Như tôi đã trao đổi với các bạn, cách đây mấy năm tôi đã chuyển cho tờ
Nhân dân cuối tháng (không nhớ số) bài viết của 1 người bạn gái của TLT và 6971 viết về một đồng đội của chúng ta - một người lính Thành cổ QT. Bài viết này tôi rất tâm đắc vì có lẽ nó như 1 lời chia sẻ của 1 lớp SV-CS mà người ta hay gọi là
tạch tè sè...
Tôi xin phép TLT và 6971 được đưa bài viết này để chia sẻ cùng anh em mình. Người bạn gái này tên là Thu (tôi không nhớ họ, có gì TLT và 6971 bổ khuyết)
ĐÒ XUÔI THẠCH HÃN
Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi 20 thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm
(Lê Bá Dương)Tôi biết anh đã từ lâu lắm rồi. Chính xác là ngày tháng nào thì tôi không còn nhớ rõ, nhưng chắc chắn là trong những ngày chiến tranh ác liệt nhất năm 1972. Ngày ấy, tôi bước chân đến một đất nước xa xôi có tên là Môn-đa-vi, một nước cộng hoà nhỏ bé trong Liên bang Xô viết, để học đại học. Tôi ra đi mùa thu năm 1972, khi bạn bè tôi, những học sinh Hà Nội lớp cuối cấp phổ thông, cùng với anh và bạn bè anh, những sinh viên đại học Hà Nội năm đầu, đi vào Quảng Trị. Hồi ấy rất nhiều học sinh xuất sắc được gửi đi học ở nước ngoài và nhiều hơn thế nữa những học sinh xuất sắc và cực kỳ xuất sắc đã đi vào chiến trường, đặc biệt là Quảng Trị. Sau này khi viết
“Những chuyến tàu ngược chiều về hai đầu đất nước” là lúc tôi nhớ về những chuyến ra đi đặc biệt của lứa học sinh chúng tôi năm ấy. Hình như chẳng có ai trong đám chúng tôi, lũ học trò Hà Nội mộng mơ, trong sáng, lũ học trò
“vào đời” năm 1972 ấy lại không có bạn, giờ phút ấy, đang qua sông Thạch Hãn dưới mưa bom. Bạn có thể thấy rõ điều đó ở Nghĩa trang Trường Sơn, ở Thành cổ Quảng Trị. Ở đấy rất nhiều bia mộ ghi rằng Quê quán: Hà Nội - Năm sinh 1954 hay 1955. Một thế hệ được sinh ra vào năm hoà bình lập lại sau một cuộc chiến tranh dài ...
Nhưng anh không phải là bạn học của tôi. Anh là bạn của một người bạn tôi kết thân khi sang học xứ người. Và chính xác là tôi được biết về anh vào cái ngày bạn tôi nhận được tin anh hy sinh ở chiến trường Quảng Trị. Anh là lính trinh sát sư đoàn 325. Anh bơi qua Thạch Hãn.
“Đò xuôi Thạch Hãn ...”.Ngày ấy tôi ngồi bên người bạn của mình, nghe kể về anh để nhớ về bè bạn của chính tôi đang ở chiến trường ấy, để nhớ về Hà Nội của chúng tôi, về những đường phố đẹp nhất ở trung tâm Hà Nội nơi chúng tôi có may mắn được sống và lớn lên, nơi chúng tôi có mùi thơm nồng nàn hoa sữa, có màu tím bằng lăng, có tiếng đàn dương cầm vọng từ căn gác nhỏ thực sự trong ký ức của mình, nơi bạn tôi vĩnh viễn nhớ hơi ấm bàn tay ai dắt qua đường ở góc trường Quang Trung từ những ngày thơ bé. Chúng tôi đọc lại những câu thơ của anh, nỗi niềm của anh gửi cho bạn bè đang du học ở nước ngoài
Khi nào em trở vềHãy lắng nghe cơn mưa rào mùa hạ
Hãy lắng nghe tiếng thì thầm hoa lá
Hãy lắng nghe tiếng đất hát đêm đêm
Đấy là lời anh gửi đến cho em ...Những câu thơ tôi không còn nhớ anh viết lúc nào. Có thể đó là tiếng thì thầm hoa lá trong một đêm tối trời trên đường hành quân hay là lúc anh chợt nghe được tiếng hát của đất mẹ trong một phút lặng dưới công sự trong Thành cổ ... Sau này, sống ở nước ngoài nhiều, mỗi khi nhớ nhà, nhớ Hà Nội là tự dưng lòng tôi lại thầm nhắc
“Hãy lắng nghe ...”Có một điều lạ lùng là cuộc đời anh vào thời điểm đó rất giống với liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Có lẽ thế hệ đó có nhiều người giống nhau như thế. Anh học chuyên Toán, anh thi học sinh giỏi Toán và Văn toàn miền Bắc, anh vào Đại học và đi bộ đội cùng lúc với Nguyễn Văn Thạc. Bạn gái của anh Thạc – chị Như Anh – học cùng lớp với bạn anh ở Ki shi nhốp và chính Nguyễn Văn Thạc cũng đã nhắc tới tên anh trong cuốn nhật ký
“Mãi mãi tuổi hai mươi” nổi tiếng của mình. Nguyễn Văn Thạc đã hy sinh. Còn với anh là một chút may mắn của số phận. Anh bị thương nặng nhưng đã được cứu sống. Người ta đã báo tử nhầm. Nghe nói anh bị thương nặng lắm, băng quấn từ đầu đến chân nên không ai tin là anh sẽ qua khỏi. Rồi người ta đưa anh ra Bắc điều trị. Hè năm ấy bạn tôi về phép và thăm anh. Hồi ấy không như bây giờ, việc về phép hầu như là không thể đối với lưu học sinh, trừ những trường hợp cực kỳ đặc biệt và phải được sự đồng ý của Đại sứ quán. Người bạn ấy đã kể cho anh nghe về lũ chúng tôi, về những ngày chúng tôi đọc thơ anh, và khi hồi phục anh viết thư cho lũ chúng tôi, những đứa em mới của anh.
Thư anh viết cho tôi không nhiều nhưng tôi luôn nhớ về chúng. Trên một tờ pơluya trắng mỏng manh, bằng màu mực xanh Cửu long anh chép cho tôi bài thơ
“Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm khi bài thơ vừa ra đời.
“Khi ta sinh ra Đất Nước đã có rồi ...”. Bài thơ dài ấy tôi trân trọng giữ và mang nó về lại Việt nam khi tốt nghiệp.
Nếu một ngày nào đó bạn vào Internet, gõ ba chữ
“Tu Bao Ho”, bạn sẽ thấy hiện lên nhiều trang web giới thiệu một giáo sư ngành Trí tuệ nhân tạo tại một Đại học của Nhật. Chỉ cần đọc tiểu sử tóm tắt bạn cũng nhận ra ngay đây là một giáo sư có uy tín trong lĩnh vực chuyên môn của mình, là người đã công bố nhiều công trình nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế, người đã tham gia và tổ chức nhiều hội nghị quốc tế về Trí tuệ nhân tạo, biên tập cho nhiều tạp chí quốc tế, tham gia đào tạo nhiều sinh viên, thạc sĩ, tiến sĩ, trong đó có khá nhiều sinh viên Việt nam. Bạn có thể sẽ nghĩ đây là một Việt kiều có cơ hội được học tập đào tạo từ lúc nhỏ tại Nhật hoặc một nước phát triển nào đó như đa phần các giáo sư gốc Việt có tiếng tăm hiện nay.
