Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 14 Tháng Năm, 2024, 01:56:01 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng - Phần II: nhật ký&hồi ức đồng đội  (Đọc 189768 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #560 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2013, 10:34:38 am »

Trích dẫn
...Cụm quân trên hướng Buôn Ma Thuột gồm: Sư đoàn 316, Trung đoàn 95B, Trung đoàn 24, Trung đoàn đặc công 198 và Tiểu đoàn đặc công 27, Trung đoàn thiết giáp 273, hai Trung đoàn pháo binh 40 và 675, hai Trung đoàn cao xạ 232 và 234, hai Trung đoàn công binh và lực lượng vũ trang tỉnh Đắc Lắc.

Cụm lực lượng trên hướng Đức Lập gồm: Sư đoàn 10 (thiếu Trung đoàn 24), Trung đoàn 271 (Nam Bộ). Lực lượng trên đường số 21 có Trung đoàn 25.

Cụm lực lượng trên đường số 19 gồm: Sư đoàn 3 Sao Vàng, Quân khu 5 (thiếu một Trung đoàn), Trung đoàn 95A, lực lượng vũ trang tỉnh Gia Lai và Kon Tum.

Các hoạt động nghi binh của ta đã làm cho địch bị lạc hướng.

Ngày 18 tháng 2, trong một cuộc họp với các tướng lĩnh để kiểm điểm tình hình thực hiện Kế hoạch phòng thủ Quốc Gia "Lý Thường Kiệt 1975" và các biện pháp của Hội đồng an ninh Quốc Gia đã quyết định trước đây, Tổng thống nguỵ Nguyễn Văn Thiệu vẫn cho rằng: Quân khu 2 sẽ là chiến trường trọng điểm, Quân khu 1 và 3 là chiến trường phối hợp:
Cần đề phòng Việt Cộng có thể đánh vào một số thị trấn hoặc thị xã như Quảng Đức, Kon Tum.

Sau cuộc họp này về, Phạm Văn Phú thiếu tướng tư lệnh Quân khu 2, kiêm tư lệnh quân đoàn 2 đã triệu tập các chỉ huy trưởng đơn vị, các tiểu khu trưởng trong Quân khu để nhận định tình hình và bàn kế hoạch đối phó. Chúng cho rằng với sự bố trí lực lượng hiện thời của ta (sư đoàn 320 và Sư đoàn 10 đều đang tập trung ở hai tỉnh Kon Tum, Plâyku) nếu đánh lớn Việt Cộng sẽ lấy Kon Tum - Plâyku làm "điểm", chiến sự sẽ diễn ra ác liệt ở đây. Nơi diễn ra sôi động thứ hai có thể là Quảng Đức vì hiện nay Việt Cộng đã chiếm được Phước Long, nên cần đánh Quảng Đức để mở thông hành lang Đông Trường Sơn.

Mưu kế của ta là:

Nghi binh lừa địch ở Plâyku; tập trung lực lượng đánh Buôn Ma Thuột. Hành động này phải rất bí mật. Chia cắt chiến lược và chiến dịch Tây Nguyên thành các cụm cô lập, không ứng cứu được nhau. Triển khai mưu kế này ta nghi binh bằng làn sóng điện và cho một Sư đoàn đánh vào Plâyku. Đòn này rất có giá trị.

Mưu kế của địch là:

Giữ vững Plâyku, đặc biệt phía tây nam. Cho trinh sát vũ trang ở bắc Buôn Ma Thuột. Trung đoàn 53 lùng sục ở Mê Van;
Trung đoàn 45 lùng sục ở bắc Buôn Ma Thuột. Do đó Sư đoàn 320 của ta phải lùi trước cuộc lùng sục để giữ bí mật.

Từ đó địch củng cố hệ thống phòng thủ Kon Tum - Plâyku, các đơn vị vừa phòng giữ vừa tăng cường sục sạo ra xa để sớm phát hiện ý đồ đối phương và tổ chức tiến công ngay từ tuyến ngoài; tiêu hao làm giảm sức tiến công của đối phương khi đánh sâu vào khu vực phòng thủ thị xã. Tăng cường cho Quảng Đức thêm một Trung đoàn để phòng bị. Buôn Ma Thuột có thể bị đánh nhưng quy mô không lớn vì chỉ là "diện" nên chưa cần tăng lực lượng. Ngoài ra, cần chú trọng theo dõi điều tra sự di chuyển của các Sư đoàn 320 và Sư đoàn 10. Hai Sư đoàn này di chuyển về hướng nào thì nơi đó sẽ nổ ra đánh lớn.

Tuy vậy, Phạm Văn Phú vẫn tỏ ra lo âu, nên sau cuộc họp, Phú trao đổi riêng với Trần Văn Cẩm- chuẩn tướng phụ tá hành quân và Lê Khắc Lý-đại tá tham mưu trưởng quân đoàn là tình hình có thể có rất nhiều điều bất ngờ ngoài dự tính, trong khi lực lượng Quân khu ít và đã phải dàn mỏng và gắn chặt vào từng nơi. Phú than phiền rằng hôm họp ở Sài Gòn đã xin Thiệu tăng thêm quân dù, là lực lượng quen chiến trường để làm quân ứng cứu tại chỗ, nhưng không được Thiệu chấp nhận, mà chỉ được tăng phái thêm 2 liên đoàn biệt động quân cho Tây Nguyên. Như vậy trong tay Phú lúc này có 9 đơn vị (trung đoàn hoặc tương đương) thì 7 đơn vị tập trung ở hai tỉnh phía bắc, còn phía Nam Tây Nguyên chỉ có 2 đơn vị (trung đoàn 53 và liên đoàn biệt động số 23) để đối phó với thế "nặng đầu nhẹ đuôi" của Việt Cộng ở Tây Nguyên.

Bởi vậy, mùa này Việt Cộng sẽ đánh ở đâu trên chiến trường cao nguyên? Nhắm mắt lại khỏi cần suy nghĩ, kẻ địch sẽ đặt cuộc 10 ăn 1: phía bắc.

Còn Buôn Ma Thuột? - Không đâu, Việt cộng không có lực lượng. Họ có thể đưa lực lượng đến? - Mạo hiểm, và để làm gì chứ? Tại sao lại không là Kon Tum, nơi mà sự hiểu biết sơ sài về địa lý quân sự cũng thấy cần phải giành lấy, hơn nữa để thanh toán "món nợ " l972?

Từ đầu chí cuối, cả tư lệnh lớn Nguyễn Văn Thiệu lẫn tư lệnh vừa Phạm Văn Phú đều một mức khẳng định Kon Tum. Nếu có nơi nào khác ở phía nam thì chỉ là những thị xã, thị trấn nhỏ không đáng kể lắm như Gia Nghĩa, Đức Lập nhằm mục đích thông đường. Được lắm, chúng ta sẽ cho điều khẳng định ấy những bằng chứng mà họ muốn.

Bộ Tư lệnh Tây Nguyên đã làm tất cả những gì có thể làm được để buộc địch phải tăng cường lực lượng hơn nữa lên hướng bắc, rồi kìm giữ chúng ở đây. Có thể nói chúng ta đã thực hiện cả một chiến dịch nghi binh từ tung tin thất thiệt, tạo những sơ hở giả đến việc tiến hành công tác thiết bị chiến trường, điều động lực lượng úp úp mở mở. Thậm chí, vào thời kỳ cuối của giai đoạn chuẩn bị, khi địch đã nắm được một vài bằng chứng về ý đồ của ta ở nam Tây Nguyên, ở Buôn Ma Thuột thì ta lại tìm cách vô hiệu hoá để khiến chúng tin rằng đây chỉ là động tác giả.

Nhưng "động tác giả" lừa địch có hiệu quả nhất lại chính là những hành động tác chiến thật, thật mà là thật giả. Chúng ta đã sử dụng một số đơn vị và thậm chí cả một Sư đoàn - Sư đoàn 968 để làm việc này. Tôi xin nói ngay là Sư đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ này một cách xuất sắc

Một, từ Hạ Lào sang, tập kết trên hướng đường 19 kéo dài tây Pleiku, Sư đoàn đã chứng tỏ cho địch thấy một sự tăng cường lực lượng về phía Pleiku. Động tác này khá đến nỗi có lúc địch cho rằng thậm chí ta đã tăng cường đến hai Sư đoàn chứ không phải một. Chúng vội vã thông báo cho nhau.

Hai, khi Sư đoàn 10 chuyển vào phía nam, một số đơn vị của Sư đoàn 968 đến thay thế được lệnh nghi binh để địch tin rằng Sư đoàn này vẫn ở Kon Tum. Các đồng chí đã "chơi trò điện tử" bằng hệ thống thông tin, khi đơn vị di chuyển, mọi quá trình chỉ huy liên lạc chỉ được phép sử dụng đường dây của các binh trạm, còn các phương tiện thông tin vô tuyến vẫn phải để tại chỗ, rồi phát đi những thông tin giả làm cho địch vẫn tin rằng quân ta đang hoạt động tại đó, đến nỗi sau này tên tướng Mỹ Tim-mét, cố vấn trực tiếp của Nguyễn Văn Thiệu phải kêu lên: "Bằng biện pháp nghi binh qua làn sóng điện, Việt Cộng đã thành công trong kế hoạch giam chân bộ phận chủ yếu của Quân khu 2 ở Kon Tum và Pleiku”(?'?).

Ba, Sư đoàn 968 đã thực hiện một loạt những trận đánh có bài bản theo kiểu "đột phá lần lượt" trước khi "gõ” vào mục tiêu chính, thậm chí có cả pháo lớn tham gia. Cách triển khai như là có nhiều Sư đoàn sắp đánh vào Pleiku.

Một điều quan trọng và rất hay là Bộ Thống soái đã nhanh chóng tăng thêm cho Tây Nguyên hai Sư đoàn (sư đoàn 968 và Sư đoàn 316) là thành Tây Nguyên có 4 Sư đoàn và một số Trung đoàn độc lập - một tập đoàn chiến lược mạnh. Do đó chiến dịch có điều kiện hoàn thành mọi nhiệm vụ chiến dịch, mọi hành động tác chiến, như đánh phản đột kích, đánh truy kích. Địch cũng bị bất ngờ với việc tăng cường lực lượng cho Tây Nguyên. Địch cũng không biết Sư 316 đã vào chiến trường. Sư đoàn 316 là lực lượng dự bị chiến lược của Bộ tăng cường cho chiến dịch, đã gấp rút hành quân từ Nghệ An vào thẳng Đắc Lăk. Suốt trong chặng đường hành quân Sư đoàn không dùng điện đài vô tuyến và không để lộ phiên hiệu.
Đến chiến trường, Sư đoàn được bố trí giấu quân vào khu rừng già ở bờ tây sông Sê-rê-pok. Do vậy, đến ngày nổ súng mà dịch vẫn không hay biết. (sự bất ngờ chí mạng này vào lúc quyết định nhất ở phần sau, mãi tới khi những chiếc xe tăng của Sư đoàn 316 cán xích trên đường phố thị xã Buôn Ma Thuột thì tướng Phú mới biết phải sửng sốt thất kinh).

