Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 14 Tháng Năm, 2024, 10:47:02 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Quán chè chén 5 xu, kẹo dồi, kẹo lạc... (Phần 7)  (Đọc 240744 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
votmuoi
Thành viên
*
Bài viết: 221


« Trả lời #320 vào lúc: 18 Tháng Bảy, 2011, 11:30:22 am »

He he ! ỪA mà trò trẻ ranh sửa bài hát của thế vận hội để tự sướng vớ vẩn thật !
Căm thù bọn ngoại xâm cướp biển đảo của tổ quốc thì thiếu gì cách nhỉ , chỉ tổ  kẻ cướp và đồng bọn nghĩ mình yếu cả về thực tế lẫn lý luận thôi , vả lại chính trị hóa những sự kiện văn hóa thể thao xã hội đúng là vốn dân ta đã chán ghét lắm lắm rồi mà .
Cũng chẳng trách được đám trẻ vì đến các bác giáo sư tiến sĩ cũng tự phong tự sướng như thực trạng thế này, chưa nói đến các loại luận án copi (ăn cắp) thì đúng là cái quán nước cốc trà đá bằng mệnh giá tấm cổ phiếu trong nền kinh tế thế này . Grin Grin Grin
Nhớ , Nhà báo Hồ Bất Khuất từng nói về chuyện này qua bài báo “Einstein xin phong GS ở Việt Nam cũng trượt!” cách đây không lâu . hi hi ! thấy đúng là "PHÍ NHỜI"!
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-07-10-chuye-n-phong-hoc-ham-nhuc-lam-em-a-
Chuyện phong học hàm: “Nhục lắm, em ạ!”
Tác giả: Nhật Nguyệt
Bài đã được xuất bản.: 11/07/2011 05:00 GMT+7

Cái kết câu chuyện đề nghị xét tặng Giải thưởng Nhà nước
14Việc để những nhà giáo, nhà khoa học xứng đáng được được tưởng thưởng, được ghi nhận phải chạy chọt, luồn cúi để đạt được một chức danh mà hiển nhiên họ phải được trịnh trọng trao tặng là đi ngược truyền thống tôn sư trọng đạo mà chúng ta vẫn luôn ra rả dạy con trẻ.

Đúng lúc xã hội đang tranh luận nóng bỏng về con số 70.000 tỷ đồng sắp sửa được rót ra hầu mong thay đổi cục diện ngành giáo dục, người viết bài này lại dở khóc dở cười khi được giao một công việc quan trọng: Tham gia vào nhóm chuẩn bị hồ sơ đề nghị công nhận chức danh Phó Giáo sư (PGS) cho… sếp.

Tưởng vậy mà không phải vậy!

Khoan hãy đặt câu hỏi tại sao chuyện đó khiến tôi dở khóc, dở cười. Tôi phải khẳng định ngay từ đầu rằng, trong con mắt cá nhân tôi và đồng nghiệp, sếp của chúng tôi thực sự xứng đáng được phong PGS. Là lãnh đạo một khoa đào tạo lớn của một trường đại học danh tiếng, sếp tôi có bằng tiến sĩ nước ngoài và quan trọng nhất là tinh thần làm việc không biết mệt mỏi. Ông còn sắp xếp chu toàn mọi công việc trong và ngoài khoa, tham gia các đề tài nghiên cứu, viết giáo trình, hướng dẫn sinh viên, học viên cao học...

Tình trạng thiếu giáo viên khiến sếp, dù là giảng viên kiêm chức, cũng phải lên lớp nhiều không kém gì các giảng viên bình thường khác. Sếp luôn phải đánh vật với hàng núi công việc chồng chất, mới xong việc này lại phát sinh việc khác trong guồng quay không bao giờ ngừng nghỉ của một năm học. Tôi thường trộm nghĩ, sếp làm việc với cường độ ấy mà không được phong PGS, thì cỡ như tôi có lẽ cả đời cũng chẳng dám mơ cái chức danh ấy.