Không đúng đâu, đó chính là anh đấy. Người đã không nằm lại “
đáy sông Thạch Hãn”nhưng đã để lại một phần máu xương của mình, một phần
“Tuổi 20 thành sóng nước” ở dòng Thạch Hãn bi tráng ấy; người lính trinh sát sư đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ và được thưởng một huân chương chiến công hạng hai; người thương binh đã trở về để học hết đại học và rồi tiếp tục theo đuổi con đường khoa học. Trong giới hàn lâm, giữa bè bạn, học trò, tôi ít thấy anh nhắc về những năm tháng đó. Bài viết về Quảng Trị anh cũng dùng bút danh khác. Có lẽ chỉ có duy nhất gần đây, trong bài viết của anh đăng ở báo
Toán học tuổi trẻ nhân kỷ niệm 40 năm hệ chuyên Toán, anh mới viết chút ít về những gì đã làm. Như một báo cáo, như một lời tạ ơn với các thầy, với mái trường đã góp phần tạo nên con người anh: ngoài tư cách là một chuyên gia giỏi trong lĩnh vực chuyên môn còn là một con người sống đúng nghĩa như cần phải sống trong thời khắc của mình.
Với tôi anh cũng ít nhắc về năm tháng ấy. Biết anh rất bận tôi cũng ít khi viết thư nhưng hầu như không năm nào tôi quên gửi anh vài dòng vào ngày 30/4 và 27/7. Trong những dòng thư ngắn ngủi gửi vào những ngày đáng nhớ ấy, tôi cũng chẳng mấy khi nhắc về Quảng Trị nhưng tôi tin là anh biết tôi đang cùng anh nhớ về dòng Thạch Hãn 1972. Cũng như tôi đã nhớ về Thạch Hãn khi cùng anh dịch những lời thơ từ bài hát Nga
“Đàn sếu”Tôi như thấy những người lính ấy
Không trở về từ chiến trường xa
Cũng không nằm nơi đất lành đâu đó
Mà hóa thành đàn sếu trắng bay qua
Đã từ những ngày xa đó
Đàn sếu vẫn bay và cất tiếng gửi ta
Phải vậy chăng lòng tôi thường se lại
Mỗi khi nhìn trời biếc bao la
Bay bay mãi những mũi tên mệt mỏi
Trong sương mờ khi chiều lặng dần trôi
Khoảng trống nhỏ nơi đội hình xa đó
Phải chăng còn một chỗ cho tôi
Rồi sẽ một ngày cùng đàn sếu trắng
Tôi bay vào mịt mù trời xanh
Cũng cất lên tiếng kêu người lính
Gửi những ai còn trên mặt đất mông mênhDịch không phải để đăng đâu đó mà để cho người dịch, cho bè bạn và những người đã không còn trở lại. Thi thoảng anh gửi vội cho tôi vài dòng: Thu vào VTV3 xem đi hay ở
Tuổi trẻ có bài đấy. Thế là tôi biết đang có chương trình về Quảng Trị, Quảng Trị mùa hè 1972, Quảng Trị của anh năm 20 tuổi. Với anh
Đò xuôi Thạch hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm không chỉ là một câu thơ hay đầy xúc động mà là một câu nói vĩnh viễn nằm trong ký ức, vĩnh viễn nằm trong trái tim. Và với tôi những gì anh làm được suốt những năm tháng sau chiến tranh dù đã có một thời cực kỳ khó khăn, dù đã có không ít ngày trái nắng trở trời vết thương xưa hành hạ, cũng là một phần nối tiếp của
“Có tuổi 20 thành sóng nước”.Năm trước trong chương trình kỷ niệm về Thành cổ Quảng Trị, ban tổ chức có mời một số cựu chiến binh thành đạt sau chiến tranh, một số thương gia, một vài cán bộ lãnh đạo, và nhiều sĩ quan quân đội. Nhưng tiếc là không có anh, một cựu chiến binh có lẽ là duy nhất của Thành cổ trở thành một nhà khoa học có uy tín trên trường quốc tế. Tôi nói với anh điều đó, và anh trả lời nhẹ nhàng
“thì có rất nhiều lính chiến đấu ở Quảng Trị mà ...”30/4/2007
35 năm Thành cổ