Đưa bí mật đột ngột 2 Sư đoàn lên Tây Nguyên là mưu hay của ta, của Bộ Thống soái mà trực tiếp là Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, người đã có kinh nghiệm tác chiến lớn, người có trình độ chỉ huy các chiến dịch lớn, người có tri thức chỉ huy tác chiến binh chủng hợp thành. Đó là cái nút trong mưu kế chiến lược.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #561 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2013, 10:35:35 am »

Trích dẫn
...Bộ Tư lệnh chiến dịch rất quan tâm và trực tiếp chỉ huy các hành động chiến đấu nghi binh. Chúng tôi coi nó sẽ tạo nên bất ngờ đối với địch mà bất ngờ là bảo đảm của thắng lợi. Thực hiện đánh nghi binh, đây là bức điện mà bộ chỉ huy chiến dịch gửi cho Sư đoàn trưởng Thanh Sơn ngày 2 tháng 3, sau khi Sư đoàn 968 đã tiêu diệt các vị trí Đồn Tầm, điểm cao 535, nằm trong kế hoạch đó:

1- Tổ chức ngay việc vây, diệt 605, uy hiếp quận lỵ Thanh An

2- Dùng hoả lực đánh vào Chư Kara kết hợp bộ binh bao vây buộc địch đối phó.

3- Đưa lực lượng ta chiếm giữ ngay dãy Chư Gôi, tổ chức thành trận địa mới trên đông sông Ia Puk.

Trên tuyến đường 5A, 5B:

1 Tích cực bám đánh liên đoàn 4, không cho chúng rút khỏi Chư Sang

2- Tiếp tục hoạt động nhỏ trên đường 5B, giam chân Trung đoàn 44 tại đó.

Tóm lại: Sư đoàn phải giam chân chủ lực địch trên hướng Pleiku - Kon Tum và cố gắng thu hút thêm để tạo thuận lợi cho hướng chính..." (Chú thích: Điện gửi 968 ngày 2-3-1975 lưu trữ Sư đoàn 968 và quân đoàn 3 )

Để giành lấy yếu tố bất ngờ, đi liền với các hành động nghi binh lừa địch là việc đảm bảo tuyệt đối giữ bí mật. Rất nhiều biện pháp đã được áp dụng một cách tỉ mỉ để thực hiện điều đó. Chỉ một việc nhỏ là luồn dây điện thoại ngang qua lộ 14 về sở chỉ huy (liên lạc bằng vô tuyến sóng cực ngắn đã được cấm tuyệt đối cho đến khi nổ súng), chúng tôi cũng phải bàn rất kỹ. Và phải mất tới ba ngày thảo luận mới đi đến một giải pháp tối ưu về vấn đề hiệp đồng - một vấn đề rất phức tạp nhưng không khó hiểu. Đó là vì chiến dịch này đã được tiến hành với mức độ hiệp đồng binh chủng rất cao. Đoàn 559 tăng cường cho chiến dịch 1 tiểu đoàn pháo cao xạ, 1 Trung đoàn công binh và 1 tiểu đoàn bộ binh. Các binh chủng kỹ thuật đều đưa vào chiến đấu ở cỡ binh đoàn, nhất là sự xuất hiện lần đầu tiên một Trung đoàn xe tăng, những yếu tố không dễ đảm bảo bí mật. Trên tất cả các hướng tấn công ở trận mở đầu then chốt - Buôn Ma Thuột - đều có một khối lượng quan trọng các đơn vị pháo binh, pháo cao xạ đi cùng bộ binh. Bốn trên năm hướng có xe tăng. Đặc công đánh độc lập một hướng nhưng cùng hiệp đồng với từng hướng.

Nhưng ở đây tôi đang đề cập tới vấn đề giữ bí mật bất ngờ nên chỉ muốn nói về động tác chuẩn bị thiết bị chiến trường cho hiệp đồng chiếm lĩnh tuyến xuất phát tiến công làm sao để địch biết được ý định của ta càng muộn càng tốt. Có lúc ta buộc phải tạm ngừng việc làm đường (bao gồm cả các bến phà vượt sông) từ các vị trí tạm dừng cuối cùng đến tuyến xuất phát tấn công khoảng cách này trung bình là 25 đến 30km, có nơi đến 40km, tổng cộng là hàng trăm km và hai bến phà. Ta đã huy động vào việc này hai Trung đoàn công binh làm đường và cầu phà.

Các đồng chí công binh bảo đảm rằng công việc có thể hoàn thành trong khoảng 4, 5 tiếng đồng hồ bằng các phương pháp khẩn cấp, chúng tôi dự định (và thực tế đã như vậy) công binh sẽ tác nghiệp vào thời gian trước giờ nổ súng. Vấn đề là phải tính toán làm sao để từ các cự ly khác nhau -trong vài tiếng đồng hồ - bộ binh, xe tăng, pháo binh và các thành phần khác có thể vượt sông Sê-rê-pok (một con sông rộng 200m, lưu tốc lớn và... có cả cá sấu) trước 5 giờ sáng đến các vị trí xuất phát tiến công. Đã tính tới khả năng (có đơn vị) sẽ phải tác chiến trong hành tiến. Các đơn vị công binh phải ngày đêm hoạt động trên nhiều tuyến đường, phải san rừng, xẻ núi, bắc cầu... có những tuyến đường xuất phát tiến công cho xe tăng, xe bọc thép anh em phải bí mật triển khai, cưa gốc cây sẵn một phần chờ khi có lệnh cho xe húc đổ cây là thành ngay con đường.

Nhưng một điều rất khó là: Ta mở đường khẩn cấp bằng bộc phá, tiếng nổ của nó cộng với tiếng máy ầm ầm của tăng, pháo khi vận động sẽ khác nào "lạy ông tôi ở bụi này”, giữ được bất ngờ chiến dịch rồi lại để mất bất ngờ chiến đấu. Thế là đi tới quyết định sẽ dùng đặc công và pháo mang vác (Rốc két, DKB, H12) tiến công các mục tiêu địch vào thời gian công binh tác nghiệp mở đường từ 2 giờ sáng ngày 10 tháng 3. Đây là hành động "một công đôi việc":

Một, yểm hộ cho bộ đội cơ động và dọn bớt các mục tiêu râu ria để tạo bàn đạp.

Hai,... như các đại tá nguỵ Vũ Thế Quang, Nguyễn Trọng Luật sau này đã khai: "Vâng, đến lúc đó chúng tôi vẫn khẳng định rằng đây chỉ là các hoạt động bình thường của đặc công và pháo binh các ông, đến sáng rồi sẽ chấm dứt...", nên không biết rằng cùng lúc đó công binh của ta đang nổ mìn tác nghiệp tuyến đường xuất phát tiến công.

Có tình huống như: gần sát ngày ta nổ súng, phát hiện những dấu hiệu nghi ngờ, địch cho nống càn thăm dò lên phía bắc, nơi của bộ đội Sư đoàn 320 đang trú chân và chuẩn bị thiết bị trận địa. Địch càn đến đâu, các chiến sĩ của ta phải lui vào đến đó và phải xoá hết dấu vết những gì đã làm được. Chúng chỉ rút khoảng 40 tiếng đồng hồ trước khi ta nổ súng và các chiến sĩ Sư đoàn 320 lúc ấy mới lại có điều kiện hối hả lao vào các công tác chuẩn bị.

Không phát hiện được gì, địch yên tâm và chúng ta lại thêm một lần thắng địch và Trung đoàn 45, sư 23 nguỵ đi trinh sát vũ trang ở Bắc Buôn Ma Thuột phải chuyển về Plâyku để đối phó với Sư đoàn 968 đang đánh ở tuyến phòng ngự vòng ngoài thị xã Plâyku. Đó cũng là mưu hay của ta, lùi một bước để mà tiến.

Nghi binh lừa địch, giữ bí mật giành yếu tố bất ngờ, là một trong các mặt công tác tiến hành có hiệu quả nhất, nhưng cũng là căng thẳng nhất, phải dồn tâm trí nhiều nhất trong giai đoạn trước ngày nổ súng. Tôi còn nhớ chiều 5 tháng 3, khi ngày N đã ở ngay trước mặt, rất nhiều tin tức đưa đến chứng tỏ địch có khả năng nắm được các ý đồ của ta đã khiến cả sở chỉ huy chúng tôi như lặng đi. Thiếu tướng Vũ Lăng nói: "Thật là những tin tức có thể làm rụng tim được". Và chúng tôi đã gửi ngay một bức điện cho các đơn vị nhấn mạnh phải kiên trì giữ bí mật đến cùng "Phải kiên trì giữ bí mật đến cùng, thà nhận những khó khăn để đánh địch chưa dự phòng còn hơn gấp nhiều lần đánh địch đã sẵn sàng ứng phó".

Vì vậy tất cả những công việc phải làm là để nhằm hướng đến khả năng được đánh địch theo phương án tác chiến thứ nhất: Phương án đánh địch không dự phòng. Do đó ngay sau Tết chúng tôi đã chỉ định một bộ phận các cán bộ tham mưu, do Thượng tá Nguyễn Thế Nguyên, người đã tham gia biên soạn tài liệu đánh địch trong thành phố của Bộ Tổng tham mưu, Phó tham mưu trưởng Chiến dịch phụ trách.

Trong quá trình chuẩn bị, phương án đã được hoàn chỉnh bởi kinh nghiệm Phước Long; bởi thực tiễn nắm địch và địa hình của bộ phận trinh sát do Thiếu tướng Vũ Lăng và Đại tá Nguyễn Năng, các Phó tư lệnh Chiến dịch trực tiếp dẫn đầu; bởi những ý kiến bổ sung của các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Mặt trận và nhất là những ý kiến của cơ quan đại diện Bộ Tổng tư lệnh - Tổng tham mưu trưởng và cá nhân đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng. Đại tướng đã chỉ thị những điều bổ sung cụ thể, sâu sắc và chính xác cho quyết tâm chiến dịch.

Chúng tôi đã cố gắng để tạo khả năng đánh địch theo phương án thứ nhất nhưng trong thực tế phải soạn thảo kế hoạch thật kỹ để chủ động đánh địch theo phương án thứ hai, phương án khó khăn nhất: Đánh địch có dự phòng. Tức là đánh với khả năng chúng có thể tăng cường thêm lực lượng phòng ngự cho Buôn Ma Thuột từ một, hai Trung đoàn đến một Sư đoàn trước khi ta nổ súng tiến công. Trong phương án này, chúng tôi dự kiến hai cách đánh:

- Thứ nhất, điệu hổ ly sơn, tìm cách kéo địch ra, tốt nhất là ở tây cầu Sê-rê-pok hoặc tây Cẩm Ga, Thuần Mẫn, rồi dùng các Sư đoàn của ta đánh một vài trận lớn, khiến lực lượng địch không còn đáng kể rồi nhanh chóng thọc thẳng vào thị xã.
Những kinh nghiệm thú vị của lối đánh kéo địch ra trận địa bày sẵn này ở Dakto năm 1967, và cũng như là ở Sa Thầy năm 1966, vẫn còn đó. Nhưng hồi đó là với quân Mỹ, cái kiêu căng của lính Mỹ lúc mới vào cuộc có khác cái sợ đòn của lính nguỵ vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh này.

- Do đó, chúng tôi đã tính tới cách đánh thứ hai trong trường hợp địch co cụm không chịu thoát ly công sự. Sẽ phải đột phá lần lượt trước khi vào đến trung tâm. Đây là cách đánh kinh điển đối với địch phòng ngự công sự vững chắc. Cách đánh này thực tế tuy khó nhưng kế hoạch hiệp đồng dễ.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #562 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2013, 10:36:20 am »

Trích dẫn
...Chúng ta muốn đánh địch không dự phòng, nhưng hẳn là địch đã không muốn thế, nếu chúng nắm được ý đồ của ta. Mưu kế ở đây là làm sao khi thế trận đã được xác lập rồi, địch chỉ có thể cựa quậy được trong phạm vi thế trận bày sẵn ấy mà thôi. Và bởi vì là sản phẩm của tư duy, thế trận cũng vận động theo yêu cầu chủ quan và thực tế khách quan, tức là vận động theo tình huống liên quan trực tiếp đến tạo thế (lập thế) hay nói cách khác, thế trận là nguyên nhân (mà cũng là kết quả) của tạo thế (lập thế). Nó đi từ việc dự kiến, gạn lọc tình huống nghĩa là tìm cách loại trừ những tình huống khó khăn không để cho nó có thể xảy ra, đến việc tạo lập tình huống theo ý muốn chủ quan có lợi cho mình. Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên đã phải dự kiến rất nhiều tình huống mà dự kiến chính xác là một công việc thật không phải dễ.

Chúng tôi quan tâm nhất đến khả năng địch tăng cường lực lượng. Quy luật phát triển tình hình trong chiến đấu (chiến dịch) cho chúng ta một nhận thức là địch luôn luôn phải tăng cường lực lượng cho các mục tiêu bị ta tấn công. Lực lượng này thường lấy ở đâu? Thông thường là biệt động quân, dự bị Quân khu và các Sư đoàn chủ lực Quân khu. Sau nữa là lực lượng tổng dự bị chiến lược: lính dù và thuỷ quân lục chiến. Bí quá thì huy động lực lượng của các chiến trường (Quân khu) kế cận.

Ở đây một cách khách quan, chúng tôi nhìn thấy khó có khả năng địch tăng cường lực lượng dự bị cho Buôn Ma Thuột vì lực lượng này đang bị mưu kế chiến lược của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi ông bố trí lực lượng của ta là Quân đoàn 2 ở tây Huế, Quân đoàn 4 ở đông bắc Sài Gòn nhằm kìm giữ địch ở hai đầu nam bắc chiến tuyến là Sài Gòn và Huế - Đà Nẵng: lính dù ở Thượng Đức, thủy quân lục chiến ở Trị Thiên và một số còn lại phải giữ Sài Gòn.

Mưu kế này nhằm căng địch ra hai đầu nam bắc chiến tuyến là Sài Gòn và Huế - Đà nẵng, buộc chúng phải để hở quãng giữa là Tây Nguyên và sau này ông còn cho Quân đoàn 1 áp sát bờ bắc sông Bến Hải chuẩn bị tăng cường cho Huế - Đà Nẵng, nhằm tạo thế cho Tây Nguyên. Chúng tôi đã đề nghị Bộ Tổng tham mưu cho các chiến trường trên phối hợp mạnh để giữ chân chúng. Còn lại khả năng rõ nhất là địch sẽ tăng cường cho khu vực này bằng chính các lực lượng của Quân khu 2, Sư đoàn 22 từ đồng bằng lên, Sư đoàn 23 từ Pleiku xuống. Thêm vào đó là một vài liên đoàn biệt động quân.

Như thế, dự kiến lực lượng được điều động ở mức cao nhất cho Buôn Ma Thuột là khoảng một Sư đoàn. Với lực lượng này, chúng tôi không ngại phải đối phó khi Buôn Ma Thuột đã giải quyết xong vì lúc đó chúng ta đã rảnh tay. Chỉ e chúng tăng cường để phòng ngự dự phòng trước khi ta nổ súng hoặc đến trong lúc trận đánh còn đang tiếp diễn thì sẽ gây nhiều khó khăn cho ta. Bởi vậy phải dự kiến các tình huống có thể để tìm cách đối phó.

Chúng tôi dự kiến và thấy có khả năng loại trừ tình huống địch tăng cường lực lượng bằng máy bay có cánh cố định vì các sân bay xung quanh Buôn Ma Thuột ta đã khống chế bằng nhiều cách trong kế hoạch tác chiến. Địch chỉ có thể xuống Pleiku, nhưng sân bay này lại không thể hạ cánh được C5A mà chỉ với loại máy bay vận tải quân sự này - có trong biên chế của Mỹ -mới mang theo được xe tăng. Chưa nói đến Pleiku lại không phải là Buôn Ma Thuột!

Chúng tôi cũng dự kiến và loại trừ cả tình huống địch tăng cường bằng đường bộ, bằng cách đưa vào phương án tác chiến việc cắt đứt các đường quốc lộ 19, 21 và 14. Địch nhạy cảm vô cùng với hai con đường huyết mạch 19 và 21 nối liền Tây Nguyên với đồng bằng, nhất là con đường 19, nguồn sống của Tây Nguyên. Chúng sẽ phải trả bằng mọi giá để giải toả con đường này. Lực lượng đưa đến có thể từ 1 đến 2 Sư đoàn.

Do đó, để đảm bảo cắt đường một cách chắc chắn, ngoài Trung đoàn 95A- một đơn vị thiện chiến về đánh giao thông đã có sẵn ở đây từ cuối năm 1973, chúng tôi đã đề nghị Bộ Tổng tham mưu và Quân khu 5 cho Sư đoàn 3 Sao Vàng đến tham gia. Việc này cũng đã có bàn trước với Thượng tướng Chu Huy Mân. Yêu cầu được chấp thuận.

Chỉ còn vấn đề là Sư đoàn 3 lúc ấy đang đương đầu với Sư đoàn 22 nguỵ ở vùng Bồng Sơn, Tam Quan, chống phá bình định của chúng. Ta rút đi địch sẽ có cơ lấn tới? Không, chúng tôi đã tính là nếu đường 19 bị cắt thì một chứ có đến hai Sư đoàn 22 địch cũng phải tung ra mà giải toả và như thế là khu vực Bồng Sơn, Tam Quan sẽ nhẹ gánh hơn (thực tế sau này đã đúng như vậy). Như thế là chúng ta sẽ có 4 Trung đoàn làm nhiệm vụ cắt giữ đường 19. Năm 1972, chúng ta chỉ dùng một lực lượng ít hơn cắt đường 13 (Đông Nam Bộ), và một lực lượng còn ít hơn nữa cắt đường 14 (Tây Nguyên) mà hàng mấy tháng trời địch không qua nổi. Ở đây ta lại chỉ yêu cầu giữ được trong một thời gian tối thiểu. Nhiệm vụ cắt giữ đường giao thông ở đường 14 được giao cho Sư đoàn 320 (sư đoàn này còn một nhiệm vụ khác nữa) và ở đường 21 ít quan trọng hơn, Trung đoàn 25.

Việc cắt đường cũng loại trừ một tình huống thứ ba nữa là địch rút chạy một cách tự do. Như thế chỉ còn lại tình huống, hay nói cách khác ta buộc địch phải chấp nhận tình huống tăng cường lực lượng bằng đổ bộ trực thăng, một tình huống sẽ trở nên bất lợi đối với địch nếu không kết hợp được với đường bộ,và ít nhất là vì rất dễ làm mồi cho ta và khả năng cơ động tăng, pháo cũng hạn chế. Việc phán đoán các khu vực đổ bộ trực thăng không khó và Bộ Tư lệnh chiến dịch đã dự kiến sử dụng Sư đoàn 10 ngay sau khi đánh xong Đức Lập, đối phó với tình huống này.

Chưa hết, bằng cách gạn lọc loại trừ các tình huống trên, chúng tôi đã tạo nên tình huống mới: địch bị cô lập hoàn toàn. Tây Nguyên cô lập chiến lược với đồng bằng. Buôn Ma Thuột cô lập chiến dịch với cụm binh lực chủ yếu ở Pleiku, Kon Tum. Địch bị chia cắt mà ta thì hoàn toàn được tự do, được chủ động, đồng thời lại đã triển khai vững chắc các lực lượng ở những vị trí cơ động. Tức là vào lúc ấy một thế trận theo ý muốn của ta đã được xác lập.

Tạo thế cô lập là chia cắt địch ra thành nhiều cụm bị cô lập phá thế liên hoàn của địch, làm cho địch mạnh thành yếu.

Có thể nói rằng nghệ thuật chỉ huy, không chỉ bắt đầu từ việc tổ chức các đòn tiến công và cũng không phải kết thúc ở đây. Bản chất của nghệ thuật khó khăn này là mưu kế. Nó được diễn ra trong suốt quá trình chuẩn bị và không dừng lại khi đã giành được thắng lợi (hoặc thất bại), đứng về ý nghĩa đơn thuần một trận đánh (hoặc một chiến dịch).
Và bộ phận cấu thành quan trọng nhất của mưu kế - đó là chỉ đạo tình huống. Nó gồm: sự phán đoán (dự kiến), sự loại trừ (gạn lọc) và sự tạo lập những tình huống theo ý định của người chỉ huy. Nó là điều mà chúng ta vẫn quen gọi là đánh (chỉ huy) có bài bản. Và ý nghĩa triết học của nó được thể hiện trong mối quan hệ biện chứng: mưu kế càng sâu, thế trận càng phức tạp thì tình huống diễn ra càng giản đơn, và chỉ huy càng chủ động.

Cần đúc kết từ lịch sử và thực tiễn để nâng lên thành lý luận, từ lý luận khái quát thành quy luật và nguyên lý hoặc có tính chất nguyên lý. Để rồi lại vận dụng nó vào cho phù hợp với thực tiễn thì mới là sáng tạo.

Bởi vậy có thể nói:

"Mưu cao nhất là mưu lừa địch,
Kế hay nhất là kế điều địch,
Mưu sinh ra kế,
Kế đẻ ra thời,
Đánh bằng mưu kế,
Thắng bằng thế thời".

Hồ Chí Minh nói:

"Lạc nước hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời một tốt cũng thành công”.

Người còn nói:

"Quả cân chỉ một kilôgam, ở vào thế có lợi thì lực của nó tăng lên nhiều, có sức mạnh làm bổng được một vật nặng hàng trăm kilôgam. Đó là thế thắng lực”.

Nguyễn Trãi nói:

"Được thời, có thế thì mất biến thành còn; nhỏ hoá ra lớn. Không thời, mất thế thì mạnh hoá ra yếu, an lại thành nguy”,

Và:

"Ngẫm xưa nghiệm nay,
Xét cho cùng mọi lẽ hưng vong,
Trải biến nhiều thì suy nghĩ sâu,
Tính việc xa thì thành công lạ”.

Lịch sử chiến tranh với những trận đánh hay (và dở) chứng tỏ điều đó.

Tây Nguyên như đang âm ỷ những cơn sóng ngầm.

Ta và địch đang cùng nhau đấu trí.

Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #563 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2013, 10:37:32 am »

Trích dẫn
...Mưu kế của địch là phòng bị Plâyku vững chắc, một mặt đưa một bộ phận Trung đoàn 53 và địa phương quân ra lùng sục ở phía bắc Buôn Ma Thuột, một mặt tung Trung đoàn 45 cũng ra lùng sục và trinh sát vũ trang ở Bắc Buôn Ma Thuột, như thế thì vừa giữ vững Plâyku, đồng thời vẫn tìm và phát hiện quân ta ở bắc Buôn Ma Thuột và như thế là được cả hai.
Nhưng ta vẫn cao tay hơn địch ở chỗ đành cho Sư đoàn 320 lùi về phía sau trước cuộc lùng sục của địch.

Lúc này địch cho rằng: Sư đoàn 10 của ta vẫn đang ở Võ Định, chuẩn bị đánh Kon Tum: Sư đoàn 320 vẫn ở Plâyku và sẽ cùng với Sư đoàn 968 đánh Plâyku. Nhưng đến tháng 1 năm 1975 địch phát hiện Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 đã ăn Tết trước và đang chuẩn bị đi vào Nam Tây Nguyên.

Tiếp đó, địch nhận được nguồn tin là Trung đoàn 25 của ta đang chuẩn bị xuống đường số 21. Với những triệu chứng đó, địch đã phán đoán là ta cũng có thể chuẩn bị đánh ở Buôn Ma Thuột. Do đó, chúng đã đưa Trung đoàn 53 (thiếu) ra lùng sục ở bắc thị xã, trên khu vực Quảng Nhiêu - Mê Van. Quá trình lùng sục, địch đã đánh nhau với bộ phận trinh sát của Trung đoàn pháo binh 675 và bắt một chiến sĩ bị thương nặng đem về Plâyku thai thác.

Khoảng giữa tháng 2, một tên đảo ngũ đã khai với địch "Sư đoàn 10 đang chuẩn bị đánh Đức Lập, Sư đoàn 320 đang ở tây Eahơleo chuẩn bị đánh Thuần Mẫn, một lực lượng khác chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột".

Nhận được nguồn tin trên, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân khu 2 nguỵ hết sức hoang mang, nên có lúc gã định đưa Sư đoàn 23 về lại Buôn Ma Thuột. Nhưng tình báo Mỹ lại khẳng định rằng Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 vẫn còn ở chỗ cũ. Những tin tức trái ngược nhau làm cho Quân khu 2 ngụy rất lúng túng. Sau khi bị bắt, đại tá Vũ Thế Quang khai rằng; "Những tin tức trên là không có cơ sở".

Tuy vậy, ngày 19 tháng 2, Phú vẫn quyết định đưa Trung đoàn 45 từ Plâyku về khu vực Eahơleo để lùng sục phát hiện Sư đoàn 320.

Trước tình hình đó, cuối tháng 2 năm 1975 Bộ Tư lệnh chiến dịch có nhận định: "Địch có nghi ta chuẩn bị đánh Đức Lập; Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuột, cắt đường số 14 ở Cẩm Ga, với một số bằng chứng riêng lẻ. Nhưng địch vẫn chưa phát hiện được ý định và lực lượng chiến dịch của ta. Những hoạt động lùng sục nói trên có tính chất rời rạc, cục bộ, tuy nhiên cũng vẫn chủ động đề phòng tình hình phức tạp xảy ra".

Từ nhận định đó, Bộ Tư lệnh đi đến quyết tâm và xử trí như sau: "Kiên trì khôn khéo giữ bí mật ý định chiến dịch và lực lượng ta ở hướng tác chiến chủ yếu (Buôn Ma Thuột). Tích cực hoạt động nghi binh trên hướng Kon Tum - Plâyku. Kiềm giữ Trung đoàn 44 về các lực lượng khác ở lại bắc Tây Nguyên ".

- Ra lệnh cho Sư đoàn 320 tránh đụng độ với Trung đoàn 45 nguỵ và tạm lùi đội hình về phía Tây.

- Ra lệnh cho Sư đoàn 968 hoạt động ráo riết theo kế hoạch nghi binh, phối hợp với lực lượng địa phương tỉnh (Gia Lai -Plâyku) huy động dân công làm đường và phao tin ta sẽ đánh lớn ở Bắc Tây Nguyên, sử dụng mạng thông tin, vô tuyến điện phát các tin tức nghi binh trên làn sóng địch để đánh lừa địch rằng Sư đoàn 10 vẫn còn ở bắc Kon Tum và Sư đoàn 320 vẫn còn ở Plâyku.

Khi địch điều Trung đoàn 45 xuống Eahơleo, ta đã cho phát một bức điện nghi binh nữa trên làn sóng gửi cho các đơn vị với nội dung: "Địch đã bị mắc lừa, cho rằng ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột nên đã điều quân xuống phía nam". Nhận được bức điện đó, địch rất hoang mang, không biết là nên tin vào lời khai của tên đảo ngũ, hay tin vào nguồn tin kỹ thuật vô tuyến điện do chúng thu nhận được.

Cuộc đọ sức âm thầm giữa ta và địch kéo dài suốt trong tiến trình chuẩn bị chiến dịch. Đến cuối tháng 2 địch vẫn chưa phát hiện được rõ rệt ý định chuẩn bị chiến dịch của ta. Đại bộ phận chủ lực địch vẫn còn bố trí ở bắc Tây Nguyên. Quyền chủ động chiến dịch vẫn nằm trong tay ta. Tình hình đó tạo nhiều thuận lợi cho ta mở màn chiến dịch.

Từ ngày 1 tháng 3 năm 1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên trực tiếp điều hành mọi hoạt động của các lực lượng tham chiến trên toàn chiến trường.

Mở đầu chiến dịch.

Theo dự kiến của Bộ Tư lệnh chiến dịch, ngày 1 tháng 3 là ngày đánh nghi binh, ngày 4 tháng 3 là ngày nổ súng đánh chia cắt để cài thế chiến dịch làm mốc để bắt đầu tạo thế chiến dịch. ngày 10 năm 3 tháng 1975 là ngày N của toàn chiến dịch đánh trận then chốt ở thị xã Buôn Ma Thuột. Nhưng thực ra những tình huống được xử trí dẫn tới thế trận xác lập đã được thực hiện từ cuối tháng 2 nếu không muốn nói là trước đó nữa. Song tính đến ngày N thì vẫn còn năm ngày đêm. Trong việc tranh chấp thời gian với địch, để có được năm ngày đêm để triển khai hoàn chỉnh thế trận là quá ít, nhưng để đạt được yếu tố bất ngờ thì lại quá dài.

Giữa lúc cơ quan tham mưu chiến dịch đang làm việc khẩn trương và liên tục để chuyển lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch tới các đơn vị thực hiện kế hoạch đánh chia cắt và bố trí đội hình, thì cơ quan tác chiến nhận được tin điện khẩn báo cáo về.
Nội dung bức điện như sau?

"Lâm Đồng điện gửi Z
Bộ phận đi chuẩn bị trận địa pháo phía bắc A (Buôn Ma Thuột) gặp bộ binh xe tăng địch (Trung đoàn 53) nống ra sục sạo. Do ta thiếu cảnh giác, bị chúng sát thương một số đồng chí và bắt mang đi một đồng chí bị thương nặng, nhưng đồng chí này đang hôn mê, địch chưa khai thác được gì”.

Đây là một tin quan trọng. Nhận được tin trên, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã kịp thời nhận định: Sơ hở để xảy ra thương vong, mất người có thể dẫn tới tình huống xấu. Ta phải sẵn sàng chuẩn bị phương án 2 để đánh địch trong trường hợp có phòng ngự dự phòng. Song trước mắt cần tiếp tục theo dõi và tiếp tục chuyển lệnh đôn đốc các đơn vị thực hiện kế hoạch đã đề ra. Vì đến ngày 4 tháng 3, theo trách nhiệm hiệp đồng, các đơn vị phải lần lượt tiến ra cắt đứt giao thông trên các đường 19, 21 và 14, chia cắt chiến lược và chiến dịch đối phương.

Tiếp theo, ngày 8 tháng 3 ta chiếm quận lỵ Thuần Mẫn ở phía bắc và ngày 9 tháng 3 tiến công quận lỵ Đức Lập ở phía nam Buôn Ma Thuột.

Cũng trong thời gian đó, trên tất cả các hướng tiến công Buôn Ma Thuột bộ đội phải vào vị trí tập kết cuối cùng.
Cuộc tiến công tạo thế bắt đầu.

Mở đầu cuộc tiến công tạo thế, trước hết nhằm nghi binh lừa địch thu hút sự chú ý của địch về hướng Bắc Tây Nguyên, tạo điều kiện thực hành đánh chia cắt. Ngày 1- 3, Sư đoàn 968 đã sử dụng pháo binh bắn vào thị xã Plâyku, sử dụng lực lượng bộ binh tiến công các vị trí "Chốt Mỹ", "Đồn Tâm" của địch trên đường số 19 kéo dài (tây Plâyku), đánh chiếm dãy Chư Ka Ra, Chư Gôi, 605 uy hiếp quận lỵ Thanh Bình, Thanh An (tây nam Plâyku). Tiếng pháo nổ, dường như báo hiệu một cuộc tiến công lớn sắp bắt đầu vào thị xã Plâyku.

Ở hướngKon-tum, tiến hành các trận đánh nhỏ, làm đường, làm trận địa pháo, huy động dân công rầm rộ, một bộ phận lực lượng khác đánh trên đường số 14 ở đoạn giữa Kon Tum và Plâyku.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #564 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2013, 10:38:47 am »

Trích dẫn
...Những hoạt động trên của Sư đoàn 968 được tiến hành rầm rộ với ý định đánh lừa quân địch gây cho chúng hiểu lầm là ta đã mở đầu chiến dịch trên hướng Plâyku.

Khi Sư đoàn 968 bắt đầu tiến công đánh thật mà là thật giả, nghĩa là vẫn dùng pháo lớn như đánh thật, nhưng chỉ tiến công vào một số cứ điểm nhỏ) vào vùng ven thị xã Plâyku thì tại sở chỉ huy Quân khu 2, tướng Phạm Văn Phú đã triệu tập cuộc họp khẩn cấp với Bộ tham mưu Quân khu để nhận định tình hình. Trong cuộc họp đã diễn ra cuộc tranh luận căng thẳng. Đại tá Trịnh Tiêu, trưởng phòng 2 của địch nêu ý kiến "Tiến công vào Plâyku và Kon Tum chỉ là đòn nghi binh. Ý định thực sự của đối phương là sẽ đánh vào Buôn Ma Thuột" Phú đã hoài nghi ý kiến đó. Nhưng cuối cùng Phú đồng ý cho thêm một Trung đoàn nữa về Buôn Ma Thuột (Erann Snepp) (Khoảng cách thời gian vừa phải -tập 2 - trang 371).
Phú đã ra lệnh cho Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, tư lệnh biệt động quân và các viên chức khác: "Sẵn sàng đối phó với cuộc tiến công vào Plâyku”.

Cuộc tiến công nghi binh dồn dập của Sư đoàn 968 đã gây áp lực nặng hơn trên hướng tây nam thị xã Plâyku, buộc địch phải tung liên đoàn biệt động quân số 23 ra để đối phó.

Trong lúc đó Trung đoàn 53 lùng sục phía bắc Buôn Ma Thuột vẫn không tìm thấy gì. Còn Trung đoàn 45 sau hơn 10 ngày lùng sục ở tây đường số 14 vẫn không phát hiện được Sư đoàn 320 ở Ea H'leo, thì được tin Sư đoàn này (sư đoàn320) (?) lại xuất hiện và đang tiến công vào hướng tây thị xã Plâyku. Không dấu nổi bực tức, Phạm Văn Phú ra lệnh đưa ngay Trung đoàn 45 về để tăng sức chống đỡ ở hướng tây thị xã. Sáng ngày 3 tháng 3, Trung đoàn 45 nguỵ đã vội vã từ Ea H’leo hành quân về lại phía tây thị xã Plâyku. Với việc địch điều Trung đoàn 45 từ phía nam về Plâyku chứng tỏ đòn nghi binh của ta đã đạt kết quả. Quân địch đã lún sâu vào sai lầm.

Thời cơ đánh tạo thế chia cắt đã đến.

Ngày 4 tháng 3 tiến ra cắt đường số 19, trên đoạn phía đông thị xã Plâyku.

Từ sáng đến trưa ngày 4-3. Trung đoàn 95A đã tiêu diệt một loạt các vị trí địch, trong đó có căn cứ Adun do một tiểu đoàn Bảo an chiếm đóng. Trong ngày 4 tháng 3, Trung đoàn 95A đã làm chủ một đoạn đường 20km (từ Plâyku đến ấp Phù Yên, cắt đứt đường số 19 ở đông Plâyku).

Cùng ngày Sư đoàn 3 (thiếu) Quân khu 5 cũng đã khắc phục rất nhiều khó khăn, ra cắt đường số 19 trên đoạn Thượng Giang - Bình Khê, Sư đoàn 3 đã tiêu diệt một loạt các vị trí: nam Cây Rui, Chóp Nón, Hòn Kiềng, Cột Cờ, Truông Ổi, Che Chẻ, Đối Đá, Lăng Mai Xuân Thưởng. . . Trong ngày 4 tháng 3, Sư đoàn 3 đã cắt đứt đường số 19.

Về các trận đánh trong ngày 4 tháng 3 trên đường 19, Hãng thông tấn AP đưa tin: "Đường 19, con đường tiếp tế chủ yếu cho Tây Nguyên bị cắt đứt. Các trận đánh tập trung ở Lệ Trung, phía đông Plâyku 16km và Bình Khê, phía tây Quy Nhơn 40km. Nhiều vị trí từ Lệ Trung đến Bình Khê đã bị tiến công mất liên lạc điện đài. Một căn cứ pháo 105mm ở tây bắc Bình Khê đã bị đánh tràn vào” (AP ngày 05-3-1975).

Thế là trong ngày 4 tháng 3, việc giao thông của địch trên đường số 19 đã bị gián đoạn hoàn toàn.

Để đối phó lại, địch điều thiết đoàn 3 và liên đoàn biệt động quân số 4 ra đông Plâyku phản kích Trung đoàn 95A ở phía đông. Đồng thời, địch điều Sư đoàn 22 từ phía bắc Bình Định vào đường số 19 để đối phó với Sư đoàn 3.

8 giờ sáng ngày 4 tháng 3, tại sở chỉ huy, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã nhận định tình hình: "Đường số 19 đã bị khoá chặt, đại bộ phận chủ lực của địch vẫn bị thu hút ở Bắc Tây Nguyên. Tình hình ở thị xã Buôn Ma Thuột vẫn như cũ. Ta đã giữ được bí mật, chủ động điều địch hành động theo ý muốn của ta. Lực lượng chiến dịch đã triển khai xong thế bao vây chia cắt địch. Thế ban đầu đã tạo thời cơ rất thuận lợi cho chiến dịch mở đầu. Tuy nhiên, cần phải có biện pháp xử trí với Trung đoàn 53 ở Mê Van (bắc Buôn Ma Thuột)"

Từ nhận định đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm "đánh địch theo phương án địch không có phòng ngự dự phòng ở thị xã Buôn Ma Thuột".

Quyết tâm trên đây đã được Đại tướng Văn Tiến Dũng, đại diện Bộ Tổng tư lệnh phê chuẩn. Đồng chí nhắc nhở Bộ Tư lệnh chiến dịch về các biện pháp giữ bí mật bất ngờ. Đồng thời, đồng chí cũng đã chỉ thị cho Quân khu 5 đôn đốc Sư đoàn 3 tích cực hoạt động.

Để thực hiện quyết tâm trên, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã tiến hành các biện pháp cấp thiết sau:

- Đôn đốc Sư đoàn 968 hoạt động tích cực. Từ 4 tháng 3 đến 9 tháng 3, Sư đoàn 968 được sử dụng thêm đạn pháo bắn vào Kon Tum, Plâyku, kết hợp với nghi binh kiềm giữ khối chủ lực địch ở lại Bắc Tây Nguyên.

- Ra lệnh cho Sư đoàn 320 vẫn tiếp tục giữ bí mật, đồng thời, sẵn sàng cắt đường số 14 khi có lệnh, đưa Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 9 ra phục kích trên đường số 14 ở đoạn nam cầu Eahơleo.

- Ra lệnh cho Sư đoàn 316, đêm 4 tháng 3 cho Trung đoàn 149 vượt đường số 14 (đoạn tây Cầu Sê-rê-pók) để vào nam thị xã Buôn Ma Thuột như kế hoạch đã định.

- Ra lệnh cho Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 24 chuẩn bị đánh địch ở Mê Van.

Thực hiện mệnh lệnh trên đây, các đơn vị đã triển khai nhiệm vụ theo đúng kế hoạch bổ sung.

Ngày 5 tháng 3, bộ phận tuần tra của địch nhặt được một quyển nhật ký của một đồng chí thiếu uý thuộc Trung đoàn 149. Trong nhật ký có ghi: "Đêm 4, vượt đường số 14 vào thị xã Buôn Ma Thuột” Quân nguỵ đã mang quyển nhật ký đó về Gia Nghĩa (?) để nghiên cứu.

Cũng sáng ngày 5 tháng 3, Trung đoàn 25 đã tiến ra cắt đường số 21 trên đoạn Chư Xuê. Con đường quan trọng thứ hai nối từ Nha Trang - Ninh Hoà lên Buôn Ma Thuột, từ đồng bằng với Tây Nguyên đã bị gián đoạn.

Những hiện tượng đó đã làm cho địch thấy rõ Buôn Ma Thuột bị rơi vào tình thế cô lập.

"Tuy có chú ý đến những dấu hiệu về sự chuyển quân không bình thường của Bắc Việt ở phía tây và bắc Buôn Ma Thuột, nhưng tôi không có dự kiến Cộng sản sẽ tìm cách cắt đứt đường sá trong khu vực và cô lập thành phố. Tuy nhiên không phải chỉ mình tôi nghĩ như vậy, mà cả DAO và các bạn đồng nghiệp CIA của tôi ở Mỹ cũng đều tập trung vào Plâyku - Kon Tum, mà không nói gì đến Buôn Ma Thuột" như Franh Suepp - chuyên viên tình báo chiến lược CIA ở Sài Gòn - DAO cơ quan tình báo Mỹ đã thừa nhận.

Tuy cơ quan tình báo Mỹ cho là như vậy, nhưng Phạm Văn Phú vẫn quyết định cử đại tá Vũ Thế Quang, phó Sư đoàn trưởng Sư đoàn 23 về Buôn Ma Thuột với nhiệm vụ mới - tư lệnh Nam Tây Nguyên, chỉ huy toàn bộ lực lượng quân nguỵ từ Đắc Lắk đến Gia Nghĩa, để giải quyết tình hình. Đồng thời địch chỉ thị cho đồn Chư M'nga (bắc Buôn Ma Thuột 12km) để phòng bị pháo kích. Ra lệnh cho Trung đoàn 53 và 1 tiểu đoàn bảo an tiếp tục lùng sục ở bắc thị xã.

16 giờ ngày 5 tháng 3, đoàn xe 15 chiếc chở bộ phận của Vũ Thế Quang trên đường từ Plâyku về Buôn Ma Thuột đã bị Trung đoàn 9 ta tiêu diệt 8 xe, 7 chiếc còn lại tháo chạy về Plâyku, trong đó có Vũ Thế Quang.

Điều trở ngại nhất lúc này là đã gần đến ngày đánh vào Buôn Ma Thuột, mà Trung đoàn 53 (thiếu) vẫn tiếp tục lùng sục ở bắc thị xã, gây khó khăn cho việc làm đường, làm trận địa pháo, khu vực tập kết của bộ đội. Do đó trên hướng này có khả năng không thực hiện được khối lượng công trình theo kế hoạch.

Trước tình hình đó, sáng ngày 6 tháng 3, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã nhận định: "Đường số 14, đường số 21, tuy đã xuất hiện một bộ phận lực lượng của ta, nhưng chưa có gì buộc địch phải xử trí lớn. Tuy địch có phát hiện một số chi tiết, nhưng chúng chưa chú ý nhiều, trong mấy ngày tới địch chưa có phản ứng gì lớn. Từ đó Bộ Tư lệnh đi đến quyết định "Kiên trì khôn khéo giữ bí mật đến cùng cho trận đánh ở thị xã theo phương án đã định".

Cũng trong ngày 6 tháng 3, Bộ Tổng tư lệnh đã thông báo: "Trên chiến trường toàn miền, địch vẫn tập trung vào hướng phòng thủ chính là ở Quân khu 1, Sư đoàn dù vẫn còn ở Quân khu 1 , vì lúc này quân đoàn 1 của ta đang áp sát bờ bắc sông Bến Hải. Địch ở Quân khu 4 vẫn đề phòng ta gây sức ép ở đồng bằng, một bộ phận lực lượng của địch ở Quân khu 3 đang lên núi Bà Đen (Tây Ninh), ở Tây Nguyên, Bộ Tổng tham mưu nguỵ và CIA vẫn khẳng định: Hướng đối phó chính của chúng vẫn là Plâyku và Kon Tum. Chúng cho rằng hành động cắt đường số 19, số 14 và số 21 chỉ là hoạt động phối hợp của ta".

Để tạo điều kiện cho các đơn vị ở bắc thị xã hoàn thành công tác chuẩn bị, Bộ Tư lệnh chiến dịch thấy cần thiết phải tìm cách điều Trung đoàn 53 của địch ra đường số 14.

6 giờ ngày 7 tháng 3, Trung đoàn 48 đã tiến công đánh chiếm cao điểm Chư Dsê, tiêu diệt 1 trung đội bảo an của địch. Mất Chư Dsê, đường số 14 bị gián đoạn, Buôn Ma Thuột đã bị chia cắt với Bắc Tây Nguyên.

Ngày 7 tháng 3 qua khai thác tin tức, Phú phán đoán ta chuẩn bị pháo kích vào Buôn Ma Thuột và cũng căn cứ vào những tin tức về dấu vết ta chuẩn bị đánh Đức Lập nên đã cho Vũ Thế Quang đáp trực thăng về Buôn Ma Thuột và cử Quang làm tư lệnh lãnh thổ nam Cao Nguyên Trung Phần. Về đến nơi, Quang đã ra lệnh báo động ở Buôn Ma Thuột và Đức Lập. Đồng thời, ra lệnh cho Trung đoàn 53 trưa ngày 8 tháng 3 kéo về thị xã.

Như vậy, tính đến ngày N thì có thể địch biết được ý định tiến công của ta trước hai ngày. Tuy nhiên chúng chưa hẳn đã phán đoán được qui mô lực lượng và hình thức tác chiến của ta, hơn nữa nếu có biết thì cũng là quá muộn.

Thế trận của ta đã dần trói chặt chúng lại rồi.

Thế trận đã bày, các cửa ra vào đã khoá chặt, quân ta trong tư thế chủ động đàng hoàng, có khả năng đánh ngăn chặn bất kỳ lực lượng nào của địch định cơ động trên các đường số 14, 19 và 21. Để mở rộng khu vực, tạo thêm thời cơ thuận lợi và rảnh tay khi đánh Buôn Ma Thuột, Bộ Tư lệnh ra lệnh tiến công tiêu diệt cứ điểm Cẩm Ga (tức quận lỵ Thuần Mẫn)..
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #565 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2013, 10:40:02 am »

Trích dẫn
...Thuần Mẫn là một quận lỵ nằm trên ngã ba đường 14 và tỉnh lộ số 7B đi Cheo Reo (thị xã của tỉnh Phú Bổn). Thuần Mẫn cách Buôn Ma Thuột về phía bắc khoảng 120km và cách Plâyku về phía nam khoảng 82km. Quận lỵ do 1 tiểu đoàn bảo an chiếm giữ ở cứ điểm Cẩm Ga.

Sau khi nhận mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch, Sư đoàn trưởng Kim Tuấn một Sư trưởng chấp hành mệnh lệnh rất nghiêm và rất trung thực. Sư đoàn 320 đã ra lệnh cho Trung đoàn 48 đang hoạt động ở khu vực đường số 14, ngay trong đêm 7 tháng 3 vào chiếm lĩnh trận địa.

Đúng 6 giờ ngày 8 tháng 3, Trung đoàn 48 với một bộ phận pháo cơ giới gồm 3 khẩu pháo 85 ly, được tăng cường 2 khẩu pháo 105mm đã nổ súng tiến công quận lỵ Thuần Mẫn. Sau hơn một giờ chiến đấu, Trung đoàn 48 đã tiêu diệt phần lớn quân địch và chiếm được quận lỵ. Tuy nhiên, do ta bao vây không chặt nên đã để địch chạy thoát một số, trong đó có tên quận trưởng. Cùng với trận cẩm Ga trong ngày 7 tháng 3 là trận Chư Sê ta đã tiêu diệt nhanh gọn quân địch. Đây là hai trận đánh không nằm trong kế hoạch trong thời gian này.

Thuần Mẫn bị đánh chiếm, đường số 14 càng bị gián đoạn nghiêm trọng. Về phía địch, chúng hiểu được ngay là Sư đoàn 320 đã đánh trận Thuần Mẫn. Do vậy, chiều 8 và sáng ngày 9 tháng 3 địch đã dùng máy bay chở liên đoàn biệt động quân số 21 từ bắc Tây Nguyên đổ xuống sân bay Hoà Bình và đưa lên Buôn Hồ (nam Thuần Mẫn 30km) để bảo vệ phía bắc thị xã Buôn Ma Thuột.

Ở thị xã Buôn Ma Thuột, Vũ Thế Quang đã ra lệnh báo động, rút Trung đoàn 53 về phòng thủ thị xã và đưa một tiểu đoàn của Trung đoàn này xuống tăng cường cho Đức Lập.

Như vậy, Trung đoàn 53 đã rút khỏi Mê Van đúng theo ý muốn của ta, tạo điều kiện cho cánh quân phía bắc nhanh chóng hoàn thành mọi công tác chuẩn bị còn lại của chiến dịch. Nhưng một khó khăn mới đã nảy sinh, đó là việc địch đã tăng thêm 1 Trung đoàn nữa về Buôn Ma Thuột. Tình huống mới đó bắt buộc Bộ Tư lệnh chiến dịch phải tính toán đến. Tuy đường bộ đã bị cắt đứt, nhưng địch vẫn còn sử dụng được các sân bay để vận chuyển quân. Việc đánh phá các sân bay, do vậy là vấn đề cấp thiết phải được giải quyết ngay. Bộ Tư lệnh ra lệnh cho Tiểu đoàn pháo 33 đang bố trí ở đông bắc Plâyku bắn phá mãnh liệt vào sân bay Cù Hanh (Plâyku). Chấp hành lệnh trên, Tiểu đoàn 33 đã đánh rất trúng, phá hỏng đài không lưu vào đường băng sân bay Cù Hanh.

Đối với sân bay Hoà Bình (Buôn Ma Thuột ), Bộ Tư lệnh ra lệnh cho cụm pháo 675 ở phía tây bắc thị xã, đưa 1 tiểu đoàn pháo nòng dài vào chiếm lĩnh trận địa bắn lâm thời, sẵn sàng bắn vào sân bay khi địch đổ quân.

Một nguyên nhân nữa khiến địch có thể rút bớt lực lượng ở Bắc Tây Nguyên là do lúc này Sư đoàn 968 đã giảm cường độ hoạt động ở Kon Tum và Plâyku. Vì vậy, Bộ Tư lệnh đã ra lệnh cho Sư đoàn 968 phải tăng cường độ hoạt động mạnh hơn, bằng cách cắt đứt đường số 14 ở phía giữa Plâyku - Kon Tum (khoảng cách này độ 40km) và tiếp tục bắn phá hai thị xã đó.

Nhìn chung quá trình điều khiển chiến dịch, thế trận của ta đã hình thành: đánh chia cắt tốt, cài thế bao vây chắc, hoạt động nghi binh khôn khéo, thu hút được địch về hướng Kon Tum -Plâyku, giữ được chân chúng ở đó lại có sáng kiến đánh hai trận ngoài kế hoạch thành công nhanh gọn. Kết quả trên đã tạo ra thời cơ rất thuận lợi cho chiến dịch. Điều kiện thực hiện tiến công chín muồi sắp đến.

Theo kế hoạch Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm tiến công quận lỵ Đức Lập vào rạng sáng ngày 9 tháng 3 và sẵn sàng tiến công thị xã Buôn Ma Thuột vào ngày 10 tháng 3 (ngày N) theo phương án 1 (phương án địch không có lực lượng tăng cường phòng ngự dự phòng)

Ngoài ý nghĩa dứt điểm để có thể cơ động lực lượng sớm cho Buôn Ma Thuột, trận đánh Đức Lập còn có ý nghĩa bảo đảm hành lang cho các lực lượng khi tiến công vào hướng nam Buôn Ma Thuột, và trước hết là nhằm thu hút thêm sự chú ý của địch vào Đức Lập để đảm bảo tính bất ngờ cao nhất cho trận đánh then chốt ở thị xã Buôn Ma Thuột, hơn nữa còn dự kiến làm bàn đạp tiến công trong trường hợp phải đánh địch có phòng ngự dự phòng.

Vì vậy đêm 8 tháng 3 dưới sự chỉ huy của sư đoàn trưởng Hồ Đệ và chính uỷ Lã Ngọc Châu, Sư đoàn 10 hành quân vào chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công. Đội hình Sư đoàn phải vượt qua nhiều địa hình phức tạp, vượt qua những cánh đồng trống trải, những cánh rừng cà phê, phải thận trọng vòng qua hệ thống "ấp chiến lược" dày đặc bảo an, dân vệ và mìn trên dọc đường để tới nơi tập kết an toàn.

Trên hướng Đức Lập, quân ta hoàn thành công tác chuẩn bị tương đối tốt, các lực lượng đã sẵn sàng chờ lệnh triển khai tiến công địch.

Đức Lập là quận lỵ nằm sát biên giới Việt Nam - Campuchia về phía tây nam thị xã Buôn Ma Thuột, khoảng hơn 50km.

Quận lỵ gồm các vị trí: Căn cứ 23 do Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 53 và 1 chi đoàn thiết giáp đóng. Căn cứ Núi Lửa do 1 tiểu đoàn bảo an đóng, sở chỉ huy khu (quận lỵ Đức Lập) và đồn Đắc Xắc. Ngoài ra về phía nam, trên ngã ba đường số 14 và đường đi thị xã Gia Nghĩa còn có các căn cứ Đắc Song.

Quận lỵ Đức Lập nằm trên đường số 14, án ngữ đến tận sát biên giới. Do vậy, đường chiến lược Hồ Chí Minh (14B) nối từ Tây Nguyên vào Nam Bộ, đến đoạn này phải vòng sang đất Campuchia.

Theo yêu cầu của chiến lược, việc giải phóng quận lỵ Đức Lập, chiếm đường số 14 ở đoạn này để nối tiếp đường chiến lược vào Lộc Ninh đang trở thành yêu cầu hết sức cấp thiết. Việc giải phóng Đức Lập, do vậy là nhiệm vụ rất quan trọng mà chiến lược đã giao cho chiến dịch.

Về mặt chiến dịch, giải phóng Đức Lập có tác dụng uy hiếp trực tiếp Buôn Ma Thuột từ hướng tây nam. Việc đánh Đức Lập trước là nhằm bảo đảm thuận lợi cho trận đánh then chốt Buôn Ma Thuột, nên khi thảo luận phương án tác chiến chiến dịch, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên đã cân nhắc, thảo luận kỹ lưỡng và được đại diện Bộ Chính trị và Bộ Tổng tư lệnh phê chuẩn. Nếu ta tiêu diệt nhanh quân địch ở Đức Lập, ngoài việc tạo cho bộ chỉ huy chiến dịch sớm có lực lượng sẵn sàng tăng cường cho Buôn Ma Thuột, bảo đảm hành lang cho các lực lượng tiến công ở hướng nam Buôn Ma Thuột, mà còn nhằm thu hút thêm sự chú ý của địch về hướng Đức Lập để bảo đảm bất ngờ cao nhất cho trận đánh then chốt vào thị xã Buôn Ma Thuột.

Mục tiêu Đức Lập, do vậy vừa có ý nghĩa về mặt chiến lược vừa có ý nghĩa về mặt chiến dịch, đặc biệt trong trường hợp địch phòng ngự dự phòng thị xã Buôn Ma Thuột.

Nhiệm vụ đánh chiếm Đức Lập, được Bộ Tư lệnh chiến dịch giao cho Sư đoàn 10 đảm nhiệm.

Chiều 8 tháng 3 sau khi kiểm tra lại tình hình thấy Sư đoàn 10 đã hoàn thành mọi công tác chuẩn bị tấn công, đồng thời, các lực lượng tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột cũng đã sẵn sàng trong tư thế chuyển sang tiến công, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã hạ quyết tâm: "Tiến công Đức Lập".

Hồi 5 giờ 35 phút ngày 9 tháng 3, Sư đoàn 10 (thiếu Trung đoàn 24) bắt đầu tiến công vào quận lỵ. Sau đòn hoả lực chuẩn bị, 15 khẩu pháo của Sư đoàn dồn đập nã những loạt đạn chính xác vào căn cứ hành quân Sư đoàn 23 nguỵ, căn cứ Núi Lửa và quận lỵ Đức Lập. Phối hợp với pháo binh Sư đoàn, các trận địa pháo của Trung đoàn 28 và Trung đoàn 66 cũng tới tấp trút đạn xuống căn cứ địch. Sau 90 phút bắn phá liên tục của pháo binh ta vừa ngừng, bộ binh ta lập tức được lệnh tiến công. Trung đoàn 66 đã đột kích vào căn cứ 23, đến 8 giờ 30 phút đã tiêu diệt quân địch và chiếm xong Căn cứ 23. Cùng lúc, ở phía tây Trung đoàn 28 cũng đã đánh xong Căn cứ Núi Lửa. Tiếp đó Sư đoàn 10 đã tổ chức tiến công vào chi khu (quận lỵ Đức Lập ). Quân địch trong căn cứ đã lợi dụng công sự và xe thiết giáp đặt âm dưới đất (đây là thiếu sót do trinh sát điều tra chưa kỹ) nhờ đó chúng chống trả quyết liệt, khiến ngày hôm đó Sư đoàn 10 không đánh chiếm xong, phải tạm ngừng lại

Đêm hôm đó các hãng thông tấn phương Tây đã đưa tin "Việt Cộng đã phải chật vật với 2000 quân Sài Gòn có công sự vững chắc, ba trận địa pháo và mấy chục thiết giáp, xe tăng”.

Ngày 9 tháng 3, trong khi chiến sự đang diễn ra quyết liệt ở Đức Lập, thì Phạm Văn Phú đáp trực thăng về Buôn Ma Thuột gặp đại tá Vũ Thế Quang, tư lệnh nam Cao Nguyên và đại tá Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trưởng Đắc Lắc.

Địch hoang mang, khẳng định, rồi lại hoang mang, khẳng định. Cho đến tận ngày 9 tháng 3, một ngày trước khi ta đánh vào Buôn Ma Thuột, khi các cỡ súng của Sư đoàn 320 đã nổ giòn và làm chủ Thuần Mẫn, thì Buôn Ma Thuột cái thành phố lớn nhất cao nguyên thực tế đã ở trong tình thế cô lập hoàn toàn mà viên tướng tư lệnh quân đoàn 2 - Quân khu 2 Phạm Văn Phú từ Nha Trang bay lên vẫn ở trong một tâm trạng như thế.

Đáng buồn nhất là cho đến phút ấy ông ta vẫn "Moa khẳng định Pleiku, mặc dù các dấu hiệu về Buôn Ma Thuột đã khá rõ và các biện pháp đối phó chỉ là xác nhận đại tá Vũ Thế Quang là tư lệnh lãnh thổ nam Tây Nguyên (bao gồm Daklac, Quảng Đức) và hứa sẽ cho Liên đoàn biệt động quân số 21 và một thiết đoàn về cùng với Trung đoàn bộ binh 53 nống ra vòng ngoài ngăn chặn quân giải phóng, giữ an cho Buôn Ma Thuột. Và để cho hết trách nhiệm tư lệnh Quân khu, Phú dặn thêm:

- Tổng thống nói rằng, nơi nào bị đánh thì gắng mà giữ lấy 3 tháng. Ba tháng thôi, vì hiệp định Ba Lê sẽ họp lại, cố mà giữ mà mặc cả, ông Quang. (Chú thích: 1 Biên bản lời khai của các sĩ quan nguỵ - lưu trữ Học viện quốc phòng)

Thực hiện ý định của Phú, Quang đã đưa liên đoàn biệt động 21 từ Buôn Hồ về Đạt Lý (đông bắc thị xã 10km). Chiều 9 tháng 3, Quang điều tiểu đoàn bảo an 224 từ Bản Đôn về để tăng cường cho phía nam thị xã. Đồng thời, Quang rút 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 53 về để giữ khu vực sở chỉ huy Sư đoàn 23.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #566 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2013, 10:41:03 am »

Trích dẫn
...Sáng 10 tháng 3, Sư đoàn 10 đã tổ chức lại lực lượng, tiến công lần thứ 2 vào chi khu Đức Lập. 6 giờ 05phút, pháo của ta trên đồi Nhà Thờ nổ súng bắn vào các lô cốt công sự vòng ngoài quận lỵ. Máy bay địch đến ném bom, bắn phá vào trận địa pháo của ta, nhưng đã bị các chiến sĩ cao xạ Trung đoàn 234 đánh trả quyết liệt, buộc chúng phải bay vọt lên cao cắt bom bừa bãi, có quả rơi cả vào quận lỵ.

Đến 7 giờ 30, các Tiểu đoàn 2, 8, 9 bắt đầu mở cuộc tiến công mới. Được hoả lực chi viện đắc lực và có sự hiệp đồng chặt chẽ, các mũi tiến công của ta phát triển khá nhanh, đè bẹp mọi sự kháng cự của địch. Tới 8 giờ30 phút, quân ta hoàn toàn làm chủ quận lỵ.

Kết quả Sư đoàn đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch trong đó có cả tên trung tá quận trưởng. Chiều 10 tháng 3 Sư đoàn tiếp tục chiếm căn cứ Đắc Xắc và giải phóng luôn Đắc Song.

Sau 2 ngày chiến đấu, Sư đoàn 10 đã giải phóng quận lỵ Đức Lập, tiêu diệt toàn bộ quân địch, bắt sống 100 tên, thu 4 khẩu pháo và 20 xe tăng, thiết giáp. Sư đoàn 10 đã hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Đức Lập, song về thời gian tác chiến đã bị chậm mất 1 ngày so với kế hoạch. Tuy nhiên điều này cũng vẫn nằm trong giới hạn cho phép của kế hoạch.

Phối hợp với đòn tiến công quân sự, huyện uỷ đã chỉ đạo các đội công tác bám sát phát động quần chúng nổi dậy làm chủ quận lỵ và các xã ấp, xoá bỏ tề nguỵ giành quyền làm chủ. Đến cuối ngày 10 tháng 3, ta đã giải phóng hoàn toàn quận Đức Lập.

Trong ngày 10 tháng 3, tuy ta chưa chiếm hết các mục tiêu ở Đức Lập, nhưng Bộ Tư lệnh chiến dịch đã kiên quyết điều động một bộ phận lực lượng và phương tiện của Sư đoàn 10 nhanh chóng chuyển về phía đông thị xã Buôn Ma Thuột để sẵn sàng đánh phản đột kích của dự bị quân đoàn địch.

Tôi nhắc Tham mưu trưởng Quốc Thước:

- Nắm chắc lại tình hình cơ động của Trung đoàn 66. Đôn đốc Sư đoàn 10 khẩn trương dứt điểm Đắc Xắc ngay.

Trận đánh của Sư đoàn 10 ở Đức Lập - Đắc Xắc có quan hệ mật thiết đến trận đánh Buôn Ma Thuột và đến tình hình mà tôi vừa nói đến. Phải nhìn rộng ra một chút để thấy rõ vấn đề. Chúng ta có một lực lượng lớn ở Tây Nguyên nhưng trước ngày nổ súng, toàn bộ lực lượng này đã được đưa vào lập thế chiến dịch với các nhiệm vụ: nghi binh sư đoàn 968), chia cắt (Sư đoàn 320, Trung đoàn 95A), đánh thị xã Buôn Ma Thuột (Sư đoàn 316, Trung đoàn 95B, Trung đoàn 271). Khi chiến dịch bắt đầu thì ba sư đoàn và ba Trung đoàn độc lập phải đảm nhiệm một chính diện tiến công 200km và một chiều sâu phát triển 100km (theo dự kiến ban đẩu) ở hướng Nam Tây Nguyên, hướng chủ yếu của chiến dịch; và một Sư đoàn cùng với một Trung đoàn độc lập phải đảm nhiệm một chính diện 300km ở hướng bắc vừa để bảo vệ vùng giải phóng rộng lớn vừa tham gia tiến công phối hợp. Guồng máy đã được sử dụng hết công suất. Vào đúng lúc đó, lực lượng dự bị có trong tay chúng tôi chỉ còn một Trung đoàn (trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn bộ binh 10), nhưng cũng chỉ là trên danh nghĩa vì Trung đoàn này đã phải rút ra một tiểu đoàn đảm nhiệm mũi thọc sâu trong trận Buôn Ma Thuột và một tiểu đoàn nữa làm dự bị cho Sư đoàn 10.

Một lực lượng dự bị chiến dịch như thế là quá mỏng! Để khắc phục tình trạng này, đã có dự kiến đưa Sư đoàn 10 ngay sau khi giải quyết xong Đức Lập ngày 9 tháng 3,về đứng chân phía đông bắc Buôn Ma Thuột làm dự bị. Nhưng tình huống chiến đấu không suôn sẻ đã khiến Sư đoàn này cho đến sáng hôm sau, ngày 10 tháng 3 mới dứt điểm Đức Lập và hiện đang phát triển vào mục tiêu cuối cùng là ngã ba Đắc Xắc.

Suốt cả ngày 9 tháng 3, chúng tôi có mặt ở sở chỉ huy theo dõi các động thái của địch và nhất là các hành động của bộ đội ta.

Một mặt các hành động ấy là cuộc tiến công của Sư đoàn 10 vào Đức Lập, một cuộc tiến công theo kế hoạch sẽ diễn ra nhanh gọn (chúng tôi rất tin khả năng của Sư đoàn này) nhưng đã không được như thế vì vấp phải hoả lực bất ngờ của những xe tăng địch đặt ngầm dưới mặt đất.

Mặc dù trận đánh ở đó vẫn còn đang tiếp diễn, chúng tôi vẫn quyết định điều lực lượng cao xạ ở hướng này về Buôn Ma Thuột để làm nhiệm vụ phòng không cho trận đánh then chốt ngày mai. Ngày mai, nếu Sư đoàn 10 vẫn chưa giải quyết xong Đức Lập thì đương nhiên máy bay địch cũng sẽ tập trung hết về Buôn Ma Thuột, đó là điều thấy trước được.

Một mặt các hành động ấy là những bước chuẩn bị cuối cùng của các đơn vị sẽ tiến công thị xã Buôn Ma Thuột. Vào lúc 14 giờ, trực ban tác chiến báo cáo với Bộ Tư lệnh về kết quả chuẩn bị của từng đơn vị.

Tiểu đoàn 4 trên hướng thọc sâu phía tây, xong.

Trung đoàn 95B trên hướng đông bắc, xong.

Trung đoàn 149 trên hướng đông nam, xong.

Trung đoàn 148 trên hướng tây bắc, xong.

Trung đoàn 174 trên hướng tây nam, xong.

Xe tăng, pháo binh, cao xạ, xong.

Đặc công, xong.

Các đơn vị bảo đảm, xong.

Dự bị, xong.

Sử dụng đặc công trong trận này cũng có những điểm phát triển. Sử dụng đặc công có tính chất bộ binh. Đặc công đánh sân bay để mở cửa cho bộ binh và được trang bị phối thuộc cả A72 (tên lửa phòng không vác vai). Trung đoàn 95B của Sư 325 quân đoàn 2 được tăng cường cho chiến dịch ở hướng chủ yếu tiến công vào Ngã sáu trong thị xã Buôn Ma Thuột.

Đồng chí trực ban tác chiến vừa báo cáo vừa nhìn tôi từ bên phải như có ý dò hỏi, hay sợ tôi nghe không rõ? Không, tôi vẫn chú ý nghe đồng chí đấy chứ, và tôi biết rằng mọi việc tất nhiên phải như thế, đồng chí hiểu không? Xoay người lại, tôi nói:

- Đồng chí trực ban, đồng chí cho kiểm tra lại phương tiện thông tin đi các hướng. Nhắc giữ nghiêm chế độ liên lạc theo giờ. Và yêu cầu cơ yếu sẵn sàng mã dịch ngay bức điện gửi cho Sư đoàn 316. Hỏi xem phiên liên lạc cuối cùng với Sư đoàn là mấy giờ?

Tôi muốn nói phiên liên lạc cuối cùng bằng máy vô tuyến điện 15W trước khi đơn vị này bước vào triển khai chiếm lĩnh.
Đúng, chúng tôi đã dành cho Sư đoàn mối quan tâm đặc biệt. Đương nhiên vì nó là đơn vị được giao nhiệm vụ đánh trận mở đầu chiến dịch, lại là trận mở đầu có ý nghĩa then chốt. Hơn thế, nó còn những nguyên nhân sâu xa để chúng tôi càng phải quan tâm.

Sư đoàn 316 là một trong những Sư đoàn được thành lập sớm của quân đội ta. Không còn nghi ngờ là Sư đoàn đã lập được nhiều chiến công vẻ vang qua hai cuộc kháng chiến và hiện nay nằm dưới sự chỉ huy của một Anh hùng quân đội - Đại tá Đàm Văn Nguỵ. Tên tuổi của nó gắn liền với núi rừng Tây Bắc, Việt Bắc và Thượng Lào. Nhưng đây là lần đầu tiên nó đương đầu với một đối tượng khác hẳn trên một chiến trường mới lạ. Đó là điều khiến chúng tôi băn khoăn.
Phải nhận rằng lúc đầu cũng đã có ý định để Sư đoàn 316 đánh Đức Lập - một mục tiêu ít khó khăn hơn và chuyển Sư đoàn 10, một Sư đoàn thiện chiến trên chiến trường Tây Nguyên đánh trận then chốt Buôn Ma Thuột. Nhưng bởi vì Sư đoàn 316 được bổ sung cho chiến trường hơi muộn trong khi Sư đoàn 10 đã hoàn thành nhiệm vụ trinh sát vị trí Đức Lập (vốn là mục tiêu chủ yếu trong thiết kế ban đầu của chiến dịch) nên sự thay đổi này sẽ khiến ngày mở màn chiến dịch phải lùi sâu hơn nữa. Điều đó không được.

Chúng tôi hạ quyết tâm để Sư đoàn 316 đánh Buôn Ma Thuột và tự thấy trách nhiệm phải quan tâm đến đơn vị này nhiều hơn và Sư đoàn này cũng do nhiều cán bộ chỉ huy có nhiều kinh nghiệm chiến đấu đánh Mỹ ở chiến trường miền Đông Nam Bộ đã dày dạn kinh nghiệm chiến đấu như Sư đoàn trưởng Đàm Văn Nguỵ, Sư phó Nguyễn Hải Bằng.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #567 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2013, 10:42:11 am »

Trích dẫn
...Sau khi có phương án tác chiến, tôi và Đại tá Nguyễn Năng cùng với Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền ở Cơ quan đại diện Bộ Tổng tư lệnh đã trực tiếp xuống theo dõi và giao nhiệm vụ hiệp đồng cho Sư đoàn trên sa bàn ở khu huấn luyện Đắc Đam. Với một tinh thần hăng hái và nhạy bén "nghề nghiệp", vượt qua nhiều khó khăn, Sư đoàn đã khiến chúng tôi hoàn toàn tin tưởng. Tuy nhiên, cho đến hôm nay, chúng tôi vẫn phải dành sự quan tâm theo dõi nhiều nhất đến Sư đoàn này, đặc biệt là Trung đoàn 149.

Trung đoàn 149 đảm nhiệm hướng luồn sâu tạo yếu tố bất ngờ nhiều nhất đối với địch, Trung đoàn phải hành quân trên một cung đường xa nhất - hai ngày hai đêm - để đến vị trí tập kết cuối cùng. Vả lại nữa, Trung đoàn sẽ do chính Sư đoàn trưởng dẫn đầu tiến vào vị trí triển khai chiếm lĩnh.

- Báo cáo, phiên điện cuối cùng với đồng chí Đàm Văn Nguỵ là 15g30' - đồng chí trực ban chợt xuất hiện trở lại làm gián đoạn dòng suy tưởng của tôi. Tôi nhìn vào đồng hồ: 14g40'.

- Được đồng chí ghi bức điện sau đây:

"Gửi anh Ba Dân (biệt danh Sư đoàn 316 )

Đêm 9 tháng 3, chiếm lĩnh trận địa đúng thời gian quy định

Sáng 10 tháng 3, nổ súng đúng thời gian quy định

Nắm chắc đơn vị, hiệp đồng chặt chẽ

Bắt đầu hành quân, báo cáo.
Triển khai chiếm lĩnh, báo cáo.

Nổ súng xung phong, báo cáo" (Chú thích: Điện gửi Sư đoàn 316 ngày 9/3/1975 – lưu trữ Sư đoàn 316)

Tôi nhắc thêm: "Ký điện tên tôi và Chính uỷ Đặng Vũ Hiệp”.

Thế trận đã bày xong.

Sư đoàn 320 ở hướng bắc Buôn Ma Thuột chiếm giữ đường 14 và làm dự bị. Trung đoàn 25 cắt giữ đường 21 từ Nha Trang đi Buôn Ma Thuột.

Trong thế trận này đặc biệt ta rất linh hoạt trong nghệ thuật sử dụng "chính - kỳ” trên toàn chiến trường Tây Nguyên. "chính binh và kỳ binh” có sự biến hoá ở giai đoạn đầu được xác định như sau: Sư đoàn 968 được sử dụng có tính chất như một mũi chính binh, nhưng thực chất lại là đánh nghi binh để kẻ địch tưởng rằng ta sẽ tiến công plâyku. Còn Sư đoàn 316, các Trung đoàn 24, 95B và các binh chủng, là chính binh đánh thẳng vào thị xã Buôn Ma Thuột nhưng được sử dụng một cách bí mật mà kẻ địch bị bất ngờ có tính chất như một tập đoàn kỳ binh. Nhưng sau đó khi thế trận đã bắt đầu chuyển hoá thì "chính”, "kỳ" cũng theo nó mà biến hoá theo một cách linh hoạt.

Có thể nói, chính - kỳ là hướng đánh chính, mũi đánh chính và hướng đánh lừa, hướng đánh bất ngờ, mũi đánh bất ngờ làm cho địch mắc sai lầm để nhanh chóng giành thắng lợi. Khi đánh với một quân địch có hoả lực mạnh và sức cơ động cao, bao giờ cũng phải đánh lừa, đánh bất ngờ. Phải nghi binh lừa địch, tạo ra bất ngờ làm cho địch mắc sai lầm. Vu hồi thọc sâu cũng là làm cho địch bị đánh bất ngờ và bị thua nhanh.

Nhân đây xin nói thêm một chút về nghệ thuật "chính - kỳ" của ông cha ta như sau:

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông lần thứ hai(1285), Trần Hưng Đạo đã giải phóng thành Thăng Long một cách nhanh chóng. Thế trận được diễn ra như sau: Trần Quang Khải đã dùng một bộ phận đánh vây hãm Chương Dương để nhử Thoát Hoan ở thành Thăng Long đem đại quân ra cứu Chương Dương. Trên đường từ Thăng Long đến cứu Chương Dương, Thoát Hoan đã bị Trần Quang Khải đánh bại. Trong khi đó, các tướng của ta là Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyền lợi dụng sơ hở của thành Thăng Long, đánh chiếm thành một cách bất ngờ, có tính chất như mũi kỳ binh. Khi Thoát Hoan bị đánh thua, định rút chạy vào thành Thăng Long nhưng thành đã bị quân ta chiếm, nên hắn buộc phải tháo chạy qua sông Hồng. Sau này năm 1798 Quang Trung cũng đại thắng quân Thanh bằng cách khi chính binh đánh ở hướng Hạ Hồi, Ngọc Hồi, thì Đặng Tiến Đông (Đô đốc Long) đánh vu hồi vào hướng Đống Đa, bất ngờ đánh thẳng vào Tây Long Cung, đánh bại Tôn Sỹ Nghị. Đây là mũi kỳ binh góp phần quan trọng cho chiến thắng.

Còn bây giờ là Buôn Ma Thuột, nghệ thuật "chính-kỳ" cũng được áp dụng nhưng với một hoàn cảnh khác và có những nét khác. Hãy chờ đợi xem sao.

Đến lúc này tất cả đã ra quân, hoặc đã sẵn sàng bước vào trận đánh....
Logged

huonghn76
Thành viên
*
Bài viết: 1166


WWW
« Trả lời #568 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2013, 10:50:05 am »

                 Quái !!!Quang Cẩn đánh lấy được hay sao mà vãi đạn như trẻ đí " tướt" thế này Grin Bác Xoan chỉnh tầm cho nhanh bắn ác liệt vào ,QC đã có đồ của em bé làm cờ " chiến thắng " rồi đấy .Bác không nhanh ,nói như lính ngày xưa "Chỉ còn cái nước đi nhặt ống bơ rỉ" Grin
            À mà bác ních hahoi là Hạ Hồi tên một xóm ở giữa trung tâm Hà nội ,chứ không phải là ních HÀ NỘI        
Logged
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #569 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2013, 10:53:47 am »

      À mà bác ních hahoi là Hạ Hồi tên một xóm ở giữa trung tâm Hà nội ,chứ không phải là ních HÀ NỘI        

Hổng phải đâu bác ơi, ổng này có tên là "Hà Hói" - "hắn" hói mờ  Cheesy Cheesy Cheesy.
Các cụ đọc kỹ nhá, bác Xuanxoan có thể lấy được ở đây nhiều thông tin để "tự" giải đáp cho mình đấy.  Wink
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM