Tại sao lại là người Đức phát minh ra Spitzer chứ không phải Mỹ hay Nga?
Chỉ đến khi kỹ thuật của người Đức cho phép chụp ảnh vùng "Khí động học" quanh viên đạn chuyển động.
Một thời gian dài sau này trong lịch sử hàng không khi phát triển có động cơ phản lực đã gặp phải đó là rào cản âm thanh. Hiện tượng xảy ra khi máy bay chuyển động gần đến tốc độ âm thanh ~ 344m/s, bức tường không khí tạo ra phía trước làm vỡ các máy bay. Sau này, các cải tiến làm cho mũi máy bay nhọn nên không còn bị vỡ nữa (đó cũng là một tiến bộ trong nghiên cứu khí động học cho hàng không).
Một trong các hướng nữa để tiếp cận đến độ chính xác của viên đạn là thiết kế đường bay của viên đạn sao cho trơn ( chuyển động luôn tiếp xúc với quỹ đạo) chuyển động này giúp ta dễ tìm ra quỹ đạo thực thay vì một quỹ đạo rối loạn. Vấn đề này có liên quan trực tiếp đến thước ngắm, vì nếu không tìm ra đúng thì thước ngắm trở nên vô dụng. Để có được điều này một trong những kỹ thuật là giảm nhẹ đầu đạn. Bây giờ ta hình dung đang lái xe chở hàng nếu đầu xe nhẹ, hàng để phía sau thì lái nhẹ nhàng. Ngược lại người khác để hàng phía trước thì cảm giác xe sẽ đầm hơn. Tất nhiên cũng có người chia ra một nủa phía trước và một nửa phía sau.
Mỗi phương án mỗi cải tiến đều có thuận lợi nhưng đều có giá phải trả nhất định.
Trong thiết kế đạn có nhiều thứ quá khó mà con Người phải chịu, vì không thể thay đổi được môi trường không khí. Ví dụ đơn giản nhất là hiện tượng khúc xạ ánh sáng. Do các khối khí chuyển động có chiết xuất ánh sáng khác nhau dẫn đến làm lệch đường ngắm thực (quỹ đạo dường đạn sẽ khác với đường ngắm). Độ lệch này sẽ tăng lên rất nhiều khi khoảng cách lớn và không khí nóng. Khi chiến đấu vào đầu giờ sáng và cuối giờ chiều khi không khí mát sẽ cho đường ngắm tốt hơn giữa trưa.
http://www.quansuvn.net/index.php?topic=5950.msg143127#msg143127http://www.quansuvn.net/index.php?topic=5950.msg143232#msg143232Đây là pót tiếp theo, bác Đoàn không phải dùng liệt não a lô xô. em mất oông gõ ra không nhẽ đen đi, còn kiểu làm việc của bác, xin kiếu.
-----
Luyên thuyên, làm gì chia ra nửa trước nửa sau. Đạn chia đều nửa trước nửa sau là đạn đĩa bay cố định trục. Đã là đạn spitzer thì phải trong tâm dồn sau. Đạn mũi tên phải trọng tâm dồn trước. Hai loại đạn chính xác này đều có quyết định khoa hcoj rõ ràng, chỉ có M16 mới ngớ ngẩn không spitzer cũng chẳng múi tên cánh đuôi.
Tại sao Đức mà không phải Nga hay Mỹ ?? Tầm bậy.
Đức Pháp là hai nước phát triển súng trường nhất lúc đó. Lúc đó là thời ký toán học Đức phát triển rự rỡ. Đức phát minh nhưng Pháp áp dụng lần đầu tiên trên súng trường sản xuất lớn. Kiểu đạn này cũng được áp dụng trước đó trên pháo-đương nhiên là trước súng trường. Thực chất, kỹ thuật này được "Hội đồng khoa học pháo binh" Nga phát triển bằng thực nghiệm và đạn pháo có hình dáng này đã xuất hiện nửa sau tk19 trên các pháo lục quân nhẹ, nhưng chưa có công thức toán học đúng đắn. Nhưng người Đức chứng minh bằng toán học và đặt tên "chống trên mũi nhọn". Đạn có hình dáng như thế đã có từ lâu, nhưng khi chứng minh bằng toán học thì người ta làm hình dáng đầu đạn đúng đắn hơn. Đạn pháo dễ làm hơn vì ngắn hơn và vùng chân không lớn hơn. Đến lượt mình, Nga lại đóng góp bằng các phương trình hoàn thiện hơn vào thập niên 193x, với các kiểu đạn M36, M38, M42 và M45 của Mosin. Thời này đạn pháo Nga đã vượt trội cả về giá thành và đường đạn nhờ đầu rỗng, mũ chụp đầu rỗng từ đó được gọi là "mũi đường đạn" theo Nga. Loại đạn M1930 Nga là cải lui theo hướng tăng khả năng xuyên để các súng máy dễ bắn hỏng ô tô, tiến bộ chủ yếu do nhóm Tokarev phát triển là thuốc đạn chứ không phải đường đạn ngoài, phần đường đạn ngoài là cải lui, nhưng đến năm 1936 thì chính Tokarav phát triển loại đạn chính xác cho SVT.
Chỉ đến khi kỹ thuật của người Đức cho phép chụp ảnh vùng "Khí động học" quanh viên đạn chuyển động. Siêu bậy, chỉ đên WW2 người ta mới chụp được ảnh viên đạn với độ nét chấp nhận được bằng máy ảnh cỡ 1/triệu giây. Ảnh vẫn hơi nhoà đi cỡ 1/10 chiều dài, nhưng cũng đủ để quan sát. Vùng chân không quanh đạn được tính bằng toán học, vùng chân không 100% tối thiểu được tính bằng vận tốc của phân tử khí, áp suất không khí, hình dáng mũi đường đạn và vận tốc đạn. Từ đướng chân không chuẩn này người ta tính tiếp ra biên đường áp suất tăng dần từ trong ra.
Tính toán được kiểm chứng tiếp bằng thực nghiệm, người ta làm cánh đuôi dài ngắn khác nhau và bắn thử, khi hiệu ứng cánh đuôi thể hiện thì tức là nó đã đi ra ngoài vùng chân không. Viên đạn thử nghiệm rất nhỏ và dài, ban đầu là mũi đường đạn, sau đó là cánh đuôi và sau nữa mới là trọng tâm ở rất xa phía sau, không xoáy. Người ta di dần cánh đuôi về sau và thay đổi kích thước của nó, nếu góc chạm mục tiêu quá lớn là hiệu ứng cánh đuôi đã phát triển. Bằng khoảng cách bắn, vận tốc bay và góc chạm tính được ra áp suất tác động vào cánh đuôi, tức biên vùng chân không.
Đến đầu tk20 tuy chưa chụp ảnh rõ lắm, nhưng gián tiếp qua ảnh mờ cũng tính được chính xác biên vùng chân không. Người ta dùng giấy ảnh cố định chụp một mũi đường đạn được bắn đi, đặt tại đầu một cái chuôi dài. Ảnh chụp được là một đường dài, qua độ rõ của biên đường đó mà xác định được mật độ không khí qua các phương trình vi phân. Từ mật độ ngang, tính dần ra mật độ dọc qua các bài toán về dãn nở khí lúc đó đã rất phát triển. Từ những thực nghiệm quy mô này, người ta tính ra các công thức thực tế cho khá đầy đủ kích cỡ đạn và vận tốc, thực chất là thể hiện thực nghiệm để bất cứ nhà nghiên cứu nào sau đó cũng tự tính ra buồng chân không mà không cần thử nghiệm nữa. Tuy nhiên, các công thức thực nghiệm trên cũng chưa chính xác như sau này.
Những thử nghiệm ảnh giá tiếp cuối cùng trước khi có máy ảnh đủ nhậy là thập niên 193x ở Nga, lúc này có thể bên Đức GeCo và Mauser cũng phát triển tiếp việc thiết kế đạn. Nhưng cả hai hãng đều thất sủng và các loại đạn đều không được ứng dụng. Mauser và GeCo đã chứng mình rằng đạn súng trường vẫn còn quá dài, một là phóng to đường kính lên 8,3mm và hai là rút ngắn đầu đạn. Nhưng các súng dùng các đạn này bị phái Hitler dừng thử nghiệm năm 1939.
Thập niên 193x ngoài toán học phát triển, một phương pháp chụp ảnh đắt đỏ cũng được áp dụng để chính xác hoá vùng chân không. Ánh sáng phát ra từ đèn âm cực với tần số cao truyền qua khe hẹp liên tiếp tạo các ảnh cắt ngang đường đạn và in lêm phim cuốn thành trục quay, nhờ đó chuotj được mặt cắt hẹp của dòng khí trước khi có máy ảnh nét.Máy ảnh nét cũng có đèn chớp hùng quang hoặc âm cực tần số cao trên phim quay cho ảnh toàn cảnh xuất hiện liền sau đó. Trước đấy, năm 198x, hoạ báo Liên Xô đã đưa các thí nghiệm này. Đạn pháo chụp dễ hơn từ đèn hồ quang chiếu qua gương quay. Đây là động lực lớn nhất để tạo ra các đạn SVT và đạn pháo đầu rỗng lúc đó. Đến 196x thì việc mô phỏng máy tính đã phát triển và có đạn AK74 cũng như đạn AK 7,62mm M67.
Máy tính cũng như máy ảnh sẽ đưa ra các công thức thực nghiệm. Nhờ đó, các nhà kỹ thuật khi tính toán chỉ cần nhẹ nhàng vẫn có độ chính xác cao. Ở Nga, các công thực thực nghiệm tốt được giữ bí mật với các tiêu chuẩn 3 đời là người Nga và sau khi kết thúc công việc không được ra nước ngoài trước 2 năm.
Đường ngắm chả liên quan gì đến đường đạn cả, đường đạn được tính nhiều nhất là ở pháo bắn gián tiếp, khi đó không có đường ngắm..
CÒn Mỹ, cho đến nay Mỹ nhập khẩu toàn bộ các kỹ thuật lục quân, từ xe tăng, đại bác, súng trường, súng chống tăng. Mũ kỹ thuật thì không cần nghiên cứu gì, Mỹ phát minh ra cái gì mới là lạ chứ không ra cái gì là đương nhiên. Mỹ cũng có phát triển nhưng đạn M16A1 tệ đến mức 30 năm châu Âu thà không có súng trường xung phong còn hơn. Đến năm 1903, sau G88 5 năm, sau Lebel 17 năm, thì ".3003" vẫn là đạn trụ. Súng ".3003" là sao chép Mauser nhưng đầu đạn cổ, thước nổ dẻo cordite và kim hoả thô, thêm nữa có gờ móc. ".3006" copy hình dáng đầu đạn của các phát triển Mosin đang được thực hiện, nhưng thuốc đạn vẫn dẻo. Đến 1930, khi Mosin phát triển tiếp thuốc đạn, 1936 Mosin phát triển tiếp đầu đạn, thì ".3006" không copy được thuốc, về hưu. Kể cả ban đầu nó cũng có đạn quá to nặng.