đấm sắt", Đội viễn chinh chưa bao giờ đẹp như thế trên thế giới, với những đơn vị cao quý nhất của quân đội Pháp trong tình trạng đơn thuần, trong chủ nghĩa quân phiệt tổng thể. Trong kiêu căng và hy sinh.

Một lối khoe khoang. Vì quân Việt còn ẩn nấp trong rừng, cùng chắc chắn về lực lượng của mình như những người Pháp đang diễu binh trước khi hành động. Trong chờ đợi hành động và mọi diễn biến. Vậy sẽ xảy ra cuộc đụng độ giữa hai niềm tin chắc, trận chiến đấu đủ, hoàn hảo và không thương xót. Về lâu dài chính người Việt có lý.

Khoe khoang. Người Pháp không ai không hình dung chẳng có gì xảy ra như dự kiến. Vì quân đội chính quy của ông Giáp dù sao cũng tỏ ra là một "quân đội nhân dân", chống lại nó, sự kiên cường về tinh thần và sức mạnh vũ khí sẽ tự huỷ, hao mòn sau mấy chiến thắng thực và nhiều chiến thắng giả, cho đến ngày suy sụp. Mãi về sau này, de Lattre ngã gục vì cố sức.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Năm, 2020, 07:52:04 pm

Trong những ngày đầu tháng giêng này gần với thất bại của đường số 4, người ta ít chấp nhận những thất bại trong tương lai! Trong mấy ngày, những mây mù nghi ngại còn lởn vởn trong lòng mọi người và trong những ban tham mưu bỗng tan biến. Vì ngày 2, 3 và 4 tháng giêng, vua Jean xuất hiện trên mặt trận châu thổ ở phủ Lạng Thương, Lục Nam, Bắc Ninh, có mặt khắp nơi. Ông không đến như một chỉ huy vội vã, lén lút mà các đội quân khó thấy mặt, đó là những giây của ông chủ quá quý, những giây có lẽ dứt khoát cho đêm quyết định. Đến với cả bộ máy chỉ huy lớn, ông xác nhận công trình của mình: nét sắc lạnh của những khuôn mặt bự đỏ bừng, những khuôn mặt khổ hạnh, dập góp đứng chào, cử chỉ khô khan, lời nói ngắn gọn. Khắp nơi là các đội cơ động, các tiểu đoàn tổ chức tốt, những xe tăng sáng bóng với tháp và ống, những đội pháo được phủ kín giữa bụi tre và bồn hoa khắp nơi các đài phát đi tin tức chiến tranh, cờ phất phơ trước gió, những biểu tượng xếp bằng vỏ hàu trên đất. Tất cả đã sẵn sàng.

Thực sự đã sẵn sàng chữa? Chưa. Buổi tối trở về Hà Nội trong "ngôi nhà Pháp" của mình, ông kêu lên: "Phải tranh thủ hai mươi bốn tiếng đồng hồ nữa!" Tuy ngoài mặt có vẻ thanh thản và tin tưởng, ông vẫn không yên tâm được. Một lần đêm đã khuya ông tâm sự với tôi: "Tôi có Tiên Yên, với một sư đoàn Việt hoàn chỉnh đi lại trên những đường mòn trong rừng. Bất cứ lúc nào tôi cũng có thể có sự phản công vào châu thổ, bốn hoặc năm sư đoàn Việt xông vào Hà Nội. Miễn là tôi còn thì giờ để tăng cường lực lượng". Luôn luôn hội tụ. Máy bay và tàu thủy đổ vào Bắc Kỳ những nguồn bổ sung, khí cụ từ các nơi khác ở Đông Dương đưa tới. Nhưng cũng phải có những phương tiện mới để vũ trang lại mặt trận. Trước hết là những nguồn cung cấp của Mỹ. Một đợt lớn đã được thông báo - có lẽ có tính quyết định nhưng chưa tới. Chậm quá! Người Mỹ bảo không đủ khí cụ cho Triều Tiên. Nhưng de Lattre kêu gọi rất mạnh. Ông đòi hỏi Đông Dương phải được đặt ngang với Triều Tiên nhưng không được. Bao giờ cũng ưu tiên cho McArthur.

Mỗi ngày qua là những tiểu đoàn mới đặt chân xuống sân bay Hà Nội. Đang trong tình trạng im ắng. Không có trận chiến. Những ngày bình lặng như thế hẳn là quyết định. Vì trước cuộc chiến thực là cuộc chiến vận chuyển, một cuộc chạy đua lạ lùng: những máy bay chở hàng trên không và tàu thuỷ vượt biển chống lại những đoàn dân công trong rừng, vẫn chưa có gì xảy ra.

Ở Hà Nội, một bữa tiệc lớn của de Lattre chiêu đãi tướng de Latour đi ngày hôm ấy, mang theo dấu vết cuối cùng của quá khứ. Nhưng trước đây vua Jean rũ bỏ Carpentier một cách thô bạo thì bây giờ ông hình dung những quan tâm tế nhị nhất đối với de Latour trong công việc đã làm phiền ông hơn nhiều. Sự thân mật ngọt ngào, những lời nói phỉnh nịnh, bắt tay chặt, cảm ơn. Đạo đức giả đối với nhau, cả hai cùng thỏa mãn, không còn sử dụng hoặc phục vụ nhau nữa. Đối với de Latour, thay vì những gai góc của de Lattre, những tuần lễ trước chỉ còn là những hoa hồng. Chính chiếc Dakota của cao ủy - đại tướng tổng chỉ huy đưa ông vào Sài Gòn. Ở sân bay Tân Sơn Nhất, de Rover cân vệ của de Lattre chờ ở đấy sẵn, đón ông với bức điện và lời chúc mừng của "Ông chủ". Cuối cùng, vinh dự tối cao, có ý nghĩa hơn tất cả, bà de Lattre vừa đến Sài Gòn lúc chín giờ mồng 2 tháng giêng ở lâu đài Norodom. Mấy giờ sau ông về Pháp cùng Méric.

Vị tướng ở Bắc Kỳ "bố trí" cuộc chiến tranh của mình đã cho tính toán múi giờ để bà vợ nhận điện chúc mừng năm mới đúng vào nửa đêm trên máy bay. Bà vừa hạ cánh thì nghi thức được vua Jean sắp xếp trước cho bà vợ tiến hành như một bộ máy đồng hồ. Một cuộc đón tiếp được tính toán với sự đơn giản tuyệt vời. Ngay những giây đầu tiên có mặt ở Đông Dương, bà là cao uỷ và tổng chỉ huy nữ chúa, vì de Lattre là chúa. Bà đến đây không chỉ vì tình cảm mà còn vì chính trị - Sự lớn lao ông đưa lại cho bà. Bà được sử dụng đầu tiên: tiễn de Latour.

Vị tướng trước đây rất lơ là với Monette, nay tế nhị hơn. Ông đã thu xếp để Bernard có mặt đón bà ở cầu thang máy bay. Anh con trai, nhạy cảm bởi danh dự, đã rời bốt, các bạn và binh lính. Lần này tình gia đình được đặt lên trên nhiệm vụ. Ở Tân Sơn Nhất là sự chiến thắng của một bà mẹ. Bà de Lattre biến đổi hẳn, trẻ lại, hoan hỉ, thậm chí đẹp ra, gặp lại lại con mình. Niềm vui của bà lớn đến nỗi những người chứng kiến tự nhủ: "Vì như thế mà bà thúc đẩy de Lattre khoản cá cược không thể thắng này, đến với gánh nặng đáng sợ: cuộc chiến tranh Đông Dương". Nhưng họ hiểu sai bà de Lattre vì nếu bà cần có Bernard thì bà cũng phải có một ông chồng cấp tiến hơn. Ở Sài Gòn mối diễm tình giữa mẹ và con kéo dài suốt hai ngày. Họ hấp dẫn nhau kỳ lạ. Đối với bà, anh con trai là sụ bù đắp thực sự của bà. Thiết tha với tình yêu nhưng thất vọng sau ngày cưới vì bệnh tật và mọi loại hoàn cảnh, sống riêng rẽ, bà có một vẻ ngoài phức tạp, hơi lạnh lùng. Tuy vậy bản chất dữ dội, trước hết bà như có một cơn đam mê tranh thủ đứa con trai độc nhất. Trước đây bà không hề có con bên mình. Bị bệnh lao, ông tách đứa con ra sau khi sinh. Bà chỉ gặp lại nó do những lộn xộn trong khi đất nước bị chiếm đóng và kháng chiến. Thời kỳ này với sự quyết liệt, lòng tự hào, sự tận tình và tinh thần hy sinh vốn có trước hết bà lo chăm sóc ông chồng bị Chính phủ Vichy kết án và cầm tù. Bà hoàn toàn bị cuốn hút về nhiệm vụ, về tầm quan trọng của ông, chạy vất vả để ông thoát ngục. Cuối cùng de Lattre thoát được, không ai biết hoạt động của bà có ích hay không. Dù sao bà đã sống, tồn tại trong mấy tháng. Nhưng de Lattre trở lại là mình, vua Jean, chỉ huy quân đoàn 1, người hùng của "sông Rhin và Danube", bà lại rơi vào quên lãng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Năm, 2020, 07:53:07 pm

Bà de Lattre chỉ còn lại Bernard, đứa con trai còn giữ lại một phần tuổi thơ ấu, không thể tan biến hoàn toàn. Anh suy tư, hơi co mình lại, đơn độc quá lâu giữa một người mẹ lúc bệnh hoạn lúc anh hùng và một người bố đao phủ trong công việc, con quái vật linh thiêng. Trưởng thành, anh bắt đầu vào thế giới cứng rắn của chiến tranh, giết chóc, đủ loại cái chết. Sang Đông Dương với cấp bậc trung uý, anh vui vẻ nhưng giả tạo. Cứ năm ngày, mồng 1, mồng 5, mồng 10 v...v... hàng tháng anh viết thư cho mẹ, cũng cô đơn như anh trong lúc vị tướng có mọi cảm giác và mọi vinh quang, cũng có một số thất vọng.

Lần bù lại đầu tiên của bà de Lattre đối với cuộc đời. Ông chồng thay vì chống đối, đã hợp tác với bà. Ông giao Bernard cho Monette, tranh thủ gần càng nhiều càng tốt. Từ nay Monette "có" Bernard, ít nhất khi Bernard không bị cuốn hút vì chiến tranh của vua Jean, khi Bernard không thoát ra về với các bạn trong đơn vị và với những cuộc phiêu lưu. Vì thẹn, anh sợ là con trai của ông nhiều quá. Từ nay anh sợ là con trai của mẹ nhiều quá dưới con mắt bạn bè.

Vào đầu tháng giêng, trong lúc Hà Nội chờ đợi số phận mình, tiếng đồn lan rộng: "Bà đại tướng đến". Thành phố vẫn ảm đạm. Bà de Lattre ăn mặc lịch sự, trang nghiêm, cứng rắn, hơi kiêu căng, một tí e dè sự khô khan. Sau khi ôm hôm chồng ở sân bay, bà có một nụ cười rất khoan dung nhưng xa vắng như đóng băng, vừa để thực hiện bổn phận vừa để giữ khoảng cách. Bà de Lattre đến gặp các bà người Pháp ở Hà Nội tập hợp ở đây đón bà. Rất ít. Những bà ở lại là những giáo viên và các bà trong giáo hội. Trước mặt họ, bà là người đàn bà của Hà Nội.

Nỗi buồn tẻ của thành phố không làm bà sợ. Bà de Lattre không bao giờ sợ và bà chưa biết gì nhiều nhưng bà "tin". Điều làm bà thất vọng hơn là đến thăm "ngôi nhà Phảp" mới chỉ là một biệt thự rất khiêm tốn, sơ bộ sắp đặt một phòng ăn, phòng làm việc, phòng khách và bốn phòng ngủ. Bà không thích việc sử dụng các phòng nhưng không tỏ thái độ gì. Phòng đẹp nhất là của de Lattre; một phòng đẹp gần như thể dành cho bà. Petcho- Bacquet, người thầy thuốc làm mọi việc, hơi là kẻ thù của bà, con người nhận được nhiều tâm sự và giúp một số công việc nhỏ nhặt trong nhà, người mà vị tướng thường gặp trước khi ngủ, luôn có mặt. Nhưng bà de Lattre ở đây, theo đúng chỗ của mình; bà sẽ làm theo quyền lực của mình và sẽ có nhiều phức tạp trong sân nhà.

Khi bà de Lattre đã ở Hà Nội thì làm sao đây? Bà đại tướng phải ở nhà, ở ngôi nhà Pháp. Nhưng ngay ở đây, làm sao cho bà bận bịu công việc? Có rất nhiều công việc nội trợ, từ kiểm tra đầy tớ và thực đơn đến những vấn đề lớn, kế hoạch tiệc tùng với nghìn lẻ một phức tạp của đời sống thời thượng mà một việc nhỏ không đâu cũng trở thành cơ bản, mỗi chi tiết cũng phải cân nhắc như một hoạt động của chính phủ, một sự kiện chính trị hoặc một hành động quân sự để thắng trong cuộc chiến.

Quản lý "ngôi nhà Pháp", tiếp khách, chiêu đãi, những bữa ăn trưa, ăn tối, tiệc đứng, đối với de Lattre cũng mất thì giờ như động viên tinh thần Đội viễn chinh hoặc quyến rũ Bảo Đại. Lãng phí thì giờ, ông lấy lại từng phần theo nghệ thuật khai thác muôn mặt.

"Ngôi nhà Pháp" trở thành cả một thế giới. Ngoài người địa phương, tất cả ở đây đều đẹp: lính lê dương bảo vệ, bộ phận thư ký và cả những cảnh sát thường phục. Tất cả hoạt động nhộn nhịp, hàng chục, hàng trăm nhân vật đủ mọi cấp bậc, giới tính và tính cách, vào ra theo "đường dây" chạy theo sự bố trí của "ông chủ", những thì thầm về việc xảy ra trong ngày, những bí mật, những vấn đề lớn. Tiếng nói của de Lattre dùng làm gậy chỉ huy hợp xướng.

Hoạt động của de Lattre ra đến tận ngoài vườn. Ở đây, Perier, trưởng An ninh Pháp, ngày đêm nấp sau bụi cây. Ông đứng ở vị trí này từ khi vị tướng bảo: "Anh là ai? Tôi thích anh lắm. Anh hãy trông chừng cho tôi. Nhưng phải chính anh. Và luôn luôn có mặt". Tuỳ theo những tiếng vọng từ trong ra, Perrier tự nhủ: "Tình hình tốt. Tình hình xấu đấy. Đã đến lúc mình thọc vào tiền sảnh. Không, chưa nên..."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Năm, 2020, 07:53:34 pm


Trong Hà Nội im lặng, bà de Lattre dành nhiều thì giờ cho các bà xơ. Bà thường đến những người nghèo và những người xứng đáng nhất, những người quá dè sẻn và khắc khổ, nuôi dưỡng những cô gái nhỏ bị bỏ rơi trên đường phố, đào tạo thành những tín đồ sùng đạo nhờ vào cầu kinh và may vá. Dưới mũ trùm, những gương mặt già tàn tạ, nhàn nheo, vá víu, sắc cạnh của những tín đồ khô héo vì ba mươi bốn mươi năm ở Châu Á, đáng khen những chai sạn vì đã làm nhiều, thấy nhiều. Bên cạnh họ, những khuôn mặt tròn, trơn tru và tươi cười của những nữ tu nhỏ người Việt Nam, vui vẻ như chưa bao giờ in dấu vết của ti tiện và tiều tụy. Ở đây bà De Lattre được đón tiếp như nữ chúa. Bà khoan khoái trước khung cảnh những cô bé đứng theo hàng ngũ, xinh xắn trong những bộ đồng phục xanh trắng. Bà thực sự cảm động khi những cô bé lần lượt đến qùy gối tặng bà hoa. Tất cả đều da vàng và đôi mắt màu hạt dẻ - không một em bé da trắng.

Mẹ bề trên, một nữ nông dân Pháp biến thành gần như một dân quê Việt Nam da trắng sau bao nhiêu năm, khúm núm khẩn cầu Monette, muốn có một mệnh lệnh: "Làm thế nào đây, thưa bà đại tướng? Chúng tôi đã cầu Chúa, làm lễ chín ngày, dâng Thánh giá. Chúa Trời không trả lời. Thưa bà đại tướng, chúng tôi phải di tản lũ trẻ hoặc để chúng ở lại tu viện? Chúng tôi đã gửi lũ trẻ con lai đi, sợ bị đe dọa vì dòng máu của bố chúng. Nhưng bây giờ đã có phu quân anh hùng của bà, có phải gửi những em bé Việt Nam thân thiết của chúng tôi đi xa nữa không? Để giữ chúng lại, bà phải cho chúng tôi biết đại tướng de Lattre chắc chắn chiến thắng. Ngược lại, sẽ là vô cùng tai hại... Thưa bà, chúng tôi tin tưởng ở bà."

Một trách nhiệm như thế làm bà đại tướng chao đảo. Bà cũng bỗng nhiên thấy không chắc chắn và lo sợ. Bà câm lặng mấy giây. Rồi lấy lại niềm tin, bà nói với tư cách bà chúa, giọng chỉ huy - vì bà cũng có giọng ấy: "Cứ ở lại Hà Nội. Không bao giờ được nghi ngờ lời nói của đại tướng."

Đôi khi de Lattre trao đổi một số vấn đề với bà vợ, những vấn đề xem như bà có quyền. Bà là tiếng nói của lương tâm, sau đó ông quyết định tùy theo lợi ích. Ví dụ như vấn đề các gia đình người Pháp. Lần đầu tiên xuất hiện ở Hà Nội, ngày 19 tháng chạp, hét lên ngăn việc di tản, ông sẽ buộc những người đã đi phải trở lại. Tiếng kêu tin tưởng để tạo ra niềm tin. Nhưng việc đó lâu rồi, đã mười lăm ngày. Bây giờ sẽ là tranh cãi và ông không hề muốn ở Hà Nội có những người vô ích, cồng kềnh; nhất là cuộc chiến hiển nhiên quay về hướng xấu, người ta sẽ có rất nhiều việc phải làm hơn là nghĩ về họ.

Mọi việc suôn sẻ đối với de Lattre. Bà vợ ở cạnh ông nhưng đúng chỗ của bà. Bernard ở bốt nhưng được kiểm tra chu đáo. Những dân thường Pháp được thu xếp khéo léo. Dân thường Việt Nam không có âm mưu chống đối. Hoàng đế Bảo Đại gửi lời nồng nhiệt chúc mừng de Lattre, ông điện trả lời rất thân mật. Mọi việc suôn sẻ hoặc gần như thế. Đội quân viễn chinh rất tốt. Cơn im lặng kéo dài và đã bắt đầu thấy buồn. Ngày mồng 5 tháng giêng viên tướng nói: "Đã đến lúc tới chỗ người ta đánh nhau, cần đến Tiên Yên xem Beaufré của mình làm gì."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Năm, 2020, 04:40:30 pm

Tiên Yên sẽ là chiến thắng đầu tiên của vua Jean, một chiến thắng không có trận đánh thực sự. Như ông đã dự kiến, quân Việt rút lui trước mặt ông, Beaufre và việc huy động của ông. Việc đánh cuộc đã thắng... Và điều ấy làm ông khoan khoái đến mức tuần sau đó ông suýt trả giá cho những ảo tưởng về trận đánh lớn ở Vĩnh Yên, trận đánh vùng châu thổ. Ở đây ông chiến thắng thực sự nhưng sau biết bao nhiêu báo động, nguy cơ gần như sợi tóc, với giá bao nhiêu vất vả và máu. Chiến thắng không lặp lại.

Ngày mồng 5 tháng giêng, không khí huy hoàng. Một đợt bay lớn đến Tiên Yên ra vẻ có vấn đề nghiêm túc. Vua Jean và các nhà báo của ông trên đoàn Morane. Không khí một cuộc chiến được chuẩn bị chu đáo, sạch sẽ, có kỷ luật ngay khi hạ cánh. Chỉ một cuộc duyệt binh nhỏ vì de Lattre - lần trước rất không hài lòng vì không có các đội quân chào ông, không muốn trang trọng nữa. Ông muốn đơn giản, nhẹ nhõm dù có tính toán, như của "đại tá chiến trường" Beaufre sáng bóng và sẵn sàng trên chiến trường, mờ nhạt nhưng toát lên sắc lạnh. Đại tướng nhận thấy hài lòng ngay về Beaufre của ông. Ông nói với các nhà báo: "Tôi có anh Beaufre này ở đây rất tốt. Anh ấy biết thực hiện mệnh lệnh của tôi triệt để và có sáng kiến. Anh biết đứng vững ở vị trí của mình, với tư cách người biết giá trị của mình nhưng còn tự hào hơn được thuộc về tôi". Anh Beaufré ấy nhận những lời khen với sự bình tĩnh quen thuộc và với nụ cười nửa miệng nửa quyến rũ nửa bị quyến rũ. Anh thực sự thỏa mãn là sở hữu của de Lattre hay sở hữu của chính mình?

Dù sao Beaufré không nhường sở hữu ấy cho de Lattre trong việc đạo diễn, cảnh trí chuyên môn hơn, thái độ khắc khổ hơn. Cuộc họp mật với vua Jean ở sở chỉ huy trong ngôi nhà hải quân cũ. Đại tướng và Beaufré ra khỏi nhà để đi dạo trong khu vườn. Đại tướng rất phấn khích. Bên cạnh ông, Beaufré ngẩng cao khuôn mặt nhợt nhạt hơi trắng, khi suy nghĩ. Phía sau "đại tá chiến trường" mấy mét, tất cả những khuôn mặt của ban tham mưu đều thể hiện là những chuyên gia kỳ cựu. Trong lúc cấp trên đang trao đổi ý kiến, ban tham mưu của Beaufré bố trí trên một bãi cỏ, hoạt động như một phòng thí nghiệm chiến tranh. Tất cả có nề nếp, lạnh lùng, thậm chí như băng giá. De Lattre và Beaufré đến xem họ làm việc. De Lattre để Beaufré tự làm. Im lặng. Dưới đôi mắt của "ông chủ", Beaufré trầm ngâm trước bản đồ, tin tức và có những quyết định. Giọng đều đều ông hỏi thuộc hạ, đưa ra những câu, những chữ theo công thức, không sắc thái. Người ta cảm thấy ông chỉ đưa ra những giải pháp tổng thể. Đôi khi tự thỏa mãn, ông buông một câu nói đùa thông minh và cười từng lúc. Những việc ấy diễn ra dưới con mắt một vua Jean hiểu biết và tán thành theo phong cách nghệ sĩ.

Vài chỉ thị dứt khoát của de Lattre, "Vâng" cũng dứt khoát nhưng giọng cấp dưới của Beaufré. Sau mấy giờ vua Jean ra đi, để lại các nhà báo "của ông" kể cả tôi, với mệnh lệnh thường xuyên "hội ý", cung cấp tin tức cho họ. Beaufré rất chú ý về điều này. Ông biết sẽ thiếu khôn ngoan tệ hại nếu nói với các phóng viên khi vua Jean không có ở đấy. Dù ông nói thế nào, khi đọc tin tức vị tướng vẫn kêu lên: "Tay Beaufré này thật ngốc! Anh ta kể lại những điều không nên nói". Viên đại tá chỉ lắm lời khi cần thiết, rất hiếm. Nói chung ông có đức tính câm lặng. Ở Tiên Yên càng cố câm lặng, chỉ cần nhìn. Ban tham mưu của Beaufré vẫn tiếp tục làm việc. Giờ này đến giờ khác, xung quanh viên đại tá, những nhà đồ họa vẽ sơ đồ tình thế, điện đài vang lên, điện thoại hét, sĩ quan liên lạc chạy. Thông tin đến liên tục và mệnh lệnh đưa đi.

Một tổ chức như thế làm những đồng nghiệp Mỹ của tôi ngạc nhiên. Làm sao nhận ra Tiên Yên trống không sẵn sàng thất bại ở thị trấn chiến tranh náo nhiệt này? Đầy ắp các đội quân và súng ca-nông. Không nhận một loạt đạn nào, người ta dội cho quân Việt trong rừng, ít nhất là dội cho rừng, ném bom ào ạt, trọng pháo 105 hướng họng súng về phía bắc khạc liên tục. Một điện đài nhận mệnh lệnh của Sở chỉ huy Beaufré cách đấy mấy trăm mét: "Bắn loạt thứ 2... Kéo dài thêm một trăm mét..." Pháo thủ là những người Nùng, rất thoải mái, xem là một trò chơi kỳ lạ, mới và ngộ nghĩnh.

Việc bắn trọng pháo như một hoạt động trình diễn công khai. Sau những loạt không dứt và những giờ chuyển đạn cối, những người đàn bà bình thản ngồi dưới họng súng bán trái cây. Ngụy binh, chắc là chồng họ, đứng từng dây nạp đạn cách đấy một mét, tỏ ra hoàn toàn thỏa mãn. Một lê dương già, chòm râu, ống điếu và đôi dép chứng tỏ đã đăng lính hai mươi hoặc ba mươi năm, đĩnh đạc dạo chơi xung quanh. Một lính A-rập kích động, bình luận: "Chúng tôi phục vụ bữa ăn qua loa cho người Việt..."

Nói chung cả thị trấn trình diễn. Súng bắn khắp nơi, trên mọi đường phố. Những con đường vẫn xấu nhưng không còn là mùi hôi thối của vắng lặng và cái chết cách đây mấy ngày. Bây giờ là mùi hôi thối của cuộc sống lúc nhúc, quá nhiều, tuôn ra mọi thứ cần thiết, rác bẩn, nôn ọe và cả phân nữa. Cảnh ấy kéo dài đến tận cửa sông bùn lầy, ô nhiễm, nơi người ta cũng dội bom. Ban tham mưu không chê được của Beaufré, người nào cũng nhẵn nhụi, sực nức nước hoa, quân phục trắng toát.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Năm, 2020, 04:42:10 pm

Trong cuộc chiến tranh Đông Dương, lần đầu tiên trọng pháo được người Pháp dùng hàng loạt làm phương tiện chủ yếu, làm một vòng lưới lửa bảo vệ Tiên Yên bị quân Việt và rừng bao vây. Việc làm cho một bốt, bây giờ người ta thực hiện cho cả một thị trấn. Thêm vào đó là các loại súng bắn xa giữ gìn cho Tiên Yên, từ trên trời và dưới biển.

Người Pháp dội bom đạn ngày này qua ngày khác. Tiên Yên bị người Việt vây hãm càng ngày càng vui chơi. Nhà chứa và sòng bạc mở cửa và hoạt động hết mức. Tiếng âm ỉ của chiến tranh không làm ai bận lòng. Một chúa Nùng kể lại với tôi - trong một buổi tối dạo chơi lông bông giữa những căn nhà lụp xụp: "Những đạn cối họ bắn cũng như pháo Tết. Chúng mang lại điềm lành, đạn nổ đuổi hết các ác thần."

Giữa cảnh đó, Beaufré với khuôn mặt mùa ăn chay: băng giá, xanh xao và không đoán được. Đối với ông, rõ ràng ra là hài lòng. Hàng giờ hoàn thành những biện pháp de Lattre chỉ thị. Beaufré thực hiện: đều đặn từng đội quân được gửi đến chỗ trước đây không có gì, lên mặt trận Tiên Yên trước đây không tồn tại.

Các tiểu đoàn như đến bằng tàu điện trong những khoang tàu thủy LCT. Nhận quân ở Hải Phòng đổ xuống Tiên Yên. Con thoi ngày đêm qua một trong những góc xấu nhất của đại dương, nơi ngổn ngang nửa nước nửa đất liền của vịnh Hạ Long.

Với de Lattre và Beaufré không còn tuỳ hứng được nữa. Tàu thuỷ đưa tới cả một đội cơ động lính ta-bo, những chiếc đầu khô hạnh trong những vòng râu. Chỉ huy họ là một người quý phái cao lêu nghêu, mảnh dẻ, nhanh nhẹn và dửng dưng. Thay vì da nâu là màu trắng hồng. Đấy là de Castries, mệnh danh "Cá ngựa". Ông kiêu kỳ nhưng không theo định mệnh. Khi được lệnh đưa đơn vị theo đường bộ, ông chỉ bập bẹ: "Ồ! Ồ! theo đường bộ có nhiều quân Việt và những con đò tệ hại". Allard xác nhận ngay: "Nếu một de Castries ngập ngừng thì không nên làm điều đó”. Thế là người ta ra lệnh cho lính thủy tập hợp tàu.

Hành trình thật nhàm chán! L... chuẩn uý buộc phải chuyên chở những người lính thờ ơ và hành trang quy định của họ, ngáp dài: "chiến tranh thực sự chán ngấy". Khi lính ta-bo đổ bộ thành hàng dài ở Tiên Yên, thậm chí họ không thèm biết mình ở đâu. Với khuôn mặt khinh khi, họ cho cu-li da vàng đi lấy đạn dược họ mang theo ở hầm tàu. Và rồi nối đuôi nhau họ biến mất vào rừng.

Lần này Beaufré thú nhận nhẹ nhõm với các nhà báo: "Khi tôi đến Tiên Yên thị trấn nhũn ra như một chiếc bánh pho mát. Tôi bị buộc vào lời hứa với de Lattre không lùi bước. Lúc ấy nếu quân Việt tấn công thì tôi xong đời".

Trong thị trấn ngoài súng ca-nông còn có các đội quân. Dân chúng chắc chắn trọng pháo đã làm quân Việt ẩn nấp trong rừng tan thành mảnh. Không ai thấy họ nhưng những người Phòng Nhì do thám đưa mục tiêu đến những ngọn núi họ ẩn nấp để sống sót qua những trận mưa lũ đạn thép. Pháo thủ tính toán, tiếp tục đập nát từng mét vuông đất khả nghi. Dĩ nhiên từ xa, rừng vẫn luôn không xê dịch, bình lặng. Nhưng quân Việt ở trong đó chỉ có thể còn là những mảnh vụn. Ít nhất người ta tin như thế. Quân ta-bo bây giờ trực tiếp đi quét sạch.

Luật lệ của Đông Dương: sau ảo tưởng là thất vọng. Ở vùng núi xung quanh, lính Maroc không tìm thấy người Việt - sống, chết đều không có. Phải chăng là một chiến thắng? Dĩ nhiên các trung đoàn của ông Giáp không dám tấn công Tiên Yên. Nhưng họ không hề bị tiêu diệt, thậm chí không bị đụng tới. Họ đã đến và rút đi mà người ta không hiểu ra sao.

Điện tín của de Lattre. Lệnh của Beaufré cho de Castries và quân ta-bo đuổi theo quân Việt. Lính Maroc đến lượt mình vào rừng: hai hàng người bước đi trên những con đường nhỏ khó phân biệt, giữa những hàng cây ken dày như tường nhà tù. Mưa rỉ rả. Trên trời mây chuyển sang màu đen. Mưa phùn rơi xuống khu rừng màu sẫm, nước qua các lớp lá xuống thấm ướt người. Hoàn toàn không trông thấy gì. Máy bay tiêm kích không cất cánh được. Morane trinh sát rất khó làm việc, không phân biệt được gì, cả những chỏm núi mà chúng có thể đâm sầm vào.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Năm, 2020, 04:42:43 pm

Chuyến đi dài trong hư không. Một hư không đáng ngại không một phát súng, không phục kích, không có địch. Chỉ mệt mỏi vô cùng. Bỗng nhiên, chẳng ai biết việc gì xảy ra, hỗn loạn. De Castnes ở giữa người Việt, người Việt ở giữa quân ta-bo. Khắp nơi người ta bắn mà không trông thấy nhau, không biết mình bắn vào ai. Sau mấy phút sự lộn xộn ngừng lại, cũng bí mật như khi bắt đầu. Hầu như không có thiệt hại. Quân Việt thực sự không muốn "đụng độ". Vì sợ hay vì chiến lược? De Castries và quân ta-bo chỉ còn tiếp tục đuổi theo. Họ cũng không thật yên tâm, không biết ai là kẻ đi săn, ai là con mồi.

Quân ta-bo ngược lên "đường mòn Hồ Chí Minh", con đường đầu tiên trong những con đường mòn Hồ Chí Minh được biết đến. Cây cối ken chặt đến nỗi các phi công Pháp không bao giờ xác định được. Vì vậy là dòng chảy về Tiên Yên hàng chục nghìn quân chính quy và nhân công đi chân đất. Chắc chắn nó cũng dùng vào việc "làm tan biến", họ cũng ma quái như khi họ đến. Bây giờ họ đang phía trước quân Pháp, cách mấy mét hoặc mấy cây số, có trinh sát theo dõi, nếu muốn, có thể giăng một cuộc phục kích đáng sợ. Một cuộc phục kích tiêu diệt nhưng họ không làm.

Lính Maroc bước nặng nề, theo hàng một, hàng cây số lính, trang bị, vũ khí. Hành trình thận trọng, dưới lưới lửa của trọng pháo đập nát các chỏm núi trong quá trình tiến quân.

Người ta chiếm lại các bốt đã bị lấy và phá huỷ, đặt những đội quân đồn trú mới. Cách Tiên Yên ba mươi hoặc bốn mươi cây số người ta quay trở lại. Đi xa hơn làm gì?

Công việc kết thúc. Nhưng luôn luôn, hơn bao giờ hết vẫn là ẩn số này: "Có phải là một chiến thắng không?" Đối với Beaufré là đúng và thể hiện ra sao? Ông rạng rỡ, nghĩa là mỉm cười qua nét xanh xao của khuôn mặt. Ông nói nghĩa là đưa ra với báo chí mấy lời có chừng mực. Thái độ ấy của "đại tá chiến trường" có sức mạnh đối với các phóng viên. Họ rêu rao kết quả chiến thắng của quân Pháp qua điện tín. De Lattre đọc tin, cảm thấy còn tin hơn vào Beaufré.

Và như dấu hiệu thấy được về sự vùng lên, Beaufré tung một tiểu đoàn dù xuống biên giới Trung Hoa, ở Móng Cái; thị trấn thực tế đã bị bỏ rơi. Dân chúng nhanh nhẹn, hoạt động. Milady tuyển những người ở trọ mới, các cô gái Thổ rất đẹp trong các bộ tộc núi rừng.

De Lattre bị thuyết phục. Vị tướng có một ý: "Tay Beaufré này thông minh lắm, có một kế hoạch thanh toán quân Việt trước Hà Nội. Anh ta áp dụng... thật nhanh".

Mệnh lệnh tới tấp. Salan, "con người Trung Hoa" gần đây không làm gì, luôn ở những vai trò phụ, phải đi Tiên Yên, phải truyền đạt cho Beaufré lời của de Lattre:

- Kết thúc vùng bờ biến, vụ Tiên Yên ít nhất cũng cho ta biết được nhiệt độ của quân Việt. Anh có lý, họ không có gì tốt đẹp. Chúng ta hãy lợi dụng điều đó. Thu xếp gấp hệ thống Tiên Yên của anh lại. Nhanh chân lên. Anh trở lại vùng châu thổ xây dựng cho tôi một kế hoạch tấn công mười lần lớn hơn để cuối cùng nghiền nát Hồ Chí Minh. Ông Giáp, tất cả các sư đoàn của họ. Chúng ta sẽ lấy lại Lạng Sơn, trả thù con đường số 4.

Ở Tiên Yên người ta dỡ bỏ. Những chiếc tàu rách nát của hải quân đã chuyển đến khoảng một chục tiểu đoàn và mọi trang bị, gói ghém trở lại Hải Phòng nơi họ đến không đầy một tuần trước đây. Vừa đổ bộ lên bến cảng, người và ca-nông được đưa lên những chiếc xe cam-nhông, chạy qua đồng ruộng trên đường đê ra mặt trận đâu đó vì dự định lớn.

Vậy là vua Jean bị thuộc hạ bịp nói về chiến thắng Tiên Yên thực ra không có. Ông đa nghi đến thế vẫn bị mắc lừa, tưởng mình là người chiến thắng nhưng không phải. Sự tự phụ ấy dẫn ông đến một hoàn cảnh "lúng túng" nào đó, những sai lầm về nhận định suýt đưa ông đến hỏng việc. Vì mấy ngày sau đó, chiến thắng thực của ông ở Vĩnh Yên đã bắt đầu gặp thảm họa.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Năm, 2020, 04:45:47 pm

Dự định lớn. Bí mật lớn. "Đòn" chuẩn bị cho ông Giáp. Phải làm sao để Giáp không biết gì, không nghi ngờ gì.

Mệnh lệnh đã truyền đi và ngày mồng 7 tháng giêng ông lên máy bay vào Nam Kỳ. Không chờ Beaufré từ Tiên Yên về. Không chờ Beaufré chuẩn bị "Hình thang" - tên mật của cuộc phản công đã được quyết định.

Chuyến đi không thể giải thích. Không chỉ để lừa những người khác mà cũng là nghệ thuật tô vẽ màu sắc. Có gì khó chấp nhận hơn đối với tổng chỉ huy Đội quân viễn chinh rời bỏ Bắc Kỳ khi trận đánh quyết định, không xê dịch, quyết tử sắp khởi đầu trong từng giờ. Có gì ngu dốt hơn hoặc lớn lao hơn? Nhưng ở de Lattre trước hết là sự phóng túng, sự tính toán vận dụng những nguyên tắc bịp bợm cũ. Vừa duy mỹ vừa xảo quyệt. Thật lớn lao khi tỏ ra vô lo khi chuẩn bị việc làm cốt tử, mất cả hoặc được cả! Một người bình thường phải bị cuốn hút vào những suy nghĩ, lo lắng, nghi ngờ. Nhưng một "thiên tài" ở trên tất cả những điều đó, ít nhất là bề ngoài và rồi, chờ đợi lúc bắt đầu cũng buồn, ông phải bận bịu, sử dụng thì giờ vì phải mất mấy ngày kế hoạch đã quyết định mới bố trí xong trước khi tiếng còi bắt đầu trận đấu de Lattre - Giáp vang lên, cuộc tử chiến sau những vụn vặt ở Tiên Yên.

Đám thân cận đi theo de Lattre trừ Beaufré. Trong khi bay ông nói với người của mình:

- Tốt đấy, chẳng ai hiểu chuyến đi của tôi. Việc ấy sẽ tạo ra đủ loại tiếng đồn trái ngược nhau. Kẻ địch hơn bao giờ hết tự hỏi tôi muốn làm gì: phòng thủ hay phản công. Tôi cũng lừa họ bằng mọi hoạt động của các đội quân xem ra có vẻ rời rạc. Tôi sẽ đầu độc họ.

Đầu độc. De Lattre quên những tai họa của Carpentier: ông này dựa vào khả năng lừa bịp quân Việt của mình ở toàn cuộc chiến trên biên giới Trung Quốc. Vua Jean, cũng như ông ta, dựa vào mưu mẹo để tiến hành cuộc chiến quyết định hơn ở vùng châu thổ. Nhưng de Lattre không phải Carpentier. Ít nhất ông tin như vậy và mọi người bắt đầu tin ông.

De Lattre thấy đi Sài Gòn trong những ngày như thế rất tốt, để giới thiệu thuộc địa Pháp "của mình", để nhận những lời chúc mừng của "những người làm ra đồng bạc" những kẻ cơ hội chính. Tất nhiên ông ghét "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" làm nảy nở mạnh hơn " đồng bạc bẩn thỉu". Nhưng ông vẫn hãnh diện về những đồng bạc đủ các loại - của người giàu, người nghèo, xuất nhập khẩu, người Corse, tỷ phú Trung Hoa, buôn lậu và lương thiện của Việt Minh nữa, đều chào mừng vinh quang của de Lattre bắt đầu tin vào chiến thắng của vị tướng. Mũi tên lên thẳng trên thị trường tiền tệ. Hai tỷ đồng bạc chuyển đổi trong bốn mươi tám tiếng. Đồng tiền cũng trở thành điên, phải ngăn định giá chứng khoán lại.

Ở Sài Gòn đủ loại biến cố thượng lưu. De Lattre có nét mặt bình lặng, hạ cố. Trong lúc quân lính của ông ở Bắc Kỳ chuẩn bị chết và chiến thắng, ông tiếp ở lâu đài Norodom cả Sài Gòn thương mại, nhà băng, chính trị. Chỉ những nhân vật rất đáng kính nhưng đối với ông, không hoàn toàn "tốt".

Dù sao de Lattre cũng hơi không chắc về đường lối chính trị của mình đối với môi trường tài chính. Nhưng nên chăng thỏa hiệp với họ thì tốt hơn? Thâm tâm ông vẫn giữ một sự chống đối tự phát.

Đồng bạc đến với ông ngay dưới dạng hiện thân da vàng. Không phải Bảo Đại, chỉ là người lợi dụng nhưng "ông Hữu" tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Người dân Nam Kỳ béo tròn, nhân từ này là của đồng tiền, làm việc, đại diện cho đồng tiền. Cho đến lúc đó Hữu yêu mến nền tài chính Pháp, không thích cuộc chiến tranh Pháp. Ông sẵn sàng gắn bó với Nhà băng Đông Dương nhưng từ chối gắn bó với cao uỷ và các tướng Pháp, nói với họ: "Không thể, tôi là người quốc gia". Và ông Hữu ấy, khôn ngoan thế, tự nguyện "ra mặt trận" đi Bắc Kỳ với de Lattre, xuất hiện trên chiến trường như người của vị tướng, tự phản bội mình. Thật thần kỳ, cuối cùng Việt Nam đã lay động, đúng hơn là đồng bạc Việt Nam đã vang lên một bản nhạc nhỏ tam tài. De Lattre hài lòng, nhưng không tuyệt đối. Vì ông tự nhủ: "Chà! Nếu Bảo Đại đề nghị với mình tất cả những điều ấy..."

Làm gì ở đây. Sài Gòn mà de Lattre không thích nhưng ông phải phô trương mình là người tuyệt vời? Tướng Harding đến đúng lúc. Đây là vị chỉ huy các đội quân Anh ở Singapore, một quân nhân tốt. Điều đáng buồn là cuộc viếng thăm của ông được quyết định thời Carpentier. Vậy không phải vì de Lattre. Hơn nữa trong giới các tướng lĩnh quốc tế, ông ta không ngang tầm với ông. Vậy không rầm rộ, không đón tiếp lớn. Nhưng làm đúng mức độ, tỏ ra có một dè dặt nào đó và chinh phục người ấy. Không để ông ta "tuột khỏi tay”.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Năm, 2020, 04:49:15 pm

Nguyên tắc của de Lattre: không để trật một cơ hội nào. Mục tiêu là nắm lấy nước Anh. Vậy là ông bắt đầu tưởng tượng, đã thấy nước Anh chấp nhận việc chỉ huy duy nhất của ông ở Châu Á.

De Lattre thăm dò Harding. Ông này lắng nghe và giữ ý. Vì phải chăng còn có một Đội quân viễn chinh đứng trước cuộc chiến tất yếu ở Bắc Kỳ. Dĩ nhiên vua Jean đoán được những ẩn ý của người Anh. Ông tự nhủ: "Phải gây niềm tin cho ông ta. Phải chỉ rõ mình sẽ là người chiến thắng". Và ông đưa Harding tham gia vào một cuộc kiểm tra lớn.

Những ngày này, cả một tuần lễ, là những ngày duy nhất ở Đông Dương vua Jean thực sự sung sướng, tuyệt đối lạc quan. Trạng thái vui vẻ đưa sở thích đi đây đó của ông lên mức tối đa. Ông đưa vinh dự lại cho Harding đi khắp đất nước hôm trước ngày hành động, trước ngày chiến thắng. Cuộc đi dạo tuyệt vời. Ở Nam Kỳ, qua vẻ đẹp nhiệt đới de Lattre chỉ rõ cảnh thanh bình Pháp: cả lớp dân chúng nhà quê triệt để phục tùng, hưởng thụ, no đủ, mặc dù ở những khu đồn trú Pháp rút đi. Rồi ông mang theo Harding ra Bắc Kỳ để trông thấy cuộc chiến Pháp. Ở Hà Nội chỉ là những mệnh lệnh, huỷ lệnh, hội nghị về chiến thắng cho đến bình minh, những buổi họp đáng ghi nhớ, triệu tập sĩ quan, các đại tá đứng đầy văn phòng de Lattre. Những hội thảo lớn, tranh luận thân mật và gay gắt với số thân tín thực sự - Boussary, Allard, de Castries, Beaufré, Salan. Đấy là trạng thái vui vẻ sôi nổi của quân nhân. Có tất cả ở de Lattre, cả ở những kẻ thô lỗ và tập tành thô lỗ. Tuy thế trong tâm trạng sảng khoái ở ông cũng có con người tỉ mỉ, băn khoăn đã quên việc gì đó và nghi ngờ về tất cả. Ông ra lệnh: "Hâm nóng người Anh cho tôi". Người ta đi đến chỗ thổ lộ với ông này cả điều bí mật lớn về chiến dịch "Hình thang". Không có gì ngọt ngào hơn đối với một nhân vật quân sự được tin cẩn - nhất là đối với một vị tướng Anh lai tay áo thêu màu đỏ và Carpentier đề phòng như dịch bệnh. De Lattre chơi đòn tin cậy không chối cãi được và với biết bao nghệ thuật! Có thể nói đối với ông, chinh phục Harding cũng quan trọng như chinh phục người Việt.

Những việc chuẩn bị thích hợp. Không quá chói chang, đơn giản và lớn lao vừa phải. Màn diễn vào ngày thứ năm 11 tháng giêng trong một sở chỉ huy tiền đồn trước Thái Nguyên, thủ đô của Hồ Chí Minh. De Lattre im lặng và nặng nề, không can thiệp vào việc trình bày, tránh điều người Anh có thể nói: "Ông ấy cố tranh thủ ảnh hưởng của mình". Chính Beaufré nói, hoàn hảo như bao giờ cũng thế, một kỳ quan sáng suốt, lôgíc, chính xác, không bao giờ rộn ràng, không gây tác động: giọng nói đều đều, đơn điệu, không ngắt quãng, thoát ra rất dễ dàng từ đôi môi mỏng và chiếc đầu của người chuyên suy nghĩ, đủ nắm bắt và thuyết phục. Tay Beaufré này gây biết bao trọng lượng! Trong lúc ông ta trình bày người ta đưa dần các bản đồ đầy ký hiệu mà ông quán triệt một cách chủ động. Cuối cùng ông ngừng lời. Tất cả thật hiển nhiên, được chứng minh rõ ràng.

De Lattre vui sướng phô trương "kỳ quan" Beaufré, thiên tài nhỏ của thiên tài lớn de Lattre. Từ Tiên Yên, ông ta đến Hà Nội ngày 9 tháng giêng lúc vua Jean và thân tín đã đi rồi. Nhưng ông đã vất vả biết bao! Tất cả tác phẩm của ông, những kế hoạch, chiến lược mà bây giờ ông trình bày trước "ông chủ" sửng sốt và người khách Anh.

Công trình lớn lao! Ngày 9 tháng giêng ông chưa có gì. Chỉ Beaufre xuất hiện, hoàn toàn tin chắc và trí não. Thời kỳ ấy ông nổi lên đến nỗi không muốn có chức vụ xác định, không cả vị trí. Trưởng ban tham mưu được giao cho Allard. Ông ở trên mọi cấp bậc, là tất cả, chỉ dưới de Lattre. Đại tướng chỉ đành nói với ông: "Beaufre, anh nắm lấy quyền chỉ đạo các cuộc hành quân..." Beaufre nhăn mặt lẩm bẩm: "Chậm quá rồi, rất khó. Tôi mạo hiểm vào việc ấy cả cuộc đời và tiếng tăm của tôi. Ông cũng thế..." Và rồi ông ta bắt tay vào việc với thần kinh bình lặng rất giống sự bảo đảm tuyệt đối và có lẽ thế.

Dù sao, ông đảm trách tất cả, tự nguyện chọn một ngôi nhà nhỏ và số lượng cộng tác viên tối thiểu. Thánh địa chiến lược được đặt trong sở chỉ huy sư đoàn, ông tự giấu mình và giấu "bộ não tin cậy" của mình. "Đại tá chiến trường" và những trí óc lớn vào chỗ ngồi tốt. Tuy vậy sự tấp nập ở chỗ kín đáo này có cảm giác trong lòng Hà Nội.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Năm, 2020, 04:50:22 pm

Sự bất tiện của chỗ này là quá chật hẹp. Chỉ riêng Beaufre được quyền có một phòng. Những phó của ông: thiếu tá Grosjean của đội trọng pháo thuộc địa, đại uý Blanc, đại uý Metz được xếp ở hiên. "Nghệ thuật quân sự" lớn. Suy nghĩ ngày đêm. Beaufre, đôi mắt không đam mê, chính xác như kính lúp, nhìn thẳng vào bản đồ. Hàng trăm bản đồ vùng cao Bắc Kỳ. Ông bất động ngắm hàng giờ, cuối cùng chỉ ngón tay vào một vệt nâu lớn, nói: "Chỗ này đây". Dãy núi Bắc Sơn, khối đá ngổn ngang khống chế hai con đường lớn của người Việt từ biên giới Trung Quốc đến vùng châu thổ. Đấy là những con đường huyết mạch từ nước Trung Hoa của Mao Trạch Đông cung cấp cho cuộc chiến của Giáp ở đường số 4, và những căn cứ đỏ trong rừng. Đánh nhau lớn và giành lại được năm tháng trước đây, những con đường này dùng vào vận chuyển đạn dược, vũ khí, quân lính, nhân công, những khối lượng vật và người sẽ được đưa ra hàng loạt chống Đội viễn chinh đã lùi về đồng bằng.

Tia chớp của Beaufre, ý tưởng là triệt hạ hậu cần quân Việt bằng một đòn quyết định. Chiếm lấy ngọn núi này, rất gần, là căn cứ hậu cần của các sư đoàn ông Giáp. Quân địch bị cắt đường tiếp tế buộc phải rút lui, ít nhất cũng như những luật lệ của chiến lược cổ điển, khoa học chính xác mà Beaufre là chuyên gia nổi tiếng.

Cuộc hành quân thật nguy hiểm. Vì Bắc Sơn kết thúc dốc đứng, khép chặt dải đồng bằng nhô tới như một loại vịnh đất liền của vùng châu thổ kéo dài. Nó dựng lên như một công sự phía trên Thái Nguyên, nơi Tổng bộ Việt Minh đóng, nghĩa là Chính phủ Việt. Thủ đô này của Hồ Chí Minh cách Hà Nội không đầy năm mươi cây số. Cả vùng sẽ chinh phục này là nút núi rừng, đồng ruộng, đường đi, sống còn của người Việt. Họ có nhiều sư đoàn ở đấy, sẵn sàng khép lại trên những chỗ người Pháp tấn công. Phải đánh mạnh và mau chóng, bố trí phương tiện tấn công như một động tác đồng hồ. Phải nghĩ tới từng chi tiết. Beaufre vốn "thông thạo" việc ấy. Vì thế ông nói:

- Chúng ta sẽ khởi đầu hành quân vào ngày chủ nhật 14 tháng giêng. Kinh nghiệm cho quân Việt thấy Đội viễn chinh không xúc tiến việc gì vào ngày của Chúa. Chúng ta thay đổi điều ấy, sẽ làm họ bất ngờ.

Ý kiến khác. Bất ngờ khác, Beaufre tìm cách dồn dập những bất ngờ cho quân Việt. Không thả quân dù từng nhóm nhỏ như trước đây. Lần này thả số lượng lớn xuống Bắc Sơn, những tiểu đoàn hoàn chỉnh. Lính dù nhảy xuống đông tấn công quân Việt bất ngờ, tiêu diệt hết nếu họ ở đấy. Nếu quân Việt không ở đấy, thiêu huỷ hết kho tàng, dự trữ của họ. Kết cục, thiếu lương thực và đạn dược, các sư đoàn đỏ buộc phải rút khỏi những vị trí đối mặt với Hà Nội, ra xa hơn, vào núi rừng Trung Quốc hoặc đường 4. Cách nào thì cũng thành công.

- Nhưng nếu quân Việt đánh tan quân dù của tôi trong lúc họ dần dần chạm đất?

De Lattre nêu câu hỏi. Nhiệm vụ lớn nhất của Beaufre là thuyết phục de Lattre. Dù bị thuyết phục ông ta cũng không hoàn toàn. Dù đại tướng ở Hà Nội hay Sài Gòn, Beaufre cũng phải vất vả: trao đổi, điện thoại, điện tín, tất cả phải chuyển đi dù vào những giờ bất thường nhất. Beaufre tiếp tục giải thích: "Nhưng tôi có ba đội cơ động lao đi cứu lính dù, đã sẵn sàng lên đường, tập trung gần Bắc Sơn. Tôi hứa với ông họ sẽ bước qua những lực lượng quân Việt muốn ngăn chặn. Họ sẽ đến kịp thời.”

- Tốt rồi, tốt. De Lattre càu nhàu. Mấy giờ sau bất cứ ngày đêm, bất cứ chỗ nào, vẫn có vài lo ngại. Ông đích thân xuất hiện hoặc một tùy tùng triệu tập Beaufre hoặc có mệnh lệnh chuyển đến. Beaufre đã có hàng ki-lô báo cáo, lập luận, cố đi trước vấn đề, có khi phải thanh minh. Đấy là lúc đột ngột có một ý nghĩ xảy ra trong đầu de Lattre về vấn đề bất ngờ, khó thấy nhất, một chi tiết không rõ hoặc một phản bác. Beaufre bao giờ cũng luồn lách được.

Về tổng thể, "đại tá chiến trường" nắm trận đánh. De Lattre nói: "Tay Beaufre này lỗi lạc thật". Cứ thế Beaufre tập hợp quân lính và khí cụ đợt lớn nhất chưa từng có ở Đông Dương. Tất cả khối lượng tấn công của quân Pháp ở giữa trung tâm mặt trận, trong mấy chục cây số vuông, không xa Thái Nguyên và Bắc Sơn. Chỉ một đội cơ động để lại vị trí phòng vệ ở đầu vùng châu thổ, ở Vĩnh Yên, nơi còn một số quân Việt hoạt động.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Năm, 2020, 05:54:13 pm

De Lattre hài lòng Beaufre về phương diện chiến lược chiến thuật. Nhưng ông hân hoan về những "tướng tá". Vì vậy ông giới thiệu một loạt, gây ngạc nhiên cho tướng Anh Harding.

Thực vậy, thú vui của de Lattre là chọn người, có trong tay một tập hợp những lính đánh thuê tốt, ăn nhậu và mặt bự, những chỉ huy chiến tranh giỏi. Thu thập "binh lính", ông có đủ loại - từ lớp tiện dân da sần sùi cho đến một số duyên dáng đáng ngờ và quý phái. Nhưng với Erulin, Edon và de Castries ông sử dụng vào việc phản công.

Erulin, ông thích tính giản dị của ông này. Là một đại tá mặt đen, rạch mặt khá ấn tượng, thậm chí đáng sợ. Đánh nhau, chỉ huy là nghề nghiệp của ông, ông làm tốt, có ý thức, với một loại ý thức buồn. Quân đội tôn thờ, thậm chí người ta nói ông tốt, một điều hiếm có trong Đội viễn chinh, ông không hề kiêu ngạo, chỉ một thân hình nông dân cao lớn và một tâm hồn trung thực. Ông rất trầm tư, khó làm cho ông nói, không có gì để nói hoặc vì ông không biết hoặc không muốn. De Lattre có khả năng chấp nhận tất cả, kể cả sự ngây ngô, luôn gọi ông là "Erulin của tôi".

De Castries là người ngược lại. De Lattre thích hơn nhiều vì những tật xấu cũng như những đức tính. Ông rất thoải mái, đủ mọi ngạo mạn và ích kỷ, bất cần đời có giáo dục. Người kỵ binh gầy gò này của thế kỷ XVIII chơi trò lãnh chúa chỉ biết vui thú, đến mức chẳng trung thành gì, chỉ là những liên kết vì quyền lợi. Ông phục vụ nước Pháp không vì bổn phận mà vì muốn thế, vì ông là ông và chẳng nợ nần gì ai. Đây là người lính đánh thuê không tích cực lắm, vô lại bẩm sinh ở chiến trường, bàn pô-khơ, nơi kín đáo và xã hội đen. Khuôn mặt đáng ngại, đường nét táo bạo, mũi to kéo dài, môi mỏng, da hồng, đôi mắt xanh băng giá. Ông có một quá khứ đáng ngờ về những chuyện đàn bà, cờ bạc, đánh nhau, hơi phóng túng trong việc giết người, chuyện tiền bạc. Cưới một bà vợ tỷ phú, đã chia tay, không một xu và không bận tâm. Không phải trí thức nhưng nói dớt, một sự thông minh tà tâm, mê muội trong thái độ phong cách. Với tính chất như vậy ông đánh nhau gần khắp nơi. Coi thường nguy hiểm đến mức không bao giờ mang vũ khí, chỉ gậy và mũ ca-lô là đủ. Ông không tán thành sự cố gắng và tổ chức. Đối với ông là sự bất ngờ. Khi muốn hoạt động cứng rắn, ông "cảm thấy". Chỉ huy bao giờ cũng một cách ấy: nụ cười nhạo báng, đôi mắt ngắm mơ hồ cảnh vật, một số lời lơi lỏng là những mệnh lệnh cụ thể. Nói chung ông quan tâm về chiến tranh ít hơn sở thích của mình - thì giờ dành cho ban tham mưu ít hơn nhiều cho các sĩ quan hậu cần và bồi của mình. Ra chiến đấu ông xử sự và ăn mặc theo cách một người xuất sắc trong câu lạc bộ, cẩu thả một cách chi li, mũ ca-lô bẩn với quần áo sạch, bao giờ cũng với giọng làm ra vẻ chế giễu về cái nghiêm túc và nghiêm túc về những gì vặt vãnh. Luôn luôn có khả năng thăng hoa khi cần, trong những lúc quan trọng.

Bạn bè, những "tướng tá" khác đề phòng đối với de Castries, tự nhủ: "Đấy là ông vua cà-vạt". Nhưng vua Jean hoàn toàn tin tưởng ở ông và tài nghệ của ông, thường kêu lên: "Tôi cần một người toé lửa, đấy là công việc của De Castries". Ông này thường không để người khác chỉ huy mình, rất độc lập, chỉ làm theo ý mình. Nhưng với de Lattre, ông là cậu bé ngoan, "hăng hái", tinh tế trong thiên tài chòng ghẹo, độc miệng, những lời nói sắc sảo để làm "ông chủ" vui thích. Ông tiến hành những trận xung kích xem ra có vẻ điên cuồng nhưng rất khéo léo, khôn ngoan, làm rất tốt cuộc chiến. Không sử dụng quá nhiều bản đồ, mũi tên, chỉ bằng cảm nhận về quân địch, thiên nhiên và những ý đồ của de Lattre.

Thời kỳ ấy de Castries được ân sủng. Nếu vị tướng sử dụng Beaufre là "khối óc" thì ông có de Castries là “lưỡi gươm” khi Beaufre rời khỏi Tiên Yên, ông nóng lòng chờ de Castries đang hoàn thành một số công việc ở vùng ven biển. Cuối cùng ông này có mặt, đến với "đại tá chiến trường" trước Bắc Sơn cùng quân ta-bo, để thực thi trên thực địa những gì Beaufre đã đẻ ra trên giấy.

Một vai trò lớn khác: Edon. Trước tiên không có gì nhiều để nói về ông này: không phải thuộc môi trường de Lattre. Đây là một người xa lạ có sở thích khác, những ủng hộ và thói quen khác. Tướng de Latour lấy ông từ Bắc Phi đến, đã bàn giao lại cho de Lattre vốn cằn nhằn: "Anh này là anh nào?" người ta giải thích là một chuyên gia về người Ả-rập. Vị tướng không thích A-rập lắm, lạnh giá trước những nghìn lẻ một đêm về quân sự.

Vậy là de Lattre nghi ngại Edon. Ông nghi ngại tất cả những người ở các hội khác. Vua Jean đến Đông Dương là địa bàn của những cạnh tranh khác nhau. Của phái thuộc địa trước hết, với Valluy và đồng đội - Salan vì thế là một sự tái hiện cần theo dõi. Sau đó và nhất là đội quân Châu Phi vốn rất mạnh với Carpentier, de Latour và vô số sĩ quan. Kết thúc rồi. Từ nay là thời đại những người Pháp của nước Pháp với de Lattre và đám thân tín.

Nhưng vẫn còn rất đông những quân lính Maroc, Algeria và những người Hồi giáo khác trong Đội viễn chinh. Chính họ là bộ phận xung kích lớn. Tất nhiên đã có de Castries chỉ huy quân ta-bo nhưng ông này không lãng mạn, không thích da màu nâu cũng như vàng. Thực ra vì ích kỷ ông chỉ có thể chỉ huy kỵ binh, những người cùng bọn hoặc "những nô lệ" kiểu ta-bo, những kẻ thô bạo thích cảm thấy bàn tay người chủ cũng táo tợn như họ. Edon là người chúa thực sự của dân Ả-rập. Phải có một ai loại đó để cầm đầu đội cơ động Bắc Phi, đội chủ công của các đội cơ động, quan trọng nhất trong các tiểu đoàn về người và khí cụ.

Vậy là chấp nhận một Edon, người biết việc đang có trong tay, qua thời gian ông ta có thể chuyển theo de Lattre không? Một chiến sĩ tốt, lực lưỡng, hơi quang vinh, hơi cổ điển, có tiếng tăm, nhiều điểm tốt. Ông giống một điền chủ hơn một tướng tá, hơi "trưởng giả", của sa mạc đưa vào rừng. Không hoàn toàn thuộc loại thân cận vì thiếu vẻ nghệ sĩ; vậy là phải tỉ mỉ với ông ta hoặc loại bỏ ông.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Năm, 2020, 05:55:07 pm

Thử thách. Trong lúc này cứ sử dụng ông như vốn thế, cao lớn, đen, răng trắng lóa, khỏe và gân guốc, chồng của một bà vợ nghệ sĩ không có ở đây, bố bốn đứa con, rất thích rượu và đàn bà, tinh thần thẳng thắn, dũng cảm, đánh nhau tốt. Tuy vậy ông có kiểu cách và tế nhị để gánh xiếc lớn de Lattre và thân cận chấp nhận?

Với "đội quân lớn" tấn công Bắc Sơn chỉ còn thiếu người được cưng chiều: Vanuxem. Ông không nằm trong số ở đây, cảnh phô trương Đội viễn chinh để làm lóa mắt Harding. Vai trò của ông là đánh vào hành lang rất xa đấy, chỗ bắt đầu vùng châu thổ ở chân dãy núi Tam Đảo, nơi Phòng Nhì cho là không còn quân Việt nhiều. Vậy là Vanuxem làm nhiệm vụ đánh lạc hướng. Nhưng rồi Vanuxem không được chờ đợi, dấn thân đến trước de Lattre đang ở Hà Nội với cả đoàn người và xe cộ đồ sộ của ông. Vanuxem kêu lên: "Thưa đại tướng, tôi lo ngại về góc của tôi. Phải chăng đúng hơn là quân Việt ở Tam Đảo chứ không phải ở Bắc Sơn?"

Đấy là một sai lầm vì Vanuxem không làm việc của mình. Người mà de Lattre đã đặc biệt chọn lựa cách đây mười lăm ngày. Nhưng đấy là cả một câu chuyện.

Nhớ lại trận thất bại thảm hại của đội cơ động GM số 3 thời kỳ de Latour trong cuộc hành quân "Bécassine", vua Jean quyết định triệu tập ngay Vanuxem. Thật hài hước! De Rover lên máy bay đi tìm ông này ở một góc Nam Kỳ. Đấy là ngày 30 tháng chạp. Rover đưa đến trước mặt ông Vanuxem quần áo mỏng miền nhiệt đới, quần soóc, đi dép, không để cho ông ta tắm rửa, thay quần áo. Đại tướng đang ăn với Bảo Đại ở Buôn Ma Thuột giữa những con voi. "Ông chủ" không cáu trước phong cách thiếu lịch sự ấy, cười bảo: "Tôi ra Hà Nôi. Anh lên máy bay cùng đi. Anh sẽ làm gì? Tôi chưa biết. Ra đấy anh sẽ biết". Vừa xuống thủ đô Bắc Kỳ, ông to tiếng: "Anh nắm lấy GM3 - Nó là cái gì? - Tôi không biết. - Nó ở đâu? - Chẳng rõ". Vanuxem không có một lúc để mặc đủ quần áo rét của mùa đông Bắc Kỳ. Lúc ấy vào buổi hoàng hôn ngày 31 tháng chạp. De Lattre ra lệnh cuối cùng: "Anh phải đi ngay. Đội GM3 đang ở Phúc Yên, vừa mất một tiểu đoàn. - Bây giờ? Đi trong đêm? - Đi trong đêm. Anh có sợ không?" Vanuxem chào. "Hượm đã ở đấy có vẻ núng thế nhưng không nghiêm trọng đâu. Boussary nói chỉ là quân du kích thôi. Anh hãy hoạt động, gây ồn ào, làm như sẽ tấn công. Tôi muốn anh lôi kéo đến đấy một, hai sư đoàn - để rảnh rang cho chỗ khác".

Vậy là Vanuxem lái xe jeep, không tùy tùng, đi ngay đêm đầu năm mới. Ở Phúc Yên, ban tham mưu đội cơ động GM3 vừa bị thiệt hại ở cuộc hành quân "Bécassine", cố vui vẻ một cách tuyệt vọng. Họ cảm thấy đã ở trong vòng vây xiết chặt của quân Việt: họ uống champagne. Không ai được báo trước về việc chỉ định Vanuxem. Lúc một giờ sáng xuất hiện ông rậm râu nửa trần truồng trong quần áo mùa hè. Ông cười gằn, vênh váo, kéo vào một góc đại tá Muller vẫn tưởng mình còn là chỉ huy GM: "Tôi thay anh, nắm quyền chỉ huy. Lệnh của de Lattre". Bối rối chung nhưng ông không bối rối, nói trống không: "Các anh có vẻ suy sụp. Tôi bực mình với quân Việt. Tôi sẽ lột da họ", cử tọa trao đổi ồn ào. Một giọng nói cất lên: "Ở đây ông không gặp người Việt như ở Nam Kỳ. Câu chuyện hoàn toàn khác đấy". Vanuxem tiếp tục: "Người Việt ở đây tôi biết rõ hơn các anh. Trước khi đi dạo lông bông ở Đồng Tháp Mười và tất cả các vùng bẩn thỉu Mékong tôi đã lăn lộn nhiều năm ở Hòa Bình, cách đây bốn mươi cây số. Tôi bảo các anh khắp Đông Dương cũng là những người Việt ấy cả. Những kẻ khốn khổ mà tôi sẽ quét đi hết."

Trong những ngày đầu tháng giêng de Lattre hai lần đến xem con người thân tín của mình. Vanuxem vẫn là một kẻ phiêu lưu tuyệt vời. Đã nhiều năm ông cho ra đời bộ râu hung, huyền thoại "bố của những người Mường", những tiếng nói dùi đục, những tiếng cười ồ ồ. Vấn đề của ông bây giờ là cải tiến phong cách mình, nâng cao với những chi tiết mới. Vanuxem cũng có nét ngộ nghĩnh làm đại tướng vui thích. "Kẻ ăn thịt đồng loại", như người ta mệnh danh cho ông, tham gia vào những cú đánh thốc hàm bằng miệng của ông một mớ rao giảng tồi về những thần thánh chung, cả một triết lý thông thái rởm về đạo đức chiến tranh, về nét đẹp của bạo lực.

Vanuxem có cá tính. De Castries chỉ tuyên bố: "Tôi là kỵ binh, giòng dõi các lãnh chúa Pháp" vừa làm như không nghĩ ngợi, bất cần tất cả. Vanuxem ngược lại, đầu óc luôn làm việc, nghiền ngẫm mưu kế "nắm bắt" quân Việt. Khi không phải quân Việt thì là một ai đó. Ông không thể để người ta yên, luôn hoạt động, khoe khoang, đùa cợt hoặc quấy rầy người khác. Các sĩ quan GM3 nhanh chóng chấp nhận ông làm "ông chủ". Đến GM ông quá "bốc đồng" theo những người ở đấy. Những người này suy sụp, nghĩ rằng có hoặc không Vanuxem cũng thất bại. Thậm chí họ sợ Vanuxem quá hăng hái, tự đề cao mình, dễ dàng rơi vào một "trường hợp xấu" hơn người khác. Nhưng de Lattre trước sự phô trương tính năng động, hài lòng về Vanuxem của ông. Mọi việc êm đẹp.

Cũng không êm đẹp lắm. Vanuxem sau khi bốc lên để nắm quyển chỉ huy, đến lượt hơi xẹp xuống. Ông nhận thấy không có mệnh lệnh cụ thể và mình chẳng biết gì. Nếu thay vì chiến thắng mình là người chiến bại thì sao? Ông bèn nghiêm túc bắt đầu nhìn quanh mình. Không phấn khởi. Các đơn vị kém cỏi, tinh thần xuống đến số không. Sĩ quan và binh lính đội GM ám ảnh bị bao vây. Họ chắc chắn quân Việt ở rất gần, chuẩn bị ào ạt xông vào họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Năm, 2020, 05:56:07 pm

Vanuxem lúng túng. Làm sao báo trước cho de Lattre càng ngày càng chịu ảnh hưởng của Boussary? Giáo chủ Phòng Nhì của vua Jean phán quyết hoàn toàn ngược lại: các sư đoàn ông Giáp sử dụng Bắc Sơn làm căn cứ hậu phương và Đông Triều làm căn cứ tiền phương. Bắc Sơn là nguồn cung cấp cho Đông Triều, vùng núi nhô ra châu thổ ngay trên con đường Hà Nội - Hải Phòng, huyết mạch của quân Pháp. Từ đây quân Việt ra khỏi núi rừng, cắt con đường bất khả xâm phạm, tiến vào Hải Phòng, hải cảng lớn đưa đến mọi thứ cho Đội quân viễn chinh, nơi họ có thể lại lên tàu về nước. Kết luận tuyệt đối lôgic của Boussary ít nhất là theo các định đề của ông. Không để cho quân Việt làm. Phải đi trước họ, lật ngửa họ lại nhờ vào chiến dịch "Hình thang".

Không có dự kiến gì cho Phúc Yên, Vĩnh Yên. Boussary nhún vai bảo: "Vùng ấy quá xa đối với ông Giáp và các đội quân chính quy". Vì thế de Lattre lại ra lệnh cho Vanuxem: "Làm đòn gió, lạy Chúa, làm đòn gió; kéo người ta đến!" Nhiệm vụ của Vanuxem là đầu độc, lừa quân Việt. Vanuxem càng bối rối. Phải chăng chính quân Việt đang lừa de Lattre, Boussary và Beaufre? Trong trò đầu độc phải chăng họ mạnh hơn? Và nếu, thay vì rơi vào bẫy, họ giăng bẫy?

Những dấu hiệu không lành tăng lên xung quanh Vĩnh Yên. Đội tuần tra bắt được một tù binh, tìm thấy một bản đồ như thế nào! Một mũi tên lớn chĩa vào Vĩnh Yên, quá xuống Sơn Tây, sông Đà và sông Hồng, xuống đến Hà Nội theo đường đê. Điều này giống như đường một cuộc phản công lớn với mục tiêu chiếm lấy thủ đô theo một đường vòng đầu vùng châu thổ. Các sư đoàn Việt chọc thủng đầu mặt trận chỉ có đội cơ động GM3, đánh thẳng xuống Hà Nội qua vùng châu thổ không có quân đội Pháp, vòng qua bộ phận lớn Đội viễn chinh. Cuộc tập hợp lớn người, và khí cụ được Beaufre tiếp nhận đối mặt với những con đường trực tiếp tấn công ở phía bắc Hà Nội.

Tài liệu kinh khủng. Nhưng thực hay giả? Đấy là sự thật hay một mưu kế? Những tù binh Việt được thẩm vấn tinh tế cho đến khi họ nói, các chỉ điểm được kể là hoạt động tốt, những "đường dây" do khai thác và tiền phù hợp. Điều ấy có vẻ đúng. Vanuxem tự nhủ: "Chính mình nhận đủ".

Cũng có điều lạ đáng lo ngại. Những biệt kích Việt luồn vào sâu không tấn công, như chỉ đi thu thập tin tức. Quân chính quy đột nhập vào một trạm xe cộ lẻ, phòng vệ kém, ngay phía sau Vĩnh Yên. Không một chiếc xe nào bị lấy đi hoặc phá huỷ, như quân địch tránh làm hỏng phương tiện họ chắc chắn sẽ chiếm làm chiến lợi phẩm trong mấy ngày tới. Trong vùng không một chiếc cầu nào bị phá huỷ. Ngược lại chính một xe tăng Pháp trượt, lật nhào, làm hỏng một cầu. Tất cả những việc đó đáng ngờ, rất đáng ngờ.

Trong Sở chỉ huy, Vanuxem không nao núng. Nhưng nhiều ý kiến làm ông suy nghĩ. Ông quyết định đến nói hết với de Lattre. Nhiệm vụ tế nhị! Ông sẽ ra sao nếu vị tướng cho rằng ông sợ vì một việc không đâu! Đại tướng tiếp nửa chua nửa ngọt: "Anh cũng như mọi người, anh muốn làm tôi run vì anh là kẻ run sợ, ít nhất nếu anh không chỉ muốn lưu ý tôi về những điều ấy. Nên nhớ tôi chọn anh để làm công việc hầu như không có gì. Tôi nghĩ anh là một chỉ huy khá lớn về việc ấy đấy. - Những thưa đại tướng..." Cuối cùng de Lattre nghiêng về tin ông. Tuy vậy Boussary vẫn không lay chuyển. Các Phòng Nhì vẫn luôn luôn không lay chuyển về những xác tín của họ. Vanuxem đành rên rỉ: "Tôi không có cả trọng pháo". Những gì ông nhận được trong chuyến đi này là mấy khấu ca-nông kiểu Anh và số đạn cối phù hợp còn ở trong hòm. Loại xấu bỏ đi và đang ở Nam Kỳ ông phải bảo đưa tới.

Mặc dù có báo động nhỏ ấy, mọi việc tốt đẹp. De Lattre trở lại Sài Gòn, đưa Harding cùng đi. Đấy là ngày 12 tháng giêng. Đại sứ quán Anh chiêu đãi. Bề ngoài thỏa thuận thân mật. De Lattre được bố trí một tuỳ tùng người Anh, là người hào hoa mặc quân phục. Là người đi với ông đến Fontainebleau. Ông đưa anh ta sang Đông Dương. Tên đẹp: Hughes Ducan.

Harding về nước. Ducan ở lại, không lâu. Một buổi tối người ta thấy anh ăn mặc tồi tàn trong một chiếc xích lô bị lật đổ. Anh đi đâu, làm gì? Bí mật. Anh biến khỏi sân khấu de Lattre. Điềm xấu với những hy vọng đối với người Anh của de Lattre. Nhưng không phải dễ nản chí, mấy tuần lễ sau ông lại bố trí giới thiệu toàn bộ, có uy thế hơn, với Malcom MacDonald, cao uỷ Anh ở Malaysia, khoảng bốn mươi tuổi, hoạt bát, có vẻ tay chơi một ít, chính khách, mật thám, là con trai một đảng viên Công đảng tôn trọng nguyên tắc. Nhưng đấy là sau này, qua các sự kiện.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Năm, 2020, 06:12:50 pm

Chờ đợi "Hình thang". De Lattre có đặc điểm: khi ông có một điều gì đó tin chắc, trừ phi tin chắc hoàn toàn và tuyệt đối, ông không tin hẳn hoàn toàn. Có cái gì đó luôn gặm nhấm ông. Cần thiết nắm vững được sự thật, tất cả, khi không "cảm thấy" hoàn toàn tình hình. Đấy là điều đang xảy ra. Ông bị Beaufre, một "thiên tài" thuyết phục. Nhưng là một thiên tài không có lương tri, phải chăng là một tai biến? Ông vẫn giữ một kỷ niệm không sáng rõ, nhưng có tác động về sau: phải chăng chính Beaufre trước đây đã tổ chức cầu kỳ vụ đường số 4 và sau này bị thất bại? Bây giờ theo lệnh ông, Beaufre ấy bắt đầu lại một bộ máy lớn. Suy nghĩ về điều ấy de Lattre lo lắng, nhất là việc thả dù dự kiến nhiều trăm người trên Bắc Sơn: nếu không tìm lại được họ?

Vừa căn bản ủng hộ Beaufre, vậy là de Lattre cử người bám sát ông này, làm phó, đối lập, kẻ thù tự nhiên của "đại tá chiến trường". Đấy là đại tá Redon, một người thuộc địa cũ vững chắc, những nét nhăn rõ rệt, đôi mắt tươi cười. Ông có kinh nghiệm đặc biệt về việc đánh nhau trong rừng cũng như về công việc văn phòng và các ban tham mưu. Ông biết rõ vua Jean. Với thái độ rất khoan dung, ông gợi lên cho vị tướng và những đầu óc lớn cận thần rằng ông, đại tá tầm thường, biết tất cả về cuộc chiến tranh Đông Dương mà họ không biết. Không lý luận mà là người thực hành và vững chắc.

Vừa sang Đông Dương de Lattre cho gọi Redon: "Anh có thể có ích cho tôi. Anh đến với tôi". Lúc đầu ông làm người dẫn đường cho vua Jean trong những cuộc "đi dạo" khắp Bắc Kỳ. Rồi vị tướng có ý nghĩ đưa ông theo dõi Beaufre đang làm kế hoạch như một khổ sai. Một trong những đôi mà de Lattre yêu thích. Trước hết là Beaufre, người ta mơn trớn, khuyến khích và tự hỏi: "Anh ta có quá trí thức, lôgíc, lý thuyết không?" Và người ta đặt đối trọng là ông Redon này, sắc sảo trong vẻ hiền từ, đòi hỏi lương tri và những thực tế vững chắc.

Gần đến ngày N quyết định cho chiến dịch "Hình thang". Ở Sài Gòn, de Lattre không ngồi yên trong lâu đài Norodom. Trên chiếc Dakota ông đi lại thường xuyên giữa Sài Gòn - Hà Nội. Ông luôn nhảy xuống thủ đô vài giờ để "xem sao”. Vì thế ông gặp Redon của ông tha thẩn ở một góc hành lang. Rõ ràng ông ta không đồng tình với việc đang chuẩn bị. De Lattre hài lòng - ông sẽ biết mọi việc.

Tối hôm ấy, lúc mười giờ rưỡi, lệnh cho Redon đến gặp ông ngay tại "ngôi nhà Pháp". Ông ngồi ở một góc phòng khách, vẻ càu nhàu. Nhưng ông thanh thản khi Redon chào ông với cử chỉ khô khan của một người câu cá đang mắc mớ.

- Vào trong văn phòng tôi nói chuyện thoải mái hơn. Anh có vẻ không sốt sắng lắm với "Hình thang".

- Thưa đại tướng, ông thẳng thắn, tôi cũng xin nói thẳng. Cuộc hành quân này là một điều điên rồ, thuần túy theo lý thuyết. Chúng ta sắp tung vào Bắc Sơn cả đoàn quân chiến đấu, lính dù, các đội cơ động, tất cả mọi chuyển động. Nhưng nếu quân Việt không có ở đó? Và nếu họ lao vào châu thổ, chỗ không còn ai để ngăn chặn, ở hai đầu mặt trận, một phía về Lục Nam, một về Vĩnh Yên? Họ sẽ có đủ thời gian đến Hà Nội trống trải trong lúc chúng ta cố sức vô vọng đưa quân trở về. Ông nhớ Carpentier đã cử Đội quân viễn chinh đến Thái Nguyên, không sử dụng làm việc gì trong lúc các đoàn quân Charton và Lepage bị tiêu diệt trên biên giới. Thưa đại tướng, sau mấy tháng đưa lực lượng cũng trở lại vùng ấy, ông có nguy cơ gặp một câu chuyện xấu loại như thế. Còn nghiêm trọng hơn. Vì không phải ông mất đường số 4 mà chính Hà Nội.

De Lattre bị kẹt hoặc giả vờ thế. Dù sao ông thân mật vỗ vai Redon, thể hiện gia ân. Cũng chứng tỏ việc không tán thành Beaufre:

- Redon, anh nói đúng, Beaufre đưa lại cho tôi những rắc rối với cách nhìn lý thuyết không có tính thực hành những bài bản về tham mưu. Anh dũng cảm nói với tôi rằng anh không tin. Nhưng thực tình, Redon, giữa những người đàn ông với nhau, anh thấy chiến dịch "Hình thang" ấy là nguy hiểm?

- Có thể là chết người.

Tối hôm ấy sở chỉ huy công việc sôi sục. Người ta hoàn thành những kế hoạch hành quân: mọi kế hoạch phải xong kịp tám giờ sáng hôm sau. Beaufre không ngủ nữa, không còn sống từ một tuần lễ nay, quyết định tự đến gặp đại tướng báo cáo việc bố trí cuối cùng. Tùy tùng bảo đại tướng đang bận, đang nói chuyện với Redon. Nhiều giờ trôi qua, "đại tá chiến trường" chờ đợi ở tiền sảnh, kiên trì, nóng lòng, quá sốt ruột. Đại tướng vẫn bận. Cuối cùng Beaufre không được tiếp.

Sáng hôm sau Beaufre mặt ủ ê, Redon rạng rỡ. Ông thông báo với Grosjean, người trung thành của Beaufre vẫn còn xoay xở trên bản đồ ở sở chỉ huy:

- Anh có thể đi ngủ. "Hình thang" đã chết ngay khi sinh. Đích thân de Lattre đã nói với tôi ông sẽ hủy bỏ toàn bộ việc này. Chốc nữa ông sẽ có mệnh lệnh cho các anh.

Ngủ dậy de Lattre không nói gì. Không thổ lộ một lời. Người ta chỉ nhận thấy ông thực sự thoải mái, thư giãn, sung sướng như đã tìm được một giải pháp tốt. Nhưng giải pháp nào? Bí mật. Bỗng nhiên ông cho nói với Beaufre: "Tôi đưa anh cùng đi Sài Gòn." Việc này có ý nghĩa như thế nào? Đối với Beaufre cuộc hành quân vẫn giữ, đối với Redon là huỷ bỏ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Năm, 2020, 06:14:07 pm

Việc di chuyển hàng loạt, phô trương, vào Sài Gòn, chưa bao giờ có. Vua Jean mang theo mình toàn bộ thân cận những con người đủ loại. Ở Hà Nội, chẳng còn ai trừ Monette vẫn bị cảm và de Royen vẫn chịu trách nhiệm trông nom bà.

De Lattre im lặng. Tất cả cận thần suy nghĩ về sự im lặng ấy. Điều ấy báo trước việc gì? Những việc làm của Beaufre dựa vào lý luận khiến cả lớp người này tự nhủ: "Nếu "Hình thang" bị huỷ bỏ thì tại sao de Lattre trở lại Nam Kỳ một lần nữa? Và nếu ông mang theo "đại tá chiến trường" là để lừa quân Việt, tất cả được giữ lại, sẽ khởi sự. "Ông chủ" có vẻ mặt trọng đại."

