Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Văn học chiến tranh => Tác giả chủ đề:: VoMinhGiang trong 26 Tháng Năm, 2010, 02:19:17 pm



Tiêu đề: Gia đình biệt động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 26 Tháng Năm, 2010, 02:19:17 pm
GIA ĐÌNH BIỆT ĐỘNG

Tác giả: Nguyễn Trần Thiết
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân
Nguồn :  quansuvn.net
Số hóa : SaoVang ,VoMinhGiang





Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 26 Tháng Năm, 2010, 02:27:13 pm
   - Tư em đi đâu vậy?
   Nghe tiếng gọi. Nguyễn Thị Hạ tức Tư Hạ dừng lại, vẻ sững sờ.
   - Ủa anh Bẩy!  Sao anh lại ở đây ?
   Tư Hạ ngắm nhìn chồng. Anh mặc lạ quá: bộ bà ba lụa trắng, đeo kính mát, tay xách cặp; trông y hệt một địa chủ nông thôn. Có việc gì  mà anh phải cải trang ra đường giữa ban ngày thế này Đoán được ý vợ, anh Bẩy Đấu giải thích:
   - Anh được lệnh đi tập kết, sáng mai lên đường. Anh tranh thủ tạt về thăm em và các con trước lúc chia tay. Em sang thăm Nội phải không Anh vừa ở bên đó về. Về đi em. Anh đi trước hay em đi trước?
Tư Hạ muốn đi sánh đôi bên chồng quá. Từ đây về nhà còn tới bốn cây số, chị có bao việc cần trao đổi, tâm sự với chồng, nhưng nếu hai người đi bên nhau, kẻ địch dễ dàng nhận ra chị và sẽ bắt anh. Ngay cả việc hai người đứng bên nhau ở rìa đường để trò chuyện thế này cũng không nên. Ý thức cảnh giác của một cán bộ hoạt động trong lòng địch buộc chị phải có quyết định nhanh chóng.
    - Em đi trước. Nếu em ngồi xuống sửa dép là báo động gặp địch, anh liệu bề xử trì.
Bẩy Đấu gật đầu:
    - Em đi đi! Đứng ở đây không tiện. Anh rẽ vào trong làng và sẽ quay ra đi sau em.
    Chị Nguyễn Thị Hạ lững thững đi trên đường, óc mông lung suy nghĩ. Tại sao anh lại đi tập kết gấp vậy nhỉ. Từ 20 tháng 7 năm 1954, vợ chồng chị đã bao lần bàn đến vấn đề này. Theo tiêu chuẩn của một tỉnh ủy viên, anh có đủ điều kiện đem cả gia đình ra miền Bắc. Nhưng các đồng chí trong tỉnh ủy muốn phân công anh ở lại nắm dân, đánh địch. Anh ở lại sẽ có thêm chị ở lại. Chị là đảng viên, cán bộ phụ nữ huyện, đã gài được thế sống hợp pháp trong thị xã Gò Công nên dễ có điều kiện hoạt động trong lòng địch. Đầu tháng 8 năm 1954, anh Đấu lại được lệnh tập kết. ' Vấn đế được đặt ra là ai sẽ đi cùng anh? Anh không đành lòng để lại một đàn con cho chị. Anh nên đem theo một đứa hay hai đứa? Đưa đứa nào đi? Mỹ Lê, đứa con đầu lòng 13 tuổi? Không nên. Con gái đầu lòng sẽ là chỗ dựa của mẹ, nó sẽ thay mẹ săn sóc đàn em nhỏ. Mỹ Hòa, 9 tuổi, đứa con gái thứ hai? Nó cũng có thể bầu bạn cùng mẹ, giặt giũ cơm nước cho mẹ khi mẹ sinh đứa em thứ sáu. Ba con trai Dương Công Linh 4 tuổi, Dương Linh Nhất 2 tuổi và Dương Nhất Quảng 1 tuổi đều còn quá nhỏ, anh đâu có kinh nghiệm nuôi con. Tốt nhất là chị bồng bế, dắt díu cả đàn con theo anh, nhưng tổ chức bên chị không gợi ý, và cả hai anh chị đều không muốn đặt vấn đề riêng của gia đình ra làm khó dễ cho tổ chức. Cuối tháng 8 năm 1954, chị Tư Hạ được thông báo thu xếp theo anh. Trong những ngày anh chị chuẩn bị lên đường, cả hai bên nội, ngoại đều tuyên bố:
    - Tụi bây ra ngoài đó để lại cho tao một đứa con.
    Điều khó xử là cả hai bà đều muốn bắt cháu trai ở lại. Hai anh chị tính toán khá lâu rồi đi đến quyết định:
    - Ra miền Bắc, vợ chồng gần nhau còn sinh nở. Chúng con có năm mặt con đó, bà nội chọn trước một đứa rồi đến lượt bà ngoại.
    Ngày 10 tháng 9 năm 1954, anh chị nhận được lệnh ở lại. Cũng chẳng có gì đáng băn khoăn, thắc mắc cả. Từ sau ngày hiệp định Giơnevơ được ký kết, anh chị đã trao đổi nhiều về những ngày ở lại trong lòng địch: Anh sẽ theo cơ quan tỉnh ủy vào chiến khu; chị sẽ khai báo với địch là chồng tập kết ra Bắc, chị phải lo liệu làm ăn sinh sống để nuôi đàn con nhỏ.
     Từ gần một tháng nay, Tư Hạ đã yên trí coi đó là quyết định cuối cùng. Chị không còn nghĩ tới chuyện xa chồng, nghĩ đến ngày tiễn chồng đi tập kết thì nay lại nhận được tin đột ngột này. Chắc chắn là anh mới nhận lệnh. Cách đây hai ngày, trong thơ gởi cho chị, anh còn viết: "Còn ba ngày nữa, chuyến tàu cuối cùng chở cán bộ miền Nam tập kết ra miền Bắc của tỉnh ta sẽ rời bến. Anh không có tên trong danh sách. Hy vọng anh sẽ có mặt ở gia đình khi em sinh đứa con thứ sáu. Anh có lỗi quá, phải không em? Em đừng trách anh về chuyện vợ đẻ năm lần chồng đều vắng mặt mà tội nghiệp anh, nghe em.
      Chị Tư Hạ ngoảnh cổ lại phía sau nhìn chồng. Anh vẫn giữ vẻ ung dung, thư thái. Anh cải trang khéo quá. Từ nhiều năm qua, đây là lần đầu tiên anh về thăm nhà vào ban ngày. Không phải các đồng chí trong tỉnh ủy không đắn đo khi đồng ý cho anh đi như thế này. Dù sao đây cũng là một việc làm mạo hiểm. Tuy kẻ địch đang sợ uy thế của cách mạng và đang bận rộn chuyển quân, chuyển vùng, không chú ý lùng . sục, bất bớ, nhưng chúng dễ gì bỏ qua khi thấy một tỉnh ủy viên lọt vào thị xã. Đi phía sau, Dương Văn Đấu dán mắt vào tấm lưng gầy yếu của vợ. Vợ anh mảnh mai như một cành liễu, trên cành liễu có một tồ sáu (thực chết là bảy vì lần cuối, chị đẻ sinh đôi) con chim non. Làm thế nào cành liễu không gục đổ trước gió bão sắp tới mà vẫn bảo vệ an toàn đàn chim non? Gánh nặng gia đình trĩu xuống, liệu vợ anh có kham nồi không. Anh sẽ nói với vợ những gì? Anh thương vợ quá Tại sao anh lại dại dột có tới năm đứa con và một đứa đang nằm trong bụng mẹ? Dáng chị đi nặng nhọc quá rồi. Đầu năm 1955, chị sẽ sanh mà anh lại không được ở bên vợ như lá thư đã viết. Không hiểu lúc này chị đang nghĩ gì. Anh rất muốn đuổi kịp vợ, thổ lộ nỗi lòng với vợ. Anh muốn giải thích cho chị về chuyện ra đi đột ngột của mình. Đúng là tỉnh ủy đồng ý để anh ở lại nhưng lệnh của Trung ương chỉ định đích danh anh phải lên đường trong chuyến cuối cùng. Không còn thời gian "khiếu nại" nữa, anh vui vẻ chấp hành mệnh lệnh. Các cán bộ của tỉnh ủy kiếm cho anh tấm căn cước giả, mượn giúp anh bộ đồ bà ba lụa trắng để anh có thể tạt qua nhà trong thế hợp pháp. Anh nhẩm tính thời gian: Bây giờ là 17 giờ, như vậy là anh chỉ còn 11 giờ đồng hồ ở bên chị nữa thôi. Đêm nay, anh sẽ thức trắng cùng chị. Vợ anh còn trẻ quá, mới 31 tuổi, chị sẽ sống ra sao để !àm tròn nhiệm vụ người vợ, người mẹ và người đảng. viên cộng sản? Chị còn phải thay anh săn sóc mẹ chồng, giơ tấm thân gầy khẳng khiu và đôi bàn tay trắng để đương đầu với lưỡi lê, lựu đạn, xe tăng, đại bác của địch. Lính địch sẽ kéo về đông nghịt Gò Công. Với bản chất nham hiểm, chúng sẽ tìm mọi cách trả thù những người kháng chiến cũ, trong số đó có chị. Liệu chị đối phó với địch như thế nào? Chị có thể tiếp tục công tác được không? Hy vọng đó quá mỏng manh. Chị đâu còn son rỗi để dễ dàng bứt vào chiến khu khi có lệnh thoát ly. Chị còn eo trách nhiệm với đàn con. Anh chỉ muốn nói với chị: Vắng anh, anh chỉ dám hy vọng em nuôi sáu đứa con khôn lớn, đừng để chúng đói. Em cố dạy dỗ các con sống lương thiện, đừng để đứa nào theo địch...
Anh vẫn giữ khoảng cách 200 mét đều đặn sau chị. ơ kìa, chị quay về phía anh. Có chuyện gì vấy. Không, chị bình thản đi ngược chiều. Chắc chị có điều gì cần nói. Anh rảo bước đến gặp chị:
    - Có gì vậy Tư?
    - Em có một gia đình cơ sở ở đây. Ta tạt vào đó chờ trời tối hẳn hãy về.
    Bẩy Đấu không muốn làm phật ý vớ. Hẳn cô ấy sốt ruột quá rồi, cô ấy muốn hiểu đầu đuôi câu chuyện càng sớm càng tốt. Anh muốn bảo vợ về nhà nhanh để anh sớm gặp các con, trò chuyện, ôm ấp chúng, nhưng anh trả lời:
    -Tùy em!
    Chủ nhà nhường cho hai vợ chồng anh căn buồng. Anh kể những điều đã nghĩ với chị. Chị hỏi lại:
    -   Anh đi bao lâu? Có đến hai năm không?
    Anh không muốn giấu chí, vì thực tế kẻ địch ngoan cố lắm, do đó thời hạn anh trở về, anh chưa thể hẹn trước được.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 26 Tháng Năm, 2010, 02:30:05 pm
      Tư Hạ thở dài. Chị muốn đi theo chồng quá. Ở bên anh, chị sẽ săn sóc anh, lo cho anh công tác, cùng với anh học văn hóa, chính trị. Chị mới được nhìn ảnh Bác. Nếu được trực tiếp gặp Bác, nghe Bác nói chuyện thì hạnh phúc biết bao? Điếu mơ ước này chị ấp ủ từ ngày được tin sẽ cùng chồng đi tập kết, nhưng bây giờ mọi việc đã thay đổi. Trách nhiệm của chị lả không được đề anh phiền. lòng trước lúc chia tay. Chị nhớ lại lần đầu gặp anh. Năm đó, chị chưa đến 17 tuổi. Anh tới. Chị đang nhảy dây, tóc xõa trước trán, quần xắn cao quá đầu gối, mồ hôi nhễ nhại. Chị đâu biết anh đến xem mặt mình. Anh chững chạc quá. Mấy tuấn trước, anh ruột chị nói bóng gió, xa gần về người bạn cùng học với anh, mới tốt nghiệp trường Bách nghệ nhưng chị cho chuyện đó chả liên quan tới mình. Chị chẳng mấy quan tâm vì chị còn trẻ quá, chị đang quyến luyến ba má và chưa nghĩ tới chuyện lấy chồng.
     Tối hôm đó, cả nhà quây quần bên chị, khuyên chị, thuyết phục chị. Lạ một điếu là ai nói ra ý gì chị cũng cho là đúng, là phải. Anh đẹp trai ư? Điều đó không cần bàn cãi nữa. Anh to cao nhưng không mập, đôi mắt đen sáng, lông mày rậm, da trắng, mặt vuông chữ điền. Anh có dáng khỏe mạnh của một chàng lực điền đồng thời có vẻ đường bệ của một thầy giáo, một công chức. Về hình thức bên ngoài, chị không có điếu gì chê anh, mặc dù ở vào hoàn cảnh lúc đó, chị nên và cần đưa ra vài ý kiến phản bác anh để giữ giá cho mình. Về tài năng của anh, chị cũng bị thuyết phục. Anh học rất giỏi, chừ viết đẹp nhất trường. Anh không chỉ đủ tài đứng máy làm thợ tiện, thợ phay mà còn dư khả năng làm thợ nguội, thợ mộc, thợ rèn và làm kỹ thuật viên trung cấp.
     Ba lên tiếng hỏi chị:
     - Tao với má mày cùng các cô, các cậu và anh Hài, chị Ba mày đều ưng ý thằng Bẩy Đấu. Lấy được nó là có phước có con à. Con tính sao?
     Chị ấp úng. Chị không tìm ra cái cớ gì để trì hoãn việc chị sẽ trở thành vợ anh. Những lần gặp gỡ tiếp theo, anh không tô vẽ cho mình mà luôn đề cao chị:
     - Tôi đâu xứng với cô Tư. Gia đình cô danh giá, giàu có, có hóc thức. Cô xinh đẹp, giỏi nội trợ...
     Chị lựa lời .an ủi anh. Tuy mới qua tuổi 17 và đôi khi còn rất. trẻ con song chị được má dạy dỗ, tâm sự nhiều lần về chuyện làm vợ, làm dâu nên chị không còn là cô bé khi trò chuyện với anh. Chị hỏi về dự định tương lai của anh. Anh tâm sự:
     - Gia đình tôi không có thế lực nên tôi không được ở lại Sài Gòn. Tôi đã được điều động về đồn điền cao su ở Tây Nguyên. Nếu cô Tư ưng ý tôi, tôi xin được làm đám cưới ngay.
     -Đám cưới? Sao vội vậy anh?
     - Ở đất khách quê người, tôi lẻ loi quá. Tôi muốn có mái ấm gia đình. Tôi rất, rất cần cô Tư ở cạnh bên.
     - Anh thư thả để em tính.
     Anh năn nỉ:
     - Cô Tư Gia đình tôi cực khổ lắm. Ba má tôi là nông dân chân lấm, tay bùn, các chị tôi đều mù chữ. Cả nhà đã nhịn ăn, nhịn mặc để lo cho tôi ăn học. Gia đình tôi không môn đăng hộ đối với gia đình cô. Nếu hai bác, các anh, các chị và cô Tư thương tôi ... Chị đưa bàn tay thon nhỏ bịt miệng anh lại:
     - Anh đừng tự dằn vặt mình nữa. Nếu em không ưng anh, em đâu có đi dạo với anh. Chuyện cưới xin đối với em quá đột ngột mà.
     Anh nắm chặt tay chị, nhìn thẳng vào mắt chị:
     -   Tư! Anh năn nỉ em. Em nỡ nào để anh lên đốn điền  cao su một mình. Nếu em nhận lời, anh sẽ đáp xe đò về Gò Công thưa lại với ba má anh.
      Chị nhìn anh. Chị thương anh quá? Anh đang mặc cảm vì anh ở nông thôn, vì gia đình anh quá nghèo khổ, không có địa vị gì trong xã hội. Nếu chị từ chối vì lý do tuổi còn nhỏ hoặc vì hai người mới tìm hiểu nhau được vài tháng, anh sẽ không tin chị, sê cho là chị khinh anh nghèo. Không, chị không nên gây nỗi đau lòng cho anh, không để anh hiểu nhầm chị. Cái lý do mà anh đề cập đến là rất đúng đắn và trong thâm tâm, chị không muốn xa anh, để anh thui thủi, cô độc ở vùng rừng núi Tây Nguyên. Chị đã quyết định chọn anh làm chồng thì cưới trước hoặc sau một năm cũng chả sao. Chị gục đầu vào vai anh, nhỏ nhẹ:
    - Em bằng lòng làm đám cưới. Em sẽ thưa chuyện với ba má em. Anh cứ yên tâm về Gò Công.
    Anh ôm chặt chị và lần đầu tiên trong đời, chi đón nhận nụ hôn của người con trai. Chị ngượng quá. Chị không dám đáp lại tình cảm của anh. Chị đẩy anh ra:
    -Anh tính bao giờ làm lễ cưới?
    - Tuần sau.
    - Liệu có kịp không anh? Còn biết bao việc cần làm: in thiệp cưới may quần áo, sắm giường mùng, đặt tiệc ở nhà hàng...
    - Chúng ta yêu nhau, có hạnh phúc bên nhau là chính còn mọi việc khác là thứ yếu, em ạ.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 26 Tháng Năm, 2010, 02:36:32 pm
    Từ ngày đó cho đến nay đã trọn 14 năm: 14 năm qua, chị sống rất hạnh phúc bên anh, chưa bao giờ chị cãi lại anh và cũng không lần nào anh to tiếng với chị. Bây giờ chị sắp phải xa anh. Chị sẽ không có anh bên cạnh một năm, hai năm, năm năm hay mười năm? Không. Chị chỉ phải chia tay anh hai năm thôi. Theo quy định của hiệp anh Giơnevơ, nước ta sẽ có Tổng tuyển cử vào tháng 7 năm 1956. Đến ngày đó, anh sẽ về với chị. Chị sẽ chịu cảnh xa anh 730 ngày. Chị sẽ chờ đợi. Khoảng 7 giờ tối, hai vợ chồng mới về đến nhà. Những đứa con đón cái tin bố đi xa một cách bình thản, nhẹ nhõm. Mỹ Lê ôm cây đàn măngđôlin đến trước mặt ba: 
     - Ba, con đờn cho ba nghe. Ba đi rồi, ai sẽ đờn chung với con?
     Mỹ Lê sinh năm 1941 ở đồn điền cao su. Tuy đã 13 tuổi song cô nhỏ con, chỉ nhinh hơn em gái Mỹ Hòa một chỏm đầu nhưng cô khôn hơn, từng trải hơn và có nhiều kỷ niệm gắn bó với ba má hơn. Sau ngày sinh con vài tháng, anh đưa chị về quê . Chị vui lắm vì anh là con trai một, chị là con dâu duy nhất của gia đình nên chắc chắn chị sẽ được ba má chồng, các em chồng chiều chuộng hết mức. Chị nên ăn mặc như thế nào để ra mắt họ nhà chồng? Anh hãnh diện về chị, rất muốn khoe vợ, khoe con gái. Chính anh chọn cho chị quần lụa trắng, áo dài trắng, đi dép da. Anh cũng mặc bộ Compơlê trắng, may rất hợp với cỡ người anh. Anh đèo chị trên xe đạp vượt qua bảy cây số, tính từ thị xã Gò Công, đến một làng hẻo lánh. Má chồng chị ra đóng Bà mặc quần đen, áo xanh có vài mụn vá, đi chân đất. Chị lúng túng quá. Chị đã nghe anh kể về má nhiều lần song chị không hình dung má nghèo và cực khổ đến như thế. ôi, tại sao anh lại để chị mặc quá sang trọng, chả khác gì bà chủ về với con ở thế này? Chị khó xử quá. Chị trao con cho má chồng.
    - Má. Má xem, cháu Mỹ Lê rất giống anh Bẩy nè.
    Mấy bà chị chồng xúm lại đón cháu song má chồng lộ vẻ hờ hững:
    - Chỗ chị ở đây. Chiếu này chị nấu cơn cho cả nhà.
    - Dạ?
    Chị đưa mất nhìn anh. Anh không quan tâm tới điều này và hình như anh còn tỏ ra thích thú nữa. Từ mấy chục năm qua, má mới có con dâu nên má phải giữ đúng cương vị má chồng, phải dạy dỗ, sai bảo nàng dâu từ phút đầu gặp gỡ. Chị vốn khéo tay, lại được má ruột dạy nội trợ từ năm lên mười nên chị biết cách pha chế nấu nướng hàng trăm món ăn, biết làm nhiều loại bánh kẹo: mứt nên chị không ngại việc bếp. núc. Chị chỉ băn khoăn vì chưa rõ chợ xa hay gần, nhà có đủ xoong, nồi, bát đĩa  không? Chị sinh ra ở thành phố, lớn lên ở Sài Gòn nên chị chưa hề lao động nặng, chị gánh nước sao nổi? Nếu đem rau ra ao rửa, rủi trượt chân ngã thì sao?
    Bữa cơm đầu tiên do nàng dâu nấu không được má chồng tán thưởng. Bà nếm món ăn của chị. Bà nhăn mặt, lắc đầu Chị tủi thân quá. ở đồn điền cao su, không có bà vợ kỹ sư hoặc công nhân nào đám đua tài với chị về nấu ăn, tại sao má chồng chi lại chê chị? Anh Bẩy Đấu thật vô tâm. Anh không để ý tới nỗi đau của vợ. Với anh, chị là bà hoàng. Anh tự hào vì có chỉ nên anh tin rằng mọi người đều có chung nhận xét như anh .
    Tối hôm đó, anh Bẩy Đấu thoáng giật mình khi nghe tâm sự của vợ. Anh không lý giải nổi vì sao má không vồn vã đứa cháu nội và không ưa cô vợ tuyệt vời của anh. Phải chăng Mỹ Lê là con gái? Phải chăng chị mặc quá sang trọng, quá cách biệt với bà con? Chị không quen đi chân đất và anh không nỡ để đôi chân ngà ngọc của chị rời đôi dép. Phải làm sao để giải quyết tình trạng này Anh trao đối với các chị ruột. Chị Hai xuề xòa:
    - Cậu khỏi lo, chị sẽ dàn xếp cho.
    Đúng là ba má đang mơ ước có cháu đích tôn nhưng cậu mợ còn trẻ và Mỹ Lê cũng ngoan, xinh gái nên má sẽ thích.
    Chị Ba phân tích:
    - Mợ Bẩy nấu món ăn theo kiểu con nhà giàu, không hợp với quê ta.
    - Đúng vậy à, chị?
    Chị Ba chỉ vào rổ tôm mới mua về, bảo em dâu: Mợ làm thử cho tôi năm con tôm xem. Điều này chả có gì khó khăn. Chị Tư Hạ giấy dao thớt và chỉ trong nháy mắt đã chặt đầu, chặt đuôi được hơn chục con tôm. Chị Ba ngăn em dâu lại hỏi:
    - Mợ sẽ tra bao nhiêu nước mắm, muối cho chỗ tôm này?
    Tư Hạ làm theo lời chị. Chị Ba lắc đầu, bình phẩm:
    - Quê ta nghèo lắm nên dân chịu cực quen rồi. Mợ chặt đầu đuôi tôm thế này, má sẽ cho là phí phạm. Mợ phải cho gấp đôi lượng muối này để đậm miệng và dôi thức ăn.
    Tư Hạ nhận ra sơ suất của mình. Nhập gia tùy tục, cái điếu đơn giản như vậy mà chị không tính đến. Sợ chị buồn, anh an ủi vợ:
    - Má khó tính, em ráng chiều má vì anh. Má là má ruột anh. Anh yêu eả má, cả em nên anh sẽ khó xử vô cùng nếu em giận má hoặc má không yêu em.
    Chị hiểu nỗi lòng anh. Vì yêu anh, chị sẽ vướt qua mọi trở ngại. Chị gục đầu vào vai anh, hứa:
    - Má không còn là má riêng của anh mà là má chung của chúng ta. Có người con nào giận ba má mình đâu? Anh yên tâm, má và em sẽ hợp nhau.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 26 Tháng Năm, 2010, 02:40:52 pm
    Anh rất tin chị. Năm 1942, chị mới sang tuổi 19 song chị giỏi cư xử. Người ta thường nói "giàu vì bạn, sang vì vợ" anh đã sung sướng, tự hào vì chị giữ quan hệ tốt với hàng xóm, láng giềng, với ông chủ là giám đốc đồn điền cao su, các kỹ sư và mọi công nhân mà chị đã tiếp xúc. Trước chuyến về thăm quê nội, anh đã bàn với chị:
    - Anh tính để má con em ở quê vài tháng vì anh bận hoàn thành công trình nghiên cứu. Chị nhận lời anh. Chị không muốn rời xa anh chút nào song chị cần phải có quan hệ tốt với ba má chống, với họ hàng bên nội và cần để anh rảnh rang, tập trung sức lực vào công trình nghiên cứu. Chị đâu biết là chị bị "lừa". Tổ chức Đảng ở đồn điền cao su, nơi công nhân bị bóc lột thậm tệ nhất, đã "chấm" anh. Anh đang ở trong giai đoạn thử thách để đến với Đảng nên anh đành tạm tách chị, gửi chị về quê. Bây giờ, anh bàn với chị:
    - Em ráng chịu má hai bữa nữa. Ngày mốt ta sẽ về Tây Nguyên.
    - Sao vậy anh?
    - Ở quê anh không có điện, nước máy, trời mưa, bùn lầy lội lắm, em không chịu đựng nổi đâu.
    Anh cố ý né tránh cái nguyên nhân để dẫn anh đến thay đổi quyết định. Chị thẳng thắn:
    - Anh có tin em không?
    - Rất tin.
    - Vầy anh đừng ngăn cản em làm chức năng người vợ hiền, dâu thảo. Em không hủy hợp đồng đã thỏa thuận đâu.
    Anh không tranh cãi với chị. Chị mềm dẻo, ngọt ngào song không ai có thể lay chuyển nổi khi chị đã quyết định. Anh gặp riêng các chị ruột, nài nỉ:
    - Nhà em là dân thành phố, còn quá trẻ, lại chưa quen làm ruộng, chưa rõ phong tục tập quán quê ta. Các chị thương em, cố săn sóc nhà em và Mỹ Lê.
    Anh trò chuyện khá lâu với má:
    - Má ơi! Con được như hôm nay là nhờ ơn ba má và gia đình Tư Hạ đùm bọc. Má chỉ có một nàng dâu và lần đầu tiên có cháu nội nên con xin má thương nhà con.
    Anh tâm sự với ba về những băn khoăn của mình. Ba anh cười xòa:
    - Mày chưa hiểu má mày bằng tao đâu. Bà rất tốt. Bà yêu dâu, thương cháu Mỹ Lê lắm. Mày cứ yên tâm, mọi việc có tao lo.
    Bẩy Đấu trở lại Tây Nguyên. Ba tháng sau, anh về quê đón vợ. Chị khá đen nhưng khỏe hơn, béo hơn. Mỹ Lê rất xinh gái và ai cũng yêu. Điều đặc biệt nhất là mối quan hệ má chồng nàng dâu. Các chị ruột anh công khai tuyên bố:
    - Tụi tôi ghen với mợ Bẩy. Mợ chiếm hết tình cảm của má rồi. Má không cho mợ Bẩy và Mỹ Lê theo cậu nữa. Má khen mợ Bẩy nấu ăn ngon tuyệt vời.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 10:40:17 am
    Nhớ lại kỷ niệm cũ, anh càng yêu chị, thương chị và cũng rất tin chị. Chị có khả năng xoay chuyển tình thế, thích ứng, hòa nhập nhanh với môi trường mới. Thấm thoát thế mà đã hơn chục năm, Mỹ Lê đã là cô gái 13 tuổi rồi. Anh sắp xa đứa con có bao kỷ niệm gắn bó mà anh rất mực yêu thương. Anh kéo đứa con gái lớn lại gần, đặt hai tay lên vai con, mắt nhìn thẳng vào mắt con, nói:
    - Mỹ Lê con! Đợt này ba đi lâu mới trở về . Con ở lại ráng giúp má và làm gương cho các em con.
    Mỹ Lê gật đầu "dạ", song cô chưa hiểu hết những điều ba nói. Lâu nay, ba vắng nhà, cô vẫn giúp má và săn sóc các em chu đáo. Có điều gì đó khang khác trong cách nhìn, giọng nói theo ba mà cô không hình dung ra. Cô chỉ tiếc là không được ba dạy chơi đàn măngđôlin nữa. Những lần vào căn cứ, cô hòa đàn với ba thiệt ăn ý. Ước gì ba đàn cho cô nghe. Cô muốn nài ba nhưng cô biết ba về thăm nhà bí mật, không được nói cho người ngoài biết, nên cô lại thôi.
    Đến lượt Mỹ Hòa lại bên ba. Ba ôm Hòa vào lòng, ép đầu Hòa vào ngực, khẽ gọi:
    - Mỹ Hòa, con?
    - Dạ?
    - Con biết ba làm gì không?
    Mỹ Hòa vùng ra khỏi tay ba, cười rất tươi:
    - Con biết ba làm cách mạng nè, ba là tỉnh ủy viên nữa nè, nhưng con không nói với ai đâu. Nội kể cho con nghe hoài về ba mà.
    - Ba làm cách mạng là tốt hay xấu, con?
    - Tốt chới ! Tốt hung à ba!
    Hai câu trả lời theo đứa con chín tuổi làm cho anh Đấu rất mừng. Anh hiểu rằng đứa bé đã được sự giáo dục theo mẹ anh, vợ anh. Anh nói với con như nói với một người lớn:
    - Chuyến này ba ra miến Bắc rất lâu ba mới về. Lớn lên ba mong con sẽ làm cách mạng như ba, nghe con.
    - Dạ!
    Anh không nói chuyện riêng với ba cậu con trai. Chúng còn nhỏ dại quá, chưa hiểu lời ba nói. Anh làm bò cho các con cưỡi. Từng đứa một, chúng đòi anh công kênh trên cổ, bắt anh chạy ba vòng trong nhà. Khoảng 10 giờ đêm, cả năm đứa con đều lăn ra ngủ. Anh bế chúng đặt vào giường, xếp theo thứ tự lớn bên trái, nhỏ bên phải. Anh ôm cậu con trai nhỏ nhất vào lòng, ngồi trò chuyện với chi. Nửa giờ sau, anh đặt đứa nhỏ xuống, bế đứa khác lên. Chị hiểu lòng anh đang xốn xang trăm mối. Anh thương con vô cùng. Giá không phải mệnh lệnh theo Đảng, chắc không có sức mạnh nào dứt anh rời khỏi đàn con. Chị lựa lời thăm dò anh:
    - Nay mai em sanh, anh muốn có con trai hay con gái?
    - Con gì cũng được, em àl Mình đã có trai, có gái rồi.
    - Anh định đặt tên con là gì?
    - Là Thiện em à!
    - Như vậy em chỉ cần ghi trong thư Dương Mỹ Thiện hoặc Dương Quảng Thiện là anh biết mình có thêm con trai hay con gái.
    - Khòng có Mỹ, có Quảng gì hết nữa, em!
    - Ủa? Sao kỳ vậy anh? Gia đình ta quy định con gái lót chữ Mỹ, đứa con trai sau lấy tên thằng anh làm chữ lót cơ mà. Thằng út là Dương Nhất Quảng, em nó sẽ là Dương Quảng Thiện chớ.
    Anh Bẩy Đấu an ủi vợ và cũng bộc lộ nỗi lòng mình:
    - Anh để lại cho em cái gánh nặng. Anh không có cách nào san sẻ giúp em. Anh chỉ mong con sắp sanh ra thiệt hiền, ngoan ngoãn để khỏi làm tội má nó.
    Chao ôi, những lời anh nói mộc mạc song chứa đựng, gói ghém tất cả tình yêu vợ, thương con. Ngồ i xuống bên anh, chị tựa đầu vào vai chồng. Chị muốn khóc quá? Khóc lúc này sẽ vơi được phiền muộn, nhớ thương cho chị nhưng sẽ làm anh thêm buồn mỗi khi nhớ đến giờ phút chia tay. Chị cố kìm để không trào nước mắt. Chị gởi lại những chuyện đã qua:
    - Anh có định cho Mỹ Lê theo con đường chúng ta đã đi không?
    Anh khó trả lời quá. Từ trong tâm khảm có tỉnh ủy viên nào muốn vợ con xa rời lý tưởng theo mình. Chị là đảng viên, là bí thư phụ nữ thị xã Gò Công, anh không thể đưa ra với chị lời khuyên nên ?lặn?, từ bỏ tất cả lý tưởng sự nghiệp để nuôi đàn con hay tiếp tục sứ mạng thiêng liêng theo mình. Tình hình ở toàn miền Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào trong những tháng tới sẽ vô cùng rối ren, phức tạp, vàng thau, trắng đen lẫn lộn nên anh không thể đưa ra phán quyết tương lai con gái đầu lòng theo mình. Mỹ Lê nhỏ người song rất khôn, khôn trước tuổi. Hai năm trước, chị đưa Mỹ Lê vào thăm anh ở căn cứ theo tỉnh ủy Gò Công. Thấy con gái nhanh nhẹn, tháo vát, anh dạy con gái chơi đàn, cùng con ca hát. Trong những ngày sống chung với Mỹ Lê, anh chợt nảy ra ý định sử dụng con gái làm giao liên, chuyên chuyển công văn, chỉ thị theo tỉnh ủy đến chị và đưa tài liệu báo cáo theo các địa phương vào căn cứ. Mỹ Lê nhận việc theo bản năng người con ngoan vâng lời ba má hơn là ý thức phục vụ cách mạng. Để nghi trang che mắt địch, chị Tư Hạ sẩm cho con hai cái giỏ, mỗi bên để một trăm quả trứng vịt. Mỹ Lê mặc bộ quần áo đen như mọi trổ em cùng lứa tuổi ở quê, gánh hai giỏ trứng, đi bộ gần mười kilômẻt vào chỗ ba. Cô chỉ nói với ba hoặc mấy cô chú mà ba cho phép chỗ má giấu tài liệu. Xong việc, cô nhận tiền bán trứng, nài nỉ cùng hòa với ba ít nhất mười bản nhạc rồi mới quay về thị xã. Cô không lường hết tầm quan trọng trong công việc mà mình đang gánh vác. Cô chỉ thích thú vì được ba má và các cô chú hài lòng. Vâng lời ba, cô không hé với ai về những chuyến đi theo cô, kể cả mấy đứa bạn thân nhất học cùng lớp và các cô ruột theo mình. Anh chị Bẩy Đấu rất mừng vì sự trưởng thành theo con. Bây giờ thì Mỹ Lê không còn là giao liên riêng theo Bẩy Đấu mà còn là người được tỉnh ủy tin cậy. Do thuộc đường, quen đi bộ qua ngả cù lao Lý Hòa, nên hai cái giỏ theo ?cô gái bán trứng? đã xếp tới 300 rồi 400 quả. Một hôm, do trời mưa, đường trơn, Mỹ Lê bỉ ngã. Cô sợ ba má mắng vì làm vỡ tới hơn trăm quả trứng nhưng cô không ngờ là cả ba, cả má đều tươi cười, khen ngợi cô. Cô không chủ trương đóng kịch song màn kịch mà cô diễn viên khóc thút thít suốt dọc đường, đã có tác dụng nghi trang cho cô rất lớn. Mãi lúc này, Mỹ Lê mới nhận thức đúng đắn: cái mà ba má cô và các cô , các chú quan tâm là những gì cất giấu trong gấu áo, gấu quần cô hoặc trong lớp đáy thứ hai theo giỏ chứ không phải mấy trăm quả trứng. Cô đã làm công tác giao liên được hai năm. Trên đường từ Bình Ân về Gò Công, các chú cán bộ đã nhiều lần cõng cô bé giao liên để cô đỡ bị lội bùn. Nhưng khi đi một mình trên đường, khi vượt sông cửa Tiểu, cửa Đại, cô rất có ý thức bảo mật và do được các cán bộ lãnh đạo tỉnh ủy giáo dục, cô đã phân biệt chính xác ta, địch, chính, tà. Những ngày tới cô sẽ ở trong vòng vây theo chính quyền ngụy, quân đội ngụy, cảnh sát ngụy, anh nên trả lời chị về tương lai theo con gái như thế nào? Anh đành nhắc lại tâm sự mà anh đã thổ lộ với chị:
    - Anh để lại cho em cái gánh quá nặng. Anh không có cách nào san sẻ giúp em. Anh chỉ mong em nuôi các con khôn lớn, trở thành người lương thiện, không đứa nào theo địch là anh mãn nguyện rồi. Vì thế anh mới muốn đứa con em sắp sanh mang tên là Thiện.
    Mơ ước theo anh chỉ đơn giản vậy sao? Chị dư sức kiếm tiến nuôi sống bảy miệng ăn. Chị thạo nghề may, giỏi làm bánh kẹo và đang có cửa hàng tạp hóa, hàng tấm nên khoản lãi chi thu được hàng ngày cũng khá. Chị kể lại với anh. Anh lắc đầu:
    - Anh không định hù dọa em song anh phải nói rõ để em lường trước mọi khó khăn. Địch có thể bỏ tù em hoặc triệt mọi nguồn sinh sống theo em. Các con sẽ bơ vơ, đói khát thất học. Em. hãy nhớ lời anh.. mỗi lần gặp khó khăn, em ráng dựa vào bà con cô bác, dựa vào tập thể để tìm ra lối thoát.
    - Dạ!


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 10:53:12 am
     Anh cúi xuống vuốt tóc, thơm vào má Mỹ Hòa. Con nhỏ sinh đúng vào năm Cách mạng tháng Tám thành công. Mới chưa tròn một tuổi, nó đã phải chạy loạn vì địch quay lại Gò Công. Chị không bồng Mỹ Hòa mà đặt con nằm vào cái thúng bên này, bên kia xếp quần áo, chăn màn bát ba. Mỹ Hòa không khóc mà còn nhoẻn miệng cười vì được ngồi kiểu võng lạ theo má. Má đưa Mỹ Lê, Mỹ Hòa chạy loạn dọc bờ biển qua Ba Tri sang Bến Tre. Đứa con trai đầu lòng theo anh chị mới được bốn tuổi tên là Dương Công Linh. Linh giống ba như đúc, giống từ khuôn mặt, nụ cười, ánh mắt đến đi đứng, nói năng. Chị ?bắt? được Tư Linh khá đặc biệt. Năm 1949, chị được điều vào căn cứ dự lớp học bồi dưỡng đảng viên mới. Chị không ngờ người được tỉnh ủy phân công lãnh đạo, đồng thời làm giảng viên cho lớp lại là anh. Anh trao đổi riêng với trưởng ban tổ chức: Cô Tư Hạ là vợ tôi. Anh kiểm tra lại danh sách vì cô Tư chưa phải là đảng viên.
    - Báo cáo anh, chị Tư mới được kết nạp.
    - Vậy à? Tôi đâu có hay. Thiệt là vui.
    Anh cố ý lánh mặt, cho người gọi chị lên gặp giảng viên. Chị đi theo người giao liên, len lỏi giữa rừng đước. Những cây đước mọc thẳng tắp, chỉ có ít cành lá trên ngọn, xòe ra những bộ rễ xúm xuê, chằng chịt đan ken với nhau thành khu rừng được tỉnh ủy Gò Công chọn làm căn cứ địa. Đây không hẳn là rừng hoang, cũng chả phải là biển nên thiếu rau, thiếu lương thực, thiếu nước ngọt... Chị không ngại thiếu thốn. Do địch càn quét, đàn áp, khủng bố gắt gao nên những người kháng chiến không thể bám trụ nổi trên đất Gò Công mà phải lưu lạc sang mảnh đất ở ngoại ô Sài Gòn (nay thuộc huyện Duyên Hải, thành phố Hồ Chí Minh (viết nguyên văn theo tác giả nên không biết huyện Duyên Hải nay là huyện nào nữa, ai biết thì pm để đính chính lại nha, thân ) ). Đến một vùng đước rậm, chị trông thấy anh.     Anh lại gần chị:
    - Em! Em được kết nạp hồi nào vậy!
    Chị quay về phía cô giao liên:
    - Em xem, anh Bẩy không biết vợ anh đã là đồng chí theo mình - Chị hướng về anh - Em mới được đứng cùng hàng ngũ đảng với anh gần hai tháng.
    Từ ngày đó, ban tổ chức bế trí cho giảng viên Bẩy Đấu và học viên Tư Hạ ?buồng? hạnh phúc mà ?giường? là chùm rễ đước. Anh đưa chị ca nước:
    - Em ráng tập uống nước lợ đi. ở đây, nếu trời không mưa, anh em dùng nước biển nấu với nhiều loại lá để khử bớt chất mặn.
    - Mấy anh chịu được, em cũng chịu nổi.
     Anh cười:
     - Lần đầu nàng dâu về thăm má chồng, anh không nỡ để em đi chân đất. Ở bãi đước này, em có dùng dép cũng không được vì mỗi bước đi là gặp sình lầy.
    - Anh đừng ngại. Em là vợ anh, là đảng viên. Không gian khổ hiểm nguy nào ngăn cản em theo lý tưởng theo anh.
    Chị sung sướng, hạnh phúc vì có anh bên cạnh. Từ lớp học về , chị Tư Hạ có Tư Linh. Tư Linh là cục vàng theo gia đình họ Dương. Anh Bẩy Đấu là con trai duy nhất, như cây chỉ có một cành, trên cành chỉ có hai lá là Mỹ Lê, Mỹ Hòa), nên khi sanh Tư Linh, toàn họ Dương đều phấn khởi. Hai năm sau, chị lại tặng anh một món quà: Dương Linh Nhất (Ba Vĩ, tên sau này khi hoạt động cách mạng). Không hiểu sao trong số các con gái, con trai theo gia đình họ Dương chỉ có riêng Dương Linh Nhất bị cận thị. Có lẽ do chị đã khóc quá nhiều, khóc tới cạn khô nước mất trước khi có mang Ba Vĩ.
     Chuyện xảy ra khá lạ lùng. Vào một buổi tối mửa hè năm 1952, ông Bẩy đến nhà chị với vẻ mặt ủ rũ. ông ôm Mỹ Lê, Mỹ Hòa vào lòng. Trông thấy Tư Linh đang nầm nôi, ông ẵm cháu trai, khóc nức nở. Chị Tư Hạ đoán được 9 phần 10 chuyện rủi ro đã ập đến với gia đình, song chị cố trấn tĩnh, gặng hỏi:
    - Có chuyện gì không may đến với anh Bẩy, phải không ông?
    Từ trong nhà, Nội cũng chạy ra, hết hoảng:
    - Bẩy Đấu đâu rồi, cậu?
    Ông Bẩy vẫn khóc thồn thức. Phải mấy phút sau, ông mới thốt nên lời:
    - Bẩy Đấu hy sinh rối.
    - Trời ?
    Cả Nội và chị đều ngã vật xuống nền nhà. Mỹ Lê, Mỹ Hòa khóc thút thít. Một lúc sau, khi mọi người đã trấn tĩnh, ông Bẩy mới kể lại chuyện xảy ra. Anh Bẩy Đấu cùng cô Diệu Liên và nhiều cán bộ theo Gò Công đã lọt vào Sài Gòn mua được ghe hàng cấm. Khi ghe đang chạy trên biển thì bị ca-nô theo cảnh sát rượt theo, nổ súng, ra lệnh cho ghe dừng lại. Biết là bị lộ, những người đi trên ghe cùng với ông nhảy ào xuống biển. Địch xả súng bắn. Chính mắt ông trông thấy những xác người chết, máu phun đỏ nước và chìm dần xuống biển. ông bơi giỏi và nhanh trí nép vào dưới mạn ca-nô địch nên mới trốn thoát. ông đã báo cáo việc xảy ra với tỉnh ủy Gò Công. ông tin là sớm muộn gia đình cũng nhận được giấy báo tử và bằng ?Tổ quốc ghi. công cho liệt sĩ Dương Văn Đấu. Trong cảnh buồn đau vô hạn đó, Nội là người tĩnh trí đầu tiên. Nội bảo con dâu:
    - Chồng con chết sông nước, không tìm thấy xác nhưng cũng là chết vì dân, vì nước. Con lo làm lễ cầu siêu cho chồng con.
    - Có cần chờ tỉnh ủy báo tử không, má?
    - Khỏi cần. Thằng Bẩy mới chết được bốn ngày. Ta lập đàn, lên chùa mời các vị sư về cầu siêu cho chồng con ngay ngày mai.
    - Sao gấp vậy má? Đàn ông bảy vía, đàn bà chín via, để quá bảy ngày mối cầu siêu cho chồng con sẽ mất thiêng, oan hồn Bẩy Đấu không được siêu linh tịnh độ.
     Chị không còn tĩnh trí nữa nên nhất nhất làm theo sắp xếp theo má, các chị ruột cùng chú, bác gia đình họ Dương. Về việc này, má thành thạo lắm. Má thướng con vô ngần. Má lo sắm đủ lễ bộ, theo yêu cầu theo nhà chùa. Chị cũng biện đủ lễ gà, lợn, làm cỗ mặn, cỗ chay mời khách. Chị như người mất hồn, thờ thẫn, không sao nuốt nồi miếng cơm hay chợp mắt ngủ trong chốc lát. Chị thương anh vô cùng. Giá anh trối trăng với chị được một đôi điều. Chị không thể vuốt mắt anh, tiễn anh đến nơi an nghỉ cuối cùng và chẳng thể vun đắp phần mộ cho anh. Chị không chút hy vọng tìm thấy xác anh. Chị chỉ mong linh hồn anh được siêu thoát nơi cực lạc nên ai bảo gì chị đều làm theo. Chị lập đàn, làm rạp, mua vàng mã. Chị thắp đèn nến sáng trưng suốt đêm. Chỉ cố sao để tiếng tụng kinh, gõ mõ theo các vị sư không đứt quãng lần nào. Chị mặc áo xô gai, chít khăn đại tang cho Mỹ Lê, Mỹ Hòa. Tư Linh còn quá nhỏ nhưng cậu là con trai duy nhất, là trưởng tộc tương lai theo họ Dương nên phải có nên rơm, gậy tre và đủ mọi lệ bộ khác cho cậu. Nửa đêm ngày thứ ba, khi má và những người thân tạm rời đàn tràng đi ngủ, chị đang mơ màng trước bàn thờ có ảnh anh lồng trong khung viền đen thì có tiếng nói phía sau:
    - Cúng vái thiêng quá, hồn đã hiện về rồi.
    Chị quay lại, hét lên tiếng ?Anh?, rồi ngã vật ra ngất xỉu. Các vị sư ngơ ngác và khi đã hiểu ra sự thật, không còn ai nghĩ đến tụng kinh, gõ mõ nữa. Mọi người thân choàng tỉnh, người lo cứu chị Tư tỉnh, người lo báo tin cho má. Rút linh nghiệm, chị Hai theo anh không để má hay tin đột ngột mà thông báo từ từ.
    - Má? Con mới nhận được tin cậu Bầy chưa chết.
    - Thiệt vậy à? Ai báo tin cho mảy. Thằng Bẩy đâu?
    - Người ta mới gặp cậu Bẩy ở căn cứ. Cậu Bẩy đang thu xếp vế thăm má. Má tính sao với các vị sư, với đàn cúng? 
    Má vùng dậy, vẻ dứt khoát:
    - Con ?Nam mô A-di-đà-phật?. Nhờ phước tổ thằng Bẩy còn sống là may rồi. Mày ra thưa chuyện với các vi sư, trả thù lao đầy đủ .và phá rạp, phá đàn tràng, dẹp bàn thờ ngay.
     Đúng lúc này, chị Ba thông báo:
    - Má ơi? Càu Bẩy đã về.
    Bẩy Đấu xuất hiện. Anh quỳ xuống, ôm lấy má. Bà bàng hoàng. như tỉnh, như mê. Má chưa tin con trai má còn sống nên má sờ đầu, vuốt tóc anh. Anh gục đầu vào lòng má. Những giọt nước mắt nóng hổi theo má rơi xuống mặt anh. Má khóc vì sung sướng, vì hạnh phúc. Anh dìu má vào buồng vợ. Chị Tư Hạ đã tỉnh. Anh đến bên chị.
    - Anh đoảng quá, anh đã làm em hoảng hốt vì quá đột ngột. Anh xin lỗi em.
    Chị gượng nở nụ cười:
    - Anh đã cải tử hoàn sinh cho em. Em như người đã chết được cứu sống lại.
    - Ở đây chỉ có anh chết vừa sống lại thôi.
    Má lên tiếng:
    - Mà tại sao thằng Bẩy dám nói láo là mày đã hy sinh?
    - Thưa má? Cậu Bẩy nói đúng. Con chỉ may mắn mới thoát chết thôi.
    - Tại sao lại như vậy?
    Anh Bầy Đấu liền kể lại chuyện xảy ra. Khi mọi người nhảy xuống biển, Tôn nữ thị Diệu Liên lại gần anh:
    -Anh Bẩy ở lại với em. Em không biết bơi.
    Chi trong nửa tích tắc, anh Bẩy đã quyết định không lao xuống nước. Diệu Liên đã kịp bàn với anh cách thức khai báo với địch. Bị áp giải về Sài Gòn, Diệu Liên khai:
    - Ba tôi là Bửu Đễ, em con chú theo Hoàng đế Bảo Đại. Anh Bẩy là chồng tôi. Anh Bẩy tốt nghiệp trường Bách nghệ năm 1942, đã phụ trách kỹ thuật ở đồn điền cao su Tây nguyên. Chùng tôi bị Việt Minh bắt.
    Vì anh Bẩy và Diệu Liên ăn mặc sang trọng, nói tiếng Pháp như gió, vì các thầy trò trường Bách nghệ đều nhận ra anh và vì ông Bửu Đễ, nhân danh một hoàng thân, với danh nghĩa đại diện theo Hoàng đế Bảo Đại can thiệp nên cảnh sát đã ra lệnh thả hai người. Anh Bẩy Đấu thoát nạn trong đường tơ kẽ tóc. Má, chị Tư và cả gia đình thở phào khoan khoái. Anh quyết định ở lại nhà vài ngày sau lần chết hụt và anh chị đã có Dương Linh Nhất. Bốn giờ sáng. Anh cúi xuống ôm ghì từng đứa con vào lòng, hôn tới tấp lên trán, lên má theo chung.    Chúng vẫn ngủ say sưa. Chị bàn:
    - Em đánh thức các con dậy, nghe anh?
    - Không nên, em ạ! Chỉ thêm bận bịu, lưu luyến. Em cũng không cần đưa tiễn anh nữa.
    Chị rụt rè: 
    - Em đi với anh một đoạn, chả sao đâu!
    Anh thú thực:
    - Em! Có giây phút hạnh phúc nào bên em và các con anh đã tận dụng hết rồi. Em hãy để cảnh chia ly êm đềm này đọng mãi trong tim anh những năm tháng xa nhà.
    Chị đành phải nghe theo lời khuyên nhủ theo anh.
    Anh nói tiếp:
    - Địch sẽ đàn áp khốc liệt những người cộng sản, sẽ gicó đau thương xuống mảnh đất miền Nam chúng ta. Anh chỉ có một lời khuyên em: Bất cứ lúc nào cũng phải dựa vào tập thể Có Đảng, có tập thể, sẽ có tất cả. Anh đi nghe!
    Anh ôm vội chị, thả ra ngay và biến nhanh ra khỏi cửa. Chị nhìn theo anh, thẫn thờ. Anh nói đúng. Vì cảnh giác, anh phải ra đi lúc trời chưa sáng rõ và chị không được phép tiễn chân anh. Chị quay vào nhà, gicó mình xuống giường. Chị nhìn đàn con, nước mắt trào ra. Mãi nửa giờ sau, chị mới ngẩng đầu lên, lau nước mắt.
    - Không, không thể ủy mị được. Vì nhiệm vụ cách mạng, anh ra đi, mình phải làm sao cho xứng đáng với anh.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 11:07:37 am
                                                                             
2
     Anh Bẩy Đấu xuống tàu thủy. Thuyền trưởng và cái , thủy thủ Liên Xô thật tận tụy, nhã nhặn nhưng do ngôn ngữ bất đồng nên nhiều khi chủ và khách không hiểu nhau. Anh Bẩy Đấu gặp thuyền trưởng hỏi:
    - Trong thủy thủ đoàn có ai nói được tiếng Pháp, tiếng Anh hay tiếng Tàu không?
Sáng kiến theo anh Bẩy đã gỡ được thế kẹt cho cả đôi bên. Thuyền trường trò chuyện với anh bằng tiếng Pháp. Anh không dám bộc lộ mình. Thói quen giữ bí mật trong những năm tháng hoạt động trong lòng địch khiến anh không hé răng kể với ai vế công tác hãy chức vụ theo mình. Anh để ý theo dõi. Cái cán bộ miền Bắc nói tiếng hu ríu, nhẹ và nhanh quá khiến bà con miền Nam rất khó hiểu. Gần như không ai nghe được trọn câu, hết ý. Lại còn nhiều tiếng gọi theo hai miền khác hẳn nhau. Từ chuyện nhỏ nhất như cái chén theo miền Bắc dùng để uống nước, uống rượu, cái chén miến Nam dùng ăn cơm; đến chuyện xưng hô với nhau là đồng chí; không có ai gọi là anh Hai, chú Ba, cô Tư, dì Năm... mà toàn gọi tên cúng cơm theo nhau: ?anh Đấu?! Rồi có những danh từ khác hẳn nhau: miền này gọi là ?phiên dịch?, miền kia kêu là ?thông ngôn? khiến anh Bẩy phải bận tâm suy xét làm cách nào để anh hòa nhập vào xã hội miền Bắc nhanh nhất.
     Đồng chí trưởng. đoàn cán bộ miền Bắc rất có cảm tình với anh. Năm 1954, ở tuổi 36, đang còn sung sức, trẻ, lại không mang nước da xám xỉn do bị sốt rét rừng hành hạ nên anh khá điển trai. Anh ít khi chịu ngồi im một chỗ: Là dân miền biển không bị say sóng và do gánh vác nhiệm vụ thông ngôn nên anh có mặt ở khắp nơi: khi ở boong tàu, lúc xuống khoang hành khách và nhiều lần anh chùi xuống hầm tàu, lọt vào buồng máy, phòng ăn, phòng khiêu vũ và cả phòng chỉ huy theo thuyền trưởng. Chả hiểu do nguồn tin nào, thuyền trưởng biết được anh là tỉnh ủy viên đã hoạt động nhiều năm trong lòng địch nên rất trọng vọng, kính nể anh. Hai người ngồi trò chuyện với nhau rất tâm đắc. Anh Bẩy muốn tìm hiểu vế quê hương Lênin, về thủ đô Matxcơva, về những đêm trắng ở Lêninglát, về tàu điện ngầm, về các nhà máy, nông trường. Anh muốn nâng cao tầm nhìn, mở rộng kiến thức. Về phần mình, viên thuyền trưởng rất thích nghe kể về hoạt động bí mật theo các du kích Việt Nam, về những gian khổ mà chính người tỉnh ủy viên đã từng chịu đựng. . .
    Tàu càng ra khơi, số người say sóng càng nhiều, nhất là các má, các chị, các cháu nhỏ. Đã có lúc anh Bẩy Đấu phân vân: ?Anh không đem theo vợ và các con là đúng hay sai?? Có lẽ là sai. Không phải ngẫu nhiên mà có quy định rõ ràng: Cán bộ cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh được mang theo bao nhiêu người đi tập kết. Anh là tỉnh ủy viên. Anh có tiêu chuẩn mang theo vợ và các con đẻ theo mình, sao anh không làm điều đó? Đó là chưa kể đến tiêu chuẩn được đi tập kết theo chị.
Các cán bộ từ các tỉnh Nam Bộ ra Bắc đều có tâm trạng giống anh. Bàn cãi mãi, mọi người đi đến kết luận: Đưa vợ con theo cũng đúng mà để lại quê hương cũng không sai.
    Tàu về đến cảng Hải Phòng. Anh Bẩy Đấu thực sự ngỡ ngàng khi một cán bộ theo Ban Tổ chức Trung ương đặt vấn đề:
    - Đổng chí Đấu! Trung Ương quyết định điều động đồng chí về làm giám đốc mỏ than Cẩm Phả.
    - Báo cáo đồng chí. Khi nhện lệnh đi tập kết, tôi tự hứa là sẽ làm bất cứ việc gì do tổ chức phân công nhưng...
    - Không nhưng gì cả. Có phải đồng chí đã tốt nghiệp trường Bách nghệ không?
    - Dạ. Tôi học cùng trường mà bác Tôn Đức Thắng đã tốt nghiệp. Tôi học niên khóa 1935 - 1940.
    - Như vậy là đồng chí có học vấn, có kỹ thuật?
    - Tôi chưa tốt nghiệp kỹ sư và chưa có khái niệm vế mỏ than. Hơn nữa, tôi đã bỏ kỹ thuật suốt chín năm kháng chiến.
    - Đành phải học thôi đồng chí Đấu ạ. Chúng ta như một bó đũa biết chọn ai làm cột cờ. Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Đồng chí giữ cương vị này rất thích hợp vì đồng chí không chỉ am hiểu về kỹ thuật mà còn có trình độ chính trị theo một tỉnh ủy viên. Đành phải vừa học, vừa làm để nâng tầm theo mình lên ngang với cương vị mới, anh Đấu ạ!
    Anh Đấu quá ngỡ ngàng. Cách đây hơn một tháng anh đang sống trong bưng biền, khi về thăm vợ, anh không dám lộ mặt ngoài đường, thế mà bây giờ anh đã là giám đốc mỏ than lớn theo đất nước. Cách mạng thật là kỳ lạ. Có lẽ chưa ở đâu một người được bổ nhiệm làm giám đốc mà chưa biết hòn than đen, trắng ra sao như anh. Anh đi tham quan mỏ. Chỗ ở theo chủ mỏ vô cùng sang trọng, đầy đủ tiện nghỉ với hệ thống chỉ huy rất hiện đại, cùng đủ loại người hầu được gọi là thằng bồi, con sen, lão loong toong, mụ bếp. Vốn ghét thói quan cách, quyết định đầu tiên theo anh trên cương vị mới là chọn cho giám đốc chỗ ở chỉ kê đủ chiếc giường cá nhân, một cái bàn gỗ, một cái tủ và chiếc đèn bàn. Hàng ngày, giám đốc cùng ăn với công nhân ở nhà ăn tập thể, cùng vào hầm lò, cùng cuốc đất, đẩy xe. Đêm đêm, anh Bẩy thường thức đến 11, 12 giờ để tự học trong sách vở hoặc mời các kỹ sư lưu dung, công nhân có tay nghề cao về giảng dạy. Đến lúc này, anh Bẩy thấy quyết định không mang theo vợ con là đúng. Anh không nặng gánh gia đình nên có thể dành ra 12, 14 và có khi tới 16 giờ trong ngày để lo khai thác than, lo nắm bắt được những bí mật vế mỏ. Hơn một năm sau, anh Bẩy Đấu được công nhận là một giám đốc vừa hồng, vừa chuyên trên vùng mỏ Quảng Ninh. 


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 11:12:03 am
3
    - Mỹ Hòa!
    Chị Tư Hạ gọi to. Chị giơ cánh tay bị còng về phía các con. Mỹ Lê, Mỹ Hòa trao cặp sách cho bạn, lao về phía mẹ :
    - Má! Tải sao má bị bắt? 
    Mỹ Hòa túm lấy áo người đi áp giải, hỏi gay gắt:
    - Vì sao mấy ông bắt má tôi?
    Tên nầy gạt Mỹ Hòa sang một bên:
    - Đồ con nít. Tao không nói chuyện với tụi bay.
    Trong lúc nầy, Mỹ Lê ôm lấy má. Cô đã cao tới nách má. Cô lắng nghe lời má dặn:
    - Mấy ông cảnh sát bắt nhầm má. Con đem em Thiện, em Hiếu sang gởi Nội, nhờ Nội trông coi việc nhà giùm má. Con dẫn em về trước, vài ngày nữa, má sẽ về.
    Mỹ Lê không muốn rời má. Cô muốn đi theo xem kẻ địch đưa má tới đâu, giam má ở nơi nào nhưng linh tính theo cô con gái đầu lòng trong gia đình cách mạng buột cô chững lại. Má bị bắt, cả cái gánh nặng gia đình ập xuống đầu cô Cô gái 16 tuổi rời đôi tay khẳng khiu khỏi người má , nắm lấy tay em gái :
    - Má à? Chúng con sẽ lên thăm má. Mà mấy ông định giam má tôi ở đâu?
    - Cứ lên Ty cảnh sát mà hỏi. Đi nhanh lên bà nội.
Chị Tư Hạ dặn con thêm một lần nữa:
    - Má đi nghe con! Ráng tắm giặt, trông nom các em nghe, Lê!
Lê, Hòa nắm tay nhau nhìn theo bóng má. Các bạn học sinh gái đứng quây lấy hai em, không ai nói câu nào. Không ai muốn nêu câu hỏi ?vì sao dì Sáu bị bắt?? và chẳng ai biết kiếm lời gì an ri hai bạn. Mỹ Lê lên tiếng phá tan bầu không khí nặng trĩu:
    - Về thôi các bạn. Má tôi nhủ là mấy ông cảnh sát bất nhầm.
    Tuy ngoài miệng nói vậy nhưng Mỹ Lê hiểu rằng kẻ địch bắt má vì má làm cách mạng. Sau ngày ba đi, má dồn tiến mở tiệm bán hàng tạp hóa. Má mua chiếc máy khâu, tối tối may thuê cho bà con chòm xóm để kiếm thêm tiền nuôi con. Tuy vậy, công việc má ham nhất là làm kẹo chuối. Những ngày mua được nhiều chuối, các bạn theo má kéo đến đầy nhà, chia nhau mỗi người một việc, người bóc vỏ người thái lát, người phơi, người sấy, người xếp hàng vào giỏ người đưa đi chợ bán, v.v... Là cô gái khéo tay, mau miệng, Mỹ Lê dễ dàng tham gia vào mọi việc nên nghe được những lời thì thào, to nhỏ giữa các má và các cô, các bác. Má không có ý định giấu Lê nhữllg hoạt động theo mình Trong gian bếp nhà Lê có vách hai ngăn, ở giữa kê tấm ván 60 phân. Đó là chỗ ở bí mật theo bác Ba Kiên, tỉnh ủy viên. Lê được má giao mang cơm, lấy nước, giặt giũ quần áo giúp bác Ba. Có một lần, Lê nghe má trò chuyện với bác Ba:
     - Anh Ba nè! Tụi nó bôi đen cách mạng mình quá trời, đen hơn mực tàu rồi anh à! Từ 5 giờ sáng tới 12 giờ đêm, lúc nào đài theo nó cũng chưởi cách mạng. Ta nằm im vậy sao, anh Ba?
Bác Ba Kiến hỏi má về những người đến làm kẹo chuối. Bác nêu ý kiến:
     - Chị chọn những hạt nhân tốt tập họp lại: Về hình thức bên ngoài, ta cứ coi là những bạn hàng góp vốn buôn chung nhưng bên trong là tổ đoàn kết. Chúng nó tuyên truyền công khai, ta rỉ tai từng người dân chống lại những điếu chúng nói, một người nói lại cho mười người khác.
     Bác Ba Kiên mới rời nhà mấy hôm nay. Chắc là bác sang bên Nội. Lê hiểu ý má rồi. Má dặn đưa em Thiện, em Hiếu sang Nội có nghĩa là phải báo tin cho Nội biết trước. Nội cũng nuôi cán bộ trong nhà và các chú, các bác, bạn theo ba thường lui tới thăm Nội. Lê phải thông báo cho Nội hay tin má bị bắt để Nội thu xếp mọi việc cho ổn thỏa.
    Nội, Ngoại, các dì, các cô, các cậu đến với các cháu, đưa ra đủ mọi phương án song Mỹ Lê không chấp thuận. Cô không muốn giao đứa em nào theo mình cho ai. Với ai, cô cũng từ tốn thưa:
    - Trước phút chia tay, ba đã dặn dò con phụ giúp má, lo chăm sóc các em. Con xin được thay má cáng đáng việc nhà .
    Nội nói riêng với từng người:
    - Con nhỏ cứng đầu, cứng cổ lắm. Chúng ta đứng ngoài giúp cháu thôi.
     Mỹ Lê tính toán việc nhà. Cô không thể theo học được nữa. Cô cần thay má làm chủ gia đình, lo liệu cho sáu đứa em. Cô sẽ trông nom việc làm bánh, kẹo, mứt chuối cùng những cô, bác đang phụ giúp má. Cô thạo nghề may. Cô sẽ may thuê vào giờ rảnh rỗi, chủ yếu là vào các buổi tối để kiếm thêm tiền nuôi các em. Má chưa kịp bàn giao vốn liếng cho cô, không phải vì má không tin con gái má mà má muốn cô tập trung thời giờ vào việc học hành. Bây giờ dù cô có muốn đi học cũng không được nữa. Chả lẽ má vừa bị bắt, cô đã phải gửi các em nhờ họ hàng nuôi giúp? Các em cô còn nhỏ quá: thằng Linh bảy tuổi, mới cắp sách đến trường; thằng Nhất, thằng Quảng ở tuổi lên bốn lên ba và hai đứa em má đẻ sinh đôi vào năm Mùi (1955) nhưng cả hai đều mang tuổi Ngọ vì sinh ngày đầu theo năm dương lịch, mới hai tuổi. Nhớ lời ba, má đặt tên đứa ra trước là Dương Thiện, đứa sau là Dương Thị Hiếu không có chữ lót. Tội thân cả hai đứa đều chưa biết mặt ba. Trong sáu đứa em, cô chỉ còn trông cậy vào Mỹ Hòa. Hòa đã sang tuổi 12 nên cô cũng muốn san sẻ mọi khó khăn cực nhọc mà chị Hai đang gánh chịu. Cô bàn:
    - Chị Hai! Em khỏe hơn chị. Em sẽ nghỉ học để phụ giúp chị đi bỏ mối hàng.
    - Không thể thế được. Một mình chị không theo học, má đã đau lòng lắm rồi. Em cần đi học, mà phải học thiệt giỏi mới làm má vui lòng.
    - Chị trông sao nổi mấy đứa em? Chúng nó quấy phá, khóc đòi ăn rồi ỉa, đái tùm lum, chị đâu còn thời gian rảnh để lo buôn bán?
    - Chị sẽ ráng, em đừng lo!
    Mỹ Hòa không dám cãi chị. Song cô có dự tính riêng theo mình. Cô làm bài, học bài ngay tại lớp. Tan học, cô tất tưởi chạy vế nhà, lấy thùng đi gánh đầy bể nước, kéo năm đứa em ra tắm, rồi giặt quần áo giúp cho chị Hai. Tư Linh không thích làm phiền chị Ba. Cậu đã bảy tuổi, là con trai lớn theo gia đinh, lẽ nào cậu không giúp được hai chị khi má gặp hoạn nạn. Cậu đòi tự giặt lấy quần áo. Cậu xin đảm    nhiệm trông nom các em. Cậu cõng út Hiếu, dắt Năm Nhất, Sáu Quản (Mười Tuân, tên gọi sau này khi hoạt động cách mạng), Bảy Thiện đi chơi để các em khỏi quấy rầy chị Hai.
    Về phắn mình, Mỹ Lê thức khuya, dậy sớm, cô lo bữa cơm cho các em không quá đạm bạc, song kết quả thu được không được là bao. Cô cũng mua đủ đường bột, chuối... theo yêu cầu theo những người giúp việc nhưng mứt chuối cô làm ra không ngon, bị khách hàng chê. Cô đâu có tài như má. Cô không thạo pha chế, dốt kỹ thuật nên những mẻ kẹo do cô nấu không hợp khẩu ví khách hàng. Hàng ế. Số tiền công may cô thu được mỗi ngày không đủ chi tiêu ở mức dè sẻn nhất. Mỹ Hòa bàn với chị:
    - Em đến nhà máy xin trấu về đun đỡ tốn tiền mua củi, chị Hai đồng ý không?
Mỹ Lê gật đầu chủ yếu không phải vì kinh tế gia đình quá túng quẫn mà là để làm vui lòng đứa em gái. Mỹ Hòa không nắm tay hòm chìa khóa nên chưa lường được số vốn liếng má dự trữ được khá phong phú. Hòa luôn băn khoăn là không giúp ích được chị. Cô khỏe, nhanh. Cô quầy hai cái thúng, tất tưởi đến nhà máy xay. Cô hớn hở vì đã giúp được chị Hai.
    Mỹ Lê không ngờ tai họa lạl giáng xuống Mỹ Hòa. Nhìn em gái nằm thiêm thiếp ở nhà thương, đôi tay quấn đầy băng, Mỹ Lê không sao ngăn nổi dòng nước mắt. Cô thương em. Cô tự trách mình không ngăn cản em gái. Cũng may là đôi tay em gái cô bị máy xay cán chỉ bị bóc một mảng da lớn. Rủi em cô bị què, cô sẽ ăn nói sao với má đang ở tù và với ba đang ở nơi nào đó trên miền Bắc xa xôi?


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 11:18:27 am
    Đúng vào thời điểm này, Mười Tuân và út Hiếu lại lên cơn hen suyễn. Hai đứa khóc quá chừng. Tư Linh thương haii em lắm. Chị Hai phải vào nhà thương trông nom chị Ba nên cậu tự gánh trách nhiệm với ba em nhỏ. Tư Linh không dám nằm ngủ vào ban đêm. Cậu ngồi làm điểm tựa cho út Hiếu, đưa võng cho Mười Tuân và để Bẩy Thiện gối đầu lên chần mình. Cậu lo cho các em uống thuốc. Vì không biết hát ru nên cậu cứ dùng tay vỗ vỗ vào lưng em trai, xoa đầu em gái. Cậu quyết định đến nhà thương thí (nhà thương làm phúc) giả làm bệnh nhân hen suyễn xin thuốc. Nội, Ngoại, các cô, các dì hay tin đến rầy Mỹ Lê:
    - Mày tính để cho mấy đứa em chết hết mới báo cho tụi tao sao? Bắt tội thằng bé bảy tuổi thức suốt đêm với ba đứa em mà mày không xót ruột sao?
    Mỹ Lê biết kêu oan với ai? Cô bất lực rồi Cô không ngờ tới gánh nặng và trách nhiệm theo người chủ gia đình quá lớn. Cô chưa có kinh nghiệm sống, chưa từng trải buôn bán, sản xuất và chưa lường hết nỗi vất vả cực nhọc khi phải nuôi sáu cái tàu há mồm?, nhất là khi các em gặp tai nạn hoặc ốm đau. Cô thưa với Nội, Ngoại:
    - Tuần tới con sẽ lên thăm má. Con sẽ thưa với má về chuyện các em con.
    Sau lần má bị bắt giam, chỉ có Mỹ Lê luôn đến thăm má. Má không muốn Ngoại đi bộ xa vì Ngoại quá già và Ngoại không chịu nồi sẽ càng đau lòng khi nhìn thấy cảnh con gái yêu bị tra tấn, tù đầy.
    Má khuyên Nội ở nhà vì Nội là sợi dây liên lạc giữa má và các cán bộ kháng chiến cũ. Mỹ Lê đã kể lại những điều má tiết lộ với mọi người thân theo gia đình họ Dương, họ Nguyễn.
    Bữa đó, sau khi gặp được Mỹ Lê, Mỹ Hòa, trên đoạn đường ngược chiều với các con, chị Tư Hạ rảo bước nhanh hơn. Chị đã hiểu vì sao chị bị bắt. Từ tháng 10 năm 1954 đến hôm nay là mùng 9 tháng 4 năm 1957, chị sống trong lòng địch. Hàng chục lần, chị phải đến trụ sở ngụy quyền cảnh sát để trả lời đủ mọi câu hỏi theo trưởng ấp, quận trưởng nêu ra:
    - Có phải chồng chị là Dương Văn Đấu, tỉnh ủy viên tỉnh Gò Công không?
    - Phải.
    - Tên Đấu đâu rồi? Thưa các ông, chống tôi đã tập kết ra Bắc theo đúng hiệp định Giơnevơ quy định.
    - Chị đã là bí thư phụ nữ huyện Gò Công (cũng thuộc tỉnh Gò Công).
    - Đúng.
    - Chị là cộng sản đước phân công nằm vùng ở lại?
    - Các ông xét xem tôi có đi đến đâu, có làm gì không? Sau ngày chồng tôi đi tập kết, tôi sanh con. Một nách bảy đứa, tôi lo chạy gạo nuôi con chưa xuể, còn thời giờ đâu để hoạt động.
    Chị có chừ trương không chối cãi lý lịch cũ theo mình. Chúng nó còn hổ sơ lưu trữ và bọn tay sai chỉ điểm khai báo, nên không thể che giấu cái điều đã có sờ sờ trước mắt. Chị nhận mình là vợ cộng sản, nhưng không nhận mình đang làm bí thư chi bộ cộng sản. Hai năm rưỡi trôi qua, kẻ địch nắm rất vững quá khứ theo chị, nhưng chúng không bắt chị.
    Chúng tổ chức rình mò theo dõi chị. Sơ suất đầu tiên xảy ra là do chị quá chủ quan trong việc tổ chức đưa anh Ba Kiên lên Sài Gòn gặp cấp trên.
    Như thường lệ, sáu chị trong tổ làm mứt chuối, kcó chuối cùng với chị thuê riêng chuyến xe lam chạy từ Gò Công lên Sài Gòn. Theo hợp đồng, người lái xe không được nhận thêm khách dọc đường. Rời khỏi gian bếp nhà chị, anh Ba Kiên đón xe ở đoạn đường vắng. Theo đế nghị theo chị, các ?bà chủ? đồng ý cho anh đi nhờ xe. Khi xe vừa chuyển bánh, chị thoáng trông thấy bóng tên Trần Văn Tá. Hắn là bí thư chi bộ Quốc dân đảng Gò Công. Hắn có mối thù không đội trời chung với cộng sản vì cộng sản đã tịch thu ruộng đất theo ba hắn là tên địa chủ gian ác. Chị báo ngay điều không hay cho anh Ba Kiên. Anh hỏi lại:
    - Liệu tên Tá có trông thấy tôi không?
    Chị không thể trả lời dứt khoát câu hỏi theo anh Ba. Nếu nhận ra anh Ba sao nó không hô hoán lên, không thổi còi bắt xe dừng lại? Trong trường hợp thằng Tá chỉ nhìn thấy chị thì chả có gì đáng ngại. Đây không phải là lần đầu tiên chị lên Sài Gòn buôn bán. Anh Ba dặn chị:
    - Chiều này; cô đừng về nhà ngay. Tốt nhất là về bên ngoại trước. Nếu không có động, cô hãy về. Cô đặt hòm quần áo và đồ đạc quý vào chỗ tôi nằm làm như đó là nơi giấu theo, đề phòng trộm cướp.
    Chỉ Tư Hạ làm theo những điều anh Ba Kiên chỉ dẫn. Hình như khô ng có chuyện gì xảy ra cả . Chị bỏ ra một ngày để đi đặt mối hàng ở nhiếu nơi rồi sang thăm bà ngoại, rồi ghé lại chơi bên bà nội. Vẫn không có cái đuôi nào bám theo. Sang ngày thứ ba, đúng vào lúc yên trí là tai họa đã trôi qja thì chị thoáng trông thấy tên Trần Văn Tá ngồi trong ngôi nhà đối diện nhà chị. Thì ra chúng nó đón lõng, rình bắt Ba Kiên khi anh trở về nhà chị. Chị phớt lờ, bình thản đi hướng về thị xã. Từ nhà chị lên Gò Công mất bảy kilômét đường bộ. Chị sẽ dành khoảng thời gian đi đường để suy nghĩ, tính toán phương án tốt nhất nhằm thoát khỏi mối đe dọa trước mắt.
    Chỉ còn cách thị xã ba kilqmét, Chị bất giác giật mình. Có hai tên lạ mặt mặc thường phục áp sát cạnh chị ra lệnh:
    - Tư Hạ, mấy đã bị bắt.
    Chị định vùng chạy nhưng bị chúng giữ lại. Chị giãy giụa:
    - Các ông là ai? Sao lại bắt người giữa đường trái phép thế này?
    Thằng nhiều tuổi hơn, mặt rỗ, thóc túi đưa cho chị xem giấy rồi gằn giọng:
    - Chúng tao là cảnh sát được lệnh bắt nữ Việt cộng nằm vùng Nguyễn Thị Hạ.
    Chúng dùng còng số tám định khóa tay chị lại. Một kế hoạch rất nhanh lướt qua óc chị. Chị hỏi chúng, giọng nhẹ . nhàng, ngọt lịm:
    -Mấy cậu xem giùm mấy giờ rồi?
    - Thiếu 10 phút đầy 11 giờ. Bà nội định ghi nhất ký ngày giờ bị bắt à?
    - Đầu phải. Tôi tính là bấy giờ đã trưa rồi, mấy cậu và tôi cũng dói bụng rồi. Mấy cậu hãy khoan còng tay tôi. Ta rẽ vào quán hủ tiếu, ăn vài tô đã.
    Thấy bọn chúng lưỡng lự, chị nói thêm:
    - Tôi ngồi giữa, hai cậu ngồi hai bện. Tôi không chạy đâu mà có chạy cũng không thoát khỏi tay hai cậu. Tôi bị bắt oan, trước sau ông trưởng ty cũng sẽ thả tôi thôi mà.
     Hai tên cảnh sát bằng lòng. Chị Tư Hạ sẵn sàng bao bọn chúng. Chị cần khoảng thời gian 50 phút nữa để chờ hai đứa con gái theo chị học ở thì xã, tan họe vào lúc 11 giờ 30. Chị hy vọng gặp chúng giữa đường, báo cho chúng tin chị bị bắt. Má chồng chị đã nghe chị kể về tên Trần Văn Tá. Chắc má sẽ biết cách thông báo cho anh Ba Kiên và các đồng chí đằng mình biết chuyện rủi ro đã ập đến với chị. Chị đã đạt được mục đích. Bước trên đường giữa hai tên cảnh sát nhưng chị không cảm thấy lo âu, thậm chí trong thâm tâm còn thấy sảng khoái vì vừa đánh lừa được địch Chị đã thắng chúng một hiệp.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 11:25:48 am
 Chị bước nhanh vào Ty cảnh sát. Tên Trần Văn Tá đã có mặt tại đây. Chắc chắn nó đã ton hót với quan thầy đủ mọi chuyện vế chị. Chị chờ đợi cuộc hỏi cung. Trên đường đi chị đã sắp đặt sẵn các câu trả lời, nhưng kẻ địch không hỏi chị nửa lời. Đích thân tên trưởng ty đã tát chị, đấm, đá túi bụi lên người chị. Chị không đỡ đòn, không một lời van xin. Sức chị yếu quá, chị không tài nào đỡ nổi những ngón đòn tới tấp giáng vào đầu, vào ngực, vào bụng, vào  lưng nhất là trong lúc hai tay chị đang bị còng. Chị cũng biết chẳng có lời cầu xin nào làm 'mủi lòng bầy rắn độc. Chị nghiến răng chịu đau. Ngón đòn phủ đầu nầy đối với chị thiệt là độc ác, độc ác đến kinh khủng. (Sau nầy, khi mấy mẹ con chị - trừ cháu Thiện, cháu Hiếu - đã nếm mùi tra tấn theo các nhà tù dưới thời Mỹ Thiệu, ôn lại trận đòn đầu tiên theo người đầu tiên trong gia đình bị tù, ai nấy đều cười khẩy, tỏ ý coi thường qua lời bình phẩm: Đòn sơ đẳng, đòn địa phương). Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, chưa có người nào đánh chị. Những lúc bình thường, chị không hình dung nổi chị sẽ chịu đựng cái tát theo người đàn ông như thế nào, nhưng giờ đây chị đã vượt qua trận đòn đầu tiên không có gì là khó khăn lắm. Tất nhiên, những ngày tiếp theo, chúng cũng sẽ không mời được bất kỳ tin tức gì ở chị. Có cái gì làm bằng chứng để khẳng định người ngồi trên xe lam hôm đó là đồng chí thành ủy viên Ba Kiên đâu? Không có lời cung khai, kẻ địch không thể đem chị ra xét xử.
    Nằm trong xà lim, chị ít quan tâm tới nỗi đau thể xác. Từ ngày chị chào đời, chưa ái đánh chị một cái tát, một ngọn roi nên đêm đầu ở trong trại giam, chị đã khóc, khóc cho riêng mình, khóc vì tủi thân. Sao trên đời lại có những kẻ vũ phu như vậy. Nó thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, thúc đầu gối vào mạng mỡ chị, giơ thẳng tay tát vào má rồi đấm giữa mặt chị. Chị không có gương soi. Chắc trên khuôn mặt nổi tiếng là thanh tú, duyên dáng theo chị còn hằn những vết ngón tay. Mắt chị thâm tím, miệng sưng, tóc bết máu, máu tứa ra ở lưng, ở ngực. Chị xuýt xoa vì đau đớn. Chị rùng mình nghĩ đến trận đòn ngày mai. Chị chợt nhớ đến anh. Anh đã nói với chị: ?Em như cây lau, cây sậy ở trên có sáu con chim non...? ổi, bảy đứa con theo chị. Bẩy Thiện và út Hiếu mới thôi bú được vài tháng. Chúng còn nhỏ quá. Ai sẽ săn sóc chúng? Chị phải làm sao xứng đáng với chồng, với các con? Chị phải làm sao để khi gặp lại anh, chị có thể tự hào ngẩng cao đầu gặp lại các con, chị xưng là Má mà không chút hổ thẹn. Nhớ đến chồng, con, chị quên hẳn nỗi đau thể xác Chị như được tiếp thêm luồng sinh khí để đủ nghị lực vượt qua mọi thử thách sẽ đến với chị. Những ngày đầu bị bắt, chị không muốn các con chị bị chia đần, xẻ nghé. Chị rất tin Mỹ Lê. Con nhỏ tháo vát, đủ tài quán xuyến việc nhà. Chị không ngờ là chị bị giam quá lâu và chưa dự kiến tới chuyện Mỹ Hòa gặp nạn, hai đứa con út lâm bệnh. Chị nói với Mỹ Lê :
    - Con thưa với gia đình là má ủy quyền quyết định cho Nội, Ngoại.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 11:28:01 am
4

     Giám đốc Dương Văn Đấu bóc tờ lịch ngày 20 tháng 7 năm 1956. Anh không vò tờ lịch ném vào sọt rác như thường lệ mà trải tờ giấy nhỏ xíu lên mặt bàn. Thế là ngày Tổng tuyển cử theo quy định theo hiệp nghị Giơnevơ đã qua rồi. Là cán bộ lãnh đạo, anh được phổ biến tình hình địch, hiểu rõ bản chất ngoan cố, xảo quyệt, lật lọng theo Ngô Đình Diệm song không hiểu sao anh còn nuôi chút hy vọng, đù đó chỉ là một phần mỏng manh. Lý trí đã giúp anh kết luận chính xác về kẻ thù, còn tình cảm đã níu kéo anh lại. Anh nhớ vợ, nhớ con vô cùng. Anh không rõ vợ anh sinh con trai hãy con gái? Anh cám ơn trời, phật đã run rủi cho anh có được chị. Anh lấy tấm ảnh hai vợ chồng chụp sau ngày cưới ra ngắm. Chị đẹp quá, duyên dáng quá. Chị kẹp tóc buông sau lưng, khuôn mặt tròn bầu bĩnh với dáng e ấp, ngây thơ như một nữ sinh trung học, sao chị làm nổi bao việc lớn cho gia đình họ Dương? Bây giờ chị đang ở đâu? Ở trong căn nhà riêng theo anh chị hay vế sống với Ngoại, với Nội? Má anh đã 70 tuổi rồi. Nhớ lại lần đầu má chồng nàng dâu gặp nhau, má đã đối xử bất bình thường với chị song chỉ không giận má mà cứ lăn xả vào chiếu chuộng, hầu hạ má. Má không ghét nàng dâu mà lại cưng chị, yêu chị hơn cả con cái.    Ngày đó, anh đâu dám kết luận là má sai, má trái. Vợ anh, người biết nấu hàng trăm món ăn khác nhau, người được mời lên thực đơn, nấu nướng phục vụ khách sang trọng trong các bữa tiệc lớn, lẽ nào lại thua một bà già nông thôn chỉ quen chém to, kho mặn? Chị rất tốt nhịn. ôi, nếu anh vớ phải một tiểu thư tỉnh thành đài các thì sao? Nếu cô ta vùng lên, cãi lại má chồng, khinh rẻ bà già thôn quê mù chữ thì mọi việc sẽ ra sao? Anh cám ơn chị. Chị đã nói với anh:
    - Má đúng. Bất kỳ ai có tiền đều thích chặt đầu, chặt đuôi bóc vỏ tôm he rồi tầm bột rán, nhưng má chúng ta và mọi người nghèo đều muốn rang tôm thật mặn đề đỡ tốn. Em thất bại bước đầu vì nhập gia mà không tùy tục.
    Trong ba tháng theo năm 1942, chị sống với má anh ở vùng quê Gò Công nghèo khổ, anh lo lắm. Sức chị mảnh mai quá, chị làm sao có thể đi bộ, gánh nước, cuốc đất, dọn vườn? Anh không ngờ là chị đã làm được tất cả. Chị trở thành người lao động giỏi. Chị còn nói với anh:
    - Vì yêu anh, em đã chiến thắng tất cả. Cứ nghĩ đến khi gặp lại anh là em có đủ nghị lực làm mọi việc để anh vui lòng.
    Anh nhớ chị da diết. Biết bao giờ anh mới gặp lại vợ và các con? Anh nhớ đứa nào hơn cả? Anh đâu thể phân biệt được Mỹ Lê đã lớn, gắn bó với anh nhiều hơn, đã từng là giao liên bí mật, lại có năng khiếu âm nhạc nhưng Mỹ Hòa lại nhí nhảnh hơn, hóm hỉnh và hay triết lý. Tư Linh là con trai đầu lòng, giống anh như hai giọt nước nên cu cậu được cả họ thương yêu. Chả biết khi lớn lên, tính tình nó có y hệt ba không Thằng Ba Vĩ, Mười Tuân chỉ hơn nhau có một tuổi, giống như trứng gà, trứng vịt nhưng thằng em có vẻ khôi ngô hơn, mũm mĩm hơn, thằng em có tạng người theo ba, khuôn mặt tròn, đầy đặn theo má, còn thằng anh chững chạc hơn, khôn trước tuổi cười rất tươi. Chao ôi, sao anh không phải là họa sĩ. Nếu anh biết vẽ, anh sẽ phác họa chân dung vợ và năm đứa con mà anh rất đỗi yêu thương thật sống động, có hồn.
    Anh Bẩy Đấu gấp tờ lịch đề ngày 20 tháng 7 năm 1956 vào ví Công việc theo giám đốc mỏ đang chờ đợi anh, nó buộc anh phải tự cắt đứt dòng mơ tưởng đến vợ con. Tối này, anh lại trằn trọc không ngủ được. Hình như có hai con người phen lẫn trong anh: Giám đốc Dương Văn Đấu theo "ngày Bắc" và anh Bẩy Đấu theo "đêm Nam".


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 11:30:35 am
5

    - Lê! Mỹ Lê!
    - Ai vậy?
    - Má đây. Mở cửa cho má, con?
    Mỹ Hòa choàng dậy. Không chờ chị châm đèn, cô nhảy ba bướt ra mở then cửa. Trong bóng đêm, cô ôm chầm lấy má. Cô hỏi dồn dập:
    - Má mới vế à? Má vượt ngục phải không, má? Má ăn cơm chưa? Con đi nấu cơm cho má nghe?
    Khác với em gái, Mỹ Lê điềm đạm hơn. Cô thắp đèn, đứng lặng nhìn má :
    - Má ốm quá! Má có bịnh không, má?
    Chị Tư Hạ nhìn quanh.
    -Mấy đứa nhỏ đâu hết rồi?
    Đoán được ý mẹ, Mỹ Lệ kể lại mọi chuyện trong nhà. Một tháng trôi qua sau ngày Mỹ Hòa gặp tai nạn, các em bị ốm, Ba Vĩ lại bị bệnh bạch hầu, Mỹ Lê dồn hết tiến mua thuốc đến mức không tài nào kiếm đủ tiền mua gạo nuôi các em. Nghe lời khuyên theo hàng xóm, cô định bán dần đồ đạc trong nhà để có tiền nhưng hai bà đã kịp ngăn Lê lại:
    -Con gởi mấy em cho bà. Nội nhận nuôi thằng Nhất, Ngoại, cậu Tư và dì Năm nuôi thằng Thiện, con Hiếu, dì Bẩy nuôi thằng Linh, còn cậu Hai nuôi thằng Quảng. Con nuôi em Hòa và kèm cho em học.
    Mỹ Lê không muốn chia tay các em nhưng còn có cách giải quyết nào hay hơn đâu? Về phần mình, cô cũng nuôi một đứa em, cô còn có trách nhiệm kèm Hòa học.
    Cô khoe với má:
    - Mỹ Hòa học giỏi lắm, tháng não cũng được xếp thứ nhất hoặc thứ nhì.
    Hòa không quan tâm lắm đến lời chị khen. Cô còn hàng trăm câu muốn hỏi má: Má có bị cùm kẹp, tra tấn trong tù không? Tụi nó hỏi cung má thế nào? Mỗi ngày, người tù ăn mấy bữa cơm? Hàng ngày má làm những gì? Má có đọc sách báo không ? Làm thế nào để phân biệt người mình và tụi nó ở trong tù v.v... Cô luồn tay vào trong áo sờ lưng má: Chao ôi, má gầy quá? Cô còn lần đếm đủ mọi chiếc xương sườn theo má.
    Chị Tư Hạ ngồi giữa hai đứa con. Các con chị lớn rồi. Mỹ Lê tuy vẫn còn gáy còm, nhỏ nhoi nhưng từ cách đi đứng ăn nói đã ra dáng "bà chủ" trong gia đình. Mỹ Hòa, đậm người hơn, khỏe mạnh và sôi nổi hơn. Không hiểu mấy đứa nhỏ ra sao rối? Bây giờ, chị phải thu xếp việc nhà như thế nào? Lại còn công tác nữa chứ. Chị lựa chiều dò hỏi Mỹ Lê. Từ hơn một năm nay, Lê không gặp các chú, các bác. Trước chính sách khủng bố trắng theo Ngô Đình Diệm, không hiểu các anh, ai còn, ai mất, và đã lưu lạc những đâu rồi? Những ngày trước mắt, chị hãy lo thu xếp việc nhà đã Trước hết hãy xin cho Mỹ Lê đi học. Nó bỏ học hai năm rồi nhưng con nhỏ vốn thông minh, ham học, chắc sẽ đuổi kịp bạn bè. Con Mỹ Hòa thì khỏi lo. Nó vô tư, hiếu động, sáng dạ và biết vâng lời người lớn. Con nhỏ ưng làm cách mạng như ba lắm. Nó rất căm ghét lính ngụy, cảnh sát ngụy: Chính bọn này đã bắt má nó và ngày đêm ra sức.lùng sục bắt bớ, bắn giết các cán bộ cách mạng. Đây là những dấu hiệu đáng mừng theo các con. Tiếc rằng chị không có địa chỉ theo anh, không có điều kiện liên lạc với anh. Năm năm đằng đẵng xa anh, chị chỉ nhận vẻn vẹn được mấy dòng bưu thiếp ?Ba công tác ở mỏ than Cẩm Phả. Ba theo học hàm thụ, mới tốt nghiệp kỹ sư...?. Những dòng tin ngắn ngủi theo người đi xa có sức cổ vũ đàn con khá lớn. Chúng đua nhau tưởng tượng ra đủ mọi điều kỳ lạ về ba theo chúng: Ba điếu khiển lò luyện thép. Ba làm ra súng, đạn, xe tăng, máy bay, … rồi ba mang những thứ đó về quê đánh Ngô Đình Diệm như chín năm chống Pháp. Dù sao cái bằng kỹ sư theo ba đã thôi thúc đàn con học tập. . Đứa nào cũng mong nhận được bằng kỹ sư như ba. Lũ nhỏ nhớ ba lắm. Bốn đứa nhỏ nhất: thằng Nhất, thằng Quảng và đặc biệt là thằng Thiện, con Hiếu khi sinh ra không thấy mặt ba nhưng đứa nào cũng kể về ba theo mình với vẻ tự hào, quý trọng. Chị mừng lắm. Hãy để hình ảnh theo anh, hình ảnh một người cộng .sản khắc đậm trong tâm khảm các con. Chưa bao giờ chị than thở . vì vắng anh trước mặt các con. Chị nghiệm rằng các con tôn trọng, quý mến cha, chủ yếu là do sự giáo dục, vun đắp tình cảm theo người mẹ . Chị vẫn kể cho các con nghe những đức tính tết theo anh Bầy Đấu, chồng chị. Anh sinh năm 1918, hơn chị 5 tuổi. Anh học rất giỏi và viết chữ đẹp lắm. Năm chị 17 tuổi anh đã là kỹ thuật họa đồ theo nhà máy Pha-xi...
    Chị nói với Mỹ Lê, Mỹ Hòa:
    - Ngày mai hai đứa đi đón các em và báo tin cho Nội, Ngoại là má đã về.
    - Dạ.
    Thời gian trôi qua thật nhanh chóng. Theo quy định theo ngụy quyền, mỗi tuần một lần , chị Tư Hạ phải lên quận cảnh sát trình diện. Chị muốn. chống đối lại, nhưng cách tiến hành như thế nào? Làm đơn khiếu nại hay viện cớ ốm đau đều không nên. Điếu cần thiết là phải chịu nhẫn nhục, phải làm cho kẻ địch ngờ là chị rất sợ chúng, chịu chấp hành kỷ luật do chúng quy định. Muốn bắt được mồi, con thú thường thu mình, quặp vuốt lại, tại sao chị không biết  náu mình chờ cơ hội? Có một điều khổ tâm là chị không gặp một đảng viên nào trong thị xã Gò Công. Chắc chắn là tổ chức Đảng vẫn còn nhưng các anh chưa tìm đến chị. Như đã giao ước trước, chị cố tạo cho mình có thế hợp pháp, được đi lại tự do trong lòng địch, có giấy căn cước do địch cấp.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 11:32:48 am
6

    Tháng 10 năm 1959, Ngô Đình Diệm tung ra đạo 1 luật phát xít: lê máy chém đến các địa phương, chặt đầu những đảng viên cộng sán, không cần đến sự xét xử theo tòa án. Nên đối phó với tình hình nầy như thế nào? Chị Tư không biết xin chỉ thị theo ai. Theo lời khuyên theo NổI, chị tìm lên Sài Gòn với mục đích bắt liên lạc. Chị đến nhà chị Lệ ở cư xá Hùng Vương. Vợ chồng chị Lệ đều là công nhân hỏa xa. Đón được ý khách, chị Lệ dẫn chị Tư đến một địa chỉ liên lạc. Chị Tư Hạ rcó lên sung sướng:
    - Anh Sáu!
    - Chị Bẩy (gọi theo chồng).
    Anh Sáu Dĩ là tỉnh ủy viên tỉnh Gò Công, bạn rất thân với anh Bẩy Đấu. Sau khi nghe chị trình bày, anh Sáu Dĩ quyết định:
    - Chị bị lộ rồi không hoạt động ở Gò Công được nữa. Kẻ định đang khống chế chị. Chị nên tìm cách chuyển địa bàn lên Sài Gòn, nhưng  tuyệt đối không để lại tí dấu vết gì để kẻ địch có thể lần ra tung tích. Chị lo chuyển hai cháu lớn lên theo, gài các cháu vào các trường đại học để nắm phong trào học sinh, sinh viên.
Chị Tư Hạ nhất nhất vâng lời. Chị hối hả trở lại Gò Công thu xếp lên Sài Gòn ngay. Đường dây liên lạc đã được chắp nối, nhất định chị phải trở lại hoạt động, chị phải dìu dắt đàn con đi theo con đường mà cha mẹ chúng
    Mỹ Lê, Mỹ Hòa lên Sài Gòn. Bác Sáu Dĩ gửi Mỹ Lê vào trường tư thục Nguyễn Bá Tòng. Đây là trường do các cha cố theo đạo Thiên chúa đỡ đầu nên số đông học sinh ở đây không thuần vì chúng sinh trưởng trong những gia đình có nợ máu với cách mạng. Trường Đức Trì mà Mỹ Hòa theo học thuần hơn. Nhờ biết sống tự lập từ nhỏ, hai cô nhận may, thêu, nhận dạy tư kèm riêng cho trẻ em con nhà khá giả học để kiếm đủ tiền sinh nhai và trả tiền học phí. Chị Tư Hạ sống chung với Mỹ Hòa. Chị tính toán từng đường đi, nước bước. Chỉ luôn tự đặt cho mình câu hởi: ?Chị lên Sài Gòn để làm gì??. Chị không cần làm giàu nhưng chị phải kiếm đủ tiễn tự nuôi thân, nuôi Mỹ Hòa, Mỹ Lê và còn dư dật đôi chút gửi về quê phụ giúp Nội, Ngoại, các cô, các đì đang chàm sóc năm đứa nhỏ. Chị chưa liên lạc với cơ sở đảng theo Sài Gòn đước. Anh Sáu Dĩ cũng chưa có đầu mối nào bàn giao cho chị. Chị làm gì bây giờ? Chị phải lo náu mình. Với chính quyền Ngô Đình Diệm, chị là nhân vật có tiến án, tên tuổi chi ?được? lưu giữ trong sổ đen theo cảnh sát Gò Công rồi. Chị phải làm sao biến khỏi Gò Công không để địch dò ra dấu vết. Vốn sinh trưởng và lớn lên ở Sài Gòn nên chị không lạ gì cái thành phố mà bọn ngụy chọn làm thủ đô . Chị có hàng trăm cách kiếm sống khác nhau. Chị chọn nghề gì để mai danh ẩn tích? Trước hết, chị đã đổi tên Tư Hạ thành Sáu Hoàn. Chị phải nhẩm sẵn trong đầu cái sơ yếu lý lịch mà chị mời khoác cho mình để làm sao có thể đánh lừa nổi bộ máy kìm kẹp theo ngụy quyền, các liên gia trưởng, khóm trưởng. Chị phải khai tuổi nhiều hơn, quê khác đi. Trong tờ khai theo chị không dính líu chút gì đến ba, má chị hoặc các cô, dì, chú; bác đôi bên nội ngoại tại Gò Công. Nỗi đau lớn nhất theo chị là lời khai về người chồng. Chị muốn gắn tên ánh Bẩy Đấu với đời chị ở mọi lúc, mọi nơi, song điếu đó không thể được. Chấp kinh phải tòng quyền thôi. Chị sẽ khai là anh chết rồi . Phỉ thui ! Chị không mê tín song chị không định gán điềm gở cho anh. Vậy thì anh làm nghề gì? Anh đi đâu? Anh đi buôn? Anh dạy học? Anh đi lính ngụy? Nếu vậy anh đang ở dâu? Đỉa chỉ theo anh như thế nào? Tại sao anh không về nhà hoặc không có thư từ gì? Chị sẽ lý giải điều này với hàng xóm láng giềng ra sao? Cách nói dối như thế nào sẽ thích hợp nhất, không có kẽ hở nào? A phải rồi, chị sê kể về cuộc đời mình liên quan đến anh. Chị nghèo khổ quá, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, không rõ quê quán và chả còn ai là anh chị em ruột. Chị đi ở để kiếm miếng cơm tự nuôi thân. Chị gặp anh. Anh nói quê anh ở Bến Tre nhưng chị chưa về quê chồng lần nào. Anh đi buôn chuyến. Sau mỗi chuyến đi buôn xa về, anh lai đến với chị, cho chị ít tiền, sống chung với chị năm bữa nửa tháng rồi lại ra đi. Từ sau ngày sinh Mỹ Hòa (vì chị giấu được có năm con còn nhỏ ở quê), anh bỏ đi biệt tăm. Có người gặp anh ở Buôn Ma Thuộc. Nghe tin anh có vợ nhỏ anh bỏ vợ, bỏ con nên chị đã cùng Mỹ Lê đến Buôn Ma Thuộc tìm chồng, tìm ba (vì sau ngày cưới năm 1947, chị đã theo anh lên đồn điền cao su nên chị khá rành về thị xã này. Chị kể vế đường đi cùng phong cảnh, nhà, chợ theo thị xã rất đúng).


