Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 13 Tháng Năm, 2024, 07:08:21 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp  (Đọc 63122 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #20 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:50:32 am »

Ngày 28-5, chiến dịch Ninh Bình mở màn, tác chiến đợt 1, quân đội Việt Nam luồn sâu tập kích Ninh Bình và cứ điểm địch dọc tuyến quốc lộ 1. Qua hai đêm chiến đấu, quân đội Việt Nam tấn công tỉnh lỵ Ninh Bình và hơn 10 cứ điểm ở nam, đông nam Ninh Bình, tiêu diệt hơn 600 tên đich. Trung úy Bernard de Lattre de Tassigny, con trai Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, chỉ huy ở cứ điểm Âu Ni cũng bị quân đội Việt Nam bắn chết. Chiến dịch mở đầu tương đối thuận lợi.

Tác chiến đợt 2 do địch tăng cường lực lượng phòng thủ, Quân đội Nhân dân tuy hạ được một số cứ điểm tiêu diệt một số địch nhưng có những cứ điểm không công phá nổi, đánh chặn viện cũng không được thuận lợi, bộ đội thương vong tương đối lớn, phải rút khỏi chiến đấu. Ngày 20/6 kết thúc chiến dịch. Chiến dịch này công phá được 22 cứ điểm, tiêu diệt hơn 3.100 địch.

Ba lần tác chiến ở vùng Trung Du, Đông Bắc, Ninh Bình là ba chiến dịch quân đội Việt Nam tấn công phòng tuyến kiên cố của địch trong đó quy mô vùng ven đồng bằng Bắc Bộ. Đều là mở đầu tương đối tốt, đột kích bất ngờ, công phá một số cứ điểm, tiêu diệt một số địch. Sau đó, địch hoặc lợi dụng hoả lực của các cứ điểm chi viện cho nhau để cố thủ, hoặc lợi dụng điều kiện giao thông thuận tiện v.v. nhanh chóng điều động binh lực, phát huy ưu thế không quân đại bác, sát thương nặng Quân đội Nhân dân, làm cho Quân đội Nhân dân rơi vào bị động, đành phải kết thúc chiến dịch. Điều đó làm cho Vi Quốc Thanh tỉnh táo nhận thức rằng, quân đội Việt Nam tiến hành tác chiến quy mô tương đối lớn ở vùng đồng bằng và kẻ địch có quân mạnh phòng thủ, thì thời cơ chưa chín muồi. Xem xét từ tình thế địch ta trên toàn Bắc Bộ, cần phải giúp phía Việt Nam có sự chỉ đạo chiến lược sát thực tế hơn để giành thắng lợi lớn hơn. Vì vậy, cần phải trình bày trực tiếp tình hình với Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, xin Trung ương đưa ra quyết đoán.

Lúc này, Vi Quốc Thanh sang Việt Nam đã gần một năm. Tình hình sức khoẻ của đồng chí rất xấu, ngoài bệnh dạ dày đường ruột thỉnh thoảng lên cơn đau, lại mắc bệnh chóng mặt, đau đầu. Đó là trước lúc chiến dịch Đông Bắc, đồng chí ngày đêm suy nghĩ để đánh tốt trận này. Bỗng một hôm, tự nhiên cảm thấy trời đất quay cuồng, đầu đau như búa bổ, toàn thân chao đảo, cảm thấy còn khó chịu hơn bị thương nặng trước đấy nhiều năm, nằm trên giường tre chốc chốc lại rên. Bác sĩ quân y theo đoàn không thể chẩn đoán chính xác, không dám cho thuốc. Võ Nguyên Giáp biết tin, cử tiến sĩ y học ở Pháp, bác sĩ riêng của đồng chí đến khám, xem xong nói là bị sốt rét. Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm chưa cho đồng chí uống thuốc, điện khẩn cho Lâm Quân Tài cố vấn quân y ở rất xa đến gấp để chẩn đoán bệnh. Sau khi Lâm hỏi rõ bệnh tình, chẩn đoán chính xác là lớp vỏ đại não mất cân đối vì động não quá mức gây ra. Sau khi cho thuốc an thần ngủ một đêm, bệnh tình mới khỏi. Nhưng sau đó, thỉnh thoảng nổi cơn chóng mặt, đau đầu.

Chiến dịch Ninh Bình kết thúc, mùa mưa đã đến, hai bên Việt – Pháp đều không có chiến sự lớn. Vi Quốc Thanh lại điện báo cáo cho Quân uỷ Trung ương, xin về nước để báo cáo tình hình và chữa bệnh. Trung ương trả lời đồng ý, thượng tuần tháng 7/1951, đồng chí rời nơi ở Việt Bắc trở về Bắc Kinh. Sau khi Vi Quốc Thanh về nước, quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch Hoà Bình đập tan phản công của quân Pháp ở vùng đồng bằng. Sau khi quân Pháp bị thất bại thảm hại ở chiến dịch biên giới, Chính phủ Pháp bổ nhiệm Jean de Lattre de Tassigny, nguyên tư lệnh lục quân liên minh Tây Âu, làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Đông Dương. De Lattre sau khi đón nhận nhiệm vụ, một mặt tích cực xây đắp công sự phòng ngự bằng bê tông cốt sắt xung quanh châu thổ sông Hồng, ra sức tạo ra vùng trống không có người để cắt đứt liên hệ với vùng giải phóng ; mặt khác ra sức phát triển nguỵ quân, tập trung bộ đội tinh nhuệ xây dựng binh đoàn cơ động, để đối phó tấn công của Quân đội Nhân dân và tăng cường “càn quét” vùng du kích. Trong thời gian một năm, quân Pháp đã phá huỷ 90% căn cứ địa du kích sau lưng địch của quân đội Việt Nam, từ đó đứng chắc chân. De Lattre cho rằng, thời cơ lấy lại quyền chủ động chiến trường Bắc Bộ đã đến. Thượng trung tuần tháng 11/1951, quân Pháp huy động 6 binh đoàn cơ động, có không quân, lính thiết giáp và hạm đội trên sông phối hợp dọc sông Đà và quốc lộ số 6, chia làm hai ngả tiến vào vùng giải phóng tây nam Hà Nội, chiếm đóng vùng Hoà Bình.

Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ QĐNDVN quyết định mở chiến dịch Hoà Bình. Phía Việt Nam tiếp nhận kiến nghị của La Quý Ba, Đoàn trưởng Đoàn cố vấn chính trị ; đưa bộ phận chủ lực vòng sau lưng địch, tấn công quân địch, phát triển chiến tranh du kích sau lưng địch. Bố trí cụ thể là, dùng hai đại đoàn chủ lực tấn công quân địch ở Hoà Bình, đem ba đại đoàn chủ lực lần lượt đi sâu vào sau lưng địch. Ở mặt trận Hoà Bình, quân đội Việt Nam công phá mấy cứ điểm, tiêu diệt 2 tiểu đoàn và một đội thuyền trên sông. Nhưng khi tấn công cứ điểm Phiêu không được, bộ đội thương vong tương đối lớn đã chuyển sang bao vây lâu dài quân địch ở Hoà Bình. Bộ đội chủ lực vào sau lưng địch phân tán xuất kích, đạp tan nguỵ quyền, phát triển chiến tranh du kích, không những khôi phục toàn bộ căn cứ địa du kích trước đây mà còn mở ra một vùng rộng lớn mới, trực tiếp đe doạ Hà Nội, làm cho quân Pháp bị bao vây bốn phía, khó bề xoay xở, đành phải rút khỏi vùng Hoà Bình vào hạ tuần tháng 2/1952, chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #21 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:51:09 am »

Xây dựng bộ đội

Chiến dịch Biên Giới tuy giành được thắng lợi quan trọng, nhưng cũng bộc lộ Quân đội Nhân dân Việt Nam còn có không ít nhược điểm là về số lượng hay chất lượng, đều không thích ứng với yêu cầu tác chiến vận động quy mô lớn. Vi Quốc Thanh cảm thấy sâu sắc rằng, đồng thời với việc giúp quân đội Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến, cần phải giúp họ tăng cường xây dựng bộ đội. Đó cũng là một trong hai nhiệm vụ quan trọng mà các đồng chí lãnh đạo Trung ương giao cho Đoàn cố vấn. Vì vậy, trong thời gian sang Việt Nam gần một năm, Vi Quốc Thanh chú trọng giúp Việt Nam nắm mấy việc sau đây :

1. Mở rộng bộ đội chủ lực, thống nhất biên chế trong trang bị. Chiến dịch Biên Giới vừa kết thúc, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lập tức đưa ra chỉ tiêu cho đoàn cố vấn giúp quân đội Việt Nam xây dựng quân chính quy khoảng 50.000 người. Theo đó, Vi Quốc Thanh nêu ra kiến nghị tương ứng với Võ Nguyên Giáp. Tất nhiên Võ Nguyên Giáp rất phấn khởi

Thế là Đoàn cố vấn giúp Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam vạch ra “phương án xây dựng bộ đội chủ lực” và kế hoạch biên chế trang bị, sau khi được Trung ương đảng Lao động Việt Nam phê chuẩn trên cơ sở các đạị đoàn 304, 308, 312 đã xây dựng, lại được Trung Quốc viện trợ trang bị, thành lập thêm đại đoàn bộ binh 316, 320, và đại đoàn công pháo 351 do 3 trung đoàn pháo binh và một trung đoàn công binh tổ thành. Sau đó thành lập đại đoàn bộ binh 325. Đến cuối năm 1951, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có một lực lượng vũ trang chính quy gồm 6 đại đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công pháo được thay đổi trang bị, biên chế thống nhất.

2. Tăng cường huấn luyện quân sự, nâng cao tố chất quân sự. Vi Quốc Thanh cho rằng, nâng cao tố chất quân sự của quân đội Việt Nam, một là phải dựa vào rèn luyện trong chiến đấu thực tế, hai là phải dựa vào huấn luyện quân sự. Vì thế, đồng chí triệu tập các cố vấn quân sự họp hội nghị bàn về công tác huấn luyện bộ đội. Đồng chí nói với các cố vấn đến dự hội nghị : “ Quân đội Nhân dân Việt Nam trước đây không đánh tiêu diệt chiến, khi đánh trận dàn hàng ngang mà tiến, pháo bắn thì phân tán tránh, như thế không được. Ở trong nước (tức ở Trung Quốc) chúng ta đánh thắng trận, dựa vào cái gì ? Dựa vào 10 nguyên tắc quân sự lớn của Mao Chủ tịch. Hạt nhân của 10 nguyên tắc quân sự lớn là cái gì ? Là đánh tiêu diệt chiến. Không đánh tiêu diệt chiến 9 nguyên tắc khác đều rỗng không. Chỉ cần đánh tốt tiêu diệt chiến thì đạt được mục đích tác chiến.

“ Các đồng chí trở về, phải lợi dụng thời gian nghỉ giữa hai chiến dịch, áp dụng biện pháp mở lớp huấn luyện luân phiên để chấn chỉnh rèn luyện bộ đội, tiến hành giáo dục quân sự cho bộ đội, làm cho mọi người đều nắm chắc tư tưởng đánh tiêu diệt chiến. Và phải dạy họ biết được các chiến thuật và động tác kỹ thuật cần thiết khi đánh tiêu diệt chiến. Làm không tốt việc này, thì chúng ta không thể nào đánh thắng trận được, cũng không thể nào ăn nói với Trung ương được ”.

Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Vi Quốc Thanh, tổ cố vấn quân sự Bộ Tổng Tham mưu và tổ cố vấn của mấy đại đoàn chủ lực giúp phía Việt Nam tổ chức nhiều lớp tập trung huấn luyện cho cán bộ, giúp bộ đội tiến hành nhiều đợt chỉnh huấn quân sự. Quân đội nhân dân lần lượt triển khai huấn luyện quân sự cho 11 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn công binh, 1 trung đoàn pháo binh và 1 tiểu đoàn trinh sát. Thời gian mỗi lần chỉnh huấn khoảng một tháng. Đề cương và giáo tài huấn luyện đều do tổ cố vấn giúp biên soạn. Tổ cố vấn ở các đại đoàn giúp đào tạo cán bộ và tổ chức thực thi huấn luyện.