Thực vậy, de Lattre rất hài lòng. Nhất là ông đã làm bùng lên một sự bất hòa trong những người của mình. Trong việc tranh cãi giữa Beaufre và Redon ông đã tìm ra con đường đúng. Beaufre muốn vinh quang, Redon muốn lẽ phải. Ông chọn dung hòa cả hai. Không có vấn đề từ bỏ "Hình thang" nhưng tại sao không giảm nhẹ nó đi, làm nó không nguy hiểm vừa làm những việc lớn? Không tùy tiện, không thả dù trên núi rừng. Nhưng tại sao không sử dụng các đội cơ động đánh vào mặt trước vùng châu thổ giữa Bắc Sơn và Đông Triều? Ở đây đồng bằng đi sâu vào như một ngón tay giữa hai dòng núi trong vùng Bắc Ninh, phủ Lạng Thương, Lục Nam. Boussary nói rằng chỗ này những Sư đoàn lớn quân Việt trú ngụ ven vùng núi và đoạn cuối châu thổ. Chiến thuật, chiến lược mới: cử hai đội cơ động của Erulin và de Castries chọc tức quân địch, lôi kéo họ ra khỏi căn cứ nhử mồi và tấn công họ bằng bộ phận lớn của Đội viễn chinh tập trung phía sau: những đội cơ động khác, những đoàn xe bọc thép đã tập hợp, những đội trọng pháo, những máy bay tiêm kích chờ đợi ở sân bay Bạch Mai, cuối cùng là bom na-pan, vũ khí bí mật hình như quân đội họ không biết. Một chương trình đẹp.

Còn gì thú vị hơn giao cho Redon chỉ huy tấn công về phía Chu, "Hình thang" rút ngắn. Ông này không thù ghét nữa mà nhận ngay. Dù có Beaufre như trí óc bề trên trong sở chỉ huy chiến lược.

Tất cả được chuẩn bị sẵn. Không ai còn lo lắng gì đến Vĩnh Yên, nơi Vanuxem đã nhận những khẩu ca-nông Anh nhưng chưa nhận được đạn cối Anh. Từ đấy Vĩnh Yên bị gạt ra ngoài mọi bận rộn.

Công việc đã sẵn sàng, bố trí từng chi tiết ở Sài Gòn để vua Jean xuất hiện ở mặt trận Bắc Kỳ đúng vào lúc cần trong bộ máy đồ sộ nhất để phản công và hái những vòng nguyệt quế.

Việc chuẩn bị tâm lý cũng khoa học. Ông để Chính phủ Paris cảm nhận chiến thắng sắp tới của ông. Những ki-lô điện tín cho tổng thống Cộng hòa, các bộ. Đám thân cận kiệt sức vì viết quá nhiều. Công việc lớn nhất là một báo cáo gửi cho Letourneau, điều không thể lơ là. Mọi người đều được nói đến trong đó. Thế là xong, người ta đóng dấu xi trên chiếc phong bì lớn với sự tỉ mỉ khác thường.

Ngược lại đối với các nhà báo, đại tướng hoàn toàn cho "ra rìa". Phải chuẩn bị âm ỉ. Những người thân cận, thay vì khoe khoang, hít thở mùi vị chiến thắng, nét mặt rất buồn. Họ từ chối trả lời như nhằm giấu những tin tức xấu. Tiếng đồn thổi tai họa lan truyền. Bỗng nhiên trong Sài Gòn câm lặng này người ta được biết de Lattre biến mất. Ông cấp tốc ra Hà Nội, nơi quân Việt phản công cực lớn.

Thực tế tất cả ngón khôn khép nhằm tạo ra dư luận như một bánh phồng. Bằng hai đợt, thứ nhất: lan truyền nỗi lo lắng trong các phóng viên và toàn thành phố, điều dễ làm với một số nhân viên đắc lực; thứ hai: Dồn cho những người suy sụp đòn lớn thành công, chiến thắng của chiến dịch "Hình thang" san bằng quân Việt. Lúc ấy, sự bất ngờ, hạnh phúc tràn đầy sẽ trở thành những vụ nổ lớn. Khuynh hướng bi quan giả vờ. Điều kỳ lạ là sự bi quan giả tạo ấy thành sự thật rất đúng. Vì thay vì lao tới với "Hình thang", các đội quân Pháp phải rút lui, hoàn toàn bất ngờ vì quân Việt. Chính họ phản công lớn đầu tiên, đi trước Đội viễn chinh hai mươi bốn tiếng đồng hồ, bất ngờ tấn công quân Pháp, ở chỗ tuyệt đối không hề chờ đợi.

Sài Gòn hoàn toàn bối rối. De Lattre như không biết, tiếp tục kịch bản "Hình thang". Ông ẩn mình trong lâu đài Norodom làm người ta tưởng ông đi rồi. Ông chỉ ra đi mờ sáng ngày 14 tháng giêng vẫn tin tưởng mặc dù có vài báo cáo mơ hồ về những "mánh khoé" của quân Việt. Ông hạ cánh xuống sân bay Hà Nội vào buổi trưa. Tiếp đón de Lattre và đoàn tùy tùng chỉ là những "lời nói ngược lại", những người rụng rời. Cuối cùng người ta dám nói sự thật với de Lattre. Trong đêm 12 sáng 13 cuộc phản công của ông Giáp tràn ra trên một trăm cây số - mặt trận bị vỡ. Vua Jean được tin ấy chậm mất hai mươi bốn tiếng. Chậm chạp không ngờ, đã là dấu hiệu bại trận, nhức nhối, sợ hãi. De Lattre bình tĩnh. Vị tướng duyệt một phần đội dù tôn vinh ông. Rồi ông về "Ngôi nhà Pháp" của ông.

Không giận dữ, ích lợi gì? De Lattre tỏ ra tươi tỉnh giữa những khuôn mặt buồn và những tin tức xấu; đúng ra là ông thỏa mãn. Điều này có lẽ sẽ là giờ hành động của ông. Chỉ có ông mới biết đẩy mạnh số phận. Dù "đứa con chưa được như dự kiến", ông cũng sẽ sản sinh thắng lợi.

Lúc đầu vua Jean chưa thực sự biết hết tai họa: ông không thể ngờ. Thế những ngay buổi chiều ông phải chấp nhận điều hiển nhiên: Ông đang đứng trên bờ vực. Thất bại theo sát ông. Cuối cùng ông thắng nhưng biết bao khó nhọc hy sinh, cố gắng khiến ông luôn luôn có một e dè nào đó với người Việt.

Vĩnh Yên. Những giờ đẹp nhất của de Lattre ở Đông Dương. Chiến thắng với một nỗ lực lớn và không ai biết cố giành giật như ông. Chiến thắng lớn của de Lattre, chiến thắng lớn duy nhất của người Pháp ở Đông Dương. Tuy vậy sau đó de Lattre có linh cảm: cuộc chiến sẽ gay go hơn nhiều mà ông không bao giờ hình dung tới, con ong bò vẽ không xê dịch được mà tướng Juin khôn ngoan đã không muốn dính vào.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2021, 05:52:11 pm

Chương III
CUỘC CHIẾN Ở VĨNH YÊN



Ngày 14 tháng giêng ra Hà Nội, ông còn ảo tưởng, nghĩ sẽ bay đến "Hình thang", tới điểm hẹn vào ngày chủ nhật. Trước khi lên Dakota, ông ra lệnh dứt khoát: "Làm sao tất cả các nhà báo của tôi, không thiếu người nào, đi theo tôi. Đưa họ lên một chiếc máy bay khác, có mặt ở Bắc Kỳ sau tôi ba, bốn giờ, trước hết cần tìm họ trong Sài Gòn. Nắm cho được họ ngay, tôi muốn có họ".

Trong hai tiếng đồng hồ các phóng viên được phát hiện ra hết, ngay trong những tiệm hút và những ngôi nhà đáng ngờ để đưa lên một chiếc máy bay. Chẳng có giải thích gì. Về nguyên tắc việc chở những nhà báo đi là để tổ chức lễ mừng, chiến thắng của đại tướng. Về nguyên tắc... Vì chính thức ai nấy còn im miệng. Như vậy những phái viên đặc biệt đi từ một tin tức mơ hồ sang một sự lo lắng thực sự.

Trên đường bay tất cả trở nên rối loạn và không hiểu được. Có thể nói máy bay được một ngọn gió thất bại chuyển đi. Những tiếng đồn về thảm họa nghe được ở Sài Gòn đã hầu như chắc chắn. Một số sĩ quan chặt chẽ, nghiêm túc thêm vào trong số phóng viên tâm sự với nhau. Một người thì thầm: "Mặt trận vỡ rồi. Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ cuộc phản công của ông Giáp tràn ra trên một trăm cây số”.

Xảy ra ngay trò hài hước. Các nhà báo Mỹ đánh hơi thấy một tin lớn. Không hiểu rõ tiếng Pháp họ không biết là tin gì. Họ nổi khùng. Đỏ tía mặt, họ chửi rủa, sẵn sàng đánh nhau, hét lên những câu hai loại ngôn ngữ "bập bõm" về sự thiên vị thông tin, bất công, khiếu nại v.v... Các đồng nghiệp Pháp phóng ra cho họ mấy câu. Những người Mỹ đặt ngay máy chữ lên đùi, đánh những trang dài điện tín về sự thất bại của Đội quân viễn chinh.

Một số sĩ quan Pháp buộc phải im lặng, thậm chí phải khen vị tướng những năm vừa qua, có một niềm vui âm ỉ, như được trả thù. Một người dã man nói về vua Jean:

- De Lattre bị thác loạn. Cuộc chiến của ông ta đã vô vọng rồi. Thay vì cứu lấy những đổ vỡ, ông đang ném vào sự thất bại những tiểu đoàn cuối cùng, nhấn chìm những người cuối cùng của chúng tôi. Kiêu căng, ông ta sẽ gây nên thảm họa toàn bộ, tuyệt đối, không tránh khỏi. Vì chẳng bao giờ nên đặt tất cả trứng vào một giỏ.

Tôi chẳng biết ra sao trừ khi thấy de Lattre đang ở vào cực điểm. Tôi nghĩ thế ngay khi hạ cánh xuống Hà Nội. Những chiếc xe jeep cắm cờ hiệu chờ ở sân bay, cấp tốc đưa chúng tôi về "Ngôi nhà Pháp". Vị tướng mới tới đây chưa tới một giờ, đã tự biết chỉ một mình chống lại sự tan vỡ. Phải làm tất cả - có hàng nghìn mệnh lệnh đưa ra. Đầu tiên là: "Tổ chức cuộc họp báo. Đưa những nhà báo của tôi tới đây. Nếu họ kể là chúng ta thất bại, chúng ta sẽ hỏng hết. Điều cần thiết là phải nói mạnh. Còn lại là cuộc chiến, quân lính, có thể chờ một tiếng đồng hồ. Trước khi thắng trên thực tế, phải thắng trong ảo tưởng." Và ông nôn nóng chuẩn bị đạo diễn.

Toán thô thiển chúng tôi mang máy chữ và máy ảnh được de Royer tiếp, đưa vào phòng khách lớn: de Lattre một mình ở đấy.

- Thưa các ông, ông trịnh trọng thông báo, tôi sẽ nói hết với các ông, toàn bộ sự thật. Tôi vừa đến trong một tình hình rất khủng hoảng. Tôi đã bố trí những biện pháp cần thiết. Người của tôi chiến đấu rất đáng khen.

Bồi mang nước giải khát vào. De Lattre bắt tay từng phóng viên. Sau vài phút chuyện trò, ông khoát rộng tay: "Các ông vào đi". Tùy tùng mở một cánh cửa. Đấy là phòng làm việc của đại tướng với mọi trang trí nhanh như trở bàn tay, chuẩn bị đón chúng tôi - chiến trường của các nhà báo đi trước chiến trường của quân lính. Trên tường là tấm thảm khổng lồ những bản đồ các trận đánh; ở chân tường, các tướng, tá của ban tham mưu, những quân nhân thân cận, cấp bậc chỉ huy cao, những viên chức tin cậy, tất cả đứng nghiêm. De Lattre ngồi ở bàn giấy giữa phòng, ghế phô-tơi xếp xung quanh theo hình vòng cung. De Lattre nói với các nhà báo: "Mời các ông, ngồi." Các tướng tá vẫn đứng ở chân tường. Với đôi mắt đè nặng mọi người, ông nhìn xem tất cả đã như ý mình chưa rồi dõng dạc. "Boussary, bắt đầu đi". Boussary vẫn là trưởng các Phòng Nhì, hơn bao giờ hết là người đa tài nói giỏi, lập luận rõ ràng. Ông trình bày kỹ tình hình trên bản đồ. De Lattre đôi mắt nhắm dở, nghe mấy phút rồi bỗng bùng nổ thường thấy như mỗi lần đối với người được cử trình bày trong những hoàn cảnh ấy.

- Ông im đi. Bất lực quá. Tôi sẽ tự nói.

Từ khi chúng tôi đến cho đến lúc ấy de Lattre là một khối đá bình tĩnh - không một nét động đậy trên mặt, không một nhấp nháy mắt. Đột nhiên ông lại là người hùng biện nói lớn và có hiệu quả. Chỉ cần mấy câu và lớp báo chí quốc tế "của ông" đã đắm mình vào tình hình gấp gáp - không phải tình hình xấu hổ, nặng nề mà là chủ nghĩa anh hùng say mê buộc đi tới thắng lợi. Và chính tình hình ấy, được trình bày như thế, sẽ thành những bản tin vô tận, đăng trên mọi báo chí thế giới.

- Thưa các ông, đấy là cuộc tổng phản công vào Hà Nội. Quân địch dốc hết những gì mình có vào trận đánh. Lần đầu tiên chỉ huy đối phương đưa hết lực lượng ra, năm sư đoàn. Trên trận chiến này quân lính của tôi quá ít, chỉ là mấy nhóm người trước những khối người Việt, quân số ít nhất gấp ba lần chúng tôi. Lần đầu tiên ông Giáp đánh dàn trận - ban ngày và thành chiến trường. Không chỉ còn là những đợt xông lên ban đêm vào các bốt những cuộc phục kích dựa vào rừng. Có những cái đó nhưng cũng có cuộc chiến, cuộc chiến có bố trí, hoạt động phản công và chống phản công, tiến lùi trên một mặt trận thực sự, như ở Châu Âu - cuộc đấu cơ mà. Đấy là vì chiến lược mà ông ấy quyết định đánh chúng tôi: đối đầu giữa ông và tôi cũng như quân của ông và quân của tôi. Nhưng tôi đã đoán biết kế hoạch của ông ta: ba đợt, ba trận, ông ta sẽ đánh ba lần theo chiều hướng tăng dần.

Có đúng thế không? Tôi không biết cũng như cả cử tọa không. Đây đã là một "câu chuyện" rất hay với những từ quyết định mà de Lattre tuôn ra rất tự chủ. Giới báo chí, không suy nghĩ, không nghi ngờ, ngồi đấy miệng há ra, ghi chép vào sổ tay với cơn đói tin khác thường, trong quá trình de Lattre nói:

- Điều ấy lúc đầu là sự giả vờ, giả vờ chiến thuật và chiến lược; xảy ra ở cuối bên phải trận địa của chúng tôi, trong vùng... trong vùng...

De Lattre quên mất tên. Ông ấp úng cho đến lúc một sĩ quan nhắc: "Lục Nam”. Cuộc chiến kéo dài suốt đêm 12 và ngày 13 - vừa kết thúc. Quân Việt cố sử dụng một bốt chúng tôi như một lưỡi câu, tấn công ban đêm như vẫn thường làm. Có khác là thay vì rút đi ban ngày, họ làm như rút nhưng dàn quân trên đồng ruộng, dĩ nhiên ngụy trang, chuẩn bị một bẫy chết người, một lưới lửa đại liên và ca-nông, bắn vào đội quân giải cứu, gây bất ngờ và tiêu diệt. Toàn bộ một lữ đoàn Việt quyết tâm tiêu diệt đội cơ động của Erulin đến cứu bốt. Những Erulin thật tuyệt vời. Thay vì bị làn thác đổ cuốn đi, ông trụ vững, đẩy lùi quân địch. Người ta bảo quân Việt tổ chức hò hét, bắn giết điên cuồng gây nỗi sợ hãi, tháo chạy để dễ dàng tiêu diệt. Erulin người khổng lồ vững vàng rất bình tĩnh trong Sở chỉ huy, nói điều cần nói, làm điều cần làm, truyền sự bình tĩnh của ông cho các đội quân. Cách ông mấy mét các sĩ quan trong ban tham mưu bắn vào quân chính quy xuất hiện để "hạ" ông. Ông không nhận thấy. Nhìn vào đám đông quân địch, nhìn vào bản đồ thu thập được từng mẩu, ông đang bận nói và cho truyền lệnh: "Tiểu đoàn này tiến lên vị trí này; đại đội kia chiếm lấy chỗ kia." Nếu không có trả lời, ông cử sĩ quan tham mưu tới, ông đích thân tới đó. Những động tác điều phối được chấp hành, đội cơ động đã hoạt động. Quân lính lúc đầu rụt lại, hình thành khối thất vọng người ta gọi là ô vuông, tất cả thành nhóm xung quanh ca-nông, chuyển động nhóm này rồi nhóm khác. Họ len lỏi gần như vừa ngồi vừa bò sau những bờ đê nhỏ. Rồi dán mình sau những mô đất ấy xếp thành hàng chỉ ngẩng đầu nhìn và ngón tay trên cò súng, họ ào xuống những làn sóng chính quy Việt. Sau đợt tàn sát ấy, đội cơ động GM lại tiến lên, đến bốt bị tấn công vốn đang trụ vững.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2021, 05:53:16 pm

"Thưa các ông, đây là đại tá Erulin. Ông đến Hà Nội để báo cáo. Tôi hân hạnh giới thiệu ông ấy với các ông. Tôi đã ra lệnh cho ông ấy trả lời các câu hỏi của các ông".

Erulin đúng là bức tượng, một bức tượng đáng sợ nhưng tê liệt, câm lặng vì hãi hùng. Trong văn phòng de Lattre ông đứng ở chân tường, không dám bước lên trước một bước. De Lattre đùa vui: "Nào, tới đây Erulin của tôi. Đừng sợ. Đã không sợ quân Việt, một đại tá như ông không được run trước các nhà báo: họ rất dễ mến, là bạn của tôi vậy cũng là bạn của ông". Erulin bước ra giữa phòng nhưng không nói được một lời dù de Lattre khuyến khích: "Nào, nói đi Erulin nói đi ông bạn". Erulin khốn khổ! Mấy tuần sau đó ông trúng mìn chết. Sau này người ta lấy tên ông đặt cho một công sự trong vùng Lục Nam, ngay sau thảm bại ở Điện Biên Phủ, một trong những chỗ cuối cùng đánh nhau ở Đông Dương.

Tuy thế de Lattre như để che đậy việc rút lui của Erulin trở lại chân tường, nói to lên:

- Thưa các ông, tôi tự hào được chỉ huy những người như Erulin và quân lính của ông: tất cả là những người anh hùng. Chốc nữa tôi sẽ đến bệnh viện tặng thưởng trung uý Loregnard, trưởng đồn Cam Lý bị tấn công. Trung uý bị thương nặng từ đầu cuộc tấn công, tiếp tục qua điện đài chỉ dẫn trọng pháo Lục Nam. Máu ra nhiều không được băng bó, ông bảo: "Khép chặt lại. Khép chặt làn đạn bảo vệ xung quanh bốt tôi. Gần hơn, năm mươi mét, mười mét, gần hơn..." Và khi quân Việt vào bên trong, đánh nhau giáp lá cà, trung uý chỉ huy các pháo thủ: "Bây giờ bắn hẳn vào trong bốt, nhiều vào".

Mọi việc tiến triển tốt. Một phóng viên Mỹ hỏi tên của Erulin và Loregnard. Đại tướng ngoảnh lại đám thân cận mà người nào cũng lắc đầu không biết. De Lattre sửng sốt về sự lơ là như vậy: "Tôi lấy làm lạ, ông nổi cáu nói, các anh không biết? Thật không chấp nhận được." Cogny cũng nặng nề đưa tay lên đầu. Redon láu lỉnh tự nguyện đi tìm hiểu, rời gian phòng với nhiệm vụ chủ yếu ấy.

- Thưa các ông, vào giờ tôi đang nói với các ông đây, là phần hoạt động chủ yếu. Ngay từ đầu tôi đã cảm thấy cuộc tấn công vào Lục Nam, không phải cuộc tấn công "thật". Giáp muốn chúng tôi đưa tới đó phần lớn lực lượng trước khi lộ mặt, đánh mạnh vào chỗ khác. Nhưng Erulin tự mình đã xoay xở được. Ông còn bắt được vũ khí, đại liên. Thưa các ông nếu Erulin núng thế và tôi non kém giữ quân tăng cường thì tình thế chúng tôi sẽ thất vọng. Vì sáng nay, trời chưa sáng, nhiều sư đoàn ông Giáp đã tung ra một cuộc phản công điên cuồng lực lượng lớn ở đầu kia trận địa chúng tôi, về bên trái, vào Vĩnh Yên. Trong lúc này chưa có gì chắc chắn. Chúng tôi chỉ có những tin tức mơ hồ, đáng lo ngại. Chỉ biết cuộc chiến rất quyết liệt. Bốt Bảo Phúc bị mất. Tình hình nghiêm trọng vì đội cơ động của Vanuxem đi từ bình minh, bị một biển người quân Việt ào tới. Ông ta còn trụ vững. Tôi cử Edon và de Castries đi cứu viện. Hiện tại tôi chưa thể nói gì hơn với các ông, vả lại tôi cũng chẳng biết hơn. Nhưng những gì có thể tôi sẽ làm - các ông biết tôi tập trung ở Bắc Kỳ những đội quân cuối cùng, tất cả những gì còn có để tăng cường. Thưa các ông, một trận đánh lớn và nguy hiểm, các ông hãy đến xem. Ngay ngày mai các ông sẽ tham dự, ở hàng đầu. Vì dù sao, tôi tin tưởng.

De Lattre ngừng lại như ngập ngừng, cân nhắc. Sau mấy phút tập trung cao độ, ông nói thêm:

- Tôi sẽ nói với các ông vì sao tôi tin tưởng. Bộc lộ với các ông một bí mật. Chỉ riêng giữa chúng ta, giữa những người đàn ông trọng danh dự. Tôi biết ông Giáp còn hai Sư đoàn chưa đưa ra; tôi biết ông ấy sẽ tung vào giữa mặt trận của tôi, vỗ mặt Hà Nội, đánh đòn cuối cùng. Nhưng tôi đã đề phòng, đang tập hợp xe bọc thép ở cầu trước mặt thành phố, cách mấy cây số - Beaufre chỉ huy. Đấy là đòn chống bất ngờ của tôi chống hàng loạt bất ngờ của ông Giáp, những phục kích và những cuộc phản công từng đợt theo thời gian và không gian. Bằng cách ấy tôi sẽ đập tan thành mảnh các sư đoàn của ông ta khi ào vào Hà Nội, vào "ngôi nhà Pháp" vào tôi và vợ tôi.

Thưa các ông, tôi nghĩ các ông đã hiểu kế hoạch của ông Giáp. Đã có một cú tốc ở bên phải. Bây giờ là các "tốc - tốc" lớn bên trái. Cuối cùng sẽ là cú "bum" đồ sộ vào giữa.

Và De Lattre nhăn nhó, làm điệu bộ. Vừa tròn miệng nói "tốc" đầu tiên, ông giơ nắm đấm phải về phía trước. Nói "tốc-tốc", ông vung nắm đấm trái hai lần. Nói "bum" ông lần lượt giơ hai nắm đấm, đánh võ với không khí, với những gì ông có, đôi tay, đôi chân, cả người. De Lattre như một kẻ múa rối tuy vậy vẫn cao thượng. Màn kịch có độ lớn. Các tướng tá, thân cận đứng xung quanh "ông chủ", như những bức tượng kiêu ngạo sẵn sàng vâng lời và kính trọng. Cuối cùng vị tướng bình tĩnh lại để kết luận:

- Và bây giờ, thưa các ông, các ông viết điện tín ngay tại đây đi.

Có lẽ đây là một trong những lúc kỳ lạ nhất của cuộc chiến Vĩnh Yên, trong lúc de Lattre nhận được những tin mỗi lúc càng thất vọng. Trong hơn một tiếng đồng hồ ông ở lại trong văn phòng giữa những tiếng lách tách máy chữ của các nhà báo - ông không quan tâm đến những tiếng nổ của đại liên dữ dội bên ngoài gian phòng, bên ngoài thành phố, không xa, người ta không thấy, không nghe nhưng người ta hình dung rất nhiều! De Lattre ở đây theo dõi công việc của các "phóng viên", làm người giám thị thiên tài của báo chí. Ông không có dấu vết kiêu căng nào trong một hoàn cảnh như thế, trông thấy sự cuồng loạn hơi đáng khinh của các nhà báo, cuộc chạy đua khác thường của họ về tốc độ và cảm giác. Họ như trần trụi, tất cả thần kinh căng thẳng, gõ như những người điếc xuống bàn phím nhưng vẫn cãi cọ to tiếng. De Lattre rất khoan dung, làm trọng tài, khuyên bảo mơn trớn. Đám thân cận cũng ở đấy, bỗng nhiên tỉnh táo rất vội vã. Người kiểm duyệt, người trình bày lên đại tướng những trường hợp khó, một người khác đóng dấu bản thảo đã được chấp nhận, người khác nữa ghi số thứ tự gửi đi. Ngoài cửa, những người đi mô-tô ào đến bưu điện với những tập điện tín. Như một xưởng máy vậy.

De Lattre mỗi lúc càng thoả mãn. Phải thấy ông mặc cả một chữ, một câu với nhà báo nào đó - một cách trữ tình, đạo đức giả, cay độc, thậm chí đôi khi có bóng đe dọa, luôn luôn là lãnh chúa. Mỗi lần có được điều mình muốn, ông ra khỏi văn phòng khi có "bản viết tốt". Trong cao điểm tình hình này, ông vẫn có đủ thì giờ cho báo chí. Với cách này cả thế giới sẽ biết được từ một cuộc chiến hầu như thất bại, de Lattre quyết tâm làm một cuộc chiến thắng lợi và có lẽ ông sẽ thành công vì "thiên tài" của mình. Theo lối ông trình bày, ông sẽ có những vòng nguyệt quế cho chiến thắng và những thanh minh dũng cảm về sự thất bại. Những tôi, tôi vẩn nghĩ thâm tâm bỗng qua trực giác, ông vừa linh cảm mình là người thắng cuộc.

Thế nhưng trong niềm tin nội tâm từng giờ từng phút ấy, một tin tức mới của Vĩnh Yên mang tới, một bản án. Các nhà báo vẫn ở đấy, sáng tác những "câu chuyện" dưới con mắt khoan dung của đại tướng. Lúc ấy Redon trở về với tên họ hai người ông đi tìm. Ông cũng đưa về một bức điện người ta đưa cho khi ông ra ngoài. Đấy là thông báo đội quân Vanuxem bị tiêu diệt hai phần ba chỉ còn lại một số tàn quân lùi về Vĩnh Yên cô độc bị bao vây, hầu như mất hết, chỉ còn như một nhà xác, một bệnh viện. Redon đọc xong rón chân bước nhanh vào phòng nét mặt vẫn vui vẻ. Ông ý tứ không muốn quấy rầy de Lattre đang tẩy não các nhà báo - nhất là ông bạn hiểu không ai trong số phóng viên được chuẩn bị cẩn thận nghi ngờ gì về "cú đánh" này, về thảm họa và mức độ của nó. Một hài kịch câm ngắn. Có vẻ như không có vấn đề gì, ông kéo tay Salan và Mariourt, chỉ huy "lùng sục" ở Bắc Kỳ, ra một góc đưa cho xem bức điện của Vĩnh Yên. Salan với phong cách cứng rắn dè dặt, xa xôi và kiêu ngạo thường ngày, lại gần de Lattre đưa tờ giấy cho ông đọc.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2021, 05:54:28 pm

Mười giây sau các nhà báo được ào ạt đẩy ra ngoài một cách rất lễ phép. Họ không biết gì, không nhận thấy gì. De Lattre cầm tờ tin trong tay rất tự nhiên, đọc xong không thay đổi nét mặt nghiêm trang và dễ mến. Ông chỉ tuyên bố với các phóng viên với tư cách người chỉ huy dễ tính nhưng nhớ đến nhiều nhiệm vụ khác:

- Thưa các ông, tôi đã nói tất cả. Các ông đã viết tất cả. Bây giờ tạm biệt, hẹn gặp nhau ngày mai.

Lễ phép quá độ. Một người Mỹ nói: "Chúc đại tướng thành công". Tôi lại gần Redon đang diễu cợt nhìn toán báo chí đi ra.

- Thưa đại tá, ông không bao giờ muốn cho tôi biết tin tức. Nhưng đại tướng đã tự mình làm việc ấy, không giấu diếm điều gì...

Redon nhăn mặt vui vẻ, đôi mắt ánh lên, trả lời:

- Tôi sợ sắp tới các ông sẽ đính chính những gì các ông vừa gửi đi.

Thực vậy, de Lattre có vẻ nói lên sự thật. Thực tế ông đã không nói dối với tất cả xảy ra ngược lại những gì ông tưởng tượng. Ông không bao giờ nghĩ quân Việt tấn công sớm thế, mạnh thế, không bao giờ ông nghĩ họ phản công Vĩnh Yên. Ông chắc chắn biết tất cả nhưng đã không biết gì, hoàn toàn bị bất ngờ khi tưởng mình làm cho người ta bất ngờ. Những sư đoàn hoàn chỉnh xuất hiện ở chỗ ông không chờ đợi, nơi ông đã chứng minh không thể có được. Trong trò chơi ú tim trước cuộc đụng độ, người ta "mất bóng" các sư đoàn ông Giáp để rồi lại thấy họ trước Vĩnh Yên vốn chẳng có gì - hay ít nhất chẳng có bao nhiêu - để giáp mặt nhau.

Trời tối dần, có lẽ là đêm định mệnh. Trong cuối buổi chiều tàn binh Vanuxem tiếp tục dồn về thành trì Vĩnh Yên vốn chẳng còn đạn dược. Edon và de Castries ở xa, thậm chí chưa khởi động. Phía trước Vĩnh Yên là quân Việt đã tiêu diệt, đuổi đánh các tiểu đoàn Vanuxem. Nếu đêm tới họ tấn công thành trì sẽ vỡ: theo lôgic họ phải tấn công. Và sự thất bại ấy sẽ là chìa khóa vào Hà Nội.

Đêm kịch tính nhưng là đêm rất quan trọng của de Lattre. Đêm ông sẽ tổ chức lại cuộc chiến giống như đã mô tả với giới báo chí. Đêm trắng. Vũ khí là cú sốc về tính cách của ông. Chỉ có mấy giờ để thay đổi dòng chảy các sự kiện, làm cho không người nào nhận thấy ông đã làm, đang làm.

Sự lầm lẫn thật lớn! Bà de Lattre cho đưa cà-phê và bánh bọc thịt vào văn phòng chồng mình đang ngồi cùng những thuộc hạ trung thành - Beaufre, Boussary, Allard, Cogny, Salan. Đại tướng rất thờ ơ, nấn ná với vinh quang ở Sài Gòn nhưng chính bà, Monette khốn khổ, là người đầu tiên biết việc quân Việt khởi sự phản công, chính bà cảnh báo điều ấy với chồng. Không có người nào khác để làm việc ấy.

Điều ấy xảy ra hôm trước, trong lúc ở Hà Nội chỉ có bà và "Hươu cái", bà Salan. Thế nhưng đấy là ngày hạnh phúc của cuộc đời bà. Cùng với người vững vàng và trung thành de Royer, bà đi thăm Bernard tại bốt, giữa lòng vùng châu thổ, gần Hưng Yên. Thật sảng khoái. Bernard rất dễ thương, niềm nở, tự hào giới thiệu đội quân của mình với mẹ. Monette thăm khắp nơi, cho đến cả phòng ngủ trống trải con bà nằm trên chiếc giường sắt. Bernard giới thiệu anh bạn thân, Durand-Ruel. Vừa cười anh vừa nói với Monette trong gian phòng trang trí của nhà ăn chung: "Bây giờ thưa mẹ, mẹ phải mở chai champagne", và anh đưa cho mẹ thanh kiếm danh dự. Dũng cảm Monette chém một phát gãy cổ chai rồi rót rượu cho người của Bernard. Bỗng nhiên giữa cuộc vui bà cảm thấy một nỗi lo mơ hồ. Điện thoại reo, Bernard trả lời rồi nói ngay với bà mẹ: "Chào mẹ, con đi đây. Đại tá gọi con. - Thế nào, ông ấy không biết có mẹ ở đây sao? - Con nghĩ nghiêm trọng đấy. Toàn đội của con phải lên ngay cầu, phải rất nhanh." Từ buổi sáng hai mẹ con vẫn nghe tiếng ca-nông xa xa, không bận tâm vì đang vui mừng gặp lại nhau. Bây giờ những tiếng súng ấy có nghĩa cuộc chiến, là Bernard sẽ đi đánh nhau và có thể sẽ bị chết. Anh không tỏ ra xúc động. Anh vui vẻ. Sau khi ôm hôn bà de Lattre, vẫy tay chào, anh vội vã, như một trung uý nhanh nhẹn với quân lính và khí cụ của mình - những ô-tô đại liên cũ mà anh kiểm tra lại máy và súng. Bà đại tướng lên chiếc xe li-mu-din trở về lo lắng, dĩ nhiên cho Bernard và cho cả ông chồng già tuyệt vời đang ở xa, có lẽ không biết gì hết, có lẽ sẽ về đúng vào lúc thất trận. Ở Hà Nội, trong các ban tham mưu, trong các văn phòng người ta chẳng biết gì, nhưng không khí thật ảm đạm. Monette tìm được "Hươu cái" và cả hai tìm cách báo với các ông tướng chồng họ. Hình như chẳng có gì hoạt động. De Royer cuối cùng bắt được làn sóng Sài Gòn, nhưng nghe không rõ. Tiếng kêu báo động không biết rơi vào đâu đó. Tối ngày 13, bà de Lattre khép mình trong Ngôi nhà Pháp hoang vắng như bị bỏ rơi, không có cả lính gác. Lúc sắp đi nằm de Rover bảo bà: "Nếu bà nghe có tiếng bước chân cứ gọi tôi; tôi có súng ngắn".

Nhưng đến tối ngày 14, Monette đã vững tâm. Dù có những tai họa có thể xảy ra cũng chẳng quan trọng vì vị tướng ở đấy với những người của mình, trong văn phòng, trắng đêm cho đến bình minh. Trong phòng tuyệt đối không phải thất vọng mà sự hưng phấn cao độ, niềm vui hành động. Các nhà báo vừa biến đi, de Lattre xoa tay nói với những người của mình:

- Quân Việt không nắm được chúng ta nhưng tôi sẽ không để họ thoát.

De Lattre đang ở trong văn phòng với đám tùy tùng như một lãnh chúa, nghe lời khuyên, tuôn ra những quyết định. Đôi khi ông ngồi vào bàn, im lặng - và mọi người chờ đợi, câm lặng. Đôi khi ông quay cuồng như một con hổ trong gian phòng treo đầy bản đồ với những mũi tên đồ sộ Boussary cập nhật hàng ngày. Khắp phòng là hồ sơ và người. Cả đám cận thần được lệnh báo động ngay trên ghế, bàn, phô tơi, thậm chí trên cả chiếc dương cầm. Vị tướng đi lại, bỗng nhìn vào một đại tá hoặc vài giấy tờ. Đột ngột ông nắm lấy ai đó: "Còn anh, anh nghĩ sao?" Thỉnh thoảng nói chuyện với một hoặc mấy người trung thực. Cũng có tiếng gọi: "Tìm cho tôi cái này; Làm cái kia..." Dần dần các nhân vật bị cuốn vào guồng máy, trong hoạt động điên rồ. Toàn thể, trong các tư thế, được huy động suy nghĩ, phát biểu, im lặng, dự thảo, viết, đánh máy, gửi điện tín, lục tìm giấy tờ. Tất cả những cái đó chậm lại hoặc nhanh lên khác thường, con người là những máy tự động, vùng vẫy hoặc bình lặng tuỳ theo nhịp độ của "ông chủ". Sau những thăm dò tỉ mỉ, cân nhắc trong đầu óc nảy ra ý tưởng và ông ra lệnh, nhiều mệnh lệnh - sôi sục.

Không còn dàn cảnh nữa. Người ta biết rõ nhau. Không khí thân mật. De Lattre cũng giản dị, gần như cởi mở, với những lo lắng, những tiếng lòng, tin cậy:

- Chuẩn bị máy bay. Tôi đi Vĩnh Yên.

- Cần có ông ở đây, thưa đại tướng...

- Vậy thì thả quân dù; nhưng có thể như thế được không?... Hartman (tướng chỉ huy không quân) đưa tất cả đội tiêm kích ra trận, phải bắn, phải dội bom. Thả na-pan, hàng loạt na-pan; tôi muốn nướng quân Việt.

Cái may của de Lattre, ông vẫn nói "Tôi có vận may" là không có mưa phùn cản trở máy bay. Đang là mùa đông nhưng chiều hôm ấy trời quang, những chiếc Kingcobra dội những vòng lửa xung quanh Vĩnh Yên. Khi trời tối quá, chúng phải về sân bay và thị xã bị bao vây bị bỏ mặc trong tàn phá.

- Allard, đêm nay có đạn cối cho chỗ ấy không?

- Sắp có, sẽ thả cho họ loại "25 pao" phù hợp với ca-nông Sài Gòn đến vừa cập bến Hải Phòng, sẽ chuyển lên Dakota đưa tới.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2021, 05:55:15 pm

De Lattre lại gặp "vận đỏ" - chiếc tàu tưởng không quan trọng ấy đến đúng ngày có lẽ quyết định số phận trận đánh và vận mệnh của Đông Dương!

- Salan, Edon đi chưa? Cả de Castries nữa. Phải cử đi giải tỏa Vĩnh Yên, theo đường đê. Trong bao lâu thì ông ta có ở đấy?

- Nhưng ở Bắc Kỳ không di chuyển ban đêm được.

- Tướng Salan, đang diễn tập hay trong cuộc chiến? De Castries sáng mai phải đến đấy, tám giờ.

Salan chào. Trên khuôn mặt dài của ông có một nụ cười rất khẽ khó phân biệt. Đấy là nỗi khổ của ông vì không được hiểu và tin chắc mình đúng. Theo ông đấy là một hình tượng kiêu căng. De Lattre chẳng nhận thấy gì, hoặc may hoặc không may. Vì "người Trung Hoa” dự tính không sai: De Castries đi đầu cùng hai chiếc xe jeep, bị trúng mìn; ông được thay thế do một đại tá ở lớp người như ông nhưng rụt rè và chẳng làm gì.

Tối hôm ấy Salan chưa hết vất vả.

- Salan, Edon không nói gì với tôi cả, chính ông áp đặt cho tôi. Tôi vẫn không biết ông ta là ai. Phải có ai đó cao hơn ông ta...

De Lattre đưa đôi mắt sắc, chiếc mũi to và cả đầu ra phía trước như để tìm kiếm một người. Ông phát hiện ra Redon khiêm tốn đứng tách ra - một người thành thạo.

- Redon sẽ nắm quyền chỉ huy ở Vĩnh Yên. Dưới lệnh có Vanuxem, Edon, de Castries; ông ta điều khiển toàn bộ trận đánh.

Với nụ cười rất độ lượng:

- Đi ngay đi ông bạn. Một chiếc Morane đưa ông đi. Dĩ nhiên ông sẵn sàng rồi chứ?

- Vâng, thưa đại tướng.

Thực tế, Redon đã hoàn toàn sẵn sàng. Vì sau khi "Hình thang lớn" phá sản, ông đã chuẩn bị hành trang cho "Hình thang nhỏ" nhưng thay vì đi Lục Nam lại là Vĩnh Yên. Dù thế nào ông cũng ra khỏi văn phòng một cách "đàng hoàng", phong thái nhiệt tình, vui vẻ và kính cẩn chứng tỏ de Lattre đã chọn đúng người cần thiết.

Vậy là khen thưởng Redon vì khôn ngoan. Và rồi nâng ông lên, người ta trách phạt những người khác. Trước hết là Edon, thậm chí không trách cứ được điều gì, chỉ vì không thích. Nhất là Vanuxem, được yêu thích nuông chiều đến thế nhưng vì bất cẩn và để bị đè bẹp.

Beaufre hoàn toàn thoát khỏi bị thất sủng. De Lattre đưa ông ta làm mưu sĩ, không thể kết tội ông mà không vấy bẩn bản thân mình. Ông tiếp tục lắng nghe ông ta, cả sau những phiền phức ở Vĩnh Yên. Thực ra, "đại tá chiến trường" vẫn luôn can đảm, nét mặt tái lạnh lùng của lòng tin chắc bình lặng và tuyệt đối. Bao giờ ông cũng tác động đến de Lattre - tìm được những lý thuyết mới giải thích tất cả, dù thế nào cũng kết thúc bằng chiến thắng. Dựa vào Beaufre vua Jean thấy diễn trước mắt mình sự kết thúc hoàn hảo.

Beaufre đã chứng minh tất cả, xây dựng lại một hệ thống hoàn hảo. Sức mạnh của ông ở chỗ không bao giờ là người đần độn, sợ hãi, bị đè nặng vì sai lầm của mình, sợ những sấm sét của ông chủ. Khuôn mặt ông thể hiện sự hoài nghi bẩm sinh trước sự kết tội nhẹ nhất mà ông không hề bị nghi ngờ. Và rồi ông đã có một lập luận chính xác trước bất cứ ai muốn nêu vấn đề chống lại ông.

Quân Việt đã không chờ "đại tá chiến trường" phản công, họ tấn công trước ở chỗ khác. Mặc kệ họ. Beaufre trong chiến dịch "Hình thang", đã xây dựng một bộ máy chiến tranh đầy đủ, cả một lực lượng tấn công, hàng loạt hoạt động. Chủ yếu là đã có sẵn, chỉ cần chuyển đến chỗ giết quân Việt ở Vĩnh Yên. Như vậy chỉ cần quay lại, vận chuyển năm mươi cây số toàn bộ những gì đã tập trung, trên một chuyến đi rất phức tạp, chính xác. Về việc này Beaufre cũng thật xuất sắc.

- Beaufre, ông đến chỗ "Hình thang", đưa người và khí cụ như tôi đã quyết định, đến chiến trường Vĩnh Yên. Ông chọn đường, ra chỉ thị, chịu trách nhiệm về việc di chuyển. Nhưng bản thân ông, tôi cấm ông theo các đội quân đến đấy. Vai trò của ông không phải giải phóng Vĩnh Yên, chỗ đó của Redon. Nhiệm vụ của ông quan trọng hơn nhiều. Ông ở lại với đội xe bọc thép, khống chế phía bắc Hà Nội và xuất hiện với đội xe, tiêu diệt quân Việt ở pha cuối cùng khi họ muốn tấn công quyết định vào mặt trận. Thay vì họ dìm chết chúng ta, ông sẽ dìm chết họ.

Những lời nói với Beaufre qua miệng de Lattre là những lời Beaufre vừa gợi ý cho ông. Đại tướng vẫn luôn dưới sự chi phối của "đại tá chiến trường" của mình.

Nhưng đại tướng huy động hàng loạt như vậy vẫn còn lâu mới kiệt sức. Vẫn hoạt động nữa:

- Allard, chưa hết đâu. Báo động Sài Gòn ngay. Bảo Chanson gửi cho tôi ba tiểu đoàn.

- Làm thế nào đây?

- Ông tự xoay xở lấy.

- Chỉ còn những máy bay dân sự.

- Trưng dụng đi. Lấy tất cả những gì bay được. Ông hãy đi Sài Gòn, sáng mai trở về với các đội quân. Có cần lệnh không?

- Có, thưa đại tướng.

- Lấy ở đó đưa về cho tôi một ban tham mưu sư đoàn. Tất cả những cái ấy, ông nghe rõ chứ, tôi muốn có vào sáng ngày mai.

Tất cả những gì có thể làm đã làm. Chỉ còn chờ đêm đến. Vĩnh Yên vẫn trả lời. Bình minh lên Vĩnh Yên vẫn chưa bị tấn công và khắp Đông Dương, Đông Dương thiếu ngủ, trong sợ hãi của de Lattre - những bản tin khẩn cấp, những phái viên nhanh như chớp, những thỏa thuận vội vã, những động cơ máy bay và ô-tô khởi động đi trong đêm tối, những đoàn xe, người, đi bất tận trên đất địch, những khuôn mặt hốt hoảng của lính đánh thuê, các sĩ quan nhìn lên bản đồ qua những đợt chiếu nhanh đèn túi - đấy là xáo động, cuộc chiến như một hòn đá quăng vào tổ kiến. Trong bóng đêm vùng châu thổ, nơi sẽ bùng lên cuộc chơi vẫn bình lặng với những người Việt sắp xông lên nhưng không biết vì sao vẫn chưa, với những triệu dân quê vờ ngủ, những đồn bốt Pháp cũng ngủ giả tạo, có vẻ rất bình tĩnh với những tháp, lô-cốt tuy bất lực. Thân xác và ý nghĩ, tất cả đều thức, chủ động hoặc thụ động.

Cuối cùng, sau khi khuấy động lên tất cả, vị tướng lên giường nằm và ngủ, biết vận may sẽ đến với ông; Ông đã chuẩn bị tất cả cho trận đánh ngày mai, trận đánh lớn - và ông chắc chắn sẽ là người chiến thắng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2021, 10:11:47 pm

Đêm Vĩnh Yên. Mệnh lệnh của de Lattre có được thực hiện đúng lúc trước khi quân Việt chiếm thành trì không? Dù sao bóng đêm yên tĩnh cũng tính từng giờ, từng phút. Đây là cuộc chạy đua tốc độ, ông Giáp đã đánh trước, ông sẽ lại đánh nữa. Cuộc ngăn chặn của vua Jean sẵn sàng cho đòn mới.

Tất cả như điên cuồng hối hả - nhưng có trật tự theo điều kiện chiến tranh - Allard, trong sự nghiệp quân sự mẫu mực, bình thường có đặc điểm vừa chậm rãi, long trọng vừa đi như chạy, sử dụng trong những trường hợp trang nghiêm hoặc cấp tốc, thực hiện nhiệm vụ. Nhưng chưa bao giờ ông nhanh chân như tối hôm đó. Vừa ra khỏi văn phòng "ông chủ", điện thoại ngay cho sân bay Gia Lâm: "Cho ngay một máy bay. - Không có - Phải có một chiếc cho tôi. Anh liệu lấy". Bắt làn sóng Sài Gòn, câu chuyện cởi mở nhưng dứt khoát: "Tôi đang lấy một chiếc Dakota, trong bốn giờ sẽ tới nơi. Trong lúc đó báo với Chanson chuẩn bị tiểu đoàn thứ nhất rồi hai tiểu đoàn nữa. Huy động mọi phương tiện vận chuyển, sẽ điều chỉnh sau. Chanson, phó là Baillif, tất cả các trưởng phòng Ban tham mưu phải có mặt tại chỗ khi tôi hạ cánh. Tôi sẽ trình bày tình hình, nhưng phải làm xong những gì tôi đòi hỏi. Lệnh của de Lattre".

Đêm Vĩnh Yên thật đẹp. Trong chiếc Dakota bay trong bóng tối có ánh trăng sao, Allard và hai người phó cùng với đội bay kiệt sức - cả ngày họ trút bom na-pan xuống quân Việt, cố sắp xếp những chiếc Dakota của Allard đậu xuống sân bay Tân Sơn Nhất. Điều ông thấy trước hết trên đương bay là một chiếc "Skymaster" của hãng hàng không, một máy bay bốn động cơ bay đường Paris - Sài Gòn, động cơ đang khơi động chuẩn bị cất cánh. Hai giờ sáng máy bay xuất phát, đầy lính dù lăn mình trên ghê phô-tơi - tám mươi người quân phục chiến đấu được phục vụ như hành khách hạng sang. Khí cụ giết người - tiểu liên và lựu đạn - bỏ trong lưới như hành lý xách tay. Đến ba giờ sáng, một chiếc Skymaster khác và lại tám mươi lính dù nghỉ ngơi thoải mái trước cuộc chém giết, cầu hàng không Vĩnh Yên - từ thiên đường xuống địa ngục - kéo dài bốn mươi tám tiếng đồng hồ.

Ở nhà ga sân bay, trong phòng hành khách danh dự, các sĩ quan cao cấp, các tướng, tá nai nịch gọn ghẽ và hơi xanh vì ánh đèn điện và tuổi tác, tập hợp như một đống hàng. Allard như bảng hiệu của đại tướng de Lattre dưới đèn ống. Ông nói với Chanson: "Ông giữ lấy Nam Kỳ - Bằng gì? - Cứ giữ cho vững". Với Baillif, rất nhỏ người, đôi mắt lanh lợi: "Tôi đưa ông đi theo cùng ban tham mưu của ông. - Tôi không có. Ông quên rằng tôi chỉ là phó của Chanson. - Chúng ta đến Ban tham mưu, lấy người ở đấy. Một ban tham mưu, dễ hình thành với tất cả những sĩ quan còn lúc nhúc trong các phòng". Allard xuống đấy, tất cả vắng lặng trừ mấy người dưới quyền ở lại thường trực, quang cảnh đáng buồn của những gian phòng trống và hồ sơ sắp xếp gọn gàng. Người ta gọi điện thoại liên tục, đánh thức những quân nhân đang ngủ ở nhà, tập hợp mọi người, chỉ định. Tám giờ sáng Allard lại cất cánh cùng Baillif và "ban tham mưu" của ông gồm vài chục sĩ quan kéo đi lúc đang ngủ trong đêm. Đến Hà Nội vào buổi trưa. Câu nói đầu tiên của de Lattre: "Nào, Allard khốn khổ, trông phờ phạc thế, ông không ngủ ư?"

Bình minh, Beaufre có vẻ ít mệt mỏi hơn, ông quen như thế. Ông này cũng chạy suốt đêm nhưng đi xe jeep, trên đường. Chính ông ra chỉ thị cuối cùng cho Edon:

- Con đường từ Phúc Yên đến Vĩnh Yên, đường số 2 chắc đã bị cắt. Ông mở lại nó với các đội quân của ông và dựa vào sức mạnh máy bay. Ông tấn công vào lúc trời vừa sáng. Nhưng đêm vừa rồi, trước khi đi lại giữa các đội quân Beaufre gặp một bóng ma khác, Salan. Đây cũng là người có thể lực, chịu đựng ghê gớm, bề ngoài có vẻ thoát tục. Với vỏ bọc những giải băng trang trí và mái tóc ánh bạc hất ra phía sau, "người Trung Hoa" suy ngẫm. Rồi như một ý nghĩ không quan trọng, ông rỉ tai "đại tá chiến trường":

- Nói với Edon đi chệch lên phía bắc một ít. Đừng đi trên đường qua những sườn đồi chồm ra đường.

Vì Salan bói toán "thấy" có những sư đoàn ông Giáp, những sư đoàn sau khi tiêu diệt Vanuxem đã có thể dễ dàng chiếm Vĩnh Yên. Họ không làm thế vì muốn dùng làm mồi nhử. Hàng chục nghìn quân chính quy trong lúc này bỏ rơi thành trì dễ chiếm, chắc đang phục kích hàng nhiều cây số dưới đường số 2 - chờ mồi quan trọng hơn, mồi quyết định. Xung quanh là đủ loại đồi núi, tảng đất dễ bố trí một cuộc phục kích khổng lồ. Ông Giáp, sau khi để thoát Vanuxem, muốn "chuộc lại" Edon. Ông này sẽ bị tiêu diệt nếu hành quân trên đường.

Salan không nói gì thêm nhưng Beaufre đã hiểu. Khi ra lệnh cho Edon, ông bảo cụ thể:

- Đừng đi trên trục đường; một hoặc hai sư đoàn có thể đang tập trung ở bờ đường. Tiến lên các chỏm núi khống chế đường số 2, lần lượt chiếm lấy. Đi theo đường núi trên cao. Quân Việt không chỉ chẳng lấy được gì, mà họ phải tự rút vì sợ lại đánh úp. Bằng cách ấy ông mở lại được con đường Vĩnh Yên, hầu như tự động.

Beaufre cử đi một de Castries năng động nhưng không hoàn toàn hài lòng, hơi cau có như cảm thấy việc đang làm "ngu ngốc". Nhưng với Beaufre và de Castries không có vấn đề kiểu cách lãnh chúa, không cãi cọ. Ngược lại, người kỵ sĩ trên chiếc jeep chạy trên những con đê cao, khúc khuỷu, như bồng bềnh trên nước. Phía sau là những chiếc cam-nhông đầy quân lính, đèn pha chiếu như rắn lửa. Tất cả biến đi. Edon cũng đã đi với người của mình. Beaufre bèn ngả mình trong "trại thảm vàng” màn che là những chiếc xe bọc thép. Cũng tự biến mất như vậy, ông chờ ngày vinh quang, một vài ngày sau đó. Redon phải trải qua đêm xấu nhất, thực sự là đêm Vĩnh Yên ở Vĩnh Yên vừa thảm hại vừa đáng sợ.

Đại tá cảm thấy "có gì đấy không tốt" vào buổi chiều 14 tháng giêng, ngay trước khi đi Bạch Mai, sân bay hành quân ở Hà Nội. Không khí chiến tranh sôi sục. Máy bay tiêm kích cất cánh hàng loạt, phi công trang bị đầy na-pan, bom, những thắt lưng đạn 12,7 ly. Chuẩn bị những đòn tấn công xem ra vô vọng hơn để nếu có thể cứu vớt những gì đã mất, những tàn tích của các tiểu đoàn, lớp vỏ thành trì. Đồng thời máy bay "do thám" hạ cánh, trinh sát viên hoảng loạn nói về sự thất trận - khắp nơi có quân Việt, nhiều vô kể, thậm chí họ không cần ẩn náu. Những chiếc Morane cứu thương thường xuyên chở thương binh đi Vĩnh Yên - còn đọng lại hàng đống vì quá nhiều. Cũng có chi tiết hài hước không thể thiếu trong thất bại. Redon đến đường băng, trước hết phải giải quyết tư tưởng cho một ông bạn năm vạch lon, được tiếng phong phú, vững chắc. Lần này ông bạn phàn nàn về tai họa của mình, bối rối trước lệnh cách chức của de Lattre. Redon nhân từ nói: "Với quan hệ của anh với đại tướng, có lẽ việc không nghiêm trọng đâu" và lợi dụng hoàn cảnh này ông lấy tấm thẻ ban tham mưu mình không có mà ông kia không cần nữa.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2021, 10:12:54 pm

Lúc Redon trèo lên máy bay, một cú điện thoại: ông hãy chờ Salan cũng đến đấy và cũng chiếc Morane ấy sẽ đưa ông trở lại. Vậy là "vị quan lại" thu xếp chỉ đạo công việc không quá lộ mặt sợ de Lattre không bằng lòng. Để Beaufre chỉ đạo những việc lớn, ông đi khắp nơi, thấy hết nhưng người ta không để ý. Ông nói điều cần thiết, việc quyết định, chỉ trong mấy câu, nhỏ giọng. Về căn bản de Lattre hài lòng được có ông trong những hoàn cảnh không chắc chắn ấy nhưng không lộ rõ quá. Trò chơi tế nhị.

Salan nhảy từ xe jeep xuống. Mấy giây sau vị tướng và đại tá cất cánh, sắp hoàng hôn. Không một đám mây. Bên dưới không còn đồng ruộng. Bên phải khối đen sẫm đầy rừng cây của núi Tam Đảo. Từ dãy đồ sộ này trải rộng về chân trời một loại thảm cỏ với nhiều hình dạng nổi lên lẫn lộn những đồi, hình tam giác, hình nón, cả một địa bàn đủ loại hình và cây thực phẩm. Ở giữa là một đường cắt gần thẳng với những chiếc cầu nguyên vẹn: đường số 2. Đường trống vắng. Cách Vĩnh Yên mấy cây số có những làn đạn bắn vào máy bay. Salan nói với Redon:

- Quân Việt đã vượt qua đường. Bảo phi công báo trước với Hà Nội. Máy bay đổ xuống một vùng lượn sóng nhẹ của thành trì Vĩnh Yên. Thành dựng lên trong cảnh vắng vẻ của vùng đất đỏ, trước mặt là những chỏm núi, ngọn đồi, là là chỗ vùng trung du vươn xuống châu thổ. Cảnh đẹp. Chiếc Morane nhỏ bé xuống dần đến những lỗ châu mai, ụ đất, những bức tường, cả khối công sự. Máy bay tiến từng mét ở sân bay chỉ là một dải đất kéo dài giữa những hàng dây thép gai dưới chân pháo đài chính.

- Chú ý, một giọng nói vang lên trong điện đài. Quân Việt ở cách đây một cây số về phía bắc. Tất cả dưới tầm đại liên và súng cối của họ.

Chiếc Morane đỗ xuống tung bụi mù. Trên khoảng đất trần vắng lặng, tiếng va chạm vũ khí, những tiếng nổ nhưng không phải trong cuộc chiến. Những phát đạn, các loạt bắn như chỉ là dấu hiệu tượng trưng, cũng không biết ai bắn, bắn vào gì. Đường băng trống vắng thê thảm. Ở mỗi góc một chiếc xe bánh xích chĩa nòng súng ra ngoài. Ở giữa có một chiếc jeep chờ Salan và Redon - họ chạy nhanh lại, chui vào và chiếc xe vụt đi. Tất cả những cái đó đượm mùi sợ hãi và chờ đợi. Không có gì xảy ra. Quân Việt cũng không cần bắn vào chiếc máy bay; chắc họ không muốn lộ vị trí tấn công.

Thành trì là một bốt hình tam giác, kiểu cũ, xây bằng gạch dễ bị đạn cối phá hỏng. Bám vào tường đủ loại lều tạm nơi để mọi thứ; giữa sân - một đoàn xe cũ nát, vũ khí bỏ đi, các loại vật dụng đã thành sắt phế thải. Và những người đủ nòi giống, Ả-rập, da đen, da trắng lê thê không mục đích, quần áo nhàu nát, thô bạo, những người này mặt mày nhăn nhó, những người khác cam chịu số phận. Có những người đang ăn đứng, ngồi bệt hoặc trên các hòm nhỏ; cũng có những người nằm dài ra đất ngủ chập chờn. Hầu như chẳng ai nói gì. Và ngày càng đông vì những người bỏ chạy tìm đến. Người ta mang tới những cáng thương binh, người chết. Một cảnh lộn xộn trong thất vọng. Đó là những gì còn lại của đội cơ động.

Có tất cả. Cũng có những hành động anh hùng. Trung uý bị một phát đạn vào mồm chết ngay nhưng quân lính khiêng xác anh về, qua tám cây số chạy rút lui. Biết bao nhiêu người hấp hối, chết, bị bỏ lại nằm trong cây cỏ rồi quân Việt tìm thấy, làm từng đống xác hoặc đoàn tù binh! Đại uý Belfournier mất tích - cả hai mươi sĩ quan nữa và bảy trăm lính. Thế nhưng những người bị thương còn sức lực, dắt díu nhau hoặc tự mình cố thoát đến Vĩnh Yên. Ở sân này, có một số tắt thở giữa đám đông lộn xộn, thờ ơ chẳng bận tâm đến họ. Người ta đã quá mệt mỏi trừ cha tuyên uý. Ông này, tu sĩ Anthier, làm lễ trong một góc có bàn thờ mang theo, gần trạm mổ xẻ. Ông ban phước cho người chết, làm dấu Thánh nhắm mắt: vì từ thiện hoặc nghề nghiệp, ông làm việc lần lượt.

Trường hợp bác sĩ phẫu thuật Valnet cũng thế, việc "mổ xẻ" không làm ông xúc động, đó là nghề nghiệp của ông. Với mười nam và hai nữ y tá, ông bơi trong xương thịt và máu, những bộ phận bị vỡ, bị thủng. Ông tiến hành phẫu thuật như một kẻ khổ sai, đôi tay mang găng cao su cầm dao mổ, không nghe tiếng rên rỉ, không thấy sự đau đớn sợ hãi như xiết đinh ốc. Không có cả thì giờ bận tâm về các sự kiện, để biết việc gì đã và đang xảy ra, để lo lắng: trong thảm họa Vĩnh Yên ổng là người bình lặng nhất, để hết tâm trí vào công việc, "cắt mổ” cứu sống, ông yêu thích việc ấy. Chẳng có gì cản trở ông, cả những đợt dội bom.

Salan và Redon đến vào giờ tệ hại, giữa cảnh tang thương. Salan qua sân với những bước dài, không nhìn ngó gì, như ở trên mọi sự vật. Sự thất bại làm ông nao lòng, đúng hơn là không làm ông quan tâm. Việc Vanuxem bị đè bẹp chỉ là một dữ kiện trong ván cờ rộng lớn. Ông đến để thăm dò cú tiếp theo, xem mình đoán có đúng không. Salan không nắm vững ông Giáp; ông đến Vĩnh Yên để gần ông Giáp hơn, hiểu ông hơn, để phá hỏng mưu kế của ông. Cuộc đấu tranh lớn của trí não.

Salan, bao giờ cũng thế suy nghĩ bí mật, xa vắng. Không lộ rõ gì, như vô cảm. Bên cạnh ông, Redon nóng lòng vì lúc này, vì không khí lo lắng. Hai người vào trong một ngôi nhà cách biệt giữa sân. Vanuxem và sở chỉ huy ở đó. Ông ở trong một phòng, sống với thảm họa ở đấy: chỉ huy từ xa, bằng điện đài, rồi không còn gì để chỉ huy nữa vì không còn đội cơ động để trả lời, chỉ im lặng. Ông chờ đợi những giờ đáng sợ trong thành trì trống rỗng, chỉ còn đồn trú Sénégal với người chỉ huy hốt hoảng. Cũng có các pháo thủ và Vanuxem cho bắn hầu như hú họa trong thiên nhiên. Cuối cùng sau mười tám trăm phát, không còn đạn cối nữa. Một đám tháo chạy ghê gớm tràn vào thành. Trước những người trở về, một ít trong đội tìm lại được, trước tình trạng sợ hãi của họ, Vanuxem hiểu rõ sự suy sụp - ông đã là người thua trận. Lúc ấy ông nói với người phó của mình thiếu tá Bernard: "Ông nghĩ thế nào? Nếu người ta không đến cứu, chúng ta hỏng hết". Bernard ra sân, trèo lên một chiếc xe jeep có đại liên, bắn một loạt phía trên những lỗ châu mai.

Khi Salan và Redon vào, dù râu ria xồm xoàm Vanuxem đã lấy lại nét mặt tươi tỉnh, có nụ cười nửa thách thức, nửa kiêu ngạo. Salan, tư cách là cấp trên - người chứng kiến. Ông ở lại mấy phút, không nói gì, chỉ lắng nghe. Trời vừa tối ông ra đi trên chiếc Morane, mang theo vào chỗ của Redon một sĩ quan hói trán, Deluc, chỉ huy kỵ binh Algéria.

Salan về báo cáo với de Lattre, tôi không rõ ông trình bày sự việc ra sao. Nhưng qua người ông mang theo về tôi biết bí mật của Vĩnh Yên, tất cả những gì đã xảy ra ở đấy.

Ông Deluc này tôi quen biết ở vùng châu thổ, bốt Khánh Hòa lúc ấy là sở chỉ huy của ông. Tôi tưởng ông đã bị giết ở Vĩnh Yên nhưng thật kinh ngạc thấy ông trở về chỉ huy đơn vị, ba ngày sau khi bị đánh bại. Đầu ông chỉ còn là một khối băng khổng lồ. Ông kể lại với tôi cuộc thất bại vào đầu trận đánh:

- Tôi chỉ bị xây xát. Nhưng trong số mười tám sĩ quan của trung đoàn tiếp ông ở nhà ăn Khánh Hòa, bảy chết hoặc mất tích; tất cả đơn vị mất một nửa quân số. Việc đó xảy ra không đầy một giờ, gần trưa ngày 14 tháng giêng lúc đội cơ động của đại tá Vanuxem bị hàng nhiều nghìn quân Việt tấn công ở phía bắc Vĩnh Yên; đội kỵ binh vừa được sáp nhập vào đội GM3 ấy.

Tất cả xảy ra theo cách của đất nước này, nhanh và đơn giản không ngờ được. Tối hôm 13 sáng 14 tháng giêng, bốt Bảo Chúc cách đấy khoảng mười cây số bị tấn công. Vanuxem cho bắn hàng loạt ca-nông ngay tại Vĩnh Yên. Nhưng Bảo Chúc ở vào tình thề mỗi lúc càng tuyệt vọng và buổi sáng ông ra lệnh toàn đội cơ động đến cứu. Chúng tôi đi theo một con đường dọc con mương. Phía bên kia đường là dải đất đồi và núi. Thật nguy hiểm vì khó triển khai. Vanuxem cho bố trí một cách khôn ngoan nhất. Bên phải, trong núi là quân Mường; giữa và phía trước các xạ thủ Maroc; phía sau, đội kỵ binh của tôi. Mọi người đều đưa súng lên vai.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2021, 10:13:55 pm

Cuộc tiến binh bị chặn lại do một nút lớn mà chúng tôi phải đập tan theo. Nhưng thay vì hàng chục hoặc hàng trăm quân Việt, có những trung đoàn hai mươi bảy tiểu đoàn tất cả. Rồi bỗng nhiên từ những núi cao bên phải chúng tôi, cả một khối lớn Việt Minh tràn xuống. Họ ở khắp nơi, cách một trăm, năm mươi, mười mét, gần như ở giữa hàng ngũ chúng tôi. Và luôn luôn ào lên sau mỗi hòn đá, mỗi bụi cây, như từ ngay thiên nhiên sinh ra từng khối người to, nhỏ. Trong mấy giây cảnh vật biến thành một tổ kiến, quân Việt vừa hét vừa nổ súng khắp nơi, vừa thổi kèn, chúng tôi không còn biết bắn vào đâu trong sự lẫn lộn chung họ khôn khéo tạo ra theo chiến thuật. Chúng tôi chống cự nhưng tất cả rối mù. Lúc đầu kỵ binh thấy những người như họ - người Ả-rập - vượt qua họ hốt hoảng chạy trốn. Đấy là các xạ thủ Maroc không trụ vững nữa. Chúng tôi vẫn chiến đấu. Một khó khăn hơn nữa là quân Việt mặc đúng như lính Mường - Vanuxem có trong đội cơ động một tiểu đoàn những người miền núi Hoà Bình. Sự giống nhau ấy đã có chuẩn bị gì ngược lại thông thường, quân Việt không dắt lá ngụy trang ở mũ.

Vả lại tất cả được tạo ra để người ta mất phương hướng. Chúng tôi bắn kịch liệt nhưng người Việt lẫn vào trong chúng tôi, lúc đầu không bắn giết mà làm công tác tư tưởng. Một số hét bằng tiếng Pháp rất chuẩn những mệnh lệnh tấn công và tiêu diệt, những người khác hô bằng tiếng Ả-rập, bảo kỵ binh hàng. Cuối cùng bị làn sóng người bao vây và để tránh bị hoàn toàn tiêu diệt, chúng tôi chỉ còn rút lui. Còn ba, bốn trăm người tập hợp lại với nhau lùi từng bước một, vừa đánh bật nhiều trăm người Việt chặn đường phía sau. Chúng tôi dồn thành khối nhưng dần dần kỵ binh Spahis những hàng ngoài ngã xuống. Dù sao, số còn lại của trung đoàn cũng lọt được ra ngoài, chạy cố về Vĩnh Yên - cũng như những gì tồn tại của đội cơ động.

Quân Việt không thôi cố gắng xuyên thẳng vào hàng ngũ chúng tôi để chém giết. Chúng tôi chỉ còn là một nhóm nhỏ chạy trước một khối người lớn. Có một lúc nghĩ đã cách quãng họ, bỗng thấy trên chỏm núi gần đấy một hàng quân chạy song song với chúng tôi, súng đeo vai. Một anh bạn nói có lẽ người Việt, tôi trả lời không thể thế, có lẽ là người Mường chúng tôi. Hai hàng người chạy bên cạnh nhau như thế trong nhiều cây số. Qua một lối qua làng, lại gần nhau hơn, lẫn lộn nhau một ít rồi tách ra. Tiến trình ấy không một lời nói. Hàng quân kia, khi trèo lên một chỏm đồi bèn nằm xuống và bình tĩnh, chính xác, nhắm bắn làm chúng tôi chết rất nhiều. Đấy là quân Việt.

Ca-nông và máy bay cố cứu chúng tôi. Trọng pháo Vĩnh Yên quét cả vùng nhưng pháo thủ không phân biệt rõ chúng tôi với người Việt, có những sai lầm bi thảm. Máy bay tiêm kích xuất hiện nhào xuống bắn; ít nhất qua báo hiệu cũng làm cho họ hiểu được chúng tôi là người Pháp. Những tràng thép và lửa kéo dài, bên dưới là những hàng quân Pháp bị đuổi đánh và những hàng quân Việt đuổi đánh tiếp tục trò chơi ú tim. Đến bốn giờ chiều là niềm hy vọng vô biên. Chúng tôi vào được chỗ ẩn náu là Vĩnh Yên.

Nhưng rồi thất vọng ngay: việc ẩn náu thật hão huyền. Vĩnh Yên là một vỏ trống rỗng. Chẳng có gì trong đó. Chỉ có những người sống sót của đội cơ động, bị đánh tơi tả trở về. Và chính chúng tôi, sau mấy phút khốn khổ, suy sụp, được người ta bố trí vào vị trí chiến đấu giữ thành. Tâm trạng thật nặng nề. Tối đến, trời lạnh và chúng tôi đơn độc trong đêm. Vanuxem ra lệnh chống cự cực đoan nhưng ai cũng cảm thấy đấy là những mệnh lệnh vô vọng, họ nghĩ Vĩnh Yên sẽ mất. Chúng tôi vào vị trí chiến đấu, cho rằng chẳng còn gì để chờ đợi...

Bi kịch Deluc kể lại với tôi là như vậy. Nhưng phải chăng còn một bi kịch khác? Khi bóng tối trùm xuống Vĩnh Yên, có báo hiệu quân Việt ở khắp xung quanh. Không có tin tức về các bốt trong vùng do các đội Sénégal đồn trú - người ta nghĩ đã bị hạ. Không có tin của Edon. Trong Vĩnh Yên không quá hai trăm bốn mươi kỵ binh Spahis và hai trăm tám mươi xạ thủ Maroc bảo vệ, đang muốn "ngủ", thờ ơ với tình hình. Không có quân Mường, họ đã biến mất. Vanuxem khổ sở vì đấy là tiền đoàn cốt thiết, tác phẩm chính, huyền thoại của ông. Đúng lúc ấy ông thấy tiểu đoàn trở về, trong trật tự, gần như nguyên vẹn; chính đơn vị này cứu vớt tình thế.

Một số riêng lẻ còn tìm đến. Họ được biết những người chạy trốn đã vượt qua Vĩnh Yên, bị quân Việt dồn đuổi đến bờ một hồ rộng. Công binh của đội cơ động lấy những chiếc tàu nhỏ đi tìm: cuộc đi câu người.

Trật tự trở lại tương đối. Cũng không biết ai chỉ huy thực sự, Redon hoặc Vanuxem. Redon hoạt động, nóng nảy, nói và vung vẩy, ra mọi loại mệnh lệnh. Vanuxem nặng nề, im lặng nhăn mặt, thân mật, lại đóng vai trò nhân vật đánh thuê vừa dữ tợn vừa kiêu căng, vượt lên trên mọi số phận hoặc thất sủng. Thâm tâm ông không tán thành việc de Lattre cử Redon làm người bảo trợ ông - nhưng không lộ ra, ông quá tự hào và tế nhị về điều ấy.

Redon làm người chỉ huy, dẫm chân như một con gà trống. Đêm xuống. Hà Nội thông báo: "Sẽ thả một tiểu đoàn dù, cách Vĩnh Yên năm cấy số. - Không, không, Redon hoa tay, giọng khàn gầm lên. Tôi không thể đến đấy đón được và họ sẽ bị tiêu diệt chẳng được việc gì. Thay vì những người vô ích, hãy thả dù đạn cối như đã hứa. Đêm nay chúng tôi chỉ có Chúa - có lẽ thế, và đội trọng pháo nếu được cung cấp đủ đạn". Và thế là ít lâu sau, trong ánh pháo sáng bắt đầu một vũ điệu kỳ diệu trên không: những chiếc Dakota bay rất thấp xung quanh thành thả những hòm nặng đầy đạn "25 pao".

Ban đêm. Xung quanh Vĩnh Yên là bóng tối và quân Việt. Việc bảo vệ duy nhất là súng ca-nông của đội cơ động sẵn sàng bắn cách một trăm, năm mươi, mười mét. Trước mỗi bốt ngoài tường thành người ta đặt một khẩu đội với xạ thủ là những người Sénégal đen như đêm tối. Không thể dựa vào những quân lính vừa tìm lại, được tập hợp tương đối. Họ rất ít. Thống kê cuối cùng sau khi thu thập những người chậm trễ: một nghìn năm trăm người trong đó năm trăm mười lính Mường. Và họ luôn luôn kiệt quệ, mất tinh thần đến mức tự nhủ: "Ngày mai mình chẳng còn".

Đêm. Súng ca-nông do người Sénégal sử dụng được giao cho lính Maroc bảo vệ, đào hố cá nhân gần bệ súng. Họ run rẩy, chỉ vài nhóm người không làm được gì nhiều. Kỵ binh Spahis, dự phòng sau pháo đài, cố sưởi ấm trước những đống củi đốt lửa. Đơn vị duy nhất còn chiến đấu được một ít là tiểu đoàn Mường, được giao chiếm giữ quả núi rất gần ở phía đông nam. Không có người giữ một ngọn đồi cách đấy bốn trăm mét. Trong bốt một khẩu 75 cũ bố trí sẵn sàng bắn vào ngọn đồi nếu quân Việt đến đó chĩa súng vào Vĩnh Yên phía dưới.

Người ta sống từng giờ trong lo lắng, chờ đợi điều sẽ xảy ra - những tiếng nổ ghê gớm của bước đầu quân Việt tấn công. Nhưng thời gian trôi qua không có gì xảy ra, đêm qua đi và tất cả vẫn bình lặng. Quân Việt đã không có lệnh tấn công Vĩnh Yên; ông Giáp đã mất dịp may đầu tiên.

Quân lính xúm quanh trọng pháo tươi tỉnh lên một ít khi trời sáng. Nhưng họ không biết vì sao mình chưa chết và tinh thần vẫn suy sụp. Redon và Vanuxem trong sở chỉ huy, nét mặt mệt mỏi, luôn im lặng. Họ cũng trao đổi vài câu, bao nhiêu giả thuyết: "Quân Việt bất ngờ thắng lợi, chưa sẵn sàng khai thác tình huống, còn phải chỉnh đốn hàng ngũ". Nhưng không phải thế. Qua đài được biết cả sư đoàn thép 308 của ông Giáp rơi vào đội quân của Edon đang tới gần Vĩnh Yên, chỗ đường số 2 vươn tới những ngọn đồi trung du. Hai đại đội của Pháp bị bao vây, một được bom na-pan giải thoát. Cuộc chiến vẫn khốc liệt.

Vậy là, như Salan đã dự kiến, chiến trường dịch sang phía tây vài chục cây số, về vùng châu thổ. Ông Giáp đã khinh thường Vĩnh Yên, cả đêm các sư đoàn của ông đến gặp Edon. Nhưng nếu lực lượng tăng cường ấy bị chặn lại hoặc tiêu diệt, dù sao Vĩnh Yên cũng rụng như một quả chín chăng?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2021, 10:15:29 pm

Vanuxem vô cảm. Ngược lại nguy hiểm mới làm Redon suy nghĩ, viên đại tá này vốn hay tưởng tượng. Ông giật mình, kêu lên: "Phải làm việc gì đấy. Tôi phải đi gặp Edon”. Can đảm hoặc bị kích thích - làm sao biết được? Dù sao Redon cũng lao ra sân bay vắng vẻ và nguy hiểm, nhảy vào một chiếc Morane vừa hạ cánh. Chiếc máy bay nhỏ cất cánh và đậu xuống bất kể ra sao cách đấy mấy cây số trên một đồng cỏ - quân Việt không trông thấy được, họ tập trung thành khối trên những chỏm núi và con đường ngoằn ngoèo ở giữa. Quân Pháp lộ ra ghê gớm. Edon rất bình tĩnh, đứng giữa trung tâm chỉ huy, những điện đài và ca-nông trên khoảng đất rộng làng Hương Canh. Quân lính đánh nhau cách đấy vài trăm mét.

Redon, trước cảnh ấy nói với Edon giọng mệnh lệnh vì theo ý muốn của de Lattre, ông cũng là chỉ huy của ông này:

- Tôi muốn ông nhanh chóng liên lạc với Vĩnh Yên. Ngay chiều hôm nay ông cho đưa đạn dược ở đấy đến. Tôi sẽ đưa lệnh cho ông. Nhưng trước hết ông hãy chiếm lấy những ngọn núi cao kia...

Đứng thẳng với cả trọng lượng chiếc đầu đẹp và chiếc bụng đầy đặn, Edon để rơi những lời này:

- Ông thấy đấy, tôi làm tất cả. Một cuộc tấn công toàn diện. Cảnh vật bốc cháy khắp nơi. Các tiểu đoàn của tôi bị chặn lại.

Redon trở về Vĩnh Yên. Thành vắng lặng, cạn kiệt mọi thứ, nhất là đạn súng cối và đạn thường. Nhưng Vanuxem đã trở lại lớn lao, con người dữ tợn. Hôm trước sau khi toán quân của ông thất bại, ông phải chịu đựng một lúc trống rỗng, không nói năng gì, như không có mặt, ông làm tốt công việc của mình nhưng như máy móc. Ông thiếu gây gổ. Từ nay ông đã tìm lại được sự gây gổ ấy.

Quân lính của ông bị choáng còn liệt nhược, lính Mường, Maroc, Algeria đang sửng sốt vì sống sót. Ông kéo họ ra khỏi tình trạng khốn khổ ấy, tung họ vào cuộc tấn công "Ba núm đồi". Phải chiếm lấy vùng này để cứu viện khi cần vì nó chỉ huy việc đột nhập Vĩnh Yên. Quân lính hiểu điều đó và hơi lấy lại tinh thần. Quang cảnh bây giờ chỉ khói và lửa: mặt đất trần trụi và bầu trời trong sáng chỉ là những chùm sáng đạn cối, na-pan. Nhưng Edon và quân Pháp có thiêu cháy được quân Việt và qua khỏi không?

Người của Vanuxem giành lại một nửa vùng "Ba núm đồi" nhưng tiêu phí nhiều đạn dược, đã sắp cạn kiệt. Lúc ấy trên con đường, đường số 2 có nhiều quân Việt, một bộ phận của đoàn xe tiến lại. Người Pháp bố trí mười lăm xe cơ động trong một loại lá phổi thép gồm xe bọc thép vây quanh và bên trên là máy bay tiêm kích. Họ tính đưa đoàn xe vượt qua bất cứ trở ngại gì, qua từng khối quân Việt, thật nhanh, được bảo vệ tuyệt đối bằng một biển bom na-pan và một địa ngục lửa đạn. Tuy thế nhiều chiếc xe bị phá vỡ và những gì còn lại ở đoàn xe chỉ mang tới Vĩnh Yên một số thực phẩm và hai trăm năm mươi đạn cối. Đây cũng là một chiến tích nhưng gần như vô ích. Việc nối tiếp với Edon không được và một lần nữa đêm sẽ xuống trong một Vĩnh Yên không có vũ khí.

Bỗng nhiên, vào năm giờ chiều có điều gì đó xảy đến khác thường: người ta được biết de Lattre sẽ tới đây. Việc đại tướng xuất hiện trong chiến luỹ còn lại đe doạ như thế là một trong những hình ảnh đẹp nhất của cuộc chiến tranh Đông Dương. De Lattre có đầy đủ sự lớn lao của sự kiện.

Một bức điện cho Sở chỉ huy Vĩnh Yên trong gian phòng nhỏ mờ tối: "Đại tướng sẽ hạ cánh trong mấy phút nữa". Hốt hoảng. Vì sân bay - đường băng bằng đất có dây thép gai bao quanh - phơi ra trước lưới lửa quân Việt. Họ chỉ bố trí cách đấy một nghìn mét với súng cối và đại liên. Và ngay đầu rìa họ cũng đông như kiến. Họ vừa bắn cháy một máy bay cứu thương. Nếu họ nghi ngờ có de Lattre thì sẽ là một trận bão lửa.

Vanuxem và Redon chạy ra sân bay. Bernard, tham mưu trưởng, hét lên: "Quân Việt sẽ bắn tung de Lattre lên không". Ông chạy đến các pháo thủ: Bắn vào tất cả những đồ đê tiện ấy. Nắm súng đằng cuối, quay xung quanh và bắn hết cỡ".

Một chấm đen trên trời. Chiếc Morane của đại tướng xuống dần giữa những tiếng nổ súng cối và tất cả tiếng om sòm của cuộc chiến. Quân Việt không bắn vào mục tiêu, chắc không muốn để lộ vị trí khi bắn vào một chiếc Morane bình thường - họ không biết đấy là de Lattre.

"Chào Edon, chào Vanuxem" de Lattre ra khỏi máy bay, nói đơn giản thế. Ông có Salan đi theo. Chào hỏi. Không có gì tỏ ra đây là giây phút căng thẳng. Việc bảo vệ xem ra chỉ có ba chiếc xe dẫn đường. Nhưng, tuy không thấy, pháo thủ và lính gác ở Vĩnh Yên bám chặt vào trọng pháo - theo dõi cảnh tượng trên sân bay và sẵn sàng bắn về mọi phía khi có dấu hiệu nguy hiểm. Trên không, những chiếc "Kingcobra" quay tròn, phi công cũng sẵn sàng cảnh giác. Chẳng có gì xảy ra. Vả lại de Lattre có vẻ không hề ngờ có mối nguy hiểm nào. Ông tiến bước thong thả, dựa vào chiếc gậy, đi đầu nhóm các nhân vật. Bộ phận lớn của đội quân đồn trú chưa biết gì, nhận ra ông và đứng chào. De Lattre từng bước ngắn qua sân, chán ngán nhìn quân lính xộc xệch, thương binh nằm rải rác, cả một mớ lộn xộn hòm xiểng, bi-đông, rác rưởi, cảnh vật còn nhuốm mùi thất bại. Và ông hỏi:

- Này Redon, sự lộn xộn này là thế nào?

Vị tướng trèo lên thành, lên sở chỉ huy và tầng thượng. Ông xem bản đồ, nhìn lâu vào chân trời chỗ ghi có cuộc chiến - những ngọn núi đầu tiên quân địch chiếm giữ, con đường bị cắt phía bên dưới và phía sau là vùng đất bằng của châu thổ trải rộng cho đến sông Hồng. De Lattre lắng nghe máy bay "Hellcat" đang lượn vòng, nghe các đại tá trình bày những khó khăn. Khi nào Edon tấn công vào con đường? Khi nào đội ta-bo đến theo đường đê? Redon báo cáo, hét lên giữa tiếng súng để đại tướng nghe được và cũng để hô quân lính khắp nơi trong thành có những người đã bắt đầu lăn lưng vào công việc của họ, vào ăn uống - như thờ ơ với de Lattre.

Đại tướng rất không bằng lòng với những gì mình thấy, những thì thuộc hạ báo cáo, với sự hỗn độn này. Nhưng nét mặt ông có cái gì đó khác hơn cơn giận dữ, đấy là sự ngơ ngác. Ông không hiểu...

Bỗng tiến một bước về phía Redon; cứng rắn và còn khoan dung - sự khoan dung đe dọa, ông hỏi:

Này, Redon, sự cố này chưa kết thúc à?

Lại một đêm nữa đến gần, cảnh vật mờ tối dần. Trong nhóm tướng tá vây quanh de Lattre như có tiếng sét. Câu hỏi ấy là lời kết tội Redon vì nó có nghĩa: "Tôi đã tin tưởng vào anh. Nhưng anh đã làm những gì?"

Redon bị chạm nọc vì mức độ trách cứ đồ sộ. Vậy là đối với de Lattre mù quáng, không có ý thức, Vĩnh Yên chỉ là một "sự cố”. Ông chỉ rõ tình thế này là thế nào:

- Sự cố, thưa đại tướng, là một từ không phù hợp. Đây là một vấn đề sống còn đối với Đội quân viễn chinh. Vĩnh Yên là một sự kiện lớn, được bố trí tốt với nhiều sư đoàn. Mục tiêu của ông Giáp là đến sông Hồng. Và chắc là cuộc chiến ở Hà Nội tiếp ngay sau đó nếu chúng ta mất chiến trường này.

Tất cả những điều đó de Lattre biết. Thế nhưng, là người của linh cảm và của những khuếch trương lớn, ông không biết thực sự. Ông không muốn nói lên là mình đã rơi vào sai lầm khi trách cứ những người ngu dốt, những người của Carpentier - một đánh giá thấp, sai lầm về quân địch. Ông tưởng những biện pháp của ông đã đủ và ông thấy vực thẳm. Nhưng ông chưa tuyệt đối chắc chắn là tất cả đã bị hư hỏng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2021, 10:16:26 pm

Và rồi Redon đi quá xa. Vì vừa dập gót chân, với thái độ muốn thật phóng túng, ông nói thêm:

- Nhưng xin đại tướng tin ở tôi; chúng tôi sẽ biết chết cho đất Vĩnh Yên này.

Từ đầu Vanuxem đứng riêng ra; dĩ nhiên ông nắm rõ sự việc. Đột nhiên de Lattre nắm tay ông, kéo ra một góc, nói thầm - để không ai nghe tiếng. Sau lời nói mạnh của Redon, giữa những nghi ngờ đè nặng trong lòng, ông muốn biết sự thật. Chỉ cần mấy giây tìm kiếm và theo sự thúc đẩy tự nhiên, ông đến với người bạn cũ ông vừa mất tín nhiệm:

- Còn anh, Vanuxem, anh nghĩ thế nào? Phải chăng rất nghiêm trọng, số phận Bắc Kỳ đang nằm ở đây ư?

- Thưa đại tướng, khoản cá cược đúng là Hà Nội. Phải giữ vững Vĩnh Yên, nếu không sẽ mất hết. Nhưng sẽ giữ được.

- Tôi sẽ gửi cho anh tất cả những đội cơ động của tôi. Từ đấy de Lattre biết Vanuxem vừa thừa nhận vừa phủ định Redon. Sự khác nhau là ông ta còn hy vọng.

Đặc tính của de Lattre - một khi đã xác định quan điểm ông tự tạo cho mình nhân vật chính. Không còn sửng sốt, hốt hoảng mà kiên định nghiêm khắc và có chừng mực của người chỉ huy. Tuy vậy trước hết phải có một nạn nhân cho ông: dĩ nhiên ông nhìn đến Salan.

Trở lại hòa giải với Vanuxem, de Lattre đi qua Redon không nói gì. Ông bước tới "người Trung Hoa" và bùng nổ: - Salan, anh đã lừa tôi hoặc đã lạc quan ngu ngốc. "Người Trung Hoa" câm lặng và xanh mặt. Cãi lại có ích gì? Dù ông có muốn báo trước, de Lattre có nghe cho đâu, ông đã chịu ảnh hưởng của bao người khác.

Và rồi sức mạnh của Salan phải chăng là không bao giờ giải thích? Người ta không biết ông nghĩ thế nào. Chắc đối với ông cũng thế, làm như de Lattre, tỏ thái độ, có quan điểm tùy hoàn cảnh, là làm kịch. Ông, người chơi cờ thích xuống thấp lên cao, biết sự tinh tế là thắng sau những cú hỏng việc, hy vọng, chấp nhận, thậm chí tranh thủ những lúc ấy.

Dù thế nào Salan cũng chẳng có gì để nói; ông phải bị "quở mắng" suông một, hai câu để de Lattre tỏ ra không thể lầm. Nói thế rồi de Lattre quay lại với các đại tá Redon, Vanuxem, cả hai lo sợ, nghĩ đã đến phút hy sinh của mình, việc cách chức xấu hổ. Ngược lại đối với họ de Lattre tỏ ra tốt, đầy thông cảm dù về căn bản có cái nhìn nghiêm khắc. Không phải lúc ông tỏ rõ những cảm xúc của mình. Vì theo nguyên tắc, một người lớn lao không thay những người thừa hành trong lúc thực hiện nhiệm vụ, có thể gây hậu quả xấu. Vả lại nếu muốn ông sẽ giải quyết sau rất dễ dàng.

Rời Salan, de Lattre quay lại Redon. Với tư cách "ông chủ" chỉ huy và bảo vệ, chấp nhận tất cả trong buổi trao đổi công khai trong ban tham mưu:

- Anh sợ gì? Cần phương tiện gì?

Redon hoàn hảo trong vai trò con người dũng cảm, một anh hùng chứ không phải kẻ hèn nhát vì ông thấy rõ một lần nữa:

- Tôi đề nghị tăng cường cho toán quân Edon đủ sức tấn công đường số 2 cho đến Vĩnh Yên. Họ phải vượt qua hai sư đoàn. Ngoài ra nhiều trung đoàn Việt đang tiến thẳng về sông Hồng. Phải tổ chức phòng vệ trên những con đê và phía trước Sơn Tây. Tôi vẫn chưa biết toán quân ta-bo và de Castries ở đâu. Cuối cùng, ở phía sau tôi cần một lực lượng dự phòng tối thiểu sáu tiểu đoàn cùng với trọng pháo.

- Anh sẽ có tất cả những cái đó.

De Lattre lại đi thong thả, vẻ suy nghĩ. Rồi ông thẳng người làm vẻ tươi tỉnh, đi qua sân không nhìn ngó gì quá. Lần này ông không thích hoặc không muốn thấy. Sau lưng đám người đưa tiễn ông thì thầm. Đột nhiên ông ngắt lời họ, nói: "Tôi ra lệnh cho các ông giữ vững đêm nay nữa". Redon dập gót chào, trả lời rắn rỏi: "Vâng, thưa đại tướng, chúng tôi sẽ giữ vững, mệnh lệnh sẽ được chấp hành". Sau này Redon thổ lộ: "Tôi cũng không biết cảnh ấy, tuyệt vời hay kỳ cục". Cuối cùng de Lattre đến gần máy bay: "Chào Redon. Hẹn gặp lại, Vanuxem". Đấy là những lời cuối cùng của ông trước khi bay.

Chỉ ở Hà Nội, trong "Ngôi nhà Pháp" De Lattre mới bỏ mất nét mặt huy hoàng: ông suy sụp. Với những người trung thành ở đó ông nói:

- Công việc rất tồi tệ.

Đến lúc ấy hai con người bí mật của de Lattre, các mưu sĩ chiến lược của ông, Salan và Beaufre mới vui vẻ trả lời:

- Ngược lại, kết thúc rồi. Đã thắng lợi.

Và giải thích với vị tướng vào cuối buổi chiều họ đã nướng xong quân Việt bám vào những ngọn đồi phía bắc đường số 2. Toán quân Edon đã chiếm được nhiều chỗ và bằng cách ấy họ đã tiến được mấy cấy số vừa tránh được cuộc phục kích lớn trên đường.

Nhưng de Lattre không muốn để họ trấn an. Bây giờ ông vẫn lo lắng. Nét mặt nặng nề, ông càu nhàu:

- Tình hình chưa sáng sủa lắm. Tinh thần một số đội quân, thậm chí một số chỉ huy xuống đến giới hạn mục ruỗng. Dựa vào đêm tối các sư đoàn đẩy mạnh một đợt mới thì tất cả mất hết.

Nỗi lo ngại của ông là Vĩnh Yên, thành trì rất yếu, thực sự đơn độc vào đêm thứ hai sau đó. Từ nửa vô thức ông chuyển sang bị ám ảnh. Điều ông đã nói ở đấy phải được viết ra giấy. Thế là ông cho thả xuống một "bức thư đẹp" gửi Vanuxem - không gửi cho Redon dù sao cũng bị nghi ngờ vì chủ nghĩa thất bại. Đây là tiếng lòng:

"Tôi tin tưởng ở anh. Anh hãy nắm lấy việc chỉ huy. Tôi sẽ gửi những gì cần thiết để hỗ trợ anh".

Vẫn luôn luôn thế, trong nỗi sợ hãi cũng như trong mọi việc, de Lattre vừa thật thà vừa không. Tình hình nghiêm trọng là một yếu tố phải lợi dụng ngay. Như đêm trước ông kích động, làm đảo lộn tất cả, cho xuất hiện những đội quân mới, vũ khí mới, đạn dược mới, gia tăng cầu hàng không Nam - Bắc Kỳ. Nhưng lần này ông kích động cả Paris, không hứa hẹn thắng lợi nữa mà báo động. Cho đến ba giờ sáng, điện tín tung đi. Cho ông Letourneau làm thế nào để nước Pháp run lên, say mê, cố gắng làm một việc gì đó cho Đông Dương. Cuộc chiến mang đến tận văn phòng các bộ và các chủ tịch. Còn các nhà báo ở Hà Nội họ phải gửi những bản tin bi quan hơn. đen tối hơn - để người ta quan tâm đến họ.

Đến ba giờ sáng, đã làm tất cả để thắng và để làm người ta lo lắng, de Lattre đi nằm. Và đêm ấy nữa cũng không có gì xảy ra ở Vĩnh Yên, trừ một sự cố rất khác thường.

Trong bóng tối đen, vào những giờ nguy hiểm trước bình minh - mà những người lính vững vàng nhất cũng sợ dù không có gì, những kẻ bị bao vây ở Vĩnh Yên thấy trên đường những luồng ánh sáng đáng kinh ngạc. Một đoàn xe cam nhông dài, bình tĩnh mở hết đèn pha chạy về thành. Càng khó hiểu vì một đoàn xe trước hầu như bị tiêu diệt hết trong ngày: quân Việt vẫn ở xung quanh gần Vĩnh Yên, con đường vẫn do địch làm chủ.

Thế mà đoàn xe vẫn tiếp tục tiến, rất trật tự. Một ai đó kêu lên:

- Họ sắp đến chiếc cầu sụp đổ và sẽ bị chặn lại. Quân Việt chắc chắn chờ họ ở đấy. Nếu không báo với họ, không cứu họ thì sẽ bị tàn sát hết.

Một sĩ quan được chỉ định đi gặp đoàn xe lạ lùng này. Anh lướt đi một mình trong đêm, hy sinh vì nhiệm vụ. Không có trở ngại gì. Anh huơ đèn pin chặn chiếc xe đầu lại. Một viên quản to lớn ló đầu ra cửa xe kêu lên:

- Có việc gì vậy? Tôi là trưởng đoàn xe đây.

Những lời giải thích rối rít trong đêm. Viên hạ sĩ thấy có việc với một người có cấp bậc nhiều vạch, bèn nói:

- Tôi từ Hà Nội đến, mang đạn dược cho các anh.

- Anh có lệnh của đội cơ động Bắc Phi không?

- Không. Ở Hà Nội người ta bảo là một việc cung cấp bình thường. Thế là tôi cho xe chạy không đề nghị gì với ai cả. Vả lại tôi cũng chẳng gặp bóng ma nào.

- Đáng lẽ anh, người của anh và xe cộ tan thành mảnh rồi. Nhưng cũng chưa hết nguy hiểm đâu. Sẽ bị phục kích bất cứ lúc nào đấy.

Viên quản tái mặt như xác chết - ông vừa hiểu ra. Tất cả xe dừng lại, nối đuôi nhau trước hố sâu là chiếc cầu hỏng. Phải làm thật nhanh. Lái xe tắt đèn pha. Trong bóng đêm có những người xuất hiện, các xạ thủ Vĩnh Yên cử tới. Họ bố trí quanh đoàn xe. Phải dỡ hàng ngay. Trong hố này người ta để đạn cối, hố kia để những túi thuốc súng để không bị nổ tung lên cả. Cuối cùng những gì thu thập được chở vào thành.

Vào trong Vĩnh Yên là trận cười điên loạn, nhất là khi viên quản thông báo:

- Tôi có một gói cho đại tá Levée.

Ồng đại tá không có ở đây. Chính ông thay thế de Castries cầm đầu đoàn quân ta-bo theo đê sông Hồng đến đây. Nhưng toán quân ấy còn xa, không tiến lên được không hiểu vì sao.

Dù sao gói quà đã đưa đến, một hộp nhỏ đầy gan béo, champagne và rượu vang sông Rhin. Vanuxem mở ra, nói đùa:

- Ít nhất Levée cũng sẽ được dùng. Chúng ta ăn nhẹ đi.

Đêm sáng dần. Trong bốt không khí vui vẻ. Quân lính tự nhủ đã có đạn, họ được cứu thoát.

Thực vậy, sáng hôm sau đội cơ động Bắc Phi được bố trí trên những ngọn núi gần sát Vĩnh Yên. Một cuộc chiến kéo dài suốt ngày 15 và buổi sáng 16 tháng giêng - rất khốc liệt. Bom na-pan và vũ khí đã giành lại được con đường số 2. Tuy có những hình ảnh ghê gớm nhưng chưa kết thúc; người ta còn đánh nhau hai ngày nữa ngay xung quanh Vĩnh Yên, đầy bấp bênh và nguy hiểm.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2021, 10:17:16 pm

Ngày 15, trên con đường số 2 và những chỏm núi gần đấy là sự đụng độ toàn bộ, tuyệt đối, không giữ gìn giữa đội cơ động Bắc Phi và sư đoàn 308. Ông Giáp quá tin chắc vào chiến thắng nên đã chọn chiến trường là vùng trung du này, địa hình lộ liễu thuận lợi cho Đội viễn chinh. Ở đây quân Pháp ít nhất cũng thấy được một ít quân Việt - có những mục tiêu cho ca-nông, xe tăng, máy bay. Đây là trận đánh đầu tiên loại này trong cuộc chiến tranh Đông Dương - và sẽ là trận cuối cùng. Vì sau đó ông Giáp hiểu bài học; cuộc chiến của ông trước khí cụ ngày càng nặng của quân Pháp, sẽ là sáng tạo những phương pháp mới để lẩn tránh và đánh; đi đến chỗ có những sư đoàn hoàn chỉnh quân lính không nắm bắt được, không thật và bắn giết, nhờ vào rừng và đồng ruộng mà người Pháp không thấy, không có mục tiêu.

Cuộc đụng độ trên con đường số 2 bắt đầu không tốt. Khi tôi ra đến mặt trận, chỗ Edon đã gần như bại trận, một cuộc bại trận mới.

Bình minh ngày 15 tháng giêng, các nhà báo ra mặt trận trên một đoàn xe jeep. Chúng tôi lăn bánh lâu trên những con đê, tất cả vắng vẻ. Chỉ khi đi quá thị xã Phúc Yên trống trải và như chết tôi mới cảm thấy đến gần cuộc chiến. Gặp một đại tá to lớn hầu như chất đầy riêng cho mình cả chiếc xe ca hướng đạo: chỉ huy trưởng của Phúc Yên. Trả lời những câu hỏi của phóng viên, ông thất vọng đưa tay lên không và cuối cùng ấp úng: "Tình hình rất xấu. Quân Việt đẩy lùi đội cơ động Bắc Phi; họ phản công, đuổi theo những tiểu đoàn của chúng tôi dữ dội". Chúng tôi dừng lại để nhường đường cho một đoàn xe không vừa đưa quân tăng cường tới mà người ta tung ngay vào lò lửa đế ít nhất cũng cố gắng chặn quân Việt lại. Trên không bốn chiếc "Hellcat" quay tròn bổ nhào xuống một điểm, rất gần, là đồng bằng quân Việt đã tiến nhiều lên trước! Bây giờ là cảnh hàng đoàn người chạy trốn không ngớt, hai bên đường. Đây là cuộc di tản, những khuôn mặt không còn thể hiện gì; nỗi sợ hãi đã trở thành vô cảm tuy cả vùng đầy ánh lửa khói, tiếng nổ. Đến làng Hương Canh: trận đánh khốc liệt ở đây.

Mười giờ sáng. Giữa làng là một khoảng rộng đất nện. Edon và ban tham mưu trụ vững ở đây, bố trí đầy ca-nông, ô-tô đại liên, xe điện đài, xe cứu thương, tất cả những phương tiện chiến tranh Phương Tây. Đại tá Edon vẫn như mọi ngày, rất vững vàng, khai thác triệt để đội cơ động "của ông". Lúc này ông đang nghiên cứu tấm bản đồ trải rộng trên một chiếc xe. Xung quanh ông, cuộc chiến "quay vòng" có phương pháp, theo nghề nghiệp. Edon chỉ đủ thì giờ nói với chúng tôi: "Tình hình tốt hơn rồi" và truyền qua điện thoại tọa độ bắn cho một khẩu đội.

Dân thường luồn giữa cuộc chiến, giữa súng đạn và lính đánh thuê để chạy trốn. Một chức sắc cũ, người duy nhất không lo chạy hoặc bắn giết, không làm gì hết, giải thích với tôi: Đấy là dân ở đầu làng, nơi quân Việt chiếm lúc bình minh và quân Pháp chiếm lại vào buổi sáng. Họ chạy ra khỏi nhà đang bị máy bay Pháp bắn rôc-két: thật khủng khiếp. Lửa cháy khắp nơi. Quân Việt ẩn trong những ngôi nhà cháy dở bắn đạn lửa vào những đại liên của Pháp. Dân chúng ra ngoài bị bắn nên phải ở lại trong nhà cho đến lúc tạm yên. Có nhiều người chết và bị thương. Bây giờ là những người sống sót bỏ chạy. Ông chức sắc già bảo tôi: "Ông lên chòi này với tôi: đứng trên ấy sẽ hiểu rõ hơn". Một tháp canh phòng bằng tre trong làng; tôi theo ông già trèo lên đấy. Quang cảnh rất đẹp, xa xa núi Tam Đảo, gần hơn là những khoảng đồi, gần hơn nữa, làng xóm ẩn dưới những bụi cây. Vẫn thanh thản, ông già lại nói: "Đêm trước Việt Minh ở trong xóm Tam Lộng, nơi có nhà thờ Thiên Chúa giáo kia. Bình minh, họ chiếm lấy hai xóm kế đó và một nửa làng Hương Canh. Vì thế đại tá Edon phải rút ban tham mưu về đây".

Bên dưới đang đợt tạm nghỉ. Edon ăn trong chiếc cà-mèn. Một sĩ quan tùy tùng của ông nói với tôi:

- Từ bình minh, tấn công và chống tấn công nối tiếp nhau. Nhưng quân Việt vừa bị đẩy lùi. Cách đấy một tiếng, lúc chín giờ, họ tới cách sở chỉ huy hai trăm mét. Đội cơ động có nguy cơ rơi vào giữa họ và bị tiêu diệt. Có những phút ông Giáp đã tiếp cận chiến thắng. Nhưng đến chín giờ rưỡi chúng tôi tung ra mọi lực lượng dự phòng và tăng cường, đưa quân Việt trở lại chỗ họ xuất phát. Bây giờ thì bình lặng - đợt tạm nghỉ.

Nhóm nhà báo được phép tới "chiến trường" ở đầu xóm dân cư cách một nghìn rưỡi mét. Thực tế thôn làng không bị huỷ hoại, chỉ hoang vắng. Người ta không nghĩ là vừa đánh nhau ở đây mà còn ở bên cạnh. Trừ một số tiếng nổ, cảnh vật bình lặng lạ kỳ.

Trên một cây số đường và lều quán cũng không một người lính. Chúng tôi đến trước một con sông. Trên bờ một người Ả-rập ở trần đang sấy khô quần áo trên đống lửa. Anh ta bảo lúc nãy lội vội qua sông bị ướt; ngay sáng nay quân Việt đến đây và tiểu đoàn của anh phải bỏ chạy.

Qua một chiếc cầu. Không còn nhà cửa. Một cánh đồng khô trải rộng đến chân đồi. Bỗng, khuất sau một ụ đất là chỗ đóng quân - một tiểu đoàn xạ thủ được bố trí ở đấy. Ở đây cũng vậy, cuộc chiến có dáng vẻ của công việc, có những người thợ kinh nghiệm đang làm. Nhiều người ngồi xổm sau súng cối; những người khác nằm ngay trên bờ đê, bên cạnh những khẩu đại liên, nhìn ra khoảng đất không người quang cảnh đặc biệt ngoại lai. Lúc này không có một tiếng súng, những người lính lo nấu nướng nhiều hơn lính canh chừng vũ khí - những người Algéria hoàn toàn bị thu hút về "cái ăn". Đây là đội quân đi vào chiến tranh không có cảm giác gì, như người ta vẫn sống bình thường thế, đánh nhau, đi lại, ăn, chết và nhất là đầu tháng nhận lương thận trọng gửi về Bắc Phi. Phía sau đó năm mươi mét, những chiếc xe cứu thương chờ sẵn. Người trong xe là những cô gái to béo đang cười đùa.

Viên chỉ huy dẫn tôi đi trên đường đê, ra khoảng đất không người. Ở một đầu ruộng, khoảng năm mươi, có lẽ một trăm xác chết, lẫn lộn Việt Minh và Algéria. Xa hơn là những lùm cây. Viên sĩ quan nói với tôi, mười hai nghìn quân chính quy - ít nhất sáu trung đoàn - ẩn nấp ở đấy. Và ông lặp lại như một ý nghĩ cố định: "Để trụ vững trước khối khổng lồ ấy chúng tôi rất ít người, quá ít!"

Buổi trưa. Bình yên cho những người bị giết bình thản ấy. Cho những người Ả-rập đang khoan khoái ăn uống, thờ ơ với những gì còn lại. Viên sĩ quan lạnh lùng nhưng bị ám ảnh, kể lại với tôi:

- Lúc nãy, đám đông quân Việt suýt hất tung chúng tôi đi! Bình minh, chúng tôi lên đường để tấn công. Quân Việt để chúng tôi lại gần những bụi cây họ nấp, không bắn một phát súng. Bỗng nhiên đạn tóe ra từ khắp nơi. Chúng tôi dàn thành một hàng mỏng trên đồng ruộng và những trung đoàn hoàn thành ào vào chúng tôi. Có biết bao nhiêu lính chính quy nên người ta tự nhủ giết bớt đi cũng chẳng ích gì. Sau một lúc đánh giáp lá cà - gây ra những xác chết ở đấy - chúng tôi rút lui, cố sức chạy thật nhanh. Không có sự giải thoát nào bằng chạy trốn, không để đuổi kịp, bắt được. Sẽ bị nhấn chìm hết, biến mất vĩnh viễn. Đuổi theo chúng tôi cách mấy mét là cả một bức tường người tủa ra đầy lưỡi lê và tiểu liên. Chúng tôi không thể làm gì được nữa.

Thế nhưng khối người ấy chậm dần và dừng lại. Phía sau, qua đầu chúng tôi, một lưới lửa địa ngục làm họ tan tác. Trước hết, giữa những giây phút sống chết của chúng tôi, đại liên của đại đội phía sau làm chỗ dựa bắn vào cánh sườn, giết họ từng đám. Quân Việt vẫn xông tới. Bỗng máy bay và ca-nông Pháp bắn vào cả khối người. Họ vẫn chạy đến nhưng ít đông hơn, chậm hơn rồi không tiến lên nữa. Một lúc lâu họ ở lại tại chỗ, ngập ngừng, tiếp tục đổ xuống. Không tưởng tượng nổi, một thời gian điên cuồng. Kết thúc đột ngột: quân chính quy quay trở lại. Những người sống sót ào vào những bụi cây mà họ vừa xuất hiện không đến nửa tiếng đồng hồ trước đây. Cuối cùng, cả hai phía, chúng tôi trở lại vị trí lúc bình minh, trước khi đánh nhau.

Một lúc sau một xe cứu thương đưa thương binh đi. Tôi trở lại ban tham mưu của Edon, vẫn trên khoảng đất rộng Hương Canh - vẫn hoạt động hơn bao giờ hết. Sĩ quan tùy tùng của Edon lại nói chuyện một lúc với tôi:

- Bộ binh chúng tôi vẫn bị bao vây, sắp đánh lớn. Máy bay thám thính đã nắm chính xác những chỗ quân Việt tập trung chiếm giữ con đường số 2. Họ đã chỉ cụ thể cho chúng tôi. Rồi sẽ "xử lý" với họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 10:44:44 am

Tôi lại trèo lên tháp canh của dân làng để xem "pháo hoa", bỗng thấy thiên nhiên, buổi trưa còn nguyên vẹn, như tan vỡ ra. Tất cả đang bị tiêu huỷ: bụi bờ, cây cỏ và cả những chỏm núi. Ca-nông liên tục dội vào cây cối, làng xóm không có người, bùng lên những cuộn khói xám. Xa hơn máy bay "Hellcat" quay tròn trên những ngọn đồi, chỏm núi như ruồi bay. Nhất là tốp máy bay lượn trên một mô đất cao hơn hình tam giác: nơi khống chế con đường Vĩnh Yên. Đột nhiên ngay dưới chỏm núi cân đối kỳ lạ ấy vọt lên một quả cầu lửa, có thể nói là từ mặt đất bung lên nhưng lại nhào xuống thấp, lan ra như một tấm màn trên sườn núi. Trong vài giây tất cả bị một lưới lửa bao trùm và rồi chỉ còn những cột khói đen đặc. Chỉ cần một phút để "vật ấy" đốt cháy toàn ngọn đồi - và rồi tôi hiểu. Đấy là na-pan. Tôi vừa được chứng kiến mùa đầu tiên của chất lỏng đốt cháy này ở Đông Dương. De Lattre vậy là đã dám làm. Đấy là vũ khí bí mật mà ông đã có nói với tôi, đã dựa, đã nhắm vào nó. Chỉ mới vài tuần lễ trước, người Pháp kinh hoàng nói tới sản phẩm tạo ra những nỗi đau chết người này, đã thề danh dự không dùng nó trên đất Châu Á. Nhưng de Lattre không hề xấu hổ, ra lệnh kiểm duyệt để cho qua, thậm chí khuyến khích các nhà báo “đề cao" sự huỷ diệt hàng loạt của chất lửa hỏa công thế kỷ XX. Đối với ông không phải một sự thách thức mà là sự quảng cáo có tính toán. Nhân việc này ông nói: "Dư luận phải biết cuộc chiến tranh Đông Dương là cuộc chiến tranh thực sự, phải thắng bằng mọi biện pháp".

Bây giờ na-pan lan khắp cảnh vật những hình xoắn ốc đỏ và những cuộn khói đen. Như những bông hoa quái quỉ gây chết chóc rộ lên khắp nơi. Những chỏm núi chỉ còn là những đống lửa cháy. Và gió mang lại mùa cháy sém. Nơi thiên nhiên xanh tốt chỉ còn lại những mảng hóa vôi không còn gì cháy, không còn gì bốc khói - sự yên bình của ngọn lửa.

Tôi lại từ tháp canh bước xuống. Chỗ Edon người ta hài lòng. Phi công thông báo qua đài ngọn lửa chạy nhanh hơn quân Việt, bắt kịp và nhấn chìm hàng trăm, có lẽ hàng nghìn. Họ thấy những người chạy trốn bị lửa bắt vào phía sau, còn chạy được mấy mét, những ngọn đuốc sống tắt ngấm sau mấy giây. Không may, một số lính Maroc tiến lên nhanh cùng bị thiêu cháy...

Quân Việt tập trung lại ở những góc khó bắt lửa. Họ cố đào hầm, chui vào lòng đất. Ở đây máy bay tiêm kích nhào lộn xả đạn, nhất là trọng pháo dội liên tục. Trên cao, những chiếc Morane thám thính bay vòng tròn chuyển tọa độ chính xác cho máy bay dội bom vào giữa những chỗ tập trung quân Việt.

Trong nhiều giờ người Pháp đốt phá, xả đạn liên thanh, dội bom, bắn ca-nông. Tuy vậy người Việt tiếp tục chống trả. Họ dũng cảm phi thường. Những người bị cháy dở quay lại vị trí chiến đấu. Những người sống sót vẫn trụ vững dưới đạn, bom na-pan. Với đại liên hạng nặng, họ bắn vào máy bay tiêm kích chúc xuống - ba chiếc bị trúng đạn. Mặt đất xung quanh đường số 2 lở lói, cháy sém khắp nơi. Có vẻ như quân Việt không thể ở đấy nữa nhưng họ vẫn còn. Đến bốn giờ chiều một chiếc Morane báo tin họ thoát đi từng nhóm nhỏ theo bờ đường. Nhìn ra như quân chính quy sống sót sau trận đánh rút khỏi đường số 2 để lại cho quân Pháp.

Có nên ra chiếm đường không? Các sĩ quan bàn cãi. Một người nói với tôi:

- Thường người ta tưởng đã tiêu huỷ tất cả và sau đó phát hiện ra, quá chậm, chẳng có gì đáng kể. Địa bàn như bị san bằng nhưng phải chăng là một ảo tưởng? Ca-nông và máy bay tất nhiên gây những thiệt hại lớn nhưng có lẽ như khi người ta đập vào một tổ kiến bao giờ cũng còn nhiều kiến. Thực tế phải có những phương tiện mạnh hơn nhiều, trọng pháo, máy bay nhiều hơn. Vì về phía chúng ta, dù tăng cường bao nhiêu cũng rất ít người!

Về nguyên tắc Vĩnh Yên được giải thoát. Nhưng đêm tối trở lại, chắc lại đưa quân Việt trở lại trên đường. Trong hoàng hôn Edon ngần ngại đưa đoàn xe đạn dược đi. Ông gọi Hà Nội; de Lattre đang ở đấy, chuẩn bị bay đi Vĩnh Yên thăm bí mật chiến trường. Trước khi lên máy bay ông báo tin cho Edon: “Cứ cho xe đi". Một lần nữa, vị tướng thử vận may, biết rằng thử tất cả để giành chiến thắng. Tôi ở Hương Canh thấy đoàn xe ra đi kèm theo xe bọc thép. Trước mặt tôi, người ta chĩa tất cả ca-nông ở Hương Canh vào việc di chuyển khổng lồ ấy. Nhưng những đề phòng ấy đáng giá gì nếu có một lữ đoàn phục kích?

Tôi phải trở về Hà Nội với các nhà báo, chỉ ngày hôm sau mới được tin về kết quả chuyến đi như đã tả: đoàn xe đầu bị nhấn chìm và đoàn thứ hai đi trong đêm, đèn pha sáng loáng - con rắn lửa giữa bóng tối.

Những điều đó tôi nghe từ miệng các chiến binh ngày hôm sau, ngày 16 tháng giêng. Vĩnh Yên từ nay nối với thế giới bên ngoài đầy quân đội và đạn cối. Tôi đến đây cùng nhóm báo chí vào sáng thứ hai, lúc cuộc phản công của ông Giáp có vẻ bị đánh gãy, đang có mấy giờ vui vẻ sảng khoái.

Sáng hôm ấy tất cả như đã thay đổi. Cuộc chiến tranh của Pháp - do de Lattre tổ chức trong hai đêm hai ngày gần đi tới thất bại - triển khai dọc đường số 2 và các nhà báo đang ngắm nhìn quân lính của đại tướng. Người ta thấy một Đội quân viễn chinh hoàn toàn khác lạ, tuyệt vời - công cụ chiến đấu chính xác, có phương pháp, được tính toán sát sao. Thay vì lung lay và hôm trước, chỉ còn vài nhóm người để trụ vững là sự hiện diện liên tục, kỷ luật đặc biệt của một quân đội tập dượt khắp nơi, tất cả ở vào vị trí, tất cả hoạt động.

Như có sự tự động hoá trong việc chuyển vận các đoàn xe tiếp tục đưa lực lượng tăng cường, qua tiếng nói nhấn mạnh trên đài, người ta biết có một ban tham mưu mới chỉ huy. Khắp nơi là các quân, những người lính vững vàng sử dụng sức mạnh, chủ động thần kinh trong những phút chờ đợi xông lên tấn công, cũng là triển khai để đạt được mục tiêu đã định, biết rằng sống chết của họ chỉ diễn ra trong mấy giây. Và rồi biết bao tỉ mỉ trong chuẩn bị máy bay, ca-nông, xe cứu thương, tất cả mọi dụng cụ! Trong tất cả những việc đó không hề lãng mạn điên cuồng, lạc hướng mà chỉ là sự hoàn thành cần thiết một nhiệm vụ. Hiếm thấy có bình luận; đấy là hành động, thế giới hành động.

Con đường Hương Canh - Vĩnh Yên như một con đường linh thiêng, lưu lượng đầy ắp những đoàn xe quân đội, đạn dược đi, về không ngớt. Cũng có những khí cụ công binh và mọi loại xe bọc thép. Những chiếc cầu mỏng manh run lên khi ca-nông và ô tô đại liên đi qua. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương đây đúng là cuộc giàn trải lớn đầu tiên về sức mạnh Pháp và cũng như mọi người, tôi nghĩ quân Việt dù đông, có thể chống cự nổi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 10:46:52 am

Trước khi để chúng tôi đi xa hơn, người ta "trao đổi vắn tắt" với chúng tôi ở Hương Canh, lần này theo quy tắc, theo phương pháp đã biến đổi Đội quân viễn chinh từ hôm trước. Một sĩ quan trình bày với chúng tôi dựa vào bản đồ:

- Nhiệm vụ hiện tại của chúng tôi là cung cấp cho cuộc chiến phía bắc con đường, cách đây mấy cây số. Hôm kia và hôm qua hai điểm chốt của quân Pháp ở Hương Canh và Vĩnh Yên đã anh dũng trụ vững sau nhiều giờ thất vọng. Hôm nay hai đội quân, một từ Hương Canh này, một từ Vĩnh Yên đang toàn lực phản công. Họ phải chiếm giữ các chỏm núi trước đó chúng tôi đã đập tan và thiêu cháy quân Việt, phải bố trí tại đấy.

Chúng tôi đi trên con đường đã chiếm được. Tôi nhận ra quang cảnh mà người ta đã đốt mọi thứ thành than hôm trước. Đến Vĩnh Yên. Không còn là vị trí gần như mất người ta mô tả bộ máy sức mạnh của chiến tranh thuần túy, vẫn luôn là những xe cơ động, ca-nông và người. Thế nhưng vẫn có một nỗi lo lắng, một sự khó chịu ngột ngạt nào đó.

Redon vênh mặt, làm ra vẻ vẫn có lý về lối bi quan của mình:

- Sáng nay Salan trở lại đây. Ông bảo hôm qua tôi đánh vào de Lattre một cú đáng kể; sau khi tôi kể với đại tướng những gì xảy ra, trong hai tiếng đồng hồ ông ấy già đi mười tuổi.

- Nhưng bây giờ tốt rồi. Quân Việt đã tháo chạy...

- Ông hãy nhìn rõ hơn. Từ nay là cuộc chiến giữa thiên nhiên, không đường sá, không có gì cả, một cuộc chiến từ chỏm núi này đến chỏm núi khác. Quân Việt lại xuất hiện khắp nơi, lại bám giữ, tấn công mạnh. Trong khung cảnh bao la này tôi sợ cho chúng tôi, dù sao cũng không đông và phân tán.

Thực vậy, Vĩnh Yên trải ra giữa thiên nhiên. Đội cơ động Vanuxem đưa đến đây như chỗ ẩn cuối cùng, lại trở lên những ngọn đồi gần đấy. Ông được lệnh tiến ra nữa trong vùng đá và cỏ là mặt trước của dãy núi đen phía cuối, ngọn Tam Đảo đầy rừng cây là căn cứ chiến tranh của ông Giáp - có tiếng đồn một sư đoàn mới quân chính quy sẽ tập trung ở đây. Người ta tưởng đã thắng nhưng có vẻ còn đáng sợ.

Trên mấy trăm mét là sự trống không. Tôi trèo lên "Ba núm đồi". Màu xám bầu trời tô đậm thêm màu xám cảnh vật. Mưa phùn từ tối hôm qua; một lớp mây mù che khuất các đỉnh núi. Tôi bỗng đến chỗ các đội quân. Mưa bụi đều đều thấm ướt các xạ thủ là người Mường và lính Spahis đang run rẩy. Vẫn là chờ đợi. Quân lính nằm trên đất như những đàn gia súc. Trên những khuôn mặt là nét khắc khổ ngơ ngác và mỏi mệt vì những trận giáp lá cà vừa qua. Không thấy có niềm vui. Chốc nữa lại phải phản công - và mỗi lúc quân Việt càng đáng sợ.

Tôi lại với người Mường, họ ở tư thế báo động, nằm ngay trước vũ khí. Những bộ phận tiền tiêu của tiểu đoàn bố trí ba trăm mét xa hơn. Xa hơn nữa là Việt Minh. Phía trên cao, trên đường ranh giới, vài chiếc xe hướng đạo làm chỗ dựa, nòng súng đại liên chĩa về phía quân thù.

Chỉ huy đơn vị nói với tôi:

- Năm phút nữa, đến năm giờ sẽ bắt đầu tấn công với những loạt đạn ca-nông từ Vĩnh Yên và vũ điệu của máy bay tiêm kích. Nửa giờ sau chúng tôi sẽ tấn công mỏm núi đứng đây khó thấy vì mưa phùn. Phải chiếm lấy ngọn đồi tròn và ngọn đồi dài trên bản đồ là cốt 83 và 103, kéo dài tới cốt 210 sáng nay quân của Edon đã chiếm nhưng có lẽ quân Việt đã chiếm lại. Về cuộc tấn công, tôi nghi ngờ chỗ sụt lở bên trái những ngọn đồi cần chiếm lấy. Đấy là một vùng sâu nhiều bụi cây che giấu rất nhiều quân địch. Quân Việt vẫn luôn luôn đến, ngày càng tập trung đông tại đây. Chúng tôi có nguy cơ bị đánh vỗ sờn.

Bầu trời mỗi lúc càng u ám. Cảnh vật chỉ còn là một lẫn lộn rời rạc những chỏm núi, đụn mây, mưa, khói và hoàng hôn. Tin tức mỗi ngày càng đáng sợ. Một chiếc Morane xác nhận những khối người đồ sộ từ sườn Tam Đảo xuống có vẻ như ông Giáp đưa lực lượng dự phòng vào một cuộc phản công mới. Trên cốt 210 tình hình đã xấu đi. Không thấy gì nhưng nghe những tiếng tai hoạ của chiến tranh tăng lên qua làn mưa phùn mờ đục. Trên chỏm núi đang đánh giáp lá cà. Hàng nghìn quân Việt phản công, từ dốc thẳng đứng leo lên. Để cứu phân đội quân Pháp ở trên cao, cả một tiểu đoàn dù vừa leo vừa chạy ở sườn núi bên kia. Quân Việt và lính dù leo lên ở những sườn đồi đối nhau, lên đến ngọn núi cùng một lúc. Máy bay tiêm kích gần như mù, cố gắng can thiệp không được. Bên dưới là những mớ lẫn lộn người kéo dài nửa tiếng rồi quân Việt rút lui, nhưng để bố trí ở những chỗ vững chắc hơn giữa sườn núi.

Trong lúc đó giờ G của toán quân Mường đã tới. Cuộc đánh dồn dập chuẩn bị đã bắt đầu. Máy bay lợi dụng một mảng sáng, nhào xuống theo vòng tròn không dứt trên cốt 83. Một đại liên hạng nặng của quân Việt bắn không có kết quả vào những chiếc Kingcobra chúc xuống rồi lao lên sau khi thả những loạt bom cánh gần sướt vào sườn đồi. Một Morane nhỏ quăng một quả đạn khói để chỉ hầm quân Việt. Khói vừa tan thì máy bay tiêm kích thả hàng loạt bom vào đấy. Trận thao diễn trên không cuối cùng chấm dứt thì ca-nông ở Vĩnh Yên đã nã đạn cối tạo những mạch phun trong đất trên chỏm 83. Những loạt đạn tiếp nối nhau rồi im lặng trở lại. Cuộc đánh dồn dập kết thúc - tất cả phải bị nghiền nát.

Tôi vừa tự nhủ trên ấy không thể có quân địch nữa thì như từ cảnh vật trống trải và bao la ấy, đạn cối rơi xuống tiểu đoàn Mường, rồi đạn đại liên rít. Viên chỉ huy đưa ống nhòm cho tôi và nói:

- Đấy là lời chào của người Việt, để chứng tỏ họ còn ở đấy. Ông nhìn kỹ xem - trên đỉnh núi bị bom đạn, những người đội mũ cài lá xanh bình tĩnh đi lại như đã chẳng có chuyện gì. Họ vẫn trụ vững hơn bao giờ hết!

Tôi nhìn thấy họ một lúc nhưng trọng pháo Vĩnh Yên bắn vào họ. Rất bình tĩnh, những người Việt Minh đang đứng biến mất, không phải bị dập xuống mà như vào trong lòng đất. Viên chỉ huy lại nói:

- Chỉ mới mấy giờ mà tất cả đã thay đổi. Hôm qua quân Việt quá khinh thường. Họ bỏ mọi luật lệ để xông lên tấn công, trống trải, dự định thanh toán chúng tôi. Chính họ bị thanh toán, không có chỗ ẩn nấp nữa. Tôi đã thấy bao nhiêu người bị na-pan thiêu cháy, lăn trên mặt đất để dập lửa. Nhiều người chết. Một tù binh đã kể lại nỗi kinh ngạc trước ngọn lửa chết người; họ thậm chí không biết đấy là cái gì, chưa bao giờ nghe nói đến na-pan.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 10:50:18 am

Từ đó có việc tự kiểm điểm. Ông Giáp bắt đầu lại cuộc chiến tranh theo lối Á châu - giấu mình, nguỵ trang, chui vào lòng đất bám trụ và trở ra nguyên vẹn, ghê gớm từng khối với vũ khí. Từ hôm qua quân Việt đã tìm được cách chống đỡ với na-pan. Mỗi người đào một hố cá nhân, chật hẹp, vào trong đó như một người bị chôn sống, không ánh sáng, ngạt thở vì trên đầu đậy một nắp hố bằng đất đá vụn. Người ta ở như trong mồ hàng nhiều giờ trong bóng tối và đơn độc. Thực ra xung quanh anh ta, trên cùng chỏm đồi hoặc sườn núi có cả đồng đội, quân chính quy của một đại đội hoặc tiểu đoàn, sát cạnh nhau. Lửa lan trên mặt đất biến thành một nghĩa địa của cây cối và đá sỏi. Người ta nghĩ quân Việt cũng bị thiêu cháy. Nhưng họ vẫn mạnh khỏe, chỉ bị nóng trong lòng đất và khi có hiệu lệnh thường là tiếng còi - họ đẩy bật nắp bảo vệ. Tất cả trở lại với không khí, với đời, với chiến tranh, sẵn sàng len lỏi tạo những bất ngờ đổ máu và chính những người giả chết ấy bắn giết quân lính chúng tôi.

Điều xảy ra hôm qua không lặp lại nữa. Hôm nay những khó khăn lại bắt đầu, trước hết là mưa phùn, máy bay không hoạt động được, chỉ bay lên và làm như hoạt động; mặc dù có rôc-két và tất cả nhưng chỉ là ảo tưởng. Và rồi càng tiến lên càng mất phương hướng tuy chỉ cách Vĩnh Yên mấy trăm mét, càng có cảm giác thiên nhiên rộng lớn quá và người ta chỉ là những chấm nhỏ trong vũ trụ thù địch. Thật kiệt quệ vì những trận đánh dồn dập mà người ta biết gần như vô ích, vì những đợt tiến quân chậm chạp, những đợt dừng lại, rút lui ấy. Nhưng nhất là sợ đêm tối.

Lại những tiếng nổ dữ dội: trọng pháo Vĩnh Yên bắn đợt cuối cùng vào cốt 83. Rồi im lặng đột ngột. Pháp và Việt đều không bắn nữa. Chân trời mù mịt; không nhìn thấy gì quá một trăm mét. Đây là lúc quân Pháp tấn công. Bên phải, một tiểu đoàn Maroc ẩn trong cây cỏ vụt đứng dậy. Quân lính làm dấu thánh, những khuôn mặt dài nom dữ tợn và cam chịu. Họ bước đi theo hai hàng và biến mất trong bụi bờ.

Có vẻ đang phản công mạnh nhưng tôi chẳng nhận thấy gì. Phía trước, đại đội xung kích Mường bị một loạt đại liên bắn chéo chặn lại sau khi tiến một trăm mét. Đội quân Maroc cũng dừng lại. Ca-nông Vĩnh Yên lại nã đạn - nhưng bỗng như bị bất lực không có tác dụng gì nhiều. Trên các chỏm núi, quân Việt bị dội đạn chỉnh vũ khí tự động hạng nhẹ vào những bộ phận tấn công găm quân Pháp tại chỗ. Bất động trong mưa, hoàng hôn và sợ hãi. Đến năm giờ rưỡi, tôi rời quân lính nằm chờ đợi giữa những đợt tấn công của họ. Lúc ấy tôi không biết rằng tất cả quân Pháp ấy, hy vọng sẽ dễ dàng hơn, có những chuẩn bị tốt hơn, bị quânViệt tấn công ngay sau khi tôi ra đi. Tôi không biết tiểu đoàn Mường sau khi kiệt sức vì bốn ngày chiến đấu gần như bị nhấn chìm vì bốn nghìn quân Việt tập trung ở chỗ vũng sâu, xuất hiện như làn nước triều. Bức tường người lại tiến lên mặc dù trọng pháo bắn quyết liệt. Đối với sóng người tiến tới ấy rồi cũng phải gọi máy bay tiêm kích hầu hết đã trở về sân bay vì thời tiết xấu - chúng bổ nhào vào lúc hoàng hôn.

Nhưng trong thành Vĩnh Yên là quang cảnh huy hoàng. De Lattre lại đã đến đây, không hề là nhân vật hôm trước, đau đớn tìm hiểu, khổ sở vì những gì được biết hoặc đoán ra. Ông đang thực hiện trò chơi lớn của người chiến thắng với đủ mánh khóe lần lượt tán dương, quát mắng, gây gổ. Ông biết tất cả những đại tá, sĩ quan tầng lớp có lon ở Vĩnh Yên còn sợ, e ngại về những bóng ma trong đêm sắp tới. Vì vậy, sau mấy lời khen ngợi lấy đà, ông đập tan họ.

Thực tế hơi có sự bất hòa ở Vĩnh Yên khi "ông chủ'' chưa tới. Từ lâu Redon nhìn vào ống nhòm hét lên:

- Bọn súc vật ấy phải dội trọng pháo vào. Nhưng những người không đồng tình với ông trả lời:

- Không phải quân Việt, lính Spahis và xạ thủ của chúng ta đấy.

- Bất kể, cứ bắn đi.

Đến đây cuộc cãi cọ chấm dứt: De Lattre từ chiếc Morane bước xuống, Nét mặt ông rạng rỡ; bước đầu cuộc viếng thăm rất tốt, những người biết rõ ông tự nhủ thế. Thực vậy, trong thành được quét dọn sạch sẽ, thu xếp có trật tự. Người ta bố trí những thương binh theo hàng lối, để đạn dược thành đống, lấy lại kỷ luật trong hàng ngũ. Mọi người chào rất đúng quy tắc, hồng hào nhẵn nhụi, không có dấu vết từ đại tá đến lính thường. Ở nền đất sở chỉ huy đã chuẩn bị một ban tham mưu thực sự, bản đồ treo tường, những mũi tên trên bản đồ với những ống nhòm và dụng cụ chỉ huy. Ai cũng tự nhủ: "De Lattre sẽ vừa lòng".

Vua Jean hài lòng, rất hài lòng. Ông cười với xung quanh, ngọt ngào lên tiếng nhận xét:

- Ở đây, trên trận địa, tôi có cảm giác rất tốt. Mọi người có cái nhìn xuất sắc, trong sáng và tin tưởng. Cơ sở cũng như người, được giữ gìn tốt hơn nhiều. Cũng không cần thiết lắm phải hỏi về tình hình. Thực tế ra sao rồi?

De Lattre biết lắng nghe khi cần, ít chú tâm vào những gì Redon nói. Vả lại ông tin ở mình, ở cảm giác của mình. Ông nhìn qua các đại tá sốt sắng, mơ hồ cảm thấy trường hợp của họ đáng ngại. Bỗng de Lattre nhìn thấy Bernard, trưởng ban tham mưu đội cơ động số 3, một người tầm thường và bướng bỉnh. Ông dịu dàng gọi ông này:

- Bernard, anh cũng đã nghĩ hỏng hết rồi; bây giờ tốt hơn, cho tôi biết tình hình xem nào!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 10:51:26 am

Tất cả lên nền thượng. Bernand giải thích cảnh vật chỉ cho ông toàn cảnh cuộc chiến, đúng lúc bóng tối trùm lên những chỗ trũng, chỉ còn một ánh sáng mờ trên địa hình, đội viễn chinh đang bị chặn lại và quân Việt ào lên. De Lattre từ đầu đã quyết định nổ, có ngay cơ hội để hét lên:

- Sao không thấy máy bay tiêm kích?

Thực vậy, chỉ còn bốn chiếc tất cả, trong bầu trời thấp và tối tăm.

- Tôi muốn có ngay tất cả máy bay của Bắc Kỳ. Không phải ông muốn quở trách con người tầm thường Bernard. Ngay từ đầu ông này chỉ được chọn làm ngòi nổ cơn giận dữ chĩa vào "những ông lớn". Càng như sét đánh khi từ trên máy bay, phi công đề nghị qua điện đài: "Không thấy quân Việt đâu cả. Hãy chỉ mục tiêu cho chúng tôi."

De Lattre nổ ra với Redon:

- Tôi đã tin tưởng ở anh. Nhưng thậm chí anh không biết sử dụng những chiếc máy bay tiêm kích.

- Thưa đại tướng, tôi là nhạc trưởng, một mình chỉ huy mười hai tiểu đoàn. Nhưng tôi chỉ có chiếc bút. Tôi không có thì giờ nói trực tiếp với phi công.

- Thế ai nói với họ?

Người ta chỉ cho ông một sĩ quan không quân trẻ đang cúi xuống xem bản đồ. Nhưng rõ ràng anh ta không thông thạo.

De Lattre hỏi, giả vờ nhẹ nhàng:

- Anh đến Vĩnh Yên bao lâu rồi?

- Thưa đại tướng, một tuần lễ.

- Và chỉ một mình anh hướng dẫn máy bay tiêm kích. Hơn nữa, anh chỉ là một kẻ đần độn. Những kẻ đần độn nào đã chọn và cử anh đến đây?

Không chờ trả lời, de Lattre quay tới Salan, nạn nhân ông muốn quở mắng hơn cả:

- Salan, anh không cử đến đây được ba sĩ quan tham mưu tốt trong lúc tôi đã cho đưa đến sáu tiểu đoàn?

"Người Trung Hoa" như cột thu lôi tiếp nhận sét, có vẻ điều ấy không có tác dụng gì đối với mình:

- Thưa đại tướng, từ hôm qua tôi gửi điện bảo cử đến nhiều chuyên gia liên lạc giữa mặt đất và không trung.

- Đưa tôi xem bức điện.

- Đây là bản gốc.

- Anh không được chấp hành. Và anh tha thứ các văn phòng ở Hà Nội đầy những kẻ vứt đi chẳng làm được gì?

Lại cuộc đánh dồn dập khắp nơi. Những chiếc Morane nhỏ bay là mặt đất cố nhìn trong lúc trời sắp tối. Trên cao trong bầu trời đen người ta thấy ánh đèn của những máy bay Kingcobra lóe sáng để xạ thủ không bắn nhầm khi chúng chúc xuống. Redon tự mình tính toán tọa độ chuyển đi. Nhưng cũng như lúc nãy, ông cho bắn quá gần, vào chỗ quân Pháp nhiều hơn chỗ quân Việt. Có những phản ứng. De Lattre lắng nghe, chẳng nói gì. Bernard đưa cho ông chiếc ống nhòm nhìn xa, thấy được quân Việt lội suối tiến lên một khoảng đất bằng.

De Lattre hét lên, tiếng kêu của người đi săn trước con mồi đang thoát thân:

- Bernard, xe tăng đâu, cho đến dè nát cả lũ?

- Ở Vĩnh Yên không có.

- Sao? Không có tăng, không tưởng được...

- Chúng tôi đã đề nghị đại tá Levée đến gấp, đoàn quân của ông phần lớn là xe bọc thép. Nhưng ông ở lại trên đê sông Hồng. Ông nhất quyết từ chối đến đây, cho là quá nguy hiểm.

- Tên vô lại, đồ bất lực. Sẽ có tin của tôi.

De Lattre hét. Nhưng vấn đề cơ bản là xe tăng của Levée cũng rất ngang ngược. Đối với mọi lời khiển trách, ông trả lời: "Quân Việt đã thấy tôi tới. Họ sẽ dùng ba-dô-ka tấn công. Tốt hơn là tôi cứ ở xa bốn mươi cây số, không làm gì.” Hình như de Lattre cũng không cố ép. Ông cũng sợ cho những chiếc tăng, ô-tô đại liên, xe bánh xích không thay thế được, sẽ rất quý trong vài ba ngày tới nếu quân Việt đánh vỗ mặt vào Hà Nội.

Sáu giờ. De Lattre sắp trở về với chiếc Morane. Cử chỉ cuối cùng: thay vì lên thẳng máy bay, ông dựa vào chiếc gậy, thong thả đi trên đường băng đến chỗ một khẩu đại liên bố trí đối mặt với những chỏm núi quân Việt. Vị tướng bảo với xạ thủ: "Anh nhường chỗ cho tôi". Ngồi vào trước khẩu súng, hỏi mục tiêu và sau khi nhắm kỹ, ông nhấn đôi tay mang găng vào cò súng. Loạt đạn dội xuống những ngọn đồi. Trời tối hẳn. De Lattre trở lại chiếc Morane. "Chào Redon, chào Vanuxem". cũng như lần trước. Máy bay cất cánh.

Trên máy bay, de Lattre tự hỏi: Làm gì đây? Cuộc chiến còn khốc liệt, ông vẫn có nỗi lo lắng không nói ra. Nhưng đâu là bổn phận của người chỉ huy, của con người lớn lao? Ông phải ở lại chỉ huy tại chỗ hay ngày mai đi Huế? Ở đấy trước các đoàn ngoại giao và những ông lớn của vương quốc, Bảo Đại phải long trọng làm lễ cúng gia tiên. Quyết định chóng vánh. Ông sẽ đến dự lễ và ăn trưa cùng hoàng đế và bà hoàng hậu già, để chứng tỏ ông là người mạnh hơn, không sợ gì cho Hà Nội, mà vận mệnh là một yếu tố của "trò chơi lớn". Tiệc tùng vui vẻ, thanh thản nếm những món ăn rất ngon, trong những chiếc bát sứ mỏng như tờ giấy, cũng góp phần vào thành công như làm chết người với ca-nông và na-pan và rồi, có thể đưa Bảo Đại về cùng mình chăng?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 10:52:15 am


Trong lúc đó ở Vĩnh Yên, Redon tự biết đã xấu với de Lattre, lo sợ cho đêm tối, mấy tiểu đoàn quân Pháp bám trụ trên những chỏm núi có thể bị vô số quân Việt nhấn chìm. Bỗng nhiên ông nói: "Tôi muốn có một sĩ quan". Ông gọi thiếu tá Bernard đến thảo di chúc một tài liệu chính trị và những nguyện vọng riêng cuối cùng. Vanuxem cười gằn bảo Bernard: "Anh đừng làm. Ông ấy điên rồi". Cũng là sự bất hòa. Redon muốn ra lệnh cho Vanuxem nhưng ông này không nghe. Thực ra chính Vanuxem và ban tham mưu của ông ta nắm hoàn toàn tình hình, để cho Redon vùng vẫy trống không. Thế nhưng Redon cũng không sai lầm; ông cũng tập hợp các đội quân quanh những chỏm núi như bao nhiêu nút chai nổi trên làn sóng đêm. Thực vậy chính trong đêm tối này ông Giáp tung ra sự nỗ lực cuối cùng, nỗ lực thần kỳ. Đây là lần thứ ba ông tiến gần đến thắng lợi, sau khi bỏ dở Vĩnh Yên, sau con đường số 2 bị na-pan thiêu cháy là việc tràn lên ban đêm trên những ngọn đồi quân Pháp chiếm giữ. Họ chỉ còn là những nắm người đơn độc trong đêm tối, là những con mồi dâng hiến. Những chỏm núi quân Pháp sẽ bị tấn công như những đồn bốt - do vô số quân chính quy không thấy được, bao vây bí mật và chỉ lộ ra để đánh đòn quyết định vào những cốt 101, 157 và 210. Họ đã gần thành công. Và nếu thành công hoàn toàn, Vĩnh Yên, con đường số 2 lại thuộc về họ, sông Hồng lại trong tầm tay họ và Hà Nội lại bị đe dọa. Nhưng cái "gần" ấy là sự thất bại. Những trận đánh nhau ghê gớm kéo dài suốt đêm, vào lúc bình mình vẫn còn quân Pháp ở những điểm cao và làn triều Việt rút lui.

Hai mươi bốn giờ sau cuộc phản công Việt, không còn quân chính quy, nhân công, kho tàng, không còn gì của bộ máy chiến tranh của ông Giáp. Không chỉ là cuộc rút lui mà cả toàn quân đội Việt Minh biến mất. Như có phép lạ. Quân tuần tra Pháp đi sâu mãi vào rừng trống rỗng. Tấm màn phòng vệ Việt vậy là đã tránh xa những phân đội quân Pháp, cuối cùng dừng lại, phân vân trước sự vắng lặng tất cả. Những sư đoàn chính quy đang sắp tới các trại trong rừng sâu, bên Trung Quốỉc, ngoài tầm với. Quy trình muôn thuở lại bắt đầu: làm lại, tìm hiểu lại.

Mặc dù quân Việt "bốc hơi", người ta tự hỏi: "Có đúng là cuộc chiến kết thúc?" Vẫn không biết. Vì bộ phận lớn các sư đoàn ông Giáp vẫn nguyên vẹn và Hồ Chí Minh tuyên bố trên đài sẽ vào Hà Nội trong mấy ngày gần đây, vào dịp lễ Tết. Tình thế của quân Pháp thật lạ lùng; họ chưa biết có phải mình là những người chiến thắng hoặc đơn giản chỉ là thời gian tạm hoãn.

Không quan trọng! De Lattre đã có một cử chỉ đẹp nhất. Trong lúc tất cả còn lập lờ, khi cuộc chiến đang khốc liệt, ông đi Huế mang theo bà đại tướng và Cogny, chánh văn phòng của ông. Ở đây, dọc theo sông Hương, xa sự kinh hoàng anh dũng của những trận đánh, của cuộc chiến tranh nhân dân! Đấy là toàn vẻ huy hoàng Châu Á từ những tục tệ, những biểu tượng của văn hóa, những phong cách tế nhị. Cuộc trình diễn khuôn phép mà Bảo Đại, kẻ không tin - nhưng làm ra vẻ tin - bận chiếc áo dài màu vàng linh thiêng để tưởng niệm tổ tiên. Người ta tưởng mình lùi lại nhiều thế kỷ với những quan lại, sư sãi, lính cầm giáo, lâu đài, bàn thờ, những khối tượng. Vị tướng có vẻ rất hân hoan, vui vẻ trong buổi lễ dài theo phong tục Phật giáo, cũng nghiêm chỉnh và kiểu cách như ở buổi lễ ở nhà thờ Thiên Chúa giáo. Sau đó có bữa tiệc long trọng hơn một trăm món ăn vô cùng kiểu cách. Monette biết dùng đũa do con trai Bernard đã dạy cho: De Lattre không biết. Bà hoàng hậu mẹ vua, cho đưa lại một chiếc nĩa và con dao.

De Lattre trở lại Bắc Kỳ. Vì ông chỉ đến với những trò lễ phép quá đáng, những lễ lạt, với nền văn hóa truyền thống có thể làm thích thú Heath, đại sứ Mỹ và những nhà ngoại giao khác đủ mặt ở đấy. Ông, vua Jean dứt mình ra khỏi cuộc chiến tranh, khỏi cuộc chiến ông đặt tất cả vào đó vì một việc không đâu... Thật buồn cười. Vì ông đến với chiến thắng, ít nhất cũng sẽ có đưa tặng Bảo Đại và ông này không muốn. Ông đã nói với Hoàng đế: "Tôi đã thắng. Ông không làm gì để giúp tôi. Chẳng cần, tôi vẫn tặng ông những cành nguyệt quế của tôi. Lần này, ông hãy về Hà Nội và đến Vĩnh Yên với tôi. Tôi sẽ tổ chức những cuộc diễu binh thật đẹp. Có thể bảo đảm với ông dân chúng sẽ hoan nghênh. Hãy đi với tôi: hãy là ông vua của chiến thắng". Và ngược lại với mọi dự kiến của vua Jean, Bảo Đại tiếp tục nói không như Vĩnh Yên không là gì đối với ông ta: chỉ là một chuyện vặt của người Pháp.

Để che đậy cuộc rút lui, de Lattre để bà đại tướng ở lại Huế đại diện cho. Người ta đối xử với bà rất trân trọng.

Bà đại tướng hài lòng. Ông tuyệt đối không. Trên máy bay từ Huế ra Hà Nội ông không ngớt càu nhàu, gầm lên như một con lợn rừng:

- Đồ súc vật. Tay Bảo Đại bịp bợm. Và tay Hữu quá lễ phép không thể trung thực được. Tất cả những tên ăn hối lộ. Những câu chuyện giữa bọn chúng, những mưu mẹo "Trung Hoa" ấy có thể vứt đi hết. Nhưng chúng nghĩ thế nào? Tưởng mình là ai vậy? Chúng chỉ tồn tại do ta. Bọn hèn. Có lẽ chúng có những tính toán khác... Có lẽ chúng không tin ta đủ chiến thắng. Vả lại thế giới cũng đã bắt đầu nghi ngờ. Rất đơn giản, ta sẽ cho mình là người thế nào, sẽ trưng bày chiến thắng, làm rầm rộ lên...

Đúng là tiếng sét. Sự khiêm tốn của de Lattre lúc đang đánh nhau, trong những ngày đêm bi thảm đã chấm hết. Bỗng nhiên ông tuyên bố chiến thắng, thông báo với thế giới: "Tôi đã cứu Đông Dương, cứu Châu Á." Trong văn phòng ông tập hợp kíp lớn của mình, đưa ra đề án những bài viết. “Hãy nói rõ tôi đã đập tan quân Việt như thế nào nhưng không dìm hết họ. Phải giữ lại cho những thành quả đợt sau - kể cả mặt trái nếu có. Lẽ tự nhiên phải nói về tính chất anh hùng của Đội viễn chinh, nêu lên những gương điển hình chọn lọc kỹ. Cũng cần nhấn mạnh sự kiên cường của các sư đoàn ông Giáp, tinh thần quyết liệt của họ. Vì cuối cùng người ta có giá trị hơn khi đánh bại một kẻ thù mạnh, và có thể đề cao chiến thắng của mình hơn". Những chủ chốt trong đám thân cận chúi đầu vào việc trên những tập giấy trắng. Trước hết phải thảo bản thông cáo chính thức. Nội dung không bao giờ được đầy đủ, phải viết lại mười lần. Sau khi đánh máy đi đánh máy lại, Vĩnh Yên trở thành gần như trận thắng lớn Verdun trước đây ở Pháp.

Bản thân de Lattre là nhân viên quảng cáo tốt nhất. Trong lĩnh vực này ông không thẹn thùng vô ích. Việc mặc cả với các phóng viên về số người chết trận một cách thân mật nhất đời, gần như trong gia đình, tin tưởng lẫn nhau. Việc tính toán này dựa trên hai nguyên tắc - xác chết quân Pháp ít nhất và xác quân Việt nhiều nhất.

Nói đúng ra de Lattre không đưa ra con số người chết của Đội quân viễn chinh. Hình như là cấm kỵ. Nhưng ông luôn luôn chỉ tỷ lệ, xác định những thiệt hại của Pháp bằng một phần mười, một phần hai mươi những thiệt hại của quân Việt.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 10:53:22 am

Báo chí rất thông cảm, không tranh cãi về sự so sánh của ông có lợi cho mình. De Lattre chơi trò khó khăn. Ông bị tước quyền thiết yếu của một vị tướng là làm chết nhiều quân lính. Ông phải giữ gìn xương máu của quân lính vì không thể đủ người thay thế và sợ có bê bối ở Pháp. De Lattre phân tích: ông phải tiến hành cuộc chiến "liên tục" nên phải rất thận trọng trong lời nói và trên thực tế. Ông báo trước với các chỉ huy đơn vị mình không muốn có người chết; những ai để quân lính chết nhiều quá sẽ bị phạt. Vậy, đúng là de Lattre có tương đối ít xác chết Pháp, dù rất nhiều so với số lượng ông làm cho người ta lầm tưởng.

Để bù lại là những xác chết Việt Minh.

- Nào, nào, ông có vẻ bao dung hỏi Boussary, trưởng Phòng Nhì, tìm thấy bao nhiêu thi thể?

- Một nghìn trên trận địa, thưa đại tướng. Phải đưa ngay vôi ra đấy.

- Một nghìn. Thế thôi ư?

- Thưa đại tướng, thiếu tướng Goussault, người quản lý mắt xanh can thiệp theo thói quen - tôi nghĩ có thể áp dụng quy luật hai phần ba, được chấp nhận trong tất cả các quân đội. Ở Đông Dương càng hợp lý vì Việt Minh quyết tâm ghê gớm trong việc mang những người bị giết đi. Dân làng cho biết nhân công chở đi người chết và bị thương nhiều vô kể.

- Quy luật hai phần ba ấy như thế nào?

- Các chuyên gia cho rằng cứ mỗi xác chết tìm thấy phải có ba quân địch bị chết. Như vậy một nghìn của Boussary phải tính là ba nghìn.

- Các ông đồng ý chứ? Đại tướng hỏi các phóng viên để tránh việc ngờ vực, ân hận.

- Thêm vào đó, Boussary nói tiếp, phải tính cả những gì do máy bay và trọng pháo tiêu diệt. Phi công nhấn chìm cả một đoàn quân. Trọng pháo thanh toán nhiều chỗ tập trung. Vậy có thể tính thêm hai nghìn người chết nữa.

- Thế thì, đại tướng vui vẻ nói, con số là năm nghìn người.

- Cũng có thể chắc chắn, con người Phòng Nhì lại nói, nhiều xác chết bốc hơi do bom na-pan, cụ thể là đã biến thành tro.

- Thưa đại tướng, một đại tá khác lưu ý, đội tuần tra báo cáo trong rừng có rất nhiều vệt máu. Người ta biết trong một trạm xá quân Việt hơn một nửa người bị thương chết vì thiếu thuốc. Theo tôi ước tính, phải có sáu nghìn người chết và ít nhất mười nghìn bị thương.

- Sáu nghìn, de Lattre nói và nhìn xem có ai đề nghị hơn nữa không.

Nhưng mọi người im lặng. Việc đấu giá xong.

- Sáu nghìn, đại tướng nhắc lại. Đây là một con số trung thực. Các ông thấy đấy, thưa các nhà báo, chúng ta chỉ làm những phép cộng kỳ lạ. Chúng ta không có máy tính điện tử để làm những phép tính cầu kỳ. Chỉ đơn giản tính theo lối Pháp, rõ ràng, theo lương tri, như những nông dân của chúng ta đi chợ về. Sáu nghìn, thưa các ông, các ông đồng ý chứ?

Dĩ nhiên các phóng viên hài lòng. Họ bị chìm ngập dưới hàng nhiều nghìn xác chết và sẵn sàng chấp nhận nhiều hơn. Vì tất cả đều đã thông báo chiến thắng lớn, và một chiến thắng có nghĩa gì nếu không nhiều người bị giết? Vậy là họ trung thành điện đi con số tổng kết được xây dựng trước con mắt họ: những hàng tít lớn được in trên các tờ báo của toàn thế giới. Vĩnh Yên được nêu lên trong toàn cầu, khắp các nước những người đi đường đều nói đến. Vậy là với sự quảng cáo rầm rộ, de Lattre đưa cuộc chiến tranh Đông Dương lên bình diện quốc tế và ông thắng - ít nhất cũng có vẻ thắng. Tất cả những điều đó với trí thông minh của con người buôn bán - buôn bán những trận đánh - ông biết có thể gây tiếng vang cho một thắng lợi quân sự.

Những bức điện chúc mừng từ khắp thế giới đến, hàng ki-lô. Từ nước Pháp, những bộ trưởng, chính trị gia, các nhà quân sự, tất cả những người thờ ơ hoặc thù địch, nhào đến phủ cho ông đầy hoa. Nhất là Washington ca tụng hết lời. Bộ trưởng Ngoại giao, Lầu năm góc, tổng thống Mỹ gửi "điện chúc mừng" với lời lẽ thật nồng nhiệt. Tất cả các thủ đô ca ngợi ông. Giáo hoàng cũng vậy. Ngay ở Việt Nam, biết bao nhiêu người "chao đảo". Hữu rất hân hoan. Riêng Bảo Đại tỏ ra thận trọng hơn. Và ông ta vẫn không đến. Nhưng bằng cách này hay cách khác người ta "sẽ nắm được" ông.

De Lattre vô liêm sỉ lợi dụng tình hình. Ông tự nhủ "Tình thế có lợi. Mình không chỉ còn bị gắn chặt vào những chiến trường khốn khổ. Từ nay phần việc của mình là có thể chơi trên ba bình diện chính trị - quân sự: Việt Nam, Pháp và Mỹ. Hiện tại mình được tô điểm nhưng phải đập sắt khi còn nóng, giành lấy những lợi ích rất cụ thể. Nếu không dù sao rồi cũng mất hết..."

Bề ngoài, ông thành công về mọi mặt. Ở Việt Nam dân quê đã biết ông - gọi ông là "Ông Thần lửa". Ông gợi lên được tình cảm quần chúng của nước Pháp rất xa và rất ít quan tâm. Ông làm cho giới thực dụng Mỹ nghĩ rằng ông và Đội quân viễn chinh là những "giá trị" đủ chơi. Mọi việc tốt đẹp, nếu không chỉ vì tay Bảo Đại nữa. Mọi việc còn có thể đi xa hơn. Sau chiến thắng de Lattre vùng vẫy nhiều hơn, hết cường độ. Những ngày đêm hoạt động những việc lớn và những việc nhỏ nhất, tầm thường nhất cũng được tính toán cho có lợi! Đám thân cận biết vua Jean càng thỏa mãn càng ghê tởm, càng tăng cường những màn kịch chi tiết, vả lại ông không bao giờ thỏa mãn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 10:54:06 am

De Lattre cũng lao vào một thuật luyện kim về khen thưởng và cả trừng phạt. Sau Vĩnh Yên ổng tổng kết lại, nghiền ngẫm: bên cạnh những người "được" có những người ông nung nấu những hận thù phức tạp, là dịp để ông cách chức, chuyển đi hoặc cho về nước.

Trong Hà Nội của de Lattre, tất cả là hoan hỉ và thịnh vượng. Lớp dân chúng trung thành, trước đây tách xa những người Pháp có vẻ sẽ thất bại - chạy đến hỗ trợ chiến thắng của họ. Chưa bao giờ đông người đến thế, chưa bao giờ phụ nữ Annam duyên đáng đến thế trong tà áo dài bên Hồ Gươm, chưa bao giờ hàng hóa bày bán nhiều như vậy.

Nhưng ở thành phố đang ca tụng ông, de Lattre muốn dùng sắt thép làm cho người ta càng cảm thấy ông là người chiến thắng. Những chiếc xe tăng dùng làm đỉnh cao của lễ mừng ở Vĩnh Yên - biểu tượng nổi bật của chiến thắng. De Lattre có một ý tưởng lớn và cứng rắn áp dụng vào đêm mồng 6 sáng mồng 7 tháng hai, ngày Tết, năm mới Annam. Trong năm mới, năm Mão, Hồ Chí Minh đã hứa sẽ đưa quân vào Hà Nội. Nhưng đúng trước nửa đêm nhân dân bị kéo ra khỏi giấc ngủ và vui chơi vì những tiếng ồn và ánh sáng lạ. Qua các đường phố, một đoàn khổng lồ bộ bốn xe tăng đèn pha rực sáng, nòng súng vươn cao đi, lại như những vị thần ngày Tết. Những khẩu đội hoàn chỉnh các loại khí tài đi kèm. Việc di chuyển chính xác, các đoàn xe bọc thép tập hợp rồi phân tán, tập hợp lại trong nhiều giờ. Tiếng ken két bánh xích vang khắp thành phố. Việc làm đó như do một đạo diễn thiên tài: đại tướng de Lattre. Ông đứng đó, ở thềm "Ngôi nhà Pháp", ngắm nhìn.

Một quang cảnh đầy ấn tượng khi những người lính tăng đầu đội mũ Mỹ ló ra khỏi tháp xe; những bộ binh cánh tay trần nắm vững lan can những chiếc xe cơ động GMC chào ông. Họ đẹp và dũng cảm như các đấu sĩ. Ông như tượng đá. Về nguyên tắc là một cuộc tập dượt báo động nhưng thực ra cuộc diễu binh ban đêm được tưởng tượng, công nhận để chứng tỏ cho Hà Nội vốn tin vào chiến thắng của Hồ Chí Minh biết rõ ông là người mạnh nhất. Ông muốn ghi dấu ấn trong thành phố và nghĩ đã khắc hình ảnh của mình vĩnh viễn ở đây.

Ông không chỉ đánh vào dân chúng mà cả Bảo Đại. Đây là sự trả thù, nhất định rồi nhưng còn hơn thế, là chiếc roi và đinh thúc ngựa buộc con vật khó bảo tiến lên. Dù thế nào cũng là một màn kịch được tính toán rất kỹ.

Lăng nhục qua người trung gian. Vì ngay tối hôm Tết, đại tướng trịnh trọng mời tiệc thủ hiến Bắc Kỳ. Trí, lần này không viện khó khăn gì, chấp nhận và đến dự. Nhưng trong bữa ăn, sự im lặng kéo dài, vị tướng khó chịu chỉ ăn nhấm nháp. Trí khuôn mặt hào hoa tái xanh, kiên trì chịu đựng một sự vô lễ đã được chuẩn bị. Bỗng nhiên de Lattre nổ bùng lên tuôn ra với Bảo Đại những lời đáng sợ, rác rưởi: "Nhà vua của ông là đồ thối ruỗng, vô lại. Ông ta tiếp tục ôm ấp bọn gái điếm thay vì ra Bắc Kỳ với quân lính của tôi ở Vĩnh Yên. Nhưng tôi không cần ông ấy, sẽ vứt vào không trung..."

Khách mời bỗng nghe xa xa tiếng va chạm kim khí. Trí giật mình, không biết tiếng ghê rợn ấy càng tăng, đang lại gần là gì. De Lattre đứng dậy, kéo ông đi theo, nói: "Ông đến đây xem". Đứng trên hè phố, vị tướng chỉ đoàn xe bọc thép đang đến gần, đi qua ghê gớm, mạnh mẽ, rất đẹp trong kính cẩn và phục tùng của đoàn quân chào hàng loạt. De Lattre quay lại phía người Việt Nam đang sửng sốt, nói lớn: "Ông xem những con người tuyệt vời ấy. Và ông những muốn tôi làm họ vỡ họng vì khuôn mặt đẹp đẽ của nhà vua?" Cuối cùng vị thủ hiến khóc, điều rất hiếm có đối với một người Châu Á.

Rồi bỗng nhiên de Lattre không ứ máu nữa. Khách mời đi rồi, ông phân vân trở về văn phòng, hỏi những người của mình:

- Tôi có làm một trò dại dột không?

Vì ông không tự tin lắm. Phải chăng ông đã nhầm? Cuộc đả kích, sự trừng phạt ấy thay vì làm Bảo Đại mềm dẻo hơn, có làm cho ông ta trơ lì đi, đẩy ông ta hoàn toàn vào đối kháng?

Trong lúc này không còn vấn đề cố làm cho Bảo Đại ra Bắc Kỳ bên cạnh những đội quân Pháp chiến thắng nữa. Thế là hỏng. Nhưng làm sao đây? Đưa lại chế độ nào cho Việt Nam? Hữu, tay bợm Nam Kỳ trước đây làm ra vẻ thiết tha nền độc lập, khôn khéo đảm bảo: "Những xu hướng quốc gia của chúng tôi đã được thỏa mãn". Ông ta trước đây luôn từ chối lên án Việt Minh, bỗng xem họ là kẻ thù, là nổi loạn. Trò chơi của tay này đã rõ, nhưng có tốt không, de Lattre tự nhủ. Hơn nữa thái độ của Bảo Đại thật kỳ cục. Ông ta không phản ứng gì sau vụ nổ của đại tướng tối hôm Tết, làm như không biết gì. Không cả một lời theo lối Bảo Đại - đùa cợt bằng tiếng lóng mà Hoàng đế rất giỏi. Im lặng. Và hình như nhà vua không tuyệt đối chống lại điều de Lattre muốn: một chính phủ mạnh, một văn phòng chiến tranh, cuộc thập tự chinh chống cộng sản, một sự huy động khối óc, lòng người, vũ khí và xây dựng một quân đội quốc gia hùng mạnh liên minh với Đội quân viễn chinh. Ông ta không hứa hẹn gì, cũng không nói không. Trong lúc chờ đợi, biết bao thì giờ mất đi!

Bi kịch lớn của de Lattre là Paris thư giãn quá lâu. Thủ đô Pháp chúc mừng nhưng không cho gì cả. De Lattre phải sang đấy để hái quả chiến thắng của mình. Nhưng lỗi lầm của ông, điều ông tự trách mình nhiều là đã ở lại Đông Dương lâu, không về Pháp ngay sau sự kiện Vĩnh Yên.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:15:42 pm

Chương IV
NHỮNG BỐI RỐI CHIẾN THẮNG



Trong sự thần thánh hóa mình vị tướng băn khoăn cực độ. Ông lo lắng sâu sắc không biết nên quyết định ra sao, và điều chưa giải quyết gặm nhấm ông như một a-xít. Ông đứng trước yêu cầu không làm được, tiến thoái lưỡng nan: phải đi Paris, cũng phải có mặt ở Hà Nội. Lần đầu tiên ông không biết chọn lựa thế nào. Phản xạ trước hết, ngay buổi tối ở Vĩnh Yên, là lên nhanh máy bay "đi Pháp" để buộc phải trả công. Muốn thế ông phải có mặt sớm nhất ở chính quốc. Bản thân ông không ngớt lặp đi lặp lại: "Một chiến thắng phải đưa lại nóng sốt, càng nóng sốt càng hay. Chiến thắng của mình để nguội đi, mỗi lúc chỉ còn hơi ấm sẽ mất hết giá trị. Mỗi ngày không ở đấy sẽ mất tiền, vũ khí và người, những gì mình cần có ở Đông Dương để giữ vững, để thắng." Ông đã chuẩn bị những phép tính: số phrăng gấp đôi vì cuộc chiến của ông đắt gấp hai lần của Carpentier; hai mươi nghìn người bổ sung và nhất là khí cụ hặng nặng vì chỉ riêng lưới lửa mạnh mới tiêu diệt được khối người Châu Á luôn luôn nhiều, luôn luôn đổi mới. Để có những cái ấy ông phải xoay xở tại chỗ - không có ai thủ đoạn hơn de Lattre khi danh dự ông cho phép, khi thuộc về những việc cao cả. Ông muốn có mặt ở Paris để "móc ngoặc", làm "hành lang" cho Đông Dương. Trong tâm trí ông, việc móc ngoặc cần thiết tuyệt đối vì ông biết rõ những người cầm quyền không chấp nhận những gì không ép buộc họ: những báo cáo, điện tín hầu như chẳng có tác dụng gì. Điều ông tin chắc là chỉ có ông - sự hiện diện chói sáng - có thể "buộc" một sự cố gắng thực sự của tất cả Paris của Chính phủ, đường lối chính trị và xã hội.

Tất cả đã được chuẩn bị. De Lattre đã có danh sách những nhân vật đàng hoàng, phải thúc đẩy bằng "làm phim" với những bắt tay, nhậu nhẹt và những báo cáo kiểu Napoléon. Những người trung lập và thờ ơ, căn bản căm ghét như những đảng viên xã hội và có khuynh hướng xã hội do ông Jules Moch cầm đầu: những người này phải buộc họ chấp nhận bằng to tiếng, giận dữ, bằng đối mặt, đột nhiên rắn như thép. Ông hoàn toàn sáng suốt, tự nhủ: "Mình sẽ là người quấy rầy tao nhã, kẻ làm phiền mà người ta không thể vứt vào sọt như điện tín và báo cáo mình gửi sang".

Về những mặc cả đã dự kiến, de Lattre yêu cầu quá lên một ít để có thể nhận một mức độ giảm bớt nhưng về những thiết yếu ông quyết định không nhượng bộ. Ông biết sau sự kiện Vĩnh Yên, Chính phủ, dù buộc lòng, không thể từ chối những đề nghị của ông.

Vậy là đại tướng nóng lòng ra đi. Thế nhưng ông ở lại. Ông phải có mặt ở Paris càng sớm càng tốt. Nhưng sự thật hiển nhiên ấy, ông bổ sung thêm phần phụ huênh hoang này: "Nếu đập tan một ít quân Việt nữa, mình sẽ là người chiến thắng lớn hơn và có thể tăng thêm đòi hỏi. Điều ấy đáng để kiên trì thêm mấy giờ, mấy ngày..." Vì ngay từ đầu de Lattre đã hình thành một ý tưởng về cuộc chiến - một quan niệm của người không biết rõ Châu Á, không biết rõ "cuộc chiến tranh nhân dân". Đối với ông phải có cái gì hơn thế, cuộc phản công của ông Giáp phải theo đúng thể thức, luật lệ: nó chưa thể kết thúc được.

Rất lạ là quân Việt ở khắp nơi biến mất, như đã không tồn tại, thậm chí quân tuần tra cũng không gặp. De Lattre không thể chấp nhận mình nhầm. Đấy có lẽ chỉ là một đợt "tạm nghỉ" ngắn. Trận đánh "kết thúc" không thành, quân Việt phải làm lại một ngày nào đó. Và vì thế de Lattre phải có mặt.

Nhưng xe bọc thép tập trung thật vô ích. Nhiều chục xe tăng, ô tô đại liên, xe hướng đạo ở tư thế cảnh giác, sẵn sàng chống trả sấm sét. Chẳng có gì xảy ra. Một tuần lễ trôi qua rồi một tuần khác. De Lattre thác loạn tinh thần, kiệt sức vì khó chịu và giận dữ. Ông nhắc lại chán chê như một đứa trẻ chưa có đồ chơi: "Quân Việt nhanh lên chứ! Họ không biết tôi đang chờ, đã sẵn sàng với cuộc phản công của họ sao?" Những quân Việt vô giáo dục ấy không hề vội vã; ngược lại họ biến mất hơn bao giờ hết. Càng ngày de Lattre càng quát tháo: "Tôi mất thì giờ; mất thì giờ nhiều quá. Đáng lẽ tôi đã ở Paris..." Tuy vậy ông vẫn ở lại Đông Dương như bị giữ lại vì việc phải xảy đến mà không đến. Nhưng trong tâm trạng như thế nào!

Hết tháng giêng; Đám thân cận kinh hoàng. Vua Jean nói với từng người, bắt tất cả những người trung thành "thú tội" với lối bao dung giả dối mà ai cũng sợ hơn tất cả. Ông không ngớt nêu câu hỏi nguy hiểm, như con vật rình mồi: "Còn anh, anh nghĩ thế nào?" Những câu hỏi lạ lùng mà những người kia chỉ phản xạ bằng cử chỉ, cảm thán và chính ông diễn giải toàn bộ.

Đám thân cận buộc phải có quan điểm, chia làm hai phía. Một số dám nói quân Việt không ra mặt sớm thế đâu, họ phải rất can đảm để bảo vệ luận điểm ấy vốn không làm hài lòng. Nhưng phần đông cũng có ý kiến ông Giáp sẽ làm lại rất gần đây thôi. Đầu tàu là đại tá Beaufre tạo cảm giác ông ta không bao giờ sai lầm. Chính ông là trí não tìm ra những giả thuyết hay nhất, hơn nữa ông có nét lạnh lùng quyến rũ và kiêu kỳ, là thị thần khá nhất trong văn phòng đại tướng và nhà kỹ thuật có ấn tượng trên chiến trường. Một lần nữa ông lại thuyết phục de Lattre. "Quân Việt sẽ đến chứ? - đại tướng hỏi. - Chậm nhất là hai, ba ngày nữa", Beaufre trả lời. De Lattre bình luận: "Tay Beaufre này sắc sảo lắm". Ông để cho Beaufre chuẩn bị chung cuộc, sự kết thúc chiến thắng của trận Vĩnh Yên. Và "đại tá chiến trường" hoàn thành việc bố trí bộ máy bắn giết. Các tiểu đoàn, các đội cơ động, những đơn vị ít nhiều phân tán, ông tập hợp lại thành ba khối - ba chuỳ. Chuẩn bị trò chơi cuối cùng, ngoài đoàn xe bọc thép gần Hà Nội, có một sư đoàn ở Vĩnh Yên dưới chân núi Tam Đảo và một sư đoàn ở Bảy Chùa gần chân núi Đông Triều. Tất cả là một hàm răng - ba răng hàm - để nghiền nát quân Việt khi họ trở lại.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:16:30 pm
Vẫn không có gì. Và mỗi ngày không có gì, sự tin tưởng ở Beaufre giảm sút. Hàng ngày de Lattre hỏi: "Thế nào, họ đến chứ, Beaufre?" Chẳng bao lâu có những dấu hiệu đầu tiên cho thấy Beaufre không được tín nhiệm nữa. Trước hết là những lời bình luận rồi bắt đầu việc hành hạ đối với Beaufre. Ông vẫn ở đấy, đóng vai trò của mình nhưng nét mặt của de Lattre là một lời trách mắng nặng nề. Nhiều giờ liền vị tướng mỉa mai, "trêu trọc". Beaufre còn cố tìm những lý lẽ đảm bảo quân Việt sẽ phản công nhưng bị khinh khi bác bỏ. Khuôn mặt Beaufre trùng xuống, chỉ còn đau khổ.

Trong những ngày lập lờ này vua Jean lại bắt đầu đi quanh Đông Dương như một con vật trong chuồng. Ông xuất hiện khắp nơi, Lào, Căm-bôt, nhất là Đà Lạt,

Beaufre chỉ còn là cái bóng. Trước khi tìm những ý tưởng mới về Đông Dương, de Lattre trở lại những bận bịu cũ. Ông duyệt binh khắp nơi. Khi đến Sài Gòn, mỗi lần là một cuộc đón tiếp huy hoàng với các đội quân, tất cả các quan chức dân sự và quân sự mặc lễ phục. Ông tạo một chiến thắng nhỏ ở Nam Kỳ do Chanson chỉ huy. Ngoài việc săn đuổi quân Việt là việc truy tìm những kẻ yếu kém trong các ban tham mưu. Nạn nhân là những "chân trắng", các sĩ quan không bao giờ đặt chân xuống bùn đen đồng ruộng nhưng sống trong những biệt thự đẹp, có sĩ quan hầu cận và nhiều quyền hạn. Họ đi trên những chiếc xe đẹp, lái xe mặc đồng phục, giết thì giờ với những đống giấy tờ trong văn phòng, rượu cô nhắc sô-đa trong nhà ăn chung; có lon và có bụng. Sau việc cắt bỏ trong quân đội, ông truy lùng gái đĩ da trắng, các cô gái do ma cô người Corse đưa sang và làm giàu với người Trung Hoa.

De Lattre ít tán thành sự ham mê vô độ mua bằng tiền thấp kém và giữa các nòi giống ấy. Ông bảo: "Việc ấy làm mất danh dự nước Pháp". Các cô gái đĩ được đưa trở về cùng với các đại tá bị thanh lọc. Ông cũng truy lùng chính những kẻ buôn lậu người Corse. Ông ghét đồng bạc bẩn thỉu, nghĩ đến một hành động mạnh, ví dụ đuổi tay Franchini vốn luôn luôn tốt với những người biết suy nghĩ và tất cả những người chức quyền. Nhưng ông này là người không đụng tới được. Mọi người bảo vệ ông ta; các phái viên và nghị sĩ gửi thư kháng nghị đến de Lattre như mưa.

Trong hoạt động ông luôn có bên mình bố già Sarraut. Ông đặc biệt mời ông này từ Pháp sang vì từ đầu thế kỷ Sarraut là toàn quyền Đông Dương. De Lattre giới thiệu ông rất cảm động và kỳ cục, không biết rằng ông ta chẳng còn đại diện cho gì cả, hoàn toàn lỗi thời rồi. Dù thế nào thì cũng là cuộc đón tiếp huy hoàng. Đại tướng uy nghi và nhà chính trị cổ xưa cùng đi kinh lý! Một đôi kỳ lạ. Đám thân cận ngày càng mệt mỏi nhưng vua Jean không mệt mỏi và ông bạn, dù da nhăn nheo, mí mắt xếp nếp, vẫn trẻ, tươi sáng như con mắt. Sarraut ở đấy để chứng minh sự lớn lao của de Lattre. Mỗi ngày ông làm nhiệm vụ này qua một diễn văn hai tiếng đồng hồ, ít nhất khoảng bốn mươi lần, để giương lá cờ. Sarraut luôn ve vẩy, đại tướng vô cùng kính trọng ông. Buổi tối chuyện trò tâm sự, Sarraut nói với đại tướng về cây gậy thống chế: "Tại sao một ngày nào đó ông không là tổng thống nước Cộng hòa Pháp được nhỉ?" Thực vậy, vì sao không? Cả hai tuy thức nhưng vẫn mơ. Thâm tâm de Lattre luôn luôn tin vào điều mình mơ. Việc ấy một ngày nào đó sẽ thành hiện thực vì phải chăng ông là người của vận mệnh - điều ông chú ý không nói ra, trừ vấn đề Đông Dương không ai muốn mà người ta gắn vào tay ông...

Thế nhưng vua Jean không thể ở luôn bên cạnh bố Sarraut... Ông phải đi làm công việc của mình. Ông quay trở lại với Beaufre với câu hỏi muôn thuở: "Còn quân Việt, quân Việt của anh đâu rồi?"

Về sau de Lattre còn có một vị khách cổ lỗ hơn - một ông già ngọt ngào, hào hoa, cổ tay áo thêu ren, một cổ vật sống. Đấy là ông Prévost de Launay, trước kia là Chủ tịch Hội đồng thành phố Paris của những gia đình trưởng giả. Một "ông bạn" cũ, người ta nói đã giúp đỡ về tài chính lúc ông còn trẻ. Chính ông này đã cho ý kiến quyết định để vua Jean đảm nhận cuộc phiêu lưu Đông Dương. Lời khuyên có lẽ không hoàn toàn vô tư vì ông này có quyền lợi trong "Nhà máy dệt" Nam Định, nhà máy khổng lồ rất bản xứ và rất thực dân, chạy theo thời trang và tổ chức quy củ, sản xuất vải bóng cho hàng triệu dân quê Bắc Kỳ. Đây là một công việc lớn - và ở Đông Dương có nó quyền lực ghê gớm trong đất nước từ nhiều thập kỷ nay. Và ông de Launay rỉ tai de Lattre: "Ông phải tiếp xúc với những quyền lợi lớn của nước Pháp ở Đông Dương.”

De Lattre phản đối: với ông, vũ khí là cao cả, không phải tiền. Trong đám thân cận của ông có một khổng lồ về sức mạnh và thể chất, đại tá hải quân Pontchardier, trước kia chỉ huy một đội biệt kích nổi tiếng khát máu. Ông là bạn thân nhất của vua sắt thép Sài Gòn, thực hiện mọi việc buôn bán ở Châu Á. Ông thủy thủ thì thầm với de Lattre: "Ông hãy quan hệ tốt với các xí nghiệp lớn như Descours et Cabaud, Denis Frères... Họ rất có ảnh hưởng ở Paris, sẽ nâng đỡ ông tốt hơn Sarraut nhiều."

Đại tướng bèn hỏi ý kiến của một nhân vật không thực sự trong đám thân cận. Vì ông là người cung cấp giỏi nhất những chuyện ngồi lê đôi mách lớn nhỏ, kín đáo và những bí mật quốc tế. Đấy là đại tá Belleux, trưởng phòng tình báo của Hội đồng quốc gia. Một phi công không bao giờ mặc quân phục. Mưu sĩ này không phải một người ẩn náu, hồng hào, đôi mắt hơi to, khuôn mặt tròn, có một ngôi nhà đẹp với hầm rượu, khu vườn ngoại lai, nhiều chó và đầy tớ, có một bà rất tốt gần cưới nhau. Ở nhà ông là cả đoàn nhân viên, giúp việc và khách ăn không phân biệt lắm. Luôn luôn một cốc rượu hoặc một hồ sơ trên tay, vô tư, nhân vật này thẳng thắn và vui vẻ tuy có vẻ bí mật. Kỹ thuật của ông là không thẩm vấn mà tâm sự ở một góc trong nhà và nhiều lắm là ông hỏi thêm: "Anh nghĩ thế nào?" Ông gọi như vậy là “đi xưng tội". Thường thường trước người nghe đang ngơ ngác ông đưa ra những giả thuyết lớn làm đảo lộn cả Châu Á, với một nụ cười đồng tình; lần khác ông khẽ nói: "Anh hãy đề phòng tay ấy". Chẳng ai biết ông tốt hay xấu, là một kẻ phản bội hoặc không phải.

Thực tế không ai hiểu được đại tá Belleux - dối trá và sự thực lẫn lộn. Cả những người quan trọng nhất cũng e ngại ông ta vì không biết ông ta góp phần như thế nào trong những gì có thể xảy ra với họ. Những tổng chỉ huy, cao uỷ bị thất sủng ra đi; ông vẫn ở đấy, ra vào dễ dàng văn phòng những nhân vật lớn ở Đông Dương.

Đại tá Belleux không bị buộc thường trực quanh de Lattre nhưng vị tướng triệu tập ông luôn. Ông chỉ ở lại mấy phút, thời gian nói những phát hiện của mình và để cho vua Jean nghiền ngẫm. Trái với thói quen de Lattre bắt chờ đợi hàng giờ, hàng ngày ở cửa kể với cả những nhân vật nổi tiếng nhất, ông được đặc ân tự do vào ra văn phòng "ông chủ". Đôi khi ở tiền sảnh người ta bảo: "Ông đừng gặp, đại tướng đang khó chịu". Ông vẫn vào. Đại tướng tròn mắt: "Anh có gì đấy?- Giấy tờ. - Ở lại vậy... Anh có gì thú vị?"

Ít lâu sau đại tá hỏi quân Pontchardier, người vận động tiếp cận với giới "doanh nghiệp lớn" biến khỏi đám thân cận vì thất sủng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:18:15 pm

De Lattre không muốn giao kết với những người nhiều tiền. Ông cũng không thể luôn tự mình đi khai thác tại chỗ Chính phủ Pháp, Ngân khố và bộ Chiến tranh. Thế là trong thời gian chết mà ông chỉ có vinh quang, không có quân Việt để đánh và không có lợi ích gì, ông bị cuốn hút vào một ý nghĩ: Hoa Kỳ. Ông đã biết nước Pháp quá nhỏ, quá yếu và mềm, một mình không cho phép ông giữ vững, chơi đến cùng cuộc phiêu lưu Châu Á để trở thành người chiến thắng thực sự của vũ trụ da vàng. Vận may duy nhất, khả năng thực tế của ông là vì đại tướng Pháp của người Mỹ - người mà họ nhắm tất cả vào mà không buộc phụ thuộc vào họ. Chỉ riêng ông đạt được điều đó: sự tin tưởng vào những ngôi sao không phụ thuộc. Ngay từ khi đến, de Lattre đã chăm sóc những "người Mỹ" tại chỗ. Các phóng viên Mỹ, đại sứ Heath đều thuộc về ông sau cuộc đấu tranh cao tay. Nhất là sau sự kiện Vĩnh Yên bắt đầu tan băng giá. Thay vì sự căm ghét cũ, sâu sắc và cay đắng chống Đông Dương thực dân, bỗng là tình bạn thán phục, những thể hiện nhiệt tình khác thường. Gulion, mưu sĩ rất căm ghét sự sa sút của nước Pháp và rất tự hào về sức mạnh của nước mình, biến mất như ảo thuật. Tất cả những "người Mỹ trầm lặng" đều được đề nghị loại trừ ông và bí mật triển khai những hoạt động lạ lùng của CIA. Nhưng việc kiểm soát của những người ấy ở Sài Gòn không đủ. Phải ở Washington, gõ cửa Lầu năm góc và Bộ Ngoại giao, ở Nhà trắng. Chính tại đó phải làm cho người ta tin rằng de Lattre là "hàng rào cản" chủ nghĩa cộng sản.

Ông sẽ tung lên tên tuổi, quá khứ, những vòng nguyệt quế đã qua và mới đây, mọi tiềm lực về cái đẹp, lớn lao của mình. Ông sẽ làm tất cả và sẽ chinh phục Hoa Kỳ.

Điều bực bội là cũng chẳng hơn gì về Paris, ông không thể đi Washington. Nhưng ông sẽ cử sang đó - thay mặt chính ông - con người tốt nhất của ông. Ai là người được cử đi? Mọi người trong đám thân cận thì thầm và bí mật. Ai cũng mong muốn, khát khao - lẽ tự nhiên không phải trong số "tướng tá” chỉ biết hành động chiến thắng - sẽ được tăng tiến gắn liền với kết quả trong nhiệm vụ, ít nhất cũng là khả năng tiềm tàng.

Beaufre chắc chắn mình có quyền đó. Sau những ngày cay đắng phải chăng ông đã được ân sủng trở lại? Một hôm đại tướng hỏi ông: "Mặt trận ở đâu?" Và ông có thể trả lời: "Không có. Cuộc chiến ở Đông Dương là những cú sốc đột ngột, những "bất ngờ". Luôn luôn là ở những chỗ không thấy một ai mà bỗng nhiên nhiều nghìn người xông tới. - Tốt tốt, de Lattre trả lời không tức tối gì. Không có trận chiến vì hiện tại quân Việt không tới, chúng ta cùng nhau làm chính trị. Và Beaufre nắm lấy lời nói ấy như lời hứa cử đi Hoa Kỳ; vì cuối cùng phải chăng ông là người thông minh, quyến rũ nhất trong số người của Vua Jean, người duy nhất có thể thay thế de Lattre trong cuộc hành quân lớn chinh phục những người Mỹ?

Vì vậy ông thất vọng sợ hãi khi Allard được chỉ định! Beaufre càng thầm lặng hơn là tỏ ra đau khổ! Vì dĩ nhiên vua Jean đã chuẩn bị cú ấy, với hiểu biết, hoàn toàn có ý thức. Ngược lại với điều ông để cho người ta lầm tưởng, ông không muốn để ngôi sao phụ thay thế ngôi sao chính là ông mà chỉ là một người thừa hành triệt để mệnh lệnh của ông. Muốn thế tốt hơn là dùng Allard, không có những tưởng tượng, những ý tưởng riêng, không có ý thức cá tính sâu sắc, tôn trọng kỷ luật hoàn hảo!

Điều ấy là bình thường. Nhưng cái khác thường là ngày 21 tháng giêng vua Jean không ngớt dồn Allard, cả triều thần lạnh người trước những sự kiện lớn: "Này anh, sẽ đi Washington, có sáu giờ để chuẩn bị. - Vâng, thưa đại tướng. - Anh lên bản danh sách đầy đủ về những gì tôi đòi hỏi Lầu Năm góc.- Nhưng thưa đại tướng... - Sao?- Tôi cần nhiều thì giờ hơn. Ở ban Tham mưu tôi chỉ tìm thấy những hồ sơ rời rạc hoàn toàn lộn xộn. Phải làm lại hết. - Allard, anh chẳng kể gì tôi cả. Hãy lo những gì tôi muốn có chứ không phải Carpentier và đồng sự. Để giúp anh giải quyết tôi cho anh Cogny và Goussault. Tôi cũng cho anh Beaufre viết rất nhanh và tốt. Beaufre, viết đi..."

Cả nhóm miệt mài vào công việc. Allard vắt óc ra những con số về những gì cần thiết cho một cuộc "chiến tranh lớn", những khối lượng khí cụ, đạn dược để giết hàng loạt người da vàng - không chỉ Việt Minh mà nhất là người Trung Hoa. Lúc đầu trình bày như một cuốn danh bạ với những đánh giá chi tiết giả thuyết, lệnh ưu tiên cho những điều cần thiết trước mắt và những cần thiết về sau. Trên cơ sở ấy với ngòi bút của mình Beaufre biến ra thành sách giáo lý gần như thánh kinh với những từ linh thiêng của cuộc chiến tranh Đông Dương. Ông chuyển cho những vị tướng của Lầu Năm góc những vấn đề lớn của de Lattre qua lời văn đẹp về quân sự và những đoạn dũng cảm. Dù suy sụp, não lòng, ông tập hợp không dứt những lời lẽ chính xác, thuyết phục và chói sáng.

Cogny giám sát. Một xác chết đẹp, sống động, bí mật và khôn ngoan như một nông dân xứ Normandie. Người ta không biết ông kiêu căng đến mức nào - ông không lộ ra. Một cái bóng khổng lồ của de Lattre biết phục vụ đủ để không thành nô lệ. Thâm tâm, ông học hỏi. Hiện tại ông rất ít khi làm liên lụy đến mình, luôn luôn có mặt, chứng kiến tất cả, nhanh nhẩu đúng mức, hầu như không bao giờ nói gì, nhất là về ý nghĩ của mình. De Lattre nghi ngờ ông làm việc cho chính Cogny, không phải cho mình, de Lattre. Nhưng vua Jean cần ông này. Lẽ tự nhiên Cogny không tham gia bi kịch Beaufre - Allard. Ông chỉ hạn chế trong những gợi ý vô hại nhưng có thể có ích cho tiếng tăm tương lai của ông, tương lai xa, có hoặc không có de Lattre; "Hay chúng ta cũng đề nghị những máy bay ném bom hạng nặng?" - trong lúc vẫn biết rõ trong lúc này thì không thể được. Vì dù người Mỹ chấp nhận, người Pháp không có phi công, thợ máy, sân bay, chẳng có gì cho những loại ấy. Nhưng sau này ông có thể nói: "Chính tôi là người đầu tiên đã nêu vấn đề này". Đối với ông, háo hức nhìn vua Jean thán phục và chịu đựng ông ta, bài học đầu tiên ông rút ra là kỹ thuật của "cú đánh" người ta bố trí đôi khi từ nhiều năm về trước và ở đó tất cả đều quan trọng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:19:09 pm

Ba mươi sáu giờ sau, công việc hoàn thành. Allard cầm tập hồ sơ đầy đủ, tỉ mỉ đến gặp de Lattre để xin những ý kiến chỉ đạo cuối cùng. Đại tướng để ông chờ mãi ở cửa, cuối cùng cho vào, nóng nảy hỏi:

- Anh muốn gì?

- Ngày mai tôi đi Washington. Tôi đã chuẩn bị đầy đủ đến xem ông có chỉ thị gì đặc biệt cho tôi không.

- Nhưng anh biết rõ phải làm gì rồi. Chào anh bạn. Allard được đuổi đi như một người đầy tớ. Và nếu cử Allard nhẹ nhàng thì những bức điện nhận được lại vô cùng nghiêm trọng. Đầu tiên là từ Paris đến - đợt thứ nhất. Những bức điện xác nhận điều de Lattre sợ nhất: sự hoan hỉ suông. Chỉ những lời nói, không có gì khác. Một chính phủ chán ngán. Những kẻ thù không dám có hành động thù địch nhưng dựa vào sự trơ lỳ thụ động của những chính trị gia và các tướng. Ở bộ Chiến tranh, tổng tham mưu trưởng, tướng Leblanc rên rỉ: "Chúng tôi đang ở trên đe dưới búa, biết ông đang cần quân số nhưng không có cách nào cho ông được".

De Lattre chẳng lấy làm lạ. Ông chỉ nói với Beaufre: "Anh thấy đấy. Không có anh tôi đã ở Paris và tất cả đã khác đi".

Không phải chỉ có thế. Người ta không để cho người của De Lattre sang Mỹ một mình, đóng khung anh ta lại bằng Juin và Pléven - người kình địch và ông bộ trưởng rắc rối. Juin không muốn sang Đông Dương, để cho vua Jean bê bết ở đấy, nhận sang Hoa Kỳ để giúp ông - nhưng phải chăng để phá hoại? Dù sao trong máy bay đưa phái đoàn đi, ông đoan trang nói với Allard: "Hãy nói với chủ anh tôi thán phục ông ấy. Vì tôi đã không dám". Xem ra ông không mất lòng vì de Lattre không mất nhuệ khí như ông. Trong những lời nói phức tạp vô cùng giữa các tướng xuất sắc có sự thành thật nào không? Còn Pléven, rõ ràng có thiện chí. Nhưng sự kém hiểu biết, thiếu kinh nghiệm của ông là một hố sâu chỉ nổi lên một số ý định tốt đã lỗi thời của một người nhà nước muốn tỏ ra kiên quyết, khôn ngoan, có kinh nghiệm. Tất cả những gì ông mong mỏi là nước Mỹ làm nhiều nhất và Pháp làm ít nhất. Đối với ông mọi việc đều khó khăn. Là nhà chính trị ông ở giữa hai điều không hợp lòng người - chống lại sự từ chối đối với de Lattre xuất sắc hoặc dùng người và tiền của đất nước để tiếp tục cuộc Chiến tranh Đông Dương. Tấm ván cứu vớt đối với ông cũng là Washington.

Công bằng mà nói, tại thủ đô Hoa Kỳ, các nhân vật lớn ấy, Juin và Pléven, để tất cả công việc cho ông tướng bình thường của vua Jean. Như ông này đã dự kiến, Allard có một ấn tượng tốt của giới quân sự Lầu Năm góc. Sau khi đã là "những người không chuyên”, các loại dân sự bắn giết và thắng nhờ vào bộ máy khổng lồ về kinh tế và công nghiệp của đất nước, họ trở thành những người chuyên nghiệp mới về chiến tranh, những tín đồ mới về đạo đức và vẻ đẹp của nó. Từ đấy để mang lại chiến tranh có một quân đội với tất cả những gì cần phải có; mới và chặt chẽ về nguyên tắc, đấy là sự nghiêm chỉnh tuyệt đối, hoàn toàn cứng rắn, triết lý sơ đẳng cộng với kỹ thuật tiên tiến. Và cũng có một sự khinh khi nào đó đối với những quân đội cũ của Châu Âu, bắt đầu từ quân đội Pháp, thường bị đánh bại, suy đồi vì ảo tưởng.

Vậy là Allard, người vừa đề nghị một công việc, phải trải qua một cuộc sát hạch. Một buổi sáng vào lúc mười một giờ, một mình với giấy tờ và tài liệu, ông đối mặt với một hội đồng hai mươi bảy chuyên gia. Trong không gian này, tất cả đều gân guốc, cuồn cuộn với những chiếc đầu chơi bóng chày, tóc cắt ngắn. Thẩm vấn gắt gao, chính xác, không dứt. Allard trả lời tốt, rất tốt với số câu hỏi, biết rõ tài liệu và con số. Ông không làm ra vẻ hùng hồn, không gây tác động, không bào chữa, vô cùng điềm đạm. Người thẩm vấn chính thì thầm "Đúng là một quân nhân thực sự". Nhưng ông nói thêm: "Với cuộc chiến tranh Triều Tiên ngốn đi tất cả, tuyệt đối tất cả, chúng tôi không cung cấp được cho ông nhiều, chỉ những gì cần thiết nhất mà ông đã xếp ưu tiên số một, một số đạn dược, các bộ phận thay thế, một số máy bay... - Nhưng thế là kết tội Đội quân viễn chinh của tướng de Lattre vốn đặt hết tin tưởng vào nước Mỹ. - Một năm nữa ông quay lại, chúng tôi sẽ cung cấp tất cả những gì các ông muốn. Vì việc sản xuất cho chiến tranh mới bắt đầu lại, sẽ đầy đủ sau này. - Ông hiểu cho, chúng tôi không thể đánh nhau tay không... - Cố giữ thời gian cần thiết. Từ nay đến đấy hãy mua thêm ở những hàng sắt cũ của chúng tôi. Ông biết đấy, ở nước chúng tôi, Philippines, Nhật Bản, hầu khắp các nơi những người buôn bán đồ cũ còn có những kho lớn khí cụ người ta bỏ đi sau Thế chiến hai. Chưa tiêu thụ hết; các ông có thể tìm được những gì có ích trong mớ táp nham ấy. - Nhưng muốn thế phải có đô-la mà chúng tôi không có. - Ông đề nghị bên Bộ Ngoại giao..."

Allard cụp tai về Sài Gòn, bảy giờ sáng đến sân bay Tân Sơn Nhất. Đến chín giờ người ta bảo:

- Chưa xong đâu. Máy bay chở ông ra ngay Hà Nội, đại tướng de Lattre đang chờ.

Allard chỉ đủ thì giờ cạo râu, thay quần áo, chuẩn bị thành một tướng tươi tỉnh và hoàn hảo. Đến trưa ông có mặt ở chỗ vua Jean. Đại tướng chỉ để ông nói mấy câu, vỗ vai ông:

- Tốt đấy, Allard của tôi. Tôi sẽ khen thưởng anh. Anh đưa về không đáng kể nhưng tôi không giận anh. Những gì anh thu được với tập hồ sơ là triển vọng những cuộc hội thảo không dứt với quân đội của những chuyên gia Mỹ, các tướng, các nhà ngoại giao, tình báo, tài chính, nghị sĩ kỹ thuật viên đủ loại. Tất cả sẽ khảo sát tỉ mỉ, nghiên cứu, viết nhiều giấy tờ báo cáo với tổng thống Truman, Bộ Ngoại giao, Lầu Năm góc. Bây giờ thì chẳng có gì. Tôi phải đánh mạnh vào những cặn bã Pháp và những đồ bỏ đi Mỹ. Lúc ấy Hoa Kỳ quan tâm đến tôi nhưng không giúp gì được cho tôi vì Triều Tiên ư? Anh đã cố gắng hết sức mình, anh bạn, nhưng anh chỉ là anh. Tôi, sau khi la to lên ở Paris tôi sẽ đi Washington. Và tôi không còn là de Lattre nữa nếu tôi không buộc được họ cung cấp trang bị, tiền và mọi thứ cho cuộc chiến tranh Đông Dương theo cùng bình diện với cuộc chiến tranh Triều Tiên.

Anh phải hiểu, công việc trung thực của anh với những bản danh sách đề nghị, lời nói thân thiện và những giải đáp về kỹ thuật không đủ. Trái với điều người ta tưởng, với nước Mỹ phải đánh vào lòng, tác động vào cảm tính. Chỉ một mình tôi chơi được trò chơi lớn ấy..."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:19:41 pm

Thời kỳ ấy nước Mỹ là "cá cược" lớn của de Lattre; ông chắc chắn sẽ thắng. Thế nhưng mặc dù có sự hài hòa mới từ khi ông ở đây và sau khi ông thắng ở Vĩnh Yên, ông biết người Mỹ vẫn là người Mỹ - những người đáng ngờ, ít nhất là về các chi tiết. Vì dù đường lối chính trị về đại thể là dứt khoát ủng hộ Pháp, họ vẫn có những vấn đề nhỏ song song đi đến những trò gian ngoan. Dĩ nhiên không còn như thời Carpentier và Pignon. Đối với ông, những tông đồ Mỹ, tất cả những "người Mỹ trầm lặng", bề ngoài vô sự hơn bao giờ hết, cẩn thận giấu mình, để chuẩn bị gây rắc rối. De Lattre đoán được mánh khóe ấy và quét sạch họ theo cách của mình, đi từ nguyên tắc muốn được người Mỹ kính trọng, không bao giờ được để họ xem mình không ra gì. Một lần, đã xảy ra một giông tố nhỏ mấy tuần lễ sau đó.

Vua Jean còn nằm trên giường, nói chuyện với Petcho-Bacquet như mỗi buổi sáng. Một trong những nhiệm vụ của bác sĩ là đưa báo chí cho ông.

- Có gì thế?

- Cũng không lớn lắm.

Ông cầm lấy tờ báo Sài Gòn, vô tư nhất trên thế giới, khôn ngoan trung thành với mọi chủ nghĩa bảo thủ thuộc địa. Quân đội, đồng bạc, tướng de Lattre, nhà băng, thủ tướng Hữu, hoàng đế Bảo Đại, lẫn lộn tất cả, và để không làm phiền ai, tránh sự rối rắm, phức tạp của Đông Dương, là phương pháp trống rỗng. Đại tướng lướt qua các trang, để ý đến một bài báo ngắn bốn dòng, khuất giữa cột báo. Người ta chỉ nói ông Blum, trưởng phái đoàn viện trợ kinh tế Mỹ (USOM) ngày hôm nay lên máy bay ở Tân Sơn Nhất đi Hoa Kỳ. Không có gì bình thường hơn nhưng vua Jean vẫn còn nằm, hét lên điên cuồng: "Phải cấm ông ta đi, giữ lại bằng mọi giá". Ông chẳng biết gì, không có "nguồn tin" nào nhưng trong một giây tưởng tượng, ông cảm thấy "điểm yếu", một cái bẫy. Thực vậy ông Blum có trong tay một hiệp ước thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, trao đổi trực tiếp không qua nước Pháp. Một kế hoạch âm ỉ dưới dấu hiệu của đồng đô la vua.

Khối mưng mủ đã chín; một trong những khối mưng mủ de Lattre muốn có vỡ ra. Ông mặc quần áo, lấy tư thế, con mắt đỏ ngầu. Đến đại sứ Heath, nóng nảy ông hét lên: "Ông mang chiếc thẻ giả, là một đồng minh giả. Ông bảo sẽ làm tất cả để giúp đỡ tôi nhưng chỉ nghĩ cách tước đi Đông Dương của tôi. Ông đừng lặp lại như thế nữa". Heath thanh minh không biết gì. "Có lẽ ông cũng bị lừa chăng? Tôi biết xung quanh ông còn những người không tốt. Ông báo trước với Washington chừng nào tôi còn ở đây, tôi không bao giờ chấp nhận người ta làm giảm giá trị nước Pháp, vô hiệu hóa, cố gắng thay thế nước Pháp..."

Với Heath, vua Jean là người Pháp yêu nước buồn sâu sắc, người bạn thất vọng cay đắng của Hoa Kỳ, người tổng chỉ huy đau lòng vì máu quân lính ông được trả giá thật vô ơn. Với những người Việt Minh của Sài Gòn, những tư sản lớn da vàng vì đồng tiền ấy, ông không chịu đựng được nữa. Vì họ không hơn gì Bảo Đại, còn kém xa nữa. Ông vua ít nhất không nịnh hót trơ trẽn. Ông ta nói "Không" và không còn gì làm để kéo ông ta ra khỏi sự bất động. Dĩ nhiên thật tệ hại... Nhưng cũng phải thú nhận, có lẽ ông ta có lý. Ông phải đã biết de Lattre đặt chân vào Đông Dương đã trù tính bằng cách này hay cách khác "trừng phạt" ông. Còn con người vô sỉ Hữu...

Tất nhiên bố Letourneau đã cảnh báo de Lattre: "Hãy chơi trò Bảo Đại. Với tất cả những bất lương vốn có ông ta còn là người trung thực hơn cả. Vì dù sao cũng là kẻ phản bội ít nhất." De Lattre rất khôn ngoan cả với những nhà chính trị tầm thường của nền Đệ tứ Cộng hòa. Người ta càng nói xấu về Hữu, vua Jean càng làm ra vẻ nhắm vào ông này. Hơn nữa, ông ta hứa hẹn những gì người ta muốn... Thật thất vọng! Kẻ phản bội thực sự chính là ông ta. Thâm tâm de Lattre cảm thấy bị Hữu "lừa". Tay đại tư sản Nam Kỳ này chỉ là một kẻ giàu có thô thiển, không vững vàng vì quá gian ngoan, mưu mẹo, dối trá vì những mối lợi lớn nhỏ, dưới dạng tay bợm đĩnh đạc và trung thực. Làm thế nào làm những việc lớn, nêu lên chủ nghĩa anh hùng với nhân vật ấy được? Thậm chí đơn giản làm thế nào cho ông ta đi thẳng được - vì rất kiêu cảng mặc dù mọi sự quỵ lụy, ông ta nghĩ mình đứng trên tất cả, kể cả vua Jean. Ông ta tin chắc mình là kẻ láu lỉnh nhất.

De Lattre biết: ông phải một mình làm tất cả, tuyệt đối. Nước Pháp, quân đội, ông sẽ khuấy động. Trước mắt ông phải tự xoay xở lấy ở Việt Nam. Bản thân ông không đủ. Đội quân viễn chinh không đủ. Đối mặt với Tổng bộ của Hồ Chí Minh ông phải có một Chính phủ của Việt Nam tập hợp "tất cả các lực lượng". Nhưng ông thấy rõ, biết phải nghi ngại Hữu không lay chuyển được Bảo Đại. Vậy là không có giải pháp rõ rệt đối với đường lối chính trị ở Việt Nam.

Vị tướng cũng tiếp xúc với những nhà tinh tế Châu Á. Mọi biện pháp của ông, người của nhà nước cũng như theo lối "chạy chọt” rất có kết quả với người da trắng, đều được sử dụng với người da vàng. Nhưng ông luôn luôn thất bại không hiểu được: càng cố gắng càng lầm lạc. Tất cả rối rắm, tất cả đều là rút kinh nghiệm. Ông hết sức vùng vẫy nhưng tối tăm và mâu thuẫn, lần lượt hoặc liên tiếp áp dụng những giải pháp ngược nhau. Mỗi ngày qua đi không biết mình đi đâu, làm gì, cứ mười lăm phút lại thay đổi ý kiến.

De Lattre khốn khổ, cố gắng quyến rũ những người Phương Đông! Nhưng với họ không phải như với Đội quân viễn chinh. Ông ở trong một thế giới lạ, hoàn toàn không hiểu biết họ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:20:50 pm

Đà Lạt không trả lời. Sài Gòn trả lời không rõ ràng. Thế vì sao không thử ở Hà Nội đường lối chính trị cũng như đường lối chiến tranh của mình? Ít nhất cũng đặt nền móng chế độ Việt Nam của mình bắt đầu từ thành phố đã là cá cược của cuộc chiến.

Vì thế trong những ngày ở Hà Nội, vua Jean bắt đầu khảo sát có hệ thống. Ông nhìn khắp các phía, tự nhủ có thể tìm ra đâu đó một khả năng, một lối mở. Ông thảo luận với các tu sĩ, nhà sư, các nhà trí thức, cả một lớp người nảy nở ít nhiều bí mật bên cạnh hoặc bên dưới bộ máy nhà nước. Bản thân ông thực hiện từng phần và nhất là sử dụng những người thân cận nhất.

De Lattre muốn xem Nhà thờ có thể đưa lại gì. Ông thử làm quen với người Việt, dĩ nhiên với mọi thận trọng cần thiết. Để làm việc ấy, ông có lý do rất chính đáng - trao đổi tù binh.

Beaufre là nhân vật thích đáng vì làm chủ được ngôn ngữ Pháp, ông có thể cân nhắc chính xác từng chữ, từng ý, từng câu. Và vì cần thiết, ông lại được ân sủng. Vua Jean nói với ông: "Này, vì không thành công lắm trong cuộc chiến anh đi làm chính trị. Anh không đánh thắng quân Việt thì đi điều đình với họ cho tôi. Vấn đề là làm cho họ trả lại những người hấp hối, bị thương nặng của Đội viễn chinh đang trong tay họ. Bằng cách ấy chúng ta sẽ biết những người cộng sản ấy như thế nào. Nhưng tất cả trên tinh thần nhân đạo. Tôi không muốn có điều kiện. Đừng dùng một từ nào cho phép họ nói tôi đã công nhận họ. Không có gì mập mờ, không có gì để họ có thể xuyên tạc và tuyên truyền có lợi cho họ..."

Công việc tế nhị. Vị "đại tá chiến trường" chuyển và nhận nhiều thông báo qua đài. Bên đầu dây kia là ban tham mưu của ông Giáp. Nhưng Beaufre rất xuất sắc. Mọi việc tiến triển theo dự kiến. Quân Việt sử dụng tất cả: phép biện chứng kinh điển Mác-xít, danh nghĩa nhân dân. Đôi khi là chiến thuật huỷ bỏ: im lặng trong nhiều ngày để tưởng là họ cắt đứt. Thực ra họ biết mua chuộc không có kết quả đối với vua Jean. Bẫy của họ là ngôn từ. Họ gửi những bức điện dài, lời nói khó hiểu, đầy mâu thuẫn, những mâu thuẫn được tính toán kỹ, khôn khéo muốn hiểu thế nào cũng được. Mục đích những bài ấy là những bãi mìn, người Pháp "nhảy" lên dẫn đến chỗ "thất bại" một cách vô ý thức. Nhưng Beaufre trả lời không nản, với những từ ngữ chính xác được cân nhắc đi cân nhắc lại, từ đó quân ông Giáp không thể rút ra để tuyên bố thắng lợi về chính trị hay quân sự. Cuộc đấu tay đôi về điện tín tiếp tục như thế, không có kết quả trong nhiều ngày. Không thắng không bại. Cuộc nói chuyện bằng ký hiệu điện báo tiếp tục. De Lattre không bất bình và Beaufre lại bắt đầu hy vọng có những ngôi sao.

Thực tế trong suốt thời gian ấy, dù đề cao vinh quang là người chiến thắng ở Vĩnh Yên, là quán quân trong cuộc chiến tranh Đông Dương, vua Jean vẫn tự nhủ có thể tranh thủ cánh tả. Ví dụ tại sao không sử dụng Huard? Dĩ nhiên đây là một nhân vật kỳ lạ, một quái vật tự kiêu đơn độc, bí mật và âm thầm. Ông ta tự tin một cách tàn bạo. Đã có một cuộc sống có ích là thầy thuốc trong quân đội, nhà phẫu thuật ở Bắc Kỳ, ông đã cứu được bao nhiêu người, đã đào tạo được bao nhiêu học trò! Những kết quả công việc ấy không đáng kể gì với tham vọng của ông! Ông thích những chế độ quyền lực và dã man lao vào cuộc đấu. Ở Đông Dương vào thời kỳ trước, ông đã triệt để ủng hộ Pétain - căm ghét những người trung lập, những kẻ chống đối, phái de Gaulle. Vì luôn luôn nghĩ mình là người của định mệnh, căm ghét ghê gớm những gì trái ngược với ông. Từ nay cũng với sự giận dữ nội tâm ấy, vẻ ngoài băng giá và hăng say ấy ông bảo vệ Việt Minh. Chẳng ai biết ông có liên quan hay vì lý tưởng. Dù thế nào, ông rất giỏi về thủ đoạn, mưu mô. Không có gì làm ông chán nản, rất có thể là sự thách thức nhân cách hóa cũng như là một tông đồ tốt hơi lo ngại nhưng đạo đức giả.

Người ta nói về ông với de Lattre. Đại tướng đọc hồ sơ, thấy là một "người đáng quan tâm". Và vì thế, ông, người của chiến tranh mời người ẩn dật đến nhà ăn uống. Thái độ tự hào của con người này, cách tự giới thiệu, lối nam tính nồng nhiệt, vì ông ta có thể "thân mật" khi muốn, làm vua Jean thích. Hình dáng cũng thế: đôi mắt sắc lạnh, đầu như một làn sóng tô điểm công phu, thân thể khô như một cành nho. De Lattre tấn công, ông làm thế khi có cảm tình: "Ông bị các cơ quan Pháp rất nghi ngờ. Họ xem ông như một nhân viên của quân địch". Huard chối. Ông có tài khéo léo trả lời:

- Thưa đại tướng, bi kịch của những năm gần đây là người ta bỏ Hồ Chí Minh, ông Giáp và những người yêu nước thực sự về phía Mao Trạch Đông. Nhưng xin ông đừng bao giờ quên trong những đêm dài người Trung Hoa là kẻ thù truyền kiếp của nhân dân Việt Nam. Và tôi nghĩ ông có thể thỏa thuận với tất cả những người thiện chí, tách họ ra khỏi sự trung thành với người Trung Hoa.

Việc "thoát ra" khỏi Trung Hoa đỏ ấy làm de Lattre rất thích, nó nằm trong khung ý tưởng của ông. Ông cử ngay bà đại tướng đi viếng đền thờ Hai Bà Trưng - những nữ anh hùng vận động dân chúng nổi dậy chống sự chiếm đóng của người "nhà trời" vào thời Trung cổ, ở đây một vị sư đã nói: "Nước Pháp có một Jeanne d'Arc; chúng tôi có những hai."

Một thời gian Huard được ân sủng. Ông biết rõ đất nước và dân chúng ở đây. Nên chăng giao cho ông tổ chức những lớp đào tạo về Đông Dương cho sĩ quan và quân lính Đội quân viễn chinh? Đây là một ông giáo giỏi, truyền đạt cho họ màu sắc tục lệ, tôn giáo và tiếng Việt. Như vậy họ sẽ không như rơi vào mây mù giữa những người da vàng đông đảo, sẽ nhận biết rõ hơn, chiến đấu tốt hơn. Và ông, de Lattre, lúc muốn, khi đã đủ chiến thắng có thể dùng Huard làm người tiếp xúc "vì hòa bình”, "hòa bình" của ông với người Việt, sau khi đã khẳng định với họ, người Pháp đáng chuộng hơn người Trung Hoa.

Một "quả bóng thử" kỳ cục khác, một bữa ăn tối, mời Trevor Wilson, viên lãnh sự Anh và là một nhân viên tình báo Anh. Lần này bữa ăn đặt ở khách sạn Metropole. Người mật thám già lý tưởng và nghiện rượu có khuôn mặt ngây thơ của trẻ con. Một người có sức sống, nhân viên tốt đầy hài hước và không giấu diếm chống thực dân. Ông ta tiếp xúc hàng ngày với người Việt, lẫn lộn các nhà báo và các vị khách khác. Vua Jean tự hỏi nhân vật này thật thà đến mức nào hoặc chỉ là một công việc kỹ thuật ma quái, được cấp trên chấp nhận để làm hao mòn sự hiện diện của Pháp, sử dụng lối "chơi đẹp" để làm những công việc thiết thực? Vì cuối cùng trong nghề này một "nhân viên không chính thức" phải chăng có thể thực sự là một nhà tư tưởng? Dù sao, hiện tại de Lattre nghĩ cũng tốt, khi có ở Hà Nội một kẻ như vậy cho những dịp đột xuất nào đó.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:21:30 pm

Thực tế, "tiếp xúc" với những người ủng hộ Việt Minh mà ai cũng biết, de Lattre chơi trò hai và ba mặt. Ý đồ lớn của ông, dù sao cũng nêu lên công thức chống Việt Minh có hiệu quả nhất. Về việc này ông cũng sử dụng bà đại tướng. Monette không phấn khởi lắm: bà không gặp được con trai Bernard ở mãi bốt Hưng Yên không xoay xở về Hà Nội. Nhưng bà thỏa mãn tự hào, là người thủ hiến Nguyễn Hữu Trí kính trọng, đối xử tế nhị nhất. Ngày Tết, ông này tặng quà, chiêu đãi tiệc tôn vinh bà, chúc mừng bà với những lời lẽ chọn lọc và hiếm có, với thái độ khiêm tốn tao nhã.

De Lattre được báo cáo. Tay Trí này lúc đầu ông nghi ngờ, có lòng thật thà thực sự, có đủ loại biểu hiện sâu sắc, thân mật, tình cảm. Một hiện tượng ở Châu Á: không kiêu căng, không "lên mặt", không tính toán, dở trò. Và vua Jean nghĩ con người này là "Ông hoàng” thực, yêu mến ông. Điều đó làm ông cảm động. Dù thế nào sự giữ gìn vồn vã, sự tiếp xúc, như để gợi ý mà không nói gì: "Ông và tôi, chúng ta có thể cùng nhau làm những việc lớn”.

Để thử xem. Vì viên thủ hiến không nhất thiết là sức mạnh riêng, quyền lực riêng. Ông đã khống chế Bắc Kỳ nhờ vào công cụ của mình, đảng Đại Việt, là một hội hơn là một đảng phái chính trị. Và tham vọng của Đại Việt rất lớn. Đấy là "tổ chức" thảm hại của các "quan lại" muốn xây dựng lại trật tự đạo Khổng giáo ở Việt Nam. Về căn bản họ có tính bài ngoại và phản động, ghét người Pháp và nghi ngờ Bảo Đại, cho là quá "Phương Tây hóa”. Hơn ai hết họ ghét Việt Minh, cuộc cách mạng. Giữa họ có cuộc thanh toán lẫn nhau.

- Vậy là thử nhắm vào Trí. Không ai đặt vấn đề nghi ngờ "đạo đức", giá trị, tính nhạy cảm của Trí có vẻ rất hiền lành, có phần buồn chán. Tuy vậy đấy là kẻ hoàn toàn chuyên chế, người hận thù tiền định, một nhân vật đẫm máu hiện thân của một nền văn hóa cổ đã bị phá huỷ một nửa và muốn trả thù bằng mọi cách! Trí chỉ hiện đại ở quần áo. Tâm hồn ông thuộc về một thời kỳ khác.

Dù sao viên thủ hiến rất ngọt ngào và Đại Việt của ông ta là những kẻ tàn bạo đối mặt với quân Việt. Tướng Alessandri đã sử dụng, vì sao de Lattre không tiếp tục? Vì vậy vào buổi tối Trí tổ chức chiêu đãi, ông thì thầm sau bữa ăn: "Tương lai là quân đội Việt Nam. Chỉ riêng ông làm được việc đó. Vì sao ông không phải là bộ trưởng chiến tranh trong chính phủ mạnh tôi vốn mong muốn?" Trí không từ chối, với điều kiện Hoàng đế chấp nhận.

Tình hình tế nhị. Mặc dù Đại Việt bài Pháp, vua Jean không sợ: ông chắc chắn "nắm" được Trí. Vấn đề là được Bảo Đại đồng ý. Những người Thiên Chúa giáo có thể can thiệp với nhà vua, tham gia vào việc này được không, tôn giáo của bà vợ thường vẫn phục vụ Bảo Đại trong nhiều công việc về chính trị?

De Lattre đưa ra hỏi cha Seitz, một tu sĩ mà bà đại tướng hay lui tới. Đây là "người xuất sắc" trong Hội truyền giáo nước ngoài, nhà truyền giáo cổ điển, khô khan, nhỏ người mặt xương, râu muối tiêu, vẻ nông dân phúc hậu. Dĩ nhiên ông biết hết và với chiếc áo chùng hơi bẩn, hôi, ông hoạt động rất hăng. Trong một công trình sùng đạo, ông tập hợp những trẻ trai mồ côi, khoảng vài nghìn. Về nguyên tắc, đối với ông đây là vườn ươm các hạ sĩ quan, những cấp cao hơn trong các trường quân sự. Nhờ ông, việc đào tạo khung dưới rất tốt...

Nói về Trí, vị linh mục này tỏ ra rất không tin:

- Ông đừng quên Đội quân viễn chinh chống công giáo, và chỉ tồn tại ở Bắc Kỳ, sẽ đòi hỏi ông toàn bộ Việt Nam, Đông Dương. Nếu ông cho phép, sẽ có một phong trào chung nguy hiểm gần như quân Việt. Vả lại Hữu, tay tư sản Nam Kỳ không chấp nhận đâu, và chắc Bảo Đại cũng không...

Ở Hà Nội hơi có một sự tranh giành quyền lợi trong nhà thờ. Có một trung tâm tiến bộ, một tu viện xinh xắn, rất sạch, mới có những nhà cầu lát gạch xung quanh một sân cỏ. Những nhân vật áo dài trắng toát đi dạo và suy tư ở đây không ngớt. Những câu chuyện thấp giọng, không ồn ào, không một tiếng cười. Những vấn đề bí mật được trao đổi trong các phòng nhỏ. Các tu sĩ này đều là các triết gia về kinh Nhật tụng mà kinh Phúc âm mở rộng đến những bí quyết chính trị và thậm chí đến những cuộc mưu phản. Họ còn trẻ và thông thái: là những người thuộc dòng Thánh Đô-mi-níc.

Gương mặt lớn là cha Crasse, mới hơn ba mươi tuổi. Rất hiền dịu, đẹp, những nét đều đặn và dài, đôi mắt nhung, giọng nói thì thầm, sâu lắng. Với vòng hào quang nữa thì sẽ là hình ảnh một vị thánh. Đôi khi ông nói chuyện lâu. Ông bảo: “Các ông không làm gì được với một dân tộc. Vũ khí vô ích; hy vọng duy nhất là lời của Chúa..." Thực ra ông rất xông xáo, tiếp nhận đủ loại sứ giả. Người thân tín nhất, được ông bảo trợ là Nguyễn Mạnh Hà, một chú lùn dị dạng cưới một phụ nữ Pháp và cùng có nhiều con - là con gái bí thư Đảng Cộng sản quận sông Seine. Bà vợ chuyển đạo, cao lớn, khỏe hơn chồng nhiều, ăn mặc theo lối Việt Nam. Đôi vợ chồng sống đơn giản, không nhiều tiền, trong một loại "căn hộ". Bà vợ làm nội trợ. Ông chồng luôn luôn tuyên bố mình là người công giáo và Hồ Chí Minh yêu mến những người công giáo. Ông đều đặn đến Tổng bộ Việt Minh nhận các chỉ thị. Điều lạ nhất là ông không bao giờ bị ai bắt giữ. Là nhân viên của ai? Chẳng người nào biết. Cha Crasse rất tin tưởng ở ông ta.

Những người dòng Thánh Đô-mi-nic không phải cánh của các nhà chức trách Pháp: người ta theo dõi họ. Thế nhưng de Lattre nghĩ đã tìm thấy "viên ngọc" trong số họ. Một Bửu Dương nào đó, người rất xấu, rất thông minh, nhăn nhó quái gở. Béo, bóng loáng, ngắn ngủi trong tấm áo choàng, khuôn mặt như quả mộc qua, là một loại khỉ không đuôi, nhà sư đội lốt "linh mục", xức nước thánh.

Nhân vật này bí ẩn ra sao, chẳng ai biết. Chắc chắn ông ta đầy ẩn ý, nắm nhiều "dây". Không người nào dám nói với vị tướng đừng tin ông ta. Người hoàng tộc, là anh em họ với Bảo Đại. Vì vậy vua Jean rất hoan hỉ về phát hiện của mình, thường nói chuyện thân mật với ông ta, mỗi ngày càng lâu hơn. Đấy là người ông yêu thích nhất vì còn gì đẹp hơn, dù dưới vỏ bọc vô ơn; hoàng tộc, nhà thờ và Phương Đông trong cùng một người?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:22:44 pm

Nhiều ngày trôi qua, việc trao đổi tay đôi ấy chẳng đưa lại gì. Thế là de Lattre tự mình "xông xáo" hơn bao giờ hết. Ông đồng thời tung hứng với Bảo Đại khép kín ở Đà Lạt cùng triều thần, với Hữu lồng lộn ở Sài Gòn, với Trí đã bắt đầu ngần ngại, và cả với những người Âu ủng hộ Việt Minh, hàng mấy tá - những người ông thết tiệc và nhận dự tiệc. Tất cả đều long trọng. Ông ăn tối với nhà vua ở Đà Lạt, với Hữu ở Sài Gòn, Trí ở Hà Nội. Với những người bạn da trắng của Hồ Chí Minh cũng ở thủ đô Bắc Kỳ. Chỉ vì một "bữa tiệc" ông lấy máy bay cùng với đám thân cận đi hàng nhiều giờ - đêm, ngày không quan trọng.

Đường lối chính trị ăn uống với mọi người cũng không đi đến đâu. Đại tướng hình dung mình ngang bằng với những người da vàng về bịp bợm, tế nhị, thậm chí vượt qua họ dưới con mắt họ. Chỉ cần muốn, hăng hái và tưởng tượng như họ. Hơn nữa ông vứt xuống mọi bàn cân cái ông tưởng là trọng lượng ghê gớm, quyết định, sẽ làm mọi âm mưu thiên về chiều hướng tốt, là biết danh ông, với ông là vua Jean.

Ngây thơ kép, lâu dài. Sự ngây thơ của một người lớn lao, nghĩ rằng có thể tác động người Việt, có thể "nói chuyện" với họ những chuyện nhỏ, như vấn đề tù binh chẳng hạn, để sau này đi đến những chuyện quan trọng hơn nhiều. Theo ông, tương lai tuỳ thuộc vào ông và Chúa Trời, hiện tại chỉ là hành động, tuy cũng không chắc chắn. Và ông cũng có sự ngây thơ ngắn hạn, trước mắt cấp tốc và hoàn toàn trái ngược với những dự định thu xếp với ông Hồ. Vì, hiện nay đường lối chung năm 1951 của ông là tiến hành cuộc thập tự chinh Phương Tây của ông với những người da vàng "trắng” chống lại những người da vàng "đỏ". Thật trẻ con khi hình dung ông sẽ chỉ đạo ngay được tất cả những người Việt cho là cùng phía với ông. Ông tưởng tượng toàn bộ những người Việt Nam gần như dùng được sẽ được tập hợp thành một kíp trung bình trụ vững đến mức nào cũng được, với những Bảo Đại, Hữu, Trí... Phải nhào nặn họ vì trong số đó không có người lãnh đạo, có thể là người hợp tác, người bạn của ông.

De Lattre biết những quí ông ấy căm ghét lẫn nhau nhưng ông nghĩ có thể thu xếp được. Và vẫn có ông đấy, trái ý ông thế nào được? Ông không nhận thấy ở Châu Á hận thù còn không lay chuyển được. Những gì các ông yêu thích là cuộc chơi, mạo hiểm, không ngừng nhắm vào tất cả để bỏ túi. Và trong những cái đó dù thế nào Bảo Đại vẫn là bậc thầy cao hơn vị tướng nghĩ nhiều.

Vậy là trọng tài, trung gian, người của thiện chí "mánh khóe", vua Jean bị "lừa" ở mọi phía. Trước hết là ở Đà Lạt, thực tế ông không hề đến nữa, để nhà vua hưởng thụ ngọt ngào và hốt hoảng với mọi việc đen tối xung quanh Hữu, người Nam Kỳ và Trí, người Bắc Kỳ. Khi chết vì lo sợ, ông ta sẽ chạy đến qụy lụy. Thực ra hoàng đế tỏ ra không bận bịu gì đặc biệt. Ông ta thanh thản, sống cuộc sống tốt đẹp như không có chuyện gì. Đi săn, hôn hít, rượu Whisky, suy tư. Nhà vua có một số ý tưởng lớn như xây dựng đội bay của nhà vua để đưa con gái Hồng Kông đến, gan béo và Champagne Paris và những nhân vật được "triệu tới" vì những tiếp kiến mật. Những máy bay khỏe, đường kính hoạt động rộng để "di chuyển" nhanh chóng nếu biết đâu quân Việt xuất hiện bất kể vua Jean và những chiến thắng của ông ta. Phi công lái giỏi và thông thạo mọi khoản khác. Một đoàn "chiêu đãi viên hàng không" là người lai và hoàn toàn trâng tráo. Dĩ nhiên không có hải quan và nhân viên hải quan đối với máy bay của Hoàng đế. Mọi người gặp nhau ở đây. Người ta bảo phi hành đoàn có những nguồn lợi, những cuộc vận chuyển thuốc phiện và họ rất sung sướng. Bảo Đại thích có hạnh phúc quanh mình.

Lẽ tự nhiên Hoàng đế suy nghĩ. Một mình dưới cây rừng hoặc trong văn phòng với chánh văn phòng hoàng gia, Nguyễn Đệ, vẫn nhỏ người, chải chuốt, với sự lễ nghi ngọt ngào giả tạo. Bảo Đại bảo: "Ông gửi cho Hữu một bức điện nói tôi cách chức ông ta. Nhưng để ông làm một việc khác tốt hơn. - Thế ngài hạ mình, muốn làm vui lòng vị đại tướng?" Bảo Đại thương hại nhìn người hầu làm mọi việc của mình, vua của những kẻ bịp bợm mà chưa hiểu. “Không, ngược lại. Tôi cho ông ta một bài học, làm ông ta điên lên. Nhưng tất cả không có vẻ thế. - Nhưng thưa ngài... - De Lattre nâng đỡ tay tư sản Nam Kỳ chống lại tôi. Việc đó phải trả giá. Trong mấy ngày, tay giàu có của Sài Gòn chỉ còn là một kẻ khốn khổ dưới mắt ông ta và không biết làm gì được. - Nhưng, thưa ngài... - Hữu đang mưu mô với người Pháp làm hại tôi. Tôi phải tước hết, đuổi hắn đi như một con vật. Với lòng tốt và nể mặt cao uỷ, đại tướng tổng chỉ huy, tôi không đuổi hắn. Thậm chí cho hắn một dịp may mới, tổ chức văn phòng chiến tranh như vua Jean mơ ước. - Nhưng, thưa ngài..." Lại cái nhìn thương xót kẻ thừa hành những việc lớn, đao phủ tế nhị của đường lối nhà vua, lần này không thấy cú đánh: "Điều tôi muốn là con lợn Hữu không bao giờ thực hiện được. Hắn không tìm được ai dù có nhiều móc nối. Hắn phải võ vàng đi và "ông chủ" hắn vàng người ra. Tôi có thể chi bao nhiêu triệu đồng?- Tất cả những gì ông muốn. Nhiều đấy... Cuối cùng de Lattre nhận thấy chỉ có tôi tồn tại, đến nhờ tôi giúp đỡ... - Và lúc ấy... - tôi sẽ giúp. Vào lúc cần, nhờ tôi ông ta sẽ có một chính phủ với Hữu và Trí. Tay Trí này cũng phản bội tôi một ít. Và rồi... - Và rồi sao? - Và rồi nếu tất cả trót lọt, tôi sẽ như thế nào? - Việc ấy sẽ trót lọt chứ?- Do chính sức mạnh của sự việc. Tôi chỉ cần vẫy ngón tay. Lúc ấy đối mặt với đại tướng mất tinh thần hoàn toàn suy sụp, chỉ còn lại nhà vua. Nghĩa là tôi. Và để có tôi, ông ta sẽ bắt buộc phải theo những điều kiện của tôi. - Những điều kiện nào?" Im lặng. Đôi mắt của Hoàng đế lim dim, đôi mắt nhắm lại theo những suy nghĩ của ông, trong người ông.

Đà Lạt bình lặng, như không có gì xảy ra. Xung quanh lâu đài Bảo Đại - kiểu hiện đại vừa là vườn nuôi hươu, rượu Whisky thừa thãi, gian phòng đầy sao, két tiền và là nơi ẩn cư của Hoàng đế - quân lính bảo vệ nhà vua đi lại, đã học được cách không trông thấy gì. Tuy vậy, họ vẫn cảnh giác vì có vài ám sát viên Việt được báo cáo ở đâu đó. Nhưng không có phát súng nào. Chỉ vài sự đề phòng và cái yên tĩnh sâu lắng, thực hay giả gần như linh thiêng bao bọc người con Trời trong thành phố cấm này, tuy chỉ là một kẻ hào hoa mặc quần áo ngủ trong một căn nhà hiên rộng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:23:37 pm

Ở Sài Gòn, trong lâu đài Lagrandierè của mình, Hữu cũng tung tiền, cử sứ giả, tiếp khách: "Ông có muốn giữ một bộ nhỏ, bộ lớn, có bấy nhiêu quỹ đen? Tôi đã được Hoàng đế đồng ý, nhất là đại tướng de Lattre đã hoàn toàn tán thành". Hữu rất hào hiệp và khoan dung trong những đề nghị cao quý. Xung quanh lâu đài kiêu căng người Pháp để lại cho ông, thành phố lúc nhúc và hưởng thụ mọi thừa thãi với tất cả những "tự do" của đầu óc với những kế sách hàng triệu đồng bạc, của những kẻ tầm thường với những mưu mẹo hàng trăm đồng; và cũng có những vụ giết người các loại.

Thực ra giữa sự nảy nở chung ấy bố Hữu còn bí mật hơn Hoàng đế. Ngồi béo tròn trước bàn giấy, hình dung nguồn lợi, bố trí mưu kế và luôn tự mình thực hiện tất cả, đến từng chi tiết, những gì liên quan đến ông. Những việc còn lại có thể chờ. Nói chung người ta thấy ông luôn nhàn nhã với những tập hồ sơ và khách, khoan khoái và đầy quyền lực.

Đúng lúc Hữu đang giận dữ. Giọng nói to, ông dẫm chân, vùng vẫy, bị kẹt như một con chuột. Bản thân không làm gì được, ông phải chạy đến vua Jean ở lâu đài Norodom ngay bên cạnh khi ông ta ở Sài Gòn. Hôm ấy Hữu kêu ca không dứt, nói rằng ông là nạn nhân của Bảo Đại vì trung thành với nước Pháp và cao uỷ, vị đại tướng nổi tiếng tổng chỉ huy Jean de Lattre de Tassigny. Và việc phòng vệ tốt nhất phải chăng là phản công?

- Thưa đại tướng, chẳng làm gì được ở Việt Nam khi còn chưa biết ai là người chỉ huy, quốc trưởng hoặc thủ tướng Chính phủ. Thực tế có hai quyền lực. Một phải là thực và một chỉ là hình thức, quyền lực của tôi, như cái phao câu, giả. Có cái biểu tượng tiếm quyền, một cách bí ẩn; tôi muốn nói đến Hoàng đế. Giữa ông ấy với tôi phải thật dứt khoát.

Cả một tổ chức bất lực. Nhà vua chối bỏ mọi trách nhiệm, rửa tay về tất cả. Ông không ngớt nhắc đi nhắc lại: "Tôi là hiện thân của đất nước, tôi không thể hoạt động, lao vào công việc làm phương hại mình". Trong điều kiện như vậy, ông buộc phải cử một người đứng đầu Chính phủ nhưng chỉ để khủng bố, gặm nhấm, làm tê liệt, tiêu diệt người ta. Muốn thế ông có hàng nghìn cách tế nhị.

Thực tế Bảo Đại có tất cả. Mục tiêu của ông không chỉ chẳng làm gì mà ngăn cản bất cứ ai làm gì. Ông sử dụng Văn phòng nhà vua và các thủ hiến của mình để điều khiển theo ý mình, khống chế bằng một đường lối ngoại giao bí mật và khúc khuỷu. Ông xem mọi người trừ một số quy phục lối độc tài của ông, là mối cạnh tranh cần tiêu diệt. Điều đó xảy ra như ông muốn có, một không gian trống vắng để ông bơi một mình trong đó, vừa có quyền lực tối cao vừa hoàn toàn thụ động. Ông sẽ có toàn quyền nhưng là trống không.

- Bảo Đại không thích ông, nghi ngại ông. Tôi tận tụy với ông, muốn phục vụ ông nhiều hơn nữa và như vậy có ích hơn cho dân tộc tôi, cho nhiều triệu dân quê đang đau khổ. Thưa đại tướng, tôi nghĩ cái xấu, khối u Đà Lạt ấy quá lớn không chữa nổi. Tôi biết ông đã cố gắng hòa giải. Nhưng phải mổ ra, xây dựng nền cộng hòa mới, dấy lên được những phấn khởi và nghị lực cho phép ông chiến thắng trong cuộc chiến tranh và do đó đưa lại hoà bình.

Vị tướng nhìn Hữu, nở một nụ cười tinh quái và đắc thắng:

- Đừng băn khoăn, ông Hữu thân mến. Sẽ tốt đẹp, rất tốt đẹp. Chúng ta sẽ có chính phủ của chúng ta. Tôi đã chuẩn bị cả rồi, dù nhà vua muốn hay không. Tôi để cho ông ấy bất ngờ, dù ông vốn thiếu hợp tác. Ông ta nghĩ nắm tất cả trong tay. Một trong những người chủ chốt của ông từ nay đã hoàn toàn thuộc về tôi, sẵn sàng đi theo chúng ta. Tôi muốn nói ông Trí, thủ hiến Bắc Kỳ. Ông sẽ chỉ định ông này làm bộ trưởng Chiến tranh trong cơ cấu sắp tới của ông.

Tai họa. Đảo lộn. Nét mặt Hữu bỗng buồn da diết.

- Nhưng thưa đại tướng, ông không biết Trí, không biết người Đại Việt của ông ta như thế nào đâu. Đấy là những người Bắc Kỳ dữ tợn, những quan lại chuyên chế. Họ căm ghét tất cả, không chỉ Việt Minh mà cả ông, cả tôi, thậm chí cả nhà vua. Với lòng tham không đáy, họ muốn nuốt sống tất cả, muốn nắm lấy tất cả. Trong nghèo khổ, những người miền Bắc cứng rắn sẽ lao vào lúa gạo và tiền bạc của Nam Kỳ trù phú chúng tôi, khai thác như một thuộc địa. Sài Gòn sẽ là mồi của họ. Và để buộc vâng theo, bẻ gẫy mọi kháng cự dù nhỏ, họ sẽ biến cả nước thành một nhà tù rộng lớn, nhân danh trật tự và văn minh. Không, thưa đại tướng, không thể được.

Lời nói ấy de Lattre đã nghe nói ngay tại Hà Nội, từ miệng cha Seitz. Ông này cũng đã dự báo sự chống đối chắc chắn, sự ghê sợ điên cuồng của Hữu. Vì vậy vị tướng không ngạc nhiên; với mấy lời, vài cử chỉ, ông quét đi những khó khăn:

- Ông bạn tôi, cứ tin tưởng ở tôi. Tôi nắm chặt ông Trí ấy trong tay; do tôi chỉ đạo ông ta sẽ làm việc tốt, sẽ là tướng Giáp của tôi. Tôi sẽ trông chừng để ông ta không làm quá, không gây rối. Tôi sẽ bảo ông ấy nghe lời ông nhân danh người lãnh đạo Chính phủ.

- Thưa đại tướng, đồng bọn Đại Việt đưa ra những lời khuyên không tốt; ông ta sẽ cố thoát khỏi ông. Nếu ông nhất quyết muốn cử ông ta làm bộ trưởng Chiến tranh, ít nhất ông cũng phải đề phòng. Phải để ông ta thôi chức thủ hiến Bắc Kỳ, bổ sung một vị tướng Nam Kỳ vững vàng thực sự đảm nhiệm công việc. Vì ông Trí ấy có lẽ chỉ là một nhà chính trị và một cảnh sát, không phải một "người lính". Thậm chí ông ta chưa bao giờ thực sự đánh nhau.

De Lattre để tay lâu lên trán, lim dim mắt, gần như nhắm mắt lại, gần như một con diều hâu suy tư. Ông tự nhủ: "Mình có điều cần thiết trong túi áo, con người Nam Kỳ chấp nhận người Bắc Kỳ. Nhưng bố Hữu có lẽ nói đúng khi khuyên nhủ mình khôn ngoan. Vậy, không nên sớm hồ hởi. Mình phải nói chuyện lại với Trí. Và rồi, Bảo Đại sẽ nghĩ sao về những chuyện này?”


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:24:15 pm

Hữu có vẻ mặt buồn lâu. Nhìn ngoài ông là con người trung thực trong khó khăn, có tư cách trong nỗi buồn và kỷ luật. Cũng là người vô tư nữa, tận tâm nhưng người ta không nghe, đành mặc Trời, nghĩa là đại tướng. Nhưng trong thâm tâm, rất bí mật, ông cũng hoàn toàn thỏa mãn. Ông đã tính toán, chắc chắn việc làm của de Lattre sẽ xoay về chiều hướng xấu tuy vậy ông "hy sinh". Nhất định sẽ có đổ vỡ - Trí lộ mặt quá "háu ăn" hoặc Bảo Đại gây một "phiền phức" nào đấy theo cách của ông ta, một tiếng sét che đậy nhưng độc ác. Và ông, khi kế hoạch của vua Jean đổ vỡ, sẽ nhẹ nhàng và từ tốn nói: "Ông thấy đấy, thưa đại tướng, không có cách gì thỏa hiệp với những người ấy, không thể làm việc với họ được. Tôi không dựa vào ảo tưởng, tôi để ông làm để rút kinh nghiệm. Như tôi đã sợ không thể dựa vào tất cả những quí ông ấy, nhà vua hư vô và ông Trí tham ăn, con cá mập không muốn nuốt và con cá mập muốn ngốn tất cả. Thậm chí căm ghét mọi người, họ xâu xé lẫn nhau. Giải pháp duy nhất, bây giờ là nền Cộng hòa".

Đấy là những ẩn ý của Hữu. Dĩ nhiên ông sẽ trải qua những ngày khó khăn. Nhưng hơn bao giờ hết ông sẽ kiên trì, chịu đựng, thỏa hiệp. Và sau cuộc khủng hoảng, như ông dự kiến, sẽ trả thù ghê gớm! Không có vấn đề tử tế nữa. Sẽ chơi đến nơi và ông, Trần Văn Hữu sẽ "trị vì" ở Đông Dương, với Hoàng đế đóng vai làm vì đã tan thành mảnh cùng với Đại Việt, những người Bắc Kỳ ấy được xem như những vai phụ khốn khổ trong châu thổ xa xôi. Cùng với ông, những tư sản đồn điền sẽ đánh bại mọi loại quan lại: những kẻ vô liêm sỉ "lợi dụng" bên cạnh nhà vua ở Đà Lạt; những người bực tức không có phần, tập hợp ở Hà Nội với lối đạo đức tàn ác và lòng tham không cạn. Còn nhân dân dù thế nào rồi họ cũng vâng theo, ít nhất cũng không nghe lời Việt Minh hơn, sẽ không thay đổi được gì và không quá quan trọng khi còn sở Hối đoái, việc chuyển đổi và đồng bạc.

Và Hữu đã dự kiến đúng - đối với Trí và Đại Việt. Vì điều vua Jean thấy ở Hà Nội là "sự bê bối". Dĩ nhiên không thô lỗ mà dưới dạng cao siêu và bí ẩn của khủng hoảng lương tâm, những dằng xé nội tâm, những tranh cãi, đau khổ về bổn phận. De Lattre càng nói với thủ hiến thân mến của ông: "Tôi biết ông không chơi trò hai mặt, biết ông thành thực", ông này càng xa xôi, mờ mịt, đôi mắt mơ màng rồi mỉm cười ráng chịu u buồn vốn là đặc tính của ông. Như đang gặm nhấm trong lòng và tinh thần. Qua một hơi thở, kiềm chế sự hấp hối, ông trả lời "vâng" và rồi lại nói: "Tôi những muốn, tôi không thể chối bỏ và quá khứ của tôi là vượt quá sức lực của tôi".

Vị tướng không nản lòng, khuyến khích Trí bằng cả tính cách và sự gắn bó của mình. Nhưng ông này thoái thác, chờ đợi sự phán quyết. Vì trong thời gian đó, Đảng Đại Việt thảo luận trong các hội nghị gần như âm mưu lật đổ. Đã hai năm "hợp tác" với Pháp, nhục nhã nhưng đưa lại Bắc Kỳ cho Trí, người của Đại Việt. Bây giờ ở Hà Nội cả bộ máy của đảng khoảng vài chục người, vẫn với hai mối hận thù, với Việt Minh và với thực dân tuy trong lòng mong muốn nặng nề. Bỗng chốc là sự cám dỗ mạnh, và có lẽ là cơ hội duy nhất. De Lattre giơ tay cho họ, phải chăng là "vận may"? Phải nắm lấy, dựa vào vua Jean làm công cụ để chiếm lấy toàn Việt Nam. Hợp tác nhưng thường xuyên đạo đức giả, đòi hỏi không cùng, nắm lấy những "vị trí then chốt".

Và thế là với giọng tế nhị, xa vắng, Trí bắt đầu nói với de Lattre: "Thưa đại tướng, tôi sẽ hy sinh vì ông. Tôi nghĩ có thể nhận. Nhưng đừng bắt tôi tuân theo mệnh lệnh của Hữu, con người thô thiển ấy. Bởi tinh thần và lương tâm tôi không thể làm bẩn mình đến mức ấy..."

Đôi khi là giọng tâm sự: "Tôi bị thuyết phục nhưng những người lãnh đạo khác của Đại Việt vẫn ghê sợ, ngại tôi sẽ trở thành con tin, một người tù trong chính phủ của Hữu. Sẽ dễ thuyết phục họ hơn nếu không chỉ một mình tôi ở trong đó, nếu xung quanh tôi có những "người bạn" trong các bộ như Thông tin, Giáo dục. Và dĩ nhiên, nếu tôi không còn là thủ hiến Bắc Kỳ thì có một người trong bọn họ thay thế".

Tóm lại, vua Jean ở trong tình trạng rất rối ren. Ẩn ý của Hữu ở Sài Gòn, sức ép của Trí ở Hà Nội, sự phá hoại của Bảo Đại ở Đà Lạt. Những kẻ giàu có Nam Kỳ, giàu có về đồng bạc và "cấp tiến", những Đại Việt đạo Khổng Bắc Kỳ rụt cổ lại như trong mồ, chỉ nghĩ đến sử dụng ông. Nhà vua thì nghĩ nhất là không sử dụng ông. Đại tướng tự nhủ thủ đoạn của mình chẳng là gì bên cạnh sự xảo quyệt. Ông ta đã hết cách...

Để thoát khỏi rối ren ông bỗng nghĩ dù sao cũng chỉ có Bảo Đại. Nhà vua này là sự cám dỗ thường trực của ông.

Một buổi sáng ông nảy ý định cử người bà con, cha Bửu Dương đến gặp Bảo Đại: "Nói với người anh em họ của ông những việc hiểu lầm giữa chúng tôi làm tôi phiền lòng. Nhưng chúng tôi phải thỏa hiệp với nhau. Bảo ông ấy, có thể tin ở tôi. Phải giải thích cho ông ấy như vậy, tất nhiên không nhân danh tôi nhưng làm cho ông ấy hiểu ý nghĩ sâu xa của tôi là thế. Thăm dò xem và trở lại cho tôi biết." Thực ra Bửu Dương không hồ hởi vì nhiệm vụ. Ông chẳng là gì cả, một tu sĩ không quyền lực và có nguy cơ làm phương hại đến Nhà thờ. Ông phải được các bề trên cho phép. Nhưng de Lattre giải quyết việc đó cho ông, quét sạch mọi chống đối. Và một chiếc Dakota đưa "ngài mộ đạo" như người ta gọi ông, đến Đà Lạt.

Bí mật. Sau mấy ngày ông xuất hiện lại ở Hà Nội. Ông đã làm gì, không ai biết. Thực tế ông làm việc cho ai người ta không rõ. Ông tiếp kiến vua Jean lâu hơn bao giờ hết. Và vị tướng nói với thân cận: "Tôi tự mình làm lấy. Tôi sẽ đi Đà Lạt”.

Việc ấy được giấu kín. Nhưng dĩ nhiên Bảo Đại biết. Cú này sẽ có lợi, sự kiên trì của ông sắp được đền đáp. Ông chờ đợi "việc" đến. Hài lòng, ông tâm sự với những người xung quanh mình, thái độ vô sỉ của một người chơi chắc thắng:

- Lần này vua Jean cắn câu... Và nghiêm túc đấy vì ông ta không cho tôi là "đồ ngốc" nữa.

Rồi ông triết lý:

- Một ông vua, và tôi muốn là một ông vua lớn. Nghề nghiệp là làm một gái đĩ đáng kính, là một cô gái thông minh thường nói: "Anh yêu, sau này sẽ tốt hơn". Vì chính do làm khó dễ, mà cô ta thu được nhiều nhất. Tôi biết rõ các bà, tôi bắt chước họ. Dùng những thủ thuật của họ tôi sẽ đạt đến tối đa, dù với một de Lattre không thích "phái yếu" lắm. Tôi từ chối nhưng để lại vài hy vọng, chỉ vài nét duyên dáng. Bây giờ tôi cho ông ta vài đặc ân - dĩ nhiên có đi có lại.

Vậy cuộc đấu tay đôi de Lattre - Bảo Đại xoay vào ve vãn. Có lẽ sẽ là cuộc chiến, nhưng cuộc chiến làm đỏm với nhau. Không ai cưỡng lại được một trong hai nhân vật ấy khi đã muốn. Lúc này màn kịch lớn diễn ra sao đây: ai thắng ai, ai lừa bịp ai? Triển vọng tình tứ đến mức nào?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:25:36 pm

Nói đúng ra, với nhà vua dù sao cũng có hy vọng. Với người Việt, thất vọng hoàn toàn, vua Jean nhận thấy mình chẳng làm gì được. Trò chơi hai mặt của ông sụp đổ.

Người Việt cũng có nhường bước một ít nhưng rất ít và rất tồi! Về vấn đề tù binh. Đã hai mươi ngày mặc cả, va chạm nhưng Beaufre "vững vàng" trụ vững đến cùng trong hàng trăm thông báo qua đài. Rồi người Việt công bố sẽ trả cho tướng de Lattre những người Pháp bị thương ở Vĩnh Yên. Dĩ nhiên hành động này là một cách sỉ nhục vua Jean: ông không phải người thắng vì quân lính Việt đã thu lượm những "lính bị thương" này trên chiến trường và muốn trả lại vì sự "độ lượng" của nhân dân. Nhưng đại tướng nhìn vấn đề một cách khác, không cảm thấy bị hạ thấp. Ông có thể nói với Đội quân viễn chinh: "Người ta không thắng mà không có sự đổ vỡ. Tôi sẽ gắn những mảnh vỡ lại..." Kết cuộc cũng không xấu đối với uy tín của de Lattre trong các đội quân - người ta sẽ nói: "Nhờ vào de Lattre..." và mỗi người sẽ nghĩ nếu mình bị bắt cũng sẽ được trả lại.

Đến lúc cuối, mọi việc suýt bị hỏng. Đại tướng hét lên: "Tôi không nhận quà biếu". Thật thế, quân Việt trả người không đòi trao đổi: thả những người Pháp không hề đòi người của họ. Cũng là mánh khoé. Vì bên này bảo sẽ trả lại những quân chính quy thực thụ, đẹp, muốn bao nhiêu cũng được, một đổi một. Và điều ấy ông Giáp thực sự không thể từ chối.

Cũng không có khó khăn nhưng người Việt muốn tuyệt đối chứng tỏ họ là "tay trên". Họ luôn tìm cách xúc phạm. Người Pháp đề nghị việc trao đổi tiến hành ở "biên giới". Nhưng người Việt trả lời: "Muốn nhận hay không cũng được. Nếu các ông muốn có người của mình, hãy đến nhận gần thủ đô chúng tôi, ở Thái Nguyên, bằng máy bay. Không dùng Dakota là khí cụ chiến tranh mà chỉ dùng Morane cứu thương..." Đấy là tối hậu thư. Dù công việc tiến triển tốt, việc đi về này cũng thật phức tạp, mỗi lần chỉ hai người bị thương và phải mất ít nhất hai tiếng đồng hồ! De Lattre cảm thấy "bị chơi" nhưng không lùi được nữa. Vậy là ông đành tỏ ra tươi tỉnh, hy sinh vì "lính của mình".

Và rồi may mắn có bà de Vendeuvre. Một hôm bà đến bất ngờ. Ở sân bay, bà hỏi: "Đại tướng ở đâu?" Người ta trả lời: "Không rõ. Bà đến khách sạn Metropole xem sao". De Lattre đang buồn chán giữa một cuộc chiêu đãi bình thường cùng với những ông to bụng dân sự và quân sự. Đột nhiên giữa đám người ông nhận thấy màu tóc vàng và thân hình đầy đặn của người đàn bà. Ông hét lên ngay, rất to: "Beaufre, Beaufre, bà ấy tới..." Người ta nhìn nhau kinh ngạc về một sự tiếp đón như thế đối với một người đàn bà, hơn nữa là người đàn bà đã đến một mình. Họ không biết đấy là một nhân vật chủ chốt trong đám thân cận vừa lên sân khấu. Bà nói "Các bạn thân mến, các bạn yêu quý của tôi" với đại tướng, đại tá trong lúc ôm hôn nhau. Nhưng Petcho - Bacquet và những người "hiểu được vài điều bí mật" chán ngán nhìn bà, biết trước sẽ gây cho họ nhiều phiền phức. Lilia (người ta gọi bà như vậy) nói: "Tôi chạy đến với Monette". Đại tướng trả lời: "Bà ấy hài lòng lắm đấy! Và bà cũng đến thật đúng lúc: Tôi cần bà trong một nhiệm vụ tin cậy..."

Vì bà de Vendeuvre không chỉ có khả năng về tất cả. Bà là chủ nhân của các cô gái trở thành nữ y tá hàng không và cũng như trước đây họ sẽ vào tu viện vì quá thừa. Đúng với Lilia bây giờ là một tu viện lạ lùng... Dù sao nhờ các cô gái ấy và với tính cách của mình, bà là nhân vật của tất cả những nơi "hỗ trợ" phái quân sự. Vậy là de Lattre sẽ cử bà đi Thái Nguyên như "con người xung kích". Trước khi có bà, ông phải chọn hai đại diện trong hội Hồng thập tự Đông Dương nhưng đó chỉ là những "người không ra gì". Ganay, thiên tài về tài chính đã hư hỏng, là chủ tịch. Ông này sẽ đi, đỡ nguy hại. Có Lilia, người ta bỏ rơi Huard, không cùng cánh nữa. Qua những cuộc đàm phán, ông này tỏ ra quá thuận lợi cho người Việt, lạnh lùng băng giá với những gì là Pháp. Ganay mặc kệ tù binh, Huard sử dụng họ để thực hiện đường lối chống Pháp - cứ cho là chống thực dân.

Lilia là "bà mẹ của mọi người" và cũng là "người đàn bà tốt và người đàn bà xấu", không còn đạo đức hay không đạo đức như de Lattre nhưng có thể chơi đạo đức với bà de Lattre. Bà không còn tin vào mặt xã hội tuyệt vời của các chỉ huy tình cờ, những người "đàn ông thực sự": vừa những người trẻ, đẹp đem lại thú vui và những thiên tài có những kiểu cách thất thường: đối với tất cả bà tỏ ra dịu dàng, đôi khi nguy hiểm. Còn đối với quân thù... đây là một nữ tính tuyệt đối xây dựng trên sức mạnh bê tông.

Ngày 11 tháng 2, bà de Vendeuvre, quân phục y tá, nữ thần Vénus quân sự hóa vì từ thiện - gặp lại Ganay ở sân bay Hà Nội lúc bình minh. Ông này lúc ấy là một ông già hướng đạo nhỏ người, mang kính, áo sơ mi mở cúc thấy rõ da thịt mềm và xanh, quần soóc để lộ đầu gối khoèo; ông rất tỉnh táo, ranh mãnh và đạo đức giả. Lilia thấy ông còn đáng ghê tởm hơn thường ngày. Trời sáng rõ họ cùng đi đến chỗ người Việt, lên hai chiếc Morane mất hút ở chân trời.

Suốt ngày lo sợ tăng lên. Vẫn không có tin tức về bà de Vendeuvre và Ganay. Dù không chắc chắn, người ta quyết định đến mười một giờ sáng hành quân dù chưa biết việc gì sẽ xảy ra. Bộ phận lớn đội bay cứu thương cất cánh - sáu chiếc Morane chở mười hai thương binh Việt Minh, những người đầu tiên trong số trao đổi. Phần lớn mạnh khỏe, đã khỏi tuy một số còn băng bó. Quân Pháp có trong tay hơn hai trăm, tất cả thu nhặt ở Vĩnh Yên trong tình trạng ít nhiều tệ hại nhưng được chăm sóc từ đấy đến nay.

Đến một giờ trưa sáu chiếc máy bay trở lại vì không đậu xuống được. Bên dưới là một bãi cỏ xung quanh lởm chởm đá, có ai đó đang làm chữ thập trắng với những mảnh vải, dấu hiệu cấm lại gần. Phi công thấy hai chiếc máy bay của phái đoàn Pháp, của ông Ganay và bà de Vendeuvre đậu ở một góc, có lính cầm tiểu liên đứng gác. Phái viên của de Lattre bị rơi vào bẫy chăng?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:27:03 pm

Thực tế không có sự phản bội. Quân Việt không muốn cùng xuống một lúc quá hai chiếc Morane. Cuộc bay con thoi bắt đầu. Buổi chiều chỉ đưa về được mười hai thương binh, những người nặng nhất.

Cuối cùng Lilia trở về, vào văn phòng đại tướng. Ông vẫn ở đây, đợi trong nhiều giờ, đi vòng quanh gian phòng, rõ ràng lo lắng.

- Ganay đâu?

- Ông ấy muốn nằm lại đó.

- Tôi đã ra lệnh cả hai phải về chiều nay. Đấy là không tuân lệnh. Làm sao bà để ông ta làm thế?

Bà phái viên bèn kể lại ngày lạ lùng của bà:

- Phải cố gắng lắm mới hạ cánh được. Chỉ một vạch cỏ giữa đám sỏi đá lẫn lộn. Và trong cảnh người ta nghĩ hoang vắng ấy là cả một màn đạo diễn: hai chiếc băng ca có người, cờ Việt, những hàng quân chính quy đội mũ lá và đồng phục màu xanh. Một đám đông dân quê hô lớn: "Hoan nghênh sự độ lượng của Chính phủ Cộng hòa nhân dân!" Những uỷ viên chính trị tiến dần đến chỗ Ganay và tôi. Họ có vẻ ngạc nhiên khi thấy chúng tôi, dĩ nhiên là một đôi buồn cười! Tôi cố gắng thật đĩnh đạc, ông ấy mỉm cười như rất khâm phục. Những "cán bộ" ấy nói tiếng Pháp rất tốt. Chỉ huy là một loại người Trung Hoa cao lớn, giọng khàn, khuôn mặt nghiêm nghị.

Người ta dẫn chúng tôi vào một căn nhà tranh lót ván có một bức tượng thạch cao của Hồ Chí Minh đặt trên một bàn thờ nhỏ. Lúc ấy sáu giờ sáng. Họ mời chúng tôi uống trà và bắt đầu thảo luận. Người chỉ huy trịnh trọng tuyên bố:

- Những người bị thương của ông bà đã sẵn sàng trong các trạm xá của chúng tôi. Có từ ba đến bốn trăm. Chúng tôi trao trả chín mươi chín người, nhận lại từng ấy quân lính chúng tôi. Trao trả dần dần. Không nên đưa tới quá hai máy bay mỗi lần vì chúng tôi sợ sự phản trắc của đế quốc. Vả lại hễ có một lỗi lầm nào, chúng tôi ngừng lại tất cả và ông bà sẽ là những con tin.

Họ giật mình vì có lẽ nhiều chiếc máy bay Morane cùng đến. Người chỉ huy hét lên "Máy bay". Có sáu chiếc và những người lính chính quy đã chĩa đại liên lên không. Nhưng trên ấy phi công đã hiểu nên quay về. Tôi rất sợ: tất cả đều có thể xảy ra.

Người chỉ huy lúc ấy nói:

- Ông bà có thể đưa những người tù binh đầu tiên về trên những chiếc máy bay đưa ông bà đến.

Thật khác thường. Những "trạm xá" là hang hầm đào trong đá. Từ những lỗ ấy đưa ra đoàn người mang những chiếc cáng làm bằng lau sậy. Xung quanh, những cô gái đội mũ nan rộng mang trên tay những túi kẹo, thuốc lá, đồ chơi, đi lại như bướm bay. Họ đặt những "món qùa của nhân dân" với cử chỉ vô cùng tế nhị trên những thân hình nằm dài trên băng-ca vì bị thương nặng, yếu quá không có ý thức hoặc không nắm được những gì người ta đưa cho. Sâu sắc mà nói, lòng tốt ấy như một sự độc ác.

Tôi gọi các cô gái Việt Minh ấy:

- Có cô nào nói được tiếng Pháp không?

Một người bước tới. Tôi hỏi cô:

- Cô có phải y tá không?

- Không. Tôi thuộc Đoàn thanh niên Cộng sản. Các đồng chí và tôi muốn giải trí cho các chàng trai của bà.

Cô bỏ mũ, đã làm xong nhiệm vụ phân phối quà    cho những người dở chết tôi vừa nhận. Cô lúc lắc mái tóc tết sau đầu. Và bỗng nhiên chính cô hỏi tôi:

- Bà có ở Paris không?

- Có.

- Tôi sang đấy một lần. Tôi muốn hỏi Jeannette Vermersch có khoẻ không?

Người chỉ huy nói chuyện với tôi một ít như một người đàn ông, không hoàn toàn là một khối vô cảm nữa:

- Chúng tôi đón tiếp bà vì bà không phải một phụ nữ Pháp ở Đông Dương.

- Dù ở đâu thì phụ nữ Pháp cũng là phụ nữ Pháp.

- Bà sẽ trở về Pháp. Bà hãy nói đã thấy chúng tôi đối xử tốt với tù binh như thế nào.

Tôi lợi dụng không khí "thư giãn" ấy để làm công việc lớn chuyển thư từ và những gói quà. Tôi cố cam đảm hỏi: "Ông có biết trung uý B...? Đấy là cháu tôi, ở cách đây không xa". Tôi không dám gặp. "Tôi mang tới đây hai nghìn bức thư. Ông cho tôi nhắn với cháu ngày mai tôi sẽ mang quà đến cho cháu."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2021, 09:27:58 pm

Ganay không làm gì cả. Một nhân vật thật lạ. Suốt ngày ở một chỗ bàn bạc thì thầm với những người Việt Minh đặc biệt, những loại tình báo đỏ. Nhóm ấy có vẻ thỏa thuận với nhau. Rõ ràng ông đang thăm hỏi về người bạn trẻ của mình trong số tù binh.

Trời tối, tôi nói với Ganay: "Theo đúng lệnh của đại tướng de Lattre, chúng ta trở về Hà Nội". Nhưng ông ấy rất bình tĩnh, giọng run run trả lời: "Tôi ở lại". Trước những cán bộ chính trị làm như không nghe thấy, chúng tôi cãi nhau. "Ông ở trong hội Hồng thập tự Pháp chứ không phải Hồng thập tự Việt Minh - Bà đừng cố gặng. Tôi ở đây rất tốt và xin nhắc lại: tôi ở lại”.

Lúc ấy tôi thấy người ta đưa trong hang ra một chiếc giường rộng hai người nằm để vào trong căn nhà tranh. Trong lúc người phục vụ mắc màn, ông già Ganay xoa tay sung sướng như sẽ qua một đêm hạnh phúc.

Trời gần tối hẳn. Hai chiếc máy bay đến. Người ta ra hiệu cho họ đậu xuống. Thấy chỉ một mình tôi, phi công sửng sốt hỏi: "Ganay đâu? - Hỏng rồi, ông ấy không muốn về - Con vật!" Và không đầy một tiếng là thế giới khác. Thật tuyệt vời được ở Hà Nội, ở chỗ ông thưa đại tướng.

- Bà nghĩ ngày mai công việc có tiếp tục không? Hay hỏng rồi?

- Tôi không rõ, thưa đại tướng. Không phải đã thất bại hoàn toàn, cũng không phải thành công. Còn phải thử nữa. Ông cho phép tôi lại đi khi trời sáng.

Bà de Vendeuvre nói điều ấy rất đơn giản. Vì trước hết bà không muốn tỏ ra là một nữ anh hùng - chỉ làm phận sự. Bà biết không có gì bằng sự tiết độ ấy mới làm cho người ta trở thành anh hùng.

Bình minh, Lilia lại ở trong căn nhà tranh Việt. Ganay mặt đầy mẩn ngứa, càu nhàu: "Tôi ngủ không được tốt".

Hôm ấy, người Việt tỏ ra dễ chịu hơn. Công việc tiến triển tốt hơn, thong thả nhưng đều đặn. Cuối cùng gần năm mươi chuyến đi, lại; việc trao đổi hoàn thành ngày 13 tháng hai. Tất cả 46 người bị thương của Pháp được đổi với 48 thương binh Việt Minh. Hai chiếc Morane bổ sung mang tới 2968 bức thư và 150 hộp quà cho các tù binh người Việt còn giữ lại. Trong số những người nhận lại, đa số là người Ả-rập, những người đạo Hồi.

De Lattre không thoả mãn lắm. Bao nhiêu vất vả để đưa lại ít kết quả thế! Và để làm việc ấy ông có phương hại đến sự trong sạch, đến vinh quang của ông không?

Thời kỳ ấy de Lattre đầy suy tư. Ông đang ở lại để rút lợi nhuận về Vĩnh Yên. Mấy tuần sau đó chẳng được bao nhiêu. Bảo Đại vẫn không "bám" - còn tiếp tục phải làm. Với Việt Minh những tiếp xúc về chính trị không đưa lại gì. Đối với họ chủ yếu sẽ hoàn toàn là cuộc chiến.

Điều này cũng thất vọng. De Lattre chờ đợi mãi, hy vọng nếu họ không muốn "nói chuyện", ít nhất họ sẽ đánh nhau. Các sư đoàn của ông Giáp phải đến nhưng họ không đến. Khi nào thì họ xuất hiện, ở đâu và như thế nào? Chẳng ai biết. Dù sao cũng là một "sự việc" hoàn toàn mới, không rõ dữ kiện, chẳng phải như Vĩnh Yên, trong lúc này không một dấu hiệu nào. Vẫn còn trống không.

Vả lại Beaufre thất sủng chỉ là một nạn nhân làm nguội cơn thịnh nộ. Vua Jean biết rõ chính mình sai lầm. Châu Á quá lạ lẫm đối với ông. Ông không nhận rõ được nhịp điệu đặc biệt của cuộc chiến Việt; nói đúng ra không biết cuộc chiến ấy tiến triển ra sao. De Lattre lập luận theo lối quân sự chuyên nghiệp còn ông Giáp thực hiện cuộc chiến cộng sản, cuộc chiến tranh nhân dân, lâu dài và không bao giờ mạo hiểm. Không có lối tự cao như những con người của chiến tranh Châu Âu. Thay vì kiên trì trong thất bại, tổ chức lực lượng mạnh để giành giật thắng lợi, "giải pháp đúng đắn" là rút lui đúng lúc, khi cần thiết, để sau đó bắt đầu lại hoàn hảo hơn.

Khi quân chính quy đã tập trung hết về trại, ông Giáp bắt đầu "nghiên cứu", nêu lên những sai lầm, rút ra những "bài học" . Trong lúc de Lattre "chờ họ quay ngoắt lại". Ông Giáp, Tổng bộ Việt Minh, Bộ chỉ huy Quân đội nhân dân phân tích cuộc chiến Vĩnh Yên đến những chi tiết nhỏ nhất trong nhiều ngày. Tất cả những người "có trách nhiệm" tự phê bình, kiểm điểm gắt gao. Kết quả không phải là sự yếu đuối mà cảm giác tự nguyện được xây dựng, mỗi người tự xem lại mình, thấy rõ vì đã làm không đúng và phấn đấu vươn lên.

Người Pháp nắm được một tài liệu của quân Việt, có lẽ đúng và dù sao de Lattre cũng tin vào đó. Đấy là báo cáo tự kiểm điểm của bộ phận "chóp bu" mà người Việt nêu lên những câu hỏi: "Tại sao chúng ta không tiến hành đồng bộ việc phản công ngoài mặt trận với những hoạt động trong nội bộ địch? Tại sao không sử dụng lực lượng quần chúng cắt đứt những phương tiện giao thông của quân Pháp, nhất là các đường đi lại trong vùng châu thổ? Tại sao không phát động những trận đánh phụ ở phần còn lại trên đất Đông Dương, ở Nam Kỳ và nhất là ở Trung Kỳ? Như vậy sẽ cản trở được người Pháp tập trung quân và máy bay trước Hà Nội, sẽ không cho phép de Lattre điều đến những đội tăng cường quyết định. Tại sao trong quá trình phản công ở Vĩnh Yên và đường số 2, việc cung cấp cho mặt trận không đủ, gạo và đạn dược thiếu? Và tại sao chúng ta thiếu thận trọng đưa những trung đoàn ra dưới lưới lửa áp đảo của quân Pháp, trong những điều kiện họ có thể hoàn toàn phát huy được ưu thế về vũ khí? Trong tất cả những điều đó, vậy là đã có sự đánh giá thấp sức mạnh của Đội quân viễn chinh và đánh giá quá cao lực lượng Việt Minh. Tất cả phải làm lại. Phải tìm cách tránh né về chiến thuật: không chỉ "giáo dục lại". Quân đội nhân dân phải phát triển lên gấp hai lần, đông hơn, tăng quân số và vũ khí. Phải có thời gian dài, không thể "ra quân" trong bốn tháng mùa hè còn lại. Cũng phải giả vờ có những trận đánh lớn để giữ quân Pháp lại trong những vùng rìa châu thổ, ngăn cản họ cố tấn công vào rừng sẽ nguy hiểm trong lúc này. Và rồi vấn đề mấu chốt là gạo, phải qua thâm nhập vào châu thổ để cung cấp cho quân đội.

Như vậy, dần dần và khó nhọc, de Lattre có được một ý tưởng đỡ mơ hồ đối với quân Việt. Ông biết họ trở về căn cứ và chuẩn bị. Nhưng thế nào đây? Sau trận Vĩnh Yên, ông tự hỏi: "Làm gì?" De Lattre hỏi ý kiến riêng từng người và từng nhóm, tất cả cùng một lúc. Cuối cùng ông được góp ý quá nhiều nhưng không hay. Về người Việt cũng có nhiều "nguồn" đấy nhưng vẫn không sáng tỏ được. De Lattre khốn khổ! Hơn nữa trên lưng ông có Bảo Đại và các chính quyền Đông Dương, cả Đội quân viễn chinh cần "trang điểm tỉ mỉ", nước Pháp và cả thế giới phải tác động - không kể các nhà báo và vài chuyện nhỏ với bà de Lattre, bà de Vendeuvre và Bernard...


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Chín, 2021, 06:51:05 pm

Chương V
HỆ THỐNG CỦA VUA JEAN




Vậy là không tấn công vào rừng. Không đánh nhau ở vùng châu thổ - hoặc trong lúc này, ít nhất. Nhưng óc tưởng tượng của vua Jean vẫn làm việc. Ông sáng tạo một hệ thống để thắng trong cuộc chiến tranh mặc dù thiên nhiên với tất cả những gì xa lạ và nguy hiểm.

Làm sao đây? Bỗng nhiên ý tưởng nảy ra trong lúc ông bay trên chiếc Dakota, một lần từ Hà Nội đi Hải Phòng. Rạng rỡ, đại tướng tuyên bố:

- Tôi sẽ làm những công sự lớn khắp xung quanh vùng châu thổ như đã có ở Hải Phòng. Không ai vượt qua được. Tôi sẽ đẩy lùi mọi kẻ tấn công; hơn nữa phía trong "hệ thống" ấy tôi làm chủ đối với quần chúng và lúa gạo. Các loại bệnh lây nhiễm sẽ tự chữa khỏi.

Xôn xao, cả một ít ngạc nhiên trong đám thân cận. Sao, chỉ thế thôi ư? Beaufré, theo cách của mình, chỉ kính cẩn trước mặt đại tướng. Mãi về sau này, khi việc ấy thất bại từ lâu, ông chuyển sang chế giễu "trò làm xiếc trên dây về một chiến tuyến Maginot ở Châu Á". Ông cũng nói: "Sai lầm cơ bản của de Lattre là luôn ở thế "dàn mặt trận", đi đến chỗ làm một hàng ngũ bằng xi-măng và ở phía sau." Nhưng trong lúc này, ông thực sự nói thế nào? Cogny kêu lên: "Nhưng thưa đại tướng, người ta không tiến hành một cuộc chiến tranh cổ điển. Tôi thấy những công trình ấy nối đuôi nhau ở đây không phù hợp".

Dù thế nào đám thân cận chỉ dám dè dặt, không khéo. Vua Jean thì đã cầm giấy, bút chì, trong mấy phút vẽ ra những chướng ngại vật rộng lớn: cả một hệ thống công sự, những công trình to, nhỏ, những điểm dừng. Hệ thống ấy thắt chặt hầu hết vùng châu thổ như trong một coóc-xê, đúng hơn là chiếc gi-lê chống đạn. Đôi khi dừng lại một giây ngắm tác phẩm của mình, ông bổ sung chỗ này dây đeo, chỗ kia vật nối tiếp. Vừa làm việc, ông quét sạch những chống đối:

- Các ông chẳng hiểu gì đâu. Đấy là chống những người Trung Hoa của Mao. Không có một con đê, không có lớp vỏ công sự này, tôi làm sao được với một làn sóng triều một hoặc hai triệu người?

Im lặng. Vua Jean giải đáp cho tất cả. Phải chăng ông "sáng tạo" những người Trung Hoa ấy để biện minh? Hay ông nghiêm chỉnh nghĩ có khả năng một sự can thiệp của "người nhà trời"? Hoặc có vấn đề khác, có tính toán khác? Mọi người im lặng. Chẳng ai hiểu.

Cũng có một ai nói:

- Thưa đại tướng, việc đó rất tốn tiền và cần nhiều người.

- Tiền, tôi bất kể. Còn người, sẽ bố trí những kẻ đần độn nhất.

- Nhưng thưa đại tướng, quân địch sẽ luồn vào những chỗ cách quãng.

- Sẽ để ở đấy những đội biệt kích canh chừng và lùng sục. Cần nhiều đấy, chỉ gọn nhẹ, một hai người Pháp với người da vàng. Gambiez đã kể với tôi về những tay lỗi lạc nhất là tay Van nào đó, một đứa trẻ của Hội Cứu tế xã hội, rất thích nhuốm máu. Và "tổng giám mục" hứa sẽ đào tạo cho tôi những đứa khác, những thiên sứ về cái chết. Chúng thích thú lắm.

- Thưa đại tướng, rừng rậm phía trước địa hình bố trí sẽ bỏ ngỏ. Quân Việt và có lẽ cả quân Trung Hoa lan tràn thoải mái chuẩn bị để tấn công những khối bê tông.

- Không đâu. Còn quân du kích Trung Hoa? Salan đã trải qua thời thanh niên trên biên giới, xác định có rất nhiều bạn, những chỉ huy cũ có phần giặc cướp và những dân tộc chẳng làm gì cả ngoài làm tình và thuốc phiện. Quân Việt làm phiền họ vì đạo đức của mình. Với những người ấy, chúng ta sẽ thả dù súng đạn, đài, tiền và những sĩ quan, hạ sĩ quan biết việc, học hút thuốc phiện và chỉ vẽ cách bắn súng máy. Như vậy chính quân Việt trong rừng có quân du kích trên lưng. De Lattre cảm thấy còn nhiều dè dặt, bùng lên:

- Các ông làm phiền tôi. Tôi đã bảo Bắc Kỳ là cái chốt của vũ trụ. Với hệ thống bê-tông, tôi kéo chốt, khóa lại. Nước Mỹ thất bại ở Triều Tiên, có lẽ "đuổi" McArthur, sẽ đứng trước một Trung Quốc rộng lớn, nguy hiểm, mạnh hơn bao giờ hết. Lúc ấy phòng tuyến của tôi sẽ là biên giới của nền văn minh và tôi là lưỡi gươm của thế giới tự do. Lầu Năm góc thay vì lòng tốt chiếu cố, phải giúp tôi, cứu tôi đến cùng như quán quân của họ hoặc đúng hơn là của Phương Tây đối mặt với Châu Á đỏ đe dọa nhấn chìm hết.

Tầm nhìn lớn lao. Với hệ thống bê tông như vậy không phải cuộc chiến tranh nhỏ mà là đường lối ngoại giao lớn. Vua Jean nhìn xa ra ngoài Đông Dương, là nhà nghiên cứu địa lý chính trị. Với những người chuyên nghiệp như ông, Châu Âu đã xong, đi vào bình lặng. Còn lại Châu Á, nơi ông đang có mặt. Cuộc chiến tranh Triều Tiên sẽ kết thúc chắc chắn bằng những lời lẽ và ký kết hơn là lửa đạn huỷ diệt. Và nếu McArthur bị cách chức, rất có thể thế, sẽ có một cuộc đình chiến! Cũng chỉ là một đợt tạm ngừng. Trong Châu Á khổng lồ không có gì được dứt điểm. Nhưng đại tướng de Lattre ở đấy, sẵn sàng làm tất cả, nổi lên những thù địch mới hoặc một quy chế hòa bình chung. Giải pháp nào đối với ông cũng thế cả, miễn ông là người hành động. Sông Rhin và sông Danube tốt rồi nhưng sông Hồng Hà và Dương Tử tốt hơn, hơn nữa ông không muốn làm ngọn sáo nhỏ nữa, là người Pháp buộc phải lớn lên vì nước Pháp không lớn hơn nữa như phải công nhận ở Berlin qua sự đầu hàng của Đức.

Ở Châu Á, ông vẫn giữ mối thù. Ông muốn tự mình lớn lên, sẽ đạt được qua chủ nghĩa quốc tế quen dần với cách thức của ông, với năm ngôi sao của ông. Bị nước Pháp khinh thường, bởi de Gaulle cũng như Vincent Auriol, ông nhũn nhặn để đi ra nước ngoài. Rất nhũn nhặn. Vì người ta nhớ ông đã cãi nhau với Montgomery. Và rồi Eisenhower và những người Mỹ đến với quân đội ở Jle-de France. Những người Mỹ tỉnh lẻ này, nghiêm chỉnh, thực tế gần với Washington hơn con quỷ linh thiêng McArthur. De Lattre đã đào tạo họ. Quan hệ với nước ngoài vậy là điều chủ chốt của ông. Và bây giờ là lúc phải sử dụng.

Như vậy trở lại với bê-tông. Dưới sự bảo vệ của hàng loạt công sự vì sao không làm được một Fontainebleau của mình tại Hà Nội, vận dụng cho người da vàng theo cách của Pháp? Dĩ nhiên ông phải dùng chiếc gậy hành hương, sẵn sàng đi khắp nơi, đến Giáo hoàng, nữ hoàng Anh, đến người buôn dây đeo Truman, bất cứ ai. Và qua cuộc chạy chọt ấy, ông thấy có một vương quốc của mình.

Đấy là lý tưởng, mục tiêu hoàn hảo. Nhưng vua Jean không ảo tưởng. Việc ấy phải mất nhiều năm, huỷ hoại sức lực ông. Và bao nhiêu lạ lẫm, vì tất cả đều có thể ở Châu Á khó thăm dò. Ngoài ra phải "khuấy động" cả những dân tộc và khó khăn nhất là mấy trăm, mấy nghìn người là những ông "vua" chính trị, tiền bạc, tôn giáo, những ông già ám ảnh vì ích kỷ, đóng cáu trong quyền lợi và điều khiển những sự việc trên thế giới. De Lattre có cả một danh mục biếu diễn nhưng không đủ. Làm sao tác động được họ mà không lo sợ mối nguy da vàng. Ưu thế của ông là một người già còn trẻ và có óc tưởng tượng. Ông sẽ phục vụ những con cua già ấy trên một chiếc khay bạc, những người "Con trời" ấy theo lối Mao Trạch Đông


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Chín, 2021, 06:53:29 pm

Im lặng trong rừng nhưng ở vùng châu thổ thì không. Người Trung Hoa, những người "nhà trời" đủ loại, ông sợ họ hơn bao giờ hết, vừa kín đáo hơn vừa ầm ĩ hơn. Nỗi lo sọ của ông là thật, vừa là giả, cả hai. De Lattre khép nó lại: trước những gì thuộc về rừng và những gì liên quan. Một lần nữa ông chứng minh đấy chỉ là một hành động đe dọa, không tránh được, phải bố trí đề phòng. Ngược lại trước Hà Nội và Hải Phòng, ông "mở ra" rõ rệt! Đấy là cuộc chơi lớn về xây dựng, lính lê dương chơi với những máy trộn hồ, xe ủi đất và sắt thép. De Lattre hoan hỉ. Ông đang làm "bức tường thành Trung Quốc" ở rìa đồng bằng chống những người Trung Hoa đông đúc và trang bị vũ khí có thể xuất hiện từ rừng núi, một hàng rào không tràn qua được. Tinh thần hăng hái đưa ông lên hùng biện. Ông già Sarraut bên cạnh ông còn có những lời hoa mỹ hơn như một tiếng vọng cao cả lỗi thời. Ông già vô cùng thán phục, đám thân cận ít hơn.

- Thưa đại tướng, ông có nghĩ mình đi hơi mạnh không? Cogny làm dịu bớt vị tướng, Beaufre hợp lực. Hai người nói hết sức dè dặt vì không dễ ngăn được de Lattre. Càng ngày trí tưởng tượng của ông càng sôi sục. Ông muốn phải hết vùng châu thổ có những công trình đồ sộ, vĩ đại. Đấy là giấc mơ về thành luỹ chống ngoại bang thời cổ xưa. Những công trình cách xa nhau không đủ. Từ nay phải có những hàng liên tiếp, hàng chính, hàng phụ, những chướng ngại vật kỳ lạ, một thế giới sắt và lửa trên nhiều cây số bề dày và những trăm cây số chiều dài.

Đối với mỗi lời cảnh báo, vua Jean gầm lên:

- Không tiết kiệm gì với chiến tuyến của Phương Tây chống Trung Quốc, mối nguy da vàng, làn sóng triều đỏ.

Và rất tinh quái, ông lại thổ lộ ý nghĩ sâu xa của mình:

- Tôi cần có phương tiện. Để có được phải nêu lên mối nguy người Trung Hoa. Sau đó tôi sẽ xử lý với quân Việt.

Không ai hiểu rõ ràng. Thế là hàng tỷ, hàng trăm tỷ cho sự giả dối, cho việc tăng cường, nhiều gấp bội so với chi cho chiến trường. Có vẻ như chơi bài pô-khơ. Paris kìm ông lại. Đây là cách làm Paris sợ, họ chuyển lại cho Washington.

De Lattre chơi trò tinh tế nhất. Với các cơ quan chính phủ ông quen biết, ông gửi những bức điện hoảng hốt về mối nguy hiểm Trung Hoa. Để làm họ run - dù sao cũng lay động họ một ít, làm họ hoạt động... Nhưng tại chỗ, ở Đông Dương là vấn đề khác. Đại tướng biết những tướng tá của mình vỗ trán về việc ông làm, tự nhủ: "Ông phát điên rồi chăng?” Thế là, như có việc cần không cưỡng lại được, ông kéo ai đó vào một góc để "thổ lộ". Đây là ý nghĩ sâu xa, sự thật ông nói ra hoặc làm ra vẻ nói ra:

- Đụng độ với Trung Quốc ư? Tôi mong không có. Tôi biết quá rõ nước Pháp ra sao, quân đội Pháp như thế nào để muốn có một "cuộc chiến tranh lớn", ít nhất là hiện nay.

Một hôm, trong một bữa tiệc lớn, một người tên là F... có một sự vụng về không tha thứ được. F... không phải một nhà báo của đại tướng, đi qua đó. Anh cảm thấy người ta sợ mình, đề quá cao tác dụng của mình. Anh khoe mình là chuyên gia giỏi nhất về những cái chết nổi tiếng, kể cả công việc vô liêm sỉ, đã đưa những người hấp hối lên báo như thế nào. “Tôi không bao giờ bỏ sót. Tôi biết ngay lúc người ta trút hơi thở cuối cùng để điện đi lập tức. Thuê tiền anh hầu phòng hoặc chính người vợ - chính bà trả lời ngay lúc trở thành người đàn bà góa. Như bà thống chế Foch..." Bà de Lattre không nén nổi tức giận nữa. Với giọng phán xét, bà kêu lên: "Còn tôi, tôi thấy điều đó rất tồi". Có lẽ bà có một dự cảm, thấy chồng bà hấp hối dưới mắt mình trong lúc xung quanh lúc nhúc đám phu huyệt trong bản tin. Điều ấy ghi đậm trong trí bà đến nỗi một năm sau de Lattre chết, bà tổ chức đám tang gần như bí mật và có những biện pháp giữ kín. Thực tế bà giấu đi trước khi đưa xác ông về Pháp để làm lễ quốc tang.

Nhưng hôm ấy ông rất khỏe. Thấy sự xúc động của bà vợ, ông hiểu. Vả lại ông không thích mình là người chết. Anh F... này đã vi phạm một sai lầm đáng tiếc và ông sẽ bắt anh ta trả giá.

F... không nhận biết gì. Anh từ Triều Tiên trở về, là phóng viên chiến tranh ở đấy và nêu lên quan điểm của mình:

- Đối với Châu Á chỉ có một giải pháp. Đấy là cú sốc tâm lý về dư luận, thật sự lớn. Muốn thế phải phản công toàn bộ, đổ bộ lên Trung Quốc. Còn lại thì, thưa đại tướng, chỉ là nước giải khát tồi.

De Lattre thẳng người, cứng rắn như luật pháp:

- Ông ơi, việc phát động một cuộc đụng độ chung ở Viễn Đông sẽ là một thảm họa. Tôi làm tất cả để tránh nó. Điều đó sẽ là công việc của ông. Có thể thông báo cái chết không phải của một người mà của hàng trăm nghìn người. Tôi nghĩ trước hết về Đội quân viễn chinh mà tôi chỉ huy, chịu trách nhiệm sẽ bị tiêu diệt trong một cuộc phiêu lưu như thế. Nhiệm vụ của tôi là tiết kiệm máu người Pháp, của các sĩ quan và binh lính của tôi.

Ở đây, de Lattre "nổi khùng" và chắc đã nói thật. Bình thường ông tỏ ra tối tăm hơn nhiều. Vì lên án cuộc chiến tranh ngăn ngừa chống Mao phải chăng làm giảm vị trí của ông? Nhưng tiến hành thì không thể, trước khi nắm được người Mỹ, trước khi tạo ra xung quanh mình một sự liên minh quốc tế rộng lớn. Đấy là mục đích của ông nhưng cần im tiếng. Từ nay tới khi đó là bê-tông, chỉ có bê-tông, nhân danh đề phòng chống quân đội đỏ của Lâm Bưu tràn sang. Tuy vậy người ta nhận thấy ông không ra lệnh cho các Phòng Ba chuẩn bị kế hoạch hành động chống cuộc xâm lược của người Trung Hoa, như ông không tin vào điều ấy. Thế thì sao?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Chín, 2021, 06:54:14 pm

Đối với những kẻ thích chiến tranh nói chung, tinh hoa của triều thần, bê-tông là sự vô lý. De Lattre cũng không rõ ràng về người Trung Hoa chắc chắn sẽ không đến. Và ông làm ra vẻ không bận rộn về người Việt đã đến và chắc chắn còn đến. Tại sao có những công sự chống một kẻ địch ghê gớm nhưng rất bóng ma - những "con trời" - và chống một kẻ địch bằng xương bằng thịt đang ở đấy khi người ta tuyên bố số lượng đáng kể là quân ông Giáp?

Về điểm này de Lattre vươn cao người, thở ra niềm tin bằng lời. Ông buông những câu loại:

- Hiện nay chúng ta còn bị di chứng của một số chỉ huy tồi. Tai họa không phải người Việt mà là Carpentier. Ông ấy yếu kém đến mức quân Việt trở thành quan trọng nghĩ mình là những người chiến thắng. Nhưng tôi không sợ. Tôi đã đánh bại họ ở Vĩnh Yên. Lần sau tôi sẽ đập tan họ hoàn toàn...

Những ngày khác là một de Lattre khác. Một de Lattre bị dày vò về các đội quân của mình, như người cha lo lắng cho các con, Bernard và tất cả "những chàng trai" của Đội quân viễn chinh. Thế là trong bột phát ghê gớm, thật hay giả, ông hét lên ngược lại đều ông tuyến bố hôm qua hoặc hôm kia.

- Tôi không muốn đưa các đội quân vào con đường tự sát. Sẽ là một cuộc tàn sát đối với các đội quân đồn trú trong những căn nhà tồi tàn, các lâu đài bằng giấy và cả đối với các đoàn quân đi cứu họ lúc đã quá muộn rơi vào phục kích. Toàn bộ hệ thống là cái chết. Người của chúng ta, tôi đặt dưới hai ba mét bê-tông. Những người trong đó giữ vững, những người bên ngoài, phía sau được bảo vệ, sẽ đi giải thoát cho họ, trông thấy rõ, vững vàng với ca-nông, xe tăng, một hoả lực vô cùng mạnh.

Tóm lại đối với de Lattre bê-tông là phương thuốc trị bách bệnh. Ông không biết rõ lắm sẽ dùng làm gì nhưng có thể tốt về mọi mặt. Căn bản là lối cổ điển làm yên lòng Phương Tây khi đối mặt với những cạm bẫy của Châu Á. Phía sau đó, ông cũng cảm thấy mình được bảo vệ. Ông có thể chờ đợi, hoạt động, "sẽ thấy quân địch đến", không bị đe dọa nữa. Việc này phù hợp với tất cả những thôi thúc của trí óc, những hành động của lòng mình, những gì chứa đựng mâu thuẫn của lo sợ, không ngoan, tham vọng và nghị lực của ông. Việc này bao gồm mọi giả thuyết, cho các thời đại, trước mắt, hiện tại xa hơn một ít, tương lai sáng sủa. Tệ hại nhất, trong những tuần lễ tới, là tấm khiên chống đỡ với Trung Quốc. Tốt nhất là trong những năm tới, một khi de Lattre đã khuất phục được nước Mỹ, đứng lên làm kẻ đầy lùi những người cộng sản, bê-tông sẽ là tấm áo giáp trên đất, từ đó người ta tiến hành "cuộc đổ bộ lớn" lên Trung Quốc đỏ, cuộc thập tự chinh lớn, tấn công ồ ạt. Trong lúc chờ đợi vẫn dùng chống quân Việt, cho những cuộc hành quân lớn "phòng vệ phản công". Đây là chiến trường theo hàng ngũ thay thế cuộc "chiến tranh bẩn thỉu" bằng cuộc "chiến tranh mát mẻ và vui vẻ". Không còn rừng núi bùn lầy, những khối người không còn phép biện chứng, những bí ẩn da vàng mà là "công trình đẹp" rất sạch. Nét đẹp của bê-tông, sự chắc khỏe của vũ trụ xi măng cốt sắt, cả một thế giới công trình và lô cốt. Dựa vào đấy để hoàn thành chiến thắng, phía sau công sự xuất hiện những đội cơ động, ít nhất hàng chục, như những bão tố sắt, xăng, xe và lửa.

Từ nay ở Đông Dương thực sự có hai quân đội Pháp: trụ cột thép là những đội cơ động và tất cả phần còn lại từ trước. Có hai cuộc chiến tranh Đông Dương khác nhau, xen kẽ nhau. Cuộc chiến tranh cũ, thừa kế của công cuộc bình định vẫn tồn tại. Đấy là sự bố trí trên bề mặt, tất cả nhiều nghìn đồn bốt cố gắng nắm giữ dân chúng và đất đai, ở những vùng châu thổ đông dân cũng như trong rừng núi vô tận. Một bộ máy chiếm đóng bao la, nặng nề cuốn hút hàng trăm nghìn người trong tình trạng nô lệ mà không bao giờ phá huỷ được mạng lưới người Việt ở bên cạnh luôn luôn được xây dựng lại. Và người Pháp không bao giờ giải quyết, tháo gỡ được gì. Họ bị nối liền với tất cả, thành phố, người, đường sá, thịnh vượng, văn minh, đồng bạc. Họ không nắm được quân Việt chỉ gắn liền với vật và người bằng phép biện chứng không huỷ diệt được cuộc chiến tranh du kích không nắm bắt được.

Thật hão huyền, vấn đề kéo dài thời gian, cuối cùng là thất bại. Nhưng de Lattre tìm cách buộc người Việt tìm đến. Rất đơn giản. Các sư đoàn ông Giáp ở trong rừng buộc phải ăn, mua thực phẩm, kiếm kinh phí, tuyển mộ. Vùng châu thổ cung cấp tất cả những cái đó, sẽ có sự đi lại liên tục giữa rừng và đồng bằng. Với tuyến "phòng thủ" khép kín, quân chính quy phải chọc thủng dãy bê-tông để vào thành phố, đồng ruộng kiếm gạo, tiền và người. Lúc ấy người ta sẽ dìm chết họ. Chỉ cần chờ họ đói và vào đây mua bán...

Lập lụận hoàn hảo nhưng không thuyết phục được những người cũ, nhất là số "thuộc địa". Thế nhưng Salan không nói gì. Một người nào đó khẽ hỏi đại tướng:

- Nếu quân Việt không đến?

- Thì họ chẳng có gì ăn, chẳng có dự trữ hậu cần. Để không chết vì đói khổ họ phải xuất hiện trước mặt tôi, người và vị trí của tôi, để tấn công, chọc thủng phòng tuyến. Để không tàn tạ họ sẽ bị tiêu diệt.

- Và nếu họ vượt qua từng nhóm nhỏ, thâm nhập được.

- Không thể thế.

Nói đúng ra không bao giờ người ta nắm được ý nghĩ của de Lattre. Đôi khi ông có nghệ thuật "thú nhận đột ngột", nhỏ giọng, thân mật như rất thật thà, hầu như xóa bỏ hết những gì ông trịnh trọng tuyên bố trước đó. Ông có tâm sự với tôi:

- Tôi không biết những công trình bê-tông có kết quả không. Nhưng cũng chẳng có gì khác có thể có kết quả. Vả lại hệ thống ấy cũng chẳng có gì tai hại: nếu không đưa lại chiến thắng, không là giải pháp quyết định thì nó cũng cho tôi thời gian thương lượng với những người Trung Hoa, Việt hoặc Mỹ, chưa biết được. Về ngưng chiến, hòa bình hoặc chiến tranh lớn tôi cũng chưa biết. Cuộc thảo luận sẽ lâu dài dù để bỏ vũ khí hoặc đưa lên ào ạt hơn trong đó có cả bom nguyên tử...


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Chín, 2021, 06:54:59 pm

Kiêu ngạo bởi bê-tông, về "phòng tuyến" và tất cả những vọng lâu công sự, đầy dây thép gai! Quân Việt không tấn công, chỉ "thăm dò". Và họ có thể thử sức vì mặc dù bao nghi thức của de Lattre, người xây dựng, mặc dù "cái chốt" này được trình bày ra thế giới, chỉ là một công việc thủ công, không vững chắc lắm, làm nhanh, lộn xộn. Thực vậy, những sáng kiến của hệ thống de Lattre được xây dựng do Gazin, đại tá kiến trúc sư, đội lê dương và những quân nhân trung thực hốt hoảng vì những đòi hỏi của vua Jean kết hợp với những "vật rác rưởi" của dân đồng bạc không được kiểm tra kỹ luôn luôn do đôi môi của đại tướng hét lên "nhanh hơn nữa" và đôi môi của các nhân vật cận thần như tiếng vọng "nhanh hơn nữa". Kết quả là phòng tuyến được nhận thức sai, làm kém mặc dù bỏ ra nhiều tỷ, bao nhiêu nỗ lực trong công việc, trong trưng bày và đề cao giá trị.

Thế nhưng quân Việt không đụng đến mặt nào trừ một số trường hợp rất hiếm hoi. Thời gian trôi đi và trong những khoang phòng vệ, quân lính đồn trú chết buồn. Mấy nghìn người bất động như bị chôn vùi không làm việc gì. Mỗi nhóm trong từng lô cốt, pháo đài điên lên vì buồn nhìn những mét vuông đất mà họ sẽ chỉ huy bắn chẳng thấy có gì. Đôi mắt căng thẳng luôn đăm đăm, vũ khí tập trung luôn không tác dụng, thường xuyên là cảnh buồn chán của thiên nhiên có vẻ trống rỗng.

Vì sao quân Việt phải hy sinh hàng nghìn có lẽ hàng chục nghìn người để phá huỷ những khối bê-tông không cản trở gì họ? Sự thật đáng buồn mà nhiều tháng người ta mới phát hiện ra, sự thật là quân chính quy len lỏi qua phòng tuyến hoặc đi vòng quanh hàng loạt.

Không làm gì được. Tất cả trôi chảy, đi qua, nước cũng như người. Những lô-cốt chứa đựng mọi con mắt rình mò, nòng súng lên đạn, những loạt bắn tự động, những lưới lửa tập trung, bắn chéo, bắn vỗ mặt không đủ. Dù có những hàng rào dây thép gai và bãi mìn xung quanh. Dù có những đội biệt kích ở các chỗ cách quãng, các đội cơ động; tuần tra phía sau. Mặc dù có tất cả những cái đó, quân địch vẫn "đi qua". Không nhiều nhưng luôn luôn có nhân công, cán bộ đi lại, những phái viên truyền tin, quân lính các loại, du kích chính quy. Tóm lại việc tiếp xúc trong và ngoài giữa quân đội ông Giáp và nhân dân vùng châu thổ vẫn đảm bảo.

Quân Pháp phải qua thời gian dài mới nhận thấy, vì hầu như luôn luôn là trống không; vậy mà trong trống không ấy là sự đi lại của những bóng ma vẫn sống với những vật mang trên người và mệnh lệnh. Lúc đầu là vô hình, tránh sự đụng độ tiếp xúc, tránh mọi nghi ngờ. Công việc tiến hành ban đêm, dĩ nhiên vừa bò vừa tiến lên, một số người không có hình dáng, không tiếng động giữa toàn hệ thống làm ra để ngăn cấm, giết người với bao xi-măng, ca-nông, với bao người cảnh giới, người trong bẫy người ngoài thiên nhiên, tìm kiếm, phục kích. Đôi khi cũng có một sự cố, một cuộc đánh nhau rất nhỏ đuổi bắt những bóng đen. Cũng có lúc một lô-cốt bắn tình cờ hoặc xác định qua một tin báo đặc biệt. Hôm sau người ta tìm được hai, ba xác chết. Như vậy đủ để khẳng định trong thông báo rằng quân Việt cố "luồn qua" không được, thất bại và đổ máu nhiều. Đấy là nói dối, có thỏa thuận hoặc không. Cũng không chắc de Lattre biết được, thậm chí người ta không báo cáo.

Và rồi có "lỗ hổng", điều tai hại là bao giờ cũng có chỗ trong phòng tuyến. Ở Bắc Kỳ là sườn bên kia châu thổ, vùng nước sâu không đổ được bê-tông và làm công sự. Đấy là phía đối diện, về phía nam dọc sông Đáy và trong địa phận giáo hội, nơi thường xuyên ngập lụt, đầy sóng và đông dân cư. May mắn là rất xa, đối diện với Trung Kỳ đỏ chứ không phải rừng, biên giới Trung Quốc và "tứ giác” Hồ Chí Minh. Vua Jean biết rõ sự đe dọa của những xâm nhập, quân đội bán chính quy từ Vinh và Thanh Hóa. Nhưng ông không tưởng tượng các sư đoàn tấn công của ông Giáp có thể qua một cuộc đi bí mật mấy trăm cây số quanh vùng châu thổ đến tấn công ở đấy mà không bị phát hiện. Thế mà điều ấy xảy ra mấy tháng trước mùa hè một cách rất bi thảm cho de Lattre không chỉ với tư cách chỉ huy mà còn là người cha.

De Lattre đã có những biện pháp đề phòng đối với góc nguy hiểm. Ở đây không đổ bê-tông được, ông tăng cường thêm người. Và do "ngốn" quân số và dự trữ vào bê-tông và những đội cơ động, không còn người, ông gấp đôi hoá Đội quân viễn chinh: tay áo trắng của ông có một ve màu vàng. Đấy là "vàng hóa", một sáng tạo mới, mỗi đơn vị xung kích "Pháp", mỗi tiểu đoàn cổ điển đẻ ra một hậu duệ Châu Á, sẽ chuyên về chống du kích và chống mục rữa.

Như vậy, trong chiều sâu khó thăm dò của sự vật đã hình thành bi kịch. Bi kịch Bernard sẽ chết trong đó, tuy đã sáng suốt cảnh báo cha mình. Vua Jean rất nghi ngờ những ý kiến của những "người cũ", những người lải nhải cản trở việc xây dựng, nhưng ông tin vào cậu bé của mình. Trong tháng hai de Lattre bảo con: "Anh cũng thế, anh nghĩ có nguy hiểm, mục ruỗng. Anh cũng nói bê-tông của tôi là vỏ con tôm hùm bên trong là thịt thối. Anh khẳng định phải sử dụng quân lính da vàng, muốn vàng hóa? Thế thì nêu gương đi: rời bỏ xe tăng đi, hãy tuyển chọn tân binh nông dân, hướng dẫn tổ chức lại và ra chiến đấu cùng với họ". Thay vì cuộc chiến cao cả với những xe bọc thép, Bernard đã ra chiến đấu khiêm tốn hơn với bùn lầy, với dân chúng, với người Châu Á.

Đấy không phải "kế hoạch lớn", về Quân đội quốc gia Việt Nam một ngày nào đó sẽ thay thế Đội quân viễn chinh, là một công việc đồ sộ, trong nhiều tháng nhiều năm. Trong lúc này de Lattre không vội cho ra đời, không muốn một "quân đội nhân dân" hình thành từ quần chúng. Phải có một quân đội quý phái với con các quan lại và tư sản lớn là sĩ quan. Phải là tinh hoa của tuổi trẻ, trang bị quân phục, được giáo dục về những truyền thống cổ nhất, cao cả nhất của quân đội Pháp. Tổng chỉ huy phải là nhà vua và rõ là chưa làm được việc gì lớn khi mà Bảo Đại "chưa đồng tình" với vua Jean.

Việc "vàng hoá” khác hẳn, chỉ là một sự sửa chữa nhất thời nhân Đội viễn chinh lên bằng cách lai tạp. Rất logic, nhưng là logic của định mệnh. Tất cả chồng chéo vào nhau. Thế nhưng tai họa bắt đầu nảy mầm, đến từ những sâu kín của bản thân đại tướng, những mâu thuẫn của thiên tài.

Ông không nắm được bản chất của vấn đề. Trong những cuộc chiến tranh một quân đội chống lại một nước, một dân tộc, không có khuôn mẫu, luật lệ. Mỗi lần mỗi khác, phải tìm lấy. Thường những chỉ huy lớn kết thúc sai. Và trong trường hợp vùng châu thổ phải hình dung bao nhiêu điều để phù hợp với Đội quân viễn chinh! Phải qua một phương pháp hoàn toàn mới, theo cách "nhân dân". Và lối quân sự phong kiến như chính de Lattre thì không thể.

Viên đại tướng vẫn giữ căn bản lối xây dựng phòng tuyến và những cuộc "hành quân lớn" của cuộc chiến tranh thực sự. Ông không biết bê-tông sẽ phản lại ông và cả Đội viễn chinh. Phải nhiều tháng sau ông mới nhận thấy. Sau khi ông chết, người ta vẫn giữ lại lâu, như cách thờ vật chủ, vừa biết rõ sự vô ích cho những trả giá của người sử dụng sai và phục vụ nặng nhọc. Sau nhiều năm, những tháng trước Điện Biên Phủ, cuối cùng người ta bỏ đi từng phần, phá vỡ nhiều trục lô-cốt vô ích để quân Việt không bố trí ở đấy. Vì đối với họ sẽ quý giá. Kết quả của bê-tông là như vậy - một trong những ý tưởng lớn của vua Jean để thoát khỏi Châu Á.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Chín, 2021, 06:56:04 pm

Vào tháng giêng, trong ba tuần lễ de Lattre xây dựng cuộc chiến của mình. Ông có bê-tông, các "tướng tá" và con trai. Chỉ còn việc chinh phục thế giới.

Chỉ mấy ngày, mấy giờ nữa, ông sẽ bắt đầu cuộc hành hương tuyệt vời sang Paris, đi khắp nơi. Trong những chuyến đi ấy ông sẽ xuất hiện trong vai trò mới. Vai trò người chiến thắng, kẻ bịp bợm, kẻ xin xỏ. Với ông, điều bần tiện - đi xin - trở thành đẹp đẽ. Ông khao khát nóng lòng làm một du khách mang vòng nguyệt quế. Điều đó cần thiết để "hâm nóng" lại chiến thắng Vĩnh Yên một tháng nay đã nguội lạnh đi. Nhờ tài năng ông sẽ lấy lại thời gian mất đi, trên những sân khấu lớn thế giới.

Vả lại thời gian thực tế có mất đi không? Ông Giáp không đến để hứng chịu những đòn xe thiết giáp của Beaufre. Nhưng ít nhất không có một chiến thắng quân sự thì de Lattre đã lợi dụng thời kỳ tạm nghỉ dài trên chiến trường để tô vẽ danh tiếng của mình, của Đội viễn chinh. Ông không chỉ rao bán Vĩnh Yên mà còn những công sự, những đội cơ động, những tướng tá giết người, sự vàng hóa cả đội quân Việt Nam và Bảo Đại tuy những việc này chưa hoàn toàn làm được. Ông sẽ có thể nói: "Đấy là điều tôi đã suy nghĩ, đã làm: một công việc vĩ đại trong ba tuần lễ". Và đổi lại, ông dự tính thu được mớ hàng hóa xấu phụ thêm.

Vả lại ngay trước khi vua Jean ra đi những công việc ấy đã bắt đầu được "trả công". Khí cụ đưa tới, cái quý nhất, từ trên không khạc lửa vào những quân chính quy mà Đội quân viễn chinh cố nắm bắt cũng không được trong núi rừng và trên đồng ruộng. Từ nước Mỹ đã bắt đầu "hiểu ra", de Lattre nhận được món quà đẹp, mong muốn nhất. Một đội máy bay hàng trăm chiếc tiêm kích và vài chục chiếc B26: - những máy bay ném bom hạng nhẹ đã dùng hàng loạt ở Triều Tiên. Người ta vui vẻ sơn lên đó những phù hiệu Pháp (cuộc chiến tranh Đông Dương cũng là việc thay thế biểu tượng, cờ tam tài phủ lên ngôi sao Mỹ ít nhiều đã dùng rồi). Khi việc nhỏ ấy hoàn thành những máy bay đã hoàn toàn Pháp hóa, vua Jean nói với "người lái" của mình: "Anh hãy đi thực hiện cuộc ném bom thực sự đầu tiên trong cuộc chiến tranh Đông Dương". Đó là tướng Harteman, chỉ huy lực lượng không quân. Harteman đã hơi lỗi thời, hơi tàn tạ nhưng biết rõ công việc và nói năng ghê gớm về vai trò của mình. De Lattre có sự thích thú đối với những lầm lạc của ông ta mà ông không thể hiện với ai khác. Ông không thích người của ông "hôn hít". Nhưng với Harteman ông tỏ ra thông cảm. Tuy vậy ông theo dõi chặt chẽ, nhất là khi có một bà thời thượng đi qua Hà Nội hoặc Hải Phòng.

Vậy là một hôm Harteman cất cánh trong một chiếc B26, có ba chiếc theo sau. Ngày lịch sử của lần dội bom đầu tiên khá nặng trên không. Thực ra các phi hành đoàn không biết tình hình nghiêm trọng của hoàn cảnh, chơi đùa như điên với đồ chơi mới của mình những tuần lễ tiếp đó. Ngày N mọi việc diễn biến tốt đẹp. Harteman với bộ quần áo bay tỏ ra nghiêm túc trong vai trò chỉ huy trận đánh. Không phải đi xa, cách Hà Nội khoảng ba chục cây số, đội hình hàng ngang, cao một nghìn mét, thả những quả bom năm trăm li-vơ xuống một làng chiến đấu ẩn dưới cây xanh và những hàng rào bao quanh. Bên dưới là khói, lửa, những hình ảnh của chiến tranh người ta thường thấy khắp nơi. Lần này Châu Á trong cảnh mịt mùng và bí mật có bị đập tan không?

Những chỉ điểm đến nhận thưởng kể lại, dưới những làn bom đạn dội lên người từ trên không lúc đầu quân Việt chưa hiểu gì. Trong vùng của mình họ nghĩ luôn luôn an toàn không trốn tránh, bị chết nhiều. Ở Thái Nguyên phi công thấy những đội quân đang diễu binh trên đường, họ tấn công và tiêu diệt. Việc ấy chưa bao giờ xảy ra. Vua Jean hài lòng. Ông đề nghị với tôi: "Anh hãy cùng đi với một chiếc B26".

Vậy tôi là nhà báo đầu tiên đi "ném bom" ở Đông Dương, tham gia vào một cuộc dội bom. Và những quả bom ấy rơi xuống Đô Lương, trong tỉnh quê hương Hồ Chí Minh. Chắc hẳn là một biểu tượng của de Lattre.

Chuyến đi cũng như hàng nghìn chuyến đi khác trở thành thô thiển do nhiều lần lặp đi lặp lại. Thế nhưng chuyến đi ấy đối với tôi khác thường vì lúc ấy tôi tự nhủ:

"Cuối cùng mình thực sự đi xem tiêu diệt quân Việt không? Cuối cùng mình cũng đi xem Châu Á có bị đánh bại không?" Cho đến lúc đó tôi đã thấy nhiều xác chết da vàng, không phân biệt rõ, một nửa dìm trong bùn, nước suối hoặc cây cối trong rừng. Nhưng chưa bao giờ tôi biết có phải xác quân chính quy không và đã xảy ra như thế nào.

Thâm tâm tôi cảm thấy vô ích, chỉ cho Đội quân viễn chinh cảm giác bất lực vì còn biết bao nhiêu người sống mới, những Việt Minh mới, kẻ thù mới.

Khi lên máy bay có lẽ tôi đã biết mình ảo tưởng. Trong Đông Dương của de Lattre đây là thời gian tràn đầy hy vọng, tin tưởng. Người ta tưởng trong Đội viễn chinh chỉ còn lòng tin chắc. Dù sao cũng có một nét đẹp nào đó, sự say sưa của một quân đội. Không ai nghĩ người da vàng có thể mạnh hơn.

Đấy là điều tôi cũng tự nhủ khi ở sân bay. Làm sao quân du kích và cả quân chính quy vũ khí hạng nhẹ, làm sao nhân dân thiếu vũ khí, làm sao đất nước không ca-nông, không có súng phòng không có thể kháng cự được những đồ chơi đẹp của cái chết ấy? Những băng 12,7 ly đã lên nòng, một loại thép già dặn sẵn sàng được đại liên tiêu thụ với nhịp điệu năm nghìn viên đạn mỗi phút. Những quả bom mắc ở khoang dưới máy bay như những ổ kén lớn. Phi hành đoàn ở chiếc B26 tôi đi không triết lý. Họ đùa vui như trước một môn thể thao lịch sự. Đây là công việc "tay mang găng trắng" mà người ta không vấy bẩn: những gì bẩn là ở bên dưới, bùn lầy, đồng ruộng, dân quê, thế giới nặng nề của quần chúng, của du kích, cuộc chiến tranh theo lối Việt, tất cả những gì lẫn lộn là mục tiêu. Phi công là trung uý Beaumont, hoa tiêu là đại uý Souleau. Cả hai rất trẻ, thoải mái trước sự phức tạp của những dụng cụ trên bảng điều khiển, đều là "con trai nhà giàu", phát hiện ra những kỳ quan trong cuộc chơi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Chín, 2021, 06:57:06 pm

Trên không, cánh bốn chiếc B26 theo đội hình gần chạm vào nhau. Chúng lướt đi trong không gian với sự dễ dàng đáng sợ, trong cảnh mưa phùn bao phủ một màu xám, hoà lẫn trời, đất và biển rất gần. Người ta đi đến thành phố lớn của Việt Minh, Vinh, sở chỉ huy chính trị và quân sự của Trung Kỳ đỏ, trung tâm đào tạo cỡ lớn quân chính quy, cán bộ chính trị và cung cấp vũ khí. Sau khi cất cánh, ở bên dưới, trong một hai phút như trong hoà bình thấy lúc nhúc người trên đồng ruộng và trong xóm làng: vẫn còn trên vùng châu thổ "thuộc Pháp". Bỗng nhiên ngay trên độ cao, trong một phần giây tôi có cảm giác đã vào chiến tranh. Trong chốc lát chúng tôi như vượt qua một biên giới, ngăn cách cuộc sống và sự trống không. Lần này ở bên dưới là vùng châu thổ "Việt Minh", một sự trống không kỳ lạ và xót xa. Tất cả cảnh trí của sự tồn tại là ở đây. Có đầy đủ các loại cây trồng, gặt hái, làng xóm. Những sự phá hoại đều đặn, những chiếc cầu sụp đổ, đường sá, cơ sở hạ tầng gần như nguyên vẹn của người, nhà ở, những cái cần thiết và công việc, không một bóng người, một con vật, thậm chí không một con lợn, một con gà. Tất cả đã biến mất.

Thế nhưng tất cả vẫn ở đấy, rất nhiều; một sự trống không giả tạo. Trên mặt đất mọi cái chỉ đánh lừa. Toàn bộ dân chúng đều chui vào đất, ẩn dưới hầm hào như hàng triệu con chuột. Dưới những mái tranh, trên từng bờ ao, bên trong mỗi hàng rào là những gia đình đầy đủ các lứa tuổi và giới tính. Kỷ luật đến mức không một trẻ em xuất hiện ban ngày. Cuộc chiến tranh của Việt Minh là như vậy: một cách nguỵ trang tuyệt vời. Tất cả vẫn đang đông đúc nhưng không trông thấy được. Tất cả vẫn làm việc nhưng bí mật. Chỉ ban đêm đàn ông đàn bà mới "ra ngoài", đi đây đó, ra đồng ruộng, là những bóng ma vất vả trong đêm. Và mùa màng vẫn tiến hành như tất cả đều bình thường.

Ai đó trong phi hành đoàn thì thầm với tôi:

- Ở đây dân quê ẩn nấp vì sợ những đội quân cơ động và những đội biệt kích Pháp rất gần. Nhưng lúc này họ còn nghĩ không có gì phải sợ, ông thấy rất đông người...

Người ta chơi trốn tìm với bờ biển, đi tách ra rồi tìm lại. Đây là Trung Kỳ, một quang cảnh chết. Vinh, một thành phố chết, một vỏ bọc. Khác biệt duy nhất với châu thổ Bắc Kỳ là cầu cống, đường sá còn nguyên vì ở đây giữa đất Việt Minh quá xa đối với những cuộc hành quân đường bộ của Đội quân viễn chinh. Điều đó không ngăn cản đó là vùng hoang vắng không người, cũng thật tuyệt đối. Thế nhưng đây là một "địa dư người", cả một bản khắc về Phương Đông đông dân cư với những mảnh ruộng, những lùm cây, những xóm làng sơ sài nhưng rất vững chắc với những bức tường tre và gạch lâu đời. Nhưng không một người, không có gì sống động, không một hơi thở như cả loài sinh vật biến mất.

- Loài thú vật! Phi hành đoàn lẩm bẩm. Bây giờ dân quê Trung Kỳ biết có chúng ta, chắc chắn đã được lệnh ẩn nấp. Huy động số đông người như thế chỉ trong một đêm, đêm trước đây; chỉ cần vài giờ là đủ. Chắc chắn đã được tổ chức với những anh hùng lao động, những cuộc thi sản xuất và những buổi tự phê bình. Hôm qua còn có thể xem xét tỉ mỉ, bắn vào bia đầy người và vật. Từ nay phải đánh từng đống không trông thấy.

Thực ra cũng tầm thường. Ba chiếc máy bay trước chúng tôi bay thành chữ V. Những tổ kén được thả ra. Có những tiếng nổ, những cột khói lên gần đến chúng tôi. Ngọn lửa ngốn cả một thị trấn đỏ rực lên. Phi công nói với tôi: "Có kết quả đấy. Những ông bạn thả trúng cái gì đấy như một kho xăng. Trước đây chỗ này ô tô đi qua, đi đêm..."

Một tiếng rít, tiếng kim khí từ những chiếc B26 làm xong công việc. Lệnh bổ nhào và bắn hàng loạt cả mười bốn khẩu đại liên vào một nhà kho nguỵ tranh chứa những xe "molotova" theo báo cáo của Phòng Nhì. Ở đâu không biết chính xác nhưng ở vùng Đô Lương, người ta cho một số tọa độ và máy bay đi phát hiện.

Không khí mỗi lúc càng âm u, đầy hơi nước, mưa phùn và những dấu hiệu trước đêm tối. Chiếc B26 nhào xuống chóng mặt, mỗi giờ hàng nghìn cây số và bốc lên ngay từ trên ngọn cây. Những chi tiết bày ra trước mắt như dùng kính phóng đại. Không có gì quan trọng. Quang cảnh tinh tế, đẹp và đơn điệu, không có dân quê và cũng không có dấu vết căn cứ quân sự. Thế nhưng người ta biết đầy rẫy đủ loại, nhất là những xưởng nhỏ mà những người thợ cũ được chủ "thực dân" đào tạo và được giáo dục lại về lý tưởng, sản xuất đủ loại vũ khí "nhân dân" từ những quả đạn súng cối, những ống móc-chi-ê và ba-dô-ka.

Chẳng có gì. Một con sông uốn lượn quanh thị trấn. Máy bay rà sát những mái nhà tranh và cây cối tìm kiếm nhà kho. Sau mười lăm phút, quang cảnh "công nghiệp", một con đập xi-măng cắt ngang dòng sông và mấy chiếc thuyền neo đậu bên bờ. Khoảng năm mươi mét cách bờ sông có một mái nhà tranh rộng và một nhà gạch mái ngói. Phi hành đoàn trao đổi ý kiến với nhau, quyết định đấy là mục tiêu.

Thế là bắt đầu cuộc thao diễn vui vẻ. Để bắt đầu, máy bay xuống dưới tầm nhà cửa và cây cối, sát mặt đất, để bắn tốt hơn, đúng trục, ào tới đúng ngôi nhà, lúc sắp bị tan tành vào đấy thì tôi nghe tiếng "bắn". Những viên đạn phóng trước chúng tôi, đập vào ngôi nhà sạt mất một phía. Những tia đạn dày đặc tưởng chừng như một khối, một quả đấm sắt đánh tới tấp. Phía sau những làn đạn đại liên ấy, toàn chiếc máy bay trông như một tia đạn lao vào phá vỡ và tự tan vỡ. Đến cuối giây chót, phi công với ngón tay thành thạo nâng cần lái lên một ít, một động tác kéo chính xác, chiếc B26 chồm lên qua một mét phía trên chỏm nhà, qua một mét trên một cây đa cổ thụ.

Cuộc chơi kéo dài nửa tiếng đồng hồ. Máy bay theo một con đường vòng số tám để thuận tiện trở lại mục tiêu. Mỗi lần đến gần lại rà sát đất, nhả đạn và phút cuối cùng vẫn động tác bay chập chờn, vẫn bước nhảy ấy. Ngôi nhà tranh bốc thành một đống lửa, nhà gạch đổ sụp xuống nát vụn. Và chẳng một ai chạy ra khỏi đống đổ nát. Không một hình dáng, một bóng người, một tiếng kêu, hình như cũng không có một xác người nào. Im lặng, sự tĩnh lặng của tiêu huỷ. Phi hành đoàn không một xúc động, tiếp tục cuộc nhào lộn giết người với phong cách cử chỉ tối thiểu và mạo hiểm tối đa. Người phi công chỉ nhầm lẫn một phần nghìn chốc lát và chiếc B26 sẽ nổ trên những vật người ta vừa phá huỷ, vào cây đa hoặc bất cứ gì trong xóm. Tại sao chuốc lấy cho mình bao nhiêu nguy hiểm như vậy vì những vật ấy? Chúng giá trị đến mức nào? Tôi có cảm tưởng người ta bị rơi vào bẫy trống không.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Chín, 2021, 06:57:38 pm

Thế là xong. Như để khen thưởng, thanh toán một số đạn thừa, người ta "tưới" một ít cho những chiếc thuyền vẫn đậu tại chỗ - không bóng ma nào. Rồi phi công lấy độ cao bay đi. Trong phi hành đoàn có một người nói: "Trong ngôi nhà gạch tôi thấy rõ hai chiếc xe đang cháy..." Những người khác câm lặng. Tôi không thấy có gì tương tự thế: Tôi nghĩ vì không có súng phòng không người ta để lại trống không cho máy bay. Cũng như đập nát vỏ nhưng không có gì bên trong. Chắc chắn quân Việt đoán chừng những căn nhà quá lộ, ngôi nhà tranh lớn và ngôi nhà gạch sẽ bị tấn công nên họ đã di chuyển trước. Những gì quý giá xếp vào đâu đó không xa, nhưng ở đâu? Không biết. Không bao giờ người ta biết được gì của cuộc chiến tranh Đông Dương này.

Dĩ nhiên trong thông báo sẽ nói về cuộc "tấn công" bằng máy bay này, nói về những kho dự trữ xăng dầu, những bãi xe, đoàn xà-lan, kho vũ khí, tất cả bị nhấn chìm, đập vỡ tan nát. Và vua Jean, giọng nói và đôi mắt thỏa mãn hỏi tôi: "Thế nào, tôi cho anh xem một cảnh đẹp đấy chứ?” Nhưng ông tin vào điều đó hoặc làm ra vẻ tin? Với ông cũng như với người Việt, trong ý nghĩ bí mật, "sự thật" ra sao, người ta cũng không bao giờ biết cái gì được đưa ra, cái gì giấu kín.

Cuộc đi ném bom đầu tiên của tôi! Đối với tôi sự say sưa về sức mạnh biến thành một quầng nghi ngờ, không tin tưởng. Chưa chắc chắn nhưng tôi nghĩ hình như những chiếc B26 cũng chẳng hơn gì xe tăng, ca-nông trong cuộc chiến với người Việt. Chúng cũng hòa loãng trong sự mênh mông quân địch, chẳng thấy gì. Và chúng cũng đánh hú họa, mù quáng, không trúng được bộ máy đỏ, cành nhánh người và vật khắp nơi, về nguyên tắc dễ bị tổn thương nhưng tuyệt đối không tổn thương được vì không nắm được, bị thất bại vì bí mật.

Đối với đại tướng, B26 chỉ là một bước đầu. Ông muốn những máy bay ném bom hạng nặng, có khả năng san bằng mọi cái bên dưới không cần biết là gì. Vua Jean khốn khổ! Một lần nữa ông nhìn quá xa. Trong lúc ông còn sống những máy bay ném bom hạng nặng không bao giờ đến. Không ai muốn cung cấp cho ông. Sau ông, những người kế nhiệm, Salan và những người khác đều không muốn với lý do quá khó vì tất cả đều thiếu, không chỉ máy bay mà phi hành đoàn, kỹ thuật viên, khả năng bảo dưỡng, hậu cần, tiền bạc, thậm chí đất đai bố trí.

Những người Mỹ, sau khi de Lattre chết không còn tin vào một tướng Pháp nào, đã quyết định tự mình đảm nhận cuộc thập tự chinh ở Việt Nam, đã thử mọi kỹ thuật công nghiệp, leo thang, đốt cháy mặt đất, theo nguyên tắc: huỷ diệt tất cả để huy diệt quân Việt. Vậy là bầu trời đầy tiếng vo vo của những con ruồi khổng lồ mang bom, luôn luôn lớn hơn, nhiều hơn, chất thải rơi xuống khắp nước, rừng núi, đồng ruộng, đô thị, không phân biệt người và vật. Từ đó việc giết người theo lối công nghiệp, bằng máy, thành dây, sản xuất hàng loạt. Khoa học kỹ thuật với máy bay ném bom ở độ cao có ra-đa, sóng siêu âm. Mặt khác tiêu diệt hàng loạt mà không trông thấy. Nhưng cũng nhìn vào cái không thấy bằng tia và giết tất cả các đám lúc nhúc bên dưới, những bóng ma dân quê, quân lính, hành quân, cả vũ trụ ngụy trang dưới rừng rậm và hầm hố tối tăm. Mùa mưa hoặc không, luôn luôn là đám mưa lửa, lưu huỳnh và sắt dội trên người trong rừng và trên bùn lầy. Đấy là sự phân phát cái chết. Nhưng nhất là sự tàn sát những người vô tội, không hoàn toàn vô tội vì trẻ con, đàn bà, người già, tàn tật đau yếu của Châu Á cũng là nhân dân, là nguyên cớ, cũng là cuộc chiến. Thế nhưng trong thảm họa rùng rợn ấy, những quân du kích, chính quy, cán bộ chính trị và tất cả những người trong bộ máy thoát khỏi. Và họ lại xuất hiện, tiến lên không ngừng. Họ ở đấy, mối đe dọa bực bội, nguy hiểm chết người, họ biết hết, trông thấy hết, họ giết hại những siêu nhân của điện tử, máy bay lên thẳng, những máy bay phản lực như mũi tên, của Hạm đội 7 đồ sộ và của đồng đô-la nữa. Như vậy cả Hoa Kỳ, với sự cứng rắn, sức mạnh, ý thức cũng không giải quyết được bãi chứa bùn hôi, rừng sốt rét, núi đá ẩm thấp, những đám đông người nghèo, đói khát bệnh tật là Việt Nam. Mao Trạch Đông có lý khi nói Mỹ là con hổ giấy vì ý chí của con người có thể làm được tất cả, đi trên nước và bay trên không.

Vua Jean khốn khổ, đã đụng đầu vào "bí mật" của Châu Á trước người Mỹ mười lăm năm. Vào tháng hai năm 1951 mặc dù tâm trí lo lắng, ông vẫn còn hy vọng, không chỉ sử dụng kỹ thuật công nghiệp chống lại con người - chủ yếu không có phương tiện. Ông lấy người chống người. Khí cụ dĩ nhiên ông sẽ sử dụng, sẽ đi xin. Trước hết ông muốn đánh nhau bằng tâm lý, muốn thắng. Và với những chiến công của mình ông cần có một đội ngũ "kể lại", vì thế ông sẽ tổ chức những nhà báo của mình thành một đám đông bất khả xâm phạm ở Hà Nội.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Chín, 2021, 07:00:53 pm

Đối với vòng quay chiến tranh của mình de Lattre cần những người làm chứng "tốt". Ông đã làm vui lòng các nhà báo thế giới. Nhưng ông muốn "cải tiến hơn" bằng một giao ước thích hợp. Ông đưa họ vào nhà kính ấm, như nửa giam giữ nhưng rất xảo trá với cách đối xử, nịnh bợ và vui cười làm họ không nhận thấy mình là tù nhân dưới bàn tay ông. Ở Hà Nội ông tổ chức một trại báo chí, không xa "Ngôi nhà Pháp" của ông.

Tuy vậy chỗ ở không xa hoa. Trong một khu bao, hai ngôi nhà gạch màu vàng nối với nhau bằng một khoảng sân trần. Bụi bặm, ẩm ướt và bẩn. Vòi nước rỉ hết, nước rất hiếm, quạt điện rít liên tục. Trên nền gián qua lại. Đàn muỗi bị thủng lỗ làm nặng nề thêm không khí nóng trên những thân hình đổ mồ hôi vào mùa hè. Về mùa đông người ta run rẩy.

Chủ nhân là Guinet, người Pháp duy nhất của Hà Nội trong những ngày mùa thu 1950 tính toán thời kỳ thật sự thất bại chưa tới. Với tiền mượn được ông ta mua lại (với một mẩu bánh, chính ông hãnh diện nói) hầu hết các nhà hàng, khách sạn và quán rượu ở Hà Nội trong đó có những ngôi nhà trên, gọi là Le Perroquet, một loại vũ trường - gái điếm.

Guinet tháo vát về mọi mặt. Sau những "tướng tá" lui tới, ông ta muốn làm hài lòng đại tướng. Ông có ý nghĩ thiên tài đề nghị dành những căn nhà tồi tàn của Le Perroquet làm trại báo chí nhằm đẩy những viên chức nhà binh ở đấy đi, loại uý tá mà de Lattre rất ghét.

Đại tướng hoan hỉ về việc này và Guinet tự hào, tỏ vẻ quan trọng, lo lắng, chuẩn bị mọi việc như một người nội trợ. Thực tế ông cho de Lattre thuê nhà rất đắt nhưng vị tướng không biết gì vì chẳng quan tâm đến vấn đề tiền bạc.

Có một bữa tiệc lớn khánh thành với vua Jean và bà de Lattre, Salan và bà vợ "Hươu cái", cùng toàn thể đám thân cận và báo chí, cũng có cả bố già Sarraut luôn luôn lon ton theo sau đại tướng.

Trong dịp này, Guinet thoải mái. Ông trịnh trọng cho đóng vào bên cổng vào một tấm biển nhỏ mang dòng chữ đặc biệt: "Trại báo chí". Trên tường ông dán khắp nơi những tấm ảnh lớn của đại tướng, chụp ở góc độ đẹp.

Tối hôm ấy de Lattre bỏ qua những chuyện đột xuất nhỏ. Chỉ riêng có mặt ông ở đây đã là một đường lối chính trị lớn. Ông không thèm để ý đến khẩu vị của Guinet không ngon và bữa tiệc lớn, bốn mười người đàn ông và hai bà, có dạng một bữa liên hoan tỉnh lẻ. De Lattre ngẩng đầu kiêu ngạo, quân phục chỉnh tề, thật đẹp đẽ dù chỉ ăn nhấm nháp và nói đầu lưỡi, là chuyện không bình thường. Thực tế đối diện với các phóng viên đủ lứa tuổi và của tất cả các nước quần áo sơ sài, một số ăn uống thô lỗ, một số nói năng lệch lạc, hầu hết với đầu óc những quí ông của thế giới, hình thành một toán người vô danh, nguy hiểm có lẽ còn kiêu căng và được đặt không đúng chỗ. Đại tướng mơ hồ lo ngại, tỏ ra thận trọng. Có lẽ ông cũng đau gan nữa. Salan vẫn luôn luôn thế, bẩm sinh không thoải mái, ngồi thẳng trên ghế đăm đăm nhìn cử tọa mà như nhìn vào chỗ trống. Hai bà, Monette và "Hươu cái", mặc đại lễ theo ý của chồng và bề trên, ngồi câm lặng theo bổn phận. Đám thân cận, tạo uy thế từ khuôn mặt và thân hình, có mặt đầy đủ: Cogny, Boussary, Allard, Dannaud, Goussault, Linares, de Royer v.v... Họ ở đấy, rất đẹp, lịch sự, vui cười, nói mấy câu xã giao, nhưng thâm tâm rất căng thẳng, rất chú ý, trả lời chung chung vốn là một nghệ thuật đối với những câu hỏi của những ông bạn bên máy chữ, những người không hiểu gì về sự tế nhị của tình hình và không hề lo lắng gì khác.

Bố Sarraut cứu vớt tất cả. Thực ra đã có một kịch bản mà người ta dành cho ông vai trò chính. Đại tướng báo trước với tôi:

- Tôi sẽ không diễn giải. Anh hãy nói vài lời mở đầu để ông toàn quyền cũ phát biểu. Mào đầu quá tốt. Vào giờ tráng miệng tôi đứng dậy, ấp úng với các nhà báo trước hết là những "nhân chứng" chuyên nghiệp. Thế là Sarraut nắm lấy từ ấy như một con quỷ nhảy xổ vào và, trong bài ứng khẩu hơn một tiếng đồng hồ tô vẽ vua Jean, đưa ông thăng hoa, lúc nhỏ giọng, thở dài, lúc to giọng như trống đồng. Làm sao một thân hình nhỏ bé như thế có thể tuôn ra những âm thanh vang dội đến vậy? Tóm lại ông là nhà tiên tri lúc nhỏ nhẹ khi ầm ầm thông báo chúng tôi sắp là những nhân chứng của một chiến công siêu việt, một thắng lợi chắc chắn nhờ vào chủ nghĩa anh hùng, sự lớn lao và công bằng hiện thân vào một con người, đại tướng de Lattre de Tassigny, người vĩ đại nhất trong những người Pháp.

Người ta vỗ tay nhưng nhạt nhẽo. Bản thân vua Jean cũng ngượng vì những vòng hoa héo ấy: không biết có phương hại gì đến ông ở Paris không khi được công bố là người "cha của thắng lợi", như vậy các phóng viên sẽ nghe nhưng không hiểu rõ lắm. Tất cả những cái ấy là trò quá cũ, thế giới cũ, nước Pháp cũ, trông buồn cười. Đại tướng vội rút lui, cả đám thân cận, nhưng để báo chí ở lại trong trại, canh phòng cẩn mật và cung cấp những gì cần thiết.

Về "vật chất" có thiếu tá Cabestan đảm nhiệm. Carpentier trước đấy cử ông làm trưởng ban Thông tin quân đội. De Lattre triệu tập lên hỏi: "Tại sao người ta giao cho anh trách nhiệm ấy? Anh làm sao giải thích được cho các nhà báo về tình hình quân sự và chính trị? Nhưng anh làm sao để có cảm tình và có vẻ nhanh nhẹn, những gì cần thiết để lo việc ăn uống và vệ sinh của các nhà báo. Anh không làm thông tin nữa mà là trưởng trại báo chí. Hãy phục vụ tốt các ông ấy, là vú nuôi, hầu phòng, người làm mọi việc. Họ phải bằng lòng và tôi sẽ hài lòng về anh. Còn lại, về tin tức không được có một lời. Khâu miệng lại nếu không anh coi chừng."

Thực tế Cabestan là "viên ngọc" của tập thể này. Con người vui vẻ, tròn trịa và tinh nhanh với chiếc bụng và đôi chân ngắn, thêm vào là triết lý tiếu lâm trại lính. Khắp nơi là thịt bò rán, những mánh khóe có ích, không khí vui vẻ và khỏe mạnh.

Người ta kết luận: "Cabestan không phải một kẻ ngốc". Ông ta có thu nhập, biết hết các món ăn, trước hết được ưu tiên "nếm". Phải thấy ông trong gian phòng với phần lớn thời gian ở đó, vừa là chỗ ở trong gia đình, trong trại lính, lớp học, phòng bar và nhà ăn, ở tầng một. Cabestan khôn ngoan hiếm khi mạo hiểm vào góc họp báo chí ở chỗ những máy chữ đánh lia lịa trước những bản đồ lớn từ sáng đến chiều. Nhưng ở đầu kia, nơi người ta ăn ở những chiếc bàn nhỏ. Các sĩ quan "trí tuệ" ngốn và nhai, với tư cách và lương tâm nghề nghiệp để khỏi trở ngại khi thì thầm bí mật riêng với nhau. Cabestan "ăn uống" với các nhà báo, như ông nói là khách hàng của mình.

Phòng bar trong trại báo chí là nơi tôn nghiêm. Bên trong người phục vụ là Minh và Bông, như những con khỉ nhanh nhẹn trong chuồng. Họ nhào lộn rất điềm tĩnh giữa rừng chai lọ, những cánh tay nhỏ bám vào cốc chén như chân khỉ! Nhanh nhẹn tuyệt vời tuyệt đối không lay chuyển giữa hợp âm giọng nói, thái độ, mọi giống cùng hét lên hách dịch: "Minh, Bông, đưa cô-nhắc sô-đa nữa". Cùng với mọi người họ đều trả lời "vâng, thưa ông chủ" và phục vụ tận tình. Luôn ở đấy cho đến nửa đêm, ẩn mình sau quầy, ló một hay hai đầu ngái ngủ ra khi có ai đó quát to đòi uống.

Đối diện với phòng bar, đổ sụp người trong những chiếc phô-tơi mây lớn đã hỏng, các nhà báo hình thành một đoàn buồn chán, mệt mỏi. Nghề phóng viên chiến tranh nói chung là những buổi chờ đợi không dứt trong gian phòng công cộng dùng cho tất cả này, sự uể oải thành hệ thống bị cắt ngang bằng những hoạt động ngắn và nhanh chóng. Họ ở đấy cả đoàn, nghiện rượu, buồn và bị bỏ rơi, ngăn cách với vũ trụ, với tất cả cho đến lúc phấn khích được một chàng trai bảnh bao trong quân phục ban Thông tin quân đội đưa ra một hai câu theo thổ ngữ tham mưu vừa thông thái rỏm, bí hiểm và khó hiểu. Lúc ấy lớp người ấy ào lên, sáng tác những câu chuyện lâm ly, về máu, cái chết, chiến thắng hoặc thất bại, những sự cân nhắc, chiến lược khoa học. Tất cả việc đó làm theo tốc độ những người đánh máy quán quân, những ngón tay gõ chóng mặt lên phím. Và tất cả việc đó được cảm nhận, làm ra, sáng tạo từ những đầu óc của họ, theo những cỗ máy chính từ chỗ không có gì, hầu như không có gì chẳng hạn từ một từ bình thường dùng thay cho một từ khác bình thường trong thông báo quân đội. Đấy là thuật đoán tướng số, kỹ thuật thuần túy. Mỗi tuần lễ người ta xúc tiến thêm, cải tiến, đến mức sĩ quan chân gỗ của ban An ninh quân đội lo ngại, đánh hơi thấy có sự do thám, thường đến la cà ở đây. May mà đấy là những người được đại tướng "bảo hộ". Và Cabestan trông chừng như một bà mẹ.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2021, 10:06:40 pm

Chương VI
ẢO VỌNG PARIS




Quân Việt có tấn công hay không từ nay không quan trọng. Boussary nghiên cứu mọi giả thiết. Đại tướng đã có những quyết định chiến lược. Linarès nhận các mệnh lệnh của ông. Tất cả đã dự kiến, không thể có sự bất ngờ. De Lattre không cần có mặt tại chỗ: dù đi vắng ông vẫn là người chiến thắng. Cuộc chiến sẽ xảy ra ở Pháp, trước Hội đồng quốc phòng. Đây là điểm quan trọng, trước hết phải thắng.

Sôi nổi chuẩn bị hành lý. Lựa chọn đồng phục, quần áo thường, huân chương. Mánh khóe trong đám thân cận để là những người trong số được đi. Cả một màn kịch nhỏ.

Mọi việc được thu xếp sẵn sàng, tô điểm kỹ. Đại tướng quyết định sẽ đi Pháp vào ngày 20 tháng hai, đi từ Sài Gòn bằng máy bay đặc biệt của hãng Air France. Nhưng ngay từ ngày 16 ông rời Bắc Kỳ của chủ nghĩa anh hùng, Đội viễn chinh và quân Việt để đi đâu đó trong Đông Dương. Đi Đà Lạt. Vội vã. Đến đấy để sau đó trình diện ở Paris hai tay không nhưng đầy chiến thắng; quân lính sung sức và còn có một chính phủ tốt ở Việt Nam. Không may chính phủ mà ông rất muốn vẫn chỉ nằm trong kế hoạch. Bảo Đại có thể cứu tình thế ấy. Thế là vua Jean đặt tối hậu thư cho mình. Ông dành ba ngày để lần này "có", thật nghiêm túc, chắc chắn, tay Bảo Đại thấy rõ ràng nhưng cũng không nắm bắt được như quân Việt. Và bắt ông ta làm điều ông muốn, xây dựng "văn phòng lớn của Việt Nam" về cuộc chiến tranh quốc gia.

Trước đó vị tướng nói với xung quanh sẽ chế ngự "dựng" nhà vua đứng lên một lần cuối cùng: "Tôi sẽ tự mình giải phẫu để mổ ung nhọt, sẽ nạo kỹ làm cậu bé ngỗ nghịch sạch sẽ hơn. Phải tấn công mạnh. Làm cho ông ta không còn lẩn tránh sau vẻ bình lặng tinh ranh, gian giảo bất chấp tất cả. Phải nói "đồng ý" hoặc "không". Sẽ có một cuộc mắng chửi là tác phẩm nghề nghiệp của tôi..."

Cả gia đình cùng đi, đại gia đình de Lattre, không chỉ đám thân cận, sĩ quan tùy tùng, các nhà báo mà cả Bernard đi phép, cả các bà, một số bà hiếm hoi được vị tướng thán phục, độ lượng và chịu đựng. Trong những bà này, trước hết có bà de Lattre và người bạn thân tình của bà, bà de Vendeuvre. Hai người không bao giờ xa nhau này tổ chức hàng nghìn mưu kế làm "điều tốt" cho vua Jean. Cũng có bà Dannaud, ghê gớm và đẹp hơn bao giờ hết. Bà ghen với đại tướng vì vua Jean và chồng bà cám dỗ lẫn nhau, chơi trò thông minh và làm hài lòng nhau.

Cuối cùng một người đàn bà Mỹ, P..., vợ một nhà báo Mỹ, "chuyên gia" về Châu Á. Bà gốc là người Israel uyên bác, con gái một nhà truyền giáo Mỹ -sinh ở Trung Quốc. Ông chồng rất hiền, lu mờ, luồn cúi. Bà P... như một tảng đá, chồng bà như cây sậy. Chính bà là người hướng dẫn, là ngọn đèn pha của báo chí Mỹ.

Những dự kiến của bà về Hoàng đế cũng tỏ ra chính xác, là sự thất bại sớm hơn mấy tuần lễ. Nhưng trong lúc này ở Đà Lạt giữa vua Jean và Hoàng đế có những ngày vàng, những ngày thân mật. Sự hòa giải. Có lẽ là ảo tưởng nhưng làm de Lattre rất sung sướng.

Tất cả bắt đầu rất tốt! Chiếc Dakota của tổng chỉ huy với đủ cả thế giới vừa đỗ xuống bìa rừng (dùng làm sân bay), ông tập kích vào nhà Bảo Đại. Nhưng không có gì "thô lỗ cục cằn". Lần này là sự gặp mặt của hai người hào hoa, sau nhiều cuộc đọ sức đi đến chỗ thẳng thắn, thân mật đùa cợt hơi chế nhạo mình và nhiều người khác. Tóm lại người ta hạ bài, de Lattre có thiện chí, Bảo Đại nhìn bề ngoài có thiện chí.

Vào việc là lời thành thật. Đại tướng tự thú:

- Tôi rất lúng túng. Tất cả không có kết quả. Ông hãy lôi tôi ra khỏi bãi lầy. Ông nên giúp bố Hữu tổ chức chính phủ tôi đang rất mong.

Dĩ nhiên Hoàng đế chuyển thái độ nhảy lên giận dữ sang bằng lòng thích thú:

- Tôi có cảm tưởng ông đang can dự vào những công việc nội bộ Việt Nam. Ông không có quyền làm thế.

Vua Jean cố nén thở dài:

- Tôi muốn chơi theo cách Châu Á, nhưng không thành công được. Bây giờ ông và tôi xử lý theo cách Châu Âu.

Bảo Đại để kéo tai. De Lattre tỏ vẻ xúc động: thuyết giáo, nói về đạo đức, năn nỉ:

- Ông có nhiệm vụ cầm cương. Phải nói rõ ý muốn của mình cho Hữu, Trí và đồng bọn đang tiếp tục tranh cãi nhau...

Bảo Đại trả lời với thái độ vui vẻ khó hiểu:

- Tôi hoan nghênh tình cảm của ông, thưa đại tướng. Tôi biết ông thiết tha muốn điều tốt cho nhân dân tôi.

Vua Jean thay vì tức giận, đưa ra lời hứa đẹp nhất:

- Tôi sẽ xây dựng cho ông một quân đội Việt Nam mạnh, đẹp, xứng đáng với ông...

Đây là ước mơ của nhà vua. Ông cảm thấy hơi cô độc trong vương quốc mình, luôn luôn giữ cân bằng giữa các phe phái chống đối, ghét nhau và ghét ông, luôn mua chuộc những kẻ đáng ngờ, tìm mưu kế diệt vô số đối thủ ra mặt hoặc che giấu, cản trở tất cả. Mối nguy hiểm đối với ông có khắp nơi. Nhưng nếu có thể dựa vào mấy trăm nghìn quân lính Việt Nam đẹp, được trang bị đầy đủ, huấn luyện tốt, nhất là thuộc hẳn về ông, ông sẽ là người mạnh nhất, người chủ. Như vậy chính phủ này ra sao cũng được, không cần thay đổi tình hình Việt Nam. Hữu cứ ở Nam Kỳ, Đại Việt ở Bắc Kỳ, ai cũng bất lực, và khao khát...


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2021, 10:07:31 pm

Từ nay, Hoàng đế rất mến de Lattre. "Người Pháp lớn lao" duy nhất có tầm nhìn rộng, làm cho Đông Dương quan trọng, có giá, một cá cược đáng công sức. Lợi ích của nhà vua là làm cho ông ta "làm việc", khuyến khích ông ta bằng thiện chí và tình bạn. Tai hại là Hoàng đế luôn phải "lừa" ông ta hơn bao giờ hết tuy từ nay bằng sự dịu dàng, coi trọng, xã giao và tâng bốc.

Vậy là nhà vua và đại tướng gắn nối với nhau và đối nghịch nhau. Bảo Đại biết, de Lattre chơi thẳng thắn hoặc gần như thế, cho một quân đội đổi lấy một chính phủ. Vì ông cần có một chính phủ trông được, để báo cáo với Paris. Và Bảo Đại buộc phải bịp ông. Ông ta muốn quân đội nhưng chính phủ thì không. Để có những trăm nghìn quân lính, phải giả vờ "cùng tiến hành", đồng ý với tất cả. Ông ta bèn "bán" một số bộ trưởng: "cho" vua Jean một số người ông này muốn, không cho biết ông đã bố trí để "tung họ đi" vào ngày N mà chỉ cần bấm nút lúc thích hợp.

Vậy là hai ông bạn mới, đồng bọn mới, người hăng say có một chính phủ và người giả vờ chấp nhận, cùng nhau bắt đầu cấu thành nó, nêu lên những họ tên, nói hết, cởi mở. Hãy hình dung một Bảo Đại cởi mở... de Lattre chú tâm vàp công việc, rất hài lòng, vui vẻ:

- Tôi muốn đưa Trí làm bộ trưởng Chiến tranh. Nhưng ông ta tuột khỏi tay. Không biết có mắc mớ gì.

Hoàng đế vui vẻ:

- Tôi sẽ thu xếp việc ấy, sẽ nói chuyện với ông ta. Đại Việt gây rắc rối nên ông ta gây rắc rối với ông. Nhưng tôi có thể dựa vào lòng trung thành của ông ta, cũng có một số cách ép buộc ông ta. Một người liêm khiết đấy. Đã mấy năm nay tôi tài trợ cho ông ta và nhóm Đại Việt.

- Tôi giao cho ông. Sẽ đưa ông ta đến với ông trong một chuyến bay của tôi.

- Tốt. Nhưng tôi muốn Giáo, thủ hiến Trung Kỳ sẽ là tổng tham mưu trưởng.

- Sao? Con người bỡn cợt không tin cậy được, kẻ buôn lậu, nguyên dược sĩ, ân cần hay giúp đỡ ấy...

- Thưa đại tướng, tất cả những cái cần của ông ta là vì tôi, đối với tôi. Ông ta có sự tận tụy của con chó, hiếm lắm. Là người Việt Nam duy nhất cho tay vào túi, đem đến cho tôi tiền khi tôi là một kẻ lưu vong ở Hồng Kông, một mình, nghèo, bị bỏ rơi. Việc đó vì tình thương yêu, không vì đạo đức. Tôi không tin những người đạo đức. Hơn nữa ông ta hay bỡn cợt và biết làm...

- Người điên vì vua mà. Tôi chẳng cần đến ông Giáo ấy. Ông muốn làm sao thì làm, tổng tham mưu trưởng cũng được.

- Ông ta không đáng giá lắm, đúng thế. Nhưng chắc chắn. Đấy là người duy nhất đảm bảo tôi có ở Việt Nam.

- Trường hợp ấy... Còn Hữu, ông nghĩ sao?

- Tôi rất muốn gặp ông ta. Nhưng tôi nghĩ chính ông tác động với ông ta.

- Tôi lo việc ấy.

Vua Jean rất vui thích. Vậy là chính phủ "của ông" đang được xây dựng, được hình thành với sự đồng loã hoàn toàn của Bảo Đại! Lần này ông thực sự có cảm giác đã lôi nhà vua vào việc, đã kéo ông ta đi theo ông. Thành quả ấy, bước đầu thành quả ấy ông muốn đưa về khai thác ở Paris, Paris chết, câm lặng và xa xôi luôn là nỗi ám ảnh của ông. Và là bản dạo đầu thú vị khi ông đến thủ đô nước Pháp trong mấy ngày sắp tới! Và thế là hàng loạt điện tín các loại, từ công khai đến riêng, từ tối mật đến không kín đáo gửi Phủ tổng thống, phủ thủ tướng, các bộ trưởng, hàng nghìn nhân vật bạn bè và kẻ thù, công và tư.

Dĩ nhiên, phải hoàn thành công việc. Biến những dự kiến trong cuộc nói chuyện với Hoàng đế thành sự thực. Tất cả phải làm xong trước ngày 20 tháng hai, để tiến hành cuộc "thập tự chinh" ở chính quốc. Vì đối với ông, tất cả là thập tự chinh, khắp nơi.

Từ nay đến lúc đó người ta đặt sở chỉ huy ngay ở Đà Lạt, trong tòa Công sứ Pháp, nhỏ hơn "Ngôi nhà Pháp" Hà Nội nhiều. Chỉ ở lại những ai thân cận nhất, được ưu đãi trong những người xung quanh. Và điều đó kéo theo nhiều bi kịch, một "cuộc chiến" trong nội bộ. Không chỉ đau đớn và hận thù của những "người bị loại". Những người được lựa chọn cùng căm ghét nhau. Sẽ là cuộc đấu tranh lớn giữa "các bà" chống lại bác sĩ Petcho-Bacquet. Việc đó có vẻ không ra gì, chỉ là một sự đụng độ nội bộ. Thế nhưng đấy là vấn đề cơ bản đối với de Lattre và do đó, đối với cuộc chiến tranh Đông Dương.

Đại tướng cao đạo trèo lên tầng hai của ngôi nhà chỉ ba căn hộ nhỏ và và một hai phòng. Như con chim tìm mồi, ông nhìn những chỗ ở và phân phối:

- Tôi ở căn hộ này, Monette căn bên cạnh còn Lilia căn kìa, xa hơn một ít. Còn con, Bernard, gian phòng hành lang.

Vậy là vua Jean ở một mình. Bà vợ, Monette tái mặt khi nghe nói thế. Bà sẽ ở gần nhưng bị tách riêng. Càng cay đắng khi bà chắc chắn bác sĩ sẽ ở đấy, ngồi đầu giường đại tướng lúc ngủ dậy và khi đi nằm, trao đổi mọi bí mật nhỏ nhất, mọi việc làm. Bác sĩ Petcho-Bacquet là kình địch của bà.

Lilia không làm Monette dịu đi trong việc chống người thầy thuốc. Bà chỉ rõ sự hy sinh của ông này, lo lắng không rời de Lattre một giây, tạo khoảng trống xung quanh, giành lấy của bà vợ. Hai bà quyết định phải hành động.

Lilia chăm sóc mọi người, cả Bernard. Chưa bao giờ anh này năng động, vui vẻ, tìm cách làm vừa lòng mọi người. Tuy vậy ở Đà Lạt, anh chơi vai trò đứa con được nuông chiều, ân cần, dễ dãi nhưng suy nghĩ nhiều. Anh biết giữa bố mẹ có sự rạn nứt giấu diếm, muốn đi chỗ khác, đến với bạn bè trong chiến tranh, những đồng đội, Cousteau và những người khác đang làm việc. Trong các làng vùng châu thổ, họ đang tuyển tân binh. Đấy là vị trí của anh, anh cảm thấy xấu hổ tuy đóng vai trò "hoàng tử nhỏ" cũng thật thú vị. Trong ba, bốn ngày nữa hết phép anh sẽ ra đi bằng mọi giá.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2021, 10:09:17 pm

Vua Jean bay cao hẳn trên những khúc mắc nhỏ ấy. Lúc đầu ông không nhận thấy vì đang tập trung vào đường lối chính trị lớn, theo đuôi ảo tưởng: chính phủ Việt Nam. Một cuộc chạy đua vượt chướng ngại vật, cuộc chạy đua với đồng hồ. Mọi việc kéo dài, một ngày nào đó có kết thúc được không? Đại tướng rất vội, còn quá ít thì giờ. Phải chờ đợi nhiều cuộc bàn bạc giữa những người da vàng. Không có gì làm họ nhanh hơn, hoạt động hơn được; không một sự can thiệp, cú đánh nào có tác dụng. Không thất bại nhưng sa lầy không giải thích được. Những đợt tạm nghỉ dùng đi du lịch, để qua ngày.

Đại tướng là một ngọn núi lửa sau "thỏa thuận thân mật" với Hoàng đế được các tác động mạnh với một bữa tiệc tôn vinh ngay tối hôm ấy. Chỉ còn hành động và mơ ước. Trí phải có mặt ngay, Giáo cũng thế. Đưa họ đến gặp nhà vua mấy tiếng nhận giáo huấn. Và rồi ngày hôm sau. ông đưa họ đến Sài Gòn, trong tay bố Hữu. Để họ thu xếp với nhau: Vua Jean biết từ nay đừng quá dính vào thì tốt hơn. Vả lại Bảo Đại phải có ý kiến với họ. Ông sẽ trở lại để xem đứa bé mới sinh là chính phủ đẹp theo cách của ông.

Vậy trong hai ngày diễn ra hành trình của các quận công. Bà de Lattre vinh dự của chuyến đi, Berard cũng thế. Cả đám thân cận nữa và các cố vấn chính trị Gauthier, Aurillac và Hiệp hội. Để cả đoàn đi thám hiểm, có xứ Cam-bốt với những kỳ quan nhiệt đới. Ông "vua con" Sihanouk giữ ý không làm phiền đoàn về đòi hỏi độc lập, tự do v.v... Người ta không đến để nghe những cái đó - ông cảm thấy điều ấy. Đóng góp lớn cho đại tướng, tôn vinh bà đại tướng và tình bạn với Bernard. Bao nhiêu tế nhị! Vua Jean mang đầy vòng hoa đùa vui, giống như Néron. Monette nghiêm khắc nhưng hớn hở trước món quà tặng là một bộ dụng cụ trang điểm, hàng kilô bạc. Bernard phát hiện ra trước đây học cùng trường quân sự ở Pháp với ông "vua con". Ông này cũng là "kỵ sĩ". Hai chàng trai nói chuyện về ngựa, nghệ thuật cưỡi ngựa, đua ngựa...

Và rồi nền nghệ thuật truyền thống thật phong phú! Chùa Bạc, những tượng Phật đứng, nằm hoặc ngồi, những con voi trắng, âm nhạc thiêng liêng, các vũ nữ Ramayana. Ngược với lần trước cách đây hai tháng, de Lattre không ngủ gật vì rất hài lòng, hân hoan bởi thỏa mãn bình lặng hơi kiêu kỳ, với cách trịnh trọng của bà đại tướng và phong thái đơn giản, vui vẻ của Bernard. Gia đình de Lattre đi tham quan, có ngày đẹp nhất của mình trong khung cảnh kỳ diệu của sự cổ kính Châu Á này. Tất cả vui vẻ, hài hòa. Bà de Lattre âu yếm ngắm chồng, âu yêm thấy con mảnh mai, nóng nảy và mạnh mẽ, rất đẹp trong tuổi thanh xuân bước lên những bậc đá của chiếc thang khổng lồ của Angkor Vat. Trông anh đầy sức sống! Đấy là một trong những hình ảnh cuối cùng bà thấy về anh. Con trai bà nhanh nhẹn đi trên con đường đồ sộ như đi lên chốn yên nghỉ của các thánh thần. Biểu tượng mà bà chưa hiểu được.

Đại tướng cũng hoan hỉ, bao dung, thỏa mãn. Ông sung sướng về những việc đã làm, còn sung sướng hơn bởi những dự định. Vì tất cả đã đặt vào vị trí, trong đầu, sắp xếp thứ tự, chuẩn bị, ghi nhớ. Và Bảo Đại đã gần như đồng bọn, chính phủ Việt Nam ông đang xây dựng ở Sài Gòn, Paris mấy ngày nữa ông sẽ tới, Washington sau này. Không kể cuộc chiến nhỏ ông đang thực hiện có những cuộc chiến và hòa bình sau này khi ông sẽ là người hiệp sĩ của toàn Phương Tây ở Phương Đông. Không kể nhưng hy vọng khác bí mật hơn, xa xôi hơn vì sự lớn lao của nước Pháp: đại tướng hoặc thống chế de Lattre, người lãnh đạo người Pháp.

Tất cả đều tuyệt vời: thế nhưng ông không ngờ trong những ngày tới tất cả sẽ hư hỏng, vô hình nhưng không tránh được. Hư hỏng trong gia đình. Ông không chịu đựng được nữa, Monette quá thiện ý: bà phải ở xa ông, tại Pháp giống như lưu đày. Ông sẽ để một Bernard gần như nổi loạn, giận dữ, đi về Bắc Kỳ với tình bạn nồng nhiệt của các chiến binh và mấy tuần sau đó chết đơn độc. Vua Jean sẽ một mình chịu trách nhiệm về cái chết của đứa con bị giết trên những núi đá Ninh Bình và cảm thấy có tội hơn, ông càng bị giằng xé hơn. Vì vợ ông sẽ không bao giờ tha thứ... Càng nặng nề thêm trong trạng thái cao độ - sự lớn lao hoặc sự hy sinh cuối cùng, chẳng ai biết được - ông dùng xác con trai mình phục vụ đường lối chính trị của ông và của nước Pháp đối với ông là một. Chẳng bao lâu sẽ là sự hư hỏng của chính ông, ít nhất là của thân thể ông. Trong mấy ngày ông bị những tác động đầu tiên của căn bệnh. Sau đó nỗi đau đớn gặm nhấm nhưng ông khống chế bằng nghị lực. Ông đau như bị đày xuống địa ngục nhưng không để lộ ra vì có hôm ông tâm sự với Petcho-Bacquet: "Nếu người ta nghi ngờ tình trạng nghiêm trọng thì cả Đông Dương sẽ đổ nhào trong mấy giờ..." Sau này xung quanh một de Lattre bất tỉnh, trầm trọng, là cuộc chiến giữa Monette chống lại bác sĩ: "Đại tướng không việc gì, hầu như không việc gì; Ông không thể chết được. Bác sĩ là một tiên tri tai họa." Cứ như vậy bà dẫn ông đến nơi an nghỉ cuối cùng, đến yên bình thực sự.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2021, 10:09:51 pm

Sự hư hỏng về chính trị. Trước hết là ở Việt Nam: De Lattre không bao giờ có một chính phủ "đáng giá". Không có dân, không có những người ưu tú. Tiếng nói lớn của ông vang lên vô vọng về sự liên minh tinh thần và thể xác giữa sa mạc có vô số người. Ông chỉ có Hũu, chỉ có biên giới. Và khi ông đã mệt mỏi vì xứ Nam Kỳ lắm uẩn khúc, ông chỉ còn Bảo Đại. Đại tướng de Lattre de Tassigny trở thành đại tướng của nhà vua da vàng, người mà ông gọi là "kẻ trác táng" ông khinh ghét và muốn truất ngôi. Và ông phục vụ chính Bảo Đại ấy, đi đến mơ ước tạo thành một "người", một người "lớn lao", đối tượng cuộc chơi lớn của ông. Hoàng đế yêu mến vua Jean vừa đủ giữ ảo tưởng cho đến khi chết, bằng một số vật ít có giá trị và những ân huệ nhỏ mà ông đùa cợt khi nói đến. Ông ta cũng đã ra Hà Nội dự lễ duyệt binh ngày 14 tháng bảy - De Lattre đã bị bệnh nhưng còn vinh quang, đến tận chiến trường thê thảm Hoà Bình rồi de Lattre nằm trên giường chờ chết ở Paris. Hư hỏng đến tận cùng vì với nhà vua ấy, như là dạng sáng suốt cuối cùng, ông đã xây dựng một quân đội Việt Nam lớn, mạnh đẹp, đội quân hy vọng cuối cùng. Ông chết, đội quân tồn tại, thậm chí phát triển nhưng rồi tan rã vì Bảo Đại trở lại bản chất thực của mình, sự lớn lao trong hư vô, vì những chỉ huy Đội quân viễn chinh, những khuynh hướng quân sự nhỏ trở về với kiểu chiến tranh thuộc địa, yêu thích những người da vàng vì thuốc phiện và do thám.

Hư hỏng ở Paris. Trong mấy ngày ông muốn về nước ông đã không thể: thậm chí không có chính phủ - còn kém hơn ở Sài Gòn. Và như vậy những vòng nguyệt quế đầu tiên mà ông nghĩ "bán" đắt giá sẽ tàn úa. Sau đó khi tìm được một chính phủ thì là một mớ lộn xộn, yếu kém, nhu nhược, không chắc chắn. Dĩ nhiên vua Jean sẽ có những thắng lợi trong các hội đồng, các ban, trong ba hoa nhảm nhí, những bắt tay, những biên bản. Để có những thành công trong các văn phòng ấy ông đi từ giận dữ đến nịnh bợ. Không đưa lại kết quả gì hoặc gần như không. Và với sốt ít ỏi ông có được, người ta bảo: "Hãy thực sự chiến thắng, hãy tấn công..."

Hư hỏng ở Washington. Ông, đại tướng rất "điển hình" Pháp, đang bị ung thư chẳng biết còn sống bao lâu, buộc sẽ thành công trong cố gắng cuối cùng. Trên mọi kế hoạch ông đã bị dồn đến đường cùng. Lối thoát duy nhất là tung một đợt quảng cáo giữa người Mỹ. Phải tự mình làm, trở thành một ngôi sao trong mười lăm ngày. Bằng lối nói của mình tuy chẳng đẹp lắm, với "tiếng Anh của mình", loại tiếng Anh bếp núc. Nhưng với lối nói và loại tiếng Anh ấy ông sẽ là de Lattre thăng hoa nhất cho đến lúc trở thành một món hàng hóa tiêu thụ được ở Hoa Kỳ. Thắng lợi về ảnh hưởng trong quần chúng bao la USA, ông sẽ nắm được Nhà trắng, Bộ Ngoại giao, Lầu Năm góc, Nghị viện. Và sẽ có quân đội, đô-la, vũ khí cho quân đội. Việc này ông cũng thất bại. Cũng như ở Paris, người ta bảo: "Vì ông là một đại tướng lớn lao như thế, hãy phản công và đập nát quân Việt đi".

Hư hỏng trong chiến tranh. Tất cả sẽ bị huỷ bỏ, mọi hy vong lần lượt biến mất. Trước hết ông chọn Đông Dương để mặc cả ở Paris. Linarès không hiểu gì về điều ấy, trở về không có gì đáng kể. Nhưng cũng có hai ba điểm sáng, phỏng đoán trong bóng tối vì người ta không bao giờ biết quân Việt muốn làm gì. Hoạt động của họ thật khó hiểu. Dù sao cũng là "chiến thắng giả" dùng cho cuộc "đòi hỏi" lớn. Ở vùng sông Đáy không ai nghi ngờ gì, quân Việt từ hư không xuất hiện hàng loạt. Và sẽ là Bernard bị tử thương chết trên núi... Đối với de Lattre đấy là sự lên án, qua đứa con trai bị giết ông thấy số phận bi đát của Đội quân viễn chinh. Sau đó ông thổ lộ: "Bộ binh Việt hơn chúng ta mười lần. Vì sao họ không quét sạch hết, tôi chẳng biết..." Tiếng tù và rúc báo hiệu con vật sắp qụy.

Mọi hư hỏng thêm thắt vào. Chỉ có thế giới cứu được Đông Dương. Từ nay nhiệm vụ cấp bách, bi đát của ông là thức tỉnh thế giới. Tất cả nhằm vào mục đích ấy, kể cả Bernard đã chết. Cuộc chiến tiếp tục, ông mang theo thi hài của con về Paris để "tác động", gây cú sốc đối với nước Pháp. Tang lễ huy hoàng đối với chàng trai trước ông bố cứng rắn đã vô tình hy sinh anh, trước bà mẹ với đôi mắt ráo hoảnh. Hiến sinh, lễ nghi - vô ích. Nước Pháp thực sự không "động tĩnh" gì. Và bà mẹ trở về với ông bố, như vị thần hộ mệnh, như người bảo vệ, với ông bố bị giằng xé nội tâm bởi những ý nghĩ, suy tư của mình. Từ nay vua Jean phụ thuộc vào Monette vẫn luôn là trong trắng cứng rắn nghiêm túc, người đàn bà quàng khăn đen, còn trẻ trong bộ đồ tang, tiếp nhận thi thể bị bệnh gặm nhấm như đã nhận thi thể con trai bị bắn chết. Sau đó bà sẽ là người sống sót hợp lẽ, dù không có lý do đáng kể để sống.

Hư hỏng ghê gớm, bi kịch cuối cùng. Thế giới không đáp ứng lời kêu gọi. Monette làm vai trò của mình. Ảo tưởng khắp nơi vẫn còn nhưng vua Jean không còn nữa mà lâm vào tình trạng sợ hãi. Đội viễn chinh vẫn muốn lao vào quân địch, các chính quyền vẫn đe dọa: "Thực hiện đi. Cuộc phản công cuối cùng. Thắng lợi cuối cùng". Nhưng ông biết, ông e ngại ít nhất sự kết thúc sẽ là cái chết, của ông và của quân lính. Tuy vậy ông như điên cuồng tự thuyết phục cần thiết phải phản công, chắc chắn sẽ thắng lợi. Một nỗi căm giận buồn bã đưa hết những sức lực cuối cùng. Ông tin và làm cho người ta tin. Và xảy ra điều ông đã dự kiến: cảnh hấp hối, cuộc viếng thăm cuối cùng ở Hòa Bình, vĩnh biệt các đội quân, việc đưa ông về Pháp để phẫu thuật, cái chết trong bệnh viện nghèo nàn và xa lạ mà Monette đem cất giấu ông. Và những người của Đội quân viễn chinh biết tin ông mất trong rừng nơi bao nhiêu người ngã xuống, sẽ ngã xuống với cuộc giáp lá cà khốc liệt, nơi mọi việc tồi tệ tưởng chừng sẽ là sự hủy diệt chung. Những người ấy thay vì kết tội ông, chỉ khóc. Khóc ngay giữa cuộc chiến, khi tất cả là máu, chết, tấn công, bao vây, bất ngờ, ngột ngạt vì cây cối, bị đập nát vì quân Việt. Và chỉ còn nói: "Cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu lớn kết thúc rồi! Không còn hy vọng gì nữa." Thực ra chưa phải là sự thất bại hoàn toàn, chỉ mới là bước đầu của thời tàn lụi, sẽ kết thức ở Điện Biên Phủ. Nhưng với de Lattre, chiến thắng, mọi khả năng chiến thắng đã chết. Sau đó chỉ là sự điên rồ, lề thói hành động và suy nghĩ đã quen trong cuộc chiến tranh không tồn tại.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2021, 10:11:34 pm

Ngày 3 tháng ba, đại tướng de Lattre và bà de Lattre thết tiệc xã hội sang trọng Sài Gòn trong khu vườn lâu đài Norodom. Vua Jean đang thúc đẩy số phận về một "công việc" chủ yếu. Suốt bữa tiệc ông luôn đề cao Bảo Đại bên cạnh ông, mọi người đều trông thấy và biết. Không phải một ông vua bị bó buộc, biết thể hiện sự hờn dỗi, rất thờ ơ buồn chán làm người ta nghĩ là ngu độn. Trước đây đi đâu ở Sài Gòn ông ta cũng như vậy, một sự nhu nhược khó thăm dò. Lần này không cùng một người ấy nữa. Duyên dáng, vui, một người có lòng khoan dung đẹp đẽ, quyến rũ, tinh quái và thông minh. Ông vua đắm mình trong vui chơi và tính toán bỗng trở lại cuộc sống với đời. Như mới được sinh ra. Và như vậy vì ông ta yêu mến đại tướng de Lattre, vì "tin tưởng" ở đại tướng, là "người" của đại tướng. Ít nhất Sài Gòn nghĩ như vậy...

Vua Jean cũng tin chắc thế. Vì nếu Bảo Đại của ông ở đấy là để thông báo chính phủ ông hằng mong muốn, chính phủ "mạnh" của Việt Nam với Hữu, Trí, Giáo, những người tốt nhất. Sau nhiều tuần lễ không chắc chắn, cuối cùng ông đã có, sẵn sàng mang về trình bày ở Paris; trong niềm lạc quan mới, ông nghĩ rất gần đây, mấy giờ, quá lắm là mấy ngày nữa. Và khi trở lại, với Hoàng đế đã chinh phục được, với dụng cụ sẵn sàng này ông có thể có đường lối chính trị da vàng, quân đội da vàng, cuộc chiến da vàng.

Tất cả đổ vỡ ngay trong đêm ấy. Một Trí nóng nảy, suy sụp, tới nói: "Tôi từ chức". Tất cả những bộ trưởng Đại Việt từ chức. Thật tai họa. Không còn gì đứng vững, không ai biết vì sao. Hình như những người Việt Nam tranh cãi nhau... Và ông Trí này khóc lóc, rên rỉ như thói quen, không đưa ra một lý do, một giải thích nào. Bản thân Hoàng đế trước đây thanh thản, đến bảo: "Tôi đã thử mọi cách. Không làm gì được..." Tất cả những việc ấy gói trong một "bí mật" u tối. Một de Lattre đổ sụp không "hiểu", một Gauthier và một Aurillac bị mắng chửi, bị dồn đuổi, cũng không hiểu. Không một người Pháp nào hiểu, kể cả những người cũ trong công việc dân sự, tuy hiểu rõ những "chuyện phiền phức" cũng thế.

Lúc đầu, de Lattre rất giận dữ với Bảo Đại chơi trò sầu não! Vua Jean kêu lên: "Con vật ấy phá tôi". Đại tướng khốn khổ... Vì nhà vua không cần "mưu mô phá huỷ, chỉ thấy trước và chờ vụ nổ, từ lâu đã biết sẽ xảy ra như vậy. Và trong những điều kiện tốt nhất cho ông. Được rũ bỏ về lâu dài "mánh khóe", sự "quấy rầy" về chính phủ vua Jean rất mong muốn, mà không thực sự phản bội, ông chơi trò hai mặt với ông này. Cũng không hoàn toàn như vậy... Đúng là Bảo Đại đã làm đổ nhào tất cả nhưng ở trạng thái hợp pháp, là nhà vua bị một triều thần nổi dậy. Khía cạnh duy nhất là ông che giấu việc ấy, không nói với ai về sự việc diễn ra. Bằng cách ấy ông buộc phải "hành động" dù không muốn và để đi đến đúng mục đích của ông: trở lại đường lối hư không, trống rỗng, theo nguyên trạng ông ở Đà Lạt và Hữu, ít nguy hại, ở Sài Gòn. Như trước đây...

Phần Phương Đông rất tế nhị dưới bóng de Lattre vốn thực sự không nghi ngờ gì! Sau này Bảo Đại kể lại với tôi cách đánh của mình: ngón bài pô-khơ bậc thầy:

- Tôi để khối mưng mủ thật chín cho đến khi vỡ ra. Tôi được thông tin về tất cả qua các thám tử của tôi ở Sài Gòn và Hà Nội. Họ báo cáo hàng ngày với tôi có thể nhằm vào một cách tốt nhất. Chắc chắn Trí, con người gần như thanh liêm mà de Lattre thích vẻ ngoài, không thể chịu đựng được khi trông thấy Hữu dù buộc phải gặp. Tôi biết rõ ông ta. Dưới vẻ hiền lành, buồn rầu, ông ta có thể tàn bạo ghê gớm. Ít nhất khi phong thái quan lại nổi lên sự khinh ghét khác thường của người trí thức, hiểu biết rộng, chúa tể đối với những người cao sang bình thường. Đặt mình ngang bằng với một tư sản chạy theo đồng bạc, lòng tự kiêu không để ông ở lâu được. Mặc dù ông ta có nghệ thuật đạo đức giả, quyền lợi được tính toán, đã hứa với de Lattre và tôi. Vì tôi đã khuyên ông ta nên hòa giải... Nhưng tôi chắc chắn ông ta "không giữ" được.

Điều ấy xảy đến. Tôi vừa rời Sài Gòn sau bữa tiệc và nghi lễ trịnh trọng khai sinh chính phủ thì một bức điện tiếp theo ngay. Rất dài. Thông tín viên báo cáo điều tôi chờ đợi. Dữ dội hơn những gì tôi mong. Khốc liệt. Trí vừa nhận ra mình là bộ trưởng của Hữu thì hết sức xấu hổ. Tái mặt, đôi mắt rực lửa, ông ta vào văn phòng của Hữu, kéo ông này xuống đất, chửi rủa ghê tởm. Con người Nam Kỳ to lớn nhỏ giọng bảo: "Ông bình tĩnh lại, bình tĩnh lại..." Trí càng giận dữ hơn, như điên lên rồi ra đi đóng sập cửa.

Dĩ nhiên Trí đến Đà Lạt gặp tôi để thanh minh, đòi hỏi. Tôi bình tĩnh chờ, có trong tay các báo cáo, cả báo cáo của Hữu, tất cả phù hợp nhau. Trí tuyệt đối có mọi sai trái và tôi không thể bất công dù đứng về phía ông ta. Vả lại tôi chẳng muốn có ông...

Trí đột nhiên vào văn phòng tôi ở Đà Lạt. Nhợt nhạt. Tái xanh. Có khả năng làm mọi điều. Nguyễn Đệ, chánh văn phòng hoàng gia, một con người sắt nhỏ bé, làm việc ở phòng bên cạnh được cảnh báo sẵn sàng chạy sang và tôi gọi ông. Tôi nghi ngại. Trí thực sự "điên khùng”. Ông ta nóng nảy bước về phía tôi đang bình thản ngồi trong phô-tơi. Ông dừng lại cách tôi một mét. Tôi lạnh băng. Nhưng ông ta sỗ sàng nhìn thẳng vào tôi, một thái độ vô lễ, buông ra câu này:

- “Tôi không thể thỏa thuận với con người ấy được.”

- “Người nào?”

- “Hữu. Với hắn tôi không thể làm việc.”

Ông ta kể lại với tôi rất lâu, nói dối, lừa bịp, làm sai lạc hoàn toàn sự thật. Và đằng sau những lời nói dông dài ấy là một loại tối hậu thư. Ông ta muốn xin tôi cái đầu của Hữu. Trong chỗ trống như vậy muốn tôi cử ông ta đứng đầu chính phủ với mọi quyền hành. Theo lối độc tài mà bản thân tôi cũng bị thống trị.

Lúc ông ta diễn giải xong tôi chỉ nói mấy câu, giọng dửng dưng, chẳng hay ho gì:

“Ông Trí, từ giây phút này hãy xem như ông từ chức. Và không phải từ chức để gây rắc rối. Lần này, kết thúc thôi. Tôi không muốn có ông nữa, cả chức thủ hiến Bắc Kỳ. Ông đi đi.”

Trí giật nảy mình rồi như một cái máy, không một lời, không chào, quay gót bỏ đi. Ông ở lại hai ngay trong khách sạn Lang Bian, suy nghĩ, tưởng niệm, xoay quanh. Rồi ông quyết định...


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2021, 10:12:24 pm

Tôi chắc chắn ông ta sẽ trở lại. Đúng thế. Sau bốn mươi tám tiếng đồng hồ, ông xin tiếp kiến. Nhưng không vì hối hận, còn lâu. Với tư cách nổi dậy, ông lại gần tôi, rất cứng rắn, nói với tôi:

“Tôi đề nghị Hoàng đế rút lại quyết định của mình. Vì nếu ngài vẫn giữ ý kiến ấy tôi sẽ không chịu trách nhiệm về việc gì sẽ xảy ra.”

Tôi đỏ mặt, nhảy dậy kêu lên:

“Ông muốn nói nếu không làm thủ hiến Bắc Kỳ nữa, ông sẽ nổi dậy chống tôi ở ngoài đó ư? Ông cút đi! Sẽ không có một loại xáo trộn nào. Dù với Đại Việt ông cũng chẳng làm gì được.”

Tôi bèn triệu tập Tâm, bộ trưởng An ninh. Ông biết Tâm "con hổ Cai Lậy", tay cảnh sát của mọi cuộc đàn áp, rất thích thú khi ra lệnh tra tấn hoặc tự mình tra tấn. Chỉ trong mấy tuần lễ với những phương pháp đặc biệt, cùng mật thám và chỉ điểm của mình, ông đã thắng trong cuộc chiến ở Sài Gòn. Bao nhiêu xác chết và lời cảnh cáo... Ông Tâm ấy là người Nam Kỳ, đúng là "người của thực dân", kẻ thù kiểu mẫu của tất cả những người cách mạng, cả những người quốc gia các loại. Bản thân tôi cũng không thật êm đẹp với ông ta. Nhưng tôi cho gọi ông đến, nói ngay;

“Tôi chỉ định ông làm thủ hiến Bắc Kỳ.”

Ông Tâm thậm chí không chau mày. Chỉ một nụ cười lành hiền, ngây thơ, trả lời:

“Vâng, thưa ngài. Theo lệnh ngài, thưa Hoàng đế.”

Thế là xong. Người ta tưởng người Pháp áp đặt Tâm cho tôi! Ở Paris, Letourneau như trên mây rơi xuống, kêu lên: "Thật điên rồ!" Tướng de Lattre rất ngạc nhiên. Theo như ông biết về Châu Á, theo các chuyên gia nói với ông, không thể nào một người Nam Kỳ, một người "cộng tác", đàn áp, tra tấn có thể lãnh đạo xứ Bắc Kỳ bài ngoại và yêu nước, Bắc Kỳ của dân chúng đỏ và những tinh hoa quan lại. Vua Jean thậm chí hỏi tôi:

“Tại sao có một biện pháp như vậy?”

“Với ông ta, hậu phương Đội quân viễn chinh của ông sẽ chắc chắn. Ông biết sự tận tụy và khả năng của ông ta rồi đấy.”

Với điều ấy de Lattre hài lòng. Nó an ủi một phần về sự phá sản chính phủ của ông. Thậm chí chúng tôi trở thành "bầu bạn" hơn. Thực ra không phải vì để làm ông ta hài lòng mà tôi cử Tâm. Chỉ để trả thù. Tôi không bao giờ tha thứ sự lăng mạ.

Dùng "con hổ Cai Lậy" trước hết là sự thách thức đưa ra với Trí và nhóm Đại Việt đã dám đe dọa tôi. Trong việc lựa chọn này, tôi cho họ thấy đối với tôi họ chẳng là cái gì cả.

Thực tế mọi việc trôi chảy, đúng như tôi dự kiến. Trí đã chọn từng người lính một trong đội bảo vệ riêng, bắt thề trung thành với ông ta và Đại Việt, rất trịnh trọng trước bàn thờ tổ tiên. Khi bị thất sủng trở về Hà Nội, ông ta muốn duyệt lại đội quân, để "hâm nóng", kích thích họ chống lại uy quyền của tôi. Không một người nào bồng súng chào. Ngược lại tất cả khúm núm chào ông Tâm rất đúng nghi thức, đối với họ là người "lạ", ít nhất là một người "bán mình" cho nước ngoài. Nhưng tôi đã chỉ định ông ta, mà tôi là nhà vua. Như vậy cũng đủ.

Bảo Đại cười gằn thỏa mãn. Ông có niềm say mê trả thù, phá huỷ, niềm say mê duy nhất làm ông sống trên đời:

- Tôi cũng có một món nợ cũ cần thanh toán với Trí. Trước đây ông ta chơi con bài người Nhật đưa ông già Cường Để về lên ngai vàng thay thế tôi. Đấy là một kẻ hèn yếu họ dự trữ ở Tokyo đã năm mươi năm, giữ không cho làm gì, còn làm sa đọa ông bằng gái và thuốc phiện. Năm 1940 khi quân Nhật chiếm đóng Đông Dương, nhân viên Kempeitai "tổ chức" Đảng Đại Việt để quấy rối bố Decoux. Để quấy rối tôi nữa, cho nói với tôi: "Ông hãy phục tùng, nếu không sẽ là Cường Để..." Chính Trí đã nói với tôi như vậy, hoàn toàn trong đường dây với "mật thám" Nhật...

Tôi rất xúc động về cuộc đảo chính Pháp ngày 19 tháng ba năm 1945. Tôi đang đi săn, trở về Huế thấy lâu đài mình bị hàng nghìn lính Nhật bao vây, tất cả lùn và xấu, trang phục chiến tranh, trong tư thế chiến đấu, cứng rắn và vững chắc. Tất cả án ngữ các cửa thành trì tổ tiên tôi xây dựng theo kiểu thành Bắc Kinh cũ. Tôi sững sờ tự nhủ: "Những đội quân này làm gì ở đây? Mình đi đứt rồi". Nhưng một viên tướng, kiếm dọc theo chân, cúi người trước mặt tôi: "Ngài đừng lo. Trong một tiếng đồng hồ, mọi việc xong và ngài có thể về cung"... Tình hình xảy ra đúng thế. Sau tám ngày một đại sứ đến trình diện. Tôi nói trước khi ông ta mở miệng: "Các ông đã có một ứng cử viên. Chắc ông đến đòi ấn tín nhà vua chuyển cho Cường Để..." Ông kia cười: "Không đâu. Ông ấy là kẻ vô lại mạt hạng. Chúng tôi đã quyết định giữ ông lại mặc dù có ý kiến không đồng tình của một số người Việt Nam. - Trí ư?" Ông ta không trả lời nhưng tôi không bao giờ quên sự im lặng xác nhận ấy...

Quân Nhật chơi với tôi lá bài hoàn hảo. Họ có kỷ luật, tôn ti khác thường. Mỗi buổi tối quân lính cúi mình theo hướng Tokyo để tôn vinh Nhật Hoàng. Những đội quân ở Đông Dương trước khi kính cẩn cúi xuống như thế, quay về phía cung điện và tôi thể hiện một cử chỉ tôn trọng. Dù sao điều đó cũng đưa lại chút kiêu hãnh. Mặc dù thế tôi cũng bị phiền phức. Người Nhật sẽ thất bại, đó là điều chắc chắn. Được họ giữ lại có lẽ cũng chẳng tốt lành lắm. Nhưng trong lúc chờ đợi, còn cái đầu của tôi. Bổn phận đầu tiên là phải giữ nó đã. Tôi tự nhủ: "Nếu họ trừ khử mình như lời Trí khuyên!" Ông bạn tốt Trí.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2021, 10:13:01 pm

Và rồi biết bao sự kiện... Trước hết là Hiroshima. Và tôi, con Trời, trở thành công dân Vĩnh Thụy, "cố vấn tối cao" của Hồ Chí Minh! Buồn cười thật! Người ta đưa tôi ra Hà Nội, ở trong lâu đài các toàn quyền. Trong một gian phòng một người gầy gò mặc soóc, một loại thư ký già tận tụy. Người ta bảo tôi "Đấy là lãnh tụ Hồ Chí Minh". Sao! Ông là con người phúc hậu đang cười với tôi? Không một dấu vết lễ nghi xung quanh ông. Mọi người như bạn bè. Ngồi vào bàn ăn, tôi ở bên phải ông. Vừa và cơm, ông chỉ tôi và nói: "Phải có lòng tin đối với ông ấy..." Ông đối xử với tôi tốt, như tình cha con, hỏi ý kiến tôi về các vấn đề. Tôi cũng như những người khác, cũng là một người bạn. Tôi rất yêu mến ông. Đấy là một người quốc gia hơn một người cộng sản nhưng ở trong một guồng máy chung.

Bạn của tôi là ông Giáp. Con người "cứng rắn". Ông tổ chức một quân đội, làm tất cả.

Nhưng tại sao tôi kể lại với ông tất cả những điều ấy? Vì Trí. Chúng ta trở lại vấn đề ấy.

Vâng, người Việt đối xử khéo léo với tôi. Về phần tôi, tôi đã học được cách thán phục họ. Nhưng tôi, họ, chúng tôi có nhiệm vụ riêng. Vai trò của tôi là xoa dịu những ông chúa chiến tranh Trung Hoa chiếm đóng Bắc Kỳ, căm ghét người Việt, cộng sản và đỏ các loại. Tôi để thì giờ nói với Lư Hán "con Báo đen" ghê gớm của Vân Nam: "Ông đừng làm thế đối với Hồ Chí Minh..." Ông ta bảo tôi: "Ông chỉ nói một tiếng và tôi sẽ đưa lại ông lên ngài vàng.” Với tiếng nói ấy, bản thân ông Giáp cũng sẽ chặt tôi thành khúc. Vậy là tôi phải thận trọng. Một ông vua, dù bị hạ bệ, trước hết cũng phải giữ cái đầu của mình.

Ám ảnh của ông Hồ và ông Giáp là Quốc Dân đảng Trung Hoa, những ông chúa chiến tranh, Lư Hán và đội quân ông ta, được nhồi nhét cho nhưng vẫn luôn đe dọa. Người ta đã thanh toán xong Việt Nam Quốc Dân đảng dựa vào quân Lư Hán quấy rối nhưng có những ngày tình hình không ổn. Một hôm ông Hồ bảo tôi: "Ông đi Nam Kinh nói chuyện với Tưởng Giới Thạch. Sẽ có cơ may cho chúng ta..." Tôi đi ngay. Vị "nguyên soái tổng tư lệnh" tiếp tôi rất tốt. Ông hỏi: "Những kẻ đi với ông là ai vậy?... - Phái đoàn Việt Minh mà tôi là trưởng đoàn. - Họ phải đi ngay không thì tôi sẽ bỏ tù họ". - Để khỏi ân hận tôi đề nghị cho họ một cuộc tiếp kiến. Và rồi công việc xong tôi xét mình trở về Hà Nội với các "bạn" đỏ cũng chẳng ích lợi gì. Dù sao cũng là môi trường khó khăn cho tôi. Tôi ở lại Hồng Kông.

Bảo Đại lại cười, tự thỏa mãn. Không vì đã giữ được đầu mình mà bởi chiến công: một kỳ quan kỹ thuật về sự bịp bợm và thành thật, lẫn lộn, hỗn hợp trong cuộc sống sót kéo dài, giả vờ tin tưởng tất cả vừa không thực sự tin.

- Những việc ấy đều là chuyện cũ nhưng là những điểm chốt trong quan hệ của tôi với Trí. Khi tôi trở về Việt Nam nhân danh quốc trưởng theo thỏa thuận của Pignon, tôi nhận thấy ông ta vẫn còn sống. Gần như duy nhất trong số các nhân vật thuộc tầng lớp quan lại lớn. Những người khác bị giết hại hoặc phục vụ Việt Minh. Trí rất nghèo, gầy gò, khổ sở nhưng vẫn đĩnh đạc. Ông ta đề nghị tôi bố trí công việc, xin tha thứ và hứa trung thành hết sức. Tôi cử ông làm thủ hiến Bắc Kỳ. Vì Hà Nội do Đội quân viễn chinh chiếm lại là trống không, buồn tẻ, mặt đất bị đốt cháy. Không ai đến nguyện phục vụ tôi ngoài ông ta và những Đại Việt của ông, một nhóm người, hạt nhân... Bao giờ cũng thế. Thực sự tôi nghĩ "nắm" ông ta bằng tiền bạc như tôi đã làm với giáo chủ Cao Đài; các tướng Hoà Hảo, các giám mục Thiên Chúa giáo, với mọi người. Căn bản đường lối chính trị của tôi là kết dính bằng đồng bạc, mua những người ấy. Tất cả là biết cho như thế nào, không cho ra sao, một nghệ thuật...

Đáng lẽ tôi phải hiểu Trí là một anh cuồng tín. Như Việt Minh. Ông ta căm ghét họ hơn tôi nghìn lần. Họ tha chết cho nhưng ông ta lại muốn giết tất cả bọn họ. Cả tôi và người Pháp nữa. Thật bí hiểm. Tôi bèn hành động: đưa con tốt Tâm ra.

Nên nhớ tôi không muốn giết người Việt hoặc Đại Việt. Cử Tâm ra Hà Nội tôi đã dặn phải nhẹ nhàng:

"Đừng cố giết người. Ở Bắc Kỳ, với bạo lực ông chẳng đi đến đâu cả, sẽ bị gãy răng đấy. Ông không làm gì được Việt Minh, hãy để cho người Pháp, ông chỉ làm việc thanh lọc Đại Việt, loại chúng ra khỏi chính quyền. Nhất là phải đẩy Trí đi Hồng Kông, không để hắn ở đấy nữa...”

Tâm thất bại ở Hà Nội. Chẳng sao cả. Tôi có thì giờ làm việc với đồng tiền của tôi. Tôi không mua được Trí nhưng tôi đã gây hủy hoại người của ông ta, những quan lại trẻ, già trong "chính thể nhiều người lãnh đạo" của Đại Việt. Không có ông ta, tôi mua chuộc từng người. Bên cạnh nhóm Đại Việt quý tộc, tôi cho xuất hiện những nhóm Đại Việt giả danh. Đại Việt thật, đủ màu sắc với chiêu bài dân chủ, nhân dân, các kiểu. Chỉ cần mấy tuần lễ với tiền, tôi làm nổ tung vĩnh viễn tổ chức cũ của Trí. Không còn nguy hiểm gì đối với tôi nữa, đến mức hai năm sau đó tôi đã có thể cử lại ông ta làm thủ hiến...

Bảo Đại khoan khoái với những kỷ niệm ấy, thái độ khoan khoái của một "ông vua" con Trời.

- Việc ấy chưa phải quan trọng nhất. Với Tâm tôi cũng đã chia rẽ những người Nam Kỳ. Tôi đạt được điều ấy lúc tên vô lại cũ là Hữu muốn cướp lấy chiến thắng của tôi, xúi dục vua Jean chống lại tôi: “Nếu chính phủ của tôi đổ là do lỗi của Bảo Đại. Ông sẽ chẳng làm xong công việc gì nếu không thanh toán ông ta". Và lại ca lên bài hát cũ bầu cử, các hội đồng, một chế độ nghị viện, một nước cộng hòa... Nhưng Tâm chỉ nhăn mặt phá hủy tất cả với một câu đầu lưỡi: "Thưa đại tướng như thế sẽ là một nhà chứa, không chỉ với những cô gái, chẳng là gì, mà với các nghị sĩ..."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2021, 10:14:53 pm

Thực ra với Tâm Bảo Đại còn mua được một kẻ quan trọng hơn Tâm nhiều, con trai của "Con hổ Cai Lậy". Không có đứa con nào ít giống bố đến thế. Thay người Châu Á thực sự, vui vẻ tàn bạo, tính toán, tỉ mỉ, với luân lý Khổng Mạnh, theo trật tự thực dân, gọt dũa con người thành những khu vườn Trung Hoa lổn nhổn đá sỏi và cây cối cong queo, anh này ngược lại là một kẻ rất vô tư lự hoàn toàn Phương Tây hóa khó khăn lắm mới nhớ đến Đông Dương nơi mình sinh ra và trở lại đấy.

Nói cho đúng đối với Hinh (tên anh ta) không phải là sự trở về. Đây là một khám phá. Đất đai của tổ tiên đối với anh là sự thám hiểm. Bố Tâm là một loại người bản xứ mà anh tò mò ngắm nghía. Anh là một "da vàng trắng" hoặc một “da trắng vàng”, như thế nào tùy người ta gọi, là một hiện tượng rất hiếm của người Phương Đông hoàn toàn "lạc nòi giống Phương Đông". Không còn khái niệm gì về màu da. Đầu óc cũng không còn hoạt động theo một cỗ máy độc ác chính xác, một trật tự luân lý, lý trí quái đản về logic, biện chứng, luân lý, điên cuồng, mà tất cả là trò chơi và đặt cược. Tổ máy của anh là một "máy bay kiểu cổ". Vì anh là người hùng của "quán bar phi đội", nơi người ta bất cần tất cả, trừ sống, chết thoải mái. Và "đùa cợt". Là một chàng trai chỉ làm theo ý mình, bốc đồng kỳ lạ, bất ngờ, khác thường nhất.

Hinh là "sự vô lo", sự phóng túng tối cao. Người bốc cháy: phụ nũ, bài pô-khơ, rượu, nợ nần, như sắp lại "nướng" sau đó mấy giờ. Anh là đại uý Không quân đã nhào lộn chống phát xít và máy bay huy hiệu chữ thập ngoặc với một chiếc máy bay tồi từ những năm 1939, 1940; Rồi mọi cuộc phiêu lưu vui vẻ ở Bắc Phi, Châu Phi da đen, Pháp, Đức. Qua đó, cũng khó tin được là người tốt, cởi mở, chàng trai tốt nhất thế giới, một tay pha trò đập vỡ tất cả, luôn luôn cười thật thoải mái, đùa nghịch thoải mái, kỳ cục, luôn luôn vui vẻ, mạnh khỏe vui sống. Anh rất khác những người da vàng anh gặp lại, đầu óc quá kiểu cách, giả tạo, lệ thuộc tập tục, suy tư mà mỗi "lời" là một sự xúc phạm; đến mức họ chẳng nói gì trừ cuối cuộc chơi như bùng nổ những lời nói đã âm ỉ, chín muồi thực tế là những kết tội, đùa cợt cao độ đưa vào tội chết.

Đối với người Châu Á, Hinh to lớn không bình thường, cân đối và đẹp. Thật như một "trò đùa" khi anh đứng trước mặt bố, cao hơn ông bố chặt đầu người một, hai cái đầu. Tuy vậy Tâm là một cao thủ Phương Đông, cũng có khiếu vui chơi chế giễu, dĩ nhiên sự chế giễu của một đao phủ. Đấy là một chuyên gia hào hiệp độc ác, tinh vi, đáng sợ nhất. Ông ta vui thích về điều đó. Nụ cười, đôi tay dài, khuôn mặt khỉ thông minh, cách hành hạ tra tấn người. Đối mặt với ông, Hinh đúng là một kẻ ngây thơ.

Hinh đến Đông Dương "của bố” như một sĩ quan Pháp đơn thuần, đơn giản vì ở Paris người ta thấy trong phòng tổ chức Không quân một hồ sơ, biết anh sinh ra ở đấy, là nòi giống của đất nước này. Người ta đề nghị anh sang Đông Dương và anh chấp nhận để "xem sao". Vậy là hai bố con, cả hai vui vẻ thân mật, một theo cách Phương Đông, một theo cách Phương Tây, tụ họp với nhau sau bao năm xa cách hầu như không nhận ra nhau nữa. Hai người xa lạ nhau, từ hai thế giới đối nghịch nhau. Nhưng mọi việc êm đẹp. Vì Tâm, kẻ giết dân quê có ý nghĩ không tốt, khi cần vẫn có đầu óc phóng khoáng. Ông rất tế nhị và thân mật để đào tạo lại con trai, để không chấp nhận anh là một người Pháp như thế. Ở Sài Gòn, mặc dù có lòng khoan dung của ông "bố ngọt ngào" viên đại uý vẫn cảm thấy lẻ loi. Rất thoải mái với người Pháp, đối với người da vàng anh cảm thấy gò bó. Trong gia đình tốt đẹp nhưng với những người Việt Nam khác thì kém hơn; họ kinh hãi thì thầm về "bà Hinh".

Đấy là một bà vợ Pháp, người đàn bà khó tưởng tượng nổi. Mái tóc không vàng hơn được nữa, bộ ngực đồ sộ, thân hình là những đường cong khác thường bên dưới bên trên, khắp nơi. Kèm theo đó là một sức sống mãnh liệt, một khối thịt trẻ, rắn chắc, tràn đầy, những hình dạng nhô lên cả người như những tiểu đoàn đẹp. Để làm tăng giá trị của những cái đó là một lớp da như vỏ quả bóng, thật sạch sẽ và co dãn, đôi mắt xanh mênh mông nhìn thẳng, cởi mở nhắm vào đàn ông. Người đàn bà biết rõ mọi điều, không xấu hổ, không giấu diếm, thích như vậy... Tóm lại là một phụ nữ hợm hĩnh ngon nhất thế giới, một chiếc bánh ngọt. Không tồi mà phóng túng, mặn mà, sống động không ngờ. Tất cả chẳng khách sáo, theo lối trẻ trung, như con gà mái đẹp, khiêu khích trung thực và thậm chí trung thực vì sự khiêu khích. Đông Dương bàng hoàng trước người phụ nữ ấy.

Bà Hinh mới ngoài hai mươi tuổi, thể hiện mọi cách thức tự nhiên, tinh tế. Không có gì làm bà phiền lòng, ngỡ ngàng, rụt rè, đó là bà chúa nhục dục, phóng túng, nhưng chăm sóc tỉ mỉ và đùa cợt. Thêm vào đó rất lãng mạn, chỉ yêu ông Hinh của bà.

Dĩ nhiên bà không phải loại của tướng de Lattre, còn kém hơn ông chồng chuyên biểu diễn những trò chơi nguy hiểm. Đại tướng hỏi Phòng Nhì: "Bà này ở đâu tới vậy?" Tìm tòi vô ích vì bà là người đầu tiên kể chuyện Hinh đã phát hiện ra bà như thế nào ở Bắc Phi.

- Tình yêu điên rồ. Tôi biết Hinh như vậy đấy. Bố mẹ tôi là "chân đen", ly dỵ nhau. Tôi sống với mẹ. Là tiếp viên ở quán rượu. Khi Hinh xin cưới tôi, bố tôi, một người về hưu, trả lời không. Chúng tôi cùng nhau bỏ trốn và cưới nhau. Hinh được bố nhiệm ở Sénégal. Chúng tôi là những kẻ điên rồ, bị niềm say mê thúc đẩy, không có việc gì không làm được! Tôi bảo: "Anh có thể làm tất cả vì em không? - Có - Thế thì anh cầm quả dừa này để trên đầu em và dùng súng ngắm bắn vào nó." Anh ngập ngừng. Tôi dựa vào một cây to với quả dừa trên đầu. Tôi mắng "Anh không phải một người đàn ông". Anh nhắm bắn và phát súng làm vỡ quả dừa, nước chảy xuống mái tóc tôi. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau và ôm hôn nhau, mãi mãi trong cuộc sống và cái chết.

Những câu chuyện ấy không có hiệu quả gì đối với de Lattre. Ông tuyên bố:

- Tay Hinh là một sĩ quan tồi. Vợ anh ta không thể chấp nhận được. Phải trả đôi này về Pháp.

Nhưng Bảo Đại "đã câu" Tâm trong bể cá Pháp, cũng câu cả Hinh và bà Hinh. Hoàng đế nói với ông già Tâm:

- Tôi không biết rõ con trai ông. Anh ấy là người Pháp, làm phi công Pháp từ lâu lắm rồi! Nhưng tôi sẽ lấy anh vào văn phòng tôi; nếu tôi thấy hài lòng, tôi sẽ cử anh làm tham mưu trưởng. Vợ anh có vẻ cũng đẹp đấy.

Hoàng đế quá tế nhị để nghĩ về một việc "tác động" bình thường đến bà Hinh. Mọi việc đi với nhau; trước hết ông cần Hinh:

- Anh là người Việt Nam duy nhất có thể xây dựng được một quân đội. Vui chơi không mệt mỏi nhưng càng cố gắng hơn trong công việc. Như tôi cũng thế. Người Pháp đã cho anh ý nghĩa về kỷ luật, danh dự và sự trung thành. Tôi sẽ bộc lộ Châu Á với anh. Chúng ta sẽ cùng nhau làm những việc lớn và vui chơi thỏa thích.

Và nhỏ giọng, ôngbảo:

- Anh là người Pháp nhưng cũng là người Việt Nam, dù anh đã quên. Tôi xem anh như thuộc về tôi, là người của tôi. Chúng ta nói rõ với nhau. Quân đội tôi giao cho anh, trước hết là quân đội của tôi, không phải của de Lattre. Tôi không đề nghị anh một loại phản bội nào. Ngược lại. Vì đây là lợi ích mọi người đã hiểu rõ, dù bản thân vua Jean chưa hiểu hết.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2021, 10:15:41 pm

Vậy là Hinh, con người da trắng bị "vàng hóa" lại theo cách đại tướng không hài lòng lắm. Việc vàng hóa theo kiểu Bảo Đại, không theo kiểu de Lattre. Vua Jean không hiểu Hinh nhưng hoàng đế ngay từ cái nhìn đầu tiên, đã hiểu. Ông thấy dưới vẻ khoác lác là người thích vui đùa, trẻ con, anh ta đến Đông Dương không quá tình cờ mà để làm "việc lớn" dựa vào những chủ bài của mình - trước hết là bố Tâm, được cao uỷ đánh giá rất tốt. Anh tin vào những lá bài của mình: vừa là người hùng, một sĩ quan được đào tạo, dày dạn trong việc nhà binh và là người Pháp chắc chắn, có bề ngoài cần thiết để những người Pháp cho rằng: "Phải thử xem tay đại uý này. Nếu ở Châu Á người ta cho anh cấp bậc chỉ huy, một vị trí cao, những trách nhiệm lớn. Thử thẳng thắn sử dụng anh, biết đâu anh kéo chúng ta ra khỏi bê bối?..."

Tất cả những việc đó thất bại hoàn toàn. Nhưng Bảo Đại "bám sát", trong một thời gian ngắn phải "nắm vững" Hinh, nhào nặn anh ta theo ý mình. Ông dùng mọi cách biến đổi hàng loạt, tính tốt và tính xấu, làm anh ta ngây ngất. Vậy là "ngôi sao" nhỏ của quán bar tiểu phi đội thường xuyên đi tuần hành với các đội đồn trú, các sân bay với trang phục, khoản lương nghèo nàn, với nước da lạ lùng, bà vợ khác thường, đột nhiên lên đến tầng mây. Hoàng đế gợi ý: "Anh sẽ xây dựng cho tôi quân đội đầu tiên ở góc trời này. Tôi sẽ thống trị nó, không cần Đội quân viễn chinh. Về kỹ thuật người Pháp đã đào tạo tốt nhất cho anh, rất đầy đủ. Nhưng còn lại thì họ chẳng hiểu gì, tài chính, người, khí cụ đầy đủ. Tôi sẽ xoay xở cho anh mọi thứ ấy. Anh sẽ tạo cho tôi những đội quân đẹp, nhiều, lộng lẫy. Anh sẽ chiến thắng trong chiến tranh, nếu nghe lời tôi không nghe người Pháp. Chúng ta sẽ chơi đủ các mặt, quân sự, chính trị, quốc tế..." Hinh choáng ngợp, thâm tâm muốn là việc nghiêm chỉnh, đến mức muốn làm quá gấp, với lòng khao khát, đầy đủ. Là một sĩ quan bình thường, anh mơ sẽ trở thành Carnot, Napoléon. Dù sao anh cũng sẽ là chủ của hàng trăm nghìn người, hàng đống trung đoàn với khí cụ ghê gớm, những triệu đô-la và những gì anh có thể tưởng tượng về các ban tham mưu và cơ quan phục vụ. Anh điên rồ đòi mọi thứ, không chỉ vũ khí mà cả những xưởng sản xuất vũ khí. Và anh càng ngày càng chịu ách nặng nề của người Pháp, luôn lặp đi lặp lại. "Nếu họ hiểu tôi, nếu họ để cho tôi làm". Bề ngoài thật lỗng lẫy, khắp nơi bồng súng chào. Và những cái đó dẫn đến rối ren lớn. Nhưng chưa đến lúc đó...

Hơn nữa Hinh lệ thuộc vào Bảo Đại. Hoàn toàn. Vì nếu nhà vua thấy khía cạnh khai thác được của Hinh mặt "cuồng tín" quân sự, thì ông cũng phát hiện ra chỗ hở, sự yếu kém sâu sắc của anh. Anh không nguy hiểm, bản tính không thực sự dữ tợn: chỉ trong những "đòn cứng rắn" mà không phải hàng ngày. Và từ đó mọi việc rất dễ dàng...

Hinh là "đồng bọn" của Bảo Đại, bị thống trị, chinh phục với sự trung thành hầu như đam mê. Ở Đà Lạt thật thiếu đường! Những khoái cảm về quyền lực, sức mạnh, tình bạn giữa đồng bọn. Và cả sự "bất lương" giữa những kẻ hào hoa với mọi khả năng, đỉnh cao của sự huy hoàng và tế nhị, sự tinh tế trong thô lỗ. Tất cả lẫn lộn làm Hinh say sưa. Với sự thật thà sâu sắc, hăng hái, chăm chú xây dựng một quân đội. Tuy nhiên việc đó làm hỏng anh ta và sẽ làm hỏng công trình của anh. Sau này anh sẽ là đại tướng, vừa là một "ông chủ" vừa là một đứa trẻ hư, người đàn ông trẻ con. Đấy là điều Bảo Đại muốn vì đối với ông có phần nhu nhược là một đường lối chính trị. Hinh là người, với lương tâm và tình cảm, không bao giờ nhận thấy, tuy được thăng cấp như chớp, tuy đạt được những kết quả, sẽ phần nào bị xuống cấp. Không bao giờ nữa anh ta là con người độc lập, người chỉ huy thực sự như Bảo Đại rất sợ. Ông ta rất khôn khéo, tạo dựng Hinh có chừng mực. Và Hinh "xây dựng" cho ông một quân đội đúng như ông mong muốn. Tuy vậy Hoàng đế lừa bịp Hinh với mọi ân sủng và dễ dàng, cũng sẽ lừa bịp chính mình. Quân đội hình thành từ mọi ám muội rối ren, trông thì đẹp nhưng ngay từ đầu đã có mầm mống thối ruỗng, mục nát. Nó là nỗi thất vọng của mọi người, những người Pháp rồi những người Mỹ; sẽ gây ra sự mất mát của Bảo Đại, không kể của cả Diệm sau này khi "hạ bệ" ông ta. Người Mỹ cố cải tổ lại để sử dụng làm công cụ cũng vô ích. Tất cả những gì dựa vào quân đội bị sụp đổ. Sẽ là một sự hẩm hiu. Người Pháp bị đuổi về, Bảo Đại sống lưu vong, Diệm bị ám sát, chỉ còn lại bọn kèn trống, các chúa tể chiến tranh, những quân lính đánh thuê không tương xứng với đô-la. Và Washington phải quyết định "leo thang", dội bom hàng loạt, cử sang hai trăm nghìn, bốn trăm nghìn lính Mỹ. Trong thời gian đó, Hinh trở lại da trắng, trở lại là người Pháp, đã hiểu đầy đủ, chín muồi, đã dày dạn kinh nghiệm, ngay trong chính quốc sẽ là một nhân vật quân sự.

Những việc trên còn lâu. Trước mắt cần nói về bà Hinh. Hoàng đế quá khôn để nhận thấy trong gia đình chính bà là người quyết định; không chỉ là người bạn đời, bà còn là người quản lý, chỉ đạo Hinh. Vì vậy, để nắm được Hinh một trăm phần trăm, trước hết phải có bà trong tay áo. Chính bà thúc đẩy Hinh về tham vọng, vinh dự, sự nghiệp lớn.

Bảo Đại ngỏ lời đường mật đề nghị de Lattre một việc tầm phào, chuyển bà Hinh sang quân sự. Bà này sắm bộ quân phục phù hợp với vóc dáng. Nhà vua cho bà cấp bậc "tướng": ông chồng chỉ huy các đội quân đàn ông và bà vợ chỉ huy các đội nữ binh của Hoàng đế. Vậy là hai con người mạnh mẽ, tóc vàng, hai khung thịt đồ sộ gặp nhau, cả hai đều "chân đen", khác nhau ở tuổi tác và sự giáo dục. Nhưng hai cá tính như nhau! Một là Lilia, tức bà de Vendeuvre, "bà chủ" những nữ y tá không quân Pháp, dũng cảm, nói chung thuộc tầng lớp cao quý. Bà trao một lá cờ cho bà Hinh, sẽ là người chủ lớn của đoàn nữ cứu thương Việt Nam tình cờ được xây dựng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2021, 10:17:00 pm

Ở Sài Gòn thời tiết nóng khủng khiếp. Mọi người không chịu nổi. De Lattre cũng thế: đôi mắt đỏ, trán đổ mồ hôi, gò má nhô lên, chiếc mũi to như một bọt biển. Trong lâu đài Norodom, quạt máy khuấy động không khí nhầy nhụa, ẩm, hơi nước bám dính. Vua Jean, con người sắt luôn vươn tới, dựng người khác đứng dậy chịu đựng tất cả, có nỗi nhớ quê. Sự buồn chán không bình thường ấy làm bác sĩ lo lắng; ít lâu nay Petcho-Bacquet không yên tâm về ông. Nhưng ông biết rõ de Lattre gần như con mình, cảm thấy sức khỏe ông này không ổn. Một vua Jean bề ngoài lúc nào cũng đàng hoàng, bệnh tật, cái chết, mệt mỏi là những biểu hiện yếu đuối đáng khinh, bị lên án. Ông không tha thứ cho những người khác về điều đó. Và đối với ông thì không thành vấn đề.

Sau trận Vĩnh Yên, đại tướng sốt cao một cách bí hiểm: 40° trong mấy giờ. Petcho - Bacquet cố can đảm hỏi:

- Ông có hồ sơ bệnh án chứ?

- Tôi chẳng biết, để tôi yên, tôi cảm thấy rất khỏe. Trước kia có một bác sĩ B... nào đó chữa cho tôi bệnh lặt vặt, làm phiền tôi về cả những phân tích xét nghiệm...

"Người thầy thuốc" bèn viết thư hỏi ông B... ấy, ông này gửi đến những kết quả xét nghiệm, cả một tập giấy trong đó người ta nhận thấy đại tướng có tỷ lệ nước tiểu 0,87.

Tiếp đó thư từ đi lại tuyệt mật giữa hai thầy thuốc. Petcho trao đổi cảm giác của mình với đồng nghiệp: "Nhất định có cái gì đó không bình thường..." ông kia trả lời: "Điều ấy không làm tôi ngạc nhiên".

Petcho khốn khổ vì chẩn đoán! Sẽ bị thất sủng khi nói với vua Jean hạ cố biết cho một số phiền toái về sức khỏe. Hơn nữa Monette không thể chấp nhận người hùng của bà có thể như một con người bình thường bị bệnh tật đe dọa. Bà sẽ đuổi bác sĩ đi.

Bỗng ngày 5 tháng ba, tình trạng phức tạp thêm. Vua Jean nằm trên giường, hoàn toàn kiệt sức, mặt bạc trắng, không biết bị bệnh gì. Trong lâu đài triệt để im lặng... Petcho ngồi bên giường, lo lắng, trông nom ngày đêm nhưng không nói lên ý nghĩ của mình. Monette và Lilia ở phía sau, theo dõi ông với đôi mắt mở to, nghi ngại. Đại tướng sốt cao, ho khan:

- Cuối cùng, tôi bị bệnh gì vậy? Ông hỏi bác sĩ.

- Di chứng của bệnh tả, chắc là dị tật. Không có gì nghiêm trọng.

- Dĩ nhiên. Nhưng chữa mau khỏi cho tôi.

Petcho vồn vã an ủi người bệnh của mình. Trên "giường bệnh" vua Jean lại thể hiện mình hơn bao giờ hết, là đầu não, người chỉ huy lớn. Mặc áo dài trong phòng, ông chồm dậy, từ chỗ nằm, một cánh tay làm chỗ dựa, đưa khuôn mặt hốc hác ra phía trước đưa mệnh lệnh. Cơn sốt trong người kéo theo những ý nghĩ sôi sục. Mọi công việc hiện ra trong đầu óc ông và những tên người ông phải triệu tập, người này tiếp người khác: "De Royer, gọi cho tôi anh này, anh này..."

Đầu giường là một vòng tròn lớn. Mỗi người vào nhón chân như gần một kẻ hấp hối để bị chộp lấy mấy giây. Và ai cũng tự nhủ có lẽ cơn khủng hoảng, việc nằm chữa trị đầu tiên này không làm đại tướng bình tâm lại mà ngược lại, đã kích thích ông.

Thực ra, việc phục hồi sức lực của ông do Paris. Trong khi ông suy sụp, nằm dài, tin tức chờ đợi từ một tháng nay đã đến. Một chính phủ Queuille được hình thành. Sự phục hưng. Và có ngay một nỗi lo lắng khác, ngược lại với trước đây: cơ bản là nghị lực, hành động. Nỗi lo về hồ sơ sẽ dùng trong mấy ngày, mấy giờ nữa để xin Paris tiền, quân lính, tất cả. Đã mất bao công sức về việc đó! Nhưng bỗng chốc ông cảm thấy không tốt, không bao giờ hoàn hảo. Từng lúc ông cho gọi những "trụ cột", Cogny, Allard, những người "vững vàng", nhắc đi nhắc lại mãi với họ:

- Ở Pháp, những cái này làm sao quấy rối được những người rất bình lặng ngồi trong ghế phô-tơi khi tôi từ chiến tranh tới đề nghị họ bao nhiêu việc! Phải làm họ thật bực bội, khó chịu. Để làm cho họ ngốn thuốc đắng phải thật chặt chẽ. Làm lại cho tôi tất cả mọi kế hoạch, dự án, thật tỉ mỉ; phải làm thành tài liệu dễ trông, không phải những bản nháp như hiện có...

Cả ban tham mưu lại bắt tay vào việc, suy tính, làm lại những con số, thống kê, chứng minh, viết lại tất cả. Mọi người run lên khi người ta mang đến công việc cho mình, hàng tập trang giấy đã làm đi làm lại mười, hai mươi, một trăm lần. Và vua Jean đọc trong đó một đoạn, bất cứ đoạn nào, đọc to lên thong thả, nhấn vào chữ không nên, giận dữ như những ngày còn khỏe mạnh.

Mặc dù vậy ông vẫn căng thẳng, nóng lòng. Có một mối lo khác, thực sự nghiêm trọng. Boussary, con chuột nhắt tham mưu ở Phòng Nhì mỗi ngày bốn, năm lần lặng lẽ đến bên giường ông và khi đại tướng bình phục, đến tận văn phòng. Ông ta đưa ra những mẩu điện tín quân sự mật, tuyệt mật, những tờ giấy còn bí mật hơn, những phân tích, bản đồ, tham vấn tù binh, báo cáo do thám.

- Thế nào, Boussary...

Đúng những gì cần thiết để phát huy đầy đủ tài năng tìm những giải pháp vinh quang, biến thất bại thành chiến thắng. Trong lúc này vua Jean điều hành cuộc chiến tranh trên những bảng biểu, muốn làm chậm ông Giáp lại, ông Giáp mà những tuần lễ trước ông kịch liệt kết tội là chậm chạp, khôn ngoan, hèn nhát. Bây giờ ông muốn ông Giáp phải để thì giờ cho ông đi Paris và trở về đã.

- Thế nào, Boussary, có đúng là sắp tới không?

- Thưa đại tướng, tôi tin thế... Tất cả xác định như vậy.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2021, 10:17:47 pm

Tất cả tốt đẹp giữa de Lattre và một ai đó, khi giữa họ có một "cuộc chơi" bố trí tốt, xác định rõ với những luật lệ, màu sắc của nó. Ưu ái thực sự khi đại tướng và người kia làm đúng vai trò của mình. Đấy là trường hợp của Boussary. Ông ta tự tin về mọi thông tin, phân tích, lập luận của mình. Nhưng với một sự nhún nhường vui thích, lạc quan, tự hào tuyên bố: "Với những mưu mẹo của họ, mình sẽ nắm được họ vì mình tinh ranh hơn". Những kế hoạch của quân Việt, mọi mưu kế gian ngoan của họ, ông ta bày ra hết như để nói: "Tất cả những âm mưu của họ, tôi trình bày hết với ông, thưa đại tướng. Xin ông lựa chọn và ra tay..." Sự tin tưởng ấy làm de Lattre rất hài lòng. Đối mặt với Boussary người đánh nhịp, ông đàng hoàng hiện thân là con người lớn lao tiến hành cuộc chiến tranh trước mọi tình cờ, trước cạm bẫy vô hình mà biệt tài không cần tính toán nhưng vào thời điểm cần thiết có bản năng tia chớp, hiểu được tình hình và hướng thoát hiểm...

Một hôm cuộc trao đổi với Boussary đặc biệt trịnh trọng. Vua Jean có cái gì đó rất căng thẳng, tập trung, nêu câu hỏi cẩn mật:

- Boussary, anh thấy tôi có được mười lăm ngày để giải quyết công việc ở Pháp không?

- Hơ, thưa đại tướng... Suốt mặt trận Bắc Kỳ từ Việt Trì đến Hải Phòng, quân địch đều đang tiếp cận. Tất cả các sư đoàn ông Giáp đã triển khai. Quân tuần tra của chúng ta trong vòng một trăm hoặc hai trăm mét đều bị bám sát. Việc bố trí lặng lẽ và vô hình biết bao nhiêu quân lính, dân công, đạn dược, kho vũ khí, tất cả đưa đến từ lâu, từ từ, không lay chuyển như bằng máy móc tuy chỉ vác bộ, trên lưng người, đã gần như hoàn thành. Hiện nay tất cả lúc nhúc dưới nguỵ trang của rừng, hoàn toàn bí mật, đang hoạt động triệt để. Khi đã vững chắc, dĩ nhiên sẽ là đợt khởi động. Những động tác giả, trò gây rối rồi cuộc tấn công thực sự, tấn công hàng loạt ở đâu đó. Mục tiêu: Hà Nội.

- Tóm lại trở lại đúng tình hình khi tôi tới Đông Dương cách đây ba tháng như tôi đã chẳng làm gì, như tôi thắng trận Vĩnh Yên là cái đinh...

- Ông đã đưa lại tinh thần cho Đội quân viễn chinh. Rất lớn đấy nhưng chỉ có điều ấy khác trước, ngoài ra không có một tiểu đoàn bổ sung, không một vũ khí mới trừ vài thứ vặt vãnh người Mỹ bố thí cho ta trong lúc họ chất đống ở Triều Tiên một lượng khí tài kinh khủng. Ta vẫn luôn thiếu đạn dược. Ông nghĩ xem nếu vài chiếc Mig xuất hiện thì sẽ xảy ra điều gì... Thưa đại tướng chẳng có gì hơn trước đây. Ngược lại, quân Việt được tăng cường ghê gớm. Vì sau trận Vĩnh Yên, Hồ Chí Minh đã sang Trung Quốc và trở về hai tay đầy...

- Boussary, quyết định rồi. Tôi sẽ làm Hồ Chí Minh, không làm ông Giáp. Đi Paris, chiến trường số một. Nhưng dù sao cũng bực mình khi bỏ đi trong lúc như thế này.

De Lattre im lặng, đắm mình trong suy nghĩ một lúc, cau có, không vui. Điều ông muốn là Boussary nói dù sao cũng có thì giờ, ông có thể bước qua ngõ cụt. Bỗng ông tìm ra lập luận tổng quát để làm lung lay Phòng Nhì:

- Nhưng Boussary, anh là Thánh chăng? Anh kể những chuẩn bị của quân Việt rất bí mật, ẩn náu, không nhìn ra được. Vậy tại sao anh có thể khẳng định việc bố trí chiến trường đã hoàn thành và sẽ khơi động tấn công? Còn bao lâu nữa sẽ có cuộc tấn công ấy? Một giờ, một ngày, một tuần lễ hay một tháng? Trả lời đi. Anh cũng chẳng biết gì, đúng không?

Boussary có một nụ cười bướng bỉnh, vui thích và hơi thách thức:

- Thưa đại tướng, tôi biết rõ nghề nghiệp của mình. Phải phóng tay để "lột da" quân Việt, để biết. Cuộc chiến chống bí mật. Tất cả dùng vào việc đó, tiền và thông tín viên, cảnh sát và Phòng Nhì, tôi nắm chặt mọi công việc đầu tiên của Đội viễn chinh là săn lùng tin tức. Những cuộc hành quân trước hết là những tập kích thám báo theo đề nghị của tôi, tiến hành một cách khoa học do những người "cứng rắn", biệt kích, lính dù. Những nhóm người luồn vào trận địa quân địch để bắt một số người mang sống về. Tôi có những mẩu sự thật, chắp nối lại và sẽ hình dung ra việc bố trí của quân Việt: những chỗ tập trung lớn, những bố trí lớn và cả những ý đồ, chiến lược của ông Giáp. Có hai khối Việt Minh chủ yếu. Một ở Tam Đảo đối diện Vĩnh Yên như tháng giêng năm trước. Ở đây họ khuấy động dữ lắm, như một miếng mồi. Mục đích là kéo ông vào một góc trong lúc quân chính quy tràn vào chỗ khác mà ông không làm gì được...

Thưa đại tướng, khối thứ hai hầu như toàn thể quân đội, các sư đoàn xung kích 308, 312, 316 tập trung ở miền bắc Đông Triều. Ở đây họ sẵn sàng tiến vào Lục Nam, phủ Lạng Thương và con đường số 13, mà năm ngoái quân bại trận của chúng ta từ đường số 4 và Lạng Sơn tới. Đuổi theo họ quân Việt đã dừng lại nửa chừng, ở vùng ven châu thổ. Bây giờ họ muốn đi đường số 13 đến Hà Nội. Chính tại đây sẽ là cuộc chiến thực sự, cuộc tấn công thực sự. Để tràn xuống đồng bằng, trước hết quân chính quy phải mở đường, bất ngờ lao vào chúng ta như một nguồn thác đột nhiên đập tan quân ta. Họ bố trí đề phòng không tưởng tượng được để khỏi bị phát hiện; chỉ có thể thành công nếu không ai thấy, không ai biết. Nhưng họ không nghĩ đã bị nghe thấy, bị lắng nghe từng giờ.

Boussary khoan khoái. Vì ông ta cũng có vũ khí bí mật của mình, sự giải mã. Đấy là vũ khí thiết yếu của Phòng Nhì Pháp, cho phép biết tất cả, là cuốn sách mở.

- Thưa đại tướng, chúng tôi đã tìm lại được mật mã mới của quân Việt. Vì vậy chúng tôi biết được những điện tín của ông Giáp, biết được toàn bộ cạm bẫy Đông Triều.

- Nhưng anh có chắc chắn người Việt không cho anh ra rìa với mật mã lắt léo của họ?

Boussary gãi tai, dấu hiệu lo ngại. Ông ta biết tướng tá của vua Jean không ngần ngại chế nhạo việc giải mã của ông. Họ không tin, trừ việc xem như một "cái bẫy chờ" cho Boussary và đồng bọn. Những việc về giải mã và những gì liên quan, Boussary là người hách dịch, nóng nảy, nghiêm trang và rất hùng hồn. Đây là vấn đề lòng tin, không được động chạm đến:

- Thưa đại tướng, nhờ việc giải mã người ta như nối dây với ông Giáp, dần dần sẽ biết tất cả. Trước hết biết tầm quan trọng về việc giúp đỡ của Trung Quốc: ba mươi ca-nông Mỹ, ba trăm đại liên Tiệp, nhiều đại liên và súng phòng không đủ loại. Người ta biết ông Giáp tự phê bình rút kinh nghiệm để làm lại một lý luận quân sự "đúng đắn", một "đường lối đúng". Không tấn công Đội quân viễn chinh lộ liễu ở đồng bằng nữa mà dựa vào đồi núi như tấm chắn. Phải từ vùng rộng lớn rậm rạp, rất hỗn độn, ghê gớm tiến xa ra vùng châu thổ. Đây là trường hợp Đông Triều. Người ta biết chính ông Giáp lựa chọn, biết cụ thể cả chiến thuật của ông: cho các đội quân từ núi xuống, ra khỏi rừng tấn công những đồn bốt Pháp, những đường giao thông vòng quanh đồi núi. Nhấn chìm những mục tiêu ấy nhưng giả vờ lộn xộn với những đi lại nhanh gọn, dữ dội và gây ngỡ ngàng. Nếu chỉ huy Pháp nghĩa là ông, thưa đại tướng, ngập ngừng, hiểu sai, lúng túng và liên tục gửi quân tăng cường, sẽ bị thanh toán nối tiếp nhau. Chỉ sau khi tiêu diệt nhiều đội cơ động trong trò chơi trốn tìm xung quanh Đông Triều, toàn quân đội ông Giáp mới xuất hiện dứt khoát, lao xuống đồng bằng theo đường về Hà Nội.



Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Chín, 2021, 10:18:28 pm

Cũng biết được điều gì sẽ xảy ra, thưa đại tướng. Trước hết là một sự lộn xộn chung và đe dọa. Khắp Đông Dương, cả Trung và Nam Kỳ cũng khuấy động. Rồi toàn mặt trận Bắc Kỳ sẽ chuyển động; đã chuyển động ở Vĩnh Yên rồi. Như vậy để ông rải khắp lực lượng mình. Sau đó ông Giáp hy vọng với bộ máy chiến tranh ở Đông Triều, sẽ diệt gọn Đội quân viễn chinh trong bốn, năm đợt, dần dần qua những lần ông đưa các đơn vị mạnh tới...

- Anh có lý, Boussary. Đúng sẽ có cuộc chiến ở Đông Triều. Ông Giáp tưởng sẽ nắm được tôi, gặm nhấm tôi... Trong lúc ăn, ông ta sẽ gặm phải xương. Tôi đưa toàn lực vào đấy, tập hợp súng đạn vào đấy. Nhưng chính xác phải bố trí ở đâu? Đưa bản đồ cho tôi.

Vua Jean biết Đông Triều. Ở đây lần đầu tiên ông thấy núi rừng, có một cảm nhận u tối trong những ngày đầu ở Đông Dương đầy vinh quang và cũng đầy những điều không biết. Lúc ấy ông chỉ có lòng quyết tâm, chẳng biết gì. Cùng với các nhà báo "của mình" ông bay trên chiếc Morane chỗ này chỗ kia trên rừng núi để xuất hiện như Chúa Trời trong một thị trấn thảm hại trên bờ biển, trong Tiên Yên bị đe dọa trống rỗng, gần như bị bỏ ngỏ. Ông bố trí Beaufre ở đây, bắt đầu cuộc chiến của mình. Và chỉ riêng việc có mặt, việc quyết định và mệnh lệnh của ông, quân Việt đã không chiếm Tiên Yên. Nhưng ông cũng không đánh bại họ, giết họ. Họ biến mất trong núi rừng, ở chính Đông Triều này. Việc ấy xảy ra cách đây không đầy ba tháng...

Đông Triều, với màu xanh u tối phủ lên tất cả, trừ những chỏm đá vôi. Hang ổ của quân Việt, vì ở đó có thể có hàng chục nghìn chiến sĩ và dân công mà người ta không thấy một người. Người ta biết họ ở đấy để tấn công nhưng không biết họ sẽ ra từ chỗ nào! De Lattre sẽ bố trí súng đạn, các đội cơ động ở đâu để giết con thú rừng khi ra khỏi hang ổ?

Vua Jean phân tích hàng nhiều giờ. Một, hai, ba lần, mỗi lần hay hơn, tin chắc hơn; nhưng với những người biết rõ ông thì như trước hết ông tự thuyết phục mình, để hoàn toàn yên tâm.

- Ông Giáp sẽ không ra bờ biển, không ra thẳng đồng bằng. Vậy là ông ta từ sườn phía đông Đông Triều, chỗ núi tiếp giáp với đồng bằng. Điểm chốt là Lục Nam. Phải cử các đội cơ động tới đây. Mình quyết định trận đánh sẽ ở đây. Hoặc đẩy lùi quân Việt hoặc lùng sục vào cứ điểm của họ nếu họ xuất hiện quá chậm. Hoặc giữ họ tại chỗ và đưa một phần các đội quân đến Lạng Sơn cách đấy chỉ tám mươi cây số. Chiếm lại Lạng Sơn thì thật đẹp... nhưng chúng ta tấn công ở đâu thì mình phải ở đấy...

Sau những buổi họp, những ngày ròng suy tính, vào ba, bốn giờ sáng de Lattre bỗng như già đi. Nét già nua nhanh như chớp nhưng quá căng thẳng, nóng nảy. Petcho-Bacquet tiếp tục lo lắng. Đối với ông ta, vua Jean đã là một người bệnh.

Bi kịch trong lễ nghi và tình cảm. Trước ngày định mệnh còn là cảnh huy hoàng dù de Lattre đau ghê gớm, quá mệt mỏi, sa lầy, có hoặc không có ý thức trong sự dối trá. Không may sự kết thúc lớn lao không đến từ thân hình bị hủy hoại của de Lattre mà từ một thân xác trẻ, đẹp, thật cảm động. Đấy là Bernard, vào cuối tháng năm, trúng đạn nằm dài trên núi đá vôi Ninh Bình phía trên sông Đáy.

Rồi sẽ là khối ung thư của ông: căn bệnh âm ỉ Petcho- Bacquet chẩn đoán đã phát triển dần. De Lattre anh hùng. Trong nỗi đau ghê gớm, gần như điên dại, ông vẫn vùng vẫy vì công trình của mình, vì chiến tranh. Bernard của ông chết, ông sử dụng việc đó, ông sẽ cống hiến thi hài đứa con cho nước Pháp, cho thế giới. Việc đạo diễn một cảnh khác thường có tính toán: bản thân ông bố đưa đứa con tử trận trên một chiếc máy bay về chôn ở quê hương. Đấy là phương pháp cuối cùng để thức tỉnh dư luận, để tác động dư luận nhờ vào khối xương thịt vinh quang và hy sinh. Đấy sẽ là một hành động chính trị có lợi cho Đông Dương xa xôi, bị quên lãng, bị thờ ơ.

Tuy nhiên vì đau đớn, có lẽ vì hối hận, bản thân de Lattre cũng trên đường tự huỷ hoại. Dần dần thể xác và linh hồn ông bị gặm nhấm, dù vẫn đấu tranh để vớt vát vẻ ngoài nhưng không được nữa.

Sự suy sụp của vua Jean không tránh khỏi được nữa. Một ông già ngồi bên cạnh bà vợ, cầm tay bà, ẩn mình trong cuộc sống vợ chồng. Với mệnh lệnh của bà: không chau mày nữa, đi lại giường khi bà nói: "Đến giờ rồi. Ông đi nằm đi". Ông hơi cưỡng lại một ít rồi vâng lời...

Vua Jean hoàn toàn suy yếu. Đôi khi rất mệt mỏi, quá già và đau đớn. Lải nhải những diễn giải yếu mềm, vô tận, luôn luôn cũng những lời nói ấy. Được Monette khuyến khích, vẫn bí hiểm tin vào sự thành công của vũ khí mình: trận đánh lớn, sự liều mạng. Với việc cầu Chúa, ông dúng tay vào cuộc phiêu lưu trong rừng, cuộc phiêu lưu mà trước đây ông tuyệt đối không muốn. Ông khôn ngoan như thế, cho thập tự chinh chỉ là một phương pháp, bỗng chuyển sang như một người sùng đạo tin vào thánh chiến, thực sự tin vào sự bảo vệ của thánh thần, vào Chúa Trời sẽ rũ bỏ cho ông những "kẻ dữ" Việt Minh. Việc tấn công của lực tàn. Đến nỗi ngay lúc ông hấp hối, quân lính của ông bị bao vây, đánh bại, bị giết chết trong những trận đánh nhau ở địa ngục xanh ở Hòa Bình và sông Đà. Trong lúc thở hơi cuối cùng những ảo tưởng của ông bị quét sạch; cả công trình của ông xây dựng vừa trên vinh quang vừa dối trá như bị tiêu hủy. Sau khi chôn cất ông, may mà Đội quân viễn chinh của ông thoát khỏi bị tiêu diệt.

Nhưng trong tháng ba này, có ai nghi ngờ gì về tương lai thảm hại ấy? Trong gia đình, de Lattre hoàn toàn chiến thắng. Bernard còn sống, là niềm tự hào của ông. Monette sẽ ra đi không gây chuyện gì, để lại cho chiến tranh và Đông Dương đứa con và ông chồng. Nhìn bề ngoài, sẽ bớt đi một mặt trận. Nhưng cuộc chiến kia, cuộc chiến thực sự chống quân Việt, làm ông đau đầu. Tin tức đưa về không tốt. Cuộc "thăm dò”, hầu như khắp nơi bắt đầu có đụng độ, không rõ ràng, lộn xộn không mục đích, những rối rắm hơn là trận chiến. Người ta chẳng hiểu biết được gì nhiều. Vua Jean vẫn luôn căng thẳng, khuôn mặt hốc hác, đôi mắt sốt cao, nước da chì. Và cũng rất lo lắng: sự lộn xộn khéo sắp đặt ấy của quân Việt che giấu bất ngờ gì? Kế hoạch, "mưu mẹo" của họ, ông nghĩ đã đoán được cả, dựa tất cả vào đó nhưng phải chăng ông đã lầm? Và ông sẽ không có mặt tại chỗ! Ông không ngớt kêu lên:

- Tôi chắc chắn ông Giáp đang chờ đợi tôi ra đi. Tôi vừa lên máy bay là ông ta sẽ tung các Sư đoàn ra, sẽ tấn công triệt để với những khối người của mình.

Tuy vậy người ta vẫn đi. Hối hả, chuẩn bị vội vã trong lâu đài Norodom. Tính tình ghê tởm của đại tướng. Và trong cơn thịnh nộ ấy, cả một sự náo nhiệt của triều thần. Phải làm tất cả để được lựa chọn. Để được ra đi. Đúng là mưu mô - nhưng vài mưu mô tế nhị như không có gì: một lời nói, một cử chỉ... Và vua Jean thích thú vì tính khí thất thường của mình, bắt phải chờ đợi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Chín, 2021, 05:20:49 pm

   
Chương VII
CHIẾN THẮNG ĐÔNG TRIỀU




Kết thúc ảo vọng. Kết thúc sự "chờ đợi lâu dài". Vì Paris ở kia trong tầm tay, hai ngày đi máy bay. Bức điện mong mỏi từ nhiều tuần lễ nay vừa đến. Điện tín ra đi: cuối cùng nước Pháp có một chính phủ.

Ngay trong giờ nhận điện, người ta ào tới Tân Sơn Nhất, ra máy bay giữa buổi chiều nắng gắt. Đấy là ngày 14 tháng ba, lúc mười sáu giờ. Trong cuộc chạy đua về Pháp ấy, có đại tướng de Lattre và bà de Lattre. Và rồi cả toán lớn: Cogny, Allard, Petcho-Bacquet, Boussary, Dannaud, Goussault, de Royer, Risterrucci (một quan chức dân sự tìm được tại chỗ, thân cận hơn các chuyên gia đại tướng mang theo: Gauthier và Aurillac), tướng Harteman và cô con gái đã có chồng, thi hài vợ ông này đưa về trong máy bay thường kỳ hôm trước.

De Lattre thỏa mãn. Ông có một chuyến "đặc biệt" vì đi vào ngày duy nhất không có máy bay đi Paris. Đây là một điểm làm ông băn khoăn, ông tung hứng hàng tỷ, hàng trăm tỷ và sẽ đi xin nữa. Cuộc chiến tranh ông làm theo lối chúa tể, không quan tâm đến quỹ, tính toán, ngân sách, tiền. Allard "làm việc này" tốt. Letourneau rất độ lượng chuyển cho ông không cau có, khá tinh ranh để hiểu một vua Jean phải đắt giá để đưa lại lợi ích. Vậy là không tiết kiệm được trừ một việc không ra gì, một chi tiết nhỏ nhưng khéo lựa chọn để làm phiền de Lattre và nhắc nhở ông này tính hơn hẳn của quyền lực dân sự đối với quân sự. Điều này nhằm nói với vua Jean: "Tôi, một thành viên chính phủ, khi đi Paris - Sài Gòn hoặc Sài Gòn - Paris, tôi lên máy bay thường chở hành khách. Hãy đăng ký số chỗ cần thiết..." Đã có cả một câu chuyện, một hài kịch về việc đó khi de Lattre sang Đông Dương cùng Letourneau ba tháng trước đây. Vua Jean được thỏa mãn nhưng qua lần ấy hai người bắt đầu chiến tranh lạnh với nhau.

Lần này đúng vào ngày không có "Hàng không Pháp", không "bắt bẻ" gì được về chuyến bay đặc biệt. Cuộc hành trình năm mươi lăm giờ. Vua Jean nằm ngủ ngay. Hoàn toàn thư giãn, như bỗng ra khỏi môi trường kiệt sức vì vinh quang và cái chết, những chuỗi vô tận những tính toán, lo âu, cố sức. Như đã quên hết, kể cả Giáp và cuộc phản công của ông ấy. Ngủ. Và trong lúc này Sa Đéc bùng cháy, ngọn lửa lớn thiêu trụi những ngôi nhà tranh trong đó nhiều gia đình "cháy sém" toàn bộ.

Sa Đéc, một thị xã trù phú ngoại lai cách Sài Gòn một trăm cây số tiếp giáp Đồng Tháp Mười. Đã nhiều tháng nay tất cả ở đây là đẹp đẽ, đồng bạc và yên bình. Người ta nghĩ không còn Việt Minh, quân chính quy, ở xứ Nam Kỳ này de Lattre đã rút hầu hết các đội quân. Thế mà nhiều nghìn người bận đồ đen ra khỏi căn cứ luồn vào bóng tối những rặng dừa bao quanh đô thị. Bỗng chốc mọi việc bắt đầu lại như xưa kia. Súng cối và ba-dô-ka dội liên tục, những làn sóng người, giáp lá cà. Suốt đêm những cuộc tấn công kéo dài trong tiếng kèn tiếng trống. Những người tấn công có cả V1: loại bom bay được tung ra, rơi xuống cách hai, ba trăm mét nổ bùng lên.

Sa Đéc đổ nát, xác chết, nỗi kinh hoàng của chiến trường. Sau đêm lo sợ mà quân chính quy với những làn sóng người chiếm được phần nửa thị xã, phải một trăm giờ đánh nhau khốc liệt cả ngày và đêm mới đẩy lùi quân Việt ra khỏi những rặng dừa. Họ chạy ra đồng ruộng và đầm lầy để biến mất như thường lệ trong thiên nhiên. Lần này họ không thể vì những con vật to lớn, xe lội nước của Pháp đã lao xuống bùn hôi. Bị lộ liễu, ít nhất là những cái đầu ló ra trên đầm lầy, họ làm mồi cho máy bay B26 và Hellcat dội na-pan thiêu cháy họ.

De Lattre ngủ. Nhưng ở miền trung Trung Kỳ cũng là cuộc chiến. Lại một cuộc phản công của ông Giáp. Không tấn công vào một thị xã như ở Nam Kỳ mà là một con đường, đường số 1. Con đường quốc lộ xa xưa, chạy dài 1.500 cây số dọc theo biển là sợi dây nối, xương sống của vương quốc Annam phình hai đầu châu thổ bị hẹp dần ở giữa: bờ biển vô tận giữa núi và nước lân tinh. Đường số 1 bị cắt khúc bởi người Việt và Pháp. Nhưng gần Huế, thủ đô vương quốc cũ, thành phố linh thiêng với những lâu đài và mồ mả bên bờ sông Hương, con đường thuộc Pháp, thậm chí là con đường huyết mạch, sống chết, cần thiết đối với Đội quân viễn chinh.

Trận đánh lớn. Ông Giáp tung ra ở đây hai đến ba trung đoàn. Trái ngược với Sa Đéc và những đợt ào ạt xông tới, đây là phương pháp khác, cũng rất bài bản: chiếm một bốt, phục kích đoàn quân đến giải cứu, sự hỗn độn không gỡ nổi.

Cuộc chiến kéo dài nhiều ngày đêm, trên nhiều cây số của con đường số 1. Quân Việt tiến lên từng đoàn quân như những con sâu xanh to lớn ngốn lấy tất cả: đường bị cắt, các đơn vị Pháp bị bao vây, đánh bật đi. Cuối cùng ca-nông, máy bay, xe tăng với na-pan và đạn cối lân tinh kìm hãm những dòng quân Việt, biến thành những dòng sông lửa. Chiến thắng và điêu tàn.

De Lattre ngủ. Thực ra vua Jean hài lòng. Tất cả cho đến lúc ấy đã xảy ra như dự kiến. Quân địch bắt đầu tấn công ở Nam Kỳ và Trung Kỳ hầu như rất thiếu những đội quân Pháp: phần lớn được bố trí ở Bắc Kỳ, trên "mặt trận" chờ cuộc phản công lớn của quân Việt, năm sư đoàn mạnh trong rừng. Vua Jean đã triệu tập các tướng của Sài Gòn và Huế: "Các ông hãy trụ vững với những gì các ông có. Tôi sẽ không gửi đến cho một người nào. Vì ông Giáp muốn rút bớt quân lính ở Bắc Kỳ, nơi quyết định số phận cuộc chiến tranh một lần nữa." Và điều đó được giữ vững nên chắc ông Giáp lại để mấy ngày kiểm điểm, làm lại kế hoạch. Như vậy de Lattre có đủ thì giờ trở về với "cú đánh" thực sự.

Vua Jean ngủ trong "chuyến bay đặc biệt" để trở lại thành "một người khác" ở Paris, thật đàng hoàng. Nhưng trước khi ngủ ông bắt những người của ông, cũng đã quá mệt mỏi, làm việc. Và công việc ra sao, tai quái, chán nản nhất! Như họ không có quyền nghỉ ngơi. Cuộc hành trình này là ngày dài nhất đối với họ.

- Làm việc đi. Phải viết lại cho tôi bản trình bày trước Hội đồng quốc phòng.

Đấy là bản diễn giải đã hành hạ nhóm thân cận trong nhiều tuần lễ, sửa chữa viết lại hàng trăm lần, từng chữ được vua Jean cân nhắc không mệt mỏi. Và tất cả chẳng là gì, bây giờ bắt đầu viết lại ngay trong máy bay.

Nhóm thân cận chán nản. Cogny can đảm lẩm bẩm: "Thế bản kia..." Mọi người suy sụp. Cũng lo ngại nhận thấy de Lattre thay vì giám sát đã ngủ thiếp đi.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Chín, 2021, 05:22:04 pm

Vừa lên máy bay, đại tướng nằm dài lên giường ngủ. Người ta cố gắng xin ông chỉ thị, hướng dẫn. Vô ích. Họ đánh thức ông dậy, không có cách gì làm ông cho ý kiến. Ông vừa ngáp vừa chỉ nói:

- Đến nhà 4B đại lộ Invalides sẽ xem sao. Các anh cứ làm cho thật tốt.

De Lattre ngủ. Người của ông mặt hốc hác, cố nén chịu; họ dính kết với nhau quanh một chiếc bàn giấy hai mặt. Mười giờ, hai mươi giờ, ba mươi giờ trôi qua như vậy. De Lattre vẫn ngủ và nhóm thân cận "cạo giấy" im lặng để khỏi làm phiền ông. Năm mươi trang được viết ra theo cách ấy, trang này rồi trang khác. Allard không ngừng đọc những tập con số. Goussault viết đen trang giấy. Cogny và Boussary trao đổi về những việc phải làm. Công việc vất vả. Họ hành hạ đôi mắt mở to. Cuối cùng viết xong; Vua Jean bắt đầu thức giấc trước lúc đến Paris một ít. Gần đến nước Pháp, đại tướng mở to mắt, hồng hào, nhanh nhẹn. Allard, và cả bọn nghĩ đã đến lúc đưa ra tác phẩm của mình, dày như một cuốn sách. "Sau hãng, sau hẵng", vua Jean lầm bầm nói. Ông đang bận tâm về việc đón tiếp ở sân bay Orly: thờ ơ hoặc tôn vinh? Tương lai phụ thuộc vào điều đó. Những giây phút đầu tiên sẽ cho ông biết rõ. Đặt chân xuống đất ông sẽ thấy ngay những chiến thắng của ông đúng hay không đúng, huyền thoại tự ông dựng lên ngày này tiếp ngày khác có được việc không, có "tác động" đến nước nhà hay không? Vì có dân chúng tình cảm và sự cảm thông của quần chúng trong công trình lớn lao của mình cuối cùng quan trọng hơn giành giật lực lượng tăng cường. Tóm lại chỉ dư luận mới buộc được các bộ trưởng và ban tham mưu, Chính phủ và Bộ Quốc phòng giải quyết những yêu cầu ông mang tới.

Ở Orly mọi việc tốt đẹp. Khá đông người. Những máy quay phim, chụp ảnh, loa phóng thanh, các nhà báo với sổ ghi chép. Và một số lượng đầy đủ các nhân vật mà ông bắt tay: bộ phận cấp cao của nền Đệ tứ Cộng hòa, những nhân vật Bắc đẩu bội tinh, bố Letourneau, những nhà chính trị bụng to, những lối "chào" quân sự đơn sơ, các tướng đồng nghiệp. Và những người bạn, những kẻ ve vẩy, tò mò. Khá nhộn nhịp, khá long trọng để những người đi máy bay không biết, hỏi: "Ai vậy? - Đại tướng de Lattre từ Đông Dương đến. "A... " Những tràng vỗ tay nhưng cũng có những tiếng hoan nghênh yếu ớt. Tất cả thật hoàn hảo - nhưng không rầm rộ. Vẫn có sự lạnh nhạt. Phải hâm nóng lên nhiều.

Đã là buổi chiều, cả đoàn lên xe đi không đến số 4B đại lộ Invalides mà số 2 quảng trường Rio-de-Janeiro, về nhà Jean và Monette, một căn nhà to, trang trọng thể hiện tư cách của bà vợ hơn sức sống của vua Jean. Dĩ nhiên ông không hoàn toàn sống ở đây. Hôm ấy, nhà Monette đầy người. Tất cả những người thân có thể tập trung được những người hiểu biết tường tận về nghề nghiệp, các mưu sĩ là những người chào hàng có giá trị, những "ông vua" bặt thiệp. Tất cả đều những người tốt, vua Jean không tiếp những kẻ bất lương những người vô ích cũng không. Tất cả, ông biết từng người, tên họ và những công việc họ có thể đưa tới, có đi có lại. Đây là một triều thần, không phải triều thần trại lính như đám thân cận mà triều thần tài chính gắn với vinh quang của ông. Tất cả những cái đó ẩn nấp dưới những dào dạt thán phục. De Lattre rất bận rộn với thế giới quan trọng này, phân biệt, đối xử theo sự xứng đáng của họ. Một de Lattre rạng rỡ với nghìn bàn tay, nghìn câu nói, nghìn ý tưởng.

Allard dụt rè hỏi:

- Chúng tôi muốn trình bày bài diễn giải của ông. Hội đồng quốc phòng họp vào chín giờ sáng ngày mai...

- Chốc nữa ở đây, sau bữa ăn tối.

Mọi người ra về, còn lại đám thân cận. Ăn xong đại tướng quay lại bảo họ:

- Bây giờ tôi thuộc về các anh đây.

Và ông lấy phong thái thoải mái, cảm giác như không biết đọc. Nhưng rồi ông kêu lên nhiều, lựa chọn từ ngữ. Sau trang đầu:

- Ngu ngốc. Thô lỗ. Đần độn. Tôi cho là thế đấy...

Một ông đầu lạnh, cứng rắn, quý phái, nét mặt đều đặn và mắt xa xăm, cả một khối đá khéo cắt gọt, ghi chép vào một cuốn sổ. Cần mẫn, im lặng; người ta không thấy, không nghe ông lên tiếng nhưng ông vững chãi ngồi đấy. Đây là một nhân vật không sang Đông Dương với de Lattre nhưng đảm bảo hậu phương của ông ở Paris. Đấy là Francois Valentin.

De Lattre tiếp tục nhận xét, theo cách ấy, trang hai, ba, bốn. Được nửa bản báo cáo, ông nói không khách sáo:

- Chỉ là rác rưởi.

Và vứt tập giấy xuống sàn nhà. Nhưng bình tĩnh, không giận dữ, chỉ giải thích cho nhóm người xung quanh:

- Các anh là một lũ ngu dốt, những người lính. Valentin, anh viết lại cho tôi. Anh là một người chính trị, biết rõ các nhà chính trị...

Mọi người đi hết. Valentin ra về. Ở nhà, lúc mười một giờ đêm ông ta bắt đầu "đẻ trứng". Không sợ hãi, không ngớt ngần ngừ, không mệt mỏi. Chiếc máy chữ làm "lợi ích quan trọng", viết bản báo cáo theo yêu cầu, tính toán hoàn hảo cho vua Jean và những cái ông cần.

Suốt đêm, Valentin một mình viết văn bản, viết lại sạch sẽ từng chương. Năm giờ xong; bảy giờ mười lăm phút ông đến số 2 Quảng trường Rio-de-Janeiro. Cả đám thân cận đã có mặt ở đấy, lặng lẽ chờ trong phòng khách. Vua Jean xuất hiện, vừa ngủ dậy. "Đưa bản tường trình cho tôi", ông nói với Valentin tươi tỉnh, vững vàng và sạch sẽ như một đồng xu mới. Đại tướng chưa cạo râu, mặc áo dài trong phòng, lơ đãng cầm lấy tập giấy, vừa uống cà phê vừa đọc nhanh: "Hoàn hảo, tốt lắm. Anh hiểu tôi..." Valentin chỉ làm công việc bình thường thôi. Nhún nhường càng tỏ rõ sự có mặt mình là quan trọng. Ông hơi mỉm cười, cả đám thân cận lặng thinh.

"Ông chủ" đi cạo râu. Ra khỏi phòng vệ sinh, ông hồng hào, đôi mắt ánh lên, sung mãn, thông minh, đẹp đẽ. Còn người chỉ huy. Làm sao ngờ được có bao giờ ông mệt mỏi, lo lắng? Cả người ông bốc lửa và tin chắc. Ông đi đấu tranh với những phương tiện tối đa. Chín giờ kém mười lăm phút ông cùng với người của mình đến Hội đồng quốc phòng.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Chín, 2021, 05:23:39 pm

Một cuộc họp lớn. Tất cả những "ông lớn" của thời đại: Queuille, Pléven, Letourneau, Juin, Jules Moch... De Lattre biến đi với họ vào cuộc bàn luận quyết định. Đám thân cận chờ ở tiền sảnh. Khi "ông chủ" trở ra, ông có vẻ hài lòng, một cử chỉ nhỏ báo trước với những người trung thành: "Thắng rồi".

Nhưng có thực sự thắng không? Để thuyết phục những người đối thoại cứng đầu, vua Jean đã đánh một đòn lớn. Ông làm cho "họ sợ" bằng mối họa da vàng mới: việc "đỏ hóa" những người da vàng bằng quân đội Mao sẵn sàng nhảy vào Đông Dương. Ông kể lại tướng Lâm Bưu "Napoléon đỏ" sẽ tiến xuống biên giới Bắc Kỳ với hai trăm năm mươi nghìn quân lính. Tất cả xảy ra như Trung Hoa đã quyết liệt đưa quân vào Triều Tiên, đang có ý đồ mở một mặt trận thứ hai.

Qua lời nói của de Lattre là sợ hãi, hoảng hốt. Mánh khóe gây "sợ hãi" có kết quả. Thậm chí quá đáng. Vì Trung Quốc, sự đe dọa Trung Hoa là con dao hai lưỡi. Đây là điều đáng lo. Những nhân vật lớn trong Hội đồng quốc phòng lần đầu tiên thấy trước mặt mình bóng của Mao, con ma đáng sợ. Cho đến lúc đó họ không nghĩ đến điều ấy, không tin như vậy: ít nhất là họ, vì đối với người Mỹ, như ông Hồ chưa đủ. Bác Hồ có từ lâu nhưng họ mới phát hiện ra chỉ mới mấy tháng, hoàn toàn sửng sốt với con đường tử địa số 4.

Vua Jean đánh hơi thấy. Trước những gương mặt lo âu, ông để số lùi, chỉ vừa phải. Ông cảm thấy nếu làm những ông này sợ quá, họ sẽ bỏ ông, không bảo vệ ông và cuộc chiến tranh của ông nữa. Và chính ông, do bịp bợm, mánh khóe quá, sẽ gây "xẹp hẳn tinh thần". Thật buồn cười! Thế là de Lattre bắt đầu làm cho họ yên lòng, tô hồng tất cả, tỏ ra mọi việc sẽ "thu xếp tốt", ông sẽ mang về cho nền Đệ tứ Cộng hòa một chiến thắng quyết định với điều kiện người ta cấp cho ông mười lăm nghìn người: sĩ quan và chuyên gia, những tiểu đoàn xung kích và rồi vũ khí, tiền bạc.

Đây cũng chính là yêu cầu của Carpentier khốn khổ bị de Lattre hạ nhục và khinh khi một năm trước đấy ngay trước những đợt rút quân của ông này. Dĩ nhiên qua miệng của de Lattre điều đó vang lên tuyệt diệu, đẹp hơn nhiều. Kết luận, ông đề nghị "bỏ phiếu tín nhiệm"; người ta phải tin ở ông. Và cuối cùng những ông có quyền hành ở Hội đồng bị thuyết phục, yếu thôi. Để hoàn toàn "nắm được" họ, đại tướng càng hứa nhiều. Phép lạ là người kình địch, suốt đời, quyết liệt, người duy nhất ông sợ trong số "chỉ huy lớn", ông Juin mà ông có những tình cảm phức tạp, nhập nhằng, một tình bạn đầy ác tâm, một nỗi giận kìm nén bao gồm cả kính trọng, lại nâng đỡ ông tận tình. Như đối mặt với đám dân sự không dứt khoát, sợ sệt, không biết làm thế nào đành chấp nhận, các "thiên tài" chiến tranh tìm lại sự liên kết.

Chỉ một nhân vật không mềm lòng. Một người cao lớn dáng đi õng ẹo, đen và xương xẩu, tốt nghiệp Bách khoa mải mê công việc dân sự. Đấy là Junles Moch. Vừa là thủ lĩnh một cộng đồng Do Thái, mục sư, người thông thái, ông là người làm nền Cộng hoà mất vui. Tài năng, trung thực, rất bướng bỉnh, thông minh, vô cùng tin tưởng vào những lập luận thông thái rởm thường có lý, nhà tư sản lớn này với niềm tin chắc, phấn đấu cho một xã hội trên cơ sở kỹ thuật chi phối, triết lý, nguyên tắc. Dĩ nhiên ông không thích những viên tướng "bốc đồng", sôi sục dù họ đã ngũ tuần. Ông không thích de Lattre. Không may, ông lại là một bộ trưởng quan trọng.

Lẽ tự nhiên ông không tin vào tính chất quá đáng, việc dàn dựng của vua Jean. Ông hỏi:

- Ông có chắc chắn giữ được những cam kết của mình nếu người ta chấp nhận tăng cường cho ông? Tôi không bị thuyết phục tí nào. Tốt hơn nên đàm phán.

Dù sao de Lattre cũng thắng lợi. Ông bảo Allard, con người của "tổ chức" và của những nguồn hậu cần:

- Anh đến các văn phòng nắm lấy cho tôi mươi lăm nghìn người và đưa nhanh sang Đông Dương. Nếu không tôi còn phải chờ lâu đấy...

Các ban phòng, các tướng tá, sĩ quan làm việc với nét mặt đặc biệt của lính văn phòng và tiền sảnh. Hầu hết thiếu một phong thái mà nền Cộng hoà có thể yên tâm thêm vào một lối bao dung lén lút. Họ không nói thẳng thừng mà giơ tay lên trời kêu: "Nhưng... Chỉ là những "nhưng". Đối với họ, tất cả đều khó khăn, không thể. Vì tìm đâu ra những phương tiện đã hứa ở chỗ không có gì đó? Tóm lại, ý muốn là một việc, thực hiện là một việc khác.

Bốn mươi tám giờ sau chẳng có gì tiến triển. Thực tế, ban tham mưu nói "không". Tuần lễ mắc mớ! De Lattre mặc cả khắp nơi! Cãi cọ với tướng Blanc, tổng tham mưu trưởng với lý lẽ chống cuộc phiêu lưu: "Không có cách nào cung cấp những đòi hỏi của ông mà không vứt bỏ tất cả. Quân đội xây dựng lại ở Pháp là để bảo vệ đất nước. Mười sư đoàn hứa với Eisenhower nhằm chống giữ Phương Tây. Ông muốn sao, bản thân đất nước, Châu Âu phải vượt qua trước những công việc nguy hiểm ở Châu Á..." De Lattre nằn nì. Lập luận dài dòng vô ích. Ngõ cụt...


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Chín, 2021, 05:24:19 pm

Nhưng vua Jean lại cầm gậy hành hương, tự đi vận động cho cuộc thập tự chinh của mình. Số 4B đại lộ Invalides là kho đồ thánh, là sở chỉ huy của ông. Đám thân cận "đợi mỏi mòn" ở đấy. Ông thỉnh thoảng đến đó như một tia chớp để trao đổi mật hoặc ra lệnh. Buổi sáng ông biến mất và xuất hiện lại với Monette hoặc người của mình vào lúc chín, mười giờ đêm. Cả ngày ông đi từ cửa này đến cửa khác, làm việc ở từng nhà. Gặp thường xuyên tổng thống Cộng hòa Vincent Auriol, các bộ trưởng từng người một. Không có gì làm ông nản lòng. Tiếp xúc với những người anh em Hội Tam điểm, các tổng giám mục, giám mục, những nhà tài chính, những viên chức cao cấp, các đại sứ. Báo động các nơi, người ta nói nhờ vào thiếu tá R..., trưởng văn phòng của ông ở Paris.

Phục vụ de Lattre, R... giật dây cánh tả; ông ta có vị trí ở phía này, vận động trong các nước Phương Đông hoặc những môi trường tương tự, ít nhất cũng thuyết phục được. Lu mờ và phục vụ tốt.

De Lattre thu xếp để có một người tin cẩn thực hiện ở mỗi lĩnh vực. Thực ra, giành giật được thật vất vả, một thắng lợi nghèo nàn thuyết phục các chủ tịch và bộ trưởng, và cả tướng Blanc. Bao nhiêu lập luận tế nhị! Phải bốn hoặc năm cuộc họp sôi động, quyết liệt, của Thượng viện để đi đến thỏa mãn de Lattre, không kể các cuộc họp ban, phòng, không kể Vincent Auriol. Sự sa lầy trong màu mè kiểu cách. Nền Đệ tứ Cộng hòa nhường bước mà chẳng hiểu gì, chỉ để làm vừa lòng vua Jean mà họ không dám nói "không" dù Đông Dương làm mọi người nhức nhối. Nhưng dù buộc phải để cho làm, họ không đi đến chỗ quyết định một điều gì, không có một biện pháp cụ thể nào.

Tất cả đều không thể. Không đủ quân tình nguyện đăng ký làm lính đánh thuê. Không có vấn đề kéo dài thời hạn phục vụ trong quân đội. Cuối cùng, trước những kêu gào, chứng minh của de Lattre người ta thoát ra bằng giải pháp dễ làm, giải tán một số trung đoàn của Bắc Phi: trả quân lính về cho bộ tộc họ để trưng dụng khung cán bộ cho de Lattre vốn cần sĩ quan và hạ sĩ.

Vậy là rút quân ở Bắc Phi cho Đông Dương xa xôi nhưng ai nghĩ ở đây ít lộn xộn, ít nổi dậy hơn? Và vua Jean khẳng định:

- Tất cả là ở Đông Dương; phải chiến thắng ở đây. Vì nếu mất Bắc Kỳ và biên giới Trung Quốc, việc thất bại dần dần bao trùm, khối Liên hiệp Pháp sẽ tan rã và chìm hẳn.

Đòi hỏi như vậy đã quá nhiều. Bố Queuille, thủ tướng chiến tranh lặng lẽ chuẩn bị âm ỉ cho nước Pháp, bảo:

- Đại tướng, những số lượng chuyên viên, kỹ thuật viên ông muốn có, tôi không cho hẳn mà cho ông mượn một thời gian để ông thắng. Sau đó ông trả lại cho tôi, càng nhanh càng tốt.

Thoái thác. Tranh luận giữa nhà chính trị già sợ sệt ngập ngừng và vua Jean hung hăng. Và để mang được trọn gói, ông này chấp nhận cầm cố tương lai. Ông cam kết điều nghiêm trọng nhất, hứa quá lắm là một năm sẽ đập tan các sư đoàn của ông Giáp. Ít nhất ông có thể trả lại cho nước Pháp lực lượng tăng cường ngắn hạn, trong thời hạn cần thiết để chiến thắng quân Việt. Thậm chí đã đặt một ngày giới hạn: mồng 1 tháng bảy năm 1952.

De Lattre bùng lên vui sướng! Tự hào, tinh nghịch khoe khoang, ông hớn hở trong những bữa tiệc huy hoàng. Nhưng cũng thường có trên nét mặt ông những bóng đen phân vân, những thể hiện lo lắng kín đáo. Như thường lệ trước tâm trạng không chắc chắn, ông hỏi từng người trong đám thân cận:

- Tôi có đi quá xa không? Tôi có thể sẽ giữ được lời hứa không? Phải chăng đã quá mạo hiểm để tranh thủ được nhanh? Thậm chí tôi sẽ thất bại trong cuộc đấu với thời gian và quân Việt chăng? Phải chăng sẽ bị dồn vào bước đường cùng vì không làm gì được? Nhưng trò chơi đã đưa ra, không lay chuyển được. De Lattre biết thế. Dù sao ông chẳng có gì để tự trách cứ. Ông đã "bịp" vì bắt buộc, vì công việc. Nếu ông nói sự thật về cuộc chiến sẽ chẳng có gì. Không thêm được một người. Vậy là ông vứt lên bàn cân vinh quang, tên tuổi, danh dự của ông để đảm bảo chiến thắng. Những ông bộ trưởng khốn khổ với tinh thần công chứng viên! Vua Jean khốn khổ! Vì ông bị buộc chặt, biết người ta luôn luôn đòi hỏi: "Việc tiêu diệt quân Việt ra sao? Thanh toán Hồ Chí Minh thế nào? Nền hòa bình của ông đến đâu rồi?" Từ nay ông tự giam hãm mình phải thắng.

De Lattre có dối trá không? Chắc bản thân ông cũng không biết. Dù sao những lực lượng tăng cường ấy, ông cần có và có ngay. Dù chỉ để "trụ vững" khỏi thất bại. Sau đó ông sẽ xoảy xở, tìm cách để thắng... Trong lúc chờ đợi, việc cần thiết là "nhận được" sĩ quan, ca-nông, tiền bạc của chính quốc rất bủn xỉn ấy.

Hơn nữa, còn vấn đề tâm lý. Làm cho người ta tin tưởng vào thắng lợi để đánh thắng. Thuyết phục không chỉ Vincent Auriol, Chính phủ, Nghị viện mà cả người Pháp bình thường, người đường phố, toàn dân tộc. Cũng là thuyết phục cả toàn cầu, nhất là Washington sau này ông sẽ đi "gõ". Và rồi đấy là cái được cho Đội quân viễn chinh, cho quân lính ông, Bảo Đại, Trần Văn Hữu, các loại. Đối với vua Jean chỉ một thái độ của người chiến thắng! Đưa ra lòng tin, bản thân ông cũng tin vào đó. Vả lại, cuộc chơi đẹp, cử chỉ, việc cá cược tuyệt vời xiết bao!


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2021, 08:32:59 pm

Trước hết là sự huyền hoặc. De Lattre ở Paris tích cực chạy chọt. Trong mấy ngày ông hơi quên cuộc chiến tranh, ông Giáp, việc phản công của quân Việt đã như mưng mủ nhưng vẫn chưa vỡ ra. Mỗi ngày vua Jean nhận được hàng ki-lô điện tín nhưng bình tĩnh kỳ lạ đối với những gì liên quan đến cuộc chiến. Ông tuyên bố: "Không có gì, chỉ là việc gây rối thôi, tôi muốn ở lại Paris thật lâu, cảm thấy tự cao, đẹp, phần nào anh hùng khi đấu tranh ở các bộ thay vì đánh nhau với người Việt”.

Ở bên kia, những "kẻ ngu xuẩn” nghĩa là Linares và Salan điện sang rất bi quan. Theo họ, tình hình căng thẳng: đánh nhau trên toàn mặt trận từ Vĩnh Yên đến bờ biển, mỗi ngày mỗi khốc liệt. Và thực sự không hiểu được ý đồ quân Việt như thế nào. Ông già Gonzales, trước sự lộn xộn đẫm máu ấy, đề nghị đánh vào chỗ đã dự kiến phía bắc Đông Triều, với những đoàn cơ động tập hợp ở Lục Nam. Ông dám điện: "Thưa đại tướng, đã đến lúc chúng ta đưa lại lực lượng ra". De Lattre giận dữ, hét lên: "Không có gì xảy ra đâu. Không được làm gì, phải chờ tôi, không có tôi không tung quân vào đâu cả. Vả lại, sao lại có những chuyện ấy? Tôi đã dự kiến tất cả". Thực tế hàng ngày hai, ba bốt bị hạ mà quân Pháp không phản ứng gì. Họ chỉ có một số biện pháp sơ đẳng bảo vệ Hải Phòng hơn - không biết vì sao ở đây lộn xộn hơn. Biện pháp đơn giản: tăng thêm một số lính trong các lô-côt của vành đai bê tông bảo vệ cảng. Nhất là báo với đô đốc hải quân Ortoli sẵn sàng cảnh giác, dội súng và đưa tàu LCT, thậm chí tàu lớn vào sông Bạch Đằng khi có mật hiệu. Đây là sông tiêu tự nhiên vùng lầy hôi hám thường ngày vấy bẩn Hải Phòng nhưng lần này rất có ích. Nó là phòng tuyến bảo vệ tốt nhất đối với thành phố ngay dưới chân những ngọn núi cuối cùng của Đông Triều nguy hiểm.

May mắn cho vua Jean! Ông đi vắng là vận may kỳ lạ cho ông. Vì nếu ở Đông Dương, ông sẽ làm theo mệnh lệnh ông cấm Linares, sẽ hoạt động theo sức ép vào Lục Nam, sẽ tung lực lượng ra, nghĩa là những đội cơ động. Để làm lại một Vĩnh Yên lớn, táo bạo, vinh quang hơn. Cú chặn đánh và đuổi theo để tiêu diệt những sư đoàn thép chính quy của ông Giáp và ông sẽ rơi vào bẫy. Quân đội ông, sau khi đánh vỡ một lốp "vỏ bọc" mỏng, sẽ rơi vào chỗ trống không rất khó ra, khó tập hợp lại cho cuộc chiến thực sự phát động ở chỗ khác cách đấy một trăm cây số.

Vì quân lính, dân công, những khối đông của ông Giáp không còn ở giữa vùng núi như người ta tưởng nữa. Đối diện với Lục Nam chỉ có mấy tiểu đoàn đỏ đi lại như cả những sư đoàn đầy đủ. Quân đội ông Giáp đã ra đi, hoàn toàn biến mất, tiến lên phía trước trong bí mật của rừng, im lặng, ngụy trang hoàn hảo. Họ đi ngày đêm về phía nam, cho đến những sườn núi cuối của Đông Triều, đến sông Đá Bạc, cách Hải Phòng không đến ba mươi cây số.

Ai ngờ được điều đó? Người ta không biết gì hết: thám báo không nói gì và rừng giấu đi tất cả. Do trời âm u, đen đặc gần như mỡ, những chiếc Morane thám thính không hoạt động được, không thấy gì trong vũ trụ hoàng hôn thường xuyên và màn đêm không sao này.

Sự chờ đợi nặng nề. Quân Việt tấn công khắp nơi. Gần Vĩnh Yên cũng tìm được một hoặc hai sư đoàn quân địch. Trước Hà Nội một lần dân chúng thức dậy ban đêm vì tiếng súng lớn: một khẩu đội 105 ly giải phóng một làng bị chiếm chỉ cách thủ đô mấy cây số. Gần Lục Nam và phủ Lạng Thương có những trận đánh nhiều giờ liền. Nhưng những đội cơ động triển khai tốt, đẩy lùi những làn sóng đỏ. Gần như khắp nơi các bốt rơi rụng như những hạt nho trong chiếc bánh người ta cắt để ăn. Nhiều bốt bị chiếm dọc sông Đá Bạc mà không ai làm gì được. “Ông chủ" vẫn chưa trở lại. Và trong các ban tham mưu, các đơn vị đã có người nói: "Cũng như thời kỳ của Carpentier thôi". Quân lính đã tự hỏi việc bố trí của vua Jean có thực tốt không. Linares và Salan mặt càng dài ra.

Tình hình xấu đi. Đêm 23 sáng 24 tháng 3, ba sư đoàn xung kích của ông Giáp xuất hiện từ Đông Triều xông vào đường 18, một con đường nhỏ không quan trọng dọc theo con sông Đá Bạc. Đây là một con đường cũ với những đồn bốt cách quãng nhau bố trí trên bờ giữa những ngọn núi và cửa sông không thành dạng. Ở đây có những mỏ than cũ bây giờ bỏ đi. Người ta khai thác than khối lượng lớn, mỏ lộ thiên ở Hòn Gai cách đấy năm mươi cây số.

Thế nhưng đây là một chiến trường tốt. Khối quân Việt lao vào những bốt đơn độc, hoàn toàn không bảo vệ được và không có ai đến cứu. Sau những cuộc giáp lá cà khốc liệt quân lính bảo vệ Uông Bí và Yên Lập thoát ra, chạy vào bóng tối và rừng núi. Khắp nơi, ở các cơ sở nhỏ với vài sĩ quan hoặc hạ sĩ quan chỉ huy một nhóm pháo thủ Sénégal, chiến đấu vô vọng, chống cự với cái chết. Trong một đêm quân địch xuyên một "lỗ hổng" khoảng ba mươi cây số trên đường 18, phá huỷ sáu bốt và năm chiếc cầu. Họ đặt mìn phá vỡ bể lọc và hệ thống dẫn nước ngọt cho Hải Phòng. Dân chúng hải cảng không còn nước uống, mỗi xô nước đã bán với giá mấy đồng bạc.

Ban ngày quân Việt bỏ lại những nơi chiếm được trong đêm. Nhưng họ ở ngay gần đấy, dưới chân núi, ngụy trang kỹ trong rừng. Khi bóng tối trở lại, họ cũng trở lại trên con đường 18, lao vào những mồi mới. Họ không hề cố vượt vùng đầm lầy sông Bạch Đằng để tấn công thẳng vào Hải Phòng mà mở rộng cuộc tấn công dọc theo con đường về phía biển và vịnh Hạ Long muốn chiếm một phần rất rộng những mỏ than Bắc Kỳ; dĩ nhiên không quan trọng về chiến lược, nhưng tác động mạnh vào nguồn thu nhập của Paris, đến những người khai thác và làm vua Jean mất mặt nếu bị mất đi! Một đòn đánh hạ ông này cũng chắc chắn như một thất bại quân sự.

Tuy vậy ban đêm triển khai lên trục con đường 18, các sư đoàn ông Giáp tiến về hướng khác: về vùng châu thổ. Nếu họ tiếp cận Hải Dương và xuống đến đồng bằng, trên con đường Hà Nội đi Hải Phòng để quay lại đánh Hà Nội hoặc đánh Hải Phòng sẽ là thảm họa hoàn toàn, sự thất bại của Đội quân viễn chinh.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2021, 08:34:08 pm

Các ban tham mưu lúng túng ghê gớm. Tình hình nghiêm trọng, phải cấp tốc có một quyết định. Thế nhưng trong các Phòng Nhì, Phòng Ba vẫn dẫm chân tại chỗ. Người ta sợ vua Jean hơn cả quân Việt. Vì ai dự kiến được phản ứng của ông trước những biện pháp áp dụng trong khi ông vắng mặt? Khi về có nhiều khả năng ông cho những biện pháp ấy không tốt, đáng sợ và sẽ rất giận dữ.

Tất cả không khí lúc ấy chứa đựng câu nói của một trong những "người có trách nhiệm” của Đội viễn chinh:

- Làm sao đây? Khi không có de Lattre ở đây, giành được chiến thắng là rất xấu. Nhưng cũng không để bị thất bại. Mọi việc ấy đều rất khó...

Và rồi Linares, Salan không tin chắc mình về mặt quân sự. Họ vẫn không thấy rõ được những ý đồ của ông Giáp, tự hỏi: "Cạm bẫy ở đâu? Làm sao để không rơi vào?" Người ta tự thấy mình là con thú bị săn đuổi và cả những đội cơ động.

Ở Bắc Kỳ mọi người tìm kiếm mưu kế. Ý kiến phân tán. Một số người vẫn tuyên bố: "Chúng ta đừng làm gì cả. Nhất là không gửi quân tăng cường trên đường 18. Mục đích của ông Giáp là kéo lực lượng chúng ta vào ngõ cụt ấy để đánh chỗ khác. Đừng để bị lừa. Chỉ có mấy bốt nhỏ, cứ để bị hạ. Chúng ta chờ khi quân địch bộc lộ rõ để đưa ra hết mọi phương tiện, đúng như cần thiết".

Những người khác nói: "Cuộc tấn công thực sự là ở con đường 18. Nếu sự tàn phá đổ tràn lên đấy, tình hình rất nguy hiểm. Phải làm nhanh, rút quân tập trung vô ích ở Lục Nam và tung vào cuộc chiến. Phản công đồng loạt. Nhưng có thể đấy là điều quân Việt mong muốn. Có lẽ họ đã tính toán và hy vọng như vậy. Khi các đội cơ động của chúng ta lao trên đường, lưới sẽ khép chặt họ lại. Vì các sư đoàn ông Giáp nấp sẵn trong những tảng núi cuối cùng ở Đông Triều ngay gần đấy sẽ bốn phía tràn vào họ với một vòng vây bao la và tiêu diệt quân Pháp bị dồn vào một dải đất giữa núi và nước".

Dù những ý kiến khác nhau một kết luận cuối cùng đặt ra cho mọi người: không dấn thân vào con đường 18. Do đó không đi cứu các bốt bị vây hãm. Không hành động, không làm gì cả. Kiên trì chờ de Lattre trở về và để ông ấy chịu mọi trách nhiệm. Ông quyết định. Nếu có người thua thì sẽ là ông ấy. Trong lúc chờ đợi không cho báo chí và thế giới biết gì hết. Đấy là sự im lặng của chờ đợi mà những sở chỉ huy lớn của các sĩ quan cẩn thận xếp những bức điện về người chết trên đường 18, việc cầu cứu chán nản và vô ích của họ.

Ở Paris vua Jean thong thả đọc những bức điện từ Bắc Kỳ tới. Vẻ nghiêm khắc, không một lời, ông chuyển cho Cogny đọc. Ông này chỉ nói:

- Tình hình chuyển sang chua như giấm. Tôi không thích thú gì những tin tức này. Phải trở về thôi.

- Chúng ta trở về.

Đấy là ngày 26 tháng ba. Chuyến đi còn vội vã hơn khi de Lattre rời Sài Gòn sang Paris nhiều. Không từ biệt trịnh trọng, chẳng thủ tục, dàn diễn gì. Chỉ mấy giờ là tất cả sẵn sàng. Ở sân bay Orly, đám thân cận ngồi chen nhau trên một chuyến "đặc biệt". Trước khi cất cánh chỉ mấy nắm tay với những người thân tín, chỉ mấy lời với Monette cao lớn, tư cách: "Tạm biệt. Tôi sẽ chú ý trông chừng Bernard..." Và rồi vài điều căn dặn khẽ Valentin về cách trở về rất nhanh này với Chính phủ: "Nói với các bộ trưởng tôi phải có mặt đúng lúc ở đấy. Tôi bảo đảm tất cả".

Trên máy bay, de Lattre có nét mặt u tối nhất. Ông mệt nhừ người, mười ngày ở Paris làm ông hết cả sức lực. Rét, sốt, thân thể đau đớn nhưng không ngủ được. Ông suy nghĩ. Bốn tháng trước đây sang một Đông Dương xa lạ, hầu như hỏng hết, ông là một người anh hùng thử làm cái không thể. Lần này ông trở về Đông Dương "của ông", đã làm lại, xây dựng lại, thực sự là công trình của mình. Vì vậy nhất thiết phải chiến thắng hoặc tự sát.

Sự đơn độc đáng sợ của một chỉ huy chiến tranh! Nhưng vua Jean bình tĩnh lại. Ông quát:

- Tôi chắc chắn ở Bắc Kỳ họ chẳng hiểu gì hết. Họ nghi ngờ như tôi là một kẻ đào ngũ. Tôi tới đây, và họ sẽ thấy...

Mỏi mệt, đau đớn, nhưng đại tướng kêu lên:

- Bản đồ. Giở ra cho tôi xem...

Và ông cúi xuống đấy, tìm tòi. Nhiều phút, nhiều giờ. Với từng người, ông hỏi:

- Còn anh, anh nghĩ thế nào?

Nhưng không ai có ý kiến rõ rệt. Bản thân ông cũng không. Nghiên cứu mọi đường gạch, đường cong thể hiện Đông Triều, nắm rõ mọi dấu hiệu, mọi đường nét, con số nhưng không hiểu. Những cái ấy không "nói" với ông điều gì, không gợi trí tưởng tượng, trực giác, sáng kiến tài năng của ông. Chỉ là một sự lẫn lộn không giải thích nổi.

- Thật không chấp nhận được chiến thuật của quân Việt. Không phù hợp với những gì đã biết. Hư hỏng, lộn xộn. Thế nhưng họ không ngu dốt. Họ đã sáng tạo ra cách gì vậy?

Hai ngày đêm bay. Bỗng vua Jean ra lệnh:

- Không dừng lại Sài Gòn. Đỗ hẳn ở Hà Nội. Ở đấy, chỉ huy cuộc chiến tôi sẽ tìm ra giải pháp. Tôi sẽ hiểu. Không để mất một giây. Nói với đội bay tất lực vào...

Bên ngoài sấm chớp khắp nơi, giông tố đáng sợ. Vòi rồng, mưa gió mạnh. Gió mùa đang bùng lên, cơn giận của trời.

Với thời tiết ấy, trưởng phi hành đoàn tới nói:

- Tình hình như thế này không thể vượt dãy Trường Sơn. Như vậy quá mạo hiểm. Phải hạ cánh ở Sài Gòn.

Bên ngoài là cực điểm. Trong máy bay, cũng đấu tranh kịch liệt! De Lattre điên lên, hét phi công cứ tiếp tục. Họ không nhường bước, cho là không thể được. Mỗi người trong đám thân cận cố làm cho đại tướng bình tĩnh lại. Cuối cùng đành phải đỗ xuống Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2021, 08:35:06 pm

Khi máy bay dừng lại ở Tân Sơn Nhất, de Lattre tự mở cửa, đứng đấy mấy phút, miệng há ra nhưng không nói một lời. Cuối cùng ông xuống khỏi cầu thang.

Hôm ấy là sáng 28 tháng ba. Vua Jean không để mất thì giờ, chỉ ba tiếng đồng hồ ở Sài Gòn đủ để thông báo với Hữu và "môi trường" Pháp-Việt về chính trị, tài chính, về thắng lợi của ông ở Paris, những tỷ và lực lượng tăng cường. Sau đó ra Hà Nội ngay, lần này đi Dakota, đến ngay tối hôm ấy. Ông triệu tập cấp tốc tất cả những người của ông có thể tập trung được. Ông bảo mọi người: "Phản bội. Bất lực. Các anh là hạng bét. Nhưng các anh sẽ thấy tôi chiến thắng ở Đông Triều như thế nào... Sẽ là chiến thắng lớn nhất về quân sự của tôi".

De Lattre giữ lời. Nhưng theo cách của Jeanne d'Arc. Không lôgic. Bằng hai cách nhìn, hai ngây ngất, hai kích thích, hai lần những tiếng nói nội tâm. Tóm lại là những phép lạ. Đấy là trận đánh huyền thoại de Lattre hơn thực tế. Hai linh cảm. Chủ yếu ở "Ngôi nhà Pháp" đêm đầu tiên. Sốt cao ông đi nằm, ngủ chập chờn, để một ngọn đèn đầu giường. Mở mắt, ông nhìn lâu vào tấm bảng treo tất cả những bản đồ tham mưu của Đông Triều. Một giờ sáng ông tỉnh hẳn, nhảy dậy kêu lên "Mạo Khê". Trong giấc ngủ chập chờn, ông đã đoán hoặc thấy điểm ấy, tên ấy giữa những mảng bản đồ thể hiện dãy núi. Từ đó mọi việc đã chắc chắn: ông nắm chìa khóa của trận đánh. Cuối cùng có giải pháp.

Tuy chỉ một bốt đơn giản trên con đường 18 nhưng là chỗ sông Đá Bạc kết thúc giáp đất liền. Quân Việt đến đấy để phục kích tiêu diệt nhưng không thấy nên bây giờ muốn rút ra triển khai trên vùng châu thổ. Muốn thế phải dỡ bỏ Mạo Khê, khu bản lề giữa đồng bằng và ven rừng để không còn trở ngại về sông núi. Mọi điều đã rõ: ý đồ của ông Giáp, việc ông ấy sẽ làm, việc phải làm. Không được để các sư đoàn đỏ đang sắp tấn công chiếm lấy chỗ ấy hoặc sẽ là tai họa.

Sau ý nghĩ lóa lên là việc thực hiện. Vua Jean gọi người tùy tùng trực: "Triệu tập ngay Sizaire cho tôi. Trong nửa giờ nếu anh ta không có mặt, tôi trừng trị anh đấy..."

Tại sao lại Sizaire, người ta không biết. Cho đến lúc đó de Lattre không chú ý đến ông, ngược lại gần như thất sủng. Nhưng chắc vua Jean đã tính toán ông ta là người của trường hợp này. Đây là một người cao lớn phương bắc, tóc vàng nhanh nhẹn và vô tư, đầu quý phái, nụ cười tươi, đùi cứng rắn và cầm can do một vết thương cũ. Ông đã khoảng năm mươi nhưng vẫn "cuồng tín”. Giọng nói to, vui vẻ dễ mến. Ông thường gầm lên như một con sư tử bị thương về sự sa sút tất cả, nhất là về lề thói quân sự. Và ông thiếu khôn ngoan đã quá tự hào trước vua Jean.

Hơn nữa Sizaire cao lớn cũng là một biểu tượng vinh quang. Thời kỳ Leclerc ông là người một mình, đã chiếm lấy Lạng Sơn và biên giới Trung Quốc. Sau đó người ta bỏ những chỗ ấy và lúc đầu de Lattre quyết định chinh phục lại. Vì vậy ông đã điều động ông ta đang đồn trú trên đất Pháp trở lại.

Nhưng cũng có điều đáng nói. Sizaire không chú ý, tôn trọng những cuộc "hội ý" lớn buổi chiều ở Hà Nội, vua Jean, Boussary và người của ông ba hoa hai, ba tiếng đồng hồ. Đối với ông, tất cả những diễn giải ấy là phù phiếm. Và rồi quan niệm của de Lattre về hệ thống bê-tông ông cho là "thiếu nhuệ khí", bảo vệ thay vì tấn công, từ bỏ thay vì hành động. Thậm chí ông thể hiện bất bình khi vua Jean kể: "Gazin đã nói với tôi... Phải thế này, thế kia. Trong ba tháng tôi sẽ có mặt trận duy nhất không bàn cãi được trên hoàn cầu". Sizaire không tin tí nào điều đó. Ông đã quá nhớ những mặt trận đẹp đẽ của Lạng Sơn, những công trình đồ sộ Decoux đã làm, trong tình trạng đổ nát, hoàn toàn bị phá vỡ, lần lượt do người Nhật, người Trung Hoa và người Việt.

Việc ấy kết thúc bằng một vụ tranh cãi và Sizaire bị đẩy đi. Bây giờ tìm lại ông trong Hà Nội thật khó khăn. Huy động bao nhiêu người, cuối cùng tìm ra ông lúc nửa đêm. Ông sửng sốt, khó bị thuyết phục. Người ta đưa ông lên xe jeep, dẫn tới "Ngôi nhà Pháp" vào phòng de Lattre đang nằm, sốt, mồ hôi nhễ nhại, xung quanh là Petcho-Bacquet và nhiều người.

Sizaire vào, nao lòng, chán ngán. Nhưng vua Jean vừa thở vừa thì thầm:

- A! Sizaire dũng cảm. Tôi thấy anh tươi tỉnh đấy. Vì sao anh mỉm cười?

- Hình như ông lại tín nhiệm tôi.

De Lattre kêu lên:

- Các ông thấy Sizaire chưa? Tôi gọi ông ta về là đúng... Và chồm dậy để nắm tay, ôm lấy ông:

- Thời gian này chúng ta hơi lúng túng, nhưng tại sao anh nhạy cảm thế? Sizaire dũng cảm, tôi dựa vào anh. Nếu chúng ta không hành động ngay sẽ hỏng hết. Quân Việt sắp tấn công Mạo Khê xa xôi, chẳng có gì, chỉ một vài trăm lính ngụy. Sau đó sẽ đến lượt thị xã Đông Triều và Bảy Chùa - không thể để những chỗ ấy vào tay bọn họ. Thế nhưng tất cả có thể triển khai từng giây phút, từng giờ một. Đây, anh nhìn bản đồ sẽ thấy ngay việc đe doạ chết người...

De Lattre nhổm dậy hơn để chỉ vào cả phần "góc" bản đồ:

- Anh thấy rõ chứ Sizaire? Anh hiểu chứ? Chính anh phải đi cứu Mạo Khê và Đông Triều.

De Lattre đã sẵn sàng ra mệnh lệnh:

- Anh đi lấy những đội cơ động anh cần, đang phân tán khắp Bắc Kỳ, nắm quyền chỉ huy và giữ Đông Triều cho tôi. Đừng để mất thì giờ. Anh có khó khăn trong việc tập hợp người đấy. Nhưng tôi muốn chiều mai người của anh có mặt ở khu Bảy Chùa và Đông Triều, đúng lúc, có trật tự, sẵn sàng xung kích. Và tôi muốn đêm sau đó anh đưa quân vào Mạo Khê, ở hai vị trí Mạo Khê - Mỏ và Mạo Khê - Nhà thờ.

Vua Jean nhìn Sizaire:

- Anh có hỏi gì tôi nữa không?

- Không, thưa đại tướng.

- Tôi biết anh chiến đấu ra sao. Nhưng tôi lệnh cho anh có mặt ở đó kịp thời vì đã chậm lắm rồi. Anh bạn già Sizaire, anh tự xoay xở lấy, khuấy động người của mình đi. Tôi đã chọn anh. Từ hai giờ sáng, anh là ông chủ sau tôi. Vứt bỏ Salan, Linares hoặc bất cứ ai cản trở, anh chỉ vâng lời tôi. Anh có mọi quyền hành, phương tiện, phải giữ cho tôi những vùng hẻo lánh ấy...


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2021, 08:36:03 pm

De Lattre đã quên tên như thường lệ. Ông lại ngả mình xuống gối vẫn lẩm bẩm câu nói với giọng hầu như không nghe rõ:

- Mình rất đúng khi tin tưởng vào Sizaire. Thật hài lòng...

Viên đại tá chào theo lối quân sự:

- Sizaire sẽ làm hết sức mình, thưa đại tướng.

Ra ngoài, đại tá là người có kinh nghiệm, là cựu binh vững vàng, nói với các sĩ quan của mình:

-   Trước nhiệm vụ rộng lớn, chúng ta hãy đi ăn ở khách sạn Metropole đã. Ăn uống để tăng thêm sức lực "đập vỡ quân Việt".
-   
Nhà bếp, bồi bàn được đánh thức dậy. Bữa tiệc giữa Sizaire và ban tham mưu của ông. Đại tá bình luận với người của mình:

-   Trò chơi cao tay. Vua Jean đã nói ông chỉ có tôi. Như vậy nếu ngày mai quân Việt vào Mạo Khê, ông không phải người có tội mà là Sizaire đã lừa dối lòng tin của ông...
-   
Tuy vậy, vừa ăn uống, với giọng rõ ràng của người đàn ông, với sự nhanh nhạy vững vàng, ông đọc lên như một ông vua, không ồn ào như vua Jean mà là vị chúa cao quý, điềm tĩnh, những mệnh lệnh của mình. Việc đầu tiên, thứ hai, thứ ba... Ông chỉ đạo sĩ quan liên lạc:

- Điện ngay, thật rõ ràng. Những tiểu đoàn tôi đã chọn đi trong đêm, ngay đêm nay, bật sáng đèn pha mà di chuyển. Điểm hẹn cho mọi người ở Bảy Chùa, không thiếu một ai.

Và ngay lúc Sizaire ăn uống đầy đủ xong, khắp Bắc Kỳ còn trong đêm tối, những đoàn dài khởi động để không lỡ hẹn. Đại tá, bụng no nê và trí óc sáng suốt, cũng đi đến đấy, họp các hiệp sĩ của những đội cơ động.

Trong thâm tâm, vua Jean đã chọn nhân vật với niềm "kiêu hãnh" của mình. Phải có một anh hùng Phương Tây, có bước chạy kỳ diệu. Đúng thế. Đây là một cuộc chạy đua tốc độ giữa những người Pháp đi ô-tô và tàu thuỷ trên đường và sông ngòi với người Việt đi bộ đường rừng. Những người này ngay đêm nay càng đang chạy tập trung lại thành khối. Người ta đã biết chắc như thế vì lần đầu tiên ở Đông Dương đã có việc thám thính ban đêm. Trước đây chưa hề làm do thiếu hạ tầng cơ sở và các loại chỉ dẫn. Nhưng de Lattre chỉ thị: "Chọn cho tôi một chủ bài, thực thụ". Đấy là một chiếc máy bay cũ trong cuộc chiến với Anh. Cất cánh bí mật không có đêm tối. Máy bay không thấy và người ta không thấy máy bay. Phi công bay trên vùng Đông Triều. Bỗng nhiên thấy bên dưới cả một làn suối lửa. Khu rừng giống như một thành phố có những con đường được chiếu sáng. Không phải bằng những bóng đèn điện mà hàng chục nghìn bó đuốc quân chính quy và dân công đến từ khắp nơi, từng đoàn trên đường mòn trong rừng và ở các chỏm núi. Đấy là bằng chứng các sư đoàn ông Giáp đang chuyển quân, chuẩn bị phản công. Toàn cảnh thiên nhiên là trại tập trung một quân đội thong dong trước con mồi. Tóm lại vua Jean đã không nhầm khi kêu lên "Mạo Khê, Mạo Khê".

Đối với Sizaire mọi việc tiến triển tốt để bắt đầu. Các đoàn quân và những đội tàu nhỏ đến Bảy Chùa trong ngày hôm sau như dự kiến. Một đợt tập hợp quân sự đẹp. Những khí cụ tốt, các sĩ quan tốt. Đoàn quân "cầu vồng" đủ các màu, tất cả kiểu cách Pháp, quân chính quốc, Ả-rập, những người da vàng, da đen. Và Sizaire, người khổng lồ, với nụ cười, giọng nói điềm tĩnh, dáng khập khiễng đẹp, loại cựu binh cao cả, thoải mái, lớn lao, muốn làm anh hùng, thông minh nhưng không muốn to tiếng. Tất nhiên "kiêu hãnh". Nhưng có đúng thông minh không?

Chiều 29 tháng ba, toàn bộ tập trung ở Bảy Chùa, vừa rất gần vừa rất xa. Mạo Khê chắc chắn sẽ bị tấn công ngay trong đêm. Vấn đề là còn phải đi ba mươi cây số, trong những khó khăn không tưởng được. Chuyển động theo đường vòng đã phức tạp. Nhưng tệ hại hơn nhiều đối với xe cộ của quân Pháp là trở ngại của thiên nhiên. Luôn luôn mưa phùn như tấm vải liệm, nước chảy rỉ ra lên mọi vật. Đường sá là sông bùn, gần như không đi được. Để vươn tới chỉ có con đường 18 mà xe GMC sa lầy và một con suối trở thành sông Đá Bạc, tàu LST đang sa lầy.

Từ Bảy Chùa trở đi, bước tiến kỳ diệu là sự "nhảy cóc" tại chỗ trong môi trường lỏng bám dính vào xe cộ và người. Để vẫn tiến lên người ta sử dụng mọi thứ, lăn đi, bơi đi, bước đi, bất kể ra sao. Những đoàn xe quân sự hỏng hóc được thay thế bằng xe "ca Trung Hoa", những xe địa phương không ra xe. Với những chiếc tàu hải quân bất lực, thêm vào thuyền, đò. Người ta đi bộ, bơi. Xe cộ vận chuyển được bổ sung bằng những phế phẩm Châu Á, xem ra buồn cười nhưng phù hợp, có hiệu quả hơn.

Ở chỗ kia sức ép của quân Việt tăng lên từng giờ. Không đi được nhanh, Sizaire chia đoàn quân của mình ra làm hai. Theo đường 18 ông cử đi những gì gấp gáp, cần thiết: một tiểu đoàn dù và một đại đội lê dương tiến vào Mạo Khê bố trí ở đấy và (hơn một nghìn người) phải không mệt mỏi đẩy lùi quân Việt đông vô số. Ông cũng cử một toán cao xạ. Súng ca-nông ở Đông Triều sẽ bao khung lính dù và lê dương trong vòng lưới lửa; dĩ nhiên chỉ những đạn cối dày đặc mới cho phép số ít người như vậy có thể "trụ vững" một thời gian cần thiết chống lại cả những sư đoàn.

Việc này cũng tranh thủ thời gian, từng giây một. Vì ngoài bùn lầy còn có những đoạn đường cắt, phục kích, mìn trên đường. Cũng có những chi tiết ngớ ngẩn, gần như không khắc phục được. Ví dụ để vượt con sông rộng chỉ có một con đò từ thời đầu chế độ thực dân, đã một hoặc nửa thế kỷ, hoạt động bằng người kéo những vòng móc đính vào dây cáp gỉ, và những việc ấy có lẽ dẫn đến thất bại hoặc thắng lợi trong cuộc chiến. Hét to "Mau lên, mau lên" cũng chẳng hơn gì.

Phần đoàn quân còn lại Sizaire cho lên tàu LST. Nhưng con suối tàu bơi đi là một lẫn lộn đất bùn, rác rưởi lũ lụt đổ vào từ nhiều nguồn trái ngược nhau, cảnh vật không rõ, không chắc chắn, nước, bờ, đất trời và mây, hơi nước, sương mù và mưa phùn. Tất cả mờ mịt trong xám xịt ẩm ướt. Thế là tàu mày mò, tiến, lui, hụt hẫng. Người ta thử mọi cách để thoát ra. Quân lính chối bỏ cách đi như thế, nhảy ra khỏi bùn nước như vậy và bì bõm qua mười, hai mươi cây số lầy lội hôi thối. Đêm tối trở lại nhưng Mạo Khê được thấy rõ trong đêm nhờ những ánh lửa, những bó đuốc đang bao trùm nó. Lửa cháy dùng làm tiêu điểm. Mỗi người tự nhủ: "quân Việt đã tấn công. Chúng ta đến vào giữa cuộc chiến, có lẽ quá chậm, vừa để bị đánh bại."


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2021, 08:40:59 pm

Sizaire đẹp đẽ đến trong tình trạng như thế nào: quần áo rách và bùn lầy. Một bản anh hùng ca đối với ông để đến Đông Triều! Đắm tàu LST. Tắm bùn để lên bờ. Dừng lại trên một đường nhánh, ông gặp một chiếc xe quân sự cũ một người Sénégal bình thản lái làm công việc thường lệ cho một bốt gần đấy. Đi qua một con sông nhờ con đò địa phương. Trưng thu một chiếc “xe Trung Hoa”, đuổi hết người và hàng hóa vốn đi khắp nơi như không có chiến tranh. Và như thế, khốn khổ và vinh quang hơn bao giờ hết, ông đại tá trước mọi người đầu tiên đến Đông Triều, nơi sẽ là cơ sở chỉ huy của ông.

Việc bố trí cấp tốc hoàn thành trong ngày hôm sau, giữa ban ngày nhưng gần như ban đêm vì mưa mù dày đặc. Sizaire ở trong thành thực dân cũ Đông Triều, một loại lâu đài vững chãi tường dày cắm sắt và mảnh chai. Một bên là đầm lầy, bên kia là sườn núi dốc. Xung quanh tĩnh lặng tuyệt đối nhưng bị đe dọa, o ép. Ở đây chưa đánh nhau nhưng cách hơn mười cây số người ta biết có hỗn chiến qua tiếng nổ và ánh lửa vọng lại.

Ngay gần Sizaire, dưới chân thành, là một nơi bố trí toán pháo binh. Tiếng “bumg” đầu tiên xuất phát rồi ba đội pháo nhả đạn không ngớt trong bốn mươi tám giờ liền. Đến mức nòng súng cháy đỏ lên. Đạn súng cối tàu LST chở từ Hải Phòng lên sông Đá Bạc được tiêu thụ ngay. Chúng được tháo dỡ từng viên, để rồi mấy giây sau rơi thành vòng kim khí xung quanh những người của Mạo Khê còn trụ vững, chiến đấu giữa làn sóng đỏ. Trước những đợt quân Việt tràn tới vẫn luôn phải khép chặt vòng tròn đạn xung quanh những người bảo vệ, những nhóm người ít ỏi chống cự với lực lượng lớn quân chính quy. Quân lính sống sót không ngớt gọi qua đài: “Chúng tôi xé nát chiến trường”. Nhưng cuối cùng pháo binh đã cứu tất cả, biến những làn sóng Việt tấn công thành từng lớp xác chết.

Lình dù và lê dương vào Mạo Khê lúc còn chưa có gì ở đấy. Dọc con đường 18, phía dưới, gần đầm lầy là một dãy vô tận những “gian hàng” trưng bày mọi sản phẩm xuất nhập khẩu cho đến những lọ nước hoa. Thế nhưng trong thị trấn nguyên vẹn kỳ lạ này, còn đầy những vật phẩm của cuộc sống, là một sự trống rỗng khác thường. Không một bóng người, một đứa bé bị bỏ quên, một bà già lẩm cẩm. Như cái chết trong một vỏ bọc nguyên vẹn. Trong sự vắng lặng ấy chỉ có một số người bảo vệ nghĩ mình đã bị kết tội chết. Những nguỵ binh trong các tháp canh, những người Maroca trong ba, bốn xe đại liên của một tiểu đội lưu động. Xa hơn một ít trong ngôi nhà thờ đồ sộ, có một số Sénégal, chỉ huy là một trung uý Pháp. Họ nhồi vào ngôi nhà Chúa những bao cát bảo vệ vô vọng, thậm chí không có tác dụng gì.

Khi tiểu đoàn dù thứ 6 BPC1 và đại đội 1 BEP, đoàn quân xung kích, xuất hiện ở Mạo Khê trống không này thì năm mươi nghìn quân Việt cách đó một cây số, phía trên một ít, ở khu mỏ. Trên ấy, giữa bụi than đen, đường ray, máy móc thời xưa, cuộc chiến xảy ra khốc liệt. Ở nơi cả một ngọn đồi than đá do cuốc xẻng đã khai thác, đào thành hang hầm một nửa là do cuộc bắn giết cuồng nhiệt đã một ngày một đêm. Ở nơi trước kia là đám đông cực nhọc cu-li lầm than, bây giờ là đám đông người chết. Không chỉ là cuộc tàn sát ghê gớm mà còn những hành quyết tinh vi.

Giữa trung tâm khu vực khai thác bỏ đi, trên đỉnh một ngọn núi hầu như bị san bằng trước kia giữa những sườn dốc trơ trọi, đá sỏi, một số ngôi nhà lợp ngói bẩn được xây dựng lại. Đấy là bốt Mạo Khê - Mỏ, được trung uý Toàn và người của ông bảo vệ, những người Thổ vùng biên giới Trung Quốc, những người miền núi Cao Bằng, Lạng Sơn gần đường số 4. Gần như toàn bộ dân tộc của họ trung thành với Việt Minh; chính trên vùng cao này trước kia Hồ Chí Minh xây dựng khu du kích đầu tiên. Nhưng những người này phục vụ quân Pháp, đi theo họ trong cuộc rút lui, vẫn tiếp tục phục vụ, là những “kẻ phản động”. Họ biết mình không được thương xót gì.

Toàn, địa chủ phong kiến được hiện đại hóa. Con người to lớn, vai rộng, khuôn mặt đầy đặn giữa đôi gò má cao, đôi mắt tàn nhẫn bằng đá đen và khi muốn, có nụ cười vui. Mọi nền văn hóa lẫn lộn trong người anh. Độc ác, vì anh là một hậu duệ của quân Cờ Đen xưa kia đến đây từ Trung Hoa Trung cổ từng đoàn tắm máu. Khôn ngoan vì gia đình anh thờ triều đình Huế, ông nội là một trí thức, một nhà thơ. Nhưng chú anh Vi Văn Định, chính khách đầu tiên ở Annam, sau đó gắn bó với Phương Tây. Và anh khi còn bé, sau khi học chữ Hán, triết lý Khổng Mạnh và “mười tám ban võ nghệ”, đã học trường Albert Sarraut ở Hà Nội và trường Saint-Cyr ở Pháp. Cuối cùng, ngoài sự lại giống về máu và đạo lý Châu Á, anh cũng là một quân nhân cổ điển của quân đội Pháp, một “cuồng tín” trẻ. Quân lính của anh trước hết là những triều thần của anh, những chư hầu tuyệt dối, hết sức vâng lời. Có khả năng cùng anh xuống tới thảm họa rùng rợn cùng vài hạ sĩ quan thuộc địa gắn bó với họ.

Thảm họa rùng rợn trong khung cảnh thê thảm vùng mỏ; khoảng một trăm người đơn độc khi các đội cơ động của Sizaire còn rất xa. Người ta chỉ biết chắc lúc bắt đầu. Ngày 29 tháng ba, trong đêm tối, vào một giờ sáng mọi súng hạng nặng của Sư đoàn 312 nhả đạn. Chiếc bốt bốc lửa đổ nhào, chôn vùi những xác chết và cả người bị thương trong đổ nát, những mảng tường còn đứng để trụ vững, vẫn chống cự.

