Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2010, 09:55:03 pm



Tiêu đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2010, 09:55:03 pm
Tên sách: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
Năm xuất bản: 1999
Số hoá: ptlinh, chuongxedap



CHỦ BIÊN:
Đại tá NGUYỄN VĂN MINH

TÁC GIẢ:
Đại tá ĐỖ XUÂN HUY
Thượng tá TRẦN TIẾN HOẠT
Trung tá NGUYỄN XUÂN NĂNG
Trung tá NGUYỄN HUY THỤC
Thượng tá PTS. HỒ KHANG



LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Bằng tiền bạc, vũ khí, trang bị hiện đại, cùng với đội ngũ cố vấn lành nghề, dựa vào quân đội, chính quyền Sài Gòn và hệ thống ấp chiến lược để tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt chống nhân dân ta, đế quốc Mỹ hy vọng giành thắng lợi, áp đặt chế độ thực dân mới lâu dài trên đất nước ta. Nhưng chúng đã thất bại thảm hại khi phải đương đầu với cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn của nhân dân Việt Nam, trong đó quân chủ lực ngày càng giữ vai trò chủ đạo. Đến mùa hè năm 1965, với các trận thắng ở Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài của Quân giải phóng, chiến lược chiến tranh đặc biệt đã thất bại, chế độ tay sai và quân đội Sài Gòn do Mỹ nuôi dưỡng, trang bị, huấn luyện và chỉ huy lại đứng trước nguy cơ sụp đổ.

Nước Mỹ sen đầm không dễ dàng chấp nhận thất bại, liền thay đổi chiến lược, tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ, trực tiếp đưa quân viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu vào chiến trường miền Nam tham chiến, dùng không quân và hải quân đánh phá dữ dội miền Bắc. Đây là bước leo thang chiến tranh rất nghiêm trọng, đặt cả một dân tộc và chế độ xã hội mới do nhân dân ta lựa chọn trước thử thách hiểm nghèo.

Bằng kinh nghiệm và truyền thống của nhiều nghìn năm đánh giặc, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo đầy thao lược của Đảng và Bác Hồ đã bình tĩnh, chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử một cách chủ động, kiên quyết.

Hai cuộc đọ sức trực tiếp ở Núi Thành và Vạn Tường với quân viễn chinh Mỹ, Quân giải phóng miền Nam đã giành thắng lợi. Kết luận đầu tiên được khẳng định: chúng ta hoàn toàn có thể đánh được Mỹ và đánh thắng chúng trong cuộc chiến tranh này. Vấn đề nan giải nhất khi bước vào cuộc đọ sức đã được thực tế chiến trường minh chứng.

Khi có trong tay đội quân viễn chinh đông tới hàng trăn ngàn tên, Bộ chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn ra tay hành động bằng cuộc phản công chiến lược thứ nhất vào mùa khô 1965-1966, cùng một lúc đánh ra các hướng từ Đông Nam Bộ, tới khu V. Ngay một năm sau đó, quân viễn chinh Mỹ mở rộng cuộc phản công chiến lược lần thứ hai vào mùa khô 1966-1967, với trận càn Gianxơn Xity đánh vào căn cứ đầu não của Trung ương Cục miền Nam.

Với hai chiến dịch quân sự quan trọng này, đế quốc Mỹ hy vọng bằng sức mạnh khổng lồ của đội quân viễn chinh đông đảo với vũ khí, trang bị rất hiện đại có thể nhanh chóng tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng miền Nam, đánh phá các căn cứ du kích, yểm trợ tối đa cho chương trình bình định do quân đội và cảnh sát Sài Gòn đảm trách, thực hiện thắng lợi kế hoạch chiến lược: tảo thanh, bảo đảm an ninh, tìm và diệt.

Đồng thời với những chiến dịch phản công lớn ở miền Nam, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc bằng việc dùng không quân và hải quân đánh phá dữ dội vào khu IV, cũng như các tỉnh khác, đặc biệt là hai thành phố lớn Hà Nội và Hải Phòng, nhằm làm cho miền Bắc xã hội chủ nghĩa kiệt quệ, cắt đứt con đường huyết mạch chi viện cho cách mạng miền Nam.

Đế quốc Mỹ cố tình quên những bài học lịch sử, chúng đã phải đối đầu với cả một dân tộc đứng lên làm chủ vận mệnh của mình được tổ chức tốt và vũ trang toàn dân, từng bước đánh thắng chúng.

Tập IV của bộ Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) mang tiêu đề Cuộc đụng đầu lịch sử gồm năm chương, từ chương 14 đến chương 18, trình bày những sự kiện lịch sử của những năm tháng khốc liệt (1965-1967) nhưng rất hào hùng đó của quân và dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Các sự kiện trong tập sách được trình bày một cách chân thực theo phương pháp lịch sử và lôgíc dựa trên một nền tảng tư liệu phong phú và tin cậy. Cách thức thể hiện các sự kiện lịch sử khá nhuần nhuyễn.

Xuất bản tập IV: Cuộc đụng đầu lịch sử của bộ Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia mong muốn góp phần thiết thực chào mừng kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam quang vinh và ngày quốc phòng toàn dân năm nay.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

   
Ngày 20 - 11 - 1999
   NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2010, 10:26:33 pm

CHƯƠNG 14
CHIẾN TRANH CỤC BỘ - ĐỈNH CAO CỦA CUỘC ĐỤNG ĐẦU LỊCH SỬ GIỮA NHÂN DÂN VIỆT NAM VỚI ĐẾ QUỐC MỸ



I- ĐẾ QUỐC MỸ ĐƯA QUÂN TRỰC TIẾP XÂM LƯỢC VIỆT NAM


Tiến hành chiến lược chiến tranh hạn chế, dưới hình thức một cuộc chiến tranh đặc biệt để chống lại phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, Mỹ tin tưởng sẽ giành được thắng lợi không mấy khó khăn. Theo tính toán của Nhà Trắng và Lầu Năm góc, thì với chiến lược này, Mỹ có thể tạo ra ưu thế trong cuộc chiến tranh và chủ động lựa chọn các cuộc tiến công quy mô lớn, vừa và nhỏ trong mọi thời gian, không gian và thời tiết mà đối phương không thể biết trước để đối phó. Song, từ sau trận Ấp Bắc năm 1963 đến các trận Bình Giã, An Lão, Đèo Nhông năm 1964 thì nỗi thất vọng của các quan chức Nhà Trắng và Lầu Năm góc Mỹ càng tăng, vì đây là bằng chứng báo hiệu nguy cơ sắp sụp đổ của chính quyền tay sai Mỹ ở Sài Gòn và khả năng giành và củng cố quyền lực của lực lượng cách mạng miền Nam đã rõ ràng. Bởi vậy, trong chính quyền Oasinhtơn rộ lên những lời cảnh báo mới về sự thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. John A.Mc. Cone - Giám đốc Cục tình báo Trung ương Mỹ cho rằng: “Chúng ta (Mỹ) sẽ bị sa lầy trong cuộc chiến đấu ở rừng rậm, với một cố gắng quân sự mà ta (Mỹ) không thể giành thắng lợi được và cũng rất khó lòng rút ra được”1. Các quan chức trong chính quyền Mỹ đều thống nhất đánh giá tình hình Nam Việt Nam đang xấu đi, Chính phủ Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn, phần lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của Việt Nam Cộng hoà ngày càng bị thu hẹp. Đế quốc Mỹ cho rằng nếu Mặt trận Dân tộc giải phóng chiếm Nam Việt Nam, thì “không những chỉ phá hoại khối SEATO mà còn sẽ phá hoại lòng tin vào những cam kết của Mỹ ở những nơi khác”2. Nguyên nhân thất bại này được các quan chức chủ chốt ở Nhà Trắng và Lầu Năm góc kết luận là do “Cộng sản miền Bắc xúi giục, chỉ huy”. Bởi vậy, “Mỹ phải cam kết thực hiện mục tiêu ngăn ngừa chủ nghĩa cộng sản”3 bằng cách ném bom miền Bắc Việt Nam, kết hợp với đưa dần một bộ phận quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam.

Quá trình tính toán các phương án leo thang chiến tranh, trong hai viện của Quốc hội Mỹ có một số ý kiến do dự hoặc không tán thành, họ gợi ý chính quyền nên tìm giải pháp ngoại giao, thương lượng, nhưng những tiếng nói lừng chừng hoặc không đồng tình này bị rơi vào im lặng. Những nhân vật “diều hâu” chủ chốt trong chính quyền L. Giônxơn cho rằng việc ném bom miền Bắc Việt Nam trong chừng mực nào đó sẽ làm cho Việt cộng bớt hoạt động, thì dù chính quyền của Khánh ít có hiệu lực cũng có thể đối phó được với tình hình Nam Việt Nam đang xuống dốc. Ý kiến này phù hợp với quan điểm của Tổng thống Mỹ đương nhiệm, nên nó càng được khuếch trương mạnh mẽ trong hai viện của Quốc hội Mỹ. Lúc này đại sứ Mỹ ở Sài Gòn Mx.Taylo điện về Oasinhtơn báo cáo tình hình Nam Việt Nam rất nguy ngập và gợi ý “một cuộc ném bom có phối hợp cẩn thận” chống miền Bắc Việt Nam được Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân tán đồng, càng làm cho phe hiếu chiến ở Mỹ thắng thế. Mc.Nâutơn Thứ trưởng Quốc phòng phụ trách các vấn đề an ninh được giao nhiệm vụ vạch kế hoạch cụ thể khiêu khích miền Bắc, nhằm “tạo lý do tốt cho chúng ta (Mỹ) leo thang nếu chúng ta (Mỹ) muốn”4.

Thực hiện âm mưu khiêu khích này, mùa Đông 1964 và mùa Xuân 1965, Tổng thống Mỹ L.Giônxơn ra lệnh đẩy mạnh hoạt động không quân ở Lào, tiến hành trinh sát, ném bom các mục tiêu nghi có quân đội Việt Nam và Pathét Lào đóng quân; đồng thời lôi kéo Coong Le và phái hữu Lào phá hoại làm tan vỡ chính phủ liên hiệp ba phái ở Lào, đạo diễn cho Phumi Nôxavẳn yêu cầu các nước trong khối SEATO can thiệp... Ở Việt Nam, Mỹ mở cuộc tiến công mang mật danh 34A và các cuộc tuần tra Desoto ở Vịnh Bắc Bộ, coi đó là áp lực quân sự không công khai chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong sáu tháng trước khi xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ, không quân và hải quân Mỹ tiến hành các hoạt động trinh sát và khiêu khích miền Bắc Việt Nam, đồng thời Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ soạn thảo trước kế hoạch mở rộng chiến tranh để tranh thủ Quốc hội ra nghị quyết trao quyền cho Tổng thống sử dụng lực lượng vũ trang Mỹ đối phó với cuộc khủng hoảng ở Việt Nam, mà chính quyền L.Giônxơn “coi là tương đương với một lời tuyên chuyến”5. Song, qua bốn tháng ném bom “bí mật” miền Bắc (kể từ ngày 5-8-1964), Mỹ không đe doạ được nhân dân ta, không ngăn chặn được sự chi viện của hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam. Những cuộc tiến công của lực lượng vũ trang giải phóng vào các căn cứ Mỹ và quân đội Sài Gòn quy mô ngày càng lớn, khiến cho chính quyền Sài Gòn lâm vào cảnh hỗn độn có nguy cơ sụp đổ nhanh. Để cứu chính quyền Sài Gòn, thực hiện âm mưu giữ Nam Việt Nam trong quỹ đạo của Mỹ, biến nơi này thành tiền đồn chống cộng ở Đông Nam châu Á, Tổng thống L.Giônxơn chỉ thị cho nhóm nghiên cứu liên Bộ Quốc phòng và Ngoại giao do Uyliam Bânđi, Thứ trưởng Ngoại giao điều khiển thảo luận, vạch phương pháp lựa chọn cho chính sách của Mỹ ở Việt Nam. Nhóm này nêu ba phương thức lựa chọn:

- Phương thức lựa chọn A: tiến hành oanh tạc trả đũa Bắc Việt Nam, tăng cường các cuộc tiến công ở ven biển theo kế hoạch 34A, tiếp tục cho khu trục hạm tuần tra ở Vịnh Bắc Bộ, đẩy mạnh oanh tạc các mục tiêu thâm nhập ở Lào bằng máy bay T.28 và tìm cách thi hành các cải cách ở Nam Việt Nam.

- Phương thức lựa chọn B: ném bom Bắc Việt Nam với nhịp độ nhanh chóng và dữ dội, kể cả việc oanh tạc sân bay Phúc Yên gần Hà Nội và các cầu quan trọng dọc theo đường ô tô và đường sắt nối liền với Trung Quốc cho đến khi những yêu sách của Mỹ được đáp ứng đầy đủ.

- Phương thức lựa chọn C: phương thức “bóp nghẹt dần dần”, đánh các mục tiêu thâm nhập trước hết ở Lào rồi ở Bắc Việt Nam, tiếp đó đến các mục tiêu khác ở Bắc Việt Nam. Phương thức này gồm cả khả năng Mỹ triển khai quân bộ ở phía bắc Nam Việt Nam, coi như một con bài để mặc cả.
______________________________________
1. Tài liệu mật Bộ quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Việt Nam Thông tấn xã phát hành, Hà Nội, 1971, t.2, tr 57.
2, 3. Tài liệu mật Bộ quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Việt Nam Thông tấn xã phát hành, Hà Nội, 1971, tập 1, tr. 144.
4. Tài liệu mật Bộ quốc phòng Mỹ, Tlđd, t.2, tr.28.
5. Sau này thành Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, Xem Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, t.3, Đánh thắng chiến tranh đặc biệt, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2010, 10:29:26 pm

Ngày 24-11-1964, Uỷ ban chọn lọc của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ họp thảo luận về những phương thức lựa chọn để chính thức trình lên Hội đồng. G.Bônlơ, Thứ trưởng Ngoại giao tỏ ý “không tin tưởng” các cuộc ném bom và cho rằng Việt cộng chiến thắng ở miền Nam có thể ảnh hưởng đến sự sụp đổ đối với phần đất còn lại ở châu Á theo thuyết đôminô. G.Bônlơ gợi ý một chiến lược ngoại giao thông qua nước Anh, rồi nước Anh sẽ hợp tác với Liên Xô để dàn xếp vấn đề Việt Nam qua một cuộc hội nghị quốc tế để vạch ra một giải pháp chính trị thoả hiệp cho Nam Việt Nam. Nhưng liền sau đó G.Bônlơ lại tán thành phương thức lựa chọn A. Còn Mx.Nâutơn, W.Bânđi thì cho rằng nếu ném bom Bắc Việt Nam mà không cứu vãn được Nam Việt Nam, Mỹ “có thể có uy tín quốc tế chỉ vì cố gắng làm”. Tướng Vếchlơ, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân phân tích phương thức lựa chọn B: ném bom nhanh chóng và dữ dội ít gây ra nguy cơ của một cuộc xung đột lớn trước khi Mỹ đạt được thắng lợi hơn là ném bom dần dần theo phương thức lựa chọn C. Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân không tán thành ném bom dần dần có tính toán, mà “phải đánh mạnh vào khả năng của Bắc Việt Nam”1, Mỹ phải “bày tỏ sẵn sàng dùng sức mạnh không hạn chế”2. Cơ quan tình báo Mỹ thì “có xu hướng theo quan điểm bi quan”3. Trong cuộc họp về tình báo thuộc nhóm công tác của W.Bânđi, gồm đại diện cơ quan tình báo CIA, Văn phòng tình báo và nghiên cứu thuộc Bộ Ngoại giao, Cục tình báo quốc phòng của Lầu Năm góc đều nhận thấy khó có “khả năng tốt để phá vỡ ý chí của Hà Nội”4 trong việc ném bom, v.v....

Mặc dù có những ý kiến khác nhau về phương thức lựa chọn, về mức độ, biện pháp, song những nhân vật chủ chốt trong chính quyền Mỹ đều thống nhất quan điểm ném bom miền Bắc Việt Nam sẽ là đòn bẩy làm cho chính quyền Sài Gòn ổn định, nâng cao tinh thần cho quân đội Việt Nam Cộng hoà tiếp tục cuộc chiến tranh. Tính toán các phương thức lựa chọn, Nhà Trắng và Lầu Năm góc cũng tính đến khả năng can thiệp của Liên Xô, Trung Quốc - nhất là Trung Quốc, khi Mỹ ném bom lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính quyền Hoa Kỳ hiểu rằng việc sử dụng bạo lực quân sự chống nhân dân Việt Nam là hành động rất mạo hiểm, có thể xảy ra những hiểm hoạ mà các quan chức Mỹ chưa lường định hết, trong đó khả năng phản ứng của Liên Xô, Trung Quốc là điều đáng sợ và lo ngại nhất của Mỹ. Nhưng Cục tình báo Trung ương Mỹ sau khi điều tra nghiên cứu tình hình Liên Xô, Trung Quốc, đã cho rằng chủ nghĩa xét lại hiện đại ở Liên Xô và cuộc đại cách mạng văn hoá vô sản ở Trung Quốc đang làm cho hai nước này gặp rất nhiều khó khăn. Theo dõi chính sách của Liên Xô đối với Việt Nam, Cục tình báo Trung ương Mỹ cho rằng dưới thời Khơrútxốp, Liên Xô chỉ ủng hộ Việt Nam trên lĩnh vực tuyên truyền, còn viện trợ kinh tế, quân sự ít ỏi chưa đáp ứng được yêu cầu của Việt Nam. Khi Brêgiơnhép và Côxưghin lên nắm quyền thì sự giúp đỡ về vật chất, vũ khí - kỹ thuật quân sự của Liên Xô cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng được tăng lên. Tuy vậy, chính sách của những người lãnh đạo mới của Liên Xô trong một vài năm tới đối với Việt Nam vẫn có giới hạn. Còn Trung Quốc nước láng giềng gần gũi với Việt Nam, nhưng đang làm cuộc đại cách mạng văn hoá vô sản, cho nên “Trung Quốc sẽ không phản ứng theo bất kỳ cách nào đối với chiến dịch ném bom, trừ phi quân Mỹ hoặc Nam Việt Nam xâm lược miền Bắc Việt Nam hoặc miền Bắc Lào... Phản ứng của Trung Quốc đối với cuộc ném bom có hệ thống Bắc Việt Nam chắc sẽ có giới hạn”5.

Kết luận của Cục tình báo Trung ương Mỹ phần nào xua tan nỗi ám ảnh và e ngại của Tổng thống L.Giônxơn về sự can thiệp của Liên Xô, Trung Quốc. Do đó, tháng 12-1964, L.Giônxơn tán thành thực hiện phương thức lựa chọn A trong 30 ngày, sau đó đến phương thức lựa chọn C.

Với quyết định này của L.Giônxơn, cuộc chiến tranh Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Các hoạt động quân sự của Mỹ càng ráo riết, mức độ ác liệt của cuộc chiến tranh tăng lên đột ngột. Ngày 8-2-1965, Mỹ đưa tiểu đoàn tên lửa phòng không “Hốc” vào Đà Nẵng. Ngày 2-3-1965, không quân Mỹ được lệnh thực hiện chiến dịch Sấm rền (Rolling Thunder). Ngày 3 và 4-3-1965, Mỹ dùng hàng trăm máy bay đánh phá cầu Hàm Rồng, Đò Lèn và các căn cứ hải quân của ta trên miền Bắc. Ngày 8-3-1965, hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ số 1 và 3 thuộc Lữ đoàn Hải quân viễn chinh số 9 đổ bộ vào Đà Nẵng. Mặc dù, đế quốc Mỹ cố sức giữ cho chiến lược chiến tranh đặc biệt khỏi bị thất bại, song qua hơn sáu tháng ném bom miền Bắc, Mỹ không ngăn chặn được luồng hàng và người chi viện cho miền Nam, các cuộc tiến công của Quân giải phóng gia tăng. Từ trận Bình Giã năm 1964 báo hiệu chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ có nguy cơ thất bại, đến trận Đồng Xoài, Ba Gia mùa Hè 1965, chiến lược chiến tranh đặc biệt bị phá sản hoàn toàn. Ba chỗ dựa chủ yếu của chiến tranh đặc biệt là quân đội, chính quyền và ấp chiến lược mà Mỹ dày công xây dựng, nuôi dưỡng, trang bị vũ khí, làm cố vấn và chỉ huy trong suốt bốn năm với bao hy vọng đã đổ vỡ không có cách gì ngăn chặn được. Thất bại này của Mỹ và Sài Gòn dẫn đến sự sa sút trầm trọng hơn về tinh thần, ý chí trong quân đội Việt Nam Cộng hoà và làm tăng sự mất ổn định về chính trị của Nam Việt Nam. Đây là “bằng chứng Mỹ đang chơi một ván cờ thua ở Việt Nam”6. Nhưng Mỹ quyết không bỏ cuộc. Vì “cam kết” với đồng minh, vì sự tồn vong của chiến lược toàn cầu, đế quốc Mỹ quyết tâm dùng chiến lược chiến tranh cục bộ, đưa quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ vào Nam Việt Nam trực tiếp tiến hành chiến tranh thay cho chiến lược chiến tranh đặc biệt và quân đội tay sai bản xứ. Nếu không thay đổi chiến lược, chính sách, Hoa Kỳ phải từ bỏ xâm lược mà điều này Mỹ không bao giờ nghĩ đến.
______________________________________
1 ÷ 4. Tài liệu mật của Bộ quốc phòng Mỹ, Tlđd, t.2, tr.12, tr.18.
5. Tlđd, t. 2, tr. 12.
6. Tlđd, t. 2, tr. 18.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2010, 10:32:47 pm

Muốn thay đổi được tình hình Nam Việt Nam, đại sứ Mỹ Mx.Taylo kiến nghị chính quyền Oasinhtơn phải làm ba việc:

Thứ nhất, thành lập một chính phủ có thể chấp nhận được ở Nam Việt Nam.

Thứ hai, cải cách việc tiến hành các chiến dịch chống nổi loạn.

Thứ ba, thuyết phục hoặc buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải chấm dứt viện trợ cho Việt cộng và dùng quyền chỉ đạo của họ để buộc Việt cộng phải từ bỏ những cố gắng nhằm lật đổ Chính phủ Nam Việt Nam”1.

Tổng thống L.Giônxơn và các quan chức chủ chốt Nhà Trắng, Lầu Năm góc, CIA đã tranh cãi gay gắt về các giải pháp của Mx. Taylo và một số người khác đưa ra, cuối cùng họ đi đến thống nhất quan điểm là phải giữ vững chính quyền Sài Gòn để chứng minh cho nhân dân Mỹ, cho đồng minh và cho kẻ thù về hình ảnh của một nước Mỹ siêu cường. Mục tiêu của Mỹ là phải đảo ngược chiều hướng xuống dốc này của Nam Việt Nam bằng cách sử dụng quân Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh ở miền Nam, đồng thời mở rộng việc ném bom liên tục miền Bắc Việt Nam cho đến khi Mỹ đạt được thắng lợi (T.G nhấn mạnh).

Tập đoàn L.Giônxơn lên cầm quyền giữa lúc nền kinh tế Mỹ đang thịnh vượng, lạm phát thấp nhất, tình hình chính trị nội bộ tương đối ổn định, lại có Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ cho phép Tổng thống toàn quyền hành động, nên dù có gặp khó khăn, L.Giônxơn cũng không còn lý do để dè dặt. Bởi vậy, ngày 1-4-1965, L.Giônxơn quyết định đưa thêm một bộ phận quân chiến đấu Mỹ sang Việt Nam và tăng cường không quân, hải quân đánh phá miền Bắc mạnh mẽ, liên tục hơn, với mục đích làm cho “cột xương sống của Hà Nội mềm đi” để phải chịu những điều kiện thương lượng do Mỹ áp đặt và từ bỏ chi viện cho cách mạng miền Nam. Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ cụ thể hoá quyết định của L.Giônxơn thành 11 biện pháp thực hiện trong Bị vong lục số328-NSAM ngày 6-4-1965, trong đó có bốn biện pháp chủ yếu và quan trọng:

1. Tổng thống chuẩn y tăng thêm 18.000 đến 20.000 quân trong các lực lượng hỗ trợ của Mỹ để bổ sung cho các đơn vị hiện có và cung cấp số nhân viên hậu cần cần thiết.

2. Tổng thống chuẩn y cho triển khai thêm hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ, một phi đoàn của lính thuỷ đánh bộ và những bộ phận kết hợp về chỉ huy và hỗ trợ.

3. Tổng thống chuẩn y một sự thay đổi nhiệm vụ của tất cả những đơn vị lính thuỷ đánh bộ được triển khai hướng vào Việt Nam để có thể sử dụng những đơn vị này một cách tích cực hơn theo những điều kiện sẽ được quy định và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thông qua sau khi tham khảo ý kiến của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

4. Tổng thống tán thành việc thăm dò khả năng triển khai quân sang Nam Việt Nam của Chính phủ Nam Triều Tiên, Úc, Tân Tây Lan... song song với việc triển khai thêm lực lượng lính thuỷ đánh bộ Mỹ đã được phê chuẩn trong đoạn 6 (điểm 2)2.

Quyết định này đánh dấu sự thay đổi về chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam từ chỗ cố vấn, hậu thuẫn đến tham chiến trực tiếp. Nó bắt đầu Mỹ hoá cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, để giữ bí mật cho hành động mới của Mỹ, Tổng thống L.Giônxơn đã ra “nghiêm lệnh viết tay” cho các thành viên trong Hội đồng An ninh quốc gia là trong hành động phải khẩn trương làm càng sớm càng tốt, nhưng không được phổ biến quyết định này quá sớm, phải làm cho nhân dân Mỹ và thế giới không thấy có vẻ gì là Chính phủ Mỹ thay đổi chính sách đối với cuộc chiến tranh Việt Nam, những việc làm của Mỹ phải được quan niệm hoàn toàn không mâu thuẫn gì với chính sách hiện nay (chính sách thực dân mới).

Thực hiện những quyết định trong Bị vong lục 328 – NSAM, ngày 10-4-1965, tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ 2/3 (Tiểu đoàn 2, Trung đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3) đổ bộ vào Đà Nẵng, hai đại đội của tiểu đoàn này được máy bay lên thẳng chuyển đến Phú Bài. Ngày 14-4, các tốp máy bay đầu tiên của phi đội máy bay hải quân 551 hạ cánh xuống Đà Nẵng và tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ 3/4 (Tiểu đoàn 3, Trung đoàn lính thuỷ đánh bộ số 4), tới Phú Bài để thay thế cho các đại đội của tiểu đoàn 2/3. Từ ngày 3 đến ngày 5-5, Lữ đoàn 9 được tăng thêm ba tiểu đoàn đổ bộ lên Chu Lai3. Tính đến thời điểm này, quân chiến đấu Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam bảy tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ, một trung đoàn pháo mặt đất, một phi đội máy bay chiến đấu F4 (Con ma) đặt dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng Pon J.Phôntanơ và đến ngày 5-6 thì trung tướng Kailơ Cớt Xêông thay thế. Nhiệm vụ lính thủy đánh bộ từ phòng giữ căn cứ được thay đổi sang yểm trợ tác chiến và tiến công.
______________________________________
1. Tlđd, t. 2, tr. 59.
2. Tlđd, t.2, tr. 20
3. Lữ đoàn viễn chinh hải quân số 9 vào Phú Bài, Chu Lai, Đà Nẵng, tháng 5-1965 giải thể để tổ chức thành Bộ Tư lệnh lính thuỷ đánh bộ số 3.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 06:57:47 pm

Trước tình hình leo thang chiến tranh cực kỳ nguy hiểm này của đế quốc Mỹ, Hội nghị cấp cao 17 nước không liên kết họp ở Bengơrát (Belgrade) từ ngày 13 đến 18-3-1965 đã ra tuyên bố lên án Mỹ và đề nghị các nước trên thế giới lên án sự can thiệp của nước ngoài dưới mọi hình thức, kêu gọi thương lượng không điều kiện tiên quyết để giải quyết vấn đề Việt Nam. Để tỏ rõ thiện chí của mình, ngày 22-3-1965, Mặt trận Dân tộc giải phóng tuyên bố lập trường năm điểm, và ngày 8-4, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nêu ra lập trường bốn điểm để giải quyết vấn đề Việt Nam. Tinh thần cơ bản của các tuyên bố đó là Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam, thì phải rút hết quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc Mỹ về nước, ngừng ném bom miền Bắc không điều kiện, phải tôn trọng Hiệp nghị Giơnevơ 1954, công việc của miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài. Ông Mai Văn Bộ, đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pari đã giải thích lập trường bốn điểm của Việt Nam cho ông Vụ trưởng Vụ Chính trị Bộ Ngoại giao Pháp rằng đó là “cơ sở tốt nhất” để tìm ra “giải pháp đúng đắn nhất” cho vấn đề Việt Nam, chứ không phải là điều kiện tiên quyết. Ngày 24-4-1965, Tổng thư ký Liên hợp quốc Uthan kêu gọi Mỹ đình chỉ ném bom miền Bắc ba tháng để đạt tới thương lượng. Một số nhà khoa học Mỹ yêu cầu Chính phủ rút hết mọi sự can thiệp của Mỹ ở châu Á mà khởi đầu bằng việc ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam, v.v... Bất chấp dư luận và những đề nghị hợp tình hợp lý của Việt Nam, Hoa Kỳ tự cho mình có đầy đủ sức mạnh để áp đặt ý muốn của họ cho dân tộc Việt Nam, nên đã bác bỏ tất cả. Ngày 7-4-1965, Tổng thống Mỹ L.Giônxơn phát biểu tại Trường đại học Giôn Hốpkin bang Bantimo, bác bỏ những đề nghị, những tuyên bố của ta và quốc tế. L.Giônxơn nói: “Chúng ta sẽ không bị thất bại... Chúng ta sẽ không rút lui hoặc công khai dưới bóng của một thoả hiệp vô nghĩa... Và chúng ta phải chuẩn bị cho một cuộc chiến vẫn tiếp diễn lâu dài”1. Điều này chứng tỏ Mỹ quyết tâm dùng biện pháp quân sự chống nhân dân Việt Nam đến cùng. Tuy nhiên, để lừa bịp dư luận thế giới, trấn an tinh thần cho nhân dân Mỹ, cũng trong lời phát biểu tại Trường đại học Giôn Hốpkin, L.Giônxơn đưa ra “củ cà rốt” một tỷ đôla viện trợ phát triển kinh tế ở đồng bằng sông Cửu Long do Mỹ tài trợ, Bắc Việt Nam có thể tham gia, làm như Mỹ cũng có thiện chí hoà bình, hợp tác. Song, L.Giônxơn càng kêu gọi thương lượng, hoà bình thì chiến tranh càng tiếp diễn ác liệt. Chính quyền và quân đội Sài Gòn tiếp tục suy yếu hơn trước. Mỹ lại tìm cách dính líu sâu vào cuộc chiến tranh, thúc ép Thái Lan đưa quân vào Lào, thực hiện câu kết giữa ngụy Lào và ngụy Sài Gòn, dùng không quân đánh phá vùng Trung - Hạ Lào để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, hòng đánh đòn hiểm ác vào cách mạng miền Nam từ hướng tây. Đối với Campuchia, Mỹ gây sức ép với Chính phủ trung lập Xihanúc, buộc nước này chống lại Việt Nam.

Âm mưu và hành động của đế quốc Mỹ trên đây là nhằm tạo ra một thế chiến lược mới, chủ động bao vây, cô lập cách mạng Việt Nam ở miền Nam. Từ đó tạo ra một lực cản mạnh mẽ để trong thời gian ngắn nhất ngăn chặn được sự sụp đổ của chính quyền và quân đội Sài Gòn. Trên cơ sở đó, Mỹ tập trung lực lượng tiến công tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng miền Nam, phá chiến tranh du kích, tiến hành chương trình bình định nông thôn, giành lại quyền chủ động chiến trường, đồng thời với việc tăng cường ném bom miền Bắc, làm kiệt quệ tiềm lực của hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa, làm lung lay ý chí quyết tâm của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta. Qua đó, Mỹ sẽ củng cố vị trí của chúng ở Việt Nam, Đông Dương và Đông - Nam Á, giữ vững vai trò lãnh đạo “thế giới tự do”. Làm được như vậy, đế quốc Mỹ sẽ chứng tỏ cho thế giới biết sức mạnh hùng hậu và khả năng của Mỹ có thể đè bẹp, tiêu diệt bất cứ cuộc khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng nào, răn đe phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước Á - Phi - Mỹ Latinh.

Ngày 1-5-1965, tướng Oétmolen trình lên Nhà Trắng kế hoạch chiến lược ba giai đoạn gọi là Chương trình hợp tác gồm ba nội dung tảo thanh, bảo đảm an ninh, tìm và diệt2.

Giai đoạn 1: Từ tháng 7-1965 đến tháng 12-1965 đưa nhanh quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ vào miền Nam để ngăn chặn chiều hướng sụp đổ của chế độ Sài Gòn, bảo đảm an toàn cho những khu vực đông dân cư, gấp rút triển khai lực lượng chuẩn bị cho cuộc phản công giành lại quyền chủ động chiến trường.

Giai đoạn 2: Từ đầu năm 1966 đến tháng 6-1966, quân Mỹ và lực lượng “đồng minh” mở các cuộc hành quân tìm diệt ở những khu vực ưu tiên đã được xác định, tiêu diệt lực lượng chủ lực Quân giải phóng, phá các căn cứ du kích, hỗ trợ cho chương trình bình định.

Giai đoạn 3: Từ tháng 7-1966 đến giữa hoặc cuối 1967, quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc phối hợp với quân của chính quyền Sài Gòn mở các cuộc hành quân tiến công tiêu diệt các lực lượng còn lại của Quân giải phóng và các khu căn cứ du kích, hoàn thành về cơ bản chương trình bình định.
Bộ Quốc phòng Mỹ đánh giá ý nghĩa cơ bản của kế hoạch chiến lược ba giai đoạn của Oétmolen là “đưa cuộc chiến tranh đến tận xứ sở của địch, làm cho kẻ địch không thể tự do đi lại ở bất cứ nào trên đất nước, v.v... và giáng cho kẻ địch những đòn thật nặng nề. Quan niệm này thay thế cho quan niệm phòng thủ tĩnh tại và chiến lược đóng chốt là chiến lược đòi hỏi ít quân Mỹ hơn”3.
______________________________________
1. Dẫn theo Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và bài học về cuộc chiến tranh Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 185.
2. Theo quan niệm của Oétmolen:
    + Tảo thanh là tiêu diệt hoặc đẩy lùi lực lượng du kích và các lực lượng quân sự khác ra xa các khu dân cư và đô thị, để cho các cơ quan dân sự Sài Gòn có thể yên tâm làm nhiệm vụ của họ.
    + Bảo đảm an ninh là nắm giữ một vùng để tảo thanh bằng biện pháp đóng đồn, tuần tiễu, đồng thời tiến công vào bất kỳ dấu vết nào còn lại của quân cộng sản và nhổ bật gốc rễ cơ cấu chính trị hạ tầng bí mật của Việt cộng.
    + Tìm và diệt là dùng bộ binh tiến công, phát hiện cộng sản: tìm cách đưa lực lượng Việt cộng và Bắc Việt ra giao chiến rồi tiêu diệt hoặc buộc địch phải đầu hàng. Trong quá trình này, quân Mỹ phải tìm cho được các vùng căn cứ của Việt cộng, tiêu diệt nó cùng với những hầm cất giấu đồ tiếp tế, vũ khí. Do đó, huỷ bỏ được những vùng đất thánh của Việt cộng.
3. Tlđd, t. 2, tr. 136.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 06:59:08 pm

Ngày 17-7-1965, Tổng thống Mỹ L.Giônxơn chuẩn y đề nghị tăng quân lên 44 tiểu đoàn và kế hoạch “tìm và diệt” của tướng Oétmolen, ra lệnh triển khai vào Nam Việt Nam 34 tiểu đoàn quân Mỹ gồm khoảng 100.000 quân, số còn lại sẽ đưa tiếp theo. Quyết định này của L.Giônxơn đã đưa nước Mỹ “vượt qua ngưỡng cửa bước vào cuộc chiến tranh trên đất liền ở châu Á”1. Đây là bước ngoặt quan trọng đánh dấu quá trình thay đổi đường lối, chính sách leo thang chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Từ đây, quân Mỹ đóng vai trò lực lượng chiến lược chủ yếu trực tiếp tiến hành chiến tranh. Chiến lược chiến tranh cục bộ - đỉnh cao của cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ.

Mùa Hè 1965, đế quốc Mỹ gấp rút đưa vào miền Nam Việt Nam Lữ đoàn dù 173, Lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3 và 4 thuộc Sư đoàn 3 thuỷ quân lục chiến, Phi đoàn máy bay hải quân số 1 của lính thuỷ đánh bộ và Bộ tư lệnh Hậu cần số 1 (nâng tổng số quân Mỹ cuối tháng 5 lên 82.000 tên) và tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn Hoàng gia Ôxtrâylia (6-1965).

Hành động đầu tiên trên bộ của Mỹ ở miền Nam là dùng Lữ đoàn dù 173 phối hợp với quân Ôxtrâylia càn quét phía tây bắc Sài Gòn từ ngày 27 đến 30-6-1965. Trước đó, ngày 18-6-1965, Mỹ dùng 27 lần chiếc máy bay B52 ném bom rải thảm Bến Cát (Đông Nam Bộ). Máy bay B52 được Mỹ đánh giá là vũ khí lợi hại nhất đã bay thử tại Mỹ ngày 16-4-1952. Từ đó đến 1965, máy bay B52 chưa được sử dụng ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Đây là lần đầu tiên Mỹ sử dụng loại vũ khí chiến lược có tính chất huỷ diệt trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Trước khi Lữ đoàn dù 173 mở cuộc hành quân “tìm diệt” đầu tiên vào vùng Bến Cát, thì ngày 1-6-1965 Mỹ tổ chức cuộc họp ở Hônôlulu bàn kế hoạch gây sức ép tối đa về quân sự, mà đỉnh cao là dùng không quân tiến công miền Bắc Việt Nam và tăng quân Mỹ vào miền Nam theo yêu cầu của Oétmolen. Hầu hết các thành viên tham gia hội nghị đều tỏ ra lo ngại và “chán chường” về kết quả các cuộc ném bom, cho nên cuộc họp không có kết luận, vì không giải quyết được các vấn đề chủ yếu đụng phải trong chiến tranh2. Trong khi đó, Tổng thống L. Giônxơn yêu cầu Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng soạn thảo ngay kế hoạch hành động mới của Mỹ ở Việt Nam kết hợp quân sự với chính trị chống lại một cách hữu hiệu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Chính phủ Mỹ còn cử các nhân vật cao cấp đến Nam Triều Tiên, Tân Tây Lan (Niu Dilân), Ôxtrâylia, Philíppin, Thái Lan, Inđônêxia, v.v…, vận động các nước này ủng hộ chính sách chiến tranh của Mỹ và đưa quân sang Nam Việt Nam. Ý đồ thâm độc của Oasinhtơn là tìm cách quốc tế hoá cuộc chiến tranh Việt Nam để đỡ bớt gánh nặng cho Mỹ, qua đó khẳng định sự ủng hộ quốc tế đối với Mỹ trong cuộc chiến tranh - thực chất là sự ủng hộ của các nước phụ thuộc Mỹ. Kết quả là Nam Triều Tiên, Ôxtrâylia, Philíppin, Thái Lan, Tân Tây Lan đồng tình với Mỹ, gửi quân sang Nam Việt Nam.

Vào những ngày tháng 6 nóng bỏng, các đơn vị quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc đã vào miền Nam, hối hả triển khai “chiến lược đóng chốt” ở Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Bồng Sơn và Vũng Tàu... Nhưng tình hình quân sự, chính trị của Mỹ và Sài Gòn ở miền Nam vẫn không có gì sáng sủa hơn trước. Chính quyền Sài Gòn do bản chất phản động đại diện cho giai cấp địa chủ, tư sản mại bản thân Mỹ, luôn luôn lục đục, tranh giành quyền bính, làm cho bộ máy lãnh đạo do Mỹ dựng lên vốn đã ốm yếu càng suy yếu thêm. Dù vậy, Mỹ vẫn phải dựa vào chính quyền tay sai bản xứ, nòng cốt là nhóm quân nhân trung thành ủng hộ các chính sách của Mỹ mới có thể che giấu được bộ mặt xâm lược của chúng, hòng lừa bịp nhân dân Mỹ và tránh sự lên án của thế giới. Vì thế, cùng với việc đưa ồ ạt quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ vào miền Nam Việt Nam, chính quyền Oasinhtơn ủng hộ nhóm tướng trẻ Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ lật đổ chính phủ dân sự Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát bằng cách gây sức ép buộc bọn này phải từ chức. Ngày 11-6-1965, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của toà Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, các tướng lĩnh quân đội nhóm họp tại dinh Độc Lập chấp nhận từ chức của Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát và cử Thiệu, Kỳ điều hành tạm thời cho đến khi thành lập chính phủ mới. Ngày 14-6-1965, Uỷ ban lãnh đạo quốc gia chính thức được thành lập do trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch, Nguyễn Cao Kỳ làm uỷ viên phụ trách điều khiển hành pháp. Ngày 19-6-1965, Sài Gòn thành lập nội các chiến tranh gồm uỷ ban lãnh đạo quốc gia do Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu, uỷ ban hành pháp trung ương (Chính phủ) do Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch. Như vậy, bằng các biện pháp khéo léo không gây những chấn động lớn, Oasinhtơn đã lập được một chính quyền quân sự tay sai ở Sài Gòn trung thành với Mỹ, tạm thời tạo được thế ổn định về chính trị để Mỹ tiếp tục đưa quân chiến đấu vào miền Nam Việt Nam, tiến hành chiến tranh và tăng cường đánh phá miền Bắc Việt Nam.

Quyết giành thắng lợi bằng quân sự, đế quốc Mỹ đã đẩy nhanh việc đưa ồ ạt quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc Mỹ vào miền Nam nước ta. Từ tháng 7 đến cuối năm 1965, các Sư đoàn bộ binh 1 (Anh cả đỏ), Sư đoàn kỵ binh không vận 1, Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn kỵ binh không vận 101 (Thiên thần mũi đỏ), Lữ đoàn 3, Sư đoàn bộ binh 25 (Tia chớp nhiệt đới), Trung đoàn kỵ binh thiết giáp 11, v.v… cùng hàng vạn tấn phương tiện chiến tranh hiện đại ùn ùn đổ vào miền Nam Việt Nam.
______________________________________
1. Tlđd, t. 2, tr. 136.
2. Những vấn đề chủ yếu: Hướng hành động của Mỹ như thế nào là thích hợp để chấm dứt được sự ủng hộ và chỉ huy của miền Bắc Việt Nam đối với phong trào kháng chiến ở miền Nam, đồng thời củng cố được chế độ Sài Gòn, đẩy lùi được cộng sản ra khỏi xã hội miền Nam...



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 07:00:42 pm

Tính đến tháng 12 - 1965, tổng số quân chiến đấu Mỹ có mặt ở Nam Việt Nam lên đến 184.314 tên gồm ba sư đoàn, sáu lữ đoàn và trung đoàn1 cùng hai phi đoàn máy bay chiến đấu chiến thuật số 3 và 12, lực lượng hải quân đặc nhiệm 115, 116 tuần tra kiểm soát vùng duyên hải và trên sông. Quân các nước phụ thuộc Mỹ có 20.500 tên gồm Sư đoàn bộ binh Mãnh hổ, Lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ Rồng xanh Nam Triều Tiên, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Hoàng gia Ôxtrâylia, Đại đội pháo binh Niu Dilân, Tây Ban Nha, Đài Loan cũng đưa sang Nam Việt Nam 43 cố vấn quân sự và chuyên gia giúp Mỹ. Quân chủ lực Sài Gòn có 520.000 tên biên chế thành 10 sư đoàn và 5 trung đoàn. Hạm đội 7 - hạm đội hùng hậu nhất của Hải quân Mỹ được mệnh danh chúa tể đại dương trước kia hướng hoạt động của nó ở Đông Bắc Á, nay tập trung hướng hoạt động vào vùng biển Đông - Nam Á mà trọng điểm là Việt Nam, cùng hàng vạn lính Mỹ đóng ở Thái Lan, Philíppin, đảo Ôkinaoa, đảo Guam... đều được sử dụng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Mùa Xuân 1965, Bộ chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam gấp rút triển khai lực lượng chiếm đóng các vị trí then chốt có ý nghĩa chiến lược, sẵn sàng mở cuộc phản công giành lại thế chủ động chiến trường. Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ là đơn vị được thành lập sớm nhất của quân đội Mỹ (1775) là đội dự bị chiến lược ở Thái Bình Dương; Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ là đơn vị có nhiều thành tích ở Viễn Đông, giỏi về đổ bộ, mở rộng nhanh khu vực tác chiến tiến công, phát huy uy lực mạnh và hiệu quả ở chiến trường ven biển, cùng với Lữ đoàn 1 kỵ binh không vận (thuộc Sư 101) được bố trí ở Chu Lai, Đà Nẵng, Phú Bài, Phan Rang, có nhiệm vụ bảo đảm an ninh Vùng chiến thuật I và sẵn sàng đối đầu với khối chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 còn gọi là Sư đoàn kỵ binh cơ động đường không thành lập ngày 1-7-1965 theo sáng kiến của Mắc Namara do yêu cầu của cuộc chiến tranh Việt Nam. Biên chế Sư đoàn gồm 15.787 sĩ quan, binh lính, được trang bị 434 máy bay lên thẳng, 1.600 xe các loại... tiêu biểu cho sức mạnh cơ động tập kích mãnh liệt, chớp nhoáng, có thể đổ quân bất cứ nơi nào chúng muốn mà không cần chuẩn bị. Vào miền Nam tháng 9 - 1965, Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 lên An Khê chiếm giữ một địa bàn chiến lược quan trọng để tiến công tiêu diệt, đẩy lùi hoặc khống chế lực lượng cách mạng ở Tây Nguyên, Khu V và miền Trung Đông Dương, đồng thời sẵn sàng cơ động trên chiến trường toàn miền Nam khi nhiệm vụ đòi hỏi. Lữ đoàn dù 173 - đơn vị cơ động chiến lược của quân đội Mỹ, vào miền Nam tháng 5 - 1965 đóng tại Bồng Sơn (Bình Định) sau đó vào Biên Hòa, cơ động tác chiến trên toàn chiến trường như những lực lượng xung kích ứng cứu nhanh. Sư đoàn bộ binh 1 (Anh cả đỏ) thành lập năm 1917 đã từng lập công lừng lẫy trong hai cuộc chiến tranh thế giới, sang Nam Việt Nam tháng 7 - 1965 được bố trí ở Dĩ An (Biên Hoà), Hớn Quản, Phước Vĩnh (Bình Long), Lai Khê (Bình Dương) là đơn vị mạnh nhất của lục quân Mỹ, cơ động chiến đấu trên toàn Nam Bộ. Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn bộ binh 25 (Tia chớp nhiệt đới) đóng ở Kon Tum2. Các đơn vị Ôxtrâylia, Nam Triều Tiên và một số đơn vị binh chủng kỹ thuật Mỹ được bố trí ở Bà Rịa, Vũng Tàu, Khánh Hoà, Bình Định, Quảng Ngãi và Chu Lai (Quảng Nam). Bằng cách bố trí lực lượng như trên, Mỹ đã lập được một tuyến bàn đạp ven biển từ Quảng Trị đến Vũng Tàu kết hợp chặt chẽ với những điểm chốt lớn cỡ lữ đoàn, sư đoàn nằm sâu trong nội địa Nam Việt Nam, tạo thành các tuyến phòng ngự vững chắc theo chiều dọc bắc - nam, trong đó hình thành những cụm phòng ngự mạnh là những căn cứ bàn đạp cho các cuộc hành quân tìm diệt của quân Mỹ cũng như quân Nam Việt Nam. Cách bố trí này thể hiện rõ sự phân tán lực lượng của Mỹ do tác động của cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam phát triển cao. Các tuyến bảo đảm hậu cần cho quân Mỹ và đồng minh của Mỹ được tổ chức theo phương hướng phục vụ yêu cầu cuộc chiến tranh cục bộ quy mô lớn. Mỹ cấp tốc xây dựng bảy sân bay, tám quân cảng lớn, hàng trăm sân bay, bến cảng vừa và nhỏ ở miền Nam và hàng chục sân bay, quân cảng lớn ở Thái Lan, Nhật Bản, Philíppin, Đài Loan. Ngoài các căn cứ đầu cầu tiếp vận lớn, Mỹ xây dựng ở mỗi tỉnh từ một đến hai sân bay bảo đảm cho máy bay vận tải C130 cất, hạ cánh và hàng chục sân bay dã chiến dùng cho máy bay lên thẳng. Đáng chú ý là tháng 12 - 1965, hải quân Mỹ được lệnh đưa tàu sân bay Intéc Praidơ trọng tải 75.700 tấn, chứa từ 80 đến 100 máy bay vào tham chiến. Đây là lần đầu tiên tàu sân bay chạy bằng năng lượng nguyên tử được Mỹ sử dụng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Với lực lượng đông, tinh nhuệ và hiện đại, Vếchlơ - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân bảo đảm với Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara “không có lý do gì chúng ta (Mỹ) lại không thể thắng nếu đó là quyết tâm của chúng ta”3. Những nhân vật “diều hâu” trong giới cầm quyền Mỹ tin tưởng một cách tự mãn rằng “cùng lắm trong vòng 18 tháng (cuối 1966), Mỹ sẽ chiến thắng, lúc đó Việt cộng và Hà Nội sẽ phải chịu thua, chấm dứt kháng chiến. Và, trên bình diện thế giới, chúng ta (Mỹ) sẽ chứng minh được cho các dân tộc thấy rằng chiến tranh cách mạng không đem lại kết quả gì, cuộc khởi nghĩa nào cũng có thể bị tiêu diệt”4. Do bản chất của chủ nghĩa đế quốc quy định, các nhà vạch chiến lược Mỹ coi số lượng binh lính, vũ khí, vật chất, trang bị chiến tranh là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh, nên chúng rất chủ quan không đánh giá đúng mình và coi thường đối phương. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tập đoàn hiếu chiến cầm quyền nước Mỹ lao sâu vào con đường chiến tranh xâm lược sai lầm để rồi chuốc lấy thất bại.
______________________________________
1. Sư đoàn 3 và Trung đoàn 7 thuộc Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ; Sư đoàn bộ binh 1 (Anh cả đỏ); Sư đoàn kỵ binh bay số 1; Lữ đoàn 1/Sư đoàn kỵ binh không vận 101; Lữ đoàn dù 173; Lữ đoàn công binh 18; Lữ đoàn 3/Sư đoàn bộ binh 25 (Tia chớp nhiệt đới), Trung đoàn kỵ binh thiết giáp 11...
2. Lữ đoàn 3/Sư đoàn bộ binh 25 (Tia chớp nhiệt đới) vào miền Nam tháng 12 - 1965, đến tháng 10 - 1966 thì chuyển sang Sư đoàn bộ binh số 4.
3. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, tập,7, tr.153.
4. Marchel Giuglaris: Việt Nam, le jour de l’escalade (Việt Nam ngày đầu leo thang), NRF, 1961, tr.238.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 07:06:28 pm

II- CẢ NƯỚC TA KHẨN TRƯƠNG CHUẨN BỊ MỌI MẶT,
SẴN SÀNG BƯỚC VÀO CUỘC ĐỤNG ĐẦU LỊCH SỬ

Ngay sau khi Mỹ dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc ngày 5-8-1964, Đảng ta đã dự kiến rồi đây Mỹ sẽ đưa quân bộ vào miền Nam Việt Nam làm cho cuộc chiến tranh ngày càng trở nên ác liệt. Những năm chống chiến tranh đặc biệt mặc dù cũng rất gay go, nhưng Đảng ta chưa chủ trương đưa các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương vào tăng cường cho miền Nam, nay tình hình rất thúc bách, Đảng cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trần Văn Trà, Chu Huy Mân, Hoàng Văn Thái, Uỷ viên Trung ương Đảng, Lê Trọng Tấn, Hoàng Minh Thảo và một số cán bộ cao cấp khác vào tăng cường cho Nam Bộ, khu V, Tây Nguyên. Cuối năm 1964, các trung đoàn chủ lực miền Bắc cũng được lệnh bí mật hành quân vào chiến trường, đồng thời Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định mở Mặt trận Tây Nguyên, chuẩn bị trước một bước để trong trường hợp quân Mỹ vào miền Nam thì căng nó ra, kéo nó lên rừng núi mà đánh. Tuy nhiên, ta chưa mở Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị, vì còn muốn kiềm chế Mỹ, không kích thích địch đẩy chiến tranh cục bộ lên quá sớm. Điều đó thể hiện ta hoàn toàn chủ động. Vì vậy, việc chính quyền L.Giônxơn đưa quân Mỹ và quân của các nước phụ thuộc Mỹ vào miền Nam Việt Nam, trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược không làm cho Đảng ta, nhân dân ta bất ngờ. Điều làm cho ta bị bất ngờ là quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc Mỹ vào nhanh, ồ ạt. Chỉ trong tám tháng, 20 vạn quân viễn chinh đã có mặt ở miền Nam Việt Nam với đầy đủ vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Điều đó chứng tỏ đế quốc Mỹ quyết tâm hơn trong việc bám giữ Nam Việt Nam, hòng chia cắt vĩnh viễn đất nước ta.

Quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam số lượng đông, nhưng quân đội Sài Gòn vẫn còn là lực lượng lớn, nên cuộc chiến tranh ở miền Nam lúc đó “vừa có tính chất chiến tranh cục bộ, vừa có tính chất cuộc chiến tranh đặc biệt1. Đồng chí Lê Duẩn cho rằng nhấn mạnh tính chất “cục bộ” là vì hình thái và biểu hiện mới của cuộc chiến tranh ngày càng tăng lên, nhưng “phải đánh giá đúng mức tầm quan trọng của tính chất “đặc biệt” còn lại trong cuộc chiến tranh đó, vì mặt thứ hai này gắn liền với chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ”2. Từ nhận định tính chất cuộc chiến tranh như trên, Đảng ta đã ra Nghị quyết Trung ương lần thứ 11, vạch phương hướng, nhiệm vụ chiến lược lãnh đạo toàn dân chủ động chuẩn bị trước mọi mặt, sẵn sàng đối phó với chiến tranh mở rộng. Do đó, khi quân Mỹ vào, biết đất nước sẽ bị tàn phá, đồng bào ta phải chịu nhiều gian khổ, hy sinh, nhưng từ miền Bắc đến miền Nam, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vẫn bình tĩnh, lạc quan, tin tưởng, đồng tâm đánh Mỹ. Tình hình chính trị ở miền Bắc và các vùng giải phóng ở miền Nam ổn định. Khẩu hiệu Xây dựng, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam do Hội nghị Trung ương lần thứ 11 đề ra trở thành hành động tự giác và tình cảm thiêng liêng của mọi người dân yêu nước, làm nảy nở ra nhiều sáng kiến hay trong lao động sản xuất, bảo đảm giao thông, chi viện tiền tuyến, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Đó là nhân tố căn bản để ta phát huy sức mạnh của toàn dân tộc giành thắng lợi cho cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, trong một số cán bộ, đảng viên và nhân dân cũng xuất hiện tư tưởng ngại ác liệt, lừng chừng do dự, hoặc băn khoăn: “làm thế nào đánh được Mỹ và thắng Mỹ?”. Trên thế giới, nhiều chính phủ và những nhân vật có tên tuổi tỏ ra lo ngại cuộc chiến tranh lan rộng thành cuộc chiến tranh thế giới mới. Họ khuyên ta không nên đối đầu với Mỹ - một siêu cường chưa từng bị thua trận. Họ mở những cuộc vận động ngoại giao để mong tìm được giải pháp chính trị sao cho cả ta và Mỹ có thể chấp nhận được, nhưng đều không có kết quả, chiến tranh vẫn tiếp diễn theo chiều hướng ngày càng tăng, vì những nhà cầm quyền Mỹ mưu toan dùng sức mạnh quân sự để áp đặt ý muốn của họ đối với nhân dân Việt Nam. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam trở thành vấn đề nóng bỏng, nổi bật, khiến cả cộng đồng quốc tế quan tâm theo dõi, nó lôi cuốn hàng nghìn triệu người đứng về phía bên này hoặc bên kia, là trung tâm sự chú ý của toàn nhân loại ở những năm sáu mươi và bảy mươi của thế kỷ này. Bởi lẽ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược diễn ra tại một trong những khu vực tập trung những mâu thuẫn gay gắt giữa hai ý thức hệ: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản, giữa các thế lực cách mạng và phản cách mạng. Mỹ thua trong cuộc chiến tranh này cũng có nghĩa là chiến lược xâm lược toàn cầu và những chính sách thực dân kiểu mới của chúng sẽ thất bại không chỉ ở Việt Nam, Đông - Nam Á mà trên phạm vi thế giới. Điều đó đặt ra cho Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều vấn đề rất mới trong lãnh đạo chiến tranh và nghệ thuật tiến hành kháng chiến sao cho đánh thắng đế quốc Mỹ mà không làm cho cuộc chiến tranh lan rộng thành cuộc chiến tranh giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa, bảo vệ được miền Bắc Việt Nam là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở phía Đông - Nam Á.

Với tầm nhìn sâu rộng, biện chứng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng nước Mỹ giàu, quân Mỹ mạnh, trang bị hiện đại, nhưng chúng vào miền Nam trong hoàn cảnh quân đội Sài Gòn đã thua trận, chính quyền tay sai rệu rã, chiến tranh đặc biệt đã thất bại, chúng mất thế chủ động chiến lược, trong khi đó lực lượng cách mạng đang nắm quyền chủ động chiến trường, xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, liên hoàn ở cả ba vùng chiến lược. Lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta phát triển cân đối và lớn mạnh vượt bậc so với những năm đầu chiến tranh. Năm 1964, lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam (chỉ tính riêng bộ đội chủ lực) có 11 trung đoàn và 15 tiểu đoàn, đến cuối năm 1965 ta đã phát triển lên 5 sư đoàn và 11 trung đoàn bộ binh, nhiều tiểu đoàn, trung đoàn binh chủng kỹ thuật3 trang bị tương đối hiện tại. Lực lượng đặc công, biệt động là binh chủng đặc biệt tinh nhuệ, từ những đội, những tổ hoạt động nhỏ lẻ trên các chiến trường, nay phát triển thành nhiều trung đoàn, tiểu đoàn, đội đặc công, biệt động, trong đó có F đặc công 100 gồm chín đội đặc công Nam Bộ hợp thành... Ở khu V, Tây Nguyên, Trị - Thiên, các tiểu đoàn đặc công 406, 407, 408, 409, 487... là những đơn vị dạn dày kinh nghiệm đánh hậu cứ địch.

Lực lượng trên đây được sắp xếp, bố trí thành một thế trận cài xen, vừa có thế chia cắt, vây hãm, đánh địch tại chỗ, hỗ trợ cho lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân tiến công và nổi dậy, vừa phát huy được đòn tiến công của các binh đoàn chủ lực cơ động đánh tiêu diệt lớn quân địch...

Sư đoàn 9 đứng chân hoạt động từ phía bắc đến đông bắc Sài Gòn - Gia Định bao gồm Tây Ninh, Bình Long, Chiến khu Đ. Sư đoàn 5 cơ động tác chiến từ đông bắc đến đông nam Sài Gòn - Gia Định gồm Long Khánh, Biên Hoà, Bà Rịa - Vũng Tàu.

Cách bố trí này hình thành một tuyến tiến công của bộ đội chủ lực xen kẽ với địch chạy dài từ phía tây bắc đến đông nam Sài Gòn, thường xuyên uy hiếp sào huyệt Mỹ - ngụy, khống chế một địa bàn chiến lược cực kỳ quan trọng ở Nam Việt Nam.
_______________________________________
1, 2. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự Thật, 1985, tr.119.
3. - Sư đoàn bộ binh 3 thành lập ngày 2-9-1965.
    - Sư đoàn bộ binh 9 thành lập ngày 2-9-1965.
    - Sư đoàn bộ binh 2 thành lập ngày 20-9-1965.
    - Sư đoàn bộ binh 5 thành lập ngày 23-11-1965.
    - Sư đoàn bộ binh 1 thành lập ngày 20-12-1965.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 07:10:18 pm

Ở miền Trung và Tây Nam Bộ, các trung đoàn chủ lực Quân khu VIII, Quân khu IX được bố trí ở U Minh, Đồng Tháp, vừa giữ căn cứ giải phóng, vừa cùng với lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân phá kế hoạch bình định của địch ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời có thể cơ động tiến công địch trên đường số 4 (nay là số 1) - con đường sống còn của cả địch và ta nối Sài Gòn với vùng đồng bằng giàu có ở Nam Bộ...

Ở Liên khu V, lực lượng chủ lực của ta được bố trí cài ém xen kẽ với địch thành một tuyến tiến công vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu chạy từ bắc vào nam và từ đông sang tây. Sư đoàn 2 đứng chân hoạt động ở vùng bắc Quảng Ngãi và nam Quảng Nam - Đà Nẵng. Sư đoàn 3 đứng chân ở nam Quảng Ngãi và bắc Bình Định, uy hiếp và khống chế địch ở khu vực Trung Trung Bộ và quốc lộ số 9 từ Quy Nhơn lên Tây Nguyên. Các Trung đoàn độc lập 10 và 20 đóng, hoạt động ở Phú Yên, Khánh Hoà. Ở Tây Nguyên, Sư đoàn 1 cơ động đánh địch từ bắc tỉnh Kon Tum đến nam tỉnh Đắc Lắc. Các Trung đoàn 24A, 95, 33 độc lập bố trí xuống vùng sâu của ba tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc làm chủ lực tại chỗ, trực tiếp xây dựng và hỗ trợ cho lực lượng vũ trang, bán vũ trang địa phương.

Ở Trị-Thiên trước là khu đệm ta tổ chức hoạt động nhỏ lẻ nay bố trí Trung đoàn bộ binh 26 cùng các tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên và bộ đội đặc công, thực hiện các trận đánh tiêu diệt đồn bốt địch, mở vùng, mở mảng, tạo bàn đạp tiến công ở vùng sau lưng địch.

Bên cạnh khối chủ lực cơ động, lực lượng vũ trang địa phương, mỗi tỉnh có một đến hai tiểu đoàn, mỗi huyện có từ một đến hai đại đội cùng hàng trăm trung đội, tiểu đội du kích hoạt động xen kẽ với địch, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị và chống phá địch bình định của nhân dân.

Ở các vùng ven và nội đô các thành phố, thị xã, ta bố trí các đơn vị đặc công, biệt động, pháo chuyên trách để đánh vào cơ quan đầu não, căn cứ, cơ sở chỉ huy, sân bay, kho tàng của Mỹ và tay sai, diệt sinh lực cao cấp của chúng, gây thối động chính trị, làm cho địch thường xuyên mất ổn định, phải lo đối phó bị động, để sơ hở ở các nơi khác. Đây là thế hiểm, sử dụng lực lượng ít nhưng hiệu quả cao, tác dụng lớn.

Cách bố trí, sắp xếp lực lượng của ta trên đây đáp ứng được yêu cầu mới là trong khi quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc Mỹ có trang bị kỹ thuật hiện đại, có sức cơ động nhanh, thì lực lượng vũ trang giải phóng tạo được thế trận “cài răng lược” đánh địch tại chỗ, đánh địch ở chính diện, hai bên sườn và sau lưng, buộc chúng phải bị động, phân tán đối phó khắp nơi, khiến cho quân của chúng đông mà vẫn thiếu, phương tiện kỹ thuật hiện đại và sức cơ động cao nhưng không phát huy được tác dụng.

Quân Mỹ vào miền Nam trong lúc ta đang hình thành thế bố trí chiến lược vững chắc và đang ở thế thắng, thế chủ động, nên Đảng ta nhận định so sánh lực lượng trên chiến trường vẫn không thay đổi. Đây là một nhận định khoa học và cách mạng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng làm cơ sở cho Đảng ta hạ quyết tâm và hoạch định đường lối, phương pháp đúng đắn để chỉ đạo cho toàn dân kháng chiến. Thực tiễn trên chiến trường chứng minh cho nhận định sáng suốt của Đảng ta về so sánh lực lượng địch, ta. Quân Mỹ vừa đặt chân lên Nam Việt Nam đã phải phân tán lực lượng phòng giữ từ Phú Bài (Trị Thiên) đến Đông Nam Bộ và bị ta bao vây ngay bằng hệ thống các vành đai diệt Mỹ. Bước vào cuộc chiến tranh - nhất là cuộc chiến tranh với đế quốc Mỹ mà đánh giá địch không đúng (hoặc quá mạnh, hoặc quá yếu) sẽ rất nguy hiểm: một là khiếp sợ trước sức mạnh của Mỹ, sẽ không dám chống lại, dẫn đến thoả hiệp hoặc đầu hàng; hai là liều lĩnh, phiêu lưu, đánh liều không biết kết quả sẽ đến đâu, dẫn đến hy sinh và thất bại. Đảng ta, nhân dân ta tránh được cả hai khuynh hướng đó. Chủ động và sáng suốt, đầu tháng 7-1965, Bộ Chính trị ra Nghị quyết chuyển hướng công tác tổ chức tập trung lãnh đạo kinh tế và quốc phòng. Và ngày 20-7-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nói rõ quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là: “Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”1.

Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh như luồng sinh khí mới xua tan những nỗi lo âu, do dự, làm bừng tỉnh và hun sôi quyết tâm kháng chiến của cả dân tộc. Nó không chỉ thể hiện ý chí quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta sẵn sàng bước vào cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ, mà còn là liều thuốc đặc hiệu trị bệnh lừng chừng, dao động ý chí của một số cán bộ, đảng viên...

Ngay sau Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên miền Bắc, toàn bộ công tác chỉ đạo của Đảng, Nhà nước được chuyển hướng cho phù hợp với thời chiến. Lực lượng cán bộ, nhân viên các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương được bố trí, sắp xếp lại gọn nhẹ phù hợp với chuyển hướng nền kinh tế vào thời chiến và sẵn sàng chiến đấu, chi viện cho các chiến trường. Khắp nơi trên miền Bắc, phong trào thi đua yêu nước mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt dấy lên sôi nổi. Phong trào ba sẵn sàng trong thanh niên; phong trào ba đảm đang trong phụ nữ; phong trào ba quyết tâm trong giới trí thức; phong trào thi đua quyết thắng quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong các lực lượng vũ trang phát triển mạnh mẽ, tạo nên khí thế mới hừng hực chưa từng có trong lao động sản xuất, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu ở hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hàng triệu thanh niên nam, nữ tình nguyện tòng quân, đi thanh niên xung phong. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ cựu binh xin tái ngũ. Hàng ngày trên đồng ruộng, nhân dân ta thực hiện khẩu hiệu “tay cày, tay súng”, trong nhà máy, hầm mỏ, xí nghiệp, công nhân thực hiện khẩu hiệu “tay búa, tay súng” không ngừng nâng cao năng suất lao động. Từ Việt Bắc, Tây Bắc đến thủ đô Hà Nội, đồng bằng Khu III, Khu IV những đoàn quân nườm nượp lên đường hướng vào tiền tuyến lớn....

Đó là biểu thị quyết tâm của toàn dân và lực lượng vũ trang trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.11, tr. 470.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 07:15:34 pm

Ở miền Nam, hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 14 triệu nhân dân miền Nam xác định lập trường: “Thà chết chứ không chịu làm nô lệ, sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc và giành độc lập hoàn toàn... Dù chúng có đưa 5 vạn hay 50 vạn quân, dù trang bị bằng thứ vũ khí gì, hay bất cứ chúng đặt chân lên nơi nào của lãnh thổ Việt Nam, chúng ta cũng kiên quyết đánh bại chúng, đánh cho đến khi không còn một tên xâm lược nào trên dải đất thân yêu của chúng ta”1. Thế là toàn dân Việt Nam ở miền Bắc cũng như miền Nam chỉ có một lòng kiên quyết đánh Mỹ, chỉ có một ý chí là đánh thắng.

Trung ương Cục miền Nam họp Hội nghị lần thứ tư để quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng, bàn biện pháp thực hiện nghị quyết và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong kỳ họp này, Trung ương Cục đề ra phương châm đấu tranh “kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công” và chủ trương đẩy mạnh hoạt động quân sự trong mùa mưa, nhằm tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực ngụy, làm yếu chỗ dựa của quân Mỹ để tiến hành chiến tranh, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân.

Ở Khu V, Quân khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu chủ trương động viên các lực lượng tập trung đánh tiêu diệt lớn sinh lực địch, hạ quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ trên chiến trường. Ở Trị - Thiên, Tỉnh uỷ liên tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên mở hội nghị thảo luận quán triệt chủ trương của Đảng và xác định: phát triển thế tiến công trên cả ba vùng, ra sức tiêu diệt địch, đánh bại các cuộc phản công của chúng, giữ vững những thành quả đã giành được trong phong trào Đồng khởi, tích cực mở rộng vùng giải phóng.

Như vậy, quân và dân ta từ Bắc đến Nam, từ đồng bằng đến rừng núi, đều quyết tâm thống nhất ý chí với Trung ương kiên quyết đánh thắng đế quốc Mỹ.

Ý chí, quyết tâm đã có, thế trận đã bày sẵn là những nhân tố bảo đảm cho thắng lợi, nhưng đánh Mỹ bằng cách nào để chiến thắng mà ta ít thương vong, tổn thất? Đây là bài toán hóc búa chưa có lời giải, vì ta hiểu Mỹ về bản chất, về sức mạnh vật chất, nhưng cách đánh, chiến thuật của quân đội Mỹ như thế nào, sở trường tác chiến của lục quân Mỹ ra sao vẫn còn là ẩn số, vì đây là lần đầu tiên ta đụng đầu với Mỹ. Bài học kinh nghiệm lịch sử của dân tộc là “biết địch, biết ta, trăm trận trăm thắng”. Từ khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thành lập cho đến khi xâm lược Việt Nam, quân đội Mỹ đã tiến hành và tham gia tám cuộc chiến tranh lớn, trong đó có năm lần đưa quân ra nước ngoài, nhưng chưa lần nào Mỹ bại trận. Lần này đưa quân sang xâm lược Việt Nam, quân đội Mỹ đã được tổ chức lại chặt chẽ thống nhất, trang bị hiện đại hơn gấp nhiều lần so với hồi Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hoặc chiến tranh Triều Tiên, nhờ vào những thành tựu phát triển cao của khoa học - kỹ thuật quân sự. Và nước Mỹ đã trở thành một trong hai cường quốc nguyên tử mạnh nhất. Đánh với một đối tượng như vậy, yêu cầu quân và dân ta chẳng những có ý chí, quyết tâm cao mà còn phải có nghệ thuật tiến hành kháng chiến phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh. Để có cách đánh thích hợp với đối tượng, tốt nhất là ta phải chủ động, trực tiếp đọ sức với chúng, không ngồi chờ địch ra quân. Đảng ta chủ trương mở cuộc tiến công Thu - Đông đánh bồi vào quân chủ lực Việt Nam Cộng hoà, làm cho chúng quỵ hẳn không đủ sức làm chỗ dựa cho quân Mỹ tiến hành chiến tranh; đồng thời nhân lúc quân Mỹ mới “chân ướt chân ráo” đổ bộ vào miền Nam, đứng chân chưa vững, mọi cái đều lạ lẫm đối với chúng, ta chủ động tiến công, đánh đòn phủ đầu vừa răn đe chúng, vừa tìm hiểu cách đánh của quân Mỹ.

Trong Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất họp tài Lò Gò, phía tây bắc tỉnh Tây Ninh từ ngày 2 đến ngày 6-5-1965, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phát động phong trào thi đua Quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương nêu quyết tâm cứ đánh Mỹ sẽ tìm ra cách đánh thắng Mỹ. Đại hội không chỉ động viên, cổ vũ phong trào thi đua lập công trong lực lượng vũ trang mà còn biểu thị ý chí, quyết tâm của quân, dân ta cùng nhau tìm cách đánh thắng giặc Mỹ. Lúc này, cuộc tiến công Hè - Thu của lực lượng vũ trang giải phóng đang giành được những thắng lợi lớn. Quân chủ lực Sài Gòn bị ta đánh bại ở Phước Long, Đồng Xoài và Ba Gia. Mặc dù Sài Còn cố gắng đưa quân tăng viện tối đa cho mặt trận Đồng Xoài và Ba Gia, nhưng các đơn vị tiếp viện của địch đều bị ta tiêu diệt.

Ngày 16-5-1965, ta tập kích sân bay Biên Hoà, địch thú nhận: 11 máy bay B57 và 4 máy bay phản lực bị phá huỷ, 25 máy bay khác bị hư hại nặng, 21 tên Mỹ chết, 64 bị thương. Đây là đòn đánh thể hiện quyết tâm của quân, dân ta, đồng thời là đòn cảnh cáo tập đoàn hiếu chiến Mỹ chớ có liều lĩnh.

Quân chủ lực ngụy bị đánh bại, một số căn cứ Mỹ bị tiến công, nhưng Mỹ chưa ra quân ứng cứu, chúng còn dè chừng, thận trọng (?). Không chờ cho quân Mỹ tiến công, ta mới hành động, Bộ Tư lệnh Quân khu V chỉ thị cho Tỉnh đội Quảng Nam, nơi quân Mỹ đã triển khai lực lượng ở Đà Nẵng, Chu Lai “đánh tiêu diệt một đơn vị Mỹ để hạ uy thế quân Mỹ ngay từ đầu, tìm hiểu cách đánh của chúng, rút kinh nghiệm đánh Mỹ cho ta và cổ vũ khí thế đánh Mỹ trong toàn khu. Mục tiêu do tỉnh chọn. Đơn vị đánh do tỉnh lựa, đánh theo trình độ, trang bị, khả năng của tỉnh”2. Trong lúc tỉnh đội Quảng Nam sử dụng Tiểu đoàn 70 (thiếu) phục kích đánh địch từ An Tân ra cầu Ông Bộ và dùng Đại đội 2 thăm dò, chuẩn bị chiến trường để thực hiện chỉ thị của quân khu, thì ngày 17-5, một đại đội Mỹ càn lên phía tây căn cứ Chu Lai nhằm nới rộng vành đai bảo vệ căn cứ. Chúng vừa càn đến cầu Xuôn đã bị du kích xã Kỳ Sanh chặn đánh diệt bốn tên. Đại đội Mỹ dừng lại chống đỡ và tiến lên chiếm Núi Thành, một trong những điểm cao khống chế phía tây căn cứ Chu Lai, thuộc xã Kỳ Liên, huyện Tam Kỳ, nay là thôn Tịch Tây, xã Tam Nghĩa, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Đây là cơ hội lớn để tỉnh Quảng Nam thực hiện Chỉ thị ngày 10-5 của Bộ Tư lệnh Quân khu. Tỉnh chọn Núi Thành làm mục tiêu tiến công và giao cho Đại đội 2, Tiểu đoàn 70, cùng một tổ đặc công thực hiện trận đánh. Quân địch đóng trên hai mỏm đồi 49 và 50 của Núi Thành, xung quanh có hai lớp rào kẽm gai bùng nhùng chưa có cọc sắt, công sự dã chiến nông, lính Mỹ nằm vừa khuất lưng.
_______________________________________
1. Tuyên bố của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, ngày 3-8-1965.
2. Chỉ thị ngày 10-5-1955 của BTL Quân khu V, Lưu trữ Phòng KH-CN và MT Quân khu V.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 07:23:20 pm

Ngày 24-5, Tiểu đoàn 70 tổ chức lễ xuất quân cho Đại hội 2. Đồng chí Hoàng Minh Thắng, Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ, Chính trị viên tỉnh đội đến dự, giao nhiệm vụ cho đơn vị và trao cho Đại đội 2 lá cờ mang dòng chữ Quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược để cắm lên Núi Thành.

0 giờ 30 phút ngày 26-5-1965, sau khi cắt xong các lớp rào kẽm gai ở mỏm đồi 49, Trần Ngọc Ảnh mũi trưởng hướng chủ yếu lao lên ném thủ pháo vào công sự Mỹ, phát lệnh tiến công. Dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Võ Thành Năm, từng tổ ba người phát triển theo đội hình chữ A; tổ trưởng tiến trước bắn yểm hộ cho hai chiến sĩ trong tổ dùng bộc phá, thủ pháo, lựu đạn đánh chiếm từng mục tiêu từ vòng ngoài đến vòng trong. Bị đánh bất ngờ, quân địch ở mỏm đồi 49 chống cự yếu ớt. Trong khi ở hướng chủ yếu phát triển tiến công thuận lợi, thì các mũi tiến công lên mỏm đồi 50 gặp khó khăn, địch ngăn chặn quyết liệt, địa hình lại có độ dốc cao, nhưng chiến sĩ ta dũng mãnh, dùng thủ pháo, lựu đạn, lê đánh “giáp lá cà” với địch. Lực lượng ta ở hướng chủ yếu nhanh chóng đánh sang chi viện. Sau 20 phút chiến đấu, Đại hội 2 đã đánh chiếm và làm chủ hoàn toàn mỏm đồi 50. Ở đồi 49, chiến sĩ ta đánh chiếm được hai tuyến công sự vòng ngoài, thì vấp phải súng đại liên địch ngăn chặn. Ba chiến sĩ mũi đột kích chủ yếu bị thương vong, đội hình tiến công dừng lại. Đại đội trưởng Võ Thành Năm liền ra lệnh cho lực lượng dự bị lên tăng cường và mở một mũi tiến công từ phía đông bắc đánh thẳng vào bên trong, chia cắt đội hình địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị phát triển đánh chiếm và làm chủ trận địa, diệt đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 140 tên, thu toàn bộ vũ khí, quân dụng và cắm lá cờ của Đảng bộ Quảng Nam trao cho lên Núi Thành, báo tin chiến thắng. Đây là đại đội Mỹ bị tiêu diệt đầu tiên trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Trận Núi Thành quy mô không lớn, nhưng là trận mở đầu thắng lợi khi lực lượng Mỹ đã có mặt ở miền Nam 82.000 tên, là trận đánh biểu thị ý chí quyết tâm của nhân dân Việt Nam chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ, là trận phát động tinh thần dám đánh và quyết thắng Mỹ trong toàn dân và lực lượng vũ trang cả nước. Trận Núi Thành xuất hiện khẩu hiệu hành động “Tìm Mỹ mà đánh, gặp Mỹ là diệt”, là bài học kinh nghiệm đánh Mỹ đầu tiên của quân và dân ta. Trận Núi Thành củng cố lòng tin và nâng cao quyết tâm cho cán bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang ta, nó xua tan những ý nghĩ sợ Mỹ, gờm Mỹ trong một số cán bộ, đảng viên và nhân dân. Với chiến thắng mở đầu vẻ vang này, Đại đội 2 được Bộ chi huy Miền tặng lá cờ mang dòng chữ “Núi Thành oanh liệt, quyết chiến lập công”.

Trận Núi Thành có ý nghĩa lịch sử to lớn, nhưng chưa đủ các yếu tố để kết luận là ta có thể thắng Mỹ, vì sức mạnh và cách đánh của địch chưa bộc lộ, phải đợi đến trận Vạn Tường ngày 18-8-1965. Vạn Tường, một thôn nhỏ ven biển thuộc xã Bình Thiện, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi được giải phóng trước 1965 và xây dựng thành làng chiến đấu.

Sau chiến thắng Ba Gia lần thứ nhất (5-1965), Trung đoàn 1 chủ lực Quân khu V về đóng tại Vạn Tường để củng cố huấn luyện, chuẩn bị cho hoạt động Thu - Đông. Phát hiện được đơn vị chủ lực của ta ở cách Chu Lai 17 km về phía đông nam, Oétmolen ra lệnh cho lính thuỷ đánh bộ mở cuộc hành quân mang tên Anh sáng sao (Starlite) đánh vào Vạn Tường, nhằm tiêu diệt Trung đoàn 1 Quân giải phóng, gây uy thế cho quân Mỹ.

Trong trận này quân Mỹ hoàn toàn chủ động lựa chọn chiến trường tác chiến hợp với sở trường để xuất quân. Đánh vào Vạn Tường, quân Mỹ có điều kiện thuận lợi sử dụng xe tăng, pháo binh, hải quân, không quân của chiến tranh hiện đại. Lính thuỷ đánh bộ Mỹ là binh chủng được thành lập sớm nhất (1775), có bề dày kinh nghiệm trận mạc trong suốt 200 năm. Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ trực tiếp đánh vào Vạn Tường là đơn vị cơ động nhanh, giỏi về đổ bộ, có khả năng mở rộng nhanh khu vực tác chiến tiến công trên địa hình ven biển, là đơn vị đã lập được thành tích xuất sắc nhất của quân đội Mỹ ở Viễn Đông trong Đại chiến thế giới thứ hai.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 07:25:40 pm

Đêm 17-8-1965, năm tàu chiến và sáu tàu đổ bộ Mỹ đậu ngoài biển đối diện với ấp An Cường, bắn dồn dập hàng ngàn quả đạn đại bác vào các thôn xóm. Vạn Tường phút chốt trở thành vùng lửa sáng rực một góc trời. Nhà cửa bị cháy, cây trái gãy nát, ruộng vườn bị cày xới. Biết địch đang chuẩn bị hoả lực dọn đường cho bộ binh tiến công, bộ đội, du kích và nhân dân thôn Vạn Tường khẩn trương sơ tán người già, trẻ em và của cải, sửa chữa hầm hào, chuẩn bị chiến đấu. Chỉ huy Trung đoàn 1, Đại đội 21 bộ đội địa phương và xã đội, thôn đội Vạn Tường họp bàn phương án chiến đấu và phân công hiệp đồng. Sáng ngày 18-8-1965, sau khi máy bay dội bom xuống làng Long Bình, Ngọc Hương chuẩn bị cho việc đổ quân, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn lính thuỷ đánh bộ số 4 đổ bộ bằng trực thăng xuống cánh đồng Lộc An; đồng thời Tiểu đoàn 3, Trung đoàn hải quân đánh bộ số 3, một bộ phận từ Chu Lai đánh sang, bộ phận còn lại cùng một tiểu đoàn tăng, thiết giáp từ tàu đổ bộ lên bãi biển An Cường. Các cánh quân địch hình thành một vòng cung khép kín bao vây, tiến công vào thôn Vạn Tường. Nhưng ngay lúc địch đang đổ quân xuống cánh đồng Lộc An, các khẩu đội súng cối 82 và 60mm của Trung đoàn 1 bắn cấp tập vào bãi đổ quân của địch, phá hỏng tám máy bay lên thẳng, diệt hơn 100 tên Mỹ. Cánh quân từ Chu Lai sang bị Đại đội 21 bộ đội địa phương Quảng Ngãi phục kích tại thôn Phổ Tịnh đánh, diệt nhiều tên. Lực lượng Mỹ đổ lên bãi biển An Cường bị hoả lực của các chiến sĩ Trung đoàn 1 và dân quân du kích diệt tại chỗ 25 tên; số còn lại lùi ra biển, dùng pháo hạm, máy bay bắn phá, ngăn chặn ta, yểm trợ cho quân Mỹ đổ bộ lần thứ hai. Ở bãi đổ bộ phía tây An Cường diễn ra trận đánh ác liệt. Dưới sự yểm trợ mạnh của máy bay, quân Mỹ cố tiến lên chiếm đồi 43 và 30 ở phía nam và bắc thôn An Cường. Nhưng Trung đoàn 1 và Đại đội 21 bộ đội địa phương tỉnh vận động tiến công vào đội hình địch. Bị đánh dữ dội, quân Mỹ hỗn loạn, chúng không còn kiểm soát được chiến trường. Đến trưa, địch cho năm xe thiết giáp chở quân và ba xe tăng phun lửa đến tiếp viện. Trong khi đoàn xe địch đang bò trên những thửa ruộng lúa, thì bị ta phục kích diệt gần hết. Chỉ huy Tiểu đoàn 3/3 vội vã tập hợp một toán cứu viện gồm một xe tăng M48, một tăng phun lửa, ba xe chống tăng Ontos và một số xe thiết giáp tiến về đồi 30 phía bắc thôn An Cường, liền bị ta tiến công. Chỉ trong vòng bốn, năm phút, cánh quân ứng cứu của địch thương vong gần hết. Địch từ chỗ chủ động chuyển sang bị động, chống đỡ lúng túng. Ta từ chỗ bị bất ngờ đã giành được thế chủ động tiến công. Trận đánh kéo dài đến chiều tối ngày 18, địch bị đánh thiệt hại bốn đại đội. Lính thuỷ đánh bộ Mỹ chẳng những không hợp điểm được tại thôn Vạn Tường theo ý định ban đầu, mà còn có nguy cơ bị sa lầy, bị diệt lớn. Hải quân Mỹ pháo kích dữ dội hòng làm giảm áp lực của ta và dùng máy bay lên thẳng chở lực lượng dự bị từ hạm đội đang đậu ngoài khơi đổ xuống Vạn Tường. Ta tiếp tục tiến công cho đến khi màn đêm buông xuống thì trận đánh kết thúc. Quân Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 900 tên, 22 xe tăng, xe bọc thép, 13 máy bay bị bắn rơi. Đêm 18 rạng 19 lực lượng ta bí mật rút khỏi Vạn Tường an toàn. Chiến thắng Vạn Tường chứng minh rằng quân và dân ta hoàn toàn có khả năng đánh bại quân đội Mỹ trong điều kiện chúng có ưu thế về binh, hoả lực và sức cơ động. Với ý nghĩa đó, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã danh giá: “Nếu trận Ấp Bắc đầu năm 1963 đã chỉ ra khả năng đánh bại việc Mỹ dùng chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, yểm hộ cho những lực lượng lớn quân ngụy càn quét ở đồng bằng, nếu trận Bình Giã cuối 1964 đã đánh dấu bước trưởng thành của quân chủ lực ta trong việc tiêu diệt những đơn vị ứng chiến lớn quân chủ lực ngụy, thì trận Vạn Tường đã chứng tỏ một cách hùng hồn khả năng của ta đánh bại được quân Mỹ trong điều kiện chúng có ưu thế tuyệt đối về binh khí, hoả lực”1.

Trận Vạn Tường đánh dấu sự thất bại không tránh khỏi của quân viễn chinh Mỹ trong chiến tranh cục bộ.

Sau trận thắng ở Vạn Tường, quân ta tiếp tục tiến công quân Mỹ ở Thuận Ninh (18-9), Cát Sơn, Cát Hiệp (10 và 14- 10) thuộc tỉnh Bình Định; bắn pháo vào sân bay Đà Nẵng, Chu Lai (24-10) phá huỷ, phá hỏng 163 máy bay các loại, diệt nhiều tên Mỹ.

Trận Vạn Tường đang làm cho giới quân sự Mỹ xôn xao kinh ngạc rằng, trận này “giống như trận đánh Ôkinaoa”2 trong Chiến tranh thế giới thứ hai và lính Mỹ “phải trả giá đắt” thì ngày 19-10-1965, Quân giải phóng Tây Nguyên mở chiến dịch tiến công Plâyme, cách thị xã Plâycu khoảng 30km về phía tây nam. Không gian chiến dịch diễn ra trong tứ giác Plâyme - Bầu Cạn - Đức Cơ - Plây Thê thuộc huyện 5, nay là huyện Chư Prông với diện tích 1.200 km2. Đồn Plâyme được chọn làm điểm khơi ngòi chiến dịch để nhử địch ra khỏi căn cứ tiêu diệt. Đây là vị trí biên phòng mạnh, hiểm yếu của địch do một tiểu đoàn lực lượng đặc biệt Nam Việt Nam đóng giữ, bảo vệ mặt tây nam thị xã Plâycu và căn cứ Quân đoàn 2 ngụy.
________________________________
1. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1985, tr.131.
2. Ôkinaoa: đảo lớn ở tây Thái Bình Dương do 77.000 quân Nhật phòng thủ. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ đã sử dụng 550.000 quân, hơn 1.500 tàu chiến, gần 2.500 máy bay tiến công quân Nhật trên đảo. Bắt đầu ngày 25-3-1945, không quân, hải quân Mỹ bắn phá mãnh liệt chế áp không quân Nhật trên đảo Ôkinaoa và các đảo kế cận, sau đó chiếm đảo Kêrama tiếp giáp với Ôkinaoa. Ngày 1-4, quân Mỹ đổ bộ lên bờ phía tây và ngày 5-4 tiến công sang bờ phía đông. Những trận đánh ác liệt diễn ra cho đến ngày 21-6, quân Mỹ mới hoàn toàn làm chủ đảo Ôkinaoa.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 08:57:57 pm

Nhiệm vụ chiến dịch được xác định là tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực Sài Gòn, kéo Mỹ ra ứng cứu; nếu quân Mỹ ra thì cố gắng diệt một bộ phận quân Mỹ để tìm hiểu khả năng tác chiến của chúng, xây dựng cách đánh Mỹ cho bộ đội ta. Quyết tâm của Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3) là dù một đổi một cũng quyết thắng trận đầu. Máu xương và tính mạng của chiến sĩ, đồng bào ta là vô giá không có gì so sánh được, nhưng vì mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, thống nhất cho Tổ quốc, cán bộ, chiến sĩ chúng ta sẵn sàng chấp nhận tỷ số 1/1 một cách thanh thản. Theo tinh thần đó, chưa biết chiến thuật của quân Mỹ, bộ đội ta cũng cứ đánh khắc tìm ra cách đánh thắng. Đây không phải là sự liều lĩnh “điếc không sợ súng” mà là quyết tâm dựa trên cơ sơ khoa học và cách mạng, cán bộ, chiến sĩ chúng ta trong quá trình chiến đấu sẽ khắc phục mọi khó khăn, phát huy trí tuệ sáng suốt và tài năng của mình để tìm ra giải pháp tình thế phù hợp, chiến thắng kẻ thù, từ đó tích luỹ dần kinh nghiệm, đúc kết thành bài học quý để đánh Mỹ có hiệu quả hơn.

Để đánh lạc hướng sự chú ý của địch, tạo điều kiện cho bộ đội ta bí mật ém lực lượng an toàn, bao vây đồn Plâyme, ngày 19-10-1965, các chiến sĩ Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 33 Mặt trận Tây Nguyên đánh Tân Lạc, Đức Cơ, Chư Ho. Dưới ánh sáng của đèn dù và lửa cháy, bộ đội ta tiến hành đào công sự và hào giao thông vây ép Plâyme. Những trận đánh ở ngoại vi đồn Plâyme diễn ra rất ác liệt. Địch cố sức đánh bật lực lượng bao vây của ta. Ta thì tìm mọi cách siết chặt vòng vây từ bốn hướng. Nguy cơ cứ điểm biên phòng Plâyme bị mất, Plâycu bị uy hiếp, ngày 23-10, địch dùng một tiểu đoàn bộ binh và Chiến đoàn thiết giáp số 3 quân đội Sài Gòn tiến theo trục đường 21 bis, giải vây cho Plâyme. Trung đoàn 320 của ta đã xây dựng trận địa phục kích hai bên đường 21 bis. Các chiến sĩ trong trung đoàn đã hơn bốn ngày phải ẩn mình trong những công sự được ngụy trang kín dưới cái nắng như thiêu như đốt chờ đợi địch. Khi cả chiến đoàn địch lọt vào trận địa phục kích, các chiến sĩ Trung đoàn 320 như những chiếc lò xo bị ép chặt, bật dậy, nổ súng chặn đầu, khoá đuôi, rồi vọt khỏi công sự, dũng mãnh xung phong ra mặt đường. Bị đánh bất ngờ, cả chiến đoàn địch rối loạn, dồn lên điểm cao 601 cạnh đường chống đỡ. Đồng chí Thiết, trung đội trưởng táo bạo dẫn trung đội mình vượt qua đường 21, vòng về phía tây, xung phong đánh vào đội hình co cụm của địch. Đang tập trung đối phó ở hướng đông, bị ta đánh bất ngờ, số quân phòng ngự phía tây của địch hốt hoảng bỏ chạy, tạo ra thời cơ thuận lợi cho Trung đoàn 320 tiêu diệt hoàn toàn Chiến đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp của quân đội Sài Gòn, phá huỷ, phá hỏng 89 xe quân sự.

Ngày 24-10-1965, hai tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ lên thị xã Plâycu, yểm trợ cho quân đội Sài Gòn tiếp tục giải vây. Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên cho mở vây, chuẩn bị đánh Mỹ. Ngày 26-10, quân đội Sài Gòn giải vây cho đồn Plâyme lần thứ hai. Tại đây, 11 chiến sĩ bao vây phía đông nam vì không nhận được lệnh lui quân, nên đã trụ lại, chặn đánh quyết liệt với một tiểu đoàn địch cùng 20 xe tăng, bọc thép ngay sát hàng rào đồn Plâyme. Chiến sĩ ta bị thương vong quá nửa, nhưng vẫn kiên cường bám đánh địch. Dưới sự chỉ huy của Đậu Văn Phơn, những chiến sĩ còn lại mỗi người dùng hai, ba loại súng đánh địch. Đậu Văn Phơn bị thương, nhưng anh nghiến răng chịu đau, bình tĩnh chỉ huy, động viên đơn vị kiên quyết đánh bại địch, giữ vững trận địa. Trận chiến đấu kéo dài đến tối, bộ đội ta loại khỏi vòng chiến đấu 140 tên địch, bắn cháy năm xe tăng và bọc thép. Được lệnh lui quân, năm chiến sĩ còn lại khiêng cáng tử sĩ và dìu thương binh, vác hết súng đạn rời khỏi trận địa về đơn vị an toàn. Tiểu đội Đậu Văn Phơn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nêu một tấm gương sáng về lòng dũng cảm, về chấp hành mệnh lệnh, về tình thương yêu đồng chí, đồng đội lúc thường cũng như lúc chiến đấu.

Cuộc giải vây của quân đội Sài Gòn bị đánh bại, đồn Plâyme vẫn nằm trong tầm khống chế của ta. Ngày 26-10, Oétmolen, Tư lệnh lực lượng đồng minh Mỹ ở Nam Việt Nam cấp tốc đến sở chỉ huy tiền phương Sư đoàn kỵ binh không vận ở Plâyđêmốt xem xét tình hình. Y ra lệnh đình chỉ cuộc hành quân càn quét ở Bồng Sơn (Bình Định) để tập trung lực lượng lên Tây Nguyên, giải vây cho quân ngụy và tìm diệt chủ lực ta. Ngày 31-10-1965, quân Mỹ đổ xuống làng Mùi, Plây Ia Priêng, Quynh Klă, Ia Mơ... bị Trung đoàn 33 của ta đánh thương vong, nên ngày 9-11 chúng rút về Plâycu.

Diễn biến trên chiến trường mười ngày đầu tháng 11 - 1965 cho thấy cuộc ra quân của Mỹ có tính chất thăm dò, chuẩn bị bàn đạp cho Sư đoàn kỵ binh không vận “nhảy cóc” đánh đòn bất ngờ vào phía sau đội hình chiến dịch của ta. Quân Mỹ muốn giữ bí mật ý định, nhưng bị động ngay từ đầu; sử dụng phương tiện hiện đại, cơ động nhanh, đánh bất ngờ, chớp nhoáng, nhưng bị ta ở ngay tại chỗ đánh cho thiệt hại, buộc chúng phải bị động, hành động đúng như dự kiến của ta... Qua các trận chiến đấu đầu tiên của Trung đoàn 33 trong các ngày 31 - 10, ngày 4 và 6 - 11, hàng trăm tên Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu, chứng minh bộ đội ta chẳng những dám đánh mà còn biết đánh thắng Mỹ. Đến đây, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định triển khai đợt hai chiến dịch và chọn thung lũng Ia Đrăng cách đồn Plâyme khoảng 25km về phía tây nam (sâu trong hậu cứ của ta) làm điểm quyết chiến đánh trận then chốt thứ hai, tiêu diệt một bộ phận Sư đoàn kỵ binh không vận Mỹ, kết thúc chiến dịch. Bộ Tư lệnh Tây Nguyên chủ trương “châm ngòi” Plâyme, nhử quân Mỹ vào sâu trong căn cứ của ta, nhưng ngày 10-11, Lữ đoàn 3 kỵ binh không vận trở lại Bầu Cạn; ngày 11, một bộ phận của Lữ đoàn này nhảy xuống Plâyngo cách đồn Plâyme 10 km về phía tây. Ta cho Tiểu đoàn 952 đặc công tập kích đánh phủ đầu sở chỉ huy hành quân của Lữ đoàn 3 ở Bầu Cạn và quyết định không “châm ngòi” Plâyme như đã chủ trương, để điều Trung đoàn 33 về khu vực Ia Đrăng cùng với Trung đoàn 66 đánh trận then chốt quyết định ở đây.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 08:59:48 pm

Ngày 2-11-1965, Lữ đoàn 1 Mỹ được trực thăng vận lên phía tây Plâycu gần khu vực Chư Pông, lùng sục, phát hiện dấu vết lực lượng ta. Chúng phán đoán Chư Pông là căn cứ lớn của “Việt cộng”, nên tướng Kinna (Kinnard) Tư lệnh Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 ra lệnh cho Lữ đoàn 3 thay Lữ đoàn 1, tiến công vào khu vực Chư Pông. Ngày 14-11, toàn bộ Tiểu đoàn 1/7 (Tiểu đoàn 1, Trung đoàn kỵ binh bay số 7) do trung tá Harốt Morơ chỉ huy đổ xuống bãi đáp Ia Đrăng và lùng sục lên phía bắc dãy Chư Pông. Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 66 vừa đến chiến trường đang củng cố chỗ đóng quân, thì gặp Mỹ. Bộ đội ta vào trận chiến đấu rất ngoan cường, đánh thiệt hại Đại đội A, tiêu hao Đại đội C của Tiểu đoàn 1 Mỹ. Tiểu đoàn 1/7 đang lâm nguy, chỉ huy Lữ đoàn 3 điều Tiểu đoàn 2/7 (Tiểu đoàn 2, Trung đoàn kỵ binh bay số 7) từ An Khê lên tăng viện, sau đó chúng đổ thêm Tiểu đoàn 2/5 (Tiểu đoàn 2, Trung đoàn kỵ binh bay số 5) xuống Ia Đrăng. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của không quân, pháo binh, quân Mỹ tiến công vào khu vực trú quân của Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 66. Nhưng địch mới tiến được hơn 100 m thì bị ta đánh chặn, buộc chúng phải co cụm chống đỡ. Ngày 15-11-1965, đồng chí Nguyễn Hữu An, Tham mưu phó B3, Tư lệnh Sở chỉ huy tiền phương mặt trận ra lệnh cho Trung đoàn 66 nhân đà quân Mỹ lúng túng, bị động chống đỡ, dùng Tiểu đoàn 7 cùng với Tiểu đoàn 9 tiếp tục tiến công. 4 giờ 30 phút ngày 16-11, bộ đội ta chiếm lĩnh các vị trí bao vây quân Mỹ từ hướng bắc và tây bắc, đồng thời bố trí lực lượng đón lõng ở hướng tây và tây nam. Trung đoàn phó Phạm Công Cửu ra lệnh cho Đại đội 2 nổ súng mở màn trận đánh. Bằng chiến thuật vận động tiến công và sự mưu trí của chiến sĩ ta, Tiểu đoàn 7 và 9 tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng hai đại đội C và D của Tiểu đoàn 2/7 kỵ binh bay, loại khỏi vòng chiến hơn 200 tên (có hơn 80 tên Mỹ chết), bắn rơi 9 máy bay lên thẳng, thu 72 súng các loại, 22 đài thu phát 2 W. Ta hy sinh hơn 50 đồng chí.

Trước tình thế nguy khốn của Tiểu đoàn 1/7 và Tiểu đoàn 2/7 kỵ binh bay, định cho 100 lần chiếc máy bay B52 ném bom rải thảm xuống thung lũng Ia Đrăng. Đây là lần đầu tiên Mỹ sử dụng máy bay chiến lược yểm trợ chiến thuật cho bộ binh. Oétmolen thú nhận; “Vì không còn cách nào khác, Lữ đoàn 3 đang nguy khốn” (Hồi ký của Oétmolen).

Quán triệt tư tưởng tiến công, ngay trong đêm 16, Tiểu đoàn 7 tổ chức tiến công, không cho quân Mỹ kịp trấn tĩnh, củng cố. Dưới ánh sáng chói loà của đèn dù, pháo sáng, chiến sĩ Tiểu đoàn 7 giương lê sáng quắc, băng qua rừng le và cỏ lau rậm rạp tìm đánh quân Mỹ. Ban đêm bộ đội ta hiệp đồng chiến đấu theo tiếng súng. Nhiều cán bộ, chiến sĩ bị lạc trong rừng đều nhằm hướng súng nổ lao tới phối hợp. Bị đánh tả tơi và bị ta truy kích, quân Mỹ phải chạy bộ khỏi thung lũng Ia Đrăng ra “bãi đáp” chờ trực thăng đến bốc. Nhưng bị những loạt súng AK, lựu đạn của ta đánh chặn, suốt đêm chúng chỉ chạy được một quãng về phía làng Gà.

Sáng ngày 17-11-1965, Tiểu đoàn 8 đang đón đánh địch ở khu vực Ba Bỉ được lệnh cấp tốc hành quân về đội hình trung đoàn để chuẩn bị đánh trận quyết định. Trên đường hành quân đến phía đông bắc Chư Pông, Tiểu đoàn 8 gặp quân Mỹ. Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi1 bình tĩnh, chỉ huy đơn vị tiến công Tiểu đoàn 2/7 Mỹ, tiêu diệt Đại đội C. Đồng chí Luận, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 33 đang chỉ huy lùng địch ở hướng khác, nghe súng nổ, liền dẫn đơn vị đến phối hợp với Tiểu đoàn 8. Trận đánh rất ác liệt kéo dài đến chiều ngày 17-11-1965. Núi rừng Chư Pông rung chuyển trong tiếng nổ xé trời của bom B52 và pháo bầy Mỹ. Lửa bom napan thiêu cháy cả những khu rừng rộng lớn ở Ia Đrăng. 16 giờ Lê Xuân Phôi hy sinh, đồng chí Luận, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 33 tiếp tục chỉ huy chung hai đơn vị vượt qua bom đạn, tiến công, tiêu diệt hoàn toàn Tiểu đoàn 2/7 kỵ binh bay Mỹ. Ngày 18-11, Trung đoàn 33 tập kích trận địa pháo của Tiểu đoàn 2/5 ở phía tây bắc suối Ia Mơ phá hỏng ba pháo lớn, bảy máy bay lên thẳng. Trận quyết chiến ở thung lũng Ia Đrăng đã khắc hoạ lên hình tượng tuyệt vời về người chiến sĩ quân đội cách mạng giản dị, dịu hiền mà anh dũng, thông minh, khiến cho Hãng AFP ngày 27-11-1965 bình luận: “lính Việt cộng đã chiến đấu với một tinh thần dũng cảm mà các cố vấn Mỹ phải phục” và “Tướng Mỹ phải đánh theo cách đánh của kẻ thù (BQP) lựa chọn, không phải theo cách đánh của chúng ta (Mỹ)” (Thời báo Niu-oóc số ra ngày 21-11-1965).

Kết thúc chiến dịch Plâyme, ta tiêu diệt một chiến đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp quân đội Sài Gòn, phá huỷ 89 xe quân sự, tiêu diệt Tiểu đoàn 2/7, đánh thiệt hại Tiểu đoàn 1/7 kỵ binh bay Mỹ; bắn rơi, phá hỏng 59 máy bay lên thẳng. Phía Mỹ thừa nhận trong trận đánh Ia Đrăng có 824 lính Mỹ chết và bị thương, trong đó có 304 chết.

Chiến công đặc biệt xuất sắc này được Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh tặng các đơn vị chiến thắng ở Plâyme hai Huân chương Quân công hạng nhất. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương giải thích: quân đội ta không có huân chương nào cao hơn Huân chương Quân công. Để xứng với chiến thắng này, Bộ quyết định tặng hai Huân chương Quân công hạng nhất.

Cùng với Núi Thành, Vạn Tường, chiến thắng Plâyme - Ia Đrăng chứng minh quyết tâm đánh Mỹ của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quân dân ta là hoàn toàn đúng đắn. Việt Nam chẳng những dám đánh Mỹ mà còn biết cách đánh thắng, có khả năng đánh tiêu diệt từng đơn vị quân Mỹ trong điều kiện chúng có ưu thế về lực lượng, trang bị và sức cơ động, để làm chuyển biến cuộc chiến tranh có lợi cho cách mạng. Tướng Mỹ G. Morơ và L.Galoguây phóng viên chiến tranh, đã chiến đấu trong trận Ia Đrăng sau này nhận định rất đúng rằng: “Ia Đrăng - trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam”2.
_________________________________
1. Đồng chí Lê Xuân Phôi được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, năm 1995.
2. Dẫn theo cuốn Đã một thời chúng tôi là những người lính... và trẻ trung của Trung tướng G. Morơ và L. Galoguây do Vương Minh Quang dịch, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1993.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 09:03:55 pm

Giữa lúc Bộ chỉ huy quân Mỹ ở Sài Gòn đang lúng túng tìm cách đối phó với ta ở Ia Đrăng, thì quân, dân ta ở miền Đông Nam Bộ mở cuộc tiến công đánh phủ đầu quân Mỹ ở Đất Cuốc, Bầu Bàng, Dầu Tiếng. Thực hiện chủ trương của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam “đánh tiêu diệt và làm tan rã lớn quân ngụy - nhất là quân chủ lực; tổ chức vòng vây các căn cứ Mỹ, tiêu diệt, tiêu hao quân Mỹ”1, ngày 8- 1 1, Trung đoàn 1, Sư đoàn bộ binh 9 phục kích Lữ đoàn dù 173 Mỹ ở Đất Cuốc, cách Biên Hoà 30 km về phía bắc. Được Đoàn pháo binh 69 chi viện đắc lực, Trung đoàn 1 áp sát địch, tiến công. Lữ đoàn dù 173 nổi danh thiện chiến đã bị bộ đội ta loại khỏi vòng chiến đấu 300 tên. Đây là trận thất bại đầu tiên của quân Mỹ trên đất thành đồng Nam Bộ.

5 giờ 30 phút ngày 12-11-1965, Sư đoàn 9 chủ lực Miền tiến công Lữ đoàn 2, Sư đoàn bộ binh 1 – Anh cả đỏ ở Bầu Bàng. Mở đầu trận đánh, quân ta dùng súng cối, ĐKZ, B40, B41 bắn mạnh vào sở chỉ huy, khu thông tin, thiết giáp để kiềm chế chúng, làm cho bộ binh Mỹ mất chỗ dựa hoả lực. Liền sau đòn phủ đầu bằng hoả lực, cán bộ, chiến sĩ ta dũng mãnh xung phong vào trận nội, đánh gần, diệt từng cụm địch. Suốt trong ba giờ chiến đấu ác liệt, bộ đội ta đã đánh thiệt hại tiểu đoàn bộ binh Anh cả đỏ, một chiến đoàn thiết giáp Mỹ, phá hỏng 39 xe quân sự, sáu khẩu đại bác 105 mm.

