Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 16 Tháng Giêng, 2010, 05:02:16 pm



Tiêu đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Giêng, 2010, 05:02:16 pm

Tên sách: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
Năm xuất bản: 1995
Số hoá: ptlinh, chuongxedap





CHỦ BIÊN
Trung tướng, PGS, PTS HOÀNG PHƯƠNG
Thượng tá: NGUYỄN VĂN MINH


TÁC GIẢ
Đại tá: ĐỖ XUÂN HUY
Thiếu tá: HỒ KHANG
Thiếu tá: NGUYỄN HUY THỤC
Thượng tá: NGUYỄN VĂN MINH
Thiếu tá: NGUYỄN XUÂN NĂNG





LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Trong hai năm 1990, 1991, Nhà xuất bản Sự thật đã xuất bản trọn bộ hai tập Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), nhưng đó là công trình bước đầu nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để nhằm phục vụ kịp thời yêu cầu của bạn đọc.

Để có một công trình nghiên cứu sâu sắc, đầy đủ hơn, Viện Lịch sử quân sự đã bắt tay vào tổ chức biên soạn một bộ lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước gồm 9 tập. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xin giới thiệu tập II bộ sách đó, và sẽ lần lượt xuất bản các tập khác trong thời gian tới.

Tập II mang tiêu đề Chuyển chiến lược, gồm năm chương, từ chương IV đến chương VIII, trình bày các sự kiện lịch sử từ sau Hiệp định Giơnevơ đến kết thúc cuộc đồng khởi vĩ đại của nhân dân miền Nam 1960.

Với việc xuất bản tập II của bộ Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 – 1975, cùng với việc xuất bản các bộ sách lớn khác về đề tài này, chúng tôi mong muốn góp phần thiết thực kỷ niệm 20 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta suốt 21 năm ròng.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc, mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp cho cuốn sách.

                                                                                     Tháng 4 năm 1995
                                                                           NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Giêng, 2010, 11:28:06 pm

Chương IV
HAI NĂM ĐẤU TRANH THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ.
(7-1954 - 7-1956)


I- TIẾP QUẢN MIỀN BẮC ỔN ĐỊNH TRẬT TỰ, AN NINH;
SẮP XẾP LỰC LƯỢNG Ở LẠI MIỀN NAM, CHUẨN BỊ CUỘC ĐẤU TRANH MỚI

Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam soạn thảo xong lúc 24 giờ (giờ Giơnevơ) ngày 20-7-1954. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, thiếu tướng Đentây thay mặt Tổng tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp ở Đông Dương đã ký vào văn bản. Nội dung Hiệp định gồm 47 điều, bắt đầu có hiệu lực từ 24 giờ ngày 22-7-1954. Những điều khoản chính yếu của Hiệp nghị quy định:

Điều 1: Một giới tuyến quân sự tạm thời sẽ được quy định rõ, để lực lượng của hai bên, sau khi rút lui sẽ tập hợp ở bên này và bên kia giới tuyến ấy. Lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam ở phía bắc giới tuyến, lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp ở phía nam giới tuyến...1

Điều 14:...
c. Mỗi bên cam kết không dùng cách trả thù hoặc phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức, vì lý do hoạt động của họ trong thời gian chiến tranh, và cam kết bảo đảm những quyền tự do dân chủ của họ.

Điều 11: Hội nghị chứng nhận lời tuyên bố của Chính phủ Pháp nói rằng, Chính phủ Pháp, trong sự giải quyết tất cả những vấn đề có liên quan đến việc lập lại và củng cố hòa bình ở Cao Miên, Lào và Việt Nam sẽ căn cứ trên sự tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Cao Miên, Lào và Việt Nam.

Bản “Tuyên bố cuối cùng” được phổ biến không có chữ ký của các nước nhưng đã được chín nước thành viên tham dự chấp nhận. Vì vậy nó được coi là một trong hai văn kiện chính của Hội nghị Giơnevơ2.

Cũng trong ngày 21-7-1954 ông W.Bidôn Smít (Walter Bedell Smith), trưởng phái đoàn Mỹ tại Hội nghị, đã công bố bản tuyên ngôn nêu rõ lập trường “Chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận các thỏa hiệp quân sự và bản Tuyên bố cuối cùng” và “sẽ không dùng đến vũ lực để làm tổn hại đến các văn kiện ấy...”3.

Hiệp định Giơnevơ đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng: Sau những năm dài chiến đấu, Chính phủ Pháp buộc phải công nhận quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia, rút hết quân viễn chinh Pháp.

Theo quy định của Hội nghị Giơnevơ, từ ngày 4 đến ngày 27-7-1954, Đoàn đại biểu Quân đội nhân dân Việt Nam do thiếu tướng Văn Tiến Dũng làm trưởng đoàn và Đoàn đại biểu Quân đội Liên hiệp Pháp do đại tá Lennuyô làm trưởng đoàn4 họp Hội nghị quân sự tại Trung Giã cách thị xã Thái Nguyên 30 km về phía nam) để bàn và quyết định biện pháp thực hiện những vấn đề quân sự mà Hội nghị Giơnevơ đặt ra.
_________________________________
1. Đường giới tuyến quân sự tạm thời nằm trên vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải tỉnh Quảng Trị).
2. Tài liệu liên quan đến Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương được phân làm bốn loại, không đồng quan trọng như sau:
    + Văn kiện chính, gồm hai bản:
        - Hiệp định về đình chỉ chiến sự
        - Bản tuyên bố không xếp hạng vào loại văn kiện hội nghị. Trong số này có tuyên bố của Chính phủ Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Tuyên bố của chính quyền Sài Gòn đại ý nói là không tán thành Hiệp định.
    + Lời tuyên bố của các trưởng phái đoàn trước khi phiên họp cuối cùng bế mạc (phần nhiều là những lời cảm ơn xã giao hai chủ tịch Hội nghị và Chính phủ Thụy Sỹ).
    + Trao đổi công điện giữa hai ông Phạm Văn Đồng và Mécde Frăng (Merdès France) về sự liên lạc kinh tế và văn hóa.
3. Dẫn theo Gioócgiơ Sáppha: Hai cuộc chiến tranh của Việt Nam, từ Valuy đến Oétmolen, Nxb Paris La Table Rond 1969, t.1, tr. 243.) (Bản đánh máy) số VI, 1139/82 - VLSQSVN.
4. Đoàn đại biểu Quân đội nhân dân Việt Nam do thiếu tướng Văn Tiến Dũng trưởng đoàn, các đại tá Song Hào, Lê Quang Đạo, các trung tá Nguyễn Văn Long, Lê Minh Nghĩa và thiếu tá Lê (Lưu Văn Lợi) làm phiên dịch.
    Về phía Pháp, đại tá Lennuyô trưởng đoàn, trung tá Le Roy, các thiếu tá: Sanani, Giắckin, đại úy Lô Man làm phiên dịch.
    Tùy tùng có ba sĩ quan ngụy: Trung tá Trần Văn Chính (sau Lâm Ngọc Huân thay), thiếu tá Nguyễn Phước Đăng, đại úy Nguyễn Bửu (sau Trần Ngọc Huyến thay).



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Giêng, 2010, 11:29:52 pm

Sau hơn 20 ngày làm việc, các bên tại Hội nghị quân sự Trung Giã đã thỏa thuận các thủ tục và biện pháp về ngừng bắn, về trao trả tù binh, về chuyển quân tập kết, v.v.... Đồng thời, ta và đối phương thống nhất tổ chức Ủy ban liên hiệp đình chiến trung ương và địa phương. Thành phần Ủy ban liên hiệp trung ương của ta vẫn do các đồng chí tham gia Hội nghị Trung Giã đảm nhiệm. Đồng chí Văn Tiến Dũng làm trưởng đoàn. Về phía Pháp, do thiếu tướng Đentây từ Pháp sang làm trưởng đoàn và Lennuyô làm phó trưởng đoàn.

Để bảo đảm thi hành Hiệp định Giơnevơ, Trung ương Đảng điều đồng chí Hoàng Anh, Bí thư Liên khu ủy IV ra Bộ Quốc phòng tham gia Tổng quân ủy, phụ trách theo dõi thi hành Hiệp định. Đồng chí Phạm Hùng làm Trưởng ban liên hiệp đình chiến Nam Bộ. Đồng chí Hà Văn Lâu, Phó Cục trưởng Cục tác chiến, được bố trí bên cạnh Ủy ban quốc tế tham gia góp ý kiến về những vấn đề quân sự.

Ngày 22-7-1954, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh cho các lực lượng vũ trang ngừng bắn trên chiến trường toàn quốc (Bắc Bộ ngày 27-7, Trung Bộ ngày 1-8, Nam Bộ ngày 11-8-1954).

Cục thông tin liên lạc sử dụng mọi phương tiện thông tin hiện đại và thô sơ truyền đạt kịp thời lệnh ngừng bắn đến các địa phương, đơn vị và chiến trường.

Ngày 25-7-1954, Pháp đồng ý cung cấp máy bay để chờ các đoàn sĩ quan của ta di truyền đạt lệnh ngừng bắn cho các chiến trường1. Từ ngày 31-7 đến 2-8-1954, các sĩ quan của ta đi trên máy bay Pháp rải thư hiệu triệu của Hồ Chủ tịch và mệnh lệnh ngừng bắn của Bộ Tổng tư lệnh xuống những vùng xa xôi, hẻo lánh ở Liên khu V và Nam Bộ. Ở cả ba chiến trường, lệnh ngừng bắn được thi hành nghiêm chỉnh.

Trung tuần tháng 8-1954, Hội đồng chính phủ họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng báo cáo về thắng lợi của ta tại Hội nghị Giơnevơ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo về việc quân, dân ta đã thi hành đúng đắn mệnh lệnh ngừng bắn như Hiệp định Giơnevơ quy định. Trong phiên họp này, Hội đồng Chính phủ thông qua kế hoạch tổ chức Ban đón tiếp bộ đội, cán bộ và đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc.

Để kịp thời vận chuyển hàng vạn người từ Nam ra Bắc, Liên Xô giúp ta hai tàu vận tải Áckhăngghen và Xtavrôpôn, Ba Lan giúp một tàu Kilinky.

Theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, ở miền Bắc, khu vực Hà Nội còn nằm trong vòng tập kết 80 ngày, Hải Dương 100 ngày Hải Phòng, Kiến An, Hồng Quảng 300 ngày của quân đội Pháp.

Ở miền Nam, thời gian ta bàn giao địa bàn cho đối phương cũng khác nhau. Tại Trung Bộ: Quảng Ngãi, Bình Định là 300 ngày, các tỉnh khác bàn giao xong trước ngày 31-8-1954. Tại Nam Bộ: Hàm Tân, Xuyên Mộc vùng tập kết 80 ngày, Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười 100 ngày, riêng Cà Mau là khu tập kết 200 ngày.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới.

Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bắt đầu chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Miền Nam tạm thời do đối phương kiểm soát. Cách mạng từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng trở thành không có chính quyền, không có quân đội, vùng giải phóng bàn giao cho Quân đội Liên hiệp Pháp tiếp quản, sau hai năm sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam. Nhưng Hội nghị Giơnevơ đang họp, Mỹ đã ép Pháp đưa Ngô Đình Diệm về miền Nam làm Thủ tướng thay Bửu Lộc, chuẩn bị cho Mỹ thay Pháp, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới hòng chia cắt, thống trị lâu dài đất nước ta.

Cuộc đấu tranh của nhân dân ta để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc còn gay go, gian khổ. Mặc dù tình hình quốc tế có thuận lợi do ba dòng thác cách mạng đang ở thế tiến công, nhưng có sự khác nhau về đường lối cách mạng và chính sách đối ngoại của các nước xã hội chủ nghĩa, gây nên sự chia rẽ ngày càng sâu sắc giữa các lực lượng cách mạng quốc tế - nhất là Xô - Trung.
_________________________________
1. Đoàn đi Bình Trị Thiên gồm các đồng chí Trần Chí Hiền, Hồ Sĩ Thản, Vũ Kỳ Lân xuống sân bay Đông Hà, rồi đi ô tô về Như Lệ.
    Đoàn vào Nam Bộ gồm các đồng chí Đỗ Đức Kiến, Nguyễn Văn Long. Vào Nam Bộ, đoàn chia làm hai bộ phận: một bộ phận xuống sân bay Sóc Trăng về căn cứ miền Tây, một bộ phận xuống sân bay Dầu Tiếng về căn cứ rniền Đông.
    Đoàn đi Lào do đồng chí Đặng Tính, Phó Cục trưởng Cục tác chiến, làm trưởng đoàn. Ngày 7-8-1954, đoàn đáp máy bay từ Gia Lâm đi Xiêng Khoảng gặp Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Lào và Bộ chỉ huy quân đội nhà vua Lào.
    Đoàn đi Campuchia do đại tá Nguyễn Thanh Sơn làm trưởng đoàn. Ngày 11-8-1954, đoàn lên đường gặp đại diện quân đội Pháp và quân đội nhà vua Campuchia để thực hiện hiệp định đình chỉ chiến sự.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Giêng, 2010, 11:31:40 pm

Trước bối cảnh trong nước và quốc tế đầy phức tạp như vậy, một loạt vấn đề mới mẻ và nóng bỏng của cách mạng Việt Nam được đặt ra đòi hỏi Đảng ta phải xác định chiến lược, sách lược cách mạng cho phù hợp với tình hình trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, mục tiêu của cách mạng nước ta là: Độc lập dân tộc, tự do dân chủ, hòa bình thống nhất Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ cực kỳ phức tạp và khó khăn.

Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) họp ở Việt Bắc ngày 15-7-1954, đã thảo luận và nhất trí với đường lối, chủ trương mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư của Đảng nêu ra. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hòa bình ở Đông Dương” và “đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Dông Dương”. Hội nghị quyết định: “Thay đổi phương châm, chính sách và sách lược đấu tranh cốt để thực hiện một cách thuận lợi mục đích trước mắt. Đây là một sự thay đổi quan trọng về phương châm và sách lược cách mạng, nhưng mục đích của cách mạng vẫn là một”.

Thấu hiểu nỗi niềm của đồng bào miền Nam, nhân Hội nghị Giơnevơ kết thúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước, khẳng định công lao to lớn của nhân dân miền Nam “đi trưóc về sau”, Người chỉ rõ: “Đồng bào miền Nam kháng chiến trước hết, giác ngộ rất cao. Tôi chắc rằng đồng bào sẽ đặt lợi ích cả nước lên trên lợi ích địa phương, lợi ích lâu dài trên lợi ích trước mắt, mà ra sức cùng đồng bào toàn quốc phấn đấu để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc. Đảng, Chính phủ luôn luôn theo dõi sự cố gắng của đồng bào và tin chắc đồng bào sẽ thắng lợi”1.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ tính chất cuộc đấu tranh: “Củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ. Để giành thắng lợi, toàn thể nhân dân, quân đội và cán bộ ta từ Bắc đến Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng phải thống nhất, hành động phải nhất trí”2.

Ngày 5-9-1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp nhằm cụ thể hóa và bổ sung thêm Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6. Phân tích những đặc điểm mới của cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị nhấn mạnh đặc điểm lớn nhất là đất nước ta tạm thời bị chia làm hai miền, có hai chế độ xã hội khác nhau và sự xuất hiện của kẻ thù mới là đế quốc Mỹ. Nhiệm vụ của cách mạng nước ta là: “Đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến để củng cố hòa bình; ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân, củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc”3.

Đối với miền Nam, Bộ Chính trị xác định: “nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam trong giai đoạn hiện tại là: Lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ (tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do đi lại, v.v…) cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập...”4.

Bộ Chính trị vạch rõ sách lược của ta ở miền Nam lúc này là tranh thủ tập hợp mọi người tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và tay sai của chúng. Phương châm của ta là: “khéo công tác, khéo che dấu lực lượng”, “kết hợp công tác hợp pháp và công tác không họp pháp”, lợi dụng các hình thức tổ chức và hoạt động hợp pháp để tập hợp và lãnh đạo quần chúng đấu tranh, chú trọng bảo tồn lực lượng của ta.

Để sự lãnh đạo của Đảng thích hợp với tình hình mới, Bộ Chính trị quyết định giải thể Trung ương Cục miền Nam, thành lập Xứ ủy Nam Bộ và Liên khu ủy Liên khu V trực thuộc Trung ương Đảng. Riêng Thừa Thiên, Quảng Trị tạm giao cho Liên khu ủy Khu IV phụ trách.

Trước bước ngoặt mới của cách mạng, các nghị quyết của Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương, của Bộ Chính trị và lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch đã kịp thời chỉ ra phương hướng hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, tạo điều kiện cho ta giữ vững thế chủ động khi cách mạng chuyển giai đoạn chiến lược. Những chủ trương đó phù hợp với hoàn cảnh đất nước ta và tình hình quốc tế lúc bấy giờ.

Để tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, Trung ương Đảng đã tăng cường những cán bộ có kinh nghiệm, am hiểu chiến trường về miền Nam lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Theo sự phân công của Bộ Chính trị, ngay khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đồng chí Lê Duẩn cấp tốc trở lại miền Nam bằng máy bay của Ủy ban quốc tế. Qua Quy Nhơn rồi về Cần Thơ, đồng chí Lê Duẩn khẩn trương làm việc với các đồng chí lãnh đạo địa phương, truyền đạt lại nội dung Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương.
_________________________________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr3.
3. Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 5 đến 7-9-1954, Tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
4. Tlđd.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Giêng, 2010, 11:32:50 pm

Tháng 9-1954, một phái đoàn thay mặt Trung ương Đảng, do đồng chí Lê Đức Thọ, dẫn đầu vào Nam Bộ để phổ biến hiệp định đình chiến. Đoàn đi bằng máy bay Đakôta của Pháp từ sân bay Gia Lâm, hạ cánh xuống Sóc Trăng, đi ô tô đến Phụng Hiệp rồi vào vùng căn cứ. Cũng thời gian này, Trung ương còn cử đồng chí Nguyễn Duy Trinh vào Khu V truyền đạt nghị quyết Bộ Chính trị, cùng Khu ủy sắp xếp tổ chức cán bộ ở khu.

Năm 1955, các đồng chí Trần Lương, Võ Chí Công được cử vào giữ chức bí thư và phó bí thư đảng bộ Liên khu V. Đồng chí Võ Chí Công đang tham gia cải cách ruộng đất thì được lệnh đi cùng với cơ quan liên hiệp đình chiến từ Hà Nội vào Quy Nhơn. Đồng chí Trần Lương đi sau bằng tàu biển vào Quy Nhơn đúng vào lúc lực lượng ta rút khỏi khu tập kết 100 ngày ở Bình Định1.

Lường định tình hình rồi đây có thể diễn biến phức tạp do đối phương không chịu thi hành Hiệp định, đồng chí Phạm Văn Đồng đã thay mặt Trung ương giao nhiệm vụ cho một số anh em trí thức là đảng viên2 vào miền Nam hoạt động công khai hoặc hợp pháp trong phong trào đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Trên mặt trận chiến đấu thầm lặng này, nhiều đồng chí đã nêu tấm gương sáng về lòng trung thành đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân như luật sư Nguyễn Hữu Thọ, giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng, Phạm Huy Thông... Với kinh nghiệm nghề nghiệp sẵn có, ta đã thu được từ trước các mẫu căn cước, mẫu dấu của công an ngụy để làm giấy tờ tùy thân hợp lệ cho cán bộ tình báo và chiến sĩ quân báo cài cắm vào hoạt động trong hàng ngũ đối phương. Khi địch lập “Ủy ban di cư” cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam, ta đã nhanh chóng tuyển chọn những cán bộ, chiến sĩ gan dạ, trung thành để huấn luyện cấp tốc rồi tổ chức đi ngay, như các đồng chí Đặng Ngọc Phách, Vũ Văn Thiều, Vũ Ngọc Nhạ3, Đinh Thị Vân4. Các chiến sĩ ta hòa vào dòng người dân di cư thực hiện cuộc di chuyển địa bàn hoạt động bằng phương tiện vận chuyển của Pháp. Họ được hưởng quy chế di cư: được cấp giấy thông hành, trợ cấp và nhập các trại di cư ở miền Nam.

Đầu tháng 8-1955, đồng chí Nguyễn Xuân Hữu, Bí thư tỉnh ủy Khánh Hòa (đã tập kết ra Bắc) cùng 12 cán bộ chiến sĩ đặc công được Cục Quân báo Bộ Tổng tham mưu huấn luyện trở lại miền Nam. Sau gần ba tháng, hành quân với bao vất vả, gian lao, đoàn đã về tới Khánh Hòa hoạt động theo phương thức hợp pháp.

Nhân dân miền Nam vừa trải qua cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, lại bước ngay vào cuộc chiến đấu mới đầy thử thách quyết liệt, bao nhiêu công việc bộn bề: bố trí lực lượng đi tập kết, sắp xếp cán bộ, đảng viên ở lại, chôn cất vũ khí... Cùng một lúc đặt ra, đòi hỏi cấp ủy và chính quyền các cấp phải khẩn trương giải quyết theo yêu cầu tuyệt đối giữ bí mật.

Trong hai ngày 27 và 28-7-1954, Liên khu ủy V họp hội nghị mở rộng đến các bí thư tỉnh ủy để quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương. Phân tích những khó khăn và thuận lợi của Liên khu, hội nghị đã đề ra ba công việc cấp bách phải làm ngay:

- Mở rộng đợt tuyên truyền và giáo dục sâu rộng cho tất cả cán bộ, đảng viên, quần chúng về tình hình nhiệm vụ mới, về phương châm đấu tranh, về các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ để có cơ sở pháp lý đấu tranh với địch.

- Khẩn trương tổ chức lại bộ máy lãnh dạo của Đảng và các tổ chức quần chúng để nhanh chóng bắt kịp với tình hình mới của phong trào cách mạng.

- Biên chế lại và tổ chức lực lượng vũ trang thành các sư đoàn, trung đoàn để biểu dương chiến thắng và chuyển quân theo đúng kế hoạch.
_________________________________
1. Tháng 3-1955, Trung ương Đảng điều động đồng chí Trần Lương (Trần Nam Trung), Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị, vào Khu V làm Bí thư Liên khu ủy thay đồng chí Trương Quang Giao bị bệnh nặng.
2. Các đồng chí Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Huy Thông… hoạt động trong “phong trào hòa bình” ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
3. Đồng chí Vũ Ngọc Nhạ hiện nay là thiếu tướng quân đội.
4. Đồng chí Đinh Thị Vân sinh năm 1916, ở Xuân Thành, Xuân Thủy, Nam Hà, nhập ngũ tháng 5-1954. Giữa năm 1954 từ công tác công khai, tổ chức chuyển đồng chí sang hoạt động bí mật trong lòng địch. Hòa bình lập lại, theo yêu cầu của tổ chức, đồng chí tiếp tục bám địch vào miền Nam. Ngày 25-8-1970, đồng chí vinh dự được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân với thành tích: là một cán bộ mẫu mực, trung thành, tận tụy phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng; có năng lực vận động tổ chức quần chúng giỏi, bám chắc cơ sở, hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm vụ quan trọng trong những hoàn cảnh rất khó khăn.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Giêng, 2010, 11:34:12 pm

Tháng 10-1954, tại căn cứ Chắc Băng (Cà Mau) Xứ ủy Nam Bộ họp, nhận định tình hình có thể có hai khả năng: Diệm buộc phải thi hành Hiệp định; cũng có thể chúng không thi hành. Vì vậy, nhiệm vụ của nhân dân miên Nam là vừa phải đấu tranh đòi chúng thi hành Hiệp định, đòi chúng tổ chức tổng tuyển cử, hòa bình thống nhất nước nhà, vừa chuẩn bị đối phó với khả năng xấu nhất. Xứ ủy đề ra phương châm công tác của cách mạng miền Nam là: “Kết hợp công tác bí mật với công tác công khai và nửa công khai; tổ chức và hoạt động của Đảng phải hết sức giữ bí mật, tổ chức và hoạt động của phong trào quần chúng thì cần lợi dụng các hình thức công khai”.

Thực hiện Nghị quyết tháng 9 của Bộ Chính trị, hội nghị lập ra Xứ ủy do đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư, lập ra các khu ủy, các tỉnh ủy, huyện ủy mới.

Về công tác tổ chức, hội nghị chủ trương “điều chỉnh tổ chức chi bộ và chuyển hoạt động của các chi bộ đảng vào bí mật... củng cố lại các cấp ủy và bố trí lại cán bộ theo yêu cầu công tác trong hoàn cảnh bí mật”.

Sau hội nghị, Nam Bộ chia làm ba liên tỉnh ủy và khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Liên tỉnh ủy miền Tây do đồng chí Nguyễn Thái Bường (Ba Bường) làm bí thư. Liên tỉnh ủy miền Trung do đồng chí Nguyễn Văn Mùi (Sáu Đường) làm bí thư. Liên tỉnh ủy miền Đông do đồng chí Trần Văn Đức (Hai Đức) làm bí thư. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được cử làm bí thư Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến, Tham mưu phó phân khu miền Tây được Xứ ủy phân công phụ trách công tác quân sự ở Nam Bộ.

Theo chỉ đạo của Xứ ủy, các tỉnh gấp rút mở lớp tập huấn ngắn ngày để chuyển hướng nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên ở lại; đào tạo thêm cán bộ đưa về tăng cường cho các thành phố lớn, các vùng dân tộc, tôn giáo, đồng thời bố trí cán bộ vào hoạt động trong bộ máy ngụy quân, ngụy quyền của địch với tên, họ và ngành, nghề mới theo khả năng của từng người1.

Nam Bộ có khoảng 60.000 đảng viên ở lại rút vào hoạt động bí mật. Số cán bộ, đảng viên chưa bị lộ thì vẫn sống hợp pháp, làm ăn sinh sống như mọi người dân, “tùy cơ ứng biến” mà vận dụng các khả năng hợp pháp hoặc không họp pháp để hoạt động. Số đồng chí đã bị lộ thì chuyển sang hoạt động bí mật hoặc chuyển vùng công tác, nhờ sự che chở đùm bọc của nhân dân. Tổ chức chi bộ chia thành hai loại: Loại A gồm đảng viên sống và hoạt động bất hợp pháp, loại B là đảng viên sống hợp pháp, hoạt động hợp pháp và bán hợp pháp.

Các đoàn thể quần chúng trong kháng chiến trước đây như đoàn thanh niên, hội nông dân, hội phụ nữ... đều giải thể. Các tổ chức dưới nhiều hình thức biến tướng như: hội hình, hội chùa, tổ vần công, hội tương trợ, cứu tế, hội an táng, hội đá banh, diễn kịch, v.v… được thành lập, có tác dụng tập họp đông đảo quần chúng hoạt động công khai, hợp pháp tạo điều kiện cho quần chúng tham gia công tác cách mạng. Cùng thời gian này ở Bến Tre còn tổ chức các “tổ nòng cốt rễ chuỗi”. Mỗi đảng viên được giao nhiệm vụ quan hệ bí mật với một số người là cốt cán, mỗi cốt cán lại quan hệ chặt chẽ nắm một số quần chúng tích cực; quần chúng tích cực vận động, tuyên truyền quần chúng khác trong xã, ấp.

Để phòng ngừa khả năng xấu, nhiều tỉnh ở miền Nam đã tổ chức chôn giấu vũ khí, đạn dược2. Quân giới Nam Bộ được lệnh cất giấu máy móc, dụng cụ ở rừng U Minh để xây dựng công binh xưởng sau này.
_________________________________
1. Tỉnh Đắc Lắc đưa 250 cán bộ (phần lớn là cán bộ quân đội) và một số người dân tộc trở về bám địa phương. Số này được tổ chức thành những đội công tác và có nhiệm vụ hoạt động gây cơ sở ở Cheo Reo, Buôn Hồ, M’ Đrak, Đác Min, Lak… Đội công tác thị xã Buôn Ma Thuột gồm 9 đồng chí đều vào sống hợp pháp trong dân.
    Trung 123 xã, 796 ấp của tỉnh Mỹ Tho, đều có người của ta lọt vào lực lượng bảo an, dân vệ ở các đồn bốt và bộ máy ngụy quyền. Nhờ vậy, mọi hành động của địch đều bị cơ sở ta phát hiện, giúp cho ta có kế hoạnh đối phó kịp thời.
2. Quảng Nam chôn 70 súng. Gia Lai để lại hai hầm gồm 70 súng trường, 7 tiểu liên, 60 súng ngắn, đạn tiểu liên mỗi khẩu 30 viên, súng trường mỗi khẩu 200 viên. Công Tum để lại gần 80 súng các loại và 4 tấn đạn.
    - Quân khu V đã chôn giấu trong khu vực từ Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) đến bắc Bình Định một số vũ khí đủ trang bị cho hai tiểu đoàn và một số đại đội độc lập.
    - Miền Đông Nam Bộ chôn giấu nhiều hầm súng đạn, có cả súng trung liên, đại liên đủ trang bị cho ba đại đội.
    - Chiến khu D cất giấu 450 súng các loại, từ súng ngắn đến cối đại liên, cả máy tiện, máy in…
    - Tỉnh Bạc Liêu đã cử người dùng ghe, xuồng ra tàu Liên Xô đậu tại Vàm Sông Ông Đốc chở trên 6 tấn súng đạn đã đóng thùng sẵn đem về cất giấu ở các xã vùng U Minh Hạ.
    - Cà Mau cất giấu 2.000 khẩu tiểu liên, trung liên, súng trường.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Giêng, 2010, 11:35:28 pm

Để giúp các cơ quan chỉ đạo nắm được chủ trương của cấp trên và các hoạt động của địch, các tuyến giao liên, các hòm thư bí mật (còn gọi là hòm thư “chết”) để liên lạc giữa Trung ương với khu, giữa khu với các tỉnh được gấp rút tổ chức. Phần lớn cán bộ và chiến sĩ ở các trạm giao liên là cán bộ và chiến sĩ đặc công, trinh sát1. Địch dùng mọi cách để ngăn chặn đường liên lạc của ta từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc, nhưng bịt đường này ta lại mở đường khác. Các chiến sĩ giao liên được sự giúp đỡ của dân đã dùng thuyền nan nhỏ, bí mật đi trên biển, vượt giới tuyến quân sự tạm thời vào Huế, Đà Nẵng bắt liên lạc với cán bộ hoạt động. Từ một tổ thuyền ban đầu đã phát triển thành nhiều tổ. Đường đi dài hơn, từ phía Bắc vào tới Nha Trang, Phan Thiết để liên lạc.

Tranh thủ thời gian trước khi bàn giao cho địch, chính quyền các cấp ở Nam Bộ và Khu V đã chia 740.490 hécta ruộng đất cho 1.299.000 hộ nông dân. Nhiều địa phương đã phân phối các kho thóc, kho muối dự trữ cho đồng bào ở vùng thiếu đói. Khu V đã cấp 330 tấn gạo, 11.500 mét vải. Vùng thượng du Nam Trung Bộ, mặc dù đường sá hiểm trở, đồng bào các dân tộc vẫn được tiếp tế 30 vạn mét vải, 600 con bò và hàng ngàn giạ muối2. Cà Mau, khu vực tập kết 200 ngày, những ruộng muối, ruộng lúa trước kia phải bỏ hoang nay được cách mạng giúp vốn, bộ đội giúp công cày đã sản xuất và gieo cấy trở lại được3.

Khắp nơi tổ chức tu sửa, viếng mộ những người có công với nước, thăm hỏi các gia đình thương binh, liệt sĩ, trao huân chương, bằng khen của Chính phủ và huy hiệu của Hồ Chủ tịch cho những người có công trong kháng chiến chống Pháp. Nhân dân Cao Lãnh xây dựng lại mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc để tỏ lòng thành kính và biết ơn sâu sắc người đã sinh ra lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Tận dụng khoảng thời gian 300 ngày, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định huy động lực lượng bộ đội và các cơ quan giúp đỡ nhân dân xây dựng lại nhà cửa bị giặc tàn phá, xây dựng trường học, xây dựng các nghĩa trang liệt sĩ. Chính quyền cách mạng còn huy động lực lượng giúp nhân dân đắp đập Cà Ninh (Bình Sơn) và sửa chữa các mương tưới tiêu nước cho hàng vạn héc ta. Ở Bình Định, bộ đội đã đắp được 200.000m3 đường giao thông: sửa lại 19 cầu cho ô tô hàng ngày chạy thông suốt từ Bồng Sơn đến Cù Mông, đắp đê ngăn nước mặn ở phía đông huyện Tuy Phước, v.v...

Thời gian khẩn trương, những thành tựu xây dựng cuộc sống mới chưa nhiều, nhưng đã để lại trong lòng nhân dân một tình cảm hết sức sâu đậm đối với cách mạng.

Chiến tranh chấm dứt, nhân dân được trở lại cuộc sống hòa bình nhưng lại là cái tang lớn của địch. Chúng coi đây là “ngày quốc hận” và ra lệnh cho tất cả các công sở ở vùng chúng kiểm soát treo cờ rủ ba ngày.

Trong khi đó, khắp nơi từ Cà Mau đến vĩ tuyến 17, hàng triệu lượt quần chúng đã dự mít tinh, hội thảo mừng hòa bình, hân hoan văn nghệ, chiếu phim, xem văn công biểu diễn.

Ở các vùng giải phóng cũ Nam Bộ, vùng tự do Liên khu V, hàng vạn người tập trung liên hoan, có nơi kéo dài hai ba ngày. Nhiều ngả đường tràn ngập cờ đỏ sao vàng, cờ xanh hòa bình, ảnh Hồ Chủ tịch. Ai cũng muốn gặp nhau để trò chuyện, nói cho nhau nghe nỗi niềm vui mừng và những băn khoăn của lòng mình khi phải chia tay người thân đi tập kết và những khó khăn trên bước đường đấu tranh sắp tới. Họ tha thiết, dặn dò người ra đi an tâm làm nhiệm vụ, người ở lại quyết tâm đấu tranh để sau hai năm gặp lại nhau trong ngày Bắc, Nam thống nhất.

Trị - Thiên, nơi địa đầu tiếp giáp miền Bắc, theo Hiệp định, hai tỉnh bàn giao lại ngay cho đối phương quản lý và chuyển quân tập kết sớm nhất. Ngày 18-8, tỉnh Quảng Trị tổ chức cuộc mít tinh lớn tại Phước Môn, có trên 6.000 người dự để tiễn đưa con em của quê hương lên đường tập kết. Lực lượng bộ đội địa phương tỉnh Thừa Thiên tổ chức thành trung đoàn 269. Ngày 26-8, trung đoàn đã chỉnh tề đội ngũ hành quân ra Bắc.

Tại khu vực tập kết 80 ngày ở miền Đông Nam Bộ, các tiểu đoàn chủ lực 300, 303, 306 của các tỉnh Bà Chợ, Thủ Biên, Gia Định và Sài Gòn cùng với bộ đội địa phương các huyện tổ chức thành hai trung đoàn hành quân bộ và cơ giới ra bến Hàm Tân, Xuyên Mộc.

Ở khu vực tập kết 100 ngày, các tiểu đoàn chủ lực 302, 304, 309, 311, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu ở miền Đông Campuchia rút về nước, cùng với bộ đội địa phương Long Châu Sa, Mỹ Tho hành quân về Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười.
_________________________________
1. Thiếu tướng Nguyễn Tư Cường nguyên tư lệnh Binh chủng Đặc công kể lại: năm 1955, đồng chí được giao làm “con thoi” mang báo cáo phong trào mọi mặt của tỉnh ủy Khánh Hòa ra để vào hòm thư “chết” của Trung uơng đặt ở khu giới tuyến (Quảng Trị) và nhận ở đó những chỉ thị của trung ương mang về lại Khánh Hòa.
2. Theo tài liệu đánh máy Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 5, tr. 41.
3. Trước đây đồng bào ngư dân ở Cà Mau chỉ có 100 thuyền vận tải, chỉ một thời gian ngắn sau khi ta tiếp thu, trên sông đã có 1.000 thuyền đánh cá, 22 chiếc tàu vận tải.
    Thị trấn Cà Mau làm thêm 20 trường học mới. 75% số ngươi được thanh toán nạn mù chữ. Trong vùng đồng vào Khơme các trường học được mở thêm nhiều.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Giêng, 2010, 11:37:22 pm

Bộ đội hành quân có lúc phải băng qua cùng tạm chiếm cũ, có đơn vị phải qua thành phố đầy lính ngụy, lính Pháp. Bất chấp sự ngăn cản của đối phương, đồng bào vẫn đổ ra đường hoan hô và tiễn chân bộ đội.

Những ngày cuối cùng của việc chuyển quân, mặc dù địch kiểm soát chặt chẽ, nhưng không ngày nào không có người dân từ vùng địch kiểm soát ra thăm. Có người từ cực nam ra Quy Nhơn, có người từ Sài Gòn xuống Cà Mau. Thấy bộ đội không nhận quà bánh, các má, các chị đem để lại vọng gác rồi về.

Tiễn đưa và tặng nhau kỷ vật là quyển sổ tay, chiếc huy hiệu, tấm khăn... để nhắc nhở nhau làm tròn nhiệm vụ. Có chị bán hàng vải đến phút cuối cùng xé ngay tấm lụa hồng ký tên vào, rồi mọi người xúm nhau ký tên không còn một chỗ trống. Một bà má ôm bộ đội hôn rồi tặng một cây cờ:

“Đây cờ đấu tranh,
Con giữ bên mình
Thấy cờ con nhớ học hành
Thấy cờ con nhớ mối tình Bắc, Nam”
1.

Ngày 31-1-1955, trong lễ bàn giao cho quân đội Liên hiệp Pháp khu vực tập kết 200 ngày ở Cà Mau, đồng chí Phạm Hùng. Chủ tịch Ủy ban liên hiệp đình chiến, thay mặt Chính phủ khen ngợi tinh thần cách mạng của nhân dân Nam Bộ.

Ngày 8 tháng 2, con tàu Liên Xô Xtavrôpôn trên dòng sông Ông Dốc chuẩn bị kéo neo rời bến đưa cán bộ, chiến sĩ tập kết chuyến cuối cùng ra Bắc, đồng chí Lê Duẩn lên tàu giả đi tập kết rồi bí mật xuống một chiếc xuồng con trở lại đất mũi Cà Mau. Đồng chí Võ Văn Kiệt, ủy viên Liên tỉnh ủy miền Tây đưa đồng chí Lê Duẩn về các cơ sở cách mạng ở Tân Hưng Tây (Cái Nước) rồi Khai Long, Rạch Gốc (huyện Ngọc Hiển), Nguyễn Phích, Cái Tàu (huyện Trần Văn Thời)... trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân.

Trong ngày chuyển quân cuối cùng của Nam Bộ, nhân dân Cà Mau đã gửi bộ đội nắm đất ở mũi xa nhất của miền Nam mang ra dâng Hồ Chủ tịch và dặn dò:

“Con ra thưa với Bác Hồ
Đất này chỉ cắm một cờ vàng sao”
2

Sau gần bảy tháng thi hành Hiệp định, việc bàn giao chính quyền giữa ta và đối phương đã cơ bản hoàn thành. Ta chỉ còn một khu tập kết từ nam sông Vệ đến giáp đèo Cù Mông thuộc hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Việc bàn giao khu vục này cũng phải xong trước ngày 21-5-1955. Công việc bàn giao trước đó đã gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Kẻ địch tìm mọi cách gây rắc rối nhằm phá hoại Hiệp định, nhưng Chính phủ và nhân dân ta vẫn kiên trì chủ trương tiếp tục đấu tranh để thi hành Hiệp định, củng cố hòa bình và tiến tới thực hiện thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử.

Tháng 3-1955, đồng chí Nguyễn Chánh, Phó Tổng tham mưu trưởng được cử vào Khu V xem xét tình hình tại chỗ và trực tiếp chỉ đạo đợt rút quân cuối cùng. Cùng thời gian này, theo quyết định của Trung ương, hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên thuộc Khu IV nay trở lại trực thuộc Liên khu V.

Cuối tháng 3, Ban thường vụ Liên khu ủy V tổ chức hội nghị, một số cán bộ lãnh đạo các tỉnh tham dự. Trước tình hình địch có nhiều thủ đoạn khủng bố, đàn áp nhân dân trong vùng chúng kiểm soát, Khu ủy dự tính khả năng “cách mạng không thể phát triển bằng phương pháp hòa bình”, đã quyết định lựa chọn thêm một số cán bộ trong các đơn vị vũ trang và một số cán bộ các ngành chuẩn bị tập kết ra Bắc đang ở Quy Nhơn, đưa về bổ sung cho các địa phương. Đảm bảo cho tổ chức gọn, nhẹ phù hợp với tình hình mới, Liên khu ủy chỉ đạo bố trí số lượng các cấp ủy theo nguyên tắc: Liên tỉnh uỷ có từ 3-5 ủy viên, tỉnh ủy từ 5-7; huyện ủy từ 3-5. Chi bộ đảng tổ chức tới thôn, mỗi chi bộ từ 3-5 đảng viên. Số đảng viên còn lại cho “thả nổi” (tạm ngừng sinh hoạt). Số cán bộ, nhân viên từ khu đến xã tính đến tháng 3-1955 còn lại 3.603 người và 170 giao liên3.

Ngày 16-5-1955, chuyến tàu cuối cùng chở cán bộ chiến sĩ miền Nam rời cảng Quy Nhơn ra Bắc. Công cuộc chuyển quân tập kết, sắp xếp lực lượng của ta ở lại miền Nam đã hoàn thành thắng lợi. Mười hai vạn bộ đội, cán bộ các ngành ở miền Nam tập kết ra Bắc, đem theo 500 tấn súng đạn; 600 tấn máy móc, khí tài và 236 xe ô tô các loại.

Đây là lực lượng rất quý của đồng bào miền Nam gửi ra Bắc để tiếp tục học tập, trau dồi kiến thức và năng lực, góp công, góp sức xây dựng miền Bắc vững mạnh làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
_________________________________
1. Tài liệu đánh máy Cục Lưu trữ Trung ương Đảng. Đơn vị bảo quản 5. tr. 21.
2. Cục lưu trữ Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 5. tr. 22.
3. Số cán bộ nhân viên còn lại cụ thể ở các tỉnh: Quảng Nam: 506, Quảng Ngãi: 396, Bình Định: 451, Phú Yên: 254, Bình Thuận: 259.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Giêng, 2010, 11:38:06 pm

Ở miền Nam, hệ thống lãnh đạo của Đảng được tổ chức lại, chuyển vào hoạt động bí mật, cùng với đồng bào miền Nam giàu truyền thống cách mạng, một lòng tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào Bác Hồ, sẵn sàng bước vào cuộc đấu tranh mới với kẻ thù.

Cùng với việc chỉ đạo chuyển quân tập kết, sắp xếp lục lượng ở miền Nam, trên miền Bắc Đảng và Nhà nước tập trung chỉ đạo đấu tranh với địch, tiếp quản vùng mới giải phóng, đồng thời lo hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định trật tự an ninh. Vấn đề quan trọng nhất lúc bấy giờ là giải phóng miền Bắc, đấu tranh buộc Pháp phải rút quân. Trong lời kêu gọi ngày 2-7-1954, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: “Nhiệm vụ trước mắt của quân và dân ta lúc này là đấu tranh giữ vững hòa bình, thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc”; “việc tiếp quản các thành thị lớn ở miền Bắc là một công tác rất quan trọng và nặng nề”. Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954, lại nhấn mạnh: “Việc chúng ta tiếp quản được thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, khiến chúng ta không những có nông thôn mà còn có thành thị, đường sắt, cửa biển, vùng công nghiệp... đó là một biến đổi to lớn, ta có đủ điều kiện kiến thiết quy mô một quốc gia”.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp quản vùng mới giải phóng, đặc biệt là tiếp quản các thành thị, Trung ương Đảng quyết định cử các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Lê Văn Lương, uỷ viên Bộ Chính trị, Tố Hữu ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng và đồng chí Xuân Thủy, chỉ đạo tiếp quản thủ đô Hà Nội. Đồng chí Đỗ Mười, Bí thư khu Tả Ngạn, trực tiếp làm Trưởng ban chỉ đạo khu vực 300 ngày1. Ngay từ đầu, được sự chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời của Trung ương, cấp ủy và chính quyền các địa phương đã lãnh đạo quần chúng công nhân đấu tranh chống lại âm mưu của địch di chuyển kho tàng, máy móc, trang thiết bị, tài liệu quý vào Nam.

Tại Hà Nội, các cuộc đấu tranh được tiến hành trước hết ở các nhà máy, xí nghiệp phục vụ lợi ích công cộng có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân như điện, nước, vệ sinh. Bắt đầu từ cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy điện Yên Phụ, phong trào đã nhanh chóng lan rộng khắp các nhà máy đèn Bờ Hồ, nhà máy nước, ga Hàng Cỏ, nhà máy xe lửa Gia Lâm. Các cuộc đấu tranh của công nhân đã diễn ra với nhiều hình thức phong phú, từ hình thức không thi hành lệnh của chủ, cử đại biểu hoặc từng bộ phận, từng phân xưởng kéo lên nơi chủ làm việc đưa yêu sách, chất vấn, đến hình thức đấu tranh giành giữ, chặn đường không cho địch chuyên chở, mang máy móc đi v.v... Cao hơn là công nhân tổ chức thay phiên nhau ngày đêm canh gác xí nghiệp, bảo vệ hoặc tháo gỡ, cất giấu máy và phương tiện sản xuất. Cùng với công nhân các nhà máy, xí nghiệp đấu tranh giữ máy móc, nguyên liệu, nhân viên ngành y tế ở bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Phủ Doãn, nhân viên các trường học công, tư và trường đại học Hà Nội, công chức ở các cơ quan, công sở của địch, đã cất giấu, bảo vệ thuốc men, dụng cụ chữa bệnh, tài liệu khoa học, phương tiện làm việc hoặc bí mật chuyển ra vùng tự do.

Trong hơn hai tháng đấu tranh quyết liệt với địch, công nhân nhà máy điện Yên Phụ, nhà máy đèn Bờ Hồ đã buộc địch phải bảo đảm 4.000 tấn than dự trữ cho đến ngày ta tiếp quản. Nhà máy nước giữ được máy móc, thiết bị, đảm bảo cung cấp nước bình thường cho thành phố. Ga Hà Nội và sở Hỏa xa giữ được 12 đầu máy và toàn bộ các toa xe. Nhà bưu điện đòi địch phải bồi hoàn đủ phương tiện bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt. Đặc biệt công nhân các nhà máy này đã mưu trí lấy lại những tấm bản đồ ghi hệ thống cống nước ngầm, dây điện ngầm, dây điện thoại ngầm trong thành phố, giúp ta nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống của nhân dân sau khi tiếp quản.

Cũng như ở Hà Nội, nhân dân trong khu vực tập kết 300 ngày đã đấu tranh bền bỉ và khôn khéo với địch. Ở khu Hồng Quảng, Đặc khu ủy đã chỉ đạo thành lập các đội bảo vệ máy trong công nhân, làm nhiệm vụ phát hiện, theo dõi và cùng công nhân ngăn chặn hành động tháo dỡ, di chuyển máy móc của địch.

Chiều 9-3-1955, công nhân Hồng Gai đã đấu tranh không cho bọn chủ chuyển 8 môbin của nhà máy điện xuống Cẩm Phả để chở vào Nam. Ngày 24-4-1955, công nhân nhà máy cơ khí Cẩm Phả buộc chủ phải để lại 3 máy không cho đem đi.

Tại Hải Phòng, Kiến An, ngoài việc tăng cường vơ vét máy móc vật liệu mang đi, địch còn tung ra hàng loạt tiền Đông Dương giả để mua hàng hóa chở vào Nam. Chúng còn phá huỷ hai cầu Kiến An và Kiến Bắc gây ách tắc giao thông.

Các tầng lớp nhân dân ở đây đã tổ chức hàng trăm cuộc đấu tranh lớn, nhỏ liên tiếp đẩy lùi các cuộc cướp phá của địch và giữ lại phần lớn máy móc của các nhà máy xí nghiệp bảo đảm cho việc nhanh chóng ổn định sinh hoạt của nhân dân, khôi phục sản xuất.
_________________________________
1. Tại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (1957), các đồng chí Xuân Thủy, Đỗ Mười được bầu bổ sung vào Trung ương.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Giêng, 2010, 11:39:06 pm

Đi đôi với việc đấu tranh chống địch cướp phá tài sản, máy móc, quân và dân ta còn tích cực vận động binh lính địch bỏ hàng ngũ trở về với gia đình. Nhân lúc sĩ quan, binh lính địch đang hoang mang, các địa phương đã tập trung chỉ đạo gấp rút chấn chỉnh các ban địch vận từ tỉnh xuống cơ sở, điều động nhiều cán bộ, đảng viên có kinh nghiệm từ vùng giải phóng bổ sung cho các vùng tạm bị địch chiếm. Công tác tuyên truyền vận động sát với từng đối tượng. Với ngụy binh, ta giải thích sâu rộng bốn chính sách của Chính phủ đối với ngụy quân, ngụy quyền bỏ hàng ngũ địch trở về với nhân dân. Đối với lính Âu-Phi ta tuyên truyền làm cho họ nhận rõ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, đấu tranh đòi “hòa bình và hồi hương”, đòi Pháp phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ.

Nhờ phát động được phong trào toàn dân làm công tác địch vận, quần chúng đã sáng tạo nhiều hình thức đấu tranh phong phú. Nhiều nơi nhân dân kéo đến các vị trí tập trung quân của địch hỏi tin tức, kêu khóc, đòi chồng, đòi con. Có cuộc ta huy động hàng ngàn quần chúng đấu tranh kiên trì nhiều ngày, làm tan rã từng đại đội, tiểu đoàn địch. Nhiều gia đình có người đi lính mang theo cơm, gạo nằm xung quanh doanh trại địch hết ngày này qua ngày khác đòi bằng được chồng, con trở về mới chịu giải tán.

Công tác vận động của ta cũng đã tác động đến tinh thần binh lính Âu-Phi. Họ ngày càng nhận rõ cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp là phi nghĩa, lại mong chờ ngày hồi hương, nên lo giữ lấy thân, tìm cách không đi càn quét bắt thanh niên vào lính ngụy, hoặc phải đi thì giữ thái độ trung lập. Nhiều binh lính tỏ ra cảm tình ủng hộ ta, tìm cách chuyển cho ta vũ khí, khí tài quân dụng.

Thắng lợi của công tác địch vận đã tác động mạnh vào tinh thần quân đội địch, góp phần làm cho ngụy quân còn ở miền Bắc tan rã từng mảng, lôi kéo được một lực lượng lớn sĩ quan, binh lính địch về với nhân dân. Tổng số ngụy quân ở miền Bắc có 80.076 tên, khi rút vào Nam chỉ còn 32.000 tên. Số lính đào ngũ lên tới 60%. Riêng ở Hà Nội sau ngày ta tiếp quản đã có 12.346 sĩ quan và binh lính ngụy ra trình diện.

Để thực hiện âm mưu thâm độc “dùng người Việt đánh người Việt” hòng phá hoại việc thi hành Hiệp định, địch đã mở chiến dịch cưỡng ép nhân dân, nhất là đồng bào theo đạo Thiên chúa di cư vào Nam. Ngay khi Hiệp định Giơnevơ vừa được ký kết, Mỹ - Diệm đã tổ chức “Ủy ban di cư Bắc Việt” đặt tại Tòa đại sứ Mỹ ở phố Hai Bà Trưng, Hà Nội, cùng với bọn phản động đội lốt tôn giáo trực tiếp chỉ huy cuộc di cư.

Chính đế quốc Mỹ đã cung cấp nhiều phương tiện vận tải, tiền bạc, thuốc men, lương thực, thực phẩm1 và cử Hồng y giáo chủ Xpenman, tổng tuyên úy trong quân đội Mỹ sang Việt Nam để chỉ đạo chiến dịch di cư. Giăng Đô Lây, khâm mạng tòa thánh Vaticăng ở miền Nam cùng với Xpenman thường xuyên có mặt ở Hà Nội để trực tiếp đôn đốc, thúc giục các giáo hội thực hiện kế hoạch di cư.

Ngày 2-8-1954, Ngô Đình Diệm đích thân ra Hà Nội kiểm tra việc này đã trắng trợn tuyên bố: “Tôi sẽ hướng mọi nỗ lực của tôi vào công việc tổ chức di cư”.

Quân viễn chinh Pháp cho hải quân làm những chiếc tàu “ma” ở ven biển, khi thì làm “Đức mẹ hiện hình”, khi thì “Đức mẹ kêu gọi” để lừa và hù dọa giáo dân. Pháp, cũng cho phép sử dụng phương tiện vận tải quân sự trên biển để chuyên chở giáo dân vào Nam.

Đối với đồng bào theo đạo Thiên chúa, địch tiến hành chiến tranh tâm lý, tuyên truyền xuyên tạc chính sách của ta để lung lạc tinh thần nhân dân, đổ vấy cho ta là “chia cắt đất nước”. Chúng đưa lực lượng quân sự đi hộ tống cho bọn phản động đội lốt thầy tu về các nhà thờ tuyên truyền “cộng sản phá đạo”, “Chúa đã vào Nam”, “Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống miền Bắc” v.v...

Bọn phản động đội lốt cha cố không những chỉ hoạt động trắng trợn ở vùng địch đang kiểm soát mà còn ráo riết hoạt động ngay tại các vùng của ta. Chúng đi rao giảng, rỉ tai, dọa dẫm và hứa hẹn đối với đồng bào di cư. Tại Cao Xá và Ngọc Đồng (Hưng Yên), linh mục chỉ đạo và giao cho bọn phản động gài mìn vào đường làng, ngõ xóm làm cho giáo dân sợ, dù không muốn đi cũng không thể quay về làng. Chúng gây ra hơn 200 vụ phá rối trị an trong đó những vụ bạo loạn ở Phát Diệm (Ninh Bình), Diễn Tiến (Nghệ An), Ba Làng (Thanh Hóa) là những vụ rất nghiêm trọng.

Do bị mê hoặc, lừa bịp, một số khá đông đồng bào theo đạo Thiên chúa đã hoang mang, lo sợ, nghe theo lời dụ dỗ, cưỡng bức di cư.
_________________________________
1. Tháng 7-1954, Mỹ đã bỏ ra 43 triệu đồng Đông Dương cho Diệm chi tiêu vào việc cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam. Mỹ còn cho Diệm 2.000 lều vảí để tập trung người di cư và chịu hết phí tổn chuyên chở.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Giêng, 2010, 11:40:16 pm

Cuối tháng 7-1954, địch dồn số đồng bào công giáo các tỉnh về Hà Nội chờ ngày xuống Hải Phòng “theo Chúa vào Nam”. Hàng chục nhà thờ, trường học, công sở bị chúng biến thành các trại di cư. Mỗi trại chứa trên, dưới một ngàn dân. Những người trong trại bị cấm không được tiếp xúc với bên ngoài.

Một số máy bay vận tải hạng lớn C46, DC3, DC4 của Mỹ đậu sẵn ở sân bay Bạch Mai, Gia Lâm để chuyến chở người di cư ở khu vực Hà Nội đi Nam. Chúng tuyên bố: mỗi gia đình công chức có thể nhận thêm năm, sáu gia đình cùng đi, không mất phí tổn. Nhiều chuyến bay dành riêng chuyên chở những người đã làm việc trong bộ máy chính quyền cũ.

Cũng trong tháng 7, Ngân hàng Đông Dương không cho rút tiền ra. Sang tháng 8, chúng chuyển tiền vào Nam buộc những người có tiền gửi ngân hàng phải vào Sài Gòn để lĩnh.

Chúng ra lệnh chuyển địa điểm các kỳ thi vào Nam và đóng cửa, phá phách các trường học, buộc thầy giáo và học trò phải đi theo chúng.

Hàng vạn đồng bào ta ở khắp các tỉnh miền Bắc phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn, họ hàng, làng mạc, tập trung về Hải Phòng đón tàu. Tình cảnh đồng bào trong các trại rất cơ cực, đói khổ, thiếu thốn đủ bề, bệnh tật phát triển. Một số gia đình không chịu nổi cảnh sống đó đã đòi trở lại quê hương.

Trong gần một năm, các tàu chiến của Pháp chở 514.000 giáo dân từ Hải Phòng đi Nam1.

Để đối phó với âm mưu của địch, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị nêu rõ: “Việc phá tan âm mưu của địch bắt ép đồng bào ta vào Nam là một cuộc đấu tranh chính trị gay go và cấp bách hiện nay, cốt tranh thủ quần chúng ở lại quê hương, làm nhiệm vụ tham gia công tác kiến thiết nước nhà, không bị địch bắt đi làm lính, làm đồn điền, đầy ải, khổ sở…”2. Tiếp đó, Đảng và Chính phủ ta đã đề ra nhiều chính sách cụ thể đối với tôn giáo; chính sách đối với công chức, trí thức, giáo viên trước đây làm việc cho địch, chính sách đối với những nhà công thương nghiệp...

Các ban chỉ đạo chống cưỡng ép di cư được thành lập, hàng vạn cán bộ, bộ đội được huy động về giúp các địa phương vận động quần chúng đấu tranh, vạch trần âm mưu và thủ đoạn của địch. Nhiều nơi cán bộ, bộ đội ta đến vận động, bà con giáo dân tỏ thái dộ thờ ơ, lạnh nhạt. Những người bị các phần tử xấu xúi giục, kích động đã gây xung đột, đánh đập cán bộ, bộ đội. Nhiều cán bộ, chiến sĩ bị thương nặng, có người đã hy sinh.

Mặc dù đồng bào không chịu tiếp xúc, nhưng cán bộ, chiến sĩ ta vẫn kiên trì giải thích chính sách tự do tín ngưỡng cho nhân dân hiểu. Bằng hành động thực tế, cán bộ, bộ đội ta tận tình giúp đỡ đồng bào khắc phục khó khăn về sản xuất và đời sống. Những nơi nhân dân đã bỏ đi, ta vận động bà con còn lại chăm sóc ruộng vườn, trông nom, cất giữ chu đáo tài sản cho họ, khi họ về thì giao lại và giúp đỡ ổn định cuộc sống.

Những việc làm tận tình của cán bộ, bộ đội làm cho nhiều người tỉnh ngộ, nhận rõ lẽ phải, hiểu được chính sách đúng đắn của Đảng và Chính phủ, mạnh dạn vạch mặt bọn phản động đội lốt cha cố. Một số người đã cùng cán bộ, bộ đội tiếp tục vận động bà con thân thuộc. Có nơi ta mời được cả các vị linh mục về nhà thờ làm lễ để đồng bào yên tâm ở lại quê hương.

Tỉnh Nam Định, có 936 giáo dân đến gặp chính quyền ta tố cáo kẻ chủ mưu dụ dỗ, cưỡng ép họ bỏ nhà ra đi. Giáo dân ở đây cũng đã kịp thời báo cáo và giúp đỡ chính quyền cách mạng đập tan âm mưu của bọn đầu sỏ tập trung giáo dân ở 14 xứ đạo về Xuân Ninh (Xuân Trường) dụ dỗ họ di cư hàng loạt.

Đối với những phần tử ngoan cố, vi phạm luật pháp Nhà nước, ta kiên quyết trừng trị.

Ngày 1-11-1954, Ủy ban hành chính tỉnh Ninh Bình ra lệnh giải tán các trại tập trung ở Phát Diệm. Hàng ngàn đồng bào tấp nập quay về. Ngày 12-12-1955, Tòa án nhân dân Ninh Bình kết án tử hình một tên, phạt tù giam hai tên khác vì đã giết hại cán bộ ta và chống phá đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ. Trong năm 1955, các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình đã phát hiện và xử lý 17 vụ bọn phản động tấn công vào bộ đội, 4 vụ cài mìn...

Cùng thời gian này, tại Thanh Hóa, bọn phản động lôi kéo giáo dân gây ra vụ bạo loạn ở Ba Làng. Chúng lập ra đội vũ trang, chém giết cán bộ, nói xấu chủ trương, chính sách của ta. Được sự chỉ đạo kịp thời của trên, bộ đội sư đoàn 305 kết hợp cùng chính quyền và nhân dân địa phương tước vũ khí, bắt toàn bộ bọn phản động, dập tắt hành động bạo loạn của địch.
_________________________________
1. Theo số liệu lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của Hải Phòng.
2. Chỉ thị số 91-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 5-9-1954.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Giêng, 2010, 10:45:40 pm

Tháng 4-1955, tại Diễn Tiến (Diễn Châu, Nghệ An) địch cho 17 tên phản động từ trong Nam ra, tổ chức một đội vũ trang 100 người, được trang bị giáo mác, kết hợp với bọn phản động địa phương lôi kéo giáo dân đi Nam, kích động bạo loạn... Bị bọn chúng lừa bịp, cưỡng ép, giáo dân các huyện Yên Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu kéo đến tập trung xung quanh nhà thờ Diễn Tiến hơn hai vạn người.

Liên khu IV và tỉnh đội Nghệ An đã chỉ đạo và phối hợp với ba huyện trên dập tắt bạo loạn.

Ta tổ chức giáo dục, huấn luyện 1.000 người cả lương lẫn giáo, đi vào đám đông, giải thích rõ âm mưu kẻ thù, khuyên bà con trở về làm ăn. Tiếp đó, ta cho một đội vũ trang vào nhà thờ Diễn Tiến bắt 5 tên phản động đội lốt thày tu đưa ra trước đồng bào quần chúng buộc phải công khai nói rõ ý đồ đen tối của bọn chúng.

Sau tám ngày đấu tranh liên tục, vừa vận động quần chúng, vừa trấn áp bọn đầu sỏ, ta đã dập tắt cuộc bạo loạn của địch, bắt 23 tên phản động. Bà con giáo dân thấy rõ âm mưu thâm độc của chúng đã quay trở về.

Tại xã Thạch Tâm (Thạch Hà, Hà Tĩnh), bọn phản động tổ chức một đội “cảm tử về đạo” gồm 30 người đem giáo mác đi cưỡng ép đồng bào bán nhà, làm đơn lên chính quyền đòi đi Nam. Ngày 7-4-1955, chúng đốt một nhà dân rồi bắt chủ tịch xã ký đơn vu cáo cho bộ đội. Trước hành động trắng trợn đó ta đã bắt 3 tên đầu sỏ, đồng thời vận động giải thích cho dân hiểu rõ âm mưu của địch. Kết quả trong 3 ngày đã có 70 gia đình xin ở lại.

Vừa tổ chức các cuộc bạo loạn chống cách mạng, địch vừa tìm cách đưa các tổ kiểm soát và giám sát quốc tế về điều tra với ý đồ tố cáo ta vi phạm Hiệp định. Trong khi đó, tàu chiến Mỹ, Pháp rập rình ngoài biển Đông sẵn sàng can thiệp quân sự, nếu ta nổ súng vào bọn phản loạn. Tại những nơi tổ kiềm soát và giám sát quốc tế đến, cán bộ ta niềm nở đón tiếp, tạo thuận lợi để họ trực tiếp gặp gỡ các nhân chứng, giúp họ tận mắt thấy rõ sự thật về hành động thâm độc của bọn phản động, thể hiện chính sách đúng đắn của ta.

Cuộc đấu tranh chống địch dụ dỗ và cưỡng ép di cư diễn ra rất phức tạp. Nhờ có sự chỉ đạo kịp thời, kiên quyết của Đảng và Chính phủ, cán bộ, bộ đội công an ta kiên trì, chịu đựng gian khổ, bám sát nhân dân, đã hạn chế được hành động của địch đưa người ồ ạt vào Nam.

Tuy vậy, ban đầu nhiều cấp ủy, cán bộ ở vùng có nhiều đồng bào theo đạo Thiên chúa chưa thấy hết tính chất gay go và cấp bách của cuộc đấu tranh, chưa nhận rõ đầy đủ âm mưu thâm độc của địch, nên còn lúng túng, không có những chủ trương, biện pháp đối phó kịp thời. Ta cũng chưa có nhiều cán bộ am hiểu giáo lý, tục lệ đạo Thiên Chúa để vạch trần những thủ đoạn lợi dụng thần quyền của bọn phản động, nên công tác tuyên truyền, vận động có phần còn bị hạn chế. Có nơi còn hữu khuynh không dám trấn áp bọn phản động cầm đầu, sợ vi phạm Hiệp định đình chiến, nên địch đã cưỡng ép được 887.000 người vào Nam, trong đó có 764.000 là giáo dân (có 568 linh mục, 4 giám mục).

Song song với các mặt công tác trên, việc tiếp quản các thành thị và những vùng nông thôn mới giải phóng được tiến hành khẩn trương. Từ ngày 3-7-1954, Trung ương Đảng và Chính phủ ra chỉ thị về “Bảo hộ các thành phố mới được giải phóng” định rõ phương châm, chính sách và chế độ quân quản và ban hành 8 chính sách đối với những thành phố (thị xã) mới được thu hồi, 10 điều kỷ luật của bộ đội, nhân viên công tác khi vào tiếp quản.

Những đơn vị làm nhiệm vụ tiếp quản, cán bộ, chiến sĩ được giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác, giữ vững ý chí trước những cám dỗ về vật chất và lối sống xa hoa. Đảng và Chính phủ còn chỉ thị cho các đơn vị “… Phòng ngừa tình trạng hỗn loạn, phòng ngừa bọn phản động, bọn lưu manh, côn đồ lẩn lút trong thành phố lợi dụng thời cơ quấy rối; phòng ngừa những hành động vô tổ chức, vô kỷ luật, vô trật tự có thể xảy ra trong một số bộ đội và đơn vị, trong một số dân quân du kích ở nông thôn và quần chúng nông dân vào thành”1.

Từ ngày 1 đến ngày 8-8-1954, ta đã hoàn thành tiếp quản các thị xã và thị trấn: Vĩnh Yên, Móng Cái, Phúc Yên, Sơn Tây, Phủ Lạng Thương, Hưng Yên và Ninh Giang, bảo đảm an ninh, trật tự, ổn định tinh thần và sinh hoạt của nhân dân. Đồng bào vùng mới giải phóng vô cùng phấn khởi, thực sự bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.

Cùng với việc tiếp quản, ta và Pháp đã thỏa thuận việc trao trả tù binh của hai bên. Đây là vấn đề khá phức tạp có liên quan đến sinh mệnh của hàng vạn đồng chí, đồng bào ta đang bị địch giam giữ trong các nhà tù. Âm mưu của địch là tìm mọi cách trì hoãn và đưa số lớn người của ta bị bắt vào Nam. Nhưng số đông binh lính, sĩ quan Âu-Phi, trong đó có nhiều người thuộc gia đình có thế lực đang bị ta giam giữ, nếu Pháp trì hoãn không trả người của ta thì họ cũng không nhận được người của họ, trong khi đó nhân dân Pháp đang gây áp lực đòi Chính phủ phải sớm đưa thân nhân của họ về đoàn tụ với gia đình. Biết chỗ yếu của địch, ta kiên quyết đấu tranh, buộc phía Pháp phải thi hành đúng các điều khoản về trao trả người bị bắt trong chiến tranh. Kết quả là đến ngày 9-9-1954, ta và Pháp đã hoàn thành việc trao trả tù binh. Số lượng tù binh ta giao cho Pháp là 13.414 người, trong đó có 9.247 người Âu-Phi. Pháp trao trả cho ta 68.358 cán bộ, chiến sĩ và thường dân bị bắt, trong đó có 11.114 quân nhân.

Tướng Đờ Cáttơri (chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ) được trả vào ngày 3-9-1954, trước khi kết thúc trao trả tù binh một ngày2.
____________________________________
1. Văn kiện Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, t.1, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội, 1978, tr. 14.
2. Trong số tù binh ta giao cho Pháp có: 1 tướng, 3 đại tá, 12 trung tá, 38 thiếu tá, 530 sĩ quan cấp úy.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Giêng, 2010, 10:47:04 pm

Để tiếp quản thủ đô Hà Nội, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định thành lập Đảng ủy tiếp quản thủ đô (6-9-1954) do đồng chí Trần Quốc Hoàn, ủy viên Trung ương Đảng làm bí thư và Ủy ban quân chính Hà Nội (17-9-1954) do Thiếu tướng Vương Thừa Vũ làm Chủ tịch, bác sĩ Trần Duy Hưng làm Phó chủ tịch.

Đảng ủy tiếp quản gấp rút mở các lớp huấn luyện ngắn ngày cho hon 500 cán bộ các ngành và cấp tốc bồi dưỡng đào tạo hàng trăm cán bộ cốt cán từ thành phố đưa ra.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm chuẩn bị mọi mặt cho các đơn vị về tiếp quản thủ đô. Người trực tiếp viết “Mấy lời căn dặn các đơn vị bộ đội vào thành”: “Suốt tám năm kháng chiến, các chú đã làm kiểu mẫu anh dũng, do đó mà chúng ta đã thắng lợi. Nay chúng ta về thành thị, các chú cũng phải làm kiểu mẫu đúng đắn, để tranh lấy thắng lợi trong hòa bình”1.

Ngày 19-9-1954, đại biểu cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 làm nhiệm vụ tiếp quản Hà Nội, vinh dự được gặp Bác tại Đền Hùng (Phú Thọ), được Bác trực tiếp căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. Trải bao nhiêu thời đại đấu tranh, ông cha ta mới giữ được Thủ đô. Tám, chín năm nay do quân dân ta kiên quyết kháng chiến nên mới có thắng lợi trở về Hà Nội. Vì thế các chú được Trung ương Đảng và Chính phủ giao cho nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô, là được nhận một vinh dự rất lớn... Đồng bào Hà Nội chờ các chú từ ngày các chú ra đi, nay đang may cờ đỏ sao vàng chờ đợi hoan hô các chú”2.

Lời Bác thấm sâu vào lòng mỗi cán bộ, chiến sĩ. Mọi người đều ghi lòng tạc dạ và hứa quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

Được sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Bác Hồ, được chi viện tích cực của các ngành, các địa phương, công tác chuẩn bị tiếp quản Hà Nội được triển khai nhanh chóng, đúng với thời gian quy định.

Ngày 9-10-1954, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra nhật lệnh cho các đơn vị làm nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô. Đồng chí căn dặn: “Phải đoàn kết giữa các lực lượng để giữ gìn trật tự an ninh Thủ đô. Phải nêu cao kỷ luật, triệt để chấp hành 8 chính sách và 10 điều kỷ luật của Chính phủ, bảo vệ, tôn trọng và giúp đỡ nhân dân, luôn nâng cao cảnh giác sẵn sàng đập tan mọi âm mưu khiêu khích của bọn phá hoại”3. Lúc 5 giờ sáng cùng ngày, sĩ quan liên lạc của ta và Pháp gặp nhau để chuẩn bị bàn giao và tiếp quản. Một bộ phận của Đại đoàn 308 được phái vào trước tiếp nhận các công sở nhà máy, bệnh viện và doanh trại của địch. Tại các khu vực ta tiếp quản xong, tự vệ và công nhân các nhà máy, đường phố, các đội công an, các đội hình chính vào trước đã cùng bộ đội tuần tra canh gác giữ gìn trật tự, an ninh.

Đúng 16 giờ, những tốp lính Pháp ở bốt gác cầu Long Biên đã phải rời khỏi mảnh đất cuối cùng của thành phố, rút hết sang phía Gia Lâm. Viên đại tá Đarăngxơ là người lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội.

Ngày 10-10-1954, Thủ đô Hà Nội hoàn toàn được giải phóng. Đúng 8 giờ, các lực lượng chủ yếu của Đại đoàn 308 và các đơn vị phối thuộc từ năm cửa ô tiến quân vào thành phố. Cả Hà Nội rạo rực niềm vui giải phóng. Hai mươi vạn nhân dân trang phục nhiều màu sắc, hân hoan xuống đường đón mừng bộ đội chiến thắng trở về. Quân ta đi đến đâu là rừng cờ và hoa mọc lên đến đó.

Chiều 10-10-1954, tại sân Cột Cờ, ta tổ chức lễ chào cờ Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Chủ tịch Ủy ban Quân chính Hà Nội đọc lời kêu gọi của Chù lịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào thủ đô Hà Nội. Người kêu gọi “Chính phủ và nhân dân thủ đô ta phải cố gắng nhiều để khôi phục, củng cố và phát triển đời sống tinh thần và vật chất”, “giữ gìn trật tự, an ninh”, thực hiện “cần, kiệm, liêm chính...”4.

Việc tiếp quản Hà Nội diễn ra an toàn và trật tự đã kết thúc thắng lợi chặng đường lịch sử vô cùng gian khổ nhưng rất oanh liệt vẻ vang. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh toàn diện trên các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, kết họp với lực lượng tại chỗ của công nhân, viên chức cùng nhân dân thủ đô chống địch vét người, cướp của, phá hoại tài sản.

Ngày 1-1-1955, hai mười lăm vạn đồng bào Thủ đô họp mít tinh tại Quảng trường Ba Đình, chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch trở về sau 9 năm xa cách.
____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987 tr. 44.
2. Hồ Chí Minh: Về vấn đề quân sự, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 293.
3. Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp 1945-1954, Ban tổng kết - biên soạn lịch sử Bộ Tổng tham mưu xuất bản, Hà Nội 1991, tr. 829.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập. t 7, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 46.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Giêng, 2010, 10:48:03 pm

Để thi hành Hiệp định Giơnevơ, ngày 18-10-1954, bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, ngày 16-11-1954 bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Lào đã hoàn thành cuộc rút quân về nước.

Sau khi tiếp quản Hà Nội, ngày 26- 10-1954, ta và Pháp tiến hành ký Hiệp nghị chuyển giao khu vực Hải Dương.

Sáng 29-10, các thị trấn Phả Lại, Kẻ Sặt và Cẩm Giàng được tiếp quản. Ngày 30-10, Trung đoàn 42 vào tiếp quản thị xã Hải Dương. Cùng ngày, Pháp rút khỏi Đông Triều về Hải Phòng.

Tiếp quản xong Hải Dương, các đơn vị tổ chức rút kinh nghiệm để tiếp quản Hồng Gai và Hải Phòng. Bộ Tổng tham mưu đã dự kiến kế hoạch đề phòng tình huống xấu nhất có thể địch không chịu rút khỏi Hải Phòng hoặc kéo dài thời gian rút quân. Đại đoàn 312 được lệnh của cấp trên giao cho chuẩn bị kế hoạch sẵn sàng chiến đấu ở khu vực này.

Tại Liên khu V, ta vẫn để lại lực lượng đủ bảo đảm giữ khu vực còn lại và nếu địch tráo trở thì nhanh chóng khôi phục vùng giải phóng cũ. Cục Quân báo được lệnh đưa hai đại đội theo dõi hoạt động của địch ở khu chu vi Hải Phòng và cử thêm cán bộ quân báo vào Liên khu V nắm sát tình hình, giúp trên kịp thời xử lý. Mặt khác, Trung ương chỉ đạo tranh thủ trao đổi với Pháp về hoạt động kinh tế, văn hóa tạo điều kiện cho công tác tiếp quản được thuận lợi.

Do chủ động phòng ngừa trước và đấu tranh khôn khéo của ta, nên thực tế diễn ra không bị trắc trở. Theo đúng kế hoạch đã thống nhất với Pháp, từ 22 đến 24-4-1955 bộ đội ta lần lượt tiếp quản các thị xã Quảng Yên, Hồng Gai, Cửa Ông, Cẩm Phả. Từ ngày 28-4 đến 12-5-1955, tiếp quản các huyện lỵ, thị trấn xung quanh Hải Phòng.

Trước khi tiếp quản khu chu vi Hải Phòng, Đại tướng Tổng tư lệnh ra nhật lệnh: “Khu chu vi Hải Phòng được giải phóng là miền Bắc nước Việt Nam được giải phóng... Các đơn vị làm nhiệm vụ tiếp quản phải nhận rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của nó... phải giữ vững ý chí chiến đấu, để cao cảnh giác”1.

Sáng sớm ngày 13-5-1955, các cánh quân của Đại đoàn 320 và các đơn vị phối thuộc, đội ngủ chỉnh tề, rầm rập tiến vào tiếp quản Hải Phòng. Thành phố cảng tràn ngập cờ hoa, biểu ngữ hân hoan đón mừng ngày hội giải phóng. Chiều ngày 13-5, chiếc tàu Đirin Boócđô chở những tên lính Pháp cuối cùng rời cảng Hải Phòng.

Những ngày 14, 15 và 16-5, ta tiếp quản vùng Kiến Thụy, Đồ Sơn và các đảo ven biển.

Trải qua 300 ngày đấu tranh vô cùng gay go, quyết liệt miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Như vậy: “Sau hơn 80 năm nô lệ, ngày nay cả miền Bắc là của nhân dân ta, dưới chế độ dân chủ cộng hòa do nhân dân ta làm chủ. Thắng lợi to lớn ấy là do từ Nam đến Bắc, đồng bào ta đoàn kết, bộ đội ta anh dũng, Đảng và Chính phủ ta lãnh đạo đúng đắn. Ta lại có nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới ủng hộ”2.

Miền Bắc được giải phóng, nhưng nền kinh tế vốn lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Về nông nghiệp, hơn 140.000 hécta đất bỏ hoang không người trồng cấy. Hệ thống thủy lợi hư hại, khiến 200.000 hécta ruộng đất không nước tưới tiêu, hoang cằn và úng ngập, xóm làng xơ xác, dân tình xiêu tán chưa kịp hồi cư. Cuối năm 1954 và nửa đầu 1955, thiên tai tàn hại mùa màng, nạn đói lan rộng hơn 200 xã.

Công nghiệp nhỏ bé, què quặt, mất cân đối nghiêm trọng. Một số nhà máy, xí nghiệp bị đối phương phá hoại, tháo dỡ máy móc, thiết bị. Hầu hết các nhà máy, xí nghiệp tư bản Pháp, tư sản dân tộc đều ngừng hoạt động. Cuối năm 1954, tỷ trọng sản xuất nông nghiệp trong tổng sản lượng nông, công nghiệp từ 10% trước chiến tranh (1939), tụt xuống còn 1,5%.

Là mạch máu của nền kinh tế quốc dân, nhưng giao thông vận tải và bưu điện lạc hậu. Các tuyến đường sắt, đường ô tô bị đào xẻ, cầu cống sập đổ. Đường sông không được nạo vét trong nhiều năm càng nông cạn. Phương tiện vận tải cũ nát. Một loạt thiết bị bưu điện bị chuyển vào Nam. Ở vùng mới giải phóng, với 1750 hộ tư sản thương nghiệp, hơn 226.000 tiểu thương, hoạt động đầu cơ, nâng giá, lũng đoạn thị trường khá phổ biến. Hàng hóa khan hiếm. Đồng tiền chưa thống nhất. Phân phối lưu thông, giá cả thị trường không ổn định, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
____________________________________
1. Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954) Ban tổng kết - biên soạn lịch sử Bộ Tổng tham mưu xuất bản, Hà Nội 1991, tr. 833.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7 Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 252-253.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Giêng, 2010, 10:49:19 pm

Hòa bình lập lại, Đảng, Chính phủ và nhân dân ta ở miền Bắc đứng trước nhiều vấn đề xã hội nóng bỏng, phức tạp và khó khăn. Số người mù chữ rất đông. Hệ thống y tế nhỏ bé, lạc hậu. Các bệnh xã hội như lao phổi, hoa liễu, sốt rét... hoành hành. Các tệ nạn mại dâm, nghiện hút, cướp giật, cờ bạc... phổ biến khắp nơi. Hơn 50.000 lao động không có việc làm, hàng trăm ngàn người lâm vào thiếu đói. 240.000 tề ngụy rã đám chưa qua cải tạo, 11.000 phỉ vẫn tác oai tác quái ở vùng cao, hàng nghìn gián điệp và đặc vụ nước ngoài cài lại ngấm ngầm hoạt động. Vấn đề tôn giáo, dân tộc vốn phức tạp do chính sách cai trị của người Pháp trước đây, bây giờ càng căng thẳng bởi âm mưu và hành động phá hoại của kẻ thù.

Từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, từ nông thôn chuyển vào thành thị, từ phân tán chuyển vào tập trung... là một thay đổi lớn phải cần có thời gian mới ổn định được… Tại những vùng mới giải phóng, chính quyền cách mạng vừa thành lập chưa được củng cố, thiếu cán bộ. Kinh nghiệm tổ chức quản lý xã hội, quản lý kinh tế của các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương không có.

Để từng bước khắc phục điều đó, ngay khi hòa bình mới lập lại, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Chúng ta sẽ đứng trước một nhiệm vụ to lớn trong công tác kinh tế là hàn gắn vết thương của chiến tranh, khôi phục kinh tế quốc dân, giảm bớt những khó khăn vì đời sống nhân dân, phát triển kinh tế một cách có kế hoạch và làm từng bước, mở rộng giao lưu kinh tế giữa thành thị và nông thôn”1.

Sản xuất nông nghiệp được đặc biệt coi trọng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 nhấn mạnh: “Phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc về tính chất rất trọng yếu của sản xuất nông nghiệp đối với cả nền kinh tế nước ta hiện nay và sau này. Phải khôi phục sản xuất nông nghiệp để giải quyết vấn đề lương thực (trước mắt là cứu đói và phòng đói) làm cơ sở cho việc khôi phục và phát triển công thương nghiệp. Phải khôi phục sản xuất nông nghiệp và làm nghề phụ ở nông thôn để nâng cao sức sống của nông dân, do đó, củng cố công nông liên minh”.

Hưởng úng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, Chính phủ và của Hồ Chủ Tịch, toàn dân ta hăng hái tham gia phong trào tăng gia sản xuất, tiết kiệm, chống đói, vận động nhân dân giúp đỡ lẫn nhau cứu đói2. Nhà nước cho nhân dân vay vốn để đầu tư vào sản xuất3, ổn định đời sống.

Cùng với nhiệm vụ khôi phục kinh tế, Đảng và Nhà nước ta chú trọng tăng cường quốc phòng, xây dựng quân đội “làm cho mọi mặt biên chế, trang bị huấn luyện, chế độ, kỹ thuật v.v.... của quân đội nhân dân dần được nâng cao lên một bước dài. Phải làm cho cán bộ, chiến sĩ thông thạo những vũ khí trong tay mình và hiểu biết nghệ thuật quân sự tiên tiến”4. Đảng xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, khẩn trương của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Ngày 20-12-1954, quân đội bước vào khóa huấn luyện quân sự đầu tiên trong thời bình. Công tác giáo dục chính trị cũng được tiến hành bằng các đợt chỉnh huấn tập trung về nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, nhiệm vụ đấu tranh thống nhất Tổ quốc, bản chất và truyền thống quân đội nhân dân... đã nâng cao giác ngộ giai cấp, giác ngộ lý tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Vừa học tập quân sự, chính trị, cán bộ và chiến sĩ các đơn vị vừa tích cực tham gia khôi phục kinh tế, cứu đói, chống địch cưỡng ép di cư và tiễu phi ở vùng rừng núi Tây Bắc, Đông Bắc. Nhiệm vụ nào quân đội ta cũng hoàn thành.

Trên mặt trận khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, quân đội đã cùng với nhân dân nhanh chóng tháo gỡ bom mìn dây kẽm gai, khôi phục ruộng đất xung quanh đồn bốt địch và những khu vành đai trắng bị bỏ hoang hóa để cho dân cày cấy. Tại các khu vực đóng quân, bộ đội đã giúp dân hàng chục vạn ngày công cày, bừa, cấy, gặt... Cán bộ, chiến sĩ các sư đoàn 324, 325, trung đoàn 270, 271, Quân khu IV đã giảm bớt khẩu phần lương thực, dành ra hơn 14 tấn gạo giúp đỡ đồng bào các vùng bị đói.

Đầu năm 1955, miền Bắc bị hạn hán nghiêm trọng. Các đơn vị quân đội đã góp trên sáu triệu ngày công, đào vét hàng trăm kilômét mương máng và hàng nghìn giếng nước để giúp dân chống hạn, cứu lúa.

Mùa thu năm 1955, miền Bắc lại bị bão lớn. Đê Mai Lâm (Đông Anh, Hà Nội), bị vỡ, nước tràn vào ngập trắng đồng ruộng, xóm làng. Không quản ngại khó khăn, vất vả hy sinh, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ đã ngày đêm dầm mình dưới nước, nắm chắc tay nhau làm hàng rào chặn dòng nước lũ, để đồng đội đóng cọc, làm kè, đổ đất, đá hàn vá đoạn đê vỡ.
____________________________________
1. Nghị quyết Bộ Chính trị về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách của Đảng tháng 9-1954.
2. Tính đến cuối tháng 4-1955 nhân dân khu Tả Ngạn đã giúp nhau trên 2.000 tấn thóc, 200 tấn gạo, 40 tấn ngô, khoai và 80 triệu đồng.
3. Chính phủ đã bỏ ra 40.000 tấn thóc và 193 triệu đồng cứu đói, cho mượn 228 tấn thóc giống Nam Ninh, 312 tấn thóc giống lúa nước mặn và tiếp tế 5 vạn trâu bò cho vùng đồng bằng. Ngân hàng cho 17 vạn gia đình nông dân vay tiền để mua trâu bò, nông cụ để bảo đảm cấy cày.
4. Nghị quyết Bộ Chính trị về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách của Đảng, tháng 9-1954.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Giêng, 2010, 10:50:42 pm

Ngày 25-9-1955, một cơn bão lớn đổ bộ vào Hải Phòng. Nước biển dâng cao tràn vào các xã ven đê thuộc các huyện Hải An, Thủy Nguyên, Kiến Thụy, gây tổn thất nặng nề về người và tài sản của nhân dân. Các đơn vị vũ trang được lệnh hành quân cấp tốc tham gia chống lụt cứu dân và cứu hộ đê bao bị vỡ. Giữa cơn sóng to, gió lớn đã xuất hiện hàng trăm tấm gương sáng ngời phẩm chất “Bộ đội cụ Hồ” sẵn sàng hy sinh thân mình vì cuộc sống của nhân dân. Đồng chí Phạm Minh Đức chiến sĩ Đại đội 1, trung đoàn 53, Sư đoàn 350, liên tục vật lộn với sóng gió, cứu được 14 người. Anh đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, được Quốc hội, Chính phủ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Phạm Minh Đức là người anh hùng đầu tiên của quân đội ta được tuyên dương trong thời kỳ xây dựng hòa bình. Trong trận bão này, các lực lượng vũ trang ta đã cứu được 1.193 người dân; hàng ngàn con trâu, bò, lợn và nhiều tài sản quý. Sau khi bão tan bộ đội đã giúp dân dựng lại 279 ngôi nhà, sắp xếp chỗ ở cho 5.913 gia đình có nhà bị đổ hoặc tốc mái.

Trên mặt trận sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, các lực lượng vũ trang phối hợp chặt chẽ với chính quyền, đoàn thể các tỉnh biên giới, phát động quần chúng, xây dựng cơ sở vững mạnh, đánh đổ uy thế bọn phản động và đập tan bọn phỉ ngoan cố còn lẩn trốn trong rừng.

Trước ngày Hiệp định Giơnevơ có hiệu lực, thực dân Pháp đã cho máy bay liên tục thả vũ khí, lương thực, điện đài cho bọn phản động cài lại để chúng đánh phá ta. Bọn phỉ đầu sỏ được tiếp tế cả bản dỗ quân sự vàbạc trắng, để phòng khi bị lộ thì trốn sang Lào. Bọn chỉ huy còn dùng máy bay trực thăng đổ bộ xuống một số vị trí trú ẩn của phỉ để bày mưu, vạch kế hoạch cho bọn này hoạt động, đồng thời đón một số tên quan trọng đưa vào Nam để sử dụng phá hoại ta lâu dài. Trước mắt, chúng chủ trương tiếp tục gây phỉ, tổ chức hoạt động gián điệp, biệt kích, tránh gặp lực lượng bộ đội, nếu bị đánh mạnh thì cất giấu vũ khí lần trốn tìm đường rút sang Lào hoặc trá hàng.

Lực lượng phỉ ở Lào Cai có 5.025 tên, Hà Giang 798 tên, Yên Bái 147 tên...

Tranh thủ lúc quân Pháp chuẩn bị rút, hệ thống tổ chức của chúng tan rã, tinh thần bọn phỉ hoang mang, dao động mạnh vì không còn chỗ dựa, ngày 30-7-1954, trung đoàn 246 từ Phú Thọ được lệnh lên Tây Bắc, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt bọn phỉ ở đây.

Bị đánh quyết liệt, bọn này chuyển phương thức hoạt động “tránh mạnh, đánh yếu”, chúng phân tán thành từng tốp nhỏ, lợi dụng những sơ hở của ta để đánh lén, hoặc chặn đường tiếp tế. Các lực lượng tiễu phỉ nhanh chóng rút kinh nghiệm chuyển sang cách “đánh nhỏ, thọc sâu” kết hợp với việc phát hiện của dân, khai thác những tên phỉ bị bắt hoặc ra hàng để mở các trận tiến công vào hang ổ của bọn trùm phỉ.

Trong đợt truy quét này, ta diệt 128 tên, bắt 88 tên, gọi hàng 1.203 tên, thu 1299 súng các loại, 14 máy thông tin, 178 cái dù.

Ngày 16-4-1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị nhắc nhở các cấp ủy tiếp tục lãnh đạo phá âm mưu gây phỉ của đế quốc. Bản chỉ thị nêu yêu cầu chung là: “Đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, phá âm mưu gây phỉ của đế quốc, xây dựng và củng cố cơ sở, củng cố biên phòng”. Phương châm công tác là: “Hoạt động chính trị kết hợp với cải thiện dân sinh là chính. Dùng lực lượng quân sự làm lực lượng chủ yếu”.

Thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư, ở những tỉnh trọng điểm Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng, Hải Ninh, các trung đoàn 246, 238, 148 và toàn bộ lực lượng vũ trang địa phương đã đi vào từng bản làng của đồng bào dân tộc, tuyên truyền chính sách của Đảng và Chính phủ, vạch trần tội ác của địch, phân hóa, cô lập bọn phản động. Bộ đội ta tận tình giúp đỡ đồng bào sản xuất, thực hiện “ba cùng” với dân, kiên trì tiến hành các bước phát động quần chúng. Hành động của cán bộ, chiến sĩ ta có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với nhân dân, cảm hóa được những người lầm đường. Hàng ngũ phỉ tan rã dần, nhiều tên nộp súng trở về nhà làm ăn. An ninh ở các vùng biên giới được lập lại. Khối đoàn kết các dân tộc được củng cố.

Tuy nhiên, một số tên, nhất là những tên phỉ đầu sỏ vẫn còn rất ngoan cố, lén lút trong rừng để tìm cách chống lại ta. Vấn đề tiễu phỉ chưa xong, ta còn phải tiếp tục giải quyết cho đến năm 1960 mới căn bản kết thúc.

Bên cạnh việc gây phỉ, kẻ địch còn khuyến khích các đảng phái cũ như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng hoạt động và lập các đảng phái phản động mới như Năm Sao Trắng, Hoa Kiều cứu quốc ở vùng Đông Bắc để phá hoại ta. Riêng ở Quảng Bình, đảng Cù Xuân trước đây do Pháp thành lập tại Hướng Hóa (Quảng Trị), đầu năm 1956 đã mở rộng phạm vi hoạt động ra huyện Lệ Thủy. Bọn này lợi dụng giáo lý, thần quyền để kích động quần chúng, chia rẽ lương, giáo, nói xấu chế độ ta. Cũng ở Quảng Bình bọn phản động còn thành lập một tổ chức mới lấy tên là đảng Việt Hưng, hoạt động chủ yếu trên địa bàn một số xã của hai huyện Quảng Trạch và Tuyên Hóa. Bọn chúng đã bí mật may cờ, soạn thảo cương lĩnh, sắp xếp khung cán bộ từ tỉnh xuống xã. Nhưng mọi hành động của các đảng phái phản động đã không lọt qua khỏi tai mắt của quần chúng. Được nhân dân địa phương phát hiện, giúp đỡ, bộ đội và lực lượng công an đã kịp thời trấn áp và bắt gọn bọn chúng.

Cùng với công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng toàn dân, trong hai năm 1955 và 1956, Đảng và Nhà nước đã phát động phong trào đấu tranh chính trị toàn miền Bắc phản đối Mỹ - Diệm vi phạm Hiệp định, góp cùng đồng bào miền Nam ruột thịt đòi tự do dân chủ, đòi hiệp thương, tổng tuyển cử. Hàng ngàn cuộc mít tinh của mọi tầng lớp nhân dân lên án đế quốc Mỹ và tay sai tàn sát đồng bào ta ở Kim Đôi, Vĩnh Trinh, chợ Được, Mỏ Cày... Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã hơn 30 lần gửi thư, kiến nghị cho chính quyền Sài Gòn, phản đối những hành động dã man của chúng và yêu cầu Diệm phải để cho nhân dân tự do gửi thư tín, tự do đi lại. Nhưng tất cả những đề nghị của ta đều bị Mỹ và Ngô Đình Diệm chống lại.

Ngày 6-7-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào cả nước vạch rõ nguyên nhân không có tổng tuyển cử để thống nhất đất nước là do đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Người khẳng định: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta. Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng”1.
____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Sđd, tr. 464.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:15:16 pm

II. NHÂN DÂN MIỀN NAM ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ-DIỆM ÁP ĐẶT CHỦ NGHĨA THỰC DÂN KIỂU MỚI


Trong khi Đảng, Chính phủ và nhân dân ở miền Bắc thi hành những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ và tập trung sức lực củng cố hòa bình, băng bó vết thương chiến tranh, ổn định đời sống, thì ở miền Nam, đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm ra sức phá hoại Hiệp định. Mỹ biết chắc nếu “tổng tuyền cử thì cuối cùng có nghĩa là thống nhất nước Việt Nam dưới quyền ông Hồ Chí Minh, do đó điều quan trọng hơn hết là trì hoãn càng lâu càng tốt cuộc tuyển cử đó”1.

Ngày 21-7-1954, Tổng thống Mỹ Aixenhao tuyên bố Hoa Kỳ không bị ràng buộc vào những quyết định của Hội nghị Giơnevơ. Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Thượng nghị viện Mỹ thì nói thẳng rằng Hiệp định Giơnevơ chỉ là một hiệp định ngừng chiến sẽ có thể hủy bỏ bất cứ lúc nào.

Sở dĩ Mỹ phản ứng quyết liệt vì lo sợ sự thất bại ở Việt Nam, sẽ dẫn đến một sự phát triển của phong trào cách mạng ở Đông Nam Á. “Chớp lấy cơ hội thuận lợi, trước thất bại của Pháp, Mỹ ráo riết tìm cách hất cẳng Pháp để nhảy vào miền Nam Việt Nam, thực hiện âm mưu cơ bản là tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước của nhân dân ta, thôn tính miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam châu Á đồng thời lấy miền Nam làm căn cứ để tiến công miền Bắc, tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ở Đông Nam châu Á, hòng đè bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác”2.

Nhưng nhảy vào miền Nam Việt Nam trong lúc Pháp đã bị đánh bại, kéo theo sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, buộc Mỹ phải xây dựng hình thức chủ nghĩa thực dân mới để xâm lược miền Nam Việt Nam. Đặc điểm của chủ nghĩa thực dân mới là “không phải bằng hệ thống cai trị trực tiếp của bọn đế quốc mà thông qua một chính quyền tay sai đại biểu quyền lợi cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản khoác áo “dân tộc dân chủ” giả hiệu”3. Do vậy, Mỹ chọn Ngô Đình Diệm4 một quan lại trong triều Nguyễn, lại là tín đồ Thiên chúa giáo, chống cộng khét tiếng, được đào tạo ở Mỹ với sự đỡ đầu của Hồng y giáo chủ Spenman, cầm đầu bộ máy tay sai ở Sài Gòn.

 Ngày 8-8-1954, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đưa ra bốn chính sách lớn:

1- Mỹ trực tiếp viện trợ cho ngụy quyền Sài Gòn. Mỹ chỉ dành cho Pháp 100 triệu đôla trong tổng số 400 triệu viện trợ.

2- Mỹ trực tiếp chỉ huy và huấn luyện quân đội ngụy.

3- Pháp phải rút hết quân khỏi miền Nam.

4- Loại bỏ Bảo Đại và những ảnh hưởng của Pháp.

Ngày 8-9-1954, Mỹ lôi kéo các nước đồng minh ký hiệp ước Manila (Philíppin) thành lập tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (gọi tắt SEATO), đặt Nam Việt Nam, Lào, Campuchia dưới sự bảo hộ của tổ chức này. Thực chất SEATO là liên minh chống cộng khu vực làm chỗ dựa cho Mỹ xâm lược Việt Nam5.
______________________________________
1. Tài liệu mật của BQP Mỹ về cuộc CTXLVN, t. 1, VN thông tấn xã phát hành tháng 8-1971. tr. 95.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật, Hà Nội: 1977: tr. 15.
3. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, NXB Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 18.
4. Ngô Đình Diệm sinh ngày 3-1-1907, tại Quảng Bình. Năm 1933, làm Thượng thư Bộ lại trong nội các Bảo Đại. Năm 1944, bị Pháp gạt bỏ. Năm 1945 sang Mỹ sống tại chủng viện Knoll Lakenodd bang New Jersey do Hồng y giáo chủ Spenman đỡ đầu và được Mỹ nuôi dưỡng để chuẩn bị đưa về miền Nam nắm quyền cai trị. Những năm 1949, 1952, Mỹ định ép Pháp đưa Diệm về nhưng Pháp từ chối.
5. Các nước trong Hiệp ước SEATO là: Mỹ, Anh, Pháp, Ôxtrâylia, Thái Lan, Philíppin, Pakixtan.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:16:43 pm

Ngày 17-11-1954, Mỹ cử tướng Côlin1 làm đại sứ ở Sài Gòn. Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố: “Miền Nam Việt Nam phải có một chính phủ mạnh, có lực lượng cảnh sát và an ninh hữu hiệu. Ông tân đại sứ có quyền khuyến cáo những biện pháp cần thiết và nếu cần cũng có thể tự mình quyết định những biện pháp ấy”2.

Đến Sài Gòn, Côlin đề ra kế hoạch sáu điểm để thực thi chủ nghĩa thực dân mới. Kế hoạch Côlin gồm:

1- Bảo trợ chính quyền Diệm. Viện trợ trực tiếp cho chính phủ Sài Gòn.

2- Xây dựng quân đội Sài Gòn gồm 15 vạn do Mỹ huấn luyện, trang bị.

3- Bầu cử quốc hội, hợp pháp hóa chính quân Sài Gòn.

4- Định cư cho số công giáo miền Bắc di cư và vạch kế hoạch cải cách điền địa.

5- Thay đổi chế độ thuế khóa, dành ưu tiên cho hàng Mỹ vào miền Nam.

6- Đào tạo cán bộ hành chính.

Với Hiệp định Gơnevơ 1954, Pháp chủ trương chỉ thực hiện những điều khoản có lợi cho Pháp. Tướng Pôn Êly (Paul Ely) tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương thừa nhận: “Những thỏa hiệp này cũng còn bảo đảm được cho tương lai vị trí quan trọng của Pháp tại phần đất này của thế giới”3. Hiện tại, Pháp vẫn còn 167.000 quân chính quy và 37.000 lính phụ thuộc; còn có lực lượng Bình Xuyên đang khống chế Sài Gòn; tín đồ Cao Đài có vũ trang chiếm các vùng tây bắc Sài Gòn; tín đồ Hòa Hảo có vũ trang kiểm soát một số khu vực ở dồng bằng sông Cửu Long. Về kinh tế, Pháp còn nắm trong tay quyền chi phối tổng số vốn đầu tư 95 tỷ đồng Đông Dương. Về văn hóa - xã hội, ảnh hưởng của Pháp còn khá mạnh trong các tầng lớp trung gian. Với lực lượng đó, Pháp vẫn còn tham vọng giữ được một số căn cứ quân sự, duy trì được ảnh hưởng về chính trị, văn hóa và một số quyền lợi kinh tế ở Việt Nam và Đông Dương. Nhưng muốn duy trì được quyền lợi và ảnh hưởng của mình trong lúc ở chính quốc nền kinh tế đang kiệt quệ, nền chính trị rối ren, nội bộ chia rẽ, lại phải đối phó với cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân Angiêri, nên Pháp buộc phải “hợp tác với Mỹ, một lực lượng chống cộng duy nhất trong khu vực Đông Nam châu Á, có thế lực”. Chính phủ Pháp coi đó là chính sách đối ngoại quan trọng của họ lúc bấy giờ. Pháp đã câu kết với Mỹ hỗ trợ và khuyến khích Ngô Dình Diệm đàn áp nhân dân miền Nam, cưỡng ép giáo dân miền Bắc di cư và tổ chức những vụ phá hoại, gây rối trật tự trị an ở miền Bắc, phá hoại Hiệp định Giơnevơ mà Pháp đã cam kết thực hiện.

Ngày 13-12-1954 tướng Êly thay mặt cho Chính phủ Pháp và Côlin thay mặt cho Chính phủ Mỹ ký thỏa hiệp cam kết cùng lo việc huấn luyện cho quân ngụy. Nhưng trên thực tế Êly không có quyền hành, người chịu trách nhiệm thực hiện thỏa hiệp trên là tướng Ô Đanien trưởng phái đoàn viện trợ Hoa Kỳ (MAAG)4.

Ngày 22-12, Rátpho, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đến Sài Gòn hứa viện trợ thẳng cho Diệm 300 triệu đôla trong năm 1955.

Ngày 13-1-1955, theo sự sắp đặt trước, Ngô Đình Diệm ký một công hàm gửi cho tướng Côlin yêu cầu từ nay Hoa Kỳ “đảm trách hoàn toàn vấn đề tổ chức và huấn luyện quân đội Việt Nam”5.

Ngày 12-2-1955, trong một cuộc họp báo, Ngô Đình Diệm tuyên bố rằng “từ nay trở đi chỉ có tướng Mỹ Ô Đanien là người chịu trách nhiệm huấn luyện cho các lực lượng quân đội” Các “siĩquan Việt Nam” được lệnh tổ chức đốt tượng trưng những quân hàm quân hiệu của quân đội Pháp mà họ vẫn đeo tại sân Bộ Quốc phòng có đại diện của người Mỹ. Và những phù hiệu mới theo kiểu Mỹ bắt đầu xuất hiện trên vai áo quân đội Sài Gòn.

Ngày 14-5-1956, Pháp gửi cho hai đồng chủ tịch Hội nghị Giơnevơ (Liên Xô - Anh) thông báo cho biết quân đội Pháp sẽ rút khỏi Việt Nam và kể từ ngày 28-4-1956 nước Pháp không còn trách nhiệm thi hành Hiệp định năm 1954 nữa. Cuối tháng 4-1956, đơn vị cuối cùng của thực dân Pháp rút khỏi miền Nam. Đến đây Pháp đã rũ bỏ trách nhiệm một bên phải thực hiện các điều khoản của Hiệp nghị Giơnevơ về Đông Dương.
______________________________________
1. Côlin sinh ngày 1-5-1896. Từ năm 1948-1953, làm Tham mưu trưởng lục quân Hoa Kỳ. Đầu năm 1954, Colin được Tổng thống Mỹ Eisenhowe cử sang Nam Việt Nam với tư cách đại diện tổng thống giúp chính qvền Diệm thực hiện chương trình viện trợ quân sự và cải cách ruộng đất. Ngày 17-11-1954 tướng Côlin được chính thức cử làm đại sứ Mỹ ở Nam Việt Nam.
2. Gioócgiơ Sáppha: Hai cuộc chiến tranh của Việt Nam từ Valuy đến Oétmolen, Sđd, tr. 223.
3. Dẫn theo Măngđéc Frănxơ: Đông Dương mười năm độc lập.
4. MAAG thành lập 1950 có 35 ngưòí đến 1956 tăng lên 699 người.
5. Gioócgiơ Sáppha: Hai cuộc chiến tranh của Việt Nam từ Vauy đến Oétmolen, Sđđ, tr. 254.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:17:52 pm

Được Mỹ viện trợ, giúp sức điều hành, nhưng những tháng cuối năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn bị uy hiếp từ nhiều phía. Các thế lực thân Pháp trong hàng ngũ sĩ quan quân đội Liên hiệp Pháp tập hợp quanh tướng Nguyễn Văn Hinh, tham mưu trưởng quân ngụy, ra sức chống Diệm. Tháng 10 và 11-1954, Hinh đã ba lần âm mưu lật Diệm, Mỹ phải ép Pháp thông qua Bảo Đại đưa Hinh sang Pháp.

Các giáo phái có lực lượng vũ trang riêng, đang kiểm soát nhiều vùng, được Pháp ủng hộ, tìm cách móc mối với bọn ngụy quân còn thân Pháp để lật đổ Diệm.

Mặt khác, lực lượng cách mạng đang tồn tại ở khắp các thôn, xã trên toàn miền Nam, nhất là ở các tỉnh tự do cũ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, các khu căn cứ kháng chiến U Minh, Đồng Tháp Mười, chiến khu Đ, chiến khu Dương Minh Châu, Tây Nguyên. Đây là lực lượng đối kháng lớn nhất, đe dọa sự tồn tại của chính quyền Mỹ - Diệm ở Miền Nam.

Để đối phó với tình hình trên, Mỹ - Diệm đã tập trung xây dựng quân đội ngụy thành một công cụ chủ yếu để tiêu diệt các phái đối lập, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân, phá hoại cơ sở cách mạng và củng cố thế lực của chúng.

Khi quân Pháp rút về nước Mỹ buộc Pháp phải bàn giao lại phi cơ tàu thủy, xe cơ giới, vũ khí, dụng cụ chiến tranh cho quân đội do Mỹ tổ chức. Diệm còn mời chuyên viên quân sự Nhật vào để nghiên cứu tình hình trang bị cho quân đội và dựa vào Nhật để sửa chữa hoặc đổi các vũ khí, dụng cụ chiến tranh. Phái bộ quân sự hỗn hợp huấn luyện của Pháp - Mỹ (TRIM)1 trước đây, nay Mỹ gạt hẳn Pháp và đổi thành CATO2. Tổ chức này tháng 9-1955 có 351 cố vấn và huấn luyện viên, đến 3-1956 đã tăng lên 1200. Cuối tháng 4-1956, Mỹ đưa thêm vào CATO một đoàn nhân viên quân sự lấy tên là TERM3 gồm 350 tên với danh nghĩa kiểm tra thanh toán viện trợ của Mỹ cho Pháp. Dưới CATO có các “Ban nghiên huấn” tức là các bộ máy chỉ huy để nắm từ Bộ Tổng tham mưu ngụy, các quân khu, đến các đơn vị và kiểm soát mọi mặt các căn cứ, kho tàng, các trường huấn luyện và hoạt động tác chiến, quản lý hành chính.

Nằm cạnh Bộ Tổng tham mưu ngụy, là cơ quan trung ương của CATO do Xamuen Viliam (Samuel Villiams) cầm đầu, gồm 170 người (3 cấp tướng, 49 đại tá, 68 trung tá, 50 thiếu tá) phân ra nắm mọi ngành.

Mỗi sư đoàn nặng có từ 6 đến 8 đại tá Mỹ, mỗi sư đoàn nhẹ từ 3 đến 5 trung tá Mỹ. Cố vấn Mỹ nắm đến cấp lrung đoàn.

Mỗi quân khu có một đại tá và một số sĩ quan khác nằm cạnh Bộ tư lệnh quân khu.

Ở các trường huấn luyện, chúng tổ chức từng đoàn cố vấn và huấn luyện viên. Trung tâm huấn luyện Quán Tre có tới 81 tên, trường Đà Lạt đào tạo sĩ quan trung đội đại dội có 8 tên Mỹ và 5 sĩ quan người Philíppin.

Ở Huế, cố vấn Mỹ có hơn 100 tên, Buôn Ma Thuột 81 tên, tổ chức thành các phái đoàn đặc trách xây dựng căn cứ Tây Nguyên và khu giới tuyến Trị - Thiên. Các căn cứ quân sự quan trọng như Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Nha Trang, v.v… các kho tàng quan trọng như kho đạn, kho vật liệu quân cụ tại Nha Trang, Đà Nẵng đều có cố vấn Mỹ. Các tiểu đoàn ở gần giới tuyến, Mỹ cũng có cố vấn trực tiếp; riêng về hải quân, không quân còn phải dùng cố vấn Pháp, nhưng cũng có sĩ quan Mỹ kiểm tra.

Mỹ còn đưa những phái đoàn quân sự Anh, Ôxtrâylia, Philíppin vào kiểm tra các đơn vị, các căn cứ, các trung tâm huấn luyện.

Phái bộ viện trợ quân sự MAAG chi phối mọi hoạt động của quân ngụy kiểm soát việc sử dụng viện trợ và chỉ huy phái bộ CATO.

Cơ cấu tổ chức và chỉ huy, điều hành trên đây của hệ thống cố vấn Mỹ cho thấy phương hướng lâu dài xây dựng quân ngụy thống nhất theo khuôn mẫu quân đội Mỹ. Nhưng trước mắt phải cải tổ quân đội do Pháp để lại, từng bước nâng cao chất lượng “quân đội quốc gia” làm đòn bẩy củng cố chính quyền và dần dần đáp ứng yêu cầu làm lực lượng nòng cốt thực hiện chiến lược chiến tranh thực dân mới ở Đông Nam Á.
______________________________________
1. TRIM: Phái bộ thanh tra và tổ chức lại việc huấn luyện.
2. CATO Tổ chức huấn luyện và chiến đấu.
3. TERM: Phái bộ sưu tầm trang bị tạm thời.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:22:11 pm

Tháng 7-1955 theo lệnh Mỹ, Bộ Quốc phòng ngụy quân đề ra kế hoạch xây dựng một đội quân chính quy 155.000 người và đội quần bảo an đoàn 52.000 người. Đến tháng 6-1956 chúng đã hoàn tất việc xây dựng.

Lục quân: có 4 sư đoàn dã chiến, 6 sư đoàn khinh chiến, 13 trung đoàn địa phương 5 trung dàn giáo phái, 1 trung đoàn dù. Pháo binh có 7 tiểu đoàn và 9 đại đội. Cơ giới có 5 trung đoàn (có 1 trung đoàn xe lội nước). Công binh có 6 tiểu đoàn, 14 đại đội. Vận tải có 12 đại đội.

Không quân: lực lượng máy bay chiến đấu có 100 chiếc, dự trữ có 132 chiếc. Các căn cứ không quân Pháp đã chuyển giao cho ngụy, được Mỹ sửa chữa, thiết bị đầy đủ hơn. Bốn căn cứ: Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất, Phú Bài, Nha Trang máy bay phản lực F84, F86 lên xuống được. Còn lại 58 sân bay loại nhỏ dành cho máy bay DAKOTA sử dụng, phần lớn hư hỏng đang sửa chữa lại.

Hải quân: có 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến, 4 đại đội không quân trợ chiến, 1 đại đội biệt kích hải quân, 121 tàu chiến đấu trên sông, trọng tải 5.130 tấn, 25 tàu hải quân trên biển trọng tải 7.795 tấn, 95 tàu của lực lượng ở các căn cứ, trọng tải 2.680 tấn. Các căn cứ hải quân cũ được tổ chức lại thành 4 hải khu, Mỹ đã bỏ ra 350 triệu động tiền Sài Gòn sửa chữa lại và lắp thêm một hệ thống hải đăng dọc bờ biển.

Lực lượng bảo an đoàn được tăng cường lên tới 60.000 tên. Mỗi quận có một đại đội, quận nhiều có hai đại đội.

Các đơn vị dân vệ và phòng vệ dân sự được tổ chức hầu khắp ở mọi liên xã, cứ 12.000 dân có một đội dân vệ từ 20 đến 25 người, được trang bị súng trường và lựu đạn.

Công an, cảnh sát cũng được xây dựng thành lực lượng công khai và bí mật từ tỉnh, thành đến quận, phường và xã thôn. Riêng Sài Gòn - Chợ Lớn từ 6.000 tăng lên 10.000 cảnh sát. Công an Trung Bộ 2.470 tăng lên 3.500, cứ 1.000 dân có 1 công an.

Ngoài ra còn lực lượng hiến binh quân đội, lực lượng dân vệ đoàn, công dân vụ. Tổng cộng lực lượng bán vũ trang của Diệm lên tới trên dưới 30 vạn. Địch có chủ trương sẽ dùng lực lượng bảo an đoàn, công an, cảnh sát và các lực lượng bán vũ trang thay thế cho quân chính quy càn quét nội địa, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân và làm lực lượng hậu bị bổ sung cho quân chính quy.

Năm 1955, Mỹ đã đào tạo cho Diệm 14 sĩ quan cấp sư đoàn, 141 cấp trung đoàn, 318 cấp tiểu đoàn, bổ túc luân lưu 2400 sĩ quan cấp úy và 3.600 hạ sĩ quan, ngoài ra còn đào tạo bổ túc cán bộ tham mưu các ngành. Theo kế hoạch của Mỹ đầu tháng 1-1957 sẽ hoàn thành kế hoạch bổ túc và đào tạo cho Diệm 225 sĩ quan tại Mỹ, 157 tại Pháp, 350 tại Philíppin, 130 tại Ôxtrâylia.

Như vậy trong vòng hai năm, ngụy quân đã có những biến đổi căn bản. Trước kia là những đơn vị khinh quân lẻ và những đơn vị nằm trong quân đội viễn chinh Pháp, nay đã tổ chức thành những đơn vị sư đoàn, trung đoàn, có đủ các binh chủng hải, lục, không quân. Về huấn luyện, tuy vẫn dựa vào chương trình, nội dung của Pháp, nhưng theo phương pháp của Mỹ. Quân chính quy được trang bị vũ khí Mỹ, quần áo, cấp hiệu Mỹ. Số sĩ quan thân Pháp bị khuất phục phải theo Mỹ hoặc bị sa thải khỏi các vị trí điều hành quân đội, những sĩ quan tin cậy được cất nhắc vào các cấp chỉ huy. Quân đội Sài Gòn dần dần biến thành một thứ quân đội Hoa Kỳ bản xứ.

Tuy vậy phương tiện vũ khí hư hỏng nhiều, cán bộ nhân viên chuyên môn còn thiếu. Tư tưởng sĩ quan, binh lính lo sợ chiến trận, cầu an hưởng lạc. Mâu thuẫn giữa Mỹ - Pháp, giữa Diệm với các giáo phái đã ảnh hưởng nhiều đến binh lính. Nhưng do thi hành chính sách khủng bố, bắt bớ và thanh lọc đi đôi với mua chuộc bằng tiền tài, địa vị chúng đã nắm được bọn sĩ quan từ tiểu đoàn, trung đoàn trở lên, khống chế được tinh thần binh lính.

Đi đôi với việc xây dựng quân ngụy, gạt bỏ các thế lực thân Pháp, Mỹ - Diệm dùng lực lượng quân sự diệt lực lượng vũ trang giáo phái.

Các giáo phái có lực lượng vũ trang riêng do Pháp xây dựng để chống lại cách mạng. Mỗi giáo phái cát cứ ở một số địa phương cả về chính trị và kinh tế.

Phái Bình Xuyên có khoảng 4.000 quân (kể cả lực lượng cảnh sát, công an ở Sài Gòn) hoạt động ở miền Đông do Bẩy Viễn làm thủ lĩnh.

Lực lượng Hòa Hảo có khoảng 25.000 quân, hoạt động ở một số tỉnh miền Trung và miền Tây Nam Bộ, chia thành 4 nhóm do Năm Lửa, Hai Ngoán, Ba Cụt và Nguyễn Giác Ngộ nắm từng nhóm.

Phái Cao Đài có khoảng 6.000 quân, hoạt động chủ yếu ở Tây Ninh và một số tỉnh Nam Bộ, đứng đầu là giáo chủ Phạm Công Tắc.

Quyền lợi của các giáo phái gắn liền với Pháp, nhưng trong tình thế mới, muốn lợi dụng viện trợ Mỹ, nên lúc đầu họ tạm thời hợp tác với Diệm. Đến đầu năm 1955, Pháp không còn khả năng trợ cấp cho các giáo phái nữa, Mỹ - Diệm tìm cách mua chuộc, phân hóa, tiến tới giải thể hoặc sáp nhập lực lượng vũ trang của các phái vào quân đội của Diệm. Nhưng được Pháp ngầm xúi giục, các giáo phái lập “Mặt trận thống nhất quốc gia” đòi Diệm không được xâm phạm tới những khu vực ảnh hưởng của họ, đòi Diệm mở rộng “chính phủ chống cộng” để họ tham gia chính quyền. Họ tìm cách móc nối với bọn ngụy quân thân Pháp để chuẩn bị lật đổ Diệm.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:22:57 pm

Tháng 3-1955, sau khi củng cố được quyền lực, Ngô Đình Diệm chủ trương tiêu diệt giáo phái thân Pháp để loại trừ khả năng chống đối, xóa bỏ mọi quyền lợi ở các địa phương của Pháp, thống nhất quân đội dưới quyền chỉ huy của anh em Diệm.

Ngày 26-4, Diệm cách chức tổng giám đốc cảnh sát và công an Sài Gòn của Lại Văn Sang (Bình Xuyên), bãi bỏ độc quyền của Bình Xuyên thu thuế tại sòng bạc “Đại thế giới”. Ngày 28-4 lấy cớ Bình Xuyên chống lệnh, Diệm cho quân tấn công Bình Xuyên. Chiến sự nổ ra ngay tại trung tâm thành phố Sài Gòn. Quân Bình Xuyên chống cự không nổi phải rút về cầu chữ Y và Rừng Sác.

Ngày 30-4, quân của Diệm tiếp tục tiến công, quân Bình Xuyên phải rút khỏi thành phố.

Ngày 21-9, Diệm mở chiến dịch “Hoàng Diệu” bao vây và tấn công vào khu Rừng Sác. Đến ngày 24-10 phái Bình Xuyên đã bị tiêu diệt, Bảy Viễn chạy trốn ra nước ngoài. Mối nguy cơ trực tiếp đối với Diệm ở Sài Gòn được đẩy lùi.

Ngày 20-5, Diệm tập trung lực lượng mở chiến dịch “Đinh Tiên Hoàng” đánh quân Hòa Hảo. Nhóm của Hai Ngoán và Nguyễn Giác Ngộ ra đầu hàng Diệm. Nhóm Ba Cụt và Năm Lửa chống lại. Tháng 10-1955, xuất hiện lực lượng “Cao Đài tự do” do đại tá Nguyễn Bình Khiêm đứng đầu. Nhóm này có liên hệ với ta. Liên tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ chỉ thị cho các địa phương giúp đỡ quân Hòa Hảo và đồng bào theo đạo. Nhiều cán bộ, đảng viên của ta được giao nhiệm vụ thâm nhập vào hàng ngũ Hòa Hảo. Được sự hướng dẫn của ta và sự ủng hộ của nhân dân, một số đơn vị Hòa Hảo đã đánh trả quyết liệt quân của Diệm, diệt được nhiều đồn bốt, gây cho chúng nhiều thiệt hại, tiêu biểu là các trận Cổ Ông (Mộc Hóa), Tân Bửu (Bến Lức)... Chiến dịch “Đinh Tiên Hoàng” kéo dài từ tháng 5 đến tháng 12-1955 phải kết thúc, nhưng đại bộ phận vùng căn cứ Đồng Tháp Mười, Diệm không kiểm soát được.

Ngày 1-1-1956, Diệm mở chiến dịch “Nguyễn Huệ” nhằm thanh toán bằng được quân Hòa Hảo. Chúng huy động 4 sư đoàn bộ binh, 6 chi đoàn thiết giáp, 5 tiểu đoàn pháo binh, 4 hải đoàn xung phong, 1 tiểu đoàn nhảy dù do Dượng Văn Minh (vừa được thăng thiếu tướng do công trạng diệt được Bình Xuyên) chỉ huy. Các đơn vị Hòa Hảo phân tán trong nhân dân, được dân giúp đỡ đánh trả quyết liệt. Nhưng do nội bộ Hòa Hảo mâu thuẫn, chia rẽ, nên lực lượng bị tiêu hao dần. Ngày 17-2-1956, Năm Lửa đưa 4.000 quân ra đầu hàng Diệm. Ngày 13-4-1956, Ba Cụt bị bắt sống và bị chém đầu. Lực lượng Hòa Hảo tan rã, một số theo địch, phần lớn còn lại bỏ trốn về nhà.

Khi Diệm tấn công Bình Xuyên và Hòa Hảo, phái Cao Đài chủ trương án binh bất động để chờ thời. Tháng 10-1955, Mỹ - Diệm dùng thủ đoạn chia rẽ nội bộ phái này để phá bỏ bộ máy hành chính của Cao Đài, uy hiếp Tòa thánh Tây Ninh. Các lực lượng Cao Đài phải chống lại bằng hành động vũ trang. Nhưng vì nội bộ bị phân hóa, hành động không thống nhất nên đến tháng 6-1956 đại bộ phận lực lượng Cao Đài bị tiêu diệt và ra đầu hàng Diệm.

Ở Trung Bộ, có lực lượng Quốc dân Đảng hoạt động tại Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định; lực lượng Đại Việt ở Quảng Trị, Thừa Thiên. Chúng đều là lực lượng chống lại cách mạng, nhưng cũng chống Diệm để mặc cả địa vị với Diệm. Từ tháng 9-1955, đến tháng 1-1956, chúng bị lực lượng của Diệm liên tiếp tấn công, bao vây, triệt tiếp tế nên đã bị tan rã và lần lượt về đầu hàng Diệm.

Cuộc xung đột vũ trang với các giáo phái kéo dài hơn một năm không những gây cho Mỹ - Diệm khó khăn về quân sự, chính trị kinh tế, mà còn đẩy nhân dân ở những vùng giao tranh vào cảnh chết chóc, bần cùng. Diệt xong lực lượng vũ trang của các giáo phái, các thế lực thân Pháp ở miền Nam Việt Nam căn bản bị xóa sổ. Mỹ - Diệm lao vào cuộc thanh lọc ngụy quyền nhằm xây dựng một chế độ độc tài phát xít thân Mỹ khoác cái áo “độc lập”, “dân chủ”, “hợp hiến” giả hiệu.

Ngày 17-7-1955, Diệm tuyên bố không có hiệp thương, tổng tuyển cử. Ngày 23-10-1955, Diệm tổ chức cuộc “trưng cầu dân ý” dưới lưỡi lê của quân đội để phế truất Bảo Đại và tự xưng tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Tiếp đó ngày 4-3-1956 được Mỹ đạo diễn, Ngô Đình Diệm tổ chức tuyển cử, bầu ra Quốc hội. Tháng 10-1956, Ngô Đình Diệm ban hành hiến pháp của “nền đệ nhất cộng hòa”, một số nước tư bản đồng minh của Mỹ lập tức công nhận chính quyền Diệm là “hợp hiến, hợp pháp”, Bộ Quốc phòng Mỹ đã nhận xét cuộc tuyển cử của Diệm chỉ là một thủ tục vô nghĩa làm cho dân tin để có một cái nhãn mới mẻ cho mối quan hệ của Mỹ và Diệm.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:24:44 pm

Đi đôi với việc xây dựng chính quyền trung ương, Mỹ - Diệm ra sức củng cố chính quyền xã, ấp bằng cách bổ nhiệm những người phe cánh của Diệm làm xã trưởng, ấp trưởng và lập các tổ chức quần chúng trá hình như “Thanh niên cộng hóa”, “Phụ nữ liên đới”, “Liên gia tương trợ”, “Nhân dân tự vệ đoàn”, “Ngũ gia liên bảo” để kìm kẹp dân chúng1.

Tháng 8-1954, Diệm tổ chức ra Đảng “Cần lao nhân vị” do Ngô Đình Nhu, em ruột Diệm làm lãnh tụ, được coi là nòng cốt của chế độ Diệm. Đảng này lấy học thuyết “Duy linh” duy tâm phản động làm hệ tư tưởng. Đảng Cần lao nhân vị gồm 7 vạn đảng viên, thành phần chủ yếu là các cha cố, tín đồ công giáo, công chức và sĩ quan trung, cao cấp. Người vào đảng này phải tuyên thệ trung thành đến chết với chế độ của Diệm2.

Tháng 10- 1954, “Phong trào cách mạng quốc gia” của Trần Chánh Thành, tay chân của Diệm được thành lập. Tổ chức này lấy giới công chức làm nòng cốt, nó nêu cao khẩu hiệu “chống cộng sản, chống phong kiến, chống thực dân” để tập hợp lực lượng.

“Phong trào cách mạng quốc gia” và đảng “Cần lao nhân vị” chỉ khác nhau về hình thức hoạt động, còn mục đích đều nhằm phục vụ cho chế độ của Mỹ - Diệm.

Núp dưới chiêu bài “đả thực, bài phong” nhưng thực chất chính quyền Diệm vẫn mang nặng tư tưởng phong kiến. Về hình thức, các bộ trưởng cũng mặc áo thụng xanh, đội khăn xếp, thậm chí khi “bãi chầu” mọi người đều phải đi giật lùi ra cửa không giám quay lưng lại tổng thống. Về nội dung là bênh vực bảo vệ quyền lợi cho giai cấp địa chủ, cường hào, duy trì phương thức bóc lột phong kiến. Những người thân tín trong gia đình, bà con trong họ hàng được Ngô Đình Diệm đưa vào nắm các chức vụ chủ chốt trong chính quyền.

Diệm chỉ tin dùng bọn tay chân trung thành với gia đình họ Ngô và một bộ phận giáo dân di cư. Ngoài thành phần trên, Ngô Đình Diệm luôn nghi ngờ và thẳng tay đàn áp đối với các giới trí thức, nông dân, công nhân, phật tử, đối lập với toàn thể dân chúng, nên cơ sở xã hội của nó hết sức mỏng manh. Chính quyền Diệm chủ yếu dựa vào hệ thống cố vấn và viện trợ Mỹ để tồn tại nên tất yếu dẫn đến một nền chính trị bấp bênh, luôn luôn chia rẽ. Rõ ràng chính thể của Diệm là một sản phẩm ngoại lai, không được lòng dân. Lầu Năm Góc đã nói rõ: “không có sự giúp đỡ của Mỹ hầu như chắc chắn là Diệm không thể củng cố được chỗ đứng của mình ở Việt Nam trong thời gian từ 1955-1956...”, “Nam Việt Nam là sản phẩm của Mỹ”3.
______________________________________
1. Thanh niên cộng hòa: Thành lập ngày 26-10-1956 là một tổ chức chính trị phản động, được tổ chức chặt chẽ từ trung ương xuống cơ sở. Nó còn là một tổ chức quân sự trá hình, một “tổ chức hiến binh” để bảo vệ chế độ Diệm.
    Phụ nữ liên đới: do Trần Lệ Xuân vợ Ngô Đình Nhu thành lập và lãnh đạo, được tổ chức từ trung ương xuống các địa phương, thành phần hạn hẹp chỉ bao gồm những phụ nữ quyền qúy thuộc tầng lớp thượng lưu, cách biệt hẳn với đại đa số phụ nữ lớp dưới. Nó hoạt động nặng về phần phô trương trình diễn như thăm viếng, cứu trợ…
    Liên gia tương trợ: gồm 5-7 gia đình kế cận nhau, có một liên gia trưởng chỉ huy.
    Nhân dân tự vệ đoàn: Tổ chức ở từng ấp, gồm những người tuổi từ 18 - 45. Tổ chức này được chia thành các toán, mỗi toán từ 10 - 12 người do một toán trưởng chỉ huy. Các toán trong khóm họp thành liên toán. Các liên toán trong ấp họp thành liên đội. Các liên đội trong xã họp thành xã đội.
    Ngũ gia liên bảo: Cứ 5 gia đình có một công an phụ trách.
2. Theo Hoàng Minh - Đỗ Mậu trong cơn: “Tâm sự tướng lưu vong”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1991, tr. 179 thì “… Nhiều người đã phải chán nản nặng lời phê phán thuyết nhân vị của ông Ngô Đình Nhu… là một thứ pha trộn mình Ngô đầu Sở, chắp vá bằng một mớ tư tưởng hổ lốn, góp nhặt mỗi thứ một ít, từ giáo lý Thiên chúa giáo đến chủ nghĩa Nhân vị của Muniê, pha thêm thuyết nhân ái của Khổng Tử, cộng thêm vài nét của chủ nghĩa tư bản lẫn lộn với chủ nghĩa Duy linh chống cộng…”
    +) Chủ nghĩa nhân vị của Muniê (nhà trí thức Thiên chúa giáo người Pháp) đại để như sau: Nhân vị là vị thế của con người, lấy con người làm giao điểm trong trục tương quan với đồng loại, thiên nhiên và Thượng đế. Người là trung tâm để phục vụ, có ưu thế hơn các thực thể khác như dân tộc, nhân loại, hay nhu cầu vật chất, con người có phần xác và phần hồn, mà linh hồn được coi là chủ yếu hơn vì linh thiêng, bất tử và là nguồn gốc của văn minh. Tinh thần có tính thiêng liêng vì do chính Thượng đế tạo ra và có khả năng vươn lên cảm thông với Thượng đế…
3. Tài liệu Mật của BQP Mỹ, Sđd, tr. 35



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:25:39 pm

Song song với việc xây dựng chính quyền, quân đội, tiêu diệt các giáo phái, Mỹ - Diệm tập trung khủng bố dã man những người kháng chiến cũ, những người yêu nước miền Nam. Lợi dụng lúc Quân đội nhân dân Việt Nam rút khỏi các vị trí đóng quân, các vùng tự do cũ về nơi tập kết, đồng bào ta còn ngỡ ngàng, tổ chức đảng chưa ổn định, địch tiến hành đánh phá ngay, hòng gây không khí khủng khiếp trong nhân dân, làm cho hàng ngũ đảng viên và quần chúng bị rối loạn. Khẩu hiệu: “tiêu diệt cán bộ nằm vùng”, “tiêu diệt cộng sản tận gốc”, “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót” của Diệm đã có tác dụng kích thích quân đội, cảnh sát và những tên ác ôn tay sai điên cuồng, tàn sát đẫm máu những người yêu nước, kháng chiến cũ, những người có cảm tình với cách mạng hoặc bị tình nghi.

Ngày 2-8-1954, địch đã gây ra vụ thảm sát ở Kim Đôi làm 17 người chết, 67 người bị thương; ngày 6-9-1954, chúng giết 31 người và làm bị thương nhiều người khác ở chợ Được (Quảng Nam); ngày 7-9-1954, tại Ngân Sơn, Chí Thạnh (Phú Yên) chúng giết 80 người, làm 50 người bị thương; ngày 13-9-1954, chúng giết 17 người, làm bị thương 500 người tại Mỏ Cày (Bến Tre). Tại Hà Nật, Chiêu Đàn, Cây Cốc (Quảng Nam) từ 23 đến 28-9-1954, chúng đã giết 105 người, làm bị thương 186 người. Ngày  25-10-1954, tại Vĩnh Xuân (Cần Thơ), chúng giết 54 người, 19 người bị thương. Đêm 21-1-1955, bọn Quốc dân đảng ở Duy Xuyên (Quảng Nam) câu kết với tay chân Diệm đến nhà lao Hội An bắt 38 đồng chí của ta chở đến đập Vĩnh Trinh, dùng khăn bịt mắt, lấy đá đập vỡ đầu, gẫy răng, cắt mũi, cắt tai, xâu từng chùm ba, bốn người, bỏ vào bao tải rồi buộc đá ném xuống đập. Dã man hơn, từ ngày 9-7 đến 20-7-1955, chúng đã bao vây và tàn sát nhân dân hai thôn Tân Lập, Tân Hiệp xã Hương Điền, huyện Hương Hóa (Quảng Trị) giết 92 người (có 31 trẻ em). Trước khi giết chúng còn cướp của, đốt nhà, hãm hiếp tất cả phụ nữ, trong đó 7 người đang có thai và cả những bà già sáu, bảy mươi tuổi. Đêm 15-9-1955, bọn công an và hành chính xã An Gia huyện Triệu Phong (Quảng Trị) đến nhà chị Trương Thị Tình có chồng là cán bộ đi tập kết, bắn chết con trai của chị mới lên 3 tuổi. Nhân dân kéo đến phản đối, chúng hăm dọa và nói: “Phải giết nó đi chứ để sau này lớn lên nó sẽ làm cộng sản như cha nó”.

Đi đôi với khủng bố ở cơ sở, để chuẩn bị cho “tố cộng” quy mô lớn, Mỹ - Diệm đã mở các chiến dịch thí điểm rút kinh nghiệm.

Tháng 2-1955, địch mở chiến dịch Phan Châu Trinh, đánh phá thí điểm các tỉnh ở Trung Bộ, lấy Quảng Nam làm trọng điểm.

Tháng 4-1955, địch mở “chiến dịch giải phóng” đánh phá tỉnh Quảng Ngãi và vùng bắc Bình Định.

Tháng 5-1955, địch mở chiến dịch Trịnh Minh Thế đánh phá toàn bộ các tỉnh Khu V.

Từ tháng 5-1955 đến tháng 5-1956, Mỹ - Diệm phát động “chiến dịch tố cộng giai đoạn I” trên quy mô rộng lớn toàn miền Nam.

Mục đích của “chiến dịch tố cộng” của Mỹ - Diệm nhằm:

“Gây uất hận trong dân chúng đối với Việt cộng:

a) Để cho nhân dân tố giác Việt cộng ở lại hoạt động.

b) Khủng bố tinh thần Việt cộng làm cho Việt cộng nghi ngờ quần chúng mà không dám hoạt động nữa.

c) Đánh lệch tư tưởng các phần lử lừng chừng còn hướng về cộng sản phải ngả hẳn về chính phủ quốc gia.

d) Thêm phương tiện để kiểm soát cán bộ cộng sản còn ở lại hoạt động trong vùng quốc gia kiểm soát”1.

Theo biên bản hội nghị Nha Thông tin Trung Việt của địch đầu tháng 6-1955, chính quyền Ngô Đình Diệm “luôn luôn quan niệm cộng sản là kẻ thù chính, nhiệm vụ phản công là tối ưu. Phải đẩy mạnh nhiệm vụ chống cộng”2.

Kế hoạch “tố cộng” của địch lúc đầu đánh trên diện rộng, sau đó đánh vào chiều sâu, đánh cả nông thôn và thành thị. Mục tiêu của chúng là tập trung nơi có phong trào mạnh. Đánh vào cộng sản và đánh cả vào dân, lấy đánh vào Đảng cộng sản làm mục tiêu quyết định nhất vừa tiêu diệt con người, vừa tiêu diệt tinh thần, tư tưởng, tất cả đều nhằm đích tối hậu là làm cho con người cộng sản hoặc bị tiêu diệt hoặc chịu thuần phục quốc gia, làm cho quần chúng hoặc chết hoặc trở thành người dân quốc gia3.

Thực hiện được các mục tiêu trên, Mỹ - Diệm sẽ củng cố được thế lực, đẩy mạnh hành động phá hoại hòa bình, dập tắt phong trào đấu tranh của nhân dân đòi hiệp thương tổng tuyển cử. Phương châm hoạt động của địch là: “Tất cả phục vụ cho chiến dịch tố cộng”. Trọng điểm của chúng nhằm vào cán bộ, đảng viên và những vùng căn cứ kháng chiến cũ, những nơi có phong trào đấu tranh của nhân dân, đánh đi đánh lại nhiều lần tới khi đạt được yêu cầu “triệt hạ uy thế chính trị của cộng sản”.
______________________________________
1, 2. Tài liệu đánh máy, Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 3, tr. 135.
3. Nam Trung Bộ, kháng chiến 1945 – 1975, Viện Lịch sử Đảng và Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ xuất bản, Hà Nội, 1992, tr. 247.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:29:49 pm

Mỹ - Diệm đã tổ chức bộ máy chỉ đạo “tố cộng” rất quy mô, thống nhất từ trên xuống dưới, bao gồm:

Hội đồng nhân dân chỉ đạo tố cộng là cơ quan cao nhất, gồm tất cả các bộ trưởng trong chính phủ. Diệm là chủ tịch danh dự và Trần Chánh Thành là chủ tịch hội đồng. Hội đồng chỉ định ra ủy ban chỉ đạo tố cộng Trung ương, có ban thường trực gồm đại biểu các Bộ Thông tin, Công an, Quốc phòng. Nhiệm vụ của Ủy ban chỉ đạo này là trực tiếp chỉ đạo phong trào tố cộng ở các tỉnh, các cơ quan; đào tạo cán bộ cho phong trào. Giúp việc cho ủy ban này có các ban Tuyên huấn, Học tập Kiểm thảo, khai thác và có sự phối hợp của các cơ quan Công an, Công dân vụ, Dân vệ đoàn...

Mỗi tỉnh có một Ủy ban chỉ đạo tố cộng. Mỗi bộ có một uỷ ban chỉ đạo dọc xuống các cơ quan thuộc bộ mình. Thành phần trong Ban chỉ đạo tỉnh giống như ở Trung ương, còn ở các cơ quan thì gồm đại biểu cơ quan và liên đoàn công chức của phong trào cách mạng quốc gia.

Huyện, xã đều có Ủy ban chỉ đạo tố cộng của huyện, của xã. Mỗi xã lại chia ra nhiều liên gia tố cộng. (Xem sơ đồ)

Địch chia giai đoạn I tố cộng làm 3 đợt:

Đợt 1 từ 15-5 đến cuối tháng 8-1955, trọng điểm ở các tỉnh miền Trung.

Đợt 2 tù tháng 9 đến tháng 11-1955, trọng điểm tiến hành trong nội bộ các cơ quan ngụy quyền.

Đợt 3 tù 15-11-1955 đến tháng 5-1956 (đồng thời là kết thúc giai đoạn I), làm rộng rãi ở các tỉnh để triệt hạ uy thế chính trị và phá tổ chức, đồng thời triệt cơ sở kinh tế của cộng sản và thanh trừng số cán bộ cầu an của chúng ở xã.

Mỗi đợt địch lại phân ra làm nhiều bước. Có điều chỉnh, rút kinh nghiệm, chỉ đạo chặt chẽ, kết hợp giữa mua chuộc, phỉnh phờ với khủng bố, đàn áp. Chúng phân nhân dân ra làm ba loại:


(http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/AnhsachQsu/Sodohethongtocong-1.jpg)

Sơ đồ hệ thống tổ chức tố cộng.


Loại cán bộ và đảng viên cộng sản; loại gia đình có người đi tập kết; loại nhân dân nói chung để hướng dẫn học tập những nội dung chúng cho là thích hợp, kết hợp với khủng bố đàn áp.

Bên cạnh việc tổ chức học tập, chúng tiến hành điều tra nắm tình hình, gây cơ sỏ, tìm nòng cốt trong địa chủ, cường hào, lưu manh, bất mãn, phản động ở từng địa phương cho học tập trước rồi giao nhiệm vụ phân loại nhân dân. Chính bọn nòng cốt đó sau này nằm trong bộ máy chính quyền, công an của địch, chống phá ta kịch liệt.

Sau khi học tập, địch bắt mọi người phải tố giác cộng sản, ai biết ít nói ít, ai biết nhiều nối nhiều, “không tố giác là phản quốc”. Chúng phát phiếu cho từng gia đình bắt kê khai những người cách mạng, yêu nước rồi bắt tất cả những người đã bị phát giác hoặc tình nghi viết kiểm thảo (tẩy não), kê khai lý lịch, ly khai Đảng, xé cờ Đảng và ảnh lãnh tụ, viết cáo trạng tố cáo tội ác của cộng sản.

Ở các tỉnh Trung Bộ, suốt những năm sống dưới ách kìm kẹp của Mỹ - Diệm, mỗi người dân phải chuẩn bị một cây gậy, một cuộn dây, một đèn dầu hoặc bó đuốc, sẵn sàng hễ nghe mõ báo động “xuất kỳ bất ý” là phải chạy ngay đến hội đồng xã. Ai đến chậm thì bị đánh đập tra tấn; ai vắng mặt bị chúng truy lùng bắt giam, thủ tiêu, nhiều người già yếu trong khi chạy chưa đến địa điểm tập trung đã chết gục giữa đường. Chưa hết, bọn ác ôn còn lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm bắt người tra tấn, bắn giết, cướp của, gây nên cảnh tang tóc điêu linh. Nhân dân miền Nam phải chịu bao nỗi thống khổ, nhà nào cũng có người bị bắt, xã nào cũng có trại giam. Nhà lao tỉnh Quảng Ngãi chỉ đủ chỗ giam 500 người, nhưng thường xuyên có khoảng 5.000 người. Nhà lao Thừa Thiên chúng giam hàng ngàn người. Tỉnh Phú Yên có 25 vạn dân mà đã có tới 109 nơi giam giữ hàng vạn người.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:31:00 pm

Ở Nam Bộ, địch làm thí điểm tố cộng trước ở Chợ Lớn, rồi triển khai ra toàn miền. Chúng rút gọn 4 bước xuống còn 2 bước:

- Bước chuẩn bị: Chúng tiến hành đổi thẻ căn cước, nắm lại dân và chia dân ra làm 3 loại:

Loại A là loại “công dân bất hợp pháp” gồm cán bộ, đảng viên và những người kháng chiến cũ.

Loại B là loại “công dân nửa hợp pháp” gồm những gia đình có người đi tập kết có liên quan đến những người kháng chiến cũ.

Loại C gồm những người “không liên quan đến cách mạng”.

Phương châm của địch là dựa vào loại C, đánh vào loại A, làm cho loại B khiếp sợ và khuất phục”.

Sau khi phân loại, địch buộc những người kháng chiến cũ phải ra trình diện, nhận giấy chứng nhận “cán bộ hồi chánh”. Chúng bắt mỗi gia đình phải chụp chung một tấm hình, khai rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp treo trước cửa nhà.

- Bước thực hiện: mở đầu bằng chiến dịch tuyên truyền quy mô trên các báo chí, truyền thanh nhằm xuyên tạc sự thật, nói xấu cách mạng, gây cho nhân dân tâm lý hoài nghi và sự hiềm khích không tin tưởng lẫn nhau giữa bà con làng xóm, cha mẹ, anh em trong nhà, làm xáo trộn mối quan hệ tình cảm truyền thống ở nông thôn. Đi đôi với tuyên truyền chia rẽ, mua chuộc, những tên tay sai, ác ôn ra sức khủng bố, bắt bớ đảng viên và những người kháng chiến cũ để uy hiếp tinh thần nhân dân. Số người địch tình nghi bị chúng bắt giam lên đến hàng vạn. Số nhà tù của Pháp để lại cộng với hệ thống trại giam mới xây dựng theo chỉ thị số 6 của Diệm (11-1-1956) vẫn không đủ giam giữ. Địch phải lấy cả chùa chiền, thánh thất, trường học để nhốt những người yêu nước.

Ở Chợ Lớn, đêm 4-5-1955, lính Diệm vây ráp, sát hại trên 20 đảng viên. Ở Mộc Hóa, chỉ hơn một tuần, địch bắt 280 người xâu kẽm gai qua lòng bàn tay rối lần lượt thủ tiêu. Trên kênh Dương Văn Dương và sông Vàm Cỏ Tây từng chùm xác năm, ba người nổi trên mặt nước. Ở Đức Hòa, chỉ trong 10 ngày cuối tháng 7-1955, địch đã chặt đầu, xẻo tai, cắt mũi 8 cán bộ.

Trong các cơ quan, đơn vị quân đội ngụy, Mỹ - Diệm cũng tổ chức tố cộng. Chúng bắt công chức, binh lính phải học tập, xác định lập trường quốc gia chống cộng rõ rệt. Qua học tập, chúng tìm hiểu, phát hiện thanh lọc, sa thải, quản thúc người thân Pháp hoặc có quan hệ với kháng chiến.

Đối với vùng đồng bào thiểu số, địch tìm cách lừa phỉnh, mua chuộc và áp dụng những thủ đoạn cổ truyền là chia rẽ Kinh - Thượng, dùng người Thượng chống người Kinh, dùng người Thượng chống người Thượng mà chúng gọi là “dĩ di chế di” bằng kế hoạch “thượng du vận” nhằm đẩy cách mạng ra khỏi vùng dân tộc.

Kết thúc giai đoạn I tố cộng, địch đã thực hiện được một ý đồ gây tư tưởng lo sợ, hoang mang trong nhân dân, gây nghi ngờ, sợ sệt giữa quần chúng và cán bộ. Trong bộ máy chính quyền, chúng đã thanh lọc những người không theo chúng và tập hợp được lực lượng phản động làm nòng cốt.

Chỉ kể từ tháng 7-1955 đến tháng 2-1956, Mỹ - Diệm đã giết hại, giam cầm 93.362 cán bộ, đảng viên và những người yêu nước. Cơ sở đảng, cơ sở quần chúng bị tổn thất nặng.

Ở Tây Nam Bộ, sau hai năm thực hiện đấu tranh chính trị, đã có một đồng chí phó bí thư Xứ ủy, 18 tỉnh ủy viên, 100 huyện ủy viên bị giết.

Tỉnh Thủ Dầu Một ta bố trí ở lại 1.647 đảng viên nay chỉ còn 260. Tỉnh Gia Định 3.000 đảng viên chỉ còn 350. Huyện Hàm Thuận (Bình Thuận) từ 659 đảng viên đến 20-7-1955 chỉ còn 80 đảng viên, v.v...

Đặc biệt nghiêm trọng, do bị khủng bố dã man nên ở một số địa phương đã có nhiều đảng viên ra đầu hàng, tự thú với địch. Ở Bình Định hầu hết số đảng viên bị bắt đều khai báo tự nhận mình là đảng viên hoặc khai cho người khác. Hai huyện Nghĩa Hành và Đức Phổ (Quảng Ngãi), tính đến tháng 8-1955 có 80% đảng viên khai báo. Xã Phong Chương (Phong Điền, Thừa Thiên) có 485 đảng viên thì xuất thú 400. Xã Phong Phú (Phong Điền, Thừa Thiên) có chi bộ 25 đảng viên, ra đầu hàng 24 còn 1 phải chạy trốn. Một số đảng viên không tin ở đấu tranh chính trị thành công đã dao động, chạy dài, tránh né công tác, thậm chí có người tập ăn nhạt, uống ít nước để nằm hầm bí mật được lâu1. Những số liệu này cho thấy bản chất phản động, tàn bạo của chính quyền Diệm và tính chất ác liệt của cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
______________________________________
1. Báo cáo đặc biệt về tình hình đảng ở miền Nam, tài liệu đánh máy, Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 40, tr. 4-5.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:31:37 pm

Mặc dù đã thành công được một bước trong việc đánh phá phong trào cách mạng, nhưng địch vẫn không hề khuất phục được nhân dân miền Nam. Phong trào đấu tranh chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm lan rộng khắp nông thôn và thành thị làm tăng thêm mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Sài Gòn. Ngay cả giới trí thức, công chức cao cấp, một số tổ chức như “Tập đoàn công dân”, “Mặt trận quốc gia kháng chiến”, “Phong trào tranh thủ tự do”... trước đây ủng hộ Diệm nay cũng lên tiếng chống lại Diệm.

Trong khi thực thi chính sách “tố cộng, diệt cộng”, chính quyền Ngô Đình Diệm đồng thời tìm cách xóa bỏ thành quả cách mạng ở nông thôn, bần cùng hóa nông dân bằng việc ban hành đạo dụ số 2, ngày 8-1-1955 và đạo dụ số 7, ngày 5-2-1955 về “cải cách điền địa”. Ngày 22-10-1956, Diệm ra tiếp đạo dụ 57, với khẩu hiệu “hữu sản hóa nông dân”, “thẳng tiến cần lao, đồng tiến xã hội”, thực tế là tiếp tục tước đoạt ruộng đất của nông dân, bảo vệ và duy trì đặc quyền, đặc lợi của giai cấp địa chủ.

Qua “cải cách điền địa”, chính quyền Diệm đã cướp từ 80 - 90% ruộng đất mà chính quyền cách mạng để chia cho nông dân Nam Bộ. Ở khu V tất cả ruộng công điền chúng đem bán đấu giá hoặc phát canh thu tô. Thuế ruộng đất chúng tăng gấp đôi, thuế đảm phụ tăng gấp rưỡi. Mỗi người dân một tháng phải đi làm xâu từ 7 đến 10 ngày.

Không những cướp ruộng đất, địch còn dùng xe bọc thép, xe ủi để phá nhà, phá làng, dồn dân lấy đất xây dựng căn cứ quân sự.

Trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, Diệm ra sức tuyên truyền cho học thuyết “Duy linh” đề cao nhân vị, một thuyết duy tâm nhằm thủ tiêu tinh thần đấu tranh của quần chúng. Chính quyền Diệm đã cho nhập nhiều loại văn hóa đồi trụy, phản động của Mỹ vào miền Nam. Những loại sách kiếm hiệp, khiêu dâm; những bản nhạc giật gân và những phim đồi trụy, sa đọa... nhằm làm tha hóa con người. Chỉ tính đến cuối năm 1955, Mỹ đã viện trợ cho Diệm 70 vạn tấn sách báo, tranh ảnh phản động, trả tiền cho 20 tờ báo tay sai để chống lại cách mạng.

Cùng với việc viện trợ nuôi sống chế độ Diệm bằng hàng hóa của Mỹ, chúng còn mở cửa cho hàng hóa Nhật, Tây Âu vào với chế độ ưu đãi, giá rẻ, tạo nên sự phồn vinh giả tạo, một lối sống thích Mỹ, phục Mỹ trong thời cuộc “nhốn nháo Tây đi, Mỹ đến”.

Như vậy, từ cuối 1954 đến 1956, Mỹ đã giúp Ngô Đình Diệm gạt Pháp và các thế lực thân Pháp, xây dựng bộ máy ngụy quân, ngụy quyền, thực hiện một loạt chính sách lừa lọc, thâm độc, xảo quyệt, biến miền Nam từ chế độ thuộc địa kiểu cũ của Pháp trở thành chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Nhưng dù kẻ địch có thi hành chính sách tàn bạo đến đâu chúng cũng không thể dập tắt được phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam.

Nhân ngày ngừng bắn ở Nam Bộ (1-8-1954), 50.000 đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn, phần đông là công nhân nhà đèn, bến cảng..., công nhân đang làm việc trong các đơn vị hậu cần của quân Pháp và các tầng lớp tiểu thương, trí thức, học sinh, quần chúng lao động, biểu tình tại đường Kítchơnê (Nguyễn Thái Học bây giờ) mừng hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ. 25.000 người ở Đà Nẵng, 15.000 người ở Huế, kể cả những nhà tu hành, tập hợp trên các đường phố lớn, vườn hoa, sân vận động... mừng chiến tranh chấm dứt, đòi trả chồng con bị bắt đi lính, trả tự do cho tù chính trị, trao trả hết tù binh. Ở đồn điền cao su An Lộc (Sông Bé) 5000 công nhân bãi công trong 3 ngày từ 2 - 4-8-1954 mừng thắng lợi, đòi chủ tăng lương 20%, đòi Diệm bãi bỏ thuế đảm phụ chiến tranh.

Cũng trong ngày 1-8-1954, được sự chỉ đạo của Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, các đại biểu trí thức và lao động đã họp thành lập “Phong trào hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn”, ra Tuyên bố nêu rõ tôn chỉ, mục đích của phong trào là đấu tranh cho hòa bình ở Đông Dương được củng cố, quyền tự do dân chủ được đảm bảo, nước Việt Nam được thống nhất bằng tuyển cử tự do trong cả nước.

Phong trào đã cử ra chủ tịch, các phó chủ tịch, đoàn chủ tịch danh dự, ban thư ký và ban tổ chức, gồm những trí thức yêu nước, tiến bộ: luật sư Nguyễn Hữu Thọ, giáo sư Phạm Huy Thông, dược sĩ Trần Kim Quang, luật sư Trịnh Đình Thảo, giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng... Sau đó ban chấp hành được bổ sung thêm đại biểu các chính đảng tôn giáo, văn nghệ sĩ, thương gia, ký giả... Cả Sài Gòn có 32 ủy ban cơ sở được bầu ra trong các cuộc mít tinh công khai và hàng trăm ủy ban cơ sở khác, gồm nhũng người được quần chúng tín nhiệm.

Lực lượng công nhân, thợ thuyền các xí nghiệp ấn loát các xí nghiệp hậu cần của Pháp, công ty thủy điện và quần chúng của khu lao động ở Bàn Cờ, Khánh Hội, cầu Ông Lãnh, Chợ Quán, Bình Tây đã tham gia hoạt động tích cực trong phong trào.

Tập san và tờ thông tin “Hòa bình”, cơ quan ngôn luận hợp pháp của phong trào đã đăng bài tố cáo Mỹ - Diệm phá hoại Hiệp định và nói rõ nguyện vọng hòa bình của dân tộc. Từ Sài Gòn phong trào phát triển ra Huế, và toàn Trung Bộ, có tiếng vang rộng lớn được phong trào bảo vệ hòa bình, các tổ chức hoạt động chống chiến tranh ở Pháp, Tây Đức gửi lời chào mừng và lên tiếng ủng hộ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:32:30 pm

Hoảng sợ trước sự phát triển của phong trào, từ đầu tháng 11-1954, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu đàn áp bắt giam một số người lãnh đạo và chiến sĩ tích cực của phong trào. Trong nhà lao, những người bị bắt vẫn kiên quyết đấu tranh, tuyệt thực, đưa đơn tố cáo. Một phong trào quần chúng phản đối chính quyền Diệm đàn áp những người đấu tranh cho hòa bình nổi lên ở Sài Gòn và nhiều nơi ở miền Nam. Nhiều thư từ, kiến nghị, bài báo, cuộc mít tinh đòi Diệm trả tự do cho những người bị bắt. Nhân dân miền Bắc lên tiếng cổ vũ cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam. Hội nghị các nhà luật gia quốc tế họp ở Ấn Độ đã phản đối hành động của Diệm. Nhiều luật sư ở Pháp đòi được đứng ra bào chữa cho những người bị bắt. Bốn lần Diệm đưa các chiến sĩ của phong trào hòa bình ra tòa, nhưng trước làn sóng phản đối mạnh mẽ, cả bốn lần chúng đều không dám công khai xử án họ. Tuy vậy, chúng đã tra tấn đến chết giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng, đưa một số người ra giam lỏng ở Tuy Hòa, trong đó có luật sư Nguyễn Hữu Thọ.

Trong 2 tháng 11 và 12-1954, hơn 3000 trí thức, 1000 học sinh, sinh viên, 4000 nhà công thương ở Sài Gòn đưa kháng nghị đòi Mỹ - Diệm phải trả tự do cho những người trong Phong trào hòa bình bị bắt.

Phong trào hòa bình ra đời là một chủ trương đúng thể hiện lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân miền Nam. Nhưng dưới chế độ Diệm không một người dân nào được nói đến hai chữ “hòa hình”. Ngay khi đón Thủ tướng Ấn Độ Nê Ru viếng thăm Sài Gòn ngày 30-10-1954, Diệm cũng cho trương các biểu ngữ “Đả đảo chính sách chung sống hòa bình” dọc các dường phố, vì Ấn Độ là một trong những nước sáng lập phong tràu không liên kết và đề ra 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Điều này đã vạch trần được bộ mặt thật phát xít và hiếu chiến của Mỹ - Diệm trước toàn thể nhân dân trong nước và quốc tế, chúng đã bị thất bại về chính trị ngay khi vừa bắt tay gây dựng lực lượng và uy thế.

Cùng với phong trào hòa bình, phong trào đấu tranh chống địch khủng bố, trả thù những người kháng chiến cũ cũng diễn ra quyết liệt.

Ngày 13-9-1954, hơn một vạn công dân của 6 xã thuộc huyện Mỏ Cày (Bến Tre) biểu tình chống chính quyền Diệm giết hại những người kháng chiến. Lính của Diệm xả súng bắn vào đoàn biểu tình làm chết 11 người, bị thương 36 người và bắt đi 200 người. Căm thù sục sôi trước hành động dã man của địch, hàng vạn nhân dân Bình Đại xuống đường “đả đảo Mỹ - Diệm khủng bố nhân dân”, “Mỹ - Diệm phải tôn trọng Hiệp định Giơnevơ”... Lính Diệm lại bắn giết 5 người, bị thương 17 người và bắt đi 30 người. Không khí căm thù giặc của nhân dân lan khắp tỉnh Bến Tre và toàn Nam Bộ. Các địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long đã huy động gần 2 triệu lượt người tham gia biểu tình. Riêng tỉnh Mỹ Tho có 35 vạn lượt người mít tinh ở 397 địa điểm đế phản đối Mỹ - Diệm và đòi quyền dân sinh, dân chủ.

Tại Trung Bộ, những cuộc đấu tranh chống Mỹ - Diệm liên tiếp diễn ra ở khắp các thành thị và nông thôn. Nhân dân tỉnh Quảng Nam, các thành phố, thị xã: Nha Trang, Phan Thiết, Đà Lạt... biểu tình kéo đến trụ sở ngụy quyền, trụ sở Ủy ban quốc tế đòi địch phải thi hành đúng các điều khoản của Hiệp nghị, không được trả thù, khủng bố những người kháng chiến cũ. Trong cuộc biểu tình của nhân dân Đà Nẵng, bọn địch ở đồn Võ Tánh đã nổ súng bắn chết 2 người. Trước hành động tàn ác đó, quần chúng tràn vào đốt đồn, làm cháy nhiều xe cộ và súng đạn của chúng. Ngày 15-9-1954, tại An Khê một vùng địch tiếp quản đầu tiên ở Khu V, hơn 5.000 đồng bào Kinh, Thượng biểu tình chống địch đàn áp, khủng bố. Tuy vậy, các cuộc đấu tranh của nhân dân ta từ cuối năm 1954 đến những tháng đầu năm 1955 ở một số nơi còn mang tính tự phát, thiếu sự chỉ đạo chặt chẽ, thiếu kế hoạch đề phòng địch khủng bố, nên phong trào gặp khó khăn, tổn thất. Mỹ - Diệm ngày càng lấn tới, điên cuồng khủng bố những người yêu nước, cự tuyệt đề nghị hiệp thương tổng tuyển cử của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Liên Việt Nam Bộ, ngày 3-7-1955, công nhân và nhân dân lao động Sài Gòn đã tổ chức hai cuộc biểu tình lớn đòi hiệp thương tổng tuyển cử và đòi trả lại tự do cho những người trong Ủy ban cứu trợ nạn nhân chiến tranh1. Cuộc tổng bãi công, bãi thị ngày 10-7, ở Sài Gòn - Gia Định có 80% nhân dân tham gia, làm tê liệt hoạt động của thành phố trong 10 giờ. Cùng ngày này, ở Mỹ Tho, các cuộc bãi công, bãi thị cũng đã làm cho thành phố phải ngừng hoạt động hoàn toàn trong một ngày.

Trong cuộc đấu tranh này đã có nhiều con người ưu tú của dân tộc anh dũng hy sinh. Chị Nguyễn Thị Diệu là một trong những tấm gương tiêu biểu. Chị là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp phụ nữ Nam Bộ, bị giặc bắt (10-7-1955) bị tra tấn dã man, nhưng vẫn giữ vững khí tiết của người cán bộ cách mạng. Địch đã giết chị trong lúc đang mang thai 6 tháng và vứt xác chị xuống giếng tại xã Linh Đông, huyện Thủ Đức.
______________________________________
1. Sau khi phong trào hòa bình tạm lắng, đầu tháng 7-1955 dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Sài Gòn, Gia Định phong trào cứu giúp những người bị nạn trong cuộc Diệm đàn áp phái Bình Xuyên ra đời. Phong trào lấy tên là “Ủy ban cứu tế nạn nhân”, do nữ đồng chí Ba Yên đứng đầu.
    Phong trào đã lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân đóng góp giúp đỡ những người bị nạn, đồng thời đòi địch phải bồi thường thiệt hại và cứu giúp các nạn nhân.
    Từ Sài Gòn - Chợ Lớn, phong trào lan ra một số tỉnh Nam Bộ. Bọn tay chân Diệm đã tìm cách ngăn cản và khủng bố. Chúng đã bắt 5 người trong Ủy ban, Chi Ái Lan bị xử phạt 5 năm tù vì tội hăng hái hoạt động cho phong trào.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:33:16 pm

Phong trào đấu tranh đòi hiệp thương, hòa bình thống nhất Tổ quốc từ tháng 7-1955 kéo dài nhiều tháng và lan rộng ra các tỉnh Sa Đéc, Châu Đốc, Vĩnh Long, Phan Rang, Phan Thiết, Khánh Hòa, Bình Định, Quảng Nam, Quảng Trị, Thừa Thiên.

Ở Tây Nam Bộ, trong mười ngày đầu tháng 8-1955 đã có 10 vạn nông dân tham gia phong trào đấu tranh đòi hiệp thương. Tháng 7 và 8-1955 nhân dân Thừa Thiên họp mít tinh lấy được 7 vạn chữ ký gửi lên ngụy quyền tỉnh, kiến nghị đòi chấm dứt khủng bố, đòi hòa bình. Ở vùng vĩ tuyến quân sự tạm thời, đồng bào đã cử 500 đại biểu đến tổ quốc tế ở Do Linh bày tỏ nguyện vọng mong muốn thống nhất đất nước. Xã Quốc Xuân (Quế Sơn, Quảng Nam) với 24 ngàn dân đã có 16 ngàn người ký tên vào bản kiến nghị phản đối Mỹ - Diệm. Đồng bào Kinh - Thượng ở Gia Lai kéo về thị xã Plây Cu, bao vây cơ quan ngụy quyền tỉnh. Ở thành phố Nha Trang, truyền đơn đòi hiệp thương tổng tuyển cử rải dọc đường số 1 từ cầu Hà Ra vào đến trường Phan Bội Châu, chợ Đầm và nhiều dường phố khác.

Trong từng thời gian, khẩu hiệu đấu tranh đòi hiệp thương được kết hợp với khẩu hiệu chống “trưng cầu dân ý”, chống “bầu cử quốc hội” của Diệm.

Ngày 23-10-1955, Mỹ - Diệm tổ chức cuộc “trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại đưa Diệm lên làm tổng thống. Mặc dầu chúng phải dùng cảnh sát, binh lính lùng bắt người đi bỏ phiếu, nhưng nhân dân đã tìm mọi cách để chống lại. Ở nhiều tỉnh, nhiều thành phố, nhiều xã, nhân dân tổ chức mít tinh, biểu tình, vạch trần tính chất phản động và bịp bợm của trò hề “trưng cầu dân ý”. Có những chỗ cử tri đập phá hòm phiếu vì chúng bắt mọi người phải “ông xanh bỏ giỏ, ông đỏ bỏ thùng”1. Ở Hội An, binh lính Diệm đã bắn vào đoàn biểu tình làm chết 5 người, bị thương 4 và bắt đi 200 người. Ở Cần Giuộc (Chợ Lớn), Hồng Ngự (Châu Đốc), Minh Thành (Tây Ninh) có hàng ngàn người bị bắt. Ở Sài Gòn - Chợ Lớn, trên 50% số người không đi bầu, 80% áp phích của địch bị xé bỏ.

Cuộc đấu tranh của nhân dân chống “trưng cầu dân ý” chính là nhằm phản đối bọn tay sai, bù nhìn ở miền Nam.

Sau thủ đoạn “trưng cầu dân ý”, ngày 4-3-1956, Diệm lại lợi dụng địa vị mới của mình để tổ chức cuộc “bầu cử quốc hội” nhằm tạo một “cơ sở pháp lý” cho chế độ độc tài gia đình trị mà y đang ra sức xây dựng. Nhưng địch đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của nhân dân. Quần chúng nhân dân chống lại cuộc “bầu cử” bằng nhiều hình thức như phá các buổi “học tập”, các cuộc mít tinh tuyên truyền cho cuộc “bầu cử”, xé, gỡ áp phích, truyền đơn của địch, rải truyền đơn, viết khẩu hiệu chống bầu cử… Nhiều nơi nhân dân tẩy chay không đi bỏ phiếu, có nơi truyền đơn chống Diệm được nhét đầy hòm phiếu. Ngay cả những tổ chức và cá nhân thân Pháp, thân Mỹ, trong đó có những người trước đây đã ủng hộ Diệm, cũng kịch liệt chống lại hành động gian lận, độc đoán của Diệm. Cuộc “bầu cử” này cũng là một trò bịp như cuộc “trưng cầu dân ý”.

Cùng với các phong trào nói trên, phong trào đấu tranh đòi quyền lợi của công nhân miền Nam cũng phát triển. Trong ngày Quốc tế lao động 1-5-1955, công nhân và nhân dân các thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, Huế, Đà Nẵng đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình đòi cải thiện đời sống, đòi tự do hội họp, tự do ngôn luận, chống đàn áp, khủng bố. Tiếp sau cuộc bãi công, biểu tình của 500 công nhân ở Xa Cát, Lộc Ninh thuộc công ty Đất Đỏ là cuộc tổng bãi công ngày 10-11-1955 của hơn 4 vạn công nhân ở tất cả các đồn diễn cao su bốn tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh. Công nhân đưa 10 yêu sách với nội dung đòi chủ phải tăng lương, đòi cải thiện chế độ ăn ở, làm việc và bảo đảm quyền tự do nghiệp đoàn của công nhân. Đây là cuộc bãi công lớn nhất của công nhân cao su từ trước tới giờ, kéo dài một tuần, làm thiệt hại mỗi ngày cho công ty xuất nhập khẩu cao su trên 40 vạn đôla.

Bước sang năm 1956, phong trào đấu tranh của công nhân chuyển lên một bước mới. Các cuộc đấu tranh được tổ chức chặt chẽ hơn, tập hợp được lực lượng công nhân thuộc các nghiệp đoàn khác nhau; các khẩu hiệu nêu lên vừa có nội dung dân sinh, dân chủ thiết thực, vừa có nội dung chính trị để giáo dục quần chúng, nêu được quyền lợi của công nhân, của cả nông dân và các tầng lớp khác.

Ở các thành phố Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Cần Thơ có hàng chục cuộc bãi công. Tiêu biểu là cuộc bãi công kéo dài hàng tháng của 5.000 công nhân ngành đường sắt, của 5.500 công nhân các kho, bến tàu Sài Gòn...

Ngày 27-3-1956, công nhân nhà máy đèn Chợ Quán bãi công đòi tăng lương. Ngót 200.000 công nhân, lao động, các tầng lớp nhân dân khác hưởng ứng cuộc đấu tranh. Cuộc bãi công kéo dài 2 ngày làm cho cả thành phố Sài Gòn Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa không có điện, nước, mọi hoạt động công nghiệp đình đốn; các rạp hát, rạp chiếu bóng phải đóng cửa; 6 tờ báo hàng ngày không ra được: đài phát thanh phải im lặng 48 tiếng đồng hồ. Trước tình hình đó, Diệm phải chịu giải quyết một số yêu sách của công nhân.
______________________________________
1. Chúng cho in hai hình: Bảo Đại màu xanh, Ngô Đình Diệm màu đỏ, cưỡng bức nhân dân bỏ hình Diệm vào thùng phiếu, hình Bảo Đại vào giỏ rác.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:38:18 pm

Để hòng xoa dịu tinh thần đấu tranh của nhân dân, và tỏ ra rằng chính quyền của y cũng là dân chủ, Diệm tuyên bố “cho phép” tổ chức kỷ niệm ngày 1-5-1956 ở Sài Gòn. Chúng huy động toàn bộ cảnh sát, công an và bảo an theo dõi, ngăn chặn với chiêu bài “trấn áp mọi hành động phá hoại”. Trái với sự tính toán của bọn Diệm, 10 giờ ngày 1-5-1956, 20 vạn nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn, gồm công nhân, những người lao động, công chức, trí thức, học sinh, nhà công thương và một số binh sĩ, cảnh sát của chính quyền Sài Gòn đã xuống đường đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Những người biểu tình hô vang các khẩu hiệu: tự do nghiệp đoàn, giải quyết nạn thất nghiệp, trả phụ cấp gia đình cho cả công nhân làm ở các sở tư, cải cách điền địa triệt để có lợi cho nông dân; hạn chế nhập khẩu để nâng đỡ công nghiệp trong nước; thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình... Nhờ lợi dụng danh nghĩa “chính quyền cho phép”, cuộc đấu tranh đã tránh bớt được sự khủng bố của địch. Đây là một bài học kinh nghiệm tốt cho những cuộc đấu tranh tiếp theo.

Phong trào đấu tranh của nông dân miền Nam bảo vệ những quyền lợi về ruộng đất, chống cướp đất, đuổi nhà cũng diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi. Tỉnh Thừa Thiên phát động phong trào đấu tranh đòi ngụy quyền phải đắp đập cửa Thuận An để ngăn nước mặn. Ngày 1-5-1955, ba vạn người dự mít tinh tại Phú Văn Lâu giương cao khẩu hiệu: “Phải đắp đập ngăn nước mặn, bảo đảm cho dân sản xuất”. Phong trào này được ủng hộ rộng rãi của nhân dân thành phố và các huyện. Ngô Đình Diệm đã phải về tận nơi xem xét và buộc phải hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề đắp đập.

Tháng 7-1955, chính quyền Diệm quy định việc lấy lại công điền để đấu giá, nộp tô cho chúng. Nông dân Nam Bộ đã đấu tranh chống lại từ ôn hòa đến quyết liệt. Một số tên địa chủ phản động từ Sài Gòn trở về địa phương dựa vào thế chính quyền Diệm hòng giành lại đất, truy lại tô, đã bị nông dân trừng trị. Ngày 9-3-1956, trong cuộc họp tá điền ở Sài Gòn, 100 đại biểu nông dân đưa yêu sách đòi hủy bỏ chế độ đấu giá công điền, để cấp phát cho nông dân nghèo, thi hành khế ước 3 năm. Cuộc đấu tranh chống đấu giá công điền ở Nam Bộ đã có những kết quả nhất định. Đến giữa năm 1956, ở các tỉnh Tân An, Chợ Lớn, Sóc Trăng... ngụy quyền mới đem đấu giá được từ 1/3 đến 1/2 công điền.

Ở Khu V và Trị - Thiên, có phong trào chống “xáo cấp” công điền. Đặc biệt ở Trị - Thiên, nơi ruộng đất công chiếm từ 70 đến 80% tổng số diện tích ruộng đất toàn tỉnh, nên cuộc đấu tranh diễn ra mạnh mẽ nhất. Mặc dù chính quân địch đã làm giấy tờ chia lại ruộng đất, nhưng nông dân kiên quyết không làm theo sự phân chia đó. Nông dân cam kết với nhau, ruộng của ai người ấy cày cấy, không làm thiệt hại người khác. Sau 3 tháng tiến hành “xáo cấp” công điền ở 731 thôn thuộc hai tỉnh Trị - Thiên, địch chỉ thực hiện được ở 21 thôn. Ở Bình Định, Quảng Ngãi, có phong trào chống cướp ruộng công của các gia đình có người tập kết. Nông dân Chu Lai, Bình Đức, Củ Chi, Long Bình... đấu tranh chống địch đuổi dân lập khu căn cứ quân sự. Ngày 28-11-1956, địch cho lính và xe ủi đất về hai làng Đông Hưng Thuận và Trung Mỹ Tây, quận Hóc Môn để xây dựng căn cứ quân sự Quang Trung. Chúng ra lệnh cho đồng bào trong ba cấp thuộc hai làng này phải rời đi nơi khác. Đồng bào kiên quyết đấu tranh chống lại với khẩu hiệu: “Sống tại chỗ, chết tại chỗ! Tấc đất, tấc máu”. Đồng bào cử nhiều đoàn đại biểu lên quận, tỉnh, lên tận chính phủ và quốc hội Diệm đòi được ở yên chỗ cũ, đòi được bồi thường những tài sản đã bị phá. Ngày 4-12-1956, 10 vạn nhân dân ở khu lao động Vân Đồn, Chương Dương đấu tranh chống lệnh đuổi nhà. Đồng bào ở các quận khác đã hưởng ứng xuống đường hỗ trợ tích cực. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống địch xây dựng căn cứ quân sự diễn ra kiên quyết, liên tục đã gây chậm trễ cho việc thực hiện âm mưu của chúng.

Ngoài các phong trào đấu tranh chính trị kể trên, từ năm 1954 - 1956, ở miền Nam còn có phong trào đấu tranh của đồng bào miền Bắc bị cưỡng ép di cư vào Nam.

Theo lời phỉnh phờ, lừa dối của Mỹ - Diệm, hàng triệu đồng bào công giáo miền Bắc đã rời bỏ quê hương vào Nam để được sống cảnh “thiên đường”. Vào đến nơi, đồng bào được xếp ở các trại lá, trại tôn, lều vải mới dựng ở những nơi hôi hám quanh Sài Gòn, Nha Trang, Đà Nẵng; những nơi hẻo lánh ở Đồng Tháp Mười, hoặc những chỗ “rừng thiêng, nước độc” như Hố Nai, Lạc An (Biên Hòa). Cuộc sống thật điêu đứng, chật hẹp, nóng bức, thuốc men không có, bệnh tật phát triển.

Đang còn bị “sống dở, chết dở” trong các trại định cư, thì Ngô Đình Diệm ra lệnh giải tán các trại định cư. Những tên tay sai được Diệm tin dùng đã bí mật đi đốt các trại1, thực hiện đuổi nhà triệt để ở Sài Gòn - Chợ Lớn dưới khẩu hiệu giả dối “làm đẹp thành phố”. Bảo an đoàn và dân vệ đoàn đến xua đuổi, cưỡng bức, áp giải hàng loạt người ở các trại định cư đi các đồn điền Mỹ Trạch, Đắc Song, An Khê, Sóc Trăng. Đặc biệt là đồn điền Cái Sắn (nằm giữa hai tỉnh Rạch Giá - Long Xuyên) được Diệm coi là nơi định cư chính của đồng bào công giáo di cư.
______________________________________
1. Chỉ tính từ tháng 2 đến tháng 4-1956 đã có nhiều trại định cư bị đốt cháy gây ra nhiều tai họa khủng khiếp.
- 16-2-1956: Thiêu hủy nửa làng định cư Tân Mai (Biên Hòa).
- 20-2-1956: Thiêu hủy 30 nóc nhà định cư Làng Muông (Plây Cu).
- 4-4-1956: Thiêu hủy 205 nóc nhà định cư Bình Trung (Thủ Đức).
- 5-3-1956: Thiêu hủy 120 nóc nhà định cư Mỹ Hòa (Gia Định).
- 6-3-1956: Thiêu hủy 300 nóc nhà định cư Lạc An (Biên Hòa).
- 22-4-1956: Thiêu hủy 300 nóc nhà định cư ở trại Thái Bình (Biên Hòa).



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:40:13 pm

Kết quả của chính sách cưỡng ép di cư của Mỹ - Diệm đã làm nhiều người vì thất nghiệp phải làm những việc bất lương như ăn trộm, ăn cắp, cờ bạc, một số chị em phải đi làm đĩ điếm để nuôi thân. Bảy vạn người di cư đã vào lính làm bia đỡ dạn. Một số trở thành ác ôn, ngoan cố chống phá cách mạng, hoặc trở thành gián điệp biệt kích quay lại chống phá miền Bắc.

Thấy rõ những thủ đoạn thâm độc của địch, đồng bào di cư ở các trại Đà Nẵng, Quy Nhơn, La Vang (Quảng Trị) đã biểu tình kéo đến trụ sở thị chính và Ủy ban quốc tế đòi giải quyết nạn thất nghiệp, đòi tự do đi lại làm ăn. Bốn vạn đồng bào ở ba trại định cư công giáo và một trại Phật giáo ở Gia Định đòi tỉnh trưởng mở chợ để họ có thể mua bán sinh sống. Ở Quy Nhơn, 400 đồng bào đưa đơn đến Quốc hội Diệm phản đối lệnh đuổi nhà và kiên quyết không chịu đi. Ở Gò Vấp (Gia Định) 2 vạn đồng bào đã mít tinh phản đối thông tư của chính quyền Diệm cưỡng bức đồng bào đi các đồn điền. Gần một vạn đồng bào đã tìm cách trốn tránh không đến đồn điền Cái Sắn. Ở Bình Thuận, đồng bào Nùng đã ngăn xe chở tên thủ hiến Trung Việt, đưa kiến nghị có 963 người ký tên, đòi trở về quê hương. Có những người phải lẩn trốn, xuyên rừng vượt núi để về đoàn tụ với gia đình.

Từ năm 1954 đến cuối năm 1955, ở miền Nam đã diễn ra các phong trào đấu tranh chính trị rộng lớn và sôi nổi, lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân tham gia, làm cho trong hàng ngũ kẻ thù bị phân hóa nhiều người hoang mang, quay sang thái độ lừng chừng, không dám tích cực ủng hộ Diệm. Nhưng “vì lãnh đạo chưa được vững chắc nên phong trào phát triển chưa đều, có nơi sóm bộc lộ lực lượng, phong trào bị tổn thất trước sự khủng bố của địch nhất là khi dịch tiến hành các “chiến dịch tố cộng”1.

Để khắc phục những thiếu sót nói trên, ngày 1-12-1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị cho các đảng bộ miền Nam trong lãnh đạo chống địch “tố cộng” là phải giữ gìn, củng cố cơ sở đảng. Chỉ thị nêu ra bốn nhiệm vụ chính:

- Tập hợp đông đảo mọi lực lượng chống Mỹ - Diệm trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Chuyển hướng sự lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng thích hợp với tình hình cụ thể.

- Kiên quyết chống chính sách “tố cộng” của địch.

- Giữ gìn và củng cố tổ chức cơ sở của Đảng.

Bản chỉ thị nhấn mạnh chống “tố cộng” là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt. Phải giải thích cho quần chúng thấy rõ âm mưu thâm độc của chính sách “tố cộng” của Mỹ - Diệm, nêu cao chính nghĩa và vai trò của Đảng đối với dân tộc và nhân dân, làm cho mọi người thấy rõ phải đoàn kết chặt chẽ chống âm mưu “tố cộng”, bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ thì mới bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình.

Thực hiện chỉ thị của Đảng, các cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống địch “tố cộng” giai đoạn I diễn ra liên tục và quyết liệt trong từng gia đình, từng thôn, ấp dưới nhiều hình thức công khai, hợp pháp và cả bất hợp pháp.

Địch bắt mọi người đi học “tố cộng”, đồng bào viện đủ lý do trì hoãn, không đi. Ở Phú Vang (Thừa Thiên), chúng cho bảo an, lính ngụy bắt 300 người đến lớp học. Đồng bào kiên quyết đấu tranh đòi về đi làm, nếu không để ruộng bỏ hoang, mất mùa, dân đói, buộc địch phải giải tán lớp học.

Ở nhiều nơi, những người bị lùa đến chỗ tập trung đã tìm cách đi chậm, đi “không đúng thành phần”, số đông là người già ốm yếu và trẻ con. Trong lớp học, chỗ này người ngủ gật, chỗ kia người vót nan đan rổ, đan rá. Thỉnh thoảng trẻ nhỏ lại la khóc ầm ĩ. Khi địch cho những tên đầu hàng, đầu thú lên nói xấu cộng sản, lập tức bị nhân dân chất vấn và phản đối, biến cuộc “tố cộng” thành cuộc đấu tranh tố cáo tội ác của chúng. Bằng lý lẽ đanh thép và khôn khéo, quần chúng đã vạch trần bộ mặt bán nước, hại dân của Mỹ - Diệm, bảo vệ và làm sáng tỏ chính nghĩa cách mạng.

Ở Quảng Trị, địch chuẩn bị một bản tội ác của cộng sản rồi bắt ông Lê Chí Khiêm (trong ban trị sự hội Phật học) lên đọc. Trước khi đọc ông tuyên bố: “Bản này không phải tự tay tôi viết ra, mà nói đây là tội ác của cộng sản thì chính tôi chưa bao giờ nghe và chưa bao giờ thấy, nhưng người ta đã viết ra bảo tôi đọc thì tôi xin đọc để bà con nghe”.
______________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, tháng 8-1955.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:41:18 pm

Ở Phan Rí (Bình Thuận), khi tên quận trưởng cho nhân dân được tự do tranh luận những cái tốt và cái xấu của quốc gia và cộng sản, ông Bộ Gạch người dân tộc Chàm đã đứng lên nói:

- Quốc gia có 9 cái tốt và một cái xấu, còn cộng sản có 9 cái xấu và 1 cái tốt.

Tên quận trưởng liền hỏi: một cái xấu của quốc gia là gì?

- Quốc gia ở với dân xấu quá.

Tên quận trưởng bực dọc nói: Thế một cái tốt của cộng sản là gì?

Ông già thản nhiên trả lời:

- Việt cộng ăn ở với dân quá tốt. Các ông có làm gì đi nữa, lòng dân vẫn theo Việt cộng và cuối cùng Việt cộng vẫn thắng...1

Nhân dân còn đặt nhiều câu hỏi để chất vấn những tên chỉ đạo tố cộng: “Chúng tôi không thấy cộng sản độc tài vì rằng kháng chiến, cộng sản kêu gọi đánh Tây giành độc lập nay mới có hòa bình, dân đói họ kêu gọi sản xuất để được no ấm”, “Quốc gia nói cộng sản cướp công kháng chiến, những lúc đánh Tây quốc gia ở đâu, sao toàn thấy cộng sản?”. “Nói quốc gia kháng chiến tại sao lại làm cho Tây?”. “Độc lập mà chưa thống nhất thì chưa phải độc lập, thống nhất bằng cách nào? Theo như cách này thì phải chiến tranh tương tàn hay sao?”... Những câu hỏi dồn dập như vậy làm cho địch bí không trả lời được. Nhiều lần chúng phải giải tán lớp học. Tên chủ tịch Hội đồng chỉ đạo tố cộng Trung ương đã thú nhận: “Đây là một thất bại lớn vì phong trào chất vấn rộng rãi, hướng dẫn viên của chúng ta không giải quyết được”2.

Ở nhiều nơi, địch bắt những người kháng chiến cũ, những đảng viên cộng sản, những gia đình có người thân tập kết phải ra “đầu thú quốc gia”, phải chào cờ ba que, xé cờ Đảng, phải làm giấy “ly khai Đảng”, phải qùy gối “sám hối”. Nhưng đối với nhân dân miền Nam để sớm theo Đảng làm cách mạng, đã được hưởng những quyền lợi thiết thực của cách mạng đem lại trong Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp thì Đảng là niềm tin và lẽ sống, là độc lập, tự do, là Tổ quốc thống nhất. Dù cho kẻ địch có xảo quyệt đến đâu cũng không lừa bịp được họ, không dập tắt được phong trào đấu tranh của nhân dân.

Trong những giờ phút thử thách ác liệt nhất, hàng ngàn tấm gương ngời sáng chủ nghía anh hùng cách mạng xuất hiện đã giữ vững niềm tin cho quần chúng, cổ vũ họ đấu tranh và làm cho Đảng ngày càng bám rễ vững chắc trong nhân dân. Nhân dân vẫn che giấu, nuôi dưỡng cán bộ, đảng viên, làm giao thông liên lạc, chuyển công văn. Cảm động xiết bao về những bà má Nam Bộ tay đưa túi gạo tiếp tế, chỉ đường cho cán bộ tránh né, rồi lại gõ mõ, xách gậy rượt bắt theo hướng khác để đánh lạc hướng kẻ thù. Nhiều bà mẹ ở Khu V đã nhường cả nơi thờ cúng tôn nghiêm nhất cho cán bộ ẩn náu. Nhiều gia đình cơ sở đã đào hầm bí mật cho cán bộ ở hàng tháng trong nhà.

Đồng chí Nguyễn Đình Liệu, nguyên Chủ tịch huyện Tiên Phước (Quảng Nam) tự tay dùng dao mổ bụng, lôi ruột gan ra trước mặt quân thù khi chúng buộc đồng chí phải xuất thú đầu hàng.

Bí thư chi bộ làng Krông Hơra (nam An Khê) bị địch chôn đến cổ, dùng cuốc đập vỡ đầu. Trước lúc hy sinh, anh còn cố sức hô lớn “Bác Hồ muôn năm”.

Chị Lý ở thị xã Bạc Liêu, đoàn viên thanh niên, bị địch bắt đưa ra trước quần chúng, buộc chị phải xé ảnh Bác Hồ. Chị Lý bình tĩnh ôm ảnh Bác dõng dạc nói: “Chúng mày có xé ảnh Bác thì xé luôn xác tao. Quân phản động bán nước”.

Mẹ Trần Thị Kế ở Giồng Trôm (Bến Tre), địch bắt tra tấn, buộc phải khai báo chồng, con và chỉ chỗ ở của cán bộ. Mẹ đã thét vào mặt kẻ thù: “Cán bộ, chồng con tao trong trái tim tao, bay có kiếm, mổ ra mà tìm”.

Em Nguyễn Thị Thanh 15 tuổi, làm liên lạc, bị địch bắt trong lúc đang làm nhiệm vụ. Địch tra khảo, đốt cháy hai chân, Thanh vẫn không một lời khai báo, v.v...
______________________________________
1. Khu V, 30 năm chiến tranh giải phóng, tập II, Sđd, tr. 32- 33.
    - Cũng nội dung tranh luận như trên, trong một đêm “tố cộng” ở Chợ Lớn, một bác nông dân nói “Việt cộng có nhiều cái xấu: súng xấu, đạn xấu, quần áo xấu… chỉ có cái tốt là trong kháng chiến sống chết để bảo vệ dân. Quốc gia thì có nhiều cái tốt: súng tốt, xe cộ tốt, quần áo tốt, chỉ có cái xấu là hay giật của dân thôi”.
2. Tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 3, tr. 12.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Giêng, 2010, 07:42:00 pm

Để bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ trước hành động gia tăng khủng bố ngày càng ác liệt của địch, nhiều cấp ủy ở miền Nam đã có chủ trương “điều lắng”1 cán bộ. Những cán bộ, đảng viên ở lại bám trụ được phép giảm bớt hoặc tạm ngừng hoạt động một thời gian, chờ khi có lệnh mới. Những cán bộ, đảng viên bị lộ phải điều đi nơi khác hoạt động hoặc lên “bưng biền”, chiến khu cũ, dựa vào địa thế hiểm trở và đồng bào để sinh sống, xây dựng lực lượng.

Tình thế thật là hiểm nghèo, bức bách! Kẻ thù đã dùng bạo lực quân sự chống lại nhân dân miền Nam. Đảng bộ và đồng bào miền Nam không còn con đường nào khác, đã phải cầm vũ khí chống lại. Họ đã tự tìm đào súng đạn do bộ đội chôn giấu trước ngày tập kết và chế tạo những vũ khí thô sơ, đánh trả quân địch, diệt trừ những tên ác ôn, tề điệp chỉ điểm, bảo vệ mình, xây dựng căn cứ và phát triển lực lượng.

Trong năm 1955, hầu hết các cơ quan lãnh đạo khu và tỉnh đều tổ chức các đơn vị bảo vệ nơi đóng quân. Ở nông thôn, do nhu cầu chống địch bắt bớ cán bộ, cướp bóc tài sản của nhân dân, các đội tự vệ được thành lập ở thôn, xã dưới danh nghĩa các đội “dân canh chống cướp” Mỗi xã ở Nam Bộ có từ một, hai tiểu đội đến một, hai trung đội. Lực lượng chủ yếu của tổ chức này là thanh niên yêu nước, có một số là du kích, bộ đội ta trước đây, nay đã về làng cũ làm ăn bình thường. Họ cùng nhân dân tham gia đấu tranh chính trị và khi cần họ chống lại địch bằng vũ khí thô sơ tự trang bị. Tháng 8-1955, đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến và đồng chí Phạm Ngọc Sến (Phó bí thư Tỉnh ủy Cà Mau) được Xứ ủy giao nhiệm vụ xây dựng các đơn vị vũ trang bí mật trong căn cứ U Minh, Năm Căn. Tại đây, từ tháng 8 đến tháng 12-1955, ta đã mở được 3 lớp huấn luyện quân sự, tổ chức thành 6 trung đội, phân tán về các địa phương hoạt động theo phương châm: “Giữ bí mật không xưng danh là Giải phóng quân, hoạt động từng tổ với danh nghĩa cán bộ binh vận”.

Ở các tỉnh Chợ Lớn, Gia Định, Long An, Mỹ Tho, số cán bộ, đảng viên đã bị lộ tập trung về các vùng Đức Hòa, Đồng Tháp Mười sát biên giới Việt Nam - Campuchia để tạm lánh. Số anh em này được tổ chức thành tiểu đội, trung đội để tiện sinh hoạt, tránh né khi địch càn, dần dần được trang bị một số lựu đạn và súng trường để chiến đấu bảo tồn lực lượng, bảo vệ căn cứ.

Ở Khu V, nhân dân một số nơi tự động nổi lên giết ác ôn. Có nơi cán bộ cơ sở hướng dẫn cho nhân dân diệt ác, nhưng dấu không báo cáo với trên vì sợ phê bình. Thanh niên nhiều buôn ở miền núi đã kéo nhau ra rừng lập các trại “bí mật”, tự tổ chức thành đội ngũ và trang bị bằng các loại vũ khí thô sơ.

Khi Mỹ - Diệm mở các chiến dịch tiêu diệt lực lượng vũ trang của các giáo phái, Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam Bộ chủ trương giúp đỡ các giáo phái duy trì lực lượng vũ trang chống Diệm, đồng thời đưa người của ta vào nắm các lực lượng ấy, hướng họ đi theo con đường yêu nước chân chính. Lực lượng vũ trang giáo phái bị lính của Diệm đánh tan rã, bọn cầm đầu đầu hàng, một số đơn vị chạy theo cách mạng đem về hàng ngàn khẩu súng. Số này được ta thuyết phục, giác ngộ trở thành lực lượng vũ trang của ta. Những cán bộ, chiến sĩ trước đây được cài vào lực lượng giáo phái tập hợp lại và bổ sung thêm những cán bộ, du kích mật để thành lập các đơn vị vũ trang cách mạng tập trung mang danh nghĩa lực lượng của giáo phái.

Đến cuối năm 1956, Nam Bộ đã tổ chức được 37 đại đội trung đội vũ trang tự vệ, vũ trang tuyên truyền hoạt động dưới nhiều hình thức, song còn ở mức hạn chế, vì sợ vi phạm đường lối, chủ trương của Đảng.

Đi đôi với việc ra đời của các lực lượng vũ trang, các căn cứ địa cách mạng từng bước được xây dựng, mở rộng làm chỗ đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo và lực lượng vũ trang. Việc xây dựng cơ sở, giáo dục chính trị, đào tạo huấn luyện cán bộ cũng được xúc tiến đi đôi với đẩy mạnh tăng gia sản xuất để bảo đảm đời sống cho cán bộ và lực lượng vũ trang. Các căn cứ địa trong thời gian này chủ yếu là dựa vào các vùng căn cứ cũ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ở Nam Bộ có các chiến khu Đ, chiến khu Dương Minh Châu, căn cứ Đồng Tháp Mười, chiến khu Năm Căn, U Minh. Ở Trung Bộ có các căn cứ ở miền núi phía tây các tỉnh đồng bằng và ở Tây Nguyên.

Việc tổ chức lực lượng vũ trang và xây dựng căn cứ đã hạn chế một phần sự khủng bố của địch, giữ gìn lực lượng cách mạng trong thời gian đầu và chuẩn bị điều kiện cho việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trong những năm sau.

Đứng trước bước ngoặt mới của đất nước, Đảng ta đã nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sớm xác định kẻ thù chủ yếu, chỉ ra phương hướng nhiệm vụ cho cả nước và riêng từng miền; đồng thời vừa làm vừa suy nghĩ để tìm ra con đường và phương pháp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sao cho phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế lúc bấy giờ, đặng tranh thủ sự động tình ủng hộ của bè bạn năm châu bốn biển, phân tán cô lập kẻ thù. Đó là con đường đi đầy chông gai phức tạp nhưng cũng đầy tính sáng tạo, vì chưa có tiền lệ. Chính vì ý thức được con đường cách mạng mà Đảng và Hồ Chủ tịch đã chọn, nên Đảng bộ và đồng bào miền Nam đã giữ trọn niềm tin, vượt bao gian khổ hy sinh, không ngừng đấu tranh quyết tâm cứu nước, cứu nhà và cứu mình.
______________________________________
1. Bí mật điều cán bộ, đảng viên ở vùng này đến vùng khác đề tránh địch theo dõi, phát hiện.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 10:58:26 pm

Chương V
XÂY DỰNG MIỀN BẮC LÀM CÁI GỐC, CÁI NỀN
CHO CUỘC ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM




Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, hậu phương cũng là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi. Không có hậu phương vững mạnh thì tiền tuyến không thể chiến thắng kẻ thù - nhất là kẻ thù đế quốc Mỹ, tên đế quốc mạnh nhất hành tinh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ:

“Muốn dựng ngôi nhà tốt phải xây NỀN cho thật vững.

Muốn cây được mạnh, lá được tươi, hoa được đẹp, quả được tốt thì ra sức chăm sóc vun xới gốc cây.

Miền Bắc là cái NỀN cái GỐC của cuộc đấu tranh hoàn thành giải phóng dân tộc, thực hiện thống nhất nước nhà. Cho nên mọi việc chúng ta làm ở miền Bắc đều nhằm tăng cường lực lượng của miền Bắc và miền Nam”1.

Nhận thức được quy luật quan trọng này, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ đầu đã xác định miền Bắc là nền tảng của cuộc đấu tranh của cả nước, đã sớm định ra đường lối xây dựng miền Bắc tiến lên CNXH. Đây là nhiệm vụ lâu dài, đồng thòi cũng khẩn trương cấp bách để phục vụ cho công cuộc đấu tranh chính trị ở miền Nam. Vì vậy, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã tập trung trí tuệ và sức lực vào việc xây dựng miền Bắc và hỗ trợ tích cực cho đồng bào ta ở miền Nam trực tiếp đấu tranh chống Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới.


I. MIỀN BẮC KHÔI PHỤC, CẢI TẠO VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA TRONG NHỮNG NĂM 1955 - 1960

A- HOÀN THÀNLl CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ KHÔI PHỤC KINH TẾ

Để hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước “điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam”2 Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa II), tháng 8-1955 khẳng định: “Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình huống nào, miền Bắc cũng phải được củng cố”3, “Củng cố miền Bắc và chiếu cố miền Nam không thể tách rời... Cần khắc phục tư tưởng sai lầm cho rằng: để chiếu cố đến miền Nam nên hạ thấp yêu cầu củng cố miền Bắc. Đồng thòi, cũng đề phòng tư tưởng chỉ đơn thuần củng cố miền Bắc chứ không chiếu cố đến miền Nam một cách thỏa đáng”4.

Sau ngày miền Bắc được giải phóng, Đảng và Nhà nước ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống, đồng thời tiếp tục hoàn thành cải cách ruộng đất. Đảng ta xem đó là “chính sách bất di bất dịch của ta”5. Hội nghị lần thứ 7 và 8 của Trung ương (tháng 3 và tháng 8-1955) đã quyết nghị: “Để củng cố miền Bắc, trước hết cần hoàn thành cải cách ruộng đất... vì có đẩy mạnh cải cách ruộng đất mới đoàn kết được đại đa số nhân dân, củng cố được công nông liên minh, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, mới có thể khôi phục kinh tế một cách nhanh chóng và có thêm điều kiện tăng cường quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng”6.
______________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Sđd, tr. 454.
2, 3, 4. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (8-1955) Văn kiện tịch sử Đảng, Trường Nguyễn Ái Quốc ấn hành, t. 9, tr.66-67.
5. Nghị quyết Bộ Chính trị (9-1954), Văn kiện Lịch sử Đảng, Tlđd, tr. 19-20.
6. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (mở rộng) tháng 3-1955, Văn kiện Lịch sử Đảng. Tlđd, tr. 44.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:00:15 pm

Vào giai đoạn cuối của Cuộc kháng chiến chống Pháp, cải cách ruộng đất được tiến hành trên 53 xã thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Thanh Hóa. Hòa Bình lập lại, nhân dân ta đã làm chủ toàn bộ miền Bắc, do đó có điều kiện đẩy mạnh cải cách ruộng đất, hoàn thành nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng nông dân lao động khỏi chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy nhiên, trong điều kiện đất nước còn chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, để tranh thủ mọi lực lượng yêu nước ở cả hai miền Nam, Bắc, mỏ rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng và Nhà nước ta chủ trương sửa đổi một số điểm trong Luật cải cách ruộng đất và phương thức thi hành luật. Nhà nước mở rộng diện trưng mua và hiến ruộng của những địa chủ không phạm tội ác chống phá cách mạng, kể cả ruộng đất của các chủ đồn điền Pháp và những địa chủ người Việt Nam đã hợp tác với Pháp trong thời kỳ chiến tranh. Giai cấp địa chủ được phân thành từng bộ phận khác nhau tùy theo thái độ chính trị của họ, để có chính sách và biện pháp sát hợp. Ở vùng tự do cũ, Đảng và Nhà nước quyết định rút ngắn thời gian cải cách ruộng đất lại, giảm bớt những nhiệm vụ có thể giảm bớt, hạ thấp yêu cầu có thể hạ thấp. Để nhanh chóng ổn định tình hình, công tác cải cách ruộng đất phải được kết hợp chặt chẽ với việc vận động nhân dân thi hành chính sách vận động sản xuất, cứu đói, chống cưỡng ép di cư, thu thuế, chỉnh đốn Đảng, nông hội, chính quyền... Phòng ngừa những sai lệch có thể phạm phải trong quá trình tiến hành chủ trương trên của Đảng, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương (3-1955) nhấn mạnh “Ra sức khắc phục những tư tưởng “hữu” khuynh và “tả” khuynh trong phong trào, nhưng chống “hữu” là chính và trong khi chống hữu phải đề phòng cán bộ lệch sang tả”1.

Sau đợt 2, đợt 3 và đợt 4, từ tháng 12-1955, cuộc vận động cải cách ruộng đất bước vào đợt 5, tiến hành ở 1720 xã thuộc 20 tỉnh và 2 thành phố. Đây là những vùng trước đó không lâu còn bị địch chiếm, vì thế, đợt 5 diễn ra phức tạp gay go. Tháng 7-1956, đợt 5 cải cách ruộng đất kết thúc. Ta đã chia 334000 ha ruộng đất tịch thu, trưng thu, trưng mua của địa chủ cho hơn 2 triệu gia đình nông dân. Giai cấp địa chủ và tàn dư của chế độ phong kiến miền Bắc bị xóa bỏ. Người nông dân từ nô lệ lên địa vị làm chủ nông thôn là một sự đổi đời của nông dân miền Bắc. Mơ ước ngàn đời của họ được thực hiện. Đó là thắng lợi của cải cách ruộng đất, là thành tựu to lớn của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Song, khi đợt 5 sắp kết thúc, Đảng nhận ra những sai lầm phạm phải trong quá trình cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. “Căn cứ vào số ruộng đất đã chia cho nông dân trong cải cách ruộng đất, căn cứ tác hại rất nghiêm trọng của sai lầm cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, thì chủ trương cải cách ruộng đất như đã làm là không cần thiết. Đó là vì trước khi tiến hành cải cách ruộng đất, giai cấp địa chủ, chế độ phong kiến đã căn bản bị xóa bỏ và mục tiêu người cày có ruộng đã căn bản được thực hiện với tỷ lệ hơn 2/3 ruộng đất đã về tay nông dân, với quyền làm chủ của nông dân trong nông thôn đã được thực hiện từ Cách mạng tháng Tám đến kháng chiến chống Pháp...”2. Nguyên nhân sai lầm là do không nắm vững những biến đổi về sở hữu ruộng đất, về giai cấp địa chủ và chế độ phong kiến ở nông thôn miền Bắc sau năm 1954.

Mặt khác, không giữ vững đường lối độc lập tự chủ, áp dụng máy móc, giáo điều kinh nghiệm của nước ngoài, nên trong chỉ đạo đã cường điệu tính chất đấu tranh giai cấp ở nông thôn, ngả sang tả, đánh nhầm vào nội bộ nông dân - đặc biệt là tầng lớp trung nông lớp trên; không chú ý tới những địa chủ đã có công ủng hộ kháng chiến, hoặc có con em tham gia kháng chiến... Trong chỉnh đốn tổ chức, đã vi phạm điều lệ và nguyên tắc của Đảng “phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, phố biến và kéo dài nhiều mặt”3, đã xử lý oan nhiều cán bộ, đảng viên, gây không khí căng thẳng ở nhiều vùng nông thôn. Hậu quả sai lầm này đã “làm cho lực lượng của Đảng bị tổn thất nặng, làm cho đảng viên và cán bộ hoang mang và hoài nghi chính sách của Đảng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến truyền thống và chí khí đấu tranh của các đảng bộ, đến tinh thần đoàn kết trong Đảng, trong chính quyền, trong Mặt trận, khiến cho uy tín của Đảng bị giảm sút trong quần chúng, quan hệ giữa Đảng và quần chúng bị ảnh hưởng rất nhiều”4. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực phản động và thù địch ở hai miền Nam, Bắc tuyên truyền xuyên tạc nhằm đả kích sự lãnh đạo của Đảng, chống phá sự nghiệp xây dựng miền Bắc.

Tháng 7-1956, nhân dịp phong trào phát huy dân chủ, mở rộng phê bình lãnh đạo, một số văn nghệ sĩ đã từng phục vụ cách mạng, nhưng trước tình hình sai lầm của cải cách ruộng đất đã hoài nghi, dao động, cho xuất bản tờ báo Nhân văn và tập san Giai phẩm đả kích, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, truyền bá tư tưởng tự do tư sản.

Trước tình hình đó, Đảng đã kiên trì lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Ủy ban hành chính Hà Nội ra quyết định đóng cửa báo “Nhân văn”.

Ở bờ Nam sông Bến Hải và một số thành phố lớn miền Nam, địch trương to những khẩu hiệu tuyên truyền nói xấu miền Bắc, nói xấu Đảng. Những luận điệu tuyên truyền bịp bợm đó đã một phần nào ảnh hưởng xấu tới việc tập hợp lực lượng cách mạng ở miền Nam, đặc biệt là đối với tầng lớp trung gian.
______________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (3-1955). Tlđd, tr. 44-45.
2. Kết luận của Bộ Chính trị về một số vấn đề lịch sử Đảng thời kỳ 1954-1975 ngày 25-5-1994.
    - Theo Tổng cục Thống kê: Việt Nam con số và sự kiện, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990, thì trong cải cách ruộng đất đợt 5 - bao gồm cả sửa sai - ta chia cho nông dân 334.001 ha chiếm 42,2%, còn trước đó đã chia 476.000 ha chiếm 58,2%.
3, 4. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 10, tháng 9-1956.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:01:54 pm

Tháng 4-1956, Đảng ra chỉ thị sửa chữa những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Ngày 18-8-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào nông thôn và toàn thể cán bộ, đảng viên. Sau khi chỉ rõ thắng lợi của cải cách ruộng đất cùng những sai lầm, khuyết điểm trong việc thực hiện và hướng sửa chữa sai lầm của Trung ương Đảng, Chính phủ, Người kêu gọi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân hãy tăng cường đoàn kết xung quanh Đảng và Chính phủ; và “Đoàn kết là lực lượng tất thắng của chúng ta. Để củng cố miền Bắc làm nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, toàn dân ta cần đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi trên cơ sở liên minh công - nông trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cán bộ cũ và cán bộ mới của Đảng và chính quyền càng phải thống nhất tư tưởng, đoàn kết nhất trí, thi đua phục vụ nhân dân”1.

Tháng 9-1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập để kiểm điểm việc chỉ đạo thực hiện cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, công khai thừa nhận khuyết điểm trước toàn Đảng, toàn dân. Hội nghị chỉ rõ nguyên nhân sai lầm và quyết nghị kiên quyết sửa chữa những sai lầm đã phạm phải trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ở nông thôn. Ban chấp hành Trung ương Đảng đã xử lý kỷ luật những đồng chí Trung ương trực tiếp chỉ đạo cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Đồng thời, Trung ương quyết định phục hồi những chi bộ đảng bị giải tán sai, sửa lại thành phần cho những cá nhân bị quy sai, khôi phục đầy đủ quyền lợi, danh dự, công tác cho những người bị xử lý sai, bãi bỏ mọi hình thức quản chế đối với những trường hợp bị quy sai là Việt gian, phản động; chấp hành nghiêm các chế độ, chính sách đối với các gia đình quân nhân cách mạng, các chính đảng, tôn giáo, dân tộc, các địa chủ có công với kháng chiến. Kiên quyết sửa sai. nhưng thận trọng không ngả sang “hữu”, “dội gáo nước lạnh vào quần chúng cơ bản, làm nguội nhiệt tình của họ. Đối với cán bộ phạm sai lầm thì lấy giáo dục làm chính, song cũng phải thi hành kỷ luật đối với một số có trách nhiệm nặng”2.

Trong khi sửa sai, Đảng và Nhà nước lãnh đạo kiên quyết đánh lui những đợt tiến công của đối phương. Ngày 6-1-1958, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết về việc chấn chỉnh công tác văn nghệ. Nghị quyết nêu rõ: “... Cần đánh thẳng vào những tư tưởng chống Đảng, chống chế độ, chống chủ nghĩa xã hội, chống đường lối văn nghệ của Đảng đặng củng cố lập trường nâng cao một bước tư tưởng chính trị và nghệ thuật và trên cơ sở đó mà tăng cường đoàn kết số rất đông văn nghệ sĩ dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Trên tinh thần đó, ta đã trấn áp bọn phản động ở Quỳnh Yên, đóng cửa báo Nhân văn và tập san Giai phẩm; đồng thời mở một đợt tuyên truyền về thời sự, giải thích về chính sách của Đảng, Nhà nước, tổ chức học tập Nghị quyết Trung ương lần thứ 10, đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn và Nghị quyết Bộ Chính trị. Đảng và Nhà nước phái gần một vạn cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam về các vùng nông thôn cùng chính quyền, các đoàn thể cách mạng và quần chúng nhân dân sửa sai, ổn định tình hình, khôi phục và giữ vững sản xuất. Trong phức tạp và gian khổ, một lần nữa, Quân đội nhân dân thể hiện sự trung thành với Đảng, thực sự là chỗ dựa vững chắc, đáng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Thái độ nghiêm khắc và công khai thừa nhận sai lầm, tìm rõ nguyên nhân, định rõ trách nhiệm, kiên quyết sửa chữa sai lầm của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Đến cuối năm 1957, mặc dù vẫn còn nhiều hậu quả phải có thời gian khắc phục, nhưng về cơ bản công việc sửa sai đã hoàn thành, lấy lại được niềm tin của quần chúng đối với Đảng. Do đó “đã ổn định được tình hình, giữ vững được trật tự, an ninh, củng cố chính quyền nhân dân, giữ vững được khối đoàn kết toàn dân và củng cố được vai trò lãnh đạo của Đảng”3.

Hoàn thành cải cách ruộng đất, tiến hành có kết quả việc sửa chữa sai lầm đã đưa lại chuyển biến lớn trong nông thôn miền Bắc. Chế độ phong kiến thống trị hàng ngàn năm đã hoàn toàn bị xóa bỏ, thế lực chính trị và kinh tế của giai cấp địa chủ bị đánh đổ, nông dân lao động trở thành người chủ nông thôn, một lòng tin vào đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ. Đó là tiền đề cho việc khôi phục và phát triển nông nghiệp, cải tạo và đổi mới nông thôn miền Bắc.

Cùng với cuộc vận động cải cách ruộng đất, Đảng và Nhà nước chủ trương duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, động viên mọi năng lực hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế, ổn định và bước đầu cải thiện đời sống nhân dân. Đảng ta cho rằng:

“Phải đặc biệt coi trọng việc nâng cao mức sống của nhân dân về vật chất và tinh thần, nhất là nhân dân lao động ở thôn quê và thành thị vì đó là điều kiện cần thiết để củng cố miền Bắc và tranh thủ miền Nam một cách có hiệu quả”4.
______________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Sđd, tr. 508-509.
2. Thống nhất tư tưởng: đoàn kết toàn Đảng, hoàn thành nhiệm vụ công tác trước mắt. Báo cáo đọc tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13. Văn kiện lịch sử Đảng: tlđd, t.9, tr. 242-243.
3. Văn kiện lịch sử Đảng, Tlđd, t.9, tr. 242 - 243.
4. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (8-1955), Tlđd, tr.67.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:02:48 pm

Là ngành kinh tế bao trùm và bị tổn thương nặng nhất trong chiến tranh, phục hồi nông nghiệp trở thành khâu chính của nhiệm vụ khôi phục kinh tế. Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định phát động phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm vụ Xuân 1955, đẩy mạnh trồng trọt các loại hoa màu, tăng diện tích trồng cây vụ Xuân để chống đói trong những ngày giáp hạt. Tháng 2-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào và cán bộ cả nước thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Người nhấn mạnh: “Hiện nay, nhiệm vụ vẻ vang của đồng bào là phải ra sức thi đua khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp để làm cho đồng bào nông dân ấm no, để cung cấp cho quân đội, để đảm bảo tiếp tế cho các thành thị, để đẩy mạnh việc khôi phục kinh tế nước nhà”1. Nhằm khuyến khích phục hồi và phát triển sản xuất, tháng 5-1955, Chính phủ đã ban hành 8 chính sách đối với nông nghiệp: bảo đảm quyền sở hữu ruộng đất, bảo hộ tài sản của nông dân và các tầng lớp dân cư, khuyến khích khai hoang phục hóa; khuyến khích thành lập các tổ đổi công; phục hồi nghề phụ và các ngành nghề thủ công ở nông thôn; bảo hộ và khen thưởng những hộ sản xuất giỏi; nghiêm cấm phá hoại sản xuất, giết hại trâu bò... Đồng thời, Nhà nước cho phép tự do thuê mướn nhân công, thuê mướn trâu bò, vay và cho vay; sửa lại biểu thuế nông nghiệp theo hướng giảm bớt thang bậc và suất thuế từ 41 bậc xuống còn 22 bậc. Nhà nước tập trung nguồn vốn, huy động lực lượng khôi phục, sửa chữa 12 công trình thủy lợi lớn bị phá trong chiến tranh, xây dựng một số công trình tưới tiêu mới, đào đắp hàng chục vạn mét khối đất; củng cố, tu bổ lại hệ thống đê đập, phát động nông dân tích cực đào mương, khơi ngòi, khai hoang, phục hóa.

Mặc dù yếu tố kỹ thuật trong canh tác chưa có gì mới, nhưng được sự giúp đỡ, khuyến khích của Nhà nước và sau khi sức sản xuất được giải phóng khỏi quan hệ sản xuất cũ, nông nghiệp miền Bắc trong 3 năm (1955-1957) đã được khôi phục và có bước phát triển cả về diện tích, năng suất, chăn nuôi, nghề phụ. Phong trào làm thủy lợi và khai hoang phục hóa đã đưa diện tích đất trồng cấy được tưới nước lên 628.000 hécta, vượt xa mức 326.000 hécta năm 1939, đưa số ruộng đất hoang hóa vào canh tác lên tới 85%, kể cả số ruộng đất của những hộ nông dân vào Nam bỏ lại. Như vậy, nếu năm 1939, diện tích đất trồng cấy toàn miền Bắc là 2.129.700 hécta, thì 3 năm khôi phục kinh tế, bình quân diện tích đất trồng cấy mỗi năm tăng hơn năm 1939 là 506.300 hécta, tức 27,4%. Năng suất các loại cây trồng chủ yếu trong nông nghiệp cũng vượt năm 1939: lúa từ 2,4 triệu tấn lên tới 3,95 triệu tấn, khoai tăng 70%, lạc tăng 29%, bông tăng 16%. Tuy gặp nhiều khó khăn về giống, vốn, thức ăn... nhưng đàn gia súc được khôi phục, riêng chăn nuôi trâu bò có bước phát triển, đạt mức 2,1 triệu con. Nhiều nghề phụ ở nông thôn như gốm, mộc, rèn, đúc, dệt... hồi phục, góp phần tăng thêm thu nhập, cung cấp vật dụng hàng ngày cho nông dân.

Sau 3 năm, nông thôn miền Bắc đang hồi sinh, khởi sắc. Nạn đói với những kỳ giáp hạt “tháng 3 ngày 8” bám riết bao kiếp người trong xóm làng miền Bắc trước đây, nay được khắc phục một phần căn bản. Đó là nỗ lực lớn của giai cấp nông dân liên minh với giai cấp công nhân, là tác động của đường lối, chính sách mà Đảng, Nhà nước đã ban hành và thực hiện trong nông nghiệp thời kỳ này.

Sau ngày miền Bắc giải phóng, nước ta đứng trước một nền công nghiệp thấp kém, bị tàn phá nặng nề. Ở vùng tự do cũ, một số cơ sở sản xuất quốc doanh và một số ngành sản xuất phục vụ dân sinh như vải, giấy, xà phòng... được xây dựng. Những cơ sở công nghiệp nặng như mỏ than Uông Bí, mỏ kẽm chợ Điền, mỏ thiếc Tĩnh Túc đều ngừng hoạt động. Trong vùng địch chiếm, chúng ra sức khai mỏ than ở Hồng Gai, duy trì một số nhà máy điện ở Hà Nội, Hải Phòng, nhà máy xi măng, nhà máy dệt Nam Định, xây dựng một số cơ xưởng sửa chữa, cơ khí, một số nhà máy sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ cho quân đội viễn chinh... Khi rút khỏi miền Bắc, địch tháo gỡ máy móc, thiết bị, phụ thùng mang đi, phá hỏng những gì không đem theo được. Ngày chúng ta vào tiếp quản, hầu hết các nhà máy, xí nghiệp Pháp để lại đều ngừng hoạt động.

Để nhanh chóng khôi phục công nghiệp, thủ công nghiệp, Đảng, Nhà nước chủ trương “phàm là công thương nghiệp có lợi cho quốc kế dân sinh đều được khuyến khích phục hồi và phát triển”2. Vì thế, “Công thương nghiệp tư nhân nhất loạt được bảo hộ. Đối với công thương nghiệp của địa chủ cũng nhất loạt không đụng đến”3. Tuy nhiên, để hướng thành phần kinh tế này phục vụ đắc lực cho quốc kế dân sinh, đi dần vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước từng bước thực hiện các hình thức thấp của tư bản nhà nước như kinh tiêu, đại lý, gia công, đặt hàng...

Đối với công nghiệp quốc doanh, Nhà nước tập trung phục hồi, mở rộng và xây dựng các cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu thiết yếu đời sống nhân dân, trong số đó có các nhà máy chè Phú Thọ, diêm Thống Nhất, thuốc lá Thăng Long, gỗ dán Cầu Đuống, cá hộp Hải Phòng và các nhà máy cao su, xà phòng, đồ sắt tráng men, bóng đèn, phích nước... Các nước xã hội chủ nghĩa đã giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, chuyên gia, đặc biệt là sự giúp đỡ quan trọng và có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc. Nhờ đó, chúng ta đã xây dựng một số cơ sở sản xuất tư liệu sản xuất phục vụ công nghiệp và nông nghiệp, trong đó đã khởi công xây dựng nhà máy cơ khí Hà Nội - cơ sở đầu đàn của công nghiệp chế tạo máy. Trải qua thử thách trong chiến tranh, đội ngũ cán bộ, công nhân viên từng bước trưởng thành, phát huy khí thế chiến thắng và ý chí tự lực, tự cường, ngày đêm bám máy, bám công trường, duy trì và mở rộng sản xuất ở 18 xí nghiệp ra đời trong kháng chiến, khôi phục 10 xí nghiệp sau hòa bình, xây dựng và đưa vào hoạt động hàng chục xí nghiệp mới... Như vậy năm 1957, sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp đạt mức năm 1939. Nếu cuối 1954, giá trị sản lượng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công nông nghiệp còn khoảng 1,5% thì đến năm 1957, tỷ lệ đó đã đạt 24% trong tổng sản phẩm xã hội. Nhiều mặt hàng trước đây phải nhập từ nước ngoài, nay đã bắt đầu được sản xuất trong nước như vải phin, pôpơlin, rượu, thuốc lá, cá hộp, diêm, gỗ dán... Nạn khan hiếm hàng hóa được khắc phục.
______________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Sđd, tr. 159.
2, 3. Nghị quyết Bộ chính trị, tháng 9-1954, Văn kiện lịch sử Đảng, t. 9, Tlđd, tr. 18.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:03:16 pm

Nhằm đẩy nhanh nhịp độ khôi phục công, nông nghiệp, ổn định sinh hoạt, đi lại của nhân dân và củng cố quốc phòng, Nhà nước đã đầu tư vào giao thông, vận tải, bưu điện một số vốn khá lớn. Năm đầu sau giải phóng, số tiền dành cho khôi phục giao thông, vận tải và bưu diện chiếm 54,4% trong tổng mức đầu tư của Nhà nước vào xây dựng và kiến thiết cơ bản. Những năm tiếp theo, tỷ trọng đó là 28,4% (1956), 20,9% (1957). Sau ngày giải phóng, mạng giao thông miền Bắc bị thương tổn nặng nề. Nền đường bị đào xẻ, sạt lở, đường ray bị bóc dỡ, cầu cống, nhà ga bị phá sập, luồng sông, cửa biển bị bồi lấp, phương tiện vận tải, bốc dỡ cũ kỹ, han gỉ, thiếu phụ tùng thay thế. Trong số 1152km đường sắt chỉ có 118km có thể sử dụng. Nhiều quãng đường bộ trùm lấp cỏ hoang. Cơ sở hạ tầng ở các vùng nông thôn và miền núi, hết sức nghèo nàn, lạc hậu; vận chuyển, đi lại chủ yếu bằng sức người và những phương tiện thô sơ trên những nẻo đường quanh co, trồi sụt... Trong 3 năm khôi phục, lần lượt bốn tuyến đường sắt với tổng chiều dài 657km, 75 ga chính và ga xép, 168 cầu cống đã được phục hồi, nối Thủ đô với các miền đất nước. Chúng ta đã khôi phục được 1624km, sửa chữa lớn 1660km và làm mới gần 600km đường trục chính ô tô, đường giao thông liên tỉnh, cải tạo nâng cấp, làm mới 583km đường miền núi, nạo vét hơn 6 triệu mét khối sa bồi ở cửa sông, đưa hai cảng lớn Hải Phòng, Bến Thủy vào hoạt động. Dọc các luồng sông Thao, sông Luộc, sông Thương... nhân dân đôi bờ dỡ thác, phá ghềnh, bỏ “kè kháng chiến”, tạo điều kiện cho thuyền bè xuôi ngược, nối kết miền núi với đồng bằng. Các tuyến điện thoại, điện báo, đường thư và công văn từ Trung ương tới địa phương, các đường dây liên tỉnh và nội tỉnh được phục hồi, xây dựng, đưa vào khai thác, phục vụ kịp thời công tác chỉ đạo sản xuất, cải cách ruộng đất, chống cưỡng ép di cư, chống phỉ... Liên lạc quốc tế cũng được thiết lập trong thời kỳ này.

Song song với việc khôi phục các tuyến giao thông bưu diện, Nhà nước chú trọng tăng cường phương tiện vận tải quốc doanh, khuyến khích thành phần vận tải tư nhân đổi mới thiết bị, tăng sức vận chuyển. Chỉ riêng phương tiện vận tải đường bộ quốc doanh, từ 30 đầu xe trong thời kỳ kháng chiến, đến năm 1956 đã có 390 xe. Lực lượng vận tải quốc doanh tạo điều kiện tốt cho việc điều tiết giá cước, điều tiết lực lượng vận tải tư nhân, đảm bảo chuyển vận hàng hóa trên các cung đường xa…

Những nỗ lực của Nhà nước và nhân dân trong khôi phục giao thông, bưu điện đã nâng khối lượng vận chuyển từ 21,1 triệu tấn và 201 triệu tấn km (1955) lên 5,5 triệu tấn và 367 triệu tấn km (1957), đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại, giao lưu kinh tế, văn hóa giữa thành thị và nông thôn giữa miền núi với đồng bằng góp phần vào sự nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng an ninh.

Nhịp độ và kết quả trong khôi phục kinh tế thúc đẩy sự phát triển của văn hóa, giáo dục, y tế. Sau năm 1954, số người thất học, mù chữ từ độ tuổi 12 đến 50 trên miền Bắc lên tới 3,5 triệu. Đó là một trong nhiều hậu quả tệ hại của chế độ cũ. Nhiệm vụ cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân là xóa bỏ tệ nạn này. Nhà nước quyết định thống nhất hai hệ thống giáo dục ở vùng tự do và vùng tạm chiếm trước đây thành hệ giáo dục phổ thông 10 năm, mở thêm nhiều trường cấp 1, cấp 2 và cấp 3 ở vùng đồng bằng, miền núi, xây dựng 18 trường học sinh miền Nam nội trú với 15.000 học sinh cấp 1, cấp 2. Chăm lo tới việc học hành của con em các dân tộc ít người. Chính phủ chủ trương thiết lập hệ thống giáo dục từ cấp Khu đến cấp cơ sở, mở trường sư phạm miền núi Trung ương, động viên và ban hành chế độ chính sách khuyến khích giáo viên miền xuôi lên dạy học ở miền ngược. Năm học 1956-1957, toàn miền Bắc có 65 vạn học sinh, trong đó số học sinh con em các dân tộc ít người là 60.000 người, chiếm 3,2% số dân các dân tộc. Bên cạnh hệ thống giáo dục phổ thông, chính quyền địa phương các cấp, các ngành tạo mọi điều kiện cho nhân dân đi học các lớp “Bình dân học vụ”. Đêm đêm trên những nẻo đường làng quê bập bùng ánh lửa, râm ran tiếng nói cười, đấy là những người dân sau một ngày lao động đã thắp đuốc, cầm đèn, gọi nhau tới lớp. Lần thứ hai trong lịch sử của chế độ dân chủ cộng hòa, “diệt dốt” trở thành phong trào quần chúng, biểu hiện ý chí của một dân tộc không cam chịu sự thất học, phận đói nghèo. Nhưng khác chăng, không như năm 1945, “giặc đói” và giặc ngoại xâm đe thách từng phút từng giờ, lần này, việc xóa mù diễn ra trong khung cảnh miền Bắc đã trở lại bình yên, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố...

Cùng với phong trào xóa nạn mù chữ, Đảng, Chính phủ chủ trương đẩy mạnh bổ túc văn hóa cho cán bộ, công nhân viên, quân đội và nhân dân. Ở nông thôn, thời kỳ này mở các lớp cấp I (lớp 1, lớp 2), nơi nào có điều kiện mở thêm các lớp cấp II. Trong xí nghiệp, cơ quan nhà nước, đơn vị quân đội, các lớp bổ túc được mở đều đặn mỗi tuần hai tối. Từ năm 1956, Chính phủ mở các trường bổ túc công nông bồi dưỡng văn hóa cho cán bộ và thanh niên công nông trước khi thi vào các trường đại học, trung học chuyên nghiệp.

Ngoài những cơ sở hình thành trong kháng chiến được tổ chức lại, sau năm 1954, nhiều trường đại học, trung học chuyên nghiệp ra đời, đào tạo cho đất nước hàng ngàn cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội. Các trường đại học Bách khoa, đại học Tổng hợp, đại học Nông-Lâm, cao đẳng mỹ thuật được thành lập thời kỳ này, bên cạnh đại học Y-Dược, đại học Sư phạm đã có từ trước. Năm 1955-1956, toàn miền Bắc có 3750 học sinh trung học chuyên nghiệp, 1140 sinh viên đại học. Năm học tiếp theo, số sinh viên đại học tăng lên 3860. Nhà nước chú trọng tới cơ cấu xã hội trong tuyển sinh theo hướng tăng tỷ lệ sinh viên xuất thân từ giai cấp công nhân, nông dân, bộ đội. Học sinh miền núi và phụ nữ dự thi được khuyến khích, ưu tiên.

Khắc phục thiếu thốn, khó khăn, cán bộ nhân viên ngành y tế về tận làng bản xa xôi khám, chữa bệnh cho nhân dân, gây phong trào “Vệ sinh yêu nước” từ nông thôn tới thành thị. Mạng lưới y tế bước đầu hình thành với 50 bệnh viện, 13 cơ sở điều dưỡng, 350 nhà hộ sinh và 5000 ban phòng bệnh. Nhiều dịch bệnh truyền nhiễm từng gây tai họa và khiếp sợ cho bao gia đình nhất là ở nông thôn và miền núi... dần dần bị ngăn chặn. Tại các vùng mới giải phóng, các đội điều trị mở các đợt khám chữa bệnh hoa liễu, góp phần khắc phục loại bệnh xã hội này.

Trên cơ sở sản xuất khôi phục cuộc sống bớt khó khăn gay gắt, bệnh tật giảm... đời sống văn hóa thời kỳ này có bước phát triển, giao lưu văn hóa giữa các miền được chú trọng khuyến khích. Các đội văn công, chiếu phim lưu động phục vụ đồng bào nông thôn, tới các nông trường, đến các nhà máy biểu diễn. Các thôn xóm đều lập các đội văn nghệ nghiệp dư, không chỉ diễn các tích trò truyền thống mà còn xây dựng những tiết mục ca ngợi cuộc sống mới, ca ngợi lao động, ca ngợi các gương anh hùng liệt sĩ vì nước hy sinh...

Ba năm sau khi hòa bình được lập lại trên nửa nước là quãng thời gian ngắn. Trong quãng thời gian đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã nỗ lực phấn đấu vì sự hồi sinh của miền Bắc, vì sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Những kết quả đạt được thời kỳ này trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa mới chỉ là kết quả ban đầu. Nhưng, để có những kết quả ban đầu đó, chúng ta phải khắc phục nhiều trở ngại khách quan và một số vấp váp chủ quan. Vấp váp chủ quan do mới ra khỏi chiến tranh, chúng ta thiếu kinh nghiệm trong việc tổ chức và quản lý kinh tế - xã hội, áp dụng rập khuôn một số biện pháp có hiệu quả trong kháng chiến nhưng không còn thích ứng ở giai đoạn cách mạng mới. Trong học tập kinh nghiệm của các nước, chúng ta tiếp thu thiếu linh hoạt, máy móc...

Về mặt đó, không chỉ những kết quả khôi phục kinh tế phát triển văn hóa mà cả những bài học thành công và chưa thành công trong giai đoạn này là cơ sở để chúng ta bước vào giai đoạn tiếp theo một cách bình tĩnh và chắc chắn hơn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:04:10 pm

B- CẢI TẠO VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA

Tháng 4-1958, kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I được triệu tập tại Hà Nội. Phát biểu trong phiên khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhận định của Đảng và Chính phủ... “từ ngày hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta đã từ cách mạng dân tộc-dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ trước mắt của toàn dân ta là ra sức xây dựng và củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nhận định đó có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cách mạng chuyển biến đòi hỏi phải có một sự chuyển biến sâu sắc về tư tưởng và nhận thức, đòi hỏi phải có những chính sách, những biện pháp về công tác tổ chức phù họp với tình hình mới”1. Quốc hội đã thảo luận và thông qua nghị quyết xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam.

Giữa tháng 11-1958, Hội nghị lần thứ 14 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) thông qua Nghị quyết về tổng kết cải cách ruộng đất, khẳng định thắng lợi to lớn, căn bản có tính chiến lược và nghiêm khắc phân tích căn nguyên của những sai lầm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này, rút ra bài học lớn: phải tôn trọng những nguyên tắc tổ chức và nguyên tắc sinh hoạt của một đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, phải dũng cảm thừa nhận sai lầm và kiên quyết dựa vào lực lượng quần chúng cơ bản để tiến hành sửa sai. Về nhiệm vụ cách mạng hiện nay, Hội nghị cho rằng, sự nghiệp củng cố miền Bắc đòi hỏi phải đẩy nhanh hơn nữa công cuộc phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Trên cơ sở phân tích tình hình miền Bắc sau thời kỳ khôi phục kinh tế (1955-1957) và những chuyển biến mạnh mẽ của phong trào quần chúng trong ba năm. Hội nghị quyết định động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trên miền Bắc tiến hành ba năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa (1958 - 1960) với ba nhiệm vụ cơ bản:

1. Đẩy mạnh phát lriển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp làm khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lượng thực đồng thời rất chú trọng sản xuất công nghiệp, hết sức tăng thêm các tư liệu sản xuất và giải quyết phần lớn hàng tiêu dùng.

2. Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, khâu chính là đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh.

3. Trên cơ sở sản xuất phát triển, nâng cao thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, nhất là nhân dân lao động và tăng cường củng cố quốc phòng.

Nông nghiệp và nông thôn miền Bắc sau cải cách ruộng đất có nhiều chuyển biến sâu sắc. Tuy vậy, trong quá trình này đã xuất hiện những mâu thuẫn mới. Với diện tích ruộng đất bình quân quá thấp - 0,4 hécta/hộ canh tác, người nông dân chưa thoát khỏi cái “xiềng ba sào”, nên sự bình ổn đang còn mong manh trong cuộc sống của hàng triệu con người suốt đời gắn bó với đất đai, mùa vụ, luôn luôn phấp phỏng với mọi đổi thay của thời tiết, khí hậu... trong khi phương tiện và các điều kiện canh tác như trâu bò, nông cụ, phân bón... còn thiếu thốn đủ bề. Lề lối sản xuất cá thể ngự trị bao đời, khiến cho người nông dân khó bề khắc phục có hiệu quả sự tàn hại của những đợt giông bão, những kỳ hạn hán và nạn sâu bệnh có rất nhiều ở một xứ nhiệt đới để bảo vệ mùa màng. Trong khi đó, các biện pháp kỹ thuật mới chưa được áp dụng và các điều kiện phân, giống... còn rất hạn chế... nên mùa màng năng suất luôn luôn thấp, không đủ cho nhu cầu.

Về mặt xã hội, trong nông thôn đã xuất hiện trở lại sự phân hóa giàu, nghèo. Thiên tai ốm đau, bệnh tật và những bất trắc gặp phải trong cuộc sống khiến một số gia đình cầm đợ ruộng đất, trâu bò, không giữ được thành quả cải cách ruộng đất. Một số khác làm giàu bằng cho vay nặng lãi, mua bán lúa non, thuê mướn ngươi làm với tiền công rẻ mạt... Khuynh hướng này manh nha và phát triển từ cuối năm 1956. Tài liệu điều tra tháng 5-1958 của Ban công tác nông thôn Trung ương ở 12 xã thuộc Hồng Quảng, Nam Định, Thanh Hóa, Ninh Bình cho thấy, trong số 119 gia đình bán ruộng có 74 là bần nông, 28 trung nông, 1 phú nông và 15 tiểu thương. Báo cáo của Ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương tháng 3-1958 ghi nhận: trong số 200 nông hộ thuộc thôn An Cước, xã Liên An, tỉnh Hà Nam, có 47 hộ phải bán ruộng đất vì túng thiếu, ốm đau, 47 hộ phải bán trâu bò. Tình hình sẽ ngày càng gay gắt và ảnh hưởng xấu tới sự nghiệp củng cố miền Bắc, củng cố quốc phòng vì nông dân chiếm tuyệt đại dân số và sản xuất nông nghiệp bao trùm toàn bộ nền kinh tế.

Vốn có truyền thống đoàn kết, giúp đỡ nhau trong cuộc sống những năm kháng chiến, ở những vùng tự do, một số hộ nông dân đã tự nguyện liên kết, tương trợ nhau trong sản xuất dưới hình thức các tổ vần công, đổi công. Hòa bình lập lại, gắn với quá trình cải cách ruộng đất, khôi phục sản xuất, các tổ vần công, đổi công xuất hiện nhiều, trở thành phong trào quần chúng ở nông thôn. Giữa năm 1958, 41% hộ nông dân đã vào tổ đổi công và 134 hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp được xây dựng.
______________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 8, Nxb Sự thật. Hà Nội 1989. tr. 111.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:04:35 pm

Trước hai xu hướng đang diễn ra ở nông thôn, Đảng, Nhà nước chủ trương tiến hành cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, xem đó là con đường đưa nông dân miền Bắc đến ấm no hạnh phúc. Nội dung cuộc vận động gồm ba mặt liên quan chặt chẽ: cải tạo quan hệ sản xuất, cải tiến kỹ thuật, giáo dục tư tưởng. Nguyên tắc xây dựng hợp tác xã được xác định: tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Do trình độ sản xuất nông nghiệp và khả năng hỗ trợ của công nghiệp còn yếu, hợp tác hóa phải kết hợp với cải tiến kỹ thuật và phát triển sản xuất, hợp tác hóa đi đôi với thủy lợi hóa và tổ chức lại sản xuất. Để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, ruộng đất, tài sản của các tổ chức tôn giáo, đồng bào di cư, của nhà thờ, nhà chùa, nhà chung đều được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu. Những chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước về hợp tác hóa và cải cách dân chủ ở miền núi tương đối sát hợp với tình hình ruộng đất, tình hình giai cấp và tập quán đồng bào ít người.

Chuẩn bị cho phong trào hợp tác hóa, từ mùa thu năm 1957, cán bộ, đảng viên được học tập đường lối, chính sách của Đảng trong nông nghiệp. Nhiều lớp học phổ biến chủ trương nông nghiệp hóa cho cán bộ, đảng viên ở cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và cho quần chúng nhân dân được tổ chức. Đảng, chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương đều tổ chức các hội nghị rút kinh nghiệm, kiểm điểm tình hình thực hiện phong trào. Nhiều cán bộ có năng lực, am hiểu đời sống nông thôn được điều về cơ sở giúp chính quyền địa phương, giác ngộ quần chúng, chỉ đạo sản xuất, thành lập hợp tác xã. Nhà nước định rõ bước đi của phong trào, quy mô tổ chức hợp tác xã và các biện pháp thực hiện... Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm tới công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động quần chúng nhân dân, thường xuyên nhắc nhở đội ngũ cán bộ cơ sở nâng cao trách nhiệm, hết sức phòng ngừa tư tưởng nóng vội chạy theo số lượng, gò ép quần chúng…

Giai cấp nông dân tin tưởng một lòng theo Đảng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cách mạng dân tộc, dân chủ. Ngày nay, họ vẫn kiện quyết theo Đảng đi vào con đường làm ăn tập thể, xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, đặc tính nghề nghiệp, công việc làm ăn, sinh sống nhiều vất vả, gieo neo, một nắng, hai sương buộc họ luôn thực tế trong tính toán, chọn lựa, căn cơ trong tiêu dùng. Đây là nét tâm lý hằng xuyên cố hữu trong bản tính bao đời của người nông dân. Vì vậy, bên cạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng, Đảng, Chính phủ đã ban hành các chính sách nhằm giúp đỡ, hỗ trợ nông dân, tạo điều kiện cho hợp tác xã phát huy tính hơn hẳn so với sản xuất cá lẻ: Chính sách tín dụng (giúp vốn cho hợp tác xã phát triển sản xuất), chính sách mậu dịch (ưu tiên mua hàng, bán hàng cho hợp tác xã), chính sách thuế nông nghiệp đối với ruộng đất của hợp tác xã, chính sách khuyến khích các hợp tác xã phát triển nghề phụ, chính sách tiền công và phân bố nhân lực, chính sách hướng dẫn và giúp đỡ kỹ thuật cho hợp tác xã...

Cải tạo nông nghiệp, đưa nông dân vào hợp tác xã là một sự nghiệp to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Trong khi Trung ương và các cấp ủy đảng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác này, các cấp, các ngành, các đoàn thể đã tích cực giúp đỡ giải quyết nhanh các vấn đề thuộc về tài chính, mậu dịch, kỹ thuật, đào tạo cán bộ, hỗ trợ đắc lực cho phong trào.

Với nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và của các ngành, các cấp… kế hoạch cải tạo nông nghiệp tiên triển thuận lợi và nhanh gọn. Từ 134 hợp tác xã mùa thu 1958 đến tháng 11-1960, hợp tác xã hình thành hầu khắp xóm làng miền Bắc, ở cả vùng đồng bào các dân tộc ít người, vùng đồng bào Thiên chúa giáo, bao gồm 41.401 hợp tác xã với 85% tổng số hộ và 76% diện tích đất canh tác. Tuyệt đại đa số còn là hợp tác xã bậc thấp, quy mô nhỏ, trong đó ruộng đất, trâu bò, nông cụ vẫn thuộc sở hữu của hộ xã viên, nhưng do hợp tác xã thống nhất quản lý và sử dụng. Xã viên được hưởng 25% đến 30% số hoa lợi tính theo giá trị tài sản mà họ góp vào. Bên cạnh hợp tác xã, Nhà nước đã thành lập 15 nông trường quốc doanh - chủ yếu tiếp thu các doanh điền của thực dân Pháp và những Việt gian phản động bỏ lại. Ngoài ra một số đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ khẩn hoang, lập 29 nông trường quân đội. Riêng cán bộ miền Nam tập kết được tổ chức thành 10 liên đoàn sản xuất nông nghiệp, 3 tập đoàn đánh cá. Phần lớn các nông trường phân bố trên những khu vực kết hợp được cả kinh tế với quốc phòng.

Hợp tác hóa căn bản hoàn thành vào cuối năm 1960, quan hệ sản xuất mới được xác lập là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đối với nông thôn và nông dân miền Bắc, tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp phát triển, góp phần vào công cuộc kiến thiết miền Bắc và chi viện nhân tài, vật lực cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam.

Trước đây, loạn lạc đói kém và chiến tranh làm mai một nhiều ngành nghề thủ công truyền thống, làm tăng lên đáng kể số tiểu thương, hàng rong, buôn vặt. Hòa bình lập lại, sản xuất thủ công nghiệp từng bước hồi phục. Trong điều kiện công nghiệp còn bé nhỏ, nông nghiệp chưa phát triển, bình quân diện tích đất đai thấp, sản xuất tiểu thủ công nghiệp chiếm giữ một vị trí khá quan trọng, sản xuất hơn 80% vật dụng thiết yếu trong sinh hoạt của nhân dân, chủ yếu là nông dân, tạo ra công ăn việc làm thường xuyên cho hàng chục vạn người; chưa kể hàng chục vạn gia đình lấy sản xuất tiểu thủ công nghiệp làm nghề phụ lúc mùa vụ thư nhàn, rỗi rãi. Tuy nhiên, do chưa được tổ chức lại, những người làm nghề thủ công còn sản xuất phân tán, bảo thủ; dấu kín bí quyết nghề nghiệp, sản xuất thiếu ổn định... Trong khi đó, 20 vạn hộ buôn bán nhỏ (tính đến tháng 9-1958 ) số đông ít vốn, ít lời, lấy công làm lãi, đời sống bấp bênh, nhiều gia đình dần dần sa sút, túng quẫn, chỉ có số ít người trường vốn làm ăn khấm khá, đời sống ổn định.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:05:20 pm

Một chế độ ưu việt trước hết mọi thành viên trong xã hội đó có công ăn việc làm ổn định, đời sống vật chất dư dật, cuộc sống văn hóa tinh thần văn minh, lành mạnh, làm lợi cho bản thân nhưng đồng thời phải làm lợi cho mọi người, cho xã hội. Vì vậy, cải tạo thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ được đặt ra từ khi Đảng, Nhà nước chủ trương cải tạo các thành phần kinh tế. Chính quyền các cấp đã vận động thợ thủ công đi vào sản xuất tập thể, khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống, chuyển một bộ phận tiểu thương sang khu vực sản xuất vật chất, bộ phận còn lại tổ chức thành các hợp tác xã mua bán. Nhà nước đã hỗ trợ về vốn, nguyên liệu, vật liệu, kỹ thuật, xây dựng cơ bản, đào tạo cán bộ để thúc đẩy sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp... Năm 1960, miền Bắc đã có 2.760 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, thu hút 87.969 thợ thủ công vào con đường làm ăn tập thể, đã chuyển năm vạn người buôn bán nhỏ sang khu vực sản xuất. Số còn lại trong tầng lớp tiểu thương (102.000) được tổ chức thành các hợp tác xã và cửa hàng mua bán. Tất cả các tổ chức trên đây đều được xây dựng theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.

Đồng thời với cải tạo nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ, việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xóa bỏ bóc lột tư bản chủ nghĩa, được xem là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng XHCN. “Hiện nay, điều kiện đã chín muồi để chúng ta chủ động, tích cực và khẩn trương đẩy việc cải tạo XHCN đối với kinh tế tư bản tư doanh và giai cấp tư sản dân tộc lên một bước quan trọng, có ý nghĩa quyết định: đưa xí nghiệp tư bản tư doanh từ hình thức thấp và vừa lên hình thức cao của tư bản nhà nước, chủ yếu là hình thức công tư hợp doanh, chuyển chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa về căn bản thành chế độ sở hữu nhà nước và trên cơ sở quan hệ sản xuất mới đó, biến dần người tư sản dân tộc thành người lao động”1.

Trước đây trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tư sản dân tộc vốn nhỏ bé về kinh tế, bị đế quốc thực dân chèn ép về chính trị, từng là đồng minh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Từ ngày miền Bắc được giải phóng, họ vẫn thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng, tôn trọng cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc, có những đóng góp tích cực trong công cuộc phục hồi kinh tế ổn định tình hình sau chiến tranh. Căn cứ vào tương quan lực lượng, thái độ chính trị, thực lực kinh tế của giai cấp tư sản miền Bắc, đồng thời để tranh thủ lực lượng yêu nước ở miền Nam, Đảng và Nhà nước tiếp tục coi giai cấp tư sản dân tộc là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, coi mâu thuẫn giai cấp giữa công nhân và nhà tư sản là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Vì vậy, Đảng và Nhà nước đã dùng phương pháp dân chủ để giải quyết mâu thuẫn ấy; dùng phương pháp hòa bình để cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Nhà nước không tịch thu, trưng thu tư liệu sản xuất mà chuộc lại và trả dần, sử dụng các hình thức cải tạo từ thấp đến cao: gia công, đặt hàng, kinh tiêu, đại lý, xí nghiệp hợp tác, xí nghiệp công tư hợp doanh; kết hợp cải tạo với vận động, thuyết phục, giáo dục, làm cho nhà tư sản dân tộc “Thấy nội dung và ý nghĩa của chính sách cải tạo hòa bình, làm cho họ thấy con đường cải tạo là con đường vẻ vang, con đường tham gia vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước của giai cấp tư sản dân tộc”2.

Về phía mình, Đảng, Nhà nước định ra chính sách về kiểm kê, kiểm định tài sản, chính sách lãi và mức lãi... bảo đảm tính chính xác, sự công bằng và hợp lý, không để nhà tư sản thiệt thòi. Vì vậy, trong quá trình thực hiện kiểm kê, kiểm định, định ra mức lãi... các bên liên quan đã bàn bạc dân chủ trước khi đi đến thỏa thuận. Đồng thời, tùy theo trình độ, tài năng, nhà tư sản được xếp việc làm trong các xí nghiệp công tư hợp doanh và được trả lương theo khả năng lao động của họ...

Việc đề ra và giải quyết tốt các chính sách liên quan tới quyền lợi kinh tế, chính trị của nhà tư sản là nhân tố quan trọng ổn định tư tưởng của họ. Đại đa số các nhà tư sản đã tiếp thu và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Cuối năm 1960, toàn bộ cơ sở công thương nghiệp tư bản tư doanh trong diện cải tạo, bao gồm 889 cơ sở công nghiệp, 933 cơ sở thương nghiệp, 313 cơ sở vận tải đã được tổ chức thành các xí nghiệp công tư hợp doanh, các xí nghiệp hợp tác, các hợp tác xã thủ công nghiệp. 13.112 công nhân được giải phóng khỏi sự bóc lột của giai cấp tư sản, trở thành chủ nhân của các xí nghiệp. 1732 nhà tư sản và 500 người trong gia đình họ cùng 700 tiểu chủ được sắp xếp việc làm, trở thành người lao động.

Xét về thời gian, diễn biến, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tiểu thương và công thương nghiệp tư bản tư doanh đã được thực hiện nhanh, thuận lợi. Kinh tế tư bản tư doanh đã chuyển thành kinh tế công tư hợp doanh, phần lớn kinh tế của người sản xuất nhỏ được tổ chức thành kinh tế hợp tác xã. Sự thay đổi về quan hệ sản xuất mở ra khả năng mới để phát triển sản xuất. Và chỉ bằng phát triển sản xuất mới có thể củng cố quan hệ sản xuất vừa thiết lập. Vì thế, trong quá trình cải tạo thành phần kinh tế tư nhân - nhiệm vụ trọng tâm thời kỳ 1958 -1960, Nhà nước đã đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể xây dựng được cơ sở vật chất cho chế độ mới; thúc đẩy nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa.
______________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (4-1959) về vấn đề cải tạo XHCN đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh. Văn kiện lịch sử Đảng, Tlđd, t. 10, tr. 15, 18.
2. Tlđd, tr. 18.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:05:44 pm

Đối với công nghiệp, đầu tư của Nhà nước tăng từ 172,2 triệu đồng (1955-1957) lên 544.5 triệu đồng (1958-1960), chiếm 36,4% trong tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản vào các ngành kinh tế và văn hóa của kế hoạch ba năm 1958-1960. 130 công trình trên hạn ngạch để sản xuất tư liệu sản xuất được xây dựng và mở rộng trong thời kỳ này như Khu liên hiệp gang thép Thái Nguyên, Nhà máy điện Vinh, Thanh Hóa, Thái Nguyên, Uông Bí, Nhà máy cơ khí Hà Nội, Nhà máy Supe phốt phát Lâm Thao, Nhà máy phân lân Văn Điển, Nhà máy phân đạm Bắc Giang, Nhà máy hóa chất Việt Trì, Nhà máy chế tạo công cụ, Xưởng đóng tàu Bạch Đằngv.v… Ngoài ra, một loạt các hầm mỏ tiếp tục khôi phục, xây dựng và mở rộng thêm: mỏ than Hồng Gai, Mạo Khê, Làng Cẩm, mỏ Apatít Lào Cai, mỏ thiếc Tĩnh Túc, mỏ kẽm Chợ Điền.

Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thời kỳ này phát triển, đảm bảo phần lớn nhu cầu thiết yếu cho nhân dân như vải, đồ dệt kim, đồ dùng gia đình, diêm, xà phòng, đồ nhựa, đồ sắt tráng men... Một số cơ sở công nghiệp nhẹ bắt đầu được khởi công xây dựng: Nhà máy đường Vạn Điểm, Nhà máy giấy Việt Trì, nhà máy dệt 8-3, Nhà máy bóng đèn, phích nước, Nhà máy mỳ chính, hoa quả hộp...

Trước kia, thời thuộc Pháp, công nghiệp chủ yếu tập trung ở bốn thành phố Hà Nội, Nam Định, Vinh, Hải Phòng và khu mỏ Hòn Gai... giờ đây, đi đôi với phát triển công nghiệp quốc doanh Trung ương, Nhà nước quan tâm tới việc xây dựng công nghiệp địa phương. Năm cuối cùng của kế hoạch ba năm, trong tổng số 1012 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh có 203 xí nghiệp Trung ương và 809 xí nghiệp địa phương. Ngoài 809 xí nghiệp, công nghiệp địa phương còn bao gồm 2760 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp phân bố rộng khắp trên cả nước. Việc công nghiệp địa phương hình thành và ngày càng phát triển, mở ra khả năng sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và sức lao động tại chỗ, đáp ứng kịp thời và đáng kể những đòi hỏi của sản xuất nông nghiệp và tiêu dùng của nhân dân địa phương. Năm 1960, sản lượng của công nghiệp địa phương chiếm từ 90 đến 100% sản lượng toàn ngành như sản xuất nông cụ thường, nông cụ cải tiến, thuốc trừ sâu, vật liệu xây dựng như vôi, gạch...

Sau ba năm cải tạo và phát triển kinh tế, nền công nghiệp non trẻ miền Bắc có bước tiến về nhiều mặt. Giá trị sản lượng công nghiệp trong tổng giá trị kinh tế quốc dân từ 31,4% (1957) lên 41% (1960). Tỷ trọng công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất từ 23,5% tăng lên 35,2% và công nghiệp hiện đại từ 12,8% lên 23,7% biểu hiện sự thay đổi về cơ cấu trong bản thân nền công nghiệp. Đặc biệt thời kỳ này, công nghiệp quốc doanh tăng mạnh, tù 67% lên 90% (không kể tiểu thủ công nghiệp), thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, cung cấp cho đất nước một khối lượng sản phẩm quan trọng, trong đó có những sản phẩm trước đây phải nhập từ nước ngoài. Phát triển giao thông vận tải và bưu điện thời kỳ này tiếp tục là nhiệm vụ quan trọng, nhằm tạo ra hạ tầng cơ sở cho các hoạt động xây dựng kinh tế, củng cố quốc phòng. Vì vậy, Nhà nước dành 21% tổng số vốn đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất cho ngành giao thông, vận tải và bưu điện. Với số vốn này, ngành giao thông vận tải và bưu điện tiếp tục khôi phục, tu bổ và làm mới nhiều tuyến đường sắt, đường bộ, hệ thống cầu cống, nhà ga, bến bãi; nạo vét luồng sông, lạch biển, bảo dưỡng cầu tàu... tổ chức tiếp mạng điện thoại quốc gia và liên tỉnh; lắp đặt trạm điện thoại 3.000 số và hàng loạt tổng đài, sửa chữa và đóng mới nhiều phương tiện vận tải. Bắt đầu từ 1959, với chủ trương Trung ương và địa phương cùng làm, mạng đường sá nông thôn đồng bằng, miền núi được mở mang, tu bổ, bao gồm hàng ngàn kilômét đường vận tải cơ giới, thô sơ ở mọi miền quê, phong trào “giải phóng đôi vai”, “cải tạo đường làng”... đã thu hút đông đảo nhân dân tham gia.

Dựa trên cơ sở vật chất, kỹ thuật được củng cố, phát triển đó, năng lực vận tải và bưu điện tăng lên phục vụ kịp thời yêu cầu giao lưu và phát triển kinh tế, văn hóa, góp phần cải thiện cuộc sống vật chất và tinh thần nhân dân, đáp ứng một phần yêu cầu chỉ đạo kịp thời của Trung ương đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà.

Trong ba năm, sở dĩ công nghiệp, giao thông vận tải và bưu điện đạt được bước tiến quan trọng trên đây là do sự hỗ trợ tích cực của các ngành tài chính, ngân hàng, nội thương, ngoại thương và đóng góp của toàn dân. Thời kỳ này, thương nghiệp quốc doanh vươn lên chiếm lĩnh thị trường đạt 93,6% tổng mức lưu chuyển bán buôn (so với 50,3% năm 1957) và 51% tổng mức lưu chuyển bán lẻ (so với 25,8% năm 1957). Nếu kể cả hợp tác xã mua bán, đến năm 1960, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa chiếm tỷ trọng 77,5% tổng mức lưu chuyển bán lẻ trên toàn bộ thị trường miền Bắc. Những hoạt động của thương nghiệp thời kỳ này bảo đảm ổn định thị trường nội địa, cung ứng hàng hóa thiết yếu theo định lượng, với giá ổn định, góp phần bình ổn và cải thiện đời sống nhân dân, trước hết là những người làm việc trong hầm mỏ, nhà máy, công trường, trên ruộng đồng, trong các cơ quan nhà nước và lực lượng vũ trang. Cung cách và thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ, nhân viên thương nghiệp thực sự được nhân dân tin cậy. Những bước tiến vững chắc của nền thương nghiệp mới được phát huy tác dụng trong những năm chiến tranh, thực sự trở thành người nội trợ đảm đang của quân đội, của chiến tranh nhân dân.

Hoạt động tài chính, ngân hàng, ngoại thương do Nhà nước độc quyền quản lý, điều hành đã phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và củng cố miền Bắc. Tài chính, ngân hàng đã cố gắng bồi đắp và cân bằng giữa thu và chi, đảm bảo vốn ngân sách tập trung cho kế hoạch bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế, văn hóa nhất là các ngành công nghiệp thiết yếu và nông nghiệp. Ngoại thương từng bước mở rộng tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài - đặc biệt là các nước XHCN, để xây dựng lại đất nước. Trước năm 1955, ngoại thương vùng tạm chiếm hoàn toàn nằm trong tay tư bản Pháp và một phần nhỏ tư sản mại bản người Việt. Sau khi miền Bắc giải phóng, hoạt động ngoại thương của tư nhân nhanh chóng thu hẹp dần từ 23% kim ngạch xuất khẩu (1955) còn 1% (năm 1958 ). Do thuộc quyền quản lý, điều hành của Nhà nước, kinh tế đối ngoại nắm sát yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn. Trong ba năm 1958 -1960, Nhà nước tăng cường nhập khẩu nhóm tư liệu sản xuất, giảm bớt việc nhập các sản phẩm tiêu dùng từ 35% (1957) xuống còn 15% (1960) trong cơ cấu hàng nhập khẩu do sự tăng trưởng của công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp trong nước.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:06:27 pm

Gắn chặt với quá trình cải tạo quan hệ sản xuất, Đảng, Nhà nước đặc biệt chú trọng phát triển nông nghiệp, xem đó là nhiệm vụ quan trọng để củng cố quan hệ sản xuất mới đang hình thành và đã chiếm ưu thế khắp nông thôn miền Bắc. Để phát triển sản xuất, ngoài việc động viên mọi ngành, mọi cấp phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng nông nghiệp và nông thôn mới, Nhà nước đã đầu tư vào nông nghiệp 180 triệu đồng trong ba năm (1958-1960), cho nông dân vay 158 triệu đồng, cung cấp 30 vạn tấn phân hóa học, 6 vạn con trâu bò, 4 triệu nông cụ các loại, mở các trường đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật nông, lâm... và giúp đỡ nông dân áp dụng kỹ thuật canh tác mới. Nhà nước đầu tư xây dựng 15 công trình thủy lợi vừa và lớn, trong đó có công trình đại thủy nông Bắc - Hưng - Hải. Đây là công trình tưới tiêu nước cho ba tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương. Ngày 1-10-1958, công trình được khởi công. Bộ Tổng tham mưu đã điều động các sư đoàn chủ lực của Bộ và lực lượng vũ trang Quân khu Tả ngạn, Hữu ngạn cùng với 1000 cán bộ, chiến sĩ binh chủng công binh tham gia xây dựng công trình.

Cùng với sự hỗ trợ của quân đội, nông dân miền Bắc đã bỏ ra hàng trăm triệu ngày công tiếp tục cải tạo, xây dựng hệ thống thủy lợi, cải tạo đường làng, đường liên hương, liên xã, đưa diện tích đất trồng cấy có nước tưới lên 70%; 1/5 diện tích ruộng thường xuyên úng ngập được khắc phục, 45.000 hécta đất canh tác một vụ chuyển sang hai vụ. Ngoài ra, công tác quản lý lao động, quản lý sản xuất, quản lý tài vụ trong nhiều hợp tác xã được xác lập đang đi dần vào nề nếp. Các hợp tác xã đã chia hộ xã viên thành đội sản xuất hoặc tổ lao động. Đêm đêm dưới ánh đèn dầu hay dưới ánh trăng, mọi xã viên trong đội họp lại bình công, chấm điểm, trao đổi về thời vụ mùa màng, công việc làm ăn… nó là nét sinh hoạt bình thường, nhưng trước đó không lâu, nông thôn miền Bắc chưa thể nào có được.

Dù vật chất, kỹ thuật còn yếu kém thô so, nhưng với sự hỗ trợ của Nhà nước, sự tác động tích cực của quan hệ sản xuất mới và những nỗ lực lớn của giai cấp nông dân tập thể, trong ba năm, nông nghiệp miền Bắc tiếp tục phát triển. Năm 1950, tổng sản lượng lương thực đạt mức 5 triệu tấn. Năm 1960, bị thiên tai tàn phá nặng, tổng sản lượng lương thực bị sút giảm, nhưng vẫn tăng 30 vạn tấn so với năm 1957. Các chỉ tiêu khác trong nông nghiệp: chăn nuôi, cây công nghiệp, trồng màu... đều tăng. Nhìn chung, hàng năm, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng bình quân 5,6%, “Đó là tốc độ khá cao. Nhờ vậy đời sống vật chất và văn hóa của nông dân và nhân dân nước ta đã được cải thiện một bước, nông nghiệp đã góp phần vào việc xây dựng công nghiệp, củng cố quốc phòng”1.

Trên nền tảng của những biến đổi trong đời sống chính trị, kinh tế, sự nghiệp giáo dục, văn hóa và y tế, miền Bắc tiếp tục xóa bỏ những tàn tích văn hóa, lối sống... của chế độ cũ, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới Việt Nam. Giáo dục phổ thông và đại học thời kỳ này phấn đấu gắn với thực tiễn cuộc sống, với điều kiện của Việt Nam. Hệ thống giáo dục mới hình thành trong ba năm phục hồi kinh tế, giờ tiếp tục được củng cố bao gồm các trường bổ túc công nông, nhà trường phổ thông (3 cấp) và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp. Đảng, Nhà nước đặc biệt chú trọng tới học hành của con em nhân dân lao động, của phụ nữ, của con em các tộc người thiểu số. Nhà nước ban hành và thực hiện một số quy định khuyến khích giáo viên từ miền xuôi lên miền núi dạy học. Nhiều người đã trọn đời gắn bó và tận tụy với sự nghiệp giáo dục vùng cao xem nơi đó là quê hương thứ hai của mình. Những gia đình có ba con đi học, gia đình liệt sĩ, thương binh và những học sinh nghèo, học sinh các tộc người thiểu sổ được miễn giảm học phí và nhận học bổng.

Trước đòi hỏi của thực tiễn đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục đại học, trung học chuyên nghiệp đứng trước những nhiệm vụ cấp bách, nặng nề: nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế giáo dục, y tế, văn hóa... đủ phẩm chất đạo đức và năng lực, vừa hồng vừa chuyên. Ngoài các trường đại học, trung học chuyên nghiệp đã có, năm 1959, Nhà nước mở thêm đại học Sư phạm Vinh, đại học Kinh tế - Tài chính, đưa tổng số các trường đại học lên 8 trường với 50 ngành học. Đảng, Nhà nước có chính sách nhằm tăng thành phần công-nông-binh trong cơ cấu đội ngũ cán bộ và sinh viên.

Nền văn hóa mới - đa dạng và phong phú, truyền thống và hiện đại kết hợp đang hình thành - đó là nền văn hóa phục vụ nhân dân lao động. Trầm tĩnh khi thẩm định các giá trị truyền thống, không phụ niềm tin của đồng chí, đồng đội và đồng bào đã hy sinh, không thờ ơ quay lưng với cuộc sống của nhân dân mình - một nhân dân thủy chung bao dung, nhân ái, đại đa số những văn nghệ sĩ từng đi qua một thời chiến tranh, nay đang “cùng đổ mồ hôi, cùng sôi nước mắt” với nhân dân lao động, xây dựng những tác phẩm nghệ thuật về cuộc sống mới, con người mới trên miền Bắc; về cuộc đấu tranh bền bỉ kiên cường của nhân dân miền Nam cho ngày thống nhất. Các văn nghệ sĩ đã góp phần hun đúc ý chí, tình cảm cách mạng, niềm tin vào ngày mai tươi sáng, bồi đắp tình yêu thương giai cấp, yêu đồng chí, đồng bào, yêu niềm Nam đang chịu thương đau - một miền Nam “đi trước, về sau” thủy chung, kiên cường, bất khuất... Văn học và nghệ thuật với sức hấp dẫn đặc trưng, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của các tầng lớp xã hội, của đông đảo nhân dân.

Mạng lưới y tế bảo vệ sức khỏe nhân dân hình thành rộng khắp. Năm 1960, toàn miền Bắc có 263 bệnh viện, 3.000 trạm y tế, nhà hộ sinh. Các dịch bệnh được tích cực phòng trừ. Phong trào thể dục, thể thao - đặc biệt là các môn thể thao quốc phòng phát triển ở trường học, các cơ quan, các đơn vị quân đội... góp phần nâng cao sức khỏe và ý thức quốc phòng trong nhân dân.

*
*   *

Gần sáu năm xây dựng trong hòa bình, khắc phục bao trở ngại, khó khăn, nhân dân miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, đã bền bỉ lao động, từng bước ổn định tình hình, tạo dựng cơ sở kinh tế đi dần vào thế ổn định với hai ngành sản xuất chính - nông nghiệp và công nghiệp, với hai hình thức sở hữu bao trùm - quốc doanh và tập thể. Trên nền tảng kinh tế đó, sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế phát triển, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Dù còn nhiều khó khăn, nhưng miền Bắc thực sự là xã hội của người lao động, trong đó giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân tập thể cùng tầng lớp trí thức mới là lực lượng chủ yếu đang ra sức xây dựng miền Bắc vững mạnh về chính trị - tinh thần, kinh tế, văn hóa và quốc phòng - an ninh, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân miền Nam trong cuộc đấu tranh chống Mỹ xâm lược và tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm.
______________________________________
1. Tlđd, tr. 122, 123.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:07:34 pm

II. CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN, XÂY NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN VÀ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN.

A- CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN

Ổn định tình hình sau chiến tranh, xây dựng miền Bắc trở thành nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Đảng ta phải giải quyết toàn diện những vấn đề cơ bản đặt ra không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, mà còn trong lĩnh vực chính trị và tổ chức. Chín năm trong chiến tranh, Đảng, Chính quyền dân chủ nhân dân phải dồn tâm lực vào nhiệm vụ chủ yếu là giành độc lập dân tộc và từng bước thực hiện nhiệm vụ dân chủ. Sau chiến tranh, bên cạnh một loạt vấn đề kinh tế, xã hội nóng bỏng phải khắc phục, Đảng ta, ngay từ đầu hết sức chú trọng đến việc xây dựng, củng cố chính quyền. Đảng xác định “Củng cố chính quyền nhân dân là một công tác cần thiết để củng cố miền Bắc. Muốn củng cố chính quyền nhân dân, một mặt phải kết hợp với phát động quần chúng cải cách ruộng đất để chỉnh đốn chính quyền cấp xã và cấp huyện, làm cho chính quyền cấp xã thực sự là chính quyền của nông dân lao động, đồng thời chỉnh đốn và cải tạo từng bước chính quyền ở vùng mới giải phóng, xây dựng chính quyền ở các thành thị một cách vững vàng và rộng rãi. Làm cho các cơ quan chính quyền gần gũi quần chúng nhân dân hơn và kiên quyết dựa vào quần chúng để thi hành chính sách. Cải thiện quan hệ giữa Đảng và chính quyền để đảm bảo chính sách của Đảng được các cơ quan chính quyền thông suốt và chấp hành đúng, đảm bảo lãnh đạo chính quyền một cách chặt chẽ”1.

Để củng cố chính quyền, việc nâng cao sức mạnh và quyền lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới có ý nghĩa quyết định.

Đứng trước những nhiệm vụ phức tạp, nặng nề sau chiến tranh, Đảng đặc biệt coi trọng công tác tư tưởng, xây dựng công tác lý luận, chỉnh đốn tổ chức đảng, kiện toàn bộ máy lãnh đạo của Đảng, tích cực sửa đổi lề lối làm việc và phương pháp lãnh đạo; đi sát thực tế, gắn bó máu thịt với quần chúng nhân dân, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình thực hiện mở rộng dân chủ nội bộ,... Đảng hết sức chú trọng công tác lựa chọn sử dụng cán bộ và công tác kiểm tra. Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng (khóa II) đề ra phương hướng, nhiệm vụ của công tác cán bộ là: “Mạnh dạn cất nhắc cán bộ, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ công, nông một cách thường xuyên trong công tác hàng ngày; lựa chọn cán bộ cho thích hợp với từng công tác, tập trung lực lượng, bố trí cán bộ để đảm bảo thực hiện chu đáo những công tác chính trị. Thực hiện việc thống nhất quản lý cán bộ. Cần lập Ban Kiểm tra Trung ương, và ngành nào cũng phải tự tổ chức việc kiểm tra của mình để kiểm tra một cách có trọng điểm việc thi hành những chính sách của Đảng và Chính phủ”2. Những cán bộ của Đảng có phẩm chất và năng lực được lựa chọn bổ nhiệm vào các chức vụ quan trọng của bộ máy nhà nước, và các cấp chính quyền... Đảng thông qua các tổ chức đảng đoàn ở Hội đồng chính phủ và các cơ quan, bộ máy khác của Nhà nước, của Mặt trận để thực hiện chủ trương chính sách của Đảng. Các cấp ủy đảng chú ý lãnh đạo việc củng cố và mở rộng chính quyền, phân công dứt khoát, có kiểm tra đôn đốc chống hiện tượng khoán trắng cho chính quyền. Chuyển sang thời bình, đòi hỏi đội ngũ cán bộ của Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo về kinh tế. Do đó, đảng ủy viên các cấp và đội ngũ cán bộ của Đảng được học tập chính sách kinh tế, tài chính và nghiệp vụ ở trong nước và nước ngoài học tập các chuyên gia nước bạn, để dần dần trở thành những cán bộ không những vững về chính trị, tư tưởng mà còn giỏi trong xây dựng kinh tế quản lý đất nước.

Trong những năm kháng chiến, bộ máy chính quyền từng bước được xây dựng, nhưng do hoàn cảnh và điều kiện lúc bấy giờ, tổ chức và hoạt động còn nặng về hành chính và kháng chiến. Hòa bình lập lại, các cơ quan nhà nước phải chỉ đạo toàn diện mọi hoạt động của xã hội, có quyền hạn cụ thể đặc biệt trong lĩnh vực tổ chức, quản lý kinh tế. Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước, giữa chính quyền các cấp với các đoàn thể quần chúng và nhân dân được phân định trách nhiệm rõ ràng.

Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được bầu từ năm 1946, nay do đặc điểm đất nước tạm thời chia làm hai miền, cuộc đấu tranh để thống nhất Tổ quốc còn tiếp tục, nên chưa tiến hành bầu cử Quốc hội khóa II. Tuy vậy, các kỳ họp Quốc hội được tiến hành theo định kỳ để nghe Chính phủ trình bày về tình hình trong nước và quốc tế, xét duyệt và thông qua các chủ trương, chính sách, các kế hoạch kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Ngày 20-9-1955, Quốc hội khóa I họp kỳ thứ 5 đã cử đồng chí Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ. Ngày 24-1-1957, Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về kiện toàn tổ chức Quốc hội, trong đó nhấn mạnh mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri.

Củng cố vai trò và hiệu lực của các cơ quan Nhà nước, đặc biệt các cơ quan quyền lực được tiến hành từng bước trong suốt thời kỳ này. So với trước tháng 7-1954, số thành viên của Hội đồng chính phủ những năm sau khi hòa bình lập lại tăng gần gấp đôi. Nhiều cơ quan quản lý kinh tế, quản lý xã hội được thành lập. Để kịp thời giải quyết những công tác cấp bách, lề lối làm việc của Hội đồng chính phủ được cải tiến: giữa các kỳ họp toàn thể Hội đồng Chính phủ có Hội nghị thường vụ. Sau ngày Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ được Quốc hội thông qua (tháng 7-1960), bên cạnh các Bộ, cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ còn bao gồm các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan trực thuộc Hội đồng chính phủ.
______________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (mở rộng từ ngày 3 đến 12-3-1955). Văn kiện lịch sử Đảng. Tlđd, t. 1, tr. 46. 47.
2. Văn kiện lịch sử Đảng, Tlđd, t. 9, tr. 53.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:08:23 pm

Các Ủy ban kháng chiến - hành chính ra đời trong kháng chiến chống Pháp, làm nhiệm vụ kháng chiến và hành chính, từ tháng 9-1954 được đổi thành Ủy ban hành chính. Hệ thống chính quyền địa phương này, nhất là ở cấp xã và cấp huyện, được chỉnh đốn một bước trong những năm đầu sau chiến tranh. Nhanh chóng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã và huyện, Đảng, Nhà nước đã tổ chức nhiều khóa học chính trị, mở các lớp bổ túc văn hóa đề họ có đủ năng lực đảm trách công việc chính quyền.

Thời gian đầu sau hòa bình, việc bầu cử Hội đồng nhân dân tạm hoãn ở cấp tỉnh và những xã còn đang gặp nhiều khó khăn. Từ tháng 7-1957, chính quyền địa phương được củng cố và kiện toàn một bước thông qua việc ban hành Sắc luật số 04-SL. Sắc luật này quy định công tác bầu cử Hội đồng nhân dân sẽ tiến hành đều đặn trên toàn miền Bắc; Hội đồng nhân dân cử ra Ủy ban hành chính cùng cấp, chức năng chủ yếu của Ủy ban hành chính là quản lý kinh tế và xã hội. Từ năm  1958, cấp hành chính liên khu được bãi bỏ, đồng thời số lượng ủy viên Ủy ban hành chính các cấp tăng thêm. Các cơ quan Trung ương và chính quyền các địa phương được củng cố đã tăng cường sức mạnh của Nhà nước trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện những nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, củng cố tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.

Nhằm đẩy mạnh việc dân chủ hóa cơ quan tư pháp, tháng 4-1958, Quốc hội quyết định thành lập Tòa án Nhân dân tối cao và Viện công tố nhân dân, tách hệ thống tòa án nhân dân và hệ thống công tố khỏi Bộ Tư pháp, chuyển thành hai cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ.

Khối đại đoàn kết toàn dân - nguồn sức mạnh của chính quyền dân chủ nhân dân thời kỳ này tiếp tục được mở rộng và củng cố. Từ ngày 5 đến ngày 15-9-1955. Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc họp tại Hà Nội đã quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thay cho Mặt trận Liên Việt trước đây. Đại hội đã bầu ra Ủy ban Trung ương Mặt trận do đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch và thông qua dự thảo Cương lĩnh, Điều lệ Mặt trận. Tuyên ngôn và Cương lĩnh thể hiện nguyện vọng, ý chí của mọi người Việt Nam yêu nước là đại đoàn kết để hoàn thành sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh. Phát biểu trong buổi bế mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ của lực lượng đấu tranh của nhân dân ta. Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh, cây mới tốt. Muốn thực hiện Cương lĩnh của Mặt trận thì chúng ta phải ra sức củng cố miền Bắc về mọi mặt, phải làm cho miền Bắc vững mạnh và tiến lên mãi, chứ quyết không phải là hạ thấp yêu cầu củng cố miền Bắc”1.

Sau đại hội, khắp nơi trên miền Bắc, chính quyền và các đoàn thể quần chúng đã mở các hội nghị đại biểu nhân dân thảo luận Cương lĩnh của Mặt trận, động viên mọi người, mọi giới hăng hái thi đua ái quốc, ra sức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trước mắt, lập thành tích trong công tác để biểu dương ý chí đấu tranh thống nhất của nhân dân ta.

Trong Mặt trận Tổ quốc, các tộc người thiểu số đặc biệt được quan tâm. Các cơ quan trung ương và địa phương đều có đại biểu các tộc người. Đảng, Nhà nước đã ban hành những chính sách nhằm phát triển kinh tế, văn hóa miền núi. Tháng 5-1955, Khu tự trị Thái - Mèo (Khu tự trị Tây Bắc) và tháng 8-1956, Khu tự trị Việc Bắc được thành lập. Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào khu tự trị. Người chỉ rõ: “Mục đích thành lập Khu tự trị là để làm cho các dân tộc anh em toàn Khu cùng nhau tự quản lý công việc của mình, phát huy khả năng của mình, tiến bộ mau chóng về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”2. Từ tháng 8-1959, các khu và tỉnh miền núi triển khai cuộc vận động “Hợp tác hóa nông nghiệp, phát triển sản xuất kết hợp với hoàn thành cải cách dân chủ” trong 2.005 xã với 3 triệu dân - đại đa số là đồng bào các dân tộc ít người. Cuộc vận động này giành được thắng lợi đã làm cho vùng núi phát triển về nhiều mặt, tăng cường khối đoàn kết giữa các tộc người và cải thiện một bước đời sống kinh tế, văn hóa của họ. Từ đấy, vùng cao bản làng định cư xuất hiện ngày càng nhiều. Các tộc người thiểu số đi vào làm ăn tập thể, sống hòa thuận như anh em. Cuộc đời lặng lẽ, âm thầm, cô quạnh với ốm đau, dịch bệnh, du canh du cư, đốt rùng phá rẫy, mê tín dị đoan đè nặng lên mỗi kiếp người của họ như một định mệnh được khắc phục một phần.

Để tăng cường khối đại đoàn kết, Đảng, Nhà nước luôn luôn thực hiện chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, không can thiệp vào hoạt động tôn giáo, không xâm phạm đến tài sản và lợi ích hợp pháp của nhà thờ, nhà chùa, nhà chung. Trên cơ sở phân biệt tín ngưỡng của đa số giáo dân yêu nước với âm mưu lợi dụng của bọn phản động núp bóng nhà thờ, Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền đã làm hết sức mình cho tình đoàn kết trong nhân dân lao động, khắc phục sự cách biệt và mặc cảm nặng nề giữa người theo đạo và người không theo đạo, giữa tôn giáo với chính quyền - di sản của chính sách thống trị của chủ nghĩa thực dân và hậu quả của những hoạt động lợi dụng tôn giáo trước ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng.

Đối với những người trước đây từng làm việc, cộng tác với chế độ cũ, thái độ của Đảng là “gạn đục khơi trong” tranh thủ những ai còn nặng tình dân tộc. Đảng, Nhà nước và Hồ Chủ tịch thường xuyên giáo dục cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, thực hiện nghiêm đường lối giai cấp và chính sách Mặt trận của Đảng. Tháng 9-1954, nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi về tiếp quản Thủ đô. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn mọi người: “về xuôi, phải làm gương mẫu trong mọi việc, tùy hoàn cảnh của mình mà giúp đỡ nhân dân. Gương mẫu trong lời nói việc làm, thái độ, làm sao cho người ta thấy rõ mình là con người kháng chiến. Ngay đối với những người không kháng chiến, những người “dinh tê”3 cũng không khinh rẻ họ mà phải giúp đỡ cho họ tiến bộ, để họ cùng ta làm việc. Việc nước là việc chung, mà việc thì rất nhiều, chỉ Bác cháu ta không làm hết việc đâu. Chúng ta phải dùng năng lực của mọi người.

Bất kỳ trước đây họ là thế nào nếu ngày nay họ thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, nếu họ muốn thật thà phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thì chúng ta cần cộng tác với họ”4.

Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh được sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp xã hội: sự nhất trí về chính trị, tinh thần trong nhân dân được tăng cường, khối đại đoàn kết toàn dân được mở rộng.
______________________________________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Sđd, t. 7. tr. 331, 502.
3. Những người chạy sang vùng địch kiểm soát.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Sđd. tr. 40-41.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:08:49 pm

Khối liên minh công nông, chỗ dựa của Nhà nước dân chủ nhân dân được củng cố, tăng cường nhờ kết quả của cải cách ruộng đất và nhờ nỗ lực của Đảng, Nhà nước, của giai cấp công nhân trong cuộc vận động thu hút đông đảo nông dân đi vào làm ăn tập thể. Giai cấp công nhân đã cung cấp cho nông nghiệp nông thôn nhiều sản phẩm của mình, hỗ trợ đắc lực cho việc phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp: ổn định và cải thiện đời sống của nông dân. Trong những thời điểm diễn ra sự thay đổi có tính chất bước ngoặt ở nông thôn, giai cấp công nhân đã cử hàng vạn cán bộ, công nhân viên thuộc các ngành, nghề trong công nghiệp về các vùng giúp đỡ, hỗ trợ cho nông dân.

Là lực lượng tiên phong, giai cấp công nhân không ngừng lớn lên về số lượng và chất lượng. Từ 17 vạn năm 1955, đến năm 1960, tăng lên 48 vạn. Trình độ giác ngộ chính trị, trình độ sản xuất và năng lực quản lý xí nghiệp của đội ngũ cán bộ, công nhân trong các ngành công nghiệp từng bước được nâng cao. Tháng 9-1957, Quốc hội khóa 1, kỳ họp thứ 7, đã thông qua Luật Công đoàn, chính thức công nhận địa vị lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới.

Giai cấp nông dân tập thể đã phát huy mặt mạnh của mình, thi đua sản xuất lương thực, thực phẩm nuôi sống xã hội và giai cấp công nhân, trí thức... đồng thời cung cấp cho ngành công nghiệp non trẻ của đất nước những nguyên, vật liệu để sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, góp phần quan trọng thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. Từ năm 1958 đến 1960, kinh tế, xã hội miền Bắc chuyển biến sâu sắc. Ý thức làm chủ, trình độ giác ngộ chính trị, trình độ quản lý của công nhân, nông dân được nâng cao thông qua cuộc vận động cải tiến quản lý xí nghiệp công nghiệp và cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp. Với những biến đổi sâu sắc trong lĩnh vực chính trị, kinh tế xã hội, khối liên minh công nông được củng cố trên nền tảng mới vững chắc hơn.

Ngày 20-2-1958, Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai được triệu tập tại Hà Nội. Gần 500 đại biểu các ngành văn nghệ trên toàn miền Bắc về dự. Tại đây, đa số đại biểu kiên quyết đấu tranh chống lại tư tưởng sai trái và phản động của một số người trong nhóm “Nhân văn - Giai phẩm”. Đại hội quyết định thành lập Hội Văn học Nghệ thuật và các hội riêng của từng ngành văn học, nghệ thuật thay cho các tổ chức văn nghệ cũ.

Để phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân, huy động sức mạnh của nhân dân phục vụ sự nghiệp củng cố miền Bắc, củng cố chính quyền, cuối tháng 12-1956 và đầu tháng 1-1957, kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa I đã quyết định kiện toàn tổ chức, tăng cường hoạt động của các đại biểu nhằm thắt chặt mối liên hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri. Quốc hội thông qua nghị quyết về việc ban hành Luật Công đoàn và thông qua bốn đạo luật: Luật bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của công dân. Luật quy định về quyền tự do hội họp. Luật quy định quyền tự do lập hội. Luật về chế độ báo chí.

Tiếp đó, Trung ương Đảng lần lượt công bố chính sách đối với trí thức (8-1957), chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh (8-1957), Bộ Chính trị ra Nghị quyết về công tác văn hóa, văn nghệ (1-1958 ).

Sau gần ba năm soạn thảo và công bố dự thảo Hiến pháp mới để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thảo luận, góp ý kiến, ngày 31-12-1959, Hiến Pháp mới của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Quốc hội thông qua. Hiến pháp mới là đạo luật cơ bản quy định tính chất, chế độ chính trị, kinh tế của Nhà nước Việt Nam. Lời nói đầu của Hiến pháp xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Nhà nước đó trịnh trọng tuyên bố trong Hiến pháp của mìnlr “Đất nước Việt Nam là một khối Bắc - Nam thống nhất không thể chia cắt” (Điều I). “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa dịu thuộc về nhân dân” (Điều 4), “Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân” (Điều 6). Hiến pháp định hướng phát triển của miền Bắc là “Tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên CNXH bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo CNXH, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế XHCN với công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến” (Điều 9).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:09:15 pm

Ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thi hành hiến pháp mới. Tháng 5-1960, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa II được tiến hành trên toàn miền Bắc. So với thành phần Quốc hội khóa I, lần này, số đại biểu công nhân, đại biểu các tộc người thiểu số đều tăng. Các đại biểu miền Nam trong Quốc hội được lưu nhiệm. Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa II họp từ ngày 7 đến ngày 15-7-1960 đã bầu:

Chủ tịch nước: Hồ Chí Minh

Phó Chủ tịch: Tôn Đức Thắng

Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội: Trường Chinh

Thủ tướng Chính phủ: Phạm Văn Đồng

Quốc hội bầu cử Hội động quốc phòng và thông qua các đạo luật về tổ chức Quốc hội, Hội đồng chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Luật cơ cấu của Nhà nước. Tiếp đó, các đạo luật về kinh tế, văn hóa - xã hội về các quyền tự do, dân chủ của nhân dân về xây dựng nền quốc phòng toàn dân... lần lượt được ban hành.

Trước tình hình thế giới đang biến đổi ngày càng phức tạp, Đảng và Nhà nước ta, trên cơ sở giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, đã tiến hành chính sách ngoại giao hòa bình và hữu nghị với các dân tộc, chăm lo củng cố và phát triển sự hợp tác tương trợ với các nước XHCN, làm hết sức mình cho tình đoàn kết giữa các nước XHCN và trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, triệt để ủng hộ đường lối bảo vệ hòa bình, độc lập và trung lập của Vương quốc Campuchia, ủng hộ và giúp đỡ nhân dân Lào trong cuộc đấu tranh chống Mỹ xâm lược. Đối với các nước Á, Phi, Mỹ Latinh, chính sách của Nhà nước ta là ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của họ và giao hảo với bất cứ nước nào cùng ta công nhận năm nguyên tắc chung sống hòa bình (không xâm lược nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau, tôn trọng chủ quyền và toàn văn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, cùng chung sống hòa bình).

Thực hiện chính sách đối ngoại đó, tháng 6-1955 và tháng 7-1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ nước ta đi thăm chính thức Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Ngày 15-4-1955, Đoàn đại biểu Chính phủ, do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang Băng Đung (Indônêxia) dự Hội nghị Á - Phi lần thứ nhất. Trên diễn đàn Hội nghị, đại biểu nhiều nước đã đánh giá cao những cống hiến của Nhà nước và nhân dân Việt Nam cho sự nghiệp đấu tranh chống ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.

Tháng 2-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Ấn Độ, Mianma và tháng 2-1959, Người thăm chính thức Inđônêxia. Chính phủ và nhân dân các nước đã giành cho Người sự đón tiếp nồng nhiệt, chân thành.

Những hoạt động ngoại giao trong giai đoạn này của Đảng và Nhà nước đã thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, sự hợp tác giữa nước ta với Chính phủ và nhân dân nhiều nước trên khắp thế giới, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi đối với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:10:18 pm

B- XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI, CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG

Để trở thành hậu phương vững mạnh trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, miền Bắc phải được xây dựng không chỉ mạnh về chính trị, kinh tế mà cả về quân sự. Bộ Chính trị trong Nghị quyết tháng 9-1954 chỉ rõ: Quân đội nhân dân là trụ cột chủ yếu nhất, chắc chắn nhất để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình. “Bất kỳ tư tưởng và hành động nào cho là đình chiến rồi thì mọi việc đều tối đẹp, rồi bỏ rơi việc chuẩn bị chiến đấu, để cho tinh thần uể oải, lơ là việc xây dựng lực lượng vũ trang đều là sai lầm nguy hiểm… Cho nên, tăng cường Quân đội nhân dân là nhiệm vụ rất quan trọng của Đảng, Chính phủ và toàn thể nhân dân ta. Cần phải xây dựng Quân đội nhân dân thành một quân đội cách mạng, chính quy tương đối hiện đại”1.

Chín năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh, Quân đội nhân dân từng bước trưởng thành về bản lĩnh chiến đấu, nghệ thuật tác chiến và trình độ tổ chức, chỉ huy... Trong buổi gặp mặt các đơn vị quân đội tham gia lễ duyệt binh ngày 1-5-1955 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nhiệm vụ của quân đội hiện nay là phải cố gắng tiến lên chính quy... Muốn cho bộ đội ta hùng mạnh, và nhất định bộ đội ta phải hùng mạnh, chúng ta phải cố gắng học tập chính trị và kỹ thuật”2.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Quân đội nhân dân có 7 đại đoàn, 8 trung đoàn, 54 tiểu đoàn, 258 đại đội, 175 trung đội, tổng cộng 33 vạn cán bộ chiến sĩ3. Trang bị vũ khí chủ yếu bằng súng trường, lựu dạn, trung liên và cối 81 mm, chất lượng kém không đồng bộ. Những năm kháng chiến: bộ đội ta phân tán chiến đấu và công tác trên các chiến trường, nên biên chế tổ chức: trang bị, điều lệnh của bộ đội thiếu thống nhất. Vì vậy, trong khi cùng toàn Đảng, toàn dân ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước ổn định tình hình, chống địch cưỡng ép di cư, truy quét phỉ dọc miền biên giới, giúp nhân dân các địa phương tháo gỡ bom mìn, phục hồi sản xuất, khắc phục lụt bão, hạn hán, đồng thời Quân đội gấp rút chấn chỉnh bước đầu về mọi mặt.

Hoàn thành chuyển quân tập kết, các đại đoàn 304, 308, 312, 316, 325, 320 thành lập trong kháng chiến chống Pháp được đổi tên thành các sư đoàn bộ binh. Bộ đội miền Nam tập kết, bộ đội tình nguyện ở Lào, Campuchia và một số đon vị chủ lực của khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện trên miền Bắc biên chế thành 8 sư đoàn và 5 trung đoàn bộ binh4. Lực lượng pháo binh biên chế 3 sư đoàn 75, 45, 349. Lực lượng phòng không biên chế một sư đoàn cao xạ 367. Một số trung đoàn, tiểu đoàn bộ đội chủ lực và địa phương thuộc vùng ven biển xây dựng thành 5 trung đoàn, 1 tiểu đoàn phòng thủ bờ biển. Bộ đội địa phương các tỉnh có biên giới chung với Lào chuyển thành các tiểu đoàn bộ đội biên phòng. Bộ đội địa phương các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Ninh Bình, Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hải Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu biên chế thành 10 tiểu đoàn, 7 đại đội và 15 trung đội, làm nhiệm vụ bảo vệ nội địa.

Các đơn vị pháo binh, phòng không, công binh, thông tin, vận tải cũng được tổ chức lại, biên chế thành sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn trực thuộc Bộ và các sư đoàn bộ binh. Mỗi sư đoàn bộ binh có ba trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo hỗn hợp và một số đơn vị vận tải, công binh, thông tin... Các sư đoàn chủ lực trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh, các lực lượng phòng thủ giới tuyến, phòng thủ biên giới, hải đảo, được trang bị các loại vũ khí, khí tài mới do các nước XHCN viện trợ. Các công binh xưởng, cơ sở sản xuất quân trang, quân dụng, các bệnh viện, đội điều trị, kho tàng... được trang bị thêm máy móc, thiết bị, tổ chức lại thành hệ thống các nhà máy, xưởng sản xuất, sửa chữa xe máy vũ khí, và các bệnh viện điều trị, kho tàng... bố trí trên những địa bàn phù họp với phương án tác chiến phòng thủ, đảm bảo phục vụ kịp thời và thuận lợi yêu cầu xây dựng, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang.

Tổng quân ủy, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu còn chỉ đạo thành lập thêm hai thủy đội sông Lô và Bạch Đằng “Hai thủy đội này là những viên gạch đầu tiên, là tiền thân của lực lượng tàu chiến đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này”. Ngày 3-3-1955, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Ban nghiên cứu sân ban để chỉ huy, quản lý hệ thống sân bay hiện có và tổ chức chỉ huy các chuyến bay hàng ngày; giúp Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu những nội dung về tổ chức, xây dựng lực lượng không quân phù hợp với kế hoạch xây dựng quân đội trong giai đoạn mới. Ngày 7-5-1955 Cục phòng thủ bờ biển trực thuộc Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh ra đời, làm nhiệm vụ giúp Tổng tư lệnh chỉ huy bộ đội phòng thủ bờ biển, đào tạo cán bộ, nhân viên, thủy thủ và xây dựng các thủy đội phòng thủ bờ biển.

Ngoài các cơ sở đầu tiên của Hải quân và Không quân, thời kỳ này, các cục Quân nhu, Quân huấn và Ban thanh tra quân đội cũng được thành lập; góp phần tổ chức và quản lý các mặt hoạt động của quân đội trong thời kỳ mới.
______________________________________
1. Văn kiện lịch sử Đảng, Tlđd, t. 9, tr. 29.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Sđd. t. 7. tr. 123.
3. Đại đoàn 308, 304, 312, 316, 320, 325, 351 (công pháo) và các trung đoàn 148 (Tây Bắc), 238, 246 (Việt Bắc), 46, 42 (Liên khu III), 108, 96, 803 (Liên khu V).
4. Sư đoàn 350, 328, 332 (Liên khu III và Việt Bắc), 305, 324 (Khu V), 330, 338 (Nam Bộ), 335 (quân tình nguyện) và các trung đoàn 148, 246, E 320, 640, 269, 271, 244, 713, 248.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:11:29 pm

Những năm phân tán, hoạt động trên các chiến trường Bắc, Trung, Nam, Lào và Campuchia, trình độ kỹ thuật, chiến thuật, điều lệnh, kỷ luật... của bộ đội thiếu thống nhất. Sau hòa bình, Bộ Quốc phòng mở các lớp tập huấn về nhiệm vụ xây dựng quân đội chính quy cho cán bộ cao cấp. Cuối năm 1954, các đơn vị trong toàn quân bước vào đợt huấn luyện quân sự đầu tiên trong thời bình với chương trình và nội dung huấn luyện thống nhất, đặc biệt là kỹ thuật, chiến thuật cấp phân đội. Bộ Tổng tham mưu khẩn trương tổ chức biên soạn điều lệnh nội vụ, điều lệnh đội ngũ, điều lệnh cảnh trị, điều lệnh kỷ luật. Lần lượt, các điều lệnh này được ban hành. Giữa năm 1956, toàn quân bước vào đợt học tập và bắt đầu thực hiện.

Sau ba năm huấn luyện cơ bản, bản lĩnh chiến đấu, trình độ kỹ thuật, chiến thuật cá nhân và phân đội nhỏ của các đơn vị trong toàn quân được nâng lên, tạo điều kiện cho bộ đội bước vào huấn luyện tác chiến hiệp đồng, vận dụng thuần thực các hình thức chiến thuật trong những năm sau đó.

Công tác Đảng, công tác chính trị tập trung vào việc giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang về giác ngộ giai cấp và giác ngộ xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sỏ đó làm cho lực lượng vũ trang thấu suốt vai trò, nhiệm vụ trong thời kỳ mới, khắc phục những biểu hiện lệch lạc, mơ hồ về tư tưởng, tâm lý và hành động thường có sau chiến tranh. Đồng thời, công tác chính trị chú trọng giáo dục cho bộ đội tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân-dân-chính-đảng và ý thức tổ chức kỷ luật. Các đơn vị bộ đội miền Nam tập kết và bộ đội tình nguyện chiến đấu trên chiến trường Lào, Campuchia được tổ chức học tập về đường lối giai cấp và chính sách ruộng đất của Đảng, Nhà nước đối với nông thôn và nông dân. Cán bộ cao cấp, trung cấp toàn quân được học tập về chủ nghĩa Mác - Lênin theo một chương trình thống nhất và tương đối hệ thống. Việc nâng cao trình độ văn hóa cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ được đặt ra cấp bách1. Cán bộ sơ, trung, cao cấp trong quân đội luân phiên tập trung học văn hóa tại trường văn hóa quân đội; cán bộ từ trung đội trở xuống chiến sĩ học bổ túc văn hóa tại chức. Khắc phục thiếu thốn, khó khăn về cơ sở vật chất, điều kiện đảm bảo, hệ thống nhà trường quân đội từng bước phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng2. Sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện, trực tiếp của Đảng trong quân đội được tăng cường, chi bộ đảng ra công khai lãnh đạo, chế độ sinh hoạt đảng đi dần vào nền nếp.

Năm 1957, Hội nghị lần thứ 12 (mở rộng) Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) quyết nghị các vấn đề xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong giai đoạn mới. Nhiệm vụ quân đội được Hội nghị xác định: “Bảo vệ công cuộc củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên CNXH, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và an ninh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh để củng cố hòa bình thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ yếu là đế quốc Mỹ và tay sai”3. Hội nghị quyết định các biện pháp lớn để tăng cường khả năng phòng thủ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội. Bộ Tổng tham mưu soạn thảo kế hoạch xây dựng quân đội năm năm (1955-1959)4. Mục tiêu xây dựng trong năm năm, quân đội phải “Thực hiện và hoàn thành kế hoạch xây dựng Quân đội nhân dân làm cho quân đội trở thành một quân đội cách mạng, chính quy và tương đối hiện đại, đồng thời đặt cơ sở đầu tiên cho các quân chủng và binh chủng khác”5. Hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng là nhiệm vụ chung của toàn Đảng và toàn dân, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, động viên toàn quân tích cực học tập và công tác, phát huy khả năng của nhân dân tham gia vào việc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng.
______________________________________
1. Đầu năm 1955, trong số 43.653 cán bộ từ trung đội trở lên có 76,9% mới đạt trình độ văn hóa cấp 1 và 10% đã được học qua các trường quân sự.
2. Ngoài các trường được thành lập thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong các năm 1954, 1955, 1956, một số trường như Trường tập huấn pháo binh, Trường huấn luyện bờ biển, Trường văn hóa thuộc Bộ Tổng tư lệnh, Trường bổ túc chính trị trung, cao cấp, Trường bổ túc quân sự cao cấp, Trường công binh, Trường lý luận chính trị... lần lượt ra đời.
3, 5. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 12 (Khoá II), Những sự kiện Lịch sử Đảng, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1982, t. 4, tr. 58.
4. Kế hoạch xây dựng quân đội trong năm năm (1955-1959) bao gồm các nội dưng: 1- Tổ chức, biên chế, 2- Trang bị vũ khí, 3- Huấn luyện chính quy về quân sự, chính trị, văn hóa, thể lực, 4- Huấn luyện cán bộ, 5- Thực hiện các điều lệnh, 6- Kiện toàn cơ quan tham mưu các cấp, 7- Xây dựng và nâng cao cơ sở vật chất, 8- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:12:17 pm

Gần 13 năm kể từ khi ra đời và hơn hai năm từ ngày chiến tranh chống Pháp kết thúc, đây là lần đầu tiên Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng theo một kế hoạch dài hạn và tương đối toàn diện.

Sau Hội nghị lần thứ 12 của Trung ương, các đơn vị trong toàn quân bước vào đợt chỉnh huấn chính trị, quán triệt nghị quyết Hội nghị về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Kết hợp với việc học tập và quán triệt đường lối nhiệm vụ cách mạng của Đảng, nhiệm vụ, phương châm xây dựng quân đội, và củng cố quốc phòng trong giai đoạn mới, các đơn vị đã tiến hành phê bình, và tự phê bình nhằm nâng cao tư tưởng vô sản, tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong đơn vị, trong quân đội, khắc phục những biểu hiện lệch lạc, mơ hồ về lập trường giai cấp, nhận rõ và dứt khoát “nhiệm vụ hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam là một cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi”, “nhiệm vụ xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc chuyển biến cách mạng to lớn, đòi hỏi một sự phấn đấu liên tục và tích cực”. Đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội tiến lên chính quy hiện đại phải khắc phục “biểu hiện tự do, tản mạn, thiếu tổ chức và kỷ luật, hiện tượng máy móc, giáo điều hoặc bảo thủ”1. “Thông qua đợt sinh hoạt chính trị này, trận địa chính trị tư tưởng trong lực lượng vũ trang được củng cố và tăng cường, cán bộ, chiến sĩ đã được giác ngộ bước đầu về chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng vô sản đã phản công và tiến công toàn diện, triệt để tư tưởng tư sản, tẩy trừ tư tưởng phong kiến. Một số cán bộ mắc sai lầm đã tỉnh ngộ. Những kẻ cơ hội hoặc mang tư tưởng đối địch với Đảng đã dần tự lột mặt nạ”2.

Tháng 3-1958, Tổng Quân ủy quyết định điều chỉnh một số nội dung trong kế hoạch xây dựng quân đội. Theo đó, thời gian thực hiện kế hoạch tăng thêm một năm (đến năm 1960) cho phù hợp với thời gian thực hiện kế hoạch ba năm cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Những nội dung được điều chỉnh bao gồm:

1- Giảm bớt tổng quân số đi đôi với việc nâng cao chất lượng toàn diện của bộ đội, tập trung cải tiến trang bị, vũ khí, xây dựng các đơn vị binh chủng, thực hiện các chế độ chính quy.

2- Tận dụng khả năng xây dựng kinh tế của quân đội.

3- Xúc tiến việc đào tạo cán bộ, xây dựng các nhà trường quân sự.

4- Đẩy mạnh công tác huấn luyện và nghiên cứu khoa học quân sự.

Ngoài ra, Tổng quân ủy còn xác định rõ những biện pháp nhằm tăng cường khả năng phòng thủ miền Bắc, chuẩn bị mọi mặt đối phó nếu chiến tranh xảy ra, xây dựng Tây Bắc và miền tây Khu IV thành căn cứ địa vững chắc, ra sức xây dựng lực lượng hậu bị.

Nhận rõ yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội trong giai đoạn mới, 78.100 cán bộ, chiến sĩ đã lưu luyến chia tay đồng đội, rời quân ngũ, chuyển về địa phương và sang công tác ở các cơ quân dân sự. 143.000 chuyển thành các đơn vị xây dựng kinh tế, lập các nông trường ở Điện Biên, Mộc Châu, Yên Bái, Phú Thọ, Sơn Tây, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, tham gia xây dựng khu công nghiệp Thái Nguyên, Việt Trì. Tới những vùng đất mới đang cần khai phá hoặc về lại với ruộng đồng, thôn xóm, cán bộ, chiến sĩ đều giữ vững và phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”. Dù nơi đâu và làm gì thì phẩm chất được tôi luyện và thử thách trong gian khổ, hy sinh trong chiến tranh và tình đồng đội keo sơn, bền chặt vẫn ngời sáng trong tâm khảm của họ. Đây chính là lực lượng nòng cốt để xây dựng đội quân hậu bị vững mạnh.

Một bộ phận khác được tổ chức thành các đội xây dựng doanh trại, xây dựng các công trình quốc phòng, biên giới, bờ biển, làm đường chiến lược trên miền Tây Bắc. Những khu vực trên đây có tầm quan trọng chiến lược về kinh tế và quốc phòng, được coi là những khu vực phòng thủ quốc gia thời bình và căn cứ chống xâm lược nếu chiến tranh xảy ra. Đó là sự kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh. Công, nông trường quân đội được Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa giúp một phần vốn, máy móc, thiết bị sản xuất. Quá trình giảm quân số, Bộ Quốc phòng chưa lường hết diễn biến của tình hình đấu tranh ở miền Nam, nên đã chuyển một bộ phận lớn cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết ra xây dựng kinh tế và công tác ở các cơ quan dân sự, không giữ lại đúng mức các đơn vị đã từng nhiều năm chiến đấu quen thuộc ở chiến trường để sẵn sàng đưa các đơn vị đó trở lại miền Nam hoạt động. Khuyết điểm này đã ảnh hưởng tới việc chuẩn bị lực lượng, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam những năm sau.
______________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 12 (khoá II), Những sự kiện lịch sử Đảng, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1982, t. 4, tr. 58.
2. Tổng cục Chính trị, Báo cáo tại Hội nghị Tổng quân ủy tháng 3-1959. Dẫn theo Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam t. 2, q. 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1988, tr. 48.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:13:03 pm

Đi đôi với việc giảm tổng quân số, toàn quân tiến hành sắp xếp lại lực lượng.

Tháng 3-1958, Bộ Quốc phòng quyết định thống nhất tổ chức, biên chế, trang bị của Lục quân và các đơn vị của Không quân, Hải quân.

Bộ binh, thành phần chủ yếu của Lục quân, biên chế thành 7 sư đoàn, 6 lữ đoàn, 12 trung đoàn độc lập gồm hơn 9 vạn cán bộ, chiến sĩ. Mỗi sư đoàn bộ binh được biên chế 8689 người, gồm 3 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo binh và các đơn vị bảo đảm, được trang bị 6.645 khẩu súng bộ binh, 200 khẩu pháo mặt đất và súng cối, 42 khẩu pháo cao xạ và 281 xe vận tải... Hai phần ba vũ khí bộ binh được đổi mới bằng các loại súng trường, tiểu liên, trung liên, đại liên, badôca do các nước XHCN giúp đỡ. Mỗi lữ đoàn bộ binh biên chế 3500 người, gồm 4 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo binh và cao xạ cùng một số phân đội bảo đảm như thông tin, công binh, phòng hóa, trinh sát, vận tải, quân y.

Bên cạnh bộ binh, binh chủng Pháo binh, bộ đội Phòng không, Công binh, Thông tin, Vận tải, Phòng hóa biên chế thành các lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội. Ngày 21-3-1958, Bộ Quốc phòng ra nghị định thành lập Bộ tư lệnh Phòng không trên cơ sở tách sư đoàn pháo cao xạ 367 khỏi Bộ tư lệnh Pháo binh. Tiếp đó, tháng 8-1958 và tháng 3-1959, lần lượt 2 trung đoàn tình báo phòng không và trinh sát ra đa được tổ chức, đánh dấu bước trưởng thành của Bộ đội Phòng không. Đầu tháng 3-1959, các đài ra da bố trí ở Điện Biên (Lai Châu), Đồ Sơn (Hải Phòng), Trùng Quang (Nam Định), Quảng Xương (Thanh Hóa), Điền Lư (nam Quân khu IV) chính thức phát sóng trên toàn mạng cảnh giới bầu trời Tổ quốc.

Bộ đội Không quân biên chế 2.000 người gồm một trung đoàn không quân vận tải và một số đơn vị khung, chuẩn bị đón nhận cán bộ, chiến sĩ của trung đoàn không quân chiến đấu đang học tập, huấn luyện ở nước ngoài. Bộ đội Hải quân gồm 2 đoàn tàu tuần tiễu ven biển, trang bị các loại pháo 40 và 20mm và các dàn ra đa... Tháng 1-1959, Cục Không quân và Cục Hải quân được thành lập với nhiệm vụ giúp Bộ Quốc phòng tổ chức, chỉ đạo lực lượng Không quân, Hải quân; xây dựng quản lý các sân bay và hải cảng; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên kỹ thuật và lực lượng hậu bị của hai quân chủng này.

Các cơ quan Bộ Quốc phòng cũng được tổ chức lại cho phù hợp với yêu cầu chỉ đạo, tăng cường hiệu lực lãnh đạo, chỉ huy. Tổng cục cán bộ được tổ chức lại thành Cục cán bộ thuộc Tổng cục Chính trị. Tổng cục Quân huấn tổ chức lại thành Cục quân huấn thuộc Bộ Tổng tham mưu. Cục Quân giới và Cục Quân khí sát nhập thành Cục Quân giới thuộc Tổng cục Hậu cần. Nha liên lạc sát nhập vào Cục Quân báo thuộc Bộ Tổng tham mưu... Các cơ quan quân sự địa phương cấp tỉnh, huyện, xã được kiện toàn và thống nhất tên gọi: tỉnh đội, huyện đội, xã đội.

Với sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác1, một số đơn vị quân, binh chủng được thành lập và trang bị nhiều loại vũ khí, khí tài tương đối hiện đại, làm tăng đáng kể hỏa lực, sức đột kích, khả năng cảnh giới và sức cơ động của quân đội.

Từ chỗ bộ binh chiếm ưu thế tuyệt đối, đến năm 1960, cơ cấu thành phần lực lượng và các mặt tổ chức, biên chế, được điều chỉnh một bước khá căn bản. Riêng tỷ lệ giữa bộ binh và các binh chủng kỹ thuật xấp xỉ bằng nhau (51% trên 49% ).

Sau khi chi bộ đảng ra công khai, từ năm 1957 trở đi đại hội đảng bộ cấp tiểu đoàn, trung đoàn và sư đoàn được tổ chức theo định kỳ. Đây là một nỗ lực nhằm thực hiện và tăng cường sự lãnh đạo toàn diện theo chế độ tập trung dân chủ của Đảng trong các đơn vị lực lượng vũ trang. Tháng 11-1958, Tổng quân ủy triệu tập Hội nghị chính ủy và chủ nhiệm chính trị toàn quân. Hội nghị tập trung thảo luận về Dự thảo Điều lệ công tác chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam, thống nhất quy định về tính chất, nhiệm vụ, nội dung công tác chính trị; chức trách của cơ quan chính trị các cấp. Công tác Đảng, công tác chính trị nhằm tăng cường bản chất giai cấp công nhân của quân đội, làm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phát huy bản chất và truyền thống của mình, tôn trọng pháp luật Nhà nước, làm tròn chức năng là công cụ sắc bén của chính quyền cách mạng. Cùng thời gian này, Tổng cục Chính trị đã hoàn thành công trình tổng kết công tác Đảng, công tác chính trị của quân đội trong kháng chiến chống Pháp. Công trình tổng kết đề cập tới các mặt: giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, công tác xây dựng đảng, công tác cán bộ, công tác bảo vệ, công tác dân vận, công tác địch vận, công tác chính trị chiến dịch, chiến đấu và rút ra kết luận: Quá trình xây dựng, trưởng thành của quân đội ta gắn liền với việc không ngừng củng cố và tăng cường công tác Đảng - công tác chính trị trong quân đội. Sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của các lực lượng vũ trang. Nguyên tắc sự lãnh đạo của Đảng là “lấy dân chủ tập trung làm chế độ, lấy lãnh đạo tập thể làm nguyên tắc cao nhất... Trong thời kỳ chiến tranh ác liệt cũng như trong hòa bình xây dựng quân đội tiến lên chính quy hiện đại, nguyên tắc đó phải được hết sức tôn trọng”2.
______________________________________
1. Trong các năm từ 1955-1960, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho ta 49.585 tấn hàng quân sự, trong đó có 6.543 tấn vũ khí, 13.861 tấn đạn, 20 tấn vật tư quân báo.
2. Tổng cục Chính trị, Tổng kết công tác Đảng - công tác chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, tài liệu xuất bản năm 1960.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:13:41 pm

Bám sát thực tiễn rèn luyện và công tác của bộ đội, theo dõi diễn biến trong nước và trên thế giới, Tổng cục Chính trị đã chỉ đạo các đơn vị trong toàn quân tổ chức nhiều đợi học tập về chủ nghĩa Mác - Lênin, về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; triển khai các cuộc vận động lớn “nâng cao giác ngộ XHCN, rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp vô sản”, “xây dựng chi bộ vững mạnh”... Ngoài ra, Tổng cục Chính trị cũng đã ban hành và tổ chức học tập các tài liệu “làm một người đảng viên tốt”, “Nghĩa vụ và quyền hạn của đảng viên”, “Chế độ tập trung dân chủ của Đảng” cho cán bộ, đảng viên; mở nhiều lớp bồi dưỡng cho đối tượng kết nạp đảng viên. Lý tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bầu không khí xã hội miền Bắc và tấm gương của đội ngũ đảng viên có sức lôi cuốn đoàn viên, thanh niên quân đội, cổ vũ họ trong rèn luyện, công tác, học tập. Trên cơ sở đó, hàng chục nghìn đoàn viên chiến sĩ được thử thách và tôi luyện trong thực tế, được giáo dục về lý tưởng cộng sản đã gia nhập hàng ngũ Đảng. Năm 1960, trong quân đội, đảng viên chiếm gần 40% tổng quân số. Chất lượng và số lượng đảng viên đáp ứng sự lãnh đạo của Đảng làm cho quân đội luôn luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Chất lượng đội ngũ cán bộ quyết định việc xây dựng và chiến đấu của quân đội. Ngày 17-5-1955, Tổng quân ủy chỉ thị cho cơ quan cán bộ các cấp trong toàn quân phải “nắm vững tiêu chuẩn đức, tài, hết sức mạnh dạn đề bạt cán bộ công - nông, đồng thời cất nhắc thích đáng cán bộ các thành phần khác đã được thử thách, biểu hiện tiến bộ, trung thành với cách mạng”1. Để đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, hệ thống nhà trường quân sự tiếp tục được tăng cường về số lượng, chất lượng giảng dạy, đào tạo. Ngoài các trường đã có, thời kỳ 1957-1960, Trường cán bộ Hậu cần, Trường sĩ quan Pháo binh, Trường sĩ quan Quân y, Trường Hàng không (tiền thân của Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật không quân), Trường sĩ quan Công binh, Trường Không quân Việt Nam,... lần lượt được thành lập. Các quân khu tổ chức các trường quân chính, trường văn hóa. Bên cạnh số cán bộ được đào tạo, bổ túc ở các trường quân sự chính quy, các đơn vị đã mở các lớp huấn luyện, bổ túc cán bộ tại chỗ. Ngoài ra, 2400 người được quân đội cử ra nước ngoài học tập.

Được huấn luyện tại chức và tại trường, trình độ lý luận, năng lực tổ chức, chỉ huy, quản lý quân đội của đội ngũ cán bộ quân đội được nâng lên rõ rệt. Cán bộ trung đội, đại đội, tiểu đoàn đều có khả năng xây dựng chương trình, lập kế hoạch và tổ chức thực hành huấn luyện bộ đội theo nền nếp chính quy... Đến năm 1960, trong số 34.856 cán bộ cấp trung đội trở lên, 17.960 người đã qua các lớp bổ túc hoặc tốt nghiệp các khóa đào tạo tại các trường quân sự trong và ngoài nước. Từ năm 1955 đến năm 1960, 32.636 cán bộ được đề bạt lên một đến hai cấp. Trong quá trình đề bạt, một số đơn vị có hiện tượng chỉ nhấn mạnh tiêu chuẩn mà xem nhẹ việc bồi dưỡng; hoặc có biểu hiện hẹp hòi, thành phần chủ nghĩa. Những biểu hiện đó được Tổng quân ủy chấn chỉnh và từng bước khắc phục.

Trên cơ sở tổ chức, biên chế, trang bị thống nhất và có các điều kiện đảm bảo, đội ngũ cán bộ các cấp được đào tạo tương đối chính quy, nhiệm vụ huấn luyện quân sự đi dần vào nền nếp. Chiến sĩ được trang bị những kiến thức cơ bản về chính trị, lý thuyết binh khí kỹ thuật, bắn súng, ném lựu đạn, vượt vật cản. Các đơn vị tổ chức huấn luyện chiến thuật tiến công và phòng ngự từ cấp tiểu đội đến tiểu đoàn được huấn luyện cách vượt sông và tác chiến ban đêm trên địa hình trung du, miền núi và đồng bằng đạt kết quả tốt. Từ giữa năm 1957, một số đơn vị bắt đầu huấn luyện tác chiến hiệp đồng binh chủng cấp trung đoàn, sư đoàn nhằm rèn luyện, nâng cao sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của bộ đội. Bộ Tổng tham mưu tổ chức nhiều cuộc diễn tập cấp sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn chiến đấu phòng ngự, tiến công, đánh địch đổ bộ đường biển, đường không và các cuộc diễn tập có thực binh của cơ quan tham mưu cấp trung đoàn, sư đoàn.

Giữa những ngày tháng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trên miền Bắc đang ra sức thực hiện kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, xây dựng quân đội nhân dân tiến dần tùng bước lên chính quy và tương đối hiện đại, thì tại miền Nam, Mỹ - Diệm điên cuồng mở các cuộc hành quân càn quét đánh phá ác liệt các vùng nông thôn, để dồn dân vào các khu dinh điền, khu trù mật để khống chế kìm kẹp họ, hòng dập tắt phong trào đấu tranh của nhân dân. Ngày 1-12-1958, chúng đầu độc hàng trăm cán bộ và đồng bào bị giam tại nhà tù Phú Lợi. Tin về vụ thảm sát này lập túc gây nên làn sóng căm phẫn sôi sục trong mọi người dân miền Bắc. Ở các địa phương, hàng triệu lượt người đã biểu tình, mít tinh lên án hành động phát xít của đế quốc Mỹ và tay sai, đòi trả thù cho đồng chí, đồng bào miền Nam ruột thịt. Hướng về miền Nam, các đơn vị trong toàn quân càng đẩy mạnh phong trào thi đua “Tiến nhanh hoàn thành vượt mức kế hoạch xây dựng quân đội”, “Huấn luyện sát với thực tế chiến trường”... Các sư đoàn, lữ đoàn luyện tập hành quân cơ động lực lượng trên khu vực địa hình rừng núi, đồng bằng bị sông ngòi chia cắt. Một số đơn vị huấn luyện chiến đấu trên địa hình đồng bằng có nhiều làng mạc, sông ngòi, đồng nước và huấn luyện chiến đấu trong điều kiện có sự chi viện của trên về hỏa lực pháo binh và xe tăng. Nhiều đon vị cơ động của Bộ tập hành quân đường dài, sẵn sàng lên đường chiến đấu khi có lệnh. Các đơn vị từng chiến đấu ở chiến trường Lào tập luyện tiến công và phòng ngự trên địa hình rừng núi trong mọi tình huống... Quân khu IV khẩn trương nghiên cứu và huấn luyện cách tổ chức, đảm bảo cho bộ đội hành quân đường dài ra trận...

Đúc rút kinh nghiệm nhằm không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, tháng 3-1959, Bộ Tổng tham mưu triệu tập Hội nghị tổng kết công tác huấn luyện chiến đấu. Hội nghị đã phân tích những ưu điểm, khuyết điểm trong việc thực hiện nhiệm vụ huấn luyện bộ đội, chỉ ra nguyên nhân, khẳng định tính đúng đắn cơ bản của phương châm, nguyên tắc, nội dung, phương pháp huấn luyện mà Bộ Tổng tham mưu đã ban hành. Hội nghị phê phán những biểu hiện máy móc, giáo điều, thiếu tính linh hoạt trong việc huấn luyện bộ đội ở một số đơn vị, nhấn mạnh yêu cầu phải vận dụng sáng tạo hình thức chiến thuật trong quá trình huấn luyện, tập dượt cho phù hợp với điều kiện địa hình, đặc điểm chiến trường và thích ứng với trang bị, vũ khí, điều kiện đảm bảo của quân đội ta, với đối tượng tác chiến mới.
______________________________________
1. Dẫn theo Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, t. 2, q. 1, Sđd, tr. 63.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Giêng, 2010, 11:14:26 pm

Cùng với huấn luyện quân sự, việc học tập và thực hiện điều lệnh cũng là một nhiệm vụ quan trọng của quân đội. Từ năm 1956, Điều lệnh nội vụ, Điều lệnh đội ngũ, Điều lệnh kỷ luật, Điều lệnh cảnh bị được triển khai thực hiện thống nhất trong toàn quân. Đây là cuộc đấu tranh không kém phần gian khổ, khó khăn giữa một bên là thói quen tự do, tùy tiện... và bên kia là hành động theo điều lệnh nhằm bảo đảm sự thống nhất, tác phong chính xác, khẩn trương, sẵn sàng chiến đấu cao của quân đội. Qua học tập rèn luyện việc thực hiện chế độ điều lệnh được tuân thủ, dần trở thành nền nếp, giúp cho bộ đội hành động khẩn trương chính xác, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc xây dựng quân đội còn bộc lộ một số thiếu sót. Quá trình tiếp thu, học tập kinh nghiệm của quân đội các nước XHCN về xây dựng chính quy, hiện đại, chúng ta đã có những biểu hiện giáo điều, máy móc, vận dụng kinh nghiệm nước ngoài thiếu chọn lọc. Chúng ta chậm tổng kết những kinh nghiệm quý báu mà quân đội đã trải qua thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong huấn luyện, một số đơn vị đã có “Những biểu hiện máy móc trong công tác, trong xử trí tình huống, chỉ căn cứ vào những quy định của điều lệnh mà không nghiên cứu vận dụng những cách phù hợp với điều kiện trang bị của quân đội ta và đặc điểm chiến trường nước ta, chỉ chú trọng huấn luyện cơ bản, thiếu kết hợp với nhiệm vụ tác chiến”1

Dù vậy, sáu năm sau hòa bình, trong khi tập trung sức khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định tình hình mọi mặt, những kết quả đạt được trong sự nghiệp xây dựng quân đội là một nỗ lực lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Cùng với việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân không ngừng được củng cố xây dựng.

Đảng, Nhà nước luôn luôn giáo dục cho toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, các ngành, các giới thấy rõ việc xây dựng quân đội nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là nhiệm vụ chung của mọi người. Trong đường lối, chính sách của mình, Đảng và Nhà nước đều chú ý kết hợp nhiệm vụ xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội với yêu cầu củng cố quốc phòng - an ninh.

Thời kỳ 1955-1960, nhân dân miền Bắc đã đóng góp tiền của, công sức cùng bộ đội xây dựng hệ thống công sự phòng thủ vùng ven biển và giới tuyến quân sự, giữ lại và cải tạo hệ thống công sự cũ của Pháp, phục hồi và làm mới nhiều tuyến giao thông chiến lược, bảo quản tốt hệ thống sân bay hiện có; sửa chữa, phục hồi và mở rộng hệ thống cầu, cảng, xây dựng mạng lưới bưu điện, thông tin... Toàn bộ hệ thống nông trường quốc doanh nhà máy, xưởng sản xuất và hệ thống đường giao thông, bưu điện được xây dựng, phát triển theo hướng phục vụ “Quốc kế, dân sinh” trong thời bình và đáp ứng nhu cầu quân sự khi có chiến tranh. Việc xây dựng những công trình kinh tế kết hợp với quốc phòng không tính vào chi phí quốc phòng mà do ngân sách nhà nước đảm bảo. Đồng thời với việc xây dựng, bố trí các công trình phòng thủ, tháng 8-1958, ta mở hội nghị xây dựng lực lượng hậu bị toàn miền Bắc, và tiến hành đăng ký quản lý huấn luyện quân dự bị. Đến năm 1960, lực lượng hậu bị trong danh sách đăng ký của Bộ Quốc phòng là 78 vạn, trong đó có 30.000 quân nhân phục viên, chuyển ngành, 78.000 đoàn viên thanh niên lao động.

Căn cứ vào bố trí chiến lược chung, Trung ương Đảng và Chính phủ chia miền Bắc thành sáu quân khu: Quân khu IV, Quân khu Tả Ngạn, Quân khu Hữu Ngạn, Quân khu Tây Bắc, Quân khu Việt Bắc, Quân khu Đông Bắc. Trên các địa bàn chiến lược này, bộ tư lệnh quân khu là cơ quan quân sự cao nhất có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng, xây dựng tiềm lực quân sự trong thời bình và tổ chức, chỉ huy lực lượng vũ trang phối hợp với nhân dân địa phương thực hành tác chiến theo phương án chung.

Ra khỏi cuộc chiến tranh, đất nước nghèo nàn, kinh tế kiệt quệ, nhưng Đảng và Nhà nước và nhân dân miền Bắc đã bảo đảm định lượng hàng ngày cho 33 vạn cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân từ các chiến trường dồn về miền Bắc; bảo đảm chế độ chính sách cho 36.914 thương binh, trong đó 41% là thương binh nặng và hàng chục ngàn gia đình liệt sĩ, hàng vạn bệnh binh. Hàng năm, ngân sách quốc gia đã giành một khoản chi lớn cho quốc phòng, nếu so với năm 1955 thì đến năm 1958, mức chi tăng lên 50,6% và năm 1960 là 80,5%. Đó là những cố gắng rất lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Quan tâm tới sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng, an ninh, Đảng, Nhà nước chăm lo tới cuộc sống và điều kiện sinh hoạt của bộ đội và gia đình họ. Ngày 20-12-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ban hành chế độ phục vụ của sĩ quan (quy định quân hàm, quân hiệu), chế độ tiền lương và chế độ khen thưởng cho quân đội nhân dân. Tại buổi lễ trao quân hàm cho cấp từ thượng tá trở lên (ngày 22-12-1958 ), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Dù ở cương vị nào các đồng chí đều phải luôn luôn gương mẫu, luôn luôn xứng đáng là người đày tớ trung thành, tận tụy của nhân dân”2.

Đầu năm 1958, được phép của Hội đồng chính phủ, Bộ Quốc phòng chỉ đạo thí điểm thực hiện nghĩa vụ quân sự ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Nghệ An, Hải Dương, Sơn La... Rút kinh nghiệm đợt thí điểm gọi thanh niên nhập ngũ theo chế độ nghĩa vụ quân sự, ngày 31-12-1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chính thức thông qua Luật nghĩa vụ quân sự và đến tháng 4-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ban hành. Từ chế độ tòng quân tình nguyện chuyển sang chế độ nghĩa vụ quân sự là bước phát triển mới của sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Chế độ nghĩa vụ quân sự cho phép tăng cường lực lượng hậu bị, giảm bớt số quân thường trực; tiết kiệm tài, lực cho công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, xây dựng tiềm lực quân sự. Ngoài ra, chế độ nghĩa vụ quân sự cho phép phổ cập tri thức quân sự, nâng cao ý thức quốc phòng trong nhân dân; động viên được sự tham gia, đóng góp của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng quân đội.


*
*   *

Như vậy, sau ngày được hoàn toàn giải phóng, trước những bề bộn, ngổn ngang của bao công việc, miền Bắc phải dành một khoảng thời gian sáu năm và dồn tâm lực để khắc phục những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội sau hơn 80 năm mất nước và 15 năm tàn phá của chiến tranh. Sáu năm củng cố miền Bắc, sản xuất được khôi phục, đời sống nhân dân ổn định, xã hội có những chuyển biến sâu sắc về kết cấu kinh tế hạ tầng, kết cấu giai cấp, chuyển biến về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một chế độ mới. Sau những năm dài nô lệ lầm than trước Cách mạng tháng Tám và gian khổ, hy sinh trong chín năm kháng chiến, đây là thời kỳ phấn khởi và đầy tin tưởng của nhân dân miền Bắc. Dù cuộc sống còn lắm cực nhọc, còn nhiều vất vả, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn đang tìm tòi thể nghiệm, nhưng mọi người, mọi nhà sống chan hòa, ổn định và bình yên trong chế độ xã hội mới - một chế độ mà áp bức, bất công, thù hận, tủi nhục... đã trở thành dĩ vãng. Mọi người tin yêu nhau, tin yêu Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch, đoàn kết thành một khối thống nhất.

Đó là những điều kiện cần có được tạo ra trong sáu năm đầu sau hòa bình, làm cơ sở cho việc xây dựng miền Bắc trở thành căn cứ địa vững mạnh của cả nước, chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng ở miền Nam.
______________________________________
1. Tổng kết huấn luyện bốn năm, lưu trữ tại Bộ Quốc phòng. Hồ sơ 404-TTM.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Sđd, tr.227.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:09:42 pm

Chương VI
MỸ - DIỆM ĐÃ ĐẨY NHÂN DÂN MIỀN NAM VÀO TÌNH THẾ
PHẢI KẾT HỢP ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ VỚI VŨ TRANG TỰ VỆ


I- ĐỊCH MỞ CÁC CHIẾN DỊCH TỐ CỘNG VÀ DỒN DÂN DIỆT TRỪ NHỮNG NGƯỜI YÊU NƯỚC

Khi các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” giai đoạn I đang còn tiếp diễn, chính quyền Ngô Đình Diệm đã triển khai kế hoạch này ở giai đoạn II - thực hiện trên toàn miền Nam (từ tháng 7-1956 trở đi), nhằm tiêu diệt tận gốc những “phần tử cộng sản”, “thanh lọc dân cư”, bắt nhân dân miền Nam phải theo Mỹ - Diệm. Với mục đích đó, địch tập trung lực lượng tổ chức liên tiếp nhiều cuộc hành quân quy mô vừa và lớn trên hầu khắp các địa phương, dùng bom dạn Mỹ tàn sát nhân dân miền Nam để hỗ trợ cho “tố cộng, diệt cộng”. Chính những hành động trên là nguyên nhân thúc đẩy nhân dân miền Nam chống lại chính quyền Diệm để mong tự cứu lấy mình và cứu nước.

Theo quan điểm của Mỹ, muốn giành được dân phải xây dựng ngụy quyền tay sai và quân ngụy bản xứ mạnh. Do đó, Mỹ - Diệm đưa ra hai biện pháp: một là củng cố chính quyền bằng biện pháp chính trị và kinh tế; hai là ủng hộ chính quyền bằng cách củng cố quân đội làm chỗ dựa cho chính phủ đó. Mỹ đã tiến hành huấn luyện quân đội ngụy do Pháp để lại và bắt lính bổ sung quân số tổ chức thành “quân đội quốc gia” coi đó là một trong những biện pháp hữu hiệu hàng đầu làm cho chính quyền ngụy Sài Gòn mạnh lên.

Để đảm bảo hiện đại hóa quân đội Sài Gòn và củng cố chính quyền tay sai, Mỹ đã cung cấp tiền của, vũ khí chiếm tới 70-80% toàn bộ ngân sách của Diệm. Về tiền, năm 1956 Mỹ chi cho Sài gòn 234 triệu, năm 1957 là 162 triệu, năm 1958 là 144 triệu đôla. Về vũ khí, quân dụng, năm 1956, Mỹ chở sang miền Nam 82 chuyến, 1957: 109 chuyến; 1958: 104 chuyến; 1959: 187 chuyến.

Sau khi đã cơ bản thanh lọc và cải tạo xong về mặt tổ chức, tháng 6-1957, chính quyền Diệm đưa ra “Luật quân dịch” để ép buộc thanh niên đi lính và bắt đầu thực hiện kế hoạch năm năm xây dựng quân đội - một kế hoạch dựa trên cơ sở tình hình nội địa lúc bấy giờ đã tương đối ổn định. Phương hướng, mục tiêu được đặt ra là: xây dựng quân đội chú trọng chất hơn lượng, lấy lục quân làm chủ yếu, đạt được trình độ chính quy về tổ chức, tương đối hiện đại về trang bị, có khả năng tác chiến đơn vị lớn trên mọi địa hình mà đối lượng chủ yếu là quân đội chính quy Bắc Việt Nam.

Tổng quân số biên chế trong quân đội ngụy vẫn duy trì ở mức xấp xỉ 155.000 quân chính quy, 52.000 bảo an và 53.000 dân vệ. Địch bỏ hình thức tổ chức sư đoàn dã chiến và khinh chiến. Từ 10 sư đoàn trước đây chấn chỉnh lại thành 7 sư đoàn mạnh, thống nhất tên gọi là “Sư đoàn bộ binh” có biên chế, trang bị thống nhất, huấn luyện theo hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng. Do việc giải tán bớt 3 sư đoàn khinh chiến số 12 ở Công Tum, số 13 ở Tây Ninh, số 16 ở Quảng Trị, nên 7 sư đoàn còn lại không chỉ được bổ sung đầy đủ về quân số và trang bị, mà mỗi sư đoàn còn được biên chế 2 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn tăng thiết giáp (trước đây chỉ có 1 tiểu đoàn pháo và 1 đại đội thiết giáp).

Nội dung huấn luyện chủ yếu của quân đội ngụy lúc này là diễn tập phòng ngự và chiến đấu trì hoãn theo từng tuyến có kết hợp huấn luyện tấn công phân đội nhỏ, tăng cường huấn luyện hành quân bộ. Do điều kiện địa hình chi phối, dựa theo giả định về hướng hoạt động của ta, địch áp dụng phương án huấn luyện trên mỗi khu vực cũng khác nhau. Ở khu vực dọc Duyên Hải miền Trung, nặng về hình thức tác chiến theo tuyến, còn dọc theo biên giới Việt Nam – Campuchia, thì thiên về phòng thủ nhằm chặn lực lượng ta có thể mượn đất Campuchia làm bàn đạp đánh vào. Tin tưởng vào các phương án huấn luyện như trên, nên Ngô Đình Diệm đã khẳng định khả năng của quân đội Việt Nam Cộng hòa tại Oasinhtơn ngày 11-5-1957 như sau: “Tôi tin rằng chúng tôi có thể chặn đứng khá lâu cuộc tấn công của quân cộng sản để cho lực lượng của khối SEATO đủ thời gian vào giúp chúng tôi. Mọi cuộc xâm lăng của cộng sản có thể bị chặn lại bằng một sự hợp tác kiểu ấy giữa lực lượng của Nam Việt Nam và SEATO”1.

Từ việc phân định nhiệm vụ như vậy, nên lực lượng chủ lực địch được sắp xếp như sau: 2 sư đoàn và 2 liên đoàn dù và thủy quân lục chiến bố trí trên chiến trường Nam Bộ, nhằm vào hai trọng điểm biên giới Tây Ninh - Thất Sơn và bắc Sài Gòn. Sư đoàn bộ binh số 7, bố trí cơ sở chỉ huy ở Biên Hòa, có 1 trung đoàn ở Thất Sơn - Hậu Giang, 1 tiểu đoàn ở Cái Vồn và 2 trung đoàn (thiếu) ở Biên Hòa (sư đoàn bộ binh số 7 tiền thân là sư đoàn dã chiến số 4 tổ chức lại). Sư đoàn bộ binh số 21 (sư đoàn khinh chiến số 11 cũ) chỉ huy sở đóng tại Tây Ninh, bố trí 1 trung đoàn ở Tây Ninh, 1 trung đoàn ở Bến Cát, 1 trung đoàn ở Chơn Thành (dọc theo quốc lộ 13 đi bắc Sài Gòn). Quân dù và thủy quân lục chiến giữ ở Vũng Tàu và Sài Gòn.

Ở phía bắc gần giới tuyến, địch bố trí 2 sư đoàn: sư đoàn bộ binh 1 (tức sư đoàn 1 dã chiến cũ) bố trí ở Huế, sư đoàn bộ binh 2 (sư đoàn dã chiến số 2 trước đây) đóng tại Đà Nẵng.

Cao nguyên miền Trung, quân ngụy dùng 3 sư đoàn còn lại: sư đoàn bộ binh số 5 (sư đoàn 3 dã chiến cũ) ở Buôn Ma Thuột, sư đoàn bộ binh 22 (sư đoàn khinh chiến số 14 cũ) ở Kon Tum, còn sư đoàn bộ binh 23 (sư đoàn khinh chiến số 15 trước kia) ở Plây Cu.

Với cách bố trí lực lượng trên đây, Mỹ - Ngụy đã thiết lập được hệ thống phòng thủ mạnh và kín trên toàn miền Nam, nhưng vẫn bảo đảm ưu tiên cho vùng trọng điểm, vừa để bảo vệ giới tuyến, lãnh thổ, quyết chia cắt lâu dài miền Nam với miền Bắc, vừa tập trung được lực lượng tổ chức các cuộc hành quân càn quét gom dân, hỗ trợ cho quốc sách “tố cộng, diệt cộng”.
______________________________________
1. Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trên chiến trường B2. Bản tổng kết chiến tranh B2 - Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 10-1984.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:10:40 pm

Ngoài việc chăm lo, củng cố và tăng cường quân đội Sài Gòn, Mỹ cũng không ngừng đầu tư vào nắm lực lượng công an, cảnh sát, an ninh, mật vụ ngụy thông qua phái đoàn Trường đại học Misigân. Mở đầu bằng việc Diệm ký với trường này hiệp ước danh nghĩa giúp tăng cường hiệu lực của cơ quan hành chính và cơ quan cảnh sát quốc gia, sau được bổ sung nhiều lần vào tháng 3-1957 và ngày 8, ngày 27-5-1958... Với hiệp ước trên, phái đoàn MSU trực tiếp tham gia huấn luyện, đào tạo cán bộ cảnh sát, công an ngụy tại các trung tâm huấn luyện Vũng Tàu, Sài Gòn. Trọng tâm của chương trình huấn luyện đi sâu vào việc truy lùng, đàn áp, tra tấn... những người cách mạng. Năm 1957, Mỹ đã cung cấp cho ngành an ninh cảnh sát Sài Gòn 22 xe gíp, đưa hàng trăm cố vấn công an mật vụ sang miền Nam. Năm 1958, cung cấp thêm 29 triệu đồng, 405 xe chuyên dùng, xe vận tải và chi 5,5 triệu đôla cho việc mua dụng cụ, máy móc tra tấn, thẩm vấn, phục vụ cho chương trình “tố cộng, diệt cộng”. Năm 1959, Mỹ lại viện trợ tiếp 539 xe các loại, cấp 176.000 đôla cho kinh phí đào tạo cán bộ ngành an ninh, cảnh sát ngụy.

Đối với lực lượng bảo an, mỗi tỉnh (tiểu khu) có 1 tiểu đoàn, mỗi quận (huyện) có 1 đại đội. Lực lượng bán vũ trang mỗi quận có 1 tổng đoàn, mỗi xã có từ 1 đến 2 tiểu đội dân vệ (2/3 quân số được trang bị súng trường). Thực hiện quân sự hóa chính quyền cơ sở, mỗi tỉnh bố trí đại tá làm tỉnh trưởng, còn các cấp quận trưởng là đại uý. Các ty công an cảnh sát, ty hiến binh, tỉnh đoàn bảo an, dân vệ được củng cố và mở rộng. Đặc biệt, từ thời gian này trở đi, Mỹ - Diệm bắt đầu chú trọng nhiều tới việc phát triển lực lượng bảo an, dân vệ, và coi đây là thành phần cần thiết cho nhiệm vụ bảo đảm an ninh nội địa. Các đơn vị bảo an, dân vệ được huấn luyện thống nhất theo chương trình và thời gian quy định của Bộ Quốc phòng ngụy đặt ra hàng năm. Đối với các tỉnh xung yếu ở Nam Bộ, địch đặt chức tỉnh phó phụ trách nội an do các cán bộ quân sự đảm trách để tăng cường khả năng chỉ huy và đàn áp phong trào cách mạng ở cơ sở. Bên cạnh đó, chúng cũng hướng nhiệm vụ của hai tổ chức “Tập đoàn công dân” và “Phong trào cách mạng quốc gia” vào mục đích đàn áp và diệt cộng. Thành phần nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang của Diệm là những thanh niên công giáo di cư, bọn lưu manh gian ác có nhiều nợ máu và oán thù đối với cách mạng.

Để thống nhất việc chỉ huy, chỉ đạo chiến lược, chiến thuật, Bộ Tổng tham mưu, Bộ tư lệnh hành quân, các bộ tư lệnh quân đoàn của quân đội ngụy lần lượt được tổ chức, hệ thống chỉ huy lãnh thổ từng bước được kiện toàn. Các quân chủng không quân và hải quân cũng dần dần được hoàn thiện. Để có nguồn cán bộ bổ sung cho các cơ quan chỉ huy và đơn vị quân đội, Mỹ - Diệm một mặt nhanh chóng triển khai xây dựng và mở rộng các trung tâm huấn luyện ở Buôn Ma Thuột, Nha Trang, Thủ Đức, Đà Lạt..., mặt khác, chúng đưa người sang Mỹ và một số nước thuộc phe Mỹ đào tạo ngắn hạn hoặc dài hạn theo các trường của quân, binh chủng, các ngành kỹ thuật để sau đó trở về điều hành quân đội. Quân ngụy cũng được huấn luyện rập khuôn theo giáo trình và điều lệnh của quân đội Mỹ. Thông qua việc làm trên, Mỹ đã trực tiếp nắm và điều hành quân đội Việt Nam cộng hòa của Diệm.

Song song với việc xây dựng lực lượng vũ trang, kiện toàn bộ máy chỉ huy quân đội từ trên xuống dưới, Mỹ - Diệm nhanh chóng đầu tư xây dựng hệ thống đường chiến lược, chiến thuật, chủ yếu là mở đường ôtô, nâng cấp hệ thống đường có sẵn và mở nhiều đường mới. Trọng điểm ưu tiên hàng đầu trong việc mở đường là làm các tuyến đường nối liền các căn cứ không quân và hải quân Ô Cấp (Vũng Tàu) - Biên Hòa - Sài Gòn, Nha Trang - Buôn Ma Thuột. Mở rộng và nâng cấp hệ thống đường giao lưu giữa bờ biển với Tây Nguyên, nổi bật là đường 19 nối liền miền Nam với Campuchia, kéo dài đường 14 song song với đường số 1 nối Sài Gòn với vùng giới tuyến, đường 21 từ Ninh Hòa đi Buôn Ma Thuột, đường số 20 từ Phan Rang đi Đà Lạt. đường 16 Đà Nẵng đi Hiệp Đức, đường số 5 từ Quảng Ngãi đi Kon Tum, đường số 7 từ Tuy Hòa đi Cheo Reo và đến Plây Cu... Trong địa bàn các tỉnh, địch mở nhiều đường chia cắt (đường nhanh) giữa khu du kích, khu căn cứ... của ta với vùng địch chiếm đóng để phục vụ cho các cuộc hành quân càn quét của chúng. Những năm này, Mỹ tăng cường tiền của, vật liệu cho Diệm mở rộng các phi trường Tân Sơn Nhất (Sài Gòn), Hòa Bình (Buôn Ma Thuột) và dự định mở rộng sân bay Ô Cấp (Vũng Tàu) thành sân bay lớn, xây dựng xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, đầu tư nạo vét mở rộng và hiện đại hóa các căn cứ hải quân Cam Ranh, Nha Trang... Bên cạnh đó, hệ thống kho tàng chiến lược ở Sài Gòn, Biên Hòa, Nha Trang, Đà Nẵng, Quy Nhơn... và các kho nhánh ở Plây Cu, Buôn Ma Thuột... phục vụ cho tác chiến tại chỗ cũng khẩn trương được xây dựng và lắp đặt.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:11:47 pm

Để thực hiện âm mưu quân sự lâu dài không chỉ đối với miền Nam Việt Nam mà đối với cả Đông Dương, Mỹ - Diệm đã đầu tư xây dựng Tây Nguyên thành trung tâm quân sự mạnh có nguồn cung cấp nhân, vật lực tại chỗ và có hệ thống kho tàng dự trữ lớn cho chiến tranh. Về tác chiến, địch cho rằng chiến tranh xảy ra, đường số 9 là chiến tuyến thứ nhất, đường 19 và đường 19 kéo dài sẽ là chiến tuyến thứ hai, đường 21 là chiến tuyến thứ ba, đường 14 là trục chiến lược điều quân quan trọng. Buôn Ma Thuột là trung tâm quân sự, chính trị của TâyNguyên. Do đó Mỹ - Ngụy tổ chức các tỉnh Nam Tây Nguyên gồm Đắc Lắc, Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng cùng các tỉnh đồng bằng Nam Khu V (Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận) thành Quân khu IV1.

Cùng với việc tổ chức và sắp xếp lực lượng vũ trang, Mỹ - Diệm triển khai giai đoạn II “tố cộng, diệt cộng” trọng điểm đánh vào miền Đông Nam Bộ và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đối với các tỉnh Khu V, địch tổ chức tố cộng lần hai, trọng điểm vùng rừng núi. Điều 7 Hiến pháp ngày 20-10-1956 của Diệm khẳng định: “Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức đều trái với nguyên tác ghi trong hiến pháp”. Phương châm của quốc sách diệt cộng là: “Tiêu diệt Việt cộng không thương tiếc,... tiêu diệt như trong tình trạng chiến tranh, thà giết lầm chứ không bỏ sót”2. Khẩu hiệu hành động của địch từng bước, lâu dài, nhưng kiên quyết và triệt để; tiêu diệt nội tuyến, diệt trừ nội tâm, đạp lên oán thù để thực thi chủ nghĩa “nhân vị quốc gia”. Tháng 5-1957, chính quyền Diệm thông qua luật “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, công khai hóa việc đàn áp cách mạng miền Nam.

Thực hiện mục tiêu đề ra, Mỹ - Diệm dùng lực lượng quân đội, cảnh sát, bảo an, dân vệ càn quét, đánh phá dữ đội ở cả nông thôn và thành thị, các khu căn cứ. Chúng ttỏ chức lùng sục vào tận hang cùng ngõ hẻm, triệt hạ xóm làng, tiêu diệt và chụp bắt cán bộ cơ sở, yểm trợ và làm lá chắn cho các đoàn tố cộng và bộ máy kìm kẹp ở cơ sở tiến hành truy bức nhân dân, phá phong trào cách mạng của ta. Thông thường, địch tập trung những bộ phận lớn lực lượng (quy mô ngang một sư đoàn tăng cường hay vài sư đoàn) tiến hành những cuộc hành quân càn quét lớn, xen với những trận càn quét nhỏ vào những địa bàn quy định. Địch phân chia lực lượng càn quét trên từng ô nhỏ, càn đi, quét lại nhiều lần, chiếm đóng cả đêm lẫn ngày, cắm thêm nhiều đồn bốt để kiểm soát làm điểm tựa cho tề điệp, biệt kích bất ngờ chụp bắt cán bộ cơ sở, tăng cường hoạt động thám báo, tận dụng bọn đầu hàng, đầu thú làm chỉ điểm để trục phá và truy bắt cán bộ, tróc nã cơ sở bí mật của ta. Đặc biệt, trong lần “tố cộng, diệt cộng” này, địch đã đưa ra những tay chân tin cẩn, có nhiều kinh nghiệm ở Khu V vào Nam Bộ để mở các đợt săn lùng, truy quét bắt cán bộ, đảng viên và phá cơ sở cách mạng.

Từ ngày 24-6-1956 đến ngày 24-2-1957 địch dùng 2 sư đoàn khinh quân số 11 và số 13, cùng 6 trung đoàn độc lập, 4 hải đoàn xung phong kết hợp với các đoàn tố cộng và bộ máy kìm kẹp cấp cơ sở, mở cuộc hành quân Thoại Ngọc Hầu đánh vào các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, miền Tây và Trung Nam Bộ. Mục đích cuộc hành quân nhằm tìm diệt cán bộ, đảng viện nằm vùng, thanh toán lực lượng vũ trang cách mạng liên kết với tàn dư giáo phái Hòa Hảo đang hoạt động ở đây để củng cố chính quyền ngụy ở nông thôn, thành lập và huấn luyện cho lực lượng dân vệ đoàn.

Tiếp đó, địch mở cuộc hành quân mùa thu từ ngày 1-10-1957 đến hết tháng 12-1957. Lực lượng gồm 1 sư đoàn bộ binh tăng cường, 1 trung đoàn độc lập, 1 thiết giáp, 4 hải đoàn xung phong cùng lực lượng bảo an, dân vệ tại địa phương, càn quét lần thứ hai vào miền Tây Nam Bộ nhằm củng cố tình hình, ngăn trở hoạt động trở lại, lùng sục phát hiện cán bộ cơ sở ta trong dân chúng.

Sang năm 1958, chính quyền Diệm lại tập trung quân chủ lực càn quét 8 tỉnh miền Đông Nam Bộ và ngoại ô Sài Gòn bằng hai cuộc hành quân mang tên Nguyễn Trãi và Hồng Châu.

Nổi bật trong số các cuộc hành quân quy mô lớn của địch trong thời gian này là cuộc hành quân Trương Tấn Bửu (từ ngày 10-7-1956 đến ngày 24-2-1957). Tổ chức cuộc hành quân này, địch huy động 1 sư đoàn chủ lực, 2 trung đoàn độc lập, 1 hải đoàn xung phong, kết hợp với lực lượng bảo an, các đoàn tố cộng, tiến hành càn quét các tỉnh miền Đông Nam Bộ kể cả phân khu Sài Gòn - Chợ Lớn, nhằm tiêu diệt lục lượng cách mạng và tàn quân Bình Xuyên, Cao Đài, kiểm soát chặt vùng biên giới, tái lập an ninh nông thôn. Chỉ huy cuộc hành quân là tướng Mai Hữu Xuân.
______________________________________
1. Năm 1956, Quân khu II, gồm các tỉnh Tây Nguyên, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Phú Bổn và các tỉnh đồng bằng Khu V Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận.
2. Báo Cách mạng quốc gia từ 21-2 đến 31-3-1959.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:13:07 pm

Sau khi dùng lực lượng lớn càn quét trên diện rộng, địch phân lực lượng hỗn hợp này thành những bộ phận nhỏ cỡ đại đội, tiểu đoàn, tổ chức càn đi quét lại nhiều lần trên một phạm vi ấp, xã hoặc một vùng căn cứ. Chúng dùng chó bécgiê đánh hơi, dùng gậy sắt nhọn đầu, xăm tìm hầm bí mật. Từng góc nhà dân, từng bờ bụi đều bị địch lục soát bới tung lên để tìm kiếm dấu vết cơ sở và cán bộ nằm vùng của ta. Trong thời gian lục soát, chúng tình nghi ai là lập tức bắt ngay, không kể người đó là thanh niên, phụ nữ, già hay trẻ và mặc dù người đó có mang đầy đủ giấy tờ hợp pháp, có khi, địch huy động khoảng 500 đến 600 lính tổ chức phục kích dọc các ngả đường trong thôn xóm 3, 4 ngày liền để đón bắt những người mà chúng tình nghi. Trong suốt thời gian hành quân càn quét, địch cấm đoán mọi tự do đi lại, hội họp thăm viếng... của nhân dân. Ra chợ mua gạo không được quá 3 lon, dầu không quá 1 lít, nếu mua nhiều sẽ bị quy tội là “nuôi” cộng sản. Nhà nào có giỗ chạp, ma chay, cưới xin... phải báo cáo xin phép ba cấp: thôn, xã, quận; phải khai rõ những người tới dự, thời gian tổ chức… Ban đêm mọi nhà phải thắp đèn treo ngoài cửa và cấm qua lại hàng xóm. Mọi người đi làm đồng phải tập trung lại cùng đi, ra cổng làng phải trình giấy tờ, khai rõ nơi làm việc, nếu vào rừng lấy củi phải xin phép trước và không được mang quá 3 lon gạo... Hội đồng hương chính ở các địa phương được lệnh phải kiểm tra nắm chắc số dân, thành phần từng gia đình, tổ chức làm thẻ có dán ảnh và đóng dấu nổi để tiện kiểm tra, kiểm soát. Bọn thám báo, chỉ điểm còn đóng giả người đi mua trâu, bò, hoa màu, nông thổ sản, len lỏi vào tận hang cùng ngõ hẻm để dò xét, tìm kiếm cơ sở và phát hiện cán bộ nằm vùng của ta. Bọn phong trào cách mạng quốc gia cũng ráo riết hoạt động nhằm phát triển và mỏ rộng tổ chức. Chúng phao tin là quân đội sẽ còn càn quét mạnh hơn nữa, binh lính sẽ phân ra đóng ở từng gia đình, ai bị tình nghi sẽ bị tra tấn, khai thác ngay tại chỗ. Các địa điểm tôn nghiêm, linh thiêng như chùa chiền, đền miếu, trường học... đều trở thành địa điểm giam giữ, tra tấn và thẩm vấn người.

Những hoạt động ráo riết của địch đã làm cho nhân dân lo sợ, căng thẳng thường xuyên, một số dao động. Trong khi đó, nạn trộm cướp ám sát, giết người cướp của luôn luôn xảy ra, gây rối trật tự an ninh, càng làm cho tình hình thêm phức tạp.

Sau những cuộc càn quét và khủng bố gắt gao, địch đưa một đoàn gồm công an, cảnh sát, điều tra, mật vụ, cán bộ hương thôn, công dân vụ... xuống các tỉnh, huyện rồi chia thành nhiều toán nhỏ (mỗi toán độ 5 đến 8 người do 1 công an làm toán trưởng) có từ 1 tiểu đội đến 1 trung đội bảo an đi cùng, mỗi toán về hoạt động 1 xã hay 1 ấp. Chúng gọi từng người đến để thẩm tra bằng cách xem xét thẻ công dân đối chiếu với sổ cái, với ảnh trong thẻ và người thật để nhận dạng. Nếu không có dấu hiệu nghi ngờ thì chúng ghi tên vào sổ ngũ gia và cấp giấy chứng nhận có chụp dấu của cuộc hành quân (hay chiến dịch) đang được tiến hành tại địa phương đó. Với cách làm như vậy, chúng nắm được từng gia đình có bao nhiêu người, ai tham gia kháng chiến trước đây, ai tập kết, ai đã từng làm việc cho Pháp, ai đang làm việc cho quốc gia, gia đình có bao nhiêu ruộng đất, trâu bò, tài sản.

Thông qua việc điều tra nắm tình hình, địch tiến hành chia làng, xã thành từng ô và phân tán các gia đình thành ba loại A, B, C.

Gia đình loại A là những gia đình kháng chiến cũ, gia đình có người tham gia tập kết; những người yêu nước thiết tha với hòa bình, độc lập, thống nhất mà địch gọi chung là “Việt cộng”. Địch coi đây là những gia đình bất hợp pháp, trước nhà phải treo biển đỏ cộng sản. Những người trong gia đình loại này thường xuyên bị theo dõi và quản chế gắt gao, bị tra khảo, đánh đập tàn nhẫn và phải tuyên bố ly khai cộng sản.

Loại B là những gia đình có liên quan bà con, họ hàng thân thuộc với loại A, hay có mối liên hệ nhất định với cách mạng, cũng được liệt vào danh sách gia đình bất hợp pháp, trước nhà phải treo biển vàng thân cộng. Những người trong gia đình loại này hàng tháng phải làm tờ cam kết ly khai cộng sản, hàng ngày phải tập trung đi lao động khổ sai.

Cuối cùng là gia đình loại C, gồm những gia đình vây cánh là hậu thuẫn cho chính quyền Diệm. Đây là những gia đình được coi là hợp pháp, trước nhà treo biển xanh. Chính quyền Diệm có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với những gia đình loại này. Những người xuất thân từ đây được sắp xếp giữ quyền cao chức trọng trong bộ máy Nhà nước và quân đội ngụy. Chúng được Diệm tin cậy cử xuống từng địa phương, phối hợp với chính quyền cơ sở, tiến hành các đợt tố cộng. Những người thuộc các gia đình loại A và loại B bị bắt dồn tới các trại tập trung để học tập tố cộng trong thời gian từ 1 đến 6 tháng (có nơi chúng làm đi làm lại nhiều lần không kể thời gian). Các “công dân bất hợp pháp” này bị cưỡng bức tham gia vào các lớp học tố cộng. Nhiều lớp đông tới hàng ngàn người. Năm 1957 ở huyện Đại Lộc, Quảng Nam địch đã tập trung tới 5.000 người1.
______________________________________
1. Nhà báo Mỹ Côugơvôvơ đã viết bài đăng trên tờ “Mặt trời Nưu Oóc” tháng 7-1961 xác nhận: “Một điều người ta không thể tưởng tượng được là các trại giáo hóa (thực chất là các lớp học tố cộng), tại đó, tất cả những người không tán thành nhiều hay ít cách nhìn của nhà cầm quyền đều bị giam và họ bắt buộc phải trải qua một cuộc “tẩy não” nhãn hiệu “Việt Nam tự do”. Tôi là người Mỹ duy nhất được may mắn thăm một trong các trại đó - trại giáo hóa Quảng Trị, giam 400 người, trong đó có 80 phụ nữ, nhiều người bế con mới đẻ hay mang sữa trên tay.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:13:47 pm

Trước tiên, địch bắt mọi người học tập chính trị và liên hệ nói xấu cách mạng, nói xấu Việt cộng, coi Mỹ-Diệm là chính nghĩa, thừa nhận bọn phản quốc tay sai của Mỹ là theo chính nghĩa quốc gia. Chúng bắt mỗi người phải tự khai nhận về hoạt động của bản thân, tố giác các đồng chí, đồng bào và người thân của mình. Những người bị tố giác, địch bắt phải tự nhận là “Việt cộng” được cài lại để hoạt động phá hoại. Chúng vu cáo bất cứ ai mà chúng cho là những “phần tử nguy hiểm”. Những người không “nhận tội” sẽ bị tra tấn ngay tại chỗ, tại lớp học hay trong các phòng thẩm vấn và có thể bị thủ tiêu.

Để uy hiếp tinh thần những người bị bắt và gây hoang mang sợ hãi trong quần chúng, địch đưa một số tên đầu hàng phản bội cách mạng tố cáo Đảng, xuyên tạc chủ trương, đường lối cách mạng, xé cờ Đảng và ảnh Bác Hồ, tham gia tra tấn, thẩm vấn những người bị bắt. Tháng 10-1956, tại lớp học tố cộng ở Phú Thọ (Quảng Nam), địch đã tưới cồn đốt ngực anh Nguyễn Sự khi anh không chịu xé cờ cách mạng. Tháng 6-1957, bọn công an Củ Chi (Sài Gòn) đã tra tấn và không cho ăn uống đối với đồng chí Trần Văn Tư - một cán bộ cơ sở bí mật của ta. Tại phòng thẩm vấn của Ty công an tỉnh Phú Yên, bà Phan Thị Bích, cán bộ phong trào của địa phương, đã bị tra tấn cực hình và nhục hình trong nhiều ngày (tháng 9-1957)... Một biện pháp tra tấn thâm độc được áp dụng phổ biến trong chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” lần này là bắt mọi người phải “sám hối” - nghĩa là phải tự nhớ lại những việc làm của mình hay của người khác, thậm chí nhớ lại cả những việc làm của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa trong thời kỳ kháng chiến mà chúng cho đây cũng là tội lỗi.

Người bị buộc “sám hối” phải đứng hoặc quỳ gối lên những chồng gạch xếp cao chênh vênh, dưới đất có cắm chông sắt nhiều ngạnh, mắt nhìn thẳng vào ảnh Ngô Đình Diệm; bên cạnh một ngọn điện công suất hàng trăm oát. Trong phòng “sám hối” còn đốt hương trầm, khói xông lên làm ngạt thở. Người bị “sám hối” phải đứng liên tục trong nhiều giờ trong điều kiện như vậy, nhiều người không chịu nổi đã ngất xỉu, có người đứng lâu cơ bắp tê mỏi buộc phải cựa mình, thế là lính Diệm xô lại đánh đập túi bụi, ngã nhào bị chông đâm rách khắp thân mình. Sau khi phải chịu những cực hình trên, nếu ai vẫn không khai báo sẽ bị quy là “Việt cộng” cứng đầu, bị giam giữ và sau đó, có thể bị mang đi chôn sống hay thủ tiêu mất tích, nếu may mắn được tha về thì sớm, muộn cũng bị mật vụ ám sát, thủ tiêu bí mật.

Nhằm gây chia rẽ nội bộ, tạo sự hiềm khích, nghi ngờ trong các tổ chức cách mạng, địch cho đặt những thùng thư “trưng cầu dân ý” ngay trong lớp học “tố cộng” và cho tay chân bí mật bỏ thư tố giác một vài người có mặt ở đây rồi mang họ ra tra tấn công khai, không trừ một đối tượng nào. Cách thức tra tấn người của công an, mật vụ ngụy tàn ác hơn thời trung cổ: dùng đinh đóng vào các khớp xương, treo người lên xà nhà, đồ nước xà phòng... Điền hình là năm 1957, các đồng chí Quý, Quang, Sơn, Sáu ở trại giam Phú Lợi, đồng chí Mười ở Mỹ Tho,... đã bị địch dùng đinh đóng khắp các đốt xương chân và tay. Chúng đóng đinh từ từ, lần lượt vào từng khớp xương của người bị tra tấn để tạo sự tê giựt, đau đớn kéo dài, gây co quắp các ngón chân tay. Nạn nhân của hình thức tra tấn này không bao giờ phục hồi được chức năng của chân, tay. Riêng với những người bị tình nghi là cán bộ quan trọng như đồng chí Nguyễn Đúc Thuận, Hà Minh Trí..., cách tra tấn của địch nham hiểm hơn. Chúng bắt đứng chống tay vào tường, chân cách tường 60cm, người đổ về phía trước, hai bên gáy treo hai ngọn đèn công suất từ 500-1000 oát. Sức nóng của đèn tác động vào não làm cho nạn nhân thấy đầu óc như bị khoan rọi, moi bới, lúc thít chặt, lúc giãn nở nhức nhối, bứt rứt muốn phát điên. Trong trạng thái tinh thần đó địch thay nhau thẩm vấn, tra hỏi cho đến khi nạn nhân bất tỉnh mới thôi. Dã man hơn nữa là hình thức tra điện. Bọn công an địch chọn những nơi có độ nhạy cảm mạnh trên thân thể người để cắm điện. Nhục hình này làm cơ thể nạn nhân bị co giật dữ dội, cơ thể mất cảm giác, đầu óc bị điên loạn... Chị Trần Thị Vân ở Điện Bàn - Quảng Nam đã tố cáo: Sau khi thẩm vấn chị không kết quả, bọn công an ngụy đã cởi hết quần áo chị, buộc các đầu dây điện vào bộ phận sinh dục, hai đầu vú rồi quay điện. Chúng quay từ từ, vừa quay vừa thẩm vấn, đến khi chị chết ngất. Đặc biệt man rợ là chúng dùng gậy tre, ve chai, rắn độc nhét vào bộ phận sinh dục của phụ nữ. Các chị Lý, chị Vân (Quảng Nam), chị Mười ở Mỹ Tho và hàng trăm chị khác ở miền Nam bị địch bắt tra tấn như thế, nên cuộc đời và hạnh phúc của các chị đã bị hủy hoại tàn phế. Nhẫn tâm hơn nữa là đối với những người bị hành quyết hay bị chết sau các cuộc tra tấn chúng còn cắt cổ, moi gan, phanh thây làm nhiều khúc và cấm không cho người thân trong gia đình, họ hàng than khóc, mang xác về mai táng.

Để làm cho quần chúng và các tổ chức của Đảng nghi ngờ, mất lòng tin đối với đồng chí mình, địch ép những người bị bắt phải ăn, ngủ và mặc theo chúng, mang súng không có đạn, dẫn lính đi lùng sục tìm kiếm cán bộ và cơ sở mật của ta.

Trong các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, số lượng nhà tù, trại giam không ngừng tăng nhanh, nhưng vẫn không đủ chỗ giam giữ. Ở nhà tù Gia Định và Hội An, một buồng giam 54m2, địch nhốt tới 150 người (3 người/1m2), tù nhân ở đây phải thay nhau nằm, ngồi hoặc đứng (thông thường 3/4 số người nằm thì 1/4 số người phải đứng). Trong buồng giam chỉ có một thùng để đi đại tiện và tiểu tiện, do đông người nên thùng thường xuyên mở nắp, mùi hôi thối xông lên rất mất vệ sinh. Ở nhà lao Quảng Trị, xà lim rộng dưới 2m2, cao hơn 1m mà địch giam giữ tới 4 người (cứ 1 người nằm, 3 người kia phải ngồi). Tại nhà lao Phú Lợi, địch áp dụng hình thức giam người trong hầm lộ thiên, sâu khoảng 3-4 m, rộng 3m, trên mặt hầm rào bằng dây kẽm gai, không lợp mái. Tù nhân ăn ngủ ngay trên nền đất và chịu phơi sương, nắng, mưa suốt ngày đêm. Bên cạnh đó, địch còn giam trong những lồng đan bằng kẽm gai, diện tích chỉ vừa một người chui lọt. Người nào bị nhốt vào đây phải luôn ở tư thế ngồi, đứng thì chạm đầu, nằm thì bị gai thép đâm. Những lồng giam này cũng thường xuyên để ngoài trời mưa nắng. Nhà tù ở Côn Đảo, nơi dành cho những tù nhân “tối nguy hiểm”, ngoài những xà lim thông thường bọn Mỹ - ngụy còn xây dựng hệ thống “chuồng cọp”. Mỗi chuồng cọp có chiều dài 2,5m, rộng 1,5m, tường đá cao 4m, trần để trống và được rào bằng những song sắt, kẽm gai. Người bị giam ở đây hầu như bị biệt lập hoàn toàn, không được hưởng một chút tự do nào và thường xuyên bị tra tấn và thẩm vấn bằng những biện pháp thâm hiểm nhất. Với chế độ giam giữ như vậy, nên chỉ trong 3 năm từ 1957 đến 1959 đã có 3000/4000 người bị giam giữ ở Côn Đảo đã chết. Tại Sở Thú ở ngay trung tâm Sài Gòn, Diệm đã xây dựng một trại giam và tra tấn thẩm vấn đặc biệt với biệt danh P42 - thực chất đây là những hầm ngầm nhốt người có cửa thông ra chuồng cọp. Khi cần thủ tiêu người, bọn cai ngục chỉ cần mở cửa chuồng là lũ cọp sẽ nhảy sang xé xác người mà chúng muốn thủ tiêu. Ở nhà giam Phú Lợi, địch còn dùng chất độc để giết chết một lúc hàng nghìn người. Trưa ngày 1-12-1958, chính tay chúa ngục Hà Văn Tân (đã từng sang du học tại Mỹ) trực tiếp bỏ thuốc độc thần kinh vào cơm và thức ăn của tù nhân, làm hơn 1000 người bị giam giữ trúng độc, hàng trăm tù nhân chết ngay tại chỗ. Sau khi sự việc xảy ra, địch đã phong tỏa, bao vây kín xung quanh trại không cho cứu chữa, hòng bưng bít dư luận. Trước cảnh bi thương này, để cứu mình và những người còn sống, số tù nhân bị nhiễm độc nhẹ đã phá phòng giam, trèo lên mái nhà, la hét, kêu gọi cấp cứu. Những tiếng kêu xé trời của những người bị đầu độc ở Phú Lợi đã nhanh chóng lan ra ngoài, đến khắp miền Nam, miền Bắc và thế giới. Căm thù sục sôi trước hành động dã man của Diệm, nhân dân miền Bắc đã phát động một phong trào đấu tranh tố cáo hành động hèn nhát, man rợ của chính quyền Sài Gòn trước dư luận thế giới. Nhân dân tiến bộ ở nhiều nước Á, Phi, Mỹ Latinh, Hội đồng hòa bình thế giới, tổ chức đoàn kết nhân dân Á - Phi, các nước XHCN đều lên án mạnh mẽ hành động vô nhân đạo của chính quyền Diệm.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:14:31 pm

Hành động khủng bố, trả thù điên cuồng của Mỹ - ngụy đã gây cho cách mạng miền Nam những tổn thất nghiêm trọng. Ở tỉnh Quảng Trị, sau tập kết, ta còn 8.400 đảng viên với hàng trăm chi bộ, đến đầu 1957, ở đồng bằng chỉ còn 7 chi bộ với 106 đảng viên (trong đó có 71 đảng viên hoạt động đơn tuyến), ở miền núi còn 70 đảng viên (nhưng hai huyện Cam Lộ và Hải Lăng, không còn đảng viên nào). Còn Thừa Thiên, sau khi chấn chỉnh tổ chức còn 300 đảng viên, đến 1957 ở đồng bằng còn vài chi bộ, miền núi chỉ còn lại duy nhất một chi bộ.

Trước tình hình đó, đầu năm 1957, Khu ủy Khu V chủ trương chuyển thế chỉ đạo từ rừng núi về đô thị và từ đô thị chỉ đạo nông thôn và miền núi. Đồng thời đưa một bộ phận cán bộ, đảng viên ra sống hoạt động hợp pháp để tổ chức hệ thống lãnh đạo công khai bên trong, kết hợp với hệ thống “bất hợp pháp” bên ngoài. Ngay từ đầu, một số đồng chí ta thấy chủ trương này khó thực hiện được, nhưng vẫn quyết tâm làm. Bình Thuận, Khánh Hòa đã chuyển gần 800 cán bộ ra hoạt động hợp pháp. Số này vừa ra đã bị lộ, địch bắt và giết gần hết, nhất là sau khi tên Nguyễn Xuân Viên, thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận ăn cắp vàng của cách mạng rồi chạy sang hàng địch, chỉ điểm, ta bị hy sinh nhiều hơn. Còn một số nơi như Quảng Ngãi, Bình Định không đồng tình, tìm cách kéo dài thời gian chuẩn bị thì ít tổn thất. Khu ủy Khu V nhận rõ chủ trương sai lầm đã rút những cán bộ, đảng viên chuyển ra hoạt động hợp pháp trở về căn cứ. Nhưng lúc này (cuối 1957), đã có 70% cấp ủy xã, 60% huyện ủy viên, 40% tỉnh ủy viên ở các tỉnh đồng bằng đã bị bắt, bị giết. Nhiều huyện, xã không còn cán bộ lãnh đạo. Ở Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng, hòa bình lập lại có 35.000 đảng viên, đến cuối 1958 còn dưới 100 đồng chí hoạt động đơn tuyến. Tỉnh khá nhất của Khu V cũng chỉ còn 10 chi bộ, 12 huyện không còn cơ sở đảng.

Tại Nam Bộ, nhiều cơ sở bí mật ở địa phương bị thiệt hại nặng nề như Vĩnh Long, Trà Vinh, An Xuyên và đặc biệt nghiêm trọng là Kiến Hòa, Định Tường. Một số đảng viên, chi bộ hoạt động hợp pháp và bán hợp pháp ở Sài Gòn - Gia Định cũng bị địch phát hiện, quấy phá không phát huy được tác dụng. Các ban chấp hành đảng bộ Gò Vấp, Tân Bình, Hóc Môn phải “lột xác” nhiều lần. Riêng Hóc Môn, 1954 để lại 100 đảng viên đến cuối 1958 chỉ còn 1; Gò Vấp, Tân Bình số đảng viên để lại 1000, còn lại 8. Tỉnh Gia Định chỉ còn lại duy nhất một chi bộ ở Tân Phú Trung. Chỉ tính 6 tháng đầu năm 1958 ở miền Trung và miền Tây Nam Bộ đã có 16 chi bộ bị tan vỡ, 1.457 cán bộ đảng viên bị địch bắt và sát hại trong đó có 2 tỉnh ủy viên, 26 huyện ủy viên, 33 chi ủy viên bị giam giữ, 2 tỉnh ủy viên, 1 huyện ủy viên, 4 chi ủy viên bị giết). Riêng hai tỉnh trọng điểm Định Tường và Kiến Hòa từ tháng 7-1958 đến tháng 9-1958, địch đã bắt 95 người, trong số đó có 2 tỉnh ủy viên, 2 huyện ủy viên, 13 chi ủy viên, 20 cán bộ giao liên và 11 đảng viên cơ sở. Ở Trà Vinh, địch bắt 42, giết 3 cán bộ cơ sở của ta (trong đó có bí thư huyện ủy Cái Bè). Hoang mang trước hành động của địch, nên 1 bí thư chi bộ, 13 đảng viên và 5 đoàn viên thanh niên lao động đã ra hàng. Cũng thời gian trên, ở An Giang, địch bắt 21 cán bộ ta (có: 2 tỉnh ủy viên, 2 giao liên huyện ủy, 3 chi ủy viên) làm 13 chi bộ ở hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên bị tê liệt hoàn toàn. Ở Kiến Tường, trong 6 tháng cuối 1958, địch đã bắt, thủ tiêu và mang đi mất tích 132 cán bộ, đảng viên.

Tính đến cuối năm 1958, trên toàn miền Nam, Mỹ - Diệm đã giết hại khoảng 68.800 cán bộ, đảng viên (tính trung bình cứ 3 đến 5 gia đình có người bị giết), bắt giam 466.000 và tra tấn thành thương tật 680.000 người. Những con số trên là bằng chứng về tính chất tàn bạo và tội ác của chính quyền Mỹ - Diệm đối với nhân dân ta ở miền Nam Việt Nam.

Cùng với việc thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng”, tháng 4-1957, chính quyền Diệm triển khai kế hoạch lập khu “dinh điền”, khu “trù mật” và coi đây là bộ phận quan trọng góp phần thực hiện kế hoạch “tố cộng, diệt cộng” ở miền Nam.

Theo quan điểm của Diệm thì chiến thắng cộng sản không phải chỉ dựa vào quân lực mạnh, mà còn phải biết dựa vào hậu thuẫn mạnh mẽ của dân chúng nghèo khi mà họ đã được chính phủ giải thoát ra khỏi giai cấp vô sản, lúc đó chính họ sẽ tự chiến đấu chống cộng sản. Như vậy, cộng sản sẽ mất điểm tựa. Đây cũng chính là mục đích “quốc sách dinh điền”.

Khu dinh điền và khu trù mật thực chất là những trại tập trung trá hình. Diệm - Nhu dự định đến hết năm 1960 sẽ lập khoảng trên 100 khu dinh điền, rải khắp cao nguyên và vùng hẻo lánh dọc biên giới Việt Nam - Campuchia và đưa lên đây độ một triệu dân, thành phần chủ yếu là đồng bào mới di cư từ miền Bắc vào và nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long, ven biển Khu V, và đại bộ phận đồng bào dân tộc ít người bấy lâu nay sống du canh, du cư ở miền núi. Làm được như vậy, Mỹ - Diệm hy vọng sẽ tạo ra được vành đai bảo vệ và tách quần chúng nhân dân ra khỏi cách mạng; tạo điều kiện thuận lợi cho chúng nhanh chóng bình định xong miền Nam. Chính Barâu Trưởng phái đoàn viện trợ kinh tế Mỹ - người đề xướng ra chủ trương lập “khu dinh điền” đã nói “phải làm cho các khu dinh điền trở thành những cứ điểm bao vây bọn “Việt cộng”. Diệm thì tuyên bố phải làm cho các khu dinh điền trở thành các pháo đài tiễu “cộng”, là nơi cung cấp tin tức tình báo, nơi xuất phát hành quân ngăn chặn xâm nhập, không cho “Việt cộng” một mảnh đất hoang vu nào để hoạt động. Mục đích của dinh điền trước hết là nhằm tăng cường quân sự, bóc lột kinh tế và đàn áp về chính trị, được chính quyền Nam Việt Nam đưa lên hàng quốc sách và dồn sức thực hiện.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:15:30 pm

Địch cho rằng những vùng rừng núi hoang vu, những nơi địa thế hiểm trở... là chỗ dựa tốt để chúng chống lại cách mạng, nên lập được một khu dinh điền ở đâu là phá được căn cứ của cách mạng ở đó. Kế hoạch xây dựng các khu dinh điền của địch trước tiên là bắt cho được những cơ sở và những người có tinh thần đấu tranh ở những vùng có ảnh hưởng của cách mạng (nhất là các vùng tự do cũ của Liên khu V và những căn cứ cũ ở Nam Bộ) đưa đi các khu dinh điền (chủ yếu là ở Tây Nguyên) để xây dựng các căn cứ quân sự; mặt khác tập trung thành phần này lại để dễ quản chế, làm xáo trộn các cơ sở cách mạng ở địa phương, làm cho phong trào đấu tranh của nhân dân mất nòng cốt, sẽ tan rã. Lực lượng cai quản các khu dinh điền là những tên tay chân của Diệm trong giáo dân di cư, bọn lưu manh côn đồ có nhiều nợ máu với cách mạng.

Để đảm bảo cho việc thực hiện quốc sách trên, Mỹ - Diệm tổ chức ra hệ thống bộ máy chỉ đạo từ Trung ương đến tận địa phương, giải tán “Tổng ủy phủ di cư” lập “Tổng ủy phủ dinh điền”. Tất cả phương tiện và nhân viên thuộc chương trình di cư được chuyển sang cho dinh điền sử dụng. Diệm cũng bắt đầu đưa các nhân viên dinh điền sang một số nước đào tạo và học tập kinh nghiệm phục vụ cho kế hoạch dinh điền.

Tổ chức bộ máy hành chính của dinh điền gồm: Tổng ủy phủ, đứng đầu là tổng ủy trưởng (ngang bộ trưởng) dưới là các vùng hoặc các dinh điền do một quản đốc vùng hay khu trưởng phụ trách, dưới nữa là các trưởng trại dinh điền. Ở Tổng ủy phủ dinh điền có các nha: kỹ thuật, tài chính, định cư... và các ban an ninh, thanh tra, công chính... chịu trách nhiệm điều hành và vạch kế hoạch hành động. Tại các vùng hoặc khu dinh điền có các nhân viên phụ tá các mặt, giúp khu trưởng điều hành công việc. Chúng còn lập ra các ban trị sự “địa điểm” do “địa điểm trường” điều hành và các nhân viên giúp việc ở những địa điểm cụ thể.

Một khu dinh điền được tổ chức thành nhiều liên gia. Mỗi liên gia gồm từ 5 đến 7 gia đình. Liên gia trưởng chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát những gia đình trong liên gia mình. Những phần tử “chống đối” hay bị tình nghi có liên quan tới cộng sản đều bị theo dõi, bị bắt, bị giam giữ, tra tấn và thậm chí bị trục xuất ra khỏi liên gia. Mọi người ra hay vào địa điểm dinh điền phải được phép và chịu sự kiểm tra của nhân viên dinh điền. Thanh niên trong các dinh điền đều bắt buộc phải luyện tập quân sự và sẵn sàng tham gia quân dịch khi có lệnh.

Để lôi kéo và dồn ép quần chúng nhân dân vào các khu dinh điền, địch ra sức tuyên truyền lừa gạt và tăng cường khủng bố, bóc lột một cách thậm tệ, làm cho tinh thần nhân dân luôn căng thẳng, đời sống vật chất khó khăn, vất vả. Thậm tệ hơn nữa, địch còn lấy cớ quy hoạch, sắp xếp lại nhà cửa ở thành phố và thị xã để đẩy hàng loạt gia đình lên các khu dinh điền. Mỹ - Diệm còn gán ghép cho gia đình này hay gia đình khác là “Việt cộng”, “thân cộng”… để rồi bắt họ phải rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn đến những nơi rừng thiêng nước độc sống dưới sự kìm kẹp trực tiếp của những tên tay sai ác ôn.

Với những thủ đoạn trên, đến cuối năm 1958 đầu năm 1959, trên toàn miền Nam, địch đã lập được 84 dinh điền, khai phá được 12.322 héc ta đất canh tác, bắt 128.374 người vào trại dinh điền (trong số đó có 90.436 người là dân di cư từ ngoài Bắc vào). Riêng ở Nam Bộ, Diệm đã xây dựng được 7 khu gồm 47 điểm ở Phước Long, Kiến Phong, Kiến Tường, kể cả khu dinh điền dành cho các gia đình của binh sĩ ngụy ở dọc biên giới các huyện Mộc Hóa, Tân Uyên, Bời Lời. Tại cực Nam Trung Bộ (khu VI), các khu dinh điền được xây dựng ở các tỉnh cao nguyên dọc theo quốc lộ 14, 20 và 21. Phần đông quần chúng bị dồn ép, cưỡng bức đến các khu dinh điền, không chịu nổi cuộc sống ở vùng xa xôi hẻo lánh, và bị bọn cai quản o ép, bóc lột kinh tế, truy bức tinh thần căng thẳng, nên đến cuối năm 1958, số người trốn bỏ các khu dinh điền mỗi ngày mỗi tăng. Trước tình hình này, Diệm - Nhu đã dần dần thay thế chính sách “dinh điền” bằng chính sách “khu trù mật”1, áp dụng rộng rãi ở cả vùng cao nguyên và vùng đồng bằng, nhằm bình định, khống chế nhân dân, cô lập phong trào cách mạng ngay ở địa bàn cơ sở.

Biện pháp chủ yếu để xây dựng các “khu trù mật” là dùng bạo lực đàn áp và dồn dân vào các nơi quy định. Chúng dùng lực lượng đến ép từng gia đình dỡ nhà vào sống ở khu tập trung, nếu dân chúng có ý định chống lại thì ngay tức khắc bị binh lính xông vào dỡ nhà, triệt hạ các thôn ấp để dồn dân đi.

Mỗi khu trù mật tập trung từ 2.000 đến 3.000 người chia thành ba khu vực: khu tập trung nông dân, khu công thương và khu hành chính đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của một liên cơ quan gồm cán bộ hành chính địa phương, chuyên viên kiến thiết và các đại diện quân sự. Xung quanh khu trù mật được bao bọc bởi nhiều hàng rào, hệ thống hầm hào công sự, bãi chông và các tháp canh để kiểm tra, kiểm soát dân ra vào.

Tuy không phải chịu cảnh đày ải nơi rừng thiêng nước độc như ở các khi dinh điền, nhưng trung khu trù mật, chính sách kìm kẹp của địch hà khắc và nghiệt ngã hơn nhiều. Đời sống của nhân dân trong các khu ngày càng cơ cực, không khác gì ở các khu dinh điền trước đó.
______________________________________
1. Báo Anh “Người xứ Ecốtxơ” ngày 22-6-1960 viết: “khu trù mật là những khu hình vuông, có đèn điện, nhà thương trường học. Những thứ đó được xây dựng hằng sức lao động “tự nguyện” của những người nông dân do quân đội đi bắt một cách độc đoán. Khi một khu trù mật hình thành thì những nhà cũ của những người đến khu trù mật bị phá. Nhưng như thế thì hàng ngàn nông dân phải đi hơn 10 dặm đường để làm việc trên vùng đất của họ để mang trâu bò và dụng cụ đi và về. Cho nên phần đông số họ không đồng ý với chương trình lập khu trù mật. Việc các khu trù mật có thể chống lại hoạt động của cộng sản một cách có kết quả là điều đáng nghi ngờ”.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:16:26 pm

Đi đôi với việc dồn dân, lập các khu dinh điền và khu trù mật, Diệm - Nhu cũng bắt đầu tiến hành chương trình “cải tiến nông thôn” tương đối toàn điện, trong đó, lấy việc thực hiện chính sách “cải cách điền địa” làm khâu trung tâm để mua chuộc, lừa phỉnh, tiến tới nắm chặt người nông dân, phá tan thành quả cải cách ruộng đất của Đảng và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ở miền Nam trước khi tập kết lực lượng ra Bắc. Qua đó, làm suy yếu phong trào cách mạng ở vùng nông thôn, tranh thủ nông dân miền Nam để củng cố chính quyền cơ sở của chúng. Nhận định về vấn đề này Vônphơlátđinxki trưởng phái đoàn cố vấn cải cách điền địa Mỹ, đánh giá: sở dĩ Việt Minh kiểm soát được nông thôn bởi vì họ không những kêu gọi nông dân đánh Pháp mà họ còn đề cập đến vấn đề ruộng đất. Hiện nay (thời Diệm) sự đe dọa của cộng sản ở nông thôn là có thật và thế lực chính trị của cộng sản chỉ có thể bị hủy hoại bằng cách thu hẹp khoảng cách giữa địa chủ và tá điền. Để giải đáp vấn đề này, phải chia lại ruộng đất “công bằng” hơn1.

Thực hiện “cải cách điền địa” với khẩu hiệu “hữu sản hóa nông dân”, “thăng tiến cần lao, đồng tiến xã hội”. Tiếp theo các dụ số 2 và 7 ban hành năm 1955 nhằm xác định bằng pháp lý, mối quan hệ giữa địa chủ và tá điền, ngày 22-10-1956, Ngô Đình Diệm ra dụ số 57 quy định “quyền truất hữu ruộng đất” của chính phủ đối với các chủ điền chiếm hữu trên 100 mẫu ruộng canh tác, không tính diện tích trồng cây công nghiệp - tức là mỗi chủ điền chỉ được chấp nhận hợp pháp tối đa 100 mẫu ruộng, ngoài số này, chính phủ “truất hữu” bằng cách mua lại để bán cho tá điền theo chính sách trả dần, nhưng quy định mối tá điền cũng chỉ được mua tối da 5 mẫu. Đây là biện pháp “tiểu điền chủ hóa” tá điền của chính phủ Diệm. Nhưng lại quy định thêm địa chủ ngoài 100 ha còn được giữ 15 ha ruộng hương hỏa, nếu địa chủ nào tự làm thì được giữ thêm 30 ha, tổng cộng 145 ha. Quy định của Dụ 57 trên thực tế tuyệt đại bộ phận giai cấp địa chủ miền Nam với 2/3 số ruộng đất chiếm hữu đều không thuộc diện “truất hữu”, đặc quyền, đặc lợi của chúng được duy trì, bảo vệ, trong khi ruộng đất của nông dân bị tước đoạt.

Với cách làm như vậy trên thực tế 1.500.000 tá điền toàn miền Nam chỉ được chính phủ Diệm bán cho 125.000 mẫu ruộng mà thôi. Số còn lại, bằng cách này hay cách khác lại rơi vào tay bọn địa chủ hay các quan chức chính quyền và quân đội của chúng2. Như vậy, thực chất của chương trình “cải cách điền địa” mà Diệm - Nhu áp dụng ở nông thôn miền Nam chỉ là lừa bịp nhân dân, bởi 650.000 mẫu ruộng chia cho tá điền là ruộng đất mà cách mạng đã chia cho nông dân trong kháng chiến chống Pháp và sau hòa bình lập lại (gồm 564.547 mẫu ở Nam Bộ và 75.000 mẫu ở Trung Bộ) đã bị chính phủ Diệm cướp không và bán lại cho nông dân. Phần đông những tên địa chủ chạy trốn trước đây, giờ đã quay trở lại nông thôn, bắt nông dân lập khế ước nộp tô. Địa chủ còn bắt nông dân truy nộp số tô đã bị cách mạng xóa bỏ trong những năm kháng chiến. Thực chất của chương trình “cải cách điền địa” là sự phục hồi quyền lợi, thế lực cho giai cấp bóc lột ở miền Nam. Đến năm 1958, Diệm đã thực hiện được cơ bản mục tiêu đề ra, là làm đảo ngược tình hình sở hữu ruộng đất ở miền Nam Việt Nam. Ở đồng bằng sông Cửu Long, 2% địa chủ chiếm hữu tới 45% ruộng đất, 1/2 tổng số nông dân không còn ruộng đất để cày cấy sinh sống. Ở Trị -Thiên, chính quyền địch đã tịch thu số ruộng đất của lăng miếu, chùa chiền, rút công điền trong tay nông dân trước đây cách mạng chia, cùng toàn bộ số ruộng đất tốt giao lại cho phú nông, địa chủ đấu thầu, rồi phát canh bóc lột tô, thuế. Ruộng đất chính phủ Diệm quy định bán lại cho nông dân là những ruộng xấu, khó canh tác, chủ yếu là đất mới khai hoang, bạc màu, hoang hóa lâu ngày, phải bỏ công sức và đầu tư thời gian dài mới trồng cấy được. Nhưng mức đóng góp thuế, tô tức lại không chênh lệch so với ruộng đất tốt. Mức thuế nông nghiệp của cách mạng trước đây: 1 gia đình nông dân 6 nhân khẩu (4 người lao động) có 1 mẫu 4 sào ruộng và 4 sào nương, mức thuế là 8 thùng lúa (thành 440 đồng) trong 1 năm cộng với tiền nguyệt phí đoàn thể 48 đồng, tổng cộng số tiền là 488 đồng, trong khi đó dưới thời Diệm, gia đình trên phải đóng góp tới 2.691 đồng.

Ngoài ra, để bù đắp phần nào ngân sách thâm hụt tháng 3-1957, chính quyền Nam Việt Nam ban hành chính sách thuế mới đánh vào tất cả các mặt như: thuế sản xuất, thuế công quán, thuế gián thu... Có những loại thuế đánh chồng chất vào một mặt hàng như thuế sản xuất đánh từ 15 đến 35% vào nguyên liệu, 6% vào chế phẩm sản xuất ra. Còn ở địa phương, chính quyền cơ sở địch cũng tự đặt ra nhiều thứ thuế như: thuế chó, thuế ánh sáng, thuế đường sá giao thông. Chính sách thuế nặng nề như vậy đã làm cho đời sống nhân dân quá khổ cực, sức mua giảm tới 70% so với trước đó vài năm. Số lượng công nhân thất nghiệp tăng nhanh. Chỉ tính riêng Sài Gòn - Chợ Lớn, đến cuối năm 1957 đã có tới 400.000 người phải rời khỏi nhà máy, xí nghiệp... Nhiều cơ sở sản xuất truyền thống như nhà máy đường Quảng Ngãi, Tuy Hòa, Hiệp Hòa, Bạc Liêu, Rạch Giá... đã phải đóng cửa, vì mỗi năm chính phủ Diệm cho nhập khẩu hàng trăm tấn đường và lập hàng trăm đại lý bán đường cho chủ Mỹ. Do không có công ăn việc làm, đời sống khó khăn, tệ nạn xã hội phát sinh ngày càng nhiều. Riêng thành phố Sài Gòn đã có tới 11.000 tiệm hút và tiệm chích ma túy với khoảng trên 300.000 người nghiện, nạn gái mại dâm lan tràn khắp nơi.

Song song với việc xây dựng quân đội, kiện toàn bộ máy hành chính ngụy quân các cấp, những chính sách của Mỹ - Diệm đều nhằm thực hiện cho được mục đích cuối cùng là diệt trừ cộng sản, khống chế, kiểm soát dân, thiết lập ở miền Nam một chính quyền độc tài thân Mỹ, thống trị nhân dân ta bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới.
______________________________________
1. Chính tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ cũng ghi nhận rằng: “Chương trình cải cách điền địa của Diệm đã không phân chia lại ruộng đất cho người nghèo mà rút cục chỉ lấy lại những thứ mà Việt Minh đã chia cho họ rồi trả về cho địa chủ”.
2. Diệm rút ruộng đất của 2055 địa chủ với số lượng 650.000 mẫu, trong đó 430.000 mẫu của địa chủ người Việt, còn 220.000 mẫu của người Pháp chiếm.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:17:42 pm

II. MIỀN NAM ĐẤU TRANH CHỐNG ĐỊCH “TỐ CỘNG, DIỆT CỘNG”,
GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG

Thực tiễn hai năm đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ cho thấy, đối với kẻ thù của giai cấp và dân tộc không thể đấu tranh chính trị đơn thuần mà phải dùng bạo lực cách mạng, vì chế độ Diệm là chế độ độc tài phát xít của bọn tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ, phản động nhất.

Nghị quyết về “Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam” của Bộ Chính trị tháng 6-1956 khẳng định: “tính chất cuộc cách mạng của ta ở miền Nam là dân tộc và dân chủ, nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là phản đế và phản phong”. Từ tình hình quốc tế và trong nước cho thấy cuộc đấu tranh này nhất định sẽ lâu dài, gian khổ và phức tạp nên phải chọn hình thức và phương pháp cách mạng thích hợp. Bộ Chính trị nhấn mạnh “Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng hình thức tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định, hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của giáo phái chống Diệm”. Bộ Chính trị chủ trương phải “tổ chức tự vệ trong quần chúng, nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh và giải thoát cán bộ khi cần thiết”, “phải củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng căn cứ làm chỗ dựa, đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh, làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang”, muốn vậy phải coi việc “củng cố Đảng ở miền Nam là một trọng tâm công tác có tính chất quyết định”1.

Với nghị quyết này, Bộ Chính trị đã vạch ra được những vấn đề chỉ đạo chiến lược mới đối với cách mạng miền Nam, trong đó quan trọng nhất là vấn đề tự vệ vũ trang để bảo vệ phong trào đấu tranh của quần chúng cách mạng, bảo vệ cơ sở và cán bộ của Đảng, vấn đề xây dựng lực lượng và căn cứ cách mạng. Đây thực sự là bước chuyển hướng đường lối cách mạng ở miền Nam. Bộ Chính trị cũng nêu sự cần thiết phải nhanh chóng thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống Mỹ - Diệm, lập chính phủ liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam.

Do hệ thống thông tin liên lạc của ta thô sơ (chủ yếu chạy bộ), địch lại ngăn chặn quyết liệt, nên bản nghị quyết quan trọng này đến với các cơ sở rất chậm trễ, nhiều nơi không nhận được, nên không đáp ứng kịp chuyển biến của phong trào phát triển đấu tranh ở miền Nam. Mặc dù vậy, do sự đòi hỏi cấp thiết của cuộc sống chiến đấu một mất một còn, Đảng bộ và nhân dân miền Nam không thể để mặc cho kẻ thù dùng súng đạn, xe tăng, máy bay, đại bác, đàn áp cách mạng. Một số địa phương, cán bộ và nhân dân đã tìm đào các hàm chôn súng, đạn từ ngày tập kết, chế tạo thêm mìn, trái nổ... tổ chức chiến đấu chống địch, bảo vệ xóm làng. Ở Tây Ninh đầu năm 1957, một số huyện, xã đã tìm đào được một số hầm súng đạn, lập đội du kích bảo vệ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng và bảo vệ các cơ sở cách mạng. Nhưng ngay sau đó sợ vi phạm quy định của trên, nên chôn súng trở lại. Việc đào lên, chôn vũ khí trở lại có nơi làm tới 3-4 lần. Tình trạng tương tự như vậy cũng diễn ra ở Rạch Giá, Trà Vinh, Vĩnh Long.

Tháng 8 năm 1956, đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng, công tác ở miền Nam, phân tích một cách khoa học tình hình chính trị, xã hội miền Nam và vận dụng những quy luật đấu tranh cách mạng vào hoàn cảnh cụ thể của ta, đã soạn thảo “Đề cương cách mạng miền Nam”. Đồng chí chỉ rõ: “Chế độ độc tài phát xít ở miền Nam chỉ là sản phẩm của sự câu kết giữa Mỹ, kẻ đang lăm le gây ra một cuộc chiến tranh mới chống nhân dân ta với tập đoàn Ngô Đình Diệm, kẻ đang cố sống, cố chết phản kích lại các lực lượng cách mạng nhằm mục đích trả thù và áp bức, bóc lột nhân dân”2. Do đó “Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ nhân dân”3. Bản Đề cương khẳng định “nhân dân ta ở miền Nam chỉ có một con đường là vùng lên chống lại Mỹ - Diệm để cứu nước và tự cứu mình. Đó là con đường cách mạng. Ngoài con đường đó không có con đường nào khác”4.

Được Nghị quyết Bộ Chính trị (tháng 8-1956) và Đề cương cách mạng miền Nam vạch đường, tháng 12-1956, Xứ ủy Nam Bộ tiến hành hội nghị đề ra nhiệm vụ khẩn cấp cho cách mạng miền Nam là “phải dùng bạo lực tổng khởi nghĩa giành chính quyền”, trước mắt cần “tích cực xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền, lập các đội vũ trang bí mật, xây dựng các căn cứ miền núi; tranh thủ vận động, cải tạo, tập hợp các lực lượng giáo phái bị Mỹ - Diệm đánh tan rã từng mảng đứng vào hàng ngũ nhân dân và lợi dụng danh nghĩa giáo phái ly khai để diệt ác ôn”. Đầu năm 1957, Xứ ủy Nam Bộ họp hội nghị mở rộng để xác định quyết tâm lãnh đạo nhân dân đấu tranh chặn bàn tay phát xít của Mỹ - Diệm, đòi quyền tự do, cơm áo, dân sinh, dân chủ, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước. Trong hội nghị này, Xứ ủy đã đề ra kế hoạch cụ thể về xây dựng thực lực cách mạng - tức là củng cố Đảng, tăng cường uy thế và vai trò lãnh đạo của Đảng, củng cố khối đoàn kết công nông, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Đối với các Đảng bộ cơ sở, Hội nghị chỉ rõ năm nguyên tắc chủ yếu, cụ thể cần khẩn trương thực hiện là: tuyên truyền giáo dục, tổ chức đấu tranh chính trị, đẩy mạnh công tác binh địch vận, xây dựng và củng cố các tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và đoàn thể.
Với những nghị quyết của Bộ Chính trị và sự lãnh đạo năng động, sáng tạo của Xứ ủy Nam Bộ, phong trào cách mạng miền Nam từng bước giành lại thế chủ động.
______________________________________
1. Trích Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6 năm 1956.
2. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 104- 105.
3, 4. Sđd. tr.103, 101.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:18:10 pm

Để bảo vệ cán bộ, cơ sở bí mật của Đảng và phong trào cách mạng, khắp các địa phương trên toàn miền Nam từ thành thị đến nông thôn đều đẩy mạnh đấu tranh chống lại sự khủng bố, đàn áp, chống phá cách mạng của địch, trong đó cuộc đấu tranh chống “tố cộng, diệt cộng” của địch là điển hình. Cuộc đấu tranh diễn ra đều khắp, liên tục, mạnh mẽ bằng nhiều hình thức, lực lượng khác nhau.

Bước vào năm 1957, rút kinh nghiệm đợt I, địch dùng lực lượng lớn càn quét liên tục dài ngày để triệt phá các thôn xóm mà chúng nghi là có cộng sản. Sau đó chia lực lượng thành những bộ phận nhỏ chà đi xát lại nhiều lần, bắt, tra tấn và giết hại những người yêu nước, rồi dựng đồn bốt, lập dân vệ, củng cố tề điệp, khống chế kìm kẹp dân chúng. Với biện pháp này, các cơ sở cách mạng và cán bộ phong trào sống hoạt động trong lòng dân đã bị địch phát hiện, giam cầm, thủ tiêu bí mật.

Đồng bào miền Nam đã trải qua đấu tranh sống mái với quân thù, hiểu rõ bản chất trước sau không thay đổi của địch nên không bao giờ chịu khuất phục.

Đi đầu trong phong trào đấu tranh chống địch tố cộng đợt II vẫn là những cán bộ, đảng viên của Đảng và quần chúng trung kiên. Bất chấp sự vây ráp, lùng sục rất gắt gao của địch và những khó khăn về đời sống vật chất, tinh thần, cán bộ, đảng viên lãnh đạo phong trào vẫn tìm mọi cách móc nối liên lạc, tập họp và tổ chức quần chúng đấu tranh chống địch tố cộng dưới các hình thức “hợp pháp” và “không hợp pháp”. Tháng 5-1957, các chi bộ bí mật ở các xã thuộc huyện Hương Trà, Thừa Thiên đã móc nối, liên kết nhau, tổ chức cuộc biểu tình tại quận lỵ với gần 2.000 người tham gia, phản đối Mỹ - Diệm bắt dân tố cộng và đàn áp dã man những người dân vô tội. Đoàn biểu tình yêu cầu chính quyền ngụy ở Trị - Thiên phải bồi thường tính mạng, tài sản cho những gia đình bị hại.

Thời gian này, cán bộ phong trào ở tỉnh và huyện xuống tận các cơ sở, trực tiếp lãnh đạo, tổ chức, nên phong trào phát triển rộng, và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương với nhau. Ở Quảng Ngãi, tỉnh ủy đưa ra chủ trương, kế hoạch hành động thống nhất và phân công cán bộ trực tiếp xuống địa phương, chỉ đạo trực tiếp phong trào, nên các huyện Mộ Đức, Đức Phổ, Sơn Tịnh, Bình Sơn... cùng lúc tổ chức được nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, đưa yêu sách..., phản đối lệnh giới nghiêm, phản đối lính Diệm thúc ép dân “tố cộng”, đòi bãi bỏ chương trình dồn dân, lập khu dinh điền.

Khi quân ngụy tổ chức hành quân càn quét hỗ trợ cho chương trình “tố cộng” dồn dân, quần chúng còn tập hợp nhau lại chất vấn chỉ huy ngăn cản và thuyết phục binh sĩ ngụy không đốt phá xóm làng, bắt người trái phép.

Tháng 10-1957, tỉnh ủy Tây Ninh đã tổ chức được một cuộc đấu tranh quy mô lớn. Nhân dân các xã Gia Lộc, An Tịnh, Lộc Hưng, Gia Bình, Đôn Thuận, Thanh Phước, Phước Thanh, Hiệp Thạnh, Thanh Đức đã tập hợp kéo lên dinh quận trưởng Trảng Bàng, Gò Dầu, đấu tranh đòi ngụy quân địa phương không cho binh lính càn quét, dồn dân, bắt dân tố cộng. Nhân dân các xã Trí Bình, Thái Bình, Thanh Điền cùng nhau kéo vào thị xã Tây Ninh phản đối việc dồn dân vào trại tập trung, bắt giam và đánh đập tàn nhẫn người vô tội và yêu cầu chính quyền bỏ ngay những thủ đoạn bắt người “sám hối”. Cùng với đấu tranh chính trị hợp pháp, các đội vũ trang tuyên truyền, du kích tự vệ địa phương đã bí mật đột nhập vào một số khu dồn dân của địch, diệt những tên tay sai và tuyên truyền giác ngộ nhân dân nổi dậy, đánh đuổi quân đồn trú, phá khu dồn trở về quê cũ làm ăn. Trước sức đấu tranh kiên quyết của quần chúng có sự chỉ đạo trực tiếp của cán bộ, đảng viên, phong trào phát triển tương đối đều, liên tục ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.

Trong cuộc đấu tranh sinh tử chống địch tố cộng, nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng trung kiên của Đảng đã bị địch bắt, tra tấn đến tàn phế hoặc giết chết, nhưng họ vẫn giữ được khí tiết của người cách mạng. Đồng chi Võ Tấn Nhất, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre bị địch bắt tra tấn dã man, đóng đinh các đốt xương tay, đốt gan bàn chân, rồi nhốt vào hầm tối bỏ đói cho đến chết. Đồng chí Nguyễn Hữu Châu đảng viên lãnh đạo phong trào cơ sở ở Tuy Hòa bị địch bắt đưa đến địa điểm tố cộng buộc anh xé cờ Đảng và ảnh Bác Hồ trước dân và tuyên bố ly khai Đảng. Anh đã tố cáo tội ác của Mỹ - Diệm, kêu gọi đồng bào đoàn kết đấu tranh. Địch đã xả súng bắn chết anh tại chỗ. Má Nguyễn Thị Phiên ở phường Bảo An thị xã Phan Rang, má Nguyễn Thị Tiến ở Tân Lý Tây - Châu Thành, Mỹ Tho... là nhưng cơ sở của cách mạng. Các má đã che chở nuôi dưỡng cho cán bộ hoạt động những năm địch tố cộng, bị địch phát hiện bắt giam, tra điện, đốt các ngón tay, ngón chân... nhưng các má vẫn cắn răng, chịu đựng mọi cực hình, kiên quyết không khai báo những bí mật của cách mạng cho địch. Bên cạnh đó, địch còn bắt ép những phụ nữ có chồng tham gia tập kết phải ly hôn để lấy người trong hàng ngũ Diệm, nhưng chị em dứt khoát chống lại, thà chấp nhận cảnh bị o ép, tra tấn để giữ lòng thủy chung với chồng, với cách mạng.

Hành động phát xít của địch không chỉ bị người Kinh, người không theo đạo chống lại, mà cả người Thượng, người đi theo đạo cũng chống lại quyết liệt. Đó là nét mới của phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam thời gian này.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:18:41 pm

Để thực hiện chính sách dùng người dân tộc trị người dân tộc. Mỹ - Diệm mở các chiến dịch “Thượng du vận”, tiến công lên miền núi. Chúng tập trung lực lượng quân đội và cảnh sát đánh sâu vào các vùng có dân cư trú tự do và căn cứ của ta, bắt đồng bào thiểu số rời bỏ bản làng quen thuộc của họ, dồn vào các khu dinh điền. Những tên mật vụ người địa phương rất thông hiểu địa hình, được Diệm sử dụng dẫn đường chỉ điểm, nên cán bộ, đảng viên phong trào và quần chúng tích cực của Đảng, nhiều người đã bị địch bắt và giết hại, một số căn cứ và cơ sở bí mật bị vỡ.

Cuộc đấu tranh chống địch tố cộng và dồn dân ở miền núi diễn ra giằng co quyết liệt. Địch dùng súng đạn đàn áp, ta dùng đấu tranh chính trị, đấu lý với địch. Kết quả là ở Ninh Thuận, tháng 7-1958, lính Diệm và bọn tổng lý lên Bác Ái Đông dí súng cưỡng bức đồng bào dồn vào khu tập trung. Đồng bào dùng lý lẽ đấu tranh với địch không chịu đi. Cuộc đấu tranh diễn ra giằng co quyết liệt. Huyện ủy và cán bộ, đảng viên lại rút vào hoạt động bí mật, dân mất phương hướng hành động. Trước mũi súng địch 5.000 dân đã bị dồn vào khu tập trung Brâu, Đồng Dày và Tầm Ngân, trong số này có nhiều cán bộ, đảng viên.

Tình hình các khu tập trung hầu hết đều không có nhà hoặc ở nhà tôn thấp, chật hẹp, bị nắng nóng và ăn đói kham khổ, lao động quần quật, các bệnh truyền nhiễm lan nhanh, số ngươi chết ngày một tăng.

Huyện ủy Bác Ái, đã họp kiểm điểm, chỉ rõ khuyết điểm là thiếu cương quyết, không có chủ trương, biện pháp lãnh đạo kịp thời để mất dân, mất đất. Huyện ủy xác định quyết tâm bằng mọi cách phải phá khu tập trung, đưa dân về làng cũ làm ăn. Trong khi chưa có chủ trương mới của Trung ương, huyện ủy đưa ra mấy biện pháp lãnh đạo trước mắt là:

- Lãnh đạo nhân dân còn ở căn cứ đào hầm, cắm chông, bố phòng ngăn chặn địch tiếp tục dồn dân.

- Tổ chức móc nối với cơ sở đưa thêm cán bộ, đảng viên vào các ấp, khu tập trung để lãnh đạo bung dân về núi.

- Bảo vệ của cải của nhân dân còn lại ở căn cứ, làm rẫy sản xuất, chuẩn bị vật chất để khi dân bung về có chỗ ăn, ở, ổn định đời sống.

- Tổ chức lực lượng thanh niên, lập các tổ vũ trang tự vệ bảo vệ căn cứ.

Do có chủ trương và biện pháp lãnh đạo đúng, nên đa số cán bộ, đảng viện đã nhanh chóng trở lại với cơ sở tổ chức và lãnh đạo nhân dân cương quyết đấu tranh. Họ đã vận động đồng bào các dân tộc rời làng, bỏ khu tập trung vào rừng sâu, lập làng mới, bố phòng chống địch, bảo vệ cơ sở và xây dựng các đội vũ trang tự vệ, vũ trang tuyên truyền để trừng trị địch bảo vệ mình.

Cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1958, do chủ động nắm địch, tổ chức tốt lực lượng, lập kế hoạch hành động sát thực, nhân dân huyện Đại Lộc, Quảng Nam đấu tranh làm thất bại các cuộc hành quân càn quét và tố cộng của địch. Họ cương quyết không tham gia tố cộng, không rời nhà bỏ làng vào khu tập trung. Ở những nơi địch đưa quân đội, công an, xe cơ giới đến vây ráp, lập tức nhân dân các làng xóm lân cận huy động lực lượng đến ứng cứu, kết hợp với những tổ vũ trang tự vệ đột nhập các trụ sở ngụy quân, ngụy quyền, trị tội những tên chỉ huy, chỉ điểm, cảnh cáo đe dọa chúng. Nhờ kết hợp được đấu tranh chính trị có vũ trang hỗ trợ, nhân dân huyện Đại Lộc đã làm cho địch phải xuống thang bộ phận, không công khai bắn giết, tra tấn người vô tội như trước nữa. Thắng lợi của Đại Lộc càng làm sáng tỏ chân lý khi quân thù đã dùng súng đạn đàn áp thì con đường giải phóng nhân dân là dùng bạo lực cách mạng, kết hợp chính trị với vũ trang mới giành được thắng lợi.

Ở Nam Bộ, do chủ động có kế hoạch bố trí, sắp xếp lực lượng từ trước, lại sớm tiếp thu bản “Đề cương cách mạng miền Nam”, nên lực lượng vũ trang mang danh nghĩa giáo phái được tổ chức ở nhiều nơi. Các đội tự vệ vũ trang được bí mật thành lập ở hầu khắp các tỉnh, thành phố. Riêng thành phố Sài Gòn, các đội tự vệ ra đời trong phong trào chống đuổi nhà, cướp đất... tồn tại dưới danh nghĩa “Hội chống cướp giật”, “Hội phòng cháy, chữa cháy”, còn nông thôn thì lập các đội hành động bí mật.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:19:30 pm

Đến giữa năm 1957, ở Rừng U Minh (Tây Nam Bộ), Đồng Tháp Mươi (Trung Nam Bộ). các đội vũ trang cách mạng hoạt động dưới danh nghĩa giáo phái: Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo... cũng được phát triển thành các đơn vị vũ trang - tuyên truyền, như các tiểu đoàn Ngô Văn Sở, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng ở Cà Mau, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng ở Sóc Trăng, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng ở Cần Thơ, tiểu đoàn U Minh ở Rạch Giá, tiểu đoàn 502 ở Kiến Phong, tiểu đoàn 504 ở Kiến Tường, tiểu đoàn 506 và 508 hoạt động ở bắc, nam đường 4 và căn cứ Rừng Sác, tiểu đoàn 510, 512 hoạt động ở khu vực sông Tiền và Bảy Núi. Tháng 8 năm 1957, Vĩnh Long thành lập tiểu đoàn Trần Hững Đạo hoạt động ở vùng Lấp Vò, Tam Bình (Sa Đéc).

Tại căn cứ miền Đông Nam Bộ; Xứ ủy điều động 2 đại đội và 2 trung đoàn từ miền Tây và miền Trung Nam Bộ lên làm nòng cốt, kết hợp với lực lượng tại chỗ, thành lập 6 đại đội vũ trang mang số hiệu: 50, 60, 70, 80, 200, 300. Cùng với sự ra đời của bộ đội chủ lực, tự vệ và du kích mật cũng phát triển, mỗi xã, ấp có từ 1 đến 2 tiểu đội. Một số tỉnh thành lập các đại đội vũ trang của tỉnh như: đại đội 250 của Biên Hòa, đại đội 40 của Bà Rịa. Riêng ở Long An các trung đội 29, 30, 31 hoạt động ở bắc đường 4 được tổ chức thành các đại đội 231, 233, 235 và đưa về hoạt động ở Thủ Thừa, Đức Hòa. Cũng trong năm 1957, 7 cán bộ phong trào của ta bị địch bắt giam giữ tại trại giam Tân Hiệp (Biên Hòa) đã tổ chức vượt ngục ra căn cứ Rừng Sác, mang theo 3 súng trường và 1 trung liên, kết hợp với lực lượng tại chỗ, thành lập đơn vị vũ trang Rừng Sác, lấy phiên hiệu là đại đội 12 Bình Xuyên. Để khuếch trương thanh thế và lực lượng, nên các đại đội này được gọi là các tiểu đoàn do liên tỉnh ủy hay tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo.

Tháng 10-1957, đơn vị chủ lực đầu tiên ở Nam Bộ chính thức được Xứ ủy phê chuẩn thành lập - đó là Tiểu đoàn 250. Đến giữa năm 1958, Bộ tư lệnh miền Đông Nam Bộ được thành lập để chỉ đạo trực tiếp lực lượng vũ trang miền Đông.

Để có vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang, tỉnh Tân An, Chợ Lớn đã đào được số vũ khí đủ để trang bị cho 3 đại đội của 3 tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Tân An. Ở Kiến Tường, bộ đội chủ lực đào được 280 khẩu, các huyện, du kích và tự vệ mật cũng đào được đủ số súng trang bị cho từ 1 đến 2 trung đội. Bên cạnh việc thành lập các đơn vị vũ trang, cấp ủy và cán bộ phong trào ở các địa phương miền Nam đã vận động xây dựng các tổ chức nòng cốt từ đảng viên, quần chúng trung kiên đến nhân dân, bí mật cài nhân cốt và đặt cơ sở mật trong hội tề, dân vệ và các đơn vị quân ngụy.

Khi Mỹ - Diệm mở các chiến dịch tố cộng giai đoạn II, những cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân đã có vũ trang hỗ trợ. Tuy quy mô lực lượng vũ trang và mức độ hỗ trợ ở các tỉnh không đều, nhưng những trận diệt ác trừ gian liên tục diễn ra đã có tác dụng kích thích tinh thần đấu tranh của quần chúng và răn đe quân địch. Những tên tay sai ác ôn như Lê Phú Nhung, quận trưởng Đầm Dơi (Cà Mau), Lê Nhất Hữu, quận trưởng Ô Môn (Cần Thơ), Lê Duẩn Phòng, tỉnh trưởng Kiến Giang v.v… bị lực lượng vũ trang ta trừng trị đã gây cho nội bộ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn dao động thật sự.

Tháng 5-1957, 3 trung đội “Bình Xuyên” và 1 tiểu đội bộ đội tỉnh Sông Bé đã tập kích đồn Bến Củi, tiêu diệt hơn chục tên địch, làm chủ mục tiêu, thu 2 triệu đồng, 2 xe vận tải, 1 số súng trường và quân trang quân dụng.

Để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, Ban quân sự Miền quyết định dùng lực lượng mang danh nghĩa Bình Xuyên, tiến công thị trấn Minh Thanh. Lực lượng tham gia gồm bộ đội tỉnh Thủ Dầu Một, đại đội 20 của tỉnh Tây Ninh, đại đội 60 của Miền Đông và Xứ ủy, cùng lực lượng bộ đội Bình Xuyên giác ngộ (tổng cộng khoảng 21 tiểu đội), do đồng chí Lâm Quốc Đăng chỉ huy1. Lúc 9 giờ sáng ngày 10-8-1957 quân ta tiến công diệt các ổ đề kháng vòng ngoài và bọn cảnh sát, lính bảo vệ xung quanh, rồi đột nhập vào thị trấn, tiến đánh các mục tiêu bên trong. Suốt đêm 10-8, ta huy động 20 xe vận tải, và xe ngựa của sở cao su, cùng công nhân đồn điền chuyển chiến lợi phẩm về căn cứ. Tuy chỉ diệt được một bộ phận nhỏ sinh lực địch, nhưng trận đánh có quy mô tương đối lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang tập trung miền Đông.

Ngày 10-9-1957, trong lúc địch đang càn quét lớn vào chiến khu Đ, Ban chỉ huy quân sự miền Đông sử dụng đại đội 250 và lực lượng “Bình Xuyên” đánh vào trại Be (Biên Hòa) - một cơ sở khai thác gỗ của Trần Lệ Xuân, án ngữ phía nam chiến khu Đ do 1 tiểu đoàn bộ binh, và một số cảnh sát dã chiến và thám báo ngụy chốt giữ. Trinh sát ta cải trang, trà trộn vào công nhân khai thác gỗ, nắm chắc lực lượng và cách phòng ngự của địch. Vì vậy khi ta nổ súng, quân địch bất ngờ trở tay không kịp. Ta diệt gọn 1 đại đội và làm thiệt hại nặng 2 đại đội khác, phá hỏng và thu gần 80 xe quân sự, cùng nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh... làm chủ trận địa.

Tháng 12-1957, bộ đội tập trung của Xứ ủy và miền Đông phục kích ở Lò Than (Biên Hòa) diệt gọn 1 đại đội, đánh tan 1 tiểu đoàn địch lúc chúng đang càn quét vào căn cứ của ta.
______________________________________
1. Đồng chí Lâm Quốc Đăng là chỉ huy trưởng lực lượng vũ trang cách mạng ở chiến khu Đ với danh nghĩa giáo phái Bình Xuyên ly khai (lực lượng này gồm 3 đại đội thành lập khoảng đầu 1957).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:20:15 pm

Từ sau khi các đội võ trang tuyên truyền, võ trang tự vệ ra đời, diệt trừ những tên tay sai ác ôn và đánh thắng một số trận, thì quần chúng đã có chỗ dựa tin cậy. Tuy hoạt động vũ trang còn ở mức hạn chế, nhưng đã có tác dụng hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân chống địch tố cộng, dồn dân ở nông thôn, đồng thời khích lệ tinh thần đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống sa thải, chống bắt bớ giam cầm, đòi tự do nghiệp đoàn của công nhân và lao động thành thị. Chỉ trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 8-1957, công nhân các nhà ga xe lửa Chí Hòa, Dĩ An, Đà Nẵng... tổ chức hàng chục cuộc biểu tình, mít tinh chống chế độ làm việc hà khắc, chống đuổi việc, đòi chấm dứt việc bắt và tra tấn, tù đầy các cán bộ nghiệp đoàn. Tháng 11-1957, công nhân toàn ngành hỏa xa miền Nam tiến hành đại hội vạch chủ trương, biện pháp đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho công nhân và ra kiến nghị đòi nhà cầm quyền Sài Gòn trả tự do cho Chủ tịch và thư ký nghiệp đoàn ngành, cùng những công nhân đang bị giam giữ. Cuộc đấu tranh của công nhân và những kiến nghị, yêu sách thiết thực của đại hội ngành hỏa xa đưa ra, được nghiệp đoàn công nhân các ngành khác ở Sài Gòn, Chợ Lớn và một số thành phố, thị xã đồng tình ủng hộ. Họ phản đối chính quyền Diệm hà khắc, bóp nghẹt tự do dân chủ. Cũng trong thời gian này, công nhân thương cảng Sài Gòn, Nha Trang,... cũng liên tiếp đình công, lãn công, đưa yêu sách đòi chủ cảng điều chỉnh lương, trả tiền phụ cấp đắt đỏ, chống đánh đập, đuổi việc, làm cho các thương cảng tê liệt nhiều ngày, gây ách tắc lưu thông cảng, lưu thông hàng hóa.

Hòa nhịp với phong trào đấu tranh của công nhân ngành hỏa xa và công nhân thương cảng, ngay từ những tháng đầu năm 1957, công nhân ở các đồn điền trồng cây công nghiệp miền Nam đã đấu tranh quyết liệt với giới chủ đòi cải thiện đời sống, cải tiến chế độ làm việc, chống bắt giữ và bí mật thủ tiêu những cán bộ cơ sở, nòng cốt và những công nhân tích cực của phong trào. Mặc dù bọn chủ các đồn điền đã dùng vũ lực đàn áp với bố thí nhỏ giọt một số quyền lợi về đời sống, điều kiện làm việc, nhưng các cuộc lãn công, đình công, bãi công vẫn tiếp tục. Chỉ trong năm 1957, công nhân các đồn điền ở Biên Hòa, An Lộc, Minh Thạnh, Dầu Tiếng... đã tổ chức được hơn 70 cuộc đấu tranh dưới các hình thức hợp pháp và không hợp pháp. Để thống nhất chủ trương và hành động, cuối năm 1957, công nhân đồn điền thuộc các tỉnh miền Đông Nam Bộ tổ chức đại hội đại biểu, bầu ra cơ quan lãnh đạo thống nhất trong toàn ngành. Sau khi đại hội kết thúc, hơn 10.000 công nhân các đồn điền Xa Cát, Xa Trạch, Dầu Tiếng và hàng nghìn công nhân Lộc Ninh, Phước Hòa, Tây Ninh, Khánh Hòa, 12.000 công nhân ở Đà Lạt, Lây Cu, Kon Tum, Buôn Ma Thuột, đã tổ chức đấu tranh đòi quyền sống, làm việc, chống bắt bớ, đánh đập và sa thải công nhân, đòi thành lập nghiệp đoàn... Trước sức đấu tranh của công nhân trên quy mô lớn làm cho giới chủ đồn điền cũng như ngụy quyền miền Nam lúng túng, chúng buộc phải chấp nhận một số điểm trong yêu sách của công nhân.

Cùng với công nhân hỏa xa, công nhân thương cảng, công nhân đồn điền, công nhân các nhà máy điện ở Sài Gòn, Tân Sơn Nhất, Vĩnh Long, Đà Nẵng... cũng tích cực đấu tranh. Được tổ chức chặt chẽ và chuẩn bị chu đáo, nên phong trào đấu tranh của công nhân ngành điện đã giành được những thắng lợi quan trọng. Tiếp đó, các nghiệp đoàn thuộc Liên hiệp các nghiệp đoàn công nhân thuộc thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, các nghiệp đoàn thuộc tổng liên đoàn lao động nghiệp đoàn tỉnh Cần Thơ, Thủ Dầu Một, nghiệp đoàn công nhân đồn điền ở Tây Nguyên, Nam Bộ... đã liên tiếp lãnh đạo công nhân ngành mình tổ chức bãi công, đình công, gửi đơn thư đòi tự do hội họp, đòi chính quyền tôn trọng và bảo vệ quyền lợi cho các nghiệp đoàn, chống việc bắt giữ, thủ tiêu các cán bộ nghiệp đoàn một cách tràn lan vô căn cứ. Các nghiệp đoàn ban bố những nội quy hoạt động, yêu cầu chính quyền chấp nhận, đòi được cấp chứng nhận để các nghiệp đoàn được công khai hoạt động theo pháp luật.

Đến hết năm 1957, các nghiệp đoàn công nhân miền Nam đã tổ chức được hơn 450 cuộc đấu tranh lớn, nhỏ, dưới nhiều hình thức phong phú, liên kết hỗ trợ nhau giữa các ngành, trên hầu khắp các địa phương. Tiêu biểu nhất, thống nhất và rộng lớn nhất là cuộc đấu tranh nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5-1957 của 289.000 công nhân thuộc các nhà máy, đồn điền, công sở và nhân dân thành phố Sài Gòn - Gia Định, cùng các địa phương lân cận được tổ chức tại ba trung tâm: công trường Diên Hồng, trường Pétrus Ký, sân Tao Đàn. Họ đòi ổn định cuộc sống và thống nhất đất nước... Đây thực sự là cái mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của giai cấp công nhân miền Nam.

Bước sang năm 1958, để phát huy đòn tiến công quân sự, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, Bộ tư lệnh miền Đông đề nghị Xứ ủy Nam Bộ cho tập trung lực lượng đánh chi khu, quận lỵ Dầu Tiếng nằm ở phía Bắc thị xã Thủ Dầu Một, cách Sài Gòn khoảng 70km. Xứ ủy chuẩn y, Bộ tư lệnh Miền sử dụng hai đơn vị của Miền mang danh nghĩa “Bộ đội Bình Xuyên” và “Liên quân Hòa Hảo”, cùng các đơn vị tỉnh Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa với tổng quân số 1500 người tiến công vào Dầu Tiếng. Lực lượng địch ở đây có 2 tiểu đoàn Cộng hòa thuộc sư đoàn 3, 1 đại đội và 1 trung đội bảo an, lực lượng cảnh sát, dân vệ tại chỗ. 0 giờ ngày 11-10-1958, quân ta nổ súng khống chế đồn Bến Củi và tiến công vào quận lỵ Dầu Tiếng. Sau 30 phút chiến đấu, quân ta diệt và làm bị thương 300, bắt 30 tên địch, thu 200 súng và nhiều đồ dùng quân sự. Quân cách mạng làm chủ quận lỵ 24 giờ. Địch đóng ở 20 đồn, bốt quanh Dầu Tiếng, hoang mang bỏ chạy. Đây là trận đánh lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, thể hiện bước phát triển mới về thế và lực của cách mạng. Trận đánh đã có tác dụng khích lệ tinh thần đấu tranh của quần chúng và răn đe quân địch. Vì vậy, ngay từ tháng đầu năm toàn bộ công nhân đồn điền cao su Quản Lợi, Xa Trạch đã bãi công một tuần liền đòi chủ đồn điền trả tiền thù lao đắt đỏ. Tiếp đó, 5.000 công nhân đồn điền Đất Đỏ bãi công phản đối các hành động côn đồ, trả lương không đúng kỳ hạn, tự ý tăng giờ làm việc của giới chủ. Những cuộc đình công, bãi công trên, ngoài sự hưởng ứng giúp đỡ của công nhân đồn điền cao su Sóc Trăng, Sóc Xuân, Phú Riềng, An Lộc, công nhân xe lửa Sài Gòn... còn có sự ủng hộ mọi mặt của liên đoàn nông dân Đà Nẵng, Nam Bộ... Sự kiện này chứng tỏ phong trào công nhân và phong trào nông dân đã liên kết và hỗ trợ tích cực cho nhau trong công cuộc chống kẻ thù chung là Mỹ - Diệm. Đỉnh cao của tinh thần đoàn kết đấu tranh trong năm 1958 được thực hiện trong cuộc xuống đường biểu tình chống chính quyền ngụy của hơn 500.000 công nhân, nông dân, trí thức và tầng lớp lao động khác thuộc 144 nhà máy, xí nghiệp, vùng nông thôn ngoại thành ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định ngày 1-5. Những người biểu tình đưa ra khẩu hiệu đòi chính quyền không được khủng bố, bắt giam, thủ tiêu những người kháng chiến cũ, đòi để cho quần chúng được tự do hội họp, cải thiện chế độ làm việc và tiền lương cho công nhân viên chức, đặc biệt là những người trực tiếp lao động. Ngày 14-11, 14.000 công nhân ở đồn điền Bình Long lãn công, tổ chức mít tinh phản đối Bộ Nội vụ và Bộ Lao động ngụy với việc ra lệnh trục xuất các cán bộ nghiệp đoàn ra khỏi các cơ sở và không cấp phái lai cho nghiệp đoàn hoạt động. Cuộc đấu tranh kéo dài hàng tuần làm công việc đình đốn, giới chủ bị thất thiệt lớn về ngân sách, gây tình trạng mất an ninh nghiêm trọng trung khu vực. Cuối cùng, Bộ Nội vụ đành phải ra lệnh thả những người bị bắt, Bộ Lao động đồng ý cấp phái lai cho nghiệp đoàn công nhân Bình Long hoạt động hợp pháp. Giới chủ đồn điền cũng hứa sẽ không tự ý giảm lương, tăng giờ làm như trước nữa.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:20:44 pm

Những cuộc đấu tranh của công nhân và các tầng lớp lao động, trí thức, công chức miền Nam trong hai năm 1957-1958 đã góp phần làm cho tình hình chính trị ở Sài Gòn thêm rối ren và khẳng định tính chất bấp bênh của một chính quyền tay sai Mỹ không có cơ sở xã hội.

Đi đôi với phong trào đấu tranh chống “tố cộng, diệt cộng” của Mỹ - Diệm đang diễn ra ở khắp các địa phương toàn miền Nam, phong trào đấu tranh chống chính sách “cải tiến nông thôn”, chống cướp đất... cũng gay go, quyết liệt thu hút đông đảo các tầng lớp nông dân, đồng bào di cư, đồng bào các sắc tộc miền núi tham gia. Năm 1957, đã có 150 cuộc đấu tranh lớn nhỏ chống dồn dân, cướp đất, đuổi nhà của chính quyền Diệm, đòi tự do làm ăn sinh sống, tự do khai khẩn đất hoang, canh tác và gia hạn các khế ước vay nợ đối với địa chủ. Mở đầu cho phong trào này là cuộc đấu tranh của đại diện nông dân ở 14 tỉnh Nam Bộ trong tháng đầu năm 1957, đòi định lại giá cả đất đai canh tác. Tiếp đó, đại biểu nông dân ở 37 xã của tỉnh Gò Công, 600 nông dân tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long tổ chức mít tinh biểu tình, đưa yêu sách đòi hạ mức thuế và không được xáo canh ruộng đất, làm ảnh hưởng không tốt tới việc trồng cây của nông dân. Giữa năm 1957, bà con nông dân xã Phước Long, quận Thủ Đức - tỉnh Gia Định đã tập hợp nhau lại chống tên địa chủ Thuận (tên này đã từng gây cho dân ở đây nhiều tai họa) đòi giảm mức tô, thuế, hạ thấp lãi suất cho vay nợ trong những thời điểm giáp hạt. Cuộc đấu tranh đã kéo dài hàng tuần và được Hội nông dân Gia Định, Sa Đéc, Rạch Giá, Hà Tiên, Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh... ủng hộ mọi mặt. Trước khí thế đấu tranh không khoan nhượng của nông dân, tên Thuận đã phải chịu nhượng bộ. Trước cách mạng, ruộng đất xã Hòa An huyện Trảng Bàng, Tây Ninh nằm trong tay gia đình địa chủ Đấu. Cách mạng thành công, chính quyền đã tịch thu, trưng thu số ruộng đất của Đấu, chia cho bà con nông dân canh tác. Khi Diệm lên nắm quyền và đưa ra chỉ dụ số 57, tên Đấu câu kết với tên quận trưởng, sử dụng dân vệ, lôi cuốn con cháu, họ hàng bắt dân phải trả lại ruộng đất cho chủ cũ - tức là cho gia đình Đấu. Bị nông dân phản đối, Đấu cho người nhà ra ngang nhiên chăng giây cắm đất. Đến tình thế này, nông dân đã đoàn kết nhau lại người cầm cuốc, người mang dao, gậy, đòn gánh... Xông ra chống trả kịch liệt. Để yếm trợ cho Đấu cướp ruộng, quận trưởng Trảng Bàng đã cho bảo an, cảnh sát đến đàn áp cuộc nổi dậy và bắt đi một số người lãnh đạo cuộc đấu tranh. Hành động đàn áp, bắt bớ của địch đã kích động lòng căm thù của quần chúng, khí thế của cuộc đấu tranh lên mức cao hơn. Tên quận trưởng Trảng Bàng buộc phải chấp nhận thả hết những người bị bắt, địa chủ Đấu phải lùi bước không dám cướp lại ruộng đất nữa. Thắng lợi của nông dân Hòa An đã tạo khí thế mới cho phong trào nông dân các xã còn lại của Trảng Bàng và cả tỉnh Tây Ninh đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình.

Bên cạnh những hình thức đấu tranh công khai hợp pháp, nông dân ở một số địa phương đã bí mật thủ tiêu một số tên địa chủ có nợ máu để cảnh cáo và ngăn đe chúng.

Ở các tỉnh Vĩnh Long, Phước Tuy... nông dân đã tổ chức những cuộc mít tinh, viết đơn thư thỉnh cầu lên chính quyền các cấp, yêu cầu sửa đổi thể lệ cho nông dân vay vốn tín dụng để sản xuất kinh doanh... Nông dân Quảng Trị, Gia Định, Châu Đốc phản đối không cho quân ngụy đến cào nhà, triệt làng, đào mồ mả mang đi nơi khác để xây dựng căn cứ quân sự và trụ sở ngụy quyền. Ở Cà Mau, Phong Dinh, Kiến Phong, Thừa Thiên... phong trào đấu tranh của nông dân lại hướng vào thực hiện những mục tiêu đòi tự do làm ăn sinh sống, chống bắt dân đi khai hoang xây dựng căn cứ, rời làng đến sống xung quanh các đồn bốt khu căn cứ quân sự của địch, đòi thay đổi chính quyền địa phương, tố cáo tội ác của bọn mật vụ, công an tra tấn, dùng nhục hình dã man đối với những người yêu nước. Ở Ninh Thuận, đồng bào Thượng đã đồng lòng đấu tranh không làm thẻ căn cước, không rời buôn làng vào khu tập trung. Đồng bào Khơme đấu tranh đòi được tự do học chữ và nói tiếng nói của họ. Đồng bào Chăm, Hoa kiều... Ở vùng biên giới An Giang đã cùng nhau lên án chính quyền ngụy bắt dân luyện lập quân sự, làm xâu đi xây dựng các công bình quân sự. Tín đồ Cao Đài yêu nước Nam Bộ phản kháng chính quyền Diệm chủ trương bắt các tín đồ vào quân đội v.v…

Bên cạnh những cuộc đấu tranh chống nạn cướp ruộng đất, chống nâng sưu thuế, những cuộc đấu tranh chống dồn dân vào các khu dinh điền, khu tập trung cũng diễn ra không kém phần sôi nổi và quyết liệt.

Nhân dân huyện Mộ Đức, Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi không thực hiện chủ trương của chính quyền Diệm bắt rời làng vào sống trong khu dinh điền. Địch dùng xe ô tô và đưa binh lính tới dồn ép, bắt người lên xe chở đi, nhiều người đã nằm chắn ngang đường ngay trước đầu xe để phản đối hành động bạo ngược của chúng. Ở huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, địch ép đưa đi hôm trước, hôm sau đồng bào đã bỏ trại trở về quê gần hết. Ở những nơi địch cai quản chặt chẽ, nhân dân đã chống lại bằng cách phá máy móc, công cụ sản xuất, cơ sở vật chất trang bị, bí mật bắt cóc thủ tiêu tên cầm đầu rồi nổi dậy phá trại trở về.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:21:08 pm

Trên vùng rừng núi Tây Nguyên những cuộc đấu tranh chống địch phá làng, phá buôn rẫy lập khu dinh điền thu hút được đồng bào đồng bào Kinh, Thượng và một số nhân viên ngụy quyền tham gia. Được cán bộ cách mạng trong buôn làng trực tiếp lãnh đạo, nhân dân đã cùng nhau cắm cọc, đào hào sâu, khoanh vùng rào giữ đất, kiên quyết không cho quân ngụy lấn sâu vào chiếm nương rẫy, bản làng. Khi địch dùng xe cơ giới ủi phá hàng rào, toàn bộ phụ nữ đã tập trung nhau lại chặn xe, chặn quân lính không cho chúng hành động. Bọn chỉ huy ngoan cố ra lệnh cho lính “xúc” cả đất và người lên xe chở đi. Lập tức, hàng trăm người già, trẻ, gái, trai xông vào dùng dao, cuốc, gậy gộc... đánh trả quân địch và cứu người bị nạn. Địch phải lui quân, dừng hành động ủi phá buôn rẫy.

Tháng 8-1958, quân ngụy tập trung lực lượng mở cuộc hành quân “Thồ Lồ” đánh vào miền tây hai tỉnh Bình Định và Phú Yên, hòng chiếm cho được Thồ Lồ - một cán cứ kháng chiến quan trọng của ta và lập các vùng dinh điền. Địch từ Vân Canh (Bình Định) và Đồng Xuân (Phú Yên) đánh lên, từ Cheo Reo (Phú Bổn) đánh xuống, đánh đến đâu chúng bắt dân đưa vào trại tập trung và triệt hạ bản làng đến đấy. Sau hơn một tháng lùng sục và cưỡng ép, địch đã “đưa” được hơn 2000 dân về các trại ở xung quanh quận lỵ Vân Canh. Nhưng chỉ ba tuần sau đó, một số bí mật tìm vào các khu căn cứ trong rừng sâu cắm chông gài thò... lập làng chiến đấu.

Để xây dựng các trụ sở chính quyền, quân đội, các cư xá khách sạn dành cho sĩ quan, cán bộ các ngành trong chính quyền Diệm, nhiều gia đình, nhiều khu dân cư ở một số thành phố và thị xã được lệnh phải rời đi nơi khác. Phong trào chống giải tỏa, đuổi nhà, di dân ở thành thị nổ ra không kém phần gay gắt và quyết liệt. Đầu năm 1957, hàng vạn hộ gia đình thuộc khu lao động ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, các trại định cư ở Biên Hòa, Châu Đốc... gửi nhiều đơn, thư khiếu nại lên các cơ quan chính quyền và Quốc hội ngụy, đòi được ở lại chỗ cũ, đòi bồi thường tài sản và nhà cửa do binh lính đốt phá. Ở thành phố Sài Gòn, 30.000 đồng bào di cư thuộc trại An Lạc, Chí Linh (Tân Sơn Hòa) bị địch đuổi nhà để lập cư xá Cộng hòa đã gửi hàng trăm đơn phản đối việc làm của chính quyền Diệm. 3000 người cư trú tại đường Trương Tấn Bửu kéo tới Dinh Độc Lập, 200 đồng bào ở khu Chương Dương, Vân Đồn, Phú Nhuận, An Bình, 1000 gia đình ở các trại định cư Trần Hưng Đạo, Lăng Cha Cả, Tân Sơn Nhất, 700 gia đình ở khu Trần Quí Cáp, xóm Từ Dũ, Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Thọ đã kéo đến Tổng liên đoàn lao động ngụy yêu cầu bãi bỏ lệnh đuổi nhà. Đồng bào xóm Sáu Lèo (Bùi Viện) đã giành giật với cảnh sát, kiên quyết đòi dựng nhà trên nền đất cũ, phản đối âm mưu giải tỏa để tạo “thẩm mỹ cho thành phố” của chính quyền ngụy. Để hỗ trợ kịp thời cho phong trào, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, nghiệp đoàn các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền, hiệp hội buôn bán các thành phố đã quyên góp tiền, lương thực, quần áo, thuốc chữa bệnh mang đến giúp đỡ cho các gia đình bị nạn. Nữ sinh trường Trưng Vương đã đến dọn dẹp và tham gia dựng lại nhà cửa cho những gia đình bị lính địch đốt phá. Các Nghiệp đoàn nghệ sĩ, Nghiệp đoàn giáo dục tư thục, các dược sĩ, Hội phụ nữ, Hội Phật giáo, Đạo Tin Lành... cũng trích quỹ mua vật chất để ủng hộ. Hội Dục Anh nhận nuôi con nhỏ cho các gia đình bị địch đốt phá mất nhà ở.

Trong tháng 8 và tháng 9-1957, đã có hơn 3 vạn người ở quận Châu Phú (Châu Đốc) Thị Nghè, Quảng Nam, Quảng Trị... đề đơn kháng nghị lên chính quyền các cấp về lệnh đuổi nhà để xây dựng đường chiến lược và căn cứ quân sự.

Đầu năm 1958, Mỹ - ngụp khởi công xây dựng con đường chiến lược Sài Gòn - Biên Hòa, buộc nhiều gia đình phải chuyển đi nơi khác, một đợt đấu tranh mới lại nổi lên làm cho địch không thực hiện được kế hoạch làm xong con đường vào năm 1959, phải kéo dài đến hết năm 1960 mới hoàn thành.

Ở Tây Nguyên, có 950 gia đình ở thị xã Buôn Ma Thuột, 2000 gia đình ở Gia Kiệm đã biểu tình đòi chính quyền địch bồi thường thiệt hại nhà cửa do binh lính của Diệm đốt phá và đòi ở lại chỗ cũ. Cùng thời gian trên, 1000 gia đình ở thành phố Huế đã hiệp sức nhau lại quyết “tử thủ” không cho quân đội Diệm dồn đi nơi khác lấy đất xây dựng sân vận động, chuẩn bị cho duyệt binh.

Trước sự phát triển ngày càng mạnh về mọi mặt của phong trào đấu tranh của các tầng lớp, các giai cấp ở miền Nam, Mỹ - Diệm đã ban hành luật “quân dịch”, tăng cường bắt ép thanh niên vào quân đội. Vì vậy, một phong trào đấu tranh nữa đã xuất hiện - phong trào chống bắt lính đã diễn ra khắp ở thành thị và nông thôn toàn miền Nam. Nhiều thanh niên đã tự hủy hoại thân thể hoặc khai đau ốm, mắc bệnh kinh niên để tránh phải khám tuyển quân dịch. Nhiều người khác tìm cách trốn sang đất Campuchia, chuyển chỗ ở làm ăn sinh sống, có người đã tự sửa thẻ căn cước, nâng số tuổi của mình lên để khỏi phải tham gia quân đội. Số người không trốn được phải gia nhập quân đội thì sau một thời gian đã tìm cách đào ngũ. Học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng cũng tổ chức biểu tình, đưa đơn lên Chính phủ và Bộ Quốc phòng ngụy yêu cầu được hoãn nhập ngũ để tiếp tục học tập, thi cử. Trước yêu cầu chính đáng của sinh viên, chính phủ Diệm đã chấp nhận miễn quân dịch cho những đối tượng này.

Kết quả của phong trào đấu tranh đã làm cho kế hoạch quân dịch của chính quyền Diệm trong năm 1957 không thục hiện được. Nhiều địa phương như Biên Hòa, Vĩnh Long, Phú Yên, Phan Thiết... đã có từ 20-30%, Bình Định đến 50%, Bình Thuận tới 79% thanh niên không tham gia khám tuyển và gia nhập quân đội ngụy.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:21:34 pm

Sang năm 1958, phong trào chống quân dịch ở miền Nam xuất hiện nhiều nét mới có chiều sâu. Ở Sơn Tịnh - Quảng Ngãi, Mỏ Cày - Bến Tre, toàn dân chống quân dịch với khẩu hiệu: “Không tham gia quân dịch vì không muốn chiến tranh chết chóc”, “Không chống lại nhân dân mình”.

Số thanh niên bị cưỡng ép vào quân đội đã tìm cách đào ngũ, trốn trại về quê làm ăn sinh sống.

Phối hợp một cách tích cực và kịp thời với các phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam, ngày 7-3-1958, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã gửi công hàm cho chính quyền Diệm, đề nghị hiệp thương, tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Diệm đã từ chối, một làn sóng đấu tranh mới diễn ra ở cả nông thôn và thành thị miền Nam ủng hộ bức công hàm của Chính phủ ta.

Các tỉnh Quảng Trị, Quảng Nam, Cao Lãnh, Rạch Giá, Hà Tiên, Long An, Vĩnh Long tổ chức hoạt động vũ trang tuyên truyền, giải thích những âm mưu của địch đối với cách mạng miền Nam và phân tích rõ nội dung bức công hàm của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa để nhân dân không mắc phải âm mưu xuyên tạc của địch. Bên cạnh đó, báo chí công khai ở Sài Gòn đã đăng lại nhiều bài phản ánh nguyện vọng thiết tha của nhân dân mong muốn hòa bình, độc lập và thống nhất Tổ quốc. Ngày 4-7-1958, một nhóm nhân dân lao động yêu nước ở tỉnh Bạc Liêu đã viết thư gửi Tổng thống Diệm, nêu rõ ước muốn được tự do trao đổi thư tín, lưu thông kinh tế... giữa hai miền Bắc - Nam và mong mỏi các nhà lãnh đạo hai miền sớm gặp nhau để bàn bạc việc thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình.

Tại Cao Lãnh, Cà Mau, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Quảng Ngãi,... nhân dân đã dùng loa phát thanh, rải truyền đơn, trưng biểu ngữ kêu gọi công chức, binh lính hưởng ứng phong trào đấu tranh thống nhất nước nhà và ủng hộ công hàm của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ở Sài Gòn và các thành phố lớn, nhân dân thả bồ câu mang theo cờ đỏ sao vàng và biểu ngữ đả đảo chính quyền độc tài phát xít Ngô Đình Diệm, đòi hiệp thương thống nhất Tổ quốc.

Do sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với các hoạt động vũ trang tự vệ, nên phong trào đấu tranh chống Mỹ - Diệm ngày càng phát triển, gây lòng tin tưởng trong nhân dân. Tuy vậy, thực tiễn phong trào đấu tranh chống địch “tố cộng, diệt cộng” cũng như các phong trào đấu tranh khác trên các địa phương miền Nam còn có những khuyết, nhược điểm. Ở một số tỉnh do chỉ đạo, chỉ huy không chặt chẽ, tổ chức diệt ác trừ gian một cách tràn lan, để bộc lộ hết lực lượng; ngược lại, một số địa phương hiểu không đầy đủ tinh thần nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và Xứ ủy, cho là cấp trên cấm không được hoạt động vũ trang tự vệ, nên không dám dùng vũ khí đánh trả địch. Thậm chí có nơi đào súng lên rồi lại đem chôn giấu súng trở lại. Do đó, mặc dù phong trào cách mạng miền Nam năm 1958 lên mạnh hơn các năm trước. Nhưng phát triển không đồng đều, các căn cứ địa nhỏ, hẹp chưa vững chắc, nên lực lượng ta vẫn bị tổn thất nghiêm trọng.

Để khắc phục tình trạng trên, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam Bộ đã chỉ thị cho các địa phương một mặt tiếp tục duy trì và phát triển lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị, mặt khác cần khẩn trương xây dựng, mở rộng các căn cứ địa làm chỗ đứng chân, nơi cất giấu, dự trữ vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm và tổ chức huấn luyện lực lượng cách mạng.

Ngay từ đầu năm 1957, Xứ ủy Nam Bộ đã đưa ra kế hoạch xây dựng căn cứ địa ở miền Đông Nam Bộ, bao gồm hai vùng căn cứ Đông Bắc và Tây Bắc. Căn cứ Đông Bắc, nguyên là địa bàn Chiến khu Đ cũ, được mở rộng lên giáp với biên giới Việt Nam - Campuchia; căn cứ Tây Bắc, nguyên là Căn cứ Dương Minh Châu, cũng được mở rộng thêm nhiều so với trước. Năm 1958, đồng thời với việc mở rộng các căn cứ địa, ta xây dựng và củng cố các công binh xưởng ở Mã Đà (vùng Đông Bắc), Bà Chiêm (vùng Tây Bắc), mở các lớp đào tạo y tá, huấn luyện bộ đội biệt động, đặc công. Đối với miền Trung và miền Tây Nam Bộ, Xứ ủy cũng tăng cường cán bộ và chỉ thị cho các tỉnh huy động nhân tài, vật lực để củng cố và mở rộng căn cứ Đồng Tháp Mười và U Minh. Riêng tỉnh Cà Mau từ giữa năm 1958, những gia đình có người đi tập kết và quần chúng cách mạng thuộc các huyện Ngọc Hiển, Cái Nước, Thới Bình, Trần Văn Thời (Cà Mau) đã anh dũng chống lại những hành động khủng bố, dồn dân lập ấp của địch, rồi chủ động rời làng vào cư trú tại địa bàn từ phía nam Rừng U Minh đến Rừng đước Ngọc Hiển, hình thành lên những “làng rừng” đầu tiên. Có “làng rừng” đông tới hàng ngàn người. Trong “làng rừng” có những đội vũ trang tự vệ, trang bị bằng súng trường, mã tấu... Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Cà Mau, những “làng rừng” đã mau chóng trở thành những căn cứ cách mạng vững chắc. Đến cuối năm 1958, Cà Mau đã xây dựng được 15 “làng rừng” với số dân lên tới hơn 20.000 người. Đây thực sự là những làng, xã tự do đầu tiên ở Nam Bộ được xây dựng dưới thời Mỹ - Diệm, là những căn cứ để tích lũy cơ sở vật chất, duy trì và phát triển lực lượng cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tổ chức các trận tiến công tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch trong quá trình kháng chiến chống Mỹ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:22:01 pm

Tây Nguyên và các tỉnh Trung Bộ là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng. Mùa hè 1958, Khu ủy Khu V ra nghị quyết về xây dựng căn cứ Tây Nguyên và miền tây các tỉnh Trung Trung Bộ, lập cơ sở sản xuất, dự trữ lương thực, thực phẩm, vũ khí đạn dược, thuốc men, động viên nhân dân tích cực tham gia làm “rẫy cách mạng”, bước đầu xây dựng lực lượng bán vũ trang và một số đơn vị vũ trang tập trung. Khu ủy cũng chỉ thị cho các địa phương tổ chức các đội tự vệ ở các buôn, làng, xã để bảo vệ cơ sở, hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh của quần chúng tại chỗ, giải thoát cho cán bộ khi bị địch bắt, diệt các tên phản động, ác ôn, phục hồi và mở rộng các cơ sở chính trị.

Thực hiện chủ trương đúng đắn trên, các cán bộ, đảng viên ở cả miền núi và đồng bằng đã nhanh chóng lập ra các “rẫy cách mạng”, sản xuất lương thực, thực phẩm, từng bước phát triển thành những căn cứ của khu, tỉnh. Trong khu căn cứ, các công binh xưởng sản xuất, sửa chữa vũ khí được xây dựng. Ở Kon Tum, có xã Đoàn, xã Hiếu, Tung Bung, Côxia, Tân Túc, Đắc Min; ở Gia Rai có huyện 2, huyện 7; Quảng Nam có căn cứ Hiên; ở Quảng Ngãi có khu căn cứ bao gồm 22 xã thuộc vùng cao hai huyện Trà Bồng, Sơn Hà và 12 xã trong khu vực tiếp giáp giữa ba huyện Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ và 8 xã thuộc địa phận phía nam huyện Ba Tơ. Tỉnh Bình Định có Khu căn cứ Vĩnh Thạnh; Phú Yên có các Khu Thồ Lồ, Ma Dú; Đắc Lắc có Plây Ya; Khánh Hòa có Vĩnh Sơn, Khánh Sơn; Ninh Thuận có Bác Ái; Bình Thuận, Lâm Đồng có Tánh Linh, Di Linh nối lên nhau từ vùng giáp ranh đồng bằng đến ven đường quốc lộ 20.

Việc xây dựng các khu căn cứ cách mạng ở miền Nam có ý nghĩa chiến lược to lớn, nó tạo sức mạnh vật chất và lực lượng cho cách mạng. Từ các căn cứ kháng chiến này, lực lượng cách mạng được giữ gìn và phát triển. Căn cứ địa miền Nam hợp cùng với hậu phương lớn miền Bắc là nhân tố bảo đảm chắc chắn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh.


*
*   *

Âm mưu và hành động của Mỹ - Diệm hơn bốn năm qua tự nó đã nhen nhóm và thổi bùng ngọn lửa chiến tranh ở miền Nam. Nhân dân miền Nam muốn sống trong hòa bình, độc lập, tự do buộc phải đứng lên cầm - lấy vũ khí chống lại kẻ thù. Bởi Mỹ - Diệm đã dùng súng đạn dìm các cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân trong bể máu.

Vượt qua những đau thương mất mát, hy sinh, nhân dân ta ở miền Nam đã trụ vững, sáng tạo ra phương thức đấu tranh với những hình thức phong phú, từng bước tích lũy, xây dựng, phát triển lực lượng đưa phong trào cách mạng tiến lên. Mặc dù còn khó khăn chồng chất, cách mạng còn lắm gian truân, nhưng sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam Việt Nam bước đầu đã tạo được thế mới, lực mới. Đó là thành quả trong thời kỳ đấu tranh chính trị đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh, là tiền đề quan trọng để Đảng hoạch định đường lối cách mạng miền Nam, đưa phong trào đấu tranh của nhân dân ta từ thế giữ gìn lực lượng chuyển dần sang thế tiến công vào những năm sau.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:25:02 pm

Chương VII
NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ 15 CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
VÀ NHỮNG CUỘC NỔI ĐẬY ĐẦU TIÊN Ở MIỀN NAM


I. CHỈ CÓ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG NHÂN DÂN MIỀN NAM MỚI CỨU ĐƯỢC MÌNH VÀ CỨU NƯỚC

Qua năm 1958, mặc dù cách mạng miền Nam đã tạo được những nhân tố để tiến lên, nhưng vì đường lối đấu tranh chưa được xác định cụ thể, việc chỉ đạo thực hiện thiếu thống nhất, nên bước sang năm 1959, phong trào cách mạng miền Nam vẫn chưa ra khỏi tình trạng khó khăn, nhiều nơi còn bị động, lúng túng. Trong khi đó, Mỹ - Diệm tiếp tục đẩy mạnh các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, dồn dân lập “khu dinh điền”, “khu trù mật”, xây dựng căn cứ quân sự. Các cuộc đánh phá, khủng bố của chính quyền Diệm đối với nhân dân đã đến đỉnh cao về múc độ khốc liệt và tính chất man rợ. Những đảng viên cộng sản, những người yêu nước bị truy lùng ráo riết. Lực lượng cách mạng tiếp tục bị thiệt hại. Ở QuảngNam, Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định. Tây Ninh, Mỹ Tho bị thiệt hại nặng nhất, có nhiều chi bộ, đảng bộ bị địch bắt, giết gần hết số đảng viên phải “lột xác” tới ba, bốn lần mới duy trì được hạt nhân lãnh đạo. Theo số liệu của Bộ Thông tin chính quyền Sài Gòn công bố năm 1960 thì, từ 1954 đến 1959, Diệm đã bắt giam 48.200 “cán bộ cộng sản”, bắt 18 triệu 739 ngàn lượt người học tập “cải huấn”, “phản tỉnh”, “sám hối” và xử án tử hình hàng chục ngàn người yêu nước khác. Con số này còn ít so với sự thật1. Nhưng những cảnh bắt người hành hình ghê sợ kiểu khoét mắt, xẻo tai, moi gan, mổ bụng, bỏ rắn vào ống quần phụ nữ, cột sau xe ôtô, chạy cho đến khi thân thể nạn nhân tan nát thịt xương diễn ra hàng ngày ở miền Nam. Ở dinh điền Bình Hưng thuộc xã Tân Hưng Tây, huyện Cái Nước, gia đình bác Tám Sáu bị giết hết không còn một người, gia đình anh Sáu Hòa bị địch bắt, giết gần hết bằng cách trói chân tay rồi dội nước sôi cạo đầu, xẻo thịt. Chỉ với nhưng số liệu và phương pháp giết người mà tính chất man rợ của nó vượt xa thời kỳ Trung cổ đó cũng đủ làm xúc động lương tri loài người và “làm kinh hoàng người nông dân Việt Nam, làm cho dân chúng thêm căm ghét chế độ Diệm”2. Những gì mà người dân miền Nam được hưởng sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp đều bị thủ tiêu một cách tàn nhẫn. Mỹ - Diệm đã phá nát cơ cấu làng xã - những tế bào của xã hội vốn sinh thành, cố kết tự nhiên của cộng đồng người Việt qua hàng ngàn năm lịch sử và biến miền Nam thành địa ngục trần gian mà ở đó quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người bị tước đoạt hoàn toàn. Chỉ còn lại những người được Diệm hữu sản hóa trở thành địa chủ, tư sản mại bản mới hàm ơn Mỹ, điên cuồng chống phá cách mạng, chống lại hòa bình, hòa hợp dân tộc.

Mỹ - Diệm đã đẩy nhân dân miền Nam đến cảnh khốn cùng như vậy, muốn tồn tại, người dân miền Nam không có con đường nào khác ngoài con đường phải nổi dậy cầm vũ khí chống lại kẻ thù.

Là người lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Trung ương Đảng, Chính phủ ngày đêm suy nghĩ để vạch ra chủ trương và phương pháp, bước đi cho cách mạng miền Nam sao cho giành thắng lợi mà ít tổn thất nhất, lại phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Đây là vấn đề cực kỳ khó khăn và phức tạp. Bởi vì, lúc này đường lối đối ngoại cùng tồn tại hòa bình giữ cách mạng trong thế thủ đang thắng thế trong phong trào cộng sản quốc tế. Mâu thuẫn Xô-Trung phát sinh và ngày càng gay gắt. Xuất phát từ chiến lược và lợi ích dân tộc của mỗi nước, Liên Xô, Trung Quốc đều giúp ta, nhưng đều muốn ta phải theo chiến lược của họ. Liên Xô khuyên ta phải thi đua xây dựng hòa bình, làm cho miền Bắc mạnh lên sẽ phát huy tác dụng đối với miền Nam. Trung Quốc lại cho rằng Việt Nam “chỉ có thể dùng phương châm thích hợp là trường kỳ mai phục, tích trữ lực lượng, liên hệ quần chúng, chờ đợi thời cơ”3. Đây là thời kỳ phức tạp nhất về chính trị đối với việc hoạch định đường lối chỉ đạo cách mạng. Trong tình hình thế giới có hai phe, sự giao lưu và thông tin quốc tế mở rộng lợi ích của mỗi nước đều gắn chặt với lợi ích của phe và của cộng đồng quốc tế, nên những lời khuyên, những ý kiến gợi ý của Liên Xô, Trung Quốc và bè bạn xa gần dù ở khía cạnh, quan điểm nào, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đều phải suy nghĩ, nghiên cứu nghiêm túc, tính toán thận trọng khi xác định đường lối cách mạng của mình, vừa giữ vững độc lập tự chủ, vừa tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước anh em đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

Cùng vào thời điểm này ở miền Bắc đang khôi phục kinh tế, củng cố quốc phòng - an ninh, tiếp tục giải quyết những tồn đọng trong chiến tranh và tìm tòi con đường phát triển đất nước phù hợp với những điều kiện cụ thể của Việt Nam. Việc xây dựng lực lượng vũ trang, tích trữ vật chất còn đang trong quá trình chuẩn bị.
______________________________________
1. Theo thống kê của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, chỉ riêng ở thành phố này năm 1956 đã có 108 ngàn người bị bắt, hàng ngàn người bị giết.
2. Tài liệu Mật Bộ Quốc phòng Mỹ, Tlđd.
3. Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 40.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:27:37 pm

Năm 1956, tổng tuyền cử theo Hiệp định Giơnevơ quy định không diễn ra.

Đầu năm 1957, Bộ Chính trị đã đặt vấn đề phải có một đường lối cách mạng ở miền Nam cho phù hợp, mà then chốt là phải chuyển chiến lược đấu tranh. Bộ Chính trị giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp ủy viên Bộ Chính trị, và một số đồng chí cán bộ cao cấp của Đảng chuẩn bị soạn thảo một nghị quyết về cách mạng Việt Nam ở miền Nam để trình Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng. Các đồng chí làm nhàm vụ chuẩn bị cho rằng, địch dùng quân sự đàn áp nhân dân ta, tiếp tục đấu tranh hòa bình sẽ không có kết quả, phải đấu tranh vũ trang mới đưa phong trào cách mạng miền Nam tiến lên được. Nhưng do đường lối và quan điểm của Liên Xô, Trung Quốc khác với Đảng ta, cho nên phải tiếp tục suy nghĩ. Cuối năm 1957, đồng chí Lê Duẩn ra Bắc được giao làm công việc của Tổng bí thư Đảng và trực tiếp chỉ đạo miền Nam. Đồng chí Lê Duẩn mang theo Bản đề cương cách mạng miền Nam với tinh thần cách mạng miền Nam phải tiến lên theo con đường của Cách mạng tháng Tám và báo cáo cụ thể với Bộ Chính trị về tình hình địch, ta và ý kiến, nguyện vọng của đảng viên, quần chúng trong Nam đề nghị phát động đấu tranh vũ trang. Đã có thêm những yếu tố, nhiều căn cứ cho sự ra đời của Nghị quyết, nhưng bộ phận chuẩn bi do đồng chí Lê Duẩn chỉ đạo, phải làm nhiều lần, kết hợp với việc dự thảo văn kiện chính trị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, trong hai năm mới có bản dự thảo nghị quyết. Bộ Chính trị, do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đã dành nhiều thời gian thảo luận các văn kiện dự thảo cho Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng và Đại hội. Lúc đầu, các đồng chí trong Bộ Chính trị còn có ý kiến khác nhau về chủ trương, phương pháp đấu tranh.

Tình hình miền Nam mỗi ngày càng đen tối thêm, địch khủng bố hết sức ác liệt. Sự chịu đựng của nhân dân đã đến giới hạn cuối cùng, họ đòi Diệm gây nợ máu phải trả bằng máu. Nông dân xã Hòa Hội, tỉnh Tây Ninh đã ký tên vào bức tâm thư gửi lên Bác Hồ, báo cáo “Nhân dân bị khủng bố, cán bộ bị giết hại, xin cho bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc trở về đánh giặc, cứu dân”. Trong một cuộc mít tinh, có cụ già nghẹn ngào, uất ức nói trước đồng bào “Bác Hồ ơi! Mỹ - Diệm nó độc ác quá lắm rồi, Bác cho phép đồng bào bắn nát đầu chúng nó”1. Ở tỉnh Thủ Dầu Một có 30 lão nông gửi thư lên Xứ ủy chất vấn rằng: “Tình hình như vậy không biết Xứ ủy có báo cáo lên Trung ương, lên Bác Hồ hay không?”. Các cụ yêu cầu Xứ ủy gửi bức thư đó ra cho Bác Hồ và đề nghị cho đấu tranh vũ trang trở lại, nếu không thì không thể thắng được2. Đây là nguyện vọng thiết tha không chỉ riêng của nhân dân Tây Ninh, Thủ Dầu Một, mà là của cả miền Nam ruột thịt.

Ý nguyện đó, đã thôi thúc các cấp ủy đảng ở Nam Bộ, Khu V và những đảng viên, cán bộ “nằm vùng” hoạt động ở cơ sở mạnh dạn lãnh đạo quần chúng tìm kiếm vũ khí tăng cường vũ trang, chủ động nổi dậy ở những nơi có đủ điều kiện mặc dù chưa có ý kiến của Trung ương.

Tháng Giêng năm 1959, hoạt động vũ trang ở tỉnh Cà Mau nổi lên. Tiểu đoàn Ngô Văn Sở và các chiến sĩ vũ trang tuyên truyền của tỉnh đột nhập vào quận Đầm Dơi, Thới Bình, trừng trị những tên tay sai ác ôn. Bọn địch rất lo sợ. Những tên ấp trưởng, ấp phó, đội trưởng Tổng đoàn dân vệ v.v… đêm đêm phải trốn về quận ngủ, không dám ở lại thôn ấp. Ở các tỉnh Bạc Liêu, Gò Công, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiến Phong, Sóc Trăng, Cần Thơ, Châu Đốc, An Giang hoạt động vũ trang tuyên truyền gia tăng làm cho ngụy quân cơ sở hoang mang. 805 xã các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có tới 50% tề ngụy tan rã. Khu V - vùng tự do trong kháng chiến chống Pháp, lực lượng đảng viên, du kích quần chúng cách mạng đông đảo không đi tập kết, được “thả nổi” trà trộn trong nhân dân và “nằm im” không hoạt động. Lực lượng này ít bị thiệt hại, nên sau khi có nghị quyết chỉ đạo của Khu ủy cho vũ trang tuyên truyền, vũ trang tự vệ thì phong trào đấu tranh vũ trang hồi phục và phát triển nhanh, đặc biệt ở miền núi các tỉnh đồng bằng và Tây Nguyên. Những cuộc rời làng chống Mỹ - Diệm của đồng bào Chăm, H’rê ở Thồ Lồ (Phú Yên), đồng bào Ba Na ở Vĩnh Thạnh (Bình Định), đồng bào Rắc Lây ở Bác Ái (Ninh Thuận), đồng bào Gia Rai ở Plây Ngo, Lệ Ngọc (Gia Lai), Xê Đăng, Dé ở Tà Boóc (Kon Tum) v.v… diễn ra liên tục, dồn dập, khiến cho hệ thống chính quyền cơ sở của địch gần như tan rã. Tiêu biểu cho những cuộc nổi dậy đầu tiên ở miền núi này là Vĩnh Thạnh (Bình Định) và Bác Ái (Ninh Thuận).

Vĩnh Thạnh là huyện miền núi phía tây tỉnh Bình Định, diện tích khoảng 140km2, dân số hơn 5300 người, phần đông là dân tộc Ba Na. Số đảng viên cũ ở lại có 50 đồng chí tập trung nhiều vào các xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo, Vĩnh An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Bình, Vĩnh Nghĩa. Huyện ủy do đồng chí Trọng làm bí thư, Nguyễn Trung Tín phó bí thư. Địch đánh phá ác liệt, số đảng viên không tổ chức thành chi bộ, mà hoạt động đơn tuyến. Trước khi tập kết lực lượng ra Bắc, tỉnh Bình Định đã cứu trợ cho dân lúa, gạo, muối, vải, thuốc chữa bệnh và rìu, rựa để làm rẫy. Tháng 5-1955 địch tiếp quản Vĩnh Thạnh, chúng dựa vào bọn thương lái người Kinh để điều tra, nắm quần chúng, thanh lọc dân cư, phát hiện cộng sản. Được hưởng những thành quả do cách mạng đem lại, tuy còn ít, nhưng đồng bào các dân tộc hiểu rõ cách mạng, biết Bok Hồ mới thương người Thượng như người Kinh, mới làm cho người Thượng hết khổ. Đồng bào ra sức giữ bí mật, nuôi dưỡng và che chở những đảng viên, cán bộ “nằm vùng” thoát khỏi các chiến dịch tố cộng, những trận ruồng bố của địch. Không tìm được “cộng sản nằm vùng”, tháng 11-1957, địch chuyển sang gom dân dồn về các ấp giáp vùng xuôi để cắt đứt mối liên hệ giữa dân với Đảng. Kế hoạch của địch sẽ gom sáu xã ở rìa rừng về quận lỵ trước. Tà Lốc, Tà Léc là hai làng bị gom thí điểm. Địch bắt các già làng về đồn thuyết phục đưa dân xuống quận. Các già làng đưa ra nhiều lý do về phong tục, tập quán, kiêng cữ, về canh tác của người dân tộc để từ chối. Tên Thái Quới, quận trưởng Vĩnh Thạnh, không chấp nhận, y phái bọn tay chân và cảnh sát về từng làng, vừa dụ dỗ, vừa khủng bố, và cấm mua bán giữa người Kinh với người Thượng, cấm phát rẫy làm nương, cấm đi thăm lẫn nhau giữa người ở làng này với người ở làng khác. Đời sống tình cảm, tinh thần và vật chất của đồng bào khốn khó đến cùng cực. Việc xuống quận theo Diệm, hay chạy vào rừng lập làng mới chống lại địch là cuộc đấu tranh với nhau trong các già làng, cán bộ và nhân dân. Riêng đồng bào Tà Lốc, Tà Léc luôn luôn nuôi một ý nghĩ “không thể bỏ cái núi, cái rừng”, phải chạy vào rừng dù khổ cũng được, không xuống xuôi. Ý chí kiên quyết của đồng bào làng Tà Lốc, Tà Léc là ngòi nổ của cuộc nổi dậy chống Diệm ở Vĩnh Thạnh. Tháng 11-1958, tên quận trưởng Vĩnh Thạnh cho cảnh sát bắt Bok Chua, già làng của Tà Lốc, Tà Léc, ép phải ký nhận đưa dân xuống. Trước sự thúc bách đó, già làng và đồng bào Ba Na phải tìm kế trì hoãn nhận xuống xuôi nhưng phải sau Tết âm lịch và yêu cầu phải để cho dân phát rẫy, xuống vùng xuôi mua bán tự do. Địch thấy đạt ý định, nên chấp nhận yêu sách của dân và hẹn đúng ngày 4 tháng Giêng âm lịch, già làng phải đưa dân xuống. Lợi dụng thời gian hòa hoãn này, đồng bào phát rẫy, mua muối, gạo, vải, dao, rựa tích trữ, lập kho sâu trong rừng cất giấu. Chỉ trong 4 tháng, đồng bào đã chuẩn bị đủ dụng cụ lao động, lương thực, muối cho 3 năm. Đây là một biểu hiện quyết tâm cao của đồng bào Tà Lốc, Tà Léc.
______________________________________
1. Theo “Miền Đông Nam Bộ kháng chiến”, t. II, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993. tr. 69.
2. Theo lời kể của đồng chí Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng bí thư, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Bộ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:28:37 pm

Ngày 6-2-1959 (ngày 29 tháng Chạp năm Mậu Tuất), chỉ còn 4 ngày nữa là đến hẹn phải xuống quận, nhân dân làng Hà Ri, Tà Lốc, Tà Léc bỏ làng cũ chạy lên Đakló, nơi rừng núi hiểm trở, lập làng mới. Tiếp theo Tà Lốc, Tà Léc, Hà Ri là hai làng Tà Điệt, hai làng Kon Rơn, và các làng Kon Ria, Kon Rít, Kon Đơn, Bờ Nậm cũng nhất tề dời làng sâu vào rừng sống bất hợp tác với địch. Do lúc bấy giờ quan điểm đấu tranh chính trị chi phối là chính, khi Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo đã nổi dậy, huyện ủy Vĩnh Thạnh chủ trương chỉ bố phòng bảo vệ phía trong để địch có thể đi vào làng cũ, nhưng không lùng sục được xung quanh, tránh gây căng thẳng, tạo điều kiện hòa hoãn, hợp pháp được mức nào có lợi mức đó. Nhưng quần chúng không làm đúng theo chủ trương của huyện ủy, họ đã đặt chông thò, cạm bẫy, bố phòng chặt chẽ tất cả các làng cũ và làng mới ở cả vùng thấp và vùng cao. Đồng bào cho rằng, nếu để địch vào được làng cũ, vùng thấp, chúng sẽ lấn tới gom các làng vùng cao. Mỗi làng còn lập được một tiểu đội tự vệ và tiểu đội Kără1 tuần tra, canh gác ngày đêm, sẵn sàng chiến đấu. Giữa tháng 3 và đầu tháng 4 địch đem quân đánh phá các làng Hà Ri, Tà Lốc. Nhân dân xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo đã đoàn kết chiến đấu, diệt nhiều địch buộc chúng phải rút lui.

Từ đây, địch liên tục càn quét Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo, chúng đốt sạch các rẫy lúa non, triệt đường tiếp tế từ đồng bằng lên, gây muôn vàn khó khăn cho nhân dân. Nhưng, quần chúng và lực lượng tự vệ Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo không lùi bước. Cuộc chiến đấu chống địch diễn ra ngày càng quyết liệt, căng thẳng. Không đánh được làng Tà Lốc, Tà Léc, Hà Ri, địch xoay sang dụ dỗ, mua chuộc bằng cách rải truyền đơn kêu gọi “điều đình”. Biết được ý đồ của địch muốn xoa dịu, nhân cơ hội này, Huyện ủy Vĩnh Thạnh chủ trương đưa Vĩnh Hảo ra thế hợp pháp đỡ bớt căng thẳng, tranh thủ thời gian chuẩn bị thêm lực lượng, vật chất2. Vĩnh Hảo chuyển ra hợp pháp, bị địch o ép, trả thù. Tháng 4-1959, đồng bào tám làng xã Vĩnh Hảo nổi dậy chống Diệm lần thứ hai. Cuộc nổi dậy này lôi cuốn các làng vùng cao huyện Vĩnh Thạnh cùng nổi dậy. Toàn huyện Vĩnh Thạnh, gần 60 làng lớn nhỏ với hơn 5000 dân đã giành được quyền làm chủ, đấu tranh công khai với địch, trừ bốn làng giáp huyện Hoài Ân chưa nổi dậy.

Cuộc nổi dậy của nhân dân huyện Vĩnh Thạnh là kết quả tất yếu của chính sách cai trị tàn bạo, phản dân của Mỹ - Diệm. Có kết quả và kinh nghiệm đấu tranh của Vĩnh Thạnh, Tỉnh ủy Bình Định mạnh đạn chủ trương: kiên quyết giữ vững và phát triển thành quả của cuộc nổi dậy, phát động toàn tỉnh đẩy mạnh đấu tranh chống địch. Thực hiện chủ trương của tỉnh, đồng bào Vĩnh Thạnh đánh bại hai cuộc càn quét của địch. Các xã kế cận thuộc các huyện An Lão, Bình Khê, Hoài Ân, nhân dân cũng bắt đầu rào làng chiến đấu, lập các tổ, đội vũ trang tự vệ, vũ trang công tác.

Chỉ sau một ngày nổi dậy thắng lợi của đồng bào Vĩnh Thạnh, đêm 7-2-1959 (đêm 30 Tết Kỷ Hợi) nhân lúc bọn bảo an chốt giữ khu tập trung B’râu thuộc huyện Bác Ái (tỉnh Ninh Thuận) về nhà ăn tết, cán bộ, đảng viên “nằm vùng” đã vận động 5000 dân ở đây phá khu tập trung, bung về núi, xây dựng căn cứ.

Có kinh nghiệm của B’râu, tháng 4-1959, đảng bộ Bác Ái lại lãnh đạo đồng bào khu tập trung Tầm Ngân nồi dậy.

Để giữ vững thành quả của cuộc nổi dậy, Huyện ủy Bác Ái đã chọn 30 thanh niên ở Bác Ái Đông, lập thành đơn vị vũ trang đầu tiên của huyện và tổ chức các tổ, đội thanh niên bảo vệ, gấp rút xây dựng làng chiến đấu, tăng gia sản xuất, ổn định đời sống.

Sau ngày khu tập trung B’râu và Tầm Ngân bị phá, địch liên tục bao vây, đánh phá căn cứ Bác Ái, nhưng không thành.

Vĩnh Thạnh, Bác Ái, hai cuộc nổi dậy ở hai hoàn cảnh, điều kiện khác nhau. Vĩnh Thạnh đang bị ép buộc phải bỏ làng, bỏ quê dồn dân về quận lỵ; Bác Ái dân đã bị lùa vào khu tập trung có hàng rào kẽm gai và lính gác. Nhưng cả hai đều ở vào một tình thế hết sức bức xúc không thể chỉ dùng đấu tranh chính trị được nữa. Đảng viên và nhân dân đã nhanh chóng xác định thái độ kiên quyết chống lại Mỹ - Diệm bằng phương thức kết hợp đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp, buộc địch phải lùi từng bước, tạo thời cơ thuận lợi nổi dậy dời làng, xây dựng căn cứ, lập lực lượng vũ trang tự vệ.

Phong trào nổi dậy, dời làng từ Vĩnh Thạnh, Bác Ái đã nhanh chóng lan đến các vùng đồng bào người Thượng ở Tây Nguyên - nơi mà chính sách cai trị nghiệt ngã của Diệm đã làm cho người dân vốn hiền lành, chất phác đã phản ứng quyết liệt, chống lại chính sách của Diệm.
______________________________________
1. Kără: Mỗi làng có các cụ già làng, đứng đầu các già làng gọi là Kără làng. Kără làng là người thông thạo phong tục tập quán, có uy quyền, quản lý nhân dân.
2. Không đưa Vĩnh Hiệp, vì Vĩnh Hiệp cương quyết không hợp tác với địch. Đồng bào Vĩnh Hiệp chỉ một lời thề: “Vĩnh Hiệp không uống chung con suối với Mỹ - Diệm”.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:38:42 pm

Tháng 4-1959, ở Tà Boóc, huyện 40 (nay là huyện Đắc Lây), tỉnh Kon Tum, quần chúng tổ chức cắm chông bao vây đồn Tà Boóc, ngăn không cho địch vào làng. Địch phá, dân lại cắm chông, rào làng, cứ thế giằng co nhau. Nhân lúc một tiểu đội ngụy vào làng quấy phá, nhân dân lập mưu chuốc rượu, diệt 4 tên, thu 3 súng. Chị Y Ngã là người phụ nữ dũng cảm, lập công đầu. Lúc địch say rượu, chị xông đến ôm chặt tên trung úy chỉ huy cho chồng chém đầu. Số địch còn lại rút khỏi Tà Boóc. Nhân dân nổi lửa đốt làng, dời vào rùng, lập làng mới, chống địch.

Những cuộc nổi dậy cục bộ có vũ trang trên đây, chứng tỏ không thể dùng chính trị đấu tranh với một chế độ phát xít được thiết lập nhờ vào lưỡi lê và đại bác của ngoại bang, mà phải dùng bạo lực cách mạng.

Hoảng sợ trước sức phản kháng ngày càng mạnh của nhân dân, ngày 23-3-1959, Ngô Đình Diệm tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh, và tháng 5-1959, Diệm ban hành luật 10/59 quy định chỉ có hai hình phạt tử hình và khổ sai chung thân. Diệm lập tòa án quân sự lưu động xét xử tại chỗ những người yêu nước. Ngày 4-7, Quốc hội ngụy thông qua luật số 21 cho phép dùng máy chém chặt đầu những ai không ủng hộ các chính sách phát xít của Diệm. Từ đấy, quân lính của Diệm lê máy chém đi các tỉnh Nam Bộ để uy hiếp tinh thần đấu tranh của nhân dân. Chúng đưa máy chém về các huyện Ba Tri, Bình Đại, Mỏ Cày, Châu Thành thuộc tỉnh Bến Tre và thị xã Tây Ninh, v.v… Địch hy vọng với biện pháp “cứng rắn” này sẽ làm cho quần chúng khiếp sợ, đem lại an ninh cho chế độ. Song, chính hành động tàn bạo đó lại kích động lòng căm thù của nhân dân, họ quyết đứng về phía cách mạng để chống lại Mỹ - Diệm. Cả miền Nam đang nóng lòng chờ quyết định của Trung ương. Sự cần thiết trước tiên là Đảng phải đáp ứng nguyện vọng chính đáng của cán bộ, đảng viên và quần chúng ở miền Nam, nếu không, sẽ bỏ lỡ một thời cơ cho phép phát động một cuộc khởi nghĩa vũ trang rộng lớn, đánh đổ chính quyền tay sai thân Mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng tính toán, cân nhắc rất thận trọng tất cả những nhân tố chủ quan và khách quan để định ra chủ trương, biện pháp cách mạng sao cho vừa đáp ứng được yêu cầu cách mạng miền Nam và bảo vệ được miền Bắc vừa đoàn kết được đồng minh - nhất là Liên Xô, Trung Quốc.

Trong bối cảnh tình hình trong nước, quốc tế những mối mâu thuẫn đan xen nhau rất phức tạp, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị lần thứ 15 (mở rộng)... Các đồng chí Phan Văn Đáng, Hai Xô, Xứ ủy viên Nam Bộ, đồng chí Trần Lương, Võ Chí Công, Khu ủy viên Khu V đã vượt qua hàng nghìn cây số, đồn bốt địch ken dày, đến Hà Nội kịp dự Hội nghị. Các đồng chí đem đến Hội nghị thực tiễn tình hình và kinh nghiệm đấu tranh của đồng bào miền Nam trong những năm qua, góp cho Trung ương Đảng đánh giá đúng tình hình phong trào cách mạng ở miền Nam và đòi hỏi của quần chúng. Hội nghị lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) khai mạc ngày 13-1-1959 trong tình hình miền Bắc sau bốn năm rưỡi củng cố, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, khối đoàn kết toàn dân được củng cố.

Hội nghị phân tích, đánh giá đặc điểm nước Việt Nam từ sau ngay hòa bình lập lại: Do sự can thiệp của Mỹ, nước ta tạm thời chia làm hai miền. Nhưng nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Nhân dân ta chẳng những phải củng cố miền Bắc mà còn phải giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ bằng con đường hòa bình. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chế độ chính trị, kinh tế thuộc địa, nửa phong kiến đã bị đánh đổ, cách mạng dân chủ nhân dân đã hoàn thành. Những người lao động bị nô lệ thời đế quốc phong kiến, nay trở thành người chủ đất nước, quyết tâm xây dựng miền Bắc vững mạnh về mọi mặt, làm cơ sở cho việc hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm để làm công cụ khôi phục và duy trì ách thống trị của đế quốc, phong kiến. Nhân dân miền Nam ngày càng lâm vào cảnh khốn cùng, mất hết tự do. Âm mưu của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai chẳng những xâm chiếm miền Nam, ngăn cản sự phát triển của xã hội miền Nam, mà còn ráo riết chuẩn bị chiến tranh hòng xâm chiếm miền Bắc nước ta, phá hoại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Vì vậy, đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm không chỉ là kẻ thù của nhân dân miền Nam, mà là kẻ thù của cả dân tộc Việt Nam. Tình hình nói trên, làm nổi bật hai mâu thuẫn cơ bản của cách mạng Việt nam hiện nay là:

1- Mâu thuẫn giữa một bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ phong kiến và bọn tư sản mại bản quan liêu thống trị ở miền Nam và một bên là dân tộc Việt Nam, nhân dân cả nước Việt Nam, bao gồm nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam.

2- Mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc.

Hai mâu thuẫn này tuy tính chất có khác nhau, nhưng quan hệ biện chứng với nhau và tác động lẫn nhau. Mâu thuẫn đó thể hiện sự đối kháng gay gắt giữa dân tộc Việt Nam mong muốn hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ với đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm hiếu chiến; đồng thời cũng thể hiện sự đối kháng gay gắt giữa lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc và hòa bình dân chủ trên thế giới với chủ nghĩa đế quốc xâm lược do Mỹ cầm đầu ở khu vực Đông Nam Á - Thái Bình Dương. Cho nên, sự nghiệp đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà của nhân dân ta chẳng những phù hợp với lợi ích sống còn của dân tộc ta, Tổ quốc ta, mà còn phù hợp với lợi ích chung của phong trào hòa bình, dân chủ thế giới.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:39:04 pm

Trên cơ sở phân tích khoa học về đặc điểm, tính chất mâu thuẫn hiện nay của cách mạng Việt Nam, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 nhận định: “Cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau, song song tiến hành, ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau, trợ lực mạnh mẽ cho nhau, nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Trung ương đề ra nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, ra sức củng cố miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.

Về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Hội nghị Trung ương chỉ ra rằng: Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội là theo quy luật phát triển khách quan của xã hội miền Bắc, vì mục đích nâng cao không ngừng đời sống nhân dân, mặt khác là tích cực gánh vác phần trách nhiệm đối với phong trào cách mạng của cả nước. Kinh tế văn hóa miền Bắc phát triển, đời sống nhân dân miền Bắc được cải thiện, lực lượng quốc phòng miền Bắc ngày càng được vững mạnh, sẽ tăng thêm sức mạnh của cách mạng và uy thế chính trị của nhân dân ta, tăng thêm tin tưởng và tính tích cực cách mạng của đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống chế độ Mỹ - Diệm. Quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cần chống khuynh hướng tách rời cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, hoặc coi nặng cuộc cách mạng này mà xem nhẹ cuộc cách mạng kia. Nhiệm vụ thống nhất nước nhà phải được thấu suốt trong tất cả các chủ trương công tác, chính sách của Đảng, Nhà nước và hành động của nhân dân trên miền Bắc.

Về đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam, Hội nghị Trung ương phân tích rất kỹ đặc điểm, tính chất xã hội miền Nam là xã hội thuộc địa kiểu mới, chính quyền Ngô Đình Diệm là chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, đại biểu cho lợi ích của đế quốc Mỹ, của phong kiến và tư sản mại bản thân Mỹ phản động nhất ở miền Nam. Thành phần cốt cán trong chính quyền Diệm gồm những phần tử phản động nhất trong giai cấp địa chủ phong kiến tư sản mại bản, bọn đội lốt công giáo phản bội Tổ quốc, dân tộc, quyết tâm làm tay sai cho Mỹ. Từ những đặc điểm, tính chất đó, xã hội miền Nam nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản sau đây:

1- Mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam và bọn đế quốc xâm lược, chủ yếu là đế quốc Mỹ.

2- Mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam, trước hết là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.

Trung ương nhấn mạnh: “Mâu thuẫn chủ yếu ở miền Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc ta, nhân dân ta ở miền Nam và bọn đế quốc xâm lược Mỹ cùng tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, đại diện cho bọn địa chủ phong kiến và tư sản mại bản thân Mỹ phản động nhất”.

Hội nghị Trung ương phân tích một cách khách quan đặc điểm, thái độ các giai cấp trong chế độ thực dân kiểu mới ở miền Nam, và xác định rõ lực lượng của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc và những nhân sĩ yêu nước. Động lực của cách mạng ở miền Nam là giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, lấy liên minh công - nông làm cơ sở, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.

Từ sự phân tích trên đây, xuất phát từ thực tiễn cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam và tình hình chính trị quốc tế lúc bấy giờ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là: “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Nhiệm vụ trước mắt là: “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân củu ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ  vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:40:04 pm

Phương hướng cơ bản của cách mạng miền Nam được Trung ương thảo luận rất kỹ và đều có tính toán đến tình hình thế giới, tình hình trong phe ta. Vấn đề đặt ra là ta có tiến hành trường kỳ mai phục, lấy nông thôn bao vây thành thị, tiến lên dùng lực lượng quân sự giải phóng miền Nam hay không? Còn nếu tiến hành đấu tranh vũ trang thì dù mức độ như thế nào cuối cùng cũng dẫn đến chiến tranh cách mạng: ta có chấp nhận chiến tranh cách mạng không, và như vậy, kết quả đến đâu, thế giới thế nào? Quá trình thảo luận, trong Hội nghị có ba loại ý kiến khác nhau.

Loại ý kiến thứ nhất đề nghị vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ. Loại ý kiến thứ hai, không đồng tình vũ trang mà phải dựa vào Hiệp định đấu tranh hòa bình. Loại ý kiến thứ ba, là phải khỏi nghĩa, nhưng làm từng bước... Cuộc thảo luận diễn ra sôi nổi. Hồi ấy, ở miền Nam “có đồng chí đề nghị không nên đấu tranh vũ trang vì sợ rằng dùng lực lượng vũ trang sẽ có hại cho việc đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ”1. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ trì Hội nghị, nói: “Đấu tranh là có khó khăn, nhưng phải nhận là có nhiều điều kiện thuận lợi, thuận lợi ở miền Nam nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Thuận lợi là căn bản. Cách đặt vấn đề là quan hệ. Có đồng chí nói nước ta mất một nửa nước. Đáng lý phải thấy “nước ta mới thắng lợi một nửa nước” khác nhau nhiều. Đồng thời đặt chung miền Nam Việt Nam trong cách mạng chung của cả nước và cách mạng nước ta trong cách mạng thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những thuận lợi căn bản đó là:

“Hồi cách mạng tháng Tám ta chỉ có 5000 đảng viên, kể cả đảng viên ở Lào và Miên.

Hội nghị này ở miền Nam số đảng viên và đoàn viên nhiều hơn lúc kháng chiến. Đảng viên và đoàn viên cộng lại 43 vạn. Tính cả Bắc, Nam, Đảng ta hơn một triệu đảng viên và đoàn viên. Miền bắc lại có quân đội hùng mạnh, chính quyền hùng mạnh, mặt trận rộng rãi. Đó là những điều kiện cho cách mạng nói chung và miền Nam nói riêng. Đồng bào ta có tinh thần yêu nước rất cao, được tôi luyện trong kháng chiến, trong cách mạng, vì vậy chúng ta nêu cao lá cờ thống nhất, lá cờ hòa bình. “Vũ trang trường kỳ: Tôi không tán thành, tình hình bây giờ khác trước cách mạng và trong kháng chiến. Trường kỳ là bao lâu?... Trong lúc tình hình thắng tốt, ta tiếc gì mà cù nhằng, ta chú ý đẩy lùi địch từng bước, giành từng thắng lợi đó là đang có khả năng nhiều hơn, khi có cơ hội ta đánh đổ luôn không nên bỏ những thắng lợi nhỏ... Địch rất là dại. Nó càng bộc lộ hung ác của nó. Dân cũng phản đối nó, thế giới càng phản đối nó, nó càng gần chỗ diệt vong...”2. Ý kiến của Bác đã soi sáng cho Hội nghị Trung ương nhất trí chủ trương cách mạng miền Nam tiến hành theo hướng cơ bản là: “Khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.

Trung ương nhận thấy chế độ Mỹ - Diệm dựa vào vũ lực để tồn tại và chúng rất ngoan cố, cho nên cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam phải trải qua một quá trình lâu dài gian khổ, không ngừng xây dựng, củng cố phát triển lực lượng cách mạng bao gồm lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang để đưa phong trào đấu tranh đi đúng đường lối của Đảng, tiến từ những hình thức thấp, đẩy lùi chính quyền địch từng bước, đến những hình thức cao làm lay chuyển tận gốc chính quyền Diệm. Khi có thời cơ thuận lợi trong nước và trên thế giới, thì phát động quần chúng khởi nghĩa đánh đổ chế độ Mỹ - Diệm. Cuộc khởi nghĩa ấy đổ máu nhiều hay ít là tùy thuộc vào sự chống đối của địch và tương quan lực lượng giữa ta và địch. Do đối tượng của cách mạng thay đổi, tình hình và đặc điểm trong nước và thế giới khác thời kỳ 1945, cho nên phương châm đấu tranh của ta ở miền Nam lúc này là: kết hợp sử dụng hình thức đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp và không hợp pháp, kết hợp chặt chẽ phong trào ở đô thị  với phong trào ở nông thôn  và vùng căn cứ. Song, do quân thù quyết dìm cách mạng trong máu lửa, cho nên “trong chùng mực nhất định và ở những địa bàn nhất định đã xuất hiện những lực lượng vũ trang tự vệ, vũ trang tuyên truyền để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị. Đó là một điều cần thiết. Tuy nhiên, khi sử dụng lực lượng vũ trang tự vệ, vũ trang tuyên truyền cần phải thấu suốt nguyên tắc phục vụ cho đấu tranh chính trị, phục từng lợi ích của đấu tranh chính trị”. Trung ương cho rằng cần kiên quyết khắc phục thiên hướng lấy khủng bố cá nhân thay cho đấu tranh của quần chúng.

Trung ương cũng dự kiến “Trong quá trình đấu tranh cách mạng chống Mỹ - Diệm, cũng có thể xảy ra những hình thức quá độ nhằm phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà như đặt quan hệ kinh tế, văn hóa, đi lại v. v… giữa hai miền Nam, Bắc mà cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đề ra. Chúng ta cần tranh thủ và triệt để sử dụng các hình thức ấy để đưa cách mạng tiến lên, thực hiện thống nhất trên cơ sở độc lập, dân chủ”. Khi đánh đổ được chính quyền Ngô Đình Diệm, cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam có thể diễn biến phức tạp, để tránh bớt khó khăn cho cách mạng, ta phải “triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong phe đế quốc, phân hóa hàng ngũ kẻ thù và cô lập cao độ đế quốc Mỹ”. Vì vậy, trên bước đường tiến lên của cách mạng, Trung ương Đảng cho rằng “Việc thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ rộng rãi bao gồm đại biểu các giai cấp và tầng lớp chống Mỹ - Diệm là cần thiết. Nhưng điều cần thiết là Đảng phải giữ vững vai trò lãnh đạo và nắm chặt cơ sở quần chúng”.

Đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất lại có tiềm lực quân sự kinh tế mạnh, Trung ương Đảng dự kiến: “Cuộc khỏi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới: đó là chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta. Trong khi lãnh đạo, Đảng ta phải thấy trước khả năng ấy để chuẩn bị chu đáo và chủ động đối phó trong mọi tình thế”.

Để bảo đảm cho cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công. Trung ương khẳng định “Sự lãnh đạo của một đảng Mác - Lênin vững mạnh là một nhân tố quyết định”. Các cấp ủy đảng phải “không ngừng củng cố và phát triển đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối quan hệ khăng khít giữa Đảng và quần chúng. Đó là vấn đề chủ yếu có tính chất quyết định cho thắng lợi của cách mạng”.
______________________________________
1. Lê Duẩn: Thư vào Nam, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1985, tr. 32.
2. Trích bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 1-1959 - Trường Nguyễn Ái Quốc sao lại - ký hiệu M76-3953, Lưư trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:40:56 pm

Về sách lược cách mạng, Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng chủ trương: “triệt để lợi dụng mâu thuẫn nội bộ của chế độ Mỹ - Diệm, luôn luôn chủ động và tranh thủ thêm bạn, bớt thù, làm cho hàng ngũ cách mạng ngày càng lớn mạnh, thế lực của địch ngày càng suy yếu và bị động”. Muốn làm được việc đó, trong công tác phải làm cho các tổ chức Đảng bám chặt quần chúng và thực hiện phương châm: “khéo công tác, khéo che dấu lực lượng... phải kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp và không hợp pháp; tùy nơi tùy lúc phải khéo kết họp các khẩu hiệu kinh tế văn hóa với khẩu hiệu chính trị; khéo kết hợp các hình thức đấu tranh chính trị với vũ trang tuyên truyền; phải phối hợp chặt chẽ phong trào ở thành thị, phong trào ở nông thôn miền Nam với phong trào ở miền Bắc, phong trào trong nước với phong trào cách mạng thế giới”. Trong chủ trương và phương châm nói trên, cần nắm vững khâu chính là: không ngừng củng cố, phát triển Đảng, đẩy mạnh công tác dân vận, không ngừng củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, xúc tiến công tác binh vận.

Do nhiệm vụ cơ bản của mỗi miền khác nhau, Hội nghị Trung ương chủ trương phải thành lập ở miền Nam một mặt trận riêng, nhằm tập hợp tất cả các lực lượng chống đế quốc, phong kiến. Mặt trận dân tộc thống nhất ở miền Nam phải rất rộng rãi: “đoàn kết tất cả các dân tộc đa số và thiểu số, các đảng phái, các tôn giáo và những cá nhân yêu nước, đoàn kết với ngoại kiều đặc biệt là Hoa kiều, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, chính kiến, điều cốt yếu là chống Mỹ - Diệm, tán thành tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh và hòa bình thống nhất Việt Nam”. Trung ương nhận thấy hiện nay khuynh hướng hòa bình trung lập đang bắt đầu nảy nở trong một số tư sản dân tộc và trí thức lớp trên ở miền Nam, nên Đảng phải tranh thủ và sử dụng khuynh hướng ấy để mở rộng Mặt trận đoàn kết chống Mỹ - Diệm, v.v..

Sau khi thảo luận kỹ thêm các biện pháp thực hiện, nhất là mức độ kết hợp vũ trang hỗ trợ ở từng vùng và những công tác cấp bách về tăng cường xây dựng Đảng, chuẩn bị thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất ở miền Nam, tháng 3 và tháng 4, các đồng chí lãnh đạo Khu V, Nam Bộ tham gia Hội nghị, lần lượt lên đường trở lại chiến trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “Hội nghị truyền đạt thế nào, công bố thế nào phải bàn cho kỹ. Ví dụ nói Hội nghị Trung ương bàn về cách mạng miền Nam, không lợi. Nhưng có thể nói bàn về vấn đề hòa bình thống nhất cả nước...

Sau Hội nghị, Bộ Chính trị sẽ giải quyết một số vấn đề cụ thể với các đồng chí miền Nam. Phải giải quyết cho thật thông, chính sách nắm vững, đoàn kết chặt chẽ, về địa phương sẽ có chuyển biến tốt. Ta có khó khăn, nhưng Đảng ta, dân ta đủ sức khắc phục khó khăn để tranh thủ thắng lợi và cuối cùng nhất định thắng lợi”1.

Đầu tháng 5-1959, văn bản chính thức Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 được thông qua, nhưng trước đó, Bộ Chính trị đã điện cho các tỉnh, khu tinh thần cơ bản của Nghị quyết để quán triệt, thực hiện.

Phải sau bốn năm cuộc đấu tranh của nhân dân ta trải qua một chặng đường đầy sóng gió với bao hy sinh, vấp váp, cùng những biến động thăng trầm của tình hình chính trị thế giới. Đảng ta mới có đủ những cứ liệu để quyết định một vấn đề hệ trọng của dân tộc và Tổ quốc. Từ cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, Đảng ta kết luận tình thế mà cuộc cách mạng sẽ nổ ra và thắng lợi khi: “Hàng ngũ quân thù chia rẽ, hoang mang cực độ. Các đoàn thể cứu quốc và các chiến sĩ cách mạng đã quyết tâm nổi dậy giết giặc; đông đảo quần chúng nhân dân đã nhiệt liệt tán thành khởi nghĩa, đã quyết tâm giúp đội tiền phong”2. Song, ở miền Nam tình thế lúc này không giống như tình thế cách mạng Việt Nam năm 1945. Bộ máy ngụy quyền trung ương còn ổn định, nắm chặt các đô thị, đặc biệt là đế quốc Mỹ, kẻ trực tiếp xâm lược miền Nam bằng chủ nghĩa thực dân mới đang đổ tiền, của, vũ khí vào xây dựng ngụy quân, củng cố ngụy quyền với quyết tâm rất cao. Vì thế, Hội nghị Trung ương không đề ra tổng khởi nghĩa.

Theo thông lệ lúc bấy giờ, Đảng ta đã gửi văn bản Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng cho Đảng cộng sản Liên Xô và Đảng cộng sản Trung Quốc để tranh thủ ý kiến và sự giúp đỡ. Đầu năm 1960, đồng chí Le Duẩn dẫn đầu phái đoàn của Đảng sang Liên Xô, Trung Quốc, trao đổi về Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam. Bí thư thường trực Đảng cộng sản Liên Xô Kuxơnen tiếp và làm việc với đoàn. Trước khi trao đổi Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội III của Đảng ta, Kuxơnen nói: Đảng cộng sản Liên Xô không động tình với chủ trương trong Nghị quyết 15. Phải củng cố miền Bắc, qua đó rồi thống nhất, không có chuyện vũ trang, khởi nghĩa.

Lúc này giữa Liên Xô và Trung Quốc mâu thuẫn đã gay gắt. Khi đoàn ta sang Trung Quốc, Tổng bí thư Đặng Tiểu Bình tiếp và làm việc. Đặng Tiểu Bình đồng ý phương hướng chung của cách mạng miền Nam đã đề ra trong Nghị quyết 15, nhưng nhấn mạnh: hoạt động vũ trang chỉ nên đến quy mô đại đội. Như vậy, Trung Quốc nhất trí với ta, nhưng vẫn có mức độ.

Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời trong hoàn cảnh khó khăn và phức tạp như vậy chứng tỏ kinh nghiệm dày dạn và sự trưởng thành vượt bậc của Đảng Lao động Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn, đường lối và phương pháp cách mạng. Nó thể hiện rõ đường lối độc lập tự chủ và sách lược mềm dẻo của Đảng, phù hợp với tình hình quốc tế và trong nội bộ lãnh đạo của ta lúc bấy giờ, đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của cán bộ, đảng viên đang lãnh đạo đấu tranh ở miền Nam và quảng đại quần chúng nhân dân.

Nghị quyết 15 đã cắm mốc lịch sử vô cùng quan trọng của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, nó phù hợp với tình hình thực tế cho nên đã tạo bước tiến nhảy vọt cho phong trào cách mạng miền Nam. Tuy nhiên, do Nghị quyết nhấn mạnh đến đấu tranh chính trị, vũ trang phải phục tùng chính trị, đã làm cho cấp ủy ở một số địa phương miền Nam nhận thức không đầy đủ tinh thần cơ bản của Nghị quyết, thực hiện máy móc, lúng túng, dẫn đến phong trào đấu tranh ở đó phát triển chậm, có nơi tổn thất.

Nhờ có chủ trương đúng, sách lược mềm dẻo, ta đã tập hợp được lực lượng trong nước và ngoài nước đứng về phía nhân dân ta chống Mỹ - Diệm. Khi phong trào Đồng khởi nổ ra, tiếp đến là cuộc chiến tranh cách mạng, nhân dân tiến bộ thế giới cho đây là ngọn cờ dân tộc, là cuộc chiến đấu tự vệ của nhân dân miền Nam chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, để thiết lập một nền dân chủ thật sự.
______________________________________
1. Trích bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng, Tlđd.
2. Văn kiện Đảng (từ 25-1-1939 đến 2-9-1945), Nxb Sự Thật, Hà Nội, l963. tr. 432.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:42:52 pm

II- NGHỊ QUYẾT 15 CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VỚI CUỘC KHỞI NGHĨA TRÀ BỒNG
VÀ PHONG TRÀO VŨ TRANG DIỆT ÁC Ở MIỀN NAM CUỐI NĂM 1959

Nghị quyết 15 của Trung ương về đến các tỉnh, thành ở miền Nam không cùng một thời gian, nhưng đến đâu cũng được cán bộ, đảng viên và nhân dân khát khao đón nhận. Những uất ức, đắng cay, tủi nhục bị dày vò, những thắc mắc, lo âu, ngờ vực, cùng với niềm mong đợi của quần chúng bị dồn nén suốt hơn bốn năm trời, nay đã được giải tỏa. Cán bộ, quần chúng đi hoạt động được tự do mang vũ khí hộ thân không còn phải giấu trong mo cau, trong bao tải như các năm trước. Ít ai nghĩ đấu tranh chính trị hay vũ trang là chủ yếu, mà đều bí mật truyền cho nhau tin “Đảng đã cho đánh rồi !”, “Phải làm tới”. Rõ ràng Nghị quyết 15 đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng âm ỉ lâu nay thành những đám cháy lan tỏa khắp nông thôn, thành thị và rừng núi. Khí thế đấu tranh của quần chúng sục sôi. Hoạt động vũ trang phát triển rộng khắp đã hỗ trợ tích cực cho phong trào đấu tranh chính trị, chấm dứt thời kỳ đấu lý đơn thuần, bị động trước sự khủng bố dã man của địch. Song tương quan lực lượng giữa ta và địch trên từng khu vực nông thôn đồng bằng, đô thị, rừng núi có khác nhau, nên phong trào cách mạng phát triển không đều. Ở những nơi liền kề các căn cứ kháng chiến cũ như U Minh, Đồng Tháp Mười, chiến khu Dương Minh Châu, chiến khu Đ, vùng rừng núi hiểm trở miền tây các tỉnh Khu V, và Tây Nguyên, địch có nhiều sơ hở, hệ thống chính quyền cơ sở của chúng rệu rã hoặc bị vô hiệu hóa, có nơi không có chính quyền địch. Những nơi này, tình thế cách mạng trực tiếp1 đã đến độ chín muồi. Từ mùa thu năm 1959, nhiều cuộc nổi dậy chống Diệm đã nổ ra ở miền núi dọc Trường Sơn và vùng căn cứ U Minh, Đồng Tháp Mười, trong đó cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi là điển hình.


*
*   *

Miền tây Quảng Ngãi hợp thành bởi bốn huyện miền núi Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ, có diện tích hơn 4.600km2, lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt hướng biển Đông. Nơi đây, núi non trùng điệp, dàn trải ra như xây thành đắp lũy, án ngữ cả ba mặt bắc, tây, nam.

Về phía bắc, một dãy núi từ huyện Trà My (Quảng Nam) đâm thẳng xuống dốc Sỏi địa đầu huyện Bình Sơn, với những đỉnh núi Chúa, núi Răng Cưa, núi Hang Bà cao hon 1000m, hình thành địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và Quảng Ngãi.

Phía tây, một dãy núi dài nối tiếp từ Nước Ốc (Trà My) chạy song song với sườn Đông Trường Sơn vào đến Viôlác, Gọi Re với các đỉnh Mang Xin, Ngọc Dai cao 1300m, ngăn cách hai tỉnh Kon Tum và Quảng Ngãi.

Phía nam, từ đông Nam tỉnh Kon Tum, một dãy núi thoai thoải chạy xuống đèo Bình Đê, sát biển, phân chia địa giới Bình Định và Quảng Ngãi.

Ở giữa những dãy núi đó là lòng miền tây Quảng Ngãi, với những cụm núi nhấp nhô trùng điệp, tạo nên địa thế rất hiểm trở, để hơn 90 ngàn đồng bào dân tộc H’rê, Cor, Cà Dong, Cà Rá, Kinh, quần tụ sinh sống và gắn bó nhau trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm và nội phản suốt thế kỷ, làm cho tên núi, tên sông thành tên lịch sử. Cụm núi Đá Vách (Thạch Bích) cao trên 1000m là nơi đã diễn ra những trận đánh quyết liệt của đồng bào H’rê chống lại bọn vua quan phong kiến triều Nguyễn. Cụm núi Cà Đam cao 1650m là căn cứ chống Pháp của nghĩa quân người Cor trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngọn núi Cao Muôn cao gần 1000m, quanh năm mây phủ là nơi khai sinh đội du kích Ba Tơ, một trong những đơn vị vũ trang cách mạng tiền thân, hợp thành Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Cũng chính nơi đây dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, những cán bộ cách mạng Căng an trí, cùng nông dân các dân tộc tiến hành cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, mở đầu cho cuộc Tổng khởi nghĩa mùa thu 1945 ở Trung Trung bộ.

Miền tây Quảng Ngãi còn là nơi đầu nguồn và cũng là nơi giao hội của các con sông Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ, Trà Câu, hàng năm đã cung cấp cho các huyện đồng bằng Duyên Hải lượng phù sa và nước ngọt để sản xuất của cải, nuôi sống cả tỉnh và cung cấp lương thực cho lực lượng vũ trang đánh giặc trong hai cuộc kháng chiến.

Sau Cách mạng tháng Tám, dưới chế độ dân chủ cộng hòa, đồng bào miền tây Quảng Ngãi đã tích cực tham gia kháng chiến, đồng thời ra sức xây dựng miền tây thành căn cứ kháng chiến mạnh cả về quân sự, chính trị. Nhân dân ở đây được giáo dục kỹ về chính trị, về tình đoàn kết Kinh - Thượng. Họ luôn luôn trung thành với cách mạng, Bác Hồ, dù cho “sông cạn, đá mòn”, lòng chung thủy ấy cũng không thay đổi.
______________________________________
1. Những điều kiện chủ quan, khách quan (về địch, ta, địa hình...) để cách mạng nổ ra gọi là tình thế cách mạng trực tiếp.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:45:55 pm

Sau Hiệp định Giơnevơ, từ tháng 10-1954, địch bắt đầu tiếp quản Trà Bồng và các huyện miền tây. Nhưng mãi đến cuối năm 1955, địch mới xây dựng được bộ máy cai trị cấp quận. Trong thời gian này, bộ máy lãnh đạo của tỉnh, huyện còn vững. Lực lượng cán bộ thoát ly, cán bộ xã ở các huyện miền núi còn nhiều. Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã tổ chức xong các chi bộ bí mật ở các xã và cài người của ta vào nắm chính quân địch. Anh Huệ một nhân sĩ yêu nước được ta cài vào giữ chức quận phó Trà Bồng. Anh đấu tranh tích cực, bị lộ, đã hy sinh anh dũng. Cơ sở ta ở Trà Bồng mạnh. Nhân dân dứt khoát không hợp tác với Diệm. Lãnh đạo của Khu, tỉnh, huyện đều dựa vào Trà Bồng và các huyện miền tây, nhưng chưa bao giờ bị lộ. Giữa năm 1956, Quảng Ngãi học tập Cương lĩnh chuyển hướng đấu tranh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cương lĩnh đề ra là cấm không được nổ súng, cấm hoạt động vũ trang, không gọi địch là đối phương, đã làm cho lãnh đạo Quảng Ngãi lúng túng, chần chừ, cộng với đánh phá điên cuồng của địch, phong trào đấu tranh trong tỉnh chững lại. Từ giữa năm 1956 trở đi, địch củng cố được bộ máy cai trị ở các huyện đồng bằng và đánh tan nát cơ sở cách mạng, cán bộ đảng viên còn sống sót phải chạy dạt lên rừng. Ở vùng cao Trà Bồng, Minh Long, Sơn Hà, Ba Tơ và vùng đầu nguồn sông Re nhờ dựa vào địa thế tự nhiên tốt nên mặc dù dịch đánh phá ác liệt, lực lượng lãnh đạo, cơ sở quần chúng chẳng những được bảo vệ an toàn, mà còn được tăng cường. Đến khi có Nghị quyết Trung ương 15, phong trào ở đồng bằng mới dần dần phục hồi. Huyện Bình Sơn có 16 chi bộ, huyện Tư Nghĩa có 3 chi bộ, huyện Nghĩa Hành 2 chi bộ, huyện Mộ Đức 1 chi bộ, huyện Đức Phổ 18 chi bộ. Ở miền núi phong trào phát triển nhanh, mạnh, 20 xã của Trà Bồng và 10 xã của Sơn Hà đều có chi bộ. Các huyện Ba Tơ, Minh Long hầu hết các xã có chi bộ. Đây là một trong những điều kiện cơ bản để cuộc khởi nghĩa Trà Bồng nổ ra sớm, đúng như chủ trương của tỉnh và nhanh chóng giành thắng lợi.

Tháng 2-1958, đúng vào dịp Tết âm lịch, tỉnh ủy Quảng Ngãi họp ở xóm Di Ngân, xã Trà Trung, huyện Trà Bồng bàn về “Bản đề cương cách nạng miền Nam” và ý kiến1 chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương. Đề cương cách mạng miền Nam và chỉ thị của Ban bí thư đã xác định cho những người lãnh đạo Quảng Ngãi phương hướng đưa phong trào tiến lên. Tỉnh ủy hoàn toàn nhất trí với quan điểm: Con đường cách mạng miền Nam chỉ có thể dùng bạo lực cách mạng của quần chúng chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù và, phải dựa vào lực lượng chính trị lực lượng vũ trang của quần chúng để khởi nghĩa giành chính quyền. Cuộc họp đi sâu bàn những công việc chuẩn bị lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, dụng cụ sản xuất đủ trong 3 năm trước khi tiến hành khởi nghĩa. Tỉnh ủy chú trọng vấn đề sản xuất tự túc, xây dựng căn cứ, xây dựng lực lượng vũ trang ở miền Tây.

Cuộc hội nghị này mở đầu cho việc vũ trang khởi nghĩa ở Quảng Ngãi. Sau cuộc họp, đồng chí Phạm Thanh Biền, ủy viên thường vụ tỉnh ủy cùng một đoàn cán bộ về khu báo cáo chủ trương của tỉnh và xin ý kiến lãnh đạo của cấp trên. Các đồng chí ở nhà tiến hành công tác chuẩn bị theo phương hướng cuộc hội nghị tỉnh ủy đã đề ra.

Đồng chí Trần Nam Trung (Trần Lượng), ủy viên Trung ương Đảng, bí thư khu ủy, thay mặt lãnh đạo miền Nam Trung Bộ nghe báo cáo và chỉ thị: “Nhận định của tỉnh là đúng. Đứng trước kẻ thù tàn bạo dùng lực lượng để tiêu diệt cách mạng của quần chúng, không từng bước kết hợp giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang thì không thể giữ vững và phát triển phong trào. Ban lãnh đạo miền Nam Trung Bộ, ban lãnh đạo toàn miền Nam và cả Trung ương cũng đã nhất trí như vậy. Bây giờ phải ra sức chuẩn bị, tình thế đã đặt ra rồi... Phải vận dụng cả hai hình thức đấu tranh chính trị và vũ trang, phải mở rộng căn cứ địa hơn nữa đến vùng thấp, vùng giáp ranh và đồng bằng... Đối với vùng cao, khi có điều kiện cho phép thì tỉnh có thể phát động quần chúng nổi dậy diệt ác ôn, xóa ngụy quyền, thiết lập chính quyền nhân dân cách mạng. Nhưng phải tiến hành hết sức khéo léo, không kích thích địch có những phản ứng quyết liệt gây tổn thất cho phong trào chung. Đây là vấn đề nghệ thuật lãnh đạo… Đối với vùng thấp, vùng đồng bằng phải hết sức thận trọng, khi nào có chỉ thị của cấp trên mới cho nổi dậy khởi nghĩa”2. Như vậy, trên dưới đều “ý hợp tâm đồng” cả về quan điểm tư tưởng và phương pháp cách mạng. Đồng chí Phạm Thanh Biền trở về Quảng Ngãi báo cáo với Tỉnh ủy ý kiến của Khu ủy về phương hướng cách mạng miền Nam. Ngày 25-5-1958, Tỉnh ủy họp tại xã Trà Bùi nghe phổ biến ý kiến của Khu ủy, ra nghị quyết xây dựng căn cứ miền tây và đề ra phương châm đấu tranh ba vùng ở miền núi. Trong hội nghị này, Tỉnh ủy Quảng Ngãi thông qua kế hoạch xây dựng vùng giáp ranh đồng bằng, vùng sâu đồng bằng và đô thị, đồng thời, quyết nghị củng cố và phục hồi các tổ chức quần chúng thanh niên, phụ nữ, nông dân, phụ lão để tập hợp các phần tử tích cực trong các tầng lớp nhân dân các tộc người, rút thanh niên lên núi lập các đơn vị vũ trang, lập các đội quyết tử diệt ác với danh nghĩa “trả thù nhà”, đổi tên các đội nông binh đã xây dựng ở Nà Niu, Nước Tang, Nước Em và ở các huyện giáp ranh thành “trại sản xuất”. Hội nghị bàn kỹ cách kết hợp vũ trang với chính trị sao cho khéo mà giành thắng lợi lớn, ít tổn thất.

Trên cơ sở chủ trương nhất quán, phương hướng đúng, ngày 20-6-1958, Tỉnh ủy Quảng Ngãi triệu tập hội nghị toàn miền tây tại làng Búp, xã Trà Phong, bàn triển khai thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, 80 cán bộ từ khắp bốn huyện miền tây đã cơm đùm cơm gói, lội suối, trèo đèo về họp với khí thế mới bắt nguồn từ những chuyển biến mau lẹ của phong trào đấu tranh ở cơ sở. Hội nghị tuyên bố thành lập ban quân sự tỉnh do đồng chí Phạm Thanh Biền làm trưởng ban, lập các ban quân sự khu (huyện), xâ ở vùng cao.
______________________________________
1. Hồi đó mọi Nghị quyết chỉ thị của Trung ương đều gọi là “ý kiến của trên”.
2. Theo báo cáo của đồng chí Phạm Thanh Biền, nguyên phó bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi thời kỳ 1958-1961.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:47:12 pm

Nhằm tập hợp quần chúng và phát động toàn dân chuẩn bị, tiến tới vũ trang khởi nghĩa, ngày 7-7-1958, Tỉnh ủy Quảng Ngãi tổ chức Đại hội nhân dân các dân tộc Trà Bồng tại Gò Rô thuộc xã Trà Phong. Đại hội có 200 đại biểu thuộc các tộc H’rê, Cor, Cà Dong, Kinh của bốn huyện miền Tây. Các cụ Tài, cụ Vinh, cụ Triều, cụ Kiến, cụ Bung, cụ Nà, cụ Chim... là những già làng yêu nước, những lãnh tụ nghĩa quân trước Cách mạng tháng Tám, khi Diệm đến, đã rút vào rừng sâu sống bất hợp tác với quân thù, xây dựng căn cứ, chờ ngày kháng chiến. Nay các cụ cũng về dự đại hội để tỏ lòng trung thành với cách mạng, với Bác Hồ. Cụ Gia, một lãnh tụ nghĩa quân từng chỉ huy đánh quân Pháp tại Gò Rô tháng 1-1939, đến tháng 8-1945 cụ đem nghĩa quân theo Việt Minh, cướp chính quyền ở Châu Lỵ và là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến đầu tiên của huyện Trà Bồng, lúc này cụ đã hơn 100 tuổi, không về được, đã cử con mình đến đại hội, nói lên ý chí tộc người Cor “chưa bao giờ khuất phục quân thù”. Phó Nía người giàu có nhất, nhưng suốt đời chống ngoại xâm và theo cách mạng, từ vùng cao Sơn Hà, không quản gian nguy, đến dự đại hội. Đinh Cày, Bí thư huyện ủy, một cán bộ lãnh đạo trung kiên của Đảng từ vùng thấp Sơn Hà lên, và nhiều đại biểu ở Ba Tơ, Minh Long sang, cùng một số đại diện cho tộc người Cà Rá cũng có mặt. Tất cả đều đem đến đại hội tình đoàn kết keo sơn giữa các tộc người và quyết tâm theo Bác Hồ, theo cách mạng đánh Mỹ - Diệm đến cùng. Báo cáo trước đại hội, ông Noa con cụ Gia, người đã từng bắn chết tên quan hai Pháp ở vùng cao Trà Bồng nói: “Phải đánh Mỹ - Diệm sớm chừng nào hay chùng nấy. Mỹ - Diệm như cây chùm gửi để lâu rễ mọc nhiều khó chặt. Có cách mạng, có Bác Hồ lãnh đạo, Kinh, Thượng đoàn kết cùng đánh, thì Mỹ - Diệm sẽ thua. Không đánh Mỹ - Diệm thì không giữ được đoàn kết, vì cái lòng, cái ruột của đồng bào mình đã muốn như vậy”1. Ban lãnh đạo tỉnh trao cho đại hội lá cờ mang dòng chữ “Suốt đời đi theo Bác Hồ làm cách mạng”. Cụ Triều, Cụ Kiến được đại hội cử lên nhận cờ. Cụ Triều phát biểu: “Nhân dân Trà Bồng, người dân tộc Cor xin hứa suốt đời đi theo Bác Hồ làm cách mạng, dù có chết, có cực khổ đến mấy, dù phải đánh Mỹ - Diệm hết đời này qua đời khác”2. Cuối cùng đại hội ra lời kêu gọi: “Các dân tộc anh em phải đoàn kết xung quanh Bác Hồ, đồng lòng hợp sức để đánh đổ Mỹ - Diệm. Mọi người không phân biệt dân tộc già, trẻ gái, trai phải tham gia lực lượng võ trang, luyện tập quân sự, làm vũ khí... sẵn sàng nổi dậy giành chính quyền”3. Để phân hóa hàng ngũ địch, đại hội gửi một lá thư cho những người lầm đường, lạc lối. Thư có đoạn: “Ai chẳng căm hờn khi nhìn thấy cảnh nước non bị chia cắt, dân tộc bị dày xéo, đồng bào bị đau khổ. Ai mà không chảy nước mắt, đau lòng khi nhìn thấy cảnh tra tấn, tù đày những ông già, bà già 60, 70 tuổi, em nhỏ mới biết nói, chị phụ nữ có thai bị đánh đập hành hạ, nhà bị đốt, rẫy vườn bị phá. Ai mà không khổ tâm, nát cả lòng gan, dứt từng khúc ruột khi thấy đồng bào mình đau ốm, đói rách, chết chóc. Ai làm cho cha, con, vợ, chồng xa nhau, làm cho đồng bào chạy vào rừng sống chui rúc khổ cực. Ai bảo lính và đồng bào Kinh gọi đồng bào Thượng là “mọi rợ”? Mỹ - Diệm hay cộng sản? Ai tốt thì đồng bào theo, ai xấu thì đồng bào chống. Bốn năm rồi, đồng bào không theo Mỹ - Diệm mà theo nguyện vọng, theo lẽ phải. Nguyện vọng và lẽ phải đó là hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do, dân chủ, no ấm. Chính cộng sản, cách mạng, Bác Hồ làm việc tốt đó, chớ không phải Mỹ - Diệm...”4.

Đại hội Gò Rô là “Hội nghị Diên Hồng” chống Mỹ, cứu nước, thực hiện tình đoàn kết gắn bó và quyết tâm theo Đảng làm cách mạng của nhân dân các tộc người miền tây Quảng Ngãi.

Sau Đại hội, nhân dân các tộc người từ vùng cao đến vùng thấp miền tây Quảng Ngãi khẩn trương củng cố, xây dựng các căn cứ, tích trữ vật chất, tìm đào vũ khí, sẵn sàng chờ ý kiến của cấp trên. Cũng trong thời gian này, những cuộc nổi dậy diệt ác, trừ gian nổ ra ở nóc ông Vinh, xã Trà Lãnh, nóc ông Lùn, ông Chim xã Trà Khê. Tháng 12-1958, cuộc nổi dậy tương tự lại nổ ra ở nóc cụ Triệu, ông Dinh xã Trà Lãnh. Những cuộc nổi dậy lẻ tẻ đó, chứng tỏ nhân dân không thể cam chịu trước sự đàn áp của địch, họ phải chống lại kẻ thù để tìm con đường sống.

Trong không khí chuẩn bị và tập dượt quần chúng tiến tới vũ trang khởi nghĩa sôi động ở Trà Bồng, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh ra đời. Ngày 3-3-1959, tại một địa điểm giữa hai thôn Nước Xoay và Cà Nung, xã Trà Thọ, vào lúc nửa đêm, đơn vị vũ trang 339 được thành lập do anh Bảo làm đội trưởng, anh Bùi chính trị viên. Các đồng chí Quý, Tân, Bốn là những tiểu đội trưởng đầu tiên. 33 cán bộ, chiến sĩ (27 thanh niên người Cor) làm lễ tuyên thệ dưới cờ Tổ quốc. Hội thề “Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để đánh đổ Mỹ - Diệm, giành chính quyền về tay nhân dân”. Sáng hôm sau, có thêm 10 thanh niên từ các nơi đến gia nhập đơn vị 339, nâng tổng số cán bộ, chiến sĩ đơn vị lên 43 người. Tiếp theo, Trà Bồng mở đại hội thanh niên toàn huyện để cổ vũ, động viên thanh niên các tộc người phát huy vai trò xung kích trong nhiệm vụ chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Hoạt động của các tổ chức phụ nữ ở thôn, nóc nhằm vào việc sản xuất tự túc, làm công tác binh vận, địch vận cũng được đẩy mạnh. Những hoạt động chính trị đó, dẫn đến kết quả Mặt trận đoàn kết dân tộc, đoàn kết nhân dân phát triển và củng cố. Đảng đã nắm chắc các tầng lớp nhân dân. Trên cơ sở đó, ban cán sự miền tây Quảng Ngãi đẩy mạnh các hoạt động vũ trang tuyên truyền, vũ trang diệt ác, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị.
______________________________________
1, 2, 3. Theo báo cáo về Đại hội Gò Rô, ngày 7-7-1958, tài liệu lưu trữ Ban nghiên cứu lịch sử Đảng và Bảo tàng Quảng Ngãi.
4. Theo báo cáo về Đại hội Gò Rô, Tlđd.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:48:46 pm

Tháng 6-1959, Nghị quyết 15 của Trung ương đến Quảng Ngãi. Tỉnh ủy Quảng Ngãi liền triệu lập hội nghị tỉnh ủy mở rộng để học tập và bàn biện pháp thực hiện. Lúc đầu dự định họp ở Mang Xinh, nhưng vừa khai mạc, thì bị địch càn, tỉnh ủy phải rời về họp tại chân núi Cà Đam, xã Trà Bùi. Các đồng chí lãnh đạo Quảng Ngãi rất vui mừng vì đối chiếu chủ trương của tỉnh từ trước đến giờ, căn bản đi đúng đường lối của Trung ương. Nghị quyết 15 giúp cho lãnh đạo Quảng Ngãi nhận thức sâu sắc về mối quan hệ, tác động giữa phong trào ở địa phương với toàn quốc, giữa Việt Nam với quốc tế, làm sáng tỏ nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, cũng như phương pháp cách mạng và sách lược cách mạng của Đảng. Các đồng chí lãnh đạo Quảng Ngãi hoàn toàn yên tâm, tin tưởng, nỗi băn khoăn, lo ngại trước đây được giải quyết.

Về phía địch, Mỹ - Diệm đang ráo riết tuyên truyền chuẩn bị cho cuộc bầu cử quốc hội bù nhìn. Mưu đồ của chúng là tổ chức “cuộc bầu cử thắng lợi sẽ đánh bật ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản”1. Địch huy động lực lượng quân sự càn quét khắp miền Nam để hỗ trợ cho các đoàn “chiến tranh chính trị” đi tuyên truyền, mua chuộc nhân dân. Riêng miền tây Quảng Ngãi. địch dùng sư đoàn 22 càn quét đánh phá ác liệt, hòng bắt dân khuất phục phải đi bỏ phiếu.

Tỉnh ủy Quảng Ngãi đưa ra khẩu hiệu “Chống bầu cử” thay cho khẩu hiệu “Chống dồn dân” trước đây và chủ trương cho miền tây kiên quyết tẩy chay cuộc bầu cử của địch, còn ở vùng xuôi thì dùng hoạt động võ trang để phá bầu cử, tạo cho dân có cớ không đi bỏ phiếu. Riêng vùng cao Sơn Hà, Trà Bồng kiên quyết đấu tranh không cho địch tổ chức bầu cử, nếu bị đàn áp, thì phát động quần chúng vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Ở vùng cao Minh Long, Ba Tơ, các cấp ủy ở đó lãnh đạo nhân dân không đi bỏ phiếu; vùng thấp thì tổ chức diệt ác, trừ gian, cài người của ta vào nắm chính quyền cơ sở. Đối với huyện đồng bằng, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với vũ trang hỗ trợ để phá bầu cử, nếu bị ép buộc phải đi bỏ phiếu, thì lãnh đạo nhân dân bỏ phiếu trắng, đồng thời sử dụng các tổ, đội vũ trang đánh vào trụ sở bầu cử, gây rối loạn, để nhân dân có cớ tẩy chay bầu cử. Khẩu hiệu hành động đưa ra đúng lúc đã có tác dụng như một chất xúc tác kích thích tinh thần quật khởi của quần chúng, đẩy tình thế cách mạng nhanh đến độ chín muồi. Trong những ngày này, miền tây Quảng Ngãi đang sục sôi khí thế cách mạng của những ngày tiền khởi nghĩa.

Ngày 19-8-1959, tại thôn Tà Ngam, xã Sơn Lập, huyện Sơn Hà, tỉnh ủy Quảng Ngãi thành lập đơn vị vũ trang thứ hai phiên hiệu 89. Đơn vị 89 có 36 người (đông nhất là người Re và Cà Dong), do đồng chí Dường (người Re) làm đội trưởng, đồng chí Hồng (người Kinh) làm chính trị viên.

Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, Quảng Ngãi thành lập thêm đơn vị vũ trang thứ ba, phiên hiệu 229 (lập ngày 2-9-1959). Cuối năm 1959, tỉnh thành lập thêm hai đơn vị vũ trang nữa, với phiên hiệu V9 (lập tháng 9) và V12 (lập tháng 12). Đơn vị V12 gồm các cán bộ đại đội trưởng, trung đội trưởng, tiểu đội trưởng đặc công từ miền Bắc mới vào. Đây là đơn vị đặc công đầu tiên của Quảng Ngãi.

Vấn đề quan trọng đặt ra lúc bấy giờ là giải quyết trang bị cho lực lượng vũ trang. Ăn, mặc đã có dân lo, nhưng còn vũ khí? Trong điều kiện chưa có chi viện từ miền Bắc. Tỉnh ủy quyết định phải tìm đào các hầm súng đã chôn trước khi tập kết lực lượng ra Bắc. Đồng chí Nguyễn Đa và Nguyễn Quyết là những người chôn súng, đã đi tập kết, năm 1958, Trung ương đưa về tăng cường cho Quảng Ngãi, được phân công tìm đào súng. Các đồng chí nhớ súng chôn ở các huyện Ba Tơ, Sơn Tịnh, Mộ Đức... Thời gian và mưa nắng đã xóa sạch dấu vết, đồn bốt địch lại ken dày, địa hình thay đổi, tìm được nơi chôn súng không phải dễ, có khi hy sinh cả tính mạng. Với tinh thần vượt khó của người đảng viên, các đồng chí lần mò trong đêm tối, vượt qua bao gian nguy, lên rừng, xuống biển, nhưng chỉ tìm đào được hầm súng ở Ba Tơ. 42 khấu súng trường, 3 súng trung liên và một số súng ngắn, lựu đạn đào được là cái vốn ban đầu cực kỳ quý báu, để góp phần làm nên cuộc khởi nghĩa Trà Bồng.

Trong lúc ta đang khẩn trương chuẩn bị, ngày 23-8-1959, địch điều quân lên Trà Bồng, bủa vây các xã, cưỡng bức dân đi học tập bầu cử. Cuộc đụng độ giữa ta và địch diễn ra lẻ lẻ ở một vài nơi. Tình hình ở các địa phương biến chuyển mau lẹ và phức tạp, đơn vị 339 mới thành lập và các nhóm vũ trang tự vệ được cử xuống những vùng xung yếu hoạt động hỗ trợ cho dân.

Ngày 25-8-1959, Thường vụ tỉnh ủy họp bất thường và chủ trương “tìm mọi cách tổ chức cho nhân dân tránh né không đi bầu cử và tránh xô xát với địch, triệt để lợi dụng sơ hở, khó khăn của địch để chuẩn bị đầy đủ hơn cho cuộc khởi nghĩa vũ trang rộng lớn. Nếu địch lấn tới, khủng bố quần chúng thì kiên quyết lãnh đạo nhân dân cầm vũ khí đánh trả để bảo vệ cán bộ, bảo vệ cơ sở, giữ vững khí thế cho quần chúng. Riêng đối với vùng trung tâm căn cứ (khu 2) thì bất luận thế nào cũng không để cho địch xâm nhập, phải trừng trị chúng ngay lúc mới đặt chân lên”2. Gần đến ngày bầu cử, nổ ra cuộc biểu tình chống Diệm của nhân dân xã Trà Thủy, Trà Giang ngoài dự kiến của lãnh đạo. Đồng chí Tám Tú, bí thư tỉnh ủy cho người xuống giải tán không cho biểu tình, để tiếp tục học tập, chuẩn bị, mặt khác cố tránh hành động quá khích, kích động địch phản ứng, sẽ gây khó khăn cho ta. Địch đe doạ bắn chết, đốt nhà những ai không đi bỏ phiếu. Nhân dân cương quyết tẩy chay. Tình hình rất căng thẳng.
______________________________________
1. Báo Cách mạng Quốc gia số ra ngày 20-5-1959 tại Sài Gòn.
2. Trích Nghị quyết Thường vụ tỉnh ủy Quảng Ngãi ngày 25-8-1959, Lưu trữ tại Ban tuyên giáo tỉnh ủy Quảng Ngãi.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:50:04 pm

Ngày 26-8-1959, địch đến xóm Rừng, xã Trà Lãnh. Đồng bào các thôn, nóc bí mật cắm chông vây xung quanh nơi trú quân của địch, rồi phóng lửa đốt. Địch phát hiện được ý đồ của đồng bào, chúng hốt hoảng bỏ chạy qua Trà Phong. Đến Trà Phong bị thanh niên đánh, địch chạy về EO Chim.

Cụ phó mục Gia, lãnh tụ nghĩa quân năm xưa, chủ động bàn với cán bộ lãnh đạo dụ địch ra rừng để diệt, tránh thiệt hại cho dân. Ngàn 27-8-1959, địch lên Trà Phong. Thanh niên xã đang đào hầm, địch đánh úp, ta chết 1 bị thương 2. Tin địch giết người loan đi khắp huyện Trà Bồng, thổi bùng ngọn lửa căm thù đang dồn nén trong lòng nhân dân.

Ngày 28-8-1959, mới mờ sáng, tiếng chiêng cồng, tiếng trống mõ, tiếng thanh viện, tiếng la hét hòa trong tiếng súng từ các bản làng nổi lên vang động khắp núi rừng Trà Bồng, giục giã quần chúng cách mạng xuống đường, vây diệt ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền. Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng bùng nổ. Nhân dân và lực lượng thanh niên vũ trang các xã Trà Phong, Trà Lãnh, Trà Quân, Trà Sơn, Trà Nham, Trà Khê nhất loạt nổi dậy, vây diệt bọn cảnh sát ác ôn, nổi trống mõ, rúc tù và náo động cả vùng rộng lớn, uy hiếp tinh thần binh lính địch. Vùng cao Trà Bồng bừng bừng khí thế quật khởi. Lính địch hốt hoảng lẩn trốn vào các thôn, nóc, liền bị bao vây, gọi hàng, bắt sống. Những tên ngoan cố phá vây, chạy thục mạng về đồn EO Chim và quận lỵ. Các đơn vị vũ trang, các đội du kích, cổ quàng khăn đỏ1, lưng đeo cuộn dây trói tù binh, tay chắc súng, tên ná và mã tấu, từ các “Trại sản xuất” bí mật, tiến đánh quân địch tháo chạy và cùng nhân dân cắm chông, gài bẫy, rấp đường. Núi rừng Trà Bồng xanh thẳm bừng sáng lên màu đỏ cách mạng. Quân địch ở hai đồn Đá Líp, Tà Dạt khiếp sợ, bỏ cả đồn và hòm phiếu, chạy về quận lỵ. Bộ máy kìm kẹp của địch ở cơ sở bị đập tan. Các hòm phiếu bị phá bỏ. Chiều ngày 28-8, nhân dân và lực lượng vũ trang truy lùng bọn ác ôn còn lẩn trốn, dẹp tiếp các trụ sở ngụy quân. Trước khí thế xung thiên của quần chúng cách mạng, địch bỏ đồn Tầm Rung và Nước Vóc. Trong ngày, toàn huyện, địch chỉ còn đóng ba vị trí: EO Chim, EO Reo, quận lỵ. Ngày 29-8, nhân dân và du kích bao vây EO Chim và EO Reo. Nhân dân phá nguồn nước uống, bắn tên thuốc độc vào đồn. Ngày 30-8, một đại đội địch đến giải vây cho EO Chim. Đơn vị 339 và các nhóm vũ trang đánh diệt 9 tên, thu 6 súng. Đêm 30 rạng 31-8, lực lượng bao vây đốt lửa quanh đồn và đánh chiêng trống, rúc tù và uy hiếp. Trưa ngày 31-8, lực lượng cách mạng giải phóng EO Chim, EO Reo. Ở vùng xung quanh quận lỵ đồng bào Kinh nổi dậy xóa bỏ các hình thức kìm kẹp của địch. Tên quận trưởng, quận phó Trà Bồng trốn chạy về tỉnh.

Từ vùng cao Trà Bồng, cuộc khởi nghĩa lan nhanh đến các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long.

Ở Sơn Hà, địch tổ chức bầu cử vào ngày 30-8, chúng ép dân xuống quận lỵ cách hai ngày đi bộ để bỏ phiếu. Dân chống lại. Địch đe doạ bắn bỏ và đàn áp. Lập tức, nhân dân ở 9 xã nhất tề nổi dậy đánh địch, cắm chông gài bẫy. Ngày 2-9 một đại đội địch đến xóm anh Thiết, chúng bị sa bẫy, chết và bị thương một số, bọn còn lại chạy về quận lỵ Sơn Hà. Ban lãnh đạo huyện nhận định thế nào địch cũng đêm quân lên trả thù, đã động viên nhân dân siết chặt hàng ngũ, chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng đấu tranh trực diện với địch. Đơn vị 89 mới thành lập, được lệnh nhanh chóng triển khai lực lượng ở các điểm xung yếu, cùng du kích chiến đấu, hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh chính trị. Vừa chuẩn bị lực lượng vũ trang và nhân dân vừa tranh thủ thời gian trước khi địch đến, đánh diệt bọn ngụy quyền cơ sở, xóa bỏ các tổ chức kìm kẹp của chúng, lập chính quyền nhân dân tự quản, làm mất chỗ dựa bên trong của quân ngụy. Ngày 5-9, quân địch từ quận lỵ kéo lên, bị ta chặn đánh, chúng buộc phải lui quân, chấm dứt cuộc càn. 9 trong số 10 xã của huyện Sơn Hà được hoàn toàn giải phóng.

Ở Minh Long, các xã vùng cao Long Quang, Long An, Long Môn, nhân dân nhanh chóng xóa bỏ ngụy quyền và các hình thức kìm kẹp của địch, tổ chức bố phòng, chuẩn bị chống càn. Các ban tự quản thôn, xã được thiết lập. Một vùng đất đai rộng lớn của huyện Minh Long được giải phóng.

Ở Ba Tơ, các xã Ba Lễ, Ba Lục, Ba Bích, Ba Nam không có chính quyền địch, nhân dân đã đứng lên lập chính quyền cách mạng. Các xã Ba Liên, Ba Khâm, Ba Lương, Ba Trang giáp vùng trung châu, nhân dân nổi dậy diệt ác ôn, đốt cơ quan ngụy quyền xã, thành lập các đội du kích, bố phòng, chuẩn bị đánh địch từ huyện Đức Phổ lên. Ở các phía bắc Ba Tơ là Ba Điền, Ba Gia, Ba Tàng... nhân dân nổi dậy diệt ác, xóa bỏ ngụy quyền. Kết hợp giữa đấu trang quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận, nhân dân đã làm tan rã các đơn vị dân vệ ở xã, thôn, kêu gọi được một tiểu đội lính người H’rê mang 15 khẩu súng trở về với cách mạng.

Phối hợp với cuộc nổi dậy mạnh mẽ của đồng bào các dân tộc vùng cao. Ở các vùng thấp miền tây, các nhóm “trả dầu”, “bảo vệ dân tộc”, các đội vũ trang tuyên truyền mở rộng hoạt động diệt ác, trừ gian, phá vỡ một mảng hệ thống kìm kẹp của địch. Ở xã Sơn Thanh, Sơn Rinh, các đơn vị dân vệ được nhân dân giác ngộ đã diệt bọn tề xã, rồi mang súng theo cách mạng. Chính quyền cách mạng được thành lập ở các xã Sơn Hạ, Sơn Rinh, Sơn Thành, Sơn Trung, Trường Giang.

Trong quá trình cuộc khởi nghĩa, Ban Thường vụ tỉnh ủy và Ban cán sự miền tây phân nhau xuống các vùng trực tiếp chỉ đạo phong trào, giải quyết từng tình huống gay cấn, đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi nhanh chóng và vang dội.
______________________________________
1. Dấu hiệu của những người thoát ly làm cách mạng trong ngày khởi nghĩa.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:50:52 pm

Để giữ vững thành quả cuộc khởi nghĩa, ngày 6-9-1959, Thường vụ tỉnh ủy và Ban cán sự miền tây họp hội nghị bất thường, đánh giá toàn bộ tình hình và chủ trương.

- Đối với Trà Bồng, kiên quyết phát động chiến tranh du kích, giữ vững các xã có điều kiện (cơ sở đảng mạnh, quần chúng giác ngộ, dũng cảm, lãnh đạo quyết tâm, địa thế thuận lợi), đánh bại địch càn quét, xây dựng thành căn cứ địa vững chắc. Ra sức phá chủ trương cấy lại ngụy quyền của địch, kiên quyết trừ bọn tay sai ác ôn ngóc đầu dậy. Củng cố dân quân du kích, đẩy mạnh sản xuất tự túc. Lãnh đạo nhân dân vùng thấp trở lại giữ thế hợp pháp, đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận, buộc địch để cho dân tự do làm ăn sinh sống và giữ các hình thức tự vệ chống thú rừng, cử người của ta ra quản lý thôn xã.

- Đối với Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ phải nhanh chóng đưa phong trào lên mạnh hơn nữa, trực tiếp hỗ trợ cho Trà Bồng. Các vùng cao, nơi nào có đủ điều kiện thì lãnh đạo quần chúng tiếp tục nổi dậy xóa ngụy quyền, lập chính quyền nhân dân tự quản. Tăng cường hoạt động quân sự diệt ác, phá tề, tiến công vào nơi địch sơ hở, phân tán lực lượng địch. Riêng 10 xã vùng cao Sơn Hà (khu 7) thì lãnh đạo dân về sống hợp pháp như các xã vùng thấp và gần đồn địch của Trà Bồng.

- Đối với vùng thấp của bốn huyện miền tây thì lãnh đạo nhân dân kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận, phá thế kìm kẹp của địch. Xã nào xa đồn địch thì tranh thủ xóa dần ngụy quyền, phát triển lực lượng ta.

- Đối với các huyện đồng bằng, tuyên truyền thắng lợi của Trà Bồng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, công tác binh vận, tranh thủ mọi cơ hội đưa hoạt động quân sự sâu vào vùng địch để hỗ trợ cho Trà Bồng.

Ngày 7-9-1959, Sư đoàn 22 ngụy từ ba hướng bắc, đông, nam tiến công vào Trà Bồng vùng cao Sơn Hà nhằm tiêu diệt lực lượng khởi nghĩa. Ý đồ của địch là sẽ hội quân tại xã Trà Phong, phục hồi lại các tổ chức ngụy quân, ngụy quyền, quét sạch “cộng sản” khỏi miền tây. Nhưng đến cuối cùng tháng 9 địch vẫn không tiến lên được, chúng phải co lực lượng đóng chốt các đồn cũ EO Chim, EO Reo, Long Ngãi, Tà Lạt, Đá Líp. Lực lượng vũ trang, bán vũ trang của ta bám sát bao vây bắn tỉa, tập kích. Địch nống ra ngoài, gặp chông thò, mang cung, bẫy đá, tên độc. Thương vong của địch ngày càng nhiều, tinh thần binh lính rã rời, chán nản. Trong khi đó, những cuộc đấu tranh chính trị của đồng bào liên tiếp nổ ra, họ kéo cả vào nơi đóng quân của địch, vào quận lỵ, đòi cứu đói, cứu đau, đòi phải rút quân khỏi miền tây để đồng bào đi làm cái rẫy, làm nương kiếm sống. Trước làn sóng đấu tranh của quần chúng, địch rút khỏi Tà Lạt, Đá Líp. Đến giữa tháng 10, chúng rút đồn Long Ngãi. Cuối tháng 10, chúng rút đồn EO Chim và EO Reo. Ta thu hồi toàn bộ vùng đất đai bị địch chiếm đóng, 40 xã thuộc các huyện miền tây được giải phóng, tạo nên thế đứng vững chắc của cách mạng trên địa bàn rừng núi hiểm trở rộng lớn, để phát triển tiến công xuống đồng bằng Duyên Hải.

Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi “mở đầu trang sử đấu tranh chính trị và vũ trang song song, là đỉnh cao nhất của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Quảng Ngãi lúc bấy giờ... Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng có giá trị lớn, vì đã cung cấp được nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc vận dụng Nghị quyết 15 không chỉ ở Quảng Ngãi mà ở trong toàn khu”1.

Nghiên cứu cuộc chiến tranh Việt Nam, G. Sáppha viết về cuộc khởi nghĩa Trà Bồng trong cuốn “Hai cuộc chiến tranh của Việt Nam từ Valuy đến Oétmôlen” như sau: “Mọi việc khởi đầu vào tháng Tám năm 1959 tại tỉnh Quảng Ngãi. trung phần Việt Nam... Quân đội chính phủ (Diệm) đến tái chiếm vùng này và thi hành một chính sách sắt thép để trừng phạt các bộ lạc đã ủng hộ Việt Minh. Những cách đối xử dã man nhất được áp dụng khiến người ta liên tưởng đến cách đối xử của người Mỹ đối với dân da đỏ ở thế kỷ 19... Dân tộc Cor chính là những người đầu tiên đứng lên làm loạn. Họ đã tàn sát cả một đồn binh quốc gia trong quận Trà Bồng và cướp đoạt 54 khẩu súng...

Sôi sục trước tấm gương của dân tộc Cor, các bộ lạc lân cận đã liên kết với những người khởi nghĩa. Một cuộc chiến tranh du kích đã thực sự diễn ra giữa dân Thượng với lính của Diệm. Tin vụ biến động tại Quảng Ngãi đã truyền đến Nam Kỳ... Hành vi chống đối vũ trang đầu tiên này đã tác động và được coi như là một khích lệ...”2.

Thắng lợi Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi chẳng những thúc đẩy phong trào cách mạng ở Khu V, mà còn góp phàn kích thích phong trào trên toàn miền Nam, chứng minh sự sáng suốt và đúng đắn của đường lối cách mạng miền Nam do Đảng ta đề xướng.
______________________________________
1. Trích bài phát biểu của đồng chí Võ Chí Công, Bí thư Khu uỷ khu V, tại cuộc hội nghị sơ kết Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và tổng kết tình hình đấu tranh 1954-1960 của Quảng Ngãi, tháng 2-1960 - Tài liệu lưu trữ tại Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Quảng Ngãi.
2. Gioócgiơ Sáppha: Hai cuộc chiến tranh của Việt Nam từ Valuy đến Oétmôlen, t. I. Paris, Latable, ronde, 1969.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:52:51 pm

Trên núi rừng Tây Nguyên, tháng 11-1959, đồng bào làng Xung Ia O (Gia Lai), Mang Khênh (Kon Tum), Buôn Sâm (Đắc Lắc) cũng lần lượt nổi dậy diệt địch, đốt làng cũ, dời sâu vào rừng lập làng mới chống Mỹ - Diệm.

Cùng với phong trào nổi dậy ở miền núi Trung Bộ là những trận diệt ác ở đồng bằng khu V và chống càn bảo vệ căn cứ của nhân dân Trà Bồng, Vĩnh Thạnh, Bắc Ái liên tục nổ ra. Tháng 10-1959, địch dùng 6 tiểu đoàn chủ lực và bảo an mở cuộc hành quân mang tên “Tây Khánh, Bắc Ninh” tiến công vào căn cứ Bắc Ái để dồn dân trở lại khu tập trung. Nhân dân Bắc Ái đoàn kết đấu tranh, có vũ trang hỗ trợ và làm thất bại âm mưu dồn dân của địch. Nhưng do lực lượng địch đông, hỏa lực mạnh, nên chúng bắt được một số người già, trẻ em dồn về khu tập trung Ma Ty, Tà Lú, đồng thời đóng các đồn Ma Ty, Tà Lú, Suối Đầu. Tỉnh ủy Ninh Thuận chỉ đạo phát động một đợt phá tề, trừ gian ở vùng đông và tây Bắc Ái. Trong đợt hoạt động này, nhân dân Bắc Ái phá tan được tổ chức phản động ngầm của địch, diệt 27 tên, bước đầu làm trong sạch nội bộ, bảo vệ an ninh căn cứ, đưa quần chúng lên làm chủ vững chắc ở các thôn, ấp vùng đông và tây.

Ở Nam Bộ, tháng 2-1959, đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Xứ ủy nhận được điện tóm tắt tinh thần cơ bản của Nghị quyết 15 cho phép vũ trang kết hợp với chính trị, khởi nghĩa giành chính quyền. Xứ ủy Nam Bộ đã kịp thời chỉ đạo các tỉnh tăng cường hoạt động vũ trang, tạo thế cho quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm. Tháng 9-1959, Xứ ủy Nam Bộ họp hội nghị mở rộng có các bí thư tỉnh ủy tham gia. Hội nghị họp tại Trảng Chiên (Rùm Đuôn) thuộc vùng căn cứ bắc Tây Ninh, quán triệt Nghị quyết Trung ương 15 và bàn phương hướng thực hiện. Hội nghị đề ra cho toàn đảng bộ phải lãnh đạo nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang làm nòng cốt cho toàn dân nổi dậy giành chính quyền ở nông thôn. Trong Hội nghị này Xứ ủy cũng chủ trương sử dụng lực lượng vũ trang đánh một số trận thôi động để gây uy thế và hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng. Chủ lương đó của Xứ ủy đã thực sự gây phấn chấn trong nhân dân và lực lượng vũ trang. Thời cơ đã mở, lực lượng vũ trang và du kích các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động vũ trang diệt ác, hỗ trợ cho nhân dân phá thế kìm kẹp của địch. Báo cáo “Tóm tắt tình hình Quân khu V” trong tháng 12-1959, Bộ Tổng tham mưu ngụy đã phải ghi nhận: “Tình hình đặc biệt nghiêm trọng, bởi ngoài các vụ khủng bố, ám sát thường xuyên, hoạt động võ trang của Việt cộng gia tăng. Nhiều vụ phục kính các toán tuần tiễu của ta và đột nhập vào các cơ sở hương thôn. Việt cộng còn tấn công cả ban ngày bằng súng máy và phóng lựu vào Châu Thành, tỉnh Kiến Tường. Rõ ràng Việt cộng tiếp tục theo đuổi chủ trương tập trung và vẫn cố gắng tạo thế chủ động với các hoạt động táo bạo như chấp nhận giao tranh..., nhất là ở các tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường, An Xuyên, Kiên Giang...”1.

Ở Cà Mau, lúc này hai tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng à Ngô Văn Sở được bổ sung đầy đủ quân số 800 người, toàn tỉnh còn 700 đảng viện trung kiên, đang bám trụ tại các thôn, xã. Có cơ sở lãnh đạo tốt. Đêm 25 rạng ngày 26-8, bộ đội tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng do Năm Tân và Tám Lực chỉ huy, kết hợp với đảng viên và đội vũ trang tuyên truyền xã Khánh An tiến công đồn Vàm Cái Tàu, cách thị xã Cà Mau 10 km, diệt trung đội dân vệ và hội đồng xã, bắt 12 tên, thu 57 súng các loại. Những ngày tiếp sau, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng và Ngô Văn Sở vũ trang tuyên truyền khắp các địa phương, hỗ trợ cho dân giải tán các tổ chức phản động, bức địch rút đồn Rạch Chui. Các xâ Khánh Bình Đông, Khánh Bình Tây thuộc huyện Trần Văn Thời, nhân dân và du kích nổi trống mõ, đốt khí đá uy hiếp địch và truy lùng, trừng trị các tên ấp trưởng, đội trưởng đội bảo vệ hương thôn gian ác ở các ấp Trảng Còn, Rạch Ráng, Rạch Nhum, Rạch Ruộng, phá tan các khu trù mật Quản Hảo, Rạch Lùm, dành quyền làm chủ. Ở xã Khánh Lâm, có bộ đội Đinh Tiên Hoàng giúp sức, nhân dân vây đồn Cả giữa, giải tán tề ngụy, diệt các tàn ác ôn, rồi tiến lên vây khu dinh điền Khánh Lâm. Giữa cao trào nổi dậy của nhân dân huyện Trần Văn Thời, quân chủ lực ngụy càn vào vùng Cây Bàng, các chiến sĩ đại đội 3, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng phối hợp với du kích bẻ gẫy cuộc càn của địch, diệt nhiều tên. Trên đà thắng lợi, lực lượng ta tiến công vào dinh điền Đồi Đức Mẹ, xã Khánh Bình Đông, đánh thiệt hại 1 đại đội địch, phá khu dinh điền kiểu mẫu của Ngô Đình Diệm. Toàn huyện Trần Văn Thời được giải phóng, trừ chi khu Rạch Ráng, đồn sông Đốc, khu trù mật Khai Quang.

Đêm 23-9-1959, tiểu đoàn Ngô Văn Sở, tỉnh Rạch Giá, kết hợp với cơ sở nội tuyến tiến công diệt chi khu, quận lỵ Xẻo Rô. Bị đánh bất ngờ, quân địch tan tác, chạy tán loạn, các chiến sĩ tiểu đoàn Ngô Văn Sở chiếm toàn bộ chi khu, diệt 20 tên, bắt tên quận trưởng cùng 50 tên khác, thu 50 súng các loại, giải thoát cho trên 100 đồng bào, cán bộ ta bị địch giam giữ. Chiến thắng Xẻo Rô đã hỗ trợ đắc lực cho đồng bào và du kích các xã quanh quận lỵ nổi dậy diệt ác, giải tán các tổ chức kìm kẹp, hủy bỏ các bản “tố cộng”, rồi trở về vườn cũ, rào làng, chống địch.

Tháng 10-1959, phong trào vũ trang diệt ác ở Cà Mau lại nổi lên sôi động. Các đơn vị Đinh Tiên Hoàng, Ngô Văn Sở mở rộng hoạt động vũ trang sang các huyện Thới Bình, Cái Nước, Ngọc Hiển, diệt và bức địch rút các đồn Hai Ngó, Đồn Giữa (Tân Lộc), Vàm Đình, Tân Đức, Cái Keo… hỗ trợ cho quần chúng ở Biển Bạch, Trí Phải, Tân Lộc (huyện Thới Bình), Phú Mỹ, đầm bà Tưởng, Lương Thế Trân (huyện Cái Nước), Tạ An Khương, Tân Duyệt, Tân Thuận (huyện Ngọc Hiển) nổi dậy thắng lợi.
______________________________________
1. “Tóm tắt tình hình Quân khu V trong tháng 12-1959” của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn - Tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Giêng, 2010, 11:58:11 pm

Ở Trà Vinh, trong hai tháng 10 và 11, lực lượng vũ trang đánh địch ở xã Long Toàn, Long Hữu, Long Nước, Long Vĩnh. Cùng thời gian này, tiểu đoàn Trần Hưng Đạo, tỉnh Vĩnh Long đánh địch càn quét vào xã Tân Quới, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên. Thừa thắng, tiểu đoàn phát triển tiến công diệt đồn Vàm Ninh, hỗ trợ cho du kích các xã An Khánh, Bình Thiêng, Bình Phước, diệt các tổng đoàn dân vệ, đưa dân lên làm chủ ở nhiều mức độ khác nhau.

Các tỉnh miền Trung Nam Bộ được phổ biến tinh thần cơ bản của Nghị quyết 15, đảng viên, cán bộ phấn khỏi, thở phào nhẹ nhõm, vì Đảng đã cho “hoạt động vũ trang”. Ngày 26-9-1959 tiểu đoàn 502, tỉnh Kiến Phong đang học tập Nghị quyết 15 tại Giồng Thị Đam và Gò Quản Cung, thuộc xã Tân Hội Cơ, huyện Hồng Ngự, thì phát hiện địch hành quân bằng thuyền càn vào căn cứ của ta. Tiểu đoàn trưởng Lê Văn Khiên (Tám Dần) và chính trị viên Sáu Chung liền hội ý với cán bộ trong đơn vị và quyết định chiến đấu, không tránh né như trước. Tiểu đoàn 502 thành lập tháng 12-1956 theo chỉ thị vũ trang tuyên truyền của Xứ ủy Nam Bộ, lần đầu tiên ra quân đánh lớn. Mùa lũ lụt nước sông lên to, bộ đội ta triển khai đội hình chiến đấu bằng thuyền, phục kích chờ địch trong đám cỏ Chàng và lau sậy cao vút đầu người trên Giồng Thị Đam. Trận địa được ngụy trang kín, tiểu đoàn địch đi đầu thuộc chiến đoàn 42 quân ngụy, chống thuyền tiến thẳng vào nơi phục kích. Bất ngờ, các chiến sĩ tiểu đoàn 502 nổ súng, bắn chìm 9 thuyền đi đầu, đội hình hành quân của địch rối loạn, binh lính chúng luống cuống, bơi xuồng tránh đạn. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 502 vốn quen sông nước, chống xuồng lướt nhanh áp sát địch và bắn chính xác. Chỉ sau ít phút xung trận, ta diệt thêm 74 xuồng, bắt sống 105 tên lính Nùng (có một đại úy tiểu đoàn trưởng), thu 365 súng các loại, có 11 khẩu trung liên Mỹ và súng cối.

Diệt xong tiểu đoàn địch đi đầu, tiểu đoàn 502 lui về Gò Quản Cung. Buồi chiều, cánh quân thứ hai của địch lại tiến vào Gò Quản Cung. Tiểu đoàn 502 sử dụng những khấu súng máy vừa thu được, bắn quét vào đoàn xuồng địch, diệt một số tên. Lực lượng còn lại của chiến đoàn địch vội vã tháo lui, không dám liều lĩnh ứng cứu cho đồng bọn.

Trận Giồng Thị Đam - Gò Quản Cung là trận đánh lớn đầu tiên ở miền Nam. Ta tiêu diệt một tiểu đoàn địch, thu nhiều súng đạn. Ta hy sinh một đồng chí. Trận đánh thắng lợi gây tiếng vang lớn không chỉ ở đồng bằng sông Cửu Long mà cả miền Nam, có tác dụng củng cố niềm tin và cổ vũ khí thế đấu tranh của nhân dân, nâng cao uy thế của cách mạng.

Nhân đà thắng lớn ở Giồng Thị Đam - Gò Quản Cung. Tỉnh ủy Kiến Phong phát động phong trào nhân dân vũ trang nổi dậy phá bung khu trù mật Ninh Hoà, Cát Cái, Tân Thành. Ở bốn huyện tả ngạn sông Tiền, có tiểu dàn 502 hỗ trợ, nhân dân đấu tranh bức dịch rút đồn Vĩnh Huê, Cầu Sắt, giải phóng xã Thạnh Mỹ, Phong Mỹ và giành quyền làm chủ ở 2/3 số xã trong khu vực Đồng Tháp Mười.

Ở Kiến Tường, tiểu đoàn 504 tiến công địch ở Đìa Ngát, Vĩnh Lợi (6-1959), phá khu trù mật Ruộng Lưới (Vĩnh Thạnh), đánh địch càn quét ở Gò Gòn (11-1959), thu thêm 50 súng. Đồng thời, mở rộng địa bàn diệt ác, phá kìm, hỗ trợ cho nhân dân các xã dọc biên giới Việt Nam - Campuchia nổi dậy.

Ở Long An, tiểu đoàn 506 và 508 hoạt động phía bắc và nam đường số 4, phát triển đánh địch đến khu vực Phú Lâm, Chánh Hưng, cầu Nhị Thiên Đường. Nét nổi bật của hoạt động vũ trang của ta từ sau khi có Nghị quyết Trung ương 15 không chỉ nổi lên đều khắp, liên tục ở các vùng nông thôn đồng bằng, rừng núi, mà còn lan đến các vùng ven đô và cả trong một số thành phố, thị xã. Đã từ lâu các chiến sĩ biệt động chú ý đến mục tiêu phái đoàn cố vấn Mỹ MAAG ở khu “nhà xanh” ấp Tân Mai, thị xã Biên Hòa, nhưng chưa tìm được cách trừng trị chúng, vì xung quanh là cả một hệ thống đồn bốt, tháp canh và lực lượng bảo vệ dày đặc, mặt khác chưa có ý kiến của trên, nên chưa dám hành động. Nay Trung ương cho hoạt động vũ trang để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, ban chỉ huy đại đội 250 quyết định tấn công trụ sở phái đoàn cố vấn Mỹ MAAG. Đồng chí Năm Hoa chỉ huy 6 chiến sĩ đặc công phối hợp với tổ tự vệ mật của Ba Lê thực hiện trận đánh. Sau nhiều ngày đêm điều nghiên, chuẩn bị, đúng 10 giờ 15 phút, ngày 7-7-1959, lực lượng ta tiếp cận đến khu “nhà xanh”, bất ngờ bắn chết tên lính gác rồi lao vào trụ sở MAAG bắn diệt các tên cố vấn Mỹ. Trận đánh diễn ra nhanh chóng đến nỗi chiến sĩ ta đã rút ra ngoài nhưng những tên Mỹ, ngụy sống sót vẫn chưa định thần. Kết quả, ta diệt 2 Mỹ, 3 ngụy, bắn bị thương 1 tên Mỹ khác. Đây là những lính Mỹ chết trận đầu tiên trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Trận đánh trụ sở phái bộ viện trợ quân sự MAAG diễn ra vào thời điểm Oasinhtơn vào Sài Gòn tuyên truyền về sự ổn định của “chế độ cộng hòa” Ngô Đình Diệm, khiến cho dân chúng Mỹ bắt đầu nghi ngờ chính sách của Tổng thống Mỹ ở Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Giêng, 2010, 12:00:56 am

Trong lúc ở miền Nam hoạt động vũ trang đang sôi động và những trận đánh tập trung binh lực cấp tiểu đoàn đầu tiên xuất hiện, trên miền Bắc các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, các đơn vị bộ đội khẩn trưởng chuẩn bị mọi mặt chi viện cho miền Nam theo tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương một cách lặng lẽ, bí mật. Bộ Chính tri giao cho Tổng quân ủy phối hợp với Ban Thống nhất Trung ương lo việc chi viện cho cách mạng miền Nam. Tháng 2-1959. Tổng quân ủy họp hội nghị mở rộng quyết định xây dựng và mở rộng căn cứ địa, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, đẩy mạnh hơn nữa công cuộc xây dựng Quân đội nhân dân chính quy hiện đại, chuẩn bị sẵn sàng đưa một bộ phận quân đội vào Nam chiến đấu, trước mắt đưa những cán bộ, chiến sĩ quê miền Nam tập kết trở lại chiến trường. Trong hội nghị này, đồng chí Lê Duẩn, ủy viên Bộ Chính trị nói rõ: “Ta không dùng chiến tranh để thống nhất đất nước. Nhưng nếu Mỹ - ngụy dùng chiến tranh thì ta sẽ phải dùng chiến tranh và cuộc chiến tranh do địch gây ra sẽ là một thời cơ để ta thống nhất đất nước”1.

Bộ Tổng tham mưu do đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh, Tổng tham mưu phó, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cùng đồng chí Minh B, cán bộ tác chiến, được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo, tổ chức công việc chi viện miền Nam. Trước tiên, Bộ Tổng tham mưu chỉ thị cho lữ đoàn 338 tập trung quân bí mật huấn luyện để đi B2. Cán bộ của lữ đoàn và ở cơ quan Bộ phải đến các cơ quan dân chính, đảng, các nông trường, công trường, nhà máy xí nghiệp trên miền Bắc để động viên, giải thích, tập hợp số cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết đã chuyển ngành về lại đơn vị. Một công việc không kém phần gian khổ, vì bao nhiêu nỗi bực dọc, tự ái của cán bộ, chiến sĩ đã chuyển ngành đều dồn trút lên các cán bộ đi thu quân. Nhưng khi được giải thích, anh em đều vui mừng rời tay cày, tay cuốc, tay búa tự nguyện trở về đơn vị cầm súng luyện tập, sẵn sàng vượt Trường Sơn về Nam chiến đấu.

Tháng 5-1959, Tổng quân ủy quyết định lập “Phòng nghiên cứu công tác chi viện miền Nam”, nghiên cứu mở đường vận tải trên bộ để đưa vũ khí, khí tài, trang bị vào miền Nam. Thượng tá Võ Bẩm (Sau này là thiếu tướng) được giao nhiệm vụ phụ trách cơ quan - tiền thân của Đoàn 559 sau này. Đồng chí Phạm Tề (Trường Sơn) làm công tác tổ chức và phụ trách công tác giao thông đặc biệt. Đồng chí Hường nữ y sĩ quê ở Cửa Việt lo vật chất và sức khỏe cho cơ quan.

Ngày 19-5-1959, Đoàn vận tải quân sự 559 chính thức thành lập. Đồng chí Nguyễn Văn Vịnh ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng thay mặt Quân uỷ gặp gỡ và giao nhiệm vụ cho Đoàn. Đồng chí nói: “Chúng ta làm cách mạng già đời nhưng chưa thất lúc nào kẻ thù ép ta vào thế khó như thế này. Cách mạng thế giới đang phát sinh những vấn đề phức tạp. Kẻ thù lợi dụng phản kích lại ta quyết liệt. Bác Hồ và Bộ Chính trị rất đau đầu về điều đó. Chúng ta phải ráng sức chống chèo, góp sức với dân, với Đảng chiến thắng cho kỳ được cuộc đối đầu lịch sử này”3. Đồng chí nhắc nhở: Phải tuyệt đối giữ bí mật nhiệm vụ. Ta chưa làm được việc gì mà để lộ, kẻ thù sẽ kêu la ầm ĩ miền Bắc xâm nhập và chúng chủ động ngăn chặn thì hậu quả sẽ không lường hết được. Cái gì bàn ở đây mỗi cán bộ trong đoàn phải nhập tâm không được ghi chép.

Sau khi nhận nhiệm vụ, cơ quan phân công một số đi tìm vị trí đặt trạm, thăm dò xoi đường, đồng chí Tề và Tâm được cử về sư đoàn 305 chọn quân. Trong 3 ngày đã chọn được 440 cán bộ, chiến sĩ quê miền Nam tập kết, lập thành tiểu đoàn 301. Đồng chí đại úy Chu Đăng Chữ, quê Nghệ An đã từng chiến đấu ở chiến trường Khu V, làm tiểu đoàn trưởng, đại úy Nguyễn Chính Danh quê Quảng Ngãi, làm chính trị viên và Ngô Văn Diệm tiểu đoàn phó. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 301 tập trung học tập tình hình nhiệm vụ mới, đồng chí nào cũng phấn khởi sẵn sàng lên đường. Đồng chí Võ Bẩm, Phạm Tề cùng ban chỉ huy tiểu đoàn 301 và Nhỏ Nhận, Hồ Sĩ Bơi trinh sát, Hà Kỳ Thụ, Trần Cảnh trợ lý xoi đường, hành quân vào khe Hó tìm vị trí trú quân và điểm vượt sông Bến Hải. Chọn được điểm vượt, tiểu đoàn 30l và lực lượng trinh sát tiếp tục hành quân vào nơi tập kết. Từ khe Hó, đêm đến khi có tín hiệu an toàn, các chiến sĩ 301 vượt qua giới tuyến. Mỗi đêm bộ đội đi qua, trinh sát phải trở lại xóa dấu vết, chỉ một sơ xuất nhỏ là có thể đổi bằng xương máu. Đồng chí Xu đội phó trinh sát chỉ vì gây ra một tiếng động nhỏ đã bị địch bắn chết tại chỗ. Thượng sĩ Trần Văn Tương bị địch bắt tra tấn đến chết, không khai báo, giữ bí mật cho hành lang. Khe Hó trở thành trạm một - trạm khởi đầu của đường mòn Hồ Chí Minh. Và sự hy sinh anh hùng của các liệt sĩ ấy mãi mãi gắn liền với điểm mốc lịch sử đường chiến lược Trường Sơn mang tên Bác.

Bằng tinh thần vượt khó, chịu đựng hy sinh thầm lặng, đến ngày 20-8-1959, tiểu đoàn 301 đặt được trạm thứ 9 ở Pa Lin (tây Thừa Thiên) và chuyển đến trạm 500 kg hàng giao cho Khu V. Đến cuối 1959, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 301 đã đưa đến Pa Lin 1667 súng bộ binh, 188 kg thuốc nổ, 788 dao găm và nhiều đồ dùng quân sự khác. Cùng thời gian này sư đoàn 325 bộ binh gấp rút mở trong 3 tháng xong đường vận tải quân sự cho ô tô kịp chuyển hàng từ Đồng Hới (Quảng Bình) và khe Hó (tây Vĩnh Linh), đồng thời gùi gạo qua đỉnh 1001 để Đoàn 559 chuyển tiếp vào Nam. Theo con đường mới mở Đông Trường Sơn, hơn 500 cán bộ cấp đại đội, trung đội, tiểu đội bộ binh, đặc công và chiến sĩ, nhân viên cơ yếu, thợ sửa chữa vũ khí, khí tài hành quân bộ vào tăng cường cho Khu V và Nam Bộ (Nam Bộ: 27 người, Khu V: 515 người). Trong năm 1960, miền Bắc tiếp tục chi viện 51 tấn vũ khí, đạn dược cho Khu V.

Đường vận tải trên bộ dọc Trường Sơn thời gian này chưa với tới Nam Bộ, một chiến trường rộng lớn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Bộ Chính trị quyết định mở đường vận tải chiến lược trên biển. Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu đã chỉ đạo tuyển chọn số cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm đi biển ở các đơn vị miền Nam tập kết, thành lập tiểu đoàn 603. Tháng 5-1959, 107 cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 603 do thượng úy Lưu Đức làm tiểu đoàn trưởng, thượng úy Hồ Văn Xá làm chính trị viên, tập kết ở xã Thanh Khê (Quảng Bình), một vùng hẻo lánh dọc bờ sông Gianh, đóng thuyền, sắm lưới, chuẩn bị mọi mặt cho chuyến vận tải đường biển đầu tiên. Để giữ bí mật, tiểu đoàn hoạt động dưới danh nghĩa “Tập đoàn đánh cá sông Gianh”. Đêm 30 Tết Canh Tý (đầu năm 1960 dương lịch), tiểu đoàn 603 chở 10 tấn vũ khí rời bến sông Gianh ra biển, rẽ sóng hướng vào Nam Bộ. Đến địa phận vùng biển Trung Bộ, thuyền của tiểu đoàn 603 gặp bão lớn. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn phải vật lộn với sóng bão giữa biển cả mênh mông, nhưng không vượt qua được. Thuyền bị chìm vũ khí mất, anh em thủy thủ trôi dạt vào bờ, bị địch bắt gần hết. Chuyến thuyền buồm bí mật vượt biển đầu tiên không thành, Tổng quân ủy quyết định tạm dừng vận tải biển để rút kinh nghiệm. Tiểu đoàn 603 được bổ sung về Đoàn 559 vận tải bộ. Tổng quân ủy nhận thấy về lâu dài, đường vận tải biển là một trong những hướng chiến lược quan trọng. Vì vậy, Tổng quân uỷ đề nghị Bộ Chính trị điện cho các tỉnh miền Nam tổ chức lực lượng đưa thuyền ra Bắc nhận vũ khí để rút kinh nghiệm tiếp tục tổ chức tuyến vận tải biển.

Song song với việc tổ chức chi viện cho miền Nam, công cuộc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng - an ninh được tiến hành hết sức khẩn trương.

Sư đoàn 338 và các đơn vị miền Nam tập kết bắt đầu huấn luyện các khoa mục sát với các loại địa hình ở miền Nam, để chuẩn bị sẵn sàng lên đường. Một số sư đoàn, lữ đoàn bộ binh cơ động của Bộ và của Quân khu IV, Quân khu Tây Bắc biên chế gọn, mạnh theo thời chiến, chuẩn bị sẵn sàng khi có lệnh là lên đường chiến đấu được ngay. Mọi công việc chuẩn bị chi viện cho chiến trường miền Nam của hậu phương lớn lúc này không diễn ra sôi động, ồn ã, mà âm thầm bí mật, nhưng vô cùng gấp rút vì cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay gắt.

Cuối năm 1959, dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng cuộc đấu tranh chính trị có vũ trang hỗ trợ được khởi xướng. Phong trào cách mạng miền Nam đã tạo được hệ thống tổ chức cơ sở khá mạnh ở hầu khắp các địa phương. Nhiều nơi, tổ chức cơ sở của địch bị nhân dân thao túng hoặc bị tan rã. Số đông trong tầng lớp nhân dân kể cả thành thị ngày càng căm ghét chế độ Diệm, họ hướng chờ cách mạng và sẵn sàng hành động. Thời cơ bùng nổ của một cuộc cách mạng ở miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đang đến độ chín muồi.
______________________________________
1. Bài nói của đồng chí Lê Duẩn Ủy viên Bộ Chính trị tại Hội nghị Tổng quân ủy tháng 3-1959, Lưu trữ Bộ Quốc phòng hồ sơ 243.
2. B là mật danh chỉ miền Nam.
3. Trường Sơn: “Cuộc hành trình năm ngàn ngày đêm”, Nxb Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1992 tr. 29-30.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:24:28 pm

Chương VIII
ĐỒNG KHỞI - BƯỚC MỞ ĐẦU CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG Ở MIỀN NAM


I. TÌNH THẾ CÁCH MẠNG CHÍN MUỒI - NAM BỘ ĐỒNG KHỞI

Vào những tháng cuối năm 1959 tình hình kinh tế, chính trị miền Nam Việt Nam dưới chính quyền Diệm không có gì sáng sủa hơn. Chế độ độc tài gia đình trị của anh em Diệm, Nhu làm tăng thêm mâu thuẫn trong chính nội bộ địch. Đảng Cần lao nhân vị thừa nhận có tình trạng mất tin tưởng và dao động trước tình hình. Báo chí của Diệm cho biết: Ở nông thôn, Hội đồng hương chính lừng chừng, ở thành thị, công chức thiếu tin tưởng ở thắng lợi “của chính phủ quốc gia”, trí thức thì hiềm nghi “chế độ cộng hòa”. Bản thân Diệm cũng lo sợ một cuộc lật đổ, nên đã ra sức sàng lọc, thanh trừng nội bộ gắt gao. Trong số 123 dân biểu quốc hội kỳ I, Diệm đã tìm cách gạt 73, trong đó cả một số trước kia tích cực ủng hộ Diệm. Các vị trí then chốt trong quốc hội, Diệm cũng thay bằng tay chân của ông ta.

Để ổn định tình hình chính trị nội hội Ngô Đình Diệm một mặt thanh lọc những người không ăn cánh, mặt khác tập trung nỗ lực ra bên ngoài, dùng lực lượng quân sự mở 219 cuộc hành quân càn quét đánh phá phong trào cách mạng miền Nam. Riêng Nam Bộ có tới 120 cuộc hành quân, chiếm 76%. Những hành động đó của chính quyền Sài Gòn không làm cho phong trào cách mạng dịu đi, trái lại làn sóng chống Diệm ngày càng phát triển rộng khắp. Hoạt động vũ trang tuyên truyền, vũ trang tự vệ phát triển trên toàn miền Nam, hỗ trợ tích cực cho quần chúng chống địch lập “khu trù mật”. Rầm rộ nhất là phong trào nhân dân chống bầu cử Quốc hội khóa II của Diệm (tháng 8-1959). Nhân dân tìm mọi cách không đi bỏ phiếu hoặc làm lá phiếu không hợp lệ. Có người viết cả khẩu hiệu chống Mỹ - Diệm bỏ vào hòm phiếu. Ở Mỏ Cày (Bến Tre) nhân dân giết chết tên tay sai địch và cướp hòm phiếu. Tại nhiều tỉnh ở Nam Bộ và Liên khu V, nhân dân tổ chức mít tinh, biểu tình rải truyền đơn chống bầu cử Quốc hội hoặc dùng các đội vũ trang tuyên truyền tiến công vào bầu cử để nhân dân lấy cớ không đi bỏ phiếu.

Trong khi đó, trên thế giới, các chính quyền thân Mỹ ở Irắc, Nam Triều Tiên, Thổ Nhĩ kỳ, Cu Ba bị lật đổ làm cho Mỹ - Diệm thêm bối rối.

Tình hình trên đây đã tác động làm sâu sắc thêm những mối mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Sài Gòn và đẩy chúng bước vào thời kỳ khủng hoảng triền miên. Cuối năm 1959, đầu năm 1960, “Chế độ thống trị ở miền Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Tuy ở thành thị địch còn tương đối mạnh, nhưng trong nhiều vùng nông thôn rộng lớn, địch không thể cai trị nhân dân một cách bình thường được nữa; ngụy quyền cơ sở từng phần đã suy yếu và bất lực. Còn quần chúng nhân dân, đặc biệt là đông đảo nông dân thì sục sôi cách mạng đã tỏ ra kiên quyết và sẵn sàng chiến đấu sống chết với quân thù. Đó là điều kiện chín muồi cho phép phát động quần chúng nông thôn nổi dậy khởi nghĩa từng phần đập tan khâu yếu nhất trong hệ thống cai trị của địch”1.

Tháng 11-1959, Xứ ủy Nam Bộ họp nhận định: Với chính sách vũ lực tàn bạo, địch đã gây cho ta những khó khăn, nhưng xét về căn bản và toàn cục thì chúng ta đã giành được thế chủ động, còn địch ở vào thế bị động. Trong năm 1959, cơ sở Đảng vẫn được giữ vững, phong trào quần chúng phát triển cao hơn so với 1958, chất lượng phong trào được nâng lên. Hoạt động vũ trang tuyên truyền phát huy tác dụng hỗ trợ cho đấu tranh chính trị. Xứ ủy đề ra nhiệm vụ trước mắt của đảng bộ là: “giữ vững và đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng, lấy đấu tranh chính trị rộng rãi và mạnh mẽ của quần chúng làm chính, đồng thời kết hợp với hoạt động vũ trang tuyên truyền để chống chính sách khủng bố tàn bạo, chính sách bóc lột vơ vét của Mỹ - Diệm, ngăn chặn và đẩy lùi từng bước mọi chính sách của địch, đẩy địch vào thế bị động, cô lập hơn nữa về chính trị tạo điều kiện thuận lợi tiến tới đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, ra sức xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng cách mạng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chuẩn bị sẵn sàng nắm lấy thời cơ đánh bại hoàn toàn kẻ địch”2.

Để thực hiện Nghị quyết lần thứ 15 của Trung ương Đảng và Nghị quyết xứ ủy Nam Bộ, tháng 12-1959. Liên tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ họp ở Hồng Ngự (Kiến Phong) có đại biểu các tỉnh Long An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Kiến Tường, An Giang, Kiến Phong tham dự. Hội nghị nhận định: Các tỉnh miền Trung Nam Bộ đã trải qua một thời kỳ đen tối, cơ sở cách mạng bị tổn thất, có nơi tổn thất nghiêm trọng, nhưng lực lượng lãnh đạo và cơ sở quần chúng vẫn tồn tại. Đội ngũ tuy ít nhưng tất cả đều là những đảng viên, cán bộ và quần chúng trung kiên, vững vàng, quyết tâm tiêu diệt địch. Quân địch tuy nhiều, hệ thống kìm kẹp chặt, nhưng tinh thần chúng giảm sút. Việc trừng trị hàng loạt tên ác ôn đã làm chúng hoang mang, chính quyền cơ sở rệu rã, có nơi chỉ tồn tại hình thức.

Từ nhận định này, Liên tỉnh ủy chủ trương: Đối với các tỉnh tiếp giáp căn cứ Đồng Tháp Mười cần đẩy mạnh đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh vũ trang hỗ trợ nhân dân nổi dậy, phá thế kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ ở thôn ấp, mở rộng căn cứ du kích, xây dựng và bảo vệ lực lượng vũ trang chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa đồng loạt. Đối với các tỉnh vùng địch kiểm soát, ta không còn cơ sở thì khẩn trương xây dựng lực lượng chính trị, đồng thời xây dựng một bộ phận lực lượng vũ trang, tăng cường hoạt động diệt ác, hỗ trợ cho khởi nghĩa.
_____________________________________
1. Lê Duẩn: Hăng hái tiến lên dưới ngọn cờ vĩ đại của Cách mạng tháng Mười. Nxb Sự thật. Hà Nội. 1969: tr.41.
2. Trích Nghị quyết Xứ ủy Nam Bộ (11-1959), tư liệu Viện Lịch sử Quân sự, số TWC 17.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:30:05 pm

Liên tỉnh ủy quyết định tháng 1-1960 phát động quần chúng khởi nghĩa ở xã, ấp với phương châm: nổi dậy đều khắp không để nổi cộm ở từng điểm khiến địch có thể tập trung lực lượng đàn áp, ta không giữ được phong trào. Phải đưa cho được đông đảo quần chúng nhân dân vùng lên đấu tranh với địch nhưng giữ cho được thế đấu tranh hợp pháp. Hoạt động vũ trang phải khôn khéo, tránh nặng về đấu tranh vũ trang đơn thuần.

Hội nghị đang họp, Liên tỉnh ủy đã điện tóm tắt Nghị quyết 15 của Trung ương và chủ trương khởi nghĩa để các tỉnh chuẩn bị trước.

Kết thúc hội nghị, các đại biểu trở về tỉnh khẩn trương triển khai quyết định của Liên tỉnh ủy.

Khác với Trung Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ có thế mạnh là đã xây dựng được lực lượng vũ trang khá sớm. Ngoài lực lượng của các tỉnh, Bộ Tư lệnh miền Đông đã lập được 4 đại đội trong đó có 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội đặc công. Xứ ủy đã chỉ thị cho Ban quân sự Liên tỉnh miền Đông Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động vũ trang, tập trung lực lượng đánh cho được một trận lớn thôi động toàn Miền, thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, đồng thời lấy vũ khí địch trang bị cho các đơn vị vũ trang của ta.

Những ngày đầu năm 1960, Ban quân sự Liên tỉnh miền Đông Nam Bộ họp ở Bàu Giá (Tây Ninh) bàn việc thực hiện chỉ thị của Xứ ủy.

Hội nghị đề ra hai phương án: một là, đánh từ một đến hai quận lỵ và tù 4 đến 5 cứ điểm địch. Hai là, đánh Tua Hai - căn cứ trung đoàn 32 ngụy.

Tính toàn lực lượng và khả năng ta có thể đánh được từ một đến hai cứ điểm. Song ảnh hưởng của thắng lợi không lớn lắm. Sau khi phân tích, cân nhắc kỹ các mặt, Ban quân sự Liên tỉnh miền Đông đề nghị đánh Tua Hai và được Xứ ủy chuẩn y.

Đánh Tua Hai là đánh vào chỗ mạnh của địch: lực lượng chủ lực ngụy. Đây là một khó khăn, một thử thách lớn đối với bộ đội ta. Song diệt được căn cứ này thì tác dụng và ý nghĩa của nó tăng lên gấp bội, vì chủ lực ngụy không chỉ ở Tây Ninh mà cả miền Đông Nam Bộ sẽ dao động. Lực lượng bảo an, dân vệ xã càng lung lay. Kho vũ khí lấy được của địch, sẽ làm tăng đáng kể sức mạnh của lực lượng vũ trang ta. Khi đó phát động quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm lấy đồn, giải phóng xã, ấp thuận lợi hơn.

Trong khi bộ đội ta đang trinh sát chuẩn bị cho trận đánh Tua Hai thì đồng khởi ở Bến Tre đã nổ ra.

Bến Tre - một tỉnh nhỏ trong các tỉnh Trung Nam Bộ, nằm ở phía đông nam và cách Sài Gòn 86 km. Tỉnh Bến Tre bốn bề sông nước (loại chiến trường điển hình ở đồng bằng sông Cửu Long). Ở phía bắc con sông Tiền ngăn Bến Tre với Tiền Giang. Phía tây và nam sông Cổ Chiên phân ranh giới Bến Tre với Vĩnh Long, Trà Vinh. Phía đông là biển Đông với chiều dài bờ biển 65 km. Hai con sông Ba Lai và Hàm Luông chảy giữa tỉnh, chia Bến Tre thành ba cù lao (cù lao Bảo, cù lao Minh và cù lao An Hóa). Trên mỗi cù lao, sông ngòi, kênh rạch chằng chịt. Bến Tre có bảy huyện (Châu Thành, Bình Đại, Giồng Trôm, Ba Tri, Mỏ Cày, Minh Tân, Thạnh Phú) và một thị xã (thị xã Bến Tre) với 115 xã, 786 ấp, 60 vạn dân1.

Nhân dân Bến Tre có truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng rất kiên cường. Từ thuở khai hoang lập ấp người dân Bến Tre đã biết đoàn kết đắp đê ngăn mặn, lấn biển, chống chọi với thiên nhiên. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân Bến Tre đã cùng với nhân dân Nam Bộ kết thành một khối, bằng mọi vũ khí thô xơ ngăn bước quân thù hung hãn.

Năm 1954, Đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Nhận thấy Bến Tre là mảnh đất kiên cường, bất khuất, nơi địa bàn chiến lược quan trọng, là đầu mối giao thông nối Sài Gòn với các tỉnh miền Trung, miền Tây Nam Bộ, địch đã chọn Bến Tre làm nơi thí điểm đánh phá phong trào cách mạng. Chúng thiết lập ở đây hệ thống kìm kẹp từ tỉnh đến huyện, xã nhằm thống trị nhân dân lâu dài. Chúng chia Bến Tre thành 7 quận, 24 tổng, 115 xã; đồng thời xây dựng các đơn vị chủ lực, bảo an, dân vệ đủ mạnh để đàn áp cách mạng. Đến trước Đồng khởi, không kể lực lượng chính quy, ở Bến Tre có 9 đại đội bảo an tăng cường cho các quận và thị xã (7 đại đội đóng trên 7 quận, 2 đại đội đóng ở thị xã), 24 trung đội dân vệ (còn gọi là tổng đoàn dân vệ) trấn trị ở các tổng. Chúng còn xây dựng nhiều loại công an, cảnh sát, mật vụ, do thám, chỉ điểm... Đầu năm 1959 riêng tổ chức cảnh sát hiến binh đã có 206 tên, công an duyên hải 210 tên.
_____________________________________
1. Hiện nay Bến Tre vẫn có bẩy huyện, một thị xã với 156 xã, phường và số dân theo điều tra năm l989 là 1.245.519 người. Huyện Minh Tân nay đổi là Chợ Lách.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:30:37 pm

Song song với củng cố bộ máy tay sai, Mỹ - Diệm tiến hành tố cộng, diệt cộng một cách khốc liệt. Hàng loạt cán bộ đảng viên bị thủ tiêu. Nhiều cơ sở đảng, cơ sở quần chúng bị tan vỡ. Tính đến cuối 1959, địch đã sát hại 2.519 cán bộ, đảng viên, bắt 17.000 người. Trong 115 xã chỉ còn 18 xã có chi bộ đảng. Mặc dù vậy, địch không khuất phục nổi nhân dân Bến Tre. Từ cuối 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Bến Tre, phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân đã diễn ra sôi nổi. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình đòi địch thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, đòi tự do dân chủ, chống khủng bố đàn áp được tổ chức ở nhiều nơi.

Hai năm kiên trì đấu tranh bằng phương pháp hòa bình không kết quả, nhân dân Bến Tre bắt đầu tổ chức những vụ diệt ác bí mật, lẻ tẻ, từng bước hình thành lực lượng vũ trang ngầm và bắt đầu đột nhập lấy một số đồn bốt địch trong tỉnh. Ngày 15-12-1959 ta lấy đồn Tân Xuân (Ba Tri), ngày 19-12, đánh đồn Lộc Thuận (Bình Đại) thu 7 súng. Địch phản ứng yếu ớt.

Tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện ở Bến Tre. Giữa lúc đó Đảng có chủ trương vũ trang tự vệ. Đồng chí Võ Văn Phẩm, Bí thư tỉnh ủy hội ý với các đồng chí trong Thường vụ tỉnh ủy thực hiện chỉ thị của Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ. Đồng chí Nguyễn Thị Định, Phó bí thư tỉnh ủy đi dự hội nghị Liên tỉnh ủy trở về đến Bến Tre (30-12-1959) thì các đồng chí trong Thường vụ đã xuống các huyện chỉ đạo phong trào.

Mặc dù không gặp được đầy đủ các đồng chí trong tỉnh ủy, nhưng do tình hình khẩn trương, đồng chí Nguyễn Thị Định đã triệu tập cuộc họp tỉnh ủy mở rộng tại nhà chị Bảy Tốt ở ấp Tân Huề, xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày vào ngày 1-1-1960.

Dự họp có các đồng chí: Nguyễn Tâm Cang (Hai Thủy), tỉnh ủy viên, Nguyễn Văn Song (Năm Hỏa), Bí thư Mỏ Cày; Ba Cầu, Sáu Huấn, Bảy Tranh huyện ủy viên Mỏ Cày và đồng chí Lê Văn Quang, Bí thư huyện ủy Minh Tân.

Đồng chí Nguyễn Thị Định đã truyền đạt tinh thần Nghị quyết lần thứ 15 của Trung ương Đảng và chủ trương nổi dậy của Liên tỉnh ủy. Sau đó, cuộc họp bàn cách thực hiện chủ trương của Liên tỉnh ủy. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình địch, ta ở Bến Tre, cân nhắc những thuận lợi khó khăn, khả năng của địa phương, tỉnh ủy quyết định phát động một tuần lễ nổi dậy trên toàn tỉnh, lấy ba xã Định Thủy, Bình Khánh, Phước Hiệp (thuộc huyện Mỏ Cày) làm điểm. Phương châm là, mạnh làm theo mạnh, yếu làm theo yếu, đánh vào nơi hiểm yếu, đồng thời cũng là chỗ yếu nhất của địch là bộ máy kìm kẹp ở cơ sở, vừa diệt ác phá kìm, vừa phát động quần chúng trong đó chú trọng vận động các gia đình binh sĩ ngụy kết hợp với cơ sở trong lòng địch để bức hàng, bức rút, lấy đồn, giải phóng xã ấp.

Sau khi quyết định phương thức nổi dậy, tỉnh bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị. Đồng thời theo đường liên lạc đồng chí Nguyễn Thị Định sang báo cáo đồng chí Bí thư tỉnh ủy ở khu vực cù lao Bảo về tình hình và nội dung cuộc họp tỉnh ủy.

Chưa có lực lượng vũ trang, tỉnh đã lập những tổ hành động làm nòng cốt trong việc diệt ác, trừ gian. Thanh niên được tập hợp thành từng tổ, trang bị mã tấu, dao găm, súng bập dừa, lấy danh nghĩa tiểu đoàn 502 (đơn vị đã đánh thắng địch giòn giã ở Giồng Thị Đam - Gò Quản Cung) để khoa trương thanh thế, uy hiếp tinh thần binh lính địch. Lực lượng làm nhiệm vụ phát động quần chúng kịp thời thu nạp những người tốt vào các tổ chức cách mạng, làm cho lực lượng quân sự, chính trị của ta phát triển nhanh. Các cơ sở nội tuyến trong các đồn bốt địch được rà soát lại.

Sau 16 ngày chuẩn bị khẩn trương và bí mật, ngày 17-1-1960, cuộc đồng khởi của nhân dân Bến Tre nổ ra đúng như dự kiến. Bắt đầu từ ba xã điểm của tỉnh.

Tại xã Định Thủy, 8 giờ sáng ngày 17-l-1960, tổ hành động gồm ba đồng chí Bảy Thông, Ba Giai, Chín Chim giết tên đội Tý - chỉ huy tổng đoàn dân vệ (gồm 11 tên) đóng tại xã khi chúng đang ăn nhậu ở tiệm Năm Thiêu (ngã tư Định Thủy). Súng nổ, vợ đội Tý và hai tên lính dân vệ hoảng hốt chạy khỏi đình Định Phước - nơi tổng Đoàn dân vệ đóng quân. Ta lập tức bắt cả ba tên. Đồng thời, hai tổ hành động được bố trí sẵn cùng 200 thanh niên và quần chúng tràn vào đình áp đảo địch, 4 tên đầu hàng, 2 tên chạy thoát. Ta thu 8 khẩu súng, 3 lựu đạn và gần 1000 viên đạn. Tổng đoàn dân vệ bị diệt lúc 9 giờ. Một tổ hành động khác do đồng chí Hai On chỉ huy, kết hợp với cơ sở nội tuyến vận động anh em binh sĩ ở đồn Vàm Nước Trong nổi dậy phá đồn, diệt ác ôn, giải tán tề xã, thu 11 súng, 10 lựu đạn và trên 500 viên đạn.

Có vũ trang của các tổ hành động hỗ trợ, nhân dân Định Thủy nổi trống mõ cầm giáo mác, gậy gộc tràn ra các ngả đường cùng các tổ hành động truy lùng bọn tề điệp ác ôn, quét sạch các tổ chức kìm kẹp của địch, giải phóng hoàn toàn xã nhà.

Đêm 17-1-1960, với số súng thu được của địch, tỉnh đã chỉ đạo lập 4 tiểu đội vũ trang kịp thời hỗ trợ cho phong trào quần chúng nổi dậy ở các xã lân cận.

Từ tay không vùng dậy, đến đây nhân dân Định Thủy đã có súng, có lực lượng vũ trang, có chính quyền trong tay. Đó là thành quả đầu tiên của phong trào đồng khởi ở Bến Tre.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:31:22 pm

Kề với Định Thủy là Phước Hiệp. Theo kế hoạch chung, cuộc nổi dậy sẽ bắt đầu vào 17- 1-1960, song cơ sở nội tuyến sợ không dám hành động, nên việc lấy bốt dân vệ không thành. Đến 18 giờ ngày 17-1-1960, nghe tin Định Thủy đã nổi dậy thắng lợi, lệnh khởi nghĩa mới được phát ra. Nhân dân cùng với các tổ hành động bao vây đồn dân vệ và trụ sở hội động xã. 20 giờ, tổ hành động dùng loa truyền quân lệnh của tiểu đoàn 502 gọi địch trong đồn ra hàng. Chúng ngoan cố chống cự. Nửa đêm, ban chỉ đạo điều một tiểu đội vũ trang vừa mới thành lập ở Định Thủy sang hỗ trợ. Sáng 18-1-1960, từ Mỏ Cày, địch tăng cường lính bảo an về ứng cứu cho Phước Hiệp. Dự đoán được tình huống, ta đưa lực lượng phục kích tại cầu Ông Bòng. Địch vừa lọt vào trận địa phục kích ta nổ súng. Tên trung úy chỉ huy chết ngay tại chỗ, một xuồng máy bị chìm. Địch hoảng loạn tháo chạy, bỏ lại ba xác chết. Được tin viện binh đã bị tiêu diệt, quân địch trong đồn hoang mang. Lợi dụng sơ hở của ta, đêm 18-1, chúng xé rào chạy về quận. Tên đội chỉ huy chạy lạc sang Định Thủy bị ta bắt sống. Thừa cơ nhân dân xông vào san bằng đồn và trụ sở hội đồng xã, giải tán tề ấp, tề xã. Phước Hiệp được hoàn toàn giải phóng vào sáng ngày 19-1-1960.

Ở xã Bình Khánh, trước ngày đồng khởi, đồng chí Bảy Đoàn, huyện ủy viên Mỏ Cày phụ trách xã không may bị bắt. Địch thấy quần chúng chuẩn bị nổi dậy. Chúng tăng cường một trung đội “công an Ngô Quyền” về xã để giữ an ninh. Bọn này thường đi lẻ vào nhà dân xin ăn. Nắm được điểm yếu của địch, sáng 17-1-1960, đồng chí Năm Thơ cùng 6 thanh niên tổ chức tiệc rượu mời bọn chúng đến. Địch cảnh giác, nên tổ hành động không thực hiện được ý đồ. Không để lỡ thời cơ, anh em dùng mưu lừa địch xuống ao bắt cá làm đồ nhậu. Hai tên công an cùng một thanh niên của ta xuống ao bắt cá. Tên đội cầm súng ngồi gác trên bờ. Khi địch vừa xuống ao, nhanh tay đồng chí Văn Anh đã vãi mẻ chài trùm kín đầu hai lên lính. Cùng lúc hai thanh niên ôm cổ quật nhào tên đội cầm súng ngồi gác trên bờ. Bọn công an bị diệt cũng là lúc trống lệnh đồng khởi vang lên. Nhân dân nhất tề nổi dậy, xuống đường diệt ác, phá kìm, bao vây đồn Bình Khánh, phát loa kêu gọi địch đầu hàng. Địch ngoan cố bắn trả. Một tiểu đội vũ trang từ Định Thủy kịp thời sang hỗ trợ, diệt bọn ngoan cố trên tháp canh đột nhập vào đồn, diệt, bắt sống một số tên, thu 6 súng. Xã Bình Khánh hoàn toàn giải phóng lúc 2 giờ sáng ngày 20-1-1960.

Từ thắng lợi đồng khởi ở ba xã điểm nhanh chóng lan rộng ra khắp tỉnh. Chỉ trong một tuần (từ 17 đến 24-1-1960), 47 xã thuộc các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri Thạnh Phú, nhân dân đã nhất tề nổi dậy. 22 xã diệt ác, lấy đồn, đập tan bộ máy kìm kẹp giải phóng hoàn toàn xã, ấp. 25 xã khác diệt ác, bao vây đồn bốt, giải phóng nhiều ấp.

Phối hợp cùng các vùng nông thôn, tại thị xã Bến Tre, lực lượng tự vệ đã đánh bốt Lò Tương, diệt ác ở phường I, diệt công an ngụy ở ngã ba Tháp, trừ gian ở xã Phú Khương.

Trong tuần lễ đồng khởi, trên 300 tề điệp, dân vệ ác ôn đã bị bắt, 37 đồn, bốt bị bức rút, bức hàng. Ta thu 150 súng, nhiều đạn và lựu đạn.

Với số súng thu được, tỉnh lập đại đội vũ trang đầu tiên của tỉnh mang phiên hiệu đại đội 264. Ban chỉ huy đại đội gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Song (Bảy Song), Lê Phục (Mười Phục), Đinh Văn Chức (Tám Chức).

Sau khi giành được chính quyền, các xã đã mở đại hội nhân dân, lập tòa án xét xử những tên tay sai có nợ máu với nhân dân. Ruộng đất của Việt gian, địa chủ bị tịch thu chia cho nông dân. Các đoàn thể quần chúng được tổ chức. Nhân dân hồ hởi phấn khởi bàn bạc mọi việc trong xã. Quyền làm chủ xã, ấp nay lại trở về tay nhân dân.

Cùng thời gian này, ở Kiến Phong, tỉnh cũng lãnh đạo nhân dân nổi dậy. Trước khi vào đợt, để đánh lạc hướng địch, tỉnh dùng lực lượng vũ trang tấn công địch ở Mỹ Hòa (Mỹ An). Đêm 4-1-1960, một phân đội của đại đội 2721 và một tổ đặc công đánh sập tháp mười tầng ở Gò Tháp (một đài quan sát kiên cố nhằm kiểm soát trung tâm Đồng Tháp Mười), diệt 10 tên định. Cùng lúc, một phân đội của đại đội 276 và một tổ đặc công đồn chợ Mỹ Hòa diệt, làm bị thương 15 tên địch chiếm trụ sở tề xã, mở khám, giải phóng bốn người của ta bị địch bắt. Sau 2 trận, ta thu 30 súng, giải phóng xã Mỹ Hòa.

Địch lo đối phó ở Mỹ Hòa thì đêm 15-1, nhân dân các xã điểm Tân Thành, Thường Thới, Thường Phước thuộc huyện Hồng Ngự đồng loạt nổi dậy. Đại đội 271 cơ động của tỉnh đánh đồn Cả Cái, xã Tân Thành (Hồng Ngự). Sau một tuần hoạt động, lực lượng vũ trang tỉnh đã diệt đồn Cả Cái, giải phóng hoàn toàn xã Tân Thành, diệt bót Cái Sơ (xã Bình Thạnh, Hòng Ngự) bót Bến  Siêu (xã Tân Quới) trên cù lao huyện Thanh Bình. Nhân dân nổi dậy, giải phóng toàn xã.

Ở Cao Lãnh, quần chúng và cơ sở xã Bình Thạnh nổi dậy chiếm bót Bình Linh, giải phóng ba ấp. Hướng Mỹ An, lực lượng vũ trang cùng nhân dân bức rút đồn Bà Cò, giải phóng một ấp của xã Đốc Binh Kiều. Tính đến 20-1-1960, quân dân Kiến Phong đã diệt và làm bị thương 165 tên, bắt sống 40 tên, giáo dục cải tạo 20 tên, phá lỏng, phá rã tề ở nhiều xã.
_____________________________________
1. Các đại đội của tiểu đoàn 502 đổi phân hiệu: Tám Trà: 272, Bảy Trì: 273, Năm Bình: 274, Chín Cứ: 276, Út Biên: 295, bảo vệ tỉnh đội: 278, bảo vệ tỉnh ủy: 279, đại đội cơ động của tỉnh: 271.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:32:14 pm

Lúc này ở miền Đông Nam Bộ, trận đánh Tua Hai mở màn. Tua Hai nằm trên đường 22 đi Kông Pông Chàm (Campuchia), cách thị xã Tây Ninh 7km. Đó là tháp canh (tua) cũ của Pháp. Từ 1956, Mỹ - Diệm đã biến nó thành căn cứ của một trung đoàn quân chính quy (trung đoàn 32). Đây là trung đoàn duy nhất đóng ở Tây Ninh lúc bấy giờ (ngoài sở chỉ huy sư đoàn bộ binh 21)1. Địch vẫn quen gọi Tua Hai là thành Nguyễn Thái Học. Toàn bộ khuôn viên của căn cứ nằm gần quốc lộ 22 mỗi cạnh dài 600m, bờ thành cao 2 m và cách 50m lại có một tháp canh biệt lập hẳn với khu dân cư. 

Chỉ huy sở trung đoàn nằm ở trung tâm căn cứ. Từ bờ thành đi vào phải qua một bãi trống có gài mìn và hào giao thông ngang dọc.

Đây còn là một trung tâm đào tạo biệt kích, huấn luyện lính mới và kho chứa vũ khí để trang bị cho các đơn vị mới thành lập. Hàng ngày lính đi tập mang theo vũ khí, đêm đến súng được đưa vào kho khóa lại. Bảo vệ căn cứ có một tiểu đoàn ứng chiến, vũ khí đầy đủ và một đại đội thám báo đêm đêm ra đóng ngoài xóm, hoặc bìa rừng quanh căn cứ. Một đại đội thám báo chìm, sống lẩn khuất trong dân và cả trong binh sĩ của chúng. Ngoài ra, chúng còn bố trí một đơn vị thiết giáp, ngày thường là những tháp cánh di động bảo vệ căn cứ, khi hành quân là mũi nhọn, chỗ dựa của bộ binh. Theo Nguyễn Hữu Có, đại tá, tư lệnh Quân khu I ngụy lúc đó, thì quân số trung đoàn 32 có 1694 tên.

Tuy nhiên, Tua Hai là nơi có cơ sở mạnh của ta hoạt động. Trong những dịp lễ tết, dưới sự chỉ đạo của ta, hàng trăm anh em binh sĩ đã bỏ về nhà không xin phép chỉ huy. Cơ sở của ta phát triển cả trong hàng ngũ hạ sĩ quan và sĩ quan. Đặc biệt, một cơ sở của ta làm việc trong bộ phận quân lực do một viên sĩ quan người Khơme phụ trách. Tên này chữ nghĩa không đủ để làm giấy tờ sổ sách nên phải dựa vào đồng chí của ta. Nhờ đó, ta nắm thực lực quân số, vũ khí, trang bị của địch trong căn cứ khá chắc. Một cơ sở khác của ta phụ trách thông tin liên lạc của trung đoàn. Tình hình hàng ngày của địch ở căn cứ, ta đều biết. Trong căn cứ, ta còn tổ chức một chi bộ đảng, chi bộ này chịu sự lãnh đạo của một huyện ủy viên từ bên ngoài có lúc là tỉnh ủy viên chuyên trách.

Từ đầu 1959, cơ sở của ta trong căn cứ đã có ý đồ tổ chức nổi dậy khởi nghĩa, nhưng trên chưa cho phép. Tháng 6-1959, chi bộ nội tuyến tổ chức học tập về nhiệm vụ, tiêu chuẩn đảng viên thì bọn thám báo chìm theo dõi. Các đồng chí đã giải tán kịp thời và giữ được an toàn.

Thấy có nguy cơ bại lộ, chi bộ cơ sở họp bàn phương án khởi nghĩa và xin cấp trên xét duyệt. Đề nghị không được chấp nhận. Trong khi đó, cơ sở phụ trách điện đài của ta trong trung đoàn địch đã để lộ kế hoạch. Địch nắm được và bắt gần 120 người đày đi Côn Đảo. Phải ba tháng sau, ta mới móc nối được với số ít cơ sở còn lại, phát triển thêm được một số đảng viên và sâu chuỗi được nhiều quần chúng tích cực khác. Đúng lúc đó, nghị quyết Trung ương 15 được triển khai. Các đồng chí cán bộ của Tây Ninh về Xứ ủy học tập, báo cáo tình hình Tua Hai và khí thế của quần chúng trong tỉnh. Xứ ủy Nam Bộ căn cứ thực tế tình hình và quyết định dồn lực lượng đánh Tua Hai, tạo một quả đấm quân sự có sức nặng để hiệu triệu khởi nghĩa trong toàn Miền. Trận đánh có thể nổ ra sớm hơn, những Xứ ủy quyết định lùi thời gian đến Tết âm lịch để cho nhân dân gặt xong lúa, thóc đã vào bồ, có lương thực dự trữ và cũng để tạo yếu tố bất ngờ đối với địch.

Tham gia trận đánh có 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội đặc công trực thuộc Ban quân sự Miền (gần như toàn bộ lực lượng chủ lực Miền có lúc bấy giờ) cùng lực lượng của địa phương (bộ đội tỉnh Tây Ninh và dân quân, du kích).

Phương án tiến công Tua Hai từ bốn hướng được xác định:

Hướng 1, đánh vào chỉ huy sở trung đoàn 32, gồm có 37 cán bộ, chiến sĩ đại đội 60 và 80 do đồng chí Tư Đen chỉ huy trưởng, đồng chí Vinh và Sáu Tươi chỉ huy phó, đồng chí Ba Bảy bộc phá viên.

Hướng 2, đánh vào tiểu đoàn 1 ngụy và khu kho, gồm 54 cán bộ, chiến sĩ thuộc đại đội 59 và 1 tổ của đại đội 80, do đồng chí Năm Nhỏ chỉ huy trưởng, Tư Lồng chỉ huy phó, Bẩy Tâm chính trị viên, đồng chí Tư Sáu bộc phá, nổ trái.

Hướng 3, đánh vào tiểu đoàn 2 ngụy và phát triển cùng với lực lượng hướng 2 đánh khu kho, gồm 40 cán bộ, chiến sĩ của đại đội 60 và 1 tổ của đại đội 80 do đồng chí Tám Lê Thanh chỉ huy trưởng, Bảy Tấn (Tèo) chỉ huy phó. Đồng chí Nhà chỉ huy tổ đặc công.

Hướng 4, tiến công đại đội pháo binh và khu nhà xe gồm 70 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Sáu Hiến chỉ huy trưởng, Sáu Quân chỉ huy phó, Năm Cẩm chính trị viên. Đồng chí Ngon phụ trách đặc công.

Lực lượng chặn viện 1 trung đội do đồng chí Hai Phương chỉ huy.

Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến (Tám Kiến Quốc) chỉ huy chung.

Lực lượng vận tải, tiếp tế toàn đảng viên, đoàn viên do đồng chí Tư Nguyện phụ trách.

Cơ sở nội tuyến ngoài nhiệm vụ nắm tình hình, báo cáo kịp thời cho chỉ huy còn phải bí mật đưa một bộ phận lực lượng tiến công vào trong trước khi nổ súng.
_____________________________________
1. Cuối 1959, địch cải tổ quân đội ngụy. Từ 10 sư đoàn chấn chỉnh lại còn 7 sư đoàn mạnh. Nam Bộ chúng bố trí 2 sư đoàn. Sư đoàn bộ binh 7 cắm chỉ huy sở ở Biên Hòa; cùng với 2 trung đoàn thiếu của sư đoàn này, còn lại 1 trung đoàn chúng bố trí ở Thất Sơn, 1 tiểu đoàn Cái Vồn. Sư đoàn 21 đóng chỉ huy sở và 1 trung đoàn ở Tây Ninh, 1 trung đoàn ở Bến Cát, 1 trung đoàn ở Chơn Thành (Quốc lộ 13 bắc Sài Gòn).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:32:51 pm

Theo kế hoạch đúng 23 giờ ngày 25 ta nổ súng, nhưng lúc này đột nhiên có nhiều xe ôtô chở đầy lính từ Tây Ninh vào căn cứ, nên 0 giờ 30 phút ngày 26-1-1960 (đêm 28 Tết âm lịch) trận đánh mới bắt đầu. Ba Bảy đánh vào sở chỉ huy trung đoàn 32, phát lệnh tiến công. Từ các hướng, cán bộ, chiến sĩ ta tiến công vào tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 2 ngụy và đại đội pháo binh, khu để xe, nhà kho. Tiếng súng, lựu đạn nổ ran trên toàn trận địa hòa cùng tiếng hò la vang dậy áp đảo quân địch. Bị đánh bất ngờ quân địch rối loạn, tên trung đoàn phó cùng tiểu đội bảo vệ bị diệt.

Các đơn vị tiến công đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Riêng bộ phận đánh vào hai tiểu đoàn còn lại không hoàn thành nhiệm vụ vì đi lạc đường. Địch kịp thời trấn tĩnh, chúng tập hợp lực lượng chống trả. Qua ánh lửa của những ngôi nhà cháy, địch thấy lực lượng ta không nhiều, lại có cả phụ nữ, chúng định dùng hỏa lục mạnh để đè bẹp sức tiến công của ta. Nhưng các trinh sát viên của ta đã kịp thời đột nhập vào khu vũ khí, lấy được ba khẩu đại liên, bắn quét về phía quân địch, đè bẹp sức kháng cự của chúng. Kết quả trận đánh ta đã diệt 500 tên địch, thu gần 1.500 khẩu súng các loại, nhưng chỉ chuyển về căn cứ được gần 500 khẩu.

Trận Tua Hai là trận đánh lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, tiêu diệt được nhiều địch, thu được nhiều vũ khí nhất. Chiến thắng Tua Hai đánh dấu một bước phát triển mới về trình độ tổ chức chỉ huy hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang ta. Chiến thắng mang ý nghĩa chính trị to lớn, nó củng cố niềm tin và cổ vũ khí thế đồng khởi của quần chúng cách mạng. Đối với địch, đây là đòn đánh vào ý chí của ngụy quân, ngụy quyền, khiến chúng hoang mang lo sợ. Tên tỉnh trưởng và những tên ác ôn đến đêm phải trốn đi ngủ ở nơi khác, bỏ lỏng nhiều vùng nông thôn.

Tua Hai, trận đột phá không chỉ mở đầu cho cuộc đồng khởi ở miền Đông, mà còn kích thích nhân dân các tỉnh đồng bằng Nam Bộ nổi dậy tiến công mạnh mẽ, dồn dập và liên tục vào bộ máy kìm kẹp của địch ở cơ sở. Suốt trong những ngày đồng khởi, quần chúng vui như hội, đèn đuốc sáng rực vùng quê, hồ hởi, tay gậy, tay dao, kéo nhau đi vây đồn, lấy bốt, truy lùng ác ôn, giải tán các tổ chức của địch.

Ngay trong đêm Tua Hai bị diệt, địch ở đồn Vịnh thuộc xã Hảo Đước rút chạy. Hôm sau, kết hợp với nội ứng, quần chúng lấy bốt Hòa Hiệp (Châu Thành), bốt Cầu Ván (Trảng Bàng). Nhiều đồn, bốt trên đường 22 từ Tây Ninh đến biên giới Campuchia, trên tỉnh lộ 3 và 4, địch bỏ chạy. Nhân đà đó, nhân dân ở nhiều nơi trong tỉnh vùng lên lấy đồn, giải phóng xã, ấp.

Có nơi chỉ một tổ dân quân mang súng đến chụp bọn tề, hoặc bà con đến giả xin giấy tờ, rồi cướp luôn chính quyền địch.

Hai ngày sau chiến thắng Tua Hai, toàn bộ huyện Châu Thành, đâu đâu cũng vang tiếng súng, tiếng trống, mõ tre, thùng thiếc của nhân dân nổi dậy bao vây đồn bốt địch, truy bắt ác ôn. Chỉ trong một tháng lực lượng vũ trang huyện Châu Thành cùng đồng bào địa phương đã nổi dậy diệt 13 đồn bốt thu nhiều súng, bắt tù binh. Tổng Phước Hưng có 7 xã1 là Phước Hòa, Phước An, Phước Lộc, Hảo Đước, Hòa Hiệp, Phước Vinh và Phước Lợi thì 6 xã được giải phóng hoàn toàn, chỉ có Phước Lợi còn trơ trọi một cái đồn. Tổng Hòa Ninh có 8 xã thì chỉ có 3 xã Thái Bình, Trí Bình và Thanh Điền còn vướng đồn lớn chưa nhổ được.

Ở huyện Trảng Bàng, hưởng ứng chỉ thị đồng khởi của tỉnh, các đội công tác nhanh chóng xuống xã, ấp tổ chức quần chúng nổi dậy. Trong 5 ngày, các xã Đôn Thuận, Lộc Hưng, Phước Luu, Phước Chỉ, Bình Thạnh, nhân dân giành được quyền làm chủ. Xã Gia Lộc, hai nông dân tay không cũng hù dọa bắt được một tên thám báo. Ấp Bàu Trâm chỉ cách thị trấn Trảng Bàng 2 km, hai thanh niên đi tưới bông cũng lập mưu bắt được một thám báo. Đặc biệt, xã Gia Bình nằm sâu trong vùng địch, phong trào yếu, nhưng trong khí thế chung của toàn tỉnh sau chiến thắng Tua Hai, cán bộ xã cũng đã móc nối với cơ sở nội tuyến, mượn vũ khí nơi khác, tổ chức nổi dậy diệt đồn. Vì địch ở đây quá mạnh, hỏa lực ta chưa đủ, nên kế hoạch không thành. Tua vậy, lần đầu tiên quần chúng đấu tranh công khai làm địch phải dè chừng.

Huyện Gò Dầu, ngay sau khi tin chiến thắng Tua Hai loan truyền, quần chúng đã xuống đường mít tinh, kêu gọi binh sĩ địch quay với cách mạng, với nhân dân. Đội tự vệ làm nòng cốt ngăn chặn các hành động chống đối của địch. Chỉ vài ngày sau chiến thắng Tua Hai từ hai xã Phước Thạnh, Hiệp Thạnh phong trào đã lan ra toàn huyện. Nhiều xã trong huyện nhân dân giành được chính quyền về tay.
_____________________________________
1. Lúc đó Châu Thành chia làm hai tổng: tổng Phước Hưng và tổng Hòa Ninh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:33:17 pm

Các huyện Bến Cầu, Dương Minh Châu được lực lượng vũ trang hỗ trợ, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phát triển mạnh, bộ máy chính quyền địch ở hầu hết các xã trong huyện tan rã, nhân dân đứng lên làm chủ xã, ấp với nhiều mức độ khác nhau.

Ở Phú Khương (Hòa Thành ngày nay), đồng bào tín đồ Cao Đài, sau một thời gian dài bị địch o ép, đàn áp, phong trào tạm thời lắng xuống, nhiều cơ sở bị vỡ, nhưng sau Tua Hai, nhân dân cũng vùng lên phá nhiều khu trù mật, khu dinh điền, bung về ruộng vườn cũ làm ăn.

Ở thị xã, địch co về quanh các cơ quan đầu não, tuần tra canh gác ngày đêm. Một số gia đình sĩ quan, binh lính ngụy bỏ chạy về Sài Gòn, trong khi đó, các đội tự vệ mật và lực lượng vũ trang tỉnh liên tiếp đột nhập tấn công vào các công sở, đồn bốt địch đóng trong thị xã gây xáo trộn tình hình an ninh của chúng, làm cho ngụy quân, ngụy quyền càng rối ren thêm.

Sau chiến thắng Tua Hai, quân dân Tây Ninh đã kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và binh vận gỡ được 30 đồn, bốt địch, chiếm tỷ lệ 50% đồn bốt trong tỉnh, giải phóng hoàn toàn 24 xã, giải phóng cơ bản 19 xã. Tề, dân vệ tan rã từ 70 đến 80%. Lực lượng vũ trang Tây Ninh phát triển. Đầu tháng 2-1960, tỉnh thành lập tiểu đoàn 14, huyện Châu Thành thành lập đại đội 40, Gò Dầu, Trảng Bàng có đại đội 33A, Bến Cầu có đại đội 61, huyện Dương Minh Châu có đại đội 31A. Thị xã thành lập đại đội 2/45. Tòa Thánh (Hòa Thành) tổ chức đội vũ trang tuyên truyền. Các xã xây dựng các đội du kích (trong 49 xã có 44 xã lập đội du kích).

Song song với miền Đông Nam Bộ, tại Trung Nam Bộ, mặc dù lúc này địch đã đề phòng, tăng cường lực lượng phòng giữ, nhưng Liên tỉnh ủy chỉ đạo các tỉnh giữ vững kế hoạch hành động, tuyệt đối giữ bí mật, tạo yếu tố bất ngờ cho đồng khởi.

Đêm 25-1-1960, cuộc đồng khởi ở Long An bắt đầu bằng trận trung đội 231, tiểu đoàn 506 của tỉnh tập kích diệt đồn Đức Lập trên lộ 8 nối Bầu Trai (tỉnh Hậu Nghĩa) với quốc lộ 1 (đoạn Củ Chi) do một trung đội dân vệ đóng giữ. Có cơ sở nội tuyến dẫn đường, hỗ trợ chiến sĩ, cán bộ trung đội 231 đánh nhanh, dứt điểm gọn, thu toàn bộ vũ khí.

Được lực lượng vũ trang hỗ trợ, ngày 26-1, nhân dân ở các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Lức, Cần Giuộc, Châu Thành, Thủ Thừa, Tân Trụ nổi dậy, đánh trống mõ kéo đi lùng bắt tề ấp, tề xã. Ngay tại Đức Lập, ta diệt 2 tên, cảnh cáo một tên. Xã Mỹ Hạnh lực lượng vũ trang tự vệ tập kích bất ngờ lấy bốt, tên xã trưởng chạy thoát. Xã Thành Lợi, 500 quần chúng lấy uy thế cách mạng buộc tề điệp ra nhận tội. Trước khí thế nổi dậy của quần chúng, nhiều tề xã thôi việc, một số tên ngoan cố phải chạy về huyện lỵ. Sau thắng lợi ở Đức Hòa, tiểu đoàn 506 tiếp tục đánh trận Gò Xoài, Bà Vụ, diệt 20 tên bảo an, thu 20 súng. Bộ đội còn hóa trang dùng xe chở khách chở quân, bất ngờ tập kích diệt gọn đồn Tân Bửu. Thắng lợi này đã hỗ trợ đắc lực cho phong trào nổi dậy của quần chúng các huyện bắc lộ 4.

Ở nam lộ 4, tiểu đoàn 508 hóa trang, đột nhập diệt đồn Đông Thạnh vào đêm 28-1-1960, thu 13 súng. Ngay 29-1, tiểu đoàn 508 đánh tiếp đồn Hưng Long, bắt 30 tên, thu 24 súng. Quần chúng nổi dậy giải tán tề ấp, tề xã giành quyền làm chủ. Tính đến tháng 9-1960, tỉnh Long An đã giải phóng hoàn toàn 12 xã, phá lỏng kìm ở 67 xã khác, đưa dân lên làm chủ với nhiều mức độ khác nhau.

Tỉnh Kiến Tường, đồng khởi bắt đầu từ 28-1-1960. Lực lượng vũ trang tỉnh, huyện kết hợp với nhân dân và cơ sở nội tuyến, bao vây, đánh chiếm bốt Bắc Chan 2, uy hiếp đồn Bắc Chan (thuộc Tân Thạnh), đồn Năm Ngàn, đánh đồn Nhà thờ lá, Gò Dung, bức rút 11 đồn từ kinh Bùi (Tân Ninh) đến kinh Năm Ngàn (Nhơn Ninh) ra lộ 12 (Tân Hòa), phá khu trù mật Bắc Chan giải phóng các xã Tân Ninh, Nhơn Ninh, Tân Hòa và hai ấp xã Hậu Thạnh.

Tiểu đoàn 504 của tỉnh sau khi tiến công đồn Maren (xã Phong Phú) diệt 17 tên, bắt 8 tên, thu 17 súng đã bao vây đồn Kinh Tắc, giải tán khu trù mật Nồi Gọ, bức rút 8 đồn và “tua” từ Nồi Gọ theo sông Vàm Cỏ Tây đến sông Xoài xã Thuận Nghĩa Hòa, giải phóng các xã Bình Hòa, Thạnh Phước, Phong Phú, Thạnh Hòa. Lực lượng vũ trang tỉnh kết hợp với lực lượng địa phương huyện diệt đồn sông Trăng (2-2-1960), bức rút các đồn “tua” dọc biên giới, sau đó diệt đồn Cái Rưng xã Tuyên Bình, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá khu dinh điền Gò Cát, Ninh Điền, La Ngà, giải phóng các xã Hưng Điền, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, Vĩnh Đại. Đến 2-3-1960, Kiến Tường đã trừng trị 56 tên ác ôn có nợ máu, cảnh cáo 98 tên, bắt hàng trăm tề xã thú tội và thôi việc, tiêu điệp và làm tan rã 300 bảo an, dân vệ, thu hơn 200 súng các loại giải phóng 11 xã.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:34:03 pm

Tại Mỹ Tho, Tỉnh ủy chọn xã Long An (huyện Châu Thành) làm điểm đồng khởi. Phương châm hành động là kết hợp tiến công quân sự với phát động quần chúng nổi dậy. Ngày 24-2-1960, đơn vị 514 (lực lượng vũ trang tỉnh) đóng giả lính ngụy, phục kích tại Cây Me.(thuộc xã Long An trên lộ 4) đánh xe chở bạc đi phát lương của địch. Trận đánh không thực hiện được. Nhưng ngày 25-2-1960, tỉnh vẫn phát động nhân dân nổi dậy đồng loạt. Ở xã điểm Long An, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tỉnh, nhân dân nổi dậy đốt trạm canh, bắt cảnh cáo bọn chủ ấp, liên gia. Các xã trên kênh Nguyễn Văn Tiếp từ Hưng Thạnh đến Thiên Hộ, quần chúng đánh trống mõ, phá bỏ các bảng liên gia và các khẩu hiệu tố cộng. Tiểu đoàn 514 của tỉnh vũ trang tuyên truyền tại các xã Long Hưng, Phước Thạnh, Long Định, Nhị Bình, Tân Lý Đông, Tân Lý Tây, Tân Hòa Thành. Song lực lượng chính trị còn yếu, nên ta chưa giành được quyền làm chủ.

Tại Gò Công, cũng trong đêm 25-2-1960, tổ vũ trang hoạt động ở Đông Gò Công, Vàm Láng, diệt tên đại diện Chớ và treo băng cờ khích lệ khởi nghĩa. Địch phát hiện bắn chết bốn đồng chí, bắt đi một. Cuộc nổi dậy không thành ở phía tây, tổ vũ trang đụng phải địch, quay trở lại, hai người đào ngũ. Vừa ra quân trận đầu, Gò Công đã bị tổn thất - kế hoạch nổi dậy đồng loạt theo chủ trương của Liên tỉnh ủy không thực hiện được.

An Giang là một tỉnh nằm trong vùng yếu, nhân dân không nổi dậy được. Song tỉnh đã phát động diệt ác ôn và tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, chờ thời cơ.

Trong lúc các tỉnh bạn đang trong cao trào đồng khởi đợt một, thì ở Bến Tre. Tỉnh ủy tổ chức hội nghị sơ kết phong trào đồng khởi và chủ trương tiếp tục mở các đợt tiến công, nổi dậy, chuẩn bị mọi mặt ứng phó với địch. Tỉnh quyết định thành lập đơn vị vũ trang thứ hai, đại đội 269. Ban chỉ huy đại đội gồm có đồng chí: Trần Khắc Chung (Sáu Chung), Trần Bì (Vệ Quốc), Nguyễn Hữu Vị (Tám Vị). Giữa lúc đó, (tháng 3-1960) Ngô Đình Diệm trực tiếp đến Bến Tre khảo sát tình hình và trấn an bọn ngụy quân, ngụy quyền. Diệm quyết tung một lực lượng mạnh để trừ khử cái ung độc Kiến Hòa1 ngay từ đầu để tránh nguy hại về sau.

Ngày 25-3-1960, gần 10.000 quân hỗn hợp (lính thủy đánh bộ, dù, biệt động...) do tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy mở cuộc vây quét ba xã Bình Khánh, Phước Hiệp, Định Thủy. Chúng chia nhiều mũi bao vây chia cắt từng khu vực. Chúng chà đi, xát lạt, lục soát từng bụi cây, đám cỏ tìm diệt lực lượng vũ trang và cơ quan đầu não của tỉnh, quyết dập tắt phong trào đồng khởi ở ba xã điểm. Đi đến đâu lính địch bắn giết, đốt phá, cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ đến đó. 36 thanh niên đã bị chôn sống, 80 đồng bào bị giết chết.

Nhân dân ba xã Định Thủy, Bình Khánh, Phước Hiệp đứng trước một thử thách lớn. Đây không chỉ là sự sống còn của ba xã mà còn là sự sống còn của phong trào đồng khởi của tỉnh. Nhận thức rõ điều này, ban lãnh đạo tỉnh trực tiếp chỉ huy cuộc chống càn đã nghiên cứu, phân tích một cách cụ thể, tỉ mỉ tình hình dịch, ta, đi đến quyết định phát động quần chúng đấu tranh chính trị trực diện với địch, huy động phụ nữ kéo ra quận, tố cáo tội ác địch, đòi chúng phải rút quân kết hợp với lực lượng vũ trang bám trụ bên trong lừa thế đánh địch bảo vệ cơ quan lãnh đạo và nhân dân.

Ngày 1-4-1960, nhân dân ba xã Định Thủy, Bình Khánh, Phước Hiệp làm cuộc “tản cư ngược” ra thị trấn Mỏ Cày. Hàng ngàn phụ nữ với hàng chục ghe thuyền chở theo lợn gà, xoong nồi, chăn màn kéo nhau đi “lánh nạn”. Đến thị trấn, đoàn người đổ vào các đường phố, trước các công sở ngụy quyền, nằm ngồi la liệt, khóc lóc kêu la, tố cáo lính thủy quân lục chiến cướp bóc, đốt nhà, hãm hiếp phụ nữ. Nhân dân thị trấn Mỏ Cày ra đường, thăm hỏi và tiếp tế cơm nước. Ngày hôm sau, 5000 phụ nữ các xã lân cận kéo lên thị trấn tiếp sức, đưa số người “tản cư ngược” lên đến gần 10.000. Đường phố Mỏ Cày tắc nghẽn, chợ búa và một số cơ sở sản xuất trong thị trấn ngừng hoạt động. Các trường học, bệnh viện, Thánh thất, nhà bưu điện, dinh quận trưởng... bị đoàn người vây kín... Nhân dân lớp đưa đơn, người nói miệng yêu cầu quận trưởng cho nhờ nương náu, chờ “quần áo rằn” rút. Chị em còn khích động quận trưởng: lính chủ lực coi thường quân địa phương, chửi cả quận trưởng, tỉnh trưởng. Quận trưởng Mỏ Cày tức tối, báo cáo với tỉnh trưởng. Tỉnh trưởng bực mình, lên Sài Gòn tố giác lính thủy quân lục chiến sát hại nhân dân, coi thường các nhà chức trách địa phương.

Trước sức mạnh và lời lẽ có lý, có tình của đội quân chính trị hùng hậu, đại diện của tổng thống Diệm, tỉnh trưởng Bến Tre, quận trưởng Mỏ Cày và tên đại tá chỉ huy lực lượng thủy quân lục chiến ở Sài Gòn phải xuống tận xã điều tra, lập biên bản thừa nhận tội ác và hứa sẽ rút quân về.
Trong khi lực lượng chính trị đấu tranh trực diện với địch thì lực lượng vũ trang đánh tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận địch, làm cho binh lính bắt đầu chán nản. Nhân cơ hội này, bộ đội và cơ quan lãnh đạo tỉnh rút khỏi vòng vây và di chuyển an toàn lên huyện Minh Tân và Giồng Trôm để chỉ đạo phong trào.

Ngày 20-4-1960, địch rút khỏi ba xã Định Thủy, Bình Khánh, Phước Hiệp. Cuộc phản công quy mô lớn của địch vào ba xã điểm Đồng khởi của tỉnh đã thất bại trước tinh thần đấu tranh kiên quyết và khéo léo với sự kết hợp ba mũi chính trị, quân sự và binh vận của nhân dân Mỏ Cày, đặc biệt là phụ nữ. Địch hoảng sợ và gọi những người phụ nữ Bến Tre tay không mà thắng giặc là “đội quân tóc dài”.
_____________________________________
1. Tên gọi của Bến Tre cũ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:34:32 pm

Qua đồng khởi đợt I, Bến Tre thể nghiệm thành công phương pháp kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận góp cho cách mạng miền Nam phương pháp đấu tranh mới trong lãnh đạo khởi nghĩa động loạt. Từ cuộc “tản cư ngược” của phụ nữ Bến Tre, “đội quân tóc dài” ra đời. Đó là những cống hiến của Bến Tre trong phong trào Đồng khởi, là điển hình về sự kết hợp các phương thức đấu tranh chính trị, binh vận với vũ trang.

Cùng với Trung Nam Bộ, ở Tây Nam Bộ, từ đầu 1960, phong trào Đồng khởi cũng diễn ra sôi nổi, đều khắp và liên tục.

Cà Mau - tỉnh tận cùng của đất nước - Tỉnh ủy họp ngày 6-1-1960, chủ trương kiện toàn các đơn vị vũ trang hỗ trợ quần chúng khởi nghĩa đồng loạt. Trong lúc Tỉnh ủy đang họp, một bộ phận của tiểu đoàn Ngô Văn Sở (lực lượng vũ trang tỉnh) do các đồng chí Út Điệp, Sáu Nhung chỉ huy vượt 20km đường biển tiến công cứ điểm Hòn Khoai, diệt một trung đội địch đóng tại đây.

Tiếp đó, bộ đội cùng du kích và nhân dân nổi dậy diệt và bức rút các bốt dân vệ giải phóng các xã Viên An, Tân Ân. Phong trào phát triển tới tận thị xã Cà Mau. Với sự hỗ trợ của bộ đội Đinh Tiên Hoàng, du kích An Xuyên đã phục kích bắt gọn cả hội đồng xã đưa vào căn cứ giáo dục. Tại xã Tân Thành chi bộ lãnh đạo quần chúng làm công tác binh vận, kết hợp bộ đội và du kích phục kích diệt một trung đội địch (27 tên), thu toàn bộ vũ khí, giải tán hội đồng xã, làm chủ hoàn toàn xã Tân Thành.

Đặc biệt ở Đầm Dơi, quần chúng xã Tạ An Khương đã nổi dậy cùng du kích bắt toàn bộ tề xã. Xã Tân Thuận được sự hỗ trợ của đơn vị Ngô Văn Sở, nhân dân kéo đến ấp Tân Thuận đánh trống mõ bao vây địch suốt 7 ngày đêm. Địch trong đồn hoảng sợ phải đầu hàng. Ta bắt 15 tên, thu 15 súng.

Bộ Tổng tham mưu ngụy đã phải đưa tiểu đoàn 3 Bắc Ái (trực thuộc phủ Tổng thống) về Đầm Dơi. Chúng đổ quân vào xã Thanh Tùng. Tiểu đoàn Ngô Văn Sở sử dụng 2 đại đội phục kích địch tại Bến Dựa (trên sông Cái Ngang), 6 giờ 30 ngày 6-3-1960, một cánh quân của địch gồm 1 đại đội của tiểu đoàn Bắc Ái, 1 tiểu đội bảo an và tên quận trưởng Đầm Dơi lọt vào trận địa phục kích của ta. Bộ đội nổ súng diệt gọn. Kết quả: ta diệt và bắt sống 150 tên, thu 133 súng. Đây là trận tiêu diệt gọn và thu nhiều vũ khí ở Cà Mau. Thắng lợi của trận đánh đã thúc đẩy phong trào Đồng khởi ở vùng đất mũi.

Ở Sóc Trăng, Tỉnh ủy chọn Long Điền (huyện Giá Rai) làm điểm chỉ đạo đồng khởi của tỉnh. Tại đây ngày 19-3-1960, tiểu đoàn Phú Lợi (lực lượng vũ trang tỉnh) tiến công đồn Cây Giang, diệt gọn 1 trung đội dân vệ, thu toàn bộ quân trang quân dụng. Tiếp đó, tiểu đoàn diệt đồn An Trạch, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá rã bộ máy kìm kẹp ở xã, ấp, mở ra vùng giải phóng gồm hai xã sát lộ 4. Ở huyện Hồng Dân, quần chúng nổi dậy chiếm đồn Ninh Quới, giải tán lực lượng bảo vệ hương thôn. Huyện Long Phước, ta diệt cảnh sát, giải tán “thanh niên cộng hòa”, bao vây chi khu Ngan Dừa. Tại huyện Vĩnh Lợi, lực lượng vũ trang kỳ tập diệt Vĩnh Phước, kết hợp nội ứng chiếm đồn Tân Lập, giáo dục 1 trung đội giữ đồn về với cách mạng. Phát huy thắng lợi này, quân dân hai huyện Vĩnh Lợi và Vĩnh Châu đẩy mạnh tiến công địch, diệt 23 đồn, thu trên 1000 súng, giải phóng 50.000 dân.

Sáu tháng đầu năm 1960, Sóc Trăng đã giải phóng một vùng nông thôn rộng lớn bao gồm các huyện Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên, Gia Rai, Hồng Dân, Vĩnh Lộc.

Ở Cần Thơ ngày 10-2-1960, Tỉnh ủy họp quyết định bỏ phân hiệu các đơn vị mang tên giáo phái, thành lập tiểu đoàn Tây Đô. Hưởng ứng phong trào nổi dậy trong khu, Cần Thơ chọn xã Thới Lai (huyện Ô Môn) làm trọng điểm I, xã Vĩnh Viễn (huyện Long Mỹ) làm trọng điểm II để phát động quần chúng nổi dậy. Chuẩn bị cho cuộc nổi dậy tỉnh mở đợt hoạt động vũ trang. Để tạo thế cho cuộc đồng khởi ngày 5-2-1960, tiểu đoàn Tây Đô phục kích đánh một đại đội bảo an ở Cây Me thuộc xã Trường Thành, huyện Ô Môn và diệt đồn Vàm Xáng (xã Nhơn Nghĩa) đêm 28-2. Sang tháng 3, trên đà thắng lợi, tiểu đoàn Tây Đô đánh diệt một đại đội bảo an ở xã Trường Long, tập kích địch ở đồn Cờ Đó (Ô Môn) diệt đại đội bảo an thứ hai, thu hơn một tấn vũ khí đạn dược (26-3). Thắng lợi của đòn quân sự đã khích lệ quần chúng trong vùng nổi dậy đập tan bộ máy kìm kẹp của địch ở thôn, ấp, giành quyền làm chủ.

Tiểu đoàn Tây Đô lại cơ động về Long Mỹ, phối hợp với bộ đội huyện hoạt động vũ trang hỗ trợ cho nhân dân phá khu trù mật Vị Thanh, bức hàng đồn Vàm Ninh, diệt địch ở xã Vĩnh Viễn, đồn Tô Ma và Vịnh Chèo. Bị đánh mạnh, địch tập trung quân tổ chức phản kích. Ngày 9-4-1960, địch càn vào Xẻo Cỏ (xã Long Phú), tiểu đoàn Tây Đô đánh diệt 79 tên (có một tỉnh đoàn trưởng bảo an). Ngày 6-5-1960, địch lại đưa 4 tiểu đoàn càn quét tại Rạch Ông Dựa (xã Trường Thành, huyện Ô Môn). Tiểu đoàn Tây Đô kết hợp với lực lượng vũ trang huyện Ô Môn chống càn thắng lợi, diệt 200 tên, bắt sống 6 tên, thu 30 súng các loại cùng nhiều quân trang quân dụng. Đây là lần đầu tiên Cần Thơ đánh bại cuộc càn lớn của địch. Sau những thắng lợi của đợt một. Cần Thơ đã tạo được thế và lực mới để chuẩn bị cho đồng khởi đợt hai.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:35:18 pm

Tại tỉnh Rạch Giá, đầu 1960, tỉnh đảng bộ đang tổ chức học tập Nghị quyết 15 của Trung ương, thì 3.000 quân địch càn quét vào vùng căn cứ U Minh. Vừa học tập Nghị quyết Tỉnh ủy vừa chỉ đạo tập trung lực lượng quân sự và chính trị kiên quyết đánh bại cuộc càn của địch, để tạo thế cho quần chúng nổi dậy. Đêm 12-2-1960, đại đội 202 của tiểu đoàn Ngô Văn Sở (lực lượng vũ trang tỉnh) được tăng cường một bộ phận bảo vệ tỉnh ủy tập kích tiêu diệt gọn bộ chỉ huy hành quân và một đại đội biệt động ngụy đóng tại Xẻo Cạn (xã Đông Yên, huyện An Biên). Trận đánh đã tác động đến tinh thần binh lính địch. Nhân lúc địch đang hoang mang, quần chúng bị bắt đi đào kênh xuyên rừng U Minh Thượng, nhất loạt bỏ về, kế hoạch càn phá U Minh của địch bị thất bại.

Ngày 15-2-1960, đại đội 203 ( tiểu đoàn Ngô Văn Sở) tiến công chi khu Gò Quao, diệt 1 đồn dân vệ và một số điểm trong chi khu. Cùng thời gian này ngày 14-2-1960 ở Hà Tiên, tiểu đoàn Lê Quang với 93 cán bộ, chiến sĩ, trang bị chủ yếu súng trường, mã tấu, đồng loạt tiến công 3 đồn dân vệ hỗ trợ cho 7000 dân trong khu trù mật Ba Thê (một trong 4 khu trù mật lớn ở Tây Nam Bộ), phá tan hệ thống kìm kẹp, đốt hết nhà cửa, trở về quê cũ. Cay cú vì khu trù mật lớn mà địch đã cố công xây dựng trong 2 năm chỉ trong một đêm đã bị phá banh, sáng 16-2-1960, địch huy động tiểu đoàn quân dù, 1 đại đội biệt động quân và 3 đại đội bảo an đánh vào tiểu đoàn Lê Quang. Cán bộ và chiến sĩ của tiểu đoàn đã chiến đấu anh dũng, bẻ gẫy nhiều đợt tiến công của địch, diệt 400 tên. Cùng với các trận đánh của lực lượng vũ trang, quần chúng khắp nơi trong toàn tỉnh nổi dậy phá rã hệ thống kìm kẹp của địch ở cơ sở, giành quyền làm chủ.

Trong khi đó ở miền Đông Nam Bộ, do tác động của trận đánh Tua Hai cũng như phong trào nổi dậy ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nhân dân nhiều tỉnh đã vũ trang diệt ác và nổi dậy.

Tỉnh Thủ Dầu Một, ngày 31-1-1960, tại căn cứ Giếng Chảo rừng An Điền (Bến Cát). Tỉnh ủy họp và quyết định sử dụng toàn bộ lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nổi dậy vào ngày 25-2-1960. Tỉnh có thế mạnh là xây dựng được nhiều cơ sở nội tuyến trong hàng ngũ địch1, nên Tỉnh ủy chủ trương lãnh đạo cơ sở nội ứng, vận động thuyết phục, đánh địch từ bên trong, kết hợp với lực lượng vũ trang bao vây, uy hiếp đồn, bốt địch, để hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy.

Nam Bến Cát (gồm các xã Thới Hòa, Phú An, An Điền, An Tây) - nơi có cơ sở chính trị mạnh, có lực lượng vũ trang của khu đứng chân, được chọn làm điểm chỉ đạo của tỉnh. Thới Hòa là điểm đột phá. Tại đây, từ giữa tháng 2-1960, nhân cơ hội địch ở đồn Thới Hòa vừa lĩnh lương, chi bộ xã đã lãnh đạo cơ sở nội ứng tổ chức tiệc rượu rồi gom súng. Khi cả bọn đã ngấm rượu ta nổ súng diệt ác ôn và kêu gọi số còn lại đầu hàng. Bên ngoài, quần chúng cùng gia đình binh sĩ kéo tới đồn thuyết phục chồng, con, em trở về với cách mạng. Kết quả ta chiếm đồn Thới Hòa, thu toàn bộ vũ khí, giải tán tề vệ, đốt phá trụ sở ngụy quyền và xây dựng lực lượng tự vệ xã. Thới Hòa là ngọn cờ tiên phong trong phong trào đồng khởi toàn tỉnh.

Đêm 25-2-1960 (ngày dự kiến nổi dậy của tỉnh), cuộc đồng khởi đã nổ ra trên nhiều điểm chỉ đạo của tỉnh, huyện.

Ở Bến Cát, lực lượng vũ trang bao vây các đồn Phú An, Rạch Bắp rồi dùng đất đèn bỏ vào ống tre, trình mắm, đốt nổ vang trời giả pháo lớn, làm địch khiếp sợ. Nhân dân các xã Phú An, An Điền, An Tây nổi thùng thiếc, mõ, thanh viện uy hiếp địch. Các tổ hành động, thanh niên gậy gộc đi truy lùng, trừng trị bọn ác ôn lẩn trốn. Địch ở các đồn Phú An, Rạch Bắp hoảng sợ rút chạy. Cơ sở của ta ở các đồn Hòa Nhật, Tân Hóa vận động binh sĩ làm binh biến, diệt chỉ huy ác ôn mang súng về với cách mạng. Tề xã, tề ấp, gián điệp, số bị diệt, số bỏ chạy.

Tân Định, điểm chỉ đạo của huyện Châu Thành, cơ sở nội ứng phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh diệt trung đội dân vệ xã, thu toàn bộ vũ khí. Thừa thắng lực lượng vũ trang huyện phối hợp với quần chúng nổi dậy phá trụ sở ngụy quyền, truy bắt và diệt tề điệp ác ôn. Phong trào lan rộng từ Tân Định đến An Hòa, An Lợi, Vĩnh Tân, Chánh Lưu, Bình Mỹ, Phú Chánh.

Ở Lái Thiêu, các tổ hành động được quần chúng hỗ trợ tiến hành diệt ác, trừ gian đồng loạt ở các xã Thuận Giao, Bình Chuẩn, Bình Hòa, Hòa Lân. Địch phản ứng quyết liệt. Chúng tập trung lực lượng mở cuộc càn lớn vào Thuận Giao. Ta vừa tổ chức chống càn, vừa bí mật chuyển hướng hoạt động ra An Sơn, An Trạch, Bình Nhâm, Hưng Định, Phú Long, Vĩnh Phú...

Huyện Tân Uyên, đồng khởi bắt đầu từ các xã ở chiến khu Đ, sau đó lan ra các vùng gần thị trấn. Tại đây, nhân dân và lực lượng vũ trang tiến công hàng loạt trụ sở tề xã, ấp, trừng trị ác ôn ở Phước Hòa, An Linh, Phước Sang, Mỹ Lộc, Đất Quốc, đánh phá giao thông, phá hủy nhiều xe địch, giết cả tên quận trưởng.
_____________________________________
1. Toàn tỉnh có 220 cơ sở nội tuyến. Đại đội bảo an ở Lộc Ninh 25% là cơ sở của ta.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:36:04 pm

Phối hợp với phong trào Đồng khởi trong toàn tỉnh, công nhân và đồng bào ở các làng thuộc khu vực đồn điền cao su Dầu Tiếng, Hớn Quản, Lộc Ninh nổi dậy giành quyền làm chủ.

Phong trào lan rộng từ các vùng nông thôn đến thành thị. Hàng ngàn quần chúng ở thị xã, thị trấn nổi dậy đấu tranh đòi giảm thuế, đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống bắt lính...

Sau hơn một tháng kết hợp tiến công với nổi dậy, quân dân Thủ Dầu Một đã giải phóng gần hết huyện Bến Cát, bắc Châu Thành và một phần Lái Thiêu, làm chủ hơn 40 ấp thuộc 25 xã trên 46 xã toàn tỉnh và hơn 10 làng trên 22 làng công nhân cao su, diệt hơn 100 tề điệp, ác ôn, giải tán nhiều dân vệ, bức hàng, bức rút hàng chục đồn, bốt địch, thu 300 súng các loại.

Đồng khởi ở Thủ Dầu Một đã mở ra một vùng căn cứ khá vững chắc, tạo thế liên hoàn từ bắc Lái Thiêu qua Châu Thành, Bến Cát, Long Nguyên, Dầu Tiếng đến vùng rừng núi Hớn Quản, Lộc Ninh.

Cùng với Thủ Dầu Một là Phước Long. Do đặc điểm riêng của tỉnh (địa hình rừng núi là chủ yếu lại nằm ở biên giới phía tây - tây bắc Đông Nam Bộ) nên Tỉnh ủy xác định nhiệm vụ chủ yếu là đẩy mạnh xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng căn cứ địa ở vùng đồng bào dân tộc. Hưởng ứng phong trào Đồng khởi, lực lượng vũ trang của tỉnh đã tiến công tiêu diệt các đồn An Bình, Nước Vàng, mở cửa vào Đồng Xoài, giải tán các trạm kiểm lâm của địch ở các cửa khẩu. Công nhân cao su và đồng bào các dân tộc tranh thủ thời cơ nổi dậy phá rã tề địch ở cơ sở.

Trong lúc đó, ở Bà Rịa, tháng 2-1960, Tỉnh ủy họp và quyết định dùng đại đội 40 (lực lượng vũ trang của tỉnh) làm nòng cốt, phát động nhân dân trong tỉnh nổi dậy. Điểm chỉ đạo của tỉnh là vùng Tam Long (Hòa Long, Long Phước, Long Tân) các cơ sở cao su dọc lộ 2 và các xã xung quanh căn cứ Minh Đạm thuộc huyện Đất Đỏ. Điểm đột phá là đồn điền cao su Bình Ba. Trung tâm đồn điền nằm trên lộ 2, cách thị xã Bà Rịa 8 km về phía bắc. Tại đây địch đã xây dựng ba bốt: dân vệ, bảo an và hiến binh, mỗi bốt khoảng một tiểu đội, trang bị 3 trung liên và một số súng trường, tiểu liên.

Tối 30-3-1960, lực lượng ta hành quân đến vị trí tập kết cách đồn địch 100m. Đại đội 40 sau khi bố trí 2 tiểu đội chặn quân viện ở hai đầu lộ 2, số còn lại chia làm 3 mũi bí mật tiếp cận mục tiêu và dùng lựu đạn, thủ pháo đồng loạt đánh các bốt địch, diệt nhiều tên, số còn lại bỏ chạy tán loạn. Ta thu 8 súng và hơn 1 tấn đạn, bắt sống trưởng bốt hiến binh.

Chiến thắng Bình Ba đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào nổi dậy trong tỉnh, nhất là ở vùng điểm chỉ đạo của tỉnh.

Tại các cơ sở cao su ở Xà Bang, Xuân Sơn, Ngãi Giao, sông Cầu... nhân dân cùng với công nhân đã nhất tề vùng dậy, dùng gậy gộc, mã tấu, dao cạo mủ truy lùng ác ôn, làm chủ xã, ấp. Hàng trăm đồng bào xã Long Phước nổi trống mõ, đốt đuốc, kéo đến bao vây bốt địch ở trung tâm xã, bắt tề ngụy ác ôn phải ra thú tội trước nhân dân.

Ở vùng Đất Đỏ, đêm 6-4-1960, đội vũ trang tuyên truyền của huyện diệt đồn dân vệ ở Long Mỹ, thu 4 súng. Nhân dân nổi dậy, nổi trống mõ, đốt nhà hội tề. Địch ở địa phương hoảng sợ chạy trốn về chi khu. Tranh thủ thời cơ thuận lợi, đội vũ trang huyện mở rộng hoạt động dọc lộ 52 và 23 hỗ trợ cho nhân dân Đất Đỏ, Long Hội Mỹ, Long Tân, Long Điền, An Ngãi nổi dậy giành quyền làm chủ.

Trên địa bàn tỉnh Long Khánh, do tác động của phong trào tỉnh Bà Rịa, từ tháng 4-1960, nhiều nơi quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ xã, ấp với nhiều mức độ khác nhau.

Phong trào nổi dậy đồng loạt ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ đã chia sẻ lực lượng địch buộc chúng phải căng kéo đối phó khắp nơi. Trong tình hình đó, ở Biên Hòa vào đầu 1960 mặc dù toàn tỉnh chỉ còn hai chi bộ1, 1 trung đội vũ trang, tỉnh ủy chỉ còn 4 ủy viên do đồng chí Lê Quang Chữ làm Bí thư. Tỉnh ủy vẫn chủ trương mở một đợt vũ trang tuyên truyền, trọng điểm là bốn xã thuộc chiến khu Đ (Thường Lang, Tân Tịch, Tân Hòa, Mỹ Lộc).
_____________________________________
1. Chi bộ xã Lý Lịch và chi bộ xã Thái Hòa.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:36:49 pm

Đầu tháng 3-1960, với sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tỉnh, nhân dân bốn xã vùng chiến khu Đ đã nổi dậy làm chủ một vùng tương đối rộng tạo bàn đạp phát triển xuống các vùng sâu.

Phong trào Đồng khởi ở nông thôn đã tác động mạnh đến Sài Gòn, Gia Định. Từ tháng 2-1960, nhiều vùng nông thôn ở Gia Định đã nổi dậy giành quyền làm chủ xóm, ấp. Tại Củ Chi, khi huyện ủy phát lệnh: “Nhất tề nổi dậy, phá rã nông thôn”, với sự hỗ trợ của đội vũ trang huyện, đồng bào đã xông vào nhà thông tin các xã xé ảnh Diệm, xé cờ ba que, xé khẩu hiệu chống cộng của địch. Trên các lộ 7, lộ 15, hàng ngàn đồng bào biểu tình rải truyền đơn, căng biểu ngữ cách mạng. Bọn tề ấp, tề xã hoảng sợ bỏ chạy. Lực lượng vũ trung của khu (C13) hoạt động ở các huyện Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè, Duyên Hải, Thủ Đức, Dĩ An đã diệt các đồn An Hòa, Tân Thạnh Tây, Trung Hòa, An Nhơn Tây, nhà hàng Bến Mương... hỗ trợ quần chúng nổi dậy. Đến tháng 3-1960, nhân dân đã làm chủ các xã Phú Mỹ Hưng, Nhuận Đức và một số ấp thuộc các xã An Nhơn Tây, Trung Lập và vùng bắc Củ Chi.

Ở nội thành Sài Gòn - Gia Định. Thành ủy chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, chĩa mũi nhọn vào chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, kết hợp với đòi quyền dân sinh, dân chủ cho quần chúng lao động.

Thực hiện chủ trương của Thành ủy, ngay đầu năm 1960, công nhân các hãng dầu Sen, Stanta, Côsôny, công ty điện nước, lái xe tắc xi, hãng giày ba ta...đã đấu tranh buộc chủ sở phải trả công cho công nhân hàng triệu đồng.

Học sinh, sinh viên đấu tranh chống chế độ thi cử khắc nghiệt, đòi dạy tiếng Việt ở bậc đại học, đòi mở thêm trường lớp ở nội, ngoại thành. Giáo sư các trường công và tư ở Sài Gòn phản đối Mỹ - Diệm bắt bớ và đóng cửa nhiều trường tư thục. Luật sư ở Sài Gòn và Huế lên án luật 102 (luật khống chế giới luật sư và hạn chế tự do của họ) của Diệm. Đặc biệt tháng 1-1960, thanh niên Sài Gòn đã treo cờ đỏ búa liềm ở chợ Bến Thành cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần chúng.

Cuộc đấu tranh của Sài Gòn - Gia Định không chỉ giới hạn ở nội thành mà còn lan rộng ra các vùng Củ Chi, Dầu Tiếng, Lai Khê, Bến Củi, Phú Hòa, Trảng Bom, Xuân Lộc. Ở những nơi này công nhân cao su và nhiều tầng lớp tổ chức hội thảo, ra kiến nghị, phát đơn kiện thanh tra lao động, tố cáo ngụy quyền địa phương và cảnh sát, nhờ đăng báo gửi Ngô Đình Diệm, đòi phải trả lời.

Khác với các tỉnh Nam Bộ, Trị - Thiên là khu đệm nối hậu phương lớn miền Bắc XHCN với miền Nam, do địch kiểm soát. Trong điều kiện tình hình chính trị quốc tế diễn biến phức tạp, để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và bè bạn xa gần và kiềm chế Mỹ, Trung ương Đảng chủ trương cho Trị - Thiên hoạt động quân sự phải hạn chế, không rầm rộ, có mức độ, nhất là vùng Quảng Trị, đường 9 và biên giới Việt - Lào.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 15 và chỉ thị của trên, căn cứ thực tiễn địa phương, Tình ủy Quảng Trị và Thừa Thiên chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang tự vệ mức độ hạn chế, nắm thời cơ phát động phong trào nổi dậy ở miền núi.

Cuối năm 1959 đầu năm 1960, những cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân chống luật 10/59, chống lập khu dinh điền, chống bắt lính, đòi cứu trợ nạn đói liên tục nổ ra. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh 16 ngày liền của đồng bào Quảng Trị chống địch lấp sông Bến Ngự để làm đường quân sự. Qua đấu tranh, cơ sở cách mạng ở đồng bằng bước đầu được phục hồi, căn cứ địa miền núi được xây dựng một bước, các đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của Trị - Thiên - Huế lần lượt ra đời1.

Trước sự phát triển của phong trào, địch phải tăng cường đối phó, nhất là đối với, miền núi. Chúng củng cố hệ thống đồn bốt để khống chế từng vùng, dùng lực lượng chính quy và biệt kích càn quét liên tục, ra sức dồn dân vào các khu tập trung, tung lực lượng án ngữ các vùng giáp ranh và biên giới Việt - Lào.

Đi đôi với càn quét, đàn áp, địch còn thực hiện chính sách chia rẽ giữa người Kinh và người Thượng, mua chuộc các chức sắc, lập các trại biệt kích và các đơn vị người Thượng để đánh phá phong trào. Hành động đó đã gây phẫn uất trong đồng bào các dân tộc, lẻ tẻ đã xảy ra những vụ diệt ác. Tháng 7-1960, du kích và thanh niên La Đụt diệt 3 tên địch từ đồn A Lưới lên, thu 3 súng. Ngày 12-6-1960, ông Kon Sâm dùng nỏ có tên thuốc độc giết chết tên thiếu tá ngụy ở thôn Kon Kô.

Lúc này phong trào Đồng khởi ở Nam Bộ phát triển mạnh đã tác động và cổ vũ phong trào đấu tranh của nhân dân Trị - Thiên.
_____________________________________
1. Đến giữa 1960, Quảng Trị có ba đội: 59A, 59B và đội 45. Thừa Thiền Huế có đội 105, một đội trinh sát và một đội đặc công.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 12:37:29 pm

Tháng 7-1960, bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị tiêu diệt vị trí Tuồi Muồi, diệt một trung đội địch. Chiến thắng Tuồi Muồi đã thúc đẩy phong trào nổi dậy ở Quảng Trị, nhất là vùng nam đường 9. Tại đây phong trào đấu tranh của nhân dân diễn ra dưới nhiều hình thức từ đấu tranh công khai hợp pháp đến bất hợp pháp, kết hợp với diệt ác trừ gian, bao vây đồn bốt, giải tán ngụy quyền, lập chính quyền nhân dân tự quản.

Ở Thừa Thiên, tháng 10-1960, địch mở các cuộc hành quân dồn dân vào các trại tập trung, đồng bào không chịu, bỏ chạy vào rừng sâu và đòi vũ trang đánh địch. Tình thế bắt buộc, không thể dừng hoặc lùi lại được nữa, Tỉnh ủy Thừa Thiên đã phát động phong trào nổi dậy đều khắp. Mở đầu, lực lượng vũ trang của tỉnh trừng trị tên chánh tổng của đảng “Cần lao nhân vị” ở Khe Tranh. Tiếp đó là hai cuộc đấu tranh lớn với sự tham gia của hàng chục làng ở xã Hương Lâm, Phong Lâm. Nhân dân trừng trị hai tên chánh, phó tổng ác ôn, tuyên bố xóa bỏ ngụv quyền. Các thôn, xã đều lập chính quyền nhân dân tự quản, tổ chức các đội du kích, xây dựng bản làng chiến đấu. Phong trào nổi dậy phát triển mạnh, buộc địch phải rút bỏ nhiều vị trí ở Tuồi Muồi, Tà Rụt, Trại Cá, Sa Trần, Ly Tông và co lại các vị trí lớn A So, A Lưới, Nam Đông, Khe Tre... Địch mở nhiều cuộc hành quân giành lại miền núi Trị - Thiên, nhưng chúng không thực hiện được. Đại bộ phận miền núi Thừa Thiên và một vùng rộng lớn miền núi Quảng Trị (có 8 xã huyện Tuồi Muồi, 3 xã nam Hoang Hóa, 5 xã Ba Lòng và một số thôn của xã Hải Phúc) được giải phóng, tạo ra vùng căn cứ rộng lớn, liên hoàn có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của phong trào cách mạng ở Trị - Thiên và trong việc mở rộng, bảo đảm hành lang vận chuyển tiếp tế từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Thắng lợi của phong trào nổi dậy ở miền núi Trị - Thiên góp phần vào thắng lợi to lớn của cao trào đồng khởi toàn miền Nam trong năm 1960, buộc Mỹ - ngụy phải bỏ kế hoạch: “Vừa bình định miền Nam, vừa chuẩn bi tiến ra miền Bắc” để quay về tập trung đối phó với phong trào cách mạng miền Nam.

Khu V, sau khởi nghĩa Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi, địch tập trung đánh phá ác liệt khắp các căn cứ miền núi, từ Ninh Thuận đến Quảng Đà. Chỉ trong ba tháng đầu năm 1960, chúng đã mở 52 cuộc càn quét từ một đại đội đến hai tiểu đoàn. Kết hợp lùng sục, đối phá làng bản với bao vây kinh tế, triệt phá mùa màng. Địch đã làm cho nhân dân vùng căn cứ Quảng Ngãi và Ninh Thuận phải điêu đứng. Nhiều nơi thuộc huyện Trà Bồng, nhà cửa bị chúng đốt sạch chỉ còn một số thôn, nóc nằm sâu trong núi. Có nơi bị đốt đi đốt lại hàng chục lần. Hàng ngàn gia đình ở vùng thấp, vùng giáp ranh bị địch chà sát phải chạy lên vùng cao.

Mặc dù vậy, được sự cổ vũ của phong trào Đồng khởi ở Nam Bộ, nhân dân Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi vẫn bền gan chiến đấu. Lợi dụng địa thế hiểm trở của rừng núi, với các loại vũ khí thô sơ: chông, bẫy, thò, tên, ná, đồng bào Thượng đã làm thất bại các cuộc càn quét của địch, giữ vững buôn làng giải phóng. Ở đồng bằng lực lượng cách mạng từng bước được khôi phục và chuyển sang thế tiến công.

Giáp với Quảng Ngãi là Quảng Tín và Quảng Đà (nay là tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng), trong những năm tố cộng, diệt cộng (1955-1957) địch đánh phá ác liệt, các cơ sở ở đồng bằng bị vỡ, tỉnh đảng bộ phải dựa vào rừng núi để xây dựng căn cứ, lãnh đạo phong trào. Sau khi tạm ổn ở đồng bằng, địch lại tiếp tục đánh lên miền núi. Từ 1958 địch rải quân đóng dọc đường 16. Đầu 1960, chúng đưa tiểu đoàn lính cộng hòa đánh phá vùng thấp huyện Phước Sơn. Các làng1 Ông Tía, Ông Điếu, Ông Nuông, Ông Dấu... bị địch chiếm đóng. Không chịu nổi sự áp bức kìm kẹp của địch, nhân dân bàn với nhau phải cầm vũ khí đứng lên đánh lại kẻ thù.

Ngày 13-3-1960, nhân dân nóc Ông Tía với 11 tự vệ và 30 gia đình đã nổi dậy dùng rựa chém chết cả tiểu đội lính bảo an đóng trong làng, đốt trụ sở ngụy quyền, rồi rời vào rừng sâu, tổ chức bố phòng chống địch càn quét. Năm ngày sau, địch đưa một đại đội càn vào làng. Chúng đốt sạch nhà cửa, phá hết hoa màu trên rẫy. Nhưng khi địch tiến sâu vào hướng làng mới, chúng vấp phải chông thò, nhiều tên chết và bị thương, buộc phải rút lui. Theo gương nóc Ông Tía, hơn 10 làng khác ở vùng thấp huyện Phước Sơn cũng tổ chức đấu tranh bất hợp pháp, rào làng, bố phòng, tạo thế liên hoàn đánh địch.

Nổi dậy ở nóc Ông Tía là cuộc nổi dậy có vũ trang đầu tiên ở miền núi Quảng Nam. Tuy quy mô không lớn, song nó là cái mốc quan trọng mở đầu thời kỳ đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang của tỉnh để mở rộng căn cứ địa cách mạng, xây dựng và phát triển lực lượng. Ở đồng bằng, lực lượng vũ trang tuyên truyền và bộ đội đặc công tỉnh diệt tên Hường, chi phó công an huyện Đại Lộc, tên Quí, chi trưởng công an quận Hiếu Đức và tổng đoàn dân vệ xã Xuyên Phú huyện Duy Xuyên... Những hoạt động đó đã hỗ trợ cho phong trào đấu tranh ở các huyện đồng bằng phát triển.

Thời gian này ở Bình Định, du kích tập trung huyện Vân Canh có sáng kiến đánh giao thông bằng cách đập các ống kim loại tròn vừa bằng chiếc ê-cu để mở ốc các thanh tà vẹt, rồi dùng dây mây bện để kéo đường ray. Tháng 3-1960, khi đoàn tàu quân sự địch vừa đến đoạn Mục Thịnh, 4 chiến sĩ du kích dồn sức kéo bật thanh đường ray, đầu tàu và 16 toa lao xuống vực làm chết 100 tên lính ngụy, phá hỏng hàng chục tấn hàng.

Các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, các đội vũ trang công tác thọc sâu xuống đồng bằng, trừng trị tên chỉ huy trưởng công an Ba Ngòi (Khánh Hòa), chi trưởng công an Dư Khánh (Ninh Thuận) v.v… Hoạt động vũ trang của ta tăng lên làm một số tên trong bộ máy ngụy quyền thôn, xã hoang mang dao động. Chúng hoạt động cầm chừng. Các tổ chức cách mạng từng bước được phục hồi.

Thắng lợi to lớn trong cao trào Đồng khởi ở Nam Bộ và những cuộc nổi dậy vũ trang diệt ác ở miền núi Khu V (gồm cả Trị - Thiên) đầu năm 1960 đã đẩy chính quyền tay sai Mỹ ở Sài Gòn bước vào thời kỳ khủng hoảng chính trị triền miền, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nhân toàn ta Đồng khởi đợt hai, đưa phong trào cách mạng tiến lên một thời kỳ mới.
_____________________________________
1. Nhân dân quen gọi là nóc.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 09:53:28 pm

II. MIỀN NAM ĐỒNG KHỞI ĐỢT HAI

Sau Đồng khởi đợt một, địch ra sức đề phòng bằng biện pháp dùng lực lượng quân chính quy và bảo an tăng cường càn quét các vùng nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Ở những nơi mà Đồng khởi đợt một ta chưa giành được thắng lợi hoặc vùng địch còn kiểm soát chặt, chúng đóng thêm các đồn bốt và đưa bọn tay sai ác ôn từ trung ương hoặc ở các nơi khác về rà soát, bắt tất cả những người tình nghi, khống chế dân chúng chặt chẽ. Tuy vậy, qua Đồng khởi đợt một, trước sức mạnh của quần chúng, nhiều tên tay sai không dám lộ mặt, lừng chừng, lo giữ lấy thân, mặc cho cấp trên của chúng thúc giục. Không khí bi quan, tư tưởng “chờ thời” bao trùm trong hàng ngũ bọn tay sai cấp dưới của chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong khi đó, khí thế cách mạng của quần chúng đang lên cao, sẵn sàng nổi dậy.

Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ tháng 7-1960, đã đánh giá đúng tình hình là: “… Chúng ta chấp hành đúng đắn Nghị quyết của Trung ương Đảng, đẩy mạnh đấu tranh chính trị và kết hợp với hoạt động vũ trang, lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu, tình hình nông thôn Nam Bộ đã biến chuyển có lợi cho cách mạng. Khí thế quần chúng lên cao, tương quan lực lượng giữa ta và địch có những thay đổi quan trọng... Những thắng lợi của ta, đồng thời cũng là những thất bại của địch. Nói chung trong thời gian qua, địch bị thất ậai nặng nề về chính trị. Chính sách khủng bố ác liệt và quy mô của chúng không thể làm cho quần chúng chùn bước. Mặt dù chúng cố gắng xuyên tạc tình hình thực tế ở nông thôn, cố lừa mị quần chúng và gian xảo đổ lỗi cho bọn tay sai bên dưới, nhưng chúng không thể che giấu bộ mặt thật. Dư luận rộng rãi trong và ngoài nuớc chẳng những kết án chính sách tàn bạo của chúng mà ngày càng thấy rõ chúng đang suy yếu và nhất định bị sụp đổ... Trước phong trào quần chúng trong thời gian qua, địch đã phô bày tất cả những nhược điểm không thể khắc phục được”1. Đó là những điều kiện thuận lợi căn bản để ta phát động Đồng khởi đợt hai. Xứ ủy xác định phương hướng công tác trước mắt là: “Phát động trong các tầng lớp nhân dân ở nông thôn cũng như ở thành thị một phong trào đấu tranh rộng rãi, mạnh mẽ để giữ vững những thắng lợi và tiếp tục tấn công chính trị làm cho địch càng thất bại và bị động hơn nữa trên mọi mặt, nhằm đánh lui từng bước âm mưu chính sách của địch, đưa phong trào tiến lên từng bước, tạo điều kiện và thời cơ cho cuộc khởi nghĩa đánh đổ toàn bộ chính quyền Mỹ - Diệm. Ra sức tích cực xây dựng lực lượng vũ trang và bố trí rộng khắp để đủ sức ứng phó với mọi tình thế. Tích cực xây dựng căn cứ cách mạng”2. Nhiệm vụ cụ thể: “Tính cực đẩy mạnh đấu tranh chính trị có kết hợp đấu tranh vũ trang đúng mức để tiếp tục phá thế kìm kẹp, giữ vững và mở rộng thế chủ động ở nông thôn, đồng thời phải hết sức chú trọng đẩy mạnh phong trào đô thị”3. Xứ ủy chỉ thị cho các tỉnh Nam Bộ nhất loạt nổi dậy vào tháng 9-1960.

Chấp hành chi thị của Xứ ủy, Liên tỉnh ủy miền Tây Nam Bộ phát động quần chúng trong toàn khu nổi dậy đồng loạt vào ngày 14-9-1960.

Trên địa bàn Cà Mau, ngày 14-9, tiểu đoàn U Minh (đơn vị vũ trang của tỉnh) châm ngòi nổ cho Đồng khởi bằng trận tiến công tiêu diệt chi khu quận lỵ sông Ông Đốc. Cùng với đòn tiến công quân sự của lực lượng vũ trang tỉnh, quần chúng đồng loạt nổi trống mõ, đốt khí đá vang trời, kéo đi vây bắt tề điệp ác ôn. Cuộc Đồng khởi giành được thắng lợi lớn. Ta làm chủ hầu hết các vùng nông thôn. Trong đợt này, nhân dân xã Tân Hưng (huyện Cái Nước) đã nêu gương về tinh thần đấu tranh kiên quyết và giành được thắng lợi vẻ vang. Tại đây lực lượng vũ trang huyện (33 đồng chí) kết hợp nội ứng dùng 3 ghe lớn, hóa trang chở quân, bất ngờ tập kích đồn Giá Ngựa, diệt 1 trung đội bảo an, thu 36 súng. Chiến thắng Giá Ngựa đã cổ vũ nhân dân nổi dậy bao vây đồn Vàm Xáng, dùng loa kêu gọi binh lính ra hàng. Địch ngoan cố chống cự. Chúng bắn vào đoàn biểu tình. Chị Nguyễn Thanh Hồng cầm đầu đoàn phất cao cờ đỏ sao vàng, động viên quần chúng giữ vững đội ngũ kiên quyết tiến công. Chị đã bị địch bắn chết. Một bà má lập tức lao lên thay chị giữ cờ. Cả đoàn người tiến lên, địch hoảng sợ phải bỏ đồn tháo chạy. Nhân dân làm chủ xã, ấp. Cuộc nổi dậy lan ra vùng ven ngoại ô thị xã Cà Mau. Đảng bộ thị xã phát động lục lượng vũ trang cùng quần chúng nổi dậy diệt tề, đốt trụ sở xã Giồng Kè, phục kích bắt gọn hội đồng xã An Xuyên, vận động binh lính đồn Tắc Thủ và dân vệ xã Tân Thành quay súng trở về với nhân dân, giải phóng một vùng rộng lớn đến sát thị xã Cà Mau.

Tính đến tháng 12-1960, toàn tỉnh đã san bằng 62 đồn (trong đó có 11 đồn khởi nghĩa, 36 đồn ta giải phóng bằng tiến công quân sự, chính trị kết hợp với nội ứng và binh vận, 15 đồn ta đánh bằng tập kích bất ngờ), thu trên 3.000 súng, giải phóng 55/65 xã, 500/550 ấp trong toàn tỉnh.

Kề với Cà Mau là Rạch Giá, đêm 14-9-1960, tiểu đoàn U Minh 104 đã bao vây, tiến công các đồn Trà Quớn, Nhà Ngang, Cái Nứa, Nước Chảy (cặp sông Cái Lớn). Nhân dân trong 5 khu trù mật, 34 khu tập trung nổi dậy phá banh hệ thống kìm kẹp của địch, bung về làng cũ làm ăn. Gần 200 lính dân vệ và bảo an được sự giáo dục, giúp đỡ của ta đã mang súng trở về với cách mạng.
_____________________________________
1. Trích Nghị quyết Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ lần thứ 5 (7-1960). Tài liệu lưu trữ tại Viện lịch sử Quân sự Việt Nam.
2, 3. Tlđd.
4. Trước là tiểu đoàn Ngô Văn Sở.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 09:54:16 pm

Đến đầu tháng 10-1960, Rạch Giá đã diệt và bức rút 500 đồn bốt giải phóng 15 xã 350 ấp với hàng vạn dân, trong đó phần lớn thuộc các huyện An Biên, Gò Quao, Giồng Giềng, Hà Tiên và Phú Quốc. Các huyện Châu Thành, Tân Hiệp và ven thị xã, nhiều xã chuyển lên thế tranh chấp. Qua phong trào đấu tranh, lực lượng cách mạng, nhất là lực lượng vũ trang tỉnh trưởng thành nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu tình hình.

Ở Cần Thơ, ngày 14-9-1960, khi lệnh Đồng khởi phát ra, tiểu đoàn Tây Đô tiến công vào các đồn, bốt địch ở huyện Châu Thành, Ô Môn, Long Mỹ... tạo đà cho nhân dân thị xã và các huyện vùng lên bao vây, truy quét tề điệp ác ôn, giải phóng xã, ấp...

Nhân dân bao vây đồn Vàm Bi, xã Trường Long (huyện Ô Môn) kết hợp với binh vận, bức hàng đồn này, bắt 6 tên, thu 12 súng. Lực lượng vũ trang huyện Châu Thành, Long Mỹ cùng cơ sở nội tuyến diệt đồn Vàm Sáng và Vĩnh Viễn, thu 30 súng. Địch phải phân tán lực lượng đối phó với phong trào nổi dậy khắp nơi trong tỉnh. Tranh thủ thời cơ này tỉnh ủy phát động quần chúng nổi dậy phá banh khu trù mật Vị Thanh - Hòa Lựu (một trong những khu trù mật lớn ở đồng bằng sông Cửu Long).

Phối hợp với nông thôn nổi dậy, Thành ủy thành phố Cần Thơ huy động 20.000 quần chúng xuống đường biếu tình chống Diệm kết hợp với du kích xã An Bình diệt đồn Rau Răm, thu một số súng trang bị cho ta, hỗ trợ quần chúng tại chỗ nổi dậy chiếm đồn bốt, trừng trị hàng chục tên tề điệp ác ôn.

Chỉ trong tháng 9-1960, Cần Thơ đã giải phóng 11 xã, và 300 ấp (Long Mỹ: 4 xã, Phụng Hiệp: 2 xã, Ô Môn: 5 xã), hàng chục vạn dân giành được quyền làm chủ.

Ở Sóc Trăng, nhân dân huyện Châu Thành (nay là Mỹ Tú) có lực lượng vũ trang hỗ trợ đã nổi dậy gỡ hệ thống đồn, bốt sát chi khu huyện lỵ. Huyện Kế Sách, du kích xã Thới An Hội lấy đồn Cầu Lộ, quần chúng kết hợp với nội ứng diệt đồn Phong Nẫm và truy lùng bọn tề xã, tề ấp. Huyện Long Phú, được lực lượng vũ trang tỉnh hỗ trợ, 19 giờ ngày 13-9-1960, du kích và quần chúng bao vây đồn Bến Bạ (An Thạnh Nhì) vừa phát loa kêu gọi, vừa đưa gia đình binh sĩ ngụy vào vận động. Rạng sáng 15-9-1960, đồn Bến Bạ bị hạ. Ta thu 16 súng, bắt sống tên đồn trưởng. Huyện Thạnh Trị, các xã Gia Hòa, Hòa Tú, Thạnh Quới, Thạnh Phú, Ngọc Tố (nay thuộc Mỹ Xuyên) đồng loạt nổi dậy, bao vây các đồn bốt còn lại ở nông thôn. Địch rút chạy về thị trấn và những đồn, bốt trên các trục lộ giao thông. Huyện Vĩnh Châu được bộ đội tỉnh hỗ trợ, Đảng bộ đã phát động đồng bào Khơme nổi dậy diệt ác phá kìm. Sau 3 tháng (đến cuối 1960), Sóc Trăng đã giải phóng 13 xã với trên 50 ngàn dân, trong đó có 3 xã Cù lao của huyện Long Phú nằm giữa sông Hậu, là căn cứ hành lang quan trọng nối Sóc Trăng - Cần Thơ với Trà Vinh, Vĩnh Long.

Tại Trà Vinh, ngày 14-9-1960, ngọn lửa Đồng khởi cũng bùng lên ở ba xã điểm Mỹ Long, Hiệp Mỹ, Hiệp Thạnh. Ở xã Mỹ Long, ngày đầu ta tấn công, tề xã, dân vệ chống cự quyết liệt. Chúng bắn vào quần chúng làm chết 3 người, bị thương hàng chục người. Sang ngày thứ hai, lực lượng du kích, các gia đình binh sĩ ngụy và nhân dân tiếp tục tiến công và kêu gọi binh lính địch trở về với nhân dân. Lo sợ trước sức mạnh của cách mạng, tề xã và dân vệ đồn Mỹ Long tan rã, đầu hàng. Cùng thời gian với Mỹ Long, nhân dân Hiệp Thạnh, Hiệp Mỹ cũng nổi dậy tiến công địch bằng sức mạnh ba mũi giáp công vây ép, áp đảo kẻ thù. Sáu giờ chiều ngày 15-9-1960, địch trong đồn Hiệp Thạnh đầu hàng, đêm 15-9-1960, địch ở đồn Hiệp Mỹ rút chạy, ta vây bắt gọn vào sáng 16-9. Ba xã hoàn toàn giải phóng. Ta thu trên 100 súng các loại, bắt trọn vẹn 3 ban tề xã, 1 cai tổng.

Được sự cổ vũ từ thắng lợi ở ba xã điểm, các xã Ngũ Lạc, Trường Long Hòa, Long Hữu, Long Vĩnh, Đại An, An Phú Tân, Nhị Long... nhân dân nổi dậy tiến công địch. Lực lượng vũ trang tỉnh (tiểu đoàn 501) đánh địch, bao vây hàng trăm đồn, bốt hỗ trợ cho phong trào. Nổi bật là trận Ninh Quới, trận Lồ Ô, tiểu đoàn 501 diệt hai đại đội bảo an, thu hàng chục súng.

Phối hợp với phong trào nổi dậy ở nông thôn, ngày 15-9-1960, 12.000 người các xã lân cận cùng 2.000 đồng bào thị xã tổ chúc đấu tranh đòi địch phải chấm dứt khủng bố, đàn áp, đòi thả những người bị bắt.

Ngày 20-9-1960, nhân ngày lễ “Đôn Ta” (của dân tộc Khơme), trên 20.000 đồng bào Khơme và 2.000 sư sãi kéo vào thị xã Trà Vinh đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh dân chủ chống khủng bố đàn áp. Địch đưa quân đến chặn các ngả đường, bắn vào đoàn biểu tình làm 10 người chết, hơn 100 người bị thương. Đồng bào vẫn khép chặt đội ngũ, kiên quyết đấu tranh, đưa đơn kiến nghị, buộc tên tỉnh trưởng phải nhận yêu sách, bồi thường tính mạng cho người bị hại.

Ngày 4-10-1960, một cuộc đấu tranh quy mô lớn hơn lại diễn ra tại thị xã Trà Vinh. 40.000 đồng bào nông thôn, có 5.000 đồng bào thị xã hưởng ứng đòi Mỹ - Diệm chấm dứt hành quân, chống bắt lính, đòi cải tổ chính quyền...

Sau ba tháng Đồng khởi, Trà Vinh đã giải phóng hoàn toàn 12 xã, 14 ấp, giải phóng cơ bản 7 xã và 15 ấp khác. Chính quần tự quản ở cơ sở được thành lập lấy tên “Ủy ban giải phóng”. Các cơ sở đảng được củng cố. Lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và du kích xã phát triển.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 09:54:48 pm

Thực hiện chỉ thị Đồng khởi toàn miền của Xứ ủy, Tỉnh ủy Vĩnh Long quyết định chọn bốn xã An Khánh, Hòa Tân, Phú Long, Mỹ Thuận làm điểm chỉ đạo.

Ngày 14-9-1960, Đồng khởi ở Vĩnh Long nổ ra, mở đầu bằng trận đánh đồn Giồng Nồi và Tầm Vu. Ý đồ của ta là đánh nhanh, diệt gọn gây tiếng vang lớn, cổ vũ quần chúng nổi dậy. Song do ta để mất yếu tố bất ngờ, quân địch đông, lại dựa vào công sự kiên cố kháng cự nên ta không dứt điểm được, buộc phải chuyển sang bao vây. Tỉnh huy động hàng ngàn quần chúng và gia đình binh sĩ ở các xã Hòa Tân, An Khánh, Phú Long, Phú Mỹ, Mỹ Thuận cùng bộ đội bao vây và kêu gọi binh lính địch ra hàng. Địch phản kích nhiều lần để phá vây, nhưng đều bị ta bẻ gãy. Sau 16 giờ, địch ở các đồn rút chạy. Hai xã An Khánh, Hòa Tân được giải phóng hoàn toàn. Hai xã Mỹ Thuận, Phú Long giải phóng cơ bản. Ta thu trên 100 súng.

Phong trào lan nhanh ra các xã Mỹ Lộc, Mậu Lộc, Ngãi Tú, Bình Minh, Loan Mỹ, Song Phú (huyện Tam Bình) rồi phát triển ra toàn tỉnh.

Trong lúc đó, ở thị xã, sáng 15-9-1960, hơn 10.000 quần chúng từ nông thôn kéo đến dinh tỉnh trưởng, đấu tranh, đưa kiến nghị chống khủng bố đàn áp, chống bắt xâu, bắt lính và xây dựng khu trù mật. Trước thái độ kiên quyết và sức mạnh cửa đông đảo quần chúng, địch buộc phải chấp nhận yêu sách, hứa sẽ giải quyết.

Đến cuối 1960, Vĩnh Long đã giải phóng hoàn toàn 3 xã, giải phóng cơ bản 30 xã với 45.000 dân.

Hòa cùng khí thế nổi dậy đồng loạt ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ, Liên tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ quyết định lấy ngày 23-9-1960 là ngày các tỉnh trong toàn khu nổi dậy.

Chấp hành quyết định này, Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre đã phát động Đồng khởi đợt hai trong thời gian từ 15 đến 20 ngày. Hướng chính là huyện Giồng Trôm, hướng phụ là huyện Mỏ Cày. Điểm chỉ đạo của huyện Giồng Trôm là 5 xã: Phong Nẫm, Phong Mỹ, Châu Phú, Châu Hòa, Châu Bình. Để nghi binh, đánh lạc hướng địch, tạo điều kiện thuận lợi cho nổi dậy ở nông thôn trong hai ngày 21 và 22-9-1960, tỉnh huy động hàng vạn dân rầm rộ kéo vào thị xã tung tin “Việt cộng” sắp đánh lớn. Ngày 23-9, thị xã vắng tanh, các cửa hàng, cửa hiệu đều đóng cửa. Bọn ngụy quyền hoang mang không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Giữa lúc đó, đại đội 2611 của tỉnh phục kích tiêu diệt gọn 1 trung đội bảo an tại Tây Thạch (huyện Châu Thành) trên đường chúng từ Mỹ Tho vào thị xã. Trung đội vũ trang huyện Giồng Trôm diệt 1 trung đội bảo an tại Lương Quới trên đường từ Giồng Trôm vào thị xã. Đêm 23-9, tự vệ thị xã diệt đồn dân vệ cầu Nhà Thương, tước vũ khí dân vệ ở cầu Cái Cối. Địch tưởng ta sắp đánh lớn, nên sáng 24-9, chúng vội vã rút 2 tiểu đoàn đang đóng ở Giồng Trôm về thị xã.

Chiều 24-9, nhân dân các xã Lương Hòa, Long Mỹ, Bình Hòa (Giồng Trôm) kết bè bằng cây dừa, đặt thuốc nổ thả trôi theo dòng nước, phá sập cầu Bình Chánh, cắt đứt đường từ thị xã đi Giồng Trôm. Đúng 17 giờ ngày 24-9, tiếng trống mõ nổi lên vang động khắp nơi. Bến Tre bừng bừng khí thế bước vào đồng khởi đợt hai. Tại xã Châu Phú ta có anh Chống đại đội trưởng đại đội bảo an là cơ sở nội tuyến. Theo kế hoạch của ta, anh Chống tập hợp đại đội bảo an rồi gom súng để kiểm tra, lúc đó một tiểu đội của đại đội 261 giả làm lính bảo an kéo thẳng vào đồn, vừa kêu gọi binh lính đầu hàng vừa xông vào tước súng địch. Nhân dân tiếp ứng đến san bằng đồn. Một mũi khác, cơ sở nội tuyến của ta dùng xe lam tiến vào bốt Nhà Thờ (Châu Phú), chiếm bốt không tốn một viên đạn.

Cùng thời gian, các xã Phong Nẫm, Phong Mỹ, Châu Bình, Châu Hòa kết hợp với lực lượng vũ trang và nội tuyến bức hàng và san bằng các đồn bốt ở dọc sông Ba Lại, mở ra vùng giải phóng rộng lớn, thu 100 súng, bắt trên 100 tù binh. Thắng lợi ở 5 xã điểm đã cổ vũ các xã khác trong toàn tỉnh nổi dậy. Trong đêm 24-9, hàng chục vạn quần chúng của gần 100 xã đồng loại nổi trống, mõ, đốt ống lói, đốt đuốc, thắp đèn sáng rực xã, ấp, đi biểu tình, thị uy, vây đồn, phát loa kêu gọi địch ra hàng. Trước khí thế mạnh mẽ của phong trào, địch trong 20 đồn, bốt ở Giồng Trôm nộp súng xin hàng. Ở Ba Tri, 10 đồn bị diệt và bức hàng. Châu Thành, Bình Đại, Thạnh Phú, hàng chục đồn bị diệt, hàng chục xã được giải phóng.

Tại Mỏ Cày địch bố phòng tương đối chặt, ngày 3-10-1960, tỉnh phải điều đại đội 261 từ Giồng Trôm sang hỗ trợ. Vượt qua sông Hàm Luông, cán bộ, chiến sĩ 261 kết hợp với nội ứng, lấy đồn Cái Quao, giải phóng xã An Định, rồi tiến xuống Hương Mỹ. Bọn dân vệ ở bốt Tân Trung hoảng sợ rút chạy. Bộ đội ta bao vây, bức hàng đồn Minh Đức. Một loạt xã ở nam Mỏ Cày nổi dậy giành quyền làm chủ. Ở bắc Mỏ Cày trung đội vũ trang huyện cùng nhân dân bức hàng các đồn Thanh Tân, Tân Phú Tây, bao vây cô lập đồn Cái Mơn. Nhiều xã kể cả vùng nhân dân theo đạo Thiên chúa cũng thừa cơ nổi dậy giành quyền làm chủ.
_____________________________________
1. Thành lập tháng 6-1960.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 09:55:25 pm

Bị tiến công khắp nơi, trong tháng 10-1960, địch tung lực lượng ra phản kích. Hàng loạt cuộc đấu tranh chính trị trực diện của quần chúng chống địch khủng bố, càn quét lại diễn ra. Ở nhà thờ La Mã, Cái Mơn nhiều giáo dân đưa đơn kiến nghị yêu cầu cha cố không được tiếp tay cho giặc. Tại quận lỵ Trúc Giang, hơn 1.000 tín đồ các đạo giáo biểu tình phản đối quận trưởng đưa lính đi càn quét khủng bố nhân dân, đòi địch rút quân về trại. Trong khi đó, lực lượng vũ trang tỉnh tích cực đánh địch càn quét ở các vùng trọng điểm huyện Giồng Trôm và Mỏ Cày. Đại đội 261 cùng 1 trung đội của huyện vây đồn Sơn Đốc (Hiệp Hưng) diệt gọn đại đội bảo an quận và 3 tên đại úy chỉ huy chi khu, bắt sống 32 tên, phá hủy 3 xe quân sự, thu toàn bộ vũ khí. Lực lượng vũ trang tỉnh cùng bộ đội huyện Mỏ Cày phục kích ở Cầu Kinh Nhỏ (An Thới) và Cầu Kinh Lớn (An Thạch) diệt 1 đại đội bảo an, bắt sống 17 tên.

Cuối 1960, Bến Tre đã giải phóng hoàn toàn 51 xã trên tổng số 115 xã trong toàn tỉnh. 21 xã được giải phóng một phần. Nhân dân làm chủ 300/500 ấp. Hệ thống kìm kẹp của địch ở nông thôn bị phá vỡ.

Đêm 24-9-1960, Mỹ Tho bước vào Đồng khởi đợt hai. Điểm chỉ đạo của tỉnh là nam lộ 4 thuộc hai huyện Cai Lậy và Châu Thành diện là Chợ Gạo và Gò Công.

Nam lộ 4 là vùng cơ sở ta còn rất ít và yếu, nên Tỉnh ủy đã chia vùng này thành ba khu vực và phân công cán bộ tỉnh, huyện cùng lực lượng vũ trang tăng cường cho từng khu. Khu vực một gồm 11 xã của Cai Lây. Khu vực hai gồm 8 xã của Châu Thành. Khu vực ba: 7 xã giáp ranh thị xã.

Tại các khu vực điểm, tỉnh vận dụng phương thức “phá hoang”. Lực lượng vũ trang chia nhau đi vận động quần chúng tổ chức biểu tình mít tinh trong phạm vi từng ấp, rồi lấy lực lượng ấp này loan ra thu hút lực lượng ấp khác. Cứ thế, từ một ấp lan ra toàn xã, từ xã này lan qua xã khác. Trong 4 ngày đầu, cả 8 xã điểm ở khu vực hai đều nổi dậy diệt ác, phá kìm, xé cờ ba que, ảnh Diệm, bao vây đồn bốt, bức địch rút hoặc đầu hàng. Đến ngày thứ 10, cả 11 xã ở khu vực một cũng nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều xã, ấp. Riêng khu vục ba, giáp ranh thị xã, do lực lượng địch đông, chống trả quyết liệt, nên cuộc nổi dậy có yếu hơn các nơi khác. Tuy vậy, nhân dân cũng làm chủ được một số xã ấp.

Phía diện Chợ Gạo, có lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân đã nổi dậy diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ nhiều xóm ấp.

Kết hợp với nổi dậy đồng loạt ở nông thôn, ngày 29-9-1960, hơn 8000 người kéo đến trước dinh tỉnh trưởng đấu tranh trực diện với địch. Họ đưa kiến nghị yêu cầu chính quyền Diệm không được bắt xâu, bắt lính. Đòi thả chồng, con em, đòi không xáo canh ruộng đất. Tỉnh trưởng Mỹ Tho buộc phải đứng ra nhận đơn, để xoa dịu phong trào. Cùng với nhân dân thị xã, 40.000 người thuộc các xã ven đường 4 và 24 đã kéo vào thị trấn Cai Lậy, Tân Hiệp, Long Định, đưa đơn kiến nghị đòi dân sinh, dân chủ.

Đây là cuộc đấu tranh chính trị lớn nhất do Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo.

Cuối 1960, Tỉnh ủy Mỹ Tho họp đánh giá phong trào đấu tranh trong tỉnh đã kết luận: “Ta đã giành được thắng lợi, song so với yêu cầu thì chưa đạt”. Hội nghị chủ trương tăng cường hoạt động của lực lượng vũ trang để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Có chủ trương phù hợp, cuộc Đồng khởi của nhân dân Mỹ Tho nổi lên đều và liên tục đến cuối tháng 2-1961. Kết quả, Mỹ Tho đã giải phóng được một vùng rộng bao gồm 32 xã có thế liên hoàn từ Châu Thành đến Cái Bè, từ Chợ Gạo đến Gò Công.

An Giang vốn là một tỉnh thuộc cùng yếu. Vì vậy, đầu 1960, khi Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ phát động khởi nghĩa, tỉnh không thực hiện được chủ trương này. Trong lúc các tỉnh khác thuộc Trung Nam Bộ thực hiện đồng khởi đợt hai thì An Giang mới làm đợt một. Ngày 23-9-1960, lệnh Đồng khởi được phát ra trong toàn tỉnh. Vùng Bảy Núi bao gồm các huyện Tri Tôn và Tịnh Biên được chọn làm điểm chỉ đạo của tỉnh. Chỉ trong hai ngày đầu, với sự hỗ trợ của tiểu đoàn 512 (lực lượng vũ trang tỉnh), nhân dân đã gỡ 10 đồn. Tỉnh huy động 18.000 quần chúng kéo vào thị trấn Tri Tôn (đa số là người Khơme) đấu tranh chống địch khủng bố, chống gom dân, chống bắt xâu đi làm đường, xây dựng căn cứ Chi Lăng. Cuộc đấu tranh kéo dài hai ngày. Cuối cùng địch phải nhượng bộ, chấp nhận yêu sách của nhân dân. Không đầy một tháng sau, tất cả các đồn, bốt nhỏ thuộc huyện Tịnh Biên, Tri Tôn đều bị ta đánh chiếm hoặc địch bỏ chạy. Các vùng nông thôn được giải phóng gần hết. Trong khi đó, Tiểu đoàn 510 mở vùng Tân Châu, An Phú, Châu Phú, Chợ Mới. Phía Tân Châu ta diệt đồn tam giác Tân An, kết hợp nội ứng, lấy đồn Long Sơn. Quần chúng nổi dậy phá khu trù mật Tân An. Ở Chợ Mới ta diệt ác phá kìm, mở lõm, giải phóng Hội An và một số ấp khác. Huyện Châu Thành và Thốt Nốt là hai huyện cơ sở ta còn yếu. Tỉnh ủy đưa một bộ phận tiểu đoàn 512 và cán bộ đi sâu xuống xã, ấp vận động quần chúng.

Đến cuối 1960, An Giang đã mở rộng thế làm chủ ở các xã dọc biên giới và vùng Bảy Núi. Các căn cứ lõm Tân Châu, An Phú được xây dựng. Chiến tranh nhân dân phát triển ở khắp nơi trong tỉnh. Riêng vùng có đồng bào theo đạo Hòa Hảo vẫn còn là khâu yếu nhất trong phong trào khởi nghĩa của tỉnh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 09:55:58 pm

Kiến Phong, sau đợt một (15-1-1960), tỉnh mở tiếp các đợt 1-5, 19-5, 20-7. Trong các đợt này, đại đội 272 và 271 chống địch càn quét ở xã Mỹ Tho và Mỹ Quý (7-1960), diệt 120 tên, thu nhiều vũ khí, hỗ trợ đắc lực cho nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ nông thôn. Tính đến tháng 12-1960, Kiến Phong đã đánh diệt và làm bị thương 890 tên địch, bắt sống 500 tên, làm rã ngũ hàng ngàn tên khác, thu 400 súng, giải phóng hoàn toàn 7 xã, giải phóng cơ bản 12 xã, phá banh 9 khu gom dân, bức rút 9 đồn, diệt 12 đồn.

Kiến Tường bước vào Đồng khởi đợt hai (9-1960) đúng vào mùa nước lụt. Có vùng nước ngập sâu đến 3-4m. Đại bộ phận các xã giải phóng ở vùng 8 và vùng 6 phải sơ tán lên biên giới tránh nước ngập. Tỉnh ủy vừa phải lo bố trí chỗ ăn, ở cho nhân dân, vừa chỉ đạo lực lượng vũ trang tranh thủ thời cơ, tích cực tiến công địch. Lực lượng vũ trang tỉnh đã phát huy sáng kiến làm công sự bằng chuối cây, bao trấu trên ghe xuồng, lợi dụng đêm tối, trời mưa bí mật áp sát đồn địch chờ gần sáng, bất ngờ, nổ súng tiến công, gỡ hàng loạt đồn, bốt. Đến đầu 1961, tỉnh giải phóng được 9 xã và một số ấp. Riêng vùng 4, giải phóng được 3 xã Nhơn Ninh, Tân Hòa, Tân Ninh.

Tỉnh Long An, tháng 12-1960 mới bước vào Đồng khởi đợt hai, trọng điểm là Đức Hòa. Tại đây, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và du kích xã phối hợp diệt đồn Mỹ Hạnh (lần hai), Tân Mỹ, Bàu Trai... Các huyện Đức Huệ, Cần Giộc, Bến Lức, nhân dân mở thêm được nhiều lõm giải phóng. Đến 3-1961, tỉnh đã giải phóng hoàn toàn 12 xã, giải phóng cơ bản 67 xã khác.

Cuộc đồng khởi thắng lợi ở Nam Bộ đã có tác động mạnh đến phong trào cách mạng ở các tỉnh đồng bằng Liên khu V. Nhưng vì Liên Khu V là vùng tự do cũ, nên khi chuyển phương thức từ đấu tranh vũ trang công khai trong kháng chiến chống thực dân Pháp, sang đấu tranh chính trị “hợp pháp” và “nửa hợp pháp” thời kỳ sau Hiệp định Gíơnevơ, gặp rất nhiều khó khăn, địch lại chủ tâm đánh phá các tỉnh đồng bằng quyết liệt trong thời kỳ “tố cộng”, làm cho nhiều vùng nông thôn các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên trở thành “vùng trắng”. Đầu năm 1960, mặc dù số cơ sở bị vỡ đã giảm bớt, một số cơ sở bị đánh phá đã được phục hồi và một số cơ sở mới đã được xây dựng, phong trào cách mạng trong Liên khu V căn bản vẫn được giữ vững, song điều kiện để cho những cuộc nổi dậy cục bộ ở các tỉnh đồng bằng phát triển thành cao trào đồng khởi như ở Nam Bộ thì chưa đủ. Vì “Trong thời gian qua, địch đã tăng cường khủng bố, vơ vét và đầu độc tinh thần quần chúng, hòng tiêu diệt phong trào cách mạng ở đồng bằng, kiểm soát chặt chẽ miền núi để củng cố địa vị thống trị của chúng”1. Từ thực tiễn của tình hình Liên khu, tháng 4-1960, Hội nghị Liên khu ủy Khu V chủ trương: “Mạnh đạn phát động quần chúng ở căn cứ miền núi vũ trang chống địch càn quét. Đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang tập trung của tỉnh, khu; khẩn trương xây dựng Tây Nguyên thành căn cứ địa vững chắc để làm chỗ dựa cho đồng bằng”2.

Thực hiện chủ trương của Liên khu ủy, toàn Quân khu đã khẩn trương tổ chức xây dựng được 12 đại đội đặc công và 2 đại đội bộ binh. Liên tỉnh ba, có 2 đại đội tập trung. Tỉnh Quảng Nam có 1 đại đội đặc công, 1 đội quân báo và một số khung đại đội. Tỉnh Quảng Ngãi có 3 đại đội bộ binh và 1 đại đội đặc công. Các tỉnh khác, một đại đội. Riêng hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức mới thành lập đội vũ trang công tác.

Tháng 7-1960, Liên khu ủy quyết định mở một đợt hoạt động đấu tranh chính trị kết hợp với quân sự trong toàn khu, nhằm mở rộng và phát triển Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh đồng bằng thành một khu căn cứ tương đối hoàn chỉnh, giành quyền làm chủ ở một số khu vực giáp ranh miền núi và đồng bằng, phá lỏng thế kìm kẹp của địch ở đồng bằng.

Mở đầu đợt hoạt động ngày 31-7-1960, đơn vị 2/9 (lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận) đánh trận Bắc Ruộng (quận lỵ Hoài Đức). Lực lượng địch đóng ở đây khá mạnh. Riêng chi khu, địch bố trí một đại đội lính bảo an (130 tên) với hệ thống đồn, bốt khá kiên cố. Đồn chính được xây dựng theo hình tam giác, ba góc là ba lô cốt. Ngoài đồn chính có một đồn tiền tiêu để bảo vệ và chi viện cho đồn chính khi bị tấn công.

Khu hành chính (tức quận lỵ) có 2 trung đội dân vệ, 1 trung đội cảnh sát, 1 chi công an quận, một tiểu đội lính bảo an canh giữ nhà ở của tên quận trưởng.

Khu dinh điền (khu dồn dân) do một trung đội dân vệ (46 tên) và lực lượng thanh niên cộng hòa đảm nhận. Xung quanh khu có hàng rào dây kẽm gai, cổng kiểm soát dân ra vào.

Tổng số địch đóng trên địa bàn quận lỵ ước chừng 300 tên. Trong khi đó lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận chỉ có đơn vị 2/9 với 22 cán bộ, chiến sĩ.

Kết hợp với cơ sở mật bên trong, qua điều tra, nghiên cứu phân tích, đánh giá tình hình. Tỉnh ủy nhận định: Trên địa bàn tỉnh suốt từ đầu 1960 ta chưa có hoạt động gì lớn, nên địch rất chủ quan, không hề phòng bị. Lực lượng ta ít, nhưng cán bộ hầu hết tập kết về, được rèn luyện và trưởng thành từ chống Pháp, có kinh nghiệm, có tinh thần chiến đấu cao. Chiến sĩ được giác ngộ chính trị, có ý chí và quyết tâm cao. Nhân dân vùng căn cứ có truyền thống cách mạng, có lòng căm thù địch cao độ đang mong muốn được giải phóng, sẵn sàng nổi dậy phá khu tập trung, trở về bản làng cũ.

_____________________________________
1, 2. Trích Nghị quyết liên khu ủy Liên khu V, tháng 4-1960, tài liệu lưu trữ tại Phòng khoa học quân sự Quân Khu V.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 09:56:33 pm

Nghị quyết lần thứ 15 của Trung ương Đảng đã được quán triệt. Cấp trên đã cho phép hoạt động vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, thắng lợi của Tua Hai (Tây Ninh) và Đồng khởi ở Bến Tre (đầu 1960) là nguồn cổ vũ lớn đối với Bình Thuận. Tỉnh ủy quyết định “bí mật bất ngờ, lấy ít đánh nhiều, tiêu diệt chi khu Hoài Đức, hỗ trợ cho nhân dân phá khu tập trung Bắc Ruộng, đưa dân về căn cứ, chậm nhất vào cuối tháng 7-1960 để kịp làm mùa, và tránh được mưa bão lớn”.

Ban chỉ huy trận đánh gồm các đồng chí Phạm Hoài Chương, chỉ huy trưởng, Lê Triều, chính ủy, Nguyễn Thành, Nguyễn Thanh Đức, chỉ huy phó.

Ngày 17-7-1960, tổ trinh sát do đồng chí Phạm Hoài Chương dẫn đầu đi chuẩn bị chiến trường. Từ thực tiễn chuẩn bị, chỉ huy trận đánh xác định mục tiêu và lập phương án tác chiến.

Theo phương án đã dự kiến, chiều 28-7, toàn bộ lực lượng tham gia trận đánh, gồm đơn vị 2/9, bộ đội huyện Tánh Linh (3 đồng chí) và 100 dân công. 14 giờ ngày 30-7-1960, đơn vị làm lễ xuất quân.

0 giờ 15 phút ngày 31-7-1960, trận đánh bắt đầu. Tại chi khu quân sự, sau 5 phút chiến đấu, ta đã làm chủ trận địa, thu toàn bộ vũ khí trong kho, giải thoát cho 40 tù chính trị bị địch giam giữ, bắt sống 50 tên, trong đó có tên Y Tài, đồn trưởng đồn bảo an, kiêm chi khu trưởng. Cùng lúc, bộ phận đánh quận lỵ (khu hành chính) diệt đồn dân vệ, chi công an quận và bọn cảnh sát chiến đấu. Bộ phận đánh khu dinh điền do Hồ Kim Việt chỉ huy, cũng diệt được một số dân vệ, số còn lại tháo chạy tán loạn vào trong dân.

Trận đánh kết thức nhanh chóng, ta diệt và bắt sống 300 tên, thu 150 súng các loại, giải phóng 5000 dân khỏi khu tập trung.

Bắc Ruộng là trận đánh mở đầu của lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận. Đây là lần đầu tiên ở cực Nam Trung Bộ với một lực lượng quân sự ít, nhưng biết tổ chức chặt chẽ, kế hoạch chiến đấu tỉ mỉ, sử dụng lực lượng hợp lý, công tác chính trị, tư tưởng tốt, nên đã diệt được một chi khu, quận lỵ, phá khu tập trung đưa dân về bản làng cũ làm ăn sinh sống, củng cố và mở rộng được vùng căn cứ địa. Chiến thắng Bắc Ruộng là điểm mốc lịch sử của quân dân Bình Thuận trong việc chuyển từ đấu tranh chính trị hòa bình, sang đấu tranh chính trị có vũ trang hỗ trợ, đưa phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển nhảy vọt.

Thắng lợi đó đã cổ vũ quân và dân các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên nổi dậy đánh địch, giành quyền làm chủ.

Đêm 29 rạng 30-8-1960 tại Ninh Thuận, một bộ phận của lực lượng vũ trang liên tỉnh 3 do đồng chí Phan Văn Hược cùng Vũ Tấn Hạt, Bùi Đức Thành chỉ huy, tiến công hai đồn Tà Lú, Ma Ty. Phối hợp với lực lượng vũ trang của liên tỉnh, du kích, thanh niên chiến đấu và nhân dân Bác Ái Đông bao vây đồn Suối Đầu. Sau ba ngày bị ta vây ép, toàn bộ lực lượng địch bỏ đồn, tháo chạy. Hơn 5000 đồng bào trong khu vực này đã nổi dậy phá banh các khu tập trung, trở về làng cũ.

Cùng thời gian, lực lượng vũ trang tỉnh Khánh Hòa tiêu diệt đồn Gia Lê. 5000 dân trong các khu dồn Bố Lạng, Gia Lô, Thác Trại nổi dậy phá tan hệ thống kìm kẹp của địch. Tháng 11-1960, ta phá khu đồn Cây Dầu, các vùng Tà Lương, Suối Hai được giải phóng.

Sau các đòn tiến công quân sự và các cuộc nổi dậy phá khu tập trung của đồng bào miền núi, vùng căn cứ địa cách mạng ở cực Nam Trung Bộ được mở ra liên hoàn trong 23 xã, với trên 30 ngàn dân thuộc 6 huyện Anh Dũng, Bác Ái (Ninh Thuận), Khánh Sơn, Vĩnh Sơn (Khánh Hòa), Tánh Linh1 và một phần Di Linh (Bình Thuận).

Trên địa bàn Tây Nguyên, từ tháng 9-1960, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, các cuộc nổi dậy rời làng chống địch cũng liên tiếp nổ ra.

Các đêm 20, 21, 22 và 23-10-1960, một bộ phận đặc công quân khu, cùng lực lượng vũ trang Kon Tum diệt cứ điểm Măng Đen, Măng Bút, phục kích đánh địch trên đường số 5, diệt 7 xe quân sự và một đại đội địch lên giải tỏa cho Măng Đen. Nhân dân nổi dậy phá banh các khu tập trung, trở về làng cũ làm ăn và xây dựng chính quyền cách mạng.

Hướng bắc, lực lượng vũ trang Khu V tiêu diệt một loạt đồn bốt, khu đồn ở huyện Đắc Lây (huyện 40), trong đó có Đắc Tả. Đồn do 1 đại đội bảo an (C14) đóng giữ. Đây còn là nơi đứng chân của sở chỉ huy tiền phương trung đoàn 42 ngụy để chỉ huy yểm trợ cho chiến dịch “thượng du vận” ở bắc Kon Tum.
_____________________________________
1. Quận Hoài Đức - tên chính quyền Sài Gòn đặt, còn ta gọi huyện Tánh Linh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 09:57:09 pm

Đêm 20-10-1960, một trung đội học viên trường quân sự tỉnh và 5 chiến sĩ đặc công quân khu, tiến công đồn Đắc Tả, diệt 45 tên địch (có tên thiếu tá trung đoàn trưởng trung đoàn 42), bắt 20 tên, thu 45 súng các loại, giải tán 1.400 phu làm đường bị địch bắt giữ.

Bị đòn đau, địch đưa tiểu đoàn 10 ra phản kích hòng chiếm lại đồn. Ta tổ chức phục kích (ngày 22-10), diệt 19 tên, thu 10 súng. Có bộ đội hỗ trợ, du kích thoát ly bao vây, bức rút đồn Oay Rài xã Đác Nông (sát biên giới Việt - Lào). Nhân dân nổi dậy giải phóng một vùng rộng phía bắc tỉnh Kon Tum. Địch phải co cụm quanh các cứ điểm lớn và quận lỵ Đác Hà, Đác Sút, Đác Tô, thị xã Kon Tum.

Phối hợp với Kon Tum, ngày 23-10-1960, lực lượng vũ trang tỉnh Gia Lai tiến công tiêu diệt đồn Can Nác, sau đó đánh chiếm khu dinh điền Lệ Thanh. Nhân dân huyện 4, huyện 5 nổi dậy phá tan hệ thống kìm kẹp của địch, giải phóng một vùng rộng lớn từ Chư Pông, Đức Cơ đến An Khê nối liền với vùng giải phóng Kon Tum.

Ở Đắc Lắc, đêm 27-10-1960, lực lượng vũ trang tỉnh đánh đồn Plây Lốc, Ea Nu, Ea Thu, hỗ trợ nhân dân vùng đông bắc và thị xã Buôn Ma Thuột nổi dậy giành quyền làm chủ.

Tỉnh Lâm Đồng, các đội vũ trang công tác dựa vào các bàn đạp K’Dòn, Tờ La, Bờ Gia, tiến lên hướng BLao, Di Linh, mở rộng cơ sở ở nam bắc đường 20. Một số đội công tác từ Tà Nội, Gia Hon tiến lên hướng tây và từ Phước Bình tiến lên hướng Đà Lạt, xây dựng cơ sở ở Đồng Mang, Đa Tao, Đa Cháy.

Cùng với phong trào nổi dậy của đồng bào Tây Nguyên, nhân dân các tỉnh ven biển cũng tiến công vào bộ máy kìm kẹp của địch.

Ở Quảng Nam, tháng 9-1960, được sự hỗ trợ của đội vũ trang công tác huyện Tam Kỳ, nhân dân xã Kỳ Sanh nổi dậy, diệt ác, giải phóng thôn Tú Mỹ. Đây là thôn đầu tiên ở đồng bằng tỉnh Quảng Nam được giải phóng. Cũng thời gian này, tỉnh Quảng Nam được trên bổ sung cán bộ khung của một tiểu đoàn. Tỉnh đã vận động thanh niên ở vùng địch ra xây dựng thành 5 đại đội (H30, H21, H36, H29, H32), mỗi đại đội khoảng 30 người. Ngay sau khì thành lập, đại đội H29, H30 phối hợp với lực lượng vũ trang của quân khu, tiến công tiêu diệt đồn Ga Lâu (huyện Hiên) và đồn Sáu (huyện Giằng) diệt 4 trung đội địch, thu nhiều vũ khí.

Ngày 20-9-1960, lực lượng vũ trang tỉnh cùng đội vũ trang công tác huyện tiến công quận lỵ Hiệp Đức, diệt một đại đội bảo an, thu toàn bộ vũ khí.

Đến cuối 1960, vùng căn cứ miền núi Quảng Nam căn bản đã được giải phóng, gần 40.000 dân giành được quyền làm chủ.

Hưởng ứng đợt hoạt động do Liên khu ủy V phát động, tỉnh Quảng Ngãi tổ chức một đợt tiến công địch ở các huyện miền núi.

Đêm 15-10-1960, đơn vị 339 tiến công quận lỵ Trà Bồng. Địch ở các đồn Đá Líp, Tà Lạt, EO Chim hoảng sợ bỏ chạy. Nhân dân nổi trống mõ, tù và, phàn la, đốt đuốc truy tìm bọn ác ôn, thu vũ khí. Cùng thời gian, đơn vị 89 và du kích huyện Sơn Hà đánh đồn Hà Thành, diệt một đại đội bảo an. Đơn vị 299 và du kích Huyện Ba Tơ, Minh Long tập kích đồn Long Xuân diệt một đại đội địch. Thừa thắng, nhân dân các xã vùng thấp nổi dậy diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ.

Đến cuối 1960, Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi vẫn đứng vững. Vùng giải phóng mở rộng bao gồm 54 xã: Trà Bồng 19 xã, Sơn Tây 10 xã, Sơn Hà 8 xã, Minh Long 4 xã, Ba Tơ 13 xã. Trong khi đó, ở các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Mộ Đức phong trào nông dân đấu tranh chống chính sách đấu giá công điền của địch diễn ra sôi nổi.

Tại Bình Định, tháng 6-1960, Đại hội đại biểu Tỉnh đảng bộ lần thứ nhất (trong kháng chiến chống Mỹ) họp chủ trương: “Phát động phong trào chiến tranh du kích mạnh mẽ ở miền núi nhằm củng cố, bảo vệ và mở rộng căn cứ địa, đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, phát động quần chúng diệt ác, trừ gian, khôi phục, phát triển cơ sở và xây dựng các lõm đồng bằng, xây dựng bàn đạp vùng giáp ranh, đưa phong trào đồng bằng lên một bước mới, lấy hai huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân làm trọng điểm; khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang tập trung tỉnh, huyện và các đội vũ trang công tác, đẩy mạnh hoạt động vũ trang hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng”1.

Thực hiện chủ trương này, ngày 2-9-1960, tại xã Tu Cơ Rông huyện Vĩnh Thạnh, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh lấy tên 2/9 gồm 35 đồng chí đã ra đời.

Hai mươi ngày sau khi thành lập, ngày 23-9-1960, đơn vị ra quân trận đầu, đánh vào trụ sở ngụy quyền xã Hoài Tân, huyện Hoài Nhơn (cách quận lỵ Bồng Sơn 4 km về phía bắc) do một trung đội dân vệ đóng giữ. Sau 30 phút nổ súng, toàn bộ trung đội địch bị bắt gọn, ta thu 22 súng các loại. Trận đánh nhanh, gọn ngay sát một quận lỵ ở đồng bằng, đã làm bọn địch trong vùng lo sợ. Cũng trong đêm 23-9-1960, phân đội đặc công của tỉnh phối hợp với đội vũ trang huyện Hoài Ân tập kích trụ sở ngụy quyền xã Ân Nghĩa, bắt gọn một trung đội dân vệ thu 25 súng.
_____________________________________
1. Trích nghị quyết Đại hội đại biểu Tỉnh đảng bộ Bình Định tháng 6-1960 lưu trữ tại Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Bình Định.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 09:57:38 pm

Đối phó với các cuộc tiến công bất ngờ của ta ở đồng bằng, tháng 11-1960, địch mở cuộc càn quét, thảm sát đẫm máu ở Đá Bàn (An Lão). Chúng đã giết 32 người dân vô tội. Cuối tháng 12-1960, địch lại đưa một tiểu đoàn lính H’rê do tên Đinh Ngô chỉ huy từ Quảng Ngãi vào càn quét cướp bóc, đốt phá các xã An Dân, An Lạc, An Vịnh (An Lão). Đơn vị 2/9 phục kích ở Đất Dài, diệt một tiểu đội, buộc địch phải rút lui. Được vũ trang hỗ trợ, nhân dân nổi dậy phá khu tập trung Gò Nĩ (Đất Dài), giải phóng vùng phía Tây sông An Lão.

Nổi bật hơn cả là phong trào nổi dậy của nhân dân tỉnh Phú Yên. Thấu suốt tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, tháng 11-1959, Tỉnh ủy Phú Yên họp ở Suối Heo, huyện Sơn Hòa, quyết định: Đẩy mạnh đấu tranh trên cả hai vùng đồng bằng và miền núi với các hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp và bất hợp pháp. Xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, lực lượng bán vũ trang xã, chuẩn bị điều kiện để khi có thời cơ thuận lợi thì nổi dậy khởi nghĩa. Sau hội nghị Tỉnh ủy, tháng 12-1959, trung đội vũ trang đầu tiên của tỉnh, quân số 33 cán bộ, chiến sĩ được thành lập, lấy phiên hiệu B95.

Ngày 16-12-1959, đơn vị ra quân trận đầu, đánh đồn Trà Kê (thuộc huyện Sơn Hòa) diệt một trung đội dân vệ thu 25 súng, hơn 1000 viên đạn và 30 quả lựu đạn. Thắng lợi của trận đánh đã củng cố niềm tin trong nhân dân, góp phần tăng cường trang bị, vũ khí cho đơn vị. Đầu năm 1960, B95 phát triển thành ba trung đội. Các huyện cũng khẩn trương tổ chức các đội vũ trang công tác.

Ngày 14-8-1960, lần đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ, Phú Yên tổ chức Đại hội đảng bộ tỉnh. Sau khi kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương, Nghị quyết Liên khu ủy, đại hội chủ trương: đẩy mạnh vũ trang để hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng ở vùng đồng bằng.

Thực hiện nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh, tháng 11-1960, lực lượng vũ trang tỉnh mở đợt hoạt động quân sự nhằm giải phóng vùng cao nguyên huyện Sơn Hòa. Mở đầu đợt hoạt động, đội vũ trang công tác hỗ trợ cho nhân dân xã Phước Tân nổi dậy diệt bọn ác ôn, xóa bỏ chính quyền địch ở cơ sở, lập ban tự quản. Tiếp theo Phước Tân, nhân dân các làng Quang Hiển, Tân Vinh, Phước Thuận, Đá Mài, Phú Mỡ nổi dậy xóa bỏ chính quyền ngụy, lập chính quyền tự quản.

Đến cuối năm 1960, miền tây huyện Sơn Hòa căn bản được giải phóng, 13.000 dân thoát khỏi ách kìm kẹp của Mỹ - ngụy. Vùng căn cứ được mỏ rộng liên hoàn bảo đảm hành lang từ Phú Yên vào Khánh Hòa.

Trong thời gian này, quán triệt tinh thần chỉ đạo của tỉnh “phải chọn những tên đầu sỏ để diệt” nhằm “đánh dập đầu rắn, bắn trúng đầu cọp, diệt một thằng làm rung cả bọn”, huyện Tuy Hòa đã chọn những tên ác ôn khét tiếng làm đối tượng hành động. Trong số này có lên Nguyễn Y Chi - cảnh sát quận (nguyên là cảnh sát xã Hòa Mỹ). Nguyễn Ân, ấp trưởng xã Hòa Xuân. Đêm 11-11-1960, tổ diệt ác của huyện đã đột nhập nhà tên Chi bắn chết hắn ngay trên giường ngủ. Tên Nguyễn Ân cũng bị giết khi cùng đồng bọn đang trên đường về ấp Lạc Long.

Việc trừng trị các tên ác ôn trong huyện đã làm địch hoang mang, quần chúng phấn khởi. Khí thế cách mạng của quần chúng lên cao. Thời cơ đã chín muồi, Tỉnh ủy quyết định lấy xã Hòa Thịnh làm thí điểm phát động nhân dân nổi dậy đánh đổ chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng. Đêm 22-12-1960, cuộc Đồng khởi ở Hòa Thịnh nổ ra. Theo kế hoạch, Đào Công Văn, trung đội trưởng dân vệ - cơ sở nội tuyến của ta, tập trung vũ khí của trung đội dân vệ lại và cho lính tự do chơi bời, đánh bạc. Lúc đó, các đội vũ trang công tác huyện, chia ba mũi đánh vào trung đội dân vệ tại chợ Mỹ Xuân, trụ sở hội đồng xã ở thôn Mỹ Điền và nhà tên Tín - phó đại diện xã ở Phú Hữu. Chiến sĩ ta vừa bắn súng, vừa đốt pháo gây nhiều tiếng nổ, làm địch hoảng sợ. Một số bỏ trốn, số còn lại xin hàng. Tên Ngọc, trung đội phó ác ôn, ngoan cố chống cự, liền bị ta bắn chết. Cả trung đội dân vệ bị xóa sổ, ta thu toàn bộ vũ khí. Ở Phú Hữu, ta bắt sống tên Tín đưa về trụ sở cho nhân dân hỏi tội. Trong lúc đó, tại thôn Mỹ Điền, cơ sở của ta tổ chức liên hoan cuối năm mời bọn hội đồng xã đến dự. Chờ cho chúng nhậu nhẹt say sưa, một tổ vũ trang của ta ập vào bắt gọn cả hội đồng xã. Hàng ngàn quần chúng ở thôn cầm gậy gộc, đốt đèn đuốc, đánh thùng tôn, nổi mõ vang trời, phối hợp với lực lượng vũ trang truy tìm ác ôn rồi kéo về trụ sở xã Mỹ Xuân họp mít tinh, tuyên bố xóa bỏ ngụy quyền tay sai, lập chính quyền nhân dân tự quản.

Đồng khởi Hòa Thịnh giành được thắng lợi nhanh gọn. Đây là xã đầu tiên ở đồng bằng tỉnh Phú Yên giành được chính quyền. Sau Hòa Thịnh, các xã Hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Xuân, Hòa Hiệp, Hòa Mỹ vũ trang nổi dậy, diện ác phá kìm, xóa bỏ chính quyền địch, lập ban tự quản xã, thôn, tổ chức lực lượng du kích và các đoàn thể quần chúng.

Cùng với Tuy Hòa, nhân dân các huyện trong tỉnh Phú Yên nổi dậy, giành quyền làm chủ ở nhiều nơi. Phong trào cách mạng trong toàn tỉnh phát triển đều. Phú Yên xứng đáng là lá cờ đầu của phong trào Đồng khởi ở các tỉnh Trung Trung Bộ. Thành công này của Phú Yên góp phần không nhỏ vào chiến công chung của quân và dân Khu V.

Đến cuối năm 1960, nhân dân các tộc người thiểu số miền núi Khu V đã diệt và bức rút 55 đồn, bốt, cứ điểm địch (có các cứ điểm lớn như Măng Đen, Măng Bút, Hà Thành), diệt và làm tan rã gần 40 trung đội địch, phá tan hàng chục khu tập trung dân lớn. Tính cả Tây Nguyên và miền tây các tỉnh đồng bằng, quân và dân Khu V đã phá tan bộ máy ngụy quyền, giành quyền làm chủ ở 3.200 thôn trong tổng số 5.721 thôn. Căn cứ cách mạng Khu V được mở rộng dọc phía Đông Trường Sơn nối với các căn cứ ở Tây Nguyên. Non nửa triệu dân được hoàn toàn giải phóng.

Thắng lợi này bước đầu làm thay đổi cục diện chiến trường trên địa bàn Khu V. Nhân dân từ chỗ ép mình chịu đựng đã vùng lên đánh địch, giành quyền làm chủ đại bộ phận rừng núi và từng bước phá vỡ thế kìm kẹp ở đồng bằng, đưa phong trào cách mạng ở Khu V phát triển lên bước mới.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 09:59:13 pm

*
*   *

Một năm Đồng khởi, nhân dân miền Nam từ trong thực tiễn đấu tranh chống chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ, đã sáng tạo ra phương thức kết hợp chính trị với quân sự và binh vận, đánh sập bộ máy cai trị của địch ở cơ sở giành quyền làm chủ đại bộ phận nông thôn1. Sự sáng tạo đó thể hiện nổi bật trong sự tạo ra sức mạnh to lớn của quần chúng tiến hành nổi dậy đồng loạt, trên quy mô rộng lớn ở nông thôn, đã tác động và cổ vũ các phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, đòi hòa bình... ở thành thị, làm cho một số người trước đây tôn sùng Diệm hoặc lừng chừng, nay bắt đầu thức tỉnh. Vì vậy, cuộc Đồng khởi không chỉ đánh sập bộ máy ngụy quyền cơ sở, mà cùng với nó, các tổ chức chính trị, xã hội do Mỹ dựng lên ở nông thôn cũng tan rã theo, lực lượng vũ trang nòng cốt của chế độ Diệm dao động, nhụt ý chí, hiện tượng đào rã ngũ trong quân ngụy trở thành phổ biến2. Mâu thuẫn trong nội bộ hàng ngũ địch thêm sâu sắc. Trong báo cáo gửi Tổng thống Mỹ Ken-nơ-di, Cục tình báo Trung ương Mỹ đã thú nhận: “Một thời kỳ hết sức nghiêm trọng đối với Tổng thống Ngô Đình Diệm và Việt Nam Cộng hòa đã ở ngay trước mặt. Trong sáu tháng cuối 1960, tình hình an ninh trong nước vẫn tiếp tục ngày càng xấu đi và nay đã lên tới mức nghiêm trọng... Trên một nửa toàn bộ vùng nông thôn ở phía nam và tây nam Sài Gòn cũng như một số vùng ở phía bắc đã nằm dưới quyền kiểm soát rất lớn của Việt cộng”3.

Trong bối cảnh ấy, ngày 11-11-1960, nổ ra cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Diệm, mà người cầm đầu, đại tá Nguyễn Chánh Thi - một sĩ quan thân tín bậc nhất của Diệm, chỉ huy trưởng một đơn vị dù thuộc lực lượng cơ động chiến lược của Sài Gòn. Quân đảo chính có sự yểm hộ của xe tăng đã chiếm các vị trí xung yếu: Bộ Tổng tham mưu, Nha Tổng giám đốc Công an, cảnh sát, trụ sở quốc hội, nhà bưu điện trung ương, sân bay Tân Sơn Nhất, đài phát thanh và bao vây cả Dinh Độc lập.

Trước áp lực quân sự của phe đảo chính, Diệm đã phải tuyên bố quyết định giải tán chính phủ hiện thời và triệu tập các tướng lĩnh quân đội Việt Nam Cộng hòa để thành lập một chính phủ lâm thời. Song, ngay sáng hôm sau (12-l l), trong lúc phe đảo chính đang hy vọng ở sự thỏa hiệp của Diệm, thì sư đoàn 7 từ Biên Hòa đã kéo về Sài Gòn cứu nguy cho Diệm. Những đơn vị thủy quân lục chiến và thiết giáp hôm qua theo phe đảo chính, nay ngả về phía Diệm. Hai bên xung đội giữ đội. Quân của Diệm phản công. Phe đảo chính dần dần tan rã. 18 sĩ quan làm đảo chính vội vã lên máy bay chạy trốn sang Campuchia. Trong số này có cả Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông (một sĩ quan chỉ huy trong lữ đoàn dù). Cuộc đảo chính tuy thất bại, song nó minh chứng hùng hồn cho sự khủng hoảng chính trị sâu sắc trong nội bộ chính phủ Diệm. Nó là hồi chuông báo hiệu sự suy tàn của chế độ độc tài, tàn bạo do Mỹ dựng nên chỉ biết dựa vào lực lượng quân đội và cảnh sát để thống trị đa số nhân dân.

Trái lại, phong trào cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ, quyền làm chủ của nhân dân ở thôn, xã được xác lập, ruộng đất bị địa chủ cướp sau 1954, nay lại trở về tay nhân dân. Lực lượng vũ trang được xây dựng và từng bước trưởng thành. Trên đà phát triển đó, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, đại biểu các giai cấp các dân tộc, các tôn giáo và đảng phái đã họp đại hội và tuyên bố thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam4.

Tuyên ngôn của Mặt trận nêu rõ: “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam chủ trương đoàn kết tất cả các từng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và thân sĩ yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”.

Mặt trận kêu gọi: “Tất cả hãy đứng lên, tất cả hãy đoàn kết lại. Hãy xiết chặt hàng ngũ chiến đấu dưới ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm”5.

Sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam chống Mỹ - Diệm, mà đỉnh cao là thắng lợi của cuộc Đồng khởi năm 1960. MTDTGPMNVN ra đời đáp ứng kịp thời yêu cầu của cách mạng và lòng mong đợi của nhân dân. Đánh giá sự kiện này, Hồ Chủ tịch đã nói: “Một mặt trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một lực lượng tất thắng. Hiện nay, trong cuộc đấu tranh anh dũng chống chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm, đồng bào ta ở miền Nam cũng có “Mặt trận dân tộc giải phóng” với chương trình hoạt động thiết thực và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Do đó có thể đoán rằng đồng bào miền Nam nhất định sẽ thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thống nhất, Nam - Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”6.

Thắng lợi của Đồng khởi năm 1960 thật vĩ đại. Nó đã “giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ”7. Nó “Đánh dấu một bước nhảy vọt quan trọng chuyển cách mạng miền Nam sang thế tiến công, phát triển cao trào cách mạng ra khắp miền với sự kết hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự”8. Nó chứng minh tính đúng đắn của Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 và tính năng động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo của các đảng bộ miền Nam. Thắng lợi ấy tạo ra bước phát triển nhảy vọt của lực lượng cách mạng cả quân sự và chính trị đẩy chính quyền Sài Gòn vào thời kỳ khủng hoảng triền miên kéo dài.
_____________________________________
1. Nam Bộ, nhân dân giành quyền làm chủ nhiều mức khác nhau ở 865 xã trong tổng số 1193 xã. Khu V, làm chủ 3200 thôn trong tổng số 5721 thôn.
2. Nam Bộ, trong năm 1960 đã có tới 11.500 binh sĩ bỏ ngũ.
3. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, t 1, Việt Nam, TTX, 1971, tr. 85.
4. Từ đây trở đi cụm từ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam xin viết tắt MTDTGPMNVN.
5. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam - Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1961, tr.9.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 9, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989, tr. 107.
7. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, (10-1973), Tlđd.
8. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội, tiến nên lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 5.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 10:00:49 pm

KẾT LUẬN

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân cũ bị xóa bỏ, nhưng Tổ quốc Việt Nam còn tạm thời bị chia cắt ở vĩ tuyến 17. Khát vọng độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta mới thành hiện thực ở nửa nước phía Bắc. Nửa nước phía Nam theo quy định của Hiệp định Giơnevơ đến tháng 7-1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất nước Việt Nam. Nhưng Mỹ liền thay chân Pháp, thiết lập chế độ thực dân mới ở miền Nam, chia cắt nước ta.

Nhân dân Việt Nam lại đứng trước một cuộc đấu tranh mới cực kỳ khó khăn. Cuộc đấu tranh đó lại diễn ra trong tình hình thế giới vô cùng thức tạp: Mỹ là cường quốc chi phối các nước tư bản chủ nghĩa; Liên Xô và Trung Quốc thi hành chính sách đối ngoại khác nhau và đều có những điểm khác với đường lối cách mạng của Việt Nam.

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định rằng, trong thời đại ngày nay, cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ, một cường quốc chưa từng bị bại trận, mà không có sự đồng tình ủng hộ quốc tế, đặc biệt là phe xã hội chủ nghĩa, không có hậu phương vững chắc, thì không thể thắng được. Do vậy, phải có một chiến lược phù hợp và sách lược mềm dẻo, linh hoạt để phân hóa kẻ thù, tập hợp lực lượng cách mạng trong nước và ngoài nước. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở hai miền Nam - Bắc, nhưng đều nhằm đạt một mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam, là hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đây là thời kỳ phức tạp nhất - một thời kỳ vừa nghiên cứu tìm tòi, thể nghiệm vừa thăm dò phản ứng và tập hợp lực lượng, đề hoạch định đường lối, chủ trương, phương pháp cách mạng mới.

Để thực hiện được mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam trong điều kiện có pháp lý của Hiệp định Giơnevơ, nhân dân ta đã kiên trì đấu tranh chính trị hòa bình suốt hơn năm năm ròng với bao mất mát, hy sinh. Nhưng Mỹ và chính quyền tay sai ở Sài Gòn đã dùng lực lượng quân sự thẳng tay đàn áp các phong trào hòa bình, trả thù và giết hại những người yêu nước ở miền Nam. Và, từ khi Ngô Đình Diệm “kiên quyết từ chối giao lưu với miền Bắc đã ngăn cản mọi trao đổi kinh tế, thậm chí cả tự do thư tín, thì miền Nam trở thành một trong những đường biên giới kiềm chế nhất thế giới”1. Rõ ràng Mỹ - Diệm đã dồn nhân dân ta ở miền Nam vào tình cảnh cực kỳ nguy hiểm, buộc phải đứng lên đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang để tự giải phóng mình.

Điều kiện chủ quan và khách quan lúc bấy giờ không thuận lợi cho việc tiến hành một cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam, Đảng và nhân dân ta đã phải cân nhắc, lựa chọn nhiều phương án khác nhau sao cho giải phóng được miền Nam mà vẫn bảo vệ được miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tập hợp được lực lượng trong nước, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của quốc tế - đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc. Cuối cùng, sau nhiều lần thảo luận, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 đã xác định được đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, phù hợp với thực tiễn tình hình lúc bấy giờ. Để thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương, một mặt ta vẫn duy trì tính pháp lý của Hiệp định Giơnevơ, giữ nguyên trạng giới tuyến quân sự tạm thời, mặt khác, ta chủ trương đẩy mạnh đấu tranh chính trị có vũ trang hỗ trợ, xúc tiến xây dựng căn cứ, chuẩn bị lực lượng, tạo thời cơ để nhân dân miền Nam nổi dậy đánh đổ chính quyền tay sai của Mỹ. Đảng ta nêu khẩu hiệu: miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập thống nhất Tổ quốc để tập hợp lực lượng, tạo thế thuận lợi cho cách mạng miền Nam. Miền Bắc tập trung xây dựng chủ nghĩa xã hội, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh ở miền Nam từ bí mật đến công khai, từ thấp đến cao, từ gián tiếp đến trực tiếp.

Năm 1959 và 1960, với quy mô và hình thức thích hợp, nhân dân miền Nam đã làm cuộc Đồng khởi vĩ đại, mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, đưa phong trào cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công tránh được việc đưa quân từ miền Bắc vào miền Nam.

Đồng khởi thắng lợi đánh dấu một bước tiến nhảy vọt của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, chứng tỏ Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng là một thành công điển hình và sáng tạo lớn của Đảng ta về đường lối cách mạng và nghệ thuật chỉ đạo chiến lược khởi sự cuộc kháng chiến phù hợp với thời cơ lịch sử. Mặc dù, Mỹ và chính quyền Sài Gòn giương chiêu bài chống cộng sản để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta nhưng thực tế những người cộng sản đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc chống Mỹ xâm lược. Nhân dân miền Nam đã đấu tranh để tự giải phóng. Nhưng chính Bộ Quốc phòng Mỹ cũng phải thừa nhận: “Các chính quyền kế tiếp nhau ở Oasinhton, từ Tổng thống Kennơđi tới Tổng thống Níchxơn đã dùng cách giải thích về nguồn gốc chiến tranh là do Hà Nội xâm lược để biện bạch cho hành động can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. Nhưng các nhận định của tình báo Mỹ trong những năm 1950 đã chỉ rõ chiến tranh nói chung bắt đầu như là một cuộc nổi loạn ở miền Nam chống lại chế độ thối nát và ngày càng có tính chất đàn áp của Ngô Đình Diệm”2. Bằng cao trào Đồng khởi, nhân dân miền Nam đã chủ động đánh thẳng vào chính sách xâm lược thực dân kiểu mới Mỹ, đặt đế quốc Mỹ vào thế bị động ngay từ đầu và buộc chúng phải kiềm chế sự phản ứng trong phạm vi miền Nam, nhằm đối phó với cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta. Đó là một trong những nét đặc sắc nối bật của cách mạng miền Nam, thể hiện trí tuệ thông minh, tài năng sáng tạo của Đảng ta, nhân dân ta. Sau này nhìn lại, đánh giá nguyên nhân thành công bước mở đầu cuộc kháng chiến của nhân dân ta, phía Mỹ đã nhận xét rất đúng rằng: “Những chìa khóa cho việc động viên có hiệu quả sự ủng hộ của nhân dân trong cuộc nổi dậy là một ban lãnh đạo tận tụy, thông minh, một tổ chức hữu hiệu từ trên xuống dưới, những mục tiêu lâu dài đúng đắn và một chiến lược quân sự có tác dụng hỗ trợ và củng cố các mục tiêu chính trị”3.
_____________________________________
1. Tài liệu mật Lầu Năm Góc, Tlđd.
2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng, t. 1, Tlđd, tr. 72.
3. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ quốc phòng Mỹ, t. 1, Tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam 1266/83, tr. 10.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 10:54:23 pm

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

I- SÁCH KINH ĐIỂN

1. Mác - Ăngghen, Lênin, Stalin: Những quan điểm cơ bản về khởi nghĩa, chiến tranh và quân đội. Nxb QĐND. 1973.
2. Mác - Ăngghen: Về chiến tranh và quân đội. Nxb QĐND. 1983
3. Ăngghen: Tuyển tập luận văn quân sự (t1 – t5). Nxb QĐND. 1960-1986.
4. Ăngghen, Lênin, Stalin: Bàn về chiến tranh nhân dân. Nxb Sự Thật. 1965.
5. Lênin: Những bài nói và viết về quân sự. t.4. Nxb QĐND. 1978.
6. Lênin: Chiến tranh du kích, Nxb QĐND. 1964
7. Hồ Chí Minh: Chiến tranh nhân dân Việt Nam. Nxb QĐND, 1980.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, 8, Nxb Sự Thật. 1987. 1989
9. Hồ Chí Minh với các LLVTND, Nxb QĐND. 1975.
10. Hồ Chí Minh: Về nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, Nxb Sự Thật, 1967.
11. Hồ Chí Minh: Về đấu tranh vũ trang và LLVTND, Nxb QĐND, 1970.
12. Hồ Chí Minh: Cách mạng tháng Mười mở ra con đường giải phóng dân tộc. Nxb Sự Thật 1967.
13. Những lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, t.3, Nxb Sự thật 1956.
14. Lê Duẩn: Cách mạng miền Nam và chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước, Nxb QĐND, 1970.
15. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự Thật, 1976.
16. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam. Nxb Sự Thật, 1993.
17. Trường Chinh: Tiến lên dưới lá cờ của Đảng, Nxb Sự Thật, 1963.
18. Trường Chinh: Mấy vấn đề quân sự trong cách mạng Việt Nam, Nxb QĐND, 1983.


II- VĂN KIỆN ĐẢNG

1. Những văn kiện của Đảng về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, t. 1 (1954-1969), Lưu trữ Viện LSQS
2. Văn kiện lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, t. 1 - Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin. 1987.
3. Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, t. 1, Nxb Sự Thật, t. 1985.
4. Văn kiện Lịch sử Đảng. t. 9, 10, 11 do trường Nguyễn Ái Quốc ấn hành.
5. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15, Lưu trữ Viện LSQS.
6. Nghị quyết Xứ ủy lần thứ 4 (11-1959) và 5 (7-1960), Lưu trữ Viện LSQS.
7. Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt nam lần thứ III (1960). Ban Chấp hành Trung ương Đảng xuất bản, 1960.
8. Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb QĐND.
9. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 (10-1973). Lưu trữ Viện LSQS.


III- TÀI LIỆU, SÁCH LÝ LUẬN, LỊCH SỬ, HỒI KÝ

1. Phạm Văn Đồng: Thắng lợi vĩ đại, tương lai huy hoàng, Nxb Sự Thật, 1975.
2. Võ Nguyên Giáp: Đường lối quân sự của Đảng là ngọn cờ trăm trận trăm thắng của chiến tranh nhân dân ở nước ta. Nxb QĐDN, 1973.
3. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb Sự Thật. 1985.
4. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, t2. Nxb Tuyên huấn, 1988.
5. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, t. 1, Nxb Sự Thật, 1990.
6. Cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Nxb Sự Thật, 1987.
7. Sự thật quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua, Nxb Sự Thật, 1987.
8. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb Sự Thật, 1961.
9. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975. Những sự kiện quân sự. Viện LSQS ấn hành, 1988.
10. Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Viện LSQS ấn hành. 1991.
11. Mười tám năm chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, Nxb QĐND, 1974.
12. Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, t. 1, Nxb Khoa học xã hội, 1964.
13. Cao Văn Lượng: Lịch sử cách mạng miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1960, Nxb Khoa học xã hội, 1991.
14. Cao Văn Lượng - Phạm Quang Toàn - Quỳnh Cư: Tìm hiểu phong trào Đồng khởi ở miền Nam Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1981.
15. Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, t. 2, q. 1, Nxb QĐND, 1988.
16. Bước mở đầu thời kỳ lịch sử vẻ vang, Nxb Thông tin lý luận 1987.
17. Nghiên cứu văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb Sự Thật, 1986.
18. Trận đánh 30 năm (ký sự) t. 3, Nxb QĐND, 1988.
19. Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi. Nxb QĐND 1975.
20. Những sự kiện lịch sử Đảng, t. 3, Nxb Thông tin lý luận 1985.
21. Việt Bắc - 30 năm chiến tranh cách mạng, t. 2, Nxb QDNĐ, 1992.
22. Khu V, 30 năm chiến tranh giải phóng, t.2 Bộ Tư lệnh Quân khu V ấn hành, 1989.
23. Miền Đông Nam Bộ kháng chiến, t. 2, Nxb QĐND, 1993.
24. Thủ đô Hà Nội kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nxb QĐND, 1991.
25. Lịch sử chống Mỹ, cứu nước Quân khu Tây Bắc, Quân khu III, Quân khu IV, Quân khu IX, Sài Gòn - Gia Định (Bản đánh máy chưa xuất bản), Lưu trữ bộ môn LSKCCM, Viện LSQSVN.
26. Việt Nam con số và sự kiện, Nxb Sự Thật, 1990.
27. Trường Sơn: Cuộc hành trình năm ngàn ngày đêm (hồi ký), Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
28. Lịch sử bộ đội đặc công. t. 1, Nxb QĐND, 1987.
29. Nguyễn Tư Cường: Nhiệm vụ đặc biệt (hồi ký). Nxb QĐND, 1987.
30. Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng, t. 1 (hồi ký của Thượng tướng Trần Văn Trà) Nxb QĐND. 1992
31. Hoàng Linh - Đỗ Mậu: Tâm sự tướng lưu vong (Việt Nam quê hương tôi). Nxb CAND. 1991.
32. Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975). Viện lịch sử Đảng, Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ xuất bản. 1992.
33. Lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nxb QĐND, 1981.
34. Quảng Nam Đà Nẵng - 30 năm chiến đấu và chiến thắng, t. 2, Nxb QĐND, 1988.
35. Quảng Ngãi: Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975). Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình, 1988.
36. Bình Định: Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975), Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định ấn hành, 1992.
37. Phú Yên 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975) Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên ấn hành.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Hai, 2010, 10:59:22 pm

38. Đồng Nai - 30 năm chiến tranh giải phóng. Nxb Đồng Nai, 1986.
39. Sông Bé: Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975), Nxb Tổng hợp Sông Bé, 1990.
40- Cuộc kháng chiến 30 năm của quân dân Tiền Giang, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Tiền Giang ấn hành, 1988.
41. Ba Mươi năm kháng chiến của quân dân Đồng Tháp. Bộ chỉ huy quân sự Đồng Tháp ấn hành. 1990.
42. Kiến Giang 30 năm chiến tranh giải phóng. Bộ chỉ huy quân sự Kiến Giang ấn hành, 1987.
43. Minh Hải - 30 năm chiến tranh giải phóng. Nxb Mũi Cà Mau, 1986.
44. Chiến thắng Tua Hai. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Tây Ninh ấn hành, 1980.
45. 21 năm chống Mỹ, cứu nước và những bài học về toàn dân đánh giặc của Hậu Giang - Ban Tổng kết chiến tranh Hậu Giang, 1987.
46. Tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam, t. 1, lưu trữ Viện Lịch sự quân sự Việt Nam, (tài liệu đánh máy).
47. Dự thảo đề cương tỉ mỉ báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường B2, t. 1, Lưu trữ Viện Lịch sử quân sự.
48. Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trong kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường B2, Lưu trữ Viện LSQS.
49. Dự thảo tổng kết phong trào Đồng khởi của nhân dân Bến Tre, lưu trữ Viện LSQS.
50. Cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Tây Ninh - Tỉnh ủy Tây Ninh ấn hành, 1984.
51. Công tác xây dựng và bảo vệ căn cứ địa Tây Ninh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tỉnh ủy Tây Ninh ấn hành, 1984.
52. Việc xây dựng và hoạt động tác chiến của các lực lượng vũ trang Tây Ninh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tỉnh ủy Tây Ninh ấn hành, 1984.
53. Báo cáo diễn biến 21 năm kháng chiến chống Mỹ và những bài học về toàn dân đánh giặc ở Long An, Ban Tổng kết chiến tranh tỉnh ủy Long An ấn hành, 1985.
54. Báo cáo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Quân khu VI, t. 1, Ban Tổng kết chiến tranh B2 ấn hành, 1984.
55. Quân khu V thắng lợi và những bài học trong kháng chiến chống Mỹ, t. 1 - Nxb QĐND, 1981.
56. Chiến trường Trị Thiên-Huế trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb Thuận Hóa, 1985.
57. Cuộc chống Mỹ, cứu nước ở Sài Gòn - Gia Định, Ban Tổng kết chiến tranh Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. 1991.
58. Tình hình lực lượng và hoạt động vũ trang của ta ở miền Nam và những vấn đề Quân ủy Trung ương cần bàn, kho lưu trữ BQP, hồ sơ số 61 - loại A61.
59. Dự thảo chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình hỗn loạn ở miền Nam và nhiệm vụ công tác cụ thể của chúng ta ở miền Nam hiện nay (20-6-1955), Cục lưu trữ Văn phòng T.Ư Đảng, Đơn vị bảo quản 01.
60. Tổng kết giai đoạn I chiến dịch tố cộng. Cục lưu trữ Văn phòng T.Ư Đảng, đơn vị bảo quản 03.
61. Báo cáo âm mưu của địch ở miền Nam, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 03.
62. Một năm đấu tranh chính trị của NDVN-1955, lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 05.
63. Báo cáo tình hình đặc biệt về Quốc dân đảng của Liên khu V 1955, lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 13.
64. Báo cáo tình hình ngụy quân 1954, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 15.
65. Báo cáo tình hình công giáo miền Nam, Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 36.
66. Điện gửi Xứ ủy Nam Bộ về tình hình Hòa Hảo, Cao Đài, Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 36.
67. Báo cáo tình hình quân sự miền Nam 1956, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 37.
68. Báo cáo đặc biệt tình hình Đảng ở miền Nam từ sau hòa bình đến nay (22-8-1956), Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 40.
69. Một số tình hình miền Nam 3 tháng đầu 1957. Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng. đơn vị bảo quản 50.
70. Tài liệu về TH MN và tinh thần đấu tranh của nhân dân chống Mỹ - Diệm, Lưu trữ Văn phòng trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 50.
71. Báo cáo TK tình hình 1957. ĐVBA 58 (VPTUD). Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 58.
72. Tình hình nhân dân và phong trào đấu tranh ở miền Nam năm 1957, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 65.
73. Một số tài liệu về bộ mặt phát xít của Mỹ - Diệm trong giai đạn 2: “Tố cộng” khủng bồ đồng bào miền Nam 1957, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 77.
74. Báo cáo tình hình năm 1958, Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 98.
75. Phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam năm 1958, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 105.
76. Đề cương đường lối đấu tranh thống nhất nước nhà 1956, Lưu ưữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 31.

IV- SÁCH VÀ TÀI LIỆU DỊCH

1.Tài liệu mật Lầu Năm Góc, Trung tâm thông tin KHKT dịch, Thư viện quân đội sao.
2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam (The secret history of the Vietnam war), VNTTX phát hành. 1971.
3. Níchxơn: Cuộc chiến tranh thực sự, Thư Viện quân đội sao lược, VL 1296/03.
4. Genrrges Chaffard: Hai cuộc chiến tranh của Việt Nam từ Valuy đến Oétmolen, t. 1, Nxb Paris La Table Ronde, 1969. (Bản đánh máy lưu trữ Viện LSQS. số VL 1139/82 ).
5. Giôdép Amtơ: Lời phán quyết về Việt Nam - Nxb QDNĐ. 1985.
6. Pitơ Aputơ: Nước Mỹ và Đông Dương từ Rudơven đến Nichxơn, Nxb Thông tin lý luận, 1986.



Hết!