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 11:36:59 am
    Màn kịch như vậy là đã dàn dựng xong. Vì hai con gái chị đều mang họ Dương nên chị phải bịa ra tên anh là Bẩy Dương. Chị không đem theo ảnh anh bên mình. Chị cũng đành phải gửi ảnh những đứa nhỏ ở quê nhà. Chị bàn với Mỹ Lê, Mỹ Hòa:
    - Má tính lo nấu cơm tháng cho sinh viên, các con chịu không?
    - Nghề đó vất vả lắm, con e má chịu cực không nổi.
    - Cực mấy má cũng chịu được. Má lo sao để có giấy căn cước theo Sài Gòn cấp.
    Mỹ Hòa bàn:
    - Chị Hai học trung học nên ít có thời gian rảnh rỗi, con sẽ phụ giúp má.
    Mỹ Hòa đã 15 tuổi nhưng vì cô là con nhà nghèo, ở nông thôn nên cô không để ý tới đua đòi, ăn diện. Trong hành trang theo cô đưa từ Gò Công lên Sài Gòn không có một thỏi son, một hộp phấn. Cô chỉ có ba bộ quần áo màu sẫm.. Tất cả con gái quê cô đều không dám mặc màu trắng. Đất quê cô rất ?mến khách?, thường có những dải bụi mù vào mùa khô và bùn lầy nhớp nhúa trong mùa mưa bám vào quần áo khách. Cô luôn nhớ chuyện má kể về ngày đầu tiên má về làm dâu đất Gò Công: cả Nội và mấy cô đều đi chân đất. Má ngạc nhiên lắm: Má sống ở thành phố, má rết ngại đi chân đất sẽ giẫm phải phân trâu bò , dính mảnh chai, mảnh sành, vấp đá hoặc gai nhọn nhưng sau vài tháng sống ở quê , má cũng không cần đến guốc dép khi trời mưa. Mỹ Hòa cũng thích đi chân đất. ở tuổi cô nhiều người con gái khác đã nghĩ đến trang điểm, đến làm dáng, đến tìm bạn trai, còn cô chi lo học, lo giúp má săn sóc các em. Cô nài nỉ má:
    - Má? Má ưng cho con phụ giúp không. Con là học sinh tiểu học nên có giờ rảnh rỗi.
    Chị Sáu lắc đầu:
    - Má đâu thích mở quán cơm. Má chỉ nhận nấu cơm tháng cho sinh viên thôi. Má dư sức phục vụ 20 suất ăn mỗi ngày kêm theo hai suất miễn phí cho con và Mỹ Lê . Chỉ cần các con học giỏi là má vui rồi.
    Mỹ Hòa thay đổi chiến thuật:
    - Má không muốn con gái má giỏi nội trợ sao? Dạy con đi chợ, nấu các món ăn mà má không ưng sao?
    Má cười:
    - Điều đó má cho phép. Tan học về, con xuống bếp má sẽ hướng dẫn cho con.
    Mỹ Hòa vui lắm. Thế là ý nguyện theo cô đã đạt được rồi. ở nhà bếp có trăm công, ngàn việc không tên, cô lo giành phần việc nặng nhất cho mình. Từ trường về, Mỹ Hòa cất cặp sách vào nơi quy định, trcó cái áo hoa mới lên mắc áo, ?diện? quần đen, áo xanh cộc tay rồi sà đến bên má:
    - Má! Con đi gánh nước nghe, má.
    - Nhớ đừng gây lộn với người ta nghe, con.
    - Dạ!
    Mỹ Hòa vấn cao ống quần, quẩy đôi thùng, hối hả chạy ra vòi nước công cộng. Cô không tranh giành với ai nhưng đừng hòng ai bắt nạt được cô. Cô không tự giới thiệu nhưng những ai thường có mặt bên vòi nước đều biết cô là học sinh tiểu học, cô học rất giỏi, luôn đứng đầu lớp. Các cô sen, cậu bồi hoặc những người đi gánh nước thuê luôn vị nể cô, không gây gổ với cô. Mỹ Hòa gánh đôi thùng đầy nước, chạy thoăn thoắt trên đường. Mấy đứa bạn cùng lớp chặn Hòa lại:
    - Nè, bồ! Chủ nhật tới, tụi này tính đi lên vườn quả Lái Thiêu Bồ có nhập bọn không?
    Mỹ Hòa lắc đầu:
    - Các bạn thông cảm giùm. Mình cần phụ giúp má.
    - Mày đã tới Lái Thiêu lần nào chưa, Mỹ Hòa?
    - Chưa.
    - Uống quá. Đây là thiên đường nơi hạ giới đó. Mày đến Lái Thiêu sẽ có cảm giác như được lọt vào vườn Thượng uyển. Có vài chục loại trái cây ngon nhất nước ta. Chủ vườn cho phép khách tự do lựa chọn, ăn tại chỗ bao nhiêu tùy thích khỏi phải trả tiền. Mày chớ bỏ qua cơ hội hiếm có này.
    Mỹ Hòa không biết nên giải thích với các bạn như thế nào. Các bạn cô, nếu không phải con nhà giàu thì cũng thuộc nhà có bát ăn, bát để nên khó ai thông cảm cảnh nghèo theo má con cô. Cô thương má quá. Má đâu chỉ kiếm tiền cho ba má con cô sống mà còn phải dôi ra chút đỉnh gửi vế quê cho năm đứa em nhỏ. Mỹ Hòa đặt gánh nước xuống. Một cô bạn gái cùng lớp đến bên Hòa.
    - Cho mình thử một chút, được không?
    - Đố cậu gánh nổi đó.
    Cô bạn đặt đòn gánh lên đôi vai thờ, mắm môi mím lợi, cố hết sức vẫn không nâng nổi đôi thùng rời khỏi mặt đất. Tất cả các bạn khác theo Hòa đều thử sức nhưng không ai thành công. Đôi thùng, mỗi bên chứa được 20 lít nước, sao mà nặng quá như vậy. Anh bạn trai cao hơn Mỹ Hòa một cái đầu đã nâng nổi gánh nước, bước đi loạng choạng. Anh đặt gánh xuống, thở hổn hển. Mỹ Hòa cười. Cô an ủi các bạn:
    - Gánh nước không khó đâu. Hòa làm được vì Hòa tập lao động từ nhỏ. Chào các bạn nghe.
    Sau năm chuyến gánh nước đổ đầy bể, Mỹ Hòa xoay sang chẻ củi. Những thanh củi to như bắp đùi đều bị khuất phục trước đôi tay theo Mỹ Hòa. Không cần hỗ trợ, Mỹ Hòa cầm dao tay trái, cầm chầy tay phải dang thẳng cánh, đập những nhát chầy chắc nịch vào sống dao. Có mấy cậu sinh viên ăn cơm tháng theo má ngỏ ý thương hại Hòa.
    - Em đưa chầy đây, anh đập cho.
    - Không dễ xài đâu, mấy anh.
    - Con nhỏ này dám coi thường tụi tao vậy sao? Mày đưa dao đây.
    - Nè, đập đi.
    Hòa đứng dậy nhường phắn việc cho mấy anh. Cô đưa ống tay áo quệt mồ hôi, vuốt những sợi tóc đang lòa xòa trước mặt. Bàn tay lấm bụi theo cô tạo nên mấy vết nhọ, bẩn trên má. Mấy anh sinh viên thì thào với nhau:
    - Xem kìa, con bé lọ lem.
    Mỹ Hòa cười hồn nhiên. Cô chả hề mắc cỡ và cũng không giận mấy anh. Cô cũng chả rõ ai đã gán cho cô cái mỹ hiệu "cô bé lọ lem". Điều đó chả hề gì. Cô lao động nặng nên phải đổ nhiều mồ hôi, dùng tay bẩn quệt sẽ có ' vết nhọ ngang, dọc trên mặt. Điều đó khó tránh khỏi nên cô phớt lờ mọi lời trêu chọc. Cô chả có tình ý với bất cứ anh sinh viên nào. Cô tự xem mình như em út nên cô đối xử với các cỡ anh Hai, anh Ba rất tự nhiên, không giữ kẽ. Cô tuyên bố:
    - Mấy anh coi thường, rủi có ai bị thương đừng đổ tội cho con nhỏ này.
    - Mấy anh chỉ bắt chị Hai em thường thôi.
    Mỹ Lê sấp sang tuổi 20. Khác hẳn với em gái, cô có khuôn mặt thanh tú, nước da trắng, nụ cười rất tươi và đặc biệt là đôi mắt đen nháy, tinh nhanh, linh lợi. Không một ai dám đoán Mỹ Lê là cô gái quê ra tỉnh, kể cả khi cô kể về mình. Nhiều sinh viên đã buông lời tán tỉnh Mỹ Lê, cố tìm cách lấy lòng Mỹ Hòa và má Sáu song chưa ai đến gần được mục tiêu. Mỹ Hòa hiểu lòng chị .Hai theo mình. Trong số bảy chị em, chị Hai gần ba nhất, đã từng cộng tác với ba, làm giao liên bí mật cho ba nên chị Hai không thả lỏng mình, không ưng ý bất cứ ai không cùng lý tưởng với ba má, với gia đình họ Dương. Chị Hai lánh xa mọi sinh viên con nhà giàu, chị cũng giữ một khoảng cách nhất định với các công tử con ông, cháu cha. Chị không hoàn toàn lạnh nhạt với họ. Ba má họ, chú bác họ đang nắm quyền cao chức trọng, đang đầy rẫy quyền lực, nên chị phải dè chừng.
    Mỹ Hòa luôn tự hào về chị. Chị Hai xinh đẹp, chị Hai thông minh, chị Hai học giỏi. Với cô, chị Hai là thần tượng, là người thân thiết nhất, tin yêu nhất. Cô không để cho chị Hai đụng vào bất cứ việc nặng nhọc nào, mặc dù chị Hai đã cùng với cô lớn lên ở vùng quê Gò Công, chị lao động còn thành thạo hơn cô. Cô dưa lời thách thức mấy anh:
    - Anh nào chẻ củi giỏi hơn em, em sẽ nhận là anh rể.
    - Chu cha! Mấy nàng công chúa kén chồng thuở xưa đưa ra diều kiện ?Ai múa kiếm giỏi, bắn tên nỏ bách phát bách trúng hồng tâm sẽ được chọn làm phò mã? còn Mỹ Hòa thì...
    - Ôi cái thằng này. được Mỹ Hòa nhận làm anh rể hỏi còn có phần thưởng nào xứng đáng hơn? Nào, đập đi, mày.
    Anh chàng cầm chầy đập không đúng chỗ nên cây củi văng ra xa, lưỡi dao cắm phập xuống đất. Mỹ Hòa cười khanh khách. Hai ông anh ngượng nghịu bảo nhau làm lại, người nọ đổi phần việc cho người kia. Khi chiếc chầy vừa hạ xuống thì cán dao lại bật ngược lên khiến cả hai chàng trai - dù không muốn cũng buông dao buông chầy, ôm bàn tay, xuýt xoa vì đau. Mỹ Hòa muốn giữ thể diện cho mấy anh nên đã lựa lời an ủi :
    - Em quen tay thôi mà. Mấy anh có nghe chuyện ?Hoàng đế và ông lão bán dầu? không?
    - Chưa. Kể anh nghe đi, cưng.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 11:41:17 am
    Mỹ Hòa kể chuyện rất hồn nhiên: "Ngày xửa, ngày xưa có vị hoàng đế luôn tự hào vế tài thiện xạ theo mình, thấy đàn chìm nhạn đang bay tít trên trời cao, nhà vua giương nỏ, hướng vế phía quần thần, phán:
    - Trẫm bắn con nhạn thứ ba.
    Vua buông cung. Mũi tên bay vút đi và con nhạn rơi xuống. Các quan đều hết sức thán phục tài thần tiễn theo đức vua. Trong mọi cuộc thi bắn, hoàng đế luôn giật giải quán quân. Hôm đó, vua cùng văn võ bá quan và sứ thần theo nhiều nước hào hứng dự cuộc thi tài bắn nỏ. Đức vua bắn cuối cùng. Không một ai bắn giỏi bằng hoàng đế: mũi tên thứ nhất trúng hồng tâm, mũi tên thứ hai ngậm đuôi mũi thứ nhất và mũi thứ ba lại cắm ngập vào mũi thứ hai. Quần thần quỳ xuống tung hô vạn tuế, chúc tụng nhà vua. Nhà vua rất bất bình vì thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, tỏ vẻ rất thờ ơ trước tài năng xuất chúng theo Người. Hoàng đế cho mời ông lão lại gần, hỏi:
    - Nhà ngươi có trông thấy ta bắn không?
    - Tâu bệ hạ, thần đã được chiêm ngưỡng.
    - Ta bắn thế nào ?
    - Giỏi.
    - Nhà ngươi có thể hơn ta chăng?
    - Tâu bệ hạ, thần không làm được việc đó.
    - Vậy sao nhà ngươi không chúc tụng ta?
    - Theo ý thần, đó chỉ là thói quen thôi.
    Nhà vua tức quá. Tại sao một ông lão quê mùa lại dám coi thường tài năng siêu việt theo Người? Hoàng đế trao chiếc cung theo minh kèm theo ba mũi tên cho ỏng lão, ra lệnh:
    - Ta cho phép nhà ngươi tiến gần thêm năm bước. Nếu ngươi bắn ba phát trúng hồng tâm, ta sẽ thưởng cho trăm nén vàng. Nên nhớ, nếu không có mũi tên nào trúng đích, đầu nhà ngươi sẽ rời khỏi cổ.
    Ông lão điềm tĩnh, lấy trong túi ra đồng tiền cổ.
    - Tâu bệ hạ. Vòng hồng tâm kia to hơn đồng tiền mấy lần?
    Nhà vua không giấu được vẻ giận dữ:
    - Nhà ngươi không trông thấy sao? Đồng tiến này nhỏ hơn cái vòng kia vài chục lần. Nhà ngươi định bắn vào đồng tiền?
    - Tâu bệ hạ, vào cái lỗ theo đồng tiền này. Hoàng đế sửng sốt: Này ông lão ông có biết là đang trò chuyện với ai không?
    - Thần biết ngài là Đức Vua.
    - Ta có quyền chém đầu ngươi, nếu ngươi không làm đúng điếu cam kết.
    - Tâu bệ hạ. Thần làm nghề bán dầu từ 50 năm qua. Thần có một tài mọn mà thần tin rằng không riêng bệ hạ mà các văn võ bá quan đang có mặt cùng các sứ thần đều không ai làm được như thần. Nếu ai hơn thần, thần xin chịu chém đầu.
    Ông lão để đồng tiến lên miệng chai, cầm gáo dầu đưa lên cho rồi rót. Kỳ lạ thay,?sợi chỉ? dầu chui qua lỗ đồng tiền rất gọn và chính xác. Hoàng đế vốn là người nhân từ, biết phục thiện đã cầm lấy đồng tiền, không dính tý dầu nào, trên miệng chai, nói với người bán dầu:
    - Cám ơn ông lão. Nhà ngươi đã dạy cho ta bài học. Ta sẽ giữ đồng tiền này làm kỷ niệm và tặng ngươi cung vàng và những mũi tên bằng bạc theo ta.
    Ông lão bán dầu đỡ lấy cung tên, cúi đầu chào nhà vua rồi ung dung quầy gánh dầu lững thững đi."
    - Hoan hô Mỹ Hòa!
    Mỹ Hòa reo to “Chị Hai!” rồi chạy về phía Mỹ Lê, định ôm lấy chị nhưng chợt nhớ đôi tay mình đang bẩn, cô đứng lại:
    - Chị về hồi nào vậy? Sao chị không tin trước cho em hãy.  
    Mỹ Lê kéo em gái về phía mình, vòng đôi tay qua người em, rút mùi soa lau những vết bẩn trên mặt em.
    - Ôi cô bé lọ lem theo chị? Má đâu rồi em?
    - Má đi chợ. Mấy anh này cứ chọc quê em hoài.
    - Đâu có cô Hai. Vì Mỹ Hòa không phải là công chúa nên tụi tôi. . .
    Mỹ Lê xua tay:
    - Tôi nghe hết mọi chuyện rồi. Mỹ Hòa nói đúng. Việc gánh nước, bổ củi theo chị em tôi chỉ là thói quen. Mỹ Lê cầm rìu bổ một nhát chẻ đôi gốc củi. Cô quăng rìu sang một bên, hướng về phía những thanh niên mà cô quen biết:
    - Chị em tôi không thể lái xe gắn máy thạo như anh Năm, và càng không sao điếu khiển ôtô giỏi như anh Hai.
    Người được nhắc đến tên lên tiếng:
    - Lái ôtô dễ ợt mà. Chủ nhật nây, tôi mời cô Hai và Mỹ Hòa đi Cấp. Trên đường đi, tôi sẽ hướng dẫn cô Hai lái xe. Tôi tin là cô sẽ lái tốt sau nửa giờ nghe lên lớp và thực hành.
    - Cảm ơn anh. Tôi chưa dám nghĩ là mình được mời nên chưa kịp sắm bộ đồ tắm để hưởng thú vin vùng vẫy ở bãi biền Vũng Tàu.
    - Nếu được cô Hai cho phép, tôi xin quỳ xuống, dừng hai tay dâng lên cô Hai và tặng Mỹ Hòa bất cứ bộ đồ tắm nào mà chị em cô ưng thích.
    Mỹ Hòa lắc đầu quầy quậy:
    - Em chả mặc áo tắm đâu, mắc cỡ lắm.
    - Ôi cái con nhỏ này. Mặt em có ngày nào không lọ lem, sao em không mắc cỡ? Da em trắng, anh chọn cho em bộ màu đỏ tươi hoặc màu xanh da trời sẽ rất đẹp. Em chịu không?
    - Không. Em không biết bơi.
    - Anh sẽ dạy. Cô Hai cô nhận lời chớ.
    - Rất tiếc là tôi rất bận. Mỹ Hòa, em nói là chí cần gặp má vào 7 giờ tối nay. Chào mấy anh. Chị về nghe em!
    - Dạ!
    - Chào cô Hai? Au revoir - Tái kiến. Hẹn gặp lại. Bai bai ?


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 11:44:59 am
    Mỹ Lê không sống chung cứng má và em gái. Mỹ Hòa không hài lòng lắm. Tại sao chị Hai không chịu khó đạp xe về ?nhà? Vì sao chị Hai không chọn trường tư thục trung học khác ở gần ?nhà? hơn? Đã có lần Mỹ Hòa bàn với má: Má và con đến ở chung với chị Hai. Ở đâu có sinh viên, ở đó cần người nấu cơm tháng, má khỏi lo. Cả má và chị Hai chỉ ậm ừ nhưng không ai sốt sắng chiều theo ý Mỹ Hòa. Hòa đâu biết là má và chị Hai đang có ?âm mưu?. Vào đầu năm 1961 , má thì thầm với Mỹ Lê :
    - Má lo quá. Má sẽ ăn nói ra sao với ba theo con nếu má con ta không tham gia công tác cách mạng. Mấy bác, mấy cô ở Gò Công lên Sài Gòn đều đang náu mình, chưa ai nối được liên lạc với tổ chức Đảng. Con tính sao?
    - Má à? Con tin là ở trường con có cơ sở Đảng. Má con ta cùng đi tìm. Nếu con gặp trước, con sẽ thông báo ngay cho má .
    - Nếu vậy, má sẽ phải bỏ tuổi đảng cũ à? Mất 12 năm công tác, má tiếc lắm.
    - Thôi bỏ đi má à! Má là đảng viên theo Gò Công, mà lên Sài Gòn theo lời khuyên theo bác Sáu Dĩ trên danh nghĩa cá nhân chứ không phải bác Sáu đại diện cho tổ chức Đảng tỉnh Gò Công. Má bị đứt liên lạc với đảng rồi nên phải cố nối lại bằng bất cứ con đường nào hoặc cách thức nào.
    Má bằng lòng nghe theo lời khuyên theo Mỹ Lê . Má cũng chấp thuận để con gái lớn sống riêng biệt xa má, xa Mỹ Hòa, hy vọng Mỹ Lê sẽ sớm đem tin vui lại cho má. Tối hôm đó, Mỹ Lê quay lại rất đứng giờ hẹn. Khác với thường lệ , Mỹ Lê không dừng lại lâu với em gái mà vào gặp má ngay. Cô khoe:
    - Má! Con gặp rồi. Chị Sáu Hoàn ngơ ngác:
    - Gặp ai?
    - Gặp Đảng.
    - Con kể cho má nghe đi!
    Mỹ Lê kể chuyện đã xảy ra. Từ hơn một năm quà, cô sống với chị bạn Xuân Hồng ở một phòng, ăn cùng mâm và đôi khi ngủ chung giường. Hai người rất tâm đầu, ý hợp, có bao nhiêu chuyện vui, buồn, riêng tư đều nói với nhau, nhưng Mỹ Lê luôn giữ một khoảng cách nhất định. Cò luôn nhớ đến lời nói dối về ba ruột theo mình mà cô đã thống nhất với má. Cách đây hai ngày, Hồng rủ Mỹ Lê đi thăm sở thú. Đây là chuyện lạ đối với các nữ sinh không có em nhỏ nên Mỹ Lê linh tính thấy có điếu hệ trọng sắp đến với cô. Cô đi sánh đôi bên Xuân Hồng. Hồng là người hỏi, cô trả lời:
     - Có khi nào bồ đọc đạo luật 10/59 không?
    - Mỹ Lê không đọc lướt qua mà đã nghiền ngẫm,. nghiên cứu rất kỹ.
    - Bồ thấy thế nào? Tổng thống theo chúng ta có ác không?
    Mỹ Lê đưa mắt sang phía bạn. Xuân Hồng vẫn bình thản rảo bước, không phải cô vô tình thốt ra câu ““ tổng thống theo chúng ta ” mà cô đang thăm dò chính kiến theo Mỹ Lê . Dù Lê không đi chung đường, Lê cũng khó có thể bắt bẻ cô. Mỹ Lê tin ở Xuân Hồng lắm. Cô không đóng kịch mà trả lời rất thành thật
    - Chính quyền hiện tại căm thù những người cộng sản cũ đến tận xương tủy. Lê tin là không nước nào trong thế giới văn minh dám ban hành luật 10/59. Luật cho phép xử tử những ai liên quan đến cuộc kháng chiến cũ không qua xét xử .
    Xuân Hồng tiến thêm một bước nữa:
    - Theo ý bồ, tổng thống Ngô Đình Diệm có ác không?
    Không đắn đo, Mỹ Lê trả lời dứt khoát:
    - Rất ác. Nè, có bao giờ bồ nghe nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh không?
    Mỹ Lê hát khe khẽ bài “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhí đồng”. Hồng thăm dò:
    - Ai dạy bồ vậy ? Bồ học ở đâu, bao giờ?
    - Bồ không biết mình là “ nhạc sĩ ” à? Mỹ Lê đã từng hòa đàn măngđôlin với...
    Mỹ Lê chợt sững lại. Cô chưa thể bộc lộ với bạn về ba ruột theo mình. Ba dởm theo cô là dân buôn tứ chiếng, chưa đọc thông viết thạo thì làm sao hòa đàn với cô được? Xuân Hồng rất nhạy cảm. Cô đón ngay được lý do Mỹ Lê bỏ lửng giữa câu. Cô hỏi:
    - Ai dạy đàn cho bạn? Bạn thường hòa nhạc với ai, ở đâu?
    - Mỹ Lê học ở trường, chơi đàn với các bạn cùng lớp.
    - Bồ có nhớ đoạn nhạc này không "Rề mi rề son son la sòn si si"?
    Mỹ Lê lại hát khẽ :
    - Đoàn quân Việt Nam ñó chung lòng cứu nước? Mình không chỉ thuộc bài “Tiến quân ca” mà còn thuộc nhiều bài hát kháng chiến khác. Đã có một thời quê mình là vùng giải phóng.
     Mỹ Lê kể về xã Bình Tân thuộc huyện Gò Công theo mình. Cô không định giấu bạn quá khứ theo riêng mình nhưng cô phải thực sự hiểu Xuân Hồng đã. Hồng là ai? Là đoàn viên hay đảng viên? Cô tham gia tổ chức lâu chưa, hiện đang giữ cương vị gì? Ngày còn nhỏ, Mỹ Lê đã tận mắt thấy tai nghe ba má và các chú, bác, cô , dì làm công tác tuyên truyền giáo dục, giác ngộ quần chúng nên Mỹ Lê hiểu rằng Xuân Hồng đang làm việc đó với cô, Xuân Hồng đã chấm cô, Xuân Hồng hỏi:
    - Mỹ Lê nè! Bồ ghét tổng thống như vậy, nếu bồ có dám tham gia lật đổ Diệm không?
    - Dám.
    - Bồ không sợ sao?
    - Sợ gì?
    - Sẽ bị bắt, bị tù đầy. An ninh, mật vụ theo Diệm ở rải rác khắp nơi, luôn rình mò những ai chống đối chính quyền hiện hữu.
    - Có phải ai chơi dao cũng sợ đứt tay đâu. Việt Nam ta có chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy địa cầu, hiện có nửa nước được giải phóng…
    Xuân Hồng hết sức ngạc nhiên. Cô bạn gái hiến dịu, kín đáo hàng ngày sao giờ phút này lại tỏ ra hùng biện như vậy? Cô không rõ tâm trạng bạn. Mỹ Lê như người quá đói đang cần ăn, người khát rất thèm uống nên cô dốc hết bầu tâm sự với bạn với nỗi lòng người nông dân bị hạn hán đón trận mưa rào. Cô linh cảm là đã gặp được tổ chức Đảng vì vậy khi Xuân Hồng nhích lại một, cô chủ động tiến gần thêm hai phần. Cô không phải đến với Đảng vì cô mà còn vì lời căn dặn theo ba, lời hứa với má, và trách nhiệm với các em. Cô tìm đến má, kể lại với má toàn bộ nội dung cuộc chuyện trò giữa mình và Xuân Hồng rồi hỏi:
    - Hồng đã giao truyền đơn cho con. Chiều qua, cô ấy đã đến gặp má.
    - Gặp hồi nào? À, má nhớ rồi. Có phải con nhỏ da trắng, mặt trái xoan, tóc uốn khô ng?
    - Dạ, phải. Xuân Hồng rất thích “Cô bé lọ lem” Cô ấy hỏi con: “Tại sao má trẻ, đẹp như thế, Mỹ Hòa ngoan và chăm chỉ như thế mà ba lại bỏ đi theo người đàn bà khác?” Con không biết trả lời thế nào. Con có nên nói thật về ba với Hồng không
    - Chưa nên con ạ. Khi nào má con ta cùng ở trong tổ chức, ta sẽ khai lý lịch thật theo gia đình.
    Trong lúc này, Xuân Hồng đến gặp người chỉ huy trực tiếp theo mình: Chị Năm Trăng. Chị Năm có tên khai sinh cũng là Mỹ Lê. Chị là con nhà buôn rất giàu thường tự lái xe ô tô riêng theo gia đình. Đã có lần chị nhét truyền đơn vào ống xả để khi xe chạy, truyền đơn .rơi rải rác dọc đường. Chị bị má bắt quả tang đang làm việc này nên đã cùng chồng ra sức ngăn cản chị, cấm chị hoạt động, dọa cắt mọi nguồn kinh tế nếu chị không nghe lời. Chị Năm Trăng không chịu lùi bước. Chị bỏ nhà, vào ở trong khu tập thể sinh viên. Vì thế, khi nghe Xuân Hồng nêu nghi vấn về ba theo Mỹ Lê, chị gạt phăng:
    - Chúng ta cần phát triển Mỹ Lê chứ không phải ba theo cô ấy. Thiếu gì sinh viên có ba, má tham gia ngụy quân, ngụy quyền hoặc con nhà giàu vẫn ở trong hàng ngũ theo chúng ta. Không phải ngẫu nhiên mà Mỹ Lê thuộc nhiều bài hát kháng chiến và có thái độ dứt khoát với kẻ thù. Thứ tư tuần sau, thường vụ thành đoàn họp. Mình tin là mấy anh sẽ nhất trí kết nạp Mỹ Lê .


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 11:53:18 am
    Mỹ Lê vui lắm. Được gia nhập lực lượng thành đoàn, cô nghĩ ngay đến má và em gái. Là người trong nhà đã hiểu nhau đến chân tơ, kẽ tóc mọi việc, nên cô trao đổi thẳng thắn với Mỹ Hòa:
    - Chị đã là Đoàn viên thanh niên lao động. Đoàn thể giao cho chị rải truyền đơn, viết biểu ngữ, tuyên truyền giáo dục quần chúng chống đối chính quyền Ngô Đình Diệm, ngả theo kháng chiến, v.v... Em có tham gia không?
    - Có Chị cho em theo với.
    - Đây không phải là cuộc dạo mát mà là cuộc đấu tranh một mất, một còn với kẻ thù.
    Mỹ Hòa nghiêm sắc mặt. Từ lậu, với chị Hai, cô ưa nhõng nhẽo, làm nũng. Cô luôn phục tùng, chưa hề cãi lại ý chị, ý má nhưng lần này cô biểu lộ chính kiến theo mình:
    - Chị Hai. Ngày tiễn chân ba, em mới chín tuổi, em đã biết ba là Bí thư tỉnh ủy. Có bao giờ em đi ngược lại lý tưởng theo ba,
    - Ý má thế nào?
    - Má và các con chỉ có quyền làm đẹp thêm chứ không ai được phép làm ô nhục truyền thống gia đình họ Dương. Đoàn thanh niên đã tìm đến Mỹ Lê, Mỹ Lê trở thành đoàn viên là niềm tự hào, đáng hãnh diện theo má con ta. Tuy nhiên, má phân vân quá. Má là đảng viên từ năm 1949, nay lại gia nhập tổ chức theo Đoàn, nó dị quá. Má đã 39 tuổi rồi. Chả lẽ má làm đơn xin vào Đoàn? Mỹ Hòa mới 16 tuổi. Con có nên chờ vài tháng nữa không?
    Mỹ Hòa tham gia luôn:
    - Cả con và má đều không nên chờ. Má chưa già và con không còn trẻ con nữa. Con dã trưởng thành. Anh Kim Đồng khi đi làm cách mạng còn nhỏ tuổi hơn con. Xin má và chị Hai đừng ngăn cản con. Con nguyện hy sinh cả tính mạng mình vì cách mạng.
    Mỹ Lê ôm lấy em. Mỹ Hòa không còn là cô bé lọ lem hồn nhiên, ngây thơ nữa. Thật là lạ. Một cô gái không hề nghĩ tới sửa sang sắc đẹp cho mình, chưa bao giờ để ý hoặc có bạn trai và chịu lép vế trước mọi người lạ, người thân lại bộc lộ ý chí kiên quyết tới mức mãnh hệt đòi được hoạt động cách mạng. Cô phấn khởi quá. Câu phương ngôn “Con nhà tông, chả giống lông cũng giống cánh” chợt đến với cô khiến cô vui vui và cũng rờn rợn. Cô vui vì Mỹ Hòa đã trưởng thành còn cô rờn rợn cho trách nhiệm người chị cả trọng gia đình quá lớn, quá nặng. Đã thế, cô còn phải làm cương vị theo người cha, xứng đáng làm gương cho các em trong mọi phương diện. Cô bàn với má:
    - Má à! Má chỉ có hai cách lựa chọn: chờ đợi bắt hên lạc với tổ chức Đảng theo Gò Công hay gia nhập đội ngũ theo Đoàn. Theo ý con, má nên chọn cách thứ hai.
    - Má bằng lòng. Mỹ Lê nè, má tính bỏ nghề nấu cơm tháng.
    - Sao vậy má? Con nên đưa Mỹ Hòa theo. Con phải kèm cặp em. Con Ba nó nhiệt tình, hăng hái nhưng còn thiếu kinh nghiệm hoạt động trong lòng địch. Con đừng để em con sơ sẩy, vấp ngã. Má đã ở tù hai năm nên má thấu hiểu cảnh tù đầy cơ cực lắm.
    “Má” Mỹ Lê gục đầu vào lòng mẹ, nức nở. Má chu đáo quá. Má hy sinh tất cả vì con. Có bà mẹ nào trên trái đất này muốn xa rời đàn con không? Má yêu cô và cô cũng quyến luyến Mỹ Hòa thế mà má đành tính chuyện rời xa Mỹ Hòa chỉ vì lo cho an toàn theo con gái. Mỹ Hòa đã vào bậc trung học rồi. Hai chị em cô sẽ nhận dạy tư, theo kiểu làm gia sư, kèm cặp con nhỏ đang học bậc tiểu học theo các gia đình giàu có hoặc nhận hàng về thêu. Nhưng còn má? Má sẽ ở đâu? Làm gì? Má giỏi lắm. Má có tài làm đủ loại bánh, kẹo, mứt. Má rất thạo nghề may. Má vẫn đưa dự kiến theo mình với Mỹ Lê:
    - Má sẽ chọn chỗ ở mới để đón các em con lên sống chung. Nếu ở chỗ cũ , má sẽ giải thích rạ sao về năm con nhỏ theo mình.
    - Má để con lo việc đó cho.
    - Không được. Con còn son rỗi chưa quen làm mẹ. Con cần phải học và lo giúp đỡ Mỹ Hòa. Mỹ Lê nè!
    - Dạ!
    - Nội theo con sinh ra cây chỉ có một cành. Má là con dâu duy nhất theo gia đình họ Dương, còn con là chị Hai theo sáu đứa em, ba gái, ba trai đều mang họ Dương. Má và con có trách nhiệm dìu dắt các em con theo lý tưởng theo ba, đồng thời cần nghĩ đến họ Dương.
    Mỹ Lê chưa hiểu được ý má song cô đoán được có điều gì đang dằn vặt mẹ mình. Cô hỏi lại:
    - Thưa má! Chưa giây phút nào con quên lời căn dặn theo ba. Con luôn thực hiện đúng mọi lời khuyên bảo, dạy dỗ theo má.
    - Má không nói đến việc đã qua mà lại là việc ngày mai.
    - Má tính sao?
    Chị Sáu Hoàn thổ lộ tâm tư theo mình với con gái. Chị dự kiến sẽ đưa Ba Vĩ, Mười Tuân, Bẩy Thiện, út Hiếu tham gia lực lượng thành đoàn. Với Tư Linh, đứa con trưởng theo gia đình họ Dương, chị bàn với Mỹ Lê :
   - Má tính đưa thằng Tư lên Sài Gòn, gởi dì Bẩy. Dượng Bẩy là công chức theo nhà băng Pháp nên kinh tế không đến nỗi nào. Dì Bẩy sẽ nuôi Tư Linh ăn học. Thằng đó học giỏi thông minh. Nó có gen theo ba con. Má định tách rời thông Tư khỏi mọi công tác cách mạng, lo sao cho nó có bằng cử nhân, luật sư hay bác sĩ.
    À thì ra đây là nỗi băn khoăn theo má. Má đã lường hết mọi việc. Mỹ Lê nên tham gia ý kiến với má như thế nào? Nếu bàn lùi, tìm kế hoãn binh: “Tư Linh còn nhỏ, để thủng thẳng sẽ hay, má à” sẽ không thích hợp. Tư Linh là đứa con mà ba má có nhiều kỷ niệm nhất, lẽ nào má không rõ là nó mới 13 tuổi? Mỹ Lê thấu hiểu tâm tư má . Cô không có quyền trả lời nước đôi mà chỉ được phép bỏ phiếu thuận hoặc chống đối. Trên thực tế, Mỹ Lê có bốn em trai. Theo ý cô bất cứ đứa nào lớn là cho thử lửa ngay, nhưng với má thì khác. Giống như các vị hoàng đế luôn phong danh hiệu hoàng thái tử cho con trưởng để khẳng định người đó sẽ kế vị ngôi báu theo mình, ở Gò Công quê cô cũng rất trọng vọng con trưởng. Má lo cho tương lai theo Tư Linh là hợp lý. Cô ủng hộ má vì chiếu theo ý má: Giữa tình cảm và lý trí, cô đã nghiêng về tình cảm. Cô đề nghị má cho cô và Mỹ Hòa về quê thăm các em. Má đồng ý với vẻ hài lòng thực sự.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 12:02:25 pm
7

    Chị Sáu Hoàn tất bật lo cho chuyến về thăm quê của hai con gái. Chị không thể cùng về với các con. Sau ngày chị gia nhập lực lượng thành đoàn, bí thư thành đoàn gặp riêng chị:
    - Đồng chí không cần trải qua giai đoạn thử thách như các đoàn viên khác. Từ ngày mai đồng chí ráng thuê nhà cho mình ở.
    - Để làm gì vậy?. Tôi hiện có chỗ ở rồi.
    - Đồng chí Sáu! Người hoạt động bí mật ở nội thành nên bớt thắc mắc mà chi lo phục tùng mệnh lệnh.
    - Thưa anh! Tôi không thắc mắc mà chỉ hỏi rõ lý do để mình chọn nhà cho thích hợp. Tôi sẽ ở một mình hay ở với Mỹ Lê, Mỹ Hòa. Tôi có được đem năm con nhỏ ở quê lên ở cùng không?
    Bí thư thành đoàn ở vào tình thế khó xử. Có nên phổ biến mọi điều bí mật với chị Sáu không? Chị Sáu là vợ đồng chí tỉnh ủy viên Bẩy Đấu, là đảng viên từ năm 1949, có trình độ cán bộ huyện, đã vậy chị Sáu còn bị địch bắt vào tù gần hai năm nên dứt khoát chị là cán bộ trung kiên, rất đáng tin cậy. Anh quyết định nói thẳng:
    - Chị Sáu! Bên quân đội có nhiều đội biệt động do Bộ Tư lệnh thành phố chỉ huy. Thành đoàn cũng chủ trương có lực lượng vũ trang riêng. Đồng chí Lê Chân tức Ba Cánh được chỉ định làm Chính trị viên ban chỉ huy quân sự thành đoàn. Chị chọn thuê những ngôi nhà để tương lai chúng ta có thể sử dụng làm kho chứa vũ khí.
    Chị Sáu Hoàn bàng hoàng vì nhiều lẽ. Mấy năm qua, do bị đứt liên lạc, chị không được nghiên cứu về nghị quyết 15 theo Bộ Chính trị, nghị quyết đồng ý sử dụng lực lượng vũ trang để đánh địch, nên không ngờ mình được giao một việc vô cùng hệ trọng. Mặt khác, chị mới gia nhập tổ chức thành đoàn, tại sao chị được tín nhiệm cao như vậy. Chị đưa ra dự kiến theo mình:
   - Nếu vậy, ta chưa nên cho ai biết về những nhà này. Tôi sẽ không đưa cháu nào đi theo. Sau một hai tháng, khi xây dựng xong cơ sở nơi này, tôi sẽ thuê nhà mới. Tôi sê báo cáo và xin chỉ đạo với ai?
   - Tôi hoàn toàn nhất trí với dự kiến theo chị. Chị chỉ được báo cáo trực tiếp với tôi hoặc Ba Cánh.
   - Dạ.
    Chị Sáu thuê nhà mới. ở trong ngôi nhà xa lạ, chị nhớ con, nhớ chồng da diết. Anh Bẩy đang ở đâu, làm gì? Chị : thương anh quá. Tội thân, anh chưa biết đứa con út là trai hay gái. Anh đâu ngờ chị đẻ sinh đôi. Nhiều người khuyên chị đặt tên cô con gái là Tám Thêm nhưng chị không ưng bụng. Anh luôn đắn đo khi đặt tên cho con, không muốn con minh mang cái tên xấu xí suốt đời. Lựa ý anh, chị định gọi con là út Hiền, nhưng rồi chị lại chọn tên Hiếu. Chí mong con hiếu thuận bới ba nó , với gia đình họ Dương. Hai đứa lớn lắm rồi. Giá bây giờ anh gặp được Mỹ Lê, Mỹ Hòa? Hai đứa con gái đầu theo anh đã được nhiều chàng trai ngấp nghé rồi. Ba đứa con trai tiếp theo anh đểu khỏe mạnh, đẹp trai, hồn nhiên và rất ngoan. út Hiếu rất giống ba. Người ta nói “Con gái giống cha, giàu ba họ” chả biết có đúng không út Hiếu theo anh mũm mĩm như con búp bê, da trắng như trứng gà bóc, đôi mắt đen nháy, luôn ngơ ngác, ngây thơ, linh lợi như mắt hươu sao. Bẩy Thiện khác hẳn em. Cu cậu gầy, den, nhanh nhẹn, rất tinh nghịch. Anh làm sao chịu nổi khi không có chị và các con bên cạnh? Anh cũng không nhận được tin tức gì theo người thân ruột thịt. Chả biết căn bệnh hen suyễn kinh niên theo anh có thuyên giảm chút nào không? Ai sẽ săn sóc anh khi anh ốm đau? Lẽ ra chị phải nài nỉ anh đưa Mỹ Lê hoặc Mỹ Hòa cùng đi tập kết. Có đứa con gái bên cạnh, anh sẽ đỡ buồn. Con gái sẽ lo cơm nước cho anh, sẽ đấm bóp, thuốc men phục vụ ba khi trái gió, trở trời. Chị ở Sài Gòn còn hạnh phúc hơn anh nhiều Chị luôn gặp bạn bè, người thân, chị lại mới gặp tổ chức Đảng. Chị chỉ băn khoăn là chưa gom được cả bảy đứa con ở chung một mái nhà để chị lo mọi mặt cho các con. Đây là nỗi khổ tâm theo người mẹ. Hôm tiễn chân, anh hy vọng chị nuôi con khôn lớn trở thành những người làm ăn lương thiện nhưng đến bây giờ chị có nuôi được đứa nào đâu. Hàng ngày chị nấu niêu cơm nhỏ xíu, trên mâm chỉ có một cái bát, một đôi đũa. Phải đâu chị không đủ sức kiếm nổi miếng cơm nuôi con? Không, con đường chị chọn là đúng đắn, cách giải quyết trước mắt chỉ là tạm thời. Đến một ngày nào đó, khi chị có cơ sở vững chắc ở Sài Gòn, chị sẽ đem các con  theo, không phải để nuôi ăn, đề lo học văn hóa đơn thuần mà chị sẽ đưa dần chúng nó theo con đường mà anh đã chọn. Chị luôn phân vân vế Tư Linh. Chị định đoạt số phận Tư Linh như vậy là đúng hay sai? Liệu anh khen hay chê, hay giận chị? Từ ngày đôi bên làm bạn với nhau, anh chưa nói nặng với chị lời nào vì anh yêu chị, anh tôn trọng chị và chị chưa làm điều gì phật ý anh. Còn lần này? Trách nhiệm đặt lên đôi vai chị lớn quá mà chị không bàn với ai được. Giá được gần anh, nằm cạnh anh, nhỏ to cùng anh bàn định về tương lai từng đứa con thì thật tuyệt vời. Chị khó xử quá! Chị là cán bộ cách mạng nhưng lại là vợ anh nên chị phải nghĩ đến người nối dõi tông đường, đến hương hỏa theo dòng họ Dương. Thôi, chuyện đó để hạ hồi phân giải. Chị còn thời gian để suy nghĩ, cân nhắc, tính toán. Những ngày trước mắt, chị chỉ có mỗi việc che mắt địch. Với gánh hàng, khi bán bách hóa, khi bán trái cây, chị thuê nhà ở đường Lý Thái Tổ rồi rời đến Củ Chi, chuyển đến 330 đường Cao Đạt, quận 5; thuê nhà ở gần cầu Cây Gỗ, quận 6; rồi lại mua gian nhà lá ở quận Bình Thới, tới ở nhà quen tại..đường Bạch Đằng, v.v... Trách nhiệm theo chị là phải đi đây, đi đó; quen thuộc nhiều đường ngang ngõ tắt ở Sài Gòn và đặc biệt là biến mình thành người Sài Gòn thuần thục từ dáng đi, cách ăn mặc, tiêu xài, giao dịch, đến cách tiếp xúc với dủ loại cảnh sát, mật vụ. Những ngày này, chị Sáu Hoàn biết mình đang được thử thách để trở thành chiến sĩ biệt động Sài Gòn. Các đồng chí ở Bộ Tư lệnh thành và Ban quân sự thành đoàn đặt hy vọng khá nhiều vào chị. Các anh dự kiến giao cho chị chuyên chở và lập hàng loạt kho vũ khí trong nội thành, tại những ngồi nhà mà chị đã ở nên chị phải ráng hết sức mình để lo chu toàn mọi việc.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 12:06:36 pm
     Chị Sáu Hoàn nhận được lệnh gọi về căn cứ thành ủy. Chị không cần giao liên dẫn đường. Mặc quần xa tanh đen, áo trắng, tay xách giỏ như người đi bỏ mối hàng, chị Sáu đến điểm hẹn an toàn. Các anh trong thành ủy trao cho chị giấy giới thiệu kèm theo lời dặn:
    - Đồng chí liên hệ với Thị ủy Bà Rịa. Các anh ấy hứa cho chúng ta dùng khu vực chùa Thị Vải để mở lớp học cho các cán bộ nội thành. Đồng chí được quyền quyết định chi tiêu tiền.
    Chị Sáu Hoàn chưa hình dung hết những việc phải làm. Chị chưa đặt chân tới Bà Rịa lần nào. Chị phải làm sao dựng nhà, làm bếp, tổ chức lớp học cho 50 tới 100 người nhưng không được phép cho người nọ nhìn thấy mặt người kia. Điều quan trọng là phải tổ chức bảo vệ, đưa đón, giữ bí mật không cho kẻ địch đánh hơi thấy nơi tổ chức lớp học. Hàng trăm công việc lớn nhỏ đòi hỏi ở chị không chỉ có tài tổ chức mà còn phải biết lãnh đạo, chỉ huy, quán xuyến. Chị lo âu cầm giấy giới thiệu lên đường. Các đồng chí trong Thị ủy Bà Rịa cho chị một cơ sở bí mật: Sư cô Nguyễn Thị Nhàn ở chùa Thị Vải. Chị Sáu Hoàn đóng giả làm một người mộ đạo đem vàng hương lên lễ chùa. Như nhiều khách thập phương khác chị xin một chỗ nghỉ trong chùa để tiện cho việc cầu nguyện đức Phật tổ Như Lai. Những ngày tiếp theo, chị đi thăm địa hình. Cả cuộc đời chị, chưa bao giờ chị rơi vào một nơi sùng đao Phật như ở đây. Quanh khu vực Thị Vải có tới năm chùa lớn, 18 hang, 25 cốc. Hang và cốc là những chùa nhỏ, có một sư hoặc một sãi, một chú tiểu chủ trì. Những ngày rằm và cả những ngày chủ nhật, khách từ khắp nơi ùn ùn kéo về Thị Vải để lễ chùa, dâng hương cúng Phật. Các tín đồ Phật giáo đua nhau quyên góp để nuôi sư. Các nhà sư ăn chay, niệm Phật, sống cuộc đời khổ hạnh bằng theo bố thí theo các thiện nam, tín nữ, không mấy khi rời khỏi chùa.
Sư cô Nguyễn Thị Nhàn trạc 50 tuổi, có chồng và con là cán bộ cách mạng. Nhờ thông thuộc đia hình, sư cô đưa chị Sáu Hoàn đến khu vực có thể làm căn cứ. Những chiếc lán nhỏ được dựng lên .
     Ba tháng sau, những học sinh đầu tiên tựu trường. Chị Sáu Hoàn nhận nhiệm vụ Trưởng ban tổ chức, kiêm cán bộ bảo vệ, kiêm Quản trị trưởng đồng thời cũng là liên lạc viên, làm cấp dưỡng, cán bộ dân vận, làm tạp vụ. Từ Sài Gòn, từng học sinh nhận ám hiệu liên lạc đem theo vàng hương đến lễ tại chùa Thị Vải. Điểm hẹn theo từng người ở một trong 48 ngôi chùa lớn nhỏ để người nọ không giáp mặt người kia. Vào tới căn cứ, khách được phát những chiếc mũ hoặc những chiếc túi để trùm kín mặt. Kỷ luật theo trường không cho phép khách nhận mặt người khác và không để người khác nhận ra mình. Khách thuộc đủ lớp người, số đông là sinh viên nhưng phần lớn thanh niên nam nữ làm nhiều nghề khác nhau như công chức, nhà sư, cha cố... Giá như có đủ đồng phục bà ba đen, chị sẽ phát cho mỗi người một bộ, cấp cho mỗi người một đôi dép. Chị Sáu chưa thật hài lòng về nội quy bảo mật theo lớp học. Thị Vải có 48 ngôi chùa chứ không phải 48 khách sạn. Chị lo sao đủ giường, đủ võng cho từng người. Chị không có quyền kê sẵn giường, đóng cọc để mắc võng vì làm như thế dễ để bọn mật vụ, an ninh chú ý. Rất may là ở Thị Vải luôn có hành nghìn khách thập phương lui tới, nhiều thiện nam, tín nữ ngủ tại chùa nên khách theo chị dễ trà trộn.
     Chị Sáu Hoàn còn gặp chuyện vô cùng khó xử là lo bữa ăn cho khách. Ban chấp hành thành đoàn cấp cho chỉ khoản kinh phí hạn chế, lại chủ trương không thu tiền ăn theo khách nên chị phải trồ tài nội trợ. Chị không đủ tiến mua thịt gà, cá thu. Khách ở thành phố, dù không phải con nhà khá giả cũng từng nếm nhiều món theo ngon, vật lạ nên chị phải chọn món ăn lạ miệng, rẻ tiền mà chỉ ở' trong rừng mới có như hoa chuối, đu đủ, khế, chuối xanh, củ chuối rừng nấu với lươn, ốc, ếch. Khách rất thích món ăn do chị Sáu nấu. Chị Sáu rất vui khi khách ăn ngon miệng, chỉ vài người sụt cân khi rời lớp học. Vào những ngày này, chị Sáu Hoàn sắp sang tuổi 40. Chị ở Thị Vải tổ chức hết lớp học nầy dện lớp học khác. Chị phải giao dịch, tiếp xúc nhiều với khách nên thành ủy cho phép chị hưởng ngoại lệ : Chị không phải trùm khăn kín mặt và khi cần thiết, chị có quyền biết mặt khách. Hàng nghìn khách biết mặt, biết tên và hiểu sơ qua lý hếch chị Sáu: Chị đã có hai cô con gái lớn; nên khách không gọi là chị Sáu nữa mà thường gọi chị bằng hai tiếng “dì Sáu”, “má Sáu” thân thương.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 27 Tháng Năm, 2010, 12:08:50 pm
8

     Giám đốc Dương Văn Đấu đã có bằng đại học. Những kiến thức khi học trường Bách nghệ đã giúp anh làm quen với lĩnh vực mới khá dễ dàng, tuy nhiên đôi lúc anh vẫn phải "bơi" trong công tác vì có những lỗ hổng hiểu biết vế mỏ không thể bù đắp được. Anh mượn nhiều sách dạy vế mỏ để tự học, anh nhờ các bác thợ già truyền đạt những kỉnh nghiệm thực tế. Anh yêu cầu các kỹ sư lưu dung phụ đạo cho mình, nhưng dù sao, anh vẫn rất cần có văn bằng. Chả lẽ giám đốc một mỏ lớn như Cẩm Phả chỉ là cán bộ trung cấp kỹ thuật. Dưới quyền anh có nhà máy sửa chữa ôtô sửa được 600 chiếc mỗi năm và nhà máy cơ khí có thể sản xuất 33.000 tấn sản phẩm một năm nhưng điều quan trọng nhất là các mỏ than lộ thiên hoặc nằm sâu trong lòng đất. Cẩm Phả còn có các nhà sàng ở Cửa ông cùng nhiều thiết bị đủ sức rót than tới 800 tấn một giờ cho những tàu thủy có sức chở 9.000 tấn cập bến. Điều mà giám đốc Dương Văn Đấu lo lắng và quan tâm nhất là sề phận của hàng vạn công nhân dưới quyền anh. Anh làm sao đủ trí tuệ đề chỉ đạo những con người đó, để guồng máy sản xuất của mỏ luôn tăng tiến? Anh chợt nhớ đến câu phương ngôn: "ở xứ mù thằng chột làm vua". Không, mấy vạn công nhân của mỏ Cẩm Phả không phải những người mù và anh không thể hài lòng làm thân phận "thằng chột". Anh phải có bộ óc minh mẫn, cặp mắt sáng suất hơn mọi người. Anh nộp đơn xin theo học hàm thụ trường đại học Mỏ. Anh đã bảo vệ luận án một cách xuất sắc. Văn bằng "kỹ sư Mỏ" đã tạo thêm thế đứng cho anh. Song điếu quan trọng là anh không được "dậm chân tại chỗ" mà phải làm theo lời dạy của Lênin: "Học, học nữa, học mãi".
     Nhân dịp giám đốc Dương Văn Đấu tốt nghiệp đại học, lãnh đạo mỏ than Cẩm Phả quyết định buộc anh đi nghỉ an dưỡng ở Đồ Sơn một tháng. Anh từ chối, vì lý do: "Tôi rất khỏe, tôi không nỡ bỏ bê trễ công việc của mỏ". Đúng là từ ngày tập kết ra Bắc, anh chưa nghỉ phép ngày nào và chả bao giờ anh để ý đến chủ nhật hoặc ngày lễ để nghỉ ngơi. Anh luôn cảm thấy việc quá nhiều, thời gian lại rất có hẹp. Từ ngày được bầu giữ chức bí thư đảng ủy mỏ, nhất là sau khi trúng cử là ủy viên khu Quảng Ninh, anh càng thêm bận rộn đề làm tròn việc Đảng, việc chuyên môn. Anh cố lo cho công nhân lao động có hiệu quả trong từng ca làm việc của mình, còn anh luôn bám sát cơ sở cả ba ca trong ngày. Anh làm việc 12, 14 thậm chí 16 giờ trong ngày mà không hề biết mệt. Cứ mỗi lần nhìn vào ảnh vợ và năm đứa con trên bàn (lúc anh đi tập kết chị chưa sinh đứa út) là anh lại thấy như được tiếp thêm sức mạnh. Anh phải làm sao để không hổ thẹn với vợ con và các đồng chí, đồng đội của anh đang sống dưới nanh vuốt Mỹ ngụy, đang chiến đấu ở trong Nam. Các đồng chí đảng ủy viên của mỏ thông cảm với tâm tư của anh nhưng cũng quan tâm đến sức khỏe và nghỉ ngơi của anh nên đã giơ tay biểu quyết quyết nghị anh phải đi an dưỡng ở địa điểm nào đó do anh tự chọn. Không thể chống lại nghị quyết, anh đã đễ đạt nguyện vọng: "Quảng Ninh là quê hương thứ hai của tôi. Tôi xin được đi tham quan danh lam, thắng cảnh tỉnh ta trong vòng một tuần lễ".
    - Đồng ý.
    Giám đốc Dương Văn Đấu vạch chương trình cho chuyến du ngoạn. Anh phải làm sao tận dụng thời gian "đi chơi" của mình để có "vốn liếng" kể lại cho vợ, con anh và những người thân nghe. Ngày đầu, anh đến ấp Yên Sinh (An Sinh) nơi phát tích của nhà Trần, quê gốc của các vua Trần. Anh say sưa chiêm ngưỡng lăng các vị vua: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, Giản Định Đế, Trần Nghệ Tông và Trần Thuận Tông. Anh nhớ đến truyền thuyết về những cô gái đẹp Cửa ông. Ngày xửa, ngày xưa nơi đây gọi là Cửa Suất. Từ ngày Hưng Đạo đại vương đầy người con thứ ba là Trần Quốc Tảng ra đây, mọi việc đã thay đổi khác hẳn. Người dân ở địa phương này vô cùng cảm kích vị vương hầu đã tân tâm lo đến an ninh của đất nước, no ấm của nhân dân nên khi Ngài tịch (chết) đã lấp đến thờ Ngài và đồng tình đổi tên Cửa Suất thành Cửa ống. Rất ít người lên án tội bất trung của Ngài mặc dù từ cháu bé lớp một đến cụ già cặp kề miệng lỗ đều có thể kể tường tận lý do vì sao Ngài bị lưu đầy.
    Ông nội Ngài là Trần Liễu đã trăng trối lại cho con là Trần Hưng Đạo: phải trả thù và cướp ngôi vua cho ngành trưởng. Thuở thiếu thời Trần Liễu và Trần Cảnh sống ở kinh đô nhà Lý dưới thời của Lý Chiêu Hoàng. Cô gái họ Lý mới 8 tuổi, chơi rất thân với Trần Cảnh. Thái sư Trần Thủ Độ gán ghép hai đứa trẻ với nhau nên vợ nên chồng và ép Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho Trần Cảnh. Hơn chục năm sau, vì Lý Chiêu Hoàng không có con nên Trần Thủ Độ buộc Trần Liễu nhường vợ mình đang có mang cho em ruột. Uất ức vì bị cướp mất vợ và không được ở ngôi vua, Trần Liễu bày tỏ nguyện vọng cuối đời của mình cho con. Khi Trần Hưng Đạo đã thâu tóm toàn bộ binh quyền trong tay, Trần Quốc Tảng đã nhắc cha nhớ đến lời di chúc của ông nội. Hưng Đạo đại vương không đồng tình, đã rút gươm ra định giết chết đứa con phản tặc. Nhờ các quan cận thần can gián, Trần Hưng Đạo đã tha tội chết cho con và buộc Trần Quốc Tảng ra trấn thủ biên giới không được vế kinh đô nếu không có lệnh đòi.
    Ngày tiếp theo, anh Đấu hướng về núi. Thuở nhỏ, anh không biết núi là gì. Quê hương Gò Công của anh là vùng đồng bằng rộng bát ngát. Những năm tháng làm việc ở đồn điền cao su tại Tây Nguyên, anh đã làm quen với núi, thích trèo núi, thích đủ loại lá, hoa, cây, quả từ núi ban phát cho. Đến Quảng Ninh, anh đã nhiều lần nghe giới thiệu về núi.
    Quảng Ninh là tỉnh ở cực đông miền Bắc nước ta, vừa là tỉnh miền biển (suốt phía Nam là bờ) vừa là tỉnh miền núi. Các dải núi vươn ra biển, tạo thành núi cao. ở mỏ Cẩm Phả của anh có núi An Váp cao 1.045 mét nhưng anh chọn núi Yên Tử, ngọn núi nối tiếng đẹp nhất Quảng Ninh. Nơi đây có nhiều cây thuốc quý, đủ loài thông, trúc hoa, mai, xích tùng, thanh tùng, thủy tùng cùng các cây cổ thụ sống lâu trên 700 tuổi. Đặc biệt trên núi Yên Tử có hàng chục chùa khác nhau, chùa Hoa Yên to và cổ nhất, chùa Vân Tiên nơi suốt ngày đầy mây phủ. Tại đáy ở tháp đá Huệ Quang có tượng vua Trần Nhân Tông. Tương truyền sau khi biết tin Trần Nhân Tông rời bỏ ngai vàng để đi tu, các cung nữ đã gicó mình xuống suối tự tử. Từ ngày đó , con suối vô danh được mang tên suối Giải Oan.
    Dương Văn Đấu không phải nhà sừ học. Từ nhỏ, anh ham mê kỹ thuật, tự nguyện hiến đời mình cho khoa học nên anh đã ngỡ ngàng trước những truyền thuyết đẹp của địa phương. Không biết đến ngày nào vợ anh, các con anh mới cùng anh đi tham quan Quảng Ninh. Lúc đó, anh sẽ là hướng dẫn viên đưa người thân thăm kỳ quan vịnh Hạ Long. Sao lại có nơi đẹp tuyệt diệu như vậy? Khí hậu mát mẻ, nước lăn tăn, thăm thẳm, trời xanh, biển biếc. Từ thuyền lên, anh trèo đúng 90 bậc mới lọt vào nhà hát rộng bát ngát. Khách ngồi vào "ghế" say sưa ngắm các diễn viên từ nhũ thạch kết thành vô cùng sinh động. Chả ai dám khẳng định là mình đang xem tuồng cổ hay kim.
Anh đưa thuyền, xuyên qua nhiều ngóc ngách bỗng thấy trời nước mênh mông và núi hiện ra trước mặt cùng một lều xiếc tròn. Đây đúng là hang Lũng Xiếc. Hang Sửng Sốt thật vô cùng kỳ lạ. Bất cứ ai, sau khi trèo đúng 100 bậc, chui vào hang trong đều sửng sốt trước vẻ đẹp thiên nhiên không bút nào tả nổi...
    Giám đốc Dương Văn Đấu đã qua một tuần nghỉ ngơi lý thú và rất bổ ích. anh trở về với mỏ. Cả vùng Hòn Gai rộng bao la, bát ngát thế này mà triều đình nhà Nguyễn đã nhượng bán cho thực dân Pháp từ năm 1885 chỉ với giá một trăm quan tiền. Tất cả đất, núi, rừng, cu ly... đều do bọn chủ mỏ định đoạt. Chủ tư bản Pháp đã khai thác than từ 1888, đưa 34 triệu tấn than gầy, nháy chậm có nhiệt lượng cao thuộc loại ăng-ơ-ra-xít tốt nhất về Pháp hoặc xuất cảnh để kiếm lợi nhuận tối đa. Suốt bao năm thuộc Pháp, các ông vua nối tiếp nhau của triều Nguyễn, rồi các loại chính phủ bảo hộ mọc lên song cái khoản một trăm quan tiền bán Hòn Gai vẫn chưa hết giá trị. Bây giờ mỏ than dã về tay nhân dân, Nhà nước giao cho anh làm giám đốc anh phải làm sao xứng đáng với cương vị mới? Kỹ sư mỏ Dương Văn Đấu lao vào việc với một quyết tâm mới vì vợ vì con, vì cả miến Nam ruột thịt của anh.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 07:52:50 am
9

    Tư Liên, Xuân Hống, Năm Trăng thuê tháng một căn 1 gác, có tiền tiêu chung, quần áo mặc chung. Chị Năm Trăng dứt khoát từ bỏ gia đình giàu có . Ba chị là Trưởng ty thú y cùng với má là chủ tiệm may lớn tìm mọi cách thuyết phục con gái nhưng chị Năm Trăng luôn cự tuyệt. Cấp trên rất chú ý tới chị. Ngày Mặt trận Dân tộc giải phóng ra công khai, chị Năm Trăng được chỉ định là Chủ tịch hội thanh niên giải phóng Sài Gòn - Gia Định với tên cúng cơm được công khai loan báo trên các báo, qua các làn sóng phát thanh: Lê Mỹ Lê. Ba má chị nhận ngay ra con gái mình đã là tên Việt cộng cỡ bự nhưng đành giữ im lặng. Vài tháng sau, ông bà đột nhiên thấy chị xuất hiện ở thành phố nhưng không biết con gái mình ở đâu, làm gì? Chị Năm Trăng kể với Tư Liên, Xuân Hồng:
    - Tao ở trong rừng chả có việc gì để làm. Mấy anh, mấy chú định tung tao trở vào thành nhưng e ngại tao công khai quá, ảnh tao được đăng báo tùm lum rồi.
    Tư Liên nhanh nhảu:
    - Đúng vậy chị Năm. Em đã nhìn thấy hình chị. Chị thuyết phục mấy chú thế nào?
    Năm Trăng nói:
    - Ở Sài Gòn có cả trăm trường tư thục. Tao cải trang, lấy lại bí danh cũ là Năm Trăng.
    Tư Liên rất rõ nguồn gốc cái tên này. Thực hiện nghị quyết 15 của Bộ Chính trị, thành đoàn biểu lộ quyết tâm của mình bằng cách dùng khẩu hiệu: "Lực lượng võ trang tổng khởi nghĩa ướp chánh quyền" đặt bí danh cho từng người là ủy viên ban chấp hành. Từ đó, anh Hồ Hảo Hớn được mang bí danh Ba Lực, đồng chí Trần Quang Cơ bí thư khu đoàn lấy tên Tám Lượng. . . Mỹ Lê ngồi ở vị trí thứ tư nên được bí danh là Trang. Do mặt chị tròn như mặt trăng và do từ chiến khu trở lại nội thành nên bạn bè gọi chị là Trăng. Có lần, chị Năm Trăng rĩ tai Tư Liên:
    - Chính trị viên ban quân sự thành đoàn Lê Chân, bí danh là Tư Tổng để ý tới mày đó .
    - Kỳ quá hè . Em đã biết mặt và có hiểu gì về quá khứ của anh ấy đâu.
    - Thiệt mày chưa tiếp xúc với Ba Cánh lần nào sao ?
    - Ủa, Ba Cánh là Tư Tổng a, chị?
Ở Sài Gòn, do hoạt động bí mật nên nhiều cán bộ luôn thay bí danh. Tư Liên quen Ba Cánh. Anh là cấp chỉ huy trực tiếp của cô, của cả má cô và Mỹ Hòa. Anh không có tướng quân sự nhưng tất cả những ai tham gia lực lượng vũ trang thành đoàn đều rất tin tài chỉ huy chiến đấu của anh. Anh không đẹp trai. Với nước da ngăm đen, anh có dáng dấp một nông dân chân lấm, tay bùn hơn người thành phố. Anh quê ở Cần Thơ, mồ côi từ nhỏ nên phải đi ở đợ nhiều năm. Lên thành phố, anh học đủ mọi nghề để lo kiếm tiến nuôi thân, trả tiền học văn hóa và tham gia công tác cách mạng. Tư Liên, Mỹ Hòa đã gặp anh và chị sáu Hoàn đã nhiều lần trò chuyện, bàn bạc công việc với anh. Cảm giác chung của ba má con là anh hiền lành, thông minh, thẳng thắn, dám quyết đoán. Tư Liên chưa hề để ý đến anh và chị Sáu Hoàn cũng chưa ghi tên anh trong bộ nhớ về những chàng trai mà chị định chọn làm chàng rể. Tư Liến bần thần "không hiểu anh để ý tới mình từ hồi nào vậy?". Chả lẽ cô hỏi chị Năm Trăng. À mà tại sao anh không chấm chị Năm Trăng hay Xuân Hồng? Hai người này đều là sinh viên. Tuy nhan sắc của họ chưa thuộc diện "chim sa cá lặn" nhưng cũng ưa nhìn. Hơn nữa, vì Trăng, Hồng tham gia hoạt động cách mạng trước cô nên có nhiều ưu thế vượt trội hơn cô. Thôi, điều đó hạ hồi phân giải, chờ bao giờ anh ngỏ lời hẵng hay. Dù Tư Liên cố gạt sang bên "vấn đế Ba Cánh" song không hiểu sao ấn tượng về anh cứ in đậm trong óc cô. Tại sao nhỉ? Có lẽ do chị Năm Trăng và Xuân Hồng thường xuyên nhắc đến chủ đề này vì thích trêu chọc bạn, do thiện ý và không loại trừ khả năng được anh giao làm nội ứng. Ngoài ra, phải kể đến ý kiến của má. Nghe con gái thông báo, má bỏ phiếu thuận ngay.
    - Thằng đó rất có triển vọng. Nếu con ưng ý, má cũng thuận tình.
    Tư Liên hiểu thấu nỗi lòng của má. Từ mấy năm qua có dăm đám đã tìm tới cô hoặc nhờ người mối lái đến thưa chuyện với má song má đều từ chối. Các bà mối trổ hết tài khua môi múa mép ca ngợi gia thế của chàng rể tương lai, đưa ra bản thống kê dài về khoản tài sản lớn cùng xe hơi, nhà lầu mà đôi vợ chồng mới sẽ được nhận sau khi hưởng tuần trăng mật ở Pháp hoặc ở Mỹ nhưng má luôn khăng khăng: "Mỹ Lê còn nhỏ. Xin để thư thả cho vài ba năm". Mỹ Lê đâu lạ gì kế hoãn binh của má. Má đâu ham giàu, ham sui gia với những gia đình có địa vị cao trong chính quyền ngụy. Má hướng sự lựa chọn của má vào chững chàng trai cùng một lý tưởng với ba vì thế má đã nhanh chóng chấp nhận người chỉ huy của má cho con gái. Mỹ Hòa đã vào trung học. Cô tán thành sự lựa chọn của má và chị Hai nhưng cô không bận tâm lắm. Với cô, ngoài giờ học, cô lo dạy học thêm để kiếm tiền nuôi thân, phụ giúp má nuôi em, và dồn hết tâm tư vào rải truyền đơn. Chị Năm Trăng, Xuân Hồng, Tư Liên lo in truyền đơn, may cờ. Mỹ Hòa được mấy chị cưng chiều nên được lọt vào nơi in truyền đơn. Chà chà, chị Mỹ Lê của cô cùng anh Ba Cánh và nhiều anh, nhiều chị khác đã thảo nên nội dung truyền đơn ngắn gọn, súc tích để tuyên truyền trong dân chúng chủ trương của Mặt trận Dân tộc giải phóng. Thấy truyền đơn xuất hiện nhiều, kẻ địch tổ chức lùng sục. Bọn công an chìm, mật vụ để ý đến ba cô nữ sinh ở cùng nhà: Trăng, Hồng, Lê. Tại sao cả ba đứa đều đẹp, xinh, duyên dáng lại không bồ bịch với bạn trai con nhà giàu? Chúng nó ăn uống và đi lại thất thường quá. Xuân Hồng lại là nữ sỉnh giỏi văn. Con gái thời nay vừa đẹp, nết na, vừa có học thức nên chỉ cần bước lên xe hoa là họ thành bà quan, giàu nứt đố đổ vách. Mặt khác, con gái thời nay cũng dám quên hết mọi lợi ích riêng tư để tham gia cách mạng. Không rõ ba cô nữ sinh này thuộc loại nào? Cần phải kiểm tra họ. Ban giám hiệu nhà trường tổ chức cho các nữ sinh giỏi văn nhất trường cùng sát hạch để chọn thủ khoa. Xuân Hồng vào phòng tlú. Cô đọc đề bài: "Bạn đánh giá như thế nào về phong trào "Thanh nữ cộng hòa" do bà Trần Lệ Xuân chủ trương?” Xuân Hồng phân vân lắm. Có nên nhắm mắt ca ngợi bừa "đệ nhất phu nhân" hay là bày tỏ lập trường, lên án mụ ta? Không rõ chị Năm Trăng và Mỹ Lê sẽ giải quyết ra sao? Cô có nên viết vài câu trả lời chung chung vô thưởng, vô phạt không? Cô sẽ không làm như thế vì cô là nữ sinh giỏi văn nhất, nhì của trường. Cách tốt nhất là cô không viết chữ nào, nộp nguyên giấy trắng. Kẻ địch muốn qua khẩu khí của bài văn để truy tìm ra người thảo truyền đơn nhưng cô không cung cấp bằng chứng cho chúng. Mỹ Lê tán thành cách xử lý của bạn song chị Năm Trăng chưa thật hài lòng. Chị phân tích:
    - Mình giữ vững lập trường nhưng không làm găng, không khiêu khích kẻ thù trong trường hợp không cần thiết.
    - Chị bảo em nên như thế nào?
    - Chúng ta đi học để làm gì? Để trở thành luật sư bác sĩ, kỹ sư hay để nắm lực lượng sinh viên? Nếu tổ chức yêu cầu cô Mỹ Lê lưu ban hoặc học xuống một lớp, cô có chấp hành không?
    - Em xin phục tùng ngay.
    Mỹ Lê nhớ đến các bạn cô và chính bản thân cô . Cô đến trường học đâu phải vì mảnh bằng, vì chiếm được địa vị nào đó trong xã hội sau khi tốt nghiệp. Lý tưởng thiêng liêng vì Độc lập - Tự do của Tổ quốc đã thôi thúc cô. Cô có lẽ sống của mình. Đang học ở trường này quen thầy, quen bạn, tiện đường đi lại, bỗng nhận lệnh chuyển trường là mọi người răm rắp tuân theo. ở trên thế giới này, chưa có thí sinh giỏi nào nhận nghiêm lệnh: "Phải thi hỏng". Trong cuộc đua tài, có ông bố, bà mẹ nào mong con không đậu? Thi trượt người sinh viên sẽ khó giải thích trước bè bạn, họ hàng cùng những người thân ruột thịt. Thi trượt, đúng là điều sỉ nhục với các thí sinh cắp sách đến trường thi nhưng với những ai ở trong lực lượng thành đoàn lại khác hẳn.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 08:00:55 am
    Dương Mỹ Hòa thường đến với ba chị em Năm Trăng, Xuân Hồng, Mỹ Lê. Các chị rất quý đứa em gái ham học, chăm làm, mê hoạt động. Mỹ Lê thường giao việc rải truyền đơn cho em gái để kèm cặp em. Chị luôn đi cách xa Mỹ Hòa để tập dượt cho em, canh gác, bảo vệ an toàn cho em. Mỹ Hòa đang là nữ sinh song cô chưa ra dáng thanh nữ. Cô mơn mởn, ngây thơ, ít chú ý tới ăn diện. Mỗi lần đi rái truyền đơn, Mỹ Lê mặc quần trắng, áo dài trắng, đạp xe phía trước, thong thả, nhàn nhã như cô giáo sau giờ làm việc Mỹ Hòa đạp xe sau chị khoảng 20 mét. Cô mặc quần đen, áo cánh trăng. Cô giắt truyền đơn trong người. Theo ám hiệu quy định trước của chị, cô thả từng tờ truyền đơn xuống đường hoặc ném qua cổng từng nhà. Sau một thời gian dài, cô bàn với các chị:
    - Ta không nên dùng xe đạp nữa vì không bảo đảm truyền đơn đến tay người nhận. Em sẽ bỏ truyền đơn vào thùng gánh nước, qua nhà nào em gài vào cổng nhà đó là chắc ăn nhất.
    Mỹ Hòa xin làm thí nghiệm. Mỹ Lê đi sau canh chừng cho em. Mỹ Hòa quen gánh nước giúp má nên cô quẩy đôi thùng rất tự nhiên, cô thả từng tờ rơi vào mỗi nhà khá thuận lợi. Chị Năm Trăng hoan nghênh sáng kiến của cô em gái, tuy nhiên vẫn cảnh cáo:
    - Mỹ Hòa không được quay lại địa bàn lần thứ hai. Em chớ chủ quan. Em còn non lắm, chưa đủ kinh nghiệm chống lại bọn an ninh, mật vụ đâu.
    - Dạ , em nhớ !
    - Chỉ cần một người dân nhận được truyền đơn nhân danh Chính phủ Cách mạng lâm thời là sẽ có hàng trăm, hàng nghìn người biết rõ nội dung trong một, hai ngày.
    - Dạ!
    Mỹ Hòa nhớ lời dặn của chị Năm Trăng. Chị là chỉ huy của chị Mỹ Lê và của cô nhưng cô không sợ mà rất yêu chị. Chị hiền dịu hay cười, nói chuyện tiếu lâm rất có duyên. Nếu không được chị Mỹ Lê rĩ tai, cô không sao biết được là nhà chị Năm Trăng rất giàu, chị biết lái cả ô tô. Chị Năm không khảnh ăn, mặc lại xuềnh xoàng và cũng phải đi dạy thêm để có tiền chi tiêu. Ba chị ở chung nhà song rất ít khi đỏ lửa. Các chị có ít thời gian quá nên không ai nghĩ đến đi chợ, nhóm bếp, xào, nấu. Mỹ Hòa rất thương các chị. Thi thoảng, vào chiếu chủ nhật, cô thường lo bữa ăn tươi để bồi dưỡng sức khỏe cho các chị, để trong bữa cơm thân mật cô được nghe nhiều chuyện lý thú qua các chị. Cô ở cạnh má lâu hơn chị Mỹ Lê nên cô được má truyền đạt nghệ thuật nấu nhiều món ăn, làm đủ loại bánh mứt kẹo, do đó cô tưởng mình khéo tay hơn mấy chị nhưng cô đã nhầm. Chị Năm Trăng, Xuân Hồng, Mỹ Lê đều giỏi nội trợ. Chị Hai của cô thái thịt dẻo quẹo, rất nhanh. Kỹ thuật rán cá của chị Năm không ai chê nổi. Thì ra, bữa ăn của các chị: sáng qua quít nấm xôi, trưa gặm cái bánh mỹ ba tê, tối ra đầu phố ăn cơm ở quán bà Béo là do các chị của cô phải dành mọi giờ rảnh rỗi để hoạt động cách mạng. Cô thương mấy chị quá. Tuần trước, cô mua con gà mái về khao mấy chị. Trước khi giết thịt, cô chợt nảy ra sáng kiến: Em tính ta buộc truyền đơn vào chân gà, đến sẩm tối ta thả gà ra. Ai bắt được gà sẽ có truyền đơn. Mấy chị chấp thuận ngay đề nghị ngộ nghĩnh của cô em gái. Chị Xuân Hồng chọn điểm thả gà. Chị đưa Mỹ Hòa đi. Gần một giờ sau, hai chị em ôm gà về. Xuân Hồng vừa cười vừa thuyết trình:
    - Mấy bà coi nè, con nhỏ trói chân gà từ sáng đến giờ nên gà bị tê chân, quáng gà. Tôi đuổi mãi nó cũng không đi.
    - Con nhỏ giấu truyền đơn ở đâu?
    - Đây nè. Con nhỏ buộc dưới cánh gà sáu loại truyền đơn khác nhau. Nhỡ người ta nhúng gà vào nước sôi thì sao?
    Mỹ Hòa cãi :
    - Ai muốn làm thịt gà đều phai cắt tiết. Người ta sẽ cầm chân, giữ cánh gà. Chỉ tức là con gà này không chịu chạy.
    Chị Năm Trăng trêu Mỹ Hòa:
    - Con Ba nó mua phải gà rù rồi. Gà đang ngủ gục nè.
    Mỹ Lê gỡ thế kẹt cho em gái:
    - Em Ba tính khao tụi mình. Chị Năm lo gia vị. Em và Mỹ Hòa làm thịt gà.
    - Còn tôi? - Xuân Hồng hỏi
    Mỹ Lê phân công luôn:
    - Bà lo gạo nếp cho nồi cháo.
    Vì các chị chuyên lo thảo truyền đơn, bận nhiều việc khác nên Mỹ Hòa gánh vác phần rải truyền đơn. Cô bàn riêng với chị ruột:
    - Tại sao ta không viết khẩu hiệu?
    - Mày tính làm việc đó ngon lắm sao?
    - Ta chọn gạch non hay phấn màu. Chị canh chừng đề em viết.
    - Cô tính viết trong bao lâu? Cô không thể chiếng mặt ra chỗ có ánh sáng diện vì mỗi nét chữ đều có dấu vết để lại.
    - Ta cắt khẩu hiệu, dán lên vải, căng ở chỗ đông người.
    - Tôi cho cô tiền, cô mua vải về làm thử coi.
    - …
    - Ba! Em và mấy chị đểu không rành kẻ chữ, cắt chữ. Cho dù có khẩu hiệu, chị em ta đâu thể căng nổi ngang đường vì ta không biết trèo, không có người bảo vệ.
    Mỹ Hòa chịu thua lý lẽ chị Hai đưa ra nhưng cô không bỏ cuộc. Một hôm, cô mua về mười quả bóng bay cờ lớn nhất Cô bàn:
    - Tối nay em buộc truyền đơn vào từng quả bóng, em thả.
    Chị Xuân Hống hường ứng ngay:
    - Hay đó ! Coi chừng kẻo tụi nó trông thấy điểm em thả bóng.
    - Em thả vào tám, chín giờ tối sẽ ít bị chú ý.
    Hai chị Mỹ Lê, Năm Trăng không tiện ngăn em. Mỹ Hòa còn ít tuổi, hiếu động, luôn nghĩ cách làm cho công việc đạt hiệu quả cao nhất. Mỹ Lê hỏi em:
    - Lúc cô mua bóng về có ai trông thấy không?
    - Những người quanh đây thấy cả mà, chị Hai.
    - Nếu người ta tố cáo em thả bóng, em cãi sao nổi?
    - Em lcó lên gác thượng em thả nên không ai biết.
    - Mỹ Hòa! Chị tính là bữa nay ta thí nghiệm thả bóng chơi không gài theo truyền đơn.
    - Dạ .
    Đúng giờ hẹn, mấy chị em mang bóng lên sân thượng. Bóng đã xẹp hơi không bay lên nổi. Làm cách nào đây Chị Năm Trăng tháo dây thun ra sức thổi. Xuân Hồng, Mỹ Lê, Mỹ Hòa làm theo chị Năm. Vì hơi thổi ngắn lại không có kỹ thuật thối nên bóng cứ xẹp dằn. Giống như những lần trước, chị Xuân Hồng lại trêu Mỹ Hòa:
    - Nè , trông mấy quả bóng xẹp thả khác gì bánh đa nhúng nước. Mấy làm gì với mấy thứ này, Mỹ Hòa?
    - Chị liệng đi.
    Mỹ Lê đưa ra nhận xét với bạn nhưng với mục đích biểu dương, an ủi em ruột:
    - Bồ tính coi. Chị em ta đểu thua sáng kiến nhỏ Ba. Em Ba ưa tìm tòi, chịu suy nghĩ, chắt sẽ thành công.
    Xuân Hồng gật gù , tán thưởng:
    - Mấy chị thua nhỏ Ba rồi. Chị cho em tiền, em mua mười quả bóng khác thế vào. Ta mua hàng vào lúc 5 giờ chiều, bóng sẽ không bị xẹp.
    Mỹ Lê nhớ đến ý kiến trao đổi riêng với chị Năm Trăng. Chị Năm không thật đồng tình với kế hoạch Mỹ Hòa vì chưa bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người thả bóng nên tìm cách gạt đi:
    - Mình thả bóng nhưng mình không theo dõi được kết quả, không biết bóng rơi xuống địa bàn nào, ai nhặt được truyền đơn?
    Mỹ Hòa thừa nhận:
    - Ta hủy kế hoạch này đi mấy chị. Chị Năm nói đúng. Nếu tụi chúng mò ra nơi thả bóng sẽ tìm ra người làm việc này dễ dàng. Tốt nhất là em lại "đi gánh nước".
    Mỹ Hòa lo chuẩn bị "trận địa". Buổi chiều, sau giờ học, cô nữ sinh Dương Mỹ Hòa mặc đồng phục quần trắng, áo dài trắng, đạp xe qua nhiều ngõ hẻm để nghiên cứu địa bàn. Cô không thể sắm vai người gánh nước thuê ở khu phố thừa thãi nước máy. Cô chọn những gia đình gần đường, dễ gài truyền đơn ở cửa chính, cửa sổ hoặc thả qua hàng rào. Sẩm tối, cô quẩy đôi thùng rỗng, bên trong bỏ bó truyền đơn. Cô lấy ra mỗi lần hai chục tờ giắt trong người để dùng. Cô không "cho phép" máy chị đi cùng. Các chị ấy xinh đẹp nên rất dễ bị con trai bám theo trêu ghẹo, tán tỉnh. Hơn nữa, các chị không thạo gánh nước và không ai có bộ cánh của dân làm thuê như cô. Cô thận trọng song táo bạo, sáng tạo thực hiện việc các chị giao cho với niềm hào hứng vô biên. Khác với các chị, cô khỏe hơn, chi tiêu đỡ tốn kém hơn vì cô không cần may nhiều áo quần mốt mới, ghét son phấn và dễ ăn uống kham khổ. Cô không phải phụ giúp má nữa. Hàng ngày, cô chỉ cần bớt ra vài giờ dạy thêm cho mấy học sinh bậc tiểu học là cô đủ tiền nuôi mình ăn học và đi hoạt động cách mạng. Cô dành dụm chắt chiu từng đồng. Cô hạn chế tới mức thấp nhất mọi nhu cầu riêng cho mình để vài tháng có khoản tiền nhỏ đưa má. Chị Sáu thường gạt đi:
    - Má đủ sức lo cho các em con. Con đã lớn, con cần may mặc, ăn diện cho khỏi thua chị kém em.
    - Con thương lũ nhỏ quá? Tụi nó xa ba, xa má. Chị Mỹ Lê và con không có điều kiện gần gũi các em. Hay là má đưa tụi nó lên Sài Gòn?
    - Dì Bẩy nhận nuôi thằng Tư. Dượng Bẩy làm ở nhà băng của Pháp nên Tư Linh đủ điều kiện ăn học đến đầu, đến đũa. Cậu Tư, dì Năm mày đón Bẩy Thiện, út Hiếu về rồi. Hai thằng Ba Vĩ, Mười Tuân không muốn lên Sài Gòn.
    - Thiệt vậy a, má?
    - Nội, Ngoại không chịu rời hai cháu. Tụi nó thương bà, lo bà buồn. Theo má, đó chỉ là cái cớ thôi. Hai đứa bị mấy ông du kích xã hớp hồn rồi. Thằng Ba Vĩ, Mười Tuân mê đánh giặc quá chừng.
Mỹ Hòa đồng tình với ý kiến phân tích của má. Cô nhớ lần gặp hai em gần đây nhất. Thằng Ba Vĩ chín tuổi chỉ hơn Mười Tuân một tuổi nhưng có vẻ "người lớn" hơn em, khôn hơn em. Tuy nhiên, thằng Mười Tuân to con hơn, tinh nghịch hơn anh. Tụi nó mới cắp sách đến trường ít lâu song rất có ý thức phân biệt bạn, thù. Hai đứa trẻ khôi ngô, bụ bẫm, la cà vào đồn dịch. Những tên lính bảo an yêu trẻ, dẫn chúng đi chơi, mua quà bánh cho chúng ăn. Ba Vĩ Mười Tuân cười vui, hò hát, trò chuyện cởi mở với bọn lính song không lúc nào quên lời dặn của các chú du kích. Hái đứa đã mang về cho các chú hàng trăm viên đạn và hơn chục quả lựu đạn. Hôm Mỹ Hòa về quê, chính thằng em tám tuổi đã chỉ cho cô những căn hầm bí mật của Nội. Mười Tuân đã mời" chị:
    - Nếu chị Ba giỏi lội (bơi), chị lội sang bờ bên kia, lặn xuống chỗ gốc chuối sẽ thấy hầm bí mật
    Mỹ Hòa không muốn làm phật lòng đứa em nhỏ tuổi song cô thoáng chút ngần ngại. Từ thành phố về, cô chỉ mang theo bộ quần áo mồi duy nhất và cô không còn thời gian gội đầu nếu tóc bỉ dính bùn, đất. Mười Tuân không đoán nổi ý chị Ba. Cậu lộ ý tiếc rẻ :
    - Uống quá? Em đâu ngờ là chị không biết lội.
    Mỹ Hòa tươi cười:
    - Chị lội giỏi lắm. Chị có thể mò cua, bắt cá dưới' nước được.
    - Sạo Chị xem em lội nè!
    Mười Tuân vứt quần đùi lao xuống ao. Sợ em chết đuối Mỹ Hòa bơi theo. Cô lặn sâu, chui vào hầm. Mấy phút sau, cô quay ra. Mãi lúc này Mười Tuân mới chú ý tới bộ quần áo dài của chị. Nó trách:
    - Chị Ba dở ẹt. Em tắm mỗi ngày năm lần mà chả bao giờ bị ướt cả .
    Nó vừa lặn, vừa bơi, tay chân đập loạn xạ. Mỹ Hòa thích thú ngắt ai đứa em nhỏ. Chả ai dạy nó bơi cả. Nhà có ao, nó cứ nhảy đại xuống bơi theo kiểu chuồn chuồn đạp nước. Lúc đầu nó bỉ chìm, bị sặc, phải uống nước nhưng rồi nó nổi dần, bơi xa, lặn sâu. Mỹ Hòa gọi em:
    - Nè, Mười? Chị về đây. Em có muốn lên Sài Gòn với má và hai chị không?
    Mười Tuân ngỡ ngàng quá! Nó không thể rời quê nội vào lúc này. Nó chưa kiếm đủ trăm viên đạn để tặng các chú du kích. Nó mê những căn hầm bí mật quá. Ai sẽ sống trong những căn hầm? Chắc chắn là các cô, các bác thời chín năm, là bạn của ba, của má. Những năm qua, Mười Tuân còn nhỏ, nó không biết đường đi từ nhà Ngoại sang nhà Nội và nó cũng không ngờ ở bên Nội có nhiều điều bí mật quá ư lý thú mà trước đây chưa bao giờ anh Ba Vĩ hé lộ cho nó biết. Nó đã xin anh Ba Vĩ cho nó đổi chỗ : "Anh sang ở với Ngoại, em về sống với Nội" nhưng anh Ba Vĩ không ưng. Đúng là nó chưa biết đan rổ, rá, chưa thể phụ giúp Nội được nên nó đành ở lại thị xã Gò Công với Ngoại. Ở đây ngán lắm, ngày nào nó cũng trông thấy lính ngụy. Lính ngụy nhan nhản ngoài đường, vào cả trường học, rạp hát, sân banh. Ở đây, nó không trông thấy các cô chú du kích hoặc chiếc hầm bí mật nào. Anh Ba Vĩ sẽ đón nó mỗi tháng bốn lần vào ngày chủ nhật. Nếu nó lên Sài Gòn với chí Mỹ Hòa, nó sẽ không được tung tăng chạy nhảy với anh Ba Vĩ nữa. Nó từ chối:
   - Chị Ba! Em và anh Ba lên Sài Gòn, Nội và Ngoại sẽ rất buồn.
   - Chị sẽ thưa chuyện với bà .
   - Để thủng thẳng chờ hết năm học đã, chị Ba.
   Mỹ Hòa chịu thua ý này của em. Cô nghiêng đầu rũ rũ mái tóc. Tóc cô rậm, dày nên lâu khô. Cô hỏi em:
   - Em xem, đầu chị có lấm bùn không?
   - Sạch trơn mà, chị Ba!
   - Em vào trong nhà lấy gương, lược và cái khăn ra đây giùm chị.
    Mười Tuân chạy vụt đi. Mỹ Hòa đứng dậy, cởi áo, cởi quần vắt cho kiệt nước rồi lại mặc vội vào. Lẽ ra lúc nãy, cô nên cởi quắn áo để trên bờ nhờ Mười Tuân giữ hộ nhưng cô không làm như thế. Dù là chị ruột, cô ý tứ không mặc coóc-xê, xi-lip trước đứa em tám tuổi.
Mười Tuân đưa gương, lược cho cô. Cô dùng khăn lau khô tóc Cô soi gương. Đúng là tóc và mặt cô không bị lấm bùn vì nước ao nhà không đến nỗi dơ lắm và vì đường vào hầm khá thuận lợi.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 08:05:28 am
    Hôm đó, khi chia tay với Mười Tuân, Ba Vĩ, cô thèm cuộc sống của các em quá! Nếu bây giờ má cho phép cô tự lựa chọn ở đâu, dứt khoát, cô không về thị xã Gò Công với Ngoại mà cô sẽ xin về sống chung với Nội. ở với Nội, cô được tham gia du kích, được phát súng, được xông vào đồn giặc. Hai đứa em ruột của cô hạnh phúc hơn cô. Chúng nó kiếm được đạn, lựu đạn về cho du kích. Chúng nó biết hầm bí mật, bãi chông của xóm. Còn cô, cô chỉ quanh quẩn với truyền đơn, khẩu hiệu, tuyên truyền giác ngộ quần chúng. Cô kém chúng nhiều quá? ở Sài Gòn, cô sống trong nhà lầu đầy đủ điện nước, được học văn hóa, có kiến thức nhưng cô chưa bao giờ sờ đến khẩu súng. Cô chạnh nhớ tới ba. So với các em, cô hiểu ba nhiều hơn. Ngày chia tay với ba, cô đã chín tuổi, còn mấy đứa đang nhỏ xíu. ấy thế mà tụi nó đi theo con đường của ba sớm hơn cô. Nay mai nếu gặp lại ba, tụi nó sẽ có biết bao thành tích khoe với ba, còn cô? Mỹ Hòa tự hứa sẽ phải làm gì đó cho xứng đáng với ba. Cô phải giúp má lo gánh vác việc gia đình. Cô đến nhà dì Bẩy. Dì là em ruột má. Trong những năm chống Pháp, dì rất ham hoạt dộng, đã được công nhận là cán bộ phụ nữ cấp huyện. Sau năm 1954 dì Bẩy lập gia đình. Dì dượng rất yêu Tư Linh. ở với dì dượng, Tư Linh được ăn ngon, mặc đẹp, không phải lao động song cậu không thích như thế. Tư Linh tự giặt quần áo. Tuy mới 11 tuổi song cậu đã hiểu được hoàn cảnh gia đình mình. Hôm lên Sài Gòn, cậu dặn Ba Vĩ:
    - Bữa nào Mười Tuần, út Hiếu lên cơn hen suyễn mày phải giúp tụi nó. Má, chị Hai, chị Ba lên Sài Gòn rồi, tao cũng lên trên đó nên mày phải trông chừng các em. Thằng Bẩy Thiện hay nghịch, đừng để nó chơi gần bờ ao, dễ chết đuối lắm.
    Tư Linh vào học trường tư. Tháng đầu, cậu học đuối vì chưa quen thầy, cô và còn mặc cảm mình là anh nhà quê ra tỉnh. Từ tháng thứ tư trở đi, Tư Linh luôn là học sinh giỏi nhất, nhì của lớp. Cậu rất chăm học. Cậu học không phải cho riêng mình mà còn vì má, vì các chị và cần phải làm gương cho bốn đứa em. Cậu ham học còn vì ba cậu. Nội, Ngoại và bất cứ người thân nào đều nói là ba cậu học rất giỏi, cậu mang "gien" của ba. Cậu chưa biết “gien” là gì song cậu tự hứa phải làm sao để xứng đáng là con của ba, để nay mai gặp lại ba, cậu không bị xấu hổ.
    Mỹ Hòa đã hiểu chủ trương của má với Tư Linh Cô không phản đối và cũng không thực sự tán thành. Cô không ba phải, bỏ phiếu trắng mà là cô rất khó xử. Có điều gì đó cô chưa hiểu hết má cô. Má tìm mọi cách để bắt liên lạc với tổ chức Má khuyến khích chị Hai và cô tham gia hoạt động cách mạng. Má không rầy la khi biết Ba Vĩ, Mười Tuân lấy cắp đạn, lựu đạn từ đồn giặc giao cho du kích. Má ủng hộ Nội làm hầm bí mật, nuôi giấu cán bộ trong nhà nhưng với Tư Linh, má lại định để cậu ấy đứng ngoài cuộc. Mỹ Hòa chưa yêu, chưa làm vợ nên cô chưa lường hết tấm lòng người mẹ. Má cô là bà trường tộc của họ Dương và Dương Công Linh sẽ là trưởng tộc kế tiếp ba cô Tư Linh đón chị Mỹ Hòa với niềm vui đặc biệt. Mỹ Hòa hợp với cậu hơn chị Mỹ Lê vì chị Hai hơn cậu tới chín tuổi, chị có vẻ người lớn khi cậu đang còn là con nít. Ngày má bị bắt (1957), chị Mỹ Hòa 12 tuổi, cậu lên bảy nhưng cả hai thích chơi ô ăn quan, nhảy dây với nhau. Tối ngủ, cậu rất muốn nằm cạnh chị Mỹ Hòa nhưng cậu đành phải nhường cho bốn đứa em. Năm đó, Bẩy Thiện, út Hiếu mới hai tuổi. Chúng nó không rời chị Ba nửa bước. Mỹ Hòa kiểm tra sách vở của em. Cô thực sự hài lòng vì chữ Tư Linh rất đẹp, quyển vở nào cũng bọc họa báo và không hễ có mép vở nào bị quăn. Các bài kiểm tra, bài thi nào của Tư Linh cũng đạt điểm cao nhất với lời phê khá ưu ái của cô giáo. Mỹ Hòa không có điều gì chê trách em trai. Cô mở sắc, đưa cho em một ít tiền, Tư Linh gạt đi:
    - Chị Ba gửi về quê cho lũ nhỏ. Tụi nó cực hơn em nhiều.
    Dì Bẩy vào, ngồi xuống cạnh, âu yếm vuốt tóc Tư Linh:
    - Thằng nhỏ kỳ quá, ăn gì, mặc gì cũng nghĩ đến bốn đứa em.
Dì Bẩy khen Tư Linh hết lời: "Thằng nhỏ rất có ý, nó quét nhà, lau nhà, đánh cốc chén. Nó biết đi chợ mua cà phê, mua thuốc lá giúp dượng Bẩy". Mỹ Hòa thực sự hài lòng vế Tư Linh. Tư Linh khôn trước tuổi, đã có ý thức tự lập tự lo cho cuộc sống của mình, không để má và hai chị phiền lòng.
    Mỹ Hòa kể chuyện với má kèm theo những nhận xét của mình về các em. Má vui lắm. Đang nhớ tới những kỷ niệm về các con, bỗng má ngồi lặng thinh, cặp mắt nhìn xa xăm. Thoáng u buồn lại đến với má. Má nhớ các con vô cùng. Có bà mẹ nào muốn sống xa con, xa chồng. Vào năm 1961, má đã xa ba bảy năm. Suốt thời gian đó, má chỉ nhận vẻn vẹn được tấm bưu thiếp của ba. Ba đang ở nơi nào đó được gọi là Cẩm Phả.  Mỹ Hòa đã mượn về tấm bản đồ chỉ cho má biết nơi ba đang sống. Chao ôi, Cẩm Phả xa xôi quá Biết ngày nào má ra thăm ba hay ba trở lại miến Nam được. Tội nghiệp ba. Ba sống ngoài đó trơ trọi một thân, một mình không người thân thích. Mỹ Hòa đã nghĩ cách thông tin tới ba. Cô mua năm tờ bựa thiếp, gửi ở năm địa điểm khác nhau với nội dung không trùng lắp, trừ chi tiết má sanh hai em: em trai và em gái. Chả rõ ba cô có nhận được tin nhà không? Cô kể chuyện này với má. Má khen cô hiếu thảo, luôn nhớ tới người sinh ra mình. Má đưa ra dự kiến:
    - Má sẽ rút thằng Mười Tuân và con út Hiếu lên sống chưng với má .
    - Rủi má đi công chuyện, hai đứa có lo được cho nhau không? Còn Bẩy Thiện thì sao?
    - Tao tính rồi. Hè này, má sẽ đưa hai đứa gởi dì ứt Khuê. Thằng Bẩy khỏe mạnh, cứng cáp cứ để nó ở quê với cậu Tư rồi tính sau.
    Dì út lớn tuổi hơn má, quê ở Củ Chi. Dì đang làm nhiệm vụ giao liên, đưa rước cán bộ vào cứ. Dì gầy gò da đen xạm, chỉ võ vẽ đọc chưa thông, viết chưa thạo song dì đảm trách "một cánh quán" đặc biệt. Dì đón tiếp lính ngụy sĩ quan ngụy và cảnh sát ở ngay tại nhà mình, cười cười nói nói với bọn chúng, lo đãi chúng bữa nhậu thịnh soạn. Dì khéo léo làm công tác binh vận, lôi kéo, phân hóa bọn ngụy. Các anh cần cử đoàn cán bộ từ căn cứ vào hoạt động nội thành hoặc đưa khách từ thành phố vế cứ đều phải "thỉnh thị" dì. Dì út Khuê thường "phán":
    - Tối nay đến phiên thằng ác ôn Ba Gà Chọi gác. Tụi nó mới tăng cường thêm một trung đội, canh phòng cẩn mật lắm.
    - Bữa nay khỏi lo. Thượng sĩ Bẩy Lùn là đệ tử ruột của tao đó. Nếu tụi bay ưng ý, tao sẽ gởi thằng đó vô cứ. Bẩy Lùn mê trở thành anh giải phóng lắm.
    - Nhủ với mấy anh là tụi nó sắp mở trận càn lớn cỡ vài trung đoàn.
    Mỹ Hòa thăm dò má:
    - Má tính cho hai đứa sống chung với dì út à?
    - Đâu phải. Dì út sẽ đưa chúng vô cứ. Mấy anh, mấy chú sẽ dạy dỗ, bảo ban, kèm cặp tụi nó, giúp tụi nó theo lý tưởng của ba con.
    - Má đã trao đổi với chị Hai chưa? Sao má không đưa em Bẩy theo?
    - Mỹ Lê tán thành ý má. Thằng Ba Chân cũng ủng hộ phương án này. Đưa ba đứa nhỏ vô cứ không có ai trông nom sẽ gây phiền hà cho mấy cô, mấy chú . Khi mọi vỉệc đã ổn, má đón thằng Bầy sau.
    - Má gặp anh Ba hồi nào?
    - Má gặp nó luôn. Nó là chỉ huy trực tiếp của má.
    Má cười :
    - Nó muốn hỏi con gái má, nó phải lấy lòng bà già vợ chớ.
    - Sao anh Ba không tìm tới. con? Bộ anh tưởng con không có ki-lô nào với chị Hai sao?
    Má dí ngón tay vào trán Mỹ Hòa:
    - Ôi cái con này. Mày tính phá chị Hai sao?
    - Đâu có má! Con ủng hộ chi Hai hoàn toàn mà, má. Chị Năm Trăng và chị Xuân Hồng mê anh Ba Chân quá trời má ơi. Chị Mỹ Lê cũng rất ưng ý anh Ba.
    - Nó nói với mày vậy sao?
    - Con biết hết trơn, hết trọi rồi, má. Thuở nhỏ, anh Ba cực lắm, má à. Anh mồ côi cả ba lẫn má. Anh giỏi nhiều nghề lắm. Anh lên Sài Gòn kiếm sống bằng nghề thợ mộc. Anh thương chị Hai thực sự.
    - Ý chị Hai mày sao?
    - Má tính ở đất Sài Gòn này còn kiếm ai hơn anh Ba?
    - Thiệt sao?
    - Chi Hai con xinh đẹp, học giỏi, thạo nội trợ, khéo giao tiếp nên có không dưới mười cậu con trai đang theo đuổi chị. Má có tính gả chị cho con ông tướng ngụy không? Hay má muốn làm sui gia với bộ trưởng, thứ trưởng? Anh Ba nghèo tiền bạc, không có xe hơi, nhà lầu như họ. Anh Ba nhỏ con, không đẹp trai bằng họ, học vấn cũng thua kém họ nhưng anh Ba có cái mà họ không có được: đó là tinh thần yêu nước. Anh Ba theo đúng lý tưởng của ba nên xứng đáng là rể của họ Dương chúng ta.
Chị Sáu chăm chú nhìn con gái. Lâu nay, chị hiểu sai về con. Với các bà mẹ, đứa con nào cũng bé bỏng. Chị nghĩ là Mỹ Hòa mới 16 tuổi, còn quá nhỏ chưa nghĩ đến trưng diện, yêu đương. Qua ý kiến của con gái, chị thấy Mỹ Hòa sâu sắc ý tứ hơn chị nghĩ nhiều. ở đất Sài Gòn này, kén được người yêu hợp lý tưởng, thật là khó. ở nhiều nước, người phụ nữ thường chỉ có chức năng làm vợ, làm mẹ, làm bà, còn ở nước ta? Chị Sáu nhớ đến ngày chia tay với chồng. Nếu chỉ đơn thuần muốn làm vợ, chị sẽ theo anh, được gần gũi để săn sóc anh. Hiện tại, có ai trách chị là đã sao nhãng chức năng làm mẹ không? Chị có bảy con, chị đã gửi bảy đứa đi bảy nơi khác nhau là vì sao? Vì "lẽ sống" của chị và các con chị. Chị nhớ con da diết nhất là khi màn đêm buông xuống nằm một mình một giường ở gia đình cơ sở. Chị dư sức kiếm đủ tiến nuôi mình, nuôi các con nhưng chả lẽ "lẽ sống" của chị chỉ có lo cho các con ăn no, mặc đẹp, học giỏi? Chị phải nghĩ đến tương lai các con. Chị phải làm sao để khỏi hổ thẹn khi gặp anh. Hai đứa con gái đầu của chị đã nối được chí hướng của ba. Mỹ Hòa . phân tích rất đúng: Năm 1961 này, Mỹ Lê đang ở tuổi 20. Con gái má chưa thật sắc nước hương trời nhưng có duyên, rất ưa nhìn. Má đã nói với con gái: "Đàn ông lên quan thì chầy Đàn bà lên tắt nửa ngày nên quan" để tự con quyết định lấy số phận của mình. Nó có thể là bà trung tá, đại tá (ngụy) lắm. Nó cũng dễ trở thành bà chủ, vợ các thương gia triệu phú, chị làm sao ngăn cản nó nổi. Chị nhỏ to khuyên nhủ con:
    - Việc riêng của con do con tự quyết định song trước khi nhận lời ai, con cần xem người đó có hợp với ba không.
    Mỹ Lê đã hiểu ý má. Chữ "hợp" má dùng không phải do tính tình chất phác, giỏi cày sâu cuốc bẫm, không rượu chè, cờ bạc mà là hợp lý tướng. Anh Ba Chân đã hội tụ đủ mọi điều kiện của má. Thời đó, má rất chuộng cái lý lịch. Lý lịch của anh Ba thì khỏi nói: Anh mồ côi, anh nghèo khổ gia đình anh ở miền quê Cần Thơ, không có ai theo địch. Từ ngày có ý chọn Ba Chân làm con rể tương lai, má tin anh lắm. Má thường đem chuyên gia đình ra bàn với anh vì "thằng đó ở cấp chỉ huy, nó có lập trường cao để khuyên má làm điều đúng. Ba Chân cũng đón được ý bà già vợ tương lai. Bà lo cho đàn con nhỏ. Thông thường "gần mực thì đen, gần đèn sẽ rạng", bà ngại thằng Mười Tuân ở thị xã Gò Công dễ ngả theo địch. Thằng đó hiếu động và Ngoại chưa đủ bản lĩnh để hướng cháu theo lý tưởng của chồng má. Ba Chân khuyên má đưa hai đứa nhỏ vô cứ và được má chấp thuận với vẻ hài lòng đặc biệt. Ba Chân không thuộc loại điển trai. Anh hiến lành, ít nói. Anh để ý đến Mỹ Lê quả bà mối Năm Trăng. Chị Năm khen Mỹ Lê hết lời song anh không dám "tiếp cận mục tiêu". Anh ngắm Mỹ Lê từ xa. Cô ấy nhỏ nhắn, rất xinh. Qua cặp mắt tinh nhanh của chị, anh đọc được nét thẳng thắn, trong trắng, hồn nhiên. Anh là cấp lãnh đạo nên anh có điều kiện thẩm tra lý lịch chị thật tỷ mỹ. Anh chợt sững người. Mọi lời đồn đại về ba của Mỹ Lê là dân buôn bè vì mê gái, ham cờ bạc đã bỏ vợ, bỏ con đểu sai tất. Mỹ Lê có ba là tinh ủy viên và má là cán bộ phụ nữ huyện. Qua lý lịch Mỹ Lê, anh hiếu thêm về má. của cô: dì Sáu Hoàn. Thì ra dì Sáu không phải mới tham gia cách mạng mà dì đã vào Đảng từ năm 1949, dì có trình độ cán bộ cấp huyện. Cần phải giao cho dì trách nhiệm nặng nề hơn. Anh dự kiến rút dì Sáu vế làm cấp phó của Ban chỉ huy quân sự thành đoàn chuyên trách về hậu cần. Dì Sáu sẽ là cấp phó của anh, anh sẽ xưng hô thế nào khi ra lệnh nếu dì Sáu trở thành mẹ vợ anh? Anh chọn cụm từ “đồng chí má Sáu” và anh vẫn giữ cách xưng hô đó khi anh đã làm đám cưới với Mỹ Lê, đã trở thành con rể của má.
    Ba Chân vẫn theo đuổi Mỹ Lê . Anh không bám theo cô từng bước, không chờ cô ở cổng trường trước giờ tan học, không viết cho cô mỗi ngày một bức thư tình nhưng nhất cử nhất động của cô, anh đều được Năm Trăng, Xuân Hồng thông báo đầy đủ. Hai cô nhận làm bà mai tự nguyện và tích cực hơn mức bình thường. Cả Năm Trăng và Xuân Hồng đều ra sức tán dương anh Ba trước mặt Mỹ Lê và luôn đề cao mọi vẻ đẹp của bạn mình với anh Ba Chân. Khi đôi bên xem chiếu "tình trong như đã, mặt ngoài còn e", hai bà mai tổ chức cho cô - cậu gặp mặt nhau. Sau lần "chạm trán" này, Xuân Hồng truy bạn:
    - Anh ta nói với bồ những gì, khai ra!
    Mỹ Lê đánh .trống lảng:
    - Ảnh nói ảnh thương mình.     
    - Không được. Phải tường thuật đúng nguyên văn kia.
    Chị Năm Trăng chen vào:
    - Thôi tha cho nó. Lúc đó nó sung sướng, nó e lệ, nó hồi hộp, nó mắc cỡ, làm sao nó nhớ đúng nguyên văn. Nè, tao hỏi thiệt, nó đã "hun" mày chưa"
    Điều này thì Mỹ Lê có thể khai thành thật:
    - Anh ấy chưa dám ngồi gần em. Anh ấy chỉ dám bắt tay hơi lâu lúc tạm biệt.
    - Hơi lâu là bao nhiêu?
    - Bộ anh chị nắm tay nhau chín, mười phút để trò chuyện à?
    - Đâu có! Anh nắm tay em lâu hơn bình thường nửa phút. Khi em nhìn anh, anh đỏ mặt, ấp úng.
    - Mày có tính kể chuyện này cho Mỹ Hòa không? Liệu con nhỏ chấp nhận hay phản đối Ba Chân làm anh rể?
    - Em sẽ nói với Mỹ Hòa. Chắc nhỏ Ba sẽ đống ý với em.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 08:08:19 am
    Mỹ Hòa chia vui với chị. Cô lại lao vào học tập. công tác. Cô vẫn cay cú về chuyện khẩu hiệu. Cô không thể dung phấn viết lên tường vàng ánh nhưng cô phải có cách gì để thực hiện được ý định của mình. Một lần, khi nhặt rau, cô cầm cọng rau làm con tính nhân trên nền gạch. Cô chợt nhận ra có vết gì đỏ còn hằn lại. À phải rồi, đó là chất nhựa. Nếu dùng quả gì có nhựa viết lên tường thì sao? Quả gì nhỉ? Bí, mướp cam hay khế' Có lẽ dùng ổi hay hồng xiêm sẽ thích hợp. Mỹ Hòa bí mật mua đủ loại quả về để làm thí nghiệm nhưng kết quả chưa được như ý muốn. Cô chọn những quả mít non, cuống quả mít già để viết nhưng vẫn chưa kết quả. Cuối cùng, cô cũng tìm được "hòn phấn" thích hợp. Chị Năm Trăng gọi cô đến căn vặn:
    - Phải mày không Mỹ Hòa?
    - Điều gì vậy chị Năm?
    Mỹ Lê chen vào:
    - Em dám viết khẩu hiệu "Bác Hồ muôn năm" lên tường nhà tên đại tá?
    Mỹ Hòa tỉnh bơ:
    - Đâu phải em! Ở Sài Gòn có tới ba triệu dân, ai chả ưng điều đó.
    Chị Năm Trăng kéo Mỹ Hòa ngồi xuống cạnh mình, vuốt tóc em gái:
    - Ba nè? Em không qua mắt mấy chị nổi đâu. Mấy chị quen chữ viết của em, thuộc tính nết em. Em làm vụ đó phải không?
    - Dạ.
    - Có ai phụ giúp em không?
    - Chỉ có mình em thôi.
    Xuân Hồng, Mỹ Lê cùng hỏi:
    - Em làm cách nào để tụi nó không phát hiện được?
    Mỹ Hòa thấy không cần giấu các chị nữa. Cô lấy trong 1 cặp "đồ nghề" của mình. Đó là những quả cau già. Cô gọt vỏ cất chũm cau. Cô dùng phần còn lại của cau làm bút. Cô viết thử chữ Mỹ Lê lên tường nhà. Phải ít phút sau, nhựa cau thấm vào tường, nét chứ mới hiện lên. Chị Năm Trăng thích thú, hỏi:
    - Ai bày cho mày vậy, Mỹ Hòa?
    - Em tự nghĩ ra.
    - Sạo?
    Bị mấy chị nghi, Mỹ Hòa ức lắm. Cô thuyết trình từng bước "công trình nghiên cứu" của mình. Chị Năm Trăng tặc lưỡi:
    - Chà, chà! Con nhỏ này ghê gớm thiệt. Mỹ Hòa. Em không nên mạo hiểm như vậy, nghe!
    - Sao vậy, chị Năm? Chị khuyên em hay ra lệnh cho em?
    -Em còn nhỏ, chưa có kinh nghiệm. Rủi em bị bắt thì sao?
    - Em ráng chịu, em không khai ra mấy chị đâu.
    Mỹ Lê khuyên em gái:
    - Em phải tuân lệnh chị Năm. Chị em ta cố giữ sao cho không bị bắt. Vào tù giống má sẽ vô cùng cực khố và không còn điều kiện hoạt động nữa.
    - Dạ, chị Hai! Không biết còn mấy năm nữa ta mới gặp ba? Em nhớ ba quá! Mấy lần em nằm mơ thấy ba nhưng chả nói chuyện với ba được câu nào.
    - Nè, trước mặt má, em không được nói điều này kẻo má buồn. Ba má xa nhau bảy năm rồi. Tội nghiệp ba. Ba có bảy mặt con mà chả đứa nào nấu cơm, săn sóc ba, giặt quần áo giùm ba. Chả rõ ra miến Bắc, ba có trị dứt điểm bệnh hen suyễn không. Rủi ba ốm, ai hầu hạ ba? Lẽ ra chị nên theo ba tập kết ra Bắc.
    - Chị ở lại là đúng. Nếu chị đi, ai sẽ chăm lo cho các em trong những năm má ở tù? Nếu thiếu chị, ai sẽ đưa má và em vào tổ chức thành đoàn? Chị là trụ cột của gia đình, là bạn bè của má. Năm 1954, em đi cùng ba là đúng nhất. À, chị có biết gì vế mỏ than Cẩm Phả không?
    Mỹ Lê giở bản đồ Đông Dương cỡ 24 x 80cm lấy bút điểm một chấm nhỏ ở gần biển thuộc tỉnh Quảng Ninh, nói với em :
    - Ba ở cách xa chúng ta hơn hai ngàn kilômét. Ta không thể gọi điện thoại hoặc viết thư tới được. Em gửi bưu thiếp cho ba chưa?
    - Rồi. Em dùng năm địa chỉ người gửi, gửi từ nhiều thùng thư. Nếu tụi nó kiểm duyệt gắt gao, ba mình cũng nhận được ít nhất một bưu thiếp. Ba chưa hay má sanh Bẩy Thiện, Út Hiếu. Chị Hai!  Dì út Khuê đưa mấy đứa nhỏ vô cứ. Dì út hứa nuôi lũ nhỏ nhưng má không ưng. Má cũng không cho mấy đứa ở luôn trong căn cứ, sợ làm phiền mấy anh. Má thương lũ nhỏ, má tính từng đường đi, nước bước cho từng đứa khá chi ly, chị em ta không lường nổi đâu.
    - Chị tán thành cách xử lý của má. Cho mấy đứa vô cứ, ai sẽ trông nom kèm cặp chúng, chúng học ở đâu? Chị, em và má không thể bỏ nhiệm vụ ở Sài Gòn theo vô cứ săn sóc các em, ở với dì út Khuê càng bất lợi vì nhà dì nghèo, vùng Củ Chi luôn bị càn quét, rủi tụi nó dính tên rơi, đạn lạc thì má sống sao nổi.
    - Em chỉ muốn đưa tụi nó lên hết Sài Gòn.
    - Đâu thể đơn giản như vậy? Chị và má là đảng viên (chị Sáu Hoàn được kết nạp lại. Chị vào Đảng lần thứ hai). Em cũng đang là đối tượng của Đảng nên không ai rảnh rang chuyên lo việc nhà. Tụi nó còn nhỏ chưa thể tự lập được.
    Mỹ Hòa ngước cặp mắt đen nhìn chi. Cô phục chị Mỹ Lê lắm. Chị Mỹ Lê hơn cô nhiều quá. Chị nhiều tuổi hơn, xinh đẹp hơn, từng trải hơn. Chị tham gia hoạt động cách mạng trước cô, học giỏi hơn cô và có tài quán xuyến việc gia đình. Cô thương các em. Với tình cảm chị em cùng máu mủ ruột thịt, cô chỉ mong muốn chị em cùng sum họp một nhà lọ cho các em sung sướng nhưng cô chẳng nghĩ sâu bằng má, bằng chị Hai.
    Mỹ Lê, Mỹ Hòa rất tâm đầu, ý hợp. Hai chị em có thể nằm chung giường, trò chuyện suốt đêm không chán vế ba, về má, về các em, về công tác, học tập... Mỹ Hòa rất mừng đón tin mà chị Hai vừa thông báo: Ngày cô trở thành đảng viên, chắt không còn xa nữa.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 08:46:06 am
10