Trận Bầu Bàng thể hiện tài nghệ đánh tập kích của bộ đội ta, chứng tỏ lực lượng vũ trang ta có khả năng đánh tiêu diệt từng đơn vị Mỹ. Dư luận Mỹ và phương Tây cho rằng trận Bầu Bàng tỏ rõ “thế tiến công của Việt cộng là một bước ngoặt rõ ràng của họ trong chiến tranh”.

Tám ngày sau trận Bầu Bàng, ngày 20-11 cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 4 (Sư đoàn 9 Miền) phục kích ở Cẩm Xe, diệt 40 xe quân sự và hàng trăm tên Mỹ. Trong trận này xuất hiện tấm gương “Đại đội trưởng khoá đuôi” Tạ Quang Tỷ. Trước đó, trong chiến dịch Bình Giã, anh là “Đại đội trưởng chặn đầu”. Với thành tích xuất sắc này, tại Đại hội liên hoan Anh hùng, chiến sĩ thi đua, dũng sĩ lần thứ hai, Tạ Quang Tỷ dược tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Ngày 5-12-1965, các chiến sĩ Trung đoàn 2, Sư đoàn 9 tiến công vào Lữ đoàn 2 Sư đoàn bộ binh 1 – Anh cả đỏ ở bàu Đa Dội thuộc xã Long Nguyên, huyện Bến Cát. Trận đánh diễn ra suốt ngày dưới tầm phi pháo ác liệt của địch. Bộ đội ta vận dụng cách đánh gần, chia cắt đội hình càn quét của địch ra từng cụm để diệt. Đến 17 giờ, Sư đoàn 9 mới làm chủ trận địa, diệt gọn một đại đội Mỹ, đánh thiệt hại một tiểu đoàn Mỹ khác. Lữ đoàn 2 Mỹ buộc phải rút khỏi Dầu Tiếng.

Bốn ngày sau khi Quân giải phóng miền Đông Nam Bộ tiến công Lữ đoàn 2, Sư đoàn bộ binh 1 – Anh cả đỏ Mỹ ở Bầu Bàng, Trung đoàn 1, chủ lực Quân khu V cũng bắt đầu bao vây cứ điểm Việt An (16-11-1965). Việt An là cứ điểm mạnh trong tuyến phòng ngự của địch ở tỉnh Quảng Tín (nay là Quảng Nam), nằm ở ngã ba đường 16 và tỉnh lộ đi Quế Sơn, cách quận lỵ Hiệp Đức khoảng 12 km về phía đông. Sau 12 ngày vây hãm, địch vẫn không giải toả, ta tiếp tục siết chặt vòng vây cho đến ngày 8-12, Chiến đoàn 5 và hai chi đoàn xe bọc thép quân đội Sài Gòn mới mở cuộc hành quân Liên kết 18 giải vây cho Việt An. Ngày 9-12-1965, quân ngụy bị diệt, Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn buộc phải tung vào trận chiến năm tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ để cứu Việt An. Trong các ngày 9, 10, 12, 15, quân Mỹ liên tục đổ quân xuống khu vực các xã An Lý, Châu Xuân, Cầm La, La Ngà, Chiêm Sơn, Hà Châu, Gia Hội, Cẩm Khê. Các chiến sĩ Trung đoàn 1 Ba Gia ém quân sẵn ở đó, tiến công vào các cánh quân Mỹ và chặn chúng rút theo đường Chiêm Sơn - Hà Châu - Cẩm Khê qua Quán Ruồng để về Tam Kỳ. Các trận chiến đấu diễn ra ác liệt cho đến sáng ngày 18, quân Mỹ dồn cụm vào chợ Cẩm Khê chống đỡ. Tiểu đoàn 90, Tiểu đoàn 70 tiến công vào chợ Cẩm Khê. Tiểu đoàn 60 chặn địch ở hướng bắc nghe súng nổ vận động đến phối hợp. Bị đánh mạnh, lại ở trong thế bị bao vây, máy bay, pháo binh địch ném bom, bắn phá ngay vào đội hình tiến công của quân ta, để yểm hộ cho quân Mỹ rút chạy. Từ trong cảnh hỗn độn của trận ác chiến, bỗng vang lên lời hô của một cán bộ: anh em bám sát lính Mỹ mà đánh để tránh phi pháo.

15 giờ ngày 18-12-1965 trận đánh kết thúc thắng lợi.

Tổng kết trận đánh Việt An, đồng chí Lê Hữu Trữ2, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Ba Gia kiêm Tham mưu trưởng chiến dịch đã khái quát lời của cán bộ ta trong trận đánh thành khẩu hiệu hành động “bám thắt lưng Mỹ mà đánh”. Bộ đội ta lại tìm ra được cách đánh mới.
___________________________________
1. Trích Nghị quyết Thường vụ Trung ương Cục, tháng 8-1965, lưu tại Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.
2. Đồng chí Lê Hữu Trữ được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, năm 1995.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 09:07:23 pm

Các trận đánh phủ đầu quân Mỹ trên đây thể hiện thế chủ động của ta trên chiến trường là vững chắc; tình trạng phát triển không đều về trình độ tác chiến về thế trận chiến tranh nhân dân, về thế chiến lược trước đây giữa ác chiến trường được khắc phục. Bộ đội ta đã trực tiếp đọ sức với đủ các quân, binh chủng Mỹ, từ thuỷ quân lục chiến đến kỵ binh bay, dù, bộ binh Anh cả đỏ, thiết giáp... Mỗi loại binh chủng Mỹ sở trường và khả năng tác chiến có khác nhau, nhưng chúng giống nhau ở một điểm là dựa vào hoả lực mạnh và sức cơ động bằng máy bay, xe bọc thép, khi bị đánh thì tìm cách co cụm, dùng phi pháo đánh chặn, sát thương đối phương. Nhưng bộ đội ta đã dũng cảm và thông minh, hạn chế được những điểm mạnh của quân Mỹ, khoét sâu chỗ yếu của chúng nên đã giành được chiến thắng. Thực tiễn này cho ta các yếu tố để kết luận là quân, dân Việt Nam hoàn toàn có khả năng đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược dù chúng có quân đông, vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại. Trong mọi tình huống, quân và dân ta vẫn giữ ữừng thế chủ động tiến công, buộc quân Mỹ phải đánh theo cách đánh của ta. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta đề ra nhiệm vụ chiến lược cho quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc.

Hoà nhịp với những trận đánh phủ đầu quân Mỹ, từ tháng 8 đến tháng 12-1965, quân và dân ta dồn dập tiến công địch khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, khu VI, khu V, Tây Nguyên, Trị - Thiên. Từ ngày 1-8-1965, lực lượng vũ trang Nam Bộ diệt 16 vị trí địch ở các tỉnh Gò Công, Tân An, Chợ Lớn, đánh bom Sở cảnh sát Mỹ ở Sài Gòn, khách sạn Mêtrôpôn, sân bay Biên Hoà. Ở Khu V quân ta tiến công địch ở Đồng Dương (Quảng Nam), Minh Long (Quảng Ngãi), Tuy Hoà (Phú Yên). Ở Trị - Thiên ta đánh địch đóng ở quận lỵ Ba Lòng, diệt cứ điểm Tân Đệ, A Chùm, buộc chúng phải co về giữ Khe Sanh, Tà Cơn. Ta giải phóng Lao Bảo, Huội San, thọc sâu xuống đồng bằng, đánh địch, mở vùng ở Tây Hoàng, Mỹ Phú, Phong Điền. Thu - Đông 1965, ta giành thêm nhiều địa bàn ở vùng sâu, củng cố vùng giải phóng và thế trận đã bố trí. Sự phát triển không đều giữa các chiến trường về trình độ tác chiến, về lực lượng và thế chiến lược được khắc phục một bước. Quyền chủ động chiến trường của ta được giữ vững. Trái lại, chính quyền và quân đội tay sai - công cụ của Mỹ để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới khủng hoảng nghiêm trọng và suy yếu toàn diện, nhất là ngụy quyền trung ương.

Giai đoạn một kế hoạch chiến lược ba giai đoạn của tướng Oétmolen đã trôi qua. Việc đưa ồ ạt quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ vào miền Nam Việt Nam đã phần nào cứu vãn được sự sụp đổ và tan rã nhanh chóng của chính quyền và quân đội Sài Gòn. Song, quân Mỹ không thể ngăn chặn được sự chi viện của miền Bắc hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam, không tránh được các đòn tiến công như vũ bão của Quân giải phóng và không thể giành được quyền chủ động chiến trường như mục tiêu đề ra trong kế hoạch. Điều đó chứng tỏ rằng dù quân Mỹ vào miền Nam, nhưng chúng không thể đảo ngược được chiều hướng thua của quân đội Sài Gòn, cả Mỹ lẫn ngụy đều bị mắc kẹt trong thế trận chiến tranh nhân dân của ta, chúng luôn bị động về chiến lược, lúng túng về chiến thuật đối phó.

Thực tiễn tình hình quân sự, chính trị trên cả hai miền Nam - Bắc Việt Nam và tình hình quốc tế trong năm 1965 đủ những yếu tố để Đảng ta hoạch định và bổ sung hoàn thiện từng bước đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và chiến lược quân sự để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh. Tiếp theo Hội nghị Trung ương lần thứ 11 tháng 3 - 1965 khẳng định quyết tâm đánh Mỹ, chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc vào thời chiến, tăng cường quốc phòng, chuẩn bị trước một bước về tư tưởng, tổ chức để sẵn sàng bước vào cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ, ngày 27-12-1965, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (khoá III) khai mạc dưới sự chủ trì của Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh. Hội nghị thảo luận, đánh giá toàn diện các mặt tình hình địch, ta và tình hình quốc tế có liên quan, đề ra nhiệm vụ cụ thể cho quân và dân hai miền Nam - Bắc. Hội nghị Trung ương nhận định: “Đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn”1. Quân Mỹ vào miền Nam làm cho “cuộc chiến tranh ngày càng trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch”2. Trên cơ sở những thắng lợi trong năm 1965, nhất là những trận “đánh phủ đầu” quân Mỹ, Hội nghị Trung ương đánh giá “dưới sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Đảng, nhân dân ta đã sáng tạo nên những lực lượng to lớn về mọi mặt và đang đứng vào một thế thuận lợi”3 để đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới. Thực tiễn cho thấy: “Quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng tiêu diệt những đơn vị tinh nhuệ nhất của quân viễn chinh Mỹ, tiêu diệt những đơn vị ngày càng lớn của quân chủ lực ngụy, trong tình hình mới vẫn kiên quyết tiến lên”4.
__________________________________
1 ÷ 4. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), bản sao lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 09:11:25 pm

Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh và lớn nhất thế giới, nên mặc dù liên tiếp bị thất bại, chúng vẫn không từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Âm mưu trước mắt của Mỹ là: “Ra sức mở những cuộc tiến công nhằm tiêu diệt lực lượng ta - nhất là lực lượng vũ trang tập trung của ta, giữ vững và củng cố hoặc chiếm đóng thêm các căn cứ chiến lược quan trọng rồi dựa vào đó đẩy mạnh công tác bình định có trọng điểm, đánh phá vùng giải phóng, khống chế kìm kẹp quần chúng và chiếm lại một số vùng đã mất; tìm mọi biện pháp để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc, bao vây cô lập chiến trường miền Nam, đồng thời tăng cường chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc nước ta”1. Để thực hiện âm mưu đó, Mỹ sử dụng cả hai lực lượng quân Mỹ và quân ngụy. Quân Mỹ sẽ trở thành lực lượng nòng cốt của cuộc chiến tranh xâm lược, vừa làm chỗ dựa về quân sự cho ngụy quân, ngụy quyền, vừa làm lực lượng cơ động chiến lược chiến đấu chủ yếu. Quân đội Sài Gòn được quân Mỹ hỗ trợ vừa làm lực lượng cơ động trên chiến trường trong những điều kiện nhất định, vừa là lực lượng chủ yếu để bình định, kìm kẹp nhân dân, là chỗ dựa về chính trị, quân sự của quân đội Mỹ. Tính chất và nhiệm vụ của quân Mỹ và quân ngụy trên đây là do bản chất cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới quy định. Đó là nguồn gốc làm nảy sinh những mâu thuẫn trong quá trình vạch chiến lược, chính sách, phương pháp tiến hành chiến tranh xâm lược với hành động thực tế của Mỹ và tay sai trên chiến trường, mà Nhà Trắng và Lầu Năm góc Mỹ không thể nào khắc phục được. Quân Mỹ chiến đấu không có lý tưởng, vì phi nghĩa nên bị nhân dân Mỹ, nhân dân thế giới phản đối, lên án. Có thể lúc đầu mới sang chiến trường Việt Nam, người lính Mỹ chưa nhận ra lẽ phải, nhưng khi ra trận tiếp xúc với thực tế họ sẽ nhận ra là Chính phủ Mỹ đã lừa dối họ, tinh thần chiến đấu của họ sẽ sa sút. Đó là điểm yếu chí mạng của Mỹ trong cuộc chiến tranh. Từ sự phân tích bản chất cuộc chiến tranh, nhận rõ chỗ yếu, chỗ mạnh của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương khẳng định: “Đế quốc Mỹ dù có đưa mấy chục vạn quân, về chiến lược chúng cũng buộc phải phân tán lực lượng trên khắp các chiến trường và ngày càng lâm vào thế bị động, sa lầy, nhất định chúng sẽ thất bại, không thể nào cứu vãn được sự sụp đổ của ngụy quân, ngụy quyền”2.

Với lòng tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng, dựa trên những phân tích khoa học về so sánh lực lượng, về thời cơ, Hội nghị Trung ương lần thứ 12 đề ra nhiệm vụ chung cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là: “Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà”3. Sau khi so sánh cân nhắc tính toán kỹ tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, có tính đến nhân tố khách quan là tình hình thế giới tác động đến cuộc chiến tranh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chủ trương kiềm chế và thắng địch trên chiến trường miền Nam là chính, song phải chuẩn bị sẵn sàng thắng địch nếu chúng mở rộng chiến tranh ra cả nước ta. Đây là một chủ trương táo bạo, cách mạng và khoa học. Để thực hiện được chủ trương này, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 đề ra phương châm đấu tranh: “Tiếp tục kiên trì đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công, đồng thời trong hoàn cảnh hiện nay, trên cơ sở tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, chúng ta cần cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam”4. Cụ thể là:

- Tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng quân Mỹ, làm cho Mỹ bị tổn thất nặng không đủ sức cứu vãn sự tan rã của ngụy quân, ngụy quyền, dẫn đến sự thất bại trong nhiệm vụ quân sự và chính trị của chúng.

- Tiêu diệt, làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn tới mức không còn là một lực lượng mà quân Mỹ có thể làm chỗ dựa để tiếp tục chiến tranh. Và khi Mỹ buộc phải chuyển sang giải pháp chính trị, thì thế, lực của chính quyền, của quân đội Sài Gòn đã suy yếu nghiêm trọng không đủ sức duy trì và giữ vững chế độ chính trị của chúng.

Từ đó ta đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ và thực hiện được mục tiêu về độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà.

Trước đây, phương châm chiến lược của ta là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính vì xuất phát từ cơ sở ban đầu ta phải lấy yếu đánh mạnh và đây cũng là sự kế thừa truyền thống đánh giặc, giữ nước của tổ tiên; mặt khác, xuất phát từ tiến trình của cách mạng miền Nam từ lúc khởi sự cho đến khi đạt được những mục tiêu cơ bản đề ra là một quá trình lâu dài. Hơn nữa, Mỹ là một tên đế quốc giàu, mạnh, hiếu chiến, thua keo này chúng bày keo khác, ta phải dự kiến nhiều khả năng phát triển về quy mô, mức độ của cuộc chiến tranh. Cuộc đấu tranh của đồng bào ta trong những năm ấy chứng minh phương châm chiến lược nói trên là đúng. Nay tình hình chuyển biến cuộc chiến tranh ở miền Nam có bước phát triển mới. Cách mạng đã giành được những thắng lợi to lớn, làm thay đổi nhanh chóng lực lượng so sánh có lợi cho ta. Từ khi tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ vào Đà Nẵng đến nay, quân và dân ta ở miền Nam đã thực hiện vượt mức những yêu cầu về diệt địch, phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng. Tình hình đó cho phép ta trên cơ sở đánh lâu dài, tranh thủ thời cơ, nỗ lực phấn đấu giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn. Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng nói: “Khi nêu quyết tâm giành thắng lợi quyết định, chúng ta đặt yêu cầu giành một bước thắng lợi căn bản trong tình hình cụ thể nhất định của chiến tranh. Điều đó rõ ràng có khác với giành thắng lợi hoàn toàn trong bất kỳ tình huống nào”5.
_____________________________________
1 ÷ 4. Tlđd.
5. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.125.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 09:15:08 pm

Vấn đề đặt ra được Trung ương bàn luận rất kỹ là quân Mỹ vào miền Nam trực tiếp tiến hành chiến tranh, ngôn ngữ bất đồng, tình cảm, tâm lý, tập quán cũng khác, nhân dân ta có còn đấu tranh chính trị như trước được không. Hội nghị cho rằng đưa quân viễn chinh vào miền Nam làm cho cuộc chiến tranh có những thay đổi mới về lực lượng và cách đánh, nhưng đế quốc Mỹ vẫn bị ràng buộc trong khuôn khổ chiến tranh thực dân kiểu mới, phải dựa vào bọn tay sai để thực hiện mục tiêu xâm lược, nhưng bọn tay sai lại rất yếu. Phương thức xâm lược và chính sách thực dân mới của đế quốc Mỹ luôn luôn quyện chặt vào nhau và chứa đầy mâu thuẫn. Chiến tranh càng mở rộng và kéo dài, thì mâu thuẫn càng bộc lộ và bị khoét sâu mà Nhà Trắng, Lầu Năm góc Mỹ không thể nào khắc phục được. Đó là:

- Mâu thuẫn giữa mục đích muốn giấu mặt trá hình để áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới nhưng buộc phải tiến hành chiến tranh bằng quân viễn chinh Mỹ, nên chúng nhanh chóng bị lộ mặt.

- Mâu thuẫn giữa tiến hành chiến tranh xâm lược nhưng phải xây dựng cho được chính quyền, quân đội tay sai bản xứ làm chỗ dựa và là công cụ xâm lược của Mỹ nhằm áp đặt cho được chủ nghĩa thực dân kiểu mới.

- Mâu thuẫn khi buộc phải tiến hành chiến tranh để giữ vững và củng cố chính quyền, quân đội tay sai với thực tế càng tiến hành chiến tranh thì chính quyền, quân đội đó càng lục đục, suy yếu, lệ thuộc Mỹ, đồng thời kéo theo sự suy yếu của chính bản thân Mỹ.

- Mâu thuẫn giữa sức mạnh quân sự vốn có, nhưng do phi nghĩa và đặc điểm của thời đại chi phối, lại phải tiến hành chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nên đế quốc Mỹ không thể sử dụng hết sức mạnh quân sự của bản thân chúng trong cuộc chiến tranh cách xa nước Mỹ.

Xâm lược, nhưng sợ lộ mặt, nên đế quốc Mỹ cũng phải mị dân, vì vậy, phương châm đấu tranh của ta là: ra sức đẩy mạnh đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công. Trung ương chỉ rõ trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ vai trò ngày càng quan trọng, nhưng đấu tranh quân sự chỉ thu được kết quả lớn nhất nếu nó được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị và ngoại giao. Hội nghị Trung ương lần thứ 12 nhấn mạnh: “Cần nắm vững phương châm dựa vào sức mình là chính, nhưng đồng thời chúng ta hết sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và viện trợ quốc tế vì đó là một nhân tố quan trọng, góp phần quyết định vào thắng lợi của nhân dân ta”1.

Đối với miền Bắc, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu nhiệm vụ: “Vừa sản xuất, vừa chiến đấu để bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, động viên sức người, sức của tăng cường chi viện cho miền Nam, ra sức giúp đỡ cách mạng Lào, đồng thời chuẩn bị đánh thắng địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước”2.

Để hoàn thành nhiệm vụ hết sức nặng nề mà Hội nghị Trung ương lần thứ 12 đề ra, Đảng phải ra sức tăng cường công tác tư tưởng và tổ chức, nội dung cụ thể là kiện toàn thêm một bước sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng ở địa phương và Trung ương, vì đây là nhân tố quyết định mọi thắng lợi.

Trước thử thách cực kỳ nghiêm trọng đối với vận mệnh sống còn của Tổ quốc, dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi: “Chúng ta đang tiến hành một cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà, một cuộc chiến tranh cách mạng vừa để giải phóng dân tộc, vừa để bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa cống hiến vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”3. Vì vậy, “chúng ta phải có tinh thần chiến đấu cao, dũng cảm phi thường, phải có chí khí anh hùng và quyết tâm dời non lấp biển, đạp bằng bất cứ trở lực nào, đánh bại bất cứ kẻ thù nào”4.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Trung ương Đảng là kết tinh giữa thực tiễn sáng tạo vĩ đại của quần chúng với trí tuệ sáng suốt của toàn Đảng, mà tập trung là Ban Chấp hành Trung ương; là văn kiện lịch sử củng cố lòng tin và chỉ đạo cho quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc vững bước vượt qua gian lao, thử thách để tiến đến thắng lợi cuối cùng trong cuộc đọ sức cam go này.
____________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá III), bản sao lưu tại Viện lịch sử quân sự Việt Nam.
2 ÷ 4. Tlđd.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Tư, 2010, 09:20:19 pm

Nói chuyện với cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết Trung ương lần thứ 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Bây giờ Mỹ có 20 vạn quân ở miền Nam, nó có thể đưa thêm vào hơn nữa đến 30, 40, 50 vạn quân. Ta vẫn thắng, nhất định ta thắng. Ta nói như thế không phải để tuyên truyền, mà căn bản là như thế...”1. Về ý nghĩa và tầm vóc của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nếu chúng ta thắng ở miền Nam tức là chúng ta đã đè được lực lượng xâm lược của Mỹ, đó là ta góp phần vào cách mạng thế giới. Vì vậy, ta quyết chiến, quyết thắng ở miền Nam chẳng những là vì nhiệm vụ của ta, mà còn là nghĩa vụ của ta đối với cách mạng thế giới”2. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Các đồng chí nhất định phải biến quyết tâm của Đảng, của Trung ương thành quyết tâm của mỗi đảng viên, mỗi chiến sĩ, mỗi người dân để thực hiện tốt nghị quyết này”3.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 12 và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về quân sự, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo các chiến trường nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, chủ động bám sát địch, phát huy sức mạnh lực lượng tại chỗ, kết hợp với chủ lực cơ động của bộ, của miền và quân khu, tiến công và phản công tiêu hao, tiêu diệt sinh lực, phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, bẻ gãy các cuộc tiến công tìm diệt của quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc Mỹ, hỗ trợ tích cực cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phá kế hoạch bình định của địch. Tháng 2-1966, Quân uỷ Trung ương xác định chiến trường rừng núi là chiến trường tiêu diệt dịch, trọng điểm là Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ; đồng thời chú trọng đẩy mạnh tác chiến ở chiến trường khu V; đẩy mạnh chiến tranh du kích và đánh vận động nhỏ ở chiến trường khu VIII, Khu IX; làm chuyển biến chiến trường Trị - Thiên thành hướng chiến lược quan trọng để phối hợp và hỗ trợ với các chiến trường khác.

Thực hiện những nhiệm vụ trên đây, điều quan trọng là hậu phương lớn miền Bắc bằng mọi cách phải tăng cường chi viện về người và vật chất, kỹ thuật, làm tăng nhanh thế và lực cho cách mạng miền Nam cũng như từng chiến trường. Quân uỷ Trung ương chỉ đạo cho Đoàn 559: “Phải khẩn cấp mở thêm các trục đường vận chuyển cho các chiến trường miền Nam và Hạ Lào. Bảo đảm lương thực cho các lực lượng hành quân, các đơn vị bảo đảm hành lang. Vận chuyển các loại văn thư, bưu kiện...”4. Phương châm hoạt động là triệt để tận dụng cơ giới kết hợp phương tiện thô sơ.

Năm 1964, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 mở được tuyến đường thuỷ phía tây Trường Sơn song song với tuyến đường bộ. Đường thuỷ từ sông Bạc đến sông Xê Công lắm thác nhiều ghềnh, và những dòng thác lớn hung dữ thuyền bè chở gạo, vũ khí bị lật chìm đến 90%. Đoàn 559 phải phá thác tạo dòng chảy xuôi, rộng ít nhất 15 mét trở lên. Trung đoàn công binh 298 được giao nhiệm vụ phá thác. Đồng chí Hoàng Văn Nghiên được chỉ huy trung đoàn giao cho phụ trách phá thác đi điều nghiên cụ thể và vạch phương án phá thác. Bằng trí thông minh và lòng dũng cảm, đồng chí Nghiên cùng tổ đã vạch được cách phá thác là lặn xuống tầng sâu của thác, gài bộc phá vào thành thác rồi giật kíp nổ. Bằng cách này, tổ Hoàng Văn Nghiên đã phá sạch 45 thác lớn, nhỏ khai thông dòng chảy sông Xê Công, tạo thuận lợi cho vận chuyển đường thuỷ của Đoàn 559. Riêng Hoàng Văn Nghiên đảm nhiệm phá thác lớn nhất, nguy hiểm nhất là thác Căn Xa Thư. Anh điều tra rất kỹ dòng chảy rồi ôm khối thuốc nổ 40 kg lặn xuống thác, nhưng nước chảy xiết làm bật khối thuốc khỏi tay và cuốn trôi cả người cách thác khoảng một trăm mét. Hoàng Văn Nghiên bình tĩnh cố sức vật lộn với dòng nước xoáy lao theo chụp được khối bộc phá ôm chặt vào lòng và lặn xuống áp khối thuốc vào tầng sâu của thác... Thác Căn Xa Thư bị phá đã góp phần quan trọng tạo dòng chảy thông thoáng trên sông Xê Công. Hoàng Văn Nghiên được Chính phủ tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ tranh nhân dân, tháng 1 - 1967.

Vất vả là vậy, nhưng trong năm 1964 Đoàn 559 chỉ chuyển được vào Nam giao cho các chiến trường 1.410 tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm và 517 tấn lương thực cho các binh trạm nuôi bộ đội hành quân, đạt 25% kế hoạch. Bước vào năm 1965, chỉ tiêu trên giao cho Đoàn 559 phải tận dụng mọi khả năng vận chuyển cả hai mùa, tăng khối lượng vật chất tiếp tế cho các chiến trường lên gấp 2,5 lần năm 1964. Để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ, Đoàn 559 được tổ chức xây dựng tương đương cấp quân khu, biên chế 16.800 người. Lực lượng vận tải cơ giới được bổ sung đủ 674 ô tô các loại; lực lượng cao xạ bảo vệ các trọng điểm có 14 đại đội, tăng gấp hai lần so với đầu năm 1965; công binh có hai trung đoàn với 2.959 cán bộ, chiến sĩ, hai đội thanh niên xung phong 7.665 người. Bộ Tổng tham mưu còn ra lệnh cho hai trung đoàn bộ binh đang hành quân vào Tây Nguyên, Nam Bộ dừng lại, tăng cường cho Đoàn 559 mở đường, vận chuyển một thời gian. Đồng thời, với việc tăng cường tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, hệ thống giao thông thuỷ, bộ ở hậu phương lớn hướng vào Nam cũng được củng cố và mở mới hoàn chỉnh cho phù hợp với công tác vận chuyển trong tình hình địch đánh phá ngày càng ác liệt. Lực lượng vận tải quân đội và các đoàn vận tải (B) của Bộ Giao thông thi đua đẩy nhanh tốc độ vận chuyển tạo chân hàng cho Đoàn 559 chuyển tiếp vào Nam. Dù đã rất cố gắng, nhưng đến tháng 4-1965, lực lượng vận tải mới chuyển được đến Tổng kho R ở Hoá Thanh, Hoá Tiến (Quảng Bình) 20 đến 25% kế hoạch. Tổng cục Hậu cần phải tổ chức nhiều đoàn xe ô tô vận chuyển hàng từ Tổng kho Hà Nội đi thẳng vào các chiến trường. Mùa mưa lũ Trường Sơn ập đến, đường chiến lược số 12, núi hai bên sụt lở, lầy lội, mọi con suối đều dồn nước vào các sông Xê Băng Phai, Pha Năng Phan làm cả khu rừng và những mỏm núi thấp ở đây ngập ghìm trong nước, tạo nên “túi nước Seng Phan” gây ách tắc vận chuyển cơ giới. Cán bộ, chiến sĩ và thanh niên xung phong một mặt tăng cường gùi thồ bộ, mặt khác phát huy sáng kiến làm các loại thuyền nan, thuyền vải cốt gỗ liên kết với các phuy xăng thành bè, mảng, chuyển hàng qua các sông suối và túi nước Seng Phan. Song song với vận tải bộ và đưa đón bộ đội vào chiến trường, Đoàn 559 khẩn trương mở đường 20 vượt qua các dãy núi đá vôi, sang phía tây Trường Sơn, nối với đường 128, tránh “túi nước” ở Seng Phan, rút ngắn cung độ vận chuyển. Dù đã cố gắng cao độ, phát huy mọi sáng kiến, mùa mưa 1965-1966 và đầu mùa khô 1966, cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong Đoàn 559 cũng chỉ thực hiện được 57% kế hoạch vận chuyển. Tỷ lệ tổn thất lớn: thương vong 1,2%, đầu xe ô tô bị mất 42%. Điều này chứng tỏ tính chất vô cùng ác liệt của nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Khối lượng vật chất đưa được vào các chiến trường tuy chưa đạt kế hoạch, nhưng nó đã góp phần quan trọng làm tăng thế và lực của cách mạng miền Nam, bảo đảm cho lực lượng vũ trang trụ bám địa bàn, chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc đọ sức với Mỹ mùa khô 1965-1966 một cách chủ động.


*
*    *

Chiến tranh đặc biệt, một hình thức xâm lược giấu mặt trá hình của đế quốc Mỹ ở Việt Nam đã bị phá sản. Đây là một thất bại chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh, dẫn đến tình hình suy sụp của chính quyền và quân đội Sài Gòn. Không cam tâm chịu thất bại, đế quốc Mỹ liền đưa quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ vào Nam Việt Nam tiến hành chiến lược chiến tranh cục bộ, đồng thời leo thang đánh phá miền Bắc Việt Nam bằng không quân, hải quân, nhằm ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền và quân đội Sài Gòn, hòng giành lại quyền chủ động và đẩy lùi lực lượng cách mạng miền Nam... Song, đế quốc Mỹ chuyển từ chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ trong khi cách mạng Việt Nam ở miền Nam đã hình thành xong thế bố trí chiến lược vững chắc. Những luận điểm của Đảng ta trong Nghị quyết Trung ương lần thứ 12 phân tích về so sánh lực lượng, về nhiệm vụ và phương châm đấu tranh trong giai đoạn chiến tranh cục bộ là cơ sở vững chắc để chúng ta hạ quyết tâm và hành động đúng, đưa cuộc kháng chiến tiến lên.
______________________________________
1÷3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1996, t.12, tr.15, tr.15-16, tr.16.
4. Nghị quyết Quân uỷ Trung ương số 54/QUTW, bản sao lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2010, 08:10:08 pm

CHƯƠNG 15
ĐÁNH THẮNG CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC LẦN THỨ NHẤT - MÙA KHÔ 1965-1966
CỦA QUÂN VIỄN CHINH MỸ


I- CUỘC CHIẾN ĐẤU ANH HÙNG VÀ SÁNG TẠO CỦA QUÂN VÀ DÂN TA
TRONG CUỘC ĐỌ SỨC ĐẦU TIÊN


Mùa mưa 1965, quân Mỹ đã bị lực lượng vũ trang giải phóng đánh đòn phủ đầu bị thiệt hại nặng. Mặc dù vậy, Bộ chỉ huy Mỹ cho rằng vì mùa mưa ở xứ nhiệt đới, chằng chịt sông, suối, nước chảy xiết và rừng rậm, quân đội của họ không phát huy được sức mạnh của binh khí kỹ thuật hiện đại và sức cơ động nhanh để tiêu diệt đối phương. Mùa khô đến là điều kiện hết sức thuận lợi trong việc sử dụng hoả lực có phối hợp của không quân, hải quân, pháo binh và xe tăng, mà những thứ vũ khí hiện đại này chỉ quân Mỹ mới có, nên Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn ráo riết chuẩn bị, triển khai lực lượng trên các hướng, sẵn sàng tiến công ồ ạt và bất ngờ trên diện rộng, làm cho ta không kịp trở tay đối phó. Âm mưu của Mỹ trong cuộc phản công lần thứ nhất là “tìm diệt” lực lượng chủ lực của ta, phá các căn cứ du kích, giành lại thế chủ động chiến trường, hỗ trợ cho chương trình bình định có trọng điểm do quân đội Việt Nam Cộng hoà đảm trách. Âm mưu đó được tướng Oétmolen cụ thể hoá thành năm điểm:

- Tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân giải phóng giành lại chủ động trên chiến trường, buộc đối phương phải phân tán, do đó không đủ khả năng đánh lớn.

- Bình định có trọng điểm, giành dân, đánh phá hậu cần dự trữ của ta.

- Ổn định tình hình chính trị, củng cố ngụy quân, ngụy quyền.

- Khai thông các hệ thống giao thông giữa các vùng chúng kiểm soát với nhau.

- Đánh phá miền Bắc, cô lập miền Nam.

Để thực hiện những mục tiêu trên, đầu năm 1966, đế quốc Mỹ đưa thêm vào Nam Việt Nam hai Trung đoàn lính thuỷ đánh bộ số 1 và số 5 cùng Bộ Tư lệnh sư đoàn; Lữ đoàn 1 và 4 của Sư đoàn bộ binh 25; Tập đoàn không quân số 7; Phi đoàn biệt kích 14 và 315 (3-1966); Phi đoàn trinh sát 460 (2-1966), v.v....

Trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, Mỹ sử dụng 72 vạn quân, có 18 vạn quân Mỹ, gồm 14 sư đoàn, 9 lữ đoàn và trung đoàn bộ binh Mỹ, ngụy và các nước phụ thuộc Mỹ, hơn 1.000 khẩu đại bác, 1.342 xe tăng, xe bọc thép, 2.288 máy bay các loại, 541 tàu, xuồng chiến đấu.

Trên chiến trường Đông Nam Bộ, quân Mỹ tập trung Sư đoàn bộ binh 1 (Anh cả đỏ), Lữ đoàn dù 173, Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn bộ binh 25 (Tia chớp nhiệt đới), Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Hoàng gia Ôxtrâylia, một đại đội pháo binh của Niu Dilân và hàng chục vạn quân đội của chính quyền Sài Gòn.

Ở khu V, quân Mỹ cã Sư đoàn 3 và Trung đoàn 7 thuộc Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ, Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn 101 dù Mỹ, Sư đoàn bộ binh 1 Nam Triều Tiên (Sư đoàn Mãnh Hổ), Lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ Rồng xanh Nam Triều Tiên và hai quân đoàn chủ lực Sài Gòn.

Ở Quảng Trị - Thừa Thiên, lúc này chủ yếu là quân đội của chính quyền Sài Gòn; quân Mỹ có khoảng 2.000 tên làm nhiệm vụ xây dựng, củng cố căn cứ Phú Bài, chuẩn bị địa bàn cho các đơn vị lớn của Mỹ sau này.

Với lực lượng đó, Bộ chỉ huy Mỹ dự định cuộc phản công sẽ bắt đầu tuần cuối tháng 12-1965, nhưng bị ta đánh phủ đầu trong mùa mưa, nên đến ngày 8-1-1966, quân Mỹ mới mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, lần lượt đánh ra năm hướng trên hai chiến trường trọng điểm: miền Đông Nam Bộ và khu V.

Hướng thứ nhất, đánh ra tây bắc Sài Gòn, gồm Củ Chi, Bến Cát, Chiến khu Đ, Chiến khu Dương Minh Châu (Chiến khu C) nhằm tiêu diệt Sư đoàn 9 chủ lực Miền, phá căn cứ giải phóng của ta, giữ an ninh cho sào huyệt Mỹ-ngụy ở Sài Gòn.

Hướng thứ hai, đánh xuống phía đông Sài Gòn, từ sông Đồng Nai đến Bà Rịa để bảo vệ đường 15, sông Lòng Tàu và các căn cứ quân sự Biên Hoà, Vũng Tàu, phá các căn cứ du kích ở vùng đông Sài Gòn - Gia Định.

Hướng thứ ba, đánh ra phía nam tỉnh Phú Yên.

Hướng thứ tư, đánh ra vùng bắc tỉnh Bình Định. Đây là hướng trọng điểm của cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất của địch.

Hướng thứ năm, đánh ra vùng nam tỉnh Quảng Ngãi.

Ba hướng phản công ở khu V địch nhằm tìm diệt, đẩy lùi các sư đoàn chủ lực của Quân khu mà trực tiếp là Sư đoàn 3 và Sư đoàn 2 khỏi các tỉnh đồng bằng, bảo vệ các căn cứ Mỹ dọc ven biển Trung Bộ, bảo đảm giao thông thông suốt của quốc lộ 1, tạo bàn đạp để bình định đồng bằng đông dân khu V.

Ngoài năm hướng phản công chính, địch gọi là “chiến dịch năm mũi tên” trên đây, chúng mở nhiều cuộc hành quân càn quét cỡ tiểu đoàn và lữ đoàn trên khắp các tỉnh miền Nam nhằm hỗ trợ cho hướng chính.

Đây là thời điểm thử thách khốc liệt đầu tiên của dân tộc ta trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ xâm lược - một tên đế quốc giàu mạnh và xảo quyệt nhất thời đại.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2010, 08:13:22 pm

Trên chiến trường Nam Bộ, Bộ Chỉ huy Mỹ sử dụng Lữ đoàn 173 mở cuộc hành quân “Kẻ cướp” (Maurauder) đánh vào Bầu Trai, Hậu Nghĩa (8-1-1966), dùng Sư đoàn bộ binh Anh cả đỏ, hai trung đoàn thiết giáp và một tiểu đoàn lính Ôxtrâylia cùng quân ngụy Sài Gòn mở cuộc hành quân “Cái bẫy” (Grimg) đánh vào Củ Chi, Bến Cát (8-1-1966). Đầu tháng 2 trở đi, quân Mỹ dồn dập mở các cuộc hành quân quy mô sư đoàn, hoặc lữ đoàn tăng cường, đánh xuống phía đông Sài Gòn và Chiến khu Đ, đồng thời tiến công lần thứ hai vào Chiến khu Dương Minh Châu. Cùng với các cuộc hành quân tìm diệt của quân Mỹ, sáu sư đoàn chủ lực ngụy và lực lượng bảo an càn quét đánh phá bốn tỉnh xung quanh Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Gò Công, Định Tường, Kiến Tường, Sóc Trăng, Cần Thơ để yểm trợ cho chương trình bình định của chúng.

Trên hướng thứ nhất, Củ Chi là trọng điểm, địch mở cuộc hành quân “Cái bẫy” nhằm diệt cơ quan đầu não Quân khu Sài Gòn - Gia Định và triệt hạ vùng giải phóng Củ Chi. Cách Sài Gòn không đầy 30 km, Củ Chi nằm kẹp giữa hai con đường chiến lược từ Sài Gòn lên biên giới Campuchia và từ Sài Gòn lên Thủ Dầu Một. Nó là một khâu trọng yếu bậc nhất của vành đai chiến tranh nhân dân, siết địch ngày càng chặt trong Sài Gòn. Từ năm 1965, Củ Chi trở thành một trong những mục tiêu trọng điểm địch đánh phá dữ dội nhất Nam Bộ. Địch không ngớt càn quét, bắn pháo, ném bom, rải chất độc hoá học đến mức cực kỳ ác liệt. Bầu trời Củ Chi, ngày đêm không lúc nào ngớt tiếng máy bay. Dưới đất không còn gốc cây, ngọn cỏ nào không mang vết bom đạn và chất độc hoá học. Vậy mà Củ Chi vẫn đứng vững, hơn nữa trong năm 1965, đất Củ Chi đã chôn vùi hai tiểu đoàn và nhiều đại đội chủ lực quân đội Sài Gòn.

Trong cuộc hành quân “Cái bẫy”, địch tập trung 12.000 quân (có 8.000 Mỹ), 200 máy bay, 600 xe quân sự, 100 đại bác đánh vào Củ Chi, hòng dồn lực lượng ta vào vùng Hố Bò để tiêu diệt. Với lực lượng lớn, ưu thế binh lực, hoả lực, lính Mỹ tin chắc sẽ đánh bại Việt cộng.

Hửng sáng ngày 8-1-1966, sau khi không quân, pháo binh Mỹ ném bom bắn phá có tính chất huỷ diệt khu vực, yểm trợ cho hàng trăm máy bay lên thẳng đổ quân xuống vùng Mỹ Hưng ở phía bắc và Nhuận Đức ở phía đông, đồng thời đại quân địch tập trung tại căn cứ xuất phát Trung Hoà ở phía nam, chia thành nhiều mũi thọc vào vùng giải phóng. Đi đến đâu, chúng đều thực hiện đốt sạch, phá sạch, giết sạch. Nhưng mỗi bước tiến của quân Mỹ đều phải trả giá đắt. Du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực tại chỗ đã dựa vào hệ thống địa đạo dài hàng trăm kilômét và các ấp xã chiến đấu1 được xây dựng từ trước, liên tục tiến công quân Mỹ và quân phụ thuộc Mỹ, tiêu hao một bộ phận sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch. Khắp nơi chúng bị bắn tỉa, vấp mìn, rơi hầm chông, bị đánh giáp lá cà. Du kích An Phú ròng rã bảy ngày đêm chiến đấu 40 đợt, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, bắn rơi bảy máy bay và bắn bị thương 12 chiếc. Ở ấp Phú Bình, một tiểu đội du kích chín người, dựa vào hệ thống hầm hào, khi ẩn, khi hiện, đã cầm chân tại chỗ 400 tên địch, 60 xe M113 trong tám ngày liền. Ở Trung Lập Hạ, trên một trận địa nhỏ hẹp không còn một bóng cây, trong 10 giờ liền, du kích đánh lui bảy đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 118 tên. Ở Phước Hiệp, chỉ trong hai đợt đầu đánh địch đổ quân, du kích bắn cháy ba máy bay lên thẳng. Ở Phú Mỹ Hưng, một tiểu đoàn Mỹ có 37 xe tăng và xe bọc thép yểm trợ từ hướng đông nam theo lộ 15 tiến vào đã bị một tiểu đội du kích và bộ đội địa phương với năm súng trường, một cacbin, nhiều lựu đạn và mìn các loại, phục kích ở khu vực ngã ba Cây Gõ. Dựa vào các ụ chiến đấu, địa đạo và địa hình có lợi, để cho địch đến thật gần “lọt vào bãi tử địa”, du kích cơ động linh hoạt đánh phía trước, phía sau, cạnh sườn... loại khỏi vòng chiến đấu 107 tên và sáu xe tăng, xe bọc thép.

Sau 12 ngày đêm liên tục chiến đấu (từ 8 đến 19-1), quân và dân Củ Chi đã đánh 200 trận lớn, nhỏ, diệt và làm bị thương gần một ngàn quân Mỹ, ngụy, bắn rơi 84 máy bay (phần lớn là HU1A). phá huỷ và phá hỏng 77 xe quân sự (có 56 xe bọc thép M113), hai pháo 105mm. Trong cuộc hành quân tìm diệt này, quân Mỹ đã san bằng gần 3.000 ngôi nhà, triệt hạ hàng ngàn hécta vườn cây, ruộng lúa, càn nát nhiều giao thông hào, đánh sập một số cửa địa đạo. Mặc dù vậy, cuộc hành quân “Cái bẫy” của Mỹ không đạt được mục tiêu như chúng đề ra là tiêu diệt cơ quan đầu não và đơn vị chủ lực Quân giải phóng. Ngày 19- 1, địch buộc phải kết thúc và rút các lữ đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn Anh cả đỏ xuống nam Củ Chi để lập căn cứ tại Đồng Dù. Tại đây, quân Mỹ đã san bằng 2.000 ngôi nhà, nhiều vườn cây, trong đó có 350 hecta cây cao su của xã Phước Vĩnh An để làm căn cứ đóng quân cho 4.500 lính Mỹ (gồm Sư đoàn bộ và Lữ đoàn 2, Sư đoàn 25).
___________________________________
1. Ấp xã chiến đấu có rào tre và tường bao quanh, có hàng vạn hầm chông, hố đinh, bãi mìn, có hầm trú ẩn, hầm tránh pháo, bom. Địa đạo Củ Chi có tổng chiều dài 350km.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2010, 08:15:08 pm

Đêm 20-1-1966, Tiểu đoàn Quyết Thắng của Quân khu Sài Gòn bám sát địch rút lui sau trận càn “Cái bẫy”; tổ chức tập kích một tiểu đoàn Mỹ đóng dã ngoại tại lô cao su số 6 Gò Nổi. Lực lượng của ta chia làm ba mũi, bí mật tiếp cận địch. Sau loạt đạn khai hoả của B40, B41, DKZ và súng cối, bộ binh xung phong, đánh tràn vào chỗ địch đang ngủ. Tiểu đoàn Mỹ bị diệt nhiều tên và bị đánh thiệt hại. Đây là tiểu đoàn Mỹ bị đánh mất sức chiến đấu đầu tiên trên chiến trường ngoại thành Sài Gòn.

Ngày 7-2-1966, tại mảnh đất Củ Chi còn nóng bỏng khí thế chiến đấu, Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn mở Đại hội dũng sĩ diệt Mỹ. Đại hội tuyên dương và tặng danh hiệu “dũng sĩ diệt Mỹ” cho 209 cá nhân đã diệt được nhiều Mỹ. Trần Thị Gừng, Võ Thị Mô là những nữ dũng sĩ diệt Mỹ đầu tiên của Củ Chi. Nguyễn Văn Nì được xếp vào hàng dũng sĩ cấp ưu tú1. Đại hội rút ra 10 bài học kinh nghiệm về đánh Mỹ và thắng Mỹ:

1. Ai ai cũng đánh được Mỹ.

2. Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ.

3. Nhiều cũng đánh, ít cũng đánh, một người, một tổ đều đánh được.

4. Ở đâu cũng đánh được Mỹ. Đánh ở rừng, ở xóm, ở ấp chiến lược, ở đồng lầy. Chỉ cần tích cực bám địch, tìm địch mà đánh là được.

5. Ngày cũng đánh, đêm cũng đánh được Mỹ, vì cả ngày, cả đêm Mỹ đều có sơ hở, nhược điểm.

6. Địch phản công là cơ hội tốt để diệt chúng.

7. Đánh ở phía trước, đánh trong hậu cứ địch. Đánh đều khắp, làm cho địch bị động, bối rối càng dễ đánh hơn.

8. Đánh cả trong xã, ấp chiến đấu và ngoài xã, ấp chiến đấu, chỉ cần quyết tâm tìm Mỹ mà đánh, tìm Mỹ mà diệt.

9. Có khả năng thắng tất cả mọi binh chủng của Mỹ như bộ binh, xe tăng, máy bay, biệt kích.

10. Đánh bằng vũ trang, bằng chính trị và cả bằng binh vận.

Mười bài học của quân, dân Củ Chi chẳng những có tác dụng động viên, cổ vũ lực lượng vũ trang và nhân dân Nam Bộ chiến đấu mà còn là những kinh nghiệm đánh Mỹ thiết thực giúp cho miền Nam nâng cao hiệu suất chiến đấu. Củ Chi được tặng danh hiệu Đất thép thành đồng.
___________________________________
1. Dũng sĩ diệt Mỹ các cấp do Quân uỷ và Bộ Chỉ huy Miền đề xướng. Cục Chính trị B2 bổ sung cụ thể và quy định trên toàn miền Nam:
    - Cấp 3: diệt được 3 tên Mỹ, hoặc làm chết, bị thương 5 tên;
    - Cấp 2: diệt được 6 tên, hoặc làm chết, bị thương 9 tên;
    - Cấp 1: diệt được 9 tên, hoặc làm chết, bị thương 14 tên;
    - Cấp ưu tú: diệt 15 tên Mỹ, hoặc làm chết, bị thương 18 tên.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2010, 08:18:28 pm

Ngày 9-2-1966, Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định họp bàn và ra chỉ thị lập vành đai diệt Mỹ trên vùng phía nam Củ Chi1. Phong trào thi đua giành danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ đã diễn ra sôi nổi trong các lực lượng vũ trang và nhân dân trong quân khu, đặc biệt là ở Củ Chi.

Tháng 2-1966, Quân uỷ Trung ương họp thảo luận về tình hình miền Nam và ra nghị quyết về quân sự. Quân uỷ Trung ương đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh hoạt động tác chiến bao gồm tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực và hoạt động của dân quân du kích và tự vệ, nhằm tiêu diệt, làm tan rã một bộ phận lớn quân Mỹ và quân ngụy, cố gắng tiêu diệt một số trung đoàn, tạo điều kiện tiêu diệt, làm tan rã một số sư đoàn ngụy, và một số tiểu đoàn Mỹ2. Trên cơ sở đó mà đập tan âm mưu càn quét, bình định, âm mưu củng cố ngụy quân, ngụy quyền của địch, xiết chặt vòng vây, đánh phá mạnh cơ sở hậu phương địch và đường giao thông, phối hợp đấu tranh chính trị với công tác binh vận, địch vận, củng cố và mở rộng thế làm chủ của ta ở vùng rừng núi nông thôn đồng bằng, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng. Kiên quyết bảo vệ đường hành lang chiến lược Bắc Nam.

Về chỉ đạo, Quân uỷ Trung ương xác định lấy chiến trường rừng núi làm chiến trường tiêu diệt địch, trọng điểm là Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, chú trọng đẩy mạnh tác chiến ở chiến trường khu V; đẩy mạnh chiến tranh du kích và đánh vận động quy mô nhỏ ở chiến trường khu VIII khu IX, đặc biệt phải biến chiến trường Trị - Thiên thành một hướng chiến lược quan trọng để phối hợp đắc lực với các chiến trường khác và bảo vệ tuyến vận chuyển cho miền Nam. Từ thực tiễn chỉ đạo cuộc đấu tranh ở miền Nam trong mấy năm, nhất là từ khi quân Mỹ vào, ta đánh chúng những trận phủ đầu, Quân uỷ Trung ương tổng kết rút kinh nghiệm và đề ra sáu phương thức tác chiến chiến lược để chỉ đạo các chiến trường hành động:

1. Đẩy mạnh tác chiến của bộ đội tập trung, mở những chiến dịch vừa và lớn, tiến tới đánh những trận có tác dụng chiến lược nhằm tranh thủ ưu thế quân sự trên một số hướng quan trọng, tiêu diệt gọn tiểu đoàn Mỹ, tiêu diệt gọn chiến đoàn ngụy. Những chiến dịch có thể diễn ra dưới hình thức tiến công hoặc chủ động phản kích địch.

2. Đẩy mạnh chiến tranh du kích đến trình độ cao, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ sinh lực địch, tiêu hao và phân tán địch, đập tan các cuộc càn quét, đánh bại âm mưu bình định, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, uy hiếp các đô thị, các căn cứ quan trọng của địch.

3. Đánh phá các căn cứ hậu cần, kho tàng, sân bay, hải cảng, cơ quan đầu não của địch.

4. Triệt phá các đường giao thông thuỷ, bộ quan trọng của địch, tạo thế chia cắt, bao vây địch, bắt chúng phải đì vào phòng ngự trên từng khu vực, từng chiến trường, từng thành phố, làm giảm khả năng chi viện lẫn nhau của chúng.

5. Đẩy mạnh hoạt động ở các đô thị, từ hình thức tác chiến nhỏ kết hợp với đấu tranh chính trị đến tác chiến lớn kết hợp với tiến công và khởi nghĩa.

6. Tác chiến kết hợp với đấu tranh chính trị. Triển khai công tác binh vận, ngụy vận (nhất là ngụy vận) trên quy mô lớn có tính chất chiến lược, tạo điều kiện làm tan rã, ly khai, gây binh biến trong hàng ngũ địch.

Khi cuộc chiến đấu đang diễn ra quyết liệt, sự chỉ đạo kịp thời của Quân uỷ Trung ương đã giúp cho các cấp uỷ đảng ở miền Nam và chỉ huy các đơn vị nắm chắc được ý đồ của Trung ương và vận dụng các phương thức tác chiến chiến lược vào điều kiện cụ thể một cách sáng tạo, nâng cao được hiệu suất chiến đấu trên các mặt trận.

Lúc này, ở hướng bắc và đông Sài Gòn, mũi phản công thứ hai của địch đang bị quân dân các tỉnh Thủ Dầu Một, Long Khánh, Bình Tuy, Bà Rịa phối hợp với bộ đội chủ lực liên tục chặn đánh quyết liệt.
___________________________________
1. Vành đai là một trận địa nhiều tuyến, nhiều ổ, cụm chiến đấu, lỗ bắn tỉa, ấp xã chiến đấu liên hoàn, vừa là trận địa vây hãm, ngăn chặn địch nống ra, lại vừa là bàn đạp tiến công đột nhập căn cứ địch. Cấu trúc trận địa linh hoạt theo địa hình cụ thể từng khu vực:
    - Trận địa xã Nhuận Đức gồm ba tuyến. Tuyến một chỉ cách căn cứ Đồng Dù con suối Bến Mương, kéo và; từ Bàu Chứa tới Bàu Cạp, dài 2km. Phía trước tuyến là một bãi mìn và chông. Tuyến hai và ba ở phía sau, nối với tuyến một bằng giao thông hào lộ thiên và ngầm. Trên tuyến hai và ba, ngoài các ụ chiến đấu chống bộ binh như ở tuyến một, còn có các ụ bắn máy bay thấp.
    - Đoạn vành đai xã Trung Lập có đến năm tuyến kéo dài từ ấp Bầu Tre đến Trảng Lắm. Mỗi tuyến cách nhau 50 đến 70m. Tuyến dài nhất 5km, tuyến ngắn nhất 3km. Mỗi tuyến có một hào giao thông địa đạo, nhiều ổ, ụ chiến đấu. Tuyến nằm ở sau cùng được cấu trúc vững chắc, vừa có ổ chiến đấu, vừa có hầm trú ẩn, hầm cấp cứu, hầm làm việc.
    - Đoạn vành đai xã Phú Hoà Đông lại hình thành từ “thế trận thiên nhiên” của khu vực những hầm đá, gò đống, cây tầm vông. Căn cứ “hầm đá mội Nước Nhĩ” là một hầm đá thiên nhiên, hình cánh cung khá rộng, sâu 2 đến 3m, được du kích cải tạo thành một hệ thống ổ chiến đấu và hầm bí mật. Căn cứ “xóm bà Nhiễm” xây dựng tại ấp Phú An, trên khu đất cây tầm vông rộng trên 40 ha. Một chuỗi ổ chiến đấu được bố trí kín đáo giữa những bụi cây, ăn thông ra hệ thống địa đạo chính liên xã. Hai căn cứ trên là “bãi tử địa” được thiết lập án ngữ từ đường 15 vào, Đồng Dù tới.
2. Chỉ tiêu cụ thể: diệt trên dưới 20 vạn quân ngụy trong đó cố gắng tiêu diệt 170 tiểu đoàn chủ lực, cố gắng diệt một số trung đoàn, tiến lên diệt và làm tan rã một đến hai sư đoàn. Đối với quân Mỹ, cố gắng diệt từ ba đến bốn vạn tên, trong đó diệt 10 đơn vị cấp tiểu đoàn.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2010, 08:21:32 pm

Từ tháng 2 đến tháng 3-1966, Trung đoàn 5, thuộc Sư đoàn 5 Quân giải phóng và bộ đội địa phương liên tiếp đánh địch trên đường số 15 Bà Rịa - Vũng Tàu, gây thiệt hại nặng cho Lữ đoàn dù 173, biến con đường này thành nơi không an toàn của địch. Ngày 22-2, Trung đoàn 4 (Sư đoàn 5) tiến công tiêu diệt một tiểu đoàn chủ lực ngụy tại Võ Xu (Bình Tuy). Trận đánh đã có tác dụng hỗ trợ cho nhân dân Bình Tuy phá kế hoạch bình định của địch. Trước sức tiến công của ta, Lữ đoàn dù 173 Mỹ không thực hiện được ý đồ giải toả đường 15, sông Lòng Tàu, Bộ chỉ huy Mỹ liền sử dụng Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn bộ binh Anh cả đỏ, hai chi đoàn thiết giáp, một tiểu đoàn quân Ôxtrâylia mở cuộc hành quân Đá lăn (Rolling Stone) đánh ra Dầu Tiếng - Tân Bình (bắc Sài Gòn) nhằm mở rộng đường số 7, chia cắt Chiến khu Đ, bình định khu vực Nhà Đỏ - Bông Trang - Bình Mỹ, giải toả áp lực của ta ở phía bắc Sài Gòn. Ngày 22-2, địch bắt đầu đổ quân xuống khu vực Bình Cơ, Bà Đá, Ván Hương, đánh vào Chiến khu Đ. Theo dõi sát hành động của địch, Bộ Chỉ huy Sư đoàn 9 Quân giải phóng sử dụng lực lượng tập trung, tiêu diệt lực lượng chủ yếu của địch đóng tại Nhà Đỏ - Bông Trang1. Theo phương án tác chiến đã định, các đơn vị của sư đoàn bí mật áp sát các cụm quân địch. Lực lượng pháo cối của sư đoàn kiềm chế các trận địa pháo địch và chi viện cho bộ binh tiến công. 1 giờ 20 phút ngày 24-2, súng cối và ĐKZ75 bắn dồn dập vào các cụm quân Mỹ. Đợt tập kích hoả lực vừa dứt, các chiến sĩ bộ binh từ ba hướng tiến công vào bên trong. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt kéo dài đến 6 giờ 30 phút. Quân ta hoàn toàn làm chủ trận địa, tiêu diệt và đánh thiệt hại hai tiểu đoàn bộ binh, hai chi đoàn xe bọc thép, sở chỉ huy hành quân Lữ đoàn 1 Mỹ. Đây là trận đánh xuất sắc, đạt hiệu suất cao nhất trong mùa khô 1965-1966 ở miền Đông Nam Bộ. Tiếp đó, ngày 5-3, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) đánh thiệt hại một tiểu đoàn Mỹ ở dốc Bà Nghĩa trên đường 16 (Thủ Dầu Một). Đến đây, cuộc hành quân Đá lăn của Lữ đoàn 1 Mỹ bị đánh bại hoàn toàn.

Ngày 1-4-1966, Trung đoàn 3 Quân giải phóng tiến công Lữ đoàn dù 173 Mỹ ở rừng Lá - Bắc Bình Giã, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn. Lữ đoàn dù 173 - lực lượng chủ yếu của địch phản công ở hướng đông, buộc phải chuyển hướng hành quân tìm diệt sang bắc Long An.

Long An là chiến trường rất quan trọng, nơi uy hiếp trực tiếp Sài Gòn từ hướng tây bắc xuống tây nam. Nhằm giải toả áp lực trên, đồng thời ngăn chặn hành lang kháng chiến từ miền Đông xuống miền Trung Nam Bộ, trước khi đánh vào Củ Chi một tuần lễ, ngày 1-1-1966, địch đã mở cuộc hành quân “Kẻ cướp” (Maurauder) đánh vào Hậu Nghĩa, Long An. Chỉ trong bảy ngày đầu năm 1966, quân Mỹ xoá trắng một dải đất dài 30 km trên bờ sông Vàm Cỏ Đông, để dồn dân vào các trại định cư. Nhưng ngay từ đầu khi địch mở cuộc hành quân, các chiến sĩ Tiểu đoàn 1 Long An, Tiểu đoàn 260 Quân khu VIII và du kích đánh tiêu hao, diệt hàng trăm tên, bắn rơi 17 trực thăng, phá hỏng 5 xe M113.

Tiếp đến, trong tháng 4 và 5-1966, Lữ đoàn 1, Lữ đoàn 3, Tiểu đoàn cơ giới của Sư đoàn 25 Tia chớp nhiệt đới Mỹ, lần lượt được điều đến chiến trường bắc Long An, cùng Lữ đoàn dù 173 càn quét chà xát từ Bàu Trai - Đức Lập (Hậu Nghĩa) sang Bến Lức, Vườn Thơm - Bà Vụ, tiến đánh Đức Hoà, Đức Huệ từng đợt năm, sáu ngày cho đến lúc kết thúc cuộc phản công mùa khô thứ nhất (30-5-1966). Ở đây, hàng ngàn tên địch đã bị thương vong. Đặc biệt, lần đầu tiên trên chiến trường khu VIII, tại Bàu Sen ta diệt một đại đội Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173. Ý đồ của địch chặt đứt hành lang kháng chiến từ miền Đông xuống Đồng Tháp Mười không thực hiện được.

Sau những thắng lợi lớn của ta ở Củ Chi, Nhà Đỏ - Bông Trang, dốc Bà Nghĩa, Võ Xu, Bộ Chỉ huy Miền nhận định: địch sẽ phản ứng mạnh hơn, cố giành lại quyền chủ động chiến trường để củng cố tinh thần cho quân Mỹ cũng như quân ngụy. Lực lượng ta còn sung sức và đã có kinh nghiệm. Bộ Chỉ huy Miền quyết định điều chỉnh, bố trí lực lượng trên các hướng và lệnh cho các đơn vị, các cơ quan khẩn trương xây dựng trận địa, hầm hào chiến đấu và phòng tránh, sẵn sàng đánh bại địch tiến công.

Đúng như nhận định của Bộ Chỉ huy Miền, từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 5-1966, quân Mỹ mở sáu cuộc hành quân cấp lữ đoàn, sư đoàn tăng cường đánh vào vùng giải phóng Đông Nam Bộ.

Tại Chiến khu Đ, lực lượng của ta được huy động gồm Sư đoàn 9, chủ lực tại chỗ, du kích cơ quan quân khu và Tiểu đoàn Phú Lợi tỉnh Thủ Dầu Một đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Sở chỉ huy tiền phương Quân khu miền Đông do đồng chí Hoàng Cầm làm chỉ huy trưởng, Lê Văn Tưởng làm chính uỷ.

Cán bộ, nhân viên các cơ quan đều được luyện tập và biên chế thành từng tiểu đội, trung đội, gấp rút xây dựng công sự trận địa chuẩn bị chiến đấu.
___________________________________
1. Nhà Đỏ - Bông Trang là hai đồn điền cao su lớn thuộc tỉnh Tây Ninh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2010, 08:23:23 pm

Từ ngày 7-3 đến ngày 24-3-1966, hai lữ đoàn Mỹ và một tiểu đoàn quân Ôxtrâylia mở cuộc hành quân Thành phố bạc vào vùng trung tâm Chiến khu Đ, nhằm diệt cơ quan đầu não miền Đông.

Do được chuẩn bị từ trước, các lực lượng vũ trang miền Đông đã đánh địch ngay từ lúc quân đổ bộ chạm đất, diệt 60 lính Mỹ. Ngày 16-3, ta tổ chức tập kích vào nơi địch đang cụm lại tại khu vực Bầu Sắn, loại khỏi vòng chiến đấu ba đại đội Mỹ, bắn rơi năm máy bay lên thẳng, thu nhiều chiến lợi phẩm. Quân Mỹ phải chấm dứt cuộc hành quân trước thời gian, Chiến khu Đ được bảo vệ an toàn.

Trong lúc cuộc hành quân Thành phố bạc của Mỹ sắp kết thúc, lực lượng binh vận tỉnh Thủ Dầu Một đã lập một chiến công xuất sắc. Theo đúng kế hoạch hiệp đồng, 19 giờ ngày 23-3-1966, lực lượng bên ngoài gồm 45 cán bộ, chiến sĩ B16 cùng bộ phận đặc công tỉnh và đặc công Sư đoàn 9, chia làm bốn mũi đột nhập căn cứ Trung đoàn thiết giáp ngụy ở Gò Đậu (Thủ Dầu Một), phối hợp với lực lượng nội ứng trong trung đoàn được xây dựng từ trước, đánh chiếm các xe tăng, xe thiết giáp của địch. Sau 30 phút chiến đấu, căn cứ Trung đoàn 1 thiết giáp bị diệt. Ta phá hỏng 22 xe M.41, xe M.113 và 20 xe quân sự, hơn trăm tên địch bị diệt.

Đầu tháng 5, Mỹ - ngụy mở cuộc hành quân Bơminhhem (Birminghom) đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu, với lực lượng hai lữ đoàn thuộc Sư đoàn 1 Anh cả đỏ và Lữ đoàn dù 173. Phạm vi càn quét tương đối rộng từ Tàpang, Lò Gò, Bàu Cỏ, Sóc Ky đến suối Ông Hùng, Bến Củi.

Đi đến đâu, địch cũng không gặp chủ lực ta, nhưng đột nhiên và bất ngờ chúng bị bộ đội chủ lực tại chỗ, du kích cơ quan1 đánh chặn gây cho chúng nhiều thương vong. Nắm vững thời cơ địch phải đối phó với lực lượng tại chỗ của ta. Sư đoàn 9 chủ lực Miền tiến công vào cụm quân của Sư đoàn 1 Mỹ ở Bầu Sắn (Tây Ninh), đánh thiệt hại một chiến đoàn của Mỹ, bẻ gãy cuộc hành quân của địch vào Chiến khu Dương Minh Châu.

Phối hợp với các đơn vị chủ lực của ta đang đánh những trận tiêu diệt có ý nghĩa quyết định ở hướng chính, đêm 30-1, Tiểu đoàn Phú Lợi tỉnh Thủ Dầu Một pháo kích vào sân bay. Phú Lợi và căn cứ Sư đoàn 1 Anh cả đỏ diệt hàng trăm tên Mỹ, phá huỷ 15 máy bay lên thẳng. Được cơ sở nội tuyến cung cấp tình hình địch và sơ đồ sân bay, ngày 12-3, lực lượng vũ trang Vũng Tàu đánh vào trung tâm huấn luyện Chí Linh và pháo kích sân bay Vũng Tàu, căn cứ Tiểu đoàn 6 dù, phá hỏng một số máy bay địch. Ngày 1-4, lực lượng biệt động Sài Gòn do Nguyễn Văn Tăng chỉ huy, tiến công khách sạn Victoria giành cho sĩ quan độc thân (thuộc lực lượng không quân), làm sập một tầng khách sạn, giết và làm bị thương hàng chục tên Mỹ. Ngày 14-2-1966, bộ đội pháo binh Miền pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, phá hỏng 67 máy bay...

Lực lượng vũ trang ở miền Tây Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động tác chiến, chống địch hành quân càn quét, đồng thời phát động phong trào bao vây đánh lấn, bức rút đồn bốt, mở mảng, giải phóng vùng.

Tháng 1- 1966, Tiểu đoàn 309 tiến công địch ở tuyến sông Trẹm diệt đồn Vàm Xáng và căn cứ Tân Bằng; phối hợp với Tiểu đoàn 306 đánh địch chi viện, diệt 300 tên, bắn chìm năm tàu, giải phóng tuyến sông Trẹm, Biển Bạch, mở thông U Minh Thượng xuống U Minh Hạ và qua kênh Xáng Chắc Băng.

Ngày 26-1-1966, Tiểu đoàn 303 cùng Tiểu đoàn 207 rút quân về đóng tại Kênh Xuôi, xã Ngọc Chúc (Giồng Riềng). Phát hiện lực lượng chủ lực của ta, địch huy động Trung đoàn 31 thuộc Sư đoàn 21 ngụy, hai chi đoàn xe M113 đánh thẳng vào đội hình Tiểu đoàn 303. Sau một ngày chiến đấu quyết liệt quân ta đẩy lùi hàng chục đợt xung phong và bẻ gãy nhiều mũi đột phá của địch có xe M113 yểm trợ. Máy bay địch trút xuống hàng trăm tấn bom, đạn nhưng vẫn không đạt được mục đích tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta. Trái lại, quân địch còn bị thiệt hại nặng. Đây là trận thắng điển hình về bám trụ chống càn trên địa hình đồng bằng trống trải của bộ đội ta.

Ngày 19-2, pháo binh Quân khu IX dùng súng cối bắn vào sân bay Trà Nóc, phá hỏng 65 máy bay. Ngày 30-3, đội biệt động Cần Thơ, phối hợp với pháo binh quân khu tập kích căn cứ Cửu Long, diệt nhiều địch.

Tháng 3-1966, Đại đội 1 của Tiểu đoàn 2 tỉnh Sóc Trăng đánh địch càn quét tại ấp Vàng Bạc, xã Tuân Tức, huyện Thạnh Trị, diệt và làm bị thương gần 50 tên bảo an.
___________________________________
1. Du kích cơ quan: Cán bộ, nhân viên ở các cơ quan quân, dân, chính, đảng biên chế thành từng tiểu đội, trung đội du kích.
    - Chủ lực tại chỗ: những đơn vị chủ lực Miền được phân công cơ động tác chiến trên một địa bàn nhất định để phát triển và giúp đỡ xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, đồng thời hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của quần chúng ở đó.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2010, 08:24:58 pm

Trong lúc cuộc chiến đấu của quân, dân Nam Bộ đang diễn ra ác liệt, các lực lượng vũ trang và nhân dân khu V đang hoàn tất mọi công việc chuẩn bị và ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Bộ Tư lệnh Quân khu V chỉ thị cho các đơn vị: “Nơi nào địch ra đánh trước thì tích cực phản công địch, nơi nào địch chưa đánh ra thì tiếp tục chuẩn bị và chủ động tiến công theo kế hoạch”.

Các Sư đoàn 2, Sư đoàn 3 và chủ lực của Phân khu Nam khẩn trương chuẩn bị chiến trường, tập huấn cán bộ theo phương án chiến đấu. Sư đoàn 1 của Mặt trận Tây Nguyên từng bước cơ động lực lượng vào Đắc Lắc. Đội hình bố trí các đơn vị chủ lực trong mùa khô này trong trường hợp nào ta cũng có lực lượng đánh địch ở bên sườn và đánh chính diện.

Ngày 1-1-1966, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu V tổ chức Đại đội liên hoan dũng sĩ diệt Mỹ toàn quân khu lần thứ nhất. Đại hội đã phát động phong trào thi đua “bắt sống giặc Mỹ” và trao dây trói tù binh Mỹ cho đại diện của Sư đoàn 3.

Quân địch ở khu V, ngoài lực lượng đã có trước, khi bắt đầu cuộc phản công, chúng còn đưa thêm ra chiến trường này hai chiến đoàn dù và một chiến đoàn lính thuỷ đánh bộ thuộc lực lượng dự bị chiến lược của quân đội Việt Nam Cộng hoà1. Từ ngày 19-1-1966, quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ cùng lính ngụy Sài Gòn phản công ồ ạt trên cả ba hướng ở Khu V (nam Phú Yên, bắc Bình Định, nam Quảng Ngãi).

Hướng nam Phú Yên, từ ngày 1 đến 15-1-1966, tám tiểu đoàn Mỹ, ngụy, Nam Triều Tiên đánh phá các xã bắc sông Đà Rằng và ven biển huyện Tuy Hoà nhằm chuẩn bị bàn đạp tiến công vào các căn cứ của ta.

Sáng ngày 19-1, quân địch bắt đầu mở cuộc hành quân Vanbuahem. Lữ đoàn Rồng xanh lính thuỷ đánh bộ Nam Triều Tiên hình thành nhiều mũi đánh vào các xã Hoà Tân, Hoà Bình, Hoà Mỹ, Hoà Đồng, Hoà Thịnh. Trung đoàn 47, Sư đoàn 23 ngụy theo đường số 5 và số 7 càn vào các xã Hoà Thành, Hoà Bình, Hoà Thắng, Hoà Trị dọc theo nam và bắc sông Đà Rằng. Lữ đoàn dù 101 dùng trực thăng vận đổ quân xuống các điểm cao khống chế trên khu vực giáp ranh, bịt kín các đường rút lên căn cứ của ta. Như vậy, quân địch đã tập trung một lực lượng lớn vào trong một khu vực hẹp ở hai bên lưu vực sông Đà Rằng, chủ yếu là vào vùng đồng bằng nằm kẹp giữa hữu ngạn sông Đà Rằng và đèo Cả.

Tại đây lính Nam Triều Tiên lùng vào thôn xóm, đốt phá nhà cửa, tàn sát nhân dân. Ngày 9-2-1966, chúng bắn chết 300 người ở xã Hoà Mỹ. Ngày 19-2 chúng giết 117 đồng bào ở xã Hoà Phong... Chỉ tính trong hai tháng (1 và 2-1966), lính Lữ đoàn Rồng xanh Nam Triều Tiên đã thảm sát 1.583 đồng bào ở huyện Tuy Hoà 1. Máy bay của Mỹ liên tục dội bom tàn phá huỷ diệt hoàn toàn 27 buôn, làm chết và bị thương nhiều đồng bào dân tộc, thiêu huỷ phần lớn tài sản, súc vật, hoa màu. Chúng còn rải chất độc hoá học phá huỷ hàng ngàn hécta lúa và hàng vạn cây dừa.

Trước thủ đoạn tàn sát man rợ của địch, một số đồng bào buộc phải chạy lên núi, số đông bị lùa vào vùng địch kiểm soát. Nhưng các chi bộ đảng vẫn bám chặt cơ sở, nhiều đảng viên được phân công theo dân vào các khu dồn để lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Du kích, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực kiên cường bám trụ, kiên quyết chặn đánh các cuộc lùng sục của địch. Đêm 20-1, ta tập kích diệt gọn một đại đội lính Nam Triều Tiên ở Thạnh Phú (Hoà Mỹ). Ngày 26-1, tổ du kích thôn Phú Phong (Hoà Đồng) đã chặn đánh và bẻ gãy năm đợt xung phong của một tiểu đoàn lính Rồng xanh Nam Triều Tiên. Ngày 30-1, Trung đoàn 10 (thiếu) đánh bại chín đợt tiến công của địch vào thôn Phú Thọ (Hoà Đồng), diệt 130 tên. Ngay đêm đó, trung đoàn lại tập kích diệt gọn một đại đội, đánh tan hai đại đội khác ở Thanh Phú và Phú Phong. Ngày 3 và 4-2, ta chặn đánh và diệt thêm 200 địch ở núi Lạc và Ngọc Lâm. Ngày 6-2, ba tiểu đoàn quân Mỹ đánh vào xã Hoà Thịnh bị một phân đội nhỏ của ta bố trí ở thôn Mỹ Cảnh đánh bại liên tiếp 12 đợt tiến công của địch, diệt 170 tên. Trung đội trưởng Đậu Trọng Lâm vừa chỉ huy trung đội diệt địch, vừa chiến đấu diệt 42 tên. Ngày 7 và 9-2, địch vẫn đánh vào Hoà Thịnh, chiến sĩ ta tiếp tục chiến đấu, diệt 230 lính Mỹ và 60 lính Nam Triều Tiên trong các trận đánh ở Mỹ Cảnh, Bến Đá và Suối Phẫu.

Trong hoàn cảnh thiếu thốn, nhưng nhân dân vẫn một lòng gắn bó với cách mạng, nhân dân ở Tuy Hoà 2 vẫn đóng góp 100 tấn lúa đảm phụ. Nhân dân Tuy An, Sông Cầu đi dân công phục vụ chiến đấu. Tháng 2-1966, hàng ngàn người ở xã Hoà Hiệp kéo lên quận lỵ Phú Lâm đấu tranh vạch tội bọn lính Nam Triều Tiên tàn sát nhân dân. Bọn ngụy quyền phải đứng ra nhận tội.

Suốt trong ba tháng, quân và dân Phú Yên đã nêu cao tinh thần dũng cảm chiến đấu, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, kết hợp đánh nhỏ và đánh vừa, bẻ gãy các cuộc tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu gần 3.000 tên địch, bằng một phần ba lực lượng địch tham gia càn quét. Cuối tháng 4-1966, chúng buộc phải chấm dứt cuộc hành quân. Vùng giải phóng của ta căn bản được giữ vững. Tuy nhiên, ta cũng bị tổn thất khá nặng về người và tài sản. Các lực lượng vũ trang bị tiêu hao.
___________________________________
1. - Quân Mỹ gồm Sư đoàn 1 và 3 lính thuỷ đánh bộ, Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Lữ đoàn dù 101 và Lữ đoàn 3, Sư đoàn 25 Tia chớp nhiệt đới (Sư đoàn 25 Mỹ vào Tây Ninh, nhưng có một lữ ra Tây Nguyên. Khi Sư đoàn 4 Mỹ vào Tây Nguyên, chúng trả lữ đoàn này cho Sư đoàn 25).
    - Quân Nam Triều Tiên gồm Sư đoàn Mãnh Hổ và Lữ đoàn Rồng xanh.
    - Quân ngụy gồm Sư đoàn 1, 2 và 22, Trung đoàn 51 độc lập, Trung đoàn 47 Sư đoàn 23, hai Chiến đoàn dù số 1 và số 2, Chiến đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ và 6 tiểu đoàn biệt động.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2010, 08:25:50 pm

Tại Bình Định, ba huyện phía bắc tỉnh (Bồng Sơn, Phù Mỹ, Phù Cát) là vùng đồng bằng ven biển trù phú, là địa bàn quan trọng cả về quân sự, chính trị và kinh tế. Từ đầu năm 1965, các vùng Tam Quan, Gia Hựu, nam - bắc Bồng Sơn, Đèo Nhông, An Lão đã được giải phóng, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh và đều khắp.

Vùng bắc Bình Định được Mỹ coi là vùng trọng điểm của cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất. Vì đây là nơi tiếp giáp giữa Quân khu I và Quân khu II ngụy, và là nơi đứng chân của Sư đoàn 3 Quân giải phóng. Tìm diệt được Sư đoàn 3 sẽ bảo đảm giữ được tuyến hành lang chiến lược đường 19 từ Quy Nhơn đi Tây Nguyên - con đường huyết mạch, để tiếp tế cho lực lượng Mỹ, ngụy ở Tây Nguyên.

Đúng như dự kiến của ta là Mỹ sẽ mở cuộc hành quân lớn ra bắc Bình Định, nên tháng 1-1966, Quân khu V đã thành lập Bộ Chỉ huy mặt trận, do các đồng chí Giáp Văn Cương, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 3 làm chỉ huy trưởng, Trần Quang Khanh, Bí thư Tỉnh uỷ Bình Định làm Chính uỷ. Sư đoàn 3 được bố trí trong thế trận liên hoàn: Trung đoàn 2 ở bắc Phù Mỹ, Trung đoàn 12 ở Hoài Ân, Trung đoàn 22 ở Hoài Nhơn.

Địch huy động 20.000 quân, gồm 21 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh, xe tăng thuộc Sư đoàn kỵ binh không vận 1 Mỹ, Sư đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên và quân ngụy Sài Gòn, mở ba cuộc hành quân Kẻ nghiền nát (Masher), Cánh trắng I (White - Wing I), Cánh trắng II (White - Wing II) tiến công vào Hoài Nhơn, Hoài Ân, An Lão. Cuộc chiến đấu ở bắc Bình Định diễn ra vô cùng ác liệt suốt từ 28-1-1966 đến 6-3-1966, quyết liệt nhất là khu vực Chợ Cát (huyện Hoài Nhơn).

Ngày 28-1-1966, quân Mỹ, quân Sài Gòn và Nam Triều Tiên do tên tướng Kina, Sư đoàn trưởng Sư đoàn kỵ binh không vận trực tiếp chỉ huy, bắt đầu đánh ra Bồng Sơn - trọng điểm là khu vực Chợ Cát, đồng thời một tiểu đoàn dù ngụy chiếm đèo Bình Đê, Chương Hoà lập tuyến ngăn chặn bảo đảm an toàn cho đội hình tiến công ở phía bắc.

Khi những tiếng nổ rung trời chuyển đất của bom đạn máy bay và pháo bầy vừa ngớt, hàng trăm máy bay lên thẳng các loại đổ ba tiểu đoàn kỵ binh bay Mỹ xuống Chợ Cát (Hoài Hảo), Bình Đê, Chương Hoà (Hoài Châu), Trường Xuân, An Thái (Tam Quan Bắc), Cửu Lợi (Tam Quan Nam), Tài Lương (Hoài Thanh).

Tại Chợ Cát, khi toán quân đầu tiên của địch đổ xuống đã bị Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 22 và du kích xã Hoài Hảo bao vây tiêu diệt. Mỹ tiếp tục cho trực thăng đổ quân đánh vào sau lưng đội hình của ta. Nhưng với kinh nghiệm rút ra qua các trận trước đây, Tiểu đoàn 9 đã bố trí đội hình theo hình tam giác; mỗi điểm lại bố trí có nhiều bậc thang nên khi máy bay địch vừa hạ cánh đã vấp phải lưới lửa của các Đại đội 91 và 94. Một trận đánh dữ dội của lực lượng vũ trang ta và quân Mỹ đã diễn ra trên bãi cát gần thôn Cự Tài. Gần một nửa tiểu đoàn Mỹ bị thương vong.

Ở khu vực Gia Hựu, Chương Hoà, những trận đánh quyết liệt của Tiểu đoàn 7 và du kích với quân Mỹ diễn ra suốt buổi sáng ngày 28-1-1966. Dùng trực thăng và xe bọc thép không đột phá được trận địa ta, một tiểu đoàn Mỹ và hai tiểu đoàn ngụy rất xảo quyệt, bắt nhân dân đi trước làm lá chắn cho chúng. Để bảo vệ đồng bào, các chiến sĩ được lệnh bắn chỉ thiên cho nhân dân chạy về phía sau. Sau đó, tất cả hoả lực của ta mới trút vào đội hình địch.

Ngày thứ nhất của cuộc chiến đấu, hơn 500 tên xâm lược phải đền tội, 20 máy bay lên thẳng bị bắn rơi và bắn hỏng. Trong các ngày 29, 30, 31, Sư đoàn kỵ binh không vận Mỹ tiếp tục đổ quân xuống vùng Chợ Cát, Cự Tài, Hội Phú, Gia Hựu, Tường Sơn... Ý định của địch là tập trung ưu thế lực lượng đánh chiếm khu vực Chợ Cát làm bàn đạp, rồi chiếm Tam Quan liên kết với quân ngụy ở Bình Đê, Chương Hoà, hình thành thế bao vây, chia cắt, tiến công, tiêu diệt Sư đoàn 3 của ta ở Hoài Nhơn. Nhưng chúng đã bị du kích, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực ngày đêm liên tục bám đánh tiêu diệt, tiêu hao, quấy rối, khiến cho quân địch luôn luôn căng thẳng, mệt mỏi phải nơm nớp đề phòng. Ở khu vực An Thái, ngày 29-1, Trung đoàn 22 và dân quân du kích hết sức dũng cảm, ngoan cường, bất chấp bom đạn địch bắn phá ác liệt, vẫn bám sát địch đánh giáp lá cà, “nắm thắt lưng địch mà đánh” hạn chế phi pháo của địch.

Qua bốn ngày chiến đấu quyết liệt, ta dã diệt trên 1.000 quân địch, bắn rơi gần 50 máy bay các loại.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2010, 08:28:54 pm

Phối hợp với Trung đoàn 22, các Trung đoàn 2 và 12 của Sư đoàn 3 được lệnh chuyển sang tích cực phản công tiêu diệt địch. Các đơn vị đứng ở phía nam Bồng Sơn được lệnh đánh vào sau lưng đội hình hành quân của quân Mỹ.

Đêm 2-2, pháo binh ta tập kích sân bay lên thẳng Hoà Hội và cụm quân Nam Triều Tiên ở cầu Phù Ly, phá hỏng hàng chục máy bay, diệt nhiều địch.

Đêm 3-2, ta tiến công phá huỷ gần 10 đại bác 105mm và 155mm của quân Sài Gòn và Nam Triều Tiên ở đèo Nhông và quận lỵ Phù Mỹ.

Đêm 4-2, các chiến sĩ công binh đánh sập một nhịp cầu Bồng Sơn, gây tắc nghẽn giao thông trên quốc lộ 1, làm cho việc tiếp tế, chuyển quân của địch bị gián đoạn.

Trong những ngày chiến đấu ác liệt, nhân dân các xã Hoài Hảo, Hoài Châu, Hoài Thanh... ngày đêm trụ bám sống chết với bộ đội. Nhà cửa bị bom đạn địch phá sập. Nhiều du kích, đồng bào hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Nhưng hàng trăm thương binh vẫn được nhân dân che giấu cứu chữa. Trong một căn hầm ở thôn Liễu An, xã Hoài Châu, tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Bình đang kiệt sức vì mất máu và đói khát. Bình đã được chị Hai Nhân vắt kiệt hai bầu sữa của mình ra mảnh sọ dừa rồi bón từng thìa nhỏ cho anh. Ở Quy Thuận, đồng bào đã đặt thương binh Huỳnh Bá vào trong chum, đổ khoai lên trên, khiêng qua trước mặt quân địch, đưa anh về trạm phẫu thuật an toàn.

Bị thất bại trong cuộc tiến công vào Bồng Sơn mà trọng điểm là khu vực Chợ Cát, ngày 5-2, quân Mỹ chấm dứt cuộc hành quân Kẻ nghiền nát, mở tiếp cuộc hành quân Cánh trắng I đánh vào An Lão, cách Bồng Sơn 30 km về phía tây bắc, nơi chúng nghi Sư đoàn 3 của ta đang trú quân.

Ngày 7-2-1966, ba tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ và một tiểu đoàn dù quân đội Việt Nam Cộng hoà dùng trực thăng đổ xuống thung lũng An Lão. Lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Đức Phổ cũng được lệnh chuyển lên bịt kín vùng giáp ranh giữa An Lão và Ba Tơ. Năm ngày càn quét địch không gặp chủ lực ta. Đối đầu với chúng chỉ có một đại đội công binh của Sư đoàn 3 và dân quân du kích. Cả một trung đội biệt kích Mỹ vữa đổ xuống đã bị ta chặn đánh tiêu diệt gần hết. Không có ngày nào quân địch không bị tiêu hao bằng những phát súng bắn tỉa chính xác, những bãi mìn, những hầm chông thô sơ nhưng ác hiểm. Ngày 11-2, du kích bắn rơi tám máy bay lên thẳng.

Không gặp chủ lực ta, lại bị thương vong nặng, bọn Mỹ đã ném bom vào các xóm làng để huỷ diệt dân thường cả người Kinh và người Thượng. Thung lũng An Lão trở nên xơ xác hoang tàn. Hàng ngàn người dân bị chúng cưỡng bức rời bỏ quê cha đất tổ đi các khu dồn ở Phú Tài, An Khê, Plâycu... Phóng viên hãng AP ngày 14-2-1966 đã viết: “Cuộc hành quân Cánh trắng I khổng lồ vào thung lũng An Lão chủ yếu đánh vào những người dân tay không cầm súng. Đó là cuộc hành quân đê tiện và bỉ ổi nhất”1.

Hai cuộc hành quân Kẻ nghiền nátCánh trắng I không tìm diệt được chủ lực ta lại bị thất bại nặng, ngày 14-2, địch mở tiếp cuộc hành quân Cánh trắng II đánh vào thung lũng Kim Sơn huyện Hoài Ân.

Sư đoàn 3 Quân khu V và bộ đội dịa phương, dân quân du kích mở cuộc phản công trên toàn mặt trận. Trung đoàn 2 đang ở bắc Phù Mỹ được lệnh cơ động về Hoài Ân, cùng với Trung đoàn 12 do Phó Sư đoàn trưởng Huỳnh Hữu Anh và Chính uỷ Đặng Hoà trực tiếp chỉ huy đánh mạnh vào hai bên sườn quân địch. Trung đoàn 22 sau một thời gian ngắn củng cố, có nhiệm vụ tiến công vào các đơn vị địch ở Tam Quan, Bồng Sơn.

Sáng ngày 14-2, khi một tiểu đoàn quân Mỹ đổ xuống khu vực suối Đá Tượng đã bị Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1 chặn đánh quyết liệt. Phát hiện thấy chủ lực ta xuất hiện, tên đại tá Hanmoơ, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 không vận (lực lượng dự bị chiến dịch vừa mới tung vào trận), liền tập trung lực lượng bao vây khu vực giữa ba con suối: Đá Tượng, Nước Lùng và suối Sùng. Địch đã bắn 25.000 viên đạn pháo lớn và thả hàng trăm tấn bom biến khu rừng hai bên bờ suối Đá Tượng thành vùng đất trống.

Phát huy sở trường đánh gần và đánh vào sau đội hình của địch, ngày 16-2, Trung đoàn 12 tập kích diệt gần hết hai đại đội Mỹ ở Lộc Giang. Ngày 17-2, trung đoàn lại diệt gần hết một đại đội địch ở suối Sùng. Ngày 18-2, Trung đoàn 2 chặn đánh một tiểu đoàn quân Mỹ tại Đồi Tranh giữa suối Sùng và suối Đá Tượng, diệt 150 tên. Ngày 19-2, trung đoàn lại tập kích diệt một đại đội lính Mỹ ở điểm cao 275.
________________________________________
1. Dẫn theo Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, t.4, tr.89.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 06:34:35 pm

Ngày 23-2, một tiểu đoàn quân Mỹ đánh lên Thạch Khê, nơi có hàng trăm thương binh của ta đang điều trị. Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 12 của ta được lệnh đánh địch bảo vệ thương binh. Cả tiểu đoàn đã bố trí sẵn sàng chặn địch. Trận đánh diễn ra giằng co, quyết liệt. Tổ liên lạc Đặng Đình Giáp đánh lui năm đợt tiến công của một đại đội Mỹ, diệt 54 tên. Tổ chiến đấu Hồ Việt Khánh, Nguyễn Trọng Chính, Đậu Đình Khuân, đảm nhiệm một hướng chiến đấu, diệt 85 Mỹ. Với ý chí chiến đấu kiên cường, kết hợp giữa phòng ngự với xuất kích đánh gẫy từng mũi tiến công, Tiểu đoàn 4 đã đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn địch, bảo vệ an toàn thương binh.

Phối hợp với cuộc chiến đấu ở hướng chủ yếu, ngày 20-2, Trung đoàn 22 tập kích tiêu diệt gần 250 lính Sài Gòn ở thị trấn Tam Quan. Đêm 21-2, trung đoàn lại pháo kích Sở chỉ huy tiền phương Sư đoàn kỵ binh không vận ở thị trấn Bồng Sơn và tiến công sân bay lên thẳng, phá huỷ 11 chiếc. Ở An Khê, đêm 19-2, Tiểu đoàn đặc công 407 đánh sân bay Tân Tạo, phá hỏng gần 100 máy bay lên thẳng, giết và làm bị thương hàng trăm giặc lái và nhân viên kỹ thuật.

Đòn phản công liên tục, quyết liệt của ta trên mọi hướng càng khiến cho quân địch thêm hoảng loạn. Tuy còn quân, còn phương tiện vũ khí, nhưng nếu cứ tiếp tục, chắc chắn sẽ thất bại nặng nề hơn nữa. Ngày 6-3-1966, quân địch buộc phải chấm dứt cuộc hành quân lớn nhất trong cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất vào bắc Bình Định. Đây là thất bại thảm hại của các cuộc hành quân Kẻ nghiền nát, Cánh trắng I, Cánh trắng II của quân Mỹ - ngụy và Nam Triều Tiên. Kina, tướng chỉ huy cuộc hành quân bị cách chức vì đã để mất một phần ba quân số, nhiều máy bay lên thẳng.

Chiến thắng vang dội 40 ngày đêm của quân, dân bắc Bình Định là đợt chống càn lớn nhất và cũng là trận tiêu diệt nhiều quân Mỹ, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ nhất từ trước cho đến lúc ấy. Chiến thắng này là điển hình về sự hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực với lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, dân quân du kích và nhân dân địa phương. Đây chính là một trong những biểu hiện sinh động về sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Ở hướng nam Quảng Ngãi, cùng thời gian với cuộc hành quân Kẻ nghiền nát vào bắc Bình Định, quân Mỹ mở cuộc hành quân Diều hâu đôi đánh vào nam Quảng Ngãi, chủ yếu vào huyện Đức Phổ và vùng phía đông huyện Ba Tơ. Ngoài mục đích đánh chiếm vùng giải phóng phía nam tỉnh Quảng Ngãi, khai thông đoạn đường số 1, đoạn nối liền giữa Quân khu I và Quân khu II, chúng còn nhằm tạo ra hướng bao vây Sư đoàn 3 của ta từ phía bắc, đồng thời hỗ trợ cho mũi tiến công chính ở bắc Bình Định.

Địch huy động vào cuộc hành quân này năm tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ, một chiến đoàn lính thuỷ đánh bộ và Trung đoàn 5, Sư đoàn 2 quân đội Sài Gòn gồm 8.000 quân.

Đức Phổ là một trong những huyện có phong trào du kích, phong trào đấu tranh chính trị mạnh ở đồng bằng ven biển miền Trung. Mười lăm xã của huyện được tổ chức thành sáu cụm chiến đấu liên hoàn. Huyện có một đại đội bộ đội địa phương. Dân quân du kích và bộ đội địa phương được rèn luyện và có kinh nghiệm chiến đấu. Xã nào cũng có các đội thông tin, trinh sát nhân dân, cứu thương, tải thương và khu vực cất giấu thương binh.

8 giờ ngày 28-1-1966, quân địch từ tầu thuỷ đổ vào bãi biển hai xã Phổ An và Phổ Quang đã bị du kích nổ súng diệt 23 tên ngay tại mép nước.

Quân Mỹ và ngụy tràn vào các thôn xóm đốt nhà, cướp của, phá sập hầm hố, hòng đè bẹp sức kháng cự của du kích. Nhưng mỗi thôn xóm ở Đức Phổ được xây dựng thành pháo đài đánh địch, mỗi người dân bình thường đều trở thành chiến sĩ kiên cường. Các thôn, xóm liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức chiến đấu chặt chẽ, lực lượng ta có thể dựa vào sự liên kết ấy liên tục tiến công quân địch từ mọi phía, trong mọi thời gian, bằng nhiều hình thức tập kích, phục kích, quấy rối, bắn tỉa, tiêu hao, tiêu diệt từng tiểu đội, trung đội Mỹ, ngụy.

Ngày 1-2, một tiểu đoàn lính Mỹ đánh vào hai xã Phổ Nhơn và Phổ Phong, du kích chặn đánh, diệt 18 tên. Ngày 2-2, máy bay địch đổ quân xuống xã Phổ Cường. Một máy bay lên thẳng hạ cánh chỉ cách chỗ hai du kích Nguyễn Khánh và Lê Xu phục kích có tám mét. Khánh bắn kiềm chế cho Xu ném lựu đạn vào cửa máy bay, diệt ba tên Mỹ, máy bay bị hỏng. Cùng ngày, một đại đội lính Mỹ đánh vào xã Phổ An, 11 chiến sĩ bộ đội địa phương huyện và 10 du kích xã mưu trí lừa cả đại đội địch lọt vào chỗ bố trí của ta. Sau sáu giờ chiến đấu liên tục, các chiến sĩ ta đã bắn gục 106 tên, bắn rơi năm máy bay, có ba chiếc rơi tại chỗ.

Quân Mỹ đánh vào 14 xã của Đức Phổ thì cả 14 xã đều anh dũng chiến đấu, tiêu diệt nhiều lính Mỹ và đều đạt danh hiện Đơn vị anh dũng diệt Mỹ. Máy bay lên thẳng đổ quân vào 14 xã, thì chín xã bắn rơi máy bay Mỹ. Riêng du kích xã Phổ Văn chỉ trong tám ngày bắn rơi và cháy 10 máy bay lên thẳng. Nguyễn Thị Nga ở xã Phổ Phong bám đánh địch, bắn gục ba tên Mỹ, đạt tiêu chuẩn dũng sĩ diệt Mỹ cấp 3. Em Việt 14 tuổi ở xã Phổ Minh một mình dỡ rào chắn, nắp an toàn 144 hầm chông đã bố trí sẵn, làm bốn tên Mỹ bị thương. Nhân dân thôn Hải Môn tổ chức đấu tranh trực diện với địch không cho chúng đốt nhà, cướp của. Nhân dân xã Phổ Minh khiêng người bị thương vì đạn pháo đến gặp bọn sĩ quan Mỹ đòi cứu chữa. Các em thiếu niên xã Phổ Quang đấu tranh giải thoát một em bị lính Mỹ bắt đưa ra sân bay.

Sau 20 ngày chiến đấu, quân và dân Đức Phổ đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 1.000 lính Mỹ, ngụy, bắn rơi và hỏng 28 máy bay. Ngày 18-2, lính thuỷ đánh bộ Mỹ buộc phải chấm dứt cuộc hành quân.

Tuy có bị tổn thất về tài sản và tính mạng, nhưng chỉ với lực lượng tại chỗ, Đức Phổ đã bẻ gãy một cuộc càn quét lớn của địch, bảo vệ được vùng giải phóng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 06:35:43 pm

Giữa lúc quân Mỹ đang dồn nỗ lực tiến công vào bắc Bình Định, Bộ Tư lệnh Quân khu V quyết định mở chiến dịch tây Sơn Tịnh, nhằm thu hút lực lượng Mỹ ra hướng bắc Quảng Ngãi để kìm giữ và tiêu diệt chúng, buộc địch phải phân tán lực lượng ở hướng chính, tạo điều kiện cho Sư đoàn 3 của quân khu giành thắng lợi. Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu V và lực lượng vũ trang Quảng Ngãi được giao thực hiện chiến dịch. Đồng chí Nguyễn Năng, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 được giao làm chỉ huy trưởng chiến dịch, đồng chí Nguyễn Minh Đức làm chính uỷ. Ngày 20-2, quân ta đánh cắt quốc lộ 1, đoạn phía nam Chu Lai. Ngày 21-2, Tiểu đoàn 33, Trung đoàn 21 chặn đánh đoàn xe quân sự địch chạy từ Quảng Ngãi ra Chu Lai, diệt tám chiếc, uy hiếp tuyến phòng thủ của địch dọc đường số 1. Những ngày tiếp theo, quân ta đánh nhỏ, cắt đứt từng đoạn quốc lộ 1, nhưng vì bị sa lầy trong cuộc hành quân tìm diệt ở Đức Phổ, Tiên Phước, nên quân Mỹ chưa có phản ứng. Mãi đến đầu tháng 3-1966, sau khi kết thúc cuộc hành quân Diều hâu đôi, địch mới dùng bảy tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ và Sài Gòn cùng một chi đoàn xe tăng, thiết giáp giải toả đường số 1, và phản công lên tây Sơn Tịnh.

8 giờ ngày 4-3-1966, sau một giờ oanh tạc dọn bãi, địch đổ Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 2 và Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 7, Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ xuống phía tây điểm cao 62 và chợ Gò Cát. Cùng lúc, hai cánh quân ngụy có xe M113 yểm hộ theo các trục đường Châu Ổ - Trà Bồng và Sơn Tịnh - Sơn Hà tiến lên chiếm giữ Gò Chồng, núi An Điềm và làng Đại Lộc. Địch tính toán rằng bị ba cánh quân của chúng bao vây kẹp chặt thì “Việt cộng hết lối thoát”. Nhưng bộ đội địa phương và du kích Bình Sơn, Sơn Tịnh bám đánh, ngay từ đầu làm cả hai cánh quân địch phải dừng lại. Ở hướng trọng điểm, một phân đội của ta có nhiệm vụ chốt giữ điểm cao 62 đi lạc đường. Địch đã chiếm được vị trí trọng yếu này. Kiên quyết đánh chiếm lại điểm cao 62, Trung đoàn 21 tập trung hai tiểu đoàn, hình thành hai mũi đánh vào hai bên sườn quân địch.

Ngay từ đầu trận đánh đã diễn ra hết sức quyết liệt. Ta cố chiếm, địch cố giữ. 13 giờ 30 phút, mũi tiến công chủ yếu của ta chiếm được mỏm phía bắc và một phần ba mỏm chính. Ta và địch đánh giáp lá cà giành nhau từng tấc đất, mô đá, gốc cây. Xạ thủ đại liên Nguyễn Văn Năm bình tĩnh quét từng loạt đạn ngắn liên tiếp bẻ gãy 10 đợt xung phong của một đại đội địch, diệt 47 tên.

Để nhanh chóng dứt điểm mục tiêu, Trung đoàn 21 quyết định đưa tiểu đoàn dự bị vào chiến đấu. Trận đánh tiếp tục diễn ra ác liệt đến 5 giờ ngày 5-3 mới kết thúc. Ta đã chiếm lại được điểm cao 62 và diệt gần hết tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ.

Trong lúc chiến cuộc đang diễn ra ở điểm cao 62, Tiểu đoàn 2 Mỹ đổ xuống khu vực chợ Gò Cát, phát triển đánh chiếm đồi Chùa ở làng Đông Giáp. Tiểu đoàn 90, Trung đoàn 1 được lệnh xuất kích đánh vào cánh quân này. Chỉ trong hơn một giờ chiến đấu, ta đã đánh thiệt hại nặng Sở chỉ huy tiểu đoàn và hai đại đội, đánh bật địch ra khỏi đồi Chùa. Thắng lợi trong ngày đầu ra quân, cổ vũ mạnh mẽ khí thế chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận.

Sáng ngày thứ hai (5-3), địch lại cho hai cánh quân từ Khánh Mỹ và núi Cà Ty đánh lên điểm cao 62 và làng Hoà Vinh. Cùng lúc, máy bay lên thẳng đổ Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 7 lính thuỷ đánh bộ xuống làng Phước Bình. Một đại đội địch tiến lên chiếm đỉnh Chóp Nón.

Tiểu đoàn 22, Trung đoàn 21 của ta bố trí ở làng Hoà Vinh mưu trí đánh bại năm đợt xung phong của địch, giữ vững trận địa. Ở Chóp Nón, bốn chiến sĩ của ta do tiểu đội trưởng Hà Thanh Rích chỉ huy chốt giữ đã anh dũng đánh lui tất cả các đợt xung phong của địch.

Không chiếm được Chóp Nón, trong lúc đó, cánh quân từ Khánh Mỹ, Cà Ty tiến xuống lại bị Trung đoàn 21 chặn lại. Cả tiểu đoàn quân Mỹ đổ xuống Phước Bình phải di chuyển về phía đông rồi cụm lại trong làng Phước Bình. Thấy rõ thời cơ diệt địch thuận lợi, 15 giờ 30 (5-3) Trung đoàn 1 được lệnh xuất kích. Các chiến sĩ ta khéo léo, bí mật áp sát mục tiêu. Sau ba giờ chiến đấu, quân địch buộc phải bỏ làng tháo chạy.

Hai ngày xuất quân, địch bị ta đánh thiệt hại nặng ba tiểu đoàn. Ngày 6-3, quân Mỹ vội vã kết thúc cuộc hành quân tìm diệt lớn nhất của chúng ở bắc Bình Định và rút khỏi vùng tây Sơn Tịnh. Tây Sơn Tịnh, mảnh đất anh hùng đã lập nên chiến công vang dội trong mùa khô 1966.

Cùng với những chiến dịch tiến công và phản công của quân ta trên các hướng trọng điểm, các trận đánh phối hợp của lực lượng vũ trang ở các địa phương cũng diễn ra liên tục, mạnh mẽ.

Ở Tây Nguyên, đêm 29-2 và ngày 24-4-1966, bộ đội đặc công tập kích vào căn cứ Sư đoàn kỵ binh không vận Mỹ ở An Khê và sân bay Plâycu, phá huỷ, phá hỏng 130 máy bay các loại. Từ ngày 15-2 đến 8-4, Sư đoàn 1 Mặt trận Tây Nguyên đánh nhỏ lẻ ở bắc Buôn Ma Thuộc, tây đường 19 và Chư Pông, diệt 750 tên địch. Nhưng hoạt động của Sư đoàn 1 còn yếu, kết quả hạn chế, không kìm chân được quân Mỹ.

Ở đồng bằng khu V, bộ đội đặc công, pháo luồn sâu, bộ đội địa phương Quảng Nam, Quảng Ngãi đánh vào căn cứ Chu Lai (21-1), sân bay Đà Nẵng (24-1) diệt nhiều máy bay địch, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 11 biệt động quân ngụy. Bộ đội chủ lực quân khu, cùng bộ đội địa phương Quảng Ngãi tiêu diệt cứ điểm Tịnh Hà (17-3), An Hoà (18-3), kéo quân Mỹ ra diệt hàng trăm tên ở khu vực Hội Đức, Phú Sơn, Phú Thạnh (21-3), Phước Lộc (23-3), Lâm Lộc (28-3). Ở Quảng Nam, ngày 19-2, năm tiểu đoàn Mỹ càn vào căn cứ Sơn - Cẩm - Hà và vùng đồi núi phía tây các huyện Tam Kỳ, Quế Sơn. Sau 10 ngày chiến đấu, Sư đoàn 2 cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích đã diệt hàng trăm tên địch. Trong đợt chống càn này, tiểu đội du kích nữ xã Kỳ An do Xã đội phó Trương Thị Đào chỉ huy, diệt 18 tên Mỹ. Đêm 23-3, pháo binh ở vành đai diệt Mỹ Chu Lai bắn phá sân bay, phá huỷ và phá hỏng hàng chục máy bay các loại.

Ở khu VI, sau khi được Bộ Tư lệnh Quân giải phóng tăng cường Trung đoàn 16, Bộ Tư lệnh Quân khu tập trung lực lượng mở chiến dịch tiến công trên hướng đông bắc Phước Long.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 06:38:18 pm

Đầu tháng 2-1966, ta bất ngờ nổ sung tiêu diệt cứ điểm Tuy Đức. Sau đó ta chuyển lực lượng sang tiêu diệt cứ điểm Bu Prăng, tiến công phá vỡ hệ thống kìm kẹp của địch, giải phóng đoạn đường 14 từ tây nam Đức Lập đến sát Kiến Đức. Vùng giải phóng Phước Long được nối liền với vùng giải phóng tây Quảng Đức. Ở Bình Thuận, ngày 21-2, Tiểu đoàn 482 cùng lực lượng vũ trang huyện Hàm Thuận phục kích diệt gọn một đại đội bảo an và một đại đội dân vệ. Ngày 4-3, ta lại chặn đánh tiêu diệt đại đội bảo an số 443 tại Tầm Hung. Du kích xã Hồng Thái (Bình Thuận) chống càn diệt 46 tên Mỹ. Lực lượng vũ trang tỉnh Ninh Thuận san bằng cứ điểm Nha Tiên Lễ, diệt một đại đội bảo an.

Ở Trị - Thiên, sau khi đập tan cuộc hành quân Lam Sơn 324 của quân ngụy trên vùng núi Trị - Thiên, lực lượng vũ trang Trị - Thiên được tăng cường Sư đoàn bộ binh 325 tiến công diệt cứ điểm A Sầu (11-3), giải phóng một vùng rộng phía tây tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị (trừ một số cứ điểm dọc quốc lộ 9). Tiếp theo, ta mở đợt hoạt động đánh địch ở bốn huyện đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng (Quảng Trị), Phong Điền, Quảng Điền (Thừa Thiên) hỗ trợ cho nhân dân hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng và các xã Phú Lộc, Phú Vang, Hương Trà (Thừa Thiên) nổi dậy giành quyền làm chủ. Du kích vành đai diệt Mỹ ở Phú Bài (Thừa Thiên) liên tục bắn tỉa, đánh xe Mỹ dọc đường số 1, phá ống dẫn dầu, làm cho giao thông của địch luôn bị ách tắc.

