tiếp nhé, 2. Hoạt động của các LLVT B3 Tây Nguyên thời điểm tháng 10/1969:
- hoạt động tổng kết hè năm 1969, B3 Tây Nguyên có các lực lượng sau:
...Khối chủ lực Tây Nguyên được kiện toàn lại, gồm 4 trung đoàn bộ binh (66, 28, 24, 95), 3 tiểu đoàn độc lập (631, 394, 5), 2 tiểu đoàn đặc công (20, 37), 1 trung đoàn pháo binh (40), Viện Quân y 211 và 3 cơ quan mặt trận.
Không thấy trung đoàn 33 nhé,
- tiểu đoàn 394 là tiểu đoàn độc lập trực thuộc Mặt trận,
- hoạt động của các LLVT B3 thì đây:
...Tháng 9 năm 1969, sau khi trực tiếp nghe các đồng chí Giáp Văn Cương, Đoàn Khuê và Trần Thế Môn báo cáo tình hình, chủ trương và dự kiến sơ bộ phương hướng hoạt động mùa khô 1969-1970 của Chiến trường Khu 5 và Tây Nguyên, Thường trực Quân ủy Trung ương kết luận: “Chiến trường Tây Nguyên vẫn giữ một vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Trước mắt và sau này dù khó khăn về tiếp tế hậu cần, ta vẫn quyết tâm khắc phục bằng mọi biện pháp tích cực nhất để duy trì bộ đội ta ở đó với số lượng nhất định bám đánh địch làm chủ vững chắc địa bàn này", và xác định "Chiến trường Tây Nguyên có ba nhiệm vụ chính là: chiến đấu, sản xuất, xây dựng và bảo đảm hành lang vận chuyển tiếp tế cho Nam Bộ... Ba nhiệm vụ trên đều có ý nghĩa chiến lược".
Thực hiện chủ trương, ý định của Thường trực Quân ủy Trung ương, ..., Bộ tư lệnh Chiến trường Tây Nguyên mở chiến dịch Bu Prăng - Đức Lập nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, thu hút giam chân quân địch ở Tây Nguyên, giữ dân mở rộng vùng giải phóng, rèn luyện và nâng cao trình độ tác chiến của ba thứ quân, phối hợp chiến trường toàn miền Nam.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: hai trung đoàn bộ binh (66, 28), Trung đoàn pháo binh 40, hai tiểu đoàn đặc công (20, 37) tác chiến trên hướng chính; Tiểu đoàn bộ binh 394 và lực lượng tỉnh đội Đắc Lắc đánh phá các mục tiêu ở khu vực thị xã Buôn Ma Thuột; hai trung đoàn (95, 24) cùng lực lượng vũ trang Gia Lai, Kon Tum tiến công địch trên các hướng phối hợp.
Để phân tán nghi binh lừa địch, từ ngày 18 đến ngày 25 tháng 10 ta đồng loạt nổ súng tiến công. Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 24 và địa phương Kon Tum tiến công Tu Mơ Rông, Plei Kần - đường 18, Đắc Pét, Măng Bút, thị xã Kon Tum, pháo kích căn cứ 42 Tân Cảnh, sân bay Đắc Tô. Trung đoàn 95 và tỉnh đội Gia Lai đánh giao thông đường 19, căn cứ Tân Lạc và nhiều mục tiêu khác trong thị xã Plei Ku...
Rạng sáng ngày 29 tháng 10 năm 1969, Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66 thực hành vây ép đánh lấn cứ điểm Ka Te trên điểm cao 936, chính thức mở màn chiến dịch Bu Prăng - Đức Lập. Đây là một căn cứ hỗn hợp bộ - pháo có vị trí quan trọng hàng đầu trong tuyến phòng thủ liên hoàn phía tây nam Đắc Lắc, dọc biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia kéo dài suốt từ Bu Prăng đến Đức Lập.
...Mất Ka Te, địch huy động một lực lượng lớn đối phó, vội vã đổ tiểu đoàn 22 biệt động quân xuống bắc Đắc Song, tung trung đoàn 53 vào trận, đưa một liên đoàn hỗn hợp thuộc sư đoàn bộ binh số 4 Mỹ đến Buôn Ma Thuột. Lực lượng phản kích của địch đã bị Trung đoàn 28 chặn đánh quyết liệt ở ngã ba Đắc Song, diệt gọn 3 đại đội, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội và 1 chi đội thiết giáp, bắn rơi nhiều máy bay. Chỉ tính riêng Tiểu đoàn 3 đã diệt và bắt hơn 300 tên.
Cùng thời gian này, Trung đoàn 66 đánh tiểu đoàn biệt kích địch ở tây Bu Prăng, điểm cao 882, sau đó phát triển sang điểm cao 883. Nổi bật là trận đánh của Đại đội 2 Tiểu đoàn 7 do đại đội trưởng Nguyễn Đình Kiệp chỉ huy, trong một ngày diệt 220 tên địch, chiếm 120 công sự buộc tiểu đoàn biệt kích số 5 phải tháo chạy. Lực lượng pháo binh ta pháo kích Đắc Sắc, Bu Prăng; Tiểu đoàn đặc công 20 đánh chiếm quận lỵ Đức Lập... các hướng phối hợp hoạt động mạnh
ở một tài liệu khác:
..từ ngày 29 tháng 8 đến ngày 20 tháng 10 ta sử dụng 8 tiểu đoàn, 10 đại đội bộ đội tỉnh và lực lượng các huyện đội, du kích mở đợt tiến công mùa thu (H.25).
Khi ta sắp nổ súng, địch mở chiến dịch bình định đặc biệt với hàng chục cuộc hành quân càn quét khắp Tây Nguyên, trọng điểm là các khu 5, 6, 7 tỉnh Gia Lai. Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Chiến trường chủ trương tập trung lực lượng vũ trang địa phương kiên quyết đánh bại các cuộc càn quét của địch.
Trên hướng Kon Tum, ta kịp thời chuyển hướng tiến công từ Măng Đen vào thị xã và ở phía tây thị xã, Hà Mòn, Đắc Vát. Tiểu đoàn 406 và Tiểu đoàn 304 đánh vào Trung Nghĩa, Hà Mòn, Đắc Vát, diệt ấp Đác Tem, Krông; phục kích diệt hàng chục tên địch trong cuộc hành quân "Nguyễn Huệ" ở vùng Đắc Mông, Đắc Hà; dùng ĐKB bắn vào sân bay Kon Tum, biệt khu 24 gây cho địch nhiều thiệt hại.
Ở Gia Lai, Tiểu đoàn 67 chặn đánh địch ở Khu 6; Tiểu đoàn 631 và Tiểu đoàn 1 (trung đoàn 95) đánh mạnh ở Khu 5, Tiểu đoàn 2 và các đại đội công binh 17, 18 đánh cắt giao thông đường 19; các đại đội 59, 50 tập kích Quen Mép. Tại Đắc Lắc, Tiểu đoàn 301 tập kích ấp Phú Quang, Plei Quen, Plei Te; Tiểu đoàn 394 tập kích Haranga (nam Khu 6); lực lượng tuyên truyền H3 đột nhập hai ấp Plei La Nụ và Plei Sâm. Đợt hoạt động này ta loại khỏi vòng chiến đấu 3.178 tên địch (có 457 tên Mỹ) làm bị thương 91 tên, bắt 31 tên; bắn rơi và phá hủy 5 máy bay, 248 xe quân sự (có 81 xe tăng, xe bọc thép), 5 pháo lớn, 3 súng cối, 32 đại liên, thu 71 súng và 4 vô tuyến điện.
chỗ khác:
ngày 25 tháng 8 năm 1968 Bộ Tư lệnh Chiến trường Tây Nguyên đã quyết định tách Trung đoàn 40 làm hai, hoạt động ở hai cánh bố trí như sau:
- Cánh bắc gọi là Trung đoàn 40B gồm Tiểu đoàn 32, Tiểu đoàn 33, Tiểu đoàn 16, Tiểu đoàn 42, Đại đội 17 cùng một nửa cơ quan Trung đoàn.
- Cánh nam gọi là Trung đoàn 40A gồm Tiểu đoàn 41, Tiểu đoàn 47, Tiểu đoàn 31, Đại đội 15 và một nửa cơ quan Trung đoàn.
- Tiểu đoàn 34 được Bộ Tư lệnh Chiến trường điều đi hướng Phú Nhơn, kết hợp với 1 tiểu đoàn bộ binh thành Tiểu đoàn hổn hợp 394.
Bác phải hiểu thế này hộ em:
- khi ta mở chiến dịch Bù Đăng (Bu prang) - Đức Lập để bảo vệ hành lang 559, thông đường từ B3 vào đến B2 thì Ka Te là một cứ điểm cần phải nhổ bằng được.
- Ka Te là một căn cứ hỗn hợp bộ binh - pháo binh có vị trí quan trọng hàng đầu trong tuyến phòng thủ liên hoàn phía tây nam Đắc Lắc, dọc biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia kéo dài suốt từ Bu Prăng đến Đức Lập. Ka Te cách biên giới 4km, cách đồn Bu Prăng 9km (về phía đông nam), có hình bầu dục diện tích 6.000m2 được địch xây dựng từ ngày 21 tháng 9 năm 1969 nhằm đối phó với cuộc tiến công của ta vào tháng 11 (theo tin chúng nắm được). Sau 37 ngày, địch đã hoàn chỉnh hệ thống công sự trận địa, vật cản khá vững chắc, gồm 92 hầm, công sự chiến đấu, nhiều nhà tôn nửa nổi nửa chìm, bao quanh có hàng rào thép gai bùng nhùng và bãi mìn chống bộ binh. Riêng khu trung tâm chỉ huy, thông tin, trận địa pháo và sân bay trực thăng có 2 hàng rào bảo vệ. Khi ta tiến công, lực lượng địch ở Ka Te có 1 đại đội pháo binh Mỹ (5 khẩu 105, 155mm), 2 đại đội ngụy thuộc cụm biệt kích số 5 (B13) với quân số 300 tên. Ngoài ra, còn có 1 đại đội biệt kích cơ động ứng chiến bảo vệ vòng ngoài. Do Ka Te có vị trí rất quan trọng, nên bị tiến công, địch đưa quân ứng cứu giải toả ngay.
- Ta chủ động vây lấn Ka Te, lấy cánh nam của trung đoàn pháo binh 40 là ngòi nổ, các E bộ binh vây lấn và chủ động chuẩn bị đánh địch giải tỏa từ Đức Lập xuống, từ Gia Nghĩa sang.
- Vậy, tiểu đoàn độc lập hỗn hợp 394 là một trong những đơn vị được giao nhiệm vụ chặn viện, đánh quân giải tỏa ứng cứu.Còn sau này thì tiểu đoàn 394 được bố trí như sau:
Khoáng tháng 6/1970 thì tiểu đoàn 394 độc lập được điều động về đứng chân trong đội hình trung đoàn 95 - đoàn Mang Yang. Đến thời điểm 1972 khi E95 lật cánh về đường 19 thì nhận lại tiểu đoàn 2 trước đây phối thuộc cho tỉnh đội Gia Lai, biên chế lại đội hình gồm D1 D2 D3 D4 - không biết D394 chuyển thành D3 hay D4. Còn C4 D394 chắc là đại đội hỏa lực, đại đội trợ chiến của tiểu đoàn thôi.