bác dongminhkh cho con hỏi 1 tí. cách đây 2 năm con đọc 1 bài báo nói về Việt Nam xụất khẩu cà phê. Đọc mà buồn rười rượi. bài báo nói việt nam là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất nhì thế giới, nhưng 80% phần trăm cà phê thô là hàng kém phẩm chất
. đó giải thích vì sao cà phê ta trên trường thế giới lại có giá thấp như thế
. nó bảo là do kĩ thuật không lạc hậu, trồng trọt không khoa học, etc. Bác Dongminhkh xác nhận cho em với...
Nước mình xuất khẩu cà fê đứng sau Braxin em à ! Thì như đã nói ở trên là do khí hậu cao nguyên với đất đỏ bazan, mùa khô thiếu nước trầm trọng, từ đó hạt cà fê nó đã không được chất lượng (hạt to nhưng nhìn rất thô ), cộng với công nghệ nghiền, sấy của ta cũng chưa được đầu tư nhiều khiến sản phẩm chưa đạt là như vậy.
Chị cũng đã gặp gỡ & trò chuyện với anh Đặng Lê Nguyên Vũ - Tổng giảm đốc cà fê Trung Nguyên thì anh ấy cũng có nói rằng sẽ biến TN thành " Thiên đường cà fê ", kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài này nọ, xây dựng & quy hoạch thành hẳn 1 khu công nghiệp (tức là có thu & mua hợp đồng dài hạn ) nhưng ........tất cả đang chỉ là dự án thế thôi, khổ nhất vẫn là nông dân em ơi !Đúng là Bẩy Thoáng, nghĩ cũng thoáng.
Cà phé ta và cà phé Brasil là hai giống khác nhau, người ta ưu thích cả hai, nên phải trao đổi. Trong ngành cà phé, làm ăn lớn nhất là những nhà sản xuất có thương hiệu, sản xuất bột cà phé pha hay là uống ngay. Brasil có nhiều thương hiệu như vậy, song song với việc bán cà phé thô, nó có nhiều sản phẩm ở các cấp độ gia công khác nhau, như thô sống, rang sẵn để hạt, đã xay, pha sẵn uống liền, đóng chai sẵn. Những hàng họ ấy thường được pha bởi nhiều thứ hạt tự nhiên mới đắt giá. Vậy nên nó mới nhập thô ta về bán tinh, vậy nên tự hào cái nỗi gì. Gà mờ quá, buôn củi về rừng bán cho hổ mà cũng ca được.
Cà phé Nhân Hà Nội tuy thơm ngon, nhưng chỉ hợp khẩu vị thị trường nhỏ, mẹ hát con khen. Hơn nữa công nghệ không thích nghi với việc sản xuất lớn nên không phát triển được. Đấy là đặc trưng của kinh tế tiểu thương, hay ho nỗi gì.
Cà phé ta chất lượng thấp không phải ít nước, chỉ có Dacklac mới ít nước, nhưng cà phé ở đây không ai bảo không ngon như Lâm Đồng Đà Lạt. Chất lượng thấp của ta là thu hái lẫn lộn, phơi tự nhiên sinh ẩm mốc tạp vị, mà tẩy tạp vioj đi thì mất luôn hương tự nhiên, nên chỉ làm được những loại cà phé chế biến chất lượng thấp. Thu hái cả quả xanh, quả thối dẫn đến các quả này khi phơi không đều, thối gây tạp vị thêm.
Bao giờ ta nhập khẩu cà phé Brasil chế biến đem bán thì mới tiến một bước rất dài, mắc dù vẫn là level thấp.
Nông dân anh hùng nhưng cánh nhà nước ươn hèn quá, chế tạp một cái máy tách phân loại hạt cà phé bằng quang điện tử không khó, nhưng nông dân kiếm được hàng chục tỷ đô, về nhì thế giới, anh hùng cái thế, còn cánh được nuôi ăn học đến 40 năm thì ươn hèn đê tiện, lại không biết nhục nhã trước nông dân, còn múa méo beo bẻo.
----------------
Chú họ mình (chung cụ) cũng đóng góp vào sự nhiệp cà phé Việt Nam từ thủa ăn đất nằm sương. Trước đây ở quê mình đất chật người đông, chú lại đông con, nghèo đói quanh năm, KTM vào Dacklac được 30 năm rồi. Lúc ấy làng còn cổ hủ lắm, chú đi là rất nhục, đói đến "bỏ làng mà đi", mà lạ thật, ra Hà Nội cũng là bỏ xứ mà đi, nhưng lại kênh kiệu, cũng vì trước là ăn, sau là danh lợi chứ khác gì.
Khi mới vào, cái chữ đói triền miên ở quê nhà ám gia đình chú lâu lắm. Vừa vào, được một gian nhà nhỏ, rừng rậm ngay sát, thú dữ đầy, có hôm tỉnh dậy gầm giường toàn rắn độc (hiện tượng rắn ngủ đông, tụ tập chỗ tối thành búi). Cái thư đầu tiên chú viết bo pa pa mình (trưởng mà), là báo cáo em đã trồng được 4 ngàn gốc sắn tầu. Buồn cười, cả làng xôn xao vì cái tin đó, ai cũng khen hắn no đủ rồi, lúc đó người ta chỉ mong chữ no đủ, cơm không có mà ăn, đừng lo đến thịt thà, cà phê thì quá ư xa vời.
30 năm trong đó không ít gian truân, nông trường nhà nước làm ăn đì đẹt, lại hoàn đói, ai đời sống trên đất đỏ mầu mỡ như vàng, mỗi nhà mấy ha, mà vẫn ăn gạo sổ, bị chuột chó các loại cấu đầu trừ đuôi, vẫn đói. Rồi khoán, nông trường cho chú nhận đâu 4 ha, nhưng rồi tô cao thuế nặng, mà nước non phân bón bị chuột gặm sạch, cây lớn còi cọc.
Bực chẳng đã, chú chấp nhận vứt đi 10 năm nông trường, đảo ngũ ra khai hoang được 6ha, vốn không, ở đất Dăcklac, không vốn bơm nước thì cây chết hết, đừng nói phân gio và nhân công. Chú trồng dần, ít một, song song với sắn chống đói và cây tạp rừng tự nhiên bán củi, rồi cả nhà làm thuê cho người ta. 30 năm lăn lóc, chú đi trước làng cũ một bước xa, nay đã là nông dân tính đầu vào đầu ra, chứ không còn là loại nông dân cần cù yêu ruộng đồng như đa phân dân làng ngày nay. Rồi mua thêm thuê thêm đất, dựng vợ gả chồng cho con cái, thành một nông trường nhỏ nhỏ, có ô tô máy cày máy bơm. Các loại vỗ ngực là bác học beo bẻo phải ghen tị.
Rồi đến ngày cà phê mạt, bản lĩnh một thương gia của chú càng được rèn thêm, khất nợ chỗ này, vay đắp chỗ kia, bạn bè tương trợ nhau qua cơn nguy khốn. Rồi tính toán chi li giảm từng chút khinh phí, giảm bơm nước tối đa, bỏ công ngắt hoa... giảm phân gio nhưng khoa học sao cho cây chỉ ít ra hoa quả mà vẫn tốt. Rồi như là liều phát điên để giữ công lăn lộn, người ta phá cà phê đi chú vẫn nuôi, bán đồ đạc phương tiện đi mà nuôi, nuôi cà phê để thoả cái chí điên chứ không còn hy vọng.
Để được ngày hôm nay, khi sản lượng cà phé Việt Nam thứ nhì Thế Giới, hàng vạn gia đình là hàng vạn pho sử như thế. Đáng ra các càn bộ nhà nước, nhà khoa học ăn bám phải nhục nhã mà quỳ xuống khâm phục, chứ không phải beo bẻo nói phét được. Thế mới biết những thằng beo bẻo ấy mặt sứa gan lim đến thế nào.