Đầu năm 1966, để chuẩn bị đánh lớn ở Quảng Trị, ta tập kết các loại đạn pháo lớn, kể cả tên lửa không giật A12, H12 ở một quả đồi thấp đầy sim, mua và cỏ tranh thuộc làng Chanh, xã Tân Kim, huyện Cam Lộ. Đồi không có tên nhưng dưới chân đồi có con suối La La “nước trong xanh hiền hoà chảy quanh”. Để bảo vệ kho đạn, một tiểu đội ghép được thành lập gồm 10 người từ các đơn vị pháo binh mặt trận hợp lại. Trung đội phó Bùi Ngọc Đủ được giao nhiệm vụ trực tiếp làm tiểu đội trưởng. Cả tiểu đội khẩn trương xây dựng công sự hầm hào chiến đấu và hạ quyết tâm chốt giữ bảo vệ kho đạn đến cùng.

Địch phát hiện được ta, liền cho một tiểu đoàn lính Mỹ có phi pháo yểm trợ đánh lên đồi không tên. Suốt từ bảy giờ sáng ngày 28-2-1966, địch tiến công lên trận địa 15 lần nhưng đều bị tiểu đội Bùi Ngọc Đủ đẩy lui. Nhiều đợt đánh giáp lá cà diễn ra ngay tại mép chiến hào. Đến tối, địch phải rút quân, bỏ lại trận địa gần 200 xác. Tiểu đội hy sinh hai chiến sĩ là Nguyễn Nhân Nhe và Nguyễn Văn Chính.

Trước chiến công vang dội “một thắng 20” của các dũng sĩ trên “đồi không tên”, nhạc sĩ quân đội Huy Thục đã viết bài hát: Con suối La La để ca ngợi. Bài hát thường xuyên được phát trên sóng phát thanh, góp phần động viên khí thế chiến đấu của quân và dân cả nước. Đồi không tên từ đó được bộ đội ta gọi là đồi “Tiểu đội Bùi Ngọc Đủ”1.

Trước sức phản công và tiến công liên tục của ta trên các chiến trường, cuối tháng 4-1966, Bộ Chỉ huy Mỹ buộc phải kết thúc cuộc phản công chiến lược quy mô lớn đầu tiên sớm hơn kế hoạch dự định hai tháng.

Kết quả mùa khô 1965-1966, quân và dân ta ở miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 67.000 tên địch, trong đó có hàng vạn lính Mỹ, đánh thiệt hại 9 tiểu đoàn Mỹ, 7 tiểu đoàn ngụy, bắn rơi, phá huỷ 940 máy bay (hầu hết là máy bay lên thẳng), phá huỷ và phá hỏng 6.000 xe quân sự (có 300 xe tăng, xe bọc thép).

Để phối hợp chặt chẽ với cuộc phản công của quân Mỹ ở miền Nam, ngăn chặn triệt để nguồn tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam, ngày 31-1-1966, Giônxơn ra lệnh cho không quân, hải quân đánh phá miền Bắc ác liệt hơn, đánh vào nhiều loại mục tiêu, nhưng chủ yếu vẫn là đánh phá giao thông.

Do kết quả hạn chế của cuộc ném bom miền Bắc, nên từ ngày 16-4-1966 Chính phủ Mỹ phải tổ chức cuộc họp ở bang Uylitlây kéo dài ba tháng dưới sự bảo trợ của Phân viện Jắcsơn thuộc Viện phân tích quốc phòng. Thành phần hội nghị gồm 47 nhà khoa học ưu tú nhất nước Mỹ trong lĩnh vực kỹ thuật. Mắc Namara trực tiếp theo dõi, hướng vào nội dung nghiên cứu khai thác những khả năng kỹ thuật có liên quan đến hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam.

Các nhà khoa học được nghe các quan chức cao cấp Mỹ từ Nhà Trắng, Lầu Năm góc, Bộ Ngoại giao, Cục Tình báo Trung ương đến trình bày những nội dung tối mật, tuyệt mật. Sau khi nghe báo cáo và nghiên cứu biện pháp mới, cuối cùng hội nghị này rút ra kết luận:

- Chiến dịch ném bom mở rộng hoàn toàn không có khả năng ngăn cản Hà Nội thâm nhập người và hàng vào miền Nam như tốc độ hiện nay hoặc cao hơn nữa.

- Cần có giải pháp thay thế, đó là xây dựng một hàng rào điện tử qua khu phi quân sự bằng những công cụ mới được phát minh.

Đây là biện pháp thực hiện tích cực nhất mục tiêu chiến lược là ngăn chặn triệt để nguồn tiếp tế của đối phương. Chính phủ Mỹ cam kết sẽ tập trung lớn nhất về tài chính, vật tư kỹ thuật và lực lượng vào kế hoạch trên.

Với việc đánh phá miền Bắc bằng không, hải quân và việc xây dựng hàng rào điện tử ở phía Nam giới tuyến có thể Mỹ sẽ gây cho ta khó khăn và thiệt hại. Nhưng với lòng dũng cảm, trí thông minh, sáng tạo của quân và dân ta nhất định kẻ địch không thể ngăn cản được sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam ngày càng tăng.

Thất bại về quân sự của Mỹ trong cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất là thất bại có tính chiến lược, vì những mục tiêu đề ra trong cuộc phản công của chúng không thực hiện được, trong đó mục tiêu “đánh gẫy xương sống Việt cộng” bị thất bại nặng nhất. Thất bại đó đã không hỗ trợ mà còn gây ra nhiều khó khăn trở ngại cho kế hoạch bình định giành dân có trọng điểm trong năm 1966 của địch.
_____________________________________
1. Bùi Ngọc Đủ sinh năm 1939, quê xã Quảng Lộc, Quảng Xương, Thanh Hoá. Năm 1964 nhập ngũ vào Binh chủng Pháo binh rồi đi chiến trường. Sau trận thắng lịch sử đầu năm 1966, Bùi Ngọc Đủ ra Bắc học đào tạo sĩ quan pháo binh rồi lại vào chiến trường tham gia chiến dịch đường 9 - Nam Lào năm 1971 với cương vị tiểu đoàn phó và tiếp tục chiến đấu cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
    Năm 1977, với quân hàm đại uý tiểu đoàn trưởng, anh xung phong đi tăng cường xây dựng cấp huyện ở Tây Nguyên. Anh làm cán bộ nông nghiệp huyện Mang Bang, rồi lần lượt làm Bí thư Đảng uỷ các xã Ayun, K’tang. Kon Tầng. Anh đã chỉ huy dân quân du kích đánh gần 20 trận truy quét Phunrô, gọi về hàng chục tên, góp phần cùng nhân dân xây dựng cuộc sống mới.
    Cuối năm 1995, Bùi Ngọc Đủ về hưu, nhưng vẫn đảm nhiệm chức Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Kon Tầng.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 07:02:35 pm

II. ĐỜI SỐNG XÃ HỘI MIỀN NAM KHI QUÂN MỸ VÀO VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ
CỦA NHÂN DÂN TA CHỐNG LẠI SỰ ĐÀN ÁP, NÔ DỊCH CỦA MỸ - NGỤY

Sự có mặt ngày càng đông của những tên linh viễn chinh Mỹ đã làm thay đổi lớn trong đời sống xã hội và làm đảo lộn mọi sinh hoạt của nhân dân miền Nam, nhất là ở thành thị.

Để lôi kéo được nhiều thanh niên Mỹ tham gia vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, chính quyền Mỹ dành cho họ nhiều ưu đãi về vật chất. Lương tháng của một binh nhất Mỹ là 90 đôla, sau tăng lên 95 đôla, bằng thu nhập bình quân của một người dân Sài Gòn trong một năm. Ngoài lương ra, nhờ mua đi bán lại hàng được Chính phủ Mỹ trợ giá (PX), thu nhập của lính Mỹ tăng lên gấp nhiều lần lương chính thức.

Hàng hoá của Mỹ và các nước đồng minh (Nhật, Nam Triều Tiên) được nhập tràn lan hoặc được tuồn từ các cửa hàng PX của quân viễn chinh Mỹ, vừa rẻ, vừa có chất lượng tốt đã bóp chết nhiều ngành sản xuất truyền thống ở miền Nam. Quân Mỹ lại bắt đầu triển khai xây dựng nhiều công trình hậu cần bằng việc mua vật liệu và thuê mướn nhân công đã làm ảnh hưởng đến sản xuất tại chỗ. Hai mặt hàng xuất cảng chính là gạo và cao su ở Nam Bộ bị ngừng trệ, làm cho ngân sách của ngụy quyền ngày càng thâm hụt. Nếu năm 1963, 1964 ngân sách của chính quyền Sài Gòn thâm hụt 16 tỷ đồng (miền Nam) thì trong hai năm 1965, 1966 khi Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ, ngân sách thâm thụt lên tới gần 40 tỷ. Con số đó cứ leo thang theo chiều hướng phát triển của cuộc chiến tranh.

Sự thâm hụt ngân sách của ngụy quyền còn có nguyên nhân nữa là do quân Mỹ vào miền Nam đông, nhưng chúng không dùng đồng đôla mà dùng tín phiếu, gọi là đồng “đôla đỏ”. Trước đây mỗi đôla Mỹ đổi được 60 đồng tiền miền Nam. Nhưng khi đổi từ đôla sang tiền miền Nam thì ngoài 60 đồng theo quy định còn cộng thêm khoản “phụ cấp hối suất” thành 73 đồng rưỡi. Mỗi “đôla đỏ” đổi được 118 đồng miền Nam, thì ngụy quyền Sài Gòn phải trả thêm cho lính Mỹ 58 đồng miền Nam một đôla. Theo báo Chính luận (14-2-1966), vào cuối năm 1965, đầu 1966, mỗi tháng lính Mỹ tiêu ở thị trường miền Nam chừng 10 triệu “đôla đỏ”, thì ngụy quyền Sài Gòn phải trả thêm cho chúng 580 đến 600 triệu đồng tiền miền Nam.

Để bù vào chỗ thâm hụt đó, chính quyền Sài Gòn chỉ còn cách là in ra nhiều giấy bạc. Khối tiền giấy lưu hành ở miền Nam ngày càng tăng lên, cuối năm 1965 là 18 tỷ, đến tháng 7-1966 đã lên đến 57 tỷ. Giấy bạc in ra nhiều tất yếu dẫn đến lạm phát ngày càng nghiêm trọng (báo chí gọi là lạm phát phi mã).

Để đối phó với tình hình lạm phát, ngày 17-6-1966, với tư cách là Chủ tịch Uỷ ban hành pháp Trung ương, Nguyễn Cao Kỳ ký sắc lệnh về những “biện pháp kinh tế để ổn định nền kinh tế” bằng cách phá giá đồng bạc miền Nam, tăng giá hàng lên 100%. Với việc làm này, chính quyền Sài Gòn nhằm đánh vào hàng nhập khẩu qua viện trợ Mỹ, vì số này chiếm 75 đến 80% tổng giá trị hàng nhập khẩu. Người tiêu thụ phải còng lưng gánh chịu giá cả tăng vọt, đời sống càng thêm khó khăn. Biện pháp kinh tế này của Mỹ - ngụy không làm cho nền kinh tế tài chính miền Nam ổn định được mà ngày càng lâm vào cảnh suy thoái trầm trọng. Người làm công ăn lương và người tiêu thụ bị biện pháp kinh tế này làm ảnh hưởng đến đời sống.

Tình hình trên dẫn đến sự phân hoá trong xã hội miền Nam ngày càng sâu sắc. Giữa lúc đại đa số nhân dân lao động phải vật lộn hết sức khó khăn với đời sống hàng ngày, thì một bộ phận trong dân cư trở lên giàu có nhanh chóng. Đó là bọn tay sai Mỹ trong chính quyền và quân đội Sài Gòn và những người sống bằng nghề phục vụ cho các nhu cầu ăn ở, đi lại, chơi bời của lính viễn chinh Mỹ. Họ đã làm giàu bằng con đường tham nhũng, buôn bán ma tuý, tổ chức mại dâm hoặc bằng những thủ đoạn gian lận về tài chính và thương mại mà các đường dây hoạt động lan toả ra khắp cơ cấu xã hội1. Tất cả những việc làm đó đều được sự thông đồng vào bảo hộ của chủ Mỹ.

Trong năm 1966, để xoa dịu dư luận, Nguyễn Cao Kỳ đã có một quyết định độc đáo “xử bắn tất cả bọn tham nhũng”. Sự thật của quyết định đó là chỉ để làm yên lòng người Mỹ đang đe doạ cắt giảm viện trợ, còn nạn tham nhũng vẫn lan tràn ở mọi cấp. Mỗi công chức hành chính hay quân sự đều phải nộp một phần thu được do tham nhũng cho cấp trên, là được bề trên che chở.
___________________________________
1. Sự phân hoá về kinh tế trong xã hội đã được nhân dân quyền Nam khái quát thành câu: “Thứ nhất làm sở Mỹ, thứ nhì là gái đĩ, thứ ba bọn ma cô, thứ tư tướng tá ngụy”.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 07:03:50 pm

Để phục vụ cho đạo quân viễn chinh Mỹ vui chơi, chính quyền ngụy còn cho phép mở nhiều cửa hàng Snách ba, phòng tắm hơi, hộp đêm, tiệm nhảy và nhà chứa. Quân Mỹ đi đến đâu thì nghề mại dâm lan tràn đến đó. Nó chẳng những chỉ có ở các đô thị mà còn xuất hiện ở những nơi có cư xá của Mỹ. Theo thống kê của ngụy quyền, chỉ riêng Sài Gòn đã có khoảng 29.000 đĩ điếm chuyên nghiệp; chưa kể những phụ nữ do thất nghiệp, sa cơ lỡ vận, buộc lòng chạy theo đồng tiền lao vào cái nghề “bẩn thỉu” để kiếm sống. Từ tháng 9-1965, Nguyễn Cao Kỳ cho thành lập một công ty mại dâm lớn ở Sài Gòn. Trần Ngọc Liễn, Tổng trưởng Bộ Xã hội nhận xét nghề gái điếm đã phát triển tới mức trở thành một trong những nghề có tổ chức nhất. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã biến các đô thị miền Nam thành những nhà chứa khổng lồ. Đi cùng với nạn mại dâm, nạn du đãng cũng phát triển trong thanh, thiếu niên. Ngày 20-8-1966, Bộ Xã hội ngụy đã tiết lộ trong các thành thị miền Nam có hơn 20 vạn thiếu niên du đãng. Riêng ở Sài Gòn năm 1965, có 16.000 thiếu niên phạm pháp bị bắt.
 
Trên hè phố của các đô thị, đi đến đâu cũng thấy nhan nhản những trạm gác được quây bằng bao cát của lính Mỹ và đầy rẫy những đống rác, vỏ chai, vỏ hộp... Sự mất vệ sinh đó đã phát sinh nhiều thứ bệnh hiểm nghèo. Do thiếu tiền, thiếu thuốc, các bệnh dịch hạch, thương hàn, bệnh đậu mùa... trở thành các thứ dịch lan tràn ra khắp các trung tâm dân cư. Năm 1966, ước tính đã có 4.500 trường hợp bị bệnh dịch hạch. Đi đôi với việc thiếu được chăm sóc về y tế, việc học hành của trẻ em cũng gặp nhiều khó khăn, trắc trở, vì thầy giáo bị thiếu nghiêm trọng. Hội đồng giáo dục chính quyền Sài Gòn (tháng 10- 1966) cho biết số giáo viên thiếu khoảng 18.000 người “vì các giáo chức phải đi lính quá nhiều”.

Về văn hoá, khi quân Mỹ ồ ạt vào thì văn hoá đồi trụy kiểu Mỹ càng được phát triển tột độ. Các loại sách báo, phim ảnh, ca nhạc... đều phục vụ cho cái triết lý “sống hôm nay không cần biết ngày mai”, gieo rắc tâm lý sống gấp để đánh lạc hướng thanh niên tham gia vào cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, sa vào những lối sống đĩ điếm, du đãng, giết người. Tại Sài Gòn, bên cạnh những phim “con heo”, báo ảnh chuyên in hình phụ nữ khoả thân bày bán công khai trên vỉa hè các đường Lê Lợi, Công Lý... Các hiệu sách ở trung tâm thành phố, người ta thấy nhan nhản những tiểu thuyết yêu miêu tả lối sống thác loạn và những truyện khiêu dâm, bạo lực...

Tất cả những sự sa đoạ, trụy lạc ấy đã: “Gây ra biết bao thảm cảnh gia đình, bao nhiêu đổ vỡ hạnh phúc, bao nhiêu chuyện bi đát thương tâm. Qua các báo hàng ngày, không ngày nào là không có những vụ án mạng vì tình, những vụ tự tử, đâm chém, bắn giết lẫn nhau vì giành nhau một người đẹp…”1.

Tình hình ở thành thị thì như vậy, còn ở các vùng nông thôn miền Nam, Mỹ - ngụy cũng ráo riết triển khai công tác bình định. Chương trình này được tiến hành trong điều kiện ở miền Nam đã có mặt trên 20 vạn quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc hỗ trợ cho 50 vạn quân ngụy bình định gây cho nhân dân miền Nam nhiều khó khăn chồng chất. Cuộc đấu tranh này gay go, ác liệt không kém các cuộc chiến đấu ngoài mặt trận. Tuy nhiên, chương trình bình định được Mỹ - ngụy dồn sức thực hiện trong khi chiến tranh đặc biệt đã thất bại, quân dân miền Nam đang ở thế chủ động, nên chúng khó có thể thu phục được trái tim và khói óc của người dân, vì họ đã có ấn tượng sâu sắc cảnh đánh phá dồn dân vào ấp chiến lược trước đây. Do đó, để lừa bịp nhân dân, lôi kéo được những người nhẹ dạ cả tin, Mỹ - ngụy đã đổi tên chương trình bình định thành chương trình “phát triển cách mạng quốc gia”, “tái thiết nông thôn”, “chống nghèo đói” và ấp chiến lược đổi thành “ấp đời mới”, “ấp Tân Sinh” v.v... Tại Hội nghị Hônôlulu đầu năm 1966, giữa Mỹ và chính quyền Sài Gòn, Nguyễn Đức Thắng, Tổng trưởng “phát triển cách mạng” của ngụy đã trình bày kế hoạch xây dựng nông thôn gồm tám chương trình: “Huấn luyện cán bộ”, “Xây dựng ấp tân sinh”, “Giáo dục nông thôn”, “Tự lực cánh sinh”, “Công chính nông thôn”, “Phát triển canh nông”, “Chiêu hồi” và “Định cư người tị nạn cộng sản”.

Với chương trình bình định mới, kẻ địch hy vọng sẽ tách được nông dân ra khỏi cách mạng, bằng cách tiêu diệt và đẩy lùi dân quân, du kích và các tổ chức cách mạng ra khỏi ấp, xã. Chúng tổ chức lại bộ máy ngụy quyền ở cơ sở, lập các tổ chức phản động để kìm kẹp nhân dân để thực hiện bắt lính, bắt phu, vơ vét của cải một cách dễ dàng.

Sau khi đã cân nhắc thận trọng, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đề ra phương châm cho chương trình bình định mới là: “Phải tiến chậm, giữ chắc, có trọng điểm, cần tới đâu làm tới đó tạo thành thế liên hoàn, theo vết dầu loang”. Uỷ ban đặc biệt trực thuộc toà Đại sứ Mỹ, do Phó Đại sứ làm Trưởng ban, hai Phó ban là Tổng trưởng Nguyễn Đức Thắng và Lênxđên2 trực tiếp chỉ đạo công tác bình định. Nhưng về sau chỉ huy mọi công việc bình định chuyển từ toà Đại sứ sang Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn.
___________________________________
1. Trích phát biểu của nhà giáo Phan Thị Của tại Sài Gòn, ngày 26-6-1966, lưu tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh.
2. Lênxđên là viên tướng của CIA - người đã đưa Ngô Đình Diệm lên nắm quyền ở Sài Gòn hồi năm 1954. Lênxđên trước đây cũng đã từng giúp cho Tổng thống Philippin là Mắc Xây Xây đánh phá phong trào nông dân Philíppin sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 07:04:29 pm

Để phục vụ cho chương trình mới, Mỹ - ngụy tổ chức hai trường đào tạo cán bộ bình định. Trường ở Vũng Tàu đào tạo cán bộ hoạt động ở vùng đồng bằng. Trường ở Plâycu, đào tạo cán bộ chuyên cho miền núi. Thời gian học tập của mỗi khoá là 13 tuần lễ. Người được tuyển chọn đi học ở các trường này phần lớn là bọn ác ôn, có nợ máu với nhân dân. Sau khoá học, số học viên ra trường được tổ chức thành từng “đội bình định” để đưa về các thôn, ấp. Mỗi đội có một đội trưởng, hai đội phó và từng nhóm phụ trách các công việc như “ấp tân sinh”, “tình báo tác chiến”, “tân tuyển”, “biệt chính nhân dân”... Phương thức hoạt động chủ yếu của các “đội bình định” ở thôn, ấp là phân loại quần chúng, tuyên truyền xuyên tạc kháng chiến, cổ vũ cho Mỹ - ngụy, trấn áp tinh thần nhân dân, truy tìm các tổ chức và lực lượng vũ trang cách mạng...

Ngoài các “đội bình định”, địch còn tổ chức các đội “chuyên gia dân sự”. Sau khi được “đội bình định” xác định đã có an ninh ở thôn, ấp thì các đội này bắt đầu xuống hoạt động. Mỗi đội “chuyên gia dân sự” gồm các chuyên gia về trồng trọt, chăn nuôi, y tá, giáo viên... Mỹ và Sài Gòn hy vọng bằng một số biện pháp kinh tế, văn hoá nhất thời này có thể mua chuộc được nông dân, làm cho họ đi theo chúng, chống lại cách mạng.

Để tiến hành bình định, trước tiên địch dùng biện pháp quân sự tàn bạo, huy động chủ lực, bảo an, dân vệ mở các cuộc càn quét, đốt phá, bắn giết, đuổi nhân dân ra khỏi thôn, ấp đưa về các trại tập trung của chúng. Từ khi chiến tranh cục bộ bắt đầu, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã mở hàng ngàn cuộc hành quân bình định. Chỉ nêu một trong những tỉnh điển hình đánh phá của địch là tỉnh Bình Định ở khu V, từ giữa năm 1965 đến giữa năm 1966, địch đã mở 1.412 cuộc càn, hàng ngàn cuộc ném bom, bắn pháo, giết 6.148 người, đốt cháy 37.512 nóc nhà, cướp, đốt 3.505 tấn gạo, phá hàng ngàn tấn hoa màu, hàng vạn cây ăn quả, bắt 150.000 người vào các khu dồn dân. Tỉnh Kiên Giang ở miền Tây Nam Bộ, địch đưa về nhiều đơn vị sừng sỏ đánh phá ác liệt, xúc dân vùng giải phóng đưa vào các “khu định cư”, chúng tuyên bố “xé nát” các căn cứ cách mạng, v.v…

Dù cho kẻ thù dùng nhiều mưu ma chước quỷ để lừa bịp, đàn áp, nô dịch đồng bào ở thành thị và nông thôn, chúng cũng không thể dập tắt được phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam. Sự có mặt của quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam đã xâm phạm thô bạo chủ quyền độc lập, tự chủ của nhân dân, nó khuấy động mạnh mẽ tinh thần dân tộc của mọi tầng lớp đồng bào, nhất là với thanh niên và phụ nữ, những người phải chịu hậu quả tàn khốc của chiến tranh nặng nề hơn ai hết. Do đó, phong trào đấu tranh chính trị chống Mỹ - ngụy trong thời kỳ chiến tranh cục bộ không hề giảm sút, mà phát triển ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt ngay trong điều kiện quân viễn chinh có mặt ngày càng đông ở miền Nam.

Đứng trước ảnh hưởng tai hại của văn hoá đồi trụy, các tầng lớp nhân dân ở thành thị miền Nam đã tổ chức đấu tranh công khai, hợp pháp. Trên mặt trận báo chí, đã có nhiều bài ở nhiều tờ báo, công khai tố cáo chính sách văn hoá nô dịch, công kích văn hoá đồi trụy của Mỹ nhập cảng vào miền Nam. Ngay từ khi mới lên cầm quyền, Thiệu, Kỳ đã ra lệnh đóng cửa tất cả các tờ báo tiếng Việt. Tháng 6-1965, bốn tổ chức báo chí công khai ở Sài Gòn: Hội đồng báo chí Việt Nam, Hội chủ báo Việt Nam, Nghiệp đoàn ký giả, Hội ái hữu ký giả tuyên bố phản đối lệnh cấm độc đoán ấy. Sau đó, tại một địa điểm ở Sài Gòn - Gia Định, có một cuộc họp không công khai của 50 chủ nhiệm, thư ký toà soạn... để ủng hộ cuộc đấu tranh của giới báo chí. Giữa năm 1966, bốn tổ chức báo chí trên và Hiệp hội báo chí sinh viên lại lên tiếng đòi bãi bỏ kiểm duyệt, đòi tự do báo chí, tự do ngôn luận. Cuộc đấu tranh này được 117 nghiệp đoàn công nhân Sài Gòn với 300.000 đoàn viên, tuyên bố ủng hộ.

Hoà nhịp với cuộc đấu tranh của giới báo chí, tháng 4-1966, 79 văn nghệ sĩ, giáo sư, luật sư đã tổ chức cuộc họp ở Sài Gòn để thành lập Ban vận động đại hội văn hoá dân tộc và ra bản tuyên ngôn kịch liệt lên án nền văn nghệ lai căng đồi trụy, phim ảnh, tân nhạc, tiểu thuyết, báo chí đầu độc tinh thần thanh, thiếu niên... Bản tuyên ngôn đòi nhà cầm quyền phải có biện pháp chống văn nghệ phẩm đồi bại, phải thực hiện tự do sáng tác, biểu diễn, xuất bản, bãi bỏ chế độ kiểm duyệt, đưa nền văn hoá ra khỏi tình trạng khủng hoảng. Sau cuộc họp trên, nhiều cuộc hội thảo về các đề tài: “Văn hoá dân tộc, thế nào là văn hoá dân tộc”; “những hiện tượng dâm ô đồi trụy trong văn nghệ”; “vai trò của các nhà giáo trong công cuộc phát huy tinh thần văn hoá dân tộc”... đã liên tiếp diễn ra. Cùng thời gian này, một số chị em phụ nữ ở Sài Gòn là nhà giáo, luật sư, văn sĩ và ký giả, những người làm việc xã hội quyết định thành lập Uỷ ban nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ Việt Nam. Hoạt động của hội được xác định trước hết là tuyên truyền cho phụ nữ có ý thức đấu tranh bảo vệ thanh, thiếu nhi và bảo vệ văn hoá dân tộc. Cuộc hội thảo đầu tiên do hội tổ chức bàn về “chống nạn mại dâm” có 500 người dự. Trong hội thảo, một luật sư đã buộc tội nhà chức trách Mỹ phải chịu trách nhiệm, vì những người gây ra tình hình đĩ điếm, phần lớn đều là quân nhân Mỹ. Những người dự hội thảo đã thông qua nghị quyết đòi chính quyền phải từ bỏ việc lập các ổ kinh doanh gái điếm, đòi bỏ nạn mại dâm và thủ tiêu nền văn hoá đồi trụy.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 07:07:42 pm

Cùng với cuộc đấu tranh liên tục, đều khắp chống nạn mại dâm và văn hoá đồi trụy, các cuộc đấu tranh của công nhân lao động đòi dân sinh, dân chủ chống các công ty tư bản Mỹ, chống ngụy quyền đã nổ ra ở các thành thị miền Nam. Để phục vụ âm mưu tăng cường và mở rộng chiến tranh, từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ ra sức xây dựng hàng loạt căn cứ quân sự dọc theo bờ biển, xây dựng và mở rộng các quân cảng, sân bay. Thông qua bọn chủ thầu RMK-BRJ1 và các công ty tư bản khác, đế quốc Mỹ và tay sai đàn áp và bóc lột nặng nề hàng vạn công nhân làm việc ở các công trường xây dựng quân sự. Không cam chịu hành động bóc lột, hành hạ và thái độ miệt thị dân tộc của bọn chủ, công nhân đã vùng lên đấu tranh quyết liệt.

Những tháng cuối năm 1965, hàng ngàn công nhân ở sân bay Trà Nóc (Cần Thơ), công nhân xi măng Hà Tiên, hàng vạn công nhân ở căn cứ quân sự Cam Ranh, Đà Nẵng đã đấu tranh đòi tăng lương, cải thiện đời sống, chống áp bức, bóc lột. Sang năm 1966, phong trào đấu tranh của công nhân ngày càng phát triển mạnh. Ngay những tháng đầu năm, công nhân ở Vĩnh Long, Cam Ranh, Quy Nhơn, Chu Lai, Đà Nẵng, tổ chức nhiều cuộc bãi công chống lại bọn chủ. Tháng 4-1966, công nhân xây dựng cảng mới cho Mỹ ở Sài Gòn bãi công chống chính sách kỳ thị chủng tộc và thái độ đối xử tàn tệ của người Mỹ đối với người Việt Nam. Cuộc đấu tranh của công nhân xây dựng cảng kéo theo cuộc tổng bãi công của 5.000 công nhân người Việt ở hãng thầu xây dựng RMK - BRJ ở Sài Gòn, bao gồm thợ máy, thợ mộc, thợ đúc, thợ nguội, lái xe, ở khắp các cơ sở của hãng này. Cuộc đấu tranh đã làm ảnh hưởng đến tốc độ xây dựng nhiều công trường bậc cao2 của Mỹ ở khu vực Sài Gòn, Biên Hoà.

Sôi nổi nhất trong thời gian này là phong trào đấu tranh chống Thiệu - Kỳ của các tầng lớp nhân dân Huế, Đà Nẵng.

Tháng 6-1965, khi êkíp Thiệu - Kỳ lên cầm quyền, lập tức sinh viên và Phật giáo Huế, Đà Nẵng biểu tình phản đối việc bắt lính trong sinh viên. Cuộc đấu tranh có lúc bột phát, lúc âm ỉ kéo dài mãi đến đầu năm 1966 sau khi Hội đồng quân sự do Thiệu - Kỳ cầm đầu cách chức Nguyễn Chánh Thi - Tư lệnh Quân đoàn I3. Đây là cái cớ để Phật giáo châm ngòi nổ. Sau 24 giờ Thi bị cách chức, hàng ngàn sinh viên xuống đường biểu tình đòi trả lại chức cho Thi, phản đối chính quyền Sài Gòn. Nguyễn Chánh Thi và phe cánh của y ở Huế, Đà Nẵng được phong trào sinh viên hỗ trợ, đã tuyên bố ly khai, chống lại Thiệu - Kỳ. Những ngày sau, hàng ngàn Phật tử nổi dậy cùng sinh viên biểu tình trên các đường phố Đà Nẵng, Huế. Sinh viên và phật tử chiếm Đài phát thanh Huế liên tục viết bài tố cáo chính quyền Thiệu - Kỳ trên sóng phát thanh. Các khẩu hiệu chống Mỹ viết bằng tiếng Anh xuất hiện trên các đường phố Huế, Đà Nẵng. Các tăng ni, phật tử mang bàn thờ, tượng Phật ra chắn các ngả đường, cản trở giao thông. Một cuộc bãi công lớn làm tê liệt thành phố Đà Nẵng. Lợi dụng mâu thuẫn trong các phe phái trong nội bộ địch, đảng bộ các địa phương phát động quần chúng đứng lên chống Mỹ, Thiệu - Kỳ.
___________________________________
1. RMK-BRJ: Hãng thầu lớn nhất của tư bản Mỹ ở miền Nam, độc quyền xây dựng các công trình quân sự cho Mỹ, phụ trách trên 100 công trình và thuê mướn trên 400.000 công nhân, có cả công nhân từ các nước phụ thuộc Mỹ đến.
2. Một đường băng mới cho máy bay phản lực và máy bay vận tải hạng nặng dài 3.045m ở sân bay Tân Sơn Nhất và Biên Hoà; một cơ sở thí nghiệm phim ảnh trinh sát; một trung tâm tình báo và một trung tâm hành quân chiến thuật ở Tân Sơn Nhất; một công trình khai thác trên đường Sài Gòn - Biên Hoà; một toà nhà mới cho sứ quán Mỹ; một bệnh viện dã chiến. Bến số 1 cảng mới Sài Gòn; Một cơ sở chính của RMK-BRJ.
3. Thiệu - Kỳ - Thi từ tháng 6-1965 được xem là bộ ba cầm quyền. Thiệu, Kỳ ở “triều đình”, Thi ở “biên ải”. Theo tổ chức của ngụy quân, ngụy quyền lúc này thì viên tư lệnh một quân đoàn đồng thời là đại biểu chính phủ ở vùng chiến thuật đó. Nguyễn Chánh Thi vừa là Tư lệnh Quân đoàn I ngụy vừa là người cầm đầu ngụy quyền ở năm tỉnh Trung Trung Bộ từ Quảng Ngãi ra đến Quảng Trị bao gồm cả thành phố Huế. Do mâu thuẫn nội bộ, Thiệu, Kỳ muốn kéo Thi khỏi Vùng chiến thuật I như điệu hổ khỏi rừng.
    Ngày 10-3-1966, được sự đồng ý của Mỹ, Kỳ ra quyết định cách chức Nguyễn Chánh Thi, chỉ định tướng Nguyễn Văn Chuân lên thay và đòi Thi về Sài Gòn. Thi cưỡng lại lệnh của Kỳ và nhân đó bắt đầu cuộc ly khai của năm tỉnh Vùng chiến thuật I. Từ đó đến hết tháng 6, ngụy quyền Sài Gòn không còn nắm được Vùng chiến thuật I nữa. Trước tình hình trên, tướng Chuân ngả về phía ly khai. Kỳ phái tướng Tôn Thất Đính ra thay Chuân, vì tưởng rằng Đính vốn người vùng này, có thể xoay xở được. Nhưng ra Huế, Đính cũng đứng về phía Thi, Chuân lên tiếng công kích Thiệu, Kỳ. Kỳ bèn sai tướng Trần Văn Cao ra thay Đính. Cao tới Đà Nẵng ba ngày thì mất chức vì không dám làm gì. Hoàng Xuân Lãm ra thay Cao. Thi, Chuẩn, Đính cùng nhiều tướng tá và một số người khác nữa lập Uỷ ban dân sự và quân sự nhằm kiểm soát phong trào và nhằm vận động cho Mỹ tán thành việc lật đổ Thiệu - Kỳ.
    Nhưng Mỹ vẫn đứng về phía Thiệu - Kỳ nên Kỳ vừa đưa quân từ Sài Gòn ra Đà Nẵng - để đập tan phong trào ly khai và họp Đại hội chính trị toàn quốc để xoa dịu dư luận chống Thiệu - Kỳ. Nhóm Nguyễn Chánh Thi sau khi được biết Mỹ vẫn ủng hộ Thiệu - Kỳ thì bỏ phong trào ly khai trở lại thoả hiệp với Kỳ và chịu số phận “đi chữa bệnh” ở nước ngoài.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 07:08:46 pm

Tại thành phố Huế, cuộc đấu tranh đã hình thành phong trào liên minh hành động giữa nhân dân lao động và Sư đoàn 1 ngụy, đòi ly khai khỏi ngụy quyền Sài Gòn. Cán bộ hợp pháp của ta lồng vào bộ phận lãnh đạo đoàn thanh niên phật tử và các tổ chức sinh viên, học sinh. Thanh niên Huế lập Đội sinh viên quyết tử, học sinh lập Đội xung kích, giáo chức tổ chức lực lượng chống đàn áp. Hàng trăm thanh niên được điều động đi học quân sự, các tiểu thương chợ Đông Ba, nữ sinh trường Đồng Khánh đi làm cứu thương tiếp tế cho quyết tử quân... Hàng trăm binh lính, sĩ quan ngụy bỏ hàng ngũ, lập lực lượng vũ trang ly khai, lấy tên là chiến đoàn Nguyễn Đại Thức1 để làm lá cờ hiệu triệu binh lính tham gia đấu tranh.

Ở Đà Nẵng, quần chúng xuống đường ủng hộ Nguyễn Chánh Thi, chống Thiệu - Kỳ, chống Mỹ, thành lập Hội đồng nhân dân tranh thủ cách mạng và các đoàn thể Tranh thủ cách mạng của công nhân, công chức, học sinh, lao động tự do, phụ nữ các chợ... Cán bộ hợp pháp của ta được bố trí vào bộ phận phụ trách đài phát thanh, ban lãnh đạo Tỉnh hội Phật giáo và lực lượng Nhân dân tranh thủ cách mạng do cánh Nguyễn Chánh Thi tổ chức.

Hình thức đấu tranh của nhân dân Huế, Đà Nẵng bắt đầu là mít tinh, biểu tình nhỏ (12-3), rồi tiến lên bãi công, tổng bãi công, bãi chợ, bãi khoá, làm tê liệt thành phố. Ngày 19-3, Tổng hội sinh viên Huế cử người vào cùng sinh viên, học sinh Đà Nẵng tổ chức một cuộc hội thảo về hai vấn đề: 1. Tác hại của đồng đôla đỏ; 2. Bán nước hay cứu nước. Ngày 30-3-1966, hơn 10 vạn nhân dân Đà Nẵng xuống đường tuần hành thị uy với khẩu hiệu “Thiệu - Kỳ từ chức”, “Mỹ phải rút quân về nước”. Ngày 2-4, gần một nửa số dân thành phố Huế, trong đó có một vạn rưỡi binh lính Quân đoàn I và công chức chính quyền Sài Gòn tuần hành. Ngoài các khẩu hiệu chung nói trên, mỗi giới và đoàn thể đều có yêu sách riêng của mình. Ngày 30-4, nhân dân Đà Nẵng biểu tình lớn. Bộ máy cai trị của ngụy quyền ở Đà Nẵng tê liệt. Nhân dân làm chủ nhiều phố phường, chiếm trụ sở ngụy quyền, đài phát thanh, đập phá Phòng thông tin Mỹ, vây bắt ác ôn. Lực lượng thanh niên lập ra Uỷ ban nhân dân cách mạng giữ gìn trật tự thành phố. Công an, cảnh sát ngụy không hành động. Hàng vạn nông dân ngoại thành kéo vào Đà Nẵng, ủng hộ nhân dân thành phố đấu tranh. Đặc biệt, ngày 3-4, hơn 6.300 quân của Sư đoàn 1 mặc quân phục diễu hành sau đội quân nhạc qua các đường phố Huế, hô to khẩu hiệu đòi lật đổ chính phủ Thiệu.

Ngày 4-4-1966, Thiệu - Kỳ đưa ba tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Nam Việt Nam ra Đà Nẵng hy vọng sự phô trương lực lượng đó sẽ làm cho nhân dân và lực lượng ly khai Đà Nẵng chịu lùi bước, tiếp sau là Huế! Nhưng lúc lính thuỷ đánh bộ ngụy tiến vào căn cứ không quân Đà Nẵng, thì lực lượng ly khai của Thi gồm 2.000 quân do đại tá Đàm Quang Yêu chỉ huy cũng tiến vào căn cứ không quân. Tướng Mỹ Walt phải dàn xếp với đại tá Yêu là không được tiến công căn cứ không quân Đà Nẵng nếu lính thuỷ đánh bộ Sài Gòn không tiến vào Đà Nẵng. Lực lượng ly khai Quân đoàn I ngụy vẫn chĩa đại bác vào căn cứ không quân Đà Nẵng. Tướng Walt đã phải cử đại tá Giôn Sexông (John Chaisson) ra ngăn chặn. Trong khi Sexông nói chuyện thương lượng với Yêu thì máy bay ném bom chiến đấu của hải quân Mỹ lượn trên bầu trời thị uy và đại bác của lính Mỹ cũng chĩa vào các lực lượng ly khai, cùng với việc một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ triển khai chiếm lĩnh các vị trí hoả lực sẵn sàng hành động. Tình hình căng thẳng như sợi dây đàn, nhưng cuối cùng chúng cũng dàn xếp được với nhau. Nhưng cuộc đấu tranh chống Thiệu - Kỳ của nhân dân thành phố Huế, Đà Nẵng lại phát triển cao hơn và lan ra Quảng Trị, Hội An, Quảng Ngãi, v.v...

Trước làn sóng đấu tranh của nhân dân, Thiệu - Kỳ phải xuống thang xin lỗi nhân dân Đà Nẵng. Chúng bày trò “đại hội chính trị”, ra bản Thông cáo 10 điểm và ra Sắc lệnh tuyển cử quốc hội nhằm làm cho quần chúng yên lòng và tạo ra một cái cớ cho phái Phật giáo phản động Thích Tâm Châu hô hào chấm dứt đấu tranh, hợp tác với chính quyền. Xoa dịu, lừa bịp không xong, lại được Mỹ đồng ý, Thiệu - Kỳ bèn ra mặt đàn áp bằng súng đạn. Ngày 15-5, địch điều sáu tiểu đoàn quân chủ lực thuộc lực lượng dự bị chiến lược ra Đà Nẵng. Chúng dùng cả máy bay, xe bọc thép đánh chiếm lại các vị trí trong thành phố, phá huỷ nhiều chùa chiền, đánh đập sư sãi, bắt bớ, giết chóc hàng ngàn người đã biểu tình chặn quân ngụy, cản xe thiết giáp Thiệu - Kỳ. Máy bay Thiệu - Kỳ ném bom xuống Vĩnh Điện nhằm chặn đường và giải toả các đơn vị ly khai không cho kéo về Đà Nẵng.

Qua 76 ngày đêm đấu tranh, phật tử, sinh viên và các tầng lớp nhân dân Huế, Đà Nẵng đã làm cho lực lượng địch suy yếu, mâu thuẫn nội bộ địch càng thêm gay gắt. Phong trào quần chúng thu hút và tập trung được nhiều tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh chống Mỹ, Thiệu - Kỳ. Cơ sở cách mạng trong thành phố Đà Nẵng có điều kiện phát triển vững chắc hơn. Đánh giá sự kiện này, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta nêu rõ: “Cuộc nổi dậy của đồng bào Đà Nẵng chống Thiệu, Kỳ từ tháng 3 đến tháng 5-1966, tuy không đem lại thắng lợi, nhưng đã cho ta một bài học bổ ích về lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch. Lúc đầu cuộc nổi dậy đó không phải do ta chủ động, mà nhân cơ hội nội bộ địch chống đối lẫn nhau, ta đã biết tập họp, phát động quần chúng đứng lên làm chủ thành phố.
___________________________________
1. Nguyễn Đại Thức, thiếu uý thuộc Sư đoàn 1 ngụy bị địch bắn chết trong phong trào ly khai.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 07:09:40 pm

Mặc dù cơ sở đảng mỏng và lực lượng cách mạng trong thành phố không nhiều, các đồng chí ở Đà Nẵng đã làm được việc đó. Thiếu sót ở đây là đảng bộ thành phố chưa tập trung lực lượng lãnh đạo chặt chẽ cuộc đấu tranh, nên đã bỏ lỡ cơ hội giành thắng lợi...”1.

Phối hợp với cuộc đấu tranh của Đà Nẵng, Huế, ngày 28-3-1966, sinh viên Viên đại học Đà Lạt cùng học sinh các trường trung học Trần Hưng Đạo, Bùi Thị Xuân, Bồ Đề bãi khoá đòi dân chủ, cải thiện đời sống, biểu tình kéo đến chợ Đà Lạt kêu gọi đồng bào bãi thị. Ngày 1-4-1966, trên 3.000 quần chúng mít tinh ở khu vực triển lãm Hoà Bình với khẩu hiệu “Mỹ phải tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam”, “Hoà bình ở Việt Nam phải được giải quyết”. Đoàn biểu tình kéo đến Phòng thông tin Mỹ trao tuyên bố đòi Mỹ rút khỏi Đà Lạt và đến toà thị chính đòi thị trưởng Đà Lạt giải quyết ba yêu sách:

1. Đài phát thanh và xe thông tin của chính quyền phải thông báo tin tức cuộc đấu tranh cho nhân dân biết.

2. Cấp một trụ sở để hoạt động.

3. Bảo vệ an toàn cho lực lượng đấu tranh.

Đoàn biểu tình chiếm đài phát thanh để truyền đi các tin tức đấu tranh, phát bản tuyên bố Việt Nam mười muốn, mười không (muốn hoà bình, độc lập, tự quyết... không muốn bị đàn áp, bóc lột, không muốn làm lính đánh thuê...). Địch huy động lính và cảnh sát chiếm lại đài phát thanh. Lực lượng đấu tranh được quần chúng ủng hộ, kiên quyết chống lại mãi đến ngày 4-4 mới đốt đài phát thanh rồi rút lui. Chợ Hoà Bình bị nhân dân chiếm giữ, địch phải huy động cảnh sát dã chiến, lính biệt động đến đàn áp mới giành lại được. Ngày 21-4, bọn ác ôn bắn chết bốn học sinh, lập tức hàng vạn quần chúng xuống đường biểu tình tuần hành. Thanh niên, học sinh tổ chức “những đêm không ngủ”, “đốt lửa trại để nhìn rõ mặt kẻ thù”, tổ chức toà án xử tội phạm chiến tranh... ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Đà Lạt, nhân dân các thị xã Blao, Buôn Ma Thuộc, Phan Thiết, Phan Rang tổ chức bãi công. Ở Nha Trang, thanh niên, học sinh biểu tình đòi lật đổ Thiệu - Kỳ, phản đối ngụy quyền bán Cam Ranh cho Mỹ.

Ngay từ giữa tháng 3-1966, khi cuộc đấu tranh của nhân dân Đà Nẵng, Huế diễn ra đã được sự ủng hộ, phối hợp đấu tranh của nhân dân Sài Gòn. Cùng Huế, Đà Nẵng, nhân dân Sài Gòn tổ chức liền “sáu đêm không ngủ”, mỗi đêm hàng vạn người tham gia, đỉnh cao là đêm 7-4-1966, hàng chục vạn người Sài Gòn bất chấp lệnh cấm và lệnh giới nghiêm kéo đến bao vây nơi làm việc của Nguyễn Cao Kỳ, đòi Thiệu - Kỳ phải từ chức. Nhiều ngày liên tiếp có biểu tình, có xung đột với cảnh sát. Trong chín, mười đêm, lực lượng biểu tình ném đuốc vào cảnh sát, quân cảnh ngụy, chặt cây, lật xe cản đường, dựng rào giữa phố, đốt lửa chặn ôtô địch.

Như vậy, những tháng đầu năm 1966 phong trào đấu tranh chống Mỹ, chống Thiệu - Kỳ ở các thành thị miền Nam diễn ra quyết liệt, sâu rộng nhất từ trước tới lúc này. Phong trào ấy phát triển đều khắp với đủ mọi giới đồng bào tham gia, kể cả binh sĩ và nhân viên ngụy quân, ngụy quyền. Một mặt trận liên hiệp chống Mỹ và bọn tay sai đã hình thành mà nòng cốt là phong trào đấu tranh của công nhân các thành thị.

Cùng với cuộc đấu tranh của đồng bào thành thị, cuộc đấu tranh chống địch bình định của nhân dân nông thôn miền Nam diễn ra giằng co quyết liệt. Bình định và chống bình định thực chất là cuộc đấu tranh giữ dân, giữ đất chống lại âm mưu cướp dân, lấn đất của địch. Cuộc đấu tranh chống phá kế hoạch bình định của Mỹ - ngụy trong mùa khô 1965 - 1966, tuy mới là khởi đầu, nhưng đã diễn ra phức tạp và vô cùng ác liệt. Bài học nắm dân, nắm đất, nắm lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Pháp, chống tố cộng, diệt cộng, chống dồn dân, lập ấp chiến lược trước đây, đã được phát huy và nâng lên một trình độ mới trong đấu tranh chống bình định của địch.

Quảng Nam là một trong những tỉnh trọng điểm bình định của địch ở khu V. Địch tập trung quân ra sức đánh phá các vùng nông thôn đồng bằng với thủ đoạn càn quét đốt sạch, phá sạch, giết sạch. Khi quân Mỹ - ngụy càn quét đánh phá ác liệt hai xã Lộc Hưng, Lộc Phong (Đại Lộc) mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các vùng xung quanh, thì nhân dân ở đây một số bị địch xúc vào các khu dồn, số khác chạy ra ngoài để tránh bom đạn. Vùng giải phóng trở nên thưa dân, trắng đất. Cán bộ, du kích bật sang vùng B Đại Lộc và Duy Xuyên. Tình hình nhiều nơi trong tỉnh gặp khó khăn.
___________________________________
1. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr. 181.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 07:14:24 pm

Để đối phó với thủ đoạn mới của địch, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ họp nhận định địch sẽ ra sức thực hiện từng bước kế hoạch bình định, đánh phá ra ngoài để lập ấp kìm dân. Hội nghị quyết định: kiên quyết trụ bám đánh địch, giành giữ dân với phương châm: “Đảng bám dân; dân bám đất; bộ đội, du kích bám địch”.

Phương châm đó được quán triệt xuống tận cán bộ cơ sở và quần chúng nhân dân. Những cán bộ, du kích bị bật ra ngoài đã quay về địa phương, đào hầm bí mật, xây dựng, củng cố làng chiến đấu, khôi phục lại phong trào, kiên quyết giữ vững vùng giải phóng.

Cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân kiên trì thực hiện phương châm ba bám: Đảng bám dân1 ; dân bám đất; bộ đội, du kích bám địch. Thực hiện phương châm này, lực lượng ta chẳng những không bị địch đánh bật ra khỏi cơ sở, mà còn phát huy được phong trào toàn dân đánh giặc, giữ được đất, được dân.

Nhân dân huyện Hoà Vang dấy lên phong trào “một tấc không đi, một ly không rời”, tổ chức “lễ ăn thề” sống chết có nhau, quyết không rời bỏ quê hương. Đồng bào xã Hoà Liên bị địch xúc vào khu dồn đã đoàn kết đấu tranh quyết liệt, phá lán trại bung về làng cũ. Du kích xã Hoà Hiệp ngày đêm lăn lộn với phong trào địa phương, nhiều khi phải chôn mình trong cát bỏng để ngụy trang phục kích bám đánh địch, vận động nhân dân trở về dựng lại nhà ở, đào hầm hào, bám ruộng đồng sản xuất.

Tỉnh Long An là tỉnh trọng điểm bình định của địch ở Nam Bộ. Mỹ - ngụy đã huy động nhiều máy bay, xe bọc thép, mở các cuộc hành quân chà đi xát lại nhiều vùng trong tỉnh, đốt hàng vạn nóc nhà, bắt đi hàng vạn dân, tàn sát không biết bao nhiêu người dân vô tội. Tại Đức Huệ, mùa nước nổi (1966), nước ngập cả quận, chỉ có những gò cao và lùm cây ló trên mặt nước, đồng bào phải đeo bám vào đó. Thừa cơ, địch cho máy bay sà sát mặt nước đuổi bắn từng con trâu, chiếc xuồng. Máy bay lên thẳng xúc hàng trăm đồng bào vào trại tập trung. Khó khăn như vậy nhưng Đức Huệ vẫn kiên cường đánh địch, đồng bào bị xúc lần lượt trốn về, dân bám làng mà sản xuất, quân bám địch mà đánh, cán bộ bám dân mà hoạt động. Long An được Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam tuyên dương là tỉnh gương mẫu phá càn quét, bình định của địch.

Cùng với đấu tranh quân sự chống lại các cuộc càn quét, bình định, mũi đấu tranh chính trị, trực tiếp giáp mặt với kẻ địch cũng được phát triển. Ở Thủ Dầu Một, hàng trăm đồng bào hai xã An Sơn, An Thịnh kéo lên đấu tranh trực diện với tên tỉnh trưởng chống rải chất độc hoá học, đòi chúng không được bắn pháo bừa bãi, kêu gọi binh lính địch quay súng trở về với nhân dân. Ở Củ Chi, quân Mỹ bắt mọi người ký vào văn bản “mời Mỹ ở lại ba năm”, đồng bào lập tức trả lời: Mỹ mới vào có ít ngày mà đã tan nát làng xóm, nếu Mỹ ở lại ba năm thì dân chết hết, nên bà con không ký. Nhân dân các xã Phước Hiệp, Phước Vĩnh An, tay không chặn đầu từng đoàn xe ủi đất, xe bọc thép, xe tăng địch đi càn. Ở xã Trung Lập, một đoàn xe M113 tiến vào cánh đồng lúa đang chín, mấy chục nông dân dang tay nhau cản đầu đoàn xe. Súng địch bắn uy hiếp, đoàn người vẫn xông lên, buộc địch phải dừng lại.

Ở Phước Long, vào giữa năm 1966, đội công tác miền núi Bà Rá được thành lập. Phạm vi hoạt động của đội gồm các xã Phước Hoà, Phước Tín, Sơn Giang, Tú Hiền và thị xã Phước Long. Nhiệm vụ chính của đội là xây dựng cơ sở đảng, cơ sở chính trị trong quần chúng cách mạng, phát động nhân dân diệt ác, phá kìm kẹp... Nhờ biết tin tưởng vào đồng bào các dân tộc, biết dựa vào dân, vì dân mà sống chết hoạt động, từng bước đội đã xây dựng được những căn cứ trong lòng dân. Từ vùng yếu, các địa phương trên đã phát triển thành vùng có cơ sở mạnh. Các chi bộ đảng, các cơ sở quần chúng trung kiên đã lãnh đạo đồng bào các dân tộc đứng lên đấu tranh với địch đòi dân sinh, dân chủ, chống bắt lính, chống lập vành đai trắng, đòi phá ấp trở về làng cũ. Ngoài ra, đội công tác cùng các cơ sở đảng bí mật xây dựng được nhiều cơ sở binh vận trong hàng ngũ địch ở Sơn Giang, Sơn Trung, Phước Bình, Nhân Hoà, Tự Lập, An Lương. Nhờ đó, khi lực lượng ta đánh vào, bọn dân vệ nhanh chóng tan rã vì có cơ sở nội ứng mạnh.

Tại Bến Tre, địch mở Trung tâm huấn luyện Hưng Điền, cách thị xã 2km về phía đông bắc. Chúng tập hợp về đây hơn 400 tên dân vệ, bảo an và lực lượng “xây dựng nông thôn” để huấn luyện về bình định. Do làm tốt công tác binh vận, ta đã xây dựng được hai cơ sở vào trong lực lượng này. 24 giờ ngày 13-4-1966, sau khi đã bắt được liên lạc với cơ sở bên trong, các trận địa cối của ta ở phía tây huyện Châu Thành, Giồng Trôm, thị xã Bến Tre bắn kiềm chế pháo địch. Bộ đội ta (gồm Tiểu đoàn 516 được tăng cường một đại đội trợ chiến, một đại đội đặc công) nhanh chóng nổ súng xung phong. Sau hơn một giờ chiến đấu, ta đã diệt gần 300 tên, bắt sống 98 tên khác, thu 200 súng và gần hai tấn đạn dược, phá huỷ ba xe quân sự. Diệt Trung tâm huấn luyện Hưng Điền, ta đã đánh trúng vào lực lượng nòng cốt bình định của địch ở nông thôn.
___________________________________
1. Chi bộ bám dân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 07:15:36 pm

Cùng với thắng lợi to lớn trên mặt trận quân sự, công tác chống phá bình định cũng thu được kết quả bước đầu rất quan trọng. Kế hoạch bình định năm 1966 của địch là bình định 900 ấp, củng cố 1.900 ấp. Nhưng đến tháng 6, quân dân ta ở Nam Bộ đã phá sạch 2.668 ấp. Khu VI phá 238 ấp trong tổng số 360 ấp, giải phóng 203.345 dân trong tổng số 744.400 dân; Khu V, Tây Nguyên và Trị - Thiên vùng giải phóng các tỉnh được mở rộng, liên hoàn với 2.125.000 dân đã giành được quyền làm chủ 233.000 dân còn trong vùng tranh chấp giữa ta và địch. Ngay những vùng địch tập trung lực lượng để bình định như Long An, Củ Chi, Quảng Nam, Quảng Ngãi những làng xã chiến đấu cũng mọc lên liên hoàn. Tuy nhiên, do những biện pháp thâm hiểm của địch, ở một số địa phương còn lúng túng không có biện pháp hữu hiệu để chống lại có kết quả kế hoạch bình định của địch.

Cuộc chiến tranh ở miền Nam thực chất là cuộc chiến tranh giành đất, giành dân giữa ta và địch, nên cuộc chiến đấu chống địch bình định tiếp theo sẽ còn diễn ra gay go, quyết liệt. Đây là một mặt trận thể hiện cuộc đấu tranh ai thắng ai giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa nhân dân Việt Nam yêu nước chính nghĩa với đế quốc Mỹ xâm lược và bọn tay sai.

Phong trào đấu tranh chính trị ở thành thị và nông thôn chống Mỹ - ngụy đã góp phần tăng thêm uy thế cho lực lượng cách mạng, thúc đẩy hàng vạn binh lính ngụy đào, rã ngũ và lôi cuốn được nhiều sĩ quan và binh sĩ địch ngả về phía nhân dân, hỗ trợ tích cực cho các cuộc tiến công quân sự của lực lượng vũ trang giải phóng đạt hiệu quả ngày càng cao.

Nhìn tổng quát, trong cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966, kẻ địch đã tập trung hầu như toàn bộ lực lượng cơ động của Mỹ, Việt Nam Cộng hoà và quân các nước phụ thuộc Mỹ, huy động tối đa cơ sở vật chất và binh khí kỹ thuật, sử dụng mọi thủ đoạn, biện pháp đánh phá dã man tàn bạo nhất hòng làm xoay chuyển cuộc chiến tranh có lợi cho chúng. Nhưng diễn biến trên chiến trường ngược lại với tham vọng của Mỹ, làm cho giới lãnh đạo ở Nhà Trắng, Lầu Năm góc và chính quyền Sài Gòn sững sờ, bối rối, vì chúng không thực hiện được những mục tiêu đề ra. Đó là:

- Không tiêu diệt được một đơn vị nhỏ nào của Quân giai phóng.

- Không diệt và phá được phong trào du kích chiến tranh và căn cứ của ta.

- Không làm cho chính quyền Thiệu ổn định.

- Không cắt đứt được đường mòn Hồ Chí Minh.

- Không làm cho ý chí của Hà Nội lung lay...

Càng leo thang chiến tranh, chiến tranh càng ác liệt, đế quốc Mỹ càng bị sa lầy. Nhà Trắng, Lầu Năm góc Mỹ cũng nhận thấy: Đến giữa năm 1966 tình hình đã trở nên rõ ràng là sức mạnh quân sự của Mỹ không thể nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam. Hy vọng không lực Mỹ sẽ làm tê liệt Việt Nam hoặc đập tan ý chí của các lãnh tụ cộng sản Việt Nam cũng phai nhạt dần1. Trong khi đó, nội bộ chính quyền Mỹ có sự phân hoá ngày càng rõ rệt xung quanh chính sách tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam trong nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới ngày càng phát triển rộng rãi. Những cuộc biểu tình của nhân dân Mỹ chống chính sách chiến tranh của chính quyền Oasinhtơn diễn ra liên tục trên 15 thành phố nước Mỹ, lôi cuốn nhiều nghị sĩ quốc hội (khoảng 70 nghị sĩ) tham gia. Các nhóm chống chiến tranh ở Mỹ lập ra Uỷ ban phối hợp toàn quốc nhằm thống nhất hành động đấu tranh đòi chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược. Đi đôi với những cuộc biểu tình phản đối chiến tranh, đòi chính quyền Mỹ rút quân Mỹ về nước, đòi không ủng hộ Thiệu, thanh niên, sinh viên Mỹ đốt thẻ quân dịch, không đi lính sang Việt Nam. Rôgiơ Lapóctơ và Noócman Morixơn tự thiêu trước trụ sở Liên hợp quốc và Lầu Năm góc để phản đối chính quyền Mỹ gây nên cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam đã làm xúc động sâu sắc lương tri nhân loại. Cùng với tình hình trên đây, nước Mỹ bắt đầu lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính, đồng đôla sụt giá, đời sống nhân dân Mỹ giảm sút. v.v.. đã làm xáo động tình hình chính trị nước Mỹ. Nhưng Tổng thống Mỹ L.Giônxơn và phe hiếu chiến trong giới lãnh đạo ở Nhà Trắng, Lầu Năm góc và Quốc hội Mỹ vẫn ngoan cố, bất chấp tất cả lẽ phải, bất chấp thất bại ở Việt Nam và mặc cho làn sóng phản đối của nhân dân Mỹ và nhân dân tiến bộ thế giới, chúng càng lao sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với hy vọng sẽ chiến thắng trong cuộc chiến tranh. Điều đó đã làm cho cuộc chiến tranh ngày càng trở nên ác liệt.


*
*   *


Đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất của Mỹ và làm phá sản kế hoạch bình định của địch ở miền Nam, cùng với chiến thắng oanh liệt chống chiến tranh phá hoại của Mỹ của quân dân ta trên miền Bắc, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng là đã đánh thắng hiệp đầu chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ. Chiến tranh nhân dân Việt Nam đã tỏ rõ tính ưu việt của nó, có đủ khả năng đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ dưới bất cứ hình thức, quy mô nào.
___________________________________
1. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, bản đánh máy, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, VL1266/83, t. IV, tr. 1 - 2.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:08:43 pm

CHƯƠNG 16
GIỮ VỮNG THẾ CHỦ ĐỘNG TIẾN CÔNG ĐỊCH,
MỞ MẶT TRẬN ĐƯỜNG 9 - BẮC QUẢNG TRỊ


I- MỞ CUỘC TIẾN CÔNG HÈ - THU 1966,
PHÁ KẾ HOẠCH CHUẨN BỊ MÙA KHÔ CỦA ĐỊCH


Bị thất bại nặng nề trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất 1965 - 1966 trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai càng lâm vào thế bị động lúng túng. Từ chủ trương chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” nhằm “bẻ gẫy xương sống” của “Việt cộng” là quân chủ lực Mặt trận dân tộc giải phóng, nhưng sau thất bại liên tiếp trên chiến trường, buộc chúng phải thừa nhận “cuộc chiến tranh ở Việt Nam là lâu dài và khó khăn chưa thể lường hết được”1.

Với tham vọng làm bá chủ thế giới, đế quốc Mỹ rất ngoan cố, dính líu ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chúng bàn mưu, tính kế chuẩn bị cho bước phiêu lưu quân sự mới. Trong cuộc họp ở Hônôlulu cuối tháng 4-1966, nhiều ý kiến của giới quân sự hàng đầu nước Mỹ sau những ngạc nhiên trước cường độ tiến công của lực lượng vũ trang giải phóng vẫn quả quyết rằng: muốn đánh bại quân chủ lực “Việt cộng”, quân Mỹ và đồng minh cùng quân lực Việt Nam cộng hoà phải làm hai việc: một là, tiếp tục tập trung lực lượng, phương tiện nhiều hơn nữa đánh phá mạnh mẽ, triệt để cơ quan đầu não Mặt trận Dân tộc giải phóng ở miền Đông Nam Bộ và một số tỉnh trọng điểm ở miền Trung Trung Bộ, Tây Nguyên; hai là, tiến hành đồng bộ, toàn diện “chương trình bình định mới” ở các vùng nông thôn nhằm “tái thiết hương thôn”, thực hiện “cuộc cách mạng xã hội - kinh tế”, kiên quyết “chống đói nghèo, bệnh tật, dốt nát”. Đó chính là chương trình “chiến tranh trên hai mặt trận” do Lầu Năm góc vạch ra được Bộ chỉ huy Mỹ - ngụy ở Sài Gòn thực thi triệt để. Vào đầu mùa mưa, mặc dù tình hình chính trị ở Nam Việt Nam không ổn định, các hoạt động quân sự chống “Việt cộng” giảm từ 50% đến 70%, nhưng Oétmolen vẫn tập trung thực hiện ba mục tiêu của Kế hoạch năm điểm do y vạch ra hồi đầu năm 1966 là:

- Bình định giành dân có trọng điểm, đánh phá hậu cần dự trữ của đối phương.

- Ổn định tình hình chính trị, củng cố ngụy quân, ngụy quyền.

- Khai thông hệ thống giao thông giữa các căn cứ, các khu vực và vùng lãnh thổ...

Mỹ và Sài Gòn tin rằng, nếu các “binh đoàn hùng hậu” của quân Mỹ và đồng minh đang đứng chân ở đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, Khu V và Tây Nguyên thực hiện tốt việc củng cố xây dựng hệ thống căn cứ đồn bốt (hệ thống phòng thủ), bình định nông thôn có hiệu quả; đồng thời quân Mỹ được tăng cường theo yêu cầu. thì mùa mưa này chúng hy vọng sẽ giành được quyền chủ động trên chiến trường, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc phản công mùa khô 1966 - 1967.

Để thực hiện mưu đồ trên, khi chấm dứt cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ lo củng cố nhiều vùng chiến lược quan trọng nhất là các vùng dọc theo các tuyến quốc lộ 1, 4, 13, 19, 21, nhằm hỗ trợ cho quân đội Sài Gòn mở các cuộc hành quân càn quét, hành quân bình định, gom dân, lập ấp chiến lược. Chiến thuật phòng ngự cụm cứ điểm liên hoàn kết hợp với càn quét và bình định vùng chung quanh căn cứ, địch không chỉ có âm mưu ngăn chặn ta đánh lớn, buộc ta phải phân tán lực lượng, đẩy chủ lực ta lên rừng núi, mà còn nhằm tạo ra khoảng không gian bảo đảm an toàn cho quân Mỹ. Do đó, bước vào mùa mưa, không quân Mỹ mỗi tháng trung bình ném xuống các làng xã, đường hành lang của ta 50.000 tấn bom mà 213 số đó là ở miền Nam, xấp xỉ số bom đạn Mỹ đã ném xuống Triều Tiên trong ba năm. Các tỉnh Long An, Tây Ninh, Gia Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai, đặc biệt vùng đất thép Củ Chi, máy bay địch đánh phá liên tục có đợt kéo dài 20 ngày liền. Nhiều làng xã miền Nam trở thành vùng trắng, đồng bào ta phải sinh hoạt, chiến đấu trong lòng đất bằng hệ thống hầm hào, địa đạo. Song song với việc ném bom, bắn phá triệt hạ xóm làng, cày xới ruộng, vườn, quân đội Sài Gòn được Mỹ hỗ trợ càn quét liên miên hòng phá các căn cứ du kích và diệt chủ lực Quân giải phóng.

Cùng với việc mỏ hàng trăm cuộc hành quân càn quét, gom dân lập ấp chiến lược, đế quốc Mỹ dồn dập đưa vào miền Nam Việt Nam Lữ đoàn 1 và Lữ đoàn 3 (12-1966) thuộc Sư đoàn bộ binh số 9; Lữ đoàn 2 (8-1966), Lữ đoàn 1 (10-1966) thuộc Sư đoàn bộ binh số 4, cùng hàng chục vạn tấn phương tiện chiến tranh hiện đại. Tháng 8 và tháng 11, hai lữ đoàn bộ binh nhẹ 196, 199 đến Nam Việt Nam chiếm đóng Hội An và Long Bình. Tháng 10-1966, Sư đoàn không quân 834 đến sân bay Tân Sơn Nhất. Các phi đoàn máy bay chiến đấu chiến thuật 31, 35, 336; Phi đoàn vận tải 483 hạ cánh xuống các sân bay Tuy Hoà (Phú Yên), Phan Rang (Ninh Thuận), Đà Nẵng (Quảng Nam - Đà Nẵng), Cam Ranh (Khánh Hoà). Vào thời điểm cuối năm 1966, tổng quân số Mỹ có mặt ở Nam Việt Nam lên tới 390.000 tên, đông gấp hai lần năm 1965.

Đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh quy mô ngày càng lớn, làm cho cuộc chiến ở miền Nam diễn biến phức tạp và rất ác liệt.
________________________________________
1. Xem: Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng và Hồ Chủ tịch... thi đua lập công quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Tạp chí Quân đội nhân dân, số 8-1966.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:10:26 pm

Cuối tháng 4-1966, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho quân, dân ta trên các chiến trường sử dụng một bộ phận thích hợp bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương kiên quyết đánh bại các cuộc hành quân càn quét, hành quân bình định của địch, giữ vững các vùng căn cứ và thế trận của ta. Giữa tháng 6-1966, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ đạo các chiến trường tranh thủ mùa mưa tích cực chuẩn bị, xây dựng lực lượng, đồng thời mở đợt hoạt động quân sự trên cả ba vùng chiến lược, vận dụng sáu phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân, đánh bại các cuộc hành quân càn quét, hành quân bình định của địch, phá kế hoạch chuẩn bị cho mùa khô của chúng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.

Sáu phương thức tác chiến chiến lược được thể nghiệm trong mùa mưa 1966 là biểu hiện của sự tích cực, chủ động, kiên quyết và liên tục tiến công tiêu diệt địch bằng các lực lượng và hình thức tác chiến phù hợp, giữ vững và mở rộng thế làm chủ của cách mạng ở mọi nơi, mọi lúc. Vận dụng có hiệu quả sáu phương thức tác chiến này, ta buộc địch phải phân tán lực lượng ra để đối phó một cách lúng túng, bị động, khiến cho chúng có quân đông mà hoá ít, mạnh mà hoá yếu, phương tiện cơ động nhanh, nhưng không kịp thời chi viện lẫn nhau, không biết tập trung lực lượng vào nơi nào.

Quán triệt phương thức tác chiến ấy, quân và dân miền Nam đã vượt qua bom đạn ác liệt và sự khắc nghiệt của thời tiết mưa lũ triền miên, bám trụ kiên cường, chủ động mở cuộc tiến công Hè - Thu quy mô cấp tiểu đoàn, trung đoàn vào lực lượng Mỹ cũng như ngụy Sài Gòn.

Ở miền Đông Nam Bộ - điểm nóng nhất sau cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, đầu tháng 4-1966, quân Mỹ và quân ngụy mở hàng chục cuộc hành quân càn quét với lực lượng từ tiểu đoàn đến trung đoàn ra các vùng giải phóng, các trục đường giao thông ở đông bắc, tây và tây nam Sài Gòn - Gia Định, hòng liên kết các chi khu, căn cứ, đồn bốt đang bị cô lập lại với nhau. Âm mưu của địch trong mùa mưa là “co cụm bảo toàn lực lượng, tránh những trận đánh lớn, chuẩn bị cho cuộc phản công lần thứ hai khi mùa khô đến”. Bộ chỉ huy Miền đã chỉ đạo quân và dân các tỉnh trong khu vực tích cực chủ động đánh địch, kiên quyết làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của chúng. Ngày 9-4-1966, khi phát hiện được Bộ chỉ huy Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ cho hai lữ đoàn cùng với Lữ đoàn dù 173 và quân đồng minh Ôxtrâylia, Niu Dilân mở cuộc hành quân càn quét vào một số vùng thuộc các huyện Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa, Sư đoàn 5 bộ binh chủ lực Miền và du kích địa phương đã kịp thời tổ chức đánh trả. Tại huyện Long Đất, trưa ngày 10-4-1966. Trung đoàn 4 (Sư đoàn 5) chặn đánh một tiểu đoàn Mỹ càn quét từ Xuân Sơn vào Tầm Bó. Với thế trận chuẩn bị sẵn, sau nửa ngày chiến đấu, quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên Mỹ, bẻ gẫy mũi tiến công chính, buộc địch phải dừng lại giải quyết hậu quả. Phát huy thành tích đã đạt được, trưa ngày11-4-1966, quân và dân Bà Rịa tiếp tục tiến công một tiểu đoàn Mỹ đang càn quét hỗ trợ cho quân ngụy lập ấp chiến lược ở xã Lâm Xuân, đánh thiệt hại tiểu đoàn này, thu gần 100 súng các loại, cắt đứt đường số 2 từ Bình Giã đi Bà Rịa, hỗ trợ nhân dân phá banh hàng chục ấp chiến lược.

Địa bàn Bà Rịa - Long Khánh chẳng những là bức bình phong bảo vệ phía đông, đông nam Sài Gòn, mà còn là nơi có rừng núi, sông suối nối liền với cao nguyên Lâm Đồng ở phía bắc, Vũng Tàu ở phía nam, Biên Hoà, Bình Dương ở phía tây, rất thuận tiện cho việc hành quân, trú quân và xây dựng căn cứ địa của lực lượng cách mạng. Do vậy, dù bị ta đánh đi đánh lại trong hai tháng 3 và 4-1966, Mỹ và ngụy vẫn không cam chịu thất bại tiếp tục ra lệnh cho Lữ đoàn 2, Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ, Tiểu đoàn 3 lính Hoàng gia Ôxtrâylia, hai chi đội xe thiết giáp thuộc Trung đoàn 11 và một đại đội pháo binh Niu Dilân mở cuộc hành quân càn quét Anđi Hốc vào vùng giải phóng Long Phước nhằm tiêu diệt căn cứ Tỉnh uỷ Bà Rịa - Long Khánh, thiết lập vành đai an toàn cho Sài Gòn. Ngày 6-5-1966, sau gần một tuần dùng phi pháo đánh phá rất ác liệt vào các khu vực Minh Đạm, Hắc Dịch. Đất Đỏ, Cẩm Mỹ, Rừng Lá và nhiều điểm dọc các tuyến đường số 1, 15, 20, 2, 52, các đơn vị quân Mỹ và đồng minh của Mỹ ồ ạt đổ bộ vào Long Phước hòng diệt lực lượng cách mạng ở vùng này. Được sự chỉ đạo chặt chẽ kịp thời của Bộ Tư lệnh Miền, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 4 (Sư đoàn 5), Tiểu đoàn 445 tỉnh Bà Rịa - Long Khánh đã vượt qua gian khổ, ác liệt tổ chức chống càn bảo vệ chiến khu Long Phước. Từ ngày 6-5 đến ngày 29-5-1966, Trung đoàn 4 bộ binh và lực lượng vũ trang địa phương bám sát mọi hoạt động của quân Mỹ, tổ chức tập kích vào các vị trí đóng quân của địch. Ngày 8-5, Tiểu đoàn 1 kết hợp với Tiểu đoàn 445 đánh lui hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 2 Mỹ càn quét vào trung tâm Long Phước, bắn cháy hai xe tăng, một máy bay lên thẳng, loại khỏi vòng chiến đấu một đại đội Mỹ. Ngày 29-5, Tiểu đoàn 2 tập kích cụm quân Mỹ ở Trảng Chim, diệt và làm bị thương hàng chục tên Mỹ. Bị tiến công dồn dập, tổn thất nặng nề, quân Mỹ và quân đồng minh của chúng phải co cụm chống đỡ trong thế tiến thoái lưỡng nan. Cuối cùng địch phải bỏ dở cuộc hành quân.

Cùng thời gian này, Trung đoàn 5 thuộc Sư đoàn 5 bộ binh Quân giải phóng hoạt động ở khu vực tam giác đường số 1, số 20 và số 2 thuộc địa phận Long Khánh - Hoài Đức đã bao vây Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 52, Sư đoàn 18 quân ngụy đang càn quét gom dân lập ấp chiến lược ở khu vực Ông Đồn - đường số 20. Sáng ngày 18-6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 5 Quân giải phóng tiêu diệt một đại đội địch hành quân trên đường số 20, phá huỷ sáu xe quân sự. Địch cho hai đại đội của Tiểu đoàn 1 và sáu xe M113, có máy bay và pháo binh yểm trợ đánh vào khu vực quân ta chốt giữ. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 5 Nguyễn Thới Bưng hạ lệnh cho Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 1 đánh vỗ mặt, chia cắt, diệt từng bộ phận đội hình địch. Bị đánh từ ba hướng, địch bỏ súng, bỏ xe tháo chạy tan tác. Trong trận này, Trung đoàn 5 bộ binh Quân giải phóng tiêu diệt một tiểu đoàn ngụy, bắn cháy 16 xe quân sự, thu 75 súng các loại. Với thành tích đạt được trong trận đánh, Trung đoàn 5 và Tiểu đoàn 3 được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng hai. Chiến thắng Long Phước - Ông Đồn, đường số 2 và 20 trong hai tháng 5 và 6-1966 của Sư đoàn 5 và lực lượng vũ trang Bà Rịa - Long Khánh đã phá tan ý đồ lập “lá chắn thép” bảo vệ phía đông Sài Gòn của địch. Nó là nguồn cổ vũ, động viên quân và dân miền Đông Nam Bộ vượt qua mọi khó khăn, ác liệt, giữ vững thế trận tiến công địch.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:11:37 pm

Tại tỉnh Long An, ngày 17-4-1966, Lữ đoàn 2, Sư đoàn 25 Mỹ đóng quân tại Đồng Dù mở cuộc hành quân càn quét vùng Đức Hoà. Tỉnh đội Long An đã chủ động sử dụng Tiểu đoàn 269 phối hợp với bộ đội địa phương và du kích huyện Đức Hoà chặn đánh quyết liệt các cánh quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục lính Mỹ, thu 13 súng các loại. Giữa tháng 5-1966, quân Mỹ ở Đồng Dù lại mở cuộc hành quân càn quét bốn xã phía tây hai huyện Đức Hoà, Đức Huệ nhằm “loại trừ các tụ điểm hoạt động của Việt cộng”. Nhưng một lần nữa quân Mỹ đi càn lại rơi vào thế trận của chiến tranh nhân dân tỉnh Long An, gần 100 tên Mỹ bị du kích phục kích và sập hầm chông, vướng mìn, cạm bẫy, chúng buộc phải bỏ ý định “làm sạch cỏ Đồng Tháp Mười trước mùa mưa 1966”. Tỉnh Tây Ninh - một trong những trọng điểm đánh phá tự do của phi pháo địch. Những ngày cuối tháng 4 đầu tháng 5-1966, Mỹ - ngụy đã ném đủ loại bom đạn các cỡ vào các vùng Cà Tum, Xa Mát, Lò Gò, Xóm Giữa... và dọc sông Vàm Cỏ, hòng diệt các cơ quan Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam. Cùng với việc dùng phi pháo đánh phá ác liệt căn cứ của ta, địch mở hàng chục trận càn quét vào các vùng lõm, vùng ven - nơi bộ đội và du kích đang bám trụ. Ngày 16-4-1966, quân Mỹ huy động ba tiểu đoàn lính Mỹ có hàng chục xe thiết giáp yểm trợ hành quân càn quét ba xã An Tịnh, Gia Lộc, Lộc Hưng huyện Trảng Bàng. Ngày 20-4-1966, quân Mỹ-ngụy ở thị xã Tây Ninh cho hai tiểu đoàn có máy bay và pháo binh chi viện, mở cuộc hành quân giải toả tỉnh lộ 22 nhằm nới rộng vành đai an toàn cho khu vực Thiện Ngôn, Tân Biên... Với tinh thần chủ động tiến công tiêu diệt địch, trong bốn ngày từ 17 đến 20-4, quân dân hai huyện Trảng Bàng, Tân Biên đã đánh hơn 20 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 195 tên Mỹ, bắn cháy 10 xe M113, bắn rơi hai máy bay lên thẳng, buộc chúng phải bỏ dở cuộc hành quân. Giữa tháng 5-1966, quân dân vùng ven Sài Gòn - Gia Định liên tục đánh nhỏ tiêu hao lực lượng quân Mỹ và quân ngụy đóng ở trong các thị trấn, thị tứ, trại lính, làm cho chúng phải nơm nớp lo sợ. Đêm 21-5, một tiểu đoàn bộ đội chủ lực Miền, tập kích Trường Huấn luyện lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Thủ Đức, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên. Năm ngày cuối tháng 5, bộ đội địa phương và du kích hai huyện Gò Vấp, Hóc Môn liên tiếp tiến công địch, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên, bức rút hai đồn. Trong suốt hai tháng 4 và 5, Mỹ và quân đội Sài Gòn dùng xe cày ủi và đốt phá làng mạc, ruộng vườn để lập vành đai trắng. Quân và dân Củ Chi đã anh dũng bám trụ địa đạo, bắn tỉa diệt hàng chục tên Mỹ trong căn cứ Đồng Dù, phục kích đánh một đại đội địch hành quân ở Tân Thông Hội, chụp bắt bọn ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân ở thị tứ Bắc Hà gây cho địch nhiều thiệt hại.

Hoạt động quân sự của các lực lượng vũ trang hỗ trợ và thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị ở thành thị phát triển. Đầu năm 1966, cùng với làn sóng đấu tranh đòi lật đổ Thiệu - Kỳ diễn ra sôi động ở Đà Nẵng, Huế, các tầng lớp nhân dân Sài Gòn được sự chỉ đạo của các tổ chức cách mạng, đã xuống đường mít tinh, tuần hành, bãi khoá bãi thị, v.v… Ngày 7-4-1966, hàng chục nghìn người Sài Gòn, số đông là công nhân, nông dân, trí thức bất chấp lệnh giới nghiêm của ngụy quyền, từ bốn phía nội, ngoại thành cùng kéo đến bao vây nơi làm việc của Nguyễn Cao Kỳ, đòi Thiệu - Kỳ từ chức. Nhân ngày Quốc tế Lao động 1-5, hơn hai chục nghìn người - chủ yếu là công nhân, học sinh, sinh viên kéo đến trụ sở Tổng Liên đoàn lao động biểu tình đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống thất nghiệp. Sau đó, gần 40 nghìn người (nhiều đoàn người ở các quận mới kéo đến) gồm đủ các thành phần công, nông, trí thức và một số gia đình binh sĩ ngụy kéo đến bao vây toà Đại sứ Mỹ, hô vang khẩu hiệu “đế quốc Mỹ cút đi”, “nội bộ Việt Nam do người Việt Nam giải quyết”. Cảnh sát đô thành Sài Gòn do Nguyễn Ngọc Loan làm giám đốc, đích thân điều xe chở hàng trăm cảnh sát đến đàn áp đoàn biểu tình và giải vây cho sứ quán Mỹ. Nhóm cảnh sát bị chìm ngập trong biển người hừng hực khí thế đấu tranh, Nguyễn Ngọc Loan đành bó tay, chấp nhận các yêu sách của quần chúng.

Bên cạnh phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, trí thức, giới Phật giáo cũng xuống đường phản đối dữ dội Thiệu - Kỳ đàn áp, phá hoại chùa chiền. Ngày 9-5-1966, hàng nghìn tăng ni, phật tử ở Sài Gòn - Gia Định tổ chức lễ cầu siêu cho các nạn nhân đã bỏ mình vì đạo ở Đà Nẵng, Huế. Sau lễ cầu siêu là cuộc tuần hành khổng lồ từ Viện hoá đạo đến quảng trường Quách Thị Trang, giương cao biểu ngữ đòi Mỹ không được dùng vũ lực xâm lược Việt Nam, tẩy chay chế độ tay sai Sài Gòn. Mặc dù các cuộc biểu tình bị cảnh sát Mỹ - Thiệu đàn áp, nhưng các cuộc đấu tranh của giới phật giáo vẫn phát triển mạnh mẽ, làm cho Mỹ - ngụy lúng túng, hoang mang. Kết qủa đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân Sài Gòn - Gia Định trong ba tháng (4, 5, 6) được Hội nghị Thường vụ Khu uỷ miền Đông Nam Bộ tháng 11-1966 đánh giá: “Trong vòng mấy năm nay, đây là lần đầu tiên quần chúng đô thị biểu thị một khí thế chống Mỹ mạnh nhất, với nội dung đúng đắn nhất”1.
________________________________________
1. Báo cáo tình hình đô thị Sài Gòn tháng 5 đến tháng 10-1966, thông qua tại Hội nghị Thường vụ A50 mở rộng, tháng 11-1966, lưu trữ tại phòng KHCN-MT Quân khu VII.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:12:15 pm

Bước sang tháng 6-1966, thực hiện kế hoạch tác chiến mùa mưa của Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền, Sư đoàn 9 đã mở đợt hoạt động quân sự ở khu vực phía tây và tây bắc Sài Gòn - Gia Định. Ngày 6-6, quân dân Bình Long nổ súng tiến công năm vị trí địch quanh thị xã, loại khỏi vòng chiến đấu hai đại đội quân ngụy đóng dã ngoại ở phía bắc sân bay Técních, thu, phá huỷ nhiều đồ dùng quân sự. Để trấn an tinh thần bọn ngụy, ngày 8-6-1966 Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ cho Lữ đoàn 3, có hai chi đoàn xe cơ giới hỗn hợp, từ căn cứ Chân Thành theo đường 13 lên giải toả chiếm lại các vị trí đã mất. Khoảng 13 giờ chiều cùng ngày, đoàn xe cơ giới Mỹ lọt vào trận địa phục kích của bộ đội ta ở khu vực cầu Tàu Ô. Lập tức hai tiểu đoàn 4 và 5 - Trung đoàn 52, Sư đoàn 9 Quân giải phóng nổ súng đánh chặn đoàn xe địch. Bị đánh bất ngờ và bị tổn thất khá nặng (tám xe M41 và M113 bị cháy), 20 xe còn lại lùi cách cầu 2km co cụm hình vòng cung vừa chống trả, vừa gọi phi pháo chi viện. Mặc dù bị hoả lực Mỹ chặn đánh quyết liệt, đó đây đã có người thương vong, nhưng chiến sĩ ta không nao núng, các mũi, các hướng vẫn bám diệt từng chiếc xe, từng tên lính Mỹ, quyết không để chúng kịp hoàn hồn. Thấy hai chi đoàn xe cơ giới có nguy cơ bị tiêu diệt, chỉ huy Lữ đoàn 3 Mỹ tung nốt lực lượng còn lại vào cuộc chiến để cứu nguy cho đồng bọn. Quân cứu viện địch mới tiến tới cầu Cần Đâm, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 6 (lực lượng dự bị của Trung đoàn 2) xuất kích vận động tiến công. Hai trận địa hoả lực cối 82, ĐKZ75 và hơn chục tay súng B40 được đồng đội yểm trợ đã bình tĩnh, bắn cháy sáu xe thiết giáp địch, khiến chúng phải dừng lại gọi phi pháo chi viện. 18 giờ ngày 8-6, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 cho Trung đoàn 2 thu dọn chiến trường, rút khỏi trận địa. Sau một ngày chiến đấu quyết liệt, Trung đoàn 2 đã bắn cháy, phá hỏng 40 xe quân sự (có 12 xe tăng M41, 19 xe M113), loại khỏi vòng chiến đấu gần 500 tên địch, bắn rơi tám máy bay các loại. Phát huy thắng lợi đã giành được, chiều ngày 27-6-1966, Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 bí mật tổ chức trận địa phục kích trên đường 13, chặn đánh đoàn xe cơ giới địch chạy từ Hớn Quản lên đón quân Mỹ ở Lộc Ninh. Đêm 29-6-1966, vượt qua một đêm mưa gió tầm tã, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 1 đã bố trí xong trận địa ở trảng Ba Nghì cách Lộc Ninh 7 km và cầu Cần Lê 2 km. Sáng 30-6-1966, trời vừa ngớt mưa, đoàn xe địch ở Hớn Quản chạy lên Lộc Ninh dưới sự hộ tống của tám chiếc máy bay trực thăng vũ trang. Đợi cho đoàn xe địch lọt vào khu quyết chiến điểm, Trung đoàn trưởng Bùi Thanh Vân mới hạ lệnh cho Tiểu đoàn 1 nổ súng đánh chặn đầu. Tiểu đoàn 3 từ hướng nam đường 13 vận động đánh khoá đuôi. Địch đang lúng túng chống trả thì Tiểu đoàn 2 đảm nhiệm khu quyết chiến điểm đồng loạt tiến công vào giữa đoàn xe địch. Bị khoá chặt từ hai đầu, xe địch phải co cụm vào nhau dùng hoả lực chống trả. Gần trưa địch cho hàng chục lần chiếc máy bay bắn phá vào trận địa ta, yểm trợ cho trực thăng, đổ quân xuống phía tây trảng Ba Nghì hòng đánh vào phía sau đội hình của Trung đoàn 1. Trận đánh trở lên phức tạp, bộ đội ta vừa phải diệt xe cơ giới, vừa đánh bộ binh địch phản kích. Mặc dù nhiều cán bộ, chiến sĩ bị thương vong, nhưng đơn vị vẫn giữ vững thế trận tiến công địch, đến 19 giờ tiếng súng mới ngừng hẳn. Kết quả, Trung đoàn 1 diệt 43 xe quân sự, phần nhiều là xe tăng, bọc thép M113, loại khỏi vòng chiến đấu gần 300 tên Mỹ.

Chiến thắng Cần Đâm - Tàu Ô, Cần Lê - trảng Ba Nghì trong tháng 6 - 1966 khẳng định bộ đội ta có đủ sức dẻo dai chiến đấu liên tục cả mùa khô và mùa mưa, đóng góp cho nghệ thuật quân sự những bài học kinh nghiệm về chiến thuật phục kích, vận động phục kích đánh cắt giao thông.

Để phối hợp với Sư đoàn 9 đánh cắt giao thông, Khu uỷ và Bộ Chỉ huy quân sự miền Đông giao nhiệm vụ cho tỉnh đội Phước Thành bằng mọi giá phải cầm chân cho được Lữ đoàn 3 - Sư đoàn 1 Mỹ tại căn cứ Phước Vĩnh, không để chúng hành quân ứng cứu cho đồng bọn. Bộ Chỉ huy tỉnh đội Phước Thành đã hiệp đồng cùng các cơ quan dân chính, đôn đốc bộ đội và nhân dân tiến hành bao vây căn cứ địch làm cho chúng hoang mang căng thẳng. Cuộc bao vây do nhân dân tiến hành lấy bộ đội địa phương và dân quân du kích làm nòng cốt giành được thắng lợi. Suốt một tuần lễ cuối tháng 6, lực lượng ta bao vây chốt chặn Lữ đoàn 3 Mỹ trong căn cứ, tạo điều kiện cho Sư đoàn 9 diệt địch trên đường 13.

Các trận đánh của quân và dân miền Đông Nam Bộ trong hai tháng (từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 6 - 1966) loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, phá hỏng hàng trăm xe quân sự trên đường 13 và đường 15, làm cho quân Mỹ, quân ngụy và quân đồng minh của Mỹ phải bỏ dở các cuộc hành quân càn quét gom dân, lập ấp chiến lược ở phía đông và tây Bắc Sài Gòn, co lực lượng về giữ các căn cứ, làm cho ý định liên kết các căn cứ với nhau của chúng không thực hiện được.

Cùng thời gian này, ở miền Tây Nam Bộ, tuy Bộ Chỉ huy Mỹ không đưa quân Mỹ đến trực tiếp chiến đấu như chiến trường miền Đông Nam Bộ, nhưng chúng tăng cường khá nhiều cố vấn và phương tiện chiến tranh hiện đại chi viện tho quân đội Việt Nam Cộng hòa hành quân càn quét, bình định. Khu uỷ và Bộ Chỉ huy Quân khu IX đã lãnh đạo, chỉ huy quân và dân miền Tây Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động tác chiến chống địch hành quân càn quét; đồng thời phát động phong trào chiến tranh nhân dân rộng khắp, mở mảng, nối vùng, kiên quyết chống địch chia cắt. Quân và dân tỉnh Cần Thơ từ tháng 4 đến tháng 6 đã chủ động chặn đánh địch đi càn quét sáu lần, diệt và làm bị thương hơn 200 tên địch, phá hỏng 8 xe M113, bức rút 6 đồn bốt ở Ô Môn, Bình Thuỷ. Ngày 2-7-1966, một phân đội pháo binh Quân khu IX tập kích sân bay Trà Nóc, phá hỏng 30 máy bay, đốt cháy hai kho xăng dầu và nhiều nhà cửa. Trong 10 ngày cuối tháng 7, quân dân Mỹ Tho hai lần đánh đồn Mỹ Hổ, diệt 110 tên, loại khỏi vòng chiến đấu Tiểu đoàn 3 Sư đoàn 9 ngụy. Chiến thắng của quân dân Mỹ Tho uy hiếp tuyến phòng ngự đường số 4 của Mỹ - ngụy, khiến chúng nơm nớp lo sợ. Đầu tháng 6 - 1966 phong trào bao vây, đánh lấn của quân và dân Tây Nam Bộ phát triển mạnh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:14:07 pm

Tại Sóc Trăng, trong tháng 6, Tiểu đoàn Phú Lợi cùng du kích địa phương tiến công đồn Trà Mơn, phá banh ấp chiến lược Bưng Triết, Bưng Buối; tiến công diệt đồn Xẻo Me (10-6), tập kích đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn chủ lực ngụy đi yểm trợ cho quân địa phương bình định (11-6). Bốn ngày sau, quán và dân Sóc Trăng lại diệt đồn Lai Hòa, hỗ trợ nhân dân phá ấp chiến lược Rây Chóp, giải tán chính quyền ngụy, bắt bọn tề điệp, ác ôn.

Phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh Sóc Trăng, lực lượng vũ trang nhân dân Bạc Liêu tích cực hoạt động đánh địch ở vùng ven đô, và xây dựng lực lượng du kích cùng cơ sở cách mạng trong lòng địch. Cuối tháng 5-1966, các đội võ trang công tác của tỉnh bám trụ ở ven thị xã đã xây dựng được năm đội du kích gần 100 người. Đội du kích Vĩnh Hưng với hơn 10 tay súng, trong hai tháng 5 và 6-1966 đánh 16 trận, diệt 30 tên, thu 10 súng cá nhân. Hai trung đội du kích Châu Hưng và Vĩnh Mỹ phục kích đánh mìn, bắn tỉa diệt gần 100 tên địch. Nữ biệt động Nguyễn Thị Sảnh dùng mìn clâymo hẹn giờ đặt tại nhà hàng Thanh Tân, diệt 8 tên (2 Mỹ, 6 ngụy). Ở vùng đất mũi Cà Mau, trong những ngày cuối tháng 5 đầu tháng 6-1966, quân và dân ta bao vây dài ngày chi khu quân sự Đầm Dơi, buộc địch trong đồn phải “án binh bất động” cả tuần, bỏ dở các đợt gom dân lập ấp chiến lược. Bọn chỉ huy địch ở thị xã Cà Mau huy động 1.500 quân, có máy bay, pháo binh và xe thiết giáp yểm trợ đến giải vây cho Đầm Dơi. Khi quân địch vào đúng trận địa ta chuẩn bị sẵn, bộ đội và du kích Đầm Dơi đã tiến công dũng mãnh liên tục gần một ngày, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên địch, bắn rơi 4 máy bay, phá huỷ 5 xe M113, buộc chúng phải tháo chạy về thị xã Cà Mau.

Trên khu vực Hà Tiên - Rạch Giá - U Minh, vào mùa mưa lực lượng thanh niên xung phong của tỉnh, hơn một nửa là nữ giới bước vào các đợt vận chuyển vũ khí, lương thực dài ngày do Trung ương Cục cung cấp cho Quân khu IX. Mùa khô, nhiều điểm của đường vận chuyển bị địch thường xuyên đổ quân khống chế. Mùa mưa, tuy địch ít đổ quân hơn, nhưng chúng lại thường xuyên dùng máy bay trực thăng bay lượn rà soát, bắn phá ngăn chặn. Lực lượng vận tải phải “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến” mới bảo đảm được hàng hóa kịp thời phục vụ chiến đấu. Giữa mùa nước nổi, có đoạn dài hơn 20 km nước ngập đến cổ, cỏ bấc mọc giăng đầy, các chiến sĩ vận tải phải trầm mình dưới nước suốt đêm, đầu đội hàng, tay rẽ lác, da thịt bị cứa rách. Nam giới chịu đựng gian khổ đã đành, nhưng nữ giới thì vất vả không sao kể xiết. Nhiều chị em bị bệnh tật hoành hành đã hy sinh trên đường vận chuyển. Mùa mưa 1966, mỗi viên đạn, cân gạo đến được miền Tây Khu IX đều thấm đẫm mồ hôi và máu của lực lượng vận tải các tỉnh miền Tây Nam Bộ.

Hoà chung tiếng súng tiến công của quân dân các tỉnh Nam Bộ, quân dân các tỉnh Khu V, Trị - Thiên, Tây Nguyên bước vào đầu Hè - Thu đã tiến công địch mạnh mẽ, rộng khắp quy mô cấp trung đoàn, sư đoàn quyết phá tan kế hoạch củng cố chuẩn bị cho cuộc phản công mùa khô lần thứ hai của địch. Tại Phú Yên, giữa tháng 5 - 1966, Bộ Tư lệnh Phân khu nam (Quân khu V) và Tỉnh đội Phú Yên sử dụng lực lượng vũ trang mở đợt hoạt động Hè 1966, trọng điểm là hai huyện Tuy An, Đồng Xuân. Phương châm hoạt động tác chiến là kết hợp nhỏ và vừa, tiến công liên tục, đều khắp, làm hạn chế các đợt hành quân gom dân, lập ấp chiến lược của địch. Hai trung đoàn chủ lực 10 và 20 của Phân khu nam được giao nhiệm vụ chốt giữ các khu vực đường số 6, Hòn Ngang, Hòn Quánh đề phòng địch đổ bộ đường không, đồng thời chi viện cho bộ đội địa phương tỉnh, huyện tập kích tiêu diệt một số cứ điểm, đồn bốt xung quanh quận lỵ Tuy An. Từ ngày 15 đến ngày 30-5, quân và dân Phú Yên đồng loạt tiến công các điểm Tam Giang, Hòa Đa, Hòn Đồn, Hòn Đình, Đèo Thi, loại khỏi vòng chiến đấu 240 tên địch (có 46 tên Mỹ), thu 120 súng các loại. Đợt hoạt động cuối tháng 5 đầu tháng 6 của quân, dân Phú Yên đã phá vỡ tuyến phòng thủ của địch trên đường số 6 từ Chí Thạnh đến La Hai. Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ đóng ở An Khê hai lần đến ứng cứu cho quân đội Sài Gòn, nhưng vẫn không giải toả được áp lực của ta. Cay cú trước thất bại, bọn chỉ huy Mỹ ở Vùng chiến thuật II buộc phải đưa hai lữ đoàn còn lại của Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 từ An Khê vào tăng viện. Trong vòng một tuần (từ 18 đến 24-6), quân Mỹ đánh vào gò Thì Thùng, hậu phương huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Dựa vào hệ thống địa đạo, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 10 và 20 bám trụ kiên cường bẻ gãy nhiều đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên Mỹ, bắn rơi 8 máy bay.

Chiến thắng Hòn Đồn, Đèo Thi, Chí Thạnh, gò Thì Thùng trong hai tháng 5 và 6 - 1966 của quân và dân Phú Yên đã phá tan luận điệu tuyên truyền của địch là đã tiêu diệt hai trung đoàn chủ lực của ta ở vùng này trong cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất.

Ở Bình Định, chấp hành lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu V, giữa tháng 6 - 1966, Sư đoàn 3 chủ lực quân khu mở đợt hoạt động tiến công vào hệ thống phòng thủ của địch dọc theo lưu vực sông Côn, chủ yếu là huyện lỵ Vĩnh Thạnh. Địch phản ứng quyết liệt, chúng dùng trực thăng đổ hai tiểu đoàn Mỹ và một tiểu đoàn Nam Triều Tiên xuống các điểm cao xung quanh huyện lỵ Vĩnh Thạnh hòng bao vây, tiến tới tiêu diệt lực lượng của ta, giải toả cho Vĩnh Thạnh. Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 3 chuyển sang đánh địch phản kích. Ngày 16-5-1966, Trung đoàn 2 chặn đánh một tiểu đoàn Mỹ sục sâu vào hậu phương của ta, loại khỏi vòng chiến đấu một đại đội Mỹ. Ngày 17-5, ta tiêu diệt gần hết một đại đội Nam Triều Tiên ở Hòn Nong. Tiểu đoàn đặc công của sư đoàn tập kích diệt một đại đội pháo 105 mm. Trung đoàn 12 diệt một đại đội Mỹ ở Phú Tự. Tháng 6 - 1966, Sư đoàn 3 lật cánh xuống đánh cắt giao thông địch trên đường số 1 ở bắc Phù Mỹ và Phù Cát tăng cường đánh địch ở bắc Hoài Nhơn. Bị quân ta kìm chân đánh tiêu hao ở bắc Hoài Nhơn, Lữ đoàn 3 không vận Mỹ dùng phi pháo, xe thiết giáp đánh phá dữ dội thôn Trường Sơn và Thành Sơn (xã Hoài Sơn, Hoài Nhơn), quyết đánh bật bộ đội và du kích ra khỏi hai làng này. Cuộc chiến đấu không cân sức giữa một tiểu đoàn chủ lực ta với bốn tiểu đoàn Mỹ diễn ra ác liệt suốt ngày. Quân ta bị địch bao vây. Tối đến ta phá vây rút ra ngoài để bảo toàn lực lượng. Sáng hôm sau, có chỉ điểm, quân Mỹ mang theo chó bắc giê vào làng lùng sục. Đi đến đâu chúng cũng đốt nhà, bắn giết trâu bò, heo, gà đến đấy. Chúng bắt hàng chục ông, bà già đánh đập, tra khảo nhưng không ai khai báo. Một cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng diễn ra. Các cụ ông, cụ bà đem gia súc, gia cầm bị bom đạn giết hại đến tố cáo tội ác địch, đòi chúng bồi thường thiệt hại. Cuộc đấu tranh chính trị giằng co và gay gắt, cuối cùng lính Mỹ buộc phải lui quân. Mười tám thương binh trú ẩn dưới các hầm bí mật được bảo toàn. Đây là một trong những cuộc đấu tranh chính trị trực diện đầu tiên của quần chúng với quân chiến đấu Mỹ trên chiến trường Bình Định thắng lợi.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:14:48 pm

Hạ tuần tháng 6 - 1966, bộ đội chủ lực quân khu pháo kích căn cứ chỉ huy tiền phương của Sư đoàn không vận Mỹ ở núi Một, Phù Cát, loại khỏi vòng chiến đấu gần một trăm tên Mỹ, phá hỏng 20 máy bay trực thăng và xe quân sự. Phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương Bình Định đánh quân địch càn quét và chặn viện từ nam Phù Mỹ đến Phù Cát. Tại thôn Khánh Phước, xã Cát Hanh, Tiểu đoàn 52 bộ đội tỉnh phục kích, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên Nam Triều Tiên. Sau đó, tiểu đoàn phục kích diệt đoàn xe Mỹ chở vũ khí từ Phù Mỹ đi chợ Gồm, đánh thiệt hại nặng một đại đội Mỹ đi hộ tống, bắn cháy bảy xe quân sự. Tiểu đoàn 50 tập kích đại đội bảo an ở chợ Gồm diệt hàng chục tên, buộc chúng không dám đi càn quét. Các trận đánh của lực lượng vũ trang Bình Định đã hỗ trợ tích cực cho du kích và nhân dân địa phương xây dựng, củng cố làng xã chiến đấu, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân.

Tại Quảng Ngãi, đầu tháng 5 - 1966 địch dùng Trung đoàn 4 thuộc Sư đoàn 2 ngụy (có một tiêu đoàn biệt động quân Vùng chiến thuật II hỗ trợ) liên tục đánh phá vùng giải phóng thuộc hai huyện Nghĩa Hành và Mộ Đức - tâm điểm của phong trào cách mạng tỉnh. Dựa vào quân chủ lực càn quét đánh phá yểm trợ, ba đại đội địa phương quân tiến hành gom dân lập ấp chiến lược ở Thi Phổ, Núi Đồi, Phú Sơn (huyện Mộ Đức)... Để đánh bại các cuộc hành quân càn quét của địch, bảo vệ căn cứ, đêm 11-5, một bộ phận hoả lực của tiểu đoàn 83 bộ đội tỉnh phối hợp với Đại đội đặc công 506A tập kích đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an đóng tại Gò Cấm, mở thông hành lang từ tây xuống đông huyện Mộ Đức, rồi di chuyển về hướng Hành Thịnh. Sư đoàn 2 quân chủ lực ngụy lập tức mở cuộc hành quân đánh vào Hành Thịnh hòng tiêu diệt Tiểu đoàn 83 quân giải phóng Quảng Ngãi. Chúng huy động vào cuộc hành quân này Trung đoàn 4 quân cộng hoà, Tiểu đoàn 5 lính thuỷ đánh bộ ngụy và hai đại đội địa phương quân tiểu khu Quảng Ngãi cùng hàng chục máy bay lên thẳng, xe bọc thép. Các trận địa pháo ở núi Nón, Gò Sát (Mộ Đức), quận lỵ Nghĩa Hành, quận lỵ Minh Long trực tiếp chi viện hoả lực cho cuộc hành quân.

Sáng ngày 15-2-1966, địch cho máy bay trinh sát quần lượn, quan sát khu vực từ An Ba đến núi Rú, xã Hành Thịnh. Liền sau đó, đại bác từ các trận địa núi Vòm, Gò Sát, Nghĩa Hành, Minh Long... bắt đầu bắn cấp tập vào các khu vực An Ba, Xuân Ba, Thuận Hoà, Gò Mít, đèo Quán Thơm, An Chỉ, dọn đường cho bộ binh đổ quân. Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 83 bộ đội tỉnh Quảng Ngãi ra lệnh dừng ngay cuộc sinh hoạt chính trị, cho các đại đội triển khai trận địa sẵn sàng chiến đấu. Đúng như dự đoán, sau khi bắn phá bừa bãi các vùng nghi có quân ta hoạt động, địch cho 22 máy bay trực thăng chở Tiểu đoàn 5 lính thuỷ đánh bộ ngụy đổ xuống Thuận Hoà, làm lực lượng chủ yếu từ hướng tây đánh xuống. Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 4) đổ xuống núi Nhà, núi Rú, từ hướng đông nam đánh ra. Một tiểu đoàn còn lại của Trung đoàn 4, có xe tăng yểm trợ đánh theo đường số 1 từ Mộ Đức lên. Để chắc ăn, bọn địch còn cho hai đại đội nghĩa quân chốt ở Hành Phước chặn đường không cho quân ta vượt qua sông Vệ, quyết tiêu diệt bằng được Tiểu đoàn 83 tại Hành Thịnh.

Đứng trước tình hình địch đông gấp bội, lực lượng ta ở vào thế bị bao vây bốn phía, trong Ban Chỉ huy tiểu đoàn nảy sinh tư tưởng dao động. Nắm bắt được hiện tượng ngại hy sinh ác liệt, Tỉnh đội phó Phạm Ngọc Hiệp, Tham mưu trưởng tỉnh đội Lương Văn Thư và Ban Chỉ huy tiểu đoàn đã mở cuộc họp nhằm củng cố tư tưởng và xác định quyết tâm. Tiểu đoàn trưởng Phạm Văn Trinh phát biểu bình tĩnh, dứt khoát: “chỉ có cách tiêu diệt địch mới bảo tồn được đơn vị, mới giành được thắng lợi”. Quyết tâm của tiểu đoàn trưởng và một số cán bộ trong Ban Chỉ huy đã củng cố lòng tin, tăng thêm ý chí chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị.