    Chị Sáu Hoàn trở lại Gò Công. Cũng giống như anh Bầy Đấu, chị tìm về quê thăm mẹ chồng, mẹ đẻ và các con một cách bất hợp pháp. Chị vế quê chồng ở ấp Xóm Đình vào ban đêm. Ấp Xóm Đình ở cách xã Bình Tân, quê chị hơn 10 kilômét. Có điếu khác là: Bình Tân thuộc vùng địch kiểm soát, còn ấp Xóm Đình được xem như vùng giải phóng. Đôi khi nếu dùng lực lượng mạnh, địch cũng có khả năng càn quét qua vùng ấp Xóm Đình nhưng chúng không dám đóng quân lại qua đêm. Chị gửi thằng con thứ tư cho bà nội nuôi: Thằng Dương Linh Nhất quấn quít lấy bà nội và Nội rất yêu cháu. Nội tiếp đón con dâu hồ hởi không chỉ vì tình mẹ con mà gói ghém cả tấm lòng của người dân với cán bộ cách mạng. Nội kể cho con dâu nghe đủ mọi chuyện về chi bộ, về các anh cán bộ hồi chín năm ai còn, ai mất, ai lãnh đạo vũ trang, kẻ nào đầu hàng giặc. Câu chuyện mà Nội dừng lâu nhất là chuyện thằng Nhất và em ruột nó là thằng Quảng. Thằng Quảng kém anh một tuổi, lại sống với bà ngoại trong vùng địch, không khôn bằng anh. Mỗi khi sang thăm Ngoại, thằng Nhất thường dụ em:
    - Mấy sang với Nội. Tao chỉ cho mấy xem mấy chú du kích. ¬¬¬
    - Thiệt vậy à , anh! Mấy chú có súng khô ng?
    - Có! Có súng thiệt kèm thêm súng bặp dừa. Mà mấy phải hứa giừ bí mật, chịu không?
    - Chịu. Anh Năm nè, súng bặp dừa bắn sao đặng?
    - Mầy ngu thấy bà. Súng đó để nghi trang thôi. Đến súng thiệt còn không có đạn, mấy anh xui tao đi kiếm.
    - Anh kiếm đâu ra đạn vậy, anh Năm?
    - Dễ ợt. Mấy đứa học trò trường Vạn Thắng tụi tao vô đồn xin đồ hộp. Tụi tao lấy cắp đạn. Tụi nó bắt được, hỏi lấy đạn để làm gì? Tụi tao biểu diễn luôn: Dùng kìm nhổ đầu đạn ra, đổ thuốc đạn vào lon đồ hộp, rồi đứng ở xa, dùng đèn cầy (nến) đốt. Lửa bốc rất cao, cháy phừng phừng. Tụi nó nạt, cấm tụi tao chơi trò trẻ con nghịch ngợm đó nhưng tụi tao đâu có ớn.
    Nội không lộ ý ngăn cản việc làm nguy hiểm của cháu. Chị cũng tán thành cách xử' sự của Nội. Muốn cho các cháu có cơm ăn no, áo mặc đủ thì dễ, nhưng muốn cho các cháu gần mực mà không đen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn phải chú ý từng cách nhìn, lối nói năng, giao thiệp của mấy đứa. Nội đã là mẹ của đồng chí tỉnh ủy viên, giờ đây Nội đang dìu dết mấy đứa cháu theo con đường của ba má và các chị chúng nó đang đi. Cách đây ít lâu, hai đứa cháu gái của Nội, con Mỹ Lê và Mỹ Hòa về ấp Xóm Đình thăm quê. Hai đứa kể cho Nội nghe đủ chuyện. Thằng Nhất bám riết hai chị. Một hôm nó lục túi Mỹ Hòa tìm thấy căn cước. Nó thắc mắc hỏi:
    - Tại sao trong giấy nầy dán hình chị lại ghi tên khác, chị Ba?
    Mỹ Hòa giật lấy tấm căn cước, dọa em:
    - Đồ con nít. Không được trò chuyện người lớn.
    Giận chị, thằng Nhất khóc tức tưởi. Mỹ Lê khéo dỗ em bằng cách nêu ra các câu hỏi:
    - Em có biết ba chúng ta đang ở đâu không'
    - Em biết rồi. Ba đang ở thủ đô Hà Nội.
    - Tại sao ba không ở lại với má, với Nội và chị em mình lại ra miền Bắc?
    - Việc đó thằng Quảng cũng biết nữa chớ em. Ba của mình đi làm cách mạng mà, chị Hai?
    - Đúng rồi.
    - Em cho chị hay, ba tên chi.
    – Ba là Đấu, Dương Văn Đấu, Bẩy Đấu.
    Mỹ Lê chỉ chờ có vậy. Cô muốn dẹp lòng tự ái của đứa em ruột từ từ. Cô đặt cho thằng Nhất câu hỏi:
    - Chị Hai đố cậu Năm là khi vào vùng địch, ba có mang căn cước tên là Dương Văn Đấu không?
    Làm ra vẻ thông minh, Nhất đáp:
    - Mang tên thiệt, tụi nó dễ nhận ra ba, tụi nó dễ bắt ba.
    Chị Hai vỗ tay hoan hô :
    - Vậy đó Chị Ba cũng làm cách mạng như ba. Chị lo em còn nhỏ, em không biết giữ bí mật. Bây giờ cưng còn giận chị Ba không?
    - Hứ!
    - Chị thay mặt chị Ba xin lỗi cưng nghe. Cưng hứa là không nói với ai điếu nầy nữa nghe.
    - Dạ?
    Nhất giữ lời hứa với chị Hai, không kể điều bí mật của hai chị cho ai nghe, nhưng với thằng Quảng thì khác. Nhất tin nó lắm. Nhất sinh năm 1952. Thằng Quảng kém Nhất một tuổi nên Nhất không muốn xưng anh với nó. Nhất kể cho em nghe mọi chuyện và rủ :
    - Mấy sang chỗ tao, tao chỉ cho xem nhiều thứ lắm.
    - Thứ chi, anh?
    - Mấy chú lấy khí đá (đất đèn) cho vò bình sành, lèn đất thiệt chặt rỗi đốt cho nó nổ. úi cha, tiếng nổ to thấy bà. Mà mấy biết không? Mấy chú rào kín hết làng rồi, đêm đến đem lựu đạn gài, sáng lấy cất đi.
    Dương Nhất Quảng ở trong vùng địch. Cậu không có điếu gì để kể cho anh. Cậu mến phục anh lắm. Cậu trợn tròn mắt, há hốc miệng, chăm chú lặng nghe anh kể chuyện, thỉnh thoảng lại chêm vào hai tiếng "hay quá". Làm ra vẻ người lớn, Nhất bảo em:
    - Tao xin phép với Ngoại cho mày cùng đi, nghe?
    - Em còn học.
    - Vậy thì chủ nhật tao sang đón mấy.
    - Dạ!
    Nhất đã dành cả ngày chủ nhật cho em, dẫn em đi chơi khắp nơi.
    - Mầy có biết vì sao mấy chú đào giao thông hào này không?
    - Mấy chú chạy ở dưới nầy để đánh giặc.
    - Nè, tao chỉ cho mấy cái hầm của Nội. Nội nuôi mấy chú cán bộ trong nhà. Nội còn hầm bí mật ở dưới bụi cây này, nè. Nâng cái nắp nầy lên, mấy chui vào hầm, có đường ngách bò ra bờ sông. Nếu có báo động, mấy chú thoát theo con đường đó rất bí mật.
    Quảng nhìn anh bằng cặp mắt thán phục. Cậu rụt rè đề nghị:
    - Em ở luôn đây với anh nghe!
    - Đâu được, mấy. Mấy không nhớ lời má dặn sao? Mấy phải thay phần má, săn sóc cho Ngoại đỡ buồn. Tao có trách nhiệm với Nội.
    - Hay là anh đổi chỗ cho em.
    Điều nầy thì thật là khó xử. Thằng Quảng xin Nhất thứ gì Nhất cũng cho nhưng đổi chỗ cho nó về đây Nhất không muốn một chút nào. Nhất không biết trả lời nó như thế nào. Nhất hỏi:
    - Mấy có quen mấy chú cán bộ không?
    - Nội sẽ giới thiệu em với mấy chú.
    - Mấy có biết nấu cơm cho mấy chú ăn không
    - Em nấu cơm giỏi lắm rồi, anh Năm.
    - Mấy có dám đi lượm đạn cho mấy chú không?
    - Dám. Vây mấy có biết chỗ mấy chú gài trái, gài lựu đạn đêm không?
    - Anh chỉ cho em.
    Dương Linh Nhất bí quá. Cậu đã nêu hết lý do đều bị chú em bác bỏ. Sang với Ngoại, sống với tụi nó, Nhất đâu chịu nổi. Nhưng từ chối thằng em bằng cách nào? Nhất không muốn nói cái câu: "Tao không nhường cho mấy" mà phải tìm ra cái cớ nào đó. Ai Nhất nghĩ ra rồi. Cậu đặt thêm với em câu hỏi:
    - Mầy có biết chẻ tre, vót nan, đan rổ rá, giúp Nội đem ra chợ bán kiếm tiền về nuôi mấy chú cán bộ không?
    Quảng ớ người. Anh Nhất rất khéo tay. Bà ngoại, các cậu các dì đều khen anh đan lát giỏi. Quảng không làm được như anh. Đêm hôm đó, Quảng ngủ lại với anh. Nửa đêm, Quảng choàng tỉnh vì những tiếng nổ xé tai, tiếng mõ tre, trống, tù và, thùng chậu và tiếng hô xung phong vang khắp đó đây. Mấy chú cán bộ, du kích chạy rầm rập ngoài đường. Nội ôm hai cháu vào lòng, thì thầm bên tai các cháu: "Đồng khởi dó. Ba các cháu sắp về rồi!" Nhất và Quảng muốn đổ ra đường nhưng bị bà giữ lại. Nhất không muốn để bà ở lại một mình và sợ thằng Quảng dẫm phải mìn. Quảng cũng không dám bước ra khỏi cửa nếu không có anh Nhất cùng đi. Nội hiểu nỗi lòng hai cháu. Nội trao cho mỗi đứa cái thùng gánh nước và con dao con. Hai đứa gõ sống dao vào thùng, miệng hô xung phong inh ỏi vang cả gian nhà.
    Chị Sáu Hoàn say sưa nghe chuyện các con. Các con của chị mang dòng máu cộng sản trong huyết quản đã phân biệt rõ ta, bạn, thù. Chị mừng lắm, chị dự kiến đưa các con lên Sài Gòn cùng ở chung để có điều kiện dạy dỗ, giáo dục con nhưng chị tạm bỏ ý định đó vì cả mẹ đẻ, mẹ chồng đều không đồng ý và vì chị thấy các con của chị đã trưởng thành đúng theo ý chị mong muốn. Chị thương các con lắm. Về quê, chị gom mấy đứa nhỏ lại chung sống với mình. Chị ngắm các con mà hởi lòng, hởi dạ. Chả hiểu có phải do di truyền không mà thằng Quảng, con Hiếu đều mắc chứng hen suyễn giống ba, mỗi lằn lên cơn hai đứa ho khù khụ thâu đêm, quằn quại vì đau đớn. Ngày chưa lên Sài Gòn, Tư Linh sẵn sàng thức thâu đêm bên các em, chiếu theo mọi đòi hỏi của các em. Tư Linh hiểu tính cách từng đứa. út Hiếu đòi anh Tư gục xuống làm đệm cho nó dựa còn thằng Quảng bắt anh Tư vuốt ngực; xoa lưng. Tư Linh càng lớn, càng giống ba, giống đến mức những người quen của ba gặp nó lần đầu đều hỏi: "Mày có phải là con Bẩy Đấu không?" Thằng Nhất kém anh hai tuổi nhưng giỏi lao động nhất nhà. Nó theo Nội ra đồng, ai làm gì nó cũng bắt chước. Nó cuốc đất, nhổ mạ, cấy lúa, tát nước khá thành thạo. Nó dẫn anh Tư và mấy đứa em đi câu cá, mò cua, bắt ếch về rồi tự làm thức ăn mời má. Chị Sáu Hoàn là thầy dạy nấu ăn nhưng chị không phụ giúp, không chỉ đạo kỹ thuật cho các con. Chị khoái trá hưởng thú vui đặc biệt khi thưởng thức món ăn do chính mấy đứa con trai của chị nấu. Có một lúc thằng Quảng kéo chị riêng ra một chỗ, dắt chị vào buồng:
     - Má? Con đố má biết hầm bí mật ở đâu?
    Thằng Quảng đâu có ở với Nội. Rõ ràng là cu cậu mới được anh Nhất bày vẽ cho, bây giờ cu cậu vội khoe với má.
    Chị Sáu nhìn quanh, không nhận ra nắp hầm. Thằng Quảng ra lệnh cho chị:
    - Má úp mặt vào tường, má nhắm mắt lại để con đi trốn. Đố má tìm được con.
    Chị Sáu mở mắt sau tiếng "Xong rồi" của con. Rõ ràng là nó đang ở trong nhà này nhưng nó ở đâu? Tiếng thằng Quảng vọng ra:
    - Con ở đây má nè !
    - Con chui vào giữa bịch thóc bằng cách nào vậy
    - Má chịu chưa?
    - Má chịu.
    Thằng Quảng chui theo đường hầm ra, dẫn má vào chỗ ẩn nấp. Thì ra bịch (cót) thóc đan rỗng ruột đủ một chỗ cho người nấp khi có tiếng động. Chị Sáu vui với trò tinh nghịch của các con. Thằng Quảng đưa chị ra bụi tre, dẫn chị xem hầm bí mật khác. Đó là cái chum có nắp đậy đặt sầu trong lòng đất. Thằng Quảng giải thích với vẻ ông cụ non:
    - Quê ta trời mưa nhiều, đất dễ sụt lở lắm. Mấy chú du kích dùng cách này để hầm khỏi bị ngập nước.
    Chị Sáu Hoàn rủ Quảng ra thăm ao. Mỹ Hòa nói là ở bờ ao có hai hầm bí mật, chị phải tự mình quan sát để xác định vị trí có hầm . Chị dắt con đi bộ quanh bờ ao. Nước ao  phẳng lặng, cỏ mọc tươi tốt. Làm sao mấy cô, mấy cậu du kích đào được hầm bí mật ở đây. Chị nhớ lời kề của Mỹ Hòa: "Mười Tuân thách đố con. Con sục sạo khắp nơi vẫn không thấy dấu vết khả nghi. Con chịu thua. Em nhảy ùm xuống ao, bơi một đoạn rồi lặn. Không thấy em nổi lên, con hoảng quá. Con đang mặc quần trắng, áo dài trắng phải nhảy ào xuống nước để cứu em. Mười Tuân trồi lên. Nó cười toét miệng, xui con:
    - Chị Ba. Chị tới đây. Chị ngụp xuống, chui vào ngách này là sẽ thấy hầm.
    Con hơi ngán vì tóc con dày, nước ao bẩn. Mười Tuân khuyến khích con :
    - Không ngợp đâu, chị Ba. Anh Ba Vĩ vô hầm luôn. Emcòn nhỏ, lội dở ẹt nên anh Ba nạt em, không cho em vô trong đó .
    Vì tò mò và cũng vì chiều lòng cậu Mười, con ngụp xuống thui vào liền. Con đứng trong hầm, nước ngập tới ngực, tối như đêm ba mươi nhưng không ngạt thở vì có hệ thống thông hơi rất tốt.
    Chị Sáu Hòa không có ý định kiểm tra tại chỗ nói có hầm. Chị hỏi Quảng, Quảng phụng phịu:
    - Hầm ở đây, má nè. Anh Năm không cho con đến gần vì con bởi còn dở quá.
    Chị an ủi con:
    - Má cũng không biết lội, má ngại bị chết đuối quá. Thôi má con ta về đi.
    - Dạ!
    Thằng Quảng lon ton chạy trước. So với bảy chị em, có lẽ nó mập nhất, bắp thịt tay chân chắc nịch. Chị hỏi con:
    - Sao mỗi lần lên cơn suyễn, con cứ bắt tội anh Tư vậy? Ngoại, Nội, các dì, các cậu lo cho con không được sao?
    Thằng Quảng cười toét miệng.
    - Kỳ quá má à! Nếu anh Tư không vuốt ngực cho con, cơn suyễn lâu lui lắm. Con và út Hiếu thương anh Tư lắm.
    - Anh bận học. Nếu anh mất ngủ, anh sẽ ngủ gục trên lớp, sẽ nhận điểm xấu.
    - Tụi con ráng chịu, không gọi anh Tư nhưng không chịu nổi, má à .
    Chị Sáu Hoàn bồng thằng Quảng lên. Nó nặng quá. Nó thích thú bá cổ má, áp má mình vào má má. Thằng bé thiếu tình thương của má nên đà dồn hết tình cảm cho anh trai. Tư Linh đâu có phép thần thông hoặc đôi tay của nhà ngoại cảm mà chỉ truyền tình máu mủ, ruột thịt đến các em, xoa dịu cơn suyễn của các em. Chị hỏi con về Bẩy Thiện. Thằng nhỏ ở với em trai chị, cách Bình Tân ba kilômét. Vùng đó ở dưới sự kiểm soát của địch nhưng không gắt gao lắm. Tối nay chị phải sang đó, ngủ trọn đêm bên con. Má chồng khuyên chị:
    - Con không nên mạo hiểm. Để má nhờ người đón thằng nhó về cho con.
    - Sang đó con còn ngỏ lời cám ơn cậu Tư, dì Năm đã nuôi cháu giùm con. Con đánh du kích bất ngờ nên không hề chi, má à.
    Chị Sáu Hoàn đã đạt được ước mơ ôm Bấy Thiện ngủ trọn đêm bên con.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 08:49:02 am
11
    Kĩ sư Dương Văn Đấu xoay dọc, xoay ngang tờ bưu thiếp Anh sẽ viết gì cho vợ, cho con? Nếu thả sức, anh có thể viết đặc kín 20 trang, 30, 40 trang giấy. Anh có biết bao điều cần tâm sự với chị. Anh nhớ các con quá chừng. Tuy nhiên anh không thể gói ghém nỗi lòng qua mấy dòng bỏ trống trong tờ bưu thiếp, nhất là loại bưu thiếp gửi công khai, ai cũng đọc được và kẻ địch đang muốn dò tìm được điều gì đó qua từng chừ trong thư. Anh đắn đo lắm.
    Trước hết, anh tự đặt cho mình câu hỏi: có nên gửi bưu thiếp không Từ Cẩm Phả đến Gò Công quê anh xa khoảng hơn hai nghìn kilômét. Quãng đường đó với những nước tiên tiến, có hòa bình, thì chỉ cần chậm nhất hai ngày là thư từ người gửi đến tay người nhận và chưa đến năm giây quay số điện thoại là hai người ở hai bên đầu dây thỏa sức trao đổi tâm tình với nhau. Còn bây giờ? Anh sẽ gửi bưu thiếp theo địa chỉ nào? Anh không thể gửi cho mẹ. Ấp Xóm Đình, nơi mẹ anh ở, là vùng kháng chiến cũ nên nhà anh thường có nhiều cán bộ cách mạng lui tới. Anh cũng không định dùng địa chỉ của mẹ vợ. Nếu vợ anh ở với cụ thì sao? Anh chọn người nhận là chị ruột. Vợ chống chị đều là dân quê chân lấm, tay bùn nên ít có khả năng bị địch nghi ngờ, dò xét. Anh cầm bụt viết nháp: "Ba là giám đốc mỏ than Cẩm Phả . Ba mới có bầng kỹ sư mỏ . Chúc Nội, Ngoại, đôi bên gia đình, em và bảy con khỏe mạnh. Ba khỏe, mập hơn trước." Anh đọc lại và nhận ra ngay sơ suất của mình. Trong bưu thiếp, cần gì phải xưng là "ba" và khoe mình đang làm giám đốc? Câu thăm hỏi xã giao ghi đủ mối quan hệ giữa mọi người cũng không thích hợp. Anh viết lại, nội dung ngắn gọn, súc tích như anh đã gửi thiếp lần trước: "Em đã đậu kỹ sư, công tác ở mỏ than Cẩm Phả - Bẩy. Anh không tin là bưu thiếp này sẽ đến tay vợ anh, các con anh nhưng nếu không gửi đi, anh chưa thật yên tâm. Anh bấm chuông. Chú liên lạc có mặt ngay tức khắc. Anh yêu chú Thắng lắm. Thắng ngoan và rất thạo việc Ngày mới về công tác, anh dự định cắt tiêu chuẩn công vụ phục vụ riêng giám đốc. Tại sao anh không thề tự giặt lấy quần áo, tự nấu lấy nước uống, nước tắm, quét nhà nấu cơm, rửa bát? Các đồng chí trong đảng ủy thuyết phục anh. Anh thanh minh:
    - Tôi quen lao động chân tay. Có công vụ, tôi bỗng như ông chủ được người hầu hạ nên rất ngượng và không đành lòng.
    - Đừng nên nghĩ vậy, anh Đấu. Đồng chí công vụ và anh đều ăn lương nhà nước, đều bình đẳng về chính trị như nhau. Anh là giám đốc, anh cần dành thời gian để lo việc lớn cho mỏ. Anh nhận cậu Thắng vào làm liên lạc là chính và chỉ giúp việc cho anh khi nào anh quá bận.
    Thắng mới 20 tuổi, học hết cấp ba. Cậu ta giao hẹn:
    - Em phục vụ giám đốc hết mình. Em chỉ có nguyện vọng là giám đốc cho em làm thợ hầm lò. Anh cười:
    - Chui vào hầm cực thấy mồ. Sức mày chịu nổi không?
    - Em khỏe lắm, giám đốc cứ tin ở em.
    - Tao tin.
    Nè Thắng Con gái lớn của tao đến tuổi gả chồng rồi ảnh nó đây nè . Nếu mày ưng nó , tao cho đó .
    - Nếu vậy em phải gọi giám đốc là ba rồi.
    Anh Đấu chỉ vào cái ảnh để trên bàn:
    - Nó đây nè. Năm 1954, tao đi tập kết nó 13 tuổi. Tên nó là Mỹ Lê.
    Anh không có ảnh nào khác. Hơn một năm gần đây ngày càng có nhiều cô gái đến với anh, nhiều người ngỏ ý xa gần khuyên anh nên lấy vợ hoặc nên tìm thú vui trăng gió cho đỡ nhớ nhà. Với ai, anh cũng giải thích nhỏ nhẹ :
    - Tôi có vợ rồi. Không bao giờ tôi phản bội cô ấy.
    Nhiều người không tin anh. Có ông bạn già còn nửa đùa, nửa thật khuyên:
    - Tao nghiệm rằng cứ một bữa không ăn là thấy bứt rứt khó chịu, một ngày không có gì cho vào bụng là đói hoa cả mắt, đứng ngồi không yên. Cái khoản kia cũng vậy. Đằng ấy chỉ nhịn dược nửa năm, một năm chứ không cai được mãi đâu.
    - Bác nói vậy để đùa vui thôi. Các vị cha cố, mấy ông hòa thượng cữ suốt đời nào có sao đâu
    - Làm sao mà mày biết được ma ăn cỗ?
    Anh sẵng giọng:
    - Thưa bác, con người ta có trái tim, khối óc. Con không thể làm chuyện bậy bạ được.
    Ở mỏ, anh chưa hễ sàm sỡ hay buông lời tán tỉnh, trêu ghẹo cô gái nào. Người ta đố nhau nghĩ cách nào làm cho “anh thầy tư” Dương Văn Đấu phá giới. Người ta còn kể cho anh nghe sự tích Cửa ông. Ngày xưa nơi đây hoang vu, chưa có người ở, là chỗ lưu đầy tướng quân Trần Khánh Dư vì tội thua trận Vân Đồn và có mối quan hệ không chính đáng với con dâu một vị có tước vương họ Trần. Rời quan, Trần Khánh Dư làm nghề bán than. Nhờ dâng bài thơ "Bán than" đầy khí phách: ". . . ở với lửa hương cho trọn kiếp. Thử xem sắt đá có bền hơn..." Vua cho ông được phục chức. Người kế tiếp ông bị đầy ra trấn ải Quảng Ninh là con thứ ba của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn tên là Trần Quốc Tảng. Vị vương gia này nuôi ý định biến vùng này thành nơi sầm uất, đông dân. Đức ông xin vua cho hàng trăm cung phi hoặc mỹ nữ từ kinh đô đến. Nhờ ơn huệ đó tất cả con trai, đặc biệt là con gái vùng mỏ này nổi tiếng là đẹp nhất nước và các cụ phụ lão địa phương quyết định đổi tên Cửa Suốt thành Cửa ông.
    Người ta luôn nhắc anh: Anh là giám đốc mỏ. Anh thừa sức có người vợ hoặc người tình trẻ và đẹp nhất vùng Cửa ông.
    Anh không tranh luận nữa. Anh chụp lại ảnh cũ, phóng to cỡ 18 x 24cm. Anh mua cái khung đẹp, trước khi lồng ảnh vào anh nắn nót viết dòng chừ: "Một vợ, bảy con đang chiến đấu ở miền Nam". Từ ngày có "tuyên ngôn" này, không còn ai gây rắc rối với anh nữa. Anh tâm sự với Thắng:
    - Tao mới nhận được bưu thiếp là vợ tao sinh thêm cho tao một trai, một gái. Tao là Bẩy Đấu, có bảy con. ở quê tao, đứa đầu gọi là Hai, con út là Tám Hiếu hoặc út Hiếu.
    Thắng trêu:
    - Nếu ba cho con làm con rể, con là Hai Thắng à?
    Anh cười khì, chống chế:
    - Khi nào nhận được tin Mỹ Lê đồng ý mày hãy hay. Chú em ra bưu điện gửi giùm anh tấm bưu thiếp này.
    Thắng vút đi nhanh chóng. Đúng là nhờ có cậu ta mà cuộc sống của anh dễ chịu hơn, thoải mái hơn, sức khỏe của anh cũng bảo đảm hơn. Ở mỏ, anh bận trăm công nghìn việc. Anh không vướng víu gia đình và chả có chuyện riêng tư gì phải quan tâm nên anh dư sức lao vào việc. Không nơi nào của vùng mỏ này anh chưa đặt chân tớ. Ngoài 40 tuổi, anh rất sung sức. Anh là giám đốc miệng nói, tay làm hoặc như nhiều người thường nói là văn võ song toàn. Anh có sức dẻo dai, bền bỉ của người nông dân ham lao động từ nhỏ, có kiến thức cùng đôi tay khéo léo của học sinh trường Bách nghệ; có trí tuệ uyên thâm của một kỹ sư mỏ, kèm theo lòng yêu mỏ tha thiết và bản lĩnh một nguyên tỉnh ủy viên, một bí thư đảng ủy nên anh luôn tìm ra việc cần làm. Mỏ của anh có cả vạn công nhân. Chỉ riêng quyết tâm phải nhớ hết tên mọi công nhân làm anh tốn biết bao thời gian, công sức. Anh phải bỏ nhiều đêm, đến nhà riêng từng người thợ. Anh đi bộ đến nhà ở tập thể, cùng ăn, cùng ngủ với công nhân, trò chuyện với anh em để hiểu hoàn cảnh từng người. Rất may là anh đã quen với khí hậu quái ác của miền Bắc. Còn nhớ năm đầu tiên đến Cẩm Phả, anh không sao chiu đựng nổi cái rét cắt da, cắt thịt tê buột cả tay chân. Trời! Từ thuở cha sinh mẹ đẻ , chưa bao giờ anh gặp rét như vậy Anh mặc cả năm chiếc áo sơ mi, khoác thêm chiếc áo bông ra ngoài mà vẫn thấy lạnh. Ngày đó, giám đốc chưa có lương và khó lòng kiếm mua được chiếc áo len, găng tay len. Buổi tối, muốn dỗ yên giấc ngủ, anh lấy cái chậu hỏng, xếp than lên trên làm lò sưởi. Những ngày đầu anh không dám bước chân ra khỏi nhà. Anh sợ rét quá. Người ta nói rét Việt Nam là rét ngọt. ở nhiều nước trên thế giới có băng tuyết, nhiệt độ ngoài trời thường là âm 15º – 20ºc nhưng là rét khô, không khí không bị ẩm nên nhiều người Việt Nam ra nước ngoài thấy dễ chịu. ở đây cái lạnh thấm vào từng lỗ chân lông anh, chui vào miệng, vào mũi anh, thậm chí tai anh tê cứng, bấm không thấy đau. Tự nhiên anh nhớ đến chuyện cổ tích anh đọc được từ thuở nhỏ. Trời rét. Anh nhà giàu lộ ý khinh thường. Gió thổi mạnh. Anh này mặc thêm áo len, áo bông rồi áo lông cừu. Thần gió trổ hết thần lực. Anh nhà giàu lên giường trải đệm lông, đấp năm sáu cái chăn dày. Thần gió không chịu thua, sai gió luồn qua mọi kẽ hở chui vào chăn, khiến cho anh chàng nhà giàu không chịu đựng nổi phải xin đầu hàng, thua cuộc. Anh nhà nghèo có cách xử sự ngược lại. Anh thiếu quần áo ấm. Anh dùng thuổng, dùng mai đào đất. Do lao động nặng nhọc, mồ hôi anh tuôn ra nhễ nhại. Anh cởi chiếc áo rách đang mặc cho đỡ nóng. Quá mệt mỏi, thần gió đành chịu hàng phục trước sức lao động bền bỉ của anh nhà nghèo.
    Giám đốc Dương Văn Đấu gật gù tán thưởng. Anh đã có biện pháp trị rét vô cùng hiệu quả. Anh không ngồi ru rú một chỗ nữa. Anh xuống hầm lò lao động cùng thợ mỏ . Anh đi bộ đến từng khu nhà của thợ. Anh quen dần với rét. Anh không cần dùng lò sưởi nữa. Anh em lo cho anh cái đệm rơm, đệm rạ. Ở Gò Công quê anh, bà con xã Bình Tân nói riêng, cả vùng Nam Bộ nói chung đều dùng lá dừa nước lợp nhà. ở miến Bắc, nhân dân dùng rạ đánh thành tấm tranh không chỉ để lợp nhà mà còn tạo nên những tấm đệm êm và rất ấm. Đã biết bao mùa rét, anh sống ở miền Bấc. Giá anh được phép viết thư về Gò Công, anh sẽ kể cho bà con nghe thế nào là rét ngọt. Lại còn nóng nữa chứ? Mùa hè, trời nắng chang chang, nắng như đổ lửa, như thiêu, như đất đa thịt người ta Suất ba tháng hè, mồ hôi anh hôn nhễ nhại khiến anh chỉ muốn cởi trần, ngâm mình trong nước lạnh. Anh thương công nhân quá? Trời nắng nóng như thế mà thợ mỏ phải chui xuống hầm lò, lao động nặng nhọc thì chịu sao nổi. Anh lo thiết kế hệ thống quạt, đem theo luông gió thoáng mát cho thợ . Cho đến bây giờ , anh đã là người dân miề n Bắc thực thụ rồi. Anh không tự xưng là Bẩy Đấu nữa mà đã quen nghe: anh Đấu, giám đốc Dương Văn Đấu. Công việc ở mỏ cuốn hút anh. Anh chỉ có thời gian nghĩ đến vợ, con khi ngả lưng trên giường. Anh tiếp tục sống những ngày Bắc, đêm Nam. Anh luôn nhớ đến lời "tuyên ngôn" anh ghi dưới tấm ảnh: "Một vợ, bảy con đang chiến đấu ở miền Nam".


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 09:03:47 am
    Chị Sáu Hoàn thao thức không sao ngủ được. Chị mới nhận được thư của anh Bẩy Đấu và cả tấm hình của anh nữa. Anh. mặc bộ complê đen, tóc rẽ. Chị ngắm hình anh mãi không chán. Các anh ở Ban giám hiệu lớp học tại Thị Vải đã lấy ảnh chị ghép chung với ảnh của anh thành tấm ảnh đôi mà chị rất ưng ý. Chị xem ngày đề ở cuối thư. Phải mất ba tháng, thư của anh từ Hà Nội mới vào tới tay chị. Dù sao, đây cũng là điếu đáng mừng. Từ nay, theo đường dây bí mật, chị sẽ biết tin anh và thông báo cho anh về mọi chuyện trong gia đình. Anh đã hiểu về người yêu của Mỹ Lê . ạnh đã viết thư riêng cho con gái và người yêu của nó là Lê Chân tức Ba Cánh: "Các con là con ba, má nhưng bây giờ các con là cán bộ, là đảng viên, là con của Đảng. Nếu tổ chức tán thành, má các con đồng ý, ba cũng ủng hộ hoàn toàn .
    Anh Bẩy Đấu chưa biết hai đứa mới làm lễ cưới. Chính Ba Cánh và Mỹ Lê cũng không biết trước ngày cưới của mình. Trong một lần vào căn cứ họp, đồng khí Hồ Hảo Hớn tức Hai Nghị, Bí thư thành đoàn nảy ra sáng kiến tổ chức đám cưới cho hai bạn. Anh gọi Lê Chân hỏi:
    - Mày với Mỹ Lê tổ chức cưới dịp này đi , tao ủng hộ .
    - Sao gấp vậy, anh Hai?
    - Mày không nghe cáu ca: "Lấy vợ thì cưới liến tay, chớ để lâu ngày, lắm kẻ gièm pha" sao?
    - Tôi đâu có ngán, anh Hai? Tụi tôi yêu nhau dù phải xa nhau hay chờ đợi năm, bảy năm cũng chả sao.
    - Nè, hai bạn đều là đảng viên, mấy khi có dịp vào căn cứ họp mặt cùng một lượt. Các bạn ngại diều gì?
    - Tôi chưa bàn với Mỹ Lê và chưa kịp xin ý kiến đồng chí dì Sáu. Anh Hai Nghị tỏ thái độ đứt khoát:
    - Tôi sẽ lo thuyết phục má Sáu, lo tổ chức đám cưới. Cậu cần thống nhất ngay với Mỹ Lê.
    Ba Cánh hỏi đùa bạn:
    - Đây là chi thị của Bí thư thành đoàn phải làm đám cưới hay gợi ý của cá nhân đồng chí Hồ Hảo Hớn tức Hai Nghị?
    Hai Nghị khoát tay
    - Việc riêng của cô cậu, nếu không ưng ý thì thôi, miễn bàn. Mình có việc về quân sự cần làm gấp, cậu giúp mình. Nè, đồng chí Lê Chân .
    - Có tôi? Ngồi xuống đây, lấy giấy bút ra!
    - Để làm gì vậy?
    - Tôi đọc nội dung công văn, đồng chí ghi lại và cho đánh máy ngay 18 bản.
    - Rõ. Viết đi! Kính gửi các đống chí ủy viên ban chấp hành thành đoàn.
    - Xong rồi!
    - Mời đồng chí đến dự cuộc họp 'Ban chấp hành vào hối ... giờ .... ngày ... để thông qua một nghị quyết đặc biệt...
    - Xong rồi!
    - Cậu chờ mình một phút để mình cân nhắc nội dung. Cậu đọc lại xem nào?
Ba Cánh đọc một mạch. Hai Nghị cười tủm tỉm, nói như ra lệnh: "Cưới cho Ba Cánh ở đâu, như thế nào, vào thời điểm nào sẽ thích hợp?" Ba Cánh bỏ bút xuống, đuổi theo bạn. Hai Nghị vừa chạy , vừa cười , nói với lại :
    - Thôi đi cha nội Việc gấp rồi, chàng đi gặp nàng sớm phút nào hay phút ấy.
    Ba Cánh bị thuyết phục. Anh đến với chị, kể cho chị nghe ý kiến của anh Hai. Mỹ Lê đã nghĩ tới chuyện này. Cô chưa bị lộ nên cô dễ dàng tổ chức đám cưới công khai, linh đình như mọi nữ sinh trung học khác: cũng đất pháo, xe hoa, cô dâu đội vương miện, mời khách đến nhà hàng... Nhưng còn anh? Anh Ba Cánh không thể công khai sắm vai chú rể. Chả lẽ trong lễ cưới lại nêu lý do chứ rể vắng mặt? Hơn nữa, cô không muốn bạn bè dự lễ cưới của cô lại là những sinh viên con quan, con nhà giàu. Chị Năm Trăng đã gợi ý nên tổ chức "đám cưới linh đình" nghĩa là chỉ cần cô đâu, chú rể, dăm người bạn bè của đôi bên tới dự, được sự chứng kiến của má là đủ nhưng Mỹ Lê chưa thật ưng ý lắm. Cô yêu anh tha thiết Cô ước mơ ngày hai người nên vợ nên chồng càng sớm, càng tốt nhưng trong thâm tâm cô còn chút ngại ngần. Cô là phụ nữ, đã từng thay má quán xuyến việc nhà nên cô hiểu những nhu cầu cần thiết tối thiểu cho một gia đình. Sau ngày cưới, hai vợ chồng cô sẽ ở đâu? ở đất Sài Gòn này, muốn kiếm căn buồng 4 hay 5 mét vuông hoặc thuê một biệt thự làm tổ ấm cho hai vợ chồng son khá thuận lợi nhưng cô và anh không thể làm như vậy. Vì cảnh giác, hai người sẽ không ở chung nhà, ăn cùng mâm. Những nữ sinh cùng trường, cùng tuổi cô thường mất rất nhiều thời gian trao đổi với bạn bè xem nên chọn Pa-ri, Luân-đôn, Nếu ước hoặc Đà Lạt, Vũng Tàu... để hưởng tuần trăng mật. Còn cô? Điều đó quá xa vời, cô chưa hề nghĩ tới. Là cán bộ hoạt động trong lòng địch, cô thực tế hơn. Cô sẽ giải quyết như thế nào nếu hai người có con? Cô khó có thể vừa nuôi con mọn, vừa hoạt động và không giây phút nào cô muốn rời địa bàn Sài Gòn, từ bỏ trận tuyến mặt đối mặt với quân thù để vô căn cứ. Vì lẽ đó, cô thực sự chưa biết nên trả lời với anh và anh Hai Nghị như thế nào. Cô kể hết mọi suy nghĩ, dằn vặt với anh và kết luận:
    - Có nhiều cách kỷ niệm ngày vui nhất của đời mình. Theo em, nếu được Bí thư thành đoàn lo tổ chức đám cưới cho sẽ là kỷ niệm đặc biệt khó quên. Tuy nhiên, em không thể chấp thuận nếu má em không có mặt. Mong anh th.ông cảm giùm em.
    - Anh tán thành. Đồng chí dì Sáu sẽ đại diện không chỉ cho họ nhà gái mà còn là người thân nhất của họ nhà trai.
    - Vậy mà anh vẫn "đồng chí dì Sáu"?
    - Anh xin lỗi, anh quen miệng. Mỹ Lê nè?
    - Dạ!
    - Anh không định che giấu lý lịch gốc của anh. Anh không thuộc thành phần cơ bản đâu. Ba anh là đốc học, má anh là con quan huyện.
    - Sao anh phải đi ở?
    - Ba má chết sớm. Bị mồ côi cả cha lẫn mẹ, bốn chị em anh phải đi ở đợ để kiếm miếng cơm, manh áo. Anh đã làm đủ nghề.
    - Vì sao anh rời Cần Thơ lên Sài Gòn?
    - Trung ương Cục rút anh Bầy Bính, thành ủy viên Cần Thơ lên Sài Gòn. Anh Bẩy đưa anh đi theo. Anh Bẩy khuyên anh học nghề lái xe. Sau hơn một năm làm tài xế xe khách Sài Gòn - Cần Thơ, anh gây ra tai nạn giao thông phải ra hầu tòa.
    - Người ta tịch thu bằng lái xe và giam giữ anh bao lâu?
    - Anh được trắng án vì lỗi không thuộc phía anh. Sau vụ đó anh Bảy giao nhiệm vụ cho anh hoạt động trong phong trào sinh viên, học sinh.
    - Anh nói với em điếu đó vào lúc này để làm gì?
    - Để chúng ta không còn điếu gì giấu giếm nhau trước ngày cưới. Anh sẽ báo cáo với anh Hai Nghị về ý kiến của em - anh xin lỗi - của chúng ta.
Anh Hai Nghị lặng nghe Ba Cánh trình bày. Anh cười hể hả :
    - Mình dự kiến trước là các cậu sẽ đồng ý. Tối nay, đồng chí má Sáu của cậu và Ba Đặng, Năm Trăng, Thu Hồng, Xuân Hồng sẽ về dự lễ cưới. Mình đã chỉ định chủ hôn và trưởng ban tổ chức rồi. Cậu thử đoán xem ai sẽ lo việc này.
    - Chịu!
    - Có khó gì. Trưởng ban tổ chức của thành đoàn (lúc đó gọi là Khu đoàn) Tư Tông sẽ làm nhiệm vụ trưởng ban tồ chức đám cưới. Anh Nguyễn Đông tức Ba Lâm được giao trọng trách làm chủ hôn. Cậu có đồng ý không
    - Xin phục từng thượng cấp - Ba Cánh cúi rạp mình trước mặt bạn.
    Bí thư thành đoàn kéo bạn ngồi xuống cạnh mình:
    - Ba Cánh nè. Tao đã chỉ thị cho Ba Lâm, Tư Tông làm đám cưới tụi mày thiệt rôm rả. Tụi nó có xe hơi, nhà lầu, khách diện đại lễ, đồ nữ trang vàng ngọc, kim cương có đầy người... Còn bọn mình? Chắc chắn không vị khách nào đi giầy da, cô dâu chú rể không thể tặng nhau nhẫn cưới nhưng hạnh phúc hai đứa mày sẽ bền vững hơn nhiều. Tụi bay khỏi lo về vật chất. À, mà hai đứa có cần coi ngày, giờ không?
    - Khỏi cần, anh Hai.
    - Nếu dì Sáu về kịp tối nay, tao tính là 4 giở chiều mai, giờ hoàng đạo, sẽ làm lễ cưới.
    - Tùy anh.
    - Ô hay, sao lại "tùy anh"? Chú rể này chả có chính kiến riêng gì cả. Nè, nếu có lên phát biểu chớ có quen miệng tự phê bình: "Nếu có khuyết điểm gì, xin lần sau sửa chữa" nghe.
    - Rõ!
    Ba Cánh vốn hiền hành, ít nói giờ đây bỗng trầm lặng hơn vì hồi hộp trước giây phút hạnh phúc đang nhích tới gần, vì xúc động trước thái độ nhiệt thành của bạn. Anh thông báo những tin tức mới cho Mỹ Lê . Mỹ Lê rủ anh đi đón má. Nghe hai con trình bày, chị Sáu Hoàn cười xòa:
    - Nghe lệnh triệu tập gấp, tao tưởng có chuyện động trời nào đó nên chả kíp chuẩn bị gì. Tao chỉ mua cho tụi bay hai con vịt bầu này.
    - Khỏi cần má à, thành đoàn lo cho tụi con đủ cả rồi. Ý kiến má thế nào?
    - Các con đã đọc thư ba. Má đồng ý theo ba: nếu tổ chức chấp thuận, má tán thành.
    Mỹ Lê quay về phía người yêu:
    - Anh đưa "đồng chí dì Sáu" về gặp anh Hai Nghị đi.
    Chị Sáu mắng con gái:
    - Con nhỏ này kỳ quá . Mày làm vợ nó nhưng là cấp dưới của nó. Chả lẽ nay mai nó hạ lệnh cho mày: Em yêu? Em sẽ đi trinh sát đồn P à?
    - Má bênh con rể rồi, con không chịu đâu.
    - Ở gia đình thằng Ba Cánh là con rể tao nhưng trong công vụ, tao phải phục tùng nó. Tụi bay đi gặp Ba Lâm, Tư Tông, tao đến chỗ Hai Nghị.
     Buổi chiều hôm sau, đúng bốn giờ, Bí thư thành đoàn Hai Nghị tuyên bố:
    - Hôm nay, thành đoàn tổ chức hôn lễ cho hai đồng chí Ba Cánh và Tư Liên (bí danh của Mỹ Lê), mời tất cả các đồng chí cùng tham dự.
    Đây là tin vui bất ngờ. Chưa bao giờ khách từ nội thành ra được dự đám cưới ở căn cứ. Khách không hề quen cô đâu chú rể, thậm chí không hay biết Ba Cánh hay Tư Liên ai là nam, ai là nữ. Do kỷ luật bảo mật vô cùng nghiêm ngặt ở căn cứ, mỗi người khách, nếu không trùm khăn rằn sẽ được phát cái mũ. Đây thực chất là cái túi được trùm kín từ đầu, tới cổ. Khi khâu túi, mấy má, mấy chị đã khoét hai lỗ nhỏ cho hai con mắt và thêm lỗ thứ ba ở miệng cho những ai nghiện thuốc lá. Vì lẽ đó, khách không biết bạn học cùng khóa của mình là ai, ở đâu, làm nghề gì, già hay trẻ? Mọi người khách đều tự giác chấp hành nội quy, không ai tò mò điều tra lý lịch người bên cạnh và cũng không tiết lộ tên tuổi mình cho bất cứ ai. Khách được hướng dẫn đến "phòng" cưới. Trưởng ban tổ chức Tư Tông bố trí khách ngồi mỗi người trong một "phòng" riêng rộng thoáng một mét vuông, có quây ni-lông kín chung quanh. Vì thiếu dĩa đựng bánh kẹo, ban tổ chức có sáng kiến cuộn tấm ni-lông làm "tường" ngăn hai phòng lên cao hơn mặt đất 20 xăngtimét để một  dĩa kẹo có thể dùng cho hai người khách. Anh Ba Lâm trịnh trọng tuyên bố:
    - Lẽ ra Bí thư thành đoàn Hồ Hảo Hớn phải làm chủ hôn nhưng Hai Nghị nhường vinh dự cho tôi vì tôi nhiều tuổi thuộc bậc cha, chú. Xin giới thiệu cô dâu, chú rể.
    Ba Cánh, Tư Liên đứng dậy chào mọi người. Tiếng pháo tay nổ lên giòn giã. Có ai đó hét to: "Xả", "Yêu cầu xả", "Hôn nhau đi", "Cô dâu chú rể song ca"
    Anh Hai Nghị đứng dậy. Anh kể về lý do tổ chức đám cưới hôm nay và bộc bạch nỗi lòng mình.
    - Các bạn! Đã có ai trên trái đất này đi dự đám cưới lại không biết mặt cô dâu, chú rể? Các bạn thử ngắm trang phục của chú rể, cô dâu. Ba Cánh, Tư Liên đều mặt đồng phục bà ba đen) và đi dép râu như mọi chúng ta. Vì phải trở vào nội thành hoạt động, Ba Cánh, Tư Liên dù rất vui lòng chiều theo yêu cầu của khách cũng không được phép "xả" (bỏ túi trùm đầu) và không được phát biểu cảm tưởng (để khỏi lộ tiếng nói) trong hôn lễ của mình. Chúng ta và cô dâu, chú rể sẽ giữ mãi mãi kỷ niệm đặc biệt đẹp này. Xin chúc cho đôi bạn hạnh phúc, bách niên giai lão.
    Pháo tay nổ giòn. Theo quy định, khách không được lên chúc mừng cô dâu, chú rể vì dễ để lộ tiếng nói của mình. (Cho đến nay - hơn ba mươi sáu năm sau ngày cưới - Ba Chân và Tư Liên đã cố sưu tầm nhưng chỉ biết được tên, địa chỉ của quá nửa số khách đến dự cưới của mình).
    Lễ cưới diễn ra rất nhanh chóng. Cô dâu, chú rể bắt tay cảm ơn từng vị khách. Khách vế "nhà ăn". Theo lệnh của Bí thư thành đoàn, cấp dưỡng tăng thêm mỗi mâm dĩa thịt lợn và chị Sáu 'Hoàn chiêu đãi khách món lòng vịt, thịt vịt xào măng kèm thêm ly rượu.
    Sau bữa tiệc, những người thân nhất đưa cô dâu, chú rể về "buồng hạnh phúc". Đây quả là "công trình đặc sắc" của Bí thư thành đoàn Hai Nghị. Anh chọn mảnh đất bằng phẳng, dọn sạch cỏ, phát quang những cây lúp xúp ở xung quanh. Anh lấy cây lá rừng rải làm đệm, trải tấm nilông phủ kín lớp lá cây và trải trùm kín tấm ni-lông bằng hai chiếc chiếu cá nhân anh vừa mượn được. Chị Năm Trăng, vốn tinh nghịch nhất đám, ngồi luôn xuống "giường cưới bình phẩm:
    - Êm hơn giường lò xo.
    Chủ hôn Ba Lâm "mắng" luôn:
    - Con nhỏ kia, bộ mày thích làm cô dâu lắm sao? Mày đồng ý thằng Ba Đặng, tao tuyên bố luôn cho.
    Chị Năm Trăng đứng dậy đến cạnh anh Ba Đặng:
    - Tụi tôi cưới là yêu cầu "xả" hết. Anh Hai, anh cho "xả” đi chớ?
     Hai Nghị đưa mắt nhìn. Toàn những người quen mặt, biết tên nhau cả. Anh gật đầu:
    - Hai đứa bay "xả" trước đi.
    Chị Năm Trăng bỏ túi trùm đầu mình và nhấc mũ cho người yêu. Anh Ba Đặng (sau này là Bí thư thành đoàn, đánh giặc rất gan dạ, bị bắt ba lần đều vượt ngục, lần cuối cùng anh bị địch bắn xuyên từ họng chui qua mồm gãy nửa hàm răng) rất lém nhưng đứng trước chị Năm Trăng, anh chịu thua. Chị Năm bạo mồm, bạo miệng hơn anh. Chị hất hàm về phía cô dâu, chú rể:
    - Bộ cô, cậu mắc cỡ ha, sao mà đứng im đó. Xả đi?
    Chị Năm gở mũ cho Mỹ Lê. Chị trêu bạn:
    - Chu cha, cô dâu không đội vương miện, không gài hoa  mà nó cũng không thèm chải đầu. Coi kìa.
    Mỹ Lê đưa tay vuốt mái tóc bị rối do đội mũ. Những người khác cũng tự động gỡ mũ. Chị Sáu Hoàn đưa tay vẫy. Hai cô đầu bếp gật đầu. Chị Sáu Hoàn nói, giọng xúc động:
    - Hôm nay tôi vô cùng hạnh phúc. Tôi có ba điều sung sướng. Thứ nhất là tôi được lên chức bà già vợ, má vợ. Thứ hai, là ba sắp nhỏ mới gởi thư. Anh Bẩy viết: "Các con là con ba má nhưng bây giờ các con là cán bộ, đảng viên, là con của Đảng. Nếu tổ chức tán thành hôn nhân của các con, má các con đồng ý, ba cũng ủng hộ hoàn toàn". Thứ ba là . . .
    Chị Sáu Hoàn nghẹn ngào, đưa khăn chấm nước mắt. Chị thổ lộ :
    - Có con gái lớn trong nhà, người làm cha, làm mẹ nào không mơ ước tổ chức đám cưới con sao cho nó không thua chị kém em, gia đình hãnh diện, mát mặt với bà con, họ hàng thân thuộc. Đám cưới Ba Cánh - Mỹ Lê hôm nay chỉ có một không hai và bà già vợ cũng thết tiệc có một không hai. Xin mời.
    Hai cô đầu bếp bưng mời mỗi đại biểu một tồ cháo vịt nóng. Khách ngồi trên "giường cưới" húp cháo xì xoạt. Ai cũng khen cháo rất ngon, ngon do tài nội trợ của má Sáu, ngon do yêu mến chú rể, cô dâu, ngon vì hương vị của "đám cưới đội mũ" ở căn cứ. Chị Sáu Hoàn tươi cười:
    - Ông bà ta có câu "Bố vợ phải đấm". Tao thay mặt anh Bẩy nên tao vừa là mẹ vợ, vừa là bố vợ. Nếu cứ phải đấm như lần này, tao còn con Mỹ Hòa đó, đứa nào chinh phục nổi nó, tao ủng hộ liền. Khoảng 10 giờ tối, khách ra về hết. Mỹ Lê vuốt phẳng tấm ni-lông trải giường, lấy hai chiếc bòng (ba lô) kê ở đầu giường thay gối. Cô ngả lưng nằm xuống, hướng vế anh:
    - Anh có cảm giác gì vế đám cưới chúng ta?
    - Tuyệt vời. Anh vô cùng hạnh phúc. Còn em?
    - Em chưa được ra ngoại quốc. Em đang nghĩ đến những khách sạn sang nhất Sài Gòn, buồng nào cũng có vô tuyến truyền hình, máy điều hòa nhiệt độ , bồn tắm nước nóng, lạnh giường lò' xo, đệm gấm... và trong tủ lạnh có đủ mọi loại rượu đắt nhất thế giới. Em có con bạn là con gái chủ hãng lúa gạo. Nó có hơn hai trăm bộ quần áo, trên một trăm đôi giầy cùng đủ loại nước hoa, son phấn. Chắc chắn những người ở khách sạn và cả con nhỏ đó không hạnh phúc bằng em lúc này.
    - Em yêu? Anh mơ ước bao giờ nước nhà không còn chiến tranh, vợ chồng mình sẽ làm đám cưới cho con chúng ta thiệt linh đinh. Anh Em tính là đúng ngày này 50 năm sau, vợ chồng ta sẽ mời các bạn cùng chiến đấu đến dự kỷ niệm lễ cưới vàng của chúng ta.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 09:05:02 am
    Mỹ Lê có cảm giác lâng lâng, bay bổng. Mới đêm qua, cô mắc võng ở đây, anh nằm võng bên kia, thế mà giờ đây hai người đã nằm chung "giường” , đã nên vợ nên chồng, cùng nằm ngắm bầu trời đầy sao. Cô quay về phía chồng:
    - Anh! Bao giờ chúng ta sê được ra thăm thủ đô Hà Nội, được gặp Bác Hồ, gặp ba? Không hiểu ngoài đó người ta lam đám cưới như thế nào, anh nhỉ?
    - Sẽ không có đám cưới nào độc đáo và tình nghĩa hơn đám cưới chúng ta đâu. Em có hạnh phúc không?
    - Hạnh phúc tràn trề, anh à!
    - Mỹ Lê , em ? Dạ ! Em đã nghỉ đến có con chưa ?
    Mỹ Lê dốc bầu tâm sự của mình. Cô thèm sanh con song cũng ngại có con. Cô bàn với chồng về cuộc sống tương lai ở Sài Gòn. Anh thiệt dễ thương, anh đồng ý mọi lo liệu của em. Cô đặt tay lên má anh:
    - Anh yêu. Em muốn vợ chồng ta cùng thỏa thuận với nhau một điều kiện.
    Anh sửng sốt:
    - Điều kiện gì vậy, em?
    - Em xin lỗi vì em đưa vấn đề ra lúc này không rõ có thích hợp không? Mong anh thông cảm với em.
    - Việc gì mà em phải rào trước đón sau như vậy. Không ai nói ra điều này trong đêm tân hôn nhưng nếu không nói ra, em áy náy không yên. Vợ chồng mình chiến đấu trong lòng địch nên mỗi chúng ta đều có thể bị thương. Anh và em cùng quy ước: nếu người này bị què , cụt mù lòa hoặc bị bom na-pan khiến mặt mày biến dạng, người kia luôn trung thành tuyệt đối, giữ vững tình yêu.
    - Điều đó em khỏi lo. Dù em bị thương cỡ nào, anh cũng mãi mãi yêu em.
    - Trừ một trường hợp: Phản bội.
    - Anh xin thề , anh chưa hề yêu ai trước em và không bao giờ yêu người con gái khác sau em.
    - Anh! Kẻ phản bội tình yêu là rất đáng chê trách nhỉ còn tình tiết có thể tha thứ, còn kẻ phản bội Tổ quốc thì không một lý do gì biện minh nổi. Trong trường hợp anhh hoặc em bị địch bắt, nếu người này cung khai với địch, phản lại lý tưởng và lẽ sống của mình, người kia có toàn quyến cắt đứt hôn nhân không cần sự can thiệp của tòa án.
    Ba Chân ngồi bật dậy. Điều chị đề cập đến vô cùng thiêng liêng, rất nghiêm tức. Anh nắm chặt bàn tay vợ, đặt lên trái tim mình:
    - Em yêu. Với niềm vui tột cùng, anh chấp thuận và coi đây là điều khoản thiêng liêng nhất gắn bó hai chúng ta. Anh xin ký điều ước đó bằng chính sinh mệnh của mình.
    Mỹ Lê kéo anh nằm xuống, gục đầu vào ngực chồng âu yếm.
    - Anh ! Em yêu anh!
    - Anh yêu em!
    Trong lúc này, .chị Sáu Hoàn vẫn đang thao thức. Chị hạnh phúc quá. Chị lại nhớ đến anh. Anh có biết con gái đầu lòng của chúng mình đã thành gia thất không? Giờ này anh đang ở đâu, làm gì? Anh! Thế là vợ chồng ta đã xa nhau gần 8 năm rồi. Nhớ lời anh, em vẫn luôn dựa vào tập thể. Mỹ Hòa đã là đảng viên rồi. Con nhỏ tiến bộ lắm. Nó học giỏi thông minh, không thích ăn diện, chưa để ý đến bạn trai. Em sẽ hướng dẫn các con theo con đường chúng ta đã đi. Anh cứ tin ở em - Em đã lo cho Ba Cánh, Mỹ Lê nên vợ, nên chồng. Hai vợ chồng nó sẽ viết thư cho anh, kể cho anh nghe chuyện đám cưới và chuyện con Lê lấy bí danh là Tư Liên. Anh không được dự đám cưới conn. Ở thủ đô Hà Nội, ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, anh có hình dung nổi chuyện cưới của các cán bộ hoạt động bí mật trong nội thành không nhỉ? Có con gái lớn gả chồng, em cũng dự kiến nhiều phương án, nhưng điều cơ bản em cần có là các con hạnh phúc. Chị đã và sẽ viết thư cho anh. Chị có biết bao điều cần tâm sự, trao đổi, thổ lộ với anh. Chị cần động viên anh và xin ý kiến chỉ đạo của anh về việc gia đình. Sau ngày cưới, hai vợ chồng Ba Cánh trở lại Sài Gòn. Nhân danh Chính trị viên ban chỉ huy quân sự thành đoàn, Ba Cánh bàn với vợ:
    - Má rất có năng lực tổ chức. Anh định xin rút má về Ban quân sự.
    Mỹ Lê cười :
    - Má đâu rành về quân sự? Hồi chín năm, má chuyên làm công tác phụ nữ.
    - Em khỏi lo, má sẽ chuyên trách về hậu cần. Chúng ta chưa có một viên đạn, một khẩu súng, một lạng thuốc nổ nào. Nếu không được má lo tiếp tế, ta lấy vũ khí đâu để đánh giặc?
    Cũng như nhiều cô gái thời đó, Mỹ Lê không né tránh nguy hiểm cho bản thân, cho má hoặc Mỹ Hòa. Cô thừa nhận điều anh Ba gợi ý là hợp lý. Cô thăm dò chồng:
    - Em hoặc anh nên đi Thị Vải trao đổi trước với má. Nếu má đồng ý, anh hãy báo cáo với Bí thư thành đoàn.
    - Có lẽ ta không cần bàn trước với má. Anh tin là má sẽ chấp hành lệnh điều động.
    - Tùy anh.
    Không chậm trễ ,Ba Cánh đề nghị với anh Mười Hảo, thành ủy viên:
    - Chúng ta thiếu vũ khí lắm. Anh cho rút đồng chí má Sáu về phụ trách công tác này.
    Anh  Mười Hảo có những băn khoăn riêng. Hạ lệnh điều động má Sáu không khó nhưng biết kiếm ai đủ tài thay thế má ở Thị Vải? Từ ngày mở lớp học, má Sáu Hoàn đã góp phần đào tạo được nhiều cán bộ đủ khả năng thay thế má. Có điều đáng ngại là má Sáu Hoàn "công khai" quá rồi. Do không có chủ trương tung má trở lại nội thành từ đầu nên má Sáu không phải theo những kỷ luật khắt khe của lớp học. Má không phải giấu tiếng và cũng không cần bịt kín mặt khi tiếp xúc với khách. Như vậy, ở trong thành phố Sài Gòn - Gia Định này có bao nhiêu người đã biết má? Điều động má Sáu vào hoạt động nội thành có mạo hiểm không' Anh Chín Tước, Trưởng ban quân sự thành đoàn phân' tích:
    - Theo chủ trương của thành ủy, thành phố chúng ta có bao nhiêu đội biệt động? Đội biệt động của công nhân, của phụ nữ, của lực lượng vũ trang và của Đoàn thanh niên lao động chúng ta. Ta muốn đánh Mỹ, ta phải lo liệu chở súng đạn, thuốc nổ vào ém sẵn trong các kho ở các khu phố. Tôi tán thành rút chị Sáu Hoàn về và đề bạt chị làm ủy viên ban quân sự thành đoàn phụ trách về hậu cần và là Đảng ủy viên của ban. Số người biết mặt chị Sáu nhiều sẽ gây trở ngại cho chị nếu họ phản bội. Dù sao, trước khi điều động, ta cũng nên hỏi thẳng chị Sáu Hoàn.
    Má Sáu được điều động về căn cứ. Như thường lệ mỗii khi về cứ má thường tìm cách liên lạc đưa cả đàn con về theo để: Thứ nhất là mẹ con sum họp, thứ hai là má có điều kiện bồi dưỡng sức khỏe, chăm nom, giáo dục các con và tiếp đó điều quan trọng nhất là các con má được tiếp xúc với các cán bộ cách mạng, nghe các cô, các chú, bảo ban, dạy dỗ những điều hơn lẽ thiệt. Má để ý theo dõi từng việc làm, việc học và tính tình mỗi đứa con. Thằng Linh hiền, ít nói. Thằng Nhất (nó chính thức đề nghị má cho đổi tên bí danh là Ba Vĩ) trầm tĩnh, sâu, biết suy nghĩ, dám quyết đoán. Thằng Quảng (cũng đề nghị đổi tên là Mười Tuân) hoạt bát, nhanh nhẹn, thông minh nhưng thích tự do. Thằng Thiện chả thiện chút nào. Nó nghịch như mọi đứa con trai và rất thích tranh luận với các anh về mọi vấn đề. Còn út Hiếu lém lỉnh, giỏi mọi chuyện. Má Sáu Hoàn lắng nghe đề nghị của Trưởng ban quân sự Chín Tước. Má gợi ý:
    - Mấy anh giao cho tôi việc gì tôi cũng làm nhưng tôi đâu biết quân sự. Tôi càng không thể gánh vác chức vụ ủy viên ban chỉ huy quân sự thành đoàn.
    - Chị Sáu đừng ngại. Chị cần đưa cả tấn thuốc nổ vào thành phố. Chị phải đi liên hệ với nơi giao súng đạn. Chị cần có quyền điều động người, ra lệnh lập các kho. Chị còn phải ký giấy chi tiền mua nhà làm kho, mua hàng hóa nghi trang khi chở vũ khí, v.v...
    Không có cách nào từ chối, má Sáu Hoàn đành nhận lời. Mười Tuân yêu cầu được theo má. Má không nghe. Thằng đó còn nhỏ quá, tính nó lại lông bông, mê chơi, mê học, mê làm việc như nhau. Má ưng thằng Ba Vĩ hơn nhưng bà nội không muốn rời nó và ở quê nó cũng được tham gia những hoạt động của du kích mật.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 09:16:33 am
13
    Mỹ Lê đến thăm má. Tuy ở chung cùng thành phố, cô không thể ung dung cùng chồng đi xe đò hoặc xe đạp về với má. Má thông cảm, má không nữa lời trách hai đứa. Má hỏi :
    - Tụi bay thu xếp việc riêng ra sao rồi? –
    Anh ở chỗ anh, con ở trong trường. Tụi con thuê đượm căn hộ ở lầu hai.
    - Chủ nhà có đáng tin cậy không?
    - Ông bà chủ đi vắng cả ngày. Tụi con có chìa khóa riêng, lối đi riêng. Nhà có hai cửa phía trước, phía sau.
    Chị Sáu Hoàn tin ở các con. Tụi nó có kinh nghiệm hoạt động nội thành, biết chọn nhà có đường rút lui khi có động. Chị khoe:
    - Má mới về Gò Công.
    - Tụi nhỏ khỏe không má? Con nhớ mấy đứa quá. Nội và Ngoại có trách tụi con không?
    - Nội và Ngoại rất mừng. Má thắp hương cúng tổ tiên, nói rõ là đã cho con xuất giá. Nội, Ngoại thống nhất là chưa thông báo gì cho họ hàng.
    - Má à! Má sang bên quân sự có cực lắm không
    - Cực mấy tao đâu có ngán. Tao lo là việc lớn quá, tao không cáng đáng nổi. Nhủ thằng Ba Cánh phải mách nước cho má. Nếu tao có khuyết điểm gì, nó không được nể nang mà phải góp ý, phê bình để tao rút kinh nghiệm.
    - Con sẽ nói với anh Ba.
    - Mỹ Lê nè! Về Gò Công tao lo cho thằng Quảng hơn thằng Nhất. Thằng Quảng sống trong lòng địch dễ tiêm nhiễm thói hư, tật xấu và các luận điệu tuyên truyền của địch. Má sẽ sớm rút thằng Quảng lên. Con phải chăm sóc Mỹ Hòa và thỉnh thoảng lui tới với Tư Linh.
    - Má à? Mỹ Hòa được kết nạp rồi. Như vậy là nhà ta đã có năm đảng viên: Ba, má, vợ chồng con và em Mỹ Hòa.
    - Mỹ Hòa kết nạp trước tuổi à?
    - Không. Chi bộ đã xét kỹ mới công nhận em con. Tư Linh học giỏi lắm. Dượng Bẩy, dì Bẩy yêu Tư Linh như con ruột nên tụi con khỏi lo.
    - Hồi này má bận nhiều việc lắm. Má luôn phải đi công tác vô cứ, đến các điểm có vũ khí, có lẽ má sẽ tạt qua Gò Công lần nữa.
    - Má cho con gửi chút tiền về biếu Nội, Ngoại và cho tụi nhỏ .
    Về quê lần này, chị vẫn nghe nhiều 'tiếng khen thằng Nhất. Thằng đó thường được Nội khen là được cả người lẫn nết, được cả văn lẫn võ. So với các bạn cùng lớp, nó to hơn, khỏe hơn, trắng trẻo hơn nhưng nó chưa hề gây lộn với ai mặc dù nó rất ham đánh giặc. Đặc biệt, thằng nhỏ còn học làm thơ. Chị không thạo về thơ nhưng vẫn động viên khuyến khích con. Tạm biệt Nội, Ngoại, họ hàng và bốn đứa nhỏ, chị quay lại Sài gòn. Mỹ Lê đã chờ chị. Theo đúng bài bản của chị Năm Trăng, Xuân Hồng và anh Ba Cánh vạch ra, Mỹ Lê hứa sẽ tỏ ra cứng rắn, thông báo từ từ chuyện rủi ro xảy ra để má không bị sốc. Mấy ngày qua, cô gầy rộc hẳn người. mắt sưng húp nên cô buộc phải thoa thêm ít phấn để khuôn mặt bớt phần rầu rĩ. Chị Năm Trăng nhắc nhủ Mỹ Lê :
    - Em chỉ trì hoãn thông báo với má năm, bảy phút thôi. Chị rất lo má ngất đi, má bịnh vì hay tin quá đột ngột.
    - Em rõ rồi chị Năm.
    Tuy đã hứa như vậy nhưng Mỹ Lê không sao sắm trọn vai diễn của mình. Vừa trông thấy má, cô đã chạy ào đến, ôm lấy má, gục đầu vào lòng má mà khóc. Cô khóc nức nở, khóc ngày càng to. Chị Sáu Hoàn ngơ ngác, giọng thảng thết:
    - Có chuyện gì xảy ra vậy, Hai? Nói cho má nghe đi.
    Hai chị Năm Trăng, Xuân Hồng sắm vải diễn viên phụ để hỗ trợ cho Mỹ Lê đành phải xuất đầu lộ diện:
    - Má! Tụi con đến với má đây. Má!
    Linh tính đã mách với chị Sáu Hoàn. Chị thảng thết:
    - Tụi bay giấu tao điều gì phải không Ba Cánh gặp rủi ro à?
    - Mỹ Hòa đâu?
    Mỹ Lê khóc to hơn. Cô nói trong tiếng nấc:
    - Em con bị bắt rồi, má ơi!
    "Trời!" Chị Sáu Hoàn gieo mình xuống ghế. Trời đất như quay cuồng trước mắt chị. Nhờ đã chuẩn bị trước, Xuân Hống ép má uống nước sâm trong lúc chị Năm Trăng xoa nước gừng vào thái dương, cột sống và ngực má. Chị Sáu Hoàn chưa ngất hẳn. Chị thương Mỹ Hòa vô cùng. Chị rất yêu hai đứa con gái. Mỹ Lê là con đầu lòng, có hiếu kỷ niệm gắn bó với chị hơn nhưng từ ngày lên Sài Gòn , chị sống chung với Mỹ Hòa nhiếu hơn . Mỹ Hòa rất hợp với chị vì nó lao động giỏi làm việc gì cũng khéo tay và nó rất tằn tiện, luôn nghĩ đến người thân nhiều hơn lo cho mình. Mỹ Lê, Năm Trăng, Xuân Hồng chắc rất đau lòng vì Mỹ Hòa sa vào tay giặc. Cả ba đứa săn sóc Mỹ Hòa như em ruột và lo cho chị như má đẻ của mình nên chị phải san sẻ bớt nỗi đau cho chúng. Chị không được quá ủy mị mà phải cứng rắn, đúng mức để ba đứa con gái đang gục vào lòng chị khóc sớm vơi được nỗi buồn. Chị ngồi dậy, vén lọn tóc lòa xòa xuống mặt, lấy khăn lau khô nước mắt hỏi:
    - Mỹ Hòa bị bắt trong trường hợp nào, tụi bay kề cho má nghe coi?
    Ba cô con gái quây quần bên má. Ai cũng biết tường tận chuyện xảy ra song không ai "xung phong" nói trước. Năm Trăng đành phải gánh công việc nặng nhọc này:
    - Má à, Mỹ Hòa bị thằng chỉ điểm theo dõi. Tụi nó bắt được em con với tang vật gồm hơn hai trăm tờ truyền đơn.
    Chị Sáu Hoàn thở dài:
    - Mỹ Hòa còn nhỏ tuổi. Từ thuở lọt lòng mẹ, chưa ai đập nó, làm sao nó chịu đựng nổi những trận đòn thù của bọn đồ tể? Rủi con nhỏ khai ra điều gì thì thật là tệ hại. Tụi bay đã chuyển chỗ ở chưa?
    Xuân Hống thêm vào:
    - Em Mỹ Hòa gan lý lắm, má khỏi lo. Tui con không ở chỗ cũ nữa. Thằng chỉ điểm đưa cảnh sát đến vây bắt tụi con. Con và Mỹ Lê chuyển đồ đạc, tài liệu đến chỗ ở mới. Thấy bóng cảnh sát phía trước chị Năm Trăng phi từ lầu hai xuống. Chị "lặn" mất tăm luôn, tụi con kiếm hoài không ra. Con đoán là chị Năm đã bỏ ra chiến khu, Mỹ Lê lo là chị bị bắt.
    Chị Sáu Hoàn cũng phán đoán:
    - Nó về với ba má ruột phải không?
    Mỹ Lê kể về chị Năm với mục đích giúp má khuây khỏa đôi chút vế Mỹ Hòa:
    - Tụi con rầu thúi ruột. Chị Năm biết chỗ ở mới và trường mới, liệu tụi con có cần kiếm chỗ khác không?  Tụi con đâu còn tiền để ứng trước sáu tháng tiến nhà. Con và Xuân Hồng tin chị Năm nên cứ ở nguyên chỗ cũ. Hôm qua, chị Năm về.
    - Nó đi đâu vậy?
    - Chị Năm có bạn là con gái viên đại tá cảnh sát. Con nhỏ này mê chị Năm quá chừng. Nó đón chị về ở chung phòng với nó. Chờ bọn cảnh sát lơ là lùng sục, chị Năm mới tìm đến chỗ tụi con.
    Chị Sáu Hoàn vẫn chưa quên chuyện con gái:
    - Mấy đứa chưa kể cho má nghe chuyện Mỹ Hòa.
    Hôm đó như thường lệ, Mỹ Hòa thay bộ quần trắng áo dài của nữ sinh, mặc vội bộ cánh của dân lao động, quẩy đôi thùng rỗng ra khỏi nhà. Tên chỉ điểm bám theo cô. Mỹ Hòa bị bắt quả tang ở khu Bàn Cờ khi đang rải truyền đơn. Chúng dùng còng số tám khóa tay cô, tra tấn cô tại chỗ nhưng cô chỉ khăng khăng câu trả lời:
    - Nhà tôi nghèo, tôi đi gánh nước thuê để kiếm thêm tiền trả tiền học.
    - Tại sao mày có truyền đơn?
    - Một bà già đã ném đại bó truyền đơn đó vô thùng của tôi.
    - Bà ta có quen biết mày không ?
    Mỹ Hòa lắc đầu.
    - Bà ta mặc như thế nào? Bà trạc 50 tuổi, tóc búi ngược. Bà mặc áo dài màu cánh cam, quần xa-teng, đi xăng đan. Bà nói giọng Huế: "Con cho má gởi tạm. Tụi nó đang rượt má"
    - Tại sao mấy không hô hoán lên?
    - Tôi bị bất ngờ quá. Nào tôi đã biết bà già là ai, gởi thứ gì đâu.
    Mày có biết đây là truyền đơn của Việt cộng không?
    - Biết! 
    - Nếu vậy, mày chính là nữ Việt cộng nằm vùng? Đâu phải vậy mấy ông. Đến đầu phố, tôi dừng lại xem bà ta gửi gì. Nếu có được gói tiền trong thùng thiệt là hên. Tôi rút một tờ, đọc thử. Cha trời, bà nội đó bỏ truyền đơn vô thùng của mình.
     - Sao mày không đem nộp cho nhà chức trách? Tôi đâu kịp nghĩ điếu đó. Tôi tính vứt đại cả bó này vào chỗ nào đó nhưng rồi tôi nghĩ lại. Tôi chọn cách bỏ mỗi nơi một tờ.
    - Sạo! _ Mấy tên cảnh sát tát cô, đấm đá cô.
    Tên chỉ điểm chỉ vào mặt cô:
    - Nè , mấy có biết tao là ai không? Tao lạ gì mày. Mày là Dương Mỹ Hòa học trường trung học tư thục.  Mày chối tội đâu nổi, con!
    Chị Sáu Hoàn đau nhói tận tim. Chị đã ở tù nên chị đã nếm đòn thù . Bọn đao phủ uống máu người không tanh đã từng học cách tra tấn tù nhân tại Mỹ quốc, có cách đánh người rất lão luyện. Cũng là tay đấm, chân đá song chúng biết cách ra đòn làm cho người bị đánh đau ê ẩm, đau nhói tận tim, tận óc. Mỹ Hòa của chị chịu đòn sao nổi. Có cách gì san sẻ với nộ không? Chị hỏi .mấy đứa con:
    - Tại sao tụi bay biết Mỹ Hòa bị bắt và hiểu tường tận mọi lời đối đáp của nó?
    Thấy má đã nguôi ngoại đôi chút, Mỹ Lê nhanh nhảu:
    - Tụi con và Mỹ Hòa có nhiều bạn học lắm, má ơi. Mỹ Hòa bị giữ chừng 5 phút, tụi con hay tin liền.
    - Từ hôm đó, tụi bay có cách gì hên hệ với Mỹ Hòa không?
    - Tụi con đâu dám xuất đầu lố diện. Con báo tin cho dì Bẩy. Dì Bẩy, dượng Bẩy và Tư Linh đã biết chỗ giam em con .
    - Con đến nhà dì Bẩy bằng cách nào?
    - Con chuyển ba lần xe đò. Con đi bộ cách nhà dì Bẩy gần một cây số mới quay trở lại. Con đến vào lúc nhá nhem tối nên không bị đứa nào theo dõi.
    - Má sẽ đến gặp dì Bẩy. Chị Năm Trăng an ủi má: 
    - Má à? Tụi con tính kiếm luật sư lo vụ Mỹ Hòa. Theo ông luật sư Mỹ Hòa bị kêu án nặng nhất là hai năm tù.
    - Vậy à ! Nếu Mỹ Hòa giữ vững lời cung ban đầu, tòa chỉ có thể tuyên án em con không hơn chín tháng tù ngồi vì chưa có bằng chứng gì kết tội Mỹ Hòa liên quan đến Việt cộng và khi khám nhà Hòa, tụi nó không thu được tài liệu nào của cộng sản.
    - Nếu vậy các con lo phần luật sư, má sẽ thông tin cho Mỹ Hòa. Tụi bay cần bao nhiêu tiền, má lo đủ.
    - Má à Thằng chỉ điểm tên là Thanh, trưởng toán thanh niên cộng hòa. Nó rành tụi con lắm. Mỹ Hòa cũng biết nó. Mỹ Hòa bị bắt ngày 15 tháng 4 năm 1964, tính ra em con đã 19 tuổi. Nếu Mỹ Hòa khai là thằng Thanh tán tỉnh em, em không chịu nên nó trả thù.
    - Còn tập truyền đơn? Cứ giữ nguyên lời khai cũ.
    Chị Sáu Hoàn đến nhà dì Bẩy. Dì Bẩy và Tư Linh đã đi thăm Mỹ Hòa nhưng không được gặp mặt. Những tên cảnh sát rất nể bà chủ (dì Bẩy) và con trai bà (Tư Linh) nên đã thông báo cho dì về những lời khai của Mỹ Hòa. Cô bị tra tấn nhiều nhưng không khai báo thêm điều gì. Dì Bẩy tâm sự:
    - Em có thằng đệ tử ruột bên cảnh sát. Em đã chi đậm cho nó. Nó hứa sẽ săn tin giùm em và khi cần sẽ chuyển tin cho Mỹ Hòa.
    - Coi chừng mình chơi dao hai lưỡi đó, dì Bẩy.
    - Chị khỏi lo. Em đang ráng đòi tiếp xúc với cháu.
    Trong lúc này, Mỹ Hòa nằm trong xà lim. Cô chưa ăn gì nhưng không thấy đói mà chỉ khát. Tụi nó đấm cô, đá cô. Cô hộc máu mồm, mất sưng vù, bụng quặn đau. Cô hiểu rất rõ kẻ thù bắt cô: Thằng Thanh, trưởng toán thanh niên cộng hòa. Thằng này thuộc loại “bảo hoàng hơn cả vua” nó luôn tìm cách tầng công với chủ để được cất nhắc, tin tưởng. Không rõ nó rình rập cô từ bao giờ? Liệu đã ai thông báo cho các chị Mỹ Lê, Năm Trăng, Xuân Hồng chưa? Khi áp giải cô vào xà lim, tên thượng sĩ cảnh sát đã  nói nhỏ với cô: "Dì Bẩy và Tư Linh đến thăm cô nhưng không được gặp" song cô không trả lời. Nếu nguồn tin đó đúng thì má và mọi người đã biết tin cô bị bắt rồi. "Má!", cô thầm gọi. Cô nhớ má da diết. Kỷ niệm đặc biệt về má bỗng trỗi dậy trong cô. Má ra tù vào ban đêm. Cô đã ôm má, sờ nghe, sờ lưng, nắn tay chân má. Trên người má còn nhiều vết sẹo ngang, dọc. Má gầy giơ xương. Má đã kể với hai chị em cô:
    - Nó đánh đau thấu tim, buốt óc. Má chưa có kinh nghiệm ở tù. Má đã tính khai quấy vài ba điều để đỡ bị đòn nhưng rồi má cắn răng chịu đựng vì má nghĩ tới ba và các con. Sau trận đòn thứ ba thì má không còn sợ gì 'nữa. Má tin là không bao giờ má đầu hàng tụi nó.
    Mỹ Hòa đỉnh trở mình. Hai cái còng tay, cùm chân không cho cô làm điếu đó. Cô lại nằm ngửa. Đàn muỗi cứ vo ve quanh cô mà cô không có cách gì xua đuổi được. Thôi đành mặc cho chúng nó dốt. Cô nghiêng đầu. Mái tóc dày, rậm của cô rối bù bết máu, dính đầy đất. Làm sao có cái lược để chải đầu? Đến bao giờ cô mới được gội đầu bằng nước bồ kết, hương nhu, lá sả? Cô cũng không có cái kim, sợi chỉ để vá lại cái áo bị rách. Vào tù, cô bị mất tự do, thiếu thốn đủ thứ, nào cô có ngán. ở ngoài đời, má, chị Mỹ Lê và các đồng chí của cô đã lường trước việc này. Cô nhớ lần trò chuyện với chị Mỹ Lê, nghe chị kể về điếu giao ước thiêng liêng của chị và anh Ba trong đêm tân hôn. Chị ruột và anh rể cô đã rất đúng. ở trên đời này, không ai tha thứ cho tội phản quốc. Cô sẽ xứng đáng với anh, chị, với ba, má. Ba ơi, ba có hay con bị bắt không? Giờ phút này con đang nhớ đến phút chia tay với ba hồi con mới chín tuổi :
    -“ Mỹ Hòa, con!
    - Dạ! - Con biết ba làm gì không?
    - Con biết ba làm cách mạng nè ; ba là tỉnh ủy viên nữa nè nhưng con không nói với ai đâu. Nội kề cho con nghe hoài về ba mà.
    - Ba làm cách mạng là tốt hay xấu?
    - Tốt chứ, tốt hung à, ba.
    - Chuyến này ba ra miền Bắc rất lâu ba mới về. Lớn lên, ba mong con sẽ làm cách mạng như ba nghe, con.
    - Dạ.” Ba ơi, con đã làm cách mạng như ba. Giờ đây, con bị tù, con sẽ không bao giờ phản lại lý tưởng của ba, của con. Đó là lẽ sống của gia đình họ Dương chúng ta. Ba hãy tin vào con gái ba. Con hứa với ba như vậy. Có tiếng rú, tiếng gào thét, tiếng roi quất, tiếng quát tháo ở phòng bên. Tụi nó đang đánh đòn tâm lý, khủng bố tinh thần Mỹ Hòa. "Con nhỏ nữ sinh 19 tuổi đầu sẽ phải phun ra hết mọi điếu bí mật, nếu nó chứng kiến đủ mọi cảnh tra tấn", tụi nó bảo nhau như thế.
    Có tiếng ra lệnh hách dịch ở phòng ngoài:
    - Đù má!
    Cho nó đi tàu bay. Năm phút sau Mỹ Hòa nghe tiếng quát:
    - Mày cổ khai không?
    - Tôi không biết.
    Tiếng roi vút túi bụi. Mỹ Hòa hình dung ra cảnh một đồng chí của cô bị cột chặt hai chân, trcó lơ lửng giữa nhà, đầu chúc xuống đất, đang gồng mình hứng chịu những ngọn roi ma-tơ-rắc. Cô căm thù tụi nó. Lại có tiếng hô: "Cho nó đi tàu thủy". Lúc này, đồng chí của cô hẳn dang bị dìm đầu vào thùng nước bẩn. Anh ấy bị ngạt thở, uống nước tới trương cả bụng. Tiếng tên đồ tể:
    - Mày có khai không?
    - Không.
    - Đánh!
    Những tiếng đấm đá thượng cẳng chân, hạ cẳng tay ầm ĩ dội vào tai Mỹ Hòa: Huỵch - huỵch - hự - ứ. . Không chịu nổi nữa, Mỹ Hòa hét to: Đả đảo khủng bố. Một tên hộ pháp cởi trần, mồ hôi nhễ nhại, nhảy vào xà lim giang thẳng cánh tay tát Mỹ Hòa bốn cái nổ đom đóm mắt:
    - Câm mồm. Rồi sẽ đến lượt mày.
    Đầu Mỹ Hòa ngoẹo sang bên. Máu từ mồm cô chảy ra. Cô thách thức:
    - Tao không sợ.
    Thằng hộ pháp đá ngang hông cô :
    - Mày sẽ biết tay tao. Mày sẽ phải đầu hàng. Chưa có tên Việt cộng nào thoát khỏi tay tao đâu.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 09:17:42 am
    Tên hộ pháp quay ra, lạch oạch khóa cửa xà lim. Chà, tụi nó quá cẩn thận với cô. Cô làm sao nhấc nổi đôi chân ra khỏi cùm và càng không có cách gì gỡ đôi tay rời khỏi chiếc còng thì việc khóa cửa xà lim là thừa.  Cô làm gì đề thoát khỏi nơi nảy. Trên chiếc sàn xi măng này có biết bao đồng chí đã nằm trước cô? Những ai đã giữ vững khí tiết, ai trở thành phản bội? Cô phải làm gì? Ngày mai, ngày kia và những ngày tiếp theo là những thử thách vô cùng khốc liệt với cô. Cô không thể khai với địch điều gì. Chả lẽ cô kể với tụi nó vế quê nội và những chiếc hầm bí mật che giấu cán bộ? Cô nhớ đến bốn đứa em ở quê . Chà , mỗi đứa có một nét đáng yêu riêng. út Hiếu mũm mĩm như con búp bê, da nó trắng hồng, mắt đen nháy. Nó hồn nhiên, nhí nhảnh, rất hợp tính cô. Thằng Bẩy Thiện vừa gầy vừa đen. Về hình thức bên ngoài, nó khác hắn ba anh : trai ruột nhưng nó có gian thông minh của họ Dương. Năm 1964 này, hai đứa em sinh đôi của cô đã chín tuổ.i cùng học một lớp ở trường làng; sức học của út Hiếu kém anh nhưng vì Bẩy Thiện ham chơi, chủ quan nên xếp thứ hạng trong lớp thường kém em. Thằng Nhất chưa chính thức là đội viên du kích song nó giúp việc rất đắc lực cho các chú du kích. Nó thường xuyên dẫn thằng Quảng vào đồn bảo an để lấy đạn, lựu đạn tiếp tế cho du kích. Chả lẽ cô tố cáo các em cô? Chả lẽ cô không xứng đáng là chị ruột chúng? Má đã kể chuyện ở tù cho cô nghe. Bất cứ người cộng sản nào nếu cứ lùi một bước sẽ lùi tiếp bước thứ hai rồi cứ thế tiến dần đến sự phản bội. Cô biết nhiều bí mật quá rồi. Không, nếu cô để lộ cô là đảng viên, hé cho chúng đường vào căn cứ, về cơ sở của dì út Khuê, về địa điểm sẽ đặt các kho vũ khí của má, về chi bộ của cô, vế tổ chức đoàn trong sinh viên v.v... thì tất cả đều đổ vỡ. Cô rùng mình. Nếu cô phản bội, đời đời sẽ nguyền rủa cô. Cô phải làm sao xứng đáng là đảng viên, là con của ba má, là thành viên trong gia đình họ Dương. Cô phải giữ vững lý tưởng và lẽ sống là cô hằng theo đuổi.
    Sáng hôm sau, tụi chúng đưa Mỹ Hòa đến phòng hỏi cung. Chúng chưa kịp bắt đầu thì bài kèn chào cờ vang lên. Bọn cảnh sát đều đứng nghiêm, mắt dán vào lá cờ ba que. Mỹ Hòa ngồi im lặng. Tên đại úy cảnh sát mặt đằng đằng sát khí đến cạnh, đưa đôi bàn tay như hai gọng kìm sắt chẹn lấy cổ họng cô:
    - Tại sao mày không chào cờ?  Chống hả?
    - Mấy ông còng chân tôi sao tôi đứng nổi. Tôi bị khóa tay. Chả lẽ tôi đứng thế này để chào cờ. ' Mỹ Hòa đứng cúi khom người như con tôm.
    Tên đại úy thả cô ra:
    - Thôi được tao tha cho mày. Sáng mai, cũng vào giờ này, mày sẽ có mặt tại đây. Tao thử coi mày có dám chống đối lại không?
    Trưa hôm đó, tên thượng sĩ giám thị đưa cơm vào xà lim cho cô . Nó nói rất nhanh :
    - Má của cô và dì Bẩy dặn cô cứ giữ lời khai cũ. Luật sư nói rằng án của cô chưa đến chín tháng tù.
    Mỹ Hòa không hỏi thêm người đưa tin được câu nào. Buổi chiều hôm đó, cô nằm suy nghĩ mông lung. Thời gian trôi qua thật chậm chạp. Cô không có ai để trò chuyện, trao đổi. Một mình cô với bốn bức tường vắng lặng, tẻ ngắt. Theo kinh nghiệm, người tù giừ vững khí tiết hay sa ngã chủ yếu diễn ra trong giây phút một mình, một bóng. Nếu người tù hướng mọi suy nghĩ mình về phía cách mạng thì sẽ chiến thắng. Ngược lại, một ham muốn nhỏ nhoi nào đó của cá nhân trỗi lên như tia chớp là lập tức "nó" bám riết lấy và sẽ ngày càng phát triển, không chịu rời ra nữa, người tù lúc ấy sẽ dao động, đầu hàng. Mỹ Hòa có trí nhớ rất tốt. Cô nhẩm lại từng chữ trong lời truyền đạt của tên giám thị. Cô có nên làm theo lời khuyên của má và dì Bẩy không? Theo luật sư thì án của cô sẽ ở mức dưới chín tháng tù, như vậy có nghĩa là cô chỉ ở tù tám tháng. Rồi cô sẽ được trở về nhà, được đứng trước gương chải mái tóc rối bù, tắm, giặt, thay bộ quần áo. ở ngoài đời, chưa bộ quần áo nào cô mặc quá hai ngày, chiều nào cô cũng phải tắm giặt. Còn ở đẩy. Từ thuở nhỏ, cô ít chú ý tới trang điểm song cô luôn gọn gàng, sạch sẽ trước mọi người, giờ đây quần áo cô hôi bẩn vì lâu chưa thay, vì quyện máu, đất và mồ hôi. ở tù cô mất hết tự do. Nhu cầu tối thiểu nhất của con người như đứng, ngồi, đi lại, ỉa, đái cũng bị tước mất. Cô không có trong tay mẩu bút chì, tờ giấy để viết hoặc mảnh gương vỡ để soi xem có vết bẩn gì trẽn mặt không. Cô vốn dễ ăn song cũng phải cố gắng lắm mới nuốt nổi nửa suất cớm gạo hẩm với cá khô mặn chát lại rất đắng vì bị mọt: Nếu nghe theo lời khuyên của má và dì Bẩy, cô sẽ mau chóng thoát khỏi cảnh cá chậu, chim lổng này song cô làm cách nào để vượt qua thử thách ngày mai của tên đại úy cảnh sát? Giả bộ là một nữ sinh ngờ nghệch về chính trì, cô cứ đứng nghiêm chào cờ ư? Không đời nào. Trong đời cô chưa lần nào cô chào lá cờ ba sọc vàng, ba sọc đỏ của Ngô Đình Diệm và gần đây của đủ loại tổng thống mới Dương Văn Minh rồi Nguyễn Khánh. Những lần các nữ sinh trường cô buộc phải đứng thành hàng chào lá cờ ba que, cô thường vắng mặt hoặc nghĩ ra trò nghịch ngợm nào đó khi cờ đang kéo lên đỉnh cột. Thời kỳ nghỉ hè, cô thường vô cứ để học tập chỉnh huấn, để vui chơi với các em ; để thăm và nghe các cô , chú , các báe kể chuyện chiến đấu, chuyện miền Bắc, chuyện các nước xã hội chủ nghĩa, chuyện trong các nhà tù, v.v... Anh chị em ta ở tất cả các nhà lao đều tổ chức tuyệt thực, chống chào cờ ngụy, hát quốc ca ngụy hay bài suy tôn Ngô tổng thống. Tại sao các bậc "tù tiền bối" dám chống chào cờ, còn cô lại đứng nghiêm chào cờ nguỵ. Không thể mất lập trường như vây được Dứt khoát cô cự tuyệt chào lá cờ ba sọc cho dù cô ở tù thêm năm năm, bảy năm tù nữa cũng cam lòng. Má ơi xin má hãy thông cảm với con. Nếu ở vào hoàn cảnh của con, má sẽ xử sự như con thôi. Con không thể giả vờ đóng kịch được. Từ giả vờ đến thật là một khoảng cách dễ như trở bàn tay, con không thể mạo hiểm. Nay mai, nếu con được trả tự do, được về bên má, được gặp ba và các đồng chí của mình, con sẽ kể chuyện xảy ra như thế nào? Ai sẽ tin con nếu con khoe với bạn bè : Kền chào cờ vừa nổi lên, tao đứng nghiêm cứng người, miệng hát vang bài quốc ca: "Này thanh niên ơi quốc gia tới ngày giải phóng. Đồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống..." Thằng đại úy mỉm cười với tao. Nó khen tao rồi tặng ảnh tổng thống cho tao. Tao đưa hai tay ra đỡ, đưa ảnh lên môi hôn. Thằng đại úy gật gù tán thưởng. Nó ký luôn lệnh thả tao. Nó đã bị tao đánh lừa. ôi nhục nhã quá chừng. Các bạn sinh viên, các đồng chí và ba, má, chị Mỹ Lê, 'anh Ba Cánh cùng các em cô sẽ đánh giá việc làm của cô như thế nào? Cái lý do đóng kịch chỉ là ngụy biện: Viện ra lời khuyên của má; ý kiến của luật sư căn dặn cần giừ lời khai cũ để chóng ra khỏi tù để tự bào chữa cũng đáng xấu hổ. Dứt khoát cô phải tỏ rõ lập trường trước kẻ thù . Dù có bị xử tử hay tù chung thân, cô cũng cự tuyệt chào cờ ngụy. Có được quyết định rồi, tâm hồn Mỹ Hòa thanh thản lạ thường. Cô đắm mình trong giấc ngủ sâu.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 09:20:36 am
     Sáng hôm sau, tên giám thị đưa vào xà lim bộ quần áo tù và bộ đồng phục màu trắng, áo dài trắng của nữ sinh. Nó tháo cùm, mở còng cho cô tuyên bố: Lệnh của đại úy cho phép cô tự chọn lấy một bộ. Mỹ Hòa ngắm hiểu ý kẻ ra lệnh: hoặc là cô ở tù vĩnh viễn, hoặc cô được trở lại đời nữ sinh nếu cô phục tùng nó. Cô cầm bộ quần áo tù khô, nhám .lên tay. Tên giám thị ra khỏi xà lim:
    - Cô mắc cỡ phải không' Tôi cho gọi hạ sĩ Ngọc Huyền giúp cô.
    Ngọc Huyền mặc quần âu, áo lụa mỏng tanh, mặt trát đầy phấn, môi đỏ chót, sức nước hoa thơm phức, sà đến bên cô.
    - Chi Hai! Chị đau lắm không? Để em lấy khăn lau chỗ dơ cho chị.
    Nó ướm chiếc áo dài nữ sinh lên người:
    - Em giúp chị thay đồ, nghe. Chị có cần gì không?
    - Khỏi cần! Cô để mặc tôi, tôi tự lo liệu được. Ngọc Huyền vùng vằng:
    - Đỗ ngu. Cơm không muốn ăn lại muốn ăn cứt. Cho mày chết.
    Tên giám thị trở lại thấy Mỹ Hòa vẫn "diện" bộ đồ của mình, nó hách dịch:
    - Sao vậy bà nội?
    Đại từ "cô" với cách nói dịu dàng, ngọt ngào không còn nữa. Mỹ Hòa từ tốn:
    - Ông đại úy tính hỏi cung tôi, tôi mặc thế này cũng được . Tên giám thị đưa tù nhân vào phòng hỏi cung. Một tên thiếu úy bộ binh và một tên mặc thường phục chụp ảnh cô. . Thì ra, tụi nó đã bố trí thu hình ảnh cô để đăng báo, để tuyên truyền. Cô nở nụ cười mãn nguyện vì cô đã hành động đúng. Nếu cô không mặc bộ quần áo tù, sáng mai, tấm hình cô diện quần trắng, áo dài trắng tươi cười với bọn sĩ quan cảnh sát sẽ được đăng trên nhiều tờ báo, hỏi cô còn mặt mũi nào trò chuyện với ai nữa. Cô hiên ngang sải bước vào phòng. Khi nhạc quốc ca nổi lên, tên đại úy dông dạc hô "Nghiêm" đúng lúc Mỹ Hòa từ từ ngồi xuống ghế. Tên đại úy quay vế phía Mỹ Hòa khi vừa hết bải nhạc. Nó đập tay xuống bàn, quát:
    - Tại sao mày không chào cờ ?
    - Tôi không phải là quân nhân như mấy ông.
    - Mày là công dân của chế độ này nên phải chào quốc kỳ của Việt Nam Cộng hòa.
    -Tôi là nữ sinh, tôi chỉ lo học.
    Tên đại úy lấy trong ngăn kéo lá cờ đỏ sao vàng hỏi: 
    - Mày có biết cái gì đây không?
    - Biết chớ? Đó là quốc kỳ của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Còn đây cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng hoặc nói chính xác hơn là của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
    - Nghe đây cô Mỹ Hòa. Tôi, nhân danh đại úy cảnh sát Việt Nam Cộng hòa, xin thế danh dự trước cô và trước hai vị thợ chụp hình này là sẽ thả cô ngay .tức khắc nếu cô chiu xé một trong hai lá cờ này.
Mỹ Hòa lắc đầu:
    - Mấy ông đều là người Việt Nam, đều học lịch sử nước ta. Chính lá cờ đỏ sao vàng đã tung bay ở quảng trường Ba Đình chấm dứt 80 năm thuộc Pháp của nước ta. Và cũng chính lá cờ này đã làm nên chiến thắng Điện Biên lịch sử.
    - Không phải là lúc cô tuyên truyền. Bắc Việt theo Nga Xô Trung cộng; Bắc Việt đưa quân xâm lược vượt qua vĩ tuyến 17, Bắc Việt là kẻ thù.
    Tên đại úy đặt lên bàn cái kéo:
    - Nếu cô không muốn xé cờ, tôi chỉ yêu cầu cô làm động tác đơn giản: Cầm kéo cắt đôi lá cờ này ra.
    - Không. 
    - Sáng mai cô phải đứng nghiêm chào cờ.
    - Không. 
    Tên đại úy nổi khùng. Nó giang tay thẳng cánh đánh cô đấm cô, đá cô. Mỹ Hòa gục xuống trong vũng máu, ngất xỉu.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 04:19:00 pm
    Chị Sáu Hoàn gầy rộc hắn. Chị đã lo đủ cách nhưng không sao cứu được Mỹ Hòa thoát khỏi vòng tù tội. Những luật sư hăng hái bảo vệ Mỹ Hòa nhất đều lộ vẻ thất vọng:
    - Tụi nó thôi không kêu án Mỹ Hòa, không đưa cô ấy ra tòa xét xử nữa.
    Như vậy, số phận Mỹ Hòa khá bi đát. Cô ấy thuộc loại tù không có án, tụi nó muốn giam bao nhiêu tùy ý. Chị Sáu Hoàn đã được dì Bẩy và Tư Linh thông báo đầy đủ về Mỹ Hòa. Mỹ Hòa chống chào cờ, ra mặt đối địch với tụi nó . Mỹ Hòa đã xử sự đúng. Chị không giận con mà còn thương con nhưng không dám mạo hiểm đi thăm con. Dì Bẩy và Tư Linh thường đến với Mỹ Hòa để thăm nuôi. Trước mặt kẻ thù, Tư Linh nhận là con ruột dì Bẩy, gọi Mỹ Hòa là chị họ. Năm 1964, Tư Linh mới 14 tuổi. Cậu nhận trách nhiệm chuyển quà và tình thương của má, của anh Ba Cánh, chị Mỹ Lê tới Mỹ Hòa và kể lại mọi điều mắt thấy, tai nghe ở trại giam cho cả nhà nghe. Giọng Tư Linh hồn nhiên:
    - Con và má Bẩy đứng ngoài hàng rào, chị Ba đứng phía trong. Con nói với chị Ba là cả nhà đều khỏe. Chị Ba nhắn là chị rất khỏe, Nội yên tâm.
    Chị Ba không nhắc tới Ngoại. Tư Linh làm sao hiểu nghĩa bóng của câu Mỹ Hòa định báo cáo:
    - Tôi không khai báo gì cả (rất khỏe), các đồng chí trong chi bộ (Nội) cứ vững tin ở tôi.
    Tư Lỉnh vẫn kể :
    - Má Bẩy gởi giỏ đồ . Thằng cảnh sát đổ tất cả ra bàn khám rất kỹ. Tụi nó cắt gói quà làm bốn, nắn rồi soi từng đường may bộ đồ má gởi cho chị Ba.
    Chị Sáu Hoàn đâu cần giấu thư trong gấu quần, gấu áo. Mỹ Hòa đã từng phụ may cho chi nên nó thuộc từng đường kim, mũi chỉ của má. Mỹ Hòa đã chắc chắn nhận ra bộ đồ do tự tay má ruột cất may, mặc vào nó sẽ cảm nhận đượm hơi ấm tình thương của má. Chị Sáu Hoàn không nghĩ đến cứu con gái thoát khỏi vựng tù tội vì không còn khả nàng đó nữa. Chị vô cứ đế nghị gặp Tư lệnh lực lượng vũ trang thành phố. Anh Trần Hải Phụng trao đổi với chị thân tình, thẳng thắn:
    - Về số lượng, chất lượng vũ khí, các đống chí bên thành đoàn khỏi cần bận tâm vì chúng tôi dư sức cung cấp đầy đủ mọi yêu cầu của các bạn. Vấn đế cần đặc biệt quan tâm là địa điểm đặt kho, người coi kho vũ khí và phương tiện vận chuyển.
    Anh Hải Phụng kể về kho vũ khí của anh Đỗ Văn Căn. Anh Căn quê ở Từ Liêm, đang có nghề thợ bạc, chuyên làm đồ nữ trang. Tổ chức yêu cầu anh bán nhà cũ, bỏ nghề thợ bạc để mua nhà mới gần trụ sở phái đoàn viện trợ Mỹ và cố học nghề làm đế giày cao su. Anh mua xe ba gác để chuyên chở những bành mủ cao su nặng hàng tạ mà các cán bộ hậu cần, trong vai chủ đồn điền cao su, đã giấu vũ khí trong ruột. Anh Ba Mủ (tên mới) cùng vợ đã lấy súng đạn, thuốc nổ từ các bành mủ cao su, đưa xuống hầm vũ khí bí mật (đã đào sẵn ở trong nhà). Việc chọn người trông coi kho vũ khi không phải dễ dàng. Thời kỳ đầu, chỉ riêng các đồng chí trong Bộ Tư lệnh thành phố mới có thẩm quyền duyệt danh sách, hoặc ký lệnh điều động những cán bộ tin cậy nhất, dũng cảm, trung thành nhất vào nhiệm vụ vô cùng hệ trọng này. Chị Tư K. là đội trưởng du kích, chiến đấu vô cùng gan dạ, đã được thưởng ba Huân chương Chiến công, được phân công làm chủ kho vũ khí ở gần sân bay Tân Sơn Nhất. Ba tháng sau, chị Tư K. đã đau khổ thú nhận với anh Hai Phụng:
    - Em không gánh vác nổi nhiệm vụ, xin Tư lệnh cứ thi hành kỷ luật em và cho em trở lại chiến trường.
    Chị Tư thổ lộ :
    - Suốt 180 ngày qua, em ăn không ngon, đêm nào cũng trằn trọc, không sao ngủ được. Bất cứ giây phút nào, em cũng lo địch đến, nghe tiếng động nhỏ cũng giật mình.
    Tư lệnh Hai Phụng rất thông cảm với cấp dưới. Chị Tư thừa gan lao vào đồn địch nhưng không đủ bản lĩnh mặt đối mặt với quân thù khi mình đang "ngồi trên đống thuốc nổ". Chị Sáu Hoàn thu nhận được những bài học quý giá. Chị sẽ giao cho ai trông coi kho vũ khí? Làm sao xoay cho những người này đủ giấy tờ hợp pháp để lọt vào làm chủ những ngôi nhà mà chị đã mua? Chị nôn nóng làm việc này vì trách nhiệm được giao, vì trên đường phố Sài Gòn ngày càng có nhiều người Mỹ. Thoạt đầu, những quan chức từ nước Mỹ tới luôn mặc thường phục, ra phố thường ngồi ôtô nhưng gần đây ngày càng nhan nhản người mặc quân phục, đcó súng ngắn, luôn đi bộ nghênh ngang trên đường phố. Chị Sáu Hoàn rất ghét những tên xâm lược Mỹ. Chị phải làm sao đưa được càng nhiều vũ khí vào Sài Gòn để các chiến sĩ biệt động đánh Mỹ, diệt ngụy để lập chiến công và để trả thù cho Mỹ Hòa của chị. Nhớ đến bài học anh Hai Phụng truyền đạt lại, chị nghĩ ngay tới dì út Khuê . Dì út đã chuyền về căn hộ số 281 đường Bạch Đằng làm nhiệm vụ giao liên. Dì thương lượng với chị Sáu:
    - Chị cho tôi mượn thằng Mười Tuân.
    Ơ hay, tại sao dì út lại phải "mượn" con? Mà tại sao dì lại chọn thằng Mười Tuân? Dì út quyến luyến với bảy đứa con của chị Sáu Hoàn, dì đặc biệt mê út Hiếu, luôn dành mọi tình cảm cho út Hiếu nhưng lại chấm Mười Tuân vì lý do gì? Vì dì thèm con trai? Nếu vậy sao dì không bắt Tư Linh hay Ba Vĩ? Dì út Khuê thổ lộ với chị Sáu:
    - Em nhận trông coi kho vũ khí bí mật nhưng em không định rời bỏ nhiệm vụ giao liên. Mười Tuân sẽ giúp em sắm trọn vai mình đóng trót lọt hơn trước mặt kẻ thù.
    Dì út khen thằng Mười Tuân hết lời:
    - Nào là nó tinh nhanh, tháo vát, có ý; nào là nó đẹp trai, mũm mĩm, khi cười rất có duyên nên ai cũng muốn gần.
    Dì út Khuê nhận xét về Mười Tuân rất xác đáng và kế hoạch dì đưa ra hết sức hợp lý khiến chị Sáu nghiêng ngay về lúa đồng tình. Tuy vậy, chị vẫn ướm hỏi:
    - Mấy anh lãnh đạo tính chọn kho vũ khí của dì là kho chính, dự trữ khá nhiều súng đạn, thuốc nổ? Dì tính sao?
    Dì út trả lời gấy gọn:
    - Cần gì phải tính với toán nữa, chị Sáu? Tụi nó khám nhà, bắt được em có một quả lựu đạn hay cả trăm khẩu súng trong nhà đều tù tội như nhau, em đâu có ngán?
    Chị Sáu Hoàn thầm mến phục người bạn gái. Dì út đâu phải không lường hết nguy hiểm của việc mình làm. Dì hiến dâng cuộc sống của mình cho cách mạng nhẹ nhàng, vô tư không tính toán. Đem thằng Mười Tuân mà gửi dì thì thật yên tâm. Dì út sẽ kèm cặp, bày vẽ, rèn luyện cho thằng Mười Tuân đi theo con đường của ba và của gia đình có thuận lợi hơn chị vì chị luôn ra vào căn cứ, ít khi sống ở Sài Gòn. Chị bàn với dì út:
    - Thằng Mười Tuân mới 11 tuổi. Nó còn nhỏ dại quá. Tôi e nó không giúp được dì mà còn làm tội dì mất nhiều thì giờ vì nó.
    - Chị khỏi lo, em hiểu tính cháu rồi. Em và cháu rất hợp nhau.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 04:22:07 pm
    Mười Tuân đồng ý lên Sài Gòn. Nó hay tin chị Ba bị bắt nên nó phải trả thù cho chị. Thuở má bị bắt, Mười Tuân còn quá nhỏ. Những năm gần đây, Nội kể cho nó nghe về ba Bẩy Đấu, dặn nó giữ bí mật không được kể chuyện ba tập kết ra Bắc, hiện là kỹ sư, giám đốc mỏ than Cẩm Phả. Nó chả hình dung ra cái mỏ than như thế nào. Anh Ba Vĩ cũng chả giải thích được gì cho nó. Anh Ba lớn hơn, học hơn nó một lớp, ham đọc sách hơn nó nên anh biết về Tháp Rùa, anh kể về thủ đô Hà Nội và giỏi vẽ lá cờ đỏ, có ngôi sao vàng ở giữa. Nó tập mãi nhưng không sao vẽ một nét được ngôi sao có năm cánh rất đều nhau. Anh Ba Vĩ kể:
    - Mày biết không, ông Lê Lợi là tướng rất giỏi. ông đánh Tàu. Có con rùa vàng thiệt bự ngậm thanh kiếm báu dâng cho ông. Ngày xửa, ngày xưa, quân ta và quân nó chưa có súng bắn nhau ch~ dùng cung nỏ. Mấy ông tướng cưỡi ngựa, múa võ đánh nhau. Nhờ có kiếm báu, ông Lê Lợi thắng luôn, đuổi được quân giặc ra khỏi bờ cõi. Khi ông đi chơi thuyền, con rùa thiệt bự lại nồi lên. ông dùng kiếm đuổi rùa. Con rùa đớp kiếm lặn mất tăm nên ông Lê Lợi - tức là vua Lê - cho dựng nên Tháp Rùa và đặt tên nó là hồ Hoàn Kiếm.
    Mười Tuân tức quá. Nó học trong vùng tạm chiếm nên chả có thầy giáo, cô giáo nào giảng cho nó nghe về sự tích hồ Hoàn Kiếm. Anh Ba Vĩ sống gần mấy anh, mấy chị du kích nên anh được nghe nhiều chuyện lạ. Anh rủ Mười:
    - Tao dẫn mày đi xem đền thờ và mộ nguyên soái Trương Định.
    Thì ra, ông Trương Định là người quê Gò Công cùng với Mười Tuân. ông chủ trương đánh Pháp nhưng triều đình Huế ra lệnh, bắt buộc ông phải đầu hàng giặc. ông không tuân lệnh. ông tập hợp nghĩa quân cùng đánh Pháp. Địch đã bắt ông, giết ông, không cho dân làng chôn ông. Dân làng đấu tranh kiện lên tới triều đình Huế. Vua Tự Đức buộc phải ký sắc lệnh cho phép bà con xây phần mộ, lập đền thờ ông tại Gò Công. Mười Tuân đi theo anh Ba. Anh rành quá. Anh trao cho Mười Tuân ba nén nhang, dặn:
    - Ba má chúng mình đã noi gương ông Trương Định. Mày với tao cũng vậy, cùng khấn, cùng hứa sẽ xứng đáng là con cháu ông.
    Hôm nghe tin chị Ba Mỹ Hòa bị địch bắt, Mười Tuân hỏi anh ruột:
    - Anh hay tin chị Ba chưa?
    - Ai nói chuyện đó với mày.
    - Ngoại.
    - Mày tính sao?
    Mười Tuân biết tính sao bây giờ? Nó đã theo anh Ba vào đồn địch lấy cắp đạn, lựu đạn đem về tặng các chú du kích. Nó đã nhịn ăn sáng để dồn tiến mua quà tặng mấy bác, mấy chú, mấy cô cán bộ. Nó luôn giữ bí mật, chưa hé lộ với bất cứ ai về gần chục hầm bí mật nuôi cán bộ mà nó thấy ở nhà Nội. Nó không thể vào du kích được vì mấy chú, mấy anh cho nó còn nhỏ và cũng không thật tin nó vì nó sống với Ngoại trong vùng địch. Mười Tuân ức lắm. Chị Ba với nó thiệt vô cùng thân thiết sao nó không nghĩ ra "cách" gì cứu chị Ba. Vào đúng thời điểm này, má quyết định đưa nó lên Sài Gòn. Nó ưng ngay. Má nhủ nó:
    - Con không thể ở chung với má hay với chị Hai được mà ở với dì út Khuê. Con làm con nuôi dì út.
Tuy mới 11 tuổi, cậu bé Mười Tuân hiểu rất rõ vai trò mà dì út Khuê đang đảm nhiệm. Dì út là người đằng mình. Chính dì út đã đưa Mười Tuân, ứt Hiếu vô căn cứ gặp má. Mười Tuân buồn vì không được sống chung với má nhưng nó vui vẻ nhận lời:
    - Con bằng lòng làm con nuôi má út.
    Chị Sáu Hoàn đưa con lên Sài Gòn trao cho dì út rồi hối hả đi lo công chuyện. Chị sẽ đưa ai về coi kho vũ khí ở 330 đường Cao Đạt? Không hiểu sư cô Nguyễn Thị Nhàn có dám gánh vác trọng trách này không? Chị tìm đến thùa Thị Vải Gặp chị trước mặt khách thập phương, sư cô luôn giữ vẻ mặt nghiêm trang, thường đệm tiếng "mô phật" sau mỗi câu nói nhưng khi chỉ còn hai người, sư cô không giữ ý nữa mà thường ríu rít xưng chị chị, em em, trò chuyện khá rôm rả. Trong mối quan hệ giữa đôi bên, chị Sáu luôn tôn trọng tín ngưỡng của sư cô, coi sư cô thân thiết như chị ruột mình, còn sư cô lại luôn đặt mình là cấp dưới, là cơ sở cách mạng của cán bộ Sáu Hoàn. Chị Sáu không úp mở nữa mà vào đề luôn:
    - Chị Nhàn? Nếu cách mạng yêu cầu chị hoàn tục, giao cho chị một công tác vô cùng hệ trọng, chị có bằng lòng không?
    Với sư cô đây là câu hỏi quá bất ngờ. Hoàn tục ư? Không đi tu nữa ư? Từ ngày xuất gia, sư cô quá quen với nâu sồng, với tụng kinh gõ mõ, với ăn chay niệm phật, làm sao sư cô có thể dứt bỏ nổi thói quen đó? Chị Sáu Hoàn tiếp tục tấn công:
    - Em không lãnh đạo lớp học ở chùa Thị Vải nữa. Cách mạng giao cho em chuyên chở vũ khí vào nội thành. Em mua được nhà rồi. Em cần, rất cần chị hoàn tục về trông coi vũ khí cho cách mạng.
    Sư cô Nguyễn Thi Nhàn im lặng. Việc tầy đình như vậy mà cán bộ Sáu Hoàn dám nói thẳng với sư cô, liệu sư cô nên trả lời như thế nào? Từ chối nhiệm vụ cách mạng giao, sư cô sẽ ăn nói ra sao khi gặp lại chồng và hai con đi tập kết trở về? Ngoài ra, sư cô tự thấy hổ thẹn với lương tâm. Sư cô đã có gan nhận làm cơ sở cách mạng, nhận chứa các cán bộ về dự lớp học do cách mạng mở ở chùa Thị Vải, tại sao không dám tiếp tục gánh vác nhiệm vụ mà cách mạng sẽ giao? Sư cô Nguyễn Thị Nhàn rất muốn nghe lời dì Sáu song sư cô còn gặp nhiều điều khó xử. Sư cô không còn người thân thiết ở Sài Gòn. Từ ngày xuất gia, sư cô đã quen nâu sồng, không sát sinh, chỉ lo tụng kinh gõ mõ, không bận tâm tới cuộc sống hàng ngày. Thiện nam, tín nữ, khách thập phương đến viếng chùa Thị Vải đều thành tâm tiến cúng quỹ từ thiện, giúp sư cô lo đủ cơm chay cho mình mỗi ngày và dành dụm chút đỉnh để sửa sang, tu bổ cho chùa. Về 330 đường Cao Đạt, sư cô sẽ làm cách nào để lo cho cuộc sống? Chả lẽ sư cô đi quyên giáo hoặc ngửa tay xin tiền trợ cấp của dì Sáu? Sư cô không thạo buôn bán và theo dì Sáu nói thì căn nhà mà sư cô đến ở không có vườn để trồng rau.
    Chị Sáu Hoàn lắng nghe tâm trạng của sư cô. Chị Nguyễn Thị Nhàn khòng ngại nguy hiểm sẽ phải tù tội thậm chí có thể bị xử tử nhưng chị chỉ lo không kiếm đủ tiến để nuôi thân. Chị Sáu ôm vai sư cô xởi lởi:
    - Chị khỏi lo. Ở Sài Gòn em có cả trăm cách kiếm tiền rất lương thiện. Em sẽ hướng dẫn chị làm đủ loại mứt. Sáng sáng, chị đồ xôi dừa, xôi lạc, xôi đỗ bán cho bà con nghèo. Nêu chị thích làm thợ may, em gởi biếu chị chiếc máy khâu. Chị ưng ý hoàn tục chớ? Chị không cần nói với ai về việc này. Bao giờ em lo đủ giấy tờ hợp pháp, em sẽ đón chị.
    - Chị ở một mình hay sẽ sống chung với ai?
    - Em sẽ điều con nhỏ Lê Thị Thưởng đến với chị, nhưng quan hệ giữa hai người ra sao để che mắt được địch, ta phải tính kỹ.
    - Cứ nhận đại là má con cũng được.
    - Không thể đơn giản như vậy đâu, chị. Chị và nhỏ Thưởng ở hai tỉnh khác nhau, tiếng nói khác nhau nên không thể nhận là má con ruột.
    Có lẽ nên khai là má chồng, nàng dâu.
    - Nhưng các con tôi đã tập kết ra Bắc hết trơn, hết trọi rồi.
    - Ta đâu cần khai lý lịch thiệt với địch. Để em bàn với nhỏ Thưởng Con đó sống ở Sài Gòn lâu, có kinh nghiệm hoạt động nội thành. Nó sẽ là tổ trưởng của chị. Có lẽ nên chọn cho Hai Thưởng "người chồng là ngụy binh".