Sau đó là một sự lộn xộn anh hùng, gần như huyền thoại. Ba giờ sáng trong đêm tối, từ những đường hầm một mỏ than cũ, hàng nghìn “tình nguyện tử chiến” ào ra. Về phía người Việt, đấy là những du kích cảm tử lao vào nổ mìn để mở đường. Đối với quân phòng thủ, phải bắn hạ trước khi họ đến gần hàng rào để phá tung ra. Giết thật đúng lúc làn sóng “cảm tử” những người mang bom ấy. Chiến binh của Toàn giết từng khối bằng lựu đạn, đạn lửa, đạn đum đum. Hai đợt xông lên như thế bị chặn lại khá xa. Những tiếng kèn nổi lên - hiệu kèn khàn, ghê rợn, thôi thúc của quân Việt. Lần này là quân chính quy, cả một quân đoàn mặc quân phục màu xanh lá cây, đội mũ lá có nguỵ trang, nước da vàng xám, xuất hiện từ những đường hầm cũ xông lên. Khác với những người lúc trước ôm mìn hoặc ngòi nổ im lặng tới phá rào, những người này vừa bắn vừa hét. Những tiếng hét ghê rợn để làm sợ hãi, tê liệt. Những tiếng nổ. Bắn móc-chi-ê, ba-dô-ka, quân Việt quét đi quét lại, làm tung mọi thứ, sáng rực vì những khối pháo nhân tạo khổng lồ. Trong mấy nghìn mét khối bóng đêm lác đác lên những tia lửa, những vạch, chấm, vòi đủ màu sắc. Và cũng đầy đủ tiếng ồn ào, chỉ tiếng kêu của những người hấp hối không nghe thấy được trong cảnh ầm ĩ ấy. Tiếng kèn đồng vẫn vang lên, bộ phận lớn quân chính quy chỉ còn cách mấy mét. Trong đổ nát Toàn tung ra một vũ khí bất ngờ: khẩu ca-nông 75 ly, cho bắn hết cỡ. Những toán người ngả xuống. Quân lính trong bốt, những người Thổ chai lỳ, nấp kỹ trong đổ nát, ném lựu đạn lân tinh; họ bắn súng MF hạ những người sống, kết liễu những người Việt hấp hối rất gần bằng những loạt đạn ngắn, chính xác. Quân Việt lùi rồi tiến, kèn vẫn thúc quân, kéo dài cho đến gần sáng. Bây giờ mọi loại ánh lửa nhạt hơn, lu mờ dần trong màu bàng bạc của đêm tàn. Bỗng nhiên có tiếng lộn xộn. Một suối phun kinh khủng. Một nhóm người mặc quần áo đen lẩn vào bóng tối còn lại, bò đến tận hàng rào, từng mét, từng bộ phận không bị phát hiện. Họ kiên trì, tiến lên như rắn bò, đẩy phía trước mình một gói to: năm mươi ki-lô chất nổ. Tai biến lớn, vừa tung toé vừa lay động, rung chuyển đất không để lại dấu vết gì. Thay vào chỗ ấy là một hố khổng lồ, hàng rào và lô cốt đổ sụp vào đấy. Quân chính quy gần đấy lao vào qua lỗ hổng lớn, một dòng người không dứt lúc bình minh. Để ngăn chặn họ chỉ có một hạ sĩ Pháp và mấy người Thổ. Cuộc giáp lá cà vô vọng với lưỡi lê. Lúc ấy, người ta kể lại (phải chăng là một sự bịa đặt gây cười?), những bà vợ giận dữ cầm búa, dao phạt và dao nhà bếp, lao vào đám lộn xộn, đánh nhau để cứu những người chồng của mình. Toàn, thân mình co quắp cho buộc mình vào một chiếc ghế, bình tĩnh, ngồi bắn vào đám đông trước mặt mình. Cuối cùng quân Việt bị đẩy lùi. Người ta lấp hố sâu bằng dồn xác chết và đá vào đấy.
__________________________________________
1.  Lính dù thuộc địa.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2021, 08:42:01 pm

Ban ngày ánh sáng mờ đục vì mưa phùn. Ông Giáp lại cho những tiểu đoàn tấn công Mạo Khê - Mỏ, nơi chồng chất xác chết nhưng vẫn còn người cố thủ. Những người của ông đến từ nơi xa hơn, ở bìa rừng, phải đi thêm mấy trăm mét. Họ chạy qua khoảng trống thành một hàng dày tiến lại gần. Rõ ràng ánh sáng ban ngày thuận lợi cho quân Pháp. Thế nhưng đoàn quân của Sizaire còn bì bõm, lúng túng cách xa mấy cây số. Tuy vậy đoàn tàu của đô đốc hải quân đã có mặt. Họ đi từ phía kia, hạ lưu, từ cảng Hải Phòng, qua phần sông Đá Bạc rộng, sâu hơn đã gần như một cửa sông. Những chiếc tàu bố trí theo trật tự chiến đấu, đều đặn chiếc này sau chiếc khác - như trong hình ảnh cũ của thế chiến thứ nhất. Tất cả bóng loáng, cờ phất phơ theo gió và súng chĩa về phía Đông Triều. Trật tự và kỷ luật. Những đoàn thuỷ thủ sạch sẽ, các sĩ quan không một vết bẩn trên quân phục màu trắng. Cuộc “chiến tranh sạch” mà người ta không vấy bẩn, đối nghịch hoàn toàn với “chiến tranh bẩn” của những người trên bộ, những “người vô gia cư” thấm đượm mọi rác rưởi, bùn và máu, những “người cục cằn” làm mọi việc và đủ thứ kinh hoàng. Ở đây, trên những toà nhà “Hoàng gia” như người ta gọi, đánh nhau là việc tính toán đơn thuần. Tính các góc và toạ độ. Chỉ huy là những lời giải đúng các phương trình ấy. Súng ca-nông lấy đúng độ nghiêng. Những âm sắc tiếng chuông, những tiếng “Bắn”. Và gần như trừu tượng, các loạt đạn vút đi. Đối với bộ đội Việt là trận mưa kim khí, là cụ thể, cái chết.

Phải bắt kịp quân chính quy lộ rõ trong lúc chạy giữa khoảng rừng và mỏ. Đạn từng khối dội xuống đám người đang xông tới. Việc làm này cách xa đấy, thật vệ sinh. Chỉ thấy những cột khói của mục tiêu trúng đạn. Một làn bụi tung mù lên che phủ cảnh vật, hiệu quả của đợt bắn. Nhưng những chiếc Morane nhỏ bay phía trên thấy hết, điều chỉnh tầm ngắm cần thiết. Đạn cối rơi xuống đều đặn như một cuộc chiến khoa học rất hiếm thấy ở Đông Dương...

Hàng trăm quân chính quy bị ngã quỵ. Một số trong đợt xông tới biến thành cuộc chạy thoát lên phía trước, đến tận mỏ, vào những hang hầm cũ, dồn đống tại đây. Máy bay Morane nghiêng cánh chỉ nơi họ ẩn nấp. Thế là khoảng ba, bốn chục máy bay tìm kiếm đến dội na-pan. Những ngọn lửa màu da cam sau đó chuyển thành những cuộn khói. Mặt đất âm u càng đen xám vì bị đốt cháy. Nhìn bề ngoài theo lôgic không thể có bộ đội ở đấy nữa, có lẽ đã thành tro hoặc những mảnh bụi gió tung lên. Thế nhưng... ai biết được nếu còn quân chính quy sống sót dưới hầm hố sẵn sàng chiến đấu! Kinh nghiệm cho thấy quân Việt vẫn luôn sống sót, rất kiên định cả trong những trường hợp xem như đã tan tác hết.

Thực tế phải giải thoát cho Toàn và những người Thổ trước hoàng hôn. Trong tình trạng của họ không còn vấn đề trụ vững một đêm nữa ở Mạo Khê. Khu mỏ toang hoác. Đến đấy không có cách nào khác là đi bộ, một cuộc hành quân như tự sát. Thế nhưng lính dù và lê dương của Sizaire vừa đến bằng ô-tô trước đây non hai giờ thị trấn Mạo Khê, xếp thành hàng ngũ. Họ trèo lên ngọn đồi than theo đường ray cũ, đi dọc một con đường hình thành từ những quặng than. Yên tĩnh tuyệt đối. Trên những sườn đồi trước đây nham nhở vì khai thác bây giờ chiến tranh đốt cháy chỉ còn những xác chết. Tất cả quân Việt từ rừng ra bị tiêu diệt hết rồi sao? Cả đoàn trèo lên thong thả, thận trọng, mắt tìm tòi, ngón tay trên cò súng, vẫn còn ban ngày. Phía trên họ là những máy bay tiêm kích bảo vệ. Phía sau, ca-nông Hải quân “bao bọc” họ từng mét. Không có gì. Một quang cảnh bị tàn phá sau cuộc bắn giết. Và rồi việc phục kích. Một màng lưới đạn, đợt bắn chéo rất chính xác từ hai bên đường đi. Cả tiếng hô xung phong nữa. Vậy là trên bề mặt khu mỏ người ta nghĩ đã được “dọn sạch” vĩnh viễn do đạn cối và na-pan nướng đi nướng lại vì lửa, không thể có sự sống, vẫn còn quân Việt, rất nhiều với đại liên và ba-dô-ka lên nòng, vẫn sôi nổi hoạt động. Tất cả người và vũ khí không chết nhưng làm như chết, đang chờ đợi để bắn giết. Chắc hẳn họ “ẩn nấp” trong lòng đất, nghệ thuật của bộ đội Việt sống sót trước mọi tình huống bằng vùi mình vào bất cứ đâu, hang hốc, bùn, nước và cả than đá nữa. Bằng mọi cách, những “người bị tiêu diệt” luôn luôn xuất hiện lại để tiêu diệt.

Chiến đấu. Lính dù bị cắm chặt vào đất không bắn được. Phải giải thoát họ, những người đến giải thoát người khác. Phải huy động điệu vũ lớn của máy bay và tàu chiến. Những súng lớn Hải quân dồn dập. Máy bay tiêm kích như một bầy ong bổ nhào vừa vút lên. Nhưng một chiếc tiếp tục đâm xuống vỡ tan, hình như bị trúng đạn súng phòng không Việt. Tuy vậy nhờ đợt dội bom những người lính dù đứng lên được. Không phải để tiến lên mà vội vã rút lui về thị trấn Mạo Khê.

Hoàng hôn xuống dần. Toàn bị bỏ rơi, chơi vận may cuối cùng. Một sự cá cược: “Quân Việt đang đánh nhau quyết liệt với quân Pháp, không chú ý đến mình nữa. Chuồn thôi”. Thế là, đã ba lần bị thương nhưng vẫn đi được, anh thoát ra từ những đổ nát của mỏ Mạo Khê cùng những người sống sót, khoảng sáu chục với vũ khí và các gia đình, cả vợ con những người bị giết. Và người ta nói trước khi đi, gia ân cho những người không mang đi được, những kẻ hấp hối để có cái chết nhanh chóng của những người dũng cảm thay vì hấp hối trong tay người Việt. Lòng nhân đạo này thực hiện bằng lưỡi dao vào tim để không gây tiếng động. Đoàn bóng người chạy trốn quay lưng về phía thị trấn Mạo Khê ngay phía dưới vì có quân Việt ở sườn đồi, những người vừa đẩy lùi lính dù. Toàn theo phương pháp cũ: trốn vào rừng rậm bao la mà quân Việt đông đến mức nào cũng không tìm ra được. Anh biết rất rõ những con đường mòn nhằng nhịt! Sau mấy giờ mò mẫm trong rừng cuối cùng anh ra thị trấn Mạo Khê, không gặp cuộc đụng độ nào, với đoàn người vẫn sống, với những bà vợ goá và trẻ con. Đã gần nửa đêm. Đúng lúc thị trấn sắp bị tấn công.

Ban đêm. Đêm của cuộc phản công lớn. Trời vừa tối. Cả thị trấn Mạo Khê chờ đợi căng thẳng. Lực lượng tăng cường chỉ có mấy đại đội dù và nhóm lê dương theo đường 18 đến bằng ô tô vào buổi chiều. Chính những quân lính này cố chiếm lại mỏ một cách vô vọng, thoát bị tiêu diệt, chạy trốn nhờ vào trọng pháo và máy bay. Tất cả chỉ mấy trăm người bố trí trong nhà thờ và những ngôi nhà vững chắc nhất của thị trấn. Những người ấy ít và đơn độc trong lúc vừa tối, bố trí kháng cự, tự làm những lô-cốt tạm thời cho vũ khí, xoay quanh những bức tường mỏng manh bằng những hòm đất và đồ vật linh tinh trong các nhà dân. Họ luôn hối hả tăng cường những nơi ẩn nấp bằng hầm hố, bờ rào, dây thép gai, mìn. Tất bật, nhanh chóng như biết cuộc chiến sắp bắt đầu từng giây và họ sẽ phó thác cả cuộc sống của mình.

Tối tăm hoàn toàn. Những quân lính còn lại ở Mạo Khê này tự nhủ: “Bộ phận lớn của đoàn quân Sizaire trên tàu LST ở đâu? Tại sao chưa tới? Tại sao tàu chưa cập bến để đổ quân?” Thực tế trong lúc đó nước triều trong sông thấp quá, thậm chí những con tàu nhỏ cũng bị cạn, dính bết vào bùn không tiến không lùi, không cử động gì được nữa. Cả đội tàu nhỏ đưa hai, ba tiểu đoàn để giữ bốt bị mắc bẫy trong bùn. Sizaire và quân lính nhảy xuống bùn và “nhảy cóc” đến Mạo Khê trong bóng đêm và lầy lội. Họ sẽ đến nơi trong bao lâu? Có chậm quá không?

Vậy là Mạo Khê chờ đợi. Một số ít người trong bóng đêm giữa đông đảo quân Việt đang tiến lại gần, trong tư thế tấn công cách mấy mét, mấy chục mét. Ngay gần đấy đã có những trung đoàn bám chặt trong mỏ. Có năm mươi nghìn bộ đội lúc hoàng hôn còn ở trong rừng, chỉ một hai giờ đi bộ trong đêm để tới đây tập trung và xông lên. Sự im lặng nhung nhúc quân địch đang chuẩn bị. Bất cứ lúc nào cuộc chiến cũng có thể nổ ra.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Chín, 2021, 08:42:43 pm

Một giờ sáng. Giờ nguy hiểm quân Việt sau khi chuẩn bị kỹ từ chập tối, lao vào mồi. Một lần nữa là giờ họ hành động. Cả thị trấn bỗng biến thành địa ngục. Đại liên, móc-chi-ê, ca-nông đồng loạt nhả đạn. Có những tiếng nổ vang hơn của bộc phá. Gần khắp nơi những ngọn lửa bùng lên, thiêu trụi nhà cửa. Những nhà khác cũng bị tác động, đổ tan tành không cháy. Ngay sau những loạt đạn, bảy hoặc tám tiểu đoàn xông lên, như bia đỡ đạn dưới ánh sáng vô định của các lò lửa. Nhiều người gục chết trên thang bắc qua dây thép gai và bao nhiêu người khác nữa. Quân Việt đồng thời tấn công ba phía, chẳng bao lâu Mạo Khê - thị trấn đầy đám người cuồng nhiệt lao vào mọi nơi, mọi góc, tấn công lính dù nấp sau những bức tường đổ. Có mọi cách tiêu huỷ và giết người. Rồi những quân chính quy cao lớn, ba-dô-ka trên vai, bắn không ngớt vào những gì còn trụ lại. Những người khác ném mìn, lựu đạn lân tinh, những chai xăng. Với thuốc nổ, họ dự định nhấn chìm mọi nhà cửa, bằng gạch cũng như nhà tranh. Thiệt hại lớn. Hai tháp canh bị ba-dô-ka xuyên thủng, đổ sụp xuống, chôn luôn số nguỵ binh và đại liên trong đó. Hai chiếc cam-nhông và hai ô tô đại liên bốc cháy trên đường chính nhưng một chiếc khác tiếp tục bắn quét trên đường cho đến khi cháy đỏ lên rồi đen lại.

Cuộc tấn công mở rộng sang ngôi nhà thờ được củng cố. Hàng nghìn người vừa xông lên vừa hô: “Độc lập!” Người ta bắn hạ họ từng đám. Quân chính quy tiến gần tới bàn thờ. Người ta kể lại linh mục đứng trên gác chuông vừa bắn liên thanh vừa đọc Kinh thánh.

Trong đêm dài, lính dù đánh nhau bằng dao. Một cuộc sát hại nhau trên đường hết sức tàn ác. Dần dần đội lính dù thứ 6 BPC “quét sạch” quân Việt trong thị trấn. Bỗng nhiên không có những người khác tràn vào nữa vì trọng pháo tiêu diệt rất chính xác những làn sóng tấn công mới. Ca-nông của đoàn tàu, nhất là hai mươi khẩu 105 ở Đông Triều bắt đầu bắn không ngớt. Xung quanh Mạo Khê đạn cối dựng lên một bức tường ngăn không qua được. Điều ấy cho phép ở bên trong, giữa thị trấn đang cháy những người chống giữ “trụ vững” trong những trận đánh giáp lá cà không bị dìm chết: bộ đội không thể có những người mới bổ sung.

Tuy vậy tất cả không chắc chắn gì. Cho đến bình minh, cuối cùng bộ phận lớn của Sizaire xuất hiện. Họ đi bộ đến, hầu như không nhận ra vì bùn, hàng ki-lô bùn bám vào từng người như một vỏ bọc chỉ thấy đôi mắt. Đại tá cũng trong số đó. Ông tổ chức phản công với hai tiểu đoàn. Quân Việt không cố chống lại. Họ biến mất theo lối bí mật của họ, cũng nhanh, toàn bộ, bất chợt như khi xuất hiện tấn công. Một hiệu kèn và họ rút đi hết: như bốc hơi. Ra đi toàn thể trong mấy giây, trong trật tự hoàn hảo. Điều lạ là họ có khả năng đến rất đông, xông tới mà không bị phát hiện và ra đi cũng như thế. Qua một thời gian rất ngắn, sau vài ngày đêm, ở nơi họ chọn, lại gây kinh hoàng, với cuộc tấn công cuồng nhiệt. Lần này họ vội vã rút đi, không kịp mang theo xác binh sĩ. Đây là một dấu hiệu thất bại. Vậy là quân Pháp chiến thắng.

Đấy là tình hình Mạo Khê, Mạo Khê của de Lattre và cách nhìn của ông, được cứu thoát như ông đã chỉ thị, theo cách ông dự cảm, bằng Sizaire ông đã chọn không ai biết vì sao.

Vậy là vinh quang cho vua Jean và Đội quân viễn chinh của ông. Ông tự tổ chức lễ mừng. Tất cả sao gửi cho báo chí. Ở Sài Gòn các nhà báo không nghi ngờ gì nhiều, bị bắt cóc, đưa lên máy bay, trao đổi ngắn về tình hình và đưa đi Đông Triều. Họ đến vừa đúng lúc cần thiết. Cuộc chiến chưa kết thúc và ông Giáp có thể có những trận đánh ở chỗ khác. Nhưng trận đánh nguy hiểm, đáng lo, bất ngờ nhất đã vượt qua được. Chưa phải thắng, hoàn toàn thắng, có lẽ chỉ là một đợt tạm nghỉ. Nhưng dù sao tình hình “trong tay”, sau khi “nâng cốc”, có sự chín muồi cần thiết. Bây giờ là lúc đưa những tít lớn lên những tờ báo toàn thế giới.
Đoàn của Cabestan với những người mang máy chữ đến phía sau thị trấn Đông Triều có những khau ca-nông đã bắn. Bên trong, những “người cả đêm trước” của các nước, say rượu, bây giờ đang say những “chuyện kể” vui thú dâm dục. “Chào các bạn”, Cabestan hô lên với những người quen biết cùng khoá, trong nhà ăn và những đồn trú, đã trở thành những nhà binh thô lỗ nhìn người “quản tượng” các phóng viên này với sự ân cần hơi khinh khi. Nhưng đối với các nhà báo, việc chào hỏi hơi cục cằn, không khách sáo ấy thuộc về “cử chỉ đẹp” - tất cả ở Đông Triều đều đẹp. Thực ra có sự lớn lao thực và cũng có màn kịch, dàn cảnh: tóm lại là tất cả theo kiểu de Lattre. Giữa quang cảnh hùng mạnh của chiến tranh, công sự, xây dựng tạm thời chinh phục với nghĩa trang đầy người chết, người bị giết đã gần một thế kỷ; người ta đã đánh nhau nhiều ở đây, vùng này trước đây là trung tâm chống cự cuối cùng của quân Cờ Đen và quân đội nhà vua. Rồi sau đó thời gian hoà bình rất dài... Cho đến lúc có hai mươi khẩu ca-nông của Sizaire, những nòng súng đã bắn biết bao nhiêu đạn cối vào Mạo Khê. Đơn độc với pháo thủ. Vì trong đêm quyết định ở đây chỉ có mấy pháo thủ và trọng pháo của họ. Bây giờ đúng là cuộc diễu binh lớn. Tôi lại nhận ra những phương pháp, những sở thích của vua Jean.

Sự thần thánh hoá. Những gian phòng tối và ẩm của pháo đài cũ đầy “tướng tá” dạo quanh như những chiến binh thật đẹp, đồng thời như những cậu bé trong nỗi lo “ông chủ” xuất hiện bất cứ lúc nào. Sizaire đi lại với đôi chân cứng đờ và chiếc gậy, dáng điệu ông càng uy nghi. Bên dưới những bức tường thành u tối chứa đựng những nhân vật quân sự lớn ấy, vừa sợ sệt vừa kiêu căng ngay ở sườn núi chỉ có mấy khẩu đội đến do biến cố, từ nay là thủ đô của cuộc “chiến tranh đẹp”, cả một bộ máy để “giết quân Việt”, vì Đội quân viễn chinh từ nay ở đây trong sự giản dị trịnh trọng. Đô thị của những tấm tăng. Hàng đống kho tàng. Đủ loại máy phát, điện đài. Những xe bếp lăn. Tiếng bê bê của những con cừu người Ả-rập đang chọc cổ. Những sở chỉ huy bình thường và những sở chỉ huy trong xe có phòng khách của các tướng, cả một hệ thống ổ đại liên, súng cối. Cả những dây xe cam-nhông, những nơi tập hợp xe tăng, những hàng ca-nông, bây giờ tập trung biết bao ca-nông! Và vẫn luôn luôn người đủ mọi nòi giống, trong xáo động có trật tự với thái độ cung kính quen thuộc, đùa vui và bận rộn về công việc, cuộc sống, uống, ăn và đi ngoài! Như không có chiến tranh tuy những người ấy đã sẵn sàng cho cuộc chiến! Đấy là “đạo lý đúng đắn”, quên bẵng không phân vân gì về cái chết và cuộc chiến hiển nhiên. De Lattre biết thế, chăm chú và nhìn ngó, rất hài lòng, ngược lại với những gì thể hiện không chấp nhận trên mặt ông trong cuộc “viếng thăm” Vĩnh Yên lần đầu thấy cách ăn mặc của quân lính “không chỉnh tề”. Nhưng đội quân của ông từ đấy được cải tiến... Tính khí vui vẻ bây giờ chỉ còn chuyển sang quát nạt “những tướng tá” của ông.

Thế nhưng Đội quân viễn chinh thong dong như vậy bất cứ lúc nào cũng có thể bị dìm trong kinh hoàng, điên rồ, giận dữ của người Việt có tổ chức, có phương pháp! Những tăm tối ban đêm, của bạo lực và phá huỷ đang lơ lửng trên Mạo Khê đối với những gì còn lại và tôi đến đây.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười, 2021, 11:54:01 am

Trên con đường 18, một chiếc cầu đổ sụp, lại cắt làm hai, thay thế bằng chiếc đò tạm bợ, những người chở đò chống sào, câm lặng, thờ ơ, như chẳng có gì xảy ra bao giờ. Giữa cảnh bề bộn một viên đội hàng không đến từng nhóm người hỏi: “Ông có biếc xác người phi công trong chiếc Hellcat hôm trước bị hạ ở đâu không? Người ta bảo có thể tìm thấy ở vùng này”. Thực vậy, xác người phi công ở bờ bên kia, co quắp trong một hòm trọng pháo; trên nắp hòm có một mẩu chong chóng máy bay, như vật tôn vinh trông tang lễ. Chỉ có bùn nhưng đã có mùi cháy khét. Tôi lên được một chiếc xe GMC của Mạo Khê, ít nhiều đêm qua cũng bị cháy. Một vật sống sót đưa tôi vào thị trấn. Tôi thấy những tháp canh bị ba-dô-ka phá thủng những lỗ lớn, những ngôi nhà đổ nát. Cả một cảnh ngổn ngang những mảnh vỡ. Mạo Khê là một chỗ không còn lại gì. Lạ nhất là mặt đất, màu thuốc súng, bộc phá lẫn vào màu đất đen. Khắp nơi hôi hám, mùi xác chết thối rữa! Nhưng không còn xác chết. Người ta nhặt mẩu thịt đầy máu khắp nơi nhất là trên dây thép gai, cho vào những hòm, những hố, hàng tấn. Công việc này do lính lê dương làm, những người làm mọi việc không còn cảm giác ghê tởm về công việc bẩn thỉu nữa.

Trong cảnh trống không ấy người ta trở về. Những gia đình lục lọi, tìm kiếm, bận rộn sửa sang lại. Một số xuất hiện lại ngay từ mặt đất là những hố thô thiển họ đào và nguỵ trang ngay trong nhà.

Trong lúc tôi ở đấy người ta chiếm lại mỏ. Những xạ thủ từ bên dưới bùn, ruộng đi lên trèo theo các sườn đá này sang tảng đá khác, lỗ này sang lỗ khác, không để ý đến những xác chết đêm trước đă bắt đầu rữa ra. Không một tiếng súng. Im lặng như hoà bình. Thế nhưng là chiến thắng, hoàn toàn, không còn quân Việt. Sau đó một ít quân lính chuyển về chỏm núi, chinh phục lại được trong trống không, vắng mọi sự sống. Tôi cũng trèo lên, lặng lẽ bước trên con đường đen thẫm không gặp một ai. Quân Pháp lần này không lên tới đây và các tiểu đoàn ông Giáp hôm trước ẩn nấp rất đông đã đi hết. Không còn một ai. Sự trống vắng kỳ lạ...

Nhưng trong cảnh tĩnh lặng ấy, càng đi tôi càng thấy kinh hoàng. Những mảng thịt người chưa lượm lặt hết. Tới gần bốt, bên những ngôi nhà sụp đổ, mùi hôi thối không chịu nổi và những con quạ đang ăn bay lên. Và ruồi nữa. Trên mặt đất không còn là xác người mà những mảng bùn người. Đôi khi người ta nhận ra một vật gì đấy còn nguyên, một cái chân, bàn tay, cái đầu. Bên cạnh hàng rào bị phá huỷ, những lớp phủ tạng càng dày. Những mảnh máu me còn mắc vào dây thép gai còn lại. Và những tàn dư của cái chết ấy đều thấm đượm chất bột màu vàng của bộc phá. Bên dưới nữa là Mạo Khê - Nhà thờ. Khắp nơi ở đây là những chuỗi, những đám máu thịt dày nhiều phân. Chiến thuật của quân Việt dựa vào “chất nổ” phá huỷ mọi công trình của Pháp. Tất cả cuối cùng chỉ còn những mảnh vụn xi-măng, những khúc người Sénégal và những người cảm tử khốn khổ phủ màu vàng nghệ của chất bộc phá.

Quang cảnh ghê tởm. Bên trong hàng rào bị phá huỷ, mặt đất đầy vỏ đạn, băng thấm máu, những vũng máu khô. Những gì là xương thịt đã biến mất. Xa hơn mấy bước, mìn phá đổ bức tường gạch dùng làm hàng rào bảo vệ bốt. Trong khi sụp đổ những mảng tường chôn vùi những quân chính quy đang trèo vào và lính Sénégal chống giữ bốt: trong đổ nát còn lộ ra một khúc chân đen bóng.

Ở sân trong, những người cu-li làm việc cho các bên mà người ta không biết cảm giác thực của họ, đang thu lượm xác người đặt thành hàng, của những người Thổ và nguỵ binh bảo vệ Mạo Khê - Mỏ. Những vết thương thật kinh khủng. Một cái đầu chỉ còn là hộp rỗng. Cũng có một người Châu Âu, râu hung và đôi chân cháy sém. Người ta tìm thấy anh ta trong một gian phòng trong tư thế như đang ngủ, như mơ màng, một cùi tay dựa vào tường và tay kia giơ lên không trung. Thực tế là ác mộng và sợ hãi, Đấy là một hạ sĩ bị thương, bị bỏ quên khi Toàn dẫn quân rút lui.

Gần thi thể quân Pháp người ta cũng tập hợp những khí cụ bắt được của quân địch. Nghèo nàn. Có một đại liên Tiệp sử dụng đạn Trung Hoa, mấy tiểu liên Nga. Bên cạnh vũ khí thực của quân chính quy ấy là những chai, ống khiên, giáo mác của “quân cảm tử”. Những vật không là gì nhưng người ta thu thập lại hết để làm tròn con số thông báo về chiến lợi phẩm.

Tôi thấy thi thể quân lính mình và vũ khí quân địch đặt trong sân trên những chữ trắng lớn vôi đang phủ lên: người ta rải một lớp vôi trên lớp máu và bột thuốc nổ để tẩy uế. Đấy là chữ “cứu thương” Toàn cho viết lúc bình minh sau đêm đánh nhau đầu tiên để phi công Pháp trông thấy và gọi đến mấy xe Hồng thập tự cho những người bị thương của anh ta...

Một tiếng kêu điên loạn. Một người đàn ông thất thểu đi qua. Đấy là người Thổ nhận thấy mình bị vùi sống trong đổ nát, những đống khổng lồ gạch và mọi thứ. Anh ta vừa chui ra được không biết bằng cách nào, vừa bước đi, vừa chảy máu, vừa hét lên. Người ta nắm lấy anh, đưa lên một xe cứu thương; dĩ nhiên bây giờ cùng những bác sĩ, y tá, có tất cả những người chữa chạy thương tật.

Chưa bao giờ tôi xúc động trước bi kịch chiến tranh như vậy trong Mạo Khê - Mỏ. Chưa bao giờ tôi nghe nói ở chỗ nào có sự quyết liệt, những chiến thuật quyết liệt, những chiến thuật quái đản đến thế. Tướng de Lattre có lý do để huênh hoang. Những người ông thấy bốn tháng trước đấy có những thể hiện và tâm trạng thất bại vô vọng; họ hầu như là những kẻ hèn nhát, cam chịu trước những đoàn quân đột nhiên xuất hiện trên đường số 4. Nhưng thời kỳ nhục nhã có vẻ đã xa rồi! Dưới sự chỉ huy của ông, cùng những quân lính uỷ mị ấy đã tìm lại niềm tự hào, niềm vui trong cuộc sống và cái chết. Tất cả, lính chính quốc, Ả-rập, da đen, da vàng đều là những quân đánh thuê tuyệt vời như chưa bao giờ có và sẽ không bao giờ có nữa! Vì ở Mạo Khê họ có khả năng “trụ vững” chống quân Việt đối mặt và đẩy lùi họ. Để chống lại họ, sự tinh tế đáng sợ của những đám đông “liều mình”, phải là những người anh hùng. Từ nay tất cả Đội quân viễn chinh đã được xây dựng như thế: chỉ là những siêu nhân được kích thích.



Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười, 2021, 11:56:58 am

Vua Jean thích cao độ. Trên chiếc Morane ông không ngừng trở lại với các đội quân. Chưa bao giờ ông hồ hởi thân mật như thế. Ở Đông Triều, ngay dưới chân pháo đài cổ, ông bảo Sizaire lên xe jeep của ông: “Tổ chức ngay tại đây một cuộc duyệt binh”, cảnh huy hoàng của cuộc duyệt binh trong trại với đầy đủ vũ khí. Vẻ đẹp của de Lattre, của Sizaire, lính dù, lê dương cứng cáp, của tất cả quân lính của ông. Những khuôn mặt cương quyết bước đi chậm của những người chiến thắng và rồi nụ cười... Thủ tục kết thúc, đại tướng bỗng ra lệnh cho đại tá: “Tập hợp cho tôi tất cả các sĩ quan, tại đây”. De Lattre ngồi trên mái xe jeep chờ, nói chuyện, chạm cốc. Các trung uý, đại uý tới: “Chào các bạn”. Bữa tiệc ngoài trời. Người ta ăn uống. Vua Jean ăn trong cà-mèn của mình. “Anh này, tôi biết rõ bố anh. Anh xứng đáng với ông ấy”. Sau một giờ hào hiệp ông kêu lên: “Tôi sẽ nói chuyện với các anh, các bạn nhỏ”. Ông nói lên lòng sốt sắng lớn lao: “Tôi đã ở Paris vì các anh và mang về cho các anh tình yêu của nước Pháp. Các anh sẽ có những đồng đội khác nữa, nhiều ca-nông hơn nhiều. Riêng các anh, các anh vừa bẻ gãy các sư đoàn ông Giáp. Với những người mới đến, các anh sẽ hoàn thành việc thanh toán họ.” Trong im lặng người ta nghe thấy tiếng chào của những người dày dạn này. De Lattre đứng dậy để đi và như để chào, ông nói thêm: “Chắc chắn các anh còn chiến đấu trong những ngày sắp tới. Hãy làm tốt như ở Mạo Khê”.

Máy bay vua Jean cất cánh, kèm theo hai máy bay bảo vệ. Trời còn sáng, một ngày ẩm ướt, âm u. Thay vì hướng về Hà Nội, tiểu phi đội biến mất trên vùng trời Đông Triều. Đại tướng chỉ còn tin vào mình để tìm bộ phận lớn quân Việt đã hoàn toàn, ma quái biến mất như do một chiếc đũa thần.

Lúc này de Lattre đóng kịch với quân lính như đã làm với cả hoàn cầu. Nhưng bản thân ông, qua tất cả những nhõng nhẽo thoả mãn, ông thấy không thanh thản, thậm chí lo lắng sâu sắc. Đầu óc luôn quay cuồng với câu hỏi không trả lời được mặc dù ông có trực giác, có tầm nhìn: '‘Quân Việt ở đâu? Còn ở Đông Triều hay ở bên ngoài?'’ Ông không hiểu. Một đội quân tấn công và ngày hôm sau không còn nữa. Tuy ông tiêu diệt được ở Mạo Khê, ông biết điều đó hơn ai hết. Còn lâu! Ông có thể lừa bịp thế giới, Đội quân viễn chinh, có lẽ cả Bảo Đại nhưng ông thì không! Ở vùng mỏ và trong thị trấn, thực tế lính dù của ông chỉ làm chảy máu vài trăm bộ đội. Sự thực đối với riêng ông, cuộc chiến ông rêu rao như là đập tan tướng Giáp và các sư đoàn chỉ là trận mở màn, đáng sợ nhưng rất nhỏ. Không tới ba, bốn trăm chính quy và một số “cảm tử”, không đáng kể. Như vậy là chẳng có gì thay đổi. Trước mặt vẫn có năm mươi nghìn người, sẽ lại tấn công chắc là khốc liệt hơn, dồn dập hơn. Nhưng lúc này họ ở đâu? Vì những gì người ta thấy là rừng, không có một người.

Tuy ông đã làm nhiều để biết! Trước hết cử các đội tuần tra đi quá Mạo Khê, trên những cây số con đường 18 mà quân Việt đã chiếm. Không một chống cự nào, chỉ thấy vài toán du kích thoát lên núi. Ngoài ra chỉ là đổ nát, xác chết và mùi hôi thối. Không một bóng người. Sự tàn phá đặc biệt có hệ thống; những bốt Pháp cũ, xiêu vẹo vì đạn ba-dô-ka, làng xóm dân quê trơ trụi vì cháy, đường dẫn nước ngọt về Hải Phòng bị phá vỡ như bởi hàng nghìn người, ống nước vỡ mở toang hoác. Nhưng quân Việt, đông vô số không còn ở đấy nữa. Phải chăng họ đi sâu hơn vào rừng, vẫn luôn có mặt, ẩn nấp để đánh một cú thực sự? Lính biệt kích đi thám thính. Họ thận trọng đi khắp nơi, làm nhiệm vụ hy sinh trên những con đường gai góc, những chỏm núi sắc cạnh như dao. Chẳng thấy gì. Những dấu vết quá nhiều của quân đội nhưng không có quân đội nữa. Mặt đất, mùn dưới lớp lá dày đen sẩm bị đào xới: hầm hố, đường hầm khắp nơi để chứa đựng những sư đoàn, kho tàng đồ sộ, mọi loại bố trí ăn ở. Những cái đó trước đây đầy người và vật, bây giờ trống rỗng, hoàn toàn bỏ đi như một sự di chuyển, rút quân toàn bộ, cấp tốc.

De Lattre vẫn không tin chắc, ra lệnh tổ chức một đợt bay ban đêm. Bốn mươi tám giờ trước đây một phi công thấy vùng này như một khối lân tinh khổng lồ, điểm nhiều nghìn tia sáng. Lần này chỉ là một khối màu đen bao la, lẫn lộn bóng tối rừng và ban đêm, không có gì lộ rõ.

Biện pháp cuối cùng, Vua Jean bảo phi công: “Trời còn sáng. Hãy đưa tôi bay trên rừng, sát ngọn cây, chỏm núi. Tôi muốn nhìn xem ra sao...” Một giờ, một giờ rưỡi trôi qua. Chiếc Morane chui vào mây phía trên chóp núi, trong thung lũng, bơi trên rừng cây. Đôi mắt “ông chủ” mở to tìm tòi một chi tiết khả nghi. Chẳng có gì. Chỉ là những hố bom Pháp, những vạt cây héo vì na-pan, thân cây trở thành những bộ xương.

Chiếc máy bay nhỏ vòng đi vòng lại hai, ba, bốn lần. Vẫn không thấy gì, như năm mươi nghìn quân Việt dứt khoát đã bỏ đi. Không một phát súng bắn vào chiếc máy bay rất dễ hạ. Trên những con đường mòn díc dắc khắp nơi qua núi rừng, trống không: chẳng có chính quy, dân công, không có bóng một người, như làn sóng triều trong nhiều giờ đã cuốn đi tất cả. Bên dưới, bất động hoàn toàn, Đông Triều đơn độc trong cảnh hoang dã lâu đời. Cảnh tranh tối tranh sáng cuối ngày mỗi lúc càng lẫn với mưa phùn và rừng. “Ông chủ” căng mắt nhìn mãi cũng mỏi. Không phân biệt được gì nữa. “Phải về thôi”, cuối cùng de Royer nói, người tuỳ tùng luôn có mặt, người vua Jean chọn cùng đi trong cuộc tìm kiếm này. De Lattre rất say sưa quyết liệt, bướng bỉnh thấy cho được quân Việt ở Đông Triều cũng đã mệt mỏi, ra hiệu từ bỏ cuộc tìm kiếm. Máy bay bay về Hà Nội, “ông chủ” đỗ xuống lúc sáu giờ chiều, cả đám thân cận đang chờ để cùng ăn.

Thất vọng. Đại tướng về không, biết sẽ trông thấy những khuôn mặt kính cẩn diễu cợt. Toàn thể đám thân cận đều nhất trí. Từ ngày 29, 30 và 31 tháng ba lẽ ra ông phải đưa quân phản công từ Lục Nam, từ Chu để cắt đứt việc rút lui của quân Việt, đánh tan tác họ. Ông không làm gì, không quyết định. Bất động. Và nhiều ngày ròng dưới vẻ oai nghi của mình, ông không chỉ lo lắng mà còn hối hận, lương tâm cắn rứt. Sao? Ông đại tướng de Lattre de Tassigny trước kia táo bạo như thế, sẵn sàng lao vào “cuộc chơi lớn”, vào mọi đề xướng tấn công từ nay không dám làm gì! Một người chỉ huy già... Như ông sợ. Đúng là ông sợ rừng rậm, nơi người ta muốn đưa ông vào săn đuổi quân Việt. Một lần nữa ông cảm thấy có một cạm bẫy, đánh hơi thấy. Ở Châu Á người ta phải hành động mà không làm gì được vì người ta đoán có một bẫy sập, bao giờ cũng giăng ra một cuộc mai phục mới! Nhưng cạm bẫy nào? Nếu người ta không hoạt động sẽ bị bất ngờ và thất bại nữa.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười, 2021, 12:00:40 pm

Sau Mạo Khê, de Lattre hân hoan, rạng rỡ nhưng nặng nề trong lòng, cảm thấy chính những người thân tín của mình phê phán, kết tội. Cũng như mọi lần, họ tâm sự với nhau: “Không còn là một con người nữa”. Phải chăng đã xuống dốc? Vì với những điều người ta nhắc lại với ông, ông không tìm cách trả lời. Lắng nghe, cãi bướng nhưng có cái gì đó làm ông bối rối, không biết là cái gì. Ông đắm mình trong im lặng, cau có, hờn dỗi vừa tỏ rõ khuôn mặt của người chiến thắng đối với khách bên ngoài, với các đội quân ông sẽ đi chúc mừng. Ông không bị thuyết phục nhưng sắp lui bước trước ý kiến thống nhất: giải tỏa con đường 18, “tăng cường” Chu, từ đây tung các đội cơ động, trọng pháo và mọi lực lượng vào rừng về phía bắc Đông Triều. Lúc ấy, như ta đã thấy, ông bỗng nảy ra ý kiến: với lý do vui vẻ kiểm tra người của Sizaire, ông đi để tự nhìn xem ông Giáp và các sư đoàn của ông còn ở đấy trong thời gian cần thiết để rồi lại tràn vào Mạo Khê, Đông Triều, Bảy Chùa, Hải Dương để rồi đánh xuống Hải Phòng, lá phổi của Đội quân viễn chinh.

Không nhận thấy gì, de Lattre trở về Hà Nội, cau có tự nhủ lần này phải nghe theo luận thuyết, chiến lược của Buossary và đồng bọn. Bỗng nhiên “tầm nhìn” thứ hai lần đầu là Mạo Khê được nhắm tới trên bản đồ trong phòng ngủ ban đêm. Ông nhìn thấy điều ông đã không thấy: Quân Việt đông không kể xiết ở trong các dãy núi ngang cuối cùng của Đông Triều, những khối người và vũ khí lẩn khuất trong rừng và địa hình. Thế là bùng lên, ông hét với de Rover: “Những người trong đám thân cận thật tồi, ngu dốt. Các sư đoàn ông Giáp vẫn ở tại chỗ. Chỉ khác là họ được lệnh ban ngày không lộ ra và ban đêm tắt hết ánh sáng. Tôi sẽ cấm không được rút đi một người lính của con đường tỉnh lộ 18. Ông Giáp sẽ còn tấn công đấy...”

Tuy vậy vua Jean chưa thật chắc chắn. “Tầm nhìn” ông vẫn giữ kín. Nhưng từ đó ông đã thay đổi, không còn nghi ngờ, phân vân gì. Không còn vấn đề Chu, không “đụng đến” trận địa nữa. Mỗi ngày ông đi kiểm tra và cho tăng cường.

Công việc diễn ra như sau. Thức dậy, đọc các bản đồ tham mưu ngay trên giường. Làm vệ sinh và triệu tập người đến văn phòng, và những mệnh lệnh quyết đoán cụ thể. Đến mức những người thân cận. các "tướng tá” tự nhủ: “Không xoay chuyển gì được nữa. Ông đã có quan điểm dứt khoát'’. Từ một đến ba giờ chiều ăn uống vui vẻ, “ông chủ” dồn dập những lời trí tuệ, không nói đến công việc hoặc nghề nghiệp mà về câu chuyện của con người hào hoa biết rõ xã hội ưu tú trong quan hệ quốc tế. Tóm lại ông có lối phóng túng cao cả, diễu cợt thậm chí châm biếm của một quý ông tin chắc vào mình, có một cử tọa buộc phải nghe mình. Bữa ăn kết thúc: giọng nói, sắc thái, hoạt động thay đổi. Bây giờ là sự quyết liệt của “ông chủ” về cuộc chiến. Ông lên chiếc Morane kiểm tra các bốt, các tiểu đoàn và tối trở về, máy bay lướt trong mưa phùn chỉ cao hơn ngọn những cây chuối. Ông đi khắp nơi, quan sát thẩm tra, như một bà nội trợ đi chợ. Thể hiện sự chuyên chế, tỉ mỉ không ngờ với một Linares đi sau như một cậu bé thúc bố. Vua Jean theo dõi chặt chẽ tất cả trước hết là “trận địa” từ đầu đến cuối, không chỉ sĩ quan và binh lính mà cả hệ thống phòng thủ bê-tông. Với những quân Việt này... Cuối cùng ông xuất hiện như bậc thầy ở Hải Phòng để quảng cáo. Ông đến đấy với tư cách người chỉ huy lớn, như người anh hùng đã cứu và sẽ cứu hải cảng.

Cả tuần lễ chờ đợi. Cuộc tạm nghỉ dài qua đi, de Lattre sẽ xem mình có đúng, khi cá cược bộ phận lớn quân Việt đang ở vùng núi Đông Triều. Những đội cơ động vẫn ở nguyên tại chỗ, sẵn sàng đẩy lui quân địch nhưng cấm đánh trước. Chỉ máy bay, thám thính và ném bom hạng nhẹ sẽ “quấy rầy” quân Việt tập trung ở bìa rừng. Ở Hà Nội, từ sân bay Bạch Mai mọi loại máy bay cất cánh, thao diễn đầy vùng trời Bắc Kỳ. Những chiếc “Hellcat” mang dưới cánh hai chiếc lọ to màu vàng, nhìn qua vô hại nhưng đầy na-pan! Cũng có những máy bay đã lỗi thời nhưng dùng trong những nhiệm vụ đặc biệt. Như những chiếc Junker trước thời đại Hồng thủy, trong lúc bay dùng bộ bánh xe hạ cánh cắt đứt những dây điện thoại quân Việt mắc trên sào.

Một buổi chiều, tôi muốn xem cuộc tấn công bằng máy bay ấy, lần đầu tiên có hệ thống, được tổ chức ở Đông Dương. Để bắt đầu tôi thấy mình ở phía trên cảnh vật lạ lùng xảy ra những trận đánh ghê gớm vào tháng giêng trước: vùng Vĩnh Yên. Tôi lại thấy một cuộc tấn công mới bằng na-pan: một trong những đám cây cối bùng lên ngọn lửa đỏ, liếm đốt tất cả trước khi tàn dần với những làn khói đen. Rồi những đám khác vào sâu trong rừng lần lượt bắt lửa, thiêu trụi. Máy bay trinh sát làm việc theo phương pháp, liên tục nối tiếp nhau thả những chất cháy lỏng vào những điểm Phòng Nhì đánh dấu. Thực vậy trên những ngọn đồi tiền tiêu của rừng rậm núi cao, có mấy làng là chỗ tập trung cả một sư đoàn quân Việt, mười lăm hoặc hai mươi nghìn người. Tôi thấy rõ một ngôi nhà giàu, sân trong lát gạch, trang trí ao sen và non bộ, dùng làm chỗ ngủ cho bộ đội. Ba lô, chăn màn của họ được xếp ngăn nắp ở đấy nhưng không có người. Chắc chắn họ đang ngay gần đấy ngồi trong các hố cá nhân được đào dưới những lùm cây. Trong vô số nơi ẩn nấp, họ được bảo vệ chống với bom đạn và lửa cháy, chỉ chờ mấy cuộc ném bom kết thúc. Đâu còn là thời kỳ trước, cả những trung đoàn Việt làm bia cho ca-nông và na-pan của Đội quân viễn chinh, lộ liễu tấn công hàng loạt ban ngày để rồi chết hàng loạt? Điều ấy đã cho phép vua Jean trở thành một người chiến thắng thực thụ. Từ nay ông, những đội cơ động, phi công của ông không giết, thanh toán, tiêu diệt được nữa. Quân Việt vẫn chỉ cách mấy trăm mét, cả những sư đoàn của ông Giáp ở đấy nhưng không đụng chạm tới được, dùng những chiến thuật kỳ lạ để đến những nơi họ tới, làm những gì họ muốn.

Vậy sức mạnh là ở đâu? Nhìn bề ngoài có vẻ về phía quân Pháp. Sức mạnh bùng ra khắp nơi. Từ trên cao tôi thấy thành trì Vĩnh Yên uy nghi, đã là sở chỉ huy đưa lại chiến thắng vinh quang của de Lattre lúc vừa sang Đông Dương. Nơi này được tăng cường nhiều, khắp nơi đầy những chỏm đồi trọc của chiến trường cũ, bao nhiêu là khẩu ca-nông, ô-tô, mọi thứ. Cảnh trưng bày thật đẹp.

Tuy vậy, sức mạnh dồi dào ấy đáng giá gì trước chiến thuật nguỵ trang của quân Việt, trước cuộc “chiến tranh nhân dân", trước những phương pháp mỗi ngày một càng khó hiểu? Và suốt cả mặt trận những khối quân Pháp và Việt Minh đối mặt nhau, vẫn là tình hình, vẫn hình ảnh ấy. Một bên, một quân đội đẹp thấy rõ ràng, khí cụ hạng nặng, những đoàn xe, trại lính hoạt động rất đều đặn, có kỷ luật. Bên kia chẳng thấy gì. Chỉ là những quả núi, những khu rừng, không biết chính xác ở đâu nhưng người ta cho rằng số lượng người vô kể ẩn nấp để xông tới những làn sóng người, với những phương tiện thô sơ nhưng vô cùng hiệu quả vào con mồi: Đội quân viễn chinh nhìn ra sự thật to lớn. Sức mạnh thực sự phải chăng về phía ông Giáp và quân lính của ông trong rừng núi, trên đồng ruộng và bùn lầy?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười, 2021, 12:02:06 pm


Dù sao Bắc Kỳ lại trong một đêm quyết định lên cơn sốt. Quân Việt lại bắt đầu hoạt động hầu như khắp nơi. Phía nam Bắc Ninh trong những ngọn đồi thông gần Chu và Lục Nam, phía Vĩnh Yên và xa hơn: chiến tranh tâm lý trước cuộc phản công thực sự. Ở chỗ de Lattre và các văn phòng, điều người ta chắc chắn là có những tập trung quân Việt trong núi Ba Vì, Tam Đảo hai bên sông Hồng, rìa vùng châu thổ. Ở đây một hoặc hai sư đoàn ra mặt đê gây trọng lượng về sự hiện diện của họ. Ban ngày không có gì. Nhưng đêm nào cũng có những vụ tấn công bốt, những đột kích hàng loạt, những công phá đường, các làng, thậm chí các đô thị. Phải có một cuộc hành quân hạng nặng để giải phóng thị xã Sơn Tây, dưới chân Ba Vì; về phía Pháp cũng tập trung các đội cơ động, trọng pháo, máy bay. Quân chính quy ở đây cũng như khắp nơi trở vào rừng rất gần trước bình minh, những đợt tiêu diệt từng phần cũng không làm họ thiệt hại nhiều. Dù vậy trong thông báo của Hà Nội, người ta nói đến "những cú trúng đích”.

Trên đường 18, đường vòng phía nam vùng núi Đông Triều gần Hải Phòng cũng “xáo động lại”. Những toán quân nhỏ xuất hiện trong vùng đất vịnh Hạ Long, giữa mê lộ núi đá vôi. Ban ngày họ ẩn trong hang hốc thiên nhiên và sau trận đánh ban đêm họ lại đi thuyền bè vượt qua cửa sông và đầm lầy. Hình như có vài chiếc B26 đã có thể ném bom năm trăm li-vơ vào một toán bốn trăm người bất ngờ vào lúc hoàng hôn khi họ từ chỗ ẩn nấp đi ra.

Ở Ban tham mưu lớn Hà Nội, trong những Phòng Nhì, Phòng Ba là sự sửng sốt, cuống cuồng, lập luận. Người ta phân tích “bí mật” ấy. Có một điều không biết cần làm sáng tỏ. Phải chăng việc xáo động ấy có nghĩa ba sư đoàn Mạo Khê vẫn ở đấy, lại chuẩn bị phản công? Những nhà chiến lược nói “không”. Đối với họ đấy chỉ là một chiến lược “bao che” cuộc “hành quân lớn” của năm mươi nghìn người biến mất đang đi trong rừng để xuất hiện chỗ khác, đánh chỗ khác. Những người này cho là ở vùng than Hòn Gai, chiếc bụng mềm của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân, một biểu tượng hàng trăm nghìn tỷ đồng chỉ cách năm mươi cây số, bảo vệ kém, không giữ được. Đối với những người khác là Lục Nam, Chu, đường 13, con đường xâm nhập từ biên giới Trung Quốc vào châu thổ. Đấy là giả thuyết cũ người ta đã căn cứ vào đó trước khi xoá bỏ “hệ thống” giữ Mạo Khê và phòng vệ trực tiếp Hải Phòng. Cuối cùng theo một số người thì đây là một cuộc chuyển quân nhiều nơi, lớn lao, gây ngạc nhiên hơn nhiều. Các sư đoàn ở Đông Triều mỗi đêm đi ba, bốn mươi cây số giữa rừng núi một cuộc viễn du vòng quanh châu thổ, để tập hợp với những sư đoàn đã có mặt ở Tam Đảo, Ba Vì. Lúc ấy toàn quân đội ông Giáp sẽ hội tụ ở đầu biên kia Bắc Kỳ, làm quân Pháp không ý thức được, cả khối lượng ấy, với tác dụng bất ngờ lên nhiều, với sự dữ dội và sức mạnh tăng vô biên, sẽ bắt đầu lại cuộc chiến Vĩnh Yên.

Chẳng ai biết gì. Toàn là giả thuyết. Cuối cùng vua Jean quyết định một cuộc họp lớn. Cuộc “hội ý” tối cao với cả giới quân sự, tất cả những người của ông có thể tập được, đám thân cận, các “tướng tá”. Để thảo luận một số sĩ quan đặc biệt được triệu tập; họ phải vội vàng bỏ sở chỉ huy, các trung đoàn, quân lính của mình để kịp có mặt. Cuộc họp tiến hành ở Hà Nội, trong phòng lớn của Ban tham mưu. Ở hàng đầu, bên phải, trái của de Lattre, các tướng có mỗi người một ghế. Phía sau, ba bốn mươi đại tá hiện diện chỉ được ngồi nửa ghế.

Nghi thức lớn. “Ông chủ” không nói gì. Boussary đọc một bản tường trình dài, đầy thông tin nóng sốt và kết luận quyết đoán. Ông kết thúc chắc chắn:

- Tất cả cho thấy quân địch tiến lên phía bắc, đến Chu hoặc cả Tam Đảo.

Vua Jean suy tư. Việc chứng minh của nhà bách khoa có vẻ không thuyết phục lắm.

- Nhưng Boussary, anh có chắc chắn như thế không?

- Có, thưa đại tướng.

Trong lúc đó có tiếng gõ cửa. Boussary ra mở. Một bàn tay đưa một tờ giấy vàng dùng cho những bức điện giải mật mã. Trưởng Phòng Nhì đọc và tái mặt. Đại tướng giật lấy xem và quát to:

- Sao? Đây là lệnh tấn công vào nửa đêm nay của ông Giáp! Trên toàn tuyến Đông Triều. Vào những công trình bê tông chưa hoàn thành đầu Hải Phòng. Vào chốt bản lề của tôi ở Hải Dương...

De Lattre dịu lại. Thâm tâm ông hài lòng: đây là bằng chứng ông đã đoán đúng. Nhưng ông muốn biết vì sao Boussary có thể lầm đến như vậy. Ông hỏi với giọng khoan dung nguy hiểm: gọi những lời thú nhận.

- Boussary, điều gì làm anh khẳng định các sư đoàn ông Giáp đi lên phía bắc? Không bao giờ anh thu thập được một dấu hiệu ngược lại sao?

- Ở Lục Nam, chúng tôi “bắt được” một nông dân vừa ở vùng Chu tới, nói có thấy những lực lượng tăng cường Việt đi về phía nam.

- Thế anh làm gì với người ấy và những lời nói ấy?

- Tôi cho rằng anh ta đưa ra những thông tin tâm lý. Cử toạ thở ra. Mọi người như ngạt thở. De Lattre quát lên.

- Và mệnh lệnh này của ông Giáp, anh thấy thế nào? Anh cũng cho rằng Giáp cũng tung thông tin tâm lý chứ?


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười, 2021, 01:05:01 pm

Sau đó gần như là quan điểm của Boussary: một hiện tượng tự tin. Ông ta mất tinh thần nhưng không chịu thua. Với đôi môi mỏng, đôi mắt sáng lên, ông cãi bướng mười phút, lập luận này đến lập luận khác, theo cách người ta tán những kéo sắt, cho đến lúc “ông chủ” kết thúc.

- Người đưa thông tin tâm lý chính là anh, Boussary. Và quên rằng chính mình triệu tập các tướng tá, vua Jean quay lại phía họ quát:

- Sao? Các ông còn ở đấy không về chỉ huy các đội cơ động vào cuộc chiến đêm nay ư?

Nụ cười ranh mãnh của Boussary trước việc ra về của mọi người sau câu nói của de Lattre. Các tướng tá và đồng bọn phóng xe jeep nhanh về các sở chỉ huy, các đơn vị. Boussary ở lại trong gian phòng vắng. Không điều kỳ cục nào tác động được tới ông với logic của mình. Thần kinh bằng thép. Và như vậy, ông vẫn giữ được lòng ưu ái của “ông chủ”: “Anh xem, Boussary, nêu tôi không có ở đây...” Ông nghiêng mình bí hiểm, rất nhũn nhặn nhưng ẩn nét ương bướng và tự hào, thốt ra: “Tôi vững vàng nhưng ông còn vũng vàng hơn. Điều ấy không làm vua Jean mất lòng. Và rồi điều đáng kể nhất, đây cùng là một bạn đồng hành dễ chịu, tế nhị, thậm chí chắc là người thông minh nhất trong đám thân cận cùng với Cogny.

Mưu kế và phản mưu kế. Người Việt muốn “lừa được” de Lattre. Họ tự nhủ: “Làm ra vẻ rút khỏi Đông Triều, chúng ta làm cho Đội quân viễn chinh chuyển quân và chúng ta sẽ tấn công”. Trò chơi đối với người Pháp bây giờ được thông báo, là làm ra vẻ bị mắc mưu. Đối với những hoạt động giả của những đoàn bộ đội đi bộ, đại tướng đối lại bằng những đi lại giả của những đoàn xe. Các loại GMC khởi động, đi theo đường 18, đúng như ban chỉ huy Pháp rút hết người và khí tài. Như một cuộc di cư. Những chiếc xe hoàn toàn trống rỗng. Ngược lại lúc hoàng hôn trận địa được bố trí đầy đủ, tăng cường bằng mọi cách. Quân chính quy nghỉ vào chỗ “mềm yếu” sẽ rời vào chỗ “cứng rắn”. Người đi bị lừa.

Nhưng việc này cũng thế, có chắc chắn không? Không bao giờ được quên quy luật tối cao này của cuộc chiến tranh Đông Dương: tất cả những gì người Pháp làm, người ta biết cả. Có những đôi mắt nhìn họ và hành động của họ, những đôi mắt Việt Minh. Làm sao lầm tưởng được dân quê không báo cáo những đội cơ động, các tiểu đoàn, trọng pháp, xe tăng đã triển khai chờ đợi tiêu diệt các sư đoàn quân ông Giáp? Làm sao không hình dung được các bà bán quà vặt đến những chỗ xe cộ dừng không nhận thấy xe không có quân lính? Sao có thể nghĩ người Việt không biết quân Pháp đang tập trung lực lượng trên con đường 18? Cuộc phản công nửa đêm sẽ tiến hành như dự kiến, vào những chỗ đã định, ngay trong đêm mồng 5 tháng tư. Nhưng không phải hàng loạt, nghiêm chỉnh, “trận đánh lớn". Chỉ là những hỗn độn đáng sợ, rối rắm, dữ dội khác thường, nhưng cuối cùng chỉ là những trận nhỏ, mức độ khiêm tốn. Như để xác định ý thức, đúng hơn để gây rối Đội quân viễn chinh, để thấy họ ở đâu. Và cũng chứng minh cho de Lattre dù trong những điều kiện tốt nhất của ông ta, ông không dễ dàng làm lại một Vĩnh Yên mới mà phải đối mặt với một cuộc chiến tranh lâu dài, bước đầu cuộc chiến huỷ diệt đổ máu và ghê gớm mà tài năng của ông không đủ.

Nửa đêm. Ba cuộc tấn công chết chóc vào vùng biên Đông Triều. Như thường lệ, từ bóng tối và rừng rậm xông ra những người ôm bộc phá, bắn ba-dô-ka, những làn sóng quân chính quy la hét và ào tới như những người lính chì. Cả khối người bò lên, chạy, trèo vào, những người mặc quần áo đen và bộ đội đồng phục màu xanh lá cây. Rồi những cuộc giáp lá cà, xác người chết, biển lửa, tiếng tường đổ sụp, ca-nông gầm, kèn đồng thúc, tiếng thét “Hàng đi!” bằng tiếng Pháp, mệnh lệnh của các chính uỷ đứng chỉ huy. Một lần nữa kinh hoàng ghê gớm và kéo dài. Vì luôn luôn có những đoàn xung kích mới xuất hiện từ những hố đào gần đấy, nhảy qua dây thép gai tiến lên và gục ngã. Luôn luôn trong những công sự bị tấn công, những người bảo vệ còn sống sót bên cạnh đồng đội bị giết, nằm sau đại liên tàn sát như trong lò mổ. Đôi khi trong đó chỉ còn một nhóm người, bị dồn vào một góc ném lựu đạn liên tục, tai vang lên những tiếng nổ, những rên rỉ, hấp hối, những tiếng thét gọi hàng. Đôi khi dù sao cũng có sự im lặng kết thúc. Nhưng đêm ấy tất cả cố chống cự. Bình minh thì quân Việt rút lui, rõ ràng được lệnh bỏ trận địa lúc trời vừa sáng, theo hàng ngũ mẫu mực, rất trật tự, bất kể thắng thua, xem như kết quả mà de Lattre cho là họ bại trận, đối với họ chẳng quan trọng gì.

Tuy vậy trong đêm mồng 5, sáng mồng 6, các trung đoàn ông Giáp không chỉ đánh quân lính trong bốt hoặc các tiểu đoàn bị phục kích như những lần trước. Họ còn tấn công vào xi-măng phòng thủ, ở Bài Thơ giữa Lục Nam và Bảy Chùa. Đúng ra đây không phải một thành trì đã hoàn thành mà là một công trường lính lê dương và nguỵ binh trộn xi-măng xây các công sự, các điểm tựa. Giữa những đống sắt thép, những khối bê-tông, máy cán đá, máy xúc, những bao xi-măng Hải Phòng, giàn đá, cả một lộn xộn dụng cụ xây dựng mênh mông, người ta bắn giết nhau hàng nhiều giờ mà không trông thấy nhau, kết thúc vào lúc năm giờ quân Việt ra đi. Một cuộc ra đi, không phải trốn chạy hoặc rút lui.

Quân chính quy của ông Giáp cũng tấn công vào sắt thép. Hàng trăm, hàng nghìn đổ xô vào xe bọc thép đại liên, xe tăng và bộ binh, gần Bến Tắm một lối ra từ rừng núi giữa Bảy Chùa và thị xã Đông Triều. Một đêm đen như mực Tàu và ướt át vì mưa phùn. Nhìn qua như một cuộc phục kích nhưng chưa bao giờ quân Việt dám tấn công như thế. Chống lại xe tăng, tháp pháo, ca-nông và trang bị. Chống lại thép tôi, những mảng bọc kim loại khí, bằng ba-dô-ka và các khối thuốc nổ.

Phải chăng đúng là một cuộc phục kích và không chỉ là biện pháp loại bỏ những khí cụ quá cồng kềnh trong vài giờ, thời gian cần thiết để tiến tới mục tiêu: bốt Bến Tắm? Đây là một thành quách cổ tường cao dày bao bọc một tháp cao. Số lượng nhiều xe cộ sắp xếp theo trật tự chiến đấu trong sân. Bỗng nhiên cách đấy mấy cây số hai khẩu 75 ly Việt Minh phát hoả, dội liên hồi vào tháp canh Hoàng Xá trên bờ đường 18. Ở đây chỉ có mấy nguỵ binh bảo vệ, có bỏ công đi cứu không? Đại tá chỉ huy phân đội bọc thép nói: “Những chỗ phụ thêm ấy cũng chiến đấu cho nước Pháp, không thể bỏ rơi họ...” Những chiếc xe chuyển động và qua cánh cổng mở hé, trong tiếng ầm ì của bánh xích, từ bóng tối bên ngoài, quân địch tràn vào. Quân Việt khắp nơi, hàng đống, hàng khối, gần xe tăng, bên trên, bên dưới. Những bàn tay giơ lên, cố nhét những gói thuốc nổ vào nòng súng ca-nông, khe bánh xích. Cũng có những cánh tay cầm tiểu liên, lựu đạn vươn lên những khe tháp pháo. Chiếc tăng đi đầu bị chặn trên một chiếc cầu hẹp và phía sau cả đoàn tăng các loại dừng lại. Cuộc chém giết nổ ra; mỗi tổ xe trong vỏ bọc quét lửa đạn vào những ai trèo, nhảy lên. Không có xe nào không mang những người chết kẻ sống bám đầy. Phía trong xe, nhìn khó khăn, nhắm bắn sai lệch, các kỵ binh trụ vững trước nạn lụt người trong nhiều giờ trong đêm tối, ở góc đường này. Trong lúc đó ở Bến Tắm...


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười, 2021, 01:05:58 pm

Cuộc tấn công hạng nặng vào bốt, thành trì cổ. Súng ba-dô-ka không có tác dụng đối với thép xe tăng có làm đổ được những tường thành đá to, dày một mét không? Có rất nhiều trên các đồi xung quanh bắn vào bức rào đồ sộ một cách vô ích. Bỗng một tháp lớn đổ xuống. Trong đó đội đồn trú cất giữ một kho đạn cối 105 ly. Cuộc đại biến chôn vùi cả người tấn công và người bị tấn công, vẫn từng làn sóng quân Việt theo những lỗ hổng xông lên cho đến khi xác người bịt hết lỗ hổng. Xa hơn, những người tấn công ném lên những bức tường đứng các loại dây, thang, lưới. Quân chính quy trèo lên hàng trăm bằng tay, chân, ngồi, trườn như những con khỉ nhanh nhẹn để rồi bị bắn, đôi khi đã ở trên cao, gần đến đích lại rơi xuống như những hình nhân.

Bình minh lên, Bến Tắm và vùng xung quanh đã trụ vững. Thành trì cổ ngổn ngang xác người. Toán xe bọc thép ngoài vỏ đầy dầu và máu. Ngay tháp Hoàng Xá khốn khổ cũng khoảng một chục lính bổ sung còn sống sót trong đổ nát.

Quân Việt còn tấn công chỗ khác ngoài Đông Triều, nơi cũng nhận được hàng trăm quả đạn súng cối. Đấy là vùng đầu châu thổ Bắc Kỳ, chỗ người ta gọi là vịnh Hạ Long trên đất liền. Một bốt rất bình thường chống cự suốt đêm với cả một trung đoàn; rạng sáng có bảy mươi xác chết mắc vào dây thép gai.

Ánh rạng đông của chiến thắng thứ hai của đại tướng de Lattre de Tassiguy ở Đông Dương. Vĩnh Yên trong tháng giêng và bây giờ Đông Triều. Và lại cuộc diễu binh chiến thắng. Ngay trên chiến trường, đẹp hơn tổ chức trong đại giáo đường, trọng đại, rạng rỡ hơn nhiều. Cuộc dàn cảnh đầy đủ. Cảnh vật tuyệt vời, siêu thực. Mấy ruộng trơ trụi lác đác vài dãy cây cối với những xác chết âm u. Không có nước. Bên dưới là rừng bao la, kéo dài đến mãi chân trời, leo lên đến những dốc lớn, những ngọn núi cao thực sự trở nên trơ trụi về phía Lạng Sơn và Trung Quốc.

Vẻ đẹp của thiên nhiên và sự thờ ơ của thiên nhiên. Cảnh buồn chán hôi thối của tháp canh Hoàng Xá. Chỉ còn một số khối gạch lớn. Xa hơn là những tàn dư của cuộc chém giết. Một lính Việt còn đấy, trên cọc nhọn xuyên qua người. Những thi thể chưa chôn cất; một số nằm trong những mộ kỳ lạ. Cách khoảng trăm mét, những hố cá nhân quân Việt đào được khoét vội vàng thành hầm mộ trong đó có những thân người đắp đất còn hở. Một sọ người trần trụi, xa mọi đầu người và những mảnh quần áo các loại. Những thang dây tự xoắn vào nhau. Thật nao lòng! Chỉ có quạ, một số ở đấy, đang rỉa thịt. Xa hơn, cách hai, ba cây số chúng tập hợp từng bầy trên xác người.

Lính lê dương duyệt binh. Và de Lattre, cũng đứng, giơ bàn tay mang găng chào bức tường người tiến bước trước mặt. Chào họ, ông tự chào mình, ông chủ của họ, người đưa vinh quang này cho họ.

Lễ mừng chiến thắng tại chỗ. Không thiếu gì, kể cả thái độ cam chịu của một số tù binh và những con mắt nhìn bất động của một số nông dân. Nhưng cái chết, sự thất bại một ngày nào đó cũng sẽ đổ xuống đầu những lê dương ngạo nghễ ấy chăng?

Diễu binh ở Đông Triều, đấy là lời thề chiến thắng, lời hứa cao cả của de Lattre với các đoàn quân vừa khó khăn giữ được vị trí. Phải tán dương tất cả.

- Royer, các nhà báo có đấy không?

- Có, thưa đại tướng.

- Thế họ phải viết, viết đi...

Và rồi: “Cogny, đã điện cho hoàng đế Bảo Đại chưa?”

- Rồi, thưa đại tướng.

Sau đó: “Còn anh, Goussault, anh viết một lịch sử đẹp nhấn mạnh tính cách anh hùng của các quân đội, tầm cao những quyết định của tôi và sự thiệt hại của quân địch. Không còn các sư đoàn Việt...” Không ai mỉm cười tuy mỗi người đều biết sự khẳng định ấy ra ngoài ranh giới sự thật.

- Dannaud, anh đã viết một bài văn thật hay chưa, sau này sẽ đưa vào sách giáo khoa để rồi trẻ em Pháp học, biết được cuộc chiến đã như thế nào.

- Rồi, thưa đại tướng.

Khắp chỗ là “Vâng”, về các mặt theo con mắt của vua Jean vốn không muốn ý kiến gì khác.

Thế nhưng bản thân đại tướng thật bối rối! Thực chất chẳng có gì thay đổi. Không tới một nghìn quân chính quy Việt ngã xuống. Về phía người Pháp cũng khoảng chừng ấy chết và bị thương. Tất cả phải làm lại nhưng làm như thế nào?

Đôi khi ông nói, với de Royer, ngôi mộ những bí mật của ông:

- Tôi đã lao vào việc thật kinh khủng. Anh biết đấy, thực sự tôi không biết ra sao... Quân địch chưa hết mà ngược lại. Nếu tôi tổ chức, tăng cường lực lượng, họ cũng làm và làm hơn. Và họ dùng những chiến thuật phức tạp, lạ lùng mà tôi không hiểu, tấn công dữ dội nhưng rải rác ban đêm nhưng không kéo dài, cũng tập trung bí mật, tránh né, đi lại không tưởng được, hoạt động như kiến. Tại sao vậy? Và trận đánh Đông Triều tôi vừa thắng có nghĩa như thế nào? Thật vô lý, anh biết không...

Đúng là người ta vẫn không biết người Việt muốn làm gì. Chắc chắn họ giăng bẫy như thế nào? Linares vẫn giữ lý luận của mình, cho rằng ông Giáp muốn dồn lực lượng cơ động của Pháp vào ngõ cụt để tiêu diệt. Vậy là không nên chuyển động và ông ta thực hiện tốt chiến thuật bất động. De Lattre nghĩ các sư đoàn đỏ muốn chọc thủng hai lần, đầu tiên Mạo Khê sau đó Bến Tắm để tràn ra vùng châu thổ. Nhưng luận thuyết này cũng không tin được. Vì khi quân Việt ra đồng bằng những trung đoàn, Đội viễn chinh trong lúc đó sẽ đánh mạnh hơn. Trước hết họ phải chuẩn bị cả một công việc lớn về bố trí, huỷ hoại - điều đó họ cũng sẽ làm nhưng dần dần, tuần tự.


Tiêu đề: Re: Cuộc chiến tranh Đông Dương
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười, 2021, 01:09:34 pm

Nếu tất cả không giải thích được thì cũng không lay chuyển được và tất cả rất nguy hiểm. Nỗi ám ảnh bí mật của vua Jean là cảm giác đau đớn không dẫn dắt trò chơi được. Và ông tâm sự với tuỳ tùng:

- Tôi lê lết sau quân Việt. Và tôi đến để chiếm lại Lạng Sơn. Thay vì điều đó, trong vụ Đông Triều tôi không dám phản công vào rừng, ngập ngừng nhiều ngày rồi không dám quyết định. Tôi ở lại đây để thăm dò, bố trí, xây dựng. Nay người ta nói thế nào về tôi? Họ nghĩ tôi làm đúng hay sai?

Thật khó khăn để luôn là “người tuyệt vời” đối với một người đơn độc như thế trong ý đồ, những mắc mớ, sợ hãi! Đôi khi tính khí của ông kỳ cục hơn tính toán. Có những ngày ông nhăn nhó, dằn vặt vì lo âu khi thấy nhiệm vụ mình quá lớn. Thế là bùng lên, hậu quả ghê gớm đối với những người xung quanh, không còn là cơn giận có chi phối mà những cơn khủng hoảng thật sự. Tính tình của ông trở thành không chịu nổi. Có những lúc hơi lạ lùng. Ở Hà Nội một hôm ông nói với de Royer: “Tôi có thông tin. Người ta muốn giết tôi ngay tại đây, trong “ngôi nhà Pháp” của tôi. Gọi Perrier cho tôi”. Trưởng An ninh sau này chết vì bệnh tim do quá căng thẳng lo về một vụ ám sát vua Jean. Trong lúc này ông để một viên thanh tra cảnh sát thường trực ở tầng hai, trước phòng ngủ của đại tướng. Một số ngày trôi qua. Bỗng đại tướng hỏi người tuỳ tùng: “Người kia là ai?

- Tôi không biết.

- Anh để người lạ lượn quanh đây. Anh muốn để ám sát tôi à?

- Thám tử của tôi đấy”. Perrier chạy tới nói. De Lattre đùa. Có lẽ ông chỉ muốn làm de Royer bối rối, làm như bắt gặp ông này có lỗi chỉ do ông ta không bao giờ mắc lỗi.

Sự lo lắng của vua Jean kéo dài không bao lâu. Mặc dù Đông Triều không thực sự là một trận chiến chỉ gồm những bí ẩn, hành quân, cách nhìn và chỉ là vài đụng độ - có thể thế giới cũng tin vào “chiến thắng” của de Lattre. Và ông tin. Đối với vua Jean là “thắng trận”. Đột ngột, nhưng sảng khoái, rỉ rả hài lòng biết mấy. Gần như chuyện trẻ con.

Đông Triều là điểm ngoặt của đỉnh cao de Lattre. Ông không biết, chẳng ai biết điều đó. Thế nhưng trên bờ rìa vùng những gì vua Jean xác định, tưởng tượng, tạo dựng, tỏ ra không vững chắc gì đối với quân địch. Quân ông Giáp thực tế không đánh hạ được. Ngược lại chính hệ thống quân Pháp dần dần bị gặm nhấm. Từ phiêu lưu người ta sẽ chuyển qua bị giam hãm.

Cuộc phiêu lưu tôi tả trong cuốn sách này chỉ kéo dài bốn tháng. Đỉnh cao của con người kỳ dị, đối với riêng mình, đi từ Paris đến một thế giới xa lạ, cứu vớt một quân đội, một cuộc chiến tranh, cứu Đông Dương. Cuộc phiêu lưu của tính cách một con người chống lại tất cả, chống một lục địa ghê gớm. Những giờ đẹp để khi đến chịu trách nhiệm về những kẻ thất bại, biến họ thành những người lính cứng rắn, những anh hùng. Những giờ mê hồn của trận chiến Vĩnh Yên, thắng số phận chỉ bằng quyết tâm. Những giờ cần cù sau đó, với hoạt động điên cuồng, căng thẳng, bất thường, làm lại tất cả. Ông tạo dựng lại người của mình, từ lính trơn lên tướng tá và triều thần thân cận. Ông cải tạo cả một hạ tầng cơ sở quân đội, cả một chiến lược, nhào nặn những người da vàng, cho đến Bảo Đại; một công việc nặng nhọc. Ông lấy thế giới làm chứng, thực hiện, tiên đoán. Ông làm những việc đó mặc dù Paris thiếu trách nhiệm, thế giới thờ ơ, bản thân cô độc, bước đầu có bệnh, những lo toan riêng tư. Những việc đó đối mặt với một Châu Á ông hiểu sai nhưng dần dần đoán ra, ông không hề yêu thích và làm cho người ta sợ hãi. Dù sao cũng là một cuộc phiêu lưu đẹp, một trong những cuộc phiêu lưu lớn của thời hiện đại.

Tất nhiên sẽ còn một số tuần lễ rất đẹp. Tột đỉnh của cuộc chiến tranh Đông Dương. Gần như Đội quân viễn chinh quay cuồng từ những cuộc hành quân rất đẹp này tới những cuộc hành quân rất đẹp khác, riêng trong vùng châu thổ. Cuộc trình diễn chiến binh cuối cùng, đẹp nhất trên thế giới. Vua Jean như một người lớn lao với những kẻ lang thang, những tiểu đoàn, triều đình của mình. Thật là thời đại lớn nếu cứ kéo dài. Những vị khách bắt đầu từ Malcolm MacDonalod, loá mắt. Các nhà báo ca ngợi...

Chỉ trong mấy tuần. Mấy tuần lễ ảo tưởng. Vì ở bên dưới tất cả không ai biết, đã là mầm mống của thất bại. Từ khi trên đường 18, quân Việt ở Mạo Khê, Bến Tắm bắt đầu cuộc chiến tranh huỷ diệt lớn của họ. Ở đấy mới chỉ là thử nghiệm, mò mẫm, triển khai bước đầu nhưng nối tiếp sau đó thật đáng sợ.

Việc giam hãm. Không chỉ một trận đánh. Không có những trận đánh liên tiếp nhau mỗi ngày càng khốc liệt. Việc giam hãm không phải trận thua đến một lần. Đấy là sự huỷ diệt, từ nay là chìa khoá của cuộc chiến tranh Đông Dương. Sẽ kéo theo tất cả, sự suy sụp trong đau đớn, trong tính anh hùng và thất bại.

Đấy là cái chết của Bernard trong tháng năm, sẽ là sự bộc lộ. Đây không hề là một sự cố, một tai nạn, một bi kịch tự thân, riêng lẻ. Đấy là hiệu quả của chiến thuật mới, sức mạnh mới của quân Việt bỗng loé ra như sét đánh, bất kể de Lattre, công trình, chiến thắng của ông. Không, ông Giáp không bị vượt qua, vì cuối mùa xuân ông tung toàn quân đội ra chỗ người ta tuyệt đối không chờ đợi, chỗ đứa con vua Jean hành quân. Trên sông Đáy, phía cực nam vùng châu thổ, trong “lỗ hổng” của trận địa Pháp. Như vậy quân chính quy đi vòng nhiều tuần lễ quanh vùng đồng bằng và xuất hiện phía bên kia xứ Trung Kỳ đỏ tràn vào vùng trống không. Chỉ một số biệt kích, vài đơn vị nhỏ chống cự trong vùng, trong đó có đơn vị Bernard. Phần lớn bị tiêu diệt, anh trúng nhiều đạn. Bộ phận lớn của Đội quân viễn chinh sau đó tới, chiến đấu gần một tháng, khó khăn lắm mới cầm chân được làn triều đỏ này. Với giá bao nhiêu sức lực!

Chiến lược huỷ diệt! De Lattre bỗng như một ông già, một người tàn tật, kiệt lực, trong lúc ông đang rất cần sức lực về thể xác và tâm hồn. Người rã rời. Sau ánh đuốc cuối cùng về sức sống ở Mỹ mà ông muốn chinh phục và chinh phục được. Nhưng đã quá chậm... Tuy thế, ông vốn rất khôn ngoan, đôi khi rất lo về thời gian trọn vẹn của mình, vùng vẫy, giật nẩy mình trong sự diệt vong lâu dài. Bao nhiêu bất lực và bỗng bao giận dữ! Không gì kiềm chế được ông, kể cả sự đau đớn. Ông đứng lên tuy rất nặng nhọc. Trước đây coi thường, xem quân Việt chỉ là những kẻ địch để bắn giết, ông bắt đầu căm ghét họ sâu sắc theo lối tín ngưỡng, phản động. Ông tin vào cuộc thập tự chinh. Với một loại nóng giận điên cuồng, ông còn muốn thắng, kịp thời thắng ông Giáp và chủ nghĩa cộng sản. Ông tung Đội quân viễn chinh vào vùng rừng rậm sông Đà vì tất cả: những đòi hỏi của Paris và Washington. Nhất là vì ông, từ nay là quan toà, quan toà lớn sắp chết.

Huỷ diệt! Sẽ là những trận đánh ở sông Đà, gần như không tả nổi. Ở đây Đội quân viễn chinh lần đầu tiên đổ máu, hơn trên đường số 4 nhiều. Không phải trong những trận thua mà tệ hại hơn, trong những cuộc bắn giết mù quáng và không dứt không có nghĩa. Ở đây, quân đội Pháp ở Đông Dương, đẹp như thế thời kỳ huy hoàng của de Lattre, trang phục tốt, chiến đấu hăng, dần dần tan rã. Vì ghê tởm, mệt mỏi, những mất mát, đau đớn, tối tăm. Những gì không tốt lắm trở nên xấu, bất lực trước quân Việt. Những người thuần tuý, cứng rắn thăng hoa trong đau khổ và cái chết. Chỉ còn mấy nghìn lính dù, lê dương “trụ lại” với những quân chính quy Việt trong rừng, chịu đựng những cuộc tấn công dữ dội. Lúc ấy trong sự dũng cảm kỳ diệu sản sinh “câu chuyện huyền hoặc về lính dù”. Cũng phải có một huyền thoại để chấp nhận một số phận đáng sợ; để có thể đánh nhau trong rừng với cả những sư đoàn ông Giáp. Việc ấy kéo dài nhiều năm cho đến sự huỷ diệt cuối cùng: Điện Biên Phủ, de Lattre yên nghỉ từ lâu ở Mouilleron - en - Pareds.

Hết!