em cám ơn bác OldBuff rất nhiều ạ, em biết nguyên tắc đó nhưng cũng không nên quá đặt nặng vấn đề đó tránh "siêu hình" bác ơi..
thì nhà em làm NCKH về Hp 146, thì cuốn "Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam" của VP Quốc hội là nguồn mà em thấy có những thông tin hết sức quý giá về Hp 1946 nên em mới dám trích, em đã xem lại thì Cụ Hòe chỉ ghi thế thôi chứ ko nói rõ là trong HP nòa của LX ạ, em xin nhận sai vấn đề này, v sẽ sửa chữa trong bài của mình..cám ơn các bác rất nhiều..
:-\về vụ kiểm soát quyền lực em xin luận giải như sau các bác cho em ý kiến nhé:
"... Trong Hiến pháp 1946 và các hiến pháp sau kế thừa thể hiện đó là mô hình tổ chức quyền lực theo nguyên tắc : thực hiện chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của nhân dân. Để thực hiện được nguyên tắc này nảy sinh việc phải kiểm soát quyền lực nhà nước để nhà nước ấy luôn là chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của nhân dân.
Vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước là làm cho bộ máy nhà nước không những có khả năng kiểm soát được xã hội, mà không kém phần quan trọng là buộc nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình.
Phải kiểm soát quyền lực nhà nước để hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, khắc phục sự tha hóa, đưa quyền lực nhà nước trở về với đúng nghĩa của nó là quyền lực của nhân dân, điều này thực sự là cực kỳ cần thiết. Ngoài việc nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ đại diện (thông qua Quốc hội và HĐND và các cơ quan khác của nhà nước) còn thực hiện bằng các hình thức dân chủ trực tiếp như bầu cử và bãi nhiệm.
Để thực hiện việc kiểm soát quyền lực trong Hiến pháp 1946 đã quy định, đầu tiên đó là coi Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến. Khi nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến thì nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước và nhân dân là chủ thể phân công quyền lực nhà nước. Hay nói cách khác là phương tiện để giới hạn quyền lực nhà nước. Điều này được thể hiện qua quyền phúc quyết của nhân dân về việc sửa hiến pháp trong điều 70 – Hiến pháp 1946 : “… Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng thuận thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết" .” Khi đã xác nhận nhân dân là chủ thể của quyền lập pháp, Quốc hội - Nghị viện nhân dân chỉ có quyền :” Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà chính phủ ký với nước ngoài". chứ Quốc hội không còn là thiết chế duy nhất có quyền lập hiến như hiến pháp hiện hành.
Nhà nước là của dân, do nhân dân bầu ra và được nhân dân tín nhiệm giao phó trách nhiệm quản lý mọi mặt đời sống xã hội . Đồng thời người dân có quyền giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Điều này được ghi nhận trong Hiến pháp 1946: “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra...”( điều 20) và “Nhân dân có quyền phúc quyết về hiến pháp và những quan hệ liên quan đến vận mệnh quốc gia. "điều 21)...