Trong hồi ký "Chiến trường mới" của Thượng tướng Nguyễn Hữu An có đoạn nói về thời điểm ký kết Hiệp định Paris tại vùng Quảng Trị. Khi đó ít phút trước giờ HD có hiệu lực, 2 bên vẫn đang bắn nhau ầm ầm. Bỗng nhiên có tiếng loa công suất lớn của VNCH thông báo đã đến giờ HD có hiệu lực và yêu cầu ngưng bắn. Hai bên lập tức ngưng bắn, không gian tự nhiên im lặng tuyệt đối. Cụ An nói nó giống như cái đài đang nói bị tắt công tắc vậy. Sau đó ít giây, cả hai bên ào ra ôm hôn nhau thắm thiết và trao đổi quà tặng cho nhau, luơng khô 72 sang VNCH, thuốc Ruby sang GPQ,....
Sau đó cả tháng là các quán hòa hợp dân tộc hoạt động ỳ xèo, các bác nhà ta thưởng thức nhạc vàng còn các bác VNCH sang xem văn công,...
Bn còn nhớ có một tấm ảnh trên net chụp 2 người lính của 2 bên khoác vai nhau cười rất tươi của thời gian đó. (bây giờ chưa tìm lại được link, nhưng chắc có nhièu bác ở đây đã xem)
Rất mong bác TTNL, lixeta và các bác CCBCM cho thêm thông tin về thời gian đó nhé.
CHUYỆN VI: ĐẶC SẢN NHƯ LỆ
Chỉ còn dăm ngày nữa là đến ngày ngừng bắn (28/1/1973). Sắp đỡ rồi !
Tôi đi cùng anh A. từ cứ của đại đội ở chân dẫy Cao Hy. Chúng tôi đi từ rất sớm. Anh A. là chính trị viên phó đại đội. Nghe nói anh giỏi võ lắm, dân Bình Định mà. Anh nhảy núi từ năm 14 tuổi (nhảy núi là từ chỉ người dân trong vùng địch trốn lên núi theo ta), đã hai lần được tặng danh hiệu “Dũng Sỹ”, đánh nhau gan tày trời. Lớn hơn lứa chúng tôi trên chục tuổi, thấp, đậm với nước da gọi là “Maroc kiều”, trông anh rõ là khắc khổ. Không mấy khi nét mặt anh giãn ra được trừ khi cười (may mà anh hay cười), đôi mày lúc nào cũng chau lại. Vậy mà hiền khô. Trong số các thủ trưởng đại đội, anh gần gũi lính tráng nhất. Lính tráng, đứa nào cũng thích trêu anh, bao giờ anh cũng chỉ cười hề hề. Gọi là “trình độ văn hóa có hạn”, làm chính trị viên hẳn là chẳng thoải mái với anh chút nào, nhất là khi phải nói “chuyện chính trị” cho anh em trong đơn vị. Với anh, thà rằng có địch lại dễ, chỉ việc “uýnh” thôi.
Trên đường đi xuống Như lệ, chúng tôi sẽ rẽ qua cao điểm 108, nơi có đài quan sát của C20 (trung đoàn và sư đoàn đều có một đại đội trinh sát và đều được gọi là C20). Anh A. bảo:
- Hái rau đi, trên 108 chúng nó làm bún rồi.
Ngay gần cứ, chẳng có dấu tích gì của làng xóm nào mà sao những rẻo đất thấp ven suối lại có những đám rau rõ là do người trồng hẳn hoi nhưng đã bỏ từ lâu. Thế mới lạ ! Những cây rau rền cằn cỗi, những khóm húng chanh xơ xác và mấy cây cà chua còi cọc. Rồi cũng hái được một nắm rau rền, lá nhỏ lắm, màu xanh chứ không to, mướt và có màu tím như rau dền ở chợ bây giờ. Một thứ rau dền mọc hoang dại cùng với cây cỏ ở những chỗ xó xỉnh trên các con đường thôn quê. Lại được một túm rau húng với dăm bảy quả cà chua nữa. Nói là quả cho nó hoành tráng chứ cà chua ở đây chỉ to như quả nho, không biết có phải là giống cà chua bi bây giờ ?
Điểm cao 108 là một quả đồi trọc cao hơn hẳn xung quanh, không có cây cối gì, đến cỏ cũng hiếm vì bị bom pháo địch thăm hỏi đều. Mọi người đều phải ở trong hầm có hai ngách dẫn ra chỗ quan sát. Ở đây còn có cả nhà âm, chỉ vài mét vuông, mái lợp tranh, phủ đất lên trên để ngụy trang. Khổ nhất ở đài là đi lấy nước và lấy củi. Lấy nước mãi tận suối, rất xa, đi lên đi xuống dễ là ẩm thực món "cà pháo" của địch lắm. Tuy nhiên, đã nhằm nhò gì so với đài quan sát của chúng tôi ở cao điểm 20, Nhan Biều. Được về đài 108, coi như đi an dưỡng rồi.
Chúng tôi lên đến nơi, thấy hai đứa trần trùng trục đang giã bột. Ở trần vừa mát và nhất là đỡ phải xuống suối giặt quần áo, vẫn lịch sự chán, quần đùi rộng lắm, tháo ra có thể may được chăn mà?! Vậy coi như vẫn thả rông nhé ! Anh A. Hỏi:
- Thằng C. đâu?
- Nó đang quan sát thủ trưởng ạ!
Gạo được ngâm chua dễ đến cả tuần, thay nước liên tục. Gạo được giã trong cái cối là mũ sắt, còn chày là một quả lựu đạn cán gỗ đã tháo ruột. Chày cối này giã . . . . sướng phải biết ?! Bột được nắm thành quả cho vào luộc cho chín lớp bên ngoài, gọi là làm bột áo, rồi vớt ra đem giã lại. Cái vắt bún là chiếc tất Trung Quốc dệt bằng loại sợi màu cỏ úa, có ánh vàng (tất lính cũng thời trang đáo để). Chiếc tất được khâu cẩn thận vào cái miệng thở của mặt nạ phòng độc có nhiều lỗ rất tròn. Đồ nghề làm bún quá sáng tạo (tiếc là không dự thi “Trí tuệ Việt Nam”). Sợi bún hơi to một chút nhưng không đến nỗi “giun đũa”.
Hai tên này làm bún có nghề quá, vắt bột thoăn thoắt vào nồi nước sôi, một loáng đã thấy vớt ra. Có bún rồi. Gạo ngâm lâu, sợi bún dai và giòn như bún Huế.
Thực sự là ngon. Bún chan canh thịt hộp nấu cà chua và rau dền ăn với húng chanh nữa. Tuyệt! Giá bây giờ mà có . . . vẫn tuyệt !
- Chín rưỡi rồi, đi thôi ! – Anh A. nói.
Chúng tôi bắt tay 3 lính đài rồi xuống núi. Từ đây xuống Như Lệ phải qua một số chỗ trống trải. Bọn địch trên động Ông Đô (anh em thường gọi là động Ông Do) và nhất là trên cao điểm 29 Tanh Lê thể nào cũng thấy và gọi pháo. Cứ chuẩn bị tinh thần đi !
. . . . (còn nữa)