Tưởng vậy mà không phải vậy. Hóa ra để đạt được cái chức danh PGS khó hơn tôi tưởng. Chẳng thế mà một đồng nghiệp khác của tôi đã phải chối đây đẩy khi có người gợi ý nộp hồ sơ vì mấy từ giản dị thế này: “Nhục lắm em ạ!”

Nhà báo Hồ Bất Khuất từng nói về chuyện này qua bài báo “Einstein xin phong GS ở Việt Nam cũng trượt!” cách đây không lâu, nhưng đó là câu chuyện ở hậu trường ít người biết đến. Còn những gì tôi đang chứng kiến nó lồ lộ ra trước mắt: Giảng viên nào trong giai đoạn chạy hồ sơ nước rút cũng lao đao cả.
Nào là những bài báo viết đã từ bao lâu, giờ phải bới tung lên để đưa vào hồ sơ. Nếu chẳng may lưu trữ không tốt (vì có phải ai viết bài cũng để chuẩn bị xin phong PGS?) thì phải chạy tới từng tòa soạn xin lại số báo đó, hoặc lần mò trên mạng để tìm lại từng trang mục lục. Vốn đã quá tải với công việc giảng dạy, nghiên cứu... lại còn thêm công tác quản lý, thế nên tất yếu những người như sếp tôi phải có một ban lo chạy hồ sơ, giấy tờ.

 

Nên có những lúc văn phòng của khoa cứ như tiệm photocopy với đủ thứ giấy tờ, tài liệu ngổn ngang. Hỏi một đồng nghiệp có kinh nghiệm tham gia vào những ban như thế này mới biết, đây mới chỉ là giai đoạn đầu, coi như bước sơ khởi, về sau sẽ còn hàng chục lần chỉnh sửa, bổ sung, chạy đôn chạy đáo ngược xuôi...

Chưa kể để kịp thời hạn, có nhiều thứ phải đẩy lên cho xong. Nào là in ấn giáo trình, nào là xét duyệt đề tài NCKH các cấp, tổ chức hội thảo...để có thêm điểm công trình. Cũng lạ cho cách tính điểm của nước ta. Vì tạo ra một cơ chế tưởng như chặt chẽ nhưng vô cùng bất hợp lý nên đã bao lần tôi nhìn vào lý lịch khoa học của các vị GS, PGS thì đều thấy chung một đặc điểm: Trước thời điểm được phong chức danh thì dồn dập công trình nọ kia; sau khi “xong việc” thì thưa thớt hẳn, thậm chí chẳng có thêm bài báo khoa học hay đề tài nghiên cứu nào!

Nếu Việt Nam cứ mãi khác người…

Theo lẽ thường tình, bất cứ một người với trí tuệ bình thường nào cũng hiểu học hàm GS hay PGS được phong cho những nhà giáo uyên thâm, nhiều năm kinh nghiệm và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp khoa học và giáo dục.

Vì thế, lẽ ra, Ủy ban chức danh lập ra là để theo dõi, để xem xét và chủ động phong tặng học hàm này cho những người xứng đáng. Việc để những nhà giáo, nhà khoa học xứng đáng được được tưởng thưởng, được ghi nhận phải chạy chọt, luồn cúi để đạt được một chức danh mà hiển nhiên họ phải được trịnh trọng trao tặng là đi ngược truyền thống tôn sư trọng đạo mà chúng ta vẫn luôn ra rả dạy con trẻ.
Có một chuyện mà ai cũng biết nhưng khi nói ra trên mặt báo, nhiều người lại nhăn mặt tỏ ra khó chịu. Số là, tôi có người thân trong đoàn giảng viên một tỉnh phía Bắc kéo về Hà Nội hồi đầu năm, để thi nâng ngạch giảng viên chính.

Trong tin tức hàng ngày tôi được cập nhật, không khi nào không có chuyện đoàn đã “đi” những cửa nào, tốn bao nhiêu tiền. Đó là chuyện chua chát hệt như nỗi đau khổ của những người muốn được phong GS, PGS. Thử hỏi nếu những người thầy khốn khổ theo một nghĩa nào đó, không phải là giảng viên chính thì ai mới là giảng viên chính? Tại sao họ lại phải đi “xin” được công nhận- một điều hiển nhiên- từ những người “leng keng” những học hàm học vị nhưng có khi cả đời chưa từng biết rát cổ vì giảng bài 12 tiết một ngày?

Tôi cũng muốn nói thêm rằng, đều đặn chúng tôi vẫn nhận được thư từ nước ngoài gửi về khoa, dù không rõ học hàm, học vị của giảng viên Việt Nam chúng ta ra sao, ngoài phong bì thư họ đều nhã nhặn gọi tất cả những người thầy đang đứng trên giảng đường đại học bằng danh xưng “Professor”.

Nói chuyện này ra không phải tôi không hiểu cuộc tranh luận dài hơi về sự khác nhau giữa chức danh giáo sư ở nước ta và giáo sư ở nước ngoài. Nhưng thế mới biết, nếu chúng ta cứ mãi khác người, thì đến bao giờ nền giáo dục mới đi được đúng hướng? Nếu những vấn đề ngang trái còn diễn ra và được chấp nhận một cách phổ quát như thể đó là nguyên tắc bất thành văn của nền giáo dục; nếu những giá trị thật phải ngoi ngóp vật lộn mới được công nhận thì dù có bỏ ra cả trăm ngàn tỉ đi chăng nữa cũng sẽ chẳng thể nào thay đổi được nền giáo dục nước nhà.
 
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #321 vào lúc: 18 Tháng Bảy, 2011, 02:51:07 pm »

Bác votmuoi bức xúc nhỉ. Nhưng mà cũng đúng, thời kinh tế thị trường mọi thứ đều phải được tận dụng tối đa để đạt hiệu quả, đâu ai lại cho không ai cái gì. Nói vui: Nếu Enstein có thể giúp Việt Nam có vũ khí đặc biệt mà lại không mất tiền, nhằm dọa những thằng anh, thằng bạn đểu có dã tâm thì 100 lần giáo sư chắc không ai tiếc.

Còn đây là một bài về xây dựng nông thôn như ...cũ
http://vn.360plus.yahoo.com/thinhbabel/article?mid=14001
Logged
star
Thành viên
*
Bài viết: 127


Paracel Islands & Spratly Islands Of VIETNAM


« Trả lời #322 vào lúc: 18 Tháng Bảy, 2011, 03:09:40 pm »

Nào là những bài báo viết đã từ bao lâu, giờ phải bới tung lên để đưa vào hồ sơ. Nếu chẳng may lưu trữ không tốt (vì có phải ai viết bài cũng để chuẩn bị xin phong PGS?) thì phải chạy tới từng tòa soạn xin lại số báo đó, hoặc lần mò trên mạng để tìm lại từng trang mục lục. Vốn đã quá tải với công việc giảng dạy, nghiên cứu... lại còn thêm công tác quản lý, thế nên tất yếu những người như sếp tôi phải có một ban lo chạy hồ sơ, giấy tờ.

Đến những bài báo của mình mà còn lưu trữ không tốt thì còn trách ai được nữa ?

Chưa kể để kịp thời hạn, có nhiều thứ phải đẩy lên cho xong. Nào là in ấn giáo trình, nào là xét duyệt đề tài NCKH các cấp, tổ chức hội thảo...để có thêm điểm công trình.