Trong huấn luyện quân sự, cố vấn cấp tiểu đoàn của các đơn vị đã phát huy tác dụng rất lớn. Các đồng chí ấy suốt ngày lăn lê bò toài với cán bộ chiến sĩ cơ sở, dạy họ động tác chiến thuật lợi dụng địa hình, ẩn nấp tiếp cận địch v.v... dạy họ năm kỹ thuật lớn là ném lựu đạn, nhất là tổ chức thực thi đánh bộc phá liên tục. Họ giảng đi giảng lại, làm mẫu nhiều lần, không sợ khổ, không sợ mệt, hết lòng hết sức làm tốt việc huấn luyện, đã thu được hiệu quả tương đối tốt.

3. Tăng cường xây dựng chính quy hoá, khắc phục thói quen du kích. Quân đội nhân dân ở trong môi trường chiến tranh du kích lâu dài, có thói quen du kích khá nặng. Đồng thời bộ máy của các Tổng cục quá cồng kềnh, nặng nề, chức trách của các ban ngành không rõ, tồn tại chủ nghĩa giấy tờ phiền phức. Từ cơ quan đến đơn vị chưa có điều lệ, điều lệnh chính quy và chế độ nội quy thống nhất. Nếu tình hình đó không thay đổi thì không thể thích ứng với yêu cầu của vận động chiến, công kiên chiến. Vì vậy, Vi Quốc Thanh kiến nghị với Võ Nguyên Giáp tiến hành giáo dục chính quy hoá xây dựng các chế độ nội quy đối với cơ quan, bộ đội. Phía Việt Nam tiếp nhận kiến nghị này. Vì thế, dưới sự chủ trì của Mai Gia Sinh, tổ cố vấn quân sự giúp phía Việt Nam khởi thảo “ Điều lệnh chiến đấu ”, “ Điều lệnh kỷ luật ” và “ Điều lệnh nội vụ ”. Những điều lệnh này sau khi được Tổng Quân uỷ Quân độI nhân dân Việt Nam thảo luận sửa đổi, thông qua, ban bố trong toàn quân chấp hành, làm cho việc xây dựng chính quy hoá của Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến một bước dài. Các cố vấn còn giúp quân đội Việt Nam tổ chức lớp huấn luyện cán bộ tham mưu, bồi dưỡng cán bộ tham mưu của Bộ Tổng Tham mưu và của các đại đoàn chủ lực tăng cường xây dựng Bộ tư lệnh của Quân đội Nhân dân.

4. Bồi dưỡng cán bộ huấn luyện, đề bạt cán bộ từ cơ sở. Trong chiến dịch Biên Giới, Vi Quốc Thanh tìm hiểu thấy đông đảo chiến sĩ và một số cán bộ cơ sở bộ đội quân đội Việt Nam trong chiến đấu thể hiện rất tốt, dũng cảm mưu trí, chịu thương chịu khó, tuân thủ kỷ luật, trong đó không thiếu nhân tài ưu tú, nhưng đã lâu không được đề bạt trọng dụng. Bởi vì Quân đội Nhân dân nói chung không đề bạt cán bộ trong chiến sĩ, mà là tuyển dụng học sinh thanh niên, được trường quân sự hoặc đợi huấn luyện tập huấn ngắn ngày, rồi phân phối về bộ đội làm cán bộ trung đội, đại đội. Một số cán bộ học sinh này biểu hiện rất tốt, nhưng cũng có không ít người không biết đánh giặc, không biết chỉ huy, ra trận nhút nhát, tham sống sợ chết. Đó là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sức chiến đấu của bộ đội. Trong cán bộ các cấp hiện có thành phần cũng khá phức tạp 4. Vi Quốc Thanh cho rằng, muốn giải quyết vấn đề nhức nhối này, cần phải bắt tay từ hai mặt :

– Một là luân phiên huấn luyện cán bộ hiện có, nâng cao tố chất quân sự và trình độ chính trị của họ. Vì vậy, tổ cố vấn chính trị do Đặng Dật Phàm chủ trì đã giúp phía Việt Nam mở lớp bồi dưỡng cán bộ phân kỳ chia đợt, luân lưu huấn luyện cán bộ đại đội trở lên. Trong lớp bồi dưỡng cán bộ, vừa học chính trị vừa học quân sự. Cố vấn đích thân giảng bài, hướng dẫn học viên độc lập suy nghĩ, dạy lẫn nhau học lẫn nhau; tự giác giải quyết tư tưởng. Lớp bồi dưỡng đợt đầu đã thu được kết quả rõ rệt, Hồ Chí Minh khen ngợi. Từ đợt thứ hai trở đi lãnh đạo đảng và quân đội Việt Nam Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và lãnh đạo các Tổng cục cũng lần lượt đến lớp huấn luyện giảng bài, thu được hiệu quả tốt hơn. Trong mấy năm về sau liên tục tổ chức được 8 đợt bồi dưỡng cán bộ, cán bộ đại đội trở lên của bộ đội Việt Bắc về cơ bản luôn lưu huấn luyện được một lần, có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao tố chất cán bộ, tăng cường sức chiến đấu của quân đội.

– Hai là coi trọng đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ, từng bước thay đổi thành phần của đội ngũ cán bộ. Công việc này được từng bước hướng dẫn và giúp đỡ phía Việt Nam tiến hành. Tổ cố vấn từ các Tổng cục đến các đại đoàn đều lợi dụng dịp tổng kết chiến dịch, hướng dẫn các chỉ huy cao cấp xuống cơ sở mở cuộc toạ đàm, nghe các chiến sĩ kể chuyện chiến đấu. Rất nhiều chiến sĩ kể chuyện rất sinh động hoạt bát, sự thật cụ thể, kinh nghiệm thiết thực. Các chỉ huy cao cấp dự toạ đàm cuối cùng nhận thức được trong chiến sĩ thực sự có nhân tài, nên đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ. Sau chiến dịch Biên Giới, Võ Nguyên Giáp đi cùng cố vấn pháo binh Đậu Kim Ba, xuống bộ đội mở ba cuộc chiến sĩ toạ đàm làm cho đồng chí cảm thấy rất nhiều bổ ích. Sau đó đồng chí nói với cố vấn : “ Bộ đội cấp dưới có những nhân tài cầm quân đánh giặc. Ý kiến của các đồng chí đúng, phải tìm nhân tài có kinh nghiệm tác chiến từ cấp dưới, đưa lên vị trí lãnh đạo, mới có thể nâng cao sức chiến đấu ”. Từ đó quân đội Việt Nam bắt đầu chú ý tuyển chọn đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ. Nhưng vấn đề, thuộc về đường lối cán bộ này mãi đến sau 1953, Đoàn cố vấn giúp quân đội Việt Nam chỉnh quân chính trị, mới được giải quyết tương đối tốt. Trong thời gian này, Đặng Dật Phàm dẫn đầu tổ cố vấn chính trị bắt tay giúp Việt Nam tăng cường chỉ đạo công tác chính trị thời chiến, tăng cường xây dựng toàn diện công tác chính trị. Mã Tây Phu dẫn đầu tổ cố vấn hậu cần lấy việc làm tốt bảo đảm hậu cần cho các chiến sĩ làm trọng tâm, dẫn dắt xây dựng toàn diện công tác hậu cần, làm cho nó từng bước thích ứng với nhu cầu của đánh vận động quy mô lớn.

Thế là, trải qua một năm công tác Quân đội nhân dân Việt Nam đều đạt được thành tích rõ rệt trên các mặt xây dựng quân sự, chính trị, hậu cần, thực hiện bước chuyển biến từ giai đoạn đánh du kích sang giai đoạn đánh vận động.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #22 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:51:56 am »

Tiến quân lên Tây Bắc

Sau khi về Bắc Kinh, đồng chí Vi Quốc Thanh báo cáo tình hình công tác của đoàn cố vấn quân sự với Lưu Thiếu Kỳ, Nhiếp Vinh Trăn, trình bày ý kiến của mình đối với chiến trường Việt Nam và phương hướng công tác chiến từ nay về sau, được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân uỷ Trung ương coi trọng.

Do tình hình sức khoẻ của Vi Quốc Thanh không được tốt, trong thời gian ngắn không thể trở lại Việt Nam công tác, Trung ương bèn bổ nhiệm đồng chí làm Phó tư lệnh lực lượng công an. Từ đó, Vi Quốc Thanh dời vào ngôi nhà chữ Khẩu ở Đông Bản Kiều, chấm dứt lịch sử đồng chí ở chiêu đãi sở sau khi về nước và ở nhà tập thể thời gian dài với phu nhân, Hứa Kỳ Thanh, công tác ở Ban Tổ chức Trung ương. Vi Quốc Thanh tuy làm việc ở Bộ Tư lệnh lực lượng công an, nhưng vẫn quan tâm theo dõi sự phát triển của tình hình chiến sự Việt Nam. Các bức điện quan trọng qua lại giữa Quân uỷ Trung ương và Đoàn cố vấn, Cục Cơ yêu Bộ Tổng tham mưu theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương đều sao chuyển cho đồng chí xem.

Thu đông năm 1951, tình hình chiến tranh Triều Tiên tương đối ổn định. Mao Trạch Đông càng quan tâm theo dõi với tình hình chiến sự Đông Dương hơn. Tầm mắt của Mao Chủ tịch không chỉ chú ý theo dõi chiến trường Bắc Bộ Việt Nam, mà còn chú ý theo dõi chiến trường Trung Bộ, Nam Bộ, chú ý theo dõi Lào và Campuchia. Không chỉ chú ý theo dõi chiều hướng của quân Pháp, mà còn quan tâm đến hoạt động của Mỹ đặt chân vào Đông Dương. Trong đầu Mao Chủ tịch dần dần hiện lên rõ nét một ý tưởng chiến lược : trước hết mở chiến trường Tây Bắc, giành lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Sau đó phát triển xuống Trung Nam Bộ, phát triển sang Trung Hạ Lào và Campuchia. Tấn công trước vào vùng binh lực địch mỏng yếu, để từng bước làm cho mình lớn mạnh lên, làm cho địch suy yếu, tạo điều kiện, cuối cùng đánh lấy đồng bằng sông Hồng, giành thắng lợi trong chiến tranh chống Pháp. Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là đánh lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Phải đề xuất kiến nghị này với Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Cử ai đi bây giờ ? Sau khi Mao Trạch Đông bàn với Lưu Thiếu Kỳ, quyết định giao nhiệm vụ này cho La Quý Ba hoàn thành, và giao La Quý Ba kiêm luôn quản lý công tác của Đoàn cố vấn.

Đồng chí La Quý Ba tham gia cách mạng năm 1925, trải qua cuộc đấu tranh ở Tỉnh Cương Sơn và cuộc Trường chinh hai vạn năm nghìn dặm, từng giữ chức Tư lệnh kiêm Chính uỷ quân khu Tấn Trung (miền Trung Sơn Đông), Chính uỷ Quân đoàn 7 v.v... Tháng 3/1950 sang Việt Nam làm đại diện liên lạc của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ít lâu sau sang làm Trưởng đoàn cố vấn chính trị của Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách giúp công tác đảng của Việt Nam. Sau khi về nước nghỉ ngơi không lâu, đầu năm 1952 La Quý Ba lại nhận mệnh lệnh của Trung ương, sang Việt Nam. Vùng Tây Bắc Việt Nam giáp tỉnh Vân Nam – Trung Quốc có giá trị chiến lược rất quan trọng, nó là vùng xung yếu chiến lược của quân Pháp án ngữ Thượng Lào kiềm chế vùng giải phóng Việt Bắc, yểm hộ đồng bằng sông Hồng. Đánh lấy vùng Tây Bắc có thể nối liền thành một dải với vùng giải phóng Việt Bắc, hình thành hậu phương vững chắc, bắc dựa Trung Quốc, nam tiếp giáp Thượng Lào, một vùng rộng lớn, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc tạo điều kiện giành lấy đồng bằng sông Hồng và thúc đẩy toàn quốc kháng chiến thắng lợi. Còn quân Pháp ở vùng Tây Bắc chỉ có binh lực của 8 tiểu đoàn và 41 đại đội, phân tán chốt giữ 144 cứ điểm, dù là phân bố binh lực hay cấu trúc công sự đều mỏng yếu hơn nhiều so với vùng đồng bằng sông Hồng. Đó là điều kiện có lợi cho Quân đội Nhân dân tiến quân lên đánh Tây Bắc. Tuy nhiên, vùng Tây Bắc sông sâu núi cao, dân cư thưa thớt, là vùng tập trung dân tộc thiểu số, cơ sở quần chúng yếu, kinh tế nghèo nàn, giao thông bất tiện. Đó là điều kiện bất lợi. Lúc đó rất nhiều cán bộ cao cấp trong quân đội nhân dân Việt Nam chỉ nhìn thấy mặt bất lợi, mà không nhìn thấy giá trị chiến lược quan trọng của vùng này, nên không muốn lên Tây Bắc tác chiến.

Sau khi La Quý Ba đến Việt Nam, chuyển tới chủ tịch Hồ Chí Minh sự phân tích và kiến nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với phương hướng tác chiến từ nay về sau, Hồ Chí Minh tiếp nhận kiến nghị đó. Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp trong tháng 4, ra quyết định chuyển hướng chủ công của bộ đội chủ lực lên vùng núi Tây Bắc.

Sau đó, Đoàn cố vấn quân sự và phía Việt Nam nghiên cứu nhiều lần phương án tác chiến của chiến dịch Tây Bắc và từ tháng 4 đến tháng 7, ba lần điện thỉnh thị Quân uỷ Trung ương Trung Quốc ; Quân uỷ Trung ương đã chỉ thị tỉ mỉ vấn đề mục tiêu, chiến thuật và thời gian tác chiến tại Tây Bắc. Cuối cùng phương án tác chiến của phía Việt Nam xác định là sử dụng hai đại đoàn 308,312 và hai trung đoàn của đại đoàn 316 tất cả binh lực 8 trung đoàn, mở tấn công địch vào trung tuần tháng 10. Tác chiến đợt 1 giải phóng vùng Nghĩa Lộ và Quang Huy, tác chiến đợt 2 giải phóng vùng Sơn La và Mộc Châu.

Hạ tuần tháng 9, Hồ Chí Minh bí mật thăm Trung Quốc, sau đó nhận lời mời sang Liên Xô dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong thời gian ở Bắc Kinh, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Bành Đức Hoài trực tiếp đưa ra với Hồ Chí Minh kiến nghị về chiến lược chung của chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, tức trước tiên đánh lấy vùng Tây Bắc, tiến tới tiến sang Thượng Lào, để xây dựng hậu phương chiến lược rộng lớn. Có hậu phương chiến lược này thì có thể ở vị thế chủ động. Sau đó sẽ phát triển sang những vùng binh lực địch mỏng yếu Trung Hạ Lào, Campuchia và Trung Nam Bộ Việt Nam, cuối cùng đánh lấy đồng bằng sông Hồng, giành toàn thắng chiến tranh chống Pháp. Hồ Chí Minh bày tỏ hoàn toàn tán thành kiến nghị này. Các vị lãnh đạo lại thảo luận thêm vấn đề tác chiến vùng Tây Bắc và đi đến ý kiến nhất trí.

Hồ Chí Minh nêu ra với Mao Trạch Đông, chiến dịch Tây Bắc sắp bắt đầu vô cùng quan trọng, tốt nhất mời Vi Quốc Thanh sang lại Việt Nam giúp đánh tốt trận này. Mao Trạch Đông đồng ý ngay yêu cầu của Hồ Chí Minh. Ngày 30/9, Hồ Chí Minh gửi điện cho La Quý Ba nói, đồng chí đã bàn với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, trọng điểm của chiến dịch Tây Bắc là tấn công Nghĩa Lộ. Sau khi đánh lấy Nghĩa Lộ, lập tức phát triển ra vùng xung quanh, thành lập căn cứ địa cách mạng, xây dựng đường ôtô Yên Bái đi Nghĩa Lộ. Tác chiến đợt hai không tấn công Sơn La nữa. Hồ Chí Minh còn báo cho La Quý Ba biết, Vi Quốc Thanh sẽ nhanh chóng từ Bắc Kinh đi Việt Nam.

Ngày 1/10 năm ấy là ngày quốc khánh thứ 3 của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Trên quảng trưởng Thiên An môn đêm hôm đó, hàng vạn quần chúng hân hoan vui mừng, ca hát nhảy múa. Vào lúc màn đêm buông xuống, mtc đến thành lầu Thiên An Môn nghồi chính giữa, cùng các trợ thủ chủ yếu của người xem pháo hoa. Lúc đó Vi Quốc Thanh đã được bổ nhiệm làm Phó tư lệnh lực lượng công an, cũng bước lên Thiên An Môn. Đồng chí nhìn thấy Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đang mỉm cười ngồi bên cạnh. Từ trên thành lầu, Vi Quốc Thanh một lần nữa nhận mệnh lệnh sang Việt Nam chấp hành sứ mệnh quân sư.

Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, sau khi nhận điện của Hồ Chí Minh họp lại một lần nữa thảo luận kế hoạch chiến địa Tây Bắc. Hội nghị quyết định huỷ bỏ kế hoạch tác chiến đợt hai đã bàn định trước đấy, theo điện chỉ thị của Hồ Chí Minh tập trung tấn công Nghĩa Lộ. Võ Nguyên Giáp không dự hội nghị này đang dẫn Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch tiến lên Nghĩa Lộ. Sau khi nhận được điện báo của Trường Chinh thông báo tình hình cho đồng chí sau hội nghị, Võ Nguyên Giáp tỏ ra không đồng ý thay đổi kế hoạch tác chiến đợt 2. Trường Chinh quyết định chờ Vi Quốc Thanh sau khi đến sẽ định đoạt lại.

Vi Quốc Thanh ở Bắc Kinh được nghe chỉ thị trực tiếp của Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài và sau khi trao đổi với Hồ Chí Minh, ngày 16/10 đến căn cứ địa Việt Bắc. Ngay hôm đến Việt Bắc, lập tức chuyển đến lãnh đạo Việt Nam ý kiến của Hồ Chí Minh đã trao đổi với Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài về chiến dịch Tây Bắc Việt Nam. Ngày 18/10, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp thảo luận lại La Quý Ba và Vi Quốc Thanh cũng tham gia hội nghị này. Hội nghị quyết định sau đợt một chiến dịch Tây Bắc, xem tình hình lúc bấy giờ hãy quyết định có tiến hành đánh đợt 2 hay không.

Sau hội nghị, ngày 24/10, Vi Quốc Thanh ra tiền tuyến Nghĩa Lộ. Lúc này Mai Gia Sinh đã dẫn nhân viên Ban chỉ huy Đoàn cố vấn ở tiền tuyến Tây Bắc giúp phía Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến đợt 1 chiến dich.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #23 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:52:29 am »

Chiến dịch Tây Bắc đã được sắp đặt và chuẩn bị thời gian dài bắt đầu nổ súng ngày 14/10/1952. Đêm hôm đó, trung đoàn 174 đại đoàn 316 tiêu diệt luôn quân địch ở cứ điểm Ca Vịnh, trung đoàn 141 đại đoàn 312 tấn công cứ điểm Sài Lương. Đại đoàn 308 sau khi bao vây sở chỉ huy phân khu của địch ở Nghĩa Lộ đêm 17 trước tiên tiêu diệt địch ở cứ điểm ngoại vi Bố Trương, tiếp đó sau khi chuẩn bị hỏa pháo, đã tấn công Nghĩa Lộ, cuộc chiến đấu quyết liệt đến hửng sáng hôm sau, tiêu diệt toàn bộ hơn 700 tên địch đóng ở Nghĩa Lộ.

Khói đạn chiến đấu ở Nghĩa Lội chưa tan, Vu Bộ Huyết, cố vấn quân sự của đại đoàn 308 lập tức dẫn cảnh vệ Lỗ Hiển Dư đi xem trận địa. Khi họ đến bên cạnh trận địa quân Pháp bên gò núi, chú Lỗ liếc mắt nhìn thấy lá cờ của quân Pháp trên trận địa vẫn bay ở đây bèn hô lên một tiếng : “ Tôi đi nhổ lá cờ đó ”, một mình chạy tới lá cờ của quân Pháp. Vu Bộ Huyết vội hét lên : “ Chú Lỗ quay về ”, nói chưa dứt lời, một tiếng nổ vang lên, một quả mìn nổ tung chàng trai Lỗ Hiển Dư người Sơn Đông, vừa tròn 20 tuổi ngã xuống, một dòng máu nóng chảy trên mảnh đất Việt Nam.

Cùng lúc với đại đoàn 308 thắng lợi ở Nghĩa Lộ, đại đoàn 312 đang tiến lên tấn công vào sâu phía bắc bờ tây sông Hồng, trên đường quét sạch cứ điểm quân Pháp, đánh tan quân địch phục kích ở Nam Mai và tiếp tục buộc địch rút khỏi điểm Tú Lệ, Gia Hội v.v.. Trung đoàn độc lập 148 từ Lào Cai tiến xuống phía nam, giải phóng Quỳnh Nhai ở bờ đông sông Đà, và hợp lại với đại đoàn 312. Các đại đoàn 308 và 316 sau khi đánh thắng trận đầu tiếp tục tiến quân tấn công Phù Yên, Vạn An v.v.. cho ngựa uống nước sông tại sông Đà.

Đến 23/10, tác chiến đợt 1 cơ bản kết thúc, tấn công tất cả 35 cứ điểm tiêu diệt gần 200 tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn từ tây sông Hồng đến đông sông Đà. Khi Vi Quốc Thanh đến tiền tuyến Tây Bắc vào đúng lúc tác chiến đợt 1 kết thúc tác chiến đợt 2 chưa bắt đầu. Đồng chí và Võ Nguyên Giáp chia tay hơn một năm, hôm đó gặp lại tại tiền tuyến, hai người hết sức thân thiết. Vi Quốc Thanh tìm hiểu tỉ mỉ tình hình tác chiến đợt 1 và tình hình địch ta trước mắt.

Sau khi mở màn chiến dịch, quân Pháp điều động 4 trung đoàn dù từ Hà Nội đổ bộ xuống vùng Tây Bắc. Quân lính đóng tại vùng Tây Bắc, quân Pháp hiện có 7 tiểu đoàn cơ động, 4 tiểu đoàn phòng thủ, cộng với ngụy quân địa phương và những tên bị đánh tan ở đông sông Đà tháo chạy, ở vùng Sơn la, Lai Châu có tất cả khoảng 10.000 binh lực, phân bố trên một dải đất dài 300 km, rộng hơn 50 km. Phòng ngự của địch tương đối phân tán mỏng yếu. Quân đội Việt Nam tuy có thương vong, nhưng số quân không giảm mấy và do trận đầu thắng lợi tinh thần lên cao, cung cấp hậu cần cũng không có vấn đề gì lớn. Vì vậy, Vi Quốc Thanh tán thành tiếp tục tiến hành tác chiến đợt 2. Nhưng lúc này, quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng áp dụng hành động mới. Ngày 29/10 quân Pháp điều động 3 binh đoàn cơ động, và phối hợp với cụm pháo binh do viên chỉ huy khu vực Bắc Bộ De Linarès chỉ huy, xuất phát từ tây đồng bằng sông Hồng, tiến vào vùng Phú Thọ, hòng chiếm đóng Phú Thọ và Yên Bái căn cứ hậu cần của quân đội Việt Nam, cắt đứt tuyến cung cấp lương thực của quân đội Việt Nam, để giải vây cho Tây Bắc.

Ý đồ của địch rất rõ ràng, nên xử lý tình hình này như thế nào ? Sau khi Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh trao đổi với nhau kiến nghị phía Việt Nam rút ra 1 trung đoàn chủ lực trở về Phú Thọ, cùng với hai trung đoàn chủ lực bố trí sẵn ở vùng gần đó và một số bộ đội địa phương quần nhau với địch. Đồng thời, nhân lúc binh lực ở đồng bằng sông Hồng đang trống, quân đội Việt Nam tăng cường hoạt động vũ trang sau lưng địch, ra sức mở rộng vùng du kích, uy hiếp hậu phương địch. Võ Nguyên Giáp tiếp nhận kiến nghị này.

