Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thảo luận Lịch sử bảo vệ Tổ quốc => Quyết tử cho Tổ quốc... => Tác giả chủ đề:: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 08:52:14 pm



Tiêu đề: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 08:52:14 pm
Vọng mãi lời thề quyết tử

 

Chiều 18-12, trong tiết đông, nhưng đi giữa Hà Nội lại thấy lòng ấm áp… Trước tiền sảnh Nhà Hát Lớn hàng trăm cựu chiến binh, ngực kín huân, huy chương, nét mặt rạng ngời tề tựu, tay bắt, mặt mừng, xúc động bên nhau nhớ lại những ngày tháng hào hùng của 60 năm về trước. Mùa đông năm 1946, họ là những người đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Hồ Chủ tịch trao: “Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”…


Chúng tôi không khỏi xúc động khi thấy các cụ bà, cụ ông-chứng nhân của Hà Nội 60 ngày đêm khói lửa đứng lặng trong khán phòng của nhà Hát Lớn để nghe lại Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh:“… Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...”. Lời của Bác như mạch nước nguồn thấm đẫm những trái tim đang rực lửa cách mạng. Đại tá Nguyễn Trọng Hàm, Trưởng ban liên lạc chiến sĩ quyết tử Thủ đô, mái tóc đã bạc, nhưng giọng nói mạch lạc, khúc triết khi nhớ lại mùa đông năm 1946. Theo cách nói của ông, một mùa đông mà vận mệnh của Tổ quốc như “ngàn cân treo sợi tóc” nhưng đấy cũng là mùa đông mà lòng người hoà trong hồn nước thiêng liêng. Đồng bào, chiến sĩ Hà Nội dù chỉ với bom ba càng, súng tiểu liên và chai xăng đã anh dũng chống chọi lại với đại bác, xe tăng và máy bay địch...

Ngồi ngay hàng ghế đầu là hai cụ già dáng trông quắc thước, râu tóc bạc phơ, đó là Thiếu tướng Hoàng Dũng và Thiếu tướng Đặng Văn Duy, cả hai đều là những chiến sĩ quyết tử ở Hà Nội những ngày mùa đông năm 1946. Thiếu tướng Hoàng Dũng (tên thật là Nguyễn Đình Sơn), nguyên là Chánh văn phòng Bộ Quốc phòng kể: “Tôi bây giờ đang định cư cùng các con tại Thành phố Hồ Chí Minh. Khi nhận được điện của anh Hàm, tôi liền cấp tốc ra ngay. Cũng đã lâu lắm rồi chúng tôi mới lại có dịp gặp nhau đông đủ như thế này. Những ngày Toàn quốc kháng chiến chúng tôi mới có mười chín, đôi mươi, còn trẻ lắm. Nhà tôi có ba chị em cùng tham gia chiến đấu ở Hà Nội. Chị lớn là Nguyễn Minh Thanh, chị thứ hai là Nguyễn Thị Kim và tôi. Hai chị ấy đều ở trong Hội phụ nữ cứu quốc Liên khu III, còn tôi là tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu. Sau khi nổ súng được ít ngày, chúng tôi được nhập vào tiểu đoàn Vệ quốc đoàn có phiên hiệu là An Giao bảo vệ Liên khu III”.

Theo tay ông Dũng chỉ, chúng tôi đến gặp người phụ nữ có khuôn mặt thanh nhã, bà chính là chị ruột của ông Dũng. Bà Thanh bảo: “Ngày ấy chính chúng tôi đã vận động các chị cô đầu ở phố Khâm Thiên vào đội tự vệ, đội hồng thập tự. Trước đó, các chị ấy có vẻ tự ti lắm, nhưng khi hòa nhập vào tập thể, thấy chẳng có ai phân biệt đối xử gì, nên các chị ấy vui vẻ hẳn. Vả lại ngày ấy kháng chiến, lúc nào cũng đi dưới bom rơi, đạn nổ, ai cũng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng vì một mục tiêu cao cả, nên dễ xích lại gần nhau, dễ làm bạn của nhau. Các tự vệ cô đầu ngày ấy cũng làm được rất nhiều việc, nhưng có lẽ còn ít người biết đến…”. Tôi được biết thêm chồng của bác Thanh chính là cụ Tô Hữu Hạnh, nguyên giám đốc bưu điện Hà Nội, người đã trực tiếp đã trực tiếp lắp ráp chiếc máy thu thanh hiệu Phi-líp để Chính phủ lâm thời nghe bản tuyên bố đầu hàng của phát-xít Nhật trước quân Đồng minh năm 1945. Hiện nay chiếc máy thu thanh này đang được lưu giữ trong Bảo tàng Cách mạng.

Trong một góc khán phòng, nhà giáo Giang Ngọc Diệp năm nay đã 70 tuổi bồi hồi nhớ lại: “…Tôi không bao giờ nghĩ mình lại được đứng trong hàng ngũ của những người Quyết tử sống mái với Thủ đô. Thủa ấy tôi mới có mười tuổi đầu. Cuộc sống của tôi gắn liền với chiếc hòm đánh giày. Tối 19-12-1946, chúng tôi vẫn đang lang thang ở khu Đồng Xuân để chờ đánh giày thì được một anh Vệ quốc đoàn kéo vào và giao cho một bức thư nói là phải chuyển ngay xuống cho các anh bộ đội ở Đồng Xuân. Anh ấy dặn dò cách đi đứng cẩn thận và bảo tuyệt đối không được để lọt thư vào tay quân Pháp. Tôi và anh Nguyễn Trường Sơn cùng một anh nữa, đều là bạn đánh giày của nhau, bàn bạc và cho bức thư xuống đáy hộp xi đánh giày, rồi xách đi, miệng vẫn cứ rao đánh giày như thường. Bằng cách ấy chúng tôi đã chuyển được bức thư đến tận tay các anh Vệ quốc đoàn ở Đồng Xuân. Sau này tôi mới biết đấy là hiệu lệnh các anh ấy truyền cho nhau để thông báo giờ nổ súng. Những ngày sau nữa, tôi vẫn được anh Vệ quốc đoàn ấy nhờ đưa thư. Mãi sau này tối mới biết, nguời ấy chính là anh Nguyễn Trọng Hàm, trưởng ban liên lạc Trung đoàn Thủ Đô ngày nay. Cũng nhờ những ngày Toàn quốc kháng chiến, mà tôi như được đổi đời, sau này tôi được đi học, rồi thi đỗ vào lớp đệ nhất trường Chu Văn An và bắt đầu cuộc đời của một nhà giáo từ ấy…”.

Trong buổi gặp mặt này tôi nhận ra, cuộc kháng chiến Toàn quốc dường như có một sức hút kỳ lạ. Đã có nhiều cảnh đời, nhiều số phận kết lại với nhau để tạo nên một trang lịch sử bằng vàng cho dân tộc. Tôi cũng không thể ngờ, Giáo sư Nguyễn Tài Thu, Viện trưởng Viện châm cứu Việt Nam, cũng là một trong những chiến sĩ quyết tử giữ Liên khu I. Ông hồ hởi kể với chúng tôi ngay trước sảnh Nhà Hát Lớn: “Các cậu đừng tưởng tớ là giáo sư thì không biết đánh giặc đâu nhé. Ngày ấy tớ cùng bác Vũ Lễ đây và một số anh em khác đã tham gia đánh trận Trường Ke và trận Đồng Xuân. Khi lính Pháp đến, chúng mình cũng giật, cũng ném lựu đạn tới tấp, mặc dù trước đó ít ngày còn chưa biết lựu đạn là gì, cách bắn súng ra sao. Ấy thế mà sau vài ngày nhập vào tự vệ thành, anh nào cũng chiến đấu giỏi cả. Chỉ sau này hết giặc rồi mình mới trở thành giáo sư đấy chứ…”. Nhìn vị giáo sư cười sảng khoái và sôi nổi trò chuyện với các bạn một thời Quyết tử, tôi bỗng thấy đất nước mình có những người con thật là kỳ lạ, khi đất nước có giặc, họ có thể cầm súng, khi đất nước hòa bình, họ có thể trở thành nhà khoa học. Đất nước như thế thì không kẻ thù nào là không khiếp sợ.

Câu chuyện của chúng tôi còn dang dở thì tiếng loa thông báo buổi lễ bắt đầu. Trong khán phòng chính của Nhà Hát Lớn phút chốc đã chật cứng người. Không phải chỉ có các cựu chiến sĩ Quyết tử mà còn có khá nhiều các nhà khoa học, văn nghệ sĩ và các bạn trẻ tham dự buổi lễ. Nhà sử học Dương Trung Quốc đã nói hộ tiếng lòng của lớp lớp thế hệ trẻ đi sau với các bậc cha anh đi trước: “Tuổi trẻ hôm nay không bao giờ đánh mất, càng không bao giờ quay lưng lại với lịch sử, với chiến công hiển hách của cha ông mình. Họ luôn mang trong mình hành trang của một thời cha ông đánh giặc bởi có những ngày khói lửa mới có những ngày sôi động cuộc sống hôm nay...”. Chúng tôi được gặp chị Hoàng Thị Hường, con gái của đồng chí Hoàng Siêu Hải-Trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn Thủ Đô. Chị Hường hiện công tác ở Công ty Môi trường và Đô thị Hà Nội. Chị nói: “Soi vào những chiến công rực rỡ ấy, chúng tôi thấy còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa mới xứng đáng với sự cống hiến hết mình cho Tổ quốc của cha ông...”.

Biết có cuộc gặp mặt của các cựu chiến sĩ Trung đoàn Thủ Đô tại Nhà Hát Lớn, tiền sảnh quảng trường đông hẳn lên. Còn rất nhiều bà con nhân dân trong đó có khá nhiều học sinh, sinh viên và cả du khách nước ngoài muốn được vào khán phòng để trực tiếp nghe các cụ “Quyết tử” trò chuyện, nhưng không thể, nên họ đợi. Em Trần Thanh Huyền Phương, học sinh trường THPT Phan Đình Phùng dí dỏm:

- Em thường đi học qua Tượng đài các chiến sĩ Quyết tử (trên vườn hoa Vạn Xuân), hôm nay muốn tận mắt được nhìn ngắm các cụ là nguyên mẫu. Em thật sự xúc động trước tình cảm của các cụ hôm nay, thế mới hiểu, 60 năm trước, trái tim trẻ rực lửa của các cụ dành cho Tổ quốc sâu nặng đến thế nào...

Chiều dần buông, mọi người dùng dằng mãi mà vẫn chưa rời khỏi quảng trường. Ngay cả các bạn trẻ cũng níu các ông, các bà “Quyết tử” lại để hỏi chuyện. Nhìn hình ảnh ấy chúng tôi bỗng thấy niềm vui dâng trào trong lòng, có lẽ dòng nhiệt huyết cách mạng của cha anh ngày nào đang lan dần sang thế hệ trẻ. Họ cũng sẽ lại là những chiến sĩ “Quyết tử” khi đất nước đứng trước họa xâm lăng…

Bài, ảnh: TRẦN ANH TUẤN và NGÔ ANH THU
 

Nguồn : qdnd.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 08:58:37 pm
Những Vệ út trên chiến hào vệ quốc


Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời hiệu triệu toàn quốc kháng chiến. Những Vệ quốc quân của Trung đoàn Thủ đô đã lập chiến lũy giữa Hà Nội đương đầu với Pháp, để Chính phủ lâm thời rút lên chiến khu Việt Bắc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Ít ai biết trong lực lượng Vệ quốc quân ngày ấy có một “lực lượng đặc biệt” với tên gọi thân thương: Vệ út. Những chiến sĩ khi ấy tuổi mới lên 10. Và giờ đây, sau 60 năm, những câu chuyện lần đầu tiên được kể lại.


Kỳ 1: Tuổi thơ dữ dội

TT - Đó là những đứa trẻ nghèo, mồ côi bán báo, bán bánh mì hay đánh giày lang thang trên những hè phố Hà Nội kiếm sống. Cái đói vàng mắt năm 1945 đã xua những đứa trẻ ấy dật dờ về sống ở xóm lao động nghèo Phúc Tân, Phúc Xá ven sông Hồng cho đến khi ánh điện Nhà máy điện Yên Phụ phụt tắt: toàn quốc kháng chiến bùng nổ.

Bãi Phúc Tân rực cháy

Gặp lại những Vệ út năm xưa, họ đều khẳng định rằng không thể nào quên những năm tháng tuổi thơ sống cùng nhau ở khu lao động nghèo trên bãi Phúc Tân, chính nơi đó là mái nhà chung đầu tiên của rất nhiều Vệ út trước khi trở thành chiến sĩ cảm tử quân nhỏ tuổi.


Trong hồi ký Chiến đấu trong vòng vây - trận Hà Nội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Ngày 14-1-1947, chúng ta thống nhất với lãnh sự Trung Hoa, Anh, Pháp và Mỹ cùng phía Pháp ngừng bắn 24 giờ đưa Hoa kiều, Ấn kiều và thường dân ra khỏi khu vực chiến sự. Bộ tổng chỉ huy quyết định chỉ để lại Liên khu 1 (một bộ phận của Trung đoàn Thủ đô, khoảng 500 người) ở lại. Nhưng điều ta không dự kiến là có những người đã trốn ở lại để tiếp tục chiến đấu, trong số này có  200 phụ nữ và 175 em nhỏ”.
 
60 năm sau, trong căn xép nhỏ trên đường Phan Đình Phùng (Q.Ba Đình, Hà Nội), trung tá Phùng Đệ (Xưởng phim Quân đội) - một Vệ út năm xưa - bồi hồi nhớ lại: “Mới lên 4, tôi trở thành cậu bé mồ côi khi cơn bạo bệnh đã cướp đi người cha của mình. Những tháng ngày sau đó, người dân vùng Bưởi ven hồ Tây không còn lạ cảnh một đứa bé lẫm chẫm theo mẹ bán hàng rong rồi tối về ngủ trong căn nhà lá ổ chuột, ẩm ướt. Cuộc sống bần cùng và lần ăn từng bữa nhưng ít ra vẫn còn mẹ che chở”. Cậu bé Phùng Đệ lại mất đi tình thương của người mẹ lúc mới 12 tuổi khi cơn đói năm 1945 tràn đến. Tuyệt vọng, cậu bé “cầu bất cầu bơ” theo người cô họ xa ra ở bãi Phúc Tân.

Còn tuổi thơ của Vệ út Vũ Trọng Phụng, nguyên đại tá quân đội về hưu (hiện đang sống tại Hà Nội), cũng là những “tháng ngày dữ dội” nhất. Mồ côi cha năm lên 7, mồ côi mẹ lúc lên 10, ngôi nhà ở phố Gầm Cầu bị Pháp đốt, cậu bé Phụng dạt xuống ở bãi Phúc Tân với nghề bán kẹo, bán bánh mì rồi đi thổi lò rèn.

Bãi Phúc Tân khi ấy là một doi đất nổi lên giữa sông Hồng. Hơn 100 túp lều tranh tre tạm bợ, xiêu vẹo của người lao động nghèo và cũng là nơi tiếp nhận hàng chục đứa trẻ bất hạnh từ khắp nơi dạt đến. Những đứa trẻ này dần dần quen nhau và trở nên thân thiết như anh em một nhà. Ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ 19-12-1946, bãi Phúc Tân lửa sáng rực trời. Ông Lê Trung Toản, nguyên chính ủy Trung đoàn Thủ đô trong 60 ngày đêm kháng chiến, kể rằng quân Pháp đã đốt cháy những căn nhà lá ven sông để chặn đường tiếp tế từ bên ngoài vào thủ đô. Thân phận những đứa trẻ nghèo cũng bị đốt theo ngọn lửa chiến tranh.

Bức mật đồ và chiếc áo Việt minh
 
 
Hà Nội và cả nước đã bắt đầu nổ súng kháng chiến. Lệnh tản cư kháng chiến được ban hành, hàng vạn người dân Hà Nội lặng lẽ dời thủ đô đi về các tỉnh vùng sau lưng địch: Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình... Nhưng những đứa trẻ bãi Phúc Tân lại tìm đường quay lại thủ đô, tìm đến các chiến lũy. Ông Nguyễn Văn Phúc, khi ấy mới 11 tuổi, một trong những Vệ út đầu tiên làm liên lạc cho đại đội 1, tiểu đoàn 101 (Trung đoàn Thủ đô), kể: “Điều kỳ lạ là tôi và nhiều đứa trẻ cùng tuổi khác đều tìm cách trốn tản cư ở lại tham gia kháng chiến. Mục đích của bọn tôi cũng thật hồn nhiên: ở lại để đánh những đứa đã đốt nhà trên bãi Phúc Tân".

Những đêm đầu không có chăn chiếu, những đứa trẻ bãi Phúc Tân nằm co ro rét mướt ở hiên nhà. Nhưng đêm sau, có một anh dáng người cao gầy đem đến cho mấy đứa một chiếc chiếu đắp đỡ rét. Rồi một ngày, anh “cao gầy” đưa cho những đứa trẻ một bức thư trong có những ký hiệu lạ: đầu tiên là hình tháp rùa, phía sau là mũi tên và hình chiếc tàu điện, tiếp theo là hình chiếc cầu có ghi thêm một từ "Giấy", cuối cùng là hình một ngôi đền phía trước có thêm hình con voi phục. “Suy luận mãi chúng tôi mới hiểu ý: lên bờ hồ đi tàu điện đến Cầu Giấy để đến đền Voi Phục. Ngay tối hôm ấy, ba đứa được kết nạp vào Đội thiếu niên Hoàng Văn Thụ mới té ngửa ra người nói chuyện với mình hằng đêm là anh Phong Nhã, phụ trách Đội thiếu nhi kháng chiến Hà Nội lúc bấy giờ. Sau đó, tôi được vào hàng ngũ Vệ quốc đoàn làm liên lạc cho tiểu đoàn 101 chiến đấu bảo vệ Bắc bộ phủ” - ông Phúc kể. Ngày đầu tiên trong đội quân cảm tử, Vệ út Phúc được các anh chị trong Vệ quốc đoàn dành cho một chiếc áo sơmi màu cỏ úa thay thế chiếc áo “bốn mùa” rách nát. “Chiếc áo ngắn của các anh mình mặc dài đến gối nhưng ấm áp vô cùng. Chiếc áo đánh dấu bước ngoặt của một cậu bé lang thang thành một người em út trong đội Vệ quốc quân quyết tử" - ông Phúc nhớ lại.


Cùng thời gian, người bạn của Nguyễn Văn Phúc là Trần Việt Minh cũng đã được "biên chế" vào làm liên lạc cho trung đội 1, tiểu đoàn 102 chiến đấu ở khu Đông Thành và Nguyễn Văn Lưu làm liên lạc cho tiểu đoàn 103 với nhiệm vụ kìm chân Pháp ở khu Đông Kinh Nghĩa Thục. Ông Lê Trung Toản, nguyên chính ủy Trung đoàn Thủ đô khi ấy, cho biết có hơn 170 em nhỏ ở Hà Nội và ở nhiều nơi khác đã trở thành Vệ quốc quân.


TRẦN ĐÌNH TÚ

--------------------

Trong làn lửa đạn, những Vệ út lao ra để truyền mật lệnh chiến đấu, làm liên lạc, tiếp tế cứu thương…, cùng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Có những Vệ út đã ngã xuống nhưng sự kiên cường sống mãi.


Nguồn: tuoitre.com.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 08:59:34 pm
Những “Gavroche” Hà thành


TT - Gavroche là tên nhân vật “chú bé liên lạc” trong tiểu thuyết Những người khốn khổ của nhà văn Pháp Victor Hugo viết về cuộc khởi nghĩa của nhân dân lao động Pháp.

Trong một trận chiến, chú bé Gavroche đã băng mình ra ngoài chiến lũy đến bên xác bọn lính đem đạn về cho nghĩa quân và hi sinh anh dũng.

Đó cũng là hình ảnh của những Vệ út trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến.

Con thoi dưới làn lửa đạn

Ngang dọc dưới những làn lửa đạn, những Vệ út vẫn lao ra để truyền mật lệnh chiến đấu, làm liên lạc viên, tiếp tế cứu thương và có khi trực tiếp cầm vũ khí chống lại kẻ thù.

Tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, mang trong mình những vết thương, Vệ út Nguyễn Văn Phúc trở về cuộc sống đời thường trong căn nhà nhỏ ở phố Minh Khai, Hà Nội.

Trong ký ức của ông, những trận đánh ngăn quân Pháp tại Bắc Bộ Phủ 60 năm trước thật không thể nào quên: “Đó là ngày 20-12-1946 - một ngày sau khi Hà Nội nổ súng kháng chiến. Cả đêm hôm trước đơn vị tôi (đại đội 15, tiểu đoàn 103) quần nhau với địch tranh từng góc sân, từng ngôi nhà tại Bắc Bộ Phủ. Đến mờ sáng, quân Pháp vẫn giậm chân tại chỗ vì sự kiên cường của vệ quốc quân”.



Đến gần 8 giờ sáng hôm sau, quân Pháp lại chuẩn bị tấn công với sự yểm trợ của xe tăng. Từ trên cửa sổ gác hai nhà Bắc Bộ Phủ, Vệ út Nguyễn Văn Phúc nhìn thấy quân Pháp tràn vào nên cấp báo ngay với Lê Gia Định - chính trị viên đại đội. Anh Định nghe xong ra lệnh: “Đi báo với tất cả đại đội im súng, chờ giặc tới gần vùng mới bắn và dùng lựu đạn tiêu diệt tạo bất ngờ. Tránh bắn sớm, đạn còn rất ít”.


60 năm sau, hơn 175 Vệ út năm xưa giờ chỉ còn lại hơn 10 người. Những cậu bé tóc còn để trái đào ngày ấy bây giờ đã bạc cả mái đầu. Ông Nguyễn Văn Hiếu - người Vệ út ở đại đội 16, tiểu đoàn 103 - kể: “Những ngày thủ đô kháng chiến, những Vệ út chúng tôi cũng đâu có biết hết nhau. Đứa chiến đấu ở đơn vị này đứa chiến đấu ở đơn vị khác, có được gặp mặt nhau cũng chỉ ở những bức tường hay giao thông hào khi đưa mệnh lệnh chiến đấu hay làm liên lạc viên. Ấy vậy mà cứ hễ có thời gian là mấy đứa lại túm tụm lại chơi những trò hồn nhiên của trẻ. Chúng tôi còn quá nhỏ để hiểu chiến tranh và cái chết là rất gần nhau”.


Câu chuyện bây giờ được nhiều Vệ út nhắc đến nhất vẫn là câu chuyện về một mái nhà chung của Vệ út sau khi đã rút khỏi thủ đô Hà Nội lên Đại Từ (Thái Nguyên). Ông Đặng Văn Tích kể: “Các Vệ út cũng theo các anh chị ở trung đoàn Thủ đô rút đi. Lên đến Thái Nguyên đoàn quân Vệ út chỉ còn khoảng 120 người được tập trung làm hai đại đội. Đây là sự may mắn duy nhất để tất cả Vệ út trong 60 ngày đêm có thể gặp mặt nhau”. Ông Nguyễn Văn Lộc nhớ lại: “Những Vệ út đã được sống cùng trong một mái nhà, chia nhau cái đói thắt lòng và cái rét se sắt trên miền chiến khu. Chưa biết mặt, không hề biết tên nhưng Vệ út nhanh thân nhau lắm”.
 
Anh Định đưa cho Vệ út Phúc một ít đạn loại súng trường đem sang vườn hoa Chí Linh. Phúc vừa xuống đến sân đã nghe đạn vèo vèo sượt qua tai, nhưng cũng cố lao lên phía vườn hoa Chí Linh thông báo mệnh lệnh. Do ta thực hiện đúng chiến thuật nên quân Pháp bị tổn thất nặng và tạm rút lui. Đó cũng là lần cuối Phúc gặp chính trị viên Định vì hai giờ sau, quân Pháp lại tràn đến...


Cùng lúc đó, đơn vị chiến đấu ở Bắc Bộ Phủ nhận lệnh từ tiểu đoàn tạm rút quân về phía Bờ Hồ để tránh tổn thất chờ cơ hội phản kích. Vệ út Phúc xin ở lại nhận nhiệm vụ: cùng một số người ở lại làm chốt chặn địch để đại đội rút an toàn.


Ông Phúc nhớ lại: “Lúc ấy dường như trong đầu tôi không có khái niệm thế nào là chết nên không hề sợ hãi. Anh Mộng Hùng, đại đội trưởng, đưa cho tôi một quả lựu đạn và dặn: địch đuổi sát thì mở chốt ném ngay. Nhưng đã quá mệt mỏi, quân Pháp không đuổi theo. Trong trận ấy tôi nghe các anh ở tiểu đoàn nói chúng ta cũng có nhiều người hi sinh, trong đó có Vệ út làm liên lạc, tôi không được biết mặt mà bây giờ cũng không còn nhớ tên ai”.


Cứu nguy giữa chợ Đồng Xuân



Tư liệu lịch sử viết về trung đoàn Thủ đô “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” do nguyên chính ủy Lê Trung Toản viết: “Càng đến những ngày cuối cùng của 60 ngày đêm, cuộc chiến giữa ta và quân Pháp ngày càng ác liệt. Chiến tranh diễn ra trên từng ngõ phố, trên mỗi mái nhà, quân Pháp muốn chiếm được phải tốn rất nhiều, nhưng để giữ vững được quân ta cũng có những tổn thất về quân số. Trong mỗi trận chiến, nhiều người đã lập công lớn, trong đó có chiến công của những em nhỏ tuổi như trận Hàng Thiếc, Đồng Xuân...”.


Tôi tìm về xã Đức Thượng, Hoài Đức (Hà Tây) gặp ông Nguyễn Văn Dũng, một Vệ út có mặt trong trận đánh Đồng Xuân nổi tiếng ngày ấy. Ông lần mò những kỷ vật, đưa ra mấy tờ giấy bản cũ ghi lại ký ức của ông trong trận đánh ấy, nhưng nghĩ sao ông lại thôi.

Ông nói để ông kể lại bằng chính ký ức 60 năm không quên của mình: “Lúc đó tôi làm liên lạc cho trung đội 1, tiểu đoàn 101 trực tiếp chiến đấu bảo vệ chợ Đồng Xuân. Mấy hôm trước trận đánh, nghe các anh Vệ quốc nói Pháp sẽ tấn công nhưng không ngờ chúng đổ bộ nhanh quá. Sáng sớm 14-2-1947, đang ngủ trong lều tại một rạp chiếu bóng cũ ở phố Hàng Chiếu, nơi ban chỉ huy tiểu đoàn đóng, thì anh Bảng - trung đội phó - gọi giật: “Dũng! Tập trung! Quân Pháp chuẩn bị đánh”.


Tôi bật ngay dậy và được anh phân công xách một bị lựu đạn chạy theo anh băng ngang về phía chợ. Tuy bé tôi cũng được anh cho mang thêm khẩu súng Browning 7,65 li và trên cổ đeo tràng đạn vắt vai do tự vệ thành để lại trông khá oai”.


Khi chạy, Vệ út Dũng chỉ nghe tiếng đạn réo ào ào chung quanh. Phía trên, máy bay của Pháp lượn vòng ném bom sát sạt vào trung tâm chợ, những mảng tôn lớn của mái chợ Đồng Xuân bị lật tung trông rõ cả trời xanh. Pháp đưa súng cối và đại bác bắn vào chợ, năm xe tăng yểm hộ bộ binh dàn quân tiến lên.


Lúc này Vệ út Dũng đang theo anh Bảng đánh địch ở khu bán bát đĩa, nhiều người của ta bị thương, đạn cũng đang cạn dần. Trong tay anh Bảng chỉ còn vài quả lựu đạn cuối cùng, anh gọi: “Dũng, về ban chỉ huy tiểu đoàn xin thêm lựu đạn. Nhanh!”. Vệ út không kịp đáp, chạy vượt qua những khu chợ giáp mặt quân Pháp, những tia đạn như đuổi theo rất rát.


Về ban chỉ huy tiểu đoàn, Vệ út Dũng nhận thêm một bị lựu đạn và được chỉ huy dặn dò: “Không được làm mất dù chỉ một quả. Truyền lệnh cho các trung đội bên ấy phải quyết tâm giữ vững”. Khá nặng so với sức một đứa trẻ, Vệ út gồng mình lao qua các dãy phố, trèo qua những chướng ngại vật trở lại trung đội. “Lúc này, trung đội không còn một viên đạn đang trông chờ vào tôi.

Tôi nghe tiếng anh Bảng: Sống rồi! Tất cả nhận thêm lựu đạn chiến đấu! Quân Pháp tiếp tục xông lên. Những quả lựu đạn được vung ra. Những tên Pháp gục xuống và lùi sâu về phía sau. Đến xẩm tối, quân Pháp bị chặn lại ở khu phía Hàng Đường, Hàng Mã. Chợ Đồng Xuân vẫn nằm dưới sự kiểm soát của quân ta” - ông Dũng tự hào nhớ lại.


TRẦN ĐÌNH TÚ
______________________

Trong số những thiếu niên tình nguyện ở lại bảo vệ thủ đô và xông lên chiến hào ngày ấy có một cô bé - nữ Vệ út duy nhất ở Hà Nội. Nhớ lại chuyện xưa là nhớ lại kỷ niệm đầy ắp yêu thương: Ngoài kia súng còn nổ/Chinh chiến gác tình quê/Ngày mai vui độc lập/ Mẹ ơi con sẽ về.

Nguồn: tuoitre.com.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:00:04 pm
Nữ Vệ út và báu vật 60 năm
 
TT - Trong số những thiếu niên tình nguyện ở lại bảo vệ thủ đô và xông lên chiến hào ngày ấy có một cô bé - nữ Vệ út duy nhất ở Hà Nội. Câu chuyện của người nữ Vệ út này 60 năm sau đầy ắp kỷ niệm yêu thương về những đồng đội nhỏ tuổi.


Búp bê và bài thơ Vệ quốc


Con đường đến với Vệ quốc quân của cô bé Vũ Thị Nhâm - nữ Vệ út duy nhất của Trung đoàn Thủ đô - cũng như bao thiếu niên Hà Nội trong cơn bão tố của dân tộc: muốn trả thù những kẻ đã đốt cháy nhà mình.



Tháng 12-1946, trước ngày toàn quốc kháng chiến, cô bé Nhâm chỉ mới 13 tuổi và được phân công trong đội cứu thương cảm tử của Vệ quốc đoàn.



Giờ đây, ở tuổi gần 80, bà Nhâm vẫn nhớ như in những đồng đội trong những ngày lửa đạn ấy. Bà kể: “Trong những ngày tham gia đội cảm tử, những Vệ út chúng tôi vẫn giữ được nét hồn nhiên của những đứa trẻ Hà Nội, không sao nguôi được nỗi nhớ nhà, nhớ bố mẹ. Nhưng cuộc chiến ác liệt làm chúng tôi quên mau. Giữa bom đạn, vậy mà bản tính trẻ con vẫn hồn nhiên.



Tôi nhớ có lần nhặt được một con búp bê bằng vải rất đẹp mà tôi nghĩ là của một cô bé con một nhà tư sản đánh rơi khi đi tản cư, tôi mang về đơn vị giặt sạch sẽ rồi cất rất kỹ. Ban ngày vượt lửa đạn làm liên lạc, cứu thương và ban đêm lại mang búp bê ra ôm ngủ ngon lành, trên môi vẫn nở nụ cười như không hề có chiến tranh”.



Bà Nhâm đến nay vẫn còn cất giữ một bài thơ mà bà gọi là báu vật của đời bà trong suốt 60 năm qua, chẳng lửa đạn hay thời gian nào đốt cháy được. Bài thơ của một anh Vệ quốc quân tặng bà trong những ngày khói lửa khi bà khóc nhớ mẹ, nhớ nhà:



Em mới tuổi mười ba/ Tuy bé lòng hăng hái/ Bỏ nhà quyết xông pha/ Nắng mưa quen dãi dầu/ Đói rét dạ chẳng sờn/ Bố mẹ nhà hiu quạnh/ Mong đợi đứa con thơ/ Ngoài kia súng còn nổ/ Chinh chiến gác tình quê/ Ngày mai vui độc lập/ Mẹ ơi con sẽ về!



Anh hùng tuổi lên mười


Theo tư liệu lịch sử Đội TNTP Hồ Chí Minh, chiến công và sự hi sinh của những Vệ út trong Trung đoàn Thủ đô đã đóng vai trò rất to lớn trong 60 ngày đêm Hà Nội kháng chiến, phá hủy và thu được nhiều vũ khí... Cùng thời gian đó, trên cả nước xuất hiện các đội thiếu niên như đội thiếu niên Sài Gòn, Biên Hòa, Đồng Tháp Mười… đã noi gương Vệ út thủ đô hưởng ứng toàn quốc kháng chiến.



Cuối năm 1947, Trung đoàn Thủ đô có chủ trương đưa trả những Vệ út về gia đình nhưng không sao thực hiện được. Vệ út toàn là những đứa trẻ mồ côi và không còn người thân, những Vệ út có người thân thì không biết gia đình đi tản cư kháng chiến đã về đâu.



Đầu năm 1948, Trung đoàn Thủ đô tìm ra cách giải quyết: những Vệ út trên 15 tuổi được trở thành những người lính thực thụ, được biên chế vào những đơn vị chiến đấu, còn lại 30 chiến sĩ nhỏ tuổi dưới 14 được giữ lại để thành lập đội tuyên truyền, sau là Đội tuyên văn của Trung đoàn Thủ đô.



Đến năm 1950, Đội tuyên văn giải tán, các Vệ út mỗi người một nơi: người vào quân ngũ tham gia những trận đánh, người thành anh lính làm phim có mặt trên khắp trận địa, người trở thành nghệ sĩ nhân dân đầu ngành của một môn nghệ thuật…



Họ bặt tin nhau đến 50 năm. Mãi đến năm 1996, Vệ út Đặng Văn Tích mới có cơ hội gặp mặt một số Vệ út để viết cuốn tư liệu tại Lai Xá, Hoài Đức (Hà Tây). Nhưng trong lần gặp mặt ấy cũng chỉ có ít người… 
 
Bà Nhâm là bác sĩ Quân y viện 108, sau năm 1975 bà chuyển công tác sang Vụ Chăm sóc sức khỏe (Bộ Y tế) đến khi về hưu, hiện bà sống tại khu tập thể Quân đội ở phố Tôn Thất Thiệp, Hà Nội. Đối với bà, nhiều chiến sĩ thiếu niên ngày ấy dũng cảm như anh hùng. Bà đã từng được chiến đấu với những người anh hùng đó, để lại trong bà niềm khâm phục đến bây giờ vẫn còn nguyên vẹn.



Bà Nhâm kể: “Năm 1946 trong 60 ngày đêm tôi và Trần Ngọc Lai cùng trung đội trưởng Cát Văn Soan, tiểu đoàn 103 (Trung đoàn Thủ đô) chiến đấu ở khu Đông Kinh Nghĩa Thục. Lai nhỏ hơn tôi hai tuổi, nhanh nhẹn, ít nói nhưng sống tình cảm. Lai không kể nhiều về gia đình và chỉ biết Lai trốn nhà ở lại với lực lượng kháng chiến bảo vệ thủ đô. Lai là người có khả năng xử lý nhanh những tình huống nguy cấp và lúc nào cũng mang theo mình vài quả lựu đạn giắt bên hông như người lính thực thụ”.



Sáng sớm 7-2-1947, trời Hà Nội u ám như mùa đông, khi bà và Lai vừa tỉnh dậy đã trông thấy những chiếc xe tăng và xe thiết giáp quân Pháp từ đầu cầu Long Biên tiến vào đường Trần Nhật Duật để đánh úp chiến lũy Trường Ke. Ở Trường Ke, trung đội trưởng Cáp Văn Soan chỉ có 15 chiến sĩ và mấy khẩu tiểu liên đang lo tìm cách chống địch.



Khoảng 8 giờ sáng, quân Pháp nổ súng bắn như vãi đạn và đưa bộ binh đánh thẳng vào Trường Ke. Bà định lao đi xin cứu viện theo lời của trung đội trưởng Soan thì Lai cản lại: “Chị để em đi!”. Giữa những làn lửa đạn, Lai như con sóc lao vụt ra ngoài. Đôi tay nhỏ nhắn của Lai bám thoăn thoắt vào đường máng dẫn nước tụt nhanh xuống thoát khỏi nhiều làn đạn địch sượt qua rồi chạy nhanh về phía ban chỉ huy tiểu đoàn bên kia phố. Hơn 10 phút sau, Lai trở về cùng đoàn quân cứu viện.



“Quân Pháp biết có một thiếu niên làm giao liên đã dũng cảm cắt làn đạn đi tìm quân cứu viện cho Trường Ke, nên viên chỉ huy ra lệnh binh lính phải bao vây bắt sống cho được người giao liên dũng cảm đó. Trong một lần lao đi tìm cứu viện, Lai lọt vào vòng vây của lính Pháp. Giặc quyết bắt sống nên tràn tới nhưng Lai không hề nao núng, tháo ngay ngòi nổ quả lựu đạn và ném về phía quân Pháp. Một tiếng nổ chát chúa, ba tên Pháp nằm sóng soài trên mặt đất, những tên khác kinh hãi lùi ra xa. Lai cũng từ từ gục xuống. Một dòng máu đỏ chảy dài và thấm đẫm chiếc áo mỏng Lai đang mặc” - bà Nhâm bồi hồi nhớ lại.



Lai ngã xuống, những tiếng thét “Trả thù cho em Lai” vang dậy cả Trường Ke, những tiếng xung phong xen lẫn tiếng lựu đạn, tiếng súng nổ ầm ầm. Quân Pháp xô nhau chạy kéo theo những xác chết và những tên bị thương chạy về phía khách sạn Đồng Lợi. PGS-TS-NSND Lê Ngọc Canh - Vệ út năm xưa từng có mặt trong đám tang Trần Ngọc Lai - hồi tưởng: “Ngay tối hôm ấy, cả trung đội làm lễ truy điệu cho liệt sĩ Trần Ngọc Lai. Những người có mặt không kìm được lòng trước cảnh cô bé Vệ út Vũ Thị Nhâm đầm đìa không chịu rời xác chú bé Lai, người mà cô xem như em ruột”.



Trưởng ban liên lạc Trung đoàn Thủ đô, đại tá Nguyễn Trọng Hàm (nguyên tham mưu phó Quân khu Thủ đô, năm 1946 là trung đội trưởng trung đội 2, tiểu đoàn 102) kể: “Sau khi Trần Ngọc Lai hi sinh, câu chuyện về cậu bé anh hùng đã lan truyền trên tất cả  chiến tuyến, trên từng góc phố, căn nhà. Các đơn vị chiến đấu coi Lai là tấm gương để học tập, trụ vững tinh thần chiến đấu cho những ngày sau”.



TRẦN ĐÌNH TÚ



-------------------------



Những đứa trẻ tuổi lên 10 vẫn kiên cường băng qua lửa đạn, tiếp tế khí giới và quân nhu từ ngoại thành cho các chiến sĩ thủ đô. “Chúng tôi cứ lặng lẽ đi trong đêm, đường tối mịt mà phía trước bầu trời thủ đô rực lên, ai cũng muốn bước thật nhanh”.

Nguồn: tuoitre.com.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:00:37 pm
Tiểu đội nhí và “chiến thuật xe bò”


TT - Trong khi những Vệ quốc quân xông lên chiến hào, một “tiểu đội nhí” tuổi đời mới lên 10 vẫn kiên cường băng qua lửa đạn, âm thầm tiếp tế khí giới và quân nhu từ ngoại thành cho các chiến sĩ thủ đô kháng Pháp.



Cuộc triệu tập bí mật



Theo ông Hoàng Thọ Anh - nguyên phó Ban tiếp tế vũ khí ngày ấy, đoàn hướng đạo Đống Đa ở thị xã Hà Đông lúc bấy giờ sục sôi tinh thần yêu nước, sẵn sàng kháng chiến. Những thành viên từ 18 tuổi trở lên làm đơn xin vào Vệ quốc đoàn, còn lại các thành viên 12-17 tuổi hăng hái tham gia các hoạt động chuẩn bị kháng chiến như giúp dân sơ tán, dựng chướng ngại vật, chuẩn bị tiêu thổ kháng chiến.



“Sáng 3-12-1946, tôi cùng trưởng ban Phạm Văn Tá (tức Phạm Văn Hướng) được triệu tập tới dinh công sứ Hà Đông để làm việc. Đón chúng tôi là chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh Hà Đông cùng ba vị khách lạ. Thời gian sau tôi mới biết đó là đại diện Chính phủ - ông Hoàng Hữu Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp và Tổng tham mưu trưởng QĐND VN Hoàng Văn Thái. Sau khi phân tích tình hình khả năng giữa ta và giặc, ông Hoàng Hữu Nam chỉ đạo: đoàn hướng đạo Đống Đa sẽ chịu trách nhiệm vận chuyển vũ khí, quân nhu từ các kho La Khê, Bông Đỏ, Bala, A300 Hà Đông ra Cầu Mới (ngã tư Sở) Hà Nội để từ đây chuyển đi các điểm chốt trong thủ đô. Ban tiếp tế vũ khí và quân nhu được thành lập nhanh chóng gồm 27 thành viên tuổi 12-17, do Phạm Văn Tá (25 tuổi) làm trưởng ban”, ông Hoàng Thọ Anh kể.



Ngay đêm hôm đó các thành viên được triệu tập khẩn cấp đến ngôi nhà 104 phố Bóp Kèn (bây giờ là phố Quang Trung, thị xã Hà Đông, Hà Tây). Một cuộc họp chớp nhoáng diễn ra, nội dung thảo luận chủ yếu xoay quanh phương án vận chuyển vũ khí. Rất nhiều ý kiến được đưa ra thảo luận: mang balô sẽ mệt, chở xe đạp thì không hiệu quả, ôtô không có... Cuối cùng các thành viên nhí thống nhất sẽ dùng xe bò để chở đạn, thời gian tiến hành vào buổi tối. Ưu điểm của xe bò là vừa chở được nhiều vừa an toàn vì không gây tiếng động.



Hôm sau, sáu chiếc xe bò được Ủy ban kháng chiến tỉnh Hà Đông huy động tập kết ngay trước trụ sở Ban tiếp tế. Trưởng ban Phạm Văn Tá trực tiếp chỉ đạo việc tiếp tế đạn, các thành viên được phân công việc cụ thể: người lớn cầm càng xe, nhỏ hơn thì tập trung phía sau đẩy xe và cầm đèn bão dẫn đường.



Những bước chân nhỏ cùng ra trận



Đại tá Trần Văn Nhâm - thành viên ban tiếp tế - kể: “Tối 4-12 đoàn lên đường. 21 giờ, bốn chiếc xe bò đồng loạt xuất phát từ trụ sở ở phố Bóp Kèn, đến kho La Khê lúc 22 giờ, những hòm đạn nhanh chóng được chuyển lên xe, xe ra đến cầu Hà Đông đã quá 0 giờ. Từ đây đoàn nghỉ một lúc rồi tiếp tục đẩy lên Ngã Tư Sở.



Đến nơi, đồng hồ chỉ 1 giờ sáng, tại đây các đơn vị chiến đấu trong thủ đô đã chờ sẵn để tiếp nhận đạn, đặc biệt tướng Hoàng Văn Thái trực tiếp có mặt để chỉ đạo. Đoàn xe quay về Hà Đông, các thành viên tập trung ngủ một chỗ ở trụ sở, sáng hôm sau tiếp tục nhận nhiệm vụ mới. Một tuần liên tục, một khối lượng lớn đạn dược được vận chuyển bằng xe bò vào nội thành”.



Mấy ngày sau đó, quân ta thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”, tuyến đường bộ từ cầu Hà Đông theo hướng thủ đô đến Cầu Mới được phá đi, kế hoạch của ban tiếp tế cũng linh hoạt thay đổi. Thêm một sáng kiến được đề xuất: hai toa xe điện cũ bỏ không cạnh cầu Hà Đông sẽ tận dụng chở đạn, vũ khí được chuyển tiếp từ xe bò dưới La Khê về, sau đó xe điện được đẩy từ cầu Hà Đông về Ngã Tư Sở theo đường ray.



Đến ngày 13-12, một tuần trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đường ray bị bóc gần hết, việc vận chuyển bằng tàu điện không thể tiếp tục. Nhưng mọi người kiên quyết không để mạch tiếp tế bị cắt đứt, những chiếc balô con cóc ngày xưa thường dùng đi picnic, cắm trại trong đoàn hướng đạo được huy động để mang đạn. Các quả đạn loại đạn pháo, đạn cối 60, phóng lựu, stốc (stock) được nhét chặt vào balô mang sau lưng các thành viên. Đoàn chia thành các nhóm nhỏ do Phạm Văn Tá, Ngô Bình Mạc và Hoàng Thọ Anh luân phiên nhau phụ trách, từ Hà Đông tiến theo ba hướng: một lên Cầu Mới; hướng khác đến làng Giàn (Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội); hướng còn lại lên Phương Liệt, Hà Đông (Hoàng Mai, Hà Nội). Toàn bộ số đạn pháo sau khi vận chuyển được tập kết về các đơn vị chiến đấu ở pháo đài Láng, ô Chợ Dừa, Bạch Mai...



Đại tá Bạch Ngọc Giáp - nguyên phó tham mưu trưởng Binh chủng Pháo binh, thành viên nhỏ tuổi nhất (12 tuổi) của ban tiếp tế ngày ấy - bồi hồi nhớ lại: “Chúng tôi cứ lặng lẽ đi trong đêm, đường tối mịt mà phía trước bầu trời thủ đô rực lên những làn đạn, pháo, nhà cháy, tiếng súng, mìn dội lên liên tục. Ai cũng muốn bước thật nhanh để kịp mang đạn cho quân ta đánh Pháp”. Đêm 19-12 khi đoàn Vệ út mang đạn trên vai hướng về nội thành thì hàng loạt đại bác, pháo từ Láng, Xuân Tảo... đồng loạt nổ hiệu lệnh cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Lòng mọi người hừng hực khí thế nhưng không dám reo hò, chỉ ra dấu cho nhau rồi cặm cụi bước.



Những bước đi khỏe hơn, chắc hơn, nhanh hơn, cùng cả nước ra trận…

 
 

Hơi ấm từ trái tim đồng đội



Chiều 11-11-2006, trong cái lạnh của cơn mưa đầu đông Hà Nội, chúng tôi cùng ông Phùng Đệ đi thăm hai Vệ út đồng đội của ông đang nằm viện. Một là GS-TS-NSND Lê Ngọc Canh phải mổ cắt bỏ túi mật tại Bệnh viện Việt - Xô đã bình phục và chuẩn bị xuất viện, một là nhà quay phim về hưu Nguyễn Hoán (Xưởng phim Quân đội) nằm ở Bệnh viện 108 trong tình trạng nguy kịch. Mấy tháng qua, ông Đệ cứ lạch cạch đạp xe đến bệnh viện thăm nom đồng đội cũ. Ông Đệ báo tin: “Ông phải chống chọi với bệnh tật. Ngày mai những Vệ út còn sống sẽ họp mặt và vào thăm ông”. Nghẹn ngào không nói được, ông Nguyễn Hoán huơ huơ bàn tay trên không rồi đặt sang ngực trái của mình. Ông muốn ra dấu gì đó. Cái dấu ấy khó hiểu với nhiều người, nhưng với Vệ út Phùng Đệ thì quen thuộc lắm: “Ông ấy nói trái tim của ông là của một Vệ út và ông ấy cảm nhận được hơi ấm trái tim của đồng đội dành cho ông”.
 




LÂM HOÀI



Hơn 100 trang chép tay và những tấm ảnh tư liệu quí giá về đồng đội được một Vệ út ngày xưa âm thầm sưu tập trong 60 năm. Những đồng đội cũ có dịp đọc lại đều không cầm được nước mắt.


Nguồn: tuoitre.com.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:01:16 pm
Những Vệ út trên chiến hào vệ quốc (kỳ 5)

Người chép sử Vệ út

 
TT - Người Vệ út năm xưa thời gian qua đã âm thầm sưu tập, tìm kiếm tư liệu về đồng đội để hoàn thành một tập tư liệu hơn 100 trang chép tay và những bức ảnh tư liệu quí giá về Vệ út. Ông nói: “Những Vệ út giờ chẳng còn được mấy người, tôi chép sử như một tình cảm với đồng đội nhỏ tuổi của 60 năm trước trên chiến hào”. 


“Điểm danh” đồng đội

Năm 12 tuổi, ông Đặng Văn Tích làm liên lạc cho Đội tình báo Liên khu 1 (Trung đoàn Thủ đô). Sau năm 1947, ông cùng những Vệ út khác được sống chung với nhau trong một mái nhà là Đội tuyên văn của Trung đoàn Thủ đô (tiền thân của Đoàn văn công Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân VN) tại chiến khu Việt Bắc. Những năm tháng ấy, ông và các đồng đội nhỏ tuổi coi nhau như anh em ruột thịt, chia sẻ với nhau từng bát cơm kháng chiến, từng viên thuốc ký ninh trong cơn sốt rét run người.

Ông Tích kể: “Gần ba năm sống chung (từ giữa năm 1947 đến cuối năm 1949), tôi nghe nhiều Vệ út kể chuyện kỷ niệm tuổi thơ và nhất là những tháng ngày chiến đấu bảo vệ thủ đô trong khói lửa, tôi thấy vô cùng tự hào về sự hi sinh của đồng đội nhỏ tuổi nên tôi nhặt nhạnh những trang giấy đen hay bìa cactông ghi chép cẩn thận và cất kỹ vào chiếc balô con cóc, gìn giữ cho mai sau”.

Những cuộc chiến liên tục nối tiếp nhau, những Vệ út sau đó mỗi người một ngả, tham gia nhiều chiến dịch lẫy lừng như chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch mùa xuân 1975. Hòa bình lập lại, ông Tích lúc nào cũng không nguôi ngoai nỗi nhớ đồng đội ai còn, ai mất và bắt đầu hành trình đi tìm đồng đội. Gặp người quen nào từ nơi khác đến chơi, ông cũng hỏi thăm tung tích dù chính ông cũng không dám hi vọng nhiều. Bất ngờ, năm 1996, nhờ những người quen báo, ông Tích đã có tin tức và tìm gặp được một số Vệ út đang còn sống ở Hà Tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên... Không đủ tiền đi ôtô, ông Tích vội vã đạp xe đi gặp bằng được đồng đội. Trùng phùng sau 60 năm, ông Tích và các Vệ út năm xưa đã ôm nhau khóc.

Họ bắt đầu nhắc người này, người kia. Họ vẫn không quên nhắc câu chuyện hi sinh của Diệp Tùng: “Còn nhớ Diệp Tùng lúc rời thủ đô lên Việt Bắc đã hi sinh tại Võ Nhai (Thái Nguyên) lúc mới 13 tuổi. Khi chết không biết tìm ai báo tin vì chẳng ai biết Diệp Tùng còn ai là thân nhân. Cha mẹ Diệp Tùng là ai, ở đâu?”. Thông tin dần dần mở rộng, họ được biết rất nhiều Vệ út khi tham gia các chiến dịch lớn đã ngã xuống. Trên tấm mộ lạnh lẽo nơi xa, anh em vẫn chỉ có mấy dòng là liệt sĩ vô danh. Được sự động viên của những đồng đội, ông Tích quyết định viết lại một cuốn tư liệu ghi những ký ức, những câu chuyện nhỏ của ông và các đồng đội Vệ út không thể nào quên.

Trên con đường thiên lý ra Bắc vào Nam tìm đồng đội bằng tiền hưu trí tích cóp, ông Tích đã tìm ra hơn 20 Vệ út năm xưa vẫn còn sống rải rác khắp ba miền. “Khó nhất là xác minh danh tánh và thân nhân của những Vệ út đã hi sinh. Đã 60 năm, ký ức của những đứa trẻ mới lên 9, 10 còn không thể nhớ hết được những chuyện xảy ra với chính mình nữa là...” - ông Tích kể. Những trang viết của ông về đồng đội cứ dày lên theo những chuyến đi. Ông Tích kể cứ ngày đi, đêm về viết. Những năm ấy chưa có điện, cả nhà chỉ có mỗi cây đèn dầu cũng nhường cho ông. Sau 10 năm ròng ngược xuôi, từ năm 1996 -2006, ông Tích cũng đã hoàn thành được cuốn tư liệu lịch sử mang tên Vệ út thủ đô quyết tử.

 
Những dòng tự truyện

Đầu năm 2006, được sự hỗ trợ của những Vệ út còn sống và Ban liên lạc truyền thống quyết tử của Trung đoàn Thủ đô, ông Tích đã đánh máy và photocopy mấy chục cuốn tư liệu lịch sử để gửi tặng bạn bè cùng đọc. Mở đầu cuốn tư liệu là dòng thư Bác Hồ viết tặng Trung đoàn Thủ đô: “Các em là đội cảm tử. Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” như một lời thề trong tim những Vệ út trong những ngày khói lửa năm 1946.

Cuốn tư liệu viết: “175 chiến sĩ quyết tử phần đông là những đứa trẻ mồ côi, con nhà nghèo, đứa trèo me trèo sấu, đứa làm thằng ở, con sen..., cũng có những đứa con nhà khá giả được bố mẹ đưa đi tản cư nhưng lại trốn về Hà Nội khẩn thiết xin các anh chị cho được cùng kháng chiến, được sống chết cùng thủ đô”. Những câu chuyện viết rất chân thật, rất hồn nhiên đúng như tuổi thơ ngày ấy của những chiến sĩ nhỏ tuổi: “Chúng tôi, những chú bé băng qua lửa đạn, đã đối mặt với địch từng ngày từng giờ, đã lăn lê bò toài để trinh sát địch, để truyền lệnh, cứu thương... Ơ hay, sao lúc ấy bọn mình lại không sợ chết nhỉ?. Tuổi thơ của chúng tôi đã được vinh dự góp một phần “quyết tử” để cả nước “quyết sinh”. Trong trận đánh nhà Moolie, tôi mặc tới chín bộ quần áo với ý nghĩ mặc thế chống được đạn của quân Pháp. Đến lúc bị thương phải băng bó, chị y tá vừa tức vừa buồn cười phải dùng kéo cắt phăng tất cả để cầm máu. Lúc ấy mình thật ngây ngô...”.

Những đồng đội cũ của ông sau khi đọc đều không cầm được nước mắt. Mỗi trang tư liệu mà ông Tích đưa họ về với ký ức thủ đô kháng chiến 60 năm trước mà mỗi Vệ út là một “nhân vật”, một “viên gạch” đưa đất nước tới ngày thống nhất.

TRẦN ĐÌNH TÚ

 
“Cùng nhau ôn lại chuyện chiến đấu tung hoành/ Trong những ngày súng gươm chiến đấu hùng anh” - Ảnh: T.Đ.T.
 
Cuộc gặp mặt sau 60 năm được tổ chức tại nhà Vệ út Phùng Đệ ở Hà Nội. Những Vệ út năm xưa từ các nơi tìm về gặp mặt là tìm về với kỷ niệm. Vệ út Nguyễn Ngọc Sơn - chính trị viên của một đại đội Vệ út năm 1947, nay sống ở Thái Nguyên - kể trong hạnh phúc: “Sáng nay tôi ra bến đón chuyến xe sớm nhất mà vẫn sợ mình về muộn. Bao nhiêu năm rồi tôi mới có cảm giác hồi hộp như cả đêm hôm qua”. 

Niềm vui ngày gặp mặt như được nhân lên khi Vệ út Nguyễn Văn Phúc mang đến một cây đàn guitar. Ngôi nhà của ông Phùng Đệ vang lên tiếng hát Đàn em Vệ út do nhạc sĩ Phạm Ngọc Trương sáng tác. Đã lâu lắm rồi họ mới có cơ hội hát chung: “…Đàn chim non ríu rít cười nô vang trời/ Vui sống trong gia đình Vệ quốc đầm ấm/ Rồi ngày mai chiến thắng thủ đô huy hoàng/ Bên các anh có đàn Vệ út cùng sống/ Cùng nhau ôn lại chuyện chiến đấu tung hoành/ Trong những ngày súng gươm chiến đấu hùng anh…”.

Sau phút ấy, các Vệ út chợt trầm xuống khi truyền tay nhau những bức ảnh về đồng đội mà ông Đặng Văn Tích mang đến. Nhiều người xúc động: “Đối mặt với chiến tranh, 175 Vệ út khi trước bây giờ còn lại mấy người? Còn bao nhiêu người vẫn chưa có tên?”.
 


oOo

Họ là những cô đầu ở phố Khâm Thiên, đi học bình dân học vụ để “sáng mắt sáng lòng”. Và họ cũng là những người ở lại, chiến đấu cùng với các đơn vị quân đội và tự vệ thuộc Liên khu III.

Nguồn: tuoitre.com.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:01:34 pm
Cô đầu phố Khâm Thiên
 
 
TT - Một số người cùng khổ đã trực tiếp tham gia kháng chiến chống Pháp ở Liên khu III Hà Nội (nay thuộc quận Đống Đa). Họ còn sống hay đã hi sinh, chưa ai nhắc đến.


Lớp học đặc biệt


Đó là các em nhỏ mồ côi được nuôi dưỡng ở trại Bảo Anh (nay là trụ sở Hội Người mù 135 Nguyễn Thái Học). Trước ngày toàn quốc kháng chiến, một số em đã được gửi đến các đoàn thể, cơ quan và nhất là các đơn vị quân đội để làm liên lạc viên. Đó là những người nghèo sống ở khu vực sau ga Hà Nội, làm đủ các thứ nghề như bốc vác, đi ở làm thằng nhỏ, con sen, kéo xe. Họ cũng đã ở lại tham gia kháng chiến ở Liên khu III Hà Nội. Và đó là các cô đầu ở phố Khâm Thiên. Họ cũng ở lại chiến đấu cùng với các đơn vị quân đội và tự vệ thuộc Liên khu III.



Họ đều là những người bạn thân của tôi. Bởi từ những năm 1944-1945, tôi đã nuôi dạy các em mồ côi ở trại Bảo Anh. Tôi dạy trong Hội Truyền bá quốc ngữ (sau Cách mạng Tháng Tám dạy bình dân học vụ), trước còn tổ chức và dạy ở các xã ngoại thành. Các học viên của lớp học này là bà con lao động ở khu vực sau ga Hà Nội. Tôi cũng dạy một lớp bình dân học vụ đặc biệt nhất, mà học viên toàn là chị em cô đầu ở phố Khâm Thiên.



Sau ngày 19-8-1945, tôi vào bộ đội, làm việc ở Cục Quân y (Bộ Quốc phòng). Theo chế độ sinh hoạt của sĩ quan nên buổi tối và ngày chủ nhật không phải ở nhà tập thể mà vẫn được về ở nhà mình, nên vẫn có điều kiện tiếp tục công việc ở khu phố. Từ 19-12-1946, cơ quan rút lên Việt Bắc, tôi được tuyển làm liên lạc viên đặc biệt nên thỉnh thoảng cũng có việc phải vào mặt trận Hà Nội, do đó lại có dịp được đi qua đất Liên khu III đang tác chiến và được gặp lại một số bạn bè.



Ở đây tôi kể chuyện về mấy chị em làm nghề hát ả đào ở phố Khâm Thiên. Năm 1946, tôi đang dạy ở lớp bình dân học vụ nhờ trong nhà Hội Tế sinh (ngõ Sinh Từ), chị Quỳnh Vân bạn của tôi (sau là vợ anh Vũ Quang) là cán bộ phụ nữ khu vực nhờ tôi thu xếp dạy thêm cho một lớp ở Khâm Thiên, mà phải dạy buổi trưa vì học viên toàn là cô đầu, tối họ còn bận.



Buổi khai giảng cái lớp này cũng thật đặc biệt. Học viên bợm trạo, bát nháo, không chút gì nghiêm túc. Một vài học viên có giấy bút còn một số người đến tay không, mà số này quậy phá nhất. Vì không phải là buổi tiếp khách, học mà mặc áo trắng quần dài trắng nhàu bẩn, mỏng manh. Thời ấy xem là “khó coi”. Sau mấy lời khai mạc, chị Quỳnh Vân giới thiệu hai giáo viên và một chị cũng là cô đầu làm trưởng lớp. Tôi định nói vài lời để bắt đầu buổi học, một chị táo tợn nói to: “Anh giáo cho em hỏi: anh có dạy những chữ “sờ em xem” không?”.



Tôi lặng đi một lúc để cơn cười lắng xuống.



- Có đấy các chị ạ. Chỉ độ một tuần hay mười hôm nữa các chị sẽ học đến.



- Ấy chết, thầy lại gọi trò là chị thì dạy làm sao được. Có ai gọi chúng em là chị bao giờ.



- Không đâu, chúng tôi thật sự coi các chị như chị em các lớp khác. Những người lớn tuổi chưa biết chữ đến lớp học, chúng tôi quí mến và nhiệt tình giúp đỡ. Cuộc đời xô đẩy các chị vào cảnh làm ăn như vậy chắc không phải tự mình thích thú mà tìm đến chỗ này.



Không còn ai nói, cả lớp trầm xuống.



Tôi nói vài lời nghiêm túc, chân thành mong muốn mọi người chịu khó học tập để được sáng mắt sáng lòng. Thế rồi lớp học ấy cũng như các lớp học khác, mọi người duy trì nề nếp học tập tốt. Chúng tôi suy nghĩ tìm tòi nhiều cách để bài học có sức hấp dẫn, học viên không chán, không bỏ lớp. Chúng tôi kể chuyện, đọc thơ, ca dao, có khi vận động học viên hát dân ca, ngâm Kiều. Tuy học viên chưa đọc được, họ xúc động vì hợp cảnh mình và cũng thấy mình sẽ tự đọc được, viết được những câu hay như thế. Cách giảng dạy này khuyến khích và gây ấn tượng mạnh đối với họ.


Có ai ghi công báo tử



Bên cạnh nhiệm vụ thanh toán nạn mù chữ, giáo viên còn thường xuyên giúp học viên giác ngộ chính trị, nâng cao hiểu biết về chế độ xã hội mới, từ bỏ thói hư tật xấu; sửa đổi lối sống cũ, sống có văn hóa, không tự ti mặc cảm, mạnh dạn tham gia các buổi họp với tổ dân phố, làm các công tác xã hội ở địa phương... Tiếc thay, từ tháng 11-1946, tình hình Hà Nội căng thẳng, nhân dân và cơ quan tản cư nhiều. Các lớp bình dân học vụ cũng giải tán. Học viên cũng theo gia đình về quê, ai khỏe mạnh ở lại làm thuê, vào tự vệ, cứu thương, đào đường đắp ụ. Có nhiều chị cô đầu cũng ở lại.