Chưa đủ điều kiện thì chờ khi nào đủ điều kiện hãy làm hồ sơ đề nghị xét công nhận chức danh. Chẳng biết "sếp" của tác giả bài viết là ai, nhưng cái kiểu chuẩn bị hồ sơ thế này thì cũng khác gì việc "ôn thi đối phó", "học đối phó" đâu
Logged

Những việc ta làm, thành - bại ngày hôm nay,
Sẽ có sử sách ngày mai ghi chép lại.
Dân tộc ta còn mãi là nhờ lòng cương quyết,
Mấy ngàn năm oanh liệt chống quân thù.
(Câu Thơ Yên Ngựa)
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #323 vào lúc: 20 Tháng Bảy, 2011, 02:16:01 pm »

 Cheesy, tự nhiên hôm nay ngồi lướt nét thấy chương trình Hành trình Xanh 2011, chà chà, cảm hứng quá, tự nhiên lại "thăng" lên viết vài dòng kiểu "định hướng lý tưởng". Thôi thì em viết cho thỏa lòng mình, bác nào ném đá thì cứ ném, bác nào cười mỉm thì cứ cười, bác nào bảo thằng này sáo thì cứ huýt sáo vậy.  Grin

Vài dòng xin ca ngợi những con người thầm lặng!

Đi nào bạn ơi hãy cùng chúng tôi
Đến khắp nơi nơi của tổ quốc tươi đẹp
Đến với khó khăn của những con người
Hòa theo tiếng ca hát lên cho niềm yêu thương
Hòa theo tiếng ca hát lên cho cuộc hành trình.
Khi mặt trời lên chiếu ngàn ánh dương
Cất bước ta đi vì dòng máu con người
Tô thắm non sông đẹp mãi muôn đời
Hòa theo tiếng ca hát lên cho niềm yêu thương
Hòa theo tiếng ca hát lên cho cuộc hành trình
Hành trình xanh!hành trình tuổi trẻ
<a href="http://www.youtube.com/watch?v=rr6Br4TihhQ" target="_blank">http://www.youtube.com/watch?v=rr6Br4TihhQ</a>

Đi đi bạn ơi, khi Tổ quốc cần chúng ta có mặt.
Đi đi bạn ơi, hãy cống hiến tri thức và niềm tin của chúng ta cho Tổ quốc.

Hãy sống đi bạn ơi, Sống trong thời đại mới – Sống trong cuộc hội nhập toàn cầu.
Hãy sống đi bạn ơi, Sống trong thời đại Hồ Chí Minh – Sống trong niềm tin và niềm yêu thương đồng chí, đồng bào.

Tôi không biết gương mặt 1000 con người trẻ tuổi đã tham gia Hành trình Xanh 2011, đi bộ xuyên Việt từ Làng sen quê Bác về Bến cảng Nhà Rồng nhưng với ý chí kiên cường và lòng nhiệt huyết tuổi trẻ; với các dự án, chương trình từ thiện, giúp đỡ đồng bào khó khăn; tuyên truyền thông tin văn hóa pháp luật. Họ có điên không nhỉ? Dở hơi không nhỉ?

Tôi không rõ có biết bao nhiêu người, từ Admin, Moderator (những người quản trị ) đến các member (thành viên) các trang web, mạng xã hội, … đã và đang ngày đêm cần cù xây dựng không công Bách Khoa Tri Thức Toàn Thư Mở Việt Nam và Thế Giới. Vẫn có những con người sẵn sàng cống hiến tri thức của mình, chia sẻ thành tựu, thành quả tri thức cho lớp đàn em, cho Tổ quốc; Để làm gì nhỉ?

Tôi không rõ có biết bao nhiêu người, lấy bàn phím và con chuột làm “vũ khí”, tham gia trên mặt trận tuyên truyền, định hướng xã hội và thông tin; dùng uy tín của mình trên các diễn đào tưởng như ảo mà lại vô cùng thật; dùng ngòi bút sắc bén của mình để phân tích, lập luận, đập tan những thông tin của những kẻ cơ hội chính trị, thủ đoạn xã hội, tuyên truyền chống đối Nhà nước, dân tộc. Liệu họ có điên không nhỉ? Dở hơi không nhỉ? Làm không công thế để làm gì nhỉ?
 
Tôi không biết rõ vẫn có những có người lính trẻ vẫn ngày đêm lặng thầm canh giữ biển trời Tổ quốc. Nhưng có 84 con người đã ngã xuống và hiện nay vẫn nằm trên đào Trường Sa. Có người lính trẻ sinh năm 1984, nối nghiệp truyền thống gia đình anh đã ra Trường Sa, đã hy sinh vì Trường Sa. Và năm nào cũng vậy, người ta vẫn thấy một người mẹ trên bến tàu Cam Ranh, xin theo các đoàn vận tải ra đảo để thăm mộ con trai mình. Anh vẫn ở đó, vẫn cùng đồng đội mình canh giữ biển trời Tổ quốc.

Đi đi bạn ơi, dù bạn có là ai hay là thế nào đi nữa. Hãy cống hiến tri thức, sự hiểu biết, niềm tin của mình cho cuộc sống hôm nay, cho đất nước Việt Nam giàu mạnh.

Lên đường thôi bạn ơi, tuổi trẻ với khát vọng cháy bỏng, tình yêu rực lửa và  nghị lực tràn trề; hãy cho mọi người biết bạn đang “SỐNG”.

Hãy tham gia đi bạn ơi, tham gia vào quá trình xây dựng đất nước, xây dựng Tổ quốc Việt Nam - với con người Việt – cá tính Việt – văn hóa Việt.
Logged

pallmall
Thành viên
*
Bài viết: 19


« Trả lời #324 vào lúc: 20 Tháng Bảy, 2011, 07:10:53 pm »

Hôm nay tôi có đọc trên báo điện tử Tuần Việt Nam liên quan đến bức công hàm của TT Phạm Văn Đồng 1958,
 http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-07-20-cong-ham-1958-voi-chu-quyen-hoang-sa-va-truong-sa-cua-viet-nam
trong đấy tác giả có đưa ra 2 sự kiện :

Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam.

Các bác có ai có thông tin cụ thể hơn về 2 sự kiện này không? Xin cho e biết thêm. Xin cảm ơn
Logged
taxek9
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 335


« Trả lời #325 vào lúc: 20 Tháng Bảy, 2011, 07:13:08 pm »

http://quocphong.baodatviet.vn/Home/QPCN/Su-that-ve-cong-ham-cua-Thu-tuong-Pham-Van-Dong/20117/156665.datviet

 Bài viết hay trên báo Đại Đoàn Kết,báo Đất Việt online đăng lại :

TRANG NHẤT » Quốc phòng - Công nghệ
Sự thật về công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Cập nhật lúc :6:00 PM, 20/07/2011
Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

 
Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ảnh: internet
 
  " Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời.

Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam...."


  (*) Em đã có ý kiến phản hồi theo quan điểm của riêng em :

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

PHAN HUY DƯƠNG

Trong suốt thời gian dài vừa qua chúng ta chịu bao lời thị phi về cái gọi là "Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng 1958". Vâng, thật cám ơn báo Đại Đoàn Kết và báo Đất Việt làm cho tôi và mỗi người con đất Việt càng thương, càng quý cố Thủ tướng Phạm văn Đồng nhiều hơn và thấy rõ mưu đồ đen tối, dối trá của nhà cầm quyền Trung Quốc cố tình xuyên tạc nội dung Công hàm trên mang dụng ý xấu xa với Tổ Quốc Việt Nam ta.

Bài viết hay, phân tích sâu sắc, dễ hiểu lột tả được âm mưu, tham vọng bá quyền của nhà cầm quyền Trung Quốc chiếm đoạt Biển Đông cùa Việt Nam! Đọc bài này thiết nghĩ mỗi người con nước Việt hãy thức tỉnh, không suy diễn lung tung theo ý đồ đen tối của nhà cầm quyền Trung Quốc;hãy  cống hiến và hiến dâng những gì mà chúng ta có cho Tổ Quốc!

Cựu chiến binh Phan Huy Dương,TP.HCM.