Hồi 9 giờ, Tiểu đoàn 5 lính thuỷ đánh bộ Sài Gòn đánh xuống Hành Thịnh. Đại đội 3, Tiểu đoàn 83 chốt chặn khu vực Xuân Đình gặp địch, nổ súng tiến công loại khỏi vòng chiến đấu 70 tên, trong đó có tên thiếu tá tiểu đoàn trưởng. Biết có bộ đội chủ lực chốt giữ, bọn địch dừng lại củng cố, và xin cấp trên chi viện. Địch đang hoang mang, dao động, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 83 thay đổi phương án tác chiến: dùng Đại đội 3 bí mật lùi ra bờ sông Vệ, ẩn náu chờ địch, khi chúng lọt vào trận địa, bất ngờ đánh thốc sau lưng đội hình chúng. Các đại đội khác chuyển đội hình (chỉ để một bộ phận nhỏ chốt giữ trận địa) sẵn sàng hiệp đồng chiến đấu với Đại đội 3. Do xử lý tốt các tình huống chiến thuật, quân ta từ thế bị động chuyển sang thế chủ động.

Đúng 11 giờ, tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ ngụy được phi pháo chi viện tối đa thúc nhau tiến vào khu vực phục kích của ta. Cả Tiểu đoàn 83 được lệnh xuất kích. Đại đội 3 ở bờ sông Vệ chia làm 3 mũi đánh thẳng vào quân địch. Bọn địch bất ngờ bị đánh hiểm, lúng túng quay lại chống cự với Đại đội 3, lập tức Đại đội 1 Tiểu đoàn 83 từ phía chính diện bật dậy đánh thẳng vào giữa đội hình địch, chia cắt chúng ra từng mảnh để tiêu diệt. Địch không chống cự nổi, rối loạn, chạy thục mạng qua cánh đồng. Nhưng Đại đội 2 đón lõng ở đây kịp thời chặn địch lại, tiêu diệt. Trong hơn một giờ chiến đấu táo bạo, dũng cảm, quân ta tiêu diệt đánh thiệt hại gần như toàn bộ Tiểu đoàn 5 lính thuỷ đánh bộ quân đội Sài Gòn.

Thấy đồng bọn bị tiêu diệt, bọn chỉ huy địch ở núi Vom lồng lộn, ra lệnh cho Trung đoàn 4 (có 22 xe tăng, xe bọc thép yểm trợ) từ núi Nhà, núi Rú và từ Mộ Đức đánh lên, quyết tiêu diệt bằng được Tiểu đoàn 83 “cộng quân”. Được chiến thắng cổ vũ, Đại đội 4 hoả lực và Đại đội 1 bộ binh do đại đội trưởng Lý Đình Huấn chỉ huy, đánh giỏi, tiêu diệt bốn xe tăng cùng hàng chục tên địch, bẻ gãy mũi tiến công chủ yếu của địch, buộc chúng từ bỏ cuộc tiến công trong ngày... Chiến thắng Hành Thịnh biểu hiện sự trưởng thành mọi mặt của lực lượng vũ trang Quảng Ngãi cả về chiến thuật, kỹ thuật và ý chí quyết tâm, mưu trí và sáng tạo.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:22:28 pm

Học tập đơn vị chiến thắng Hành Thịnh, đêm 15-7-1966, Tiểu đoàn 48 bộ đội địa phương Quảng Ngãi tiến công cứ điểm Gò Sỏi - nơi có một tiểu đoàn Mỹ (thiếu) và một chi đội xe bọc thép mới tăng cường chiếm giữ. Hơn một giờ chiến đấu quyết liệt táo bạo. Đại đội 2 do đại đội trưởng Phạm Văn Mến chỉ huy đảm nhiệm hướng chủ yếu tiến công từ tây bắc xuống; Đại đội 1 do đại đội trưởng Võ Hữu Thọ chỉ huy đảm nhiệm hướng thứ yếu đánh từ tây nam lên, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên Mỹ, phá huỷ 4 xe bọc thép, làm chủ trận địa, thu nhiều vũ khí các loại. Chiến thắng Gò Sỏi chứng minh dù quân Mỹ được trang bị hiện đại và phòng thủ vững chắc thế nào cũng không tránh khỏi bị Quân giải phóng tiêu diệt và ai cũng có thể đánh được Mỹ và đánh thắng Mỹ.

Trên chiến trường Quảng Đà (Quảng Nam - Đà Nẵng), trong Hè - Thu 1966, tuy không diễn ra những trận đánh lớn như ở Bình Định, Quảng Ngãi, nhưng cả hai hình thức đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị vẫn phát triển đồng đều liên tục, rộng khắp làm cho địch hoang mang, lo sợ. Đêm 24-5-1966, Đại đội 16 đặc công tỉnh tập kích diệt đồn An Hà (đông thị xã Tam Kỳ 2 km) loại khỏi vòng chiến đấu một đại đội biệt kích ngụy. Tiểu đoàn 72 bộ đội Quảng Đà hiệp đồng đánh chiếm ấp chiến lược An Hà xã Kỳ Phú - vòng ngoài cụm căn cứ quân sự Chu Lai.

Để bảo vệ mục tiêu quan trọng này, sáng ngày 25-5-1966, Sư đoàn 3 Mỹ ở Tam Kỳ cho một tiểu đoàn có hai chi đoàn M113 yểm trợ tìm diệt Đại đội 16 đặc công và Tiểu đoàn 72 tỉnh đang đứng chân ở xã Kỳ Sanh. Nhưng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh được du kích xã Kỳ Sanh hỗ trợ và dựa vào làng chiến đấu Vĩnh Bình đánh trả quyết liệt, bé gẫy nhiều mũi tiến công của địch. 12 giờ ngày 25-5, địch dùng xe M113 đột kích vào trận địa ta. Tiểu đội trưởng Đồng Phước Huyến dùng thủ pháo, lựu đạn đánh hỏng một xe M113. Huyến bị thương gãy một chân, nhưng anh vẫn bám chắc trận địa, nằm chờ địch. Đợi cho xe địch đến gần, Huyến dồn sức trườn lên đánh quả thủ pháo cuối cùng, diệt thêm một số lính Mỹ, bẻ gẫy mũi tiến công của địch. Anh đã anh dũng hy sinh. Đồng Phước Huyền được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Cùng thời gian này, được bộ đội địa phương hỗ trợ, các tổ du kích Khương Thọ, Khương Nhơn (xã Kỳ Khương), Xuân Vinh. Đức Bố (xã Kỳ Chánh), thôn 4, thôn 8 (Kỳ Sanh), thôn 3, thôn 5 (Kỳ Hoà) xung quanh vành đai diệt Mỹ Chu lai, đã phục kích gài mìn, bắn tỉa loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên Mỹ.

Những ngày đầu tháng 6 - 1966, Trung đoàn 31 Sư đoàn 2 bộ binh (bộ đội chủ lực quân khu), phối hợp với địa phương liên tục chiến đấu ở nam bắc đường 16 (tây Thăng Bình và nam Quế Sơn) loại khỏi vòng chiến đấu hơn 500 tên Mỹ, bắn rơi 12 máy bay, bắn cháy sáu xe thiết giáp, hỗ trợ đắc lực cho phong trào chiến tranh du kích chống địch càn quét, giữ vững vùng giải phóng...

Đòn tiến công quân sự ở Quảng Đà giành thắng lợi đã thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân phát triển. Nổi bật nhất là các cơ sở hoạt động bí mật của ta trong thành phố Đà Nẵng đã vận động quần chúng xuống đường biểu tình đòi Mỹ phải cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam. Khẩu hiệu “đả đảo Mỹ, đả đảo Thiệu - Kỳ” được giương kẻ trên các phố. Các tổ chức thanh niên, sinh viên đi đấu tranh đòi được vũ trang để bảo vệ an ninh thành phố. Sinh viên “quyết tử” từ Huế cũng kéo vào Đà Nẵng chi viện.

Cùng thời gian này một số tỉnh vùng sâu như Khánh Hoà và Khu VI, tuy bị địch đánh phá, kìm kẹp gắt gao, cơ sở vật chất thiếu thốn, nhưng không vì thế mà các hoạt động quân sự và đấu tranh chính trị giảm sút, không phát triển. Ngược lại, phong trào vẫn được giữ vững. Chi bộ đảng thị trấn Ninh Hoà (Khánh Hoà) bị tề điệp ác ôn lùng sục gắt gao, nhưng được nhân dân đùm bọc, che chở vẫn tồn tại lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Du kích Lạc Hoà bất chấp bom đạn ác liệt, phối hợp với địa phương đánh bại cuộc càn quét của ba tiểu đoàn ngụy và một tiểu đoàn Mỹ. Trung tuần tháng 5 - 1966, tiểu đội du kích xã Ninh Thọ diệt 24 tên Mỹ, ngụy. Ở tỉnh Bình Thuận, ngày 18-6, Tiểu đoàn 482 bộ đội địa phương tỉnh cùng lực lượng vũ trang huyện Hàm Thuận đánh địch ở ấp Bình An, phục kích diệt một đại đội của Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 44 ngụy từ Phan Thiết kéo lên giải toả. Tiếp theo, lực lượng vũ trang tỉnh tiến công quân địch ở Tân Điền - một ấp chiến lược chỉ cánh thị xã Phan Thiết 5 km, diệt hoàn toàn đại đội bảo an số 784. Đầu tháng 7-1966, quân ngụy tập trung lực lượng mở cuộc hành quân Quyết thắng 8 vào vùng giải phóng Hàm Thuận. Tiểu đoàn 482 cùng Tiểu đoàn 840 phối hợp với du kích chặn đánh, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên địch. Đặc biệt trong thời gian này, cùng với các lực lượng vũ trang Tuyên Đức đánh địch trên đường số 11 Di Linh... phong trào đấu tranh của nhân dân thành phố Đà Lạt cũng bùng lên tương đối mạnh. Đầu tháng 5-1966, thanh niên, sinh viên liên tiếp tổ chức những đêm xuống đường đốt lửa trại “để nhìn rõ mặt kẻ thù” vạch mặt bọn tội phạm chiến tranh, đốt hình nộm Mắc Namara và L.Giônxơn. Giữa tháng 5-1966, nhiều cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng đã nổ ra tại thành phố Đà Lạt. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 500 quần chúng trước Phòng thông tin Hoà Kỳ, đòi Mỹ rút khỏi Đà Lạt. Sau đó, đoàn biểu tình tuần hành đến khu thị trưởng thành phố, chiếm đài phát thanh, tuyên truyền ước nguyện tự do độc lập của dân tộc. Địch huy động lực lượng đàn áp cuộc biểu tình, chiếm lại đài phát thanh. Như lửa đổ thêm dầu hơn một vạn quần chúng lập tức tràn xuống đường kéo đến bao vây toà thị chính, chất vấn ngụy quyền, phản đối hành động đàn áp của địch, đòi bồi thường tính mạng những người bị sát hại. Đến cuối tháng 5-1966, để bảo toàn lực lượng, Tỉnh uỷ Tuyên Đức chủ trương chuyển phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng sang hoạt động hợp pháp, tránh bộc lộ lực lượng. Các đội vũ trang công tác bí mật bám quần chúng, xây dựng lực lượng chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh mới. Cuộc đấu tranh của nhân dân Đà Lạt trong tháng 5-1966 để lại cho ta nhiều kinh nghiệm quý về việc vận dụng phương châm, phương thức sách lược đấu tranh ở đô thị.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:22:59 pm

Phối hợp với chiến trường đồng bằng Trung Trung Bộ, bước vào Hè - Thu 1966, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên chủ trương mở đợt hoạt động tiêu diệt và kìm chân một bộ phận quân Mỹ, ngụy, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, phối hợp với chiến trường toàn Miền.

Đêm 21-5-1966, cùng lúc với trận pháo kích sân bay thị xã Kon Tum phá hủy chín máy bay, diệt hàng chục tên Mỹ, Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 24 nổ súng, bao vây Tu Mơrông kìm chân không cho địch đi càn quét. Để giải vây cho đồng bọn, Trung đoàn 42 ngụy và Tiểu đoàn 21 biệt động quân ở Kon Tum liền mở cuộc hành quân Tân Thắng. Một bộ phận chủ yếu của cuộc hành quân này bị quân ta chặn đánh quyết liệt, phải co cụm chống đỡ. Thấy quân ngụy bị đánh đau bọn chỉ huy Mỹ ở Vùng chiến thuật II lập tức điều Lữ đoàn 1, Sư đoàn dù 101 từ Cam Ranh lên Kon Tum mở cuộc hành quân cứu nguy cho quân ngụy. Các chiến sĩ Trung đoàn 24 bám trụ trận địa kiên cường, liên tiếp tiến công vào các cụm quân Mỹ và quân ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên.

Trong lúc quân dù Mỹ bị giam chân ở bắc Kon Tum, ngày 20-5-1966, Trung đoàn 66 (thiếu) tập kích địch ở khu vực đồn Mo, Tiểu đoàn 966 Trung đoàn 320 pháo kích Plây Girăng, gây nhiều khó khăn, thiệt hại cho địch. Lữ đoàn 3 Sư đoàn 25 Tia chớp nhiệt đới từ Củ Chi (Đông Nam Bộ) phải không vận vội vã ra Sùng Lễ, Chư Pa, giải vây cho Plây Girăng. Nhưng chúng chưa kịp phản công đã bị Trung đoàn 33 đánh phủ đầu ở Sùng Lễ. Đến ngày 29 - 5, hai Trung đoàn 66 và 33 phối hợp tiến công đánh thiệt hại một tiểu đoàn Mỹ ở Chư Pa.

Trước lối đánh nhỏ và vừa liên tục trên nhiều hướng từ bắc Kon Tum tới nam Gia Lai của lực lượng vũ trang Tây Nguyên, ý đồ chiến lược phản công ồ ạt tìm diệt chủ lực ta của quân Mỹ không thực hiện được. Quân Mỹ cũng như quân chủ lực Sài Gòn tiếp tục bị xé lẻ từng đại đội, tiểu đoàn để đối phó với các cuộc tiến công của Trung đoàn 95 và Trung đoàn 66 ở khu vực Sùng Lễ, Sùng Thiện, Đức Vinh, Đức Nghiệp...

Ngày 3-7-1966, Đại đội 2 Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 66 đánh thiệt hại nặng một đại đội Mỹ chốt giữ phía tây đồn Đức Vinh 2 km. Cay cú trước thất bại, quân Mỹ từ đồn Đức Vinh có xe thiết giáp yểm trợ, phản kích vào trận địa Đại đội 2 để lấy xác đồng bọn. Các chiến sĩ Đại đội 2 đã biến trận địa phục kích thành điểm chốt kiên cường, thu hút, giam chân, tiêu hao quân địch. Đại đội 1, Đại đội 3 kịp thời vận động đến bao vây, tiến công vào hai bên sườn. Nhờ kết hợp chặt chẽ giữa chốt giữ trận địa của Đại đội 2 và xuất kích đánh tạt sườn của Đại dội 1, Đại đội 3, nên ta diệt gọn một đại đội, đánh tan đội hình phản kích của quân Mỹ. Trận đánh của Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 66 đã hình thành bước đầu chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt, mở ra khả năng mới để nâng tốc độ đánh tiêu diệt của lực lượng vũ trang Tây Nguyên lên trình độ cao hơn. Từ thượng tuần tháng 7, Tây Nguyên bước vào giữa mùa mưa. Những cơn mưa lớn dai dẳng hết ngày này sang ngày khác, tưởng chừng mọi hoạt động của bộ đội bị ngừng lại. Nhưng trên các hướng bắc Kon Tum và tây Gia Lai, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương vẫn tiếp tục tiến công địch ở khu vực Đức Vinh, đường 21, Ba Bỉ, Làng Le, Ia Mơ, Đức Cơ, Chư Bồ, Chư Pông, Chư Pa. Quân Mỹ và quân ngụy liên tiếp bị tiêu hao, tiêu diệt từng đại đội và bị căng kéo khắp nơi.

Phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, du kích các tỉnh Tây Nguyên hoạt động tích cực, phát huy được tác dụng kìm giữ, tiêu hao quân địch, hỗ trợ cho phong trào phá ấp giành dân. Lực lượng công binh địa phương cùng du kích cài mìn, đánh phục kích, bắn tỉa từng tốp xe, tốp lính địch tuần tra bảo vệ các đường số 14, 19, 21. Dân quân du kích các huyện 40, 67, 16 tỉnh Kon Tum, huyện 4, 5, 7, 8 tỉnh Gia Lai, huyện 2, 11 tỉnh Đắc Lắc đã tổ chức những bãi chông, mìn, thò, xung quanh vùng căn cứ, hạn chế được các cuộc càn quét lùng sục của địch, đồng thời tham gia chiến đấu trên đường số 14, 18, 19, gây cho địch một số thiệt hại. Đặc biệt đêm 3 - 9, các chiến sĩ đặc công Gia Lai táo bạo tập kích sân bay An Khê, phá huỷ gần 30 máy bay lên thẳng, làm cho Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ choáng váng.

Cùng với các hoạt động quân sự, cán bộ, chiến sĩ các đội vũ trang công tác và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã vượt qua muôn vàn khó khăn, kiên trì thực hiện phương châm bốn bám: dân bám đất, du kích bám địch, chi bộ bám dân, cấp trên bám cấp dưới, tổ chức những đợt đấu tranh chính trị, binh vận thắng lợi. Nhân dân xã Đắc Uy, Mang Khênh (Kon Tum), huyện 4, 5 (Gia Lai), xã Khuê Ngọc Điền (Đắc Lắc) vận dụng ba mũi giáp công đấu tranh làm thất bại các cuộc càn quét của Mỹ - ngụy, giữ được dân, bảo vệ cơ sở. Những hoạt động đó đã tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, buộc Mỹ, ngụy phải phân tán đối phó bị động, nên quân chúng đông mà hoá ít, hoả lực nhiều nhưng không phát huy được tác dụng.

Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên phát triển mạnh đã thúc đẩy quân và dân hai tỉnh Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị xốc tới đánh địch. Ngay sau mùa khô 1965 - 1966, Trung đoàn 95B (Sư đoàn 325B) tiến hành bao vây A Sầu, khống chế đường bộ, đường không, tạo điều kiện cho Trung đoàn 101B đánh quân tiếp viện vòng ngoài. Sau một tuần lễ liên tục vây ép, tiến công, Trung đoàn 95B đã làm chủ tiền đồn A Sầu, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch. A Sầu được giải phóng, mở thông tuyến hành lang miền Tây từ nam đường số 9 đến Quảng Đà (Quảng Nam - Đà Nẵng), tạo thêm thuận lợi cho việc tiếp tế chuyển quân của ta. Ở phía bắc tỉnh Quảng Trị, đội 10 đặc công, Tiểu đoàn 47 (Trung đoàn 270), Phân đội 12 đặc công và dân quân du kích hai huyện Do Linh, Cam Lộ mở đợt tiến công các đồn Cồn Tiên, Dốc Miếu, Cầu Dài, diệt và làm bị thương gần 300 tên. Trong đó trận đánh căn cứ Dốc Miếu của Đội 10 đặc công đạt hiệu quả chiến đấu cao, loại khỏi vòng chiến đấu 210 tên (có 50 tên bị bắt sống), phá huỷ 8 khẩu pháo 105 mm, thu 70 súng các loại. Đây là trận đánh điển hình của bộ đội đặc công (có bộ binh phối hợp) vào nơi địch phòng thủ khá mạnh trên vĩ tuyến 17.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:23:28 pm

Mặc dù bị thất bại nặng trong cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, nhưng mùa mưa năm 1966, quân Mỹ, quân Sài Gòn và quân đồng minh của Mỹ vẫn mở nhiều cuộc hành quân quy mô cấp tiểu đoàn, trung đoàn càn quét, chuẩn bị bàn đạp dọc các trục lộ giao thông, và đánh phá cày ủi làng mạc, ruộng vườn để lập và củng cố các vành đai phòng thủ ở Trảng Lớn (Tây Ninh), Củ Chi (Gia Định), Bến Cát (Bình Dương), Đồng Tâm (Mỹ Tho), Trà Nóc (Cần Thơ), Hoà Vang (Đà Nẵng), Chu Lai (Quảng Nam), An Khê (Gia Lai).

Thực hiện ý định trên đây, mùa mưa 1966, ở miền Đông Nam Bộ, Sư đoàn 1 bộ binh, Sư đoàn 25 Mỹ triển khai lực lượng chiếm các đường số 13, 22 rồi dùng một bộ phận đánh lên căn cứ Dương Minh Châu, khu tam giác sắt (Củ Chi, Bến Cát, Trảng Bàng), trong khi đó, Lữ đoàn 196, Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn 9 Mỹ cùng với Trung đoàn Hoàng gia Ôxtrâylia, Sư đoàn 18 ngụy đánh xuống Bình Tuy, Phước Tuy. Hai lữ đoàn còn lại của Sư đoàn 9 Mỹ và Sư đoàn 7 bộ binh quân ngụy càn quét khu vực phía tây Sài Gòn. Ở đồng bằng sông Cửu Long, quân đội Sài Gòn càn quét, củng cố tuyến phòng thủ sông Trẹm, Biển Bạch, U Minh Thượng, U Minh Hạ, Ngọc Hiển, Đầm Dơi, v.v... Ở Trung Trung Bộ, quân đội Sài Gòn và quân Mỹ, quân Nam Triều Tiên mở 121 cuộc hành quân thăm dò và tiến công vào khu vực đường số 19, 14, 21, 9, càn quét dồn dân ở huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), Điện Bàn (Quảng Nam), v.v...

Quân và dân ta ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, Khu V, Tây Nguyên, Trị - Thiên đã tích cực đánh địch, phá kế hoạch chuẩn bị của chúng.

Nhiều trận đánh trong mùa mưa làm cho Mỹ và Sài Gòn phải kinh ngạc sức tiến công liên tục, bền bỉ và hiệu quả của Quân giải phóng.

Ngày 2-7-1966, Đoàn 30 bộ đội chủ lực miền Đông tiến công vào hai tiểu đoàn Mỹ thuộc Sư đoàn Anh cả đó ở sóc Tà Thiết và Bàu Nhum. Trận đánh diễn ra quyết liệt từ 5 giờ đến 6 giờ sáng. Cán bộ, chiến sĩ Đoàn 30 loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên Mỹ.

Ngày 23-8, các chiến sĩ đặc công Rừng Sát mưu trí đánh chìm chiếc tàu Batong Rudơ Victory trọng tải 10.000 tấn tại ngã ba Vàm Cống, sông Lòng Tàu.

Tháng 10-1966, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng huyện Ngọc Hiển tỉnh Cà Mau bao vây chi khu Đầm Dơi. Suốt một ngày kiên trì bao vây, đánh lấn, bộ đội, du kích và nhân dân Ngọc Hiển đã bức địch rút chạy khỏi Đầm Dơi. Trong trận này đồng chí Công, du kích xã Tạ An Khương bắn rơi một máy bay phản lực Mỹ; nữ đồng chí Dương Thị Cẩm Vân suốt 100 ngày vây hãm địch, luôn có mặt ở tuyến tiền tiêu, diệt nhiều địch, được Bộ Tư lệnh Quân khu IX tặng danh hiệu “Nữ kiện tướng chiến hào”.

Ở Trị - Thiên từ ngày 7-7 đến ngày 8-8-1966, lực lượng vũ trang ta đánh bại cuộc hành quân Háctinh, Đếchhao và Đồng Cỏ của hơn một vạn quân Mỹ ra vùng Cam Lộ và Cồn Tiên, Dốc Miếu.

Nhân đà quân Mỹ tập trung mở các cuộc hành quân ở chiến trường Quảng Trị, lực lượng vũ trang Khu V đẩy mạnh hoạt động Hè - Thu, tiến công địch ở Gò Hội (15-7), cầu Phù Ly (8-9) thuộc tỉnh Bình Định; tập kích hoả lực trận địa pháo Mỹ ở núi Ông Sầm, nơi đóng quân của trung đoàn xe cơ giới Mỹ ở Cẩm Bình thuộc Quảng Nam, diệt gần 900 tên Mỹ, Nam Triều Tiên và quân ngụy Sài Gòn. Cũng trong tháng 8 và 9, Quân giải phóng Tây Nguyên đánh địch trên đường số 19, Đức Cơ, Chư Pa... diệt bốn đại đội Mỹ, v.v...

Cuộc tiến công mùa mưa năm 1966 của quân, dân ta ở miền Nam đã đẩy địch lún sâu thêm vào thế bị động trên chiến trường, làm cho việc chuẩn bị phản công chiến lược lần thứ hai của quân Mỹ gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng. Oétmolen phải khẩn thiết yêu cầu Nhà Trắng và Lầu Năm góc tăng quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam lên 542.588 tên cho năm 1967.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:25:14 pm

II- MỞ HƯỚNG TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC MỚI, BUỘC ĐỊCH PHẢI PHÂN TÁN LỰC LƯỢNG
VÀ LÚN SÂU VÀO THẾ BỊ ĐỘNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG


Tháng 4-1966, sau chiến thắng mùa khô lần thứ nhất, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương họp xem xét kết quả hoạt động quân sự, chính trị, binh vận trên các chiến trường Trị - Thiên, Khu V, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, đánh giá những mặt mạnh, yếu của từng chiến trường. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương nhận thấy những nhận định của Hội nghị lần thứ 12 BanChấp hành Trung ương Đảng hồi tháng 12 - 1965 đã được thực tiễn chứng minh là đúng: quân Mỹ vào miền Nam làm cho tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh tăng lên gấp bội, nhân dân ta phải chịu nhiều tổn thất, hy sinh, nhưng so sánh lực lượng địch, ta vẫn không thay đổi, ta vẫn giữ vững thế chủ động tiến công. Nhờ đó, nhân dân ta đã phát huy có hiệu quả chiến lược chiến tranh nhân dân, đánh thắng quân Mỹ hiệp đầu trong cuộc chiến tranh cục bộ. Đây là thắng lợi bước đầu rất quan trọng, là cơ sở để quân và dân ta ở miền Nam “kéo địch ra khỏi hang ổ mà đánh, căng địch ra mà đánh, chen vào giữa địch mà đánh, luồn sâu vào hậu phương địch mà đánh”1 trong nhưng năm tiếp sau. Với ưu thế tuyệt đối về chính trị - tinh thần và ý chí quyết tâm, lực lượng vũ trang và nhân dân miền Nam đã vận dụng linh hoạt phương châm đấu tranh “hai chân, ba mũi, ba vùng”, chủ động tiến công, làm thất bại mục đích chiến lược tìm diệt của quân Mỹ trong mùa khô lần thứ nhất.

Tuy nhiên, phong trào chiến tranh nhân dân địa phương phát triển không đều giữa các chiến trường. Nhiều nơi, nhiều địa phương, đơn vị lúng túng trong việc vận dụng các hình thức đấu tranh, chưa kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận, nên hiệu quả chiến đấu không cao, phong trào lên, xuống thất thường. So với chiến trường Khu V, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long thì ở Trị - Thiên tuy có thu được một số thắng lợi mới, nhưng phong trào đấu tranh phát triển rất thậm. Trong suốt mùa khô 1965-1966, địch ở Trị - Thiên - Huế yếu, quân Mỹ tập trung không nhiều (từ một đến hai trung đoàn), nhưng ba thứ quân của ta hoạt động tác chiến phối hợp với toàn Miền không tích cực, kém hiệu quả, hầu hết các trung đoàn chủ lực 9, 577 và Tiểu đoàn 806... đứng chân ở các vùng giáp ranh Trị - Thiên - Huế không chủ động tiến công địch, không hỗ trợ được cho phong trào du kích chiến tranh. Nhiều đội vũ trang công tác nằm ở vùng sâu không nhận được chỉ thị phát động quần chúng đấu tranh phối hợp chiến trường, làm cho tình hình cách mạng ở Trị - Thiên - Huế chẳng những không phát triển mà có chiều hướng suy giảm. Do đó, địch chưa phải đối phó lớn với ta ở Trị - Thiên - Huế, mà tập trung lực lượng càn quét đánh phá ác liệt các tỉnh đồng bằng Khu V, miền Đông Nam Bộ, gây nhiều tổn thất cho phong trào cách mạng ở những nơi này.

Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng thấy rằng để đưa phong trào cách mạng ở Quảng Trị, Thừa Thiên tiến lên một cách vững chắc, hỗ trợ tích cực cho phong trào các tỉnh đồng bằng Khu V, Nam Bộ, trực tiếp là vùng đồng bằng Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, vấn đề căn bản nhất là tiếp tục giáo dục nâng cao tư tưởng tiến công địch cho lực lượng vũ trang và nhân dân, vận dụng sáng tạo phương châm đấu tranh cách mạng và các hình thức tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, binh vận thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của Trị - Thiên.

Về tổ chức, tháng 4-1966, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định tách Trị - Thiên ra khỏi Khu V, thành lập Khu uỷ Trị - Thiên bao gồm Đảng bộ tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế, đặt dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Bộ Chính trị uỷ nhiệm cho Quân uỷ Trung ương trực tiếp chỉ đạo mọi mặt đối với Khu uỷ Trị - Thiên. Căn cứ vào nhiệm vụ của Bộ Chính trị giao cho, Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Quân khu Trị - Thiên đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu uỷ Trị - Thiên, do Thiếu tướng Trần Văn Quang, Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, làm Bí thư Khu uỷ, kiêm Tư lệnh quân khu. Quân uỷ Trung ương cũng xác định nhiệm vụ cho chiến trường Trị - Thiên: “Tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, ra sức chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang thành phố để phục vụ kế hoạch tổng công kích và tổng khởi nghĩa khi có điều kiện chín muồi... Cắt đứt đường giao thông chiến lược của địch, xây dựng đường hành lang của ta, giành thắng lợi về mọi mặt và tạo nên một tình thế mới trên chiến trường Trị - Thiên, phối hợp tốt với các chiến trường khác trong mọi tình huống kể cả tình huống đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh trên đất liền ra Trung - Hạ Lào”2.
________________________________________
1. Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 63.
2. Nghị quyết của Thường trực Quân uỷ Trung ương Về nhiệm vụ của chiến trường Trị - Thiên, tháng 4-1966, bản sao lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:26:33 pm

Tháng 5-1966, ngay sau khi thành lập, Khu uỷ và Quân khu uỷ Trị - Thiên họp quán triệt nhiệm vụ Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương giao cho chiến trường và đề ra chủ trương đẩy mạnh hoạt động trong những tháng đầu Hè - Thu 1966 để phối hợp với quân và dân toàn miền phá cuộc chuẩn bị mùa khô tới của địch. Bộ đội địa phương tỉnh, huyện của Thừa Thiên - Huế bí mật luồn sâu xuống các huyện Quảng Điền, Hương Trà, Hương Thuỷ... cùng dân quân du kích đẩy mạnh tác chiến nhỏ, lẻ, hỗ trợ nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ. Ở một số khu vực có số lớn quân Mỹ chiếm đóng như Phú Bài, Đồng Lâm, cấp uỷ đảng, chính quyền, các tổ vũ trang công tác và du kích địa phương vận động nhân dân xây dựng “vành đai diệt Mỹ” để bao vây quân địch trong các căn cứ, kiềm chế và tiêu hao chúng, tạo điều kiện cho ta phát triển chiến tranh nhân dân. Đầu tháng 6 - 1966, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 6 chủ lực quân khu được lực lượng vũ trang địa phương hỗ trợ đã đánh bại một tiểu đoàn Mỹ càn quét xã Phong Chương, bắn rơi bốn máy bay.

Cũng trong thời gian này, bộ đội đặc công tỉnh tập kích kho hậu cần dã chiến của địch ở An Cựu, loại khỏi vòng chiến đấu 100 tên. Ba huyện miền núi xây dựng và phát triển 45 tổ bắn máy bay, cùng hàng trăm dân quân cơ động phối hợp với bộ đội địa phương bao vây đồn bất, bắn tỉa, gài chông, bẫy, tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Cuối tháng 6-1966, Trung đoàn 6 sử dụng Tiểu đoàn 2 và các đại đội công binh, trinh sát, hoả lực của trung đoàn do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Quốc Khánh chỉ huy, tổ chức trận phục kích địch trên quốc lộ số 1 đoạn cầu Nhi. Sáng ngày 29-6, bộ đội ta vừa chiếm lĩnh xong trận địa, thì 26 xe GMC chở đầy lính, có 2 xe M113 hộ tống từ Huế ra ứng cứu cho đường 9 - Quảng Trị đến trận địa phục kích của ta. Đợi cho đoàn xe địch đi vào khu vực cầu Nhi, các tổ hoả lực và công binh chặn đầu khoá đuôi mới giật mìn, nổ súng. Bọn địch ở hai đầu chưa kịp hoàn hồn, hai đại đội bộ binh ta ở chính diện được lệnh xung phong ra mặt đường diệt xe địch. Sau gần 15 phút chiến đấu, cả 28 xe đều bị bắn cháy, phá huỷ. Tiểu đoàn 2 lính thuỷ đánh bộ Sài Gòn gần như bị diệt gọn. Hãng AFP ngày 4-7 nhận xét: đây là trận đánh giao thông lớn nhất kể từ khi lính viễn chinh Mỹ hành quân ra các tỉnh cực bắc Vùng chiến thuật I.

Kết quả hoạt động quân sự và chính trị trong hai tháng 5 và 6-1966 trên chiến trường Trị - Thiên có bước phát triển mới, tuy vậy, những hoạt động đó còn nhỏ, lẻ, chưa làm cho địch phải tập trung lực lượng đối phó lớn.

Để buộc chủ lực cơ động chiến lược của Mỹ và Sài Gòn phải đối phó với khối chủ lực của ta ở miền Bắc, tạo thuận lợi cho chiến trường Khu V, Nam Bộ, Tây Nguyên mà trực tiếp là vùng đồng bằng hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên tiến công và nổi dậy, tháng 6-1966, Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị gọi tắt là Mặt trận B5. Nhiệm vụ chủ yếu của mặt trận là “tạo nên một hướng tiến công mới của ta vào nơi yếu của địch trên chiến trường miền Nam, buộc địch phải phân tán lực lượng lên chiến trường rừng núi, thực hiện tiêu diệt chiến lược đối với quân cơ động chiến lược của địch bằng lực lượng chủ lực mạnh của ta ở miền Bắc, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường khác, trực tiếp nhất là vùng đồng bằng Trị - Thiên, làm cho địch bị động càng bị động hơn, ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh trên bộ ra miền Bắc, đặc biệt là vùng Quân khu IV của ta”1.

Để đi tới quyết định mở hướng tiến công chiến lược mới liên quan đến thế trận chung toàn Miền với hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Quân uỷ Trung ương đã nghiên cứu, phân tích kỹ so sánh lực lượng địch, ta trên từng chiến trường và khả năng tác chiến của khối chủ lực miền Bắc khi quân Mỹ dồn lực lượng ra Trị - Thiên. Quân uỷ Trung ương chú trọng đến khả năng phối hợp, hỗ trợ nhau giữa các chiến trường để tạo nên sức mạnh tổng hợp trên từng hướng chiến lược. Miền Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng Khu V là những địa bàn chiến lược quan trọng, nơi có vùng giải phóng, phong trào chiến tranh du kích phát triển, khối chủ lực Quân giải phóng hoạt động mạnh, uy hiếp hậu phương và cơ quan đầu não của Mỹ, chính quyền Sài Gòn. Bộ Chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn đã huy động lực lượng đánh phá ác liệt nhằm tiêu diệt chủ lực ta và phá căn cứ kháng chiến, bảo đảm an toàn cho các căn cứ, cơ quan đầu não của chúng. Ta thì quyết bám trụ, mở những đợt tiến công và phản công quyết tiêu diệt lực lượng Mỹ cũng như ngụy Sài Gòn, tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân áp sát các đô thị. Đây chính là nơi tranh chấp quyết liệt nhất giữa ta và địch. Vì vậy, cuộc chiến tranh càng trở nên ác liệt, trong khi đó ở chiến trường miền núi Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và miền núi Trị-Thiên là những chiến trường ta có điều kiện đánh tiêu diệt địch tốt nhất, nhưng lực lượng chủ lực Mỹ cũng như quân đội Sài Gòn ít so với các nơi khác. Phải kéo địch lên vùng rừng núi để tiêu diệt, “chia lửa” với vùng đồng bằng, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã chỉ đạo xây dựng Mặt trận B2 (Đông Nam Bộ), Mặt trận B3 (Tây Nguyên) ngay trước khi đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam. Qua tác chiến mùa khô 1965 - 1966, các chiến trường này chẳng những đã thu hút một lực lượng chủ lực cơ động của Mỹ và Sài Gòn, mà còn tỏ rõ là địa bàn có khả năng đánh tiêu diệt địch về chiến dịch, chiến lược.

Sau mùa khô lần thứ nhất, đế quốc Mỹ cấp tốc tăng quân lên gần 40 vạn tên, thì việc mở Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị là chủ trương rất kịp thời, đúng đắn của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, thể hiện tầm nhìn chiến lược sâu xa và sự chỉ đạo chiến tranh cách mạng linh hoạt và sáng tạo của Đảng ta. Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị sẽ là nơi thu hút, giam chân một lực lượng lớn lính thuỷ đánh bộ Mỹ vốn quen tác chiến ở những vùng ven biển. Mỹ có thể ném vào chiến trường rừng núi Quảng Trị hai, ba sư đoàn trong tổng số bảy sư đoàn Mỹ có mặt ở Nam Việt Nam để đối phó với ta. Lực lượng chủ lực tinh nhuệ Mỹ quen tác chiến vùng biển, lên rừng núi hiểm trở, bản thân chúng đã tự hạn chế sức mạnh vốn có của chúng; nhưng bộ đội ta lại có điều kiện phát huy sở trường đánh trên địa hình rừng núi. Mặt khác, ta có điều kiện phát huy sức mạnh lớn nhất của khối chủ lực cơ động Quân đội nhân dân. Các đơn vị chủ lực ở miền Bắc có thể thay phiên nhau vào tác chiến ở Quảng Trị. Việc mở Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị là một đóng góp mới vào việc đẩy mạnh thế tiến công của ta, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của địch, phá vỡ ý định của Mỹ đưa quân chiến đấu Mỹ vào đồng bằng sông Cửu Long - nơi đông dân, nhiều của có thể khai thác phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ; đồng thời, ta cũng phá luôn âm mưu và kế hoạch dùng bộ binh đánh ra vùng nam Quân khu IV của định. Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị ra đời đã tạo điều kiện cho các chiến trường khác trong toàn Miền đẩy mạnh tác chiến diệt địch và giành dân, nhất là vùng đồng bằng hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên.
________________________________________
1. Nghị quyết Thường vụ Quân uỷ Trung ương, tháng 6-1956, bản sao lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:27:23 pm

Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị gồm ba huyện Do Linh, Cam Lộ, Hướng Hoá, phía bắc giáp Vĩnh Linh, Quảng Bình, tây giáp Trung - Hạ Lào, đông giáp biển Đông và nam giáp huyện Hải Lăng, sông Ba Lòng, thị xã Quảng Trị. Cuối năm 1954, khi nhảy vào xâm lược nước ta, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Sài Gòn xem tỉnh Quảng Trị là phần đất cực Bắc giáp “cộng sản Bắc Việt” và coi biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17. Ngay từ những năm 1960-1961, thực hiện chiến tranh đặc biệt nhất là khi trực tiếp đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã xây dựng hàng loạt căn cứ quân sự kiên cố liên hoàn ở khu vực giới tuyến quân sự, quyết biến vùng đất này thành nơi chia cắt vĩnh viễn đất nước. Trên trục đường số 1 từ cầu Quảng Trị bắc qua sông Thạch Hãn đến bờ nam cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, Mỹ-ngụy đã xây dựng các căn cứ quân sự Ái Tử, Đông Hà, và các cứ điểm, cụm cứ điểm Ngã tư Sòng, Quán Ngang, Dốc Miếu, đồi 31... với mật độ khá dày. Trên trục đường 9 từ Cửa Việt đến Xavannakhẹt (Lào) đế quốc Mỹ nhận ra đây là “bức tường thép” khổng lồ ngăn chặn sự xâm nhập của cộng sản từ miền Bắc vào miền Nam. Chúng đã đốc thúc hàng chục nghìn binh lính củng cố, mở rộng và xây dựng các căn cứ quân sự Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Khe Sanh (Việt Nam), Bản Đông, Mường Phìn, Pha Lan, Đồng Hến, Sênô (Lào). Ngoài các căn cứ quân sự mạnh kể trên, ở phía bắc đường 9, Mỹ-ngụy còn cho quân lính nống ra vùng giáp biên, giáp vĩ tuyến 17, xây dựng các chốt điểm Bái Sơn, Cồn Tiên, điểm cao 182 (khu Đông); Động Tri, điểm cao 660, 850 (khu Tây) để ngăn chặn ta từ xa.

Cùng với việc ra sức củng cố, xây dựng hệ thống căn cứ quân sự ở đường 9 - bắc Quảng Trị, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam cũng bắt đầu cho các đơn vị viễn chinh Mỹ ở Chu Lai, Đà Nẵng ra Quảng Trị thực thi phòng thủ và tiến công hạn chế để giành quyền chủ động. Cuối tháng 4-1966, chúng bố trí ở dây hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ, hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ thuộc lực lượng dự bị chiến lược ngụy và lực lượng địa phương quân. Nhưng khi Mặt trận B5 ra đời, Bộ Chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn liền điều động Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ số 3 ở Đà Nẵng và bốn tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Sài Gòn đang làm nhiệm vụ tìm diệt quân giải phóng tại Quảng Ngãi, Tam Kỳ cùng hàng trăm xe tăng, thiết giáp, đại bác ra đường 9 - bắc Quảng Trị để ngăn ngừa ta tiến công. Một lần nữa chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong việc mở Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị.

Đặc điểm của chiến trường đường 9 - bắc Quảng Trị đối với ta là cửa ngõ để tiến vào giải phóng miền Nam, đối với địch là tuyến đầu ngăn chặn lực lượng cách mạng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Quán triệt được ý nghĩa, tầm quan trọng của vị trí chiến lược đường 9 - bắc Quảng Trị, cũng như nhiệm vụ nặng nề mà Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã giao, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị họp, thống nhất quyết nghị: “Lãnh đạo, chỉ huy lực lượng trong biên chế tăng cường mở các cuộc tiến công liên tục vào quân địch, nhằm tiêu hao, tiêu diệt và cầm chân một lực lượng địch càng lớn càng tốt tại đường 9, thực hiện phương châm căng địch ra mà đánh, phối hợp đắc lực với các chiến trường, hỗ trợ có hiệu quả với phong trào du kích chiến tranh ở đồng bằng Trị - Thiên”1. Trước mắt, mặt trận tập trung lực lượng mở cuộc tiến công vào những nơi hiểm yếu trên tuyến phòng ngự đường 9 - bắc Quảng Trị của địch để mở thông đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn. Rõ ràng, khi đế quốc Mỹ thực hiện chiến tranh cục bộ, huy động hàng vạn quân mở hàng loạt cuộc hành quân tìm diệt lực lượng vũ trang cách mạng, thì nhân dân miền Nam trước đã cần nay càng cần hơn sự chi viện to lớn về sức người, sức của và tinh thần của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hậu phương miền Bắc là “cái gốc, cái nền” của cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở miền Nam. Đế quốc Mỹ và tay sai biết rất rõ điều đó, nên ngày nào Mỹ còn ở miền Nam Việt Nam, thì ngày đó chúng còn duy trì, củng cố tuyến phòng thủ đường 9 - bắc Quảng Trị. Chúng sẽ nỗ lực tới mức cao nhất nhằm chặt đứt tuyến đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn của ta. Quân uỷ Trung ương đã cho mở Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị xuất phát từ sự quán triệt phương châm đánh lâu dài, tạo thời cơ đánh mạnh với quy mô ngày càng lớn việc thực hiện tiêu diệt chiến lược quân địch, làm chuyển biến cuộc chiến tranh có lợi cho ta. Ở đây không chỉ là nơi đánh tiêu diệt chiến lược quân địch, mà còn hỗ trợ thúc đẩy phong trào cách mạng ở vùng nông thôn đồng bằng Trị - Thiên phát triển, phối hợp với toàn miền Nam.

Chiến trường đường 9 - bắc Quảng Trị lúc đầu được Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh giao cho Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu IV trực tiếp chỉ huy và chỉ định Đại tá Nam Long, Phó Tư lệnh Quân khu IV làm Tư lệnh; đại tá Quách Sỹ Kha, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu IV làm Chính uỷ. Tháng 9-1966, Quân uỷ Trung ương uỷ quyền cho Quân khu IV thành lập Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu tiền phương (còn gọi là Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh mặt trận X) bao gồm các đồng chí: đại tá Nam Long, Phó Tư lệnh Quân khu IV, làm Tư lệnh; đại tá Quách Sỹ Kha, Chủ nhiệm chính trị Quân khu IV, làm Chính uỷ; thượng tá Chu Phương Đới, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 324 làm Phó Tư lệnh; thượng tá Nguyễn Tiến Lợi, Chính uỷ Sư đoàn 324 làm Phó Chính uỷ. Hai đồng chí Trương Chí Công, Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Trị và Hồ Sỹ Thản, Bí thư Khu uỷ Vĩnh Linh được bổ sung vào Đảng uỷ mặt trận. Giai đoạn đầu, Bộ Tư lệnh mặt trận chọn khu vực Chợ Cồn phía tây Đồng Hới 10km đóng sở chỉ huy. Từ cuối năm 1966, Sở chỉ huy tiền phương mặt trận đặt ở thôn Mỹ Lộc, xã Vĩnh Chấp để tiện việc chỉ huy, điều hành chiến đấu.
________________________________________
1. Nghị quyết Mặt trận B5 tháng 5-1966, Lưu trữ tại kho K4, Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:28:18 pm

Giữa tháng 6-1966, Đảng uỷ Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị họp phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của đại tá Quách Sỹ Kha, Chính uỷ kiêm Bí thư Đảng uỷ mặt trận, bàn phương thức, biện pháp hoạt động của lực lượng vũ trang khu vực và hợp đồng tác chiến với các chiến trường bạn. Trên chiến trường đường 9 - bắc Quảng Trị từ đầu tháng 5-1966, địch đã ra sức củng cố, mở rộng các cứ điểm Làng Vây, Tà Cơn, Cà Lu, Tân Lâm, Cùa, Ba Dốc; khởi công xây dựng hệ thống lô cốt dọc sông Hiếu, từ cảng Đông Hà xuống cảng Cửa Việt; mở rộng hệ thống giao thông đường bộ từ Huế ra Đông Hà, lên Khe Sanh; xây dựng ba sân bay hạng trung Ái Tử, Đông Hà, Tà Cơn... chuẩn bị địa bàn cho hàng vạn quân có mặt tại Quảng Trị. Căn cứ vào tình hình trên, hội nghị chủ trương đưa bộ đội chủ lực vào hoạt động chiến đấu tại Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị để thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng quân chủ lực địch (chủ yếu là quân Mỹ) ra chiến trường vùng cực bắc, tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ hoạt động đánh bại các cuộc hành quân tìm diệt của Mỹ - ngụy, tạo thời cơ để củng cố, xây dựng lực lượng cách mạng, đặc biệt là lực lượng dân quân, du kích ở tỉnh Quảng Trị. Hội nghị cũng dự kiến khi ta hoạt động mạnh, Mỹ - ngụy có thể phản ứng mạnh hơn về quân sự. Ngoài lực lượng không quân, hải quân đang đánh phá miền Bắc, nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh dùng lục quân đổ bộ ra nam Quân khu IV - chủ yếu là Vĩnh Linh, Quảng Bình hòng gỡ thế thất bại, thì địch có thể huy động lực lượng cấp tiểu đoàn, hay chiến đoàn? Thời gian tác chiến kéo dài bao lâu? Từ những vấn đề dự kiến nêu trên, Mặt trận xây dựng phương án tác chiến trên nhiều địa bàn khác nhau để trong tình huống nào ta cũng chủ động tiến công địch, hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra.

Quán triệt nghị quyết của Đảng uỷ Mặt trận, ngày 20-6-1966, Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị tổ chức Hội nghị quân chính mở rộng tới cấp tiểu đoàn, triển khai chủ trương, kế hoạch tác chiến trên giao. Lúc này, Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị được tăng cường Sư đoàn 324 bộ binh. Đây là đơn vị có kinh nghiệm tác chiến trên chiến trường Lào từ 1961 - 1962 ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, Luông Nậm Thà và là lực lượng chủ yếu “Phối hợp với các lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị tiêu diệt một bộ phận quân ngụy, kéo chủ lực của Mỹ ra đường 9, giam chân tiêu diệt chúng, buộc chúng phải bị động đôi phó, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường và làm chỗ dựa cho phong trào đấu tranh chính trị ở đồng bằng Trị - Thiên, củng cố xây dựng căn cứ miền núi, mở rộng hành lang vận chuyển của ta”1.

Trung đoàn 31 bộ binh độc lập của Quân khu IV tăng cường, có một số kinh nghiệm tác chiến với quân ngụy ở Do Linh, Cam Lộ, bắc đường 9 từ năm 1964 đến năm 1965, tổ chức thành nhiều đơn vị nhỏ cấp trung đội, đại đội luồn sâu vào các huyện Hải Lăng, Triệu Phong móc nối, xây dựng dân quân, du kích, hỗ trợ cho lực lượng vũ trang địa phương, các đội vũ trang công tác huyện, tỉnh, thực hiện phương châm: “Tích cực, chủ động đánh nhỏ, lẻ, liên tục bằng mọi hình thức (kể cả công tác binh, địch vận) xây dựng cơ sở cách mạng, phát động chiến tranh du kích, nhằm tiêu hao tiêu diệt từng bộ phận nhỏ quân địch”2.

Hai tiểu đoàn pháo binh 87 và 11 (pháo cơ giới và hoả tiễn ĐKB, A12) chuẩn bị trận địa ở các xã Vĩnh Thuỷ, Vĩnh Sơn, Vĩnh Lâm (bắc sông Bến Hải), Trung Giang, Gio An (nam sông Bến Hải) đối diện với các cứ điểm Dốc Miếu, Quán Ngang, Cồn Tiên, Bái Sơn... chi viện theo yêu cầu của Sư đoàn 324 và bắn chế áp các trận địa pháo binh địch. Các Tiểu đoàn 47 (Khu đội Vĩnh Linh), Đội 1 (Đoàn 126 đặc công hải quân) và các đơn vị thông tin, công binh, trinh sát, vận tải của quân khu và bộ tăng cường, sẵn sàng làm nhiệm vụ phối thuộc hoặc độc lập tác chiến nhỏ, lẻ trên từng hướng (chủ yếu là vùng sau lưng địch). Một số đại đội, trung đội bộ đội địa phương và dân quân du kích ở các huyện Hướng Hoá, Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng vừa giúp đỡ bộ đội chủ lực trinh sát chuẩn bị chiến đấu, vừa vận động nhân dân ở các khu tập trung diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ.

Căn cứ nhiệm vụ trên giao và yêu cầu cấp bách của toàn chiến trường, Bộ tư lệnh Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị quyết định đưa toàn bộ Sư đoàn 324 vào hoạt động tác chiến trên hai khu vực giáp ranh giữa đồng bằng và miền núi tỉnh Quảng Trị.

Khu vực một, bao gồm Đầu Mầu, Cam Lộ, Cù Đinh, Ba De. Sư đoàn 324 chọn căn cứ Đầu Mầu, điểm cao 402 (nằm sát đường 9) do hai đại đội biệt động quân ngụy chốt giữ làm mục tiêu chủ yếu, đánh châm ngòi kéo địch vào vòng chiến theo ý đồ chiến lược: thu hút, giam chân một bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - Ngụy. Nhiệm vụ quan trọng này được giao cho Trung đoàn 1 (còn gọi là Trung đoàn 90) và một số đại đội hoả lực cối 82mm, súng máy cao xạ 12,7 mm của sư đoàn đảm nhiệm.

Khu vực hai, bao gồm Cùa, Tân Lâm, nam Cà Lu do Trung đoàn 2 (còn gọi là Trung đoàn 812) phụ trách, có nhiệm vụ tiêu diệt đồn Cùa, cầm chân địch ở Tân Lâm và đánh sập một số cầu cống trên đường 9 (đoạn Đầu Mầu đi Cà Lu), ngăn chặn địch ở hướng nam hỗ trợ cho Trung đoàn 1 đột phá dứt điểm Đầu Mầu, điểm cao 402. Mặc dù là hướng nghi binh, nhưng Trung đoàn 2 không hoàn thành nhiệm vụ sẽ ảnh hưởng rất lớn tới ý đồ chiến dịch của toàn mặt trận.

Trung đoàn 3 (còn gọi là Trung đoàn 803) cùng một số tiểu đoàn trực thuộc 14, 15, 16, 17, 19 (trừ một vài phân đội hoả lực đi phối thuộc) làm lực lượng dự bị và công tác bảo đảm cho các đơn vị hoạt động ở phía trước.
________________________________________
1. Lịch sử Sư đoàn 324, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992, tr. 30.
2. Nghị quyết quý III/ 1966 về hoạt động chiến đấu của Mặt trận B5, kho lưu trữ Bộ Quốc phòng.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:29:26 pm

Trong khu vực hoạt động tác chiến của Sư đoàn 324, địch có bốn tiểu đoàn biệt động quân, bốn đại đội bảo an, dân vệ đóng chốt ngăn chặn lực lượng vũ trang ta hoạt động, đồng thời kìm kẹp nhân dân trong các khu tập trung ở Cam Lộ, Cùa. Ngoài ra, Trung đoàn 1, Sư đoàn 1 bộ binh, Vùng chiến thuật I đóng chốt ở cụm căn cứ Ái Tử, Đông Hà sẵn sàng chi viện cho tuyến đường 9 khi cần thiết.

Để tạo điều kiện cho Sư đoàn 324 làm công tác chuẩn bị chiến đấu, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 cho một tiểu đoàn của Trung đoàn 31 và hai đại đội của Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh vào Cồn Tiên, Dốc Miếu, đồi 31 vừa yểm trợ cho hai đại đội hoả lực cối 82, DKZ75 bắn chế áp các trận địa pháo địch, vừa nghi binh phân tán sự chú ý của chúng. Ở phía đông nam, bộ đội địa phương và dân quân du kích các huyện Triệu Phong, Hải Lăng được một số phân đội của Trung đoàn 31 giúp đỡ, đã tập kích, phục kích diệt một số xe địch trên đường số 1, buộc chúng phải đưa quân đến đây đối phó.

Sau một tuần chuẩn bị chiến trường, mở thông các cung chặng vận chuyển lót ổ gạo, đạn, hai Trung đoàn 1 và 2, Sư đoàn bộ binh 324 được lệnh hành quân chiếm lĩnh trận địa. Mặc dù trên đường hành quân bị lạc đường, vấp mìn, pháo địch bắn vào đội hình, nhưng các đơn vị đã xử lý các tình huống tốt, nên sau gần mười giờ hành quân liên tục, hai trung đoàn đã vào vị trí quy định, triển khai đội hình chiến đấu.

5 giờ sáng ngày 26-6-1966, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 1 cùng với một đại đội đặc công của sư đoàn tăng cường, do Tiểu đoàn trưởng Lê Văn Toàn và Chính trị viên Lê Quốc Huy chỉ huy mở màn đợt hoạt động quân sự bằng cuộc tiến công vào cứ điểm Đầu Mầu, tiêu diệt gọn đại đội biệt động quân, thu hơn 30 súng các loại, làm chủ trận địa. Đầu Mầu thất thủ, địch trên điểm cao 402 kế cận lo sợ định tìm đường tháo chạy. Nắm bắt thời cơ thuận lợi, Tiểu đoàn 19 đặc công của sư đoàn và một bộ phận của Tiểu đoàn 5 xốc tới bao vây tiến công, loại khỏi vòng chiến đấu đại đội biệt động quân chốt điểm cao 402. Mất điểm chốt quan trọng trên trục đường 9, trong những ngày cuối tháng 6 đầu tháng 7-1966, địch ở Đông Hà và thị xã Quảng Trị vội vàng đưa quân đi giải toả. Ngày 9-7-1966, địch dùng máy bay trực thăng đổ một tiểu đoàn biệt động quân ngụy Sài Gòn xuống đường 9 thuộc địa phận tây Cam Lộ nhằm chiếm lại các điểm cao đã mất. Riêng khu vực lèn đất 300 và lèn đá 300 ở bắc đường 9, địch đổ xuống một tiểu đoàn tăng cường. Tiểu đoàn 7 của ta đã bố trí sẵn ở đây, nổ súng diệt nhiều tên, buộc chúng phải rút lui xuống mỏm đồi bên cạnh.

Trước thất bại ở khu vực đường 9 - bắc Quảng Trị do ta tăng cường hoạt động tiến công, chỉ huy địch ở Vùng chiến thuật I cho máy bay, pháo binh đủ loại ở Đông Hà, Cam Lộ bắn phá ác liệt xuống các khu vực trên để dọn đường cho một tiểu đoàn dù ngụy mới điều từ Huế ra phản kích chiếm lại. Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 2 của ta chốt giữ điểm cao 402 kịp thời nổ súng, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên, thu một số súng đạn và đồ dùng quân sự. Số địch còn lại hoảng sợ tháo chạy tán loạn về hướng thị trấn Cam Lộ.

Phối hợp với Trung đoàn 1 hoạt động ở Đầu Mầu, Cù Đinh, Ba De, Trung đoàn 2 đánh vào một loạt vị trí ở Cùa, Miếu Hoà, O Giang, Bản Hiệu, Phượng Nghĩa (Cam Nghĩa, Cam Chính), diệt và làm bị thương gần 200 tên địch, thu, phá huỷ nhiều súng đạn, giải phóng hàng nghìn dân. Ở phía nam sông Bến Hải, các đại đội hoả lực của mặt trận và của Khu đội Vĩnh Linh bắn hàng trăm quả cối 82, và ĐKZ75 vào căn cứ Cồn Tiên, Dốc Miếu, Dốc Sỏi, đồi 31, gây cho địch nhiều thiệt hại.

Hoạt động quân sự của ta tăng lên với sự xuất hiện của khối chủ lực cơ động miền Bắc, làm cho tuyến ngăn chặn địa đầu phía bắc rất quan trọng của địch bị uy hiếp, Huế, Đà Nẵng bị đe doạ. Mỹ vừa tăng quân chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai đã buộc phải rút bớt quân ở các nơi khác đưa ra chiến trường đường 9 - bắc Quảng Trị. Chỉ trong vòng một tháng, Mỹ đã đưa ba trung đoàn thuộc Sư đoàn 1 và 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ, Sư đoàn dù ngụy và hai tiểu đoàn pháo 105, 155mm từ Đà Nẵng ra Trị - Thiên, nâng tổng số quân địch trên chiến trường Trị - Thiên lên 41.939 tên, trong đó có 16.750 lính Mỹ.

Trong lúc quân, dân Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị đang ra sức xây dựng lực lượng, thế trận trên hướng tiến công chiến lược mới, thì đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai cũng ráo riết đánh phá hai miền Nam - Bắc. Mùa mưa năm 1966, quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn mở hàng trăm cuộc hành quân nhỏ và vừa đánh phá các vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ, Trung Trung Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên nhằm phá tan các căn cứ du kích và phong trào chiến tranh nhân dân đang phát triển. Bằng hành động đó, Mỹ và Sài Gòn tưởng có thể giải toả cho các căn cứ lớn, các trục đường giao thông, giữ được hiện trạng thế phòng ngự, chuẩn bị cho cuộc phản công mùa khô 1966-1967. Nhưng mọi cuộc hành quân càn quét đều mang tính bị động và đã bị các lực lượng vũ trang giải phóng đánh bại.

Ở miền Bắc, trong ba tháng 6, 7, 8-1966, số lượng máy bay và số trận đánh phá của địch tăng gấp hai đến ba lần so với thời gian Hè - Thu 1965, trung bình mỗi ngày chúng sử dụng từ 200 đến 250 lần chiếc máy bay cất cánh, ngày cao nhất hơn 400 lần chiếc ném bom, bắn phá hầu hết các thành phố, thị xã và các tuyến đường giao thông quan trọng từ Vĩnh Linh đến Lạng Sơn...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:30:13 pm

Tình hình chiến sự sôi động ở hai miền Nam - Bắc Việt Nam và những thất bại của Mỹ trên chiến trường đã tác động mạnh mẽ làm cho phong trào chống chiến tranh của các tầng lớp nhân dân Mỹ lên cao, nội bộ chính quyền Giônxơn phân hoá. Phái diều hâu hiếu chiến tiếp tục hò hét đẩy mạnh chiến tranh, đòi ném bom mạnh hơn nữa vào Hà Nội, Hải Phòng.

Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân chuyển tới Mắc Namara yêu cầu mới xin tăng quân của Óetmolen lên 542.588 quân cho năm 1967. Nhóm nghiên cứu cuộc chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ gửi cho Mắc Namara báo cáo khẳng định không có cơ sở vững vàng để kết luận những cố gắng của Mỹ trong việc ném bom sẽ đạt kết quả. Nhóm này đề nghị xây dựng một hàng rào điện tử qua khu phi quân sự ở Việt Nam để ngăn chặn thâm nhập. Tháng 10-1966, sau khi nghiên cứu các báo cáo về tình hình miền Nam kết hợp với chuyến đi miền Nam trước đó, Mắc Namara báo cáo với L. Giônxơn: “Công tác bình định chỉ có đi thụt lùi”1 và các cuộc đánh phá miền Bắc “không ảnh hưởng gì nhiều đến hoạt động thâm nhập hoặc làm tan rã tinh thần của Hà Nội”2. Mắc Namara kiến nghị: “hạn chế hoặc tăng thêm lực lượng và xét việc ngừng ném bom hoặc chuyển mục tiêu từ Hà Nội, Hải Phòng sang các đường thâm nhập để tăng thêm tín nhiệm cho các cuộc thăm dò hoà bình”3 của Mỹ. Tổng thống L. Giônxơn bác bỏ yêu cầu tăng quân lên hơn 54 vạn của Oétmolen, vì làm như vậy khó tránh khỏi phải động viên quân dự bị. L. Giônxơn đồng ý hạn chế quân số Mỹ ở mức 47 vạn, nhưng không tán thành giảm bớt nhịp độ ném bom miền Bắc theo kiến nghị của Mắc Namara.

Mùa Hè năm 1966, đồng thời với việc điều động gấp sang chiến trường Việt Nam thêm 10 vạn quân, giới cầm quyền Mỹ còn cho không quân, hải quân leo thang đánh phá miền Bắc. Ngày 29-6-1966, hàng trăm lượt chiếc máy bay Mỹ ném bom bắn phá 52 điểm từ Đồng Hới đến Quảng Ninh, trong đó có hai mục tiêu quan trọng là kho xăng Đức Giang ở Thủ đô Hà Nội và kho xăng Thượng Lý (Hải Phòng). Mỹ đã leo thêm một nấc thang chiến tranh xâm lược mới cực kỳ nguy hiểm.

Ngày 15-7-1966, giữa lúc Sư đoàn 324 đang khẩn trương hoàn tất mọi công việc cho đợt chiến đấu mới, thì Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ Mỹ cho hàng trăm chiếc máy bay lên thẳng đổ quân xuống O Giang, Bản Hiệu, lèn đất 300, lèn đá 300, Cù Đinh, Ba De, điểm cao 402, miếu Bái Sơn, v.v... Đổ quân tới đâu, lính thuỷ đánh bộ Mỹ gọi phi pháo đánh phá các vùng xung quanh tới đó. Chỉ tính riêng trong 24 giờ ngày 16-7, chúng đã dùng 18 lần chiếc máy bay B52 ném hàng trăm quả bom xuống tây bắc Cù Đinh, nam Tân Lâm và đông bắc điểm cao 402. Ngoài ra, chúng còn dùng hàng chục lần chiếc máy bay phản lực, hàng chục khẩu pháo các loại đánh phá liên tục xuống nam - bắc sông Bến Hải hòng làm nhụt chí tiến công của quân và dân ta. Do công tác chuẩn bị chiến trường chu đáo, nên mặc dù bị phi pháo địch đánh phá ác liệt hầu hết các đơn vị ở phía trước của Sư đoàn 324 vẫn chủ động đánh địch ngay từ những giờ phút đầu.

Tại điểm cao 402, sau một đêm dùng phi pháo (kể cả máy bay B52) đánh phá phát quang dọn bãi, sáng ngày 16-7, máy bay trực thăng chở một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đổ xuống chiếm vị trí chiến thuật lợi hại này. Đại đội 6, Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 Sư đoàn 324 chốt giữ điểm cao, mặc dù bị thương vong gần chục đồng chí do bom pháo, vẫn bám trụ kiên cường đánh bại các đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên Mỹ. Trong trận này, tổ hoả lực Nguyễn Phi Hùng đã lập công xuất sắc, đánh lui 12 đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 32 tên, góp phần đắc lực cùng đại đội giữ vững điểm cao 402 và hầu hết khu vực lèn đất 300.

Chiến công của Đại đội 6 Tiểu đoàn 6 đã cổ vũ Đại đội 2 Tiểu đoàn 5 được mệnh danh là Đại đội gió lốc, bám trụ kiên cường, đánh bại các đợt tiến công ồ ạt của một tiểu đoàn Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên, trở thành “chốt thép thắng Mỹ” đầu tiên trên chiến trường đường 9 - bắc QuảngTrị.

Ngày 17-7, Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ Mỹ cho hai tiểu đoàn đổ bộ xuống Cù Đinh, Ba De tìm diệt bộ đội ta chốt giữ khu vực này. Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 3 mới được trên điều động đến đã dũng cảm vượt qua ác liệt do bom, pháo địch gây ra, tiến công ngay vào quân Mỹ đang đổ quân làm chúng hoảng sợ chạy tán loạn.

Phối hợp chặt chẽ với hai Trung đoàn 1 và 2 đánh địch giữ vững các điểm cao dọc đường 9, Trung đoàn 3 (thiếu Tiểu đoàn 1) được lệnh phân chia thành các tiểu đoàn độc lập, có các tổ vũ trang công tác các huyện dẫn đường, đã bí mật luồn sâu xuống Gio Hải (Gio Linh), Cam Giang, Cam Thanh (Cam Lộ), Triệu Thượng (Triệu Phong) cùng với các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, kết hợp hoạt động vũ trang, giải phóng một số xã phía đông tỉnh Quảng Trị, tạo bàn đạp đưa lực lượng xuống đồng bằng ven biển Triệu Hải.

Ở phía nam tỉnh Quảng Trị, ngày 16-7, Trung đoàn 6 Thừa Thiên thọc xuống quốc lộ 1 đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn ngụy, phá huỷ 15 xe quân sự. Đêm 17-6, du kích xã Hải Phú (Hải Lăng) phối hợp với tổ công tác huyện phục kích diệt một tiểu đội thám báo. Ngày 18-7, bộ đội địa phương được du kích huyện Quảng Điền phối hợp, phục kích giao thông, bắn cháy hai xe GMC, diệt 14 tên địch...
________________________________________
1÷3. Tài liệu mật của Bộ quốc phòng Mỹ, tlđd, t.2, tr.199.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:30:42 pm

Trước thất bại ở đường 9 - bắc Quảng Trị, Bộ Chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam vơ vét quân còn lại của hai Sư đoàn 1 và 3 lính thuỷ đánh bộ ở Tam Kỳ và Đà Nẵng đưa ra Quảng Trị. Sáng ngày 22-7, chúng đổ hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 5 lính thuỷ đánh bộ Mỹ xuống Khe Chùa, lập tuyến phòng ngự từ Ba De, Cù Đinh tới Đá May. Chúng còn cho Chiến đoàn dù ngụy đang chốt giữ vùng Cùa đổ quân xuống Khe Vạn, Làng Đôn phía tây Tân Lâm 10 km, kết hợp với quân Mỹ ở bắc đường 9 tạo thành hai gọng kìm hòng tiêu diệt quân ta.

Ngày 25-7, Tiểu đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ được sự yểm trợ của máy bay và pháo binh, chia làm hai mũi đánh lên điểm cao 314, nơi có một tiểu đoàn của ta chốt giữ. Nhưng mới ngày đầu tiến công ồ ạt, cả hai đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ đã không còn đủ sức “vượt dốc” trước đòn phản công mãnh liệt của quân ta, phải khiêng cáng nhau lui về vị trí ban đầu. Thảm cảnh đó được Giócgiơ Étte, phóng viên Hãng tin Mỹ AP ngày 25-7 mô tả như sau: “Các máy bay lên thẳng của lính thuỷ đánh bộ Mỹ từ từ hạ xuống một cách khổ não trên ngọn đồi rậm để chở ra khỏi nơi này những cái lồng thép dành cho thương binh của Đại đội 1. Có 71 người bị thương, chiếm gần một nửa đại đội. Số chết sẽ được máy bay lên thẳng chở đi sau... Đại uý Gơ Lâydơ, Đại đội trưởng rưng rưng nước mắt nói: “Chúng tôi bị chết và bị thương vô số đây””.

Chiến đoàn dù ngụy hoạt động ở Khe Vạn, Làng Đôn khi biết tin tiểu đoàn Mỹ bị đánh bại ở hướng bắc, chúng không dám nống lấn thêm, chỉ quanh quẩn một chỗ gần như “án binh bất động”. Chiều 25-7, bị cối 82 của ta bắn vào đội hình, chúng đã tháo lui về Cùa, bỏ mặc cho quân Mỹ tác chiến. Trưa 26-7, thấy không còn trông cậy vào sự chi viện của quân ngụy, hai tiểu đoàn Mỹ hoạt động ở Cù Đinh, Ba De phải rút chạy về Cam Lộ, bỏ cuộc hành quân Háttinh (Hastings).

Bị thất bại liên tiếp ở đường 9 - bắc Quảng Trị, Bộ Chỉ huy Vùng chiến thuật I chẳng những không rút kinh nghiệm và còn tiếp tục tung lực lượng vào cuộc chiến, hòng cứu vãn tình thế thất bại. Trung tuần tháng 8-1966, Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ Mỹ cho ba tiểu đoàn đóng chốt ở Đông Hà, Cam Lộ, Tân Lâm tiến hành càn quét vùng giải phóng. Nhưng bọn lính thuỷ đánh bộ lấn chiếm tới đâu cũng bị lực lượng vũ trang ba thứ quân tỉnh Quảng Trị chặn đánh tới đó. Ngày 17-8, một đại đội hoả lực cối 82, ĐKZ75, 12.7 mm của Trung đoàn 2, Sư đoàn 324 bắn cấp tập một đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ đang hành quân từ Cam Lộ lên Đầu Mầu, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên. Ngày 18-8, một đại đội của Tiểu đoàn 5 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đóng ở Đông Hà, được máy bay trực thăng chuyên chở, đổ bộ xuống Bản Hiệu, tây bắc Đầu Mầu 5 km, bị Đại đội 5, Trung đoàn 3 của ta đánh diệt và làm bị thương 40 tên. Đêm 25-8, hai đại đội đặc công của Mặt trận đường 9 tập kích trận địa hỗn hợp pháo binh, xe tăng chốt giữ phía tây bắc cầu Thiện Xuân, diệt 36 tên, phá huỷ hai pháo 105 mm, ba xe thiết giáp...

Đầu tháng 9-1966, sau khi điều thêm năm tiểu đoàn Mỹ (ba tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 1 và Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ ở Quảng Nam - Đà Nẵng ra và hai tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 5 từ Hạm đội 7 vào), Bộ Chỉ huy Mỹ ở Vùng chiến thuật I mở cuộc hành quân mang tên Đồng cỏ (Prairie) đánh vào vùng tây Gio Linh và tây bắc Cam Lộ, nhằm ngăn chặn bộ đội chủ lực ta đang hoạt động ngày một gia tăng ở vùng này.

Cuộc hành quân Đồng cỏ được chia làm hai cánh. Cánh một (chủ yếu) do hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ, một tiểu đoàn quân ngụy có ba chi đoàn xe tăng, thiết giáp yểm trợ, tiến đánh các khu vực từ phía tây đường số 1 lên xã Gio An, chú trọng các vị trí chiến thuật xung quanh căn cứ Cồn Tiên. Cánh hai do hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ và một tiểu đoàn bộ binh ngụy đánh vào các khu vực điểm cao 400, 363, lèn đất 300, lèn đá 300 (tây bắc cách huyện lỵ Cam Lộ 10 đến 12 km). Để giữ bí mật cho cuộc hành quân, ngày 19-9, Mỹ dùng Chiến đoàn 1 quân ngụy Sài Gòn càn quét các xã Gio Mỹ, Trung Hải (bắc cảng Cửa Việt) nhằm thu hút sự chú ý của Bộ chỉ huy Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị.

Ngày 19-9, khi trận càn quét của Chiến đoàn 1 ngụy đi vào giai đoạn cuối thì bọn chỉ huy Mỹ ở Đông Hà tưởng đã giành được thế bất ngờ, ra lệnh cho lính thuỷ đánh bộ Mỹ mở cuộc hành quân hòng tìm diệt bộ đội chủ lực ta. Mở màn cuộc hành quân, hàng trăm lần chiếc máy bay (kể cả máy bay B52), tám trận địa pháo, ném bom, bắn phá hàng giờ liền xuống các mục tiêu mà Mỹ dự định sẽ đổ bộ. Nhưng mọi ý đồ hoạt động của địch đã không đánh lừa được quân và dân đường 9 - bắc Quảng Trị. Tại khu vực An Bình (Gio An), Ban chỉ huy Trung đoàn 2 Sư đoàn 324 đã cho hai Tiểu đoàn 6 và 7 chiếm lĩnh các vị trí chiến thuật xây dựng trận địa chờ quân địch đến. Khi Tiểu đoàn 7 lính thuỷ đánh bộ Mỹ tiến công vào làng An Bình, Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 của ta được sự chi viện của các trận địa pháo cối 120, 82 ở bờ nam sông Bến Hải bắn cấp tập vào đội hình Đại đội B lính thuỷ đánh bộ Mỹ đi đầu, rồi bất ngờ “bật thổ” đánh giáp lá cà với quân Mỹ. Không chịu nổi đòn đánh táo bạo rất ác liệt của Quân giải phóng, bọn lính Mỹ sống sót của Đại đội B phá chạy tán loạn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:31:15 pm

Sau ba ngày tiến công vào làng An Bình thất bại, sáng ngày 21-9, Tiểu đoàn 8 lính thuỷ đánh bộ Mỹ vừa thay Tiểu đoàn 7 bị tiêu hao nặng, mở đợt tiến công mới quyết san bằng làng An Bình. Mở đầu cuộc tiến công, máy bay và pháo binh Mỹ dội bom, bắn pháo suốt hai giờ đồng hồ xuống làng An Bình rộng không đầy 2 km2. Nhà cửa, cây cối và hầm hào trong làng gần như bị san phẳng. Quân Mỹ được xe thiết giáp yểm trợ xông vào làng. Nhưng một lần nữa quân địch lại vấp phải “bức tường lửa” của Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 2 Quân giải phóng. Những chiếc xe tăng có súng phun lửa dẫn đầu cũng không giúp được gì cho lính thuỷ đánh bộ Mỹ tiến chiếm làng An Bình. Địch bị thương vong nhiều do bị bắn tỉa, sập hầm chông, vướng mìn... của lực lượng vũ trang địa phương, buộc chúng phải lui quân.

Trong lúc cánh quân thứ nhất đang bị sa lầy ở tây bắc Gio Linh, thì cánh quân thứ hai do Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 4 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đảm nhiệm cũng bị pháo, cối của Trung đoàn 3, Sư đoàn 324 tập kích, loại khỏi vòng chiến đấu gần 20 tên. Giữa lúc chúng đang tập trung giải quyết hậu quả, hai đại đội của Trung đoàn 3, Sư đoàn 324 bộ binh đã bí mật vận động tập kích một trung đội lính thuỷ đánh bộ chốt giữ bình độ 285 (đông nam điểm cao 400) làm cho Tiểu đoàn 3 Mỹ chốt giữ khu vực lúng túng.

Sáng ngày 26-9, Tiểu đoàn 3 linh thuỷ đánh bộ Mỹ cho hai đại đội (được hoả lực chi viện đắc lực) đánh chiếm điểm cao 400. Nắm bắt được ý đồ của địch, Trung đoàn 3 dùng Tiểu đoàn 9 bí mật phục kích ở khu vực 400 từ đêm 25-9, đánh trả quyết liệt khiến hai đại đội địch không trụ nổi phải thu nhặt xác đồng bọn tháo lui. Tình cảnh ấy còn dành cho Trung đoàn 4 lính thuỷ đánh bộ Mỹ thêm hai ngày nữa. Ngày 29-9, thấy binh lực bị hao tổn ngày một nhiều trên cả hai cánh, trung tướng Uôntơ, Tư lệnh lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Nam Việt Nam phải huỷ bỏ cuộc hành quân mang tên Đồng cỏ.

Thất bại liên tiếp của lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở đường 9 - bắc Quảng Trị trong hơn ba tháng đã chứng minh sự lúng túng bị động về chiến lược của quân viễn chinh Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Rõ ràng việc điều các đơn vị lính thuỷ đánh bộ Mỹ ra trấn giữ vùng núi rừng Quảng Trị là một sai lầm của chúng. Bọn lính cọp biển Mỹ vốn chỉ quen tác chiến ở đồng bằng ven biển, được sự chi viện tối đa của phi pháo và xe thiết giáp với phương châm “tốc chiến, tốc thắng”, nay phải lên vùng đồi núi heo hút hiểm trở, không phát huy được xung lực, hoả lực, đội hình bị xé nhỏ chốt giữ từng mỏm đồi, khe suối, sa vào thế đánh nhỏ, lẻ, táo bạo của Quân giải phóng, dẫn tới tổn thất binh lực nghiêm trọng. Chính bọn chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn phải than phiền về sự lớn mạnh và cách đánh thiên biến vạn hoá của lực lượng vũ trang giải phóng Quảng Trị đã tạo ra một thế chiến lược mới có lợi cho Quân giải phóng miền Nam. Mặc dù bị thiếu quân ở khắp nơi, Bộ Chỉ huy Mỹ vẫn không dám dàn mỏng lực lượng ra để đối phó với chiến tranh du kích đang phát triển của ta. Địch buộc phải tăng quân, nhưng càng tăng quân chúng càng bị sa lầy nghiêm trọng. Đây là mâu thuẫn cố hữu giữa tập trung quân đóng chốt và phân tán lực lượng đi càn quét, giữa tiến công và phòng ngự của lính viễn chinh Mỹ trên chiến trường miền Nam.

Nhân đà quân Mỹ và quân Sài Gòn bị hút ra Trị - Thiên, chủ yếu là Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị, lực lượng vũ trang Khu V Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động quân sự Thu - Đông. Tại tỉnh Thừa Thiên - Huế ngày 4-9-1966, các tổ vũ trang công tác ven thành phố Huế kết hợp với du kích tiến công tiêu diệt một đơn vị địa phương quân ở chợ Hôm; du kích huyện Hương Thuỷ phục kích bắn tỉa quân Mỹ trong căn cứ Phú Bài. Ngày 10-9, tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh phối hợp với du kích tiến công đồn Nam Giang, sau đó chuyển sang phục kích đánh đoàn xe chở quân địch đi càn quét, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên.

Ở các tỉnh đồng bằng Khu V vào giữa mùa mưa 1966, tuy gặp khó khăn thiếu thốn trăm bề về vật chất, trang bị, nhưng các cấp uỷ đảng, chính quyền và lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, xã vẫn chủ động đánh địch bằng “hai chân, ba mũi” gây cho Mỹ và Sài Gòn nhiều thiệt hại. Giữa tháng 8- 1966, Tỉnh uỷ Quảng Nam đưa du kích các huyện, xã ra các vành đai diệt Mỹ đánh địch, thực hiện bao vây chúng trong các căn cứ, hạn chế càn quét của chúng, tạo điều kiện cho bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực xây dựng lực lượng. Từ đầu tháng 8 đến giữa tháng 9-1966, du kích trên các vành đai diệt Mỹ ở Hoà Vang, vành đai diệt Mỹ ở Chu Lai đã gài mìn, đặt bẫy, bắn tỉa, chống càn, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên Mỹ, phá huỷ 14 xe quân sự các loại. Đêm 31-9, Tiểu đoàn 78 pháo binh quân khu pháo kích sân bay Chu Lai, phá hỏng 30 máy bay, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục giặt lái và nhân viên kỹ thuật.

Rạng sáng ngày 15-7, Tiểu đoàn 48 bộ đội địa phương Quảng Ngãi chia làm hai mũi, tiến công cứ điểm Gò Sỏi do một đại đội Mỹ tăng cường đóng giữ. Sau gần một giờ chiến đấu quyết liệt, bọn Mỹ trong căn cứ phá vòng vây tháo chạy. Bộ đội ta làm chủ Gò Sỏi, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên Mỹ, thu hai cối 81 mm, phá huỷ bốn xe quân sự.

Đêm 16-9, một bộ phận cán bộ Đại đội 202 và Tỉnh đội Phú Yên trinh sát cứ điểm Hòn Đồn (Tuy An), do hai trung đội Mỹ chiếm đóng. Thấy bọn địch sơ hở, đồng chí Trần Văn Mười, Tham mưu phó Tỉnh đội phụ trách bộ phận trinh sát quyết định tiến công. Bị đánh mạnh và bất ngờ, hai trung đội Mỹ không kịp chống cự đã bị tiêu diệt. Mười ngày sau chiến thắng Hòn Đồn, Đại đội 291 Tỉnh đội Phú Yên lại tập kích chốt điểm Núi Lá, diệt gọn một trung đội lính Nam Triều Tiên, thu toàn bộ vũ khí.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:31:48 pm

Đặc biệt quân và dân tỉnh Bình Định, một trong những trọng điểm bình định mùa mưa của Mỹ - ngụy, chẳng những chiến đấu kiên cường giữ vững các vùng giải phóng, giữ vững phong trào chiến tranh nhân dân địa phương, mà còn chủ động tiến công tiêu diệt đồn, phá bốt địch, mở rộng vùng giải phóng. Tại huyện Bồng Sơn, đêm 7 rạng ngày 8-9, một tiểu đoàn địa phương tỉnh đã tiến công diệt đồn Thế Lộc. Ba hôm sau, quân ta tiến công tiêu diệt nhiều vị trí xung quanh chi khu quân sự Phù Mỹ. Bị uy hiếp mạnh, bọn chỉ huy địch ở Quy Nhơn phải đưa quân lên ứng cứu cho huyện lỵ Phù Mỹ. Trưa ngày 12-9, một tiểu đoàn quân ngụy lọt vào trận địa phục kích của quân ta ở phía bắc cầu Phù Ly và bị diệt gần một nửa.

Để cứu nguy cho các huyện phía bắc tỉnh Bình Định, ngày 15-9, quân Mỹ điều hai lữ đoàn thuộc Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 từ An Khê xuống và ba tiểu đoàn quân chủ lực ngụy từ Sài Gòn ra, mở cuộc hành quân Taylo đánh vào thung lũng Hội Sơn (Phù Mỹ), nơi chúng nghi là căn cứ của bộ đội chủ lực Khu V.

Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng rộng khắp, các cấp chỉ huy khu, tỉnh đã phát động du kích địa phương (có tăng cường hai đại đội của tỉnh) chống địch càn quét bảo vệ Hội Sơn. Lực lượng chủ lực quân khu nhất loạt vận động tiến công bất ngờ vào sở chỉ huy địch ở Núi Một, đêm 22-9. Bị đánh dồn dập từ nhiều phía, bọn chỉ huy địch hoảng sợ phá chạy tán loạn. Chỉ sau một giờ tiến công, quân ta đã làm chủ trận địa, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch (chủ yếu là lính Mỹ), phá huỷ hàng chục xe quân sự các loại, buộc chúng phải huỷ bỏ cuộc hành quân Taylo đầy tham vọng.

Ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ, thượng tuần tháng 9, hai tiểu đoàn bộ đội chủ lực Khu VI đánh liên tục bốn trận ở Bình An, Ma Lâm, Phú Hội, Lương Sơn (Bình Thuận), loại khỏi vòng chiến đấu bốn đại đội quân ngụy. Bộ đội địa phương tỉnh Ninh Thuận đánh đồn Hậu Sanh, diệt bốn trung đội bảo an và dân vệ, bức rút đồn Sơn Huế. Tại tỉnh Lâm Đồng, trong vòng một tuần, quân và dân địa phương các huyện sát lộ 20 tích cực phá càn, phục kích, tập kích, diệt gần 500 tên địch.

Ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ tuy các trận đánh cấp trung đoàn, sư đoàn ít đi do phải củng cố xây dựng lực lượng, nhưng các trận đánh nhỏ, lẻ cấp đại đội, tiểu đoàn vẫn diễn ra sôi động trên một số địa bàn trọng điểm.

Tại vành đai diệt Mỹ Củ Chi (Sài Gòn - Gia Định), đầu tháng 7-1966, Tiểu đoàn 8 pháo binh bắn 200 quả đạn vào trung tâm căn cứ Đồng Dù, diệt và làm bị thương hàng chục lính Mỹ, phá huỷ 20 xe quân sự. Ngày 24-7-1966, địch phát hiện bộ đội chủ lực Miền đứng chân ở Sa Nhỏ (Tây Bắc thị trấn Củ Chi 16 km) chúng cho 12 trực thăng chở một đại dội Mỹ, đổ xuống “tìm diệt” quân ta. Tiểu đoàn 8 bộ binh Miền hoạt động ở đây đã sử dụng hai đại đội xuất kích tiêu diệt đại đội Mỹ. Thấy đồng bọn có nguy cơ bị xoá sổ, quân Mỹ ở Đồng Dù cho cho 25 máy bay trực thăng đổ tiếp hai đại đội xuống Cỏ Ống (gần Sa Nhỏ) để ứng cứu. Chớp thời cơ đánh địch ngoài công sự, Tiểu đoàn 8 vượt qua tầm hoả lực pháo, bom của địch vận động bám thắt lưng Mỹ, diệt hàng chục tên, bắn cháy năm máy bay, buộc bọn còn lại phải tháo chạy về Trung Hoà.

Giữa tháng 8-1966, Lữ đoàn 1, Sư đoàn 1 Mỹ có hàng chục xe tăng, thiết giáp yểm trợ hành quân càn quét ở Bông Trang - Lò Gạch. Tiểu đoàn Phú Lợi tỉnh Bình Dương đã phục kích đánh diệt và làm bị thương gần 200 tên Mỹ, bắn cháy 16 xe tăng và M113. Bông Trang - Lò Gạch là trận phản đột kích có hiệu quả nhất trong lịch sử chiến đấu của Tiểu đoàn Phú Lợi. Cùng thời gian này, tỉnh đội Phước Long cho Đại đội 270 và 271 tiến công chi khu quân sự Phước Bình, pháo kích vào trung tâm tỉnh lỵ Phước Long diệt và làm bị thương gần 100 tên Mỹ, ngụy, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh. Ngày 18-8, bộ đội Trung đoàn 5, Sư đoàn 5 bộ binh do Sư đoàn phó Trần Minh Tâm chỉ huy đã vận động phục kích tiến công Tiểu đoàn Hoàng gia Ôxtrâylia đi càn quét khu vực Núi Đất, Đất Đỏ. Sau 30 phút chiến đấu, Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 5) được một đại đội của Tiểu đoàn 445 Tỉnh đội Bà Rịa hỗ trợ tiêu diệt một đại đội lính Ôxtrâylia, làm cho lực lượng đánh thuê này được mệnh danh là có kinh nghiệm trong việc chống chiến tranh du kích hoảng sợ, tháo chạy về Đất Đỏ. Ngày 23-8, bộ đội đặc công Đoàn 10 nhận nhiệm vụ “chặn cổ sông Lòng Tàu” cùng đơn vị bạn làm hạn chế tàu xuồng vận chuyển hàng hoá quân sự chuẩn bị cho mùa khô 1966-1967 của địch, đã dùng hai quả “thuỷ lôi sừng chạm K5” đánh chìm tàu Batôn Rugiơ Victory trọng tải 10.000 tấn tại ngã ba Vàm Cống, diệt 45 tên địch, phá huỷ hàng chục xe M113 và nhiều phương tiện chiến tranh. Mười ngày sau, trên ngã ba sông Lô Giang, chiến sĩ Rừng Sát dùng súng ĐKZ75 bắn cháy chiếc tàu dầu 8.000 tấn. Đầu tháng 9-1966, pháo binh Miền pháo kích sân bay Biên Hoà, phá huỷ 20 máy bay, loại khỏi vòng chiến đấu nhiều phi công và nhân viên kỹ thuật Mỹ... Chiến công của quân dân Phước Long ở hướng tây bắc và của quân dân Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hoà ở hướng đông Sài Gòn góp phần thúc đẩy phong trào “tìm Mỹ mà diệt” trên địa bàn chiến lược miền Đông Nam Bộ.

Đồng thời với việc chỉ đạo quân và dân ta trên chiến trường miền Nam tăng cường phá thế phòng thủ, củng cố lực lượng chuẩn bị cho mùa khô 1966-1967 của Mỹ, các cấp bộ đảng từ Trung ương đến các cơ sở cũng tích cực chỉ đạo việc tăng cường xây dựng lực lượng, củng cố thế trận, đáp ứng mọi mặt cho tình hình nhiệm vụ mới.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:33:02 pm

Đầu năm 1966, Quân uỷ Miền ra Nghị quyết về xây dựng lực lượng vũ trang. Nghị quyết có đoạn: “Trong năm 1966, chủ yếu là kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng các đơn vị đã có và tiếp thu thật tốt lực lượng mới đưa từ miền Bắc vào. Đối với khối chủ lực, chú trọng xây dựng sư đoàn, nhưng chủ yếu là từng trung đoàn đánh cho thật tốt. Phát triển các binh chủng, nhất là đặc công và công binh đánh giao thông. Đối với bộ đội địa phương và dân quân du kích, chủ yếu là củng cố, nâng cao chất lượng. Tuỳ theo khả năng của từng chiến trường có thể phát triển thêm, nhưng xây dựng đơn vị nào cho ra đơn vị đó”1.

Theo phương hướng xây dựng đó, Bộ Tư lệnh Miền và các quân khu, một mặt tập trung chỉ đạo việc tiếp nhận lực lượng do Bộ tăng cường, cử các đội vũ trang công tác về các địa phương cùng cấp uỷ đảng tuyển quân xây dựng lực lượng tác chiến tại chỗ..., mặt khác, tập trung đội ngũ cán bộ chủ chốt đã kinh qua chiến đấu, xúc tiến thành lập các đơn vị cấp trung đoàn, sư đoàn nhằm tăng cường sức cơ động và khả năng tác chiến tập trung.

Tại căn cứ Phước Long miền Đông Nam Bộ, ngày 13-6, Bộ Tư lệnh Miền thành lập Sư đoàn 7 bộ binh gồm ba Trung đoàn 52, 141, 165. Hai Sư đoàn 5, 9 và một số trung đoàn độc lập được tập trung điều chỉnh cho phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu mới2. Mỗi sư đoàn biên chế thêm một tiểu đoàn súng máy 12,7 mm. Trung đoàn 84A pháo hoả tiễn ĐKB đổi phiên hiệu là Trung đoàn 72A. Tiểu đoàn 20 pháo hỗn hợp (sơn pháo 75 và cối 102) bổ sung cho Đoàn 69 pháo binh.

Ở Tây Nguyên, Sư đoàn 1 bộ binh được thành lập cuối tháng 12-1965 cùng với Sư đoàn bộ binh 63, đến đầu năm và giữa năm 1966, Tây Nguyên được bổ sung Trung đoàn 24 bộ binh và Sư đoàn 325 Bộ binh gồm Trung đoàn 95, 101B và Trung đoàn 88 (thuộc Sư đoàn 308). Tháng 8-1966, do khó khăn về bảo đảm vật chất cho các sư đoàn tập trung và do yêu cầu thực tế của chiến trường, Bộ Tư lệnh mặt trận quyết định giải thể Sư đoàn 325B. Khối chủ lực cơ động của Tây Nguyên còn lại Sư đoàn 1 bộ binh gồm các Trung đoàn 66, 320, 88 và Trung đoàn 101 độc lập, bốn tiểu đoàn pháo cối, súng máy cao xạ. Đưa Trung đoàn 24 về Kon Tum, Trung đoàn 95B về Gia Lai, Trung đoàn 33 về Đắc Lắc làm chủ lực tại chỗ. Các trung đoàn này có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công của chủ lực cơ động, tác chiến ở vùng sau lưng địch, vùng ven đô, trục đường giao thông chiến lược, trực tiếp hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, góp phần xây dựng, phát triển chiến tranh du kích ở địa phương.

Ở Khu V, tháng 8-1966, Bộ Tư lệnh Quân khu đưa Trung đoàn 31 vừa từ miền Bắc vào bổ sung cho Sư đoàn 2 và tập trung củng cố, xây dựng tăng cường sức mạnh cơ động cho sư đoàn này. Trung đoàn 20 bộ binh được điều vào tỉnh Khánh Hoà, cùng với Trung đoàn 10 đứng chân ở Phú Yên, làm lực lượng chủ lực của quân khu hoạt động ở Phân khu Nam. Để tăng cường sức mạnh chiến đấu, Bộ Tư lệnh Quân khu V tập trung xây dựng thêm Trung đoàn pháo binh 368 B hỗn hợp (cối 120, hoả tiễn ĐKB, A12). Cùng với sự phát triển của khối chủ lực cơ động và tại chỗ ở quân khu, bộ đội địa phương các tỉnh từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến Phú Yên, Khánh Hoà đều có từ một đến hai tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn đặc công, hai đại đội pháo cối và từ hai đến sáu đại đội bộ binh độc lập. Lực lượng dân quân du kích xã, thôn lên tới hàng chục nghìn người. Những vành đai diệt Mỹ ở Đà Nẵng, Chu Lai, An Khê... lần đầu tiên xuất hiện đã kìm chân được một bộ phận quân Mỹ ở các căn cứ lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội chủ lực đánh bại các cuộc hành quân tìm diệt của Mỹ - ngụy.

Tính đến tháng 10-1966, lực lượng chủ lực cơ động của quân đội ta ở miền Nam đã lên tới tám sư đoàn bộ binh4, một sư đoàn pháo binh, một số trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh và binh chủng.

Về tổ chức chiến trường, ngoài việc thành lập Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị và các chiến trường đã có (Khu V, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ), Quân uỷ Miền quyết định thành lập Đặc khu quân sự Rừng Sác (5-1966) nhằm tăng cường chỉ đạo hoạt động quân sự và xây dựng khu căn cứ Rừng Sác. Đây là một đặc khu quân sự với lực lượng hỗn hợp tương đương một trung đoàn, có nhiệm vụ đầu tiên là “chặn cổ sông Lòng Tàu” - một trong những con đường thuỷ lớn nhất mà quân Mỹ vận chuyển hàng, vũ khí viện trợ cho chế độ Sài Gòn và cung cấp khối lượng hàng khổng lồ cho quân viễn chinh. Thành lập Khu 10 gồm hai tỉnh Quảng Đức, Phước Long của Khu VI và tỉnh Bình Long của khu VII, nhằm củng cố vững chắc căn cứ miền núi, xây dựng hành lang phục vụ bộ đội chủ lực tác chiến.
________________________________________
1. Quân uỷ Miền: Tổng kết xây dựng lực lượng vũ trang năm 1966, lưu tại Bộ Quốc phòng, hồ sơ 1831/QL.
2. Trung đoàn 3 tách khỏi Sư đoàn 9, trực thuộc Miền chuyên hoạt động sâu trong lòng địch. Trung đoàn 16 độc lập đứng trong đội hình Sư đoàn 9.
3. Sư đoàn bộ binh đầu tiên có các Trung đoàn 320, 66, 33.
4. Ba sư đoàn 9, 5 và 7 thuộc Bộ Tư lệnh Miền, hai Sư đoàn 2 và 3 thuộc Quân khu V, Sư đoàn 1 thuộc Mặt trận Tây Nguyên, hai Sư đoàn 324 và 325 thuộc Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2010, 09:34:00 pm

Cùng với việc tăng cường lực lượng, tổ chức chiến trường, xây dựng thế trận, Bộ Tư lệnh Miền và các quân khu, mặt trận còn đặc biệt chú trọng vấn đề bảo đảm vật chất, trang bị cho bộ đội chủ lực chiến đấu. Ở Tây Nguyên, quân và dân các dân tộc xây dựng một hệ thống đường vận chuyển mới từ trục đường chiến lược Trường Sơn đến phía đông đường 14 nối với các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà. Các xưởng quân giới, Xưởng dược 38 và Bệnh việc 211 được tăng cường, củng cố. Các đội điều trị 80, 81, 82, 83 bố trí trên các hướng tác chiến của bộ đội. Tỷ lệ tử vong do bệnh tật ở chiến trường gây nên được hạn chế tới mức thấp nhất. Ở miền Đông Nam Bộ, Bộ Tư lệnh Miền thành lập thêm các đoàn hậu cần khu vực 86 (Phước Long - Quảng Đức), 85 (Bình Long), 87 (Bình Thuận) và các Bệnh viện K77B, K97.

Ngành hậu cần các chiến trường, các binh trạm vận tải, đoàn hậu cần khu vực thực hiện tốt việc tiếp nhận ở các điểm giao hàng của Đoàn 962 (vận tải đường biển), Đoàn 559 và đơn vị K201, từ đó chuyển hàng đến điểm cấp phát cho các đơn vị, địa phương. Trong mùa mưa 1966, một số loại vũ khí, phương tiện chiến đấu mới đã được đưa vào chiến trường, tăng cường thêm trang bị cho các đơn vị chủ lực và địa phương. Ở Nam Bộ, mỗi đại đội trong biên chế sư đoàn bộ binh từ chỗ chỉ có ba khẩu súng chống tăng B40 được tăng lên sáu khẩu (8-1966), chín khẩu (12-1966). Một trung đoàn được trang bị 18 khẩu B41. Bộ đội địa phương các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, từ chỗ chỉ có sáu khẩu B40, đến năm 1966 mỗi tỉnh đã có 70 khẩu. Súng tiểu liên AK được trang bị đến bộ đội địa phương. Các tiểu đoàn tỉnh được trang bị ĐKZ75, súng cối 82mm, súng máy cao xạ 12,7mm. Các tiểu đoàn hoả lực ngoài việc trang bị máy thông tin hữu tuyến, nay có thêm máy vô tuyến K83. Lực lượng pháo binh của các khối chủ lực được tăng cường pháo hoả tiễn ĐKB, H12.

Để nâng cao sức mạnh chiến đấu cho bộ đội, ngoài việc củng cố tổ chức, biên chế, trang bị, các đơn vị tranh thủ thời gian giữa hai đợt hoạt động để huấn luyện quân sự, học tập chính trị. Mặc dù thời gian học tập có hạn, nhưng trình độ giác ngộ chính trị, hiểu biết về kỹ, chiến thuật của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên một bước mới. Riêng các đơn vị chủ lực tác chiến ở chiến trường Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Khu V, đường 9 chú trọng xây dựng tư tưởng đánh tiêu diệt và tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô vừa và lớn. Tư tưởng và cách đánh này được quán triệt suốt trong quá trình xây dựng và chiến đấu cửa khối chủ lực Quân giải phóng. Đối với đội ngũ cán bộ trung đoàn, sư đoàn, các quân khu, mặt trận đều mở các lớp tập huấn về nghệ thuật chiến dịch tiến công và phản công, làm cho cán bộ thuần thục chỉ huy, thành thạo cách thức lập thế trận, dùng mưu kế lừa địch, tổ chức đánh trận quyết chiến then chốt... Qua huấn luyện, học tập, năng lực lãnh đạo, chỉ huy và trình độ kỹ, chiến thuật của cán bộ, chiến sĩ nâng lên toàn diện. Bộ đội chủ lực miền Đông tổ chức rút kinh nghiệm các trận đánh Cần Đâm, Cần Lê, Bông Trang - Nhà Đỏ, Long Phước; tổ chức huấn luyện chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn trên nhiều địa hình phức tạp, đánh cả ban ngày và ban đêm; đánh địch trong công sự vững chắc, đánh địch hành quân dã ngoại. Bộ đội chủ lực miền Tây Nam Bộ tập hành quân đánh địch trên địa hình sông nước, đầm lầy... Bộ đội chủ lực khu V rút kinh nghiệm tác chiến tập trung trên địa hình đồng bằng và bán sơn địa...

Tháng 8-1966, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền triệu tập Hội nghị công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ hai. Trung ương Cục chỉ rõ, trong tình hình mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác lãnh đạo tư tưởng phải chủ động, linh hoạt và kịp thời; phải làm cho các lực lượng vũ trang trong bất kỳ tình huống nào cũng không mơ hồ, do dự về mục tiêu chiến đấu; xây dựng niềm tin và ý chí tiến công có cơ sở khoa học. Hội nghị biểu dương những đơn vị làm tốt công tác chính trị, có nhiều tiến bộ trong xây dựng và chiến đấu như Sư đoàn 9 và Sư đoàn 5 bộ đội chủ lực Miền; Sư đoàn 2 và 3 bộ đội chủ lực Quân khu V; bộ đội địa phương các tỉnh Long An, Bình Dương, Quảng Nam; bộ đội địa phương và dân quân du kích các huyện Củ Chi (Gia Định), Đức Hoà (Long An), Bến Cát (Thủ Dầu Một), Châu Thành (Mỹ Tho), Mỏ Cày (Bến Tre), Phụng Hiệp (Cần Thơ), An Ninh, Vĩnh Thuận (Rạch Giá)... Trung ương Cục còn chỉ thị cho các khu uỷ, tỉnh uỷ phải tăng cường xây dựng các lực lượng vũ trang cơ sở. Hai phần ba đảng viên của các chi bộ và 100% đoàn viên thanh niên ở thôn, xã phải tham gia du kích. Các cấp uỷ đảng hết sức coi trọng việc củng cố tổ chức, rèn luyện tư tưởng, trọng tâm là xây dựng chi bộ bốn tốt, đảng viên bốn tốt. Cán bộ, đảng viên phải nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu, đi đầu trong mọi nhiệm vụ chiến đấu, công tác.


*
*   *


Mùa mưa năm 1966, đế quốc Mỹ tăng quân ồ ạt vào miền Nam, ra sức chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược lần thứ hai với hy vọng sẽ “bẻ gãy xương sống Việt cộng”, giành lại quyền chủ động chiến trường. Chúng tích cực mở nhiều cuộc hành quân càn quét, hành quân bình định nhằm tìm diệt một bộ phận chủ lực ta, tạo bàn đạp và thế trận tiến công trong mùa khô lần thứ hai 1966-1967. Nhưng quân và dân ta ở miền Nam biết rõ âm mưu của địch đã chủ động sử dụng lực lượng vừa phải đánh bại các cuộc hành quân càn quét, nống lấn của quân Mỹ, quân ngụy và quân đồng minh của Mỹ, đồng thời phá kế hoạch chuẩn bị của chúng. Đặc biệt là dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, ta đã mở Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị tạo ra một hướng tiến công chiến lược mới, buộc Mỹ phải bị động đối phó, thế bố trí chiến lược của địch hoàn toàn bị đảo lộn. Đây là bất ngờ lớn đối với địch. Từ bất ngờ dẫn chúng đến lúng túng, bị động không chỉ về chiến lược mà cả về chiến dịch, chiến đấu. Ta đã tạo ra thế mới, lực mới để chủ động bước vào cuộc đọ sức trong mùa khô thứ hai với quân Mỹ.
________________________________________
1. K20 là một đơn vị vận tải của quân đội ta ở Campuchia, hoạt động dưới danh nghĩa một công ty kinh doanh của Việt kiều.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 05:59:51 pm
CHƯƠNG 17
ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC HAI GỌNG KÌM TÌM DIỆT VÀ BÌNH ĐỊNH
CỦA MỸ TRONG CUỘC PHẢN CÔNG MÙA KHÔ 1966-1967



I- ĐÁNH THẮNG CÁC CUỘC HÀNH QUÂN TÌM DIỆT ĐẦU TIÊN CỦA QUÂN MỸ TRONG MÙA KHÔ LẦN THỨ HAI, PHÁT TRIỂN THẾ TRẬN CHIẾN TRANH NHÂN DÂN


 Sau những thất bại liên tiếp từ mùa khô 1965-1966 đến mùa mưa 1966 và cả trong cuộc chiến tranh không quân đánh phá miền Bắc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, giới cầm quyền Mỹ càng lúng túng, nội bộ bị phân hoá. Những ý kiến bất đồng về cách giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam nổi lên gay gắt. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mắc Namara trước đây đã từng ủng hộ chính sách của Tổng thống L. Giônxơn đối với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì nay cũng tỏ ra chán nản và nghi ngờ kết quả của chính sách leo thang của Mỹ ở Việt Nam. Ngày 14-10-1966, Mắc Namara gửi cho L. Giônxơn bị vong lục nói rõ: “Sự thật đáng nản lòng là, như trường hợp năm 1961, 1963 và 1965, chúng ta không thể tìm được công thức và chất xúc tác để lôi kéo, thúc đẩy họ (ngụy quyền Sài Gòn) đi vào hành động một cách có hiệu quả”, “... đứng về quan điểm một cuộc chiến tranh quan trọng, thực chất chúng ta tự thấy mình không khá hơn và có lẽ là tồi tệ đi”1. Cũng trong bị vong lục này, Mắc Namara kiến nghị năm điểm:

1. Ổn định mức quân số Mỹ ở Nam Việt Nam là 47 vạn.

2. Thiết lập một hàng rào điện tử với chi phí khoảng 1 tỷ đôla “nằm gần vĩ tuyến 17, chạy ngang từ biển qua phần cổ chai Nam Việt Nam (cắt ngang những con đường xâm nhập mới đi qua khu phi quân sự) và qua các đường mòn ở Lào” nhằm ngăn chặn sự xâm nhập từ miền Bắc vào miền Nam.

3. Ổn định chương trình sấm rền đánh phá miền Bắc.

4. Theo đuổi một chương trình bình định mạnh mẽ.

5. Gây sức ép đòi thương lượng.

Quan điểm của Mắc Namara bị phe hiếu chiến trong Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân phản đối. Phe này đòi phải đẩy mạnh chiến tranh, đòi ném bom Hà Nội, Hải Phòng, yêu cầu đưa quân đồng minh vào Lào, Campuchia, thậm chí ra cả miền Bắc Việt Nam, đòi tăng quân Mỹ lên 49 vạn rồi 57 vạn.

Tình hình miền Nam lúc đó như Mắc Namara đánh giá là: “một bức tranh ảm đạm, đau đớn đến tột cùng. Nhưng khi đó, tôi không thấy cách gì tốt hơn”2... CIA Cho rằng đánh giá của Mắc Namara là sâu sắc và giống với đánh giá của họ. Nhưng Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân thì “phản ứng mạnh mẽ”3.

Trước tình hình đó, Tổng thống Mỹ L.Giônxơn đã triệu tập Hội nghị khối SEATO (Khối quân sự Đông - Nam Á) ở Manila có sự tham gia của ngụy quyền Sài Gòn để thống nhất hành động với các nước đồng minh, tiếp tục tăng quân, cố giành thắng lợi có tính chất quyết định trong năm 1967. Đồng thời, L.Giônxơn cử các phái đoàn đi một loạt các nước đồng minh Tây Âu để tìm sự ủng hộ đối với hành động của Mỹ ở Việt Nam và tăng cường các hoạt động ngoại giao khác để đánh lạc hướng dư luận thế giới.

Mỹ quyết định mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai vào mùa khô 1966-1967, dự tính từ tháng 10-1966 đến tháng 6-1967. Ý đồ của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược lần này là cố giành một thắng lợi quân sự lớn trên chiến trường, tạo một bước ngoặt, tiến tới giành những thắng lợi quyết định. Về chiến lược, lần này địch không phân tán lực lượng đánh trên nhiều hướng mà tập trung đánh vào miền Đông Nam Bộ, đồng thời chú trọng đẩy mạnh kế hoạch bình định, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn - Gia Định, kiềm chế ta ở các hướng Tây Nguyên, Trị - Thiên. Cụ thể là: ưu tiên tập trung lực lượng tiến công vào hệ thống căn cứ của ta ở Tây Ninh, Bình Dương, Long An, Hậu Nghĩa, Phước Tuy, trọng điểm là Chiến khu Dương Minh Châu, diệt cơ quan đầu não và một bộ phận chủ lực ta, kết hợp với việc mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn. Trong phản công chiến lược lần thứ hai này, cùng một lúc Mỹ thực hiện cả hai nhiệm vụ “tìm diệt” và “bình định” mà chúng gọi là chiến lược “hai gọng kìm”.
_____________________________________
1. Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, VNTTX phát hành, 1971, t.2, tr.201.
2, 3. Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.263.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 06:01:41 pm

Mùa khô 1965-1966, với lực lượng hùng hậu của đội quân viễn chinh Mỹ và đồng minh của chúng có mặt ở Nam Việt Nam, Bộ chỉ huy Mỹ (MACV) tin rằng có thể nhanh chóng tiêu diệt quân chủ lực giải phóng, phá chiến tranh du kích, giành lại quyền chủ động chiến trường. Nhưng trước sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam quân Mỹ không thực hiện được mục tiêu đề ra. Nhà Trắng và Lầu Năm góc Mỹ nhận thấy chỉ chú trọng hoạt động quân sự tìm diệt thì chẳng những không tiêu diệt được chủ lực của đối phương mà còn bị đánh thiệt hại. Vì vậy, mùa khô 1966-1967, song song với tìm diệt, Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn sử dụng một bộ phận quân Mỹ phối hợp với quân ngụy tiến hành bình định nhằm lấn đất giành dân với ta.

Để thực hiện kế hoạch chiến lược trên đây, những tháng cuối năm 1966 và đầu năm 1967, đế quốc Mỹ đưa thêm vào miền Nam nước ta hai Sư đoàn bộ binh số 4 và số 9, nâng tổng số quân Mỹ có mặt ở Nam Việt Nam lên 389.000 tên vào cuối tháng 12-1966. Mỹ còn dự kiến sẽ tăng quân Mỹ ở Nam Việt Nam lên 459.000 cho năm 1967. Nhưng mới đến tháng 8-1967, tình hình quân sự, chính trị của Mỹ và Sài Gòn ở Việt Nam biến chuyển theo chiều hướng đi xuống không có lợi cho Mỹ, nên chúng phải trù tính tăng quân Mỹ lên 542.588 vào cuối năm 1967.

Bước vào mùa khô lần thứ hai, cùng với 54.000 quân của các nước đồng minh của Mỹ và hơn nữa triệu quân đội Sài Gòn, Mỹ đã có trong tay 20 sư đoàn và 10 lữ đoàn, trung đoàn bộ binh và binh chủng. Ngoài ra, Mỹ còn huy động thêm lực lượng yểm trợ tác chiến gồm hai tập đoàn không quân và 1/3 lực lượng hải quân của nước Mỹ.

Đi đôi với tăng quân, ngân sách quân sự Mỹ năm tài khoá 1966-1967 cũng tăng lên đến mức cao nhất từ trước tới lúc này. Ngân sách này lúc đầu dự kiến 48 tỷ đôla, sau tăng lên 68 tỷ, trong đó giành cho cuộc chiến tranh Việt Nam hơn 50%, khoảng 38 tỷ đôla1. Phương tiện chiến tranh cũng được bổ sung nhiều gần gấp 1,5 lần so với mùa khô lần thứ nhất. Tính đến tháng 12-1966, số máy bay đưa vào Việt Nam lên tới 3.500 chiếc và đến tháng 5-1967 tăng lên 4.300 chiếc; xe tăng, thiết giáp 2.500 chiếc, pháo 2.540 khẩu, v.v... Nếu tính cả lực lượng Mỹ ở Hạm đội 7, Thái Lan, Philíppin, Guam, tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì tổng số quân tham chiến của địch lên tới 1.200.000 tên, riêng quân Mỹ 60 vạn.

Về tổ chức và bố trí lực lượng: các đơn vị quân Mỹ được tổ chức thành một lực lượng cơ động chiến lược binh chủng hợp thành mạnh, tập trung hoạt động tiến công tìm diệt chủ lực ta. Quân chủ lực ngụy cùng với một bộ phận quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ càn quét vòng trong phối hợp với các “đội bình định” dồn dân, lập ấp chiến lược.

Nhằm hỗ trợ cho cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, đế quốc Mỹ tăng cường đẩy mạnh cuộc chiến tranh không quân, hải quân đánh phá hệ thống kho nhiên liệu, cầu cống, căn cứ quân sự trên miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, hòng làm kiệt quệ tiềm lực kháng chiến của ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa cho tiền tuyến lớn miền Nam, làm lung lay ý chí của Đảng và nhân dân ta ở miền Bắc.
_____________________________________
1. Trong số 38 tỷ đôla có khoản chi phí tăng thêm là 18 tỷ. Chi phí tăng thêm là chi phí cho hoạt động của máy bay B52 và các loại máy bay khác dùng vào việc đánh phá miền Bắc và yểm trợ hành quân tác chiến.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 06:03:56 pm

Tháng 10-1966, Hội nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng sau khi đánh giá toàn bộ tình hình địch, ta qua cuộc đọ sức mùa khô lần thứ nhất, đã khẳng định: “Đông - Xuân 1965-1966 sau khi đưa trên 20 vạn quân Mỹ và quân chư hầu vào miền Nam, cùng với nửa triệu quân ngụy, đế quốc Mỹ tiến hành cuộc phản công chiến lược lớn... Song, quân và dân ta đã phát triển mạnh mẽ chiến tranh nhân dân đánh bại cuộc phản công quy mô lớn đầu tiên của bọn xâm lược, làm thất bại các mục tiêu chiến lược của chúng”1. Bộ Chính trị phân tích sự thất bại của địch trong cuộc phản công lần thứ nhất càng làm cho mâu thuẫn giữa tập trung với phân tán của quân Mỹ trên chiến trường bị khoét sâu, không thể nào khắc phục được, đẩy chúng luôn luôn ở vào thế bị động chiến lược. Tình hình đó càng làm tăng thêm nỗi lo của chính quyền Oasinhtơn về sự thất bại khó tránh khỏi và đã ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế, tài chính, chính trị, quân sự nước Mỹ. Nhưng do cuộc tổng tuyển cử bầu tổng thống ở Mỹ vào năm 1968 thôi thúc và do tự huyễn hoặc về sức mạnh siêu cường của họ, đế quốc Mỹ “ra sức đẩy mạnh chiến tranh xâm lược hòng giải quyết vấn đề Việt Nam vào những năm 1967, 1968, đặc biệt năm 1967 có tầm quan trọng đối với địch cũng như đối với ta. Địch sẽ ra sức tăng cường lực lượng nhằm đánh nhanh, thắng nhanh, ta phải có những cố gắng lớn hơn về mọi mặt, tạo thời cơ giành thắng lợi quyết định”2. Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cụ thể trước mắt cho quân, dân ta là:

Ở miền Nam: “Ra sức đánh bại cuộc phản công chiến lược lớn lần thứ hai của bọn xâm lược Mỹ, làm thất bại các mục tiêu lớn của chúng, giữ vững thế chủ động, bảo tồn và phát triển lực lượng của ta, tạo điều kiện, thời cơ cho các hoạt động lớn tiếp theo, tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương. Đồng thời, ra sức xây dựng cơ sở vững chắc, chuẩn bị điều kiện đánh thắng địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài hoặc mở rộng ra cả nước”3.

Ở miền Bắc: “phải tích cực đẩy mạnh sản xuất và chiến đấu đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tăng cường lực lượng kinh tế và quốc phòng, ra sức giữ vững và mở rộng các con đường hành lang, bảo đảm tăng cường chi viện cho miền Nam và Lào, tích cực chuẩn bị và kiên quyết đánh thắng địch trong trường hợp chúng đổ bộ ra phía nam Khu IV cũ, chiếm đóng Trung, Hạ Lào, đồng thời chuẩn bị đánh thắng địch trong trường hợp chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước”4.

Về phương châm đấu tranh, Bộ Chính trị chủ trương: “Đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công”5... “Đi đôi đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị trong nước, chúng ta cần tiến công địch về mặt ngoại giao... trên cơ sở đó, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ mạnh mẽ hơn nữa của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhân dân yêu chuộng hoà bình toàn thế giới, kể cả nhân dân Mỹ, để tăng cường lực lượng của ta về các mặt vật chất, chính trị và tinh thần”6.

Cũng tại Hội nghị này, sáu phương thức tác chiến mà Quân uỷ Trung ương đề ra từ tháng 2-1966, qua thực tiễn chứng minh, được Bộ Chính trị chính thức thông qua, coi đó là cách đánh sáng tạo và phù hợp nhất để phát triển chiến tranh nhân dân. đánh bại chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ. Cùng với Hội nghị Bộ Chính trị, tháng 10-1966, Hội nghị chiến tranh du kích toàn Miền lần thứ ba được tổ chức, Hội nghị đã tổng kết, đánh giá và chỉ ra những khả năng to lớn của phong trào chiến tranh du kích ở miền Nam:

1. Chiến tranh du kích đã từ chỗ tiêu hao địch lẻ tẻ tiến lên tiêu hao nhiều hơn và rộng rãi hơn cả quân ngụy và quân Mỹ, diệt gọn từng đơn vị nhỏ của chúng.

2. Chiến tranh du kích chẳng những diệt được nhiều bộ binh Mỹ, ngụy mà với vũ khí thô sơ thông thường cũng đã đánh bại được ưu thế về không quân, cơ giới của Mỹ, hạ được hàng ngàn máy bay, diệt hàng ngàn xe cơ giới, xe bọc thép hiện đại của chúng.

3. Dân quân, du kích đã cùng với nhân dân đánh bại những cuộc càn quét lớn, dài ngày của hàng chục ngàn quân Mỹ, ngụy, bảo vệ được nhân dân, bảo vệ được vùng giải phóng.

4. Trong phong trào chiến tranh du kích đã xuất hiện những vành đai diệt Mỹ. Đó là một hình thức tiến công địch sáng tạo của chiến tranh nhân dân.

5. Chiến tranh du kích từ chỗ bao vây đồn bốt lẻ tẻ, tiến lên bao vây đánh các đồn bốt lớn, các chi khu quân sự, cắt đứt đường giao thông địch trên diện rộng, dài ngày, tiêu hao, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch.

6. Bằng chiến tranh du kích, ta đã đánh phá thường xuyên, liên tục các đường giao thông quan trọng, gây cho địch nhiều khó khăn về quân sự, kinh tế, hậu cần, giam chân được một bộ phận lực lượng cơ động của địch.

7. Phong trào chiến tranh du kích không những phát triển ở vùng giải phóng mà đã tiến sâu vào các vùng tranh chấp, đến tận cửa ngõ hậu cứ địch và phát triển mạnh ngay cả trong lòng các thành phố bị địch tạm chiếm.

8. Lực lượng dân quân, du kích đã sáng chế ra nhiều vũ khí thô sơ, lấy được vũ khí địch, chế tạo thành vũ khí đơn giản nhưng có uy lực lớn, hiệu quả cao.

9. Trong quá trình thực hiện chiến tranh du kích, các xã chiến đấu liên hoàn đã hình thành với hệ thống công sự, trận địa vững chắc, chống được các vũ khí tối tân của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho du kích và đồng bào phối hợp với bộ đội tập trung đánh bại những cuộc hành quân lớn của địch.

10. Dân quân, du kích kết hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương và chủ lực hình thành một lực lượng ba thứ quân bảo đảm đánh thắng địch trong mọi tình huống.

11. Bên cạnh dân quân, du kích, có hàng triệu quần chúng nhân dân vũ trang tham gia chiến đấu làm tăng sức mạnh to lớn của chiến tranh du kích.

12. Phụ nữ có vai trò to lớn trong chiến tranh du kích. Họ không những có khả năng đấu tranh chính trị, binh vận mà còn tỏ ra có năng lực rất lớn trong đấu tranh vũ trang.
_____________________________________
1. Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 10-1966, bản sao, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số TW 218, tr. 1.
2. Tlđd. tr. 3.
3÷6. Tlđd, tr. 5-6.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 06:20:41 pm

Tiêu biểu cho phong trào du kích chiến tranh trên toàn Miền có thể kể đến các địa phương: Củ Chi đất thép thành đồng với hệ thống địa đạo nhiều tầng, nhiều lớp, kiên cố chưa từng thấy. Chính tại mảnh đất kiên cường này, hồi đầu 1966, với thế trận chiến tranh nhân dân độc đáo và sáng tạo, ta đã bẻ gãy cuộc hành quân “Cái bẫy” (Grimp) nhằm “tiêu diệt dầu não Quân khu Sài Gòn - Gia Định”. Cũng chính tại nơi đây ngay sau chiến thắng vang dội này, Đại hội liên hoan dũng sĩ diệt Mỹ đã được tổ chức. Nhiều tấm gương tiêu biểu của “đất thép thành đồng” xuất hiện như Xã đội trưởng Phạm Văn Cội một mình diệt 98 tên Mỹ, Trần Thị Gừng bắn chết nhiều Mỹ, Tô Văn Đực nổi tiếng làm mìn tự tạo diệt xe tăng... Từ phong trào chiến tranh nhân dân ở Củ Chi, 10 bài học kinh nghiệm đã được đúc rút làm cơ sở cho các địa phương khác nghiên cứu, học tập. Củ Chi không chỉ là nỗi kinh hoàng của quân Mỹ từng tham chiến tại đây, nó còn nổi tiếng khắp thế giới về tính ác liệt, sức chịu đựng, tinh thần anh dũng tuyệt vời và sự sáng tạo vô song của con người Việt Nam đã tạo ra hệ thống địa đạo, hầm ngầm có một không hai trên thế giới. Harrisơn trong cuốn Cuộc chiến tranh triền miên đã đánh giá: “Quân cộng sản tồn tại được qua các cuộc ném bom ồ ạt và các cuộc càn quét quân sự là nhờ thiết lập được bằng tay không một hệ thống địa đạo không sao tưởng tượng nổi. Khu liên hợp hàng trăm dặm địa đạo và giao thông hào không những chỉ là khu vực hỗn hợp kỳ lạ nhất đáng nghiên cứu mà thực tế nó đã mang lại hiệu quả thật to lớn cho đối phương”1.

Nếu Củ Chi nổi tiếng với các trận “địa đạo chiến” thì ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Mỹ Tho, Long An... ngay khi quân Mỹ đặt chân đến, một hình thức tiến công địch kiểu mới của chiến tranh nhân dân hình thành. Đó là sự xuất hiện của các vành đai diệt Mỹ. Có thể kể đến những vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn (Tây Ninh), Bình Đức (Mỹ Tho) và ngay tại Củ Chi cũng có vành đai diệt Mỹ nổi tiếng Đồng Dù (còn gọi là Bắc Hà). Thông thường, ở đâu có quân Mỹ đóng quân, ở đó có vành đai diệt Mỹ. Nó kế thừa và phát triển lên một trình độ mới của làng, xã chiến đấu và phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân địa phương từng có từ kháng chiến chống Pháp, là hệ thống những xã ấp chiến đấu áp sát, bao vây quanh các căn cứ quân sự Mỹ, được tổ chức thành thế trận vững chắc vây hãm và tiến công địch. Vành đai Đồng Dù (Bắc Hà) ở Củ Chi gồm hệ thống xã, ấp chiến đấu bao quanh căn cứ của Sư đoàn 1 Anh cả đỏ. Vành đai Trảng Lớn (Châu Thành - Tây Ninh) hình thành khi Mỹ xây dựng căn cứ cho Lữ dù nhẹ 196 Mỹ ở đây. Những vành đai diệt Mỹ này đã làm cho quân Mỹ ở trong căn cứ nơm nớp lo sợ, hễ cứ ra ngoài là đụng phải “Việt cộng”. Vành đai, vì vậy mà kìm giữ, giam chân một bộ phận lực lượng cơ động Mỹ, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang ta thực hiện các trận đánh lớn vào sâu trong căn cứ của địch. Đây là một hình thức “toàn dân đánh giặc” rất sáng tạo và hiếm có trong lịch sử.

Tổng kết kinh nghiệm phong trào chiến tranh du kích ở các địa phương, Hội nghị chiến tranh du kích toàn Miền lần thứ ba đã đề ra phương hướng hoạt động trong thời gian tới là:

1. Chú trọng phát động nhân dân tham gia kháng chiến trong một cao trào chiến tranh du kích rộng lớn, nghiên cứu nhiều hình thức tổ chức thích hợp để nhân dân tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu được đông đảo, làm cho chiến tranh du kích thực sự là một hình thức chiến đấu vũ trang của toàn dân chống ngoại xâm.

2. Chú trọng vận dụng các phương châm chỉ đạo hoạt động và tác chiến cho tích cực và linh hoạt, nắm chắc phương châm đấu tranh ba mũi, tăng cường hơn nữa việc kết hợp hoạt động của ba thứ quân.

3. Phát triển tiến công mạnh mẽ, ra sức tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đánh phá mạnh mẽ các đường giao thông, đánh sâu vào hậu phương của địch, căng địch ra khắp nơi để mà đánh, tạo điều kiện cho các lực lượng tập trung tiến công diệt địch mạnh mẽ hơn.

4. Hết sức chú trọng tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích.

Sau Hội nghị chiến tranh du kích toàn Miền lần thứ ba, các chiến trường Trị - Thiên, Khu V, Tây Nguyên và Nam Bộ đều tổ chức hội nghị tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích trên địa bàn, đề ra phương châm phối hợp tác chiến giữa các lực lượng nhằm đánh bại bước leo thang mới của đế quốc Mỹ.

Giữa lúc ta đang khẩn trương chuẩn bị để đối phó với những âm mưu, thủ đoạn mới của địch, thì đế quốc Mỹ lợi dụng yếu tố về thời tiết ở Nam Bộ đang chuyển dần sang mùa khô, bắt đầu mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai nhằm đánh đòn bất ngờ vào lực lượng ta.
_____________________________________
1. Harrison: Cuộc chiến tranh triền miên, Trung tâm thông tin dịch, tr. 296.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 06:22:53 pm

Bộ chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam đã sử dụng 40% lực lượng chủ lực Mỹ (ba sư + 3 lữ trong tổng số bảy sư và tám lữ) kết hợp với Trung đoàn Hoàng gia Ôxtrâylia và bốn sư đoàn ngụy, hình thành khối chủ lực chung gồm bảy sư đoàn và năm lữ đoàn tập trung vào một hướng chính là miền Đông Nam Bộ. Lực lượng này được chia làm ba cánh: cánh thứ nhất gồm Sư 1 và Sư 25 bộ binh, Lữ 199, Trung đoàn thiết giáp 11 và Chiến đoàn dù quân đội Sài Gòn, triển khai trên trục đường số 13 và 22 nhằm đánh vào cụm căn cứ của ta ở Bắc Sài Gòn (Chiến khu Dương Minh Châu, khu tam giác sắt: Củ Chi, Bến Súc, Trảng Bàng) và Chiến khu Đ. Cánh thứ hai gồm Lữ đoàn 3 của Sư đoàn 9, Lữ 196, Trung đoàn Ôxtrâylia với sự phối hợp của Sư 18 ngụy triển khai trên khu vực đường số 18 đánh vào căn cứ của ta ở đông Sài Gòn (Phước Tuy, Bình Tuy). Cánh thứ ba gồm Sư đoàn 9 (thiếu), một bộ phận của Sư đoàn 7 ngụy triển khai trên trục đường số 4 ở khu vực Long An - Mỹ Tho nhằm ngăn chặn từ cửa ngõ miền Tây lên Sài Gòn.

Cuộc phản công của địch bắt đầu vào ngày 14-9-1966 bằng cuộc hành quân cấp quân đoàn đầu tiên: hành quân Áttơnborơ. Không gian của cuộc hành quân từ Trảng Bàng đến Gò Dầu Hạ nằm trên đường số 1 và Trại Đèn trên đường 13 (Tây Ninh), nhằm tìm diệt một bộ phận chủ lực của ta (Sư đoàn 9 và Trung đoàn 16), hỗ trợ cho việc bình định quanh Sài Gòn của chúng.

Tham gia cuộc hành quân này có lực lượng của Sư đoàn 1 Sư đoàn 25 (thiếu), Lữ đoàn 196, một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn dù 173 Mỹ cùng chín tiểu đoàn quân ngụy, chưa kể lực lượng pháo binh, thiết giáp và không quân (có cả B52) chi viện. Tất cả khoảng 30.000 quân. Đây là cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ - ngụy lúc đó.

Mở đầu cuộc hành quân, địch sử dụng Lữ đoàn 196 và một bộ phận của Sư đoàn 25 cùng hai tiểu đoàn pháo càn quét khu vực đông và đông bắc thị xã Tây Ninh có tính chất thăm dò và chuẩn bị chiến trường. Sau nửa tháng lùng sục liên tục, nhưng quân địch không gặp chủ lực ta, nên chưa có những trận đụng độ lớn. Cho đến đầu tháng 10, phát hiện ra một số kho hậu cần chứa nhiều gạo, muối và đạn dược của ta, Bộ Tư lệnh Mỹ ở Sài Gòn mới quyết định mở cuộc hành quân tìm diệt cấp quân đoàn nhằm phá căn cứ hậu phương ta, thực hiện một trong nhiều mục tiêu của cuộc phản công chiến lược lần thứ hai.

Ngày 14-9, địch triển khai lực lượng và dùng không quân, pháo binh đánh phá nhiều nơi, đến ngày 15-10-1966, chúng dùng hai tiểu đoàn của Lữ đoàn 196 và hai tiểu đoàn của Sư đoàn 25 càn quét các khu vực Bà Nhã, Bến Củi, Bàu Gòn.

Ngày 20-10-1966, Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng kêu gọi: “Giặc Mỹ mưu mô mở cuộc phản công mới trong mùa khô tới, hòng bình định nhân dân ta và tạo thế mạnh buộc ta chịu đàm phán với điều kiện đầu hàng, cúi đầu khuất phục chúng”1. Quân và dân ta ở miền Nam lúc này hơn lúc nào hết hãy “nỗ lực vượt bậc, đập tan kế hoạch phản công mới của Mỹ - ngụy, quyết giành thắng lợi thật to lớn trong Đông - Xuân 1966 - 1967... Dù lâu dài gian khổ mấy, quân và dân ta cũng quyết đánh và quyết thắng, không có gì quý hơn độc lập, tự do2.

Cùng với cuộc hành quân Áttơnborơ trên địa bàn Tây Ninh, để đánh lạc hướng và phân tán lực lượng ta, địch sử dụng Lữ đoàn 3 của Sư đoàn 4 đóng tại Nước Trong mở cuộc hành quân Brimớctơn đánh vào Nhơn Trạch nhằm yểm trợ bình định, giải toả vành đai (23-10-1966). Trên hướng Tánh Lịnh, Võ Đắc (Long Khánh), từ 17-10 đến cuối tháng 10-1966, chúng đưa Lữ dù 173 và Trung đoàn thiết giáp 11 càn quét. Tại Thủ Dầu Một, địch dùng hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 và hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 3, Sư đoàn bộ binh 1 mở cuộc hành quân Xinenđô vào khu vực Long Nguyên, Nhà Mát, Hố Đá, Cẩm Xe...

Nắm chắc tình hình diễn biến trên chiến trường, Quân uỷ và Bộ Chỉ huy Miền giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 9 bộ binh kết hợp với tỉnh Tây Ninh mở chiến dịch ở địa bàn Tây Ninh nhằm đánh bại cuộc hành quân Áttơnborơ bảo vệ kho tàng và căn cứ Dương Minh Châu. Hai phương án tác chiến được đặt ra là:

Phương án một: Dùng từng đơn vị nhỏ đánh mạnh vào hệ thống đồn bốt nhỏ, ấp chiến lược, hỗ trợ cho phong trào địa phương và uy hiếp mạnh địch, chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng đánh địch phản kích nhằm tiêu diệt gọn từng đại đội, tiểu đoàn địch bằng phục kích, tập kích.

Phương án hai: Dự kiến trong quá trình chuẩn bị hoặc đang tiến công, địch có khả năng càn quét vào căn cứ ta. Vì vậy, đi đôi với phương án mở chiến dịch, ta có kế hoạch chủ động đánh địch khi chúng càn vào căn cứ và coi đây là thời cơ tốt để ta tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch bảo vệ căn cứ.
_____________________________________
1, 2. Lời kêu gọi của Đoàn Chủ tịch U.B.T.Ư.M.T.G.P, ngày 20-10-1966, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 06:26:11 pm

Ngày 2-11-1966, các đơn vị của Sư đoàn 9 bộ binh đã hoàn thành mọi công tác chuẩn bị và hành quân đến vị trí tập kết để bắt đầu đợt tiến công theo phương án một. Trung đoàn bộ binh 1 tập kết ở khu vực tây bắc thị xã Tây Ninh (tây đường 22). Trung đoàn 16 và Tiểu đoàn 6 của Trung đoàn 2 tập kết ở khu vực đông bắc suối Đá (nam - bắc, đường số 13). Trung đoàn 2 (thiếu) đứng chân ở khu vực Long Nguyên.

Ngay trong đêm 2 - 11- 1966, bộ đội ta đã tiến công mãnh liệt vào hệ thống cứ điểm vùng suối Bà Tươi ở phía đông tỉnh Tây Ninh, diệt một đại đội bảo an, một trung đội biệt kích, một trung đội cán bộ bình định. Tại ấp chiến lược Truông Mít, ta tập kích bọn Mỹ đóng ở đây, diệt 60 tên, phá hỏng nặng hai đại bác.

9 giờ sáng ngày 3-11-1966, địch đổ một bộ phận thuộc Lữ đoàn 196 xuống Trảng Tranh (tây bắc Bàu Gòn), cách căn cứ Dương Minh Châu 500m, bên cạnh Sở Chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 9. Trung đội vệ binh và trinh sát của sư đoàn được điều động ra đối phó với địch. Sau một thời gian chiến đấu ta bắn rơi một máy bay trực thăng, diệt 50 tên địch.

Dự đoán địch có thể tiếp tục càn lên phía bắc Bàu Gòn, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định chuyển Trung đoàn 16 sang làm nhiệm vụ chống càn. Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 16 được điều sang khu vực căn cứ Dương Minh Châu. Tiểu đoàn 7 và 8 sẵn sàng đánh địch ở khu vực nam - bắc, đường số 13 (đoạn Lộc Ninh - Võ Tùng).

Đêm 3 rạng 4-11, ta bắn phá dữ dội Sở Chỉ huy địch ở Gò Dầu, Bàu Đồn, Chi khu quân sự Trảng Bàng và cứ điểm Trâm Vàng. Cùng đêm đó, ta pháo kích vào Sở chỉ huy Lữ đoàn 196 đóng ở Trảng Lớn. Đồng thời ta bắn phá đồn Trại Bí trên đường 22 ở phía bắc tỉnh Tây Ninh.

Sáng 4-11, địch đổi hai tiểu đoàn của Lữ đoàn 196 xuống tây bắc Bàu Gòn. Kết hợp với lực lượng đã đổ xuống đây trong ngày 3-11, địch tổ chức tiến công vào trận địa của Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 16) theo hai hướng tây bắc và tây. Lợi dụng địa hình, địa vật và hệ thống công sự vững chắc, Tiểu đoàn 9 đã đẩy lùi được nhiều đợt tiến công của địch. 

Ngày 5- 11, địch lại đổ thêm một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 2 (Sư đoàn 25) Mỹ xuống Trảng Dài. Lực lượng này cùng với số quân còn lại của Lữ đoàn 196 hình thành ba mũi tiếp tục đột phá vào trận địa ta. Trung đoàn 16 đã tổ chức những trận đánh dữ dội vào đội hình địch gây cho chúng nhiều thiệt hại. Tính đến hết ngày 5-11, quân Mỹ đã bị đánh thiệt hại ba tiểu đoàn. Tên trung tá tiểu đoàn trưởng của Mỹ chết tại trận. Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196 mất sức chiến đấu. Tướng Đxốtxuya, Tư lệnh Lữ đoàn 196 và là chỉ huy toàn bộ cuộc càn quét Áttơnborơ bị cách chức. Trước tình hình đó, địch vội vã lệnh cho Sư đoàn bộ binh số 1, Sư đoàn bộ binh 25, Lữ đoàn 173, Trung đoàn 11 thiết giáp sớm kết thúc cuộc càn Xinenđô và Brimớctơn để tập trung lực lượng đối phó với ta ở Tây Ninh. Quyền chỉ huy cuộc càn Áttơnborơ được giao cho Đêpit, Tư lệnh Sư đoàn bộ binh 1.

Lúc này ở khu vực bắc đường 13, địch đã triển khai sáu cụm pháo các loại tại cầu Lộc Ninh và Suối Đá nhằm chi viện trực tiếp cho cánh quân chúng dự định sẽ đổ xuống Trại Đèn, Chà Dơ và Bãi Trứng.

Ngày 6-11, theo đúng dự kiến, Lữ đoàn 2 (Sư đoàn bộ binh số 1) đổ xuống Chà Dơ, Sa Mát, Lữ đoàn 3 (Sư đoàn 1) đổ xuống Trại Đèn, Bãi Trứng. Theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 sử dụng Trung đoàn 16 đánh địch ngay sau khi chúng vừa đặt chân tới, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn Mỹ ở Chà Dơ và đông Trại Đèn.

Đêm 7 rạng ngày 8-11, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 16) lại tập kích vào khu vực đóng quân của Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn 2 Sư đoàn bộ binh số 1 tại Chà Dơ, diệt một đại đội địch, tiêu hao một đại đội khác, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.

Lữ đoàn 196 bị thiệt hại nặng, Sư đoàn bộ binh 1 của Mỹ bị đánh ngay khi mới đổ quân làm cho tinh thần địch hoang mang. Chúng phải điều cả Lữ đoàn 173 và Trung đoàn 11 thiết giáp lên làm dự bị cho cuộc hành quân (Lữ đoàn 173 đóng ở Dầu Tiếng, Trung đoàn thiết giáp ở Chơn Thành). Trước đây, Lữ đoàn 1, Sư đoàn bộ binh 1 làm dự bị cho sư đoàn, này có Lữ đoàn 173 làm dự bị, Lữ đoàn 1, Sư đoàn 1 bắt đầu bung ra càn quét vùng Cầu Khởi, Bàu Sen...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 06:26:52 pm

Trong lúc địch đang mở rộng phạm vi càn quét, thì đêm 11, rạng ngày 12-11, Trung đoàn bộ binh 1 của ta pháo kích Sở chỉ huy Sư đoàn bộ binh 1 Mỹ đóng ở Dầu Tiếng, diệt gần 200 tên địch, phá hỏng 17 trực thăng, 2 khẩu pháo. Cùng trong đêm, Trung đoàn bộ binh 1 pháo kích vào Trảng Lớn lần thứ hai, đồng thời tập kích Trảng Sụp và công đồn Ngã Ba Vịnh, diệt Đại đội biệt kích 338, thu 45 súng, bắt sống 14 tên.

Phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích các huyện Trảng Bàng, Gò Dầu, Dương Minh Châu đẩy mạnh diệt ác, phá kìm, đánh phá giao thông trên đường 22 và đường số 1, gây cho địch nhiều khó khăn. Chiến tranh nhân dân trên địa bàn Tây Ninh phát triển mạnh. Chỉ riêng lực lượng vũ trang địa phương Dầu Tiếng trong tháng 11 đã diệt 170 tên Mỹ, bắn rơi 5 máy bay lên thẳng, trong đó có chiếc trực thăng chở tên chỉ huy phó cuộc hành quân (bắn rơi ngày 20-11).

Trên vùng căn cứ của ta, du kích, tự vệ cơ quan cũng hoạt động tích cực. Nhiều phân đội nhỏ diệt cơ giới địch xuất hiện như đội du kích B5 thuộc Trung ương Cục diệt 8 xe, 55 tên Mỹ; Tiểu đoàn 170 diệt 8 xe M113 và 40 tên Mỹ...

Đồng thời với việc mở cuộc hành quân lớn trên địa bàn Tây Ninh, ngày 1-11-1966, tại Sài Gòn, địch tổ chức một cuộc duyệt binh nhân ngày “Quốc khánh đệ nhị cộng hoà” nhằm biểu dương lực lượng, gây uy thế chính trị. Nắm được ý đồ của địch, từ rất sớm, Bộ Chỉ huy Miền đã quyết định tổ chức trận địa pháo ở ngay sát Sài Gòn để pháo kích vào nơi địch tổ chức mít tinh. Công việc chuẩn bị được tiến hành hết sức công phu. Cho đến trước ngày địch làm lễ mít tinh, Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Tiểu đoàn 8 Quân khu Sài Gòn - Gia Định và Đặc khu Rừng Sát đã bố trí được hai trận địa, một ở Nhà Bè (cách mục tiêu 6.745 m), một ở bưng Sáu Xã, Thủ Đức (cách mục tiêu 5.378m). Ngoài ra, Bộ Chỉ huy còn tổ chức một khẩu đội “quyết tử” làm dự bị đặt ngay trong nội đô. Chỉ huy cuộc pháo kích là đồng chí Nguyễn Văn Tăng (F100 đặc công).

Đúng lúc địch khai mạc cuộc mít tinh, các trận địa pháo của ta đồng loạt nổ súng, 24 quả đạn rơi trúng mục tiêu đã định. Oétmolen thú nhận: “Có 14 quả đạn rơi vào khu vực lễ trường, khu diễu binh”, một quả rơi đúng hàng quân danh dự làm đại tá Mỹ F.Goroxơ Risớt tử thương (Hồi ký Oétmolen). Cả quảng trường náo loạn. Hãng tin Anh Roitơ ngay trong ngày 1-11 cho biết: “Các quan khách ngồi trên lễ đài sợ quá, đã chạy trốn và chui xuống bục”. Còn Hãng tin Pháp AFP thì bình luận: “Cuộc pháo kích đã gây ra những cảnh sợ khủng khiếp. Nó chứng tỏ rằng Việt Cộng đã có thể mang vũ khí nặng vào thành phố”.

Ở mặt trận Tây Ninh, từ 15 đến 20-11-1966, bộ đội ta hoạt động rất tích cực, đánh nhiều trận tại các vùng Bàu Bỏ, Bàu Câu, Sóc Ky, Cà Tum, diệt gần 200 tên địch, hầu hết là lính Mỹ. Ngày 16-11, Trung đoàn 16 đánh địch tại Khe Đôn, Sóc Xoài diệt 79 tên, bắn rơi ba máy bay lên thẳng. Trung đoàn còn phục kích trên đường Tây Ninh đi suối Đá, diệt 3 xe địch.

Bị đánh liên tiếp, địch tìm cách rút dần về hậu cứ. Ngày 20-11, Lữ đoàn 173 và Trung đoàn 11 thiết giáp rút khỏi Dầu Tiếng. Ngày 21, Lữ đoàn 1, Lữ đoàn 2 và một bộ phận của Lữ đoàn 3 Sư đoàn bộ binh số 1 cũng bắt đầu rút về hậu cứ. Không để quân Mỹ rút lui an toàn, Bộ chỉ huy Sư đoàn 9 quyết định bám đánh địch trên đường chúng lui quân, chủ yếu trên đường số 4. Bộ chỉ huy Miền cũng chỉ thị cho các đơn vị miền Đông phối hợp tiêu hao địch trên đường chúng rút.

Thực hiện chủ trương này, đêm 21-11, Trung đoàn bộ binh 1 của ta pháo kích Sở chỉ huy địch ở Tà Đạt, diệt khoảng 100 tên, phá huỷ một số nhà tầng.

Đêm 22-11, Trung đoàn 16 của ta pháo kích vào cụm pháo Suối Đá, làm hỏng hai khẩu.

Ngày 24-11-1966, Oétmolen ra lệnh kết thúc cuộc hành quân Áttơnborơ. Trên đường lui quân, Trung đoàn 11 thiết giáp bị ta tập kích ở Bến Cát, Suối Râm, Lữ đoàn dù 173 bị đánh ở Dầu Tiếng, Thủ Đức. Đồng thời, đêm 25-11, Trung đoàn bộ binh 2 của ta pháo kích vào Dầu Tiếng lần thứ hai, diệt 300 tên địch, làm cháy một kho xăng khoảng 12.000 lít, phá hỏng năm trực thăng, làm hư hỏng nặng hai khẩu pháo 105 mm...

Sau 72 ngày đêm chiến đấu oanh liệt chống lại cuộc càn lớn của địch, quân và dân miền Đông Nam Bộ đã loại khỏi vòng chiến đấu 4.500 tên địch, trong đó có 1.700 tên Mỹ, bắn rơi, bắn hỏng 65 máy bay, phá huỷ 7 đại bác, bắn cháy nhiều xe tăng và xe bọc thép, đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196 Mỹ. Với thắng lợi này, ta đã giáng một đòn đau vào lực lượng cơ động của Mỹ, gây tác động trực tiếp đến toàn bộ kế hoạch phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ. Mặc dù vậy qua cuộc phản công này, một vấn đề lớn đặt ra là, việc đối phó với từng chiến đoàn xe tăng hạng nặng của Mỹ như thế nào trong khi số lượng súng chống tăng của ta trên chiến trường còn rất hạn chế. Để khắc phục tình trạng này, tỉnh Tây Ninh đã tổ chức hội nghị quân sự và quyết định gấp rút thành lập xưởng công binh làm mìn chống tăng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 06:27:59 pm

Lúc này, trên chiến trường Tây Nguyên, phối hợp với quân và dân miền Đông Nam Bộ, ta mở chiến dịch Sa Thầy (18-10 đến 6-12-1966) đánh bại cuộc hành quân Pôn Rivơ 4 (Paule Rivere4) của Sư đoàn 4 Mỹ.

Sông Sa Thầy chảy từ Kon Tum xuống Gia Lai theo hướng bắc - nam. Phía đông sông Sa Thầy là sông Pô Cô. Giữa sông Sa Thầy và sông Pô Cô là khu vực tác chiến chủ yếu của chiến dịch. Địch xây dựng ở phía bờ đông sông Pô Cô đồn biên phòng Plây Giăng, cách biên giới Việt Nam - Campuchia 20 km. Địa hình ở đây núi non hiểm trở, địch khó phát huy thế mạnh về binh khí, kỹ thuật hiện đại. Ta đã chọn nơi này làm quyết chiến điểm để kéo quân Mỹ ra tiêu diệt. Chiến thuật của ta là “công đồn, diệt viện”.

Thực hiện ý đồ này, ngày 18-10-1966, ta dùng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 95 lực lượng vũ trang Tây Nguyên pháo kích và bao vây đồn biệt kích biên phòng Plây Giăng. Lo sợ cứ điểm Plây Giăng bị mất, cửa ngõ phía tây Plâycu sẽ bị chọc thủng, “hậu cứ” của ba lữ đoàn thuộc Sư đoàn bộ binh số 4 và số 25 của Mỹ sẽ bị uy hiếp trực tiếp, Mỹ lập tức mở cuộc hành quân Pôn Rivơ 4 hòng cứu nguy cho quân ngụy. Ý đồ của Mỹ là thực hiện một cuộc đổ quân rồi đánh thọc sâu vào phía sau lưng lực lượng ta.

Ngày 20-10, chúng dùng nhiều toán biệt kịch ngụy Sài Gòn thọc sâu ra phía tây Plây Giăng trinh sát để phát hiện Quân giải phóng. Chúng còn liên tục cho máy bay, kể cả B52, pháo binh bắn phá và ném bom dữ dội xuống các khu vực chúng nghi có bộ đội ta.

Sau những trận bom, pháo dọn bãi, sáng 26-10, Mỹ đổ Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn bộ binh số 4 xuống phía đông sông Sa Thầy, cách tây - tây bắc Plây Giăng 12 đến 14 km. Chờ cho đêm xuống, khi bọn Mỹ yên trí là chúng đã đổ quân “trót lọt” giữa rừng núi Tây Nguyên hiểm trở, Trung đoàn 320 bắt đầu tiến công vào các cánh quân Mỹ. Ngày 28-10, ta đã diệt hai đại đội Mỹ, tiêu hao nặng một đại đội Mỹ khác. Hãng tin Mỹ UPI, ngày 28-10 đưa tin: “Sư đoàn bộ binh số 4, mới đến Việt Nam được hai tháng, chưa có kinh nghiệm đã bị quân lão luyện của Việt cộng trừng phạt một trận đau nhất”. Bị đòn đau ở đông sông Sa Thầy, địch cho rằng, muốn giải toả áp lực của Quân giải phóng ở Plây Giăng phải đánh mở đường sang phía tây. Ngày 9-11-1966, chúng lại cho máy bay lên thẳng đổ ba đại đội biệt kích ngụy Sài Gòn xuống phía tây sông Sa Thầy, cách tây - tây bắc Plây Giăng 22 đến 24 km, cách trận địa của quân Mỹ ở đông sông Sa Thầy khoảng 10 km.

Trưa ngày 10-11-1966, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 66 phán đoán chính xác hướng lùng sục của địch đã bố trí trận địa phục kích đánh tiêu diệt hai đại đội. Phát huy thắng lợi, đêm 10-11, Trung đoàn 320 pháo kích vào các trận địa pháo của Mỹ ở phía đông sông Sa Thầy, diệt 70 tên, phá huỷ bốn khẩu pháo 105mm.

Bị đánh ở cả hai bên bờ đông và tây sông Sa Thầy, ngày 11-11-1966, Mỹ đưa Tiểu đoàn 2 thuộc Lữ đoàn 2, Sư đoàn 4, có pháo binh và hai đại đội biệt kích ngụy Sài Gòn đi cùng đổ bộ xuống bãi C1 trên bờ tây sông Sa Thầy.

Tiểu đoàn pháo binh 32 đã ém quân tại đây từ trước khi mở màn chiến dịch. Sau hơn một tháng kiên trì phục kích, sáng 12-11 địch đã kéo đến đúng nơi ta dự kiến. Những quả pháo 120mm bắn cấp tập chụp trúng đội hình địch. Đại đội pháo 105 mm, Đại đội cối 106,7mm và Sở chỉ huy Tiểu đoàn 2 Mỹ bị diệt, bộ binh địch bị thương vong nặng nề. Từ các hướng các chiến sĩ Trung đoàn 88 và Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 66) xung phong băng qua những bãi cây mắc cỡ cao khuất đầu người, lởm chởm gai, đánh chiếm bãi C1. Nhưng do rừng gai cản trở và chiến thuật tập kích địch trú quân dã ngoại của bộ đội ta không thuần thục, nên ta không diệt gọn được tiểu đoàn Mỹ.

Ngày 13-11, dưới sự chi viện của không quân, một đại đội Mỹ nhảy xuống bãi C1 nhặt xác đồng đội, một đại đội khác của Lữ đoàn 3 (Sư đoàn bộ binh 25) mò vào phía nam bãi C1 liền bị Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 66) tiến công diệt gọn.

Liên tiếp những ngày sau đó, các trận đánh trên lưu vực phía đông và tây sông Sa Thầy nổ ra dồn dập. Kế hoạch của cuộc hành quân Pôn Rivơ 4 bị đảo lộn. Mỹ phải điều cả Lữ đoàn 2, Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 từ Bình Định, Phú Yên lên Tây Nguyên để đối phó. Mặt trận chính diện rộng gần 400 km2, chiều dài từ Sùng Thiện, Sùng Lễ đến Đức Cơ, Lệ Thanh, chiều ngang từ bờ đông sông Pô Cô đến bờ tây sông Sa Thầy, quân Mỹ tập trung Sư đoàn bộ binh số 4, Lữ đoàn 2 Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 và hàng chục đại đội pháo, biệt kích Mỹ, ngụy. Ngày 20 và 21-11, các Trung đoàn 320, 66 và 95 liên tục tiến công vào các cụm quân Mỹ thuộc Lữ đoàn 2 Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 và Sư đoàn 4 Mỹ ở đông sông Sa Thầy. Thừa thắng, ta đánh tràn sang cả phía đông sông Pô Cô, phá tan tuyến phòng ngự ngăn chặn của Sư đoàn 4 Mỹ, tiến xuống hoạt động ở huyện 4, huyện 5, tỉnh Gia Lai.

Bị thất bại nặng, ngày 27, 28-11, quân Mỹ phải rút khỏi khu vực đông và tây sông Sa Thầy. Sau đó chúng củng cố lại lực lượng, đổ xuống khu vực Cà Đin và đẩy Trung đoàn 42 ngụy nống ra Plây Kleng, Plây Le nhằm đánh một đòn bất ngờ vào lực lượng ta. Tiểu đoàn 200 đã bày sẵn thế trận đón đánh chúng. Ngày 6-12-1966, khi địch đổ một tiểu đoàn và hai đại đội Mỹ xuống Cà Đin, Tiểu đoàn 200 pháo binh đã giáng cho chúng một đòn sấm sét, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 1 thuộc Lữ đoàn 2 Sư đoàn kỵ binh không vận số 1.

Chiến dịch Sa Thầy đến đây kết thúc thắng lợi. Có một tiểu đoàn và tám đại đội Mỹ, hai đại đội ngụy bị tiêu diệt, một tiểu đoàn Mỹ khác bị đánh thiệt hại, 20 máy bay bị bắn rơi, 25 khẩu pháo và 17 xe quân sự bị phá huỷ. Chiến thắng Sa Thầy đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang Tây Nguyên. Nó góp phần cùng quân và dân miền Nam đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 06:29:48 pm

Một tháng sau khi chiến dịch Sa Thầy kết thúc, tại miền Đông Nam Bộ, Mỹ mở cuộc hành quân cấp quân đoàn thứ hai mang tên Xêđa Phôn vào vùng “tam giáp sắt” (Bến Súc - Củ Chi - Bến Cát). Đây là nơi có cơ quan đầu não của Quân khu Sài Gòn - Gia Định, cũng là điểm lực lượng ta thường xuất phát tiến công vào “thủ đô” Sài Gòn của Mỹ - ngụy. Chiến tranh nhân dân ở đây phát triển khá mạnh với hệ thống hầm hào, địa đạo kiên cố từng gây khiếp đảm cho kẻ thù. Đavít Risớt Panmơ, đại tá chỉ huy Sư đoàn thiết giáp số 2 lục quân cơ giới Mỹ đã miêu tả: “Vị trí này mạnh ở chỗ trên mặt đất thì hầu như không thể nào xâm nhập được mà ở dưới mặt đất thì có một hệ thống hầm hào vô cùng phức tạp”1.

Để củng cố tuyến phòng thủ phía bắc Sài Gòn, lập một vành đai trắng chia cắt vùng giải phóng của hai tỉnh Gia Định và Thủ Dầu Một, chuẩn bị cho cuộc hành quân lớn thứ hai đánh vào căn cứ địa kháng chiến của ta ở Tây Ninh, Mỹ đặt ra nhiệm vụ phải triệt hạ được vùng “tam giác sắt”, tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não của Quân khu Sài Gòn - Gia Định đóng tại đây. Bộ Chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam tập trung một lực lượng lớn binh lực vào cuộc hành quân Xêđa Phôn không kém gì cuộc hành quân Áttơnborơ, bao gồm Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ, Lữ đoàn 3 Sư đoàn bộ binh số 4, Lữ đoàn 2 Sư đoàn bộ binh số 25, Lữ đoàn bộ binh nhẹ số 196 (vừa được củng cố lại sau thất bại trong cuộc hành quân Áttơnborơ), Lữ đoàn dù 173, Trung đoàn thiết giáp số 11 Mỹ và một bộ phận Sư đoàn 5 chủ lực quân ngụy cùng một số lính đánh thuê Niu Dilân với hơn 400 xe tăng, xe bọc thép, 800 tàu xuồng chiến đấu trên sông, hơn 100 khẩu pháo các loại và nhiều máy bay, kể cả B52.

Hướng chính của cuộc hành quân là Bến Cát do các đơn vị thuộc Sư đoàn bộ binh số 1, Lữ đoàn 3, Sư đoàn bộ binh số 4, Trung đoàn thiết giáp số 11 và Lữ đoàn dù 173 Mỹ phụ trách.

Ngày 2-1-1967, cuộc hành quân bắt đầu. Địch đổ một tiểu đoàn Mỹ xuống Cổ Trạch, ven đường liên tỉnh số 14 rồi dùng xe cơ giới tiến quân vào Thanh An, hoạt động có tính chất thăm dò ở Cà Tông, Bàu Rùa (bắc Bến Súc). Bộ đội chủ lực cùng du kích địa phương đã kịp thời chặn đánh ngay khi địch vừa đặt chân xuống đất, diệt hơn 100 tên. Các toán quân địch khác nhảy rải rác xuống các nơi cũng đều bị đánh. Chúng phải lùi về Bến Tranh để củng cố.

Sau những đòn thăm dò, ngày 8-1-1967, Mỹ bắt đầu chia quân ra làm nhiều mũi, càn vào Bến Súc. Một mũi tiến vào xã An Điền (tây đường số 13) liền bị các lực lượng thuộc Sư đoàn 9 và quân dân nam Bến Cát liên tiếp đánh nhiều trận, diệt hàng trăm tên địch, phá huỷ, phá hỏng 10 xe M41. Ngay trong đêm 8-1, bộ đội ta đã thọc sâu vào thị trấn Bến Cát, tiến công vào các căn cứ quân sự địch tại thị trấn.

Mũi tiến công thứ hai của địch tiến vào xã An Tây, cả quân bộ và cơ giới địch đều bị bộ đội chủ lực phối hợp với du kích chặn đánh quyết liệt, phá hỏng 26 xe M113 và M118, diệt nhiều tên Mỹ.

Cùng với hai mũi tiến quân đường bộ bị ta đánh, địch dùng máy bay đổ một số quân xuống Bàu Khai để từ đó tiến vào xã Kiến An. Bộ đội địa phương đã phục kích bắn rơi hai máy bay, bắn bị thương hai chiếc khác. Tiếp đó, từ ngày 9 đến 13-1, ta chặn đánh diệt tám xe tăng và xe bọc thép, diệt và làm bị thương toàn bộ bọn địch trên xe khi chúng từ Bàu Khai vào Kiến An.

Không chỉ chặn đánh các mũi tiến công của địch, đêm 11-1, ta pháo kích Sở chỉ huy dã chiến của Lữ đoàn 3 Sư đoàn bộ binh số 4 Mỹ ở Dầu Tiếng, diệt và làm bị thương trên 100 tên địch, phá huỷ, phá hỏng 15 xe GMC.

Cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở Bến Súc ngày càng trở nên quyết liệt khi địch dùng các loại máy bay ném bom và bắn pháo phát quang địa hình để chúng tiến quân. Không chịu lùi bước trước kẻ thù tàn bạo, bộ đội chủ lực phối hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương và du kích kiên trì bám trụ, vận dụng các chiến thuật tác chiến linh hoạt bẻ gãy các mũi tiến công của địch. Tại Thanh An, trong hai ngày 16 và 17-1, Trung đoàn 2, Sư đoàn 9 bí mật vượt sông Sài Gòn, bất ngờ tập kích cụm quân Mỹ, đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn. Du kích ở đây còn có sáng kiến treo mìn trên cây phục đánh tàu giặc trên sông Sài Gòn.

Phối hợp với quân và dân Bến Cát ở hướng chính, trong ngày 2-1-1967, quân và dân Củ Chi tiến công vào các đơn vị Sư đoàn bộ binh 25 Mỹ có xe tăng thiết giáp yểm trợ vừa đổ xuống xóm Trại, Gốc Cháy thuộc xã An Nhơn Đông. Địch buộc phải quay về cố thủ ở Sa Nhỏ (xã Trung Lập Thượng).

Đến ngày 8-1-1967, sau khi đã bắn phá dữ dội vào các xã ở phía bắc Củ Chi, Mỹ mới cho Lữ đoàn 2, Sư đoàn bộ binh 25 chia làm nhiều mũi tiến công vào các xã An Phú, Phú Mỹ Hưng, Phú Hoà Đông, Nhuận Đức, Trung Lập Thượng, An Nhơn Đông, An Nhơn Tây. Dựa vào hệ thống địa đạo, hầm hào kiên cố, quân và dân Củ Chi đã chiến đấu kiên cường với địch. Quân Mỹ cũng không từ một thủ đoạn dã man nào để có thể “bóc vỏ mặt đất”, phá được hệ thống địa đạo của ta bởi từ sau cuộc hành quân Grim (1-1996), Mỹ đã kết luận: “hệ thống đường ngầm là một trở ngại kinh khủng và nguy hiểm” và “giải quyết được địa đạo thì giải quyết được chiến tranh du kích”. Chúng đưa cả máy ủi, xe tăng hạng nặng và chó bécgiê để săn tìm cửa địa đạo. Chúng bơm nước, xả hơi độc xuống địa đạo. Chúng còn tổ chức cả những đội quân “chuột cống” gồm những tên Mỹ có vóc dáng nhỏ được đào tạo đặc biệt để đưa xuống địa đạo “lùng sục” Việt cộng và phá hầm ngầm. Nhưng các chiến sĩ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích Củ Chi dày dạn kinh nghiệm diệt Mỹ từ cuộc chống càn Grim thắng lợi đã sáng tạo ra những cách đánh địch rất độc đáo, diệt hàng trăm tên Mỹ, phá huỷ và phá hỏng 54 xe bọc thép. Hệ thống địa đạo về cơ bản vẫn được giữ vũng. Diễn biến của cuộc hành quân hoàn toàn không như quân Mỹ dự tính. Rất ít quân du kích bị đánh bật ra ngoài hoặc bị chết. Hệ thống hầm ngầm không bị triệt phá mà chỉ bị hư hại. Hố bom loang lổ, hàng mảng đất bị cày xới lên bằng máy xúc. Song không có quả bom nào, không có máy xúc nào của địch khoét đủ sâu để phá hoại hầm ngầm. Cái khó không phải hệ thống hầm ngầm đào quá sâu mà chính vì nó chạy ngoắt ngoéo không một chỗ nào là thẳng. Những cửa ngách và lỗ thông hơi thì nhiều vô kể, điều đó hạn chế khả năng bị phá huỷ. Các sĩ quan Mỹ trong cuộc càn Xêđa Phôn đều có chung nhận xét như vậy.

Sau những nỗ lực lớn không mang lại kết quả như mong muốn, ngày 26-1-1967, Mỹ phải kết thúc cuộc hành quânXêđa Phôn với khoảng 2.500 tên Mỹ, 200 tên ngụy và 54 tên lính đánh thuê Niu Dilân bị loại khỏi vòng chiến đấu, 149 xe quân sự trong đó có nhiều xe tăng M41, xe bọc thép M113 và M118 bị phá huỷ, phá hỏng, 28 máy bay các loại bị bắn rơi và bị thương. Đây là đòn nặng thứ hai đánh vào kế hoạch phản công mùa khô 1966-1967 của Mỹ trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.

Với chiến thắng oanh liệt này, ta không những đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng quân Mỹ mà còn làm thất bại ý đồ của địch là dùng quân đông và vũ khí hiện đại để tìm diệt chủ lực ta, triệt phá vùng căn cứ cách mạng, đầu não Quân khu Sài Gòn - Gia Định. Chiến thắng cuộc càn Xêđa Phôn một lần nữa khẳng định khả năng to lớn của chiến tranh nhân dân Việt Nam chống chiến tranh hiện đại của Mỹ.
_____________________________________
1. Đavít Risớt Panmơ: Tiếng kèn gọi quân, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1981, tr. 158.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 06:34:35 pm

II- CUỘC HÀNH QUÂN GIANXƠN XITY - ĐỈNH CAO CỦA CHIẾN LƯỢC TÌM DIỆT CỦA QUÂN MỸ
BỊ THẤT BẠI HOÀN TOÀN

Mặc dù bị thất bại liên tiếp trong các cuộc hành quân tìm diệt lớn trên chiến trường miền Đông Nam Bộ và các nơi khác, đế quốc Mỹ vẫn không chịu từ bỏ ý đồ đánh phá căn cứ, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta.

Theo tính toán của Oétmolen, Tây Ninh không chỉ là căn cứ của Trung ương Cục miền Nam, Bộ chỉ huy Miền, Mặt trận Dân tộc giải phóng, mà còn là nơi tích trữ vật chất, có nhiều kho dự trữ chiến lược; là địa bàn đóng quân của lực lượng “chủ lực Việt cộng” (tức Sư đoàn 9). Đánh chiếm được Tây Ninh sẽ tạo vành đai che chở cho ngụy quân, ngụy quyền bình định ở phía sau, giải toả cho Sài Gòn - Chợ Lớn đang bị uy hiếp. Mặt khác, Oétmolen thấy, với chiến trường Tây Ninh, Mỹ có thể phát huy ưu thế của các loại vũ khí tối tân. Vì vậy tuy đã thất bại nặng trong cuộc hành quân lớn trước đó Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn vẫn quyết định mở cuộc hành quân quy mô lớn mang tên Gianxơn Xity, tập trung lực lượng đông đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh). Mục tiêu của địch trong cuộc hành quân là:

1. Phá huỷ căn cứ kháng chiến lớn của quân và dân ta ở bắc Tây Ninh.

2. Tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến toàn Miền.

3. Tìm diệt một bộ phận chủ lực lớn của ta ở miền Đông (Sư đoàn 9).

4. Tạo lá chắn yểm trợ cho ngụy Sài Gòn tiến hành bình định ở phía nam, gỡ thế bị uy hiếp nặng ở Sài Gòn - Chợ Lớn.

5. Giành một thắng lợi quân sự có ý nghĩa quyết định, tạo ra bước ngoặt làm chuyển biến cục diện chung có lợi cho Mỹ và Sài Gòn.

Để thực hiện những mục tiêu trên, Mỹ huy động đại bộ phận quân Mỹ triển khai ở miền Đông Nam Bộ và một phần quân ngụy. Lực lượng này bao gồm chín lữ đoàn bộ binh Mỹ (ba lữ của Sư đoàn bộ binh 1; hai lữ của Sư đoàn bộ binh 25; một lữ của Sư đoàn bộ binh số 4; một lữ của Sư đoàn bộ binh 9, Lữ đoàn 196 và Lữ đoàn dù 173), một lữ thuỷ quân lục chiến ngụy Sài Gòn. Ước tính quân số khoảng 45.000 tên và trên 1.000 xe tăng, xe bọc thép, hàng trăm khẩu pháo các loại, cùng nhiều máy bay.

Lực lượng ta chỉ có Sư đoàn 9, được tăng cường Trung đoàn 16 với các lực lượng khác, tổng số chưa đến 10.000 quân.

Đây quả là một thử thách lớn đối với quân và dân Tây Ninh cũng như cả miền Đông Nam Bộ. Mặc dù vậy, trên cơ sở đánh giá đúng mạnh, yếu của ta và địch, đặc biệt từ kinh nghiệm đánh bại cuộc hành quân Áttơnborơ, Quân uỷ và Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch phản công ở Tây Ninh và giao cho thiếu tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh chiến dịch; thiếu tướng Trần Độ làm Chính uỷ; các đồng chí Hoàng Cầm - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 làm Tham mưu trưởng. Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền chủ trương: Động viên mọi lực lượng cơ quan và đơn vị trong căn cứ bám trụ chiến đấu tại chỗ, phối hợp với một bộ phận chủ lực Quân giải phóng mở chiến dịch phản công, kiên quyết đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của địch, bảo vệ căn cứ kho tàng, bẻ gãy gọng kìm tìm diệt để hỗ trợ cho việc phá vỡ gọng kìm bình định, tạo điều kiện giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định cho năm 1967. Muốn vậy, phải xây dựng được một thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc và kết hợp chặt chẽ tác chiến của chiến tranh nhân dân địa phương với tác chiến chiến lược của chiến tranh nhân dân các binh đoàn chủ lực.

Vấn đề xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân không phải đến lúc này mới được đặt ra. Do đặc trưng riêng của khu căn cứ Dương Minh Châu, nhằm bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các cơ quan lãnh đạo trong điều kiện căn cứ chỉ có 800 dân sinh sống dọc sông Vàm Cỏ Đông, việc tổ chức phòng thủ, bảo vệ căn cứ địa được đặt ra khá sớm. Tuy nhiên, trước đây chủ trương của ta trong việc chống càn quét của địch về cơ bản là tránh né, vì vậy ta đã xây dựng nhiều căn cứ dự bị. Từ khi nắm được ý đồ của địch trong cuộc phản công lớn lần thứ hai, đồng thời thực tế, thấy khả năng bám trụ của các đơn vị, cơ quan trong căn cứ, Quân uỷ và Bộ Chỉ huy quân sự Miền đề ra phương châm củng cố, tổ chức lại hệ thống phòng thủ, bảo đảm đánh địch tại chỗ bằng cách tổ chức ra “khu dân cư đặc biệt”, trong đó “dân” là cán bộ, chiến sĩ, nhân viên các cơ quan, đơn vị, đoàn thể thuộc Trung ương Cục, Mặt trận Dân tộc giải phóng, Bộ chỉ huy quân sự Miền đóng trong căn cứ. Mỗi cụm cơ quan, đơn vị được tổ chức thành “khu dân cư” liên kết với nhau như một đơn vị hành chính xã, huyện. Cơ quan Trung ương Cục, Mặt trận Dân tộc giải phóng đóng ở phía tây và đông đường 22 đến giáp sông Vàm Cỏ được tổ chức thành sáu huyện căn cứ:

1. Huyện Rùm Đuôn - Sóc Mới do cơ quan Bảo vệ Trung ương Cục đảm nhiệm.

2. Huyện Suối Mây do cơ quan Binh vận Trung ương Cục đảm nhiệm.

3. Huyện Bảy Bàu: cơ quan Tổ chức Trung ương Cục đảm nhiệm.

4. Huyện Sa Mát - Tà Xia: Cơ quan An ninh Trung ương Cục đảm nhiệm.

5. Huyện Lò Gò - Bến Ra: cơ quan Tuyên huấn Trung ương Cục đảm nhiệm.

6. Huyện Xóm Giữa - Đồi Thơ: cơ quan Dân y đảm nhiệm.

Cán bộ, nhân viên trong các cơ quan dân, chính, đảng tổ chức thành những tiểu đội, trung đội du kích, tự vệ tác chiến tại chỗ; đồng thời lựa chọn một số cán bộ, nhân viên có sức khoẻ, kỹ thuật quân sự tốt lập thành các đại đội, tiểu đoàn tập trung, làm nhiệm vụ bộ đội địa phương, cơ động tác chiến trên địa bàn huyện.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 07:33:12 pm

Cơ quan Bộ chỉ huy Miền gồm tham mưu, chính trị, hậu cần, các trường quân sự, xưởng sản xuất sửa chữa vũ khí, kho tàng, bệnh viện, văn công, các đơn vị trực thuộc đóng từ phía đông đường số 4 đến giáp sông Sài Gòn được tổ chức thành bảy huyện:

1. Huyện Châu Thành do Trung đoàn bộ binh 170 bảo vệ cơ quan Bộ chỉ huy Miền phụ trách.

2. Huyện Tà Keng do Bộ Tham mưu Miền phụ trách.

3. Huyện Cà Tum do Cục Chính trị Miền phụ trách.

4. Huyện Tà Đạt do Phòng thông tin Miền phụ trách.

5. Huyện Sóc Ky do Phòng công binh Miền phụ trách.

6. Huyện Bà Chiêm do Đoàn 69 pháo binh Miền phụ trách.

7. Huyện Bà Hảo do Đoàn hậu cần 82 phụ trách.

Cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ chỉ huy Miền được tổ chức thành bảy đại đội, một tiểu đoàn làm nhiệm vụ bộ đội địa phương huyện. Hai nghìn cán bộ, chiến sĩ, nhân viên còn lại tổ chức thành các tiểu đội, trung đội du kích, tự vệ chiến đấu tại chỗ.

Đến trước thời điểm Mỹ chính thức mở cuộc tiến công vào vùng căn cứ của ta, thế trận chiến tranh nhân dân trong chiến khu với ba thứ quân đã được tổ chức, xây dựng khá vững chắc. Ngoài Sư đoàn 9 chủ lực Miền và Trung đoàn 16 triển khai đội hình chiến đấu như sau: ở phía tây đường 22 (Trung đoàn 1), Chà Dơ (Trung đoàn 2), Phước Sang, đường 13 (Trung đoàn 3), Suối Dây (Trung đoàn 16); ta còn xây dựng được tại căn cứ ba tiểu đoàn, 13 đại đội bộ đội địa phương và 3.200 du kích các cơ quan.

Phương án tác chiến được Bộ chỉ huy Miền xác định: “Kết hợp chặt chẽ giữa ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương các huyện và du kích các cơ quan, đánh nhỏ, đánh vừa và tạo điều kiện đánh lớn, bảo đảm đánh dài ngày, mạnh bạo nhưng chắc thắng, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, bảo vệ được cơ quan, kho tàng trong vùng căn cứ, bảo vệ lãnh đạo Miền”1. Bộ chỉ huy Miền còn chỉ rõ: “du kích các cơ quan, bộ đội địa phương các huyện và bộ đội bảo vệ căn cứ, bám trụ đánh địch tại chỗ, giữ chắc các xã, ấp chiến đấu. Nơi nào địch không đến thì phải bung ra, tìm địch mà đánh, bám địch mà diệt, thực hiện tiêu diệt địch rộng rãi... Vừa chiến đấu, bộ đội địa phương và du kích cơ quan vừa phải bảo đảm công tác phục vụ cho bộ đội chủ lực chiến đấu, bảo vệ an toàn cho cơ quan, căn cứ, kho tàng, duy trì được sinh hoạt bình thường trong căn cứ để đánh lâu dài với địch”2.

Bộ đội chủ lực khi tập trung, lúc phân tán linh hoạt, sẵn sàng cơ động, phối hợp và hỗ trợ cho du kích cơ quan thực hiện đánh nhỏ, đánh vừa, tạo điều kiện đánh những trận lớn, tiêu diệt được tiểu đoàn, chiến đoàn địch, bẻ gãy các mũi hành quân của chúng vào vùng căn cứ cách mạng.

Các đơn vị tham gia chiến dịch được tăng cường trang bị các loại vũ khí tốt. Đặc biệt số vũ khí từ miền Bắc mới chuyển vào được Bộ chỉ huy Miền cấp phát ngay cho bộ đội và du kích, tự vệ cơ quan. Cùng với vũ khí dự trữ ở các kho của Miền (B2), vũ khí miền Bắc đưa vào trong năm 1966, nhất là súng B40, B41 được trang bị cho bộ đội, du kích, tự vệ cơ quan trong căn cứ đã đối phó có hiệu quả với “xe tăng bầy” của Mỹ. Tính đến cuối năm 1966, ở Nam Bộ, mỗi đại đội trong biên chế sư đoàn bộ binh từ chỗ chỉ có ba khẩu B40, nay tăng lên chín khẩu. Mỗi trung đoàn được trang bị 18 khẩu B41. Riêng các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, trước kia chỉ có sáu khẩu B40 nay mỗi tỉnh đã có 70 khẩu. Đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp ta chiến thắng trong cuộc càn ác liệt này.

Công tác hậu cần cũng được triển khai rất khẩn trương. Đoàn 82 hậu cần Miền chịu trách nhiệm chính trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh... cho toàn căn cứ và sẵn sàng đón nhận vũ khí, trang bị chi viện từ miền Bắc vào qua Campuchia.

Mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xity hoàn thành vào tháng 1-1967.

Ở thời điểm này, tình hình trong nước và thế giới cho phép ta mở mặt trận đấu tranh ngoại giao để vạch mặt kẻ thù, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ. Từ 23 đến 26-1-1967, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 13 và ra Nghị quyết về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao. Nghị quyết chỉ rõ: Để thực hiện quyết tâm chiến lược của ta, trên cơ sở phát huy những thắng lợi đã giành được, chúng ta phải ra sức đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam, đồng thời, ta cần tiến công địch về ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa. “Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao... Trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”3.
________________________________________
1, 2. Chiến dịch phản công đánh bại cuộc càn Gianxơn Xity, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr. 113.
3. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), bản sao lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 07:35:11 pm

Hội nghị Trung ương 13 vừa kết thúc cũng là lúc địch bắt đầu tăng cường các hoạt động “dọn bãi”, đánh phá vòng ngoài để chuẩn bị đổ quân, thực hiện cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ vào Chiến khu Dương Minh Châu.

Ngày 2-2-1967, Mỹ đưa toàn bộ Sư đoàn bộ binh số 25 mở cuộc hành quân cấp sư đoàn mang tên Gaxđơn càn vào khu vực từ đường 22 đến sát biên giới Campuchia. Mục đích của cuộc hành quân là nhằm phá hoại các căn cứ của ta ở phía tây, chủ yếu phát hiện, dồn các lực lượng ta vào phía đông đường 22, tức khu vực trung tâm của cuộc hành quân Gianxơn Xity sau này, để tiêu diệt. Song chúng đã không đạt được mục đích. Ngược lại, sau gần 20 ngày (ngày 21-2-1967 kết thúc cuộc hành quân), địch bị loại khỏi vòng chiến đấu gần hai ngàn tên, 69 xe cơ giới bị phá huỷ, 13 máy bay bị bắn rơi.

Khi cuộc hành quân Gaxđơn chưa kết thúc, ngày 14-2-1967, chúng mở tiếp cuộc hành quân Tắcxơn với lực lượng của Lữ đoàn 2 và 3 thuộc Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ càn vào khu vực Minh Thạnh, Dầu Tiếng, Bến Củi nhằm dọn đường và bảo vệ cho việc di chuyển lực lượng, vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược và các phương tiện chiến tranh khác đến các vị trí xuất phát hành quân của chúng. Đến 21-2-1967, cuộc hành quân Tắcxơn cũng kết thúc với 334 tên địch, 29 xe cơ giới và 7 máy bay bị diệt. Mỹ cũng đạt được một số yêu cầu là đưa Bộ Tư lệnh dã chiến II của chúng lên Dầu Tiếng để chỉ huy hành quân. Các đơn vị bộ binh, dù của Mỹ triển khai được ở khu vực tập kết Minh Thạnh, Quảng Lợi, Trảng Lớn, Cần Đăng, Bến Củi... Trung đoàn 11 thiết giáp cũng vượt sông Sài Gòn lên vị trí xuất phát tiến công.

Ngày 22-2-1967, cuộc hành quân Gianxơn Xity của Mỹ bắt đầu. Ngay từ đêm 21-2, Mỹ dùng nhiều đợt máy bay B52 ném bom nhiều nơi ở phía bắc tỉnh Tây Ninh gần biên giới Việt Nam - Campuchia) để chuẩn bị bãi đổ quân.

6 giờ sáng ngày 22-2-1967, Lữ đoàn dù 173 nhảy xuống Cà Tum. Cùng lúc, địch đổ Lữ đoàn 1 và 2 của Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ xuống các vùng An Khắc, Rùm Đuôn, Sóc Mới, hình thành tuyến ngăn chặn ta từ phía bắc. Trong lúc đó Lữ đoàn 1 của Sư đoàn bộ binh 25 được triển khai dọc đường 22 làm tuyến “kẹp sườn” phía tây. Hai lữ đoàn của Sư đoàn bộ binh 1 khống chế dọc đường số 4 làm tuyến “kẹp sườn” phía đông.

Sau khi đã bịt kín phía bắc và khép chặt hai cạnh sườn đông và tây, địch dùng lực lượng mạnh gồm một lữ đoàn của Sư đoàn bộ binh 25 và Trung đoàn thiết giáp số 1 đánh thọc từ phía nam lên trung tâm cuộc hành quân. Khác với hành quân Áttơnborơ, Oétmolen đã chỉ trích Đờ Xốtxuya về tội sử dụng lực lượng nhỏ giọt nên đã nướng quân vô tội và làm hỏng cả kế hoạch lớn của y, lần này Oétmolen rất hài lòng về cách bày binh bố trận “rất kín” của tướng Ximan, chỉ huy cuộc hành quân và Oétmolen hy vọng thành công. Nhưng thực tế diễn biến trên chiến trường qua từng ngày, niềm hy vọng của Oétmolen càng trở nên vô vọng.

Ngay trong ngày đầu tiên, khi Lữ đoàn dù 173 Mỹ còn lơ lững trên không, chúng đã bị lực lượng vũ trang địa phương thuộc hai huyện Cà Tum và Tà Đạt bằng những loạt đạn bắn chính xác, diệt 100 tên và nhiều máy bay trực thăng.

Tại Rùm Đuôn và An Khắc, du kích cơ quan Trung ương Cục cùng bộ đội địa phương huyện cũng liên tục tiến công địch diệt và làm bị thương 157 tên Mỹ, bắn rơi 9 máy bay, làm hỏng 2 chiếc khác.

Cánh quân đột kích chủ yếu từ phía nam lên (gồm Lữ đoàn 2, Sư đoàn bộ binh 25 và Trung đoàn 11 thiết giáp) bị trúng mìn ở Khe Đôn và Bàu Cỏ. Chúng cố hành quân tiếp đến Đồng Pan thì chia thành hai mũi: một mũi theo đường số 4 phát triển lên hợp điểm với cụm quân ở Cà Tum, Sóc Mới, Rùm Đuôn. Mũi thứ hai vu hồi sang phía tây thọc sâu vào vùng căn cứ thuộc hai huyện Tà Đạt và Sóc Ky. Các mũi tiến công của địch đều bị ta chặn đánh quyết liệt, chúng buộc phải dừng lại chống đỡ bị động. Tại Sóc Ky, du kích H19, công binh huyện Sóc Ky đánh diệt 9 xe tăng, 120 tên Mỹ. Ở Bàu Sen, một đại đội Mỹ, lọt vào trận địa phục kích của bộ đội Tà Đạt, bị tiêu diệt toàn bộ. Địch ở Rùm Đuôn tiến công vào khu vực Suối Mây cũng bị du kích cơ quan giao bưu và binh vận Trung ương Cục chặn đánh, diệt tại chỗ 5 xe thiết giáp và hơn 100 tên Mỹ, buộc chúng phải quay lại.

Như vậy, sau mấy ngày đầu của cuộc hành quân, các mũi tiến công của địch đều không phát triển được, đi đến đâu chúng cũng bị du kích, bộ đội địa phương đánh thương vong. Tinh thần sĩ quan, binh lính Mỹ rã rời. Hãng tin Pháp AFP ngày 22-2 đưa tin và bình luận: “Cuộc hành quân Gianxơn Xity được coi là một trong những hy vọng lớn của Mỹ trong giai đoạn trước mắt, cuộc hành quân có nhiều tham vọng nhất trong cuộc chiến tranh, nhưng kết quả thật đáng buồn, trong bốn ngày qua không thấy dấu vết nhà lãnh đạo Mặt trận Dân tộc giải phóng đâu cả...Đài phát thanh Mặt trận Dân tộc giải phóng vẫn tiếp tục hoạt động mặc dù một trong những mục tiêu của cuộc hành quân là làm cho có câm đi...”.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 07:35:42 pm

Nhằm hỗ trợ cho các mũi tiến công, ngày 25-2-1967, Bộ chỉ huy dã chiến II của Mỹ quyết định đổ Chiến đoàn A thuỷ quân lục chiến quân đội Sài Gòn xuống trung tâm căn cứ ở khu vực Cà Bon. Song, hoang mang trước tình hình quân Mỹ bị “Việt cộng” tiến công, quân ngụy Sài Gòn cụm lại một chỗ không dám hành quân. Trước tình hình đó, ngày 28-2-1967, địch lại phái máy bay trực thăng đến bốc Chiến đoàn A về Trại Bí.

Trong lúc du kích và bộ đội địa phương các huyện kiên quyết bám trụ đánh địch ở khắp nơi, thì bộ đội chủ lực (Sư đoàn 9) thực hiện đánh nhỏ hai bên sườn và sau lưng địch, diệt gọn từng cụm quân. Ngày 26-2, một tiểu đoàn của Trung đoàn 1 sư đoàn 9 tập kích tại trảng A Lâu diệt 150 tên Mỹ, một bộ phận khác phối hợp với du kích cơ quan Trung ương Cục đánh địch ở Tà Xia, diệt gọn một đại đội Mỹ.

Ngày 28-2, Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 16 phục kích một tiểu đoàn Mỹ ở đông nam Giếng Thí, bắn rơi ba trực thăng, diệt gọn một đại đội Mỹ. Táo bạo hơn, đêm 28-2, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 16 tập kích vào tận vị trí xuất phát tiến công của địch tại suối Ông Hùng, diệt một chi đoàn xe cơ giới (31 chiếc) và 216 tên Mỹ. Đồng thời, ta pháo kích vào chỉ huy sở hành quân của địch ở Dầu Tiếng và căn cứ hành quân cấp lữ đoàn của Mỹ ở Tà Xia.

Những ngày đầu chiến dịch, bộ đội chủ lực và du kích các huyện đã phối hợp tác chiến tiêu hao nặng quân địch, bảo vệ được căn cứ, nhưng lực lượng chủ lực cơ động chưa đánh được những trận then chốt tiêu diệt lớn quân địch, trong đó nhiệm vụ đánh diệt xe tăng địch đạt hiệu quả chưa cao. Khắc phục những hạn chế trên, bước sang tháng 3, bộ đội chủ lực ta bố trí củng cố thế trận để đánh tiêu diệt lớn quân dịch; còn lực lượng vũ trang tại chỗ thì tăng cường sử dụng mìn tự tạo, súng chống tăng, tổ chức các đội săn cơ giới, săn máy bay. Tiêu biểu cho phong trào tìm, diệt xe cơ giới địch trong những ngày đầu tháng 3 này có thể kể đến du kích cơ quan binh vận Trung ương Cục (huyện Suối Mây) và du kích Phòng thông tin Miền (huyện Tà Đạt). Tại Suối Mây, du kích cơ quan binh vận Trung ương Cục đã diệt 27 xe khi địch tiến công vào khu vực của cơ quan. Tại Trảng Chiến, du kích huyện Tà Đạt cũng diệt 7 xe, loại khỏi vòng chiến đấu 152 tên Mỹ. Bên cạnh thành tích diệt xe cơ giới địch, du kích Xưởng thông tin S3 Phòng thông tin Miền, ngày 3-3-1967 với 19 tay súng dưới sự chỉ huy của Tiểu đội trưởng Đạt, đã đánh một trận xuất sắc đẩy lùi tám đợt xung phong của địch, diệt một đại đội Mỹ, đánh thiệt hại nặng một đại đội khác thuộc Lữ đoàn dù 173, thu 22 máy thông tin PRC25 và nhiều quân trang, quân dụng. Phía ta, một đồng chí hy sinh, ba đồng chí bị thương nặng. Với thành tích này, Xưởng thông tin S3 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất. Tiểu đội trưởng Đạt được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhì.

Cùng lúc với trận đánh của S3, tại huyện Bà Chiêm, du kích xóm Giếng Thí đã dũng cảm chặn đánh một đại đội lính dù Mỹ đang tiến công vào xóm. Đại đội lính dù Mỹ mới đến đầu xóm đã vấp phải mìn định hướng của ta, tiếp đó du kích dùng súng máy và lựu đạn đánh diệt gần hết đại đội Mỹ. Cũng tại Bà Chiêm, du kích xã H19 (thuộc Đoàn 69 pháo binh Miền) tổ chức bám đánh xe tăng và bắn máy bay trực thăng của địch. Kết quả, 5 xe tăng địch bị bắn cháy, 6 trực thăng bị bắn rơi. Cùng thời gian này, du kích bàu Lùng Tung chặn đánh một bộ phận quân Mỹ lùng sục vào địa bàn, phá huỷ 6 xe M41.

Những trận đánh liên tiếp của bộ đội chủ lực và du kích các huyện làm cho địch tổn thất khá nặng nề, chúng thú nhận: hành quân bị thất bại, tốn kém 25 triệu đôla, quân số hao hụt quá mức dự định, bệnh tật nhiều (từ 5% lên 12%, rồi đến 16%), tinh thần binh lính quá căng thẳng, chủ lực đối phương tránh né, chỉ để một bộ phận đánh du kích còn đại bộ phận luồn ra phía sau, các căn cứ phía sau bỏ trống, hành quân không đạt được tác dụng yểm trợ cho bình định và quân ngụy Sài Gòn vẫn bị đánh.

Địch phải tăng cường lên Tây Ninh một chiến đoàn lính thuỷ đánh bộ Sài Gòn để bù vào số quân Mỹ bị hao hụt.

Ngày 6-3, địch tiếp tục tiến công vào căn cứ, chính trong ngày này, chúng bị Trung đoàn 1 của ta pháo kích cụm quân Mỹ ở Tà Xia, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, phá hỏng 12 khẩu pháo. Liên tiếp trong các ngày 8 và 9-3, ta pháo kích chốt địch ở Bến Ra, chống càn ở Lôvia... Cùng lúc, du kích hoạt động mạnh, đánh hàng trăm trận, tiêu hao nhiều sinh lực địch. Trong lúc địch còn đang loay hoay tìm cách đối phó thì đêm 10-3, quân ta tiến công các cụm quân Mỹ ở Đồng Pan và Bàu Cỏ.

Tại Đồng Pan, Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) được tăng cường hai khẩu pháo 120mm của Tiểu đoàn 58 Đoàn 69, tập kích vào căn cứ xuất phát hành quân của một lữ đoàn Mỹ, diệt hàng trăm tên địch, phá hỏng 150 xe quân sự (có 50 xe bọc thép), 12 khẩu pháo. Cùng đêm, Trung đoàn 16 được tăng cường một khẩu 120mm của Tiểu đoàn 58 Đoàn 69, tiến công vào căn cứ hậu cần của cuộc hành quân Gianxơn Xity ở Bàu Cỏ, diệt 64 xe quân sự (có 24 thiết giáp), 9 khẩu pháo, 200 tên Mỹ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 07:36:10 pm

Choáng váng bởi các đòn tiến công liên tiếp của Quân giải phóng, trong đó có cả những trận đánh vào hậu cứ cuộc hành quân của địch (như Đồng Pan, Bàu Cỏ...), ngày 13-3-1967, các cánh quân Mỹ bắt đầu rút khỏi căn cứ Dương Minh Châu. Đợt một của cuộc hành quân Gianxơn Xity đã bị đánh bại, 5.859 tên địch (đa số là Mỹ) bị loại khỏi vòng chiến đấu, 33 khẩu pháo và 497 xe quân sự (có nhiều xe tăng và thiết giáp) bị phá huỷ, phá hỏng, 90 máy bay các loại bị bắn rơi. Tướng Giônnathan Ximan chỉ huy cuộc hành quân bị cách chức. Đây là tổn thất lớn của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược lần thứ hai.

Từ ngày 15-3, Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn triển khai giai đoạn hai cuộc hành quân Gianxơn Xity, lật cánh chuyển hướng tiến công chủ yếu sang phía đông căn cứ của ta.

Thủ đoạn của địch lần này là bao vây rộng, thọc sâu, tiến chắc, dùng không quân oanh tạc dữ dội, dọn sạch những chướng ngại phía đông căn cứ.

Về ta, phát huy thắng lợi đã đạt được, Bộ chỉ huy Miền chủ trương phải nắm chắc quả đấm chủ lực tập trung đánh cho được một đến hai trận tương đối lớn, tiêu diệt cho được cụm tiểu đoàn hoặc chiến đoàn địch, đồng thời động viên du kích cơ quan và bộ đội địa phương các huyện tiếp tục bám địch, đánh tiêu hao, tiêu diệt nhỏ, phối hợp với chủ lực đánh bại đợt hành quân thứ hai của địch vào căn cứ.

Bộ đội địa phương, du kích, tự vệ cơ quan được trang bị thêm súng chống tăng, súng máy cao xạ và tổ chức nhiều đội săn cơ giới, bắn máy bay, làm nhiều bãi mìn, chướng ngại, thực hiện đánh nhỏ rộng khắp kết hợp với đánh vừa, đánh lớn của bộ đội chủ lực.

Đội hình Sư đoàn 9 được bố trí lại, tạo thế cho trận đánh tiêu diệt lớn. Trung đoàn 2 về đứng chân ở khu vực Chà Dơ. Trung đoàn 16 về khu vực Suối Dây, ngã ba Sóc Xoài. Hai trung đoàn này có nhiệm vụ bám chặt cánh quân phía nam của địch, tạo thế, phối hợp đánh trận phủ đầu quân Mỹ dự kiến sẽ xảy ra ở Chà Dơ hoặc Đồng Rùm. Nếu địch không càn lên thì tập kích căn cứ hành quân của địch ở Đồng Pan hoặc Bàu Cỏ.

Trung đoàn 1 ở bắc Bổ Túc làm dự bị cho sư đoàn, sẵn sàng phối hợp với Trung đoàn 16 hoặc Trung đoàn 2, đánh địch trên trục đường Đá Đỏ, khu vực Bổ Túc hoặc sóc Con Trăn. Trung đoàn 3 tiếp tục đứng chân ở đông đường 13 đánh giao thông, hoặc tập kích vào các cụm cơ giới địch chốt trên đường 13.

Ngày 18-3-1967, đợt hai của cuộc hành quân Gianxơn Xity bắt đầu. Địch hình thành hai cánh từ hướng tây nam đánh lên và từ Hớn Quản (Bình Long) ở hướng đông đánh sang. Với ý định bao vây khu đông bắc khu B căn cứ Dương Minh Châu.

Cánh một gồm Lữ đoàn 3, Sư đoàn 4 và một tiểu đoàn của Lữ đoàn 173 hành quân từ Suối Đá, cầu Lộc Ninh theo đường lộ Kiểm lên Chà Dơ. Ngày hôm sau (19-3), cánh này phát triển lên, cụm lại tại Đồng Rùm. Cùng lúc dó Lữ đoàn 1, Sư đoàn 25 từ Minh Thạnh theo đường Trắng (Võ Tùng - Bà Chiêm) lên cụm lại ở Đồng Kền. Một cánh quân khác gồm Lữ đoàn 2, Sư đoàn 1 và một bộ phận của Trung đoàn 11 thiết giáp, Tiểu đoàn 36 biệt động quân từ Hớn Quản tiến theo đường Đá Đỏ, cụm tại sóc Con Trăn.

Ngày 22-3, một bộ phận của Trung đoàn 11 và Lữ đoàn 173 từ phía nam theo đường Trắng tiến lên chiếm Bàu Trâm, Bàu Cột, nối với sóc Con Tràn bằng một cụm cơ giới và pháo binh ở ngã ba Bà Chiêm.

Để yểm trợ cho các cánh quân trên, ngày 24-3, địch đổ thêm một tiểu đoàn Mỹ xuống Đồng Kền, đồng thời cho các đại đội biệt kích lùng sục xung quanh các khu vực chúng đóng quân. Ở Đồng Pan và trên đường số 4, chúng bố trí Lữ đoàn 196 giữ sườn phía đông cho khu vực hành quân.

Các cụm quân Mỹ bố trí thành vòng vây quanh một khu vực rộng đến 450 km2. Từ những cụm quân này, địch cho nhiều mũi đánh rộng ra nối với nhau thành một vòng vây khép kín. Ở giữa, chúng tung ba lữ đoàn dự bị (Lữ đoàn 3, Sư đoàn 1, Lữ đoàn 1, Sư đoàn 25, Lữ đoàn 1, Sư đoàn 9) đánh vào trung tâm để tìm diệt chủ lực và cơ quan lãnh đạo kháng chiến của ta. Song một lần nữa, Mỹ lại không thực hiện được ý đồ của chúng. Ngay từ những phút đầu cuộc hành quân, quân và dân vùng đông bắc Tây Ninh đã bám riết địch và giáng cho chúng những đòn chí mạng.

Ngày 18-3, địch vừa mới ra quân từ Suối Đá lên cầu Lộc Ninh đã bị du kích Đoàn 82 (huyện Bà Hảo) đánh mìn, diệt tám xe thiết giáp. Ngày 19-3, máy bay địch vừa hạ cánh xuống Đồng Rùm đã bị ngay một bãi mìn của du kích Đoàn hậu cần 82 bố trí sẵn, 8 máy bay và hơn 100 tên Mỹ bị diệt ngay tại chỗ. Cũng trong ngày này, trên đường 13, Trung đoàn 3 tập kích cụm bộ binh cơ giới của Lữ đoàn 1, Sư đoàn 9 ở Bầu Bàng, diệt 400 tên Mỹ, phá huỷ 92 xe (có 65 xe thiết giáp) và 9 khẩu pháo.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 07:37:04 pm

Đêm 20 rạng ngày 21-3, tranh thủ thời cơ địch vừa lên Đồng Rùm, còn lạ nước, lạ cái, Bộ chỉ huy Sư đoàn 9 quyết định sử dụng Trung đoàn 2 và Trung đoàn 16 đánh một trận quyết chiến trên khu vực ta đã dự kiến trước.

Trung đoàn 2 từ Chà Dơ đánh lên diệt cụm quân phía nam của địch, sau đó thọc vào Sở chỉ huy Lữ đoàn 3, Sư đoàn 4. Trung đoàn 16 từ phía bắc đánh xuống diệt gần hết cụm quân địch ở phía bắc. Kết quả, ta đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn pháo (18 khẩu), ba chi đoàn thiết giáp (72 chiếc), bắn rơi 10 máy bay, loại khỏi vòng chiến 1.220 tên địch. Địch vẫn còn một cụm cơ giới ở phía tây, ta không phát hiện được. Cụm quân này kết hợp với số còn lại của cánh quân phía bắc vừa chống đỡ quyết liệt vừa rút chạy, cuối cùng chúng được trực thăng cứu thoát. Ta bỏ lỡ cơ hội bắt sống tên Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3.

Sau trận Đồng Rùm, cánh quân phía nam của địch bị thiệt hại nặng phải co lại. Lữ đoàn 3, Sư đoàn 4 phải chạy về Dầu Tiếng để bổ sung quân và củng cố lực lượng. Ngày 28-3, địch đưa một bộ phận Lữ đoàn 3 càn lên Bàu Trí. Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 16 chặn đánh diệt 200 tên, phá hỏng 23 xe tăng và xe bọc thép, buộc chúng phải lui về Đồng Rùm.

Trong lúc đó, cánh quân ở phía bắc từ Hớn Quản (Bình Long) sang cụm ở sóc Con Trăn và ngã ba Bà Chiêm. Chúng tổ chức đánh ra hai bên. Ngày 22-3, một tiểu đoàn địch nống ra phía bắc Sóc Tâm, liền bị du kích vây chặt. Ngày 26-3, chỉ huy Sư đoàn 9 điều Trung đoàn 1 và Trung đoàn 16 về khu vực Sóc Tâm với ý định đánh tiêu diệt tiểu đoàn Mỹ này. Song địch sớm phát hiện lực lượng ta di chuyển, chúng đưa trực thăng đến bốc tiểu đoàn này trước khi ta đến. Địch lại đổ một tiểu đoàn khác xuống trảng Ba Vùng (tây bắc cầu Suối Ngô 3 km). Bộ chỉ huy Miền lệnh cho Sư đoàn 9 phải tiêu diệt bằng được hai tiểu đoàn này, đánh bại cánh quân phía bắc của địch. Một mặt, ta cho du kích cơ quan bám địch, đánh kiềm chế; mặt khác, trinh sát chuẩn bị dẫn Trung đoàn 1 và Trung đoàn 16 đến tập kích.

Sáng 31-3, một tiểu đoàn địch ở Ba Vùng bung ra đánh thọc vào trận địa ta. Bộ đội ta phản kích quyết liệt, diệt hai đại đội địch. Chiều 31-3, địch tăng cường lực lượng đến Ba Vùng. Chúng đổ thêm một tiểu đoàn và bổ sung quân cho hai đại đội vừa bị ta tiêu diệt, hình thành hai cụm quân: một cụm ở đầu bắc và một cụm ở đầu nam Ba Vùng.

Đêm 31-3, Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 16 tập kích diệt cụm phía nam, kiềm chế cụm phía bắc, đồng thời pháo kích vào cụm địch ở sóc Con Trăn, diệt 800 tên, bắn hạ 13 máy bay.

Bị đánh liên tục và thiệt hại nặng ở các hướng, ngày 1-4-1967, cánh quân Mỹ ở phía nam rút khỏi Đồng Rùm. Ngày 2-4, địch rút khỏi Cà Tum. Ngày 6-4, chúng rút cụm quân đóng ở Đồng Kền. Từ ngày 6-4 đến 9-4, địch ở các cụm trảng Ba Vùng, Bàu Cột, Bàu Trâm rút chạy về sóc Con Trăn, làm nao núng các cánh quân địch trên toàn tuyến chiến dịch. Đến 13-4, toàn bộ địch ở sóc Con Trăn rút khỏi Chiến khu Dương Minh Châu. Nhân lúc địch còn đang hỗn loạn tìm đường chạy khỏi khu chiến, Bộ chỉ huy Miền lệnh cho Trung đoàn 1 và Trung đoàn 16 vượt sông Sài Gòn, truy kích, chặn đường rút chạy của địch về Hớn Quản (đoạn Cần Lê - Bình Phú). Song, lực lượng địch còn khá đông, chúng lại rút từng bước bằng trực thăng và khéo nghi binh nên ta chỉ đánh được một số trận nhỏ. Ngày 15-5-1967, Oétmolen tuyên bố cuộc hành quân Gianxơn Xity chấm dứt.

Kết quả, ta loại khỏi vòng chiến đấu 14.233 tên địch (chủ yếu là quân Mỹ), phá huỷ, phá hỏng 992 xe (có 775 xe tăng và xe thiết giáp), 112 khẩu pháo từ 105mm trở lên, bắn rơi và bắn hỏng 160 máy bay (có 144 trực thăng). Đây là thất bại lớn nhất của Mỹ tính đến thời điểm đó. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nhận xét: “Cuộc hành quân Gianxơn Xity là một cuộc hành quân lớn nhất của quân Mỹ vào vùng căn cứ bắc Tây Ninh lại là cuộc hành quân thua đau nhất, là cái mốc đánh dấu đỉnh cao sự thất bại của chúng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai trong âm mưu tìm diệt của chúng”1.

Thất bại của Mỹ trong cuộc hành quân Gianxơn Xity không chỉ ở chỗ chúng không thực hiện được các mục tiêu đã đề ra trong cuộc hành quân và sự thiệt hại lớn về lực lượng quân Mỹ, về binh khí, kỹ thuật, phương tiện chiến tranh hiện đại bị phá huỷ, mà điều quan trọng hơn, đó là sự bế tắc về chiến thuật, chiến lược của Mỹ ở Việt Nam.

Báo Tin nhanh, ngày 27-3-1967, dẫn lời một sĩ quan cao cấp của Mỹ thú nhận với nhà báo Pháp Frăngxoa Can rằng: “Ở Hoa Thịnh Đốn và ở Guam người ta luôn mồm nói đến leo thang, nhưng tôi tự hỏi người ta còn có thể làm gì hơn nữa. Chúng tôi không thể dùng máy bay B52 hay máy bay cường kích nhiều hơn nữa. Những máy bay này đã vướng víu lẫn nhau trong các hoạt động yểm trợ chiến thuật rồi, chúng phải chờ đến phiên mới được ném bom; súng M16 của chúng tôi không thể bắn nhanh hơn nữa. Đại bác của chúng tôi giã suốt ngày đêm rồi. Người ta còn có thể làm gì hơn nữa nếu không phải là lặp lại có thể hàng mấy năm nữa những cuộc hành quân theo kiểu Gianxơn Xity để rồi trong 10 cuộc thì thất bại chín”2. Sau thất bại trong cuộc hành quân Gianxơn Xity, các nhà chiến lược Mỹ, những nhân vật chóp bu ở Nhà trắng và Lầu Năm góc đã không giải đáp được câu hỏi: phải dùng bao nhiêu quân nữa, sử dụng vũ khí gì nữa để có thể làm xoay chuyển được tình thế của cuộc chiến tranh khi mà chỉ ở một vùng căn cứ nhỏ hẹp như Tây Ninh, Mỹ đã phải huy động tới 45 ngàn quân cùng một số lượng lớn máy bay, xe tăng, pháo binh nhiều chưa từng có mà vẫn không đạt được một kết quả nào.

Với thất bại này, về cơ bản, gọng kìm “tìm diệt” của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai đã bị bẻ gãy.
________________________________________
1. Xem: Chiến dịch phản công đánh bại cuộc càn Gianxơn Xity, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr. 7 - 8.
2. Xem: Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, t. 4, tr. 130.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 07:37:33 pm

Cùng với thắng lợi của quân dân ta ở Tây Ninh, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, các lực lượng vũ trang ta tiến công địch liên tục và đều khắp.

Ngay tại Sài Gòn, từ khi chuẩn bị chống cuộc càn Xêđa Phôn, Bộ chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định quyết định tiến công sân bay Tân Sơn Nhất. Đây là một trong những căn cứ quân sự chiến lược lớn của Mỹ - nơi đóng quân của nhiều cơ quan đầu não quan trọng như Bộ Tư lệnh tập đoàn không quân số 7 Mỹ, Bộ Tư lệnh Không quân ngụy, Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ, Sở Chỉ huy của Oétmolen... Sân bay còn có nhiều kho tàng chứa nhiên liệu, bom đạn và có khoảng 400-500 máy bay đậu, sẵn sàng xuất kích đánh phá bất cứ khu vực nào khi cần thiết. Lực lượng tham gia đánh sân bay là Đoàn F100 đặc công biệt động của Quân khu Sài Gòn - Gia Định.

Đêm 3 rạng 4-12-1966, các chiến sĩ đặc công của ta dưới sự chỉ huy của hai mũi trưởng Nguyễn Văn Kiệp (Đồng Đen) và Bành Văn Trân (Năm Vững) đã lọt được vào sân bay. Mũi của đồng chí Kiệp đến đường băng số 2 thì bị địch phát hiện. Các chiến sĩ ta vừa phải chiến đấu với quân Mỹ, vừa phải chống trả lũ chó bécgiê hung dữ. Tổ ba người bị hy sinh hai, còn một đồng chí mình đầy thương tích vẫn tiếp tục chiến đấu. Trong lúc đó, một mũi khác lọt được vào kho bom, đặt mìn hẹn giờ. Một tốp vào khu để máy bay, dùng pháo tay phá từng chiếc, đồng thời dùng cối 60 đặt ngay trên đường băng bắn vào đài chỉ huy và khu nhà ở của phi công. Gần 2 giờ sáng ngày 4-12-1966, các mũi tiến công của ta đã diệt được một số mục tiêu trong sân bay, nhưng bị địch vây chặt. Địch đưa xe tăng, xe bọc thép đến hỗ trợ cho quân của chúng phản kích. Các chiến sĩ ta dũng cảm đánh bật các đợt phản kích của địch, song ta cũng bị thương vong lớn. Được sự phối hợp của đội nữ du kích Tân Sơn Nhì và sự giúp đỡ của cơ sở gần sân bay, các chiến sĩ còn lại mở đường máu phá vây thoát được ra ngoài. Kết quả, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên địch, phá huỷ một kho bom 200 tấn, đánh hỏng hơn 100 máy bay, bắn cháy 13 xe bọc thép. Trong trận đánh ác liệt này, ta hy sinh 31 đồng chí, 6 đồng chí mất tích và 26 đồng chí bị thương.

Một ngày sau, bốn chiến sĩ biệt động Sài Gòn (Đội 69) lại tiến công cư xá cố vấn chiến tranh tâm lý USOM của Mỹ ở đường Lê Văn Duyệt, loại khỏi vòng chiến đấu 30 tên, thu nhiều tài liệu quan trọng.

Ngày 23-2-1967, bộ đội địa phương huyện Củ Chi tập kích vào cụm quân dã chiến Mỹ đóng tại Cây Trắc, diệt nhiều Mỹ, phá huỷ 18 xe tăng, xe bọc thép, thu 70 súng.

Tại Biên Hoà, ngày 4-2-1967, ta tiến công căn cứ hậu cần Mỹ ở Long Bình, phá huỷ 40 kho dự trữ vũ khí, phương tiện chiến tranh và quân trang, quân dụng của địch. Ba ngày sau, ngày 7-2-1967 ta pháo kích sân bay Biên Hoà, phá huỷ 8.000 quả bom napan, đốt cháy 100 ngàn lít xăng. Gần hai tháng sau, ngày 2-4-1967, ta lại bắn súng lớn vào sân bay Biên Hoà và căn cứ Trung đoàn thiết giáp 11 của Mỹ, phá huỷ, phá hỏng 200 xe quân sự, 34 máy bay, 30 khẩu pháo.

Ở Thủ Dầu Một, ngày 16-2-1967, bộ đội phối hợp với du kích chặn đánh một đoàn xe cơ giới địch càn vào làng 18 (Dầu Tiếng), diệt 13 xe M113 và hai xe M41. Ngày 14-3, ta tiến công sân bay Phú Lợi, diệt hàng trăm tên Mỹ, phá huỷ sáu xe bọe thép và một số máy bay lên thẳng.

Tại Bà Rịa, ngày 16-2, ta diệt Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 52, Sư đoàn 10 ngụy tại Suối Cát thuộc quận Long Điền - Đất Đỏ. Quân Ôxtrâylia đến tiếp viện bị ta đánh diệt gần 100 tên, bắn hỏng 5 xe tăng và xe bọc thép.

Tại Bình Long, ngày 8-4, ta pháo kích vào quân Mỹ ở Bình Phú, cách thị xã Hớn Quản 12 km, diệt nhiều Mỹ, phá hỏng bốn khẩu pháo 105mm và 155mm.

Không chỉ có miền Đông Nam Bộ mà trên khắp các chiến trường miền Nam từ Quảng Trị - Thừa Thiên đến Khu V - Tây Nguyên và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, quân và dân ta liên tục tiến công và nổi dậy gây cho địch nhiều thiệt hại về sinh lực và phương tiện chiến tranh. Tại hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên trong bốn tháng đầu năm 1967, ta đã loạt khỏi vòng chiến đấu hơn 21 ngàn tên địch, phá hỏng 624 xe quân sự, bắn rơi 195 máy bay. Trong các trận tiến công địch ở Trị - Thiên những tháng đầu năm 1967, nổi bật nhất là trận tiến công Chi khu quân sự Quảng Điền ngày 4-2, ta diệt 350 tên địch. Đặc biệt, ngày 7-3, pháo binh Quân giải phóng dùng súng cối và ĐKB 122mm bắn hơn 1.000 quả vào Điểm cao 241 thuộc huyện Cam Lộ, diệt và làm bị thương gần 1.000 tên Mỹ, phá hỏng 21 khẩu đại bác.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 07:40:10 pm

Đêm 5 rạng ngày 4-6-1967, các lực lượng vũ trang của Trị - Thiên đã giáng một đòn bất ngờ, mãnh liệt và chớp nhoáng vào căn cứ hậu phương của Trung đoàn 1 và Trung đoàn 3, Sư đoàn 1 ngụy ở La Vang, Từ Hạ và thị xã Quảng Trị, diệt 1.700 tên dịch, phá hỏng 230 xe quân sự, đốt 8 kho dầu và vũ khí.

Các trận tiến công của pháo binh bờ bắc sông Bến Hải và lực lượng vũ trang Trị - Thiên đã làm rung chuyển tuyến phòng thủ của Mỹ - ngụy trên đường số 1 (do Quân đoàn 1 phụ trách), uy hiếp mạnh hậu cứ của lính thuỷ đánh bộ Mỹ trên tuyến phòng thủ đường 9. Đồng thời nó chứng tỏ khả năng to lớn của ta trong việc đánh thọc sâu vào căn cứ hậu phương của Mỹ - ngụy.

Cũng trong ngày 6-4-1967, một đơn vị thuộc Sư đoàn 324 đánh thiệt hại một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đóng ở Gio An, bắn cháy 16 xe tăng, xe bọc thép, bắt một số tù binh. Những hoạt động mạnh mẽ và liên tiếp của ta trên hướng Trị - Thiên đã buộc địch phải đưa Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ Mỹ ra Trị - Thiên, không đưa vào Nam Bộ như dự kiến ban đầu của chúng. Ta giam chân được ba sư đoàn chủ lực Mỹ - ngụy ở đây, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến trường Nam Bộ, Khu V tiến công và nổi dậy.

Trên chiến trường Tây Nguyên, tháng 1-1967, lực lượng vũ trang Tây Nguyên liên tiếp đánh bại các cuộc hành quân Sam Huttơn (Sam Houston) và Frăngxi Marion (Francis Marion) của Mỹ - ngụy ở phía tây Kon Tum và Gia Lai, loại khỏi vòng chiến đấu 4.000 tên địch, bắn rơi 45 máy bay. Ngày 5-4-1967, quân Mỹ buộc phải rút về căn cứ, chấm dứt các cuộc hành quân tìm diệt ở Tây Nguyên.

Ở Khu V thời gian này, hoạt động nổi bật của lực lượng vũ trang quân khu là trừng trị quân Nam Triều Tiên khét tiếng khát máu. Lực lượng này thuộc Lữ đoàn Rồng xanh. Chỉ trong vòng một năm, lính đánh thuê Nam Triều Tiên đã giết và làm bị thương hơn năm ngàn dân ở Khánh Hoà, Phú Yên, Bình Định. Cuối 1966, Lữ đoàn Rồng xanh được đưa từ Phú Yên ra Bình Sơn, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) để thay thế cho các đơn vị lính thuỷ đánh bộ Mỹ. Tại đây, chúng tiếp tục những cuộc tàn sát đẫm máu. Có gia đình bị chúng lùa vào trong nhà rồi đóng cửa đốt. Chúng còn xua một lúc hàng chục người xuống hầm rồi phun hơi độc. Dã man hơn, chúng hãm hiếp phụ nữ rồi mổ bụng lấy gan ăn. Ở xã Bình Hoà (Bình Sơn) trong một buổi sáng (6-10-1966), lính Nam Triều Tiên đã tàn sát trên 400 người, thôn An Phước bị nặng nhất 295 người chết, trong đó có 21 phụ nữ đang mang thai, 22 em mới chào đời từ bảy ngày đến một năm tuổi. Căm thù, uất hận trước những tội ác dã man của quân Nam Triều Tiên, Tỉnh uỷ Quảng Ngãi đã phát động phong trào “xé xác Rồng xanh, phanh thây giặc Mỹ”, kêu gọi các lực lượng vũ trang và bán vũ trang “hãy trút căm thù lên mũi lê, nòng súng, diệt thật nhiều giặc Mỹ, bọn ác ôn, lính đánh thuê để trả thù cho đồng bào bị chúng sát hại”.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Tỉnh uỷ, ngày 11-11-1966, Tiểu đoàn 40, Trung đoàn 1 tiến công tiêu diệt một đại đội lính Nam Triều Tiên ở Trung Linh (Bình Sơn). Ngày 19-11-1966, Tiểu đoàn 60, Trung đoàn 1 diệt một đại đội khác ở đồi Mả Tổ (Sơn Tịnh). Ngày 10 và 23-1-1967, ta diệt tiếp một đại đội ở An Điềm và Bình Lãnh. Trong hai ngày 29-1 và 1-2- 1967, Tiểu đoàn 48 bộ đội địa phương Quảng Ngãi đập tan hai cuộc càn của lính Nam Triều Tiên, diệt gọn hai đại đội, đánh thiệt hại nặng một đại đội khác ở Bình Phước và Tịnh Hoà. Chiến tranh nhân dân phát triển rộng khắp. Nhân dân cùng du kích các xã thuộc huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh làm nhiều hầm chông, bố trí tại các vị trí địch có thể càn vào, đồng thời tổ chức các trận địa phục kích, chờ địch. Bằng cánh này, ta đã diệt hàng trăm lính Nam Triều Tiên. Ở xã Bình Châu, trong một ngày chiến đấu, đồng chí Trần Bản, Xã đội phó đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục lính Pắc Chung Hy.

Ngày 15-2-1967, Trung đoàn 1, Sư đoàn 2 tiến công cụm quân Nam Triều Tiên ở đồi Quang Thạnh (xã Kim Sơn, huyện Sơn Tịnh) do Tiểu đoàn 3, Lữ đoàn Rồng xanh chiếm giữ. Trận đánh diễn ra quyết liệt do địch đóng trên đồi cao và phòng ngự có chiều sâu. Xung quanh cứ điểm, chúng bố trí nhiều hàng rào dây thép gai và mìn. Ta phải dùng súng phun lửa phụt vào hệ thống hầm ngầm của địch. Sau ba giờ chiến đấu, cứ điểm bị san bằng, trên 400 lính đánh thuê Nam Triều Tiên phải đền tội. Đây là trận đánh có hiệu suất chiến đấu cao, có tác động mạnh đến tinh thần ý chí của lính Pắc Chung Hy, nên ngay ngày hôm sau (16-2) quân của chúng đóng ở Khánh Mỹ, Hòn Ngang, Hòn Dọc bỏ đồn tháo chạy.

Lữ đoàn Rồng xanh bị đánh quỵ, ngày 17-2-1967, Mỹ - ngụy tập trung chín tiểu đoàn mở cuộc hành quân mang tên Liên kết 81 đánh vào khu vực tây huyện Sơn Tịnh và huyện Tư Nghĩa. Sư đoàn 2 của ta cùng lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh tiêu diệt Tiểu đoàn dù số 7 của ngụy, đánh thiệt hại nặng bốn tiểu đoàn khác, buộc quân địch phải rút quân. Trong lúc đó, Trung đoàn 2, Sư đoàn 3 tập kích căn cứ Mỹ ở Gò Hội (23-3-1967), diệt 400 tên.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 07:41:04 pm

Tại Bình Định, ngày 17-12-1966, Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 vận động tiến công diệt bốn đại đội Mỹ và một tiểu đoàn chủ lực ngụy ở Long Giang, Lộc Giang. Đêm 25-12, Trung đoàn 22, Sư đoàn 3 tập kích diệt cụm quân hỗn hợp gồm hai đại đội pháo binh và hai đại đội bộ binh Mỹ ở Xuân Sơn (Hoài Ân).

Ở Quảng Nam, ngày 26-1-1967, Tiểu đoàn 1 bộ đội địa phương tỉnh đánh tan một tiểu đoàn Mỹ ở bờ sông Lệ Trạch. Ba ngày sau, ta đánh một tiểu đoàn khác của Mỹ ở xã Điện Thọ (Điện Bàn) gây cho địch nhiều thiệt hại. Ngày 24-3-1967, Trung đoàn 31, Sư đoàn 2 tổ chức trận phục kích trên đường số 1 (đoạn Hương An - Bà Rén), đánh đoàn xe khoảng 200 chiếc của địch. Trận đánh diễn ra nhanh gọn, ta diệt 143 xe các loại, và hàng trăm lính Mỹ, lính Nam Triều Tiên đi trên xe, phá hỏng trên 200 tấn đạn và nhiều phương tiện chiến tranh khác. Cùng với bộ đội chủ lực chiến đấu ở vòng ngoài, ngày 27-1-1967, bộ đội đặc công quân khu và các lực lượng pháo binh tập kích sân bay Đà Nẵng, phá huỷ và phá hỏng 100 máy bay các loại. Ngày 14-5, Quân giải phóng Khu V còn tiến công trận địa tên lửa Hốc ở núi Phước Tường, phá huỷ 12 dàn tên lửa.

Ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ, trong sáu tháng đầu 1967, quân và dân các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hoà, Phú Yên, và thành phố Đà Lạt đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 400 tên địch, bắn rơi 41 máy bay, phá huỷ, phá hỏng 13 xe M113. Đáng chú ý là các trận tiến công tiêu diệt cứ điểm Duồng (7-1-1967), trận tập kích địch ở thị trấn Phan Rí (27-1-1967) của Tiểu đoàn 840 bộ đội địa phương tỉnh Bình Thuận. Đêm 19 rạng ngày 20-2-1967, tiểu đoàn này lại tập kích vào lực lượng bảo an và các đoàn bình định của địch ở Tuy Tịnh (huyện Tuy Phong), đánh thiệt hại hai đại đội bảo an, hai đoàn bình định số 8 và 11. Ở Ninh Thuận, lực lượng vũ trang tỉnh đánh địch ở cảng Ninh Chữ, pháo kích sân bay Thành Sơn, đột nhập thị xã Phan Rang, diệt một đại đội quân cảnh Mỹ.

Tại Lâm Đồng, đêm 23-2-1967, một bộ phận của Tiểu đoàn 186 cùng lực lượng địa phương đánh diệt một trung đội dân vệ phụ trách ấp chiến lược số 5, đồng thời, tiểu đoàn tổ chức trận địa phục kích trên đường 20 (cách quận lỵ Di Linh từ 3 đến 5 km), kéo địch đến cứu viện để tiêu diệt. Sáng 24-2, nghe tin trung đội dân vệ ở ấp chiến lược số 5 bị diệt, địch đưa một đại đội bảo an đến cứu viện. Chúng lập tức bị ta tiêu diệt gọn. Trưa hôm đó, tên quận trưởng Di Linh cùng hai đại đội bảo an cơ động của chi khu mò đến cũng bị quân ta tiêu diệt. Địch cay cú đưa Tiểu đoàn biệt động số 53 từ Tiểu khu BLao xuống. Ta tiếp tục củng cố lại trận địa cũ, đánh diệt phần lớn tiểu đoàn này. Bọn địch còn lại ở Chi khu Di Linh hoảng hốt kêu cứu buộc quân Mỹ đang càn quét phải rút về tăng cường cho Di Linh. Với kết quả này, Tiểu đoàn 186 đã được Bộ Chỉ huy Miền Tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba.

Đồng bằng sông Cửu Long mùa khô 1966-1967 tuy không phải là trọng điểm tìm diệt của quân Mỹ, song đây là vựa lúa của cả miền Nam, nơi cung cấp nguồn lực tại chỗ cho chiến tranh, mặt khác, để ngăn chặn hướng tiến công của ta từ phía nam, Mỹ vẫn tăng cường lực lượng triển khai dọc trục đường số 4 từ Long An đến Mỹ Tho.

Riêng tại Long An, cuối 1966, Mỹ đã có bốn lữ đoàn (hai lữ thuộc Sư đoàn 25, Lữ đoàn 199 và Lữ đoàn 3 của Sư đoàn 9).

Ngày 23-12-1966, Mỹ lại đưa Lữ đoàn 1, Sư đoàn 9 về lập căn cứ tại Rạch Kiến (huyện Cần Đước). Đây là một trong những căn cứ được xây dựng khá kiên cố. Bao quanh nó là sáu lớp rào kẽm gai, ba tuyến mìn tự động và nhiều lô cốt tiền tiêu. Bên trong có sân bay trực thăng, trận địa pháo... Ngay khi quân Mỹ đặt chân đến đây, bộ đội các huyện Cần Đước, Tân Trụ cùng du kích các xã xung quanh đã liên tục tiến công tiêu hao nhiều sinh lực của địch mỗi khi chúng nống ra càn quét. Dần dần, một vành đai diệt Mỹ hình thành dưới sự chỉ đạo của tỉnh uỷ và tỉnh đội. Chỉ trong vòng ba tháng sau khi huyện phát động phong trào giành các danh hiệu diệt Mỹ, trên vành đai Rạch Kiến, hàng trăm tên Mỹ đã bị loạt, 16 trực thăng bị bắn rơi. Phong trào toàn dân đánh giặc ở Rạch Kiến phát triển đến đỉnh cao với nhiều hình thức phong phú. Cùng với Rạch Kiến, toàn tỉnh Long An phát triển chiến tranh nhân dân. Mùa khô 1966-1967, quân và dân Long An đã diệt và làm bị thương 3.000 tên Mỹ, bắn rơi 28 trực thăng.

Nếu ở Long An, Rạch Kiến được xem như một điển hình trong phong trào toàn dân đánh giặc thì ở Mỹ Tho xuất hiện một điển hình khác: vành đai diệt Mỹ ở Bình Đức (huyện Châu Thành). Tại đây, Mỹ xây dựng căn cứ lớn cho một sư đoàn bộ binh Mỹ (Sư đoàn 9). Căn cứ này được xây dựng từ tháng 2-1966, sau gần một năm mới hoàn thành. Oétmolen, Tư lệnh lực lượng Mỹ tại Việt Nam đặt tên cho căn cứ này là căn cứ Đồng Tâm. Theo Oétmolen “đồng tâm” là tượng trưng cho sự chung sức đồng lòng, hợp tác chặt chẽ giữa Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn cùng nhau thực hiện một mục đích diệt trừ cộng sản.

Chuẩn bị cho Sư đoàn 9 Mỹ vào đóng tại căn cứ Đồng Tâm, Sư đoàn 7 ngụy cùng các đoàn bình định, các đại đội thám sát, bảo an liên tục càn quét các xã Bình Đức, Vĩnh Kim (hai xã nằm sát căn cứ). Chúng dùng không quân, pháo binh đánh phá suốt ngày đêm, gây nhiều thiệt hại cho đồng bào và cơ sở cách mạng của ta.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 07:42:08 pm

Từ 9-1 đến ngày 7-2-1967, sau khi đã kiểm tra kỹ, thấy căn cứ tương đối hoàn chỉnh và an toàn, Oétmolen mới cho Lữ đoàn 2 Sư đoàn 9 chia làm ba đợt đổ quân xuống căn cứ và các vùng phụ cận. Ngay trong ngày đầu tiên, khi đổ quân xuống sân bay Thân Cửu Nghĩa (cách căn cứ khoảng 10 km), địch đã bị trung đội trinh sát tỉnh Mỹ Tho đánh phủ đầu bằng pháo, cối. Cùng ngày, tổ đặc công nước do Bảy Chịu chỉ huy đã đặt khối bộc phá 200 kg đánh chìm chiếc tàu cuốc Jamaicabat1, 200 lính và nhân viên Mỹ trên tàu chết và bị thương. Những đòn phủ đầu này đã làm quân Mỹ phải dè chừng. Hơn một tháng sau, ngày 14-12-1967, quân Mỹ ở đây mới bắt đầu bung ra lùng sục. Lực lượng ba thứ quân trên vùng vành đai phát triển thế trận chiến tranh nhân dân, sáng tạo ra nhiều cách đánh diệt quân Mỹ rất độc đáo. Nhiều gương dũng sĩ diệt Mỹ xuất hiện không chỉ ở Bình Đức mà khắp toàn tỉnh Mỹ Tho. Ông Nguyễn Văn Tẩu (xã Long Hưng) một mình diệt 73 tên Mỹ. Lê Thị Hồng Gấm ba lần đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ và được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Em Hồ Văn Nhánh (16 tuổi) được du kích hướng dẫn cách tháo mìn, em đã gỡ được 450 quả. Em còn hướng dẫn lại cho bạn mình cùng đi gỡ. Riêng Nhánh đã 131 lần vào gỡ mìn trong hàng rào căn cứ Đồng Tâm, phục vụ du kích, bộ đội đánh 300 trận, diệt 130 tên Mỹ...

Tính đến tháng 8-1967, quân dân Mỹ Tho đã diệt 2.110 tên Mỹ, thu 63 súng các loại.

Tại Bến Tre, Đông - Xuân 1966-1967, ta mở đợt hoạt động trên hướng Bình Đại - Ba Tri, lấy Bình Đại làm hướng chính, Châu Hưng làm trọng điểm.

Đêm 4-1-1967, phân đội đặc công của Tiểu đoàn 261 chủ lực Khu VIII đã đánh diệt trung đội dân vệ Châu Hưng, một bộ phận của Tiểu đoàn 516 bộ đội tỉnh Bến Tre đánh đồn Giồng Quéo (Bình Đại). Địch vội điều Tiểu đoàn biệt động quân số 32 của Khu chiến thuật Tiền Giang đến cứu nguy. Tiểu đoàn 261 và 516 đã phối hợp tổ chức trận đánh tại Châu Hưng, diệt Tiểu đoàn biệt động quân số 32, đánh thiệt hại nặng một đại đội bảo an của chi khu Bình Đại, giết và làm bị thương 300 tên, thu 50 súng, bắn rơi một máy bay lên thẳng, bắn hỏng một máy bay C47.

Phối hợp với hướng chính, ta bắn pháo cối vào các trận địa pháo của địch ở cầu kênh Chẹt Sậy, thị trấn Giồng Trôm. Bộ đội địa phương huyện cùng du kích diệt đồn Vang Quới, bức địch rút 11 đồn khác, giải phóng hoàn toàn bốn xã Thạnh Tân, Phước Thuận, Thới Lai và Châu Hưng. Tại Ba Tri, bộ đội và du kích phục kích đánh diệt hai đại đội bảo an ở Giồng Trung xã Vĩnh Hoà, nhiều tề điệp ác ôn bị trừng trị, làm cho hai tiểu đoàn chủ lực ngụy, tám đại đội bảo an, 12 đoàn bình định đóng trên địa bàn này phải nằm im một thời gian dài không dám bung ra hoạt động.

Nhận thấy tình hình Bến Tre diễn biến phức tạp, ngày 6-1-1967, Mỹ vội vàng đưa quân đến mở cuộc càn lớn mang tên Sóng thần 5. Lực lượng địch sử dụng trong cuộc càn này có một lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ, một tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên với 57 tàu thuyền chiến đấu trên sông, 152 máy bay, một chi đoàn xe M113 (12 chiếc) và hàng trăm khẩu súng các loại. Địa bàn hoạt động của địch gồm các xã Thạnh Phong, Giao Thạnh, Thạnh Phú, An Nhơn, An Quy và An Thạnh (thuộc huyện Thạnh Phú).

Ngay khi địch vừa đặt chân đến Hồ Cỏ (xã Giao Thạnh), chúng đã bị Tiểu đoàn 518 và lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh quyết liệt, làm hàng chục tên Mỹ chết và bị thương, hai máy bay bị bắn rơi, hai tàu bị bắn cháy.

Kết hợp với mũi tiến công quân sự, lực lượng chính trị khéo léo dựa vào thế hợp pháp, tổ chức bốn cuộc đấu tranh trực diện với quân Mỹ, đòi chúng không được bắn pháo, ném bom, phá huỷ nhà cửa của đồng bào. Những cuộc đấu tranh này đã làm chậm bước tiến của các cánh quân Mỹ trong nhiều giờ, ta có thêm thời gian chuẩn bị để đối phó.
________________________________________
1. Tàu nạo vét lòng sông, bờ biển loại lớn của Mỹ. Trên tàu trang bị bốn khẩu pháo và thường xuyên có 12 tàu nhỏ luân phiên tuần tiễu, bảo vệ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2010, 07:43:58 pm

Ngày 8-1-1967, Mỹ lại dùng trực thăng đổ quân xuống xã An Nhơn. Lực lượng du kích dựa vào trận địa bố trí sẵn bắn cháy bốn chiếc, làm ý đồ đổ quân của chúng không thực hiện được. Trong lúc đó, tại Giao Thạnh, tổ chiến đấu của công trường sản xuất vũ khí huyện Thạnh Phú khắc phục một quả bom lép, sửa lại đầu nổ, đặt tại một vị trí thuận lợi rồi tìm cách dụ địch vào, giật nổ diệt cả một trung đội địch. Với chiến công này, tổ được Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba. Tại Cồn Lớn, Khâu Băng, Cồn Chim, Cồn Điệp... quân Mỹ và Nam Triều Tiên liên tục bị sụt hầm chông, vướng chất nổ và bị lực lượng vũ trang địa phương tiến công. Đêm đêm, ta pháo kích vào khu vực địch đóng quân làm chúng hoang mang, lo sợ. Suốt 15 ngày kiên cường bám trụ anh dũng chiến đấu, quân và dân Thạnh Phú bẻ gãy cuộc càn lớn của địch, diệt 235 tên Mỹ và lính Nam Triều Tiên, bốn máy bay trực thăng bị bắn rơi, hai tàu bị bắn chìm, nhiều phương tiện chiến tranh của chúng bị phá huỷ.

Một lần nữa, quân dân Bến Tre nói chung, quân dân Thạnh Phú nói riêng, chỉ bằng lực lượng vũ trang tại chỗ và thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp đã chiến thắng kẻ thù mạnh hơn gấp bội. Bến Tre cũng như Long An, Mỹ Tho có đủ cơ sở để khẳng định quyết tâm đánh thắng Mỹ.

Trong lúc các tỉnh Long An, Mỹ Tho, Bến Tre và các tỉnh thuộc Trung Nam Bộ (Khu VIII) sôi nổi phong trào tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt, thì tại miền Tây Nam Bộ, Quân khu IX cũng mở đợt hoạt động Đông - Xuân 1966 - 1967, lấy Chương Thiện làm trọng điểm. Mục đích của đợt hoạt động này là mở mang vùng Giồng Giềng - Long Mỹ - Ngang Dừa, sau đó phát triển tiến công lên Cần Thơ - Rạch Giá.

Mở đầu đợt hoạt động tìm diệt Mỹ - ngụy, ngày 26-10-1966, Tiểu đoàn 306 tiêu diệt gọn đồn Cái Đuốc, sau đó rút về kênh Ba Quân, Ngã Cạy (cánh Vị Thanh 15 km về phía tây) bố trí trận địa đánh quân đến cứu viện. Tại đây, Tiểu đoàn 306 cùng một bộ phận của Tiểu đoàn 33 đã chiến đấu quyết liệt với lực lượng của Trung đoàn 33 Sư đoàn 21 ngụy đến ứng cứu, loại khỏi vòng chiến đấu gần 700 tên, bắn rơi 12 trực thăng. Với thắng lợi này, Tiểu đoàn 306 được Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng và Bộ Tư lệnh Miền tặng thưởng Huân chương Quân công hạng hai.

Cùng thời gian này Tiểu đoàn 309 tiến công chi khu Ngang Dừa, diệt và bức hàng ba đồn. Các tỉnh trong quân khu cùng phối hợp hoạt động, tích cực đánh địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng.

Đầu 1967, địch sử dụng một bộ phận Sư đoàn 9 và Sư đoàn 7 mở cuộc hành quân lớn mang tên Phi Long đánh vào Long Toàn, Cầu Ngang, Tiểu Cần tìm diệt lực lượng ta và dồn dân vào ấp Tân Sinh. Tiểu đoàn 306 phải chuyển sang hoạt động trên chiến trường Vĩnh - Trà (Vinh Long - Trà Vinh). Đêm 18-1-1967, một đại đội của Tiểu đoàn 306 bất ngờ tiến công tiêu diệt đồn Đập Ấu, một bộ phận đặc công của ta đánh sập cầu Mai Tức (nằm trên đường Vĩnh Long đi Trà Vinh). Địch vội vã điều Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 14 Sư đoàn 9 ngụy đến tái chiếm đồn và sửa cầu. Tiểu đoàn 306 phục kích đánh địch.

Cuộc chiến diễn ra ác liệt ngay trong đêm. Kết quả ta loại khỏi vòng chiến đấu 250 tên địch, thu trên 200 súng các loại. Chiến thắng đầu tiên của chủ lực quân khu trên chiến trường Vĩnh Trà đã được Bộ Tư lệnh Miền khen thưởng xứng đáng bằng Huân chương Quân công hạng ba.

Tháng 4-1967, Tiểu đoàn 306 lại cùng Tiểu đoàn 501 của Trà Vinh tập kích một cụm quân địch đóng ở Mường Khai, diệt trên 200 tên, bắn chìm 8 tàu. Đánh xong, ta rút về xã Hoà Bình (đông chi khu Tam Bình 7 km). Địch đổ một tiểu đoàn của trung đoàn 15 và 16, Sư đoàn 9 ngụy xuống địa bàn ta đóng quân. Tiểu đoàn 306 và 501 dựa vào công sự, trận địa, chiến đấu quyết liệt, đánh lui sáu đợt xung phong của địch, giữ vững trận địa.

Tính chung trên chiến trường Vĩnh Trà, trong năm 1967 ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 10.000 tên địch, gỡ trên 200 đồn, bốt, trong đó riêng Tiểu đoàn 306 diệt trên 5.000 tên.

Thắng lợi đó góp phần cùng quân và dân đồng bằng sông Cửu Long cũng như toàn Miền đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ mùa khô 1966-1967.


*
*   *


Như vậy, trong mùa khô 1966-1967, thực hiện gọng kìm tìm diệt chủ lực quân giải phóng Mỹ - ngụy chẳng những không thực hiện được ý đồ tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng lực lượng vũ trang ta, mà còn bị các lực lượng vũ trang ta đánh tiêu hao một phần lớn lực lượng của chúng. Tính chung sáu tháng mùa khô, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 175.000 tên địch (có hàng ngàn tên Mỹ, lính đánh thuê Nam Triều Tiên, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Philíppin), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 49 tiểu đoàn và đơn vị tương đương, bắn rơi và phá huỷ 1.800 máy bay các loại, phá hỏng 1.783 xe quân sự, 340 khẩu đại bác, bắn chìm và bắn cháy 100 tàu xuồng, đánh sập và hỏng 270 cầu lớn nhỏ.

Đây là thất bại có ý nghĩa chiến lược đối với quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược lần thứ hai. Thất bại này đã làm cho tập đoàn cầm quyền nước Mỹ lâm vào tình trạng bế tắc về chiến lược; trên chiến trường, đội quân thiện chiến Mỹ luôn luôn bị động, lúng túng trong xử lý các tình huống dẫn đến thương vong ngày càng tăng, ý chí chiến đấu của binh lính giảm sút. Đối với ta, đánh thắng cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ, khẳng định khả năng chiến thắng về quân sự của ta là tất yếu, ta đã tạo được thế và lực cũng như thời cơ để tiến lên chuyển cách mạng miền Nam sang thời kỳ giành thắng lợi quyết định vào những năm tiếp sau.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tư, 2010, 12:50:20 pm

III- LÀM THẤT BẠI GỌNG KÌM BÌNH ĐỊNH

Rút kinh nghiệm mùa khô lần thứ nhất do đặt công tác bình định không ngang tầm với tìm diệt nên bị thất bại nặng, trong cuộc phản công lần thứ hai, Mỹ và Sài Gòn xác định: tăng cường gọng kìm bình định, kiên quyết đẩy mạnh công tác bình định lên ngang hàng với công tác quân sự (tìm diệt) nhằm lập một hệ thống an ninh liên hoàn nối liền các căn cứ, các trung tâm giao thông, lấn chiếm vùng đông dân, giàu lúa gạo, lập bộ máy kìm kẹp ở những nơi đã càn quét. Theo đánh giá của Tổng thống L.Giônxơn: bình định trong cuộc phản công mùa khô lần này là một cuộc chiến tranh khác, là cuộc cách mạng thật sự chọi với chủ nghĩa cộng sản. Do vậy, công tác bình định trước đó do Toà đại sứ Mỹ điều hành, đến thời điểm này, chuyển sang Bộ chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn đảm trách, nên chương trình bình định sẽ được kết hợp chặt chẽ với những cuộc hành quân càn quét, đánh phá của các đơn vị quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ.

Ngay từ cuối 1966, địch đã tập trung một số lớn nhân tài, vật lực cho công cuộc bình định miền Nam. Về phía chính quyền Sài Gòn, lực lượng tham gia chương trình bình định gồm: 53 tiểu đoàn chủ lực, 177 đại đội địa phương, 5 đại đội cảnh sát dã chiến, 559 trung đội nghĩa quân, 552 đoàn cán bộ bình định. Riêng tại các địa bàn trọng điểm bình định ven đô Sài Gòn, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Dương, Long An, Tây Ninh, Bình Long (thuộc Vùng chiến thuật III), Trị - Thiên, Bình Định, Tuy Hoà, Quảng Ngãi, Plâycu, Kon Tum (thuộc Vùng chiến thuật I và II), Vĩnh Long, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Kiến Phong (thuộc Vùng chiến thuật IV), ngoài lực lượng quân ngụy, chúng huy động thêm 40 tiểu đoàn Mỹ, 1.500 chuyên gia bình định, một số đơn vị quân Nam Triều Tiên, Ôxtrâylia. Song song với việc tăng cường lực lượng, Mỹ đã nâng tổng ngân sách đầu tư cho công tác bình định từ 8 tỷ (tiền Sài Gòn) năm 1966, lên 14 tỷ năm 1967. Với sức mạnh được tập trung như vậy, Mỹ và Sài Gòn dự kiến đến hết năm 1967 sẽ củng cố và xây dựng được 3.500 ấp và trại tập trung, trong đó, xây dựng mới hoàn toàn là 1075 ấp, dồn được 1.315.000 dân. Đặc biệt, để phục vụ trực tiếp cho chương trình, Mỹ đã khẩn trương lựa chọn và đưa đi đào tạo đội ngũ cán bộ bình định của chính quyền Sài Gòn ở các trung tâm đào tạo trong và ngoài nước.

Dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh MACV, Hội đồng bình định và phát triển dân sự được thành lập theo hệ thống dọc từ trung ương đến quận, huyện ở Nam Việt Nam do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trực tiếp làm chủ tịch, bộ trưởng các bộ và cơ quan trung ương làm uỷ viên. Nhiệm vụ của Hội đồng Trung ương là soạn thảo nội dung, kế hoạch phối hợp, đặt mục tiêu... cho chương trình bình định hàng năm. Hội đồng chỉ huy mọi cơ quan trung ương, Bộ tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, tư lệnh các vùng chiến thuật, các tỉnh trong công tác bình định. Các vùng chiến thuật và tỉnh cũng thiết lập hội đồng như trung ương. Cán bộ, nhân viên của cơ quan bình định và phát triển dân sự được đưa xuống các vùng chiến thuật, các tỉnh, các quận để chỉ đạo, đốc thúc việc thực hiện chương trình. Thông thường, mỗi vùng chiến thuật có 150, mỗi tỉnh từ 30-70, quận từ 8-20 nhân viên bình định. Bên cạnh đó, các toán đặc biệt, các toán cố vấn lưu động được thường xuyên phái xuống phối hợp hành động và huấn luyện nghiệp vụ cho các đơn vị, địa phương về công tác bình định1.

Để trực tiếp yểm trợ cho bình định, trước tiên địch tập trung lực lượng và phương tiện mở các cuộc hành quân càn quét quy mô tuỳ thuộc vào địa bàn dự định hành quân rộng hay hẹp, vào lực lượng cách mạng ở đó mạnh hay yếu. Thông thường, các cuộc hành quân bình định gồm ba bước: Hành quân an ninh - tiêu diệt các lực lượng vũ trang, cơ sở cách mạng trong khu vực đã chiếm được, sau đó quân đội sẽ rút dần về các đồn bốt, nhường quyền cho các đội bình định và “chuyên gia dân sự” thực hiện “tái thiết nông thôn”.

Do mục đích chương trình bình định là phải phá cho được cơ sở hạ tầng, thủ tiêu hết các tổ chức và con người Việt cộng, nên địch đã triệt để sử dụng các nguồn tài liệu thu được từ các cơ quan tình báo quân sự và dân sự của cả Mỹ và Sài Gòn, từ khẩu cung lấy được qua thẩm vấn những người bị bắt, sau đó dùng cảnh sát đặc biệt, mật vụ điều tra thẩm định, đối chiếu với thẻ căn cước xác định. Tất cả Việt cộng bị bắt đều tập trung về các trại giam giữ và được phân ra làm ba loại: loại A là cán bộ lãnh đạo chủ chốt; loại B là đảng viên; loại C là cơ sở quần chúng cách mạng.

Sau khi phân loại xong, địch đưa những người thuộc loại A, B về các trung tâm thẩm vấn ở tỉnh - đó là những địa điểm u tịch ít người qua lại... Tại đây, bọn công an mật vụ dùng mọi cực hình tra tấn dã man nhất như: tra điện, đóng đinh vào các khớp xương... kết hợp với hỏi cung. Các chuyên gia CIA, chuyên gia bình định thường xuyên có mặt để thẩm vấn và trực tiếp tra tấn các phạm nhân. Nhiều người đã chết ngay trong quá trình bị thẩm vấn, tra tấn, bởi khẩu hiệu của chúng là “không có tội, đánh cho có tội”. Những người may mắn thoát chết sau thời gian thẩm vấn sẽ được đưa ra xét xử công khai và bị đầy đi các nhà lao trong tình trạng thân thể bị tàn phế. Tình hình này ảnh hưởng rất nặng nề đến tâm lý, ý chí của cán bộ và đảng viên ở cơ sở và làm cho một bộ phận cán bộ phong trào hoang mang, dao động, nằm im không hoạt động, thoái thác nhiệm vụ trên giao.

Để răn đe nhân dân các địa phương, địch còn tổ chức các cuộc “khủng bố điển hình” do quân Nam Triều Tiên đảm trách. Trong các trận càn quét chúng như bầy thú, súng lăm lăm trong tay, chia thành nhiều mũi, tràn vào các làng xóm, bắt toàn bộ người già, phụ nữ, trẻ nhỏ tập trung lại từng cụm rồi dùng đại liên, tiểu liên sát hại không sót một người. Những cảnh tượng hãi hùng như chôn sống, mổ bụng, moi gan, chặt đầu bêu cọc, ném trẻ em và người già vào lửa hoặc xuống giếng... do quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ gây ra hàng ngày ở các địa phương miền Nam làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển cơ sở và cán bộ lãnh đạo phong trào của ta.
_______________________________________
1. Đến đầu năm 1967, tại Nam Việt Nam có 353 toán lưu động 114 toán phối hợp hành động.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tư, 2010, 12:52:33 pm

Song song với các tội ác trên, Mỹ - ngụy đã trút xuống các địa phương toàn miền Nam một khối lượng bom đạn và chất độc hoá học khổng lồ. Ở Long An, trung bình mỗi nhân khẩu phải chịu một quả bom, riêng quận Đức Huệ, mỗi người phải chịu một tấn, trong đó xã Bình Quang - điểm “ưu tiên” bắn phá đặc biệt, số bom đạn bình quân là ba tấn trên một người. Nhân dân phải ăn, ngủ, sinh hoạt dưới hầm ngầm, mọi hoạt động, lao động sản xuất thường được tiến hành vào ban đêm. Ở Khu V, bom đạn và các cuộc hành quân càn quét bình định của Mỹ - ngụy đã triệt phá hơn 300 thôn xã, xúc hơn 20 vạn dân vào các ấp đời mới, khu tập trung. Cùng thời gian này, 90 xã giáp ranh giữa đồng bằng với miền núi Tây Nguyên đã bị quân địch biến thành vùng trắng. Cùng với bom đạn, ở hầu khắp miền tây các huyện An Lão, Hoài Ân, Vĩnh Thạch, Vân Canh... không quân Mỹ đã thả xuống hàng trăm tấn chất độc hoá học. Nhiều địa bàn chúng rải đi rải lại đến năm, sáu lần, các loại cây cối đều bị chết đứng, xóm làng tiêu điều xác xơ, các dòng sông, nguồn nước đều bị nhiễm độc. Đến cuối 1966, trong tỉnh Bình Định quân địch đã đốt trụi bốn vạn nóc nhà, cướp và thiêu huỷ hàng vạn tấn lương thực, phá hàng vạn hécta hoa màu, dồn 150.000 người vào các ấp đời mới và khu tập trung. Đối với các xã ven biển từ Hoài Nhơn đến Tuy Phước (Bình Định) nhân dân sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt cá tôm trên biển, Mỹ - ngụy đã tịch thu và phá huỷ toàn bộ ghe thuyền, chài lưới... Có thể nói, để thực hiện cho được mục tiêu bình định dồn dân, lập ấp đời mới trong mùa khô 1966-1967, Mỹ - ngụy đã không từ bỏ một thủ đoạn độc ác, dã man nào nhằm nhanh chóng tiêu diệt hết cán bộ, đảng viên, cơ sở cách mạng, kiểm soát cho được toàn bộ nhân dân miền Nam. Chính do vậy, chúng đã gây cho quân và dân miền Nam tổn thất vô cùng lớn về người và của. Mặt khác, công cuộc dồn dân lập ấp đời mới của Mỹ - ngụy đã làm đảo lộn hoàn toàn về mặt xã hội, về đời sống tinh thần, vật chất, phong tục tập quán, tín ngưỡng truyền thống của làng xóm Việt Nam.

Không thể để quân thù mặc sức tàn phá, bắn giết, gom dân vào các ấp đời mới, cuộc đấu tranh chống phá kế hoạch bình định của quân và dân miền Nam trong mùa khô này đã diễn ra vô vùng quyết liệt. Cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân kiên trì thực hiện phương châm “ba bám”, tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn, toàn diện để giữ đất, giành dân. Đồng thời với “ba bám”, nhân dârr và lực lượng vũ trang địa phương đã kết hợp chặt chẽ đấu tranh “hai chân ba mũi” trong chống phá địch dồn dân lập ấp. Để phá địch bình định, lực lượng vũ trang vừa thực hiện nhiệm vụ tiêu diệt địch, bảo vệ nhân dân, phát triển lực lượng du kích, vừa làm hậu thuẫn cho phong trào đấu tranh chính trị, binh vận của quần chúng nhân dân mà nòng cốt là các cơ sở đảng, cơ sở quần chúng ở ngay trong các ấp tổ chức phát động. Đấu tranh chính trị được biểu hiện dưới hình thức đưa yêu sách, phản đối các hành động khủng bố, đốt phá, cướp bóc tài sản, gom dân lập ấp... của địch. Cuộc đấu tranh này không chỉ bó hẹp trong phạm vi những nơi địch càn quét bình định, mà còn lôi kéo nhân dân các vùng lân cận, kể cả một bộ phận viên chức, gia đình ngụy quân, ngụy quyền tham gia. Quy mô các cuộc càn quét bình định càng lớn bao nhiêu thì phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân ta càng rộng lớn và đều khắp bấy nhiêu. Cùng với mũi quân sự, chính trị, mũi binh vận cũng góp phần rất quan trọng trong việc làm giảm sức chiến đấu không chỉ đối với quân ngụy mà cả đối với quân Mỹ và đồng minh của Mỹ. Trong mùa khô này, số quân chiến đấu Mỹ đã lên tới 399.000 tên và 52.000 lính các nước phụ thuộc Mỹ; mà 40% quân số Mỹ là dành cho gọng kìm bình định. Việc binh vận đối với ngụy quân, ngụy quyền là việc làm ta đã có kinh nghiệm và có hiệu quả, nhưng binh vận đối với quân Mỹ và đồng minh của chúng rất khó khăn, vì ngôn ngữ bất đồng, bản chất hiếu chiến, tàn ác nên thời gian đầu, nhân dân không dám tiếp xúc. Phải trải qua một thời gian dài nghiên cứu, khảo nghiệm bằng nhiều cách kể cả việc thông qua phiên dịch để giải thích quan điểm, yêu cầu của ta làm cho chúng nhận ra được lẽ phải, từ đó tỏ thái độ kiên quyết phản đối chiến tranh. Đấu tranh binh vận là một mũi tiến công chiến lược, góp phần đánh bại chương trình bình định trong mùa khô 1966-1967 của Mỹ - ngụy.

Đi đôi với chống phá bình định, quân dân các địa phương miền Nam luôn chú trọng công tác xây dựng làng, xã chiến đấu. Đây là một công tác thường xuyên đặt ra cho mọi địa phương và lực lượng vũ trang cùng nhân dân toàn miền Nam. Xây dựng làng chiến đấu được xác định là cốt lõi để xây dựng vùng giải phóng, chống các cuộc hành quân càn quét bình định của địch đạt kết quả. Bước vào mùa khô này, phong trào xây dựng làng, xã chiến đấu diễn ra sôi nổi trên khắp các làng, xóm, xã, ấp miền Nam. Do tính chất, phạm vi, quy mô càn quét bình định của địch trong thời gian này diễn ra ác liệt và rộng lớn hơn so với trước, nên làng, xã chiến đấu được tổ chức liên hoàn theo khu vực nhiều thôn, xã với nhau, bảo đảm có thể phối hợp chiến đấu trên không gian rộng, hỗ trợ nhau đánh địch trong nhiều ngày. Hầu hết các làng, xã chiến đấu đều xây dựng các xưởng sửa chữa, cải tiến và sản xuất các loại vũ khí thô sơ phục vụ tại chỗ cho lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương.

Do có sự nhận thức đúng, có chủ trương, phương châm hành động phù hợp, kịp thời, cơ sở chuẩn bị khá chu đáo về mọi mặt, nên dù còn khá nhiều khó khăn, song quân và dân miền Nam đã từng bước vươn lên đánh bại gọng kìm bình định trong mùa khô lần thứ hai của Mỹ - ngụy.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tư, 2010, 12:53:35 pm

Kể từ lúc khởi đầu cuộc chiến tranh đến khi Mỹ - ngụy mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, Khu V luôn là địa bàn “ưu tiên bình định”, nên nơi đây đã trở thành một trong những điển hình của phong trào chống bình định, phá ấp chiến lược ở miền Nam. Bước vào mùa khô năm 1966- 1967, rút kinh nghiệm trong mùa khô lần thứ nhất, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu V xác định: tiếp tục đẩy mạnh phương châm “ba bám” như đã thực hiện có hiệu quả trước đây, nay bổ sung thêm phương châm “cấp trên bám cấp dưới” đã kịp thời phát hiện, nghiên cứu các thủ đoạn đánh phá của địch, tìm ra cách đối phó kịp thời cho ta theo từng địa bàn. Từ đây “bốn bám” trở thành những phương châm hành động của các cấp, các ngành, của lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương. Đây chính là nét phát triển mới của phong trào toàn dân đấu tranh chống bình định của Mỹ - ngụy ở Khu V.

Cường độ đánh phá của địch mỗi ngày thêm ác liệt, gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của nhân dân. Dù vậy, các chi bộ cơ sở đều thống nhất quyết tâm: trong khó khăn, gian khổ hy sinh không được để quần chúng tách rời Đảng, vì thế, yêu cầu mỗi đảng viên phải gương mẫu và bám sát quần chúng. Cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tuyên truyền giác ngộ cho nhân dân vạch trần mọi thủ đoạn chiến tranh tâm lý của địch, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc, hăm doạ của chúng trong bất cứ hoàn cảnh, thời gian nào. Mọi cán bộ, đảng viên, du kích đều hứa trước dân là dù Mỹ - ngụy có càn quét, khủng bố ác liệt đến đâu cũng kiên quyết bám dân, đánh địch.

Đi đầu trong phong trào chống bình định là Quảng Nam - Đà Nẵng một trọng điểm bình định ở đồng bằng Khu V. Tại đây, bằng thủ đoạn “đốt sạch, phá sạch, giết sạch”, địch đã mở nhiều cuộc càn khốc liệt vào hai xã Lộc Hưng, Lộc Phong (Đại Lộc); sau đó mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các địa bàn xung quanh. Hàng trăm gia đình bị chúng “xúc tát” vào các tại tập trung và ấp đời mới. Những vùng giải phóng bị địch ném bom, bắn pháo liên miên, khiến cho dân chúng không sản xuất được, phải bỏ nhà, bỏ quê đi nơi khác. Một số cán bộ, đảng viên, du kích phải tạm lánh sang vùng B Đại Lộc, Duy Xuyên chờ thời cơ quay về hoạt động.

Trước tình hình trên, Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng đã chỉ thị khẩn cấp cho các huyện, thị phải kiên quyết bám trụ, bám dân, đánh địch trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Thực hiện chỉ thị của Thường vụ Tỉnh uỷ, các huyện, thị đã nhanh chóng tìm mọi cách đưa số cán bộ, du kích bị lật ra ngoài trong các cuộc càn quét của địch quay về địa bàn cũ hoạt động; đi đôi với việc phát triển thêm hệ thống hầm bí mật xây dựng và củng cố làng xã chiến đấu, tăng cường bố phòng chống địch càn quét, dồn dân. Từ đó, phong trào đấu tranh chống đánh càn quét dồn dân ở Quảng Nam - Đà Nẵng từng bước được phục hồi và phát triển.

Tại huyện Điện Bàn sau khi củng cố lại cơ sở đảng, lực lượng vũ trang, Huyện ủy đã phát động phong trào thi đua toàn dân đánh Mỹ; đồng thời tổ chức ra đội Thanh niên quyết tử Võ Như Hưng. Ngày 27-12-1966, đội quyết tử đã bí mật phục kích đánh thiệt hại nặng cuộc càn quét của hai đại đội địch, diệt hai xe tăng. Tiếp đó, ngày 25-1-1967, dựa vào thế trận làng xã chiến đấu, Tiểu đoàn 1 bộ đội tỉnh và bộ đội huyện Điện Bàn, du kích tại chỗ đã bao vây chặn đánh một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ khi chúng đang thực hành càn quét dồn dân lập ấp tại khu vực Gò Nổi, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Đây là trận đầu tiên trên chiến trường Khu V tiểu đoàn bộ đội tỉnh, có sự phối hợp của bộ đội huyện và du kích cùng nhân dân đánh bại một tiểu đoàn chủ lực Mỹ càn quét. Với chiến công này, Tiểu đoàn 1 được Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam tặng Huân chương chiến công hạng hai.

Cuối tháng 2-1967, từ Hội An, quân địch nống ra càn quét dồn dân ở Cẩm Châu, Cẩm An, Cẩm Hà và xây dựng căn cứ Mỹ ở khu Cẩm Thanh gây cho phong trào đấu tranh của ta gặp nhiều khó khăn. Để ngăn chặn các cuộc càn quét bình định của địch, đêm 4 rạng ngày 5-3, Tiểu đoàn 2 bộ đội tỉnh phối hợp với Đại đội 2 thị xã Hội An đánh địch đóng trong quận lỵ Hiếu Nhơn, diệt 70 tên, tạo điều kiện cho quần chúng các địa bàn xung quanh nổi dậy diệt ác, phá kìm, phá lỏng các ấp đời mới của địch. Như vậy, bằng quyết tâm bám đất, bám dân, xây dựng làng, xã chiến đấu, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân... lấy hoạt động tiến công địch của lực lượng ba thứ quân làm đòn xeo quân, dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, thu 319 súng các loại, đánh bại nhiều cuộc càn quét gom dân của quân Mỹ và quân ngụy, phá lỏng phá rã các ấp đời mới, khu dồn dân (kể cả quận lỵ và nông thôn), góp phần làm thất bại gọng kìm bình định trong mùa khô lần thứ hai của địch.

Nằm kế cận với Quảng Nam, trên địa bàn Quảng Ngãi, bước vào mùa khô 1966-1967, ngoài 12.000 quân Mỹ và đồng minh của Mỹ, lực lượng ngụy quân ở đây có Sư đoàn 2 (Trung đoàn 4 và Trung đoàn 67), 25 đại đội bảo an, 17 đại đội đặc biệt, 161 trung đội nghĩa quân, 1.200 cảnh sát, một chi đoàn thiết giáp, 47 đoàn “bình định”, một đại đội hải thuyền. So sánh với năm 1965, số quân địch tại đây tăng gấp hai lần. Ở các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh bình quân tám người dân có một tên lính. Cùng với việc tăng quân, địch mở thêm căn cứ, đồn bốt, xây dựng sân bay ở Gò Hội, căn cứ hậu cần ở Phổ Vinh (Đức Phổ)...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tư, 2010, 12:54:27 pm

Phối hợp với các cuộc tiến công của lực lượng vũ trang, các cấp uỷ đảng và cơ sở mật đã vận động gần bốn vạn đồng bào trong thị xã và các vùng phụ cận nổi dậy đấu tranh chống quân Mỹ và quân Nam Triều Tiên đã gây ra tội ác tày trời ở hai huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, đòi chấm dứt chiến tranh... Cùng thời gian này, hàng ngàn đồng bào ở ven đường số 1 đã tổ chức chặn đánh giao thông diệt xe chở hàng tiếp tế của địch. Để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị của quần chúng, ngày 29-1, tiểu đoàn 48 đã tiến công gây thiệt hại nặng một đại đội Nam Triều Tiên ở Phố Tinh, Tịnh Phước. Tiếp đó, ngày 1-2, Tiểu đoàn 48 dựa vào công sự, trận địa ở Tịnh Kỳ, Đồng Xuân, phục kích diệt một đơn vị địch đổ quân bằng trực thăng, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên, thu 40 súng các loại. Bằng những đòn quân sự kịp thời và hiệu quả này, các cuộc càn quét gom dân của địch ở Bình Sơn, Sơn Tịnh đã bị đánh bại, ấp đời mới chẳng những không lập thêm được, mà các ấp cũ lại bị phá banh, phá rã nhiều thêm.

Quân Nam Triều Tiên bị trừng trị ở Sơn Tịnh, Bình Sơn, quân Mỹ và quân ngụy đóng ở Quảng Ngãi cũng chịu chung số phận. Trong thời gian từ 26-1 đến 18-2, du kích Phổ Minh (Đức Phổ) đã đánh bại nhiều cuộc càn quét của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 300 tên; du kích Phổ Minh tập kích khu hậu cần của Mỹ, phá huỷ nhiều lương thực, nhiên liệu, đồ dùng quân sự. Tiểu đội quyết tử Đức Phong (Mộ Đức) đã cải trang đột nhập đồn địch, diệt một số ác ôn, cán bộ bình định của địch. Đặc biệt là Đại đội đặc công 21 cùng Tiểu đoàn 48 bộ đội Quảng Ngãi bất ngờ tiến công căn cứ 54, trung tâm huấn luyện cán bộ bình định của địch ở phía bắc cầu Trà Khúc diệt 226 tên. Từ những cuộc chiến đấu chống địch càn quét tại các địa phương để giữ đất, giành dân, nhiều dũng sĩ diệt Mỹ, dùng sĩ diệt quân Nam Triều Tiên đã xuất hiện, tiêu biểu nhất là Trần Bản, Xã đội phó xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, có lần đã diệt 14 tên địch. Được sự hỗ trợ tích cực về mặt quân sự, tại các vùng xung quanh các căn cứ, đồn bốt địch..., các cơ sở mật của ta tổ chức cho quần chúng nổi dậy đấu tranh trực diện, hợp pháp với địch đòi tự do đi lại làm ăn, đòi chấm dứt càn quét, đốt phá, gom dân vào khu tập trung.

Như vậy, với phương châm “hai chân” “ba mũi” “bốn bám”, trong mùa khô 1966-1967, quân dân Quảng Ngãi đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch (có hơn 200 tên Nam Triều Tiên và hàng trăm tên Mỹ), phá banh 46 ấp đời mới, giải phóng hàng chục ngàn dân, đánh bại kế hoạch bình định của Mỹ trên địa bàn của tỉnh.

Cũng như các tỉnh miền Trung, ngay từ đầu mùa khô (cuối 1966) địch huy động cả quân Mỹ, quân ngụy Sài Gòn và quân Nam Triều Tiên mở nhiều cuộc càn quét, đánh phá khốc liệt vùng giải phóng, căn cứ, vùng giáp ranh thuộc các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn, Tây Phù Cát, Tây Vĩnh Thạch... tỉnh Bình Định. Địch cho quân bao vây từng làng rồi dùng trực thăng “xúc dân” chở đến ấp đã quây sẵn, đồng thời cho xe tăng, xe bọc thép, xe ủi húc đổ hoàn toàn nhà cửa, phá sạch ruộng vườn để ngăn nhân dân quay về đất cũ. Tại khu vực giáp ranh giữa đồng bằng với miền núi, địch lập vành đai trắng và mở liên tục các cuộc hành quân càn quét quy mô nhỏ, mặt khác nối lại các đầu mối giao thông (đường 1, 19) lấn thêm một số thôn xã ở phía nam Bình Định. Theo chủ trương chung là để “tạo các điển hình” đánh đòn răn đe, hăm doạ đối với dân chúng, địch đã tổ chức hành quân bắn giết đẫm máu ở Tân Giảng (Tuy Phước), Bình An, Kiên Mỹ, Phú Lạc (Bình Khê), Kim Tài (An Nhơn), Gò Quánh (Phù Cát)... Song, hành động tội ác của Mỹ - ngụy không những không làm cho nhân dân run sợ, mà ngược lại, càng gây nên sự căm phẫn cực độ với quần chúng và trở thành động lực thúc đẩy quân, dân Bình Định vùng lên chống lại chúng. Thường vụ Tỉnh uỷ và Bộ Chỉ huy tỉnh đội Bình Định phát động lực lượng vũ trang toàn tỉnh đẩy mạnh hoạt động mùa khô, hỗ trợ cho quần chúng các huyện xã phá kế hoạch dồn dân của địch. Để hỗ trợ cho hoạt động của lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định, Quân khu V đã đưa Trung đoàn 12 thuộc Sư đoàn 3 xuống phối hợp chiến đấu. Ngày 17-12, Trung đoàn 12 và bộ đội, du kích Hoài Ân ra quân đánh bại cuộc càn của bốn đại đội kỵ binh không vận Mỹ ở Long Giang, Lộc Giang. Tiếp đó, ngày 25-12, Trung đoàn 12 bất ngờ tiến công diệt cụm quân hỗn hợp gồm hai đại đội pháo binh và hai đại đội bộ binh Mỹ tại Xuân Sơn... Bằng những trận đánh chủ động này, lực lưỡng vũ trang quân khu và tỉnh Bình Định đã đánh một đòn đau vào kế hoạch bình định dồn dân của địch, lấy lại lòng tin cho nhân dân, tạo điều kiện cho các cán bộ cơ sở quay trở về địa bàn lãnh đạo phong trào quần chúng tiếp tục đấu tranh.

Bước vào năm 1967, ngay những tháng đầu năm, các tiểu đoàn quân Mỹ, đồng minh và quân ngụy luân phiên nhau hành quân chà đi xát lại nhiều lần các vùng đồng bằng đông dân, vùng giáp ranh và đã dồn được một số dân vào các ấp đời mới, thiết lập lại bộ máy ngụy quyền cơ sở ở một số địa phương. Đối với những vùng địch tạm thời kiểm soát, chúng tăng cường quản chế dân, có nơi trung bình cứ ba người dân có một lính canh giữ. Ở các khu vực giáp ranh do lính Mỹ và Nam Triều Tiên chà đi xát lại liên tục trong nhiều ngày tháng, nên các làng mạc sầm uất trước đây chỉ còn lưa thưa những bụi cây, những thân dừa bị bom đạn tiện ngang nham nhở đầy thương tích. Nhiều thôn xã như Ân Tín (Hoài Ân), Hoài Châu, Hoài Hảo (Hoài Nhơn), Mỹ Hiệp (Phù Mỹ), Cát Hanh (Phù Cát)... phải chịu hàng trăm tấn bom, đạn pháo cỡ lớn của địch, nhưng các tầng lớp nhân dân vẫn kiên trì bám trụ “một tấc không đi, một ly không rời”, phương châm “ba bám” vẫn được quân dân Bình Định duy trì triệt để, cho nên phong trào chống phá bình định đạt hiệu quả ngày càng cao.

Tiêu biểu nhất là trận quân dân xã Cát Hanh, huyện Phù Cát ngày 17-1-1967 chống một đại đội Nam Triều Tiên càn vào làng. Trong trận này, chiến sĩ du kích Nguyễn Đức Cường với khẩu cácbin trong tay đã lợi dụng hang đá Vĩnh Tường, trụ bám đánh địch từ sáng đến chiều, diệt 13 tên. Khi trận đánh đang ở thời điểm quyết liệt nhất Nguyễn Đức Cường bị thương nặng và súng hết đạn. Biết mình khó qua khỏi, Nguyễn Đức Cường dùng máu viết lời chào đồng đội trên chiếc khăn tay: “khi Đảng cần tôi sẵn sàng hy sinh, chúc anh em ở lại đánh thắng giặc để trả thù cho đồng bào”. Sau đó, anh dồn sức còn lại đập gãy khẩu súng của mình và bò ra cửa hang rút chốt quả lựu đạn cuối cùng nằm đè lên nhử địch đến. Thấy có người trong hang bò ra, bọn địch tưởng du kích đầu hàng, chúng liền xúm lại, một tên trong đồng bọn lật người Cường lên, lựu đạn nổ, Cường đã anh dũng hy sinh kéo theo nhiều tên địch chết, bị thương. Tấm gương hy sinh của Cường đã trở thành niềm tự hào và tượng trưng cho tinh thần kiên quyết đấu tranh chống lại kế hoạch bình định của Mỹ-ngụy trên mảnh đất Bình Định.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tư, 2010, 12:55:09 pm

Từ ngày 9 đến ngày 17-2-1967, địch mở cuộc càn quét vào khu vực Hoài Ân, An Lão, hỗ trợ cho các đội Bình Định tiến hành thanh lọc dân, bắt cán bộ, đảng viên nằm vùng... dồn dân lập ấp. Song, đến đâu cũng bị bộ đội huyện, du kích ấp, xã dựa vào công sự đã chuẩn bị trước tại các ấp chiến đấu, bao vây, chia cắt đánh lui. Được đòn quân sự tạo thế, phong trào chống phá bình định của quần chúng các địa phương diễn ra rất sôi động không chỉ để bám trụ địa bàn giành dân, giành quyền làm chủ mà còn đấu tranh trực diện vạch mặt sự giả dối, phản động của bọn bình định, tẩy chay trò hề “cứu trợ xã hội”, “tái thiết nông thôn” của địch. Nhiều toán bình định đã bị tiêu diệt hoặc tan rã. Do phong trào ở các địa phương lên mạnh, bộ máy tề điệp của địch ở cơ sở hoang mang, dao động mạnh, nhiều tên cầm đầu xã, ấp đã bỏ trốn. Có những thôn xóm sau khi địch dồn được dân lại, nhưng không có tên tay chân mới nào dám làm ấp trưởng, ấp phó, địch buộc phải đưa người ở nơi khác đến, thậm chí cả lính Mỹ lên nắm chính quyền thôn, xã. Như vậy, bằng phương châm “ba bám”, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với chống phá bình định gom dân, quân, dân Bình Định đã đánh bại kế hoạch bình định của địch.

Ở tỉnh Phú Yên, cuối 1966, địch chuyển trọng điểm càn quét bình định từ Tuy Hoà ra các huyện phía bắc Phú Yên. Qua kinh nghiệm rút ra từ phong trào của Tuy Hoà, Tỉnh uỷ đã chỉ thị cho bộ đội chủ lực tỉnh và huyện, du kích ấp, xã... bằng mọi cách trụ bám địa bàn, tổ chức phản công và tiến công địch, hỗ trợ đắc lực cho quần chúng phá ấp, phá kìm mở rộng vùng giải phóng. Đây là một chủ trương sát thực, kịp thời, đảm bảo chắc thắng cho hoạt động giành dân, giành quyền làm chủ của Phú Yên mùa khô 1967.

Ngày 19-1-1967, du kích Ma Lâm (Sơn Hoà) phục kích đánh thắng trận càn của một trung đội địch, diệt bảy tên. Ngày 7-3, du kích An Nghiệp (Tuy An) dựa vào công sự, hầm hào đánh thắng trận càn quét của một trung đội Mỹ, loại khỏi chiến đấu 12 tên. Đêm hôm sau, Đại đội đặc công 202 tập kích căn cứ Hòn Đồn, xã An Định, diệt một trung đội địch... Hoạt động vũ trang tăng lên và kết quả giành được đã hỗ trợ quần chúng cách mạng An Định nổi dậy phá kìm, diệt ác ôn, vô hiệu hoá ngụy quyền, nguy quân thôn, ấp trong nhiều ngày.

Bị thất bại liên tiếp trong các trận càn quét bình định quy mô nhỏ, cho nên ngày 17-3, địch sử dụng Sư đoàn Mãnh Hổ (Nam Triều Tiên) mở cuộc hành quân mang tên Đống Đa, càn quét quy mô lớn trên địa bàn cả ba huyện Tuy An, Đồng Xuân và Sông Cầu. Tại huyện Tuy An, quân Nam Triều Tiên đã tàn sát 532 người, chủ yếu là phụ nữ, trẻ em và người già; đốt hàng trăm nóc nhà, nhiều thôn xóm trở thành vùng trắng... Chỉ trong thời gian ngắn, địch đã dồn hơn 60 ngàn dân thuộc ba huyện trên vào các ấp tân sinh, ấp đời mới... Ở xung quanh các căn cứ, quận lỵ của chúng. Tại đây, dân chúng phải sống trong các căn nhà lợp tôn nóng bức, thiếu diện, nước..., bị o ép về tinh thần, bệnh tật phát sinh nhiều, hàng trăm người đã bị dịch bệnh cướp đi sinh mạng.

Để chặn bàn tay tội ác của địch, Tỉnh uỷ và Tỉnh đội Phú Yên đã chỉ thị cho toàn bộ lực lượng vũ trang ba thứ quân trong tỉnh chủ động bám địch để đánh, vừa đánh vừa rút kinh nghiệm, đánh để giải toả tâm lý “ngại” tác chiến với quân Nam Triều Tiên và làm hậu thuẫn cho nhân dân nổi dậy, phá ấp, phá kìm. Mở đầu cho phong trào, đêm 16-5-1967, Đại đội đặc công 202 của tỉnh bất ngờ tập kích cứ điểm đồi Ông Trợ thuộc An Định huyện Tuy An do quân Nam Triều Tiên chiếm đóng. Sau khoảng nửa giờ chiến đấu, đại hội 202 làm chủ trận địa, diệt và làm bị thương 150 tên địch, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Trận thắng này không chỉ là đòn chí mạng quật vào uy danh của quân Nam Triều Tiên, tạo ra sự phấn khởi tin tưởng cho các tầng lớp nhân dân, trực tiếp nhất là dân ba huyện Tuy An, Đồng Xuân, Sông Cầu, mà còn mở ra đợt hoạt động đánh địch mới, rộng khắp trên các địa phương. Tại Sông Cầu, bộ đội huyện đã giữ vai trò nòng cốt giúp du kích các xã Hoà Nghĩa, Hoà Lợi, Cao Phong, Chinh Nam... tiến công và phản công phá tan các trận càn quét quy mô trung đội của địch, giữ vững cơ sở và phong trào du kích. Ở Tuy An, bộ đội huyện kết hợp với du kích các xã Hoà Đa, Phong Niên, Ngân Sơn... chủ động tiến công diệt đồn bốt, đẩy lùi các đội bình định của địch, làm chỗ dựa cho quần chúng đấu tranh chính trị phá kìm, giành quyền làm chủ. Do sự tích cực chủ động của lãnh đạo chỉ huy, của lực lượng vũ trang, nên sau đợt hoạt động này, Phú Yên đã đánh thắng 104 trận càn quét, bình định quy mô từ cấp trung đội đến sư đoàn của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 1.679 tên..., tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy diệt 47 tên ác ôn, phá 27 ấp đời mới, đưa 15.000 dân về làng cũ làm ăn. Đến đây, kế hoạch bình định của Mỹ - ngụy trong mùa khô lần thứ hai ở Phú Yên cơ bản thất bại.

Nằm kế cận với Khu V, Tây Nguyên luôn là địa bàn đọ sức quyết liệt giữa ta và địch kể từ những ngày đầu chiến tranh. Trong mùa khô này địch tập trung tại đây bốn sư đoàn bộ binh (có hai sư đoàn Mỹ), hai trung đoàn thiết giáp, 11 tiểu đoàn pháo, một số đơn vị biệt động và địa phương quân. Ngoài mục tiêu tìm diệt chủ lực ta, mục tiêu bình định các buôn làng, cắt đứt hành lang chiến lược Bắc - Nam, khôi phục thế trận của chúng trên cao nguyên trung phần đã bị ta phá vỡ trong mùa khô trước, cũng được đặt ra một cách kiên quyết. Về phía ta, trên cơ sở chủ trương của Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh là “lấy chiến trường miền núi làm chiến trường tiêu diệt địch - trọng điểm là Tây Nguyên và Đông Nam Bộ”, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên mở đợt hoạt động lớn nhằm diệt, thu hút, kìm chân một lực lượng lớn quân Mỹ - ngụy, hỗ trợ cho phong trào quần chúng chống phá địch bình định đạt hiệu quả cao.

Bằng cách sử dụng lực lượng hợp lý, kết hợp đánh vừa với đánh nhỏ, lẻ rộng khắp từ ngày 11-2 đến ngày 7-4-1967, các lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã đánh thắng các cuộc hành quân càn quét của quân Mỹ và quân Sài Gòn ở Ia Vầm, Chư Pông, loại khỏi vòng chiến đấu 60 tên địch. Được lực lượng vũ trang hỗ trợ, đồng bào các xã Đắc Uy, Mang Khênh (Kon Tum), Huyện 4. Huyện 5 (Gia Lai), xã Khuê Ngọc Điền (Đắc Lắc)... liên tục đấu tranh làm thất bại các cuộc dồn dân của địch, giữ vững địa bàn, bảo vệ vững chắc cơ sở. Với những hoạt động nhịp nhàng của đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, nên thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn Tây Nguyên được củng cố và phát triển, Mỹ- ngụy buộc phải bị động phân tán lực lượng đối phó. Chúng không thể tiêu diệt được lực lượng vũ trang và cơ sở cách mạng, không dồn được hết nhân dân vào các ấp đời mới.

Như vậy, mặc dù đã tăng cường số lượng rất lớn lực lượng và phương tiện chiến tranh phục vụ cho gọng kìm bình định, dồn dân lập ấp, song Mỹ - ngụy đã không khuất phục được quân dân khu V và Tây Nguyên kiên cường bất khuất. Chúng càn quét đánh phá với quy mô và mức độ ác liệt bao nhiêu cũng không dập tắt được phong trào đấu tranh của nhân dân, ngược lại, tội ác của chúng càng chồng chất, căm thù của nhân dân càng cao, tinh thần đấu tranh của đồng bào, chiến sĩ ta càng mạnh mẽ quyết liệt. Chỉ tính từ tháng 3 đến tháng 6-1967, quân dân khu V đã diệt 23 đoàn, 24 đội, ba trung tâm huấn luyện cán bộ “xây dựng nông thôn”, và bắt gần 2.000 cán bộ bình định của địch. Đến đây, khu V - Tây Nguyên đã cơ bản đánh thắng được gọng kìm bình định trong mùa khô lần thứ hai của Mỹ - ngụy.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tư, 2010, 12:55:58 pm

Tại Khu VI - vùng đất cực Nam Trung Bộ, giáp với miền Đông Nam Bộ, ngay đầu mùa khô 1966-1967, Mỹ đã đưa một lữ đoàn kỵ binh không vận đến chiếm đóng ở khu vực Êsêpíc, Bà Gò, Cỏ Mồm (Bình Thuận); đưa Lữ đoàn 1 thuộc Sư dù 101 Mỹ, Trung đoàn 30 thuộc Sư đoàn Bạnh Mã (Nam Triều Tiên) vào chiếm Thành Sơn, cảng Ninh Chữ (Ninh Thuận); một đại đội công binh Mỹ, một đại đội công binh Ôxtrâylia vào đứng chân ở khu vực sân bay Cam Ly (Tuyên Đức)... để hỗ trợ cho việc thực hiện gọng kìm bình định. Thủ đoạn hoạt động của địch là khoanh vùng trọng điểm bình định, dùng hoả lực pháo binh và máy bay ném bom B52 rải thảm đánh đòn phủ đầu, sau đó cho trực thăng đổ quân tiến hành càn quét chà xát làm sạch địa bàn, chuẩn bị các khu dồn dân... Tiếp đó, địch đánh rộng ra các hướng bằng chiến thuật “nhảy cóc” hoặc dùng bộ binh lùng sục rộng ra các hướng theo kiểu tác chiến của biệt kích hay mật phục diệt cơ sở và lực lượng du kích ta, để quân địa phương và các toán “xây dựng nông thôn” xúc dân vào khu tập trung.

Để đối phó với địch, mặc dù cuối năm 1966, Bộ Tư lệnh Miền điều hai trung đoàn 16, 346 đi hoạt động ở chiến trường khác, khu VI còn lại hai tiểu đoàn bộ binh 840, 186 và Tiểu đoàn trợ chiến 145, nhưng Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu vẫn chủ trương: “Đẩy mạnh hoạt động tiến công địch ở phía trước, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá ấp, phá kìm, giải phóng dân và giữ dân, mở rộng vùng ta, đồng thời đánh bại mọi kế hoạch càn quét đánh phá mùa khô của địch, giữ vùng ta”1. Trọng điểm chống phá bình định được quân khu xác định là Bình Thuận và Lâm Đồng. Quân khu đã tập trung lực lượng chủ yếu cho hai trọng điểm này.

Ngày 23-2-1967, Tiểu đoàn 186 có lực lượng bộ đội huyện Di Linh phối hợp tiến công diệt một trung đội dân vệ ở ấp chiến lược cây số 5 (cạnh đường 20) thuộc địa phận huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng; sau đó tổ chức phục kích diệt tiếp một đại đội bảo an đến giải toả vào ngày 24, tạo điều kiện thuận lợi cho quần chúng trong ấp nổi dậy, phá kìm, giành quyền làm chủ. Với thắng lợi này, quân, dân Di Linh đã làm cho một bộ phận ngụy quân, ngụy quyền ở cơ sở hoang mang, lo sợ. Trước thời cơ thuận lợi này, Tiểu đoàn 186 cùng Tiểu đoàn 145 tổ chức tiến công hệ thống phòng thủ của quân ngụy ở tây và tây bắc BLao; tiêu diệt, làm tan rã phần lớn bọn biệt kích ngụy ở Tân Rai, uy hiếp đường 20 đoạn từ Bảo Lộc đi Đà Lạt. Phát huy chiến quả của bộ đội chủ lực, lực lượng địa phương tại chỗ đã liên tục mở các trận tiến công đánh phá các trụ sở, đồn bốt ngụy quyền, các trục giao thông, tổ chức nhân dân nổi dậy phá ấp, phá kìm, giành quyền làm chủ.

Ở Bình Thuận, đầu năm 1967, lực lượng vũ trang tỉnh đã tiến công diệt chi khu Ma Lâm, nhưng sau đó khi đơn vị di chuyển đi nơi khác, Mỹ liền dùng trực thăng đổ quân chụp úp đánh chặn quyết liệt gây tổn thất khá lớn cho ta. Cuối tháng 2, địch dùng sáu tiểu đoàn quân Mỹ và Nam Triều Tiên mở cuộc càn quét vào khu căn cứ Lê Hồng Phong. Được Đại đội 440 bộ đội tỉnh hỗ trợ, du kích và tự vệ khu căn cứ tổ chức phân công nhau bám đánh địch, loại khỏi vòng chiến đấu 230 tên, phá huỷ hai xe bọc thép, bắn rơi hai máy bay trực thăng. Tuy nhiên, địch cũng chiếm được một số vùng của ta, song cán bộ cơ sở của ta bám trụ lãnh đạo nhân dân liên tục đấu tranh, làm cho địch không gom dân lập ấp đời mới được. Cùng thời gian này, Tiểu đoàn 840 của quân khu đứng chân ở Bắc Bình Tuy, Hoà Đa (Bắc Bình) có lực lượng vũ trang tại chỗ phối hợp, đã đánh thiệt hại nặng nhiều trung đội, đại đội bảo an, dân vệ, diệt đồn Duồng, bốn lần tập kích vào thị xã Phan Rí hỗ trợ cho phong trào quần chúng nổi dậy phá lỏng, phá rã phần lớn hệ thống kìm kẹp, ấp đời mới của địch ở bắc xã Tuy Phong, Hoà Đa.

Phối hợp với các trọng điểm của Khu, trong tháng 1 và 2-1967, lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Ninh Thuận đã tập kích cảng Ninh Chữ, sân bay Thành Sơn, đánh thiệt hại nặng một đại đội quân cảnh Mỹ ở thị xã Phan Rang. Ở Tuyên Đức lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta liên tục đánh địch trên đường 11, 20, 21, tiến công một số căn cứ địch ở ven Đà Lạt, tạo điều kiện cho nhân dân trong các ấp đời mới ở vành đai thành phố Đà Lạt phá lỏng thế kìm...

Như vậy, trên chiến trường Khu VI, mùa khô 1966-1967, mặc dù Mỹ - ngụy tăng cường càn quét, dồn dân, lập ấp với mức độ ráo riết và ác liệt hơn mùa khô 1965-1966, song phong trào đấu tranh chống bình định ở đây chẳng những không bị suy giảm, mà ngược lại vẫn tiếp tục phát triển, đặc biệt là phong trào chiến tranh du kích. Được sự giúp đỡ, phối hợp của lực lượng vũ trang quân khu, tỉnh, huyện và phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, phong trào du kích chiến tranh phát triển mạnh, trở thành chỗ dựa tin cậy, trực tiếp nhất cho công tác chống phá bình định, ấp đời mới, đạt kết quả. Ở các vùng căn cứ, vùng giáp ranh, phong trào nhân dân du kích chiến tranh được phát động từ trước và đang lớn mạnh. Ở các vùng phía sau, lực lượng du kích làng, xã, du kích cơ quan, du kích hành lang, bộ đội địa phương cùng nhân dân các làng xã chiến đấu được tổ chức, biên chế sẵn, khi địch càn quét bình định đã bị ta chặn đánh kịp thời. Do vậy, chỉ trong đợt chống càn từ tháng 1 đến tháng 3-1967, Quân khu VI đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.500 tên địch, phá huỷ và thu nhiều phương tiện chiến tranh, giữ vững các khu căn cứ, vùng giải phóng. Cùng với tác chiến của lực lượng vũ trang bẻ gãy các cuộc càn quét của địch, quần chúng nhiều địa phương vẫn đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận... chống gom dân, lập tề, rào làng..., đòi về đất cũ làm ăn, bồi thường thiệt hại... gây khó khăn cho địch trong việc thực hiện kế hoạch bình định. Đến hết mùa khô 1966-1967, khu VI đã làm chủ thêm được một số vùng, có nơi lấn sát vào căn cứ quận lỵ của địch như ở Lâm Đồng ta giải phóng nhiều ấp trên đường 20 (sát thị xã BLao, thị trấn Di Linh); ở Bình Thuận, ta vẫn giữ được thế tranh chấp ở khu tam giác, phá lỏng thế kìm kẹp ở một số ấp thuộc địa bàn huyện Bắc Bình... Tuy vậy, phong trào đấu tranh chính trị vẫn yếu hơn so với quân sự, phương pháp đấu tranh còn hạn chế, xuôi chiều..., nên ở một số nơi địch đã xúc được dân vào ấp đời mới, khu tập trung.
_______________________________________
1. Xem: Phòng tổng kết chiến tranh Quân khu VI - Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường khu VI, tập I, lưu tại Viện lịch sử Quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tư, 2010, 12:57:00 pm

Không giống các quân khu khác, miền Đông Nam Bộ (Khu VII) địa bàn trú đóng cơ quan đầu não của chế độ Mỹ - ngụy, nên nơi đây luôn là trọng điểm ưu tiên bình định của địch trong suốt cuộc chiến tranh. Thực hiện gọng kìm bình định trong mùa khô 1966-1967, Mỹ và chính quyền Sài Gòn huy động nhiều đơn vị chủ lực ngụy - Mỹ kết hợp với toàn bộ quân bảo an, dân vệ, các đoàn “cán bộ xây dựng nông thôn”... mở liên tục các cuộc hành quân càn quét, và hành quân bình định, đánh phá tàn khốc vào các vùng trọng điểm thuộc: Bình Dương, Gia Định, Hậu Nghĩa, Phước Tuy... Riêng trọng điểm Hậu Nghĩa, quân Mỹ đóng vai trò chủ yếu trong hành quân bình định.

Cũng như quân Nam Triều Tiên, các cuộc hành quân càn quét bình định các thôn ấp miền Đông Nam Bộ, quân Mỹ đã gieo rắc nỗi kinh hoàng không chỉ cho nhân dân ta, mà còn tác động mạnh đến tinh thần binh sĩ của chúng. Trung sĩ Hăngry - một cựu binh của Sư đoàn 24 bộ binh Mỹ kể lại: “Chúng tôi tiến vào một ấp nhỏ, 19 phụ nữ và trẻ con bị gom lại như là những tình nghi Việt cộng và người trung uý đã gom họ hỏi người đại uý phải làm gì với họ. Người đại uý chỉ đơn giản lặp lại lệnh từ trên xuống sáng nay của đại tá: giết bất cứ cái gì động đậy”1. Đại uý Rôbớt Giônxơn, chỉ huy đại đội lính thuỷ đảnh bộ Mỹ nhớ lại rằng: “Trong tất cả các cuộc hành quân, chúng tôi đã phá huỷ toàn bộ lương thực của dân thường mà chúng tôi không thể lấy đi. Nếu chúng tôi không thể đốt túp lều, chúng tôi sẽ phá huỷ bằng thuốc nổ. Như tôi đã nói, chúng tôi làm việc này trên một cơ sở thông thường. Đó là một bộ phận của chính sách nhằm “khuyến khích” nhân dân chuyển vào các trại giam do lực lượng Mỹ và Sài Gòn kiểm soát”2.

Để chặn bàn tay tội ác của Mỹ - ngụy, nhân dân và lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ, mà tập trung là những vùng trọng điểm bình định của địch đã tích cực phát triển lực lượng, mở rộng vùng giải phóng, phát triển du kích vành đai bao vây các căn cứ quân sự (chủ yếu là căn cứ Mỹ), tích cực luồn sát, đánh đau ở các đô thị, đánh vào cơ quan đầu não của địch. Với tinh thần luôn chủ động tiến công địch vốn có, lại được sự chỉ đạo kịp thời, sâu sát của Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu VII, quân dân miền Đông Nam Bộ vũng tin bước vào cuộc chiến đấu chống địch bình định.

Tại tỉnh Bà Rịa, địch tiến hành thí điểm lập ấp đời mới bằng kỹ thuật “hàng rào Ôxtrâylia” ở khu vực từ núi Đa Quy đến núi Đất (Đất Đỏ) với tổng chiều dài 11 km; vòng ngoài là hàng rào biệt kích Ôxtrâylia, vòng trong là lớp dây kẽm gai với độ dày từ 30 đến 100m dày đặc, xen kẽ gài mìn E3 và M16.

Mặc dù chủ trương “bốn bám”, xây dựng hầm bí mật, cơ sở và du kích mật... đã được các địa phương thực hiện từ lâu trong các xã, ấp; song do hàng rào Ôxtrâylia khoanh được dân, cắt liên lạc trong với ngoài ấp, nên Chiến khu Dương Minh Đạm bị mất nguồn tiếp tế, phong trào đấu tranh gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do ta chưa khắc phục được “hàng rào Ôxtrâylia”, mà trực tiếp là kỹ thuật cài mìn E3, M16 trên hàng rào dây thép gai xung quanh ấp. Trước đòi hỏi cấp bách của tình hình, tổ công binh huyện Đất Đỏ do chiến sĩ Hùng Mạnh phụ trách đã xung phong đảm trách nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm này.

Qua nhiều lần bí mật tiếp cận nghiên cứu tính năng, kỹ thuật của các loại mìn địch cài trên hàng rào và cách cài đặt cụ thể, cuối cùng tổ công tác của Hùng Mạnh đã tìm ra bí quyết tháo gỡ các loại mìn gài trên “hàng rào Ôxtrâylia”. Tổ của chiến sĩ Hùng Mạnh làm thí điểm an toàn rồi phổ biến rộng rãi cho bộ đội, du kích, tự vệ... của toàn huyện. Nhờ vậy, quân dân Đất Đỏ đã dần dần vô hiệu hoá được hệ thống “hàng rào Ôxtrâylia”. Từ đó, ta phá ấp đời mới đưa dân lên thế làm chủ, biến nơi đây thành nơi cung cấp mìn cho du kích đánh giặc. Ấp đời mới Đất Đỏ đã được xây dựng thành ấp chiến đấu liên hoàn. Thắng lợi này đã tạo ra khí thế mới cho các địa phương trong toàn tỉnh Bà Rịa nổi dậy đánh thắng gọng kìm bình định của Mỹ - ngụy trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai.

Khác với Bà Rịa, địa bàn càn quét, bình định của quân Mỹ ở tỉnh Sông Bé - nơi có hệ thống địa đạo, hầm ngầm được xây dựng khá hoàn chỉnh, bảo đảm cho bộ đội và du kích bám trụ đánh địch, mục tiêu địch đặt ra cho công tác bình định ở sông Bé là “phá cho được địa đạo”, gom hết dân vào ấp đời mới, trại tập trung.

Dựa vào hệ thống địa đạo, các ụ chiến đấu, bộ đội và du kích Bến Cát đã kiên cường bám trụ, đánh bại các đợt càn quét của quân Mỹ có số lượng đông hơn ta gấp nhiều lần. Cùng với chiến đấu, quân, dân Bến Cát cũng không ngừng củng cố, phát triển hệ thống địa đạo công sự, trận địa chiến đấu ngày càng hoàn thiện, vững chắc. Quá trình chiến đấu, bộ đội và du kích ở đây đã tìm ra được phương pháp chống chọi với đội quân “chuột cống” Mỹ rất hiệu quả, đó là dùng xà phòng, nước hoa Mỹ vẩy lên các khu vực có nắp hầm, lỗ thông hơi... vô hiệu hoá khả năng đánh hơi của chó nghiệp vụ, bảo đảm an toàn cho ta trụ bám, chủ động đánh địch.

Ngày 4-2, do chủ động nắm địch, sớm phát hiện được kế hoạch hành quân của chúng, nên quân, dân An Phú (Bến Cát) đã bẻ gãy trận càn cấp tiểu đoàn địch, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên, phá hủy hai xe bọc thép. Ngày 18-2, bộ đội huyện Bến Cát và du kích xã Long Nguyên đã phối hợp đẩy lùi trận càn của hai tiểu đoàn địch vào ấp Cà Na. Cùng ngày, du kích xã Uyên Hưng đã diệt đoàn cán bộ bình định 36 tên. Ở trọng điểm bình định Sóc Tranh (Bình Long), trong tháng 2 và 3-1967, du kích và nhân dân dựa vào công sự hầm hào của xã, ấp chiến đấu, đánh thắng các cuộc càn quét gom dân của địch, giữ vững địa bàn.
_______________________________________
1. Dẫn theo Giôdép Amtơ: Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr.473.
2. Tlđd, tr.475.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tư, 2010, 12:57:59 pm

Cùng với hoạt động quân sự, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng cũng diễn ra sôi nổi và rộng khắp. Ở Thủ Dầu Một, trong mùa khô này, đã có hơn bốn ngàn phụ nữ tham gia trong 6 cuộc đấu tranh lớn, nhỏ chống địch càn quét gom dân... Ở đồn điền cao su Dầu Tiếng, công nhân đã tổ chức 32 cuộc đấu tranh đòi quân Mỹ rút về nước, đòi tăng lương, giảm giờ làm... Tiêu biểu nhất là vào đầu tháng 2-1967, lợi dụng thời điểm quận trưởng Châu Thành đưa lính dồn 150 người dân (chủ yếu là phụ nữ) đến dự lễ khánh thành ấp đời mới Khánh Vân (xã Tân Phước Khánh), bà con đã biến nơi đây thành diễn đàn công khai vạch bản chất giả nhân, giả nghĩa của địch, tố cáo tội ác của chúng và kiên quyết phản đối không vào sống trong ấp, khu tập trung của địch. Cùng thời gian trên, hơn 1.000 dân xã Thới Hoà đã biến cuộc học tập chủ trương “tái thiết nông thôn” của địch thành cuộc đấu tố các hành động đốt nhà, xúc dân, phá tàn sản của nhân dân. Ở Bù Đăng, đồng bào Striêng sống trong các ấp đời mới đã 39 lần đấu tranh đòi về quê cũ làm ăn.

Trong chống địch càn quét, phụ nữ đóng vai trò lớn trong phong trào đấu tranh chính trị, binh vận. Trong mũi đấu tranh vũ trang, phụ nữ cũng đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Đó là Nguyễn Thị Hoài, Xã đội phó Thới Hoà chỉ huy du kích chống càn vào trung tuần tháng 2-1967, trong số 136 tên địch bị loại khỏi vòng chiến đấu, Hoài đã diệt được 16 tên và hai xe thiếp giáp; Lê Thị Thuỳ Linh, chiến sĩ tự vệ mật, hoạt động dưới danh nghĩa nhân viên nhà hàng Phú Cường (thị xã Thủ Dầu Một) đã bí mật đặt một khối thuốc nổ vào trụ sở ngụy quyền, diệt tám tên, làm bị thương hàng chục cán bộ bình định, ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân...

Bằng những hoạt động như trên, nhân dân và lực lượng vũ trang tỉnh Sông Bé đã đánh bại được các cuộc càn quét của địch, giữ được đất, giành được dân, góp phần đánh bại gọng kìm bình định trong cuộc phản công mùa khô lần thứ hai của địch.

Hoà chung khí thế tiến công của các tỉnh vùng ven, tại nội đô Sài Gòn - Gia Định, phong trào đấu tranh của tăng ni, phật tử bùng lên khá mạnh mẽ, khởi đầu là vụ tự thiêu của nữ sinh viên phật tử Nhất Chi Mai vào ngày kỷ niệm Phật Đản lần thứ 2511 (ngày 16-5-1967 - tức ngày 8-4 năm Đinh Mùi) để phản đối chiến tranh, đòi hoà bình và bình đẳng giữa các tôn giáo. Sự kiện Nhất Chi Mai tự thiêu đã làm xúc động hàng vạn đồng bào theo đạo và không theo đạo, làm dấy lên phong trào Phật giáo chống Mỹ, Thiệu - Kỳ. Từ đây, hàng năm vào ngày lễ Phật Đản, học sinh, sinh viên miền Nam lại tổ chức “đợt hoạt động Nhất Chi Mai” xuống đường đấu tranh chống Mỹ - ngụy. Bên cạnh đó, để chống lại lối sống xa hoa, đồi trụy và văn hoá thực dân, các phong trào đấu tranh bảo vệ nền văn hoá dân tộc, bảo vệ quyền lợi, nhân phẩm con người, chống dồn dân vào các “khóm chiến lược”... đã thu hút đông đảo quần chúng ở mọi tầng lớp, lứa tuổi, nghề nghiệp tham gia.

Với sự hoạt động không mệt mỏi trên mọi mặt trận, quân và dân miền Đông Nam Bộ đã giành được những thành quả rất đáng tự hào. Tại Đại hội quyết thắng giặc Mỹ xâm lược toàn miền Nam tháng 10 - 1967, miền Đông Nam Bộ có 20 cán bộ, chiến sĩ được phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đồng thời, những tên gọi đầy niềm tự hoà như “Củ Chi đất thép”... do Đại hội khái quát đã trở thành những hình tượng đẹp đẽ của đất miền Đông Nam Bộ. Đặc biệt, trên mặt trận chống bình định, quân dân miền Đông đã kiên trì thực hiện phương châm “ba bám”, xây dựng ấp, xã chiến đấu chống địch, giữ đất, bảo vệ dân, mở rộng vùng giải phóng. Tại đây, nhiều ấp, xã chiến đấu liên hoàn đã ra đời, như Củ Chi có bảy xã chiến đấu liên hoàn với 120 km địa đạo sâu và nhiều tầng dưới lòng đất... bảo đảm cho bộ đội, du kích và nhân dân trụ vững địa bàn, phá được các kế hoạch bình định của Mỹ - ngụy. Từ những thành quả đã giành được của các địa phương, quân, dân miền Đông đã góp phần cùng toàn miền Nam đánh bại gọng kìm bình định của Mỹ - ngụy.

Kề với miền Đông Nam Bộ, ở chiến trường Khu VIII, cuối tháng 10-1966, Khu uỷ đã chỉ thị cho các tỉnh tiến hành đợt sinh hoạt chính trị quán triệt tình hình nhiệm vụ mới nhằm củng cố và nâng cao quyết tâm đánh Mỹ. Mặt khác, quân khu mở hội nghị chiến tranh du kích, rút kinh nghiệm hoạt động trong mùa khô 1965-1966 và mùa mưa 1966, học tập kinh nghiệm xây dựng vành đai diệt Mỹ của các tỉnh bạn để áp dụng đấu tranh trong mùa khô 1966-1967.

Đối với địch, Khu VIII lúc này vẫn là trọng điểm bình định. Tại các tỉnh “ưu tiên quốc gia” như Long An, Mỹ Tho, Bến Tre... địch huy động các sư đoàn chủ lực kết hợp với bảo an, dân vệ, biệt kích, các toán bình định dân sự tại chỗ mở các cuộc hành quân càn quét, dồn dân, lập các khu tập trung.

Là tỉnh sát nách Sài Gòn, nên việc tổ chức hành quân càn quét bình định ở Long An chủ yếu do quân Mỹ tiến hành, với mục tiêu: xoá bỏ các căn cứ truyền thống thuộc các xã ven sông Vàm Cỏ Đông, hai xã ở Bến Lức, bốn xã ở Thủ Thừa, năm xã thuộc thượng Cần Đước...; ở nam đường 4, địch tập trung đánh phá các xã Phước Lại, Hiệp Phước, Hưng Thạnh, Phước Vĩnh Đông (Cần Giuộc)... Cuối năm 1966, Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn 9 bộ binh Mỹ xây dựng căn cứ Rạch Kiến, củng cố hệ thống phòng thủ tây nam Sài Gòn, chia cắt hành lang căn cứ Rừng Sát với đồng bằng sông Cửu Long, khống chế vùng căn cứ lõm nam Long An. Đây là căn cứ quân sự kiên cố, có sân bay, trận địa pháo..., xung quanh được bảo vệ bằng sáu lớp rào dây thép gai, ba tuyến mìn tự động chạm nổ và hệ thống lô cốt tiền tiêu.

Từ kinh nghiệm học được của Khu V, Khu VII, dưới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ, tỉnh đội, quân, dân Long An đã nhanh chóng xây dựng vành đai diệt Mỹ Rạch Kiến1 gồm ba tuyến, đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của Ban chỉ huy vành đai. Tuyến một, gồm các xã tiếp giáp căn cứ, lực lượng nòng cốt là các trung đội du kích liên xã, có nhiệm vụ xây dựng hệ thống bãi mìn, hầm chông, công sự bắn tỉa... ở xung quanh căn cứ, theo dõi nắm tình hình hoạt động của địch, thông báo kịp thời cho các tuyến ngoài phối hợp chiến đấu. Tuyến hai, ở giữa gồm từ một đến ba tiểu đoàn chủ lực tỉnh, các đơn vị bộ đội huyện được phân chia thành các phân đội nhỏ dựa vào công sự, trận địa, đón đánh tiêu hao quân Mỹ hành quân từ căn cứ ra. Tuyến ba, do lực lượng du kích xã, ấp, nhân dân sử dụng hầm chông, lựu đạn, súng bắn tỉa, rắn độc, ong bò vẽ... để đánh quân Mỹ nống lấn ra ngoài và hành quân càn quét dồn dân, bảo vệ xóm, ấp của mình.
_______________________________________
1. Vành đai Rạch Kiến gồm các xã: Long Hoà, Long Trạch, Long Khê, Tân Trạch, Phước Vân, Long Sơn, Mỹ Lệ, Long Cang, Long Định, Phước Tuy (huyện Cần Đước); Hàm Thuận, Phước Lâm (Cần Giuộc).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tư, 2010, 12:59:26 pm

Tháng 1-1967, một đơn vị bộ đội huyện Cần Đước trong trận chống càn đã thương vong một tiểu đội, mất hết vũ khí và không lấy được tử sĩ. Tâm lý hoang mang, dao động, ngại tác chiến với quân Mỹ đã nảy sinh trong lực lượng vũ trang và nhân dân trên vành đai. Từ đây, vấn đề tác chiến trên vành đai được đưa ra bàn bạc tranh cãi sôi nổi trong các đơn vị lực lượng vũ trang trực tiếp tham gia chiến đấu ở đây. Sau khi xem xét lại diễn biến trận đánh, các ý kiến thảo luận đi đến thống nhất kết luận: do ta và địch tác chiến phân tuyến, khoảng cách xa nhau, diễn biến chiến đấu chậm... nên đã tạo thời cơ cho địch tập trung ưu thế hoả lực để tiêu diệt và đẩy lùi lực lượng ta ra khỏi địa bàn càn quét một cách nhanh chóng, dễ dàng. Và như vậy, cách chống càn đối với quân Mỹ trên vành đai nói riêng, trên chiến trường toàn Miền nói chung phải là thực hiện đánh gần – “bám thắt lưng địch mà đánh”, đồng thời phải đánh nhanh, đánh hiểm mới giành thắng lợi được. Ngay sau đó, phương pháp tác chiến này đã được các chiến sĩ Tiểu đoàn 2 chủ lực tỉnh Long An thực hiện thành công và đã mở ra một thời kỳ lập công mới trong chống càn quét, bình định của quân, dân vành đai Rạch Kiến - Long An.

Bên cạnh đấu tranh, huyện uỷ và các cơ sở mật đã lãnh đạo nhân dân vành đai tích cực đấu tranh chính trị, binh vận chống Mỹ - ngụy. Nổi bật nhất là tháng 2-1967, phụ nữ ba xã Long Cang, Long Định, Phước Vân do chị Tư Nhành lãnh đạo đã nhiều lần tập hợp lực lượng kéo lên đồn Rạch Kiến phản đối địch càn quét, bắn phá bừa bãi, đòi bồi thường thiệt hại cho dân. Các tổ chức quần chúng ở cơ sở thường xuyên tuyên truyền giáo dục cho các gia đình binh sĩ địch để họ lôi kéo chồng, con phản chiến, chống các lệnh hành quân của chỉ huy... Như vậy, các cách đánh và phương pháp đấu tranh trên vành đai rất đa dạng..., mỗi người dân trên vành đai là một chiến sĩ. Nhờ đó, ba tháng đầu 1967, quân, dân vành đai Rạch Kiến đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 1.000 tên địch, diệt nhiều tên ác ôn, cán bộ bình định có nhiều nợ máu với nhân dân, phá vỡ kế hoạch càn quét bình định vùng xung quanh căn cứ Rạch Kiến của địch.

Thi đua với vành đai Rạch Kiến, quân, dân vùng giải phóng hạ Cần Giuộc đẩy mạnh hoạt động quân sự đánh bại các cuộc hành quân càn quét bình định của Mỹ - ngụy. Trong vòng tháng 5 và 6, bộ đội huyện Cần Giuộc và du kích tại chỗ đã liên tục chống phá các cuộc càn của một lữ đoàn quân Mỹ trên địa bàn tám xã hạ Cần Giuộc, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, giữ vững vùng giải phóng. Song, trong đợt chống càn này đã có 80 đồng chí bộ đội, du kích hy sinh, hơn 100 người khác bị thương, 250 ngôi nhà của nhân dân bị địch phá trụi.

Kết thúc hoạt động trong mùa khô lần thứ hai, thế chiến tranh nhân dân ở Long An đã phát triển mạnh, kế hoạch dồn dân, lập ấp của Mỹ - ngụy chẳng những không thực hiện được, mà nhiều ấp và khu dồn đã bị quần chúng phá vỡ, phá lỏng, các căn cứ và vùng giải phóng đã được mở rộng ra tương đương với thời điểm cuối 1965 (thời kỳ vùng giải phóng được mở ra rộng nhất).

Tháng 2- 1967, từ căn cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho) Sư đoàn 9 bộ binh Mỹ phối hợp với Sư đoàn 9 ngụy liên tiếp hành quân chà xát, thanh lọc địa bàn, dồn dân vào khu tập trung ở quanh căn cứ. Do vậy, nhiều ấp, xã đã bị địch đốt trụi, lực lượng du kích bị hy sinh hoặc phải tạm lánh sang các địa bàn khác hoạt động, nhân dân bị đưa vào trại tập trung. Mặt khác, chúng còn thường xuyên càn quét vào các vùng chúng xác định là trọng điểm bình định, vùng giải phóng của tỉnh với quy mô từ hai đến ba tiểu đoàn trở lên. Ngày 14-3, địch lập trại lực lượng đặc biệt ở Mỹ Phước Tây (tiểu khu Định Tường) gồm năm đại đội do cố vấn Mỹ chỉ huy, liên tiếp mở 12 cuộc hành quân biệt kích vào các xóm, ấp quanh tiểu khu. Riêng ở Mỹ Phước Tây, chỉ nửa cuối tháng 3, địch đã sát hại hơn 500 cán bộ, du kích, cơ sở cách mạng, phá hỏng hoàn toàn hơn 100 nóc nhà. Cùng thời gian này, ở tây và tây bắc thị xã Mỹ Tho, quân chủ lực địch càn quét yểm trợ cho các đội bình định dồn dân vào hai ấp đời mới. Đến hết tháng 3-1967, trên địa bàn Mỹ Tho, Mỹ - ngụy đã kiểm soát được bảy ấp vùng trọng điểm ven sông Cửa Tiểu, ba xã Yên Luông, Bình Long, Bình Luông, khống chế ba xã Vĩnh Viễn, Vĩnh Hựu, Bình Tân...

Để chủ động đánh địch, Bộ Tư lệnh Quân Khu VIII, ngoài việc chỉ đạo cho Ban chỉ huy vành đai Bình Đức áp dụng mọi phương pháp đấu tranh kết hợp quân sự, chính trị và địch vận... tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch, phá bình định, cầm chân không cho chúng hoạt động rộng ra các địa bàn khác; đồng thời phát động đợt đánh phá đường 4, với tư tưởng chỉ đạo: dùng sức mạnh cả hai lực lượng, ba thứ quân, tiến công cắt đứt đường 4, tích cực phá ấp, khu dồn dân, đánh vào các thị xã, thị trấn để căng kéo địch, gây mất ổn định dài ngày cho chúng.

Sau thời gian khá dài chuẩn bị các mặt, đêm 17-7, bằng 700 quả mìn, bộc phá, hai đại đội công binh quân khu, một trung đội công binh Mỹ Tho, 37 đội du kích, 1.500 quần chúng... đã phá hỏng nặng 80 điểm trên đường 4 đoạn từ Cái Bè đi Trung Lương. Hiệp đồng chặt chẽ với tiếng mìn và bộc phá trên đường 4, du kích các địa phương đã hỗ trợ cho nhân dân cấc ấp đời mới, khu dồn dân của địch dọc hai bên đường 4 đồng loạt nổi dậy phá ấp, khua trống mõ tìm diệt ác ôn và khiêng đồ đạc về đất cũ làm ăn. Phát huy thắng lợi của đợt một, sang tháng 8, ta lại mở tiếp đợt đánh phá đường 4 đợt hai và ba, gây sự mất ổn định cho Mỹ - ngụy ở Khu VIII. Như vậy, cùng với hoạt động tích cực trên khu vực vành đai Bình Đức, ở các địa phương, thắng lợi của các đợt đánh phá đường 4, quân dân Mỹ Tho đã giành thắng lợi trong hoạt động mùa khô 1966-1967.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tư, 2010, 01:00:41 pm

Khác với Long An và Mỹ Tho, tỉnh Bến Tre là căn cứ ven biển rất quan trọng của Khu VIII, là một trong những điểm tiếp nhận vũ khí, hàng hoá từ miền Bắc chuyển vào, cho nên ngay từ khi Mỹ xây dựng căn cứ quân sự Đồng Tâm, Bộ Tư lệnh quân khu đã nhận định: sau khi đứng chân được ở Đồng Tâm, sớm hay muộn Mỹ sẽ đổ quân sang Bến Tre nhằm bình định khống chế cho được địa bàn này. Vì vậy, ngay đầu mùa khô 1966-1967, quân khu đã điều đồng chí Bùi Thanh Khiết - Phó chính uỷ quân khu, trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 261 và một đại đội pháo binh xuống tăng cường cho Bến Tre chuẩn bị cho hoạt động mùa khô.

Chủ động ngăn chặn các hành động tìm diệt và bình định của địch, trên hướng trọng điểm Bình Đại, đêm 4-1-1967, phân đội đặc công của Tiểu đoàn 261 và tự vệ mật tại chỗ đã bất ngờ tập kích diệt đồn dân vệ Châu Hưng. Cùng lúc, một đại đội của Tiểu đoàn 516 tỉnh Bến Tre tập kích đồn Giồng Quéo, diệt một trung đội “tuyên văn”, giải tán bọn dân vệ đồn, hỗ trợ cho dân trong các trại tập trung quanh đồn nổi dậy giành quyền làm chủ.

Phối hợp với hướng trọng điểm, bộ đội huyện Giồng Trôm kết hợp với du kích diệt đồn Vàng Quới, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy bức hàng, bức rút 11 đồn bốt, giải phóng hoàn toàn các xã: Thạch Tân, Phước Thuận, Thới Lai. Ở tuyến Ba Tri, Tiểu đoàn 516 của tỉnh đã phục kích diệt hai đại đội bảo an tại ấp Giồng Trung xã Vĩnh Hoà, tạo điều kiện cho cơ sở và du kích diệt một số tên cán bộ bình định ác ôn của địch, hô hào nhân dân phá vỡ một số ấp đời mới. Thắng lợi liên tiếp của quân, dân các địa phương Bến Tre đã thôi động mạnh trên phạm vi rộng lớn, gây cho địch nhiều thiệt hại, làm ảnh hưởng không nhỏ tới kế hoạch càn quét, dồn dân, lập ấp mùa khô lần thứ hai của Mỹ - ngụy.

Tháng 1-1967, lực lượng vũ trang huyện Thạch Phú, Bến Tre đã đánh thắng cuộc hành quân Sóng thần 5, hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh chính trị trực diện với địch, ngăn cản không cho chúng cào nhà, phá ruộng vườn, dồn dân lập ấp... Trước phong trào đấu tranh tổng hợp, mạnh mẽ của quân và dân Thạnh Phú, sau 10 ngày hành quân, tuy có gây cho ta nhiều thiệt hại về người và của, song mục đích đặt ra là gom dân, lập ấp không thực hiện được, buộc chúng phải rút quân, bỏ dở kế hoạch.

Như vậy, việc cản phá cuộc hành quân Sóng thần 5 ở Thạnh Phú đã kết thúc thắng lợi đợt hoạt động chống phá bình định của Mỹ - ngụy ở Bến Tre. Cùng với nó là việc tổ chức vành đai diệt Mỹ ở Rạch Kiến - Long An, Bình Đức - Mỹ Tho, tổ chức chủ động đánh địch trên đường 4, đẩy mạnh hoạt động của lực lượng vũ trang ba thứ quân và nhân dân các địa phương trong việc tiêu hao, tiêu diệt địch, bẻ gẫy các cuộc càn quét của chúng, cho nên quân, dân Khu VIII đã hoàn thành nhiệm vụ trong mùa khô 1966-1967, là làm thất bại kế hoạch bình định, một trong hai gọng kìm cơ bản trong cuộc phản công mùa khô lần thứ hai của Mỹ - ngụy.

Cùng nằm trên khu vực đồng bằng châu thổ sông Cửu Long như Khu VIII, Khu IX là trọng điểm bình định của địch trong mùa khô 1966-1967. Trên địa bàn mỗi tỉnh, địch tập trung từ một đến hai trung đoàn chủ lực, kết hợp với bảo an, dân vệ, cảnh sát tại các địa phương mở các cuộc càn quét kiểm soát địa bàn, dồn dân xây dựng các ấp đời mới. Theo kế hoạch đặt ra, trong mùa khô này, địch xây dựng 161 ấp, giành thêm 20 vạn dân; khu trọng điểm ưu tiên dồn dân, lập ấp được địch xác định là: Thừa Đức, Long Toàn (Trà Vinh), Cao Lãnh, Hồng Ngự (Đồng Tháp), Lộ Vòng Cung (Cần Thơ)...

Để đối phó với địch, giữa tháng 9-1966, Khu uỷ đã chỉ thị cho các địa phương khẩn trương xây dựng kế hoạch, vạch phương án tác chiến chống lại âm mưu và hành động “xúc tát” dân của Mỹ - ngụy, bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân; phương châm hành động đặt ra là: kiên quyết bám trụ tổ chức chống phá càn quét, giành thắng lợi.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tư, 2010, 01:01:31 pm

 Đầu tháng 10, Quân khu IX mở đợt hoạt động Đông - Xuân 1966-1967, trọng điểm là Chương Thiện, nhằm mở mảng, mở vùng ở Giồng Giềng, Long Mỹ - Ngang Dừa, sau đó phát triển lên Cần Thơ, Rạch Giá. Mở đầu, ngày 26-10, Tiểu đoàn 306 tiến công diệt đồn Cái Đuốc, loại khỏi vòng chiến đấu một đại đội bảo an, một trung đội dân vệ..., sau đó rút về đóng ở khu vực kênh Ba Quân - Ngã Cay làm dư bị cho Tiểu đoàn 303 phục kích đánh địch tái chiếm Cái Đuốc. Đến 12 giờ cùng ngày, sau khi dùng pháo binh và không quân đánh phá dữ dội dọn bãi, địch cho trực thăng đổ Trung đoàn 33 thuộc Sư đoàn 21 chủ lực Sài Gòn xuống khu vực đóng quân của cơ quan Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn 306 của ta. Trận chiến đấu giữa quân ta và địch diễn ra quyết liệt. Đến 18 giờ, nhân lúc địch sơ hở, Tiểu đoàn 306 chia thành hai mũi bao vây, diệt Sở chỉ huy Trung đoàn 33 và đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn địch. 22 giờ, Tiểu đoàn 306 và 303 diệt tiếp một tiểu đoàn chủ lực ngụy ở kênh Ba Quân. Như vậy, sau một ngày chiến đấu ở khu vực Ban Quân - Ngã Cay, chủ lực Quân khu IX đã chuyển sang tiến công diệt đồn địch, đẩy lùi các kế hoạch hành quân của chúng, giữ vững địa bàn, an toàn cho dân.

Cùng thời gian tháng 10 và 11, quân dân huyện đảo Phú Quốc (Rạch Giá) đã dựa vào thế trận ấp, xã chiến đấu bẻ gãy cuộc hành quân Ba lượn sóng của quân ngụy đánh vào khu căn cứ Tượng; lực lượng vũ trang Vĩnh Thuận bao vây chi khu Vĩnh Thuận, diệt hàng trăm tên địch, ngăn chặn từ xa các trận hành quân càn quét của chúng.

Song, qua thực tế hoạt động cuối 1966, Bộ Tư lệnh Quân khu IX nhận thấy rằng: phong trào du kích chiến tranh và cơ sở đảng ở các địa phương còn yếu và chưa đồng đều... Khắc phục tình trạng này, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu IX đã đưa cán bộ xuống ấp, xã tổ chức lại chi bộ, củng cố phong trào du kích chiến tranh, từng bước vực phong trào đi lên. Đầu năm 1967, cuộc đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn mặc dù diễn ra quyết liệt, gay go, nhưng phong trào đấu tranh ở các địa phương vẫn được giữ vững.

Trên địa bàn Vĩnh - Trà, đầu tháng 1-1967, địch dùng hai trung đoàn chủ lực, hai tiểu đoàn bảo an, sáu đoàn cán bộ bình định, hai chi đoàn xe M113 tổ chức hành quán càn quét bình định xã An Tường (huyện Càng Long) trong hơn một tháng. Chúng rải quân đóng đồn, bốt, lập bộ máy cai trị ấp, xã, đồng thời với tăng cường đánh phá, mở rộng diện bình định ra các xã Huyên Hội, Tân An, Mỹ Cẩm... Địch có gây cho nhân dân An Tường và các xã lân cận nhiều thiện hại về người và của, song do quyết tâm trụ bám địa bàn nên cơ sở mật đã lãnh đạo quần chúng phối hợp với du kích đánh tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Quân chủ lực địch rút đi, quân bảo an, dân vệ, bọn tự vệ ấp... không kìm kẹp được quần chúng, ấp đời mới do chúng lập nên trở thành ấp tự quản của dân.

Để hỗ trợ cho quân, dân Vĩnh - Trà tiếp tục đấu tranh chống bình định thắng lợi, Quân khu IX đã đưa Tiểu đoàn 306 về hoạt động trên địa bàn của tỉnh. Đêm 18-1, một đại đội của tiểu đoàn bất ngờ tập kích diệt đồn Đập Ấu, ngay sau đó, toàn Tiểu đoàn 306 tổ chức đánh bại cuộc phản kích hòng chiếm lại vị trí cầu Mai Tức (do phân đội đặc công chiếm giữ trên đường 7) của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 tên, thu nhiều súng đạn và đồ dùng quân sự. Với thắng lợi trận đầu ra quân, Tiểu đoàn 306 được Bộ Tư lệnh Miền tặng Huân chương Quân công hạng ba.

Tiếp đà thắng lợi, sang tháng 2, Tiểu đoàn 306 phối hợp với các lực lượng vũ trang tại chỗ tiến công diệt bọn phản cách mạng ở Bãi San, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá banh các ấp đời mới, bảo vệ vòng ngoài, làm chủ hoàn toàn khu vực Bãi San. Sau đó, tiểu đoàn trụ bám đánh bại đợt phản kích chiếm lại Bãi San của Trung đoàn 14, Sư đoàn 9 ngụy.

Trước những thắng lợi liên tiếp của ta, Bộ Tư lệnh Vùng IV chiến thuật ngụy tăng cường Trung đoàn 16, Sư đoàn 9 xuống Trà Vinh để phối hợp với Trung đoàn 14 mở cuộc càn quét bình định chốt giữ địa bàn dọc tuyến sông Măng Thít, chặn ta tiến công lên hướng Vĩnh Long. Điều tra nắm được ý đồ của địch, sau khi củng cố lại lực lượng, cuối tháng 4, Tiểu đoàn 306 và Tiểu đoàn 501 (Trà Vinh) chủ động tiến công một cụm địch ở Mương Khai, gây thiệt hại nặng cho một tiểu đoàn của Trung đoàn 16 ngụy, loại khỏi chiến đấu khoảng 200 tên. Đầu tháng 5, Tiểu đoàn 306 và các đơn vị chủ lực tỉnh Trà Vinh đã phân tán lực lượng ra hoạt động ở các vùng Cái Nhum, bắc Vũng Liêm, Bình Minh, Tam Bình (Vĩnh Long) để tạo điều kiện cho quần chúng phá ấp, giành quyền làm chủ. Do chủ trương hoạt động đúng đắn, kịp thời, nên sau vài tháng hoạt động của mùa khô đầu năm 1967, Trà Vinh đã tiêu diệt, bức hàng, bức rút được hàng trăm đồn bốt; phá banh, phá rã được hàng trăm ấp đời mới của địch; chuyển thế các vùng yếu Cái Nham, Bình Minh, Vũng Liêm thành những căn cứ du kích bao vây, uy hiếp các căn cứ ngụy quân, ngụy quyền địch. Như vậy, bằng nỗ lực khắc phục mọi khó khăn của mình và được sự chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời của quân khu về mọi mặt, quân, dân Trà Vinh đã bẻ gãy được gọng kìm bình định của Mỹ - ngụy trên địa phương mình.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tư, 2010, 01:02:50 pm

Ở chiến trường Bạc Liêu - Cà Mau, trong cuộc phản công mùa khô lần thứ hai, tuy lực lượng địch không có gì thay đổi lớn1, nhưng chúng tăng cường sử dụng bom, pháo và chất độc hoá học để huỷ diệt, phát quang các căn cứ cách mạng, các xóm, ấp... kết hợp với dồn dân lập ấp đời mới và khu tập trung.

Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Quân khu, Tỉnh uỷ, Ban Chỉ huy Tỉnh đội Bạc Liêu, Cà Mau đã sử dụng lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận, từng bước đánh bại các cuộc hành quân càn quét, dồn dân, lập ấp của địch.

Tại Bạc Liêu, đêm 24 rạng 25-12-1966, được nhân dân tại chỗ giúp đỡ, tự vệ thị xã đã bí mật tập kích vào trụ sở bình định của ngụy quyền tỉnh, diệt nhiều cán bộ xây dựng nông thôn và ác ôn. Thắng lợi này gây hoang mang tinh thần và làm gián đoạn việc triển khai kế hoạch bình định ấp, xã của địch trong một thời gian dài, tạo điều kiện thuận lợi cho ta củng cố cơ sở, chuẩn bị lực lượng bước vào cuộc chiến đấu mới.

Ở Cà Mau, đêm 27-12, Tiểu đoàn U Minh II phối hợp với tự vệ mật tập kích diệt đồn Hoà Trung (ở đông nam thị xã Cà Mau). Đây là vị trí hiểm yếu bảo vệ thị xã. Xung quanh đồn Hoà Trung có hơn 100 gia đình giáo dân di cư vào khu gia binh của ngụy quân, ngụy quyền cùng hệ thống bảo vệ khá vững chắc của địch. Trong đồn, ngoài lực lượng quân sự, còn có đội cán bộ bình định vài chục tên, thường xuyên phối hợp với các cuộc hành quân bình định của quân chủ lực và bảo an. Do điều tra nắm chắc tình hình và tổ chức đánh vào thời điểm bất ngờ nhất, nên địch tuy đông, song không kịp trở tay. Sau vài giờ chiến đấu, ta đã tiêu diệt hoàn toàn một đại đội bảo an, một trung đội thám báo của địch, thu nhiều trang dụng, vũ khí... Tiếp đà thắng lợi, ngay đầu tháng 1-1967, Tiểu đoàn U Minh I đã giúp sức cho bộ đội huyện Châu Thành và du kích Hoà Thành tiến công diệt đồn Bùng Binh, sau đó đưa lực lượng luồn sâu vào ấp Tân Phong B, diệt tên trưởng ấp, vô hiệu hoá ngụy quân, ngụy quyền ở đây, tổ chức cho quần chúng nổi dậy phá ấp trở về đất cũ làm ăn. Sang tháng 2, Tiểu đoàn U Minh II lại phục kích tại Quản Diệm, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 32 chủ lực quân ngụy khi chúng hành quân càn quét tái chiếm ấp Sở Tại (Thanh Phú), giữ vững địa bàn.

Hoà chung khí thế với Cà Mau, trong những tháng đầu năm 1967, quân, dân các địa phương Bạc Liêu đã đẩy mạnh phong trào chống phá kế hoạch bình định mùa khô 1966-1967 của Mỹ - ngụy. Tại đây, lực lượng vũ trang đã hỗ trợ có hiệu quả cho phong trào phá ấp, giành quyền làm chủ của nhân dân ở các huyện, xã. Khu căn cứ và vùng giải phóng của ta ở Bạc Liêu ngày càng được mở rộng, củng cố.

Như vậy, bằng sự nỗ lực cao về mọi mặt, kiên quyết bám trụ đánh địch bằng nhiều hình thức, kết hợp nhiều loại vũ khí có trong tay, quân, dân Cà Mau - Bạc Liêu đã làm thất bại kế hoạch bình định của địch, góp phần cùng miền Nam đánh thắng cuộc phản công mùa khô 1996-1967 của Mỹ - ngụy.

Nhìn lại hoạt động của quân và dân miền Nam trong mùa khô 1966-1967, riêng trên mặt trận chống phá bình định, ta đã giành thêm được 390 ấp, xã; nâng số xã được giải phóng lên tới 700 xã, 6.750 ấp và dinh điền. Mỹ - ngụy chỉ thực sự kiểm soát được 5.400 ấp trên tổng số 16.293 ấp toàn miền Nam (số còn lại là ấp xã đang tranh chấp). Theo kế hoạch đặt ra năm 1967, Mỹ và Sài Gòn phải hoàn toàn kiểm soát được 3.500 ấp (có 1.076 ấp mới), nhưng thực tế chúng chỉ lập được 291 ấp mới (mà số ấp bị phá là hơn 300), đạt khoảng 13% kế hoạch. Bộ Quốc phòng Mỹ thừa nhận rằng: “Những cố gắng ban đầu của Chính phủ Việt Nam cộng hoà nhằm định ra các chương trình bình định và phát triển nông thôn đã thất bại, vì đó là những chương trình đầu đuôi lẫn lộn được vạch ra một cách vụng về”. “Sau đó, những cố gắng của Mỹ nhằm giúp đỡ các chương trình bình định của Chính phủ Việt Nam cộng hoà lại phạm những sai lầm...”2 nên không tránh khỏi thất bại.

Khác với mùa khô 1965-1966, trong mùa khô 1966-1967, lực lượng hành quân phục vụ bình định không phải chỉ do quân ngụy đảm trách, mà quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ tham gia gánh vác một phần quan trọng, thậm chí ở nhiều địa bàn, quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ đảm nhiệm hoàn toàn; do vậy, sự thất bại trong gọng kìm bình định lần này đã khẳng định sự thất bại, thụt lùi của mọi cố gắng chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ.

Song song với thành công trong chống phá bình định, nhân dân hầu khắp các địa phương miền Nam đã xây dựng được hệ thống ấp, xã chiến đấu liên hoàn, vững chắc, mà điển hình là: Trà Vinh có xã An Trường; Bà Rịa có xã Long Tân, Long Điền, Đất Đỏ; Củ Chi có xã An Phú, Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây...; An Khê có xã Bắc, xã A1; Đắc Lắc có Khuê Ngọc Điền; Kon Tum có Đắc Uy; Quảng Ngãi có Hoà Bình; Quảng Nam - Đà Nẵng có Hoà Hải, Anh Dũng, v.v... Đây thực sự là những pháo đài vững chắc chống phá có hiệu quả các cuộc hành quân càn quét và bình định của Mỹ- ngụy.

Bên cạnh việc xây dựng làng, xã chiến đấu và chống phá bình định của Mỹ - ngụy, các vành đai diệt Mỹ ở Đà Nẵng (Quảng Đà), Chu Lai (Quảng Nam), An Khê (Tây Nguyên), Đồng Dù (Củ Chi), Rạch Kiến (Long An), Bình Đức (Mỹ Tho), Bến Cát (Sông Bé), v.v… hình thành và phát triển bao vây các căn cứ Mỹ, đánh dấu bước phát triển mới đầy sáng tạo và rất độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong quá trình kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Như vậy, bằng sự nỗ lực toàn diện, lực lượng vũ trang ba thứ quân và nhân dân toàn miền Nam đã đánh thắng cả hai biện pháp chiến lược chủ yếu là tìm diệt và bình định của Mỹ và Sài Gòn trong cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966-1967; làm cho cả lực lượng và hoạt động của chúng trên chiến trường lâm vào tình trạng mâu thuẫn, giằng co gay gắt giữa một bên là phân tán để thực hiện mục tiêu bình định và bên kia là tập trung tìm diệt chủ lực, cơ quan đầu não kháng chiến của ta, nên hiệu lực chiến đấu giảm sút, trong khi lực lượng cơ động không thay đổi và đẩy Mỹ - ngụy ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng không sao gỡ nổi. Với thắng lợi này, quân, dân miền Nam đã đánh thắng cơ bản chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.

Thắng lợi to lớn của tiền tuyến lớn miền Nam này cùng với sự nỗ lực đóng góp sức người, sức của và trực tiếp đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ của quân và dân hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là những thắng lợi rất quan trọng để nhân dân ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định.
_______________________________________
1. Ngoài số chuyên gia bình định Mỹ có 220 tên, lực lượng quân ngụy gồm có: năm tiểu đoàn thuộc các Trung đoàn 32, 33 của Sư đoàn 21 chiếm đóng tại thị xã Bạc Liêu, Cà Mau, 28 đại đội dân vệ và một số đơn vị địa phương quân các loại.
2. Tóm tắt tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, 12 – 13, bản đánh máy lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số VL. 1266/83.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Tư, 2010, 07:05:35 pm

CHƯƠNG 18
MIỀN BẮC VỪA XÂY DỰNG VỪA CHIẾN ĐẤU, ĐÁNH THẮNG CÁC BƯỚC LEO THANG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA GIẶC MỸ, TĂNG CƯỜNG CHI VIỆN CHO MIỀN NAM
(1965 - 1967)


I- TIẾP TỤC SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN CHIẾN TRANH

Chống phá miền Bắc nhằm hỗ trợ cho nỗ lực quân sự ở miền Nam Việt Nam luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Song song với quá trình đưa lục quân Mỹ vào miền Nam, Mỹ dùng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc trên quy mô lớn với cường độ ngày càng dữ dội. Đây là một bộ phận khăng khít của chiến lược chiến tranh cục bộ mà Mỹ triển khai thực hiện ở Việt Nam từ năm 1965.

Chiến tranh lan rộng ra cả nước. Trong cuộc chiến tranh này một vấn đề đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là có thể tiếp tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc hay phải dừng lại? Và nếu tiếp tục thì phải bằng cánh nào?

Từ đầu năm 1964, trước âm mưu tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược của Mỹ, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có kế hoạch và biện pháp chuẩn bị. Hội nghị phòng không nhân dân toàn miền Bắc được triệu tập đầu năm 1964 đã bàn biện pháp triển khai và tăng cường hệ thống phòng không nhân dân ba thứ quân, biện pháp thực hiện kế hoạch sơ tán, phân tán nhân dân và nhà máy, công xưởng sản xuất khỏi những vùng trọng điểm địch đánh phá.

Lực lượng vũ trang gấp rút chấn chỉnh biên chế, tổ chức và tăng cường về quân số. Các đơn vị được lệnh tổ chức báo động, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu. Quân chủng Phòng không - Không quân hoàn chỉnh phương án chiến đấu, triển khai lực lượng theo hướng tập trung hoả lực bảo vệ các mục tiêu chủ yếu, đồng thời hình thành lực lượng chiến đấu tại chỗ, rộng khắp. Quân chủng Hải quân từ tháng 7-1964 chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tăng cường tuần tiễu vùng biển ven bờ, tổ chức Bộ Tư lệnh tiền phương ở vùng biển Quân khu IV. Các quân chủng, binh chủng khác cũng gấp rút hình thành phương án chiến đấu, bảo đảm giao thông trong điều kiện chiến tranh lan rộng ra cả nước. Các địa phương tập dượt huấn luyện chiến đấu, phục vụ chiến đấu sơ tán, phân tán tài sản và nhân dân...

Vùng ven biển, vùng giới tuyến quân sự, vùng biên giới phía tây, lực lượng vũ trang nhân dân địa phương được phổ biến kế hoạch phòng chống bộ binh, máy bay, tàu chiến và pháo binh địch. Tại các vùng này, lực lượng vũ trang địa phương tăng cường tuần tiễu, bố phòng nhằm chống sự đột nhập, phá hoại của địch. Các đơn vị bộ đội chủ lực phối hợp với công an vũ trang, dân quân tự vệ triển khai kế hoạch phòng thủ. Vùng nội địa, các binh đoàn chủ lực tập kết tại những khu vực quy định, sẵn sàng cơ động chiến đấu ở các hướng cần thiết.

Nhờ công tác chuẩn bị trên đây, quân và dân miền Bắc đã làm thất bại các âm mưu phá hoại, khiêu khích của địch, đánh trả kịp thời máy bay Mỹ trong ngày 5-8-1964...

Như vậy, cuối năm 1964, đầu năm 1965, miền Bắc đã được chuẩn bị một bước căn bản, đã ở trong tư thế sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ.

Tháng 3 và tháng 12-1965, Ban Chấp hành Trung ương đảng họp hội nghị lần thứ 11 và 12 đã đề ra nhiệm vụ cho miền Bắc lúc này là: xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn, vững chắc của cách mạng miền Nam; bảo đảm đời sống cho nhân dân và đáp ứng nhu cầu tại chỗ; đánh thắng chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ; tăng sức chi viện chiến trường. Để hoàn thành được những nhiệm vụ trên đây, miền Bắc phải tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, trong những điều kiện mới, khi cuộc chiến tranh phá hoại đang lan nhanh ra cả nước, với cường độ ngày càng ác liệt, miền Bắc không thể tiếp tục xây dựng như trước đó. Hội nghị Trung ương lần thứ 11 đã quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến nhằm bảo đảm cho miền Bắc tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, bảo đảm cho miền bắc có đủ sức mạnh đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ và làm tròn vai trò, nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.

Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến là cả một quá trình gian khổ, khó khăn mà ở đó, biết bao vấn đề to lớn và phức tạp đặt ra, đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải bình tĩnh và nỗ lực phấn đấu thực hiện. Ở đây, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa được thiết lập, niềm tin mãnh liệt của nhân dân vào Đảng và chính quyền, năng lực tổ chức, điều hành thực tiễn của chính quyền các cấp... là những điều kiện quan trọng để thực hiện bước chuyển này của hậu phương miền Bắc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng là trọng tâm của việc chuyển toàn bộ hoạt động của hậu phương miền Bắc từ thời bình sang thời chiến.

Chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức có ý nghĩa rất trọng yếu đối với toàn bộ các mặt công tác của miền Bắc lúc này. Vì vậy, Nghị quyết của Bộ chính trị Trung ương Đảng ra ngày 7-7-1965 cho rằng, trong điều kiện chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ ngày càng ác liệt, “cần xem xét các hình thức tổ chức hiện nay để đề ra những phương hướng chủ yếu về chuyển hướng công tác tổ chức cho phù hợp”. Phương hướng đó bao gồm việc xác định rõ vị trí, nhiệm vụ mới của từng cấp, từng ngành; cải tiến và kiện toàn sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, chỉnh đốn tổ chức nhà nước, động viên và sử dụng tốt lực lượng thanh niên, củng cố và tăng cường vai trò các tổ chức quần chúng, chuyển hướng mạnh mẽ lề lối làm việc, đặc biệt là công tác cán bộ.

Theo phương hướng đó, từ năm 1965, các cơ quan đảng, nhà nước gấp rút chấn chỉnh, sắp xếp, kiện toàn về tổ chức, sửa đổi lề lối và tác phong làm việc: thực hiện đúng chức năng, giản tiện hoá các thủ tục hành chính, kịp thời giải quyết những vấn đề cấp thiết đặt ra.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Tư, 2010, 07:17:00 pm

Tháng 7-1965, Hội nghị cán bộ nghiên cứu về chuyển hướng chỉ đạo hai nhiệm vụ chiến lược do Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập đã bàn bạc, thống nhất: các cấp uỷ đảng phải có sự chuyển biến mạnh mẽ cách nghĩ, cách làm để vươn lên ngang tầm đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới. Ở các cơ sở hợp tác xã, phải chú ý xác định rõ phương hướng sản xuất. Huyện uỷ phải lãnh đạo và chỉ đạo thật sâu sát sản xuất nông nghiệp ở cơ sở. Tỉnh uỷ phải nắm chắc tình hình sản xuất nông nghiệp, công nghiệp địa phương và công tác bảo đảm giao thông vận tải trên địa bàn của tỉnh.

Tiếp đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra những chỉ thị thúc đẩy cuộc vận động xây dựng chi bộ bốn tốt, tăng cường sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, làm cho Đảng thực sự sâu sát quần chúng, nắm chắc tình hình để chỉ đạo kịp thời, gắn bó mật thiết với cuộc sống chiến đấu và lao động của nhân dân. Nhờ đó, trong những năm chiến tranh, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên các lĩnh vực công tác đối nội, đối ngoại, sản xuất, chiến dấu, chi viện chiến trường được kịp thời có hiệu quả.

Củng cố và tăng cường hiệu lực của các cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp là một trọng tâm của công tác chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức. Trong điều kiện chiến tranh, để kịp thời quyết định những vấn đề quan trọng và cấp thiết của đất nước, ngày 10-4-1965, Quốc hội ra nghị quyết giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyền quyết định kế hoạch nhà nước, xét và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách, ấn định các thứ thuế, phê chuẩn việc phân vạch địa giới cấp tỉnh và cấp tương đương, xét và quyết định việc triệu tập Quốc hội vào thời gian thuận lợi trong trường hợp Quốc hội không thể họp phiên thường kỳ. Nhằm đặt cơ sở cho công tác huy động sức người, sức của phục vụ kháng chiến trên cả hai miền, Chính phủ lần lượt công bố một số văn bản pháp quy điều chỉnh việc phân bố lại lao động như Điều lệ tạm thời huy động và sử dụng dân công thời chiến; Điều lệ về việc tăng cường lực lượng lao động trong các cơ quan, xí nghiệp; Điều lệnh về nghĩa vụ lao động trong chiến tranh. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật quy định cụ thể việc bảo vệ tài sản của nhà nước, tính mạng, tài sản của nhân dân, giữa vững trật tự an ninh, quản lý thị trường, chính sách hậu phương quân đội... cũng lần lượt được ban hành.

Đồng thời với việc tăng cường pháp luật thời chiến, hoạt động của các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền, đặc biệt là hoạt động chỉ đạo và tổ chức thực hiện cũng được chuyển hướng cho phù hợp với điều kiện cả nước có chiến tranh. Dù chiến tranh ác liệt, biết bao công việc phải tập trung giải quyết nhưng các cuộc bầu cử hội đồng nhân dân địa phương vẫn tiến hành theo đúng định kỳ, hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp vẫn được giữ vững thường xuyên. Cơ cấu cán bộ, công nhân viên trong các cơ quan nhà nước và trong một số ngành sản xuất được tổ chức, sắp xếp lại. Một số cán bộ trong các cơ quan dân sự được động viên vào lực lượng vũ trang hoặc chuyển sang công tác trên mặt trận giao thông vận tải. Các vùng trung du, miền núi được tăng cường thêm cán bộ từ miền xuôi lên.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - tổ chức tập hợp ý chí và nguyện vọng của mọi người dân Việt Nam yêu nước tiếp tục được củng cố, mở rộng trên cơ sở khối liên minh công - nông vững chắc. Các tổ chức quần chúng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Hoạt động của các tổ chức này, tiêu biểu là Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Phụ lão, Hội Mẹ chiến sĩ, Đội Thiếu niên tiền phong.... trong những tháng năm bom rơi, đạn nổ có vai trò và tác dụng to lớn trong việc tập hợp, động viên người hậu phương đoàn kết, tương trợ nhau lúc gian khổ, khó khăn, hăng hái chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, ra sức thi đua sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, học tập, công tác, động viên lớp lớp thanh niên lên đường ra trận... Đó là những nhân tố góp phần quyết định tạo nên sự vững vàng và ổn định của hậu phương miền Bắc những tháng năm có chiến tranh ác liệt.

Nhìn lại từ những ngày đầu và suốt những năm chiến tranh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức đã được thực hiện có hiệu quả. Một miền Bắc bình tĩnh, tự tin bước vào cuộc đọ sức trực tiếp với máy bay, tàu chiến Mỹ; một miền Bắc ổn định, vững vàng trước bao thử thách khốc liệt của chiến tranh; một miền Bắc vươn lên đánh trả không quân, hải quân Mỹ, tăng sức chi viện cho chiến trường... đã chứng tỏ hiệu quả của sự chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức. Thành công đó là bảo đảm vững chắc để chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, bảo đảm cho miền Bắc tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thời chiến.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 02:40:43 pm

Chiến tranh lan nhanh ra miền Bắc. Bom đạn địch đêm ngày đánh phá ác liệt khiến các địa phương đứng trước nguy cơ bị chia cắt mạnh, sự tiếp tế, chi viện của trung ương trở nên rất khó khăn. Trong điều kiện đó, chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến chẳng những nhằm tiếp tục duy trì và phát triển sản xuất mà còn để mỗi vùng, mỗi địa phương tự cung, tự cấp được những mặt hàng thiết yếu, bảo đảm đời sống trong chiến tranh. Vì thế, trọng tâm của việc chuyển hướng nền kinh tế là xây dựng và phát triển kinh tế vùng, kinh tế địa phương. Chỉ thị tháng 6-1965 của Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ rõ: “Trong khi chuyển hướng các ngành kinh tế phải quán triệt sâu sắc các nguyên tắc và phương hướng sau: tập trung cao độ, tự cung tự cấp cao độ; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; bồi dưỡng sức dân để sản xuất và chiến đấu theo tinh thần tiết kiệm triệt để, chịu đựng gian khổ, sinh hoạt giản dị”1. Báo cáo của Hội đồng Chính phủ tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khoá III, tháng 4-1966, khẳng định: “Phát triển kinh tế địa phương với tốc độ nhanh hơn bình thường, đó là phương hướng cơ bản để làm cho bất cứ nơi nào cũng có thể phát huy được lực lượng của mình để đánh địch theo đường lối chiến tranh nhân dân”2.

Theo phương hướng trên, công tác quản lý kinh tế, quản lý kế hoạch, phân cấp quản lý và sử dụng nhân tài, vật lực hợp lý, làm cho mọi ngành, mọi cấp, mọi địa phương phát huy đầy đủ khả năng, tính chủ động và sức sáng tạo của mình trong xây dựng, chiến đấu và phục vụ chiến đấu có ý nghĩa rất quan trọng. Vì thế, trong chiến tranh phá hoại, công tác quản lý nền kinh tế quốc dân, trung ương chỉ nắm những khâu cơ bản và những vật tư chủ yếu. Các địa phương được trao quyền rộng rãi hơn, đặc biệt là quyền lập kế hoạch và ngân sách của cấp tỉnh. Nhà nước không đề ra kế hoạch dài hạn mà chỉ thực hiện kế hoạch hàng năm và hai năm để phù hợp với khả năng tổ chức, quản lý trong tình hình cả nước có chiến tranh; kế hoạch sản xuất mang tính mệnh lệnh, mục tiêu phục vụ nhu cầu chiến tranh và đời sống nhân dân được đặt lên hàng đầu.

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, những yêu cầu đặt ra trước đây về căn bản vẫn không thay đổi. Giờ đây, yêu cầu củng cố và phát triển nền nông nghiệp hợp tác hoá cần phải xúc tiến với tinh thần khẩn trương theo phương hướng tập trung đẩy mạnh hai ngành sản xuất chính là trồng trọt, chăn nuôi, đặc biệt ở vùng trung du và miền núi, nhằm giải quyết vấn đề lương thực và thực phẩm để ổn định đời sống nhân dân, góp phần giải quyết vấn đề hậu cần tại chỗ cho cuộc chiến đấu chống không quân, hải quân Mỹ. Vì thế, từ năm 1965, Nhà nước chỉ đạo các địa phương thực hiện kế hoạch phân bố lại lực lượng lao động, dành số vốn thích đáng để phát triển sản xuất, chăn nuôi. Đồng thời, cuộc vận động cải tiến công tác quản lý hợp tác xã triển khai từ những năm trước, giờ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Bên cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp khoa học và kỹ thuật mới nhằm thâm canh tăng năng suất trên toàn bộ diện tích gieo trồng; việc phát động mạnh mẽ phong trào làm thuỷ lợi, phong trào làm phân xanh, phong trào cải tiến nông cụ, công cụ vận chuyển... cũng như việc phát triển các hình thức chăn nuôi tập thể quy mô phù hợp với điều kiện, khả năng của từng hợp tác xã... đã trở nên phổ biến ở nhiều vùng nông thôn đồng bằng, trung du.

Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cũng được chuyển hướng cho phù hợp với điều kiện thời chiến: chuyển hướng về chủ trương, quy mô, hướng xây dựng và biện pháp tố chức sản xuất cụ thể. Các cơ sở sản xuất công nghiệp, nhất là những ngành then chốt, được khẩn trương sơ tán, phân tán, che chắn hoặc tăng cường lực lượng phòng không bảo vệ. Đây là một công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp và gian khổ, đòi hỏi ở giai cấp công nhân trí thông minh, sáng tạo, tài tổ chức thực hiện và sự bền bỉ, kiên cường... Từ những ngày đầu chiến tranh phá hoại, miền Bắc đã có kế hoạch cụ thể về các hoạt động của các cơ sở sản xuất công nghiệp, xác định rõ những cơ sở nào phải phân tán, sơ tán, hoặc trụ lại tiếp tục sản xuất. Bởi thế. khi chiến tranh phá hoại lan dần ra cả nước, chỉ trong một thời gian ngắn, hàng trăm xí nghiệp, kho tàng của trung ương và địa phương với hàng chục vạn tấn máy móc, thiết bị, hàng triệu tấn hàng hoá, nguyên liệu được di chuyển đến những địa điểm mới, được bảo đảm an toàn. Hàng chục vạn công nhân, cán bộ đã rời nơi ở cũ quen thuộc, thuận lợi để đi theo xí nghiệp, nhà máy của mình đến nơi xa lạ, khó khăn, thiếu thốn. Tại những nơi sơ tán, phân tán, với sự cố gắng to lớn của đội ngũ những người thợ, sản xuất nhanh chóng được phục hồi. Trong khi đó, các xí nghiệp, nhà máy ở lại chỗ cũ, những người thợ ngày đêm bám máy, duy trì và giữ vững sản xuất trong điều kiện máy bay địch luôn luôn rình rập bắn phá, uy hiếp. Trong các xí nghiệp, nhà máy, công nhân thực hiện khẩu hiệu “tay búa, tay súng”, địch đến là đánh, địch đi lại tiếp tục sản xuất...

Bên cạnh việc giữ vững sản xuất có trọng điểm, duy trì và phát huy năng lực sản xuất của công nghiệp trung ương, miền Bắc đặc biệt chú trọng xây dựng và phát triển công nghiệp địa phương, xây dựng các xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ. Tổng số vốn đầu tư vào khu vực này, từ 1965 đến 1967, tăng gấp 33 lần so với tổng số vốn đầu tư của ba năm trước đó. Do vậy, cùng với các xí nghiệp sản xuất trung ương, một mạng lưới công nghiệp địa phương với hàng nghìn xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ đã hình thành trong khói lửa chiến tranh...

Nhìn chung, kinh tế miền Bắc những năm chống chiến tranh phá hoại phát triển theo từng vùng, tạo điều kiện thuận lợi để từng địa phương tự bảo đảm được một phần quan trọng những nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Ngoài ra, việc chú trọng phát triển kinh tế địa phương, thúc đẩy khu vực này phát triển nhanh hơn tốc độ bình thường đã làm cho từng vùng phát huy được tiềm năng sẵn có của mình, đáp ứng hậu cần tại chỗ: vừa bảo đảm sản xuất, vừa bảo đảm chiến đấu và phục vụ chiến đấu theo đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân của Đảng.
____________________________________
1. Những sự kiện lịch sử Đảng, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1982. t.4, tr. 235.
2. Viện Luật học: Sơ thảo lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb. Khoa học - xã hội, Hà Nội, 1983, tr. 142.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 02:43:26 pm

Đi đôi với việc chuyển hướng nền kinh tế từ thời bình sang thời chiến, để giữ vững và đẩy mạnh sản xuất, Đảng, Nhà nước còn điều chỉnh một số chỉ tiêu trong xây dựng cơ bản để phù hợp với thời chiến và ban hành các chính sách có tác dụng động viên mạnh mẽ khí thế lao động, chiến đấu, phục vụ chiến đấu của quân và dân hậu phương miền Bắc. Vì thế, mặc dù chiến tranh ngày càng ác liệt, nhưng khắp nơi trên miền Bắc, các tầng lớp nhân dân không hề nao núng quyết tâm, kiên trì bám ruộng đồng, nhà máy tiếp tục sản xuất ở nhiều vùng trọng điểm đánh phá của địch, mọi sinh hoạt của người dân đều ở dưới tầng sâu của hệ thống hầm, hào, địa đạo. Các hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp, ngư nghiệp... thành lập các tổ, đội xung kích bám ruộng đồng, bám biển sản xuất. Khắp miền Bắc, trên các cánh đồng Khu IV, Khu III và vùng trung du, Tây Bắc, Việt Bắc đều có hầm trú ẩn cố định và di động, xã viên đi cấy, gặt đều phải khoác áo rơm để chống mảnh bom đạn địch. Ngư dân khi ra khơi, vào lộng thường xuyên mang theo phao bơi, dây dòng phòng khi địch đánh, tàu thuyền bị vỡ, bị chìm. Những xã vùng ven biển, người già và trẻ em được rời sâu vào phía trong, lập xóm mới quanh các gò, đồi để tránh sự đánh phá, sát thương của hải quân địch. Bộ phận nam giới ở lại trụ bám làng cũ, duy trì sản xuất và sẵn sàng đánh địch bảo vệ quê hương. Một bộ phận dân cư sống ở đô thị sơ tán về nông thôn sinh sống, làm ruộng hoặc tham gia vào mạng lưới lưu thông-phân phối.

Duy trì và phát triển sản xuất, ổn định đời sống và sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân những năm chống chiến tranh phá hoại thực sự là kỳ tích lớn lao của hậu phương miền Bắc. Mặc dù ruộng đồng, làng mạc bị bom đạn Mỹ đánh phá liên tục, thiên tai thường xuyên uy hiếp, một bộ phận lớn lao động chủ chốt ở nông thôn gia nhập lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến và con số này ngày càng tăng theo nhịp độ của cuộc chiến tranh..., nhưng nền nông nghiệp hợp tác hoá miền Bắc, về cơ bản, vẫn được giữ vững và phát huy hiệu quả to lớn. Được như vậy do nhiều nguyên nhân, trong đó, các hợp tác xã không ngừng được củng cố là một nhân tố quan trọng. Nhận thức sâu sắc vai trò, tác dụng to lớn của nó, Đảng và Nhà nước thường xuyên quan tâm sự nghiệp xây dựng, củng cố các hợp tác xã nông nghiệp. Tháng 8-1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị về cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc ở vùng núi - địa bàn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi chiến tranh lan rộng ra cả nước. Đầu tháng 1-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm tỉnh Thái Bình - tỉnh đầu tiên trên miền Bắc đạt năm tấn thóc trên một hécta gieo trồng. Nói chuyện với bà con nông dân, Người chỉ rõ: “Các hợp tác xã nông nghiệp là đội quân hậu cần của quân đội chiến đấu ngoài mặt trận. Các xã viên hợp tác xã là chiến sĩ sản xuất, cần phải cố gắng như các chiến sĩ ngoài mặt trận1. Người nêu ra phương hướng củng cố hợp tác xã trong chiến tranh:

“- Đoàn kết chặt chẽ, giữa xã viên với nhau, đoàn kết giữa ban quản trị và xã viên.

- Thực hành dân chủ, nghĩa là công việc đều phải bàn bạc với xã viên, cán bộ không quan liêu, mệnh lệnh.

- Tài chính phải công khai, tuyệt đối chống tham ô, lãng phí.

Các hợp tác xã phải làm thế nào để các xã viên đều thấy rằng mình là người chủ tập thể của hợp tác xã, có quyền bàn bạc và quyết định những công việc của hợp tác xã”2.

Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn động viên to lớn, thôi thúc giai cấp nông dân tập thể miền Bắc vượt lên khó khăn, tăng cường đoàn kết, ra sức sản xuất, củng cố hợp tác xã và đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu nhiệm vụ được giao. Nhờ đó, năm 1965, toàn miền Bắc có 31.651 hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, bao gồm 19.035 hợp tác xã bậc cao, 12.616 hợp tác xã bậc thấp, thu hút 22.065 hộ gia đình vào hợp tác xã, thì con số đó tới năm 1967, là 23.264 hợp tác xã, trong đó có 17.921 hợp tác xã bậc cao, 5.703 hợp tác xã bậc thấp, thu hút tới 29.896 hộ gia đình nông dân3. Trong gần bốn năm, kể từ năm 1964 tới 1967, số hộ nông dân miền Bắc vào hợp tác xã sản xuất nông nghiệp từ 84% lên tới 94,1%. Điều đó chứng tỏ rằng, trong chiến tranh, quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa ở nông thôn miền Bắc được củng cố và tăng cường; các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có bước phát triển mới cả về quy mô, trình độ quản lý... Cùng với phong trào thi đua Hai giỏi4, “Phấn đấu đạt ba mục tiêu trong nông nghiệp”5, các phong trào Ba sẵn sàng6 trong thanh niên, Ba đảm đang7 trong phụ nữ, phong trào Ba quyết tâm trong giới trí thức và phong trào thi đua Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong lực lượng vũ trang phát triển sôi nổi, mạnh mẽ đã thổi vào nông thôn miền Bắc một luồng sinh khí mới, tạo đà cho giai cấp nông dân tập thể phát huy những mặt mạnh, tận dụng những điều kiện thuận lợi, khắc phục mọi khó khăn, ác liệt do bom đạn Mỹ gây nên, vừa sản xuất, vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu, làm tròn nhiệm vụ xây dựng hậu phương chiến lược và chi viện chiến trường. Trong điều kiện chiến tranh phá hoại ác liệt của Mỹ, với lực lượng lao động chính trên ruộng đồng là phụ nữ, thì việc các hợp tác xã nông nghiệp với quan hệ sản xuất mới được củng cố, tăng cường suốt những năm chiến tranh là thành tựu đáng tự hào của nông nghiệp và nông thôn miền Bắc. Đó cũng là một trong những nhân tố căn bản tạo nên sức mạnh, tính bền vững của hậu phương miền Bắc trước bao thử thách ngặt nghèo và khốc liệt của chiến tranh. Vì rằng hợp tác xã, và chính bằng hình thức tổ chức sản xuất đó, nông dân, nông thôn, nông nghiệp miền Bắc - nguồn cung cấp sức người, sức của to lớn cho kháng chiến ở cả hai miền - mới có điều kiện để khắc phục sự thiếu hụt về nhân lực do hầu hết nam thanh niên được động viên vào quân đội, mới có thể vượt qua muôn vàn thử thách của chiến tranh và thiên tai, duy trì và giữ vững sản xuất cả về diện tích, năng suất, ổn định đời sống, động viên phần lớn lực lượng trẻ, khoẻ rời ruộng đồng, lên đường đánh Mỹ.
____________________________________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1996, t.12, tr. 193. 195.
3. Dẫn theo Thế Đạt: Nền nông nghiệp Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nxb. Nông nghiệp. Hà Nội, 1981. tr. 14.
4. Ngày 17-7-1965, nhân dịp quân, dân Quảng Bình bắn rơi 100 máy bay Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi Quảng Bình Chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi. Người kêu gọi các địa phương khác thi đua với Quảng Bình. Từ đó, đã dấy lên phong trào thi đua Hai giỏi sôi nổi trên toàn miền Bắc.
5. Ba mục tiêu trong nông nghiệp là: năm tấn thóc, hai vụ lúa, hai con lợn trên một hécta đất canh tác.
6. Phong trào Ba sẵn sàng của thanh niên Hà Nội được phát động từ ngày 9-8-1964 đã nhanh chóng trở thành phong trào thi đua của tuổi trẻ miền Bắc những năm chiến tranh mà nội dung là: sẵn sàng chiến đấu; sẵn sàng nhập ngũ; sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu khi Tổ quốc cần.
7. Thoạt đầu, phong trào mang tên Ba đảm nhiệm. Đây là phong trào được Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động ngày 19-3-1965. Phong trào này gồm ba nội dung: Đảm đang sản xuất và công tác; đảm đang việc nhà; đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 02:44:48 pm

Mặc dù vậy, nền nông nghiệp hợp tác hoá miền Bắc những năm chiến tranh vẫn được giữ vững và có bước phát triển trên một số mặt. Cho dù năng suất lúa thời kỳ này tăng chưa đều, chưa vững chắc nhưng khắp nơi trên miền Bắc đã xuất hiện hàng nghìn hợp tác xã đạt và vượt mục tiêu năm tấn thóc trên một hécta gieo trồng - điều trước kia mới chỉ là ước mơ, mà nền nông nghiệp miền Bắc chưa bao giờ đạt tới. Nếu năm 1965, toàn miền Bắc mới chỉ có 640 hợp tác xã thuộc bảy huyện đạt chỉ tiêu trên, thì đến năm 1967, con số đó tăng lên 2.628 hợp tác xã thuộc 30 huyện. Tỉnh Thái Bình, huyện Thanh Trì (Hà Nội), huyện Đan Phượng (Hà Tây)... là những đơn vị đầu tiên đạt năm tấn thóc trên một hécta gieo trồng trên toàn bộ diện tích cấy lúa của tỉnh, huyện. Các tỉnh khác như Hải Hưng, Nam Hà... đạt hơn bốn tấn thóc trên một hécta. Riêng Hải Hưng, hàng năm mức đóng góp của tỉnh cho Nhà nước đạt từ 17 đến 19 vạn tấn lương thực. Tính bình quân, mỗi người dân trong tỉnh đóng góp 31kg lương thực một năm. Nhờ đó, mặc dù diện tích canh tác bị thu hẹp do chiến tranh, nhưng bình quân lương thực đầu người trong những năm này vẫn được bảo đảm ở mức trên dưới 270 kg. Được như thế là nhờ áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật mới trong nông nghiệp. Chính những năm tháng dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù, các phong trào làm thuỷ lợi, cải tạo ruộng đồng, đắp bờ vùng, bờ thửa, phong trào làm bèo hoa dâu, đưa các giống lúa mới vào gieo trồng... được giai cấp nông dân tập thể miền Bắc hưởng ứng mạnh mẽ. Trong những năm chiến tranh, hàng chục nghìn cán bộ, công nhân viên kỹ thuật được đào tạo tăng cường cho mặt trận nông nghiệp và nông thôn. Các năm 1965, 1966, 1967, nông nghiệp miền Bắc vẫn đạt kết quả về sản lượng lương thực và chăn nuôi như trước chiến tranh phá hoại. Sản lượng lương thực và chăn nuôi hàng năm của miền Bắc đạt xấp xỉ năm 1964; chỉ riêng chăn nuôi, đàn lợn năm 1968 tăng hơn năm 1964 là 70 vạn con. Diện tích trồng lúa bị giảm nhưng bù lại, diện tích trồng rau, hoa màu và cây công nghiệp phát triển hơn trước. Phong trào “Trồng cây, gây rừng” trong bốn năm từ 1965 đến 1968 đã đưa diện tích rừng trồng tăng gấp 2,5 lần so với bốn năm trước đó.

Suốt những năm chiến tranh, nhờ chủ trương chuyển hướng kinh tế kịp thời và đúng đắn, với những biện pháp có hiệu quả về tổ chức, bảo vệ, duy trì, phát triển sản xuất, đặc biệt, sự nỗ lực cao độ của giai cấp công nhân... cho nên sản xuất công nghiệp căn bản được giữ vững. Một loạt cơ sở sản xuất công nghiệp lớn kịp thời sơ tán, phân tán và nhanh chóng đi vào sản xuất, bảo đảm những nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế quốc dân, của đời sống nhân dân và một phần nhu cầu quốc phòng. Do chủ trương phát triển công nghiệp địa phương - một chủ trương đúng đắn trong điều kiện miền Bắc có chiến tranh phá hoại1, nên thời kỳ này, sản lượng công nghiệp địa phương ngày càng tăng. Công nghiệp địa phương hướng nỗ lực vào việc vừa phục vụ sản xuất nông nghiệp, vừa đáp ứng các nhu cầu của đời sống nhân dân và của quốc phòng. Mức đầu tư trong hai năm 1966-1967 tăng gấp 1,5 lần so với kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961- 1965). Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh, có thể tự cấp, tự túc đến mức cao nhất, bảo đảm hậu cần cho cuộc chiến đấu tại chỗ. Những năm này hình thành một mạng lưới cơ khí nông nghiệp. Nhiều tỉnh, công nghiệp địa phương đã vươn lên sản xuất các mặt hàng đáp ứng nhu cầu của nông nghiệp như máy công cụ, máy bơm, xà lan... Ở các tỉnh khu IV, dù bom đạn Mỹ đêm ngày dội xuống, nhưng mỗi tỉnh, hàng năm, con số các xí nghiệp công nghiệp địa phương vẫn tăng. Công nghiệp các tỉnh trung du, miền núi thời kỳ này cũng bước đầu phát triển, bao gồm cả công nghiệp hàng tiêu dùng, đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu thiết yếu của đông đảo nhân dân. Nhìn chung, trong chiến tranh, toàn ngành công nghiệp đã khắc phục muôn vàn gian khổ, khó khăn, duy trì và đẩy mạnh sản xuất. Miền Bắc năm 1965 có 1.132 xí nghiệp, trong đó 205 xí nghiệp trung ương và 927 xí nghiệp địa phương. Đến cuối năm 1968, xí nghiệp công nghiệp phát triển lên 1.352, bao gồm 277 xí nghiệp trung ương và 1.075 xí nghiệp địa phương. Vì thế, tốc độ tăng bình quân hàng năm thời kỳ này về giá trị sản lượng công nghiệp trung ương giảm trong khi công nghiệp địa phương tăng so với thời kỳ trước chiến tranh. Nếu những năm từ 1961 đến 1965, công nghiệp địa phương tăng hàng năm là 8,5% so với 18,9% của công nghiệp trung ương, thì từ 1966 đến 1971, tỷ lệ đó là 5,8% và 3,8%. Cùng với nền nông nghiệp hợp tác hoá, nền công nghiệp, trước hết là công nghiệp địa phương, đã góp phần quan trọng bảo đảm đời sống nhân dân, bảo đảm hậu cần tại chỗ cho cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của không quân và hải quân Mỹ.

Các ngành tài chính, ngân hàng, nội thương, ngoại thương thời kỳ này đều hướng trọng tâm vào phục vụ nhu cầu bức thiết của sản xuất, đời sống và của cuộc kháng chiến. Trong chiến tranh, dù ngân sách nhà nước có phần bội chi, sản xuất, phân phối có khó khăn và trở ngại, nhưng nhờ động viên được nguồn thu trong nước và sử dụng có hiệu quả viện trợ của các nước anh em, đồng thời với việc cải tiến, tăng cường công tác quản lý kinh tế, tài chính, giữ vững chế độ hạch toán, củng cố và tăng cường hệ thống thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã, nên giá cả thị trường ổn định, không có đột biến, thị trường có tổ chức vẫn được giữ vững, giá cả những mặt hàng thiết yếu không tăng... Đặc biệt, dưới bom đạn ác liệt của địch và trong điều kiện sản xuất, vận chuyển khó khăn, mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa được xây dựng 10 năm trước đó (1955-1965), tiếp tục được củng cố, phát triển bao gồm hàng chục nghìn cửa hàng bán buôn, bán lẻ, thu mua và ăn uống, dịch vụ phân bố ở khắp các thành phố, huyện lỵ, thị trấn và nhiều vùng nông thôn, đóng góp to lớn vào việc ổn định đời sống nhân dân và trở thành lực lượng hậu cần tại chỗ của quân đội trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại. Những năm tháng ấy, dù hàng hoá còn khan hiếm do việc cung ứng gặp nhiều khó khăn, nhưng các cơ sở thương nghiệp quốc doanh luôn giành sự ưu tiên cho các đơn vị bộ đội thuộc địa bàn phục vụ của mình. Khắp nơi trên miền Bắc, đặc biệt ở các địa bàn trọng điểm, trước, trong và sau mỗi trận đánh, bất chấp gian khổ, hiểm nguy, công nhân viên các cửa hàng bách hoá, cửa hàng ăn uống, giải khát tổ chức những đội xung kích mang hàng hoá tới phục vụ bộ đội ngay tại trận địa trực chiến. Đó thực sự là nguồn động viên, khích lệ tinh thần đối với cán bộ, chiến sĩ trong cuộc chiến đấu chống máy bay, tàu chiến Mỹ.

Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế những năm chiến tranh phá hoại thực sự là mặt trận nóng bỏng. Những loạt bom đầu tiên dội xuống miền Bắc là nhằm cả vào những công trình văn hoá, những cơ sở giáo dục. Trường cấp I Xuân Giang (Hà Tĩnh) bị trúng bom Mỹ vào ngày 5-8-1964. Hai ngày sau, một số trường học ở thị xã Đồng Hới, thị trấn Hồ Xá (Vĩnh Linh) cũng bị đánh phá. Trong bốn năm chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 - 1968 ), 1.558 trường học trên toàn miền Bắc, trong đó có bảy trường đại học, bị bom đạn Mỹ phá huỷ, nhiều thầy cô giáo và học sinh bị giết hại...
____________________________________
1. Trong điều kiện chiến tranh, nếu sự phát triển của công nghiệp trung ương và công nghiệp nặng bị hạn chế thì công nghiệp địa phương và công nghiệp nhẹ lại được phát triển nhanh hơn để thích ứng với tình hình nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế và đời sống nhân dân cũng như của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại. Trong thời kỳ từ 1966-1970, bình quân hàng năm, công nghiệp nặng chi tăng 0,5% thì công nghiệp nhẹ tăng 1,4%, công nghiệp trung ương giảm 1,8% thì công nghiệp địa phương tăng 3,6%.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 02:45:38 pm

Từ ngày đầu chiến tranh, Đảng, Nhà nước rất quan tâm tới sự nghiệp văn hoá, giáo dục và đã có những chủ trương kịp thời, đúng đắn nhằm tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp trồng người trong thời kỳ mới. Chỉ thị số 104 về công tác văn hoá, văn nghệ của Trung ương Đảng ngày 28-7-1965 chỉ rõ: “Hiện nay, cả nước ta đang ở trong tình trạng có chiến tranh, nhiệm vụ cấp bách của toàn dân ta là chống Mỹ, cứu nước... Trong tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới đó, công tác văn hoá, văn nghệ có một vai trò trọng yếu trong việc giáo dục lòng căm thù đối với bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai, cổ vũ tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bồi dưỡng khả năng sản xuất và chiến đấu của nhân dân, nâng cao sinh hoạt tinh thần của quần chúng, xây dựng một nền văn hoá xứng đáng với nhân dân ta, phục vụ sự nghiệp vĩ đại chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta hiện nay”1. Đối với sự nghiệp giáo dục, Chỉ thị ngày 5- 8-1965 của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ: Phải chuyển hướng để phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị theo chức năng, nhiệm vụ của mình và phù hợp với tình hình mới.

Duy trì và đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, hàng vạn lớp học với hàng chục vạn thầy, cô giáo và học sinh các cấp học, cũng như nhiều trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và đại học được sơ tán khỏi thành phố, thị xã, thị trấn tới vùng nông thôn đồng bằng, miền núi để tiếp tục học tập. Tại những nơi mới đến, với sự giúp đỡ tận tình của chính quyền, đoàn thể và nhân dân địa phương cộng với sự nỗ lực của thầy, trò nhà trường, nơi ăn chốn ở và điều kiện trường lớp nhanh chóng ổn định để bước vào giảng dạy, học tập. Trong khi đó, ở mọi làng quê, trường lớp được phân tán vào trong dân; nhiều nơi, nhà dân thành lớp học. Xung quanh trường, lớp đều có luỹ đất bao quanh, có hệ thống hầm, hào, phòng tránh bom, pháo giặc. Giờ học được bố trí vào những lúc máy bay địch ít hoạt động hơn. Tại nhiều địa phương, ở các vùng trọng điểm, đặc biệt các tỉnh Khu IV, để tránh sự đánh phá ác liệt của máy bay, tàu chiến Mỹ, các lớp học được đào sâu xuống lòng đất và chuyển giờ học vào ban đêm. Chương trình giảng dạy và học tập cũng được cải tiến cho phù hợp với điều kiện mới. Công tác giáo dục chính trị, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước, chí căm thù địch, củng cố niềm tin vào chế độ mới, vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ... được đẩy mạnh trong các trường học, các cấp học nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ có đủ bản lĩnh và tri thức bước vào cuộc sống lao động, chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Dù gian khổ và ác liệt, nhưng hậu phương miền Bắc những ngày đánh Mỹ luôn kiên cường trong lửa đạn và hướng tới tương lai, không bao giờ sao lãng sự nghiệp “trăm năm trồng người” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Vì ý thức được tầm quan trọng và ý nghĩa chiến lược của việc giáo dục, những năm tháng chiến tranh, học sinh đầu đội mũ rơm đều đặn đến trường học tập. Dù điều kiện trường lớp và đồ dùng giảng dạy, học tập, giấy bút, sách vở thiếu thốn trăm bề, nhưng vượt lên bao thử thách khó khăn, khắp nơi trên miền Bắc, phong trào thi đua Dạy tốt, học tốt vẫn dấy lên mạnh mẽ. Nếu năm đầu chống chiến tranh phá hoại - năm học 1964 - 1965, số học sinh phổ thông toàn miền Bắc là 3,5 triệu người thì những năm tiếp theo, dưới mưa bom bão đạn của quân thù, con số đó vẫn không ngừng tăng lên. Đến năm học 1967 - 1968, toàn miền Bắc có tới 4,7 triệu con em nhân dân lao động cắp sách tới trường. Hầu hết các huyện đều có trường phổ thông cấp III, các xã đều có trường phổ thông cấp I và nhiều xã có trường cấp II.

Bên cạnh giáo dục phổ thông, công tác bổ túc văn hoá những năm chiến tranh tiếp tục được duy trì nhằm không ngừng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên, thanh niên xung phong... Từ năm 1966, đã hình thành hệ thống trường sư phạm chuyên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, giảng dạy bổ túc văn hoá. Ở các cơ quan dân - chính - đảng từ trung ương đến địa phương, các nhá máy, xí nghiệp, các đơn vị thanh niên xung phong... hệ thống trường, lớp bổ túc văn hoá được duy trì, mở rộng. Đặc biệt, những năm này, ở các tỉnh, thành miền Bắc, ngoài các trường bổ túc văn hoá cấp I, cấp II, cấp III, ta còn tổ chức các trường “ba đảm đang” dành riêng cho phụ nữ thuộc hệ bổ túc văn hoá, trường phổ thông lao động, trường thanh niên dân tộc, v.v... Hệ thống trường lớp này hàng năm thu hút hàng chục vạn học viên theo học. Năm học 1967 - 1968, trong số hơn một triệu học viên bổ túc văn hoá, có 44 vạn cấp II và 5 vạn cấp III.
____________________________________
1. Công tác văn hoá nghệ thuật trong những năm chống Mỹ, cứu nước (1965 - 1972). Văn phòng Bộ Văn hoá Hà Nội, 1974, tr. 67.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 02:48:28 pm

Sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tiếp tục củng cố và tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý kinh tế. Vì thế, ngày 28-6-1966, Bộ Chính trị ra nghị quyết nêu rõ: “Phải tranh thủ trong một thời gian tương đối ngắn, xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý kinh tế đông đảo, vững mạnh, ngày càng hoàn chỉnh về trình độ và nghề nghiệp, vừa có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp công nhân, với dân tộc, liên hệ chặt chẽ với công nông, vừa có trình độ khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ giỏi, nắm vững những quy luật của tự nhiên và xã hội, có năng lực tổ chức, động viên quần chúng, đủ sức giải quyết những vấn đề khoa học, kỹ thuật và quản lý kinh tế do thực tiễn nước ta đặt ra và có khả năng tiến kịp trình độ khoa học, kỹ thuật tiên tiến của thế giới. Phải có một kế hoạch dài hạn, mạnh bạo, thiết thực và toàn diện về lãnh đạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học, kỹ thuật”1. Bộ Chính trị đề ra 10 biện pháp thực hiện:

1. Củng cố, phát triển và sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học và trung học chuyên nghiệp.

2. Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy, cải tiến chương trình và nội dung giảng dạy.

3. Coi trọng việc giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ giảng dạy và sinh viên, học sinh.

4. Cải tiến phương pháp đào tạo, gắn học tập với lao động sản xuất.

5. Kết hợp chặt chẽ các hình thức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.

6. Phát triển mạnh mẽ và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông và bổ túc văn hoá, đặc biệt là bổ túc văn hoá cho công nhân và nông dân lao động, để tạo nguồn tuyển sinh tốt cho các trường đại học.

7. Tiếp tục cuộc vận động thi đua “hai tốt”.

8. Kết hợp việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trong nước với việc đẩy mạnh đào tạo cán bộ ngoài nước.

9. Cải tiến công tác phân phối và sử dụng cán bộ.

10. Tăng cường lãnh đạo đối với các công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.

Đặt trong điều kiện miền Bắc lúc đó, khi chiến tranh đang diễn ra vô cùng ác liệt, nghị quyết trên đây của Bộ Chính trị Trung ương Đảng chứng tỏ tầm nhìn chiến lược của Đảng ta về các vấn đề trọng đại của nước nhà trong và sau khi sự nghiệp kháng chiến kết thúc. Tầm nhìn đó là nhân tố có ý nghĩa rất to lớn trong việc xây dựng và tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý để chẳng những đáp ứng yêu cầu cấp bách của cuộc kháng chiến chống Mỹ mà còn chuẩn bị cho sự nghiệp xây dựng đất nước mười lần đẹp hơn khi chiến tranh kết thúc, như mong đợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dù phải đối mặt với những thử thách khốc liệt của chiến tranh, giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp, cao đẳng vẫn luôn luôn được duy trì, giữ vững mục tiêu và chỉ tiêu đào tạo, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Nhờ đó, từ 16 trường đại học năm học 1964 - 1965 phát triển lên tới 35 trường năm học 1967 - 1968, với đội ngũ giáo viên từ 2.750 (1965) lên tới 6.727 (1968 ). Năm đầu chiến tranh phá hoại, toàn miền Bắc có 29.800 sinh viên đại học và 42.600 học sinh các trường trung học. Đến năm 1968, con số đó tăng lên 58.200 và 118.500. Ngoài số sinh viên được đào tạo trong nước, những năm này, Nhà nước còn chọn cử một số ra nước ngoài - chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa - học tập. Đã có hàng vạn cán bộ tốt nghiệp đại học và trung học chuyên nghiệp lần lượt ra trường, đi tới mọi miền đất nước, phục vụ đắc lực cho các ngành kinh tế và cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, sự nghiệp giáo dục của chúng ta vẫn phát triển nhanh, mạnh hơn bao giờ hết...

Mặc dù giặc Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc ác liệt, chúng không những đã thất bại thảm hại trên mặt trận chính trị, quân sự, mà ta đã thắng chúng cả trên mặt trận giáo dục và đào tạo cán bộ2. Trong khói lửa chiến tranh, ngành giáo dục đã xuất hiện những điển hình “dạy tốt, học tốt” mà tiêu biểu là Cẩm Bình - một xã thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Trước cách mạng, cả xã chỉ có 17 người biết chữ, trong những năm chiến tranh phá hoại, xã xây dựng được hệ thống giáo dục phổ thông hoàn chỉnh và đến năm 1967, xã hoàn thành phổ cập trình độ cấp II. Noi gương Cẩm Bình, ngành giáo dục những năm này đã dấy lên phong trào “Cẩm Bình hoá”, “xoá xã trắng” về mẫu giáo và cấp I. Cũng những năm tháng ấy, xuất hiện phong trào “Thiếu nhi làm nghìn việc tốt, chống Mỹ, cứu nước” thu hút hàng chục vạn học sinh các trường phổ thông cấp I, cấp II tham gia. Trong phong trào thi đua đó, nổi lên tấm gương quên mình cứu bạn của Nguyễn Bá Ngọc, học sinh lớp 4 Trường cấp I Quảng Trung, Quảng Xương, Thanh Hoá. Em đã lấy thân mình che chở cho hai em nhỏ khỏi sự sát hại của bom đạn Mỹ và anh dũng hy sinh, làm xúc động hàng triệu đồng bào và thanh, thiếu niên cả nước. Tấm gương Nguyễn Bá Ngọc được thiếu niên, nhi đồng cả nước học tập, noi theo. Mái trường xã hội chủ nghĩa chẳng những truyền thụ kiến thức mà còn trang bị cho lớp lớp học sinh những phẩm chất cao đẹp của con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các thế hệ nam, nữ thanh niên được giáo dục trong nhà trường đã lần lượt lên đường chiến đấu, công tác với vốn kiến thức vững và niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp chống Mỹ.
____________________________________
1. Những sự kiện lịch sử Đảng, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1982, t. 4, tr. 255.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 12, tr. 402 - 403.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 02:48:52 pm

Gắn bó chặt chẽ với thực tiễn chiến đấu, sản xuất đang diễn ra sôi động, khẩn trương trên mọi miền đất nước, các ngành văn hoá - nghệ thuật thời kỳ này có bước phát triển mới, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của sự nghiệp chống Mỹ. Nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nhiếp ảnh, họa sĩ, phóng viên, quay phim... khoác ba lô đi vào thực tế chiến đấu, lao động của quân và dân vùng có chiến sự ác liệt, đặc biệt là tuyến lửa Khu IV để tìm hiểu, sáng tác. Các đoàn văn công, các đơn vị chiếu bóng, thư viện cũng vượt bom đạn, tìm mọi cách phục vụ kịp thời cho quân và dân các địa phương đang hàng ngày, hàng giờ đương đầu với máy bay, tàu chiến Mỹ. Chính sự gắn bó mồ hôi và máu xương với cuộc sống chiến đấu và lao động đầy thử thách, khó khăn của mọi miền quê trên đất nước, nên văn học, nghệ thuật thời kỳ này đã cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị, thể hiện sâu sắc chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân ta ở cả hậu phương miền Bắc và tiền tuyến miền Nam.

Trong chiến tranh ác liệt, luôn phải đối mặt với mất mát, hy sinh, người dân ở hậu phương cũng như bộ đội, thanh niên xung phong hoả tuyến đều lấy tiếng hát để động viên khích lệ tinh thần anh dũng, lạc quan tin tưởng. Bởi vậy, phong trào “tiếng hát át tiếng bom” xuất hiện và phát triển rộng khắp. Hầu hết các địa phương, các đơn vị quân đội, thanh niên xung phong, xí nghiệp, hợp tác xã, nhà máy, trường học, công sở... đều có những đội “văn nghệ xung kích” làm nòng cốt cho phong trào. Chưa bao giờ văn nghệ quần chúng phát triển mạnh mẽ và sôi nổi như thời kỳ này. Nam Hà - một tỉnh bốn năm liền (1965 - 1969) là lá cờ đầu của ngành văn hoá đã xây dựng được 1.081 đội văn nghệ, mở hàng trăm cuộc hội diễn với hàng chục nghìn tiết mục tự biên. Nghệ An, một trong những vùng trọng điểm đánh phá của máy bay, tàu chiến Mỹ, năm 1966 cũng đã có tới 1.080 đội văn nghệ...

Đáp ứng nhu cầu của đông đảo nhân dân, nhiều tác phẩm văn học nước ngoài có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật đã được chọn dịch sang tiếng Việt. Đồng thời, một số tác phẩm văn học và nghệ thuật Việt Nam cũng đã được giới thiệu với bạn bè quốc tế, giúp họ hiểu rõ, hiểu đúng sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Năm 1965, các nhà xuất bản trên miền Bắc đã cho ra mắt bạn đọc 1.887 đầu sách các loại với số lượng 22 triệu bản in. Năm 1968, xuất bản 1.471 đầu sách với 30 triệu bản in. Cùng với công tác xuất bản, mạng lưới phát hành và hệ thống thư viện cũng ngày càng được mở rộng, bất chấp sự đánh phá khốc liệt của kẻ thù.

Trong những năm tháng đánh trả máy bay, tàu chiến Mỹ và dồn sức cho tiền tuyến miền Nam, hậu phương lớn miền Bắc vẫn rất chú trọng tới việc bảo vệ, khai thác và phát huy sức mạnh của nền văn hoá truyền thống. Những vốn quý thuộc về di sản văn hoá các dân tộc sinh sống trên mọi miền đất nước được trân trọng bảo vệ, sưu tầm. Một số cuộc hội nghị khoa học về dân ca, về thời kỳ Hùng Vương được tổ chức ở trung ương, địa phương. Tháng 11-1965, khi Mỹ đang leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhân dân ta vẫn tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đó là một trong những biểu hiện trình độ của một dân tộc văn minh, chứng tỏ tư thế của hậu phương lớn miền Bắc thời đánh Mỹ.

Trước đòi hỏi cấp bách của tình hình, công tác y tế miền Bắc nhanh chóng chuyển từ thời bình sang thời chiến và được tăng cường về số lượng và chất lượng. Tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng bệnh, khám chữa bệnh cho nhân dân, cán bộ, công nhân viên các cơ quan, xí nghiệp, trường học, ngành y tế chỉ đạo các địa phương chủ động việc phổ cập kinh nghiệm sơ cứu, cấp cứu trong các tầng lớp nhân dân, mở các khoá đào tạo ngắn ngày cho đội ngũ cán bộ y tế cơ sở. Mạng lưới y tế cơ sở phát triển thành một hệ thống sâu rộng. Hầu hết các bản làng, thôn xã và huyện đều có tổ y tế, trạm xá và bệnh viện. Từ 5.289 trạm xá, 475 bệnh viện, 7 cơ sở điều dưỡng năm 1964, đến năm 1968, toàn miền Bắc có 6.043 trạm xá, 981 bệnh viện và 50 cơ sở điều dưỡng. Tương ứng với sự gia tăng về số lượng các cơ sở y tế trên đây, đội ngũ cán bộ, công nhân viên ngành y cũng có bước phát triển mới. Năm 1965, toàn ngành có 67.200 người; đến năm 1967, chỉ riêng đội ngũ y, bác sĩ, y tá và nữ hộ sinh cũng đã lên tới 60.000 người. Ngoài ra, tại thời điểm này, toàn ngành còn có 3.497 dược sĩ công tác ở các cơ sở y tế. Tận tuỵ với nghề, gắn bó khăng khít với cuộc sống gian lao của nhân dân và bộ đội, những người thầy thuốc, những cán bộ, nhân viên công tác trong ngành y tế thực sự xứng đáng với lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thầy thuốc như mẹ hiền”. Chính những năm tháng lao động và chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh đó, ở mọi địa phương trên miền Bắc, không hề xảy ra dịch bệnh; sức khoẻ và tính mệnh của người dân cũng như của cán bộ, công nhân viên vẫn được bảo đảm. Những người “chiến sĩ áo trắng” trên mặt trận thầm lặng cùng với những chiến công của họ đã góp phần không nhỏ vào sự ổn định, vững vàng của hậu phương miền Bắc trong những tháng năm đương đầu với không quân, hải quân Mỹ trên vùng trời,vùng biển.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 02:50:01 pm

II- TĂNG CƯỜNG LỰC LƯỢNG QUỐC PHÒNG,
KIÊN QUYẾT ĐÁNH TRẢ KHÔNG QUÂN, HẢI QUÂN MỸ

Đồng thời với việc chuyển hướng về tư tưởng, tổ chức và xây dựng kinh tế, nền quốc phòng miền Bắc cũng được gấp rút tăng cường nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam.

Xuất phát từ quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố và tăng cường quốc phòng là sự nghiệp của toàn dân, Đảng, Nhà nước thường xuyên chú trọng công tác giáo dục, động viên chính trị trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Ngày 2-1-1965, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra chỉ thị về cuộc vận động cán bộ, nhân dân quán triệt tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, làm cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân “trên cơ sở nhận rõ tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu của cách mạng mà nâng cao phẩm chất và đạo đức cách mạng, phê phán những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân”1, vươn lên hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tiếp theo chỉ thị này, trên miền Bắc diễn ra nhiều đợt học tập, thảo luận và quán triệt các chỉ thị, nghị quyết, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các sinh hoạt chính trị đó có tác dụng nâng cao nhận thức, mài sắc ý chí, củng cố quyết tâm kháng chiến chống Mỹ, tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị này, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được phổ biến sâu rộng trong nhân dân, được nhân dân đón nhận và thực hiện tự nguyện, tự giác. Đó là cơ sở cho nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động lớn được dấy lên mạnh mẽ, thu hút mọi người, mọi ngành, mọi giới ở mọi miền đất nước tham gia.

Đảng thường xuyên chăm lo giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó, giữa những ngày chiến tranh diễn ra quyết liệt, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động xây dựng chi bộ bốn tốt và đảng viên cơ sở bốn tốt. Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “...từ nay các huyện uỷ, thành uỷ, tỉnh uỷ cần phải đi sâu đi sát các chi bộ, cần phải giúp đỡ các chi bộ một cách thiết thực và thường xuyên. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ cần chỉ đạo riêng chi bộ để rút kinh nghiệm về xây dựng chi bộ “bốn tốt”. Các huyện uỷ cần được kiện toàn tốt theo chỉ thị mới đây của Trung ương để đẩy mạnh cuộc vận động chi bộ “bốn tố” và đảng bộ “bốn tốt””2. Người nhắc nhở: “... trong một thời gian vài năm, chúng ta phải làm cho mỗi địa phương và mỗi ngành ít nhất cũng có 60% chi bộ đạt bốn tốt như nghị quyết của Ban Bí thư đã đề ra. Các chi bộ khác đều phải đạt loại khá. Đó là điều bảo đảm chắc chắn nhất cho ta sản xuất tốt, chiến đấu tốt; bảo đảm cho ta nhất định đánh thắng giặc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”3.

Một thành công khác của công tác động viên chính trị những năm kháng chiến chống Mỹ, bao gồm trong đó thời kỳ chống chiến tranh cục bộ, là đã giáo dục sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tinh thần đoàn kết quốc tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và các nước trong thế giới thứ ba, làm cho mọi người hiểu rõ nhiệm vụ đối với cách mạng hai nước Lào, Campuchia. Nhờ đó, thời kỳ này, tình đoàn kết, chiến đấu giữa quân đội, nhân dân Việt Nam với quân đội, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và Lào vốn đã được khởi đầu, phát triển trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp nay càng trở nên bền chặt, khăng khít. Đối với Lào, con em miền Bắc chẳng những đánh giặc ở miền Nam mà còn tình nguyện chiến đấu ở Lào, hạt gạo “hai sương một nắng” của hậu phương miền Bắc không chỉ có mặt ở chiến trường miền Nam Việt Nam mà còn ở chiến trường Lào. Miền Bắc Việt Nam từ 1965 không chỉ là hậu phương căn cứ địa của cách mạng Việt Nam ở miền Nam mà còn là hậu phương của cách mạng Lào và tiếp đó là cách mạng Campuchia...

Tháng 1-1965, Hội đồng Quốc phòng họp dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị đã định ra phương hướng công tác quốc phòng miền Bắc trong tình hình mới là:

1. Tăng cường công tác phòng thủ, trị an và sẵn sàng chiến đấu cao.

2. Ra sức xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ và lực lượng hậu bị đúng với đường lối quân sự của Đảng, với truyền thống, kinh nghiệm và điều kiện thực tế của ta, đủ sức đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.

3. Tích cực xây dựng, củng cố miền Bắc về mọi mặt, kết hợp yêu cầu kinh tế với yêu cầu quốc phòng, mở rộng cơ sở vật chất - kỹ thuật, tăng thêm tiềm lực kinh tế và quốc phòng của đất nước.
____________________________________
1. Những sự kiện Lịch sử Đảng, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1982, t. 4, tr. 217.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. t. 12, tr. 79, 81.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 02:57:15 pm
Trước đòi hỏi ngày càng to lớn của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, để tăng cường lực lượng vũ trang, Nhà nước quyết định thành lập một số binh đoàn trang bị hiện đại và quân chủng mới. Ngày 20-4-1965, Quốc hội khoá III kỳ họp thứ hai đã thông qua Luật sửa đổi và bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự, kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của quân nhân theo yêu cầu, nhiệm vụ chiến đấu. Ngày 21-4-1965, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định Lệnh động viên cục bộ và ngày 5-5-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh này


          PHỦ CHỦ TỊCH                             VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
        ------------------                              Độc lập - Tự do - hạnh phúc
           số 47 - LCT                                  --------------------------------
                                                   Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 1965

LỆNH CỦA CHỦ TỊCH
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ


Căn cứ Điều 63 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,

Căn cứ quyết định số 102-NQ/TVQH ngày 21 tháng 4 năm 1965 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về động viên cục bộ,

Nay công bố lệnh động viên

Một bộ phận sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị và một bộ phận công dân thuộc ngành dự bị của quân đội nhưng chưa phục vụ tại ngũ.

                                                                           CHỦ TỊCH
                                                        NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
                                                                        HỒ CHÍ MINH


Hội đồng Chính phủ đặt kế hoạch động viên cục bộ và lãnh đạo thực hiện kế hoạch để vừa bảo đảm tăng cường lực lượng quốc phòng đến mức cần thiết, vừa bảo đảm xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch nhà nước trong điều kiện chiến tranh. Các cơ quan quân sự địa phương được gấp rút củng cố, kiện toàn nhằm đáp ứng tốt nhất đòi hỏi, yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới.

Từ đây, khắp nơi trên miền Bắc, các phong trào thi đua yêu nước, “mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “cử người đi đánh Mỹ”, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”... diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ, biểu hiện ý chí, quyết tâm của người dân hậu phương trong những tháng năm cả nước đánh Mỹ. Chỉ một thời gian ngắn, đã có hàng triệu lá đơn tình nguyện đăng ký “ba sẵn sàng”, “ba đảm đang” của nam, nữ thanh niên. Năm 1965, gần 290.000 người tình nguyện gia nhập quân đội, trong đó, tháng 5-1965, đã có tới 150.000 người. Những tháng cuối năm 1965, hàng chục nghìn thanh niên và quân nhân chuyển ngành hoặc phục viên được động viên vào quân đội, hàng chục nghìn người khác được gọi vào lực lượng thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến. Đến cuối năm 1965, khối bộ đội chủ lực ở miền Bắc tăng từ 195.000 lên 400.000 quân. Các quân, binh chủng cũng tăng gấp ba lần so với năm 1964, riêng Quân chủng Phòng không - Không quân phát triển vượt bậc, không chỉ có pháo phòng không mà còn có các binh chủng tên lửa đất đối không, rađa cảnh giới, không quân tiêm kích. Nếu năm 1964, lực lượng phòng không miền Bắc chỉ có 15 trung đoàn và 14 tiểu đoàn pháo cao xạ, một trung đoàn không quân tiêm kích, hai trung đoàn rađa, thì các năm từ 1965 đến 1967 lực lượng phòng không miền Bắc có 33 trung đoàn và 66 tiểu đoàn pháo cao xạ, 10 trung đoàn tên lửa đất đối không, hai trung đoàn không quân tiêm kích, bốn trung đoàn và một tiểu đoàn rađa. Lực lượng phòng không được bố trí thành thế trận liên hoàn đánh địch ở những độ cao khác nhau, vừa bảo đảm tác chiến rộng khắp, vừa có thể tập trung lực lượng tiến hành các chiến dịch tác chiến phòng không, bảo vệ những trọng điểm giao thông, những khu yếu địa của quốc gia. Để tiện cho việc chỉ huy thống nhất, hiệp đồng giữa các quân, binh chủng, giữa chủ lực và địa phương, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định thành lập các bộ tư lệnh phòng không ở Hà Nội, Hải Phòng, Quân khu IV, Hà Bắc...

Cùng với sự phát triển khối chủ lực, ngành hậu cần quân đội cũng nhanh chóng được tăng cường. Nhiều cán bộ hậu cần đã chuyển ngành sang công tác ở các cơ quan dân, chính, đảng được điều động trở lại quân đội. Đồng chí Đinh Đức Thiện, Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, người có nhiều kinh nghiệm chỉ huy hậu cần và vận tải trong những năm kháng chiến chống thực Pháp, được Chính phủ điều trở lại quân đội làm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Cơ quan tổng cục được tổ chức lại theo kiểu biên chế thời chiến: Cục Quân giới tách thành Cục Quân giới và Cục Quân khí; Cục Doanh trại thu hẹp lại; Cục Vận tải được tái lập; cơ quan tham mưu Tổng cục Hậu cần được chấn chỉnh, kiện toàn cho phù hợp với nhiệm vụ mới.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 03:09:25 pm

Bên cạnh bộ đội phòng không chủ lực, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ phát triển nhanh chóng. Năm 1964, dân quân, tự vệ chiếm 8% so với dân số miền Bắc. Tỷ lệ đó đến cuối năm 1965 tăng lên 10%. Những năm 1966, 1967, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ được tổ chức thành nhiều tiểu đoàn, đại đội pháo phòng không, được trang bị từ súng máy cao xạ 12,7mm, 14,5mm đến cao xạ 37mm, 100mm. Riêng dân quân, tự vệ có 2.000 đơn vị trực chiến trên toàn miền Bắc, sẵn sàng phối hợp chiến đấu cùng bộ đội. Dân quân, tự vệ là lực lượng nòng cốt để xây dựng, phát triển phong trào toàn dân bắn máy bay, tàu chiến Mỹ, làm công tác phòng không nhân dân và bảo đảm giao thông vận tải, bảo vệ trị an. Ở nông thôn, dân quân, tự vệ còn là lực lượng xung kích trong sản xuất, xây dựng, đặc biệt là ở những địa bàn địch thường xuyên đánh phá ác liệt.

Song song với lực lượng phòng không, lực lượng phòng thủ bờ biển cũng nhanh chóng được tăng cường, bao gồm các đơn vị pháo binh bờ đối biển của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ. Ngoài ra, ở các thôn, xã vùng ven biển, các đội tuần tra tăng nhanh về số lượng và tăng cường các hoạt động tuần tra, canh gác nhằm kịp thời phát hiện và đập tan mọi hoạt động đột nhập, phá hoại của biệt kích, thám báo.

Toàn bộ lực lượng phòng không, phòng thủ biển trên miền Bắc được bố trí thành thế trận chiến tranh nhân dân cho phép quân dân miền Bắc thực hành phương châm tác chiến tiến công địch ở mọi nơi, mọi lúc và sáng tạo nhiều cách đánh mưu trí, táo bạo, hiệu quả cao, vô hiệu hoá được nhiều thủ đoạn đánh phá cũng như nhiều loại vũ khí, khí tài của máy bay, tàu chiến Mỹ trên vùng trời, vùng biển miền Bắc.

Các lực lượng vận tải và bảo đảm giao thông như công binh, vận tải quân sự, vận tải nhà nước, vận tải nhân dân... theo nhịp độ gia tăng của chiến tranh, cũng ngày càng lớn mạnh. So với năm 1965, đến năm 1968, số trung đoàn công binh trên miền Bắc tăng gấp 1,2 lần, số tiểu đoàn công binh tăng gấp 2 lần, số đại đội công binh tăng gấp 26 lần. Bên cạnh lực lượng tập trung, các tổ đội công binh của dân quân tự vệ cũng phát triển rộng khắp, đặc biệt dọc theo các tuyến giao thông huyết mạch. Các loại phương tiện bắc cầu, bảo đảm vượt sông đến năm 1968 tăng 2,6 lần so với năm 1965. Lực lượng vận tải quân sự của Bộ Quốc phòng, của các quân khu tăng từ 4 đến 5 lần. Lực lượng giao thông vận tải nhà nước cũng phát triển, trong đó, một bộ phận lực lượng được huy động vào công tác vận tải quân sự. Ngoài ra, các đội thuyền nan, bè, mảng, xe thồ... của nhân dân với phương thức kết hợp vận tải cơ giới với vận tải thô sơ chuyển tải hàng hoá qua những vùng trọng điểm, nơi địch thường xuyên lùng sục, đánh phá, phong toả bằng nhiều thủ đoạn, nhiều loại bom đạn hòng ngăn chặn, cắt đứt, làm ngừng trệ mạch máu giao thông vận tải trên miền Bắc. Đặc biệt, dọc theo các tuyến giao liên, nhân dân các địa phương với ý thức giác ngộ chính trị cao, với tinh thần tất cả vì miền Nam ruột thịt, đã tự nguyện nhường cơm và tạo mọi thuận lợi cho bộ đội nghỉ chân trên đường hành quân vào Nam chiến đấu. Tấm lòng của các mẹ, các chị, các em thiếu nhi... dành cho bộ đội ở những miền quê các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình - nơi các anh đi qua là nguồn động viên, thôi thúc các anh trong chiến đấu, công tác.

Những tháng đầu năm 1965, bị lực lượng phòng không, phòng thủ bờ biển của ba thứ quân trên miền Bắc hiệp đồng chiến đấu, bắn rơi nhiều máy bay, tàu chiến và bắt sống nhiều giặc lái, không quân Mỹ tiến hành đánh phá dữ dội vào hè thống rađa cảnh giới của ta. Những ngày cuối tháng 3-1965, máy bay Mỹ đánh trạm rađa Mũi Lay (Vĩnh Linh), trạm rađa 530, 550 (Đèo Ngang) của hải quân và các trạm rađa của bộ đội Phòng không - Không quân ở Hà Tĩnh. Đặc biệt, ngày 26-3-1965, 70 lần chiếc máy bay Mỹ cất cánh từ các hạm tàu Hencốc và Cônanxi thay nhau tiến công Bạch Long Vĩ, một đảo nhỏ có vị trí quan trọng ở Vịnh Bắc Bộ, nơi đặt các trạm rađa và thông tin mà Mỹ đánh giá là rất lợi hại. Cán bộ, chiến sĩ trên đảo đã chiến đấu quyết liệt, bắn tan xác bốn máy bay. Sau này, viên trung tướng Mỹ Mátcơn Kegôn trong bài viết đăng trên Tạp chí Hải quân Mỹ số tháng 2-1972 cho biết: “Bốn trong sáu máy bay (Mỹ) vừa đến mục tiêu đã bị bắn rơi. Hai phi công chết ngay trong buồng lái. Trung tá Haxítxơ chỉ huy VA.155 nhảy dù ra được. Trung tá Đơncơlây chỉ huy VA.154 bị bắn rơi xuống cách đảo bốn dặm về phía bắc. Vì nhảy dù ở độ thấp và lộn ngược với tốc độ 400 hải lý/giờ nên ông ta bị vỡ bả vai và đốt xương sống cổ. Trung tá Mơngiloócde chỉ huy VA.153 cũng bị trúng đạn. Còn các phi công khác đã vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa”.

Ngày 22-5-1965, máy bay Mỹ oanh tạc hai tàu đánh cá Việt Xô ở ngoài khơi cách bờ biển xã Hải Thịnh, huyện Hải Hậu (Nam Định) 15 km, một tàu trúng đạn bốc cháy. Thuỷ thủ trên tàu phát tín hiệu cấp cứu. Nhận được tín hiệu, xã đội Hải Thịnh cho một trung đội dân quân 13 người và hai thuyền gắn máy do xã đội phó Phan Minh Ích và Chính trị viên xã đội Nguyễn Hữu Tước chỉ huy, vượt qua làn đạn bắn chặn của địch, tiếp cận chiếc tàu bị nạn. Ta quăng phao cho các thuỷ thủ đang trôi nổi trên biển bám vào. Ba mươi thuỷ thủ Liên Xô và Việt Nam được cứu thoát. Dân quân leo lên tàu bị cháy, phát hiện bảy thương binh và hai từ sĩ trong tàu đã đưa họ vào bờ an toàn.

Ở các đảo vùng ven biển Khu IV như Hòn Nẹ, Hòn Mê, Hòn Ngư, Hòn Mát, đặc biệt là Cồn Cỏ, cuộc chiến đấu chống không quân và hải quân Mỹ ngày càng trở nên quyết liệt. Máy bay và tàu chiến địch liên tục đánh phá, uy hiếp các hòn đảo này, ngăn chặn sự tiếp tế từ bờ ra đảo. Cuộc sống và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trên đảo gặp muôn ngàn gian khổ, hy sinh. Trong những thời điểm căng thẳng nhất, khi máy bay địch ngày đêm gầm rú, lồng lộn đánh phá, các chiến sĩ đảo Cồn Cỏ nguyện “thà hy sinh, quyết không để đảo lọt vào tay quân thù”. Để bảo vệ đảo, cán bộ, chiến sĩ ta đã quyết định: “Công sự hoá toàn đảo, toàn năng hoá mọi người”. Toàn bộ cuộc sống trên mặt đảo được chuyển xuống lòng đất. Mọi người trên đảo luyện tập sử dụng thành thạo mọi vũ khí, khí tài có trên đảo. Để khắc phục sự bao vây, phong toả của địch, chiến sĩ Cồn Cỏ tổ chức trồng rau, bắt cua, câu cá... cải thiện bữa ăn.

Ở đất liền, nhân dân tuyến lửa Khu IV, đặc biệt là Vĩnh Linh, luôn hướng ra đảo, lập các đội cảm tử vượt biển tiếp tế cho đảo. Những năm tháng ấy, các Đoàn văn công Tổng cục Chính trị, Đoàn văn công Quân khu IV và nhiều nhà văn, nhà quay phim, họa sĩ... được Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cử ra phục vụ và viết về cuộc sống, chiến đấu của bộ đội trên đảo. Đồng thời, hàng vạn bức thư của học sinh, sinh viên... từ khắp mọi miền Tổ quốc gửi ra động viên, thăm hỏi, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ đảo Cồn Cỏ lập công.

Giữa muôn trùng sóng, Cồn Cỏ vẫn vững vàng trước bom đạn đánh phá ác liệt của quân thù, xứng đáng với niềm tin cậy của nhân dân cả nước.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 03:14:59 pm

Bị giáng trả mãnh liệt, đặc biệt sau thất bại nặng trong hai ngày 3 và 4-4-1965 khi đánh phá ồ ạt cầu Hàm Rồng, Đò Lèn, Phà Ghép, Hoàng Mai... những trọng điểm trên tuyến giao thông Bắc - Nam thuộc địa bàn Khu IV, từ giữa tháng 4 đến tháng 5-1965, địch chuyển sang hoạt động phân tán, khống chế hệ thống mục tiêu giao thông trên địa bàn Quân khu IV. Tháng 6-1965, phạm vi đánh phá của máy bay Mỹ vượt quá Vĩ tuyến 20 và lan rộng ra khắp nơi trên miền Bắc với cường độ ngày càng ác liệt. Mục tiêu oanh tạc của địch là công trình quân sự, các cơ sở kinh tế, đặc biệt là hệ thống giao thông. Trong tháng 6-1965, cầu cống, nhà ga trên tuyến đường bộ, đường sắt phía nam sông Hồng bị đánh phá và bắt đầu từ tháng 7-1965 thêm tuyến đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lào Cai, tuyến đường Hoà Bình - Lạng Sơn, Hà Nội - Hải Phòng, Đông Triều - Hòn Gai... cũng bị địch đánh phá.

Kiên quyết đánh bại bước leo thang chiến tranh mới của Mỹ, lực lượng phòng không ba thứ quân vừa tác chiến rộng khắp, vừa mở các đợt tác chiến tập trung. Tại các địa bàn trọng điểm, quy mô tổ chức lực lượng phòng không từ trung đoàn đã phát triển thành sư đoàn với thành phần chiến đấu gồm hoả lực pháo cao xạ, tên lửa đất đối không...

Ngày 24-7-1965, bộ đội tên lửa phòng không lần đầu tiên ra quân hiệp đồng với một số trung đoàn cao xạ, bắn hạ ba máy bay F4 ở độ cao 7.000 m trên vùng trời Bất Bạt (tỉnh Hà Tây). Với chiến công đầu này, ngày 24-7-1965 trở thành ngày truyền thống của Binh chủng tên lửa Quân đội nhân dân Việt Nam. Chiến công ngày 24-7-1965 mở ra khả năng mới, cho phép bộ đội phòng không, với hình thức cụm tác chiến cơ động tên lửa - cao xạ, tổ chức đánh địch có hiệu quả cao, bảo vệ vững chắc các khu vực mục tiêu trọng điểm.

Sau trận thắng ngày 24-7-1965 của bộ đội tên lửa phòng không, Thường vụ Đảng uỷ Quân chủng Phòng không - Không quân chủ trương: trong khi tăng cường khả năng bảo vệ yếu địa và các trọng điểm trên các tuyến giao thông chiến lược, đồng thời tích cực tổ chức lực lượng, kết hợp tên lửa và pháo phòng không cơ động đánh địch trên các hướng để tiêu diệt địch từ xa, uy hiếp tinh thần giặc lái, từng bước hạn chế hoạt động của địch; tích cực tranh thủ thời cơ đưa các đơn vị pháo phòng không mới xây dựng cơ động đánh địch để rèn luyện.

Thực hiện chủ trương đó, từ đầu tháng 8-1965 trở đi, các cụm tiền phương của bộ đội phòng không lần lượt ra đời. Cụm tiền phương 1 cơ động tác chiến trên hướng Phú Thọ - Yên Bái, lực lượng gồm ba trung đoàn, một tiểu đoàn, sáu đại đội độc lập pháo cao xạ và hai tiểu đoàn tên lửa. Cụm tiền phương 2 cơ động tác chiến trên hướng nam Hà Nội, Nam Hà, Ninh Bình; lực lượng gồm bốn trung đoàn cao xạ, hai tiểu đoàn tên lửa. Cụm tiền phương 3 cơ động tác chiến trên hướng đông bắc, lực lượng gồm một trung đoàn, hai tiểu đoàn, hai đại đội pháo cao xạ.

Các cụm tiền phương đã nhanh chóng xây dựng và hoàn chỉnh phương án đánh địch trên hướng được phân công. Ở Cụm tiền phương 1, từ đầu tháng 8-1965, các đơn vị đã tổ chức chiến đấu trên đường số 2 lên tới Yên Bái. Trên hướng Cụm tiền phương 2, liên tiếp các ngày 10, 13, 24 tháng 8-1965, các đơn vị tên lửa cùng lực lượng cao xạ đã đánh trả mãnh liệt, hạ nhiều máy bay Mỹ trên vùng trời Xích Thổ, Đồng Giao (tỉnh Ninh Bình). Vùng Đông Bắc, từ cuối tháng 8-1965, máy bay Mỹ leo thang đánh phá giao thông từ Hà Bắc tới Lạng Sơn. Trên đường 5 Hà Nội - Hải Phòng, địch đánh phá dữ dội khu vực cầu Lai Vu, Phú Lương... Sáng 20- 9-1965, hàng chục lần chiếc máy bay A.4 và F.4 ném bom cầu Sông Hoá trên tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn. Biên đội MIG.17 của Đoàn không quân 921 do Biên đội trưởng Phạm Ngọc Lan dẫn đầu được lệnh xuất kích đánh địch, đã bắn hạ một máy bay F.4. Kế đó, chờ cho không quân ta ra khỏi khu vực hoả lực, Tiểu đoàn tên lửa 83 thuộc Trung đoàn tên lừa 238 phóng ba quả đạn, hạ một máy bay A.4. Số máy bay địch còn lại hạ thấp độ cao liền bị hoả lực tầm thấp, tầm trung của chủ lực, dân quân tự vệ Hà Bắc chặn đánh quyết liệt, một chiếc A.4 nữa bị bắn rơi.

Những tháng cuối năm 1965, địch tập trung đánh phá các mục tiêu trên đường số 1 ở phía bắc Hà Nội, đường số 5 và khu vực Quảng Ninh. Nhiều trận chiến đấu ác liệt diễn ra ở khu vực cầu Lai Vu, Phú Lương, Uông Bí, Hàm Rồng, Đồng Giao... Các đơn vị thuộc Cụm tiền phương 2 và 3 đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng phòng không tại chỗ đánh trả mãnh liệt, tiêu diệt một số máy bay.

Kết thúc năm 1965 có 834 chiếc Thần sấm, Con ma của không quân và hải quân Mỹ đã bị lực lượng phòng không ba thứ quân bắn hạ trên vùng trời miền Bắc, trong đó, các tháng 4, 9, 10 là những tháng máy bay Mỹ bị bắn rơi nhiều nhất1.
____________________________________
1. Tháng 4 ta bắn rơi 163 chiếc; tháng 9 bắn rơi 111 chiếc, tháng 10 bắn rơi 105 chiếc.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 03:16:51 pm

Bước sang năm 1966, năm thứ hai kể từ khi cuộc chiến tranh cục bộ bắt đầu, để hỗ trợ cho cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất của quân Mỹ trên chiến trường miền Nam, không quân và hải quân Mỹ tăng cường nhịp độ, mở rộng quy mô đánh phá hệ thống giao thông miền Bắc. Máy bay ném bom chiến lược B52 bắt đầu được sử dụng trên vùng trời miền Bắc. Hai ngày 14 và 27-4-1966, các tốp B.52 đã dội bom xuống khu vực đèo Mụ Giạ và trục đường 12 tây Quảng Bình hòng cắt đứt tuyến vận chuyển của ta qua biên giới Việt - Lào vào tuyến vận tải chiến lược 559. Ngoài đánh cắt giao thông, không quân Mỹ còn tăng cường sục sạo tìm đánh phá các trận địa rađa, tên lửa, các khu công nghiệp miền Bắc: Nhà máy điện Uông Bí, Nhà máy điện Cao Ngạn, Mỏ than Cẩm Phả, Khu gang thép Thái Nguyên...

Hè - Thu 1966, lợi dụng yếu tố thời tiết, máy bay địch tập trung đánh phá hệ thống dự trữ nhiên liệu của ta ở Đức Giang (Hà Nội), Thượng Lý (Hải Phòng), Kim Môn (Hải Dương), Nam Định, Thái Nguyên, Bố Hạ (Hà Bắc), Thanh Hoá, Nghệ An... Cùng lúc, hải quân Mỹ mở rộng phạm vi đánh phá, ngăn chặn vùng ven bờ từ vĩ tuyến 17 lên vĩ tuyến 18. Những tháng cuối năm, vùng ven Hà Nội bắt đầu bị máy bay Mỹ uy hiếp trực tiếp.

Cuộc chiến tranh phá hoại diễn ra ngày càng ác liệt hơn. Toàn bộ hệ thống mục tiêu quân sự, dân sự, kể cả hệ thống đê đập bệnh viện, trường học, chợ búa, khu đông dân cư... đều bị máy bay Mỹ ném bom, bắn phá dữ dội1.

Trong khi đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam, chính quyền Mỹ cũng ráo riết thực hiện các nỗ lực ngoại giao nhằm che giấu các hành động chiến tranh của chúng. Bên cạnh việc xúc tiến và duy trì các cuộc tiếp xúc bí mật với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa qua trung gian, phía Mỹ vẫn bám giữ lập trường đàm phán trên thế mạnh bằng cách buộc miền Bắc Việt Nam phải chấm dứt sự chi viện cho cách mạng miền Nam. Nôen năm 1965, không quân Mỹ được lệnh ngừng các hoạt động đánh phá miền Bắc một số ngày. Mỹ xem đó là “thiện chí vì hoà bình” của họ (!). Về thực chất, vẫn như những đợt tạm ngừng ném bom trước đó, đây chỉ là thủ đoạn quen thuộc của phía Mỹ nhằm mục đích tuyên truyền để che giấu thái độ và hành động hiếu chiến, phi nghĩa của Mỹ trước sự lên án, phản đối của nhân dân thế giới và nhân dân Mỹ. Tổng thống Mỹ L.Giônxơn còn gửi thư cho các nguyên thủ nhiều quốc gia trên thế giới và cử phái viên tới nhiều nước nhằm giải thích lập trường 14 điểm của Mỹ trong việc giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam nhằm tranh thủ sự ủng hộ của thế giới. “Ngoài những phái đoàn Hariman và Gônbéc, chính quyền (Giônxơn) đã cử Phó Tổng thống Hămbrây đến Philíppin và Ấn Độ, trợ lý ngoại trưởng G.Mennen Uyliam và Thômát Man tới châu Phi và Mỹ Latinh. Họ đã công bố mong muốn bắt đầu các cuộc hoà đàm của Oasinhtơn. Đinrớt (Ngoại trưởng Mỹ) cũng ban hành một chương trình 14 điểm mời Bắc Việt Nam tham gia “các cuộc đàm phán không có điều kiện tiên quyết”2.

Cùng thời gian trên, phái viên của Tổng thống Mỹ đã có cuộc tiếp xúc với Tổng lãnh sự Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Rănggun (Mianma) và đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Mátxcơva. Thông qua các thủ đoạn ngoại giao trên đây, một mặt phía Mỹ muốn thăm dò thái độ của Đảng và Chính phủ ta, mặt khác Mỹ muốn đổ lỗi cho Việt Nam là không thiện chí để che giấu hành động chiến tranh xâm lược của chúng. Vậy mà, Mắc Namara lại coi đó là một “cơ hội hoà bình” bị bỏ lỡ (!).

Để tỏ rõ ý chí độc lập, tự do không lay chuyển của nhân dân Việt Nam và nêu cao chính nghĩa của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, ngày 24-1-1966, trong bức thư gửi các vị đứng đầu các nước xã hội chủ nghĩa, các nước liên quan tới Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, các nước không liên kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại lời tuyên bố của Chính phủ Mỹ tại Hội nghị Giơnevơ 1954 là cam kết tôn trọng các thoả ước mà các bên đã ký kết tại Hội nghị, và vạch rõ: “Mỹ nói tôn trọng Hiệp định Giơnevơ. Nhưng một trong những điều khoản chủ yếu của Hiệp định đó là cấm đưa quân đội nước ngoài vào Việt Nam. Nếu họ thật tôn trọng Hiệp định đó thì họ phải rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khói miền Nam Việt Nam”3. Người khẳng định: “Thực chất 14 điểm của Mỹ là Mỹ cố bám lấy miền Nam Việt Nam, cố duy trì chính quyền bù nhìn do Mỹ nặn ra ở miền Nam Việt Nam, cố chia cắt lâu dài nước Việt Nam...

Rõ ràng chiến dịch “đi tìm hoà bình” của Mỹ chỉ nhằm che giấu âm mưu tăng cường chiến tranh xâm lược của họ. Lập trường của Chính phủ Giônxơn vẫn là xâm lược và mở rộng chiến tranh”4

Cũng trong dịp này, tại các cuộc tiếp xúc với một số đại diện trung gian của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chỉ rõ: Việc Mỹ “ngừng ném bom” nhân lễ Nôen 1965 chỉ là để lừa bịp dư luận trong nước và trên thế giới đang phản đối Mỹ ngày càng tăng; còn thực chất, Mỹ chưa sẵn sàng “chấm dứt” chiến tranh, giới cầm quyền Mỹ vẫn âm mưu dùng sức mạnh quân sự hòng khuất phục nhân dân Việt Nam, buộc Việt Nam phải thương lượng theo điều kiện do Mỹ áp đặt.
____________________________________
1. Theo cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara: “Các cuộc không kích chống lại Bắc Việt Nam tăng lên từ 25.000 vụ năm 1965 lên 79.000 vụ năm 1966 và 108.000 vụ năm 1967, và số lượng bom đạn ném xuống đây tăng từ 63.000 tấn lên 136.000 tấn, rồi 226.000 tấn”. Nhưng: “việc ném bom đã không đạt được các mục tiêu cơ bản của nó: trong khi chiến dịch “sấm rền” được đẩy mạnh, tình báo Mỹ dự đoán rằng, số quân xâm nhập vào miền Nam tăng từ khoảng 35.000 trong năm 1965 lên 90.000 trong năm 1967, trong khi đó, ý chí của Hà Nội tiếp tục cuộc chiến đấu rất vững chắc” (Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam).
2. R.S.Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.229.
3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. t.12, tr.31 - 32.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 03:27:17 pm

Giữa những ngày cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc đang diễn ra vô cùng quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lời kêu gọi ngày 17-7-1966 đã khẳng định mạnh mẽ: “Gần đây, giặc Mỹ điên cuồng leo thang thêm một bước rất nghiêm trọng: chúng bắn phá ngoại ô Hà Nội và Hải Phòng. Đó là hành động tuyệt vọng của chúng, khác nào con thú dữ bị thương nặng, giãy giụa một cách hung tợn trước hơi thở cuối cùng.

Giônxơn và bè lũ phải biết rằng: chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. Chúng càng hung hăng thì tội của chúng càng thêm nặng. Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”1. Người chỉ rõ những nhân tố bảo đảm cho sự thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ: “Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết của toàn dân từ Bắc đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ cả thế giới, chúng ta nhất định thắng!

Trước tình hình mới, chúng ta quyết đồng tâm nhất trí, vượt mọi gian khổ hy sinh, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ lịch sử vẻ vang của dân tộc ta là đánh thắng giặc Mỹ xâm lược!2.

Theo Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, mùa hè nóng bỏng 1966, gần 20 vạn thanh niên ở hậu phương lớn miền Bắc tình nguyện gia nhập quân đội.

Trên mặt trận chống chiến tranh phá hoại, bộ đội phòng không không quân tăng cường luyện tập, rút kinh nghiệm, bàn bạc cách đánh, cách chống nhiễu... Tháng 2-1966, Quân uỷ Trung ương ra nghị quyết chỉ rõ: “Trên miền Bắc, cần phát triển hơn nữa lực lượng phòng không, công binh và vận tải nhằm đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại ở mức độ cao và ác liệt của địch, giữ vững các tuyến giao thông chiến lược, thực hiện đầy đủ mọi kế hoạch chi viện cho miền Nam, chuẩn bị tốt cho các lực lượng vào chiến trường chiến đấu và động viên mở rộng lực lượng khi cần thiết”3. Thực hiện nghị quyết của Quân uỷ Trung ương, những tháng đầu năm 1966, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân tập trung nghiên cứu về việc lãnh đạo, chỉ huy một quân chủng kỹ thuật nhằm không ngừng tăng cường hơn nữa sức chiến đấu và khả năng hoàn thành nhiệm vụ của toàn quân chủng. Thường vụ Đảng uỷ Quân chủng chỉ đạo Cục Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần tổ chức các hội nghị rút kinh nghiệm về cách đánh, về biện pháp lãnh đạo, tổ chức, về bảo đảm hậu cần, kỹ thuật. Để giúp Bộ Tư lệnh Quân chủng chỉ huy tập trung, thống nhất tất cả các khu vực tác chiến phòng không trên miền Bắc, Cục Tham mưu được tổ chức thành Bộ Tham mưu, Cục Hậu cần được chia thành hai cục: Cục Hậu cần và Cục Kỹ thuật. Tháng 6-1966, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định tổ chức toàn bộ lực lượng phòng không chủ lực trên miền Bắc thành năm sư đoàn, trong đó bốn sư đoàn làm nhiệm vụ bảo vệ các khu vực yếu địa và một sư đoàn làm nhiệm vụ cơ động. Theo đề nghị của Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập thêm Trung đoàn rađa dẫn đường 293 gồm 10 đại đội. Tiếp đó, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập thêm ba trung đoàn tên lửa đất đối không 261, 263 và 267. Lúc này, Bộ Tư lệnh tên lửa phòng không đang được khẩn trương xúc tiến thành lập. Với lực lượng bảo vệ bờ biển, hải đảo, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo các quân khu đẩy nhanh việc xây dựng các đơn vị pháo binh của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Vì thế, ba trung đoàn pháo xe kéo thuộc các sư đoàn bộ binh 324, 325, 341 cùng với ba đại đội pháo binh bờ đối biển trực thuộc Quân chủng Hải quân được chuyển thành các tiểu đoàn, các đại đội pháo binh thuộc các tỉnh ven biển. Ở các tỉnh ven biển Khu IV, dân quân tự vệ còn tổ chức các đội đánh nước mà phạm vi hoạt động là vùng khơi xa. Các đội này phối hợp chặt chẽ với pháo binh bờ để đánh đuổi tàu biệt kích.

Với những nỗ lực trên đây, ba tháng đầu năm 1966, lực lượng phòng không, phòng thủ biển của ba thứ quân miền Bắc đã lập nhiều chiến công, bắn hạ nhiều máy bay, bắn chìm một số tàu chiến Mỹ. Trong chiến công chung, các đơn vị tên lửa và pháo phòng không đã phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với lực lượng tại chỗ liên tục chiến đấu, giữ vững mạch máu giao thông trên địa bàn nam Quân khu IV. Trên vùng biển Quân khu IV, đêm 8-1-1966, tàu chiến quân đội Sài Gòn xâm phạm vùng biển Sầm Sơn (Thanh Hoá), phi công Phan Như Cẩn, Đoàn không quân 919 cùng tổ chiến đấu đã lái chiếc máy bay AN-2 ném bom đánh chìm chiếc tàu biệt kích địch. Khi từ biển bay về, máy bay bị trục trặc kỹ thuật, anh đã khéo léo hạ cánh xuống bãi biển, bảo đảm an toàn cho cả tổ bay và máy bay. Đây là trận tác chiến không - biển đầu tiên thắng lợi của Không quân nhân dân Việt Nam trên vùng biển.

Tính đến ngày 30-4-1966, lực lượng phòng không miền Bắc đã bắn rơi 1.005 máy bay các loại, bắt sống một số giặc lái Mỹ.
____________________________________
1, 2. Sđd, t. 12, tr. 108- 109.
3. Nghị quyết Quân uỷ Trung ương: Về tình hình và nhiệm vụ năm 1966, bản sao lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 03:29:04 pm

Mặc dù bị thất bại liên tiếp trên cả hai miền Nam - Bắc Việt Nam, đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục leo thang chiến tranh ngày càng ác liệt hơn. Chúng đưa Tập đoàn không quân số 7 mới thành lập tháng 4-1966 vào tăng cường đánh phá miền Bắc. Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của nhân dân ta ngày càng gay go, quyết liệt. Đó không chỉ là cuộc đọ sức thuần tuý mà còn là cuộc đọ ý chí, trí thông minh giữa Việt Nam với đế quốc Mỹ.

Từ tháng 5-1966 trở đi, bên cạnh việc gia tăng cường độ đánh phá toàn bộ các mục tiêu quân sự, dân sự trên miền Bắc, Tổng thống Mỹ L.Giônxơn ra lệnh ném bom hệ thống kho nhiên liệu của ta, nhằm làm tê liệt hoạt động của miền Bắc, buộc Đảng, Chính phủ và nhân dân ta nao núng ý chí quyết tâm đánh Mỹ.

Trước âm mưu và hành động tăng cường chiến tranh của địch, Quân chủng Phòng không - Không quân quyết định đưa tên lửa vào hoạt động trong địa bàn Quân khu IV; tổ chức các cụm chiến đấu cơ động dọc theo quốc lộ 1 phía bắc và phía nam Hà Nội và các tỉnh Hà Bắc, Thái Nguyên, vừa để bảo vệ giao thông, vừa sẵn sàng cơ động về bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng.

Từ ngày 29-6-1966, nhiều tốp máy bay địch mở các cuộc tiến công vào kho xăng Đức Giang, Đông Anh, Thượng Lý... Những ngày đầu, lực lượng phòng không mặt đất đánh trả chưa có hiệu quả. Cả hai kho Đức Giang và Thượng Lý đều bị tổn thất. Một số đơn vị đang cơ động tác chiến vòng ngoài được điều gấp về tăng cường bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng. Trong khi đó, một số đơn vị bộ đội tên lửa được lệnh cơ động vào sâu trong Quân khu IV, tới Vĩnh Linh, Quảng Bình để nghiên cứu cách đánh máy bay B.52. Trên đường hành quân, các đơn vị này liên tiếp tham gia đánh địch ở Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hoá, Vinh, Hà Tĩnh,... bắn tan xác một số máy bay Mỹ. Ở Khu vực xung quanh Hà Nội, Hải Phòng, nhiều trận đánh diễn ra liên tiếp, ác liệt. Ngày 19-7-1966, nhiều tốp máy bay lao tới đánh khu vực cầu Giẽ, Vạn Điểm, kho dầu Đông Anh... Các đơn vị tên lửa, pháo phòng không và không quân đã hiệp đồng chặt chẽ, chiến đấu anh dũng, bắn hạ một số máy bay địch. Sau cuộc chiến đấu, Tiểu đoàn 61 Trung đoàn tên lửa 236 được công nhận là đơn vị đầu tiên bắn rơi tại chỗ máy bay Mỹ và được nhận cờ “Làm theo lời Bác, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

Sau trận đánh ở nam - bắc Hà Nội, lực lượng phòng không trên các hướng đều liên tiếp lập công. Ngày 20-7-1966, Tiểu đoàn tên lửa 72 thuộc Trung đoàn tên lửa 285 bố trí trận địa ở Vô Tranh, bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay trinh sát điện tử EB66. Những ngày đầu tháng 8-1966, các đơn vị tên lửa bố trí ở Thái Nguyên, Vĩnh Phú đều bắn rơi máy bay. Trong hai trận chiến đấu ngày 2-8-1966, lực lượng phòng không Hải Phòng trong năm phút chiến đấu đã bắn tan xác năm máy bay, riêng Trung đoàn pháo phòng không 252 do Trung đoàn trưởng Lâm Văn Kiếm chỉ huy đã hạ bốn chiếc. Thời kỳ này, trung bình mỗi tháng, hàng chục chiếc máy bay các loại của không quân và hải quân Mỹ bị bắn rơi. Chỉ tính từ ngày 17-7 đến ngày 17-8-1966, đã có 138 máy bay Mỹ bị đền tội.

Sau hơn một tháng ném bom hệ thống kho dầu của ta, cơ quan tình báo quốc phòng Mỹ báo cáo là 70% khả năng xăng dầu của Bắc Việt Nam bị tiêu huỷ. Những người cầm quyền Mỹ rất phấn khởi khi nhận được tin này. Song, mùa Hè đi qua, miền Bắc Việt nam vẫn có đủ xăng dầu để bảo đảm mọi hoạt động bình thường và tăng cường chi viện cho miền Nam. Vì nhiên liệu nhập từ Liên Xô, Trung Quốc, quân và dân miền Bắc đã chứa vào các phuy và bể, phân tán khắp các vùng nông thôn và dọc hai bên đường số 1, trên các nẻo đường liên tỉnh hướng vào Nam. Đánh phá hệ thống kho nhiên liệu ở miền Bắc là bước leo thang quan trọng trong cuộc chiến tranh không quân của Mỹ, nhưng rõ ràng là “việc oanh tạc các kho dầu đã thất bại, v.v... Không có bằng chứng gì chứng tỏ Bắc Việt Nam đã có thời kỳ khốn đốn về dầu”1.

Tháng 9-1966, địch tập trung đánh phá dữ dội tuyến đường 1 từ Ninh Bình đến Thanh Hoá. Sư đoàn phòng không cơ động 367 cùng bộ đội tên lửa và các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân tự vệ đã chiến đấu hàng trăm trận, hạ 24 máy bay, bảo vệ nhiều mục tiêu trên tuyến giao thông huyết mạch này. Năm 1966 có 773 chiếc máy bay Mỹ bị bắn hạ trên vùng trời miền Bắc.

Bước sang năm 1967, năm có tầm quan trọng chiến lược đối với ta và địch, không quân Mỹ tập trung đánh vào sáu hệ thống mục tiêu trên miền Bắc: điện lực, công nghiệp, giao thông vận tải, kho dự trữ nhiên liệu, sân bay và các trận địa phòng không, các cơ sở quân sự. Tháng 2-1967, Tổng thống Mỹ L.Giônxơn chuẩn y đề nghị của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, cho phép mở rộng phạm vi đánh phá trong khu vực Hà Nội, Hải Phòng; tiến hành rải mìn trên các luồng sông, cửa biển; dùng hải quân khống chế gắt gao khu vực ven biển từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20. Để tăng sức uy hiếp từ biển, trong năm 1967, Mỹ huy động tới tám chiếc tuần dương hạm và tàu khu trục chuyên bắn vào các mục tiêu trên bờ biển miền Bắc. Các cuộc bắn phá của hải quân Mỹ ngày càng ác liệt, nhất là khu vực từ nam sông Gianh trở vào. Có những thời kỳ cao điểm, mỗi ngày, tàu địch dội vào đất liền hàng nghìn quả đạn pháo. Ngoài ra, máy bay B52 và pháo binh từ bờ nam sông Bến Hải đánh phá dữ dội khu vực Hồ Xá, Vĩnh Linh. Theo tính toán của một số tác giả Mỹ, đến cuối năm 1967, Mỹ đã ném xuống miền Bắc Việt Nam 1.630.000 tấn bom các loại2, nhiều hơn khối lượng bom đạn mà Mỹ ném xuống chiến trường châu Âu trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, gấp hai lần số bom ném xuống Triều Tiên, gấp ba lần số bom ném xuống chiến trường Thái Bình Dương trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. “Cái thác bom dội xuống Việt Nam đạt tới mức cứ mỗi dặm vuông hứng chịu tới 12 tấn ở cả miền Bắc và miền Nam, và khoảng 100 pao (50 kg) chia cho mỗi đầu người dân Việt Nam kể cả đàn bà và trẻ con mà rất nhiều người trong số họ không nặng tới trọng lượng đó, kể cả máu, thịt và xương!”3.
____________________________________
1. Tài liệu mật của Bộ quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, VNTTX phát hành, Hà Nội, 1971, t.2, tr.149.
2. Don Obocdoifer: Tết, Nxb. An Giang trích dịch, 1988, tr.55.
3. Tlđd. tr. 55.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 03:30:28 pm

Bom đạn Mỹ đã gây ra cho miền Bắc những tổn thất nặng nề. Cơ quan phân tích Cục Tình báo Trung ương Mỹ ước tính, chiến dịch Sấm rền của không quân Mỹ đã sát hại 13.000 người miền Bắc trong năm 1965, 24.000 người trong năm 1966 và khoảng 29.000 người trong năm 1967; phần lớn trong số đó là dân thường (80%)1. Số liệu thống kê của Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam cho biết, trong bốn năm chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ (1964-1968 ), 14.000 quân nhân và 60.000 dân thường miền Bắc đã bị bom đạn Mỹ giết hại2. Ngoài tổn thất về sinh mạng, miền Bắc còn bị thiệt hại nặng nề về vật chất, của cải. Hầu hết hệ thống giao thông, cầu, đường, nhà ga, kho tàng, bệnh viện và nhiều cơ sở kinh tế, nhiều công trình công cộng, kể cả một số hệ thống thuỷ lợi như đê điều, đập nước bị Mỹ đánh phá nhiều lần, trong đó 391 trường học, 92 cơ sở y tế, 149 nhà thờ, 79 ngôi chùa, 25 trong số 30 thị xã và ba trong năm thành phố trên miền Bắc bị phá huỷ.

Thế nhưng, dưới bom đạn đánh phá ngày đêm vô cùng ác liệt của máy bay, tàu chiến Mỹ, người hậu phương vẫn bền lòng, vững chí, đánh trả mạnh mẽ không quân, hải quân Mỹ, trừng trị đích đáng các hành động leo thang chiến tranh của chúng.

Tháng 2-1967, Quân uỷ Trung ương ra chỉ thị cho các lực lượng phòng không và phòng thủ biển miền Bắc: kiên quyết đánh bại các bước leo thang đánh phá bằng không quân, hải quân của địch và việc bảo vệ các tuyến giao thông phải được coi là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng vũ trang trong việc đánh bại chiến tranh phá hoại.

Thực hiện chỉ thị của Quân uỷ Trung ương, để tăng cường khả năng đánh trả không quân, hải quân Mỹ, bảo đảm giao thông thông suốt từ Bắc vào Nam, tháng 3-1967, Bộ Quốc phòng quyết định giải thể Bộ Tư lệnh Phòng không để thành lập Bộ Tư lệnh Binh chủng rađa, Bộ Tư lệnh binh chủng không quân, Bộ tư lệnh binh chủng tên lửa. Lúc này, Quân chủng Phòng không - không quân có 23 trung đoàn và 13 tiểu đoàn độc lập pháo phòng không, 10 trung đoàn tên lửa đất đối không, hai trung đoàn không quân tiêm kích, một trung đoàn không quân vận tải, bốn trung đoàn rađa gồm 37 đại đội.

Ba tháng đầu năm 1967, trời rét đậm. Thời tiết dù không thuận lợi, nhưng máy bay Mỹ vẫn tăng cường hoạt động đánh cắt giao thông, tập trung vào khu vực từ Ninh Bình đến Đò Lèn (Thanh Hoá). Những ngày cuối tháng 2-1967, pháo binh địch từ bờ nam sông Bến Hải bắn phá Hồ Xá, Vĩnh Linh; máy bay hải quân Mỹ rải thuỷ lôi ở cửa sông Cả, sông Gianh, sông Mã, sông Kiến Giang và Cửa Sót... Đồng thời, một bộ phận lực lượng của Tập đoàn không quân số 7 đánh phá các mục tiêu công nghiệp miền Bắc, đặc biệt là Khu gang thép Thái Nguyên, Khu công nghiệp Việt Trì, Nhà máy điện Hồng Gai, Nhà máy điện Bắc Giang...

Kiên quyết trừng trị các hành động leo thang chiến tranh của địch, Bộ Tổng tư lệnh và Bộ tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh cho Quân chủng Phòng không - Không quân và Binh chủng Pháo binh xây dựng phương án tác chiến và bố trí lực lượng bảo vệ thắng lợi các tuyến giao thông quan trọng, các khu công nghiệp trọng điểm; đồng thời dùng pháo binh tập kích căn cứ Dốc Miếu... ở bờ nam sông Bến Hải vừa để thăm dò phản ứng của Mỹ, buộc Mỹ phải bị động đối phó với ta ở phía bắc.

Thực hiện mệnh lệnh trên, các đơn vị pháo phòng không, hải quân, rađa, không quân của ta đã hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, đánh tan các cuộc không kích của máy bay Mỹ, bắn rơi hàng chục máy bay, bảo vệ tốt các mục tiêu. Cùng với bộ đội phòng không - không quân, Quân khu IV được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ sử dụng pháo binh trong biên chế tập kích căn cứ Mỹ ở Dốc Miếu, điểm cao 241, Cồn Tiên bờ nam sông Bến Hải. Trung đoàn 164 pháo xe kéo của Quân khu IV bố trí trận địa ở bờ bắc. Được sự giúp đỡ của nhân dân hợp tác xã Thuỷ Ba, Ty Giao thông Vĩnh Linh, chỉ trong thời gian ngắn, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn đã xây dựng xong trận địa và đo đạc cự ly lấy phần tử bắn, sẵn sàng chờ lệnh. Căn cứ 241, Cồn Tiên ở xa bờ bắc, pháo ta bắn không tới, nên Quân khu IV phối hợp với Quảng Trị bố trí trận địa bắn ở bờ nam, sẵn sàng hành động. Trước khi vào trận Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện căn dặn và động viên cán bộ, chiến sĩ. “Các chú đại diện cho lực lượng pháo binh miền Bắc xã hội chủ nghĩa đánh trả hành động leo thang phá hoại của pháo binh địch ở bờ nam. Vì vậy trận đầu, các chú phải đánh thắng”3. Xây dựng xong trận địa, bộ đội lại phải nằm chờ thời cơ gần một tháng. Chiều ngày 20-3-1967, thời cơ đã đến. Từ đài quan sát, các chiến sĩ trinh sát pháo binh báo về sở chỉ huy, địch dùng 149 lần chiếc máy bay lên thẳng đổ quân xuống Dốc Miếu và đưa thêm vào căn cứ này năm khẩu pháo lớn nhằm chuẩn bị cho cuộc hành quân càn quét sắp tới. Địch đổ xuống đông, nhưng công sự hầm ngầm trong căn cứ có hạn, nên lính Mỹ căng bạt, dù nằm la liệt trên mặt đất. Không bỏ lỡ thời cơ, Trung đoàn trưởng Nguyễn Cư và Chính uỷ Phạm Công Mạc ra lệnh nổ súng đánh vào Dốc Miếu. Hai nghìn quả đạn 105 và 130 mm dồn dập rơi xuống căn cứ địch. Dốc Miếu chìm trong khói lửa. Tiếp đó, Đại đội súng cối 82 thuộc Trung đoàn 270 Vĩnh Linh đã bố trí trận địa sẵn ở bờ nam, dội hàng trăm quả đạn vào bên trong căn cứ. Cùng lúc này, pháo hoả tiễn ĐKB, súng cối của ta ở bờ nam bắn cấp tập 1.000 quả đạn xuống điểm cao 241. Rạng sáng hôm sau, ngày 21-3-1967, pháo binh ta tiếp tục bắn phá mãnh liệt vào đoàn xe vận tải chở đầy lính đến ứng cứu cho căn cứ. Giữa lúc địch đang bị bất ngờ, choáng váng trước hoả lực pháo binh, súng cối của ta dội xuống, đêm 20-3, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 84 vượt sông Bến Hải, băng qua chặng đường 20 km, tập kết ở bãi cát Cường Gián, nã hàng trăm quả hoả tiễn H12 xuống khu vực đóng quân của lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Đông Hà. Đồng thời, trong đêm này, pháo binh đặt ở bờ nam bắn mạnh vào Tân Lâm, Cam Lộ, Cửa Việt, không cho chúng chi viện cho Dốc Miếu...

Kết thúc trận đánh, hàng trăm lính Mỹ và số lớn vũ khí và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy bị loại khỏi vòng chiến đấu; hệ thống hầm ngầm, công sự của địch ở Dốc Miếu bị hư hỏng nặng. Với trận đánh này, lần đầu tiên, lực lượng vũ trang miền Bắc chính thức tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Điều đó có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của quân dân miền Nam, làm cho Mỹ - ngụy vô cùng hoang mang, lo sợ. Biệt đoàn cảnh sát ngụy khu vực phía nam sông Bến Hải, sau trận đánh ngày và đêm 20-3-1967 trở nên khiếp đảm, không dám hoạt động...
____________________________________
1. Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, VNTTX phát hành, Hà Nội, 1971, t.2, tr.185.
2. Tập thống kê số liệu về kháng chiến chống Mỹ, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
3. Xem: Quân khu IV: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.194.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 03:31:38 pm

Tiếp đó, đêm 27-4-1967, pháo binh ta lại đồng loạt bắn phá căn cứ Cồn Tiên, Dốc Miếu, Dốc Sỏi, Gio Linh, Đông Hà, Cửa Việt, sát thương nhiều tên địch, phá huỷ, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh, thiêu huỷ một số kho nhiên liệu và đạn dược của chúng.

Trên mặt trận chống chiến tranh phá hoại, lực lượng phòng không ba thứ quân miền Bắc, bằng cách đánh sáng tạo, mưu trí, dũng mãnh, trong năm 1967, đã giáng trả quyết liệt và hiệu quả các đợt hoạt động của không quân Mỹ, bảo vệ vững chắc các mục tiêu, hạ nhiều máy bay, bắt sống giặc lái, trong đó quân và dân Hà Nội, Hải Phòng đã góp phần to lớn, xứng đáng với niềm tin yêu, trông đợi của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc.

Để có được chiến công đó, ngay từ những tháng đầu năm, song song với việc tổ chức đánh địch trên khắp các địa phương miền Bắc, Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trên cơ sở dự lường khả năng đánh phá Hà Nội, Hải Phòng của không quân Mỹ, chỉ đạo Quân chủng Phòng không - Không quân gấp rút tăng cường lực lượng, hoàn chỉnh phương án bảo vệ hai thành phố quan trọng này. Vì vậy, tại Hà Nội, trong thời gian ngắn đã hình thành một tập đoàn phòng không tương đối mạnh gồm tám trung đoàn pháo cao xạ, ba trung đoàn tên lửa đất đối không và hàng trăm đội trực chiến đánh máy bay tầm thấp của lực lượng dân quân, tự vệ ở Hải Phòng, ta bố trí một sư đoàn phòng không tăng cường, gồm ba trung đoàn pháo cao xạ và một trung đoàn tên lửa. Đội hình các trận địa tên lửa và cao xạ ở Hà Nội, Hải Phòng được bố trí xen kẽ liên hoàn từng cụm hoả lực, tạo nên các tuyến đánh địch từ xa đến gần và nhiều tầng hoả lực phối hợp với nhau chặt chẽ, bảo đảm vừa tập trung bảo vệ các mục tiêu trọng điểm là thành phố, vừa cơ động đánh địch ở các nơi khác theo yêu cầu.

Những tháng giữa năm 1967, các Trung đoàn 290, 291, 292 và 293 Binh chủng rađa triển khai thành thế trận bao quát và khép kín ở mọi độ cao trên vùng trời miền Bắc. Bổ trợ cho mạng lưới rađa là hệ thống trạm quan sát bằng mắt được tổ chức rộng khắp trên các hướng, từ núi rừng Tây Bắc, Việt Bắc, Đông Bắc đến vùng ven biển, hải đảo xa xôi...

Ngoài lực lượng phòng không quốc gia, lực lượng phòng không của các quân khu, các sư đoàn, các địa phương cũng lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng, sẵn sàng trong tư thế chiến đấu đánh thắng mọi âm mưu và hành động leo thang chiến tranh chống phá miền Bắc của đế quốc Mỹ.

Tháng 3-1967, máy bay địch tập trung đánh phá các khu công nghiệp ở Thái Nguyên, Việt Trì, Hà Bắc. Tiếp đó, ngày 20-4-1967, chúng mở đợt tiến công dữ dội thành phố Hải Phòng. Nhiều tốp máy bay A.4, A.6, F.4, F.8 từ hướng đông nam lao tới ném bom xuống trận địa phòng không, Nhà máy điện Cửa Cấm, Nhà máy sắt tráng men, Nhà máy xi măng, cầu Hạ Lý và một số khu phố ở Hồng Bàng, Ngô Quyền.

Do được chuẩn bị tốt, lực lượng phòng không bảo vệ thành phố cảng đã phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả, đánh trả mãnh liệt những tên giặc trời, bắn rơi năm chiếc máy bay. Thành tích đó của quân, dân Hải Phòng đã được Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam kịp thời biểu dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen. Trong thư, Người căn dặn: “Đồng bào, cán bộ và bộ đội không được vì thắng lợi mà chủ quan. Phải nâng cao cảnh giác làm tốt công tác phòng không nhân dân, đánh giỏi, thắng lớn hơn nữa”1.

Sau đợt đánh phá dữ dội Hải Phòng, từ ngày 24-4-1967, không quân Mỹ liên tiếp mở các đợt đánh phá nhằm vào Hà Nội, Hải Phòng. Ngày 24-4, năm máy bay Mỹ ném bom Hải Phòng, bị lực lượng phòng không của ta bắn cháy. Phối hợp với hoả lực phòng không mặt đất, trong ngày 19 và 25-5, không quân nhân dân Việt Nam xuất kích đánh địch trên vùng trời Hải Phòng, bắn rơi sáu máy bay.

Các đợt đánh phá Hà Nội, Hải Phòng trong tháng 4-1967 của không quân Mỹ không đạt được yêu cầu đề ra ban đầu. Ngày 2-5-1967, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ lệnh cho Tập đoàn không quân số 7 mở tiếp các đợt đánh phá mới. Mục tiêu trọng điểm của đợt đánh phá Hà Nội tháng 5-1967 là cầu Long Biên bắc qua sông Hồng, Nhà máy điện Yên Phụ. Âm mưu của Mỹ là cắt đứt mạch máu giao thông Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - các tỉnh biên giới Việt - Trung; đồng thời triệt nguồn năng lượng chủ yếu của Hà Nội và các tỉnh lân cận nhằm làm ngừng trệ sản xuất và gây khó khăn cho sinh hoạt của nhân dân thành phố.

Nhưng, Hà Nội đã bình tĩnh, chủ động đánh trả oanh liệt các đợt tiến công của không quân địch. Ngày 5-5-1967, lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ vùng trời Thủ đô đương đầu với hàng trăm lần chiếc máy bay Mỹ, bắn rơi tám chiếc, bảo vệ vững chắc các khu vực mục tiêu. Các Sư đoàn phòng không 361, 367 đã vận dụng tốt cách đánh máy bay địch bổ nhào bằng khí tài quang học và kính ngắm trực tiếp để khắc phục nhiễu, bắn rơi năm chiếc. Tiếp đó, ngày 12-5- 1967, không quân nhân dân Việt Nam được lệnh xuất kích đánh máy bay địch trên vùng trời Hoà Lạc ở phía tây Thủ đô, bắn cháy ba chiếc F.4D, bắt sống tên đại tá Noócman Gađixơ. Ngày 14-5-1967, hoả lực phòng không Hà Nội bắn rơi thêm năm máy bay Mỹ nữa. Cầu Long Biên vắt ngang dòng sông Hồng, nối Thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng vẫn được bảo vệ vững chắc. Nhà máy điện Yên Phụ vẫn tiếp tục hoạt động, truyền đi dòng điện thắp sáng Thủ đô và cung cấp cho các trạm bơm phục vụ nông nghiệp ở ngoại thành cùng các tỉnh lân cận. Ngày 19-5-1967, nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi tám lẵng hoa tặng những đơn vị lập công xuất sắc trong tháng 5-1967. Đó là nguồn cổ vũ to lớn đối với lực lượng bảo vệ Hà Nội. Ngay buổi sáng hôm đó, ngày 19-5, các đơn bị tên lửa và pháo phòng không đã hạ bảy máy bay Mỹ. Buổi chiều, thực hiện kế hoạch hiệp đồng chiến đấu, hai biên đội MIG.17 của Trung đoàn không quân 923 cất cánh từ sân bay Gia Lâm lên đánh địch, bắn rơi hai chiếc F.4B. Ngay sau đó, một máy bay trinh sát A3.J bị trúng đạn của hoả lực phòng không mặt đất bốc cháy trên bầu trời Hà Nội, xác đâm xuống đường phố Lê Trực. Kết thúc ngày 19-5-1967, lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội bắn rơi 10 chiếc, hầu hết đều rơi tại chỗ. Với những chiến công đó, sau ngày 19-5, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất cho quân, dân Hà Nội và gửi thư khen ngợi thành tích chiến đấu sản xuất của đồng bào, chiến sĩ, cán bộ, công nhân viên Thủ đô. Hồ Chủ tịch không chỉ động viên khen thưởng kịp thời mỗi khi cán bộ, chiến sĩ lập công xuất sắc, mà còn quan tâm đến cuộc sống sinh hoạt thường nhật của cán bộ, chiến sĩ đang sẵn sàng chiến đấu trên mâm pháo giữa những tháng hè nóng bức. Vào một buổi trưa tháng 7-1967, trời nắng nóng như thiêu như đốt, Bác cử đồng chí Vũ Kỳ leo lên nóc Hội trường Ba Đình, nơi có khẩu đội súng máy cao xạ 14,5 mm đang trực chiến, kiểm tra xem bộ đội sinh hoạt như thế nào rồi về báo cáo cho Bác biết. Sau khi nghe đồng chí Vũ Kỳ báo cáo lại, Bác đã rút toàn bộ số tiền tiết kiệm do các báo nước ngoài trả nhuận bút cho Bác, gửi tại Ngân hàng Hoàn Kiếm được 25.000 đ (tương đương 60 lạng vàng) tặng cho bộ đội phòng không - không quân để có thêm tiền mua nước ngọt. Sự quan tâm của Bác đã làm xúc động sâu sắc cán bộ, chiến sĩ phòng không - không quân, tiếp thêm niềm tin và sức mạnh để chiến thắng cho các chiến sĩ đang canh giữ bầu trời Tổ quốc.
____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.12, tr.261.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 03:41:53 pm

Sau đợt đánh vào Hà Nội, Hải Phòng, đầu tháng 6-1967, địch tập trung đánh phá giao thông, trọng điểm đường 1 và đường 5 từ Hà Nội đi Hải Phòng. Trong đợt đánh phá này, địch tăng cường nhiễu điện tử trong đội hình bay, đồng thời chú trọng đánh phá sân bay, trạm rađa mặt đất, sử dụng nhiều loại bom mới, nhằm gây sát thương lớn cho lực lượng ta... Thủ đoạn mới của địch khiến cho việc đánh trả của tên lửa, pháo phòng không mặt đất gặp nhiều khó khăn, thương vong trong mỗi trận đánh lên cao. Thêm vào đó, trong tháng 7, tháng 8-1967, trời nắng nóng kéo dài, sinh hoạt và chiến đấu của bộ đội phòng không, không quân càng gặp nhiều khó khăn. Dù vậy, các trận địa pháo, trận địa rađa hay trên đường băng sân bay, giữa trời nắng như đổ lửa, bộ đội ta vẫn không rời vị trí chiến đấu. Trong những tháng ngày ấy, nhiều cửa hàng ăn uống, giải khát quốc doanh ở Hà Nội, Hải Phòng đã tổ chức lực lượng đưa hàng xuống các trận địa phục vụ bộ đội. Bộ đội được ưu tiên đặc biệt, mọi hàng hoá đều dành cho bộ đội mua trước.

Để tăng cường hiệu lực của phòng không mặt đất, các binh chủng, các đoàn phòng không được lệnh điều chỉnh lại đội hình, Binh chủng Rađa được giao thêm nhiệm vụ tổ chức lại mạng lưới rađa cảnh giới máy bay tầm thấp nhằm chống địch đánh lén mục tiêu trọng yếu ở Hà Nội, Hải Phòng; Binh chủng Không quân tạm thời hạn chế các lần xuất kích trong khi đang nỗ lực nghiên cứu, nhằm tìm ra biện pháp tối ưu khắc phục nhiễu và đánh các loại máy bay chiến đấu, máy bay trinh sát mới mà Mỹ vừa đưa vào sử dụng trên vùng trời miền Bắc...

Những ngày đầu tháng 8-1967, lực lượng quân báo của Quân chủng Phòng không - Không quân phát hiện thấy những triệu chứng không bình thường khi các tàu sân bay ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ di chuyển vị trí xuống phía nam. Trước đó, khi chuẩn bị oanh tạc khu vực Hà Nội, ba tàu sân bay này đều chuyển dịch lên trên vĩ tuyến 20. Bộ Tư lệnh Quân chủng cho rằng, đây có thể là hành động nghi binh của địch nhằm đánh đòn bất ngờ vào Thủ đô Hà Nội.

Đúng như dự tính của ta, từ trưa ngày 11-8-1967, địch tập trung một lực lượng lớn máy bay thuộc 7 liên đội không - hải quân Mỹ (một liên đội tương đương một sư đoàn), dồn dập đánh phá nhiều khu vực mục tiêu trong và xung quanh Hà Nội. Ngay từ ngày đầu, hoả lực phòng không bảo vệ Hà Nội đã đánh trả mãnh liệt, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ. Nhưng địch đã đánh sập một nhịp cầu Long Biên và làm hỏng nặng bốn nhịp khác. Bộ tư lệnh Phòng không - Không quân cấp tốc điều động một số đơn vị pháo cao xạ, tên lửa về tăng cường bảo vệ Hà Nội. Có thêm lực lượng, những ngày còn lại của tháng 8-1967, các Trung đoàn pháo phòng không 232, 212, 230 và 234 trong các ngày 11, 12, 22, 23 tháng 8-1967 phối hợp với các đơn vị bạn và lực lượng phòng không dân quân tự vệ Thủ đô chiến đấu kiên cường, bắn rơi 22 máy bay địch.

Bước sang tháng 9-1967, trong khi vẫn duy trì nhịp độ đánh phá như lệ thường trên toàn miền, địch tập trung một lực lượng lớn máy bay đánh phá nhiều khu vực mục tiêu ở Hải Phòng, đặc biệt là hệ thống giao thông thuỷ, bộ nhằm bao vây cô lập thành phố Hải Phòng với bên ngoài, chặn đường chi viện bằng đường biển của các nước xã hội chủ nghĩa anh em cho nhân dân ta. Nhiều cây cầu dẫn vào thành phố như cầu Rào, cầu Niệm, cầu Hoa Lư, cầu Thượng Lý... liên tục bị máy bay Mỹ oanh tạc dữ dội. Đồng thời, hàng nghìn quả mìn chờ nổ được rải xuống sông Lạch Trạy, sông đào Hạ Lý, sông Tam Bạc... Trong khi đó, các hệ thống mục tiêu giao thông dọc theo các tuyến đường 5, đường 10 nối Hải Phòng với các địa phương khác vẫn tiếp tục bị máy bay Mỹ đánh phá, khống chế gắt gao. 

Chiến sự ở Hải Phòng diễn ra quyết liệt suốt nửa cuối tháng 9 và đầu tháng 10-1967. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ thành phố cảng, được chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức, lực lượng phòng không của ta chiến đấu dũng cảm, gây cho địch tổn thất nặng nề về máy bay, người lái. Phối hợp chặt chẽ với hoả lực mặt đất, biên đội máy bay MIG.17 của Không quân nhân dân Việt Nam thuộc Trung đoàn không quân 923 từ sân bay Kiến An xuất kích đánh địch trên vùng trời phía bắc thành phố, bắn rơi hai chiếc F.4B.

Trong tháng 9-1967, lực lượng phòng không ba thứ quân thành phố Hải Phòng đã bắn rơi 31 máy bay các loại của Mỹ, lập kỷ lục về tháng hạ nhiều máy bay trong các tỉnh, thành trên toàn miền Bắc.

Sau gần một tháng dãn ra đánh phá giao thông và nhiều mục tiêu khác trên khắp miền Bắc, từ ngày 24 đến ngày 28-10-1967, gần 500 lần chiếc máy bay Mỹ luân phiên đánh phá các khu vực mục tiêu nội và ngoại thành Hà Nội như cầu Long Biên, nhà máy điện Yên Phụ, sân bay và các trận địa phòng không... Đây là đợt đánh vào Hà Nội lần thứ năm và là đợt sử dụng lực lượng không quân lớn nhất của Mỹ kể từ khi cuộc chiến tranh phá hoại bắt đầu. Lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội và khu vực lân cận đã được tăng cường; riêng Hà Nội, thường xuyên có tới 22 đến 26 tiểu đoàn hoả lực gồm pháo cao xạ và tên lửa phòng không. Ngoài ra, tham gia đánh địch còn có các tổ đội súng máy của lực lượng dân quân, tự vệ. Nhiều nơi, dân quân, tự vệ bố trí trận địa đánh máy bay ngay trên các toà nhà cao tầng của Thủ đô.

Với quyết tâm cao, dựa vào thế trận được chuẩn bị từ trước, lực lượng phòng không Hà Nội, ngay từ giờ phút đầu và trong suốt quá trình địch mở các đợt tiến công, đã chiến đấu dũng mãnh, đánh tan nhiều tốp máy bay, bắn cháy 45 chiếc, bắt sống một số giặc lái. Trong những ngày đầu khói lửa đó, các tầng lớp nhân dân nội và ngoại thành Hà Nội đã sát cánh chiến đấu với bộ đội. Đêm 25-10-1967 khi sân bay Nội Bài bị bom Mỹ phá hoại, 1.600 người dân hai huyện Kim Anh và Đa Phúc (nay là Sóc Sơn) đã phối hợp cùng với cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 365 sửa chữa, phục hồi kịp thời sân bay. Tại Nhà máy điện Yên Phụ, một mục tiêu trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ, cán bộ, công nhân nhà máy long trọng làm lễ tuyên thệ và lấy máu ký vào lá cờ quyết tử bảo vệ, duy trì dòng điện thắp sáng Thủ đô. Nhân dân xung quanh các trận địa pháo phòng không, tên lửa... không quản ngại gian khổ, hy sinh, sau mỗi đợt chiến đấu vừa dứt đã tham gia bắt giặc lái với tinh thần dũng cảm và ý thức giác ngộ rất cao, mà tiêu biểu là việc bắt sống viên phi công Mỹ Máckên tại hồ Trúc Bạch (Hà Nội)1.

Chiến thắng địch trên vùng trời Hà Nội có ý nghĩa quân sự và chính trị rất lớn. Chiến thắng đó làm thất bại âm mưu gây sức ép tối đa hòng làm lung lay ý chí của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ở miền Bắc, buộc ta phải ngừng chi viện cho miền Nam. Đồng thời, chiến thắng đó làm nức lòng quân và dân cả nước, có sức dộng viên mạnh mẽ toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc, quyết tâm chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng.
____________________________________
1. Khoảng 11 giờ 30 phút trưa ngày 26-10-1967, ông Mai Văn Ổn ở phường Quán Thánh (Ba Đình, Hà Nội) trong khi đang quan sát các tốp máy bay Mỹ đánh phá nhà máy điện Yên Phụ đã phát hiện phi công Mỹ nhảy dù xuống hồ Trúc Bạch. Ngay lập tức, ông rời khỏi hầm trú ẩn, lao đến khu vực hồ, dùng ống bương tre dài gần ba mét bơi tới nơi chiếc dù đang bùng nhùng trên mặt nước. Lúc bấy giờ, bơi theo ông còn có anh Trần Đình Lụa và một số người dân khác. Ông Ổn túm nắm dây dù, xoắn lại, đưa cho anh Lụa kéo mạnh để tên Mỹ ngoi lên mặt nước. Ông ra hiệu cho tên Mỹ bám chặt vào ống bương... Nhờ sự mưu trí và kịp thời của ông Ổn, anh Lụa, và nhân dân Thủ đô, tên phi công Mỹ Máckên đã được cứu sống.
    Trước đó hơn một tháng, vào 10 giờ đêm này 10-9-1967, ông Nguyễn Văn Chộp, người dân thôn An Đoài, xã An Bình (huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) đã cùng nhân dân trong xã bắt sống viên phi công Mỹ Pitơxơn trên cánh đồng. Và ở Hà Tĩnh, cô du kích Nguyễn Thị Lai có vóc người nhỏ nhắn đã áp giải tên phi công Mỹ W A. Rôbinxơn trong tư thế:
                 “O du kích nhỏ dương cao súng
                 Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu
”...
                                                  (Thơ Tố Hữu).



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 03:44:53 pm

Hoà nhịp với quân dân Hà Nội, Hải Phòng, tại nhiều nơi trên khắp miền Bắc, lực lượng phòng không ba thứ quân đã đánh giỏi, thắng to, bắn rơi hàng trăm máy bay, bắt nhiều giặc lái. Trong chiến công chung, trung đội nữ dân quân xã Hoa Lộc (Hậu Lộc, Thanh Hoá) đã chiến đấu dũng cảm, phối hợp cùng bộ đội cao xạ đánh địch trên bầu trời Hàm Rồng, bằng súng bộ binh bắn hạ một chiếc máy bay A.4D ngày 16- 6-1967. Đây là đơn vị nữ dân quân đầu tiên trên miền Bắc dùng súng bộ binh bắn rơi máy bay địch. Tiếp sau thành tích trên đây, trong hai ngày 14-10 và 24-10-1967, cũng bằng súng bộ binh, Trung đội lão dân quân xã Hoàng Trường (Hoàng Hoá, Thanh Hoá) đã bắn cháy hai máy bay trên vùng trời quê hương nêu tấm gương “tuổi cao, chí càng cao” của giới phụ lão miền Bắc trong những tháng năm bom đạn ác liệt. Trước đó, trên vùng trời Vĩnh Linh, Tiểu đoàn tên lửa 84 thuộc Trung đoàn 238, dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Đình Phiên đã bắn tan xác chiếc máy bay B.52 đầu tiên trên miền Bắc. Để có kết quả này: toàn thể cán bộ, chiến sĩ trung đoàn đã trải qua bao nhiêu gian truân, thử thách trên tuyến lửa Vĩnh Linh, trong số đó, có người đã vĩnh viễn nằm lại trên miền đất lửa Khu IV. Tại các đảo Bạnh Long Vĩ, Hòn Mê, Cồn Cỏ...cán bộ, chiến sĩ ta khắc phục muôn ngàn gian khổ, hy sinh, liên tục chiến đấu chống trả không quân và hải quân Mỹ, bảo vệ vững chắc vùng biển, hải đảo thân yêu của Tổ quốc. Những năm tháng mặt đất, bầu trời đầy bom rơi, đạn nổ ấy của hậu phương miền Bắc, nổi bật lên bao tấm gương sáng chói của các cá nhân và đơn vị như: đảo Cồn Cỏ anh hùng, cầu Hàm Rồng oanh liệt, Quân chủng Phòng không - Không quân, Binh chủng tên lửa, rađa trẻ tuổi, Đại đội nữ pháo binh Ngư Thuỷ (Quảng Bình), nữ dân quân và lão dân quân Thanh Hoá anh hùng, đất lúa Thái Bình - quê hương phong trào “năm tấn”, mẹ Suốt chèo đò đưa bộ đội sang sông trên dòng Nhật Lệ (Quảng Bình), anh hùng Nguyễn Viết Xuân, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh, Thái Văn A, Nguyễn Văn Bảy, Nguyễn Văn Mật, Ngô Thị Tuyển,...

Trên mặt trận vùng ven biển, vào tháng 3-1967, theo quyết định của Bộ Quốc phòng, lực lượng hải quân nhân dân Việt Nam chuyển trọng tâm hoạt động bảo vệ vùng ven biển Hải Phòng và vùng biển Đông Bắc. Nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ vùng biển từ nam vĩ tuyến 20 trở vào chủ yếu do lực lượng pháo binh bờ biển đảm nhiệm. Trên vùng biển này, ngoài lực lượng pháo binh bờ, các tàu, thuyền đánh cá và vận tải của quốc doanh, của các hợp tác xã được tổ chức thành các đơn vị vừa làm nhiệm vụ sản xuất, vừa sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ vùng ven biển. Các đơn vị này được trang bị súng cối pháo ĐKB, súng chống tăng B.40, súng máy cao xạ 12,7mm. Tại các vùng trọng điểm ven bờ, nhân dân tích cực làm công tác phòng không như sơ tán người già và trẻ em; đào đắp, xây dựng hầm hào, dựa vào đó để bám trụ sở sản xuất và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng biển quê hương.

Năm 1967, hoà nhịp với cuộc chiến đấu đánh trả không quân Mỹ của các địa phương trên toàn miền Bắc, mặt trận vùng ven biển huyện Diễn Châu (Nghệ An), cụm pháo binh bờ biển của Trung đoàn 164 Quân khu IV đã đánh trả mạnh mẽ tàu khu trục địch, bắn trúng hai chiếc, buộc chúng phải rút chạy ra xa khu vực bờ. Tiếp đó, ngày 13-4-1967, cụm pháo của Trung đoàn 204 đã đánh trúng một tàu địch trên vùng biển ven bờ huyện Tĩnh Gia (Thanh Hoá).

Kết thúc năm 1967, thêm hàng chục lần chiếc tàu chiến địch đã bị pháo bờ biển của lực lượng phòng thủ biển miền Bắc bắn cháy. Nhận xét về hiệu lực đánh trả của pháo binh ta, một tờ báo Mỹ viết: “Trong khi đánh nhau với pháo bờ biển miền Bắc Việt Nam, các tàu chiến Mỹ đã gặp phải sự chống trả ngày càng có hiệu lực. Các tàu khu trục và tuần dương phải chạy nhanh qua vùng nguy hiểm để bắn vào mục tiêu trên bờ”1.

Đến cuối năm, ta đã bắn rơi 2.680 máy bay hiện đại, bắn chìm, bắn cháy nhiều tàu chiến của chúng. Chiến công đó góp phần quyết định vào thắng lợi của mặt trận bảo đảm giao thông, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.
____________________________________
1. Báo Mỹ Người hướng dẫn khoa học đạo Thiên Chúa, số ra ngày 22-7-1967.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 07:31:07 pm

III- BẢO ĐẢM GIAO THÔNG VẬN TẢI,
TĂNG SỨC CHI VIỆN CHIẾN TRƯỜNG

Cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân hậu phương chống lại máy bay, tàu chiến Mỹ trên vùng trời, vùng biển miền Bắc, đến năm 1967, đã trải qua hơn ba năm. Trong hơn ba năm đó, mặc dù đế quốc Mỹ tập trung một lực lượng lớn không quân, hải quân đánh phá miền Bắc với nhiều thủ đoạn và biện pháp xảo quyệt, chúng sử dụng những thành tựu mới nhất của nền khoa học - kỹ thuật - công nghệ tiên tiến vào cuộc chiến tranh phá hoại, nhưng không đưa lại kết quả như dự tính ban đầu của giới lãnh đạo ở Nhà Trắng, Lầu Năm góc. Một trong những thất bại lớn nhất của Mỹ trong cuộc chiến tranh này là đã không ngăn chặn được sự chi viện ngày càng tăng của hậu phương lớn miền Bắc cho cách mạng miền Nam, không làm lung lay được ý chí quyết tâm của Đảng và nhân dân ta ở miền Bắc.

Những năm chống chiến tranh phá hoại, bảo đảm giao thông vận tải là mặt trận vô cùng ác liệt - nơi đọ sức, đọ lực, đọ ý chí và trí tuệ giữa quân dân miền Bắc với vũ khí, sắt thép và bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ. Trên mặt trận này, ngay trong năm đầu cuộc chiến tranh phá hoại, hơn 50% số phi vụ của không quân Mỹ tập trung vào việc đánh cắt giao thông. Tiếp đó, hai năm 1966, 1967, hoạt động và số bom đạn Mỹ nhằm vào hệ thống giao thông vận tải trên toàn miền Bắc tăng gấp bảy lần so với năm 1965. Trong hai năm này, hầu hết hệ thống đường sắt, đường bộ, đường sông, cầu cống, nhà ga, kho chứa, bãi tập kết hàng và các cơ sở sản xuất, sửa chữa của ngành giao thông vận tải đều bị Mỹ đánh phá.

Cường độ và quy mô đánh phá của không quân, hải quân Mỹ ngày càng tăng, khiến cho việc bảo đảm giao thông trở nên cực kỳ khó khăn, gây nên sự ùn tắc ở nhiều khu vực. Đặc biệt, trên địa bàn các tỉnh Khu IV, ngay từ những ngày đầu chiến tranh và suốt những tháng năm sau đó, không quân và hải quân Mỹ tập trung bắn phá vô cùng ác liệt toàn bộ hệ thống đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển; hệ thống cầu cống, bến phà, bến vượt; các phương tiện vận tải, các đầu mối giao thông, khu vực tập kết hàng hoá. Các khu vực Hàm Rồng, Ghép, Kiểu, Khoa Trường, cầu Hang, Hố...(Thanh Hoá); Hoàng Mai, Bùng, Cấm, Giát, Vinh - Bến Thuỷ...(Nghệ An); các hệ thống giao thông trên địa bàn ba huyện Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Hương Khê (Hà Tĩnh); các trọng điểm ở Quảng Bình như Ròn, Tú Loan, Xuân Kiều, Gianh, Khe Nước, Quán Hầu (trên đường số 1), Mụ Giạ, Bãi Dinh (đường 12), Ca Tang, Khe Ve, Xuân Sơn, Long Đại (đường 15)... và các bến bãi, kho tàng ở khu vực Vĩnh Linh liên tục bị đánh đi, đánh lại nhiều lần với cường độ lớn. Chỉ riêng khu vực Vĩnh Linh, từ tháng 6-1966 đến hết năm 1967, địch dội xuống đây hơn 25 vạn quả bom, 30 vạn quả đại bác. Những nơi này trở thành những “túi bom”, “túi lửa” và những mục tiêu đánh phá đêm ngày của máy bay, tàu chiến Mỹ. Đất trời Khu IV đêm ngày rung chuyển bởi bom đạn và tiếng gầm rít của máy bay. Khoảng trời đêm trên các trọng điểm giao thông, thường rực lên bởi đèn pháo sáng và quầng lửa bom đạn địch. Dọc dài theo những quãng đường xung yếu, địch rải bom bi, bom nổ chậm dài hàng kilômét, khiến cho sự khắc phục của lực lượng bảo đảm giao thông thêm phức tạp, khó khăn. So với năm 1965, chỉ riêng số bom nổ chậm ném xuống đường sá, cầu cống, bến phà ở Khu IV năm 1966 tăng bốn lần và năm 1967 tăng 18 lần. Mật độ đánh phá của địch ngày càng tăng khiến cho vùng đất Khu IV trở thành “tuyến lửa” trong chiến tranh. Trước mỗi đợt ngừng ném bom, trước mùa mưa bão, địch lại gia tăng cường độ đánh phá, gây khó khăn cho việc khắc phục hậu quả và tổ chức vận chuyển của ta. Những năm 1965, 1966, dẫu chưa phong toả ngặt cảng Hải Phòng do lường tính khả năng phản ứng của Liên Xô và quốc tế, nhưng máy bay Mỹ tăng cường các hoạt động lùng sục, khống chế, uy hiếp tàu, thuyền, xà lan, canô, bè, mảng ra vào trên các luồng, lạch, đồng thời, máy bay của hải quân Mỹ rải mìn, bom từ trường, bom nổ chậm phong toả một số nhánh sông từ Hải Phòng toả đi các nơi và các cửa sông, lạch biển, bến phà, những điểm tiếp nhận hàng hoá dọc theo khu vực ven biển miền Trung.

Bảo đảm giao thông vận tải trở thành nhiệm vụ chiến lược trọng tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên miền Bắc. Trên mặt trận nóng bỏng này, ngay từ đầu cuộc chiến tranh phá hoại, Đảng và Nhà nước đã ra các quyết định và chỉ thị nhằm tăng cường khả năng bảo đảm giao thông thông suốt trong mọi tình huống. Ngày 30-4-1965, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị cho các bộ Giao thông vận tải, Quốc phòng, Lao động và Chủ tịch Uỷ ban hành chính các tỉnh trên địa bàn Khu IV phải tích cực khôi phục cầu, đường, bến phà... bị phá hoại; đồng thời có kế hoạch khẩn trương chuẩn bị mọi mặt vật tư, kỹ thuật, lao động... để kịp thời đối phó với mọi hành động phá hoại của địch. Ngày 7-5-1965, Ban Bí thư Trung ương và Thường vụ Hội đồng Chính phủ ra quyết định Về một số vấn đề trong công tác giao thông vận tải ở các tỉnh Khu IV. Theo đó, trong điều kiện chiến tranh phá hoại lan rộng ra cả nước và với cường độ ngày càng ác liệt, phải bảo đảm giao thông vận tải trên các trục đường chiến lược, bảo đảm yêu cầu vận chuyển cho các tỉnh ở Khu IV, trước hết bảo đảm yêu cầu cho miền Nam và Lào về vũ khí, chất đốt, một phần lương thực và những yêu cầu cấp thiết khác. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Thường vụ Hội đồng Chính phủ cho rằng phải thống nhất quản lý và sử dụng có hiệu quả cao nhất các phương tiện giao thông vận tải hiện có, phải nhanh chóng tìm mọi biện pháp bảo đảm qua lại các bến phà ở các tỉnh Khu IV, trong điều kiện địch thường xuyên đánh phá, chặn cắt; phải tổ chức nối các trục đường chiến lược với nhau, khẩn trương tổ chức lực lượng bảo đảm giao thông, bám đường, bám cầu, bám các đầu mối giao thông trên các khu vực trọng điểm...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 07:32:41 pm

Ngày 21-6-1965, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 71- TTG về việc chính thức thành lập lực lượng Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước (lực lượng tập trung) nhằm huy động sức mạnh to lớn của thanh niên nam, nữ hậu phương lớn miền Bắc tăng cường cho mặt trận giao thông vận tải trên các tuyến đường trọng yếu. Hội đồng Chính phủ giao trách nhiệm cho các Bộ Giao thông vận tải, Bộ Lao động, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục, Bộ Nội thương, Tổng cục Lương thực và Uỷ ban hành chính các tỉnh, thành, tuỳ theo chức năng của ngành và địa phương, tạo mọi điều kiện thuận lợi để lực lượng Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước hoạt động có hiệu quả.

Ngày 30-6-1965, Hội đồng Chính phủ ra quyết định về công tác giao thông vận tải, trong đó nhấn mạnh: các ngành, các cấp phải coi công tác giao thông là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và Chính phủ. Ban Bí thư Trung ương Đảng, vào trung tuần tháng 7-1965, đã quyết định một số vấn đề cụ thể về việc điều động cán bộ cho công tác giao thông vận tải. Theo đó, một loạt cán bộ, bao gồm cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật và một số công nhân lành nghề sẽ được tăng cường cho ngành giao thông. Ban Bí thư lưu ý rằng, trong khi điều động cán bộ tăng cường cho ngành giao thông, các ngành, các cấp vừa phải bảo đảm sản xuất và công tác của ngành mình, vừa phải thu xếp để kiên quyết rút một bộ phận cán bộ có phẩm chất chính trị tốt, có nhiệt tình công tác và có sức khoẻ tốt để bảo đảm chất lượng cho công tác giao thông. Nghị quyết Về công tác bảo đảm giao thông vận tải trong tình hình mới của Bộ Chính trị Trung ương Đảng tháng 10-1965 chỉ rõ: Cần phát động mạnh mẽ phong trào toàn dân tham gia làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông, trong đó, lực lượng giao thông vận tải chuyên nghiệp là nòng cốt và bộ đội công binh, hậu cần, vận tải, phòng không là lực lượng xung kích trên mặt trận này.

Thực hiện các chủ trương trên đây của Trung ương Đảng và Chính phủ, từ giữa năm 1965, các địa phương trên miền Bắc đã chủ động, khẩn trương tổ chức các đội thanh niên xung phong tập trung để đáp ứng kịp thời đòi hỏi của nhiệm vụ bảo đảm giao thông. Ngày 25-4-1965, Đội thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước gồm 1.200 nam đoàn viên thanh niên của tỉnh Thanh Hoá được thành lập1. Đội được biên chế thành chín đại đội. Sau ngày thành lập, đội lập tức lên đường vào miền tây Quảng Bình, mở đường ở khu vực Nam Lào.

Khắp nơi trên miền Bắc, nhiều đội thanh niên xung phong được thành lập. Chỉ trong tháng 6-1965, các đội thanh niên xung phong tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Ninh Bình, Nam Hà với 8.856 người đã vào đường 559 làm nhiệm vụ mở đường, san lấp hố bom bảo đảm giao thông vận tải và vận chuyển hàng hoá, súng, đạn vào miền Nam. Tháng 7-1965, phong trào thanh niên (đại đa số là nữ) tình nguyện gia nhập thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước phát triển mạnh mẽ. Số người tình nguyện vượt quá yêu cầu tiếp nhận nhiều lần. Hiểu rất rõ đi thanh niên xung phong là chấp nhận gian khổ, hy sinh, nhưng thế hệ thanh niên sinh ra và lớn lên trên quê hương miền Bắc được học tập và rèn luyện trong nhà trường xã hội chủ nghĩa đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm và nghĩa vụ của thế hệ mình khi đất nước đang dồn sức đánh giặc. Những năm tháng ấy, họ có mặt trên khắp nẻo đường đất nước, đêm ngày bám trụ mặt đường, bám trụ các địa bàn trọng điểm đánh phá của máy bay, tàu chiến Mỹ, bảo đảm giao thông thông suốt từ hậu phương ra tiền tuyến. Chỉ trong vòng ba tháng (từ tháng 4 đến tháng 7-1965), gần năm vạn thanh niên nam, nữ hậu phương miền Bắc được động viên vào 32 đội thanh niên xung phong. Ngoài lực lượng thanh niên xung phong do Trung ương quản lý, từ giữa năm 1965, một số tỉnh, thành còn thành lập đội thanh niên xung phong của địa phương, làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông trong địa bàn tỉnh và đi đến mọi nơi khi Tổ quốc cần. Đó là Đội thanh niên xung phong Hà Nội, Thanh Hoá, Nghệ An. Đến những tháng cuối năm 1965 và đầu năm 1966, hầu hết các tỉnh, thành trên miền Bắc đều thành lập đội thanh niên xung phong do địa phương trực tiếp quản lý. Riêng Khu IV, do địch đánh phá thường xuyên và ác liệt, yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải rất nặng nề, phức tạp, nên ngoài lực lượng do Trung ương quản lý, mỗi tỉnh đều thành lập từ hai đội trở lên, riêng Nghệ An là tỉnh có tới sáu đội.

Đồng thời với việc thành lập và phát triển các đội thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước, các địa phương còn huy động một lực lượng lớn dân công hoả tuyến làm nhiệm vụ vận tải, sửa đường bảo đảm giao thông theo từng thời gian và cung đường. Lực lượng này do các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bảo đảm trả công. Các đội dân công hoả tuyến thường là thành phần lực lượng phối thuộc cho các mặt trận hoặc các chiến dịch vận tải...

Những tháng cuối năm 1965, Ban điều hoà giao thông Trung ương2, các Ban bảo đảm giao thông, Ban điều hoà giao thông các tỉnh, huyện, các khu vực trọng điểm dọc theo các tuyến giao thông huyết mạch được thành lập. Hội đồng Chính phủ giao cho quân đội phối hợp với Bộ Giao thông vận tải bảo đảm các tuyến giao thông chủ yếu đường 1A, 1B, 12A (ngã ba Chăm - Vụ Bản, Gềnh - Nho Quan) đường 15, 217 (nối đường 15 với Na Mèo sang Sầm Nưa)... Trên các tuyến này, quân đội có nhiệm vụ tổ chức lực lượng đánh địch, bảo vệ giao thông, rà phá bom mìn, chỉ huy các bến phà, sửa chữa cấp tốc các cầu cống, đoạn đường bị địch phá. Lực lượng của Bộ Giao thông vận tải đảm nhận việc bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên, làm đường vòng tránh, mở thêm các ngầm vượt, bến phà... Riêng các tuyến đường 5 (Hà Nội - Hải Phòng), đường 6 (Hà Nội - Hoà Bình - Sơn La), toàn bộ các nhiệm vụ trên đây đều do quân đội đảm nhận. Ở các cung trạm, các tuyến đường, lực lượng công binh - giao thông hỗn hợp được tổ chức thành những đơn vị tại chỗ để chỉ huy giao thông và ứng cứu kịp thời khi địch đánh phá. Trên các tuyến vận tải chủ yếu dẫn vào chiến trường, lực lượng công binh, cao xạ, thanh niên xung phong được giao cho các binh trạm vận tải thống nhất chỉ huy. Ở các tỉnh, một số đơn vị bộ đội chủ lực được chuyển thành lực lượng giao thông - công binh do tỉnh đội, huyện đội chỉ huy, điều hành. Trên địa bàn Khu IV những năm 1966, 1967, lực lượng này có trên dưới 5.000 người.
____________________________________
1. Vì điều kiện công tác đặc biệt, đội chưa nhận nữ thanh niên.
2. Ban Điều hoà giao thông Trung ương được Hội đồng Chính phủ ra quyết định thành lập từ tháng 10-1965, do đồng chí Phạm Hùng, Uỷ viên Bộ chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 07:33:44 pm

Theo sự thoả thuận giữa Đảng, Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc, từ cuối năm 1965, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã cử một số đơn vị công binh và phòng không sang giúp nhân dân ta bảo vệ một số mục tiêu ở các tỉnh biên giới phía Bắc, đồng thời xây dựng, sửa chữa và nâng cấp một số tuyến đường sắt, đường ô tô từ biên giới Việt - Trung về Hà Nội qua các tỉnh Bắc Thái, Hà Giang, Lạng Sơn...

Ở các tỉnh có bộ đội Trung Quốc đóng quân, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ thành lập Ban Ngoại vụ, do đồng chí Phó Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh làm trưởng ban. Ban Ngoại vụ có trách nhiệm tiếp xúc, quan hệ, bàn bạc hiệp đồng chung giữa bộ đội Trung Quốc với Việt Nam, đồng thời huy động nhân dân địa phương phối hợp, giúp đỡ bộ đội Trung Quốc ổn định nơi ăn, chốn ở, xây dựng trận địa bước vào chiến đấu. Ở các huyện, thị, ta thành lập tổ ngoại vụ do một đồng chí uỷ viên thường vụ huyện uỷ, thị uỷ làm tổ trưởng. Ngay sau khi được thành lập, các cơ quan ngoại vụ tỉnh, huyện đã tích cực bảo đảm vật chất, phục vụ kịp thời, đầy đủ cho các đơn vị quân đội Trung Quốc, đồng thời tổ chức cho nhân dân địa phương giúp bạn làm nhiều nhà ở, nhà kho, vận chuyển hàng hoá... và cử nhiều đoàn đại biểu tới thăm hỏi, động viên tặng quà. Để phối hợp chiến đấu với quân tình nguyện và bảo đảm giao thông trên các tuyến đường sắt: Đồng Đăng - Kép, Lào Cai - Yên Bái, Yên Viên - Kép, ta bố trí một lực lượng phòng không mạnh bao gồm các đơn vị phòng không Quân khu Việt Bắc, một số đơn vị của Quân chủng Phòng không - Không quân của Quân khu III, Sư đoàn 308, Sư đoàn 312...

Trong suốt thời gian từ cuối năm 1965 đến đầu năm 1969, trên địa bàn Bắc Thái, các đơn vị công binh Trung Quốc: C18, C19 (Chi đội 4) giúp sửa chữa nâng cấp 161 km đường số 3 (đoạn từ Bờ Đậu - Phú Lương đến Cao Bắc - Ngân Sơn); C3 (Chi đội 1) làm tuyến đường sắt 1m40 Kép - Lưu Xá, Lưu Xá - Đa Phúc và làm đường hầm dài 250 m đoạn toa xe Lương Sơn. Tại Hà Giang, bộ đội công binh bạn đã tới Vị Xuyên, Bắc Quang giúp địa phương làm thêm các đường nhánh qua cầu, phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ con đường vận chuyển chiến lược - đường số 2.

Bên cạnh đó, từ cuối năm 1966, các chi đội1 62, 170, 168 bộ đội phòng không Trung Quốc đến Bắc Thái, một số đơn vị khác đến Hà Giang, Lạng Sơn... bảo vệ các mục tiêu quan trọng. Các đơn vị phòng không của bạn đã phối hợp với các đơn vị phòng không và dân quân, tự vệ của ta chiến đấu nhiều trận, bắn rơi một số máy bay Mỹ, góp phần bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Nhiều cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc chiến đấu dũng cảm và đã ngã xuống vì sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Đây là sự thể hiện tình đoàn kết quốc tế vô sản của Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nhân dân Việt Nam rất biết ơn sự giúp đỡ chí tình và có hiệu quả đó của nhân dân Trung Quốc anh em.

Trên các tuyến đường, dân quân, tự vệ phối hợp với các lực lượng bảo đảm giao thông, tổ chức các trạm báo động và giữ gìn trị an.

Ngoài lực lượng chuyên trách về bảo đảm giao thông, ở những địa phương có các trục đường bộ, đường sắt, đường sông đi ngang qua, nhân dân đã chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả vào công tác sửa chữa cầu, đường, san lấp hố bom, làm đường vòng tránh và bến vượt, phân tán hàng hoá, cất giấu ở những địa điểm an toàn, vận chuyển hàng hoá qua những trọng điểm đánh phá của máy bay, tàu chiến Mỹ. Những xã ven trục lộ giao thông đều thành lập các đội xung kích bảo đảm giao thông, lực lượng là thanh niên (chủ yếu là nữ), dân quân, tự vệ...

Sau ngày có quyết định của Quân uỷ Trung ương về việc thành lập Cục Vận tải thuộc Tổng cục Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam (ngày 26-4-1965), lực lượng vận tải quân sự trên miền Bắc gấp rút chấn chỉnh về biên chế, tổ chức; tăng cường về lực lượng và phương tiện vận tải. Toàn bộ lực lượng này phân thành các binh trạm, đảm trách việc vận chuyển trên từng khu vực được phân công. Từ biên giới Việt - Trung, từ cảng Hải Phòng vào đến khu vực tây nam quân khu IV - tiếp giáp với các cửa khẩu Đoàn 559, đều có các binh trạm vận tải quân sự. Binh trạm 30 phụ trách tuyến phía bắc sông Hồng. Binh trạm 20 phụ trách các tuyến nam sông Hồng tới Thanh Hoá. Binh trạm 10 phụ trách vận chuyển từ Thanh Hoá đến Nghệ An. Ngoài ra, Binh trạm còn đảm trách tuyến đường 7, đường 217 vận chuyển hàng cho cách mạng Lào. Binh trạm 12 phụ trách từ Hà Tĩnh tới Quảng Bình, giao hàng cho Đoàn 559. Mỗi binh trạm đều biên chế một số đơn vị vận tải cơ giới, công binh, có hệ thống kho chứa hàng, xưởng sửa chữa ôtô, đội điều trị thương, bệnh binh, được phối thuộc một số đơn vị pháo phòng không bảo vệ giao thông. Ngoài các binh trạm phụ trách từng đơn vị, Cục Vận tải quân sự còn thành lập lực lượng cơ động gồm các tiểu đoàn vận tải ôtô, đoàn canô vận tải đường sông Hồng Hà.
________________________________________
1. Chi đội tương đương với sư đoàn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 07:34:44 pm

Đáp ứng đòi hỏi của chiến trường, từ mùa Hè năm 1965, miền Bắc bắt đầu đẩy mạnh nhịp độ tăng quân vào miền Nam. Trước tình hình đó, bộ Tổng tham mưu và Tổng cục Hậu cần quyết định thành tập Đoàn 665 làm nhiệm vụ đưa quân vào chiến trường và đón thương binh ra hậu phương. Khắc phục sự lùng sục, đánh phá của máy bay Mỹ và trong điều kiện vận tải cơ giới gặp khó khăn, Đoàn 665 đã dựa vào hệ thống đường nông thôn và sự giúp đỡ tận tình của chính quyền, đoàn thể, nhân dân các địa phương để đặt gần 40 trạm đưa đón bộ đội hành quân. Tuyến đường đưa đón bộ đội này của đoàn được bắt đầu từ Phủ Lý, xuyên qua bao làng quê của hậu phương miền Bắc, vượt qua bao núi đồi, sông suối, dừng lại ở Làng Ho (Quảng Bình). Tại đây, Đoàn 665 bàn giao quân cho Đoàn 559 và đón cán bộ, chiến sĩ trở lại hậu phương.

Trong khi đó, trên tuyến 559, lực lượng vận tải quân sự cũng được tăng cường về mọi mặt, trở thành đoàn hậu cần chiến lược, đảm trách việc mở đường, vận chuyển, bảo đảm hành quân chi viện cho chiến trường miền Nam và Hạ Lào. Ngoài số quân trong biên chế 16.800 người cuối năm 1965 và tiếp tục tăng trong các năm tiếp theo, đoàn còn được phối thuộc một số trung đoàn, tiểu đoàn công binh, cao xạ và hàng nghìn nam, nữ thanh niên xung phong. Toàn bộ lực lượng này được tổ chức thành hai bộ phận, một bộ phận cơ động và một bộ phận tại chỗ. Bộ phận cơ động là những đơn vị hợp thành, những đơn vị chuyên môn binh chủng. Đây là lực lượng thực hiện các chiến dịch vận tải và đánh địch mở đường, giữ đường trên các hướng. Bộ phận tại chỗ gồm các binh trạm, đảm nhận việc vận chuyển, bảo vệ giao thông, đưa đón bộ đội hành quân trên từng cung đường được phân công...

Để hoàn thành nhiệm vụ, cán bộ chiến sĩ bộ đội Trường Sơn đã chủ động và tích cực quy hoạch, xây dựng mạng đường gồm 6 trục dọc, 21 trục ngang, đường vòng tránh, đường nghi binh “lừa” địch, các cầu, bến vượt, bãi trú quân, bãi đậu xe; tổ chức các binh trạm, khu kho, trạm sửa chữa, bệnh xá, đài quan sát, trạm điều phối giao thông... trên các trục đường.

Với quyết tâm cao, trí thông minh sáng tạo và lòng dũng cảm, lực lượng bảo đảm giao thông trên miền Bắc và trên tuyến vận tải chiến lược 559 đã khắc phục muôn vàn gian khổ, hy sinh, đêm ngày bám đường, bám trận địa, trụ vững ở những trọng điểm đánh phá của máy bay, tàu chiến Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông. Trên mọi nẻo đường hướng ra tiền tuyến, cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể và nhân dân các địa phương đã chủ động, tích cực tham gia vào mặt trận bảo đảm giao thông. Vùng “tuyến lửa” Khu IV, nơi địch không từ một thủ đoạn tàn bạo nào, ào ạt dội xuống một khối lượng bom đạn lớn hòng cắt đứt luồng chi viện của hậu phương cho tiền tuyến, quân, dân các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, khu vực Vĩnh Linh kiên cường trong lửa đạn sáng tạo ra nhiều hình thức thích hợp để bảo vệ giao thông, vận chuyển hàng hoá qua những “túi bom”, những bến phà, những bãi trống bị địch đánh phá liên tục ngày đêm. Huy động mọi người, mọi nhà tham gia bảo đảm giao thông, Nghệ An đã phát động phong trào “hòn đất, hòn đá chống Mỹ”. Để kịp thời báo động cho các chiến sĩ lái xe đêm trên các tuyến đường ra trận, hướng dẫn cho xe vào nơi trú ẩn, Hà Tĩnh đã có sáng kiến hình thành hệ thống trạm đèn tín hiệu phòng không1. Những “ngọn đèn đứng gác” trở thành bạn đường, giúp cho ác chiến sĩ lái xe trên các nẻo đường đêm thêm vững vàng tay lái. Ở các bến phà, đối phó với sự lùng sục, săn tìm của máy bay tuần thám Mỹ, lực lượng bảo đảm giao thông đào những “âu phà” để dìm phà ngay tại chỗ khi mặt trời mọc và vớt phà lên khi hoàng hôn xuống, tiết kiệm được thời gian đi về cất giấu. Khắp các bến vượt và ở mọi trọng điểm giao thông khác, công binh, thanh niên xung phong đêm ngày trụ bám với quyết tâm: “sống bám trụ cầu đường, chết kiên cường, dũng cảm”. Lực lượng vận chuyển thực hiện “tăng từng tấn, lấn từng chuyến”. Ở Thanh Hoá, 10 huyện dọc các tuyến giao thông tổ chức các đội xe đạp thồ; Uỷ ban hành chính tỉnh ra quyết định thành lập Công ty xe đạp thồ thuộc Ty Giao thông vận tải của tỉnh. Các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, nhân dân tham gia vận chuyển hàng hoá qua các trọng điểm đánh phá của địch bằng tất cả các phương tiện sẵn có như thuyền nan, bè mảng, xe cút kít, xe bò, xe ba gác, kể cả bằng gồng gánh trên đôi vai. “Xe chưa qua, nhà không tiếc” là quyết tâm, là hành động của biết bao người dân dọc các trục đường huyết mạch, đặc biệt trên địa bàn Khu IV những năm “bão đạn, mưa bom”. Những năm ấy đã có tới 183 triệu lượt người ở miền Bắc được động viên tham gia, đào đắp 35 triệu m3 đất đá san lấp hố bom, bảo đảm giao thông. Nhân dân ven đường sẵn sàng dỡ nhà, chặt cây ăn quả trong vườn, kể cả giường phản... để lót đường cho xe chạy. Những năm ấy, làng xóm ven các trục đường giao liên và đường ôtô là những nơi tạm dừng của bộ đội, thanh niên xung phong trên đường hành quân vào Nam chiến đấu; nơi ẩn giấu các đoàn xe vận tải, nơi tập kết, cất giấu hàng hóa chi viện cho tiền tuyến lớn. Dẫu biết rằng, nếu bị máy bay Mỹ phát hiện, làng xóm, nhà cửa, tính mạng và tài sản một đời chắt chiu, dành dụm sẽ bị tàn phá... nhưng nhân dân vẫn tự nguyện nhường nhà cho bộ đội, mở lối cho xe vào làng, nhận hàng vào cất giấu ở nhà. Đó là một trong những hy sinh lớn lao của nhân dân Khu IV. Đã có những địa phương, cấp uỷ đảng đề ra khẩu hiệu: “Đảng uỷ là chủ hàng, dân quân là công nhân bốc vác, nhà dân là kho hàng, chủ nhà là thủ kho”...

Tại các trọng điểm giao thông trên địa bàn Quân khu Việt Bắc, lực lượng công binh, giao thông cùng nhân dân các địa phương, thanh niên xung phong xây dựng hàng chục tuyến đường ngầm, cầu phao, bến phà; mở hàng trăm kilômét đường vòng tránh, đào hàng trăm đường hầm cất giấu hàng hoá và phương tiện vận chuyển. Với mọi phương tiện thô sơ và bằng nhiều hình thức, nhân dân các dân tộc trên địa bàn quân khu tích cực tham gia bảo đảm giao thông như gánh, vác, gùi, thồ kết hợp với xe trâu, xe bò, xe ngựa, vận chuyển hàng vạn tấn hàng hoá qua các đoạn đường, bến phà, cầu cống bị máy bay đánh phá hư hỏng. Tổng cộng qua bốn năm chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, nhân dân các địa phương trong quân khu đã đóng góp trên một triệu ngày công cùng 5.000 m3 gỗ và hàng chục vạn cây bương, tre để ứng cứu giao thông.
________________________________________
1. Đèn có mái che, ánh sáng dọi ra vừa đủ tầm cho người lái thấy, có trục quay và dây điều khiển kéo đến hầm người gác.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 07:35:44 pm

Vùng ven biển, các tổ đội theo dõi, rà phá bom mìn, thuỷ lôi không ngừng tăng về số lượng. Các tổ đội đó đêm ngày bám địa bàn, tổ chức quan sát, theo dõi các hoạt động phong toả của địch. Những chiến sĩ trên mặt trận này, với trí thông minh và lòng dũng cảm, đã sáng tạo nhiều phương tiện và biện pháp để tổ chức rà phá, tháo gỡ, vô hiệu hoá các loại bom mìn, thuỷ lôi, góp phần quan trọng vào việc giải toả nhanh luồng sông, lạch biển...

Nhìn chung, những năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, mặc dù địch đánh phá, phong toả, ngăn chặn gắt gao bằng nhiều thủ đoạn, nhiều loại vũ khí, bom đạn không ngừng được cải tiến và với cường độ, quy mô ngày càng ác liệt, ngày càng mở rộng... khiến cho vận tải đường sắt, đường biển trên miền Bắc bị sụt giảm, nhưng bù lại, lực lượng vận tải đường bộ, đường sông không ngừng phát triển về số lượng, cải tiến về phương thức, nâng mức vận chuyển hàng hoá năm 1967 lên gấp sáu lần so với tổng mức vận chuyển năm 1965. Chính trong những năm tháng đó, bên cạnh hệ thống giao thông huyết mạch sẵn có, miền Bắc đã mở thêm nhiều tuyến đường vòng tránh, hình thành thêm nhiều bến vượt, nhiều cầu, phà, bến ngầm dự bị; cải tạo, sửa chữa và nâng cấp hàng nghìn kilômét đường giao thông nông thôn, xoá dần thế “độc tuyến”, “độc bến”... “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ đạo các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang tích cực và chủ động tham gia công tác bảo đảm giao thông, sử dụng khả năng phòng không và công binh để bảo vệ bằng được các tuyến giao thông chiến lược. Trên thực tế, những năm chống chiến tranh phá hoại, trên dưới 60% lực lượng phòng không miền Bắc được sử dụng vào nhiệm vụ đánh máy bay Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông. Vùng sông, biển, bộ đội, thanh niên xung phong, dân quân, tự vệ thành lập các tổ, đội quan sát, rà phá, tháo gỡ bom, mìn, thuỷ lôi. Họ thực sự là những con người “gan vàng dạ ngọc”; có mặt tại những địa bàn trọng điểm đánh phá của địch, kịp thời quan sát, đánh dấu điểm bom rơi, phát hiện những quả bom chưa nổ. Ngớt tiếng máy bay, những đội rà phá lập tức có mặt ở bãi bom. Họ lái canô lướt nhanh qua khúc sông, lạch biển vừa bị đánh bom để mở đường cho phà, thuyền vượt bến an toàn. Họ lặn xuống đáy sông, tìm cách tháo gỡ các loại đầu nổ bom, mìn phục vụ cho việc nghiên cứu cách thức rà phá. Trên mặt trận sông nước này, biết bao tấm gương đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Trụ bám trên đoạn đèo Lý Hoà, nơi từng phút từng giờ đầy thử thách nguy hiểm, trên trời là máy bay, ngoài biển là pháo hạm, dưới chân đèo là các bãi bom chờ nổ,... trung đội nữ dân quân công binh do Võ Thị Đởn chỉ huy vẫn bền gan, vững chí, không một phút giây rời trận địa.

Tại cảng Hải Phòng, có ngày địch dùng tới 150 lần chiếc máy bay đánh vào khu vực cảng, nhưng khả năng tổ chức, tiếp nhận và bốc dỡ hàng hoá của cán bộ, công nhân, thanh niên xung phong, dân quân tự vệ vẫn ngày một tăng. âm thầm, lặng lẽ, những đoàn tàu, đoàn xe, những canô, thuyền, bè, mảng... bất chấp máy bay Mỹ, vẫn đến và đi, vận chuyển hàng chục vạn tấn hàng từ thành phố Cảng anh hùng đến các cụm kho dự trữ cho tiền tuyến miền Nam. Hoà vào chiến công chung trong những năm tháng đánh Mỹ hào hùng đó, có máu xương, mồ hôi, công sức của tập thể cán bộ, công nhân viên Công ty xăng dầu khu vực III (Hải Phòng). Trong hệ thống dự trữ và cung cấp nhiên liệu lỏng trên miền Bắc, đây là đầu mối tiếp nhận và trung chuyển xăng dầu cho toàn miền và một phần cho chiến trường Lào. Vì thế, trong những năm chiến tranh phá hoại, đây là một trong số những mục tiêu đánh phá dữ dội của không quân Mỹ. Chỉ riêng khu vực Thượng Lý, máy bay Mỹ đã oanh tạc 98 trận, ném xuống đây 4.000 quả bom. Trong điều kiện đó, tập thể cán bộ, công nhân viên của sở đã khắc phục biết bao gian khổ, hy sinh, mở nhiều chiến dịch vận chuyển, phân tán một khối lượng lớn dầu nhập cảng tới 80 địa điểm trên 28 huyện thuộc ba tỉnh lân cận. Để trụ bám và bảo vệ kho chứa, những người thợ của công ty đã đào 500 hầm cá nhân, 5.000 mét hào giao thông và đào đắp hàng nghìn mét khối đất tạo luỹ che chắn các điểm cất giấu xăng dầu...

Không chỉ sau này, mà ngay từ thời kỳ đó, khi cường độ đánh phá của không quân, hải quân Mỹ lên tới đỉnh cao, các nhà vạch chiến lược Mỹ đã bắt đầu tỏ ra nghi ngờ về khả năng ngăn chặn, cắt đứt luồng tiếp tế từ ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam. Từ mùa Hè 1966, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara ngày càng nhận ra sự bất lực của các chiến dịch ném bom, bắn phá trên lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của lực lượng không quân và hải quân Mỹ. Ông “không tin rằng cuộc ném bom chiến lược sẽ đem lại hiệu quả trừ khi nó nhằm vào các mục tiêu là cơ sở sản xuất, không cho sản xuất ra các sản phẩm cơ bản và ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm và phương tiện thay thế”1. Thế nhưng, “các cơ sở sản xuất cho Bắc Việt Nam và Việt cộng lại nằm ở Liên Xô và Trung Quốc”(!)2. Tương tự như thế, Mắc Namara cho rằng ném bom để ngăn chặn việc gửi người và vật chất cho miền Nam là việc làm không thể mang lại hiệu quả vì điều này bị quy định bởi “đặc điểm địa hình, nhu cầu được cung cấp vật chất thấp, khả năng thay thế các con đường lựa chọn và các phương tiện cấp phát đặc biệt là trong môi trường có nhiều sức lao động như Bắc Việt Nam”3. Tất cả những thực tế đó đưa Mắc Namara và một số quan chức cao cấp trong Bộ Quốc phòng Mỹ đi đến kết luận: “Không một khối lượng bom nào ném xuống miền Bắc - trừ phi có một sự huỷ diệt mang tính diệt chủng, điều mà không một ai tính tới - có thể chấm dứt nổi cuộc chiến tranh”4.
________________________________________
1÷4. Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.245.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 07:36:58 pm

Trong khi ý đồ chiến lược đánh phá miền Bắc Việt Nam bị thất bại, thì việc ngăn chặn trên tuyến đường Trường Sơn cũng không mang lại kết quả như tính toán của Oasinhtơn. Tất cả các lực lượng công binh, cao xạ, vận tải, thanh niên xung phong, thông tin, các binh trạm, kho tàng đều lấy việc vận chuyển hàng hoá và bảo đảm hành quân làm nhiệm vụ trọng tâm, đêm ngày bám đường, bám trận địa, bền bỉ, không quản ngại hy sinh, liên tiếp mở các chiến dịch vận chuyển nhằm đáp ứng kịp thời đòi hỏi ngày càng tăng của các chiến trường. Trước sự đánh phá ác liệt của kẻ thù, Tổng cục Hậu cần chỉ đạo tuyến vận tải hậu phương cải tiến việc giao hàng, tăng thêm phương tiện vận chuyển cơ giới cho Đoàn 559, triển khai mạng lưới thông tin vững chắc trên toàn tuyến để bảo đảm chỉ huy thông suốt, kịp thời... Về phía mình, Bộ Tư lệnh 559 vừa khẩn trương củng cố các đơn vị vận tải bảo đảm giao thông, vừa bố trí lại lực lượng phòng không mặt đất, kiên quyết “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”. Với quyết tâm cao và bằng những biện pháp mới thiết thực, Đoàn vận tải chiến lược 559 đã vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Kết thúc mùa khô 1966-1967, tổng khối lượng hàng hoá nhận từ miền Bắc vận chuyển cho chiến trường miền Nam đạt 126% kế hoạch, tăng gấp ba lần so với mùa khô 1965-1966; cho chiến trường Lào đạt 227% so với kế hoạch đặt ra ban đầu. Nhờ đó, lần đầu tiên, các chiến trường tạo được lượng vật chất dự trữ tương đối lớn, chuẩn bị cho kế hoạch tác chiến mùa khô 1967-1968. Đồng thời với việc vận chuyển hàng hoá, các binh trạm còn bảo đảm hành quân cho hàng chục vạn lượt người từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc.

Vừa đánh thắng không quân, hải quân Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông, quân và dân hậu phương miền Bắc đồng thời vươn lên đáp ứng yêu cầu của tiền tuyến lớn miền Nam. Dựa trên nền tảng của chế độ xã hội mới ưu việt được xây dựng trong 10 năm hoà bình (1954-1964), giải quyết mối quan hệ giữa chiến đấu và sản xuất, giữa nhiệm vụ trước mắt với nhiệm vụ lâu dài, giữa yêu cầu của Trung ương với yêu cầu của địa phương, giữa vùng trọng điểm bị địch đánh phá và vùng ít bị đánh phá..., Đảng, Nhà nước đã ban hành và chỉ đạo các cấp, các ngành tổ chức thực hiện một số chính sách, chế độ nhằm phát huy mạnh mẽ và hiệu quả sức người, sức của phục vụ cuộc chiến đấu, bảo vệ hậu phương và làm tròn nghĩa vụ đối với cách mạng miền Nam, cách mạng Lào... Đi đôi với việc động viên sức người, sức của trong nhân dân, Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp thường xuyên chăm lo tới đời sống của nhân dân. Những năm chiến tranh, quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp tiếp tục được củng cố, tăng cường, tạo nên sự cố kết của từng cá nhân, từng hộ gia đình, từng cộng đồng trong xã hội vì lợi ích chung là một trong những nhân tố quyết định sự ổn định, tính bền vững của hậu phương trong lửa đạn của cuộc chiến tranh.

Bên cạnh việc củng cố quan hệ sản xuất mới - với hai thành phần kinh tế chủ đạo quốc doanh và tập thể, thời kỳ này, miền Bắc còn thực hiện một số chế độ, chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội... theo hướng bảo đảm duy trì và ổn định đời sống của mọi tầng lớp nhân dân trong chiến tranh. Đối với cán bộ, công nhân viên trong biên chế, ngoài chế độ tiền lương, Nhà nước thi hành chính sách cung cấp theo định lượng, bán theo tem phiếu các nhu yếu phẩm thiết yếu với thang giá khá ổn định và tương đối thống nhất. Với nông dân, Nhà nước chỉ đạo các địa phương, các hợp tác xã thực hiện chính sách phân phối theo định suất (mức ăn đã xác định cho từng nhân khẩu), căn cứ vào thu nhập của hợp tác xã. Đối với người già, trẻ em thì định suất được bán theo giá ổn định do Nhà nước quy định. Đối với bộ phận thị dân, Nhà nước bảo đảm cung cấp các mặt hàng lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm thiết yếu theo tem phiếu với giá cả phù hợp với thu nhập chung của mọi người. Ngoài ra, việc học hành, chữa bệnh cho toàn dân cũng được miễn phí, do Nhà nước bao cấp. Trong điều kiện chiến tranh, việc thực hiện chính sách phân phối thu nhập quốc dân như trên là cần thiết. Đây cũng là một trong những nhân tố góp phần quan trọng vào sự ổn định của hậu phương.

Ở các địa phương, các cấp bộ đảng, chính quyền, mặt trận, các tổ chức quần chúng đề ra và thực hiện những biện pháp vì cuộc sống của nhân dân có hiệu quả, nên đã khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tinh thần hăng hái, truyền thống nhân ái đùm bọc, giúp đỡ “thương người như thể thương thân” trong toàn dân. Nó gắn bó mọi cá nhân trong tập thể, trong cộng đồng thành một khối vững chắc để có đủ nghị lực và sức mạnh đương đầu và đánh thắng kẻ thù. Cũng trong những năm tháng ấy, khi cuộc sống, chiến đấu và sinh hoạt căng thẳng và có nhiều xáo động, cũng là thời kỳ mà mọi người dân, mọi tổ chức, mọi địa phương... đều chăm lo giúp đỡ, hỗ trợ bằng nhiều việc làm cụ thể đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình bộ đội neo đơn, gia đình có công với cách mạng, với kháng chiến. Ngoài việc phát động mạnh mẽ phong trào toàn dân tham gia công tác “hậu phương quân đội”, Đảng và Nhà nước ban hành một số chế độ, chính sách đối với những vùng trọng điểm bị địch đánh phá, đối với đồng bào các dân tộc ít người, đối với con em cán bộ miền Nam tập kết...

Bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân trước sự đánh phá ác liệt của máy bay, tàu chiến Mỹ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp, là công tác thường xuyên nhằm giữ vững sự ổn định của hậu phương. Cho nên, từ ngày đầu chiến tranh, ở các địa phương đã thành lập Hội đồng phòng không nhân dân để chuyên trách về công tác này. Hoạt động của Hội đồng phòng không nhân dân các cấp đi dần vào nền nếp, ngày càng có hiệu lực, đã tổ chức và huy động sức mạnh, khả năng, sự sáng tạo của nhân dân cũng như của các ngành, các cấp để triển khai thực hiện nhanh, gọn các đợt sơ tán hoặc phân tán, xây dựng và tăng cường hệ thống hầm hào, tổ chức hệ thống quan sát, báo động; tổ chức lực lượng khắc phục hậu quả sau mỗi lần địch đánh phá... Ngày đó, hầm hố trú ẩn trong nhà, ngoài vườn, hố cá nhân bên mép những con đường liên thôn, liên xã và công sở, trường học, nhà máy, xí nghiệp, sân kho hợp tác, trên các đường phố ở Thủ đô và các thị xã, thị trấn, dọc đường số 1, là hình ảnh quen thuộc của nhân dân miền Bắc. Tại tuyến lửa Khu IV, đặc biệt là Vĩnh Linh nhân dân đã đào hệ thống địa đạo sâu trong lòng đất cùng hệ thống hầm hào trú ẩn để trụ bám kiên cường, giữ vững sinh hoạt bình thường, vừa sản xuất, vừa đánh giặc1. Đặt trong điều kiện mỗi mét vuông đất nơi đây hầu như đều ghim đầy mảnh bom của Mỹ thì việc dựa vào lòng đất, duy trì cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu của người dân tuyến lửa Khu IV suốt những năm chống Mỹ là một kỳ tích anh hùng. Đó cũng là một trong những biểu hiện của ý chí và quyết tâm đánh Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của người hậu phương.
________________________________________
1. Vĩnh Mốc là một làng chài nhỏ thuộc Vĩnh Linh. Trước sự đánh phá dữ dội của địch, đầu năm 1966, đảng bộ, chính quyền và nhân dân đã rời làng lên ngọn đồi phía sau, đào hệ thống địa đạo chìm sâu dưới lòng đất 20 đến 22m. Hệ thống địa đạo này gồm các trục chính với tổng chiều dài 2.800 m, chiều cao 1,7 m, chiều rộng 2m, trần khoét hình vòm bán nguyệt, không cần chống đỡ vì đất ở đây bị phong hoá đã trở nên rắn chắc. Từ trục chính, toả ra các nhánh ngang thông ra các cửa và hai bên đường nhánh, cứ cách 3m là một lõm khoét sâu vào tạo thành chỗ ở của một hộ gia đình. Các hộ gia đình được bố trí gần nhau theo đơn vị sản xuất, chiến đấu. Địa đạo có khu trung tâm gồm một hội trường đủ sức chứa 150 người dành cho hội họp, xem phim hoặc biểu diễn văn nghệ; có nhà hộ sinh, giếng nước, trạm xá, lớp học, nhà tắm công cộng. Trong những năm chiến tranh, đã có 17 em bé chào đời trong lòng địa đạo. Dựa vào địa đạo, nhân dân Vĩnh Mốc tiếp tục sinh hoạt bình thường vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Đây còn là hậu cứ của đảo Cồn Cỏ ngoài khơi. Từ nơi này, đã chuyển đi 11.500 tấn hàng cho Cồn Cỏ và 300 tấn khác cho chiến trường miền Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 07:38:56 pm

Nhìn chung, những năm tháng chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, nhờ có đường lối, chính sách đúng, tổ chức thực hiện có hiệu quả, hợp với lòng dân và điều kiện cụ thể của tình hình lúc đó, nên Đảng và Nhà nước đã huy động được sức mạnh to lớn của nhân dân phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ. Suốt những năm này, khắp nơi trên miền Bắc, nhiều phong trào thi đua yêu nước phát triển sôi nổi, rộng khắp, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, mọi thành phần xã hội tham gia. Đó là các phong trào thanh niên “ba sẵn sàng”, phụ nữ “ba đảm đang”, công nhân “tay búa, tay súng”, nông dân “tay cày, tay súng”, trí thức “ba quyết tâm”1, thầy cô giáo và học sinh “hai tốt”... Đó là phong trào “năm tấn thóc, hai con lợn trên một héc ta đất gieo trồng”, là “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “thóc thừa cân, quân thừa người”... Từ những phong trào thi đua chống Mỹ, cứu nước của các địa phương trên miền Bắc, xuất hiện các điển hình trên từng lĩnh vực chiến đấu, sản xuất chi viện sức người, sức của cho chiến trường. Hoà Xá thuộc huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây quê hương của “chiếc gậy Trường Sơn” nổi tiếng, một điển hình trong việc bồi dưỡng sức khoẻ và nuôi lớn lớp lớp thanh niên từ 18 đến 35 tuổi, tổ chức họ thành những “phân đội dự bị” luyện tập quân sự, mang vác nặng, hành quân xa, để sẵn sàng bổ sung cho quân đội. Những chiếc gậy do nhân dân Hoà Xá làm ra được lớp lớp thanh niên trong xã dùng để vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu. “Chiếc gậy Trường Sơn” trở thành biểu tượng sáng ngời về lòng yêu nước và quyết tâm đánh Mỹ đến thắng lợi cuối cùng của nhân dân miền Bắc - hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Nó có sức cổ vũ động viên lớp lớp thanh niên miền Bắc đi vào cuộc trường chinh đánh Mỹ.

Vì thế, dù chiến tranh gây ra nhiều tổn thất nặng nề về người và của, tác động lên toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng... nhưng nhân dân miền Bắc chẳng những đã đương đầu và trụ vững trong “mưa bom, bão đạn”, đánh trả có hiệu quả các bước leo thang của không quân, hải quân Mỹ, duy trì và giữ vững sản xuất, ổn định được đời sống mà còn vươn lên đáp ứng đầy đủ, liên tục nhu cầu về người và vật chất ngày càng tăng của cuộc kháng chiến, của chiến trường miền Nam. Hàng năm, miền Bắc dành ra gần 20% tổng sản phẩm lương thực cung cấp cho lực lượng vũ trang; động viên hàng chục vạn thanh niên trẻ, khoẻ, có lý tưởng và trình độ văn hoá lên đường chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Chỉ tính trong hai năm 1966 và 1967, hơn 360.000 người con của hậu phương miền Bắc đã được động viên vào quân đội thường trực, 149.037 cán bộ, chiến sĩ đã hành quân vào Nam chiến đấu. Ngoài ra, cũng trong hai năm đó, 44.000 thanh niên nam, nữ hậu phương vâng theo lời Đảng và Bác, hành động theo nhịp đập của trái tim, đã tạm biệt gia đình, tạm biệt mái trường và quê hương, gia nhập lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước. Cũng như bao bạn bè cùng thế hệ, họ đã có mặt trên khắp nẻo đường của Tổ quốc đang có chiến tranh ác liệt. Họ sẵn sàng hiến dâng cả tuổi thanh xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống của mình cho Tổ quốc với một niềm tin sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước nhất định sẽ toàn thắng.

Đến năm 1967, cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam của đế quốc Mỹ đã bị quân, dân ta đánh bại một bước quan trọng, khiến cho nước Mỹ lâm vào cuộc khủng hoảng về chính trị và kinh tế, khủng hoảng về chiến lược quân sự và chính sách đối ngoại, không có cách gì khắc phục được. Trong nước, sự phân hoá giữa phái chủ chiến và chủ hoà, giữa các tầng lớp xã hội Mỹ với chính quyền liên bang... ngày càng trở nên gay gắt. Đó thực sự là một áp lực chính trị ngày càng tăng đối với chính quyền và đối với cá nhân Tổng thống Mỹ L.Giônxơn.

Trên thế giới, việc gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam khiến Mỹ ngày càng bị cô lập, ngày càng có nhiều tiếng nói ủng hộ nhân dân Việt Nam. Ngày 15-11-1966, Toà án quốc tế Béctơrăng Rútxen xét xử tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam được thành lập theo sáng kiến của nhà bác học người Anh Béctơrăng Rútxen. Toà án họp chính thức lần thứ nhất từ ngày 02 đến ngày 13-5-1966 tại Xtốckhôm (Thuỵ Điển) với hơn 300 đại biểu đến từ các nước và đông đảo phóng viên báo chí, vô tuyến truyền hình quốc tế, và kỳ họp thứ hai từ ngày 20-11 đến ngày 1-12-1967 tại Côpenhagen (Đan Mạch). Với những bằng chứng thực tế và đầy sức thuyết phục, Toà án Béctơrăng Rútxen kết luận: Chính phủ Mỹ đã phạm tội ác xâm lược chống nước Việt Nam, các Chính phủ Ôxtrâylia, Niu Dilân, Nam Triều Tiên là những nước đồng loã đã phạm những tội ác man rợ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế. Kết luận của Toà án Béctơrăng Rútxen có ý nghĩa về chính trị to lớn, có ảnh hưởng rộng rãi trong dư luận thế giới, nhất là dư luận ở nước Mỹ và các nước phương Tây.

Nhìn chung lại, qua ba năm leo thang đánh phá miền Bắc, các mục tiêu chiến lược mà Mỹ đề ra trong cuộc chiến tranh này đã không thực hiện được. Nhân dân miền Bắc vẫn bền tâm, vững chí, đoàn kết chặt chẽ xung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, vừa sản xuất, vừa đánh trả không quân, hải quân Mỹ, tăng sức chi viện toàn diện và mạnh mẽ cho cách mạng miền Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong khi đó, chính nước Mỹ đã bị rung động, xã hội Mỹ bị chia rẽ bởi những thất bại ngày càng lớn của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Điều này chứng minh một cách hùng hồn rằng một dân tộc chiến đấu vì sự nghiệp chính nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản kiên cường, toàn dân đoàn kết, xây dựng được hậu phương chiến lược vững mạnh, kiên quyết kháng chiến, thì nhất định sẽ đánh thắng bất cứ kẻ thù xâm lược dù lớn mạnh và hung bạo đến đâu.
________________________________________
1. Nhằm động viên đông đảo trí thức vào công cuộc chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tháng 1-1966. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức Hội nghị Trí thức Việt Nam chống Mỹ, cứu nước. Hội nghị ra lời kêu gọi đội ngũ trí thức Việt Nam thi đua thực hiện phong trào “ba quyết tâm”: quyết tâm phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống; quyết tâm đẩy mạnh cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá; quyết tâm đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ ngày càng lớn mạnh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 07:40:22 pm

KẾT LUẬN

Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược cực kỳ gian khổ, ác liệt, thì giai đoạn chiến tranh cục bộ là đỉnh cao của cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ. Vì đây là giai đoạn quân và dân ta phải trực tiếp đương đầu với đội quân viễn chinh Mỹ - một đội quân hùng mạnh chưa từng bị thua trận trong các cuộc chiến tranh trước đó và cũng là giai đoạn mà sức mạnh của cả nước Mỹ được huy động vào cuộc chiến tranh xâm lược đến mức cao nhất.

Khi đưa quân chiến đấu Mỹ vào Việt Nam, các nhà vạch chiến lược Hoa Kỳ tính toán rằng cùng lắm là dùng 175.000 quân là có thể giành chiến thắng. Nhưng đến cuối năm 1965, quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ đã vào miền Nam nước ta 200.000 tên với đầy đủ vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại nhất, vượt xa mức dự kiến ban đầu. Bộ Chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn theo lệnh của Tổng thống L.Giônxơn đã tung toàn bộ lực lượng trên vào cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, ồ ạt đánh ra năm hướng trên hai chiến trường miền Đông Nam Bộ và Khu V. Mục đích cuộc phản công chiến lược của địch là tìm diệt chủ lực ta, phá chiến tranh du kích và căn cứ giải phóng, giành lại quyền chủ động chiến trường. Đế quốc Mỹ không ngờ là đội quân thiện chiến của chúng trong quá trình hành quân tìm diệt không sao gặp được chủ lực Quân giải phóng, nhưng chúng đi đến đâu cũng bị quân, dân ta đánh cho đại bại trên cả năm hướng. Quân, dân ta đã thắng Mỹ trong cuộc đọ sức đầu tiên. Thắng lợi này củng cố vững chắc niềm tin đánh thắng được Mỹ cho quân và dân ta, đồng thời khẳng định khả năng của ta có thể đánh thắng đế quốc Mỹ và bọn tay sai trong bất kỳ tình huống nào của cuộc chiến. Sau thất bại đầu tiên này, những người cầm quyền nước Mỹ cảm thấy họ đang chơi một cuộc chiến tranh đang thua và “không ai có thể bảo đảm với Tổng thống Mỹ rằng chúng ta (Mỹ), có thể đánh bại Việt cộng hoặc thậm chí buộc họ phải đến bàn hội nghị theo điều kiện của chúng ta (Mỹ), dù cho chúng ta triển khai đến mấy chục vạn quân đội da trắng ở nước ngoài đi nữa”1. Mối nghi ngờ và nỗi thất vọng về cuộc chiến của quân đội Mỹ lan tràn trong những người cầm quyền Oasinhtơn. Duy chỉ có tướng Oétmolen và Lốt còn tin tưởng Mỹ có thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh, nhưng không phải số quân như hiện có mà phải tăng quân chiến đấu Mỹ ở Việt Nam lên 443.000 vào cuối năm 1966. Khi mùa Đông năm 1966 sắp qua đi, ta mở Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị, tạo ra hướng tiến công chiến lược mới, buộc quân Mỹ phải phân tán lực lượng, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng, thì Oétmolen lại xin tăng quân Mỹ lên hơn nửa triệu cho năm 1967. Cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của quân Mỹ mà tập trung là cuộc hành quân Gianxơn Xity đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu bị thất bại nặng nề. Cùng với những thất bại ở miền Nam, cuộc chiến tranh phá hoại chống miền Bắc Việt Nam của Mỹ cũng phá sản. Mắc Namara, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ thấy rõ: “Các chính sách và chương trình của Mỹ ở Đông Dương đã phát triển theo một hướng mà chúng ta (Mỹ) đã không lường trước được... và sự thiệt hại về người, chính trị, xã hội và kinh tế là không thể tưởng tượng được. Chúng ta (Mỹ) đã thất bại”2. Đây không chỉ riêng đánh giá của Mác Namara, mà là ý kiến của đa số những nhà vạch chiến lược Mỹ - kể cả Tổng thống. Nhưng là một siêu cường dù bị thất bại nhưng đế quốc Mỹ không dễ chịu thua Việt Nam, chúng xoay sang vừa tăng cường quân sự, vừa tìm kiếm giải pháp chính trị thông qua con đường ngoại giao với các nước lớn, nhằm “đạt mục tiêu vừa phải”, nhưng Mỹ phải ở thế mạnh. Càng ngoan cố lao sâu vào cuộc chiến tranh với nhiều biện pháp thâm độc xảo quyệt đế quốc Mỹ bị thất bại càng lớn và đến mùa Đông 1967, trên bình diện quân sự, quân Mỹ bắt đầu lùi dần vào thế phòng ngự chiến lược trên toàn miền Nam. Từ tiến công và phản công, đế quốc Mỹ phải chuyển vào phòng ngự bị động là thất bại lớn, đẩy chúng lâm vào “tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược”3. Trong khi đó, cuộc kháng chiến của nhân dân ta phát triển theo chiều thuận càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng to khiến cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng bối rối và hoang mang, nhân dân tiến bộ thế giới vui mừng, khâm phục.

Đánh thắng hai cuộc phản công chiến lược tìm diệt của quân viễn chinh Mỹ có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng là ta đã tạo ra tiền đề vững chắc để đánh thắng hoàn toàn chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.
________________________________________
1. Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. VNTTX phát hành, Hà Nội, 1971, t. 2. tr. 125.
2. Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 277.
3. Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 12- 1967.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 07:41:01 pm

Nguyên nhân thắng lợi to lớn, toàn diện của quân, dân ta trong keo đọ sức đầu tiên này là Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng bản chất và tham vọng của đế quốc Mỹ, dự kiến được chiều hướng phát triển của cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ tiến hành, từ đó đề ra đường lối, phương pháp cách mạng và chiến lược quân sự đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh của cuộc chiến tranh; đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chuẩn bị trước mọi mặt, sẵn sàng đối phó thắng lợi nếu Mỹ leo thang, mở rộng chiến tranh. Sự chuẩn bị trước này bắt đầu từ trước năm 1960, đặc biệt khẩn trương trong những năm đầu thập kỷ sáu mươi. Quân và dân ta đã tập trung sức lực và trí tuệ xây dựng miền Bắc Việt Nam thành hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến, đồng thời với xây dựng các căn cứ hậu phương trực tiếp ở miền Nam. Trên miền Bắc, các mặt kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng và an ninh đều phát triển. Ở nông thôn và thành thị, các hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp được thành lập, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập, tạo nên sự nhất trí cao về chính trị, tinh thần trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân bảo đảm vững chắc sự phát triển của hậu phương chiến lược. Nhờ đó, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn cõi Việt Nam với hình thức và mức độ khác nhau, ta đã huy động hàng triệu thanh niên nam, nữ gia nhập lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong, tự nguyện ra tiền tuyến giết giặc, cứu nước. Từ sau ngày 5-8-1964, Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân chống miền Bắc Việt Nam, hòng làm lung lay ý chí của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, thì cả miền Bắc đã đồng tâm tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không, đánh thắng các bước leo thang chiến tranh phá hoại của Mỹ, đồng thời không ngừng tăng cường chi viện sức người sức của cho miền Nam liên tục tiến công và nổi dậy. Có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, biết thắng địch từng bước mà quân và dân ta lần lượt đánh bại các chính sách và chiến lược của địch từ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới không có chiến tranh đến chiến lược chiến tranh đặc biệt rồi chiến tranh cục bộ, để duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới Mỹ, đẩy chính quyền và quân đội Sài Gòn tay sai Mỹ đứng trước nguy cơ sụp đổ.

Chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ đã bị đánh bại, nhân dân ta đã xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc trên cả ba vùng chiến lược và đang ở thế thắng, sẵn sàng chiến đấu cao. Trong tình hình đó, đế quốc Mỹ vội vã đưa quân viễn chinh vào Nam Việt Nam để cứu chính quyền Sài Gòn và cứu chính bản thân Mỹ, hòng giành lại quyền chủ động chiến trường là sự bị động về chiến lược của chúng. Trong chiến tranh cũng như trong tác chiến chiến lược, chiến dịch và chiến đấu, bên nào nắm quyền chủ động điều khiển được đối phương theo ý định của mình thì bên đó nắm chắc phần thắng. Quân Mỹ nhảy vào miền Nam tiến hành chiến tranh cục bộ và dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam, nhưng quân và dân ta từ Bắc chí Nam đều nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, tích cực chủ động tìm địch để đánh chứ không chờ đợi. Chính nhờ giữ vững quyền chủ động chiến lược chiến dịch, chiến đấu, quân, dân ta ở miền Nam đã tạo được yếu tố bí mật, bất ngờ trong quá trình chiến đấu, làm cho quân Mỹ và quân ngụy luôn luôn bị động, phân tán lực lượng đối phó, không tập trung và không phát huy được sức mạnh của vũ khí, kỹ thuật hiện đại (những thứ địch hơn ta). Ta chủ động tiến công vào lúc, vào nơi mà quân Mỹ chưa kịp phòng bị, khi chúng bắt đầu đối phó thì quân ta đã nắm thắt lưng Mỹ mà đánh rồi.

Thắng lợi này còn là kết quả của tinh thần chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, trí thông minh sáng tạo, dám xả thân vì sự nghiệp chính nghĩa của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên khắp các chiến trường. Lênin đã từng nói: Trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào, thắng lợi suy cho cùng là do trạng thái tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường quyết định... Sự giác ngộ của quần chúng về mục đích và nguyên nhân của chiến tranh có ý nghĩa rất to lớn là điều bảo đảm cho thắng lợi. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trước khi ra trận đều được học tập kỹ về đường lối kháng chiến chống Mỹ xâm lược, về nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của cách mạng Việt Nam ở miền Nam. Người chiến sĩ nhận thức đầy đủ mục tiêu, lý tưởng mà mình phải chiến đấu hy sinh, không mơ hồ ảo tưởng như người lính Mỹ. Cho nên, trong các trận đánh dù ác liệt đến đâu, cán bộ, chiến sĩ của ta đã dùng “sự giác ngộ chính trị cao” để “giải quyết sự thiếu thốn về vật chất”, biết kết hợp nhuần nhuyễn tinh thần dũng cảm với trí thông minh sáng tạo để tạo nên sức mạnh áp đảo kẻ thù trong từng tình huống, từng trận đánh, từng chiến dịch, từng thời cơ để giành thắng lợi về mình.

Qua hai mùa khô đọ sức trực tiếp với quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ ở miền Nam; đánh trả bước leo thang bằng không quân, hải quân trên miền Bắc, quân, dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc: đánh thắng hiệp đầu trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ và đã tạo ra được thời cơ chiến lược mới để chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang thời kỳ giành thắng lợi quyết định.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Tập 4
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 07:43:03 pm

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Giô dép A.Amtơ: Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985.
2. Ba mươi năm kháng chiến của quân dân tỉnh Đồng Tháp, Ban chỉ huy quân sự Đồng Tháp, 1990.
3. Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), Ban Tổng kết chiến tranh B2, 1979, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
4. Báo cáo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường khu vực VI (cực Nam Trung Bộ - nam Tây Nguyên), t.3, Phòng Tổng kết chiến tranh Khu VI thuộc Ban Tổng kết chiến tranh B2, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
5. Bến Tre - 30 năm kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Ban Chỉ huy quân sự Bến Tre, 1990.
6. Bình Định - Lịch sử chiến tranh 30 năm, Ban Chỉ huy quân sự Bình Định, 1992.
7. Bình Thuận - 30 năm chiến tranh giải phóng, t.2, Ban Chỉ huy quân sự Bình Thuận, 1992.
8. Lý Thực Cốc: Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
9. Cuộc kháng chiến 30 năm của quân dân Tiền Giang, Ban Chỉ huy quân sự Tiền Giang, 1988.
10. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 1987.
11. Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Hà Nội, 1991.
12. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Những sự kiện quân sự, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Hà Nội, 1988.
13. G.Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.
14. Cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Tây Ninh, Ban Tổng kết chiến tranh Tỉnh uỷ Tây Ninh, 1984.
15. Cửu Long - 21 năm kiên cường đánh Mỹ, Nxb. Cửu Long, 1986.
16. Chiến tranh du kích trên chiến trường Bình Định (1945-1975), Ban Chỉ huy quân sự Bình Định, 1991.
17. Chiến trường Trị - Thiên - Huế trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Thuận Hoá, 1985.
18. Chiến thắng Plâyme - ba mươi năm sau nhìn lại, (Tài liệu hội thảo khoa học), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.
19. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985.
20. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, 1985.
21. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.
22. Đoàn Đồng Xoài, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.
23. Đồng Nai - 30 năm chiến tranh giải phóng, Nxb. Đồng Nai, 1986.
24. Ilya V.Gaiduk: Liên bang Xôviết và cuộc chiến tranh Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1998.
25. Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, t.3, Nxb. Khoa học - Xã hội, Hà Nội, 1970.
26. Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, t.4, Nxb. Khoa học - Xã hội, Hà Nội, 1970.
27. Hồ Chí Minh: Với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975.
28. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
29. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
30. George C.Heering: Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1988.
31. Hồi ký Giônxơn: Về cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam,VNTTX phát hành, Hà Nội, 1972.
32. Hậu Giang - 21 năm kháng chiến chống Mỹ, Nxb.Tổng hợp Hậu Giang, 1987.
33. Kiên Giang - 30 năm chiến tranh giải phóng (1945- 1975), Ban Chỉ huy quân sự Kiên Giang, 1987.
34. Khu V-30 năm chiến tranh giải phóng, t.2, Bộ Tư lệnh Quân khu V, 1989.
35. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, t.2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
36. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, t. 1. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1990.
37. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc, t.3, Đắc Lắc, 1994.
38. Lịch sử Đảng bộ huyện Hướng Hoá (1930-1975), Sở Văn hoá - Thông tin Quảng Trị, 1993.
39. Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Phổ (1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
40. Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.
41. Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985.
42. Lịch sử Quân chủng Phòng không, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.
43. Lịch sử bộ đội Đặc công, t.1, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1987.
44. Lịch sử Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.
45. Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn- Gia Định kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.
46. Lịch sử truyền thống cách mạng của Đảng bộ, quân dân Phước Long, Ban chỉ huy quân sự Huyện Đảng bộ Phước Long, 1994.
47. Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân huyện Thạnh Phú (1930-1980), Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thạnh Phú, 1987.
48. Lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân huyện Long Đất, Nxb. Đồng Nai, 1986.
49. Lịch sử Bà Rịa - Vũng Tàu kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.
50. Lịch sử Khu VI (cực Nam Trung Bộ và nam Tây Nguyên) kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.
51. Long An - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.
52. Long Thành - Những chặn đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, 1988.
53. Lực lượng vũ trang nhân dân Trà Vinh 30 năm kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998.
54. Lực lượng vũ trang Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980.
55. Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985.
56. R.S. Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
57. Đỗ Mậu: Tâm sự tướng lưu vong, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1995.
58. Mấy vấn đề về chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.
59. Miền Đông Nam Bộ kháng chiến, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.
60. Minh Hải, 30 năm chiến tranh giải phóng, Nxb. Mũi Cà Mau, 1986.
61. Nam Trung Bộ kháng chiến, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
62. 50 năm Quân đội nhân dân Việt Nam - Biên niên sự kiện, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.
63. Những sự kiện lịch sử Đảng, t.1, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1982.
64. Những sự kiện lịch sử Đảng, t.3, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985.
65. Nghiên cứu văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986.
66. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 12-1965, Tài liệu lưu lại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
67. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 1-1967, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
68. Pitơ A. Pulơ: Nước Mỹ và Đông Dương từ Rudơven đến Níchxơn, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986.
69. Davit R. Panmơ: Tiếng kèn gọi quân, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1987.
70. Phú Yên - 30 năm chiến tranh giải phóng, Ban Chỉ huy quân sự Phú Yên, 1993.
71. Phước An - xã anh hùng, Nxb. Đồng Nai, 1985.
72. Quân khu III - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.
73. Quân khu IV - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.
74. Quân khu IX - 30 năm kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.
75. Quảng Ngãi - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975), Nxb. Tổng hợp Nghĩa Bình, 1988.
76. Quảng Nam - Đà Nẵng - 30 năm chiến đấu và chiến thắng, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1988.
77. Quảng Trị - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Thường vụ Đảng uỷ và Ban Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị, 1998.
78. Lê Quốc Sản: Cuộc đọ sức thần kỳ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.
79. Sedg Wick Tourìson: Đội quân bí mật, cuộc chiến tranh bí mật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
80. Sông Bé - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm, Nxb.Tổng hợp Sông Bé, 1990.
81. Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp quyền, Nxb. Khoa học- Xã hội, Hà Nội, 1983.
82. Thái Bình chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Ban Chỉ huy quân sự Thái Bình, 1995.
83. Tuy Hoà - Những chặng đường đấu tranh cách mạng (1929 - 1975), Ban Lịch sử Đảng Tuy Hoà, 1988.
84. Trận đánh 30 năm (Ký sự lịch sử), t. 3, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1988.
85. Truyền thống huyện Vĩnh Thuận anh hùng, Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận, 1995.
86. Truyền thống huyện An Biên, t. 2, Ban Thường vụ Huyện uỷ An Biên, 1996.
87. Truyền thống cách mạng huyện Ngọc Hiển, Nxb. Mũi Cà Mau, 1990.
88. Thủ đô Hà Nội - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.
89. Tài liệu mật Lầu Năm góc, TTTTKHKT dịch, Thư viện Quân đội sao lục.
90. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, VNTTX phát hành, Hà Nội, 1971.
91. Tây Bắc - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.
92. Văn kiện lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, t.2, Nxb. Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội, 1987.
93. Việt Nam - con số và sự kiện, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990.
94. Việt Bắc - 30 năm chiến tranh cách mạng, t.2. Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992.
95. Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

Hết!