Không còn lớp học bình dân học vụ thì tôi giúp Hội Phụ nữ Hàng Bột đào tạo cấp tốc lớp cứu thương tháo vát của anh em hướng đạo như mang vác người bị thương không cần cáng, cố định vết thương gãy xương... đề phòng khi ở mặt trận không có sẵn hộp thuốc và dụng cụ như ở bệnh viện. Từ ngày 19 -12, trong nội thành đánh nhau. Từ ngoài liên lạc vào mặt trận gặp nhiều khó khăn. Một hôm có công tác, tôi phải đi từ Việt Trì, qua Chèm, Ngã Tư Sở sang đường số 1. Qua Ngã Tư Sở tìm tổ liên lạc để xin người dẫn đường. Chiều muộn, tôi đang phân vân tìm đường bỗng thấy một chị mặc măngtô tím dài, quần buộc túm, tay cầm thanh kiếm Nhật. Biết là tự vệ, tôi đi về phía chị. Chị cũng chú ý đến tôi, thấy cũng áo quần bộ đội, có mang súng ngắn. Chị yên tâm và hỏi xem giấy tờ. Chị đọc còn chậm, một lúc hân hoan ngẩng mặt lên nhìn tôi: “A, anh Kỳ, anh Kỳ! Anh là bộ đội à, thích nhỉ. Bọn chúng em cũng xin được vào tự vệ ở đây, có mấy đứa trước cũng học anh đấy. Rồi chúng em sẽ dẫn anh đi đường tắt, vừa nhanh, vừa an toàn”. Trong trạm có nhiều anh chị tự vệ chiến đấu, riêng mấy chị học viên cô đầu rất vui mừng khi gặp lại tôi. Các chị mời tôi cùng ăn để được nói chuyện nhiều. Tôi hỏi sao các chị không đi tản cư, các chị nói: “Chúng em còn biết về đâu, có chuyện không hay mới phải bỏ làng ra đây sống cuộc đời nhơ nhuốc, còn mặt mũi nào trở về làng cũ. Chúng em cũng liều sống chết ở đây thôi. Các anh bảo làm gì thì chúng em làm”.



Nghe các chị tâm sự, lòng tôi bùi ngùi thương cảm. Các chị chịu chết ở đây còn hơn về làng chịu nhục, đơn giản thế thôi. Lúc chia tay, chúng tôi bịn rịn nghĩ chắc không có ngày gặp lại. Hai chị dẫn tôi qua Khương Thượng, xa khu sân bay, tới đường 1 rồi chỉ đường tới nơi tôi cần đến. Lúc chào tôi, các chị nghẹn ngào muốn khóc, muốn ôm tôi thân mật. Tôi cũng tần ngần nhìn theo hai chị quay về, vai vác kiếm khuất dần vào bóng tối.



Ngày nay, người ta cũng nhắc nhớ đến các anh chị giao liên, thanh niên xung phong với những công lao, thành tích, cuộc sống gian khổ, cảnh hi sinh anh dũng của họ. Nhưng chưa thấy ở đâu nói đến các chị cô đầu ở Hà Nội. Cho đến bây giờ tôi vẫn thường nhớ đến các bạn nghèo của mình. Tôi trăn trở một điều là những người ấy khi lập công hay khi hi sinh, có ai ghi công hay báo tử cho họ không? Giấy tờ gửi về đâu và báo cho ai?



NGUYỄN KHẮC KỲ


Nguồn: tuoitre.com.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:04:23 pm
Để Tổ quốc quyết sinh: Chiến lũy Ô Cầu Dền
Người chiến sĩ cảm tử Liên khu II năm xưa tiếp tôi trong căn phòng nhỏ ở gác hai, ngôi nhà số 10, ngõ 211, khu tập thể Khương Trung, Thanh Xuân, Hà Nội. Dáng người mảnh mai, phong thái đĩnh đạc và khá thanh lịch, ông lần giở cho tôi xem những vật kỷ niệm được cất giữ khá cẩn thận, rồi mới kể về những trận chiến đấu trong suốt 60 ngày đêm giam chân quân địch tại Ô Cầu Dền. Ông là Nguyễn Hiền, nguyên giám đốc Đài phát thanh-truyền hình Hà Nội, Trưởng ban liên lạc các chiến sĩ cảm tử Thủ đô Liên khu II.

Nỗi xúc động dâng trào, ông kể, hồi ấy, ông là trung đội trưởng trung đội 1, đại đội 16, tiểu đoàn 212, Liên khu II. Đêm 19-12-1946, khi đang chỉ huy đơn vị làm nhiệm vụ tại ngã ba Trung Hiền (gần chợ Mơ bây giờ), được lệnh của trên, ông chỉ huy đơn vị cơ động đến khu vực phố Hàm Long tổ chức ngăn chặn địch. Nhiều cuộc chiến đấu quyết liệt, không cân sức giữa ta và địch diễn ra tại khu vực phố Hàm Long. Do địch quá mạnh, trong khi lực lượng của ta lần đầu tham chiến, nên chúng từng bước đẩy ta lùi sâu về phía đông nam Hà Nội. Thực hiện chỉ đạo của Bộ chỉ huy mặt trận, LLVT và nhân dân phía nam Hà Nội đã tập trung xây dựng chiến lũy Ô Cầu Dền nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, không cho chúng phát triển ra các vùng lân cận. Trận tuyến Ô Cầu Dền có vị trí trọng yếu như một “Quyết chiến điểm”. Việc còn hay mất Ô Cầu Dền có tác động quyết định đến tình hình chiến lược của toàn Liên khu II. Tại đây, LLVT và nhân dân Hà Nội đã xây dựng một ụ chướng ngại vật ban đầu có chiều dài chừng 16m, rộng 8m, cao khoảng 3m. Sau đó ụ chướng ngại vật cứ cao dần theo yêu cầu chiến đấu, cuối cùng cao tới hơn 4,5m. Thân ụ được chôn ba hàng cọc đứng, mỗi hàng 10 cây gỗ có đường kính từ 35 đến 40cm. Sau đêm 19-12, ta bóc ray và tà-vẹt đường tàu điện ken đều trên cả bốn mặt. Lòng ụ được lèn đất đá, kết hợp tre, gỗ rải ngang từng lớp. Để ngăn chặn quân địch có hiệu quả, ta không chỉ đắp ụ mà còn tổ chức các tổ chiến đấu trên ụ và ven đê sông Tô Lịch. Ngay tại chân ụ phía Nam, ta khoét sâu thành nơi cất giấu vũ khí, đạn dược, hoặc làm chỗ cho bộ đội nghỉ ngơi giữa các trận chiến đấu và sơ cứu thương binh. Chiến luỹ Ô Cầu Dền đứng sừng sững, chắn kín mặt đường phố (kể cả vỉa hè), khiến xe tăng, xe bọc thép và nhiều phương tiện khác của địch đều không thể vượt qua.

Từ 5 giờ ngày 25 đến 28-12-1946, địch liên tiếp mở nhiều đợt tiến công vào chiến luỹ Ô Cầu Dền. Chúng cho máy bay, đại bác bắn phá, rồi cho xe tăng, xe bọc thép dẫn bộ binh xông lên đánh phá, nhưng đều bị thất bại. Chúng ta không những ngăn cản quân địch không cho chúng đánh chiếm các khu vực lận cận, mà còn tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Đặc biệt, chiều 28-12, Bộ chỉ huy mặt trận tăng cường cho Ô Cầu Dền một khẩu ba-zô-ka. Đây là khẩu ba-zô-ka duy nhất của mặt trận Hà Nội. Chỉ riêng điều này cũng cho thấy tính chất quan trọng và mức độ ác liệt của các trận chiến đấu diễn ra ở Ô Cầu Dền. Tuy vậy không có cán bộ, chiến sĩ nào biết sử dụng. Rất may, lúc ấy có một chiến sĩ người Nhật, tên là A-ka-su-da (tên Việt Nam là Tâm) biết cách sử dụng khẩu ba-zô-ka. Sau khi A-ka-su-da chiếm được vị trí thuận lợi trên ụ, ngay phát đầu tiên, anh đã tiêu diệt gọn một xe tăng địch.Tiếp đó, anh tiêu diệt thêm một chiếc xe bọc thép. Nắm thời cơ, các chiến sĩ của ta thừa thắng xông lên phản kích làm quân địch khiếp sợ, hoảng loạn, tháo chạy. Những ngày tiếp theo, địch liên tiếp tổ chức các đợt tiến công đánh phá trực tiếp ụ Ô Cầu Dền, nhưng đều thất bại. Ban ngày, lực lượng của ta lui về phía nam chiến tuyến, chống cự với địch, ban đêm lại vượt ụ, vượt đê tập kích các chốt của địch trong nội thành.

Dừng kể, ông lấy từ trong ngăn tủ những “tài sản quý giá” của riêng mình trong suốt cuộc đời tham gia cách mạng, đưa tôi xem tấm ảnh chân dung của ông chụp trước giờ xung trận. Tấm ảnh đã nhuốm màu thời gian, nhưng mỗi lần ngắm nó, ông như được sống lại thời kỳ hào hùng của dân tộc. Thời ấy, cả Hà Nội vào trận. Ngay tại chiến lũy Ô Cầu Dền, nơi ông trực tiếp chỉ huy và cùng đồng đội chiến đấu đã có không ít cụ già, em nhỏ, nhà sư, trí thức tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Sự đồng lòng, quả cảm cùng trí thông minh, gạn dạ của quân và dân Ô Cầu Dền đã góp phần quan trọng đập tan chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh” của địch, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giam chân chúng trong thành phố trong suốt 60 ngày đêm.

Long Khánh (Ghi theo lời kể của ông Nguyễn Hiền, chiến sĩ quyết tử Liên khu II, Hà Nội)
 
Nguồn: qdnd.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:05:11 pm
Để Tổ quốc quyết sinh: Vệ Út
 
 
Với dáng người đậm, da ngăm, mái đầu đã điểm sương, tôi không thể hình dung cách đây 60 năm, con người này lại là chiến sĩ cảm tử quân Thủ đô làm nhiệm vụ liên lạc trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc. Đó là cậu bé liên lạc Phùng Đệ, được anh em cảm tử quân Thủ đô thời đó yêu mến gọi cậu là “Vệ Út”, bởi vừa nhỏ tuổi nhất đơn vị, vừa nhanh nhẹn, thông minh, gan dạ. Năm 1945, lúc đó cậu bé Đệ mới 12 tuổi, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ mất sớm, nên 3 anh em mỗi người thất lạc một nơi. Cậu bé Đệ phải lên ở với nhà bà cô để đi học làm thợ giày gần bãi Phúc Tân. Thời gian học làm thợ giầy, mỗi lần nhìn thấy mấy bạn cùng trang lứa được vào Vệ quốc đoàn, mặc bộ dạ tím, đội mũ ca-lô gắn sao lấp lánh, trong Đệ lại cháy lên một mơ ước được đứng cùng đội ngũ. Nhưng làm thế nào để được vào Vệ quốc đoàn, được đánh địch… thì Đệ chưa biết. Nhưng rồi thời cơ cũng đã đến, ông kể lại với chúng tôi:
“…20 giờ ngày 19-12-1946, Thủ đô Hà Nội rộ lên tiếng súng, báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Đường phố Hà Nội trở thành chiến luỹ, phần lớn nhân dân được di tản ra khỏi thành phố. Thế nhưng tôi thấy mấy đứa trẻ trạc tuổi tôi ở nhạc sinh quân được ăn vận quần áo của Vệ quốc đoàn, được ở lại thành phố, nên tôi rất thích, cũng từ giây phút đó, tôi quyết tâm phải vào Vệ quốc đoàn. Nhân cơ hội cả gia đình bà cô tôi tản cư vào đình Phát Lộc, tôi liền trốn đi với một anh tự vệ, vào ngõ Gia Ngư tham gia cùng các anh đào hầm, hào. Thấy tôi là người lạ, các anh Vệ quốc đoàn hỏi:

Em này ở đâu đến vậy, sao lại vào đây?

Tôi nói dối các anh:

Cả nhà em đi tản cư, em bị lạc không biết đi đâu cả. Các anh cho em ở đây với, việc gì em cũng làm được!

Các anh nhìn tôi từ đầu xuống chân thấy tôi bé quá nên có vè ái ngại. Nhưng cuối cùng các anh cũng đồng ý cho tôi ở lại và từ giây phút đó, tôi được đúng trong hàng ngũ của Vệ quốc đoàn và được giao nhiệm vụ làm liên lạc. Vì còn quá nhỏ, nên tôi được các anh ưu tiên, chiều chuộng, coi tôi như đứa em út trong gia đình, thế nên mới có tên là “Vệ Út”.

Hồi đó làm chiến sĩ liên lạc rất khổ vì điện đàm không có, toàn phải chạy chân. Hễ có chỉ thị của cấp trên, hoặc thông báo tin tức xuống các đơn vị, các chốt chiến đấu bất kể ngày, hay đêm tôi đều phải đi ngay. Ngược lại ở các chốt chiến đấu có tình hình muốn thông báo lên cấp trên các anh cũng gọi tôi. Tôi cứ như con thoi giữa hai chiều xuôi ngược trong thành phố. Thi thoảng, tôi còn dẫn đường cho anh em đi tìm hiểu tình hình địch.

Nhớ lại hôm đầu tiên vào Vệ quốc đoàn tôi đã được anh Vũ Lăng (Thượng tướng Vũ Lăng), hồi đó là tiểu đoàn phó thử thách bằng cách giao nhiệm vụ, đi trinh sát tình hình địch ở Sở Thuỷ lâm (địa điểm Sở Văn hoá Hà Nội hiện nay). Thú thực tôi cũng hơi run, chỉ sợ không hoàn thành nhiệm vụ. Tôi bắt đầu bò từ chỗ Hàng Bè cứ thế men theo tường tiến thẳng đến Sở Thuỷ lâm, vừa bò vừa phải nghe ngóng tình hình ở phía trước, lại phải nhìn ra sau nên hơi sợ. Khi đến tường của Sở Thuỷ lâm, ép sát người vào tường tôi nghe tiếng địch xì xồ nhiều, tôi đoán địch có rất đông quân. Nghe ngóng một lúc nữa cho chắc chắn, tôi mới quay về, được một đoạn thì gặp anh Lanh.

Sau này tôi mới biết, sau khi Tiểu đoàn phó Vũ Lăng cử tôi đi, anh đã cẩn thận cho anh Lanh bám theo sau để xem tôi hành động thế nào, nếu cần thì giúp đỡ. Không ngờ thấy tôi nhỏ người nhưng gan dạ, làm việc tốt, nên các anh đã rất khen ngợi. Cũng ngay sau đó tôi được giao nhiệm vụ xuống Đại đội 13 làm liên lạc cho đến tận ngày đơn vị rút khỏi Thủ đô…”

Vũ Thuý Ngân (Ghi theo lời kể của CCB Phùng Đệ) 

Nguồn: qdnd.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:05:31 pm
Để Tổ quốc quyết sinh: Vừa đánh giặc Pháp, vừa trừ Việt gian

“… Tôi nhập ngũ tháng 2-1946. Khi Toàn quốc kháng chiến nổ ra thì tôi đã kịp học xong khóa đào tạo quân sự cấp tốc ở Hà Tây và được phân công về Hà Nội để huấn luyện tự vệ, chuẩn bị kháng chiến. Tôi nhớ khá rõ, sau khi nổ súng tiến công địch được ít ngày, đội tự vệ Duy Tân (Liên khu II) do tôi làm đội trưởng, được lệnh bám trụ tại nhà Pha-xi-đeo (Nhà máy thuốc lá Viễn Đông) để đánh địch. Các cuộc chiến đấu ở Liên khu II đều rất ác liệt, nhưng có lẽ cũng đã có nhiều anh kể rồi. Tôi chỉ xin kể việc chúng tôi đi tiễu trừ bọn Việt gian ngay khi cả mặt trận Hà Nội đang rộ lên tiếng súng.

Những ngày đầu chiến đấu, tình hình tiếp tế hậu cần cho các tổ, ụ chốt còn lộn xộn lắm. Chị em từ ngoại thành gánh cơm vào, cứ gặp ai là cấp cho người ấy. Vì thế chỗ thì được nhiều, chỗ thì được ít. Chính vì vậy, có chỗ đã phải ăn đường phèn trừ bữa để chiến đấu. Địa bàn tác chiến cũng chưa được phân định rạch ròi, nên chỗ lực lượng đông, chỗ lại rất mỏng. Nhiều chỗ các tổ chiến đấu giáp nhau, nhưng cũng chưa có kế hoạch hiệp đồng, vì thế không biết được nhau. Lợi dụng tình trạng này, địch đã cho một số tên Việt gian trà trộn vào đội ngũ của chúng ta. Bọn này thường lảng vảng trên các tuyến giao liên để bắt cóc, thủ tiêu liên lạc và lực lượng tiếp tế. Đã có một số người tự nhiên mất tích mà ta không phát hiện ra. Sau hơn 10 ngày chiến đấu, anh Phùng Thế Tài được điều về làm chỉ huy Liên khu thay cho anh Quang Tần. Khi anh Tài đi kiểm tra tình hình liên khu, anh thấy việc tiếp tế như thế là không khoa học, nên đã chỉ đạo cho các bộ phận chấn chỉnh lại tổ chức, hình thành đường dây liên lạc khá chặt chẽ giữa các bộ phận. Cơm nắm và thịt trâu luộc từ ngoại thành đem vào, được cấp đến tận tay chiến sĩ. Cũng từ việc làm này, chúng tôi bỗng phát hiện ra có một số người không có cơm nắm và thịt trâu mà họ ăn bằng đồ hộp. Thấy lạ, chúng tôi liền báo cáo lên chỉ huy liên khu, các anh ấy liền cho người theo dõi. Một, hai hôm sau tôi được lệnh lên gặp chỉ huy liên khu để nhận nhiệm vụ. Các anh giao cho tôi tổ chức, chỉ huy 4 tiểu đội chuyên đi tiễu trừ bọn Việt gian đang trà trộn vào vị trí đóng quân của ta. Sau khi nhận nhiệm vụ, tôi rải người dọc các tuyến tiếp tế, liên lạc, tập trung vào thời điểm bộ đội ta ăn cơm. Bằng cách này chúng tôi đã phát hiện và tóm gọn 12 tổ Việt gian, tổng cộng hơn 40 tên. Những tên này cơ bản bị bắt khi chúng đang khui đồ hộp ra để ăn. Chúng tôi tập hợp bọn này lại, giao cho liên khu xử lý. Một số người sau này đã nhận ra lỗi lầm của mình và biên chế vào đội quân phục vụ chiến đấu. Nhờ tiễu trừ được bọn Việt gian nên địa bàn Liên khu II đã khá ổn định.
Sau đợt tiễu trừ Việt gian này, đội tự vệ Duy Tân tiếp tục được giao nhiệm vụ bám trụ chiến đấu tại Tiểu khu chợ Hôm. Trong đội tự vệ của tôi phần lớn anh em là công nhân, nông dân chưa được học quân sự bao nhiêu nhưng chiến đấu rất dũng cảm. Chúng tôi vừa đánh địch, vừa tự bồi dưỡng kiến thức quân sự cho mình. Cho đến khi được sáp nhập vào đơn vị bộ đội chính quy thì chúng tôi từ chỗ chỉ có 8 khẩu súng đã tăng lên 24 khẩu…”.

Đồng chí Hoàng Giáp kể Trần Vũ ghi
 
Nguồn: qdnd.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:05:58 pm
Để Tổ quốc quyết sinh: Cuộc địch vận bất ngờ
Tôi gặp lại cô nữ sinh Lê Thị Thoa trong dịp Trung đoàn Thủ Đô tổ chức buổi gặp mặt nữ chiến sĩ Quyết tử Liên khu 1 anh hùng tại dốc Hàng Than. Năm nay, bác đã sang tuổi 78 nhưng trông còn rất nhanh nhẹn. Nhớ lại những ngày chiến đấu trong nội thành, bác bồi hồi kể: “Những ngày Toàn quốc kháng chiến bùng nổ thì tôi vừa vào Đảng được hơn 3 tháng và được giao nhiệm vụ là đội trưởng đội tuyên truyền của Liên khu I. Cấp trên chỉ thị cho chúng tôi mỗi ngày phải ra một tờ tin để phục vụ cho các tổ, đội chiến đấu trong nội thành, vì thế hằng ngày chúng tôi phân công nhau xuống các tổ chiến đấu lấy tin tức và các hoạt động chiến đấu của anh em, sau đó về viết bài rồi tổ chức in ấn và phát xuống các đơn vị chiến đấu. Nơi làm việc được đặt ngay tại 78 phố Hàng Bạc. Vào một đêm trăng tròn của tháng Giêng năm 1947, tôi cùng mấy chị em trong tổ xuống ụ chiến đấu tại số nhà 53 và 55 phố Hàng Than. Ngôi nhà đối diện, địch có một tốp đang chiếm giữ và chúng sẵn sàng nhả đạn vào ta bất kỳ lúc nào. Đến nơi thấy anh em đang trực chiến, chúng tôi liền hỏi thăm xem tình hình chiến sự đêm qua thế nào, có ai bị thương không? Biết chúng tôi ở ban tuyên truyền, các anh Vệ quốc đoàn liền bảo: “Tụi địch ở bên kia nhốn nháo lắm các cô ạ, không hiểu sao chúng nó cứ hát hò suốt cả ngày đêm”.

Nghe các anh nói vậy nên mấy chị em chúng tôi leo lên gác ba, nấp sau ụ chiến đấu nhìn sang. Nhờ ánh trăng sáng, nên tôi thấy rõ một nhóm khoảng 5 đến 6 tên đang hát, cười nói khá rôm rả. Lúc đó tôi chợt nảy ra ý nghĩ: Mình thử nói chuyện với mấy tên lính kia xem thế nào, biết đâu lại dụ được chúng không nổ súng, hoặc ít ra cũng có thể làm lung lay tinh thần chiến đấu của chúng? Nghĩ vậy tôi liền chạy ngay về hỏi đồng chí chỉ huy đơn vị. Được anh đồng ý tôi mới quay trở lại ụ chiến đấu thực hiện ý định của mình.

Các anh Vệ quốc đoàn sợ nguy hiểm nên đã ngăn tôi, nhưng lúc đó tôi không sợ mà chỉ nghĩ. Nếu tôi nói chuyện được với chúng để chúng hiểu thì anh em có thể sẽ đỡ thương vong. Ngay lập tức, tôi cầm khẩu súng nhỏ cho 2 tay vào túi và bình tĩnh bước ra rồi cất tiếng:

- Bonjour messieurs! (Chào các ông)

Tôi vừa dứt lời thì ở phía bên kia cũng im bặt tiếng hát hò. Dường như nghe tiếng con gái chào từ phía đối diện, nên chúng hơi ngạc nhiên. Khi chúng nhìn sang chỉ thấy mỗi mình tôi đứng đó, lại là con gái, nên chúng không cảnh giác, một tên hô lớn:

- A! Con gái, ra đây mà nói chuyện bọn mày ơi!

Tất cả những tên đang núp sau ụ chiến đấu đều ùa ra, nhìn sang tôi, thấy chúng không mang theo súng nên tôi ra hiệu cho 3 chị Xuyến, chị Quý và chị Oanh cùng ra với tôi. Thấy chúng tôi, chúng lại ồ lên:

- A, xin chào các cô. Thế các cô là tự vệ chiến đấu hả?

Tôi mạnh dạn trả lời: “Không, chúng tôi là nữ sinh đang học ở trường Trưng Vương. Các ông đánh nhiều quá làm chúng tôi không học được, vì vậy chúng tôi đang bị mắc kẹt ở đây đấy”.

Nghe thấy thế mấy tên liền nhao nhao đổ cho ta nổ súng trước, nhưng tôi nói ngay:

- Vì các ông đã sang xâm lược nước chúng tôi, chiếm đất đai, nhà cửa làm gia đình chúng tôi phải li tán, không được học hành, nhân dân thì đói khổ, nên chúng tôi đành phải đánh lại để bảo vệ đất nước và nhân dân.

Lúc đó địch đã chiếm khu vực cầu Long Biên và khu Hàng Buồm rồi. Nghe tôi nói vậy, chúng im lặng. Thấy chúng im lặng nên mấy chị em tôi bảo nhau hát bài “Khi nào anh trở về” bằng tiếng Pháp để gợi cho chúng nhớ quê hương, nhớ gia đình, từ đó đánh vào tâm lý của chúng, làm nhụt ý chí chiến đấu của quân địch… Mấy hôm sau trở lại vị trí này chúng tôi được biết, bọn địch đã bỏ bốt rút cả vào trong thành…

VŨ THÚY NGÂN 

Nguồn: qdnd.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: dongadoan trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:06:39 pm
Copy từ trang web khác, bạn phải ghi rõ nguồn. Nếu bài viết có ảnh thì nên copy cả ảnh, trong trường hợp không copy được ảnh thì đơn giản là xóa cái ghi chú đi. Trình bày như bạn hiện nay, bài viết xấu đi nhiều!


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:07:52 pm
Để Tổ quốc quyết sinh: Giữ vững bờ bắc Hồ Gươm


Hồ Gươm, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” giữa Thăng Long-Hà Nội, vào mùa Đông 1946 lịch sử, lại nổi sóng cùng trận chiến ác liệt bảo vệ Bắc Bộ Phủ và những trận tiếp theo. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ thời kỳ đầu, bộ đội ta ở tuyến phía đông Hồ Gươm lui về giữ khu phố cổ. Từ đó, đoạn phố hơn 100 mét ở bờ bắc Hồ Gươm của phố Đinh Tiên Hoàng (tạm gọi là phố Bắc Hồ Gươm) trở thành một trong những tuyến ngoài của Liên khu I, Hà Nội, nhất là khi địch đã chiếm khu đền Bà Kiệu, đền Ngọc Sơn.

Đội tự vệ phố gồm 15 người phần lớn là công nhân của các cửa hiệu, chốt ở 3 nhà tương đối kiên cố (là hiệu Kem Zê Fia, nhà thuốc Vũ Đỗ Thìn và khách sạn Cai Kinh của Hoa kiều ở đầu phố Hàng Đào, sau này là nhà Bách hóa Bờ Hồ số 12). Vũ khí chỉ có mã tấu, lựu đạn và chai xăng Crếp. Sau đó, trên điều thêm một tổ Vệ quốc quân vừa từ Bắc Bộ phủ về, chốt ở Quán Tân nghệ sĩ (nay là hiệu sách Nhân Dân, Bờ Hồ), nhờ đó phố có thêm mấy súng trường.  
Hồ Gươm, thắng cảnh nổi tiếng của thủ đô Hà Nội (ảnh: Internet).
Đội có 3 thiếu nữ rất nhiệt tình chăm lo việc nấu nướng, nên các bữa ăn dù chỉ có cá mắm và củ đậu, nhưng vẫn thấy ngon. Mọi người trong đội đều đã biết sự khổ nhục của thời kỳ mất nước, nên một lòng quyết chiến, “nhất định không chịu làm nô lệ”.

Sáng 28-12, trời còn tối đã thấy 4 xe hép-trắc (kiểu xe thiết giáp thời đó) của địch và 2 khẩu đại bác 75mm từ phía tượng Vua Lê, theo phố Lê Thái Tổ tiến vào. Đến nhà Thủy Tạ thì bộ binh xuống xe, nhưng lại theo phố Lương Văn Can tiến về phía Hàng Gai. Súng nổ dữ dội khá lâu rồi khói lửa ngày càng lớn ở sau phố.

Khoảng hơn 8 giờ, thấy địch quay trở lại rồi bỗng một tiếng nổ long trời ở buồng cạnh chúng tôi, cùng tầng 2 nhà Cai Kinh. Pháo địch bắn dồn dập phá hủy cả 2 tầng, nhưng anh em khéo nấp, nên chỉ bị thương nhẹ 2 người. Lúc pháo ngừng, xe thiết giáp tiến vào gần thì trung đội trưởng Nguyễn Đức Thiệp cũng dẫn mấy tự vệ tới tăng viện. Anh bố trí 2 người lên gác còn 4 người ở tầng một, nấp sau các lỗ đục thông nhà, đợi giặc vào thì dùng lựu đạn diệt. Anh em rất dũng cảm và mưu trí, nên địch tấn công mấy lần đều bị đánh lui.

Tổ ở nhà cuối phố cũng tìm cách bắn chéo sang bọn địch đi sau xe làm hỏa lực địch phải san bớt sang đó. Một tốp địch bất ngờ xông vào gần nhà Zê Fia bị anh Nguyễn Bá Tạo, dẫn mấy tự vệ đến dùng lựu đạn tiêu diệt. Một tổ viên nảy sáng kiến, lao nhanh lên gác thượng để tìm ra cách đánh tốt hơn. Đúng thế thật, lên tới nơi thấy rõ, có thể ném chai xăng Crếp tới xe địch. Cánh tay võ sĩ của anh Thiệp tung ngay một chai, nhưng còn cách một quãng. Địch phát hiện ra chúng tôi bèn tập trung bắn lên gác thượng, không sao ném tiếp được. Sau đó chúng tôi tìm ra cách nghi binh thu hút hỏa lực địch về một phía để 2 người khỏe nhất có thể nhổm lên ném tiếp. Hai chai xăng Crếp rơi sát một xe thiết giáp và bốc cháy. Chiếc xe vội lui và điều bất ngờ lớn là sau đó các xe khác cùng bộ binh cũng lui dần.

Chiều hôm đó, đại đội trưởng Tấn Công, sau là tiểu đoàn trưởng chỉ huy quân sự của khu Đông Kinh Nghĩa Thục, đến thăm tổ chúng tôi, xem xét các nơi rồi khen ngợi và dặn thêm cách chống trả nếu địch lại tấn công. Với chúng tôi, việc giữ vững được tuyến phố và lời khen ngợi của chỉ huy là sự động viên rất lớn để tiếp tục cùng nhau vượt qua nhiều thử thách.

NGUYỄN HẢI TRỪNG-(Nguyên chiến sĩ Vệ quốc quân Hà Nội)
 
Nguồn: qdnd.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:08:28 pm
Copy từ trang web khác, bạn phải ghi rõ nguồn. Nếu bài viết có ảnh thì nên copy cả ảnh, trong trường hợp không copy được ảnh thì đơn giản là xóa cái ghi chú đi. Trình bày như bạn hiện nay, bài viết xấu đi nhiều!

Xin lỗi các bác, em sẽ sửa ngay ạ! :)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:28:17 pm
Kỷ niệm 60 năm ngày toàn quốc kháng chiến: Chuyện em liên lạc dũng cảm

Câu chuyện về Trần Kim Luyện, một thiếu niên kiên cường đã tham gia chiến đấu bảo vệ Hà Nội năm 1946 và sau này hy sinh tại chiến trường Điện Biên Phủ.

Ngày 16/12/1946, tôi đang huấn luyện ở Nhà máy Rượu về lúc 5 giờ chiều thì thấy anh Trần Kim Xuyến ngồi đợi tôi ở nhà. Thời gian đó anh Xuyến là Tổng Giám đốc Nha Thông tin (sau này là Thông tấn xã Việt Nam).

Gặp tôi anh nắm tay nói:

- Mình bận quá mà phải đến Giáp vì có việc nhờ Giáp giúp mình. Tình hình khẩn trương lắm, không thể tránh được cuộc chiến tranh với Pháp đâu. Chính phủ đã có lệnh cho đồng bào Thủ đô tản cư. Nhưng thằng Luyện em mình nó dứt khoát không chịu đi. Cả lớp nó viết quyết tâm thư xin ở lại Hà Nội phục vụ chiến đấu. Mới học đệ nhị ban Thành Chung 14, 15 tuổi thì không biết nó làm gì. Bảo thế nào cũng không được. Mình muốn nhờ Giáp cho nó vào tự vệ chiến đấu và trông nom giúp. Cơ quan mình không được cho gia đình đi theo. Mong Giáp giúp cho mình.

Với tôi, anh Xuyến không những là người bạn rất thân mà còn là huynh trưởng của tôi trong đoàn Hướng đạo nên tôi vui vẻ nhận lời.

Tối hôm đó khoảng gần 8 giờ. Em Trần Kim Luyện cầm thư của anh Xuyến đến gặp tôi. Đó là một em thiếu niên khoảng 14, 15 tuổi. Da ngăm ngăm đen nhưng có đôi mắt rất sáng. Tôi giới thiệu em vào tiểu đội Phạm Đường Bệ của tiểu khu 6, khu chợ Hôm. Anh Bệ phát cho em một ngôi sao trên nền vuông bằng vải. Em rất thích và lấy ngay chiếc mũ trong ba lô ra gắn vào đội lên đầu cười to:

- A ha! Mình cũng trở thành Việt minh ca-rê rồi.

Bắt đầu từ ngày hôm đó em Trần Kim Luyện trở thành tự vệ tiểu khu 6 khu Chợ Hôm. Ban ngày em tham gia đục tường làm chướng ngại vật. Buổi tối em được các anh lớn hướng dẫn cách sử dụng lựu đạn, tháo lắp súng…

Những ngày 17, 18 tình hình Hà Nội sôi sục, địch càn quét khu Yên Ninh, Hàng Bún, bắn giết đồng bào ta. Chúng phóng xe như điên trên đường phố, xả súng vào chợ Đồng Xuân và các anh em đang đắp chiến luỹ trên các đường.

Đêm 19/12, cuộc kháng chiến nổ súng lúc 20 giờ 3 phút. Hai tiểu đội của tiểu khu 6 được phân công vào kiểm tra các hầm mộ tại nghĩa địa Tây (nay là khu vực tập thể Nguyễn Công Trứ).

Đêm 19/12 trung đội tự vệ của tiểu khu 1 được lệnh tấn công ổ tác chiến của địch ở phố Ngô Thì Nhậm. Sáng 20 thì vào được trong nhà, ở tầng một, nhưng trung đội trưởng Lê Quang Tôn hy sinh. Đội tự vệ tiểu khu 6 được lệnh lên phối hợp với bộ đội đánh tiếp.

Vào trong tầng một, các chiến sĩ định đánh lên tầng hai nhưng bị bọn địch ở trên bắn khống chế rất dữ nên không lên được, có một vài đồng chí đã bị thương, Luyện phải gọi cứu thương đến khiêng các đồng chí đi.

Mỗi lần đi về em gặp tôi và nói:

- Anh Giáp ạ, đánh thế này không được, em thấy ở chỗ Ban chỉ huy các anh ấy nói: Bên khu Bảy Mẫu và khu Lò Đúc các anh ấy cho phóng hoả đốt là bọn chúng phải ra đầu hàng, nhưng ở đây ta đốt sẽ bị cháy lan sang bên thì làm gì còn chỗ mà bố trí đánh. Em đi bên ngoài thấy nhà này có một tầng mái bằng nối tiếp lên mái ngói mà ống máng lại bằng xi măng, có thể lên được anh ạ.

Tôi và anh Việt Tử - trung đội trưởng của tiểu đoàn 212 - nghe em nói thế liền sang nhà bên quan sát thì quả đúng như vậy. Đêm hôm đó đơn vị cho Phạm Quốc Bảo và một chiến sĩ bộ đội theo ống máng lên tầng thượng dỡ mái xuống trần và dùng lựu đạn đánh vào bọn đang cố thủ đồng thời tổ chức cho anh em lên cầu thang.

Bọn địch buông súng đầu hàng.

Ta bắt được sáu tên trong đó có hai tên bị thương và thu một số vũ khí. Tự vệ được chia khẩu Sten, 1 khẩu súng trường và 40 quả lựu đạn.

Em Luyện xí ngay phần khẩu Sten và nói:

- Khẩu này nhẹ, các anh để cho em.

Mọi người đều cười. Đội trưởng Việt Tử bảo: “Đúng, phải thưởng cho chú Luyện vì chính chú ấy nghĩ ra cách đánh hiệu quả này”.


Ngày 21/12, địch tấn công Nhà máy Rượu. Thời gian đó khu vực Nhà máy Rượu rất rộng bao gồm một khu vực hình chữ nhật giới hạn bởi đường Lò Đúc, Hoà Mã, Ngô Thì Nhậm và Nguyễn Công Trứ, có tường cao 4 m và nhiều lỗ đục thông ra các phố. Trong Nhà máy Rượu khi đó có hai trung đội của tiểu đoàn 212 mà hơn một nửa là những người trước đây đã từng là lính của quân đội Pháp tham chiến tại chiến trường Pháp - Đức - Bỉ và sau ngày Việt Nam độc lập đã được trở về nước rồi gia nhập Vệ quốc đoàn, nên các anh thường được gọi với tên trìu mến là hải ngoại quân.

Cuộc chiến đấu diễn ra suốt cả ngày. Với bản lĩnh thiện xạ của các cựu binh, các chiến sĩ hải ngoại quân đã gây cho Pháp rất nhiều thương vong. Đến 14 giờ chiều, chúng cho ném bom vào nhà máy và cho xe tăng húc đổ tường xông vào. Các chiến sĩ ta phải rút về Chùa Vua. Đến 15 giờ 30 một tên lê dương mũ đỏ ló ra khỏi lỗ thông của Nhà máy Rượu sang phố Ngô Thì Nhậm. Hai phát đạn của tiểu đội Bệ và Đặng quật nó ngã sấp, chân vẫn ở trong nhà máy nhưng người thì nằm bên hè đường Ngô Thì Nhậm, khẩu carbin văng ra cách 1m.

Chưa ai kịp nói gì thì thấy Luyện đặt khẩu Sten xuống lao ra đường chạy như bay sang chỗ thằng Tây mũ đỏ.

Một tràng đạn liên thanh từ đầu phố Ngô Thì Nhậm phía Hàm Long quét xuống, mọi người thấy Luyện chạy thêm ba bước và ngã xuống cạnh xác thằng Tây. Anh Chi kêu lên: “Luyện bị rồi!". Trong lỗ thông đầu tây mũ đỏ ló ra, một loạt đạn bắn sang chúng thụt đầu vào, thằng nấp hai bên nắm chân thằng bị nạn lôi vào trong nhà máy. Mọi người chợt thấy Luyện vùng dậy một tay cầm khẩu carbin một tay kéo lê chiếc thắt lưng da trên có tám túi đựng băng đạn chạy như bay về. Thì ra em ngã không phải vì trúng đạn mà nằm xuống cạnh xác thằng Tây để cởi thắt lưng đạn của nó.

Chiều hôm ấy em mang súng, đạn về báo cáo Ban chỉ huy mặt trận. Khi về em cười hóm hỉnh: “Anh Quang Tuần khen anh em mình ghê lắm. Khẩu carbin anh ấy giữ cho đội cảnh vệ và đổi lại cho đơn vị mình hai khẩu mút-cơ-tông với 100 viên đạn. Em vẫn giữ khẩu Sten đấy nhé…”.

Ngày 23/12 địch phá ụ ngã năm Lò Đúc, tiến đánh trụ sở 18 Nguyễn Du (trụ sở Bộ tổng tham mưu) đồng thời mở cuộc càn lớn vào khu Chợ Hôm, Lê Văn Hưu, Nguyễn Công Trứ.

Chúng bố trí xe tăng và xe bọc thép đứng ở các ngã tu quét dọc các phố, cho bộ binh phá cửa xông vào các nhà tiêu diệt quân ta.

Trong khu vực này về phía ta có hai trung đội của đại đội Bảo Cường tiểu đoàn 77 và hai trung đội của tiểu đoàn Lê Tỵ, tiểu đoàn 212 cùng năm đội tự vệ của khu Chợ Hôm.

Tiểu đội Phạm Văn Đăng được cử đến góc phố Hoà Mã - Phố Huế, tiểu đội Phạm Đường Bệ được bố trí chặn ở góc Phố Huế - Trần Xuân Soạn.

Em Luyện đi theo tiểu đội trưởng Phạm Đường Bệ đến nhà góc phố số 77 chặn địch cả hai mặt phố Huế và Trần Xuân Soạn. Em Luyện phát hiện thấy nơi bố trí này không an toàn nên đã nói với tiểu đội trưởng Bệ:

- Anh Bệ ạ, em thấy ở đây không an toàn, địch có thể đánh sau lưng mình và đánh thông sang chỗ Ban chỉ huy.

Anh Bệ hỏi:

- Sao em lại nói thế?

Luyện đáp: “Anh có thấy không, lúc nãy khi qua nhà 81 em thấy ngoài lỗ thông qua nhà 79 ra còn một lỗ thông nữa trông sang phía Trần Xuân Soạn. Nếu bọn Tây nó vào được Trần Xuân Soạn thì coi như ta bị bao vây và chúng có thể đánh suốt dọc phố Huế.

Tiểu đội trưởng Bệ và tiểu đội trưởng Tâm vệ quốc đoàn quay lại nhà 81 xem thì thấy đúng như lời Luyện nói: Ngoài lỗ thông sang nhà 79, ở sân giữa còn một lỗ thông nữa qua lối đi nhà vệ sinh thông sang Trần Xuân Soạn. Hai tiểu đội trưởng tự vệ và vệ quốc đoàn liền rút quân về nhà 81 bố trí trên gác, cử hai tổ ba người cảnh giới hai lỗ thông, chiều hôm đó lúc 3 giờ địch phá được một nhà ở phố Phùng Khắc Khoan đánh thông suốt dọc phố Trần Xuân Soạn; tiểu đội Vũ Đình Tuân (con cụ Vũ Đình Tụng) của tiểu khu 3 bị hy sinh bốn người, số còn lại rút được về số nhà 81 và bố trí chiến đấu cùng với Tâm và Bệ. Địch lần đuổi theo nhưng bị quân ta bắn chặn lại, chúng ném lựu đạn, đưa súng phóng hoả bắn nhưng bị quân ta đánh trả lại quyết liệt. Trong những tiếng nổ phát một của súng trường, thỉnh thoảng lại rộ lên tiếng nổ của khẩu tiểu liên của Luyện.

Cho đến 16 giờ chiều bọn địch không làm sao vào được nhà 81, xe cơ giới của chúng cũng không húc được cửa mà còn bị lựu đạn và chai xăng của ta ném cháy ba chiếc trên đường Phố Huế.

Những ngày sau đó các đội tự vệ khu Chợ Hôm được rút về dưới phố Bạch Mai và Việt Nam học xá tập hợp lại thành đội tự vệ Duy Tân, Luyện trở thành liên lạc viên của Ban chỉ huy trung đội. Những ngày này, khi thì em đi cùng anh Phạm Quốc Bảo lùng bắt bọn thám báo, khi thì đi cùng với Hoàng Thị Dung, Lưu Thị Hạnh mang cơm tiếp tế cho đơn vị, khi thì chốt trên đình Tô Hoàng tham gia giữ trận địa Ô Cầu Dền.

Sau ngày 19/01/1947, đội tự vệ Duy Tân sát nhập vào tiểu đoàn 64 trở thành trung đội 2 thuộc đại đội 4. Trong trận đánh lớn ngày 15/01/1974, trong thế bị bao vây ba mặt, Ban chỉ huy tiểu đoàn đã ra lệnh cho bộ phận y tế cấp dưỡng rút khỏi trận địa từ 12 giờ trưa. Tôi cùng cho mấy em liên lạc 14, 15 tuổi trong đó có Luyện rút theo bộ phận này. Nhưng không ngờ đến 15 giờ, tôi đến hầm chiến đấu của tiểu đội Bệ vẫn thấy Luyện và các chiến sĩ khác đang nhằm bắn bọn tây nhấp nhô trên đường số 1.

Đến 5 giờ chiều khi đơn vị rút thì Luyện cũng là những người rút sau cùng. Chỉ huy trung đội lúc đó chỉ còn tôi với Phạm Đăng Trung, đội phó (tất cả đều bị thương).

Về đến Huỳnh Cung nơi đóng quân của tiểu đoàn lúc 11 giờ đêm, Luyện chạy ra đón tôi và nói:

- Lúc anh Tri và anh Lục mất ở Lò Gạch, sau em có đến và tìm được trong túi các anh những di vật này, em trao lại cho anh. Và em đưa cho tôi hai cái ví.

… Ngày 20/3/1947, tiểu đoàn 64 tiến đánh Hà Đông theo dọc sông Nhuệ, trung đội tôi được bố trí thành một tuyến dài gần 700 m. Từ đầu cầu xuống Mỗ Lao, các tiểu đội cách nhau 200 m. Trong ngày hôm đó em Luyện và Lê là hai liên lạc viên phải chạy hàng chục lần từ tiểu đội này sang tiểu đội kia dưới làn đạn của địch. Đến 6 giờ chiều đơn vị được lệnh rút và hành quân hơn 30 km về làng Hữu Bằng ở Thạch Thất, Sơn Tây. Bố trí chỗ ăn nghỉ cho các đơn vị xong đã gần 8 giờ sáng. Chúng tôi vừa trở về nhà đóng quân của Ban chỉ huy trung đội thì liên lạc viên từ trung đoàn xuống đưa cho tôi một công văn.

Mở công văn ra xem tôi bàng hoàng cả người: Đây là công văn của Văn phòng Chính phủ gửi trung đoàn 37 đề nghị báo tin cho Trần Kim Luyện, chiến sĩ của tiểu đoàn 64 biết đồng chí Trần Kim Xuyến, Giám đốc Nha Thông tin đã bị dịch sát hại trong khi đi công tác ngày 2/3/1947. Chúng tôi nhìn nhau lòng nghẹn ngào vì mặc dầu đã chứng kiến sự hy sinh của nhiều đồng đội nhưng không biết em Luyện có thể chịu đựng nổi nỗi đau đớn, mất mát này không. Tôi và Đặng Thái - chính trị viên trung đội (thay anh Hoàng Tường Tri đã hy sinh) xuống nơi tiểu đội của Luyện đóng quân thấy em nằm ngủ rất ngon, miệng hơi hé cười. Chúng tôi bùi ngùi không muốn đánh thức em dậy vì biết rằng sau một ngày chiến đấu gian khổ và sau một cuộc hành trình dài vất vả hãy để cho em ngủ một giấc thoải mái phục hồi sức khỏe trước khi phải đón nhận nỗi đau đớn không thể cứu vớt này. Tối hôm đó, lúc 8 giờ Luyện chạy vào chỗ chúng tôi hớt hải nói:

- Các anh ơi, có phải anh Xuyến em mất rồi không?

Tôi và Thái nhìn nhau, Thái lặng lẽ đưa tờ công văn cho Luyện. Luyện cầm đọc nét mặt ngây đi. Hai dòng nước mắt từ từ lăn trên gò má sạm nâu, em đứng lặng chân. Tôi và Thái định lên tiếng thì Luyện nói:

Anh Xuyến hy sinh rồi, không biết mẹ em có chịu nổi mất mát này không. Em xin thề sẽ trả thù cho anh. Anh Giáp, anh Thái đừng lo, em không sao đâu. Mất mát này em chịu được. Em sẽ quyết tâm rèn luyện để trả thù cho anh Xuyến.

Nói xong em từ từ quay đi bước ra khỏi văn phòng trung đội.

Trong năm 1947, 1948 theo điều động của trung đoàn, Trần Kim Luyện được cử đi học lớp mật mã và trở thành điện đài viên của Trung đoàn bộ. Những năm ấy tôi và Đặng Thái được điều động đi mỗi người một công tác khác nhau, không ở gần Luyện nữa.

Cuối năm 1950 tôi được tin Luyện được cử đi học trường Lục quân khoá 6. Đến năm 1954 sau hoà bình lập lại tôi mới được biết sau khi học ở Lục quân, Luyện được điều về đại đoàn 312 và tham gia nhiều chiến dịch như Tây Bắc năm 1952, Thượng Lào 1953, Điện Biên Phủ 1954. Em đã hy sinh tại mặt trận Điện Biên trong trận chiến đấu ở đồi E1 với cương vị đại đội trưởng./.

Hoàng Giáp (Nguyên đội trưởng đội tự vệ khu Chợ Hôm, Liên khu II)

Nguồn: qdnd.vn



Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:29:06 pm
Kỷ niệm 60 năm ngày toàn quốc kháng chiến: Người chiến sĩ quyết tử giữ chợ Đồng Xuân

Trước ngày kháng chiến toàn quốc chống Pháp, nhà anh Thìn ở 68 phố Hàng Nâu. Lúc nhỏ anh rất chăm học, thông minh. Sau khi thi đỗ Certifica loại ưu, vốn là người con hiếu thảo, thương cha mẹ già yếu, anh đã thôi học đi làm tại bến xe ôtô Bến Nứa kiếm sống giúp đỡ gia đình.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, bến xe tổ chức đội tự vệ công nhân, anh là đội viên sao vuông "áo xanh" được anh em mến phục. Một lần xe jeep địch có ba lính mũ đỏ dừng lại bến xe đang lôi một thiếu nữ Việt Nam đưa vào Thành. Thìn trông thấy đã ra ngăn lại. Hai tên Pháp chĩa súng đe dọa. Anh kêu gọi anh em trong bến ra, và tự mình dang tay, ưỡn ngực trước mũi súng kẻ thù, dùng tiếng Pháp thuyết phục chúng, không cho mang cô gái lên xe. Địch thấy nhiều công nhân kéo đến phải bỏ chạy, một số anh em tức giận định xông vào đánh chúng, anh Thìn đã ngăn lại kịp thời. Anh nói: Hãy tuân theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch: "Bình tĩnh, không mắc mưu khiêu khích của kẻ địch".

Hồi đó tập bắn đạn thật, cấp trên vận động tự vệ bỏ tiền mua ba viên đạn. Anh tích cực hưởng ứng và nói với mọi người: Khu Đồng Xuân giao cho trung đội tự vệ 3 khẩu súng trường là "quý hoá lắm rồi", nhiều đơn vị bạn chỉ có "gậy tre" luyện tập; còn một số đạn trang bị phải “để giữ nước”. Anh em vui vẻ thực hiện. Buổi bắn súng ở Cầu Guột, anh Thìn bắn trúng cả 3 viên, 2 viên trúng hồng tâm (bia bắn lúc này chưa chia vòng số điểm). Anh được anh em công kiêng rước một vòng trên bãi bắn như năm xưa Đinh Bộ Lĩnh thắng trận cờ lau.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Hai giờ sáng 22/12/1946, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến khu Đồng Xuân Đỗ Tần điều trung đội công nhân bến xe về giữ chợ Đồng Xuân. Anh Tần giao nhiệm vụ: “… Chợ Đồng Xuân là điểm quan trọng, các đồng chí sống chết giữ cho bằng được. Phải tổ chức thành một trận địa vững chắc…”.

Thực hiện mệnh lệnh, chợ phải đào hầm hào, làm ụ súng, lô cốt. Chiến đấu trong phố, mục tiêu được che giấu vì có nhiều nhà, mỗi nhà là một ụ chiến đấu vững chắc. Còn chợ Đồng Xuân, rộng trên 1000m2, mục tiêu lồ lộ, chỉ che đậy bởi một mái tôn mong manh, đạn súng trường bắn thủng. Trung đội phải đào hố cá nhân dưới gầm phản thịt làm "thành nhà" để sống và chiến đấu. Chợ Đồng Xuân có năm khung nhà to, có xây năm dãy phản thịt, mặt và chân bàn đều xây bằng đá và xi măng, lát gạch men trắng. Mỗi dãy dài 30m, rộng 1m, cao 1m. Cứ cách 1m50 lại xây một chân chia thành từng bàn, giao cho các hộ bán lòng, thịt bò, lợn và nó cũng là "mái nhà" che hố cá nhân cho chiến sĩ giữ chợ.

Đào hầm hào cứng như đá trên nền xi măng, tay ai cũng phồng rộp. Đào tại gầm phản thịt càng gian khổ, nước cống hôi thối đọng lại. Hai chị Nga, Chúc đã bị ngất khi đào, khí độc xông lên. Chợ Đồng Xuân luôn được Chủ tịch Đỗ Tần cử các chị em xuống chợ động viên, cùng đào. Nhưng đào hố giỏi lại kể chuyện vui, pha trò dí dỏm vẫn là "thi sĩ cù" Đỗ Văn Thìn được anh em gọi là “cháu ba đời bà Hồ Xuân Hương".

Anh bảo: “Chúng minh đang đào hố cá nhân để thực hiện “Bốn tại chỗ…”. Đào hố để Ăn tại chỗ; Ngủ tại chỗ; Đánh nhau tại chỗ; và Chết chôn tại chỗ. Tất cả cười. Khái quát khá lắm. Tiếp đi – Vì thế tôi mới có bài tứ tuyệt tả hố cá nhân đặt tên là… là… là… "Vịnh cái lỗ". Mọi người cười phá lên, quên cả mệt nhọc.

Từ 19/12/1946 đến đầu tháng 1/1947 các chiến sĩ vẫn giữ vững khu Đồng Xuân.

Đêm đốc gác 6/1/1947, Thành Trường bàn với tiểu đội phó:

- Anh Vinh “đốp” ạ! Chào mừng ngày thành lập Trung đoàn Thủ đô tôi có ý định tổ chức tập kích nhà Lục Lộ để cho chúng biết tay. Anh xin ý kiến lãnh đạo nhé!

- Đúng, nó là cái gai nhức nhối "luôn nhòm ngó" vào chợ của ta. Kế hoạch anh thế nào?


- Ta phân công bốn người. Đỗ Văn Thìn sẽ trèo cột đèn trước cổng ném lựu đạn, bắn tiểu liên diệt địch trong nhà Lục Lộ. Tôi, Khang, Thọ bắn sten yểm trợ và tiếp tục nhả đạn khi địch nhô ra.


Kế hoạch thực hiện, Thìn hoàn thành xuất sắc, nhưng anh bị địch bắn rơi từ cột đèn xuống, kèm theo lựu đạn địch quăng ra nổ gần người, anh em phải đưa anh về quân y cấp cứu. Anh bị ngất, người dính đầy máu. Khi xem vết thương, chị Lan y tá băn khoăn nói với bác sĩ Thuận: Thuốc gây mê chúng ta vừa hết mà anh Thìn còn nhiều mảnh lựu đạn găm vào người, mổ sẽ rất đau đớn.

Cũng lúc đó Thìn chợt tỉnh nghe thấy nói ngay:


- Hết thuốc mê tôi chịu đựng được, xin bác sĩ cứ làm.


Chị Lan y tế kể lại: Lúc bác sĩ Thuận trưởng ban quân y mổ cho anh Thìn, tôi thấy bàn tay anh run quá. Phải nói rạch thịt ra mới đúng, người anh còn lại hơn chục mảnh lựu đạn, tôi vừa theo dõi, vừa nhìn anh Thìn nghiến răng chịu đựng. Thương anh quá, nước mắt tôi chảy tràn khăn bịt miệng. Khi lấy hết các mảnh lựu đạn, anh Thìn lại ngất tiếp. Thế mà ít hôm sau… anh đã về giữ chợ Đồng Xuân.

Sau ngày 15/1/1947, trung đội giữ chợ chọn 13 chiến sĩ quyết tử để lại. Trước ngày 14/1/1947 tiểu đội giữ chợ còn 9 sau bổ sung thêm 1. Tờ mờ sáng 14/2/1947, địch dùng không quân, pháo binh, pháo ở tàu hải quân trên sông Hồng, xe tăng, thiết giáp với hơn 400 lính lê dương mũ đỏ tấn công toàn khu Đồng Xuân. Đỗ Văn Thìn được phân công giữ ụ súng số 2 ngăn địch từ chùa Huyền Thiên đánh sang. Thìn đã cùng đồng đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ vững trận địa. 8 giờ sáng kết thúc đợt 1, địch chưa lọt được vào chợ.

Đợt 2, địch tập trung nhiều quân, dùng xe tăng húc đổ cổng sắt phụ phía Hàng Khoai vào chợ. Chiến sĩ giữ chợ mọi ngóc ngách đường hào, chìm, nổi thuộc như lòng bàn tay, nên vừa đánh, vừa nhử địch vào sâu bên trong để "chơi ú tim" và "tiếp đón tận tình". Bị thương vong nhiều, chúng la thét xen lẫn tiếng kêu khóc vang góc chợ. Khi địch mò tới "tiểu đội bộ” Thìn phát hiện thấy tiểu đội trưởng Thành Trường (mới thay thế Vinh “đốp” bị thương) đang nằm ở tư thế bất lợi quần nhau với tên lính mũ đỏ trên phản thịt. Tuy Thìn đang bị thương, anh vẫn bò tới dùng báng súng đánh vào đầu gối tên địch khuỵu xuống, Thìn cùng Thành Trường đâm tiếp. Do Thìn đứng dậy bị lộ mục tiêu, tên địch phía sau lưng đã quạt anh một băng tiểu liên, Thìn ngã gục. Thành Trường phát hiện bắn hạ tên địch rồi hô: "Toàn tiểu đội xung phong”… địch phải lùi dần rút khỏi chợ kết thúc đợt 2.

Anh em khiêng xác Thìn về đặt tại hào gian buồng bán vé bên trái cổng chợ. 43 năm sau, Thành Trường vẫn nhớ vị trí Thìn nằm. Khi đào hố tại chợ Đồng Xuân, chỉ nửa tiếng đã tìm thấy hài cốt của anh cùng một số vỏ đạn và lựu đạn sót lại.

Sáng 16/1/1990, đồng đội, gia đình và cán bộ ngành Lao động thương binh xã hội đưa hài cốt anh về nghĩa trang liệt sĩ.

Để ghi nhớ công ơn các liệt sĩ, Thành uỷ, UBND Thành phố Hà Nội đã dựng một tượng đài bằng đồng kỷ niệm trận đánh ngày 14/2/1947 tại chợ Đồng Xuân. UBND phường Đồng Xuân đã làm nhà bia liệt sĩ tại chùa Huyền Thiên. Tên anh đã khắc trên bia đá cùng đồng đội. Hy sinh khi 19 tuổi, anh đã hiến trọng tuổi thanh xuân thực hiện lời Đảng gọi: “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”./.

Vũ Tâm (Nguyên tự vệ thành khu Đồng Xuân, Liên khu I)


Nguồn: qdnd.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: Gondorian trong 02 Tháng Tư, 2008, 09:36:58 pm
Trận Hàng Thiếc

(HNM) - Năm 1946, phố Hàng Thiếc nằm giữa Đông Thành, một trong ba phân khu của Liên khu (LK) một. Đông Thành ở phía Tây LK, giáp Cửa Đông thành Hà Nội, đại bản doanh tập trung quân Pháp đông nhất. Trận địa khu do tiểu đoàn 102 trung đoàn Thủ đô phụ trách. Cửa Đông là nơi hàng ngày quân Pháp cơ động ra đánh LK một, các vị trí khác trong thành phố, nên chúng luôn đụng độ với bộ đội Đông Thành.

Sau 50 ngày đêm chiến đấu quyết liệt giam chân địch, lực lượng ta còn lại ít và mỏng, trận địa khu thu hẹp. Địch lấn ra các phố Đường Thành, Phùng Hưng, Hàng Gà, Hàng Da, Hàng Bông... Phố Hàng Thiếc trở thành tuyến đầu chặn địch tiến vào sở chỉ huy tiểu đoàn ở Hàng Đàn, phát triển qua Hàng Bồ đánh vào trung tâm LK một và đầu não của trung đoàn ở Hàng Bạc. Ban chỉ huy 102 huy động bộ đội bằng mọi giá giữ vững trận địa, kiên quyết không lùi nữa. Trung đội 3 do đồng chí Nguyễn Anh Dũng làm trung đội trưởng chặn hướng chính, Hàng Thiếc. Trung đội 2 (của anh Nguyễn Trọng Hàm) chốt giữ Hàng Bồ, Hàng Bút. Trung đội 4 (anh Phùng Như Hùng) chốt Hàng Nón, đầu Hàng Điếu. Trung đội 5 (anh Tạ Doãn Địch) giữ Hàng Quạt, Lương Văn Can. Trung đội 1 (anh Lưu Đình Quế) giữ dãy số chẵn bên Hàng Gai hỗ trợ cho tuyến Hàng Thiếc. Trung đội 6 của anh Xuân Viễn làm dự bị, chốt ở nhà dệt Cự Doanh đầu Hàng Đàn, sẵn sàng cơ động tăng cường cho hướng Hàng Thiếc.

Đầu năm 1947, sau Tết Đinh Hợi, địch tung các tốp trinh sát thăm dò ở Hàng Điếu, Hàng Mành, Hàng Nón, Yên Thái..., bắn pháo cối làm sập tường nhà chỗ Hàng Thiếc để phá hoại trận địa ta. Sớm 7-2, tất cả các trận địa của tiểu đoàn chìm trong khói lửa. Bom đạn dồn vào nhiều nhất là Hàng Thiếc. Xe tăng, bộ binh địch từ Cửa Đông kéo qua Đường Thành, chia hai mũi tiến rất thận trọng. Xe tăng địch yểm hộ cho bộ binh chiếm từng căn nhà bỏ trống ở Hàng Nón, Bát Đàn (vì ta không đủ lực lượng chốt giữ tất cả các nhà, các dãy phố). Lính công binh đi theo thu dọn, dẹp chướng ngại vật trên phố do ta dựng, san lấp chiến hào, giao thông hào. Súng ba-dô-ka và lựu đạn hóa học lần đầu tiên vào cuộc. Chúng tưới xăng rồi dùng súng phun lửa đốt nhà, các trận địa chốt. Đến trưa, xe tăng tiến đến ngã ba Hàng Nón, Hàng Thiếc, ngã tư Bát Đàn - Hàng Bồ - Hàng Thiếc - Thuốc Bắc. Khẩu đại liên đặt trên tầng hai nhà Kim Quy, 35 Hàng Nón kiểm soát dọc Hàng Thiếc, Hàng Bút chia cắt đội hình ta.

Trận đánh diễn ra quyết liệt. Hai bên giành giật từng căn nhà, căn buồng, cầu thang, bờ tường, góc phố. Tiểu đội trưởng Trần Đan, nguyên là chiến sĩ tự vệ Hoàng Diệu, nằm trên gác hai đầu Hàng Thiếc, được anh em dồn cho đầy rổ lựu đạn, kiên cường đánh bật nhiều đợt xung phong của địch, diệt hàng chục tên từ Hàng Nón sang. Bị thương nát bàn tay phải, anh ném lựu đạn bằng tay trái. Anh em phải lôi anh về phía sau, cắt bỏ bàn tay phải mà không có thuốc mê.

Đồng chí Lưu Nguyên Minh, nguyên công an xung phong quận Hàng Trống nhảy lên thay, tiếp tục chiến đấu bằng lựu đạn. Thời gian này, bom ba càng và chai xăng crếp không còn sau nhiều ngày chiến đấu, đạn và lựu đạn cũng rất ít, phải dè sẻn, chiến đấu càng khó khăn. Đồng chí Minh và nhiều đồng đội bị lựu đạn hóa học làm mờ mắt, ho sặc sụa, vẫn giữ vững vị trí. Bị ba-dô-ka bắn sập tầng hai, rơi xuống tầng một, không còn nhìn rõ, cứ nghe tiếng giày phía nào, đồng chí Minh nổ súng hoặc ném lựu đạn về phía đó. Nhiều tên đổ vật hoặc kêu la, xô nhau chạy. Trung đội trưởng Anh Dũng cùng tiểu đội trưởng Phí Văn Mùa cơ động khẩu trung liên hỗ trợ diệt nhiều tên - vào chủ yếu từ phía Hàng Điếu.

Đang khó khăn, tiểu đoàn kịp điều một tiểu đội dự bị tăng cường cho các tổ chiến đấu, đưa người hy sinh, bị thương về tuyến sau. Khẩu đại liên ở ngã ba Hàng Nón rất ác, kiểm soát dọc Hàng Thiếc. Đồng chí Dư Quý Thu, nguyên tự vệ Hoàng Diệu, xung phong ra hè đường, nấp sau cột đèn trước nhà ông lang Vòng bắn lên. Khẩu đại liên câm họng. Nhưng rồi bị địch phát hiện, bắn trả, anh đã hy sinh.

Gần chiều, địch chiếm dãy số chẵn phố Hàng Thiếc, ta chỉ còn làm chủ bên số lẻ. Từ nhà Khôi Ký, chúng dùng súng máy, súng phun lửa đốt sang bên này. Anh Trần Văn Thông, nguyên là một công nhân, vượt đường sang tưới xăng đốt nhà Khôi Ký, lúc chạy về trúng đạn hy sinh.

Chiều tối, địch quan sát khó. Từ hiệu thuốc Thanh Xa bên số lẻ, tiểu đội trưởng Cao Khắc Định (trung đội 4) theo giao thông hào qua đường đột nhập vào tầng một nhà 35 Hàng Nón tưới xăng thiêu trụi vị trí lợi hại này, rồi rút về an toàn. Ngày chiến đấu đầu tiên có một điều đặc biệt: trung đội 5, với trung liên và các tổ súng trường bố trí trên các gác thượng ở Hàng Quạt bắn rơi chiếc khu trục Spít - phai đi oanh tạc trận địa ta. Cấp trên tặng Huân chương Chiến công hạng Hai ngay tại trận cho trung đội.

Buổi tối, địch rút về phía Đường Thành, Hàng Da. Liên tiếp những ngày sau, chúng lại đánh ra. Giành đi giành lại, ta vẫn giữ được bên số lẻ. Địch không phát triển vào sâu trận địa ta được, ban ngày bắn pháo cối, dùng xăng và súng phun lửa thiêu các ụ chiến đấu. Tối đến, ta lại đột nhập sang dãy số chẵn đốt phá, ném lựu đạn tiêu diệt chúng.

Sau 3 ngày chiến đấu, ta diệt hơn 100 địch, bắn rơi một máy bay. Quân Pháp rút bỏ. Trận địa tuyến Hàng Thiếc được giữ vững cho đến đêm lui quân cuối cùng ngày 17-2-1947, buộc chúng phải chuyển hướng tấn công sang phía bắc LK một.

Nguyễn Huy Du


Nguồn: hanoimoi.com.vn


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về HN 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 06 Tháng Tư, 2008, 08:50:32 pm
Nói về HN 60 ngày đêm, có 1 bài trên mạng (chắc mr banzua đã đọc ;D) ghi lời kể của tay Tây lai Fernand Petit. Theo lời kể thì của tay này thì hắn lọt được vào hàng ngũ tự vệ ta và biết được kế hoạch tiến công đêm 19/12 (không hiểu bằng cách nào?). Tay này đã thông báo cho bộ chỉ huy Pháp biết trước giờ nổ súng 2 tiếng. Do đó tướng Morliere đã kịp cấm trại trở lại toàn bộ lính Pháp (vừa được xả trại từ sáng). Tướng Giáp định huỷ bỏ cuộc tiến công nhưng không kịp.

Xung quanh chuyện này còn nhiều điều khó hiểu, nhưng nếu tay này nói đúng thì rất có thể trận đánh ở HN đáng lẽ đã diễn ra theo một hướng khác hẳn. Tiếc là các sách báo của ta hầu như chưa đề cập đến chi tiết này. Chỉ có hồi ký tướng Giáp có dẫn lại theo sách của Philippe Deviller và bình luận 1 câu là quân Pháp không hoàn toàn bị bất ngờ.

Có bác nào có thông tin gì thêm không?


Tiêu đề: Cuộc rút quân của trung đoàn Thủ đô
Gửi bởi: chiangshan trong 13 Tháng Tư, 2008, 08:54:35 am
(http://i84.photobucket.com/albums/k29/chiangshan3012/rutquan-2.jpg)

Đường màu đỏ: chiến tuyến phòng ngự LK1 vào ngày cuối cùng, 17/2/47

Các vị trí được đánh số:
1. Khu vực đình Phất Lộc: điểm xuất phát rút quân.
2. Chợ Đồng Xuân: trung tâm phòng ngự mạn bắc LK1, bỏ trống sau ngày 14/2/47.
3. Hai đầu cầu Long Biên, có lính Pháp chốt giữ.
4. Nhà máy điện và 5. Nhà máy nước, đều có lính Pháp chốt giữ.
Tất nhiên không chỉ có các vị trí này, dọc đê xuống phía nam và lên phía bắc đều có các chốt của quân Pháp


18h: các đơn vị đầu tiên xuất phát từ đình Phất Lộc, qua cột Đồng hồ, men theo đê sông Hồng. Thứ tự rút quân: d101, d102 + BCH e, d103.

20h: đơn vị đầu tiên luồn qua gầm cầu Long Biên (có lính Pháp gác bên trên). Trong LK1 vẫn còn 1 bộ phận nghi binh, gài mìn và đốt phá tại những điểm đã định.

24h: toàn bộ trung đoàn đã rời khỏi LK1, bắt đầu vượt sông Hồng bằng thuyền.

Tuy nhiên hiện nay có một số tài liệu mâu thuẫn về quá trình vượt sông:

1. Theo đại đa số các tài liệu, trong đó có nhiều cựu binh TĐTĐ:
- Sau khi luồn qua gầm cầu Long Biên, bộ đội lội qua nhánh sông thứ nhất (sâu đến đầu gối) sang bãi giữa.
- Từ 2h sáng 18/2, bộ đội vượt nhánh sông thứ hai bằng thuyền.
- Khoảng 8-9h sáng 18/2, toàn bộ đội hình đã rút hết qua sông Hồng.
- Cùng thời điểm TĐTĐ hoàn thành vượt sông, địch tổ chức truy kích, tiểu đội Nguyễn Ngọc Nại hy sinh khi đánh chặn.

2. Theo một số nguồn khác, trong đó có b trưởng tự vệ, phụ trách đội chèo thuyền:
- Sau khi luồn qua gầm cầu Long Biên, bộ đội vượt nhánh sông thứ nhất bằng thuyền sang bãi giữa. 
- Khoảng 8h sáng 18/2, bộ đội rút hết sang bãi giữa.
- Cả ngày 18/2, trung đoàn ẩn nấp ở bãi giữa.
- Đêm 18/2, đội hình di chuyển lên phía bắc và tiếp tục vượt nhánh sông thứ hai bằng thuyền.
- Khoảng nửa đêm 18/2 rạng 19/2, trung đoàn hoàn tất rút qua sông Hồng.
- Sáng 19/2, tự vệ phát hiện 1 trung đội ngủ quên ở bãi ngô chưa sang sông.
- Trong lúc đơn vị này vượt sông thì quân Pháp đổ quân lên bãi giữa càn quét, hơn 20 tự vệ hy sinh.

Đây là chuyện rất khó hiểu.

http://www.qdnd.vn/qdnd/baongay.60nam.8349.qdnd
....
2 - Về thời gian kết thúc cuộc rút lui toàn thắng của Trung đoàn Thủ Đô

Trung đoàn Thủ Đô sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu trong Liên khu 1, theo kế hoạch, đã thực hiện rút lực lượng ra khỏi Hà Nội về vùng tự do. Đã có nhiều công trình, bài viết về cuộc rút lui toàn thắng đó nhưng có một số chi tiết khác nhau, mà cụ thể là:

- Đồng chí Vương Thừa Vũ, nguyên Khu trưởng kiêm Phó Chủ tịch ủy ban kháng chiến Khu XI, trong cuốn Hà Nội 60 ngày đêm khói lửa, Nxb Hà Nội, 1996 (tái bản) viết: “Trời vừa sáng, giặc Pháp phát hiện được. Chúng cho 2 xe tăng và một toán quân từ đầu cầu Gia Lâm theo bờ sông đi ngược lên phía Bắc cùng một đoàn ca-nô chở đầy quân xăm xăm chạy rẽ nước đuổi theo đoàn thuyền cuối cùng của ta” (tr.193). Tiểu đội Nguyễn Ngọc Nại đã chiến đấu và hy sinh anh dũng. “12 giờ trưa ngày 18 tháng 2 năm 1947, trung đoàn Thủ Đô về tới Văn Hoạch, Long Tựu (Đông Ngàn), bên kia sông Đuống” (tr.195).

- Ông Lê Trung Toản, nguyên Bí thư Đảng bộ Liên khu 1, Chính uỷ Trung đoàn Thủ Đô, người đã tham gia chỉ huy, chiến đấu suốt 60 ngày đêm ở Hà Nội (19-12-1946 – 18-2-1947) có bài Cuộc rút lui toàn thắng đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự, số 2-1987, tr.16-23, viết: “2 giờ sáng ngày 18 tháng 2, các chiến sĩ Trung đoàn Thủ Đô bắt đầu sang sông. Thuyền nhỏ lại ít, người đông, phải đến 9 giờ sáng, các chiến sĩ mới sang hết”. Ngày 18 tháng 2, toàn Trung đoàn đã về tới địa điểm đã định.

- Bài Tiểu đội du kích Hồng Hà của Phan Xuân Trà đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự, số 10, năm 1989, tr.9-13, viết: buổi sáng ngày 18-2, Tiểu đội Nguyễn Ngọc Nại ở lại chiến đấu trên Bãi Giữa có 9 người. (Thông và Hát trúng đạn trong lúc yểm trợ cho đồng đội Nại, Diên, Mão, Quảng, Cung, Văn, Lực). Diên là người duy nhất sống sót trong số 9 chiến sĩ của đội liên lạc và chính Diên là nhân chứng duy nhất kể lại tấm gương hy sinh của đồng đội. Đồng chí Nguyễn Ngọc Nại và một số chiến sĩ của tiểu đội này hy sinh ngày 18-2-1947.

- Sách Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, tập 2, Toàn quốc kháng chiến, Nxb QĐND, Hà Nội, 2005, của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, viết: “Khoảng 8 giờ sáng 18 tháng 2, chuyến thuyền cuối cùng chở bộ đội sang sông an toàn.{…} khoảng 9 giờ sáng 18, quân Pháp mới phát hiện toàn bộ lực lượng ta đã rời Liên khu 1 (tr.48)”. Nguyễn Ngọc Nại và hầu hết các chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng và hy sinh vào ngày 18-2.
 
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập hồi ký, Nxb QĐND, Hà Nội, 2006, viết: “Trưa ngày 18, anh Thái tới vui vẻ báo cáo cuộc rút lui của trung đoàn Thủ Đô đã thành công trọn vẹn, trung đoàn rút không thiếu một người, không thiếu một khẩu súng” (tr.404). “Trưa khi trung đoàn đã rút khỏi bến Long Tựu, quân Pháp mới phát hiện bộ đội ta đã rút khỏi Liên khu 1. Địch huy động lực lượng đuổi theo. Nguyễn Ngọc Nại ra lệnh cho tiểu đội nổ súng từ bãi Tầm Xá thu hút sự chú ý của địch để đảm bảo cho sự an toàn của trung đoàn. Cả tiểu đội dàn ra chặn đánh địch. Tám trong số mười chiến sĩ của tiểu đội du kích anh hùng đã hy sinh, kể cả tiểu đội trưởng Nguyễn Ngọc Nại”
(tr. 406 ).

- Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội, 2005, có mục từ Rút lui của Trung đoàn Thủ đô, viết: “Sáng 18 tháng 2 quân Pháp phát hiện thấy dấu vết và tổ chức lực lượng truy đuổi, bị Tiểu đội du Hồng Hà chặn đánh ở Bãi Giữa, Phúc Xá. Tiểu đội đã anh dũng chiến đấu đến người cuối cùng, bảo vệ an toàn cuộc rút quân” (tr. 858).

- Sách Tổng kết 60 ngày đêm chiến đấu mở đầu Toàn quốc kháng chiến chống Pháp của quân và dân Thủ đô Hà Nội (19-12-1946–18-2-1947) của Thành uỷ Hà Nội-Quân khu Thủ đô, Nxb QĐND, Hà Nội, 1997, tr.165-166 viết: “Đến khoảng 11 giờ đêm 18, tuyệt đại bộ phận của trung đoàn sang tới Dâu Canh.

Sáng 19 tháng 2, khi địch phát hiện quân ta đã rút khỏi Liên khu 1, chúng liền huy động thuỷ, lục, không quân đuổi theo hòng tiêu diệt Trung đoàn Thủ Đô. Nghe có tiếng súng nổ ở phía Tứ Tổng, đồng chí Nguyễn Ngọc Nại, liền trèo lên một cây cao ở chùa Tàm Xá, nơi đóng quân của của Đội liên lạc đặc biệt để quan sát và phát hiện địch đang truy kích. Đồng chí lập tức lệnh cho 2 đội viên tiếp tục dẫn đường cho tiểu đội sau cùng của trung đoàn vượt sông”. Và, tiểu đội này chiến đấu, hy sinh vào ngày 19-2-1947 tại khu vực Tứ Tổng và Tàm Xá.

- Sách Hà Nội mở đầu Toàn quốc kháng chiến-tầm vóc và ý nghĩa (Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 50 ngày Toàn quốc kháng chiến, in lần thứ 2), Nxb QĐND, Hà Nội, 2004, tr. 68 viết: “Khi lần vượt sông cuối cùng vào sáng 19 tháng 2, đơn vị đã bị địch phát hiện và tổ chức truy kích dữ dội”. Tiểu đội Nguyễn Ngọc Nại hy sinh ngày 19-2-1947.

- Bài Đội liên lạc anh hùng Nguyễn Ngọc Nại và khúc bi tráng bên dòng sông Hồng của Phạm Kim Thanh trên báo Văn nghệ Công an điện tử (Website Cand.com), ngày 16-8-2006, viết: Tiểu đội Nguyễn Ngọc Nại có 8 người hy sinh vào ngày 19-2-1947 (29-1 năm Đinh Hợi) và hai đội viên là Nguyễn Thị Chén và Đỗ Văn Túc bị thương.

Điểm qua các sách nói trên, chúng tôi thấy:

- Về thời gian quân Pháp phát hiện và truy đuổi Trung đoàn Thủ Đô rút quân, Tiểu đội du kích Hồng Hà hy sinh chênh nhau. Đa số viết khoảng từ 8 đến 9 giờ sáng ngày 18-2, chuyến thuyền cuối cùng đã sang sông, đến trưa hôm đó (18-2) toàn bộ Trung đoàn đã đến bên kia sông Đuống, Tiểu đội du kích Hồng Hà chiến đấu và hy sinh vào ngày 18-2. Các cuốn: Tổng kết 60 ngày đêm chiến đấu mở đầu Toàn quốc kháng chiến chống Pháp của quân và dân Thủ đô Hà Nội (19-12-1946 - 18-2-1947) và Hà Nội mở đầu Toàn quốc kháng chiến-tầm vóc và ý nghĩa lại viết đến 11 giờ đêm 18-2 tuyệt đại bộ phận lực lượng của Trung đoàn mới tới Dâu Canh, địch tuy đuổi Trung đoàn Thủ Đô và Tiểu đội du kích Hồng Hà hy sinh diễn ra vào ngày 19 tháng 2. Các tác giả cuốn “Tổng kết 60 ngày đêm…” lý giải rằng do có 1 tiểu đội đi lạc đường nên đến sáng 19-2, Tiểu đội Nguyễn Ngọc Nại còn ở lại Bãi Giữa làm nhiệm vụ. Đây là một chi tiết mới, cần được xác minh thêm. Căn cứ theo các bài viết của nhân chứng như Vương Thừa Vũ, Lê Trung Toản, Võ Nguyên Giáp… và tính toán thời gian, chúng tôi nghiêng về phía viết việc địch truy đuổi Trung đoàn Thủ Đô diễn ra vào buổi sáng ngày 18 tháng 2.

- Theo bài báo nói trên của Phạm Kim Thanh, hiện nay tại Nghĩa trang liệt sỹ xã Xuân Canh, Đông Anh, Hà Nội, ghi ngày hy sinh của 8 đội viên Tiểu đội Nguyễn Ngọc Nại là 29-1 năm Đinh Hợi (tức 19-2-1947). Điều lưu ý ở đây là đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, nghĩa là sau gần 50 năm kể từ ngày xảy ra sự kiện trên, mới phát hiện được phần mộ của các anh. Do đó, khẳng định ngày hy sinh của các liệt sỹ là rất khó. Ngày 29-1 âm lịch hàng năm là ngày giỗ của nhiều người dân trước đây ở Tứ Tổng, Tàm Xá…, (bởi sau khi không truy đuổi được Trung đoàn Thủ Đô, địch đã tàn sát nhân dân), rất có thể vì thế nên ngày 29-1 âm lịch được coi là ngày hy sinh của các liệt sỹ. Hiện nay, tại Nhà bia tưởng niệm liệt sỹ phường Ngọc Thuỵ, quận Long Biên, Hà Nội có Danh sách, năm hy sinh của các liệt sỹ Tiểu đội du kích Hồng Hà, nhưng không ghi ngày tháng mất.

- Về số cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đội du kích Hồng Hà có chiến đấu và hy sinh, các sách, bài viết cũng khác nhau. Một số viết toàn bộ số người trong Tiểu đội du kích Hồng Hà ở lại chiến đấu đều hy sinh. Nếu đúng như vậy thì còn ai để có thể biết các chiến sĩ đó đã chiến đấu, hy sinh như thế nào. Chúng tôi thấy những bài viết nói rằng Tiểu đội đó còn có người bị thương, sống sót sau đó là nhân chứng kể lại trận chiến đấu là hợp lý hơn.



Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: ChimViet trong 17 Tháng Bảy, 2008, 04:55:05 pm
Chuyện Hà Nội 60 ngày còn phải tiếp tục dài.
Sao lại không có một Bảo tàng Hà Nội kháng chiến ? (Từ Thang Long xưa + 60 ngày khói lửa + chống Mỹ)
Mới đây, trên HTV có chương trình về một cậu hoạ sĩ, hậu sinh hoàn toàn. Chỉ đọc về HN60 ngày, mà xúc động quá, nung nấu vẽ một bức tranh lớn.
Tôi xem mấy trích đoạn mà phải tâm phục khẩu phục. Tranh như sống.
Cứ như là tay này từng tham chiến ở Hà nội ấy.
Ai xem ai biết vụ này chỉ điểm giúp tôi.
 


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: ducanbaby trong 20 Tháng Hai, 2010, 10:46:09 am
Các bác í thật dũng cảm. Thật đáng tự hoà cho thanh niên Hà Nội biệt bao, họ đã sống một cuộc hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa nhưng có lần hồi bé cháu nghe ông cháu kể là ''hồi toàn quốc kháng chiến thì người ta chia làm 2 đội rõ ràng ngoài các trung đoàn, tự vệ thủ đô ra thì ai cũng biết nhưng trong nhưng ngày gay go ác liệt nhất của cuộc chiến ở khu 1 thì chia ra làm 2 là ''cảm tử'' và ''quyết tử'' .theo cháu hiểu là những người cảm tử là để nói về tất cả những người lính vệ quốc nói chung sẵn sàng hi sinh vì đất nước nhưng mới chỉ sẵn sàng, dũng ''cảm'' đối mặt với cái chết thôi... còn nhưng người chiến sĩ với danh hiệu là chiến sĩ ''quyết tử'' thì đúng như cái tên đó họ quyết lấy cái chết của mình để ôm bom ba càng lao vào mạng đội mang với quân thù, tiêu diệt xe tăng và cơ giới của chúng. Mấy bác đó mới thực sự đáng nể cháu nghĩ thế, tinh thần chiến đấu của họ quá mạnh mẽ đến kì lạ. cháu hiểu thế Không biết có đúng không ak.???


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: superhv trong 28 Tháng Tư, 2010, 10:14:12 pm
Giữa những lúc tổ quốc gian nguy mới thấy hết được ai là người yêu nước, ai mới xứng đáng là anh hùng ! Ngàn lần xin được nói lời cảm ơn với các thế hệ đi trước đã chiến đấu vì độc lập tự do và niềm tự hào dân tộc.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 06:54:47 pm
Trang này (http://hanoi.benhthan.com/Anh-hung-tai-hoa/) có nhiều bài về HN 60 ngày đêm, em cóp về đây:

60 năm nhìn lại 60 ngày “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”      


Hồi ấy, tôi là Bí thư chi bộ, chính trị viên Tiểu đoàn Đông Thành tức Tiểu đoàn 102 Trung đoàn Thủ đô Liên khu I. Tên gọi Tiểu đoàn Đông Thành do trận địa chiến đấu của chúng tôi nằm gọn trong khu Đông Thành, một trong bẩy tiểu khu của Liên khu I.

Khu Đông Thành có vị trí đặ biệt hiểm yếu, nằm sát Thành cổ Hà Nội, đại bản doanh quân đội Pháp, cũng là nơi tập trung quân đội Pháp đông nhất.

Giữa ta và địch chỉ cách nhau một con đường nhựa: đường Phùng Hưng chạy dài từ ngã 3 Phùng Hưng, Hàng Vải đến sát đường Hàng Bông – Cửa Nam, có 8 ngõ phố đâm thẳng vào khu Đông Thành: Hà Trung – Ngõ Trạm – Nguyễn Văn Tố - Chợ Hàng Da – Đường Thành – Nhà Hỏa – Bát Đàn – Cửa Đông.

Tất cả bộ binh, xe cơ giới trong thành đi đánh các nơi đều cơ động trên con đường này. Đường thẳng từ Cửa Đông ra rất thuận tiện cho bộ binh – xe tăng, xe bọc thép của địch kéo vào khu Đông Thành – phía Cổng Đục (ngã ba Hàng Vải – Phùng Hưng). Địch xây bốt ngay sát chùa Thái Cam, vì vậy mà ngay từ những ngày đầu kháng chiến, anh em Đông Thành đã phải chiến đấu rất gay go, quyết liệt, không ngày nào là không có đụng độ, và gần như đã xâm xẩm tối ta đánh địch, quấy phá địch. Vũ khí còn quá tiếng: Chiêng trống, thanh la, thùng, chậu, nồi, xoong, đám cháy sáng rực làm địch hoảng hồn.

Trong tất cả các trận đánh, quyết liệt nhất, táo bạo nhất, kéo dài nhất (3 ngày 3 đêm), hy sinh nhiều nhất và cũng là trận tấn công lớn nhất của địch vào khu Đông Thành là trận Hàng Thiếc.

Vị trí Hàng Thiếc là tuyến đầu, gắn bó mật thiết với sự sống còn của Tiểu đoàn bộ Đông Thành và sự an toàn của Trung đoàn bộ.

Cả Tiểu đoàn có 5 Trung đội chiến đấu và một Trung đội dự bị tăng cường đều bố trí bảo vệ xung quanh tuyến phố hàng Thiếc.

Đầu phía nam Hàng Thiếc đi vào Hàng Nón 200m là sở chỉ huy Tiểu đoàn (đóng tại nhà dệt Cự Doanh – phố Hàng Quạt), bố trí trung đội 5. Trung đội trưởng Tạ Doãn Địch giữ tuyến Hàng Quạt chặn đứng địch đánh từ hướng Lương Văn Can – Tô Tịch – Hàng Hòm đánh vào.

Đầu phía Bắc Hàng Thiếc qua Hàng Bồ là vào trung tâm Liên khu I (toàn bộ Trung đoàn bộ đóng tại phố Hàng Bạc và đầu phố Hàng Ngang, Ban chỉ huy trung đoàn đóng tại nhà Đức Bảo 94 Hàng Bạc) bố trí trung đội 2. Trung đội trưởng Nguyễn Trọng Hàm giữ dãy số lẻ Hàng Thiếc, Hàng Bồ Hàng Bút (Thuốc Bắc), Hàng Vải chặn đánh địch từ Thái Cam, Cửa Đông, Hàng Phèn.

Trung đội 4 – Trung đội trưởng Phùng Như Hùng giữ hai dãy phố chẵn lẻ Hàng Nón, Hàng Điếu chặn địch từ phía Hà Trung, Nguyễn Văn Tố, Ngõ Trạm, chợ Hàng Da đánh ra.

Trung đội 3 gồm phần lớn là tự vệ chiến đấu, công an xung phong, tự vệ thành do Trung đội trưởng Nguyễn Anh Dũng chỉ huy, bố trí dãy số chẵn phố Hàng Thiếc, Bát Đàn chặn địch đánh từ phía Cửa Đông, Đường Thành, Hàng Điếu, Bát Đàn đánh vào.

Trung đội 1 – Trung đội trưởng Lưu Đình Quế giữ tuyến dãy số chẵn phố hàng Gai (1/2 dãy phố còn lại của khu Hoàn Kiếm) – Hàng Hòm, Hàng Chỉ chặn đánh địch từ phía Hàng Trống, hỗ trợ cho tuyến Hàng Thiếc.

Trung đội 6 dự bị cơ động tăng cường Trung đội trưởng Xuân Viễn đóng tại nhà dệt Cự Doanh.

Từ sáng sớm ngày 7/02/1947 (10 ngày trước đêm lui quân) tất cả các khu vực phòng ngự của tiểu đoàn chìm trong khói lửa, nơi bị pháo địch nã dồn vào và bị tàn phá nặng nề nhất là phố Hàng Thiếc. Xe tăng địch đã vào ngã ba Hàng Nón – Hàng Điếu, bộ binh đi theo tràn vào Hàng Nón, sang Hàng Thiếc. Nhà thứ 1, thứ 2 bên số chẵn Hàng Thiếc đã bắn phá tan tành, Trung đội phó Trần Đan phải rút sang nhà thứ 3, liên tục ném lựu đạn. Anh em đã gom hết số lựu đạn ít ỏi cho Trần Đan, 1 quả nổ trong tay, bàn phải bị đứt máu chảy ròng ròng, lại tiếp tục ném bằng tay trái, anh em phải lôi ra đưa về quân y, cắt bỏ không có thuốc mê.

Một số anh em xông lên đã bị thương. Dư Quý Thu do ngắm bắn hở vai trái đã hi sinh ngay tại chỗ, anh em đưa về mai táng tại 20 Hàng Thiếc (nhà ông Lang Vòng).

Phía Hàng Nón địch chiếm nhà số 35 (Kim Quy) đặt súng máy trên tầng 2 bắn kiểm soát suốt dọc Hàng Thiếc, Hàng Bút (Thuốc Bắc); lập tức tiểu đội trưởng Cao Khắc Định (chốt 24 Hàng Nón) mang theo xăng crếp lao sang đốt phá tầng 1, miệng la hét “A-la-xô” rồi chay vội về vị trí an toàn, heo chiến sĩ Nguyễn Văn Quang yểm hộ cho Định đã hi sinh. Đồng thời địch tấn công sang nhà thuốc Đào Sĩ Chu bên số lẻ Hàng Nón. Ở đây có một tổ 6 chiến sĩ của trung đội 5 đã hi sinh 3, 1 bị thương cụt ngón út bàn tay phải khi tụt ống máng tầng 2 xuống (hiện đồng chí đó còn sống).

Phía hàng Hòm, xe bọc thẹp đã lù lù đầu Hàng Trống câu moóc – chi – ê sang Hàng Hòm. Khi em Trang Công Lũy đưa tôi sang tới nơi thì nhà Trung  đội trưởng Lưu Đình Quế đóng, mái ngói đã thụng trông thấy trời, nhiều anh em bị thương; có đồng chí đạn trúng đầu, óc bắn ra tung tóe, thật thảm thương.

Phía Bát Đàn địch đã chiếm nhà Nguyên Cát số 24.

Phía Hàng Vải, tiểu đội Nguyễn Hương Trọng đã mấy ngày bị đánh 4 trận liền, ụ chiến đấu đầu Hàng Vải giáp Bát Sứ bị bắn sập tan tành, chiến sĩ Hợi hy sinh, đến đêm anh em ra nhặt từng mảng thịt, xương bỏ vào bao tải mai táng tại một nhà gần đấy. Sáng 7/2 đánh phối hợp với trận đình Hàng Vải, tiến sát đình ném lựu đạn qua tường, anh em vừa nhặt ném lại vừa lui về Thuốc Bắc. Ụ chiến đấu của Phạm Khắc Khảo tại hè số 93 phố Thuốc Bắc (Quảng Hưng) bị ụ sung cối từ Cửa Đông nã thẳng vào, một quả trúng ụ, Khảo bị thương vào vai và gáy (hiện còn sống đã xếp hạng thương binh 4/4).

Địch đã thọc sâu vào Hàng Thiếc, ta địch giành nhau từng căn buồng, từng bờ tường, góc phố. Chúng chiếm nhà khôi Ký (số 18) đặt sung máy trên tầng 2 bắn thẳng sang dãy số lẻ là nơi quân ta đóng. Trung đội 2 phải rút sang Thuốc Bắc nhường Trung đội 3 Anh Dũng được lệnh rút về bên số lẻ.

Ta địch cách nhau một con đường hẹp, lúc ta đánh địch, lúc địch đánh ta, nên không còn dùng bộ binh được nữa mà hoàn toàn bằng hỏa lực, địch bắn liên thanh phun xăng đốt phá; đồng thời máy bay khu trục nhào lộn bắn xả xuống phía sau Hàng Thiếc.

Học tập kinh nghiệm Trung đội 5 Tạ Doãn Định hôm trước đã lập công xuất sắc bắn rơi máy bay địch bằng súng trường khi chúng nhào lộn uy hiếp và ném bom Hàng Bạc, Hàng mắm (sau trận đánh được tặng thưởng Huân chương chiến công ngay tại mặt trận), Nguyễn văn Phúc, chiến sĩ trung đội 2 nằm trên sân thượng nhà in Lê Cường (Hàng Bồ) bắn máy bay, bị địch trên máy bay bắn thủng sườn (đêm lui quân, anh em khiêng Phúc ra quân y viện Sơn Đồng – Hoài Đức – Hà Tây, bị Pháp tấn công bắn chết ngay sáng chuẩn bị ra viện).

Dãy số lẻ hàng Thiếc ngày càng bị tàn phá nặng nề. Phía sau sở chỉ huy tiểu đoàn, nếu địch vượt được qua đường đánh thốc vào các nhà đều thông nhau là chiếm được tiểu đoàn bộ, từ đó phát triển sang trung tâm sở chỉ huy trung đoàn chỉ còn một đoạn đường ngắn, già ½ phố Hàng Bồ.

Ngày 2 lần sáng chiều, Ban chỉ huy trung đoàn lệnh xuống “bằng bất cứ giá nào phải lấy lại bằng được dãy số chẵn”. Quá căng thẳng, chiến sĩ Thông, công nhân nhà máy thủy tinh Thanh Đức, giữa trưa vác búa lao sang đập phá rầm rầm cửa nhà Khôi Ký, khi quay về bị địch bắn chết giữa đường. Đêm đến ta ra mang đồng chí về làm lễ mai táng tại 31 Hàng Thiếc (nhà đồng chí Thọ “mù”, hòa bình về đồng chí Thọ đã lập bàn thờ 2 liệt sĩ, trước là bạn chống Pháp, sau là con trai liệt sĩ chống Mỹ).

Suốt 3 ngày đêm chiến đấu căng thẳng, quyết liệt, ngùn ngụt trong máu lửa, chiến sĩ Đông Thành đã lập công xuất sắc buộc địch phải rút quân, trả lại ta toàn bộ tuyến phố Hàng Thiếc và anh em Đông Thành đã giữ được nó trọn vẹn đến đêm cuối cùng lui quân 17/12/1947.

Địch bị thương và chết, khi lui quân chúng đã mang đi hết. Về phía ta, anh em ta bị thương nhiều, một số hy sinh không rõ tên tuổi. Buổi tối hôm trước mới bổ sung anh em chưa kịp tâm sự, thăm hỏi tên tuổi hoàn cảnh gia đình quê quán, vào trận đánh sáng hôm sau đã ngã xuống không một lời trăng trối. Các anh đã nằm lại trong lòng đất Hàng Thiếc ở tuổi 20, để lại bao tiếc thương cho đồng đội. Các anh đã thực hiện sứ mệnh lịch sử thiêng liêng Bác trao: “Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.

Hà Nội xưa là Khu XI có 3 liên khu I, II, III.

Liên khu I ở phía bắc nội thành (chiếm phần lớn là đất Hoàn Kiếm và một phần Ba ĐÌnh ngày này). Phía bắc liên khu coi như đất địch, ở đó có phủ toàn quyền, Sở Tài chính Đông Dương, Thành cổ Hà Nội, trường Chu Văn An … là nơi quân Pháp đóng và cũng là nơi tập trung biệt thự sĩ quan và gia đình Pháp kiều.

Khu Trúc Bạch nằm trong khu phố này nên từ ngày đầu chuẩn bị kháng chiến Thành ủy đã cho nhập vào khu Lãng Bạc thành khu Trúc Lãng, cửa ngõ tiếp tế vào Liên khu I.

Khu Hồng Hà nằm trên bãi giữa sông Hồng.

Khu Long Biên trụ được 1 ngày, ngày thứ 2 máy bay địch thả các thùng nhiên liệu xuống đốt phá. Cả khu Long Biên cháy như một biển lửa, cán bộ nhân dân táo tác chạy vào khu Đông Xuân và khu Đông Kinh Nghĩa Thục.

Khu Hoàn Kiếm sau hơn một tuần chiến đấu cầm cự chỉ còn lại ½ dãy số chẵn phố Hàng Gai phần nhập vào Đông Thành.

Liên khu I chỉ còn lại 3 phân khu không nguyên vẹn: Đồng Xuân, Đông Thành, Đông Kinh Nghĩa Thục. Bốn bề địch bao vây khó khăn ngày càng nhiều, nước ăn uống, tắm giặt ngày càng hạn chế. Hàng ngày từng đoàn người cả Hoa lẫn Việt khó khăn tìm đến các giếng nước Hàng Thiếc – Hàng Mành … xếp hàng, hàng chục đơn của người Hoa xin tiếp tế lương thực … Để giảm bớt khó khăn, Ban chỉ huy quân sự mặt trận, Bộ tổng tư lệnh quyết định phải giảm bớt số quân ở lại, mỗi tiểu đoàn chỉ được giữ lại 150 người trực tiếp chiến đấu có chọn lọc. Người ở lại phải là tự nguyện, khỏe mạnh, có tinh thần chiens đấu cao. Đảng viên, đoàn viên được chọn trước, quần chúng do Đảng viên, đoàn viên giới thiệu.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 06:54:53 pm
Ngày 12/01/1947, tại Hội nghị quân sự Trung ương lần thứ 1, theo đề nghị của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Trung đoàn liên khu I được mang danh hiệu Trung đoàn Thủ đô – cũng trong ngày 14/01/1947 giữa ta và địch có thỏa thuận một ngày ngừng bắn để Hoa kiều, Ấn kiều và dân thường rút ra khỏi vùng chiến sự. Bác chỉ thị chỉ giữ lại 500 người, gửi danh sách ra cho Bác. Còn phải vận động theo dân ra hết để bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài. Trong đoàn ra đi này có đồng chí Mai Trình, đội viên đội tuyên truyền xung phong khu Đông Thành do bị thằng “Thới” phố Hàng Nón chỉ điểm nên sau này đã bị bắt, bị giam và hy sinh trong tù Hỏa Lò.

Chỉ thị để lại 500 người, nhưng nhiều anh chị em, các cháu thiếu niên đã trốn ở lại, đêm tối mới trở về đơn vị, con số lúc báo ra đêm lui quân 17/02/1947 không kể số đã hy sinh là 1.200 (trong đó có 200 phụ nữ, 170 vệ út sinh quân).

Tiểu đoàn Đông Thành chấp hành nghiêm chỉnh, giữ lại đúng 500 người, bố trí đủ văn thư, quân y, trinh sát, quân báo – liên lạc, cứu thương … Vì vậy cả 5 trung đội chiến đấu và 1 trung đội dự bị tăng cường, quân số đều thiếu hụt, phải trải rộng ra để bảo vệ trận địa trước đây lực lượng đông hàng ngàn người.

Đinh ninh trong dạ sứ mệnh lịch sử Bác trao “Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” với lời thề “Thanh niên Thủ đô sống chết với Thủ đô”. Anh em Đông Thành rất lạc quan, tin tưởng, không hề nghĩ đến ngày ra hậu phương dứt khoat nằm trong lòng Thủ đô thân yêu, tình đồng chí, đồng đội càng gắn bó thân thiết.

Nhưng đã đến lúc lương thực cạn, đạn chia nhau đến từng viên. Đã qua đi một tuần liên lạc ngoài tự do không tiếp tế vào được, Trung đoàn được lệnh lui quân ra hậu phương để bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài.

Đêm 17/2 – đêm ra đi, Tiểu đoàn Đông Thành được lệnh “ra dưới gầm cầu Long Biên gặp địch đánh mở mở đường máu, không gặp địch bố trí nằm lại, các đoàn qua hết sẽ đi”.

Chiến sĩ Đông Thành ra đi bịn rịn không nỡ rời xa Hà Nội, nhưng phải chấp hành lệnh – nằm dưới gầm cầu Long Biên, bên trên là họng súng địch, chó béc-giê, trong đêm tối mênh mông nhìn Hà Nội bốc cháy, lòng ngậm ngùi hẹn ngày trở lại.

60 năm đã qua, nhìn lại những ngày đầu sục sôi chiến đấu, càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của Bác, vào các thế hệ con Lạc cháu Hồng tương lai, khi đất nước có nguy biến tất cả đều xông lên, xả thân cứu nước, giữ nước, bảo vệ non sông gấm vóc của Tổ quốc.

Bác Hồ, Đại tướng Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã sáng suốt lựa chọn Liên khu I là nơi tiêu biểu của Hà Nội, với 36 phố phường nhà cửa san sát, đục tường nhà nọ bịt mắt địch, ta dễ dàng cơ động bên trong, bất thình lình tập kích địch, xong lại biến vào các nhà mất tăm.

Ta đã phá được âm mưu của địch “đánh úp, đánh chớp nhoáng” tiêu diệt lực lượng ta, chiếm Hà Nội trong vòng 24 tiếng.

(Địch gửi tối hậu thư buộc ta nộp vũ khí đầu hàng nên ta đã chủ động nổ súng trước, vào 8 giờ tối ngày 19/12/1946).

Khi cần thiết phải hy sinh, đã bố trí một lực lượng nhỏ ở lại kìm giữ chân buộc địch phải lúng túng đối phó với Hà Nội để cả nước có điều kiện chuẩn bị đi vào cuộc kháng chiến lâu dài. Khi Hà Nội còn tiếng súng, Pháp không thể tuyên bố đã chiếm được Hà Nội rảnh tay mở rộng chiến tranh ra ngoại thành và các tỉnh lân cận.

Khi điều kiện tới, đã sáng suốt mưu trí, trong tình thế cực kỳ khó khăn nguy hiểm, đã triệt để vận dụng 3 yếu tố: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Không còn cách nào khác là lựa chọn nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất. Chỉ trong một đêm đã đưa hết đoàn quân 1200 người (cả thương binh, phụ nữ, thiếu niên) ra hậu phương an toàn không mất một viên đạn.

Cuộc lui quân đã được dư luận thế giới và trong nước đánh giá cao là một cuộc “lui quân thần kỳ” có một không hai chưa từng xảy ra ở một cuộc chiến tranh nào, một quốc gia hay trong một lãnh thổ nào.

Giữ được bí mật tuyệt đối là điều quyết định nhất.

Theo lệnh của Ban chỉ huy Trung đoàn, Ban chỉ huy tiểu đoàn đã họp phân công rõ ràng, đi theo đội hình tiểu đoàn săn sàng chiến đấu: Tiểu đoàn trưởng Vũ Yên đi đoạn đàu, Ủy viên chính trị, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến Đàm Văn Ngọ đi đoạn giữa, Chính trị viên Tuyết Minh đi đoạn cuối cùng. Cán bộ Trung đội chỉ được phổ biến trước 2 giờ, chiến sĩ mang hết đồ đạc cá nhân coi như một cuộc chuyển quân, khi tập trung bắt đầu đầu đi mới được biết.

Về phía địch chúng tin tưởng chắc chắn sẽ tiêu diệt được ta. Khi Trung đoàn Thủ đô biến mất, thật là một điều hoàn toàn bất ngờ, một sự thất bại đau đớn. Chúng điên cuồng lồng lộn đuổi theo. Đội giao thông liên lạc do đội lạc hướng địch, 8 người hy sinh. Quân dân Tứ Liên chờ sẵn thuyền đưa bộ đội qua sông bị chúng trả thù đốt nhà, giết dân, phá nát thuyền bè…

Trong cuộc sống thường có may rủi một cuộc lui quân hàng ngàn con người thắng lợi là một vận may vô cùng to lớn, chỉ sơ xuất một tý địch phát hiện được thì tai họa sẽ vô cùng khốc liệt, sẽ hy sinh nhiều, một số có thể bị bắt sống.

Có hai tình huống đã xảy ra lúc đó: Đêm đó tối mênh mông mưa phùn gió rét buốt căm căm, sáng sớm hôm sau sương mù còn dày đặc, lính và chó chui hết vào trong vọng gác. Mặt khác, các vọng gác bố trí trên thành cầu để kiểm soát đường liên lạc tiếp tế ra vào của hậu phương đã bị tập kích, quấy rối liên tục đã phải rút sâu vào trong cầu. Một phần nữa rất quan trọng là đối với một đội quân gồm đủ cả ba thứ quân: Vệ quốc đoàn, Tự vệ chiến đấu, Tự vệ sao vuông đủ thành phần học sinh, thợ thủ công, thanh niên, nam nữ thiếu niên, người các địa phương về học tập chữa bệnh tham gia, Lưu Công Hùng cán bộ Hà Tây đã trở thành chính trị viên Trung đội I – một đội quân đã được Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chăn lo sinh mệnh theo dõi từng ngày từng giờ, có nhân dân cả nước luôn hướng về Thủ đô với lòng yêu thương mến trọng – Một đội quân đã tự nguyện sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” nên đã có một sức mạnh thiêng liêng nào đó ủng hộ giúp đỡ, bịt mắt địch, khiến chúng có mắt như mù, lúc mở mắt ra cả một trung đoàn đã biến mất. Đó là Vận nước.

Một điều cơ bản nữa là truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Hào khí Thăng Long từ ngàn xưa còn truyền lại, truyền thống ngoại xâm “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” đã thấm sâu vào máu thịt con em đất Tràng An. Hầu hết các chiến sĩ quyết tử là con em gia đình các khu phố cổ. Với tất cả nhiệt tình hăng say của tuổi trẻ đã nhất tề đứng lên kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch với lời thề ”Thanh niên Thủ đô quyết sống chết với Thủ đô” rất tự nguyện tin tưởng lạc quan, coi cái chết nhẹ nhàng “Dứt tiếng súng là tiếng đàn tiếng hát lại vang lên khắp chiến hào” với quyết tâm thực hiện sứ mệnh lịch sử thiêng liêng Bác Hồ trao “Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.

60 năm đã qua đi, những anh em còn sống đến ngày nay chúng tôi vẫn thường gặp mặt thăm hỏi động viên nhau ôn lại kỷ niệm xưa, lại nhớ đến đồng đội của mình đã hy sinh còn nằm lại trong mảnh đất Đông Thành thân yêu.

Riêng tôi mỗi khi có việc về hoặc đi qua Đông Thành lòng lại bồi hồi xúc động nhớ lại những ngày đêm Hà Nội chìm trong máu lửa, bao đồng đội, đồng chí của tôi đã ngã xuống lúc tuổi còn phảng phất đâu đây, mang nặng lời thề “Sống chết với Thủ đô”.

Những địa danh: Hàng Thiếc, Hàng Hòm, Hàng Nón, đình Hàng Vải, Rạp O-lym-pi-a, chợ Hàng Da, Nguyễn Văn Tố, Đường Thành… còn vang mãi trong lòng người dân Đông Thành, ghi đậm chiến công, gương hy sinh oanh liệt của các đồng chí, đã góp phần làm Liên khu I thành một điểm son lịch sử oai hùng chống ngoại xâm của Hà Nội.

Tuyết Minh

Nguyên chính trị viên tiểu đoàn 102

Khu Đông Thành, Liên khu I

Theo Hà Nội bản hùng ca bất tử mùa Đông năm 1946, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội – Ban Tuyên giáo, NXB Thế Giới, 2006.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 06:55:31 pm
Tuổi thơ tôi mùa Đông Hà Nội
     

Cuối năm 1946, do yêu cầu của tình hình nhiệm vụ, Đội Tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu, đổi tên là “Đội đặc vụ Vệ quốc đoàn” nòng cốt của tự vệ Hà Nội với 5 Trung đội đóng quân trong Thành phố. Đêm đêm phân tán thành những tổ chiến đấu xuống các cơ sở cùng tự vệ và nhân dân các khu phố xây dựng lực lượng, để chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.

Là liên lạc viên của Đội, ban ngày tôi làm việc tại nhà Đấu Xảo (nay là Cung văn hóa hữu nghị) nơi đặt Sở chỉ huy của Đội. Ban đêm tôi thường về ở với tổ chiến đấu ở số nhà 4 và số nhà 6 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Nơi đây là nhà riêng, và là bệnh viện tư của gia đình bác sĩ Trần Duy Hưng – Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính thành phố Hà Nội. Tổ này gồm 6 người do anh Bạch Ngọc Liễn làm tổ trưởng (anh Liễn sau là Thiếu tướng, Viện phó chính trị Học viện sĩ quan hậu cần). Tổ được lệnh: khi bọn Pháp đưa hai Tiểu đội Âu Phi đến đóng ở nhà tên Lơ-Mét, sĩ quan pháo binh Pháp, ngay cạnh nhà anh Trần Duy Hưng thì nhiệm vụ chính của tổ là: bảo vệ đồng chí Chủ tịch và gia đình; ngoài ra còn có nhiệm vụ phối hợp cùng các đơn vị tự vệ quanh khu vực khoan cây, đục tường và bí mật đào ra một đường hào ngầm từ bên trong nhà 71 Tràng Thi ra tới tim đường để chôn 1 quả bom 50 kg đánh cơ giới địch.

Sáng ngày 19/12, tôi qua Tòa soạn báo Cứu quốc ở phố Hàng Trống để nhận báo cho đơn vị. Khi trở về Đấu Xảo, tôi được anh Vũ Yên trong Ban chỉ huy Đội (anh Vũ Yên sau là Thiếu tướng, Hiệu trưởng Trường Sĩ quan lục quân). Anh gọi tôi vào phòng làm việc, không giao cho tôi những công văn, giấy triệu tập như mọi ngày mà truyền đạt lệnh bằng lời, không cho ghi chép. Nội dung lệnh: Đúng 8 giờ tối nay, khi toàn Thành phố tắt điện- đó là hiệu lệnh nổ súng. Các đơn vị phải nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ được phân công.

Tôi nhắc đi nhắc lại nhiều lần, ghi nhớ trong lòng rồi ra đi chuyển lệnh cho các Trung đội. Ở tuổi 13 lúc đó tôi hiểu mật lệnh chính là ý chí và quyết tâm, với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do”, nhân dân ta luôn mong muốn được sống hòa bình, đã buộc phải cầm súng chấp nhận một cuộc đấu tranh lâu dài gian khổ, để bảo vệ Tổ quốc, giành lại độc lập tự do cho đất nước.

Buổi chiều tôi trở về nhà Đấu Xảo thấy quang cảnh thật nhộn nhịp. Mọi người đều khẩn trương chuẩn bị. Cửa kho quân khí mọi ngày luôn khóa chặt hôm nay được mở rộng. Súng đạn, lựu đạn, mìn dẻo… trong kho được đem chia hết cho các đơn vị., Khi qua khu nhà bếp, tôi thấy các anh nuôi đang làm thịt ngỗng. Đàn ngỗng chúng tôi nuôi đã từng giúp đơn vị trong việc phát hiện người lạ, bảo vệ doanh trại. Nhìn những con ngỗng bị giết nằm ngổn ngang, tôi thấy thương thương. Tuổi trẻ tinh nghịch, hàng ngày mấy đứa liên lạc chúng tôi thường rủ nhau trêu đùa với những con ngỗng rồi bỏ chạy cho chúng đuổi theo, và cùng thích thú vui cười với nhau. Thấy tôi im lặng đứng buồn, các anh nuôi an ủi: Em yên tâm, ngày mai các anh sẽ đi mua đàn khác về nuôi. Các chú ngỗng con có bộ lông vàng đẹp hơn nhiều.

Như thường lệ, tối 19/12 khi trở về chiến đấu ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, tôi đã thấy mọi người tập trung đông đủ mang theo vũ khí. Ngoài các anh quen biết trong tổ: Liễn, Tuyển, Tân, Cần, Định, Châu, còn có các anh Dũng, Vượng, Nhượng. Anh Nguyễn Anh Dũng vừa đi dự một lớp tập huấn quân sự ở Sơn Tây về, là cán bộ chỉ huy chung của các tổ của đơn vị ở khu vực Ngã tư Cửa Nam, nhưng anh Dũng trực tiếp đi với tổ.

Hai anh Trần Duy Vượng, Trần Duy Nhượng là em anh chị Trần Duy Hưng và là hai thầy thuốc chính của bệnh viện gia đình, hàng ngày ngoài giờ khám chữa bệnh cho bệnh nhân, các anh lại tranh thủ học sử dụng các loại súng, tham gia đào đường hào, đặt bom cùng anh em trong tổ. Đêm 19/12 gia đình đã rời khỏi thành phố, nhưng các anh xin ở lại để được cùng anh em chiến đấu bảo vệ Hà Nội. Tổ còn được bổ sung Đội Tự vệ  bến xe Cửa Nam của anh Nguyễn Đình Nghi. Các anh Vượng, Nhượng được tổ tin tưởng giao giữ khẩu trung liên Bờ-ren-nô đầu bạc. Anh Nguyễn Quang Châu xin nhận nhiệm vụ điểm hỏa quả bom 50 kg đánh xe địch trên đường Tràng Thi. Anh Dũng, anh Liễn kiểm tra và nhắc nhở anh em nhiệm vụ lần cuối rồi ôm hôn từng người. Anh Thừa Tuyển, người vui tính nhất của tổ rất xúc động tới bên tôi, anh cho tôi quả lựu đạn Nhật của riêng mình mà hàng ngày anh rất quý, giữ gìn cẩn thận không cho ai động tới. Anh em trao đổi cho nhau những viên đạn, những quả lựu đạn vàcùng hứa hẹn lập công, rồi chia tay.

Tôi theo anh Dũng và tổ Trung liên sang dãy nhà lẻ phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, vào một cửa hàng bánh ngọt đối diện với nhà Lơ-Mét. Chủ nhà đã tản cư khỏi thành phố, chỉ còn lại người thợ trẻ phụ việc làm bánh trông nom, tên anh là Sinh; theo yêu cầu của anh Dũng, anh vui vẻ mở cửa dẫn chúng tôi lên sân thượng để tìm vị trí đặt khẩu trung liên hướng sang nhà Lơ-Mét. Trên cao gió mùa đông bắc thổi mạnh, giá lạnh cùng sự hồi hộp làm tôi rét run người.

Mấy anh em ngồi sát vào nhau cho đỡ lạnh để chờ hiệu lệnh. Giờ này, bên nhà Lơ-Mét bọn lính Âu Phi đang ăn tối. Chúng cười nói, gọi nhau ầm ĩ, chắc không nghĩ giờ đền tội của bọn chúng sắp tới.

Đã quá giờ quy định, nhưng Hà Nội vẫn sáng đèn. Mọi người đang nóng lòng chờ đợi, chỉ lo giờ G không tới. Bỗng đèn thành phố vụt tắt, tiếp đó là những tiếng nổ lớn. Tiếng anh Dũng nhắc: Anh em, chuẩn bị bắt đầu rồi! Chúng tôi nhanh chóng về vị trí. Sau khẩu lệnh: “Mục tiêu nhà Lơ- Mét, bắn!”, khẩu trung liên bắt đầu khai hỏa, cùng tiếng súng trường, tiểu liên và lựu đạn nổ bên trong nhà Lơ-Mét. Ngay từ phút đầu bọn lính Âu Phi bên nhà Lơ-Mét bất ngờ bị trúng đạn, hoảng hốt rên la kêu khóc. Hình ảnh những tên lính Pháp mọi ngày nghênh ngang, hống hách đi gây tội ác giờ đang bị trừng trị làm chúng tôi thêm hào hứng phấn khởi. Súng nổ khắp nơi, cả Hà Nội dêm nay đang bắt bọn xâm lược Pháp phải đền tội. Khẩu trung liên của các anh Vượng, Nhượng liên tiếp nhả đạn yểm trợ cho các tổ vượt tường sang nhà Lơ-Mét phá cửa lao vào đánh chiếm tầng dưới, diệt những tên địch đang ngoan cố chống cự.

Một tiếng nổ lớn của quả bom trên đường Tràng Thi làm rung chuyển nhà cửa. Bụi đá bay rào rào, cửa kính của những nhà xung quanh khu vực đổ vỡ loảng xoảng. Mắt hoa, tai ù, ngực đau tức, tôi có cảm giác như chính ngôi nhà mình đang đứng bị sập. Cùng lúc đó, từ phía ngã tư Quán Sứ xuất hiện một đoàn xe địch hướng về nhà Đấu Xảo. Bỗng một chiếc xe bọc thép tách khỏi đoàn hướng về phía chúng tôi. Khẩu đại liên trên xe nhả đạn dọc con đường Hàng Bông Thợ Nhuộm. Bọn địch liều mạng tới cứu nguy cho đồng bọn ở nhà Lơ-Mét. Anh Dũng nhắc anh em chuẩn bị đánh xe địch. Tôi nắm chặt trong tay quả lựu đạn Nhật mà anh Tuyển cho, rút sẵn chốt an toàn, chờ cho xe địch đến gần, khi khẩu trung liên chuyển làn đón xe địch, tôi đập mạnh quả lựu đạn. Tiếng nổ của kíp làm tôi hoảng hốt vội vàng ném luôn. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi được ném lựu đạn. Do ném vội nên không rtúng xe địch, vì quả lựu đạn đã rơi và nổ trên vỉa hè. Xe địch đã chạy thoát nhưng hoảng sợ trước hỏa lực của các đơn vị quân ta trong khu vực, bọn địch không dám quay đầu lại để cứu đồng bọn ở nhà Lơ- Mét. Còn tôi đã có những bài học đầu tiên và lòng tin ở mình, sau này qua những năm tháng trong quân ngũ, được tham gia nhiều chiến dịch, nhiều trận đánh, tôi không nhớ mình đã ném bao nhiêu quả lựu đạn, nhưng tôi mãi mãi không bao giờ quên quả lựu đạn Nhật đầu tiên tôi đã ném trên đường Hàng Bông Thợ Nhuộm đêm 19/12/1946 – khi Hà Nội cùng cả nước mở đầu cuộc kháng chiến chống bọn xâm lược Pháp.

Bên nhà Lơ-Mét cuộc chiến đấu đang tiếp diễn, những tên địch sống sót rút chạy thẳng lên tầng trên liều chết chống cự. Khẩu trung liên của anh Vượng, Nhượng đang bắn bỗng dở chứng kẹt đạn. Mất hoả lực kiềm chế, từ cửa sổ tầng trên nhà Lơ-Mét bọn địch thả lựu đạn, bắn tiểu liên xuống khu vực quanh sân. Tổ anh Nghi báo cáo đã có thương vong, hai anh Vượng, Nhượng vẫn loay hoay với khẩu súng bị kẹt đạn. Anh Dũng lệnh phải sang tổ anh Liễn, Tuyển lấy thông nòng. Biết nhiệm vụ của mình, tôi bật dậy chạy xuống cầu thang lao nhanh qua đường sang nhà số 4, nhưng cổng ngoài cửa đã khóa, muốn vào bên trong chỉ còn cách trèo qua cổng. Bọn địch từ cửa sổ tầng hai nhà Lơ-Mét liên tiếp ném lựu đạn, bắn tiểu liên sang nhà số 4. Trèo qua cổng lúc này không an toàn, nhưng nghĩ tới khẩu trung liên bị kẹt đạn đang cần thông nòng, quân ta đang cần hỏa lực yểm trợ để tiếp tục cuộc chiến đấu. Tôi vùng dậy, hai tay bám vào cổng sắt leo nhanh. Khi vừa đưa được một chân qua cổng, còn đang lúng túng chưa kịp tụt xuống bỗng một bàn tay nắm chặt cổ chân tôi kéo mạnh. Tôi ngã đè lên một người. Đúng lúc đó từ cửa sổ tầng hai nhà Lơ-Mét chớp lửa, một băng tiểu liên nổ, đạn găm vào bức tường rào trên chỗ chúng tôi nằm. Có tiếng quát nhẹ bên tai: “Sao liều thế, chúng có thể bắn chết em”. Tôi vui sướng nhận ra anh Thừa Tuyển. Biết tôi sang lấy thông nòng, anh tháo chiếc thông nòng ở khẩu súng trường của mình đưa cho tôi và dặn: “Đừng trèo qua cổng nguy hiểm lắm, anh có chìa khóa”, rồi anh dướn cao người mở khóa. Khi cánh cổng sắt vừa hé mở, tôi lách người vọt chạy sang đường. Có tiếng súng địch bắn đuổi nhưng tôi đã ở trong nhà, và lao nhanh lên chỗ khẩu trung liên trước sự vui mừng của mọi người. Chiếc vỏ đạn kẹt nhanh chóng được lấy ra. Khảu trung liên lại tiếp tục nhả đạn diệt hỏa điểm của địch ở cửa sổ tầng 2 nhà Lơ-Mét, yểm trợ cho tổ anh Liễn, Tuyển, Nghi phản kích lại tầng 1 diệt thêm một số tên địch.

Trời đã gần sáng, theo lệnh anh Dũng, anh em khuân những chiếc đệm bông của bệnh viện chất quanh chân cầu thang, rồi dùng chai xăng crếp phóng hỏa đốt. Ngọn lửa bùng cháy trong tiếng la thét của giặc. Cả đơn vị rút sang dãy nhà số lẻ phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, kiểm điểm quân số, thiếu vắng một số người. Ba anh trong tổ tự vệ của Bến xe Cửa Nam đã hy sinh. Các anh đều còn rất trẻ. Chúng tôi mới chỉ gặp được nhau vài giờ trước lúc nổ súng, chưa kịp biết tên nhau. Anh em thương tiếc vĩnh biệt các anh – những chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong trận đánh đầu tiên của đơn vị bảo vệ Hà Nội. Ngoài các anh đã hy sinh, anh Nguyễn Quang Châu khi cho nổ quả bom đánh xe địch trên đường Tràng Thi, bị bụi vữa, đất đá văng vào mắt, không nhìn được, anh em đang dùng nước sạch rửa mắt cho anh. Trên vỉa hè đường Tràng Thi, sát tường nhà số 71-73, xác chiếc xe tăng địch bị sức nổ của quả bom 50 kg hất lên cháy đen thui còn đang nằm chềnh ềnh ra đó!

Nguyễn Hoán

Nguyên vệ út, liên lạc viên trung đội 3, Tiểu đoàn 102 khu Đông Thành, Liên khu I kể

Đặng Tích ghi

Theo Hà Nội bản hùng ca  bất tử mùa Đông năm 1946, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội- Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 06:56:40 pm
Đánh địch ở Bắc Bộ phủ
    

Khoảng  8 giờ tối ngày 19 tháng 12 năm 1946, cả thành phố Hà Nội đèn điện phụt tắt. Giặc pháp nổ súng tấn công đánh úp ta ở trụ sở liên lạc Việt- Pháp, ga Hàng Cỏ, cầu Long Biên, vv… để mở đầu cho mưu toan tấn công toàn diện vào cơ quan Chính phủ và quân đội ta ở Thủ đô Hà Nội vào sớm ngày 20 tháng 12.

Tổ quốc lâm nguy! Giờ cứu nước đã đến!

Không còn con đường nào khác, chúng ta phải vùng dậy kháng chiến chống xâm lăng. Bản mệnh lệnh lịch sử của đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp được nhanh chóng truyền đi khắp mặt trận. Pháo của ta ở pháo đài Láng và Xuân Tảo gầm thét trút căm hờn bắn vào đầu giặc trong thành Hà Nội. Tiếng súng lớn, súng nhỏ ầm vang. từng đám lửa bùng cháy đỏ rực thành phố. Các tổ tuyên truyền sục sôi phát đi những lời kêu gọi cứu nước.

(http://thanglonghanoi.gov.vn/dataimages/200909/original/images43943_bac%20bo%20phu.jpg)
Bắc Bộ phủ ngày nay. Ảnh: Vũ Hưng

Khắp nơi nhân dân khẩn trương khuân bàn ghế, tủ chè, sập gụ, quầy hàng, hương án, hòm xiểng và hàng trăm đồ đạc quý giá khác quăng ra đường phố làm chướng ngại hàng cây số để cản trở cơ giới của giặc. Công nhân xe lửa, xe điện đánh đổ đầu tầu, toa tầu để ngăn các ngả đường Cửa Nam, Khâm Thiên, Phố Huế. Ở nhiều nơi  nhân dân đã cùng các chiến sỹ tự vệ khu phố tiếp tục đào hào, xếp bao cát thành các ụ súng. Tại chỉ huy sở tiền phương (1), của Bộ chỉ huy mặt trận, chuông điện thoại réo liên hồi. Đồng chí Võ Nguyên Giáp luôn luôn theo dõi sát sao tình hình, ra chỉ thị và động viên các cán bộ, chiến sỹ đang ngoan cường anh dũng chiến đấu trên toàn mặt trận. Đồng chí Nguyễn Văn Trân ở chỉ huy sở cơ bản, qua đường dây điện thoại  luôn luôn nhắc nhở, củng cố quyết tâm cho cán bộ chỉ huy mặt trận kiên quyết chấp hành sáng tạo quyết tâm của Đảng ủy. Sau đó đồng chí trực tiếp đi kiểm tra, động viên bộ đội ở Pháo đài Láng. Tin chiến sự từ các liên khu được báo cáo tới tấp về chỉ huy sở. Ngay từ phút đầu cuộc chiến đấu đã diễn ra vô cùng ác liệt.

Tướng tá thực dân Pháp ở Hà Nội hí hửng cho rằng chúng đánh úp Chính phủ ta, xâm chiếm Thủ đô dễ như trở bàn tay, chỉ 24 tiếng đồng hồ là nuốt chửng Hà Nội. Nhưng tiếng súng xâm lược của chúng vừa nổ, nhân dân Hà Nội vạn người như một đã nhất tề đứng lên kháng chiến. Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội ra lệnh cho các đơn vị Vệ quốc đoàn, công an, dân quân tự vệ lập tức đánh trả lại quân xâm lược trên toàn mặt trận. Khu vực Bắc Bộ phủ đã diễn ra những đợt chiến đấu vô cùng ác liệt kéo dài suốt một đêm, một ngày. Khi quân địch bắt đầu nổ súng, chiến sỹ ta nhanh chóng bấm điện trái bom 25 kg theo đường ngầm đã đặt sẵn ở dưới nền nhà khách sạn Mê-tơ-rô- pôn (2) nhưng rất tiếc là bom cũ, hỏng kíp nên không nổ. Quân địch dùng súng máy bắn sang Bắc Bộ Phủ rất dữ dội. Ta cũng dùng súng máy bắn trả lại và cho bộ binh xung phong sang khách sạn …

Ngay khi đó, ở nhà máy điện Bờ Hồ, trong chớp nhoáng, công nhân nhà máy điện đã cùng Vệ quốc đoàn quật cho bọn gây chiến ở đây không sống sót một tên. Bộ chỉ huy Pháp ở trong thành tung lực lượng cơ động đi các hướng hòng đè bẹp các lực  lượng của ta trong chốc lát. Cánh quân thứ nhất chừng 300 lính lê dương, 8 xe tăng, 10 xe bọc sắt có pháo binh súng cối yểm hộ, từ trong thành tiến ra khu vực Bờ Hồ, hy vọng nhanh chóng bao vây, bắt sống, tiêu diệt toàn bộ cơ quan đầu não của ta. Đoàn xe của địch tới ngã năm Cửa Nam, ta giật trái bom chôn ngầm dưới đất nhưng bom không nổ. Bộ binh cơ giới địch vượt qua được Cửa Nam. Chúng hùng hổ tiến đầu phố Tràng Thi thì phải dừng lại, vì bị tủ chè, sập gụ, quầy hàng của nhân dân vứt chồng chất như núi ở giữa đường. Tự vệ từ trên mái nhà, trên tầng gác lao bom, ném lựu đạn, nã súng máy như đổ lửa xuống đầu địch. Bom nổ, một xe thiết giáp của địch bị tan tành. Quân địch chạy toán loạn lùi trở lại bắn phá, đồng thời chúng tách một bộ phận theo đường phố Hàng Bông, Thợ Nhuộm để đánh vòng sau lưng ta. Nhưng toán quân này cũng bị chặn lại. Pháo binh, súng cối của chúng bắn phá rầm rầm vào hai dãy nhà bên đường phố. Hơn một giờ sau, quân địch tới Bắc Bộ Phủ. Một xe tăng án ngữ ở cửa nhà băng(3), một xe tăng trước cửa nhà Gô- đa(4), một xe tăng ở phía trước cửa Nhà hát Lớn, còn một số xe bọc sắt đến vườn hoa Chí Linh ( 5) dừng lại, 3 tên lính Pháp nhảy xuống đặt súng máy trên nền đất cao định bắn vào Tòa thị chính (6), bị bộ đội ta trên gác bắn ra, một tên địch chết ngay tại chỗ, hai tên khác rút chạy lên xe. Trong đêm 19 tháng 12, ở Bắc Bộ, quân ta chiến đấu vô cùng anh dũng, quân địch không thể nào tiến vào được. Một quyết tử quân là cán bộ tiểu đội sắp được Bộ chỉ huy quyết định đề bạt lên trung đội trưởng đã ôm bom ba càng lao tới phá hủy ngay tức khắc chiếc xe tăng địch đi đầu. Chiếc xe khác đi vòng sang bên sườn bắn yểm hộ, đồng chí đã trở vào xin thêm bom. Nhanh như cắt, đồng chí lao cả người, cả bom vào xe tăng địch. Nhưng bom không nổ, đồng chí đã hi sinh, Tinh thần chiến đấu anh dũng ấy đã động viên các chiến sỹ ở Bắc Bộ phủ ngoan cường giữ từng cửa sổ, từng bức tường, quyết không cho địch đánh chiếm dễ dàng. Quân địch đành phải tập trung quân tấn công đánh chiếm Tòa thị chính, tạo thành thế bao vây phía tây bắc đối với Bắc Bộ phủ, chờ quân tiếp viện và chờ trời sáng sẽ tiếp tục tấn công ta.

8 giờ sáng ngày 20 tháng 12, địch lại nã trọng pháo, súng cối vào Bắc bộ phủ, yểm hộ cho một cánh quân đánh thẳng chính diện, một cánh quân từ vườn hoa Chí Linh đánh tạt sang, một cánh quân khác tiến đánh nhà Bưu điện hình thành mũi bao vây phái sau Bắc Bộ phủ, xe tăng địch lồng lên, gầm rú nhằm vào cửa sổ, góc tường, ụ đất bắn phá hòng uy hiếp tinh thần chiến sỹ ta. Các chiến sỹ vẫn giữ bí mật, không hò reo, bắn trả lại. Chúng tưởng quân ta bị tê liệt. Nhưng vừa tới tầm lựu đạn, từ các góc tường, cửa sổ, hàng loạt bom, chai cháy, lựu đạn ném ra; súng trường tiểu liên bắn xả vào bộ binh địch. Bọn sống sót lại xô đẩy nhau rút chạy. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ 30. Đạn dược gần hết, lựu đạn, chai cháy, bom ba càng cũng không còn nữa. Các chiến sĩ đề nghị chiến đấu đến người cuối cùng. Lê Gia Đỉnh, chính trị viên đại đội ra lệnh cho tất cả các chiến sỹ còn lại dìu thương binh theo giao thông hào rút về nhà Bưu điện. Các chiến sỹ nói: " Sống cùng sống, chết cùng chết, cho chúng tôi ở lại đây chiến đấu với anh ". Lê Gia Đỉnh giải thích: "Kháng chiến còn lâu dài, chúng ta không chủ trương cố thủ mấy ngôi nhà này. Chiến đấu như vậy là các đồng chí đã làm tròn nhiệm vụ. Các đồng chí phải rút để bảo toàn lực lượng, nhiệm vụ các đồng chí còn nặng nề. Các đồng chí hãy xứng đáng là những người chiến sỹ bảo vệ dinh Hồ Chủ tịch."

Giặc Pháp thấy quân ta bắn ra lẻ tẻ, chúng dùng xe  tăng húc đổ hàng rào sắt, bộ binh ào ạt xung phong. Chúng tiến vào cầu thang, đánh lên gác. Lê Gia Đỉnh xông ra dật kíp quả bom  lớn (7)…Nhưng tên giặc đi đầu hoa mắt, chạy tóe trở ra vô cùng khiếp đảm, run sợ trước tinh thần chiến đấu quật cường của chiến sỹ ta, những con người của một dân tộc anh hùng:’’ Quyết không chịu làm nô lệ"…Bắc Bộ phủ lúc này chỉ còn là những căn phòng đổ nát, không người. Vì Bác và cơ quan Chính phủ đã rời khỏi đây từ lâu, làm việc bí mật ở nơi khác và đã về căn cứ chỉ đạo ngay từ khi quân địch sắp gây hấn. Giặc Pháp vừa run sợ trước tinh thần chiến đấu của quân dân ta, vừa thất vọng vì phải trả một giá rất đắt mà cuối cùng vẫn không thực hiện được cuồng vọng là đánh úp cơ quan lãnh đạo và lãnh tụ của ta. Chúng dè dặt, tiếp tục tấn công sang Bưu điện, ở đây có hơn 20 nam, nữ công nhân viên, một tiểu đội Vệ quốc đoàn và một chiến sỹ ở Bắc Bộ phủ về thành một lực lượng phòng thủ tương đối mạnh. Quân địch tấn công đến chiều tối vẫn không chiếm được đành phải rút về nhà băng Đông Dương để củng cố. Sau một đêm ngày giao chiến, giặc Pháp đã phải bỏ xác tại khu vực này 122 tên (số bị thương chúng chuyển đi nên không rõ), 2 xe tăng, 1 xe gip, 2 xe vận tải bị phá hủy và 2 xe tăng khác bị đứt xích; bên ta gần một trung đội Vệ quốc đoàn thuộc tiểu đoàn 101 đã anh dũng hi sinh . Các chiến sỹ Bắc Bộ phủ đã làm cho kẻ địch bắt đầu dè chừng, chùn bước.

Trung tướng Vương Thừa Vũ

Theo Hà Nội bản hùng ca bất tử mùa Đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 25- 30.

(1) Nhà gạch hai tầng, đông bắc cầu xi măng, phía trường Bạch Mai.

(2) Ngay từ khi giặc Pháp ráo riết hành động mở đầu cuộc gây hấn xâm chiếm Thủ đô thì tự vệ và Vệ quốc đoàn đã đào đường ngầm chôn bom sẵn sàng đánh lại khi bị chúng tấn công.

(3) Nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

(4) Nay là Trung tâm thương mại  Tràng Tiền.

(5 ) Nay là vườn hoa Lý Thái Tổ

(6 ) Nay là trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố.

(7 ) Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, quân ta rút ra khỏi Bắc Bộ Phủ. Quân địch ập vào. Để giữ trọn lời thề trước khi nổ súng: "không cho địch nghênh ngang chiếm nhà Cha Hồ", Lê Gia Định đã nhanh nhẹn xông ra đập kíp làm nổ quả bom lớn nhưng bom không nổ và anh đã hy sinh vì trúng đạn địch.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 06:57:59 pm
Trận đánh ngoại giao giữa lòng Hà Nội kháng chiến
      

Vào một buổi chiều cuối tháng 1/1947, trước tết Đinh Hợi ít hôm, anh Lê Trung Toản, Bí thư Đảng ủy, chính trị viên Trung đoàn nói với anh Siêu Hải, Trung đoàn trưởng vào tôi: “ Này! Các cậu nghĩ xem ta có nên tổ chức một bữa chiêu đãi lãnh sự quốc tế và dịp Tết không? Nếu có buổi đó sẽ làm cho nước ngoài thấy rõ bọn Pháp nói láo và thấy người Hà Nội ta vẫn đàng hoàng mặc dù đang đánh ác liệt. Tiện thể ta thăm dò thái độ của họ xem sao”. Tôi và anh Siêu Hải hưởng ứng ngay vì từ lâu chúng tôi muốn đập lại luận điệu tuyên truyền của Pháp nào là: “ Sẽ quét sách sự đề kháng của Việt minh trong vòng 24 tiếng”, nào là “ Việt minh đang bị khốn quẫn và đói rách trong vòng vây ngày càng xiết chặt ở Thủ đô”. Tuy vậy cũng phân vân không biết mời họ có đến không, nhưng vẫn nhất trí điện ra ngoài xin ý kiến.

Tôi lúc đó là tham mưu trưởng, được phân công chuẩn bị tiếp khách. Bắt tay vào mới thấy lắm vấn đề vì đây là công việc mới mẻ, chưa làm bao giờ. Nào là chọn địa điểm ở đâu cho thuận tiện vừa đàng hoàng, vừa lịch sự vừa giữ được bí mật an toàn; nào là bố trí đưa đón khách, nghi lễ ra làm sao, bài trí phòng khách thế nào, rồi thực đơn, rồi những ai cùng tiếp v.v… Tôi tự nhủ cứ coi đây là một “ trận đánh ngoại giao” của trung đoàn, phải làm bằng được. Họp phân công anh em, mỗi người lo một việc. Đúng là “ ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, mọi người góp nhiều sáng kiến giải quyết. Tôi nhớ anh Vị Hải, Chủ tịch Kháng chiến khu Trúc Bạch – Lãng Bạc(1), đã chỉ huy anh em giao thông tiếp tế mang từ ngoại thành vào mấy cành đào rất đẹp, quất thật sai, còn có cả hoa lay-ơn và vi-ô-lét rất tươi, rồi rau, quả, thịt, bánh chưng… để phục vụ cuộc tiếp tân đặc biệt này. Các khu Đông Thành, Đồng Xuân, Đông Kinh Nghĩa Thục tìm những đầu bếp giỏi nhất lo việc nấu nướng. Chúng tôi chọn được ngôi biệt thự Anh Hoa, nằm giữa hai mặt phố Ngõ Gạch – Hàng Chiếu và còn có lối sau thông ra phố Hàng Đường khá đẹp, có vườn cây cảnh, hòn non bộ. Những anh khéo tay được giao trang trí nội thất phòng khách. Bức chân dung Bác Hồ được lồng vào khung kính treo ở nơi trang trọng. Góc phòng là cành đào to, chúm chím nụ và hoa được trồng trong chậu cảnh bằng sứ. Bàn tiệc kê giữa phòng hình chữ U trải khăn trắng. Rồi nến, đèn măng sông, rồi quần áo mặc tiếp khách…

Hai hôm sau, Bộ chỉ huy khu 11 (Mặt trận Hà Nội) điện trả lời đồng ý và nêu rõ: Ban chỉ huy trung đoàn không ra mắt nhưng vẫn phải đảm bảo yêu cầu chu đáo, lịch sự, mến khách mà vẫn giữ được tư thế. Có ý kiến của trên như vậy nên chúng tôi quyết định chọn anh Bùi Nguyên Cát, quản lý Trung đoàn (Chủ nhiệm hậu cần) có “mẽ người” đóng làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến liên khu I, thay anh Toản đứng ra mời khách. Tôi đóng vai phiên dịch tiếng Pháp cho anh Cát để nếu có tình huống gì thì tùy cơ ứng biến. Khách` mời gồm lãnh sự Anh, Mỹ, Trung Hoa dân quốc, một số đại biểu Hoa kiều, cộng với bên ta tất cả chừng 20 – 25 người. Dự kiến đón khách vào 17 giờ ngày mùng 1 Tết, 18 giờ bắt đầu và kết thúc 20 giờ. Toàn bộ kế hoạch được báo cáo lên trên. Anh Trần Quốc Hoàn lúc đó là đặc phái viên của Trung ương theo dõi Hà Nội viết thư vào nhắc chúng tôi phải giữ bí mật cơ quan chỉ huy, đề phòng sau Tết địch bắn phá khu vực tiếp khách (lời nhắc quả không thừa, mấy hôm sau Tết, ngôi biệt thự bị phía Pháp “căn” Pháo làm sạt mất một góc). Giấy mời được in trang trọng, đẹp và gửi cho khách qua viên thư ký của lãnh sự Trung Hoa dân quốc (nhà ở phố Hàng Buồm). Trong thời gian chuẩn bị đón khách, chúng tôi vẫn vừa chiến đấu vừa lo Tết cho anh em. Có anh được phân công treo cờ đỏ sao vàng lên Tháp Rùa, Đền Ngọc Sơn. Ở các liên khu II, III, chiến sĩ ta luồn vào khu vực địch đóng treo nhiều bánh pháo, bờ tường kín đáo, buộc ngòi vào chân nén hương tính toán sao cho pháo nổ đúng giao thừa.

(http://thanglonghanoi.gov.vn/dataimages/200909/original/images43946_chiendau.jpg)
Lực lượng vũ trang thủ đô anh dũng chiến đấu. Ảnh : Tư liệu

Mồng Một Tết, trời se lạnh, mưa bụi lất phất. Tuy không khí Tết có khác mọi năm, nhưng mọi người vẫn đi lại chúc Tết, thăm hỏi tin tức người thân, chia nhau những món quà từ ngoài gửi vào. Đến 17 giờ, từ phía Hàng Bài, một nhóm người, đi đầu là lãnh sự Trung Hoa dân quốc, cầm cờ Tưởng, dẫn hai tổng lãnh sự Anh, Mỹ cùng vài nhân viên bảo vệ tiến về phía Tràng Tiền. Một sĩ quan liên lạc của ta chờ sẵn đón họ về biệt thự Anh Hoa. Ông Viên Tử Kiên,lãnh sự Trung Hoa dân quốc, đến sớm vài phút. Trang nghiêm trong bộ âu phục loại sang, ông tươi cười bắt tay anh em ta đứng đón khách. Anh Cát “Chủ tịch” đang đứng trò chuyện với Viên Tử Kiên thì hai lãnh sự Anh, Mỹ tới. Anh Cát tươi cười giơ tay chào: “ Chào ngài Wilson chào ngài Sullivan, rất hân hạnh được đón các ngài cùng ngài Kiên đây nhân dịp đầu xuân”.

Chủ khách vào phòng trà. Những ngọn bạch lạp đặt ở các góc thích hợp khiến cho ánh sáng trong phòng đủ để tôn hết vẻ đẹp của các bức tranh, vẻ duyên dáng của cành đào, cây quất, các vị lãnh sự đều ngạc nhiên. Họ đến cốt để thăm dò tình hình chứ không trông chờ quang cảnh một bữa tiệc thịnh soạn và lịch sự thế này. Trên bàn có đầy đủ thịt, rau quả tươi, các món yến, vây, bóng, mực, bánh chưng và nhiều loại rượu hảo hạng.

Khi vào tiệc, anh Cát giới thiệu chủ, khách, nói vắn tắt lý do buổi mới và mong những vị khách lượng thứ những gì chưa chu đáo do đang chiến đấu. Anh cảm ơn các vị Tổng lãnh sự đã tạo điều kiện để bà con thủ đô tản cư an toàn hôm 15/1/1947 và nói lên 3 ý: việc cầm súng kháng chiến của Việt Nam là chính nghĩa; chúng tôi sẽ được nhân dân Pháp và thế giới đồng tình và quyết hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ độc lập, tự do. Anh đề nghị nâng cốc chúc các vị lãnh sự, các đại biểu sức khỏe và chuyển lời chúc mừng năm mới của Hồ Chủ tịch đến chính phủ và nhân dân các nước Anh, Mỹ, Trung Hoa dân quốc. Rượu khai vị nấu bằng nếp cẩm rất ngon. Thấy khách chú ý đến cành đào cắm trong lọ độc bình cổ, anh Cát vốn sành về hoa liền hào hứng giới thiệu về cách ươm trồng, hãm thế nào cho đào nở đúng dịp Tết. Anh càng đi sâu vào” kỹ thuật uốn thế” cho đào bao nhiêu thì tôi càng lúng túng bấy nhiêu. Tôi phải ra hiệu cho anh hiểu vốn từ tiếng Pháp của tôi chỉ có hạn. Các vị khách dừng lại hồi lâu trước bức chân dung Bác Hồ và kể cho mọi người ấn tượng kính trọng của họ qua mấy lần được diện kiến Cụ Chủ tịch. Thức ăn tiếp tục được bưng lên. Chủ khách trò chuyện râm ran.

Ông Vương Tử Kiên, ngồi đối diện anh Cát, là khách đầu tiên đứng lên đáp lời. Bằng tiếng Việt khá sõi, ông cảm ơn Chính phủ và quân đội Việt Nam đã giúp đỡ, bảo vệ Hoa kiều giúp cho chính bản thân ông hoàn thành chức trách trong tình cảnh khó khăn và chúc Cụ Chủ tịch Hồ, các vị chỉ huy và “cán binh” Liên khu I sức khỏe. Tiếp tục, ông Wílson, người thấp mập chậm rãi đứng lên nở nụ cười, nói bằng tiếng Pháp: “Xin ngài Chủ tịch nhận ở tôi lòng biết ơn về sự giúp đỡ các Ấn kiều, bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ. Tôi ghi nhận tinh thần kỷ luật rất cao của quân đội các ngài. Thế giới sẽ biết đến sự tôn trọng luật pháp quốc tế của Việt Nam”. Ông nâng cốc chúc mừng năm mới hạnh phúc và uống cạn một hồi ly rượu trắng Việt Nam mà ông nói thích hơn các thứ rượu Tây bày trên bàn. Nhiều đại biểu người Hoa bày tỏ ý mong muốn chiến tranh sớm chấm dứt vì “Thăng Long phi chiến địa”. Một thanh niên hoa kiều trẻ sôi nổi:”Chúng tôi sống hơn một tháng trong chiến tranh nên thấy rõ và khâm phục trí tuệ, sự dũng cảm của bộ đội Viêt Nam, chúng tôi đồng tình với các bạn”.

Bữa tiệc kéo dài hơn 1 tiếng. Lúc này lãnh sự Mỹ là Sullivan, ngồi cạnh Wilson và đối diện với Tiểu đoàn trưởng Vũ Yên, đứng dậy xin có mấy lời. Cũng bằng tiếng Pháp ông cảm ơn thiện ý của ngài Chủ tịch liên khu I đã mời ăn Tết, cảm ơn sự đón tiếp hữu nghị và bữa cơm dân tộc rất ngon lần đầu được ăn kể từ khi tới Việt Nam, ca ngợi sự bảo đảm an toàn cho khách. Có lẽ thấy được thiện chí, sự chân tình của ta, ông thốt ra: “Hãy kiên trì, và kiên trì các bạn sẽ thắng” (Patience et patience, vous aurez la victoire). Lúc đầu nghe câu này tôi ngỡ mình nghe lầm, nhưng nhìn thái độ xúc động của ông, tôi biết là đúng vậy. Mọi người vỗ tay kéo dài hưởng ứng trong khi ông kết thúc bằng câu: "Nhờ ngài Chủ tịch chuyển lời chúc sức khỏe Cụ Hồ kính mến”.

Sau này được biết Bộ chỉ huy Pháp tại Hà Nội tức tối kéo tới chất vấn các Tổng lãnh sự. Họ yêu cầu ông Sullivan cải chính câu nói ở buổi chiêu đãi. Làm sao có thể cải chính trong khi hàng chục người có mặt đều nghe thấy như vậy. Châm ngôn có câu “Nhất ngôn phóng xuất, tứ mã nan truy”. (Một lời nói ra, bốn ngựa không đuổi kịp) còn gì.

Tiệc kết thúc. Anh Cát tiễn các vị khách vui vẻ ra về và không quên tặng mỗi người một chai rượu và bó hoa tươi. Ông Sullivan còn xin thêm một quả cam giấy về làm quà.

Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Trung đoàn đã hoàn thành tốt  nhiệm vụ đột xuất đặc biệt, được Thành ủy và Mặt trận Hà Nội khen ngợi. Báo của ta, cả Đài Tiếng nói Việt Nam cũng đưa tin về sự kiện này. Ai cũng hoan hỉ, chỉ có phía Pháp là hậm hực, bẽ bàng.

Trung tướng Hoàng Phương

Nguyên tham mưu trưởng trung đoàn Thủ đô

Theo Hà Nội bản hùng ca bất tử mùa Đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, Hà Nội, 2006, tr38-42.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 06:59:28 pm
Bám trụ giữ đất, bảo vệ mặt trận đông bắc thành phố   
   

Dải đất bãi ngoài đê sông Hồng (gồm 3 làng: Nghĩa Dũng, Tân Ấp, Phúc Xá) từ tháng 5/1946 có tên mới là khu Hồng Hà, dân cư hầu hết là dân nghèo thành thị, viên chức lớp dưới, công nhân làm việc trong nội thành. Năm1946, khu Hồng Hà có vinh dự được Hồ Chủ tịch tới thăm 3 lần (một lần ở lớp bình dân học vụ Phúc Xá, hai lần ở Nghĩa Dũng). Chúng tôi nhớ mãi lần Bác tới thăm bà con Nghĩa Dũng. Nhận bó hoa cô giáo Nội, thay mặt nhân dân kính tặng, Bác tặng lại cụ Giáp, cụ già nhất làng (bố của đồng chí Nam Hà, sau này là thiếu tướng). Bác giản dị, đầm ấm và đầy tình nghĩa với dân biết bao.

Tháng 10/1946, chuẩn bị kháng chiến, Ủy ban bảo vệ các khu vực được thành lập. Đồng chí Trương Cao Phong là Chủ Tịch Ủy ban bảo vệ khu Hồng Hà, trực thuộc Liên khu I. Chiều 19/12/1946, đồng chí Trương Cao Phong nhận lệnh cấp trên: 8 giờ tối, nổ súng tấn công thực dân Pháp. Đêm 19/12/1946, cùng với vệ quốc đoàn, tự vệ chiến đấu Liên khu I, tự vệ Hồng Hà đánh địch ở cầu Long Biên, nhà máy điện, nước Yên Phụ, nhà máy in Viễn Đông, dốc Hàng Đậu…

 
(http://thanglonghanoi.gov.vn/dataimages/200911/original/images44796_scan00044.jpg)
Vinh dự đứng dưới lá cờ thêu 4 chữ vàng "Trung đoàn Thủ đô" do Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp trao tặng. Ảnh tư liệu

Ngày 20/12/1946, khu Hồng Hà nhận lệnh của Ban chỉ huy Liên khu I: Phải bám trụ giữ đất, giữ vững mặt trận phía đông bắc của thành phố. Ba đại đội của Phúc Xá, Tân Ấp, Nghĩa Dũng, sau một đêm chiến đấu, được tổ chức lại thành đại đội Hồng Hà gồm 4 trung đội do đồng chí Tuấn Lâm làm Đại đội trưởng, đồng chí Hiển làm Đại đội phó. Từ xã Liên Mạc (Từ Liêm), đại đội trở về khu Hồng Hà, tiếp tục chiến đấu.

Đại đội Hồng Hà chiến đấu phòng ngự trên địa hình hoàn toàn bất lợi, ba bề có địch phong tỏa; phía đông là sông Hồng. Vũ khí của chúng tôi rất thiếu thốn và thô sơ. Mỗi trung đội có từ 8 đến 10 khẩu súng trường các loại, vài chục quả lựu đạn, trong đó một nửa lấy được của Pháp – Nhật cũ, một nửa là tự tạo. Cả đại đội có 2 khẩu tiểu liên (1 Sten, 1 Thompson tự tạo).

Suốt 2 tháng trời tự nuôi quân bám trụ, chiến đấu trong hoàn cảnh đầy khó khăn, gian khổ hiểm nguy như vậy, cán bộ, chiến sỹ đại đội Hồng Hà đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn mặt trận phía đông bắc thành phố. Chúng tôi thường xuyên lên đê, quấy rối và đột kích các vị trí địch ở nhà máy nước, dốc Hàng Đậu, khu nhà đỏ Yên Phụ, nhà in Viễn Đông; đánh và ngăn chặn địch, tiến hành các hoạt động trinh sát, vũ trang, tuần tra canh gác đề phòng bọn Việt gian thâm nhập. Đặc biệt, hàng đêm, chúng tôi làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho đội liên lạc – tiếp tế Liên khu Trúc – Lãng và đội liên lạc Nguyễn Ngọc Nại vào Liên khu I qua khu Hồng Hà, đồng thời bảo đảm tính mạng, tài sản cho hàng nghìn đồng bào từ Liên khu I tản cư ra ngoài. Con đường nằm dưới chân đê qua khu Hồng Hà trở thành đường giao thông kiên lạc huyết mạch nối liền Liên khu I với khu XI và hậu phương bao la. Ngày 16/2/1947, đại đội Hồng Hà đã đánh tan cuộc tấn công lớn của địch bằng lực lượng bộ binh, thủy quân, không quân nhằm chiếm giữ Hồng Hà, cắt đứt cuống nhau vào Liên khu I, tiêu diệt Trung đoàn Thủ đô. Đêm 16/2/1946, đại đội Hồng Hà được lệnh rút ra ngoài để bảo toàn lực lượng cho cuộc kháng chiến. Chúng tôi lại lên Liên Mạc. Đêm 17 rạng sáng 18/2/1947, một trung đội của đại đội Hồng Hà được cử sang bến đò Dâu đón Trung đoàn Thủ đô ra hậu cứ.

Nhớ lại những sự kiện đã qua, chúng tôi cán bộ, chiến sĩ đại đội Hồng Hà rất tự hào. Trong những chiến công lẫy lừng của quân dân Liên khu I, của Trung đoàn Thủ đô, có chiến công thầm lặng không thể nào quên của đại đội và nhân dân khu Hồng Hà.

Ông Ngô Trọng Bảo

Theo Hà Nội - Bản hùng ca bất tử mùa đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 87- 91


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 07:00:04 pm
Đội giao thông liên lạc Trúc – Lãng
      

Đã thành lệ, cứ vào tháng Chạp, các bà gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng. Ngồi quây quần quanh người Anh Cả (ông Vị Hải(1), người chỉ huy năm xưa vẫn được gọi bằng cái tên trìu mến như vậy). Các bà kể cho nhau nghe chuyện gia đình, con cháu, và cuối cùng, vẫn không quên câu chuyện “ngày xưa …” đầy gian khổ và oanh liệt của thời thanh xuân.

Cuối tháng 12 năm 1946, chúng tôi được anh Vị Hải, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến khu Trúc Bạch – Lãng Bạc, tổ chức vào đội liên lạc, tiếp tế cho Liên khu I đang chiến đấu giam chân giặc Pháp giữa lòng thành phố. Đội gồm các anh tự vệ và gần 30 chị em phụ nữ ở Yên Phụ, Trúc Bạch, Nghĩa Dũng, Phúc Xá do anh Mạc Phúc Ứng làm đội trưởng. Phương tiện vận tải chuyên chở duy nhất là sức người, mỗi người gùi được 20 kg. Hàng ngày, vào khoảng 5 - 6 giờ chiều, chúng tôi nhận hàng (gạo, tài liệu, báo chí, lựu đạn…) cho vào ba lô, ruột tượng. Cứ một nam – một nữ chúng tôi men theo chân đê Tứ Tổng, Yên Phụ, qua gầm cầu Long Biên, đến Cột đồng hồ thì vượt đê vào ngõ Phất lộc giao hàng tại 98 Hàng Bạc (hiệu thuốc Phan Anh) cho đồng chí  Bùi Nguyên Cát, Trưởng ban quản lý của Trung đoàn Thủ đô. Sau đó, ngay trong đêm, chúng tôi lại mang thuốc men, đưa thương binh nặng và đồng bào tản cư ra ngoài. Thường thì 2 giờ sáng chúng tôi về đến địa điểm đóng ở Tứ Tổng. Việc liên lạc, tiếp tế vận tải khi đó rất vất vả, cái chết luôn kề cận. Để cho an toàn, chúng tôi chia thành từng tốp, cách xa nhau, khi đi, khi bò, có khi phải nằm thành dẫy dài như luống đất bãi để tránh đèn pha và tầm súng của địch. Hồi hộp nhất là lúc bò qua gầm cầu Long Biên; trời rét nhưng chúng tôi toát mồ hôi, vì địch bố trí canh gác ngay trên sân, sẵn sàng nhả đạn bất cứ khi nào phát hiện ra mục tiêu. Cứ như vậy, ngày nghỉ, đêm đi, chúng tôi bảo đảm con đường huyết mạch, nối mặt trận Liên khu I với hậu phương.

Tết Đinh Hợi (1947), để cho các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô đón Tết kháng chiến đầu tiên vui vẻ, lạc quan, đầm ấm, nhận lệnh trên giao, đêm 29 Tết, chúng tôi mang thư từ, quà Tết của đồng bào hậu phương rau quả, thịt lợn, thịt bò, bánh chưng, chè lam vào Liên khu I. Là người Hà Nội, chúng tôi không quên mang hoa thược dược, cúc, lay-ơn và cả cành đào Nhật Tân rất đẹp cho anh em ăn Tết, ngắm hoa. Sau này, chúng tôi mới biết, một phần hoa quả, bánh Tết đó đã được Ủy ban kháng chiến Liên khu I dùng trong tiệc mừng xuân tiếp các lãnh sự Anh, Mỹ, Trung Hoa dân quốc nhằm bóc trần luận điệu huênh hoang, lừa bịp của Pháp: “Việt minh đang bị khốn quẫn chết đói dần mòn, quân Pháp đã làm chủ tình thế ở Hà Nội”. Sáng mồng Một Tết Đinh Hợi (22/1/1947), bữa tiệc được tổt chức tại một biệt thự xinh đẹp đầu phố Ngõ Gạch, có cành đào Nhật Tân và đủ các món ăn dân tộc, món ăn mới rất “Hà Nội”,  các vị lãnh sự đến dự tiệc đều ngạc nhiên, sửng sốt. Họ không ngờ những người kháng chiến Hà Nội vẫn có bữa tiệc “Tết” đàng hoàng, thịnh soạn như vậy. Tổng lãnh sự Mỹ Sullivan nói: “Kiên trì, kiên trì, các ông sẽ là người chiến thắng”.

Mồng 2 Tết Đinh Hợi (25/1/1947), Pháp đánh chiếm Nhật Tân, chúng tôi phải rút lên Phú Gia. Việc liên lạc tiếp tế cho Trung đoàn Thủ đô do Đội Nguyễn Ngọc Nại ở Bãi giữa (Trung Hà – Bắc Biên) đảm nhiệm. Sau đó, một số anh chị em chúng tôi vẫn tiếp tham gia Ủy ban kháng chiến hoặc trở lại nội thành hoạt động cho đến ngày Thủ đô giải phóng.

Bà Nguyễn Thị Thuần

Tháng Chạp năm 1991, kỷ niệm 45 năm ngày toàn quốc kháng chiến

Theo Hà Nội bản hùng ca bất tử mùa Đông năm 1946, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội – Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 77 – 79.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 07:01:32 pm
Chiến đấu ở khu Đấu Xảo
      

Nhà Đấu Xảo, nay là Cung Văn hoá hữu nghị Việt - Xô, thời Pháp thuộc, có nhà bảo tàng Maurice Long đồ sộ, với khuôn viên rất rộng, thuộc "khu phố Tây". Mặt tiền giáp đường Trần Hưng Đạo, một phía giáp phố Yết Kiếu, một phía giáp phố Trần Bình Trọng, phía sau là phố Thuyền Quang.

Khi Nhật vào Đông Dương, chúng chiếm Đấu Xảo làm doanh trại và kho quân lương, quân khí vì nhà bảo tàng có tầng trệt là một tầng hầm kiên cố, xây bằng đá hộc.

(http://thanglonghanoi.gov.vn/dataimages/200911/original/images44953_Khu%20dau%20xao.jpg)
Toàn cảnh Khu Đấu Xảo xưa. Ảnh tư liệu

Ít lâu sau, quân đồng minh dùng không quân ném bom, làm sập tầng trên Đấu Xảo. Rồi quân Nhật thua trận, đầu hàng. Quân Tưởng vào Việt Nam giải giáp quân Nhật cũng đóng ở Đấu Xảo vì gần ga, đầu mối Bắc - Nam. Âm mưu chiếm đóng nước ta một lần nữa, thực dân Pháp thương lượng với đồng minh để thay thế quân Tưởng quản lý miền Bắc Việt Nam. Chúng rục rịch chuyển quân đến tiếp quản Đấu Xảo. Ta nhanh chân, khôn khéo giải quyết với quân Tưởng để đại đội Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu từ trụ sở 107 Trần Hưng Đạo sang đóng ở Đấu Xảo trước (tháng 6/1946 Từ đây khu Đấu Xảo rộng lớn vừa là vị trí đóng quân chủ yếu của Đội tự vệ chiến đấu, vừa là trụ sở của Ban chỉ huy tự vệ Thành và Trường đào tạo cán bộ tự vệ của Thành phố.

Những tháng cuối năm 1946, tình hình Hà Nội ngày càng căng thẳng. Để chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, Ban chỉ huy Đội đã tổ chức huấn luyện cho toàn Đội và tự vệ thành tại Đấu Xảo về cách đánh trong thành phố, cách dùng bom mìn phá hoại, lập chướng ngại vật và phổ biến kinh nghiệm chiến đấu của tự vệ và nhân dân Hải Phòng chống cuộc gây hấn của quân Pháp tháng l0/1946.

Theo kế hoạch của Ban chỉ huy, các trung đội được phân tán về các Liên khu giữ những chốt trọng điểm hoặc làm nòng cốt trong tự vệ khu phố, nắm dân. Đấu Xảo chỉ còn hai tiểu đội cung mấy đội viên Văn phòng đại đội bộ bảo vệ.

Trung đội trưởng Tô An (Toản), Trung đội phó Hà Giáp được điều từ trung đội Tô Hiệu ở khu Trục Bạch (Liên khu I) về làm Chỉ huy trưởng và phó khu Đấu Xảo (l0/1946).

Theo kế hoạch của Đại đội trưởng Vỵ Hải và Đại đôi phó Phạm Văn Tường, Đấu Xảo tuy lực lượng rất mỏng song sẽ là mục tiêu đánh chiếm của địch khi có chiến sự. Do vậy anh em còn lại phải khẩn trương củng cố các hầm hào, hố cá nhân ở quanh các chân tường và gia cố 2 ụ súng ở hai phía cổng chính. Tiểu đội đồng chí Dung được giao nhiệm vụ đào gấp trong hai ngày một giao thông hào từ chỉ huy sở xuyên tường ra mặt đường phía trước và đắp 1 ụ súng cạnh cổng phụ. Với tinh thần cách mạng hăng say của tuổi thanh niên quyết sống mái với địch, anh em đã hoàn thành trong một ngày. Trước toàn đơn vị, tiểu đội 1 được tuyên bố cho nghỉ một buổi chiều tranh thủ về thăm gia đình. Trần Nhật Hiên - một thanh niên học sinh Hà Nội phơi phới lãng mạn cách mạng, không về nhà, mà rủ một vài đồng đội đi xem kịch Lôi Vũ ở Nhà Hát Lớn. Đó là tối 17/12/1946 mà ban ngày vừa xẩy ra vụ khiêu khích thảm sát của Pháp đối với tự vệ và nhân dân phố Hàng Bún, Yên Ninh. Anh em vẫn bình tĩnh không dao động, song xôn xao căm tức, người nào việc nấy, đợi chờ lệnh trên, quyết chiến với quân thù.

Ngày hôm sau 18/12, trung đội phó Hà Giáp cùng một số anh em đi nắm lại các nhà Pháp kiều hoặc nghi vấn cộng tác với địch. Một số anh em đi khoan các cây to trên đường Trần Hưng Đạo, đoạn từ ngã ba phố Trần Bình Trọng đến ngã ba Phan Bội Châu và đào một số hố trước cổng để chôn bom. Đồng chí Giang phân phối thêm đạn và lựu đạn "lọ mực" cho anh em, rồi loay hoay với khẩu trọng liên 12 ly 7 hỏng hóc không chữa nổi, mà đưa đi công binh xưởng thì xa. Đồng chí Hưởng chuẩn bị thêm gạo, nước và thực phẩm, thuốc men...

Khoảng 16 giờ 50 ngày l9/12/1946, theo truyền đạt của Chính trị viên Đại đội Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Nguyễn Quang Tường - Đại đội phó cùng Trung đội trưởng Tô An (toàn), Trung đội phó Hà Giáp họp cấp tốc toàn đơn vị ở Đấu Xảo phổ biến âm mưu thực dân Pháp, rồi lệnh cho anh em từ giờ phút này không ai được rời doanh trại, chuẩn bị sẵn sàng, gọn gàng về vũ khí, quân trang, có thể đêm nay nổ súng; mỗi người theo sự phân công phải làm tròn nhiệm vụ, xứng đáng người đội viên tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu.

Sau cuộc họp, mọi người hối hả với công việc, lau súng, nạp đạn, chuẩn bị mìn, kíp nổ. Các nồi xoong, ống bơ nghi trang mìn được rải, đặt trên sân mặt tiền. Một không khí náo nức, sôi động trong mọi người. Nhiều anh em sung sướng hồi hộp, nôn nao không thiết ăn cơm chiều hôm đó.

Đến 20 giờ 3 phút, đèn toàn thành phố vụt tắt. Trời tối om. Tiếng đại bác nổ vang. Cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Toàn đơn vị triển khai vào vị trí chiến đấu. Một nửa tiểu đội 1 do Tiểu đội phó Thanh phụ trách có nhiệm vụ trực chiến ở cổng chính và giữ ụ súng phía phố (Trần Bình Trọng). Một nửa tiểu đội 2 bố phòng ở vị trí phía trái dọc tường rào Yết Kiêu và ụ súng đầu cổng dưới sự chỉ huy của đồng chí Tô An, trung đội trưởng. Một số theo kế hoạch nổ mìn các cây to từ ngã ba Trần Bình Trọng đến ngã ba Phan Bội Châu - Trần Hưng Đạo và chôn quả bom 25kg ở trước cổng. Mìn nổ, song sức công phá không mạnh và chưa đúng kỹ thuật nên phần lớn các cây chỉ bị toác, cành lá lả tả trên đường.

Trong khi đó, nửa tiểu đội 1 của đồng chí Dung và nửa tiểu đội 2 của đồng chí Khuông dưới sự chỉ huy của đồng chí và Giáp đi lùng sục tiêu diệt các ổ mật phục của địch, với mệnh lệnh là bắt sống đưa về Đấu Xảo, kể cả bọn nghi vấn Việt gian, Hán gian, không được đánh đập, bắn chết họ. Nếu ngoan cố chỉ được bắn chỉ thiên.

Tiểu đội trưởng Dung phụ trách quét từ bệnh viện Đặng Vũ Lạc (nay là Việt Nam - Cu Ba) cho đến cạnh nhà có tổ Liên kiêm đóng. Tiểu đội trưởng Khuông lùng sục từ đầu ngõ Tức Mạc đến trường Mỹ nghệ (Yết Kiêu).

Các mũi được phân công rất hăng say sục sạo. Phần lớn các nhà đến đều đóng chặt cửa, cổng, ta phải treo tường, leo rào, nậy cửa mới vào được. Có nhà đã bỏ không vì chúng đã sơ tán vào trong Thành. Có nhà do sợ quá, hai vợ chồng chui vào gầm giường gọi không ra. Đồng chí ta lấy súng có cắm lưỡi lê kêu ra, chạm vào vai mụ vợ, máu chảy nó mới lóp ngóp bò ra van xin đừng giết vì là Pháp kiều. Có một số tên trẻ tuổi ngang bướng không chịu đi, anh em nghĩ là lính mật phục vì nhà có quần áo quân đội, nên cũng phải nện cho mấy báng súng mới đi. Có trường hợp đồng chí Hà Giáp phải rút thanh kiếm Nhật ra uy hiếp. Đến quá 12 giờ đêm, thu quân, ta bắt giam giữ tại hầm khoảng 30 tên cả đàn bà, trẻ con mũi lõ và Việt gian, Hán gian. Điều đáng tiếc là không lần mò ra vũ khí phần vì chúng cất giấu kỹ, trời lại tối, phần vì vội lùng sục e trời sáng, địch phản công. Trong đêm, một số đơn vị tự vệ không có chỗ giam giữ cũng đưa số bị bắt giữ đến Đấu Xảo gửi. Buộc lòng chúng tôi phải hướng dẫn để anh em giải khoảng 20 tên về phía Bạch Mai giao cho Ban chỉ huy mặt trận.

Qua một đêm đầu vật lộn với công việc chiến đấu và chuẩn bị đối phó với cuộc tán công của địch, hầu như không ai chợp mất, ăn đêm cũng qua quýt, căng thẳng đợi chờ, không hiểu cuộc chiến sẽ diễn biến ra sao vì cũng không có mạng lưới quân báo. Mọi liên lạc với Ban chỉ huy đội không có.

Khoảng 7 giờ sáng ngày 20/12 có tiếng động cơ gầm rú phía phố Phan Bội Châu. Xe bọc thép địch thập thò tiến ra đường Trần Hưng Đạo, bị tổ tự vệ chiến đấu đóng ở 107 Trần Hưng Đạo nổ súng trước tiên làm chúng rụt lại. Từ Quán Sứ, một vài xe chở lính tiến vào phía Đấu Xảo, có cả một xe tăng đỗ án ngừ ngay ngã ba, súng chĩa thẳng vào doanh trại của ta. Một số lính pháp đổ xuống tập kết ở trụ sở Liên kiểm phố Quán Sứ. Chúng tôi nổ súng trước về phía Pháp, kiềm chế không cho chúng tiến vào doanh trại, phải co cụm lại. Khoảng 8 giờ, có mấy xe bọc thép từ phía ga Hàng Cỏ tiến vào đường Trần Hưng Đạo, ụ súng máy của đồng chí Khuông ở phía trái bắn xối xả vào chúng, làm cả bọn ở phố Phan Bội Châu mò đến phải dồn vào nhà số 90 mà trên gác chúng lén đặt một khẩu 12 ly 7 từ cửa sổ bắn sang nhà số 107 vào ụ súng của đồng chí Khuông. Căm thù giặc cao độ, đồng chí Khuông rời khỏi ụ súng, vác khẩu tiểu liên Sten treo lên nóc ụ khỏi khuất cây nã súng vào bọn chúng. Tiểu đội đồng chí Dung bên cánh phải tập trung súng bắn yểm trợ cho đồng chí Khuông, song vì hoả lực địch mạnh, đồng chí Khuông đã trúng đạn hy sinh trên nóc ụ. Một tấm gương hy sinh đầu tiên của đơn vị Tự vệ chiến đấu ở Đấu Xảo. Thấy đồng chí Khuông ngã, một đồng chí khác nhẩy lên kéo xác đồng đội xuống, lấy súng chui vào ụ tiếp tục nã đạn vào địch. Lợi dụng hoả lực cánh phải của ta dồn sang hướng trái, bọn Pháp ở cửa chùa Quán Sứ chạy ào ào sang sân sau nhà Hoả xa Việt-Điền (nay là trụ sở Tổng Công đoàn) chiếm lĩnh cao điểm. Chúng bắn xối xà vào Đấu Xảo, song không có hiệu quà vì anh em ta bố phòng ở các hố chiến đấu dưới chân tường.

E gờm lực lượng ta, xe bọc thép của địch nổ máy chạy quanh để thăm dò và uy hiếp tinh thần ta. Không may, đồng chí Hợp, men giao thông hào vào Chỉ huy sở bị một phát đạn từ cao điểm bắn xuống chết ngay tại chỗ. Gần trưa, trinh sát cho biết phía Thuyền Quang và Nguyễn Du, đồng bào tản cư bị ùn tắc trước chùa Quang Hoa, vì bọn địch ở một số nhà gác đầu ngã tư Nguyễn Du – Trần Bình Trọng, đặc biệt là nhà bọn sỹ quan không quân, có súng trung liên từ trên bắn xuống đường rút của ta, làm một số đồng bào chết, bị thương. Có người liều vượt hồ đã chết đuối.

Phía trước cổng, xe tăng địch bắt đầu nã pháo 37 ly thẳng vào nhà Bảo tàng. Tôi và đồng chí Giang men đường hầm ra quan sát địch. Bọn Pháp ở nhà số 90 đang theo xe bọc thép tiến vào cùng với bọn ở Quán Sứ sang, rất dè dặt vì đạn của ta bắn sang và các dụng cụ ngụy trang của ta. Một phát đạn 37 ly nổ gần đường làm đồng chí Giang bị thương nặng - tôi kéo đồng chí vào hầm. Xe địch từ từ tiến vào Quả bom 25kg chôn trước cổng không nổ nên không ngăn được xe tăng địch. Tuy nhiên, chúng cũng chẳng đủ lực lượng để tấn công rộng ra. Ta vẫn liên tục bắn và ném lựu đạn. Một xe gạt lù lù tấn vào gạt chướng ngại vật, vài xe bọc thép của chúng lọt vào trong sân nhà đạn.

Cũng lúc đó, bên Sở Liêm phóng, cuộc chiến với địch hầu như kết thúc. Số đông công an xung phong đã rút sang Đấu Xảo rồi cùng chúng tôi rút về phía Thuyền Quang để bảo toàn lực lượng trước sự tấn công bằng pháo và trọng liên của xe tăng và xe bọc thép của địch dần tiến sâu vào trong Đấu Xảo. Mặt khác cũng để mở đường rút cho đồng bào, một số anh em đề nghị tập trung nhiều súng bắn lên áp đào các cao điểm, đặc biệt là ổ trung liên của bọn không quân án ngữ đường Nguyễn Du. Đồng thời một số tự vệ chiến đấu, công an hỗ trợ cho đồng bào chạy qua chùa Quang Hoa về Kim Liên, Bạch Mai. Đại bộ phận nhân dân và công an xung phong cùng đơn vị tự vệ chiến đấu đã rút lui an toàn. Một hàng binh Nhật ở lại Việt Nam chiến đấu cùng chúng tôi trong khi yểm trợ cho đồng bào ta rút đã trúng đạn ngã giữa đường trước chùa Quang Hoa, khẩu súng Chiêu hoà văng ra. Rất đáng tiếc là đơn vị chúng tôi mải mê chiến đấu chống đỡ với hoà lực địch quá mạnh, khi rút quên không mang theo được gần 30 tên bắt giữ đêm trước. Xế chiều ngày 20/12/1946, người ra trước, người ra sau, có đồng chí lạc đơn vị, và đều mệt mỏi. Đêm hôm sau, 21/12 theo chỉ thị của Ban chỉ huy mặt trận, tổ đồng chí Dung 3 người, cùng tổ đồng chí Hiển 3 người trở lại Đấu Xảo nắm tình hình và thu gom, chôn cất các đồng chí đã hy sinh.

Các đồng chí lên đê La Thành, qua ngõ Trại Khách, sang phố Khâm Thiên, xuyên đường rào nhà Ga ra đường Hàng Lọng vào trường Mỹ nghệ, sang cổng sau Đấu Xảo vào tìm không thấy xác đồng chí Khuơng, đồng chí Hợp, chỉ thấy xác đồng chí Giang nằm cạnh nhà hầm. Không thể mang xác ra được, các đồng chí đã tìm hố chôn cất đồng chí Giang trong đó. Ngay đêm đó, hai tổ trở về an toàn, mang về được một khẩu súng trường, một mũ sắt và ít tư trang của đồng chí Hiển.

Từ ngày 23/12  đơn vị Tự vệ chiến đấu Đấu Xảo được phiên chế phối hợp với Tiểu đoàn 77 Vệ quốc đoàn tiếp tục tham gia chiến đấu ở phố Huế, Hàng Bài, Hàm Long...và rồi suốt cà cuộc kháng chiến thần kỳ.

Theo Hà Nội - Bản hùng ca bất tử mùa đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 100 – 106


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 07:02:24 pm
Chiến đấu ở khu Cửa Nam
      

Đội tự vệ cứu quốc Hoàng Diệu được giao nhiệm vụ:

1. Tấn công tiêu diệt địch ở nhà tên Lơ - Mét.

2. Ngăn quân địch từ Thành nội theo đường Cột cờ qua Cửa Nam tiến xuống đường Trường Thi.

Ban chỉ huy Đội sử dụng trung đội Tô Hiệu (thiếu một tiểu đội), làm lực lượng chủ công, trung đội Trần Quốc Toản (cũng thiếu một tiểu đội), làm lực lượng phối hợp.

(http://thanglonghanoi.gov.vn/dataimages/200911/original/images44954_Doi%20n%E1%BB%AF%20tuyen%20truyen%20xung%20phong%20Hoang%20Dieu.jpg)
Đội nữ tuyên truyền xung phong Hoàng Diệu. Ảnh tư liệu
Tổ Bạch Ngọc Liễn, thuộc trung đội Tô Hiệu canh gác tại nhà Chủ tịch Trần Duy Hưng, ở sát nhà Lơ - Mét là lực lượng đột kích. Tổ được hỗ trợ hỏa lực của trung đội, do Trung đội trưởng Anh Dũng trực tiếp nắm; bố trí ở bên kia đường Thợ Nhuộm và của tổ Thục, thuộc trung đội Trần Quốc Toàn bố trí tại nhà thuốc Thẩm Hoàng Tín phía bên kia đường Phan Bội Châu.

Trung đội Tô Hiệu còn có tổ Trần Đan bố trí tại nhà sơn Rê-zi-stăng-cô đối diện với nhà đồng hồ An-pô, đầu đường Điện Biên Phủ. Nhiệm vụ cụ thể của tổ Trần Đan là ngăn chặn quân địch từ Thành ra theo đường Điện Biên Phủ tiến xuống Cửa Nam và đường Tràng Thi.

Trung đội Trần Quốc Toản ngoài tổ của Thục, còn có tổ của Châu bố trí tại Nhà thuốc Hoàng Xuân Hãn, nhiệm vụ dùng bom ngăn chặn địch tiến xuống đường Tràng Thi và một tổ nữa do trung đội trưởng Phả trực tiếp nắm, bố trí ở nhà số 3 đường Cửa Nam đề phòng địch theo đường Hàng Lọng tiến vào đường Hai Bà Trưng, uy hiếp từ phía sau lưng các lực lượng của ta bố trí ở phía trước.

Đội còn tăng thêm cho Cửa Nam tổ của Toàn, tổ trưởng quân khí của đội được trang bị một đầu đạn 105 ly để đánh cơ giới. Tổ Toàn bố trí bên trái tổ của Thục trong một nhà dân đối diện với trạm biến thế và tổ của Huy, tiểu đội trưởng của Trung đội Ký Con chỉ huy 2 tổ bảo vệ trụ sở Thành bộ Việt minh (ở 107 Trần Hưng Đạo) bố trí ở số nhà 30 Thợ Nhuộm nhằm tiêu diệt ổ chiến đấu của địch ở một nhà Pháp kiều trước mặt.

Ngoài ra còn đồng chí Ninh Hữu Cần, một tiểu đội trưởng của Tô Hiệu được phái xuống để giúp Tự vệ tiểu khu Cửa Nam chiến đấu.

Tất cả đã chiếm lĩnh vỉ trí từ đêm 17/12/1946 để có thời gian tiếp tục chuẩn bị trong ngày 18 rồi cả ngày 19.

Địch ở nhà Lơ - Mét, anh em nắm chưa được chắc nhưng ít nhất cũng với một tiểu đội có hoả lực mạnh. Có tình huống xảy ra ngoài dự kiến: Khoảng 19 giờ, một tiểu đội tuần tiễu của địch có 2 Háp-tơ-rắc mang ký hiệu xe Liên Kiểm từ phía đường Tràng Thi tới đã dừng lại ở khu vườn hoa. Một chiếc đỗ ngay trước nhà mà tổ của Toàn bố trí, súng chĩa về hướng chợ, điều kiện để tiêu diệt vô cùng thuận lợi, nhưng vì chưa có hiệu lệnh hành động nên anh em không dám động tĩnh, khoảng nửa giờ sau chiếc xe cơ động về phía đường Phan Bội Châu. 20 giờ 03 phút đèn điện tử, pháo súng bắt đầu nổ. Cả đội tuần tiễu của địch bố trí ở đâu rồi, tổ Toàn không nắm được. Anh Dũng, trung đội trưởng trung đội Tô Hiệu có hiệu lệnh, từ vị trí chốt của mình lập tức phát huy hoả lực; khẩu trung liên mới được lau chùi lại ban chiều, bắn xả

vào chỗ nghi có địch bố trí trong nhà Lơ - Mét để yểm hộ cho tổ Bạch Ngọc Liễn; 5 chiến sĩ cùng 3 tự vệ công nhân lái xe xuất kích từ nhà đồng chí Trần Duy Hưng triển khai công kích. Tổ Thục cũng nổ súng bắn mạnh vào các cửa sổ tầng 2 nhà Lơ - Mét nhìn xuống phố Phan Bội Châu - Tổ Bạch Ngọc Liễn tìm cách vượt cổng sắt phía sau để đột nhập vào tầng 1 nơi có địch bố trí. Địch không phản ứng lại phía Thục, nhưng tập trung hoả lực đối phó với tổ Liễn, chủ yếu bằng cách ném tựu đạn và bắn súng từ tầng 2 xuống. Anh em không ai thương vong nhưng mất nhiều thời gian tìm cách mở cổng sắt, 21 giờ ta mới đột nhập được vào trong nhà. Địch tập trung hết lên tầng gác, đóng chặt cửa chặn lối lên.

Tổ Liễn đang loay hoay tìm cách lên gác thì có 2 xe gíp của địch từ phía Cửa Nam vụt chạy theo đường Thợ Nhuộm về hướng nhà Hoà Lò và một Háp-tơ-rắc xuất hiện ở Phan Bội Châu ngay lối cổng ra vào nhà Lơ - Mét. Tổ Thục bắn rát vào chiếc Háp-tơ-rắc, chiếc Háp-tơ-rắc lùi lại về phía đường Hai Bà Trưng và bắn trả lại, bộ phận của Dũng ném lựu đạn xuống 2 chiếc xe gíp nhưng không trúng. Một hoả điểm đại liên của địch từ phía nhà Hoả Lò xuất hiện bắn từng đợt như vãi đạn ngược về hướng Cửa Nam theo đường Thợ Nhuộm.

Tổ Liễn tìm cách đánh lên gác vẫn chưa được, sau theo lệnh của trung đội trưởng tập trung hết tất cả số xăng cờ-rếp mà tổ có để đốt nhưng cửa chắc không phá được.

Tới 23 giờ, quân địch từ trong thành tiến ra đã vượt qua Cửa Nam vào đường Tràng Thi. Một đoàn gồm xe tăng và xe thiết giáp vượt qua chỗ bố trí của Châu, một lúc sau lại có 1 xe tăng, 2 xe Háp-tơ rắc chạy ngược lại về hướng Thành. Tổ Châu kịp thời giật quả bom đặt dưới đường hầm ngầm dưới mặt đường đã được tổ Bạch Ngọc Liễn đào từ những ngày trước, chiếc xe tăng trúng bom nổ tung và lật nghiêng sang bên đường. Châu bị hơi bom hất ngã bị thương mờ cả hai mất. Anh em phải đưa ngay về phía sau cấp cứu.

Trước đó khi tiếng súng phía nhà Lơ - Mét đã tạm im, một số lính địch trên các xe chốt tại vườn hoa Cửa Nam đã xuống đường nghênh ngang nhí nhố. Tổ Toàn lợi dụng cơ hội ném liền hai quả lựu đạn và bắn về phía chúng. Thấy chúng la hét gọi cáng thương tới và một Háp-tơ-rắc từ hướng nhà đồng hồ Anpo đã nổ súng bắn dữ dội về phía tổ Toàn. Anh em chuẩn bị đánh địch tấn công nhưng sau không thấy quân địch xông tới.

Anh em tự vệ khu chợ Cửa Nam có Ninh Hữu Cần tham gia chỉ huy cũng bắn súng vào các toán quân địch. Tổ Trần Đan bố trí tại nhà sơn Résistanco và tổ Phả chốt ở nhà số 3 Cửa Nam trong đêm chưa phải tham chiến.

Việc đánh chiếm nhà Lơ - Mét của tổ Bạch Ngọc Liễn gặp bế tắc. 3 giờ sáng ngày 20/12, Dũng lệnh cho toàn tổ rút về bên này đường. Mệnh lệnh được nhanh chóng chấp hành. Việc tập trung lực lượng đã được hoàn thành trước sáng.

Tổ Thục, tổ Toàn không nhận được mệnh lệnh của trên, nhưng thấy tình hình đã có chiều hướng bất lợi cũng rời bỏ vị trí bố trí, tìm nơi kín đáo dấu quân, chờ xem động tĩnh.

Tổ của Huy không phát hiện tại nhà trước mặt có địch, đến 21 giờ cả tổ bèn rút về nhà Cơ khí Mai Trung Tâm làm nòng cốt cho đơn vị tự vệ công nhân bảo vệ nhà máy.

9 giờ ngày 20, quân địch đi trên Háp-tơ rắc từ phía Thành tiến ra chiếm nhà An-pô và triển khai bố trí một khẩu đại liên trên sân thượng, tổ Trần Đan từ tầng 2 nhà sơn Rê-zi-stăng-cô nổ súng, bọn địch giữ khẩu đại liên bỏ súng chạy toán loạn. 10 giờ một xe bánh xích của địch xông sang phía bên này thăm dò, anh em ta đốt quả bom 25 kg quẳng xuống, bom nổ, khói bốc mù mịt, xe địch không bị trúng, nhả khói chạy sang bên kia đường rồi dùng súng 12,7 ly trên xe bấn trả. Một xe tăng địch tới dùng pháo bắn thẳng vào nhà. Anh em rút xuống tầng trệt, chờ địch vào nhưng địch không vào. Quá trưa địch rút, anh em củng cố vị trí chờ, nhưng cho đến hết ngày địch không trở lại.

Phía đường Hàng Lọng, địch đã vượt được trận địa của anh em tự vệ thuộc Liên khu III bố trí ở chỗ chắn tàu giữa phố, trận địa này trong đêm đã gây tổn thất và chặn đứng được cuộc tiến quân của địch theo đường Hàng Lọng - rồi tràn vào khu ngã 5 trước chợ Cửa Nam. Bộ phận của Phả đã kịp thời chuyển sang phía bên kia đường và rứt về trụ sở Thành bộ Việt minh ở 107 Trần Hưng Đạo.

Địch tiến quân về phía nhà Ga, đồng thời chốt lại một bộ phận ở khu ngã 5. Bộ phận này tung lực lượng vào các nhà lùng sục.

Tổ Thục sau khi rút khỏi vị trí đóng ở nhà thuốc Thẩm Hoàng Tín, quyết định theo các đường trong nhà rút về ngả Sinh Từ, nhưng đến gần nhà số 3 nơi tổ Phả đóng, đã phát hiện thấy địch từ phía chợ Cửa Nam tiến xuống. Bọn chúng sục sạo từng nhà, nơi nào nghi có ta thì nổ súng liên hồi và xông tới đâu thì bịt lỗ ta đục xuyên tường đến đó. Anh em vội vã quay lui, dùng thang trèo lên náu mình trên trần một nhà gạch chuẩn bị sẵn, địch phát hiện xông vào đánh, nhưng không làm gì được. Đến 14 giờ anh em trên trần nhà nhìn ra thấy địch đang đốt nhà dân phía Hàng Lọng và Hai Bà Trưng. Sẩm tối, thấy yên lặng anh em mới xuống rồi theo đường Phan Bội Châu rút về trụ sở Thành bộ Việt minh. Cả ở nhà Đấu Xảo anh em ta cũng đã theo đường Yết Kiêu xuống Thuyền Quang, đến đường Đại La thì gập được Nguyễn Văn Cừ cho dừng lại nghỉ ngơi ăn uống.

Tổ của Toàn trụ lại ẩn náu và sẵn sàng chiến đấu trên sân thượng có ban công khá chắc chắn bao quanh của một ngôi nhà hai tầng. Quá trưa địch thọc vào dưới tầng trệt, thấy không có gì lại ra ngay. Nhìn ra xung quanh thấy nhiều nhà đang cháy, anh em quyết định rút về phía Sinh Từ. Bắt đầu đi từ lúc 20 giờ, len lỏi giữa các nhà, gặp khó khăn vì nhiều nhà bị sập. Đến 2-3 giờ sáng ngày 21 mới trò qua được đoàn toa xe lửa bị đánh đổ làm vì chướng ngại ở đầu phố Sinh Từ ra theo đường Sinh Từ đến chùa Linh Quang, được anh em từng họp ở đó cho ăn xong lại đi tiếp xuống Bạch Mai theo ngả phố Huế. Trên đường Toàn có thu thập được một số công cụ đồ nguội đem về để sửa chữa vũ khí. Chiều 21, anh em về tới ngõ Quỳnh. Toàn đi tìm chỉ huy gặp ngay Kiên, Bảo. Kiên gợi ý ngay cho Toàn lập tổ quân khí để sửa chữa vũ khí.

Tổ Huy ở nhà cơ khí Mai Trung Tâm cùng tự vệ công nhân bố trí sẵn sàng chiến đấu, nhưng cả ngày 20 địch không tới, đến tối cả tổ rút về Khâm Thiên, sau này tìm đường về Bạch Mai.

Tiểu đội trưởng Ninh Hữu Cần thì ngay trong đêm 20/12 đã theo ngả Sinh Từ đi về hướng Văn Miếu rồi sát nhập vào đại đội Lưu Vân ờ vùng đó để hoạt động.

Bộ phận của Dũng - Liễu ở khu vực phố Thợ Nhuộm sau khi đã rút được hết sang bên này đường đã có một cuộc họp chớp nhoáng tại căn hầm Cộng hoà Thương Cục ở gần sát nhà thuốc Hoàng Xuân Hãn. Tổ của Châu ở đó lúc này đã rút, anh em quyết định trụ lại, vẫn lấy nơi Dũng đã bố trí là một cái hàng bánh ngọt có sẵn lương thực. Chủ hàng và anh em công nhân gắn bó với anh em ta rất tốt.

9 giờ ngày 20, một toán quân địch khá đông xuất hiện, chúng dùng hoả lực mạnh bắn vào nơi anh em ta ẩn nấp. Ta dùng súng trường bắn chắc từng phát. Địch bị tổn thất, không dám xông vào. Quá trưa địch tăng thêm lực lượng và từ mấy ngả đột nhập, ta tiếp tục đánh chặn nhưng phạm vi của ta bị lấn dần và đạn dược cũng không còn được mấy. Rồi nhân một lúc địch sơ hở ta đã nhanh chóng rút được toàn bộ lực lượng về một kho bao tải của Cộng hoà Thương Cục. Có hai ý kiến tranh chấp: Một là cố thủ, địch vào thì đánh đến cùng rồi cùng chết với địch. Hai, cho chết như vậy là vô ích, cần phải mở đường máu về với đơn vị mà tiếp tục chiến đấu. Ý kiến thứ hai được anh

em chấp thuận, quyết định là bằng cách bất ngờ vượt qua đường Tràng Thi vào ngõ Hội Vũ, tìm nơi an toàn tạm trú tìm về đơn vị. Liễn đi đầu, Dũng đi cuối, tất cả lưỡi lê cắm đầu súng, gặp địch là đánh.

16 giờ 30, ra quan sát thấy chiếc xe tăng địch bị tổ Châu phá hỏng nằm chềnh ềnh bên đường, trước cửa hiệu thuốc Hoàng Xuân Hãn, mấy tên lĩnh mũ đỏ lúi húi phía sau. Một tiếng hô "chạy" phát ra, anh em bung cửa nhà Cộng hoà thương Cục vụt qua đường Trường Thi. Mấy tên lính mũ đỏ hoảng hốt nằm ẹp xuống. Nhìn dọc phố Trường Thi thấy từ hai phía có hai đoàn xe đang tiến đến, anh em chạy vào ngõ Hội Vũ, gần đến chỗ lượn trong ngõ thì một khẩu trung liên của địch từ tầng 2 nhà Hoàng Xuân Hãn bắt đầu nhà đạn bắn đuổi, rồi đoàn xe địch từ phía Cửa Nam đến cũng bắn theo như vãi đạn. Nhưng anh em đã kịp chạy vào khu vực an toàn và quân địch cũng không dám đuổi theo.

Sáng ngày 21, chốt tại Cửa Nam chỉ còn tổ Trần Đan. Đến 9 giờ có 7-8 xe tăng, xe Háp-tơ-rắc cùng bộ binh địch đi trên Ô tô xuất hiện. Bộ binh xuống xe toả các ngả đường, một toán tiến vào phá cửa tầng trệt, hoả lực trên các xe bắn yểm hộ. Tổ Đan chuyển lên trên gác, tầng liệt cửa khép chắc, địch không phá được để vào. Một tên lê dương hung hăng trèo lên cột điện định theo đường đó thâm nhập, bị bắn tức thời rớt xuống đường, bộ binh địch chạy dạt về sau các xe để ẩn nấp. Súng trên các xe từng loạt nhằm vào tầng 2 nhả đạn. Anh em lại chuyển xuống dưới nhà dùng súng nhằm những tên đứng sau xe bắn tỉa, và ném cả lựu đạn ra chỉ nhằm mục đích uy hiếp, 14 – 15 giờ chiều thì địch rút. Anh em không ai việc gì. Đến tối cùng với 11 tự vệ thành (có 2 nữ), anh em theo các đường thông tưởng trong nhà rút về phố Hàng Bông, trụ lại tại một nhà ở đầu đường Hội Vũ, đoạn đường Phùng Hưng và Hàng Bông: ở khu vực này ngổn ngang cây đổ và những đồ đạc trong nhà vứt ra đường làm vật cản. Sáng 22 nghe có tiếng đại bác từ hướng Thành bắn ra, anh em trèo lên sân thượng nhìn, phát hiện thấy từ phía Cửa Nam một toán địch đang tiến đến vừa đi vừa sục sạo vào các nhà. Anh em ném lựu đạn xuống, địch có đứa bị thương, kéo nhau chạy ngược về hướng Cửa Nam, đến chiều vẫn không thấy trở lại. Anh em tranh thủ khi trời còn sáng rút tiếp. Tối xuống, thắp đuốc để đi, 21-22 giờ tới khách sạn A-zi-a. Ít giờ sau thì bộ phận Dũng - Liễn từ phố Thợ Nhuộm cũng về đó.

Theo Hà Nội - Bản hùng ca bất tử mùa đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 92 – 99.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 07:33:39 pm
Đội tự vệ khu Lò Đúc
       

Khu Lò Đúc mang danh số 12 thuộc Liên khu II Hà Nội, bao gồm: phía Bắc từ ngã năm Lò Đúc - Lê Văn Hưu chạy dọc phố Hàn Thuyên ra bờ sông Hồng; phía Nam từ đê Bành Lao qua Ô Đống Mác - Lãng Yên ra cảng Phà Đen; phía Đông từ dốc Vạn Kiếp xuôi theo ven đê sông Hồng xuống đến cảng Phà Đen; phía Tây từ ngã năm Lê Văn Hưu - Lò Đúc chạy suốt dọc phố Lò Đúc qua dốc Thọ Lão đến Ô Đống Mác...

Hình thái địa dư khu này có đặc điểm gần giống với khu Chợ Hôm. Bởi cũng có một con đường huyết mạch từ trong nội đô chạy thẳng qua một cửa ô, trực tiếp thông xuống phía Nam (phố Lò Đúc qua cửa Ô Đông Mác, theo đê sông Hồng đổ xuôi...).

(http://thanglonghanoi.gov.vn/dataimages/200912/original/images45093_1.jpg)
Chướng ngại vật trận địa mìn để ngăn chặn địch. Ảnh tư liệu

Đội tự vệ khu Lò Đúc được hợp thành bởi toàn thể các lực lượng tự vệ của các tiểu khu hành chính, nằm trong giới hạn địa dư kể trên. Ngoài những đơn vị chỉ có mươi mười lăm anh em (cỡ chừng non già một tiểu đội), khu Lò Đúc trước ngày nổ súng kháng chiến toàn quốc có ba đơn vị tự vệ mạnh. Đó là: Trung đội tự vệ Lò Đúc 1 do hai đồng chí Trình và Quang Thọ chỉ huy (trung đội này hầu hết là học sinh, ở đoạn đầu phố Lò Đúc - từ ngã năm Lò Đúc - Lê Văn Hưu đến ngã tư Nhà thương Chó (nay là khu vực cơ quan trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Trung đội tự vệ Lò Đúc 2, còn gọi là trung đội Cẩm Hội, do hai đồng chí Xuân và Thu chỉ huy (trung đội này gồm có học sinh với các viên chức nhỏ và thợ thuyền... Ở khúc đường từ ngã tư Nhà thương Chó tới dốc Thọ Lão - chủ yếu là xóm Cẩm Hội. Đơn vị tự vệ thứ ba là đại đội 12, gồm người ở từ dốc Thọ Lão đến Ô Đống Mác, hầu hết là anh em lao động tự do (phu khuân vác, xích lô ba gác, đồ tể ba toa...) đại đội này không bầu được người chỉ huy vì anh em ai cũng chỉ muốn đánh Tây chứ không ai muốn nhận trách nhiệm là người chỉ huy...

Lúc này, tôi đang làm thợ ở xưởng STAI Quai, và là Uỷ viên quân sự phụ trách đội tự vệ xí nghiệp. Đối với địa phương, trong cuộc bầu cử chính quyền khu phố, tôi được bà con bầu là Phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến khu Lò Đúc (là khu 12 thuộc Liên khu II Hà Nội).

Đại đội tự vệ tổ chức ra chưa bầu được người chỉ huy, anh em đến “vận động” tôi làm đại đội trưởng, tôi đã nhận lời. Vậy là Ban chỉ huy đại đội 12 chính thức gồm có: Đại đội trưởng Phạm Đình An, chính trị viên Thảo (hiện còn sống, là đại tá công an đã nghỉ hưu), đại đội phó là anh Ban, anh Thìn (đã mất). Cán bộ trung đội gồm có: Trung đội Thọ Lão do 2 anh Hồ và Sinh chỉ huy (anh Sinh đã từng đi lính Nhật, trung đội Đống Mác do 2 anh Hương và Thiện Ngô chỉ huy, trung đội Ba Hàng do anh Tứ chỉ huy. . .

Theo đó, các tổ chức thanh niên, thiếu nhi... đều yêu cầu tôi phụ trách họ, thế là tôi thành Khu trưởng thanh niên và Khu trưởng thiếu nhi.

Bắt tay vào công việc chuẩn bị kháng chiến, tôi tập trung vào công tác đại đội trưởng: tổ chức đại đội luyện tập, diễn tập (trong đó có một cuộc diễn tập chung với các đội tự vệ khu vực Lò Lợn, Đồng Nhân. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao được chú ý. Đến tháng 11/1946, tình hình đã trở nên căng thẳng khi tin quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng bay về Hà Nội. Khắp thành phố đâu đâu cũng xôn xao phẫn nộ.

Trong hoàn cảnh đó, chúng tôi tổ chức quán triệt tình hình và nhiệm vụ xuống từng cơ sở. Tiểu khu nào cũng thành lập các tổ chức phá hoại, tiếp tế, tân cư, cứu thương, v.v... mỗi tổ phải đảm nhiệm một chức trách cụ thể để chuẩn bị kháng chiến. Ai nấy hăng hái dốc sức người, sức của cho công việc. Là một khu có đông nhân dân lao động, hàng ngày bà con vẫn phải tranh thủ đi kiếm ăn, thời gian còn lại hầu như ai nấy đều dành cả cho công việc chuẩn bị kháng chiến. Anh chị em trong các đội tự vệ là những người hăng hái nhất và cũng vất vả nhất. Ngoài việc học tập quân sự và canh gác, anh chị em còn là lực lượng chủ yếu trong các đội phá hoại và đào công sự, đắp chiến luỹ (ngoài việc tham gia cùng Liên khu II đào đắp các ụ lớn ở ngã năm Lê Văn Hưu - Lò Đúc, anh chị em còn cùng với nhân dân trong khu mình đắp ba ụ chiến đấu, rải từ ngã tư Nhà thương Chó xuống đến Ô Đống Mác. Riêng cái ụ chỗ đầu Ô Đống Mác là một công trình rất kiên cố (khi ấy ở Ô Đống Mác có ông Mai Tiếp là chủ xường gỗ, trước đề nghị của anh em tự vệ, ông Mai Tiếp vui vẻ tình nguyện tặng cho anh em tất cả kho gỗ của ông để dùng vào việc chống Pháp. Anh em đã dùng gỗ lim nguyên cả cây chôn đứng 3 hàng dọc chạy ngang qua mặt đường, rồi chèn lấp cao hơn ba mét, xe tăng và cơ giới không tài nào vượt qua được - vụ này đã trụ lại đến cùng ở tại đấy, cho đến ngày quân ta rút khỏi Hà Nội). Và, dọc hai bên lề đường suốt từ Lò Đúc đến Ô Đống Mác đều có công sự cá nhân được anh em cùng bà con dân phố đào săn để đợi ngày đánh địch.

Ngày 19/12/1946, đến tận 17 giờ, tôi đi làm về đến trụ sở Uỷ ban mới nhận được lệnh chuẩn bị nổ súng. Tính ra chỉ còn có già hai tiếng đồng hồ, tôi cuống quá vội chạy đi tìm anh Phạm Trọng Thế khu trưởng để bàn công việc nhưng không sao tìm thấy (và rồi trong suốt thời gian chống Pháp, tôi cũng không một lần nào được gặp anh ấy). Thế là tôi phải tự mình xử lý mọi việc. Thời giờ cấp bách quá, không có cách nào gặp được hai trung đội tự vệ 1 và 2 của khu Lò Đúc, mà tôi là khu phó, để truyền đạt mệnh lệnh tác chiến, tôi đành về thẳng trụ sở của đại đội 12 - mà tôi là đại đội trưởng, triệu tập các trung đội trưởng đến phổ biến mệnh lệnh của cấp trên và quy định từng trung đội căn cứ vào kế hoạch tác chiến đã định, trước 20 giờ phải có mặt tại dốc Thọ Lão, đợi hiệu lệnh để nhất tề xuất phát tiến công giặc Pháp.

Tôi về nhà hối thúc gia đình tản cư và ăn vội lưng cơm xong là đi ngay. Đến dốc Thọ Lão được chừng dăm phút thì thấy các anh em lục tục kéo tới - khi ấy thì tôi chỉ nghĩ đến đánh Tây chứ có nghĩ được điều gì khác. Bây giờ nhớ lại mới thấy . . . sợ: cả một đại đội quân tới hơn trăm người mà vũ khí “hiện đại” chỉ có 2 khẩu Stel (tiểu liên do Pháp sản xuất từ thời mốc thếch nào chẳng biết) cùng hơn 10 trái lựu đạn đủ kiểu “bòn nhặt được” trong đó có một trái do một me Tây (gái điếm chuyên phục vụ bọn Pháp) tặng cho anh em tự vệ. Còn lại là vũ khí “tự túc”, đủ thứ: dao phay, dao bổ củi, dao bầu hàng thịt, dao găm... cho đến xà beng, búa đinh, búa tạ hoặc côn, tay thước, đòn gánh... bất kể là thứ gì có thể giúp anh em “chơi nhau” với bọn Pháp... đều được coi là vũ khí.

Anh em tề tựu mỗi lúc một đông, thậm chí có nhiều người không có trong danh sách tự vệ cũng đến dự. Từng trung đội kiểm điểm quân số, không một ai vắng mặt. Ai nấy háo hức chờ đợi. Chừng mươi phút thì đèn thành phố tắt phụt và đại bác đồng thời nổ vang rền. Không chờ tôi ra lệnh, tất cả ba trung đội ào ào vọt đi ngay. Súng khắp nơi thi nhau nổ. Bà con trong phố đổ ra gọi nhau í ới. Một lát sau, không biết họ nghĩ sao, rất đông người (đa số là các ông bà trung niên) kéo đến chỗ tôi, cùng trèo lên ụ nghển cổ trông vào những nơi có nhiều tiếng nổ và ánh lửa bốc lên, ồn ào bàn tán. Có người thích chí lấy phèng la, chậu thau ra gõ váng lên. Thế là mọi người đua nhau làm theo, hò hét náo loạn cả một vùng...

Sau chừng một tiếng đồng hồ, liên lạc của đại đội đồng chí Như Trang (đại đội trưởng tiểu đoàn 212 đóng quân ở khu vực Lò Lợn) đến tìm tôi thông báo: đại đội bộ của đại đội đồng chí Như Trang đã chuyển vào ở tại trụ sở của đại đội tự vệ Lò Đúc chúng tôi. Gặp anh Như Trang, hai anh em đang bàn tính công việc về tổ chức hậu cần, thì một quả moóc-chi-ê rót trúng nóc nhà. Tôi lập tức đưa anh Như Trang cùng anh em vào nhà ông Tư Lung gần gốc đa làng Thanh Nhàn (mé dưới chân đê). Trong tình hình thực tế lúc bấy giờ, có sự khó khăn trong mối quan hệ giữa công việc hậu cần và tác chiến, anh Như Trang đề nghị hợp nhất hai lực lượng bộ đội và tự vệ làm một. Các chỉ huy tự vệ ở bậc nào sẽ trở thành phó bậc ấy ở đơn vị mới sau khi sáp nhập. Như vậy có các cấp phó là người bám địa thì giải quyết công việc hậu cần sẽ dễ dàng hơn. Tôi nghe thấy phải, liền đồng ý. Thế là lập tức ba trung đội tự vệ của đại đội 12 chúng tôi trở thành bộ đội chính quy kể từ hôm ấy (20/12/1946).

Cũng từ hôm ấy tình hình chiến sự diễn ra có sự giằng co hết sức căng thẳng giữa hai bên ta và Pháp. Tiêu biểu là những nơi: Xí nghiệp STAI mất đi chiếm lại sáu lần, Viện  Pasteur ba lần, nhà Nguyễn Lễ (chủ Nhà máy Rượu, Nghị viện Dân biểu) bốn lần, v.v... Quân Pháp lợi dụng ưu thế của máy bay, đại bác, xe tăng, liên tục tấn công quân ta trên hai trục đường Lò Đúc và bờ sông, hy vọng mở đường máu tiến ra ngoại thành. Trong khu 12 (Lò Đúc) lúc bấy giờ, trên tuyến đường Lò Đúc - Đống Mác lực lượng tự vệ khu Lò Đúc gồm có trung đội Quang Thọ, trung đội Trịnh Xuân với đại đội 12 (đã sáp nhập vào đại đội 16 thuộc tiểu đoàn 212 của bộ đội - đại đội Như Trang) trên tuyến đường bờ sông Hồng từ Đồn Thuỷ đến Ba Hàng, lực lượng tự vệ gồm có đại đội tự vệ Lò Lợn, trung đội tự vệ Ba hàng với hai đại đội Vệ quốc đoàn là đại đội 2 thuộc tiểu đoàn 77 (Quang Biền), và đại đội 15 thuộc tiểu đoàn 212 (Quý), đại đội anh Quý bố trí phía dưới đại đội anh Quang Biền một chút…

Trên cả hai tuyến đường (trong khu 12 Lò Đúc) quân Pháp đều áp dụng cách đánh như nhau: thoạt tiên dùng máy bay thả bom, hoặc đại bác tầm xa bắn dọn đường. Sau đó cho xe tăng và xe bọc thép xông lên bán đại bác 20 ly và trọng liên 12 ly 7 như vãi đạn ra trước mặt và hai bên. Theo sau xe tăng, thiết giáp là lúc nhúc những tên lính Tây trắng, Tây đen và “mũ đỏ”... trang bị đến tận răng, hò hét loạn xị thúc nhau tiến lên...

Trên đường Lò Đúc - Đống Mác hầu như ngày nào bọn Pháp cũng hùng hổ nống ra ít nhất là một lần (có ngày chúng tấn công ta đến bốn lần) bài bản không có gì thay đổi. Bên ta, lực lượng tự vệ khu Lò Đúc cùng đại đội Như Trang dựa vào chiếc ụ chiến đấu kiên cố ở  Ô Đống Mác đã đẩy lùi mọi đợt tiến công của quân Pháp.

Trên đường Đồn Thuỷ - Ba Hàng: Lực lượng từ vệ Ba Hàng, Lò Lợn cùng với hai đại đội Vệ quốc đoàn (của tiểu đoàn 77 và 212) đã hết sức ngoan cường, chống cự quyết liệt. Mặc dù không có ụ chiến đấu và bom ba càng, anh em đã dùng ét-xăng-crếp đốt cháy một xe tăng địch, tiêu diệt gần năm chục tên trong một trận đánh khiến chúng khiếp vía, không dám liều lĩnh tiếp tụt xông lên.

Ban ngày thì như vậy. Đêm đến, quân ta liên tục mò vào sâu trong lòng địch bắn tỉa lính gác, tung lựu đạn, tiêu hao lực lượng của chúng …

Cuộc chiến giữa ta với Pháp ở khu Lò Đúc diễn ra cứ giằng co kéo dài suốt từ đêm 19/12/1946 cho đến sáng ngày l5/1/1943 thì đột nhiên 5 giờ sáng (trời còn tối, chưa nhìn rõ mặt người) quân Pháp đồng loạt tiến công quân ta trên toàn trận tuyến (từ ngã tư Ô Đồng Lầm qua đường Đại Cồ Việt, Ô Cầu Dền, đê Bành Lao, Ô Đống Mác... ra tới Ba Hàng) các cỡ súng và bộ binh của chúng vừa bắn vừa ào ạt xông lên. Các đơn vị bộ đội và tự vệ của ta đang chốt chặn trên toàn tuyến nhanh chóng nổ súng chống trả, thì bất ngờ, từ sau lưng đại đội 15 thuộc tiểu đoàn 212 (đại đội anh Quý đang trấn giữ ở mé dưới Ba Hàng) đột nhiên tiếng súng của quân Pháp rộ lên rất gắt...

Thì ra bọn Pháp đã bí mật xuôi theo sông Hồng, ém quân dưới mép nước chờ sẵn đằng sau đại đội anh Quý mà không ai hay biết.

Bị tập hậu bất ngờ, đại đội anh Quý vừa chống trả vừa rút trở ngược lên, về rặng ổi làng Thanh Nhàn. Bọn Pháp không bám theo, mà nhằm thẳng lên Ba Hàng tấn công

vào sau lưng đại đội 2 của tiểu đoàn 77 (đại đội anh Quang Biền) và hai đơn vị tự vệ Ba Hàng, Lò Lợn. Cánh quân Pháp từ Đồn Thuỷ mò xuống phục sẵn, lúc ấy mới đồng loạt nổ súng phối hợp với cánh quân ở phía dưới. Bị tấn công đồng thời cả hai phía, quân ta bị động, khó chống cự. Địch cho xe tăng nhanh chóng vượt qua cửa ngõ Ba Hàng, xông thẳng xuống Vĩnh Tuy. Một chiếc đi lọt, lập tức hàng chục chiếc xe tăng và thiết giáp khác cấp tốc bám theo (chúng sợ chiếc đi đầu bị nạn sẽ cản đường tiến của tất cả những chiếc sau). Trận đánh ở một trong bốn điểm chốt quan trọng trên cả mặt trận phía Nam Hà Nội của quân ta (bốn điểm chốt đó là Ô Đồng Lầm, Ô Cầu Dền, Ô Đống Mác, Ba Hàng... rải từ tây sang đông, cắt ngang Liên khu II Hà Nội, chặn quân Pháp từ trong nội thành nống ra vùng ngoại ô), đã bị chúng chọc thủng. Hơn một chục xe tăng thiết giáp cùng với ba tiểu đoàn quân tinh nhuệ của quân Pháp, vượt qua Ba Hàng xuống Vĩnh Tuy, quật vào Mai Động, chọc vào ngã tư Trung Hiền và Ngã Tư Vọng…

Thời bấy giờ ta chưa có đủ điện thoại trang bị cho bộ đội, nên các đơn vị đứng chặn ở đâu chỉ biết giữ vị trí của mình, không hề biết gì về tình hình các đơn vị bạn. Bởi vậy không thể chi viện ứng cứu cho nhau được.

Mặt trận Ô Cầu Dền (khi đó mọi người gọi trận tuyến phòng ngự của Liên khu II Hà Nội chúng tôi bằng cái tên như vậy) bị vỡ bắt đầu từ điểm chốt trên tuyến bờ đê sông Hồng thuộc địa giới phòng ngự của Khu 12 (Lò Đúc) chúng tôi…

Đại đội chúng tôi (gồm đại đội lố tiểu đoàn 212 cùng toàn thể anh chị em tự vệ khu Lò Đúc kể cả đại đội 12 lẫn hai trung đội Lò Đúc 1 và 2) rút ra Thanh Oai. Tất cả chúng tôi trở thành quân của đại đội 16 thuộc tiểu đoàn 212. Sau đấy chúng tôi đã được vinh dự mang danh hiệu  Đoàn quân Tây Tiến… và đi suốt cuộc kháng chiến trường kỳ của đất nước cho đến ngày thắng lợi.

Theo Hà Nội - Bản hùng ca bất tử mùa đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 185 -192


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 07:36:25 pm
Cuộc chiến đấu ở mặt trận Hàng Bột từ 19 đến 30/12/1946
     

Đường phố Hàng Bột là một trong nhiều đường phố chính trong Liên khu III.

Khu phố Hàng Bột đoạn phố trên bao gồm nhiều phố nhỏ như: Hàng Cháo, ngõ Hàng Bột, Phan Phù Tiên, Cát Linh, Bích Câu, Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn, Trương Vĩnh Ký (nay là Phan Văn Trị) vào làng An Trạch, phố Quốc Tử Giám.

Chuẩn bị kháng chiến

(http://thanglonghanoi.gov.vn/dataimages/200912/original/images45097_2.jpg)
Những nồi đất được ngụy trang như trận địa mìn làm cho quân giặc phải hoảng sợ. Ảnh tư liệu

Tháng 10/1946, Tiểu đoàn 523 được giao nhiệm vụ bảo vệ đường giao thông quan trọng này của Trung ương. Đại đội 29 được phân công phụ trách đánh địch ở mặt trận phố Hàng Bột. Vệ quốc đoàn và tự vệ đã phối hợp tốt. Dãy số lẻ do tự vệ Hàng Bột phụ trách, dãy số chẵn do Việt Nam Cứu quốc Hội phụ trách để tiện đường tiến lui. Nhiệm vụ đại đội 29 là: “Đơn vị tác chiến tuyến đầu của tiểu đoàn, phối hợp với tự vệ khi có lệnh chiến đấu phải tiêu diệt các ổ tác chiến của địch trên đường phố Hàng Bột. Không cho địch thọc sâu, nống ra chiếm đường phố Hàng Bột, thu hút và tiêu hao một bộ phận lực lượng địch tại đây để phối hợp với các đơn vị trong toàn thành chiến đấu thắng lợi…”.

Đại đội đã bố trí:

- Trung đội 58 phân tán các nhà dân. Nửa tiểu đội ở sát rào chắn tàu Sinh Từ trông ra Cửa Nam.

- Trung đội 56 đầu phố Hàng Bột gồm trạm biến thế điện trông sang Văn Miếu. Do không được đào giao thông hào sát đầu đường Hùng Vương bây giờ với sân

vận động Septo nhằm chặn cơ giới địch, nên phải sử dụng một tiểu đội của Trung đội 56 bí mật vào đóng trong Văn Miếu, ngày nghỉ, đêm đào đường hầm xuyên qua tường ra

ngoài đường Nguyễn Thái Học để đặt bom. Khi chiến đấu sẽ làm nổ tung đường, cản trở hoạt động của cơ giới địch từ cổng thành phía Tây ra.

- Trung đội 56, 57 có nhiệm vụ phối hợp đánh nhà Deléveaux (số 9 phố Cát Linh hiện nay) và khu nhà hạ sĩ quan, yểm trợ cho Trung đội 58 chiến đấu ở Sinh Từ.

- Trung đội 57 đóng tại nhà cao tầng phố Bích Câu bảo đảm sườn trái của đại đội, không để địch lợi dụng địa hình trống trải ở bãi Septo mà tràn từ trong Thành ra.

Đại đội bộ đóng tại ngõ Văn Chương.

Toàn đại đội có 150 chiến sĩ trẻ, 2 đảng viên. Vũ khí có 38 khẩu đủ loại Nga, Nhật, Pháp, nhiều nhất súngtrường khai hậu, mỗi khẩu không quá 10 viên đạn; một đại liên Nga cũ với một băng đạn 150 viên; một trung liên Anh với 50 viên đạn, lựu đạn Phan Đình Phùng và mã tấu.

Về phía Pháp, tay sai:

- Quân Tưởng rút, toà báo Vì Nước không còn.

- Nhà Cố Hiến, nhà thờ Hàng Bột không có quân Pháp. Còn lại khu nhà hạ sĩ quan Pháp được trang bị tiểu liên, súng ngắn, lựu đạn.

- Nhà Deléveaux có khoảng một tiểu đội trang bị súng trường, tiểu liên, lựu đạn, một xe mô tô ba bánh, một xe cứu thương.

Hai nơi này là ổ tác chiến nằm sẵn trong lòng trận địa ta.

Nhà Jeanne d’ Arc một cao điểm khống chế cả Văn Miếu và đầu Hàng Bột. Địch trang bị ngoài súng trường, tiểu liên còn có một khẩu cối 82 ly.

Tiến hành cuộc kháng chiến 19/12/1946 - 30/12/1946

Đến ngày 19/12/1946 anh Phi Hùng khu trưởng tự vệ ba lần báo cho anh Nguyễn Hữu Thành đại đội trưởng tự vệ chuẩn bị, khi đèn thành phố tắt, pháo đài Láng bắn vào Thành là mở màn cuộc chiến.

19 giờ Trung đội 57 Vệ quốc đoàn và tự vệ đang tiến dần đến vị trí tập kết chuẩn bị đánh nhà Deléveaux.

Đánh nhà Deléveaux

Khi quả đạn đầu tiên từ pháo đài Láng bay vun vút vào Thành thì những đơn vị Vệ quốc đoàn và tự vệ đã được phân công rầm rập, áp sát mục tiêu tiến công: nhà Deléveaux và khu nhà hạ sĩ quan Pháp.

Chỉ huy trực tiếp đánh nhà Deléveaux là Đại đội trưởng Lưu Vân. Khẩu đại liên đặt phía

Để lại một tổ bao vây theo dõi nhà Deléveaux.

Kết quả trận đánh đêm đầu tiên nhà Deléveaux thu được: 1 súng trường, 1 mô tô 3 bánh, gọi hàng 3 tên (1 vệ quốc Pháp, 2 Việt Nam). Bên ta 2 người hy sinh (1 Vệ quốc đoàn, 1 tự vệ).

Tại khu nhà hạ sĩ quan Pháp, Chính trị viên Trần Hải chỉ huy chiến đấu. Lực lượng ta có một bộ phận của trung đội 56 và tự vệ đã tiến đánh khu nhà hạ sĩ quan Pháp.

Tại đây bọn Pháp đều được trang bị tiểu liên Stel

Ta bao vây gọi hàng, chưa nổ súng. Chúng không bắn cũng không hàng. Không chần chừ, tự vệ vào các nhà lân cận mang giát giường, chăn bông, chất đống trước cửa nhà đổ dầu và xăng. Khi chúng nghe có lệnh cho đốt thì bọn vợ chúng từ trên gác sợ hãi kêu khóc xin ra hàng. Sau đó cửa nhà dưới mở, lần lượt tên hạ sĩ quan Pháp hai tay giơ cao cùng vũ khí ra trước, tiếp sau là vợ con chúng. Ta thu được một tiểu liên Stel, một súng ngắn, giải về tiểu đoàn bộ là Nhà máy Tóc.

Đốt trạm biến thế điện do Đại đội trưởng tự vệ Nguyễn Hữu Thành chỉ huy. Đội phá hoại mở cửa vào trạm biến thế đặt mìn rồi đốt. Kết quả phải dùng xà beng phá thủng máy cho dầu chảy ra, chất rơm, ném lựu đạn. Lửa cháy bùng lên đến 23 giờ mới hết.

Đốt xong trạm biến thế, đội phá hoại đặt mìn vào các lỗ đục sẵn ở cây nhưng cũng như ở trạm biến thế, cuối cùng phải dùng cưa, cưa một ít là cây đổ. Tiếp đó dùng búa tạ, xà beng đánh đổ cột đèn ở gần nhà anh Đại (khoảng số 21 hay 23 Hàng Bột, phía dưới nhà “Săm” Thái Lai).

Cùng lúc đánh ở các điểm, đội phá hoại phá đoạn đường giữa hai cái hầm ụ chướng ngại đề phòng địch có đưa xe tăng đến cũng không vượt qua được. Kết quả chỗ đường còn lại bị phá băng, anh em lấy xà beng cuốc chim phá nốt cho sâu xuống.

Kết quả trận đánh tại nhà hạ sĩ quan Pháp, ta thu được một tiểu liên Stel, một súng ngắn, bắt 3 hàng binh và vợ con chúng. Đạt yêu cầu các điểm cần phá huỷ, ngăn chặn địch.

Các trận đánh tiếp theo

Ngày 20/12/1946, đường phố yên tĩnh, 4 anh tự vệ: Nhã, Lập, Thọ, Lộc đi hàng một lên đầu phố. Gần đến Phan Phù Tiên, địch trong Văn Miếu bắn ra, anh Nhã bị trúng đạn vào hông, 3 anh kia không việc gì. Chị Thiện và Lê băng cho anh Nhã, cõng về trạm. Tự vệ cử một tiểu đội vào Văn Miếu lùng sục nhưng không bắt được tên nào.

Chiều 20/12/1946, bọn nhà Deléveaux bị bao vây suốt đêm, lại không có quân ứng cứu, nên chúng bất ngờ dùng xe ô tô cắm cờ Hồng thập tự chạy vọt ra cửa thẳng đường vào Thành. Quân ta nhìn thấy xe có dấu Hồng thập tự nên không bắn và không truy đuổi, do nhận thức ấu trĩ. Tuy vậy trên trận địa ta, không còn một ổ tác chiến, tiền tiêu nào của địch nữa.

Đêm 20/12/1946, tại nhà Jeanne d’Arc ở vị trí khá kiên cố nên Ban chỉ huy tiểu đoàn tăng cường cho thêm lực lượng trợ chiến gồm 1 khẩu 37 ly với 5 viên đạn, 1 khẩu 12,7 ly và 75 viên đạn. Kế hoạch là Trung đội 56 và tự vệ áp sát tường nhà này thì khẩu 37 ly bắt đầu bắn, sau đó đến khẩu 1237 ly yểm trợ cho các đơn vị xông vào. Nhưng đại bác 37 ly bắn vào được một phát thì mối hàn bệ súng rời ra, khẩu 1237 ly bắn được vài phát thì hóc, chữa mãi không được, phải cho 2 khẩu đó về phía sau.

Ta tiếp tục bao vây, súng trường, lựu đạn từ ngoài bắn, ném vào phía trong. Hoả lực địch bắn liên tục không cho ta đột nhập. Cuộc bao vây chiến đấu kéo dài thì cùng lúc đó chỉ huy được báo cáo quả bom chôn tại ngã tư Văn Miếu giật không nổ. Đề phòng lực lượng cơ giới đích trong Thành kéo ra chi viện, nên cho các lực lượng rút về bố trí giữ trận địa đường phố sẵn sàng chống địch tấn công sáng hôm sau.

Từ ngày 21/12/1946, tự vệ được lệnh nghi binh, lập bãi mìn giả bằng cách úp các nồi, xoong, chậu trên mặt đường từ ngã tư Cát Linh - Hàng Bột đến ngõ Văn Chương. Việc này đã phát huy tác dụng tốt, làm chậm bước khi chúng tiến đánh ta 30/12/1946.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 07:36:39 pm
Trận đánh xe tăng địch

Từ 22/12/1946 đến cuối tháng 12/1946, hàng ngày từ 7 giờ đến 16 giờ đều có 2 xe tăng hoặc thiết giáp từ trong Thành ra án ngữ tại ngã tư Cát Linh - Hàng Bột không dám tiến sâu vào trận địa ta. Chúng đã dùng đại bác 53 ly, hai trung liên 12,7 ly bắn dọc phố và vào các điểm cao nghi ta bố trí chiến đấu. Kết hợp, tại nhà Jeanne d’Arc địch cũng thỉnh thoảng dùng cối 82 ly bắn sâu vào trận địa ta, gây khó khăn cho ta trong việc di chuyển tiếp tế, thông tin liên lạc.

Tình hình trên là điều bất lợi cho ta.

Do nôn nóng muốn thanh toán càng sớm càng tốt nên dù ban ngày, đồng chí Thọ, trung đội phó dùng tổ 3 người, chọn lựu đạn Nhật bất thần vượt qua đường, áp sát xe tăng, dùng lựu đạn phá. Nhưng mới vọt lên đến giữa ngã tư thì bị địch phát hiện, dùng đại liên trên xe bắn chặn làm đồng chí Thọ bị thương ở chân. Một tổ chiến đấu của Trung đội 56 bố trí tại nhà cao đầu phố bấn yểm trợ cho tổ đánh xe tăng rút nhưng lại bị địch phát hiện và khẩu 37 ly bắn vào nhà đó làm Chính trị viên Trung đội 56 là Nguyễn Thế Lĩnh và tự vệ Nguyễn Chí Chung hy sinh.

Ngày 23/12/1946, trong khi quân Pháp tiến đánh Hàng Bông, Phủ Doãn, Chợ Hôm thuộc Liên khu I và Liên khu II thì đồng thời chúng hướng sang đánh Liên khu III nhằm giãn lực lượng ta.

Từ sáng sớm, để kiềm chế lực lượng cơ động của ta, quân Pháp cho 2 xe tăng từ cửa Tây xộc ra án ngữ ngã tư Cát Linh - Hàng Bột. Lực lượng ta bắn trả làm địch bị thương một số và phải rút quân.

Trận đánh chiều 28/12/1946 chống địch với đông lực lượng, hoả lực mạnh, có cơ giới yểm trợ từ bãi Septo địch đánh chiếm tiêu diệt lực lượng ta phía phố Bích Câu (sườn trái của đại đội).

Khoảng 14 giờ ngày 28/12, trên đường phố đang yên tĩnh thì phát hiện có tiếng xe cơ giới hoạt động phía bãi Septo, sau đó có khoảng 5 chiếc GMC chở lính Pháp, có một số là nữ chạy từ đường Hùng Vương - Nguyễn Thái Học vào đổ quân tại bãi Septo.

Ta phán đoán mấy hôm địch không đánh sâu vào trận địa ta bố trí dọc Hàng Bột, có thể chúng dùng lực lượng đông đánh vào sườn trái trận địa ta mà ở đây địa hình trống trải, địch có xe cơ giới vận động áp sát để nhanh chóng tiêu diệt lực lượng ta và có thể chiếm các nhà cao tầng do ta đang bố trí để uy hiếp toàn bộ đường phố này.

Do vậy, ta tranh thủ lúc chúng mới từ xe xuống, hàng ngũ còn lộn xộn đã lệnh cho Trung đội 57 và tự vệ Việt Nam Cứu quốc đồng loạt nổ súng. Bị bất thần, đội ngũ chúng hỗn loạn, kêu la gọi nhau ầm ĩ, chạy toán loạn trên bãi phẳng, nhiều tên chui vào gầm xe, nấp sau xe tránh đạn.

Ta tiếp tục bắn và cho một số chiến sĩ Vệ quốc đoàn và tự vệ nhanh chóng từ trong nhà vận động ra để cướp một số súng. Nhưng cơ số đạn của ta có hạn nên bắn thưa thớt.

Địch sau giây phút hỗn loạn đã củng cố lại đội hình chỉ huy các hoả lực súng trường, tiểu, trung, đại liên, cối 82 ly bắn mạnh về phía ta và bắn chặn, nên số Vệ quốc đoàn và tự vệ này phải quay lại vị trí chiến đấu.

Hai bên bắn nhau giằng co kéo dài khoảng 40 phút, địch tranh thủ chuyển số bị thương lên xe, sau đó rút khỏi bãi Septo vào Thành. Số địch bị thương khoảng 10 tên. Trận này ta không có ai bị thương vong gì.

Trong những ngày này ta vừa đánh chặn địch không cho chúng nống ra, vừa đánh tiêu hao địch, vừa tiếp tục củng cố công sự, đào giao thông hào để bí mật lực lượng chiến đấu cơ động. Ta đã hạn chế thương vong và địch không tiến được một mét đất nào.

Trận đánh ngày 30/12/1946 giành giật từng căn nhà, từng ngõ hẻm trên đường phố Hàng Bột

Sau 10 ngày địch dồn sức quyết liệt đánh bao vây Liên khu I, đánh sâu, đẩy giãn lực lượng ta ở Liên khu II, ngày 30/12/1946, từ tờ mờ sáng, quân địch đã mở trận đánh lớn vào sâu địa bàn Liên khu III, theo hướng Hàng Bột - Ô Chợ Dừa, có khoảng 500 quân. Cánh quân theo đường Hàng Lọng xuống Kim Liên có khoảng 200 tên. Cả hai cánh quân đều có xe tăng, xe bọc thép, xe ủi và các xe cơ giới khác yểm trợ. Hướng Khâm Thiên quân Pháp dùng xe cơ giới hợp với bộ binh húc san luỹ chướng ngại vật dọc phố, tràn vào các làng xung quanh: Thổ Quan, Văn Chương đốt phá.

Ở mặt trận phố Hàng Bột, quân Pháp tấn công từ hai hướng: Bãi Septo vào khu nhà cao tầng phố Bích Câu - sườn trái của Đại đội 29 - và dọc phố Hàng Bột.

Tại phố Bích Câu, địch dùng ưu thế cơ động của cơ giới, xe tăng thọc nhanh qua bãi Septo vào phố Bích Câu vây khu nhà cao tầng nơi Trung đội 57 và một tổ tự vệ bố trí chiến đấu. Lực lượng bộ binh địch tiến chậm ở phía sau.

Về phía ta, do không có chướng ngại vật nên khi chiến sĩ gác trận địa nghe tiếng xe tăng thì cũng là lúc địch áp sát, bao vây nhanh và dùng hoả lực 37 ly, trung liên 12,7 ly bắn mạnh vào các cửa ra vào, lối rút về phía sau của đơn vị. Sau một hồi bắn và dùng lựu đạn đánh trả địch, cơ số đạn đã hết, thấy không thể tiếp tục chiến đấu ở đây được nên Trung đột trưởng Hoàng Dung lệnh cho các chiến sĩ nhanh chóng vượt qua tường và một số ở tầng trên đã nhảy xuống yểm hộ cho nhau thoát khỏi sự bao vây của địch, và tập trung bố trí chiến đấu ở nhà trẻ mồ côi .

Riêng hướng này Trung đội trưởng và một số chiến sĩ bị thương nhẹ do trúng đạn và nhảy từ trên cao xuống.

Từ hướng Hàng Bột, xe tăng địch dừng lại ở ngã tư Hàng Bột - Cát Linh, tập trung hoả lực bắn mạnh trên đoạn đường có các vật nghi giả bãi mìn, không dám tiến nhanh, dùng xe half-track kéo cây và cột đèn ngang đường. Bộ binh đi men theo hai bên hè phố thì bị Vệ quốc đoàn và tự vệ từ các hố cá nhân và trong nhà bắn, ném lựa đạn ra. Địch dừng lại từ xa ném lựu đạn vào các hố cá nhân gây cho ta bị thương vong một số, phải rút lực lượng ở đây vào, tổ chức đánh từ trong nhà ra, buộc địch không tiến nhanh được. Địch cũng chuyển cách đánh từ tù, ngoài bắn cuộc chiến từng căn nhà qua các lỗ đục tường thông nhau.

Đồng thời, trên trời máy bay địch ném bom Nhà máy Tóc (gần Ô Chợ Dừa) nhưng ở tiểu đoàn bộ và Liên khu uỷ III không ai việc gì.

Để hạn chế sự tiến công của địch, anh em tự vệ đã thực hiện tiêu thổ kháng chiến, đốt một số nhà cao tầng như nhà cụ Tống Bá Nho, anh Liêm, anh Nguyễn Hữu Thành.

Cuộc chiến đấu diễn ra từ tờ mờ sáng đến khoảng 12 giờ, phía Bích Câu địch đã chiếm được nhà cao tầng và bắn vào trại trẻ mồ côi. Dọc đường Hàng Bột địch đã đến được hai bên phố. Đại đội 2 và tự vệ rút xuống chặn địch ở ngõ Văn Hương. Khoảng gần 12 giờ trưa địch đánh thọc sâu vào ngõ Văn Chương, tại đây có trạm cứu thương. Trung đội 56 do Trung đội phó Chu Thế Hùng chỉ huy đã cùng anh Bạch Hải, tự vệ chặn đánh để trạm kịp thời di chuyển thương binh về phía sau.

Xe tăng của địch tiến đến gần ụ, anh Ngô Mai quyết tử quân của tự vệ ôm bom ba càng xông ra bị trúng đạn vào đùi, đồng đội yểm trợ đưa về tuyến sau.

Bộ binh địch tiếp tục giành giật từng căn nhà với ta. Hướng Khâm Thiên gần 12 giờ trưa địch cũng đã nhanh chóng phát triển chiếm nhà cao tầng gần ngã tư Hàng Bột - Khâm Thiên với ý đồ phối hợp lực lượng của chúng ở đường phố Hàng Bột bao vây tiêu diệt lực lượng Vệ quốc đoàn và tự vệ và để chiếm đóng ngã tư Ô Chợ Dừa, đẩy lùi lực lượng của ta ra xa hơn. Nhưng đến chiều 29, tự vệ, cứa thương, tiếp tế đã rút qua Đê La Thành tiếp tục bố trí dọc đường Thái Hà ấp. Lập tức Đại đội 4 Tiểu đoàn 56 do anh Trần Quân Lập chỉ huy được lệnh thay thế Tiểu  đoàn 523 đóng giữ trận địa Ô Chợ Dừa, Đê La thành tiếp tục cuộc chiến đấu bảo vệ ngã tư vành đai Hà Nội.

Song song hoạt động chiến đấu là đội cứu thương đã  được học tập chuyên môn, quân sự luôn cùng tự vệ lên mặt trận làm nhiệm vụ. Chị em Phụ nữ Cứu quốc lúc đó còn  khoảng 20 người, một số chị là tiểu thương, còn lại là học sinh. Trong khi làm nhiệm vụ có một chị bị đạn "tắc bọp” bắn vào đùi. Các chị đã cùng tự vệ làm lễ truy điệu, gây ý chí căm thù giặc và chôn cất anh Tiểu đội trưởng Phạm Gia Nho, anh Nguyễn Chí Chung, xạ thủ Vọng, Chính trị viên Trung đội 56 Nguyễn Thế Lĩnh và Trung đội trưởng 56 Nguyễn Văn Phả ở trại chuối phố Trương Vĩnh Ký.

Ban Tiếp tế do bà Tống Thị Hiền phụ trách đã cùng tự vệ đi thu chiến lợi phẩm tại nhà Deléveaux, nhà hạ sĩ quan Pháp và lương thực của các gia đình để lại đã bảo đảm cho lực lượng chiến đấu những bữa ăn mà trong không khí chiến đấu hào hùng ai cũng thấy ngon, vui, ấm tình gia đình.

Trên đường phố Hàng Bột ngày 30/12/1946, cuộc chiến đấu giằng co giữa ta và địch diễn ra từ mờ sáng đến chiều; từ ngã tư Cát Linh - Hàng Bột đến ngã tư Ô Chợ Dừa Khâm Thiên không quá 400m địch đã phải huy động một lực lượng khá đông quân thiện chiến có xe tăng và các loại xe cơ giới yểm trợ, phải mất hơn 10 tiếng đồng hồ mới đẩy lùi được lực lượng ta. Chúng ta vẫn giữ được Ô Chợ Dừa và đã bảo toàn lực lượng ra khỏi Hàng Bột.

Kết luận chung

Tại mặt trận Hàng Bột 19/12/1946 đến 30/12/1946, cuộc chiến đấu không cân sức giữa ta và quân Pháp đã diễn ra rất ác liệt. Một bên là quân thiện chiến nhà nghề, vừa đông, vừa có hoả lực mạnh hơn ta gấp nhiều lần, có các loại cơ giới yểm trợ, hung hăng hiếu thắng. Một bên là quân đội nhân dân non trẻ chưa qua chiến đấu, tự vệ là thanh niên học sinh còn đang trên ghế nhà trường với vũ khí vừa ít, vừa thô sơ, nhưng sức mạnh là lòng yêu nước sâu sắc, có ý chí căm thù giặc, quyết giữ từng tấc đất.

Với sự hy sinh của 3 chiến sĩ Vệ quốc đoàn và 2 tự vệ, một số bị thương, Đại hội 29 và tự vệ Hàng Bột ngay từ đầu đã nhổ được “hai mũi dao nhọn cắm bên sườn ta”, đã khiến cho địch phải hao tổn nhiều trong 10 ngày để tiến được 400m.

Các anh đã góp phần vào nhiệm vụ chung của quân dân Thủ đô.

Dân Hàng Bột tự hào đã triệt để tản cư, tạo điều kiện cho chiến đấu thuận lợi; có gia đình 3 người, 2 người ở lại tham gia kháng chiến. Những người kháng chiến đã chiến đấu đến phút chót, không ai đào ngũ, tất cả cho kháng chiến.

Theo Hà Nội - Bản hùng ca bất tử mùa đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 217 -229.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 07:59:41 pm
Đội tự vệ khu Chợ Hôm

Khu Chợ Hôm nằm vào vị trí trung tâm của Liên khu II, là một khu vực sầm uất của Hà Nội thời bấy giờ. Hà Nội trong thời gian ấy chia làm ba liên khu, gọi theo số thứ tự I, II, III. Riêng Liên khu II gồm 7 khu là: Khu Quán Sứ, Đại học, Chợ Hôm, Bảy Mẫu, Lò Đúc, Thanh Nhàn, Bạch Mai, Đồng Nhân, Vạn Thái. Mỗi khu giới hạn trong một địa bàn.
Khu Chợ Hôm khi ấy đã có chi bộ Đảng do đồng chí Lê Đức Vân làm Bí thư. Và Chủ tịch Uỷ ban hành chính của khu Chợ Hôm là đồng chí Vũ Văn Sắc...

Khu Chợ Hôm lại chia thành 7 tiểu khu chính, là:

- Tiểu khu 1 : Từ ngã tư Phố Huế - Hàm Long xuống tới ngã tư phố Huế - Trần Nhân Tông, và một phần phố Lê Văn Hưu với một phần phố Trần Xuân Soạn bây giờ. Tiểu

khu trưởng là đồng chí Nguyễn Vân Ngọc; đội trưởng đội tự vệ là đồng chí Lê Quang Tôn.(1)

- Tiểu khu 2: Gồm một phần phố Lê Văn Hưu, một phần phố Ngô Thì Nhậm và phố Thi Sách bây giờ. Tiểu khu trưởng là đồng chí Quang; đội trưởng tự vệ là đồng chí Trần Thịnh.

- Tiểu khu 3: Từ ngã tư Phố Huế - Trần Nhân Tông xuống đến ngã tư Phố Huế - Hoà Mã và Phùng Khắc Khoan cùng với một phần phố Ngô Thì Nhậm bây giờ. Tiểu khu trưởng là đồng chí Đặng Văn Thái; đội trưởng tự vệ là đồng chí Vũ Văn Tôn.

- Tiểu khu 4: Gồm phố Trần Xuân Soạn, phố Hoà Mã, một phần phố Thi Sách bây giờ. Tiểu khu trưởng là đồng chí Nguyễn Kim Hoàng; đội trưởng tự là đồng chí Phạm Văn Lục.

- Tiểu khu 5: Từ ngã tư Phố Huế - Hoà Mã xuống đến ngã tư Phố Huế - Nguyễn Công Trứ và phố Nguyễn Công Trứ bây giờ. Tiểu khu trưởng không nhớ là ai; đội trưởng tự vệ là đồng chí Nguyễn Khắc Hào.

- Tiểu khu 7: Gồm hai làng Thịnh Yên và Đồng Nhân. Tiểu khu trưởng là đồng chí Đỗ Đình Bích; đội trưởng tự vệ là đồng chí Nguyễn Viết.

(http://www.1000namthanglonghanoi.vn/upload/image/images/Du%20kich%20tu%20ve.jpg)
Các chiến sĩ quyết tử tại buổi lễ tuyên thệ "Quyết tử để tổ quốc quyết sinh". Ảnh tư liệu

Đầu tháng 11/1946, dưới sự hướng dẫn của Liên khu II, khu Chợ Hôm nhanh chóng tuyển chọn trong số các thanh niên cứu quốc, lấy 10 anh em trung kiên tích cực nhất, do đồng chí Lê Tuấn (đảng viên chi bộ khu Chợ Hôm) trực tiếp phụ trách, làm nhiệm vụ điều tra các nhà ở của Pháp kiều, xác minh hành vi của họ, đặc biệt chú ý mối quan hệ của từng nhà đối với bọn nhà binh Pháp. Mặt khác, hàng ngày khu có liên hệ mật thiết với tiểu đoàn 77 (Tiếp phòng quân) và Đội tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu, mời họ đến mở các lớp huấn luyện cấp tốc cho tự vệ và thanh niên các khu phố. Đồng thời, bố trí các đội tự vệ có vũ trang, tổ chức canh gác những ngã tư đường trọng yếu, ngăn chặn mọi hành vi khiêu khích của quân Pháp.

Trung tuần tháng 11/1946 giặc Pháp gây chiến ở Hải Phòng, rồi tiếp đến Lạng Sơn. Hà Nội sôi lên vì căm giận. Trong khu Chợ Hôm, thanh thiếu niên đa số là học sinh, nô nức kéo nhau đến trụ sở xin ghi tên gia nhập tự vệ. Con trai tự động trang bị giáo mác, gậy gộc tập quân sự, con gái đua nhau dự những lớp học cứu thương ngắn hạn...

Sang đầu tháng 12/1946, tại các ngã tư quan trọng và các cửa ô, đồng bào nô nức đào hào đắp ụ. Quân Pháp kéo đến phá bỏ. Chờ đến đêm đồng bào ta ra làm lại, càng kiên cố, vững chắc hơn. Về phần tổ chức, từng tiểu khu thành lập tim bảo vệ tiểu khu. Như ban bảo vệ gồm năm tiểu ban: Chiến đấu, phá hoại, tiếp tế, liên lạc, cứu thương (tiểu ban chiến đấu gồm toàn bộ lực lượng tự vệ của tiểu khu). Từng tiểu ban căn cứ vào chức danh, chủ động bắt tay vào việc một cách khẩn trương.

Ngày 17/12/1946 quân Pháp nổ súng tàn sát đồng bào ta ở phố Yên Ninh, tấn công chiếm đóng trụ sở Bộ Tài chính, đưa xe tăng, xe ủi và xe tải xuống phá ụ chiến đấu và các vật chướng ngại ở phố Lò Đúc, phố Lê Văn Hưu ... đồng thời gửi liên tiếp tới ba tối hậu thư cho Chính phủ ta, yêu cầu lực lượng tự vệ phải hạ vũ khí đầu hàng, quân đội của chúng phải được nắm quyền giữ trật tự trong thành phố v.v... Thời hạn cuối cùng chúng quy định cho ta là ngày 20/12/1946.

Chiều ngày 18/12/1946, lực lượng vũ trang tại Hà Nội nhận được lệnh của Bộ chỉ huy quân sự Thủ đô: “Sẵn sàng chuẩn bị bất cứ giờ nào có lệnh là phải triệt để tiến công các mục tiêu đã được phân công...”

Chiều ngày 19/12/1946, các cấp chỉ huy tiểu đoàn cùng Ban bảo vệ các Liên khu được Ban chỉ huy mặt trận Hà Nội triệu tập để nhận mệnh lệnh tác chiến, tín hiệu và thời gian nổ súng...

Ngay đêm đầu tiên nổ ra cuộc chiến, các đội tự vệ của khu Chợ Hôm như loạt xung trận. Ngoài 11 ổ đề kháng của bọn Pháp nằm rải rác ở các phố (quân Pháp lợi dụng các gia đình Pháp kiều có nhà ở xen kẽ với đồng bào ta, trang bị vũ khí cho họ, lập thành những ổ tác chiến tương đối mạnh), ban bảo vệ khu phố đã phân công cho từng đội có nhiệm vụ phải tiêu diệt từng mục tiêu. Từng nhóm còn tự ý, chủ động đi tìm địch để đánh...

Ngay đêm 19/12, ta đã diệt gọn 10 trong số 11 ổ đền kháng; ổ đề kháng duy nhất còn trụ được là ở số nhà 74 Ngô Thì Nhậm (ở đây ngoài bốn tên Pháp kiều còn có thêm hai tên hạ sĩ quan Lê Dương). Có bàn tay (nhà nghề", chúng chống trả rất dữ dội. Đội tự vệ tiểu khu 1 do Lê Quang Tôn chỉ huy, được phân công tiêu diệt. Là một trong hai đội tự vệ mạnh của khu Chợ Hôm, Lê Quang Tôn dẫn trung đội của mình xung trận với một tinh thần quyết liệt song đối phương có ưu thế hoả lực và kinh nghiệm tác chiến. Loay hoay gần hết đêm, xung phong đến lần thứ ba thì đội trưởng Lê Quang Tôn hy sinh. Được tin, tiểu khu 6 lập tức cử tiểu đội trưởng Phạm Đường Bệ đưa tiểu đội đen tăng viện, tiếp tục tấn công số nhà 74 Ngô Thì Nhậm. Đến trưa, các anh vào lọt trong nhà nhưng kẻ địch từ trên gác thế lựu đạn xuống, chặn quân ta không lên được. Cuối cùng đành phải rút ra. Đêm hôm đó (20/12/1946) đích thân đội trưởng đội tự vệ tiểu khu 6 Hoàng Tường Tri dẫn theo 2 chiến sĩ là Phạm Quốc Bảo và Nguyễn Vân Khôi bí mật trèo tường, leo theo ống máng, lên nóc nhà, dỡ ngói tụt xuống, mở nấp trần rồi bất ngờ thì lựu đạn xuống. Quân địch hoảng loạn, tức khắc xin hàng.

Trong khi ấy, các đội tự vệ khác trong khu, sau khi đã tiêu diệt gọn các Ổ đề kháng, không đội nào chịu ôm súng chờ địch đến, tất cả đều tự động kéo nhau tới những nơi đang có tác chiến, tìm địch để đánh. Có một chuyện vui: Ngay đêm 19/12 có một tiểu đội thuộc tiểu khu 7 do Lê Mạc Lân chỉ huy không có Ổ đề kháng nào để đánh, đã tự động kéo nhau lên phố trần Hưng Đạo, trong đội Vệ quốc đoàn do Nguyễn Hữu Quý chỉ huy đang tấn công vào nhà đại tá Lamy (nay là nhà sứ quán Pháp) liền tham gia. Đánh thắng, thế là Mạc Lân cùng với tiểu đội của mình nhập luôn vào trung đội của Nguyễn Hữu Quý, trở thành quân của tiểu đoàn 77 tiếp phòng quân.

Liên tiếp trong ba, bốn ngày sau, tất cả các đội tự vệ của khu Chợ Hôm bám theo từng bước của quân Pháp, kề vai sát cánh cùng các đơn vị Vệ quốc đoàn và tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu… đánh Pháp gần khắp mọi chỗ trong Liên khu II. Đơn cử một số trường hợp sau:

- Đêm 19 và cả ngày 20/12/1946, khi lực lượng Vệ quốc đoàn đánh quân Pháp tại rạp Majestic, thì tiểu khu trưởng tiểu khu 1 Chợ Hôm là đồng chí Nguyễn Văn Ngọc đích thân dẫn một tiểu đội tự vệ đến tham chiến. Anh em đã cùng bộ đội dũng cảm xông vào phá được cánh cửa sắt, phóng hoá đốt cầu thang và buồng chiếu phim, khiến quân địch phải đầu hàng. Nhưng anh Ngọc cùng hai chiến sĩ tự vệ trong tiểu đội đã hy sinh. . . (mặc dù đồng chí Ngọc là Chủ tịch không phải là tự vệ).

Ngày 21/12/1946, quân Pháp tiến công vào Nhà máy Rượu. Khu Chợ Hôm có ba đội tự vệ sát cánh cùng các đơn vị Vệ quốc đoàn đánh địch suốt từ 8 giờ sáng đến tận 6 giờ tối ngày hôm đó. Đội tự tiểu khu 7 chặn đánh địch trên đường Nguyễn Công Trứ; hai đội tự vệ của tiểu khu 4 và 6 chặn đánh địch trên đường Hoà Mã, Ngô Thì Nhậm. Kết quả sau 10 giờ chiến đấu quyết liệt, quân Pháp không sao chiếm được nhà máy Rượu, đành phải rút lui mang theo ba xe tải đầy xác chết, còn bỏ lại hàng chục xác khác cùng vũ khí. Trong trận ấy chiến sĩ Hoàng Ngọc Văn, đội viên đội tự vệ tiểu khu 7 đã nêu cao gương quả cảm đánh xe tăng địch và hy sinh.

Ngày 22/12/1946, quân địch cùng một lúc tổ chức tấn công trên ba hướng với tham vọng xoá bỏ ba ụ chiến đấu của ta ở ba nơi: Ngã tư Phố Huế - Trần Hưng Đạo; ngã năm Lê Văn Hưu - Lò Đúc và ngã tư Nguyễn Công Trứ - Lò Đúc. Chúng huy động lực lượng cơ giới, súng phóng lựu, súng phun lửa ào ạt xông lên. Toàn bộ lực lượng tự vệ khu Chợ Hôm có mặt, phối hợp với các đơn vị Vệ quốc đoàn và tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu... kiên quyết chống trả hết sức mãnh liệt. Kết quả, suốt một ngày tấn công vô hiệu, quân Pháp đành phải rút lui.

Ngày 23/2/1946 quân địch tập trung nhiều bộ binh, hoả lực tấn công vào một điểm và đã phá được ụ chiến đấu ở ngã năm Lê Văn Hưu - Lò Đúc bèn chia quân theo hai hướng tiến đánh trụ sở Bộ Tổng tham mưu, đồng thời vây chặt quân ta trong một ô vuông: Lê Văn Hưu, phố Huế, Nguyễn Công Trứ, Ngô Thì Nhậm. . . với ý đồ tiêu diệt gọn lực lượng của ta. Chúng huy động xe tăng tới húc đổ tường nhà để bộ binh dễ dàng xông vào. Nhưng quân ta đã kịp thời dùng ét xăng crếp và lựu đạn chặn đứng xe tăng địch, phá tan ý đồ tiến công của chúng.

Đêm 23/12/1946 quân ta nhận được lệnh lợi dụng đêm tối nhất loạt xuất kích tiến công những nơi quân Pháp chiếm đóng. Trong các đội tự vệ khu Chợ Hôm đã nảy sinh một trường hợp khá đặc biệt: Đội trưởng tự vệ tiểu khu 6 Hoàng Tường Tri dẫn hai tiểu đội (do tiểu đội trưởng Phạm Văn Lục, Phạm Đường Bệ chỉ huy) phối hợp với trung đội do Nguyễn Văn Trung chỉ huy... luồn lách lên tận phố Nhà Thờ và phố Bảo Khánh tiến công trực tiếp vào ngôi nhà của tướng Morlière bằng lựu đạn và súng trường (nay là toà soạn báo Nhân dân). Đến tận 3 giờ sáng anh em mới vượt qua Hồ Gươm rút về an toàn.

Ngày 25/12/1946, tất cả lực lượng tự vệ thuộc khu Chợ Hôm tập trung về khu vực Bạch Mai để củng cố và phiên chế lại, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của đồng chí Phùng Thế Tài, chỉ huy trưởng bộ đội toàn mặt trận Liên khu II Hà Nội. Anh em do không muốn xa rời nhau nên xôn xao thắc mắc, lấy lý do: “Là thanh niên Hà Nội, chỉ muốn sống chết với Hà Nội, không muốn vào bộ đội...”. Được tin ấy, đồng chí Phùng Thế Tài đích thân đến tận nơi giải thích cặn kẽ mọi điều lợi hại, cuối cùng anh em đã tuân theo.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 07:59:53 pm
Đội tự vệ mới phiên chế lại được hợp thành bởi gần như đủ mặt số chiến sĩ tự vệ còn sống của cả bảy tiểu khu. Ngoài ra còn có cả anh em tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu và Công an xung phong... (lạc đơn vị) nhập vào. Lấy tự vệ khu Chợ Hôm là nòng cốt, đặt tên là Đội tự vệ Duy Tân.

Đội gồm 6 tiểu đội:

- Tiểu đội 1: Do Phạm Đường Bệ làm tiểu đội trưởng, Nguyễn Văn Xính làm tiểu đội phó.

- Tiểu đội 2: Do Vũ Văn Tân làm tiểu đội trưởng, Hoàng Thái làm tiểu đội phó.

- Tiểu đội 3: Do Đặng Văn Thái làm tiểu đội trưởng, Nguyễn Văn Lượng làm tiểu đội phó.

- Tiểu đội 4: Do Quách Đình Hạnh làm tiểu đội trưởng, Phạm Quốc Bảo làm tiểu đội phó.

- Tiểu đội 5: Do Phạm Văn Lục làm tiểu đội trưởng, Nguyễn Ngọc Sửu làm tiểu đội phó.

- Tiểu đội 6: Do Nguyễn Văn Tửu làm tiểu đội trưởng, không có tiểu đội phó - tiểu đội này gồm số anh em tự vệ khu Bảy Mẫu, sau bảy ngày đêm chiến đấu trong nội thành, trừ thương vong số còn lại gọn một tiểu đội.

Ban chỉ huy đội tự vệ Duy Tân gồm có: Hoàng Giáp làm đội trưởng. Phạm Văn Đặng làm đội phó, Hoàng Tường Tri là chính trị viên. Quân số (cầm súng) của đội là 96 người. Ngoài ra còn có bốn em liên lạc ở lứa tuổi là 14. Đội còn phụ trách tới 35 chị em cấp dưỡng, cứu thương… (tổng cộng 135 - hơn quân số một đại đội).

Trang bị của đội gồm có: 23 khẩu súng trường, 4 khẩu súng săn và 1 khẩu tiểu liên Stel, còn lại là gươm, mã tấu, lựu đạn.

Mọi việc của đội sau khi tổ chức lại vẫn diễn ra bình thường suôn sẻ. Anh em cảm thấy yên tâm. Vấn đề “trở thành bộ đội” hoá ra cũng không có thay đổi gì đáng kể: vẫn là anh em “cánh học trò Hà Nội” sống với nhau, “thằng” chỉ huy, “thằng” lính… buông súng ra là khoác vai nhau “cá mè một lứa” tranh luận thoải mái kể cả khi vào trận cũng chỉ cần một cái phẩy tay ra hiệu… là xong.

Chừng 10 ngày sau.

Đội tự vệ Duy Tân nhận được lệnh chuyển sang Ngã Tư Vọng, nhập vào quân số của đại đội 4, tiểu đoàn 64, Đội tự vệ Duy Tân từ nay mang số hiệu đơn vị là trung đội 1 thuộc đại đội 4 và vẫn được giữ nguyên sáu tiểu đội cùng với 96 tay súng như cũ.

Và rồi, một sự may mắn không ngờ: Đại đội 4 của tiểu đoàn 64 là đại đội mới thành lập cũng bao gồm toàn bộ những gương mặt tự vệ thành Hà Nội.

Đại đội 4 “của chúng tôi” chiến đấu trong đội hình của tiểu đoàn, nhưng đặc trách một mình một hướng: Chặn địch từ mặt chính bắc (từ bệnh viện Bạch Mai chiếu thẳng lên ngã tư Kim Liên - Đại Cồ Việt). Riêng trận địa của trung đội 1 được đặt tại khu vực kề cận với sân bóng đá và một bãi tha ma, giữa hai cái lò gạch bỏ hoang cùng nhiều thùng đấu rất sâu. Nhiệm vụ của trung đội là phải chặn đứng mũi tấn công của quân Pháp từ Đại Cồ Việt - Kim Liên xuống Vọng.

Cho đến đêm 14/1/1947 toàn đội tự vệ Duy Tân xuất kích đánh thẳng vào khu nhà Thông tin Kim Liên và bốt gác Vân Hồ. Hai bên loạn đả đến 3 giờ sáng chúng tôi mới chịu rút về. Một lúc sau thì đại bác tầm xa của chúng câu về đúng khu vực trận địa của chúng tôi. Tiểu đoàn truyền lệnh: Tất cả ra vị trí chiến đấu. Trong lúc đó súng cối và đại bác của quân Pháp vẫn rót không ngừng vào khu vực trận địa của ta. Trời sáng dần. Bên cánh trái của đại đội (trung đội 3 do đồng chí Ninh Hữu Cẩn chỉ huy) phát hiện thấy địch xuất hiện. Chúng có chừng hơn 30 tên, đều là lũ Việt gian bán nước đánh thuê cho Pháp, đang từ mé Khuơng Thượng, men theo bờ mương lớn, tiến sang. Chỉ còn cách cánh trái của đại đội chừng 30m, trung đội trưởng Ninh Hữu Cẩn lập tức ra lệnh cho trung đội nổ súng, chặn đứng mũi tiến công có tính chất thăm dò của đối phương. Trong khi ấy, từ hướng chính diện, quân Pháp từ Vân Hồ, Đại Cồ Việt tập trung về ngã tư Kim Liên. Chúng dùng súng cối, đại bác để mở đường như thường lệ rồi cho lính xua đồng bào ta lên trước, bắt dọn sạch các vật chướng ngại mà ta rải trên đường.

Trời đã sáng rõ. Quân Pháp chỉ còn cách ta chừng hơn 100m. Các nòng đại liên của ba đại đội bạn đặt trên nóc cổng và tầng hai bệnh viện Bạch Mai (ngay sau lưng chúng tôi) nhất tề bắn dọa. Đại liên của ta tức thì nhằm thẳng vào đội hình quân Pháp mà bắn. Địch chống lại gọi pháo binh tầm xa, nã tới tấp vào khu vực trận địa ta. Một đơn vị bạn bên cánh phải bị pháo địch khống chế, đành phải tránh tạt ngang sang phía khu Việt Nam học xá. Đội tự vệ Duy Tân lợi dụng được địa hình có nhiều góc khuất nên vẫn đứng vững. Hai tiểu đội do Quách Đình Hạnh, Phạm Văn Lục chỉ huy đã kịp thời phát hiện một toán địch bí mật lội ruộng men theo mé bên kia rìa đường quốc lộ, tiến về phía cổng bệnh viện. Anh em lập tức nổ súng chặn chúng lại.

Đến khoảng 12 giờ trưa, các cỡ súng bỗng rộ lên ngay sau lưng trung đội. Một lúc có tin: Quân Pháp đã chọc thủng phòng tuyến khu vực Ba Hàng - Vĩnh Tuy, vượt qua Mai Động - ngã tư Trung Hiền tiến sang Ngã Tư Vọng đang tấn công vào bệnh viện Bạch Mai. Vậy là thế trận bỗng nhiên thay đổi: đại đội 4 do đại đội trưởng Hồng Quân chỉ huy đang từ vị trí “tuyến tiền duyên” đã trở thành “tuyến sau” của tiểu đoàn. Cả một khu vực rộng lớn ở góc đông nam thành phố Hà Nội ngập chìm trong tiếng nổ và khói bụi. Trận đánh nổ ra ngay từ phút đầu đã hết sức khẩn trương và quyết liệt. Đến lúc này, các đơn vị bạn đã bị quân địch tấn công trực diện, bằng cả xung lực và hoả lực (xe tăng, thiết giáp, đại bác 20 ly và trung liên 13 ly 2 với ước chừng gần hai tiểu đoàn Âu Phi thiện chiến). Đại đột 4 của chúng tôi đành phải tự mình độc lực chặn mũi tiến công của địch từ hướng bác tràn xuống.

Ở hướng Ngã Tư Vọng chúng đánh thọc vào bệnh viện Bạch Mai (nơi ba đại đội mạnh của tiểu đoàn đang chốt giữ) tình hình rất quyết liệt và căng thẳng.

Trên hướng đại đội 4 chúng tôi chặn giữ: Quân Pháp cũng tập trung cao độ binh hoả lực mở đợt tấn công mới vào thẳng đội hình chiến đấu của đại đội. Ngay từ trận bom và đại bác đầu tiên, trên khu vực trận địa của trung đội 1 cả hai lò gạch đã bị sập, gần một chục chiến sĩ hy sinh. Dứt loạt bom và đại bác, xe tăng và thiết giáp của chúng hùng hổ tiến lên, áp sát khu vực trận địa của chúng tôi, xả súng dữ dội. Tất cả mọi cỡ súng của đại đội 4 nhất loạt chống trả rất quyết liệt. Cuộc chiến giằng co hơn ba tiếng đồng hồ. Số thương vong của cả hai bên mỗi lúc một tăng. Bọn Pháp hết sức cay cú, không tìm được cách nào để có thể vượt qua được tinh thần và ý chí đề kháng của gần 200 chiến sĩ tự vệ Liên khu II Hà Nội, mới được nhận quân tịch vừa chẵn hai tuần lễ...

Đúng thời điểm đó, đồng chí Hoàng Tường Tri, chính trị viên trung đội Duy Tân cùng tiểu đội trưởng Phạm Văn Lục trúng đạn hy sinh. Vừa lúc đó, tiểu đoàn trưởng Quốc Linh cùng với Đỗ Hồng (thư ký tác chiến) dìu chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Dụ tới (anh Dụ bị thương vào ngực). Tiểu đoàn trưởng thông báo vắn tắt tình hình diễn biến của trận đánh cho Hoàng Giáp (trung đội trưởng trung đội 1, đang có mặt tại đấy): “Lực lượng hai bên ta và địch đều đã tổn thất nghiêm trọng. Ta phá được của địch 1 xe tăng, 1 xe bọc thép, tiêu diệt chừng non 200 tên. Song ta cũng bị thương vong chừng trên dưới 100, trong đó có ba chính trị viên là Mạnh Lân, Hoàng Tường Tri và Nguyễn Văn Dụ. Để bảo toàn lực lượng, tôi quyết định cho tiểu đoàn rút ra ngoài. Cử một trung đội trụ vững tại đây, bảo vệ đường rút của tiểu đoàn”.

Nói xong, tiểu đoàn trưởng cùng với bộ phận tiểu đoàn bộ đưa chính trị viên Dụ theo đường lòng con mương ở phía tây, rút ra. Đội trưởng Hoàng Giáp cùng với đội phó Phạm Văn Đặng lập tức bố trí lại đội hình, tập trung ưu tiên sức mạnh binh hoả lực của đội về mé đường quốc lộ.

Quân Pháp phát hiện thấy bên ta rút, chúng rượt theo, đồng thời cánh quân phía bắc cũng lập tức rời chỗ ẩn nấp, nhấp nhổm tiến lên bẩn như vãi đạn về phía chúng tôi Đội trưởng Giáp và đội phó Đặng nhanh chóng chia quân chặn địch: Hai tiểu đội Đặng Thái và Hoàng Thái với một trung liên do Nguyễn Văn Hùng làm xạ thủ, cản bọn địch trong khu bệnh viện, bảo đảm cho tiểu đoàn rút ra ngoài - mặt này do đội phó Đặng chỉ huy. Bốn tiểu đội còn lại do đội trưởng Giáp chỉ huy chặn bọn địch từ mé quốc lộ 1 tiến vào. Toàn đội bước vào trận đánh có 96 anh em, lúc này chỉ còn lại chưa đến 50 người. Tất cả anh em đều bình tĩnh, kiên định chọi nhau với địch hết sức quyết liệt Bên phía đội phó Đặng, khẩu trung liên trong tay xạ thủ Hùng cùng hơn 10 khẩu súng trường của hai tiểu đội Đặng Thái và Hoàng Thái phát huy cao độ uy lực, khiến cho không một tên địch nào dám liều mạng bám đuổi anh em. Nhưng vẫn còn một số đồng chí khi vượt qua bãi rộng chừng 20m để xuống lòng mương đã bị những loạt đạn của bọn Pháp từ trên gác cao bắn

xuống, gây thương vong. Bên phía đội trưởng Giáp, bọn Pháp không có che chắn của xe tăng và thiết giáp, chúng tiến lên hết sức chật vật.

Hơn một giờ đồng hồ đã trôi qua. Bỗng xạ thủ Hùng kêu hết đạn. Đội phó Đặng trườn tới hội ý với đội trưởng Giáp. Nhìn đồng hồ tay kim chỉ đúng 17 giờ, và ráng trời đang tiết trong đông có vẻ như sắp tối. Hoàng Giáp hỏi kỹ lại đội phó Phạm Văn Đặng, yên tâm rằng các đơn vị bạn đã rút hết, anh truyền lệnh cho từng tiểu đội rút về

Khương Thượng (điểm hẹn của tiểu đoàn). Sáu tiểu đội tuần tự thay nhau khống chế địch yểm hộ cho nhau rút ra (riêng tiểu đội 1 của Phạm Đường Bệ vì phải vượt qua một bãi trống nên có hai chiến sĩ thương vong). Đến 17 giờ 30 cả sáu tiểu đội đã rút hết. Trận địa chỉ còn lại một tổ chiến đấu cuối cùng, gồm: Đội trưởng Hoàng Giáp, đội phó phạm Văn Đặng, tiểu đội trướng Hoàng Văn Thái, tiểu đội trưởng Quách Đình Hạnh, xạ thủ Nguyễn Văn Hùng và cô cứu thương Hoàng Thị Dung. Tổng cộng 6 người... tiếp tục đánh địch.

Đến đúng 18 giờ, bóng tối đã bao phủ đầy trời, giữa ta và địch chỉ còn nhìn thấy hình thù lờ mờ không còn phân biệt được mầu sắc. Đội trưởng nhắc Hùng bảo vệ cứu thương Dung rút trước. Hùng giục Dung chạy để Hùng bám theo, Dung vọt lên khỏi công sự mới chạy được chừng 10 bước thì bất ngờ một tràng đại liên từ phía quân Pháp bắn sang trúng vào cô. Thấy Dung gục xuống, Hùng vội lao tới đỡ nhưng không kịp. Cũng chính băng đạn ấy của quân Pháp đã xuyên thủng bụng anh. Anh lảo đảo ôm bụng thét lên: “Các anh ơi! Cứu lấy Dung”...

Bọn địch chỉ cách ta chừng hơn hai chục mét. Hình như chúng nghe thấy tiếng thét của Hùng. Trong bóng tối nhập nhoạng, bọn địch lồm cồm tiến lên. Bốn tay súng còn lại của ta nhất tề nhả đạn. Quân Pháp rống lên như bò bị chọc tiết, chững lại và rồi một khẩu lệnh của chúng rất dõng dạc cất lên: "Cessez le jeu!"(2).

Đội trưởng Giáp lập tức lao tới chỗ Dung và Hùng đang nằm. Dung còn sống và Hùng đã hy sinh. Đặng, Hạnh, Thái thay nhau vác Dung đi. Đội trưởng Giáp phục xuống ôm xác Hùng định vác lên nhưng không nổi. Anh lặng lẽ vuốt mắt Hùng rồi đứng dậy lầm lũi bước đi. Đến làng Khương Thượng, Giáp gặp Đặng với Thái đang ngồi nghỉ bên cạnh Dung. Họ đã xin đồng bào được một tấm cánh cửa đặt Dung lên để khiêng đi. Đặng cho biết tiểu đoàn đã rút về trú quân tại làng Huỳnh Cung. Mấy anh em dò dẫm hỏi thăm đường, mãi tới 12 giờ đêm mới về tới Huỳnh Cung. Đích thân tiểu đoàn trưởng Quốc Linh chạy ra đón. Anh nói một câu rất thật lòng: “tôi xin thay mặt tiểu đoàn cảm ơn các anh học trò Hà Nội! Các đồng chí đánh rất cừ”.
 
Nguồn tin: Theo Hà Nội - Bản hùng ca bất tử mùa đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr125 – 137.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 08:01:14 pm
Tự vệ phố Hàng Bè

Trong những kỷ vật của Bảo tàng Hà Nội còn lưu giữ tại đền Bà Kiệu có một chiếc chăn bằng da, nhiều bức ảnh quý về những người lính Trung đoàn Thủ đô năm xưa tham gia chiến đấu 60 ngày đêm tại Liên khu I anh hùng.
Chiếc chăn bằng da đó có nguồn gốc từ chiếc màn che cửa trong rạp Philamôních (nay là Nhà hát Múa rối Thăng Long) theo chân ông Hoàng Hải, Trung đội trưởng tự vệ phố Hàng Bè suốt những mùa kháng chiến. Ông cụ vừa ra đi cách đây vài tháng...

(http://www.1000namthanglonghanoi.vn/upload/image/images/BTANG.jpg)
Các chiến sỹ Trung đoàn Thủ đô xem triển lãm các bức ảnh về Liên khu 1 anh hùng. Ảnh: Dương Hiệp

Mùa đông ở Liên khu I Hà Nội cuối năm 1946 đầu 1947 ảm đạm và khét lẹt mùi thuốc súng. Trong tư liệu gia đình Trung đội trưởng Hoàng Hải còn những dòng di cảo, tờ mờ sáng ngày 20-12-1946, những người lính Vệ quốc từ Bắc bộ phủ từng tốp tràn về khu phố, quần áo tả tơi sạm mùi thuốc súng. Họ cãi nhau, tranh luận với nhau về trận đánh hồi đêm, về sự hy sinh của Đại đội trưởng Lê Gia Định ôm bom tử thủ... cùng Bắc bộ phủ. Gương mặt đen sắt của họ như còn hằn sâu lòng căm thù và khí phách quả cảm qua một đêm đấu súng không cân sức với quân thù. Những người lính tự vệ sao vuông phố Hàng Bè đã nhanh chóng hòa nhập với anh em vệ quốc đoàn và ít lâu sau được phiên chế vào các đơn vị Vệ quốc.

Trận đánh đầu tiên do Trung đội trưởng Hoàng Hải (tức Dương Hằng) chỉ huy diễn ra trên đoạn đường chưa đầy 100m từ ngã tư Hàng Dầu - Lò Sũ đến ngã tư Lò Sũ - Lý Thái Tổ (hồi ấy là đường Admiral Courbet). Một tiểu đội lúc đó đang ở căn nhà góc phố Hàng Dầu có cửa sau trổ ra phố Lò Sũ được Đại đội trưởng Liêm (tức Liêm "Xồm", sau này là Thượng tướng Vũ Lăng) tay lăm lăm khẩu côn 12, lệnh cho Trung đội trưởng Hoàng Hải phải đưa tiểu đội băng qua đường sang phố đối mặt để đến Sở Máy điện, đưa anh em thương binh về. Băng qua đường lúc này là một cửa tử vì ở ngã tư Lò Sũ - Lý Thái Tổ, chiếc xe Háptrắc của địch đang chĩa khẩu 12,7 li kiểm soát cả đoạn phố. Đại đội trưởng Hoàng Hải chạy đầu tiên thoát, vì địch bất ngờ. Vài tiếng sau, vài ba người nữa cũng băng qua được. Chờ đến đêm mới đưa được thương binh về. Nhiều anh em thương binh chưa về đến trạm xá quân y đã tắt thở, anh em tự vệ phố Hàng Bè lại cáng vào chôn trong ngõ Trung Yên...

Nhiều thanh niên phố Hàng Bè lần đầu tiên đến bếp ăn tập thể thời chiến thấy rất vui và tự hào khi mình đã là một chiến sĩ đang sống đời lính ngoài mặt trận và mặt trận ấy lại gần kề với ngôi nhà tuổi thơ của mình và các trận đánh lại diễn ra trên những đường phố mà mấy tháng trước còn cắp sách đến trường. Cụ Thái Hy nhớ lại: "Bếp ăn tập thể đặt ở nhà bánh đậu xanh Giụ Nguyên phố Hàng Bạc, ở phía sau có lối ra ngõ Trung Yên. Ngày đêm cứ đói lúc nào vào đấy theo lối cổng sau là có ăn. Các chảo cơm, chảo thức ăn ngun ngút khói. Các chị nhà bếp và phục vụ cũng toàn là người trong phố hay buôn bán ở dưới chợ Hàng Bè. Mỗi lần đến ăn, các chị lại nhờ tìm nguồn thực phẩm. Dân "thổ công" phố Hàng Bè thì dễ dàng tìm ra những kho gạo ở phố Chợ Gạo, những sọt cá mắm ở phố Hàng Mắm... Duy chỉ có khoản rau xanh là khó nhất, nhiều lần phải vượt qua đê, ra các bãi trồng khoai ở ven sông để hái lá và mót củ.

Một buổi tối, liên lạc đến báo: Lệnh tập trung ở ngõ Phất Lộc trước 10h đêm. Lúc ấy mới 8h, cả trung đội tự vệ Hàng Bè được lệnh lên đường, nhiều người tranh thủ rẽ qua nhà tìm cái chăn len và mấy bộ quần áo. Quần áo thì đã có nhưng chăn thì chỉ thấy chăn bông. Có anh em sáng kiến lao ra rạp Philamôních dứt vội chiếc màn che cửa bằng da. Thế là khỏi lo những mùa rét Việt Bắc. Chiếc chăn này đã cùng nhiều người trải qua bao mùa kháng chiến.

Các chiến sĩ tự vệ Hàng Bè đều nhớ như in cái đêm tháng Chạp năm 1947, đoàn quân từ ngõ Phất Lộc tiến ra đường cái, nhắm Cột đồng hồ làm chuẩn, vượt qua đường Trần Nhật Duật (ngày nay), leo lên đê, băng qua bãi sông, theo hướng cầu Long Biên mà tiến. Còn khoảng 100 mét đến cầu, đã trông thấy đốm lửa thuốc lá của của bọn lính lê dương đi tuần. Trời đen như mực, sao thưa nhạt nhòa trong sương đêm. Đi qua cầu đã khá xa, ngoảnh nhìn về Hà Nội le lói đèn mà lòng ngậm ngùi mênh mang, tự hỏi liệu có ngày trở về? Sau này nhiều người lính Thủ đô năm xưa đã như tìm thấy mình trong những vần thơ Nguyễn Đình Thi:
 
Sớm chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

... Ngày ấy đã 63 năm, những người con Hàng Bè đã không còn lại nhiều trên cõi nhân sinh. Cụ Thái Hy, nguyên Trưởng ban liên lạc cựu thanh niên Tuyên truyền Xung phong thành Hoàng Diệu - một người con phố Hàng Bè xúc động kể lại: "Thế hệ thanh niên chúng tôi luôn xác định chỉ như hạt cát của lịch sử. Nhưng chúng tôi luôn tự hào là những người lính Thủ đô gan dạ, mưu trí, hào hoa".
 
Nguồn tin: Theo Báo HàNộimới


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 08:03:25 pm
Sinh viên ở Việt Nam học xá kháng chiến

Từ tháng 11 năm l943 đến ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 nhân dân Hà Nội sống trong không khí sục sôi, tình hình hết sức căng thẳng. Quân đội viễn chinh Pháp thuộc lữ đoàn II thiết giáp của tướng Leclerc, một lữ đoàn vừa chiến thắng quân đội phát xít Đức được điều qua Việt Nam, đã trực tiếp gây ra tình hình này ở Hà Nội. Bọn lính mũ nồi đỏ đi trên các xe Jeep, xe bọc thép Halftrack liên tục khiêu khích dân chúng ở khắp mọi nơi. Đêm đến, chúng cho xe tăng đi về hướng Bạch Mai và một số khu phố khác bắn vu vơ gây tấm lý lo sợ cho nhân dân. Ta giữ thái độ bình tĩnh không bị động, vì hoà bình thêm được ngày nào đó là có lợi công tác chuẩn bị của ta ngày ấy.
Ở khu Việt Nam học xá những sinh viên ở lại cũng sống trong bầu không khí sục sôi. Hãy đợi lệnh Bác Hồ! Đó là ý nghĩ giản đơn và duy nhất của chúng tôi hồi đó. Tuy nhiên cũng có một số sinh viên không hoàn toàn thống nhất với quan điểm của Chính phủ, thậm chí còn có người bị lôi kéo bởi các thế lực phản động. Một buổi sáng đầu tháng 12/1946 công an đã vào đến tận nhà D của học xá kiểm tra và bắt đi hai người (một trong hai người bị bắt đó sau trở thành cán bộ của ngành Công an).

(http://www.1000namthanglonghanoi.vn/upload/image/images/Du%20kich.jpg)
Đội nữ du kích Thủ đô dự lễ kỷ niệm ngày 1 tháng 5 năm 1946 tại Việt Nam học xá. Ảnh tư liệu

Giữa tình hình rối ren như vậy, chúng tôi đã may mắn được đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Chính phủ đến nói chuyện, giải thích cặn kẽ đầy thuyết phục tình hình nóng hổi cho sinh viên. Anh em ngồi chật cả hội trường nhà A chăm chú lắng nghe. Đồng chí Võ Nguyên Giáp cho biết là ta đã nhiều lần thương lượng với tướng Valluy, chỉ huy quân viễn chinh ở Bác bộ và đại diện cho Chính phủ Pháp. Ta hết sức nhân nhượng nhưng ta càng nhân nhượng chúng càng lấn tới. Sau buổi nói chuyện, sinh viên đã hiểu rõ hơn chủ trương đúng đắn của Chính phủ ta, ra sức chịu đựng sẵn sàng chấp hành mọi mệnh lệnh của trên.

Một thời gian ngắn sau đó, bọn Pháp gửi tối hậu thư cho ta đòi tước vũ khí lực lượng vũ trang của ta, không khí bị dồn nén tột độ, chiến tranh đến gần, dân chúng sơ tán, sinh viên sơ tán.

Số sinh viên còn lại chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, học tập quân sự tại Việt Nam học xá và tại Sở Vô tuyến điện (nay là tập thể Đài Phát thanh truyền hình ở Ngã Tư Vọng), học sử dụng vũ khí, tập bắn đạn thật. . . để đối phó với tình hình. Anh Vũ Văn Ngũ, sinh viên năm thứ tư trường Y đã tự nguyện đứng ra huấn luyện cho tất cả sinh viên về công tác cứu thương. Tôi được anh em tín nhiệm bầu làm Trưởng ban tác chiến của Việt Nam học xá vì có hiểu biết chút ít về quân sự và đã tham gia chiến đấu ở trong Nam và đường số 9.

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch đã nối chặt hàng ngũ của chúng tôi hơn bao giờ hết, chúng tôi chỉ còn nghĩ đến bào vệ Thủ đô, bảo vệ đất nước, không hề nghĩ gì đến bản thân mình nữa.

Khi những phát đại bác bắn ra từ pháo đài Láng, chúng tôi đón nhận nó hết sức bình thản: cái gì phải đến đã đến! Một giai đoạn mới bắt đầu! Số lượng sinh viên ở Việt Nam học xá còn lại 29 anh em, Trung, Nam, Bắc đều có, ở rải rác trong 4 ngôi nhà chính A, B, C, D (Việt Nam học xá gồm có 4 ngôi nhà sinh viên và hai nhà cho giám đốc và thủ quỹ). Trong số đó có người nhà ở Hà Nội cũng tình nguyện ở lại Việt Nam học xá chiến đấu cùng chúng tôi. Có người đã học xong cử nhân khoa học, kỹ sư, nhiều người học năm thứ ba trường Y, còn lại học năm thứ hai, thứ nhất các trường Y, Mỹ thuật, Canh nông v.v.. Về mặt hiểu biết quân sự thì có 3 anh là cán bộ tiểu đoàn thuộc các đơn vị ở Huế, đã tham gia chiến đấu ở trong Nam và đường số 9, sau Hiệp định được điều về Hà Nội học tiếp các khoá học đang bỏ dở sau khi Nhật đảo chính Pháp 9/3/1945.

Tất cả chúng tôi trở thành tự vệ chiến đấu khu vực Bạch Mai thuộc Liên khu II Hà Nội. Nhận được lệnh là đi chiến đấu ngay một cách vô điều kiện, không hề biết người chỉ huy mình là ai. Hầu hết mới chiến đấu lần đầu nhưng dám trực tiếp giáp mặt với quân thù với tinh thần luôn sẵn sàng hy sinh. Đi chiến đấu nhưng rất vô tư. Có anh được bạn bè khu Bạch Mai rủ đi đánh Pháp ở một nơi xa trên phố, rồi sáng hôm sau trở về trên cáng với một vết thương nặng ở lưng.

Các chị phục vụ hậu cần, hăng hái đi tiếp tế lương thực cho mặt trận, tiếp tế đều đặn cho chúng tôi mỗi ngày 2 lần, mỗi lần một nắm cơm ở giữa có một miếng thịt.

Về vũ khí trang bị, chúng tôi thừa hưởng một tài sản của Tổng hội sinh viên để lại, tuy ít ỏi nhưng rất quý giá hồi đó.

 1 Đại liên Hotchkiss với 900 viên đạn; 6 súng trường Mousqueton mỗi khẩu 50 viên đạn; 2 súng trường Indochinois mỗi khẩu 50 viên đạn; 1 súng lục ổ quay với 20 viên đạn; 10 lựu đạn mỏ vịt; 50 bánh thuốc dymamitegomme (thuốc nổ dẻo); 100 đề tô (kíp nổ); 20 mét dây cháy chậm;

Và chúng tôi đã thực hiện một số nhiệm vụ tác chiến:

- Đã phá huỷ 3 cầu ở phía Nam và Tây Nam khu Việt Nam học xá.

- Đã tham gia chiến đấu ở Baricade (chiến lũy) Ô Cầu Dền.

- Đã tham gia chiến đấu Ở Baricade sát ngã tư phố Huế với Nguyễn Du - Lê Văn Hưu.

- Đã tổ chức riêng một ổ đề kháng ở số 2 Nguyễn Du và đặt đại liên ở đây.

- Chiến đấu ở rạp chiếu bóng Majestic (nay là rạp Tháng Tám).

- Chiến đấu dọc 2 bên đường phố Huế từ Ô Cầu Dền đến Nguyễn Du.

Cùng chung một chiến hào với các tầng lớp nhân dân Hà Nội, tận mắt chứng kiến những gương hy sinh của nhân dân; già yếu mới sơ tán, còn ở lại là chiến đấu, tủ chè sập gụ, bàn ghế, cánh cửa bỏ ra đường làm chướng ngại, tường nhà đục xuyên suốt dọc hai bên đường bảo đảm cho việc đi lại và sơ tán được an toàn. Mọi người hành động trong một trật tự đã được sắp đặt từ trước, không hề có sự hỗn loạn kêu ca. Và những tin tức chiến đấu ngoan cường cùng những chiến thắng ban đầu đã cổ vũ rất mạnh đến tinh thần của chúng tôi.

Ở Việt Nam học xá, chúng tôi còn thành lập một trạm cấp cứu và trung chuyển tại nhà A, trực tiếp điều trị cấp cứu ban đầu rồi chuyển ngay người bị thương về Kim Lũ, Đại Từ hoặc về Văn Điển. Nhiệm vụ này do anh em sinh viên trường Y đảm nhận rất có kết quả.

Đêm 20/12/1946, một chị phụ nữ đi sơ tán, khi qua khu học xá thì đau đẻ phụ vào nằm ở nhà A. Anh em trường Y có mắt lúc ấy mới học đến năm thứ 3 chưa biết đỡ đẻ Anh Vũ Tam Hoán phải bò qua bệnh viện Robin (nay là bệnh viện Bạch Mai) tìm đến nhà bác sĩ Đặng Văn Chung, hỏi cách đỡ đẻ, rồi về ngay nhà A để đỡ cho cho người sản phụ. Đó là ca đỡ đẻ đầu tiên trong đời làm bác sĩ của anh. Sản phụ rất cảm ơn anh và nhờ đặt tên cho cháu trai mới ra đời. Anh không ngần ngại đặt tên cho cháu là Bom, chắc nếu sống đã tròn 60 tuổi. Cháu là công dân trẻ nhất ở khu Việt Nam học xá hồi bấy giờ.

Từ 20/12/1946 đến 30/12/1946 anh em đã liên tục tham gia chiến đấu làm nhiệm vụ cứu thương, tải thương với tinh thần tất cả vì độc lập của Tổ quốc, tất cả để bảo vệ Thủ đô.

Đến 30/12/1946, Bộ Quốc phòng điều tất cả 29 anh em chúng tôi về Cục quân huấn (do đồng chí Phan Phác làm Cục trưởng) đóng ở Văn Điển, để nhận nhiệm vụ khác và bàn giao toàn bộ vũ khí trang bị và cơ sở vật chất của khu Việt Nam học xá cho một đơn vị quân đội thuộc Trung đoàn 37.

Sáu mươi năm đã trôi qua, những anh em tự vệ chiến đấu ở khu Việt Nam học xá, qua hai cuộc kháng chiến đã góp phần nhỏ bé của mình vào chiến thắng chung của dân tộc.

Tuy thời gian chiến đấu ở Hà Nội ngắn ngủi những ấn tượng về lòng dũng cảm và tinh thần hy sinh cao đẹp của quân và dân Hà Nội cùng những kinh nghiệm thu được cho bản thân mỗi người là vô cùng quý giá, đặc biệt là đối với một số anh em chúng tôi ngay sau đó được phân công đi huấn luyện dân quân ở Bắc Ninh.

Dù ở Gia Lâm, Từ Sơn, Tiên Du, Thuận Thành, Gia Lương, Lang Tài hay Yên Phong, dù trong hoàn cảnh ác liệt nào, 6 anh em chúng tôi (Lê Khánh Cận, Phan Văn Diễn, Đỗ Đức Dục, Bùi Minh Tiêu, Nguyễn Đức Thừa, Bửu Triều) cũng tìm mọi cách hoàn thành kế hoạch huấn luyện cho từng xã phục vụ ngay cho chiến đấu của địa phương. Chúng tôi còn tự nghiên cứu, tìm tòi xây dựng một mô hình xã chiến đấu cho Đình Bảng, sau này đã thực sự trở thành một xã chiến đấu kiên cường trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp mặc dầu chỉ cách trung tâm Hà Nội khoảng trên 10km, góp phần cùng với chủ trương “Tổ chức Đại đội độc lập” làm nên một bước ngoặt lịch sử trong phát triển nghệ thuật quân sự chiến đấu ở vùng sau lưng địch thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Chúng tôi, những sinh viên của Việt Nam học xá đã chiến đấu trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội đến nay người còn người mất. Ôn lại những ngày oanh liệt cách đây hơn nửa thế kỷ, mà lòng chúng tôi bồi hồi xúc động, tự hào vì đã hiến dâng những ngày thanh niên ấy cho sự nghiệp cao cả của Tổ quốc.

 
Nguồn tin: Theo Hà Nội - Bản hùng ca bất tử mùa đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr146 – 151.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 08:06:03 pm
15 ngày chặn đánh địch ở đường Đội Cấn - Ngọc Hà (Từ 19/12/1946 đến 31/1947)

Chiều 19/12/1946, đại đội 1 Tiểu đoàn 56 được lệnh cấp tốc hành quân vào tập kết ở nhà thờ Liễu Giai phối thuộc với Tiểu đoàn145. Đại đội đảm nhiệm trục đường Đội Cấn - nhà thờ Liễu Giai, tuyến trước cánh trái đến dốc Ngọc Hà tiếp giáp đường Hoàng Hoa Thám, cánh phải tiếp giáp với ngã ba đầu đường Sơn Tây. Đại đội được tăng cường hai tiểu đội tự vệ chiến đấu của Đội Cấn - Ngọc Hà vừa phối hợp chiến đấu, vừa dẫn đường. 19 giờ các đơn vị phải xuất phát nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí, tổ chức chiến đấu và nổ súng tiến công địch theo quy định thống nhất ám tín hiệu của Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội.

(http://www.1000namthanglonghanoi.vn/upload/image/images/a%20chien.jpg)
Các chiến sĩ chiến đấu trên đường phố. Ảnh tư liệu

Đại đội trưởng Thế Môn và Chính trị viên Tế Độ, giao nhiệm vụ cho Trung đội 1, do Trung đội trưởng Nguyễn Tấn chỉ huy tiến thẳng lên phố Đội Cấn chiếm lĩnh Trại con gái (khu gia binh cũ, nay là trạm 354 và bên kia đường là khu Bảo tàng Hồ Chí Minh), bố trí lực lượng hai bên chiến lũy đầu phố. Trung đội 2, do Trung đội trưởng Đặng Chung Đình chỉ huy, có đại đội phó Trần Dương Oai đi cùng, đi xuyên Ngọc Hà đánh chiếm nhà bia Homeu (ô-men) (nay là Nhà máy bia Hà Nội), cạnh đường Hoàng Hoa Thám. Trung đội 3 thiếu một tiểu đội bố trí ở ụ chiến lũy giữa phố Đội Cấn làm dự bị của đại đội.

1. Đánh chiếm nhà máy bia Ô-men và vườn hoa La-pho.

20 giờ ngày 19/12/1946, Trung đội 2 tiếp cận nhà máy bia đúng lúc đèn điện tắt. Đại đội phó Dương Oai nhắc trung đội trưởng chú ý bắt liên lạc với đơn vị tiểu đoàn l45 và tự vệ chiến đấu Lam Sơn. Một cuộc “hội chiến” giữa ba đơn vị mới chỉ được báo trước mấy tiếng lúc chiều tối. Cứ chủ động nổ súng, ngoài bắn vào là ta, trong bắn ra là địch. Mũi tấn công của trung đội vừa nổ súng thì phía đơn vị bạn cũng bắt đầu bắn. Quân Pháp ở đây có khoảng một tiểu đội. Trận đánh diễn ra khá nhanh, bọn gác cổng bị tiêu diệt trước, ba mặt cùng đột nhập, 11 tên lính Pháp vừa tây trắng vừa tây đen bị tiêu diệt. Vũ khí thu được trang bị ngay cho anh em tự vệ chiến đấu của đại đội Lam Sơn. Ngay sau đó Đại đội phó Dương Oai chủ động đề xuất chủ trương ba đơn vị phối hợp bố trí phòng ngự, sẵn sàng đánh địch tấn công chiếm lại. Phạm vi Nhà máy bia rất rộng, mỗi đơn vị để một tiểu đội đảm nhiệm một khu vực, chỉ huy chung do cán bộ đơn vị của Tiểu đoàn 145.

Toàn bộ số bia phân phát hết, nếu không sẽ mất vào tay địch. Ngày hôm sau hàng trăm két bia được chuyển đến các đơn vị toàn tuyến.

Phát huy thắng lợi ở Nhà máy bia, Đại đội phó Dương Oai tổ chức lực lượng còn lại của Trung đội 2 phối hợp với đơn vị tự vệ chiến đấu Lam Sơn tiến đánh địch ở vườn hoa La-pho (vườn ươm cây ngày nay) gần dốc Ngọc Hà. Ở đây địch đã đề phòng, khi ta nổ súng, chúng rút lên gác ném lựu đạn, bắn súng xuống. Chiến sĩ bắn trung liên của Trung đội 2 đặt ngay trên mặt đường, ngang tầm với tầng hai, nhả đạn phá toang cửa sổ. Một tổ tự vệ chiến đấu có sáng kiến ôm rơm vào đốt cầu thang, ta xung phong lên tiêu diệt 3 tên. Trong trận này, Chính trị viên Trần Việt Hồng bị thương đưa về trạm cứu thương Cống Vị điều trị.

Cũng trong đêm 19/12/1946, ở dốc Ngọc Hà, một tổ chiến đấu của Trung đội 1 cùng với một tổ tự vệ chiến đấu Đội Cấn lên chiếm lĩnh, đã tiêu diệt một ổ đề kháng bí mật ở trong lâu đài của chị vợ Bảo Đại.

Sáng 20/12/1946, phản ứng đầu tiên của địch là cho 2 xe bọc thép từ Phủ Chủ tịch tiến ra đường Chùa Một Cột trên đường Lê Hồng Phong, bắn hàng tràng đại liên vào trận địa của Trung đội 1 ở đầu đường Đội Cấn và trại Con gái. Khoảng nửa tiếng sau, không thấy ta động tĩnh gì, chúng quay về phía Cột Cờ.

Chiều 25/12/1946, một xe tăng, 2 xe bọc thép không có bộ binh đi cùng từ đường Cột Cờ tiến ra bắn phá ụ chiến lũy và bắn đạn lửa làm cháy mấy nhà trong Trại con gái. Sau một hồi bắn phá không thấy ta bắn trả, chúng lại rút về. Ngay đêm ấy, đại đội trưởng điều lực lượng ở tuyến sau lên cùng với Trung đội 1 đắp thêm ụ đất, đá, gạch và các vật chướng ngại củng cố chiến luỹ vững chắc thêm và đào giao thông hào ở hai đầu chiến luỹ thông vào nhà, điều chỉnh lại lực lượng, rút tiểu đội bố trí ở Trại con gái về phía trong chiến lũy.

Đêm 28/12/1946, Trung đội trưởng Trung đội 1 cho một tổ chiến đấu bí mật luồn qua các dãy nhà Trại con gái vào quấy rối địch ở trường Nhà Thờ đạo đến phố Lê Hồng Phong. 3 giờ sáng rút về vị trí ở căn nhà hai tầng bên trong cụm chiến đấu đầu phố Đội Cấn. Vừa nằm ấm chỗ, thì tai hoạ khôn lường ập đến, hàng loạt đạn tiểu liên của địch nổ ran cả trên gác cả dưới nhà, cả 7 chiến sĩ 3 ở trên gác, 3 ở dưới nhà) không kịp trở tay, đều bị hy sinh. Thật là một giá quá đắt về tư tưởng chủ quan đơn giản không cảnh giác. Không ngờ rằng khi tổ quấy rối rút về, có một nhóm địch lập tức bí mật theo dõi và lặng lẽ lọt vào trận địa ta, nổ súng bắn ta và nhánh chóng rút.

Đã hơn một tuần lễ, anh em ta thường ăn cơm nắm với thức ăn khô thiếu chất rau, trong khi ở các vườn của nhân dân trong làng Ngọc Hà còn rất nhiều bắp cải, su hào, hành, tỏi, khi tản cư chưa kịp thu hoạch. Một vài tối lác đác có bà con về chặt nhổ rau. Được sự đồng ý của bà con: “Các chú cứ lấy mà ăn, nếu không địch cũng cướp mất”. Được lời như cởi tấm lòng, các chị em cấp dưỡng nhẹ đi nỗi băn khoăn bộ đội thiếu rau mà cán bộ chỉ huy không cho lấy của dân. Thế là một kế hoạch thu hoạch rau được ban ra: Lần lượt đơn vị tuyến trước nhổ rau, chuyển về cho cấp dưỡng, nhổ ruộng nào hết ruộng ấy. Tuyến sau tiếp nhận nấu luộc chuyển cho tuyến trước. Mấy bộ phận ở gần bếp cấp dưỡng, được hưởng nước luộc bắp cải ngọt như pha đường.

Chặn đánh cuộc tấn công của địch ngày 3/1/1947

Sáng sớm ngày 3/1/1947, một chiếc máy bay thám thính “bà già” lượn đi, lượn lại, bay rất chậm nghiêng ngó, có lúc bay xuống thấp nhìn rõ cả tên cầm lái. Khoảng 20 phút nó bay đi, lập tức từng loạt đạn đại bác và súng cối rơi xuống dãy nhà đường Đội Cấn và trong làng Ngọc Hà, Vạn Phúc.

(http://www.1000namthanglonghanoi.vn/upload/image/images/Tuong%20dai.jpg)
Tượng đài " Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh". Ảnh tư liệu

Một xe tăng và hai xe bọc thép từ phía Trại con gái xông tới bắn xối xả vào trận địa của ta. Anh em vẫn nằm im chờ bộ binh địch tiến lại gần mới nổ súng. Khoảng một đại đội lính Âu Phi tiến theo hai đường: đường Ông Ích Khiêm men theo dãy phố đánh vào cánh phải ụ chiến luỹ; và đường Chùa Một Cột tiến đánh cánh trái. Ở đây có Tiểu đội 2 là tiểu đội hoả lực của Trung đội 1 với khẩu trung liên duy nhất của đại đội do một cựu binh sĩ chuyên trách sử dụng, bố trí có góc bắn rất rộng khống chế cả ngã ba. Bọn địch chủ quan, hò hét xông lên. Lập tức khẩu trung liên nổ ròn và bắn hết cả băng, đồng thời súng trường, lựu đạn đồng loạt xả đạn vào đội hình địch. Hơn 10 tên địch to cao đổ gục. Cả hai mũi tấn công khựng lại. Chúng nằm rạp xuống mặt đường, tạt vào các mép nhà bắn trả loạn xạ Liền sau đó, chiếc xe tăng và hai xe bọc thép chạy ngang, chạy dọc, phát động máy nổ gầm rú hết cớ để kích động lại tinh thần quân lính và bắn dữ dội liên hồi vào vị trí của ta. Anh em ta lại nằm im chờ đợi đợt tấn công thứ hai của địch. Chúng phát hiện cánh trái giáp đường Sơn Tây có quãng trống thúc bộ binh tấn công, đánh tạt sườn quân ta. Cùng lúc đó một xe bọc thép có khẩu đại liên tiến sát vào cụm chiến lũy bắn đạn Dum

Dum. Một chiến sĩ tự vệ chiến đấu nấp dưới giao thông hào khi thấy chiếc xe tiến đến gần đã chớp thời cơ khoảnh khắc bất thần nhảy lên ném quả thủ pháo và bồi thêm chai xăng cờ rếp trúng khẩu đại liên, tiêu diệt tên bắn súng rồi nhanh như chớp nhảy xuống giao thông hào luồn vào trong nhà thông ra vườn, rút về tuyến hai ở giữa phố.

9 giờ địch chiếm được chiến tuy đầu phố nhưng bị chặn lại ở chiến luỹ 2 giữa phố.

Ở phía dốc Ngọc Hà, đầu đường Hoàng Hoa Thám, địch cũng đã chiếm được. Tiểu đội thuộc trung đội 2 bố trí ở nhà chị vợ Bảo Đại đã rút vào trong làng Ngọc Hà. Đến trưa, chiếc máy bay “bà già” lại xuất hiện chỉ điểm cho đại bác và cối 81 bắn vào toàn bộ khu vực phòng ngự. Địch thay đổi chiến thuật, không đánh chiếm hai bên dãy nhà dọc phố, dừng lại ở chiến luỹ 2, chế áp ta bằng đại liên. Chúng tập trung lực lượng bộ binh tổ chức mũi “vu hồi” cánh trái xuyên qua làng Vạn Phúc đánh vào sau nhà thờ Liễu Giai định bao vây tiêu diệt ta ở đường Đội Cấn. Để tránh bị tiêu hao, giữ được lực lượng, Đại đội 1 được lệnh rút về Cống Vị. Hai ngày sau, đại đội chuyển về Thái Hà ấp - Ngã Tư Sở - Cầu Mới, lại trở về chiến đấu trong đội hình Tiểu đoàn 56.

 
Nguồn tin: Theo Hà Nội - Bản hùng ca bất tử mùa đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 230 -235


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 08:07:30 pm
Đội tự vệ hỏa xa hình thành và chiến đấu trong những ngày đầu cuộc kháng chiến toàn quốc tháng 12/1946

Đầu năm l946, chi bộ Hoả xa Hà Nội tổ chức Đội tự vệ chiến đấu Hỏa xa Hà Nội. Đội gần 40 cán bộ, công nhân viên tích cực, đoàn viên công nhân cứu quốc của các đơn vị Toa xe Hà Nội, Đề pô Hà Nội, Cầu đường, ga Hà Nội, Ty Xa vụ. Các đơn vị này đóng trong địa phận Liên khu III và giáp giới Liên khu II: đông giáp đường Hàng Lọng; bắc giáp đường Sinh Từ; nam giáp đường Khâm Thiên; phía tây là con đường sau ga chạy từ Sinh Từ đến Khăm Thiên.

(http://www.1000namthanglonghanoi.vn/upload/image/images/a%20do.jpg)
Các bảng tin, các báo tường đã thể hiện quyết tâm thực hiện lời thề Sống chết với Thủ đô. Ảnh tư liệu

Số lượng đội viên tự vệ, đến tháng 12/1946 lên đến gần 80 người, tổ chức thành 9 trung đội (trong đó một trung đội chỉ có 2 tiểu đội). Đơn vị được trang bị hơn 10 súng trường các loại Nhật, Pháp, Nga, có Remington, khai hậu; gần 10 Stell bắn phát một hiện đại nhất là khẩu Stell Mỹ (của tên chánh Hỏa xa bỏ lại hôm Nhật đảo chính 9/3/1945). Đơn vị còn được trang bị hơn 100 lựu đạn lọ mực Phan Đình Phùng, hơn chục lưỡi lê, mã tấu. Tháng 12/1946 có thêm mìn điện và một quả bom.

Mỗi tự vệ được phát một bộ đồng phục xanh công nhân. Hàng ngày anh em vẫn làm việc chuyên môn. Đến tối, luân phiên canh gác xí nghiệp. Có đến 20 người không vướng gia đình hoặc xa gia đình thì ngủ tập trung ở trụ sở. Hàng tuần sinh hoạt 2 buổi tối: học chính trị, nghe thời sự, học hát (do anh Văn Cao hướng dẫn). Ngoài những hoạt động ở xí nghiệp, đội còn tham gia tổ chức ngày 1 tháng 5 ở Việt Nam Học xá, xây dựng kỳ đài cho ngày ra mắt Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tại Nhà hát lớn, ngày thành lập Đảng Xã hội Việt Nam ở cuối phố Bà Triệu.

Tháng 9/1946, anh em tham gia sửa sang đầu máy, toa xe lập đoàn tầu đón Bác Hồ ở Pháp về. Ngày đoàn tầu đón Bác về đến ga Hà Nội, Tự vệ Hoả xa được cùng các đồng chí công an bảo vệ vòng ngoài nghênh đón Bác tại sân ga, tại tiền sảnh ga - nơi Người nói chuyện với đồng bào ta và binh lính Pháp ra đón.

Có mấy lần vận chuyển vũ khí vào Nam bằng đường sắt, tự vệ phải chuẩn bị những toa xe tốt, và bằng biện pháp nghiệp vụ che mắt bọn Tầu Tưởng, nối toa xe vũ khí vào các đoàn tầu bảo đảm được các yêu cầu của đồng chí phụ trách vận chuyển quốc phòng.

Những ngày ráo riết chuẩn bị chiến đấu

Từ đầu tháng 12/1946 tình hình ngày càng căng thẳng, thực hiện chủ trương di chuyển máy móc lên chiến khu, tự vệ làm nòng cốt trong việc tháo dỡ máy, có đêm tổ chức 4, 5 chuyến tàu chở máy đi về phía Nam.

Khoảng ngày 15/12/1946 anh em trổ tường phía sau ga ở ba vị trí Cây nước, bãi Thiên Hùng và góc tường sát đường Khâm Thiên để chuẩn bị chiến đấu.

Tự vệ cũng thu gom éclipse, lập lách (thiết bị để nối hai đoạn đường ray), bu loong... để trữ trên gác nhà ga, chuẩn bị cho phòng thủ đánh địch chuẩn bị mìn điện, magnéto để phá cây nước và đánh bom. Đào hố cá nhân để di động chiến đấu theo kinh nghiệm chiến trường phía Nam. Mua sẵn mấy bồ pháo ném để chuẩn bị cho đánh quấy rối.

Từ ngày l7/12/946 đã tập trung lực lượng tự vệ, ăn ngủ tại trụ sở. Bố trí lực lượng trực chiến tại các vị trí chiến đấu: gác nhà ga, cổng toa xe, kho vật tư, góc ngã tư Khâm Thiên - Hàng Lọng.

19/12/1946, khoảng hơn 17 giờ chúng tôi được phổ biến lệnh chiến đấu vào 20 giờ lúc điện thành phố tắt và đại bác bắn vào Thành nội.

Theo kế hoạch tác chiến định trước, đồng chí Hà Đăng Ấn phụ trách việc chỉ đạo cho trưởng ga Hà Nội điện cho trưởng ga Văn Điển ra lệnh cho đoàn tầu từ Nam Định về ga Hà Nội (giờ quy định đúng 20 giờ) phải đỗ tại cột tín hiệu đỏ ở miếu Hai Cô, đổ khách xuống hết. Tại đây đồng chí Inh chỉ đạo việc cắm pháo hiệu và đèn đỏ để hãm tầu. Khi tầu đỗ thì cắt đầu máy cho chạy đến giữa đường Khâm Thiên đỗ lại, để đầu máy trở thành chướng ngại vật. Việc này đã làm đúng kế hoạch. Chướng ngại vật là đầu máy Pacific được hình thành trước khi điện thành phố tắt độ 2 phút.

Đồng chí Ấn cũng phụ trách việc cho lập một đoàn tầu gồm 5 toa SS, đầu máy đẩy sau, khởi hành lúc 19 giờ 50 lên hướng Bắc để làm trật bánh tại 5 đường: Trần Phú, Điện Biên Phủ, Nguyễn Thái Học, Hàng Đẫy và Sinh Từ. Đoàn tầu do tài xế Nghĩa - đảng viên phụ trách.

Đồng chí Chu Văn Biên - phụ trách lực lượng tác chiến, đã chỉ huy cung cấp thêm lựu đạn, nước uống, lương khô cho tiểu đội bố trí ở gác nhà ga, kiểm tra các chốt bố phòng ở cổng và nhà máy toa xe, kho hàng; và lúc 19 giờ 50 chỉ đạo việc đào hố để đặt bom ở tim đường ngã tư Khâm Thiên - Hàng Lọng. Việc đặt bom và giật nổ giao cho trung đội trưởng Nguyên phụ trách.

(http://www.1000namthanglonghanoi.vn/upload/image/images/a%20%20pho.jpg)
Tự vệ Thủ đô chiến đấu cơ động trên đường phố. Ảnh tư liệu

Lúc 20 giờ điện thành phố tắt, đại bác ở Láng bắn vào Thành nội thì mọi việc được thực hiện như kế hoạch, trừ việc dùng mìn phá cây nước không đủ mạnh làm hỏng van nước. Đến khoảng hơn 23 giờ mới xuất hiện xe tăng và half-track của địch ở cửa ga Hà Nội: 5 chiếc bắn rất mạnh vào tiền sảnh và hai cánh gà nhà Ga, còn 3 tốp 3 chiếc rải từ cửa Ga đến ngã tư Khâm Thiên, trong đó có một xe tăng đỗ ngay trên quả bom ta chôn ở tim đường ngã tư Khâm Thiên - Hàng Lọng, đồng chí Nguyên và anh em châm mìn điện và giật nhưng bom không nổ. Ta chờ bộ binh địch tiến vào mới nổ súng, nhưng địch chỉ dùng súng trên xe bắn. Đến rạng sáng 20/12 vì hoàn cảnh chiến đấu ban ngày không thuận lợi, ta chỉ để tiểu đội chốt trên gác nhà ga ở lại, còn toàn bộ rút về chốt ở nhà dân đầu phố Khâm Thiên. Suốt ngày hôm đó, địch chỉ dùng súng trên xe cơ giới bắn, không dùng bộ binh tấn công. Chiều tối 20, ta cho tiểu đội chốt trên gác Ga rút ra ngoài tổ chức đánh du kích. Các tối tiếp theo từ 21 đến 24 tháng 12, tối nào cũng có 1, 2 tổ tự vệ đi quấy rối các vị trí địch từ khoảng 20 giờ đến 23 giờ đêm. Ngày 25 tháng 12, đồng chí Dậu, đại đội phó dẫn một tổ đột nhập nhà ga Hà Nội, lên gác hai, cũng không có địch thấy trong văn phòng giám đốc còn một máy chữ trên bàn, anh em mang về, trên đường về, đến Hàng Gà thì bị địch phục kích, quân ta chạy thoát được cả, trừ anh Dậu đi sau, bị mất tích liền 2 ngày đi tìm, không thấy xác).

Đêm 24 rạng sáng 25, tự vệ Hoả xa được lệnh tấn công vị trí quán cơm Hỏa xa ở số 2B Khâm Thiên, anh em diệt ngay tên địch gác cửa đang ngủ gật, nhanh chóng đột nhập. Địch bị bất ngờ, choàng dậy, chạy hoảng loạn.

Quân ta chiếm luôn cả tầng dưới, tầng trên và truy kích địch, phát hiện tên lính Pháp chạy ra trèo lên xe thiết giáp (ban ngày không thấy có xe này), ta nổ súng tiêu diệt. Hai đồng chí ta nhảy lên chiếm xe, dùng luôn khẩu 12,7 ly. Trên xe bắn như vãi đạn sang nhà dầu Shell. Số đồng chí khi lên chiếm tầng gác cũng phát hiện khẩu 12,7 ly đặt ở cửa trông ra đường, do không ai biết sử dụng và tháo lắp nên chỉ đập hỏng. Ta tiêu diệt được vị trí này, thu được một hòm lựu đạn nổ, một hòm lựu đạn hoả mù và mấy băng đạn. Cùng lúc đó, bộ phận tự vệ khống chế vị trí địch ở số 2A Khâm Thiên, cũng nổ súng, địch hoảng loạn, tháo chạy sang bên kia đường tầu, phía nhà Công đoàn Hoả xa. Bọn địch phục kích ở bốt cảnh sát góc đường Hàng Lọng - Khâm Thiên nổ súng, 5 đồng chí ta trúng đạn trọng thương. Khi tự vệ rút quân, 3 đồng chí chỉ huy cũng bị thương do đạn cối địch từ Đấu Xảo và số 12 Sinh Từ bắn theo.

Sau trận đánh này, đơn vị được Bộ chỉ huy khu XI tặng giấy khen và một súng Carbine. Công đoàn Hoả xa Nghệ An gửi ra ủng hộ 3000 đồng. Đội tự vệ Hoả xa còn liên tiếp chiến đấu giữ chân địch theo chỉ đạo của Liên khu. Cho đến tháng 2/1947, 37 đồng chí được gia nhập Trung đoàn 66. Số còn lại chuyển vào bộ đội du kích Quận V. Một số được giải quyết về hậu phương giúp đỡ gia đình.

 

 
Nguồn tin: Theo Hà Nội - Bản hùng ca bất tử mùa đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 212 -216.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 08:09:07 pm
Trận tập kích tiêu diệt ổ chiến đấu của quân Pháp tại nhà dầu SHELL ngày 25/12/1946 của tiểu đoàn 523

Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội và Liên khu III chủ trương tích cực đánh chặn các cuộc tiến công lấn chiếm của giặc Pháp và tập kích tiêu diệt một số ổ chiến đấu của địch nhằm tiêu diệt một phần lực lượng địch và làm chậm bước tiến của chúng, góp phần làm thất bại âm mưu đánh chiếm nhanh Thủ đô Hà Nội.
Tiểu đoàn 523 nhận nhiệm vụ tiêu diệt ổ chiến đấu của quân Pháp tại nhà dầu Shell ở đầu phố Khâm Thiên. Tiểu đoàn đã tập kích hai lần vào ổ chiến đấu này những đêm 19 và 23/12/1946 nhưng đều không đạt kết quả

(http://www.1000namthanglonghanoi.vn/upload/image/images/Chan%20dich.jpg)
Quân dân Hà Nội dựng chướng ngại vật chặn địch. Ảnh tư liệu.

Quân địch ở khu vực này gồm các ổ chiến đấu ở nhà dầu Shell, ở quán cơm Hoả xa, ở nhà chè Phú Xuân và ở ga Hàng Cỏ hình thành một cụm chiến đấu lấy ổ chiến đấu chính là nhà dầu Shell và ga Hàng Cỏ để án ngữ một phần quan trọng cửa ngõ phía Nam thành phố Hà Nội. Mỗi ổ chiến đấu có khoảng trên dưới một tiểu đội, trang bị 1-2 trung liên, riêng ở nhà dầu Shell và ga Hàng Cỏ có khi có một súng cối 60 ly.

Nhà dầu Shell là kho chứa dầu, có một nhà 5 gian một tầng, có nhiều bồn xăng 2-3 tấn và thùng xăng 200 lít, xung quanh chỉ có hàng rào cột bê tông 10 x 10cm với một hàng dây thép gai rất thưa, ở cổng phía Khâm Thiên có hai ụ súng máy do quân Nhật xây sau ngày 9/3/1945.

Quán cơm Hoả xa có 4 nhà 2 tầng xung quanh có tường cao khoảng 1,50m.

Rút kinh nghiệm hai trận tập kích trước, Tiểu đoàn trưởng An Giao và Đại đội trưởng Ngô Chuyền quyết tâm tập trung lực lượng tập kích lần thứ ba tiêu diệt ổ chiến đấu ở nhà dầu Shell và quán cơm Hoả xa.

Tiểu đoàn được Bộ chỉ huy Mặt trận tăng cường một pháo 37 ly có 6 viên đạn, một trọng liên 12,7 ly có 175 viên đạn lập thành đội trợ chiến tiểu đoàn.

- 2 trung đội Vệ quốc quân của Đại đội 27 (C27). Mỗi trung đội có một trung liên 24-29 viên đạn/khẩu. Mỗi tiểu đội có 6-7 súng trường các loại (khai hậu, Pháp, Nga, Nhật...), đạn có 20-25 viên/khẩu. Mỗi chiến sĩ có hai lựu đạn Phan Đình Phùng (do quân giới sản xuất).

- Đội quyết tử của Tiểu đoàn có 20 người trang bị chủ yếu mã tấu, lựu đạn.

- 2 trung đội tự vệ chiến đấu Liên khu III và công nhân Hoả xa trang bị mỗi tiểu đội 2-3 súng trường, còn mã tấu, lựu đạn.

- Đội trợ chiến có một pháo 37 ly, một trọng liên 12,7 ly.

Hướng tập kích chính: Nhà dầu Shell. Lực lượng gồm: Trung đội 50 + Trung đội 51 (thiếu một tiểu đội)/C27 + Đội quyết tử + Trung đội tự vệ chiến đấu Liên khu III và Đội trợ chiến. Có nhiệm vụ: 21 giờ ngày 24/12 xuất phát từ Ô Chợ Dừa luồn theo các lỗ đục tường dọc phố Khâm Thiên đến chợ chia làm 2 mũi:
 

+ Mũi một gồm Trung đội 50 + một tiểu đội quyết tử luồn qua chợ Khâm Thiên áp sát phía Nam nhà 5 gian làm nhiệm vụ chủ yếu tiêu diệt địch ở nhà 5 gian. Đội trợ chiến bố trí pháo 37 ly, trọng liên 12,7 ly ở phía hậu ngôi nhà có hàng rào trông sang nhà dầu Shell bắn áp chế 2 ụ súng và nhà 5 gian, chi viện cho mũi một.

+ Mũi hai gồm Trung đội 51 (thiếu một tiểu đội)/C27 + Trung đội tự vệ chiến đấu Liên khu III + một tiểu đội quyết tử men theo đường nhỏ giữa hai bờ ao áp sát phía Tây nhà 5 gian tiến công diệt địch, phối hợp với mũi một.

- Hướng tập kích thứ yếu: Quán cơm Hỏa xa. Lực lượng gồm: một tiểu đội Trung đội 51/C27 + Trung đội tự vệ chiến đấu công nhân Hỏa xa có quân khí viên tiểu đoàn Nguyễn Vũ Giáp đi theo. Đội hình này xuất phát trước 20 phút luồn theo các lỗ đục tường bên số chẵn phố Khâm Thiên đến đầu ngõ rẽ vào làng Linh Quang ra đường nhỏ sát tường sau nhà Ga qua lỗ đục tường dùng một tiểu đội tự vệ kiềm chế địch ở nhà Ga không cho chúng chi viện quán cơm Hỏa xa, và để 3 chiến sĩ tự vệ bố trí ở nhà Đề pô giữ đường về, còn 1 tiểu đội/trung đội 51/C27 + Trung đội tự vệ công nhân Hỏa xa (thiếu) chia làm 4 tổ tập kích tiêu diệt địch ở quán cơm Hỏa xa và phối hợp với hướng chính tập kích nhà dầu Shell, Sở chỉ huy Tiểu đoàn 523 và Đại đội 27 đặt tại nhà số 37 phố Khâm Thiên (gần ngã ba chợ Khâm Thiên).

Tiểu đoàn trưởng An Giao trực tiếp phổ biến kế hoạch tập kích và giao nhiệm vụ đến cán bộ tiểu đội của bộ đội và cán bộ trung đội của tự vệ chiến đấu.

Các phân đội tổ chức chiến đấu và hành quân chiếm lĩnh trận địa theo đúng kế hoạch.

Hướng chính: Nhà dầu Shell. Cả hai mũi sau khi bí mật áp sát hàng rào triển khai xong đội hình chiến đấu báo cáo về Sở chỉ huy Tiểu đoàn sẵn sàng nhận lệnh xung phong. 0giờ 30 ngày 25/12, Tiểu đoàn trưởng ra lệnh pháo 37 ly và trọng liên 12,7 ly bắn vào hai ụ súng và chế ngự sân nhà dầu Shell làm lệnh tiến công. Các trung liên và súng trường của 2 mũi đồng loạt nổ súng bắn vào nhà 5 gian. Ngay từ phút đầu ta đã diệt được một ụ súng của địch. Tiểu đội quyết tử do Tiểu đội trưởng Trần Đình Quyết chỉ huy là tiểu đội đột kích được lệnh xung phong nhưng bị địch bắn mạnh chặn đường tiến phải nằm lại. Pháo và trọng liên lại bắn tiêu diệt được ụ súng thứ hai tạo điều kiện cho các tiểu đội quyết tử nhanh chóng vượt qua hàng rào, băng qua sân, dẫn đầu hai mũi cùng tiến công nhà 5 gian. Lúc này bên quán cơm Hoả xa địch ở gác hai bắn sang sân nhà dầu Shell nhưng ngay sau đó súng máy ở xe thiết giáp bắn lên các cửa sổ nhà gác làm địch ở đây không bắn được sang nhà dầu Shell nữa. Bọn địch ở nhà 5 gian bị tiến công từ 2 hướng nên chống cự yếu ớt, nhanh chóng bị rối loạn, một số bị thương vong, còn một số tháo thân chạy theo đường xe lửa về phía nhà ga. Ta kiểm soát vị trí, thu được 1 súng trường, 1 các bin, một số đạn, lựu đạn. Sau 45 phút ta rút lui.

Hướng thứ yếu: Quán cơm Hỏa xa. Sau khi đã triển khai lực lượng kiềm chế địch ở nhà ga và giữ đường về ở nhà Đề pô cả 4 tổ bí mật áp sát tường sau 4 nhà hai tầng của quán cơm Hỏa xa đợi lệnh tiến công chung của tiểu đoàn. Khi pháo 37 ly và trọng liên 12,7 ly bắn ở nhà dầu Shell phát lệnh tiến công, cả 4 tổ đồng loạt bắn lên cửa sổ gác hai, ném lựu đạn vào sân và vượt tường đánh vào nhà được phân công. Một tổ có đồng chí Triệu, Trung đội trưởng tự vệ, chiến sĩ Quảng và quân khí viên Giáp đánh nhà số 2 phát hiện trên sân có một xe thiết giáp Halftrack liền ném lựu đạn lên thùng xe rồi nhảy lên xe thấy một tên lính da đen chết bên cạnh khẩu trọng liên 12,7 ly. Tổ nhanh chóng dùng trọng liên bắn lên các cửa sổ chi viện cho các tổ đánh chiếm 4 nhà rồi chuyển bắn 2 ụ súng bên nhà dầu Shell chi viện hướng chính. Đồng chí Giáp lần mò trong đêm tối khởi động được xe và cùng tổ lái xe ra ngã tư Khâm Thiên - Hàng Lọng. Từ phía nhà Ga có tiếng xe cơ giới địch đang tiến xuống ngã tư Khâm Thiên. Địch bắn có đạn vạch đường nên ta biết mục tiêu bắn trả lại. Đồng chí Triệu và Giáp thay nhau bắn hết 2 hòm đạn 12,7 ly. 10 phút sau không thấy địch bắn nữa và tiếng động cơ cơ giới nhỏ dần, các đồng chí đoán địch ở nhà Ga định tiếp viện cho nhà dầu Shell nhưng bị đánh mạnh nên phải rút lui. Các đồng chí lùi xe về nhà dầu Shell. Lúc này cả căn nhà dầu Shell và quán cơm Hoả xa đều đã im tiếng súng.

Tại quán cơm Hoả xa ta làm chủ trận địa, đã kiểm soát cả 4 nhà và đang chuẩn bị rút lui.

Khi nhận lệnh rút lui, các đồng chí Triệu và Giáp không tháo được khẩu trọng liên 12,7 ly phải dùng lựu đạn phá máy xe và phá ổ súng trọng liên, chỉ mang về được một hòm đạn 12,7 ly và một số lựu đạn.

Quân ta rút lui an toàn.

Sáng ngày 25/12/1946 địch phản ứng cho máy bay ném bom, bắn phá ngõ trại khách và khu nhà xung quanh.

- Trận đánh thắng lợi, quân địch thương vong khoảng 20 tên. Quân ta có 7 đồng chí bị thương. Ta đánh chiếm được 2 ổ chiến đấu, phá được một xe thiết giáp Halftrack, một trọng liên 12,7 ly và thu được một súng trường, một các bin, một số đạn, lựu đạn.

Đây là một trận tập kích có hiệu suất chiến đấu cao trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc ở mặt trận Thủ đô Hà Nội. Trận đánh thực hiện được mục đích tiêu diệt một bộ phận lực lượng địch, phá một phần âm mưu của địch, khống chế phía Nam thành phố.

Đây cũng là một trận đánh đầu tiên tập trung cấp đại đội do Tiểu đoàn trưởng và Đại đội trưởng trực tiếp chỉ huy, có trợ chiến của Bộ chỉ huy Mặt trận tăng cường, có phối hợp với tự vệ chiến đấu hiệp đồng chặt chẽ, phát huy được sức mạnh của cả bộ đội và tự vệ, của cả xung lực và hoả lực.

Trận đánh thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm của bộ đội và tự vệ đã linh hoạt khi chiếm được xe thiết giáp liền sử dụng ngay để yểm trợ quân ta tiến công và đánh lui quân địch tiếp viện.

Tuy vậy kết quả của trận đánh còn bị hạn chế vì việc kiểm soát và thu dọn chiến trường để sót vũ khí, để địch chạy một số, đặc biệt là ta không có kế hoạch đốt kho xăng dầu nhà dầu Shell và đốt chiếc xe thiết giáp. Nếu ta đốt kho xăng dầu, một khối lửa lớn bốc cao cháy rực trời phía Nam Thủ đô thì hiệu quả chiến đấu và ảnh hưởng của trận đánh sẽ lớn hơn rất nhiều.

Trận đánh thắng lợi góp một phần cùng Liên khu III và Mặt trận Hà Nội thực hiện nhiệm vụ mà Hồ Chủ tịch, Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng chỉ huy giao cho Thủ đô Hà Nội là: tiêu diệt một bộ phận lực lượng địch; kìm chân địch một thời gian để cả nước chuyển sang thời chiến bảo toàn lực lượng ta để kháng chiến lâu dài; làm gương cho cả nước.

 
Nguồn tin: Theo Hà Nội - Bản hùng ca bất tử mùa đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 206 -211.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 08:11:14 pm
Mấy điều nhớ lại về cuộc chiến đấu 60 ngày đêm

Chuẩn bị kháng chiến, tôi nhận được quyết định của Thành uỷ Hà Nội về làm Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch ủy ban bảo vệ Liên khu III Hà Nội.
Liên khu III nằm ở phía Tây Nam nội thành: Đông giáp Liên khu II lấy đường Hàng Lọng (nay là đường Lê Duẩn) làm giới tuyến, Bắc giáp Liên khu I, đường giới tuyến đi từ phố Cửa Nam, qua phía Bắc các phố Nguyễn Thái Học, Kim Mã, Ngọc Khánh ngày nay; Tây Nam giáp khu Đống Đa ngoại thành. Đường Hàng Bột (nay là phố Tôn Đức Thắng) chạy từ Văn Miếu, gặp phố Khâm Thiên, đường La Thành ở Ô Chợ Dừa rồi chạy ra Ngã Tư Sở - Hà Đông, là đường huyết mạch nối liền Liên khu III một bên với Liên khu I và một bên với khu an toàn của Hà Nội và của Trung ương. Đặc biệt khu vực đầu Hàng Bột trên, Văn Miếu là nơi kế cận với Cửa Nam và cửa Tây Thành Hà Nội, thường là nơi xuất phát của các lực lượng địch tiến công ra các cửa ô và ra ngoại thành

(http://www.1000namthanglonghanoi.vn/upload/image/images/THu%20Do.jpg)
Tướng Vương Thừa Vũ, tại lễ mừng chiến thắng của trung đoàn Thủ đô. Ảnh tư liệu

Liên khu III gồm các khu Văn Miếu, Thăng Long khu Hỏa Xa. Lực lượng vũ trang hoạt động ở Liên khu III gồm tiểu đoàn 523 tiểu đoàn trưởng là đồng chí An Giao, ủy viên Uỷ ban kháng chiến Liên khu, tiểu đoàn 56 - tiểu đoàn trưởng Anh Đệ, một phân đội tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu, một đội Công binh của Thành, các đội tự vệ công nhân Hoả Xa, các đơn vị tự vệ phố Hàng Bột, phố Khâm Thiên, phố Kim Mã, phố Sơn Tây, dân quân các xã Hào Nam, khu Văn Chương, Giảng Võ.

Các đoàn thể quần chúng của Mặt trận Việt minh Liên. Khu III gồm Công nhân cứu quốc, Việt Nam cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứa quốc, Nông dân cứu quốc, Cựu binh sĩ cứu quốc.

Đảng uỷ Liên khu III gồm các đồng chí Đỗ Trình, Bí thư, kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến (với bí danh Lê Minh Trầm), đồng chí Minh Quang (nữ), Phó Bí thư và các uỷ viên Nguyễn Kỷ, Hà Đăng Ấn.

Vào giữa tháng 12/1946, tình hình chính trị quân sự ở Hà Nội diễn ra rất khẩn trương. Tối 18/12 tướng Mooc-li-e của Pháp đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta. Chúng định sáng 20/12/1946 sẽ tiến hành cuộc đảo chính quân sự, bắt Chính phủ ta, tiêu diệt lực lượng ta, đánh chiếm Thủ đô Hà Nội trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Theo quyết định của Trung ương Đảng, quân dân ta buộc phải đánh trả để tự vệ nhằm kìm chân quân Pháp ở Hà Nội càng lâu càng tốt, tạo điều kiện cho cá nước chuyển sang kháng chiến.

Tôi bàn thống nhất với anh An Giao: để tiện việc phối hợp giữa lực lượng tiểu đoàn với lực lượng tự vệ và các đoàn thể quần chúng, với khả năng huy động, động viên của Uỷ ban kháng chiến Liên khu. Tôi chuyển đến sinh hoạt và công tác ở ngay Sở chỉ huy tiểu đoàn 525 ngay từ lúc sắp nổ súng. Hàng ngày chúng tôi giao ban chung. Sau khi nghe báo cáo tình hình các mặt, anh An Giao giao chỉ thị các vấn đề chiến đấu và chuẩn bị chiến đấu; tôi giải quyết các vấn đề về điều động lực lượng tự vệ và các đoàn thể quần chúng, huy động vật tư cần thiết và có thể trong dân (gỗ tấm, xi măng; phuy xăng) để bảo đảm cho chiến đấu.

Mấy ngày đầu kháng chiến, toàn Liên khu kiên cường tiến công địch.

Quân dân Liên khu III - Đống Đa đã cùng với quân dân Liên khu I, Liên khu II, quân dân các quận ngoại thành hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng và Chính phủ giao cho, kìm chân giặc Pháp ở Thủ đô trong 60 ngày đêm, bảo toàn được lực lượng mình, đập tan mưu đồ chiến lược của chúng. Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm của các Liên khu ở Hà Nội từ 20 giờ 3 phút đêm 19 tháng 12 năm 1946 đến 24 giờ ngày 17 tháng 2 năm 1947, được chia làm 5 đợt.

Đợt l: từ l9/12/1936 đến khoảng 24/12/1936, các liên khu tích cực tiến công địch, đập tan âm mưu đảo chính của quân Pháp.

Ở Liên khu III ngay sau khi đèn điện thành phố tắt vào 20 giờ 3 phút, trong lúc pháo binh ta ở pháo đài Láng, Xuân Tảo đang bắn vào thành Hà Nội thì một đơn vị của tiểu đoàn 523 phối hợp với tự vệ khu Văn Miếu đã tiến công nhà Deléveaux nay là nhà số 9 phố  Cát Linh, một ổ chiến đấu tiền tiêu của Pháp khống chế đường Hàng Bột. Quân ta đã tiêu diệt một bộ phận địch thì chiều 20/12 số địch còn lại lên xe chạy thoát. Vì xe có cắm cờ hồng thập tự nên các chiến sĩ ta không kịp bắn.

Trong đêm 19/12/1946, một số phân đội của tiểu đoàn 523 phối hợp với tự vệ phố Hàng Bột đã tiến công vào nhiều ổ chiến đấu ở khu nhà hạ sĩ quan Pháp ở khu vực Hàng Bột. Ta bắt được nhiều tù binh. Cũng trong đêm 19/12/1946, một phân đội của tiểu đoàn 56 phối hợp với các phân đội của tiểu đoàn 145 thuộc Liên khu I và tự vệ Ngọc Hà đã tiến công đánh chiếm nhà máy bia Ô-men (tức nhà máy bia Hà Nội ngày nay) diệt tiểu đội quân Pháp canh gác ở đây.

Đồng thời với việc đánh địch, các lực lượng tự vệ và đoàn viên các đoàn thể Việt minh cùng đông đảo nhân dân các khu phố đã khẩn trương tham gia hoàn chỉnh việc chuẩn bị chiến trường đánh địch. Việc đầu tiên là tăng cường hoàn chỉnh hai ba-ri-cát đầu phố Khâm Thiên và Hàng Bột. Ba-ri-cát Khâm Thiên đã chắn ngang đường phố Khâm Thiên từ trước ngày 19/12/1946 nay được tăng cường bằng gỗ, đất và tà vẹt. Ba-ri-cát đầu Hàng Bột được đắp một nửa từ trước 19/12 để xe ô tô của ta có thể chạy qua khi các cơ quan chính phủ rút khỏi nội thành nay được đắp thêm, hoàn toàn chắn ngang đường. Dọc hai phố Khâm Thiên và Hàng Bột, tự vệ và nhân dân đục tường từ nhà nọ thông sang nhà kia. Bàn, ghế, sập, tủ, thường được xếp trên mặt đường làm chướng ngại vật. Nồi niêu, xoảng chảo, xô chậu, rổ rá được úp xuống mặt đường để nghi binh làm mìn. Đồng chí Hà Đăng Ấn chỉ huy công nhân Hỏa Xa đã điều động 5 toa tầu hàng chở đầy đá có đầu máy đẩy lên phía bắc, cắt từng toa chắn ngang đường ở ba-rie Sinh Từ, chợ Cửa Nam, đường Nguyễn Thái Học, Điện Biên Phủ, Trần Phú ngày nay, đánh trật bánh xe, tạo nên những vật chướng ngại khó khắc phục. Trong khu Văn Miếu, trên đường Hàng Bột, một số cây to và cột điện đã được ngả xuống đường để chặn xe cơ giới của địch. Một số toa xe điện được lật đổ, chắn con đường từ. Ô Chợ Dừa đi ra Thái Hà Ấp.

Các đội tuyên truyền ban đêm đi giải thích cho dân chủ trương toàn quốc kháng chiến, phổ biến lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch. Đoàn thể phụ nữ tổ chức nhiều nhóm các chị đi tiếp tế cho bộ đội ở những nơi đang chiến đấu.

Đêm 24 rạng 25/1/1947 một đơn vị của tiểu đoàn 523 được tăng cường pháo 37 ly và trọng liên 12,7 phối hợp với tự vệ Hỏa Xa, đã tiến công khu nhà dầu Shell và nhà Ga. Quân ta đã chiếm xe thiết giáp của địch bắn vào các mục tiêu của chúng.

Đợt 2: Từ 30/12/1946 đến 6/1/1943, Liên khu III chặn đánh địch nống ra các cửa ô, trong lúc Liên khu I trụ bám trong lòng địch.

Từ 5 giờ sáng ngày 30/12, địch tiến hành hỏa lực chuẩn bị rất lâu bằng pháo binh và không quân. Tôi và đồng chí Anh Giao vào hầm chỉ huy xây trong Đê La Thành. Tôi châm một ngọn đèn Hoa Kỳ, ngồi đọc báo cáo. Bỗng chốc, ngọn đèn phụt tắt. Tai tôi không nghe tiếng nổ nhưng mũi sặc sụa mùi xi măng và vôi. Sở chỉ huy đã trúng bom. Tôi ngất đi. Một lúc sau, không biết đã qua bao nhiêu phút, tôi tỉnh lại. Việc đầu tiên là bước ra cửa Sở chỉ huy hô to:

“Anh An Giao đâu? Có việc gì không”. Đồng chí An Giao bước ra cửa hầm, trả lời “Tôi đây!”.

Bộ quân phục của anh rách bươm do sức thổi của bom. Anh hỏi qua sức khỏe, dẫn tôi vào hầm chỉ huy của anh ở bên cạnh, giăng bản đồ và thuyết minh: “Sau hỏa lực chuẩn bị quân Pháp triển khai 300 lính bộ binh có 4 xe tăng và 2 xe thiết giáp mở đường tiến vào Hàng Bột. Đại đội 29 và trung đội tự vệ Hàng Bột dựa vào chiến lũy, công sự và các chướng ngại vật dùng súng trường, lựu đạn và dao, kiếm chặn đánh địch. Địch dùng xe ủi phá ba-ri-cát, quân ta kiên quyết đánh chặn, địch không qua được. Chúng cho bộ phận khác có xe tăng dẫn đầu từ nhà Tiền (phố Nguyễn Thái Học) tiến xuống xóm Thịnh Hào ở phía tây Hàng Bột. Trung đội dân quân Thịnh Hào không chặn được địch, chúng tiến ra Hàng Bột, cùng cánh quân Hàng Bột đánh xuống Ô Chợ Dừa.

Trên hướng Khâm Thiên, đại đội tự vệ công nhân đường sắt được các đoàn thể cứu quốc tiếp tế, động viên, đưa vào chiến lũy và công sự, kiên cường chặn địch. Quân Pháp không qua được ba-ri-cát đầu phố Khâm Thiên. Chúng cho một bộ phận từ Sinh Từ, tiến qua xóm Văn Chương xuống cắt ngang đường Khâm Thiên, rồi tiến xuống Ô Chợ Dừa. Chúng bị chặn lại trước Ô Chợ Dừa.

Tôi bàn với anh An Giao kiên quyết chặn địch ở Ô Chợ Dừa. Anh An Giao ra lệnh cho các đại đội, tôi chỉ thị cho các đầu mối tự vệ và các đoàn thể cứu quốc nắm vững ý định đó.

Sau khi anh An Giao trình bày tình hình và trao đổi ý kiến xong, thì tôi phát hiện các đường dây điện thoại của Thành ủy và Bộ chỉ huy khu XI  đã bị bom phá. Tiểu đoàn anh An Giao không ai biết địa điểm của Thành ủy. Tôi bàn với anh An giao, phải tranh thủ trực tiếp về Thành báo cáo. Lúc bấy giờ đã 11 giờ trưa. Tôi đi theo đường cái ra Ngã Tư Sở, rồi rẽ vào khu an toàn của Thành ủy, gặp anh Trần Quốc Hoàn, Xứ ủy viên phụ trách chỉ đạo Hà Nội. Tôi báo cáo anh Hoàn tình hình chiến sự. Anh Hoàn đồng ý kiến quyết chặn địch ở Ô Chợ Dừa; sớm chuyển Sở chỉ huy Liên khu III về Thái Hà Ấp đồng thời bàn với bên bộ đội sớm lập một tuyến ngăn chặn giữa Thái Hà Ấp và Ô Chợ Dừa. Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của anh Hoàn, tôi mượn máy của Thành ủy gọi sang khu XI, báo cáo tình hình với anh Vương Thừa Vũ.

Khi tôi xong việc trở về tiểu đoàn bộ 523 ở nhà máy tóc (gần Ô Chợ Dừa) thì đã 4 giờ chiều. Các hướng địch tiến công vào Ô Chợ Dừa đều đã bị ta chặn lại.

Trong thời gian này, tiểu đoàn 56 của anh Anh Đệ cũng vừa hành quân đến Liên khu III. Tôi bàn với anh An Giao và anh Anh Đệ, tiểu đoàn 56 cho một đại đội chặn địch, bảo vệ Ô Chợ Dừa. Đại đội 29 của tiểu đoàn 523 đang bảo vệ Ô Chợ Dừa chuyển về phía nam, cùng tự vệ Liên khu lập tuyến ngăn chặn mới giữa Ô Chợ Dừa và Thái Hà Ấp. Sở chỉ huy của ủy ban Kháng chiến Liên khu III và của tiểu đoàn 523 chuyển về Thái Hà Ấp.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 08:11:37 pm
Ngày 6/1/1947, Pháp huy động gần 1000 quân, 37 xe tăng, 10 xe bọc thép, xe ủi đất cùng pháo binh, máy bay yểm trợ đánh ra Ô Chợ Dừa, Giảng Võ.

Trên hướng Giảng Võ - Đê La Thành, quân địch chia làm hai cánh. Cánh thứ nhất theo đường Hàng Bột, làng Hào Nam dọc theo Đê La Thành có xe tăng dẫn đầu đánh vào trận địa trung đội 1, đại đội 2, tiểu đoàn 56. Cánh quân thứ hai từ nhà Tiền (phố Nguyễn Thái Học), nhà Năm Diệm (phố Cát Linh) tiến dọc đường Giảng Võ, có xe tăng yểm trợ, chia làm 2 mũi: một mũi triển khai tiến công vào làng Giảng Võ, một mũi tiến thẳng xuống ngã tư hợp vây với cánh quân thứ nhất.

Tiểu đoàn 56 và tự vệ các làng Giảng Võ, Hoàng Cầu, tiểu đội nữ cứu thương của Liên khu III đã phá được cuộc tiến công của địch đánh ra Ô Chợ Dừa, Giảng Võ. Quân địch bị thương vong khoảng một đại đội, để lại 30 xác chết, 1 xe tăng và 1 xe ủi đất bị phá. Ta đã buộc địch phải ngừng cuộc tiến công ra các cửa Ô trên hướng Liên khu III. Cuộc chặn đánh địch ở Giảng Võ và Ô Chợ Dừa là những trận đánh phòng ngự cấp đại đội rất kiên cường, nổi bật trong 60 ngày đêm chiến đấu ở Thủ đô. Cán bộ và chiến sĩ đã nêu cao tinh thần quyết tử, chiến đấu cực kỳ anh dũng và mưu trí, phối hợp mật thiết chiến đấu của bộ đội, của tự vệ, của tổ chức chính quyền và của các đoàn thể cứu quốc.

Đầu tháng 1 năm 1947, căn cứ tình hình diễn biến cuộc kháng chiến ở Thủ đô, ủy ban Kháng chiến Hà Nội quyết định sáp nhập khu Đống Đa với Liên khu III để tiện việc lãnh đạo và chỉ huy tác chiến trên một trục đường từ Ô Chợ Dừa đến Ngã Tư Sở, tôi vẫn tiếp tục làm Bí thư liên khu ủy kiêm Chủ tịch ủy ban Kháng chiến Liên khu III - Đống Đa.

Đợt 3: Từ 7/1/1947 đến 25/1/1947, đánh địch tiến công ra ngoại thành.

Ngày 13/1/1947, đại diện chính quyền ta và Pháp với sự có mặt của các lãnh sự Mỹ, Anh, Trung Hoa, đã gặp nhau ở Ô Chợ Dừa. Hai bên thỏa thuận sẽ ngừng bắn ngày 15/1 để dân ta cùng Hoa kiểu, ấn kiều tản cư ra khỏi Liên khu I.

Vi phạm thỏa thuận đó, ngày l5/11/9437, lợi dụng lúc ta ngừng bắn, Pháp huy động trên 1000 quân cùng khoảng 150 xe cơ giới các loại tiến công về phía nam Hà Nội với âm mưu tiêu diệt chủ lực của ta, mở rộng phạm vi chiếm đóng.

Quân dân Liên khu II kiên cường ngăn chặn địch ở ngã tư Trung Hiền, Ô Cầu Dền, nhà thương Vọng. Một toán quân địch đánh vào phía đông trường bay Bạch Mai phối hợp với toán quân từ phía tây nhà thương Vọng tạt xuống. Hai trung đội thuộc đại đội 29 tiểu đoàn 523 chặn địch từng bước, tới Khương Trung giặc Pháp bị ta bắn chết hơn 20 tên. Chúng phải lui về trường bay Bạch Mai.

Quân dân Liên khu III - Đống Đa (cũng như Liên khu II) đã kiên quyết đánh chặn những toán, những cánh quân địch tiến công ra ngoại thành. Mặt khác, theo lệnh của ủy ban Kháng chiến và Bộ chỉ huy khu XI, các đơn vị bộ đội và tự vệ dân quân cử những nhóm, những tổ còn sung sức vòng về sau lưng địch, ban đêm tập kích vào những nơi sơ hở của chúng. Ngay trong đêm 15/1, Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các tiểu đoàn 523,56 và các tiểu đoàn thuộc Liên khu III dùng những bộ phận ban ngày chưa phải chiến đấu tiến công ở Ô Chợ Dừa, ga Hàng Cỏ, Ô Cầu Dền v.v. . . Ban đêm, trên các mặt trận Hà Nội, tiếng súng lại nổ ran. Các chiến sĩ bí mật bò, lọt vào giữa vị trí giặc ném lựu đạn, tẩm ét-xăng vào chăn đốt cháy vị trí giặc rồi rút lui. Ở nội ngoại thành, cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trên nóc nhà một số vị trí của địch, trên ngọn tre, ụ đất, chướng ngại vật... Các đội tuyên truyền xung phong ban đêm ca hát sát vị trí địch, kêu gọi lính Âu - Phi, lính Pháp phản chiến, đòi hồi hương. . . Cả Hà Nội sôi sục chiến đấu, nhất là trong dịp chào mừng một tháng toàn quốc kháng chiến. Sau ngày 15 tháng 1 năm 1947, địch huy động lực lượng lớn đánh về phía nam thành phố. Trên các hướng tiến công địch đều bị chặn lại. Nhưng do ưu thế về quân số và trang bị quân Pháp đã chiếm được các vị trí quan trọng án ngữ các trục đường giao thông chủ yếu ra vào thành phố là Vinh Tuy, ngã tư Trung Hiền, Ngã Tư Sở, Ô Cầu Giấy, Chợ Bưởi, Ô Yên Phụ.

Như vậy tính từ 30 tháng 12 năm 1946 đến 25 tháng 1 năm 1947, quân dân Liên khu II và III đã chống lại 8 cuộc tiến công của địch, đánh mấy chục trận, tiêu diệt hàng ngàn tên và điều quan trọng là làm chậm bước tiến của địch. Từ giữa thành phố đến vành đai ngoại thành, đường dài khoảng 5km, địch phải đi mất 27 ngày, bình quân mỗi ngày chúng chỉ tiến được không đến 200 mét.

Đợt 4: Từ 6/2/1947 đánh địch tiến công Liên khu I.

Sau khi nhận được quân tăng viện từ ngày 6/2/1947, địch tập trung lực lượng đánh Liên khu I, với quyết tâm tiêu diệt Trung đoàn Thủ đô. Quân dân Liên khu I đánh trả quyết liệt, đẩy lùi nhiều đợt tiến công, gây cho địch thương vong lớn.

Ở vành đai ngoại thành, giặc Pháp củng cố các vị trí mới đóng, cho từng tốp nhỏ thọc ra ngoài thăm dò các làng mạc xung quanh vị trí chiếm đóng. Đầu tháng 2 năm 1947, Sở chỉ hủy của ủy ban Kháng chiến Liên khu III - Đống Đa và của tiểu đoàn 523 chuyển về làng Nhân Mục.

Để phối hợp với Liên khu I, quân dân Liên khu III - Đống Đa một mặt tiến công các vị trí địch đóng ở vành vai, chặn đánh các tốp địch thọc ra ngoài, mặt khác tích cực tiến công sâu vào các điểm quan trọng của địch bố trí gần Liên khu I, tiếp tục cùng quân dân Liên khu I giữ vững thế trận “nội công, ngoại kích”.

Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội ra lệnh cho các đồng chí chỉ huy bộ đội ở Liên khu III - Đống Đa điều động các đơn vị tiến công vào Hàng Bột, Ô Cầu Giấy, Kim Mã. Đồng thời ra lệnh cho các lực lượng ở ngoại thành tiếp tục hoạt động mạnh, phục kích, tập kích, quấy rối, nghi binh. Quân dân Liên khu III - Đống Đa đã nghiêm chỉnh thi hành lệnh đó.

Các hoạt động của quân dân Liên khu III - Đống Đa cùng với Liên khu II đã có tác dụng chia lửa với Liên khu I, ngăn chặn, kìm chân lực lượng địch đánh ra ngoại thành, kéo dài thời gian kháng chiến và không cho chúng sớm điều động lực lượng này để quay về tiến công Liên khu I.

Đợt 5: Từ 15/2/1947/ đến l7/2/1947, tích cực đánh địch ở vòng ngoài để phối hợp, khi Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Liên khu I.

Sáng l5/2/1947, Hồ Chủ tịch, Ban Thường vụ Trung ương Đảng phê chuẩn đề nghị của Bộ Tổng chỉ huy cho rút Trung đoàn Thủ đô ra khỏi Liên khu I. Bác Hồ khen ngợi: “Các chú giam chân địch một tháng là thắng lợi. Đến nay giữ Hà Nội được hai tháng là đại thắng lợi”.

Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho quân ta tiếp tục nổ súng trên toàn mặt trận, chú trọng đánh mạnh ở vòng ngoài, thực hiện thu hút lực lượng của địch ra các mặt trận bên ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho Trung đoàn Thủ đô rời khỏi Liên khu I về căn cứ.

Đêm 15/2 các đơn vị Liên khu III - Đống Đa đánh vào Hàng Bột, Cầu Giấy, Kim Mã, trong lúc Liên khu II đánh Ô Cầu Dền. Các đơn vị vận dụng cách đánh tập kích, biệt kích, quấy rối, nghi binh. Đêm 16/2 các đơn vị lại tiếp tục nổ súng ở Liên khu I cũng như trên toàn ngoại thành. Đêm 17/2 nhiều tốp nhỏ bộ đội, tự vệ, dân quân Liên khu III - Đống Đa áp sát các vị trí của Pháp hoạt động quấy rối.

20 giờ tối 17/2/1947, theo kế hoạch, Trung đoàn Thủ đô bắt đầu bí mật rút quân. Đến 24 giờ, bộ phận cuối cùng rút khỏi Liên khu I. Khoảng 11 giờ đêm ngày 18/2, tuyệt đại bộ phận của Trung đoàn sang tới Dâu Canh.

Các hoạt động chiến đấu của Liên khu III - Đống Đa, cũng như của Liên khu II có tác dụng nghi binh, thu hút sự chú ý của địch, phục vụ cho việc Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Liên khu I được bí mật, an toàn.

Sau khi Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Liên khu I, quân dân Liên khu III - Đống Đa (về sau đổi thành quận V của Hà Nội) vẫn tiếp tục chiến đấu hết sức anh dũng, đánh địch tiến công ta trên đất chiến khu II, lập nhiều chiến công, điển hình là trận đánh địch ở Cự Đà, Khúc Thuỷ ngày 27/2/1947.

Tháng 2 năm 1947, tôi được điều đi công tác ở chiến trường Bắc Giang, Bấc Ninh. Trong hoàn cảnh mới, các tổ chức kháng chiến được kiện toàn thêm: Đảng uỷ quận V được thành lập, Bí thư Đảng uỷ lúc đầu là đồng chí Minh Quang, sau là đồng chí Nguyễn Kỷ. Quận uỷ viên là các đồng chí Hồ Trúc, Hà Đăng ấn. Trong Hội nghị toàn Đảng bộ tháng 4/1947, đồng chí Hồ Trúc được cử làm Bí thư Quận ủy, Uỷ ban Kháng chiến quận do đồng chí Hà Đăng Ấn làm Chủ tịch.

Như vậy, quân dân Liên khu III - Đống Đa, sát cánh với Liên khu II và các quận ngoại thành đã phối hợp chặt chẽ với quân dân Liên khu 1, làm tròn nhiệm vụ Hồ Chủ tịch, Trung ương Đảng và Khu uỷ XI giao cho, góp phần phát huy sức mạnh tổng hợp của quân dân cả Thủ đô, kiên cường đánh địch, kìm chân chúng trong nửa tháng, rồi trong một tháng, rồi trong 60 ngày đêm, góp phần tích cực bảo đảm cho cả nước chuyển vào kháng chiến.

Ta gây cho địch tổn thất đáng kể về người và trang bị kỹ thuật. Đồng thời lại bảo toàn và phát triển lực lượng ta.

Qua chiến đấu ác liệt dài ngày, quân và dân Liên khu III Đống Đa - Quận V đều được thử thách, dày dạn, ngày càng vững vàng, sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới với khí thế mới. Đảng viên, cán bộ, đoàn viên các đoàn thể cứu quốc đều được rèn luyện, sẵn sàng đám nhiệm những công việc nặng nề hơn. Tổ chức lực lượng vũ trang phát triển mạnh. Ban chỉ huy quận đội Quận V được thành lập do đồng chí Lê Thanh làm Quận đội trưởng, đồng chí Hồ Trúc làm Chính trị viên. Các đơn vị vũ trang tập trung của Quận được xây dựng gồm 2 đại đội, đội nữ du kích và trường huấn luyện. Đại đội 2 do đồng chí Ngọc làm Đại đội trưởng, đồng chí Phương làm Chính trị viên. Đại đội 3 do đồng chí Bùi Vãn Phi (Vũ Tiến) làm Đại đội trưởng. Đội nữ du kích do đồng chí Nguyễn Kim Thoa làm Đội trưởng kiêm Chính trị viên. Trường huấn luyện đo đồng chí Lam Sơn làm Giám đốc.

Các đơn vị bộ đội đều trưởng thành: Sau 60 ngày đêm, tiểu đoàn 523 cùng với tiểu đoàn 145 và một tiểu đoàn khác của Hà Nội được tập hợp lại thành Trung đoàn 80 (Trung đoàn Thăng Long), trung đoàn này về sau được chấn chỉnh thành Trung đoàn 48, Trung đoàn chủ công của đại đoàn 320. Tiểu đoàn 56 trở thành cốt cán để xây dựng Trung đoàn 35 có nhiệm vụ đánh địch trên đường số 6 Hà Đông - Hoà Bình.

Liên khu I đánh địch từ trong ra, từ nơi quan trọng nhất của Thủ đô, vượt qua những cuộc chiến đấu ác liệt nhất do mật độ cao của quân số và bom đạn địch. Quân dân Liên khu III - Đống Đa đánh địch từ ngoài vào, phối hợp chặt chẽ với quân dân Liên khu I đã kiên cường chiến đấu, với tinh thần quyết tử để Tổ quốc quyết sinh, góp phần xứng đáng vào “đại thắng lợi” của quân dân Thủ đô Hà Nội.

 
Nguồn tin: Theo Hà Nội - Bản hùng ca bất tử mùa đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 193 -205.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 08:12:52 pm
Ngày giỗ trận ở làng “Tứ Tổng


Nhiều người đã biết về cuộc chiến đấu anh dũng của Trung đoàn Thủ đô trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp ở Liên khu I Hà Nội (nay là quận Hoàn Kiếm). Sau hai tháng kiên cường bám trụ, Trung đoàn “Quyết tử để tổ Quốc quyết sinh” của đất ngàn năm văn hiến ấy bị địch vây chặt và đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt sạch hoặc phải đầu hàng. Thế nhưng, vào một đêm mưa phùn gió bấc tháng 2/1947, Trung đoàn Thủ đô đã “biến mất” khỏi Hà Nội để sau đó tập kết an toàn với đầy đủ vũ khí tại vùng tự do tỉnh Phúc Yên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú).

(http://www.1000namthanglonghanoi.vn/upload/image/images/Chuyen%20do%20cuoi%20cung%20cho%20chien%20si%20quyet%20t%C3%A1%C2%BB%C2%AD%20Thu%20do%20qua%20song%20Hong%20sang%20som%20ngay%2018%20thang%202%20nam%201947.jpg)
Chuyến đò cuối cùng chở chiến sĩ quyết tử Thủ đô qua sông Hồng sáng sớm ngày 18 tháng 2 năm 1947. Ảnh tư liệu

Cuộc vượt vòng vây “như thần thoại” của Trung đoàn Thủ đô đã được báo chí nói đến nhiều, song ít ai biết rằng chiến tích phi thường đó lại gắn liền với ngày “giỗ trận” của nhân dân làng Tứ Tổng ven bờ sông Hồng (nay là xã Tứ Liên, huyện Từ Liêm, Hà Nội). Chính đơn vị tự vệ và những người chèo đò của làng ngoại ô này đã chịu hy sinh mất mát to lớn, góp phần quyết định cho cả một đoàn quân quyết tử gồm hơn 1200 người ra khỏi vòng vây của quân thù. Và đã 60 năm qua, cứ đến ngày 19/2 dương lịch, hàng chục gia đình ở Tứ Tổng cùng nhân dân cả xã làm “giỗ trận” để tưởng niệm các liệt sĩ thân yêu.

Trước ngày “giỗ trận” của làng Tứ Tổng năm 1990, chúng tôi may mắn được gặp lại cụ Phạm Duy Thám, người chỉ huy trung đội tự vệ Tứ Tổng năm xưa. Cụ Thám đã ngoài 70, mắt kém nhưng trí óc còn minh mẫn, nhớ được nhiều việc cụ thể. Cụ Thám kể rằng: Dân làng Tứ Tổng ở ven bờ sông Hồng và bãi giữa, làm nghề trồng dâu nuôi tằm, xẻ gỗ đóng thuyền, buôn bán chạy chợ… Ngày đầu kháng chiến chống Pháp, bà con đi tản cư gần hết, trung đội tự vệ ở lại bám đất, bám làng giữ lấy cái bàn đạp cho du kích Hồng Hà đêm đêm vượt qua tuyến canh gác của địch vào nội thành liên lạc, tiếp tế. Rồi đến ngày 17/2/1947, chúng tôi được lệnh đem hết thuyền sang sông đón bộ đội. Lệnh đến lúc 7 giờ tối, bí mật nên không bàn bạc gì cả. Vả lại chúng tôi đã có tác phong  “quân lệnh như sơn”, trên bảo sao là làm vậy, làm ngay. Lúc đó chỉ có hai chiếc thuyền, chúng tôi cho nhổ sào đi luôn. Cập bến mới biết Trung đoàn Thủ đô đang rút ra đông lắm. Ôi, ruột gan chúng tôi như có lửa đốt vì nơi bộ đội chờ thuyền là đất làng Tứ Tổng ven đê đã bị địch khống chế bởi các bốt gác tại đình Nội, cách đó có 400 mét. Chúng tôi vội vã quay sang bãi giữa  vào nhà dân mượn thuyền, chọn những cái thật tốt, được cái nào huy động sang sông ngay cái ấy. Tới nửa đêm thì đoàn thuyền đã tập hợp được 44 chiếc đưa bộ đội vượt sông nhanh hơn. Trời tối như bưng thuyền sang thuyền về dễ va vào nhau, sông rộng bảy tám trăm mét, nước xiết giữa dòng, lại không dám thắp đèn hiệu, phải căng mắt ra mà nhận biết nơi cập bến. Được cái dân bãi giữa chúng tôi quen sông nước, chèo lái rất thạo nên công việc khá trót lọt, chỉ có một lần thuyền rời bến rồi phải vội quay trở lại vì bộ đội xuống quá nhiều đứng ngồi lố nhố làm thuyền bị lệch, tròng trành, nước tràn vào suýt đắm. Phải kéo thuyền lên bờ dốc hết nước rồi mới tiếp tục chở qua sông. Phúc đức quá, lúc trời sáng bạch thì bộ đội đã qua sông hết, chẳng xảy ra sự cố gì.

… Chúng tôi bồi hồi nhớ lại cái đêm hôm ấy và cứ thấy rợn người khi nghĩ đến những từ “nếu” bất ngờ. Nếu như đêm ấy tự vệ làng Tứ Tổng không nhanh chóng huy động được nhiều thuyền, nếu những người dân chèo đò không cố gắng, dũng cảm gánh vác trách nhiệm, không thành thạo chèo lái, nếu như … Biết bao tình huống có thể xảy ra xung quanh chiến tích “thần kỳ” đó của Trung đoàn Thủ đô. Cụ Phạm Duy Thám kể tiếp: Có một sự cố không lường được khiến chúng tôi hoảng hồn. Chả là chuyến đò cuối cùng chở ba anh bộ đội lúc gần 8 giờ sáng ngày 18/2/1947, tưởng rằng đã tuyệt đối an toàn, ba đồng chí ấy phấn khởi quá nổi máu “tếu” đốt luôn một bánh pháo mừng “thắng lợi”. Pháo nổ vang cả một khúc sông. Các “bố” ơi đâu mà đã an toàn. Mới sang bãi giữa, “hòn đảo” giữa sông Hồng, còn phải vượt qua một khúc sông rộng nữa kia. Lộ ra thì địch chỉ cần đưa ca nô, tàu chiến lên chặn đánh là “đi tong” ngay. Ba anh chàng vô kỷ luật liền bị tước vũ khí và tạm giữ, nhưng có lẽ địch vô tình nên không biết mô tê gì. Ba anh chàng “tếu” bị cấp chỉ huy “xạc” cho một trận rồi được thả tự do trở lại đội ngũ.

Buổi trưa ngày 18/2, ban chỉ huy Trung đoàn Thủ đô gọi chúng tôi đến nhận nhiệm vụ. Ông Trung đoàn trưởng Hoàng Siêu Hải ngồi trước tấm bản đồ Hà Nội, đăm chiêu nói và quệt ngón tay trỏ từ bãi giữa lên phía Bắc: “Các đồng chí tự vệ và bà con Tứ Tổng đêm qua vất vả lắm, chèo thuyền giỏi lắm, nhưng còn phải cố gắng thêm nữa đấy. Phải chuẩn bị đưa Trung đoàn qua sông sang bên kia vùng tự do Phúc Yên ngay trong đêm nay… Thế là chúng tôi lại khiêng thuyền ngược bãi giữa lên Tàm Xá để xẩm tối Trung đoàn Thủ đô hành quân lên đó vượt sông. Ở Tàm Xá chúng tôi được ông Bếp Kịch cho mượn thêm hai chiếc thuyền to, chở mỗi chuyến năm sáu chục người nên việc đưa bộ đội qua sông rất nhanh gọn, chỉ quá nửa đêm là Trung đoàn Thủ đô đã sang đến đất Phúc Yên an toàn tuyệt đối.

Cụ Thám xúc động khi nói đến sự việc tiếp theo tạo nên ngày “giỗ trận” của làng Tứ Tổng. Gần sáng 19/2, chúng tôi vừa cất thuyền thì phát hiện còn một trung đội bộ đội rút sau cùng đã ngủ quên ở bãi ngô, chưa sang sông. Chúng tôi lại phải đem thuyền ra chở nốt. Mới được một chuyến hơn chục người thì máy bay địch ập đến, pháo địch nã vào bãi giữa và ca nô, thuyền chiến của địch kéo tới đổ quân càn quét. Số ít bộ đội kẹt lại ở bãi giữa liền cùng với anh em tự vệ Tứ Tổng kiên cường chiến đấu chống trả địch. Kẻ thù đông hơn lại rất cay cú bởi việc Trung đoàn Thủ đô đã hoàn thành cuộc vượt vòng vây “như thần thoại” ngay trước mũi súng của chúng. Dưới sự chỉ huy của tên đại tá Đép-bơ, chúng điên cuồng trút đòn trả thù khốc liệt xuống dân làng Tứ Tổng (và cả Tàm Xá nữa). Riêng ở Tứ Tổng địch đốt trụi 196 ngôi nhà, phá sập đình Vạn và đình Xuyên, địch phá nát 44 chiếc thuyền, giết chết 27 người (phần đông là chiến sĩ tự vệ), bắt đi 70 người. Cái ngày 19 tháng 2 ấy đã trở thành ngày “giỗ trận” hàng năm ở làng Tứ Tổng. 23 đồng chí đã hy sinh được xác nhận là liệt sĩ và sau ngày toàn thắng, Trung đoàn Thủ đô đã trở về Hà Nội, hài cốt của anh em đã được cất bốc quy tụ vào nghĩa trang liệt sĩ Mai Dịch, Hà Nội.

Đầu xuân Canh Ngọ (2002), những chiến sĩ quyết tử của Trung đoàn Thủ đô đã tổ chức một cuộc hành hương về làng Tứ Tổng, cùng nhân dân tiến hành ngày “giỗ trận” trọng thể. Chúng tôi vào từng nhà để thắp hương trên từng bàn thờ liệt sĩ. Uống nước nhớ nguồn, chúng tôi càng tự hào về cuộc rút quân “thần kỳ” ra khỏi vòng vây quân địch ở Hà Nội năm xưa, càng ghi sâu công ơn của nhân dân Tứ Tổng đã cống hiến rất tích cực cho sự tích phi thường đó.

 
Nguồn tin: Đỗ Chí, Tạ Duy Đức . Theo Hà Nội - Bản hùng ca bất tử mùa đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 83-86.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: shmel trong 26 Tháng Tám, 2010, 08:15:44 pm
Trung đoàn Thủ đô ra đời trong khói lửa

Ngày 25 tháng 12, sau khi thống nhất ý kiến với đồng chí Hoàng Siêu Hải, Ủy ban kháng chiến Liên khu ra quyết định bổ nhiệm các ban chỉ huy tiểu đoàn như sau:

Ngày 25 tháng 12, sau khi thống nhất ý kiến với đồng chí Hoàng Siêu Hải, Ủy ban kháng chiến Liên khu ra quyết định bổ nhiệm các ban chỉ huy tiểu đoàn như sau:

   - Tiểu đoàn 101:

   + Tiểu đoàn trưởng: Mộng Hùng, nguyên đại đội trưởng Vệ quốc đoàn.

   + Chính trị viên: Đỗ Tần, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến khu Đồng Xuân.

   + Tiểu đoàn phó: Nguyễn Hùng, nguyên đại đội phó Vệ quốc đoàn

- Tiểu đoàn 102:

  + Tiểu đoàn trưởng: Vũ Yên, nguyên Ủy viên Ban tác chiến Liên khu, cán bộ cấp đại đội của đội tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu.

  + Chính trị viên: Đàm Văn Ngọ, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến khu Đông Thành(1).

- Tiểu đoàn 103:

  + Tiểu đoàn trưởng: Tấn Công (tên chính là Hà Thạch Sùng), nguyên đại đội trưởng Vệ quốc đoàn.

  + Chính trị viên: Phạm Văn Trừng, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến khu Đông Kinh Nghĩa Thục, nguyên Ủy viên Ban chấp hành tự vệ Liên khu I.

  + Tiểu đoàn phó: Đỗ Hiếu Liêm (về sau này lấy tên là Vũ Lăng), nguyên đại đội phó Vệ quốc đoàn.

   Danh sách cán bộ trong các Ban chỉ huy tiểu đoàn trên không thay đổi từ khi thành lập đến khi Trung đoàn rút ra khỏi Liên khu I.

Trong quyết định bổ nhiệm, ngoài các đồng chí cán bộ cấp tiểu đoàn, còn bổ nhiệm cả các cán bộ chỉ huy đại đội, trên cơ sở đề nghị của Ủy ban kháng chiến khu phố .

 Sau đó, Ủy ban kháng chiến Liên khu đề nghị với Ủy ban Kháng chiến khu XI cho thành lập Trung đoàn lấy tên là Trung đoàn Liên khu I.

 Ủy ban kháng chiến khu XI đã chấp nhận đề nghị chủ trương thành lập Trung đoàn, tên gọi Trung đoàn và chỉ định đồng chí Hoàng Siêu Hải làm Trung đoàn trưởng đồng chí Lê Trung Toản làm Chính trị viên Trung đoàn.

  Như vậy, việc hợp nhất các lực lượng chiến đấu thành một lực lượng thống nhất đã hoàn thành, tạo điều kiện cho việc thống nhất chỉ đạo và chỉ huy các lực lượng chiến đấu.

 Sức mạnh chiến đấu của tổ chức vũ trang tăng lên gấp bội.

 Ủy  ban kháng chiến Liên khu và các khu phố có điều kiện thực hiện các nhiệm vụ công tác khác một cách đầy đủ hơn. Các Ban giúp việc Ủy ban kháng chiến Liên khu đồng thời giúp việc Ban chỉ huy Trung đoàn, không thành lập tổ chức mới để tránh cồng kềnh.

  Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến Liên khu phân công đồng chí Hoàng Phương làm tham mưu trưởng Trung đoàn và tham gia Ban chỉ huy Trung đoàn.

 Tại phòng họp lớn của Nhà in lao động, số 51 Hàng Bồ, lễ ra mắt của trung đoàn được tổ chức đúng ngày 6 tháng 1 năm 1947, để vừa kỷ niệm ngày thành lập Đảng (trước đây lấy ngày 6/1), vừa công bố quyết định thành lập Trung đoàn của Ủy ban kháng chiến khu XI. Trong phòng họp treo 2 lá cờ: cờ đỏ búa liềm của Đảng và lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc.

 Trước hơn 100 đại biểu của đoàn thể quần chúng, các Ban của Liên khu và 3 tiểu đoàn, đồng chí Lê Trung Toản, với danh nghĩa Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Liên khu, nói vắn tắt lịch sử ngày thành lập Đảng, công bố quyết định của Ủy ban kháng chiến khu XI về việc thành lập, tên gọi của Trung đoàn và danh sách Ban chỉ huy Trung đoàn phải. Sau cùng đồng chí nêu ra những nhiệm vụ của Trung đoàn thực hiện để thiết thực kỷ niệm ngày thành lập Đảng và ngày thành lập Trung đoàn.
 
(http://thanglonghanoi.gov.vn/dataimages/200909/original/images43944_trungdoanthudo1.jpg)
Hai vị chỉ huy tiểu đoàn 54, thuộc trung đoàn Thủ đô đang dẫn đầu đoàn quân đi trên phố Đinh Tiên Hoàng. Ảnh: Thân Trọng Ninh

 Như vậy là Trung đoàn Liên khu I chính thức ra đời vào ngày 6 tháng 1 năm 1947. Đây là trung đoàn được thành lập đầu tiên ở Thủ đô trong khói lửa của cuộc kháng chiến. Đây là một thắng lợi lớn lao của sự trưởng thành, tinh thần đoàn kết chiến đấu của các chiến sĩ Vệ quốc đoàn, Tự vệ chiến đấu, Tự vệ xí nghiệp, Công an xung phong, Tự vệ thành, những thanh niên của thế hệ Hồ Chí Minh, những người tha thiết muốn bảo vệ cuộc sống độc lập, tự do, luôn luôn ấp ủ lòng yêu quý Tổ quốc, yêu quý Thủ đô. Thắng lợi đó cũng đã đáp ứng lòng mong mỏi của đồng bào Hà Nội được thấy đội quân của con em mình trưởng thành trong chiến đấu.

 Ngày hôm đó, các chiến sĩ Tự vệ tháo chiếc phù hiệu “sao vuông” và hãnh diện gắn mũ ca-lô, mũ nồi, mũ phớt chiếc phù hiệu “sao tròn” của bộ đội chính quy.

 Toàn thể thanh niên, thiếu nhi, phụ nữ, thậm chí anh em đã có tuổi đều tình nguyện nhập ngũ, do đó trung đoàn gồm đủ các thành phần, nam, phụ lão, ấu và quân số lên tới 5.600 người, trang bị bằng đủ mọi thứ quần áo mà chiến sĩ có, một đội quân chưa có đồng phục, chỉ có phù hiệu thống nhất. Đó cũng là điểm đáng tự hào của Liên khu I vì nó tiêu biểu cho truyền thống chống xâm lăng của dân tộc ta.

 Tin Trung đoàn Liên khu ra đời bay ra ngoài hậu phương rất nhanh. Báo Chiến thắng của Ủy ban kháng chiến Liên khu I đã đăng một bức thư ngắn của đồng chí Võ Nguyên Giáp trong đó có đoạn viết:

  “Tôi báo cho anh chị em biết rằng, nhân dân toàn quốc đang nô nức với cuộc chiến đấu anh dũng của anh chị em.

  Tấm gương anh chị em cần giữ cho sáng, nêu cho cao, sáng hơn nữa trong lịch sử nước Việt Nam”.

 Ngày 13 tháng 1 năm 1947, các chiến sĩ Liên khu I nhận được một bức điện ngắn:

  “ Hội nghị quân sự toàn quốc họp ngày 12 tháng 1 năm 1947 quyết nghị tặng Trung đoàn đóng giữ Liên khu I là Trung đoàn Thủ đô”

  Sẽ có điện riêng của ông Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp khen tặng.

  Ủy ban kháng chiến khu XI”.

  Để động viên tinh thần, vạch rõ cho cán bộ, chiến sĩ thấy tình hình và nhiệm vụ chiến đấu mới, Liên khu ủy, Ủy ban kháng chiến Liên khu giao cho các Ban chỉ huy Tiểu đoàn và các Chi bộ tổ chức lễ quyết tử ở các Tiểu đoàn.

 Ban chỉ huy Trung đoàn phân công các đồng chí trong Ban chỉ huy đến dự lễ quyết tử ở các Tiểu đoàn.

 Đồng chí Lê Trung Toản dự lễ quyết tử ở Tiểu đoàn 103, Tiểu đoàn có trách nhiệm giữ cửa ngõ ra vào của đường giao thông liên lạc ra hậu phương, một Tiểu đoàn ít phải chiến đấu vì địch ít tấn công vào khu vực Tiểu đoàn phòng ngự, quân số ở lại đông nhất và khu Đông Kinh Nghĩa Thục là khu phố duy nhất trong 3 khu phố còn giữ được nguyên vẹn đất đai của khu phố mình.

 8 giờ sáng ngày 14 tháng 1 năm 1947, lễ quyết tử của Tiểu đoàn 103 được tổ chức trang nghiêm tại rạp hát Tố Như (nay là rạp hát Chuông Vàng Thủ đô) ở phố Hàng Bạc. Bàn thờ Tổ quốc, ảnh Hồ Chủ tịch, lư trầm khói hương nghi ngút, nhiều ngọn bạch lạp lớn được thắp sáng. Trước mặt bàn thờ Tổ quốc là một bàn rộng  bày la liệt những bom ba càng, mìn đủ các cỡ, các loại súng, chai xăng cờ-rếp, lựu đạn và các thanh kiếm mã tấu sáng loáng.

Tham dự buổi lễ có đại diện Ban chỉ huy trung đoàn, các trưởng ban, một số cán bộ, nhân viên của trung đoàn, đại đội, ban chỉ huy tiểu đoàn và chi bộ, đại biểu các đoàn thể và các chiến sĩ đã lập nhiều thành tích ở trận Bắc bộ phủ, Bưu điện Bờ Hồ, Sở Thủy Lâm, các đội Tự vệ khu Long Biên cũ nay sáp nhập vào tiểu đoàn 103.

Đồng chí Tiểu đoàn phó Đỗ Hiếu Liêm (Vũ Lăng), sau khi phát vũ khí cho các chiến sĩ, thay mặt ban chỉ huy Tiểu đoàn 103, lên hứa với Ban chỉ huy Trung đoàn các đại biểu và nói với các chiến sĩ:

  “Hôm nay, theo chỉ thị của Ban chỉ huy Trung đoàn, chúng ta làm lễ khai sinh cho Tiểu đoàn thành Đội quyết tử.

Chúng ta thề sống thề chết vì Thủ đô. Giặc Pháp muốn chiếm Thủ đô. Chúng ta sẽ chiến đấu đến cùng cho Thủ đô bất diệt”.

 Tiếp đó, bằng những lời lẽ ngắn gọn, đồng chí Lê Trung Toản, thay mặt cho Ủy ban kháng chiến Liên khu và Ban chỉ huy Trung đoàn giải thích chỉ thị của Hồ Chủ tịch, Chính phủ, Bộ Tổng chỉ huy, Ủy ban kháng chiến và Bộ chỉ huy khu XI về kế hoạch thực hiện của Ủy ban kháng chiến Liên khu và ban chỉ huy Trung đoàn giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn và giải thích thêm ý nghĩa của tinh thần quyết tử:

  “Ta thề quyết tử là để nói lên tinh thần không sợ hy sinh trong chiến đấu, trong việc thực hiện mọi nhiệm vụ được giao, không phải lấy cái chết làm hàng đầu, để được nổi danh.

  Ta thề quyết tử hoàn thành mọi nhiệm vụ trong các cuộc chiến đấu”.

  Những tiếng hô vang “Xin thề! Xin thề” với những bàn tay giơ cao vũ khí. Một khí thế lẫm liệt, sôi nổi hưởng ứng lời nói của các đồng chí chỉ huy Trung đoàn và Tiểu đoàn, rồi hát vang bài hát "Đoàn vệ quốc quân", một bài hát hùng tráng nhưng cũng rất lãng mạng cách mạng, mà các chiến sĩ trung đoàn thích hát trong những dịp thay thế này, mở đầu bằng mấy câu:

Đoàn Vệ Quốc quân một lần ra đi

Lòng có nghĩ chi đến ngày trở về

Ra đi, ra đi, bảo tồn sông núi

Ra đi, ra đi, thà chết không lui

   Lễ quyết tử tại rạp hát Tố Như kết thúc nhanh chóng vì còn bao nhiêu việc phải hoàn thành trong ngày 14/1/1947.

  Mọi người ra về với một ấn tượng sâu sắc trong lòng.

  Đó là một lời cảnh cáo đối với giặc Pháp. Đó là quyết tâm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng của mọi cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn và các đại biểu đến dự. Đó cũng là quyết tâm của cả Trung đoàn trấn giữ Liên khu , Trung tâm Thủ đô một nước có nghìn năm văn hiến, có truyền thống chống ngoại xâm lâu đời, là nơi tiêu biểu cho cuộc tổng khởi nghĩa trong những ngày sôi sục của Cách mạng tháng tám lịch sử./.

Lê Trung Toản
Nguồn tin: Theo Hà Nội bản hùng ca bất tử mùa Đông 1946, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội - Ban Tuyên giáo, NXB Thế giới, 2006, tr 31- 37.


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Hai, 2011, 09:02:57 pm
Đi cửa hàng sách cũ vớ được quyển Cuộc chiến đấu của Liên khu III - Đông Đa - Quận V Hà Nội có 2 ảnh này:

(http://img718.imageshack.us/img718/8384/110220112119.jpg)

Ngày 13-1-1947. Tại Ô Chợ Dừa, đại diện Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
Lãnh sự Anh, Mỹ, Trung Quốc (tưởng) đàm phá đã thỏa thuận sẽ ngừng bắn ngày 15-1-1947
để nhân dân ta và Hoa Kiều tản cư ra khỏi Hà Nội.

Còn ảnh này bên ttvnol.com từng thấy, nhưng hình như lời chú dẫn chưa đầy đủ:

(http://i84.photobucket.com/albums/k16/vo_quoc_tuan/AnhMyviet1946OchoDuaBTNGHoangminhGi.jpg)

Cuộc đàm phán tại Ô Chợ Dừa ngày 13-1-1947.
Từ trái sang phải người thứ hai: Lãnh sự Anh Wilson - Bang trưởng Trung Quốc Vương Tử Kiên
- Lãnh sự Mỹ Sullivan - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoàng Minh Giám
- Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi) - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hà Nội Nguyễn Văn Trân.


Tiêu đề: Hà Nội 60 ngày đêm rực lửa
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 19 Tháng Mười Hai, 2011, 11:03:35 am
Kỷ niệm 65 năm ngày toàn quốc kháng chiến, xin giới thiệu với các bạn một bài báo về cuộc chiến đấu 60 ngày đêm tại Hà nội mùa đông 1946.
http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/301/302/302/170129/Default.aspx

TÍNH CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM 60 NGÀY ĐÊM CHIẾN ĐẤU Ở HÀ NỘI

TRẦN TRỌNG TRUNG
QĐND - Thứ Bẩy, 17/12/2011, 13:3 (GMT+7)

QĐND - Đêm 19-12-1946, quân và dân Hà Nội đã cùng cả nư­ớc nổ súng tiến công địch, mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc. Ngoài những nét chung, hai tháng chiến đấu của quân và dân Hà Nội còn có những tính chất và nhất là những đặc điểm riêng của một địa bàn trung tâm của cả nư­ớc, một chiến trường có vị trí chiến lư­ợc đặc biệt quan trọng.

I - Tính chất hai tháng chiến đấu của quân và dân Thủ đô Hà Nội

 1. Đó là cuộc chiến đấu chính nghĩa, tự vệ, một bộ phận của cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân cả nư­ớc chống đế quốc Pháp xâm lư­ợc. Cuộc chiến đấu nổ ra khi nhân dân đã trở thành chủ nhân của đất nước, chủ nhân của Thủ đô nư­ớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã trải qua 16 tháng đấu tranh và tr­ưởng thành từng bư­ớc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, ngày càng gắn bó với chế độ mới, quyết tâm giữ vững thành quả cách mạng đã giành được.

Cũng như­ nhân dân cả nư­ớc, quân và dân Thủ đô Hà Nội mong muốn có hòa bình để xây dựng đất nước sau khi giành chính quyền. Đư­ợc sự giáo dục của các đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân nhận thức đúng cái giá phải trả trong cuộc chiến tranh chống một kẻ thù lớn mạnh. Bởi vậy, tuân theo lệnh của chính quyền thành phố, mọi ngư­ời kiên trì nín nhịn suốt từ ngày quân Pháp trở lại sau Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946. Suốt 9 tháng, không manh động, không mắc m­ưu khiêu khích của quân Pháp, các tầng lớp nhân dân đều thể hiện ý thức kỷ luật rất cao, bình tĩnh đợi lệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho Chính phủ đấu tranh ngoại giao, nhằm gạn chắt những khả năng hòa hoãn nhỏ nhất trong quan hệ Pháp - Việt.

Như­ng thực dân Pháp ngoan cố, quyết tâm thực hiện âm m­ưu đánh chiếm Thủ đô, trái tim của cả nước. Cũng nh­ư nhân dân các dân tộc trong cả nước, quân và dân Hà Nội không còn con đư­ờng nào khác, tự nguyện đi tới một sự lựa chọn duy nhất để bảo vệ chủ quyền, bảo vệ Thủ đô: Đó là đứng lên cầm súng cùng đồng bào cả nư­ớc chiến đấu tự vệ với tinh thần quyết tử để Tổ quốc quyết sinh!

2. Đó là cuộc chiến đấu đã đạt tới đỉnh cao của cuộc đọ sức quyết liệt nhất giữa ta và địch trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc.

Do vị trí chiến lư­ợc của Thủ đô nên ngay sau khi vào Hà Nội, quân Pháp đã coi đây là mục tiêu số 1 trong âm mư­u xâm lư­ợc của chúng đối với miền Bắc, là "chặng cuối cùng của sự nghiệp giải phóng" như­ lời tuyên bố ngạo mạn của tổng chỉ huy Pháp Lơ-cléc. Phía Pháp không ngừng tăng cư­ờng binh lực trái phép, trang bị cho Pháp kiều, tập hợp bọn tay sai, tổ chức mạng l­ưới tình báo gián điệp, chuẩn bị và thực hành kế hoạch đảo chính hòng lật đổ chính quyền cách mạng Việt Nam. Chúng coi việc "đánh vào đầu não" là biện pháp hữu hiệu nhất để "nhanh chóng buộc nhóm cầm quyền ở Hà Nội hiện nay phải biến đi"(1), quân Pháp sẽ làm chủ thành phố và một chính quyền thân Pháp sẽ đư­ợc dựng lên.

Quán triệt tư­ tư­ởng chỉ đạo của Thư­ờng vụ Trung ư­ơng Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự giúp đỡ trực tiếp của Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy và Tổng bộ Việt Minh, Thành ủy và Ủy ban Hành chính Kháng chiến Hà Nội đã lãnh đạo quân dân Thủ đô từng bư­ớc xây dựng lực lư­ợng về mọi mặt. Sau Hội nghị Quân sự toàn quốc (họp ngày 19-10-1946 ở Hà Nội), công tác chuẩn bị chiến đấu ngày càng khẩn trương, theo tinh thần chỉ thị của đồng chí Tổng bí thư­ Trư­ờng Chinh: Không để bị bất ngờ, sẵn sàng chiến đấu tiêu hao và kìm chân địch trong thành phố càng dài ngày càng tốt.

So với cả nư­ớc, đến trư­ớc ngày 19-12-1946, Hà Nội là nơi tập trung lớn nhất lực lư­ợng của ta và địch, với quân số và trang bị kỹ thuật cao nhất có thể huy động đư­ợc, đồng thời cũng là nơi tập trung cao độ sự chỉ đạo chỉ huy của cả hai bên, chuẩn bị cho một cuộc đọ sức quy mô lớn và có ý nghĩa chiến lược quan trọng nhất.

Quá trình diễn biến chiến đấu, địch ra sức tăng cường binh lực hòng nhanh chóng đẩy lùi LLVT của ta ra khỏi thành phố. Về phía ta, theo mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy, các địa phư­ơng lân cận như­: Sơn Tây, Hà Đông - hậu phư­ơng trực tiếp của Thủ đô cũng bổ sung lực lượng cho Mặt trận Hà Nội. Với sự chỉ đạo chỉ huy tập trung, với quyết tâm giành giật từng đường phố, từng căn nhà trong cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt suốt hai tháng ở Thủ đô, quân và dân Hà Nội đã tiêu hao và kìm chân địch, hoàn thành vư­ợt yêu cầu nhiệm vụ mà cả nước đã ủy thác cho chiến tr­ường trọng điểm mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc.

3. Đó là cuộc chiến đấu ngay từ đầu đã thể hiện khá đầy đủ những điểm cơ bản nhất cả về hình thức và nội dung của cuộc chiến tranh nhân dân, được các tầng lớp xã hội đông đảo trong thành phố tham gia. Có đư­ợc sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân sát cánh chiến đấu, trư­ớc hết là do kết quả động viên giáo dục lâu dài của các đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh và Liên Việt trong suốt 16 tháng, từ ngày Tổng khởi nghĩa thắng lợi đến ngày Toàn quốc kháng chiến.

Với hàng chục vạn hội viên cứu quốc - mà nòng cốt là hơn 400 đảng viên cộng sản trong từng khu phố, nhà máy, xí nghiệp …, thông qua các cuộc vận động chính trị trong suốt quá trình xây dựng chính quyền và bảo vệ chế độ mới, các tầng lớp nhân dân Thủ đô ngày càng nhận thức sâu sắc nghĩa vụ và trách nhiệm của ng­ười làm chủ Thủ đô của nư­ớc Việt Nam mới. Trước những hành động khiêu khích ngày càng trắng trợn của quân Pháp diễn ra hằng ngày trên đường phố, công tác giáo dục và động viên về tình hình và nhiệm vụ do các đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh và Liên Việt tiến hành, ngày càng tạo thành động lực thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân, già trẻ, gái trai, sẵn sàng hy sinh chiến đấu, sống chết với Thủ đô. Biết bao cá nhân và gia đình đã tự nguyện biến ngôi nhà thân thư­ơng mang nặng dấu ấn tuổi thơ của mình, cùng với mọi đồ vật trong nhà, từ sập gụ, tủ chè đến bàn ghế thành những chướng ngại vật trên đường phố, những ụ súng chiến đấu của bộ đội và tự vệ.

Ngay từ những ngày chiến đấu đầu tiên, tại Mặt trận Hà Nội không chỉ có các chiến sĩ Vệ Quốc đoàn, tự vệ, công an xung phong trực tiếp cầm súng chiến đấu tiêu hao tiêu diệt địch. Đối mặt với quân Pháp, cả trong những giờ phút thử thách quyết liệt nhất, còn có đông đảo nhân dân thành phố, từ em bé 10-12 tuổi đến cụ già, từ ngư­ời dân nghèo, buôn thúng bán mẹt, công nhân, xích lô, đến nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ nhiếp ảnh…, tất cả đều góp phần tiêu hao tiêu diệt địch theo khả năng và bằng phương pháp, phương tiện riêng của mình. Phục vụ lực lượng vũ trang chiến đấu là một đội ngũ hậu cần hùng hậu, bao gồm đông đủ chị em phụ nữ mọi thành phần xã hội Thủ đô.

Những ngư­ời dân bình th­ường, những chiến sĩ vô danh không mặc áo lính ấy đã bảo đảm đư­ờng dây liên lạc, tiếp tế, đã sát cánh cùng bộ đội và tự vệ để ngày đêm chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Cũng chính những chiến sĩ vô danh ấy đã giữ bí mật, bảo đảm an toàn và có ngư­ời đã anh dũng hy sinh, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc rút lui thần kỳ của Trung đoàn Thủ Đô ra khỏi thành phố sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

Suốt hai tháng chiến đấu, xen kẽ với tiếng súng diệt địch trong từng căn nhà, góc phố, ngõ chợ, là tiếng đàn hát động viên bộ đội cùng với tiếng loa địch vận vang lên bằng nhiều thứ tiếng nư­ớc ngoài. Tờ báo của Mặt trận đư­ợc xuất bản tại chỗ đã đến với các chiến sĩ đều đặn. Những cuộc gặp gỡ giữa cán bộ chỉ huy của ta với đại diện lãnh sự quán một số nư­ớc còn ở lại trong thành phố vẫn diễn ra, khi công khai, khi bí mật, thể hiện một dạng thức ngoại giao đặc thù trong thời chiến.

Dù còn ở mức thấp, nh­ưng rõ ràng là 60 ngày đêm chiến đấu ở Thủ đô đã bước đầu mang những nội dung manh nha nhưng đích thực của cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, những mầm mống của sự kết hợp giữa quân sự với chính trị, binh địch vận, ngoại giao… Từ những hình thức và nội dung manh nha đó, khái niệm về chiến tranh nhân dân ngày càng đư­ợc định h­ướng cụ thể và không ngừng phát triển cả về lý luận và thực tiễn trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này.

4. Đó là cuộc chiến đấu kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và phòng ngự, là cách đánh du kích trong thành phố, trong điều kiện lực l­ượng so sánh giữa ta và địch rất chênh lệch(2). Nhiệm vụ chiến lược trên giao cho quân và dân Thủ đô Hà Nội là phải giam chân địch trong thành phố càng dài ngày càng tốt, tạo điều kiện cho cả n­ước chuyển sang thời chiến; chiến đấu tiêu hao địch đi đôi với bảo tồn lực lư­ợng ta và bảo vệ nhân dân để kháng chiến lâu dài.

Để thực hiện nhiệm vụ chiến lư­ợc đó trong điều kiện địch đang chuẩn bị hòng chủ động "đi đến một hành động quân sự nhằm…buộc đối phương phải hạ bài" (Hồi ký của Giăng Xanh-tơ-ni), quân và dân Hà Nội không bị động chờ đợi mà chủ động chuẩn bị và tiến công trư­ớc quân địch trong toàn thành phố ngay khi có lệnh. Tiếp đó là suốt hai tháng chiến đấu liên tục: Một người, một tổ cũng đánh, một quả lựu đạn, một chai xăng krếp, một bom ba càng cũng tiến công địch. Thực tế đó giải thích vì sao trong bản chỉ lệnh ngày 20-12-1946 (sau một ngày chiến sự nổ ra ở Hà Nội và trong toàn quốc), tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp, tư­ớng  Ê-chiên Va-luy, phải kêu gọi binh lính "Các bạn hãy cùng nhau nghiến răng chịu đựng… Cuộc chiến đấu còn diễn ra ác liệt, như­ng chẳng bao lâu các bạn sẽ đư­ợc tăng viện … Hãy dũng cảm lên, hỡi các chiến binh sư­ đoàn 9…"(3).

(còn nữa)

___________
1. Tuyên bố ngày 17-1-1946 của Lê-ông Pi-nông, cố vấn chính trị của Cao ủy Ác-den-li-ơ.

2. Lực lượng so sánh khi bước vào chiến đấu: Quân số tập trung: Địch 2,6;  ta 1 (nếu kể cả tự vệ của ta và Pháp kiều vũ trang thì địch 1,3; ta 1); Súng bộ binh: Địch 2,6; ta 1 (ba chiến sĩ ta mới có một khẩu súng với 6-7 viên đạn); Pháo binh: địch 4,7; ta 1 (pháo binh của địch là lựu pháo của Mỹ, pháo binh của ta là mấy khẩu cao xạ cũ của Nhật, chuyển sang ứng dụng thành pháo mặt đất, không bảng bắn, không máy ngắm). Địch hơn hẳn ta về máy bay, xe tăng, xe cơ giới và ca-nô tàu chiến trên sông.

3. Dẫn theo hồi ký của tướng Ra-un Xa-lăng, Thời báo Pa-ri 1971.


Tiêu đề: Re: Hà Nội 60 ngày đêm rực lửa
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 19 Tháng Mười Hai, 2011, 11:12:44 am
http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/301/302/302/170212/Default.aspx

TÍNH CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM 60 NGÀY ĐÊM CHIẾN ĐẤU Ở HÀ NỘI

TRẦN TRỌNG TRUNG
(Tiếp theo và hết)

QĐND - Số rất đông chiến sĩ xung trận đêm 19-12-1946 là những người lần đầu tiên cầm súng. Đối mặt với một kẻ địch có truyền thống về lục quân hàng thế kỷ lại ưu thế tuyệt đối về binh khí kỹ thuật, nhất là pháo binh, xe tăng, cơ giới và đặc biệt là chúng đóng xen kẽ với ta trong từng đường phố trước giờ nổ súng, vấn đề đặt ra là làm sao tiêu diệt được sinh lực địch, kìm chân chúng dài ngày trong thành phố mà vẫn bảo toàn và phát triển được lực lượng của ta để kháng chiến lâu dài. Một bài toán lúc đầu đã mấy ai tìm được đáp số. Trải qua những ngày đầu bỡ ngỡ, từng bước nhận ra quy luật hành động của địch, cùng nhau suy nghĩ sáng tạo ra cách đánh có hiệu quả, tiêu hao được địch, đồng thời hạn chế được tổn thất của ta. Cách đánh nhỏ lẻ, rộng khắp, nảy sinh trong phong trào "bắn tỉa, săn tây" là những kinh nghiệm ban đầu rất quý giá rút ra từ cách đánh du kích trên đường phố Hà Nội những ngày đầu kháng chiến toàn quốc.

Tinh thần và quyết tâm diệt địch cộng với cách đánh cụ thể dần dần được xác định đúng đắn, là những yếu tố trực tiếp giúp quân và dân Thủ đô trưởng thành trong chiến đấu, cướp súng của địch trong từng trận để từng bước cải tiến trang bị của ta, không ngừng phát triển lực lượng và điều quan trọng nhất là cuối cùng đã hoàn thành vượt mức nhiệm vụ trên giao, cả về tiêu hao lực lượng địch và thời gian bám trụ dài ngày.

II - Đặc điểm hai tháng chiến đấu của quân và dân thủ đô Hà Nội

1. Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm ở Hà Nội là cuộc chiến đấu có chuẩn bị từng bước vững chắc trong một thời gian dài(4). Được sự chỉ đạo của Thường vụ Trung ương, Bộ Quốc phòng- Tổng chỉ huy và của Thành ủy, nhịp độ công tác chuẩn bị chiến đấu ở Thủ đô tăng dần lên trong quá trình diễn ra ngày càng trắng trợn âm mưu, hành động khiêu khích và gây hấn của Pháp.

Trong điều kiện quân Pháp đã có mặt trong thành phố, đóng quân xen kẽ với ta trên từng đường phố, việc chuẩn bị chiến đấu của ta gặp không ít khó khăn. Nguyên tắc đề ra là phải bảo đảm bí mật, không tỏ thái độ khiêu chiến, không để chúng viện cớ để khiêu khích ta và cũng không mắc mưu khiêu khích của chúng, không để nổ ra xung đột sớm. Được sự giúp đỡ của nhân dân, bộ đội Vệ Quốc đoàn, Tự vệ thành và Công an xung phong đã triển khai công tác chuẩn bị từng bước vững chắc, việc gì cần và có thể làm trước thì làm trước, cũng có việc chỉ có điều kiện hoàn thành ngay sát giờ nổ súng như ngả cây to, hạ cột điện, làm ba-ri-cát sát nơi địch đóng quân... Do chủ động và có kế hoạch nên công tác chuẩn bị đã dần dần tạo thêm điều kiện thuận lợi để các lực lượng tham gia chiến đấu sẵn sàng chủ động bất ngờ đồng loạt nổ súng tiến công địch trong toàn thành phố khi có lệnh. Song song với việc chỉ đạo chuẩn bị chiến đấu của bộ đội, mọi công tác của cơ quan Tổng hành dinh, từ xây dựng kế hoạch tác chiến, chỉ đạo chuẩn bị chiến trường, bố trí lực lượng, huấn luyện chiến đấu bổ sung ngay trên địa bàn dự kiến, hoàn thành hệ thống tổ chức chỉ huy, động viên chính trị tư tưởng, đến chỉ đạo tản cư nhân dân, di chuyển các cơ quan Chính phủ và bộ máy lãnh đạo kháng chiến cùng cơ sở vật chất kỹ thuật ra ngoài thành phố… tất cả đều được triển khai bí mật, nhịp nhàng, chủ động.

Biết dự kiến thời gian chuẩn bị sao cho phù hợp và chỉ đạo chuẩn bị đúng hướng, đúng lúc, đồng bộ, toàn diện, chu đáo và bí mật, nên bộ máy điều hành các cấp, từ Bộ Tổng chỉ huy đến đơn vị cơ sở đã tạo thêm điều kiện để bộ đội bám trụ dài ngày và đánh thắng địch ngay từ đêm đầu trên địa bàn Thủ đô.

2. Cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô không diễn ra trong điều kiện địch từ ngoài đánh vào, mà chúng đã có mặt 9-10 tháng trên địa bàn thành phố. Trước giờ nổ súng và trong suốt hai tháng chiến đấu, địch và ta xen kẽ trong từng khu vực, từng đường phố. Trong tổng số trên dưới 50 vị trí, có 6 vị trí quan trọng địch tập trung binh lực lớn, từ 250 quân (như ở trường Bưởi) đến 1.800 quân (sân bay Gia Lâm). Một số mục tiêu, theo quy định của Hiệp định tham mưu hoặc Hiệp nghị liên kiểm, quân ta cùng gác chung với quân Pháp(5).

Bên cạnh 6.500 quân chính quy, trong thành phố địch còn một lực lượng chừng 7000 Pháp kiều được trang bị vũ khí ở rải rác trong khu vực hồi đó thường gọi là "khu phố tây". Ngoài ra, chúng còn một mạng lưới gián điệp, phần lớn là tàn dư của Việt quốc, Việt cách để lại cùng với bọn Hán gian sau khi quân Tưởng rút khỏi thành phố, làm tay sai cho chúng trong quá trình chuẩn bị và diễn biến chiến đấu.

Với đặc điểm quân đội hai bên xen kẽ như vậy, vấn đề đặt ra là phải thường xuyên đề cao cảnh giác, vừa bảo đảm bí mật trong quá trình chuẩn bị chiến đấu, vừa đề phòng địch bất ngờ thực hiện kế hoạch đảo chính theo tinh thần chỉ thị trung tuần tháng 4 của tướng Valuy (khi đó còn là chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở miền Bắc Việt Nam)(6). Tuy nhiên, đặc điểm địch-ta ở xen kẽ trong thành phố cũng tạo thêm một điểm yếu đối với địch mà ta có thể tận dụng, đó là binh lực của chúng phân tán, dễ bị ta bất ngờ tiêu diệt khi có lệnh nổ súng.
Tự vệ và các cảm tử quân Hà Nội trong những ngày toàn quốc kháng chiến. Ảnh tư liệu.

Ta đã dựa vào kết quả điều tra để phân tích thế bố trí xen kẽ, phân tán và tương đối cố định của địch để vừa xây dựng kế hoạch tác chiến vừa đề phòng và ngăn chặn âm mưu đảo chính của chúng, đồng thời chủ động triển khai lực lượng theo phương án tác chiến đã định, khiến quân Pháp bị bất ngờ trước tiếng súng tiến công đồng loạt của ta đêm 19-12.

3. Hai tháng chiến đấu của quân và dân Hà Nội được sự chỉ đạo thường xuyên và kịp thời của Bộ thống soái tối cao và có quan hệ mật thiết với hoạt động của các chiến trường toàn quốc.

Trong 60 ngày đêm chiến đấu, quân và dân Hà Nội đã phát huy cao độ tinh thần tự lực tự cường, chủ động sáng tạo giải quyết nhiều vấn đề do thực tế chiến đấu đặt ra, như chọn cách đánh trong từng tình huống cụ thể, chọn thời cơ rút vào Liên khu 1, điều chỉnh và phát triển lực lượng, chọn thời cơ và phương thức lui quân bí mật, an toàn ra khỏi thành phố sau khi hoàn thành nhiệm vụ v.v..

Đặc biệt, suốt quá trình chuẩn bị cũng như trong diễn biến chiến đấu, ngoài sự chỉ đạo chỉ huy trực tiếp của Bộ chỉ huy Khu 11, Mặt trận Hà Nội luôn được sự chỉ đạo sát sao của Bộ Quốc phòng-Tổng chỉ huy, của Thường vụ Trung ương và nhất là được Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên theo dõi động viên. Nhờ sự quan tâm của Bộ Thống soái tối cao mà việc xây dựng kế hoạch tác chiến, chỉ đạo cách đánh, điều chỉnh chiến trường (nhất là việc Bộ Tổng chỉ huy sớm quyết định việc mở rộng địa bàn hậu phương Mặt trận Hà Nội về phía Hà Đông-Sơn Tây), điều động lực lượng tăng viện, giải quyết vấn đề hậu cần tiếp tế, động viên các chiến trường cả nước chia lửa với Thủ đô v.v.. đã được cấp chiến lược đặc biệt quan tâm chỉ đạo phối hợp trong suốt mấy tháng đầu kháng chiến toàn quốc. Quân và dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đẩy mạnh hoạt động theo tinh thần chỉ thị ngày 16-12-1946 của Thường vụ Trung ương. Các thành phố Huế, Đà Nẵng và nhất là Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương ra sức tiêu hao, kìm chân và căng kéo địch, hạn chế tăng viện của địch cho mặt trận Hà Nội.

Lực lượng vũ trang cả ba Liên khu của Mặt trận Hà Nội, đặc biệt là Liên khu 1, đã kiên cường đương đầu với địch suốt hai tháng ròng, nêu một tấm gương chiến đấu tiêu biểu cho cả nước, xứng đáng với vị trí chiến lược quan trọng nhất, địa bàn trọng điểm của cuộc tổng giao chiến.

Đối lại, thắng lợi của Mặt trận Hà Nội đã có tác dụng cổ vũ rất lớn đối với các chiến trường, củng cố lòng tin vào khả năng chiến đấu và chiến thắng đối với quân dân các địa phương trong cả nước. Kết quả tiêu hao và kìm chân địch suốt 60 ngày đêm trong thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho các ngành, các cấp, các địa phương chuyển toàn bộ đời sống xã hội sang thời chiến một cách chủ động, đầy tự tin. Về thế chiến lược quân sự toàn cục, hai tháng chiến đấu của quân và dân Hà Nội đã tác động thuận lợi đối với nhiều chiến trường trong cả nước. Riêng đối với Nam Bộ, như nhận xét của nhà sử học Phi-líp Đơ-vin, quân Pháp đã thất bại trong ý đồ "đánh cú quyết định vào đầu não" hòng tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc bình định miền Nam, cứu nguy cho Nam Bộ, nơi mà tình hình bi đát tới mức tướng lĩnh Pháp cảm thấy “đất đang sụt lở dư­ới chân mình”(7).

Quá trình diễn biến cuộc chiến đấu ở Hà Nội, quân Pháp rất mong nhanh chóng mở rộng chiến sự ra ngoại thành, "truy lùng và tóm gọn" cơ quan lãnh đạo kháng chiến để kết thúc chiến tranh. Nhưng quân và dân Thủ đô đã buộc chúng phải chôn chân dài ngày trong thành phố. Trong 60 ngày đêm đó, cơ quan lãnh đạo kháng chiến vẫn đứng chân bí mật an toàn ở vùng Chương Mỹ, sát kề Hà Nội, chỉ cách thành phố chừng 20km đường chim bay. Tại đó, sự chỉ đạo các chiến trường trong cả nước vẫn được giữ vững. Cũng tại đó, hai cuộc hội nghị quan trọng(8) đã được triệu tập nhằm phát hiện và giải quyết kịp thời những vấn đề ở tầm chiến lược cả về quân sự và chính trị do thực tế những ngày đầu kháng chiến đặt ra.

4. Cuộc chiến đấu của quân và dân Thủ đô có sự kế thừa những bài học kinh nghiệm ban đầu của các chiến trường bạn đã đi trước trong cuộc đọ sức với địch.

Cuộc kháng chiến nổ ra ở Hà Nội khi mà nhiều chiến trường từ Nam chí Bắc (Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc, Hải Phòng, Lạng Sơn …) đã trải qua thực tế chiến đấu với địch. Sài Gòn là thành phố đi đầu, trước Hà Nội 15 tháng và gần nhất là Hải Phòng và Lạng Sơn, trước Hà Nội một tháng. Mỗi địa phương một vẻ, các tình huống chiến lược đều không giống nhau, nhưng những kinh nghiệm còn rất sơ lược ấy ít nhiều đã giúp cho Bộ Thống soái tối cao cũng như Bộ chỉ huy Đặc khu 11 những hiểu biết cần thiết phục vụ cho quá trình chỉ đạo chuẩn bị và thực hành chiến đấu. Mặc dù lúc này cơ quan tham mưu chiến lược còn hạn chế về nhiều mặt (kiến thức nghiệp vụ, khả năng nắm tình hình địch, trình độ tổ chức chỉ huy, trang bị kỹ thuật…) nhưng, với trách nhiệm và sự cố gắng cao nhất của mình, Bộ Tổng tham mưu đã tạo điều kiện cho Bộ chỉ huy Khu 11 nắm được những vấn đề mấu chốt nhất trong kinh nghiệm lãnh đạo và chỉ huy của các chiến trường đã trải qua cọ xát với địch.

Nét đặc sắc trong kinh nghiệm của Sài Gòn và nhất là Hải Phòng là làm thế nào hạn chế được uy lực của xe tăng cơ giới địch cơ động trên đường phố. Vật cản, ụ ba-ri-cát… hình thành trong cái mà Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội Vương Thừa Vũ gọi là "chiến thuật cài then cửa", là bước phát triển kinh nghiệm của Sài Gòn, Hải Phòng được vận dụng vào điều kiện cụ thể của Hà Nội. Từ thực tế của Hải Phòng, bài học rút ra là phải luôn đề cao cảnh giác và tỉnh táo, không để kẻ địch khiêu khích, đánh trước hay tìm cớ thực hiện mưu đồ đảo chính. Mặt khác phải chủ động chuẩn bị sẵn sàng tiến công địch. Nhiệm vụ và cũng là khẩu hiệu hành động trên đề ra cho quân và dân Hà Nội hồi đó là: Quyết không bị bất ngờ, không để sự kiện Hải Phòng tái diễn trên đường phố Thủ đô!.

Rõ ràng kinh nghiệm của các chiến trường đi trước là rất quý đối với Mặt trận Hà Nội, góp một phần quan trọng vào thắng lợi trong hai tháng chiến đấu liên tục của quân và dân Thủ đô.

***

Những tính chất và đặc điểm trên đây liên quan mật thiết với nhau, tác động qua lại và bổ sung lẫn cho nhau, quy tụ lại tạo thành những yếu tố quyết định thắng lợi của quân và dân Thủ đô, cụ thể là hoàn thành vượt mức nhiệm vụ chiến lược trên giao. Với thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng đó, Mặt trận Hà Nội đã thể hiện trọn vẹn vai trò chiến trường trọng điểm trong cuộc tổng giao chiến của quân và dân ta trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc.

__________

(4). Chín tháng chuẩn bị từng bước (nếu tính từ khi quân Pháp vào Thủ đô ngày 18-3-1946); hai tháng chuẩn bị cụ thể trực tiếp (nếu tính từ Hội nghị Quân sự toàn quốc ngày 19-10-1946). Công tác chuẩn bị hoàn tất về cơ bản một tuần lễ trước ngày nổ súng, tức là ngày 13-12-1946, ngày Bộ Quốc phòng – Tổng chỉ huy triệu tập hội nghị các Khu trưởng từ Mặt trận Trung Bộ trở ra để kiểm tra tình hình chuẩn bị chiến đấu của các chiến trường.

(5). Như nhà Ngân hàng Đông Dương, ga Hàng Cỏ, Sở Liên kiểm Việt - Pháp, nhà máy điện, máy nước, máy đèn Bờ Hồ, cầu Long Biên, nhà in IDEO…

(6). Chỉ thị ngày 10-4-1946 của tướng Va-luy viết: Mỗi vị trí đóng quân phải có kế hoạch phòng thủ, đồng thời có kế hoạch sẵn sàng tiến công làm chủ thành phố…, phải thường xuyên bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch để sẵn sàng biến tấn kịch của cuộc hành binh mang tính chất đơn thuần quân sự thành một màn đảo chính.

(7). Xem Pa-ri-Sài Gòn-Hà Nội của Phi-líp Đơ-vin, Tạp chí Ga-li-ma, Pa-ri 1988.

(8). Hội nghị các Khu trưởng (12 đến 16-1-1947), hội nghị Quân ủy Trung ương mở rộng (14 đến 16-2-1947).


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 04:43:28 pm
Vệ quốc đoàn tuyên thệ.

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0321.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0322.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0320.jpg)

Bắc Bộ phủ

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_12.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 04:45:40 pm
Chợ Đồng Xuân

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0332.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0330.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0372.jpg)

Phố Hàng Bồ

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0324.jpg)

Phố Hàng Bài

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0329.jpg)



Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 04:47:03 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0327.jpg)

Pháo đài Láng

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0328.jpg)

Phố Hàng Chiếu

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0325.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0326.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 04:50:23 pm
Phố Hàng Đường

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0135.jpg)

Phố Hàng Nón

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0141.jpg)

Phố Hàng Thiếc

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0142.jpg)

Phố Hàng Bè

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_44.jpg)

Phố Hàng Chĩnh

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0147.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 04:51:53 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0146.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0145.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0151.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_21.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_19.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 04:58:43 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0149.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0156.jpg)

Trung đội phó Viết Phương cùng đồng đội trên chiến lũy Hà Trung

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0157.jpg)

Chiến lũy phố Lê Ninh (ngã ba Đinh Liệt-Cầu Gỗ), các chiến sĩ: Cao Đa (nhìn ống nhòm), liên lạc viên Nguyễn Phúc (mũ sắt), Nguyễn Đình Văn (mũ cát trắng)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0155.jpg)

Trung đội 2 Tiểu đoàn 102. Từ trái sang: liên lạc viên Hồ Quốc Cốc, chính trị viên Nguyễn Đình Truy, cứu thương Nguyễn Thị An, trung đội trưởng Nguyễn Trọng Hàm, trung đội phó Phạm Mùi, cứu thương Lều Thị Lương.

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0165.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:01:15 pm
Hàng rào chống cơ giới ở Bạch Mai

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_8.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0353.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0371.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0922.jpg)

Nhà máy rượu

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0336.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:05:30 pm
Đ/c Ty, cán bộ tự vệ ở Bạch Mai

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0366.jpg)

Phố Huế

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_15.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0370.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0338.jpg)

Phố Mai Hắc Đế

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0337.jpg)

Đường Huyền Trân Công Chúa

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0369.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:07:30 pm
Khu vực Bạch Mai

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_03231.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_03201.jpg)

Ngã tư Trung Hiền

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_03211.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_03221.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:09:48 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0341.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0342.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0343.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0347.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0352.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:11:46 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0339.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0340.jpg)

Ngã ba Lương Yên

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0346.jpg)

Tù binh (hay tù nhân?) Pháp ở Lương Yên

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0367.jpg)

Viện Pasteur

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0348.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:19:30 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0365.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0129.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0331.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0333.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0334.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:21:47 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0164.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0169.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0166.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0202.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0364.jpg)



Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:25:22 pm
Ban chỉ huy trung đoàn

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0160.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0159.jpg)

Đàm phán với đại diện Anh, Pháp, Mỹ, TQ.

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0368.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:31:59 pm
Khu vực ngoại thành

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0349.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0350.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0354.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0355.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0356.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:32:45 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0357.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0358.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0359.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0360.jpg)



Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:33:32 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_9.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_38.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0361.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0363.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0345.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:36:25 pm
Rút quân

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0174.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0175.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0184.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0183.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0178.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:37:08 pm
Sáng 18-2-1947

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0180.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0186.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0187.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0190.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:39:10 pm
Lễ mừng công tại Đan Phượng ngày 21-2-1947

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0193.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0192.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0189.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0195.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:44:45 pm
Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp, Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, Tư lệnh chiến khu XI Vương Thừa Vũ và chủ tịch Hà Nội Nguyễn Văn Trân cùng ban chỉ huy trung đoàn Thủ đô.

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0194.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0196.jpg)

Thiếu tá Tuyết Minh, chính trị viên tiểu đoàn 102.

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0200.jpg)

Phải qua trái: Tuyết Minh, Vũ Yên, Đàm Văn Ngọ (d102), Vũ Lăng, Tấn Công (d103).

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0199.jpg)

Phải qua trái: Đỗ Tần, Lê Thản (d101), Bạch Ngọc Liễn, Phạm Mùi, Phùng Như Hùng, Việt Phương (d102).

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0198.jpg)

Các nữ chiến sĩ được điều động đi nhận nhiệm vụ mới.

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_0201.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:47:41 pm
Một số hình ảnh từ phía Pháp.

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_123.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_126.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_124.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_125.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:48:43 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_134.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_133.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_135.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_hb.jpg)




Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:49:53 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_129.jpg)

Phố Tràng Tiền

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_128.jpg)

Khách sạn Asia phố Hàng Gai.

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_132.jpg)

Dinh thự của Sainteny

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_127.jpg)



Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:56:26 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_img1915vw.jpg)

Lính dù Pháp

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_img1912ad.jpg)

Đại đội 11, trung đoàn 6 thuộc địa sau khi đánh chiếm commissariat central vietnamien (?)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_131.jpg)



Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:58:13 pm
Một số hình ảnh sau khi chiến sự kết thúc

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01779.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01778.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01777.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01776.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01775.jpg)



Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:58:49 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01774.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01773.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01772.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01771.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01770.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 05:59:30 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01769.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01768.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01767.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01766.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01764.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 06:00:29 pm
(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01763.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01762.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01761.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01760.jpg)

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/Hanoi%201946/tn_IMG_01752.jpg)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Hai, 2012, 06:09:26 pm
Bản đồ của sĩ quan pháo binh Pháp đánh dấu các vị trí tập trung quân và vũ khí của ta. Ảnh của bác panphilov.

(http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/bandohn.jpg) (http://i378.photobucket.com/albums/oo229/chiangshan1/img1914i.jpg)

(nhấn vào hình để xem cỡ lớn)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: ledung17 trong 14 Tháng Mười, 2012, 06:59:36 pm
Đội liên lạc anh hùng Nguyễn Ngọc Nại và khúc bi tráng bên dòng sông Hồng


(http://i1278.photobucket.com/albums/y512/ledung177/4_bia36_zpsa11e7c40.jpg)
Bia tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Đội Liên lạc Nguyễn Ngọc Nại.


Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tên tuổi Đội Liên lạc Nguyễn Ngọc Nại được ghi vào trang sử vàng của thủ đô và đất nước. Nhưng cho đến hôm nay, câu chuyện tìm kiếm hài cốt của các anh sau gần nửa thế kỷ vẫn được nói đến như một khúc bi tráng bên bờ sông Hồng...

Đội Liên lạc ra đời trong 60 ngày “Hà Nội cháy khói lửa ngút trời”... Tháng 1/1947, thực dân Pháp đánh chiếm cửa ô Yên Phụ, Đội giao thông liên lạc Trúc - Lãng gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp tế, liên lạc cho Trung đoàn Thủ đô đang bám trụ giữa vòng vây của địch trong Liên khu I. Theo lệnh của Chính ủy  Trung đoàn Thủ đô Lê Trung Toản và đồng chí Nguyễn Minh Tiến, Chủ tịch Ủy ban  kháng chiến hành chính khu Phúc Xá, trung đoàn đã chọn lựa các chiến sĩ tự vệ gan dạ, dũng cảm của khu để thành lập Đội Liên lạc, Đồng chí Nguyễn Ngọc Nại được cử làm Đội trưởng. Địa điểm nhận công văn, thư từ, lương thực, thực phẩm của hậu phương là chùa Tàm Xá.

Từ tháng 1 đến 16/2/1947, các chiến sĩ liên lạc đã giữ vững mạch máu thông tin, tiếp tế cho Trung đoàn. Đêm 17/2/1947, các anh dẫn đường cho Trung đoàn rút khỏi Liên khu I, từ Hàng Bạc qua ngõ Phất Lộc xuống gầm cầu Long Biên, men theo chân đê lên bãi Tàm Xá rồi qua sông Hồng sang bến Dâu (Đông Anh) ra hậu phương an toàn.

Sáng 19/2/1947, khi những chiến sĩ cuối cùng sang sông thì cũng là lúc thực dân Pháp huy động thủy - lục - không quân lên Tàm Xá hòng tiêu diệt Trung đoàn. Các chiến sĩ Đội Liên lạc, dưới sự chỉ huy của Đội trưởng Nguyễn Ngọc Nại đã chiến đấu quyết liệt với kẻ thù trên bãi dâu Tàm Xá. Và trong cuộc chiến đấu không cân sức ấy, tám chiến sĩ hy sinh anh dũng. Hai đội viên là: Nguyễn Thị Chén và Đỗ Văn Túc bị thương, được bờ sông che chở đã thoát hiểm.

Năm tháng qua đi, bãi dâu Tàm Xá không còn. (Do sự biến đổi của dòng chảy cuối những năm 50 của thế kỷ XX, bãi Tàm Xá không còn ở giữa sông Hồng nữa, nhân dân sang Đông Anh sinh sống, thuộc đơn vị hành chính huyện Đông Anh). Thân nhân các liệt sĩ ở quê hương Bắc Biên (Gia Lâm) những tưởng hài cốt các anh đã theo dòng phù sa trôi dạt đâu đó. Nhưng không, tám chiến sĩ vẫn nằm bên nhau, trong lòng đất xã Xuân Canh (Đông Anh) từ ngày tháng xa xưa ấy.

Câu chuyện bất ngờ tìm thấy hài cốt các anh bắt đầu từ năm 1992. Tính đến lúc đó ông Nguyễn Minh Tiến, Chủ tịch UB Kháng chiến hành chính khu Phúc Xá ngày ấy (và sau này trở thành Thứ trưởng Bộ Công an) đã trải 25 năm kiên trì, nhẫn nại ôm tập hồ sơ đến các cơ quan chức năng, đề nghị phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Đội Liên lạc.

Trong những tháng ngày lao tâm khổ tứ đi “gõ cửa” các cấp có thẩm quyền, ông vẫn đau đáu nỗi đau chưa tìm được hài cốt các liệt sĩ, trong đó có em ruột mình là Nguyễn Công Quảng. Ông la cà hỏi các bô lão ở Tứ Tổng, Tứ Liên, Vạn Ngọc nhưng không ai biết gì về hài cốt của các anh.

Hy vọng tìm được hài cốt các liệt sĩ là rất mong manh. Nhưng thật bất ngờ - bao năm “đáy bể mò kim”, hay đâu có một ngày người bạn cũ thuở “nếm mật nằm gai” những năm 1949 - 1950 là ông Hoàng Minh Tiến cho biết mộ tám chiến sĩ nằm trong nghĩa trang liệt sĩ xã Xuân Canh. Nửa tin, nửa ngờ, ông cùng bạn đến tận nơi và cứ để cho nước mắt buồn tủi tuôn trào trước hai hàng bia mộ vô danh. Khi gặp gỡ ông Hoàng Minh Tiến và đồng chí Phó chủ tịch phụ trách văn - xã tại trụ sở UBND xã Tàm Xá, tôi cũng hết sức ngạc nhiên hỏi ông: “Vì sao các liệt sĩ Đội Liên lạc vẫn nằm ở đất Xuân Canh mà không ai biết tung tích các anh?”.

Vẻ mặt quắc thước, cương trực, thông tuệ, ông kể lại những nỗi vất vả, khó khăn và sự ngẫu nhiên trời cho: Trong quá trình sưu tầm tư liệu để viết lịch sử xã Tàm Xá, khi đến xã Xuân Canh, nhìn thấy tám ngôi mộ vô danh, ông lần hỏi những người cao tuổi đã từng tham gia chiến đấu cuối năm 1946 đầu năm 1947. So sánh và khớp lại các chi tiết của các nhân chứng lịch sử hai xã Xuân Canh và Tàm Xá, ông có đủ tư liệu thực tế xác đáng để khẳng định: đây chính là hài cốt các chiến sĩ Đội Liên lạc.

Thì ra ít ngày sau khi  thực dân Pháp tàn sát thảm khốc dân làng Tứ Liên, Tàm Xá, Vạn Ngọc (19/12/1947), những người lánh nạn trở về làng đã nhận mặt những người thân bị chúng giết hại. Riêng tám chiến sĩ Đội Liên lạc, không ai biết là người của làng Bắc Biên nên đã đưa sang bãi nhãn và chân đê xã Xuân Canh chôn cất. Mãi đến năm 1991, có nghĩa trang liệt sĩ, chính quyền xã Xuân Canh đưa hài cốt các liệt sĩ, trong đó có cả liệt sĩ của Đội Liên lạc vào nghĩa trang; nhưng vẫn không ai biết danh tính và quê quán nên đành đặt các anh quây quần bên nhau trong khu mộ vô danh.

Năm 1993, sau sự phát hiện, khảo cứu của ông Hoàng Minh Tiến và cuộc hội thảo khoa học với Viện Khoa học Lịch sử quân sự Việt Nam, Quân khu Thủ đô, Trung đoàn Thủ đô, các anh mới được trả lại danh tính chung: liệt sĩ Đội Liên lạc khu Phúc Xá, đội viên Đội tự vệ thành Hoàng Diệu.

Ngày đến nghĩa trang liệt sĩ Xuân Canh để nhận hài cốt, ông Nguyễn Minh Tiến đã đọc bài điếu hương hồn các liệt sĩ bằng thơ rất xúc động. Ông và mọi người đều khóc trong nỗi đau xót, ngậm ngùi. Sau đó, theo nguyện vọng một số thân nhân liệt sĩ, nhà ngoại cảm Đỗ Bá Hiệp đến tận nơi để xác định tên từng người nhưng cũng chỉ tìm được bốn liệt sĩ còn đủ hài cốt, bốn liệt sĩ khác, hài cốt đã trộn lẫn với nhau. Trong nỗi đau chung, thân nhân các liệt sĩ phải để các anh ở lại Xuân Canh.

Năm 1996, Đội Liên lạc và Đội trưởng Nguyễn Ngọc Nại được Nhà nước truy tặng Anh hùng LLVTND; bảy đội viên được truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Vinh dự tự hào và ghi nhớ công ơn các anh, năm 1997, nhân kỷ niệm Ngày thương binh liệt sĩ, Đảng bộ và nhân dân xã Ngọc Thụy dựng  tấm bia lớn sau hai hàng mộ liệt sĩ khắc dòng chữ: Đời đời nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ Đội Liên lạc đặc biệt Đặc khu Phúc Xá - Liên khu I Hà Nội.

Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Trên bia cũng ghi rõ tên 8 liệt sĩ và các danh hiệu cao quý mà Nhà nước đã truy tặng các anh. Nhưng trên từng bia mộ, tôi thật xót lòng khi đọc dòng chữ “Liệt sĩ chưa biết tên. 29/1 Đinh Hợi - đội viên tự vệ Thành Hà Nội”. 29/1 Đinh Hợi chính là ngày 19/2/1947 - ngày giỗ chung của các anh!

Cùng với các liệt sĩ xã Xuân Canh, các anh nằm giữa cánh đồng thơm hương lúa chín. Xuân Canh đã trở thành quê hương thứ hai của các liệt sĩ Bắc Biên - Ngọc Thụy trong nghĩa tình sâu nặng thiêng liêng. Chuyện về các liệt sĩ Đội Liên lạc Nguyễn Ngọc Nại hiến dâng tuổi thanh xuân cho độc lập, tự do của Tổ quốc, và hài cốt của các anh được lưu giữ trong lòng đất Xuân Canh, nhưng nửa thế kỷ sau mới xác định được danh tính chung là một trong hàng ngàn huyền thoại bi hùng trong sử thi giữ nước của dân tộc

Nguồn: Báo CAND (http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/truyenthong/2006/8/51150.cand)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: ledung17 trong 14 Tháng Mười, 2012, 07:11:48 pm
Em tìm được một bài về Hà Nội 60 ngày đêm máu lửa được đăng đã khá lâu trên trang báo Công an nhân dân nhân kỷ niệm Ngày toàn quốc kháng chiến 19/12. Em xin được copy về để thêm một chút tư liệu cho chuyên trang của chúng ta.


Hà Nội, những ngày máu lửa

 
“Sống chết với Thủ đô”, “Hà Nội, Stalingrat của Việt Nam” - những khẩu hiệu do chiến sĩ ta tự tay viết lên  vách chiến lũy, vách tường là tinh thần và sức mạnh của người Hà Nội trong 60 ngày đêm chiến đấu giữa lòng Thăng Long văn hiến...

Kẻ gieo gió và người chuẩn bị bão

Ngày 2/3/1946, sau Tổng tuyển cử thắng lợi, Quốc hội họp lần thứ nhất và Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chủ tịch đứng đầu được thành lập. Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Hiệp định sơ bộ với Pháp. Ta chủ trương hòa để tiến. Pháp muốn lấy ngoại giao mở đường cho quân sự. Ta kiên trì củng cố lực lượng để đề phòng bất trắc. Pháp triển khai 15.000 quân trên khắp miền Bắc. Ngày 18/3/1946, 1.200 quân Pháp vào Hà Nội, đóng ở những vị trí được phép. Bọn thực dân hy vọng một “màn đảo chính” nhanh chóng diễn ra ở Hà Nội. Từ đó, quân Pháp liên tiếp vi phạm Hiệp định sơ bộ, chiếm đóng thêm nhiều địa điểm, bí mật lập các ổ tác chiến. Kiều dân Pháp được phát vũ khí. Lính Pháp tăng cường khiêu khích xung quanh nơi chiếm đóng.

Đồng chí Nguyễn Trọng Am, tự vệ chiến đấu của ta đang làm nhiệm vụ bị Pháp vô cớ bắn chết vào ngày 24/7/1946. Ngày 3/8, Pháp gây xung đột ở Bắc Ninh. Tối 6/8/1946, nhiều người đi trên hè phố Hà Nội bị Pháp vô cớ bắn chết. Quân Pháp bắn vào vọng gác Vệ quốc đoàn, ném lựu đạn vào lòng đường...

Ngày 14/9/1946, tạm ước giữa ta và Pháp được ký chưa ráo mực, Pháp đã vi phạm. Trước tình hình này ngày 19/10/1946, Trung ương Đảng họp và nhận định: Nhất định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp. Tháng 11/1946, trong văn kiện “Công việc khẩn cấp bây giờ” Hồ Chủ tịch viết: “... phải hiểu, phải làm cho dân hiểu rằng: Cuộc kháng chiến sẽ rất gay go cực khổ” nhưng: “Cố ráng sức ra khỏi mùa đông lạnh lẽo, ta sẽ gặp mùa xuân”. Văn kiện còn nhấn mạnh, muốn thắng địch phải: “Trường kỳ kháng chiến – kháng chiến và kiến quốc. Một mặt phá hoại, một mặt kiến thiết. Phá hoại để ngăn địch, kiến thiết để đánh địch...”.

Từ Hà Nội, sau Hội nghị Quân sự toàn quốc cuối năm 1946, tháng 11, Chiến khu XI được thành lập (trong 12 chiến khu của cả nước). Đồng chí Nguyễn Văn Trân là Bí thư Khu ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ Khu XI. Đồng chí Vương Thừa Vũ làm Chỉ huy trưởng mặt trận Khu XI... Đồng chí Trần Quốc Hoàn là phái viên Trung ương tại mặt trận Hà Nội. Trung ương giao cho Hà Nội: Nếu địch cố tình gây chiến, phải nhanh chóng đánh trả, chủ động trong tác chiến, kìm giữ thế hung hăng của giặc trong một thời gian, tạo điều kiện cho hậu phương chuẩn bị công cuộc kháng chiến lâu dài.

Với lực lượng 2.500 Vệ quốc quân, 6.000 tự vệ, được đông đảo nhân dân thủ đô ủng hộ, mặc dù vũ khí còn thô sơ so với 6.500 tên thực dân được trang bị hiện đại, Hà Nội đã chuẩn bị cho mình một tư thế hiên ngang trước giờ xuất trận.

Đầu tháng 12/1946, bằng những vụ khiêu khích ngày một nhiều, quân xâm lược Pháp châm ngòi và phát động cuộc chiến cục bộ trong lòng phố phường Hà Nội. Ngày 4/12, Nhà thông tin Bờ Hồ bị đốt. Ngày 10/12, nhiều công sự của tự vệ ta bị Pháp đặt mìn phá hủy. Ngày 16/12, Lực lượng Công an ta đang giữ gìn trật tự trên đường phố bị quân Pháp vô cớ xả súng. Ngày 17/12, tự vệ ta bị tấn công, nhân dân phố Hàng Bún, Yên Ninh bị tàn sát. Đặc biệt nghiêm trọng, ngày 18-12, quân Pháp ra tối hậu thư  đòi tự vệ ta nộp vũ khí, đòi chiếm đóng Sở Công an Hà Nội, nắm quyền kiểm soát thành phố về mặt trật tự...

Biết rõ âm mưu độc ác của giặc, với ý chí thà chết không chịu làm nô lệ, nhân dân Hà Nội đã có những hành động kiên quyết. Ngày 16/12/1946, vang lên lời thề quyết tử để bảo vệ thủ đô của Vệ quốc quân trong lễ tuyên thệ. Ngày 18/12/1946, thanh niên tự vệ Hà Nội họp và ra quyết nghị: “Sẵn sàng đợi lệnh, thề sống chết với thủ đô. Lúc này Tổ quốc là trên hết, dân tộc là trên hết”.

Những cuộc chiến đấu trên đường phố

“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ...!”, và “Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước!”. Ngày 19/12/1946, Bác ra lời kêu gọi cả nước kháng chiến. Quyết định lịch sử này được truyền đạt tới Khu ủy Khu XI. Chiều 19/12, kế hoạch kháng Pháp và giờ nổ súng được bí mật phổ biến.

Ngày 19/12/1946, lúc 20 giờ 3 phút, Nhà máy Điện Yên Phụ ngừng chạy, đèn thành phố đồng loạt vụt tắt. Đây là hiệu lệnh chiến đấu. Từ các pháo đài Láng, Xuân Tảo, Xuân Cang, Đào Xuyên, những đường lửa của pháo binh ta bay xé màn đêm nhằm những nơi giặc Pháp đóng quân trong Thành Hoàng Diệu rót đạn. Các vị trí khác của giặc đóng trên phố bị lính vệ quốc của ta cùng các đơn vị phối thuộc của công an, tự vệ đồng loạt tấn công...

Cầu Long Biên bị nghẽn vì ta đặt bom phá. Nhiều cây to và cột đèn do tự vệ ta đặt mìn phá đổ ngổn ngang. Toa xe điện, xe lửa bị lật nghiêng ở các ngã ba, ngã tư, nhiều gia đình khuân đồ đạc, bàn ghế ra đường làm chướng ngại vật. Nội đô đồng loạt tiến công.

Nhiều vùng ngoại thành trống mõ nổi lên, huy động người tiếp ứng cho thành phố. Tại các khu Lãng Bạc, Đại La, Đống Đa, Mê Linh... lực lượng tự vệ được tập trung thành đại đội, tiểu đoàn khẩn cấp hành quân về phía các cửa ô. Cũng trong đêm này, ở các địa phương xa hơn như Hoài Đức, Đan Phượng, Thanh Trì, thị xã Hà Đông... đã gửi lực lượng tự vệ tham gia đánh Pháp trong lòng phố Hà Nội.

Sau phút choáng váng ban đầu, thực dân Pháp đã phản công một cách điên cuồng. Quân trong thành của chúng được tung ra để ứng cứu các vị trí bị đánh, bị chiếm. Ga Hà Nội, cầu Long Biên, nhà Bưu điện, Bắc Bộ phủ... Tổng chỉ huy và doanh trại Vệ quốc đoàn ở Hàng Bài, Sở chỉ huy tự vệ ở nhà Đấu Xảo... Ở đâu quân xâm lược cũng gặp phải sức chống cự mãnh liệt của quân dân ta.

Đồng chí Lê Gia Định, Chính trị viên đại đội đã hy sinh trong trận quyết tử bảo vệ Bắc Bộ phủ. Các chiến sĩ tự vệ nhà Bưu điện đánh giặc đến người cuối cùng. Tại trụ sở Bộ Quốc phòng, trận chiến quyết liệt kéo dài tới ngày 21/12/1946.

Ngăn chặn quân Pháp nống ra, các vùng quanh Hà Nội làm vườn không nhà trống. Đường giao thông từ Hà Nội đi các tỉnh bị triệt phá. Sân bay Bạch Mai bị dân quân khu phố 3 khống chế. Dân quân đặc khu Ngọc Thụy, Gia Lâm tổ chức các đợt đột kích vào sân bay.

Các đợt phản kích của Pháp bị chặn lại. Không những thế, ta còn tiếp tục tấn công chúng ở Nhà Dầu Sheell, nhà ga, Nhà in IDEO, ô Yên Phụ... khiến mưu đồ muốn làm chủ Hà Nội sau 24 giờ của thực dân Pháp bị phá sản. Chỉ trong đêm 19 rạng ngày 20/12/1946, 300 tên thực dân đã bị tiêu diệt cùng 5 xe tăng, 2 xe zeep, 7 xe vận tải bị phá hủy...

(Còn nữa...)


Tiêu đề: Re: Những câu chuyện về Hà Nội 60 ngày đêm
Gửi bởi: ledung17 trong 14 Tháng Mười, 2012, 07:22:13 pm
(Tiếp theo và hết)

Từ ngày 21/12/1946, địch vây bốn mặt Liên khu phố I (khu trung tâm của Hà Nội). Với chủ trương không phá vây rút ra ngoài, ta trụ lại chờ địch đến để tiêu diệt địch. Địch một mặt khép vòng vây, một mặt đánh lấn ra xung quanh, cắt đứt viện trợ từ bên ngoài hòng cô lập dân quân ta ở các phố Đồng Xuân, Đông Thành, Hoàn Kiếm, Đông Kinh Nghĩa Thục, Hồng Hà, Long Biên và vùng bãi giữa Sông Hồng... Tiếp đó, chúng liên tiếp mở các  cuộc tấn công vào vành đai thành phố từ các cửa ô hình thành thế gọng kìm từ ô Yên Phụ nối với Ngọc Hà, Kim Mã, Thụy Khuê, ngã tư Kim Liên, Ô Cầu Dền... Các trận đánh giữa ta và quân xâm lược đã diễn ra hết sức dữ dội ở phố Hàng Da (ngày 22/12), phố Lò Lợn, chợ Hôm (ngày 23/12), phố Hàng Bông (24/12), đường Đại Cồ Việt (ngày 25/12), cửa ô Cầu Dền (26/12)...

“Mỗi người dân là một người lính”, “Mỗi nhà là một pháo đài", “Mỗi phố là một chiến tuyến”, cả Hà Nội sau đêm 19/12/1946 đã thành một chiến trường lớn.

Mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược nước ta lần thứ 2, khắp các mặt phố đâu cũng là chiến hào, chiến lũy. Nhiều người tự phá nhà mình dành chỗ cho bộ đội đánh giặc. Vật chướng ngại giăng đầy đường. Trong đó được cài bom, mìn. Những ổ bắn tỉa, phục kích xuất quỷ nhập thần khiến kẻ thù hoảng loạn. Nhiều chai xăng cơ rếp đã thiêu cháy thiết giáp địch. Tại trận quyết đấu ở chợ Hôm, chiến sĩ ta đã ôm bom ba càng lao vào xe địch. Tại chiến tuyến Đại Cồ Việt, lần đầu tiên cơ giới Pháp nếm mùi bazôka của bộ đội ta. Tổ tự vệ khu vực Đông Thành đã chụm súng trường hướng lên trời bắn rơi máy bay  khu trục Moran của Pháp. Có thể đây là trận đầu tiên những người tự vệ Việt Nam dùng súng bộ binh đánh gục không quân địch.

“Sống chết với Thủ đô”, “Hà Nội, Stalingrat của Việt Nam” - những khẩu hiệu do chiến sĩ ta tự tay viết lên  vách chiến lũy, vách tường là tinh thần và sức mạnh của người Hà Nội trong 60 ngày đêm chiến đấu giữa lòng Thăng Long văn hiến. Hà Nội chứng tỏ cho quân xâm lược biết, đế đô này không phải là chốn vui chơi của chúng.

Sát cánh cùng bộ đội và tự vệ, phụ nữ Hà Nội cũng góp phần sức lực trong mọi công việc có thể đảm nhận được. Đại đội nữ cứu thương 134 có một tiểu đội nữ chiến sĩ quê ở vùng hoa Ngọc Hà đã anh dũng chiến đấu và hy sinh ở Giảng Võ. Các cô gái của Tiểu đội giao thông liên lạc Lãng Bạc đã đảm bảo mạch máu thông suốt giữa vùng chốt thép (Liên khu phố I) với bên ngoài trong vòng vây bủa của giặc.

Trong máu lửa của cuộc chiến đấu, lực lượng ta trưởng thành từng ngày. Các đồng chí lãnh đạo Khu ủy Khu XI đã nhất trí để các lực lượng vũ trang Liên khu I gồm vệ quốc quân, tự vệ thành, tự vệ chiến đấu, các chiến sĩ công an xung phong hợp nhất lại thành Trung đoàn Liên khu I (Tiểu đoàn 101 là nhân cốt). Chiến sĩ của trung đoàn đa phần là người lao động. Đồng chí Lê Trung Toản, Bí thư Đảng ủy liên khu phố trực tiếp làm Chính ủy Trung đoàn. Trung đoàn được thành lập vào ngày 6/1/1947. Ngày 12/1/1947,  tại Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ I, Trung đoàn Liên khu I được đặt tên là “Trung đoàn Thủ đô”. Ngày 13/1/1947, đội quyết tử của Trung đoàn Thủ đô làm lễ tuyên thệ trước quốc kỳ để chuẩn bị bước vào thời điểm quyết liệt mới.

Ngày 27/1/1947, trong thư gửi các chiến sĩ cảm tử thủ đô nhân dịp tết Nguyên Đán Đinh Hợi, Hồ Chủ tịch viết: “... Các em cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn, tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại... Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau...”.

Từ 6/2/1947, Pháp mở cuộc tổng công kích vào Liên khu phố I. Chúng đánh nhà Xôva, Trường Ke, phố Hàng Thiếc, Hàng Nón, Hàng Bồ, Hàng Đường, Hàng Chiếu, Đồng Xuân. Phố Hàng Bạc, Hàng Mắm, Mã Mây. Pháp đã cho máy bay ném bom ác liệt vì nghi có trụ sở chỉ huy của Liên khu I. Quân dân ta ở khu phố I bị giặc vây ép từ bốn phía. Ta giành giật với địch từng con đường, ngôi nhà, góc phố. Tại khu vực chợ Đồng Xuân, ta đánh giáp lá cà với hàng trăm tên địch. Chiến sĩ ta vật lộn với bọn Tây đen, Tây trắng bên những quầy hàng...

Ngày 14/2/1947, Pháp giảm mức độ bắn phá để chờ quân tăng viện, chuẩn bị mở cuộc tấn công lớn nhất vào Liên khu I, nhằm nhanh chóng kết thúc chiến sự. Ngày 15/2/1947, cấp trên chỉ thị cho các lực lượng chiến đấu tại Liên khu I được rút khỏi Hà Nội ra ngoài hậu phương chuẩn bị những bước mới cho cuộc kháng chiến lâu dài với giặc Pháp.

Lúc này đang mùa nước cạn. Sông Hồng, sông Đuống sẽ là hướng quân dân Liên khu I chọn lối vượt qua.  Ngày được chọn là ngày 17/2/1947. Hỗ trợ cho kế hoạch rút quân này, lực lượng ta ở phía ngoài được lệnh áp sát  các cửa ô, có chỗ còn tiến sâu vào nội thành, gây rối, đánh phá, khiến địch phải phân tán lực lượng để đối phó. Để đánh lạc hướng thăm dò của Pháp, Ban chỉ huy của Liên khu phố I đã thỏa thuận với Lãnh sự quán Tàu Tưởng, đồng ý việc tiếp tế cho Hoa kiều ở nơi vây hãm một số lương thực và tổ chức cho họ tản cư vào ngày 17 hoặc 18/2/1947.

Đêm 17/2/1947, lực lượng của Trung đoàn Thủ đô chia thành từng đơn vị nhỏ cùng đồng bào Liên khu phố I lặng lẽ đặt từng dấu chân thận trọng trên cát, dưới gầm cầu Long Biên, rẽ nước vượt sông Hồng, sông Đuống, bí mật vượt qua vòng vây dày đặc của giặc ra vùng tự do. Lực lượng được phân công ở lại quấy rối nhằm nghi binh là lực lượng ra sau cùng.

Riêng Đội tự vệ Hồng Hà gồm những người dân lao động ngoài bãi sông Hồng đã chiến đấu ròng rã 60 ngày đêm, bảo vệ và nối liền con đường tiếp tế cho dân quân Liên khu I đã có những chiến sĩ mãi mãi nằm lại trên cát đỏ sông Hồng. Đó là đảng viên Nguyễn Ngọc Nại, Tiểu đội trưởng và 7 đồng đội khác của anh. Họ đã trụ vững ở bãi giữa, chiến đấu quyết liệt với giặc Pháp vào sáng ngày 18/2/1947, thu hút hỏa lực kẻ thù về phía mình, bảo vệ an toàn cho cuộc rút lui chiến lược của Trung đoàn Thủ đô, của quân dân Hà Nội...

Mặt trận Hà Nội từ đêm 19/12/1946 cho đến cuộc rút lui an toàn là cuộc chiến đấu mang ý nghĩa chiến lược, giáng mạnh vào đạo quân xâm lược, dạy cho chúng bài học về lòng quả cảm Việt Nam, về sức mạnh vô địch của trận địa lòng dân Hà Nội, mở đầu cho chiến thắng thực dân Pháp của quân và dân ta sau này.

Nguồn: Báo Công an nhân dân (http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/tulieuvanhoa/2007/1/51637.cand?Page=2)