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 04:26:09 pm
    Chị Sáu Hoàn tin rằng mình đã chọn đúng mặt để gửi vàng. Hai Thưởng rất hăng hái. Cô nhanh nhẹn, tháo vát và nhập vai diễn rất mùi. Cô lân la sang nhà hàng xóm kể chuyện: Má em cưng chiếu em lắm. Anh Ba em đóng quân ở Huế. Em tính ra thăm anh để kiếm đứa con nhưng má không chịu. Má ngán em thân gái dặm trường. Bán anh em xa, mua láng giềng gần, má con em cầu mong sớm lửa, tối đèn có mấy anh, mấy chị, có bà con cô bác che chở giùm. Hai Thưởng mở cửa hàng bán rau, hoa, quả để tăng thu nhập cho ngân sách gia đình và để che cặp mắt soi mói của bọn an ninh, mật vụ. Chị Sáu Hoàn tưởng rằng mọi việc đều ổn thỏa. Chị không ngờ cả hai má con đều tuyên bố là không thể chung sống với nhau và đều nằng nặc đòi được đi nhận công tác khác. Tại sao vậy. Hai Thường tuyên bố:
    - Bà già kỳ cục, lẩm cẩm. Bà ăn chay thây kệ bà nhưng bà đâu có quyền cấm tôi ăn mặn.
    Sư cô Nguyễn Thị Nhấn đã quen ăn chay, ăn riêng một mình hoặc ngồi cùng mâm với các sư nữ. Về lại đời thường, sư cô không sao bỏ được thói quen này. Bữa cơn đầu tiên dọn lên, sư cô không đụng đũa. Cô "con dâu" nài nỉ "má chồng":
    - Má ráng ăn cho khỏe người. Con nấu nồi giấm cá để thết má.
    Cô gắp cá bỏ vào bát má. Sư cô cố đưa miếng cá lên miệng đề con dâu vui lòng nhưng rồi cô vứt bát ôm bụng, nôn thốc, nôn tháo. Nàng dâu dìu má chồng vào giường vẫn chưa rõ lý do vì sao mà má bịnh. Chiều hôm đó, khi thấy má chồng dùng xà phòng kỳ cọ từng chiếc bát,        Hai Thưởng nổi sùng.
    - Bộ bà chê con này không rửa nổi cái bát sao?
    - Đâu phải.
    - Tại tôi di tu lâu rồi tôi không chịu nổi mùi cá thịt mùi nước mắm, mắm tôm.
    - Vẽ sự Trở lại đời thường má đâu cần khắc khổ nữa.
    - Tôi quen rồi.
    Hai Thưởng rất ngạc nhiên. Sao lại có người dại dột như vậy? Các món ăn ngon nhất như gà tần, chim quay, lẩu ba ba, cầy tơ bảy món mà không biết tới thì quá lạc hậu. Dựa vào thế mình là tổ trưởng, Hai Thưởng phân tích:
    - Mình dám làm cách mạng, sao lại không dám thay đổi khẩu vị Tôi yêu cầu đồng chí Nhàn phải ăn mặn.
    Trong lĩnh vực này, cựu sư cô không thể nghe lời tổ trưởng được. Đôi bên giận nhau. Gặp chị Sáu Hoàn, sư cô trình bày:
    - Chị xin phép Hai Thưởng cho chị nấu riêng, ăn riêng. Con nhỏ lén cho mỡ lợn vào lọ dầu lạc của chị. Nó lấy thịt gà bôi lên bát trước khi xới cơm cho chị.
    Hai Thưởng thừa nhận mọi trò tinh nghịch của mình đều có dụng ý tốt là tập cho sư cô ăn mặn. Chị Sáu Hoàn dàn hòa:
    - Ăn chay hay ăn mặn là quyền tự do của từng đồng chí không nên lấy quyền cách mạng can thiệp thô bạo vào sở thích riêng. Hai Thưởng! Con có hứa với dì là không quậy phá má con nữa không?
    - Dạ, con hứa!
    - Chị Nhàn tính sao?
    - Hai má con tôi ngồi chung mâm được. Tôi có yêu cầu Hai Thưởng đừng dùng đũa gắp thức ăn mặn chọc sang thức ăn dành riêng cho tôi. ăn xong tôi rửa bát đũa cho cả hai người.
    Hai Thường xua tay:
    - Má làm thế người ta nhìn vào coi sao được. Con đã hứa với dì Sáu là con sẽ tôn trọng tự do tín ngưỡng của má. Con xin rửa chén bát và xếp riêng để má dùng. Nhà chi có hai người, má hãy tin con đi.
    Chị Sáu Hoàn lo ghép thêm một đôi nữa vào đường Minh Phụng. Rút kinh nghiệm chuyện không hay xảy ra, chị đưa dì Năm và Sáu Dinh về sống chung trong một nhà, coi nhau là má con ruột. Sáu Dinh nhanh nhẹn, khỏe mạnh, đẹp gái và có tài giao dịch. Chị trao cho Sáu Dinh khoản tiền lớn:
    - Thím có người bà con là thư ký riêng của tên trưởng ty cảnh sát Vĩnh Long. Con trao thư thăm hỏi của thím cho anh ta. Việc còn lại tự con lo liệu lấy.
    - Ta phải hối lộ cho thằng cha nhiều tiền như thế này sao, thím Sáu?
    -  Việc con và má con gánh vác quá lớn nên mấy anh không đồng ý cho con dùng giấy giả mà phải lo được căn cước thứ thiệt bằng bất cứ giá nào. Ta không thể lo lót ở Sài Gòn được. Hai má con có đủ giấy tờ hợp pháp từ Vĩnh long chuyển lên Sài Gòn sẽ là lá bùa hộ mệnh, là tấm bình phong tốt về lâu, về dài.
    Nửa tháng sau, hai má con dì Năm dọn nhà đến đường Minh Phụng. Hai người cố đào căn hầm chứa vũ khí. Sáu Dinh cần mở quầy hàng bán rau và trái cây. Dì Năm và Sáu Dinh làm theo ý kiến chị Sáu chỉ đạo. Như một vị tư lệnh trưởng chỉ huy một chiến dịch, chị Sáu ngồi kiểm điểm lại lực lượng của mình. Như vậy là chị đã có ba kho vũ khí nhưng tất cả đều rỗng ruột. Chị còn năm kho khác chưa bố trí được người trông coi, chị nên làm gì bây giờ? Chị không có người giúp việc và không thể nào triển khai cả hai việc cùng một lúc. Chị quyết định tạm gác việc tìm người gài vào các kho còn lại mà phải lo liệu làm sao cho ba kho đã có phải đầy ắp vũ khí. Có vũ khí, lực lượng biệt động của thành đoàn sẽ tấn công các cư xá Mỹ để trả thù cho Mỹ Hòa. Mỹ Hòa hiện đang ở đâu? Chị không đến thăm con được nhưng lúc nào cũng nghĩ tới đứa con gái yêu đang bị tù đày. Chị không cứu con ra khỏi nhà tù được nhưng chị có cách trả thù cho con của người mẹ. Chị không chần chừ nữa. Chính chị và nhất định phải là chị sẽ đưa chuyến vũ khí đầu tiên từ căn cứ vào ba nhà kho của chị. Chị đưa bằng cách nào? Tất nhiên, chị sẽ gặp muôn vàng khó khăn, nguy hiểm song chị không lùi bước. Tụi an mnh, mật vụ Mỹ, ngụy tuyên bố: “Không để con ruồi nào có dính líu tới Việt cộng lọt vào Sài Gòn”. Không phải chúng thích huênh hoang, khoác lác mà chính vì chúng tin vào sự bố phòng vô cùng nghiêm ngặt từ vòng ngoài tới vòng trong của chúng. Chị Sáu về căn cứ. Từ hai tháng qua, chi chưa rảnh rang được vài giờ để đi thăm bốn đứa con chị đang sống ở Sài Gòn. Chị nhớ con gái đầu lòng và con rể quá. hình như chi sắp được làm bà ngoại và anh Bẩy Đấu cũng sắp lên chức ông ngoại. Chao ôi, chị xa anh đã hơn mười năm rồi. Ngày chia tay, chị đang còn son trẻ, còn bây giờ chị bước qua ngưỡng cửa của tuổi bốn mươi rồi. Không hiểu anh đã biết tin Mỹ Lê lấy chồng chưa? Nếu biết mình sẽ là ông ngoại, anh nghĩ sao? Chị cũng không rõ thằng Mười Tuân sống ra sao? Nó có hợp với má út Khuê không? Rất may là không có đứa con nào của chị quậy phá và không đứa nào dám "kén cá, chọn canh". Tụi nó biết thân, biết phận mình nên má gởi nhà ai chúng cũng ưng ý, bảo kêu ai là ba, là má chúng đều vâng lời. Chị rất an tâm về Tư Linh. Dượng Bẩy, dì Bẩy rất thương Tư Linh. Vì thằng đó học giỏi, thông minh, ngoan, hiền và rất chăm lao động. Chỉ nhớ các con quá! Chị không thạo đi xe đạp nhưng ở đất Sài Gòn này có biết bao phương tiện giao thông nhanh chóng tiện lợi. Hay là chị vù về nhà dì ứt Khuê ở 281 đường Bạch Đằng? Trong thời gian chị tắm giặt trò chuyện với Mười Tuân, chị sẽ nhờ dì út tìm Mỹ Lê, Ba Cánh và Tư Linh. Thật là hạnh phúc biết bao nếu được quây quần bên các con, nghe chúng nó tíu tít kể mọi chuyện của gia đình. Chắc chắn dì Bẩy sẽ đến với chị. Dì Bẩy có điều kiện về Gò Công thăm má ruột. Chả rõ Ngoại của lũ nhỏ và thằng Ba Vĩ, con út Hiếu, thằng Bẩy Thiện sống ra sao? Má chồng chị có đau yếu, bệnh tật gì không? Chị mặc quần áo xách giỏ tính ra khỏi nhà nhưng chị dừng lại. Các con ơi các con thấu hiểu cho lòng má. Không gặp được các con, má nhớ nhung đau khổ lắm nhưng má không thể mạo hiểm khi má chưa lập xong được đường dây chuyển vũ khí từ căn cứ vào Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 04:29:55 pm
    Đêm hôm đó, chị Sáu Hoàn trằn trọc không chợp mắt nổi. Chị nhớ chồng da diết. Anh với chị đâu thể hạnh phúc bằng vợ chồng Ngâu. Ông Ngâu, bà Ngâu còn may mắn gặp nhau mỗi năm một lần bên dải Ngân Hà, còn chị đã xa anh đằng đẵng hơn chục năm trời. Ở nước ta, nàng Cúc Hoa đã tần tảo nuôi chồng ăn học. Khi chiếm được bảng vàng, trạng nguyên Tống Trân không quên người vợ chung thủy của thuở hàn vi nên đã khước từ cuộc hôn nhân với công chúa, không ưng làm phò mã. Tống Trân bị đày đi sứ sang Tàu mười năm. Vua Tàu mến mộ tài năng Tống Trân đã phong ông danh hiệu lưỡng quốc Trạng nguyên và lại đem nàng công chúa tài sắc vẹn toàn gả cho ông nhưng Tống Trân dứt khoát cự tuyệt...
    Chị Sáu Hoàn tự cười thầm. Chị đâu phải là Cúc Hoa và anh Bẩy của chị đã có nàng công chúa nào theo đuổi đâu? Chị tin anh. Anh không bao giờ lừa dối, phụ bạc chị tuy thời gian xa cách giữa hai người đã vượt qua năm tháng. Cúc Hoa mòn mỏi chờ chồng. Chị khâm phục Cúc Hoa. Ở thời đại đó, trong hoàn cảnh nghèo khổ tới mức cùng cực, Cúc Hoa vẫn làm việc cật lực để nuôi mẹ chồng, vẫn một lòng một dạ chờ chồng. Chị khác với Cúc Hoa vì chị là đảng viên cộng sản. Chị luôn nhớ tới lời anh dặn dò lúc chia tay: "Anh cứ hình dung em là cây lau, cây sậy ở trên ngọn cây có tổ cho sáu (anh đâu biết là bảy) con chim non. Em làm sao chống đỡ nổi giông tố ập tới để bảo vệ sáu con của chúng ta? Anh hy vọng em nuôi các con khôn lớn, là người lương thiện, không đứa nào theo địch là anh mãn nguyện rồi".
Cúc Hoa xa chồng khi còn son rỗi chưa có cả đàn con như chị. Chị sẽ lo cho đàn con trưởng thành vượt qua mơ ước của anh. Và riêng chị, chị sẽ xứng đáng là vợ anh, là đồng chí của anh. Chị làm sao đưa vũ khí từ căn cứ vào ém trong các kho của chị?
    Bí thư thành đoàn Hồ Hảo Hớn và các anh trong Ban chỉ huy quân sự thành đoàn sẵn sàng chi viện cho chị tiền bạc, phương tiện đi lại và giới thiệu những người đáng tin cậy nhưng mọi việc cụ thể, chị phải lo liệu hết. Chị không nề hà việc gì. Trong một ngày, lúc thì chị ở cương vị ông tướng lo bày binh bố trận cho một chiến dịch, lúc thì chị là trinh sát đi nghiên cứu địch tình, điều tra địa hình, rồi chị làm giao liên, thủ quỹ, người giữ kho. Chị vạch phương án tác chiến không ở trên sa bàn, trong báo cáo, mà là tính toán từng đường đi, nước bước trong óc mình. Khác với nhiều đồng chí, chị được ưu tiên ra vào căn cứ không phải qua giao liên dẫn đường. Suốt hai ngày liên tiếp, chị thả bộ, ngồi xe lam, đi xích lô từ nội thành ra ngoại thành rồi lại trở vào. Những tên cảnh sát khám xét rất nghiêm ngặt, sờ nắn từ chiếc quai guốc đến gấu áo, gấu quần. Đã bốn lần chị bị đưa vào phòng kín. Những nữ gián điệp thường được khoác cái tên mỹ miều Thiên Nga, Phượng Hoàng bắt chị cởi hết quần áo, soi mói cả chỗ kín nhất trên cơ thể chị. Chị trải qua những cuộc kiểm tra, lục vấn không khó khăn gì, vì chị không mang theo tài liệu mật . trong người và các giấy tờ cùng căn cước của chị đúng là loại thứ thiệt 100%. Dù sao chị cũng rút ra được kết luận: nếu không có cách ngụy trang che mắt địch thật cao tay, người của ta không thể an toàn đưa vũ khí lọt qua các vọng gác. Chị Sáu Hoàn quay trở lại Sài Gòn tìm đến với di út Khuê Thằng Mười Tuân mừng quá, ôm chặt lấy má, áp đôi má bầu bầu vào ngực má. Thằng nhỏ mau lớn quái. Dì út sắm quần áo mới cho nó. Nhìn khuôn mặt rạng rỡ của nó, không ai đoán nổi nó là thằng bé nhà quê mới ra tỉnh. Chị vuốt tóc con:
    - Má đoảng quá, má không mua quà gì cho con. Con ưng thứ gì, má mua cho?
    - Khỏi cần đâu má.
    Mười Tuân ngước cặp mắt đen lay láy nhìn má, ngập ngừng đôi phút mới gợi ý:
    - Nếu má có tiền má cho con xin vài trăm.
    Chị thăm dò con trai:
    - Con cần tiến đi xem chiếu bóng hay xài cà phê, hủ tiếu?
    - Má à, ở Sài Gòn có nhiều sách học và vở mà ở Gò Công không có bán. Con tính mua rối nhờ dì Bẩy gởi về quê cho út Hiếu, Bẩy Thiện.
    Chị ôm rịt lấy đầu con, mắt rơm rớm lệ. ở tuổi nó, con người ta đã đua đòi, quậy phá, ăn tiêu hoang phí, còn nó, nó biết lo cho các em. Chị móc túi lấy tiền trao cho con. Mười Tuân đếm đủ số tiến cần thiết đút vào túi áo ngực và trả lại má khoản tiền còn lại:
    - Má? Má út Khuê lo cho con đủ rồi. Má cầm lấy để lo công chuyện. Má à. Má út Khuê là người đàng mình, con biết rồi.
    Chị cười trêu con:
    - Má út đưa con và út Hiếu vô cứ thì chắc chắn má ức là người đàng mình rồi. Điều đó dễ ợt, ai mà không đoán ra.
    Bị chạm tự ái, Mười Tuân cãi:
    - Con đâu kể chuyện cũ. Má út xách giỏ đưa con vô chợ Bến Thành. Má đặt giỏ, đứng mua vải. Có một cô xách chiếc giỏ y hệt giỏ má út.  Cô đặt giỏ của cô xuống xách giỏ của má út đi.
    Chị Sáu Hoàn chột dạ. Dì út Khuê chọn điểm hẹn ở chỗ đông người để trao đổi tài liệu là đúng nhưng tại sao dì lại sơ hở để Mười Tuân phát hiện được? Chí dắt tay con, lững thững đi dạo trên bến cảng Bạch Đằng. Đến chỗ vắng người, chị hỏi con:
    - Những người khác có trông thấy cô kia xách nhầm giỏ không? Tại sao con không kêu lên? Con đã nói với má út điều này chưa?
    - Má út đưa con đi mua hàng, con phải canh chừng giùm má. Không ai biết chuyện xảy ra đâu má? Con chưa nói điều này với má út. Má út không kêu mất giỏ nên con biết má là người đàng mình.
    Đến lúc này, chị buộc phải khen con, buộc phải thú nhận điếu mà ở tuổi Mười Tuân chưa nên biết tới:
    - Con không được bép xép với ai về chuyện này nghe.
    - Má ! Con đã lớn rồi. Con có nói cho ai biết ba là tỉnh ủy viên, chi Mỹ Hòa bị bắt, các hầm bí mật ở nhà Nội đâu. Má không tin con sao?
    - Má rất tin con. Con xứng đáng là con của ba Bẩy Đấu. Con có biết câu "Hổ phụ sanh hổ tử" không?
    - Má! Con chưa xứng đáng với ba đâu. Con chưa học giỏi chưa đứng đầu lớp như anh Tư Linh. Con chưa giúp mấy chú du kích nhiều bằng anh Ba Vĩ. Con sẽ cố gắng để ba và má khỏi buồn vì con.
    Chị Sáu Hoàn âu yếm quết tóc con, mắt hướng ra sông Sài Gòn và bỗng một ý nghĩ lóe lên trong chị. Chị đứng dậy, rủ con:
    - Ta về thôi, Mười Tuân. Đến giờ má phải đi rồi.
    Chị móc túi đưa khoản tiền Mười Tuân vừa trả lại dặn:
    - Con cầm lấy. Má tin là con sẽ dùng tiền vào việc có ích.
    - Con xin má.
    - Má đi nghe, con. 
    Chị Sáu hối hả tìm đến nhà cơ sở. Chị hỏi:
    - Sáu Đồng? Con dùng xuồng chở dì vô cứ được không?
    - Bao giờ dì Sáu cần đi?
    - Ngay bây giờ. Con có cần chuẩn bị gì không?
    - Dì chờ con chút xíu.
    Sáu Đồng vào trong buồng thay bộ quần áo của dân chài. Cậu giải thích:
    - Mặc bộ đồ lớn (sang trọng) ra khơi trông kỳ quá. Mời dì.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Năm, 2010, 04:33:23 pm
    Ngồi trên xuồng, chị Sáu quan sát mặt sông. Lúc nãy khi ngồi với Mười Tuân, chị chợt nghĩ tới đường thủy và giờ đây chị đang đi quan sát địa hình. Đúng là trên sông Sài Gòn rộng bao la, thuyền, tàu đi lại tấp nập và việc kiểm soát của địch có vẻ lỏng lẻo hơn. Chị yêu cầu Sáu Đồng cho cập xuồng ở nhiều bến để quen sông nước, để nắm tình hình địch, để chọn bến bãi sẽ đổ hàng. Chị Sáu vô cứ. Chị cũng được phá bỏ lệ, không phải trùm mũ che kín nhặt và không cần thời gian chầu chực, chờ đợi hoặc trình báo giấy giới thiệu. Chị sục ngay vào đại bản doanh nhân vật mà chị cần quan hệ. Đại tá Tư Chu, Phó tư lệnh thành đội tuyên bố chắc như đinh đóng cột:
    - Các đồng chí biệt động của thành đoàn cần bao nhiêu vũ khí, bên quân sự sẽ cung cấp đủ. Đợt đầu, chị Sáu tính nhận bao nhiêu B40, B41, AK, CKC, lựu đạn, súng ngắn, thuốc nổ. Tụi tôi lo chuyên chở vũ khí tới điểm hẹn, xếp lên phương tiện của chị. Chị cần báo cáo chính xác điểm hẹn, số lượng vũ khí cần nhận, nhận bao nhiêu, chủng loại gì? Chị tính dùng phương tiện gì để chuyên chở?
    Chị Sáu Hoàn ở trong tâm trạng người em út nghèo khó đến gặp người anh giàu có, xin vay vài chục cân ngô, khoai để lo cho đàn con ăn cầm hơi trong lúc đói lòng, đã thực sự bàng hoàng trước cách cư xử của ông anh rộng lượng, tết bụng, hào phóng. Các đồng chí bên lực lượng vũ trang không cò kè bớt một thêm hai với chị mà đồng ý cho chí nhận thả cửa: "cần bao nhiêu có bấy nhiêu". ôi ước gì chị có phép thần thông' biến hóa để đưa dăm chục tấn vũ khí vào ém trong các kho của chị. Chị hạ bút tính tính toán toán và cuối cùng phải đưa ra đề nghị hết sức khiêm tốn:
    - Anh Tư! Anh cho tụi tôi nhận đợt đầu một tạ thuốc nổ.
    - Sao ít vậy? Chị tính đưa vào Sài Gòn bằng cách nào?
    - Bằng xuồng. Tôi giả làm người buôn dừa khô. Tôi tính là ta đổ hết nước dừa đi, nhét thuốc nổ vào trong ruột.
    - Như vầy có mạo hiểm quá không Rủi tụi nó phát hiện được, chị không còn cách nào chạy thoát đâu.
    Chị Sáu Hoàn thừa nhận:
    - Đúng là có mạo hiểm nhưng có còn cách nào khác có lợi hơn đâu. Lực lượng biệt động thành đoàn đã thành lập, Ban chỉ huy quân sự thành đoàn đã hoạt động từ lâu nhưng chúng tôi chưa có vũ khí. Tôi tự nguyện đi mở đường.
    - Như vậy có nên không chị Sáu? Tôi sẽ ra lệnh cho các anh Hai Trí, Ba Đen bên lực lượng bảo đảm mua đủ dừa, làm đúng theo yêu cầu của chị. Tôi yêu cầu chị chọn người khác đi áp tải hàng.
    Anh Tư Chu và chị Sáu Hoàn cùng trạc cỡ tuổi nhau nhưng đứng về mặt quân sự, anh Tư là cấp trên trực tiếp của chị và vị Phó tư lệnh lực lượng vũ trang của thành phố này có toàn quyền ra lệnh cho lực lượng biệt động thành đoàn tấn công mục tiêu nào đó của địch. Chị cố thuyết phục anh Tư.
    - Tôi đã đi trinh sát trên sông, tôi tin là mình sẽ thành công vì có nhiều lợi thế. Một - Ta cần lợi dụng sơ hở và tạo thế bất ngờ với địch. Hai - Tôi là nhà buôn lần đầu tiên xuất hiện trên sông nên tụi nó chưa để ý. Ba - Tôi đem theo nhiều tiền để trám miệng tụi nó. Bốn - Anh giúp tôi ngụy trang thiệt khéo. Anh xếp chừng 100 quả dừa nguyên vẹn ở trên để tôi làm quà cho bọn lính gác. Anh Tư Chu trầm ngâm giây lâu và cuối cùng anh đành chấp nhận phương án của chị Sáu Hoàn đã chọn. Chuyến hàng đầu tiên trải qua trót lọt. Khi xuồng gần cập bến, chị Sáu Hoàn chợt nhận ra sơ suất của mình. Chị tai Sáu Đồng:
    - Con ghé lên bờ mua cho dì 8 chiếc cần xế (loại giỏ đan bằng nứa, có quai xách, chứa được khoảng nửa tạ rau hoặc trái cây).
    - Dạ !
    Sáu Đồng đã đoán đúng ý dì Sáu. Hai dì cháu xếp dừa vào từng cần xế, trái giả để dưới, trái còn nguyên nước xếp lên trên. Khi xuồng cập bến vắng, Sáu Đồng vác từng cần xế đưa lên bờ. Chỉ Sáu Hoàn thuê xe lam chở hàng về đường Minh Phụng. Đêm đó, chị Sáu Hoàn, dì Năm cứng Sáu Dinh đập dừa, lấy thuốc nổ cất xuống hầm. Xong việc, má con Sáu Dinh và chị Sáu cùng nhau nậy cùi của hơn bốn trăm trái dừa. Mệt nhọc, mất ngủ song cả ba người đều vui vì đã có tới một trăm kilôgam thuốc nổ cực mạnh loại C4 dự trữ.
    Tuy nhiên, chị Sáu Hoàn không thoải mái lắm. Chị chưa tháo gờ được mối lo vẫn canh cánh bên lòng. Phải làm sao trong kho vũ khí của chị có súng, lựu đạn? Chị sẽ đưa súng vào kho bằng cách nào? Dì út Khuê dẫn chị Sáu đến một đầu mối ở giữa ngã tư Bẩy Hiến. Anh dì út là cậu Tư Mộc mở cửa hiệu làm đồ mộc, chuyên đóng bàn ghế giường và các loại tủ theo đơn đặt hàng của khách. Do có tay nghề giỏi, nhà anh Tư Mộc thường là chỗ lui tới của tụi sĩ quan tại sân bay Tân Sơn Nhất. Tụi chúng nó vẽ ra đủ kiểu tủ, yêu cầu cậu đóng. Chúng không trả tiến công. Sau mỗi chuyến lên rừng, chúng chất cả xe gỗ đổ ập xuống cửa nhà với mệnh lệnh:
    - Ba ngày nữa tôi đến lấy tủ nghe, ông Tư!
    Anh Tư Mộc đón em gái và tiếp nhận yêu cầu của chị Sáu Hoàn khá thoải mái:
    - Tôi ở với tụi nó chỉ vì sinh kế nhưng tấm lòng lúc nào cũng hướng về cách mạng. Chị thưa với Bác Hồ là thằng Tư này sẽ làm tròn mọi việc được giao. Không cần tiền nong gì cả, chị lấy bao nhiêu tủ, dùng vào việc gì, chị cứ bảo thẳng tôi.
    Rời khỏi nhà anh Tư Mộc, chị Sáu Hoàn vui như mở cờ trong bụng. Chị đã phát hiện ra cách tháo gỡ bế tắc của mình. Con đường buôn dừa trên sông mà chị đã nhọn chưa thật hay lắm vì chị không thể nhét khẩu AK hoặc khẩu súng ngắn vào trong ruột quả dừa. Chị không thể học tập cách chuyên chở vũ khí của bên quân sự được. Các anh ấy giậu được trang bị xe vận tải riêng do chiến sĩ biệt động Ba Bảo có đủ giấy tờ hợp pháp lái. Anh Trần Văn Lai, thường gọi là Năm USOM, là thầu khoán trong dinh Độc Lập. Nhờ những giấy tờ thứ thiệt do Chánh văn phòng sự vụ của Phủ Tổng thống cấp, Năm USOM đưa cả tấn vũ khí qua các vọng gác khá dễ dàng. Đại đội trưởng biệt động Đỗ Văn Căn tức Ba Mủ đã tự trang bị một xe ba gác. Không một tên cảnh sát nào đòi kiểm tra những bành mủ cao su của người làm nghề cán cao su. Các cán bộ bảo đảm hậu cần bên quân sự đã ru ngủ được địch nên đã tạo điều kiện thuận lợi để anh Ba Mủ đưa những bành mủ cao su có giấu súng bên trong lọt qua các cửa ải dễ dàng.
    Chị Sáu Hoàn nghèo quá. Chị không có thói quen đòi hỏi đồng chí Bí thư thành đoàn chỉ viện tiến, vàng hoặc yêu cầu Chỉ huy trưởng lực lượng thành đoàn phải cấp cho chị xe hơi hay cần phải đáp ứng những điều kiện do chị đưa ra. Chị luôn nghĩ cách tự lo liệu lấy. Thực ra, đã có lần chị trao đổi với anh Hồ Hảo Hớn:
    - Tôi kẹt quá anh Hai. Lực lượng biệt động chưa cần tới B40 , B4 1 nhưng rất cần trang bị tiểu liên, trung liên. Tôi  chưa nghĩ ra cách nào đưa súng qua các vọng gác của địch được bí mật, an toàn.
    - Các anh bên quân sự giải quyết như thế nào?
    Nghe chi Sáu trình bày, đồng chí Bí thư thanh niên thành đoàn hỏi luôn:
    - Sao ta không mượn người của các anh ấy? Nếu bên quân sự chịu róc cho ta một chuyến, ta có đủ vũ khí dự trữ để đánh Mỹ lâu dài.
    - Không được đâu anh Hai. Lý do thứ nhất là bên quân sự không gánh việc này cho chúng ta. Lý do thứ hai là chúng ta có bí mật riêng, không thể công khai với các anh bên quân sự.
    Bí thư thành đoàn thừa nhận:
    - Vấn đề chị đặt ra là quá lớn, tôi không thể trả lời ngay tức khắc được. Tôi sẽ chú ý đặc biệt tới gợi ý của chị.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 09:19:25 am
    Chị Sáu Hoàn chưa nhận được trả lời của anh Hồ Hảo Hớn nhưng chị gặp được anh Tư Mộc. Cần phải sử dụng anh Tư Mộc không phải vì anh là anh dì út Khuê mà là nghề nghiệp và mối quan hệ của anh. Nhà anh là nơi bọn địch, từ binh sĩ đến các sĩ quan cấp úy, cấp tá lui tới hàng ngày, sẽ là cái bẫy đối với người của ta đồng thời cũng là nơi trú ẩn an toàn nhất cho những người cách mạng, tùy theo thái độ của người chủ nhà. Anh Tư Mộc dứt khoát đứng về phía ta nên anh biết cách ru ngủ bọn địch. Chị Sáu bàn với anh:
    - Anh Tư Anh làm giùm cho chiếc tủ có hai đáy. Liệu ta có cách gì đưa tủ đi trong thành phố mà không bị khám xét không?
    - Điều đó không khó đâu chị Sáu Tôi xin được giấy của mấy tên đại tá. Tui nó cần tôi đưa tủ về nhà riêng. Chị Sáu! Tôi không tò mò đến việc của cách mạng nhưng chị cho tôi biết là chị sẽ giấu gì giữa hai lớp đáy tủ?
    Chị Sáu Hoàn đưa mắt thăm dò dì út Khuê . Chị chưa thể tin anh Tư Mộc ngay lần đầu tiên gặp mặt để có thể ủy thác mọi bí mật cho anh. Dì út Khuê hiểu về anh mình. Dì nói thẳng:
    - Anh Tư Chị Sáu muốn giấu súng giữa hai lần đáy của tủ.
    Anh Tư ngồi sững người, đờ đẫn. Chị Sáu Hoàn không để lộ vẻ thất vọng trên nét mặt. Tư lệnh Trần Hải Phụng đã có nhận xét đúng: Không phải bất cứ ai cũng có gan làm thủ kho vũ khí. Chị Sáu không thể trách anh được. Anh Tư Mộc có cửa hàng khá lớn, anh không thể vứt bỏ cơ ngơi này dễ dàng như thay áo được. Anh Tư Mộc hướng về chị Sáu Hoàn:
    - Cô út đã kể với tôi về chị. Chị là Phó chỉ huy quân sự thành đoàn, là cấp trên của cô út nên tôi xem chị như cấp chỉ huy của tôi, tuy tôi chưa được đứng trong tổ chức. Chị Sáu, tấm lòng của tôi hướng về cách mạng trước sau không hề thay đổi, còn việc đưa vũ khí vào nhà tôi, xin lỗi chị, cho tôi nói thẳng.
    - Vâng, tôi xin nghe anh.
    - Chị Sáu! Chắc chị không biết chơi cờ bạc. Các con bạc cầm đống tiền trong tay trước khi đặt vào mặt chẵn hay lẻ đều phải tính toán, cân nhắc. Con bạc chỉ thả tiền xuống chiếu bạc khi nào anh ta tin sẽ nắm chắc phần thắng trong tay. Trong cái tạm gọi là canh bạc "tủ hai đáy" này, tôi lấy gì để bảo đảm là chị sẽ thắng? Tôi đặt cược trên chiếu bạc không phải năm, bảy trăm ngàn, vài ba chục triệu mà toàn bộ tài sản nhà tôi, tính mạng vợ, con tôi và của cả tôi nữa. Tôi có nhiều thợ thính, thợ phụ, lại còn thủ kho thủ quỹ các cô bán hàng. Tôi là chủ gia đình. Tôi cần phải biết chị, cô út hoặc ai đó đưa vũ khí vào gia đình tôi như thế nào chớ.
    Chị Sáu Hoàn không phật ý mà còn lộ ý hài lòng về ý kiến anh Tư Một. Hoạt động bí mật trong lòng địch đòi hỏi mòi cán bộ phải tỉnh táo, sáng suốt, không thể để sai một ly đi một dặm, chỉ một sơ suất nhỏ trong kế hoạch sẽ dẫn đến không chỉ đổ vỡ một cơ sở mà còn có bao đồng chí bị rơi vào tay địch. Chị Sáu thổ lộ tâm sự riêng của mình với anh Tư Mộc:
    - Tôi đã bị cảnh sát Ngô Đình Diệm bắt giam trong xà lim gần hai năm. Con gái tôi hiện đang bị tù. Tôi có con gái, con rể và hai con trai ở Sài Gòn song chưa bao giờ tôi gặp cả bốn con cùng một lúc. Anh Tư cảnh giác như vậy là rất đúng. Tôi sẽ vạch kế hoạch khớp với anh Tư không phải hàng ngày, hàng giờ mà phải không xê dịch tính từng phút.
    Anh Tư nở nụ cười tươi rói:
    - Chị Sáu thông cảm với tâm trạng xáo động của tôi.
    - Không hề chi, anh Tư.
    Dì út Khuê thêm vào:
    -Mong anh Tư thứ lỗi cho em! Em đơn giản quá. Em đâu có nặng gánh như anh Tư.
    Chị Sáu dàn hòa:
    - Ta không cần bàn xem ai đúng sai nữa mà tập trung sức cùng vạch kế hoạch đưa súng vào Sài Gòn sao cho nhiều nhất an toàn nhất.
    Anh Tư gật đầu. Tiễn chân chị Sáu và cô em gái về anh Tư đưa ra một gợi ý:
    - Cơ sở của tôi còn chữa đệm xe, đệm ghế. Nếu có cách gì đó giấu súng trong đệm xe, đệm ghế sẽ dễ hơn và bí mật hơn.
    Chị Sáu trở về nhà dì út Khuê. Chị lo triển khai hàng loạt công việc cùng một lúc. Chị dự kiến lập thêm hàng loạt kho mới: kho ở quận 6, kho tại cầu Cây Gỗ, ở trường đua ngựa, tại đường Lò Siêu, Bình Thới, quận 11... Chị có lý do riêng về cách ém kho của mình. Bên quân sự (Bộ tư lệnh thành) các anh tổ chức rất ít kho, mỗi kho dự trữ một tấn vũ khí trở lên và kho thường bế trí gần mục tiêu tấn công. Chị Sáu Hoàn không thể làm được như thế. Thứ nhất chị không phải nhà quân sự, không nắm được các mục tiêu ta cần tiêu diệt. Thứ hai, chị không được cung cấp đủ tiền mua nhà lầu hoặc nhà gạch kiên cố, rộng rãi. Thứ ba, chị phải tự chọn lấy người giữ kho. Chị không được tổ chức bổ sung cho những đảng viên trung kiên đã qua nhiều thử thách để dùng vào việc này. Chị Sáu Hoàn định rải kho ở bất cứ khu phố nào của Sài Gòn mà chị mua được nhà và thuận tiện đường giao thông. Tuy nhiên, điều băn khoăn day dứt nhất của chị Sáu vẫn là những khẩu súng. Bí thư thành đoàn đã giới thiệu với chị hai cơ sở: anh Sáu xe lam và anh Tư Gậm, người của quận Tân Bình, là chủ xe ba bánh. Chị Sáu cũng móc nối từ khu Bà Hom được chú Tám Phả là chủ xe lôi và giao cho Sáu Đồng làm tài xế xe ba bánh gắn máy. Bây giờ thì chị Sáu Hoàn giàu rồi, chị trở thành bà chủ có tới bốn phương tiện chuyên chở cơ giới trong tay nhưng chị không dám và không cho phép mình liều chơi trò "được ăn cả, ngã vào trại giam". Chị biết, nếu chị ra lệnh, cả bốn bác tài sẵn sàng chở trên xe mình cả bao tải hoặc hòm đựng súng, mạo hiểm đánh quả 5 ăn, 5 thua với địch: nếu nó bắt được sẽ mạng đổi mạng với tụi nó, nhưng chị phải giữ "vốn" của mình để sử dụng lâu dài.
    Chị Sáu Hoàn cân nhắc, tính toán hướng đi của từng xe. Chị gạt bỏ phương án "thí xe". Chị không biết chơi cờ. Ngồi vào bàn cờ, gặp nước bí, các anh thường "thí xe" để gỡ thế thua. Chị có bốn xe trong'tay. Chị không đánh đổi một xe của mình vào trò may rủi. Chị nhớ đến gợi ý của anh Tư Mộc. Chị chú ý tới những chiếc đệm ngồi của xe lôi xe lam, xe gắn máy. Ôi! Nếu có cách gì đó giấu được súng vào trong đệm xe? Chị trình bày sáng kiến của mình. Anh Hai Trí, Trưởng ban bảo hiểm vũ khí của biệt động Sài Gòn tán thành ngay:
    - Chúng tôi có thợ làm đệm xe lành nghề, rất khéo tay. Chúng tôi chịu trách nhiệm giấu súng trong đệm xe, đưa đến điểm hẹn. Đúng giờ quy định, chị đưa xe đến. Chúng tôi tháo đệm cũ, lắp "đệm mới có nhân" lên xe.
    Chị Sáu Hoàn tưởng rằng đã gỡ được thế kẹt bỗng chị phát hiện ra sơ hở của mình: các bác tài sẽ đổ "hàng" xuống đâu? Các anh làm cách nào, lấy lý do gì để đưa đệm xe vào nhà anh Tư Mộc? Anh Hai Trí vốn nổi tiếng là chuyên gia trong nghệ thuật ngụy trang che mắt địch đã giải quyết việc hệ trọng bằng lời phán:
    - Chuyện đó có khó khăn gì đâu, chị Sáu. Tụi tôi sẽ gíấu súng trong đệm xe cũ đã sờn hoặc rách vải bọc...
    Chị Sáu reo vui : 
    - Tôi hiểu rồi? Cám ơn anh.
    Chị Sáu tìm gặp chú Tám Phả phổ biến "Kế hoạch hành quân":
    - Năm giờ chiếu ngày mốt (ngày kia), anh Tư Mộc sẽ đón tôi và chú để nhận hàng. Trên đường từ cứ về, chú cứ nhận khách. Tôi là bà chủ ngồi phía sau thu tiến. Chú lo sao để thả hết khách ở ngã tư Bẩy Hiền.
    - Em sẽ làm đúng theo ý chị.
    - Chú dừng xe trước cửa hàng anh Tư. Chú nhọn mua bộ đệm xe mới, cố cò kè bớt một thêm hai nếu thấy còn khách ở cửa hàng. Khi tháo đệm xe cũ trao cho anh Tư, chú ráng mang sao cho gọn, thiệt nhẹ để không ai nghi ngờ trong đệm có súng.
    - Em rõ rồi, thưa chị Sáu!
    Anh Tư Mộc hoàn toàn tán thành kế hoạch của chị Sáu. Sau bốn lần bán đệm xe, anh thông báo:
    - Tôi đã cất giấu mười khẩu AK, bốn khẩu CKC, sáu khẩu súng ngắn vào đáy tủ, nắp tủ và hai bên thành tủ. Hai giờ chiều mai, chị cho người đến nhận tủ.
    - Tôi sẽ cử Sáu Đồng lái xe ba bánh gắn máy tới. Anh lo cho nó đủ giấy tờ đi lại trong thành phố.
    - Dạ.
    - Anh dặn cháu cách mở đáy tủ, thành tủ . Anh lo chằng buộc lên xe giùm cháu.
    - Chị khỏi lo. Tự tôi sẽ gánh vác việc chị giao.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 09:23:06 am
    Đúng giờ hẹn, chị Sáu Hoàn, dì Năm, Sáu Dinh ngong ngóng chờ xe chở tủ về. Đã quá hẹn 20 phút, rồi 30, 40 phút vẫn chưa thấy bóng Sáu Đồng đâu. Phải chăng cậu ta bí bắt rồi? Chị nên xử lý thế nào đẩy. Hạ lệnh cho dì Năm và Sáu Dinh "lặn" ư? Có nên báo động để anh Tư Mộc đề phòng không? Ai đi báo? Chị Sáu không thể rời ngôi nhà này vào lúc này và cũng không biết nên xử lý ra sao với tạ thuốc nổ C4 đang giấu trong hầm bí mật? Lại thêm 30 phút trôi qua mà không thấy bóng dáng Sáu Đổng đâu. Nhất định là có sự cố xảy ra rồi. Chị Sáu hướng về phía Sáu Dinh:
    - Con ra phía ngã ba đường đón Sáu Đồng. Nếu thấy xe cảnh sát, con phải trốn ngay.
    Sáu Dinh hiểu rõ thiện chí của vị chỉ huy đối với mình. Cô nỡ nào tháo chạy thoát thân lúc này. Cô nài nỉ:
    - Má con con đã thề sống chết với hầm vũ khí. Con tính là thím Sáu nên rời khỏi đây sớm phút nào hay phút đó.
    Dì Năm cũng hưởng ứng:
    - Chị Sáu! Em bỏ phiếu tán thành ý kiến Sáu Dinh. Tụi em có hai phiếu nên chị phải chấp hành ý kiến của đa số. Chị cần thiết cho cách mạng hơn em và Sáu Dinh. Sáu Dinh lại tìm ra thêm lý do để buộc chị Sáu ra khỏi nhà :
    - Con và má Năm chưa biết mặt anh Sáu Đồng. Thím Sáu nên đi đón anh Sáu Đồng. Lại thêm 15 phút trôi qua. Chị Sáu tự an ủi:
    - Tại sao Sáu Đồng không đúng hẹn? Có nhiều nguyên nhân lắm: xe hỏng, xe gây tai nạn dọn đường. Ta không loại trừ nguyên nhân Sáu Đồng bị địch bắt. Nếu cậu ta dũng cảm, vượt qua mọi cực hình tra tấn, không khai báo sẽ khỏng bị lộ cơ sở anh Tư Mộc là điểm giao hàng và nơi nhận hàng là kho của chúng ta.
    Hồi hộp, thấp thỏm bồn chồn nên không ai nghĩ đến ăn cơm chiều. Đang lúc mọi người buồn rười rượi, Sáu Dinh vỗ tay reo:
    - Má Năm, thím Sáu Có phải anh Sáu Đồng không?
    Chị Sáu Hoàn không kịp đi dép, chạy vội ra cửa. Sáu Đồng cười toe toét, cứ như không có chuyện gì xảy ra!
    - Dì Sáu Tại sao mãi bây giờ mới tới?
    Sáu Đồng cười hồn nhiên:
    - Con lạc đường. Con tìm mãi không nhớ đường về. 
    Dì Năm bấm nhẹ vào tay chị Sáu:
    - Chuyện đâu còn đó mà chị Sáu. Sáu đồng Con cho xe tới gần cửa được không?
    - Được thưa dì Năm.
    Nửa giờ sau, khi đã kê tủ vào nhà, Sáu Đồng mới kể lại cuộc hành trình mạo hiểm, táo bạo của cậu ta. Vốn là dân ngoại thành quen sông nước, Sáu Đồng. không thuộc tên đường phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Cùng vời chiếc tủ chở hàng quốc cấm, cậu xuống tận Chợ Lớn rồi lại ngược lên Sài Gòn và cứ nghênh ngang chở tủ dạo trên nhiều phố hỏi thăm đường. Tuy biết là đã quá giờ hẹn hơn 140 phút song cậu ta không có cách nào tìm đúng địa chỉ giao tủ. Cuối cùng cậu ta phải thuê tiền để người đạp xích lô đạp phía trước dẫn đường đưa cậu ta tới điểm hẹn.
    Thật là hú vía! Cũng may mà tai họa không đổ ập xuống, phá vỡ mọi thành quả do chị Sáu gây dựng nên vì một sơ suất nhỏ gây ra: lạc đường.
    Khoảng chín giờ tối hôm đó, sau khi đã kiểm tra, nâng niu vuốt ve từng khẩu súng, chị Sáu Hoàn ngồi xe gắn máy của Sáu Đồng về 231    Bạch Đằng. Dì út Khuê báo ngay cho chị tin vui:
    - Chị Sáu! Mỹ Lê mới sanh.
    - Trai hay gái? Má con nó ở đâu?
    - Ba Chân đưa vợ nó về Cần Thơ để sanh con. Chị Năm là cô ruột của Ba Chân sẽ săn sóc cháu dâu. Con nhỏ sanh con trai, đặt trùng theo tên ba nó là Lê Cánh.
    Từ trong nhà Mười Tuân chạy ào ra ôm chầm lấy má:
    - Má ! Chị Hai có con rồi!
    - Vậy là con đã lên chức cậu Mười rồi. Bữa nào rảnh, má con ta về thám chị Hai và bé Cánh.
    - Dạ!
    Chị Sáu dắt Mười Tuân vào nhà: Thằng nhỏ mau lớn, to con. Chị không bế nồi nó và cũng không thể ôm con vào lòng, cho nó ngồi trên đùi mình để hỏi han trò chuyện với nó. Chị Sáu cảm thấy cơ thể mình mệt rã rời và cũng khỏe khoắn lạ lùng. Chị muốn ngâm mình trong bồn tắm, muốn ngả lưng nghỉ ngơi hoặc chợp mắt để thần kinh thư giãn, tinh thần sảng khoái sau hơn hai giờ hồi hộp, căng thẳng chị vừa nếm trải. Chị lại cũng muốn đi dạo phố một mình, muốn có đôi cánh bay vào cứ gặp các anh, báo cáo với các anh về số súng, đạn chị đã dự trữ trong kho. Chị đã thành công. Thu được kết quả đáng mừng như hôm nay là do biết bao đồng chí cùng đồng tâm, hiệp lực với chị. Chị đã sử dụng tốt lực lượng xe cơ giới và chị không quen tận dụng phương tiện thô sơ. Trong số những chiến sĩ biệt động chuyền vũ khí theo đường bộ, chị Hai Hường gánh được nhiều nhất vì chuyến nào chị cũng đi thoát. Trong một chuyến đưa hàng vào nội thành bằng xe đò, chiến sĩ biệt động Nguyễn Thị ánh tức Hai Hỷ bị địch chặn lại xét giấy Những tên cảnh sát ranh ma phát hiện được tấm giấy căn cước giả. Chúng ra lệnh bắt giữ chị. Rất tỉnh táo, chị nhận "tội" đi đặt mối hàng, không có hàng hóa gì đem theo. Hai giờ sau, chiếc ôtô buýt chạy quay trở lại. Tên tài xế và phụ lái hì hục khiêng vào hai giỏ cần xế, bên trên xếp đầy cà chua, trình báo:
    - Thưa ngài quận trưởng? Đến cuối bến khách xuống xe hết tụi tôi mới nhớ là hai cần xế cà chua này là của con nhỏ.
    - Thiệt vậy a mấy cậu? Sao mấy cậu không phi tang luôn đi.
    - Thưa, vì dưới lớp cà chua là thuốc nổ.
    Viên quận trưởng hối thúc những tên cảnh sát dưới quyền áp giải Hai Hỷ lên. Tuy bị tra tấn rất dã man, Hai Hỷ dứt khoát không thừa nhận năm kilôgam thuốc nổ giấu trong hai cần xế cà chua là của mình. Cô đã không hé lộ cho địch chút bí mật nào về kho vũ khí của chị Sáu Hoàn. Chị Sáu rất biết ơn những đồng chí dám quên thân mình để bảo vệ bí mật của cách mạng. Chị tin rằng một ngày không xa nữa, toàn bộ súng đạn thuốc nổ trong kho của chị sẽ được giao cho những chiến sĩ biệt động tin cậy, gan dạ sử dụng.
    Chị Sáu chạnh nhớ tới chồng. Anh Bẩy ở rất xa nhưng cũng vô cùng gần gũi với chị. Chị đã làm đúng lời anh dặn: gặp khó khăn phải dựa vào tập thể. Chính tập thể đã gỡ thế kẹt cho chị, giúp chị đưa súng về các kho bằng những chiếc đệm xe. Nếu không có tập thể, chị đành chịu bó tay vì dù chị có tiền, có vàng cũng không sao mua nổi quả lựu đạn, lạng thuốc nổ. Anh Bẩy đã vạch cho chị hướng đi đúng. Anh đã trao cho chị bức cẩm nang, giúp chị tháo gỡ được khó khăn. Chị vui quá. Vui vì toàn bộ mọi cơ sở của chị đều an toàn và vì chị đã lên chức bà ngoại. Câu phương ngôn: "Cháu bà nội, tội bà ngoại" đối với hoàn cảnh chị không đúng chút nào. Chị không thể chăm sóc con gái lúc bụng mang dạ chửa. Chị cũng không nhớ đến ngày con gái chị "vượt cạn". Chị đoảng quá? Chị không đưa con gái đến nhà thương và không có diễm phúc là người đầu tiên đón cháu ngoại, chôn rau, cắt rốn cho cháu ngoại. Giờ đây, chị cũng không có điếu kiện săn sóc con gái. Chị không rõ Mỹ Lê yếu hay khỏe, có đủ sữa cho con bú không? Dì út Khuê mới thông báo là các anh gọi chị vô cứ. Chị đành phải gác chuyện đi Cần Thơ thăm con gái nhưng chị không thể không báo tin mừng cho anh. Nghĩ đến anh, cơn mệt nhọc, buồn ngủ như tiêu tan hết. Chị lấy giấy bút, nắn nót viết: "Anh thương yêu! ... Đêm hôm đó, chị thức trắng. Chị đã dốc bầu tâm sự cùng anh, gửi gắm tâm tư tới anh. Chị trò chuyện với anh đủ điều, không quên hứa là sẽ lo cho các con trưởng thành hướng theo lý tưởng mà anh mơ ước.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 09:27:50 am
15
    Sáu Quảng"! Sáu Quảng hướng về phía có tiếng gọi nở nụ cười vui. Từ mấy tháng qua anh chưa gặp Ba Chân. Anh chàng rõ anh Ba Chân đang ở đâu, ở trong cứ hay luôn có mặt tại Sài Gòn; hoàn cảnh gia đình Ba Chân ra sao? Tại sao Ba Chân lại hẹn gặp mặt anh? Để đảm bảo bí mật hoạt động đơn tuyến trong lòng địch, Sáu Quảng nhận mọi chỉ đạo của thành đoàn thanh niên lao động qua Ba Chân. Ba Chân là cấp trên trực tiếp của Sáu Quảng, là người lãnh đạo cao nhất của phong trào học sinh sỉnh viên Sài Gòn để đưa ra những chỉ thị yêu cầu Sáu Quảng thực hiện. Cách đây vài tháng, Ba Chân chủ trương không đưa người của ta tham gia Ban chấp hành tổng đoàn học sinh Sài Gòn, Sáu Quảng tán thành ngay. Cũng như mọi thành viên khác trong tổ chức, Sáu Quảng luôn phục tùng ý kiến chỉ đạo vô điều kiện. Có những việc mà thời nay không ai nghĩ tới, nhưng những năm đánh Mỹ, nhiều học sinh, sinh viên trong tổ chức Đoàn đã vui vẻ thực hiện. Anh A học rất giỏi, đã có bằng tú tài I trong tay. Gia đinh anh, ba má anh và bản thân anh đều nuôi hy vọng anh sẽ đỗ thủ khoa trong kỳ thi để nhận bằng tú tài II bỗng anh nhận được lệnh: "Phải thi rớt". Cô sinh viên B, đang học trường công, không phải đóng học phí, bỗng được điều làm hạt nhân lãnh đạo ở một trường tư thục. Không ai viện lý trường xa, thầy mới, bạn bè có nhiều người xấu, ngổ ngáo, du đãng để từ chối mà đều chấp hành mệnh lệnh rất nghiêm túc.
    Ba Chân, Sáu Quảng chưa phải là bạn cùng trang lứa. Ba Chân hơn bạn năm tuổi, đối với bạn thân tình suồng sã nhưng Sáu Quảng luôn giữ một khoảng cách nhất định giữa hai người, luôn coi Ba Chân là anh Hai, là sếp của mình. Ba Chân đặt vấn đề:
    - Mày không được vòng vo tam quốc mà cho tao hay ý kiến chính thức của mày: Người của ta không tham gia ban lãnh đạo học sinh, sinh viên là đúng hay sai?
    - Sai.
    Ba Chân nhìn xoáy vào mắt bạn:
    - Tại sao trước đây mày không nói ra điều này.
    - Ta phải qua thử nghiệm mới rút được bài học cho mình. Tụi nó, toàn những tên Quốc dân đảng, bọn thân chính phủ, tụi con ông, cháu cha, nhà giàu tỷ phú đã mượn danh nghĩa sinh viên, học sinh để liên minh với Phật giáo, chà đạp lên danh dự chúng ta ...
    - Mình tán thành ý kiến của cậu. Sáu Quảng này, liệu ta có thể đảo ngược thế cờ không?
    Sáu Quảng hồ hởi:
    - Nếu các anh cho chủ trương, tụi tôi dư sức lật đổ tụi nó, đưa người của mình vào cương vị chủ chốt.
    - Cậu sẽ giữ chức chủ tịch?
    - Xin cho biết, đây là ý kiến Ba Chân thăm dò Sáu Quảng hay chỉ thị của lãnh đạo cho sinh viên năm thứ III trường Pétrus-ký có tên là Nguyễn Chơn?
    - Có gì khác nhau lắm đâu?
    - Khác nhiều chớ, ở Sài Gòn, Chợ Lớn có vài chục trường công, trường tư thục với hàng chục vạn học sinh, sinh viên. Nếu tổ chức đoàn ở tất cả các trường cổ động cho tôi, chắc chắn tôi sẽ trúng cử.
    Ba Chân đưa mắt theo dõi nét mặt bạn. Sáu Quảng cao hơn, trắng trẻo, đẹp trai hơn anh. Anh Sáu đã có bằng tú tài I giỏi làm thơ. Anh thông minh, từng trải nên anh biết rõ những gì đang chờ đợi anh nếu anh ra tranh chiếc ghế chủ tịch. Anh sẽ là người đại diện cho Việt cộng, sẽ hứng chịu mọi hậu quả trả thù theo kiểu anh chị, thượng cẳng chân, hạ cẳng tay của bọn Quốc dân đảng và bị tống vào xà lim bất cứ lúc nào theo lệnh của chính quyền hiện hữu. Sáu Quảng bình thản, tự tin, tình nguyện lãnh sứ mạng "giơ đầu chịu báng" khá nhẹ nhàng. Ba Chân phổ biến cho bạn:
    - Trong kỳ họp Ban chấp hành thành đoàn tuần trước, bọn mình đã tự phê bình. Anh Hồ Hảo Hớn tuyên bố: Nếu đã thấy sai lầm, ta phải sửa sai ngay. Bọn mình đã thống nhất với 100% phiếu thuận việc giao cho cậu ra tranh cử vào chức Chủ tịch đoàn học sinh Sài Gòn.
    Sáu Quảng gật đầu:
    - Tôi đồng ý.
    - Cậu nên chọn chân rết gài vào các trường. Cậu đề nghị danh sách người của ta và của họ tham gia Ban chấp hành để bọn mình duyệt.
    - Rõ.
    - Sau khi chúng ta chia tay nhau, cậu có thể bắt tay ngay vào việc.
    - Không có gì trở ngại đâu, anh Ba.
    Ba Chân hiểu khá kỹ về Nguyễn Chơn. Chân trạc tuổi Mỹ Hòa, kém Mỹ Lê vài tuổi. Anh không phải người gốc Sài Gòn. Anh rời bỏ gia đình có truyền thống cách mạng ở chiến khu Đồng Tháp lên Sài Gòn vào học trường Pétrus- Ký. Ngay từ thời Ngô Đình Diệm, anh và các học sinh yêu nước khác bị đàn áp dữ dội, người bị cúp học bổng, người buộc phải thôi học, người bị bọn an ninh, mật vụ công khai giám sát từng bước đi, từng lời nói. Phong trào học sinh yêu nước vừa nhen nhúm lên đã bị dập tắt hoặc khoanh ra từng lớp, từng trường, chúng dùng thủ đoạn chia để trị nhằm khủng bố, dọa nạt những ai yếu bóng vía.
    Ba Chân tìm đến với Sáu Quảng, dựa vào Sáu Quảng để truyền đạt những chủ trương đấu tranh của thành đoàn đến học sinh, sinh viên. Vụ đầu tiên Ba Chân thử sức Sáu Quảng là lật đổ ban giám hiệu trường Pétrus-ký gồm ba tên: .Nhạc là tổng giám thị; Văn là giám học và người phó của họ là Phạm Văn Lược. Đây quả là trò chơi dùng trứng chọi với đá giữa một bên là ban giám hiệu đầy quyền lực được Bộ trưởng Bộ Giáo dục đỡ đầu và bộ máy kìm kẹp của Tổng thống làm hậu thuẫn, với một bên là những học sinh còn non, không một tấc sắt trong tay làm vũ khí. Trong cuộc đối đầu không cân sức đó, lực lượng học sinh đã thắng lợi giòn giã. Ba tên Nhạc - Văn - Lược ỷ vào thế mạnh, chủ quan, không phòng bị trước nên khi bị các trường dồn dập đưa ra những bằng chứng không thể chối cãi đã nhận tội khủng bố sinh viên, nhận hối lộ và làm nhiều việc không đúng tư cách người thầy. Chính quyền ngụy phải ngậm bồ hòn làm ngọt, ra lệnh cách chức toàn ban giám hiệu Nhạc - Văn - Lược. Nhờ kinh nghiệm tập hợp lực lượng, hành động đúng thời cơ nên Sáu Quảng đã thắng. Khi Đỗ Mậu lên nắm chức thủ tướng, Sáu Quảng đã thỉnh thị Ba Chân:
    - Đỗ Mậu chủ trương thu học phí học sinh học trường công để tăng thêm ngân sách.
    - Anh cho phép tụi em chống Đỗ Mậu.
    - Kế hoạch các cậu như thế nào?
    - Đỗ Mậu đã chọc vào ổ kiến lửa nên có tới 90% thầy giáo và học sinh các trường công và cả trường tư thục không đồng tình. Nếu ta tổ chức hội thảo công khai để mọi người tự do phát biểu chính kiến, chắc sẽ có kết quả.
    Ba Chân gật gù tán thưởng. Đúng là các hình thức đấu tranh của học sinh với chính quyền phản động thật là phong phú : vào thời điểm này cần bí mật, âm ỷ tập hợp lực lượng tạo thế bất ngờ, ở giai đoạn khác lại phải đấu tranh công khai, càng sớm, càng tốt. Anh phân tích:
    - Mục tiêu của chúng ta không dừng ở mức đòi không thu học phí mà là tập dượt cho quần chúng đấu tranh, tập hợp lực lượng chống chính quyền. Liệu các thầy giáo có dự hội thảo không?
    - Có. Chính thầy hiệu trưởng mới trường Pétrus-ký sẽ đọc tham luận đầu tiên. Ban giám hiệu của một số trường công, trường tư sẽ đồng tình phản đối Đỗ Mậu. Lần lượt các học sinh con nhà giàu, học giỏi rồi con nhà nghèo đểu đồng thanh kêu gọi thủ tướng Đỗ Mậu thu hồi quyết định phi lý mà chính phủ mới ban hành.
    - Đồng ý! Nè, cậu có tính về chiến khu Đồng Tháp xin phép má không?
    - Sao anh không nhắc tới ba em mà lại dính chuyện má em vào đẩy. Ba Chân cười, lẩm nhẩm đọc:
Nhớ sao lứa tuổi học trò.
Sáng thì lo học, chiều lo biểu tình.
Trốn nhà hội thảo, mít tinh.
Má hay, má mắng mà mình vẫn vui.
    Sáu Quảng lộ vẻ ngượng ngùng:
    - Em làm thơ dở ẹt. Anh Ba phê bình em?
    - Đâu phải? Tao hoan nghênh mày. Tao tiếc là đã không có năng khiếu làm thơ như mày. Sáu nè! Cuộc đấu tranh này chắc sẽ gay go vì tụi nó không dễ dàng nhường chức chủ tịch cho chú mày đâu.
    - Nếu thành đoàn chỉ đạo để các trường đều ủng hộ em, em sẽ thắng.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 09:30:48 am
    Hơn một tháng sau, Nguyễn Chơn tức Sáu Quảng được bầu làm Chủ tịch tổng đoàn học sinh Sài Gòn niên khóa 1964 - 1965. Tin vui bay về Cần Thơ khiến Mỹ Lê xốn xang. Cô ôm con trai vào lòng. Thằng bé giống ba quá. Tội thân anh Ba. Anh mơ ước có con song anh không thể ở bên con và cũng không có điều kiện chăm sóc vợ đẻ . Phong trào đang rất cần anh. Anh không thể viết thư và càng không dám dùng điện thoại để trò chuyện với cô. Cô nhớ anh vô cùng. Cô mong tin anh không phải từng ngày mà là từng giờ, từng phút. Cô có bao điều tâm sự cần trao đổi với anh. Cô nên thu xếp việc gia đình như thế nào? Cô không thể bỏ công tác. Cô làm cách nào để làm tròn trách nhiệm làm mẹ, làm vợ, làm cán bộ đây? Đem bé Cánh theo lên Sài Gòn ư? Cô sẽ ôm con suốt ngày, làm sao bứt khỏi con để đi hoạt động? Rồi lúc con ốm, con đau nữa chứ. Anh Ba Chân cũng sẽ không đành lòng xa rời con lúc thằng bé trái gió, trở trời. Cô đã nên sanh con vào thời điểm này chưa? Cô không hối hận mà còn hãnh diện vì được làm mẹ. Đã bao đêm, hai vợ chồng cô bàn nhau về cái điều hai người cùng mơ ước và đều thống nhất là sẽ có con song cô không lường hết những phiến phức mà bé Cánh đã đem đến cho cô. Cô không hề trách anh. Anh là người chồng mẫu mực, rất đỗi thương yêu vợ và đã cố gắng hết mức để lo tròn bốn phận làm cha. Cô hoàn toàn thông cảm vời anh. Có người chồng nào trên trái đất này chịu xa vợ trong ngày vợ sinh con so. Giặt tã lót cho con đâu phải là nỗi cực nhọc mà là niềm hạnh phúc lớn lao mà anh không được hưởng. Cô thưa chuyện với cô ruột của chồng:
    - Thưa cô Năm. Cô trông bé Cánh giùm con một ngày.
    - Con tính lên Sài Gòn bàn với anh Ba về cháu.
    Cô Năm bổ bã:
    - Mày nhủ tháng Ba cứ giao bé Cánh cho tao. Ba má thằng Ba Chân không còn, tao sẽ thay Nội nuôi thằng cháu đích tôn của Nội. Nó sẽ nối dòng, nối dõi họ Lê, lo hương hỏa cho họ Lê.
    - Thưa cô? Cháu còn nhỏ, mới ba tháng tuổi nên chưa thể xa mẹ được. Tụi con sẽ thuê một chị vú, nhờ chị trông nom, nuôi dưỡng cháu.
    - Tao nói thiệt, không bà vú nào giỏi hơn bà vú già này đâu. Tụi bay cứ tin tao đi. Hai bầu vú tao nhăn nheo không còn sữa cho bé Cánh bú nhưng tao cho nó ăn sữa bò, tao dư sức nuôi bộ.
    Cô Năm vẫn đưa ra lý lẽ nhằm thuyết phục cháu dâu:
    - Vợ chồng mày lấy đâu ra tiền để thuê nhà, thuê vú nuôi? Cô Năm biết rõ việc hệ trọng mà Ba Chân và con đang gánh vác. Rủi tụi con bị địch bắt thì sao? Tụi bay bàn giao thằng nhỏ cho ai hay để nó thất lạc Con cứ tin cô đi . Cô sẽ là bà nội của bé Cánh.
    Mỹ Lê bị thuyết phục. Cái phương án cô ít nghĩ tới nhất bỗng hình thành trong cô như một lối thoát tháo gỡ bế tắc mà cô đang vấp phải. Con ơi, con hãy hiểu cho má. Má nỡ lòng nào bỏ đứa con đang đỏ hỏn thế này cho người khác. Má giao con lại cho cô Năm, bàn tay bà nội rất đáng tin cậy, để má lo hoàn thành nghĩa vụ công dân, làm nhiệm vụ với Tổ quốc. Bé Cánh ơi, con đừng trách má, nghe con!
Mỹ Lê lên Sài Gòn gặp chồng. Câu đầu tiên anh hỏi cô:
    - Con đâu? Con chúng ta đâu?
    - Con đang sống với Nội (từ ngày này, cô Năm thành Nội của bé Cánh).
Phải đến mười lăm phút, anh chỉ đưa ra những câu hỏi lục vấn buộc chị phải trả lời: : "Con lớn bằng ngần nào? Nó giống ai? Da nó đen hay trắng" Nó hay cười hay thích khóc. Nó ngủ vào giờ nào? Nó bú sữa mẹ hay dùng thêm sữa bò? Nó mặc áo gì, quần gì? Nó có đòi bế không? Em ru con như thế nào? Nó đã mọc răng chưa? Bao giờ nó sẽ biết ngồi? v.v...".
    Chao ôi, tất cả nỗi nhớ nhung của anh dồn nén trong các câu hỏi về đứa con đầu lòng đã được dịp bung ra. Anh là ông bố cực kỳ tốt nhưng rõ ràng là chưa có chút kinh nghiệm nuôi con. Hỏi thăm chuyện mọc răng ở đứa bé mới ba tháng tuổi là điếu ngớ ngẩn song cô hoàn toàn thông cảm với tâm trạng anh. Dần dần, khi anh đã trở lại bình tĩnh, cô đề cập đến chuyện gia đình. Anh bần thần, tư lự. Từ mấy tháng qua, nỗi khổ tâm day dứt nhất của anh là không thể bứt công tác về vùng ngoại ở Cần Thơ để săn sóc vợ bế ẵm con. Còn vợ anh, cô ấy khổ trăm bề. Anh không thể để cô ấy xa rời phong trào. Cô ấy là đảng viên, là cán bộ đoàn, là sinh viên, cô phải bám trường, bám lớp. Anh không thể lấy cương vị người chồng buột người vợ chỉ có quyền nghĩ tới gia đình, tới đứa con. Anh làm sao để thuận cả đôi đường? Cô đã nghiền ngẫm kỹ từng phương án song anh chưa thể trả lời ngay cho vợ. Anh cần "cho cô uống một liếu thuốc bổ" bằng cách giao việc cho vợ. Anh hỏi:
    - Em có biết Nguyễn Chơn ở trường Pétrus-ký không?
    - Em biết cậu ta nhưng Sáu Quảng chưa rõ em là ai?
    - Em tự giới thiệu là đại diện của trường tư thục Văn Lang.
    - Để làm gì vậy anh? Đô trưởng Sài Gòn Trần Văn Hương mới hô hào “tách chính trị khỏi học đường”. Anh không định chỉ thị cho Sáu Quảng phát động đấu tranh mà muốn Sáu Quảng tự vạch chương trình hành động rồi trình bày với anh.
    - Em hiểu rồi.
    Sáu Quảng chưa quen Mỹ Lê. Vì Mỹ Lê có dáng người thon nhỏ, lại học dưới anh một lớp (do mấy năm má bị bắt và thời kỳ đầu lên Sài Gòn, cô chưa được học ngay) nên Sáu Quảng giữ vẻ bề trên:
    - Em tổ chức hội thảo, châm ngòi nổ đầu tiên ở trường Văn Lang, anh sẽ cổ động các trường khác ủng hộ.
    - Văn Lang là trường tư thục nhỏ nên tiếng vang vọng tới các trường khác e rằng chưa sâu rộng lắm. Tôi không ngán đâu. Nếu anh Sáu chuẩn y, tôi sẽ góp một bản tham luận.
    - Cô Tư định đề cập những ý gì để chống lại Trần Văn Hương?
    - Có nhiều ý lắm. Ta có thể tung ra đại biểu hoàn toàn tán thành chủ trương tách chính trị khỏi học đường của Trần Văn Hương để đưa ra các kiến nghị: Học sinh không mua báo, đọc báo, không hội họp; không chào cờ, hát quốc . ca và tẩy chay mọi bài giảng của giáo viên có liên quan tới chính trị.
    - Đấy là ý hay, tôi sẽ thực hiện.
    - Chúng ta là học sinh, sinh viên, thanh niên nên nghiên cứu sứ sẽ đưa các kinh nghiệm chống Tàu, chống Pháp vào tham luận. Cô nào, cậu nào giỏi văn cứ phân tích từ câu "Quốc gia hữu sự, thất phu hữu trách" hoặc "giặc đến nhà đàn bà 'cũng đánh". Ngoài ra, ta đủ bản lỉnh, đủ tư liệu để chứng minh là chính trị không thể tách rời học đường khi mà nước ta đang chia làm hai miền và ở trên đường phố Sài Gòn có biết bao quân ngoại bang.
    Sáu Quảng thấy có cảm tình với Mỹ Lê. Cô ấy có trình độ, năng động, dám đấu tranh. Không rõ cô ấy đã ở trong tổ chức chưa. Anh sẽ gặp Ba Chân, đề nghị anh Ba theo dõi, thẩm tra và kết nạp cô ta sớm nhất.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 09:33:35 am
    Mỹ Lê quay về với chồng, báo cáo với anh về nội dung trao đổi giữa cô và Sáu Quảng xong, cô hỏi luôn:
    - Anh quyết đỉnh về số phận em và con như thế nào?
    Đúng là anh không thể nhanh chóng tìm ra đáp số cho bài toán giữa tình và lý. Là người cha, anh mong muốn có con trai đầu lòng ở bên cạnh 24/24 giờ mỗi ngày, anh không nỡ lòng nào giao con cho cô ruột nuôi. Anh làm sao tin tưởng ở cô được? Cô anh có tình máu mủ ruột thịt nhưng bà nghèo, bà ở nông thôn, bà làm sao nuôi con anh theo khoa học? Đã có lúc anh tính khuyên vợ hãy yên tâm nuôi con ở Cần Thơ, chờ bao giờ con biết đi, con khỏe mạnh, con khôn lớn mới trở lại Sài Gòn công tác. Tuy vậy, anh không có gan làm điều đó. Anh không thể vì con mà bứt một cán bộ có năng lực, có kinh nghiệm đấu tranh trong lòng địch như cô phải xa rời địa bàn công tác. Anh làm như thế, cô ấy sẽ phản đối anh, sẽ không còn yêu người chồng ích kỷ như anh. Anh nhớ đến giao ước mà cô ấy đề ra với anh ngay trong đêm tân hôn. Anh tin rằng không chỉ cô ấy mà chính các đồng chí của anh sẽ phê bình anh là cá nhân chủ nghĩa, là đặt lợi ích riêng trên nhiệm vụ chung. Anh kể lại tâm tư của mình với vợ, rồi đưa ra chính kiến của mình:
    - Giao con cho cô Năm là phương án tốt nhất cho chúng ta. Anh và em đều trưởng thành từ nông thôn do "những người nhà quê" nuôi dưỡng. Anh quá yêu con nên cố tìm mọi lý lẽ để bênh vực cho mình. Anh sai rồi. Em quay về Cần Thơ thưa chuyện với cô Năm, gởi bé Cánh nhờ họ hàng bên nội chăm sóc rồi quay về Sài Gòn ngay. Anh linh cảm sắp nổ ra cuộc đấu tranh một mất, một còn với tụi nó.
    - Dạ! Anh Ba nè? Tụi mình có con có phải sai lầm không?
    Ba Chân lấc đầu:
    - Nếu anh đồng ý lập luận này của em, em sẽ nêu tiếp câu hỏi: tụi mình cưới nhau có sai lầm không? Không đâu, em yêu. Tổ chức không ngăn cản chúng ta lo cho hạnh phúc lứa đôi. Vấn đề đặt ra là chúng ta thu xếp việc nhà, Việc nước sao cho trọn vẹn cả đôi bề.
    - Em đồng ý với anh. Anh? Lâu nay anh có gặp má không?
    - Má đi biền biệt suốt, anh không có cách nào gặp được má. Ban chấp hành thành đoàn tính tuyên đương má. Má làm được rất nhiều việc lớn.
    Ba Chân nắm được mọi thành công của bà già vợ qua báo cáo hàng ngày. Ngoài nhiệm vụ chỉ đạo phong trào học sinh, sinh viên Sài Gòn - Chợ Lớn, Ba Chân còn là chính trị viên lực lượng biệt động của thành đoàn nên anh phải nắm chắc số lượng vũ khí mà anh sẽ huy động được. Anh tự hào về "đồng chí má Sáu". Mỹ Lê nghe chồng kể về má mà hởi lòng, hởi dạ. Ở gia đình, má rất hiền, không mấy khi nặng lời với con, sao đối với địch má kiên quyết, với công việc má năng động sáng tạo thế? Chị hỏi chồng về các em mình. Anh không gặp được Mỹ Hòa. Dì Bẩy và Tư Linh vẫn đi thăm nuôi cô, tiếp tế cho cô những vật dụng cần thiết nhất cho cuộc sống ngồi tù. Mỹ Hòa gầy yếu da xanh hơn ở ngoài đời song khuôn mặt không ánh lên vẻ buồn, cặp mắt vẫn sáng long lanh, tin tưởng. Tư Linh vẫn ngoan học rất giỏi. Dượng Bẩy, dì Bẩy chiều cháu, không cho cháu lao động, luôn may quần áo đẹp cho cháu nhưng Tư Linh không nghe. Cậu có tính tự lập rất cao. Cậu biết con đường đi tới mục đích của mình. Cậu là con trai cả của gia đình họ Dương nên cậu hiểu tường tận việc ba, má đã làm, Nội nuôi các chú, các em, các bác cán bộ trong hầm bí mật ra sao? Thằng Ba Vĩ, thằng Mười Tuân rất yêu quý, tin tưởng anh Tư Linh đã kể để anh Tư nghe mọi chuyện về đội du kích xã nhà, về vụ hai dứa rủ nhau đi ăn cắp đạn, lựu đạn giúp các chú du kích. Vào dịp hè; má cũng cho Tư Linh vô cứ. ở trong cứ, Tư Linh được nghe đủ mọi chuyện về bên ta, bên nó, được xem phim, xem chuyện từ miền Bắe gửi vào; được biết nhiều về má, về chị Hai, chị Ba và đặc biệt những câu chuyện về ba. Ba là kỹ sư, giám đốc mỏ than. Má rồi chị Hai, chị Ba, cả dượng Bầy, dì Bẩy đều khuyến khích Tư Linh học thiệt giỏi có bằng kỹ sư như ba. Thoạt đầu, Tư Linh chưa ưng lắm. Tại sao cả Nội, rồi ba, má, các chị Mỹ Lê, Mỹ Hòa đến mấy đứa em Ba Vĩ, Mười Tuân đều theo cách mạng còn Tư Linh lại đứng ngoài cuộc? Tư Linh nài nỉ má, xin đi theo, làm liên lạc cho má nhưng má không ưng ý. Chị Mỹ Lê cũng đứng về phía má, khuyên Tư Linh:
    - Gia đình bên nội, bên ngoại họ Dương đều trông cậy vào em. Nếu em học giỏi, cả ba má và các chị đều vui lòng.
    Tư Linh nhận lời một cách miễn cưỡng. Tuy dì Bẩy, dượng Bẩy dành mọi ưu ái cho cậu nhưng cậu luôn tự coi mình là con nuôi, là người đi ở nhờ, cậu tự giác thu xép mọi việc của riêng mình, tự giặt quần áo, chẻ củi, đi chợ. Từ ngày chị Mỹ Hòa bị bắt, cậu thay mặt má, anh rể, chị ruột và bốn đứa em ruột đến với chị Ba. Chị Ba Mỹ Hòa rất gắn bó với cậu. Bà con bên nội, bên ngoại đều có chung nhận xét là cậu và chị Mỹ Hòa rất giống ba. Ba đang ở đâu? Bao giờ cậu được ra miền Bắc thăm ba? Tại sao khi viết thư về ba không nói gì về trường hợp của cậu? Có lẽ ba đồng tình với cách giải quyết của má? Ở Sài Gòn này, cậu không biết anh Ba Chân, chị Mỹ Lê ở đâu và má không cho phép cậu đến thăm anh, chị. Tuy vậy, cậu phải có trách nhiệm với Mười Tuân, lo cho em học, thay mặt má dạy dỗ, bảo ban em và đặc biệt lo chạy chữa bệnh hen suyễn cho em, cùng em bàn chuyện gia đình. Mười Tuân thương yêu, kính nể và phục anh Tư Linh lắm. Anh Tư hơn Mười Tuân tới ba tuổi nên anh "người lớn" hơn, anh bảo gì Mười Tuân cũng coi như những lời lẽ "khuôn vàng, thước ngọc" khiến cậu răm rắp tuân theo. Mười Tuân không giấu anh điều gì kể cả chuyện má út Khuê làm giao liên chuyển tài liệu cho Việt cộng và việc má đang lo lập nhiều kho vũ khí. Tư Linh nạt em:
    - Mày không lo giữ mồm, giữ miệng dễ đẩy má vô tù lắm. Bữa nào tao dẫn mày đi thăm nuôi chị Ba.
    Tư Linh chợt nhận ra sơ hở của mình. Cậu dặn em:
    - Mày phải xin má, nếu má ưng bụng, tao mới đi với mày.
    Cậu hạ thấp giọng:
    -  Mày biết không, tụi nó đang lùng tìm người quen thân chị Mỹ Hòa. Tao phải nhận là con ruột dì Bẩy, em họ chị Ba. 
    Mười Tuân gật gật đầu:
    - Em rõ nguyên tắc bảo mật mà, anh Tư! Em không để lộ bí mật của gia đình ta với ai đâu. Ngay cả chuyện chị Hai về Cần Thơ sanh con, em đâu dại mà nói với người ta. Em cũng là con má út Khuê.
    - Nè , tao với mày đã là cậu rồi. Bữa nào chị Hai đưa thằng nhỏ lên Sài Gòn, mày phải báo cho tao nghe. Tao thích bồng cháu lắm.
    - Dạ.
    - Mày cũng thưa với má lo đón Ba Vĩ và út Hiếu, Bẩy Thiện lên Sài Gòn. Để ba đứa ở quê tao thấy tội tội thế nào ấy.
    - Em đồng ý.
    - Mười Tuân nè?
    - Dạ!
    - Mày có hay xin tiền má út không?
    - Không đâu anh Tư.
    - Ai tắm giặt cho mày?
    - Má út giặt cho em, em tự tắm.
    - Sáng mai mày tự dậy hay chờ má đánh thức?
    - Bữa nào em ngủ quên, má mới gọi em.
    - Mày không được làm phiền má út. Ba má mình đi làm cách mạng không có điều kiện nuôi tụi mình, nên tao với mày cố làm vừa lòng chủ, đừng để chủ phàn nàn. Mày phải cố viết chữ đẹp hơn, xếp thứ hạng cao hơn.
    - Dạ.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 09:36:01 am
    Tư Linh và Mười Tuân không hay biết những tính toán của anh rể và chị ruột mình. Mỹ Lê về Cần Thơ. Cô nấn ná mãi, không đành dứt áo ra đi, gởi con ở lại. Đêm đêm, khi nằm bên con, lòng cô nóng như lửa đốt. Biết đến ngày nào cô mới có hạnh phúc áp mồm con vào ngực mình? Chao ôi, cái cảm giác truyền dòng sữa từ bầu vú mình vào miệng con mới ngọt ngào, êm dịu làm sao ấy thế mà cô sắp phải xa con. Hôm ở Sài Gòn, khi phải vắt sữa từ hai bầu căng, mọng xuống cống rãnh, cô đã khóc. Bé Cánh ở Cần Thơ chắc đang thèm sữa me trong lúc cô vắt sữa bỏ đi. Cảnh này sẽ còn tái diễn nhiều lần nữa khi cô chính thức lên Sài Gòn. Cô thương con vô cùng. Đã ba lần cô chào tạm biệt cô Năm rồi cô lại quay về, ôm con vào lòng, vạch vú cho con bú, trong lúc nước mắt cứ chực tràn ra khỏi mi. Cô Năm dã phải nhắc nhở cháu dâu:
    - Con phải can đảm lên. Nếu con cứ ủy mị thế này sễ ảnh hưởng tới Ba Chân.
    - Dạ.
    Hình ảnh anh đã thôi thúc cô. Anh không chỉ là chồng cô mà còn là cấp lãnh đạo trực tiếp của cô. Anh đang chỉ đạo tổng đoàn học sinh, đối đầu với Trần Văn Hương, sao cô còn ngồi ở đây, còn đứng ngoài cuộc? Cô trao bé Cánh cho Nội:
    - Con đi đây, thưa cô Năm. Nếu cần liên lạc với tụi con, cô gởi thơ tới đỉa chỉ này.
    Mỹ Lê xách giỏ đi thẳng ra bến xe. Tới Sài Gòn, cô không có cách nào gặp được chồng. Anh đi đâu, ở đâu đang làm gì, cô không sao dự đoán nổi. Tất cả học sinh trường công trường tư đều bàn đến câu hỏi: "Học sinh chúng ta phải làm gì trước hiện tình đất nước?". Phụ huynh học sinh và những người dân thường cũng công khai bàn tới chủ trương lật đổ Nguyễn Khánh, phế truất Trần Văn Hương. Ai cũng đề nghị được xuống đường biểu tình, rước ảnh Trần Văn ơn để khẳng định trách nhiệm của học sinh với đất nước. Để đối phó lại làn sóng biểu tình, những học sinh thân chính phủ đưa hai nhân vật lên diễn đàn tự nhận là Chủ tịch và Phó chủ tịch tổng đoàn học sinh, lớn tiếng kêu gọi học sinh giữ trật tự, ủng hộ Chủ tịch ban lãnh đạo quốc gia Sài Gòn Nguyễn Khánh và đô trưởng Trần Văn Hương.
    Làm cách nào vạch mặt tụi này? Cô Phạm Thị Ngọc Lan mới 17 tuổi, rất đẹp gái, là học sinh trường Chu Văn An, đang giữ chức Phó chủ tịch tổng đoàn học sinh, hướng về phía Sáu Quảng: Anh Sáu lên cướp diễn đàn, vạch mặt tụi tổng đoàn giả, đừng để tụi nó lừa bịp học sinh nữa. Trưởng ban hành động Nguyễn Tân hùng hổ:
    - Khỏi cần anh Sáu ra tay. Anh để tôi.
    Nguyễn Tân to cao như lực sĩ. Anh không nói, không rằng thộp ngực hai diễn giả:
    - Tháng Bôi, thằng Nhọt Ai cho phép hai đứa mày mạo danh Tồng đoàn?
    Hai diễn giả mặt tái mét, tay chân run lẩy bẩy, miệng lắp bắp:
    - Xin anh Hai tha cho tụi em. Em bị mấy đứa xui dại.
    Thính giả được mẻ cười vui và thùng thuốc nổ đang âm ỷ bỗng như được châm ngòi nổ, không thể tháo gỡ nổi. Bí thư thành đoàn Hồ Hảo Hớn đang có mặt tại Sài Gòn. Anh hỏi Mỹ Lê :
    - Cô có quen biết Nguyễn Chơn không?
    - Có! Em đã gặp, đã làm việc với Sáu Quảng.
    - Cô gặp Sáu Quảng truyền đạt chỉ thị của tội: Phương châm hành động là “vững vàng lập trường, bảo vệ nguyên tắc, thích nghi - hòa nhập".
    - Dạ!
    - Dặn Sáu Quảng cần cảnh giác trước thủ đoạn chia để trị của đối phương, đặc biệt là chúng dùng tiền và gái.
    - Dạ!
    Mỹ Lê có thẻ sinh viên, có giấy căn cước thứ thiệt nên cô đi lại bất cứ nơi nào của Sài Gòn khá dễ dàng. Cô tìm đến với Sáu Quảng. Sáu Quảng ngỡ ngàng:
    - Em học trường Văn Lang?
    Mỹ Lê cười, đùa:
    - Bây giờ tôi là phái viên của Bí thư thành đoàn Hố Hảo Hớn tức Hai Nghị và là vợ anh Ba Chân.
    Sáu Quảng ấp úng:
    - Vậy chị là Tư Liênl Chị mới sanh con?
    Mỹ Lê gật đầu. Sáu Quảng đấm vào đầu mình:
    - Xin lỗi chị Tư nghe! Thằng em này tưởng chị nhỏ tuổi hơn em, em đã dự kiến báo cáo anh Ba Chân kết nạp chị vào tổ chức.
    - Anh Ba tôi ở đâu?
    - Tôi mới gặp anh. Anh khỏe.
    - Chị báo cáo anh Hai Nghị sẽ có diễu hành, biểu tình trong ngày mai.
    Mỹ Lê vẫn chưa gặp chồng song cô rất vui. Các bạn gái Năm Trăng, Thu Hổng, Xuân Hồng... đều đã xuống đường. Các ủy viên chủ chốt của Ban chấp hành đoàn như Ba Đặng, Mười Hảo, Phạm Chánh, v.v... đều bám cơ sở. Học sinh tất cả các trường đều bãi khóa. Trong từng gia đình, từng đường phố; từng ngõ chợ, vỉa hè... đều đòi quyền lợi học sỉnh, .đòi cải thiện đời sống cho nhân dân, đòi lật đổ Nguyễn Khánh, không chấp nhận sự có mặt của ngoại bang theo hiến chương Vũng Tàu. Khẩu hiệu đấu tranh : như vậy có nhiều quá không, có loãng mục tiêu không? Bí thư thành đoàn Hồ Hảo Hớn chủ trương:
    - Khơi dậy tinh thần yêu nước, yêu dân tộc trước hết trong học sinh, sinh viên, thanh niên, sau đó lan rộng sang các tầng lớp nhân dân. Mục tiêu chủ yếu là đòi Nguyễn Khánh hủy bỏ hiến chương Vũng Tàu.
    Mỹ Lê quay trở lại trường Văn Lang. Cô nhận liên tiếp công văn có đóng dấu mộc củaTổng đoàn học sinh do Chủ tịch Sáu Quảng hoặc Phó chủ tịch Phạm Thị Ngọc Lan ký. Các ủy viên Lê Côn, Nguyễn Tân, Triệu Lĩnh, Năm Trăng, Hai Nhẫn… đã thức trắng đêm, chờ đến giây phút hào hùng của thanh niên học sinh.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 09:40:56 am
    Đúng giờ G. của ngày 22 tháng 8 năm 1964, học sinh trường Pétrus-ký, rồi Gia Long, Nguyễn Trãi, Đức Trí, Trưng Vương, Chu Văn An, Thánh Linh... đổ ra đường. Đoàn người tự động xếp thành hàng năm, hàng mười, hàng hai mươi nối đuôi nhau vừa đi, vừa hát vang:
       "Dậy mà đi. Dậy mà đi, hỡi đồng bào ơi!"
    Chỉ trong phút chốc, đoạn đường dài ba kilômét từ quận Bình Thạnh đến rạp Ca-si-nô đã chật ních trên 300.000 người vừa đi vừa hô vang các loại khẩu hiệu, giương cao biểu ngữ và hát. Đoàn người vượt qua Cầu Bông đến Thảo Cấm viên kéo về dinh Độc Lập. Cảnh sát dã chiến rầm rập kéo tới, giơ súng, giương lê, gọi loa ra lệnh cho đoàn biểu tình giải tán nhưng đoàn người cứ sải bước, tiến về phía trước. Nhiều phát súng bắn chỉ thiên và có phát súng bắn thẳng găm trúng ngực học sinh đệ ngũ Lê Văn Ngọc 16 tuổi. Chính quyền Nguyễn Khánh đã dại dột đổ thêm cả thùng dầu vào đám lửa bốc cháy nên khí thế đấu tranh của thanh niên học sinh bùng lên mãnh liệt. Không chậm trễ, thi hài của học sinh Lê Văn Ngọc được các học sinh khiêng, rước. Một mệnh lệnh từ Tổng đoàn học sinh truyền ra: "Đưa bạn Ngọc về Viện Hóa Đạo" và khẩu hiệu "Đả đảo chính quyền đàn áp học sinh" lan rộng khắp đường phố.
    Viện Hóa Đạo chật cứng người. Những kẻ cầm quyền tung xe tăng, thiết giáp cùng đủ sức lính vào cuộc. Cảnh sát dã chiến cũng dùng mọi cách đột nhập vào Viện để chớp xác Lê Văn Ngọc. Từ trên bầu trời, nhiều chiếc trực thăng vòng lượn, đưa ra những lời đường mật rồi hù dọa những người biểu tình. Đến lúc này, nhà sư Thích Tâm Châu đứng hẳn về phía chính quyền, đứng ra đàn xếp để học sinh giao xác bạn cho nhà cầm quyền. Không một ai đồng tình với Thích Tâm Châu. Chả hiểu bằng cách nào, học sinh đưa quan tài gỗ đến để liệm cho Lê Văn Ngọc và tiếp đó có quan tài kẽm khá to, đủ đặt lồng quan tài gỗ vào bên trong. Những người túc trực đứng vòng trong, vòng ngoài. Bà con đưa thức ăn tới tiếp tế cho những ai bảo vệ quan tài Vải trắng đưa tới. Hàng loạt khăn tang, băng tang hiện lên. Ai cũng đòi chính quyền để đoàn biểu tình đưa Lê Văn Ngọc tới nơi an nghỉ cuối cùng, nhưng nhà cầm quyền không lùi bước. Chấp nhận yêu sách này là bằng lòng để lực lượng biểu tình đi sau quan tài, hô khẩu hiệu chống chính phủ, tạo điếu kiện tiền đế cho học sinh công khai đứng về phía đối lập. Đã diễn ra nhiều đợt tấn công, bên chính phủ dùng đủ mọi sắc lính, cảnh sát, an ninh, được xe bọc thép yểm hộ, có vòi rồng, dùi cui, hơi ngạt ồ ạt tràn vào Viện Hóa Đạo nhưng họ không sao lọt qua lớp lớp học sinh dàn thành hàng ngang, dùng thân thể mình để bảo. vệ thi hài Lê Văn Ngọc. Vào thời điểm gay cấn này, Phạm Thị Ngọc Lan cầm lấy micrô. Cô gái 17 tuổi dáng thanh tú với khuôn mặt rất đẹp, nước da trắng, mái tóc dài, đã nhân danh Phó Chủ tịch tổng đoàn học sinh cất tiếng nói. Giọng cô truyền cảm, sâu lắng. Nhiều phút trôi qua, những người có mặt của cả hai phía đều nghe tiếng nói của cô thổn thức:
    - Học sinh chúng tôi biểu tình rất trật tự sao chính quyền đàn áp? Bạn Lê Văn Ngọc có tội tình gì mà phải chết? Người sống chúng tôi bị đàn áp còn biết cách chống đỡ còn người chết nằm đây sao cũng không được yên thân?
    Phải đến năm phút sau, bọn cảnh sát mới xông lên diễn đàn, giọng lấy micrô, định xé áo Ngọc Làn. Tổng thư ký Tư Thiên nhảy lên cản kẻ địch, bảo vệ bạn. Ngọc Lan dùng micrô khác nói luôn miệng, nói tha thiết, có lý, có tình Cảnh sát điều động hơn chục xe bịt bùng đến. Chúng chia cắt học sinh, thanh niên thành từng toán lẻ , "nhặt" từng người ném lên xe. Mặc! Một bên có trực thăng, xe tăng, dùng vũ lực đàn áp, một bên động viên nhau bằng đọc những bài thơ:
      Thầy ngồi ghế cao
      Con ngồi ghế thấp
      Thầy giảng tự do .
      Con nghe tù ngục
      Thầy giảng dân chủ
      Con thầy độc tài
      Thầy giảng "âm no
      Con nghe đói bụng
      Thầy giảng, thầy giảng
      Con nghe, con nghe.
      Con thấy, con thấy
                      (Trích thơ Nguyễn Bình Dân) .

     Và

      Nhờ ơn thầy em đã mở mắt ra thêm
      Bài học ở trường chỉ đẹp lòng chế độ
      Nhưng bài học ngoài đời
      Sẽ đẹp lòng tốt cả.
      Đồng bào, Nhân dân, Tổ quốc,Quê hương
      Nên hôm nay em cương quyết bỏ trường
      Rừng (R) sẽ dậy em
      Thế nào là Ái Quốc.
              (Trích thơ Nguyễn Thị Hổng)

     Nguyễn Khánh ở trong tâm trạng bấn loạn. Dùng vũ lực để giải tán biểu tình không nổi, đưa cả xe tăng và hàng ngàn lính đến cướp xác Lê Văn Ngọc cũng không được. Đã có lúc Nguyễn Khánh dự định thỏa hiệp đồng ý đế học sinh chôn cất Lê Văn Ngọc nhưng Khánh chùn lại khi nghe báo cáo về vụ Trần Văn Ơn. Ơn cũng là học sinh trường Pétrus-ký. Ngày 9 tháng 1 năm 1950, Trần Văn ơn cầm bản kiến nghị thay mặt 2.000 người biểu tình, cùng sáu nam nữ học sinh tiến vào dinh Thủ hiến Trần Văn Hữu đòi trả lại tự do cho năm học sinh trường Pétrus-ký và Gia Long bị bắt. Hai ngày sau, ngày 11 tháng 1 địch bắn chết Trần Văn ơn. Chúng định cướp xác anh nhưng đoàn biểu tình đưa được xác anh về quàn tại trường Pétrus-ký rồi cử hành tang lễ. Hàng triệu học sinh, sinh viên và đồng bào các giới ở khắp mọi tình, thành trong cả nước đã có băng tang, dự lễ truy điệu rồi xuống đường tuần hành tường nhớ Trần Văn Ơn. Ở khắp mọi nơi đều vùng lên câu hỏi, đã có lời giải đáp:
    Ai chết vinh - buồn chẳng?
    Ai sống nhục - thẹn chăng?

    Nguyễn Khánh chọn phương án đàm phán. Viên tướng trẻ này lúc đó đang giữ cương vị Chủ tịch ban lãnh đạo quốc gia Sài Gòn đã xuất hiện trước công chúng, hứa xóa bỏ hiến chương Vũng Tàu (cho Mỹ Oà ạt vào miến Nam) và buộc phải hô khẩu hiệu: "Đả đảo độc tài, kể cả độc tài quân phiệt". Nghe Nguyễn Khánh hô câu này, cả rừng người đang phẫn nộ bỗng bật cười hoan hỉ rồi vỗ tay hoan hô y. Đúng vào thời điểm này, lực lượng cảnh sát dã chiến có rất nhiều tên mặc thường phục đã đưa được xác Lê Văn Ngọc lên xe song mã. Thanh niên học sinh rơi vào tình thế bất ngờ, và trăm ngàn người đuổi theo xe với dự kiến chặn xe đòi xác bạn; số còn lại phân vân chưa biết tiến thoái ra sao đã bị bắt. Cuộc biểu tình gây tiếng vang lớn, làm náo động Sài Gòn đã kết thúc. Vài ngày sau, vợ chồng Ba Chân, Mỹ Lê cùng Sáu Quảng và các nhân vật có liên quan đã nhất trí với kết luận của Bí thư thành đoàn Hồ Hảo Hớn: "Từ hôm nay và mãi mãi sau này, các thế hệ thanh mến học sinh, sinh viên cả nước luôn nhớ đến ngày biểu dương lực lượng hếch sử của học sinh Sài Gòn, ngày 22 tháng S năm 1964". Sau này, trong tổng kết của phong trào học sinh sinh viên, thanh niên những năm đánh Mỹ đã nhận định: ' "Cuộc biểu dương lực lượng ngày 22 tháng 8 năm 1964 là đông đủ nhất, khí thế nhất và thắng lợi nhất".


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 09:43:58 am
16
     Anh Dương Văn Đấu mở cặp, lấy ra bốn tập hố sơ đặt lên bàn. Anh khó xử quá. Từ nửa năm qua, anh không còn là giám đốc, kiêm bí thư đảng ủy mỏ than Cẩm Phả nữa mà anh đã được điều về làm Chánh văn phòng Bộ Điện - Than. Anh được đề bạt vào cương vị cao hơn song anh ngại ngần không muốn rời Cẩm Phả. Anh quen từng công nhân, hiểu hoàn cảnh gia đình từng người thợ mỏ. Hơn ba nghìn ngày qua, anh đã đặt chân tới mọi hầm lò, đã sờ tay vào từng vỉa than, đã phấn đấu cật lực để năng suất than ra lò tháng sau cao hơn tháng trước, nay bỗng phải gác bỏ tất cả để ra đi, nên anh có cảm giác hẫng hụt, bị mất đi thứ gì đó. Các kỹ sư, công nhân mỏ không muốn xa rời anh nhưng ai cũng mừng cho anh. Đã có giám đốc mỏ than nào nhảy một cú lên thẳng Chánh văn phòng một bộ lớn trong Chính phủ như anh đâu. Anh đã hội tụ đủ mọi ưu điểm của một cán bộ cao cấp, được cả tài lẫn đức. Anh có tài ư? (Không ai phủ nhận điều này. Anh đã tốt nghiệp trường Bách nghệ, làm việc tại đồn điền cao su của Pháp và những năm gần đay, kỹ sư Dương văn Đấu nổi lên là một giám đốc mỏ có tên tuổi trong nghề than. Còn đức ư? Chưa ai phê bình Bí thư đảng ủy Dương Văn Đấu điếu gì. Anh không có gia đình hoặc bà con thân thuộc gì ở mỏ nên anh chả làm ô, dù cho ai. Anh không hề vơ vét tiêu chuẩn hoặc đòi quyền ưu ái gì đó cho riêng mình. Anh vẫn ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân và luôn duy trì nếp làm việc không dưới 10 giờ trong ngày. Điều đặc biệt là anh chưa một lần nào buông lời suồng sã với người con gái nào và tấm ảnh với dòng chữ "Một vợ, bảy con đang chiến đấu ở miền Nam" luôn ở chỗ trang trọng nhất trên bàn làm việc của anh. Anh nghiêm lắm. Tất cả các cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc đều không ai dám hé răng bàn với anh chuyện hoàn cảnh, đề cập đến lý do cần lấy vợ, lấy chồng mới. Anh đã từng tuyên bố:
    - Tao lên án tất cả mọi đứa phản bội vợ hoặc chồng. Nếu chúng mày muốn đoàn tụ gia đình hãy làm đơn tình nguyện vào miền Nam chiến đấu.
    - Anh công khai đọc lá đơn của mình gửi lên Bộ trưởng, lên Thủ tướng Chính phủ xin được trở về Nam nhưng nguyện vọng của anh không được chấp thuận với lý do:
    - Chính phủ ta, Đảng ta đang cần những chuyên gia có tầm cỡ trong ngành than như đồng chí. Đồng chí về làm Chánh văn phòng Bộ.
    Về Hà Nội, anh vẫn duy trì lối sống ấn cơm tập thể, nằm giường cá nhân. Bộ trưởng bố trí cho anh căn phòng rộng có giường tủ, bàn làm việc, bộ sa lông tiếp khách, có quạt bàn quạt trần... Giữ đúng nguyên tắc bảo mật, anh chưa lần nào đem tài liệu mật về nhà riêng. Hôm nay, trước mặt anh là bốn tập hồ sơ của bốn đồng chí cùng quê với anh xin cưới vợ mới. Anh nên xử lý thế nào? Anh đồng tình ư.? Không đời nào. Hôm nay, anh dễ dàng với người ta, ngày mải, anh sẽ tự cho phép mình đứng trong hàng ngũ kẻ lừa dối. Anh mở tập hồ sơ đầu. Anh quen cả Mười Phú và vợ cậu ta là cô giáo Hai Hoài. Trước khi tập kết ra Bấc, Phú và Hoài đã có con trai ba tuổi. Bây giờ cậu ta viết trong đơn: "Tôi được tin vợ tôi nay đi lấy chồng khác nên tôi không còn ràng buộc với cuộc hôn nhân cũ. Đề nghị các đồng chí cho tôi được kết hôn với cô Phùng Thị Hồng Hạnh nhân . viên mậu dịch bách hóa...". Anh Dương Văn Đấu gấp tập hồ sơ lại. Anh tin là mọi giấy tờ trong hồ sơ đều đúng nguyên tắc, không chê trách vào đâu được vì những người cùng hội, cùng thuyền, cùng mê bỏ vợ cũ, lấy vợ mới, đã phổ biến kinh nghiệm cho nhau, người nọ chứng nhận hoặc bảo đảm cho lời khai của người kia là đúng. Tại sao họ lại làm như vậy? Trong một cuộc họp nào đó, một cán bộ có chức, có quyền đã bật đèn xanh bằng câu phát biểu: "Anh chị em tập kết ra Bắc xa vở, xa chồng đã hơn mười năm. Nếu ai muốn lấy vợ mới, chồng mới eần phải có chứng nhận địa phương hoặc ít nhất của hai người cùng quê hương xác nhận là vợ hoặc chồng anh ta hoặc chị ta đã chết, đã đầu hàng địch hoặc đã tái xuất giá" Anh Dương Văn Đấu không tán thành cách giải quyết giơ cao, đánh khẽ như thế này. Thoạt nghe, ai cũng tin vào những biện pháp thấu tình, đạt lý nhưng thực chất là chủ trương "mở cửa" cho những ai muốn kiếm chác mối tình mới, lệp gia đình mới. Không phải không có ông bạn già đến rỉ tai anh:
    - Bẩy Đấu! Theo ý mày bao giờ chiến tranh kết thúc, nước nhà sẽ thống nhất?
    - Chắc là còn lâu. Thằng Mỹ nhảy vào miền Nam. Mỹ đã ném bom miến Bắc. Ta cần xây dựng kinh tế miến Bắc đủ bảo đảm đưa hàng nghìn, hàng vạn quân vào Nam chiến đấu.
    - Đây là điểm tao cần trao đổi thẳng thắn với mày. Tao tính lấy vợ mày giúp tao, tao sẽ lo cho mày.
    - Không nên đâu anh Tư. Nay mai, anh sẽ trả lời như thế nào khi gặp lại chị và các cháu - con anh?
    - Tao đắn đo mãi rồi. Là thằng đàn ông mà suốt mười mấy năm không có quan hệ sinh lý với người đàn bà nào sẽ phản khoa học, sẽ làm cho đầu óc anh mụ mẫm, trái tim mình chai sạn. Tao với mày không còn trẻ nữa, sắp vào tuổi năm mươi rồi. Mỗi lần soi gương thấy trên mái tóc thêm nhiều sợi bạc, tao cứ lo tuổi già ập đến. Tao cần một mái ấm gia đình, một bàn tay phụ nữ lo cho tao bữa - cơm ngon, giặt cho tao bộ quần áo, tâm sự với tao mỗi khi tao ốm đau. Nhớ đến lần mày bị ốm, tao thương quá.
    - Có hề gì đâu, anh Tư! Các bác sĩ, y tá săn sóc tôi chu đáo rất tận tình.
    - Nhưng thiếu bàn tay đàn bà. Nếu chính vợ mày bón cơm cho mày, dùng khăn kỳ cọ thân thể mày, đêm đêm ngồi cạnh kể cho mày nghe nhiều chuyện gia đình, xã hội, tao tin là bệnh mày sẽ mau lành hơn.
    Anh Tư Nam hơn anh Bẩy Đấu ba tuổi, hiện đang là Vụ trưởng của một Bộ. Anh đã khuyên, đã đồng tình, thậm chí sắm vai chủ hôn cho những chú rể là cán bộ miền Nam tập kết với các cô dâu là người miền Bắc. Dù sao anh Tư cũng e dè Bẩy Đấu. Bẩy Đấu được mệnh danh là con người thép có trái tim lạnh băng, không hề rung cảm trước mọi lời tỏ tình những cái liếc mắt đưa tình, hoặc những cố ý đụng chạm thể xác của các cô gái trẻ hay các bà góa là cán bộ. Tư Nam dựa vào thế nhiều tuổi hơn, lại cùng là cán bộ cao cấp, cùng tâm trạng xa vở, đã cố gắng thuyết phục Bẩy Đấu Tư Nam lộ vẻ rầu rĩ:
    - Hơn mười năm qua, tao có tơ tưởng chuyện này đâu. Tao với mày không lấy vợ chui, cưới bí mật mà sẽ tồ chức công khai, mời Bộ trưởng, Thứ trưởng và bạn đồng hương tới dự. Chúng ta sẽ có giấy giá thú chính thức. Bao giờ gặp lại bà Tư, tao sẽ xin lỗi bà. Bà và mấy cháu không nỡ trách tao về việc đã rồi đâu. Có thể bà còn cám ơn cô hai đã săn sóc thống bà trong những năm xa cách, lẻ loi.
    - Anh Tư! Tôi không thể nào đồng tình với anh được. Không bao giờ tôi phản bội cô Sáu Hoàn. Tình yêu chung thủy của vợ chồng tôi là vĩnh cửu, không có gì lay chuyển nổi. Xin lỗi anh Tư, tôi muốn rằng giữa chúng ta khỏng bao giờ quay lại chủ đề này nữa.
    - Tùy chú mày.
    Trong bốn tập hồ sơ ở trên bàn có hai chữ ký của anh Tư Nam. Anh Tư không lùi bước trên đường lấy vợ mới của mình. Anh gấp những tập hồ sơ lại, ghi bên ngoài: "Từ nay, tôi không tham gia xét, duyệt những hồ sơ mà các cán bộ miền Nam tập kết chứng nhận lẫn cho nhau. Anh nhớ đến lập luận anh Tư Nam đưa ra với anh. Đúng là có điếu gì đó thoạt nhìn vào sẽ khó hiểu. Đã là con người thì ai chẳng mong muốn được sống trong tổ ấm gia đình, do đó cứ đến tuổi thanh niên là trai phải có vợ, gái cần lấy chồng. Người con gái trước khi về nhà chồng thường được mẹ đẻ dạy cho tề gia nội trợ, khéo nấu hàng trăm món ăn khác nhau. Anh đã rất tự hào về tài nấu ăn của vợ. Chủ đồn điền cao su người Pháp đã phải mời vợ anh làm đấu bếp, nấu các món ăn chiêu đãi khách. Sau ngày có vợ, anh luôn ăn cơm nhà. Cùng món riêu cua, nem rán, tôm tẩm bột... nhưng do chị nấu, anh ăn thấy ngon miệng hơn, tuyệt vời hơn. Anh nghiệm rằng từ ngày ra miền Bắc, rất ít khi anh được thưởng thức món nước chấm hợp khẩu vị như của chị pha chế. Ấy thế mà từ hơn mười năm qua, anh không còn thú vui đó. Trước giờ ăn, khi đã ngồi vào bàn, anh mới biết là cấp dưỡng lo cho anh món ăn gì. Những hôm đi công tác về muộn, anh buộc mình phải nuốt xong suất cơm đã nguội lạnh. Nếu bây giờ anh có gia đình, người vợ mới sẽ lo cho anh cơn dẻo, canh ngọt, sẽ quạt nồng, ấp lạnh cho anh, sẽ chia bùi sẻ ngọt với anh. Không phải ngẫu nhiên mà anh Tư Nam nhắc đến những ngày nằm viện của anh. Cái bệnh hen suyễn quái ác đã hành hạ thể xác anh. Cơn đau làm co rút ruột gan khiến anh ăn không biết ngon, ngủ không đẫy giấc. Đang nửa đêm, khi cơn hen nổi lên, sao anh thèm đôi bàn tay đàn bà vuốt ve, đấm bóp đến thế. Anh không có tà tâm chút nào song anh nghiệm rằng đôi tay của các nữ y tá đều mềm dịu, nhẹ nhàng, mơn trớn dễ làm cơn đau thuyên giảm, mau ru ngủ anh hơn đôi bàn tay thô cứng của cậu công vụ đấm bóp cho anh. Tuy vậy, anh thường cắn răng chịu đau, không dám làm phiền đến các cô y tá vì các cháu đang sức ăn, sức ngủ, các cháu bận trăm công ngàn việc vất vả của gia đình Nếu anh có gia đình, người vợ mới sẽ thức thâu đêm bên anh và anh sẽ không ngần ngại khi yêu cầu chị làm dịu nỗi đau cho mình.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 09:47:49 am
    Gần đây, khi ở cương vị Chánh văn phòng Bộ, anh luôn tiếp khách nước ngoài. Các bạn, nhất là những cán bộ cao cấp người châu Âu, thường nói nửa đùa, nửa thật với anh:
    - Mày trung thành với vợ, tao khâm phục nhưng đã là thằng đàn ông phải cần có đàn bà, con trống tìm đến con mái. Mày có nhân tình không?
    - Không.
    - Mày có đi chơi gái không ?
    Anh Bẩy lắc đầu. Anh bạn người châu âu tuyên bố:
    - Mỗi ngày chúng ta phải ăn mới sống được. Người châu Âu chúng tao khó lòng "nhịn suông" hoặc chịu treo giò một tháng. . Anh Bẩy Đấu hỏi lại:
    - Còn phụ nữ châu Âu thì sao?
    - Cũng vậy thôi ở Việt Nam chúng mày có câu "chồng ăn chả, vợ ăn nem" hoặc câu "Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn. Chính chuyên chả thể sơn son mà thờ" thật là hay. Mày có thích nghe chuyện những chàng trai của chúng tao nhắc nhủ nhau khi có phiếu nghỉ tại nhà an dưỡng trong tay như thế nào không?
    - Cậu kể đi.
    - Anh chàng nào để vợ đi an dưỡng một mình thì ngu hơn con lừa vì lừa cũng không dại dột đem dâng vợ mình cho người khác như anh ta. Trường hợp hai vợ chồng cùng đi an dưỡng thì chàng trai này đúng là con cừu hiến lành, ngoan ngoãn, dễ bảo. Nếu anh đi đến an dưỡng một mình, anh sẽ là con sư tử. Đã là sư tử thì mỗi đêm có thể ngủ với ai đó mà mình thích, ngoài vòng kiểm soát của vợ mình. Hơn mười năm qua, cậu được làm sư tử mà cậu vẫn tự ép mình trong bóng tối thì thật là dại dột.
    Chánh văn phòng Dương Văn Đấu mỉm cười. Anh không định tranh luận đúng, sai, phải, trái với bạn. Trong quan niệm về vợ chồng, về sinh lý, về chung thủy, người châu Âu và châu Á khác hẳn nhau. Để chứng tỏ mình không phải là anh chàng thộn hoặc xuẩn ngốc trong lĩnh vực nam nữ, anh đã kể với bạn:
    - Ở nước tôi có vị vốn nổi tiếng trong hàng ngũ sư tử. Vợ ông ta giận dỗi, la ó, khóc lóc vẫn không làm sao cho ông ta chừa cái khoản gái. Một đêm, sau khi vợ chồng ân ái vợ ông đã âu yếm hỏi chồng: "Anh nói là anh yêu em nhất trên đời này, tại sao anh còn ngủ với người khác?". ông ta trả lời vợ : Em cằn thiết với anh như cơm tẻ , còn họ đối với anh như phở. anh thoảng ăn bữa phở, anh cảm thấy ngon miệng nhưng tuyệt đối phở không thề thay cơm.
    - Hay? Hay tuyệt? "Phở" muôn năm.
    Anh Bẩy xua tay:
    - Các bạn, chuyện của tôi chưa kết thúc. Các bạn có thích nghe đoạn kết không?
    - Có! Cậu kể đi. Này, ở bên châu âu, các cậu có hiểu đặc tính của dê không? Ai lạ gì điều đó. Cứ mỗi buổi sáng, anh chàng dê đực đứng chầu ở cửa ra vào. Bất cứ chị dê cái nào qua mặt dê đực anh ta cũng "xài". Ở Liên Xô cũng có từ "máu dê" để chỉ những ai giống tính dê đực.
    Anh Bẩy Đấu gật gù. Anh đứng dậy chỉ vào bản đồ Hà Nội:
    - Ta cứ tạm gọi nhà vị nọ ở phế này. Lần đó, cánh buôn dê xua vài trăm con dê từ Tam Đảo về , vượt qua cầu Long Biên rất dễ dàng. Không hiểu sao khi bầy dê xuống đến chần cầu đều không chịu đi nữa, dù bị đánh rụng lông, chảy máu. Rất may là một trong số người lái buôn có tài nghe được tiếng nói của loài vật ông này đã nghe lời ca thán của bầy dê đực: Chúng ta đành chết ở đầy thôi. Làm sao chúng ta dám qua phố này khi ông tổ của họ nhà dê là dê cụ đang ở nhà".
    Anh Bẩy Đấu kết luận:
    - Đấy chỉ là dạng tiếu làm mới nhưng là bài học giáo dục cho vị nọ. Vì không thể tự hạ mình ngang loài súc vật - dù được tôn thờ là "dê cụ" - vị nọ đã không dám "ăn phở" nữa.
    Những người bạn châu âu nhún vai, không trả lời Anh Bẩy Đấu vẫn chưa buông tha họ. Anh mở tủ lấy thư vợ, đọc cho họ nghe đoạn chị kể với anh về Tống Trần - Cúc Hoa. Anh phân tích:
    - Người Việt Nam chúng tôi là như thế Tống Trân từ bỏ hai lần làm phò mã, cam chịu lưu đày mười năm để giữ mối tình chung thủy thuở hàn vi với vợ.
    Từ ngày làm giám đốc mỏ than Cẩm Phả, anh Dương Văn Đấu học tiếng Trung Quốc, tiếng Nga. Anh có khả năng đọc, hiểu được các tài liệu kỹ thuật bằng tiếng Nga nhưng chưa đủ khả năng trò chuyện với bạn bằng tiếng nói của Lênin. Anh dùng tiếng Pháp. Các bạn người nước ngoài chăm chú lắng nghe mối tình trong trắng, thơ mộng của đôi trai gái: nàng Cúc Hoa gắng sức làm lụng nuôi chồng ăn học, thi đỗ Trạng nguyên. Các bạn vô cùng thích thú khi nghe đến đoạn nàng công chúa Trung Hoa đã rời bỏ lầu son, gác tía, bí mật theo Tống Trân về Việt Nam để xem mặt kẻ tình địch của nàng. Cúc Hoa làm sao có thề so sánh với nàng công chúa tài đức vẹn toàn, học vấn uyên thâm. Khi Tống Trân phát hiện ra nàng đã tới quê nhà thì việc đã rồi. Lưỡng quốc trạng nguyên không thể xua đuổi nàng, thân gái dặm trường, quay trở lại Bắc Kinh một mình nên đành chấp thuận nàng làm vợ nhưng vấn đế đặt ra là giữa nàng và Cúc Hoa ai sẽ là vợ cả? Hai người đàn bà chấp nhận cùng thi với nhau xem ai tài giỏi hơn sẽ ngồi vào vị trí chính thê. Đề thi mà Tống Trân đưa ra rất oái oăm: Giao cho mỗi nàng một bó mía, một lon gạo, một cái nối, ai nấu cơm chín trước sẽ thắng cuộc. Vì tấm lòng của Tống Trân luôn hướng về Cúc Hoa nên chồng đã "gà" cho người vợ thuở nghèo đói:
      " Vừa ăn vừa nấu mới hay
      Thuở xưa nuôi mẹ, nuôi thầy làm cao
      Cúc Hoa học xược trì cao
      Bấy giờ mới lấy mía vào ngồi ăn.
      Ăn rồi lại nấu dần dần
      Cúc Hoa nấu đòng mới bưng cơm vào
      Trạng nguyên cười nói ngọt ngào:
      "Nào, cơm công chúa khi nào đấng lên?”
      Công chúa bẽn lẽn thưa lên
      Em đâu có dám tranh quyền chính thê.”

    Các bạn nước ngoài vui vẻ tán thưởng cầu chuyện tình đẹp và bảo nhau "rút lui có trật tự". Từ ngày đó không ai đế cập đèn "nhu cầu sinh lý của con người" với anh Đấu. Anh có cách lựa chọn của mình. Anh không a dua với bạn nhưng không có cách gì ngăn cản nổi trào lưu "sấm áo mới" của hầu hết cán bộ miền Nam tập kết. Hôm anh Tư Nam đưa thiếp mời anh dự cưới, anh đã trả lời dứt khoát:
    - Tôi với anh vẫn là bạn nhưng xin anh miễn cho tôi tham dự vào việc mà tôi không đồng tình.
    Anh Tư Nam rầu rĩ:
    - Cậu thông cảm, mình đã già rồi...
    - Xin lỗi. Chủ đế này chúng ta tranh luận quá nhiều rồi. Già hay bệnh tật không phải là yếu tố để tự bào chữa. với tôi tồi luôn luôn giữ trọn tầm trạng "ngày Bắc, đêm Nam" và trên bàn tôi luôn có ảnh gia đình với lời nhắn nhủ: "một vợ, bảy con đang chiến đấu ở miền Nam".
    - Tùy cậu.
    - Một lần nữa mong anh thông cảm về lý do tôi vắng mặt trong hôn lễ lần thứ hai của anh.
    Anh Bẩy Đấu tự xác định "lẽ sống" của mình. Anh nâng niu gìn giữ tình yêu với vợ. Anh luôn tự đòi hỏi mình phải làm sao xứng đáng là người chồng chung thủy, người cha mẫu mực để bảy đứa con noi gương, học tập.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 09:54:21 am
17
    Ba Vĩ buồn thẫn thờ. Mười Tuân, thằng em mà cậu yêu nhất đã lên Sài Gòn với má rồi. Xa em, cậu anh nhớ em da diết. Mười Tuân không chỉ là em ruột mà còn là bạn thân nhất, ý hợp tâm đầu mà cậu có thể thổ lộ mọi điều bí mật riêng của hai đứa, của giạ đình. Làm sao cậu cổ thể bàn chuyện lấy cắp đạn của linh bảo an về tặng cho các chú du kích với đứa bạn khác cùng trường, cùng lớp, cùng lứa tuổi hay với hai đứa em ruột khác là thằng Bẩy Thiện, con út Hiếu. Hai đứa kém cậu những ba tuổi nên cậu không thể đem chuyện người lớn trao đổi với tụi nó. Chỉ có Mười Tuân, cậu mới chỉ cho biết các hầm bí mật của Nội, đưa Mười Tuân gặp các cô, chú cán bộ. Thực ra, Mười Tuân cũng vô cùng quyến luyến anh ruột, đã rủ anh, nài nĩ anh lên Sài Gòn cùng với mình nhưng anh cậu từ chối, Ba Vĩ đã nói rõ với em ruột ba lý do vô cùng xác đáng. Thứ nhất là cậu phải thay ba, má và cả gia đình lo săn sóc Nội. Nội đã già rồi, Nội sẽ rất buồn nếu không còn đứa cháu nào ở cùng nhà. Thứ hai là cậu sắp được kết nạp vào đội du kích xã. Anh trung đội trưởng du kích đã trò chuyện riêng với cậu. Đúng là cậu còn nhỏ quá, mới 12 tuổi, cậu chưa đủ sức mang tiểu liên, ôm bộc phá lao vào đồn giặc nhưng cậu thừa khả năng làm giao liên, làm chiến sĩ trinh sát. Cậu sẽ là đội viên du kích đặc biệt vì em út, ít tuổi nhất đội. Và lý do thứ ba là cậu phải lo cho Bẩy Thiện và út Hiếu. Cậu thương yêu hai đứa không chỉ với tình anh em ruột thịt, mà còn tình yêu thương của kẻ mạnh, đấng nam nhi bênh vực cho kẻ yếu, đặc biệt còn chen lẫn tình mẫu tử. Cậu thay má đùm bọc cho em. Út Hiếu còn trẻ con quá. Tính theo tuổi ta, cậu sinh năm Nhâm Thìn, Mười Tuân tuổi Quý Ty, Bẩy Thiện và út Hiếu cầm tinh con ngựa, tuổi Giáp Ngọ nhưng cậu học hơn hai em tới ba lớp bởi vì cậu sinh năm 1952 còn hai đứa nhỏ chào đời vào tháng giêng năm 1955. Con út nhỏ tinh nghịch lắm, vật nhau với con trai cùng lớp. Nó chưa biết giữ ý. Ở Gò Công, vào những ngày trời mưa, đường lầy lội, bùn ngập quá mắt cá chân. Đi học về, út Hiếu cùng các bạn lội bùn, nắm bùn ném nhau khiến cho quần áo, mặt mũi, tóc tai đứa nào cũng lấm đầy bùn đất. Trông thấy bất cứ cái ao nào, út Hiếu ' cùng các bạn trút bỏ quần áo trên bờ, đuổi nhau chạy xuống ao tắm rối lại tồng ngồng như thế đứng ở bờ giếng giội nước. Bẩy Thiện thường đầu têu cả bọn. Nó lăn xuống bùn, nó lấy bùn đắp lên đầu mình, đầu em gái. Nó cứ ở truồng thoăn thoắt trèo cây hái ổi, khế, bưởi cho em ăn. Hai anh em không ở chung nhà vì má gởi hai đứa ở hai gia đình khác nhau nhưng hai đứa được học chung trường, chung lớp. Không đứa nào dám bắt nạt em gái của Bẩy Thiện. Trong bất cứ trò chơi "bịt mắt bắt dê", "trốn tìm", "nu na, nu nống" hay đá banh, Bẩy Thiện luôn chơi cùng phe với em gái. Đã có lúc cô bác rầy út Hiếu:
    - Mày là con gái, mày phải biết giữ ý.
    - Tóc cháu bẩn, người cháu dính đầy bùn, cháu phải tắm. Bạn bè trong lớp nếu không chơi cùng nhau, tụi nó sẽ bỏ cháu. Anh Bẩy Thiện cùng chơi với cháu.
    - Nhưng không được tắm truồng. Cháu đâu phải con trai. Phải rồi, tao sẽ lên gặp xã trưởng đổi giấy khai sanh cho cháu thành con trai. Cháu ưng tên Dương Quảng Hiếu : hay Dương Ngọ vì mày cầm tinh con ngựa?
    - Má đặt tên cháu là Dương Thị Hiếu không được lót chữ Quảng, chữ Mỹ gì cả. Cháu cầm tinh con ngựa đâu phải cần tên Ngọ? Tụi con gái lớp cháu có đứa nào không tắm truồng đâu?
    Bẩy Thiện cũng cãi hộ em:
    - Tụi cháu đang còn con nít. Nếu con và em út học kém, mấy cô chú rầy la, con nhận tội hết.
    Ba Vĩ bênh các em.Tụi nhỏ tánh hiếu động, ưa chạy nhảy đùa nghịch nhưng nó chưa đánh nhau, cãi lộn với ai. Chúng có rất nhiều bạn thân sẵn sàng giúp đỡ và chúng cũng săn sóc đến các bạn hết sức chu đáo. Tuy mới chín tuổi nhưng con út đã biết nấu cơm, gánh nước và khéo chế biến các món ăn. Không hiểu sao ở vùng quê trời nắng chang chang mà da nó vẫn trắng hồng như trứng gà bóc. Những lúc nó trần truồng cùng tắm với bạn, ai cũng dễ nhận ra nó mũm mĩm, da trắng như bột suốt từ đầu tới chân. Nó không đua đòi ăn diện. Tuy nhiên khi nào nó mặc những bộ đồ do má và mấy chị mua ở Sài Gòn gởi về, trông nó như con búp bê hay cười, hay nói, hay hát. Nội, Ngoại, các cô, các dì, các chú, các dượng đều thương nó, cưng chiều út Hiếu nhất nhà. Út Hiếu được lòng mọi người song người nó thích nhất vẫn là Bẩy Thiện. Anh Bẩy biết chẻ củi, biết gánh nước nhưng không bao giờ anh đi chợ, nấu ăn, rửa bát. Má và các chị cũng gởi quần áo đẹp về cho anh Bẩy nhưng anh chỉ thích diện quần đùi, ở trần. Không bộ quần áo màu trắng nào của anh không có vềt bẩn. Tuy vậy, anh không ốm vặt. Anh Ba Vĩ cưng út Hiếu hơn. Mỗi lần nó lên cơn hen suyễn, nó luôn đòi có anh Ba Vĩ ở bên, vòi vĩnh anh vuốt ngực, vuốt lưng cho nó, ngồi làm đệm cho nó dựa. Ba Vĩ căn dặn Mười Tuân: Tao với mày đã thề trước bàn thờ nguyên soái Trương Công Định. Mày lên đó với má, nếu ở Sài Gòn có đội du kích, mày gởi thư nói cho tao hay. ' - Dạ !
    - Nè, mày chớ có ngu dại mà viết công khai mọi điều trên thư. Vậy anh và em phải có quy ước riêng chỉ hai anh em ta biết với nhau.
    - Anh nhủ em viết như thế nào?
    Ba Vĩ nhíu đôi lông mày. Cậu là anh, cậu khôn hơn, cậu phải bày vẽ cho nó nhưng từ nhỏ cậu chưa bao giờ làm việc này nên cậu lộ vẻ lúng túng. Dù sao, cậu cũng phải gỡ thế kẹt này. Cậu bảo em:
    -  Nếu mày viết: "Hè này, em sẽ về với anh" là tao biết trên Sài Gòn không có du kích.
    - Vậy má, chị Hai, chị Ba của chúng ta làm gì ở Sài Gòn?
    - Tao không biết. Khi nào cần gọi tao lên Sài Gòn, mày cứ viết: "Hè này, anh lên chơi với em".
    - Em rõ rồi, anh Ba.
    Ba Vĩ càng nhớ Mười Tuân, càng dồn tình thương cho Bẩy Thiện, út Hiếu. Cậu yêu thướng hai đứa vô cùng  nhưng không hé lộ chút bí mật nào cho các em. Cũng giống như các anh, các chị, Bẩy Thiện, Út Hiếu hiểu rõ thân phận của mình. Cô cậu không có quyền nhõng nhẽo với ai. Mới hơn hai tuổi, hai đứa đã xa bầu vú mẹ vì má bị bắt đi tù. út Hiếu về làm con nuôi ở với dì Năm là chính nhưng thỉnh thoảng các dì, các em vẫn đón út về nhà mình. Ai cũng thích út. Nó hay líu lô nói chuyện, miệng cười rất có duyên và hình như nó không biết khóc. Thông thường, những đứa trẻ con nhà giàu, con một thường dùng "vũ khí" khóc để làm nũng, vòi vĩnh người lớn chiếu chuộng theo yêu sách không đúng và vô lý của mình. Út Hiếu không muốn khóc và không dám khóc. Mỗi lần cô khóc, người lớn không dỗ cô nín mà còn tỏ vẻ không hài lòng vì cô hư, cô khóc nhè. Đôi khi, có điều ấm ức, út Hiếu chỉ dám phụng phịu đôi chút rồi thổ lộ với anh Bẩy Thiện. Anh ở với cậu mợ Tư. Anh không bao giờ khóc. Hiểu rõ thần phận mình là con nuôi, má ít khi gởi tiền về cho cậu mợ nên Bẩy Thiện tự lo ăn, ngủ, đi học, đi tắm, săn sóc em gái, đến với Nội, Ngoại và anh Ba. Anh Ba Vĩ hỏi em:
    - Hai đứa có thích lên Sài Gòn không?
    Bẩy Thiện, út Hiếu không có gì ràng buộc ở quê như anh Ba Vĩ nên đã trả lời dứt khoát:
    - Nếu má gọi, chúng em lên liền. Tụi bay không chăm học sẽ không theo kịp học sinh ở thành phố đâu.
    - Tụi em cố gắng mà, anh Ba.
    - Má bận công chuyện, ai lo được cho hai đứa?
    - Em đi chợ được, em biết nấu cơm, em tự lo tắm giặt.
    - Ngủ một mình mày có sợ ma không?
    Điều này thì út Hiếu hơi ngán, ngán chút xíu thôi. Ở nhà quê, các mợ, các dì, các cô thích ngủ chung với cô nên cô ít khi phải ngủ riêng. Thỉnh thoảng cô ngủ một mình một giường, cô không hề sợ vì ở giường bên hay ở cùng nhà còn có người lớn khác. Cô không hiểu mình sẽ đối phó ra sao nếu má đi vắng, cô ở nhà có một mình? Cô nghĩ ra cách giải quyết:
    - Anh Bẩy Thiện ngủ chung với em. Nếu má gởi anh Bẩy ở nhà khác, em không lo. Ở Sài Gòn có điện. Em sẽ gài chặt cửa, để đèn sáng.
Ba Vĩ không tính hù dọa em gái. Cậu dặn các em:
    - Hai đứa không được đòi theo má. Tụi bay nhớ má một, má nhớ tụi bay gấp mười lần. Hai đứa phải thương má.
    - Chúng em hứa với anh là không vòi vĩnh má.
    Chợt nhớ ra điều gì, út Hiếu hỏi:
    - Anh Ba nè ?
    - Gì?
    - Rủi má chỉ đưa được một đứa theo má, má hỏi em có thích lên Sài Gòn không, em nói sao?
    Bẩy Thiện lên tiếng:
    - Mày khỏi lo. Tao nhường mày đi theo má.
    Ba Vĩ đứng lặng đi mấy giây. Nếu con nhỏ nói thiệt ước muốn của nó, má sẽ rước nó đi và cậu chỉ còn lại thui thủi một mình ở Gò Công. Thằng Bẩy Thiện không thiệt hạp với cậu. Nó ít thích tâm sự. Nó ham chạy, nhảy, bơi lội, lcó trèo hơn ngồi trò chuyện với anh ruột. Tuy vậy, cậu không xui em nói dối. Cậu trả lời út Hiếu:
    - Mày cứ nói thiệt lòng với má để má quyết định.
    - Dạ.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 09:59:37 am
    Chia tay với hai em, Ba Vĩ quay về ấp Xóm Đình. Cậu luôn tìm cách gần gũi các cô, các chú, các anh ở đội du kích. Cậu chưa được xếp vào loại bằng vai, phải lứa. Các đội viên du kích thường coi cậu là em út, là trẻ con nên hay gọi cẩu là thằng Nhất. Năm 1966 Dương Linh Nhất 14 tuổi Các chú du kích biết cách phân công công tác hợp với tuổi trẻ con của Nhất: ở Gò Công có tên ác ỏn Bẩy Mập. Tên này rất ưa lùng sục và thường khoe khoang "chiến công" diệt cộng sản. Cần phải trừng trị nó, nhưng trị bằng cách nào? Nhất xung phong điều tra, vẽ sơ đồ nhà Bẩy Mập. Việc nấy đối với Nhất khá đơn giản. Nhất học cùng lớp với con Bẩy Mập. Nhất gợi ý khéo để con Bẩy Mập rủ các bạn học về nhà chơi. Trong lúc đá bóng, chơi trốn tên hoặc khi ngồi ăn trái cây, Nhất đều để ý đến đường đi, lại trong nhà. Thằng con Bẩy Mập học rất dốt. Ở lớp, nó luôn nhờ Nhất cho quay cóp bài hoặc kèm cặp, giảng lại bài cho nó . Nó đưa Nhất và các bạn cùng lớp vào từng buồng giới thiệu phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ của ba má nó, của anh em nó. Nhất báo cáo với trung đội trưởng du kích :
    - Thưa chú! Buồng vợ chồng Bẩy Mập có hai cửa, cửa đi ra ngoài sân, cửa vào nhà trong.
    Mỗi lần ra khỏi cửa, nó cài then cửa trong, khóa cửa ngoài:
    - Cháu đã nắm được quy quệt đi lại từng ngày của Bẩy Mập chưa?
    - Chưa.
    - Nếu vạy cháu ráng tìm hiểu chính xác xem bao giờ Bảy Mập ra khỏi nhà, nó thường ăn cơm nhà, ngủ ở gia đình hay la cà ở đâu? 
    Dương Linh Nhất chấp hành mệnh lệnh của đội trưởng đội du kích với vẻ háo hức của người chiến sĩ lần đầu ra trận. Thằng con trai của Bẩy Mập vô tư, hồn nhiên kể về thói quen của ba nó với Nhất. Nhất báo cáo mấy chú:
    - Thằng nầy đi về thất thường lắm, không có giờ giấc. Dù sao, nó cũng có thói quen dậy để tập thể dục từ 5 giờ 30 sáng trong lúc vợ con nó nằm tới 7, 8 giờ mới dậy. Đây là một chi tiết đáng chú ý. Cần diệt nó đúng vào lúc nó tập thể dục, nhưng diệt bằng cách nào Nhất đề nghị: Mấy chú cho cháu trái lựu đạn. Ban đêm, cháu gài vào cửa buồng vợ chồng nó rồi lẻn ra bằng cổng sau. Ý kiến của Dương Linh Nhất khá hay chỉ có mấy trở ngại. Thứ nhất là Nhất chưa biết bắn súng, chưa ném lựu đạn lần nào. Thứ hai là Nhất còn nhỏ, chưa chính thức là đội viên đu kích. Thứ ba là đường rút lui của Nhất. Nếu bị lộ, Nhất lý giải thế nào về việc đem theo trái lựu đạn lọt vào nhà Bẩy Mập lúc nửa đêm? Có lẽ nên cử một du kích gan dạ bám theo Nhất. Anh du kích này sẽ sử dụng súng hoặc dùng mã tấu chém đứt đầu tên Việt gian. Dương Linh Nhất ức quá. Như vậy là mấy chú chưa tin cậu, chê cậu còn nhỏ. Cậu đưa ra lý lẽ:
    - Nhà Bẩy Mập có ba con chó to rất dữ. Những con chó này đã quen cháu, sẽ không sủa khi cháu lọt vào nhà. Mấy chú bày cho cháu cách gài trái. Cháu sẽ gài lựu đạn ở cửa ra vào buồng ngủ vợ chồng Bẩy Mập.
    Ai ngờ cái ý kiến về "ba con chó dữ" của Nhất lại được các chú du kích chấp nhận. Đúng là những người lạ khó lọt qua "cửa ải chó" mà vẫn giữ được bí mật. Vấn đề còn lại chỉ là thời gian hành động và hướng dẫn cho Nhất kỹ thuật gài trái. Trung đội trưởng du kích nhận làm huấn luyện viên, dạy riêng cho Nhất cách sử dụng lựu đạn. Nhất vốn thông minh, ham học và do kỹ thuật gài trái không đến nỗi phức tạp lắm nên cậu nắm biết được rất nhanh. Tuy vậy, chú trung đội trưởng vẫn chưa thật yên tâm về thao tác của Nhất. Chú phải giúp Nhất, tạo thuận lợi để Nhất thoát khỏi nhà Bẩy Mập sớm phút nào, hãy phút ấy. Chú dặn Nhất: Cháu móc trái lựu đạn này vào ổ khóa, dùng dây này buộc vào nắm đấm của cánh cửa. Nhất tươi cười:
    - Cháu rõ rồi. Khi người ở trong nhà mở cửa là chốt an toàn được rút khỏi lựu đạn.
    Ngày hẹn đã tới Như thường lệ, tối bữa đó, mấy đứa bạn cùng lớp lại đến chơi với con Bẩy Mập. Trước khi ra về, Nhất lén rút then chốt cửa sau. Khoảng 11 giờ đêm, cậu quay lại. Đàn chó dữ vẫy đuôi mừng người quen. Nhất đi lên nhà trên, dừng lại trước cửa buồng Bẩy Mập. Sáng hôm sau, cả trường nam tiểu học Gò Công đều nghe con Bẩy Mập tường thuật chi tiết những gì xảy ra:
    - Ba tao dậy ông mặc quần xà lỏn, ở trần, định ra sân tập thể dục. ông mở cửa buồng. Một tiếng kịch. ông nhìn rõ quả lựu đạn rớt xuống. Sợ quá ông không kêu được. ông không kịp đóng cửa. ông nằm rạp xuống chỉ cách trái lựu đạn chừng một mét, nhượng may quá, lựu đạn lép.
    Nhất tiếc quá thế là uổng công, lại mất không trái lựu đạn và liệu mấy chú có còn tin mình nữa không? Có việc cỏn con đó mà làm không xong.
    - Mà đã chắc là lựu đạn lép chưa? Nhất hỏi thằng con Bẩy Mập - Tao cho là ba mấy có phước lớn gặp tên Việt cộng không biết cách gài trái...
    - Bậy nào. Mấy biết cửa buồng ông già tao đó . Cửa mở về phía trong. Khi mở cửa là ông già tao rút chốt, cái mỏ vịt lựu đạn bật lên. Trái lựu đạn rớt xuống đất, bà già còn gỡ được cái chốt trên cửa.
    - Nè, Việt cộng có găm lại mảnh giấy cảnh cáo không? Cứ điều tra chữ viết sẽ tìm ra thủ phạm.
    - Thôi đi mấy cha nội. Bà già tao rầy ông già dữ lắm, ông già hứa hẹn sẽ tìm cách giảng hòa với mấy ông du kích, không bên nào đụng tới bên nào. 
    Bẵng đi một dạo, tới năm 1967, các chú du kích lại giao việc cho Nhất Đây mới đúng là việc Nhất mong ước mấy năm nay, Nhất chỉ lo tập luyện, lo đưa rước cán bộ, đấu tranh chính trì, nên cậu không hào hứng lắm. Chú đội trưởng du kích gặp riêng Nhất:
    - Cháu có biết cơ quan gì ở đầu cầu đúc Lò Hcó không?
    - Dạ, cháu biết. Gò Công được tụi nó chọn làm trụ sở Trung tâm bình định miền Tây. Ở bên trái cầu có lò sát sinh, đó là trụ sở Ty chiêu hồi Gò Công.
    - Cháu có ghét bọn chiêu hồi không?
    - Không hiểu sao cháu ghét tụi nó hơn cả lính ngụy. Nó làm phản, nó còn kêu gọi người khác làm phản theo.
    Chú đội trưởng không phân tích ý kiến của Nhất. Chú quyết định nói với Nhất điều hệ trọng:
    - Cháu có nghe danh tiểu đoàn 216 bộ đội địa phương Gò Công không? Mấy chú được lệnh phối hợp với 216 tiêu diệt trụ sở nầy. Cháu giúp các chú điếu tra địa hình, lực lượng bố phòng của tụi nó.
    - Dạ !
    Dương Linh Nhất đến với những tên chiêu hồi bằng cách nào? Cậu đã 15 tuổi. Những đứa bạn cùng lứa tuổi với cậu làm quen với bọn chiêu hồi dễ dàng bơn cậu. Cậu không thể ngửa tay xin tiền chúng, không thể dắt chúng đi nhậu nhẹt và càng không chịu nhục đưa gái đến cho chúng nên phải tốn công hơn. Cậu rủ các bạn cùng lớp lảng vảng chơi quanh cầu đúc Lò Hcó. Những tên chiêu hồi lân la làm quen với các cậu. Tuy đã được dặn trước về cách ứng xử với những tên tình nguyện làm Việt gian, Nhất phải cố kìm nén mình để không nhăn mặt, cau mày hay bật ra câu chửi những kẻ đầu hàng giặc. Khi tên chiêu hồi đầu tiên tỏ vẻ ân cần, thân thiện khoác vai cậu, cậu đã né tránh bằng lý do "Em bỏ quên vở toán ở trường, em phải về lấy kẻo mất". Cậu quay về nhà tìm gặp đội trưởng đội du kích:
    - Chú Ba? Cháu kinh tởm tụi nó. Cháu không làm sao gần gũi trò chuyện với tụi nó được. Chú cho cháu gói thuốc nổ. Cháu thề sẽ một mất, một còn với tụi nó.
    Ngày đó, không riêng Nhất mà cả chú đội trưởng du kích chưa từng xem phim hay đọc truyện tình báo của ta nên chú không thể giải thích cho cháu về bản lĩnh người cán bộ hoạt động gián điệp trong lòng địch mà chỉ đưa ra câu hỏi:
    - Cháu có biết ba Bẩy Đấu của cháu nguyên là tỉnh ủy viện tỉnh Gò Công không?
    - Chú ở cùng xóm với cháu nên chú rõ tường tận gia đình cháu. Sao chú phải hỏi điều đó? - Theo ý cháu, chú có thích mấy tên chiêu hồi không?
    - Ai mà ưng được mấy tên Việt gian đó, chú?
    - Chú thương cháu, bày khôn cho cháu hay xui dại cháu?
    - Thưa chú dạy khôn cho cháu.
    - Nè, vậy chú muốn cháu chết hay tụi nó chết?
    - Hỏi giỡn cháu hoài. Các chú rất muốn tiêu diệt tụi nó.
    Chú đội trưởng rĩ rả phân tích cho Nhất lý do vì sao cậu phải sắm vai trinh sát. Nhất gật gù tán thưởng. Đúng là các chú du kích bò vào đồn địch ban đêm có khó khăn hơn Nhất. Những tên chiêu hồi ở tứ xứ thích lân la trò chuyện với trẻ con, rủ các học sinh vào thăm nơi ăn, ở của chúng. Chúng mang kẹo, bánh, đường, sữa, cà phê ra chiêu đãi khách, hỏi khách đủ chuyện địa phương, tuyên truyền cho khách về chế độ Việt Nam Cộng hòa tốt đẹp, về tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là một trong vài nguyên thủ quốc gia trên thế giới được tổng thống Mỹ đón tiếp thân tình, nồng nhiệt. . Nhận được báo cáo của Nhất, chú đội trưởng phân tích:
    - Cháu là trinh sát của du kích. Cháu có điều kiện lọt vào đồn địch giữa ban ngày rất dễ dàng để nắm tường tận cách bố phòng của chúng. Cháu cần đóng kịch thiệt giỏi trước mặt bọn chúng. Cháu có làm được không?
    Dương Linh Nhất ngần ngừ giây lát mới đáp ngập ngừng:
    - Dạ, được? Cháu xin cố gắng.
    Đội trưởng chưa hài lòng với cách trả lời thiếu dứt khoát của Nhất nên gợi ý:
    - Chú sẽ giả vờ là chiêu hổi viên. Chú nói chuyện cho cháu xem cháu đối đáp như thế nào, nghe?
    - Dạ !
    - Việt cộng bị đói khổ, cùng cực lắm. Chúng gầy ốm tới mức bảy người lcó một tàu đu đủ vẫn không gầy
    -...             
    - Việt cộng là cộng vợ, cộng chống. Nhiều cặp vợ chồng đều ở chung nhau, khỏng phân biệt vợ người này, chồng người khác.
    -…
    - Việt cộng chỉ có ba cây súng trường làm sao địch nồi với Mỹ. Mỹ là cường quốc trên thế giới có xe tăng, máy bay phản lực, bom nguyên tử.
    Nhất cãi luôn:
    - Việt Nam ta đã bao giờ chịu thua quân xâm lược? Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v... đều thắng quân Tàu. Pháp đã đại bại ở Điện Biên Phủ...
    - Thôi đi ông tướng. Chú đâu cần cháu tranh luận xem ai đúng, sai, phải, trái. Cháu ráng giữ bình tĩnh, điềm nhiên. Nếu nổi nóng là hỏng hết mọi việc.
    - Dạ, cháu rõ rồi. Cháu xin cố gắng tự kiềm chế.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 10:01:00 am
    Nhất không định vào đồn địch một mình. Cậu rủ thêm con Bẩy Mập và sáu bảy đứa học cùng lớp. Các bạn cậu vô tư giỏi đối đáp với tụi nó, dễ dàng chửi cộng sản, lên án quốc gia, hồn nhiên bá vai, bá cổ cùng ăn nhậu với các chiêu hồi viên. Bọn này tưởng công tác vận động dân chúng địa phương có kết quả nên càng hết sức chiều khách, dẫn khách đi thăm doanh trại. Suốt ba buồi, Nhất và các bạn đến cầu đúc Lò Hcó tha thẩn dạo chơi sau giờ tan học. Những tên chiêu hồi chờ đón học sinh đưa các cậu đi khắp nơi. Chiều ngày thứ tư, chúng đưa cho mỗi cậu một tập truyền đơn, dặn:
    - Các em đưa về trường, về gia đình, về địa phương phân phát cho mỗi người. Ai làm tốt sẽ có thưởng. Ai làm bình thường cũng được trả công.
    Thằng con Bẩy Mập đọc oang oang nội dung truyền đơn kêu gọi các cán binh Việt cộng quay về với “chính nghĩa quốc gia”. Các bạn cậu vỗ tay tán thưởng. Nhất cũng vỗ tay theo vì cậu đã thu được thắng lợi. Mấy hôm được đi lại tự do trong đồn, Dương Linh Nhất để ý quan sát. Trong trụ sở, có bốn thằng Mỹ. Lần đầu tiên trong đời, cậu trông thấy Mỹ. Qua lời các chú cán bộ kể và qua những lần nghe đài Hà Nội, Nhất biết gọi đích danh những tên mũi lõ, da trắng, mắt xanh, tóc hung ở đây bằng cái tên "giặc Mỹ xâm lược". Nhất càng quyết tâm muốn tiêu diệt chúng. Cậu nhớ như in đường lối đi lại trong trụ sở, chỗ nào có hầm ngầm, Ổ súng đại liên đặt ởỷ đâu, nơi nào đặt máy điện thoại liên hệ với khắp nơi, v.v... Kế hoạch chiến đấu được thông qua. Chú tiểu đoàn trưởng 216 đặt vấn đề :
    - Đêm tối, đến khu vực lạ, các chú dễ lạc đường. Nhất dẫn đường cho mấy chú được không?
    - Được? Chú cho cháu đi với.
    Đúng 11 giờ khuya, Nhất có mặt ở vị trí tập kết. Cậu dẫn đầu hàng quân, bí mật đột nhập vào trụ sở. Địch không hay biết gì. Nhất vui quá. Cậu định xông vào đồn lưng chú tiểu đoàn trưởng đã nghiêm giọng:
    - Nhiệm vụ của cháu đã hoàn thành. Cháu không có vũ khí cháu không được vào đồn.
    - Thưa chú, cháu sẽ lấy vũ khí địch, đánh địch.
    - Không có ý kiến gì nữa. Đồng chí Nhất. Tôi ra lịnh đổng chí rút về ngay.
    - Rõ.
    Đêm hôm đó, Nhất không sao ngủ được. Sáng hôm sau, cậu lại cùng các bạn học sinh vào trụ sở trung tâm chiêu hồi. Cậu quay về báo cáo rành rọt? Chiếc lô cốt bị sập. Tổng cộng có 17 tên phản động đền tội. Một tuần sau, sau khi nhận bằng khen về thành tích chiến đấu, Dương Linh Nhất được điều động về Sài Gòn. Trong thâm tâm Nhất không muốn xa Nội, xa các chú du kích ấp Xóm Đình, xa hai đứa em ruột Bầy Thiện, út Hiếu, nhưng lòng mong mỏi được học thêm văn hóa, được chiến đấu bên cạnh má và những người thân ruột thịt đã thắng. Cậu lên Sài Gòn không theo lệnh má mà có giấy điều động hẳn hoi. Cậu đã là đội viên du kích, là đoàn viên thanh niên lao động.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 10:03:09 am
18
    Má sáu Hoàn đọc lại lần nữa bức thư chỉ vẻn vẹn một dòng: "Chị đến nhà bác Sáu Ánh nhận 4 tạ trái cây, 3 tạ than". Chị hiểu nội dung những điều trong thư là "hẹn gặp ở điểm A đúng vào 7 giờ ( 4 + 3)". Điểm A là nhà dì Bẩy, em ruột má. Má không hiểu ai đã viết thư nầy: Ba Cánh, Tư Liên, Mười Tuân hoặc một đồng chí nào từ trong căn cứ mới vào thành? Má không biết chắc chỗ ở của các con và các con cũng khó nắm được địa chỉ của má. Muốn gặp má, tụi nó thường gửi thư cho dì Bẩy, dì Bẩy chuyển thư đến dì út Khuê và dì út biết cách trao thư tận tay má.
    Má đến điểm hẹn. Dì Bẩy đưa má vào trong nhà. Chờ cho dì Bẩy ra khỏi, Ba Cánh mới lên tiếng:
    - Má! Con nói điều này làm má đau lòng nhưng con tin má sẽ vượt qua thử thách gay go này. Má à? Nhà con bị bắt cách đây hai ngày.
    - Trời!
    Má Sáu gicó mình xuống ghế. Má muốn khóc to, muốn gào to cho đỡ đau đớn nhưng má phải dằn mình xuống. Tháng Ba Cánh còn đau khổ hơn má nhiều. Nhìn nét mặt nó phờ phạc, mắt trũng sâu, người gầy rạc đi, má thương nó quá. Những giọt nước mắt lăn trẽn gò má má. Kẻ địch thật là tàn bạo. Chỉ trong vòng hơn một năm, tụi nó đã cướp của má hai đứa con. Con Mỹ Hòa bị bắt tháng 5 năm 1964 và Tư Liên lại sa vào tay giặc tháng 10 năm 1965. Ba Cánh ngồi trân trân nhìn má. Anh muốn giữ im lặng để nỗi đau trong lòng má lắng xuống. Má Sáu Hoàn hỏi con:
    - Ai cho con hay tin này. Tin đã chính xác chưa?
    - Thưa má, chính con thấy em Tư bị bắt.
    Má Sáu Hoàn yêu cầu con rể với vẻ bình tĩnh:
    - Kể lại cho má nghe đi con.
    Anh Ba Cánh kể lại chuyện xảy ra. Ngày 10 tháng 3 năm 1965, anh chị hẹn gặp nhau hồi 18 giờ tại căn gác hai đường Bà Hạt. Chị đến điểm hẹn rất đúng giờ, dùng chìa khóa riêng mở cửa buồng. Anh Ba Cánh đứng phía trong Anh hỏi ngay:
    - Anh nghi là có cái đuôi bám theo em. Cái thằng đội mũ phớt, đeo kính râm đó. Đứng trên gác, anh quan sát thấy bộ điệu nó đáng nghi quá.
    - Để em xuống giả bộ mua bánh mì. Nếu nó bám theo em thì anh thoát đi ngay. Em sẽ lựa thế tuột khỏi tay nó.
    - Khoan đã. Em kể vắn tắt ngày hôm nay đã đi những đâu?
    - Từ 7 giờ đến 1 1 giờ 30, em dạy học sở trường tư thục Nguyễn Hoàng ( đường Trần Phú hiện nay). Tan lớp, em đến nhà chị Ba ở đường Nguyễn Cư Trình. Rẽ vào quán ăn cơm xong, em đến thàm một gia đình cơ sở ở đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng), tiếp đó em đạp xe về nhà chú Bẩy ở ngã sáu Chợ Lớn. Trước khi về đây, em đến điểm hẹn ở đường Trần Bình Trọng gặp Ba Đặng.
    - Được rồi. Em đi ngay. Nếu không có động, em cũng không quay lại đây nữa. 8 giờ tối, chúng ta sẽ gặp nhau ở nhà cô Năm.
    Tư Liên dắt xe ra đường. Tên đội mũ phớt bám theo chị ngay. Không nghi ngờ gì nữa, nó đúng là tên chỉ điểm rồi ít nhất từ 11 giờ 30 nó đã bám theo từng bước đi của chị. Nó có một mình nên chưa dám bắt chị và cũng do ý định lần tìm ra chỗ ở của chị để "quăng một mẻ lưới có thể thu về được nhiều cá" nên nó đã kiên nhẫn bám chị đến cùng. Rất may là anh Ba đã phát hiện được nó. Tư Liên biết là có động. Chị muốn bứt nhanh, cắt bằng được "cái đuôi" nhưng không kịp rồi. Một chiếc xe bịt bùng đậu ở góc phố đã nhô ra. Những tên cảnh sát ập đến và chỉ trong một phút, Tư Liên đã bị vứt lên xe. Lẫn trong dòng người, Ba Cánh chứng kiến tận mắt kẻ thù hành hạ vợ Anh rất muốn xông vào cứu chị. Anh đặt tay lên cò khẩu súng lục đang giấu trong túi quần. Chỉ cần nhảy mươi bước là anh sẽ dện gần tụi nó và ít nhất cũng có hai hoặc ba đứa bị đền tội. Rồi sau đó thì sao? Ba Cánh rùng mình. Câu trả lời đã rõ ràng, địch sẽ bắt được anh. Chúng sẽ giải cả hai vợ chồng anh về Tổng nha và xua quân đến bắt những gia đình cơ sở. Không? Không được mê muội để tình cảm thắng lý trí trong lúc nầy. Trên trái đất nầy, không có người đàn ông nào trông thấy kẻ khác bắt trói vợ mình, sắp đem vợ mình tra tấn, tù đầy mà không cứu. Nhưng nếu người đàn ông đó là đảng viên cộng sản? Tất nhiên, anh ta phải đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích riêng. Ba Cánh dứt khoát quay đi. Lúc nãy, khi rời khỏi căn nhà ở đường Bà Hạt anh đã kịp làm một việc có ích là đem theo mọi giấy tờ của chị. Giờ đây, anh phải tranh thủ từng phút với địch, phải báo trước cho các gia đình mà Tư Liên đã đến trong ngày hôm nay kịp cảnh giác, đề phòng. Bắt được Tư Liên, những tên cảnh sát không chậm trễ một phút. Chúng cần lấy khẩu cưng Tư Liên ngay để dễ quăng mẻ lưới lớn. 'Tư Liên bị dẫn lên thang gác. Chị bước chậm lại để anh Ba Cánh có thì giờ thoát thân. Căn nhà nầy có hai cầu thang, nếu biết chị gặp nạn, anh có thể thoát theo đường bí mật. Tư Liên móc túi lấy chìa khóa. Chị đã quyết định nhận mình là chủ căn buồng nầy. Ở thành phố, dù sao chị cũng phải có một chỗ ở chính thức. Bà chủ nhà này chắc chả bị liên quan gì. Có thiếu gì người có nhà cho thuê làm buồng chứa, chỗ gá bạc hoặc nơi tụ tập của bọn đầu trộm, đuôi cướp mà chủ nhà có bị tội lỗi gì đâu! Có luật lệ nào buộc chủ nhà chịu trách nhiệm về nghề nghiệp của người thuê nhà? . Cửa mở. Tụi cảnh sát ập vào. Trong cái áo ngoài chị vắt ở đầu giường, không chỉ tìm thấy cái ví tiền, bên trong có vài trăm bạc. Đồ đạc trong nhà thật . đơn sơ  nên kẻ địch chả cần lục lọi gì lâu. Chúng hỏi chị:
    - Chồng mấy, thằng Ba Cánh đâu?
    - Tôi không biết.
    - Đ.m. Kỳ quá bà nội. Vợ lại không biết chỗ của chồng
    - Đã từ lâu tôi không gặp anh
    Tên cảnh sát rít lên:
    - Mày định chối à? Tao sẽ có cách bắt mày phải khai ra sự thật. Nó đấm, đá Tư Liên. Chị không đau lắm nhưng chị gào to khóc rống lên để bà con căm thừ giặc và để báo động cho các đồng chí biết là chị đã bị bắt. Ba Cánh chỉ kể được với má như vậy. Anh không biết gì hơn nữa. Từ sau hôm Tư Liên bị bắt, anh không có cách nào liên hệ với chị. Anh nêu ý kiến với má một cách dè dặt:
    - Con tin là nhà con sẽ không khai báo gì với địch. Dù sao, ta vẫn phải cảnh giác. Má cần báo cho các cơ sở không? Má có cách nào liên hệ với nhà con không?
    Má Sáu Hoàn hiểu lòng con rể. Má muốn an ủi anh, tìm lời khuyên giải để san vơi khổ đau cho anh nhưng chính má cũng đang đau khổ xé ruột, xé gan. Má chỉ còn biết bộc lộ nỗi lòng mình:
    - Má rất tin vợ con. Tư Liên biết mọi cơ sở bí mệt của má. Không khi nào con nhỏ phản lại má nó, chống nó và lý tưởng của nó. Con cứ yên tâm. Để thủng thẳng má sẽ nhờ người liên hệ với vợ con.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 01 Tháng Sáu, 2010, 10:05:22 am
    Vào giờ này, trong trại giam ở Tổng nha cảnh sát, Tư Liên choàng tỉnh. Chị cựa mình. Toàn thân chị ê ẩm. Chị đảo mắt nhìn lên trần nhà. Đây là đâu nhỉ. À xà lim. Xà lim là như thế nầy đây: Một căn phòng hẹp, chỉ kê vừa chiếc giường... xi măng, chiếc cùm sắt ở dưới chân, sợi xích sắt ở trên đầu. Chị chưa bị khóa tay, cùm chân. Vì sao nhỉ? Có thể vì chị ốm yếu quá và cũng có khả năng chúng còn muốn giở trò nhân đạo với chị. Chị nhớ đến trận đòn chị vừa chịu đựng. Tụi cảnh sát cầm hai chân dìm cả người chị trong thùng nước bẩn. Chị vùng vẫy, sặc sụa. Cho đến lúc chị uống no nước, sắp ngất xỉu, chúng mới kéo chị lên. Chúng đặt chị nằm thẳng đơ, hỏi những câu liên quan đến công tác của chỉ. Sau mỗi lần chị lắc đầu hay trả lời không biết, những tên cảnh sát lại thay nhau dẫm lên bụng làm cho nước bẩn, máu và cả mật xanh, mật vàng ộc ra đằng miệng, đằng mũi, thành ba tia nước vọt bắn lên cao. Chỉ băn khoăn lấm. Tại sao tụi nó biết về chị tường tận như vậy? Chúng biết chị là vợ Ba Cánh, Chánh trị viên ban quân sự thành đoàn, chị vào Đảng năm 1961, hiện tham gia Ban chấp hành thành đoàn, lãnh đạo phong trào. Chị không khai với địch nửa lời. Bất cứ câu hỏi nào địch nêu ra, chị đều trả lời theo một điệp khúc "không biết" tuy rằng sau hai tiếng "không biết" chị thết ra là một trận đòn giáng xuống người chị. Chị cảm thấy mệt mỏi, toàn thân rã rời và quặn đau trong bụng. Có lẽ chị bị động thai? Những bàn chân hộ pháp kia dẫm lên, không hiểu có làm cho đứa con bị chết trong bụng chị không" Liệu chị có hư thai không" Có nên báo cho chúng biết là mình đang mang bầu thông) Báo để làm gì? Để cầu xin lòng thương hại của quỷ dừ à? Không đời nào Chị sẽ im lặng, cắn răng chịu đựng, không để cho kẻ địch nắm được điểm yếu của mình. Chị thầm phục anh. Trên thực tế, chị hoạt động ở nội thành lâu hơn anh, tại sao chị vấp phải sơ hở để khi anh phát hiện, chị mới nhận ra, nhưng đã muộn rồi. Chắc anh lo cho chị lắm vì anh biết chị có thai. Năm 1964, chị sinh con trai đầu lòng. Anh đặt tên con là Cánh. Chị đem con về quê chồng gửi. Biết anh quá ham con, chị muốn về Cần Thơ, đón bé Cánh lên gửi ở nhà quen để anh có thể sớm tối đi về gặp con, song anh không chịu. Anh an ủi chị:
    - Trong cuộc đời người cán bộ hoạt động trong lòng địch, phụ nữ cực hơn nam giới vì còn phải bụng mang dạ chửa. Thôi, đã trót có mang rồi, em ráng sinh cho anh đứa con gái. Con trai của chúng ta tên là Cánh. Theo thỏa thuận chung, anh lấy bí danh của anh đặt tên cho con. Nếu đẻ con gái, em đặt tên con là Liên, bí danh của em.
    Chị trêu anh:
    - Nếu em lại đẻ con trai?
    Anh cười xòa:
    - Cũng tên Liên. Nhà ta sẽ có hai Cánh, hai Liên. Liên má, Liên con.
Bây giờ chị đang động thai. Làm cách nào giữ lại được đứa con? Biết tìm đâu ra thuốc dưỡng thai ở giữa bốn bức tường xung quanh toàn bọn sói lang nẩy. Có tiếng động phía ngoài xà lim. Trời đã sáng rõ. Một đêm khủng khiếp trôi qua rồi. Cửa xà lim mở. Tụi cảnh sát áp giải đến một người tù. Anh ta phờ phạc, đờ đẫn, trông như người mất hồn. Không dám nhìn thẳng vào mặt chi, anh ta lí nhí trong cổ họng:
    - Chị Tư! Tôi bị tra tấn dữ quá, tôi mới phải khai ra chị. Họ biết tất cả rồi. Chị nhận đi cho khỏi khổ.
    Tư Liên đã hiểu tất cả lý do vì sao chị bị bắt. Chị dồn sức thét lên một câu:
    - Sáu Hinh, tao khinh mày.
    Chị ngã lăn ra ngất lịm. Chừng một giờ sau, chị mới thoát khỏi cơn mê. Câu hỏi đầu tiên đến với chị là lúc nãy mình nói câu đó với Sáu Hinh có đúng không? Như vậy là chị công nhận có quen biết Sáu Hinh và gián tiếp thừa nhận những điều Sáu Hinh khai là đúng. Chị có bị khiêu khích không Không. Chúng nó biết chị là giáo viên trường tư thục Nguyễn Hoàng thì việc chị và thầy giáo Sáu Hỉnh quen nhau đâu phải là chuyện lạ. Chỉ có điều chị không thừa nhận bất cứ điều gì Sáu Hinh nói về chị. Sáu Hinh không giấu giếm kẻ thù điều gì. Anh ta đã khai về bản thân mình đầy đủ như hồ sơ lý lịch cán bộ nộp cho cơ quan tổ chức thành đoàn. Anh ta kể về chị khá tỉ mỉ, từ chuyện quê ở Gò Công, có ba tập kết ra Bắc (anh ta không biết tên ba), có má đang làm cán bộ trong chiến khu, có chồng là cán bộ lãnh đạo lực lượng biệt động thành đoàn tên là Lê Chân tức Ba Cánh. Để cho địch tin mình, anh ta dẫn chứng là mình đã dự với Tư Liên bao nhiêu cuộc họp, Tư Liên được kết nạp vào Đảng ngày nào, được chỉ định vào Ban chấp hành theo quyết định số bao nhiêu, do ai ký, ký ngày nào, v.v... . Để thuyết phục chị "khai báo thành khẩn", kẻ địch cho chị xem lời khai của Sáu Hinh. Sáu Hinh nhận mình ở trong ban cán sự nhưng anh ta không nắm tổ chức, không rõ các cơ sở ở từng trường nhử chị. Chị phủ nhận mọi điếu Sáu Hinh buộc tội. Chị không khai cho ai cả. Tên Nguyễn Bé, phó ban thẩm vấn của Tổng nha cảnh sát làm bộ ái ngại cho chị:
    - Chị có trình độ văn hóa cao, hình thức khá, tại sao không kiếm được ông chồng cỡ bộ trưởng, thứ trưởng hoặc sĩ quan cấp tá? Mỗi tháng anh Ba Chân đưa chị bao nhiêu tiến, anh có nuôi nổi chị không?
    Khi biết chị có thai, tên Nguyễn Bé lộ vẻ rầu ri:
    - Xin lỗi chị Tư. Tụi em út của tôi không hay chị mang bầu. Kỳ quá, sao chị không nói chuyện đó với tôi. Nếu xảy ra chuyện gì, tôi ân hận lắm?
    Mặc cho tên Bé lải nhải, chị không khai với địch lời nào. Các nhà trí thức Sài Gòn đang bị giam lỏng ở Tổng nha cảnh sát như luật sư Nguyễn Long, bà Ngô Bá Thành... lên tiếng phản đối việc bắt chị thiếu căn cứ. Chính Sáu Hinh, sau khi lãnh án 20 năm khổ sai đã lên tiếng phản cung những điều đã nói về chị. Trong một lần gặp riêng chị, Sáu Hinh đã thổ lộ:
    - Chị chửi tôi là đáng lắm. Tôi hèn quá, không xứng đáng là đồng chí của chị. Tôi sẽ chuộc lại lỗi lầm của mình bằng cách phản cung.
    Nhờ có quần chúng đấu tranh và không thu được chứng cớ gì kẻ địch chỉ có thể tuyên án Tư Liên một năm tù giam. Tư Liên không liên lạc với gia đình. Chị cũng không có ý định nhắn tin cho cô Năm. Hãy ráng chịu đựng, cắt được mọi đầu mối liên quan tới mình, bảo đảm an toàn cho má, anh Ba Cánh và các cơ sở. Có điều khó khăn là chị làm cách nào chuẩn bị cho ngày sinh' Các bạn tù là phụ nữ thông cảm với nỗi khổ tâm của chị. Bất kỳ ai có quà bánh hoặc đồ tiếp tế của gia đình đều có nhã ý để dành phần và tìm cách đưa tận tay bà bầu. Các chị phân công nhau người may áo, người lo tã lót, người gửi mua găng tay, bít tất cho cháu nhỏ. Các chị dứt khoát không đồng ý đặt tên cháu là Liên mặc dù đã nghe Tư Liên kể về nguyện vọng của người cha. Các chị đề xuất hàng loạt tên và cuối cùng mọi người đều nhất trí nếu sinh con trai đặt tên là Vũ, sinh con gái gọi là Tranh. Ở bên ngoài đang đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, chị em đang gởi gấm nỗi lòng mình vào việc đặt tên đứa nhỏ. Tư Liên không thể phản đối.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 02 Tháng Sáu, 2010, 12:55:14 pm
     Vào một ngày đầu tháng 10 năm 1965, Tư Liên trở dạ. Các chị phụ nữ làm reo, buộc địch đưa người mẹ đến nhà thương. Không còn cách nào khác kẻ địch buộc phải đưa chị vào căn buồng có chắn song sắt ở nhà thương Chợ Quán. Không có bác sĩ, y tá nào khám cho chị. Chị đau quặn lên và đẻ rớt đứa con gái tại cầu vệ sinh. Một tù nhân người Huế cũng được địch đưa lên đây đỡ đẻ cho chị. Cháu Lê Thị Tranh nhỏ nhoi, chưa nặng đủ 2 kilôgam.
    Đêm hôm đó, chị ôm con vào lòng. Chị đảo mắt quan sát địa hình. Chị định bỏ con lại để vượt ngục. Căn cứ vào lời buộc tội, cô giáo Huỳnh Thị Hai (lời khai của chị với địch trong tù) chỉ còn vài tháng nữa sẽ mãn hạn tù nhưng ai tin được chúng nó? Có hoàn cảnh vượt ngục mà không thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù thực là điều xuẩn ngốc. Tuy vậy chị vẫn day dứt vì đứa con. Chị có nên gửi gấm người tù đã đỡ đẻ cho mình không? Hãy khoan đã. Việc trước tiên là hãy điều tra đường đi lối lại trong nhà thương. Nếu có thể trốn thoát vào ban ngày theo thế hợp pháp hoặc bí mật lủi ra đi vào ban đêm chị sẽ đề cập tới vấn đề này với chị Hai Huế.
    Chị đi đi, lại lại trong căn phòng hẹp chỉ kê được chiếc giường sắt. Dù sao, đây cũng dễ thở hơn nằm trong xà lim ở trại giam, tuy ở cửa phòng chị luôn có tên cảnh sát ngồi gác nhưng chị thiếu gì cách để xin ra ngoài.
    - Thưa anh Hai? Anh trông giùm con nhỏ cho phép em đi cầu ít phút..
    - Thưa ngài cảnh sát? Xin phép ngài cho tôi gọi cô Hai Huế. Con nhỏ nhà tôi bị tức thở.
    Chị phải để con lại làm vật bảo đảm để chị trốn khỏi đấy Chỉ cần xuống được cầu thang, trà trộn trong dòng người ra vào nhà thương là chị thoát khỏi cảnh tù ngục về với má với chồng, với các đồng chí. Chị có nên bỏ con lại không? Con nhỏ ốm nhom, gầy nhách, nếu chị để con lại, ai sẽ săn sóc cho nó? Chị không có cách gì ôm con theo. Tên cảnh sát dứt khoát không cho chị ra khỏi phòng với đứa con bồng trên tay.
    "Vượt ngục"! Hai tiếng đó cứ lởn vởn trong đầu óc chị. Đang ở nhà thương, nếu không vượt ngục, chị không còn cơ hội nữa. Chị phải tính sao đẩy. Có được thời cơ thoát khỏi cảnh tù ngục mà chị không tận dụng thì thật đáng trách. Liệu các đồng chí có phê phán chị không Chị bị tòa án tuyên phạt một năm tù giam nhưng chị không tin vào bản án của tụi nó. Mỹ Hòa đâu có "tội" bằng chị? Khi bị bắt Mỹ Hòa chỉ có trong tay mấy trăm tờ truyền đơn còn chị đang bị liệt vào những phần tử Việt cộng nguy hiểm, chắc kẻ thù không dễ dàng thả chị. Chị sẽ ở tù bao năm nữa? Ôi, nếu chị Hai Huế có cách gì đó đưa bé Tranh rời khỏi nhà thương giúp chị? Chị không có gan bỏ rơi đứa con gái mới được 8 ngày tuổi. Chị ôm con vào lòng, áp miệng con vào vú mình. Con bé mút chùn chụt nhưng rồi nó nhả vú mẹ, khóc. Trời ơi? Làm cách nào có sữa cho con bú đây. Chị cố nắn bóp đôi vú mình. Không giọt sữa mẹ nào chảy xuống miệng con "Con ơi, má đâu muốn thế này". Chị ôm con, hai hàng nước mắt rơi lã chã. Từ ngày bị bắt, chị chưa khóc bao giờ. Trước kẻ thù, chị không có quyền để lộ tâm trạng mềm yếu. Má và Mỹ Hòa đã giừ vững khí tiết khi ở tù, chị phải làm được như thế. Chị nhớ đến lời giao ước với anh đêm tân hôn. Không rõ chồng chị lúc này đang ở đâu, làm gì? Liệu anh có đồng ý đặt tên con gái là Tranh không? Chị có biết bao người thân đang ở Sài Gòn: Má chị, chồng chị, em ruột chị, dì ruột chị, v.v... mà chị không thể báo cho bất cứ ai về đứa con của mình. Nếu bây giờ chị ở ngoài đời thì sao? Chắc chắn mọi người thân của chị sẽ nấu cháo chân giò sẽ ép chị ăn ba bữa, năm bữa mỗi ngày để có sữa cho con bú. Còn ở đây? Với suất cơm gạo hẩm của tù, làm sao bù đắp nổi lượng máu chị mất đi khi sinh nở. Từ bảy tháng qua, trong lúc bụng mang dạ chửa, chị đã nếm đủ ngón đòn thù khiến sức lực chị giảm sút rõ rệt, chị mất máu nhiều, gầy yếu, trọng lượng cơ thể chỉ còn vẻn vẹn ba mươi hai kilôgam (32kg), chị làm sao nuôi nổi đứa con chỉ nặng một kilôgam chín trăm gam (1kg 900) của chị? Tại sao chị lại chửa, đẻ trong lúc này? Chị đâu ngờ mình lại có mang quá sớm như vậy? Chị mang "ghen" của má sanh năm một. Nếu chị có tới bảy đứa con như má thì sao? Chả lẽ chị sẽ gửi mỗi địa phương, mỗi gia đình một đứa" Hồi ba rời Gò Công đi tập kết, chị đã 13 tuổi, còn bây giờ con đầu lòng của chị mới hơn một tuổi, còn bé Tranh mới sanh được 8 ngày. Bé phải ăn sữa bò ngay từ ngày đầu lọt lòng mẹ. Các chị cùng ở tù đã lo cho chị hết sức chu đáo. Chị ứa nước mắt đưa hai tay đỡ lon sữa bò của bạn trao cho. Ở trong tù, có ai không cực khổ, có tù nhân nào không cần tẩm bổ? Những chị được nhận quà tiếp tế của gia đình đã lo đủ thứ cho đứa bé chào đời. Đây là quần áo của bé Tranh. Mấy má, mấy chị đâu có tiền mua vải mới. Cô Tư cho bé cái áo hoa của mình. Không có kéo cắt, mấy chị phải dùng con dao cùn dọc ra từng mảnh nhỏ rồi khâu lại thành áo, thành quần cho bé. Bé Tranh cũng có hơn mười cái tã. Bất cứ ai có mảnh vải gì vuông, chéo... đều tặng Tư Liên làm đồ lót cho con. Đây là cái khăn rằn cũ của má Tám. Má dọc khăn thành ba mảnh tã cho cháu ngoại. Dì Chín có "sáng kiến" cắt hai bên ống quần dài của mình cho cháu với lý do: "ở trong tù, em mặc quần xà lỏn càng mát". Chị thay tã cho con gái. Chao ôi, con chị vừa ra chào đời đã được bọc bằng những mảnh vải thô, cũ, xấu với nhiều hình thù khác nhau nhưng là cả một tình thương bao la của những đồng chí cùng chiến tuyến. Bé Tranh không còn là của riêng chị mà là của tất cả các má, các dì, các chị, các em cùng chung xà lim với chị. Nếu chị bỏ bé Tranh lại, chị thoát một mình, những bạn tù có đồng tình với chị không? Chị sẽ giải thích ra sao để má chị, chồng chị hiểu về trường hợp không "đem con bỏ chợ" mà là “quẳng con lại nhà thương” của chị? Không? Con ơi! Dứt khoát má không bỏ con. Dù cực khổ tới mấy, má cũng ráng nuôi con. Má ái ngại cho con quá! Con nhận đòn thù khi con đang nằm trong bụng má. Chả rõ lúc tụi nó bắt má uống đầy bụng nước bẩn, nước xà phòng rồi dẫm mạnh lên bụng má làm cho ba tia nước phọt ra từ miệng và hai lỗ mũi của má, con có bị ngợp thở không, có bị đau tới thể xác không? Còn má, má rất thương con. Má không nghĩ tới tính mạng của má mà chỉ lo tới con, tới cái bào thai trong bụng má. Thông thường, bất cứ người đàn bà có thai nào đểu lo tẩm bổ cho mình và cho thai nhi nhưng má không có điều kiện tối thiểu đó. Mỗi bữa, má cố quết hết suất cơm tù gạo hẩm nên sức má suy kiệt dần. Ngày bị bắt, má còn có máu mặt, nặng 42 kilôgam còn bây giờ má chỉ là bộ da bọc xương biết di động, cân được đứng 32 kilôgam một lạng. Nếu má bổng con trên tay, hai má con ta, hai con người sẽ thu được kết quả: đúng 34 kilôgam cân nặng. Má lo cho tương lai của con má. Con bị suy dinh dưỡng ngay từ những ngày đang nằm trong bụng mẹ , sau khi chào đời và con phải chịu đựng bao lâu nữa? Lớn lên, con sẽ là đứa trẻ bệnh hoạn, gầy còm, ốm yếu, con ehớ trách má nghe con. Lẽ ra má không nên mang thai con nữa nhưng má biết làm sao để tránh không có thai? Má đã chịu vô vàn cực khổ khi sanh anh trai con. Má đáu có ngờ má lại sanh con trong điều kiện tồi tệ hơn. Má đủ sữa cho anh con bú, còn con, con không được nếm giọt sữa mẹ nào. Sức má quá kiệt rồi. Má đang nằm nhà thương nhưng thuốc men không có, cần bát cháo thay suất cơm gạo hẩm cũng không được. Trên đời này, không có người đàn bà nào khi sinh nở lại ao ước có một người thân ở gần như má. Má cần một câu động viên an ủi nhưng các bác sĩ, y tá chỉ im lặng làm phận sự của mình dưới họng súng kiểm soát của cảnh sát. Má sẽ vượt qua được tất cả. Khì làm đám cưới với ba con, má đã lường trước mọi chuyện xảy ra. Đây là lẽ sống của má. Má tự nguyện đi theo con đường mà ông ngoại, bà ngoại con và ba, má đã chọn. Má không oán trách gì. Má chỉ cần con ngoan, con cùng chịu đựng cơ cực với má. Tư Liên không nghĩ tới vượt ngục nữa. Chị quyết định ôm con đi ngủ sớm. Bé Tranh đã sang ngày làm người thứ chín rồi nên ngày tụi nó quẳng chỉ và con chị quay trở lại xà lim không còn xa nữa. Chị phải tranh thủ "hưởng thụ". Dù sao, ở nhà thương, cuộc sống của má con chị cũng "đế vương" hơn ở xà lim. Ở xà lim luôn ồn ào, ngột ngạt, không khí luôn hầm hập hơi nóng của thời tiết, mùi mồ hôi người lâu không được tắm, kèm theo mùi phân, nước giải và đàn ruồi, nhặng, rệp quấy rầy. Tư Liên đang vào giấc ngủ ngon bỗng nghe văng vẳng tiếng gọi thân thương:
    - Mỹ Lê ! Mỹ Lê con? Dậy đi!
    Tư Liên mở mắt. Giây phút đầu chị không nhận ra ngay người mặc đồng phục y tá đứng trước mình là ai nhưng rồi chị choàng dậy: "Dì Bẩy Sao dì lại vào được đây? Dì ơi!". Chị ôm lấy dì ruột khóc tức tưởi. Chị muốn thổ lộ mọi nỗi khổ cực mà chì đang phải gồng thân hình mảnh mai của mình gánh chịu với bà dì ruột của mình song chị tự kìm nén được. Đừng làm cho những người thân ở ngoài đời lo lắng về mình. Chị chỉ vào bé Tranh khoe:
    - Cháu của Ngoại đây. Nó giống má hay giống ba nhiều hơn, thưa dì?
    Dì Bẩy ái ngại nhìn Tư Liên. Dù nó cố làm vẻ tươi cười, nó nói luôn miệng nhưng nó giấu làm sao nước da xanh bủng và khuôn mặt chỉ còn xương dính da của nó? Dì đã làm mẹ từ gần hai chục năm qua nên thoáng đưa mắt dì đã nhận ra con bé còi xương, suy dinh dưỡng đang thiêm thiếp ngủ song dì cố giữ nét mặt tươi cười, cúi xuống thơm vào đôi má nhăn nhcó của cháu, nhận xét:
    - Con nhỏ giống ba nó nhiều hơn. "Con gái giống cha giàu ba họ" nay mai mày sẽ được nhờ con. Mày cần gì không?
    Biết trả lời với dì Bẩy như thế nào đẩy. Chị cần nhiều thứ lắm, ở trong tù, người tù thiếu từ cái kim, sợi chỉ đến viên thuốn, cái kẹo và lớn hơn nữa là bộ quần áo, hộp sữa, củ sâm... nhưng nói với dì để làm gì? Tốt nhất là nên hỏi thăm về các người thân, về lý do lọt được vào nhà thương lúc nửa đêm. Dì Bẩy cho biết:
    - Dì quen con bồ của tên cảnh sát đang ngồi gác ngoài cửa phòng cháu. Con nhỏ nói với người yêu thu xếp cho dì. Dì cũng dùng tiền lo lót mượn được đồng phục của cô y tá trực để cô ta lâm ngơ cho dì vào thăm cháu. Má cháu khỏe. Hồi này, bà lo đưa mìn định hướng cho chồng cháu. Tư Linh và Mười Tuân ngoan, khỏe và học giỏi. Tụi nó đòi theo dì. Dì lo cho cháu quá!
    Tư Liên cố nở nụ cười:
    - Cháu đã sanh con. Má con cháu đã "mẹ tròn, con vuông". Mấy má, mấy chị ở trong xà lim bắt con đặt tên cháu là Tranh. Bé Tranh không quấy má, ngủ suốt ngày.
    - Mày tính đem con nhỏ vô tù tiếp hay gởi ra ngoài? Dì Bẩy, dượng Bẩy hứa sẽ nuôi con nhỏ cho mày.
    - Thưa dì Bẩy? Nếu con ưng ý, dì đem bé Trang khỏi nhà thương bằng cách nào?
    - Ôi chuyện đó tao lo được? Tao làm tờ cớ (đơn) gửi cho tụi nó đón bé Tranh về. Nếu không được thì tối mai, tao mang cái giỏ (làn) bự, tao để con nhỏ nằm trong đó rồi bí mật đưa khỏi đây.
    - Rủi cháu nó khóc thì sao? Dì sẽ bị lộ, bị bắt. Tao có gan làm, tao có gan chịu. Tao xem tuồng tao nhớ cái tích bà thứ phi sanh hoàng tử. Bà chánh hậu lén bắt hoàng tử, thay vào đó con mèo chết để lừa vua. Cô thị tỳ đã đặt hoàng tử nằm trong làn, lẻn đưa ra khỏi cung. Tao là dì ruột mày, tao đâu chịu thua kém người xưa.
    - Dì để con tính. Dì bàn với má con xem má quyết định như thế nào?
    Có tiếng gõ cửa. Dì Bầy dúi vào tay cháu gái nấm tiến:
    - Mày cầm lấy. Hết giờ vào thăm rồi, dì phải về đây.
    - Con đâu cần tiền, thưa dì. Tụi nó khám thấy sẽ tịch thu hết.
    - Ơ hay, cái con này. Mày cứ coi đây như tài liệu mật, mày sẽ có cách cất giấu. Mày đừng ra mặt mà nên nhờ mấy má gởi để tụi giám thị mua hàng giúp cho hai má con.
    - Dạ, con cám ơn dì.
    - Tao về. Tối mai tao lại tới.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 02 Tháng Sáu, 2010, 12:58:26 pm
     Tiễn dì Bẩy, Tư Liên cảm thấy khỏe khoắn như được uống liều thuốc bổ. Dì Bẩy thật tài tình, dì vào cửa nào cũng lọt. Chị đắn đo về số phận bé Tranh. Chị không thể chấp nhận phương án một do dì đưa ra. Tụi nó sẽ không đón nhận lá đơn cầu xin của dì mà sẽ gọi bà và má bé Tranh tới đồn cảnh sát để hạch họe rồi buộc phải ký hàng loạt đơn bảo lãnh cùng ghi cảm tưởng tri ân tụi nó. Phương án hai chắc dễ thực hiện hơn vì bé Tranh không hay khóc và dì Bẩy đã "mua" được tên cảnh sát và cô y tá trực. Việc còn lại là lời lý giải của chị về chuyện mất con như thế nào để tụi nó chấp nhận được và các má, các chị ở cùng xà lim đồng tình. Thôi, mọi việc sẽ do má quyết định. Má sẽ cân nhắc, sẽ bày cho chị hành động như thế nào là tốt nhất. Trước mắt, chị phải nghĩ cách giấu tiền dì Bẩy mới đưa cho. Chị có cách rồi. Chị để tiền giữa hai lớp bông gạc dùng làm đồ lót cho bé Tranh. Chiều hôm sau, trong lúc chị nóng lòng chờ đợi cuộc gặp mặt với dì Bẩy để quyết định về tương lai của con gái chị thì chiếc xe bịt bùng xịch đỗ. Tên cảnh sát hất hàm ra lệnh:
    - Đi bà nội Bà "được" xuất viện. Chị ngao ngán quá nhưng không còn cách nào khác được. Chị ôm bé Tranh vào lòng, tay xách giỏ đựng tã lót, bên trên có miếng gạc đựng tiền, bên ngoài dính đầy phân. Tên cảnh sát một tay bịt mũi, bảo chị:
    - Vứt cái của nợ này vào sọt rác đi mày. Dơ quá?
    - Thầy thông cảm, cháu nó mới bậy ra, tôi chưa kịp giặt. Thầy yên trí.
    Tư Liên lấy tã sạch bọc của dơ dáy vào rồi để xuống đáy giỏ Mười lăm phút sau, cô ôm con vào trại giam. Các bạn tù đón mẹ con cô bằng nét mặt tươi rói, niềm nở, hồ hởi. Có lẽ những người thân ruột thịt đón con, đón cháu từ nhà hộ sinh về cũng không thể nồng nhiệt, thân tình hơn được Má Tư, già nhất hội, thay mặt chị em bồng cháu ngoại. Bé Tranh được đặt lên võng. Võng là chiếc chăn mỏng được luồn dây vào hai đầu, có hai cái móc móc vào thành tường. Ngoại Tư giải thích:
    - Bé Tranh là con chung, cháu chung của chúng ta, chỗ nào mát nhất, thoáng nhất trong trại giam, ta đem võng cháu tới.
    Ai được gia đình thăm nuôi có thức ăn ngon nhất đều dành phần cho má con cháu Tranh. Tư Liên về chỗ nằm của mình. ôi. Có bao nhiêu quà cho má con chị. Đây cái mũ, đôi tất, chiếc khăn mùi xoa, cái silíp cho con gái chị. Đây là hộp sữa, eân đường, củ sâm, cái núm vú cao su... Mỗi chị, mỗi má đều tự may vá hoặc chi những đồng tiền dành dụm ít ỏi của mình gởi mua món quà có ý nghĩa và rất cần thiết. cho người mới ở cữ. Đúng là một miếng khi đói bằng cả gói khi no, tình thương bao lạ này, má con Tư Liến sẽ suốt đời không thể quên nổi. Má Tư ngọt ngào hỏi "con gái":
    - Mày không có sữa, phải không Tư?
    - Dạ . Con nhỏ này là con dạ . Năm ngoái con sanh con so con dư sữa cho cháu bú!
    - Tụi nó tra tấn mày dã man như vậy mà mày sanh con an toàn là tụi tao mừng rồi. Tao có bảy mặt con rồi, tao sẽ trông coi bé Tranh giúp mày.
    - Con cám ơn các má, các chị, các dì.
    Từ hôm đó, bé Tranh là hòn ngọc, là nguồn vui, là nỗi quan tâm đặc biệt của mọi tù nhân nữ. Món tiền của dì Bẩy trao đã thành cái quỹ bí mật riêng của bé Tranh. Bé vẫn không được bú sữa. mẹ. Ngoài sữa bò, má Tư cho cháu uống cháo đặc và đôi khi còn nhá cơm nát mớm cho cháu. Khi bé Tranh gần một tháng tuổi, Tư Liên nhận được tin đau xé lòng: Ba của cháu, anh Lê Chán tức Ba Cánh đã bị địch bắt.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 09 Tháng Sáu, 2010, 05:29:48 pm
19
    Dì Bẩy dẫn theo Tư Linh đến 231 Bạch Đằng. Dì gõ cửa, gọi to: "Mười Tuân Mở cửa cho anh Tư". Có tiếng dép lẹp xẹp phía trong nhà, tiếng mở chết cửa. Dì Bẩy sững sờ:
    - Ủa, chị Sáu bị bịnh hồi nào mà em không hay. Chị gầy quá, da xanh nhợt. Chị mất ngủ à?
    Má Sáu Hoàn không kìm nén được mình nữa. Má ôm chị Bẩy, gục đầu vào vai em ruột than khóc:
    - Tôi khổ quá dì Bẩy? Thằng Ba Cánh bị địch bắt rồi.
    - Chị hay tin cháu bị bắt hồi nào? Tin chính xác không?
    - Chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự thành đoàn thông báo cho tôi. Các anh ấy chưa rõ Ba Cánh bị bắt trong hoàn cảnh nào. Cùng bị bắt với Ba Cánh có Lương Thanh (Tư Anh) và Nguyễn Thị Phương (út Phương). Hai đứa này cùng trong lực lượng biệt động với Ba Cánh. Dì Bẩy? Tôi buồn quá?
    Tư Linh đứng im, môi mím chặt, hai bàn tay nắm lại, mắt trân trân nhìn má. Cậu lắng nghe tâm sự của má.
    - Dì Bẩy! Dì khuyên tôi nên như thế nào Tôi dìu dắt những đứa con theo con đường anh đi nhưng tụi nó bị bắt cả rồi. Nay mai gặp lại anh, tôi ăn nói với anh thế nào? Ba đứa con lớn của tôi đều lâm vào cảnh tù tội, tôi phải làm gì đây?
    - Phải trả thù tụi nó, má à. - Tư Linh nói, giọng chắc nịch.
    Má Sáu Hoàn ngước mắt nhìn con trai. Khuôn mặt nó đanh lại, mắt nó quắc lên. Nó vốn là đứa trẻ hiền lành, chưa bao giờ nói leo khi người lớn trò chuyện nhưng hôm nay, trông nó khác hẳn. Nó giống hệt ba nó. Nó vạch kế hoạch:
    - Má kết nạp con vô biệt động. Má gọi thằng Ba Vĩ lên Sài Gòn. Thằng đó đã vào du kích rồi. Nó biết bắn súng, ném lựu đạn. Con và nó sẽ gộp sức trả thù cho chị Hai, chị Ba và anh Ba Cánh.
    Dì Bẩy tinh tế hơn. Dì hiểu tâm trạng chị ruột mình hơn Tư Linh. Chị Sáu là Chỉ huy phó ban quân sự thành đoàn không thể cùng một tâm trạng với chị Sáu là bà mẹ của tám đứa con (kể cả Ba Cánh) và là vợ của một người chồng đang ở cách chị ngót nghét hai nghìn kilômét. Chị có trách nhiệm với anh, với gia đinh họ Dương về những quyết định của mình. Chị không thể buông xuôi tất cả, rũ bỏ tất cả để đưa những đứa con còn lại về một miền quê hẻo lánh nào đó lo chí thú làm ăn. Tại sao sư cô Nguyễn Thị Nhàn đã đi tu, đã xa lánh bụi trần mà sư cô lại nhận giữ kho vũ khí? Biết tâm trạng chị ruột mình đang xáo trộn, dì Bẩy lựa lời động viên:
    - Chị Sáu? Em rất tin anh Bẩy. Anh ở gần Bác Hồ , anh đang dốc sức xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Bà con miền Bắc gởi con em vào miến Nam chiến đấu nào có ai ngại hy sinh đâu. Tư Linh nói đúng. Chị, em, Tư Linh, Ba Vĩ, Mười Tuân và nếu cần sẽ đưa cả Bầy Thiện, út Hiếu vào chiến đấu. Anh Bẩy Đấu muốn chị phải hành động như vậy. Nếu chị lùi bước, chị không xứng đáng là vợ anh, là chị ruột của em.
     Má Sáu Hoàn như bừng tỉnh cơn mê . Má vuốt tóc ngồi ngay ngắn lại, hỏi em ruột:
    - Tại sao trước đây dì nghĩ khác? Dì đồng ý để thằng Tư Linh đứng ngoài cuộc?
    - Chị tự mâu thuẫn với mình rồi. Chị tưởng là cái giấy khai sanh thằng Tư Linh khai là mồ côi cả cha lẫn má và giấy cam đoan mà vợ chồng em nhận cháu làm con nuôi đủ đảm bảo cho cháu đứng ngoài cuộc chiến sao? Nay mai, nếu phải khai lý lịch, thằng Tư Linh sẽ khai là đã tham gia cách mạng từ năm 1962, khi chị đưa nó vô cứ lần đầu hoặc năm 1963 khi nó vô cứ dự đám cưới Ba Chân - Mỹ Lê.
    Tư Linh ngồi xuống cạnh má. Cậu đặt tay má giữa hai bàn tay mình, thủ thỉ:
    - Con và dì Bẩy tính đi thăm chị Hai và con nhỏ Tranh.
    Má Sáu Hoàn hỏi luôn, giọng hối hả:
    - Vậy à! Mỹ Lê sanh con gái à? Dì Bẩy với thằng Tư tính đi thăm Mỹ Lê bằng cách nào?
    Dì Bẩy kể lại "chuyện đột kích" của mình. Dì hỏi chị ruột:
    - Đêm nay, em đưa Tư Linh vào thăm má con con Hai. Chị tính về bé Tranh như thế nào? Có nên cho Mỹ Lê hay tin về Ba Cánh không?
    Má Sáu Hoàn khó xử quá? Việc gia đình má cứ rối như canh hẹ , má phải gỡ ra như thế nào? Má đâu chỉ đơn thuần có trách nhiệm người mẹ với con gái, bà với cháu ngoại mà còn có mối quan hệ giữa hai đảng viên, hai cán bộ lãnh đạo của thành đoàn với nhau. Ý kiến của má  không thể nặng về tình hoặc thiện về lý. Má như người cầm cân, cân sao cho bên lý, bên tình không ai chê trách được Má thở dài:
    - Tôi là má Mỹ Lê. Hai lần con gái sinh nở, tôi không ở bên nó, không giúp nó được gì. Tôi là bà ngoại mà chưa biết mặt hai đứa cháu ngoại của mình.
    - Vì chiến tranh mà, chị Sáu Anh chị xa nhau mười mấy năm trời vì sao? Chị, rồi cả ba cháu vào tù là tại ai? Sẽ có ngày gia đình ta đoàn tụ , chị tha hồ bồng cháu ngoại, cháu nội.
    "Bao giờ gia đình ta mới đoàn tụ?". Má Sáu Hoàn nhắc lại ý của em gái. Chắc lâu lắm. Từ mười một năm qua, đã lần nào tám má con má được sum họp, quây quần bên nhau đâu. Má nhớ chồng, nhớ từng đứa con da diết. Nếu chỉ đơn thuần làm mẹ, má sẽ ngay tức khắc đưa Ba Vĩ, Bẩy Thiện, út Hiếu về Sài Gòn để cùng với má, với Mười Tuân, Tư Linh sum họp một nhà. Má dư sức buôn bán, làm mứt kẹo hoặc mở tiệm may để kiếm tiến nuôi con ăn học nên người. Vậy mà má phải dằn lòng xa con trai, con gái. Đêm đêm, mỗi lần thức giấc, má khó lòng ru nổi giấc ngủ vì bên cạnh mình không có người thân nào. Má đã vượt qua nỗi trống trải trong tâm hồn, trống trếnh trong nếp nghĩ vì má hướng tới tương lai. Ai sẽ lo cho tương lai, lo đuổi Mỹ, diệt ngụy nếu không phải là người Việt Nam, là má và những người thân của má? Muốn ăn quả, phải trồng cây Muốn độc lập, tự do cho đất nước, má không có quyền lùi bước. Dì Bẩy nói đúng. Dì nuôi Tư Linh, dì cùng Tư Linh đi thăm nuôi Mỹ Hòa, Mỹ Lê và sắp tới là Ba Cánh vì trách nhiệm của dì ruột hay vì dì là cơ sở của cách mạng? Việc dì và Tư Linh làm đâu phải không mạo hiểm? Nếu kẻ địch cho lũ an ninh, mật vụ bám theo từng lần thăm nuôi của dì, Chúng sẽ có trong tay danh sách Mỹ Hòa, Mỹ Lê, Ba Cánh. Tuy chồng dì Bẩy làm ở ngân hàng của Pháp nhưng cái "mác" công chức của dượng Bẩy đâu thể che chở nồi cho vợ khi mối quan hệ với những Việt Cộng cỡ bự của dì bị phanh phủi. Đã từ lâu, dì Bẩy và Tư Linh không còn là người ngoài cuộc nữa: Năm 13 tuổi, Tư Linh vào cứ lần thứ hai. Dì út Khuê đưa cậu và út Hiếu vào muộn nên cậu không được thưởng thức món cháo vịt duy nhất trong tiệc cưới của chị ruột nhưng cậu hồ hởi vì được trò chuyện thân tình với anh rể. Cậu mến phục anh Ba Chân vô cùng. Biết anh rể giữ chức Chính trị viên ban quân sự thành đoàn, cậu đã xin anh tuyển lựa cậu làm chiến sĩ biệt động nhưng anh đánh trống lảng:
    - Em còn nhỏ tuổi quá. Chờ vài năm nữa, em lớn hơn, ta sẽ tính.
    Lần này, Tư Linh chính thức yêu cầu má kết nạp nó vào tổ chức, má tính sao? Là mẹ, là bà ngoại, má sẽ bỏ tất cả mọi việc riêng để vào nhà thương thăm con gái và cháu ngoại nhưng là cán bộ, má không cho phép mình mạo hiểm. Má mơ ước đón cháu ngoại về với mình nhưng má đành dằn lòng lại dặn em ruột:
    - Mỹ Lê đã cực khổ quá rồi, mình đừng nên tước mất nguồn vui của nó. Không thấy bé Tranh ở với má, tụi nó sẽ tra tấn Mỹ Lê. Dì đừng nói gì với cháu về chuyện chồng nó. Có nên để Tư Linh cùng đi với dì không?
    - Thằng Tư ham cháu quá nên cứ nài nỉ em hoài. Tánh thằng nhỏ kỳ cục lắm. Ai không hiểu nó, trách nó thờ ơ với mọi chuyện. Đâu phải vậy! Thằng nhỏ ít nói song nghỉ nhiều, rất có tình cảm. Nó yêu thương các chị và mấy đứa em vô cùng. Chị có nhớ lần nó đi lấy cà độc dược làm thuốc chống hen cho Mười Tuân và út Hiếu không?
    Tư Linh cười ngượng nghịu. Từ thuở cha sinh, mẹ đẻ cậu chưa rành về cà độc dược và cũng chả biết thế nào là sao vàng hạ thổ nhưng vì quá thương em, cậu lo kiếm thuốc cho em: Thấy cậu hắt hơi liên tục vì ngửi phải hơi độc của cà, người lớn kịp giúp cậu. Vì em ruột, cậu đã thức thâu đêm không ngủ. Cậu ngồi, lấy thân mình làm đệm cho út Hiếu tựa và luôn tay đưa võng cho Mười Tuân. Cậu rất yêu hai chị ruột. Khi nghe tin chị Mỹ Hòa bị bắt, cậu ngứa ngáy, đứng ngồi không yên. Mỗi lần đi thăm chị về, cậu lại ngồi bần thần suy nghĩ cách trả thù cho chị. Lần này, nghe má Bẩy kể về Mỹ Lê và cháu Tranh, Tư Linh nôn nóng đòi đi thăm chị, thăm cháu. Cậu uất quá rối. Cậu mới 15 tuổi mà nặng 46 kí, còn chị Mỹ Lê hơn cậu chín tuổi lại kém cậu đúng 16 cân 9 lạng. Chưa bao giờ chị cậu gầy như vậy Tụi nó đã đánh đập, tra tấn chị Mỹ Lê tàn ác như thế nào để đến nỗi chị chỉ còn là con người nắm xương bọc da tiều tụy như vậy? Cậu chưa từng trải lắm nhưng hình như cậu chưa nghe nói có trẻ sơ sinh nào còn kém 100 gam mới tròn hai ký như cháu Tranh của cậu. Đã thế, cháu Tranh lại không có sữa mẹ để bú. Tại sao vậy? Tại thằng Mỹ, thằng ngụy không còn tình người, đã thẳng tay hành hạ chị Mỹ Lê. Cậu phải tận mắt nhìn thấy chị cậu, cháu cậu đề có lý do đòi má cho mình nhập cuộc. Má không đồng ý cho cậu đi. Má thận trọng như vậy là đúng vì cậu đã lớn như một thanh niên, cậu khó kiếm ra cái cớ lọt vào nhà thương vào lúc nửa đêm. Cậu đống ý với má vì cậu biết vàng lời má và nay vì anh Ba Cánh bị bắt, cậu lại có thêm lý do yêu cầu má cho cậu vào cuộc.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 09 Tháng Sáu, 2010, 05:31:24 pm
    Má Sáu Hoàn như chợt tình sau cơn mê . Đúng là trước mắt má có nhiều cách lựa chọn. Hoặc là má thủ tiêu chiến đấu má cùng những người thân rút khỏi chính trường, trở thành chị tiểu thương an phận thủ thường; hoặc là má dùng tiền đút lót, tổ chức cho con vượt ngục, thuê luật sư bào chữa, cố đưa con thoát khỏi chốn lao tù và cuối cùng má tìm mọi cách trả thù cho con, trừng trì những kẻ gieo rắc chết chóc xuống mọi miến của đất nước Việt Nam. Má : chọn cách thứ ba. Muốn thế, trước hết má phải đưa những đứa con má vào biệt động. Má dặn dì Bẩy không bằng lời lẽ trong gia đình giữa hai chị em ruột mà dùng cách nói của người chỉ huy với cơ sở của mình:
    - Thằng Ba Vĩ là người trong tổ chức rồi, đã có lệnh điều động nó lên Sài Gòn. Dì về Gò Công thông báo trước cho cháu. Việc Tư Linh, tôi sẽ lo. Trường của nó đã đề nghị kết nạp nó vào tổ chức nhưng chưa được duyệt. Tôi sẽ nói lại với mấy anh. Đêm nay dì cố an ủi Mỹ Lê, tiếp thêm nghị lực cho cháu.
    Dì Bẩy mừng vì chị mình đã trở lại trạng thái cân bằng. Dì đáp:
    - Em sẽ làm đúng chỉ dẫn của chị.
    - Dì Bẩy nè!
    - Dạ!
    - Ngày đưa cháu Tư Linh lên gởi dì dượng, tôi muốn tách cháu khỏi cuộc chiến để cháu lo học giỏi, kiếm tấm bằng kỹ sư, bác sĩ để làm rạng rỡ cho họ Dương và điều cơ bản là cháu không bị tù tội, không hy sinh. Cháu sẽ lấy vợ sinh con để nối dõi dòng họ Dương. Đến nay thì những tính toán của tôi đổ vỡ rồi. Tôi không nỡ lòng nào ngăn cản Tư Linh góp phần trả thù cho các chị nó .
    Dì Bẩy nguyên là cán bộ huyện thời chín năm. Sau ngày lấy chồng là công chức ở nhà băng, có cuộc sống khá giả, dì dự kiến sẽ an phận thủ thường không tham gia công tác cách mạng, chỉ chuyên lo nội trợ, phục vụ chồng con nhưng dì đã không làm như thế. Dì không thể thờ ơ trước việc làm của chị ruột và các cháu ruột. Dì lo thăm nuôi Mỹ Lê, Mỹ Hòa và giờ đây đến vượt Ba Cánh. Dì không thể đứng ngoài được. Cứ nhớ đến hình ảnh Mỹ Lê còm nhom, da xanh mét, cân nặng vẻn vẹn có 29 kilôgam 100 gam và bé Tranh ốm yếu, da nhăn nheo, đỏ hỏn như con mèo con không có lông, dì không cầm được nước mắt, dì thế không đội trời chung với kẻ thù. Chính dì là người' quyết định "giải phóng" cho Tư Linh, khuyên chị ruột để Tư Lịnh gia nhập hàng ngũ chiến sĩ biệt động. Về phần mình, dì tiếc là chưa có điều kiện thoát ly, trực tiếp cầm súng nhầm thẳng đầu giặc mà bắn. Dù sao, dì cũng có thế hợp pháp, đi lại dễ dàng. Nếu không có dì, ai sẽ thăm Mỹ Hòa, ai có điều kiện lọt vào nhà thương để liên lạc với Mỹ Lê? Dì bàn với chị ruột:
    - Chị có bốn con trai, đứa nào cũng mang dòng máu anh Bẩy. Cháu Tư Linh đã trưởng thành. Cháu là con nhà tông không giống lộng cũng giống cánh. Chị phải kết nạp cháu vào biệt động.
    - Tôi đồng ý với dì. Tôi tính thế thằng Dương Quảng Thiện vào chỗ Tư Linh.
    - Sao? Em chưa hiểu ý chị?
    - Bẩy Thiện đã 10 tuổi rồi. Thằng đó thông minh, học giỏi Tôi sẽ đón lên Sài Gòn gởi dượng.
    Dì Bẩy bàn: 
    - Chị không nên đưa cháu Tư Linh vào cứ. Tư Linh cứ sống với vợ chồng em, cứ đi học. Như vậy cháu nó sẽ có vỏ bọc hợp pháp để hoạt động. Em sẽ gởi Bẩy Thiện vào nhà chú thím Mười Thơ. Chú Mười là em họ anh Bẩy, cùng làm việc ở nhà băng, gia đình khá giả nhưng không có con.
    - Vợ chồng Mười Thơ có thân chính quyền mới không?
    - Các viên chức thời nay thường giữ thái độ mũ ni che tai, không ủng hộ chính phủ và cũng chả chống đối Việt Cộng.
    Chị Sáu Hoàn tỏ thái độ :
    - Tôi không quen Mười Thơ. Bẩy Thiện là con tôi và cũng là cháu ruột của dì. Dì tính sao tôi cũng chịu.
    - Vâng. Em xin lo việc này.
    - Dì cứ nói Bẩy Thiện là con đẻ của cậu mợ Tư. Dì hiểu ý vì sao phải làm như vậy chớ?
    - Em hiểu. Em xin làm theo ý chị.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 09 Tháng Sáu, 2010, 05:36:16 pm
20

    Có tiếng gõ cửa. Như thường lệ, mỗi khi Chánh văn phòng Dương Văn Đấu vào phòng làm việc, cô văn thư thường bám theo, đưa trình công văn, giấy tờ mới nhận được và các báo ra hàng ngày. Hôm nay, cô đã phá lệ đó . Từ mấy năm gần đây, những cán bộ, nhân viên trong văn phòng Bộ Điện - Than đã rỉ tai nhau về niềm say mê công tác kỳ lạ của Chánh văn phòng. Không ai có thể bứt ông ra khỏi công việc. ông không tha thứ cho bất cứ cán bộ nào sao nhãng việc công. Gần đây, trong trận chiến đấu với máy bay Mỹ, một chiến sĩ tự vệ rời bỏ vị trí chiến đấu, trốn trong hầm trú ẩn, đã khiến ông bực tức tới phẫn nộ. ông vốn đằm tính, chưa hề cáu gắt với ai nhưng lần đó, ông như con người khác hẳn. ông giận dữ, đề nghị khai trừ con người nhát gan đó ra khỏi đảng, hạ hai bậc lương. Ai cũng thông cảm với ông. ông là một trong những cán bộ lãnh đạo của Bộ thường có mặt khi trận địa nổ súng bắn máy bay Mỹ. Tấm ảnh vợ và năm con trên bàn làm việc như lời nhấc nhủ ông, thôi thúc ông chia lửa với miền Nam. Ông thề là sẽ không hổ thẹn với vợ con, với đồng bào miền Nam ruột thịt, khi ông từ miền Bắc trở về. Tuy vậy, ông có thói quen mà người thông cảm với hoàn cảnh cô đơn của ông cho là rất đáng yêu và kẻ ác ý lại trách cứ ông, cho là ông cũng nghĩ đến gia đình trên hết, cũng cá nhân chủ nghĩa như người khác. Cô văn thư là người chứng kiến những lần ông lạc vào "mê hồn trận": nhận được thư nhà. Lúc đó, dù đang có cuộc họp với Bộ trưởng, dù máy bay địch đang bắn phá, dù có người đang cần ông ký giấy v.v..., ông đều ngỏ lời xin lỗi và thả mình đắm chìm trong những trang thư nhà 15 phút, 20 phút và có khi tới 40, 50 phút. Những cán bộ dưới quyền thân cận, gần gũi ông luôn trân trọng giây phút đắm trong hạnh phúc riêng của ông. Hơn 11 năm qua, đã quá 4.000 ngày Bắc, đêm Nam với ông, sao lại có kẻ không thông cảm với nỗi lẻ loi, cô đơn của ông? Ông cũng là con người chứ đâu phải là thần, thánh, tiên, phật. Ông thừa điều kiện để xây dựng tổ ấm mới nếu ông muốn, chỉ nửa giờ sau ông đã có đủ giấy chứng nhận về vợ ông (với những lý do xác đáng như mất liên lạc, theo địch, đã lấy chồng khác, chết, v.v...) do hai cán bộ cùng quê của ông xác nhận sự thực. Và chỉ sau một tuần lễ sẽ có biết bao ông bà mối hoặc chính các cô gái ở đủ mọi lứa tuổi tìm đến với ông ông hội tụ đủ mỏi điều kiện của người chồng mẫu mực, vượt xa tiêu chuẩn mơ ước những cô gái đã tốt nghiệp đái học thời đó. Ông khỏe mạnh, đẹp trai, có địa vị cao. Công thức 3B để kén chồng, ông chỉ được hai nhưng là hai át chủ bài, hai điều kiện sáng giá nhất. B thứ nhất là có bìa - Bìa C. Bìa C hay Cl được mua hàng cung cấp tại các cửa hàng Nhà Thờ, Đặng Dung, Vân Hồ dành cho cỡ chuyên viên 2, 3, 4, 5, 6 hoặc là các sĩ quan cấp thiếu tá, trung tá, thượng tá, đại tá. Nhưng ông lại có bìa B. Chỉ có các cán bộ thứ trưởng hoặc thiếu tướng trở lên mới đủ tiêu chuẩn nhận bìa B, được mua các loại thực phẩm, bánh, kẹo, thuốc lá, đường sữa, v.v... tại cửa hàng Tông Đản. B thứ hai là có buồng. Nếu ai đó trở thành vợ ông, cô ta sẽ không chỉ có một buồng hạnh phúc rộng 7, 8 mét vuông mà sẽ có căn hộ riêng với ba, bốn, năm buồng mà ông sẽ được cấp. B thứ ba là có bà để bế cháu, để giúp việc vặt trong nhà ông không có mẹ đẻ để làm bà nhưng ông có công vụ riêng. Không phải không có nhiều người tâng bốc thế mạnh nam nhi của ông, kể tên những cô gái đẹp người, đẹp nết, trình độ văn hóa cao, giữ cương vị khá, đang khao khát ông, thèm muốn ông song ông đã bỏ ngoài tai tất cả. Với một người chung thủy với vợ, gương mẫu với các con như thế tại sao không tạo cho giây phút thiêng liêng của đời ông thêm có ý nghĩa. Khác với mọi lần, cô văn thư không đệ trình công văn đến hay đi lên Chánh văn phòng mà lộ vẻ tinh nghịch của đứa con thích làm nũng cha, mẹ.
    - Bố Đấu! Bố có tin vui đặc biệt.
    Ông sốt sắng:
    - Tin gì vậy.
    Thấy bàn tay cô gái chìa về phía mình, ông Bẩy Đấu cười:
    - Chưa chi đã đòi quà. Tao còn phải xét loại tin tức mày thông báo đáng thưởng một cái kẹo Hải Chầu hoặc nửa bao thuốc chớ.
    Ông Bẩy Đấu có thói quen mua tiêu chuẩn cung cấp gồm hai cân bánh bích quy, hai cân kẹo, hai tút thuốc lá Tam Đảo Điện Biên hoặc Điện Biên bao bạc để dành đãi khách hoặc cho nhân viên dưới quyền. Nhận ra chữ vợ, ông vồ ngay lấy, ông mở tủ, cho cô ba bao thuốc Điện Biên bao bạc, nửa cân kẹo, giọng hể hả:
    - Cám ơn con. Bao thuốc này bác tặng chồng con, số còn lại, bác khao tất cả
    - Con xin bố. 
    Bóng cô văn thư vừa khuất, ông Bẩy Đấu đã khóa trái cửa, ngồi ngả lưng vào chiếc ghế tựa. ông ngắm phong bì thư. Thật lạ lùng. Tại sao chỉ chưa qua 14 ngày ông đã nhận được thư nhà? Cách đây ba năm, ông nhận được thư đầu tiên của con gái đầu lòng. Nó phải viết những dòng chữ nhỏ li ti trên trang giấy pơ-luya mỏng dính. ông thông cảm với vợ ông, các con ông. Các đồng chí giao liên phải cuốc bộ sáu tháng liên tục mới vượt qua chặng đường hiềm trở đày rẫy đồn bết địch với đủ loại suối sâu, đèo cao, rừng rậm, nhiều thú dữ và phải qua bao ngày ăn đói, nhịn khát, ngủ rừng dưới trời mưa, gió bão hoặc rét cắt da, cắt thịt để đưa công văn, tài liệu trong đó có lá thư mỏng dính đến tay ông. Đã có lần ông nhận được phong bì thư không đề địa chỉ người gửi, được gửi từ bưu điện Hà Nội. ông mở phong bì. Có mấy dòng đánh máy dính ở đầu thư vợ ông "Mong đồng chí thông cảm vì phải gùi thồ quá nặng, đi đường xa, các đồng chí giao liên đã vứt mọi phong bì thư để hành trang bớt nặng”.
   Thật hiếm có nước nào có chuyện lạ kỳ như kiểu này. ở đây không có chuyện đi kiện vì "giao liên đã xâm phạm vào đời tư của tôi, đã không tôn trọng luật thư tín" mà là giữa cái sống cái chết, giữa sự lựa chọn đi tới đích hay bỏ cuộc nửa chừng. Đã có ai phải hành quân bộ vượt dãy núi Trường Sơn hùng vĩ mới hiểu vì sao người trong cuộc phải bỏ bớt đồ dùng dư thừa như cắt ống tay áo hoặc quần dài thành quần đùi và vứt bớt phong bì thư. Một chiếc phong bì chỉ là một tờ giấy gấp lại nhưng trút lại 100 phong bì là trút bớt gánh nặng, giúp cho đôi chân mỏi nhừ, lê được thân hình tiều tụy, ngắc ngoải vì sốt rét hành hạ có thể đặt chân lên nơi nào đó ngoài vĩ tuyến 17 ở trên đất miễn Bắc thân yêu. ông Bẩy Đấu hiểu rõ hoàn cảnh đó nên ông chỉ dám gót ghém tâm tư tình cảm mình trong hai trang thư gửi đến vợ và các con ông. Ông không ngờ lần này ông nhận được lá thư dày cộm, chỉ gửi đi cách đây 14 ngày. ông mừng quá. Con đường 559 đã thông suốt rồi nên thư của vợ ông, của các con ông không phải "ngồi" trên lưng các đồng chí giao hên gùi thồ nặng nữa mà đã cưỡi ôtô chạy suốt từ R đến Vinh Linh, ra Hà Nội. ông mở phong bì thư. Thằng Ba Vĩ vốn hóm hỉnh, tinh nghịch và có năng khiếu văn chương, thơ phú đã viết:
    - Thưa ba! Cái hình (ảnh) ba gởi vào, má và các con say sưa chuyền tay nhau ngắm ba. Má chiếm độc quyến tấm hình. Tụi con nài nỉ mãi, má chỉ cho xem rồi thu lại luôn. Tụi con có sáng kiến ghép hình của ba mặc đồ lớn (complê) với má mặc áo dài thành một đôi rất đẹp, duyên dáng, tình tứ…
    Ông nhớ đến kỷ niệm về tấm hình của mình. Năm ngoái, Bộ Điện - Than cho phép ông sang thăm Liên Xô rồi về chữa bệnh ở Trung Quốc. Cũng như mọi cán bộ đi nước ngoài khác, ông được mượn va ly, hai bộ complê, áo len, áo pácđơsuy, mũ lông, mũ phớt ... ông rảo bước trên Hồng trường, vào lăng viếng Lênin, vào cửa hàng bách hóa lớn nhất Mát-xcơ-va có tên là GUM.
    Từ Mát-xcơ-va, ông về Bắc Kinh bằng tàu hỏa. ông thăm Vạn lý trường thành, thăm Cố cung, thăm nhiều danh lam thắng cảnh khác và điều đặc biệt là ông được điều trì bệnh hen suyễn kinh niên. Vì chỉ đi chơi, được nghỉ ngơi và luôn ăn tiệc ở khách sạn sang trọng với tiêu chuẩn cao nên ông béo ra, trắng hơn. ông đã gửi tấm hình trẻ hơn ngoài đời đến cả chục tuổi do thợ ảnh Bắc Kinh chụp cho gia đình.
Ba Vĩ viết tiếp: "Tụi con tự hào, hãnh diện vì ba má. Tụi con nài nỉ má viết mấy dòng đề tặng ba phía sau ảnh nhưng má không chịu. Con tính ghi "Hạnh phúc của anh Bẩy Đấu và chị Tư Hạ trong tuần trăng mật" má rầy con. Con đề nghị viết: "Ông bà ngoại Bẩy Đấu - Sáu Hoàn luôn khăng khít bên nhau", má vẫn chưởi con".
    Đúng là tấm hình của hai vợ chồng ông rất đẹp, giống như ảnh chụp sau ngày cưới mặc dù ông đã lên chức ông ngoại. ông rút bút máy ghi phía sau ảnh: "Hạnh phúc biết bao khi được làm chồng, làm cha và giờ đây lên chức ông ngoại". Ông tự khẳng định vị trí và trách nhiệm của mình. Khi còn làm chồng, làm cha, ông đã không để "một bóng hồng" nào lọt vào trái tim thì giờ đây, cánh cửa đó được khép kín vì ông đã giữ chức "ông ngoại". Ông lần lượt lấy các thư khác. Bà viết mộc mạc, chân thành đằm thắm. Thư Tư Linh viết chững chạc, khúc chiết. Thằng này chắc là khôn trước tuổi, già trước tuổi, chỉ nghĩ tới học hành chứ không biết chơi bời gì. Bé Mười Tuân chắc là lớn lắm, nó kể với ông đủ mọi chuyện mạch lạc chi tiết. Út Hiếu gửi thư kèm theo ảnh cho ba. Đây chắc là ưu tiên đặc biệt vì ông chưa biết mặt con gái út. Con nhỏ dễ thương quá, đôi mắt đen lay láy, tinh nhanh như mắt nai tơ, đôi má bầu bầu, nụ cười rất tưới. Nó viết:
    - "Ba à? Khi nào ba về với con? Con học giỏi, đứng thứ ba trong lớp, anh Bẩy Thiện học giỏi hơn con, con không sao đuổi kịp anh mặc dù anh Ba Vĩ kèm con riết. Dì dượng Năm cưng con lắm. Nội, Ngoại, các dì, các cô rất thương con, đều bảo con càng lớn càng giống ba. Đúng không ba? Tụi bạn con có ba, con không có ba ở gần, con thèm ba quá! Ba mau về với con, nghe ba?".
    Năm 1965 này, con nhỏ tròn 10 tuổi. Thằng Mười Tuân đã kể về chuyện nghịch ngợm của con gái với ba. Ông đưa cái ảnh con gái út lên môi hôn, ngắm nhìn cái trán hơi dô bướng bỉnh của con, nói với "cái ảnh :
    - Đúng, con rất giống ba nhưng nghị lực phấn đấu để đạt mục đích và tính ngang ngạnh chắc con hơn ba nhiều. Con hơn cha là nhà có phước, ba hy vọng như vậy.
    Ông đọc thư Bẩy Thiện. Thằng nhỏ viết chữ đẹp, khúc chiết. Nó không có ảnh hay chưa lần nào chụp ảnh? Không hiểu vì sao vợ ông lại đẻ sinh đôi đúng lúc ông vắng nhà. Cô ấy làm cách nào để nuôi nổi bảy mặt con. Uớc gì ông được đi B, được gặp vợ và bảy đứa con của ông. ông đứng dậy, mở tủ . Ông cũng chả thắc mắc vì sao không có thư của Mỹ Lê, Mỹ Hòa, Ba Cánh. Ông thỏa mãn vì cùng một lúc đọc được 5 thư và 2 tấm ảnh vô giá. Ông lấy ra chiếc hộp sắt, đặt lá thư mới nhận vào đấy. Đây là kho tàng là báu vật của riêng ông. ông đọc đi, đọc lại tới mức thuộc lòng mọi lá thư nhà song ông vẫn giữ thói quen đọc nghiến ngẫm từng dòng, từng chữ trong thư vào đêm mùng một âm lịch mỗi tháng. Vào đêm đó, ông thường thức tới hai, ba giờ sáng, thả hồn về Gò Công, Sài Gòn với vợ con. ông đã đề nghi tới lần thứ mười xin được trở về quê hương chiến đấu nhưng điều đó không được chấp nhận. Từ gần một năm nay, ông không đề cập tới điều đó nữa mà dồn hết sức mình, đóng góp phần nâng sản lượng than của miền Bắc lên. Ông coi đó là trách nhiệm, là đóng góp của mình với quê hương ruột thịt và là cách lao vào cuộc thi đua tốt nhất để xứng đáng với vợ và các con ông.
    Ông khóa tủ, mở cửa phòng. Ông đặt tút thuốc lá Tam Đảo gói bích quy, gói kẹo trên bàn cô văn thư.
    - Con đem lại cho bố tin vui rất đặc biệt. Bố khao tất cả anh chị em trong cơ quan. Ảnh của má con và con bé út Hiếu đây.
    Chỉ trọng nháy mắt, ai cũng đến chia vui với ông, khen vợ ông trẻ, đẹp và ai cũng rỉ tai nhau "tuyên ngôn" của ông "ông đã là ông ngoại". Anh chị em trêu ông:
    - Sao ba lại gọi là út Hiếu.
    - Nếu nước nhà thống nhất, ba gặp má con lại có em thì sao? Sẽ gọi là út thêm, út thừa, tụi bay khỏi lo.
    - Như vậy là ba chưa biết mặt bé Bẩy Thiện? Sao ba không xin cho Bẩy Thiện ra miền Bắc học ở trường miền Nam?
    - Cô Sáu và mấy đứa không đề cập tới chuyện này. Để thủng thắng rồi sẽ tính, vội gì.
    Ông Bẩy Đấu vui lắm. Các cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc đã mấy ai nhận được thư và ảnh của vợ, con như ông. Ông phải sống và làm việc ra sao để xứng đáng với dòng chữ ông ghi dưới tấm ảnh: "Một vợ bảy con đang chiến đấu ở miền Nam".


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 09 Tháng Sáu, 2010, 05:39:54 pm
21

    Má sáu Hoàn phải "bày binh bố trận": "Ai đi đón khi Mỹ Lê bồng cháu Tranh ra khỏi nhà tù? Đón như thế nào? Đưa về đâu ?" Má có trong tay bao nhiêu cơ sở. Má nhờ sư cô Nguyễn Thị Nhàn, Hai Thưởng, cô Năm, Sáu Dinh hoặc dì út Khuê đón con gái và cháu ngoại má thì sao? Hay là má nhờ chú Tám Phả, Sáu Đồng hoặc chủ xe cơ giới nào đó đưa má con con nhỏ trốn vào cứ luôn" Hay là má thay hình đổi dạng, má đi đón con gái? Mỹ Lê sẽ vui lắm nếu trong thấy má và má sẽ là người đầu tiên được bồng cháu ngoại khi nó rời khỏi nhà tù. Mỹ Lê bị kết án một năm. Hơn một năm qua, ngày nào, đêm nào má cũng mơ ước được gặp lại con. Tại sao má không thể đón nó? Má chưa bị lộ ở Sài Gòn và con nhỏ được tha do mãn hạn tù, nào có gì cần phải lấn tránh? Má sẽ thuê xích lô , xe lam hay tắc xi đưa má con Mỹ Lê về sống chung với má ở cầu Cây Gỗ. Má có nhà riêng rồi. Má chấp thuận cho thằng Tư Linh tham gia công tác đoàn ở trường nó. Thằng Ba Vĩ xin phép má cho nó và út Hiếu học xong niên khóa 1965 - 1966 ở quê. Má đã rút thằng Mười Tuân về với mình, thế út Hiếu làm con nuôi dì út Khuê , đưa thằng Bẩy Thiện làm con nuôi chú thím Mười Thơ. Má tin thằng Mười Tuân khôn ngoan biết giữ mồm, giữ miệng. Má đã trao đổi với nó chuyện công tác hết sức bí mật như với người lớn đồng chí hướng với má:
    - Mười Tuân nè? Con có trông thấy hầm vũ khí ở trong nhà má út Khuê không?
    - Con biết hết trơn, hết trọi rồi. Má út đã cho con hãy, đã dặn con cách mở và đậy nắp hầm.
    - Má đón con về nhà ta ở cầu Cây Gõ. Má tính là ta cũng đặt kho vũ khí trong nhà.
    - Má à? Sao má không mua nhà to hơn. Nhà ở cầu Cây Gỗ nhỏ xíu, nền đất, mái lợp tôn lá nên khó làm kho lắm.
    - Má tính rồi. Má và con sẽ đào cái hầm thiệt sâu ở giữa nhà. Má sẽ nhờ chú Tám Phả chở đến cái khạp (chum) thiệt bự. Ta cho chum xuống cái hố đã đào, lấy đất lấp lên.
    Mười Tuân reo vui:
    - Hoan hô má? Má tài quá? Như vậy ta không phải dùng xi măng trát hầm mà vẫn có kho vũ khí. Con sẽ phụ giúp má.
    Rõ ràng má không thể đón con gái má về nhà má. Má phải cảnh giác với tụi nó. Kẻ thù của má có thật lòng thả con má không? Phải chăng chúng đang giăng bẫy để rình bắt những ai liên quan tới Mỹ Lê? Nếu má chiềng mặt ra, tụi nó lén chụp được hình má thì sao? Nó sẽ truy ra lai lịch nữ Việt công là vợ của tỉnh ủy viên Bẩy Đấu, là bí thư phụ nữ Gò Công, đã bị tù hai năm ở Gò Công, đang có mặt tại Sài Gòn. Dù thế nào, má cũng không thể đưa con má vào cứ ngay. Biết đâu tụi nó sẽ tung mật vụ bám theo Mỹ Lê và sẽ lần tìm ra đường dây bí mật của ta. Thôi, má đành gán sứ mạng nặng nề này cho dì Bẩy. Dì Bẩy sẽ đem theo con ruột của dì (chứ không phải Tư Linh ) đi đón Mỹ Lê, đưa cháu về nhà mình. Nếu không thấy động, không có ai bám theo, dì Bẩy sẽ mở rèm cửa sổ và má sẽ tìm cách lọt vào nhà dì. Dì Bẩy, với cái vỏ bề ngoài là vợ viên chức làm việc trong nhà băng Pháp, do đó tên tuổi của dì chưa hề lọt vào sổ đen cửa an ninh, mật vụ. Hơn ai hết, dì Bầy thấu hiểu nỗi lòng của chị ruột nên dì luôn cố gắng san sẻ bớt gánh nặng về mọi mặt - nhất là về tâm lý - với chị ruột. Dì Bẩy tổ chức đón cháu ruột khá chu đáo. Các bạn dì là vợ những viên chức giàu có - những bà má, các chị hàng xóm, láng giềng thân và do tình cảm thân thiết, do tò mò, đều kéo đến nhà dì để xem một nữ Việt cộng, để chia vui vì cháu dì thoát khỏi chốn lao tù. Tuy mệt nhưng Mỹ Lê vẫn gắng gượng tươi cười chào hỏi mỏi người. Chị đặt con lên giường. Bé Tranh không khóc. Hình như, ngay sau giây phút chào đời, cô bé đã hiểu rõ thân phận mình nên cái "vũ khí oe oe" không có ở cô. Cô phải thích nghi với hoàn cảnh. Không có sữa mẹ, cô bú sữa bò, uống nước cháo và có lúc cái dạ dày chưa tròn một tháng tuổi của cô phải tiêu thụ cơm tù do một bà má hoặc một cô nào đó nhá nhỏ rồi mớm cho cô.
    Khi những vị khách tò mò , hiếu kỳ đến đông, dì Bẩy vạch áo cháu gái cho cáe bạn xem. Ai cũng xúc động vì Mỹ Lê gầy quá, gầy tới mức có thể đếm đủ từng chiếc xương sườn. Cô kể lại sự thật với dụng ý lên án chế độ hiện hành:
    - Cháu chả biết mình mắc tội gì. Cháu là cô giáo dạy ở trường tư thục Nguyễn Hoàng. Mấy ông cảnh sát bắt cháu, khám nhà cháu nhưng không thu đượm chứng cớ nào. Mấy ông tra tấn cháu, dìm đầu cháu trong nước xà phòng, bắt cháu nằm ngửa, dẫm lên bụng cho nước phọt ra ở hai lỗ mũi, ở mồm. Rất may là cháu không động thai.
    Những người khách đều ái ngại với hoàn cảnh Mỹ Lê. Cùng thân phận đàn bà, con gái, họ từng trải qua những tháng ngày vật vã vì ốm nghén, rồi đến bác sĩ thăm thai hàng tháng, hàng tuần, hàng ngày và những giờ lăn lộn vì đau bụng đẻ , ở bên cạnh có đầy đủ thuốc trợ lực quý hiếm, cùng biết bao người thân, những thầy thuốc giỏi nhất túc trực nên họ không chỉ thông cảm mà còn rất thán phục Mỹ Lê. Làm sao chị có thể sanh đẻ mẹ tròn, con vuông khi bên cạnh không một người thân, không một viên thuốc? Vì chỉ có đàn bà, con gái ở trong phòng, dì Bẩy vạch đôi vú của cháu cho mọi người xem. Đôi bầu vú của bà mẹ trẻ đang nuôi con mới hơn hai tháng tuổi nhăn nheo, nhão nhoẹt. Dì Bẩy nắn nắn. Không một giọt sữa nào ra được từ núm vú. Tại sao lại như vậy? Câu trả lời thật đơn giản, rõ ràng: vì bị tra tấn dã man khi mang bầu, bị suy dinh dưỡng nặng trước và sau khi sanh con.
    Khoảng 9 giờ tối, khách về hết. Trông thấy ám hiệu an toàn, má Sáu Hoàn đi về phía nhà em gái. Vào lúc này Mỹ Lê không nén được mình nữa. Câu hỏi đầu tiên khi rời khỏi nhà tù mãi đến phút này chị mới có quyền hỏi dì ruột:
    - Anh Ba con bị bắt hồi nào vậy, dì?
    - Con đã biết chuyện này rồi ư?
    - Ai nói cho con vậy?
    - Sáu Hinh.
    Mỹ Lê kể lại lần địch điều chị về trại giam ở nhà lao Thủ Đức. Tại đây chị gặp lại Sáu Hinh. Bộ mặt Sáu Hinh thiểu não quá. Con người đã một lần phản bội nay tự nguyện trở lại làm người có những mặc cảm riêng. Chị muốn gần gũi để cứu vớt Sáu Hinh. Không giữ được điều bí mật trong bụng, Sáu Hinh rỉ rả báo tin: "Chị Tư! Chị có bản lĩnh hơn tôi, tôi tin chị sẽ vượt qua nỗi đau đớn này. Anh Ba Cánh bị bắt. Chúng sẽ kêu án tử hình anh".
    Trời? Chuyện thật như vậy sao? Chị nhìn vào mặt Sáu Hinh. Sáu Hinh không lừa dối chị và đang muốn san sẻ nỗi đau với chị. Chị ôm con vào lòng. Lẽ nào con mồ cỏi chao Chị không muốn khóc nhưng nước mắt cứ trào ra. Chị nắm chặt tay Sáu Hỉnh, thổ lộ: "Anh Sáu? Tôi đau khổ lắm". Sáu Hinh chậm rãi "Tôi hiểu. Chị cố thắng keo nầy, nghe chị"
    Dì Bẩy chưa hay biết gì về việc kẻ địch sẽ kêu án tử hình Ba Cánh. Dì im lặng nhìn cháu. Dì không biết nói gì với nó. Nó là cháu ruột dì nhưng nó có cương vị cao hơn, trình độ chính trị giỏi hơn dì. Mặt khoe dì phải giữ nguyên tắc bảo mật, dì đâu có quyền phát ngôn về những gì liên quan đến hoạt động của Ba Cánh, chính trị viên ban quân sự thành đoàn. Dì khuyên Mỹ Lê:
    - Cháu ăn cháo gà rồi tắm rửa. Má cháu hẹn sẽ đến với cháu. Má hiểu tường tận về vụ Ba Cánh hơn dì.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 09 Tháng Sáu, 2010, 05:45:40 pm
     Có tiếng gõ cửa. Vừa trông thấy má, Mỹ Lê kêu "má" rồi chạy ào tới ôm lấy má, gục đầu vào vai má. Má Sáu Hoàn dìu Mỹ Lê ngồi xuống giường. Chị khóc, khóc thổn thức khóc nức nở. Má Sáu Hoàn cũng khóc, tay má vuốt tóc con gái. Tóc nó rụng nhiều, sợi cứng. Má vuốt lưng con. Chao ôi, nó gầy đến như thế này? Má hướng về phía cháu ngoại, bồng cháu. Con nhỏ hơn hai tháng tuổi mà nhỏ hơn hai dì và bốn cậu nó khi má mới sanh. Má sờ tay nắn chân cháu. Thôi, cứ có đầu, có đuôi nuôi lâu cũng lớn, má sẽ lo cho con gái và cháu ngoại của má. Má lấy khăn lau nước mắt cho con gái. Mỹ Lê cố nén tiếng nức nở để hỏi má về chồng mình:
    - Con thương anh quá má ơi? Con muốn nhìn mặt anh lần cuối mà không biết làm cách nào. Má kể tường tận trường hợp anh bị bắt cho con nghe.
    Má Sáu vuốt tóc con. Không có lời an ủi nào tốt nhất để sưởi ấm trái tim nó, xoa dịu nỗi đau thương của nó bằng cách kể về chồng nó. Ba Cánh đã xử sự đúng trong mọi trường hợp. Cái hôm vợ bị bắt, nếu Ba Cánh xốc nổi, hấp tấp là sẽ lỡ việc lớn. Anh đã đến các địa chỉ mà Tư Liên cho biết, thông báo kịp thời sự việc xảy ra. Chủ các gia đình nầy đều có cách khai báo với địch rành rọt:
    - Đúng, sáng nay cô giáo Liên đến gặp vợ chổng tôi. Cô phàn nàn là thằng nhỏ nhà tôi học kém lắm!
    - Có một cộ giáo ở trường tư thục Nguyễn Hoàng định hỏi mướn nhà. Cô trả giá rẻ, gia đình tôi không bằng lòng.
    Nhờ nắm trước tình hình, gia đình nào cũng chủ động đối phó, không sợ hãi, không né tránh trước những lời dò hỏi của địch nên không bị chúng nghi vấn. Má Sáu Hoàn thủ thỉ:
    - Từ sau ngày con bị bắt, thằng Ba càng ham chiến đấu. Tao ghi lại nguyên văn lời tuyên dương thằng Ba đây nè. Má Sáu trao cho con gái mảnh giấy. Tư Liên lẩm nhẩm đọc: "Đồng chí Ba Cánh, Chánh trị viên ban quân sự thành đoàn đã bám sát thành phố, đi sâu nghiên cứu, chỉ đạo lực lượng, cải tiến vũ khí, đề xuất cách đánh bồi, đánh nhồi để tiêu diệt giặc Mỹ cao hơn, đúng đối tượng hơn. Đồng chí Ba Cánh đã vận dụng lối đánh này trong nhiệm vụ tấn công khối cảnh sát dã chiến, kho Đại Phong của Mỹ và hàng chục điểm khác". Nét mặt Tư Liến thoáng tươi hơn. Cô hỏi má:
    - Đánh bồi, đánh nhồi là thế nào hả má?
    Má Sáu trả lời thành thật:
    - Tao đâu có hay về quân sự. Đại khái là thế nầy: Muốn đánh tụi sĩ quan Mỹ ở nhà ăn, thằng Ba cho nổ quả mìn thứ nhất ngay tại phòng. Những đứa sống sót chạy ùa ra cửa. Quả mìn hẹn giờ thứ hai nổ chậm hơn mìn trước nửa phút có hiệu quả diệt địch cao hơn.
    Tư Liên lộ ý hài lòng. Anh Ba không có tướng quân sự, tại sao anh nghĩ ra cách đánh hiểm như vậy? Cô lắng nghe má kể:
    - Đầu tháng 9 năm 1965, địch điều động một tiểu đoàn cảnh sát dã chiến về sân banh Cộng Hòa tập. Thằng Ba để ý quan sát. Tụi nó cứ xếp hàng tám đi từ sân banh về nhà thương Chợ Rẫy. Mấy đứa yêu cầu đặt mìn đánh tụi nó trên đường đi. Thằng Ba không đồng ý. Thành ủy đề ra ba yêu cầu khi đánh giặc, mấy chưa nghe phổ biến phải không? Đó là: "Bảo toàn lực lượng; bảo vệ dân; tiêu diệt sinh lực địch". Thằng Ba phân tích: "Đánh trên đường, tụi nó di đông, ta diệt được ít. Ta cũng khó lòng bảo đảm an toàn cho dân và điều kiện rút lui sau khi đánh cũng chưa thật thuận lợi". Thằng Ba đề nghị đặt mìn ngay sân banh đúng lúc tụi nó đi tập về vào khoảng 11 giờ trưa. Chỉ có những đứa con gái là dễ lảng vảng đến chỗ tụi nó vào giờ nầy. Bốn đứa: Con Sáu Vịnh, Ba Long, Năm Nhuận, út Thư được giao việc nầy. Mày có biết mấy đứa nhỏ đó không?
    - Dạ biết - Tư Liên trả lời.
    Chị hồi hộp theo dõi câu chuyện như hối nhỏ nghe má kể chuyện cổ tích. Thì ra anh Ba Cánh đã đắp sa bàn hướng dẫn mấy cô gái tập. Theo đơn đặt hàng, Ban hậu cần của má Sáu phải cung cấp mìn định hướng. Chú Mười Hùng đã đem mìn từ Củ Chi lên Long An giao cho hai chị em Lê Thị Hường và Nguyễn Thị Hoài đem vào thành. Ngày 29 tháng 9, bốn nữ chiến sĩ biệt động giả làm gái điếm đến làm quen với cảnh sát. Các cô gài mìn hẹn giờ cho nổ mười phút sau khi mấy cô rút lui. Không hiểu sao mìn không nổ. Trận đánh vậy là thất bại. Nếu địch phát hiện thấy cái túi mìn, tụi chúng nó sẽ cảnh giác đề phòng. Cô Ba Long đề nghị với Ba Cánh:
    - Anh cho em quay lại lấy. Bỏ hai quả mìn tiếc lắm!
    Ba Cánh đắn đo:
    - Nguy hiểm lắm. Mày đi là cầm chắc trong tay hai phần chết, một phắn sống. Mìn nổ, mấy sẽ hy sinh. Đó là một. Địch phát hiện được, nó sẽ xử bắn tại chỗ. Đó là hai.
    Ba Long khẳng khái:
    - Rủi có bị địch bắt, em ráng gánh chịu hết mọi tội, không khai báo cho ai. Trường hợp mìn nổ, em hy sinh nhưng không để vũ khí lọt vào tay giặc.
    Những cô gái khác đều xung phong nhận việc. Ba Cánh không thể làm thay mấy cô được. Thấy bóng anh lảng vảng gần nơi luyện tập, tụi cảnh sát sẽ xét hỏi ngay. Ba Cánh quyết định giao việc lấy mìn cho Năm Thuận và út Thư. Hai cô gái này đã trực tiếp được nghe đồng chí Nguyễn Văn Thành, một chuyên gia về vũ khí của biệt động, người cải tiến hoàn hảo đồng hố điện, hướng dẫn cách gài lại chết an toàn và khóa hãm khi mìn gặp sự cố. Năm Thuận và út Thư đã đem hai quả mìn rời khỏi sân banh Cộng Hòa trước gần ngàn con mắt của tụi cảnh sát ác ôn. Má Sáu Hoàn tiếp tục kể với con gái:
    - Ngày 01 tháng 10 năm 1965, thằng Ba bị bắt do bị chỉ điểm nhận mặt đúng vào thời điểm trận đánh tiếp theo ở sân banh Cộng Hòa quyết định vào 11 giờ trưa ngày mùng 2. Đã có ý kiến gợi ý là nên hoãn trận đánh. Nếu Ba Cánh khai ra; tụi địch sẽ bắt được một lúc bốn chiến sĩ biệt động cùng đầy đủ tang vật. Cả bốn đứa con gái đều xin đánh vì đều tin là Ba Cánh không thể là kẻ phản bội. Tụi nó đã trả thù cho đồng chí Chánh trị viên ban quân sự thành đoàn bằng cái chết của 42 tên cảnh sát ác ôn.
    Tư Liên ngồi lặng đi giờ lâu bên má. Cô trao đổi với má nhưng để nói lên nỗi lòng của mình:
    - Con đã giữ trọn lời hứa với anh khi vào tù. Chắc anh không bao giờ phụ lòng tin của má con con, má hè .
    Má Sáu hiểu là con mình đã vơi được nỗi buồn. Điều tất yếu là nó không bị gục ngã, nó phải đứng thẳng dậy. Má khéo léo nhắc lại lời ba dặn buổi chia tay:
    - Con là trụ cột của gia đình, con là tấm gương phản chiếu để dìu dắt các em.
    Bàn về tương lai các em, Tư Liên trả lời dứt khoát:
    - Cái tên Tư Liên bị lộ rồi. Từ ngày mai, con sẽ đăng ký lãi bí danh là Mười Dương. Con không làm nhục dòng họ Dương của chúng ta đâu. Má rút các em con lên dần, dìu dắt cho tụi nó tham gia chiến đấu. Trước hết, má hãy đưa thằng Ba Vĩ lên ở cùng má.
    Má Sáu Hoàn hứa sẽ nghe lời con. Má rất mừng vì con gái má còn tỉnh táo, sáng suốt và rất kiên quyết đánh địch. Má muốn chích thêm cho con liếu thuốc bổ nữa. Má khoe :
    - Má đã mua nhà ở cầu Cây Gỗ . Má với Mười Tuân cùng sống chung để trông coi kho vũ khí. Thành đoàn đã ra lệnh điều động Ba Vĩ và kết nạp Tư Linh vào tổ chức.
    "Má?". Má đối với Mỹ Lê sao gần gũi, thân thương quá mức. Má đã hành động rất đúng. Trong lúc hai con gái, con rể và cả cháu ngoại má ở tù , má đã đưa nốt ba đứa con trai vào trận, đã dùng nhà mình làm kho vũ khí. Má không chỉ là mẹ đẻ mà còn là đồng chí vô cùng tin cậy của chị. Tư Linh đi học về. Cậu chạy ùa vào phòng, chào:
    - Má mới tới. Chị Hai! Cháu đâu?
    Má Sáu Hoàn nẹt vui con trai:
    - Chị Hai mấy mới ở tù ra, mấy không hỏi câu nào sao? Mày chỉ quan tâm tới cháu thôi à?
    Tư Linh cười, thanh minh :
    - Chị Hai biết nói, con sẽ hỏi chuyện chị sau. Còn nhỏ này chưa nói được nên con phải hỏi nó trước.
    Tư Linh cúi xuống bồng cháu.
    Đôi tay lực lưỡng của cậu không nâng nổi bé Tranh lên khỏi giường. Cháu cậu nhỏ quá đầu ngoẹo về một bên, chân tay lõng thõng nên cậu sợ cháu đau, sợ làm cháu ngã. Dì Bẩy ẵm gọn cháu đặt nó vào hai tay Tư Linh. Tư Linh lóng ngóng, gồng hai tay, lên gân như người đang cử tạ. Cậu quay về phía chị ruột:
    - Con nhỏ tên là Tranh phải không chị?
    Mỹ Lê xác nhận:
    - Nếu chị sanh con trai, mấy má bắt đặt tên là Vũ.
    - Đúng quá rồi! Đấu tranh vũ trang. Chị về, chị cho em tham gia lực lượng vũ trang nghe!
    Cậu trao cháu cho má, nắn cánh tay chị. Tay chị nhỏ như ống sậy, chưa bằng nửa tay cậu. Tụi nó hành hạ chị cậu, cậu phải trả thù. Dì Bẩy là bà chủ nhà chu đáo, tế nhị. Mãi lúc này dì mới đưa dượng Bẩy và các em vào thăm Mỹ Lê. Dượng Bẩy điềm đạm, lịch sự, không can thiệp vào việc riêng của vợ tuy ông biết rõ vợ ông là cán bộ phụ nữ hồi chín năm kháng chiến chống Pháp cùng chị ruột, anh rể vợ và các cháu hoạt động nhưng ông làm ngơ. ông tuyên bố:
    - Chị Sáu để má con Mỹ Lê ở đây với tụi tôi. Dượng Bẩy, dì Bẩy sẽ lo tẩm bổ sức khỏe cho cháu.
    Dì Bẩy xởi lởi:
    - Việc đó sẽ do chị Sáu và Mỹ Lê quyết định. Xin mời cả nhà. Dì Bẩy, dượng Bẩy làm tiệc đón Mỹ Lê khỏi tù và mừng cháu Tranh.
    Ngồi dự tiệc, đầu óc má Sáu suy nghĩ mông lung. Má nên quyết định số phận con gái thế nào? Để má con nó sống với dì Bẩy, dượng Bẩy. Không nên. Nếu chỉ xét đơn thuần về mặt vật chất, chắc chắn má con Mỹ Lê không tìm ra nơi nào lý tưởng hơn ở đây, nhưng làm như thế là mạo hiểm, là mất cảnh giác. Chắc chắn không đời nào kẻ địch buông tha Mỹ Lê. Bằng mọi thủ đoạn, chúng sẽ bám sát nhất cử nhất động của Mỹ Lê và từ Mỹ Lê, cái cơ sở tuyệt vời của dì Bầy sẽ đổ vỡ hoặc ít nhất cũng bị "thối", không sử dụng được nữa. Má Sáu Hoàn trao đổi riêng với con gái. Mỹ Lê gợi ý:
    - Con tính đưa bé Tranh về Cần Thơ. Cô Năm cùng phụ với con chăm sóc cháu Cánh, cháu Tranh. Bà mẹ lắc đầu:
    - Phương án đó không hay đâu. Thằng Ba Cánh bị bắt. Nếu tin của Sáu Hình là đúng, tụi nó sẽ kêu tử hình thằng Ba nên tụi nó sẽ dò tìm mọi việc liên quan tới chồng con. Con về Cần Thơ là sẽ tự mình chui vào bẫy của tụi nó.
    Mỹ Lê không thể phản bác những ý kiến phân tích khá chính xác của má, cô bàn:
    - Con nên về chỗ chị Năm Trăng hay cùng sống với Thu Hồng, Xuân Hồng hả má?
    - Không nên  đâu con ạ. Sức con quá yếu, yếu lắm. Về với các bạn, con không có điều kiện nghỉ ngơi, tẩm bổ. Cháu Tranh suy kiệt quá rồi. Con không đủ sức chăm sóc cháu đầu. Má tính là con nên vô cứ. –
    - Má? Con không vô cứ. Con phải ở lại Sài Gòn để trả thù cho chồng con, cho Mỹ Hòa.
    Má Sáu Hoàn thấu hiểu tâm trạng rối bời của con gái. Nó mới thoát cảnh tù ngục vài tiếng đồng. Hơn ai hết, nó căm thù những kẻ tạo ra chế độ lao tù khốc liệt đã đầy đọa má con nó. Nó nhớ đứa con đầu lòng. Nó thương chồng vô hạn, nó thích lao vào công tác ngay tức khắc nhưng sức khỏe của nó suy sụp quá rồi. Má thuyết phục con với giọng nghiêm khắc như ra lệnh:
    - Con mới ở tù ra. Về nguyên tắc, con phải báo cáo với tổ chức những gì đã đến với con trong thời gian con bị địch bắt.
    Điều này thì Mỹ Lê thừa nhận má nói đúng. Lâu nay, bất cứ cán bộ to hay nhỏ, bị sa vào tay địch vài giờ, vài tháng hay vài năm đểu không được trở lại sinh hoạt nếu chưa kiểm điểm trước tổ chức. Mỹ Lê không thể dựa vào thân hình tiều tụy và đứa con nặng chưa quá 2 kilôgam của mình để đòi hỏi có ngoại lệ. Cô chấp thuận gợi ý của má bằng câu hỏi:
    - Theo ý má, bao giờ con nên vào cứ? Con có nên đem theo bé Tranh không?
    - Má con ta cần bảo vệ dượng Bẩy, dì Bẩy, đừng lạm dụng lòng tốt của dì, dượng. Nếu con không phản đối, má con ta sẽ rời khỏi đây ngay. Tụi nó đang theo dõi con. Con phải thoát khỏi đây sớm phút nào hay phút ấy. Má sẽ lo cho bé Tranh.
    - Má? Tại sao vậy? Vì sao má không cho con mang theo con của con?
    - Má tính rồi. Con nhỏ Hai Tập, con dì út Khuê mới sanh con đầu lòng. Sữa Hai Tập tốt lắm. Hai Tập đống ý nhận nuôi bé Tranh.
    Mỹ Lê không cãi lại má. Ý kiến của má rất hay, vừa hợp tình, vừa hợp lý nhưng. Trời ơi, chị làm sao bỏ con lại được? Đứa con đầu mới có ba tháng tuổi, chị buộc phải giao con lại cho cô ruột của chồng. Bây giờ, lẽ nào chị xa rời đứa con thứ hai còn đỏ hỏn, chưa được hai tháng tuổi, chưa một lần được bú dòng sữa mẹ. Có người mẹ nào trên trái đất này lại đoảng, lại nhẫn tâm như chị không? Chị thương bé Tranh quá! Dù sao, bé Cánh cũng nằm trong bàn tay săn sóc của Nội, của bà con ruột thịt còn bé Tranh thì sao? Mới hai tháng tuổi, nó đã có hơn chục má nuôi ở trong tù và giờ đây lại sắp có má nuôi mới là dì Hai Tập. Má đã tính toán đúng. Nếu không được bú sữa mẹ, bé Tranh không thể cứng cáp được. Tuy rất đau khổ, Mỹ Lê buộc phải chấp thuận cách sắp xếp của má. Cô giao hẹn:
    - Nếu có tin tức của anh Ba hoặc bé Tranh trái gió trở giời má báo ngay cho con.
    Má Sáu gật đầu. Mỹ Lê gạt nước mắt rời khỏi nhà. Sáng hôm sau chị đã có mặt ở cứ đúng theo dự kiến của má Sáu Hoàn.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 09 Tháng Sáu, 2010, 05:53:13 pm
22
    Tiếng chuông điện thoại reo. Chánh văn phòng Dương Văn Đấu nhấc ống nghe, giọng từ tốn:
    - Thưa ai ở đầu dây đó!
    - Tôi đề nghị được gặp đồng chí Dương Văn Đấu tức Bẩy Đấu.
    Người ở đầu dây bên kia nói giọng Bắc, tại sao lại biết ông thứ bảy. Hình như ông chưa trò chuyện với người này lẩn nào nên ông không nhận ra âm tiết quen thuộc trong giọng nói. Ông đáp:
    - Thưa tôi là Bẩy Đấu đây.
    - Anh Bẩy, tôi là Thái Duy tức Trần Đình Vân. Tôi mới ở vùng giáp ranh Sài Gòn ra tới Hà Nội. Tôi có tin mới về cháu Dương Mỹ Hòa.
    - Cám ơn anh. Anh cho tôi gặp mặt được không?
    - Nếu anh không bận, tôi đến với anh ngay.
    - Tôi cho xe đón anh nhé?
    - Không cần. Tôi là dân Hà Nội, tôi thuộc đường và đi xe đạp rất giỏi.
    - Anh biết chỗ tôi rồi chớ? Tôi chờ anh.
    Ông Dương Văn Đấu tạt ngay sang phòng bên cạnh. ông cần biết người khách mà ông sắp tiếp là ai. Vụ trưởng vụ tuyên truyền của Bộ giới thiệu luôn:
    - Thái Duy là nhà báo có tên tuổi của nước ta. Nhìn bề ngoài, Thái Duy có vẻ thư sinh, nho nhã nhưng sức đi, sức viết của ông khó ai địch nổi. Ông là phóng viên báo Cứu quốc tham dự từ đầu tới cuối chiến dịch Điện Biên Phủ, ông lặn lội ở chiến trường miền Nam nhiều năm. Thái Duy còn tự giới thiệu là Trần Đình Vân?
    - Chắc là bút danh thôi. Mấy ông nhà văn, nhà báo nổi tiếng ở miền Bắc vào Nam phải đăng ký tên mới ví dụ như Nguyễn Ngọc Tấn lấy tên là Nguyễn Thi.
    Ông Bẩy Đấu quay về phòng làm việc. ông lau ấm, tráng chén để pha chè mới, đặt phin pha cà phê, kẹo bánh, thuốc lá trên bàn. À, ông còn chai rượu thuốc nữa. ông không dùng của công mà lấy tiêu chuẩn riêng của ông để đãi khách từ chiến trường ra và chờ đón tin tức về đứa con gái thứ hai của ông. Năm 1965 này, con Mỹ Hòa tròn 20 tuổi. Tuy vợ ông, các con ông cố ý giấu tin Mỹ Hòa bị bắt nhưng ông dã nắm được chuyện này qua thông tin của bè bạn. Làm cách nào Thái Duy có tin của Mỹ Hòa? Hay là con gái ông vượt ngục? Có tiếng gõ cửa. ông nhận ra khách là ai, không chỉ vì có hẹn trước mà do cách tả chân dung khá sinh động của Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền. Thái Duy trạc cỡ tuổi ông, có đôi lông mày rất râm, da trắng, với nụ cười tươi, hóm hỉnh. ông chìa tay về phía khách:
    - Chào anh! Tôi là Bẩy Đấu.
    - Tôi đã nghe kể về anh Bẩy. Tôi tường anh già hơn. Anh đã lên chức ông ngoại rồi phải không?
    - Vâng? Mỹ Hòa là con thứ hai của tôi. Tôi gần 50 tuổi rồi. Ở quê tôi, nhiều người mới 40 tuổi đã làm ông, làm bà rồi.
    Thái Duy cười :
    - Tôi cùng tuổi với anh mới đang chuẩn bị.làm bố.
    - Anh lấy vợ muộn?
    - Vì chiến tranh và do quá mê nghề nên tôi "quên" lấy vợ. Khi nhớ ra, mình đã già rồi.
    - Mời anh. Anh gặp cháu Mỹ Hòa ở đâu?
    - Anh Bẩy Anh có theo dõi vụ anh Nguyễn Văn Trỗi không?
    - Có. Không chỉ dân Hà Nội mà cả nước ta và toàn thế giới đều khâm phục Nguyễn Văn Trỗi. Nếu anh Trỗi giết được Mác Namara thì thật là tuyệt vời.
    - Cháu Dương Mỹ Hòa có liên quan đến vụ anh Nguyễn Văn Trỗi.
    - Sao lạ vầy. Theo tin tức mà tôi nắm được thì khi Nguyễn Văn Trỗi bị bắt, Mỹ Hòa đang ở tù.
    - Tôi đã gặp Phan Thị Quyên, vợ anh Trỗi. Những ngày ở tù người mà cháu Quyên khâm phục nhất là Mỹ Hòa. Trong tác phẩm "Sống như Anh" với bút danh là Trần Đình Vân,tôi đã dành những trang nói về nhân vật Y tức là cháu dương Mỹ Hòa. Tuần sau, tác phẩm sẽ đến với độc giả. anh sẽ là độc giả đầu tiên tác giả gửi tặng sách.
    - Xin cám ơn trước. Để thỏa lòng khao khát của người cha, xin anh cho tôi nghe một đôi điều về cháu.
    Theo Thái Duy thì Phan Thị Quyên khá dịu dàng. Cô là nữ sinh, người nhỏ, da trắng, thuộc loại xinh gái. Khi bị địch bắt, Quyên lo sợ, rụt rè, bỡ ngỡ. Cô chưa có khái niệm thế nào là Việt cộng. Lần đầu tiên bị giam trong xà lim chung với các nữ Việt cộng, Quyên vô cùng khám phục, thích gần gũi trò chuyện với Y, người mà chị em trong tù thường gọi là Tâm (sau này khi ra tù, đi tham gia cách mạng, vào Đảng, lấy chồng mới, Phan Thị Quyên đã chọn tên là Tâm. Tâm là hình ảnh cô gái tuyệt vời mà Quyên nguyện sẽ tôn sùng suốt đời mình. Tâm kém Quyên một tuổi nhưng Quyên luôn gọi Tâm là chị vẻ kính nể đặc biệt.
    Cuộc trò chuyện với nhà báo, nhà văn Thái Duy tức Trần Đình Vân đã đọng lại trong ông Bẩy Đấu ấn tượng đặc biệt. Ông tự hào về con ông, ông phải ăn ở sao cho khỏi hổ thẹn khi gặp lại vợ và các con ông. Ông lấy giấy bút ghi lại chi tiết thú vị về người khách quý của gia đình họ Dương để gửi thư cho vợ. Đầu năm 1966, má Sáu Hoàn nhận được thư chồng. Mỹ Lê đã trở lại Sài Gòn công tác. Chị đã có da, có thịt. Má hỏi con gái:
    - Con biết chuyện anh Nguyễn Văn Trỗi đặt mìn ở cầu Công Lý để giết tên bộ trưởng chiến tranh Mỹ Mác Namara khôn?'
    - Dạ, con biết.
    - Con Mỹ Hòa có liên quan đến vụ đó.
    Mười Dương vẫn gọi tên em ruột theo bí danh:
    - Có tin tức về Bẩy Thi à má? Mà sao em con lại liên quan tới vụ anh Trỗi? Con nhớ là anh Trỗi bị bắt sau Bẩy Thi.
    Má Sáu lại trao cho con một tài liệu mới?
    - Má mới nhận được thư của ba con. Nhà văn Trần Đình Vân mới cho xuất bản tháng 7 năm 1965 cuốn "Sống như Anh" do chị Phan Thị Quyên kể. Nhà văn tặng ba con cuốn sách, báo cho ba biết: Chị Y trong sách tên thật là Dương Mỹ Hòa, bí danh là Tâm. Ba con chưa kịp gởi sách vào Ba con chép đoạn viết về Mỹ Hòa. Các anh ở cứ nghe đài Hà Nội cũng chép được nội dung đúng như thế này.
    Mười Dương đọc ngấu nghiến những dòng chữ viết về em gái của chị. Chao ôi! Bẩy Thi dũng cảm quá. Chị đâu có ngờ sức chịu đựng của đứa em bé bỏng đạt tới mức độ ấy. Chị Phan Thị Quyên, vợ anh Trỗi kể:
    - Hai ngày sau khi tới nhà giam Tổng nha, tôi vẫn chưa làm quen được với ai. Tôi bị nhốt trong xà lim cùng hơn mười chị trong dó có hai người 20 tuổi là A và Y. Riêng Y đã qua nhiều cực hình vì chúng đã khám thấy tài liệu và cờ Mặt trận tại nơi chị làm việc. Sáng nay, ở trên phòng tra tấn về, Y cố men theo tường nhà giam, lê từng bước một. Mười đầu ngón tay Y bị chúng đóng đinh nên máu chảy ròng ròng. Vừa bước chân vào tới xà lim, Y gục vào tay mấy chị khóc rưng rức. Không để các chị phải dỗ nhiều Y cố nói, rồi lại khóc:
    - Để cho em khóc một chút. Về đây có chị, có em, em mới khóc, chứ trước mặt chúng nó, em không bao giờ khóc; trước mặt chúng nó, em phải khinh chúng nó.
    Buổi chiều, cơm nước xong, từ giữa nhà giam vang lên tiếng hát. Một chị xong từng câu, các chị khác lại se sẽ hát theo. Cả Y nữa. Nhìn thân thể, mặt mũi Y mang nhiều thương tích, tôi xưởng chị chỉ có rên thôi, chứ hát sao nổi? Y ngồi dựa vào song sắt nhìn vào phía trong xà lim, hát thật say mê, bàn tay bầm nát buộc giẻ đánh nhịp lên xuống. Y hát xong một đoạn, bảo tôi, khi thấy hai mắt tôi vẫn đỏ hoe.
    - Đấy mọi người hát vui như thế mà chị vẫn buồn à. Nín đi, hát theo cho vui.
    Tôi không dám khóc nữa. Trong không khí lạc quan của nhà tù, tự nhiên tôi thấy mình lạc lõng quá. Nhìn Y, tôi thấy ngượng. Y thực sự yêu đời. Tôi tin ở chị. Chị hỏi tôi chuyện gì tôi cũng nói. Khi nghe đến tên chồng tôi, Y hết sức ngạc nhiên, vội hỏi:
    - Anh Nguyễn Văn Trỗi à? Chị là vợ anh Trỗi, người giết hụt Mác Namara phải khòng?
    - Dạ? Anh ấy nhảy lầu bị gậy chân, phải không?
    - Dạ, tôi đã vào nhà thương thăm anh.
    - Trời ơi! Y thết lên như vậy, nhìn tôi thông cảm, bàn tay sưng tấy quờ quạng trên vai tôi ".
    Mười Dương đặt tờ giấy sang một bên. Chị hình dung ra cảnh Mỹ Hòa bị đóng đinh vào mười đầu ngón tay và đôi bàn tay đó đưa lên bắt nhịp hát và cũng đôi bàn tay băng bó đó quờ quạng trên vai chị Quyên. Bẩy Thi gan góc quá. Bẩy Thi đã giữ trọn lời thề trước khi vào Đảng. Năm 1954, ba đi tập kết, gia đình họ Dương mới chỉ có hai đảng viên, 11 năm sau con số đó đã lên tới năm người kể cả anh Ba Cánh. "Phải làm thế nào dìu dắt các em con theo con đường ba má và chúng con đã ñó", Mười Dương nhắc lại ý của mình, khuyên má đón các em lên chung sống với má. Má Sáu Hoàn hứa làm theo lời con gái.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 09 Tháng Sáu, 2010, 05:59:29 pm
23
     Má sáu Hoàn quyết tâm đưa tất cả các con lên Sài Gòn nhưng đưa như thế nào, cho chúng nó ở đâu là vấn đế cần tính toán kỹ. Má có nhiều nhà lắm, mỗi kho vũ khí là một nhà. Má mới mua nhà số 46 đường Bình Thới. Với người dân bình thường, việc đón Ba Vĩ, Bẩy Thiện, út Hiếu lên sống chung với má và Mười Tuân trong căn nhà mới mua chả có gì phải bàn cãi. Má chỉ cần viết thư về Gò Công, ghi rõ địa chỉ vẽ đường đi là các con má sẽ tìm đến nơi ngay. Má đâu có thể làm như thế? Nếu má bị bắt, tụi nó sẽ vồ cùng một lúc ba đứa con của má nên má phải cảnh giác. Má không thể giao út Hiếu cho Mỹ Lê . Con đó bận trăm công, bàn việc, nếu có giờ rảnh rỗi lại phải đến săn sóc bé Tranh. Má quyết định gởi út Hiếu cho dì út Khuê. Không hiểu sao, trong số vài chục cơ sở đã gây dựng được, má tín dì út uê hơn cả. Dì ít học, nghèo túng song dì phân biệt địch ta rất rành rẽ. Sống trong lòng địch, dì trò chuyện, cười đùa với lính Mỹ, ngụy, cảnh sát khá thoải mái song dì chưa hề mắc mưu chúng. Dì có cách dạy dỗ con cháu bằng những lời khuyên nhỏ nhẹ, ngọt ngào. Dì đã dìu dắt Mười Tuân trưởng thành. Khi trả Mười Tuân cho má Sáu, dì giao hẹn với má, buộc má phải thế chân út Hiếu vào chỗ anh ruột. Năm 1966, út Hiếu đã 11 tuổi, con nhỏ sẽ phụ giúp với chị Hai Tập trông nom cháu Tranh. Với thằng Ba Vĩ, má yên tâm hơn. Thằng đó có tính tự lập từ nhỏ. Má sẽ bàn với Mỹ Lê cho nó thi vào trường nào đó để nó ăn ở nội trú trong trường. Má chỉ gánh mình Mười Tuân. Thằng Mười thế mà được việc. Nó không láu táu như má thường đánh giá. Nó có khiếu quan sát biết giữ mồm giữ miệng. Hôm đến thăm dì út Khuê, cậu Mười quấn lấy cháu Tranh không muốn về với má nữa. Cậu bồng cháu. Cháu nhỏ sanh trong tù thích nghi với hoàn cảnh má con sống cùng xà lim chật chội, nóng bức, hôi bẩn, ăn cơm hẩm của tù nhân mớm nên nó không khóc. Gần đây, nó hay bị ốm, hay quấy, cậu không dỗ nổi cháu, cùng khóc với cháu. Buồn cười nhất là khi cháu bĩnh ra quần cậu, cậu hét toáng lên nhưng không dám xê dịch sợ phân bắn tung tóe khắp nhà, phân dính vào người cháu. Dì út Khuê giúp Mười Tuân. Cậu phải trốn trong buồng tắm chờ má út giặt, rồi là cho khô quần mới dám ra về . Cậu viết thư về Gò Công, kể cho anh Ba Vĩ, Bẩy Thiện và út Hiếu mọi chuyện ngộ nghĩnh của bé Tranh mà cậu cảm nhận được. Má Sáu Hoàn trao đổi với dì út Khuê về tương lai của Mười Tuân. Dì khen thằng nhỏ hết lời, có nhận xét tốt về Mười Tuân, khuyên chị Sáu cần giao việc cho Mười Tuân, việc nhỏ trước, việc lớn sau. Má Sáu chưa trả lời ngay. Xét về tâm lý của người mẹ, má không muốn để con mình dấn thân vào nơi nguy hiểm. Ba đứa con vào tù, má đã đau lòng lắm rồi. Nghĩ đến ngày đứa con trai áp út của má rơi vào tay giặc, má muốn ôm ghì đứa con bé bỏng của má vào lòng, thủ thỉ bên tai nó:
    - Ba con có bằng kỹ sư. Cực khổ tới mấy, má cũng ráng nuôi con ăn học, để con cố giật về cho má bằng tú tài, cử nhân. Con ơi, con hiểu cho má.
    Má nhớ tới lời dặn dò của chồng hôm chia tay. Anh đâu có yêu cầu mình cho con tham gia cách mạng mà chỉ hy vọng mình nuôi con khôn lớn, trở nên người lương thiện. Má tự cười, tự chế giễu mình. Anh nêu cho mình yêu cầu thấp nhất lẽ nào khi có điều kiện thực hiện mục tiêu cao hơn, mình lại bỏ qua. Bản lĩnh của người mẹ là đảng viên cộng sản đã thôi thúc má vượt cao hơn một người mẹ đơn thuần. Má mua ngôi nhà ở đường Bình Thới. Hai má con trở thành chủ nhân kho vũ khí. Thằng Mười Tuân giúp má đào hầm, cất vũ khí. Má sắm cho con chiếc xe đạp. Thằng Mười Tuân chở má đi nơi nầy, nơi khác. Trong một chuyến công tác, Mười Tuân rụt rè hỏi má:
    - Má có để dành được nhiều tiền không?
    Má không trả lời thẳng vào câu hỏi của con. Má muốn tìm hiểu con có ý định dùng tiền vào việc gì? Má hỏi với giọng dịu dàng:
    - Con cần nhiều hay ít tiền? Con định làm gì vậy?
    - Mua xe gắn máy, má ạ!
    Má Sáu Hoàn chưa đoán được ý ngay. Thằng bé sinh tháng 11 năm 1953, năm 1966    nầy nó vừa bước vào tuổi 13, sao đã đua đòi? Hồi ở Gò Công lên, nó đâu đã biết đi xe đạp. Cố dằn lời từ chối lại, má Sáu thăm dò con:
    - Con tính mua xe gắn máy làm gì? Má con mình có việc gì gấp và có phải đi xa đâu?
    Mười Tuân nói những điếu đã dự kiến với má:
    - Con đã tính rồi. Trong chiếc xe gắn máy có đủ chỗ giấu sáu khẩu súng ngắn hoặc bốn kilôgam thuốc nổ. Má giao cho con vận chuyển vũ khí bằng xe gắn máy.
    Trời Cái thằng con má! Không có việc nào má làm không lọt qua cặp mắt theo dõi của nó. Nó biết các bác, các chú giấu súng trong đệm xe lam, nó hiểu má nó chở tủ hai ngăn từ đâu về, đem đi đâu, dùng vào việc gì. Lâu nay má chưa giao việc lớn cho nó. Nó chỉ sắm vai một liên lạc viên chuyển thư từ, tài hiệu. Từ giữa năm 1966, má giao cho con chuyển vũ khí. Đó là những khối thuốc nổ được ngụy trang khéo, đặt trong hộp xà bông của Mỹ. Một vài lần, nó ngồi xe lam đến giao xoài cho dì Năm làm nghề buôn trái cây. Với cặp mắt tinh nhanh, với khiếu quan sát đặc biệt, thằng Mười Tuân phát hiện được má giấu gì dưới cái giỏ xoài và trong các lớp đệm xe lam. Sau những chuyến đi chở từng bao tải than vẻ bề ngoài là dự trữ chất đốt về nhà, Mười Tuân nói thẳng với má:
    - Má chưa thật tin con. Má phải bảo thẳng việc cho con để con còn biết mà xử trí khi tình huống bất trắc xảy ra chớ.
    Má ngẫm nghĩ từng lời của đứa con. Có thể má chưa thật khách quan trong việc đánh giá bước trưởng thành của con. Có người mẹ nào dám nhận xét là con mình đã lớn, không còn cần đến sự che chở của mình khi đứa con đó chưa đủ 14 tuổi không? Má vẫn cho Mười Tuân còn khờ dại, nhưng lời đề nghị mua xe của nó thật đúng đắn. Không có ai chỉ bảo cho nó. Đây chắc là sáng kiến riêng của nó xuất phát từ những lần nó nhìn thấy vũ khí giấu trong đệm xe lam. Má Sáu Hoàn trả lời con:
    - Để má tính xem có còn đủ tiền không?
    Đọc được nét thất vọng trên nét mặt con, má khẳng định:
    - Con hỏi thử xem có nơi nào bán xe. Dứt khoát má sẽ mua cho con.
    Má hạ thấp giọng, giọng của vị chỉ huy nói với chiến sĩ biệt động:
    - Má không hiểu gì về xe. Con mua loại xe nào được như ý con nêu với má là đạt yêu cầu.
    Thằng Mười Tuân đưa xe về. Mỗi chuyến đi nhận vũ khí về gặp hay không gặp bất trắc dọc đường, nó đều kể chuyện với má thay cho báo cáo:
    - Bữa nay tụi nó khám riết, lục soát mọi chiếc xe, kiểm tra mọi hành khách. Con giả bộ làm xe chết máy ở cách chỗ nó 50 mét. Con lúi húi chữa, chữa xong lại đạp nhiều lần mà xe vẫn không nổ máy. Con lấy phụ tùng tháo mấy bộ phận ra lại lắp vào, lại đạp. Xe vẫn không có tiếng nổ. Má tính, con lắp bugi hở thì làm sao bắt được lửa.
    Má Sáu Hoàn không hiểu gì về xe. Má càng không biết cái bugi ở chỗ nào, bắt lửa ra sao. Nhưng má nắm được tình lệnh lúc đó. Thằng con má thi gan với kẻ địch. Nó không chạy trốn, mặt không biến sắc, dám ngồi bình tĩnh ngay sát nách địch để chữa xe. Má hỏi con không giấu nổi vẻ tò mò :
     - Rồi sau đó tụi nó có kiểm soát không?
     - Đâu có má? Tụi nó mà khám, con đâu có thoát. Bữa nay nhiều hàng, con để cả K.54 trong hộp phụ tùng.
    - Sao con liều vậy.
    - Con nhận khuyết điểm. Con hứa với má là sẽ cẩn thận hơn. Con sửa xe chừng 30 phút để cho tụi cảnh sát thấy rõ hoàn cảnh con. Lúc con dắt xe qua trạm kiểm soát, mặt con đẫm mỗ hôi. Thằng thiếu úy cảnh sát còn trêu con: "Có xin tiến má đem theo không, cậu em? Qua sẵn sàng cho em mượn với điều kiện biểu chị em đem tiền trả cho qua". Con trả lời "Cám ơn anh Hai!" rồi ung dung dắt xe qua trạm kiểm soát
    Ít hôm sau, Mười Tuân lại khoe:
    - Má à! Bữa nay con mất cả ngày lượn xe vòng vèo khấp thành phố.
    - Để làm gì vậy?
    - Đêm qua, tự nhiên trong óc con nảy ra câu hỏi: "Tuân à, nếu cấp chỉ huy giao cho anh đi từ xa cảng miền Đông sang xa cảng miến Tây không qua vọng gác nào của địch, anh có làm nổi không?". Sáng nay con quyết định đi thử.
    Thế đó, thằng Mười Tuân có năng khiếu hoạt động trong lòng địch, bằng cách này hay cách khác, nó đưa tin tức các anh chị nó về cho má. Những ngày trước cuộc tiến công tết Mậu Thân năm 1968, má và Mười Tuân ít khi được ăn cùng mâm. Mười Tuân lo chuyển vũ khí về, còn má lại bận phân phối súng, đạn, thuốc nổ theo đơn đặt hàng của các đội biệt động. Má không chê tránh mấy ông chỉ huy biệt động đã được voi đòi tiên, được cấp đủ trung liên, tiểu liên, súng trường, súng lục với nhiều cơ số đạn mà vẫn nài nỉ má:
    - Chị Sáu ưu tiên cho tụi em ba quả mìn đinh hướng.
    - Đồng chí dì Sáu ơi, tụi con không cần thuốc nổ TNT. Dì cho tụi con nhận loại C4.
    Má không có sổ sách thống kê nhưng má nhớ rành rẽ số lượng, chất lượng từng loại vũ khí chứa trong hàng chục kho của má. Từ ngày nhận chức Chỉ huy phó ban chỉ huy quân sự thành đoàn, kiến thức quân sự của má được nâng cao dần. Khi tham gia duyệt các phương án tác chiến, má nêu rõ tính năng tác dụng từng loại vũ khí mà má sẽ cấp phát cho người chỉ huy trận đánh. Lần đó, má đang trò chuyện với sư cô Nguyễn Thị Nhàn thì được tin địch bắn rốc két vào xã Bình Thới. Má vội vã từ biệt. Hai Thưởng dắt xe đạp ra khỏi nhà:
    - Con đèo dì Sáu về.
    Má Sáu lắc đầu:
    - Nhà dì có khạp (chum) thuốc nổ. Dì không rõ em Mười Tuân đang ở đâu? Nhà dì có bị cháy không? Cảnh sát có khui ra kho vũ khí không? Con đi cùng dì e bất lợi cho cả đôi.
    Ở trong lòng địch, nhất cử, nhất động, má Sáu đều phải tính toán. Má xuống xích lô ở xa khu vực bị cháy. Má trà trộn vào đám đông nghe ngóng. Không ai nói đến tiếng nổ nào đã xảy ra. Má yên tâm, đảo mắt về hướng nhà mình. Nhà má đây rồi. Má rảo bước. Thằng Mười Tuân mồ hôi ướt đầm áo, mặt đầy nhọ than, quần áo rách bươm, lấm lem đất bụi ra đón má với nụ cười tươi rói:
    - Má! An toàn tuyệt đối. May mà con về kịp.
    Thằng Mười Tuân có xe gắn máy dễ cơ động hơn. Thấy đám cháy lan ra rất nhanh vì khu dính đạn rốc két của Mỹ toàn nhà tre, lá khiến Mười Tuân phát hoảng. Cậu không hề nghĩ tới tài sản trong nhà, tới chiếc xe gắn máy mà chỉ lo cho khạp thuốc nổ. Cậu làm sao di chuyển nổi gần ba trăm kilôgam thuốc nổ thoát khỏi vùng nguy hiểm? Nếu khối thuốc này mà nổ thì ít nhất có vài trăm người dân chết hoặc bị thương. Cậu bần thần lo lắng. Cậu không thể xin ý kiến bất cứ ai về mối nguy hiểm chết người đang ở trong nhà cậu. Má đi đâu vầy. Nếu có cách nào gặp má, xin ý kiến của má? Nếu má ở nhà má sẽ giải quyết vụ này như thế nào? Một ý nghĩ khác chợt lóe lên trong cậu và cậu thực hiện ngay tức khắc. Cậu xô đổ nhà. Nhà cậu lợp tôn. Như cái máy, cậu dựng những tấm tôn thành hàng rào ngăn lửa, vứt cột kêo gỗ ra xa nhà. Sáng kiến của thằng bé 13 tuổi được những nhà lân cận bắt chước. Bây giờ thì không ai nghĩ đèn nhà anh, nhà tôi mà đều tập trung sức lo cho nhà chúng ta. Người ta gọi nhau đưa những tấm tôn đến dựng thành mấy lớp hàng rào. Người ta hè nhau khiêng, vác, lôi, kéo những vật bắt lửa ra xa nhà, kể cả giường gỗ, tủ gỗ. Kỳ lạ thay, sức người đã chăn đứng được ngọn lửa hung tàn. Đám cháy lụi dần, lụi dần. Từ khu vực chữa cháy về, Mười Tuân đặt mâm, bát, nồi, xoong và cả chiếc xe gắn máy lên cái nền nhà trống trải với mục đích ngụy trang nắp hầm. Má Sáu Hoàn hướng cặp mắt âu yếm về phía con. Thằng bé tinh khôn, giỏi giang quá? Đặt giả thuyết nếu . hôm nay nó đi vắng, chuyện gì sẽ xảy ra? Má rùng mình khi nghĩ tới tiếng nổ long trời lở đất và xác chết của những người dân vô tội nằm la liệt khắp nơi. Không chậm trễ, cái báo ở Sài Gòn sẽ tường thuật về vụ giết người hàng loạt này và sẽ quy kết mọi tội lỗi vào tên nữ Việt cộng Sáu Hoàn cùng với đứa con là Mười Tuân. Má rất muốn cảm ơn Mười Tuân. Nó đã lập công lớn. Nhờ có nó cứu một bàn thua trông thấy. Mỹ ngụy đã không có chứng cớ để làm rùm beng về tội ác của Việt cộng hòng lấp liếm tai họa mà chúng đã trút xuống đầu người dân Bình Thới. Má Sáu Hoàn cùng với con trai lo thu dọn "nhà" của mình. Má không hề ngán cảnh màn trời, chiếu đất. Hai má con trải chiếu trên nền nhà cũ để ngủ qua một đêm hay nhiều đêm cũng chả sao nhưng còn khạp thuốc nổ? Ở trong căn nhà không có tường, không có mái dễ để hàng trăm cặp mắt của những người qua lại nhòm ngó tự do thì cái điều bí mật khó có thể giữ được. Làm cách nào bây giờ? Má và Mười Tuân lấy mấy cột nhà làm cọc, buộc mấy tấm tôn quây xung quanh rồi căng ni lông lên trên, tạo thành một cái lều hoặc một chuồng nuôi heo để... che mắt thế gian. Để xoa dịu lòng phẫn nộ của dân trước tai họa do đạn rốc két Mỹ bắn, chính quyền xã Bình Thới chở đến gia đình bồi thường cho má mấy chục tấm tôn và một khoản tiền nhỏ. Má nêu ý kiến trước:
    - Má con ta thuê nhà nơi khác cũng được nhưng còn kho vũ khí, con tính sao?
    - Ta dựng tạm tôn lên mà ở, má à. Con tính là ta cứ để toàn bộ vũ khí trong cái khạp (chum), ta kê giường lên trên. Ta không nhập thêm và đừng xuất lẻ nữa. Khi nào thuận lợi, ta chuyển tất cả sang kho khác.
    Má Sáu làm theo đề nghị của con trai nhưng luôn nghĩ tới con gái. Mỹ Lê hiện giờ con ở đâu. Sau lần hai má con chia tay nhau, Mỹ Lê vào cứ, má bồng bé Tranh rời khỏi nhà dì Bẩy. Dì Bẩy, dượng Bẩy lộ vẻ không hài lòng:
    - Chị Sáu không tin tụi em sao? Vợ chồng em dám nuôi Tư Linh, dám đón má con Mỹ Lê về là dám đương đầu với tụi nó.
    - Sinh mạng của tôi, của các con tôi, cháu ngoại tôi, tôi đều giao cho dì dượng nắm giữ nhưng dì dượng cần phục vụ cách mạng lâu dài, đâu phải sau việc này rồi chấm dứt. Tụi nó buộc phải thả Mỹ Lê vì e ngại phong trào học sinh sinh viên, thanh niên rộ lên chống đối do chính quyền không thi hành đúng bản án. Tụi ác ôn chưa buông tha Mỹ Lê nên ta phải đi trước chúng nó một bước.
    Dượng Bẩy tán thành phân tích của chị vợ. Dượng chỉ đưa ra yêu cầu:
    - Bé Tranh kiệt sức lắm rồi, chị định đem cháu đi đâu? Nhà em có đồng ra, đồng vào. Vợ chồng em lo mời bác sĩ giỏi khám bệnh, tiêm thuốc để cháu hồi sức. Đưa cháu ra khỏi nhà, tụi em e cháu không qua khỏi đâu.
    - Tôi đã bàn kỹ với Mỹ Lê . Bỏ con lại, Mỹ Lê đau hơn chúng ta nhiều. Nếu không vì cảnh giác với địch, má con Mỹ Lê ở đây với dì dượng là tốt nhất.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 09 Tháng Sáu, 2010, 06:03:53 pm
    Má Sáu Hoàn đang ở trong tình trạng đau xé lòng, xé ruột. Con gái má vừa ở tù ra, hai mẹ con gặp nhau chưa đến hai tiếng đồng hồ đã phải chia tay nhau do lời khuyên hay còn gọi là mệnh lệnh quân sự của má. Dứt đứa cháu ngoại ốm đau quắt queo ra khỏi con gái, ruột gan má như bị xát muối ớt song má đành gạt nước mắt làm theo tiếng gọi của trái tim yêu nước, yêu gia đình. Giờ đây, má lại phải thuyết phục em ruột, em rể. Chỉ mong dì, dượng hiểu cho tấm lòng của má. Đón được má con Mỹ Lê ra tù đã là thắng lợi nhưng xóa hết dấu vềt hai má con nó mới thật là cần thiết. Để bé Tranh lại cho dì dượng, bé sẽ được nuôi dưỡng tuyệt vời, được săn sóc quá mức chu đáo nhưng ai dám đảm bảo rằng kẻ địch không lợi dụng tính mạng của đứa con để dò tìm ra dấu vềt của người mẹ cùng những đồng đội, đồng chí của mẹ nó? Qua những lời rỉ rả tâm sự của má Sáu, vợ chồng dượng Bẩy tự trách là đã nghi ngờ oan cho chị. Chị Sáu không chỉ thương yêu, tin cậy mà do biết nhìn xa, trông rộng, chị đã gỡ thế kẹt cho vợ chồng dì. Dượng Bẩy mở tủ lấy ra một xếp tiền nài nỉ:
    - Mong chị Sáu cầm lấy để chạy chữa thuốc men cho con nhỏ. Vợ chồng chúng em còn tiền, chúng em xin phụ giúp chị, hy vọng cứu được cháu. Tương lai, nếu bé Tranh sống được, mạnh khỏe, ông bà Bẩy cũng mát lòng, mát ruột.
    Má Sáu cầm tiền, bế bé Tranh về giao cho Hai Tập. Hai Tập vạch vú cho con nuôi bú. Bé Tranh ôm lấy má nuôi, nuốt từng dòng sữa. Từ thuở lọt lòng mẹ, lần đầu tiên bé được bú sữa từ đôi vú nên bé ham lắm. Chị Hai Tập mến con bé ngay. Chị hứa:
    - Con thề sẽ yêu quý con chị Mỹ Lê hơn con ruột của con. Thưa dì Sáu, con không nói dóc. Bé Tranh suy kiệt quá mức nên cần tình mẫu tử nhiều hơn đứa con khỏe mạnh, béo tốt, không bệnh tật của con.
Má Sáu Hoàn phải làm cái việc rất khó xử:
    - Hai Tập Mày đừng trách dì Sáu không hiểu tấm lòng của con mà làm cái việc bậy bạ là đưa tiến cho con. Con cầm giùm vì đây không phải tiền của dì Sáu la của ông bà Bẩy tặng bé Tranh.
    Hai Tập đắn đo giây lát. Chị không nỡ chối khi dì Sáu đã dùng hết lời lẽ chí tình như vậy. Vì tế nhị Hai Tập đành đón nhận tiền:
    - Dì cho con xin.
    Giải quyết xong vụ má con Mỹ Lê, má Sáu mệt rã rời. Dù sao thì má cũng yên được một bề. Các anh các chị ở căn cứ sẽ làm tròn trách nhiệm lo thuốc thang, tẩm bổ cho Mỹ Lê .
    Giữa năm 1966, Mỹ Lê quay lại thành phố. Má mừng quá vì Mỹ Lê đã có da, có thịt, dáng vẻ hoạt bát, nhanh nhẹn. Chị khoe:
    - Con ăn ngon, ngủ khỏe. Con được 41 ký rồi.
    Như vậy là sức khỏe con gái má hồi phục gần được như thời con gái rồi. Mỹ Lê yêu cầu:
    - Con nhớ bé Tranh quá.
    Má đưa con đến gặp cháu. Bé Tranh sà vào lòng bà ngoại nhưng không theo má ruột Mỹ Lê tủi thân, khóc sụt sùi:
    - Con làm gì nên tội để đến nỗi con con không nhận mẹ? Con ơi! Lại đây với má!
    Có lẽ do ánh mắt dịu dàng, giọng nói truyền cảm, thái độ thân thiện chứa chan tình thương mẫu tử nên bé Tranh đã bò đến bên má. Mỹ Lê bế bổng con lên, hôn vào tóc, vào má, vào cổ, vào tay chân con gái, nước mắt sung sướng cứ tràn ra khỏi mi. Bé Tranh chưa biết nói, ôm lấy cổ má, toét miệng cười. Mỹ Lê muốn bỏ tất cả để ở với con một ngày, cả tuần hoặc vài tháng nhưng chị đâu có hạnh phúc đó? Chị không biết bù đắp cho con gái cái gì? Bé Tranh còn nhỏ, chưa thể ép bé ăn giò, chả, kẹo, chuối. Bé cũng chưa ý thức được về các đồ chơỉ. Thương con quá, Mỹ Lê ra phố mua cho con ba bộ quần áo, cái gối, cái mền. Chị pha nước ấm tắm rửa cho con. Bé Tranh cười sằng sặc mỗi khi bàn tay mẹ làm bé nhột. Mỹ Lê vui đùa với con. Con bé đã có da, có thịt, hồng hào. Má Sáu Hoàn âu yếm nhìn con gái và cháu ngoại. Chao ôi, cái hạnh phúc giản đơn nhất của một người bình thường là được sống gần con, gần cháu mà má và Mỹ Lê đang thèm khát nhưng không được tận hưởng.
    Đã đến giờ phải ra đi rồi. Má Sáu Hoàn vào nhà trong gọi Hai Tập. Bà má nuôi ý tứ, tế nhị đã tạm lánh mặt. Chị không muốn gây cho Mỹ Lê vết thương tình cảm, Mỹ Lê bị sốc vì con đẻ không theo mình mà bám riết người đã cho nó hai bầu vú sữa, đêm đêm ngủ cạnh nó, ngày ngày bế ẵm nó. Hai Tập và Mỹ Lê cùng lứa tuổi nhưng Hai Tập già hơn. Tuy vậy, trong khi trò chuyện, Hai Tập thường giữ phận làm em với tất cả mọi người con của má Sáu. Má Sáu dàn hòa:
    - Tao và dì út xem nhau như chị em ruột. Mấy đứa con của hai gia đình, đứa nào lớn hơn sẽ là anh là chị. Từ con Mỹ Hòa trở xuống là em Hai Tập.
    Trông thấy Hai Tập xuất hiện, bé Tranh đã sà vào lòng má nuôi, rúc đầu đòi bú tí. Má Sáu Hoàn kéo Mỹ Lê ra khỏi nhà tránh cho con má quá bịn rịn, lưu luyến lúc chia tay.
    Mỹ Lê mới đi được vài ngày, Mười Tuân thông tin cho má :
    - Má ơi! Chị Mười Dương mới bị địch bắt rồi. Má đừng buồn nghe má. Chị không mang theo tài liệu gì trong người đâu.
    Má Sáu Hoàn thở dài não nuột. Con nhỏ ốm yếu quá, làm cách nào đủ sức chịu đựng các ngón đòn tra tấn của giặc? Sau ngày ra tù, con nhỏ cảnh giác hơn. Nó thay đổi cách hóa trang, đi đâu cũng để ý xem có bị "đuôi" bám không? Nó tình nguyện đi chiến đấu, cũng xông xáo như các chiến sĩ biệt động Võ Ngọc Trinh tức Bẩy Hà, út Hải, Năm Hùng ... Tụi nó đã đánh tan Ty bưu điện Gia Định, phá sập trụ sở ấp 5, xã Bình Hưng Hòa, diệt tên ác ôn ở phường Phan Thanh Giản, không hiểu tại sao nó lại bị bắt? Tại sao con nhỏ lại thiếu cảnh giác như vậy? Má tìm hiểu thì được biết lần này, nó sa vào tay giặc hoàn toàn ngẫu nhiên. Có tên chỉ điểm nhận được mặt nó, xét hỏi giấy tờ nó. Nó không mang theo tài liệu gì trong người và có giấy căn cước, thẻ sinh viên thứ thiệt, hoàn toàn hợp pháp. Tuy vậy, nó vẫn bị áp giải về Tổng nha cảnh sát, bị nhốt vào xà lim vì đã từng là Việt cộng, đã ở tù, sinh con trong tù. Ngay ngày đầu, bị gọi lên hỏi cung, Mỹ Lê đã "xử nhũn" bằng cách khai báo:
    - Thưa các ông, tôi đi mua thuốc chữa bịnh. Từ sau ngày ra tù, tôi ốm yếu quá, bác sĩ đã kê toa cho tôi. Tôi không hoạt động nữa.
    - Đừng có sạo bà nội. Mấy tên cộng sản gộc cỡ như bà có bao giờ từ bỏ lý tưởng. Biết điều thì bà nội khai ra các đồng chí của bà.
    - Tôi dạy học ở trường tư thục Nguyễn Hoàng. Tôi sống nội trú trong trường.
    - Láo! Từ nhà ông Bẩy ngân hàng Pháp quốc, mày bỏ trốn đi đâu?
    Mỹ Lê cười thầm trong bụng. Đúng là má cao tay hơn tụi nó, đã bố trí cho chị thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc, khi tụi nó đang bám riết theo chị. Bị mất mồi, tụi nó tung thám tử rình khắp nơi và vừa phát hiện ra chị chúng đã chộp ngay giữa đường phố. Chị khai:
    - Tôi mãn hạn tù, mấy ông thả tôi, có cấp giấy chứng nhận cho má con tôi. Dì Bẩy vừa đón tôi về nhà thì má tôi tới. Má đưa má con tôi về quê lo thuốc thang.
    - Con nhỏ đâu?
    - Con tôi chết rồi. Mấy ông tính, tôi sanh con thiếu tháng. Con nhỏ nặng l kg 9 lại không được bú sữa mẹ, kèm theo đủ thứ bịnh mang từ xà lim về thì sống sao nổi.
    Những ngày tiếp theo, những tên đao phủ không ngọt nhạt với Mỹ Lê mà giở trò thượng cẳng chân hạ cẳng tay, thỏa sức đấm, đá, tát rồi cho đi tàu bay (trói giật cánh khuỷu treo lơ lửng giữa nhà); đi tàu lặn (dìm đầu trong thùng nước bẩn), v.v... mà không kiếm được lời khai nào. Mỹ Lê đâu có kinh nghiệm ở tù lại được tấm gương của Mỹ Hòa cổ vũ và do không phải lo bảo vệ bé Tranh nên chị vượt qua mọi đòn tra tấn không khó khăn lắm. Trước sau chị vẫn giữ nguyên lời khai:
    - Tôi bị bịnh nặng quá, kiệt sức rồi, tôi không hoạt động nữa.
    Bọn địch đâu dễ dàng buông tha chị. Chị mất máu nhiều, không ăn, không ngủ được, nên trọng lượng cơ thể sa sút nhanh chóng, "được" thừa nhận là người tù gầy, yếu, nhỏ con nhất trong số các tù nhân suy dinh dưỡng, người nào cũng chỉ còn nắm da bọc xương của trại giam. Đã thế, Mỹ Lê lại bị bệnh khớp làm cho hai đầu gối sưng tấy, đau buốt, nhức nhối thấu tim. Chị không đi lại được. Muốn di chuyển từ sàn nhà vào nơi tiểu tiện, chị bò lết bằng hai tay chống, nhích mỏng về phía trước. Chả biết ai đó ái ngại trước hình ảnh tiếu tụy, thảm thương của chị, đã gọi chị là Tư ốm. Bệnh của Tư ốm ngày càng nặng, chị phải nhờ bạn tù đỡ đi đại tiện, tiểu tiện. Má Chín, thay mặt các tù nhân nữ kiến nghị tên giám thị, đòi phải chạy chữa cho Tư ốm. Mỹ Lê được gởi tới nhà thương làm phúc, ở cùng phòng với bốn nữ tù nhân thuộc loại thập tử nhất sinh của các trại giam khác nhau. Tuy ở chung phòng nhưng những người bạn tù không tâm sự cùng nhau, người nọ e ngại người kia là tay sai của kẻ địch gài vào để moi tin tức mình. Mỹ Lê chú ý tới cô gái có tên là út Phương. Cô trạc 16, 17 tuổi, có khuôn mặt rất ưa nhìn, đặc biệt là đôi mắt, nụ cười. út ' Phương có cảm tình đặc biệt với chị. Tuy nhiên, chỉ vẫn nghi ngờ cô. Cô còn non quá, đẹp quá và tại sao cô luôn xoắn xuýt lấy chị, hỏi chị đủ điếu về đời tư, về gia đình, về công việc làm Chị không nói thật, luôn trả lời qua quít với mục đích không cung cấp tin tức gì xác thực cho người hỏi. Vài ngày sau, Mỹ Lê cũng điều tra về út Phương. Phương không giấu chị Tư ốm điều gì. Cái người bị địch tra tấn đã gần trở thành tàn phế ấy đã khiến cô hoàn toàn tin vào bản linh và phẩm chất cách mạng của chị. Cô kể:
    - Em dính vụ anh Vương Thành, anh Lê Chân. Tòa án binh sắp sửa xử tụi em.
    Mỹ Lê giật mình nhưng kịp trấn tĩnh ngay. Sao lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên như thế này" Phải chăng con nhỏ là chỉ điểm của địch? Chắc nó. biết chị là vợ Lê Chân nên nó đưa chiêu bài "Lê Chân" ra để câu chị. Chị cố giữ vẻ thờ ơ:
    - Em bị bắt hồi nào?
    - Em bị ngày 25 tháng 9 năm 1965, anh Tư Thành ngày 26 và anh Ba Chân ngày 01 tháng 10 năm 1965.
    - Tại sao em bị bắt?
    - Em học lớp đệ nhất, trường Minh Trí. Em cùng tổ công tác với hai anh.
    - Em có biết trận đánh vào sân banh Cộng Hòa không?
    - Có. Nhưng em không được tham gia. Mấy anh chưa đồng ý nhận em là chiến sĩ biệt động. Năm 1965 em mới 16 tuổi, hoạt động trong học sinh, sinh viên.
    Út Phương không giấu giếm chị Tư ốm điều gì. Cô hoàn toàn tin chị. Chị đã vào tù lần thứ hai. Chị đã sinh con ở trong tù. Cô ở tù đã gần hai năm nên cô muốn dốc bầu tâm sự với người mà cô đặt mọi niềm tin. Cô giúp chị Tư ốm thiệt lòng. Cô cõng chị vào nhà vệ sinh ngồi giữ cho chị đi cầu. Cô chưa biết tên thật của chị. ở ngoài đời chị làm gì, vì sao chị bị bắt? Điều đó cô không quan tâm lắm. Cô cũng gầy yếu, sốt cao. ho ra máu song còn đi lại được không như chị Tư ốm. Chị gầy quá, trông bề ngoài không khác gì đứa bé con. Mỗi lần cần di chuyển, chị phải nằm xuống lăn tròn cái cơ thể, mà khi bị bắt là 41 kilôgam nay chỉ còn vẻn vẹn có 29 kilôgam thay cho đôi chân đã trở thành vô dụng vì hai khớp đầu gối sưng ngày càng to, càng đau. Cô kể với chị Tư ôm về mình, giọng hồn nhiên:
    - Tụi nó đánh em dữ lắm, em không khai. Hôm anh Tư Thành bị bắt, tụi nó bắt em và anh Tư đối chất. Em chào anh Tư. Em nhận anh là một trong những bạn trai của em. Chị tính, anh và em cùng tổ công tác, anh đến chỗ em, em đến chỗ anh luôn, ai mà chả biết.
    - Tư Thành có tham gia vụ .sân banh Cộng hòa không?
    - Có. Anh ham rải truyền đơn lắm. Tối bữa đó, anh mang mấy trăm tờ truyền đơn đi nhưng rủi gặp trời mưa, anh phải quay về. Tụi cảnh sát phục ở nhà anh, bắt anh tại trận. Chúng khám người anh và tìm thấy tang vật phạm pháp.
    - Tại sao cảnh sát lại biết chỗ của Tư Thành? Cô khai ra anh à ?
    - Em đâu đến nỗi đốn mạt như vậy? Mình đã tình nguyện theo cách mạng, mình có gan làm, có gan chịu, sao lại để liên lụy tới đồng đội? Bà chủ nhà em trọ khai đia chỉ anh Tư. Báo hại là khi bị bắt, anh có truyền đơn trong người .
    - Tụi nó tra tấn em như thế nào? Tụi nó xé áo em. lột quần em. Em ghê tởm chúng. Nếu chúng làm nhục em, em sẽ cắn lưỡi chết ngay tại chỗ. ở trần, em mắc em quá. Em có bộ ngực mà tụi con gái cùng lớp đều khen là rất đẹp, em chưa hề cho người con trai nào đụng tới bây giờ em phơi ngực trước năm thằng đàn ông. Em khép đôi cánh tay che kín hai bầu vú. Tụi nó giằng ra, vật em nằm ngửa, cùm chéo chân em, trói ghì đôi tay em em càng giẫy, vềt trói càng thắt chặt. Chúng nó sắp giở trò đây em đặt lưỡi vào giữa hai hàm răng, dự định sẽ ngẩng đầu phun máu đầy mặt thằng đầu tiên đè lên người em nhưng em chợt nhận ra mấy đứa không giật quần lót của em và cùm chéo chân em.
    Út Phương tiếp tục kể hồn nhiên, chân thật:
    - Xong việc, tụi nó vẩy thứ nước gì lên khắp người em rồi ra khỏi xà lim, khóa cửa lại. Thoạt đầu, em đâu đoán nổi là nước gì. Nước không có mùi vị, không gây mẩn ngứa, không xót. Chỉ ít phút sau, em mới hiểu âm mưu nham hiểm của chúng. Chúng vẩy nước đường nhằm gọi kiến đến. Kiến bò lên mặt, lên cổ, lên ngực, lên bụng, lên đùi em. Nhột ơi là nhột. Kiến kéo đến ngày một nhiều, trên cơ thể em có tới vài vạn con kiến. Em không sao cựa được. Thì ra cái lý do chúng cùm chéo chân em là để em không thể xoay nghiêng người hoặc dằn người lên, xuống để rũ bớt kiến. Khi không còn cách gì xua đàn kiến đang bò trên người em, đang đốt em, em đành bất lực, nằm im chịu trận. Chả hiểu do nọc độc của kiến hay dây trói quá chặt khiến cơ thể em như bị tê cứng, em không thấy buồn, nhột hoặc đau nữa. Em thiếp đi hay ngất đi khá lầu và em tỉnh dây khi có ai đó giội nước lên người em. Kiến trôi đi nhưng hình như ở lỗ chần lông nào trên người em cũng còn lại vềt kiến cấn. Em ngứa vô cùng nhưng không sao gãi được. Tối hôm đó, tụi nó bỏ mặc em trong xà lim tối đen như mực. Em sợ quá muốn hét lên kêu cửa. Chị biết em sợ gì không? Em sợ ma. Em ước ao có đứa vào trong xà lim. Em định gọi tên lính gác để nó trả lời em, giúp cho em đỡ sợ nhưng rồi em tự động viên mình không để kẻ thù nắm bắt được nhược điểm của mình. Chị xem, da em trước đây mịn lắm, bây giờ sần sùi, lở loét cùng mình.
Út Phương cởi áo. Mỹ Lê cảm động quá. Chị ép đầu cô gái 18 tuổi vào ngực mình:
    - Chị xin lỗi út. Chị chưa tin em nên phải thử thách em. Chị là Mỹ Lê, vợ anh Ba Chân đây.
    Út Phương tròn xoe mắt:
    - Ủa, chị là chị Hai sao? Anh Ba Chân nhắc tới chị hoài. Em đâu ngờ chị nhỏ con quá đỗi như thế này.
    - Em bị giam chung với anh?
    - Đâu có. Hồi mới bị bắt, em gặp anh mấy lần khi đi cung. Anh nói là chị sanh con trong tù. Ngày 06 tháng 6 năm 1967 tòa án quân sự sẽ xét xử anh Ba Chân. Chắc chắn em sẽ đứng gần anh trước vành móng ngựa.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 09 Tháng Sáu, 2010, 06:11:27 pm
    Mỹ Lê chợt thấy lòng mình ấm lại. Trời phật dun dũi làm sao để chị đến nhà thương Chợ Quán gặp được út Phương, được nghe em kể những tin tức về anh Ba. Tính cách út Phương thật khác thường. Cô còn vẻ ngây thơ, trong trắng của một nữ sinh, rất đẹp, chưa hề có người tình song cô bình thản, tự tin, gan lý trước kẻ thù. Cô không hễ xốn xang trước việc sắp bị tòa án binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đưa cô ra xét xử. Cô thờ ơ, dửng dưng mặc dù ngày xử án sẽ diễn ra sau 48 giờ nữa. Cô nói với Mỹ Lê :
    - Tụi nó giở trò hề, em đâu có ngán. Hai năm qua, tụi nó tìm mọi cách hạ nhân phẩm em, giam em cùng bọn gái điếm, rồi nhốt em trong phòng những người cùi, hủi. Thằng luật sư hay ủy viên công tố gì đó hù dọa em, báo tin em sẽ lãnh mức án 18 năm tù giam. Em hỏi lại liệu chế độ của các ông có tồn tại được ngần ấy năm không?
    Mỹ Lê thích tính vô tư, hồn nhiên của út Phương. Chị dặn cô gái:
    - Em đừng nên vồ vập chị.
    Chị sẽ giữ thái. độ thờ ơ, lạnh nhạt với em như trước đây để tụi chúng nó khỏi nghi. Chị hy vọng được nghe em tường thuật lại vụ xử anh Ba.
    - Dạ.
    Sáng 06 tháng 6 năm 1967, một chiếc xe bịt bùng đến đậu trước cổng nhà thương. Hai tên cảnh sát ập vào phòng út Phương ra lệnh:
    - Thay bộ quần áo này nhanh lên, bà nội.
    Út Phương lắc đầu:
    - Khỏi cần. Tôi mặc quần áo của người bịnh tới phòng xử án cũng chả hề chi.
    Đón được lời khuyên không nên khiếu khích kẻ thù qua ánh mắt Mỹ Lê, út Phương lộ vẻ miễn cưỡng trước hai tên cảnh sát:
    - Cảm phiền mấy thầy ra khỏi phòng giùm.
    Các quan tòa không định để cô gái xuất hiện trên các trang báo với trang phục của người tù hay người bệnh nên buộc út Phương thay bộ quần áo cô mặc hôm bị bắt. Cô nhoẻn miệng cười, đưa tay vẫy Mỹ Lê:
    - Em đi nghe chị Tư!
    Nếu không phải là người trong cuộc, không ai tin rằng út Phương sắp ra trước vành móng ngựa để nhận mức án 18 năm tù giam. Chỉ còn lại một mình trong nhà thương, Mỹ Lê nằm ngửa, mắt dán lên trần nhà, tưởng tượng ra mọi chuyện đang đến với chồng mình. Anh mang gông cùm hay bị còng tay, xích chân? Chắc tụi nó bắt anh mặc quần áo tù. Anh ở tù bao lâu rồi? Anh bị bắt ngày 01 tháng 10 năm 1965 đến hôm nay là 06 tháng 6 năm 1967, như vậy anh đã ở tù 20 tháng. Còn bao ngày nữa? Có cách gì gặp anh không? Anh đã biết tin chị sinh con gái chưa? Nếu út Phương thông báo với anh là bé Tranh khỏe mạnh, đã biết gọi cha, gọi má chắc anh vui lắm. Ở trong phiên tòa, làm cách nào út Phương thông tin được với anh? Liệu út Phương có trở lại nhà thương không? Suốt ngày hôm đó, chị lắng nghe từng tiếng động nhỏ, chờ đón bước chân ức Phương. Khoảng sáu giờ chiều hôm đó, khi chị đã thở dài tuyệt vọng thì út Phương bị áp giải trở về. Cô cười:
    - Chào chị Tư! Em lo quá, bữa nay ai giúp chị đi cầu? Ai cho chị ăn? Chị tắm rửa chưa?
    Chao ôi? Tại sao con nhỏ còn cười được? Nó cười rất tươi sau một ngày xử án căng thẳng là vì sao? Chắc chắn nụ cười đó nó đã cố gắng quên mình đi để nghĩ đến chị, dành riêng cho chị. Khi chỉ còn hai người trong phòng, út Phương ý tứ:
    - Em cõng chị đi tắm. Ở đó, chị em ta nói chuyện tự nhiên hơn.
    Út Phương tốt với chị quá. Chị không nên lạm dụng. Cô ấy mệt mỏi quá mức chịu đựng rồi, cần tạo điều kiện để cô ấy nghỉ ngơi đôi chút. Chị bàn:
    - Em tắm trước cho mát.
    Út Phương đoán ngay được cách xử lý tinh tế của Mỹ Lê. Chị ấy mong đón tin chồng từng phút, từng giây thế mà chị ấy nghĩ tới mình trước. Út Phương ngắt lời chị:
    - Em còn đủ sức mà chị Hai. Nhanh lên chị.
    Đến nước này thì Mỹ Lê không chần chừ nữa. Chị đưa hai tay ôm cổ út Phương. Phương múc nước giội cho mình, cho chị và kể về phiên tòa. Tòa án quân sự còn gọi là tòa án mặt trận mở tại đường Bạch Đằng. Tên chánh án khá to con, mặc quân phục, đeo lon đại tá trên ngực áo ghi tên là Tý. Phiên tòa không có thân nhân bị cáo. Những ai mặc thường phục ngồi trong phòng xử án đều do tụi nó bế trí. Toàn bọn ác ôn, an ninh, mật vụ. Cảnh sát đứng vòng trong, vòng ngoái. Anh Tư Thành cùng năm người khác đến nước. Các anh vừa đi, vừa hô khẩu hiệu. Anh Ba Chân ngồi xe riêng, có hai tên cảnh sát lực lưỡng đeo súng ngắn trễ hông áp giải. Tuy ba bế bốn bên đều là lính ngụy, sĩ quan ngụy rồi cảnh sát ngụy có vũ trang nhằm uy hiếp, khủng bố tinh thần những người tù gầy còm không có tấc sắt trong tay, song cả út Phương và bảy anh đều điềm tĩnh, không mảy may run sợ. Anh Ba Chân bị thẩm vấn đầu tiên. Anh tuyên bố:
    - Tôi không thừa nhận phiên tòa không có công lý này. Chúng tôi yêu cầu xét xử công khai.
    Út Phương và sáu anh cùng hô theo:
    - Yêu cầu xét xử công khai.
    Tên chánh án rung chuông nhưng Ba Chân vẫn lên án:
    - Vì sao ở phiên tòa không có người nhà chúng tôi, không mở cửa để người dân Sài Gòn tham dự? Vì sao phiên tòa hạn chế các nhà báo, không có phóng viên ngoại quốc?
    Đại tá Tý đập bàn. Hắn kể tội anh Ba. Anh xua tay phủ nhận:
    - Đúng, chúng tôi đánh Mỹ, diệt ngụy vì chúng tôi yêu nước, chống ngoại xâm. Chúng tôi không có tội.
    Những người tù cùng hô theo "chúng tôi không có tội". Nhận thấy ảnh hưởng của anh Ba Chân với các bị cáo khác quá lớn, chánh án ra lệnh cách ly anh. Hai tên cảnh sát kéo anh ra khỏi cửa. Anh vùng ra, chạy vào với các bạn. Những người tù quây lấy anh, bảo vệ anh.- Đúng giây phút đó - út Phương kể  - Em xô lại, bám cánh tay anh Em nói nhanh với anh: "Em ở chung phòng giam với chị Mỹ Lê. Cháu gái mới sinh khỏe". Anh ngước nhìn em, trong đôi mắt anh ánh lên tia sáng sung sướng, hạnh phúc. út Phương không kể về mình, về lần thẩm vấn các bị cáo khác. Cô chỉ nghĩ đến chị Mỹ Lê, cố hết sức mình để an ủi chị. Chị thiệt thòi hơn cô nhiều. Cô chỉ có một thân, một mình nên tòa có kêu án cô 15 năm, 20 năm hoặc tù chung thân, cô vẫn chịu đựng nổi. Chị Mỹ Lê cũng ở tù như cô nhưng mọi điều bất hạnh đều rình rập quanh chị. Liệu chị có sống nổi không? Bệnh tình chị ngày một nặng, chị lết đi không nổi, mỗi bữa dù đã cố gắng hết sức cũng chưa nuốt nổi một bát cơm thì làm sao xua nổi thần chết luôn lởn vởn quanh mình? Nếu chị vĩnh biệt cõi đời này, ai sẽ nuôi hai đứa con cho chị? Chị có hai con nhưng chị sống chung với bé Cánh, bé Tranh được mấy ngày. Nằm trên giường, đôi lúc chị Mỹ Lê thờ thẫn như người mất hồn vì chị đang thả hồn về Cần Thơ với con trai hay ở Sài Gòn với con gái, hoặc nghĩ tới số phận mình? Nếu út Phương rơi vào hoàn cảnh như chị thì sao? Cô sợ mình không đủ bản lĩnh, không có gan xa rời con vài ngày. Tình mẫu tử là thiêng liêng nhất. Con gà mẹ hiền lành con dám xù lông đánh trả diều hâu hung dữ để bảo vệ con mình thì chị Mỹ Lê luôn mơ ước đưa đôi bàn tay khẳng khiu để ấp ủ các con chị là lẽ đương nhiên. Không có sức mạnh hoặc quyến lực nào buộc người mẹ rời con ngoại trừ lý tưởng, lẽ sống mà người mẹ đã nguyện hiến dâng cả đời mình để thực hiện .
    Ngày thứ hai, út Phương đến tòa án ung dung, thư thái, tự tin. Cô không lo quan tòa xét xử mình ra sao, tuyên án minh bao nhiêu năm tù mà chỉ nghĩ đến gần anh Ba Chân. Chắc chắn, tòa sẽ kêu án tử hình cho anh Ba nên cô phải có được lời trối trăng của anh cho chị Mỹ Lê. Một viên quan tòa đã rĩ tai cô :
    - Tôi sẽ can thiệp để giảm tối đa mức án cho cô chỉ cần cô khai trước tòa một câu "Vì bị Việt cộng tuyên truyền dụ dỗ nên tôi đã lầm đường, lạc lối".
    Út Phương cười khẩy không trả lời. Sao tụi nó ngây thơ vấy. Dù có bị bẻ gãy hết răng, bị bắn ngay tại chỗ, cô cũng cùng các anh lên án tụi nó. Tòa gọi bị cáo Vương Thành:
    - Có phải tên khai sinh của anh là Trương Minh. Bạn bè gọi anh là Tư Thành đúng không? Anh đã học qua các trường tư thục Văn Lang, Thanh Thanh, Nguyễn Văn Khuê, Nguyễn Công Trứ?
    - Đúng.
    - Có phải anh bị dụ dỗ nên đi theo cộng sản?
    - Các ông chưa hỏi tôi bao nhiêu tuổi? Tôi sanh năm 1939. Ở tuổi 28, tôi biết việc tôi làm.
    - Tại sao anh đang đi học lại bỏ theo Việt cộng?
    - Nếu không đánh Mỹ xâm lược không thanh niên nào có thể học đến nơi đến chốn được.
    - Mày ngu thấy mồ . Người Mỹ sang đây đến cái giấy chùi đít ở đất nước này họ cũng chả dùng.
    - Các ông thấy tự hào vì Mỹ không tơ hào giấy chùi đít còn thanh niên yêu nước chúng tôi lại đau đớn vì Mỹ cướp đất nước mình.
    Khi bị thẩm vấn, út Phương cũng noi gương các anh ở phiên tòa này, cô và các đồng chí của cô đứng trước vành móng ngựa nhưng giành được vị trí quan tòa, còn Hội đồng xử án rơi vào thế bị cáo. Vì thế, trong thời gian tòa nghị án, út Phương được trò chuyện tự do với mấy anh. Anh Ba Chân tranh thủ thời gian trăng trối luôn:
    - Tụi nó sẽ kêu án tử hình anh. Em nói với chị Hai là anh không ân hận gì. Trong túi anh đang có ảnh cháu Cánh. Anh chưa gặp mặt con gái nhưng lúc nào trong tim ánh cũng có hình ảnh chị Hai và hai cháu. Anh đã giữ trọn lời giao ước đêm tân hôn với chị.
    Út Phương thông báo luôn:
    - Chị Hai mãn hạn tù đầu năm 1966. Chị không đặt tên con là Liên như anh dặn vì các má trong tù quyết nghị: “Nếu sanh con trai đặt tên là Vũ, con gái gọi là Tranh.” Chị gởi bé Tranh cho bác Sáu.
    - Chị ốm ra sao em?
    Út Phương muốn nói dối anh song lần này vì thương anh, vì không muốn chất thêm đau buồn cho anh, cô buộc phải nói đúng sự thật:
    - Chị bị suy nhược. Vì thương anh, nhớ hai cháu nên chị không ngủ, không ăn được.
    Anh Ba tha thiết nhờ út Phương:
    - Em chuyển lời anh khuyên chị ráng giữ gìn sức khỏe. Ngoài tình vợ chồng thắm thiết, anh và chị còn có tình đồng chí. Nếu thương anh, chị phải làm sao cho xứng đáng với anh.
    Út Phương cố nhập tâm không phải từng ý, từng câu mà là từng lời anh nói. Nếu sau phiên tòa, tụi nó không cho cô quay lại nhà thương Chợ Quán, cô sẽ ghi chép nguyên văn lời anh và tìm mọi cánh chuyển tới tay chị Mỹ Lê. Cô hỏi anh:
    - Anh bị giam ở đâu?
    - Ở khám Chí Hòa. Sáng qua ảnh gặp đồng chí Hoàng Như Thường. Anh Khương chỉ bò lết vì bị bại xụn. Sáng nay anh Trần Xuân Lê khuyên anh: Ráng đấu tranh không để tụi nó kêu án tử hình . Anh đã trả lời: Làm sao tránh nổi. Phải giữ khí tiết, anh à?
Anh Ba Chân vẫn kể. ở ngoài đời, anh vốn hiến lành, ít nói sao hôm nay anh nói nhiều quá mức bình thường. Út Phương thông cảm với anh. Chỉ một lát nữa thôi, anh sẽ lãnh án tử hình. Trước lúc ra đi, anh muốn gửi gắm tâm sự lại cho vợ con. Anh kể:
    - Anh ở Khu IĐ. Tù chính trị sống với nhau rất hòa thuận, vui vẻ.
    Út Phương mỉm cười chua chát. Đã là tù nhân, có ai lạ gì khu IĐ nằm dưới hầm sâu của khám Chí Hòa, khu dành riêng cho tù chống chào cờ, chống chế độ, chấp nhận chịu cùm chân suất 24 trên 24 giờ mỗi ngày. Anh Ba Chân định động viên vợ nên mới tô vẻ cuộc sống trong tù bằng những từ: hòa thuận, vui vẻ. Anh Ba tiếp tục kể:
    - Tụi anh học văn hóa. Xin được mẩu bút chì, tụi anh mài mảnh lon sữa bò làm dao gọt bút chì. Tư Thành khéo tay và kiên nhẫn mài thật bén dùng làm dao cạo râu. Anh đã được học trưởng Nguyễn Ái Quốc ở cứ nên được gọi là giáo sư, nhà lý luận. Anh phải soạn những bài giảng trong óc rồi nói lại cho anh em cùng nghe. Dùng hết bút chì, tụi anh lấy mảnh gốm viết trên nền xi măng để làm toán. Bọn giám ngục lờ đi vì tù học văn hóa không ảnh hưởng tới trật tự, an ninh của trại.
    Hội đồng xử án trở vào vị trí. Anh Ba Chân dặn các bạn:
    - Hãy hiên ngang ngẩng cao đầu. Không ủ rũ, không van xin gì cả.
Út Phương làm theo lời các anh. Khi tên đại tá Tý, nhân danh chánh án tòa án mặt trân tuyên đọc mức án (mà các đương sự không có quyền khiếu nại) cô có cảm giác lạnh buốt xương sống khi nghe tuyên bố.
    - Lê Chân tức Ba Cánh: Tử hình. Vương Thành tức Trương Minh, tức Tư Thành: Tử hình. Bản án có hiệu lực sau 24 giờ.
    Cô bình thản hơn khi nghe nhắc tới mình:
    - Nguyễn Thị Phương, tức út Phương: 18 năm tù giam.
    Chánh án ngừng lời. Những người tù ngang nhiên vỗ tay, cười ngạo nghễ ngỏ ý coi thường luật pháp. Cảnh sát ập vào dùng còng số tám khóa tay và áp giải những tù nam ra xe. Mấy anh quay lại mỉm cười, giơ đôi tay đang bị khóa vẫy chào ức Phương. Phương rất tỉnh táo. Cô không rõ vì sao tụi nó không khóa tay cô. Cô vẫy tay, nói to
    - Em hứa sê xứng đáng với các anh!
    Hai tên cảnh sát đã quen mặt, hất hàm ra lệnh cho cô ra xe bịt bùng. Không hiểu tụi nó trả cô về trại giam Tổng nha, tới khám Chí Hòa hay đầy ra Côn Đảo, Phú Quốc? Liệu cô có được quay trở lại nhà thương Chợ Quán không? Cô là tù nhân, tất cả đều lệ thuộc vào tụi nó. Cô không thể viện lý do cần thanh toán viện phí hay bỏ quên hành lý để đòi chúng làm theo ý định của mình. Tụi nó không bịt mắt cô. Cô nhận ra từng đường phố mà xe đã đi qua. A, tụi nó trả cô về nhà thương rồi. Nguồn vui sắp được gặp lại chị Mỹ Lê át hẳn cái án nặng nề vừa giáng xuống đầu cô. Cô ra khỏi xe, rảo bước gần như chạy. Hai tên cảnh sát bám theo cô, bàn giao cô lại cho tên cảnh sát đang túc trực tại nhà thương út Phương
   Thấy bóng Mỹ Lê. Tất cả mọi dự định phải báo tin từ từ, cần rào đón trước khi thông báo về anh cho chị đều đổ sụp hết. Út Phương chạy ào tới ôm lấy chị Mỹ Lê, nói trong tiếng nức nở: "Chị ơi?". Thấy tên cảnh sát đứng phía sau mình, út Phương cố ý nói thật to cái điều cô không hề eo ý định đề cập tới: "Chị ơi? Em khổ quá? Em bị tụi nó kêu án 18 năm tù rồi". Bây giờ thì cô có quyền khóc, khóc thật to để kéo dài giây phút cần chia buồn với chị Mỹ Lê. Đoán ra ngay lý do những giọt nước mắt ngụy trang của út Phương, chị kéo đầu út Phương gục vào vai mình, nhẹ nhàng vuốt tóc cô. Khi tên cảnh sát vừa ra khỏi phòng, út Phương ngồi thẳng dậy:
    - Chị Hai! Em đâu khóc vì em. Em thương anh Ba quá? Tụi nó kêu án tử hình anh rồi.
    Mỹ Lê ngồi gần như bất động, mắt mở trừng trừng, tay nắm chặt. Chị nghĩ đến tin dữ này ngay sau khi anh bị bắt, và đặc biệt từ phút tiễn út Phương tới phiên tòa, nhưng đến phút này điều đó mới trở thành sự thật. Chị nên làm gì bây giờ? Chị lắng nghe út Phương nhắc lại từng lời dặn dò của chồng. Anh yêu cầu chị "Nếu thương anh, chị phải làm sao xứng đáng với anh”. Đây là mệnh lệnh của vị chỉ huy, là nguyện vọng cuối cùng của người chồng đến với chị, chị phải thực hiện ra sao? Chị lăn lộn gào khóc ư? Chị chuẩn bị sẵn tấm khăn sô để tang anh sau khi anh bị điệu ra pháp trường cho phải đạo làm vợ ư? Không. Chị hiểu anh. Anh đâu cần bộc lộ tình cảm trên hình thức như vậy mà cần nội dung sâu lắng đọng lại trong lòng chị, soi từng việc làm, từng câu nói của chị. út Phương vẫn rĩ rả:
    - Chị Hai! Ra trước tòa, anh Ba mặc bộ đồ bà ba trắng. Không rõ vì sao anh từ chối không mặc bộ màu đen. Có lẽ anh muốn biểu lộ lòng trong trắng của mình. Tòa tuyên bố không cho bị cáo có quyền chống án và bản án sẽ có hiệu lực sau 24 giờ.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 09 Tháng Sáu, 2010, 06:17:49 pm
    Mỹ Lê lẩm nhẩm tính một cách thụ động. Như vậy anh chỉ còn ở trên cõi đời này chưa đến 23 giờ nữa (kể từ lúc tuyên án). Chị sắp trở thành góa phụ ở tuổi 26 và hai đứa con ba tuổi, hai tuổi của chị sẽ mồ côi cha. Thảm thương quá Có bước chân rậm nịch ngoài cửa phòng. Tên Nguyễn Bé cười nham hiểm:
    - Chào bà chị. Thằng em này tới chia buồn và chia vui với bà chị.
    - …
    - Tụi tôi đâu có lạ về những lần trò chuyện giữa cô út Phương và chị. Chúng tôi dùng út Phương để chị được trực tiếp nghe bản án tử hình của chống chị. Đó là tin buồn với chị. Còn tin vui? Nguyễn Bé này xin lấy danh dự thề với chị lâ sẽ cứu được anh thoát chết chỉ với một điều kiện: Chị làm đơn xin tổng thống ân xá cho anh. Giấy đây, bút đây chị viết đi
    Út Phương can thiệp ngay:
    - Chị đừng viết. Chúng nó lừa đấy!
    Tên chỉ huy cảnh sát nghiêm giọng:
    - Không việc gì tới mày. Tụi bay! Đưa con nhỏ ra xe.
    Hắn quay về hướng Mỹ Lê:
    - Ba em chết rồi. Thằng em này thề trước vong hồn ông già là sẽ làm hết sức mình để anh Ba Chân được giảm án còn 20 năm tù.
    Mỹ Lê thoáng phân van. Cô chưa nhận lời ngay mà tìm cách hoãn binh:
    - Ông để tôi suy nghĩ đã.
    - Tùy chị. Chị nhớ là bản án sẽ được thi hành 24 giờ sau khi tuyên án. Chào chị.
    Còn lại một mình trong phòng, Mỹ Lê đưa mắt nhìn chiếc bút và mấy tờ giấy trắng. Thì ra tụi chúng nó đã nắn gân chị, thử sức chịu đựng của chị. Chị không ảo tưởng vào lời thề của tên Nguyễn Bé. Thiếu gì những tên ác ôn là lũ con bất hiếu đã từng hãnh diện tuyên bế "Tao căm thù Việt cộng. ông già tao ủng hộ Việt cộng, tự tay tao sẽ găm viên đạn trúng tim ông". Vấn đề đặt ra là chị có nên làm đơn xin ân xá hoặc xin giảm án cho chồng không? Chị đang như người sắp chết đuối, nếu chị có được cái phao bơi, cây chuối, tàu đu đủ thậm chí chỉ là một cọng rơm để clú giành giật lấy cuộc sống cho chồng sao chị lại bỏ qua? Chị phải cứu anh dù chỉ còn một phần trăm, một phần nghìn hoặc một phần vạn của tia hy vọng. Chị cố làm hết sức mình để tương lai, khi bé Cánh, bé Tranh trưởng thành chúng sẽ không trách chị khi thắp hương trước bàn thờ ba của chúng. Chị sẽ viết đơn: Viết như thế nào nhỉ. Tất nhiên phải có địa chỉ người nhận, người ấy phải là người có quyền cao nhất của chế độ này. Chị sẽ phải ghi: Kính gởi ngài Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống nước Việt Nam Cộng hòa. Tôi là Dương Mỹ Lê, giáo viên trường tư thục Nguyễn Hoàng làm đơn này cầu xin ngài tha cho chồng tôi là Lê Chân...  ôi, nhục nhã quá chừng. Chị chưa cầm bút viết nháp nhưng những gì hiện lê n trong tâm trí chị khiến chị tự hổ thẹn. Anh khuyên chị hãy xứng đáng với anh, tại sao chị lại làm như vậy? Đã bao lần chị viết trong truyền đơn hoặc hô khẩu hiệu "Đả đảo tên Việt gian bán nước Nguyễn Văn Thiệu" giờ đây chị lại hạ bút công nhận cương vị tống thống của hắn là vì sao? Chị mơ hồ tới mức quên cả phân biệt thế nào là Ta - Bạn - Thù ư? Đã thế chị lại đỉnh mở đầu bằng lời ghi: "Tống thống nước Việt Nam Cộng hòa". Ngay từ những năm đi học, chị đã từng nghe nói, từng trông thấy bản đồ đất liền Việt Nam có hình chữ S, chạy dài suốt từ Mục Nam Quan tời mũi Cà Mau, sao chị lại làm ngược lại? Chị nhớ tới ba. Ba đang sống và làm việc tại Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đâu phải đi sứ sang nước khác? Ba rời Gò Công tập kết ra miền Bắc vì muốn có ngày tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Má, Mỹ Hòa rồi vợ chồng chị vào tù đều vì lẽ sống, vì mục tiêu đánh Mỹ, diệt ngụy nên chị phải chấp nhận hy sinh, tổn thất, mất mát. Ba Chân ơi? Anh nhắc tới giao ước của vợ chồng ta vào đêm tân hôn với em, em nhớ lắm. Không đời nào em phản bội lại lý tưởng của chúng mình. Anh thông cảm với em! Trọng một phút bồng bột, em đã để tình cảm lấn át lý trí. Anh! Anh đã nói gì với các đồng chí của anh trước khi nghe tòa tuyên án? Em nhớ rồi , nhớ rất rõ từng ý, từng lời của anh. Anh và các bạn anh vỗ tay, cười ngạo nghễ, coi khinh hội đồng xử án, sao em lại định níu kéo, định dựa vào cái cọng rơm đề cứu mình thoát chết đuối? Các con ơi, các con hãy thông cảm với má. Vì lẽ sống của người dần Việt Nam, vì danh dự của các con, của gia đình họ Dương, má không thể hạ mình chịu nhục được. Ba con là bạn trăm năm, ý hợp tâm đầu của má vậy mà má chỉ được sống với ba con chưa tròn bốn năm, tính từ ngày cưới cho đến hôm nay. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, ba các con đã ngồi tù mất một năm, tám tháng, sáu ngày và má cũng đã hai lần nằm trong xà lim của Mỹ, ngụy. Hơn ai hết má muốn giằng lại hạnh phúc cho cả cuộc đời mình. Lớn lên, các con phải chịu đựng nỗi đau của những đứa trẻ mồ côi cha, thiếu thốn tình cảm của ba. Má sẽ gắng hết sức mình bù đắp thiệt thòi cho các con. Với má, sau 22 giờ nữa, má sẽ trở thành góa phụ, sẽ mất chồng. Không ai có thể thay thế ba các con lấp được phần nào tâm hồn trống trải của má. Má sẽ thực hiện đúng di chúc của ba các con: "Hãy hiên ngang ngẩng cao đầu, không ủ rũ, không van xin gì cả".
Sáng hôm sau ngày 08 tháng 06 năm 1967, tên Nguyễn Bé mặc sắc phục cảnh sát là thẳng nếp vào phòng chị với nét mặt hố hởi, nụ cười tươi rói:
    - Chào bà chị. Đêm qua thằng em này đã "phôn" tới bốn vị thượng cấp trình bày về hoàn cảnh đáng thương của chị. Em ái ngại quá? Nào, chị trao đơn cho em. Em bảo đảm là chị sẽ nhận được trả lời ngay trong ngày hôm nay: anh được giảm án, chị ra khỏi trại giam.
    Thấy Mỹ Lê im lặng nhìn hắn bằng ánh mắt căm hờn, tên trùm cảnh sát chột dạ. Hắn cầm tập giấy đếm từng tờ rồi ném tất cả vào mặt Mỹ Lê:
    - Đù má? Mày chưa viết chữ nào à?
    Mỹ Lê lắc đầu. Hắn giang rộng đôi tay với vẻ bất lực:
    - Nói thiệt, tao đang ước muốn có lưỡi dao bén nhón để đâm vào ngực mày, moi trái tim mày ra thử xem có máu chảy không? Tao không hiểu nổi tình chồng, nghĩa vợ của những tên Việt cộng chúng mày giá băng như thế nào. Tao làm ơn, làm phúc cho mày. Tao cứu sống một mạng người, lo cho hai đứa đoàn tụ chỉ với một yêu cầu cỏn con: viết một lá đơn xin ân xá, sao mày không viết?
    Tên Nguyễn Bé chộp lấy ngực chị, kéo chị đứng lên, mặt đôi bên giáp nhau. Nó gầm lên:
    - Tại sao không viết? Mày không còn là con người. Mày là khúc gỗ, là cục đá, là loại vô tri, vô giác.
    Tên trùm cảnh sát buông áo chị. Chị đứng không nỗi, ngã khuỵu xuống sàn nhà, đôi đầu gối buốt thấu tận tim, tận óc song chị không xuýt xoà, chị im lặng. Sau một đêm thức trắng, chị mệt rã rời. Chị thừa sức tranh cãi với kẻ tự nhận là có tình người này. Rất có thể hắn đã gọi điện thoại tới bốn vị thượng cấp nhưng đâu phải vì vợ chồng chị mà chính vì hắn muốn tâng công, khoe khoang vì đã thắng đòn tâm lý chiến tuyệt vời: thu phục được trùm Việt cộng Dương Mỹ Lê.
    Đêm qua, một mình, một bóng, chị quên hẳn đôi đầu gối sưng vù, đầu đau buốt vì chị nghĩ đến anh. Anh mặc bộ bà ba trắng, bình thản đi giữa hai hàng lưỡi lê tuốt trần. Tụi nó trói anh vào cọc, dùng khăn bịt mắt anh. Anh giật khán để nhìn bầu trời của Tổ quốc, nhìn đồng bào anh. Tụi nó không treo cổ anh, không dùng tên đao phủ đưa ngang cổ anh lưỡi gươm hay làm động tác bấm nút để lưỡi dao của máy chém cắm phập xuống mà điếu động tới 12 tay thiện xạ, hướng cả 12 nòng khẩu súng trường vào ngực anh để đồng loạt nhả đạn. Anh quần mắt nhìn vào những kẻ sắp đem cái chết cho anh, miệng hô to: "Việt Nam độc lập muôn năm". Súng nổ, anh chới với vắn cố hô dông dạc "Hố Chủ tịch muôn năm". Anh gục xuống đầu ngoẹo sang bên, dưới chân ngập máu của chính mình.
    Trời! Nếu tụi chúng cho phép chị hoặc bắt buộc chị chứng kiến giây  phút hành hình người tử tù Vương Thành trước rồi dẫn chồng chị ra pháp trường sau thì sao? Nếu một tên nào đó là quan thầy của Nguyễn Bé mang hàm bộ trưởng hoặc đích thần viên đại sứ Mỹ tuyên bố công khai là sẽ thả chồng chị ngay tức khắc nếu chị nói vào loa phát thanh lời cầu xin tổng thống Nguyễn Văn Thiệu u ân xá cho cho chồng chị thì sao? Không  Không đời nảo chị ảo tưởng vào kẻ thù.
    Trong đêm tối, lẽ ra tâm trạng chị phải xốn xang, rối bời vì mỗi phút qua đi, giờ hành hình anh lại tới gần song chị cảm thấy mình bình thản, tỉnh táo, nhớ lại gương người xưa. Chị không dám so sánh mình với bà Trưng Trắc nhưng nỗi đau của bà khi nghe tin chồng là ông Thi Sách bị Tô Định giết chết chắc khôngthể lớn hơn nỗi đau của chị lúc này. Chị cũng không nhớ mình đã đọc ở đâu hoặc nghe ba hay các chú kể về cái chết oanh liệt của đô đốc Bùi Thị Xuân, người đã cùng chồng phò tá Nguyễn Huệ đại phá 50 vạn quân Thanh ở Ngọc Hồi, ở gò Đống Đa, tại thành Thăng Long vào tết Kỷ Dậu (1789).
    Nguyễn Phúc Ánh tức chúa Nguyễn sau khi đánh tan quân Tầy Sơn đã bắt được đô đốc Bùi Thị Xuân, tướng quân Trần Quang Diệu – chồng bà - và cô con gái của hai người vừa tròn 15 tuổi. Vua Gia Long đích thân phê chuẩn ghép gia đình bà chịu hình phạt dã man nhất thời bảy giờ: xử tội lăng trì cho voi xé xác.
Ba cái cũi lim được khiêng ra. Con voi đực già có đôi ngà nhọn hoắt, bị buộc nhịn khát suốt ngày hôm trước đã uống tới hai thùng rượu mạnh. Mắt nó long sòng sọc, hung dữ. Nó xông vào tướng quần Trần Quang Diệu xuyên đôi ngà vào người ông, hất ông lên cao. Cô con gái 15 tuổi hướng về phía đô đốc, khẩn thiết: "Cứu con với mẹ ơi". Đô đốc Bùi Thị Xuân bình tĩnh ngọt ngào khuyên con: "Hãy cùng chết với cha mẹ hơn sống chung với lũ người kia. Con nhà tướng không được khiếp sợ".
    Đến lượt bà Bùi Thị Xuân. Bà đã chết hai lần khi chính mắt bà trông thấy con voi xé xác chồng bà, con bà như thế nào. Bà không run sợ. Khi tên quản tượng ra lệnh buộc bà quỳ xuống khiến cho voi mến, voi gượng nhẹ hơn, bà không chịu. Bà ngẩng cao đầu, hiên ngang tiến thẳng đến đầu voi. Voi dữ buộc phải thối lui. Phải chăng nó đã nhận ra chủ cũ hay nó cũng chờn chặn trước dũng khí, oai phong của bà? Chịu sự thúc ép của chủ mới, voi dữ dùng vòi quấn ngang người bà , tung bà lên cao rồi giơ đôi ngà nhọn xuyên vào cơ thể bà.
    Đô đốc Bùi Thị Xuân thật là can trường. Là con cháu của vị nữ tướng lừng danh trong sử sách Việt Nam, chị khó có thể sánh với bà nhưng thề sẽ noi gương bà. Tên Nguyễn Bé đứng trước mặt chị đâu có đầy đủ uy quyền như vua Gia Long đứng trước nữ tướng Bùi Thị Xuân. Và chị chưa lâm vào cảnh thấy voi giày chồng mình, con gái mình như bà tướng.
    Tên Nguyễn Bé gườm gườm như muốn ăn tươi, nuốt sống chị. Khi nhận ra rằng khó có thể uy hiếp đối phương bằng những lời quát nạt, dọa dẫm, tên Nguyễn Bé lại đấu dịu:
    - Chị Hai! Thằng em của chị rất có thế lực. Em bực vì chị không thấu hiểu lòng tốt của em. Em muốn cứu một mạng người thoát chết để có phúc đức cho con cháu sau này.
    Chao ôi, thật là tởm lợm khi buộc phải nghe cái kiểu "miệng nam mô bụng một bồ dao găm" của kẻ nham hiểm mang hình người dạ thú? Vài phút trước, nó dọa nạt chị, quăng tấm thân tiều tụy của chị xuống sàn nhà, miệng văng ra mọi lời tục tĩu thế mà giờ đây lại giở giọng ngọt sớt khiến chị càng nghe càng muốn ói mửa. Tên Nguyễn Bé chỉ vào đồng hồ:
    - Bây giờ là 9 giờ 17 phút. Bản án chồng chị sẽ có đầy đủ hiệu lực trong vòng chưa tới 7 giờ nữa. Chị tính sao? Chả lẽ chị nỡ để chồng chị chết' Sao chị cứng nhắc vầy. Chị viết quấy quá ít chữ cho em. Hay là em viết, chị ký tên?
    Mỹ Lê không thể làm thinh để nghe nó léo nhéo mải bên tai mình nên phải lên tiếng:
    - Ông Bé. Ông đã bố trí nghe lén nên ông đã có trong tay băng ghi âm những gì cô út Phương kể cho tôi nghe về phiên tòa. Chồng tôi dặn các bạn anh: "Hãy ngẩng cao đầu, không van xin, không ủ rũ" và khuyên tôi hãy xứng đáng với anh. Tôi luôn nguyện làm theo ý anh. ông đừng nói thêm với tôi điều gì nữa, tôi không nghe đâu. Vô ích thôi.
    Bị từ chối thẳng thừng, tên Nguyễn Bé chưng hửng. Hắn không giữ được bình tĩnh nữa đã đứng bật dậy, dang thẳng cánh tát trái, tát phải vào mặt chị.
    - Đù má? Mày muốn chết ông cho chết.
    Hắn mở cửa ra lệnh cho tên lính gác:
    - Tống cổ con này về xà lim cho tao.
    Mỹ Lê cười thầm trong bụng. Con cú đội lốt công đã tự trút bỏ bộ mặt nạ đi rồi. Chị hướng về phía nó:
    - Cám ơn cậu Bé! Chị hiểu đầy đủ lòng tốt của cậu qua hai cái tát vừa nhận được và cái mệnh lệnh rất có thiện chí của cậu.
    Tên Nguyễn Bé vùng vằng nện gót giày rời khỏi nhà thương Ngay tức khắc, Mỹ Lê bị áp giải về trại giam. Tất cả mọi người tù nữ lo bồng chị trên tay, xoa bóp cho chị, đồng thanh chất vấn tụi giám thị về sức khỏe của chị. Chị không trò chuyện với ai vì quá mệt mỏi không phải chỉ bệnh tật mà do phải đấu mưu, đấu trí với tên trưởng ban thẩm vấn của Tổng nha cảnh sát Nguyễn Bé và do suốt gần 40 giờ qua chị chưa hề chợp mắt, chỉ nghĩ tới chồng con. Chị biết tâm sự cùng ai ở trại giam nảy. Đã đành là hầu hết những chị em ở đây đều đáng tin cậy nhưng chị đâu dám thồ lộ nỗi lòng mình. Vào những ngày này, ban lãnh đạo nhà tù quyết định mở cuộc vận động trả lại tự do cho chị. Địch không có chứng cớ gì buộc tội chị. Khi bị bắt, chị không mang theo bất cứ tài liệu nào có dính líu tới Việt cộng trong người. Vào tù, trong mọi lần đi cung, chị luôn kêu oan:
    - Tôi ốm yếu, tỏi sợ tù đầy. Tôi đang đi mua thuốc chữa bịnh thì bị bắt. Tôi không còn hoạt động cách mạng nữa.
    Rất may là trong thời điểm này tên Nguyễn Bé không có mặt ở Sài Gòn. Trong hồ sơ của hắn, hắn chỉ ghi: "Tên Dương Mỹ Lê tức Tư Liên học sinh trường tư thục Văn Lang, giáo viên trường tư thục nguyễn Hoàng bi bắt ngày 10 tháng 3 năm 1965, bị tòa kêu án một năm tù giam vì tham gia phong trào học sinh, sinh viên chống chính phủ . Theo lời khai của Sáu Hình thì Dương Mỹ Lê là đảng viên, là ủy viên ban chấp hành thành đoàn thanh niên lao động. Đương sự sinh con gái trong tù. Ra tù được một buổi, đương sự trốn thoát. Dương Mỹ Lê bị bắt lại do cảnh sát nhận diện được y...".
    Trong hồ sơ của chị, tên Nguyễn Bé không ghi một chữ nào về mối liên quan giữa chị và tử tù Lê Chân. Hắn định dùng chị là bước thang để tiến thân, đồng thời thử nghiệm một phương pháp lung lạc tinh thần Việt cộng.
    Mỹ Lê bị ốm liệt trong xà lim. Chị không chỉ không đi lại mà giờ đây không tự ngồi dậy nổi. Cái chết của chồng (vì chị luôn nghĩ là bản án có hiệu lực sau 24 giờ) đã làm sức khỏe của chị suy sụp. Các bác sĩ của nhà tù đều chứng nhận là chị khó còn hy vọng cứu sống. Để một người không có chứng cứ phạm tội chết trong tù là cái cớ để các tù nhân làm reo, nổi loạn và sẽ châm ngòi nổ cho thùng thuốc súng - là phong trào học sinh, sinh viên - đang âm ỷ chờ cơ hội bùng nổ. Hội đồng xét xử quyết định trả tự do cho con mụ Tư ốm với lệnh trục xuất chị về vùng nông thôn Cần Thơ, vĩnh viễn không được đặt chân lên đất Sài Gòn nữa.


Tiêu đề: Re: Lính Biệt Động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 09 Tháng Sáu, 2010, 06:18:16 pm
Để cắt những cái đuôi bám theo mình, Mỹ Lê không dừng lại ở Sài Gòn mà ngoan ngoãn thi hành lệnh trục xuất chị về quê anh, một vùng nông thôn cách thị xã Cần Thơ gần 60 kilômét rối đang đêm tối quay về nhà cô Năm. Bé Cánh đã hơn ba tuổi. Bé nhận má, quấn quít bên má, líu lô kề cho má nghe đủ mọi chuyện. Bé thoáng buồn vì Nội không cho bé ở chơi với má và má không thể bồng bé, đặt bé vào lòng mình. Chị bày cho bé lấy cái ghế, bảo bé trèo lên ghế và chị ráng sức kéo bé lên giường. Bé nằm im nghe má kể chuyện cồ tích. Má có nhiều chuyện lạ hơn và má kể hay hơn Nội. Ngày nào cậu cũng lân la bên má. Không phải trông cháu, cô Năm lo chạy ngược chạy xuôi tìm thầy lang, thuốc lạ để cứu cháu dâu. Cô đón thầy lang về. Chả hiểu thầy có bài thuốc gia truyền hay do kinh nghiệm lâu năm trong nghề, thầy cho Mỹ Lê uống ba thang thuốc nam rồi dùng loại lá gì đó giã nhỏ, đắp lên đầu gối chị khiến cho hai cái u sưng tấy ở đầu gối bị xẹp dần rồi biến mất. Mỹ Lê đã co duỗi được đôi chân. Cô Năm thuê thợ mộc đóng cho cháu đôi nạng. Hàng ngày, bà già hơn 50 tuổi đỡ cho cô gái 26 tuổi tập đi. Từ khi bệnh thuyên giảm, Mỹ Lê ăn được nên sức khỏe hồi phục rất nhanh. Chị bỏ nạng, chống gây đi lại quanh nhà. Bé Cánh luôn đi cạnh má. Bé không hề nghĩ rằng mình làm quấn chân má mà bé tin vào những bước chạy lon xon của bé đã giúp má khỏi té. Hồi này, Nội đã cho bé ngủ chung với má. Má xoa đầu bé, hát cho bé ngủ. Có lần bé sờ lên mặt má. Bé la to mét (mách) Nội:
    - Thưa Nội! Má của Cánh khóc nhè.
    Cô Năm ừ ào:
    - Má con hư lắm. Mai Nội sẽ đánh đòn để má con thôi khóc nhè con ưng không?
    - Con chịu.
    Cô Năm đoán tâm trạng cháu dâu theo cách nghĩ của cô. Cô nuôi cho nó trơn lông, đỏ da, hết bịnh là nó sẽ bỏ cô dông tuốt lên Sài Gòn. Nó nhớ con nó, nó khóc vì hai má con sắp phải chia tay nhau. Cô Năm đâu thấu hiểu nỗi lòng của chị. Chị phải giấu cô Năm, giấu họ hàng nhà chồng về bản án tử hình của anh. Chị không rõ xác anh chôn ở đâu, cúng giỗ anh ngày nào? Chị hứa nhưng trước mắt chị không thể thay anh săn sóc bé Cánh. Chị phải trở lại Sài Gòn hoạt động mặc cho tên Nguyễn Bé tung cả mạng lưới mật vụ bủa vây, truy lùng chị. Thằng trưởng ban thẩm vấn của Tồng nha cảnh sát cùng tình nhân từ Mỹ về đã luôn miệng cằn nhằn xuýt:
     - Thả hổ về rừng rồi mấy cha nội. Mười Dương là bí danh mới của con nhỏ. Nó tên chính là Dương Mỹ Lê, vợ thằng cha Lê Chân mới bị tòa án quân sự kêu án tử hình. Mấy ông nhầm to rồi. Con nhỏ đó phải lãnh mức án ít nhất 15 năm tù ngồi.
    Không chậm trễ, tên Nguyễn Bé cử thám tử về vùng nông thôn Cần Thơ, nơi Mỹ Lê khai chị sẽ cư ngụ khi bị trục xuất. Bị vồ hụt mồi, tên trùm cảnh sát càng tức tối:
    - Tôi cược mười ăn một với mấy ông là con nhỏ sẽ không chết. Nó sẽ trở lại Sài Gòn buộc chúng ta trả giá đắt vì đã giết chồng nó.
    Mỹ Lê cũng hiểu những gì đang rình rập chị ở Sài Gòn. Chị không còn giấy tờ tùy thân kể cả loại giấy căn cước giả. Chị bàn với cô Năm:
    - Thưa cô con lành bịnh rồi. Con tính trở lại Sài Gòn nhưng không còn giấy căn cước. Cô có cách gì kiếm cho con giấy căn cước rồng xanh thứ thiệt không?
    Cô bàn:
    - Mày lấy đại căn cước của đứa con gái nào trạc tuổi mày là chị hoặc em họ chúng mày rồi thay ảnh vào.
    - Làm như vậy không ổn đâu cô Năm. Nếu cảnh sát xét thấy con mang căn cước người khác, tụi nó bắt con ngay.
    - Hay là như vầy: Em chồng con nhỏ Chí là cảnh sát. Nó làm tờ khai là mất căn cước. Khi nào cấp căn cước mới, nó dán hình con vào. Con phải chờ bao lâu?
    - Từ năm tới bảy ngày.
    - Cô Năm nói với Chí xin giùm con giấy phép đi Bà Rịa.
    Mỹ Lê đã tính toán tới từng chi tiết phương án trở lại địa bàn cũ của mình. Chị không thể tự do đi lại trên đất Sài Gòn như những năm trước đây nữa. Sau hai lần, với hơn năm sống trong tù, có biết bao tên cảnh sát đã quen mặt chị. Với chính quyền ngụy, chị là phần tử bất hảo, tên họ đã ghi trong sổ đen. Đã thế, chị lại còn là vợ của Chính trị viên ban chỉ huy quân sự thật đoàn, người mới bị xử bắn. Chị phải làm sao cắt mọi "cái đuôi" có thể dò tìm ra dấu vềt của chị. Chị không thể dùng chỉtn cước của Lê Thị Chí với nghề nghiệp là làm ruộng lên sinh sống ở Sài Gòn, khi mà từ hình thức bên ngoài cách ăn mặc, trò chuyện, chị không có chút dáng dấp gì của người quen lam lũ chân lấm, tay bùn. Chị nhớ đến một gia đình cơ sở ở Bà Rịa khi má chị đang phụ trách lớp tấp huấn ở chùa Thị Vải. Chị dùng căn cước của Lê Thí Chí để đến Bà Rịa. Từ Bà Rịa, chị lại chạy cho mình tấm căn cước rồng xanh với tên mới là Huỳnh Thị Mai làm nghề dạy học. Nhờ những giấy tờ thứ thiệt, Mỹ Lê lọt vào Sài Gòn dễ dàng. Chị có hàng trăm địa chỉ của bạn bè thân thuộc là học sinh, sính viên cùng các cơ sở của má nhưng chị chọn nhà dì Bẩy để "hạ cánh". Nhà dì Bẩy ở vào địa thế khá thuận lợi có tới bốn lối vào nhà khác nhau. Mỹ Lê xuống xích lô từ xa, đi bộ qua trước cửa nhà dì bằng lối đi thứ nhất. Khỏng có gì khả nghi cả. Mỹ Lê vòng theo hướng khác vào nhà dì. Tư Linh ra mở cửa. Tróng thấy chị ruột, cậu bế bổng chị lên quay một vòng. Chị cười. Cậu em ruột của chị vốn trầm tinh, điềm đạm, sao hôm nay quá sôi nổi khác thường như vậy? Lý do thật đơn giản: Tư Linh rất nhớ chị. Cậu chưa biết chị ra tù nên cậu sung sướng tới nghẹn ngào khi chị cậu đột ngọt xuất hiện. Tư Linh kém chị chín tuổi. Cậu càng trưởng thành càng giống ba từ khổ người tới khuôn mặt, nụ cười, dáng đi, ánh mắt. Cậu to, cao và có lẽ trọng lượng cơ thể phải nặng gấp đôi chị ruột.Tư Linh đã 17 tuổi với đầy đủ vẻ ưu việt của thanh niên tri thức: cường tráng, đẹp trai, con nhà khá giả. Cậu hỏi chị:
    - Chị Hai ra tù hồi nào vậy?
    - Để thủng thẳng chị kể chuyện cho cả nhà cùng nghe. Em có gặp má không? Bé Tranh thế nào?
    - Con nhỏ dễ thương lắm, cười luôn miệng, chạy rất nhanh. Nó chưa nói sõi chỉ gọi được ba, má, bà. Em dạy mãi cháu mới gọi em là cậu. Má vẫn ở cùng Mười Tuân. Chị Hai? Ba Vĩ và út Hiếu vẫn chưa lên Sài Gòn. Thằng Ba Vĩ mê đội du kích nên nó ham công tác quá trời. Nó sắp được kết nạp vào đoàn rồi. Chả rõ nó xui dại, xui khôn thế nào mà út Hiếu cũng thích làm theo anh Ba Vĩ . Thằng Bẩy Thiện được gởi ở nhà chú Mười Thơ. Thằng nhỏ học giỏi không thua kém học sinh Sài Gòn. Nó diện kẻng lắm. Nếu chị muốn gặp nó, em sẽ đón nó về đây. Chị Hai nè? Em đến tuổi đi quân dịch rồi. Mấy chú, mấy anh nhủ em cứ đi lính rồi xin thi vào trường sĩ quan Thủ Đức, em không chịu. Đi lính ngụy, cầm súng địch bắn vào bà con mình, kỳ quá.
    Tư Linh rất hợp với chị Mỹ Lê. Cậu quấn quít với chị, nói luôn miệng. Cậu tin má nhưng má thường "quân sự", má áp đặt ý kiến buộc cậu chấp hành và cậu không có thói quen cưỡng lời má. Với chị Hai, cậu dễ trò chuyện cởi mở hơn. Cậu có thể bộc lộ ý kiến của mình để chị khuyên nhủ hoặc bắt bẻ . Mỹ Lê xa em đã gần hai năm rồi nên chi không ngờ là Tư Linh lớn nhanh quá và điều làm chị đặc biệt quan tâm là nó sắp đến tuổi đi quân dịch rồi. Riêng chị, chị không đồng ý để Tư Linh đi lính ngụy. Dù cậu là đoàn viên, đảng viên, có trái tim cộng sản trong lồng ngực nhưng với bộ quần áo rằn ri loang lổ của lính dù và những bông mai trên ve áo khiến chị đau lòng nhớ tới cái chết của chồng chị và những kẻ đã hành hạ, tra tần chị sống đi, chết lại trong tù. Chị an ủi em :
    - Nếu gặp má, chị sẽ bàn với má về chuyện gia đinh ta. Dì Bẩy, dượng Bẩy và các em đi đâu?
    - Đi ăn giỗ bên nhà bà con phía dượng Bẩy. Em tình nguyện ở nhà trông nhà.
    Có tiếng chuông gọi cổng. Dượng Bẩy, dì Bẩy và mấy đứa em rất vui vì bất ngờ gặp chị Mỹ Lê. Ngoài Tư Linh, Mỹ Lê là người họ Dương đã gắn bó với nhà dì Bẩy khăng khít nhất. Dì Bẩy hướng về phía con gái:
    - Mày lấy xe gắn máy đi đón bác Sáu tới đây ngay.
    - Dạ.
    - Nè! Mày chớ có bô bô cái miệng khoe gặp Mỹ Lê nghe. Mày chỉ được thì thầm, nói riêng cho bác Sáu thôi.
    - Dạ !
    Má Sáu Hoàn hối hả tới gặp con gái. Với má, Mỹ Lê có thể dốc bầu tâm sự, kể hết mọi chuyện về cái chết của chồng mình. Chị yêu cầu:
    - Má? Con không rõ căn cứ địa rời về đâu rồi, má khuyên con nên như thế nào? Nếu con vô cứ, mấy chú sẽ giữ con, không cho con trở lại Sài Gòn. Con chưa muốn ở trong cứ vì không chịu thua chúng. Con phải xứng đáng với Mỹ Hòa. Con cần trả thù cho chồng con.
    Má Sáu Hoàn tán thành ý kiến của con gái. Má rỉ tai con :
    - Có chuyện gì hệ trọng lắm sắp xảy ra trong năm 1968. Mấy anh thúc giục má chuyển vũ khí vào càng nhiều càng tốt. Má thương Ba Chân quá.
    - Cũng may là nhờ có út Phương, con biết được chuyện ba của bé Cánh, bé Tranh ở tòa án. Hai đứa nhỏ sẽ tự hào về ba của chúng.
    - Con tạm lánh về chỗ Năm Trăng, Xuân Hồng. Má sẽ vô cứ trình bày cụ thể về hoàn cảnh của con, xin ý kiến chỉ đạo về Tư Linh và yêu cầu điếu động Ba Vĩ lên Sài Gòn. Ba Vĩ thiệt là kỳ. Nó cứ tưởng chỉ ở Gò Công mới được chiến đấu, mới có tổ chức đoàn
    Mỹ Lê xin chỉ thị của má:
    - Trong thời gian chờ đợi chỉ thị trong cứ, con tính vô nhà dì Hai Tập sống chung với bé Tranh.
    Má Sáu Hoàn dễ dãi: Mày mới ở tù ra nên về nguyên tắc chưa được sinh hoạt ngay. Hai Tập đã có nhà riêng. Tạm thời con về sống chung với nó ít ngày. Má sẽ lo cho con chu đáo.
    Mười ngày sau, Mỹ Lê được điều động về cơ sở mới để hoạt động.


Hết tập 1




Tiêu đề: Re: Gia đình biệt động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Sáu, 2010, 06:25:16 pm
Tập 2

24
    Như thường lệ, Chánh văn phòng Dương Văn Đấu lướt qua các tờ báo hàng ngày trước khi chính thức làm việc. Ông thích đọc báo Quân đội nhân dân hơn báo Nhân dân vì lý do tờ báo quân sự đưa tin chiến thắng có những bài bình luận của ai đó ký tên là Chiến Binh khá sắc sảo. Hơn ai hết, ông nhớ chính xác số máy bay Mỹ bị bắn rơi, địa phương nào hạ Thần Sấm hoặc Con Ma của Không quân hay Hải quân Mỹ đúng số chẵn 500, 1000, 1500, 2000, 2500. Hôm nay, ngày 15 tháng 11 năm 1967, ông say sưa đọc tin chiến sự: "Sáng ngày 13 tháng 11 năm 1967, Nghệ An bắn rơi một máy bay Mỹ". Chưa cần nhìn con số đóng khung trang trọng ở trang nhất, ông đã nói đúng con số: 2530.
Tiếp đó, ông lướt sang tin chiến thắng miền Nam: "Bình Thuận - tập kích vị trí địch ở Bầu Ốc diệt gần 700 tên Mỹ - ngụy. Diệt gọn một tiều đoàn, một đại đội Mỹ. Phá hủy gần 50 xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi ba máy bay".
    Xếp tờ báo sang một bên, ông nở nụ cười khoan khoái. Ông cầm bản "Tin tham khảo" do Việt Nam Thông tấn xã ấn hành. Bản tin tuyệt mật này chỉ lưu hành nội bộ, dành riêng cho cán bộ cao cấp, ông thường đọc vào buổi chiều sau giờ làm việc. Đây là thú vui và cũng là nhu cầu không thể thiếu được của những "Ông già" sống độc thân. Ông đã già rồi ư? Ở tuổi 49, tóc ông đã chớm bạc, ông phải thay kính lão từ số 1,5 lên số 2. Ông đã xa nhà hơn 13 năm, tính ra gần chẵn 5000 ngày rồi. Chả hiểu vợ và các con ông hiện sống và chiến đấu như thế nào? Ông rất thèm thư của gia đình. Đọc xong lá thư hai trang, bốn trang, rồi tới mươi trang của từng đứa con sao ông luôn cảm thấy thòm thèm. Cả vợ và các con Ông thường giấu Ông những chuyện rủi ro của gia đình. Nếu không nhờ nhà văn Trần Đình Vân thông báo, Ông đâu biết Dương Mỹ Hòa bị bắt và chị Y trong tác phẩm "Sống như anh" chính là con gái mình. Chỉ mãi khi Mỹ Lê ra tù, Ông mới được thông báo là nó sinh cháu ngoại thứ hai của ông trong tù. Một điều băn khoăn nữa của ông là ông không rõ vợ ông, các con ông đang làm công tác gì, hiện hoạt động trong lòng địch tại Sài Gòn hay ở căn cứ? Ông nhớ nhà da diết. Rất tiếc là ở Bộ Điện Than của ông không có công tác liên quan đến miền Nam nên ông khó có điều kiện để đi B ước gì ông được đi B ngắn. Ông đã gặp gỡ trao đổi với không dưới hai mươi đoàn cán bộ, nhà báo, nhà văn, các dũng sĩ... cuốc bộ vượt Trường Sơn. Ông tin rằng ông dư sức hành quân từ giới tuyến Vĩnh Linh tới Nam Bộ. Không hiểu sao ông không hề run sợ khi nghe tiếng máy bay gầm rú trên bầu trời Hà Nội, tiếng bom rồi tên lửa Mỹ xé không khí tạo nên những tiếng nổ lớn làm rung nhà, chuyển đất. Khi bắt buộc phải xuống hầm trú ẩn, ông thường đứng phía ngoài cùng để theo dõi các làn đạn cao xạ, tên lửa, súng trường, súng đại liên ta đan chéo trên bầu trời và khi có máy bay Mỹ bốc cháy, ông thường vọt ra khỏi hầm, vỗ tay rcó hò hết sức khoan khoái. Đây là thói quen của ông. Khi có ai đó yêu cầu Bộ trưởng buộc ông sơ tán về vùng nông thôn hẻo lánh vắng bóng máy bay Mỹ hoặc nhắc nhủ ông không được thiếu cảnh giác chủ quan, khinh đích, Bộ trưởng thường cười xòa:
    - Chúng ta cần thông cảm với anh Đấu. Anh không được đi B nên ruột gan anh nóng như có lửa đất. Anh luôn muốn chia lửa với miền Nam.
    "Chia lửa với miền Nam", đó là khẩu hiệu hành động của mọi cán bộ, mọi chiến sĩ, của mỗi xã viên hợp tác xã, của mỗi công nhân, nông dân và của cả các cháu thiếu nhi. Ông Dương Văn Đấu có cách "chia lửa" riêng của mình. Khác với thời kỳ làm giám đốc mỏ, ông thường dành thời gian rảnh rỗi đến thăm từng gia đình công nhân mỏ, ở Hà Nội, ông có ít "quân", và hầu hết cán bộ nhân viên dưới quyền ông đều đã sơ tán nên ông gánh" hết mọi phần việc còn lại của công vụ, liên lạc, thư ký. Ông thường làm việc thông tầm. Nhiều đêm, Ông chong đèn thức tới 1, 2 giờ sáng. Có nhiều tác phẩm viết về cuộc chiến đấu của đồng bào miền Nam, Ông đọc thâu đêm, có đoạn Ông không sao eầm được nước mắt. Ông thường nghiền ngẫm các bản tin tham khảo để suy ngẫm thái độ của Mỹ, của các nước trên thế giới với cuộc chiến tranh của ta. Sáng nay, đưa mắt qua những đầu đề lớn của Tin tham khảo Ông dừng lại trước tin:
    "Ba tử tù của Việt cộng sắp bị hành hình".
    Ông chăm chú đọc: "Tổng tHồng Nguyễn Văn Thiệu đã phê chuẩn cho phép xử bắn ba tên Việt cộng đã lĩnh án tử hình là Bùi Văn Tiến, Vương Thành, Lê Chân".
    Lê Chân là con rể ông ư? Trước ngày cưới, Ba Chân, Mỹ Lê ñaõ gởi thơ tới ông, xin phép ông cho chúng làm hôn lễ. Ông không có hình Ba Chân và do bí mật, các con ông không nói rõ công tác của mình trong thư. Tuy vậy, Ông phán đoán là Ba Chân giữ cương vị gì đó khá lớn của Thành đoàn. Sau ngày tụi nó nên vợ, nên chống, ông đã chú ý dò hỏi. Ông hết sức tự hào vì không chỉ con rể ông mà ngay cả vợ ông đều ở trong ban chỉ huy quân sự của lực lượng võ trang Thành đoàn. Chả rõ cô ấy (ông vẫn giữ thói quen gọi vợ là "cô ấy") học bắn súng, ném lựa đạn bao giờ? Cô ấy dẫn đầu hàng quân xông vào đồn địch như thế nào? ỏng đã thua vợ, thua con rể rồi. Chả rõ con rể ông bị bắt Hồi nào Nó bị kêu án tử hình bao giờ? Không hiểu Lê Chân có đúng là nó không ông đọc tiếp:
    "Lê Chân tức Ba Cánh là Chính trị viên Ban chỉ huy quân sự Thành đoàn đã chỉ huy nhiều trận đánh quân Mỹ, quân chính phủ ở SàI Gòn. Tên Việt cộng cỡ bự này bị bắt ngày 01 tháng 10 năm 1965 khi đang chỉ huy trận đánh vào Sân banh Cộng hòa. Ngày 07 tháng 06 năm 1967 tòa án quân sự của quân lực Việt Nam Cộng hòa đã kêu án tử hình Lê Chân. Theo lệnh của tổng tHồng Thiệu, tên Chân sẽ bị xử bắn vào 5 giờ sáng ngày 16 tháng 11 năm 1967 tại khám lớn Chí Hòa".
    Ông đặt bản tin sang bên, cảm thấy nghẹn thở. Không hiểu sao cái tin hệ trọng tới mức này mà vợ ông, các con ỏng cố ý giấu ông. Chắc những người thân của Ông không muốn làm ông buồn nên đã đẩy ông lâm vào tình thế bất ngờ tới tuyệt vọng như lúc này. Ông làm cách nào để cứu được con rể? Ông nên gọi điện thoại cho ai? Đến gõ cửa nào? Thật là bế tắc. Ngày mai con rể ông sẽ lên đoạn đầu đài, Ông làm sao thông báo cho vợ ông, cho Mỹ Lê và các con ông tin chẳng lành này?
    Mỹ Lê! Đứa con gái đầu lòng có nhiều kỷ niệm gắn bó với ông nhất. Ông nhớ ngày sinh nó ở đồn điền cao su; khi ông đưa vợ và con gái về thăm quê, lần đầu tiên Mỹ Lê từ trường học về khoe với ông chữ "ba" chữ "má" do chính tay nó viết, rồi ngày nó theo má vào căn cứ thăm ông, lúc ông hòa đàn măngđôlin với nó và những ngày nó trở thành cô gái "buôn trứng vịt" đã khóc nhè vì cả giỏ trứng bị vỡ. Ngày ông rời Gò Công đi tập kết, Mỹ Lê mới 13 tuổi nhưng nó hiểu, nó nhớ mọi lời ông dặn dò, ủy thác. Ông đâu có ngờ nó trở thành góa phụ mới ở tuổi 26, phải nuôi hai đứa con mọn. óng cố hình dung ra cảnh sống của Mỹ Lê lúc này. Chắc chắn ba má con nó ở chung trong cái lán, sáng sáng Mỹ Lê bồng hai con hai nách, đưa đến gởi vườn trẻ. Hừ, không thể như thế được. Mỹ - ngụy dùng máy bay, xe tăng, pháo hạng nặng và hàng vạn quân chà đi sát lại mọi vùng đất ven Sài Gòn mà chúng nghi ngờ là nơi trú ngụ của Việt cộng. Chúng dùng máy xúc san thành bình địa cả một vùng rừng rộng lớn rồi phun chất độc không cho một ngọn cỏ, một lá cây nào còn giữ màu xanh. Mỹ Lê làm sao nuôi nổi hai đứa con ở một nơi phải chạy giặc, tránh giặc càn năm, bảy lần mỗi ngày. Sống ở miền Bắc ông không sao tưởng tượng ra vợ con, các cháu ông sống như thế nào, sống ở đâu, đang làm gì? Ông buồn thẫn thờ song ông không chia sẻ với ai được. Ông cầm bút nguệch ngoạc viết con số 2530 lên tờ giấy nháp trên mặt bàn Ông tự an ủi mình: ta đã bắn rơi của Mỹ tới 2530 máy bay, kèm theo ngần ấy tên giặc lái bị bắt hoặc bị chết thì việc hy sinh của con rể ông là điều không thể tránh khỏi trong chiến tranh.
    Trong lúc này, một tù thường phạm gõ cửa phòng 3B ở nhà lao Chí Hòa thông báo:
    - Mấy anh nhìn xuống sân xem. Các anh sắp "đi" rồi.
    Lê Chân, Vương Thành, Bùi Văn Tiến bị nHồt chung trong căn phòng hẹp ở lầu ba. Tiến sinh năm 1935, là chiến sĩ biệt động Sài Gòn, đã tham gia trận đánh vào Tổng nha cảnh sát và khách sạn Mêtơrôpôn, bắt hàng trăm sĩ quan Mỹ - ngụy đền tội. Tiến cùng hai bạn kéo lê xích sắt đến gần cánh cửa xà lim đã khóa trái bên ngoài, thay phiên nhau ghé mắt nhìn qua kẽ hở nhỏ xíu ở cửa. Tụi lính gác ngục đang điều khiển tù thường phạm đắp ba ụ đất cao quá đầu người, ở chính giữa mỗi ụ đất cắm chiếc cọc sắt. Lê Chân mỉm cười và nói:
    - Đáp số của bài toán đã rõ nhưng còn có ẩn số chưa rõ.
    - Ẩn số gì vậy"
    - Tôi với các bạn ai sẽ số một, ai chiếm ụ số hai, số ba?
    Ba người tử tù ngồi quây lấy nhau trò chuyện. Từ gần nửa năm qua, các anh là những người bạn thân nhất của nhau, kể cho nhau nghe mọi chuyện riêng tư thầm kín nhất của mình, bàn nhau tổ chức cuộc sống trong tù thật thích hợp để làm gương cho tù thường phạm, để những tên giám thị phải khâm phục, kính nề. Bọn địch không đụng tới các anh nữa. Chúng dời các anh từ khu OC4 (O = dưới lòng đất, C = khu C; 4 = xà lim số 4) lên khu 3B (ở lầu ba), không đòi hỏi anh chào cờ hay chấp hành nội quy của trại giam, việc mà các anh phản đối.
Phải nhận rằng những ngày đầu sống chung, các anh chưa thật thoải mái lắm vì người nào cũng thoáng buồn, cả ba đều ngong ngóng chờ đợi giây phút vĩnh biệt cõi đời này. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày trôi qua. Nếu không tạo cho cuộc sống của mình giữ nhịp độ bình thường, cứ nơm nớp chờ thi hành bản án - sẽ ảnh hưởng tới tinh thần, sức khỏe. Lê Chân tự đảm nhiệm chức xà lim trưởng, có nhiệm vụ vạch ra chương trình sinh hoạt mỗi ngày. Các anh không tự cho phép mình ngủ li bì suốt ngày, thức khuya tới 1, 2 giờ đêm hoặc ngủ đến 8, 9 giờ sáng chưa dậy. Các anh cũng không kiếm đâu ra chuyện tiếu lâm để kể hết ngày này sang ngày khác và tâm sự cuộc đời của mỗi người cũng không thể kể đi kể lại nhiều lần. Từ ngày Lê Chân đưa ra sáng kiến "một thầy - hai trò" thì cuộc sống của ba anh tử tù trong cùng xà lim trở nên sôi động, náo nhiệt. Vương Thành có trình độ văn hóa cao nhất hội được phong chức "giáo sư", phải soạn trong đầu mình hai giáo án, hai thời khóa biểu khác nhau. Đến giờ lên lớp thầy say sưa giảng bài cho từng trò, kiên nhẫn nói đi, nói lại nhiều lần cho tới khi trò hiểu bài mới thôi.
    Lê Chân tự nhận là cây lý luận của xà lim, đồng ý giữ chức giảng viên chính trị. Anh đã qua khóa huấn luyện của trường Đảng Nguyễn ái Quốc nên anh giảng say sưa, hấp dẫn, lôi cuốn người nghe từ chuyện khai thiên lập địa, khỉ chuyển hóa thành người, rồi xã hội nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa... khá mạch lạc. Bùi Văn Tiến xin gánh vác phần việc của. một “kỹ sư”. Tiến rất khéo tay. Chỉ có các vỏ lon sữa bò trong tay, anh hướng dẫn các bạn làm dao cắt tóc, làm nhíp nhổ râu. Công trình đồ sộ nhất của Tiến là sản xuất nhẫn. Chả hiểu bằng cách nào, Tiến xoay được chiếc lược sừng cũ. "Kỹ sư" bẻ lược làm ba đoạn, chia cho từng người, rồi dạy cho bạn cách làm nhẫn. Ba Chân học môn này hết sức chăm chỉ và vô cùng kiên nhẫn. Hàng ngày, anh đem phần "gia tài được chia" của mình, mài trên nền xi măng, mài nằm, mài đứng, mài nghiêng, cố tạo cho được một hình tròn như ý. Tạm hài lòng với công đoạn đầu, Ba Chân chuyển sang đục ruột hình tròn để tạo nên dáng dấp chiếc nhẫn. Ở xà lim, anh không có dao con, cái đinh, mảnh giấy ráp, đến mẩu sắt nho nhỏ nào nhô lên ở cánh cửa để anh dùng làm công cụ khoét nhẫn cũng không thể có. Anh chỉ có trong tay mảnh gốm vỡ và lưỡi dao không có cán làm từ vỏ lon sữa bò.
    Ba Chân dành mọi tâm trí và tài nghệ để hoàn thành sản phầm của mình. Anh nâng niu, gượng nhẹ mỗi khi đụng chạm tới mảnh lược sừng, nguyên liệu duy nhất để làm nhẫn, mà anh có trong tay. Nay mai, anh sẽ lo gửi kỷ vật cuối cùng của mình về tặng vợ anh. Đón được nhẫn, Mỹ Lê càng hiểu thêm lòng anh. Trên trái đất này, không rõ có một địa phương nào hoặc một người đàn ông nào dồn mọi tâm huyết cho món quà tặng vợ như anh không? Anh không sốt ruột, không nôn nóng. Chỉ cần một sơ xuất rất nhỏ là cái nhẫn thanh mảnh làm bằng vật liệu dễ gầy sẽ trở thành vật bỏ đi, vô dụng. Vương Thành vấp phải thất bại đầu tiên vì anh chưa hề yêu ai nên mục đích làm nhẫn của anh chỉ để giải khuây, để giết thời gian để rèn luyện tài khéo léo của đôi tay. “Kỹ sư” Bùi Văn Tiến cũng không thành công vì động cơ thôi thúc anh hoàn thành sản phẩm không sâu sắc như Lê Chân. Vương Thành ủng hộ Ba Chân hết sức nhiệt thành rồi gạ gẫm:
    - Bà xã ông còn cô em gái hết ý. Tôi giúp ông, ông sẽ gả em gái vợ cho tôi, nghe.
    Ba Chân lắc đầu:
    - Tao không cho mày dính phần vô đây. Anh Tiến thử phân xử coi Thằng cha sắp chết còn tham. Vợ tao để tang tao chưa đủ sao mà mày tính bắt em vợ tao để tang mày nữa.
    Tư Thành chống chế:
    - Luật nhà Phật có kiếp luân hồi mà, anh Ba. Biết đâu kiếp sau em thác sinh sẽ được cùng cô Ba nên vợ nên chống.
    Ở trong tù những chuyện gán ghép, tán hươu, tán vượn thường xảy ra như cơm bữa nhưng có ý kiến đề xuất khá nghiêm chỉnh:
    - Anh Ba ! Nếu anh không khắc tên lên nhẫn, ai biết là nhẫn của anh làm ra?
    - Khắc chữ gì? Làm cách nào khắc?
    - Anh khắc chữ Chân hay viết tắt mình chữ "C" cũng được.
    Lê Chân tán thành:
    - Tôi sẽ khắc chữ C, chữ L lồng vào nhau hoặc xếp cạnh nhau có nghĩa là Chân - Lê hoặc Cánh - Liến.


Tiêu đề: Re: Gia đình biệt động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Sáu, 2010, 06:31:47 pm
     Chỉ có một sáng kiến nhỏ nhoi này cũng làm ba người bạn tranh cãi sôi nổi. Giá như ở ngoài đời, đứa bé tám, chín tuổi dễ dàng dùng đinh hoặc dùi khắc trong năm phút sẽ hoàn thiện công trình, còn ở trong xà lim này thật vô cùng nan giải. Cả ba người thay nhau thảo mẫu hai chữ C - L, theo kiều viết in hay viết hoa, viết rời nhau hay lồng vào nhau, xếp tên chống trước hay tên vợ trước? Điều cần bàn là giấy gì đề khắc, trcó cái nhẫn vào đâu để khắc chữ trên cái hình chưa đến một phần tư centimét vuông? Cuối cùng, sau một tuần lễ bàn cãi, thí nghiệm thực hành, ba người mới đi đến tHồng nhất: "kỹ sư" Tiến mài lưỡi dao vỏ lon sữa bò thành cái dùi có hình tam giác nhọn, Tư Thành lồng chiếc nhẫn vào đầu ngón tay út và Ba Chân chịu trách nhiệm khắc chữ đầu tên vợ, tên mình lên nhẫn theo đúng mẫu đã được phác thảo trên nến xi măng.
    Các anh không nhớ là công trình tập thể này đã kéo dài bao lâu và ai là chủ công trình. Ở trong khám tử tù, các anh có quá nhiều thời gian rảnh rỗi nên ba anh luân phiên nhau đcó nhẫn vào ngón tay út của mình, đặt ngón tay lên đầu gối bạn không động đậy, không nhúc nhích để bạn bình tĩnh ngồi khắc. Sau nhiều ngày miệt mài, tỉ mỉ gọt khắc ba anh tử tù tự hào ngắm thành công công trình tập thể của mình. Ở những con người mà cái chết luôn trcó lơ lửng bên cạnh thì mỗi mềm vui nho nhỏ đều giúp cho tinh thần từng người thêm sảng khoái. Tuy nhiên, ai nấy lại thoáng thất vọng khi Ba Chân nêu lên nổi băn khoăn của mình:
    - Chúng ta làm cách nào chuyển món quà này cho vợ tôi được?
    Thật là nan giải. Cái ước muốn thiêng liêng rất đơn giản của Ba Chân là để lại kỷ vật cuối cùng cho vợ chả lẽ bị lâm vào bế tắc sao? Ba anh tử tù lại "bày binh bố trận". Các anh không được ra khỏi xà lim, không có quyền giao dịch với ai nên báu vật chỉ có thể giao cho người tù thường phạm thường mang cơm nước đến cho các anh hoặc tên giám thị ác ôn chuyên gác cửa xà lim. Còn một phương pháp nữa mà những người buộc ngồi lên ghế diện ở các nước văn minh có quyền yêu cầu luật sư can thiệp: "gửi lá thư tuyệt mệnh cùng vật kỷ niệm cho người thân" nhưng cả Lê Chân, Bùi Văn Tiến, Vương Thành đều bác bỏ phương án này. Từ ngày bị bắt các anh đã dứt khoát cự tuyệt mọi sự hợp tác - dù nhỏ nhất - với chính quyền ngụy nên các anh không dại gì "giao trứng cho ác", ghi địa chỉ chính thức của Mỹ Lê hoặc của má Sáu Hoàn cho kẻ thù. Các anh quyết định tấn công vào người tù thường phạm. Vì có cảm tình với mấy ông tù chính trị. vì việc các anh nhờ vả quá nhỏ và cũng vì mê tín cần làm theo ý người sắp chết nên người tù thường phạm nhận lời. Một tuần sau, anh này thông báo:
    - Có hơn hai chục người mãn hạn tù đợt này. Tôi đã gửi cho một chỉ cán bộ tên là Lợi quê ở miền Trung.
    Coi như đã giải quyết xong được một việc lớn, Chân, Tiến, Thành tiếp tục chương trình học tập đã vạch sẵn và bình thản chờ... chết. Trong ngày 15 tháng 11 năm 1967 ba người tử tù lại một lần nữa ngắm ngôi mộ của chính mình. Các anh hết sức ung dung, thư thái, bình thản bàn về giờ chết của mình. Dứt khoát không nhận lễ rửa tội của cha cố, không đầu hàng, không xin kẻ địch bất cứ điều gì. Nó có quyền còng tay, xích chân khi áp giải mình ra pháp trường, eòn mình sẽ nâng cao đầu và đấu tranh đòi chúng không bịt mắt. Những tên đao phủ sẽ trói thúc kế (giật cánh khuỷu) tay mình vào cọc sắt không cho mình chạy mình mặc kệ nó nhưng nó không cấm được mình hô khẩu hiệu hoặc nói điều gì đó nhắn nhủ với binh linh địch, thân nhân bọn giám thị, các tù thường phạm và chắc chắn sẽ có cả các đồng chí mà kẻ địch buộc phải chứng kiến giây phút hành hình tù Cộng sản.
    Tối hôm đó, những anh tử tù sắp từ giã cõi đời này hàn huyên với nhau đủ mọi chuyện. Các anh thử kiểm kê tài sản của mình. Chả có gì để lại cho đời sau và cũng không còn gì đáng giá cho các bạn tù. Bùi Văn Tiến, Vương Thành nhận được tiếp tế của gia đình (vì Mỹ Lê tin là chống mình đã bị xử bắn nên chị không yêu cầu dì Bẩy và Tư Linh đi thăm nuôi anh) nên trong kho lưu trữ còn ít đỗ xanh, đỗ đen, vài lạng đường, cùng vài chục cây nến dùng để thắp thay cho đèn dầu. Vương Thành bỗng nẩy ra ý kiến ngồ ngộ :
    - Ta chả cần dự trữ nữa. Ta nấu chè khao nhau, ăn cùng nhau bữa cuối cùng.
    Bùi Văn Tiến tán thành ngay:
    - Hay đấy Ba Chân cậu lấy hăng-gô vào đây. Trong lần thăm nuôi trước, gia đình Bùi Văn Tiến tiếp tế một hăng-gô ruốc thịt. Các anh phải đấu tranh quyết liệt mới giữ lại chiếc hăng-gô dùng dự trữ nước uống hàng ngày và giờ đây các anh quyết định biến hăng-rô thành cái nồi. Ở ngoài đời, các anh đã ăn nhiều loại chè và đã xem người thân nấu chè nhưng ở trong xà lim này, cái khó đang bó cái khôn, các anh phải tính toán chi ly: đổ bao nhiêu nước đề chè còn có vị ngọt và đủ "củi" nấu sôi nồi chè, làm cho chín đỗ?
    Đã bao lâu nay cơ thề các anh thèm chất ngọt, các anh chưa hề nếm mùi chè nên trong miệng người nào cũng tiết dịch vị khi cả ba đều say sưa làm đầu bếp. Các anh đập vụn từng cây nến, lấy tim nến tạo thành nhiều ngọn bấc mới. Các anh thay nhau cầm hăng-gô hơ trên lửa. Khi nước sôi, Tiến và Thành dùng tay áo bà ba làm "đòn gánh" gánh quai hăng-gô để Ba Chân lo giữ lửa cháy đều. Nửa giờ sau, Tiến nếm thử chè, bình phẩm:
    - Đỗ còn hơi sượng.
    Ba Chân tuyên bố:
    - Hết đèn cầy (nến) rồi. Ăn chè sượng cũng là kỷ niệm thú vị.
    Vương Thành bàn:
    - Ta không phá áo tù mà chỉ cần loại bớt sáu ống tay áo dùng làm "củi".
    Tiến tham gia:
    - Không nên làm như thế vì khi ngửi thấy mùi vải khét tụi nó sẽ vào can thiệp, phá rối "bữa tiệc chè" của chúng ta. Mặt khác chúng ta không nên mặc áo cộc tay ra pháp trường. Ta không để kẻ đích vin vào cớ đốt áo để bôi nhọ thanh danh chúng ta.
    Ba anh tử tù nhanh chóng thống nhất với nhau. Các anh nằm khểnh đợi cho chè nguội mới thay phiên nhau húp (vì không có bát, có thìa). Sau bữa tiệc chè, các anh nằm bên nhau tán gẫu rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Mãi hơn bảy giờ sáng ngày hôm sau (16 tháng 11 năm 1967), Ba Chân choàng tỉnh. Anh lay gọi hai bạn:
    - Dậy, các đồng chí ơi? Đến giờ rồi.
    Ba anh chỉnh đốn quần áo, vuốt lại mái tóc. Tiếc quá! Tiếc quá! Không còn giọt nước lã dự trữ nào để xúc miệng, rửa mặt cho sạch sẽ, tỉnh táo trước khi "đi". Ờ mà sao chúng nó chưa tới? Vương Thành chợt nhớ ra:
    - Nè! Chiều qua tụi nó công bố trên loa phát thanh là sẽ bắn tên Lê Chân, Bùi Văn Tiến, Vương Thành vào đúng 5 giờ sáng nay, sao mãi bây giờ vẫn chưa thực hiện?
    - Chắc tụi nó còn chờ quan thầy xuống chứng kiến.
    Lê Chân bàn:
    -Các bạn này! Tôi ngại là nó bắn phát đầu trúng tim ngay nên không hô được khẩu hiệu. Lúc đầu, tôi định hô "Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm" nhưng sợ dài quá nên tôi rút xuống "Hồ Chủ tịch muôn năm". Bây giờ, tôi sẽ hô gọn bốn từ "Bác Hồ muôn năm".
    Bùi Văn Tiến thổ lộ:
    - Tôi cũng dự tính đúng như anh Ba. Tôi muốn diễn thuyết trong vài phút để kết luận rằng chính nghĩa sẽ thắng và sẽ hô to khẩu hiệu "Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm" nhưng bây giờ tôi sẽ hô "Việt Nam Độc lập muôn năm".
Vương Thành nêu dự kiến của mình:
    - Những tên lính bắn tụi mình phải dàn hàng ngang, phải chờ lệnh tên sĩ quan mới được giương súng, ngắm và bắn. Tranh thủ lúc đó , tôi hô : "Đả đảo giặc Mỹ xâm lược" "Đả đảo tên việt gian bán nước Nguyễn Văn Thiệu" "Chúng tôi là những thanh niên yêu nước, không có tội".
    Cũng chả có gì cần tranh cãi hoặc khuyên bảo nhau về dự kiến xử sự giây phút cuối của đời mình nên ba anh bạn tử tù lài ngồi tựa lưng vào tường chờ đợi. Các anh không đoán được lý do trì hoãn giờ hành hình mình nhưng một người ở cách xa khám Chí Hòa ngót hai nghìn kílômét đã hiểu tường tận sự việc xảy ra. Chánh văn phòng Dương Văn Đấu không có cách gì cứu con rể thoát chết nên ông đã gần như vồ bản tin tham khảo buổi chiều hôm đó. Ông đọc ngấu nghiến gần như nuốt từng chữ trong tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
    Nếu ba chiến sĩ biệt động Lê Chân, Bùi Văn Tiến, Vương Thành bị chính quyến Nguyễn Văn Thiệu xử tử thì ngay sau đó Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ xử bắn ba tên giặc lái Mỹ.
    Ông Đấu cười hể hả. Chính phủ ta chơi lại chính quyền Thiệu một đòn ba mũi giáp công, quân sự, chính trị pHồi hợp với ngoại giao rất ngoạn mục. Ta không thương lượng với tên tay sai, đầy tớ, kẻ đã ra lệnh giết ba người tù, mà ta bắn tin cho quan thầy của nó là Mỹ. Chính phủ ta có trong tay những át chủ bài là tụi giặc lái Mỹ, trong đó có tên thiếu tá không quân lái máy bay A4 định ném bom phá hủy nhà máy điện Yên Phụ. Bị dính đạn giáng trả của tự vệ nhà máy, máy bay nó bốc cháy. Tên giặc lái này chỉ kịp nhảy dù. Hắn bị rơi xuống hồ Trực Bạch, chân bị thương, dù quấn đầy người. Khi được người dân vớt lên thuyền, hắn đã bị uống no nước. Hắn đã run lên trước các họng súng trường của tự vệ và nhiều ánh mắt căm thù của người dân Hà Nội chiếu thẳng vào hắn, trong số đó có ông Bẩy Đấu. Nghe tin bắt được tên giặc lái Mỹ sắp chết đuối, ông đạp xe lên ngay hồ Trúc Bạch. Cũng giống như mọi người dân bình thường, ông dựng xe vào gốc cây ven đường, khóa lại rồi len lỏi vào xem mặt tù binh với tâm trạng náo nức của những ai dám đánh Mỹ và thắng Mỹ. Ông đâu có ngờ câu chuyện xảy ra cách đây gần một tháng, vào ngày 26 tháng 10 năm 1967, ngày quân và dân cả nước ta bắn rơi 10 máy bay Mỹ, lại liên quan tới gia đình ông, tới con rể ông.
8 giờ tối ngày 15 tháng 11 năm 196?, Chánh văn phòng Dương Văn Đấu chợt muốn dốc bầu sự. Ông quan số điện thoại tới người bạn thân đang công tác ở Bộ Quốc phòng:
    - Anh Tư, anh có rảnh không? Anh có thề trò chuyện với bạn cùng quê vài chục phút không?
    - Ôi anh Bẩy! Sao bữa nay anh khách khí vậy? Thằng em này sẽ cho ôtô tới đón anh. Anh đi ngay được chớ?
    - Tôi đã sắn sàng.
    Mười lăm phút sau, ông Bẩy Đấu đã lọt vào Chỉ huy sở. Điện thoại réo liên tục. Các sĩ quan, quân phục tề chỉnh, đang dán mắt vào màn huỳnh quang. Viên tướng niềm nở giới thiệu ông với kíp trực:
    - Anh Bẩy Đấu, chánh văn phòng Bộ Điện Than có việc cần trao đổi với tôi. Tôi tiếp anh ở phòng ngoài.
    Nghe ông Bẩy Đấu trình bày xong, thiếu tướng chìa bàn tay về phía bạn: "Chúc mừng anh?" Ông Bẩy Đấu hết sức ngỡ ngàng. Có gì đáng gọi là "chúc mừng trong sự kiện Ba Chán bị xử tử đâu? Biết Ông Tư vốn là nhà quân sự đạo mạo, đúng mức, không thể đùa dai trong hoàn cảnh này, nên Ông Bẩy Đấu đưa tay mình về phía bạn, hờ hững nắm tay bạn. Viên tướng lấy ra bức điện mới nhận được:
    - Anh có biết tiểu sử tên thiếu tá giặc lái mới bị ta bắt không? Tay này có ông nội và bố đều là đô đốc nên gia đình giàu cỡ tỷ phú và rất có thế lực. Anh đọc đi? Tổng tHồng Mỹ đã yêu cầu Thiệu hoãn vô thời hạn lệnh xử tử ba cán binh Việt cộng. Chắc chắn cháu Ba Chân không bị hành hình nữa. Điều đó có đáng chúc mừng không?
    Ông Bẩy Đấu hướng về phía bạn:
    - Xin thú thực ỉa tôi rất mừng nhưng mừng vì Ba Chân thoát nạn ít hơn mừng về sức mạnh của Tổ quốc ta.
    - Tôi hoàn toàn đồng ý với anh. Nếu thế và lực ta không mạnh hơn kẻ thù, Tổng tHồng Mỹ đâu thèm chú ý đến sinh mạng tù binh ta.
    Ông Bẩy Đấu cám ơn bạn. Ông tức vì mình không có cách gì thông báo cho vợ ông, các con ông, cho Ba Chân và các bạn tử tù của nó là chúng nó đã được cứu thoát.
    Vào khoảng 8 giờ sáng ngày 16 tháng 1 1 năm 1967 Ba Chân ghé mắt nhìn qua khe cửa. Anh ngạc nhiên thông báo cho hai bạn:
    - Nè? Tụi nó đang phá các ụ đất. Tại sao vậy?
    Tư Thành và Bùi Văn Tiến cũng không rõ lý do. Ở trong xà lim hẹp bao bọc bởi bốn bức tường kín như bưng, các anh không có cách gì tìm cho mình lời giải đáp. Thôi cứ mặc kệ chúng nó, thắc mắc làm gì. Tư Thành giả bộ than thở:
    - Chỉ tiếc là từ đêm nay anh em ta phải ngủ mò vì không còn cây đèn cầy (nến) nào cả.
    Ba Chân gợi ý:
    - Từ mai, ta chuyển thời gian sinh hoạt, học tập vào ban ngày, tối ta đi ngủ sớm. Hôm nay, ta tạm nghỉ.
    Ba anh tử tù chưa kịp ghé lưng nằm nghỉ đã nghe anh tù thường phạm thông báo:
    - Các ông thoát chết rồi. Đã có lệnh hoãn xử tử các ông để Chính phủ Cụ Hồ không hành hình ba phi công Mỹ.
    - Làm sao anh biết tin này?
    - Mấy ông giám thị nói lại cho tù nghe trước khi ra lệnh cho tù phá ba ụ hành hình.
    Vốn nhạy bén về chính trị, Ba Chân đưa ra đề nghị:
    - Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Bác Hồ đã cứu sống chúng ta. Từ nay cho tới khi nhắm mắt xuôi tay, anh em ta đừng quên ngày 16 tháng 11 .
    - Đồng ý!
    - Tán thành!
    Ta sẽ nhắc để mọi người thân trong gia đình luôn luôn đừng ảo tưởng vào kẻ thù và nhớ ơn Chính phủ đã cứu mạng sống chứng ta.
    Bùi Văn Tiến lật ngược vấn đế :
    - Liệu chúng ta có sống tới ngày đó không? Tụi nó đã kêu án chúng ta. Chúng ta không công nhận bản án nên không kháng án nhưng với pháp luật của chúng nó bản án đã có hiệu lực.
    Với những người tử tù luôn coi cái chết nhẹ tựa lông hồng nền các anh bàn đến chuyện ra đi vĩnh viễn của mình hết sức bình thản. Ba Chần đưa ra kết luận:
    - Cứ coi như đầy là nghị quyết của chúng ta. Tương lai, nếu tụi nó xử tử chúng ta vào ngày khác nhau, chúng ta tHồng nhất lấy ngày 16 tháng 11 hàng năm là giỗ của chúng ta.
    Vương Thành lại đưa ra câu hỏi:
    - Đặt giả thuyết cuộc kháng chiến của dân tộc ta thắng lợi, chúng ta được các đồng chí giải phóng cả thì sao?
     Bùi Văn Tiến khẳng định:
    - Nếu chúng ta sống cùng địa phương ta sẽ luân phiên tổ chức. Trường hợp chúng ta phải ở mỗi người một tỉnh khác nhau, ta cùng làm mâm cơm, đặt lên bản thờ tượng trưng, rồi thắp một tuần nhang đề nhớ ngày giỗ của chúng mình.
    Ba người tử tù ngoắc tay nhau, cười sảng khoái tự hào vì kẻ địch đã phải chịu thua đậm kcó này.


Tiêu đề: Re: Gia đình biệt động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Sáu, 2010, 06:35:46 pm
25
[/b]
    Những tháng cuối năm 1967, má Sáu Hoàn bận tíu tít, má bận đến mức không có thì giờ nghĩ đến con gái, con rể má đang ở tù. Má đâu thuộc loại người vô tâm như thế. Má nhớ đến con từng giờ, từng phút; trước khi ngả lưng xuống giường ngủ mỗi tối và cả trong giấc mơ vào ban đêm. Nhớ các con, má càng cố gắng công tác. Tuy không được phổ biến nhưng linh tính một cán bộ hoạt động thành đoàn và đặc biệt chuyên trách lo vũ khí dự trừ ở các kho, yêu cầu má chuyên chở gấp về nhiều lựu đạn, súng trường, súng tiểu liên với cơ số đạn không hạn chế. Tại sao "món ăn" mà các chiến sĩ biệt động ưa thích là loại thuốc nổ cực mạnh, đây cháy chậm, kíp nổ hẹn giờ lại không được đặt hàng? Chắc chắn sẽ có đánh nhau to, hai bên trực tiếp bắn nhau nhưng trận đánh diễn ra ở đâu vào ngày giờ nào, má không biết và cũng không hỏi. Được thằng Mười Tuân phụ giúp, má có nhiều thuận lợi hơn. Thằng đó đưa má đi đây, đi đó bằng xe gắn máy vừa nhanh, vừa an toàn. Nó là tài xế, là liên lạc viên, là thư ký và cũng là người bạn tâm tình của má. Má truyền đạt quyết tâm của mình cho con:
    - Má đã hứa cung cấp đầy đủ vũ khí theo "đơn đặt hàng" của mấy chú. Má con ta không có điều kiện trực tiếp cầm súng trả thù cho các chị và anh Ba con, ta sẽ trả mối thù này bằng cách tiếp tế đầy đủ vũ khí cho đội biệt động.
Ngày mùng một, mùng hai rồi mùng ba Tết, má Sáu Hoàn mừng rơn. Thằng Mười Tuân đi thu lượm tình hình về thông báo cho má:
    - Ta đã mở đợt tấn công và nổi dậy khắp thành pHồ. Các chú biệt động đã chiếm đài phát thanh, tấn công dinh Độc Lập, tòa đại sứ Mỹ, sân bay Tân Sơn Nhất... Con tiếc quá má à? Phải chi má cho con tham gia đánh một mục tiêu.
Mười Tuân tường má mình là cấp chỉ huy biết hết mọi việc, mọi mục tiêu cần tiến công nên cậu trách má. Má Sáu Hoàn an ủi con:
     - Tụi nó cậy có chính quyền trong tay đã bắt các chị, anh Ba con và bao nhiêu đồng chí của chúng ta vào tù. Má con ta đã góp phần bắt chúng nó đền tội. Nếu con đi chiến đấu, ai phụ giúp má đưa vũ khí vào các kho, ai đưa má vô cú' Mười Tuân nhận thấy ý của má đúng nên cậu không cãi nữa. Cùng với má, cậu được nghe phổ biến về cuộc tổng tiến công đợt hai rồi đợt ba. Cũng trong thời gian này, sau đòn phủ đầy bất ngờ, bộ máy chỉ đạo chiến tranh của Mỹ, của ngụy hồi tỉnh, thoát khỏi nỗi hoang mang nên đã thu gom toàn bộ lực lượng còn lại mở cuộc phản công Việt cộng.
    Do chủ quan là thắng lợi đã gần kề, nhiều cơ sở mật của ta bộc lộ lực lượng, bỏ qua các quy định bảo mật, mất cảnh giác nên đã tạo sơ hở để địch vồ gần hết lực lượng bí mật nội thành. Rất may là má Sáu Hoàn không sa vào tay giặc, vẫn cùng Mười Tuân sống hợp pháp ở Sài Gòn. Má rất đau lòng thấy nhiều cơ sở ta bị tan vỡ. Sau tết Mậu Thân, từ ngày 8 tháng 4 đến ngày 31 tháng 5 năm 1968 tên tướng thiết giáp Abrams lên thay Oétmolen đã cho tập trung 42 tiều đoàn ngụy cùng với quân Mỹ tổng cộng tới 79 tiểu đoàn chuyên dùng vào việc chà đi, xát lại càn quét vùng tây bắc Sài Gòn, chủ yếu là Hóc Môn, Củ Chi, Trảng Bàng... nhằm lập vành đai trắng, cô lập lực lượng của ta ở Sài Gòn với vùng giải phóng. Cũng trong những ngày này, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu chủ trương đổi tên Nha cảnh sát đô thành với số quân mười nghìn tên thành Bộ Tư lệnh cảnh sát quốc gia với số quân tăng vọt lên chín vạn. Chúng đã bắt được nhiều cán bộ biệt động. Một số tên không chịu được tra tấn đã khai ra một số kho vũ khí. Má Sáu Hoàn lo lắng đứng ngồi không yên. Có cách nào đối phó với tình huống trước mắt không Hai bên đánh nhau, trong lúc một bên tăng lực lượng lên vài chục lần, một bên gặp nhiều khó khăn về người bị thương, bị chết, bị bắt và vũ khí gần như đã cạn kiệt, làm cách nào chứng tỏ cho địch biết là lực lượng của ta ở Sài Gòn còn hùng hậu?
    Không khí Sài Gòn từ tháng 4 năm 1968, ngày càng nghẹt thở. Nhằm thực hiện chương trình bình định cấp tốc, Mỹ - ngụy đã nhận định: "Do dốc sức quá lâu ngày để tấn công khắp các đô thị Việt cộng chưa kịp củng cố nông thôn, nhất là các vùng ven đô". Với 79 tiểu đoàn và ngót 10 vạn cảnh sát, Mỹ ngụy huy động toàn bộ phương tiện chiến tranh để san, ủi phá sạch mọi địa hình che khuất ở từng thôn xóm. Chúng dùng vũ lực càn quét, gom dân lại, xáo trộn dân nhằm mục đích đánh bật tên Việt cộng cuối cùng còn sót lại trong quần chúng. Ở nội thành, định dùng bọn đầu hàng phản bội, bọn ác ôn, mật vụ để chỉ nhà, chỉ mặt Việt cộng để bắt bớ, giam cầm, tra tấn và không ít trường hợp chúng đã bắn giết Việt cộng ngay giữa đường pHồ để thị uy. Má Sáu Hoàn cũng suýt rơi vào tay địch. Lần đó, như thường lệ, má đến kiểm tra kho vũ khí của sư cô Nguyễn Thị Nhàn. Với kinh nghiệm của một cán bộ hoạt động trong lòng địch, cậu bé 15 tuổi Mười Tuân không phóng honđa đưa má xộc vào điểm hẹn. Từ xa, cậu giảm bớt ga, chú ý quan sát ngôi nhà. Không có dấu hiệu báo động nhưng sao cửa nhà không mở, sư cô không ngồi ở vị trí hàng ngày? Cậu cho xe áp sát bên vỉa hè. Bà hàng xôi đầu pHồ nhận ra cậu, nói bâng quơ: "Chả hiểu sao chủ nhà 330 bị bắt?" Mười Tuân chột dạ cho tăng ga phóng vút đi. Ở trong nhà 330 Cao Đạt có tiếng hô. Một chiếc xe gắn máy phóng ra đuổi theo, nhưng Mười Tuân nhanh hơn. Cậu phóng hết tốc độ, chủ động ngoặt xe theo các đường rẽ nên đã thoát. Má Sáu băn khoăn lắm. Chả lẽ sư cô Nguyễn Thị Nhàn và cô con dâu Hai Thưởng đã hèn nhát khai ra má? Không đúng. Sư cô biết chỗ ở của má. Nếu sư cô phản bội, kẻ địch đã đến bắt má tại nhà. Phải mất ba ngày sau, má Sáu Hoàn mới tìm ra sự thật. Một anh cơ sở là tài xế bị bắt đã khai ra địa điểm thường lui tới giao nhận vũ khí. Địch tổ chức khám nhà. Sau Mậu Thân, kho vũ khí này đã cạn nhưng vẫn còn giữ dấu vềt của nơi đã từng chứa chất nổ. Địch bắt chủ nhà. Sư cô và "con dâu" Hai Thường không khai báo gì. Từ đó, má Sáu Hoàn càng thêm cảnh giác. Má không ngủ cố định một nơi nào và cũng ít ra đường hơn nếu không có việc thật cần thiết. Mười Tuân vẫn đi lại tự do. Cậu hớn hở ra mặt nêu ý kiến riêng của mình với má:
    - Nếu con là chánh phủ, con sẽ tặng huân chương cao nhất cho dộng chí chỉ huy nào đã đưa ra cái phương châm hành động ở Sài Gòn rất tài tình: Bất cứ già, trẻ, lớn, bé, ai cũng yêu nước, ai có khả năng gây "nổ to; cháy lớn; tối om; tắc nghẽn; tHồi động; diệt ác" đều có quyền hành động.
    Má Sáu Hoàn nắm rất chắc tình hình. Quả là má không có năng khiếu quân sự như má tự nhận xét và má chưa hề trực tiếp tham gia trận chiến đấu nào nhưng mọi yêu cầu về vũ khí của chiến sĩ biệt động Thành đoàn đều phải qua tay má. Để gây tiếng nổ lớn, đồng chí Năm Thanh, Phó ban Quân sự Thành đoàn có sáng kiến ghép hai quả lựu đạn với nhau. Chỉ cần một lần rút cHồt an toàn, một lần ném là cả hai quả lựu đạn đều nổ. Sáng kiến này, đối với má Sáu thật là "tai hại" vì công việc tiếp tế lựu đạn của má. phải tăng vọt lên hai lần. Má không nản. Má tuyên bố:
    - Tụi bây cứ giết nhiều giặc. Cần bao nhiêu lựu đạn, tao lo đủ.
    Đồng chí Ba Toàn đã có câu trả lời đầu tiên cho má. Gặp đoàn quân xa Mỹ từ sân bay Biên Hòa về Tân Sơn Nhất, đồng chí "tặng" chúng quả lựu đạn ghép. Kết quả 13 tên Mỹ chết, một xe hỏng. ít ngày sau, Ba Toàn lại tung lựu đạn ghép vào đoàn chuyên viên Mỹ đang đứng chờ xe buýt ở đường Tháp Mười (Chợ Lớn). Kết quả làm 15 tên chết, ba tên bị thương. Ba Toàn nhận cùng một lúc hai danh hiệu "diệt Mỹ cấp ưu tú và cấp 2".
    Từ ngày đó, xe quân sự Mỹ ra đường luôn luôn đóng kín cửa. Không chịu được cái nóng thiêu đốt của Sài Gòn, các chuyên viên của Lầu Năm Góc nghĩ ra sáng kiến rào lưới suất quanh xe. Mười Tuân khoái cái vụ này lắm. Cậu đèo má đi các pHồ có xe Mỹ qua lại để má tận mắt trông thấy Mỹ sợ Việt cộng. “Trong lúc những tên Mỹ tự giam mình trong những chiếc xe "lô cốt" di động thì má con mình vẫn ung dung đi lại trên đường”. Tuân phấn khởi nhận xét. Tuy nhiên Tuân lại băn khoăn trước câu hỏi của má:
    - Nó rào lưới như vậy, ta đánh nó sao nổi?
    Tuân chưa tìm ra lời giải đáp. Đành phải bàn với anh Ba Vĩ. Anh Ba Vĩ lên Sài Gòn nhưng không ở chung nhà với má và Mười Tuân mà ở nội trú tại trường. Anh "chỉ thị" cho Mười Tuân:
    - Chủ nhật này mày xin phép má chở tao đi khắp Sài Gòn.
    - Dạ.
    Mười Tuân hãnh diện lắm. Từ nhỏ, cậu luôn thua kém anh Ba Vĩ về mọi mặt nhưng bây giờ cậu đã có chuyện để khoe với anh về nhưng lần chuyên chở vũ khí và đợt phục vụ tết Mậu Thân.
    Tuân kể:
    - Đêm mùng một tết, quân ta nổ súng tấn công tòa đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Tổng nha cảnh sát, trụ sở bộ quốc phòng, sân bay Tân Sơn Nhất, đài phát thanh... Nghe tiếng súng nổ sướng lỗ ráy (tai) quá chừng.
    - Sao mày không tham gia chiến đấu?
    - Má không cho em đi, bắt em phụ giúp má lo đảm bảo hậu cần. Sau đợt một, các kho vũ khí của má đều trống rỗng. Hồi này, em bận giúp má. Mấy chú, mấy anh chỉ đòi má cung cấp thuốc nổ loại cực mạnh và lựu đạn.
    Năm 1968, Mười Tuân đã 15 tuổi. So với anh, tầm vóc cậu không thua kém. Do đã ở Sài Gòn nhiều năm nên Mười Tuân hoạt bát hơn, lém lỉnh hơn anh. Cậu kê về từng chuyến đi của mình với má vô cứ để nhận vũ khí. Cậu chỉ cho anh từng kho vũ khí của má. Xin đừng trách cậu vi phạm nguyên tắc bảo mật vì cậu hoàn toàn tin vào anh ruột mình. Cậu có hai anh ruột. Với anh Tư Linh, cậu nể sợ, kính phục nhưng ít khi cậu dám trò chuyện cởi mở với anh Tư vì anh hơn cậu tới bốn tuổi, anh có vẻ người lớn, đạo mạo và nghiêm khắc. Anh Ba Vĩ với cậu chỉ như trứng gà, trứng vịt, lại trải qua thời thở ấu sống gần nhau và từng chơi trò trốn, tìm trong các hầm bí mật của nội, rồi những lần rủ nhau đi ăn cắp đạn, lựu đạn của lính bảo an về tặng các chú du kích nên Mười Tuân xem anh Ba Vĩ là bạn chí cốt, là "đồng bọn", cậu không giấu anh Ba bất cứ điều gì. Trong thâm tâm, cậu tự nhận còn thua kém anh xa. Anh cậu là đội viên du kích, đã trực tiếp xông vào đồn giặc, cùng đồng đội dùng súng thiệt, dùng lựu đạn diệt địch. Anh cậu được tặng bằng khen, được đề nghị thưởng huân chương về thành tích chiến đấu. Anh cậu còn là đoàn viên. Cậu nghe lời anh, phục tùng những gợi ý của anh một cách tự hào, thích thú. Anh cậu chưa thạo điều khiển xe máy, chưa thuộc đường Sài Gòn, chưa tham gia cuộc Tổng tiến công tết Mậu Thân nên cậu đưa anh đến những mục tiêu đầu não của địch bị quân ta tấn công tết Mậu Thân. Hai anh em khoác tay nhau đi tản bộ trước đài phát thanh. Cậu kể lại là mình đã nhìn thấy tầng trệt ngôi nhà này bị sập bởi tiếng nổ long trời, lở đất của khối thuốc nổ chở trên xe ôtô nặng gần một tạ. Đặc biệt là quân ta đã làm cho tiếng nói của đài này bị câm tịt từ 2 giờ 59 phút tới 6 giờ 30 phút ngày mùng hai tết Mậu Thân. Từ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Mười Tuân rủ anh vào Thảo Cầm Viên rồi vòng qua tòa đại sứ Mỹ, qua dinh Độc Lập. Nghe thuyết trình của em trai về những chiến công của ta, Ba Vĩ tự trách mình là không sớm bứt khỏi đội du kích ở quê nhà. Nếu cậu lên ngay Sài Gòn khi có lệnh má gọi, chắc chắn cậu được tham dự vào cuộc tổng tấn công nổi dậy làm chấn động dư luận thế giới vào dịp tết Mậu Thân. Cậu "gạ" em:
    - Mày dạy tao biết chạy xe gắn máy. Bữa nào vô cứ lãnh vũ khí mày xin phép má cho tao đi cùng.
    Mười Tuân rỉ rả khuyên anh Ba chớ nên nóng vội vì anh cần lo điều khiền xe thật thành thạo, thuộc đường Sài Gòn, biết rõ nơi nào có đồn cảnh sát. Cậu gợi ý:
    - Anh đã là du kích, anh thử nghĩ ra cách gì "đánh du kích" xe Mỹ .


Tiêu đề: Re: Gia đình biệt động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Sáu, 2010, 06:40:21 pm
    Ba Vĩ nhận lời em ruột nhưng cậu không biết làm cách nào diệt được xe Mỹ luôn cơ động với tốc độ lớn trên đường pHồ Sài Gòn? Theo kinh nghiệm những ngày làm chiến sĩ du kích, cậu cần sắm vai trinh sát bò vào bãi giấu xe của đối phương vẽ sơ đồ v.v… Nhưng cậu làm sao tìm ra nơi để xe của Mỹ? Chỉ có cách duy nhất là chặn xe Mỹ lại, hè nhau lật ngược xe cho bốn bánh chổng lên trời rồi đốt. Ba Vĩ bàn với các bạn. Học sinh, sinh viên và thanh niên Sài Gòn - Chợ Lớn rất mê đối đầu với Mỹ nên đã hẹn nhau đến điểm hẹn chờ sẵn. Thấy một xe quân sự chở sĩ quan Mỹ, Ba Vĩ cùng các bạn ra chặn đường. Người tài xế cho xe dừng lại. Từ hai bên đường, học sinh, sinh viên ập đến, lật ngửa cái xe, tưới một can xăng rồi chám lửa. Mọi việc chỉ diên ra trong chớp nhoáng. Bị đòn bất ngờ, Mỹ ngụy chưa kịp đối phó thì sáng hôm sau ở liên phường ba, ba chiến sĩ biệt động Lê Thanh Hải, Ba Tấn, Hai Hương dùng chái xăng đặc kết hợp với pháo đại, đốt xe ở giữa đường Lê Văn Duyệt vào lúc đông người nhất: 6 giờ 30 phút sáng. Ngọn lửa cao 4 mét, gây tắc nghẽn đường pHồ trong hai giờ liền. Trận đánh này, đạt được mục đích "nổ to, cháy lớn, tắc nghẽn" nhưng hiệu quả diệt đích chưa cao. Đúng là bà con Sài Gòn đều vui mừng hể hả khi tận mắt trông thấy xe quân sự Mỹ bị bốc cháy nhưng làm cách nào bắt sĩ quan và binh lính Mỹ chết hoặc bị thương giữa đường pHồ Sài Gòn? Các chiến sĩ biệt động quả cảm, tài giỏi, mưu trí, được sự chỉ đạo sít sao của Bộ tư lệnh thành pHồ đã đánh thắng nhiều trận vang dội, diệt một lúc hàng trăm sĩ quan Mỹ nên lực lượng võ trang của Thành đoàn càng phải nghĩ ra cách trị Mỹ khi xe chúng đang đi trên đường. Các phương án gài mìn hoặc ném lựu đạn vào xe Mỹ đều không được thông qua vì sợ nguy hiểm đến tính mạng người dân. Mười Tuân, Ba Vĩ đang đèo nhau trên đường pHồ bỗng gặp xe chở sĩ quan Mỹ. Mười Tuân tươi cười, giơ tay chào. Hiểu ý em, Ba Vĩ cũng dùng tiếng Anh trò chuyện với chúng. Những tên Mỹ ngồi trong xe lộ vẻ thích thú hai cậu học sinh khôi ngô, tuấn tú, biểu lộ thái độ thân thiện với Mỹ nên đã thay phiên nhau giải đáp nhiều câu hỏi vô thưởng vô phạt do các cậu đưa ra. Sáng kiến làm quen với Mỹ trên đường đi được phổ biến. Hai chiến sĩ biệt động của Thành đoàn là Ngô Tấn tức Chín Giản và Nguyễn Văn Thừa tức Năm Lũy cũng nhận trách nhiệm hành động. Các anh sắm vai hai công tử con nhà giàu, nói tiếng Anh như gió, đi xe gắn máy loại tốt. Các anh tự giới thiệu là sinh viên, con những nhân vật có tên tuổi của Sài Gòn. Các anh bám tay vào lưới sắt rồi móc chiếc cặp sinh viên vào lưới cho khỏi mỏi tay. Sau nhiều lẳn tập dượt, tụi Mỹ quen dần với hai sinh viên diện rất đúng mốt, luôn miệng khen Mỹ tốt. Những đứa ngồi trong xe không đề phòng gì cả. Chúng tin là hai thanh mền trẻ măng không có và không biết sử đụng súng lục, không thể nào thả lựu đạn chui qua lưới suất có lỗ mắt cáo nhỏ vào trong xe của chúng. Chúng đâu ngờ cái chết đang nằm kế bên. Nhận được đơn đặt hàng, bà phó chỉ huy Ban chỉ huy quân sự Thành đoàn về căn cứ gặp anh Hai Trí:
    - Tụi tôi cần trái mìn làm bằng thuốc nổ cực mạnh C4 nhìn hình dáng bên ngoài giống như quyển vở học sinh.
    Trưởng ban bảo đảm hậu cần của biệt động Sài Gòn hỏi luôn:
    - Chị cần dây cháy chậm, ngòi nổ hay hẹn giờ?
    Việc này tôi đâu có rành. Anh làm sao để sau khỉ móc cặp sách vào lưới sắt, tụi nó giả vờ hỏng xe gắn máy dừng lại được một, hai phút là mìn nổ.
    Mười Tuân ngắm nghía, nâng niu quả "mìn vở" (do cậu tự đặt tên). Trở lại Sài Gòn, cậu ráng thuyết phục má:
    - Má giao việc này cho con nghe. Con làm được, ngon ăn lắm, má ơi.
    Má Sáu Hoàn từ cHồi.
    - Má đâu dám làm trái ý của tập thể. Mấy anh biểu quyết việc này cho Chín Giản, Năm Lũy rồi. Tụi nó nói tiếng Anh giỏi hơn con.
    Mười Tuân không dám cãi lệnh má song cậu không cưỡng nổi tính tò mò của mình. Từ xa, cậu dõi theo hành động của Chín Giản, Năm Lũy. Hai anh bám theo xe Mỹ, cười nói với tám tên sĩ quan Mỹ ngồi ở trong xe rất tự nhiên. Kia rồi, các anh đã móc cặp lên thùng xe, các anh đã lùi lại. Như cái máy, Mười Tuân đạp phanh xe. Một ánh chớp rồi một tiếng nổ rất to làm cho chiếc xe bị hất tung lên, những đứa ngồi trên xe đều mất đầu, gấy tay, thịt, xương tan nát. Từ đó, những chiếc xe Mỹ ra đường không chỉ mang lưới sắt mà còn có xe hộ tống đi theo.
    Diệt được Mỹ trên đường pHồ làm cho mối quan hệ giữa Ba Vĩ Mười Tuân càng thêm khăng khít. Ba Vĩ hỏi kinh nghiệm em ruột về hoạt động bí mật ở Sài Gòn, Tuân ấp úng trả lời không trôi chảy. Cậu chưa có khái niệm về rút kinh nghiệm, tổng kết. Tuy vậy, khi Ba Vĩ hỏi chuyện về cách tránh sự kiểm soát của cảnh sát ngụy, cách giấu súng, thuốc nổ trong xe, cách đưa má vô cứ v.v... Mười Tuân nói mạch lạc, không bỏ sót chi tiết nào. Dựa vào Mười Tuân, Ba Vĩ quen dần địa bàn Sài Gòn. Cậu yêu cầu em ruột lần lượt đưa mình đi thăm những người thân nhất của gia đình. Mười Tuân rất sung sướng được chở anh Ba đi đây, đi đó. Cậu phục anh Ba vô cùng. Anh Ba chỉ hơn cậu một tuổi, học trên cậu một lớp mà anh viết báo, làm thơ và thuộc nhiều bài thơ của các thi sĩ ở lứa tuổi thanh nhiên. Cậu kể cho anh nghe về bé Tranh. Bé đã ba tuổi, nói sõi khá xinh gái và đặc biệt là rất ngoan. Bé không bám theo mẹ hoặc bà ngoại. Bé đã "sơ tán" qua nhiều nhà, có cả tá ba nuôi, má nuôi. Ba Vĩ bình phẩm:
    - Con nhỏ sau này sẽ sướng, sẽ trở nên con người có nghĩa có nhân. Mày có muốn nghe thơ của thi sĩ Võ Quê viết về những đứa bé ở tù từ lúc sơ sinh như bé Tranh không Mười Tuân sốt sắng:
    -  Có. Anh phải bình giảng cho em nghe!
    Ba Vĩ hắng giọng đọc:
        Bé ở tù ngày chưa được nằm nôi.
        Như chú chuột con đô hòn trong tay mẹ
        Ngục tù bắt em sống đời nô lệ.
        Mẹ dạy em sức mạnh của quê hương
        "Ngủ đi bé thơ
        Đời xanh tươi lắm
        Ngoài cánh cửa đề lao.
        Trời cao và rộng
        Trên mái nhà tù
        Gió lộng trăng thanh. "

    Mười Tuân giữ nét mặt rầu rầu:
    - Em rất thương chị Mỹ Lê. Sau lần chị sanh con trong tù, bị tù lần thứ hai rồi nghe tin anh Ba Chân bị xử bắn chị không gượng dậy nổi nữa. Chị suy nhược quá. Nếu chị không nghĩ tới:
      “Ngoài cánh cửa đề lao
      Trời cao và rộng
      Trên mái nhà tù
      Gió lộng trăng thanh”

thì chị sống sao nổi?
    - Chị Hai đang ở đâu?
    - Chị được điều động vô cứ rồi. Ở nội thành, chị ham đánh giặc quá sức khỏe chị cạn kiệt. Mấy anh buộc chị phải vô căn cứ để có dịp chạy chữa thuốc thang, nghỉ ngơi cho lại sức.
    Mười Tuân kể cho anh ruột nghe về cánh quân F (liên phường) của Tư Liên chủ trương làm cho thành pHồ tối om.Các chiến sĩ biệt động nhằm vào các trạm biến thế. Tư Liên cùng út Hảo, Năm Hưng chọn trạm biến thế Gia Định, đối quện với trạm là dinh Tỉnh trường, nơi thường xuyên có lính gác. Năm Hưng đèo út Hảo vọt vào trạm ném khối thuốc nổ vừa lĩnh ở kho má Sáu Hoàn. Trong một tháng, 14 trạm biến thế liên tiếp bị tấn công. Mỹ ngụy bắt buộc phải điều động lực lượng từ các nơi về đối phó. Rõ ràng là Việt cộng muốn đánh đâu vào lúc nào cũng được, đã có 187 xe Mỹ bị đốt cháy giữa đường, dính lựu đạn ghép hoặc vướng mìn cặp (cặp học sinh). Do ở gần má, được tiếp xúc với cán bộ ra vào căn cứ, Mười Tuân nắm được nhiều tin tức hơn anh ruột. Cậu kể tiếp:
    - Ban chấp hành Thành đoàn phân công chị chỉ đạo phong trào học sinh, sinh viên, thanh niên Sài Gòn - Gia Định. Mấy chú, mấy anh ép chị Hai nhận một con nhỏ làm bí thư riêng, thư ký kiêm liên lạc, kiêm cấp dưỡng. Nghe nói con nhỏ ngộ lắm.
   - Bữa nào mày đưa tao vô cứ thăm chị Hai.
    - Dạ .
    Ba Vĩ có bề dày kinh nghiệm công tác hơn em, có môi trường hoạt động trong học sinh, sinh viên, thanh niên nội thành khá rộng và đặc biệt cậu đang ngấp nghé là nhà thơ, nhà báo nên cậu quen biết nhiều văn nghệ sĩ, nhiều phóng viên, nhiều biên tập viên các báo nhưng cậu không dễ dàng ra vào căn cứ như em ruột. Lý do đơn giản là công tác của cậu không liên quan mấy tới căn cứ và má Sáu Hoàn không thể tùy tiện cho cậu vào thăm chị ruột. Chị cậu ốm quá. Mấy tháng gần đây, dù đã được tẩm bổ nhiều, uống thuốc nam, thuốc bắc, tiêm thuốc Tây đủ loại mà trọng lượng cơ thể của chị cậu không thể vượt qua mức 30 kilôgam. Mỹ Lê nhận lệnh điều động vào căn cứ. Anh Ba Đặng lấy danh nghĩa Bí thư Thành đoàn và là chống của chị Năm Trăng - bạn rất thân của Mỹ Lê, gợi ý :
    - Tôi rút con nhỏ Nguyễn Thi Hiệu còn gọi là bé Hạ từ Bến Tre lên làm liên lạc cho tôi. Con nhỏ ngoan, thông minh, linh lợi lắm. Tôi nhường nó cho cô.
    - Em đâu cần, anh Ba. Em tự lo mọi việc được mà.
    Anh Ba Đặng nghiêm giọng:
    - Đây là quyết định tập thể cô phải chấp hành.
    Anh hạ thấp giọng, vẻ thân tình:
    - Nói thiệt, nếu không vì cô, nếu bà xã tôi không can thiệp, tôi không nhả bé Hạ cho cô đâu. Con nhỏ lên sống vời gia đình tôi từ năm 1967. Nó tinh khôn, giỏi giang lắm.
    Mỹ Lê cười, đùa:
    - Nếu anh làm ông mối chắc nhiều cô gái sẽ đắt chống. Năm 1968 này, bé Hạ bao nhiêu tuổi rồi?
    - 15 tuổi.
    - Con nhỏ tuổi .Quý Tỵ, bằng tuổi Mười Tuân nhà em. Anh Ba! Nếu là lệnh, em xin phục tùng. Bữa nào anh đưa bé Hạ đến với em?
    - Thứ hai tuần tới.


Tiêu đề: Re: Gia đình biệt động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Sáu, 2010, 06:45:24 pm
    Bé Hạ lắng nghe chị Năm Trăng kể về cuộc đời và nỗi truân chuyên mà chị Mỹ Lê đã trải qua khiến cô phải khóc nhiều lần. Cô đồng ý rời nhà anh chị Ba Đặng ở khu Vườn Chuối, Sài Gòn để vô cứ. Vừa trông thấy chị Mỹ Lê cô đã òa khóc Cô biết là chị đã 27 tuổi, có hai con, nặng 29 kí 100, nhưng cô không ngờ là chị gầy yếu dưới mức tưởng tượng của cô. Chị chỉ còn là bộ xương di động, mắt trũng sâu, da tái tới mức cô có cảm giác dưới làn da xám xỉn không có tia máu nào. Bé Hạ khóc nức nở. Có lẽ do giọng nói cô mộc mạc, chân thành tiếng khóc của cô không màu mè, giả tạo, xuất phát từ ái tim nên Mỹ Lê có ngay thiện cảm với bé Hạ. Con nhỏ không xinh lắm nhưng trông mũm mĩm, có duyên thầm. Ở trong cứ, bé Hạ thuộc loại nhỏ nhất nhưng rất chăm làm. Cô giành mọi phần việc nặng nhọc cho mình hết sức tự giác, thoải mái. Cô không mảy may có cảm giác mình là người ở lo hầu hạ chủ để kiếm cơm ăn hoặc một công vụ có trách nhiệm phục vụ thủ trưởng mà là tình thân của em ruột với chị ruột đang đau yếu, bệnh tật. Vốn là con nhà nông, bé Hạ có tài mò của, bắt ốc, kiếm cá, câu tôm hoặc chế biến rau rừng, tạo thêm món ăn ưa miệng trong bữa cơm đạm bạc hàng ngày. Mỹ Lê cũng đặc biệi yêu quý bé Hạ . Từ ngày có bé Hạ, chị vui hơn, ăn ngon miệng hơn, ngủ đẫy giấc hơn. Hai chị em luôn quấn quít bên nhau như hình với bóng. Mỹ Lê không muốn xa bé Hạ. Có bé Hạ líu ríu bên cạnh, chị nguôi ngoại nỗi nhớ người thân ruột thịt. Bé Hạ biết cách chiều khẩu vị của chị, nài nỉ chị ép chỉ ăn thêm nửa chén cơm, dăm muỗng cháo và đêm đêm vui vẻ ngồi hàng giờ để xoa bóp giúp chị đỡ nhức đầu, giảm bớt đau khớp, đau lưng. Tuy vậy, chị phải nghĩ đến tương lai bé Hạ. Chị dự kiến đào tạo bé Hạ làm nữ giao liên tin cậy nhất giữ đầu mối liên lạc từ căn cứ vào nội thành. Muốn thế, chị phải lo cải trang cho bé Hạ. Bé đã qua một lần thay hình đổi dạng. Từ Bến Tre lên Sài Gòn, vợ chống anh Ba Đặng, Năm Trăng sắm cho bé Hạ toàn bộ quần áo mới may đúng mốt ở Sài Gòn. Bé Hạ hết sức ngượng khi phải vứt bỏ quần áo vải thô thay bằng các bộ đồ ni-lông mà các nữ học sinh nhà giàu thường diện. Vào căn cứ, Mỹ Lê lấy quần áo cũ của mình cho bé mặc. Mấy ngày gần đây, Mỹ Lê lấy mấy thước vải được phân pHồi, tự tay mình cắt, may thành bộ đồ. Vào một buổi tối chị bảo bé Hạ:
    - Em mặc thử bộ này cho chị xem.
    Bé Hạ ngạc nhiên.
    - Em tưởng chị may cho chị sao Chị mặc sao nồi bộ đồ rộng thùng thình này.
    Bé Hạ tự ngắm mình. Cô kém chị Mỹ Lê 12 tuổi nhưng cô mập hơn, to con hơn chị. Cô ướm quần áo vào người mình rồi mặc thử. Đẹp quá. Chị Mỹ Lê thật khéo tay. Chỉ với chiếc kéo, cái kim, cuộn chỉ chị đã may được bộ quần áo mà bẻ Hạ mặc vừa khít. Chị thủ thỉ
    - Đúng ba giờ chiếu mai, em xách giỏ cam, chanh tới điểm A. Trông thấy một thanh niên xách bịch kẹo, đcó đồng hồ tay phải, em hỏi họ mấy giờ. Nếu họ trả lời "5 giờ đúng" em dẫn anh ta về đây gặp chị.
    Bé Hạ hỏi lại:
    - Liệu em có làm nổi không? Nhỡ em nhầm thì sao? Mình là gái đến làm quen với con trai, em mắc cỡ lắm.
    - Chị tin là em làm được nên mới giao việc này cho em. Ở căn cứ với chị, em chỉ là công vụ, là liên lạc viên. Chị muốn em trở thành nữ giao liên tài giỏi, dũng cảm. Em sẽ hoạt động trong lòng địch giữa Sài Gòn như chị. Em phải mạnh dạn lên. Ý em thế nào?
    - Em đống ý.
    - Chị lo cho em thẻ học sinh ở ngoại thành, 14 tuổi. Để nhập vai mình thích hợp nhất, em nên cắt mái tóc dài đi.
    Bé Hạ bất giác dưa hai tay ôm lấy đầu mình. Cô quý mái tóc dài lắm. Từ nhỏ, những năm cắp sách đến trường, mái tóc cô dài nhất so với các bạn gái cùng lớp, cùng lứa tuổi. Có mái tóc dài cũng vương vướng khi gồi đầu, lúc. trời nóng, khi lao động song cô luôn cảm thấy thú vị, tự hào. Tóc dài, cô dễ tết thành bím, búi tó, kẹp sau lưng hoặc tạo thành hai trái đào và trông cô ra dáng người lớn hơn. Đã bao đứa bạn gái ghen tỵ, ước muốn có mái tóc dài quá đầu gối như cô mà không đạt được. Những ngày sống ở khu Vườn Chuối Sài Gòn, anh chị Ba Đặng - Năm Trăng cũng khuyên cô uốn tóc nhưng cô đã thuyết phục được anh chị cho mình giữ lại mái tóc dài. Hiểu được tâm trạng bé Hạ, Mỹ Lê phân tích:
    - Chị rất thích mái tóc của em. Chị đắn đo mãi mới khuyên em cắt tóc ngắn với mục đích làm em trẻ con hơn, hợp với lứa tuổi 14 ở ngoại thành và em đỡ vướng víu, bận bịu với mái tóc khi em chính thức thành nữ giao liên phải đi đêm, phải tránh giặc.
    Bé Hạ đắn đo giây lát. Cô chưa hoàn toàn nhất trí với lời giải thích của chỉ Mỹ Lê song cô tin ở tình cảm thân thiết hơn chị em ruột thịt giữa đôi bên nên cô biểu lộ thái độ dứt khoát:
    - Em lấy kéo, lấy lược. Chị cắt tóc cho em.
    Bé Hạ có bộ cánh mới, mái tóc mới, đôi dép mới với nhiệm vụ mới. Ngày thường, bé Hạ là cô bé con thuộc loại ít tuổi nhất ở cứ, giờ đây trông cô trông giống như bé học sinh ngây thơ hồn nhiên, thích làm nũng ba má. "Phi vụ" đầu tiên bé Hạ thực hiện khá trôi chảy vì cô thông thuộc địa hình, nắm vững ám hiệu, tín hiệu, giữ thế chủ động, nhưng anh cán bộ trạc 27, 28 từ nội thành ra lại thoáng chút ngỡ ngàng. Anh có nên giao sinh mạng mình cho con bé con này không? Anh buộc phải đi theo bé Hạ song trong lòng vẫn phân vân, cảnh giác. Những ngày tiếp theo, bé Hạ nhập cuộc khá thuận lợi. Khác với nhiều má, nhiều chị, các bác già hoặc các anh thường phải qua các bước nghiên cứu, điều tra thực tập, nắm quy luật địch v.v... trước khi chính thức "gánh" nhiệm vụ giao liên, bé Hạ vào nghề rất suông sẻ . Mỹ Lê thực sự hài lòng về đứa em gái do mình đỡ đầu. Chị giao những phần việc nặng hơn, phức tạp hơn, bé Hạ vẫn thực hiện trôi chảy.
Vào một ngày cuối năm 1968, bé Hạ lại đi đón khách. Vị khách này từ nội thành vào, đang ở trong căn cứ, có nguyện vọng xin gặp riêng chị Mỹ Lê. Theo đúng quy định bảo mật, bé Hạ và khách đều trùm mũ kín đầu nên đôi bên không nhìn rõ mặt nhau. Nhìn dáng dấp bế ngoài, Hạ đoán khách là anh thanh niên lực lưỡng trạc 20 tuổi. Khách lên tiếng trước:
    - Chào em gái. Nếu anh đoán không nhầm thì em là bé Hạ.
    - Ủa, sao anh rành tên em?
    - Các chiến sĩ biệt động nội thành đều kể về em. Tiếc rằng anh không được nhìn mặt em.
    - Để làm gì? Để anh chụp hình rồi giao cho cảnh sát bắt em à? Anh thứ mấy? Tên chi?
    - Anh là Mười Tuân.
    Bé Hạ lè lưỡi. Cô trót dại đã xưng "em" với thằng cha bẻm mép này rồi. Cô làm sao để sửa sai đây. Gần một năm chung sống, chị Mỹ Lê đã tâm sự với cô đủ điều, đặc biệt là má Sáu Hoàn và những đứa em ruột chị. Theo trí nhớ cô thì cái anh chàng Mười Tuân to xác này cùng tuổi Quý Tỵ với cô , sao anh ta dám xưng anh ngọt xớt với cô? Cô "trả đũa" luôn:
    - Chị Mỹ Lê nhủ tôi đón cậu. Mời cậu?
    Mười Tuân nhận ra cách chuyển gam của cô gái song cậu không cải chính vì cậu tự biết mình mới 15 tuổi và cậu chưa hiểu về cô giao liên giúp việc cho chị ruột mình.
    Vừa trông thấy chị ruột, Mười Tuân đã ôm lấy chị, sà vào lòng chị. Trước mặt chị, lúc nào cậu cũng thấy mình bé bỏng, mặc dù về thể xác, cậu dư sức nâng bồng chị bằng một cánh tay của mình. Cậu có bao nhiêu chuyện gia đình cần kể với chị. Thấy bé Hạ đã ý tứ ra phòng ngoài, khép cửa buồng lại Mỹ Lê kéo mũ em. Em chị chóng lớn quá, đã ra dáng một thanh niên rồi. Mười Tuân kể cho chị nghe chuyện những người thân ở Sài Gòn. Cậu dừng lại lâu nhất ở bé Tranh. Con bé đã hơn ba tuổi, càng lớn càng giống ba từ khuôn mặt, cặp mắt, dáng đi. So với đứa bé cùng sinh, nó gầy hơn, yếu hơn nhưng tinh khôn hơn, ngoan hơn. Nó có nhiều ba nuôi, má nuôi, ai cũng cho nó quà hoặc mang quần áo cho nó. Nó không bị ngọng, nói rất sõi, lễ phép với mọi người. Nó biết phân biệt ai là người thân ruột thịt của nó. Có lần út Hiếu đến chơi với nó, bé Tranh hỏi dì về má. Út Hiếu thương chị nén bật khóc. Làm cho cháu khóc theo. Hai di cháu cùng ôm nhau khóc, chả ai dỗ ai cả. Mười Tuân nhận xét:
    - Từ ngày lên Sài Gòn, út Hiếu rất mau nước mắt. Em đã bắt gặp nó nằm trên giường ở nhà sư cô Nguyễn Thị Nhàn khóc một mình.
    - Nó bị ốm à?
    - Đâu có. Tan trường, bạn nó rủ nó về nhà chơi. Bạn nó gọi "ba", quăng cặp, sà vào lòng ba. út Hiếu tủi thần bỏ về, khóc.
    Mỹ Lê hoàn toàn thông cảm với em gái. Út Hiếu đâu phải con bé yếu đuối. Thằng Mười Tuân là con trai, tính cách mạnh nên nó làm sao thông cảm với tâm hồn nhạy cảm của phái yếu được út Hiếu có tâm tư riềng của nó. Nó chưa tròn hai tuổi thì má bị bắt và từ ngày đó, nó gần như không được sống bên má. Ôm cháu Tranh, thương cháu lâm vào cảnh ngộ éo le hơn mình nên tủi thân, dì khóc làm cho cháu khóc theo. Út Hiếu không đáng trách vì đã khóc mà chỉ đáng thương. Chiến tranh đã đẩy hai dì cháu gặp nỗi khổ đau giống nhau. Mỹ Lê cũng hiểu rõ lý do vì sao út Hiếu khóc một mình. Tội thân con nhỏ. Từ ngày lọt lòng mẹ, nó có đón được chút tình phụ tử nào đâu? Nó thèm gọi "ba", nó khao khát được ba bế ẵm, ba cưng chiều. Đành rằng nó đã viết thư cho ba, gởi ảnh cho ba, rồi đọc thư ba gởi về nhưng nó mong muốn có người cha bằng xương; bằng thịt ở cạnh nó, săn sóc nó. Nó là con gái nên tình cảm sâu lắng. Chị trao đổi thẳng thắn với Mười Tuân và khuyên em trai:
    - Em cần chia sẻ nỗi buồn với út Hiếu. Đừng nên kết tội "khóc nhè" mà oan cho em gái.
    Mười Tuân cãi :
    - Chị biết không? Anh Ba Vĩ tổ chức học sinh, sinh viên đi thăm các cụ ở dưỡng lão đường và trẻ em mồ côi ở cô nhi viện. Út Hiếu vừa tắm cho mấy đứa nhỏ, vừa khóc. Cách đây mấy hôm, nó đòi theo má đi công tác, má không chịu, nó cũng khóc.
    Mỹ Lê cười:
    - Nếu chị ở vào hoàn cảnh út Hiếu chị cũng khóc. Ai mà cầm nổi nước mắt trước cảnh những bà già yếu đau, bệnh tật không nơi nương tựa và những đứa nhỏ cô đơn không còn cha mẹ. Mười Tuân à!
    - Dạ!
    - Nếu chị đề nghị má không cho em vô cứ, không giao công tác cho em, em tính sao?
    - Em phản đối. Em sẽ khiếu nại.
    - Đó ? Em không rời bỏ công tác được. Em đòi má theo cách của em và út Hiếu xin phép má theo cách riêng của nó. Em phải dìu dắt em Hiếu theo con đường ba, má chúng ta đã chọn.
    - Dạ!
    - Mười Tuân! Em là con trai, em nghĩ về ba, nhớ ba, làm theo lời dạy của ba theo cách riêng của mình. Út Hiếu là con gái nên nó mơ ước được vuốt ve, chiều chuộng. Em gái của chúng ta thiệt thòi, có nỗi trống vắng trong tâm hồn nên em cần độ lượng, cần đem hết sức mình bù đắp phần nào tình thương cho út Hiếu.
    - Tại sao thằng Bẩy Thiện không khóc? Sao nó không nhõng nhẽo đòi má?
    - Bẩy Thiện là con trai. Nhiệm vụ của nó là học giỏi. Em có hay gặp nó không?
    Mười Tuân lắc đầu - Cậu nêu lý do đã cản trở cậu. Thứ nhất là nhà chú Mười Thơ có ba tầng, khó gọi cổng. Thứ hai là thằng Bẩy Thiện là con cậu Tư, mợ Tư, không phải em ruột Mười Tuân về hình thức bên ngoài. Thứ ba là thằng nhỏ quá ham học không thích đi chơi.
    Mỹ Lê đã đoán được ý má định thế Bẩy Thiện giữ dòng dõi họ Dương thay Tư Linh nên khuyên em:
    - Em nên thương Bẩy Thiện. Thằng nhỏ quá thiệt thòi, không được gần ba, không sống chung với má và anh chị em ruột Em cũng đừng trách út Hiếu hay khóc nhè.
    - Em nhớ rồi chị Hai. Em có khuyết điềm chưa thông cảm với út Hiếu. Chị Hai! Má mới nhận được thư ba. Ba gửi bản tin tham khảo và kể về ngày hành hình anh Ba Chân. Chị đọc thư ba trước rồi mới gửi ra ngoài đó cho má. Em! Chị còn sống trên đời ngày nào, chị còn ghi nhớ việc Chính phủ ta đã làm. Anh rể em chỉ là một cán bộ bình thường mà có tới ba chính phủ quan tâm tới. Đúng như ba viết: "Nếu thế và lực của ta không mạnh, tổng tHồng Mỹ sẽ phớt lờ mọi kiến nghị của ta". Không có chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa can thiệp, anh Ba Chân chắc đã tan xương nát thịt, mộ anh đã xanh cỏ từ lâu rồi.
    Mười Tuân tán thành những nhận định của chị ruột. Cậu đứng dậy, cầm mũ trên tay, rụt rè gợi ý:
    - Em "xả" được không chị?
    Mỹ Lê từng trải hơn nên chị "đọc" ngay được vẻ lúng túng trên khuôn mặt, trong lời nói của em trai. Thằng bé sắp sang tuổi 16 rồi, liệu nó đã nghĩ đến yêu đương chưa? Tại sao nó đế nghị "xả"? Khi chị đã cho phép, đã tự tay lấy mũ ra khỏi đầu nó? Chắc chắn không phải vì chị. Gần hai giờ qua, chị và nó có cần mũ che mặt đâu. Rõ ràng là vì tò mò, vì hiếu kỳ , cu cậu muốn "xả" để xem mặt bẻ Hạ. Chị nên quyết định như thế nào? Chị nên bỏ phiếu thuận để hai đứa làm quen. nhau, trở thành đôi bạn thân thiết và tương lai sẽ tiến tới hôn nhân với nhau hay bỏ phiếu chống? Kể ra hai đứa cũng đẹp đôi. Sống ở Sài Gòn, hòa nhập với lực lượng học sinh, sinh viên, thằng Mười Tuân không thiếu những cô gái cùng lứa tuổi khá xinh đẹp và rất giàu. Cũng giống như mọi cán bộ đàng mình hoạt động ở nội thành thời đó, Mười Tuân đã và sẽ không mảy may rung động trước các cô gái Sài Gòn mà luôn hướng tới mục tiêu tìm đối tượng vào những người ở trong căn cứ. Mười Tuân đề nghị "xả" không ngoài mục đích làm quen, gây thiện cảm rồi dựa vào thế chị ruột để đi xa hơn nữa, Mỹ Lê rất yêu cả bé Hạ và Mười Tuân nhưng dù sao, chị cũng nghiêng về phía em ruột của mình. Là chị cả của gia đình họ Dương, chị không định chấm bé Hạ làm em dâu mình vì hai đứa bầng tuổi nhau và vì Mười Tuân tồ quá, bé Hạ quá tinh khôn, Mười Tuân sẽ bị bé Hạ làm chống. Hơn nữa, Mười Tuân chưa sang tuổi 16 và chị chưa xin ý kiến má về việc hệ trọng này. Chị quyết định chặn con đường tiến tới của em ruột bằng ý kiến:
    - Em đội mũ vào. Nếu vi phạm nguyên tắc bảo mật, hai chị ẹm ta sẽ bị phê bình.
    Mười Tuần đành chấp hành mệnh lệnh. Cậu thoáng buồn vì không có thêm chi tiết về con bé ngồ ngộ làm liên lạc cho chị Hai để kể cho anh Ba Vĩ nghe.


Tiêu đề: Re: Gia đình biệt động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Sáu, 2010, 06:49:39 pm
26
    Chánh Văn phòng Dương Văn Đấu ngồi bất động trên ghế, chờ đợi. Cậu lái xe vào gặp ông:
    - Bác Đấu! Bộ trưởng yêu cầu các thành viên trong đoàn mặc complê đen, đcó băng tang này vào cánh tay phải.
    Ông đưa mắt về phía băng tang có màu nửa đỏ, nửa đen. Đây là lễ nghi chính thức cấp Nhà nước, là dấu hiệu để tang các nguyên thủ Quốc gia. Ông uể oải đứng dầy, thay quần áo đúng theo quy định của Bộ trưởng. Đời ông, ông đã tiễn biết bao nhiêu người thân yêu ruột thịt về nơi an nghỉ cuối cùng nhưng chưa lấn nào ông ở trạng thái như người mất hồn, nuối tiếc, đau đớn, nặng nề như lần này. Bác Hồ đã ra đi rồi. Hồ Chủ tịch không còn nữa. Những năm tháng ở miền Bắc, ông đã gặp Bác nhiều lần. Bác giản dị, khiêm tốn, thông minh, uyên bác. Là cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, ông đặc biệt cảm động trước tình cảm của Bác Hồ với miền Nam ruột thịt. Ông cất tất cả các tấm hình Bác chụp chung với các đoàn đại biểu từ miền Nam, với các anh hùng, dũng sĩ, các cháu thiếu nhi của miền Nam. Ông có một thói quen trở nên hết sức thiêng liêng là nghe thơ chúc tết của Bác vào đúng 12 giờ đêm 30 tết. Bài thơ nào, dù có bốn câu hay sáu câu, tám câu, Bác đều gói ghém, đều gửi tình cảm của Bác với miền Nam:
   Xuân này hơn hán mấy xuân qua.
    Thắng trận tin vui khắp m/oi nhà
    Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
   Tiến lên toàn thắng ắt ta

hoặc
    Năm qua thắng lợi vẻ vang
   Năm nay tiền tuyến ắt càng thắng to
   Vì Độc lập, vì Tự do
   Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
   Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào
   Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn

    Bác Hồ đã từng rèn luyện thán thể, tập đi bộ để nếu Bộ chính trị cho phép, Bác có đủ sức khỏe vượt Trường Sơn để đến với đồng bào miền Nam. Bác từ cHồi không nhận huân chương với lý do "khi nào nước nhà tHồng nhất, bà con miền Nam sẽ tặng cho tôi". Bác Hồ đã đi xa rồi. Thế là chẳng bao giờ các con ông, vợ ông và đồng bào miền Nam đạt được ước mơ gặp Bác. Bác là linh hồn, là chỗ dựa cho ông, cho cả dân tộc  ta. Còn nhớ, những ngày đầu, Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam, nhiều người lo và thất vọng quá. Theo quan điểm của ông nếu Mỹ càng tăng quân, chiến tranh càng ác liệt do đó người dân Việt Nam ở cả hai bên đối địch bị bom đạn giết hại càng nhiều; số gia đình mang tang tóc vì có người thân bị giết chóc càng lớn. Đã thế, sau mỗi năm, số quân Mỹ đưa vào miền Nam đều nhiều hơn. Theo những số liệu ông nắm được thì năm 1964, tướng Oétmôlen mới chỉ huy có 23.000 quân Mỹ, đến năm 1965 đã tăng vọt lên 18 vạn tên. Làm thế nào ta có thể đánh bại được quân Mỹ được trang bị vũ khí, khí tài hiện đại, có uy lực sát thương tới mức không nước nào trên thế giới sánh kịp.
    Ngày 17 tháng 6 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời tuyên bố.
    "Dù chiến tranh có thể kéo dài năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành pHồ, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
    Rõ ràng Bác đã nói lên quyết tâm của cả dân tộc. Chắc chắn rằng Mỹ không thể kiên trì như Bác Hồ, như nhân dân ta. Mỹ muốn dùng sức mạnh quân sự, dùng máy bay phản lực, xe tăng, tàu chiến để chiến thắng nhanh nhưng ta đã sẵn sàng đương đầu với chúng bằng ý chí rất cao. Một khi mà cả dân tộc đoàn kết thành một khối, cùng nhằm vào mục tiêu đánh Mỹ và thắng Mỹ thì Mỹ sẽ nản và sẽ bị thua. Cho đến năm 1966, Mỹ đã đưa vào Việt Nam tới 389.000 quân, Mỹ có đủ loại máy bay, tàu chiến, trong số đó có loại pháo đài bay B52 có khả năng ném bom hủy diệt một mục tiêu nào đó trong cHồc lát. đặc biệt, Mỹ còn đưa sang đây những lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến bậc nhất của chúng. Trên thế giới này, chưa có một nước nào có sư đoàn mà bất cứ cơ động đến đâu đều bằng máy bay như sư đoàn 1 không kỵ, sư đoàn có một không hai của Mỹ. (Khi Mỹ rút, căn cứ của sư đoàn 1 không kỵ ở An Khê được Mỹ bàn giao lại cho quân ngụy Sài Gòn và tính vào tiền viện trợ tới 25 triệu đô la).
    Vào thời điểm nước sôi lửa bỏng đó, nếu Bác không đưa ra lời hiệu triệu hô hào cả dân tộc ta nhất tề đứng dậy thì sao? Bác là một vĩ nhân đã đưa đất nước, con người Việt Nam lên một tầm cao mới.
    Bộ trưởng đã ra xe. Ông Bẩy Đấu uể oải bước theo. Các thành viên trong đoàn không ai nói với ai lời nào, đưa cặp mất đỏ hoe nhìn vào khuôn mặt buồn da diết của nhau. Đã lâu kể từ ngày vào tuổi thành niên, Ông Bẩy Đấu chưa bao giờ khóc nhưng từ lúc nghe tin Bác qua đời, Ông không sao cầm được nước mắt. Ông cố nén mình không gào to, khóc to nhưng ông phải luôn tay dùng mùi xoa lau nước mắt giàn giụa tràn ra khỏi mi, đặc biệt khi đoàn ông đi vòng quanh qua linh cữu Bác. Bác như dang ngủ. Ông nhìn rõ chòm râu, mái tóc của Bác. Bác gần gũi, thân thiết quá! Bác hi sinh cả đời mình, không vợ, không con. Tại sao không cho phép những ai từ 60 tuổi trở xuống đều mặc áo xô, đội mũ rơm, chống gậy tre, chít khăn ngang để tang Bác như để tang cho bố đẻ của mình? Ông yêu Bác, thương Bác, .kính trọng Bác. Cho đến khi từ giã cõi đời này, Bác vẫn truyền lại lòng tin tuyệt đối cho nhân dân cả nước: "... Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ tHồng nhất. Đồng bào Nam Bấc nhất định sẽ sum họp một nhà ..."
    Những ngày tiếp theo Ông Bẩy Đấu ăn không biết ngon, ngủ không đẫy giấc. Ông không tiếp khách, bỏ qua nhiều việc chuyên môn. Đây là hiện tượng lạ, rất khác thường chưa ai từng chứng kiến ở đồng chí Chánh văn phòng. Hiểu rõ nỗi đau. đã thấm trong tim, trong máu ông nên Bộ trưởng đã giao nhiệm vụ cho ông:
    - Anh Bẩy Đấu thay mặt Bộ trưởng túc trực bên linh cữu Bác và tham gia Ban tồ chức tang lễ Bác.
    Ông Bẩy Đấu lao vào việc. Ông lấy cuốn sồ đẹp nhất, nắn nót ghi nhật ký. Từ ngày học trường Bách Nghệ, Ông là học viên có hoa tay nhất khóa, chữ ông viết đẹp, đều như chữ in, giờ đây ông cố viết chau chuốt với ý định không chỉ để cho vợ ông, các con ông mà để đồng bào miền Nam hiểu đầy đủ về Bác, về lời đánh giá của gần trăm đoàn đại biểu nước ngoài được đăng đầy đủ trên các tờ báo. Với Ông, Bác Hồ rất vĩ đại, là siêu nhân, là cha già của dân tộc. Khi Bác đã yên nghỉ, nhân dần thế giới đã ca ngợi Bác bằng những lời đẹp nhất, cao quý nhất. Hỏm dự lễ tang, ông nghe như nuốt từng câu, từng chữ trong di chúc Bác để lại và qua bài điều của Ban chấp hành Trung ương Đảng ta.
    Trong những ngày Ông Bẩy Đấu hướng mọi tâm trí về Bác Hỗ ở Hà Nội thì vợ và các con Ông ở miền Nam cũng tưởng niệm Bác theo cách riêng của từng người.
    Tư Linh có điều kiện hơn các em vì cậu ở riêng một phòng và được dì Bẩy, đương Bẩy trang bị cho cái đài tốt nên cậu thường xuyên nghe đài Hà Nội rồi truyền đạt lại cho các em. Từ ngày Bác mất, ba anh em gặp nhau thường xuyên. Một hôm, Tư Linh thông báo cho Ba Vĩ, Mười Tuân: "Anh đã ghi được toàn văn di chúc của Bác Hồ". Ba Vĩ bàn:
    - Các tờ báo Sài Gòn đều nói về Bác. Anh Tư mua những tờ này.
    Do đã hoạt động trên lĩnh vực thơ ca, báo chí nên Ba Vĩ nắm chắc tên 27 tờ nhật báo lưu hành ở miền Nam. Ba anh em phân công mua đủ cả 27 tờ chỉ với mục đích xem báo chí phản động nói về cái chết của Bác Hồ như thế nào? Ba anh em đều có chung kết luận: Trừ tờ phản động "Tin Sáng", tất cả các báo khác đều nói đến Bác Hồ một cách trân trọng.
    Trên trang của một số báo Tin sáng ra ngày thứ bảy và chủ nhật ngày 6 và 7 tháng 9 năm 1969 có bài "Nhục nhã cho báo chí” của nhà báo Ngô Công Đức. Bài này được đóng khung trang trọng. Tác giả đã viết:
    "Để cho đến lúc này, với cái chết của một người, chúng ta mới thấy rõ cái bộ mặt thật của nền báo chí Việt Nam
Người ta bảo rằng báo chí chính là đệ tứ quyền, là phản ánh dư luận của quần chúng và chính quyền muốn biết quần chúng nghĩ thế nào, chỉ cần theo dõi báo chí thì biết. Điều đó, ký giả nào cũng hiểu như vậy. Và cũng vì thế cho nên, một số ký giả ngoại quốc, khi muốn đi tìm phản ứng của đại đa số nhân dân miền Nam trước cái chết của Ông Hồ Chí Minh họ đã thất vọng. Một ký giả ngoại quốc đã nói với chúng tôi: "Tôi không sao hiểu được báo chí Việt Nam. Tại sao trước một biến cố lớn như thế này mà ..."
    Vâng, ông ký giả nói đúng. Làm sao ông biết được những động lực huyền bí đứng đàng sau cái mặt tiền của tự do báo chí Việt Nam?
Nhìn tờ báo Star Stripes của quân đội Mỹ - một quan đọi chống Cộng - thấy người ta đăng hình, viết bài về người chết, rồi mình nhìn báo Việt Nam thấy hổ thẹn quá! Có lẽ trên thế giới ngày hôm nay, chưa có nến báo chí ở nước nào lại tỏ ra một thái độ "bên lề cuộc đời" như báo chí ở miền Nam Việt Nam trước cái chết của ông Hồ Chí Minh, lãnh tụ Bắc Việt.
    Điều đó chúng tôi nhận tội, nhưng cũng xin thông cảm".
    Cũng trên số báo này, Tin Sáng đăng ý kiến của dân biểu Trần Ngọc Châu:
    "Chính phủ Việt Nam Cộng hòa nên tỏ lời phân ưu với miền Bắc trước cái chết của một lãnh tụ chính trị đã suốt đời đấu tranh cho lý tưởng - dù chúng ta đối nghệch với lý tưởng đó".
    Dân biểu Hồ Hữu Tường lại đưa ra gợi ý cụ thể hơn:
    "Ở Ba Lê (Pa-ri), tôi đã coi bói và đoán biết ông Hồ Chí Minh chết nên tôi mới về nước đề làm Trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa sang Bắc Việt phúng điếu và chia buồn nhân dịp ông Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tạ thế, tôi kêu gọi các nhà cầm quyền trên lãnh thổ Việt Nam không luận bên nào (của Việt Nam Cộng hòa, của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, của chính phủ Cách mạng lâm thời) hãy nên thể theo truyền tHồng quý báu của dân tộc Việt Nam mà tôn trọng một cuộc ngừng bắn toàn diện trong thời kỳ tang lễ".
Một dân biểu khác, hạ nghị sĩ Nguyễn Văn Lễ, đại biểu Gò Công đã lên tiếng trong bức thư ngỏ gởi chủ tịch hạ viện Nguyễn Bá Lương:
    "Xin phép Ông Chủ tịch và quý Viện thảo luận ngay một vấn đề cần thiết của chúng ta trước một biến cố lịch sử mà thế giới đã đề cập trong hai ngày qua, vì trong nước chúng ta cũng có một số đông dân biểu, nghị sĩ, chính khách đã lên tiếng: đó là cái chết của ông Hồ Chí Minh, Chủ tịch Bắc Việt Nam. Yêu cầu ông Chủ tịch và quý đồng Viện kêu gọi các phe lâm chiến ngừng bắn trong thời kỳ tang lễ ông Hồ Chí Minh và hạ viện cử một phái đoàn ra Bắc Việt để phúng điều".
    Cũng như mọi người dân miền Nam, Tư Linh, Ba Vĩ Mười Tuân rất đau đớn vì Bác Hồ đã ra đi. Các cậu gặp mặt nhau luôn, bình luận, phân tích các bài báo. Các cậu không tin là Nguyễn Văn Thiệu sẽ đồng ý cử một phái đoàn ra miền Bắc dự lễ tang Bác Hồ nhưng các cậu đoán chắc là sẽ có hưu chiến. Nguyễn Văn Thiệu sê không dại gì chà đạp lên dư luận, lên lòng thương tiếc vỏ hạn của bà con miền Nam - trong đó có nhân dân Sài Gòn - Gia Định - về một tổn thất không thể nào bù đắp nổi là sự ra đi của Bác, các câu không ngờ là trong số báo ra ngày 8 tháng 9 năm 1969. Tin Sáng loan tin dòng chữ cờ lớn nhất, đầu đề đập ngay vào mắt người đọc:
    "Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã bác bỏ đế nghị hưu Chiến của Mặt trận Dân tộc Giải phóng".
    Để nói rõ lập trường của chính phủ, tờ báo ghi:
    "Việc hưu chiến trong ba ngày kề từ ngày 8 đến ngày 11 tháng 9 năm 1969 nhân dịp tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh do Mặt trận Dân tộc Giải phóng đề nghị không thể được xem như các lễ truyền tHồng khác.
Theo quan điểm của chính phủ Việt Nam Cộng hòa bác bỏ hưu chiến nhằm bảo vệ hữu hiệu an ninh cho đồng bào".
    Thấy việc làm thất nhân tâm của Thiệu, phó đại sứ Mỹ Berger cùng tướng Abrams đến dinh Độc lập gặp Nguyễn Văn Thiệu và tướng Cao Văn Viên, rồi cho ra thông báo lấp lửng: "Mỹ và Việt Nam Cộng hòa sẽ tôn trọng hưu chiến của Việt cộng nếu họ cũng làm như vậy".


Tiêu đề: Re: Gia đình biệt động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Sáu, 2010, 06:57:30 pm
    Trên tờ báo Chính Đạo trong số ra ngày 05 tháng 9 năm 1969 có đăng bài ở vị trí trang trọng nhất với đầu đề: "Để nói lên khí thế hào hùng của dân tộc" và tên tác giả ghi rõ ràng: Lê Quang Bằng tức Việt Bằng.
    Tuy bài báo đăng ngày 5 tháng 9, khi các báo Sài Gòn lần đầu tiên loan tin Bác Hồ từ trần nhưng tác giả ghi ngày viết bài: 3 tháng 9 năm 1969, đúng ngày tác giả đón được tin buồn Chủ tịch Hồ Chí Mình đã ra đi (Theo thông báo lúc đó).
    “Thế là Ông Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã giã biệt tất cả chúng ta vào lúc 9 giờ 45 ngày 22 tháng 7 năm Kỷ Dậu, tức là ngày 03 tháng 9 năm 1969, hưởng thọ 79 tuổi.
    Theo truyền thống xử thế của dân tộc Việt Nam thì "chết là hết, một khi một người nằm xuống thì mọi việc người ấy làm lúc sinh thời dù phải, dù trái đều được người sống bỏ qua để rồi cùng tiễn đưa nhau về nơi an nghi cuối cùng. Do đó, tất cả những gì được gói ghém trong những dòng viết dưới đây chi nhằm nói lên cảm nghĩ của một người Việt đối với một người Việt đã làm cho tất cả thế giới phải biết đến cái tên "Nước Việt và "Người Việt . Thế thôi.
    Ông Hồ Chí Minh, một con người có một tiểu sử khá thần thoại mà có lẽ sau khi ông chết đi, tính chất thần thoại chứa đựng tiểu sử cửa ông vẫn chưa chết theo.
    Nếu chỉ phê phán Ông qua sứ mạng chống xâm lăng giành độc lập cho xứ sở thì không ai có thể phủ nhận rằng ông đã thành công trong việc lãnh đạo một dân tộc lạc hậu sau 100 năm ngoại thuộc, bị ngoại bang bóc lột tới tận xương tủy và vừa phải khoác lên đầu vành khăn tang đau thương vì hai triệu người ruột thịt vừa qua gục ngã khắp hang cùng ngõ hẻm, xó chợ đầu đường vì kế hoạch triệt đường lương thực cửa thực dân Pháp và phát xít Nhật mà chính những người còn sống chưa được phục hồi.
    Nhưng…
    Chín năm sau, thực dân Pháp, một cường quốc cai trị một phần tư thế giới này đã phải đầu hàng đoàn quân của Ông. Ngừng tay chiến đấu được năm năm giữa lúc còn chưa phục hồi được những gì do chín năm chiến tranh tiêu thổ tàn phá đất nước, Ông lại phải đương đầu uới một siêu cường quốc số một trên thê giới này.
    Ai dám bảo rằng mười năm sau, siêu cường quốc kia sẽ phải điêu đứng và hầu như sẽ bị sụp đổ vì Ông.
    Cá nhân tôi trước đây tôi ra nước ngoài, vì chưa mấy người ngoại quốc biết rõ nước Việt Nam ở đâu? Người Việt Nam da dẻ thế nào? Có phải một tiểu quốc Phi Châu nào đó không? v.v... Nhưng ngày nay con mắt người ngoại quốc nhìn ta đã khác rồi. Và chính tôi, dù chi là một công dân không tên tuổi, tôi cũng không còn ám ảnh bởi bất cứ một thứ cảnh tự ti nào trước mắt họ nữa. Đó là nguyên nhân thúc đẩy tôi, dù phải nhận lãnh mọi hậu quả, tôi cũng không thể không nói lên những lời này, không phải để làm lợi cho Cộng sản, mà chính là để cho các đồng sự ngoại quốc của tôi không hiểu lầm rằng tôi đã ngu muội tới mức không dám công khai thừa nhận một “Vĩ nhân siêu việt” ấy chính là sản phẩm của giống nòi tôi.
    Tôi xin chân thành tạ lỗi trước các nhà hữu trách và xin chô phép tôi được viết lên những dòng này để nếu có thể được thì nói lên cái tâm tư của cả quý vị nữa.
    Do đó những lời tôi nói đây, tuy bể ngoài nói về Ông Hồ Chí Minh nhưng thực ra nói cho tất cả chúng ta vậy”.

    Tấm lòng người dần miền Nam - mặc dù bị địch o ép, kìm kẹp - đối với Bác Hồ, lãnh tụ của dân tộc, không có bút nào tả xiết. Những ngày sau đó, ba anh em đã nghe kể về lễ cầu siêu cho Bác Hồ ở chùa Khánh Hưng (hiện ở đường Cách mạng tháng Tám) do Thượng tọa Pháp Lan chủ trì.
    Sau ngày Bác mất, chú Tám Cần, một cán bộ lãnh đạo vận động trí thức hỏi Thượng tọa Pháp Lan:
    - Thượng tọa có dám lảm lễ truy điệu Cụ Hồ không?
    Chủ Tám Cần đã nhận được câu trả lời dứt khoát:
    - Nhà chùa không dám làm lễ truy điệu Cụ thi chả' khác nào thợ mộc không dám đóng thang.
    Nhưng tổ chức lễ như thế nào cho trọng thể, có ý nghĩa và che được mắt bọn an ninh mật vụ mới khó, nhất là khi những người đứng ra tổ chức buổi lễ đều muốn có hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và bài vị của Cụ Chủ tịch Hồ Chí Minh trên bàn thờ.
    Trước 7 giờ tối ngày 9 tháng 9 năm 1969, những trí thức có tên tuổi ở Sài Gòn Hồi đó như bà Ngô Bá Thành, luật sư Trần Ngọc Liệng, các ông Nguyễn Long, Dương Văn Đại, Đặng Văn Kỳ... cùng các thiện nam tín nữ đều đã tề tựu tại chùa. Trên bàn thờ chỗ đặt bài vị có ghi mấy chữ nho: "Quốc gia tối thượng" có nghĩa là "Quốc gia trên hết" và cũng có thể hiểu là bài vị đó của "Người cao nhất nước" đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
    Như thường lệ, trên bàn thờ có đặt mâm hoa, mâm quả. Bên mâm hoa, Thượng tọa Pháp Lan cho bày bông Trang (màu hồng) thay cho nền đỏ và bông Điệp làm ngôi sao vàng. Bên mâm quả cũng có cách sắp đặt rất khéo léo: Những quả thị thay thế màu vàng và trái mận hồng đào (quả doi hoặc bống bồng) xếp làm cờ đỏ. Tuy đã công phu như thế nhưng những người đứng ra tổ chức buổi lễ vẫn chưa thật hài lòng. Phải làm sao ghi được tên và chừ đệm của Bác là Chí Minh trong lễ cầu siêu. Tất nhiên, chính quyền Sài Gòn không cho phép bất cứ cá nhân hay đoàn thể nào được thờ cúng Bác công khai nên vị chủ trì chùa Khánh Hưng đã thức trọn đêm để nghĩ ra đôi câu đối:
   "Nam Bắc, toàn dân quy thượng chính
   Á, Âu, thế giới kính tu mi."

    Về nghĩa đôi câu thật rõ ràng. Về thứ nhất có nghĩa là toàn dân việt Nam từ miền Nam tới miền Bắc quy phục người chính trực có chính nghĩa cao nhất. Về thứ hai nói lên tấm lòng của nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân châu á, châu âu vô cùng kính phục đấng tu mi nam tử. Đặc biệt, hai từ cuối của hai về đối nếu nói lái ngược lại là tên Bác Hồ: Chí Minh.
    Vấn đề quan trọng nhất, chủ chốt của buổi lễ cầu siêu là bài điều văn, Thượng tọa (nay cụ đã thăng chức cao nhất của Phật giáo là Hòa thượng), đã thảo xong điều văn, chép làm ba bản. Thượng tọa cho chôn cất kỹ hai bản. Bản còn lại, để đề phòng bọn an ninh, cảnh sát tràn vào chùa dùng vũ lực tịch thu mất, Thượng tọa đã tẩm sáp phía sau tờ giấy và mặc dù đêm đó Sài Gòn có điện, Thượng tọa vẫn đặt cạnh chỗ đứng của mình hai ngọn đèn cầy (nến). Để thật an tâm khi hành lễ, Thượng tọa bố trí những vị sư, chú tiểu và các phật tử là nam thanh niên khỏe mạnh, lực lưỡng đứng bên nhau thành hàng rào danh dự để tăng thêm vẻ trang nghiêm, tôn kính của buổi lễ và sẵn sàng xả thân đối phó với cảnh sát, nếu chúng muốn xông vào hành hung Thượng tọa Pháp Lan đọc bài điếu. (Vì hôm đó Thượng tọa mới đọc được nửa chừng thì cảnh sát ập đến đàn áp, Thượng tọa châm bài điều tẩm sáp vào ngọn nến đốt cháy ngay). Nhưng bà con Sài Gòn đã có dịp đọc toàn vặn bài điều:
    "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mau Ni Phật.
    Hôm nay đứng trước Linh bài hòa vọng với khói hương nghi ngút trước Anh Linh Người vô vàn kính mến, trọn đời đã vì nước mà quên mình, vì Tổ quốc và nhân dân. Bác không sợ nguy hiểm tới tính mạng. Nhớ Linh xưa, Bác là đấng anh hùng vĩ nhân ái quốc, đã đem từng giọt máu quyết tâm trừ khử loài sâu bọ, mong sao được rạng vẻ sơn hà. Vì lẽ ấy cho nên Bác quyết ra tay diệt giặc, phấn đấu kiên cường, đánh đuối quân thù, oai danh lừng lẫy, trải biết bao gian lao cực khổ, lướt gió xông sương, bươn nguồn vượt suối, quyết gìn giữ giang sơn Tổ quốc. Bác là bậc hào kiệt vô song, trọng nghĩa vụ nặng hơn núi cả, tài bặt thiệp khắp hoàn cầu Âu, Á, trí thông minh nổi tiếng cả Đông Tây; tuôn máu đỏ, nhuộm cờ hổng, dựng khắp non sông đất Việt, lấy da vàng, nêu sao sáng phất rạng cõi trời nam.
"Nhớ Bác càng thương, càng khóc; thấy bọn giặc thêm hận, thêm thù. Khóc là khóc đấng thiện tài lỗi lạc, đuối xâm lăng đòi độc lập tự do, trọn đời mãi lo âu cho dân tộc. Quê hương còn đó, nước non còn đó, uất hận thay vật đổi sao dời, nghĩ mấy đoạn lệ tràn chan chứa, nhớ công ơn cảm động can trường".
    "Ôi! Lồng lộng trời cao mây phấp phới, thinh thinh' bê rộng sóng vơi đầy. Nước non còn, hào kiệt vẫn còn; anh hùng tử, khí anh hùng hà tử. Lư trầm cảnh khói hương ngào ngạt, kính cẩn lòng ngưỡng đạt trước Chân Linh, giúp sơn hà mau đạt được thái bình, phò Tổ quốc chóng mau Độc lập”.
    Cẩn cáo Đài Tiền, Cung Dung khấu thủ .

    Ba anh em Tư Linh, Ba Vĩ, Mười Tuân háo hức rủ nhau đi thăm chùa Khánh Hưng. Chùa không rộng lắm, ở cách đường khoảng hơn trăm mét. Các cậu nghe kể lại chi tiết buổi lễ truy điệu tối ngày 09 tháng 9 năm 1969 các thiện nam tín nữ đứng chen chúc chật ních ở trong chùa. Thượng tọa Pháp Lan to, cao trên lm70, nặng không dưới 80 kilôgam, có khuôn mặt từ bi, giọng nói truyền cảm. Nhận được giấy gọi của quận trưởng cảnh sát buộc phải lên trình diện, thượng tọa Pháp Lan báo ngay tin dữ cho các phật tử. Không chậm trễ, từng đoàn thiện nam, tín nữ đi bộ, đi xe đạp, xe gắn máy, ngồi xích lô cứ nườm nượp kẻo đến túc trực bên ngoài đồn cảnh sát. Để xoa dịu cơn phẫn nộ, giận dữ của các phật tử dễ biến thành cuộc biểu tình bao vầy trụ sở cảnh sát, tên trưởng đồn buộc phải nhã nhặn mời Thượng tọa ra xe Zép, chở Thượng tọa trả về chùa và đảm bảo không có chuyện gì xảy ra nữa. Từ chùa Khánh Hưng trở về, Tư Linh nhủ Mười Tuân:
    - Mày thưa với má là phải làm gì đó đề ghi dấu lực lượng biệt động Thành đoàn để tang Bác.
    - Dạ.
    Trong những ngày đau thương này, Dương Mỹ Hòa đang ở trại biệt giam Đ thuộc khám lớn Chí Hòa. Chị là bạn rất thân của út Phương. Lãnh án 18 năm tù giam, út Phương bị đưa vô khám Chí Hòa. Tên giám thị ra luôn ngón đòn phủ đầu:
    - Em gái đã. kêu án. Anh khuyên em gái ngoan ngoãn cải tạo chấp hành đúng nội quy mà mọi người tù đều phải tuân thủ như giờ báo thức, chào cờ, giờ ăn, ngủ. Tụi anh có biệt nhờn, sẽ xin tổng tHồng ân xá sớm cho em.
    Út Phương đốp phát luôn:
    - Tôi bỉ bắt ngày 25 tháng 9 năm 1965. Gần bốn năm qua, các ông đã hiểu quá rõ về tôi và tôi cũng không lạ gì chế độ lao tù khắc nghiệt của mấy ông. Tôi tuyên bố chống chào cờ. Ông cứ cho tôi vào biệt giam.
    Tên giám thị cố nén cơn giận, vẫn giữ giọng ngọt ngào:
    - Em mới 18 tuổi. Em còn trẻ, lại rất xinh đẹp. Đừng nên phí hoài tuổi xanh. Anh sẽ lo cho em tấm chống, em sẽ có nhà lầu xe hơi.
    - Nè, tôi báo cho ông biết: cái trò dỗ ngon, dỗ ngọt bả vinh hoa phú quý không mồi chài nổi gái này đâu. Đi, cha nội. Nghe nhàm tai quá!
    Tên giám thị nối giận, quát:
    - Đồ con lừa, nhẹ không ưa, ưa nặng. Tao sẽ nhốt mày vô xà lim.
    - Để hù dọa, để thi gan với tôi chớ gì? Nói thiệt, tôi đâu có ngán. Mấy ông thả kiến cắn khắp người tôi, nhốt tôi với người cùi, người điên, gái điếm. Tôi đã tuyệt thực không ăn, không uống năm ngày liền nên thứ xà lim ở khám Chí Hòa không khuất phục nổi tôi đâu. Tôi chấp thuận vô biệt giam.


Tiêu đề: Re: Gia đình biệt động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Sáu, 2010, 07:00:48 pm
    Tên giám ngục trợn tròn mắt. Đã từ lâu, hắn nghiệm trống con người. ta ai cũng thích ăn no, mặc đẹp; giàu sang, phú quý; dạ dày của người nào cũng ưa của ngon, vật lạ; da thịt bất cứ ai cũng sợ đòn roi tra tấn... nhưng những tên tù Cộng sản lại khác hẳn. Từ ngày về cai quản khám Chí Hòa, hắn cho lập tại đầy hai khu biệt giam dành riêng cho tù nhân nam và nữ. Bất cứ người tù nào dám chống lại tổng thống Nguyễn Văn Thiệu; không chịu chào cờ, dè bỉu chế độ Việt Nam Cộng hòa v.v., hắn đều tống xuống biệt giam. Tù biệt giam bị đày đọa tới củng cực, không có ánh sáng, thiếu không khí, ỉa đái ngay tại chỗ; người tù luôn phải ăn đói với loài cá khô mặn chát đã bị mọt đục khoét và không ai được bước chân ra ngoài cửa để đỡ tù chân, để nhìn được tia sáng mặt trời. Hắn tin rằng chỉ sau ít tháng sống biệt giam, người tù sẽ phải quỳ dưới chân hắn, van xin hắn cho rời khỏi cảnh địa ngục trần gian. Hắn triệu tập thuộc hạ đến tuyên bố.
    - Tụi bay có biết đá banh không? Biệt giam là gôn. Cứ thêm một tên tù vào biệt giam, tao chịu thua một bàn. Nếu tù từ bỏ lý tưởng, chấp nhận chào cờ, xin rời trại biệt giam là tao thắng. Tụi bay cùng làm trọng tài cuộc đấu banh này.
    Năm tháng qua đi, số tù ở biệt giam luôn tăng thêm. Tuy cay cú, hắn buộc phải tống út Phương xuống biệt giam. Hắn nhìn cô gái với cặp mắt soi mói. Trông vẽ bề ngoài, út Phương còn khá bảnh bao nên ít nhất nó phải hành hạ cô vài ngày nữa. Hắn không sai hai tên lính dùng súng áp giải mà gọi tên giám ngục tới ra lệnh:
    - Đưa con này xuống biệt giam.
    Hắn rĩ tai tên đàn em:
    - Mày đi cạnh nó, trò chuyện thân mật với nó...
    - Dạ, em hiểu ý đại ca rồi. Em sẽ làm cho tù biệt giam tẩy chay con nhỏ vì tưởng nó đã làm gián điệp cho ta.
    Út Phương xuống biệt giam. Mặc dù cô có cái mác 18 năm tù giam nhưng những người tù cũ chưa thật tin ở cô, còn phải thử thách cô vì trông hình thức bế ngoài cô chưa thật tiếu tụy. Do mới từ nhà thương Chợ Quán về nên áo, quần cô sạch, không dính mồ hôi, dính máu. Hơn nữa, nhiều người tù trông thấy cô đi song song bên tên giám ngục ác ôn và cô còn quá non trẻ, lại xinh đẹp nên không hiểu cô có giữ vững được khí tiết lâu dài, có dám hòa nhập với cuộc đấu tranh một mất, một còn để bảo vệ lý tưởng của tù biệt giam. Út Phương nhận ngay ra điều tế nhị đó qua thái độ thờ ơ, không vồ vập của những tù cũ. Cô thu xếp chỗ nằm cho mình. Cô để ý đến cô gái được chị em tù thường gọi là Tâm Thẹo (sẹo) với vẻ kính nể, trìu mến, ngưỡng mộ. Cô ngắm nhìn Tầm Thẹo. Chị không đẹp lắm nhưng có khuôn mặt bầu bầu toát lên vẻ hiền lành, chân thật, dễ mến, dễ gần. Chị  mỉm cười lộ vẻ thân thiện với cô. Út Phương cố vắt óc vẫn không sao nhớ là đã gặp chị ở đâu, tại sao chị có nét quen quen thân thuộc mà cô đã nhận thấy, qua linh cảm? Phải nửa tháng sau, khi những người tù cũ không còn cảnh giác với út Phương nữa, cô mới lân la làm quen với chị Tâm Thẹo. Chị sinh năm 1945, hơn út Phương bốn tuổi, bị bắt từ năm 1964. Linh tính mách bảo út Phương đặt câu hỏi:
    - Chị là Dương Mỹ Hòa?
    - Căn cứ vào đâu em lại khẳng định như vậy ?
    - Em ở chung buồng với chị Mỹ Lê. Chị cao hơn, to hơn chị Mỹ Lê nhưng có nét gì đó hai chị rất giống nhau.
    Đã có nhiều người nói với Mỹ Hòa nhận xét đó. Theo chủ quan của Mỹ Hòa thì chị không giống chị Mỹ Lê về tầm vóc người, về hình thức bên ngoài. Chị Mỹ Lê giống má nhiều hơn: nhỏ con, thanh mảnh, nhẹ nhàng, còn chị lại giống hệt ba: to, cao khỏe mạnh. Vì đã chung sống nhiều năm thời thơ ấu ở quê chị nghiệm rằng chị và chị Mỹ Lê có dáng đi, cách nói và nhiều cử chỉ nào đó người nọ thường bắt chước người kia đã trở nên giống hệt nhau khiến cho người ngoài cuộc dễ nhận thấy điểm đó. Út Phương tâm sự:
    - Chị Mỹ Lê kể cho em nghe nhiều về chị. Em biết chị là chị Y trong tác phẩm "Sống như anh".
    Dương Mỹ Hòa ngạc nhiên:
    - Chị Y nào? Tác phẩm "Sống như anh" của ai, "ở đâu?
    Út Phương cười:
    - Em đoảng quá! Chị bị bắt trước ngày anh Nguyễn Văn Trỗi vào tù nên làm sao chị đọc được tác phẩm này.
    Út Phương ri rả kể cho Mỹ Hòa nghe chuyện ông Bẩy Đấu với nhà văn Trần Đình Vân và đọc thuộc lòng nguyên văn đoạn viết về chị Y. Dương Mỹ Hòa vui lắm. Từ ngày vào tù, đây là lần đầu tiên chị nhận được nhiều tin tức nhất về những người thân ruột thịt. Út Phương hiểu tường tận về các thành viên trong gia đình họ Dương, đặc biệt về chị Mỹ Lê và phiên tòa xử anh Ba Chân. Mỹ Hòa hết sức cám ơn út Phương, coi út như em ruột, như bạn tri kỷ của mình. Vì thế, khi út Phương hỏi: "Tại sao chị chọn bí danh là Tâm? Do đâu chị có biệt hiệu Tâm Thẹo'" Mỹ Hòa đã giải đáp:
    - Tâm là nỗi lòng mình. Khi bị bắt, chị thể không để lương tâm có chút gợn bẩn, chị giữ cho lòng mình luôn trong sáng nên mới chọn bí danh là Tâm. Còn "thẹo" là những cái sẹo. Em xem đây?
    Mỹ Hòa chưa có chống. Với các má, các chị cùng ở trại biệt giam, cùng giới tính, Mỹ Hòa luôn giữ ý, không phô bầy thân thể của mình và càng không thích kể về những lần địch tra tấn dã man đã đề lại trên cơ thể chị biết bao vềt sẹo. Với út Phương, chị muốn dốc bầu tâm sự. Chi vén áo, vạch quần, chỉ và kể cho út Phương nghe "tiểu sử" từng cái sẹo. út Phương rùng mình: Hàng nghìn vết kiến đốt trên người cô có thấm tháp gì so với đủ loại sẹo ngang, sẹo dọc, sẹo to, sẹo nhỏ nằm rải rác trên cơ thể chị Mỹ Hòa. Cô chỉ vào vềt sẹo lớn ở cổ tay chị. Mỹ Hòa giải thích:
    - Năm 1957, má chị bị bắt. Chị đến nhà máy xay xin trấu về để đun. Chị bị máy cuốn, bị dứt đứt một mảng tóc và lưu lại vềt sẹo này ở tay.
    Được chị Mỹ Hòa cưng chiều, út Phương càng vòi vĩnh chị. Cô buộc chị xòe hai bàn tay, sờ vào từng đầu ngón tay chị rồi bất ngờ bóp thật mạnh. Mỹ Hòa rụt vội tay về, củng yêu lên đầu em gái:
    - Mày tính trêu tao phỏng? Thiệt tình, tay chị hết đau và vết sẹo ly ty ở mười đầu ngón tay không còn nữa nhưng chị vẫn còn cảm giác rờn rợn. Bây giờ, nếu em dùng kim châm nhẹ vào kẽ móng tay chị, chắc chị khó chịu nổi nhưng trước mặt tụi nó, chị quên hết mọi đau đớn về thể xác.
    Út Phương gật đầu, thừa nhận ý kiến của chị Mỹ Hòa là xác đáng. Nếu không căm thù địch cao độ, chị Mỹ Lê làm sao sống nổi với bệnh tật đầy mình. Các má, các chị trong trại biệt giảm này đều là con người nên dạ dày ai cũng thèm thức ăn ngon trên bàn tiệc hoặc chí ít cũng cần ít cơm nguội cho đờ đói lòng, ai cũng mong tắm giặt hoặc thở hít khí trời. Ai chả mơ ước dùng đến đôi chân mình đi lại tự do trong trại giam, v.v. Chỉ cần một câu nói: "tôi chấp nhận chào cờ" là ngay lập tức người tù biệt giam sẽ "được" giám ngục thết bữa tiệc thịnh soạn, "được" chuyển đến nơi dễ thở nhất trong trại giam. Nhưng không ai thèm làm điều đó.
    Sau gần hai năm sống chung, Mỹ Hòa và út Phương luôn ý hợp tâm đầu. Trong cuộc đấu tranh gần đây nhất, địch đã dùng vôi bột đổ vào trại khi chị em đang ngủ. Cách tra tần này hết sức tinh vi không để lại dấu vềt gì trên cơ thể người tù nhưng đã dẫn đến cái chết của ba chị vì nghẹt thở do vôi bột bịt kín mồm, mũi. Mỹ Hòa, út Phương cùng các tù nhân biệt giam làm reo, đả đảo thủ đoạn tàn ác của giám ngục. Các trại khác trong khám Chí Hòa nhất tề hưởng ứng buộc đích cam kết: khòng xâm phạm tới thân thể tù nhân; không buộc tù nhân nói xấu Đảng và lãnh tụ của mình.
    Hôm hay tin Bác mất, Mỹ Hòa, út Phương ôm nhau khóc. Một ngày nào đó, nếu thoát khỏi chốn lao tù, các cô không thể đạt được nguyện vọng ấp ủ từ lâu là được gập Bác Hồ nữa. Mỹ Hòa là đảng viên dự bị khi bị bắt, được công nhận là đảng viên chính thức và được chỉ định vào chỉ ủy ở trong tù, tham khảo ý kiến út Phương:
    - Ta có thể làm lễ truy điệu Bác không?
    Út Phương hưởng ứng ngay:
    - Nhất định làm được chị ạ.
    Mỹ Hòa chín chắn hơn, nhận định:
    - Để chị bàn với các má, các chị xem. Ta làm cách nào để có hình Bác, có quốc kỳ. Ta lo giữ bí mật thế nào khỉ làm lễ truy điệu để địch khỏi khủng bố.
    Út Phương mới là đoàn viên lại chưa từng tham gia lãnh đạo nên cô không có nhận thức sâu sắc như chị Mỹ Hòa. Cô nôn nóng, chờ đợi. Cô không rõ tổ chức Đảng trong nhà tù và chả biết ai là người lãnh đạo cao nhất của khu biệt giam nên cô chỉ trông chờ vào chị Mỹ Hòa. Chị đưa cho cô tờ giấy, chỉ thị:
    - Đây là di chúc của Bác. Em ráng học thuộc lòng càng nhanh, càng tốt.
    - Chị đọc chưa ?
    - Chị học nhưng lâu thuộc vì không sao cầm được nước mắt. Lòng Bác rộng bao la. Bác chắt lọc từng lời, từng ý, từng từ. Càng đọc, chị càng thương Bác hơn bao giờ hết, cảm phục Bác và phải có trách nhiệm làm tròn lời Bác dạy. Bác viết trong di chúc: "Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đền thắng lợi hoàn toàn. Còn non, còn nước, còn người. Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay". Em học thuộc lòng để nói lại đầy đủ cho mấy má, mấy chị ít học nghe.
    - Dạ?
    Út Phương không có cách gì chép lại bản di chúc. Cô sẵn sàng trích máu mình làm mực, dùng tăm thay bút nhưng biết kiếm đâu ra mẩu giấy trong khu biệt giam này. Cô cố làm theo lời dặn của chị Mỹ Hòa. Hôm sau, chị Mỹ Hòa lại phân công cô vâo tổ may cờ. Ai đó lấy ra khổ vải trắng may ở giữa mền chăn. Những chị có chỉ thêu màu vàng, màu đỏ được gom lại. Tổ làm cờ bí mật thêu viền ngôi sao vàng năm cánh. Tiếp đó các chị dùng méc-quya-cờ-rôm nhuộm màu đỏ và ký ninh thay màu vàng. Mọi chuẩn bị cho lễ truy điệu Bác diễn ra khá suôn sẻ. Sau khi lá cờ đỏ sao vàng căng lên, có gắn ảnh Bác cỡ 4 x 6cm, các tù nhân mặc niệm Bác. Má Chín đọc gần hết Di chúc thì kẻ địch kéo đến đàn áp. Như thường lệ, Mỹ Hòa, út Phương và những cô gái trẻ, khỏe xông lên trước cản địch. Bộ phận bảo vệ cờ và ảnh đã kịp thời cất giấu vật báu trong lúc các má, các chị cùng nhất loạt hô khẩu hiệu "Đả đảo khủng bố - Đả đảo đàn áp - Cấm dùng vũ lực - Cấm xâm phạm thân thể người tù". Nhận thấy các phòng giam nam nữ khác đang rục rịch ủng hộ trại biệt giam, tên giám ngục khám Chí Hòa tuyên bố triệu hồi toàn bộ binh sĩ có vũ khí rời khỏi trại biệt giảm. Hắn hứa hẹn: "Chúng tôi cam kết không dùng vũ lực, không xâm phạm thân thể chị em trại biệt giam".
    Buổi lễ truy điệu Bác Hồ trong khu biệt giam đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho toàn thể tù nhân và binh lính địch tại khám Chí Hòa.


Tiêu đề: Re: Gia đình biệt động
Gửi bởi: VoMinhGiang trong 29 Tháng Sáu, 2010, 07:03:45 pm
     Cũng vào thời điểm này, các chiến sĩ biệt động Sài Gòn thi đua diệt nhiều sinh lực Mỹ - ngụy để thực hiện di chúc của Bác. Khẩu hiệu "Biến đau thương thành sức mạnh" đã nhập vào từng chiến sĩ biệt động. Muốn đánh thắng địch, điều cần thiết bậc nhất là phải có súng, có đạn. Má Sáu Hoàn và Mười Tuân lo chạy ngược chạy xuôi để cung cấp đu vũ khí cho các đội biệt động của thanh niên. Đồng chí Văn Ngọc trưởng ban quán sự Thành đoàn trao đổi với má Sáu Hoàn:
    - Tôi mới chế tạo ra loại mìn lắc, loại mìn này được cấu tạo bằng 3 kilỏgam thuốc nổ cực mạnh C4 của Mỹ.
    Ban quân sự của Thành đoàn chủ trương uy hiếp địch và thông báo cho đồng bào, cho bà con Sài Gòn về "loại vũ khí lợi hại mới xuất hiện của Việt cộng". Anh Năm Thanh giao khối thuốc nổ cho Mười Tuân. Mười Tuân phóng honđa, đưa vũ khí đến điểm hẹn, giao cho nữ đồng chí Tư Toàn. Chị Tư Toàn quyết định đem mìn lắc đặt giữa cầu Vòng. Hàng vạn người tụ tập ở giữa cầu, nhốn nháo: "Mìn! Mìn Việt cộng? Báo cho mấy ông cảnh sát". Cảnh sát đến tận nơi nghiên cứu rồi gọi điện yêu cấu công binh giúp đỡ. Xe công binh tới hiện trường và kết luận: "Đây là loại mìn mới hoàn toàn. Yêu cầu các chuyên viên chất nổ đến tháo gỡ". Lại những cú điện thoại. Lại những tiếng ré inh ỏi của xe cảnh sát dẹp đường. Lại những đoàn xe lao đi, lao về. Hàng trăm ký giả trong và ngoài nước đã tập trung đón chờ sự kiện giật gân. Chúng nó cẩn thận bứt dây điện, nhấc khối pin ra xa. Các chuyên viên khẳng định là dây điện giả, càng tỏ ra hoang mang trước quả mìn kiểu mới. Nhìn cái hình sọ người có đôi xương bắt chéo với dòng chữ "mìn nổ chậm, nguy hiềm chết người, đồng bào tránh xa", tụi chuyên viên vũ khí hoang mang mãi 2 giờ 15 phút sau, chín chuyên viên chất nổ kết luận là mìn giả. Một đứa trong bọn nhấc quả mìn thử lắc. Mìn nổ tung. Nhiều đồng bào được chứng kiến tận mắt chín chuyên viên bị chết và bị thương, chiếc cầu hư hại nặng. Má Sáu Hoàn đề nghị anh Năm Thanh "tặng" cho báo Chính Luận quả mìn này. Trong tất cả các loại báo lá cải ở Sài Gòn, tờ Chính Luận là tờ hàng ngày chửi Cộng sản. Cần phải khóa miệng nó lại. Má Sáu Hoàn lại lo chạy đủ thuốc nổ phục vụ "nhà máy" chế tạo mìn lắc. Các chiến sĩ biệt động gọi điện thoại tới tòa soạn báo cảnh cáo về việc làm của họ. Viên chủ báo vẫn không thay đổi thái độ. Đồng chí Phạm Thắng cùng Nguyễn Văn Thân nhận được lệnh "khóa mõm tụi việt gian nòi lại". Má Sáu Hoàn gửi đến các anh khối thuốc nổ cực mạnh nặng 5 kilôgam. Đúng 6 giờ 15 phút ngày 16 tháng 12 năm 1969, Nguyễn Văn Thanh chở Phạm Thắng tới trụ sở báo Chính Luận ở đường Võ Tánh Sài Gòn. Phạm Thắng xách chiếc cặp da lịch sự trong đựng thuốc nổ, ung dung bước vào trụ sở Rất nhanh, anh rút súng vẩy năm phát diệt hai tên cảnh sát gác cổng rồi vứt cặp da đã giựt nụ xòe. Nguyễn Văn Thân đèo bạn vọt ra đường Ngô Tùng Châu. Hai chiến sĩ Mười Hừng và Ba Hoành đã bảo vệ các anh, đưa về tới đích an toàn.
    Sang năm 1970, các chiến sĩ biệt động ham đánh những mục tiêu lớn, đòi hỏi tiêu thụ mỗi lần hàng chục kilôgam thuốc nổ. Kho của má Sáu Hoàn đã cạn dần. Ngày 30 tháng 4 năm 1970, theo lệnh của ban quân sự, má cung cấp cho Tư Kiên 10 kilôgam thuốc. Tư Kiên đã có mang tới tháng thứ chín vẫn hăng hái "đánh một trận nữa rồi sẽ sanh". Chị đã làm cho khối thuốc nổ tung tại cư xá sĩ quan Thái Lan thuộc sư đoàn Mãng Xà Vương, diệt 20 tên.
    Vài ngày tiếp theo, má Sáu Hoàn lại phải chi 10 kilôgam thuốc nổ C4 đề đổi lấy tính mạng 20 tên Mỹ tại cư xá của chúng ở đường Nguyễn Minh Chiếu, Phú Nhuận.
    Ngày 10 tháng 5 năm 1970, má đã xuất 10 kilôgam thuốc nổ cuối cùng còn lại trong kho để sử dụng vào việc đánh cư xá Chi Lăng của Mỹ. Đồng chí trưởng ban quân sự gặp má đòi cung cấp gấp đôi số thuốc hiện có. Má thú nhận:
    - Các anh lấy súng lớn, súng nhỏ, lưu đạn, tôi có ngay. Hồi nầy, ta xài thuốc T.N.T và C4 dữ quá. Theo kế hoạch, đầu tháng 6 năm 1970, ta sẽ nhận đợt mới.
    Đồng chí trưởng ban nài nỉ:
    - Không có cách nào giải quyết sao, chị Sáu? Trận đánh tới đây quang trọng lắm. Dự định của ta không chỉ đánh thủng cư xá Chi Lăng mà còn chiếm giữ sứ quán Lon Non cùng các khu vực Vườn Chuối, Bàn Cờ.
    Má Sáu Hoàn quyết định:
    - Tôi sẽ đi lấy thuốc nổ về cho các anh.
    Đồng chí chỉ huy đắn đo. Ban quân sự rất cần thuốc nổ nhưng không thể để má Sáu trực tiếp làm việc này. Nguy hiểm lắm. Bọn chỉ điểm sẽ nhận rạ má Sáu Thành đoàn. Không. Anh không có quyền cho phép má Sáu làm việc này. Cách đây ít phút anh là người nôn nóng muốn đánh ngay, bây giờ chính anh lại. đưa ra lập luận ngược lại
    - Chị Sáu nè? Ta tha cho tụi nó sống thêm trên đời này một tháng nữa. Theo kế hoạch tháng sáu ta có thuốc nổ rồi.
    Má Sáu phản đối:
    - Sao lại như vậy, anh Năm? Ngày 12 tháng 5, tụi Mỹ có hội họp tập trung ở cư xá  Chi Lăng. Nếu không diệt chúng đúng ngày này, trung đoàn Thanh niên Cận vệ chúng ta sẽ có lỗi với đồng bào.
    Anh Năm đuối lý. Anh hỏi lại:
    - Chỉ còn có một ngày mai, làm cách nào chị chuyển vũ khí cho kịp.
    - Tôi bảo Mười Tuần chở tôi đi.
    Anh Năm hồ hởi vì vừa tìm ra lối thoát:
    - Vậy chị giao cho Mười Tuân việc nầy luôn: Một mình nó đi cũng được mà chị Sáu.
Má Sáu Hoàn đã đón được ý của đồng chí trưởng ban quân sự. Anh rất cần thuốc nổ trong ngày mai nhưng anh không muốn má xuất tướng. Má Sáu Hoàn bộc lộ quyết tâm của mình:
    - Tôi phải đi thôi, anh Năm. Một mình thằng Mười không lấy nổi thuốc nổ trong một ngày đâu. Nó vào căn cứ đã khó, tìm được người phụ trách, yêu cầu ký giấy cấp thuốc nổ còn khó hơn. Tôi quen thuộc, tôi biết cách xoay sở. Trong vụ nầy, anh dám cho tôi chơi canh bạc 5 ăn, 5 thua với tụi nó chớ, anh Năm.
    Anh Năm miễn cưỡng đồng ý. Má Sáu quay về nhà gặp Mười Tuân:
    - Con phải chuẩn bị xe thiệt tốt. Má con ta sẽ vượt chặng đường trên 200 kilômét. Bằng cách nào ngày mai cũng phải đưa vũ khí về.
    Hôm sau, từ sáng tinh mơ, Mười Tuân đã cùng với má lên đường. Hai mẹ con đóng giả nhà tư sản mang vàng hương đi lễ chùa. Ra đến ngoại ô, má Sáu Hoàn và Mười Tuân thay quần áo để hợp với vùng giải phóng. Vào đến khu căn cứ, má Sáu yêu cầu:
    - Các anh lo giùm cho hai chậu ớt kiểng, loại ớt trái nhỏ mà rất cay. Các anh cho thuốc nổ vào đầy chậu kiểng, phủ đất và trồng ớt lên trên.
    Mọi yêu cầu của má Sáu đều được các anh ở cứ thực hiện chu đáo. Hai giờ chiều, từ căn cứ Giồng Keo - Ba Giác Bến Tre), Mười Tuân đưa má vào thành. Má lại thay quần áo, hóa trang thành nhà tư sản nhàn rỗi có thú ham mê chơi cây cảnh. Do thành thạo đường tắt, Mười Tuân bỏ qua nhiều trạm kiểm soát. Một vài đồn gọi má lái xét giấy. Má có căn cước thứ thiệt do chánh quyền Nguyễn Văn Thiệu cấp, thêm nữa thái độ má và cậu con trai rất ung dung, bình thản, nâng niu từng lá ớt héo nên không gặp trở ngại gì. Đêm 12 tháng 9 năm 1970, má Sáu Hoàn về tới đích an toàn. Ngay đêm hôm đó 10 kilôgam thuốc nổ C4 được giao cho hai chiến sĩ biệt động Phạm Thắng và Trần Hữu. Ngày hôm sau, cư xá Chi Lăng (Phú Nhuận) bị tấn công. 50 tên lính Mỹ bị đến tội ác.
    Sau trận này, anh Năm Thanh gặp Mười Tuân hỏi:
    - Cháu có muốn vào Đảng không?
    Mười Tuân trả lời hồn nhiên:
    - Dạ, các chú khỏi nói. Đó là đlềụ con rất trông, trông từng ngày, từng giờ mà chú.
    - Vậy má Sáu đã nói gì với con chưa?
    Trước mặt cán bộ lãnh đạo, Mười Tuân bày tỏ nỗi lòng mình:
    - Dạ! Đồng chí má Sáu lúc nào cũng coi con là con nít. Công tác thì đồng chí má Sáu giao lút đầu nhưng bồi dưỡng lại quá ít.
    Má Sáu cười hiền hòa:
    - Thôi mà. Nếu má có thiếu sót, má sẽ sửa chữa. Con cứ yên tâm, đầu sẽ có đó mà.
    Cuộc họp chi bộ hôm đó thông qua nghị quyết xét kết nạp Mười Tuân. Các anh báo cáo lên trên và được chuẩn y ngay. Má Sáu mừng vì con mình đã trưởng thành. Má đâu ngờ các anh lãnh đạo nóng lòng muốn kết nạp Mười Tuân. Ngày 5 tháng 10 năm 1970, Mười Tuân được gọi đi công tác. Tối đó về Mười Tuân khoe với má:
    - Suýt nữa con làm đảng viên đó má.
    - Sao lại suýt nữa?
    - Thiệt mà má! Bữa nay chú Năm Thanh và chú Chín Kiên gọi con tới để chuẩn bị kết nạp. Khi đọc xong lý lịch, mấy chú mới biết con sinh tháng 11 năm 1953. Chú Chín Kiên cười xòa? Tụi tao sai rồi. Sai thì phải sửa. Tụi tao đâu có ngờ mày chưa tới 17 tuổi. Cháu ráng đợi một năm nữa nghe. Chú cháu ta không được phép làm sai điều lệ Đảng.
    Mười Tuân khỏng có gì đề thắc mắc. Cậu gặp anh Tư Linh, anh Ba Vĩ kể lại những trận tấn công địch để thực hiện di chúc Bác Hỗ của trung đoàn Cận vệ Thanh niên.