Quân Pháp tiến vào Phú Thọ bị chủ lực quân đội Việt Nam và bộ đội địa phương kiên quyết chặn đnáh, hành động chậm chạp. Sau khi đến gần Tuyên Quang được tin hậu phương của chúng không ổn địch, buộc phải rút lui. Trên đường rút lui không ngừng bị quân đội Việt Nam tấn công bắn chết, bị thương. Ngày 17/11 trung đoàn 36 đại đoàn 308 từ tiền tuyến Tây Bắc quay về phục kích trên quốc lộ số 2, một lúc tiêu diệt hơn 400 tên địch, bắn hỏng hơn 10 xe tăng và hơn 30 ôtô. Ba trung đoàn chủ lực Việt Nam truy kích quân Pháp đến phòng tuyến đoạn phía Tây đồng bằng sông Hồng mới thu quân. Hành động giải vây Tây Bắc của quân Pháp lần này đã phải trả giá bằng việc hơn 1.200 tên địch bị thương vong, rốt cuộc thất bại hoàn toàn.

Ngày 15/11, tác chiến đợt 2 bắt đầu. Sáu trung đoàn chủ lực quân đội Việt Nam vượt sông Đà, triển khai cuộc tấn công vào tỉnh Sơn La giáp Lào, công phá các cứ điểm quan trọng của quân Pháp, qua 6 ngày đêm liên tục tác chiến đã giải phóng các thành phố thị trấn quan trọng Mộc Châu, Yên Châu, Thuận Châu, Tuần Giáo v.v.. tiêu diệt rất nhiều quân địch.

Khi tấn công Thuận Châu, quân đội Việt Nam được biết từ cửa miệng tù binh, binh lực địch ở Điện Biên Phủ trống vắng, chỉ có 200 lính người Thái canh giữ dưới sự chỉ huy của một trung úy quân Pháp, liền đưa một tiểu đoàn bộ binh, qua hai ngày hai đêm băng rừng lội suối ngày 30/11 nhẹ nhàng lấy được Điện Biên Phủ, bọn địch canh giữ chạy tán loạn vào rừng. Ngày 22/11 quân Pháp bỏ tỉnh lỵ Sơn La. Khoảng 8 tiểu đoàn binh lực địch tháo chạy khỏi các nơi ở Sơn la tập trung về Nà Sản cách Sơn La 20km về phía nam, tranh thủ xây dựng công sự hòng cố thủ. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn tính quyết định tập trung 6 trung đoàn chủ lực, bao vây và tấn công Nà Sản, tiêu diệt quân địch cố thủ, giành toàn thắng của chiến dịch.

Nhưng lúc này tình hình ở Nà Sản có thay đổi. Quân địch giữ Nà Sản được không quân Pháp ra sức chi viện; trước tiên thả tấm thép làm đường băng làm sân bay đơn giản rất nhanh, tiếp đó máy bay vận tải chở xe tăng, pháo và vật liệu xây dựng công sự, binh lính xây dựng thành tập đoàn cứ điểm, hơn 20 cứ điểm. Sau khi chuẩn bị ngắn ngày, đêm 30/11 quân đội Việt Nam tấn công 4 cứ điểm bên ngoài Nà Sản. Do địch phát huy ưu thế hỏa lực, chi viện cho nhau, có cứ điểm chưa công phá được có cứ điểm sau khi công phá bị địch lấy lại, bộ đội ta bị thương vong nặng. Lúc này quân Pháp lại cho 2 tiểu đoàn nhảy dù xuống Nà Sản, tổng binh lực lên đến hơn 7000 người.

Sau khi phân tích tình hình tác chiến ở ngoại vi Nà Sản, Vi Quốc Thanh cho rằng cứ điểm của địch thành cụm, hỏa lực chi viện cho nhau, công sự ngày càng tăng cường binh lực ngày càng tăng thêm quân đội Việt Nam khó gặm nổi cục xương cứng này. Tiếp tục đánh, bộ đội thương vong nhiều hơn, tiêu hao lớn hơn, lúc đó nếu địch phản kích, quân đội Việt Nam sẽ bị thiệt hại lớn. Vì vậy, đồng chí kiến nghị với Võ Nguyên Giáp thu quân từ đây, kết thúc chiến dịch. Phía Việt Nam chấp nhận kiến nghị này. Chiến dịch Tây Bắc kết thúc ngày 10/12.

Trong chiến dịch Tây Bắc trải qua gần hai tháng, quân đội Việt Nam giành được thắng lợi to lớn, tiêu diệt tất cả 13.800 tên địch giải phóng vùng đất rộng 28.500 km2 và 25.000 dân. Toàn bộ vùng Tây Bắc, trừ ngoại vi Nà Sản của tỉnh Sơn La và nửa phần phía bắc của tỉnh Lai Châu, đều do quân đội nhân dân kiểm soát. Vùng giải phóng nối liền thành một dải với căn cứ địa Việt Bắc, hình thành hậu phương chiến lược rộng lớn, thay đổi hơn nửa tình thế chiến lược địch ta của chiến trường Bắc Bộ.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #24 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:52:57 am »

Ngày 17/12, khi gửi điện cho Quân uỷ Trung ương Trung Quốc trình bày tình hình tác chiến Tây Bắc, Vi Quốc Thanh có nói : “ Tác chiến từ Nghĩa Lộ đến Yên Châu, đều căn cứ vào chỉ thị của Mao, Bành, tập trung binh lực hỏa lực ưu thế, chủ động tấn công tác chiến; đồng thời binh lực địch tương đối phân tán, các cứ điểm không thể tiếp ứng cho nhau, cho nên dễ bị ta công phá từng cái. Ta lợi dụng tấn công ban đêm, tránh được đe dọa của không quân, pháo binh, giải quyết chiến đấu nhanh chóng, lại có thể lợi dụng địa hình có lợi, di chuyển trận địa nghỉ ngơi tiêu hao đạn dược chưa được bổ sung, cho nên tuy thường bị đói hành động tác chiến dồn dập, nhưng thắng lợi liên tiếp, tinh thần rất cao... đến giai đoạn bao vây Nà Sản, cán bộ bắt đầu có tâm lý cho là gặp may, đánh giá chưa đầy đủ tình hình địch ở Nà Sản, khinh địch, cho nên khi đánh bốn cứ điểm bên ngoài Nà Sản thương vong tương đối lớn. Do hỏa lực của không quân, pháo binh địch được phát huy cao độ, tâm tư bộ đội chuyển biến nhanh, tư tưởng bi quan dao động nhanh chóng lan tràn, nảy sinh tâm lý oán trách. Thái độ của cán bộ đại đoàn, trung đoàn im lặng (vì đã không bảo đảm lấy được Sơn La, trước mặt Hồ Chí Minh), không dám báo cáo lên trên tình hình chân thực của bộ đội, Bộ Tổng Tham mưu không thể nắm chính xác tình hình bộ đội. Kết quả cán bộ đại đoàn, trung đoàn muốn cố vấn đề đạt ý kiến lên trên, Bộ tổng thì yêu cầu đại đoàn, trung đoàn bày tỏ thái độ có thể thắng hay bại, hình thành tình trạng trên dưới không chịu trách nhiệm đối với chiến tranh. Căn cứ theo tình hình lúc bấy giờ, chúng tôi không thể không nhanh chóng bày tỏ thái độ ”.

Vào lúc kết thúc chiến dịch Tây Bắc, Hồ Chí Minh từ Liên Xô trở về Bắc Kinh. Trong thời gian ở Moscow, Stalin tiếp kiến Hồ Chí Minh, hai bên trao đổi một số vấn đề trọng đại liên quan đến cách mạng Việt Nam 5. Ở Bắc Kinh, Hồ Chí Minh nhận được báo cáo tình hình quân sự của chiến dịch Tây Bắc. Người cảm thấy quân đội Việt Nam ngừng tác chiến hơi sớm, còn có thể đánh tiếp, tốt nhất nhân đà khí thế đang hăng đánh lấy Nà Sản. Vì thế ngày 14/12, Người điện cho Võ Nguyên Giáp và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Bức điện viết : “ Bọn địch ở Nà Sản cô lập, tấn công Nà Sản có ý nghĩa rất lớn đối với củng cố Tây Bắc, phát triển quan hệ với Lào, nên ra sức tiêu diệt quân địch ở đây, đừng để cho chúng chạy thoát. Nếu không thể tiêu diệt một lần thì chỉ vài lần tiêu diệt chúng. Và đề ra, trên nguyên tắc, không ảnh hưởng đến đánh Nà Sản có thể đồng thời hoặc sớm hơn quét sạch bọn địch ở vùng Lai Châu ”.

Bức điện đó của Hồ Chí Minh Vi Quốc Thanh được xem trước, vì điện văn qua lại giữa Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đều do điện đài của Đoàn cố vấn sau khi nhận và dịch mới chuyển cho phía Việt Nam. Sau khi xem điện Võ Nguyên Giáp lại bàn với Vi Quốc Thanh, ý kiến của hai người nhất trí. Trước mắt không thể tiếp tục đánh Nà Sản. Ngày 17/12 Vi Quốc Thanh điện cho Quân uỷ Trung ương : “ Đã biết bức điện ngày 14 của Hồ chủ tịch, chấp hành điện này có khó khăn. Quân địch cố thủ Nà Sản hiện có 10 tiểu đoàn bộ binh và 1 tiểu đoạn lựu pháp, còn ta trong 5 trung đoàn có 3 trung đoàn thương vong tương đối lớn, không chỉnh đốn thì không thể đánh tiếp. Vì vậy đề nghị thu quân thắng lợi, tạm thời bao vây quân địch ở Nà Sản, đợi tình hình có lợi sẽ tấn công lấy Nà Sản. Phải mất hai tháng làm tốt việc chấn chỉnh bổ sung bộ đội tranh thủ trước mùa mưa mở lại chiến dịch ở Tây Bắc. Ở phía bắc quét sạch bọn địch ở ngoại vi Lai Châu, cô lập Lai Châu. Ở phía nam tấn công lấy Sầm Nứa của Lào, nối liền với Điện Biên Phủ, tạo điều kiện tiếp tục mở ra chiến trường trung Lào ”.

Ngày 19/12, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện trả lời Vi Quốc Thanh, nêu rõ : “ Bọn địch ở Nà Sản gặp rất nhiều khó khăn, nếu quân đội nhân dân có thể tấn công thì rất có lợi cho việc củng cố Tây Bắc, giải phóng Lào. Nhưng tấn công Nà Sản không phải làm ngay lập tức, cần phải chuẩn bị ít nhất ba tháng, khi có đủ năng lực công kiên và nắm chắc thắng lợi mới tấn công tiêu diệt ”. Bức điện này vừa nêu lên tầm quan trọng của việc đánh lấy Nà Sản, ủng hộ ý kiến của Hồ Chí Minh vừa nêu ra phương châm cần phải chuẩn bị đầy đủ, sau khi có đủ điều kiện hãy đánh Nà Sản, cũng giải tỏa được nỗi lo của Vi Quốc Thanh.

Đầu tháng 1/1953, Vi Quốc Thanh lại về Bắc Kinh báo cáo công tác và xin chỉ thị vấn đề tác chiến.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #25 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:53:39 am »

Tiến đánh Sầm Nưa

Ngày 3/2/1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc : “ Vốn định đánh Nà Sản trước mùa mưa, vì chuẩn bị chưa kịp, quyết định đánh sau mùa mưa. Tranh thủ tổ chức chiến dịch Sầm Nứa trong tháng 4, đánh lấy vùng thượng Lào ”. Ngày 9, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện trả lời tán thành.

Ngày 2/3 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi điện cho La Quý Ba và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, sau khi nêu lên ý kiến cần làm tốt hơn công tác chuẩn bị chiến dịch Thượng Lào, nói : “ Đồng chí Vi Quốc Thanh sắp lên đường sang Việt Nam giúp các đồng chí tổ chức chiến dịch Sầm Nứa, ngày 14/3 có thể đến Bằng Tường ”.

Ngày 5/3, Vi Quốc Thanh vâng lệnh từ Bắc Kinh lên đường sang Việt Nam. Cùng đi còn có Hồ Chí Minh, đồng chí muốn về nước sau khi chữa bệnh nghỉ ngơi ở Bắc Kinh. Hai người cùng ngồi trong một toa xe công vụ của đoàn tàu từ Bắc Kinh đi Nam Ninh. Hồ Chí Minh rất nhiệt tình hiền hoà với mọi người, coi Vi Quốc Thanh như người bạn tri ân chuyện gì cũng có thể nói với nhau. Trên đường, Hồ Chí Minh nói đến tình hình hiện tại, nói đến chặng đường đã qua, cũng nói đến tình hình đồng chí gặp Stalin ở Moscow. Hồ Chí Minh nói với Vi Quốc Thanh : “ Năm nay chúng tôi sẽ triển khai cải cách ruộng đất quy mô lớn ở căn cứ địa Việt Bắc, bởi vì “ người ” đã nói rồi ”. Khi nói tới chữ đồng chí cố ý kéo dài âm điệu đồng thời đặt hai ngón tay lên miệng thành hình chữ “ bát ”. Vi Quốc Thanh hiểu ngay đó là Stalin.

Hồ Chí Minh nói : Khi gặp nhau ở Moscow ông ấy hỏi tôi : “ Đồng chí muốn làm lãnh tụ của công nhân nông dân, hay là muốn làm lãnh tụ của địa chủ, nhà tư bản ? ” tôi nói : “ Tất nhiên tôi làm lãnh tụ của công nhân nông dân ”. Ông ấy nói : “ Đồng chí muốn làm lãnh tụ của công nhân nông dân thì phải mang lại ruộng đất cho họ, mang lại lợi ích thực tế cho họ ”. Ông ấy còn lấy ví dụ nói với tôi : “ Ví như một chiếc đòn gánh, một đầu là công nhân, nông dân, một đầu là địa chủ nhà tư bản, đồng chí phải đứng ở một đầu, không thể đứng ở giữa, đứng ở giữa không thể được ”. Hồ Chí Minh tiếp tục nói : “ Thực ra, được sự giúp đỡ của La Quý Ba, chúng tôi đã làm rất tốt nhiều việc về mặt phát động quần chúng, đã làm giảm tô giảm tức, chuẩn bị tiến hành cải cách ruộng đất. Bây giờ ông ấy đã nói ra, sau khi tôi về nước, phải thống nhất tư tưởng trong đảng chúng tôi hơn nữa, làm cải cách ruộng đất quy mô lớn ”.

Vi Quốc Thanh nói : “ Thế thì tốt ! thời kỳ chiến tranh giải phóng ở Trung Quốc, nhờ có cải cách ruộng đất, nông dân hăng hái tòng quân, chi viện tiền tuyến, cho nên giành được thắng lợi toàn quốc rất nhanh. Việt Nam làm cải cách ruộng đất, quần chúng được phát động hơn nữa, nhất định sẽ thúc đẩy tiến hành kháng chiến toàn quốc thắng lợi ”.

Vi Quốc Thanh nói tiếp : “ Địa phương làm cải cách ruộng đất, sẽ phản ánh vào trong bộ đội. Ở bộ đội cũng cần phải tiến hành giáo dục và chỉnh đốn ”. Hồ Chí Minh nói : “ Đồng chí nói đúng, về mặt này còn phải nhờ các cố vấn giúp đỡ cụ thể ” 6.

Sau khi đoàn tàu đến Nam Ninh, Hồ Chí Minh và Vi Quốc Thanh được biết tin Stalin từ trần. Hồ Chí Minh vội về Việt Nam. Trước khi lên đường, Vi Quốc Thanh đã xin Quân uỷ nghỉ phép, dẫn bác sĩ và bảo vệ đi huyện Đông Lan tây bắc Quảng Tây, trở về quê hương 26 năm xa cách, để thăm em trai và bà con họ hàng của mình. Ở nhà hai hôm lập tức quay lại Nam Ninh và trung tuần tháng 3 đến chỗ ở đoàn cố vấn ở Việt Bắc.

Thượng Lào, tức miền bắc nước Lào, là hậu phương chiến lược quan trọng của quân Pháp ở Đông Dương. Sau khi bị thất bại nặng nề ở Tây Bắc Việt Nam, quân Pháp đã tăng cường phòng ngự ở Thượng Lào, xây dựng Sầm Nứa thành cứ điểm có công sự phòng ngự khá mạnh, có 3 tiểu đoàn và 1 đại đội pháo binh đóng giữ, hơn 1500 người. Ở Xiêng Khoảng và Mường Sủi phía nam Sầm Nứa nương tựa vào nhau, cũng có binh lực của 3 tiểu đoàn phòng thủ. Nói chung, phòng ngự của địch tương đối yếu. Sau khi về đến nơi ở của đoàn cố vấn, Vi Quốc Thanh lập tức bàn bạc với Võ Nguyên Giáp về vấn đề liên quan đến chiến dịch Thượng Lào và đi đến nhận thức chung : mục đích mở chiến dịch Thượng Lào là tiêu diệt sinh lực địch ở Thượng Lào, đánh lấy một số vùng ở Thượng Lào, mở căn cứ địa cho chính phủ kháng chiến Lào, củng cố và phát triển thành quả của chiến dịch Tây Bắc. Kế hoạch của chiến dịch là : các đại đoàn 308, 312, 316 tiến vào Lào theo quốc lộ 6, bôn tập từ xa đến Sầm Nứa ; đại đoàn 304 từ Nghệ An tiến về phía tây theo quốc lộ 7, tấn công Xiêng Khoảng và chặn đánh quân Pháp nguỵ từ Sầm Nứa có thể chạy về phía nam, năm đại đội Pháp từ Điện Biên Phủ phát triển sang vùng sông Nậm Hu để phối hợp.

Ngày 23/3, Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh dẫn nhân viên Ban chỉ huy đoàn cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền phương QĐNDVN ra tiền tuyến Thượng Lào. Khi sắp đến biên giới Lào thì gặp Hoàng thân Suphanuvong, lãnh tụ kháng chiến Lào, cùng trên đường đi vào lãnh thổ Lào.

Hoàng thân Suphanuvong, thành viên của vương thất Lào đã sớm tiếp thụ chủ nghĩa Marx, tham gia phong trào độc lập Lào. Năm 1946 sau khi quân Pháp khôi phục lại binh lực, ông tổ chức đấu tranh vũ trang chống Pháp. Mùa hè năm 1950 đứng ra nhận chức Thủ tướng nhiệm kỳ đầu tiên của Chính phủ kháng chiền Lào. Tháng 2/1951, lãnh đạo đảng Lao động Việt Nam và Hoàng thân Suphanuvong và Chêmxamây 7 người phụ trách mặt trận giái phóng Cao Miên họp hội nghị liên tịch, quyết định thành lập Liên minh kháng chiến ba nước, Việt Nam, Lào, Campuchia, cùng nhau chống lại sự cai trị thực dân của Pháp ở Đông Dương. Đến năm 1952 được sự giúp đỡ của Việt Nam, lực lưỡng vũ trang của Hoàng thân Suphanuvong lãnh đạo phát triển được 1500 người.

Vi Quốc Thanh sớm biết tiếng Hoàng thân Suphanuvong, cũng đại thể biết rõ sự từng trải phi thường của ông. Vị Hoàng thân này người tầm thước, khuôn mặt vuôn tròn, nước da ngăm ngăm, khiêm tốn hoà nhã. Trong mấy ngày tiếp xúc với Suphanuvong Vi Quốc Thanh hiểu được tình hình đấu tranh và phong tục tập quán dân tình của Lào. Để bày tỏ lòng kính trọng và tình bạn đối với Vi Quốc Thanh, Hoàng thân Suphanuvong tặng đồng chí một thanh đoản kiếm có vỏ bọc tinh xảo và chiếc túi vải thêu hoa văn sặc sỡ. Bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam bắt đầu ra quân vào hạ tuần tháng 3. Ngày 10/4, đại đoàn 308 và 312 vượt qua sông Mã biên giới Lào, cử một tiểu đoàn trang bị nhẹ tiến lên suốt ngày đêm, chuẩn bị đánh chiếm sân bay Sầm Nứa bằng động tác bất ngờ để cắt đứt đường tháo chạy bằng máy bay của địch. Không ngờ, đêm 11, một trung đội trưởng trinh sát của bộ đội địa phương quân đội Việt Nam đầu hàng địch, tiết lộ ý đồ của quân đội nhân dân. Quân Pháp nguỵ rạng sáng ngày 13 bỏ chạy về phía nam. Thế là cuộc tập kích biến thành cuộc truy kích.

17g ngày hôm đó, bộ đội đi đầu của đại đoàn 312 đến thị xã Sầm Nứa. Rút bài học trong chiến dịch Tây Bắc Bộ đội vì mang nặng đường xa nên hành động truy kích chậm chạp để cho địch chạy thoát, một tiểu đoàn bộ đội truy kích vứt bỏ ruột tượng gạo, trang bị nhẹ, tiến nhanh, hai tiểu đoàn khác thồ lương thực đuổi theo. Ngày 15, đuổi kịp quân địch ở Na Nong cách Sầm Nứa 30 km về phía nam, tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch. Ngày 18, số địch sống sót chạy đến gần quốc lộ 7, bị bộ đội đại đoàn 304 từ Nghệ An tiến lên phía tây chặn đánh, tiêu diệt phần lớn. Trận này Quân đội Nhân dân chưa tốn một phát đạn pháo, đã bắn chết bắt làm tù binh gần 1000 tên địch. Hơn 200 tên chạy trốn vào rừng, hơn 220 tên chạy về tiểu đoàn địch ở cánh đồng Chum.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #26 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:54:18 am »

Ngày 18/4, các đại đoàn 308 và 312 tiến gần tới Luông PraBang, gặp vương thất Lào ở; buộc quân Pháp gấp rút đưa ba tiểu đoàn nhảy dù xuống Luông PraBang, tăng cường phòng ngự ở đây. Đồng thời, đại đoàn 316 tiến đến gần bắc Xiêng Khoảng, đại đoàn 304 cũng áp sát Xiêng Khoảng theo quốc lộ 7. Quân Pháp ở Xiêng Khoảng bỏ chạy về cánh đồng Chum, làm cho binh lực ở đây tăng lên đến 5 tiểu đoàn. Ngày 26, quân đội Việt Nam truy đuổi đến cánh đồng Chum, bao vây doanh trại quân Pháp. Quân đội Nhân dân Việt Nam từ Điện Biên Phủ tiến xuống phía nam tiến triển cũng rất nhanh, từ 16 đến 23 tháng 4, liên tiếp đánh các nơi Hội Hòn, Toả Thi, Mường U và đều chiến thắng, tiêu diệt một phần quân địch, kiểm soát một số vùng của tỉnh Phong Xalì.

Xét thấy mùa mưa sắp đến, đường cung cấp hậu cần cho bộ đội kéo quá dài, quân Pháp thực thi tập đoàn cứ điểm cố thủ, quân đội Việt Nam khó nắm bắt cơ hội tác chiến ở Thượng Lào, sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn bạc quyết định kết thúc chiến dịch Thượng Lào ngày 3/5. Chiến dịch này tổng cộng tiêu diệt binh lực của 3 tiểu đoàn và 11 đại đội (tương ứng 1/5 tổng binh lực quân Pháp và ngụy ở Lào) giải phóng toàn tỉnh Sầm Nứa và một số vùng của tỉnh Xiêng Khoảng, Phong Xalì có tất cả hơn 300.000 dân (tương đương 1/5 diện tích của cả nước Lào), làm cho vùng này nối liền thành một dải với Tây Bắc, căn cứ địa Việt Bắc của Việt Nam. Từ đó, Sầm Nứa trở thành trụ sở của Chỉnh phủ kháng chiến Lào, cuộc kháng chiến của Lào xuất hiện cục diện mới.

Sau khi kết thúc chiến dịch Thượng Lào, Võ Nguyên Giáp và Hoàng thân Suphanuvong mời Vi Quốc Thanh nói chuyện với cán bộ Việt Nam, Lào. Lúc này, Vi Quốc Thanh hiểu được trong số cán bộ Việt Nam cử sang công tác giúp Lào, có hiện tượng coi thường cán bộ Lào và bao biện làm thầy, còn cán bộ Lào có tư tưởng ỷ lại và tâm lý tự ti, ảnh hưởng đến triển khai công tác, Vi Quốc Thanh cho rằng, nhân cơ hội này làm công tác tư tưởng là cần thiết, nên đồng ý.

Hội nghị cán bộ Việt Nam, Lào lần này họp trong rừng gần Sầm Nứa. Cán bộ Lào đến họp nói chung đều biết tiếng Việt. Vi Quốc Thanh nói đến đâu, dịch ra tiếng Việt đến đấy. Chủ đề phát biểu của Vi Quốc Thanh là hợp tác Việt – Lào, đoàn kết chống ngoại xâm. Trong phát biểu, đồng chí điểm từng vấn đề tồn tại tương đối hàm súc, nhưng không phê bình trực diện. Trong phát biểu nói đến vấn đề cán bộ Việt Nam, lại nói đến vấn đề cán bộ Lào. Lời lẽ rất cân nhắc phát biểu tương đối biện chứng, toàn diện, được cán bộ dự hội nghị hoan nghênh và đánh giá tốt. Sau hội nghị, cố vấn chính trị Lý Văn Nhất nói : “ Phát biểu lần này của Vi Quốc Thanh thật không dễ dàng ! Nói rất hay, sẽ giúp ích cho công tác sau này ”.

Sự thực về thời kỳ sau chiến dịch Tây Bắc quân đội Việt Nam tấn công tập đoàn cứ điểm Nà Sản chưa đánh đã bị thương vong nặng làm cho Vi Quốc Thanh nhận thức sắc bén rằng, từ nay về sau, quân Pháp có thể lợi dụng ưu thế không quân của chúng, dùng phương thức tập đoàn cứ điểm để ngăn chặn tấn công của Quân đội Nhân dân mà Quân đội Nhân dân thì chưa có cách đối phó. Nếu không giải quyết vấn đề này thì chủ lực quân đội Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng không có đất dụng võ trận lớn không đánh được, trận nhỏ không có để đánh. Vì vậy cần phải giúp quân đội Việt Nam nghiên cứu giải quyết vấn đề này. Vi Quốc Thanh cho rằng, trên vấn đề đối phó với tập đoàn cứ điểm của quân Pháp, quân đội Việt Nam có hai nhược điểm rõ rệt : một là hoả lực pháo binh yếu, thiếu đại bác và cao xạ pháo, không thể kiềm chế hoả pháo của địch và đối phó máy bay địch ; hai là tố chất chiến thuật công kiên kém, không biết đánh công kiên chiến quy mô tương đối lớn. Vì vậy sau khi kết thúc chiến dịch thượng Lào đồng chí một mặt kiến nghị Quân uỷ Trung ương, đẩy nhanh trang bị và huấn luyện đối với bộ đội pháo và cao xạ pháo quân đội Việt Nam, chuẩn bị dùng cho tác chiến mùa đông, mặt khác giúp phía Việt Nam nắm chắc huấn luyện chiến thuật công kiên cho bộ đội nâng cao năng lực tác chiến công kiên.

Hạ tuần tháng 5/1953, Vi Quốc Thanh liên tục triệu tập cố vấn quân sự nghiên cứu vấn đề bố trí huấn luyện quân sự. Đồng chí nêu rõ : “ Huấn luyện chiến thuật công kiên của Quân đội Nhân dân phải bắt đầu từ biên soạn giáo trình, thông qua biên soạn giáo trình tăng cường nhận thức thống nhất tư tưởng với đặc điểm phòng ngự của địch, sau đó dùng tài liệu thống nhất, triển khai huấn luyện quân sự cho cán bộ trước, chiến sĩ sau, đặt cơ sở chiến thuật để giành thắng lợi cho chiến dịch Đông Xuân tới ”. Đồng chí nêu rõ : Để biên soạn tốt giáo trình, cần thành lập Ban biên tập giáo trình gồm cán bộ lãnh đạo Việt Nam và cố vấn quân sự, phụ trách công tác biên soạn ; biên tập giáo trình và huấn luyện quân sự, cần tốn nhiều thời gian, phải làm chuyển biến tư tưởng của bộ đội không muốn đào công sự, học cách xây dựng công sự và xây dựng trận địa tấn công, học biết xây dựng đường sóc và cất giữ lương thực, đạn dược, học biết dùng hoả pháo khống chế sân bay địch và dập tắt hoả pháo địch.

Những ý kiến này sau khi nêu ra với phía Việt Nam, được phía Việt Nam coi trọng. Đầu tháng 6, Ban biên tập giáo trình được thành lập gồm người phụ trách cơ quan Bộ tổng tham mưu quân đội nhân dân, cán bộ lãnh đạo các đại đoàn và cố vấn quân sự. Tại hội nghị thành lập, Võ Nguyên Giáp và Vi Quốc Thanh đều dự và phát biểu ý kiến. Võ Nguyên Giáp phát biểu nhấn mạnh biên tập giáo trình phải lấy học tập kinh nghiệm Trung Quốc là chính. Vi Quốc Thanh phát biểu nhấn mạnh biên soạn giáo trình chiến thuật công kiên nên bao gồm động tác cá nhân và chiến thuật công kiên hợp đồng từ tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn đến trung đoàn, phải lấy tập đoàn cứ điểm Nà Sản làm đối tượng chính. Quá trình biên soạn giáo trình tức là quá trình thống nhất tư tưởng chiến thuật.

Sau khi bố trí xong công tác huấn luyện quân sự, Vi Quốc Thanh lại về Bắc Kinh báo cáo công tác. Theo bố trí thống nhất của Tổng quân uỷ quân đội Việt Nam, dưới sự giúp đỡ của cố vấn quân sự, bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam tiến hành chỉnh huấn quân sự, chính trị quy mô lớn vào hè thu năm 1953. Trước tiên triển khai chỉnh quân chính trị gần giống phong trào chỉnh quân kiểu mới của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, tiến hành giáo dục tố khổ, nâng cao giác ngộ giai cấp, tăng cường ý chí chiến đấu để phối hợp với phong trào cải cách ruộng đất đang tiến hành ở căn cứ địa Việt Bắc. Sau đó, trên cơ sở biên soạn xong giáo trình chiến thuật công kiên triển khai chỉnh huấn quân sự. Khi kết thúc chỉnh huấn quân sự, tổ chức diễn tập quân sự. Thông qua chỉnh huấn trình độ chiến thuật công kiên của bộ đội được nâng cao rõ rệt, đặt cơ sở cho chiến dịch Điện Biên Phủ tiến hành sau đó.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #27 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:55:02 am »

Quyết chiến Điện Biên Phủ (thượng)

Sau thất bại nặng nề liên tiếp của quân Pháp ở Tây Bắc, Thượng Lào, Tổng chi huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương lại thay ngựa. Raoul Salan kế nhiệm Jean de Lattre de Tassigny bị cách chức, thay thế ông ta là tướng Henri Navarre nguyên Tham mưu trưởng bộ đội Đức đóng ở Trung Âu. Hy vọng của chính phủ Pháp kết thúc một cách “ thể diện ” chiến tranh Đông Dương gửi gắm vào Navarre.

Sau khi lên nhậm chức, Navarre đã phân tích nghiên cứu tình thế chiến trường Đông Dương, nhanh chóng vạch ra một kế hoạch quân sự hòng thoát khỏi bị động, giành lại chủ động, làm cho chiến tranh xâm lược chuyển bại thành thắng trong vài ba năm. Những điểm chủ yếu của kế hoạch này là : 1. Gấp rút tổ chức và huấn luyện nguỵ quân Bảo Đại (Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn, Việt Nam) chốt giữ cứ điểm để quân Pháp tập trung tổ chức thành tập đoàn chủ lực làm nhiệm vụ tác chiến cơ động ; 2. Thực hành phương châm quân sự nam trước bắc sau, mưu đồ chiếm đóng toàn bộ vùng giải phóng và vùng du kích Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Việt Nam. Trước mùa xuân 1954 nhằm ổn định hậu phương chiến lược của quân Pháp. Mùa đông 1954 đến mùa xuân 1955, trên cơ sở tổ chức xong tập đoàn chủ lực, tập trung toàn bộ binh lực quyết chiến với chủ lực Việt Nam ở Bắc Bộ, giành thắng lợi có tính quyết định.

Để thực hiện kế hoạch Navarre, nước Pháp điều động từ bản quốc, Bắc Phi và Triều Tiên 12 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh tăng viện cho quân viễn chinh xâm lược Việt Nam. Chính quyền bù nhìn Bảo Đại tiến hành tổng động viên, ra sức bắt lính bổ sung cho quân nguỵ, từ tháng 5/1953 đến tháng 3/1954, tổng cộng được 107 tiểu đoàn quân nguỵ. Đến mùa thu 1953 quân Pháp tập trung tổng cộng 84 tiểu đoàn binh lực cơ động tại chiến trường Đông Dương. Tháng 8/1953, quân Pháp điều chỉnh bố trí từ bỏ Nà Sản, không vận toàn bộ binh lực đóng ở Nà Sản đến đồng bằng Bắc Bộ, tăng cường lực lượng cơ động. Trong thời gian này quân Pháp ráo riết càn quét vùng địch hậu Nam Bộ, Trung Bộ và Bắc Bộ Việt Nam, hòng tiêu diệt chủ lực quân đội Việt Nam và du kích vũ trang.

Kế hoạch Navarre được đế quốc Mỹ tán thưởng và ủng hộ. Sau đình chiến ở Triều Tiên để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình, Mỹ ráo riết can thiệp vào Đông Dương, quyết định tăng 50% viện trợ quân sự cho Pháp, chi 400 triệu USD để xây dựng nguỵ quân Việt Nam và cung cấp số lớn trang bị quân sự, để bổ sung cho quân Pháp và vũ trang quân nguỵ.

Pháp – Mỹ ra sức cấu kết, tích cực thúc đẩy hoạt động của kế hoạch Navarre, làm cho phía Việt Nam cảnh giác và coi trọng. Sau khi quân Pháp rút khỏi Nà Sản vào trung tuần tháng 8, cần phải thay đổi kế hoạch tác chiến mùa đông đã định trước đây mà mục tiêu chính là tấn công Nà Sản. Nhận định, tình hình mới như thế nào, chọn hướng tấn công quan trọng của tác chiến mùa đông ở đâu ? Trở thành vấn đề to lớn cần được nghiên cứu giải quyết. Ngày 13/8, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thông báo cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tình hình mới quân Pháp rút khỏi Nà Sản và đề nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc “giúp đề xuất ý kiến” đối với vấn đề nhận thức tình hình và phương hướng tác chiến từ nay về sau.

Lúc này, người lãnh đạo quân đội Việt Nam lại chuyển hướng tấn công chính của tác chiến mùa đông sang vùng đồng bằng sông Hồng, từ bỏ kế hoạch đã định đánh lấy Lai Châu, rút bộ đội bao vây Nà Sản về vùng Thanh Hoá, Trung Bộ Việt Nam. Ngày 22/8, Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp thảo luận vấn đề tác chiến. Trong cuộc họp, Võ Nguyên Giáp phát biểu nghiêng về tác chiến chính diện ở chiến trường đồng bằng Bắc Bộ. Không nhắc đến đánh lấy vùng Lai Châu, cũng không chủ trương mở thêm chiến trường Thượng Lào. Hội nghị không ra được quyết định vấn đề tác chiến mùa đông. La Quý Ba được mời tham gia hội nghị này và báo cáo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tình hình hội nghị này.

Ngày 27, 29 tháng 8, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hai lần điện trả lời La Quý Ba và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, phân tích tình hình sau khi Navarre nhận thức, nêu ý kiến về biện pháp quân sự cần áp dụng. Nhất là trong điện ngày 29, đã trình bày rõ ràng với phương châm chiến lược cần áp dụng từ nay về sau. Bức điện viết : “ Trước hết tiêu diệt địch ở vùng Lai Châu, giải phóng miền Bắc và miền Trung nước Lào, sau đó từng bước đẩy chiến trường sang Nam Lào và Cao Miên, uy hiếp Sài Gòn. Làm như vậy, thì có thể rút thu hẹp nguồn lính nguỵ, nguồn tài chính, phân tán binh lực quân Pháp, đẩy chúng vào bị động, đồng thời mở rộng bản thân Quân đội Nhân dân, chủ động tiêu diệt địch ở khắp nơi và từng bước làm suy yếu địch. Đó là điều kiện tiên quyết để đánh lấy đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Thực hiện kế hoạch chiến lược này đủ để đánh bại ách thống trị thực dân của đế quốc Pháp ở Việt Nam, Lào, Cao Miên. Nhưng cần phải chuẩn bị khắc phục mọi khó khăn, cần phải tính toán lâu dài ”.

Hồ Chí Minh hoàn toàn tán thành phương châm chiến lược của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu ra. Trong tháng 9, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam một lần nữa thảo luận vấn đề tác chiến mùa đông của Quân đội Nhân dân. Tổng Quân uỷ QĐNDVN nêu ra hai phương án; một là đặt hướng chủ công vào vùng Tây Bắc và Thượng Lào, hai là tập trung chủ lực vào tác chiến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Qua hội nghị thảo luận, Hồ Chí Minh rút ra kết luận phương hướng chiến lược không thay đổi tiếp tục tấn công vùng Tây Bắc và Thượng Lào, phủ định phương án tập trung chủ lực vào tác chiến ở đồng bằng Bắc Bộ. Vấn đề hướng tác chiến mùa đông cơ bản đã được giải quyết. Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam căn cứ vào đó một lần nữa nghiên cứu vạch ra kết hoạch tác chiến, nhưng kế hoạch này chần chừ mãi không vạch ra được.

Ngày 10/10/1953, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện cho Trung ương Đảng Lao động Việt Nam : “ Năm 1950 chúng tôi đáp ứng đề nghị của các đồng chí lần lượt cử hai đồng chí La Quý Ba, Vi Quốc Thanh dẫn đầu một số cán bộ quân đội và cán bộ đảng địa phương sang Việt Nam làm công tác giúp đỡ có tính chất cố vấn. Về sau đồng chí Vi Quốc Thanh mắc bệnh về nước điều trị, nhất thời không thể trở lại Việt Nam công tác cho nên đồng chí La Quý Ba thống nhất phụ trách giúp các đồng chí tiến hành công tác. Nay sức khoẻ đồng chí Vi Quốc Thanh khá hơn năm ngoái, chúng tôi vẫn cử đồng chí trở lại Việt Nam công tác. Đồng thời quyết định Vi Quốc Thanh làm Tổng cố vấn quân sự, phụ trách công tác giúp chỉ đạo chiến tranh và xây dựng quân đội. Đồng chí La Quý Ba làm Tổng cố vấn chính trị, phụ trách công tác giúp xây dựng đảng, địa phương và chính sách ”. Bức điện nói : “ Vi Quốc Thanh và 4 cán bộ định trung tuần tháng này lên đường sang Việt Nam, ngày 21/10 có thể đến Bằng Tường, xin cho người đến Bằng Tường liên lạc với đồng chí ”.

Sau khi nhận nhiệm vụ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hai lần tạm thời cử đồng chí sang Việt Nam giúp quân đội Việt Nam tổ chức chỉ huy chiến dịch Tây Bắc và chiến dịch Thượng Lào, Vi Quốc Thanh lại được bổ nhiệm làm Tổng cố vấn quân sự, lại gánh vác nhiệm vụ nặng nề, lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự giúp Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến và xây dựng quân đội. Trước khi sang Việt Nam, đồng chí được Mao Trạch Đông tiếp và truyền đạt trực tiếp đối sách tình huống. Mùa thu Bắc Kinh trời cao lồng lộng, nắng gió chan hoà. Trong Phong Trạch Viên – Trung Nam Hải những cây tùng bách cao vút thẳng tắp xanh tốt um tùm, tràn đầy sức sống. Chiều một ngày trung tuần tháng 10, Mao Trạch Đông đi đi lại lại trong phòng sách của Người, đang suy nghĩ tình hình chiến sự Việt Nam, suy nghĩ tình hình Việt Nam La Quý Ba điện về phản ánh.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #28 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:55:49 am »

Tiếng báo cáo của cán bộ bảo vệ cắt ngang luồng suy nghĩ của Người : “ Chủ tịch, Bành tổng và đồng chí Vi Quốc Thanh đến ”.

“ Mời các đồng chí vào ”. Mao Trạch Đông nói.

Vi Quốc Thanh theo sát Bành Đức Hoài bước vào phòng sách cũng là phòng tiếp khách của Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông bắt tay từng đồng chí và mời họ ngồi. Bành Đức Hoài nói : “ Chủ tịch, đồng chí Vi Quốc Thanh gần đây sắp trở lại Việt Nam, lần này đến xin Chủ tịch chỉ thị trực tiếp ”.

Mao Trạch Đông : “ À ! Tôi cũng đang muốn gặp các đồng chí cùng bàn tình hình và chiến sự của Việt Nam ”. Sau đó, Người nói với Vi Quốc Thanh : “ Đồng chí đã xem kế hoạch quân sự của Navarre chưa ? ”.

Vi Quốc Thanh trả lời : “ Bộ Tổng Tham mưu có cho tôi xem rồi ”. Mao Trạch Đông lại hỏi : “ Đồng chí có ý kiến gì không ? ”. Vi Quốc Thanh trả lời : “ Đây là sự tiếp tục của kế hoạch De Lattre, tiền nhiệm của ông ta. Điểm chung của họ là ra sức phát triển nguỵ quân, thay quân Pháp chốt giữ cứ điểm, dùng người Việt đánh người Việt, làm cho quân Pháp có thể tập trung tổ thành lực lượng đột xuất làm nhiệm vụ tác chiến cơ động, để giành lại quyền chủ động chiến tranh. Ông ta nêu ra, trước hết giành thế thủ ở Bắc Bộ và ráo riết càn quét và tiến công ở Nam Bộ và Trung Bộ, sau khi ổn định hậu phương chiến lược, ông ta sẽ tập trung binh lực quyết chiến với chủ lực quân đội Việt Nam ở Bắc Bộ. Phương châm quân sự Nam trước Bắc sau này là sự phát triển của Navarre cũng là do tình thế bắt buộc ông ta như vậy ”.

Mao Trạch Đông hỏi tiếp : “ Cuối tháng 8 Trung ương có điện cho La Quý Ba, đồng chí đã xem chưa ? ”. Bành Đức Hoài trả lời : “ Tôi đã cho người đưa đồng chí xem rồi ”. Vi Quốc Thanh nói : “ Phương châm chiến lược của Trung ương vạch ra cho Việt Nam mâu thuẫn gay gắt với kế hoạch của Navarre. Thực thi phương châm chiến lược này sẽ hoàn toàn đập tan tính toán chỉ tính đến một phía của Navarre ”.

Mao Trạch Đông nói : “ La Quý Ba điện về nói Hồ Chí Minh tán thành kiến nghị đó, Bộ Chính trị cũng đã ra quyết định, nhưng kế hoạch tác chiến mùa đông của quân đội Việt Nam vẫn chần chừ chưa vạch ra được là sao ? ”. Vi Quốc Thanh nói : “ Trước chiến dịch Tây Bắc năm ngoái, trong cán bộ trung, cao cấp quân đội Việt Nam, có thể nói là đa số người không muốn đi Tây Bắc tác chiến. Chủ yếu là sợ gian khổ, sợ khó khăn, thiếu tầm nhìn chiến lược, cho rằng Tây Bắc đất rộng người thưa, là nơi nghèo, có giải phóng cũng không có ý nghĩa lớn bao nhiêu. Người phụ trách chủ yếu Tổng cục hậu cần quân đội Việt Nam lại nói Đoàn cố vấn tích cực chủ trương giải phóng Tây Bắc là vì có lợi cho Trung Quốc, có thể tiêu diệt tận sào huyệt tàn quân phỉ Quốc dân đảng ở đó, không quấy rối biên giới Vân Nam Trung Quốc nữa. Họ cho rằng, chỉ có giải phóng đồng bằng sông Hồng thì mới đã nghiện, mới có thể giành được kháng chiến thắng lợi. Qua làm công tác tư tưởng này lúc bây giờ về cơ bản được uốn nắn. Bây giờ quân địch đã rút khỏi Nà Sản, họ lại để mắt chằm chằm vào sông Hồng. Đó là bệnh cũ tái phát ”.

Mao Trạch Đông nói : “ Chà ! Họ muốn đi đường thẳng. Nhưng e rằng đường này không đi nổi. Trước mất điều kiện đánh đồng bằng sông Hồng chưa chín muồi. Vẫn phải đi một ít đường quanh co khúc khuỷu, mới có thể đến đích. Điều đó đã được thực tiễn mấy chục năm cách mạng của Trung Quốc chứng minh. Tôi thấy cách mạng Việt Nam cũng không thể đi đường thẳng. Sau khi đồng chí trở sang, phải làm nhiều công tác giải thích thuyết phục cán bộ cao cấp của Quân đội Nhân dân ”.

Vi Quốc Thanh chú ý lắng nghe mỗi lời nói của Mao Trạch Đông, và ghi lại vào quyển nhật ký bằng những từ ngữ giản đơn mà chỉ có đồng chí mới hiểu hết được ý nghĩa. Mao Trạch Đông nói tiếp : “ Tôi thấy hướng tác chiến của Việt Nam trong suốt thời kỳ từ nay về sau là nên hướng vào Trung, Nam Bộ ”. “ Để thực hiện kế hoạch chiến lược này, trước mắt cần áp dụng một số biện pháp thiết thực. Tôi nghĩ đến ba biện pháp thế này : một là dùng hai đại đoàn bộ binh và nửa đại đoàn pháo binh, trước tiên giải quyết địch ở Lai Châu, giải phóng toàn bộ vùng Tây Bắc, căn cứ chiến lược quan trọng này. Sau đó chuyển quân sang Thượng Lào, mở thêm chiến trường Thượng Lào. Đồng thời với tiến quân lên Tây Bắc, đưa một bộ phận binh lực xuống Trung Lào và Hạ Lào. Hai là kiên quyết khai thông con đường Nam tiến (chỉ con đường từ nam Liên khu 4 Trung bộ lên Trung, Thượng Lào, qua quốc lộ 9 đến Tây Nguyên), đó là đường giao thông huyết mạch của bộ đội, đánh xuống phía nam sau này, quan hệ rất lớn đến tình hình chiến sự tương lai. Nên đo đạc thật nhanh, xây dựng kế hoạch, chia giai đoạn hoàn thành. Có thể nói với các đồng chí Việt Nam, thái độ đối với làm đường tức là thái độ đối với chiến tranh. Làm đường không tích cực, không nghiêm túc tức là không tích cực, không nghiêm túc giành lấy thắng lợi chiến tranh. Ba là liên khu Việt Bắc, Liên khu 3, 4 mỗi nơi nên điều động một số cán bộ đảng, chính quyền, quân đội đến Trung, Hạ Lào và Nam Bộ Việt Nam làm công tác mở vùng mới, làm cho bộ đội đánh được nơi nào, thì củng cố nơi ấy. Giống như thời kỳ sau chiến tranh giải phóng, chúng ta điều động cán bộ miền Bắc theo Đại quân xuống miền Nam. Nói tóm lại, ba biện pháp này tức là 12 chữ : hai đại đoàn rưỡi, một đường quốc lộ, ba lớp cán bộ ”.

Nói xong Mao Trạch Đông đưa ánh mắt thăm dò nhìn vào hai người Bành Đức Hoài và Vi Quốc Thanh. Vi Quốc Thanh nói : “ Chỉ thị của Chủ tịch rất quan trọng. Sau khi tôi sang, sẽ truyền đạt tỉ mỉ cho phía Việt Nam và các đồng chí cố vấn, nghiêm chỉnh quán triệt chấp hành ”. Mao Trạch Đông nói : “ Có thể nói với các đồng chí Việt Nam, đó là kiến nghị của tôi ”. Mao Trạch Đông quay sang Bành Đức Hoài nói : “ Bành Tổng cũng nói ý kiến đi chứ ! ”.

Bành Đức Hoài nói : “ Tôi đã nói với đồng chí Quốc Thanh ý kiến của tôi về tình hình chiến tranh Việt Nam và tác chiến Tây Bắc rồi. Xin nói thêm một việc. Bản tiếng Pháp kế hoạch quân sự Navarre mà Cục tình báo Bộ tổng tham mưu lấy được, có thể mang sang cho các đồng chí Việt Nam xem, điều đó giúp ích cho các đồng chí ấy tìm hiểu kẻ địch, phân tích tình hình. Có điều phải chú ý bảo mật ”.

Hai ngày sau Mao Trạch Đông tiếp kiến, Vi Quốc Thanh cùng mấy cán bộ mới bổ nhiệm cố vấn quân sự đáp tàu hoả đi xuống phía Nam. Trong toa xe ghế mềm thoải mái, đồng chí nhìn thấy cảnh sắc cuối thu trên đồng bằng miền Bắc không ngừng lướt qua ngoài cửa sổ, trong lòng lại nghĩ đến tình hình chiến sự Việt Nam. Trong thời gian hơn ba tháng rời Việt Nam, trong bức điện La Quý Ba gửi Trung ương mà đồng chí Tổng tham mưu trưởng cho đồng chí xem, Vi Quốc Thanh hiểu được sự thay đổi to lớn của hai bên địch – bạn trên chiến trường Việt Nam. Đồng chí cảm thấy thấm thía phương châm chiến lược và mấy biện pháp quan trọng của Mao Trạch Đông nêu ra là rất kịp thời, rất chính xác. Đồng chí trù tính với đầy lòng tin là sau khi đến Việt Nam, triển khai công tác như thế nào, làm cho những kế hoạch, ý tưởng này trở thành hiện thực, mở ra cục diện mới cho cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam.

Sau khi đến Nam Ninh, dừng lại có chút việc, Vi Quốc Thanh và các đồng chí cùng đi lại lên ôtô ra Mục Nam Quan (nay gọi là Hữu Nghị Quan), về nơi ở của Đoàn cố vấn quân sự trong rừng Việt Bắc. Khi đến nơi đã là ngày 25/10. Vi Quốc Thanh lập tức thông qua Võ Nguyên Giáp xin gặp chào Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh nghe nói Vi Quốc Thanh trở lại Việt Nam rất phấn khởi, liền sắp xếp gặp đồng chí vào ngày 27.

Ngày 26/10, trước hết Vi Quốc Thanh truyền đạt chỉ thị của Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài cho La Quý Ba, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm và cố vấn quân sự, đồng thời nghe các cố vấn báo cáo tình hình. Đồng chí được biết thêm sau khi quân Pháp chủ động rút khỏi Nà Sản ngày 12/8, quân đội Việt Nam từ trên xuống dưới đều thở phào nhẹ nhõm, tưởng rằng không cần lên Tây Bắc tác chiến. Họ nhằm vào tình hình mới quân Pháp tập trung binh lực cơ động ở Bắc Bộ, lại đặt trọng điểm tác chiến vào vùng đồng bằng Bắc Bộ, chủ trương phân tán tập kích, chia quân ứng phó, bố trí phân tán bộ đội chủ lực ở các nơi Phú Thọ, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Nho Quan v.v... để đối phó tấn công có thể của quân địch. Do họ bỏ Tây Bắc, nên nguỵ quân, đặc vụ ở đấy thừa cơ phát triển, gây trở ngại cho việc lại tiến quân lên Tây Bắc. Cùng với chuyển biến của tư tưởng chiến lược này, vật tư hậu cần bố trí ở Thái Nguyên và tuyến bắc Bắc Giang – Bắc Ninh, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hành động tiếp theo.

Sau hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam tháng 9 ra quyết định không thay đổi phương châm chiến lược tiến quân lên Tây Bắc, bắt đầu công tác chuẩn bị cho chiến dịch Tây Bắc lần thứ hai. Nhưng những người lãnh đạo quân đội thiếu thống nhất với chuyển biến nhận thức này, hành động tương đối chậm chạp, công việc tiến triển không nhanh. Tóm lại, việc tiến quân lên Tây Bắc còn rất nhiều vấn đề chờ giải quyết.
Logged
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #29 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2009, 06:56:16 am »

Ngày 27, Vi Quốc Thanh được Võ Nguyên Giáp đi cùng, cưỡi ngựa đến “dinh rừng trúc” của Hồ Chí Minh, cách hàng chục dặm. Hồ Chí Minh vừa thấy Vi Quốc Thanh lập tức ôm hôn thắm thiết. Cùng dự có Trường Chinh cũng ôm hôn đồng chí, Vi Quốc Thanh chuyển kiến nghị của Mao Trạch Đông về chiến lược Nam tiến và mấy biện pháp quan trọng và ý kiến của Bành Đức Hoài về phương pháp tác chiến và vấn đề xây dựng quân đội trong tình hình chiến tranh hiện nay, đến Hồ Chí Minh, Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp và trực tiếp đưa cho Hồ Chí Minh bản tiếng Pháp kế hoạch kế hoạch quân sự Navarre.

Cách một hôm, Hồ Chí Minh hành trang gọn nhẹ, bất ngờ đến thăm Vi Quốc Thanh. Người hồ hởi nói với Vi Quốc Thanh : “ Cám ơn đồng chí từ Bắc Kinh mang đến cho chúng tôi hai món quà rất tốt. Một là kiến nghị của Mao Chủ tịch đối với tác chiến về sau, giúp chúng tôi rất lớn. Tôi và các đồng chí Bộ Chính trị đều cho rằng ý kiến của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc là đúng đắn. Thực hành những phương châm và biện pháp đó nhất định có thể đập tan kế hoạch Navarre. Tôi đã gửi điện cho đồng chí Mao Trạch Đông, tỏ rõ thái độ của chúng tôi, kiên quyết làm theo. Hai là bản tiếng Pháp kế hoạch quân sự Navarre, cũng rất giúp ích chúng tôi, làm cho chúng tôi càng hiểu địch hơn trên toàn cục. Đồng chí Võ Nguyên Giáp sau khi xem kế hoạch Navarre bị chấn động mạnh, tỏ ra thông suốt tư tưởng, hoàn toàn ủng hộ phương châm chiến lược giải phóng Tây Bắc, Thượng Lào trước rồi từng bước tiến về phía Nam ”. Hồ Chí Minh ngừng một lát rồi nói tiếp : “ Đồng chí Vi theo đồng chí trước mắt nên nắm những việc nào trước ? ”.

Vi Quốc Thanh trả lời rằng : “ Tôi cho rằng điều chủ yếu nhất trước mắt là vạch kế hoạch tác chiến tấn công mùa đông. Dựa vào kế hoạch đó để thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động, thì các công việc dễ triển khai ”. Hồ Chí Minh nói luôn : “ Rất tốt, rất tốt, hoàn toàn nhất trí với suy nghĩ của tôi ; đồng chí phải giúp đồng chí Võ Nguyên Giáp vạch ra kế hoạch tác chiến thật nhanh, đưa Bộ chính trị thảo luận thông qua. Việc này giao cho đồng chí ”.

Vi Quốc Thanh nói : “ Xin Hồ chủ tịch yên tâm, tôi sẽ cùng đồng chí Võ Nguyên Giáp bàn bạc kỹ lưỡng, vạch ra kế hoạch này nhanh nhất ”. Hồ Chí Minh cám ơn và từ chối mời cơm của Vi Quốc Thanh, vội ra về. Với sự giúp đỡ trực tiếp của Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh, kế hoạch tác chiến tấn công mùa đông 1953-1954 của quân đội Việt Nam được vạch ra rất nhanh. Ngày 3/11, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thảo luận thông qua kế hoạch này. Vi Quốc Thanh điện báo cho Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nội dung chủ yếu của kế hoạch này và được đồng ý. Những điểm chủ yếu của kế hoạch tác chiến này là :

   1.

      Hướng chủ yếu của tác chiến mùa đông là vùng Lai Châu – Tây Bắc. Sử dụng đại đoàn 308, 316 (thiếu 1 trung đoàn) và trung đoàn 148 của vùng Tây Bắc cùng 4 tiểu đoàn pháo binh và 2 tiểu đoàn công binh, tất cả binh lực là 25.000 người, ngày 10/1/1954 bắt đầu tấn công Lai Châu. Sau thắng lợi, dùng binh lực của hai trung đoàn, đầu tháng 2 tiến quân lên Phong Xa Lì – Thượng Lào. Cuối tháng 2, hai đại đoàn này lần lượt tiến sát Luông PraBang và xem tình hình đánh chiếm Huộc Xãi. Một trung đoàn khác cắm giữa Xiêng Khoảng và Luông Prabang triển khai đánh du kích.
   2.

      Phần lớn binh lực của các đại đoàn 312, 304 lần lượt kín đáo tập kết ở vùng Tây Bắc và Tây Phú Thọ, đại đoàn 320 tập kết giữa phủ Nho Quan và Thanh Hóa chuẩn bị khi bộ đội cơ động của quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng, tiến theo hướng Phú Thọ, Yên Bái, Thái Nguyên, Thanh Hoá v.v.. dụ địch vào sâu, tiêu diệt một bộ phận của chúng.
   3.

      Đồng thời với tiến quân lên Tây Bắc, 1 trung đoàn thuộc đại đoàn 304 và 1 trung đoàn thuộc đại đoàn 325 lần lượt tiến quân sang Trung Lào theo quốc lộ 8 và quốc lộ 12. Sau khi hai trung đoàn hợp lại, xem tình hình tấn công chiếm Thà Khẹt, thị trấn quan trọng ở Trung Lào cắt đứt phòng tuyến của địch trên quốc lộ 13 và sông Mêkông.
   4.

      Đồng thời với tiến quân lên Thượng Lào, cử một tiểu đoàn tăng cường để phối hợp với cán bộ đảng, chính quyền quân đội triển khai công tác ở vùng mới, cắm vào vùng đồng cao nguyên Bô Lô Ven – Hạ Lào. Đồng thời, hai trung đoàn của Liên khu 5 đánh chiếm vùng bắc cao nguyên Tây Nguyên, sau đó tiến về phía tây tạo nên thế Nam Bắc đánh kẹp Hạ Lào.

Kế hoạch tác chiến này thể hiện tương đối đầy đủ kiến nghị của Mao Trạch Đông về kế hoạch chiến lược đặt cơ sở thắng lợi cho toàn bộ tác chiến tấn công mùa đông và trận quyết chiến Điện Biên Phủ về sau :

Để thực hiện thuận lợi kế hoạch tác chiến mùa đông này, từ 19-24 tháng 11, Tổng Quân uỷ QĐNDVN họp hội nghị cán bộ cấp cao. Đây là cuộc hội nghị quân sự quy mô lớn nhất trong chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, đến dự hội nghị không chỉ có cán bộ cao cấp của bộ đội tham gia chiến đấu mà còn có các đồng chí phụ trách các chiến khu Trung Bộ và Nam Bộ. Lãnh đạo và cố vấn của Đoàn cố vấn quân sự cũng được mời dự hội nghị.

Tại hội nghị, Võ Nguyên Giáp trước tiên tuyên bố kế hoạch tác chiến tấn công mùa đông, và động viên ngắn gọn. Sau đó đi vào thảo luận. Trong thảo luận, những người dự hội nghị tuy nhất trí bày tỏ ủng hộ kế hoạch tác chiến này, nhưng vẫn bộc lộ tư tưởng ngại khó của một số người nhận thức mơ hồ và nhấn mạnh khó khăn quá mức. Ngày thứ hai hội nghị, tức 20/11, không quân Pháp thả lính dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Được tin, vấn đề đối xử với tình hình sau đấy như thế nào, trở thành vấn đề được mọi người quan tâm chú ý.

Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh cho rằng, mục đích địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ là âm mưu ngăn chặn quân đội Việt Nam giải phóng hoàn toàn Tây Bắc và tiến quân lên Thượng Lào. Đây là một việc tốt, tạo thời cơ có lợi cho quân đội Việt Nam, cũng làm cho lực lượng cơ động của địch càng phân tán hơn. Qua trao đổi với Võ Nguyên Giáp, đi đến nhận thức nhất trí. Ngày 23, Võ Nguyên Giáp phát biểu tổng kết hội nghị. Đồng chí sắp xếp phát biểu hôm kết thúc hội nghị. Vi Quốc Thanh tuân theo chỉ thị của Mao Trạch Đông muốn đồng chí làm nhiều công tác tư tưởng đối với cán bộ cao cấp quân đội Việt Nam, đã chuẩn bị đầy đủ.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM