Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 13 Tháng Năm, 2024, 07:05:49 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc đời tôi - Một trăm giờ với Fidel Castro  (Đọc 92202 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #110 vào lúc: 26 Tháng Bảy, 2013, 02:27:13 pm »

Ông có cho rằng những hành động kỳ thị như vậy (đối với người đồng tính) là một biểu hiện của Chủ nghĩa tự tôn nam giới?

Đó là một phạm trù văn hóa... cũng tương tự như những gì đã xảy ra trong cách đối xử với phụ nữ. Tôi có thể bảo đảm chắc chắn với ông rằng Cách mạng Cuba không bao giờ khuyến khích những hành động phân biệt đối xử như vậy. Ngược lại, chúng tôi khuyến khích một cuộc đấu tranh lâu dài chống lại mọi biểu hiện kỳ thị và phân biệt. Liên quan đến phụ nữ, có rất nhiều quan niệm mang tính kỳ thị, thậm chí là những hành động kỳ thị thâm căn cố đế, đã ăn sâu vào suy nghĩ của nam giới, cũng như những gì đã diễn ra với người đồng tính. Đến lúc này, tôi không hề có ý định thanh minh cho mình về tất cả những gì đã diễn ra - tôi thừa nhận trách nhiệm về những gì tôi đã làm. Tất nhiên là khi đó tôi đã có những suy nghĩ khác liên quan tới vấn đề này. Tôi có những quan điểm của riêng mình, và ngay bản thân tôi, theo bản năng tôi cũng phản đối, phải nói là đã, đang, và sẽ luôn phản đối, bất kỳ sự lạm dụng, phân biệt hoặc kỳ thị nào, vì một xã hội được xây dựng trên nềri tảng của sự bất công sẽ sản sinh ra những biểu hiện kỳ thị. Tất nhiên những người đồng tính sẽ càng dễ trở thành nạn nhân của sự kỳ thị. Tại nhiều nơi khác trên thế giới họ còn phải chịu đựng nhiều khó khăn hơn nhiều, nhưng dù sao ở Cuba này, phải công nhận rằng những người đồng tính cũng đã từng là nạn nhân của sự kỳ thị và phân biệt đối xử. Ngày nay, khi người dân đã trở nên hiểu biết hơn, văn minh hơn và được giáo dục đầy đủ hơn, thì những biểu hiện kỳ thị đó cũng đã dần dần được khắc phục.

Tôi cũng xin nói lại với ông rằng đã - đang, và sẽ - có rất nhiều nhân vật xuất chúng và nổi tiếng trong các lĩnh vực văn hóa, văn học, những nhân vật rất có uy tín trong nhiều lĩnh vực quan trọng, cũng là người đồng tính, và cho dù phải chịu đựng ít nhiều phân biệt và kỳ thị, họ vẫn luôn nhận được những đặc quyền cao quý và sự kính trọng trên đất nước Cuba này. Vì vậy ngày nay, vấn đề này cũng không có gì đáng nói đến nữa. Trong một xã hội mà người dân cơ bản đều được học hành và giáo dục đầy đủ như của chúng tôi ngày nay, ngày càng giảm đi những biểu hiện kỳ thị đối với người đồng tính. Còn trong xã hội với dân trí thấp kém như trước kia - chỉ có 30% dân số biết chữ - thì những biểu hiện kỳ thị đối với người đồng tính là không tránh khỏi, mà thậm chí ngay cả người biết chữ hoặc những người có học hàm, học vị hẳn hoi cũng còn kỳ thị nữa là. Đó là thực tế từng xảy ra trong xã hội của chúng tôi. Còn hiện nay, mọi biểu hiện của sự phân biệt đối xử và thói tự tôn nam giới càng ngày càng trở nên tỷ lệ nghịch với mức độ văn hóa và giáo dục của người dân Cuba.

Vậy ông nghĩ rằng những hành động kỳ thị đối với người đồng tính đang được đấu tranh một cách có hiệu quả?

Tôi cho rằng sự kỳ thị và phân biệt đối xử đối với những người đồng tính là một vấn đề đang được khắc phục, và quả thực là tôi tin như vậy. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng dân tộc chúng tôi sẽ sớm trở thành một trong những dân tộc công bằng, khoan dung, văn minh, đồng cảm và có học vấn cao nhất trên thế giới. Những thói quen kỳ thị và quan niệm hẹp hòi sẽ ngày càng trở nên lạc hậu.

Ban đầu, đã có những xung đột nhất định giữa Cách mạng và Nhà thờ Công giáo, các quan niệm kỳ thị được nuôi dưỡng bởi giữa một bên là những kẻ bài Chủ nghĩa Xã hội và một bên là những người mang tư tưởng bài tôn giáo. Trước đây Đảng của chúng tôi rất kiên quyết không chấp nhận những tín đồ tôn giáo được trở thành Đảng viên. Tôi nghĩ rằng bản thân tôi phải chịu trách nhiệm chính trong vấn đề này, bởi vì khi đó chúng tôi coi đây như một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự trung kiên trong nội bộ Đảng. Ví dụ như khi đó có rất nhiều người là tín đồ Công giáo...

Trong thành phần hạt nhân của Đảng?

Không, những tín đồ Công giáo là những nhà cách mạng nhiệt thành.

Nhưng vẫn không được trở thành Đảng viên...

Chúng tôi nhanh chóng đề ra nguyên tắc là những tín đồ tôn giáo sẽ không được bước vào hàng ngũ của Đảng. Tất nhiên là những tín đồ tôn giáo đó vẫn luôn được tôn trọng và nhìn nhận công bằng khi đảm nhiệm các vị trí chính trị khác, nhưng họ không thể trở thành Đảng viên. Và phải mất nhiều năm sau, cùng rất nhiều nỗ lực, chúng tôi mói quyết định mở cửa mời gọi những tín đồ tôn giáo vào Đảng.

Ông là nguời khởi xuớng tư tưởng cởi mở đó?

Mặc dù tôi đã suy nghĩ khác khi ra quyết định cấm tín đồ tôn giáo trở thành Đảng viên sau khi Đảng Cộng sản Cuba được thành lập, nhưng sau này tôi gần như là một trong những người đầu tiên bảo vệ ý tưởng chấp nhận những người theo đạo vào Đảng. Cách đây hơn ba mươi năm, tôi đã từng tiếp xúc với người của phong trào Thần học Giải phóng. Tôi gặp gỡ lần đầu tiên với những đại diện của trào lưu tư tưởng đó là vào năm 1971, tại Chile. Tôi đã gặp và tiếp xúc với rất nhiều Linh mục và Mục sư thuộc nhiều dòng tu khác nhau, và tôi đã tiếp tất cả những người đó ngay tại Đại sứ quán Cuba. Khi đó, sau nhiều giờ gặp gỡ, tôi đã đề xuất ý tưởng, mà tôi ấp ủ trước đó một thời gian, tạo ra một liên minh giữa những người có đạo và những người không theo đạo, hay nói cách khác là giữa những người Công giáo với những người Mác xít, để tiếp tục đấu tranh, ủng hộ Cách mạng.

Như những người Sandinista vẫn nói: “Thiên Chúa giáo và Cách mạng - hoàn toàn không có mâu thuẫn”.

Tôi đã khẳng định như vậy từ trước đây rất lâu rồi, vì Cách mạng Sandinista thành công năm 1979, và tôi đã cổ súy cho ý tưởng đó ở bất kỳ nơi nào tôi đặt chân tới: tại Chilê, khi tôi đến thăm Tổng thống Salvador Allende năm 1971, và thậm chí là tại Jamaica khi tôi đến thăm Michael Manley năm 1977. Đó là chủ trương chúng tôi vẫn luôn áp dụng. Hầu như tất cả các nhà thờ (có liên quan tới Phong trào Thần học Giải phóng) đều rất hoan nghênh và đón nhận ý tưởng đó. Trong những bài phát biểu của mình, tôi thường xuyên khẳng định rằng cả người Mác xít và người Công giáo đều phải đoàn kết lại để tạo ra những thay đổi mang tính cách mạng tại bán cầu Tây. Tôi đã, đang và sẽ luôn đề cao những tư tưởng này trong giai đoạn hiện nay.

Đã có lúc, tôi nói rằng, “Chúng ta đang chủ trương đoàn kết những người Mác xít và những người Công giáo, nhưng trong Đảng chúng ta lại không áp dụng những tư tưởng này, chúng ta vẫn còn mang nặng tư tưởng cũ”. Thậm chí việc đấu tranh chống lại những thành kiến và những quan niệm phân biệt đối xử lạc hậu cũng không hề dễ dàng, và chúng tôi đã phải đấu tranh rất mạnh mẽ.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #111 vào lúc: 26 Tháng Bảy, 2013, 02:39:21 pm »

Và ngay trong những ngày đầu Cách mạng ông cũng đã phải đấu tranh chống lại sự phân biệt đối xử đối với cộng đồng người da đen?

Hoàn toàn khống có sự phân biệt đối xử mang tính chủ quan. Vì mỗi người Cách mạng đều ý thức được rằng phân biệt chủng tộc là một trong những hành vi đáng ghê tởm nhất tác động tiêu cực đến xã hội loài người.

Chế độ nô lệ, hình thành thông qua sự bóc lột và đàn áp những con người khốn khổ bị cướp ra khỏi quê hương châu Phi của mình, đã tồn tại suốt hàng trăm năm tại nhiều quốc gia ở bán cầu tây, trong đó có cả Cuba. Tại đất nước chúng tôi chế độ nô lệ đã bị xóa bỏ từ cách đây 120 năm, vào năm 1886, mặc dù khi đó mới chỉ là xóa bỏ trên danh nghĩa. Còn sau đó, những người đàn ông và phụ nữ da đen bất hạnh vẫn phải sống thêm gần ba thế kỷ nữa trong chế độ tồi tệ đó với tư cách là những lao động tự do sống chen chúc trong các khu lều trại ổ chuột ở cả nông thôn và thành phố - nhiều khi cả gia đình đông đúc phải sống trong một căn phòng nhỏ, không có giáo viên hay trường học, phải làm việc quần quật để nhận đồng lương rẻ mạt - cho tới khi Cách mạng thành công.

Ông không thể hình dung được là tôi đã phải phát biểu đến ba lần liền khi tôi đề cập đến vấn nạn phân biệt chủng tộc trên một Chương trình phát thanh. Đã có thời điểm kẻ thù của chúng tôi tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc rằng chúng tôi sẽ tách những đứa trẻ ra khỏi bố mẹ chúng và gửi lũ trẻ tới Nga, ông có tưởng tượng được không? Vậy mà luận điệu xuyên tạc đó vẫn được phát tán khắp nơi, và thậm chí là có nhiều người tin, vì bọn chúng áp dụng nguyên tắc tuyên truyền của trùm Quốc xã Goebbel là “một sự dối trá được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ được coi là sự thật” - nhưng chúng ta sẽ không nói đến tên trùm Quốc Xã tàn bạo đó làm gì; tôi muốn nhắc đến phương pháp của một nhà tâm lý học tên là Gustavo Lebón 1, tôi nhớ ông ta là một nhà tâm lý học người Pháp thì phải, ông ta đã đề cập đến tác động độc hại của những lời dối trá được lặp đi lặp lại, mặc dù ý tưởng của Lebón thì hơi khác một chút.

Đó là khái niệm tâm lý đám đông.

Tôi nhớ là tôi đã đọc cuốn sách của Lebón về tầm quan trọng của kỷ luật trong quân đội, và tầm quan trọng của việc đứng nghiêm khi nhận lệnh, vì như thế các quân nhân mới sẵn sàng dám hy sinh tính mạng để hoàn thành nhiệm vụ họ được truyền đạt qua mệnh lệnh đó. Tên cuốn sách là gì ấy nhỉ? Tôi nhớ hình như là Psicologiá de las multitudes.

Đại loại là vậy. Trong tiếng Pháp thì tên cuốn sách đó là La Psychologie des foules, có nghĩa là Tâm lý đám đông.

Còn tên đầy đủ của tác giả là gì ấy nhỉ?

Gustave Le Bon.

Thế mà trong tiếng Pháp của tôi lại biến thành Gustavo Lebón! Mặc dù đã đọc nó từ lâu lắm rồi, nhưng tôi nghĩ là tôi vẫn nhớ những ý cơ bản. Tôi đọc nó từ hồi còn đang học đại học.

Đó là một tác phẩm kinh điển.

Như tôi đang nói, sau khi tôi phát biểu trên sóng phát thanh lần đầu tiên về vấn nạn phân biệt chủng tộc, tôi đã phải phát biểu thêm hai lần nữa. Tất nhiên là ngay từ lúc đầu tiên, chúng tôi đã tiến hành áp dụng những điều luật của Cách mạng, trong đó có một nội dung cấm tất cả các câu lạc bộ, trường học và các địa điểm công cộng khác không được từ chối người da đen, và cả người lai nữa, chúng tôi đã rất nghiêm túc khi áp dụng điều luật này.

Khi đó có nhiều khách sạn không nhận khách da đen.

Đúng, đúng là thế, và thậm chí là ở nhiều nơi nữa. Thậm chí cá các bãi tắm, chủ yếu là các bãi tắm riêng, cũng cấm cửa người da đen cũng như dân nghèo da trắng. Cả nhiều trường học cũng vậy. Trường học của tôi ở Havana, trường Colegio de Belén, như tôi đã kể, có tới 1000 học sinh, nhưng trong đó không có ai là người da đen, kể cả người lai cũng không.

Ngay bên cạnh trường Belén có một ngôi trường nhỏ, và tại đây cũng có một số học sinh da đen. Khi Giáo hoàng John Paul II tới thăm Cuba vào tháng 1 năm 1998, tôi đã nói về những trường học Công giáo không chấp nhận học sinh da đen, và tôi giải thích những khía cạnh nhất định của sự phân biệt chủng tộc đó.

Sau chiến thắng của Cách mạng, chúng tôi hầu như hoàn toàn không suy nghĩ nhiều về hiện tượng kỳ thị, phân biệt chủng tộc, vì đơn giản là chúng tôi chỉ nghĩ rằng tất cả những gì chúng tôi phải làm là thiết lập sự bình đẳng theo pháp luật, và sự bình đẳng đó sẽ được áp dụng mà không phải bàn cãi gì nữa. Nhưng trong một chương trình truyền hình, tôi có nói vẻ chủ đề: những quả bóng bẩn thỉu 2 do kẻ thù ném ra - ở Cuba chúng tôi, “bóng” còn được hiểu là những lời đồn thổi độc địa - kiểu như lời đồn mà tôi vừa nhắc tới ở trên về những đứa trẻ bị tách ra khỏi bố mẹ và gửi tới Nga. Nhiều luận điệu dối trá như vậy được kẻ thù nhai đi nhai lại không biết bao nhiêu lần và ít nhiều đã phát huy tác dụng. Tôi không biết là liệu Lebón có bao giờ đề cập đến thực tế lầ nhiều khi lời đồn đại càng vô lý và phóng đại bao nhiêu thì khả năng mọi người tin theo lại càng nhiều bấy nhiêu.

Sau đó lại xảy ra cuộc khủng hoảng tháng 10 3, năm 1962; các chuyến bay tới Mỹ đã bị đình lại, bởi vì trước đó các chuyến bay được thực hiện hoàn toàn tự do. Chúng tôi không bao giờ hạn chế đối với bất kỳ ai có khả năng rời khỏi đất nước, và đã hơn một lần chúng tôi thực hiện chủ trương cỏi mở. Thậm chí chúng tôi còn khuyên họ, “Tốt nhất là nên thuê tàu riêng sẽ bảo đảm an toàn han cho gia đình của bạn”.

Ngoài những luận điệu xuyên tạc trên, cũng có một số lời đồn đại liên quan đến sự phân biệt chủng tộc ở Cuba. Sau khi tôi xuất hiện trên truyền hình để lên án tình trạng phân biệt chủng tộc, và kêu gọi mở cửa trường học, câu lạc bộ cho các thành viên là sinh viên da đen), lại có nhiều kẻ tung tin chúng tôi sẽ bắt ép người dân phải kết hôn với những người thuộc các nhóm sắc tộc khác - người da trắng phải lấy người da đen và ngược lại, toàn những chuyện vô lý. Và có không ít người đã sợ phát khiếp vì tin lời dối trá đó, nỗi sợ hãi của họ cũng xuất phát từ chính quan niệm kỳ thị và thói quen phân biệt chủng tộc, vì nếp nghĩ cho rằng chủng tộc của mình là tối thượng trước kia.

Hitler đã làm thế nào để khiến cho cả một dân tộc tin rằng họ là giống người thượng đẳng so với các chủng tộc khác, rồi dẫn dắt họ gây ra những tội ác tầy trời chống lại loài người, trong khi bản thân hắn cũng chẳng có gì giống như những đặc điểm lý tưởng và đặc trưng của chủng tộc Aryan mà hắn vẫn vẽ ra? -  kể cả Himmler và Goebbels cũng có hơn gì... Thử tưởng tượng hồi đó khoa học đã tìm ra cách nhân bản vô tính! Thử tưởng tượng Chủ nghĩa Phát xít và nhất là Chủ nghĩa Quốc xã có phương pháp nhân bản vô tính, Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và nhân bản vô tính!


----------------------------------------------------------
1. Gustave Lee Bon (1841-1931), nhà tâm lý học, nhân chủng học, khảo cổ học, nhà vật lý ngưòi Pháp và là tác giả của hai tác phẩm nổi tiếng Les Lois psychologiques de l”evolution des peuples (Sự phát triển tâm lý của con ngưòi - 1894) và La Psychologie de foules (Tâm lý tội phạm).

2. Những lời đồn đại không có căn cứ và thường là lời phỉ báng.

3.   Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, theo cách hiểu của những người nói tiếng Anh.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #112 vào lúc: 26 Tháng Bảy, 2013, 02:42:47 pm »

Thực tế đó cũng có thể là một trong những mối đe dọa rất lớn trong tương lai.

Các nghiên cứu khoa học vẫn luôn tìm cách thể hiện những khác biệt giữa các nhóm sắc tộc khác nhau, và họ vẫn chưa tìm được gì đáng kể cả, trừ những phát hiện nhỏ nhặt chẳng hề liên quan gì đến trí thông minh và tài năng. Khoa học đã trở thành công cụ đắc lực của những người đấu tranh chống Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Tuy nhiên, mặc dù khoa học đã đưa ra những bằng chứng không thể chối cãi về sự ngang bằng trí tuệ giữa tất cả các chủng người khác nhau, sự phân biệt chủng tộc vẫn luôn tồn tại.

Đối với những người cách mạng như chúng tôi, việc đấu tranh chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã trở thành một nguyên tắc thiêng liêng. Nhưng như tôi đã nói, khi chúng tôi bắt đầu đề cập tới chủ đề này lần đầu tiên, trong nhân dân đã có một số quan điểm và ý kiến thể hiện sự lo lắng rất đáng chú ý. Trong cả ba lần tôi phát biểu về cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, tôi phải nói đi nói lại rằng sẽ hoàn toàn không có chuyện mọi người bị buộc phải lấy người khác mà họ không yêu; mục đích của chúng tôi chỉ là chấm dứt tình trạng phân biệt chủng tộc - cùng với đó là tất cả những bất công ngang trái đang đầy rẫy tại những nơi làm việc, những tụ điểm hoạt động giải trí, thể thao, cơ sở giáo dục.

Vào thời điểm đó, chúng tôi còn hết sức ngây thơ khi tin rằng chi cần tuyên bố bình đẳng hoàn toàn và tuyệt đối trước pháp luật là sẽ chấm dứt sự phân biệt chủng tộc. Bởi vì xét cho cùng chỉ có hai loại phân biệt - một là do khách quan, một là do chủ quan.

Vậy ông có hài lòng với hiện trạng của cộng đồng người da đen tại Cuba không? Hay ông nghĩ rằng tình hình vẫn cần tiếp tục cải thiện?

Không - sẽ là quá tự phụ, thiển cận và ngu ngốc nếu chúng tôi nói rằng chúng tôi đã hài lòng. Ngay cả trong những xã hội như Cuba, một xã hội đã phát triển từ một cuộc Cách mạng xã hội căn bản trong đó mọi người đều có được sự bình đẳng toàn diện và tuyệt đối trước pháp luật, cùng trình độ giáo dục nhận thức đã được nâng cao đến mức xóa bỏ được hầu hết những yếu tố phân biệt đối xử mang tính chủ quan, thì đến ngày nay sự kỳ thị và phân biệt chủng tộc vẫn luôn tồn tại, dưói hình thức này hay hình thức khác. Tôi gọi đó là phân biệt đối xử mang tính khách quan, một hiện tượng gắn liền với đói nghèo và sự độc quyền về mặt tri thức do lịch sử để lại.

Phải thừa nhận rằng Cách mạng Cuba, với thắng lợi lớn nhất là đã bảo đảm cho mọi công dân thuộc các nhóm sắc tộc khác nhau có quyền lợi và địa vị chính trị như nhau, lại chưa thực sự thành công trong việc xóa bỏ sự chênh lệch giàu nghèo và khác biệt về địa vị kinh tế mà cộng đồng người da đen vẫn đang phải chịu đựng. Người da đen vẫn chưa được sống trong những ngôi nhà tốt nhất; hẳn ông cũng tự thấy rằng họ vẫn phải đảm nhiệm những công việc khó khăn, vất vả nhất, nhưng lại được trả lương thấp nhất, trong khi đó họ cũng nhận được rất ít những đồng USD kiều hối do người thân của mình ở nước ngoài của mình gửi về, nếu so với những người da trắng.

Nhưng tôi rất hài lòng với những gì chúng tôi đã và đang làm để tìm ra những nguyên nhân sâu xa nhất của thực trạng xã hội này. Đây là một vấn đề mà nếu chúng ta không quyết tâm sắt đá để tạo ra thay đổi, chắc chắn nó sẽ kéo dài qua nhiều thế hệ và khiến cho người da den thiệt thòi vẫn sẽ bị đặt ra ngoài lề xã hội. Vậy nguồn gốc sâu xa của nó là gì? Nhóm sắc tộc nào đang lấp đầy trong các nhà tù, và tại sao lại như vậy?

Ông đang nói đến những nguyên nhân xã hội.

Tại sao lại tồn tại thực tế có những người bị đặt ra bên lề cuộc sống? Chế độ nô lệ đã bị xóa bỏ từ rất lâu trước khi Cách mạng Cuba thành công năm 1959. Vậy là tính đến thời điểm đó đã có bảy mươi ba năm trôi qua kể từ khi chế độ nô lệ bị xóa bỏ tại Cuba năm 1886, mà tính đến nay thì đã là 120 năm.

Chúng tôi phát hiện ra rằng có một mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa trình độ kiến thức, văn hóa, với tội phạm; vì dụ như trình độ kiến thức, văn hóa và tỷ lệ tiếp cận giáo dục đại học càng cao thì thì tỷ lệ tội phạm càng thấp. Trong một đất nước có tới 800.000 chuyên gia và trí thức, theo những con số thống kê mà chúng tôi tiến hành thực hiện trong các nhà tù và hàng chục nơi khác, chúng tôi đang dần dần phát hiện ra những quy luật của mối quan hệ đó.

Trình độ văn hóa càng thấp thì cảng có nhiều người bị đặt ra ngoài lề phát triển của xã hội, tội phạm và sự phân biệt đối xử cũng càng tăng?

Đúng, thực tế là như vậy. Đó là phát hiện vô cùng quan trọng đối với chúng tôi, để từ đó chúng tôi chủ trương khuyến khích cho những người nghèo khổ nhất - những người là con cái của những người trước kia chưa bao giờ có cơ hội học hành - được vào học ở những trường học tốt nhất, những ngôi trường mà bạn được nhận vào học hay không là căn cứ vào kết quả học tập và thi cử công bằng.

Chắc chắn ông sẽ phải ngỡ ngàng nếu biết hiện nay tại Cuba có bao nhiêu thanh niên trong độ tuổi hai mươi đến ba mươi đang phải ngồi tù - chúng tôi vẫn đang tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này - trong đó số lượng tù nhân là con cái của các chuyên gia và các trí thức chỉ chiếm chưa đến 2% tổng số tù nhân, bất chấp thực tế là Cuba có tỷ lệ trí thức và chuyên gia trên tổng dân số cao nhất nhì thế giới. Nếu ông tới tìm hiểu tình hình thực tế tại các nhà tù, ông sẽ nhận thấy là phần lớn các tù nhân đều có xuất thân từ những gia đình bị đặt bên ngoài lề sự phát triển chung của toàn xã hội, đa phần họ là con cái của những gia đình từng phải chen chúc trong một căn phòng chật chội, trong những khu ổ chuột bị lãng quên.

Và Cách mạng vẫn chưa thể lảm gì để chấm dứt số phận dường như không thể tránh khỏi đó của những người này?

Trước hết, chúng tôi đã chấm dứt sự tồn tại của những khu ổ chuột bị lãng quên. Nhưng vẫn tồn tại tâm lý phân biệt và kỳ thị, và thậm chí là tự tách mình, trong nhận thức chung của mọi người. Cho dù chúng tôi đã cho xây dựng những khu nhà mới khang trang, thì hiện tượng tự tách mình đó vẫn có xu hướng tiếp tục xuất hiện ở những nơi này, trừ phi phải có một nền văn hóa mới được xây dựng trên cơ sở học vấn và giáo dục. Chúng tôi cử những chuyên gia và trí thức giỏi nhất giúp đỡ họ - cùng họ học tập, thậm chí ngồi xuống làm bài tập ở nhà cùng với họ, để họ có thể đủ sức vào học tại những trường tốt nhất.

Có bao nhiêu chuyên gia và trí thức mới được Cách mạng giáo dục và đào tạo thành tài? Tôi phải nói rằng con số đó lên đến hàng triệu người. Tôi khẳng định rằng đến thời điểm này tỷ lệ các chuyên gia và trí thức của Cách mạng Cuba - các bác sĩ, kỹ sư và nhiều nghề khác - với trình độ đại học cao gấp ba lần tỷ lệ người dân học hết lớp sáu năm 1959. Bởi vì ngày nay có rất nhiều, rất nhiều giáo viên giỏi, và hầu hết trong số này đều có trình độ đại học. Trong số những y tá, cả nam lẫn nữ, cũng rất nhiều người có bằng cấp đại học.

Văn hóa phân biệt đối xử và kỳ thị cũng những hậu quả của nó có xu hướng tự sinh sôi nảy nở. Vậy thì tác dụng của những hành động tích cực là gì?

Tại một số nước, xu hướng ưu ái đặc biệt cho những người bị thiệt thòi như vậy đã phát triển rất nhiều thời gian gần đây.

Vâng, nhưng đối với chúng tôi, đó không phải là vấn đề pháp luật hay bất kỳ điều gì tương tự. Chúng tôi coi đó là một phạm trù thuộc về công bằng xã hội và những tư tưởng chính trị, ý thức chính trị, và trong thực tế, trên đất nước Cuba này, sự kỳ thị chủ quan dường như đã biến mất hoàn toàn.

Thỉnh thoảng trên các Chương trình truyền hình phản ánh về hoạt động hiệu quả của lực lượng công an thường có hình ảnh các tên tội phạm là thanh thiếu niên da đen hoặc da màu... Bởi vì, trong thực tế có hai loại trộm cướp: loại thông thường, vốn đã rất đáng lên án và loại cổ cồn trắng, do các quan chức và cán bộ gây ra ở chỗ này chỗ khác... Loại tội phạm cổ cồn trắng ăn cướp của Nhà nước, của xã hội nhưng lại rất ít khi bị chú ý - người dân chỉ quan tâm nhiều đến những kẻ đột nhập nhà mình, sục sạo đồ đạc, ăn cắp thứ gì đó, đồ nữ trang, vài món đồ gia dụng, phá hoại thứ này, thứ kia, và cơ bản là chỉ có người nghèo mới thường là thủ phạm của những tội này.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #113 vào lúc: 26 Tháng Bảy, 2013, 02:56:32 pm »

Cuối cùng tôi thấy rằng cần phải góp ý với những người phụ trách các Chương trình truyền hình phản ánh hoạt động trấn áp tội phạm của các cơ quan công quyền, vì những nhà sản xuất và đạo diễn truyền hình đó thật ra cũng chỉ muốn người dân hoàn toàn tin tưởng vào lực lượng công an, thế là tôi góp ý thẳng với họ, “Tôi không muốn phải xem thêm những Chương trình được thực hiện theo cách đó”. Chỉ cần những người phụ trách muốn chứng minh sự hiệu quả trong hoạt động của công an, và thế là người xem lại được chứng kiến cảnh những tên tội phạm xuất hiện trên truyền hình đều là những người da đen hoặc người lai da màu, trong khi số tội phạm da trắng thì rất ít, bao giờ cũng chỉ là thiểu số. Đâu có tác dụng tích cực gì khi tạo ra mối liên hệ giữa loại tội phạm khó chịu đó với một nhóm sắc tộc nhất định trong xã hội?

Nhưng dù sao chúng tôi cũng đã có một bước tiến rất dài - thông qua quá trình giáo dục tư tưởng, thông qua việc bồi dưỡng hành vi ứng xử của cộng đồng người da đen, thông qua sự ủng hộ một lòng của họ đối với Cách mạng. Chính những tầng lớp nghèo nhất trong xã hội lại là những người ủng hộ Cách mạng nhiệt thành nhất.

Vậy mà họ vẫn bị phân biệt đối xử theo cách này hay cách khác?

Vâng, có nhiều người đã tận dụng được những cơ hội mới mở ra cho họ, nhưng cũng còn không ít người chưa thực hiện được mục tiêu là vào đại học, hoặc vào những ngôi trường tốt nhất, những trường tuyển sinh hoàn toàn theo kết quả học tập, và phải trải qua một kỳ thi. Câu chuyện về những người tiếp tay trong kỳ thi đầu vào đại học thật là không thể tin nổi.

Nhiều người có thể phê phán chúng tôi đã phát hiện ra chuyện này quá muộn, nhưng dù sao chúng tôi cũng đã phát hiện ra. Và rồi một hôm đích thân tôi phải có bài phát biểu phê phán gay gắt vấn nạn này, vì tất cả những vấn đề nghiêm trọng đó đều phải được giải quyết dứt điểm ngay lập tức, và như tôi đã nói với ông, tôi cũng đã có những kinh nghiệm nhất định.

Điều còn tồn tại lúc này lại vô cùng phức tạp, vì đó là sự phân biệt đối xử mang tính chủ quan ẩn sâu trong chính những người có trình độ văn hóa, học vấn, thậm chí cả những người đã nhiều năm tham gia Cách mạng và đã chứng kiến những thành quả to lớn do những người da đen và người lai da màu chung tay xây dựng nên. Vậy mà thái độ kỳ thị đó vẫn còn tồn tại trong xã hội này, tôi phải thừa nhận là như vậy.

Trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của Chính phủ vẫn chỉ có rất ít người da đen.

Đáng buồn là đúng vậy. Chúng ta có thể thấy là chỉ một số người da đen đảm nhiệm các cương vị quản lý, nguyên nhân xuất phát từ thực tế là tỷ lệ người da đen và người lai có khả năng vào học đại học vẫn còn rất thấp. Hiện nay, thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc ở Cuba là ba năm. Và chúng tôi đã tiến hành nhiều biện pháp để khuyến khích mọi người tới trường học, hoặc tự học cao hơn. Sau các thanh niên tốt nghiệp trung học, cần cứ vào kết quả học tập và hạnh kiểm của mình, có thể họ sẽ chỉ phải thực hiện hai năm thay vì ba năm nghĩa vụ quân sự. Sau đó chúng tôi còn tiếp tục giảm thời hạn này xuống và tạo cơ hội cho những thanh niên đang thực hiện nghĩa vụ quân sự được tham gia học một năm tại các trường nội trú, tham gia những khóa học cấp tốc đề chuẩn bị thi vào trường đại học. Rất nhiều người đã vào đại học theo con đường này, thường thì những người nghèo coi đây là con đường phù hợp nhất để vào đại học, nhất là đối với những người lẽ ra đã không thể vào được các trường đại học tuyển sinh bằng các kỳ thi đầu vào ngặt nghèo, thường chỉ dành cho các thí sinh xuất thân từ tầng lớp xã hội cao hơn.

Đó là những thanh niên của Cách mạng, gia đình của họ cũng là những gia đình Cách mạng, những người mà tôi đang đề cập đến lúc này - họ chịu thiệt thòi là xuất thân từ một mặt bằng văn hóa, kiến thức thấp hơn. Do đó trên đây là một trong những biện pháp chúng tôi áp dụng để tạo cơ hội đồng đều hơn cho tất cả mọi người.

Thực sự là tôi rất hài lòng với các Chương trình 106. Trận đấu ý tưởng đang được triển khai hiện nay, trọng tâm chính của các Chương trình này là mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục, và điều đầu tiên mà tôi yêu cầu chính là thành phần sắc tộc, một yêu cầu đã từng bị xóa bỏ trong tất cả các hình thức giáo dục trước kia, vì hồi đó chúng tôi cho rằng như thế là phân biệt đối xử 1.

Vậy là giờ ông và nhân dân của mình đang chú trọng đặc biệt tới thành phần sắc tộc trong giáo dục?

Đúng thế. Trong tất cả những ngôi trường mới, trong thành phần giáo viên, giáo sư, nhân viên xã hội, cũng như trong các Chương trình văn hóa và nghệ thuật, chúng tôi đều chú ý đến thành phần sắc tộc. Chúng tôi đang đào tạo rất nhiều giáo viên nghệ thuật: hiện tại đã có mười lăm Trường Sư phạm với nhiệm vụ bồi dưỡng và đào tạo giáo viên, mỗi tỉnh có một trường, với kế hoạch là đào tạo 30.000 giáo viên nghệ thuật, được lựa chọn trên cơ sở tài năng, để họ có thể chia sẻ kiến thức của mình tại các trung tâm giáo dục và tại các cộng đồng của mình trong vòng mười năm tới, vì quả thật nhu cầu giáo viên nghệ thuật là rất lớn. Thành phần sắc tộc tại mỗi tình đều rất khác nhau. Có nhiều tỉnh tỷ lệ người dân da đen lên tới hơn 70%.

Theo như tôi biết thì đó là những tỉnh miền đông của hòn đảo.

Chính xác. Còn ở những tỉnh khác, tình hình ngược lại. Ví dụ như ở tỉnh Holgúin, cộng đồng dân góc da trắng chiếm đại đa số. Họ là hậu duệ của những chủ trang trại đến từ quần đảo Canary và một số tỉnh khác ở Tây Ban Nha. Còn tại những khu vực trước kia tập trung những đồn điền thu hút nhiều nô lệ làm việc, ví dụ như Guantánamo, hoặc vì những nguyên nhân lịch sử nhất định, nên tỷ lệ người da trắng, người da đen và người lai cũng rất khác nhau.

Tại các trường nghệ thuật, ngoài mỹ thuật, nghệ thuật tạo hình, hội họa và điêu khắc, các sinh viên còn phải học âm nhạc, khiêu vũ và nghệ thuật sân khấu, sau đó họ sẽ phải chọn một ngành chuyên sâu nhưng vẫn có kiến thức cơ bản về những lĩnh vực nghệ thuật khác, bởi vì sau này rất có thể họ sẽ giảng dạy ở một trường học nào đó và còn phải giảng về các bộ môn nghệ thuật khác nữa.

Có một sự bùng nổ các vị trí công việc như vậy, và hiện tại chúng tôi đang đào tạo 16000 sinh viên trẻ, trên cơ sở xem xét các yếu tố như thành phần sắc tộc, năng khiếu. Tất cả chúng tôi đều vô cùng hài lòng khi chứng kiến sự đa dạng về thành phần sắc tộc trong tất cả những ngành nghề có ảnh hưởng xã hội sâu rộng đến như vậy những ngành nghề có thể tạo điều kiện cho thanh niên được vào đại học theo năng lực và sở nguyện của mình. Bao giờ cũng vậy, một trong những điều đầu tiên tôi tìm hiểu cũng là thành phần sắc tộc tại mỗi trường, câu hỏi thường trực của tôi là “Có bao nhiêu sinh viên thuộc nhóm sắc tộc này, nhóm sắc tộc kia?”. Đại loại là như thế. Tất nhiên tỷ lệ đa sắc tộe tại các trường cũng rất khác nhau.

----------------------------------------------------------
1. Ở đây, Castro đang muốn nói đến những chương trình được tiến hành vào thời điểm đó trong đó có chiến dịch liên quan đến giáo dục, nâng cao trình độ văn hóa chung, làm cho cả đất nước ý thức rõ hơn về những vấn đề chính trị, văn hóa. Chiến dịch này thường được gọi là “Cuộc chiến của các ý tưởng”. Số lượng các chương trình trong chiến dịch ngày càng tăng, và đến cuối năm 2005, đã có hơn 150 chương trình với những kết quả khá khả quan.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #114 vào lúc: 26 Tháng Bảy, 2013, 03:02:00 pm »

Ông có quan tâm tới việc tỷ lệ nữ giới trong đó là bao nhiêu?

Đấu tranh chống lại sự phân biệt đối xử với phụ nữ là cực kỳ khó khăn; thậm chí chúng tôi còn phải thông qua một đạo luật điều chỉnh về vấn đề đạo đức này, đó chính là Luật Gia đình, trong đó quy định đàn ông có nghĩa vụ phải chia sẻ việc nhà, làm việc nội trợ, nuôi dạy và chăm sóc con cái, cùng với vợ mình... Chúng tôi đã có tiến bộ rất đáng kể trong lĩnh vực này.

Trước kia đại đa số đáng kể những thanh niên vào đại học là nữ giới. Vì ở tuổi trung học và dự bị đại học, nữ giới thường học hành chăm chỉ nên có điểm số tốt hơn nam giới. Trong khi đó các trường đại học lại thường tuyển sinh theo tiêu chí kết quả học tập...

Chúng tôi cử những Bác sĩ của mình tới rất nhiều quốc gia trên khắp thế giới. Có rất nhiều nước nơi mà nền văn hóa địa phương gây khó khăn cho chúng tôi trong việc cử tới một nhân viên y tế là nữ giới, nhưng chúng tôi vẫn kêu gọi rất nhiều thanh niên theo học ngành y, cả nam giới và nữ giới, và cứ ba sinh viên ngành y thì có hai người là nữ.

Nhiều khi, ví dụ như trong một tình huống giả sử thôi, chúng ta vẫn tuyên bố, “Thưa các bạn, chúng ta đang có nhu cầu cấp thiết trong lĩnh vực này, lĩnh vực kia”. Và trong những trường hợp đó nam giới thường được miễn thực hiện nghĩa vụ quân sự (để khuyến khích họ vào đại học), nhưng vẫn xảy ra thực tế là cứ ba người vào đại học theo kết quả học tập thì có tới hai người là phụ nữ. Cuối cùng chúng tôi phải đề ra chính sách áp dụng chỉ tiêu - thường là 45% nam giới và 55% là nữ giới, vì đại đa số những người đủ tiêu chuẩn vào đại học theo kết quả học tập và thi cử sẽ là nữ giới. Vì những lý do như vậy mà hiện nay đang có sự phát triển quá nóng của số lượng lao động kỹ thuật là nữ giới, cụ thể có tới 65% lực lượng lao động kỹ thuật cao của Cuba là nữ.

Một tiến bộ quá ấn tượng.

Xuất phát từ thiên chức làm mẹ của nữ giới, nên chúng tôi còn cho phép mỗi người phụ nữ khi sinh con được nghỉ hẳn một năm để chăm sóc con cái - chúng tôi làm vậy không phải để khuyến khích họ sinh thêm nhiều con, mà là điều tốt đẹp nhất mà một đứa trẻ được hưởng khi chào đời chính là có được sự chăm sóc và tình yêu thương của người mẹ, và nhất là được nuôi dưỡng bằng nguồn sữa mẹ.

Có năm cấp độ của cái được gọi là “các phương pháp không chính quy” trong việc nuôi dạy trẻ em. Trước hết chúng ta cần phải giáo dục các bậc cha mẹ. Sẽ tốt hơn rất nhiều khi người mẹ có điều kiện được ở bên đứa trẻ trong những tháng đầu tiên sau khi chào đời. Sự đổ vỡ của gia đình hạt nhân có liên hệ mật thiết tới việc trẻ em bỏ học rồi vi phạm pháp luật để rồi cuối cùng phải vào tù. Nhưng khi một trong hai người bố hoặc mẹ là trí thức, ngay cả khi họ đã ly dị - vì thông thường thì trong trường hợp ly hôn, đứa con sẽ ở với mẹ, nếu người mẹ là trí thức - thì nói chung những tác động tiêu cực cũng sẽ giảm đi rất nhiều.

Những ảnh hưởng tiêu cực liên quan đến tình trạng phạm pháp vị thành niên, và tự tách mình ra khỏi đời sống xã hội.

Trong số 71% số vụ tội phạm vị thành niên, có đến 19% sống mà không có cả bố lẫn mẹ. Vì vậy một khi trẻ sống cùng với bố hoặc mẹ - thông thường đó là mẹ, nguyên tắc chung là như vậy - và nếu họ là những người có học vấn, thì tác động tiêu cực của cuộc ly hôn, và sự đổ vỡ của gia đình hạt nhân, cũng sẽ được hạn chế đi rất nhiều; nếu cả hai người - hoặc chỉ một trong hai người bố hoặc mẹ, mà thông thường là mẹ - quan tâm, chăm sóc đứa trẻ, thì hầu như không có sự khác biệt đáng kể nào (so với những đứa trẻ khác). Chúng tôi hy vọng một ngày nào đó phụ nữ sẽ có được vị thế cao nhất có thể trong công việc, vì lợi ích của gia đình mình cũng như toàn xã hội. Trước kia phụ nữ từng bị kỳ thị và phân biệt đối xử một cách nặng nề, chỉ được tiếp cận với những công việc tủi nhục và thấp kém nhất; còn ngày nay bằng chính ý chí mạnh mẽ và tinh thần làm việc chăm chỉ của mình họ đã trở thành bộ phận quyết định sự phát triển của cả một xã hội, mà trong đó, như tôi đã nói, họ chiếm tới 65% lực lượng lao động kỹ thuật tay nghề cao.

Phụ nữ Cuba đã khẳng định được vị thế của mình - họ trở thành một lực lượng được tôn trọng và khâm phục. Có lẽ cái mà chúng tôi cần trong tương lai là Liên Đoàn Nam giới Cuba!

Để bảo vệ quyền lợi của chính mình!

Chính xác! Bởi vì ông có thể thấy là phụ nữ vẫn không ngừng thăng tiến, thăng tiến, cho dù họ vẫn chưa thể lên đến đỉnh cao nhất - nhưng dù thế nào chăng nữa thì cuộc đấu tranh bình đẳng giới suốt gần năm mươi năm qua kể từ sau khi Cách mạng thành công đã không diễn ra vô ích.

Rất nhiều phụ nữ đã đóng góp vào việc lật đổ chế độ độc tài Batista. Bản thân ông cũng nhiều lần nhắc tới Haydeé Santamaría và Melba Hernandez, những người trực tiếp tham gia cuộc tấn công vào trại lính Moncada, và chúng ta cũng có thể nêu tên những nhà nữ cách mạng nổi tiếng khác như Celia Sanchez và Vilma Espín. Vì vậy tôi muốn hỏi ông một điều: có phụ nữ nào tham gia chiến đấu trong vùng núi Sierra không?

Ồ, có chứ. Tôi đã tổ chức một đơn vị chiến đấu toàn phụ nữ trong vùng núi Sierra, họ được gọi là những chiến sĩ “Mariana” 1. Chúng tôi đã chứng minh rằng phụ nữ hoàn toàn có thể trở thành những chiến sĩ giỏi không thua gì nam giới. Tôi đã phải đấu tranh mạnh mẽ với tư tưởng trọng nam khinh nữ trên đó, bởi vì chúng tôi dành riêng một số lượng vũ khí nhẹ nhất cho các chiến sĩ nữ, và một số chiến sĩ nam đã thắc mắc, “Tại sao chúng ta có thể giao khẩu M-I cho một phụ nữ cơ chứ?” - đây là chuyện xảy ra sau cuộc tấn công cuối cùng của Batista - “Tại sao tôi lại không được giao một khẩu như thế?”. Và tôi thường trả lời những chiến sĩ nam đó bằng một câu như thế này - nếu ông muốn tôi sẽ nhắc lại ra đây, tôi thường nói là, “Nghe này, các cậu có biết tại sao chúng ta phải sử dụng phụ nữ không? Nói cho các cậu biết, là vì họ là những chiến sĩ xuất sắc hơn các cậu”.

Tôi đã tự mình huấn luyện cho những đơn vị nữ đó, và tinh thần cũng như hiệu quả chiến đấu của họ phải nói là hơn cả tuyệt vời, còn hơn cả nam giới, tôi không hề nói đùa đâu. Và họ tham gia chiến đấu hẳn hoi, chứ không phải là làm những công việc văn phòng lặt vặt. Đây không phải là lời đãi bôi để lấy lòng phụ nữ, mà là sự thật.

----------------------------------------------------------
1. “Trung đội Mariana Grajales” được đặt tên để tưởng nhớ mẹ của Maceo, một biểu tượng của nữ chiến sĩ cách mạng của Cuba, tên này do chính Castro đặt vào tháng 9 năm 1958, sau cuộc truy quét cuối cùng của kẻ thù vào lực lượng nổi dậy. Việc thành lập nhóm này đã giúp xua đi được sự ngần ngại, lưỡng lự trong khá nhiều sĩ quan của lực lưạng nổi dậy. Trung đội “Marianas” có vai trò quan trọng trong rất nhiều trận chiến và các hành động khác nhau. Xem Sara, Mas, “Mujeres enla linea de fuego: Las Marianas”, Granma, Havana, ngày 4 tháng 9 năm 2003.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #115 vào lúc: 26 Tháng Bảy, 2013, 03:04:54 pm »

Và ông có nghĩ rằng Cuba không côn là một xã hội trọng nam khinh nữ?

Đến hôm nay chúng tôi có thể tự hào nói rằng chúng tôi là quốc gia ít trọng nam khinh nữ nhất, nếu như không phải trên thế giới, thì ít nhất cũng là ở bán cầu Tây này. Chúng tôi đã xây dựng thành công một nền văn hóa mới trên cơ sở của sự bình đẳng và tôn trọng, một điều mà õng khó có thể tìm thấy trong nhiều xã hội khác trên thế giới hiện nay.

Tôi thực sự không hề muốn so sánh hiện tại với trước đây, vì quả thật chúng tôi thừa hưởng hủ tục trọng nam khinh nữ từ lịch sử, và chúng tôi cũng ý thức rõ hủ tục đó vẫn còn ăn sâu và được lưu truyền như thế nào trong các xã hội Tư bản Chủ nghĩa. Tư tưởng trọng nam khinh nữ là một di sản của quá khứ, và khi đó chúng tôi còn rất ấu trĩ. Nhưng bản thân tôi ngay từ đầu đã có quan niệm hoàn toàn khác - mà tiêu biểu là những Trung đội nữ trong vùng núi Sierra do chính tôi thành lập. Ngay từ đầu tôi đã có quan điểm khác (với toàn xã hội). Tôi chủ trương đoàn kết giới, vì tôi đã tận mắt chứng kiến cảnh phụ nữ bị bóc lột và phân biệt đối xử một cách tàn tệ trong xã hội trước đây.

Nhưng, vâng, chúng tôi vẫn sẵn sàng đón nhận bất kỳ lời đánh giá nào liên quan đến vấn đề này. Tôi không thể khẳng định rằng tư tưởng trọng nam khinh nữ ở Cuba đã hoàn toàn thuộc về quá khứ, nhưng dù sao cũng đã có sự khác biệt cực kỳ lớn lao so với những gì xảy ra trong những năm đầu tiên của Cách mạng mà ông vừa nhắc tới và tôi cũng đã trình bày một cách hoàn toàn trung thực tình hình thực tế khi đó là như thế nào, và chúng tôi thẳng thắn nhận trách nhiệm - thật đáng xấu hổ là khi đó trình độ văn hóa chung còn rất thấp, những điều kiện hoàn cảnh cũng không thật sự thuận lọi cho việc ngăn chặn các biểu hiện kỳ thị và phân biệt đối xử đầy bất công khiến nhiều người bị tổn thương. Tóm lại, đó là những gì tôi có thể nói để trả lời câu hỏi của ông.

Một trong những lời buộc tội khác nhằm vào ông trong những năm đầu tiên của Cách mạng là việc đàn áp tôn giáo, ông đã ra lệnh quốc hữu hóa các trường học Công giáo, trục xuất một số Giáo chức và thậm chí còn bắt giam cả các Linh mục. Ông có nghĩ là trong vấn đề này cũng đã có một số hành động hơi quá tay?

Chúng tôi quốc hữu hóa tất cả các trường học, chứ không chỉ có trường học của Nhà thờ Công giáo. Đây là một cuộc Cách mạng cấp tiến và toàn diện - đó là những từ mà tôi vẫn dùng khi nói về Cách mạng Cuba, tôi có thể lý giải và chứng minh tính đúng đắn của chúng tôi khi làm như vậy - nhưng chắc chắn là không có trường hợp Linh mục nào bị hành hình như kẻ thù vẫn xuyên tạc. Đây là luận điệu chính trị vô đạo đức mà Chủ nghĩa Đế quốc đã dùng để bôi nhọ chúng tôi, nhằm phục vụ cho những âm mưu thâm độc của mình, cụ thể là lợi ích của Đế quốc Mỹ khi họ cố vẽ ra hình ảnh cuộc Cách mạng Cuba như là một cuộc Cách mạng chống tôn giáo, dựa trên một số mâu thuẫn xuất hiện trong những năm đầu tiên buộc chúng tôi phải tiến hành những biện pháp mạnh tay. Đã có một số âm mưu thâm độc được hình thành, và thực tế là chúng tôi không thể cứ khoanh tay ngồi yên nhìn nó xảy ra được. Quả thật là có những chuyện rất nghiêm trọng đã xảy ra.

Những chuyện như thế nào?

Ví dụ như Chiến dịch Peter Pan, với ý đồ chủ yếu là là bắt cóc 14000 trẻ em của đất nước này, sau khi kẻ thù của chúng tôi tung ra luận diệu dối trá khủng khiếp là Cách mạng có ý định tách trẻ em ra khỏi bố mẹ và đưa chúng sang Liên Xô. Và lợi dụng cái cớ đó, kết họp với nỗi sợ hãi rất vô lý của nhiều bậc cha mẹ, một số Linh mục Công giáo trong nước vốn chống đối lại Cách mạng đã móc nối với các Linh mục Công giáo ở Miami   tiến hành bắt cóc và bí mật đưa 14.000 trẻ em Cuba sang Mỹ.

Mười bốn nghìn trẻ em Cuba bị bắt đưa sang Mỹ?

Đúng vậy, những trẻ em này bị đưa đi vì kẻ thù đã bịa ra lời dối trá rằng Cách mạng đang chuẩn bị ban bố sắc lệnh tách trẻ em ra khỏi sự chăm sóc của bố mẹ chúng và gửi sang Liên Xô. Một khi phải đối mặt với những âm mưu thâm độc như vậy đánh vào vấn đề tình cảm, con người ta dường như phát điên, họ dễ dàng bị đánh lừa vì lời dối trá xảo quyệt đó, nhất là trong bối cảnh nhạy cảm như vậy, luận điệu dối trá của kẻ thù lại càng lan rộng khắp nơi. Trong hoàn cảnh như vậy, nhất là lại với tâm tư tình cảm của những người làm cha, làm mẹ, họ gần như trở nên mụ mẫm - họ không còn bình tĩnh mà xét đoán vấn đề nữa. Đó là lý do tại sao kẻ thù của chúng tôi đã thành công trong việc gieo rắc nỗi sợ hãi vào đầu rất nhiều bậc cha mẹ thuộc tầng lớp trung lưu, tù đó chúng có thể tiến hành cuộc di tản ồ ạt, bí mật đưa từng ấy trẻ em ra khỏi đất nước một cách dễ dàng, và thế là rất nhiều gia đình đã bị ly tán mãi mãi.

Về sau khi đọc những tác phẩm của Sholokhov, nhất là tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm”, tôi mới tự mình phát hiện ra, (trước đó tôi không biết), là ngay từ thời điểm diễn ra những câu chuyện của Sholokhov   - thời điểm sau Cách mạng tháng Mười Nga - đã có những lời dối trá về việc Chính quyền bắt trẻ con như vậy - hóa ra đó là những thủ đoạn cực kỳ xưa cũ... ông cứ nghĩ mà xem, hồi đó tôi đã phải trả lời, “Vậy thì ai sẽ là người trông nom bọn trẻ nếu chúng tôi tách chúng ra khỏi bố mẹ đây?” Trong khi đã gần năm mươi năm qua mà chúng tôi còn chưa có đủ cơ sở hạ tầng cho tất cả những người mẹ muốn gửi con vào các trung tâm chăm sóc trẻ...

Thậm chí chúng còn gieo rắc những lời dối trá khủng khiếp hơn thế rất nhiều, chúng tung tin rằng chúng tôi sẽ biến lũ trẻ thành thịt hộp!

Lạy Chúa!

Rằng chúng tôi sẽ gửi bọn trẻ sang Liên Xô, và tại Liên Xô lũ trẻ sẽ bị biến thành thịt hộp rồi xuất khẩu trở lại Cuba!

Thật khủng khiếp!

Đó thật là chuyện hoang đường và nhảm nhí, vậy mà cũng có nhiều người tin theo - họ tin theo là bởi vì những lời bịa đặt đó đánh thẳng vào bản năng tình cảm, bản năng của những người làm cha làm mẹ, nhất là người mẹ.

Và họ đã đưa lũ trẻ đi?

Đúng vậy, tất cả có đến 14.000 trẻ em bị đưa ra nước ngoài.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #116 vào lúc: 26 Tháng Bảy, 2013, 03:07:53 pm »

Nhưng chắc chúng phải được đưa đi dần dần và bí mật?

Cũng không hẳn, vì khi đó bất kỳ ai muốn rời khỏi đất nước đều có thể - thậm chí là cả những Bác sĩ, vốn là một nghề đang rất thiếu nhân lực ở Cuba. Đã có đến một nửa số Bác sĩ rời bỏ đất nước khi đó. Cũng không đòi hỏi nhiều thủ tục giấy tờ, và phải nói rằng rất nhiều trẻ em đã bị đưa đi một cách không minh bạch - chúng được gửi ra nước ngoài một mình, hoặc với một người bạn bè nào đó của gia đình, họ lách luật để đưa bọn trẻ ra đi với tương lai hoàn toàn mù mịt đang chờ đợi chúng. Tất nhiên để ra nước ngoài những trẻ em đó cũng phải đáp ứng yêu cầu tối thiểu về mặt hộ chiếu, giấy tờ bảo lãnh của cha mẹ, đại loại như vậy. Và tất nhiên không hề có gia đình nghèo hay gia đình lao động nào đưa con em họ ra nước ngoài - tất cả đều một lòng tin tưởng vào cuộc Cách mạng, và họ chiếm lực lượng đa số. Chỉ những người có thu nhập cao, và không ít gia đình cực kỳ giàu có, mới đưa con em của mình sang Mỹ, nhưng dù sao thì lũ trẻ cũng hoàn toàn không có lỗi trong chuyện này.

Có những người muốn rời bỏ đất nước, và hoàn toàn không có ai ngăn cản họ cả, nhưng những gì họ làm thật là phi lý. Rất nhiều ông bố, bà mẹ đã ở lại, chờ đợi, phần lớn trong số này đều nghĩ rằng Cách mạng sẽ không trụ được bao lâu, và tới lúc đó họ có thể đưa con mình quay về. Nhưng dù thế nào chăng nữa thì cũng đã có 14 nghìn đứa trẻ bị đưa ra khỏi Cuba. Đến lúc này thì tất cả đều đã là người trưởng thành, và những đứa trẻ ngày đó bắt đầu lên án bố mẹ mình. Khi đến Miami mới vỡ lẽ là chẳng có nơi nào cho bọn trẻ trú ngụ cả - thậm chí chúng còn bị đưa vào những nơi được xây làm trải cải tạo, nói chung là bất kỳ chỗ tạm bợ nào có thể - cơ man nào là những trẻ em Cuba không cha, không mẹ, rải rác khắp nơi trên nước Mỹ.

Và Nhà thờ Công giáo cũng phải gánh phần nào trách nhiệm cho vụ bắt cóc khổng lồ này?

Đó là một trong những chuyện đáng buồn nhất. Một số Linh mục và các Giáo chức cấp cao của Nhà thờ đã dính dáng đến chiến dịch này, ở cả Cuba và Miami - dù sao đây cũng là một vấn đề mà chúng tôi hoàn toàn không muốn phanh phui đến tận cùng. Vì thực ra khi đó cũng chẳng có đạo luật nào cấm công dân Cuba đến Mỹ. Chúng tôi không hề làm gì để ngăn cản họ - yêu cầu cơ bản nhất chỉ là xuất trình giấy tờ tùy thân, tất cả chỉ có vậy. Nhưng cũng không có gì có thể biện minh cho hành động gửi bọn trẻ qua bên đó, dù là có giấy tờ hợp lệ hay không. Lực lượng phản cách mạng, do Chính phủ Mỹ hậu thuẫn, đã tung tin đồn nhảm về sắc lệnh đó, thậm chí chúng còn bịa ra cả nội dung và cho công bố rộng rãi, rồi lợi dụng sự sợ hãi và khiếp đảm mà chúng gây ra cho các bậc cha mẹ để đưa 14 nghìn trẻ em Cuba ra nước ngoài.

Và khi đó ông và người của mình không nhận ra chuyện gì đang xảy ra?

Như tôi đã nói, chúng tôi hoàn toàn không có bất kỳ hành động gì để hạn chế sự ra đi của họ, và thế là họ cứ đến rồi đi - Chính phủ Mỹ mở toang cánh cửa để thu hút các chuyên viên kỹ thuật tay nghề cao, các giáo viên có năng lực nhất, các bác sĩ, lao động lành nghề, để rồi từ đó còn hình thành cả một cộng đồng lưu vong làm nguồn tuyển mộ những kẻ xâm lược và phản bội được tung về phá hoại đất nước này. Đó thực sự là những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng! Còn lời dối trá nào mà họ không dám bịa ra?

Trong suốt quá trình đó đã có rất nhiều vấn đề nghiêm trọng xảy ra. Chúng tôi không định trách cứ Vatican về những gì đã xảy ra, hoặc đổ lỗi cho Nhà thờ Công giáo, bởi vì có rất nhiều tín đồ Công giảo cũng là những nhà cách mạng nhiệt thành. Cho dù trong thực tế, một số người có đạo, thậm chí các giáo chức, cũng đã bị tống giam và những hành vi phản cách mạng.

Cả các Linh mục?

Đúng vậy, cho dù họ cũng không phải chịu án tù quá lâu. Trong cuộc đổ bộ xuống Vịnh Con lợn, có tới ba Linh mục tham gia cùng bọn lính đánh thuê, nhưng dù sao họ cũng chỉ là... Các ông gọi những linh mục giảng đạo trong quân đội là gì nhỉ?

Cha tuyên úy?

Đúng rồi. Hồi ở Sierra Maestra chúng tôi cũng có một Cha Tuyên úy, một Linh mục Công giáo tình nguyện tham gia vào hàng ngũ chiến sĩ nổi dậy. Thậm chí ông ấy còn được thăng lên quân hàm Thiếu tá và được mặc một bộ quân phục mầu xanh ôliu - Cha Sardinas, rất nổi tiếng và được nhân dân vô cùng yêu quý. Cũng không hẳn là vì các đồng chí của chúng tôi cần thực hiện các nghi thức Công giáo, nhất là với những người trước kia thường xuyên tới nhà thờ, nhưng dù sao thì ở Cuba hầu như ai cũng từng được rửa tội, nếu không, như tôi đã kể, anh sẽ bị gọi là “đồ Do Thái”.

Tôi cũng đã nói với ông rằng việc không tử hình một Linh mục nào đó không đơn giản chỉ là vấn đề nguyên tắc, nó còn là một vấn đề chính trị hết sức cơ bản: chỉ cần một Linh mục bị đưa ra hành quyết ở đây, ngay lập tức ông ta sẽ trở thành một vị thánh tử vì đạo, một món quà bất ngờ dành cho bộ máy tuyên truyền của Chủ nghĩa Đế quốc và là một sự xúc phạm đối với đông đảo tín đồ lương thiện ở Cuba nói riêng và toàn thế giới nói chung.

Nói vậy là Cách mạng Cuba đã rất nhẹ tay với các Linh mục?

Có nhiều chuyện hết sức nghiêm trọng đã xảy ra, nhưng chưa bao giờ có một Linh mục nào bị lĩnh án tử hình. Có lẽ Cách mạng Cuba là cuộc cách mạng triệt để duy nhất mà không có Linh mục nào bị hành quyết, bị lôi ra xử bắn... Chắc ông có biết chuyện những cristeros   ở Mêhicô, và trong rất nhiều cuộc cách mạng khác những chuyện như vậy vẫn xảy ra. Nhất là nếu ông nghiên cứu lịch sử Cách mạng Pháp, mà theo như tôi biết thì mặc dù không sinh ra ở Pháp nhưng ông đã theo học ở đó...

Cách mạng Pháp đã hành động rất mạnh tay đối với giới Tăng lữ.

Hãy nhớ tới cuộc đấu tranh giữa ba Đẳng cấp (Tăng lữ - Quý tộc - Bình dân) trong Cách mạng Pháp năm 1798. Các Đẳng cấp đã giết hại lẫn nhau, vì trong khi giới giáo chức cấp thấp đứng về phe Cách mạng thì những người đứng đầu giáo hội lại ủng hộ quyền lực của tầng lớp phong kiến, mặc dù về sau có một số giáo chức chuyển sang đứng trong hàng ngũ Cách mạng. Tôi không hề biết một cuộc cách mạng nào mà trong đó không có những chuyện (tàn sát lẫn nhau) như vậy diễn ra.

Hoặc lấy cuộc Cách mạng tháng Mười Nga làm ví dụ, tôi nghĩ chắc không có ai lại không biết rằng năm 1917 đã diễn ra một cuộc Cách mạng long trời lở đất tại nước Nga và tạo tiền đề cho sự ra đời của Liên Xô sau này - và ngay cả trong cuộc Cách mạng đó cũng có những chuyện nhạy cảm liên quan đến tầng lớp giáo sĩ của nhà thờ.

Trước đó thì có cuộc Cách mạng Mêhicô năm 1910, một cuộc Cách mạng Xã hội có vai trò vô cùng quan trọng, phải nói rằng đó là một cuộc Cách mạng xã hội thực thụ - dù chưa phải là Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa nhưng vẫn mang ý nghĩa xã hội vô cùng sâu sắc. Và trong đó cũng có chuyện bên này giết hại bên kia, liên quan cả đến giới Tăng lữ và Giáo sĩ.

Sau đó thì có Nội chiến Tây Ban Nha. Người Tây Ban Nha là dân tộc vô cùng ngoan đạo, và hầu hết những người Tây Ban Nha khi đó đều ủng hộ phe Cộng hòa, và có cả những Linh mục ở cả hai bên bị đưa ra xử bắn. Tóm lại là tôi không biết có cuộc cách mạng nào mà trong đó không có chuyện bên này dùng đội xử bắn để nói chuyện với bên kia, mà trong đó tất nhiên là dính dáng cả đến những nhân vật tôn giáo.
Trong khi đó, chúng tôi có thể coi là ngoại lệ duy nhất. Và điều đó chứng tỏ rằng chúng tôi được định hướng bởi những nguyên tắc chính trị và đạo đức nhất định - hai phạm trù kết hợp chặt chẽ. Đó là vấn đề vô cùng quan trọng.

Còn nếu như người ta không biết điều đó, nếu như nó không được tuyên truyền rộng rãi, nếu như sự thật bị chôn vùi đằng sau những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của giới truyền thông lúc nào cũng chỉ chăm chăm bài xích Cách mạng Cuba, tôi cũng chẳng lấy thế làm bận tâm. Ông đã hỏi tôi một câu hỏi và tôi đã giải thích. Liệu đã có bao nhiêu lời dối trá và bôi nhọ được gieo rắc khắp trên thế giới về Cách mạng Cuba xoay quanh các cáo buộc về tra tấn và những vấn đề tương tự?
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #117 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2013, 07:51:55 am »

11

NHỮNG ÂM MƯU BẮT ĐẦU


Những Đạo luật đầu tiên của Cách mạng - Che trong Chính quyền
- Cải cách ruộng đất - Che Guevara và lao động tình nguyện
- Những hành động phá hoại đầu tiên - Đổ vỡ quan hệ với Mỹ
- Khủng bố - Những âm mưu ám sát nhằm vào Fidel Castro


Khi chiến tranh kết thúc, ngày 2 tháng 1 nám 1959, ông mói chỉ ba mươi tuổi và hoàn toàn không có kinh nghiệm điều hành Chính phủ. Vậy ông và các cố vấn của mình đã làm gì để tiếp tục cuộc Cách mạng? Tôi đoán là thể nào cũng có những lúng túng nhất định.

Chúng tôi đã làm gì trước tiên à? Chúng tôi thực hiện lời cam kết của mình về việc đưa những tên tội phạm chiến tranh ra xét xử - đó thực sự là một chuyện chưa từng có tiền lệ ở khắp bán cầu Tây này. Chúng tôi giữ lời hứa của mình trong việc tịch thu và sung công tất cả những của cải, tài sản, bị ăn cắp hoặc phân bổ không họp lý trong những năm cầm quyền của Batista. Chúng tôi không đào bới quá sâu về quá khứ vì những tháng đấu tranh gian khổ chúng tôi đã phải tạo ra và duy trì một mức độ đoàn kết nhất trí rất cao giữa các thành phần khác nhau trong xã hội, còn nếu như chúng tôi mà tìm cách tính cả những tài sản do các Chính phủ trước đó nữa ăn cắp thì có lẽ, tôi cam đoan với ông, là sẽ chẳng còn tài sản nào ở Cuba mà không bị đụng tới! Vì tinh thần đoàn kết và hòa hợp dân tộc, chúng tôi đã thực thi chính sách này một cách khá ôn hòa. Tất cả đều tuân thủ quyết định mà Phong trào ngày 26 tháng 7 và Quân đội Nổi dậy đưa ra, vì mục đích cao nhất là sự đoàn kết và nhất trí giữa những con người ít nhiều đã cùng tham gia đấu tranh lật đổ chế độ độc tài. Chúng tôi bảo vệ tinh thần đó.

Sau đó ông đã làm gì?

Một việc khác mà chúng tôi đã làm là: chúng tôi tiếp nhận trở lại tất cả những công nhân từng bị sa thải trong giai đoạn Batista cầm quyền, trong tất cả những nhà máy trên cả nước. Tất nhiên, cung cách hoạt động của chúng tôi nghe có vẻ không đúng như những nguyên tắc kinh tế thị trường, và cũng không phù hợp với quan điểm được đưa ra bởi trường phái Những cậu bé Chicago, mà ngày nay chúng ta vẫn gọi là “Những nhà kinh tế tự do mới thân Mỹ”.

Chúng tôi còn cắt giảm đáng kể tiền thuê nhà ở và đất ruộng canh tác, Chủ trương này về sau trở thành một cuộc cải cách giá thuê khiến những người thuê nhà lại trở thành những người mua bất động sản và nhà cửa. Tất nhiên, chúng tôi cũng tiến hành bồi thường cho những chủ sở hữu chỉ có một vài đơn vị nhà ở. Tất cả những chuyện đó đưa chúng ta đến tháng 5 năm 1959.

Đó là thời điểm chúng tôi ban hành các Đạo luật Cải cách ruộng đất, Đạo luật đầu tiên được thông qua vào ngày 17 tháng 5 năm đó.

Chúng tôi đã hành động rất kiên quyết, bất chấp những sai làm không thể tránh khỏi do thiếu kinh nghiệm và kiến thức. Cứ vài phút lại có vấn đề xuất hiện, ví dụ như là vì bất thình lình Urrutia tuyên bố đóng cửa tất cả các sòng bạc - khi đó vẫn còn cờ bạc công khai và những tệ nạn tương tự - và thế là chúng tôi vấp phải sự phản đối quyết liệt của những người làm việc trong các sòng bạc và cả những người làm trong lĩnh vực du lịch, giải trí.

Vậy là các nhân viên trong sòng bạc đã phản đối. Họ có biểu tình trên phố không?

Không có ngày nào là không có chuyện lộn xộn vì những quyết định táo bạo mà chúng tôi ban bố.

Giống như việc tạo ra 10 nghìn phòng học trong ngành giáo dục. Khi đó không có tiền; Batista đã mang theo hầu như toàn bộ ngân sách của Chính phủ. Trong khi đó, Đảng Xã hội Chủ nghĩa Bình dân lại tiến hành những biện pháp vô chính phủ, vì hai lý do: thứ nhất là sự tranh giành ảnh hưởng giữa những tổ chức chính trị; thứ hai là thói quen tả khuynh khuyến khích nhân dân tự chia lại ruộng đất. Tôi đã thể hiện quan điểm rất rõ trong việc này, tôi khẳng định sẽ không có chuyện như vậy. Thậm chí chúng tôi còn ban hành một mệnh lệnh hành chính tuyên bố: “Luật pháp sẽ không công nhận quyền hợp pháp của những diện tích đất mà các cá nhân tự động chiếm dụng”. Chúng tôi tin rằng nếu cứ áp dụng biện pháp vô chính phủ như vậy, chắc chắn sẽ dẫn đến hậu quả là sự lộn xộn và hỗn loạn trong nội bộ cuộc Cách mạng từng có sự ủng hộ của hơn 90% quần chúng nhân dán, đó là căn cứ theo những cuộc thăm dò dư luận. Bởi vì sẽ phát sinh tình trạng tranh giành, đấu đá - đủ những chuyện không hay như vậy.

Đó là chuyện xảy ra trong những tháng đầu tiên, và đến tháng 5, chính xác là ngày 17 tháng 5 mà tôi đã nói, chúng tôi tuyên bố Đạo luật Cải cách ruộng đất, và đạo luật này được công bố một cách biểu tượng tại Tổng hành dinh Quân Nổi dậy ở La Plata, trong vùng núi Sierra Maestra.

Khi đó mói chưa đầy một năm qua đi, kể từ ngày tôi vào ngôi làng nhỏ đó, Santo Domingo, nơi Tiểu đoàn đầu tiên của Sanchez Mosquera đã ập vào 1, và chúng tôi chỉ có duy nhất đúng một khẩu súng trường của tôi tại sở chỉ huy, vốn là mục tiêu chính của lực lượng quân địch khổng lồ do Batista huy động trong chiến dịch truy quét cuối cùng của hắn.

Trong máy bay trên đường tới tỉnh Oriente, tôi đã bổ sung một số chi tiết vào nội dung Đạo luật - những chi tiết mà sau đó tại sở chỉ huy tôi đã bàn bạc với các Bộ trưởng khác có nhiệm vụ thông qua nó, theo đúng tinh thần của Hiến pháp lâm thời. Có những nội dung cụ thể như việc thành lập các Hợp tác xã mà tôi đã đề cập trong bài phát biểu “Lịch sử sẽ bào chữa cho tôi”, về sau chúng tôi đã nỗ lực rất lớn để thành lập những Hợp tác xã nông nghiệp. Chúng tôi cũng ủng hộ và khuyến khích những Tổng công ty Nông nghiệp quốc doanh quy mô lớn, chủ yếu là vì những dải đất trống mênh mông đó, những latifundios rộng lớn trước kia nằm trong tay của giới Đại Địa chủ Cuba giàu có hoặc những Công ty xuyên quốc gia đồ sộ, chủ yếu là Công ty của Mỹ, chủ yếu là để phục vụ công tác nông nghiệp, chăn nuôi gia súc - làm sao chúng tôi có thể nghĩ đến việc chia nhỏ những đồn điền rộng lớn đó ra để chia thành hàng trăm trang trại nhỏ, manh mún?

---------------------------------------------------------
1. Angel Sanchez Mosquera là một Thượng úy (trong quân đội Batista) vào thời gian đầu của cuộc chiến và được thăng lên chức Đại tá do những hành động đẫm máu cúa ông ta ở Sierra Maestra. Ông ta là một trong những sĩ quan có năng lực và quyết đoán nhất của Batista, và cũng là tay giết người dã man nhất. Chính quân đội của ông ta là những kẻ đã tiếp cận gần nhất sở chỉ huy ở La Plata trong chiến dịch phản công chống lại Mặt trận thứ nhất của quân nổi dậy mùa hè năm 1958, và một trong những trận chiến cuối cùng của chiến dịch đó, ông ta bị thương nặng ở đầu. (Chú thích của Biên tập viên Cuba).
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #118 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2013, 09:17:46 am »

Chúng tôi thành lập các Hợp tác xã sản xuất tại những khu vực trồng mía và thực tế là chỉ sau một thời gian ngắn các Hợp tác xã này đã hoạt động rất thành công. Hồi đó chẳng ai biết gì về các nguyên tắc quản lý kinh tế, khắp nơi đều chỉ thấy những khẩu hiệu lạc hậu và những câu hô hào của Công đoàn cũng như các tổ chức nông dân, tất cả đều chính đáng, nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ của một xã hội Tư bản Chủ nghĩa cần được cải tổ triệt để. Tôi còn nhớ là trong những tuần đầu tiên của năm 1960, nhà hát ở CTC (Central de Trabajadores de Cuba, tức là Trung tâm Công nhân Cuba), với sức chứa hơn 3000 người, đã đông chật cứng những đại diện của các công nhân mía đường, tất cả đều kêu gọi được làm theo bốn ca thay vì ba ca trong các nhà máy mía đường. Các lãnh đạo của Phong trào ngày 26 tháng 7 và PSP ganh đua với nhau một cách dữ dội để ủng hộ những ý tưởng này. Làm sao anh có thể giải thích với quần chúng nhân dân rằng ý tưởng đó là vô cùng có hại về mặt hiệu quả kinh tế, có nghĩa là sẽ phải tạo ra những công việc và chỗ làm mới, thay vì chia sẻ những việc làm đang có sẵn? Khi đó chúng tôi vẫn chưa hề công bố thực hiện Chủ nghĩa Xã hội, mà cũng không thể làm như vậy. Các công ty và tập đoàn vẫn nằm trong sự kiểm soát của tư nhân, và phần lớn những công ty lớn nhất là của người Mỹ. Nhưng những ý tưởng của chúng tôi thì đã có định hướng Xã hội Chủ nghĩa rất rõ ràng, và đều rất cách mạng. Ngay từ đầu, chúng tôi đã phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Tôi đã phải vận dụng tất cả khả năng cùng trí tưởng tượng của mình để thuyết phục họ mà vẫn giữ được lập trường quan điểm của mình (tức là chúng tôi sẽ tuyên bố thực hiện Chủ nghĩa Xã hội). Tôi nghĩ là tôi đã thuyết phục được họ. Đến tận hôm nay, không ai có thể nói là tôi đã sai khi làm như vậy. Khi đó tôi có đặc quyền lúc nào cũng được mọi người tin tưởng và đặc biệt tín nhiệm, điều mà tôi chưa bao giờ làm họ phải thất vọng. Tôi không bao giờ nói, “Nghe này, điều cậu sẽ làm là điều hành các doanh nghiệp và quản lý các ngành công nghiệp”, mà bao giờ tôi cũng thuyết phục họ bằng lý lẽ “Làm như thế này sẽ không có lợi cho chúng ta, mà phải làm thế này thế kia”. Nhiều lần chúng tôi đã phải tranh cãi rất gay gắt, thậm chí ngay giữa những chiến sĩ của Phong trào ngày 26 tháng 7 cũng có bất đồng gây chia rẽ. Rồi lại còn sự kèn cựa, ganh đua trong hàng ngũ lãnh đạo, và tôi đã phải hết sức cảnh giác trước nguy cơ đó... Nói chung trong những tháng đầu tiên đó, chúng tôi đã thông qua được rất nhiều đạo luật quan trọng.

Vào thời điểm đó cương vị mà ông đảm nhiệm là gì, hay nói cách khác trách nhiệm chính của ông là gì?

Tôi đảm trách hai cương vị, nhưng thời gian đó về cơ bản tôi chịu trách nhiệm là Tư lệnh của quân đội chiến thắng và lãnh đạo nhân dân, lực lượng vừa bất ngờ giành quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ đất nước. Ngay từ đầu tôi đã từ chối cương vị người đứng đầu nhà nước, và tôi đang cố gắng hợp tác một cách trung thành với bộ máy quyền lực chính trị tối cao mà chúng tôi đã xây dựng nên. Nhưng trong thực tế những gì tôi làm là sửa chữa các sai lầm do vị Tổng thống thiếu cả năng lực lẫn kinh nghiệm điều hành đất nước gây ra. Các Bộ trưởng đều phát chán với Urrutia. Thậm chí không hiểu sao ông ta còn phát động một cuộc chiến chống lại Chủ nghĩa Cộng sản, và tệ nhất là cương vị Tổng thống đã khiến ông ta không còn là chính mình. Urrutia thường cử Machadito (Jose Ramón Machado Ventura), một Bác sĩ và cũng từng là chiến sĩ du kích, hiện đang là thành viên trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Cuba, nhưng khi đó đang là Trợ lý cho Urrutia, đi tháp tùng vợ ông ta trong những chuyến mua sắm xa xỉ tại những cửa hàng đắt tiền nhất Havana. Dường như ông ta nghĩ rằng đang lãnh đạo một nước Cộng hòa của riêng mình...

Rồi còn phải kể đến rất nhiều âm mưu lần lượt thay nhau xuất hiện trong khoảng thời gian đó... Trong đó có một âm mưu do Hubert Matos 1 cầm đầu ở tỉnh Camaguey - đó là một phần tử cánh Hữu và có những mối quan hệ nhất định. Những vấn đề như vậy xuất hiện rất phức tạp. Trong thời gian chúng tôi đang thực thi những Đạo luật Cải cách ruộng đất, Che chưa phải là Bộ trưởng trong Chính phủ, anh ấy còn đang phải điều trị để hồi phục sức khỏe tại một trại điều dưỡng bên bờ Đại dương. Tại đó, Carlos Rafael Rodriguez cùng vài đồng chí khác và tôi, đã đến thăm anh ấy vài lần để thảo luận dự thảo Sắc lệnh Cải cách Ruộng đất. Tất nhiên lúc này anh ấy vẫn đảm đương cương vị chỉ huy các lực lượng vũ trang đóng tại La Cabana.

Che là một chỉ huy quân sự, vì chúng tôi lúc nào cũng phải hết sức cảnh giác. Ngay bất kỳ lúc nào có có nguy cơ xâm lược, Raul sẽ lập tức bay tới Oriente, Che tới Pinar del Rió, Almeida tới vùng trung tâm hòn đảo, còn tôi sẽ phụ trách ở Havana - chúng tôi đã phân chia nhiệm vụ cụ thể của các chỉ huy.

Tình huống như vậy đã xảy ra trong sự kiện Vịnh Con lợn: Che đã phải tới Pinar del Rió, Almeida tới vùng trung tâm của hòn đảo, tôi ở Havana, và Rául tới Oritente. Ý tôi là trong sự kiện Vịnh Con lợn, cũng như cuộc khủng hoảng tháng Mười sau đó, mỗi chúng tôi đều phụ trách phòng thủ một khu vực, và mỗi người đều phải ngay lập tức tới khu vực của mình, bất kể lúc đó chúng tôi đang làm gì chăng nữa.

Sau khi Cách mạng thành công, Che có yêu cầu được ra đi, để quay về lãnh đạo một cuộc Cách mạng ở Argentina?

Như tôi đã nói, ngay từ đầu chúng tôi đã cam kết như vậy, và tôi vẫn luôn bảo anh ấy, “Đừng lo, cam kết đó của chúng ta sẽ được tôn trọng”. Nhưng phải nói rằng Che rất nhiệt huyết đối với cuộc Cách mạng Cuba. Như tôi đã nhắc đến ở trên, thậm chí anh ấy đã phải tới một khu điều dưỡng bên bờ biển ở Cojimar để điều trị bệnh hen. Tất cả chúng tôi đã cùng họp mặt trong một ngôi nhà, ở Tarará - gồm Nunez Jiménez 2, một số đồng chí khác và tôi - để bàn bạc về dự thảo Sắc lệnh Cải cách Ruộng đất, vì tôi sốt ruột không thể chờ đợi hơn được. Thực sự là tất cả họ đều ủng hộ một cuộc cải cách ôn hòa hơn. Che ý thức được là sẽ có những cuộc đấu tranh không khoan nhượng với các công ty lớn của Mỹ; chắc chắn là anh ấy còn nhớ bối cảnh tương tự ở Guatemala, và anh ấy cảnh báo chúng tôi phải hết sức thận trọng; anh ấy bày tỏ quan điểm đó một cách rất trung thực và thông minh. Tôi phải nói, với tất cả lòng trung thực rằng Che cũng hơi ngạc nhiên khi tôi muốn tiến hành cải cách ruộng đất mạnh tay và triệt để như vậy, có lẽ còn cấp tiến hơn cả những gì anh ấy muốn.

Hồi đó có những đại đồn điền lớn với diện tích trên 200.000 ha tức là gần nửa triệu mẫu Anh, thuộc sở hữu của các công ty nước ngoài. Một số công ty Mỹ sở hữu những đồn điền mía đường khổng lồ và những vùng đất canh tác rộng mênh mông. Tất nhiên là họ còn sở hữu đất đai ở rất nhiều quốc gia khác nữa, nhưng tại đây, do những vấn đề mà lịch sử để lại, các công ty này trở nên rất mạnh và có nhiều ảnh hưởng. Hoàn toàn không có giải pháp nào khác ngoài việc quốc hữu hóa chúng, chỉ là sớm hay muộn. Thực sự là phải đẩy nhanh quá trình đó, và chúng tôi quyết định đẩy nhanh nếu không sẽ gây ra những xung đột lợi ích với Mỹ. Vấn đề là ở chỗ Sắc lệnh Cải cách Ruộng đất đầu tiên đó, dù có cấp tiến hay không, cũng là điều hoàn toàn không được đón nhận trong một quốc gia mà những đồn điền mía tốt nhất lại thuộc sở hữu của các công ty Mỹ.

----------------------------------------------------------
1. Huber Matos (sinh năm 1918) là Tư lệnh trong Lực lượng du kích chiến đấu chống lại Batista ở Sierra Maestra; ông chỉ huy cánh quân “Antonio Guiteras”, cánh quân số 9, trong Mặt trận thứ ba. Tháng 10 năm 1959, trong khi giữ chức Tư lệnh quân khu Camaguey, ông không hài lòng với “Định hướng Cộng sản chủ nghĩa” mà cuộc Cách mạng đang đi theo, và bất đầu tổ chức một âm mưu. Camilo Cienfuegos đi một mình đến Camaguey để bắt Matos và phá vỡ âm mưu này.
Matos bị buộc tội, bị kết án 20 năm tù. Ông ta sống lưu vong ở Miami kể từ khi đuợc thả tự do năm 1979. Ông là lãnh đạo Phong trào Độc lập và Dân chủ cho Cuba (CID); ông là tác giả cuốn tự truyện có tên Como llego la noche (Madrid: Tusquets, 2003). (Cần chú ý rằng, tất cả các ấn phẩm liên quan xuất bản bằng tiếng Tây Ban Nha đều gọi Huber Matos là “Hubert”; điều này là sai; tên của ông chính xác là Huber Matos. Nếu không, âm mưu của Matos hay hành động “phản bội” khác của Matos với Cách mạng, cũng như âm mưu mà ông ta đang tổ chức, hành động mà ông ta phủ nhận sẽ hoàn khác với con người được đề cập ở đây. Ví dụ, lá thư của Matos gửi Castro dường như chính Castro mói là người đầu tiên công khai bức thư đó, có lẽ là để làm mất uy tín của Matos và đưa ông ta ra xét xử. Rõ ràng cả hai bên tham gia tranh cãi đều có những lỹ lẽ riêng của mình; vấn đề được làm rõ ở đây chỉ có tính chất “để ghi nhận”.

2. Antonio Nunez Jimenez (1923-1998), nhà Tự nhiên học, nghiên cứu các hang động, nhà địa lý và là Đại úy sĩ quan trong quân đội nổi dậỵ. Sau khi Cách mạng giành chiến thắng, ông được giao nắm giữ những vị trí quan trọng trong chính phủ trong đó có chức vụ Giám đốc điều hành Viện Quốc gia cải cách nông nghiệp (một vị trí cực kỳ quan trọng ở Cuba), cơ quan này được thành lập theo Đạo luật Cải cách nông nghiệp tháng 5 năm 1959. Ông là tác giả của rất nhiều cuốn sách về địa lý của Cuba và nhiều chủ đề khác trong đó có cuốn tàng thư đồ sộ Cuba, la naturaleza y el hombre (“Cuba, Thiên nhiên và con người”).
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #119 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2013, 09:22:17 am »

Luật cho phép mỗi công ty chỉ được sở hữu tối đa 100 caballerias 1, và có những đại đồn điền lên tới 10 nghìn caballerias hoặc thậm chí là hơn nữa. Nếu những đồn điền đó hoạt động hiệu quả, và nếu chúng thực sự đang được canh tác, thì chúng tôi có thể tăng giới hạn lên 100 caballerias, còn nếu không giói hạn tối đa chỉ là 30. Quy định là như vậy, nghĩa là một công ty không được phép có hon 100 caballerias. Và mức đó cũng chỉ áp dụng nếu diện tích đất họ có đang được canh tác hết; tóm lại không ai được phép sở hữu quá 1340 ha, tức là hơn 3300 mẫu Anh một chút, còn nếu như đất đó không được dùng vào việc sản xuất, thì không ai được có quá ba mươi caballerias, tương đương với 402 ha, hoặc khoảng 1000 mẫu Anh gì đó. Những người khác cho rằng nên nói rộng hạn định lên mức 200 caballerias, nhưng tôi nói dứt khoát, “Tối đa là 100”. Sau đó, tôi xem xét cẩn thận hơn, và tôi nghĩ có lẽ chúng tôi đã phạm sai lầm trong vấn đề này, chúng tôi đã chủ quan duy ý chí. Không thể phủ nhận một điều rằng chúng tôi đã phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí. Tôi cũng tham gia vào sai lầm đó và tôi thẳng thắn nhận trách nhiệm về sự duy ý chí của mình, bởi vì tôi tin rằng khi đó chúng tôi đang tạo ra những bước nhảy vọt trong nông nghiệp khi, thay vì phát triển các mô hình hợp tác xã, chúng tôi đã tập trung phát triển các doanh nghiệp quốc doanh.

Trong bài “Lịch sử sẽ bào chữa cho tôi”, tôi đã nói về mô hình hợp tác xã, kế hoạch trồng lại rừng, còng nghiệp hóa, và tôi còn đề cập đến những con “bê vàng”; tôi sử dụng hình ảnh này một cách ẩn dụ để ám chỉ thói quen thờ phụng đồng tiền. Vào thời gian đó, chẳng có ai tin tưởng vào bất kỳ chương trình nào do những người cách mạng Cuba đề xướng, bởi vì trước đó đã có rất nhiều người hô hào và khởi xướng những chương trình hành động, nhưng rồi chính những người đó lại chẳng bao giờ thực hiên một cách triệt để. Trong khi đó, vấn đề thực sự của chúng tôi lại là ở chỗ chúng tôi đã thực hiện các chương trình do mình đề ra một cách quá triệt để.

Khi đó hàng trăm nghìn người nông dân sống trong các vùng nông thôn không có đất canh tác, hàng chục nghìn nông dân phải thuê đất; những người khác thì thực ra chỉ là dân nhảy dù chiếm dụng đất bất hợp pháp - tức là họ không có quyền sở hữu hợp pháp đối với mảnh đất họ đang canh tác và có thể bị đẩy đi bất kỳ lúc nào; đặc biệt là họ phải sống rải rác trên những diện tích đất công trên núi. Còn rất nhiều người khác là những lao động lĩnh canh; đây là những người phải chịu tình cảnh khó khăn nhất, vì họ tốn bao công sức trồng trọt và thu hoạch để rồi phải giao phần lớn thành quả đó cho chủ đất, rồi chỉ được giữ lại khoảng một phần ba hoa màu cho mình. Đến thời điểm đó tất cả những diện tích đất đai hiện có đều đã được phân chia, chia ra thành nhiều phần, chẳng còn đất đai dư thừa nào để chia cho những người chưa có - những gì phải làm lúc này là hợp pháp hóa các mảnh đất và công nhận cho các nông dân có quyền sở hữu đối với những mảnh đất họ đang chiếm dụng, và đó chính là những gì chúng tôi đã làm.

Tuy vậy, chúng tôi không muốn phá vỡ ngành sản xuất mía đường. Những diện tích đất cuối cùng mà chúng tôi quốc hữu hóa chính là các đồn điền mía rộng lớn, phải nói rằng đây là những đồn điền lớn nhất trong các đại đồn điền. Cuối cùng, chúng tôi chuyển những tổng công ty nông nghiệp đó thành các doanh nghiệp quốc doanh tập thể; hiện nay đó là những hợp tác xã. Thực tế là trong suốt “giai đoạn đặc biệt” 2  đó, khi xảy ra tình trạng khan hiếm nhiên liệu nghiêm trọng, chúng tôi đã quyết định biện pháp đúng đắn nhất trong hoàn cảnh này là chia cho các công nhân trong ngành nông nghiệp mỗi người một mảnh đất nhỏ để làm đất canh tác của gia đình, giúp họ tự bảo đảm nguồn thức ăn. Chúng tôi không áp dụng biện pháp mà Liên Xô từng làm trong những hoàn cảnh khó khăn - đó là thực hiện tập thể hóa cưỡng bức, một quyết định từng phải trả giá đắt với việc rất nhiều máu đổ.

Và hiệu quả thực sự cũng không cao lắm, tại Liên Xô sau quyết định đó, nạn suy dinh dưỡng và khan hiếm lương thực các loại đã diễn ra trong rất, rất nhiều năm.

Chúng tôi không bao giờ ép buộc ai phải góp đất làm ăn chung. Ngay từ ngày đầu tiên, Cách mạng Cuba đã tuyên bố ý nguyện của mỗi người nông dân sẽ được tôn trọng và sẽ không người nông dân nào bị bắt phải ghép mảnh ruộng của mình vào ruộng của người khác để tạo ra những đơn vị nông nghiệp lớn hơn, mặc dù như vậy rất có thể sẽ thu được hiệu quả cao hơn về vấn đề nhân lực và năng suất canh tác trên mỗi ha đất, cho dù không phải lúc nào cũng vậy, vì tất cả mọi thứ cưỡng bức (tất nhiên là không phải bằng sự cưỡng bức của quân đội hay cảnh sát mà bằng luật pháp) bao giờ cũng gây ra những tổn thương hết sức nặng nề.

Các hợp tác xã xuất hiện trong giai đoạn đặc biệt đó đều được sinh ra từ những công ty quốc doanh mà chúng tôi đã có, phần lớn trong đó đều hoạt động rất hiệu quả và có triển vọng rất sáng sủa, tất nhiên là trừ trường hợp bộ máy của chúng hoạt động quá quan liêu, kềnh càng hoặc không bị ám ảnh bởi tham vọng mở rộng đến mù quáng. Tất cả những điều đó diễn ra trong suốt quá trình vừa làm vừa rút kinh nghiệm đầy khó khăn của chúng tôi sau khi cách mạng thành công, và cho đến nay phải công nhận rằng chúng tôi vẫn chưa hoàn toàn giải quyết được tất cả những thách thức phát sinh trên chặng đường đó, xuất phát từ lệnh cấm vận kinh tế đáng khinh bỉ của Đế quốc Mỹ đối với chúng tôi và cung cách quản lý kinh tế duy ý chí, và cũng còn do cả sự kết hợp nửa mùa giữa mô hình Chủ nghĩa Tư bản và Chủ nghĩa Xã hội đã gây ra sự lúng túng và rối loạn, cho dù mục tiêu cao nhất của chúng tôi là chấm dứt tình trạng người bóc lột người và xây dựng một xã hội công bằng hơn.

Những trung tâm sản xuất nông nghiệp hiệu quả nhất và sinh lời nhiều nhất đều được hình thành trên cơ sở sự liên kết và hợp tác tự nguyện và có ý thức của các nông dân nhỏ lẻ, từ những thành quả kinh tế đó họ có thể xây dựng nhà cửa, trường học, trung tâm dịch vụ y tế, trung tâm phân phối hàng hóa, các hợp tác xã về điện, nước, và nhiều dịch vụ khác, tất cả đã góp phần xóa bỏ thói quen làm ăn tách biệt và tự cung, tự cấp của phần lớn các gia đình. Và ngay cả trong hiện tại cũng còn rất nhiều mô hình sản xuất khác đang được nghiên cứu tạo ra hoặc hoàn thiện dần dần - và theo quan điểm của tôi thì tất cả đều mang tính khả thi cao, với rất nhiều trường hợp đã được kiểm chứng thành công mỹ mãn, do đó chúng tôi có thể khẳng định những mô hình mói đó có thể tồn tại đồng hành với những gì chúng tôi đã có từ trước.

Tại Liên Xô trước kia, bao giờ cũng phải là tất cả hoặc không gì hết. Đang từ chủ trương đa dạng hóa hình thức sở hữu trong thời kỳ thực hiện NEP 3, lại đột ngột chuyển sang tập thể hóa toàn bộ trong một thời gian rất ngắn, chính chủ trương đó đã gây ra rất nhiều xung đột, bạo lực và tổn thất.

Lại nói về Cải cách ruộng đất, quan điểm của tôi khi đó là hết sức triệt để, tôi còn có thể nói gì được nhỉ? Ý tôi là một khi không cấp tiến và triệt để, anh sẽ chẳrig lầm được gì hết - anh tổ chức ra một Đảng chính trị, anh tiến hành hai mươi cuộc bầu cử, và cũng sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra. Nhưng đối với tôi, tôi nghĩ rằng chúng tôi phải nhanh chóng đưa một đòn đánh quyết định (nhằm vào hệ thống cũ), và đòn đánh đó chính là Sắc lệnh Cải cách ruộng đất.

----------------------------------------------------------
1. Một caballera tương đương 13,4 héc ta.

2. Sự sụp đổ của khối Xã hội chủ nghĩa Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô khiến Cuba mất đi ngay lập tức những thị trường chính và nguồn cung cấp tín dụng và bắt đầu từ năm 1991, đã gây ra những khó khăn lớn đối với nền kinh tế Cuba. Rất nhiều ngưòi trên thế giới tỏ ra lo ngại và cho rằng chẳng bao lâu Cách mạng Cuba sẽ sụp đổ. Những năm tháng mà đất nước này trải qua tình hình khó khăn đó được gọi là “giai đoạn khó khăn đặc biệt” kéo dài cho đến cuối những năm 1990, khi nền kinh tế Cuba bắt đầu lấy lại được sự phục hồi. (Chú thích của Biên tập viên Cuba).

3. Năm 1921, kết thúc cuộc nội chiến, Nga bị tàn phá nặng nề và người dân bắt đầu bị chết đói. Vào thời điểm đó, Lênin bắt đầu tiến hành NEP (Chính sách kinh tế mới), ưu tiên đặc biệt cho nông nghiệp. Kết quả thu được rất tích cực. Sau đó Lênin qua đời vào năm 1924 và năm 1928 Stalin nhanh chóng bãi bỏ chính sách kinh tế mới và quay lại với nền kinh tế hoàn toàn Xã hội Chủ nghĩa, với ưu tiên hàng đầu là công nghiệp hóa nhằm “xây dựng Chủ nghĩa Xã hội trên một đất nước duy nhất”.

« Sửa lần cuối: 27 Tháng Bảy, 2013, 09:34:55 am gửi bởi hoi_ls » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM