Chương II
ỔN ĐỊNH VIỆC LÀM
2.1
Trên con đường tìm kế sinh nhai, anh Độ chơi thân với ba người con lớn của gia đình ông bà Bùi. Chính họ giới thiệu anh qua Lào, tìm đến ông bà Bùi nhờ nương tựa.
Theo địa chỉ anh Độ tìm đến nhà ông bà Bùi không mấy khó khăn. Viên Chăn quả là một thành phố không lớn.
Lúc đó là giờ nghỉ trưa. Anh Độ đã tính đúng thời điểm để kịp gặp ông Bùi. Anh bước đến gõ cửa.
Ông Bùi bước ra, nhìn thấy một người đàn ông còn khá trẻ. Tuy vậy theo dáng cách, thái độ chững chạc thì đã bước vào tuổi trung niên. Ông đã được các con báo trước, nên không ngẩn ngại hỏi:
- Cậu từ chỗ thằng Hùng đến tìm tôi?
Anh Độ đã nhìn thấy hình ông Bùi nhiều lần, nên khi thấy người đàn ông trung niên có dáng người thấp đậm thì nhận ra ngay, nhã nhặn nói:
- Cháu chào bác! cháu là bạn của các anh Hùng, Dũng và Cường. Cháu được các anh ấy giới thiệu đến gặp bác.
Ông Bùi hơn anh Độ khoảng chục tuổi, xưng hô là anh cũng được. Nhưng vì là bạn của con ông, nên anh Độ gọi bằng bác. Người Bắc vốn thích được kính trọng, nên lối xưng hô này khiến ông Bùi có thiện cảm.
- Mời cậu vào nhà, rửa mặt rổi ăn cơm trưa với chúng tôi.
- Cháu vừa từ bên Thái qua, đã ăn cơm ngoài tiệm rồi, xin bác và cả nhà cứ tự nhiên.
Ông bà Bùi là người gốc Bắc, đã có tuổi, ông họ Lê, vốn được giáo dục theo nho giáo xưa. Anh Độ đã biết qua về ông bà nên rất thận trọng trong giao tiếp. Người Bắc mà có ăn học như ông bà Bùi thì chuộng lễ giáo và cũng rất khắt khe.
Ông Bùi rất vui mừng vì được gặp bạn của các con, nên muốn hỏi nhiều điều, ông nói: “Cậu đừng khách sáo, nếu chưa ăn thì cùng ngồi xuống đây. Nếu ăn cơm rồi thì cũng cứ ngồi đây uống nước, nói chuyện cho vui”.
Sau vài câu chuyện, anh Độ đã hoàn toàn thuyết
phục được ông Bùi, rằng mình chính là bạn thân của các con ông.
Ông bà Bùi khi biết đúng là bạn của các con nên trong lòng rất vui vẻ, thâm tâm sẵn sàng giúp đỡ người khách này.
2.2
Ông Bùi trước làm công nhân ở mỏ than Mạo Khê, Quảng Ninh, nhờ có học mà vươn lên đến chức cai. Sau đo ông qua Lào làm thầu xây dựng và cưới vợ, sanh con. Thời Đông Dương xảy ra chiến tranh với người Pháp, ông đem vợ con về xứ, vừa để cho họ biết quê hương. Nhân đó, ông cũng muốn tìm con đường làm ăn ít lệ thuộc nhất. Về đến quê nhà, ông hoàn toàn thất vọng. Ở quê nhà, chiến tranh còn ác liệt hơn trên đất Lào gấp nhiều lần. Ở Lào tuy có chiến tranh, nhưng bom đạn tránh xa Viên Chăn. Thế rồi ông lại đem vợ con quay lại Lào. Tuy nhiên, chiến tranh đâu có để cho ai đi lại dễ dàng, vì vậy mà ba cậu con trai lớn của ông bị thất lạc trong cơn chạy loạn. Mãi đến hai ba năm gần đây ông mới biết ba người con trai đã trưởng thành và làm ăn khá ổn định trên đất Thái. Tuy đã liên lạc được với nhau, nhưng ba người con đều vẫn chưa có cơ hội gặp lại bố mẹ. Điều này khiến ông bà rất buồn, vẫn hằng mong cả nhà được đoàn tụ.
Gặp lại Độ, ông bà cảm thấy an ủi như gặp lại chính các con của mình. Nhìn người đàn ông này, ông bà đã có ngay hảo cảm. Khi biết anh Độ mới chân ướt chân ráo đến Viên Chăn, ông chủ động mở lời:
- Cậu mới qua Viên Chăn, chắc chưa có chỗ ở? Thôi cứ tạm ở nhà tôi, khi nào làm ăn khá thì hãy đi thuê nhà khác.
Ông Bùi nói vậy chẳng qua để khách đỡ e ngại. Khi nhắn tin, các con ông đã có nói về điều này, rằng cần phải cưu mang anh Độ thời kỳ mới chân ướt chân ráo sang Lào.
- Dạ, cháu cám ơn hai bác. Ban đầu có lẽ phải quấy quả hai bác. Hai bác cứ xem cháu như người nhà. Nếu cháu có điểu gì sai thì cứ trách mắng, cần gì thì cứ sai bảo.
- Tôi đâu dám, các con tôi đã gởi gắm thì tôi phải xem cậu như chính chúng vậy. Tạm thời tôi sẽ giới thiệu cậu vào làm ở hãng Calavy. Hay cậu cứ nghỉ vài ngày cho khỏe rồi tôi xem có thể bố trí cậu vào chỗ nào được.
Nói rồi, ông Bùi hỏi thêm anh Độ về những việc có thể làm để ông tiện giới thiệu. Anh Độ trình bày hết những khả năng của mình, những việc từng làm.
Bữa cơm chiều, mọi người lại nói chuyện vui vẻ. Mấy người con sau của ông Bùi hỏi han anh Độ tíu tít về các anh. Anh Độ lại có dịp nhắc đến ba người con của ông bà Bùi. Ông bà Bùi không cầm được nước mắt khi nghe nói đến ba người con thất lạc. Chuyện vãn một lúc, khi đã đủ thân tình, họ nói đến công sở, chợt ông Bùi như sực nhớ ra điều gì, nói:
- Trong thời gian làm thầu xây dựng cho hãng Calavy, chúng tôi có nhận khá nhiều thầy thợ Việt Nam, cả ở hai miền Nam, Bắc. Ngày nay, miền Bắc thuộc về chính quyền cộng sản nên chỉ còn thầy thợ đến từ miền Nam. Chủ hãng thích nhận người Việt, vì đa phần họ làm ăn siêng năng, cần cù và rất chí thú. Trong số thầy thợ này, từng có một người đàn ông, tên Nguyễn Văn Đan, từ Sài Gòn lên đây làm ăn. Tôi không nhớ chính xác ông Đan quê ở tỉnh nào, nhưng biết cũng là dần gốc Bắc như cậu, hình như là di cư vào Nam. Chúng tôi nhận ông Đan này làm thầy ký, ông ấy trạc tuổi cậu. Gần đây, chẳng hiểu nguyên nhân gì, thầy Đan bỏ về Sài Gòn rồi mất tin tức luôn. Hãng có nhắn tin tìm kiếm, nhưng thầy Đan vẫn bặt vô âm tín. Tôi e rằng thầy ấy hoặc đã mất, hoặc đã sang nước ngoài định cư rồi. Hiện nay giấy cư trú màu vàng của thầy ấy còn nằm trong beauraux của tôi.
Anh Độ suy nghĩ rất nhanh “biết đâu, đây là cơ hội cho mình”, bèn ướm lời nói: “Anh Hùng nói rằng bác có thể giúp cháu kiếm công ăn việc làm ở đây...”. “Tôi cũng đang nghĩ đến điều này. Cậu mới đến, chân ướt chân ráo, khó mà kiếm được việc làm dễ thở ở xứ này”.
- Cháu không tiện mở lời nhờ bác giúp đỡ...
- Tôi coi cậu như con cháu mình, nên sẽ giúp hết lòng.
Anh Độ nhận thấy tình cảm chân thật của ông Bùi, nên ướm thử:
- Bác có thể lấy giấy tờ của thầy Đan về đây cho cháu xem được không?
- Được, để mai tôi đem về cho cậu xem.
Hôm sau, đi làm về, ông Bùi đưa thẻ cư trú màu vàng mang tên Nguyễn Văn Đan cho anh Độ xem. Anh Độ chợt nghĩ ngay ra cách thức sử dụng thẻ này.
Trong giấy, thầy Đan trẻ hơn anh Độ khoảng ba tuổi, nhưng xem hình thì hai người xấp xỉ nhau. Anh Độ nói thật với ông Bùi: “Cháu định thay thầy Đan, như vậy đương nhiên là thư ký của hãng, bác không cần phải lo nghĩ đến chuyện xin việc cho cháu”.
- Làm như vậy được không? Tôi chưa biết cậu có thể làm được các công việc của thầy Đan?
- Cháu nghĩ là mình có thể đảm nhận được chân thư ký của hãng. Cháu có vốn tiếng Pháp đủ dùng, tiếng Anh cũng tạm được. Còn việc thay đổi giấy tờ thì không khó, vì lúc ở bên Thái tụi bạn cháu cũng có làm rồi. Cháu đã biết cách, bác chỉ cần tìm cách mượn bộ hồ sơ gốc của thầy Đan đem về đây, phần còn lại cháu sẽ chỉ cách bác làm.
Ông Bùi hơi có phần lo lo, nên lưỡng lự hỏi: “Nhưng lấy lý do gì để mượn bộ hồ sơ gốc?”
- Bác có biết ai giữ bộ hồ sơ gốc này không?
- Colonel Phào, tôi có quen với ông ta. Nhưng có lẽ phải chi ít tiền thì ông ta mới chịu lục tìm hồ sơ. Ở xứ này người ta không làm không công bao giờ.
- Ít tiền là bao nhiêu?, bác biết không?
- Khoảng mười lăm, hai chục đô Mỹ gì đó. Những trường hợp khó thì cũng không quá sáu chục đô Mỹ.
- Cháu nhờ bác đến gặp Colonel Phào, nói là hãng cẩn thẩm tra hồ sơ của thầy Đan để ký hợp đồng dài hạn với thầy ấy. Khi bác đem hồ sơ về đây cháu sẽ có cách. Có lẽ nhờ thế mà bác đỡ tốn công lo việc làm khác cho cháu.
- Được, ngày mai tôi sẽ thử. Cậu cứ đưa cho tôi ba mươi đô la Mỹ.
2.3
Chiều hôm sau, ông Bùi đi làm về, hớn hở đem túi hồ sơ của thầy Đan đưa cho anh Độ.
Xem hồ sơ, anh Độ thấy thầy Đan, quê ở Nam Định, vào Nam làm ăn từ thời Pháp chứ không phải dân di cư, thì vô cùng mừng rỡ. Trong bộ hồ sơ còn có bằng tú tài do Tổng nha Giáo dục Pháp Taboulet ký. “Đúng là trời giúp. Nam Định thì mình cũng biết nhiều trong thời kỳ lưu lạc làm ăn”, anh thầm nghĩ.
Tối hôm đó, anh Độ khéo léo thay hình của mình vào tấm thẻ vàng của thầy Đan cùng với hình trong bộ hồ sơ gốc. Đồng thời anh học thuộc lòng những chi tiết ghi trong hồ sơ.
Ông Bùi vì có lời gởi gắm của các con, phần vì cùng là người Việt đến xứ người làm ăn nên tích cực giúp đỡ hết lòng. Như vậy, nhờ sự giúp đỡ của ông Bùi, anh Độ đã nghiễm nhiên trở thành thầy ký Đan.
Kể từ nay, anh Độ trở thành thầy ký Nguyễn Văn Đan. Vị trí đã ổn định, lương bổng cũng khá. Như vậy những lời đồn của các Việt kiều bên Thái không phải là vô căn cứ.
Kể từ đây, hàng xóm của ông bà Bùi biết anh Độ có hai tên. Tên Độ dùng để gọi bình thường, còn trong hồ sơ gốc thì có tên Đan.
Tuy vậy, anh Độ, hay thầy Đan vẫn muốn có một vị trí cao hơn, lương cao bổng hậu để thuê nhà, lo chuyện vợ con. Thầy đang độ tuổi sung mãn, nếu không có vợ rất dễ bị người dị nghị. Đàn ông sợ nhất là bị mang tiếng “bất lực”.
Sự mong muốn vươn lên của thầy Đan cũng hoàn toàn chính đáng mà. Thầy lại luôn nỗ lực và cảm thấy hình như mình có chút ít may mắn.
Thầy Đan vẫn ở tạm tại nhà ông Bùi. Trong buổi đẩu chân ướt chân ráo này, gia đình ông Bùi quả là chỗ dựa tốt cho thân phận long đong của thầy. Ông Bùi lúc này càng trở nên thân thiết với thầy Đan, bởi ông nhận thấy ở anh thầy ký này có rất nhiều tiềm năng ẩn tàng, có thể giúp cho ông thăng tiến trên đường hoạn lộ.
Ông Bùi cũng đã nhận thấy sự nguy hiểm trong việc giúp đỡ thầy Đan, vì vậy mà phải luôn tìm cách bao bọc, che đậy những sơ suất vô tình lộ ra của ông khách tên Độ này.
Bao che cho một người nhập cư lậu rõ ràng là phạm pháp. Thêm vào đó, hành động giúp người lạ thế thân một nhân viên trong công ty, quả là chuyện lớn tày trời mà ông Bùi chưa từng làm.
2.4
Ông bà Bùi tuy tốt bụng, nhưng vốn sống co cụm, ít giao thiệp với người ngoài. Ngoài một số Việt kiều thân quen và vài người Lào cùng làm việc, ông Bùi ít khi chịu mở rộng mối quan hệ. Thầy Đan nhận thấy điều này như con dao hai lưỡi. Ông bà Bùi ít quan hệ thì thần phận của thấy ít người để ý, nhưng cũng chính vì vậy mà thầy cũng ít có diều kiện làm quen với những người xung quanh. Thầy không tiện vượt qua chủ nhà để lân la làm quen với láng giềng, hàng xóm và đồng nghiệp.
Lại qua vài ngày, một hôm, trong bữa ăn, ông Bùi khoe là có quen với ông Khounta, giám đốc sở giao thông công chánh Viên Chăn. Thầy Đan nghe nói vậy thì làm như vô tình, nói:
- Người Việt ta có câu “Bán họ hàng xa, mua láng giềng gần”. Nay chúng ta sống trên đất Lào, chẳng họ hàng thân thích, nên phải tạo mối quan hệ thân mật với bà con láng giềng, bất kể Việt hay Lào, phòng khi tắt lửa tối đèn còn có nhau.
- Từ ngày gặp cậu, tôi mở mang tẩm mắt nhiều thêm. Mấy ngày nay tôi bắt đầu cởi mở với hàng xóm, thân mật hơn với đồng sự. Quả thật, họ nhìn tôi với con mắt khác, thân thiện hơn, nồng nhiệt hơn.
Thầy Đan nghe ông Bùi nói vậy, bèn hỏi:
- Hình như bác vừa nói là có quen ông gì đó ở Sở Giao thông Công chánh?
- Ông Khounta...
- Hay là hôm nào bác mời ông ta đến nhà đãi cơm để tạo thêm tình thân mật. Sở Giao thông Công chánh có nhiều công trình xây dựng lắm, bác mà quen thân được với ông ta thì chẳng thiếu việc làm đâu.
- Cậu mà không nói, tôi cũng không nghĩ ra. Theo cậu, ta nên đãi họ món ăn Việt hay Lào?
- Cháu nghĩ là, nên đãi họ món ăn Việt cho lạ miệng. Cháu nhờ bác mà có công ăn việc làm, lương cũng khá, thôi để cháu lo chuyện đặt món ăn, chỉ cần mượn nhà bác để tạo tình thân mật. Ngồi ngoài nhà hàng, mình bị hạn chế nhiều điều lắm.
- Ai lại thế, thôi thì tôi và cậu chia đôi tiền đặt món. Ở nhà đã có sẵn mấy chai rượu người ta biếu vẫn còn đó, đủ dùng rồi, cậu không cần mua thêm. Tôi chẳng bao giờ uống rượu một mình, nay nhân dịp này thì vui quá.
- Bác nên mời thêm vài nhân viên của ông Khounta cùng đến. Nguyên tắc làm việc thì quyền quyết định là ở ông ta, nhưng thừa hành lại là nhân viên cấp dưới. Họ mà cản trở thì ông Khounta muốn giúp cũng khó.
- Cậu nói chính phải, tôi sẽ lưu ý mời thêm vài nhân viên thân cận của ông Khounta.
Trưa ngày chủ nhật, ông Khounta cùng năm nhân viên thân cận vui vẻ đến nhà ông Bùi. Họ đến như một cuộc viếng thăm bình thường.
Ở nhà, bà Bùi cùng các con gái lo mấy món Việt cho khách lạ miệng. Trong đó có món chả giò chiên mà các gia đình Việt ít khi bỏ qua khi làm tiệc. Mùi xào nấu bốc lên thơm sực nức, khiến các thực khách càng cảm thấy đói cồn cào. Họ ngồi vui vẻ nói chuyện thân mật và ấm áp.
Ông Bùi và thầy Đan ngồi tiếp khách, trong khi chờ nhập tiệc.
Trước đó, khi mới bước vào nhà, ông Bùi và ông Khounta đã tay bắt mặt mừng, giới thiệu họ tên của mọi người để làm quen. Thầy Đan chắp tay cúi đầu theo nghi thức người Lào để chào mọi người.
Thầy Đan thầm nhẩm trong lòng để nhớ tên những vị khách quý này. “Biết đâu sẽ có lúc mình còn gặp lại nhau”, thầy nghĩ.