Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 13 Tháng Năm, 2024, 04:35:41 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Giáp mặt với Phượng Hoàng  (Đọc 62959 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #80 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2008, 05:54:51 pm »


Thay vì hỏi các tư lệnh chiến trường xem họ đã đếm được bao nhiêu xác chết, Abrams lại hỏi họ là Việt Cộng đã tìm cách thu thuế trong khu vực hoạt động của họ như thế nào, hoặc họ đã thành công tới mức nào trong việc phát hiện những thành viên trong cái chính phủ bí mật của Việt Cộng. Ông không theo chiến lược tìm và diệt của Westmoreland mà nhấn mạnh chiến lược đặt hàng rào bao vây, theo đó quân đội của ông bao vây một khu vực rồi để cho cảnh sát Việt Nam tiến vào thôn ấp lùng Việt Cộng. Đồng thời ông lại sử dụng máy bay ném bom hạng nặng B-52 đánh vào những nơi tình nghi có quân đội của định, đây là một chiến dịch mà các nhà báo không thể quan sát, do đó không thể chỉ trích được.

Colby thích Abrams bởi vì cuối cùng ông đã tìm ra một ông tướng cho rằng cuộc chiến này không thể thắng bằng cách đếm xác trong khi bộ máy của Việt Cộng vẫn còn hoạt động. Còn Bunker thích ông vì ông đã tận tâm giúp cho Nam Việt Nam tăng cường lực lượng quân sự của họ, đó là điều kiện tiên quyết để thực hiên chỉ thị của Johnson về việc rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt. Năm 1969, Nhà Trên đã thay thầy đổi chủ nhưng Richard Nixon nói rõ ông chủ trương đi theo con đường thương lượng mà Johnson đã nêu ra năm 1968 khi ông tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống một nhiệm kỳ nữa. Mặc dầu chính sách 'Việt Nam hóa” chiến tranh là của Nixon chứ không phải của Abrams đề ra nhưng Bunker cũng như hầu hết mọi người đều nghĩ rằng Abrams làm việc với giới quân sự Nam Việt Nam tốt hơn nhiều so với Westmoreland là người hay tỏ ra khó tính trước sự bất lực và lộn xộn của quân lực Nam Việt nam trong những tháng đầu ông nhậm chức tư lệnh.

Với Abrams làm tư lệnh chiến trường và Colby phụ trách bình định, Bunker có thể tập trung năng lực vào sự củng cố chính quyền Sài Gòn do Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu theo kết quả cuộc bầu cử năm 1967. Không nghi ngờ gì rằng Bunker là người luôn luôn thực hiện một cách tin tưởng mọi chỉ thị của Bộ Ngoại Giao và của Nhà Trắng. Ông không phải là Cabot Lodge để tự mình đề ra chính sách. Những người chỉ trích Bunker cho rằng nếu ông có khuyết điểm nào đó thì đó là việc ông đã gắn bản thân ông quá chặt chẽ vào sự thành bại của người đứng đầu chính phủ Sài Gòn. Có người còn cho rằng, đối với Bunker, Thiệu chính là cây cầu trên sông Kwai vậy.

Theo lời bà Carol Laise, vợ ông, Bunker cho rằng Thiệu là một người có năng lực và đang trưởng thành trong công tác. Bunker cho rằng dưới sức ép của tình hình như vậy, rõ ràng là Thiệu đã làm được nhiều điều đáng kể. Khi tôi nói tới sức ép của tình hình, tôi muốn nói rằng Thiệu phải đối phó cùng một lúc vó hai công chúng, công chúng trong nước ông và công chúng trong nước Mỹ. Bunker nghĩ rằng Thiệu là người đa nghi, nhưng trong đa nghi cũng có sự cẩn thận có thể thông cảm được.

Cuộc bầu cử Tống thống Nam Việt Nam diễn ra bốn tháng sau khi Bunker tới Sài Gòn. Bunker. có quan niệm riêng của mình về thái độ ngoại giao cần phải có trong những trường hợp như thế này. Ông cho rằng đây là một cuộc bầu cử hợp hiến và ông không hề gây sức ép bắt ai phải làm gì. Thay vào đó, ông lại có thói quen tham khảo ý kiến với Thiệu như thể ông đang đối xử với người đứng đầu chính phủ nước Anh trong chiến tranh vậy. Ông là người đã đi qua đoạn đường nửa dặm từ tòa Đại sứ tới dinh Tổng thống nhiều lần trong một tuần.

George Jacobson, người đã nhiều khi tháp tùng Bunker đi gặp Thiệu có kể lại rằng “Bunker ghi ý kiến của mình trên những mẩu giấy cứng khổ 3 x 5 cm trước khi đi gặp Thiệu. Ông cố nhớ những gì đã ghi trước khi chúng tôi tới dinh Độc Lập. Thiệu là một người rất lịch sự. Anh không bao giờ thấy một người nào như Thiệu ngồi sau bàn làm việc của mình cả. Sau khi bắt tay, chúng tôi ngồi quanh bàn uống cà-phê, nơi trà đã dọn sẵn. Bất kể nói về vấn đề gì, Bunker vẫn giữ giọng nói lịch sự ôn tồn thường ngày. Ông đề cập đến vấn đề một cách nhẹ nhàng, nhưng không bao giờ nhạt nhẽo cả . Câu chuyện giữa ông và Thiệu bao giờ cũng diễn ra như đôi bạn cố tri vậy”.

Dáng điệu nho nhã ôn hòa của Bunker rất hấp dẫn đối với trí tưởng tượng Đông phương, trái hẳn với thái độ thẳng thừng kiểu nhà binh của Maxwell Taylor, hay thái độ ngang ngược của Cabot Lodge. “Ông ta ngồi thẳng, và bình tĩnh nghe người đối thoại, không bao giờ có vẻ nóng ruột cả”, một nhà báo Việt Nam đã mô tả ông như vậy. Người Việt Nam tặng cho ông cái tên “ông già tủ lạnh”. Con người bẩm sinh không có thớ làm Thống đốc thuộc địa, được dư luận công chúng Việt Nam coi là vị Đại sứ quyền lực nhất trong tất cả các Đại sứ của Hoa Kỳ. Cách Bunker nhận thức được sức mạnh và cách ông ủng hộ mạnh mẽ Thiệu đã ngăn chặn mọi cuộc đảo chính ở Sài Gòn.

Trong khi Thiệu nhanh chóng trưởng thành dưới sự che chở của Bunker thì, trong chỗ riêng tư, ông Bunker nói một cách tự hào với các ký giả rằng Thiệu đã trở thành một “chính khách tinh khôn”. Sự thăng tiến của Thiệu đã diễn ra không ồn ào bởi vì chỉ có Bunker và Westmoreland cho rằng Thiệu chính là sự lựa chọn của Mỹ. Những người khác, từ Lodge tới Lansdale và Ellsberg, đều ủng hộ Kỳ.

“Bunker không muốn John Vann hay bất cứ ai khác trong cộng đổng ngoại giao của Mỹ tại đây tiếp xúc gần gũi quá với Châu trong thời gian ông này gặp rắc rối với Thiệu”, George Jacobson nói. “Châu được coi là một nhà quân sự và một nhà cai trị có tài trên lĩnh vực dân sự. Bunker không có vấn đề hiềm khích gì đặc biệt với Châu. Nhưng ông quan tâm đặc biệt tới việc nâng đỡ Thiệu - không được gây rắc rối cho Thiệu. Bunker quan tâm tới việc Thiệu thực hiện những điều ông yêu cầu và ông cho điều đó quan trọng hơn là một cuộc xung đột giữa chính phủ với Châu. Vấn đề đơn giản vậy thôi”.

Ai tới gặp Thiệu lần đầu tiên đều thấy ngạc nhiên. Người ta cứ nghĩ rằng một người đã tiến thân gian khổ, qua bao nhiêu đụng chạm như vậy mới lên tới tuyệt đỉnh quyền lực ở Sài Gòn chắc phải là một viên tướng mặc áo giáp chống đạn bên dưới bộ quân phục, súng lục kè kè thắt lưng. Nhưng lại được đón tiếp bởi một người không gây ấn tượng gì, một con người chắc nịch, ăn mặc kiểu xưa, không đeo huân chương, lịch sự mời khách uống trà, nói một cách duyên dáng tiếng Anh khá trôi chảy, thỉnh thoảng mới vấp một đôi chữ. Nhưng nếu vì vậy mà cho rằng Thiệu là một chính khách dễ mến thì cũng không phải. Ông là người hút liên tục loại thuốc lá Kool trong khỉ nói chuyện. Ông là con người cô đơn. Mặc dầu đầu óc hoạt bát, biết tổ chức, ông vẫn không phải là một người trí thức, ông đọc báo và tạp chí, thỉnh thoảng một cuốn sách. Ông đã phấn đấu kịch liệt, nhưng thăng tiến tương đối chậm. Ông hay giải trí bằng thuyền ở bãi biển Vũng Tàu nơi ông có một ngôi nhà nghỉ mát, mặc dầu ông không phải là một người câu cá giỏi.

Thiệu thăng quan tiến chức chậm chạp, không có gì đặc biệt, chẳng qua là nhờ tánh cẩn thận mà sống sót sau những cuộc tranh chấp nội bộ, ông không phải là một lãnh tụ có sức thu hút quần chúng. Tuy vậy, tới đầu năm 1970 ông đã tiến gần tới chỗ tin tưởng hoàn toàn ở khả năng của mình để lãnh đạo Nam Việt Nam và nói chuyện với Hoa Kỳ. Lòng tin đó có được là nhờ lâu nay Đại sứ Bunker đã dày công nuôi dưỡng cho cái tôi của ông phát triển. Còn một lý do quan trọng hơn và ít người biết hơn làm cho ông tự tin như vậy là vì ông cho rằng Nixon còn nợ ông một món. Nói đơn giản, Thiệu tin rằng chính ông đã làm cho Nixon trở thành tổng Thống Hoa Kỳ.

Thiệu không phải người duy nhất cho rằng mình có vai trò quan trọng trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 1968. William Connell, trưởng ban tham mưu của Hubert Humphrey cũng cho rằng việc Thiệu tẩy chay cuộc hòa đàm Paris trong ba ngày cuối cùng của cuộc tranh cử có thể có tác dụng quyết định tới kết quả cuộc bầu cử. Nhà báo chính luận Theodore White, người sưu tầm tài liệu về cuộc vận động tranh cử 68 cho loạt sách Bầu ra Tổng thống của ông cũng nghĩ như vậy.

“Johnson ngừng ném bom vài ngày trước bầu cử đã củng cố mạnh mẽ tư tưởng cho rằng chúng ta có khả năng rút ra khỏi Việt Nam”, William. Connell nói. “Việc đó đã tác động tới cuộc vận động. Số người ủng hộ Humphrey đã tăng lên cùng với Nixon. Nhưng tới phút cuối cùng, sự rút lui của Thiệu khỏi cuộc hòa đàm đã chấm dứt tất cả. Tôi đang trên máy bay khi Humphrey được tin Thiệu không chịu gửi một phái đoàn tới Paris. Humphrey ít khi nổi giận, ông ta là một người vui tính nhưng hôm đó ông ta đã nổi điên thực sự. Ông nói “Khi xuống máy bay tôi sẽ tố cáo Thiệu và tôi sẽ tố cáo Nixon. Tôi sẽ nói toạc móng heo hết mọi chuyện ra”. Nhưng những người trong ban tham mưu của ông đã can: “Chẳng ma nào tin ông đâu. Người ta chỉ cho rằng ông đã bày ra mọi chuyện bởi vì ông đang trong cảnh tuyệt vọng đó thôi. Chuyện đó thật khó tin. Không ai lại tin rằng Nixon lại móc ngoặc với Thiệu để cắt đứt cuộc thương lượng cả”. Humphrey nói “Đúng vậy, tôi sẽ không tố cáo nữa, nhưng nếu được bầu thì chúng ta sẽ quan tâm tới mấy thằng khốn nạn đó”. Ông ta biết rằng hành động đó của Thiệu có thể làm ông ta thất cử”.

Chắc chắn là Thiệu muốn làm như vậy. Ông ta đã trở thành kẻ thù không đội trời chung của Humphrey một năm trước đó, tháng Mười Một 1967, khi Phó Tổng Thống Humphrey có mặt ở Sài Gòn với tư cách là người đại diện cho Washington trong buổi lễ đăng quang của Thiệu và Kỳ, làm Tổng thống và Phó Tổng thống của Nam Việt Nam. Trên chiếc máy bay Không lực II đưa Humphrey tới Sài Gòn, một trong mấy người ủng hộ Lansdale đã báo cáo cho Humphrey về nạn tham nhũng lan tràn ở Nam Việt nam, và một số nhà báo theo phe ông nói thêm rằng, những báo cáo chính thức nói rằng chiến tranh đang thắng là không đúng sự thật, và rằng chính sách của Mỹ đang thất bại. Humphrey đang ở trong tâm trạng muốn nói thẳng mọi việc với Thiệu và Kỳ khi ông tới Sài Gòn. Đi cùng với Bunker và một người trong ban tham mưu của ông tới dinh tổng thống, Humphrey đã nói lỗ mãng với Thiệu rằng Thiệu cần phải có nhiều thay đổi có ý nghĩa nếu muốn được Mỹ tiếp tục viện trợ. Humphrey: “Thiệu nghe mà tay cầm điếu thuốc khói đang bay. Bỗng ông ta đưa tay búng tàn thuốc như muốn cho tôi hiểu rằng ông ta cũng búng những lời nói của tôi đi như vậy”.

“Rồi Thiệu nói “Không, các ông sẽ còn ở đây một thời gian nữa. Chúng tôi hiểu ông định nói gì nhưng chúng tôi cho rằng sự ủng hộ của quý ông sẽ còn tiếp tục, và có ,thể, còn tăng thêm trong năm, sáu năm nữa”. Ông ta định nói tiếp nhưng tôi đã chặn lại: “Có thể là tôi nói không được rõ ý” rồi tôi nói lại với ông ta một cách chi tiết hơn và mạnh mẽ hơn những điều tôi đã nói trước đó, và kết luận: “Những gì chúng ta đang gây ra cho xã hội Việt Nam không có lợi gì cho các ông cũng như cho chúng tôi cả”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #81 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2008, 05:59:09 pm »


Trên đường về Humphrey hỏi Bunker có phải ông đã nói một cách “thô bạo về ngoại giao” không. Bản thân Bunker thì không bao giờ nói như vậy với Thiệu, bao giờ cũng theo kiểu ngoại giao, đáp: “Tôi nghĩ rằng đó là những điều họ cần được nghe. Tốt thôi”. Nếu có mặt Lansdale ở đấy ông sẽ nói với Humphrey rằng nói như vậy chẳng có gì là tốt cả. Humphrey đã nói lên những cảm nghĩ của Lansdale nhưng lại theo cái kiểu gây thù oán với Thiệu và Kỳ. Lansdale vẫn nói với họ về nạn tham nhũng, về sự cần thiết phải thay đổi nhưng không bao giờ ông ta lên lớp họ và không bao giờ lại nói là “có thể tôi nói không rõ ý”. Và thật sự là mỉa mai, Humphrey đã trở thành môn đệ của Lansdale về thực chất của vấn đề Việt Nam nhưng ông lại không học được phong cách của Lansdale trong cách đối xử với người Việt Nam, rất có thể là ông đã thủ tiêu mọi cơ may của mình để làm Tổng thống Hoa Kỳ.

Khi một người của Nixon là bà Anna Chennault, một người Mỹ gốc Hoa, vợ góa của tướng Claire Chennault, Tư lệnh của đơn vị Cọp Bay trong Thế Chiến II, thúc ép Thiệu đừng để dính vào những cuộc thương lượng hòa bình của Johnson thì Thiệu chịu ngay. Bà Anna Chennault có quan hệ chặt chẽ với John Mitchell, người chỉ đạo cuộc vận động bầu cử của Nixon. Thiệu giải thích rằng “Một thắng cử của Humphrey có nghĩa là sẽ có một chính phủ liên hiệp ở Sài Gòn trong vòng sáu tháng. Với Nixon, ít ra chúng ta còn có cơ hội”.

Thiệu đã thấy được sự lật lọng của Nixon không lâu sau cuộc bầu cử khi vị tổng thống mới thúc ép ông tới bàn thương lượng. Thiệu không thích thú gì trước sự thay đổi thái độ của Nixon nhưng ông cho rằng đã có sự xác nhận ngầm rằng ông đã lập công với những người Cộng hòa bằng cách từ chối hợp tác với những người Dân chủ trước ngày bầu cử. Phải, Thiệu cho rằng ông đã làm cho Nixon trở thành tổng thống và Nixon còn nợ ông món nợ đó.

Đầu năm 1969, vững tin rằng mình có sự hậu thuẫn của Nixon và Bunker, Thiệu bắt đầu tấn công vào một trong hai lực lượng đối lập lớn nhất của ông. Ông không hề tỏ ra do dự trong việc vô hiệu hóa những cá nhân nào chống đối ông nhưng lần này ông tấn công vào cả một tầng lớp, đó là tầng lớp trí thức Sài Gòn. Hành động này giống y như Diệm và, trên thực tế, từ khi ngồi vào ghế Tổng thống, Thiệu đã làm hệt như nhà độc tài trước ông. Chính Thiệu đã chỉ huy cuộc tấn công vào dinh Tổng thống trong cuộc đảo chính năm 1963 và nhờ đó mà được đề bạt lên cấp tướng nhưng bây giờ ông lại thấy rằng Diệm đã làm được nhiều việc hơn ông nghĩ và bây giờ chính ông đang phải đối phó với những kẻ thù trước đây của Diệm, đó là những người trí thức không ngừng chỉ trích các chính phủ cầm quyền ở Nam Việt Nam từ khi chế độ này thành lập tới nay. Hình như Thiệu ngày càng tỏ ra sùng bái Diệm. Lúc nào ông cũng nói với những người khách đến thăm rằng căn phòng trang trí sang trọng của ông hiện nay chính là phòng ngủ của Diệm trước đây và cứ nằng nặc đòi sử dụng chiếc xe Mercedes cũ của Diệm mỗi lần đi công vụ trong một thời gian rất lâu sau khi ông đã có chiếc xe mới.

Tầng lớp trí thức bao gồm tất cả những ai đã học qua đại học, phần lớn là học ở Pháp, về sau có nhiều người học ở Mỹ. Với tư cách là một giai tầng xã hội, những người trí thức là những người quốc gia nồng nhiệt, ngạo mạn với người Mỹ, sống không tưởng và phản đối chiến tranh. Họ bác bỏ chủ nghĩa cộng sản nhưng họ lại chấp nhận người cộng sản. Họ coi khinh giới quân sự mà bản thân họ và con cái họ không bao giờ phục vụ; và họ thường ngồi quanh bàn cà-phê mà lớn tiếng phê bình chính phủ Thiệu là đàn áp tự do cá nhân, đẩy tuổi trẻ của đất nước vào chỗ tiêu vong. Mặc dầu những điều họ nói phần lớn là đúng nhưng họ không phải là những người được ưa thích và tín nhiệm.

Thiệu bắt đầu tấn công vào trường hợp ông Nguyên Văn Lâu, một người đã du học tại Anh quốc, làm chủ nhiệm tờ Saigon Daily News. Nhân viên của Thiệu đã phát hiện ra rằng ông Lâu nhiều thanh thế này đang tiếp xúc với một người bạn thời thơ ấu nay là một sĩ quan tình báo của Cộng sản - đó chính là ông Hiền, anh của Châu. Khi được hỏi vì sao ông không báo cáo với chính quyền mối quan hệ với ông hiền, Lâu trả lời: “Tôi là người trí thức, tôi không thể tố giác một người bạn với nhà cầm quyền được”. Sau khi Hiền bị cảnh sát bắt, Thiệu cho bắt Lâu với hai mươi sáu trí thức khác, thuộc những giới khác nhau, kể cả bác sĩ và dược sĩ.

Trong việc phỉ báng giới trí thức, Thiệu dùng lời lẽ chẳng khác gì Diệm ngày trước. Ông ta đã phát biểu tại một lớp huấn luyện cán bộ ấp tại Vũng Tàu rằng: “Các bạn còn yêu nước hơn cả cái đám trí thức mỗi ngày ăn toàn cơm tây và uống bốn ly whisky. Bọn chúng là những người có học nhưng đều làm nô lệ cho cộng sản”.

Bài diễn văn của Thiệu được tòa Đại sứ của ông Bunker đánh giá rất cao, là một trong những bài diễn văn hay nhất của Thiệu. Khi Thiệu tiếp tục cho kiểm duyệt và đóng cửa một số tờ báo ở Sài Gòn thì bắt đầu những lời thì thầm rằng đã có sự bất bình của nhiều người Mỹ, bất bình vì Thiệu đối xử với trí thức như trước đây họ đã từng bất bình trong việc đàn áp giới Phật giáo vậy. Phấn khởi trước thắng lợi của việc đàn áp trí thức, Thiệu quyết định tấn công tới lực lượng đối lập thứ hai. Đó là sản phẩm của Lansdale, Quốc hội Nam Việt Nam, và cùng với nó, Trần Ngọc Châu.

Năm 1949, khi Châu quyết định rời bỏ hàng ngũ Việt Minh thì Thiệu đang trên đường đi học trường võ bị Saint Cyr của Pháp. Thiệu đã được Pháp chú ý một năm trước đó khi họ tìm những người tình nguyện theo học các trường sĩ quan mới của họ, trường này bắt đầu nhận học sinh Việt Nam. Thiệu đã tốt nghiệp làm trung úy và được chọn để sau này theo học trường Saint Cyr. Một trong những người bạn cùng lớp với Thiệu, cũng được chọn đi học bên Pháp, là Đặng Văn Quang, một người hoàn toàn khác với Thiệu. Quang là một người vô tư lự, liến thoắng, lúc nào cũng đùa giỡn, cười cợt.

Trên tàu sang Pháp, Quang đưa Thiệu xem hình một cô em bà con xa, Nguyễn Thị Hải Anh, một cô gái xinh đẹp mười chín tuổi, theo đạo Thiên chúa và con của một lương y giàu có tại tỉnh Mỹ Tho. Thiệu sống cô đơn và nhớ nhà, yêu cầu Quang cho địa chỉ người đẹp và thế là bắt đầu thư đi thư lại kéo dài tới tám tháng, tức là suốt thời gian học ở Saint Cyr. Khi Thiệu trở về Sài Gòn thì họ gặp nhau và bắt đầu một cuộc tìm hiểu để cuối cùng đi tới hôn nhân 18 tháng Sáu 1951.

Trên đường binh nghiệp Thiệu và Quang mỗi người một ngả nhưng họ vẫn giữ liên lạc với nhau. Thiệu là một người không dễ gì kết bạn với ai. Ông sống dè dặt, cô độc. Nhưng Quang là một trường hợp đặc biệt. Họ đã cùng qua những khóa huấn luyện cơ bản với nhau, cùng nhau đi Pháp học và quan trọng hơn cả là giờ đây họ có quan hệ họ hàng thông qua vợ Thiệu. Thiệu và Quang cùng lên cấp tướng. Thiệu được người Mỹ coi là có khả năng và lương thiện – dĩ nhiên là ở Việt Nam, chữ “lương thiện” chỉ được hiểu một cách tương đối thôi. Nhưng đối với Quang thì thậm chí cách hiểu tương đối cũng không thể áp dụng được nữa. Ông ta nổi tiếng là viên tướng tham nhũng nhất trong nước.

Quang bắt đầu làm tiền từ lúc nào thì không biết, nhưng việc làm tiền của ông ta đã tăng mạnh khi người Mỹ không còn sức nào chịu nổi cái chuyện tham nhũng rành rành của Quang và yêu cầu phải đưa ông ta ra khỏi địa vị tư lệnh quân sự vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thiệu đồng ý cách chức Quang nhưng lại bổ nhiệm Quang làm cố vấn trưởng dinh Tổng thống. Ông không thể bỏ rơi bạn bè khi hoạn nạn. Từ đấy, mỗi lần người Mỹ muốn nói chuyện với Thiệu về tệ nạn tham nhũng thì họ phải hẹn trước với Quang và Quang thường dự những buổi họp đó.

Ông Mark Huss, quan chức của cơ quan AID nói rằng “Thiệu không tham nhũng như các sĩ quan khác, nhưng cũng khá tham nhũng. Tôi nghĩ là tới gần cuối cuộc chiến thì vợ chồng Thiệu, đặc biệt là vợ ông, thấy tình hình quá nguy hiểm nếu không tìm cách chuyển một số tài sản ra nước ngoài. Nếu anh có một người sẵn sàng làm mọi chuyện bẩn thỉu như Quang thì anh khỏi bận lòng về mọi chi tiết, cuộc đời anh thêm dễ chịu và thoải mái quá rồi cần gì. Đó là nền tảng mối quan hệ của họ”.

Thay vì đem việc làm của Quang đặt thành vấn đề với Thiệu thì người Mỹ lại định lợi dụng anh ta. Frank Snepp nói rằng: “Anh không mua chuộc nó làm gì bởi vì anh biết là không thể kiểm soát được nó. Nhưng hiện nay anh ta đang là người mở đường cho chúng ta, cung cấp cho chúng ta mọi ngõ ngách theo yêu cầu. Quang đáp ứng yêu cầu của chúng ta, điều đó có nghĩa là chúng ta không thể tìm được nguồn tin nào quan trọng hơn về nạn tham nhũng trong chính phủ. Vậy thì cuối cùng ai kiểm soát ai?”

Dù quan hệ của Quang với CIA như thế nào, William Colby cũng sẵn sàng lợi dụng ông ta, tuy bản thân ông cũng không ưa gì Quang: “Quang là một thằng chó đẻ”, Colby nói. “Nó chẳng làm được việc gì. Tôi cứ nghĩ nó làm thằng hề trong cung đình thì phải hơn. Lúc nào cũng phất pha phất phơ đùa giỡn”.

Colby thường tự hào là có khá năng đánh giá tình hình một cách thực tế và đạt được mục tiêu đề ra trong mọi trở ngại. Theo ông thấy “Đúng là có nạn tham nhũng ở đây nhưng anh không có khả năng làm gì được cả. Chỉ có thể ngăn không cho nó lan quá rộng mà thôi. Và chắc chắn là anh có thể ngăn không cho người của anh dính vào đó. Mọi việc trên đời đều phải có ưu tiên - ưu tiên trong đầu tôi là làng xã. Vấn đề số một trên thế giới hiện nay là phải thắng cuộc chiến tranh này, rồi sau đó sẽ giải quyết nạn tham nhũng. Tôi không thấy có gì trái ngược trong việc làm này cả”.

Nếu Mỹ đã có thái độ hai mặt như vậy đối với tham nhũng thì Thiệu và đồng sự của ông ngại gì mà không hối lộ để lũng đoạn quyền bính của Quốc Hội. Quốc hội là một thứ sản phẩm người Mỹ ép ông phải nhận ngay giữa lúc cuộc chiến đang tiếp diễn. Mặc dầu Thiệu và CIA rất mong muốn nhưng Thiệu vẫn chưa lập ra một đảng thân chính phủ mạnh mẽ. Còn phái đối lập cũng chưa bao giờ thống nhất được với nhau. Quốc hội chỉ là nơi thể hiện những âm mưu và thủ đoạn chính trị thông thường mà thôi. Cách Thiệu giải quyết vấn đề là mời các Nghị sĩ vào dinh tổng thống dể dự một buổi chiêu đãi rồi hướng dẫn họ đi hàng một sang phòng bên cạnh tại đó họ được trao cho những phong bì gồm toàn “Vi-ta-min của Đức Thánh Trần”, sở dĩ người ta gọi như vậy vì hình ảnh người anh hùng cứu nước trước đây là Trần Hung Đạo được in trên tờ giấy bạc của Sài Gòn, người trao tiền cho các dân biểu là một dược sĩ giàu có người của Thiệu.

Bằng cách mua chuộc Quốc Hội như vậy, Thiệu gần như đã đặt nó dưới quyền kiểm soát của mình. Nhưng chỉ gần như thôi, chưa phải hoàn toàn. Còn một số nhà lập pháp độc lập và trung thực, sẵn sàng đối lập với Thiệu trên những nguyên tắc dân chủ. Người đứng đầu của họ là Trần Ngọc Châu. Thiệu biết rằng nếu ông ta đập tan được Châu thì Quốc Hội sẽ hoàn toàn thuộc về ông ta.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #82 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2008, 06:03:14 pm »



CHƯƠNG XVII
WASHINGTON - SAIGON 1970


Khi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ biết rằng Thiệu muốn tiêu diệt Châu, họ đã yêu cầu Đại sứ Bunker chặn ông ta lại. Thứ trưởng ngoại giao Elliot Richardson là người quan tâm đến vấn đề này nhiều nhất, mối quan tâm này càng sâu sắc vì người trợ lý của Richardson là một người đã từng phục vụ ở Sài Gòn, đã từng biết Châu và những người ủng hộ Châu. Người trợ lý của Richardson đến Việt Nam vào cuối năm 1969, nói chuyện với Ed Bumgardner và John Vann, hai người này đã cho ông biết chiến lược của Thiệu nhằm tiêu diệt Châu. Lợi dụng việc Châu tiếp xúc với anh ông để tố cáo Châu hoạt động thân cộng sản, Thiệu tìm cách để quốc hội tước quyền bất khả xâm phạm Dân biểu của Châu, để cho một tòa án quân sự bắt, truy tố Châu. Nguyễn Cao Thăng, người dược sĩ đã phân phát Vi-ta-min Trần Hưng Đạo cho các Dân biểu, phụ trách giải quyết vấn đề quyền bất khả xâm phạm Dân biểu của Châu, còn Đặng Văn Quang thì lo bố trí mọi hành động khác.

Ngày 27 tháng Mười Hai 1969, Elliot Richardson gửi cho Bunker một bức điện lệnh một cách lịch sự cho ông phải chặn tay Thiệu lại. Elhot Richardson đã nói trong bức điện: “Tôi để ông chọn cách nào kín đáo để nêu vấn đề ra với Thiệu. Tôi nghĩ rằng việc bắt Dân biểu Châu sẽ không giúp cho chính phủ Mỹ duy trì sự ủng hộ của nhân dân Mỹ cho những cố gắng của chúng ta ở Việt Nam”. Richardson cho Bunker biết rằng Châu có một số người ủng hộ rất nhiệt tình ở Washington, ở trong cũng như ở ngoài chính phủ. “Những người này tin rằng chính phủ Nam Việt Nam chống lại Châu không phải vì ông này có hoạt động dính líu với Cộng sản mà chẳng qua là vì ông ta tích cực phê phán khuyết điểm của chính phủ Nam Việt Nam mà thôi”. Ngoài ra, Richardson nói thêm: “Có nhiều báo cáo cho thấy những lý lẽ dùng để buộc tội Châu quá yếu ớt vì ông chỉ giúp những người cộng sản chứ ông không hề thừa nhận là đã tham gia với họ”.

Bốn hôm sau, Bunker phúc đáp Richardson, lịch sự từ chối nêu vấn đề này ra với Thiệu: “Bản thân tôi cũng không tin rằng Châu là hoặc đã là một người cộng sản trong kỷ luật, nhưng điều đó không có nghĩa là lời buộc tội của chính phủ Nam Việt Nam, nói ông ta đã giúp đỡ cho cộng sản, là yếu ớt”. Bunker nói với Richardson rằng cùng ngày hôm đó, bảy mươi đại biểu trong Quốc Hội đã bỏ phiếu tước quyền bất khả xâm phạm của Châu nhưng số phiếu đó không đủ hiệu lực cho nên có lẽ sẽ không có xét xử gì cả. Kết thúc bức điện của mình, Bunker nói rằng ý kiến của ông “không có nghĩa là tôi không đồng tình với những kết luận của ngài. Tôi sẽ tiếp tục theo dõi sát tình hình và nếu cần tôi sẽ nêu vấn đề với Thiệu theo như sự gợi ý của ngài”.

Nhưng Bunker không bao giờ nêu vấn đề ra với Thiệu, ngay cả sau khi Tổng thống Nam Việt Nam tỏ quyết tâm phải tiêu diệt Châu cho bằng được, mà lời tố cáo gắn với hai Dân biểu khác cũng bị gán cho tội có những hoạt đồng thân cộng sản. Khi Thiệu thất bại trong việc mua chuộc Quốc Hội xóa bỏ quyền bất khả xâm phạm của Châu, ông đã cho người môi giới của mình là Nguyễn Cao Thăng lưu hành một kiến nghị đòi xét lại vấn đề. Bằng mọi thủ đoạn mua chuộc và đe dọa, ông ta muốn đạt được 102 lá phiếu để có thể bắt Châu. Đồng thời, ông ta tung ra một chiến dịch tuyên truyền nói rằng Châu là nhân viên của CIA và của cộng sản.

Bài viết của Keyes Beech, trong lúc Châu đang trốn ở nhà ông đã gây một phản ứng mạnh mẽ ở Washington. Ông viết rằng CIA đã đề nghị đưa tiền cho Châu để lập một chính đảng, nhưng cuộc mặc cả đã thất bại, bởi vì CIA muốn Châu phải ủng hộ Thiệu. Châu muốn giữ thái độ độc lập. Bởi vì không như Thiệu, Châu cho rằng chính phủ Sài Gòn nên thương lượng trực tiếp với Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Khi Thiệu lợi dụng cuộc tiếp xúc của Châu với người anh của ông để làm cái cớ hòng tiêu diệt ông thì CIA lại từ chối làm rõ vấn đề để thanh minh cho ông. Beech đã dẫn lại một câu nói của Châu: “Đây là một thí dụ về cách của người Mỹ đối xử với bạn bè Việt Nam của họ. Tôi không hiểu rồi đây tương lai của hàng ngàn người Việt đã hợp tác với Mỹ sẽ ra sao đây”. Bài viết của Keyes Beech trong mấy hôm sau được tiếp nối bằng những bài ủng hộ Châu của Robert G. Kaiser của Wshington Post và của Terence Smith của New York Times.

Thượng Nghị sĩ J. William Fulbright đã biết vụ này từ ba tháng trước. Dan Ellsberg, trong lúc khuyến khích Fulbright công bố những tài liệu của Lầu Năm Góc, đã cho Fulbright biết việc Châu gặp rắc rối với Thiệu, và hai nhà điều tra của Ủy ban đối ngoại là Richard Moose và Jim Loweinstein rất quan tâm tới vụ này. Moose đã dự một bữa tiệc chiêu đãi ở Sài Gòn với Đại sứ Bunker hôm tháng Mười Hai, sau này ông kể lại rằng tại bữa tiệc đó Bunker tuyên bố rằng đã có những bằng chứng không thể bác bỏ rằng Châu là một người cộng sản, một lời buộc tội mà Bunker đã chối. Dù thế nào đi nữa thì Fulbright đã sẵn có định kiến là sứ quán Mỹ ở Sài Gòn đã không làm hết sức mình để giúp Châu. Bài viết của Keyes Beech đã khẳng định lại niềm tin của ông, và hai hôm sau, Fulbright quyết định đưa ra một bản tuyên bố, sau khi nhà bình luận Joseph Kraft, nổi tiếng ở Washington hơn Beech, đã viết một bài bình luận phát huy bài của Beech.

Những bài viết trên báo cũng như những cuộc tấn công của Fulbright để bênh vực Châu đã thúc đẩy Elliot Richardson, ngày 7 tháng Hai, 1970, gửi cho Bunker một bức điện, lời lẽ hết sức gay gắt: “Trong bức điện ngày 31 tháng Chạp, ông nói rằng chính ông sẽ nêu vấn đề ra với Thiệu nếu cấp dưới ông làm việc đó không có hiệu quả. Tôi nghĩ rằng đã đến lúc ông phải đề cập đến vấn đề này một cách trực tiếp và mạnh mẽ. Tất nhiên là tôi để cho ông lựa chọn thời điểm và cách thức nêu vấn đề nhưng ông phải làm sớm và làm cho Thiệu hiểu rằng giới lãnh đạo cao cấp ở đây cho rằng ông ta đang gây tổn thất không cần thiết cho mục tiêu chung của chúng ta”.

Bunker không còn sự lựa chọn nào khác. Hoặc là ông cãi lại một chỉ thị trực tiếp của Bộ Ngoại Giao, hoặc là ông phải trực diện nói rõ vấn đề với Thiệu. Ông thu xếp để gặp Tổng thống Nam Việt Nam bốn ngày sau đó, tức là vào ngày 11 tháng Hai năm 1970, trong đó, theo như ông báo cáo, ông đã trình bày trường hợp không nên bắt Châu theo như chủ trương của Richardson. Nhưng ông báo cáo rằng buổi tiếp xúc đã không có kết quả, Thiệu nói rằng ông ta “muốn để cho pháp luật đi theo con đường của nó”. Bunker kết thúc bản báo cáo của ông như sau: “Mặc dầu chưa được hoàn toàn thỏa mãn nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta đã làm tất cả những gì chúng ta có thể làm được trong tình huống này”.

Một hãng thông tấn, trong khi phản ánh sự ủng hộ của Fulbright đối với Châu, đã phạm một lầm lẫn nhỏ nói rằng Châu là một nhân viên của CIA. Châu đánh điện phúc đáp, cảm ơn sự ủng hộ của Fulbright nhưng nói rõ rằng ông chưa bao giờ là nhân viên của CIA cả. Trong bức điện gửi Fulbright, Châu nói: “Tôi tha thiết yêu cầu ngài quan tâm tới việc tổ chức một cuộc điều tra của Thượng. nghị viện Hoa Kỳ về các hoạt động của các quan chức Mỹ và CIA ở Việt Nam đang phá hoại tinh thần quốc gia và những người yêu nước Việt Nam cũng như phá hoại hình ảnh của Hoa Kỳ”.

Fulbright nghĩ rằng ý kiến đó cũng không tồi. Có thể là đã tới lúc mời William Colby ra trước Ủy ban và yêu cầu ông ta giải thích vì sao một tổ chức như CIA lại quay lại chống một trong những người bạn Việt Nam gần gũi nhất của mình như vậy.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #83 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2008, 10:46:38 am »



*
*   *


Một cuộc điều tra trước một ủy ban của Quốc Hội Hoa Kỳ có được quần chúng chú ý hay không là do những bài tường thuật trên báo. Bởi vì làm sao mà công chúng có thể đào bới trong cái đống biên bản dày cộp của những buổi điều trần để biết người ta nói cái gì? Công chúng chỉ đọc những bài phản ánh dài hai cột trên tờ nhật báo buổi sáng và một đoạn tin trong buổi phát thanh buổi chiều để biết được những gì đang xảy ra.

Nhưng mấy anh chàng thư lại khôn ngoan lại có nhiều thủ đoạn khôn ngoan để ngăn chặn một cuộc điêu tra hữu hiệu. Trước hết, họ cung cấp cho các thành viên của Ủy ban những báo cáo dài dằng dặc đầy những chi tiết đọc chán tới mệt nghỉ, rồi đưa ra những lời tuyên bố dài lòng thòng khiến cho các nhà báo cứ ngồi ngáp dài, cuối cùng cũng phải bỏ mặc các nhà điều tra làm gì thì làm. Và George Jacobson, người vừa được đề bạt làm phó cho Colby ở tổ chức CORDS nói: “Colby là viên thư lại vĩ đại nhất mà tôi được biết trong đời”.

Khi Colby nhận được bức điện của Ủy ban đối ngoại yêu cầu báo cáo về các hoạt động bình định, ông rất bận rộn lập ra một nhóm để về Washington báo cáo đầy đủ cho Fulbright về những hoạt động của CORDS.

Colby sau này nhắc lại: “Lúc đó tôi nói rằng chúng ta sẽ cung cấp cho họ một bức tranh đầy đủ về tình hình. Nếu đây là một dịp để nói cho họ biết thì chúng ta phải chuẩn bị nói cho tốt. Tôi cũng không hiểu là ông Fulbright đang nghĩ cái gì trong đầu”.

Có thể là Colby không biết chắc Fulbright, một người phản đối chiến tranh đang nghĩ gì trong đầu, nhưng ông ta có thể đoán rằng Fulbright chẳng quan tâm gì mấy tới một bức tranh toàn cảnh về hoạt động bình định. Về cơ bản Fulbright chỉ quan tâm tới hai điều - thứ nhất là khám phá chương trình Phượng Hoàng vì nó đang là mục tiêu của những phong trào phản đối chiến tranh và thứ hai giúp Châu bằng cách công bố cho mọi người biết trường hợp của ông ta. Fulbright cũng nghĩ như mọi người ở Mỹ rằng chương trình Phượng Hoàng là một hoạt động mang tai mang tiếng. Nhưng thật là mỉa mai, ông hoàn toàn không biết gốc rễ của chương trình này là do Châu vạch ra, và đó là con người mà giờ đây ông định cứu.

Ngay từ lời tuyên bố mở đầu của ông trước Ủy ban ngày 17 tháng Hai 1970, Colby đã bắt đầu bằng một đống chi tiết về chương trình bình định. Sau khi tranh luận với Colby một lúc về lịch sử chiến tranh, Fulbright ngưng lại đưa vào biên bản phiên họp một bài báo của Washington Post về chương trình Phượng Hoàng và nhường lời cho các thành viên khác chất vấn Colby. Thượng Nghị sĩ Stuart Symington, bang Missouri cũng không làm được gì hơn trong việc đối phó với Colby mặc dầu ông đã cố gắng cài tên của Châu vào cuộc điều trần. Tới lúc mà các Thượng Nghị sĩ tìm cách lái Colby vào việc thảo luận về chương trình Phượng Hoàng thì mí mắt của các nhà báo đã sụp xuống từ hồi nào.

Ngày hôm sau, khi Colby đưa John Vann tới thì số người tham dự đã giảm hẳn đi. Colby giải thích rằng ông muốn cho Ủy ban hiểu rõ từng cấp hoạt động của chương trình bình định, và Vann là người đại diện cho cấp cao nhất bên ngoài Sài Gòn. Fulbright gượng gạo cảm ơn Colby, ông có cảm tưởng là Colby đã có được một tổ hoàn hảo. “Ông làm cho tôi nghĩ rằng Việt Nam trước đây vốn là một nước cực kỳ hoang sơ, ở đó chỉ có những ngôi làng và những người theo đạo Phật làm việc thiện”, Fulbright nói. “Nhưng bây giờ thì mọi việc lại hóa ra cực kỳ phức tạp. Liệu có phải chính chúng ta đã Mỹ hóa nước này chăng?”

Câu trả lời của Colby là: “Không, chúng ta không làm việc đó”.

John Vann biết rằng các Thượng Nghị sĩ sắp hỏi tới vần đề Trần Ngọc Châu và cảm thấy trong lòng không yên. John Vann đứng trước Ủy ban hôm nay không còn là John Vann bảy năm về trước chuyên cung cấp những nhận xét bi quan cho David Halberstam và Neil Sheehan, những người đã cung cấp những tia lửa đầu tiên cho phong trào chống chiến tranh nữa. Một số người biết Vann đã phỏng đoán rằng sở dĩ Vann thay đổi thái độ như vậy bởi vì giờ đây, Việt Nam đã là sự nghiệp của cả đời ông và Việt Nam đã trở thành nỗi ám ảnh của đời ông. Không nghi ngờ gì là bây giờ Vann tin rằng Hoa Kỳ đã đi đúng hướng tới chiến thắng, mặc dầu theo ước lượng của ông, con đường đó còn kéo dài một thập kỷ rưỡi nữa mới kết thúc. Sau khi khẳng định rằng ông là người chống bộ máy quan liêu, ông nói với Ủy ban rằng ông rất vui lòng được phục vụ trong tổ chức CORDS và ông tin rằng tổ chức này đang hoạt động tốt.

Colby và Vann đã có mối quan hệ tốt với nhau. Cả hai đều thống nhất quan điểm với nhau về tính chất chính trị của cuộc chiến tranh (những quan điểm này phần lớn Vann học được của Châu) và cả hai cùng cho rằng chiến lược nghiền nát đối phương của Westmoreland là một sai lầm, mặc dầu họ cho rằng có thể chính là những chiến thắng quân sự lớn của Mỹ năm 1967 đã đẩy Việt Cộng tới cuộc tấn công tuyệt vọng Tết 1968, và bất kể dư luận Mỹ nghĩ sao về cuộc tấn công này thì nghĩ, họ vẫn cho rằng cuộc tấn công đó là một thảm họa cho Cộng sản. Colby là một nhà quản lý tế nhị, biết cách ứng xử với một con người ngang tàng như Vann. Ông cũng khâm phục tài năng và khả năng làm việc, cũng như lòng can đảm phi thường của Vann. Colby cũng là con người can đảm và ông thích dong ruổi trên những con đường ở đồng bằng trên xe Vespa với Vann. Nhưng không vì thế mà Vann trở thành một con người quan liêu bàn giấy có thể lạnh lùng nói với Sauvageot về trường hợp của Châu rằng đó quả là một điều “bất hạnh”!

Vann biết rằng những lời ông nói với Fulbright hôm nay có thể khiến cho Bunker ở Sài Gòn sa thải ông ngay. Colby đã cố gắng bênh vực cho Vann nhưng Bunker vẫn còn tức giận. Vann quyết định là ông sẽ không nói gì trong những phiên họp công khai mà báo chí có thể trích dẫn và Bunker có thể đọc. Ngồi bên cạnh Colby và tìm mọi cách tránh những câu hỏi của Fulbright về Châu càng nhiều càng tốt nhưng cuối cùng Vann cũng phải xin lỗi ngài Thượng Nghị sĩ rằng ông chỉ có thể nói về Châu trong các phiên họp kín, không có báo chí tham dự “để tránh gây tác hại tới hành động pháp lý đang diễn ra tại Sài Gòn”.

Fulbright nói “Nhưng ông Châu lại không hề tỏ ra miễn cưỡng trong việc nói với báo chí về trường hợp của mình. Dĩ nhiên, tôi hiểu rằng ông ta tin là mình đang bị kết tội một cách vội vàng, thiếu chứng cớ, một khi quyền bất khả xâm phạm của ông đã bị bãi miễn, không phải bằng một cuộc bỏ phiếu trong Quốc Hội, mà bằng một kiến nghị mang 102 chữ ký. Đó là một tình huống không bình thường nhưng nếu ông đã không muốn thảo luận vấn đề này trong một phiên họp công khai thì tôi cũng không theo đuổi vấn đề này nữa”.

Ngày hôm sau, sau khi Colby và những người của ông đang chôn Ủy ban đối ngoại Thượng nghị viện trong một đống chi tiết về chương trình bình định thì Fulbright đã thay đổi ý kiến. Ông thấy rằng báo chí không còn quan tâm, những thành viên của Ủy ban đã tìm cách lẩn tránh vấn đề. Mọi người không ai chú ý tới nữa. Ông nói với Colby rằng những ngày sau đó ông sẽ trở lại trường hợp của Châu. Vann lại bị gọi ra làm chứng nhưng ông rất thận trọng trong việc ông giao dịch với Châu có liên quan tới người anh của Châu, không nói gì đến cuộc tranh cãi tại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, cho rằng không có ai xúi Châu nói chuyện với Hiền cả. Fulbright hỏi Vann rằng có phải cấp trên của ông ở Sài Gòn bảo ông không được gặp Châu nữa từ khi ông này gặp rắc rối với Thiệu phải không?

Vann đáp: “Thưa Ngài Chủ tịch, Đại sứ Bunker và Đại sứ Colby đã nói với tôi từ tháng Bảy rằng thực không thích hợp để dính líu vào chuyện này từ khi nó đã trở thành một câu chuyện giữa chính phủ Việt Nam với một quan chức của họ”.

Vann có cho rằng Châu là một người cộng sản không?

“Thưa Ngài, tôi cần phải có sự dè dặt, vì Đại sứ Bunker đã cho tôi hay rằng có nhiều việc tôi không biết. Tôi không biết những việc đó là những việc gì. Trong quan hệ của tôi với đại tá Châu và những gì tôi biết về ông ta từ năm 1962 tới nay, không có điều gì làm tôi nghi ngờ rằng ông ta không phải là một người quốc gia quyết tâm chống cộng sản”.

“Thái độ của Đại sứ Bunker như thế nào?” Fulbright hỏi.

“Thái độ của Đại sứ Bunker, và những chỉ thị của Đại sứ đối với tôi, thưa ngài, là tôi phải lo việc bình định ở đồng bằng, còn ông ấy lo tình hình chính trị ở Việt Nam”

“Đó là một câu trả lời rất rõ ràng”, Fulbright nói sau khi cả phòng họp cười rộ lên. “Ông Colby, trước đây ông đã dính líu mật thiết với CIA, ông cho biết xem người phụ trách CIA ở đó có biết gì về những cuộc gặp gỡ giữa Châu với anh ông ta không?”
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #84 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2008, 10:50:12 am »


Colby đã rời khỏi CIA hai năm, nói: “Thưa Ngài Chủ tịch, như tôi đã nói, trí nhớ của tôi cũng hơi lu mờ, và tôi không sát với tình hình hiện nay. Tôi lại không được tiếp xúc với tài liệu. Tôi thực lòng muốn để việc ấy cho CIA trả lời”. Colby thừa nhận rằng Châu có chuyện rắc rối với CIA. Fulbright hỏi vụ rắc rối đó liên quan với quan chức nào của ngành tình báo. “Tôi không nhớ, thưa Ngài chủ tịch”, Colby đáp. “Tôi nghĩ là rắc rối với toàn bộ chi cục CIA ở đó”. Cuộc chất vấn về Châu lúc lên lúc xuống, cuối cùng đã chìm hẳn trong đống chi tiết về chương trình Phượng Hoàng. Cuộc điều trần đã kết thúc mà không được sự quan tâm mấy của báo chí.

Colby nói: “Ngày đầu tiên thì báo chí phản ánh rất tốt nhưng sau thì nguội dần. Tôi nghĩ rằng họ chờ đợi những cuộc bắn pháo hoa mà họ không thấy”.

Norwill Jones, trợ lý của Fulbright, nói: “Colby là một người cực kỳ khôn khéo, hết sức tài tình. Và thật đáng chán. Làm sao anh có thể làm cho các thành viên của Ủy ban quan tâm tới vấn đề khi mà anh có một anh chàng như thế với đủ thứ sự kiện và biểu đồ? Đúng là một cuộc vấn đáp chẳng đi đến đâu cả”.

Cũng không hẳn là chẳng đi đến đâu cả. Cuộc điều trần này đã cung cấp những thông tin tốt nhất và chi tiết nhất về chương trình bình định trong chiến tranh. Colby đã tỏ ra rất xuất sắc trong lúc mô tả những chương trình khác nhau. Nhưng, vì muốn đưa cuộc chiến tranh tới một kết luận nhanh chóng và giúp đỡ Châu, đó là ý định ban đầu của Fulbright và bộ tham mưu của ông, cuộc điều trần đã thất bại.

Cuộc điều trần của Fulbright đã thất bại, Châu rời khỏi chỗ ẩn nấp đi vào tòa nhà Quốc Hội, trước đây vốn là một nhà hát của Pháp, ông nói rằng ông sẽ ở lại đây dưới sự bảo vệ của quyền bất khả xâm phạm của một Nghị sĩ. Từ khách sạn Caravelle và Continental tới Quốc Hội đi chỉ mất có nửa phút, hai khách sạn này là tổng hành dinh của đoàn báo chí ngoại quốc ở Sài Gòn, cho nên trong phút chốc đã có một số nhà báo tới chúc mừng Châu và chờ xem phản ứng của Thiệu. Châu cho gọi mang tới hai két bia và hai két xô-đa cam, một ít xăng-úych và bánh ngọt Pháp, làm cho không khí buổi đợi chờ này thành như một buổi hội hè.

Hai hôm sau, ngày 25 tháng Hai, 1970, một tòa án quân sự dã chiến đã xử vắng mặt Châu hai mươi năm tù. Đáp lại, Châu đã tổ chức một cuộc họp báo, trả lời mọi câu hỏi bằng ba thứ tiếng Anh, Pháp, Việt nói ông biết rằng ông sẽ bị bắt nhưng để làm việc đó, Thiệu phải dùng đến lưỡi lê và súng đạn. Vào bốn giờ rưỡi chiều hôm sau, cảnh sát của Thiệu đã làm đúng như vậy. Khi nghe chúng tới, Châu gắn vào áo ngoài của mình tấm huân chương cao nhất của Nam Việt Nam mà ông được thưởng về những thành tích quân sự. Cảnh sát trước tiên đẩy năm mươi nhà báo ra ngoài, một tên cảnh sát giựt tấm huân chương khỏi áo của Châu, một tên khác đánh ông gục xuống sàn. Ông bị lôi ra khỏi tòa nhà Quốc Hội, tống lên xe díp, đưa về nhà giam Chí Hòa.

Cái kiểu bắt và giam Châu như vậy đã làm cho Elliot Richardson và các quan chức ở Bộ Ngoại Giao kinh hoàng. Nhưng tòa Đại sứ của Bunker thì đón nhận tin này bình thản. Trong một bức điện nhan đề “Suy nghĩ về trường họp của Châu”, tòa Đại sứ đã cố gắng đặt trường hợp này theo triển vọng của Washington. “Trong trường hợp này, điểm mấu chốt có thể nằm ở chỗ Thiệu cho rằng ông ta có thể lãnh đạo nhân dân và quân đội trong một cuộc chiến lâu dài mà muốn làm như vậy thì phải có một lập trường chống cộng mạnh mẽ và dứt khoát”, bức điện viết. “Mọi người đều biết rằng từ năm ngoái, sau khi Trần Ngọc Hiền bị bắt, Châu đã có những tiếp xúc thường xuyên với Cộng sản, thật là khó cho Thiệu, nếu ông không ra tay hành động”. Tòa Đại sứ cũng thừa nhận rằng Thiệu cũng có một số khuyết điểm như đổ mấy chuyện lộn xộn này cho báo chí. “Phe của Châu rất khôn khéo trong việc sử dụng báo chí, họ tiết lộ việc khởi tố Châu cho báo chí, với những lời giải thích của Châu, la lối lên rằng ông ta chỉ muốn làm một chính khách đối lập mà thôi, thật ra phần lớn những lời la lối đó chẳng có giá trị gì trước những lời tố cáo, rồi họ lại phóng đại sự bạc đãi về thể xác. Còn về phía chính phủ thì, như mọi khi, đối xử với báo chí hết sức tàn tệ. Còn bản thân báo chí thì rõ ràng là không hề muốn tạo sự dễ dàng cho chính phủ làm việc. Một số lời nói lạc lõng của Châu đã được báo chí cố tình làm nhẹ đi hoặc phớt lờ luôn. Trong những hoạt động trước và trong khi Châu bị bắt, báo chí đã đóng vai trò người trực tiếp trong cuộc, chẳng khác nào những người ủng hộ Châu hay những người của chính phủ vậy”.

Bức điện phản ánh thái độ của Đại sứ Bunker và chi cục trưởng CIA Ted Shackley, cũng như của William Colby, con người có trí nhớ “lu mờ”, cố tránh chuyện này càng xa càng tốt, cho rằng đây là một vấn đề chính trị không dính líu gì tới chuyện bình định ông đang phụ trách. Bộ ba này đã thành một tổ hợp biết rõ rằng bộ máy quan liêu có thể áp đặt ý muốn của nó cho bất cứ ai. Còn vị thứ trưởng đáng kính Elliot Richardson có gửi một cơn bão điện khẩn cho vị Đại sứ đáng kính Bunker để bênh vực Châu đi nữa thì ông cũng chỉ nhận được một cơn bão điện phúc đáp thưa với ông rằng tất cả những gì có thể làm được thì chúng tôi đã làm rồi! Và, cũng như trước đây, mỗi khi trong bộ máy chính phủ có chuyện bất đồng thì cuộc xung đột lại được đem tiết lộ cho báo chí biết.

Dan Ellsberg, lúc đó đã trở lại làm việc cho công ty Rand, kề lại: “Tôi gặp Vann khi ông về Washington để làm chứng trước những buổi điều trần của Fulbright. Ông ta nói với tôi rằng Bunker đã cảnh cáo ông rằng nếu ông còn tiếp xúc với Châu thì ông sẽ bị tống ra khỏi Việt Nam. Nhưng chính lúc đó, Vann đang nói chuyện với các nhà báo để tìm cách giúp Châu. Cũng vào khoảng thời gian đó tôi được người trợ lý của Elliot Richardson mà tôi đã quen ở Sài Gòn, mời tới Bộ Ngoại Giao. Ông lấy những bức điện của Bunker ra, nhấc điện thoại lên, gọi nhà bình luận nổi tiếng Joseph Kraft và nói cho ông này nghe tất cả nội dung những bức điện mật đó. Bí mật! Không được phổ biến! Chỉ được xem mà thôi! Tôi hỏi: “Thủ trưởng của anh biết anh làm vậy không?” Anh ta đáp: “Tất nhiên. Ông ta muốn tôi làm mà. Nghe đây, tôi sẽ móc nối cho anh nói chuyện với một cặp phóng viên. Anh muốn nói chuyện với họ không?”

Tất nhiên là Ellsberg muốn. Thế là toàn bộ câu chuyên được tung ra cho báo chí, nổ tung chẳng khác nào đạn moọc chê. Bunker bị xúc phạm rất nặng, đặc biệt do một bài của bà Flora Lewis viết, bà này biết đích thân John Vann. Tờ New York Times đăng bài của bà thành một bài mô tả cái mà báo này đặt thành đầu đề “Rạn nứt giữa Bunker và Bộ Ngoại Giao trong trường hợp của Châu”. Theo bài này thì Bộ Ngoại Giao đã ra lệnh cho Bunker không được ra tuyên bố công khai về Châu bởi vì nó mâu thuẫn với lời chứng của Vann trước Ủy ban đối ngoại Thượng viện. Flora Lewis bình luận rằng: “Đó là một cách làm ngoại giao cho Bộ Ngoại Giao biết trước rằng lời bình luận công khai của mình không đúng sự thực”. Bà kết luận bài viết bằng một lời phê phán: “Ông Bunker, 75 tuổi, là mẫu người Mỹ truyền thống của xứ New England, nổi tiếng là con người trung thực. Nhưng chính ông là người đã chọn Thiệu làm ứng cử viên được Mỹ ủng hộ để tranh chức Tổng thống, và trên thực tế, chính ông đã lập ra chính phủ Thiệu. Ông đã cam kết sâu sắc với việc duy trì nó ở lại cầm quyền”.

Bài của Flora Lewis không hoàn toàn đúng về chi tiết nhưng nó đã chỉ ra một khía cạnh đáng chú ý trong vụ của Châu. Như Flora Lewis đã viết, Bunker là một người trung thực, ông đã tìm cách thuyết phục Bộ Ngoại Giao, không phải một mà nhiều lần, ra tuyên bố nói rõ rằng không có quan chức nào của Mỹ khuyến khích Châu nói chuyện với anh ông ta cả. Chẳng lẽ ông ta không biết sự thực? Có thể là ông ta không biết thật, Frank Snepp và William Kolhmann tin như vậy, bởi vì ông Đại sứ chỉ được đọc những hồ sơ về Châu mà Ted Shackley và các nhà phân tích của CIA đã chọn lựa cẩn thận rồi.

Dù thế nào đi nữa thì Bunker cũng cảm thấy rằng ông đang bị ai đó ở Bộ ngoại giao nổi giận. Ông William Sullivan, trước làm Đại sứ ở Lào nay là người phối hợp các chính sách về Việt Nam cho Bộ Ngoại Giao, là người đã bác bỏ yêu cầu của Bunker ra một bản tuyên bố công khai về Châu. Vì vậy, rất có thể văn phòng của Sullivan là nơi tiết lộ bí mật ra ngoài. Nhưng chính Sullivan cũng không tin đường giây liên lạc của Bộ Ngoại Giao, Sullivan đã gửi cho Bunker một thư riêng, đề là “ Ellsworth thân mến”, đảm bảo với ông rằng chính Sullivan đang trực tiếp điều tra xem việc tiết lộ bí mật đã xảy ra ở đâu. Sullivan kết luận: “Ở đây đang có một cố gắng phối hợp một cách thô bỉ lấy ông làm mục tiêu và lợi dụng trường hợp của Châu để làm việc đó”. Những bằng chứng mà Sullivan tìm được đã cho thấy rằng “đây là một cố gắng phối hợp rất khéo và dấu vết của nó được che đậy rất giỏi”.

“Tuy nhiên”, Sullivan viết tiếp cho Bunker, “chúng tôi có thể nói một cách tổng quát rằng chúng tôi biết bọn người nào có dính tới vụ này. Đó là những người đã mê hoặc Châu, những người khuyến khích kiểu “giải pháp lực lượng thứ ba” ở Việt Nam, những người đó coi ông và Thiệu là trở ngại chính cho giải pháp của họ. Phần lớn đám người này hiện đang đứng ngoài chính phủ nhưng hình như chúng có ảnh hưởng và có quan hệ bí mật để chúng có được tin tức mà tiếp tục hoạt động”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #85 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2008, 10:54:30 am »


Bunker không nhượng bộ. Ông ngồi xuống và, với sự giúp đỡ của phụ tá chính trị của ông, thảo ra một bức điện nhan đề “Về những luận điểm của báo chí trong trường hợp của Châu” dài chín trang. Ông viết rằng “Khía cạnh rắc rối nhất trong chiến dịch bênh vực Châu là luận điệu của báo chí cho rằng “nhân viên của CIA và nhân viên của phái bộ Hoa Kỳ ở Sài Gòn biết việc Châu có quan hệ với anh ông ta và mặc nhiên đồng ý với việc quan hệ đó”. Đúng là thỉnh thoảng Châu có nói với các quan chức Mỹ rằng ông ta có quan hệ vó một hay nhiều đại diện của Hà Nội, nhưng ông ta không bao giờ tiết lộ nội dung mối quan hệ đó, rõ ràng là muốn gây ấn tượng với chúng ta là ông ta có một mối quan hệ quan trọng tới mức nào đó. Chúng ta đã cố gắng thông qua ông ta mà tìm hiểu xem người có quan hệ với Châu là ai và người đó nói gì. Có lúc Châu đã đề nghị bố trí một cuộc tiếp xúc giữa người đó với Đại sứ Cabot Lodge, nhưng người tiền nhiệm của tôi đã từ chối, theo tôi hiểu, là vì một cuộc gặp gỡ như vậy sẽ ảnh hưởng tai hại tới quan hệ giữa chúng ta với chính phủ Việt Nam”. Bunker nói rằng Vann đã được phép gặp anh của Châu, nhưng cuộc gặp gỡ đó đã không xảy ra. Bunker nói tiếp: “Trong bất kỳ trường hợp nào, cũng không thể có bất kỳ sự liên can nào nói rằng Hoa Kỳ đã thừa nhận cuộc tiếp xúc không được phép của Châu, càng không có việc ông ta tiết lộ với chúng ta mối quan hệ đó, khiến Hoa Kỳ có nghĩa vụ phải bảo vệ ông ta chống lại sự truy tố của chính phủ của chính ông ta, một khi anh ông ta đã bị cảnh sát Việt Nam phát giác”. Bunker cho rằng ông hiểu báo chí muốn nói gì sau những lập luận này: “Tôi cho rằng những lời chỉ trích của báo chí đối với chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ trong trường hợp của Châu, nhiều khi xuất phát từ ý kiến cho rằng đáng lẽ chúng ta phải tìm hiểu xem kẻ thù đang đề nghị với chúng ta cái gì khi Châu muốn thu xếp một cuộc gặp mặt giữa Hiền với Lodge; và đáng lẽ chúng ta phải ủng hộ Châu trong việc tìm một giải pháp thỏa hiệp cho cuộc chiến tranh”.

Cùng với cơn giận dữ của Bunker, Sullivan đẩy mạnh cuộc điều tra về nguồn gốc chỗ rò rỉ tin tức. Cuộc điều tra đã dẫn đến văn phòng của Richardson.

Dan Ellsberg kể lại chuyện này như sau: “Tôi đã nói chuyện với các phóng viên mà người trợ lý của Richardson giới thiệu, và sau đó anh ta lại gọi điện thoại cho tôi mà nói rằng “Lạy Chúa tôi, ở đây đang có rắc rối to về việc đó. Anh đã nói với các phóng viên một số điều gì đó không được phổ biến rộng rãi và bây giờ Richardson đang làm om sòm lên đây này”. Tôi nói lại với anh ta: “Anh nghe đây, đây là trường hợp của Châu và anh ta là bạn thân của tôi, nếu có ai đó bị quở phạt về việc này thì người đó là tôi đây”. Anh ta sau đó lại gọi điện thoại và nói: “Họ đang bắt đầu một cuộc điều tra và tôi đã khai anh chính là đầu mối tiết lộ bí mật”. Tôi nói: “Lạy Chúa, tôi mới nói với anh là có gì tôi chịu trách nhiệm thì anh vừa gặp họ đã khai tên tôi ra”. Anh ta nói: “Tôi thật bối rối quá, không biết nói sao bây giờ”. Tôi đáp “Anh bạn thân mến ạ, tôi là người đã tiết lộ tất cả, được chưa?” Anh ta nói “Được, chính họ đã nghĩ như vậy đấy”.

Trong khoảng bốn mươi tám giờ đồng hồ sau khi được báo động là những nhà điều tra đang lần theo dấu vết của mình, Ellsberg lại được người vợ cũ của ông cho biết Cục Điều tra liên bang đang theo dõi ông vì đã sao chép những tài liệu của Lầu Năm Góc. Người vợ cũ này mới biết chuyện sao chép tài liệu vài tháng trước đây khi ông cho bà hay rằng nếu không may ông bị bắt và đi tù thì ông không thể gửi tiền cấp dưỡng cho bà nữa. Khi được biết là Ellsberg lại lôi cuốn cả hai đứa con vào vụ sao chép tài liệu mật của Lầu Năm Góc, bà giận quá đem chuyện này nói lại với bà mẹ kế là vợ một ông tướng thủy quân lục chiến. Cả Ellsberg lẫn người vợ cũ của ông đều không biết chuyện bà này đem mọi việc báo cáo cho Cục Điều tra liên bang.

Đây không phải là lần đầu tiên mà chính phủ biết Ellsberg đã tiết lộ những tài liệu bí mật cho báo chí. Ông đã bắt đầu làm việc này từ thời kỳ có cuộc tiến công Tết, khi ông được mời tới Bộ Quốc phòng để làm cố vấn trong công việc đánh giá lại cuộc chiến tranh, do Bộ trưởng Quốc phòng Clark Clifford lãnh đạo. Ellsberg đã cung cấp những thông tin bí mật cho Robert Kennedy khi ông này sắp sửa thách thức Lyndon Johnson trong một cuộc tranh cử chức Tổng thống, với tư cách là một ứng cử viên phản đối chiến tranh. Ellsberg đã trông thấy lời thỉnh cầu của ông Chủ tịch tham mưu trưởng liên quân xin thêm 206.000 quân, một số trong đó sẽ được dùng ở Việt Nam, lời thỉnh cầu được viết rất thống thiết ảm đạm này đã bị tờ New York Times nhanh tay sử dụng với hàng tít lớn, chứng minh rằng nếu đã cần xin thêm quân thì cuộc chiến tranh tiến triển đâu có tốt như tướng Westmoreland đã tuyên bố. Chính Ellsberg đã tiết lộ cho Robert Kennedy biết việc xin thêm quân, còn có phải Kennedy nói cho tờ New York Times hay không thì ông không biết.

Ellsberg nói: “Đó là lần tiết lộ bí mật đầu tiên của tôi, nhưng lúc đó tôi không nghĩ tới việc cung cấp bí mật cho báo chí cho đến khi tôi thấy được tác dụng của việc đăng báo tôi mới tự nhủ: “Hay thật đấy, mình thật là thằng điên mới không nghĩ là có thể tác động tới chính sách bằng cách này”. Ellsberg tiếp xúc với Neil Sheehan, phóng viên của tờ New York Times tại Bộ quốc phòng. Ellsberg: “Tôi tiết lộ cho Sheehan mỗi ngày một ít. Tôi cung_cấp cho ông ấy một mớ bí mật đã dẫn tới chuyện thải hồi Westmoreland về nước”.

Một số phóng viên của tờ Times đã tranh cãi với nhau về giá trị những lời tiết lộ của Ellsberg và nói rằng ông đã không cung cấp cho họ những tài liệu họ yêu cầu, dưới hình thức những bức điện. Dù điều tiết lộ đầu tiên của Ellsberb có giá trị tới đâu đi nữa, ông cũng không bao giờ nói tới nó: “Tôi vẫn nói rằng những tài liệu mật của Lầu Năm Góc là sự tiết lộ bí mật đầu tiên của tôi và tôi tuyệt đối thành thực khi nói như vậy, tôi muốn dẹp bỏ giai đoạn trước kia đi, tôi không hề nói với ai và tôi cố quên đi”.

Sĩ quan đứng đầu cơ quan an ninh của Bộ Quốc phòng đã phát giác ra Ellsberg là người đã trao tài liệu mật cho báo New York Times. Ellsberg nói: “Tôi rất ngạc nhiên là cuối cùng họ đã thôi dần và không theo dõi tôi nữa”. Ông tin rằng chính Bộ trưởng Quốc phòng Clark Clifford đã ra lệnh chấm dứt cuộc điều tra, có thể là ông có cảm tình với việc làm của Ellsberg, cũng có thể là có một quan chức cao cấp của Lầu Năm Góc cũng tiết lộ bí mật cho báo chí, ông này là bạn của Clifford và có thể bị dính vào cuộc điều tra nếu nó được tiếp tục.

Dù sao đi nữa thì hai năm sau, năm 1970, một việc tương tự đã xảy ra khi chính phủ, trong thời gian bốn mươi tám giờ đồng hồ đã phát hiện ra rằng Ellsberg không những đã tiết lộ những bức điện của Bunker về Châu mà còn trao những tài liệu của Lầu Năm Góc cho Fulbright. Khi biết rằng FBI sẽ liên lạc với Công ty Rand, nơi ông đã đánh cắp những tài liệu của Lầu Năm Góc, Ellsberg đã vội vàng tới gặp người lãnh đạo của ông. Địa vị của Ellsberg ở Công ty Rand đã lung lay vì tháng Mười vừa qua, ông đã cùng với nhiều nhân viên của Công ty thảo ra một bức thư chống chiến tranh đăng lên báo và được thảo luận rộng rãi. Nhiều nhân viên khác của Công ty cho rằng Ellsberg muốn phá hoại cơ quan nghiên cứu chiến lược này, cơ quan này sống nhờ những hợp đồng của chính phủ và thế nào Ellsberg cũng bị sa thải. Cấp trên của ông đã ủng hộ ông trong cơn bão táp vừa qua, nhưng Ellsberg biết rằng không thể trông đợi ông thông cảm hơn nữa khi chính ông đã bị FBI theo dõi vì đã đánh cắp tài liệu mà người ta đã tin tưởng giao cho Công ty Rand. Ông quyết định không nói với người lãnh đạo của mình về tài liệu của Lầu Năm Góc mà chỉ lấy cớ là đã tiết lộ những bức điện của Bunker về Châu để xin từ chức.

Về sau Ellsberg mới biết rằng FBI đã tới Công ty Rand nhưng xếp của ông đã nói với họ rằng những tài liệu của Lầu Năm Góc không thuộc phạm vi an ninh quốc gia, rằng Ellsberg muốn lấy lúc nào cũng được, và rằng Ellsberg đã từ chức, việc bảo vệ an ninh không thành vấn đề nữa. FBI thấy rằng đeo đuổi những việc tranh chấp với một Thượng Nghị sĩ đầy quyền lực như Fulbright có nguy cơ gây phiền phức cho cơ quan của họ nên họ cũng chấm dứt cuộc điều tra.

Bộ Ngoại Giao cũng bỏ rơi cuộc điều tra những tiết lộ về trường hợp của Châu, bởi vì nếu đưa cuộc điều tra tới chỗ kết luận thì sẽ làm cho người ta thấy rằng Bunker bị chỉ trích bởi nhân vật số hai của Bộ Ngoại Giao, không chừng có sự đồng ý ngầm của ngài Bộ trưởng cũng nên. Những vụ tiết lộ chấm dứt, hai tuần sau, sự quan tâm của báo giới lại chuyển sang một trong những sự kiện gây tranh cãi nhất trong chiến tranh - cuộc xâm lăng Campuchia. Một nhóm nhỏ những người ủng hộ Châu tiếp tục tranh đấu nhưng những người biết rõ sự thật không còn theo họ nữa.

Stu Methven, người của CIA mà Châu đã tiếp xúc đầu tiên nay đã chuyền sang công tác làm chi cục phó CIA ở Indonesia khi vụ này xảy ra. Châu đã nêu tên ông này ra làm cho con của Methven, đang học Trường Dự Bị Đại Học, gửi ông một mẫu báo New York Times, với lời ghi chú “Bố, bố chưa bao giờ cho con biết là bố làm việc cho CIA cả”. Methven cho rằng những điều xảy ra cho Châu là những điều có thể thấy trước. Ông viết: “Ngay từ lúc một người Việt Nam trở thành một người được Mỹ ưa chuộng thì người đó trở thành một phần tử đáng ngờ trước mắt chính phủ đang cầm quyền. Tốt nhất là đừng có đưa ai lên cao quá kẻo anh ta bị đánh rơi. Châu trở thành người được ưa chuộng, Nghị sĩ Mỹ nào tới thăm nước này cũng đòi gặp ông ta. Một người như Thiệu lại coi đó là một đe dọa”.

Châu nói rằng ông đã báo cho Mike Dunn, phụ tá của Lodge biết cuộc tiếp xúc của ông với người anh. Dunn có cách giải thích riêng của ông về việc vì sao nhiều người Mỹ không lao vào bênh vực cho Châu. Dunn nói rằng: “Có rất nhiều người Mỹ quan tâm tới nước Việt Nam nhưng có rất ít người Mỹ quan tâm tới người Việt Nam. Nhưng Châu là một người phi thường. Vấn đề lớn đối với tôi là tôi không bao giờ xác định được Châu nào là Châu thật. Ông ta có ít nhất là ba nhân cách khác nhau”.

“Một số người cho rằng Châu là một người cực kỳ nguy hiểm và ông ta như vậy thật. Trước hết, một người có nhiều tư tưởng là một người nguy hiểm. Và ông ta có những quan hệ đáng kể. Chúng tôi đã nói với nhau ở đây khá nhiều và thẳng thắn về bộ máy thư lại, và tôi muốn nói, ai là người muốn dính líu - anh biết đấy, ai muốn là người cuối cùng nâng đỡ Châu nếu việc đó vỡ lở, anh hiểu tôi muốn nói gì rồi chứ?”
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #86 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2008, 10:57:49 am »



CHƯƠNG XVIII
SAIGON 1973



Cuộc sống trong tù cũng không đến nỗi tệ lắm. Châu được giam trong một phòng riêng, không phải một xà lim, có một cái giường và một cái bàn. Cửa phòng được để ngỏ khi những tù nhân khác bị giam và bị đóng lại khi họ được cho ra ngoài. Vợ Châu cũng được phép tới thăm nuôi tuần một lần ở phòng thăm tù nhân. Thức ăn được gia đình mang vào; Châu bắt đầu ăn chay. Ông tập yoga mỗi ngày và học chữ Hán. Ông được nhận báo, sách, một máy thu thanh và cuối cùng là một máy truyền hình. Hình như Thiệu chỉ quan tâm tới một điều: giữ cho Châu im tiếng và không được đi lại. Năm tháng trôi qua, từ trong tù Châu theo dõi những biến đổi và tứ tán của bạn bè người Mỹ, những người đã ủng hộ ông và ủng hộ một cách tiến hành chiến tranh khác.

Hai năm trước ngày cuộc ngừng bắn được ký kết năm 1973, cùng với mọi người khác, Châu nghe nói về việc báo New York Times đăng tải những tài liệu của Lầu Năm Góc và chính Dan Ellsberg là nguồn cung cấp. Sau khi thấy rằng cuối cùng Ủy ban của Fulbright không chịu đưa ra công khai những tài liệu này, Dan Ellsberg đã nghe theo lời khuyên của Norvill Jones, trợ lý của Fulbright, đưa tài liệu cho tờ Times, thông qua Neil Sheehan là người trước đây đã từng được ông tiết lộ nhiều tin tức bí mật. Châu hiểu vì sao Ellsberg trở thành người chống chiến tranh; chính thái độ bi quan của Châu về cách tiến hành chiến tranh đã góp phần làm cho Ellsberg thay đổi thái độ. Trước đó, trong cuộc họp báo cáo hoạt động mười lăm năm qua với các bạn đồng học ở Trường Harvard, Ellsberg đã viết rằng ông rất tự hào là đã phục vụ ở Việt Nam cùng với Lansdale. “Tôi cũng tin tưởng hơn bao giờ hết vào những tư tưởng cơ bản của Lansdale về phát triển chính trị, về sự đua tranh, về tinh thần dân tộc và dân chủ với cộng sản để giành quyền lãnh đạo các lực lượng cách mạng, và về những chiến thuật chống du kích là đúng đắn, thích hợp với Việt Nam và hết sức cần thiết; nhưng không có cái nào được áp dụng, ở bất cứ cấp độ nào. Khi Ellsberg thấy rằng những ý tưởng của Châu và Lansdale không bao giờ được áp dụng thì lúc đầu ông thấy buồn rầu, về sau chuyển sang lập trường phản đối chiến tranh luôn, theo cái cách hăng hái như ông vẫn thường có trong những trường hợp khác.

Sau khi New York Times đăng tải tài liệu của Lầu Năm Góc tháng Sáu năm 1971, Ellsberg được phong trào chống chiến tranh suy tôn như một người anh hùng trong một thời gian. Ông bị truy tố về tội âm mưu lật đổ và vi phạm điều luật về hoạt động gián điệp, cùng với Anthony J.Russo, một nhân viên cũ của Rand, người đã giúp ông sao chép tài liệu; ông đi nói chuyện khắp nơi và trên vô tuyến truyền hình. Nhưng khi người ta được biết rằng ông đã tham gia chiến đấu ở Việt Nam thì một số người trước đây ngưỡng mộ nay đã xa lánh ông. Hơn nữa, Ellsberg còn làm thất vọng một số bạn học cũ của ông, những người giờ đây là đội tiền phong của phong trào chống chiến tranh. Khi họ nói với ông rằng Việt cộng là những “người tốt” thì Ellsberg, trung thành với những gì mình biết, chỉ có thể trả lời, không hẳn như vậy”, thái độ đó của ông thật là khó hiểu đối với anh chị em sinh viên, bởi vì họ nghĩ rằng hoặc là anh chống chiến tranh hay anh không chống chiến tranh, mà anh đã chống chiến tranh thì anh phải cho rằng Việt Cộng là “người tốt”. Và cuối cùng, tiếng tăm của Ellsberg đã diễn tiến theo đường cong như của Lansdale - người ta cho rằng họ thông minh, có thể, nhưng hơi lập dị.

Bản thân Lansdale, sau bao nhiêu năm bập bềnh trôi nổi tìm cách gây ảnh hưởng tới đường lối chính sách của Mỹ ở Việt Nam, cuối cùng đã rơi vào chỗ gần như quên lãng. Ông đã trồi người lên vào lúc Châu đang gặp rắc rối với Thiệu, bằng cách tổ chức một cuộc họp báo kêu gọi Quốc Hội hãy lên tiếng ủng hộ nhà hoạt động chính trị mà ông đã từng đặt bao hy vọng. Nhưng những lời bênh vực Châu của ông đã được người ta tiếp nhận rất lịch sự rồi lờ đi ngay. Rồi ông công bố cuốn hồi ký của mình, cũng không được công chúng chú ý gì mấy. Không bao giở còn ai biết đến những cố gắng của ông để làm thay đổi chiến lược của Mỹ ở Việt Nam và cuốn sách của ông ta đã xuất hiện vào lúc mà cuộc tranh luận về chiến tranh ở Mỹ chỉ tập trung ở mỗi một vấn đề duy nhất: bao giờ và bằng cách nào đề rút khỏi Việt Nam.

Một người ủng hộ Châu mạnh mẽ nữa là John Paul Vann thì đã bị giết trong một chiếc trực thăng rơi ngày 9 tháng Sáu năm 1972. Vann đã chết không phải trong lúc thực hiện một chương trình bình định mà trong một trận tấn công theo lối quy ước của quân chính quy Bắc Việt Nam. Tháng Năm 1971, ông được cử làm cố vấn trưởng của quân khu ở trung phần Việt Nam, được giao những quyền hạn đặc biệt đối với các lực lượng quân sự Mỹ trong vùng, con người dân sự duy nhất trong lịch sử nước Mỹ được phép chỉ huy quân đội, làm cho ông có cấp bậc tương đương với một Trung tướng. Mặc dầu một số bạn bè của Vann đã từng phục vụ và ủng hộ chiến tranh tin rằng Vann đã hoàn toàn bị cuộc chiến tranh Việt Nam cuốn hút đi và đánh mất “la bàn” của mình, Vann lại tin rằng họ đã quá mệt mỏi với sức ép của bao nhiêu năm tháng để cuối cùng lại rơi vào phong trào chống chiến tranh đúng vào lúc cuộc chiến tranh bắt đầu có tiến bộ.

Đầu năm 1973, Châu nghe tin một cuộc ngưng bắn đã được ký kết và tù binh chiến tranh sẽ được phóng thích. Sau khi hiệp định hòa bình được công bố, giám đốc trại giam đã nói với Châu rằng ông không được ở một mình nữa. Ông được chuyển tới một phòng rộng hơn, trong đó giam bốn người Việt Nam bị tố cáo là cộng sản. Trong mấy tháng sau đó, Châu biết rằng trong đó chỉ có một người thực sự là cộng sản, đó là anh của ông, ông Hiền. Ông tìm hiểu vì sao ba người kia lại ghét chính phủ Sài Gòn và thích Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng hơn. Một người là luật sư có nhiều người bạn ở phía bên kia và đã từng tiếp tế thuốc men cho họ. Một người khác là sinh viên, thù ghét chính phủ Sài Gòn vì quân đội Sài Gòn đã giết cha của anh. Châu tranh luận với họ mỗi ngày. Họ nói ông hãy nhìn Thiệu rồi so sánh ông ta với Hồ Chí Minh hay Phạm Văn Đồng mà xem. Châu đáp lại rằng cuộc đấu tranh của ông là chính nghĩa nhưng chẳng may là Nam Việt Nam không có được những người xứng đáng để làm lãnh tụ. Hiền hỏi: “Với những người xấu như thế thì làm sao anh có chính nghĩa được?” Con người thì có thể thay đổi, Châu đáp, nhưng chọn chủ nghĩa cộng sản thì không bao giờ. Họ tranh luận với nhau một cách ôn tồn, biết rằng họ vẫn bị giam chung một gian phòng. Hiền không nói rằng vì sao ông bị bắt mà ông cũng không nói gì về việc ông làm sĩ quan tình báo.

Tới cuối năm 1973, Châu được cho biết là ông và bốn người kia sẽ được trao trả cho phía cộng sản như là những tù binh chiến tranh. Ông được cho biết là ông được phép lựa chọn. Ông có thể viết một bản tuyên bố xin Thiệu phóng thích ông. Một lời tuyên bố như vậy sẽ là một lời xin lỗi đối với chính phủ. Châu từ chối. Ông nói rằng chính phủ phải xin lỗi ông thì có. Một hôm trước khi trời sáng, lính gác mở cửa và mang một tù binh đi. Những người còn lại nghe đài BBC biết rằng người này đã được trao trả cho cộng sản. Cứ ba ngày thì có một người được mang đi cho tới khi Châu còn lại có một mình. Có hai sĩ quan tới nói chuyện với ông. Họ nói rằng Tổng thống không muốn đưa ông cho phía cộng sản, nhưng ông phải viết một lời tuyên bố. Bản tuyên bố này không đưa cho báo chí. Châu quát to lên đuổi họ ra khỏi phòng giam: “Bộ mấy anh tưởng rằng tôi không muốn được phóng thích sau bốn năm rưỡi bị giam cầm sao? Nhưng tôi không ký cái gì cả”

Tới tháng Tám 1974, có hai nhân viên của Tổng thống tới nói rằng Thiệu quyết định trả lại tự do cho Châu, với một điều kiện. Ông không được về nhà, vì Thiệu sợ rằng ông sẽ liên hệ với báo chí và lại sẽ tổ chức cuộc vân động chống chính phủ. Ông được đưa tới một ngôi nhà ở đường Hai Bà Trưng, có sáu cảnh sát đứng gác. Khi gia đình muốn tới thăm thì cảnh sát sẽ đưa tới. Việc đó kéo dài vài tháng, cho tới khi ông được về nhà, chỉ có một cảnh sát đi kèm.

Châu giữ im lặng. Bạn bè có thể liên lạc với ông cho ông biết rằng Thiệu sẽ sớm phải rút lui thôi. Đất nước rã rời từng mảng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #87 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2008, 11:03:52 am »



CHƯƠNG XIX
SÀI GÒN 1975


Tháng Ba 1975, tướng Văn Tiến Dũng, Tham mưu trưởng quân đội Bắc Việt Nam tập trung quân của ông bên ngoài thị xã Buôn Ma Thuộc ở cao nguyên miền Trung. Nơi ông ở cũng không xa nơi quân chính quy Bắc Việt Nam đã đụng độ với quân Mỹ lần đầu tiên ở Ia Drang mười năm về trước trong trận đánh lớn lần đầu tiên giữa các lực lượng chính quy. Quân Bắc Việt đã thua trong trận đó và đã điều chỉnh chiến thuật của họ, tránh trực diện đối đầu với quân Mỹ bảy năm sau đó cho tới khi họ thấy thời cơ đã tới để công khai đánh nhau với xe tăng và đại bác. Nhưng họ đã bị không lực Hoa Kỳ đánh bại trong trận tấn công 1972 nên họ lại rút vào bí mật cho đến khì quân Mỹ và máy bay của họ rút đi. Bây giờ thì họ sẵn sàng tấn công.

Cuộc chiến tranh du kích do Việt Cộng phát động đầu những năm 1960 đã chấm dứt vào khoảng 1970. Người ta có thể nói là quân Mỹ, với sự khủng khiếp của bom và đạn pháo, được hỗ trợ bởi một vài chương trình bình định như Phượng Hoàng, đã thắng cuộc chiến tranh này. Dư luận công chúng ở Mỹ lại không nhận thức được thắng lợi đó, bởi vì tới lúc đó, họ chỉ mong làm sao kết thúc sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam cho rồi. Nói chung, sự rút lui của Mỹ đã để lại một tình huống là quân chính quy Nam Việt Nam phải đương đầu với quân chính quy Bắc Việt Nam. Mặc dầu Lầu Năm Góc vẫn đưa ra những báo cáo lạc quan về chương trình “Việt Nam hóa” - nhấn mạnh sự cải tiến quân đội Sài Gòn - rõ ràng là quân Bắc Việt Nam đã ở thế thượng phong.

Không còn ai nghi ngờ - chắc chắn là Nguyễn Văn Thiệu càng không hề nghi ngờ - rằng quân Bắc Việt Nam sẽ phát động một cuộc tấn công đại quy mô sau khi hiệp định hòa bình năm 1973, buộc Mỹ phải rút toàn bộ quân của họ về nước, và Thiệu đã triển khai một kế hoạch khẩn cấp để đối phó với đòn tấn công mạnh mẽ được dự đoán trước của Bắc Việt Nam. Ông dự định rút bỏ hai vùng chiến thuật giáp với Bắc Việt Nam và tập trung lực lượng vào chu vi phòng thủ quanh Sài Gòn, bảo vệ trung tâm hành chính và kinh tế của đất nước, cùng với vùng lúa gạo sinh tử của đồng bằng sông Cửu Long.

Kế hoạch khẩn cấp này được một thiếu tướng người Úc tên là Ted Sarong, thảo ra sau khi quân Mỹ rút lui, ông tự nguyện tới, tự mình hiến kế làm Cố vấn quân sự cho Thiệu, nhưng ý kiến tách Nam Việt Nam ra lập một vùng dễ bảo vệ hơn đã có từ nhiều năm qua và không phải là không lôgíc, bởi vì người ta tính rằng, trong tấn công, quân Bắc Việt Nam dễ tập trung ưu thế quân lực vào một điểm nhất định hơn quân Nam Việt Nam đang phải dàn mỏng ra bảo vệ nhiều vị trí trong khắp nước và có ít quân lực dự trữ.

Tháng Ba 1975, khi quân Bắc Việt Nam tràn ngập thị trấn Buôn Ma Thuộc, họ đã buộc Thiệu phải đem kế hoạch khẩn cấp ra thực thi. Hà Nội đã giao cho trung Văn Tiến Dũng nhiệm vụ đánh chiếm Buôn Ma Thuộc, như là một phần của một chiến dịch rộng lớn hơn mà Bắc Việt Nam hy vọng là sẽ đưa tới sự sụp đổ của Sài Gòn - năm 1976, khi người Mỹ bận rộn với cuộc bầu cử Tổng thống của họ và không muốn phản ứng nữa. Trong chiến thắng này, tướng Dũng đã bắt được một sĩ quan cao cấp của Sài Gòn, ông này không biết kế hoạch khẩn cấp, nhưng hiểu rõ thái độ của Thiệu lúc này, đã nói với Dũng trong cuộc thẩm vấn rằng rất có thể Thiệu sẽ bỏ những thị trấn then chốt ở cao nguyên là Pleiku và Kontum nếu bị sức ép mạnh. Dũng đánh điện cho các đồng chí của ông ở Hà Nội yêu cầu tấn công mạnh hơn nữa vào hai quân khu phía Bắc của Nam Việt Nam. Hai hôm sau, Hà Nội tán thành yêu cầu của Dũng, phát động cái đã trở thành cuộc tấn công cuối cùng của chiến tranh.

Một trong những khuyết điểm trong kế hoạch khẩn cấp của Thiệu là đã không có cải tiến gì trong sự phân công giữa các cấp chỉ huy quân sự của quân đội Sài Gòn kể từ thời Diệm. Tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn chẳng có quyền hành gì cả. Các Tư lệnh sư đoàn báo cáo trực tiếp cho Thiệu và Thiệu bổ nhiệm họ tùy theo lòng trung thành của họ đối với ông, để đề phòng một cuộc đảo chính, y như Diệm đã làm.

Vị Tư lệnh trung thành với ông ở vùng chiến thuật mà ông ra lệnh rút bỏ, coi đó là giai đoạn thứ nhất của kế hoạch khẩn cấp, là Trung tướng Phạm Văn Phú, ông này cũng như Thiệu, đã phục vụ trong quân đội Pháp. Trong thực tế là Phú đã bị bắt cùng với quân Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954, đã bị giam trong một trại tù binh mà mỗi lần nhớ lại ông ta còn run sợ như ông đã nói với bạn là Lou Conein: “Tôi quyết không bao giờ để bị bắt một lần thứ hai. Một lần nữa thì chắc là tiêu luôn”. Khi Thiệu ra lệnh cho Phú bắt đầu rút quân khỏi vùng hai chiến thuật thì Phú đã kinh hồn hoảng vía chạy tìm chỗ an toàn ở một cái chốt vùng ven biển và, việc rút khỏi Kontum và Pleiku thành một cuộc tháo chạy hoảng loạn, thành bước đầu tiên của sự sụp đổ của quân đội Sài Gòn.

Bắc Việt Nam thường gọi quân đội Sài Gòn là “quân đội bù nhìn”, nhưng họ cũng không ngờ tới một sự sụp đổ nhanh như vậy, y như một con rối đứt dây. Nói một cách nào đó thì quân đội Sài Gòn bị Quốc Hội Hoa Kỳ cắt dây, bởi vì sau khi có lệnh ngừng bắn năm 1973 và việc đón tù binh chiến tranh của Mỹ về nước thì Quốc Hội Hoa Kỳ quyết tâm chấm dứt cuộc chiến tranh này, một lần và dứt khoát, cho dù điều đó có nghĩa là một thắng lợi của Bắc Việt Nam. Thay vì cung cấp cho Nam Việt Nam khoản viện trợ 1,45 tỷ đô la như chính quyền Nixon xin cho năm 1975, Quốc Hội đã cấp không được một nửa số đó - 700 triệu - và có ý sẽ cắt toàn bộ viện trợ cho Sài Gòn. Sau khi Bắc Việt Nam đánh chiếm Buôn Ma Thuộc, chính quyền Ford xin thêm một khoản viện trợ khẩn cấp 300 triệu đô la cho Nam Việt Nam, nhưng yêu cầu này cũng bị Quốc Hội bác bỏ.

Quang cảnh Sài Gòn trong cơn sụp đổ có những nét giống như những ngày đầu chiến tranh, khi mọi sự đều tan tác cả. Ngay cả khuôn mẫu các nhân vật cũng không khác gì nhau. Thay vì Diệm thì nay là Thiệu, con người giờ đây lại tỏ lòng ngưỡng mộ phong cách lãnh đạo của nhà độc tài đã bị giết và cũng thường thu mình trong vỏ kén của mình. Một vị Đại sứ Mỹ gây nhiều tranh luận khác của Mỹ đang lãnh đạo sứ quán, Graham Martin đã tới thay thế Ellsworth Bunker năm 1973 và được một số cộng tác ngưỡng mộ là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp không khoan nhượng trong khi một số người khác, số này ngày càng nhiều hơn coi là một người ngoan cố bướng bỉnh không chịu chấp nhận thực tế cho tới khi suýt nữa thì không kịp tổ chức cuộc di tản khỏi Sài Gòn. Cả hai nhóm người này lại thống nhất với nhau ở chỗ thừa nhận rằng Graham Martin tới Sài Gòn khi nhân dân Mỹ đã quay lưng lại cuộc chiến tranh và Quốc Hội Mỹ chỉ muốn cắt đứt mọi khoản viện trợ thì sự bổ nhiệm này chỉ có thể đưa ông ta tới chỗ thất bại mà thôi.

Tương tự như vậy, trong những ngày cuối cùng này, Charles Timmes đã đóng vai trò tương tự như Lou Conein trước cuộc đảo chính Diệm. Ông là người của CIA liên hệ với các tướng lĩnh Nam Việt Nam trong những cơn giẫy giụa cuối cùng. William Colby đã đích thân chọn Charles Timmes trong một bữa ăn trưa tại một nhà hàng ở Washington. Hai người là bạn cũ, và Timmes đã gần sáu mươi tuổi, nghĩa là sắp rút lui khỏi quân đội với quân hàm Trung tướng. Colby và Timmes rất giống nhau nên Colby đã chọn một người giống mình để đảm nhận chức vụ này. Cả hai đều có bề ngoài không diễn cảm, ăn nói nhẹ nhàng mềm mỏng, tỉ mỉ, ôn hòa, nhã nhặn - và cả hai đều rất cứng rắn và đặc biệt gan dạ. Timmes hồi trẻ muốn làm một ca sĩ opéra, nhưng trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông đã nhảy dù xuống vùng Normandy, với tư cách là một Tiểu đoàn trưởng trong sư đoàn không vận 82, tảng sáng ngày D, và đã được tặng thưởng huân chương cao hạng hai về lòng dũng cảm trong chiến đấu. Năm 1962, ông được chọn làm người đứng đầu phái bộ Cố vấn Hoa Kỳ ở Việt Nam và trong nhiệm kỳ này ông đã quen với một số sĩ quan trẻ Nam Việt Nam nay đã lên cấp tướng. Một trong những người đó, lúc trước là thiếu tá, nay là Nguyễn Văn Thiệu. Colby có ý sử dụng sự quen biết của Timmes để có được mối quan hệ mật thiết với giới lãnh đạo mới của Nam Việt Nam, để thay thế cho mối quan hệ của Lou Conein với giới lãnh đạo cũ. Lou Conein thì uống rượu và tán gẫu với họ, còn Timmes thì rủ họ chơi tennis và nghe những lời ta thán của họ, tới năm 1974 thì ông đã nghe được khá nhiều chuyện.

Timmes nói: “Các sĩ quan Việt Nam đều biết rằng Quốc Hội Hoa Kỳ đang cắt hết mọi khoản viện trợ. Các Tư lệnh quân sự đều nói chuyện này. Họ nói “Vậy thì chúng tôi phải đổ máu vô ích đề làm gì?” Họ cho rằng Hoa Kỳ không làm tròn nghĩa vụ của mình”.

Tình hình chính trị trong những ngày tàn này lại trở lại với những tiêu chuẩn của thuở ban đầu và những tin đồn về đảo chính vẫn lan tràn khắp nơi. Sau khi cuộc tấn công của Bắc Việt vừa bắt đầu thì Nguyễn Cao Kỳ cũng bắt đầu tìm cách lật đổ Nguyễn Văn Thiệu là người đã đánh bại ông trong cuộc tranh giành quyền bính trước đây. Kỳ sẽ gặp một viên tướng để tìm cách lôi kéo ông này tham gia một cuộc đảo chính, và CIA sẽ cử Charles Timmes đến gặp viên tướng này để nói ông ta đừng theo Kỳ. Để tranh thủ thời gian, Timmes chở Đại sứ Graham Martin trong chiếc Volkswagen cũ kỹ của ông tới gặp Kỳ tại nhà, và hai người cố làm cho Kỳ tin rằng họ sẽ ủng hộ Kỳ làm Quốc trưởng tương lai nếu ông kiên nhẫn chờ đợi và đừng chống lại Thiệu. Nhưng lại có nhiều dấu hiệu khác cho thấy là một cuộc đảo chính có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Trần Văn Đôn đã thay đổi bao nhiêu chức vụ từ một viên tướng thành một Thượng Nghị sĩ rồi làm Bộ trưởng Quốc phòng, nhưng vẫn là một mưu sĩ không mệt mỏi đang âm mưu lật đổ Thiệu và thay thế ông ta, cùng với người đã cùng tham gia đảo chính lật Diệm, Dương Văn Minh, con người mà qua bao nhiêu năm tháng vẫn không thông minh và quả quyết hơn chút nào.

Cuối cùng Đại sứ Graham Martin nhận thức ra rằng Thiệu phải ra đi, nếu còn có một cơ hội nhỏ nhoi nào đó để thương lượng một cuộc ngừng bắn với Bắc Việt Nam, những người đang chạy đua về phía Sài Gòn trên những chiếc xe tăng của họ. Ông thu xếp để gặp Thiệu và bắt đầu kiểm điểm tình hình quân sự và tìm cách đề cập vấn đề với Thiệu.

“Tình hình quân sự thật là tồi tệ”, Martin kết luận. “Và nhân dân cho rằng đó là lỗi tại ông”.

Lúc đầu Thiệu không chịu từ chức ngay, nhưng sau đó nghĩ lại, ông ta mới đọc một bài diễn văn lâm ly thống thiết trên truyền hình, trong đó ông ta đả kích Henry Kissinger và Hiệp đinh hòa bình đưa tới việc rút hết quân Mỹ năm 1973, rồi rút lui, giao Sài Gòn vào tay Trần Văn Hương, Phó Tổng Thống già bảy mươi mốt tuổi và thân Pháp , ông này lấp bấp nói rằng số phận đã đưa ông đến chỗ lãnh đạo đất nước, làm như ông ta lẩm cẩm cho mình là Charles de Gaulle vậy.

Hai ngày sau khi Thiệu từ chức, Hương yêu cầu Graham Martin đưa Thiệu rời khỏi đất nước để cho ông ta không còn là một chướng ngại trong việc Hương thương lượng với cộng sản. Martin giao cho Timmes nhiệm vụ lo đưa Thiệu đi. Timmes gọi điện thoại cho Thiệu, cho ông ta hay là sẽ có một trực thăng đến đón ông ta tại dinh Tổng thống, nhưng Thiệu nói để ông ta tới tổng hành dinh của quân đội tại sân bay, tại đó họ sẽ uống rượu với nhau trước khi ra đi với những người chung quanh gồm hai mươi hai người phần lớn là tướng tá. Frank Snepp được giao trách nhiệm lái chiếc li-mu-din chở Thiệu và Timmes mười phút ra máy bay, cất cánh đi Đài Loan.

Sau đó thì Martin và Timmes lại vận động cho Hương từ chức, giao quyền hành lại cho Minh Lớn. Trần Văn Đôn và Đại sứ Pháp, Jean Marie Mérrillon, đã tác động tới Martin và Tom Polger, Chi cục trưởng của CIA, rằng chỉ có Minh Lớn là người có khả năng thương lượng một cuộc ngừng bắn với cộng sản để cứu thành phố Sài Gòn. Người Pháp, trong những ngày cuối cùng này, lại chơi cái trò xác định lại ảnh hưởng của họ ở Đông Dương, với những công cụ của họ là những người thân Pháp theo kiểu Trần Văn Đôn, họ đã học nói tiếng Anh nhưng vẫn giữ ảnh hưởng văn hóa của Pháp. Chi cục trưởng Polgar cử Timmes tới gặp Minh Lớn hỏi xem ông ta có chịu lên nắm chính quyền và thương lượng với cộng sản nếu Hương bị gạt ra một bên không.

Timmes báo cáo rằng: “Minh Lớn tin rằng cộng sản sẽ nói chuyện với ông và ông có thể thươnglượng với họ. Sau đó thì đại bác của cộng sản đã bắt đầu nã đạn vào thành phố. Tôi nói với Minh Lớn là hãy nói chuyện với cộng sản để tìm cách làm im tiếng súng, nhưng họ không nghe ông ta. Tôi thấy là mọi việc đã kết thúc. Đêm hôm đó, tôi rời khỏi Việt Nam”.

Nhiều người Việt Nam khác cũng hấp tấp chạy trốn khỏi Sài Gòn trước khi những chiếc xe tăng đầu tiên của cộng sản vào thành phố ngày 30 tháng Tư năm 1975. Nguyễn Cao Kỳ và một đoàn tùy tùng mười hai người đã lên máy bay trực thăng bay ra biển và trước khi hết nhiên liệu, đã kịp đổ bộ xuống chiếc tàu Midway của hạm đội Mỹ. Nguyễn Cao Kỳ xúc động không nói nên lời khi vừa bước ra khỏi trực thăng, ông vào căn phòng được dành cho ông và bật khóc.



Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #88 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2008, 11:05:13 am »



*
*   *


Châu cũng tìm cách rời khỏi Sài Gòn trước khi thành phố này rơi vào tay cộng sản. Ông cho rằng người duy nhất có thể giúp ông là nhà báo Keyes Beech, vừa quay trở lại Việt Nam để viết bài và đang ở tại khách sạn Caravelle. Beech rất vui mừng gặp Châu và rất sẵn lòng giúp đỡ. Đoàn báo chí ở đây có hệ thống di tản riêng, và Beech đã giúp cho một số nhân viên Việt Nam làm cho các cơ quan truyền thông Mỹ ra đi khỏi nước này, và ông nghĩ là cũng có thể giúp Châu như vậy. Nhưng suy đi nghĩ lại, Beech thấy rằng làm như vậy cũng không hay lắm, bởi vì Châu không làm cho một tổ chức nào của Mỹ. Beech có những mối quan hệ rất tốt với cơ quan CIA ở đây, ít ra cũng tốt tới mức ông có thể nhờ họ đưa Châu và gia đình đi theo hệ thống của họ. Ông gọi điện thoại cho người chi cục phó của CIA. Viên sĩ quan CIA này trả lời là để ông ta xem có thể làm gì được không.

Beech kể lại: “Một sĩ quan CIA đã tới gặp Châu. Ông ta muốn tuyển mộ Châu nằm vùng ở lại sau khi cộng sản cướp chính quyền. Nhưng rồi ông ta đi tới kết luận rằng Châu ở lại nằm vùng chắc là không tốt, nên đồng ý giúp Châu di tản”.

Nhưng sau đó thì Châu không nghe gì nữa từ cơ quan CIA, và tới sáng 29 tháng Tư, 1975 ông lại gọi điện thoại cho Beech nhờ liên hệ lại với CIA thử xem. Beech rất ngạc nhiên nói: “Tôi sẽ xem làm cách nào và bao giờ thì có thể đưa anh đi được” . Beech gọi điện thoại tới cơ quan CIA, nhưng không ai biết là viên sĩ quan đã hứa lo cho Châu di tản đó đâu cả. Beech gọi điện thoại tới nhà Châu và nói với con của ông rằng ông không biết được gì cả. Trong vài giờ đồng hồ hỗn loạn đó, hầu hết ký giả Mỹ đã rời khỏi Sài Gòn, trong số đó có Beech. Sau đó Beech không nghe gì về Châu nữa.

Beech kể lại: “Nhiều năm sau, trong lúc tôi ở ngoại ô Washington, Frank Snepp nói với tôi rằng Ted Shackley, lúc đó là người đứng đầu phân ban Đông Á của Cục tình báo trung ương, trên thực tế là người đã bác bỏ việc CIA đưa Châu ra khỏi Sài Gòn. Shackley và tôi ở gần nhau, thỉnh thoảng anh ta vẫn sang chơi. Tôi hỏi anh ta về việc đó. “Có phải đúng là anh đã phủ quyết việc đưa Châu ra khỏi Sài Gòn không?”, Anh ta nói: “Để tôi xem tài liệu lưu trữ lại xem. Nhưng tôi có thể đoan chắc với anh rằng anh ta không phải là một trong những ưu tiên của tôi”.

Beech cho rằng câu trả lời mơ hồ của Shackley đã khẳng định rằng Shackley đã nói đúng: CIA đã cốtình để Châu ở lại. Beech nói: “Thật tình mà nói, tôi không tin rằng có một người nào đó lại làm như vậy. Nếu có người ở Chi cục CIA nói “Này, Châu là phần anh phải lo. Chúng tôi không thích cái thằng chó đẻ đó và chúng tôi không muốn giúp nó”, thì tôi biết là tôi sẽ làm gì. Tôi sẽ xin họ một sự chiếu cố bởi vì CIA có nhiều thuận lợi hơn tôi và họ đang đưa một lô người đi mà thực ra những người này không đáng được đi”.

Khi thấy rằng cố gắng của Beech giúp ông di tản đã thất bại, Châu gọi điện thoại tới tòa Đại sứ Mỹ và xin nói chuyện với Timmes. Ông ngạc nhiên với thái độ tiếp đón niềm nở của Timmes. Vâng, dĩ nhiên là ông sẽ giúp Châu, Timmes nói. Để tránh sự hỗn loạn tại sứ quán Mỹ, Châu sẽ gặp Timmes sáng hôm sau tại nhà riêng. Nhưng khi Châu đến thì Timmes đã đi gặp Minh Lớn. Không thể nào đi qua được đám đông tập hợp tại sứ quán đòi di tản, ông ra cảng hy vọng có thể đưa gia đình đi bằng thuyền. Ở đây cũng vậy, đám đông tụ tập cũng rất đông và không thể làm gì được. Một trong những đứa con của ông đang có thai và ông không muốn mạo hiểm. Với sư nhẫn nhục của Phật tử, ông chấp nhận định mệnh, quay về nhà...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #89 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2008, 11:23:06 am »




CHƯƠNG XX
LOS ANGELES 1980


Khi Châu thu xếp cho gia đình ở căn hộ hai phòng ở Van Nuys, California, ngoại ô Los Angeles, ông nhận được tin Neil Sheehan muốn phỏng vấn ông về kinh nghiệm của ông trong thời gian ông là tù binh cho cộng sản để đăng trên báo New York Times. Yêu cầu của Neil Sheehan đã đến với ông vào lúc nước Mỹ đang đi vào một cuộc tranh luận với chính mình, lúc đầu phần lớn là trong tiềm thức, để tìm một lời giải thích thích đáng về cuộc chiến tranh Việt Nam mà đất nước này có thể chấp nhận. Không ai tranh cãi về việc cuộc chiến tranh là một thảm họa. Nhưng tại sao mới được chứ? Tại mình đánh đấm quá tồi chăng? Hay Mỹ thua vì tại Mỹ sai mà cộng sản đúng. Và người ta sẽ đánh giá những binh sĩ đã tham chiến đó như thế nào đây? Những kẻ giết người bệnh hoạn chăng? Những người hùng đáng phỉ nhổ?

Việc đi tìm một lời giải thích, cho đất nước này có thể chấp nhận rằng tất cả những điều đã xảy ra đó có ý nghĩa gì, đã bắt đầu từ những năm 60, một cách chậm chạp và mò mẫm, hạn chế lúc đầu trong một số sách và tạp chí. Trước khi Mỹ tham chiến ào ạt vào năm 1965, sách nói về Việt Nam thường là có tính chất giáo dục, với một số lời tiên đoán rằng đây có thể sẽ là một thảm họa đối với Hoa Kỳ. Từ 1965 tới cuộc tiến công Tết 1968, sự giải thích về chiến tranh đã trở thành một “bế tắc về đạo lý”.

Sách xuất bản năm 1968, cũng như phần đông đất nước, đã chuyển sang lập trường chống chiến tranh. Một số cuốn xuất bản trong năm đầu sau Tết 1968 đã bày tỏ mối quan tâm đầy thiện cảm với Bắc Việt Nam hoặc phỉ báng sự tàn phá do Mỹ gây ra ở miền Nam Việt Nam. Đó là sự bắt đầu của thuyết cho rằng “Mỹ là xấu/Việt Cộng đáng khen”, về cuộc chiến tranh. Những người giải thích theo kiểu này cho rằng Mỹ đã hành động sai ở Việt Nam và họ bày tỏ lòng kiên trì và kỷ luật, nếu không phải là hệ tư tưởng của người Việt Nam đang chống Mỹ, và nghĩ rằng Việt Cộng xứng đáng để chiến thắng, đặc biệt là khi so sánh với chính phủ tham nhũng ở Sài Gòn.

Cộng đồng trí thức ở Mỹ rất mê lối giải thích này, đó là kết quả sự thăng hoa vào cuối những năm 60 của tờ New York Review of Books, và nhà chính luận hàng đầu của họ là Noam Chomsky. Trong cuốn Chiến tranh với châu Á, những người Mỹ của Chomsky toàn là bè lũ đế quốc sát nhân còn người Bắc việt Nam của ông thì có muôn ngàn đức tính tốt đẹp. Lập trường của Chomsky năm 1970 lại được tăng cường với việc công bố cuốn Mỹ Lai 4 của Seymour Hersh, kể lại việc lính Mỹ tàn sát thường dân Việt Nam. Lối giải thích của ông đã được phát triển tớ mức cao nhất năm 1971, với bài của Neil Sheehan trên tờ New York Review of Books, nhan đề “Liệu chúng ta sẽ có tòa án để xử tội ác chiến tranh không?” trong đó ông nói rằng Lyndon Johnson và các sĩ quan quân đội Mỹ là tội phạm chiến tranh.

Năm sau, Francis FitzGerald cho xuất bản Lửa trong hồ, lấy chủ đề (việc Mỹ phá hoại cơ cấu làng mạc ở Việt Nam) trong tư tưởng của học giả người Pháp Paul Mus, người thầy của FitzGerald tại Trường Đại Học Princeton sau một thời gian ở Việt Nam. FitzGerald là người phổ biến thuyết “Mỹ là xấu/Việt Cộng đáng khen”, nhưng trong sách của cô, cô không chỉ dừng lại ở đó. Cô còn muốn đánh đổ quan điểm trước đây do Robert Shaplen của tờ The New Yorker đưa ra, ông là người đã viết nhiều tác phẩm nổi tiếng về chiến tranh, nói riêng là cuốn Cuộc cách mạng bị đánh mất, và trong nhiều năm đóng vai trò người kềm hãm một bộ phận của đoàn báo chí Mỹ ở Sài Gòn và có thể là người đã giữ cho một số nhà báo không ngả theo thuyết “Mỹ là xấu/Việt Cộng đáng khen”.

Francis FitzGerald tố cáo Robert Shaplen là đổ cho các quan chức Mỹ chịu trách nhiệm về những thất bại của chính phủ Sài Gòn vì họ đã không cho người Việt Nam những lời khuyên đúng đắn và kịp thời. Theo cách nói của Robert Shaplen, cuộc “cách mạng bị đánh mất ở Việt Nam” không chỉ có nghĩa là Hoa Kỳ đã thất bại trong việc giành lấy cuộc cách mạng từ tay cộng sản. Nó đã chứng minh rằng người Mỹ chúng ta không có khả năng, trong suốt hai mươi năm, khuyến khích và ủng hộ những người dân tộc chủ nghĩa chân chính chống lại những kẻ giả mạo. Mặt khác, FitzGerald cho rằng chính những người cộng sản mới là những người dân tộc chủ nghĩa chân chính và hệ tư tưởng của họ đã hòa nhập với những truyền thống dân tộc. Cô cho rằng “cũng giống như Khổng giáo, chủ nghĩa Mác là một học thuyết về đạo đức xã hội”.

Còn thuyết giải thích của Shaplen thì thuần túy là của Lansdale. Shaplen là người bạn ký giả gần gụi nhất của Lansdale từ những ngày còn hoạt động ở Phillipin. Ông là một người to lớn, hút những điếu xì gà to tướng, trông giống anh chàng lái xe tải hơn là nhà trí thức, Shaplen cảm thấy bị xúc phạm nặng nề trước những đòn công kích của Francis FitzGerald ngay từ lúc cuốn sách này được trích đăng từng phần trên tờ The New Yorker của ông. Trong chỗ riêng tư, ông còn tỏ ra cay cú đến nỗi nói rằng quyển sách của Francis Fitzgerals bắt nguồn từ những động cơ, như học thuyết Freud đã giải thích, của cô chống lại chính người bố ruột của mình, ông Desmond FitzGerald, vì ông này là một sĩ quan CIA, bạn của Lansdale và Colby và đã gánh một phần trách nhiệm trong việc triển khai những chương trình hành động mà FitzGerald công kích.

Dù sao đi nữa, chính cách giải thích của Francis FitzGerald chứ không phải của Robert Shaplen, đã được sự đồng tình rộng rãi của dư luận công chúng ở Mỹ. Cùng với cuốn Những người giỏi nhất và thông minh nhất của David Halberstam, trong đó ông đã mổ xẻ các quan chức của chính phủ mà những bản báo cáo và ghi nhớ của họ trong chiến tranh đã bị tiết lộ trong những tài liệu mật của Lầu Năm Góc, cuốn sách của Francis FitzGerald, trong nhiều năm liền, đã chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong việc hình thành dư luận ở Mỹ về khía cạnh chính trị của cuộc chiến tranh, mặc dầu bản thân cuốn sách có nhiều khuyết điểm khó hiểu. Phụ đề cuốn sách là “Người Việt và người Mỹ ở Việt Nam”, cuốn Lửa trong hồ không một lần nhắc đến William Colby.

Sở dĩ FitzGerald và Halberstam chiếm được nhiều ảnh hưởng như vậy một phần quan trọng là do yếu tố thời gian. Sách của họ đã được xuất bản chỉ một hoặc hai năm trước khi cuộc chiến tranh của Mỹ đã chấm dứt với việc ký kết hiệp định ngừng bắn năm 1973. Quá mệt mỏi với những cuộc tranh luận về Việt Nam, một số nhà phê bình không còn muốn thảo luận rộng rãi hơn nữa về cuộc chiến này. Khi James Jones cho ra cuốn Nhật ký Việt Nam năm 1974, tờ New York Times đã mở đầu bài điểm sách của mình như sau “Hãy đọc nhanh lên trước khi đầu óc của bạn lại đóng băng trước viễn cảnh lại phải nghe thêm một bản báo cáo về Việt Nam nữa...” Và nhà phê bình chủ chốt của tạp chí Time đã gọi tác phẩm của Jones là “một cuốn sách về Việt Nam cho một công chúng không còn muốn nghe nói gì về Việt Nam nữa”.

Không thể chối cãi là đất nước đã quá mệt mỏi với chiến tranh, nhưng thái độ tiêu cực của hai cơ quan ngôn luận có ảnh hưởng nhất trong nước đối với việc xuất bản sách về Việt Nam có giá trị gần như một sự kiểm duyệt. Thái độ đó đã tác động trông thấy đối với hầu hết những nhà điểm sách khắp nước Mỹ. Hơn nữa, người ta không chú ý đầy đủ tới những bằng chứng rõ ràng về thái độ của độc giả. Sách về Việt Nam là loại sách bán chạy nhất trong bốn năm trước đó nhưng không bao giờ quá ba mươi đầu sách trong một năm (trong số hơn ba mươi lăm ngàn sách xuất bản hàng năm tại Mỹ). Nhưng vì nhiều lý do kết hợp, sách về Việt Nam đã tụt xuống còn khoảng một chục cuốn một năm sau năm 1974.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM