Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 15 Tháng Năm, 2024, 03:00:16 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lạc trong đời thường - phần II.  (Đọc 85955 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
xuanxoan
Thành viên
*
Bài viết: 954


« Trả lời #210 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2013, 08:12:13 pm »



    Ối giời ơi Haanh vượt biên lên sao hỏa mới về hả, trên đấy nóng không mà vẫn cởi trần vậy... đang ở đâu vậy Huh
Logged
xuanxoan
Thành viên
*
Bài viết: 954


« Trả lời #211 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2013, 08:26:20 pm »



     Chắc trên đài truyền hình TW không đưa tin Đà Nẵng tri ân những người lính đã hy sinh ngày 14/3 rồi. từ 20 giờ tới giờ 20 h20 mình đang xem...nhưng cũng hơi buồn buồn vì ...không giới thiệu thân nhân Liệt sĩ tới dự...sau khi Thái Thanh Hùng CT. Hội CCB Đà Nẵng hô mặc niệm, cô dẫn chương trình mới tiếp tục ra giới thiệu sự có mặt của thân nhân các liệt sĩ...và hiện  đang ca hát ...nhưng đến giờ vẫn chưa nói phạm húy "tên" ông bạn 16 chữ vàng....chỉ nói ghi ơn các liệt sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa ...

    Giờ đang mời các sĩ quan và chiến sĩ các đơn vị chiến đấu lên kể chuyện...hy vọng chỉ thẳng tên bọn từng bắn các anh...
Logged
xuanxoan
Thành viên
*
Bài viết: 954


« Trả lời #212 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2013, 08:44:21 pm »

       Đã xem những thước phim tư liệu của lính hải quân Trung quốc bắn anh em mình...và vòng tròn bất tử xuất hiện  ..anh em Hải Quân mình tạo vòng tròn để bảo vệ cờ Tổ Quốc. Thật cảm động khi đảo phó Phương giữ cờ bị bắn, quấn cờ vào người hô to thà hy sinh nhưng phải giữ cờ, giữ đảo, to mấu mình lên lá cờ tổ quốc và anh đã hy sinh, đại úy Nguyên Văn Lanh tiếp tục lao vào giữa cờ - anh ôm cờ vào lòng, hất tên lính Trung quốc phía trước, không ngờ còn tên phía sau đâm lê vào bả vai anh, máu anh đã thấm lá cờ; một tên phía trước sông tới gí súng vào anh, anh cúi xuống loạt đạn bắn qua vai anh...nhưng lá cờ anh vẫn giữ và ngất đi... thật xúc động những người lính Hải quân bảo vệ Gạc Ma..
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Ba, 2013, 08:53:02 pm gửi bởi xuanxoan » Logged
ledvu
Thành viên
*
Bài viết: 212



« Trả lời #213 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2013, 09:08:32 pm »

Lại cứ như thế này:

Sách học vần tiếng Việt lại vẽ cờ Trung Quốc

Sau chuyện “cổng trường cắm cờ Trung Quốc”, lại có một cuốn sách nữa do tác giả Việt Nam biên soạn dạy tiếng Việt cho trẻ em cũng in cờ Trung Quốc.
Theo tác giả cuốn sách, bà Nguyễn Thị Thúy Hà thì những cuốn sách “vẽ cờ Trung Quốc” chỉ là bản in thử được mang gửi ở một số nhà sách(?).
 
In thử! để thử phản ứng cuả dư luận!!!
Sắp có 1 Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống ra mặt hay sao!!!
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/111782/sach-hoc-van-tieng-viet-lai-ve-co-trung-quoc.html
Logged
xuanxoan
Thành viên
*
Bài viết: 954


« Trả lời #214 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2013, 09:16:05 pm »


    Thật sự người này ngã xuống trước họng súng lính Trung quốc, người sau lao vào giữ cờ; chiến sĩ Hải quân tàu vận tải vào tiếp tục đúng bảo vệ cờ và đảo; đưa thương binh, liệt sĩ về đảo côlin; bảo vệ xác liệt sĩ ( anh Phương)...chính thức là các anh được lệnh không được nổ súng (đó là điều sự thực qua lời kể của các anh)- bảo vệ đảo, bảo vệ cờ Tổ Quốc bằng mạng sông của mình; chấp nhận lưỡi lê và đạn bắn vào của lính Trung Quốc.

   Thật sự không ngờ...ngày hôm nay mới chứng kiến và nghe các anh nói và mẹ một liệt sĩ ở Đà Nẵng vẫm ôm chiếc áo của con gửi về và bà đã mặc vào mỗi khi có việc để đỡ nhớ người con đã hy sinh ở đảo Gac ma.

   Vòng tròn bất tử...có lẽ đây là hình ảnh riêng có và bất tử của người lính hải quân bảo vệ đảo Hoàng sa và Trường sa...các bạn trẻ và các cháu thiếu nhi hãy kể cho nhau nghe, truyền tai nhau câu chuyện về "vòng tròn bất tử"...khi lính Trung Quốc tấn công, các anh những người lính hải quân trẻ, chỉ tay không bảo vệ cờ Tổ quốc...bắt đầu hình thành vòng tròn bảo vệ cờ, người này bị bắn, bị lê đâm ngã xuống, người lính khác lao đến giữ cờ tổ quốc...  

   Thật không ngờ và xúc động lắm bạn ơi.

  
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #215 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2013, 11:46:46 pm »



    Nợ xấu Huh!

   khái niệm "xấu" của mình được hiểu theo nghĩa gì đâu - từ ngữ VN diễn tả Xấu người xấu nết hay tên gọi cây sấu; con cá sấu...gì gì nữa đây theo giọng nói của từng vùng miền nước ta Huh.

   Trong tài khoản kế toán có Quỹ dự phòng...cái này hỏi anh Huong HN, anh Trần Phú 341 hay giám đốc doanh nghiệp NVV cựu chiến binh tài khoản quỹ dự phòng để làm gì hở các anh Huh

  ..........
Có một bài viết hay và sáng sủa của một chuyên gia, xin chia sẻ với các bác:
http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2012/07/bad-debt.html

Bad debt accounting

Tôi thấy nhiều người, vd ông Quách Mạnh Hào, nhầm lẫn về bad debt accounting nên viết lại cho rõ. Tôi sẽ lấy một ví dụ bằng số cụ thể như sau. Một ngân hàng có 14 đồng vốn tự có, huy động thêm 86 đồng tiền gửi của dân rồi cho vay 100 đồng. Bản cân đối tài sản sẽ như sau (để đơn giản tôi tạm thời bỏ qua các assets nhỏ khác, vd dự trữ bắt buộc, tài sản cố định, đầu tư vào trái phiếu chính phủ..., mà coi toàn bộ asset là tiền ngân hàng cho vay):


ASSETS:   100
Loans:        100

LIABILITIES: 100
Deposit:            86
Equity:              14


Như vậy ngân hàng này có tỷ lệ vốn tự có/dư nợ bằng 14%. Khi ngân hàng phát hiện ra trong số 100 đồng cho vay đó có 8.8 đồng nợ xấu, theo qui định của NHNN họ phải trích lập dự phòng (để đơn giản giả sử số nợ xấu đó phải trích lập 100% và khoản cho vay không có thế chấp). Lúc này bản cân đối tài sản sẽ như sau (theo thông lệ kế toán số trong ngoặc kép là số âm):

ASSETS:      91.2
Loans:         100
Provisions:     (8.8 )

LIABILITIES:  91.2
Deposit:            86
Equity:                5.2

Tỷ lệ vốn/dư nợ của ngân hàng này chỉ còn 5.7%, vốn tự có giảm xuống 5.2 đồng vì khoản trích lập dự phòng 8.8 đồng được đưa vào chi phí của ngân hàng (income statement). Lưu ý khoản trích lập dự phòng 8.8 đồng này là non-cash transaction, nghĩa là không phải ngân hàng trích ra 8.8 đồng bỏ vào một tài khoản dự phòng nào đó. Đây hoàn toàn chỉ là một qui định accounting, thuật ngữ "trích lập dự phòng" làm nhiều người hiểu nhầm. Nếu ngân hàng "xử lý" nợ xấu (theo nghĩa write off) bảng cân đối tài sản sẽ như sau:


ASSETS:      91.2
Loans:           91.2

LIABILITIES: 91.2
Deposit:           86
Equity:               5.2


Việc xử lý nợ xấu như vậy cũng là non-cash transaction, chỉ có ý nghĩa kế toán. Trước và sau khi xử lý nợ xấu tỷ lệ vốn/dư nợ không đổi, mức độ rủi ro của ngân hàng này cũng không đổi và khả năng huy động tiền gửi và cho vay cũng vậy. Khi ngân hàng công bố họ có 8.8 đồng nợ xấu điều đó có nghĩa họ đã phải trích lập dự phòng và vốn chủ sở hữu đã bị giảm bớt. Trên bảng cân đối tài sản có 8.8 đồng nợ xấu không có nghĩa vốn chủ sở hữu sẽ mất 60% khi xử lý nợ xấu, nó đã mất rồi.

Một điểm nữa, khoản nợ xấu 8.8 đồng (trước khi xử lý) hoàn toàn không phải là "cục máu đông" ngăn cản ngân hàng này tăng trưởng tín dụng. Như tôi đã viết trước đây, vấn đề nằm ở chỗ ngân hàng này có thể đã giấu bớt nợ xấu để không trích lập dự phòng đầy đủ. Giả sử số nợ xấu và trích lập dự phòng phải là 18 đồng thay vì 8.8 đồng, bản cân đối tài sản như sau:


ASSETS:      82
Loans:         100
Provisions:   (18)

LIABILITIES: 82
Deposit:          86
Equity:            (4)

Vốn chủ sở hữu âm nghĩa là ngân hàng bị phá sản. Tuy nhiên đây chỉ là phá sản trên sổ sách, nếu số 86 đồng huy động chưa đến hạn phải trả cho khách hàng thì ngân hàng này vẫn chưa mất khả năng thanh toán. Nếu vậy ngân hàng này sẽ chỉ công bố nợ xấu là 8.8 đồng thôi để tiếp tục tồn tại và hi vọng thị trường sẽ phục hồi hoặc được nhà nước bailout. Nhưng ngân hàng này sẽ khó có thể tăng tín dụng được nữa. Thứ nhất, họ có thể giấu con số 18 đồng nợ xấu mà chỉ báo cáo với NHNN 8.8 đồng, nhưng họ khó có thể giấu được thị trường. Khách hàng không muốn gửi tiền, các tổ chức tín dụng khác không muốn cho vay nên họ không còn nguồn vốn để tiếp tục tăng trưởng tín dụng. Thứ hai, bản thân họ cũng không muốn tăng thêm tín dụng vì cứ giả sử họ huy động tiếp được 100 đồng, nếu cho vay và lại bị nợ xấu thì phải tiếp tục trích lập dự phòng, có khả năng sẽ mất nốt số 5.2 đồng còn lại trên sổ sách.

Thực ra NHNN có thể đã biết con số nợ xấu thật là 18 đồng chứ không phải 8.8 đồng. Tuy nhiên NHNN không dám ép ngân hàng này khai thật vì như vậy họ sẽ phá sản (điều này đúng hay không chưa bàn ở đây). Bởi vậy NHNN chấp nhận số 8.8 đồng nợ xấu và cùng ngân hàng kia đợi thị trường phục hồi. Trong lúc đó NHNN sẽ phải bơm thanh khoản cho họ để họ thanh toán các khoản liabilities tới hạn. Tuy nhiên nếu khả năng thị trường phục hồi thấp thì NHNN phải lên kế hoạch bailout. Nếu NHNN lập một công ty quản lý tài sản (AMC) đổi nợ xấu lấy trái phiếu theo book value, bản cân đối tài sản của ngân hàng sẽ như sau:

ASSETS:   100
Loans:         91.2
Bonds:          8.8

LIABILITIES:  100
Deposit:             86
Equity:               14

Sở dĩ vốn chủ sở hữu tăng từ 5.2 đồng lên 14 đồng vì khoản dự phòng rủi ro 8.8 đồng được nhập ngược vào income statement. Bảng cân đối tài sản này cực kỳ đẹp và ngân hàng sẽ rộng cửa huy động và cho vay. Tuy nhiên cái giá phải trả là AMC sẽ phải ôm đống nợ xấu, đến khi nào phải write off thì hoặc ngân sách hoặc NHNN phải chịu lỗ.

Tóm lại cần phải hiểu rằng việc ngân hàng trích lập dự phòng khi công bố một khoản nợ xấu chỉ là một nghiệp vụ kế toán, hoàn toàn không phải họ bỏ một khoản tiền vào tài khoản để phòng ngừa rủi ro hoặc để sau này xử lý số nợ xấu đó. Hệ thống ngân hàng VN có tỷ lệ nợ xấu quá lớn là đúng, nhưng vấn nạn là ở chỗ họ đang dấu một phần (lớn) số nợ xấu đó chứ không phải họ không chịu xử lý nợ xấu như nhiều người nói. Công khai số nợ xấu này đòi hỏi ngân hàng phải tăng equity nếu không họ sẽ phá sản. Thành lập AMC là một cách để giúp các ngân hàng tăng equity một cách gián tiếp.
.....
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #216 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2013, 11:48:13 pm »

(tiếp theo và hết)

http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2012/07/bad-debt.html

Cũng như các loại hình kinh doanh khác, hoạt động ngân hàng luôn có rủi ro. Hai loại rủi ro quan trọng nhất (nhưng không phải duy nhất) mà các ngân hàng phải đối mặt và xử lý hàng ngày là liquidity risk và credit risk. Liquidity risk liên quan đến khả năng chi trả những liabilities ngắn hạn trong khi asset của ngân hàng thường có thời gian đáo hạn dài hơn. Bài viết này sẽ không đề cập đến loại rủi ro này mà chỉ tập trung vào loại rủi ro thứ hai là credit risk.

Khi các ngân hàng cho vay, credit risk là rủi ro khách hàng của họ không trả được nợ (đúng hạn và/hoặc vỡ nợ hoàn toàn). Rủi ro này lại được chia thành hai loại: expected và unexpected. Unexpected risk là những rủi ro mà ngân hàng không thể lường trước được và được họ phòng ngừa bằng chính số vốn chủ sở hữu của mình. Ở đây cần hiểu khái niệm "phòng ngừa" theo nghĩa nếu loại rủi ro này xảy ra thì ngân hàng có đủ năng lực tài chính để hấp thu số lỗ mà không hề hấn gì đến khả năng chi trả các liabilities của họ. Nói cách khác vốn chủ sở hữu là một buffer (bộ đệm an toàn) của một ngân hàng đối với unexpected risk. Trong trường hợp expected risk, nghĩa là rủi ro khách hàng không trả được nợ mà ngân hàng có thể dự đoán được dựa vào kinh nghiệm và các mô hình đánh giá rủi ro (credit risk model), buffer tương ứng thường được gọi là loan loss provisions/reserve (dự phòng rủi ro). Hai loại buffer này và mức độ rủi ro tương ứng được Cavallo và Majnoni mô tả bằng hình vẽ dưới đây:



[Update 14/7: Tôi xin giải thích thêm đồ thị trên và 2 khái niệm buffer liên quan. Bên trên là probability density function (pdf) của rủi ro mất vốn của một ngân hàng (đại diện). Trục X là giá trị của khoản mất vốn (có thể là $ hoặc %assets), ví dụ một ngân hàng có tổng assets bằng $100b, điểm A có thể là $3b, điểm B là $10b. Trục Y là xác suất ngân hàng sẽ mất vốn ứng với mỗi giá trị trên trục X. Tại điểm O xác suất bằng 0%, hiển nhiên khó có ngân hàng nào có thể hoạt động mà chắc chắn mình sẽ không mất một đồng vốn nào (không có khách hàng nào không trả được nợ). Tại điểm B, xác suất mất vốn cũng rất nhỏ vì hiếm ngân hàng bị mất vốn với mức độ lớn như vậy. Phần diện tích bên dưới đường pdf bên trái đường chạy qua B bằng 99% tổng diện tích toàn bộ phần dưới pdf, nghĩa là trong 100 ngân hàng thì trung bình chỉ có thể có 1 ngân hàng bị mất vốn vượt quá ngưỡng này. Xác suất mất vốn sẽ đạt cực đại ở một giá trị tương đối nhỏ, ví dụ $1b-$1.5b, rồi giảm dần. Phần diện tích dưới pdf bên trái A xấp xỉ 50%, nghĩa là một khoản mất vốn có giá trị từ 0 đến $3b có thể tạm coi là expected cho một ngân hàng trong điều kiện bình thường (có 50% xác suất sẽ xảy ra một lần mất vốn có giá trị trong khoảng OA).  Do vậy ngân hàng cần phải có một khoản dự phòng (general provisions) để đảm bảo hoạt động của họ không bị gián đoạn khi những rủi ro loại này xả ra. Đây là buffer thứ 2, có thể coi nó là một cách để bảo vệ tài sản của shareholder trong điều kiện hoạt động bình thường của một ngân hàng.

Trong đoạn từ A tới B, xác suất mất vốn giảm dần nhưng có thể coi đây là khoảng (mất vốn) mà shareholder không expect. Chỉ có những sự kiện đặc biệt mới có thể gây ra một khoản mất vốn lớn như vậy và shareholder chấp nhận đây là rủi ro mà họ phải đối mặt khi kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Đây là buffer thứ nhất cho unexpected risk (đối với shareholder) và là điều các regulator luôn có qui định tối thiểu để đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng (vd Basel II yêu cầu 8%, nghĩa là trong trường hợp tổng asset là $100b thì OB tối thiểu phải là $8b).]

Buffer thứ nhất, vốn chủ sở hữu, là tâm điểm của các qui định quản lý ngân hàng như Basel I, II, cũng sẽ không được bàn thêm trong bài viết này. Buffer thứ hai, liên quan đến vấn đề nợ xấu, lại được chia thành 2 phần: general và specific provisions. [Lưu ý: đồ thị bên trên gộp cả 2 phần này thành General Provisions trong đoạn OA]. Specific provisions là phần trích lập dự phòng cho từng khoản vay cụ thể, ví dụ khoản vay $100m cho khách hàng X nếu bị liệt vào nhóm "doubtful debt" (nhóm 4) thì theo Quyết định 493/2005/QD-NHNN phải trích dự phòng $50m (50% giá trị vay, giả sử không có thế chấp). Rõ ràng với những khoản vay đã bị nghi ngờ khả năng chi trả như vậy thì rủi ro là expected cho nên số tiền trích lập dự phòng này phải được xếp vào buffer thứ hai.

Trước QĐ 493, VN như nhiều nước đang phát triển khác, chỉ qui định specific provisions, nghĩa là chỉ yêu cầu ngân hàng phải trích lập dự phòng cho những khoản vay có dấu hiệu hoặc đã có vấn đề về khả năng chi trả. Từ QD 493 về sau các ngân hàng VN phải trích lập thêm 0.75% cho tất cả các khoản vay ngay khi giải ngân cho khách hàng. Phần trích lập dự phòng này gọi là general provisions và được coi như là một phần buffer cho expected risk dựa theo kinh nghiệp (thống kê) về tỷ lệ mất vốn của toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung. Tuy nhiên vì những rủi ro này vẫn không chắc chắn (uncertain) vì chỉ dựa vào kinh nghiệm nên một số nước cho phép các ngân hàng gộp phần general provisions này vào vốn chủ sở hữu (thường là tier 2 capital). Tôi không rõ VN qui định về vấn đề này thế nào, bạn nào biết làm ơn viết lại dưới phần comment. [Update 17/7: Theo như bạn Nguyễn Thanh Bình và huy nguyenduc trong phần comment bên dưới, NHNN (Thông tư 13/2010/TT-NHNN) không cho phép giữ lại general provisions trong tier 2 capital như một số nước mà yêu cầu trừ ngay vào chi phí hoạt động trong năm. Thật ra đọc kỹ lại QĐ 493 cũng thấy phần dự phòng chung phải được hoạch toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng.]

Như vậy dưới con mắt các nhà kinh tế việc qui định specific & general provisions (2nd buffer) là để phòng ngừa expected risk cho các khoản vay có thể bị mất vốn (lưu ý đến thời điểm này tôi vẫn chưa dùng từ "nợ xấu"). Từ cơ sở (lý thuyết) này nảy sinh ra hai vấn đề trên thực tế liên quan đến provisions/buffer. Thứ nhất là qui định quản lý nhà nước liên quan đến an toàn hệ thống. Như tôi đã viết bên trên VN có QĐ 493 (sau đó bổ sung bằng QĐ 18/2007/QĐ-NHNN) nhằm qui định cụ thể việc phân loại nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng bắt buộc. Trong khi đó nhiều nước, chủ yếu là các nước phát triển, qui định về provisions khá lỏng lẻo, hầu như để các ngân hàng tự giác. Quản lý nhà nước chỉ còn quan tâm đến buffer thứ nhất (owners' capital). Điểm khác biệt về cách tiếp cận quản lý nhà nước này có lẽ do năng lực của hệ thống ngân hàng và của cả các regulators. Khi khả năng quản lý rủi ro của các ngân hàng còn kém, việc đưa ra các con số provision cụ thể cho từng loại nợ là một cách buộc họ thừa nhận những expected risk mà có thể họ không thấy (hoặc thấy không đầy đủ). Nhưng về lâu dài việc de-regulation những qui định cứng nhắc này sẽ giúp các ngân hàng thay đổi tỷ lệ provisions phù hợp với chu kỳ kinh tế và đặc thù kinh doanh của họ (có rất nhiều research về dynamic provisioning policy của các ngân hàng theo dạng pro hay counter cyclical).

Vấn đề thứ hai là các qui định kế toán liên quan đến provisioning. Ở những nước theo quan điểm phải qui định cụ thể tỷ lệ provisions cho từng khoản nợ như VN, accounting standards phải phản ánh những qui định này. Tuy nhiên điểm khác biệt quan trọng giữa quản lý nhà nước với kế toán doanh nghiệp nằm ở nguyên tắc accrual accounting mà hệ thống kế toán của hầu hết các nước (trong đó có VN) tuân theo. Quản lý nhà nước (và đa số báo chí, dân thường) coi việc trích lập dự phòng như là bỏ một lượng tiền cụ thể vào một account nào đó để phòng ngừa rủi ro, business accounting coi đây là một non-cash transaction trong báo cáo tài chính ảnh hưởng lên kết quả kinh doanh trên sổ sách. Đối với các ngân hàng, vì đây là non-cash transaction nên nó không hề ảnh hưởng (trực tiếp) đến tình trạng liquidity của họ. Tương tự như vậy khi ngân hàng "xử lý nợ xấu" (sẽ giải thích kỹ hơn bên dưới) thông quan write-off/charge-off một khoản nợ khỏi balance sheet thì đó cũng là non-cash transaction và không ảnh hưởng đến liquidity. Chính sự đan xen giữa quản lý nhà nước và accounting liên quan đến hoạt động provisioning gây ra một số hiểu nhầm về vấn đề nợ xấu và xử lý nợ xấu.

Đến đây cần phải định nghĩa rõ thế nào là nợ xấu. Chữ "nợ xấu" được dịch từ "bad debt" là một thuật ngữ khá chung chung, chủ yếu phổ biến trên báo chí và các "salon economist". Giới regulators (central banks, IMF, BIS) và các chuyên gia "thực sự" về lĩnh vực ngân hàng thường sử dụng thuật ngữ "non-performing loans" (NPL), trong khi đó các accounting standards sử dụng thuật ngữ như "non-accrual loans" (US GAAP) hay "impaired loans" (IAS 39). NHNN VN sử dụng NPL (nhưng dịch thành "nợ xấu") trong QĐ 493 hay Thông tư 15/2010/TT-NHNN. Tôi không rõ các qui định kế toán của VN sử dụng thuật ngữ gì, lại phải nhờ các bạn giúp trả lời trong phần comment bên dưới. Vì không phải là chuyên gia nên tôi sẽ tiếp tục sử dụng thuật ngữ "nợ xấu" trong bài này :-).

Một trong những hiểu nhầm rất phổ biến trên báo chí VN và cả nhiều chuyên gia là tiêu chuẩn nợ xấu của VN khác với tiêu chuẩn nợ xấu quốc tế. Nếu thống kê nợ xấu theo "tiêu chuẩn quốc tế" thì nợ xấu trong hệ thống ngân hàng VN phải cao hơn nhiều con số được công bố chính thức. Trước hết cần nói rõ là trên thế giới không hề có một bộ tiêu chuẩn nào về nợ xấu, có chăng là một số thông lệ được nhiều nước sử dụng và một số guidelines do các tổ chức quốc tế (BIS, IMF) khuyến cáo. Một trong những guideline quan trọng của BIS trong Basel I là việc phân loại nợ thành 5 nhóm (pass, special mention, substandard, doubtful, loss) mà rất nhiều nước áp dụng (xem survey này của WB và survey này của IMF). Từ guideline này thông lệ quốc tế xếp những khoản nợ bị quá hạn (vốn hoặc lãi) quá 90 ngày vào nhóm 3 (substandard) và 3 nhóm cuối thường được gộp chung thành NPL. QĐ 493 của NHNN cũng áp dụng cách tính NPL theo thông lệ này, bởi vậy không thể nói "tiêu chuẩn nợ xấu" của VN kém "tiêu chuẩn quốc tế". Vấn đề nằm ở chỗ khác.

Một nhầm lẫn khác cũng khá phổ biến là khi ngân hàng "xử lý nợ xấu" thì sẽ phát sinh những khoản lỗ lớn vì đa số tài sản thế chấp sẽ không thể thanh lý bằng với số dư nợ. Nhầm lẫn này còn có một biến thể tệ hơn khi cho rằng ngân hàng xử lý nợ xấu sẽ mất một lượng cash lớn dẫn đến mất thanh khoản. Những sai lầm này có lý do chung là không hiểu rõ các nguyên lý business accounting, cụ thể là các qui trình provisioning và write-off. Như đã nói bên trên, cả hai hoạt động này đều là non-cash transaction, nghĩa là chỉ xảy ra trên sổ sách kế toán chứ trên thực tế không có một dòng cashflow nào chảy ra từ két sắt của ngân hàng cả. Với write-off nếu ngân hàng thanh lý tài sản thế chấp hoặc nếu ngân hàng bán được số nợ xấu đó cho một bên thứ ba thì thực tế họ sẽ có positive cashflow.

Thuật ngữ write-off (hay charge-off) được QĐ 493 dịch ra là "xử lý rủi ro tín dụng" với ý nghĩa ngân hàng đưa khoản nợ xấu không còn khả năng thu hồi ra khỏi balance sheet. Không kể trường hợp doanh nghiệp bất ngờ phá sản, việc xử lý nợ xấu chỉ thực hiện với những khoản nợ đã được đưa vào nhóm 5, nghĩa là đã được trích lập dự phòng 100% (giá trị khoản nợ trừ đi giá trị tài sản thế chấp đã được chiết khấu theo qui định). Hoạt động này chỉ diễn ra trên cột assets, khoản nợ xấu được đưa ra khỏi phần loans, đồng thời loan loss reserve (một contra-account bên cột assets) cũng được trừ đi một giá trị (âm) tương ứng. Do đó total assets không thay đổi và không ảnh hưởng gì đến profit & loss của ngân hàng. Khoản nợ xấu được "xử lý" này sẽ được bỏ vào một off-balance sheet account và chỉ được "xuất toán" sau 5 năm. Xuất toán ở đây được hiểu là ngân hàng xoá hoàn toàn khoản nợ này ra khỏi "bộ nhớ" của mình và con nợ coi như được "xoá nợ" hoàn toàn, theo nghĩa không còn legal liability cho khoản nợ đó (điểm này tôi không chắc chắn lắm, bạn nào có thông tin làm ơn để lại comment bên dưới).

Đây là điểm QĐ 493 (và QĐ 18) không rõ ràng, nhất quán và có vẻ không theo thông lệ quốc tế. QĐ 493 cho phép "xử lý rủi ro tín dụng" nhưng nghiêm cấm ngân hàng không được báo điều này cho khách hàng biết. Tuy nhiên QĐ này lại yêu cầu ngân hàng phải thoả thuận với khách hàng khi thanh lý tài sản thế chấp trong quá trình xử lý nợ xấu. Ở đa số các nước khi một khoản nợ bị default thì trừ khi con nợ tuyên bố phá sản, ngân hàng có toàn quyền xử lý tài sản thế chấp. Tất nhiên ngân hàng bao giờ cũng tìm cách thoả thuận/giải quyết với khách hàng trước khi thanh lý tài sản nhưng hiển nhiên họ phải thông báo cho khách hàng biết họ chuẩn bị thanh lý tài sản thế chấp nếu khách hàng không trả được nợ chứ không thể giấu ý định đó như theo QĐ 493. Trường hợp con nợ tuyên bố phá sản thì toà án sẽ phát hành lệnh (injunction) phong toả tất cả tài sản, kể cả collateral, và toà sẽ phân xử việc phân chia tài sản cho các chủ nợ theo các hợp đồng nợ đã ký.

Ở nhiều nước ngân hàng có thể xử lý nợ xấu theo một cách khác là bán số nợ này với một discount đáng kể cho một bên thứ ba, thường là những công ty chuyên đi thu hồi nợ. [Vụ Elliott Advisors mua nợ của Vinashin rồi kiện ra toà án Anh là một ví dụ.] Nếu xử lý theo phương án này, chênh lệch giữa số tiền thu được cộng với số specific provision và số nợ tồn động được gọi là net charge-off cũng được chuyển sang income statement. Trong trường hợp của VN nếu nợ nhóm 5 được bán thì net charge-off sẽ phải dương vì phần provision đã là 100% giá trị khoản nợ. Như vậy cả P&L lẫn cashflow đều tăng vì ngân hàng thu lại được một phần lỗ mà trước đây họ đã hạch toán khi trích lập dự phòng. Vậy tại sao các ngân hàng (không chỉ ngân hàng VN) lại luôn tìm cách delay việc xử lý nợ xấu ngay cả khi họ không còn hi vọng sẽ thu hồi được?

Có ba lý do. Thứ nhất mặc dù vô vọng xác suất một khoản nợ xấu nào đó có thể phục hồi trong tương lai không hoàn toàn là zero. Nếu khoản nợ xấu đó đã được trích lập dự phòng đầy đủ thì giữ nó lại không ảnh hưởng gì đến kết quả kinh doanh hiện tại (earning và cashflow không bị ảnh hưởng) trừ khi vì nó mà ngân hàng bị tiếng xấu và khó huy động vốn. Cứ giữ nó lại trên sổ sách biết đâu sau này gỡ gạc được một vài phần trăm thì vẫn tốt hơn là xóa nó khỏi bộ nhớ. Chưa kể việc write-off hoàn toàn một khoản nợ là một dạng giương cờ trắng, cán bộ tín dụng trực tiếp và sếp của anh/chị ta buộc phải thừa nhận đã sai lầm khi cho vay khoản nợ đó. Thừa nhận mình sai không bao giờ dễ mà trong trường hợp này còn có thể ảnh hưởng đến lương/thưởng và khả năng thăng tiến.
......
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #217 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2013, 11:48:48 pm »

(tiếp theo)

Thứ hai, lý do phổ biến nhất là các ngân hàng đã không trích lập dự phòng đầy đủ. Có thể họ tự nguyện đảo nợ cho khách hàng hoặc tái cơ cấu lại khoản nợ để nó không bị rơi vào định nghĩa nợ xấu theo các qui định của regulator hoặc accounting standards (Update 21/8: Một ví dụ nóng hổi đây). Một khoản nợ xấu được giữ trong nhóm 4 thay vì liệt kê vào nhóm 5 sẽ giảm được 50% tiền trích lập dự phòng. Ngoài ra định giá tài sản thế chấp cao khi cho vay rồi không đánh giá lại chính xác giá trị của nó theo tình hình thị trường cũng giúp ngân hàng giảm bớt gánh nặng trích lập dự phòng khi khoản nợ trở thành NPL. Đây là điểm mà QĐ 493 "lỏng" hơn so với qui định của một số nước về tài sản thế chấp. Một số quốc gia không cho phép trừ giá trị của tài sản thế chấp khi một khoản vay phải trích lập specific provision với lý do giá trị của tài sản thế chấp rất khó xác định (không chỉ với ngân hàng mà cả auditor và regulator) và ngân hàng luôn có khuynh hướng định giá cao để giảm bớt provision. Chưa kể việc thanh lý tài sản thế chấp luôn mất thời gian nên quá trình write-off có nhiều uncertainty ảnh hưởng vào earning, do vậy ngân hàng sẽ cố delay write-off chừng nào còn có thể. Bởi vậy khuyến nghị của tôi là NHNN nên áp dụng qui định chặt hơn về phần tài sản thế chấp, có thể tăng dần tỷ lệ discount giá trị tài sản thế chấp khi tính specific provision.

Khi ngân hàng không trích lập dự phòng đầy đủ, write-off một khoản vay rất có thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp vào earning hiện tại dù cashflow không bị ảnh hưởng. Trong nhiều trường hợp nếu số provision bị thiếu hụt quá lớn và write-off có thể tạo ra một khoản lỗ lớn, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của ngân hàng có thể không đảm bảo và ngân hàng có nguy cơ phải deleverage hoặc phải huy động thêm vốn điều lệ, đồng nghĩa với delude dilute cổ phần của các owner hiện tại. Trong trường hợp xấu nhất khoản lỗ này có thể lớn hơn owner equity và ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng insolvent, hoặc bị phá sản/sáp nhập hoặc phải được bailout. Ngay cả khi khoản lỗ không quá lớn và owner equity làm tốt chức năng buffer thứ nhất thì tỷ lệ leverage của ngân hàng sẽ tăng lên đáng kể dẫn tới credit rating giảm và chi phí vốn tăng, lợi nhuận sẽ giảm trong tương lai chứ không chỉ bị giảm ngay lập tức vì ảnh hưởng của write-off. Bởi vậy các (executives của) ngân hàng không đời nào muốn xử lý nợ xấu nếu provision trước đây không đầy đủ và họ thừa biết điều này.

Thứ ba, lý do không ai muốn nói ra là ngân hàng giữ nợ xấu lại với hi vọng sẽ được bailout. Họ biết khoản nợ đó không phục hồi được nhưng nếu vị thế của họ "too big to fail" hoặc "too connected to fail" (connection ở đây phải hiểu theo nghĩa của VN) thì có khả năng họ sẽ bán được khoản nợ đó cho một AMC nào đó với giá "hữu nghị" và để người khác chịu lỗ thay cho họ. Nếu được như vậy ngân hàng vừa tránh phải write-off lỗ vừa giấu được việc trước đây họ đã trích dự phòng không đầy đủ. Vấn đề là để được bailout nợ xấu phải đủ lớn để có khả năng "đe dọa tính an toàn của hệ thống" hoặc là "cục máu đông" làm nghẽn mạnh nền kinh tế. Nếu sau một đêm nó tăng từ 4.5% lên 8.6% thì càng tốt, báo chí và các "chuyên gia" sẽ đồng thanh kêu gọi nhà nước phải xử lý nợ xấu bằng một AMC với vốn là tiền thuế của dân. Chí ít thì NHNN sẽ nhanh chóng phê duyệt các vụ mua bán, sáp nhập ngân hàng còn SSC sẽ làm ngơ nếu ai đó vi phạm luật chứng khoán trong các thương vụ mua bán/thôn tín đó. Moral hazard trong hoạt động ngân hàng không phải là điều gì mới mẻ.

Đến đây bạn có thể sẽ thắc mắc là nếu vậy chẳng lẽ cứ để cục nợ xấu đó treo lơ lửng trên đầu hệ thống ngân hàng? Ép họ write-off thì có khả năng đẩy một số ngân hàng vào tình trạng phá sản, nhẹ hơn thì họ buộc phải deleverage balance sheets của mình đồng nghĩa với giảm tín dụng cho nền kinh tế. Bailout họ bằng một AMC mua nợ xấu với giá "hữu nghị" thì khác nào chuyển tiền từ túi người dân cho các đại gia ngân hàng. Quan điểm của tôi là nợ xấu cần phải xử lý nhưng đừng sôi lên sùng sục để các ngân hàng có quá nhiều bargaining power. Cần có một lộ trình rõ ràng, minh bạch với các deadline cụ thể và achievable. Nếu ngân hàng nào không làm được thì nhà nước có thể bailout nhưng phải theo phương án Thụy điển, nghĩa là các chủ ngân hàng hiện hữu phải mất vốn và sở hữu trước, sau đó nhà nước sẽ rót vốn vào và giữ cổ phần tương ứng và có một lộ trình privatization cụ thể trong tương lai. Nếu một AMC được thành lập bằng tiền vốn nhà nước, nợ xấu phải được mua kèm với warrants/options để AMC đó được chia sẻ lợi nhuận trong tương lai của các ngân hàng được bailout.

Về lâu dài cần phải có một số thay đổi về qui định phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng, nhưng quan trọng hơn là năng lực quản lý và giám sát của NHNN. Cơ quan này phải thực sự nghiêm khắc với các ngân hàng vi phạm, có thể cấm hành nghề trong ngành ngân hàng với những executives liên quan. Vai trò và trách nhiệm của giới auditor cũng cần làm rõ, có thể cần qui định audited reports phải có một phần tách biệt nêu rõ quan điểm của auditor về nợ xấu và trích lập dự phòng. Một điểm mà tôi đã từng kêu gọi là hãy để các credit rating agency tư nhân ra đời và tham gia tích cực vào việc đánh giá credit risk của các ngân hàng. Đó sẽ là một cây gậy quan trọng buộc các ngân hàng không được lơ là về vấn đề nợ xấu. Điểm cuối cùng là nên bỏ quan điểm ngân hàng phải có qui mô tối thiểu, nghĩa là qui định vốn điều lệ tối thiểu. Quá trình chạy đua tăng vốn điều lệ trong mấy năm qua đã buộc các ngân hàng phải tăng credit một các quá nóng, buộc phải take risk. Sau khi write-off nợ xấu nếu vốn điều lệ thấp hơn mức tối thiểu họ lại phải tăng tín dụng ồ ạt trở lại sau khi huy động thêm vốn. Cái vòng xoáy này chỉ có thể chấm dứt nếu một ngân hàng sau khi mất một phần vốn có thể hoạt động với qui mô vốn nhỏ hơn rồi từ từ phục hồi. Đừng lo số lượng ngân hàng VN quá nhiều, tính theo tỷ lệ GDP hay dân số VN vẫn còn có ít ngân hàng hơn Mỹ.
Logged
Quocngoaicu
Thành viên
*
Bài viết: 373



« Trả lời #218 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2013, 12:08:50 am »

Tôi thực sự không hiểu tại sao các thông tin về việc các tàu ta các chiến sĩ ta chấp hành lệnh không nổ súng chống trả trong ngày 14-3 lại phổ biến thế? Rõ ràng là tàu đổ bộ 505 và 2 tàu vận tải của ta bắn trả. Tàu 505 thì dùng vũ khí của tàu - các bác chịu khó tìm xem hình ảnh của nó trên mạng, ngay trong Trang mình cũng có để bIết đó là vũ khí gì - 2 tàu vận tải thì dùng vũ khí bộ binh, gồm cả B41 bắn trả về phía các tàu chiến TQ. Tất nhiên với chênh lệch về vũ khí như thế thì ta đã thiệt hại nặng. Tàu 505 đã ủi bãi để tàu TQ không thể bắn chìm và tạo thành điểm tựa chiến đấu giữ đảo.
Logged
xuanxoan
Thành viên
*
Bài viết: 954


« Trả lời #219 vào lúc: 15 Tháng Ba, 2013, 08:11:34 am »



      Quan điểm của chuyên gia kinh tế:
     ....Quan điểm của tôi là nợ xấu cần phải xử lý nhưng đừng sôi lên sùng sục để các ngân hàng có quá nhiều bargaining power. Cần có một lộ trình rõ ràng, minh bạch với các deadline cụ thể và achievable. Nếu ngân hàng nào không làm được thì nhà nước có thể bailout nhưng phải theo phương án Thụy điển, nghĩa là các chủ ngân hàng hiện hữu phải mất vốn và sở hữu trước, sau đó nhà nước sẽ rót vốn vào và giữ cổ phần tương ứng và có một lộ trình privatization cụ thể trong tương lai. Nếu một AMC được thành lập bằng tiền vốn nhà nước, nợ xấu phải được mua kèm với warrants/options để AMC đó được chia sẻ lợi nhuận trong tương lai của các ngân hàng được bailout - trích từ trích dẫn của Qtdc

        Thực tiễn Việt Nam mới rợn:

        Thống đốc Nguyễn Văn Bình lại làm ngược lại theo quan điểm của cá nhân ông:  bắt cổ đông của ngân hàng WB phải chuyển nhượng cho công ty tài chính Dầu khí PVFC đang  ngắc ngoải này để khi thâu tóm xong WB thì nhóm cổ đông mới lại đòi nhà nước phải tái cấp vốn 37.000 tỷ đồng…thật chuyên gia kinh tế phân tích quá đúng…bái phục, bái phục.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM