Thôi thì cũng chỉ tại cái món thịt cầy của bác Xuân mà ko ngủ được . Em xin nói leo nữa
. Mỗi vùng có chút gia giảm khác nhau . Có nơi ko dùng mẻ mà dùng bỗng rượu . Có nơi dùng tương chao . Ở làng Phú đô em thấy món chó ..kho . Chẳng thấy mắm tôm mà chấm bằng muối riềng . Ngay như món xào lăn , có nơi cho thêm chút đường . Nơi ninh măng , nơi ninh đu đủ , su su . Có nơi ninh củ chuối .Mấy nhà hàng còn chơi trò câu khách . Nào là rút xương , ninh nước dừa , hầm thuốc bắc . Tựu trung thì cách làm của bác Xuân em thấy ngon nhất .
Riêng món dồi em làm thế vầy xin sư phụ chấm điểm :
Mỡ lòng chó ( nếu thiếu cho mỡ chài , mỡ lá sen của lợn )
Tiết , đậu xanh rang chín , truội vỏ . Lá cúc tần ( đài bi ) non , húng chó , lá mơ dại . Loại lá mơ hôi , lá nhỏ mọc hoang
dân Trung bộ gọi là dây thỏ đ ị t . Lá này cho ít thôi . Một cỗ dồi cho một chét tay .
Bây giờ chỉ là tỉ lệ sao cho dồi ko khô quá , ko béo quá . Các gia vị hòa hợp . Cái này em ko đo đếm mà chỉ là kinh nghiệm .
Em ko cho mắm tôm vì tiết đã mặn . Em ko cho mẻ vì ko thóat được mùi mẻ , ăn như bị thiu . Riềng , sả cho vào thì thật ít vì tinh dầu của chúng cũng ko thóat được . Tốt nhât là để ăm sống .
Luộc hoặc hấp xong , quấn vào mấy thân cây riềng tươi nướng trên than hoa . Nếu ko có điều kiện thì rán to lửa cho chớm vàng .
anh Mực Tàu tả mòn cầy mà làm em ướt bàn phím ! nhưng có chuyện lá thúi địt ( nguyên văn Trung bộ anh nhé ) mà bỏ vào thì hơi lạ vì là đó ngoài em chỉ chữa bệnh, chả thấy ai ăn bao giờ.
mùi thì lá ấy nồng hơn là mơ ( bởi vậy mói có tên ) có một số đặc điêm để phân biệt với lá mơ : lá dài, nhỏ, gân chìm,
không có lông, màu xanh, mỏng, dây leo mảnh bò dưới đất.
còn lá mơ : dày, lá có lông hình tròn hoặc dài, gân nổi rõ, màu tím 1 mặt hoặc xanh , thường bò trên cao ( cái này có lẽ do trồng )