Logged
thuhuongtn
Thành viên
*
Bài viết: 107

Yêu vợ


« Trả lời #326 vào lúc: 20 Tháng Bảy, 2011, 07:14:55 pm »

Chuyện có 1 không 2 nè các bác: đánh CS giao thông ngay giữa đường  Shocked Shocked Shocked Shocked Shocked Shocked Shocked Shocked Shocked

<a href="http://www.youtube.com/watch?v=gE7OaApo8Ns" target="_blank">http://www.youtube.com/watch?v=gE7OaApo8Ns</a>

Dân mạng chửi quá chừng 3 mẹ con gây rối...không biết điên hay ...ô dù  Huh Huh Huh

 Theo thông tin vỉa hè thì cô em này đã chính thức bị truy tố trách nhiệm hình sự vì tội CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ. Thế là hết thi thố nhá cánh cổng đai học đã đóng các bác nhỉ
Logged

Ai có thông tin phần mộ liệt sĩ Nguyễn Văn Việt xin liên hệ sđt: 01629041743 gia đình xin cảm ơn!
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #327 vào lúc: 20 Tháng Bảy, 2011, 09:22:50 pm »

http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-07-20-cong-ham-1958-voi-chu-quyen-hoang-sa-va-truong-sa-cua-viet-nam

Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
Tác giả: Báo Đại Đoàn Kết

Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:

"Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng".

Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan.

Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia.

Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra.

Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược "lấn sân" của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.


Ngày 26/5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất.

Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng" Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ.

Ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này.

Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.

Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách" đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH -Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em". Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH - Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa" của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép" thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố.

Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.

Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên.

Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.

Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.

Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu.

Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực.

Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế.

Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #328 vào lúc: 20 Tháng Bảy, 2011, 09:22:59 pm »


Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.


Bức Công hàm ngày 14-9-1958 của Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký

Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do.

Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel" để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.

Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel". Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại "estoppel" phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại "estoppel" cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine", bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua", bản án "Ngôi đền Preah Vihear"...

Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.

Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn" Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình".
Logged
votmuoi
Thành viên
*
Bài viết: 221


« Trả lời #329 vào lúc: 20 Tháng Bảy, 2011, 10:26:59 pm »

HI hi ! hay quá ! chờ mãi cũng có lúc có người nói rõ ràng ra  !
Chúng ta hiểu rằng , nhân dân chúng ta hiểu rất rõ chủ quyền của đất nước chúng ta , không kể có cái công hàm nào đó cho dù được công bố hay đến tận hôm nay trong mấy trăm các loại báo in báo mạng tạp chí v.v không ai đăng tin cho rõ ràng để dân ta và thế giới hiểu ? (có bác nào cho em biết cho đến bây giờ đã có mẩu tin nào cho dân mình biết về vụ việc này trong ngần ấy năm không ?)
 Có ai hỏi là tại sao? sợ cái nỗi gì ? mà để cho bè lũ cầm quyền bành trướng Băc Kinh lấy ra làm chứng cớ vu vơ , làm thế giới hiểu mù mờ nhỉ?
 Bằng chứng mù mờ ấy có lợi cho ai ? Chắc chắn rằng không có lợi cho dân tộc Việt Nam , tổ quốc Việt Nam !
 Hic! Măc dù nội dung công hàm rất rõ ràng không ảnh hưởng chút nào đến chủ quyền biển đảo chính danh và theo luật thông lệ thế giới loài người mặc định hoàng sa Trường sa là của Việt Nam ta . (có bác nào cần thảo luận về điều này không nhỉ ? Đương nhiên lúc đó trong hoàn cảnh lịch sử Hoàng sa và Trường sa thuộc VNCH quản lý và có đại diện trong liên hợp quốc)
 Hu hu ! Thiếu trong sáng và minh bạch nên những việc làm đúng đắn cũng sợ hãi , hay không đủ trình để hiểu thế nào là sự thông lệ của nhân loại (loài người ) hay sao? Đừng bao giờ đặt cái gì lớn hơn chủ quyền quốc gia , dân tộc ,  nó tất yếu chỉ dẫn đến thảm họa mà thôi !
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM