Lịch sử Quân sự Việt Nam

Văn hoá - Thể thao - Giao lưu => Văn công => Tác giả chủ đề:: Trinhsat trong 26 Tháng Tám, 2008, 08:51:06 pm



Tiêu đề: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 26 Tháng Tám, 2008, 08:51:06 pm
Ấm   chè   “thái giám"   
     

Tháng tư, đã chớm bước vào hè. Trời nắng không gắt, lại có gió man mác nên lòng người cũng thư thái,  dễ hoà vào với thiên nhiên. Chiều nay có buổi thực tập nghề, được về sớm nên có nhiều thời gian. Mặc kệ cho lũ bạn cùng lớp ào ào lấy xe  kéo đến nhà nhau, tôi tách ra rồi lững thững đạp xe chầm chậm men theo hè về nhà.
      Qua đường Đại Cồ Việt, tôi chợt nghe một tiếng gọi giật tên tôi rất to:
      - Tiến!
      Rồi một người mặc áo lính từ sát phía trong hè bước nhanh ra với tay gần như nắm vào ghi đông xe đạp của tôi, vừa lúc tôi dừng lại.
      Tôi nhìn và nhận ngay ra hắn:
      - A! Hà! Thằng Hà “thái giám”.
      Hà cười. Chúng tôi gần như ôm lấy nhau. Cả hai tíu tít hỏi chuyện nhau.
      - Về nhà tớ đã, rồi chúng mình hàn huyên. Dễ đến ba năm rồi còn gì. - Hà bảo.
      Thế là tôi theo Hà về nhà nó ở xóm Vân Hồ. Dọc đường nó nói đủ thứ chuyện linh tinh, nhưng tôi chẳng nghe được gì. Tôi  đang nhớ lại ba năm  về trước.

      Dạo đó Hà và tôi cùng trang lứa, cùng là lính C6-Sư 320A. Vào chiến dịch Tây nguyên xuân 1975 thì tôi là trung trưởng, còn Hà là tiểu đội trưởng  trong cùng trung đội với tôi. Trong khi các Sư bạn chuẩn bị đánh Buôn Mê Thuột, thì Sư  chúng tôi nhận nhiệm vụ cắt đường 14 đánh tiêu hao sinh lực địch, và đánh quân cứu viện.
      Ngày 5 tháng 3, trung đoàn chúng tôi triển khai phục kích trên đường 14 ở khu vực Cẩm ga, cách Buôn Mê Thuột ngót 100km về phía bắc. Đại đội tôi nằm ở phía nam đội hình mai phục. Đến chiều 7/3 thì có tin trung đoàn 45 nguỵ thuộc Sư 23 đang hành quân từ Pleiku về tăng viện cho Buôn Mê Thuột. Chúng tôi được lệnh chặn đánh, đại đội tôi đánh chặn đầu. Khoảng 5 giờ chiều, chiếc GMC đầu tiên của địch đã đi lọt qua hết chiều dài 1km của đội hình phục kích. Cả hai khẩu DKZ của trung đoàn cùng đồng loạt nổ súng, bắn cháy ngay chiếc xe đi đầu. Đội hình hành quân của địch chững ngay lại. Lập tức các loại hoả lực trên toàn tuyến cùng nã xối xả vào đội hình địch, bắn cháy thêm một số xe khác. Vì khu vực phục kích là sườn dốc, có một phần cây lúp súp và đồi tranh, nên cánh bộ binh phải đào hầm phục kích cách xa mép đường tới hai ba trăm mét để giữ bí mật. Trong lúc hoả lực mạnh của trung đoàn bắn phá đội hình địch thì bộ binh chúng tôi vận động ra mép đường, tiếp cận để tiêu diệt địch bằng hoả lực và xung lực của bản thân. Nhưng trong lúc đó thì bọn địch còn sống đã kịp nhảy khỏi xe và triển khai hoả lực chống trả mãnh liệt. Chúng nã cối 81, DKZ và rốc két M72 ầm ầm về phía ta, mặc dù đang ở thế thấp bất lợi. Cả trận địa ầm vang tiếng súng, khói lửa mù mịt. Trong lúc xung phong, tiểu đội của Hà vẫn chạy chếch sau  bên trái tôi. Lúc gần tới  mép đường thì một qủa đạn cối rơi trúng tiểu đội Hà. Tôi ngã sấp xuống trong hơi tạt của quả đạn nổ, song vẫn kịp ngoái lại. Doanh, chiến sĩ giữ M79 trong tiểu đội Hà đã hy sinh ngay, còn Hà đang giãy dụa, mồm há ngáp ra vì đau. Tôi nhoài lại sờ thấy Hà bị thương ngay nơi  hạ bộ, máu ra ướt đẫm quần. Tôi xé chiếc băng cá nhân buộc chặt lại cho Hà như kiểu đóng khố, rồi dẫn trung đội đánh tiếp xuống đường. Cùng với các trung đội bạn, chúng tôi yểm hộ cho nhau và quần nhau với bọn tàn quân địch, dồn chúng xuống khe cạn bên kia đường để tiêu diệt. Chúng tôi hầu như không bắt tù binh. Tới khi chúng tôi làm chủ trận địa thì trời đã tối mịt. Một tiểu đoàn của trung đoàn 45 nguỵ bị tiêu diệt . Hai tiểu đoàn còn lại rút ngược trở lại Pleiku. Bọn địch ở xa căn cứ, lại không nắm vững tình hình nên không đám gọi pháo bắn trả. Chúng tôi rút quân trở về đến khu tập kết thì đã nửa đêm.
      Ngay đêm đó, chúng tôi chôn cất xong tử sĩ, còn số thương binh thì đã được đơn vị dự bị chuyển về phẫu phía sau.
      Các ngày tiếp sau, cùng với Buôn Mê Thuột được giải phóng, chúng tôi đánh tiếp các cứ điểm Kênh Săn và Tam giác trên đường 14.
      Rồi chúng tôi đi suốt chiến dịch Tây nguyên, tham gia tiếp chiến dịch Hồ Chí Minh. Sáng 30/4 chúng tôi đánh trận cuối cùng ở sân bay Tân Sơn Nhất. Miền Nam giải phóng, trung đoàn chúng tôi được đóng quân 4 tháng trời ở căn cứ cũ Đồng Dù của địch, trước khi phải trở lại địa bàn rừng núi Tây Nguyên quen thuộc.
Một chiều tháng 6/1975, Hà từ Quân y viện về thăm đơn vị cũ trước khi giải ngũ ra Bắc. Bây giờ cậu ta đã là thương binh. Trông cậu ta có vẻ béo tốt, khoẻ mạnh. Tứ chi lành lặn, nhưng mảnh cối tai ác đã chém phăng đi của Hà  nguyên cả cái bộ phận, mà phải có nó, người ta mới được gọi là đàn ông. Lính tráng chúng tôi chả kiêng dè gì, đè nó ra xem rồi ai đó đặt luôn cho nó cái tên Hà “thái giám”. Hà ở thăm đơn vị mấy ngày rồi ra Bắc.
      Hai năm sau, tôi cũng giải ngũ, về đi học. Thế rồi hôm nay gặp lại Hà, thấm thoắt đã ba năm.

      Gian nhà của Hà nằm trong xóm lao động. Đồ đạc đơn sơ như của đại đa số các gia đình khác. Tôi hơi ngạc nhiên khi đã mấy năm rồi mà nó vẫn còn giữ được nguyên trang phục lính, đủ cả dép cao su đúc và mũ cối.
      Tôi hỏi:
      - Thế mấy năm nay cậu làm gì?
      - Đi buôn.- Hà đáp và nhìn xoáy vào bộ mặt ngơ ngác của tôi.
      - Cậu đùa đấy à. Cậu thì biết quái gì mà đi buôn.
      - Thật chứ lại. Nhưng buôn nhỏ thôi. Chờ pha ấm chè rồi tớ kể chuyện này   cho mà nghe.
      Khi Hà đặt ấm chè lên bàn, tôi lại ngạc nhiên:
      - Cậu sang nhỉ. Moi đâu ra chè móc câu tuyệt vời thế này.
      Hà cười:
      - Có chuyện, nên  mới có chè mà uống. Chứ thật ra lâu nay cả thiên hạ chỉ có chè bồm và chè gói toàn cẵng thôi, đúng không? Nói chứ tớ cũng thèm chè búp như hồi bọn mình còn đang đánh nhau trong Bàu Cạn B3 lắm, nhưng bây giờ đó là của quý. Tớ cũng chỉ có đôi ba ấm thôi, hôm nay là đãi cả cậu và tớ đấy.
      Thế là vừa uống trà, Hà vừa kể cho tôi nghe chuyện về ấm chè này.
     
     Từ  ngày ra quân, Hà cũng làm đủ thứ việc để sống, phụ thêm vào số tiền trợ cấp thương binh bậc 2 ít ỏi hàng tháng. Một trong những việc đó là thỉnh thong nó ngược lên Thái Nguyên buôn về mỗi chuyến một hai cân chè  hoặc vaì cân măng.
      Cách đây ít ngày, Hà lên Thái Nguyên và khi về, nó mang trong chiếc ba lô 2kg chè móc câu. Hơi nhiều hơn mọi khi, và có lẽ đó là điều không may. Khi chiếc xe ca Ba Đình tậm tạch chạy về đến cầu Phủ Lỗ thì trời đã cuối chiều. Xe vừa qua cầu thì có ba người của phòng thuế xuất hiện bên đường. Hai nam và một nữ. Họ ra hiệu cho xe dừng lại, rồi một người nam trèo lên xe. Anh ta đưa mắt nhìn một lượt từ đầu đến cuối xe rồi lớn giọng:
      - Ai có hàng hoá buôn bán gì khai mau và đem ra cho cơ quan thuế kiểm tra.
      Chừng như đã quen với cảnh này nên từ bác tài xế đến mọi hành khách chẳng ai có phản ứng gì trước cái lối nói xóc óc đầy quyền uy của nhà chức trách. Bác tài còn đế thêm:
      - Thôi, bà con ai có hàng buôn gì thì báo luôn cho nhanh để xe còn kịp về Hà Nội sớm.
      Mọi người nhìn nhau, rồi có hai người đứng lên đi ra ngoài cửa xe. Tự giác cho nhanh chứ giá có giấu cũng chẳng ăn thua gì. Người thứ nhất là một  bà đi buôn măng chừng ngoài năm mươi tuổi. Hàng hoá đến gần chục cân măng. Lập tức đôi thúng và quang gánh của bà ta bị lôi xuống đất. Bà  ta vừa  nhăn nhó, trình bày, van xin với anh phòng thuế đứng dưới đất, vừa chậm rãi dềnh dàng mở cái túi vải đựng măng. Còn người có hàng hoá thứ hai là thằng Hà "thái giám". Nó vừa ôm khư khư cái ba lô dựng hai cân chè trước bụng, vừa cười mếu với anh phòng thuế thứ hai đứng ở cửa xe:
      - Dạ thưa anh, em là thương binh, chỉ có ít chè đem về xuôi biếu người nhà thôi ạ.
      - Biếu với biếc cái gì? Cả một ba lô chè to tướng thế này, không đi buôn thì là gì? Xuống xe ngay.- Người phòng thuế quát to rồi tóm được một bên quai ba lô của Hà kéo mạnh và nhảy xuỗng đất, rồi ra lệnh:
      - Mở ngay ra cho kiểm tra.
      Thằng Hà vẫn giữ chặt miệng ba lô, cố gắng nài nỉ:
      - Thưa anh, đúng là em đem làm quà thật mà.
      - Giở ra, không có xin xỏ gì cả. Đi buôn lậu định trốn thuế hả.
      Lời qua tiếng lại, hai bên giằng co một hồi. Cả  bác tài và hành khách có vẻ sốt ruột. Hà đành nói thật với người phòng thuế, mong cho xong chuyện:
      - Anh ơi, anh làmơn làm phúc tha cho  em. Em có buôn thật, nhưng chỉ có hai cân chè. Anh thông cảm cho em là thương binh, chưa tìm được việc làm gì.
      - À, mày lại còn định giả vờ là thương binh doạ tao à. Định chống lại nhà nước hả?- Người phòng thuế không những không nương tay cho Hà, mà còn lớn giọng, đoạn anh ta bất ngờ giật mạnh chiếc ba lô trên tay Hà.
      Chiếc ba lô bị văng mạnh xuống bãi cỏ, bật nắp, rách giấy báo làm chè văng ra tung toé. Nhìn những búp chè văng ra đất, Hà xót ruột, mắt hoa lên. Rồi bỗng nhiên mặt nó nóng bừng, không bình tĩnh được nữa. Nó đứng thẳng người lên nhìn vào mấy người phòng thuế, thét to:
      - Chúng mày mở to mắt mà nhìn đây này. Bố  mày đã từng đi chiến đấu. Bố mày đã hiến dâng cả bộ c... của bố mày cho Tổ quốc, mà bây giờ có hai cân chè cũng bị cướp à.
      Vừa hét, Hà vừa đưa tay cởi nhanh thắt lưng, tụt cả cái quần vứt xuống đất. Tình huống bất ngờ. Tất cả mọi người kể cả hành khách trên xe lẫn mấy người phòng thuế đều ngẩn người ra khi nhìn thâý người thanh niên mặc áo lính cóm róm lúc nãy, bây giờ đứng hiên ngang bên vệ đường nhưng tồng ngồng và ấn tượng hơn là ở ngay giữa chỗ kín của anh ta không có gì cả, ngoài một mảng đen nham nhở. Chưa ai kịp hiểu ra điều gì thì Hà đã cúi xuống rút ngay chiếc đòn gánh của bà buôn măng huơ lên trời theo hình vòng cung rồi nện một đòn trúng lưng một người phòng thuế. Đoạn nó giật lại rồi trở đầu đòn gánh kia lia một nhát vào ngay cẳng chân người phòng thuế thứ hai đúng lúc anh này co cẳng chực chạy. Còn người đàn bà phòng thuế thì tuy không bị phang gậy nào, song cũng ngã dúi ngã dụi xuống bãi cỏ vì quá luống cuống và sợ hãi.
      Cảnh tượng diễn ra thật bi hài.
       Sau mấy đường gậy tung hoành  như Lục Vân Tiên đánh cướp, bây giờ Hà đứng đó trên bãi cỏ, hiên ngang trong ánh nắng chiều xiên xiên. Còn hai người phòng thuế thì đang lạy như tế sao, van vỉ anh anh em em xin Hà nương tay. Người thương binh đang tồng ngồng trước mặt họ không chút ngượng ngập và chẳng còn gì để mất, chắc dám đổi mạng lắm.
    Hà vẫn còn tức, nó gào to trong hơi thở hổn hển như phân giải:
      - Bố mày không công thần, đã chẳng thèm đi trộm cướp, chỉ mong kiếm sống tử tế qua ngày, nay có hai cân chè, đã phải van nài chúng mày mà chúng mày còn không tha thì bố mày quyết tử cho chúng mày biết.
      - Dạ chúng em xin anh, anh tha cho tụi em. - Hai người phòng thuế vẫn rối rít lạy xin.
      Lúc này mọi người trên xe mới ùa cả xuống. Một số người đến khuyên giải Hà và giúp nó mặc lại chiếc quần. Còn số đông thì xúm lại nhặt số búp chè rơi trên đất cỏ giúp Hà. Bà con còn cẩn thận gói số chè bị dính chút đất để riêng. Bác tài cũng vui vẻ chờ bà con thu xếp và đưa Hà lên xe. Ba người phòng thuế nhân lúc mọi người xúm lại giúp Hà cũng nhanh chân rút gọn. Bà buôn măng cũng được hưởng lây, không mất đồng thuế nào, bày tỏ lòng cám ơn Hà rối rít. Chiếc xe ca lại chuyển bánh, kịp về Hà nội trước lúc trời tối.
      - Đấy là nguồn gốc ấm chè mời cậu đấy. Tớ đã đãi sạch lại số chè dính đất, được mấy ấm để uống. - Hà kết thúc câu chuyện.
      Tôi xoay chén trà nóng trên tay, ngắm nhìn làn hơi nóng đang lung linh trên mặt nước chè. Nhấp ngụm chè vào miệng, tôi thấy bên trong hương chè thơm chát  như có lẫn chút vị hăng của cỏ, và có một vị gì đấy như là mồ hôi,  không phải của đàn ông, cũng chẳng phải đàn bà. Tôi nghĩ đó là vị chè “thái giám”.

      Nhiều năm trôi qua, tôi không gặp lại Hà. Sau lần được Hà mời về nhà uống chè ít lâu, cậu ta chuyển vào Nam, lại trở lên Tây nguyên thì phải. Trong một lần đi công tác Thái Nguyên, tôi dừng chân bên cầu Phủ lỗ. Cạnh bãi cỏ năm xưa nơi xảy ra trận xung đột của người thương binh “thái giám” để giữ gìn miếng cơm manh áo, người ta đã xây một trạm xăng, nhưng bãi cỏ thì vẫn còn. Tôi đứng nhìn  mà tưởng như bên dưới gốc những cây cỏ kia đâu đó vẫn còn vương vãi những búp chè. Chúng vẫn còn mang đủ vị của chè, của cỏ và cả hơi ấm của một người từng là đàn ông, đã hiến dâng phần quan trọng nhất trong cơ thể mình cho cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.


Hà Nội, tháng 4 năm 2002
Vũ Công Chiến





Tiêu đề: Thương nhớ miền Trung
Gửi bởi: Trinhsat trong 28 Tháng Tám, 2008, 09:00:44 am
Thương nhớ miền Trung

      “Đã bao lâu rồi không về miền Trung thăm người em? Nắng mưa đêm ngày cách trở đường xa núi đồi, người ơi ...”. Lời một bài hát xa xưa của một nữ ca sĩ Sài gòn, đôi lúc cứ  vang lên trong tôi, trầm lắng trong một nơi sâu thẳm nào đó của cõi lòng.
     
Tôi đi công tác lâu ngày mới trở lại cơ quan. Có thêm vài nhân viên mới vào công tác. Lúc đi lên cầu thang, một cô gái chạy vụt qua ngược chiều, chợt dừng lại và nghiêng đầu chào tôi. Tôi chợt ngỡ ngàng khi nhìn thấy một đôi mắt mở to trên gương mặt tròn, và nhất là một giọng nói miền Trung nhè nhẹ thoảng qua. Đứng lặng người nhìn theo đôi bím tóc dày líc lắc trên đôi vai tròn theo nhịp chạy của cô gái, thì tự nhiên cái lời bài hát trên bỗng lại vang lên da diết, đưa tôi trôi về một miền quê vùng núi rừng Hà Tĩnh, và câu chuyện năm xưa lại hiện ra như mới hôm nào ...
     
*
    *  *
     

Ngày ấy, vừa học xong phổ thông thì tôi vào bộ đội, như bao bạn bè cùng lứa. Tôi được phiên chế vào một đơn vị bộ đội chủ lực miền Trung. Thế là bắt đầu cuộc đời cầm súng. Nhiều năm, đơn vị chúng tôi cứ qua lại giữa miền Trung và đất bạn Lào, giúp bộ đội Pathet đánh bọn Vàng-pao và quân phái hữu, nên từ một lúc nào đó, chúng tôi trở thành bộ đội tình nguyện Việt - Lào. Tiểu đội trưởng của tôi người Nam Định. Anh có cái tên nghe cứ như đang xung trận: Dương Phi Phóng. Anh Phóng nhập ngũ trước tôi 3 năm, nhưng hơn tôi những sáu tuổi. Trong tiểu đội, mọi người đều coi anh như người anh cả. Anh to khoẻ, vui tính và cực kỳ dũng cảm. Dù đã là tiểu đội trưởng, nhưng anh luôn có một câu nói vui cửa miệng khi tự giới thiệu: “Hạ sĩ Dương Phi Phóng, tổ trưởng tổ tam tam, thế thủ cây trung liên, đi khắp đất Nam Lào”. Trong chiến đấu cũng như công tác, anh tận tình chỉ bảo và giúp đỡ chúng tôi ân cần. Nhưng khi chúng tôi có lỗi, anh cũng hay mắng thẳng thừng, bảo chúng tôi là “cứ ngơ ngơ như bò cái Nam định”. Nghe nhiều đâm quen, nhưng lúc thảnh thơi vui vẻ, chúng tôi bảo anh:
     
-Người ta nói là “ngơ ngơ như bò đội nón” chứ cái con bò quê anh, nhất lại là bò cái thì có liên quan quái gì ở đây.
     
 Anh cười bảo, ngày trước anh chuyên đi chăn bò, thấy con bò cái ở quê anh nó như thế thì nói vậy, chứ có biết rõ được con bò nơi khác nó ra sao đâu.
     
Mùa mưa vốn không phải là mùa chiến dịch, không ủng hộ lính chiến trường. Nhưng nhiều khi do tình hình chiến cuộc, chúng tôi vẫn phải đánh nhau vào mùa mưa. Năm đó, trung đoàn chúng tôi đánh căn cứ Đồng-Hến ở vùng Nam Trung Lào. Do trinh sát nắm địch không tốt, vây ép đến 5 ngày mà không chiếm được cứ điểm, lại thêm bọn phỉ Vàng-Pao đánh chặn vùng cứ sau lưng, trung đoàn bị tổn thất, nên chúng tôi được lệnh rút thẳng về Việt Nam, vượt qua biên giới với hơn năm chục cây số đường rừng. Cũng vì rút theo từng đơn vị nhỏ, nên ngót một tuần chúng tôi mới tập kết được về một vùng đồi thuộc Kỳ Anh, Hà Tĩnh.
     
Nơi này không đông dân, lại sát vùng rừng nên không bị tàn phá nhiều trong chiến tranh phá hoại của Mỹ. Đơn vị chúng tôi được dừng chân nơi đây để củng cố, luyện tập và bổ xung thêm quân để rồi lại tiếp tục vào chiến trường. Thế là chúng tôi  tạm thời được quên đi sự ác liệt, hy sinh, để được sống trong lòng hậu phương, chăm lo luyện tập. Tiểu đội tôi  trú quân trong vườn đồi của một nhà dân. Nhà neo người, chỉ có bà mẹ và hai người con. Cô con gái đã lớn chừng 17, 18 tuổi, gọi là o Huệ, còn cậu em mới độ 8 tuổi tên là Hiếu. O Huệ tham gia dân quân, nên vắng nhà luôn. Đám lính chúng tôi cũng lo học tập, huấn luyện, nên thường chỉ lúc sẩm tối mới loáng thoáng nhìn thấy o Huệ. Là con nhà lao động, lại vào tuổi thiếu nữ, nên trông o rắn rỏi lắm. Tuy đóng quân gần nhà dân, nhưng do có chính sách dân vận rất nghiêm khắc, nên hầu như chúng tôi cũng chẳng được đi đến đâu. Chúng tôi là lính bộ binh, còn các o dân quân luyện tập bắn máy bay, nên giữa hai bên cũng ít có dịp tiếp xúc gặp gỡ chuyện trò.
     
Trong những lúc giải lao ngoài thao trường, hay lúc rảnh rỗi giữa giờ sinh hoạt, tiểu đội trưởng Phóng lại là trung tâm tình cảm của tiểu đội. Anh biết nhiều chuyện, lại hiểu biết rộng, nên hầu như lúc nào rỗi, chúng tôi lại muốn quấn lấy anh. Anh cũng hay nói chuyện triết lý cuộc sống rút ra từ bản thân, nhiều khi làm bọn lính “mầm non” như tôi cứ há hốc mồm, ớ người ra mà nghe. Chủ đề tình yêu hay được anh nói đến. Anh bảo khi nào biết yêu, thì dấu hiệu của nó là “mỗi khi nhắc đến người mình yêu, thì ngay lập tức trái tim sẽ đập tăng lên được một nhịp”. Tôi chưa yêu bao giờ, không có điều kiện để kiểm nghiệm, nên tin sái cổ điều anh nói. Mấy thằng khác trong tiểu đội cũng không hơn gì tôi, nên im như thóc. Dần dần, chúng tôi biết anh Phóng có để mắt đến o Huệ, nhưng anh sẽ chinh phục o như thế nào thì chịu. Vả lại chúng tôi luôn tuân phục anh, quý mến anh, nên sẽ ủng hộ anh. Chả đứa nào dám có ý nghĩ sẽ theo dõi chuyện riêng của anh. Chúng tôi chỉ biết rằng lúc chiều hoàng hôn, trước hoặc sau bữa cơm chiều, anh hay hướng ánh mắt về phía nhà o Huệ, dù miệng anh vẫn đang nói một chuyện gì đó với chúng tôi. Nhất là những hôm mưa được phép tập ngắm bia ruồi trong lán, anh hay bố trí hướng ngắm bia chếch chéo về phía nhà o Huệ, và thời gian tập buổi chiều thường bị kéo quá giờ. Những hôm như thế, cu Hiếu được phép vào lán chúng tôi chơi lúc giải lao. Cả tiểu đội đều quý cu Hiếu, nhưng hơn cả  vẫn là anh Phóng. Anh hay ôm nó vào lòng, tỉ tê đủ chuyện. Đôi khi cu Hiếu còn được anh cho thanh lương khô dành từ suất ăn dã ngoại, hay vài viên Polivitamin anh xin được trên trạm xá Trung đoàn. Anh hỏi nó nhiều chuyện về o Huệ. Cu Hiếu còn bé cứ sao nói vậy nên đôi lúc cũng tức cười. Thế rồi có một lần dại dột anh xui nó:
     
- Hôm nào chị cháu đi tập về thay quần áo, cháu đo thử xem cái của chị cháu dài bao nhiêu?
     
- Đo thế nào được hả chú? Chị cháu không cho đâu.- Cu Hiếu đáp.
     
- Thì cháu phải đo trộm chứ! Nấp kín trong buồng ấy.-Anh Phóng gà nó.
     
- Nhưng đo bằng gì hả chú?- cu Hiếu lại hỏi.
     
- Thì đo bằng một mẩu dây, hay cọng rơm chẳng hạn.
     
Cu Hiếu ngồi im không nói gì. Rồi nó ra về.
     
Cả tiểu đội được một phen cười nghiêng ngả. Sau đó chúng tôi nghĩ đó chỉ là chuyện đùa cu Hiếu, nên ai đấy đều quên bẵng đi.

(Còn tiếp)


Tiêu đề: Thương nhớ miền Trung
Gửi bởi: Trinhsat trong 29 Tháng Tám, 2008, 05:46:21 pm
      Ngày ngày trôi qua, thời tiết đẹp, và chúng tôi đều đặn ra thao trường. Chúng tôi ít có dịp tập ban ngày trong lán để ngó nghiêng phía nhà o Huệ, và vẫn chỉ được nhìn thấy o vào lúc hoàng hôn mà thôi. Tôi cũng chưa hiểu là anh Phóng đã gặp nói chuyện được với o Huệ lần nào hay chưa.
      Rồi đến một ngày chúng tôi học chính trị, buổi chiều được thảo luận ở nhà.   Chiều đó cu Hiếu đi bắt chuồn chuồn lượn ngang qua lán chúng tôi mấy lần, nhưng không ghé vào. Sau này nhớ lại, chứ lúc ấy chúng tôi cũng không để ý lắm. Té ra cu cậu vẫn nhớ câu chuyện dạo trước. Cậu ta chờ dịp chúng tôi có nhà để thể hiện, và điều trớ trêu là hôm đó o Huệ lại về sớm hơn mọi ngày.
Khi buổi thảo luận học chính trị ở tổ sắp kết thúc, chúng tôi bỗng nghe thấy tiếng kêu rất to từ nhà o Huệ:
      - Đo được rồi, chú Phóng ơi! Cháu đo được rồi.
       Và liền sau đó nhìn thấy cu Hiếu mặc độc chiếc quần đùi, chân đất từ trong nhà lao ra, thẳng về lán chúng tôi, tay huơ huơ một cọng rơm.
       Cũng từ phía nhà o Huệ bật lên tiếng khóc nghẹn ngào, tức tưởi, rồi thấy bóng o Huệ chân đất chạy ra khỏi nhà lao về trong xóm. Tôi còn kịp nhận thấy bóng đôi vai tròn của o Huệ trong chiếc áo nâu non, và bóng đôi bàn chân trắng của o loang loáng trên nền đất.
      Cả tiểu đội tôi ngây người, không ai kịp phản ứng gì. Cả anh Phóng nữa, anh cũng chẳng còn tâm trí đâu mà nhìn vào cái mẩu rơm còn giữ nguyên ngấn tay mà cu Hiếu đang cầm khi nó lao vào lòng anh, định khoe chiến công.
      Rồi anh Phóng đi vào xóm, không quên dặn chúng tôi trông nom thằng Hiếu. Chúng tôi không ai dám nói gì, chỉ nhìn cu Hiếu, không giận mà chỉ thương nó, trách mình. Tất cả mọi sự dại dột là của đám lính, tuy người lớn, nhưng vẫn thật là trẻ con.
      Tối hôm ấy,  cả  đơn vị biết chuyện, thông qua cuộc họp giao ban. Chính trị viên đại đội  đã trực tiếp đưa anh Phóng đến nhà o Huệ để xin lỗi o và gia đình, kết hợp đưa cu Hiếu về cùng để tránh cho nó một trận đòn. Lúc chiều chúng tôi đã phải giữ cu Hiếu lại cùng ăn cơm chiều.
      Mọi chuyện không dừng lại ở đó. Trong một buổi họp chi bộ tiếp sau, anh Phóng đã bị khai trừ ra khỏi Đảng. Cả tiểu đội sững sờ.
      Rồi cũng vì mới 25 tuổi đời, vẫn còn tuổi đoàn viên, nên một lần nữa, trong buổi họp chi đoàn, anh Phóng lại suýt bị khai trừ tiếp ra khỏi Đoàn. Tiểu đội tôi đã phát biểu gần như khóc để xin cho anh. Tội của anh nếu cứ phân tích mãi về chính sách dân vận, chính sách hậu phương, tình quân dân, rồi đạo đức cách mạng của anh bộ đội cụ Hồ ... thì có nói mãi cả tháng cũng chưa hết. Nhưng tiểu đội tôi, đám lính “mầm non” chúng tôi cần có anh để dẫn dắt. Hãy giao nhiệm vụ nào nguy hiểm nhất cho chúng tôi, cho chúng tôi được hy sinh để chuộc tội này cho anh, và cho cả chúng tôi.
     Chuyện trong đơn vị rồi cũng được thông báo cho chi đoàn địa phương. Và nhờ có tiếng nói mang đậm sự chân tình và độ lượng của chi đoàn dân quân, cả tiểu đội tôi mới  giữ được tất cả đều  còn là đoàn viên.
      Anh Phóng trầm ngâm mất mấy ngày. Anh bảo không bận tâm nhiều lắm về chuyện kỷ luật, được mất trong đời người lính là bình thường. Nhưng điều anh day dứt chính là mối quan hệ tình cảm với o Huệ. Anh cần phải gặp trực tiếp,  giãi bày để giữ gìn danh dự cho o, để o tha thứ và thông cảm cho anh.
      Một tối thứ bảy, anh Phóng sang nhà o Huệ. Gặp o, anh vò đầu bứt tai  giãi bày. Rằng anh  quý mến o, anh không hề có ý định gì xấu xa, bậy bạ. Chuyện  xảy ra thật đáng tiếc, như là có ma xui quỷ khiến thế nào đó, chứ thực ra anh không phải vậy v.v... và v.v... Nói tóm lại là anh rất trân trọng o, muốn o thứ lỗi. Còn o muốn trừng phạt anh thế nào cũng được. Anh sẽ làm mọi việc để chuộc lỗi với o. O Huệ còn giận lắm, chẳng nghe và cũng không thèm nói gì với anh Phóng.
      Sau đó, tiểu đội trưởng Phóng còn tiếp tục tìm gặp  o Huệ nhiều lần. Mỗi lần anh đi, là một lần chúng tôi nín thở chờ đợi. May mà o Huệ có lòng vị tha, và có lẽ cái sự chân thành, kiên nhẫn đến tội nghiệp ở anh đã làm o mủi lòng. Rồi dần dà o cũng tha thứ cho anh, và đã nói chuyện với anh.
      Hết mưa là nắng hửng. Tình hình được cải thiện dần, chỉ còn việc anh Phóng bị kỷ luật Đảng thì không thay đổi được.
    O Huệ trở thành gần gũi với chúng tôi. Cả cu Hiếu nữa, nhưng không bao giờ chúng tôi còn dám xui gì nó, hay nhắc lại chuyện cũ nữa. Riêng tôi coi anh Phóng như anh cả, nên tôi cũng coi o Huệ như người chị dâu của mình vậy.
        *
      *  *
      Cuối mùa khô năm 1971, quân nguỵ Sài gòn mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 theo đường số 9 đánh sang Nam Lào, nhằm hướng Sepon. Các đơn vị chủ lực của ta có xe tăng phối hợp  đã cấp tốc hành quân, chặn đánh. Chiến trường sôi động. Trung đoàn chúng tôi cũng được lệnh hành quân gấp vào chiến trường. Chỉ có 2 ngày chuẩn bị, và xe ô-tô chở chúng tôi đổ thẳng vào Quảng Bình.
      Trong khung cảnh tấp nập khẩn trương ấy, dù phải giữ bí mật, song anh Phóng vẫn kịp chia tay o Huệ, kịp hẹn hò một điều gì đó.
      Chiến dịch Đường 9-Nam Lào, chúng tôi làm thê đội 2 cho Sư đoàn 3 Sao vàng. Sau 2 tháng chiến dịch, quân ta đại thắng, bẻ gãy  cuộc hành quân của các đơn vị quân nguỵ Sài Gòn, tiêu diệt một lữ đoàn dù do đại tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy, bắt sống đại tá Thọ. Sư 3 rút về nước, còn Trung đoàn chúng tôi vượt qua tỉnh Khăm-muộn, Sà-vằn-nà-khẹt vào phối hợp với sư 2 Quảng Đà đánh tỉnh Sa-ra-van của Lào. Ba tháng sau, Sa-ra-van giải phóng, chúng tôi dồn địch vào cao nguyên Bô-lô-ven và vây đánh thị trấn Pắc-soòng. Tiểu đội chúng tôi luôn được giao nhiệm vụ mở cửa và đánh lô cốt đầu cầu. Anh Phóng luôn xông xáo và đi đầu. Chúng tôi lại nhìn thấy ở anh một người chỉ huy dũng  cảm và bản lĩnh. Dù lúc nằm bắn hay khi xung phong, khẩu AK trong tay anh luôn đĩnh đạc điểm xạ 2 phát một, chính xác và dứt khoát. Thấy tôi hay có cái kiểu đứng dé chân chèo quét AK theo một đường vòng cung dọc theo chiến hào ở khu vực đầu cầu, anh bảo: “Bắn như thế chỉ đẹp dáng thôi chứ kém hiệu quả, lãng phí đạn”. Tôi cũng biết vậy, nhưng học được như anh cũng không phải dễ. Nói chung, tôi đã quen có anh bên cạnh trong các trận đánh, và hoàn toàn vững tin khi được ra trận cùng anh.

(Còn tiếp...)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: liua trong 30 Tháng Tám, 2008, 10:35:14 pm
Hay.Tiếp đi bác Trinh sát.


Tiêu đề: Thương nhớ miền Trung
Gửi bởi: Trinhsat trong 31 Tháng Tám, 2008, 09:58:11 am
     Đầu mùa mưa năm 1972, chúng tôi giải phóng được gần 30 cây số dọc đường 23, dồn địch vào ngã ba Lào-ngam. Tiểu đội tôi bị hy sinh 3 người, còn lại 4. Mưa trên cao nguyên thật khủng khiếp. Có khi cả tuần không có một tia nắng. Nước suối dâng cao, đường lầy trơn nhoe nhoét, không khí ẩm thấp nặng nề, và quần áo không lúc nào khô. Việc đi lại vận chuyển khó khăn, khẩu phần ăn suy giảm. Cả ta và địch đều cắm chốt, giảm hẳn hành quân tác chiến. Tiểu đoàn chúng tôi được rút về phía sau làm nhiệm vụ cùi cõng lương thực, và củng cố chờ mùa khô.
      Có thời gian, chúng tôi lại nói chuyện gẫu, chuyện quê hương, gia đình và bè bạn. Rồi chuyện của anh Phóng lại quay về o Huệ. Anh bảo 2 người đã hẹn hò trai gái, đã yêu thương, và o Huệ đã tặng anh một chiếc khăn tay có thêu chữ H. Họ đã kịp hôn nhau một cái vào đêm chia tay. Tôi hỏi anh, thế lúc đó tim anh đập thêm mấy nhịp? Anh cười bảo, vì lúc đó nín thở nên hình như nó đập chậm lại, nhưng tiếng thình thụp thì lại to hơn. Rồi anh nhìn lên khoảng trời bé nhỏ, xa xăm  mơ màng. Những lúc như thế tôi cũng im lặng, nhìn lên bầu trời đen cố tìm một ngôi sao xa xăm. Tôi biết anh đang bay về với o Huệ trong một nếp nhà tranh ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh; còn tôi thì bay về cái lán nhỏ ven đồi gần nhà o Huệ. Tôi thấy o Huệ bước ra sân, lắc đầu hất mái tóc dài ra sau vai, và mở to đôi mắt trên khuôn mặt tròn. O cất tiếng gọi anh Phóng, giọng miền Trung mà sao nghe lại nhè nhẹ chứ không nặng. Rồi bóng thằng cu Hiếu chập choạng trong nắng chiều, tay huơ huơ cọng rơm...
     Khi đã bớt mơ màng, anh Phóng lại bắt chuyện. Anh bảo hết chiến tranh, anh sẽ về tìm o Huệ, sẽ cưới o làm vợ. Nếu như o Huệ không muốn về miền đồng chiêm trũng có những con bò cái ngơ ngác của quê anh, thì anh sẽ ở lại quê o. Anh sẽ là một người thợ cày giỏi. Vùng quê o ruộng ít đồi nhiều thì anh sẽ nuôi một đàn bò lấy giống từ quê anh. Anh sẽ vun đắp hạnh phúc cùng o. Rồi anh lại móc túi áo, lần giở trong túi ni-lon ra chiếc khăn tay có chữ H của o Huệ ngắm nhìn. Chiếc khăn đựợc anh cất trong túi áo trái, nơi gần trái tim, coi như một lá  bùa hộ mệnh. Anh nói nhiều và vẽ ra viễn cảnh hay đến mức nhiều lúc tôi đã mong rằng hết chiến tranh, tôi cũng về quê với anh. Tôi cũng sẽ học anh làm ruộng, sẽ dựng một nếp nhà sát cạnh nhà anh. Và tôi cũng sẽ tìm được một cô gái như o Huệ làm vợ. Điều quan trọng nhất là tôi được sống gần anh, được coi anh như anh cả. Cuộc đời chỉ cần như thế thôi, tuyệt vời biết bao.
      Cuối mùa mưa năm đó, tiểu đoàn chúng tôi ra quân bằng một trận đánh có xe tăng, tiêu diệt một tiểu đoàn lính Thái Lan tại ngã ba Lào-ngam. Những tưởng sau đó chúng tôi đánh tiếp vào Phù Chiêng để giải phóng cao nguyên Bô-lô-ven. Không ngờ 5 ngày sau, địch cho 2 trung đoàn đổ bộ ngược ra chiếm lại vùng Sa-ra-van đã giải phóng, uy hiếp sát ngay con đường vận chuyển nhánh Tây Trường Sơn thuộc tuyến đường 559. Thế là cả trung đoàn phải hành quân ngược trở lại ngót trăm cây số đánh địch. Sa-ra-van là bình nguyên, toàn rừng Khôộc và ụ mối, cây thưa thớt, tầm quan sát xa nên công tác trinh sát rất khó, giấu quân cũng khó. Chúng tôi toàn đào hầm và nằm  ngay trên mặt đất chứ không mắc võng được. Nhưng dù sao Sa-ra-van cũng đã là vùng giải phóng của ta, nên bọn địch nống ra đây thiếu hẳn sự yểm trợ của pháo lớn. Chúng tôi chỉ phải chống lại với hỏa lực của bản thân các đơn vị quân địch mà thôi.
      Sau hai tháng tác chiến, địch bị hao tổn nặng và một trung đoàn của chúng đã phải rút chạy khỏi Sa-ra-van. Trung đoàn còn lại là ZM 41 co cụm về  Tây Nam sông Sê-công. Ta và địch cách nhau một con sông rộng chỉ chừng hơn trăm mét. Vào mùa khô nên nước sông cạn, nhiều đoạn chỉ ngang thắt lưng. Để chuẩn bị cho trận tác chiến cuối cùng, trung đoàn quyết định cho từng đơn vị nhỏ vượt sông tạo thế cài răng lược để làm bàn đạp đưa  toàn bộ trung đoàn  qua sông vây đánh địch.
     Một đêm trăng mờ tháng 12 năm 1972, anh Phóng dẫn cả tiểu đội vượt sông sang đào hầm chốt, tạo một cái răng lược ở bờ Tây Nam. Mùa khô cây lá trơ trụi. Chỉ có một ít cây lúp súp và cây Khôộc thưa thớt trên một dẻo đất rộng vài chục mét sát bờ sông. Tiếp đó là nương lúa đã  gặt từ mùa mưa, nay chỉ  còn có gốc rạ khô. Hầu như không có vật che khuất và rất khó nguỵ trang. Chúng tôi chỉ còn cách rải những lá Khôộc khô lên nóc hầm. Hầm của tôi, Hinh và Sơn nằm sát mép cây lúp xúp, được che khuất ít nhiều, nhưng anh Phóng thì lại đào hầm dịch hẳn ra ngoài nương, chếch phía trái tôi. Tôi biết cách bố trí hầm của anh sẽ gây được bất ngờ và hiệu quả cho loạt nổ súng đầu tiên, song cũng bất lợi nếu trận chiến kéo dài. Anh Phóng cũng thừa biết nhưng cố tình làm vậy. Đã có lần trong một trận chốt, khi anh Phóng  nổ súng tiêu diệt tên địch đi đầu, thì nó đổ gục xuống  cách anh chỉ chưa đầy 1 mét. Cái tính  lỳ lợm của anh,  cả tiểu đoàn đều biết tiếng chứ chẳng riêng gì chúng tôi
      Suốt buổi sáng hôm đó, địch không nống ra, nhưng chúng tôi vẫn nghe thấy lao xao tiếng nói của chúng thoảng trong gió. Tháng 12 mà sao ở đây nắng nóng kinh khủng thế. Đến trưa, chúng tôi giở cơm ra ăn. Gói cơm nếp bọc bằng vải dù đã bị cái nắng rát làm khô cứng lớp vỏ, tôi phải cậy ruột ra rồi vừa nhai vừa tu nước mới nuốt nổi. Quần áo nóng như vừa lấy ra từ chảo rang. Mồ hôi chảy ra ướt đầm lưng áo, rồi  được gió thổi khô dần, rồi lại ra mồ hôi, lại gió thổi khô. Địa hình trống trải không cho phép chúng tôi bò sang hầm nhau. Mọi trao đổi chỉ là suỵt soạt và ra hiệu.

(Còn tiếp...)


Tiêu đề: Thương nhớ miền Trung
Gửi bởi: Trinhsat trong 02 Tháng Chín, 2008, 07:19:38 am
     
      Trời đã ngả sang giữa chiều. Trong cái nắng vẫn còn làm rung rinh lớp không khí sát mặt đất, bỗng nhiên có tiếng địch lao xao to hẳn lên. Từ phía góc bên kia của bờ nương, bọn địch bắt đầu xuất hiện. Chúng định tổ chức sục sạo thăm dò ra mé sông. Cả tiểu đội dán mặt sát đất, nín lặng quan sát. Những nòng súng nóng rát dưới nắng đã hướng về phía địch chờ đợi. Tốp địch đi đầu chừng sáu, bảy tên đã dò dẫm vào gần đúng hướng chúng tôi chốt. Chúng đi thưa và dàn thành 1 hàng chênh chếch. Lùi về phía sau cũng còn khoảng hơn chục tên nữa.
      Địch đã vào gần 15 mét.
      Rồi 10 mét.
      Tôi đã bắt đầu nghe rõ tiếng tim mình đập. Tên đi đầu cắp tiểu liên cực nhanh AR-15  chỉ còn cách hầm anh Phóng chừng 5 mét. Chúng chưa phát hiện ra chúng tôi, và anh Phóng vẫn chưa nổ súng. Ngón tay trỏ của tôi đã tì căng cò súng. Tôi không dám thở mạnh, cảm giác gần như đang nín thở và tôi không còn nghe tiếng tim mình đập nữa.
      Tên địch đã bước vào gần anh Phóng tới 3 mét. Đúng lúc tôi cảm thấy như nó đã phát hiện ra chúng tôi thì anh Phóng nổ súng. Tôi và Hinh cũng gần như đồng loạt xiết cò. Những loạt đạn AK nổ đanh bất ngờ, cùng phát đạn B40 của Sơn chớp lửa đã quật ngã cả toán địch đầu tiên. Bọn đi sau lập tức nằm bẹp xuống và tháo lui một đoạn. Chúng không kịp phát hiện ra vị trí hầm của chúng tôi, nhưng cũng xả đạn loạn xạ về phía chúng tôi. Còn chúng tôi sau khi đã bồi thêm vài loạt đạn nữa và 1 phát B40 vào bọn đi sau, chúng tôi cũng lập tức nằm im, dừng bắn.
      Địch lùi ra xa hẳn, chúng cũng không bắn nữa. Thời gian trôi qua chậm chạp, nặng nề. Rồi địch được tăng thêm quân, và chúng lại tiến về phía chúng tôi. Nhưng chúng chỉ dừng lại ở xa, nơi mà chúng tôi có bắn cũng không đạt hiệu quả. Rồi  trung liên Bar bắn đến như mưa, đạn bay ràn rạt. Chúng bắn cày xới thăm dò từng phần đất một. Mấy khẩu cối cá nhân M79 của địch cốc oành khắp lượt. Tiếng nổ đinh tai và khói súng khét lẹt. Tình thế bất lợi khiến chúng tôi phải thụt xuống hầm. Bọn địch vẫn chưa xác định chính xác cửa hầm của chúng tôi, chứ nếu không thì chúng sẽ bắn từng quả cối vào từng miệng hầm chúng tôi như thả đáo lỗ.
      Trời càng về chiều, nắng đã dịu. Bọn địch bắn chán không thấy gì, chúng lại tổ chức quân lò dò lên. Lần này chúng đi thưa, dò đẫm hết sức chậm chạp và thận trọng. Nhất định chúng sẽ lên đến chỗ xác đồng bọn để thăm dò. Càng đến gần, chúng càng bắn mạnh. Yếu tố bất ngờ không còn, và chúng tôi cũng chẳng còn lùi vào đâu được nữa. Khi mấy tên địch vào gần tới chỗ xác của tốp đầu, thì đột nhiên khẩu B40 của Sơn phát hoả. Thế là anh Phóng, tôi và Hinh cùng nhoài lên, ghì AK nã từng loạt đạn dài. Vài tên gục ngã. Những tên sống sót chạy bổ trở lại. Chúng tôi dừng bắn, bọn địch cũng lùi ra xa, không bắn trả.
      Nắng đã tắt, nhưng trời mùa khô còn sáng lắm. Không gian bỗng lặng im một cách đáng ngờ. Không lẽ địch chịu bỏ cuộc.
      Đúng là chúng không bỏ cuộc. Bây giờ, địch đã phát hiện rõ vị trí của chúng tôi. Nhưng chúng không nã M79. Chúng điều hẳn DKZ lên. Loại súng này mà bắn có khác gì pháo tăng. Nó bắn được từ xa tới 2 km, tầm xa mà súng AK hay B40 không thể nào với tới được, lại rất chính xác. Điều này về sau tôi mới biết. Lúc đó tôi chỉ còn nhớ rằng trong không gian yên tĩnh bỗng có ánh chớp loé lên, rồi tôi không còn biết gì nữa.
      Rồi tôi bỗng thấy mình như đang bồng bềnh trên mây. Chân tay như bị trói chặt. Tôi mở mắt, dần tỉnh lại. Địch đã rút. Màn đêm đã buông xuống từ bao giờ. Ánh trăng mờ hắt xuống bãi đất trơ trụi, xơ xác. Cảnh vật im lìm. Tôi cố nhoài người ra khỏi căn hầm sập. Đau ê ẩm. Tôi lần sờ khắp người, thấy mình không bị thương. Tôi dần nhớ lại sự việc. Trong đợt tấn công cuối cùng, địch đã không dùng bộ binh, mà chúng chỉ đặt DKZ từ xa nã vào. Tôi bị sức ép, bị đất hầm sập vùi ngay từ phát đạn đầu và đã ngất đi. Nhưng còn anh Phóng, còn Hinh, còn Sơn? Tôi bới đất moi khẩu AK của mình lên, rồi bò sang hầm anh Phóng. Căn hầm bị bật tung lên, nham nhở. Tôi bới tay vào miệng hầm, và bủn rủn hết cả người. Anh Phóng đã hy sinh bởi một phát đạn pháo chính xác của địch. Phần  trên đã bay mất, chỉ còn lại nửa người của anh từ thắt lưng trở xuống vùi trong đất. Chỗ bị nát, ruột gan và máu thịt nhầy nhụa, tanh nồng. Tôi bò tiếp sang hầm của Sơn, rồi của Hinh. Cả hai căn hầm đều bị trúng đạn, tung nát nhưng không sờ thấy xác. Thế là chỉ còn lại một mình. Tôi ngửa người nằm lại một lát. Mệt, đói và khát. Đơn vị chắc  đã biết chúng tôi mất chốt, nhưng không biết lúc nào mới có chi viện. Tôi doãi người nằm nghỉ một lúc lâu, rồi quyết định vượt sông trở về chỗ trú quân. Tôi quàng súng trước ngực rồi xốc anh Phóng lên vai cõng đi. Tôi không đành lòng để  anh nằm lại bên này sông.
      Đoạn sông ngay gần điểm chốt có sâu một chút, song vẫn lội qua được. Lúc lên bờ bên kia, nước sông trộn lẫn máu trong xác anh Phóng chảy ròng ròng ướt đẫm suốt từ cổ vai áo tới tận chân tôi. Anh Phóng chỉ còn lại nửa người mà sao nặng vô cùng. Từ sông về đơn vị chỉ chừng hai cây số mà tôi tưởng như mình đang vượt cả Trường Sơn. Tôi cứ cúi gập người, lầm lũi như thế mà đi trong đêm. Khẩu AK đeo xộc xệch trước cổ, cứ một chốc lại chổng ngược nòng, thúc báng súng vào háng đau điếng. Quần áo tôi trộn đẫm mồ hôi, nước và máu, dính sát vào da, lết bết. Tôi không còn cảm nhận được vị tanh của máu nữa. Sự mệt nhọc đã xâm chiếm tất cả. Tôi cũng không khóc được, nước mắt đã chảy vào trong, còn cổ họng thì khô rát. Trong người tôi tràn ngập cảm giác hụt hẫng xót xa, chán chường. Nhưng tôi không nghĩ được gì cụ thể cả. Tôi về đến đơn vị vào quá nửa đêm.
       Đơn vị tôi đã cho người qua chốt để giải quyết nốt chính sách. Đêm nay, các đơn vị bạn lại tiếp tục cho những nhóm lẻ qua sông, tiếp tục lập chốt cài răng lược mới. Và đêm mai, cả đại đội tôi cũng sẽ vượt sông cùng Tiểu đoàn.
       Bờ Đông sông Sê-công đã lập một nghĩa trang. Nơi đó yên nghỉ duy chỉ có 3 người lính của tiểu đội tôi, trong đó có một người mà tôi yêu mến nhất.
            *
      Chiến dịch còn kéo dài hơn một tháng nữa. Tôi vẫn tiếp tục chiến đấu trong đơn vị, nhưng lòng tôi nguội lạnh. Tôi mặc cảm như mình luôn có lỗi. Cả tiểu đội tôi, cả anh Phóng đã hy sinh cả rồi. Chiến tranh ác liệt, mỗi chúng tôi đều xác định rồi đến một lúc nào đó  cũng sẽ đến lượt mình ngã xuống. Nếu tôi cũng hy sinh cùng anh em trong tiểu đội tôi, thì mọi việc chắc sẽ bình thường và đơn giản. Mà tại sao người còn sống sót không phải là anh Phóng. Người như anh Phóng không nên chết. Anh có nhiều lý do để nên sống hơn những người như tôi. Bây giờ, tôi biết khi nhận được tin, bố mẹ anh sẽ buồn lắm. Nhưng rồi thời gian sẽ làm điều đó nguôi ngoai. Gia đình anh  sẽ còn có niềm tự hào được cống hiến một người  con cho Tổ quốc. Nhưng  còn lời ước hẹn với o Huệ của anh  trên đời này dang dở, còn một người con gái  đang phải mòn mỏi chờ anh. Anh Phóng không trở về được nữa rồi. Sẽ không có những con bò Nam Định ăn cỏ trên vùng đồi núi Kỳ Anh, sẽ không có hai nếp nhà tranh của anh và tôi dựa vào nhau nữa. O Huệ rồi có biết anh hy sinh, hay là chờ anh mãi không thấy về sẽ nghĩ anh bội ước? Không phải vậy đâu, o Huệ ơi. Những người lính chúng tôi coi lời ước hẹn cũng thiêng liêng như lời thề quân ngũ vậy. Một lần nữa, xin o hãy tha thứ cho anh Phóng, o Huệ nhé.
          *
        *  *
      Chiến tranh còn kéo dài gần 3 năm nữa. Tôi đã cùng đơn vị đi qua nhiều chiến trường, nhiều chiến dịch. Nhưng không bao giờ tôi quên được anh Phóng, người tiểu đội trưởng đầu tiên của tôi.
      Ngày ra Bắc, tôi được đi ô-tô theo binh trạm. Con đường mà nhiều năm trước chúng tôi phải hành quân ròng rã ba bốn tháng trời, thì nay chỉ có năm ngày xe chạy. Một buổi chiều xe chạy qua Hà Tĩnh. Tôi ngóng mắt nhìn về những dãy đồi núi phía Tây, cố mong tìm ra nơi nào năm xưa chúng tôi đã đóng quân. Ở nơi ấy có o Huệ, chắc vẫn còn đang chờ anh Phóng ngày chiến thắng trở về. Vẫn còn đó một tình yêu, một khát vọng dành cho một người lính. Ven đồi nhà o đã có bảy người lính từng sống, đã từ đó ra trận mà nay chỉ có một trở về. Tôi những muốn gặp o để kể lại tất cả, nhưng tôi sẽ lý giải thế nào về sự sống sót của mình? Tôi có cái quyền ấy không? Mắt tôi nhoà đi. Xe vẫn chạy, và tôi xa dần cái nơi đã gắn bó một thời  tuổi trẻ của tôi. Và mãi mãi  tôi vẫn là người có lỗi với mảnh  đất này, nơi tôi đã từng coi như quê hương.
        *
       * *
      Thời gian có thể xoá nhòa đi tất cả, nhưng ký ức, kỷ niệm thì không thể nào quên.
       Bây giờ, mỗi khi bất chợt được nghe một giọng con gái miền Trung nhè nhẹ, tôi lại thấy mình như đang ở trong một căn lán ven đồi. Tôi vẫn là người lính “măng tơ” năm nào bên anh Phóng, bên o Huệ. Và trong tôi lại hiện lên hình ảnh thằng cu Hiếu chập choạng trong nắng chiều, tay huơ huơ cọng rơm ...


(Vũ Công Chiến)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: tuaans trong 02 Tháng Chín, 2008, 08:00:17 am
về tác giả:

Tự giới thiệu
 
Tôi vốn là một người lính trong chiến tranh.
Tôi vẫn đang công tác. Chuyện gia đình và công việc không có gì đặc biệt
Người lính tự cho mình là một "NGƯỜI LÍNH" thì bản chất mãi mãi vẫn là một người lính.
Coi sinh mạng của người khác quý hơn sinh mạng bản thân mình, và coi trọng cuộc sống của người khác hơn của chính mình là bản chất của những người lính chúng tôi.
"Không vì lợi ích của mình mà làm phương hại đến lợi ích của người khác", là phương châm sống của tôi.

Username: chienc6 
 
Nickname: chienc6 
 
Tuổi: 55
 
Giới tính: Nam
 
Công việc: Nhà nước
 
Nơi ở: Hà Nội
 
Quốc gia: Vietnam 

Nguồn: http://www.ngoisaoblog.com/view_profile.php?m=56574&page=2

Buồn 5 phút.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: Trinhsat trong 02 Tháng Chín, 2008, 08:41:06 am

Đừng vội buồn thế, bác Tuaans ạ.
Theo bác thì tôi nên Post sang đây cho mọi người xem, hay chỉ nêu đường Link  rồi mọi người qua đó tự đọc. Bên đó là Blog mà, còn nhiều chuyện vụn vặt linh tinh khác chứ đâu chỉ có mỗi chuyện về lính.
Hoặc giả là những chuyện lính đó không đáng xem, thì Trinhsat tôi sẽ Stop.
Thân ái.


Tiêu đề: HOA SIM VÀ CỎ MAY
Gửi bởi: Trinhsat trong 03 Tháng Chín, 2008, 09:53:01 pm


" Lấy chồng thời chiến chinh
   Lấy chồng chiến binh,
   Mấy người đi trở lại ?

   Sợ khi mình đi mãi,
   Sợ khi mình không về.
   Thì thương
   người vợ chờ,
   bé bỏng chiều quê … "         
( Hữu Loan)
   
   Ra đi lâu quá chưa về, hay mãi mãi không về, đều làm đau lòng người chờ đợi.

   Xin được kể chuyện này …

   
   Một chiều thu đông năm 1975.
   Đoàn tàu ngược rúc lên một hồi còi dài, xả khói, giảm tốc độ, chầm chậm rồi dừng lại trên sân ga Vũ Ẻn. Hoàng xốc lại chiếc ba lô trên vai, rồi lần ra đầu toa tàu, theo những người khách bước xuống sân ga. Ga xép, nên chỉ có chừng hai chục người khách xuống tàu, và cũng chừng hơn chục người khách khác lên tàu để tiếp tục đi lên mạn ngược. Hoàng tập tễnh bước chầm chậm sau những người khách khác. Vẫn là cái sân ga nhỏ hẹp và cũ kỹ, láng xi-măng mà anh đã nhìn quen từ thời chưa vào Nam chiến đấu. Vẫn giàn  hoa giấy mọc um tùm bên cạnh cửa ra vào sân ga. Khi đoàn tàu ngược kéo còi lăn bánh, tiếp tục cuộc hành trình, cũng là lúc Hoàng ra khỏi cổng soát vé. Phía ngoài ga chỉ lèo tèo vài quán nước, đơn sơ như mọi sân ga lẻ miền trung du khác. Hoàng chưa vội lên đường. Anh rẽ vào một quán nước nhỏ của một bà cụ. Hàng họ trong quán đơn sơ. Chỉ có hai món nước uống là chè xanh và nước vối, lọ kẹo vừng, xấp bánh đa, ít gói thuốc lào cùng vài nải chuối. Hoàng ngồi xuống và xin bà cụ bát nước vối. Đã lâu lắm rồi, anh mới lại được uống thứ nước dân dã quê mùa này. Nó làm anh nhớ đến nồi nước vối mẹ anh vẫn đun, uống trong những ngày mùa độ trước. Thứ nước có vị ngọt mát mang đầy hương vị làng quê. Mà phải rồi. Anh sắp về nhà, và mẹ anh cũng sẽ nấu nước vối, hay nước chè xanh cho anh uống.
   Nước vối ngon quá. Hoàng xin thêm một bát nữa. Uống xong, anh chậm rãi đứng dậy, lấy tiền trả. Bà cụ hàng nước nhìn bộ quân phục bạc màu, nhìn gương mặt nhằng nhịt sẹo của anh rồi lắc đầu, không nhận tiền nước. Thế nhưng Hoàng vẫn một mực đặt đồng năm xu vào tay bà cụ, rồi xin phép lên đường.
   Hoàng đi dọc theo con đường từ ga, vòng sát qua sông Hồng để ra thị trấn Thanh Ba. Mọi cảnh vật đều quen thuộc, vì đây chính là quê hương anh. Nhìn xéo ra sông Hồng, Hoàng chợt nhớ đến câu ca quê anh:
   " Sông sâu, nước đục, ngưòi đen,
       Ai đến Vũ Ẻn thì quên đường về."
   Hoàng cười khẽ một mình. Con gái quê anh có tiếng là đen. Nhưng đen ở mức độ nào mà để cho khách phải quên đường về thì cũng thật khó nói. Thực ra, con gái đất trung du có nước da nâu rất đẹp. Từ xa xưa các cô gái đã nổi tiếng với vẻ đẹp má hồng. Ngày mùa, càng nắng, càng nóng thì má các cô gái càng ửng hồng. Các anh vệ quốc đoàn thời Kháng chiến chống Pháp, khi hành quân qua miền đất  trung du “rừng cọ, đồi chè” của Vĩnh Phúc, Phú Thọ đã từng xao xuyến bởi hình ảnh các cô thôn nữ chít khăn mỏ quạ cho nắng khỏi làm rám má hồng. Con gái quê anh như thế đó.
   Hoàng đã đi qua Thị trấn Thanh ba, và rẽ sang con đường đất trải đá dăm dẫn về Hạ Hoà quê anh. Từ đây về nhà anh còn khoảng 15 cây số. Bình thường thì anh chỉ đi hết chưa đầy 4 tiếng đồng hồ. Nhưng bây giờ với cái chân bị thương như thế này, chắc phải tối mịt, anh mới về đến nơi. Nhưng Hoàng cũng không vội. Anh nghĩ, có khi về đến nhà vào lúc tối lại hoá hay. Vừa đi, anh vừa nhớ lại quãng thời gian đã qua.
*
*  *
   Ba năm trước, khi đã 23 tuổi, Hoàng mới lên đường vào bộ đội. Trong những năm chiến tranh, trai tráng nông thôn đều phải lên đường nhập ngũ từ năm 18 tuổi. Hoàng được hoãn đi bộ đội, vì là con liệt sĩ. Bố anh là bộ đội từ thời chống Pháp. Hoà bình lập lại, ông đã được giải ngũ về làng. Nhưng rồi Kháng chiến chống Mỹ nổ ra, ông lại lên đường tái ngũ trong những đợt gọi đầu tiên, năm 1962. Trong nhiều năm, ông đã làm cán bộ khung, huấn luyện nhiều đợt tân binh gửi vào Nam. Giữa năm 1965, ông được điều động thẳng vào Nam chiến đấu, trong đội hình của cả một trung đoàn. Đơn vị ông đã tham gia nhiều trận chiến đấu ác liệt với bọn Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh Đặc biệt. Năm 1967, trung đoàn ông tham gia đánh Khe sanh và cụm cứ điểm làng Vây. Ông đã ngã xuống cùng hơn một vạn người lính Bắc Việt trong chiến dịch nổi tiếng ấy. Năm đó, Hoàng, đứa con trai duy nhất của ông vừa tròn 18 tuổi.
   Hoàng được hoãn gọi nhập ngũ theo chính sách lúc bấy giờ. Học xong phổ thông, anh ở nhà làm ruộng. Khoẻ mạnh và đẹp trai, Hoàng trở thành tâm điểm chú ý của nhiều cô gái làng. Hơn nữa, lúc này đang chiến tranh, trai tráng trong làng phải ra trận hết, nên đàn ông hầu như cũng không còn mấy ai. Nhà chỉ còn hai mẹ con, nên năm 20 tuổi, Hoàng đã lấy vợ. Vợ anh là Bình, một cô thôn nữ đẹp nhất làng. Nhan sắc của cô rạng ngời, dầu lúc nào cũng chít khăn mỏ quạ, chỉ để lộ có đôi con mắt. Bình kém Hoàng một tuổi. Thật là đẹp đôi, đúng như câu nói của các cụ: "Gái hơn hai, trai hơn một". Cái gia đình bé nhỏ này càng hạnh phúc hơn nữa, khi một năm sau, Bình sinh hạ được một cậu con trai kháu khỉnh. Hai vợ chồng đặt tên con là Vinh.


(Còn tiếp...)


Tiêu đề: Hoa Sim và Cỏ may
Gửi bởi: Trinhsat trong 05 Tháng Chín, 2008, 07:06:33 am

      Cuộc sống đáng lẽ cứ thế trôi qua bình thường, nếu như chiến sự trong Nam không ngày càng quyết liệt. Năm 1971, 1972 chiến trường cần rất nhiều quân. Khắp nơi liên tục gọi nhập ngũ, kể cả những thanh niên vừa qua tuổi 17. Mỗi năm 4 đợt tòng quân. Không chỉ có thanh niên nông thôn và đường phố, ngay cả công nhân, cán bộ, sinh viên các nhà máy, cơ quan, trường học, kể cả các thày giáo tuổi đã gần kề 30 cũng được gọi động viên nhập ngũ. Hoàng đã phải suy nghĩ nhiều. Anh không muốn mình cứ ẩn mãi sau cái bóng liệt sĩ của bố. Trai thời loạn, mỗi người đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Lúc này, cu Vinh cũng đã được hai tuổi. Thế là anh viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Vợ anh là con gái nông thôn, vốn bản tính quen cam chịu, nên không nói gì. Mẹ anh buồn, song bà cũng không ngăn cản. Ngày ra đi, anh hơi bịn rịn bế cu Vinh hồi lâu. Rồi anh bế xốc hai nách nó lên và đu đưa nó là là mặt đất như người ta đu võng. Cu Vinh thích chí cười khanh khách. Hình ảnh này đã ghi đậm trong trí nhớ của vợ anh.
   Vào bộ đội, Hoàng trở thành anh tân binh "già" giữa đám lính 17, 18 tuổi trong cùng lần nhập ngũ. Sau 5 tháng huấn luyện trên đất Bắc, Hoàng cùng đồng đội hành quân vào Nam chiến đấu. Anh được bổ xung vào một sư đoàn chủ lực đóng trên cao nguyên miền Trung . . .
*
   Trời đã xế chiều. Hoàng đã đi đến vùng đồi sim. Vùng trung du nào trên đất Bắc cũng có đồi sim. Những dãy đồi có sim thì chỉ có sim và cỏ, nhiều nhất là loại cỏ may mọc tốt trên đất cằn thiếu nước. Bây giờ là cuối thu, nên những bụi sim trông xơ xác, bạc màu. Nhưng vào độ hè thì những đồi sim thật đẹp. Cây sim mọc kín hàng dãy đồi, trải dài khắp một vùng rộng lớn. Những bụi sim cao ngang tầm người nở rộ đầy hoa tím. Những bông hoa sim 5 cánh nở tung phô màu tím Huế như rực lên trong nắng, tràn ngập khắp vùng đồi. Hoa sim màu tím, mà những quả sim khi chín cũng màu tím, nhưng đậm hơn. Những quả sim chín be bé bằng đầu ngón tay, mòng mọng trông thật thích mắt. Trẻ chăn trâu thường thả trâu ăn cỏ trên đồi sim, rồi rủ nhau hái sim ăn. Những quả sim chín ăn có vị ngọt nhan nhát và lạo xạo trong mồm vì có nhiều hạt. Ăn xong, thè lưỡi ra  thấy lưỡi cũng có màu tím. Vào những ngày chợ phiên, những người đàn bà vùng đồi sim thường hay hái sim đem bán. Sim được bán theo đấu như bán gạo. Giá sim rất rẻ. Một đấu sim chỉ có một hào bạc, bằng hai bát nước chè xanh. Ngày còn yêu nhau, những buổi chiều khi nắng đã tắt, Hoàng hay dẫn Bình lên đồi sim chơi. Họ cùng trò chuyện và hái sim ăn, rồi thè lưỡi cho nhau xem màu tím và cười khúc khích. Hoa sim tím đã là một cái gì đó đặc trưng cho vùng trung du, thân thương vô cùng. Hoàng đã gọi đùa Bình là hoa sim tím. Anh bảo cứ nhìn hoa sim là như thấy Bình. Ghi trong tim anh là Bình và bông hoa sim tím, không thể nào quên được. Hái sim chán rồi, hai người lại đuổi nhau lượn quanh các bụi sim, để cho cỏ may bám đầy gấu quần. Rồi lại ngồi nhặt hoa cỏ may cho nhau mà cười rúc rích. Bình bảo Hoàng, nếu em là hoa sim tím thì anh là bông cỏ may nhé. Làm sao lại cứ tìm cách bám dính người ta mãi như thế này.
    Không biết từ đâu, màu tím được coi là tượng trưng cho tình yêu chung thuỷ. Màu tím ấy là từ hoa sim, hay từ loài hoa tím nào khác nữa, Hoàng không biết. Nhưng anh rất yêu màu tím của hoa sim. Hoàng biết nhà thơ Hữu Loan có một bài thơ "Màu tím hoa sim" rất tuyệt và anh rất thích bài thơ ấy. Nhà thơ quê ở Thanh Hoá, chắc những vùng đồi quê ông cũng có rất nhiều sim. Sau này đi bộ đội, Hoàng mới biết là bài thơ hay ấy đã được phổ nhạc thành bài hát. Có điều, bài hát ấy không phải Hoàng được nghe văn công biểu diễn, mà là nghe trộm qua đài địch, do các ca sĩ Sài Gòn hát. Năm 1973, sau Hiệp định đình chiến Pari, quân ta và quân nguỵ chia đất, giữ cờ đóng quân cách nhau có trăm mét. Bọn nguỵ thường hay chĩa loa sang ta, mở to các bài hát, trong đó có bài "Chuyện hoa sim" này. Lời bài hát, nghe thật bùi ngùi. Lúc đó bài hát này bị phía ta coi là nhạc "vàng", cấm nghe, cấm hát. Hoàng thấy buồn nhất khi nghe câu:
      "Sao không chết người trai khói lửa,
      Mà chết người em nhỏ hậu phương"
   Lúc đó, trong lòng cứ nao nao thế nào ấy. Vậy là màu tím hoa sim vừa là nỗi nhớ, vừa là nỗi lo của người ra trận.


Tiêu đề: Hoa Sim và Cỏ may
Gửi bởi: Trinhsat trong 07 Tháng Chín, 2008, 08:45:09 am
       Trong một trận đánh sát ngày chiến thắng, Hoàng đã bị thương nặng. Anh vẫn nhớ như in cái tình tiết của trận đánh ấy.
        Đó là trận đánh căn cứ Đồng Dù trên cửa ngõ Tây bắc Sài Gòn ven đường 13, sáng 29/4/1975. Căn cứ này do sư đoàn 5 VNCH của chuẩn tướng Lý Tòng Bá chỉ huy trấn giữ. Cả căn cứ rộng trên một cây số vuông. Xung quanh căn cứ có tới 8 lớp hàng rào đủ loại bảo vệ, với chiều sâu hơn 300 mét. Phía ngoài cùng là cả một vành đai bãi trống. Từ trong căn cứ nhìn được ra ngoài rất xa. Sát lớp hàng rào lại có một tháp canh cao chừng chục mét, trên có một ngọn đèn pha sáng quắc, rọi sáng cả một vùng đất rộng. Trung đoàn của Hoàng được giao nhiệm vụ mở một cửa mở đánh vào căn cứ từ hướng Tây. Khi có pháo lệnh mở màn trận đánh thì 5 lớp hàng rào ngoài cùng đã bị mìn định hướng của ta phá tung. Hoàng chĩa nòng khấu DK nã luôn một phát trúng cái tháp canh làm ngọn đèn pha tắt ngấm. Lợi dụng khoảng nhập nhoạng sáng tối lúc đó, các chiến sĩ xung kích lao lên dùng bộc phá phá tiếp hàng rào. Hai lớp hàng rào tiếp theo bị phá thủng trong vòng nửa tiếng. Riêng lớp hàng rào trong cùng là loại rào cũi lợn có chiều rộng 3 mét, cao 40 phân, cực kỳ khó phá. Trời đã sáng rõ dần. Các chiến sĩ bộc phá phải ôm những ống bộc phá dài 1,2m vận động vượt qua quãng đường hơn 100 mét mới tiếp cận được hàng rào, rồi tìm cách luồn nó vào trong lớp rào, giật nụ xoè điểm hoả. Mỗi ống bộc phá chỉ phá được 1 đoạn rào sâu 1 mét, rộng có 40 phân. Ác thay, cái hàng rào ấy lại nằm trên một vùng trống trải, cách các lô cốt địch có 50 mét, và cách phía các hầm có súng hoả lực của ta tới hơn 100 mét, nghĩa là nó nằm gần phía địch hơn phía ta. Vì vậy hoả lực tại chỗ của ta chi viện không có hiệu quả. Căn cứ lại quá rộng, nên pháo cấp trên từ xa bắn vào bị rơi rải rác khắp nơi, hầu như không trúng các lô cốt địch. Bộ đội khi ôm bộc phá lên đánh hàng rào này, không khác gì những tấm bia cho bọn địch từ trong các lô cốt gần đó bắn ra. Suốt mấy tiếng đồng hồ mà đại đội mở cửa vẫn không phá nổi lớp hàng rào đó. Gần hai chục chiến sĩ bộc phá đã hy sinh, tạm thời còn phải nằm rải rác trước cửa mở mà chưa lấy xác lại được. Thêm nữa, căn cứ này còn có một con đê đắp bằng đất bao quanh phía trước các lô cốt, cao tới hơn một mét nên chắn hết tầm quan sát của bộ binh ta.
   Vào khoảng 9 giờ sáng, địch lại điều ra khu cửa mở một chiếc xe tăng M48. Nó cứ chạy đi chạy lại trên con đường dọc theo sau bờ đất và quay nòng pháo hướng vào trận địa của ta. Hễ cứ có động tĩnh ở chỗ nào là nó nã pháo vào chỗ đó. Vì thế, hầu hết các ổ hoả lực tại chỗ của ta nhằm chi viện cho cửa mở như DKZ 75, súng máy 12ly7 lần lượt bị trúng đạn pháo tăng. Thương vong ngày một nhiều. Nằm ở tuyến sau nhìn xác bộ đội ta nằm la liệt phía trên mà đau lòng.
   Hoàng nằm ở một căn hầm hoả lực, cách cái bờ đê đất chừng 150 mét, mà sốt ruột vô cùng. Từ đây chỉ nhìn thấy cái tháp pháo xe tăng của địch chạy qua chạy lại sau bờ đất. Không thể đặt giá nâng súng DKZ lên được, vì xe tăng địch sẽ phát hiện ra ngay. Hoàng chợt nảy ra ý định dùng súng DK82. Đây là loại pháo không giật vác vai do Trung Quốc sản xuất, mới đưa vào chiến trường từ năm 1974, Cả súng và đạn nặng hơn ba chục cân. Anh quyết định sẽ đấu pháo với chiếc xe tăng địch để tiêu diệt nó. Hoàng báo cho trung đội trưởng biết ý định của mình, rồi lắp đạn vào một nòng DK82. Anh ôm súng nằm sát đất ướm thử các động tác. Chờ cho tới khi chiếc xe tăng chạy đến thẳng với chỗ Hoàng nằm và nòng pháo của nó đang quay sang hướng khác, Hoàng bất ngờ đứng thẳng người dậy. Anh xốc khẩu DK82 đặt lên vai và ngắm thẳng vào tháp pháo chiếc xe tăng. Rất nhanh, bọn lính trên xe tăng phát hiện ra Hoàng và cũng lập tức quay nòng pháo chĩa thẳng vào anh. Gần như cùng một lúc, cả Hoàng và tên pháo thủ trong chiếc xe tăng cùng bóp cò. Hai quả đạn cùng bay ra khỏi nòng một lúc. Một chớp lửa bùng lên trên tháp pháo xe tăng làm nó bốc cháy, cũng là lúc Hoàng ngã gục xuống trong tiếng nổ của quả đạn tăng. Bọn địch trong các lô cốt còn cay cú nã thêm mấy quả rocket M72 về hướng của Hoàng.
    Chiếc xe tăng địch bị tiêu diệt. Hành động dũng cảm của Hoàng đã góp phần quan trọng, để rồi sau đó tạo thuận lợi cho xe tăng của ta xuất kích từ rừng cao su vào trận địa, cùng với thê đội 2 bộ binh tấn công tiêu diệt căn cứ địch.
   Hoàng bị thương nặng. Anh được đưa về tuyến sau rồi chuyển về Quân y viện. Chân trái của anh bị mảnh đạn làm vỡ đầu gối. Khi được chữa lành thì nó thành tật, khiến anh phải đi lại tập tễnh. Còn đầu và mặt anh bị nặng hơn. Cả khuôn mặt của anh bị biến dạng, phải mổ và vá nhiều lần. Vết sẹo nhằng nhịt trên mặt, khiến Hoàng cũng không nhận ra chính mình khi anh soi gương. Hoàng thất vọng và chán chường. Anh trở nên lầm lỳ và ít nói. Ngay cả khi anh em trong đơn vị đến thăm, báo tin miền Nam đã giải phóng, báo tin anh được tặng thưởng huân chương trong trận chiến đấu cuối cùng ấy, cũng không làm anh vui lên được bao nhiêu. Anh nghĩ, giá như mình hy sinh luôn trong trận đánh đó có khi lại đỡ khổ hơn.
   Ba tháng nằm trong Quân y viện, các vết thương của Hoàng mới được chữa lành. Hoàng được chuyển ra một trại an dưỡng thương binh ở Ninh Bình. Anh buồn và ít cởi mở với đồng đội trong trại. Hoàng không nghĩ đến chuyện trở về nhà. Anh muốn ở lại mãi trong trại thương binh này.
   Nhưng rồi 3 tháng sau, khi sức khoẻ đã khá hơn, Trại thương binh vẫn giải quyết chính sách cho anh về nhà. Anh rời Trại với một khoản tiền trợ cấp và một nắm giấy tờ trong tay. Trong Trại, Hoàng đã viết sẵn một lá thư cho vợ, trong đó nói bóng gió về việc có thể mình sẽ không trở về nữa. Nhưng rồi anh vẫn lên đường về nhà, với dự định là sẽ thăm nhà một lần rồi ra đi mãi mãi.


(Còn tiếp...)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: Trungsy1 trong 07 Tháng Chín, 2008, 09:55:39 pm
........

" Lấy chồng thời chiến chinh
   Lấy chồng chiến binh,
   Mấy người đi trở lại ?

   Sợ khi mình đi mãi,
   Sợ khi mình không về.
   Thì thương
   người vợ chờ,
   bé bỏng chiều quê … "         
( Hữu Loan)
   
   Ra đi lâu quá chưa về, hay mãi mãi không về, đều làm đau lòng người chờ đợi.

   Xin được kể chuyện này …
   
   (Còn tiếp...)

Nguyên văn thế này bác ơi:
.......
Tự chiến khu xa
nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến binh
mấy người đi trở lại !
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ bé bỏng chiều quê
.
......
Những bài thơ hay như thế này bác có thể tra cứu trên mạng được mà! Sửa thơ sợ cụ Hữu Loan buồn, mặc dù bài này đã bán bản quyền  :D




Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: liua trong 07 Tháng Chín, 2008, 10:00:32 pm
 Các bác thưởng thức nhé.
http://www.youtube.com/watch?v=m69e8mIcYzo


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: Trinhsat trong 07 Tháng Chín, 2008, 10:18:42 pm
Cảm ơn bác TS1 góp ý và bác Liua cho nghe hát. Đúng là lời thơ đầu truyện giống với bài "Chuyện hoa sim" hơn là gốc bài thơ "Màu tím hoa sim" của cụ Hữu Loan.
Bút đã sa rồi. Xin cúi đầu tạ tội với cụ Hữu Loan.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: yta262 trong 07 Tháng Chín, 2008, 10:49:25 pm
Cảm ơn bác TS1 góp ý và bác Liua cho nghe hát. Đúng là lời thơ đầu truyện giống với bài "Chuyện hoa sim" hơn là gốc bài thơ "Màu tím hoa sim" của cụ Hữu Loan.
Bút đã sa rồi. Xin cúi đầu tạ tội với cụ Hữu Loan.
Đã có rất nhiều bài hát phỏng lời bài thơ "Màu Tím Hoa Sim" của thi sĩ Hữu Loan, theo ytá thấy có lẽ đây là bài thơ VN được phổ nhạc nhiều nhất từ trước đến nay (ít nhất là 4 bài). Rất tiếc tất cả đều sửa rất nhiều lời thơ của bác Hữu Loan để thành nhạc, sửa nhiều nhất là bài "Đùi Tím Hoa Sim"  ;D, bác Hữu Loan đâu có ý làm thơ để đặt nhạc đâu mà! Đúng như bác trinhsat & liua cho biết trong đó có bài "Chuyện hoa sim" của nhạc sĩ Anh Bằng (Vâng, chính ông Anh Bằng làm bài "Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu ..." đó bác TS1 ơi), lời bài hát như đã kể. Tuy nhiên vấn đề là bên dưới lời nhạc chỉ đề Hữu Loan thì bác TS1 phản đối là phải rồi, bắt bẻ kỹ thì nên đề "nhạc Anh Bằng, phỏng thơ của Hữu Loan" thì ít bị "chỉnh" hơn.


Tiêu đề: Hoa Sim và Cỏ may
Gửi bởi: Trinhsat trong 09 Tháng Chín, 2008, 01:47:18 pm

Những ngày đầu giải phóng, người dân miền Bắc hồ hởi đón những người lính từ mặt trận trở về, dù rằng không phải tất cả đều là người thân. Khắp các nhà ga, bến xe, binh trạm đầy ắp tiếng cười, ngập tràn nét mặt hân hoan.
   Bây giờ đã là cuối thu rồi. Đã nửa năm trôi qua, kể từ ngày chiến thắng. Mọi cuộc duyệt binh rồi sẽ qua đi. Mọi lễ mừng công rồi sẽ kết thúc. Người dân miền Bắc đã quen với hình ảnh những anh bộ đội khoác ba lô, đi lại, chờ xe trên bến tàu, sân ga, mình đầy bụi bặm. Mọi việc diễn ra như những chuyện thường ngày. Ngay ở trên ô-tô, tàu hoả, Hoàng cũng cảm nhận được những ánh mắt của mọi người xung quanh nhìn anh ái ngại. Họ thông cảm cho anh, hay họ thương hại? Ngay như bà cụ hàng nước ngoài sân ga vừa đây thôi, cũng định không nhận tiền nước của anh. Bà cũng thương hại anh sao? Thế thì anh trở về như thế này, chắc sẽ làm mẹ và vợ anh đau khổ lắm.
*
*  *
   "Pim…Pim…Pim…"
   Tiếng còi ô-tô phía sau lưng đã cắt ngang dòng suy nghĩ của Hoàng. Anh ngoảnh đầu nhìn lại. Một chiếc ô-tô tải hiệu Mo-to-lo-va dừng lại ngay phía sau anh. Người lái xe thò cổ ra sốt sắng:
   - Chào đồng chí bộ đội. Đồng chí về đâu, có xa không?
   - Tôi về xã Hương Xạ. -Hoàng đáp.
   - Thế thì xe cũng về đấy. Xe của nhà máy chè Hạ Hoà đây mà. Đồng chí lên xe đi. - Người lái xe  xởi lởi và mở cửa cabin giục Hoàng.
   Hoàng bám thành xe leo lên, rồi chui vào cabin. Chiếc ô-tô lại tiếp tục chuyển bánh. Dọc đường, người lái xe nói chuyện luôn mồm, và chủ yếu chỉ có anh ta nói. Riêng cái chuyện hỏi tên nhau thì cả hai đều quên.
   Đến ngã ba Cây Đa, chiếc xe dừng lại. Lối bên phải vào nhà máy, còn lối rẽ bên trái về làng. Người lái xe mở cửa. Hoàng cảm ơn anh ta rồi bước xuống xe. Chiếc ô-tô đi tiếp vào nhà máy.
   Hoàng xốc lại ba-lô rồi tiếp bước về làng. Ở vùng trung du, nhà cửa thưa thớt. Mỗi quả đồi rộng lớn chỉ có một hoặc hai nóc nhà. Phần đất ruộng chủ yếu nằm quanh các chân đồi. Trên các đồi quanh nhà, người ta chỉ trồng sắn hoặc dứa. Ở quê Hoàng vẫn chưa có nhiều nhà ngói. Phần lớn các nhà đều được xây gạch, nhưng lại lợp lá cọ hay cỏ tranh. Vòng qua vài dãy đồi thì Hoàng về đến xóm Vực nhà anh. Nhờ người lái ô-tô ban nãy cho đi nhờ cả quãng đường dài, nên Hoàng về đến nhà mà trời vẫn còn sáng. Ở nông thôn vốn ăn cơm chiều rất muộn, nhưng nhiều nhà đã nổi lửa nấu cơm. Những làn khói bếp mỏng mảnh như những đám mây chiều, phảng phất bay lên từ những mái tranh. Không thí thật thanh bình và ấm cúng.
   Hoàng về đến nhà. Anh đứng bên cổng nhìn vào. Vùng quê anh, ngưòi ta chỉ trồng một thứ dâm bụt làm hàng rào chiếu lệ, và cổng thì không có cửa. Mẹ anh đang mải quét sân. Một đứa trẻ, chắc là cu Vinh con anh, đang ngồi đập đập một cái que, nghich ngợm bên thềm nhà. Hoàng hắng giọng:
   - Thưa bác..
   Mẹ anh ngẩng đầu lên, hơi giật mình một chút, rồi hỏi:
   - Chứ, anh bộ đội hỏi ai?
   - Dạ, cháu hỏi nhà anh Hoàng, có vợ là Bình. - Anh đáp.
   - Phải rồi, đây là nhà Hoàng đấy. Thế anh là …
   - Dạ, cháu tên là Đức, cùng đơn vị với Hoàng. Cháu có mang thư của Hoàng gửi cho gia đình.
   Bà  mời anh vào nhà. Hoàng theo mẹ bước vào nhà. Mẹ anh vẫn còn rất khoẻ mạnh, nhưng dáng đi đã có vẻ chậm hơn trước. "Vậy là mẹ đã không nhận ra mình". - Hoàng nghĩ.
   Mẹ anh chỉ đứa trẻ, bảo Hoàng: "Thằng Vinh, con nhà Hoàng đấy". Đoạn, bà bảo nó: "Chào bác đi cháu"
   Thằng Vinh khoanh tay lễ phép chào anh. Mẹ anh lại giục nó: "Đi gọi mẹ về đi cháu".
   Thằng bé "dạ" một tiếng rõ to rồi chạy vụt đi.
   Mẹ giục Hoàng cởi ba-lô ra rửa chân tay, rồi vào nhà pha nước. Hoàng không dùng nước có sẵn trong vại, mà với tay lấy cái gầu rồi thả xuống múc nước giếng. Ở quê anh, nhà nào cũng có giếng nước. Nước giếng hơi sâu một chút, nhưng rất trong và mát.
   Rửa mặt xong, Hoàng vào nhà, ngồi lên cái chõng tre. Anh đỡ lấy bát nước mẹ anh vừa rót. Nước vối đấy. Hoàng chậm rãi uống từng ngụm nước, còn mẹ anh cũng chỉ nhìn chứ chưa hỏi chuyện gì. Chắc mẹ muốn chờ con dâu về.
   Hoàng chưa uống hết bát nước thì ngoài cổng có tiếng bước chân vội vã, rồi Bình ào vào. Mới nhìn thấy cái lưng của Hoàng ngồi quay ra, chị đã nói như reo:
   - Anh H…
   Hoàng quay mặt lại. Bình ngừng bặt tiếng reo, ngượng nghịu:
   - Chào anh. Nghe cháu Vinh nói có chú bộ đội đến nhà, em cứ ngỡ anh Hoàng nhà em.
   - Chào chị Bình. Tôi là Đức, cùng đơn vị với anh Hoàng. - Một lần nữa, Hoàng lại phải nói lời giới thiệu bịa ra như vậy.
   Bình ngồi xuống đầu cái giường kê phía trong nhà. Hoàng nhìn vợ. Vợ anh có hơi gầy, nhưng vẫn trẻ trung và xinh đẹp như xưa. Rồi Hoàng lấy lá thư mà anh đã viết sẵn từ trong Trại an dưỡng đưa cho vợ. Bình xin phép rồi bóc lá thư ra đọc. Đọc xong, Bình ngồi im. Chị hơi cắn môi một chút như thể nghĩ gì đó. Nói chuyện thêm một lát nữa, chị xin phép đi thổi cơm.
*
   Cơm nước xong, cả nhà lại ngồi uống nước, nói chuyện. Hoàng lấy trong ba-lô ra gói kẹo và hai chiếc khăn len, đưa cho mẹ và vợ. Anh nói, đây là "quà của anh Hoàng nhờ gửi cho gia đình". Mẹ và vợ anh hỏi chuyện của Hoàng, nhưng anh cũng chỉ kể những nét chung chung. Ngồi nói chuyện mà lòng anh đau quặn. Trước mặt anh đây là những người thân, mà anh vừa phải xa cách hơn 3 năm trời. Anh muốn kêu lên thật to: "Hoàng đây", rồi giang tay ôm lấy tất cả vào lòng. Vậy mà anh vẫn phải tỏ ra bình thản như người ngoài. Hoàng không cảm thấy có sự ghê sợ, lảng tránh của mọi người khi nói chuyện, khi nhìn vào mặt anh. Nhưng sao anh vẫn cứ mặc cảm cho rằng, nếu anh nói rằng "tôi là Hoàng đây" thì mọi người sẽ đau khổ lắm.
   Nghe tin nhà cô Bình có khách, mấy người hàng xóm ở gần kéo sang chơi. Mọi người cùng uống nước và nói đủ các thứ chuyện cho đến gần khuya.


(Còn tiếp...)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: NguoiTotbung trong 09 Tháng Chín, 2008, 03:15:13 pm
Đúng là chiến tranh! Chuyện xảy ra với nhân vật Hoàng - người bộ đội Việt Nam giống như chuyện xảy ra với người lính tank Xô viết trong chiến tranh Vệ quốc. Em nhớ là đã được học truyện về người lính Xô Viết này trong chương trình phổ thông, ấn tượng nhất là người vợ khi " mang chiếc áo lỗ chỗ vết rách của người lính ra, cảm nhận được đó chính là chồng mình "


Tiêu đề: Hoa Sim và Cỏ may
Gửi bởi: Trinhsat trong 11 Tháng Chín, 2008, 03:06:04 pm

        Hôm sau, Bình dậy đi làm sớm. Công việc đồng áng lúc nào cũng bận bịu. Hợp tác xã độ này trồng chè cho nhà máy, nên lại càng nhiều việc hơn.
   Mẹ anh ở nhà làm các việc lặt vặt. Hoàng xin phép đưa cu Vinh vào xóm chơi. Tiếng là cu Vinh dẫn anh đi chơi, chứ thực ra đi chỗ nào thì Hoàng đã thuộc hết rồi. Hai bố con vào trong xóm, chào hỏi một số người già. Cũng vẫn là những người hàng xóm anh đã biết từ ngày chưa đi bộ đội. Vẫn không có ai nhận ra anh. Tất cả đều tin rằng anh là bạn của Hoàng, quê tận trên Yên Bái.
   Rồi hai bố con lên đồi chơi. Hoàng thăm lại những nơi mà ngày trước anh và Bình đã từng đến và quen thuộc. Cu Vinh thích lắm. Nó quấn lấy anh, ríu rít nói chuyện. Cu cậu cứ làm như mình là người hướng dẫn mọi chuyện không bằng. Có lúc ngồi chơi trên đồi, cu Vinh đã sờ tay lên mặt anh mà hỏi:
   - Bác ơi. Thằng Mỹ nó bắn bác như thế này phải không.
   - Đúng vậy, cháu ạ. - Hoàng ôm nó vào lòng mà nghẹn ngào.
   Lang thang mãi rồi cũng mỏi chân. Hai bố con lại trở về nhà.
   Buổi chiều, Hoàng ở nhà nói chuyện với mẹ. Mẹ anh bảo anh cứ ở lại chơi vài hôm, nhưng rồi bà lại nói anh cũng nên về sớm kẻo bà cụ trên nhà lại mong. Bà bảo, cũng như ở nhà đây thôi, mong thằng Hoàng về lắm. Tình cảm của bà qua câu chuyện làm anh cũng hơi phân vân. Nhưng anh vẫn nghĩ, mình ở lại thì làm khổ Bình. Thôi, cứ đi hẳn đi, quay về trại thương binh vậy. Rồi thời gian trôi qua, Bình sẽ lấy người khác, sẽ tìm được hạnh phúc. Con người tàn tật, mặt mũi gớm ghiếc như anh bây giờ không còn xứng đôi với Bình nữa rồi.
   Chiều đó, Bình về sớm. Chị bắt được một mớ cua đồng, và hì hục giã để nấu canh cua với mồng tơi. Món ăn ngọt và  mát này, ngày trước Hoàng rất thích ăn.
   Ngồi uống nước trên nhà, Hoàng nhìn xéo xuống bếp. Anh thấy những vệt mồ hôi loang trên lưng aó và thấm ướt hai bên nách chiếc áo nâu non của vợ. Rồi nhìn những giọt mồ hôi lấm tấm trên cổ, những tàn tro trắng lốm đốm trên mái tóc của Bình khi chị thổi lửa, làm anh thấy thương vợ quá. Hoàng thấy vợ mình còn đẹp hơn cả ngày xưa. Anh nén tiếng thở dài.
   Tối đó, sau bữa cơm, cả nhà lại ngồi trò chuyện. Bình hỏi chuyện nhiều hơn. Chị kín đáo quan sát những cử chỉ của Hoàng. Chị bảo, biết tin anh định ra ga sớm mai, hồi chiều chị đã vào trong xóm hỏi mượn bác An chiếc xe đạp. Sớm ngày mai chị sẽ lai anh ra ga.
   Hôm đó, cả nhà đi ngủ sớm, để ngày mai Hoàng có sức lên đường. Hoàng nằm thao thức mãi mà không ngủ được. Thế là anh đã về thăm được nhà, được gặp tất cả mọi người. Anh đã giấu kín được tung tích của mình, không ai nhận ra anh chính là Hoàng. Ngày mai, anh sẽ ra đi mãi mãi. Rồi anh sẽ viết đơn ly dị gửi về cho vợ, để chị có thể đi lấy chồng. Còn việc nữa. Ngoài  số tiền trợ cấp "cửa rừng" và "hao mòn xương máu" như mọi người lính khác, quân đội còn trả cho anh một số tiền trợ cấp thương tật. Anh đã mua một chút quà cho mẹ và vợ con. Số tiền còn lại, anh đang để trong ba lô. Anh chưa biết sẽ đưa lại cho mẹ và vợ số tiền đó bằng cách nào. Thôi, có lẽ ngày mai ra ga, anh sẽ gửi về cho vợ qua đường bưu điện vậy.
   Bên trong nhà, có lẽ Bình cũng không ngủ được. Hoàng cứ nghe thấy tiếng vợ trở mình cho đến tận khuya.
                  *
                *   *
   Hôm sau, Bình thức dậy rất sớm. Chị  thổi cơm, nắm cơm nắm và làm muối vừng cho Hoàng đem đi đường. Xong mọi thứ đâu đấy, chị mới gọi cả nhà dậy. Bình dọn mâm cơm, có chút cá kho và canh cà chua để cả nhà cùng ăn luôn thể. Hoàng không thấy đói. Anh chỉ ăn có một bát cơm, dù Bình cứ mời anh ăn thêm cho chắc dạ.
   Rồi Hoàng buộc lại ba lô và chuẩn bị lên đường.
   Bình đã đi trước ra ngoài sân. Hoàng khoác ba lô lên vai, chào mẹ rồi bước ra hiên. Một chút bùi ngùi thoáng hiện trong người Hoàng. Giờ phút chia tay cuối cùng rồi. Hoàng nhìn cu Vinh. Nó vẫn đứng trong nhà, nép mình vào bà nội. Hoàng mềm lòng, anh gọi con:
   - Lại đây cháu.
   Cu Vinh chạy lại. Hoàng bế nhấc bổng con trên tay, dúi mặt anh vào cổ nó. Rồi không đừng được nữa, anh thả nó xuống đất, rồi dùng hai cánh tay khoẻ mạnh của mình xốc hai nách nó lên. Anh lại đu đưa nó là là mặt đất, giống như hơn ba năm trước, ngày anh lên đường vào bộ đội.
   Ngoài sân, Bình  trân người đứng nhìn. Bất ngờ, chị lao lại phía Hoàng, ôm chầm lấy anh và kêu to:
   - Anh Hoàng.
   Đoạn, chị nắm lấy hai vạt áo của Hoàng và xé mạnh. Bộ ngực trần to rộng của Hoàng phơi ra, để lộ rõ một vết sẹo dài nơi ngực phải. Đó là dấu vết của một lần anh bị con trâu dữ húc, lúc còn thanh niên. Hoàng đứng lặng người. Mọi việc không còn gì rõ ràng hơn. Bình quay lại nói với mẹ chồng trong nước mắt:
   - Anh Hoàng nhà con đấy mẹ ạ.
   Sau phút ngây người, mẹ anh bấy giờ mới lật đật chạy lại. Vừa lắm lấy cánh tay Hoàng, mẹ vừa nói với con dâu:
   - Hôm qua mẹ cũng nhìn, cũng ngờ ngợ sao nó có nhiều nét giống thằng Hoàng thế. Vậy mà sao mẹ không nghĩ ra.
   Rồi bà ngửa mặt nói với Hoàng: "Con ơi, nhà mình đây rồi, làm sao con lại phải ra đi nữa hả con".
   Cu Vinh cũng túm lấy áo anh, và ngước lên hỏi:
   - Đúng là bố Hoàng hả bố.
   Cả bốn người ôm lấy nhau, nhoà trong nước mắt.
   Chiếc ba lô trên vai Hoàng tụt rơi xuống đất.


(Vũ Công Chiến)



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: dongminhkh trong 11 Tháng Chín, 2008, 06:38:04 pm
Đáng lý người mẹ phải nhận ra con ngay chứ nhỉ? Dù khuôn mặt biến dạng, thì vẫn còn những nét, những dấu vết mà chỉ người mẹ cảm nhận được!


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: Trungsy1 trong 11 Tháng Chín, 2008, 09:35:32 pm
Nội dung giống truyện Liên xô. Anh lính ấy bị bỏng, mặt biến dạng hết, trở về ngôi nhà cũ với mong muốn mẹ mình không nhận ra để khỏi buồn...Hình như là "Tính cách Nga" thì phải? :D


Tiêu đề: Chuyện tình của Bảo
Gửi bởi: Trinhsat trong 13 Tháng Chín, 2008, 08:36:25 am
Lời tựa:
   
     Một lần, tôi ngồi ở nhà nói chuyện với vợ. Trong không khí thanh bình, bỗng nhiên nàng ngồi xích lại gần tôi và hỏi nhỏ:
     - Này, dạo trước lúc chưa yêu em, có lần nào mình lỡ ôm phải cô gái nào chưa?
   Tôi ngồi im lặng, nhìn vợ, rồi nhớ lại và suy nghĩ. Nhớ có lần ngồi ăn cơm trưa ở Cơ quan, kế toán trưởng  Phương Anh bảo: " Nói không thật, tức là nói dối. Mà nói dối nghĩa là nói sai. Nói sai tức là nói điêu".  Chao ôi! Nghe sao mà chua thế.
   Lại nghĩ: Mình vốn là một người lính, còn vợ mình vốn là một người dân. Tình cảm Quân Dân như cá với nước. Cá mà không có nước, tất chết mất ngáp. Còn nước mà không có cá, thì mãi mãi nước chỉ là nước trong, tinh khiết mà thôi. Bộ đội mà lại nói điêu với dân, là vi phạm chính sách dân vận, làm phương hại đến tình quân dân cá nước.
   Thế là tôi bèn xin phép vợ, lấy giấy bút ra và viết lại chuyện này. Tôi phải nói thật, nói hết cho đủ đầu đuôi, ngọn ngành.
   Lúc đầu, tôi định đặt tên là "Bản kiểm điểm", nhưng thấy nó có vẻ hành chính thế nào ấy. Sau định chọn tên là "Tự thú trước bình minh"; nhưng lại nhớ ra rằng: năm 1981, cố đạo diễn Phạm Kỳ Nam đã làm bộ phim có tên như thế với cặp diễn viên chính tài sắc là Thế Anh và Lê Vân rồi. Cuối cùng, tôi lấy cái tên đơn giản như thế này cho gần với nội dung câu chuyện …




Chuyện tình của Bảo.
(Tặng người Vợ bé bỏng của tôi)

   Nhóm trinh sát chúng tôi lần được ra đến bờ sông thì trời đã ngả chiều. Cả nhóm quyết định ngồi nghỉ giải lao trên triền dốc. Trời cao nguyên trong xanh vời vợi. Mới bước sang tháng ba mà thời tiết đã có vẻ oi nồng. May là trời về chiều, có gió nên cái nóng cũng giảm đi. Chúng tôi cởi phanh cúc áo ngực ra đón những luồng gió mát từ mặt sông Pa thổi lên. Vẫn đang là mùa khô nên sông cạn nước. Lòng sông thu hẹp lại để trơ ra đôi bờ dốc đứng sâu hun hút. Hai bên bờ chỉ toàn là rừng cây lúp xúp. Lùi lại xa hơn là những vạt đồi cỏ tranh dài tít tắp, vàng ươm đang dập dờn trước gió. Trông xa như những cánh đồng lúa chín ngày mùa.
   Lần trinh sát này của nhóm chúng tôi không phải hướng ra tuyến trước như mọi khi, mà là đi ngược lại phía Tây, lùi sau cả khu hậu cứ. Nhiệm vụ không nguy hiểm, nhưng có phần khó khăn. Chúng tôi đang đi tìm khu đất thích hợp để Tiểu đoàn phát rẫy tăng gia, trồng lúa. Bảo và Trí lấy túi thuốc lá sợi ra, quấn thuốc loa kèn rồi châm lửa hút. Tôi ngồi lùi lại phía sau, gác khẩu AK báng gấp lên đùi và nhìn ra mặt sông miên man nghĩ.
                           *
                         *  *
   Mặt trận B3 của chúng tôi là địa bàn Tây nguyên. Đường vận tải tiếp tế súng đạn và hậu cần  ở miền Bắc chuyển vào qua đường Trường Sơn, hay từ Cam Pu Chia đưa sang qua biên giới đều xa, nên chúng tôi phải chịu nhiều thiếu thốn  khác kiểu so với các chiến trường khác.
            Nhớ lại hồi mùa mưa năm 1972, Sư đoàn chúng tôi tổ chức đánh vây ép Kon-Tum để chia lửa cho Mặt trận Quảng Trị. Dự kiến chiến đấu trong 5 ngày, vậy mà mỗi người chỉ có khẩu phần ăn là một khúc sắn luộc dài độ gang tay và 5 quả chuối xanh luộc. Đêm hành quân tiềm nhập vào trận địa, trời mưa rả rích. Chúng tôi phải gói chặt khẩu phần ăn vào mảnh nilon để chống nước. Tới trận địa khoảng 10 giờ đêm, rồi hì hục đào hầm cá nhân cho đến 3 giờ sáng. Mùa mưa, đất mềm. Đạp chân vào xẻng xắn đất thì dễ, nhưng lúc hất xẻng đất ra thì khó vô cùng. Đất đỏ bazan bám chặt vào xẻng, phải dùng tay cậy mới  ra. Đào xong được cái hầm cá nhân đủ chui người xuống thì đã mệt lắm rồi. Quần áo bê bết đất, nhão nhoét như bùn. Trời mưa thấm ướt từ mặt  áo ngoài, còn  mồ hôi  chảy ra thì cũng ướt đẫm mặt áo trong. Đào xong hầm, chúng tôi ngồi nghỉ một lát, rồi không ai bảo ai, tất cả đều chén luôn phần sắn luộc của mình để lấy sức. Mờ sáng, hàng loạt mìn định huớng của ta nổ phá ràng rào để mở màn cho một đợt vây ép. Pháo cấp trên từ xa nã vào trận địa, ùng oàng chừng hai chục phút. Số lượng không đủ để đập nát tuyến tiền duyên của địch. Bộ binh không xung phong đánh chiếm đầu cầu sau đợt pháo cấp tập như những trận đánh cứ điểm khác. Chúng tôi kiên nhẫn bao vây chờ thời cơ tấn công vào, hoặc tìm cách bắn tỉa tiêu hao sinh lực địch. Ta bắn vào thì ít, mà địch bắn ra thì nhiều.
          Suốt mấy ngày vây ép, trời mưa nên hầm hào của chúng tôi lúc nào cũng ngập nước đến ngang hông. Ngâm nước suốt mấy ngày, từ hông đùi trở xuống luôn tê cóng, cả bàn chân bợt ra, nhăn nhúm. Ngày 3 lần, đến bữa là chúng tôi lại giở gói đồ ăn, cẩn thận cắt 1 phần 3 quả chuối xanh luộc rồi nhẩn nha ăn. Hai ngày đầu còn khá. Đến ngày thứ ba thì mẩu chuối  cứng ngắc, lại có vẻ muốn thiu. Nhưng nếu như được phép ăn, thì ngay cả hai quả chuối luộc còn lại chúng tôi cũng có thể chén bay ngon lành, vì đói. Mấy ngày ngâm nước và đói đã làm chúng tôi kiệt sức, chỉ lo đến lúc có lệnh xung phong thì  không còn đủ sức mà bật dậy nữa.
   May mà đến đêm thứ tư thì có lệnh rút lui. Không những chúng tôi bỏ trận vây ép ấy, mà cả sư đoàn còn hành quân liền mấy chục cây số rút thẳng sang đất Cam Pu Chia để củng cố cho đến hết mùa mưa.
   
            Lại nữa: năm 1973, Hiệp định Pari về đình chiến ở Việt Nam được ký kết. Chúng tôi cắm chốt, giữ cờ. Rồi đánh địch lấn chiếm hòng "Tràn ngập lãnh thổ". Tháng 10/1973, Trung đoàn chúng tôi đánh căn cứ Chư-nghé, tiêu diệt  một tiểu đoàn nguỵ đóng giữ tại đây, mở rộng hành lang bảo vệ đuờng 10, một đường nhánh Đông Trường Sơn.
   Nhưng chúng tôi vẫn còn đói, thiếu cả ăn và mặc. Đến tận cuối năm 1973, khẩu phần ăn của chúng tôi nhiều khi vẫn chỉ có 3 lạng gạo một ngày. Đánh trận, tập luyện hay đi vận tải đạn dược thì vẫn chỉ ăn như thế. Nắm cơm trưa một lạng gạo chỉ to như quả trứng vịt, nhét vừa túi áo. Bữa tối được ăn thêm bát đỗ xanh hầm. Đỗ xanh cấp phát cho chúng tôi, không biết cất giữ từ bao giờ, nhưng bốc cả nắm đỗ thả vào bát nước thì chỉ có đôi ba hạt chìm, còn lại nổi lềnh bềnh. Trong mỗi hạt đỗ đều có một cái lỗ do mọt đục Vì thế, đỗ hầm mà không còn nhận ra mùi đỗ.
              Quần áo thì mấy năm liền không được phát. Rách đâu phải tự vá đấy. Vải vá là những miếng vải dù hay quần áo lính nguỵ xé ra. Lính tráng chúng tôi, rồi thằng nào cũng biết khâu vá. Những gói kim khâu dành dụm từ lúc đi B và những sợi chỉ dù tháo ra từ dù pháo sáng trở nên quý giá vô cùng.
   Một lần đi vận tải đạn cối 60, khi vừa ra khỏi đường 10 đến địa bàn Chư-nghé thì chúng tôi gặp một đoàn cán bộ đang ngồi nghỉ chân. Chúng tôi cũng hạ ba-lô để nghỉ ăn trưa. Trong đoàn cán bộ  có một thủ trưởng đã nhiều tuổi. Ông thấy chúng tôi lôi cơm trưa ra ăn chỉ là những nắm cơm bé tẹo, thì ghé sang hỏi chuyện. Ông ướm lời muốn ăn cơm cùng, và đã tỏ ra xúc động khi chúng tôi vui vẻ chia sẻ phần cơm ít ỏi của mình cho ông. Thấy Bảo mặc bộ quần áo có quá nhiều mảnh vá, ông đã hỏi chuyện nó. Rồi chúng tôi chia tay.
           Chiều tối, chúng tôi thấy đoàn cán bộ gặp lúc trưa đến thăm đơn vị. Ông thủ trưởng già hỏi chuyện đơn vị, về việc ăn và mặc của bộ đội. Rồi ông nói với người lính công vụ lấy trong ba-lô ra 1 bộ quần áo còn mới  đổi cho Bảo, để lấy bộ quần áo có tới 24 mảnh vá của nó. Ông còn lấy thêm 1 nắm đỗ xanh mọt của chúng tôi. Chuyện đó ồn ào trong đơn vị một thời gian rồi chúng tôi cũng quên đi. Mãi về sau chúng tôi mới biết, đó là đoàn cán bộ cao cấp của Đảng và Chính phủ vào thăm chiến trường. Vị thủ trưởng già đến thăm đơn vị chúng tôi  chính là nhà thơ Tố Hữu. Sau này khi ra Bắc, ông có làm Trường ca "Nước non ngàn dặm", trong đó có câu:
      "Trường Sơn đông nắng, tây mưa.
      Ai chưa đến đó như chưa rõ mình"


làm nức lòng bao người lính.


(Còn tiếp...)


Tiêu đề: Chuyện tình của Bảo
Gửi bởi: Trinhsat trong 16 Tháng Chín, 2008, 05:20:41 pm

     Chiến tranh chắc còn kéo dài. Các tiểu đoàn  phải tự tổ chức trồng lúa, sắn … để tự túc một phần lương thực cho đơn vị  mình. Thực hiện chủ trương đó, nhóm trinh sát chúng tôi đựơc Tiểu đoàn giao cho  nhiệm vụ đi ngược lại phía Tây tìm đất tăng gia. Thế là tôi, Bảo và Trí lên đường. Chúng tôi có bản đồ để định hướng, song vẫn phải kiểm tra thực địa. Chúng tôi đã tìm được rải rác bên bờ đông sông Pa nhiều khoảnh rừng đồi có suối chảy qua, chủ yếu là rừng tái sinh có các cây lúp xúp. Một số cây to thì chỉ bằng cỡ bắp chân. Loại rừng này rất phù hợp cho phát rẫy làm nương, vừa dễ chặt, vừa có đủ tro khi đốt rẫy.
   Dân trinh sát vốn có thói quen mở rộng tầm quan sát địa bàn tại nơi trú quân, vì thế sau khi tìm xong khu đất tăng gia, chúng tôi quyết định vượt qua phía tây sông Pa xem bên đó có gì.
*
**
   Mặt trời đã hạ thấp xuống phía Tây, chỉ còn hắt nắng trên những ngọn cây. Chúng tôi phải vượt sông sang bờ tây trước khi trời tối. Trên cao nguyên, ban ngày tuy nóng, nhưng về đêm trời lại lạnh. Dòng sông Pa nước chảy lững lờ nhưng cũng khá sâu. Bảo là dân Hải Hậu, Nam Định vốn quen sông nước nên bơi trước dò đường. Trí và  tôi bơi sau. Sang đến bên kia sông, chúng tôi leo lên bờ rồi mặc quần áo. Xem lại bản đồ, chúng tôi đi quanh một khoảnh rừng rồi dừng lại nghỉ đêm. Ngày mai chúng tôi sẽ kiểm tra tiếp khu rừng này.
   Hôm sau chúng tôi dậy sớm. Tôi tổ chức cảnh giới và cử Trí nấu cơm. Sau đó, chúng tôi lên đường. Hướng rừng mà chúng tôi chọn nằm đối diện qua sông Pa với khu đất sẽ tăng gia.
   Đạp rừng đi chừng 1 cây số thì chúng tôi bắt gặp 1 vệt đường mòn nhỏ, có dấu chân người. Đi tiếp vài trăm mét nữa thì gặp một cái chòi nhỏ nằm đơn độc giữa rừng. Cả nhóm dừng lại, tản ra, cảnh giới và quan sát. Loại chòi này thường chỉ làm trên nương vào mùa rẫy, không hiểu sao lại có ở giữa rừng. Chúng tôi đi vòng rộng ra xung quanh. Không có gì đặc biệt, nhưng hình như trong chòi có người. Vẫy tay ra hiệu cho Trí ở lại cảnh giới, rồi tôi và Bảo leo lên chòi. Trong chòi có một cô gái người dân tộc. Cô gái vẫn ngồi im, và ngước mắt nhìn chúng tôi, không hề tỏ vẻ ngạc nhiên hay sợ hãi.
   -Chào đồng bào. - Tôi lên tiếng, dù không biết liệu cô ta có hiểu tiếng Kinh không.
   - Chào bộ đội.- Cô gái trả lời rất rõ ràng bằng tiếng Kinh trong sự ngạc nhiên của tôi và Bảo.
   - Cô làm gì mà ở đây có một mình.
   - Mình ở đây chờ ngày cúng Thần mà. - cô gái đáp.
   Cảm thấy có điều gì là lạ, tôi và Bảo ngồi xuống sàn, bên cạnh cô gái, định lân la hỏi chuyện. Khi cô gái đứng lên với tay lấy bầu nước để mời chúng tôi, thì cả tôi và Bảo đều giật mình kinh ngạc. Cô gái còn quá trẻ, chỉ độ 17, 18 tuổi, nhưng thật xinh đẹp. Nước da trắng và khuôn mặt hồng hào của cô khác hẳn với những người dân tộc mà chúng tôi đã từng gặp trên mảnh đất cao nguyên này. Chúng tôi thoáng nghĩ, có lẽ cô không phải là người dân tộc chăng? Thế nhưng chúng tôi đã nhầm. Cô gái đúng là người dân tộc. Cô ngồi nói chuyện với chúng tôi bình thản, và tự nhiên như là chúng tôi đã đóng quân ở nhà cô từ lâu lắm rồi. Và câu chuyện về cô còn làm chúng tôi ngạc nhiên hơn.
   Cô tên là H' Lan. Bản của cô là một bản thuộc vùng cách mạng, lập lẫn trong rừng. Bản đã từng nhiều năm sống cùng bộ đội giải phóng, nên mọi người đều biết tiếng Kinh. Từ nhỏ cô vẫn sống bình thường với gia đình. Nhưng từ một mùa rẫy trước, mọi người trong bản nhận thấy cô càng lớn càng xinh đẹp. Nước da của cô trắng hồng, chứ không đen mốc như mọi ngưòi. Cô cũng cảm nhận thấy thế. Dân bản bắt đầu xì xào và rồi qui kết rằng cô là người ma.
   - Con ma đã nhập vào nó rồi.- Họ bảo thế.
   Riêng H' Lan, cô không cảm thấy gì. Song dân bản vẫn cứ nói rằng cô là người ma, có hại cho Bản. Họ nhìn cô sợ hãi, rồi xa lánh cô. Bố mẹ cô không biết làm thế nào, cũng phải tin theo dân bản. Cuối cùng, cả Bản quyết định làm 1 cái chòi trong rừng để đưa cô ra đấy ở.
    - Thật là vô lý.- Chúng tôi nói. Và trong chúng tôi còn dâng nên một nỗi bực tức khó nói thành lời.
   Chia tay H' Lan, chúng tôi tiếp tục đi về hướng Bản theo lời cô chỉ. Đi khá lâu, chúng tôi mới gặp một vài cái rẫy, rồi đến Bản. Cả Bản chỉ chừng hơn chục nóc nhà nằm trên một đồi trống. Chúng tôi tìm đến nhà Già bản. Sau khi nói chuyện, chúng tôi xác định được câu chuyện của H' Lan là đúng. Chúng tôi đã thuyết phục Già bản không phải H' Lan có ma. Cô ấy đẹp là điều tốt cho bản chứ không có hại gì. Nhưng dù chúng tôi nói thế nào cũng không làm thay đổi được ý nghĩ của Già bản. Chúng tôi đành bất lực ra về.
   Sau khi trở về đơn vị, ba chúng tôi thường gặp nhau để nói về chuyện H' Lan. Chúng tôi cảm thấy tức ghê lắm. Thằng Trí còn bảo:
   - Cứ nghĩ như thế thì thảo nào mà người dân tộc chỉ có đen và xấu mãi thôi.
   Bảo cũng tư lự. Hình như trong nó có điều gì đó.
*


Tiêu đề: Chuyện tình của Bảo
Gửi bởi: Trinhsat trong 18 Tháng Chín, 2008, 02:24:10 pm
       
       Một tuần sau, nhóm trinh sát chúng tôi lại được giao đến khu tăng gia. Chúng tôi lại vượt sông Pa sang khu rừng có chòi của H' Lan. Lần này thì chúng tôi đã cảm thấy gần gũi hơn với cô. Chúng tôi cùng nấu cháo ăn, và kể nhiều chuyện cho cô nghe. Chúng tôi kể về miền Bắc, kể về các cô gái được học và được vui chơi ca hát. Mọi người rất quý các cô gái đẹp. H' Lan cười, vui lắm.

*
   Sau đó, chúng tôi đưa đơn vị đến khu tăng gia để phát rẫy. Tháng ba ở Tây nguyên là mùa làm nương phát rẫy của người dân tộc. Thời gian này không có mưa. Bầu trời lúc nào cũng xanh trong và đầy nắng. Sau khi phát rẫy xong, để độ 1 tháng cho cây, lá khô giòn. Tầm cuối tháng tư đốt rẫy. Khi rẫy đã cháy hết thì những cơn mưa đầu mùa tháng năm đổ xuống sẽ trải lớp tro ngấm xuống đất làm chất bón tự nhiên. Cuối tháng năm  bắt đầu tra lúa, trỉa bắp hoặc cắm hom sắn.

   Đấy là nói trước về mùa làm rẫy, còn lúc này vẫn là tháng ba. Chúng tôi vẫn liên tục tìm cách vượt sông Pa sang với H' Lan. Càng ngày chúng tôi càng thân thiết với cô. Chúng tôi thấy cô càng ngày càng đẹp hơn. Hàm răng trắng khi cười. Và đôi môi nhiều lúc đỏ hồng lên, dù chẳng son phấn gì. Nói chuyện và được ngắm H' Lan, chúng tôi tự cho đó là diễm phúc thật khó có được trong những năm tháng chiến trường. Riêng Bảo, cậu ta còn đem lòng yêu H' Lan, và được cô đáp lại. Cũng phải thôi, Bảo là thằng đẹp trai nhất hội, lại ăn nói có duyên và có nhiều tài lẻ như hò hát và chơi ghi-ta. Cái vóc người rắn rỏi và vẻ tự tin, bạo dạn của nó thì chính chúng tôi cũng thích và mến, nói gì đến một cô gái như H' Lan. Chúng tôi không phản đối, nhưng thực tình không hiểu kết cục rồi sẽ đi đến đâu. Điều duy nhất chúng tôi làm được lúc đó là giữ bí mật câu chuyện này. Chỉ cần thấy H' Lan vui là chúng tôi đã mãn nguyện rồi.

   Nhưng rồi tình hình ngày càng khó khăn hơn cho chuyện tình của Bảo. Tuyến trước đang yêu cầu thay quân đổi chốt. Khu rẫy cũng đã phát xong, đang chờ cây lá khô để đốt. Nhiệm vụ của trinh sát cũng không đòi hỏi nhiều gì ở khu tăng gia để chúng tôi có cớ vượt sông Pa. Hơn nữa, trong một lần qua sông, chúng tôi còn biết dân bản đang chuẩn bị đến khi đốt rẫy sẽ đem H' Lan thả trôi sông để tế Thần. Thật là mu muội. H' Lan đón tin đó bình thản như chuyện sẽ phải thế. Riêng chúng tôi thì công phẫn vô cùng. Đời một con người cơ mà, sao lại có thể nhẫn tâm như vậy. Thằng Bảo thì bồn chồn ra mặt và lo lắng thật sự. Nó quyết định nói thật hết với chúng tôi. H' Lan đã có mang. Nó sẽ cứu cô ấy và sẽ đem cô đi trốn.

   Thật là chuyện động trời. Mới nghe, chúng tôi cũng choáng váng. Nhưng rồi bình tâm lại, chúng tôi thấy đó là cách duy nhất và cũng thật là tuyệt vời để cứu H' Lan. Bảo và H' Lan yêu nhau thật sự. Hơn nữa Bảo lại mồ côi cha mẹ, không có anh em. Khi còn ở ngoài Bắc, nó sống với ông bác ruột. Bảo đi bộ đội cũng là do nó xung phong. Nay nếu có vấn đề gì xảy ra với Bảo, thì bác nó ở ngoài Bắc chắc cũng không phải liên luỵ nhiều lắm. Nhưng cần phải lên một kế hoạch chu đáo, sao cho ít rủi ro nhất.

   Thế là chúng tôi lên kế hoach và bắt tay vào khẩn trương chuẩn bị. Về cơ sở vật chất, phải có đủ quần áo cho cả H' lan và cháu bé sau này. Phải có đủ nilon, tăng võng nằm rừng. Rồi còn phải có dao để phát rẫy, làm lán, có bật lửa, có Hăng-gô để nấu cợm…Chúng tôi ngấm ngầm lên danh sách, tìm nguồn. Tất cả đều phải làm trong bí mật. Trong chiến tranh, bí mật với địch đã khó, bí mật với đồng đội còn khó hơn. Nhưng dứt khoát phải bí mật, vì ngoài ba chúng tôi thân thiết với nhau, thêm một người nữa biết là bất lợi.

   Giữa tháng tư, trong một lần đi trinh sát Đồi Dài 525 bên đường 5B, nhóm chúng tôi gặp 1 tốp thám báo của địch. Chúng cũng có ba tên. Nếu như mọi khi thì chúng tôi lờ đi, vì nhiệm vụ của trinh sát chỉ là nắm tình hình, bất đắc dĩ mới nổ cúng. Nhưng tôi hội ý nhanh với cả nhóm rồi quyết định nổ súng. Chúng tôi bí mật tiếp cận. Ba loạt đạn AK nổ đanh đã tiêu diệt gọn tốp thám báo. Chúng tôi nhanh chóng thu súng, lấy ba-lô; không quên lục túi lấy hết mọi thứ, tháo cả giầy rồi kéo xác chúng tấp vào bụi rậm. Về nhà, chúng tôi báo cáo, nộp súng chiến lợi phẩm, còn mọi thứ khác thì giấu trong rừng. Trong ba-lô của bọn thám báo đủ cả chăn dù, quần áo, gạo xấy, dao găm, bật lửa, bi-đông, áo mưa… Chỉ lo Bảo có đủ sức mang hết được mọi thứ không.

   Cơ sở vật chất thì tạm ổn, nhưng đến lúc này chúng tôi cũng chưa xác định được là Bảo và H' Lan sẽ trốn đi đâu và vào lúc nào.

   Chúng tôi vẫn cứ phải làm nhiệm vụ bình thường. Ngày lại ngày trôi qua. Chúng tôi vô cùng sốt ruột, bụng nóng như lửa đốt. Tháng tư đã trôi gần hết. Nếu chúng tôi không cứu kịp H' Lan, dân bản thả cô ấy trôi sông  rồi thì cả ba chúng tôi sẽ phải ân hận suốt đời. Sáng nào ngủ dậy, mặt thằng Bảo cũng dài ra nhìn tôi và Trí dò hỏi. Có lúc nó đã phải buột miệng bảo tôi:
   - Hay là tao cóc đợi nữa. Đằng nào cũng là trốn, thì đến đêm tao cứ chuồn. Coi như là đảo ngũ cũng được chứ  quái gì.
   - Không được. Mày làm thế, đơn vị nó cử người đi bắt thì hỏng hết. Tao nghĩ cũng sắp ra kế rồi. - Tôi nói cứng, gàn nó, song trong lòng tôi cũng rối bời. Tôi nghĩ, cùng quá có khi cũng phải làm theo như nó nói thôi.

(Còn tiếp...)




Tiêu đề: Chuyện tình của Bảo
Gửi bởi: Trinhsat trong 20 Tháng Chín, 2008, 10:55:37 am

       May làm sao, trời xanh còn thương cho mối tình éo le của Bảo. Đúng vào ngày cuối tháng tư, nhóm bộ đội trông coi khu tăng gia báo về có bắn được lợn rừng. Thế là nhóm chúng tôi được cử đi nhận thịt cho Tiểu đoàn bộ.

        Tôi nhận nhiệm vụ mà mừng vô kể, nói không ra hơi. Tôi chỉ kịp nháy với Bảo và Trí, rồi cả bọn lên đường. Để giữ bí mật, Bảo không được mang theo hết tư trang cá nhân. Chúng tôi ra rừng lấy những thứ đã giấu rồi đi như chạy về khu tăng gia. Quãng đường 5 tiếng đồng hồ mọi khi, chúng tôi đi chỉ hết chưa đầy 4 tiếng. Chúng tôi giông thẳng ra sông Pa, vượt sông sang chỗ H' Lan.

        Thời cơ không đến nhiều lần trong cuộc đời con người, và vào thời điểm ấy thì thường đầu óc người ta trở nên sáng suốt lạ thường. Ngay tại cái chòi ấy, chúng tôi đã lập xong kế hoạch chạy trốn cho đôi bạn và nói hết tất cả cho H' Lan.  Bảo và H'Lan sẽ đi trốn, không phải ra phía Bắc, mà là hướng vào phía Nam. Trong tay trinh sát chúng tôi chỉ có tấm bản đồ tỷ lệ 1:50.000 với chiều rộng thực địa 40km x 40km. Song chúng tôi cũng suy đoán được rằng phía rừng sát Trường Sơn thuộc Đăk Lăk còn nhiều khu rừng nguyên sinh. Nơi đó cách xa các con đường chiến lược, nên chỉ có thú rừng chứ không có cả ta và địch. Vợ chồng Bảo sẽ đi xuống đó, tìm cách làm chòi, săn bắn, bắt cá và kiếm củ rừng để sống. Sau nữa là tăng gia.  Rừng đã nuôi sống đồng bào các dân tộc Tây nguyên từ cả ngàn đời nay, thì cũng sẽ nuôi sống họ. Chỉ có quyết tâm lớn và tình yêu cháy bỏng của đôi bạn mới giúp họ vượt qua được thử thách trước mắt.

         H' Lan nghe mà xúc động ghê lắm. Nhưng rồi cô cũng phải đồng ý. Đêm hôm đó là một đêm đáng ghi nhớ với tất cả. Chúng tôi hì hục chuẩn bị cho hai người. Đồ đoàn của họ bó gọn vào  hai ba-lô. Lương thực chỉ có 7 cân gạo, ít túi cơm sấy và một túi muối. Bảo mang theo toàn bộ súng đạn cá nhân, thêm mấy quả lựu đạn mỏ vịt. Ngoài ra còn đủ cả dao rừng và xẻng công binh Mỹ. Chúng tôi đưa nó cả bản đồ, địa bàn và đèn pin cổ ngoéo chiến lợi phẩm của Mỹ, loại không thấm nước.

   Đêm hôm đó trời lại đổ mưa to, gần sáng mới tạnh. Cơn mưa đầu mùa đến sớm này lại giúp tôi nghĩ ra thêm một kế để tránh cho Bảo cái tội đảo ngũ. Dù chưa thật hợp lý, song tôi đã phác ra trong đầu cái lý do là Bảo bị thất lạc khi vượt sông. Như vậy sẽ không có ai phải đi tìm Bảo trên rừng nữa.

   Trời sáng, chúng tôi dậy sớm, luộc mấy củ sắn ăn, rồi tiễn vợ chồng Bảo lên đường. H' Lan để nguyên lại mọi thứ của dân bản trong chòi, rồi khoác ba-lô theo Bảo. Nhìn cô ấy đeo cái ba-lô to tướng và đi đôi giầy nặng chịch lấy của bọn thám báo dạo nào, tôi thấy thương vô cùng. Chúng tôi chia tay nhau thật bùi ngùi, xúc động. Cuộc chia ly này là không hẹn ngày gặp lại. Từ nay, trong nhóm trinh sát của chúng tôi sẽ vắng mặt Bảo. Chúng tôi sẽ nhớ nó và H'Lan lắm, nhưng chỉ được nhớ trong lòng. Lúc này, không điều gì có thể nói ra được thành lời.

          Tôi và Trí lần lượt ôm tiễn cả Bảo và H' Lan. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi ôm một người con gái. Trong vòng tay nhỏ bé của tôi, H'Lan còn bé nhỏ hơn. Người cô ấy hơi run lên khiến lòng tôi đau nhói, như mình đang tiển cô ấy đi làm một nhiệm vụ nguy hiểm mà không hẹn được ngày trở về. Lúc đó, tôi nghĩ H' Lan như một người em gái của mình, mà thấy xót xa. Rồi Bảo và H' Lan hấp tấp lên đường. Phía trước họ là tự do, nhưng đầy gian nan thử thách. Tôi chỉ còn biết tin tưởng ở ý chí và nghị lực của Bảo, một thằng lính trinh sát tháo vát, kiên cường.

          Đi được một đoạn, Bảo và H'Lan ngoái lại nhìn chúng tôi. Tự nhiên, nước mắt của tôi và Trí cùng trào ra. Tôi kêu lên:
   - Các cậu đi nhanh đi, đừng nhìn lại nữa. Khéo không chúng mình không chia tay nhau được bây giờ.

   Nhìn theo Bảo và H' Lan đi dọc theo sông Pa đã xa, tôi thầm chúc cho họ chân cứng đá mềm và tìm được hạnh phúc. Họ đã chạy trốn theo tình yêu. Mà tôi nghĩ, cuộc chạy trốn nào vì tình yêu thì cũng đều là bản tình ca bất diệt.
 
     Một nỗi buồn, man mác trào dâng lên trong chúng tôi. Một nỗi bâng khuâng khó tả. Nhưng tôi và Trí đều cảm thấy an lòng vì đã góp phần cứu được H'  Lan thoát khỏi hành động vừa ngu dốt, vừa mu muội của những người đồng bào của cô. Ngày trước, mẹ tôi thường bảo: Cứu sống được một người bằng tu cả đời.

   … Hôm đó là ngày 1/ 5/ 1974.

(Còn tiếp ...)


Tiêu đề: Chuyện tình của Bảo
Gửi bởi: Trinhsat trong 22 Tháng Chín, 2008, 08:41:44 pm
        Tôi và Trí vượt sông trở lại khu tăng gia. Nước sông có dâng cao hơn mọi khi, và sẽ còn dâng lên nữa theo nước nguồn đổ về. Tại khu tăng gia, chúng tôi báo qua tình hình, rồi nhận thịt để quay về đơn vị. Khu tăng gia chỉ có ba người, nên nghe tin Bảo bị trôi sông, cũng chẳng có ai dám ra quyết định gì.

         Buổi trưa, chúng tôi về đến Tiểu đoàn bộ. Sau khi giao thịt, chúng tôi lên báo cáo tình hình cho Thủ trưởng tiểu đoàn. Tiểu đoàn phó nghe tin, gầm lên tức giận. Ông bảo, ai cho các cậu qua sông, mà qua để làm gì cơ chứ? Lại nữa, nước sông mới qua trận mưa đầu, đâu có ghê gớm gì. Thằng Bảo nó là dân sông nước sao lại chết đuối được, trong khi các cậu chỉ thuộc loại tòm tõm bơi ao lại qua sông được … Ông quát tháo một hồi, không cho chúng tôi kịp thở. Mãi sau, tôi mới lí nhí phân bua là hôm qua, lúc đến bờ sông, chúng em thấy  bên kia sông có khói nên bơi qua kiểm tra tình hình, rồi ngủ lại ở bờ sông thì bị mưa. Lúc sáng sớm chúng em bơi về, khi sang đến bờ thì không thấy Bảo đâu. Chúng em có gọi và tìm mãi mà không thấy.

         Tiểu đoàn phó quát mắng thêm một hồi nữa, rồi đuổi chúng tôi về lán, bắt viết kiểm điểm tường trình. Tôi và Trí cứ y như đã bàn mà viết. Đơn vị không thể cử người ra sông tìm Bảo nếu quả thật Bảo bị trôi sông, vì đã quá muộn. Các thủ trưởng cứ cố gặng hỏi chúng tôi vì nghi có điều gì đó, song cũng phân vân vì mấy ai đã đảo ngũ được một mình. Bảo tạm được coi như đã mất tích trong khi làm nhiệm vụ.

         Sau đó mấy hôm, cả tôi và Trí đều bị kỷ luật, đưa xuống đơn vị bộ binh chiến đấu. May là cả hai chúng tôi  được bổ sung vào cùng tiểu đội.
*
**
   Đầu năm 1975, mặt trận chuyển hướng. Sau khi đánh trận cuối cùng ở chân cao điểm 631, đầu tháng hai Trung đoàn chúng tôi hành quân rời địa bàn Gia Lai để chuyển xuống Đak Lăk. Chúng tôi sẽ làm nhiệm vụ đánh cắt địch trên đường 14, ngăn quân tiếp viện để Sư đoàn 316, Sư 10  và các đơn vị trong Quân đoàn đánh chiếm Buôn Mê Thuột.

   Vốn là dân trinh sát, lại qua hơn 8 tháng trời thử thách chiến đấu trong đơn vị bộ binh, hoàn thành tốt nhiệm vụ, nên tôi và Trí lại được tham gia vào đoàn tiền trạm, đạp rừng tìm đường đưa bộ đội xuống Đăk Lăk. Đoàn tiền trạm xem bản đồ, cắt rừng đạp đường xuống phía Nam. Đi đến đâu, chúng tôi vạc vỏ cây đánh dấu đường đến đó. Chúng tôi đi tập trung theo đoàn. Thỉnh thoảng tại 1 vài điểm dùng chân, Đoàn trưởng cử các tốp nhỏ đạp đường ngang sang hai bên để kiểm tra tình hình.

         Dọc đường đi, chúng tôi thấy có rất nhiều khu rừng còn nguyên sinh. Có khi đi hàng ngày trời mà không thấy dấu tích của bom đạn. Rừng rậm, nhiều cây cổ thụ đủ loại. Muông thú, chim chóc rất nhiều. Có đoạn, chúng tôi đi dọc 1 suối đất cạn thì thấy trong lòng suối có cả một đàn lợn cỏ cỡ vài chục con đang sục kiếm ăn. Nếu không vì đang hành quân, thì chỉ cần có gậy gỗ thôi, xuống chặn hai đầu cũng đập được vài con. Ở những quãng rừng thưa, thỉnh thoảng lại thấy bóng nai, hoẵng chạy vụt qua. Có lần, ở bên cạnh một con suối cạn, thấy có mấy cái hố to như hố bom, cá quẫy dày đặc. Chúng tôi đoán, vào mùa mưa bọn cá từ suối bơi vào đây, đến khi nước rút không kịp bơi ra nên phải sống suốt mùa khô trong các hố đó. Đoàn trưởng tiền trạm linh động cho phép chúng tôi dừng lại chừng một tiếng. Chúng tôi lấy màn tuyn ra làm lưới. Chỉ vợt đi vợt lại dăm lần ngang hố, chúng tôi đã bắt được gần chục cân cá. Nhiều con to cỡ bàn tay. Tối hôm đó, cả đoàn được một bữa ăn tươi với cá luộc, và canh cá chua nấu với lá chua rừng.

   Chúng tôi đi tiếp. Một hôm, bên một bãi đất sát chân núi, chúng tôi còn gặp một lũ công đất. Những con công đen tuyền, to như những con ngỗng đang nhảy múa với nhau. Đến đêm, giữa rừng già sâu thẳm bên những đỉnh núi cao chót vót, chúng kêu lên từng tràng dài, nghe như tiếng trẻ con khóc kêu gọi mẹ trong đêm, thật não nùng.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: Trungsy1 trong 22 Tháng Chín, 2008, 09:33:24 pm
 ...Chúng tôi đi tiếp. Một hôm, bên một bãi đất sát chân núi, chúng tôi còn gặp một lũ công đất. Những con công đen tuyền, to như những con ngỗng đang nhảy múa với nhau. Đến đêm, giữa rừng già sâu thẳm bên những đỉnh núi cao chót vót, chúng kêu lên từng tràng dài, nghe như tiếng trẻ con khóc kêu gọi mẹ trong đêm, thật não nùng....

Đây đích thị là loài công đất mà tôi đã từng kể với các bạn. Đêm nó đi theo bầy kiếm ăn. Tiếng kêu nức nở như oan hồn, như ma hú trong đêm vắng. Ai không biết nghe nó kêu phải sởn tóc gáy. Kêu thế thôi nhưng thịt rất ngon. Nói nem công chả phượng là khen thịt con này chứ chắc gì loài công tốt mã kia.
Công này quen bãi, ăn mãi một chỗ. Rất ngu! Hôm trước bắn trượt nó nhưng hôm sau nó vẫn ăn ở bãi cũ nên không thoát được với mấy ông lính mình.
 
 


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: dongadoan trong 22 Tháng Chín, 2008, 09:43:41 pm
Nói nem công chả phượng là khen thịt con này chứ chắc gì loài công tốt mã kia.
-------------------------------------------
 Có lẽ vậy, bác ạ! Loại công "tốt mã" Pavo muticus kia có cái mật rất độc, nếu làm thịt không cẩn thận sẽ gây ngộ độc cho người ăn. ;D


Tiêu đề: Chuyện tình của Bảo
Gửi bởi: Trinhsat trong 24 Tháng Chín, 2008, 04:01:25 pm
         Một buổi chiều, khi đã đi cách địa bàn cũ chừng một trăm cây số, đoàn tiền trạm dừng lại. Tôi và Trí được giao nhiệm vụ đạp rừng qua phía Tây khảo sát địa hình.

         Đi được độ hơn cây số, chúng tôi gặo một đầm nước. Xem trên bản đồ thì đầm này khá rộng, nằm lẫn trong rừng già. Trên thực địa, chúng tôi thấy xung quanh đầm toàn là lau lách và cỏ dại cao lút đầu người. Gianh giới bờ và nước không rõ ràng. Đầm có vẻ nông, nước trong. Chắc cũng có rất nhiều cá, và cả đỉa nữa. Trong những đầm nước ở rừng già như thế này thì chỉ có một loại đỉa trâu to sụ thôi. Dạo trước ở hồ Nao-Bay và đầm Đăk-Ly, chúng tôi đã gặp lũ đỉa như thế. Chỉ cần lội chân trần dăm mét dưới nước, lúc co chân lên đã thấy dăm bảy chú đỉa trâu da sù sì màu xanh đen to như ngón chân cái bám vào bắp chân. Người không quen, chỉ cần nhìn thế thôi đã đủ nổi da gà.

   Men theo đầm nước, vòng hẳn sang phía bờ bên kia, chúng tôi gặp một khoảng rừng trống nho nhỏ.  Thật không thể tưởng tượng nổi, trong cuộc đời lại có những sự ngẫu nhiên may mắn đến vậy. Chúng tôi nhìn thấy một cái chòi nằm gần mé nước. Chòi làm theo kiểu nhà sàn, ghép bằng cột gỗ. Phần trên làm đủ vì kèo, rui mè như những cái lán bộ đội chúng tôi vẫn làm trong rừng. Mái nhà và xung quanh vách được lợp và che bằng cỏ tranh. Hai đứa chúng tôi nhìn cái chòi lạ, mà thấy thật thân quen. Linh tính mách bảo điều gì đó.

           Chúng tôi leo lên chòi. Bên trong không có ngưòi. Nhưng tất cả mọi thứ bên trong, từ nơi đun nấu, nệm cỏ,  và những mảnh vải treo đầu nhà cho chúng tôi biết chòi có người ở, thậm chí có trẻ con. Đồ đạc không có gì, ngoài hai cái bọc ở góc chòi. Nhìn chiếc ba-lô treo ở vách, tôi và Trí cùng kêu lên: Bảo. Đúng là ba-lô của Bảo đây rồi. Hai đứa tôi nhìn nhau, nghẹn lời. Bảo ơi! H' Lan ơi! Bọn tớ đây này.Thế là hai bạn đã dừng chân nơi đây, và đã có con. Chắc cả nhà đang làm ở một cái rẫy bí mật nào đó. Chúng tôi nhẩm tính: vậy là con của Bảo được hơn 1 tháng tuổi rồi. Theo nếp của đồng bào dân tộc, trẻ con chỉ cần đầy tuần đã theo mẹ ra nương. Vì thế mà chúng tôi không gặp ai.

       Chúng tôi cùng bổ ra rừng, tìm loanh quanh một lúc. Chúng tôi muốn gọi to tên Bảo, nhưng không dám vì sợ tiếng vọng qua đầm, nhỡ ra đoàn tiền trạm nghe được. Tôi cũng hú đại lên mấy lần, song chẳng ăn thua gì. Vợ chồng Bảo có nghe thấy, chắc lại sợ nữa là khác. Tôi và Trí ngồi thừ ra.

   Đã đến lúc phải quay ra rồi. Tôi trải vội tấm nilon ra sàn nhà, đặt lên đó cả cái ruột tượng gạo, gói muối. Tôi san luôn cho nó nửa cơ số đạn AK và hai quả lựu đạn. - "Cậu hãy dùng để săn bắn và tự vệ, Bảo ạ". Trí cũng mở ba-lô xếp ra một bộ quần áo vừa được phát hồi đầu tháng, và cởi cái khăn dù bọc vào. Cái khăn dù của Trí, Bảo nhận ra sẽ biết là chúng tôi đã qua đây. Chỉ có điều, nó sẽ không thể biết vì sao mà chúng tôi qua đây. Chúng tôi nhìn lại cái chòi hồi lâu, bùi ngùi rồi quay trở ra đoàn tiền trạm.

*
   Rồi chúng tôi ra đi, đi mãi theo cùng đơn vị, chiến đấu cho đến hết chiến tranh. Từ đó và mãi mãi về sau, tôi không bao giờ còn được gặp hay biết tin gì của Bảo và H' Lan nữa. Sống cách biệt giữa rừng sâu đại ngàn ấy, không biết đến bao giờ, các bạn ấy mới biết là chiến tranh đã kết thúc. Liệu họ có còn  trở lại sống cùng bản làng, giữa những người đồng bào của H'Lan nữa không.

*
**
   Câu chuyện trên chỉ còn mình tôi biết. Trí đã hy sinh trong trận đánh căn cứ Đồng Dù trên cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn sáng 29 tháng tư năm 1975. Tôi đã giữ mãi trong lòng suốt mấy chục năm qua, câu chuyện về mối tình của Bảo và H'Lan, về bản tình ca của một người lính trinh sát Bắc Việt đầy quả cảm và một người con gái đẹp Tây Nguyên bị bản làng ruồng bỏ. Nhưng hôm nay tôi quyết định kể ra, vì nhớ đến các bạn ấy quá.

   Các Thủ trưởng cũ trong Trung đoàn, nếu có ngẫu nhiên mà đọc được chuyện này, chắc sẽ nhớ lại câu chuyện năm xưa về nhóm trinh sát bên bờ sông Pa chúng em. Nay mới được biết sự thật thì chắc các thủ trưởng bực mình lắm. Song em vẫn kể, vì em nghĩ: thời gian trôi qua đã lâu quá rồi. Ba mươi mấy năm. Đó là khoảng thời  gian đủ để người ta biến kẻ thù thành bạn, và coi những người có công như kẻ không có công, thì chắc các Thủ trưởng cũng chẳng còn nỡ lòng nào mà giận chúng em mãi, phải không các Thủ trưởng ?


(Vũ Công Chiến)


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của Bảo
Gửi bởi: NguoiTotbung trong 25 Tháng Chín, 2008, 09:54:17 am
         ......
   Các Thủ trưởng cũ trong Trung đoàn, nếu có ngẫu nhiên mà đọc được chuyện này, chắc sẽ nhớ lại câu chuyện năm xưa về nhóm trinh sát bên bờ sông Pa chúng em. Nay mới được biết sự thật thì chắc các thủ trưởng bực mình lắm. Song em vẫn kể, vì em nghĩ: thời gian trôi qua đã lâu quá rồi. Ba mươi mấy năm. Đó là khoảng thời  gian đủ để người ta biến kẻ thù thành bạn, và coi những người có công như kẻ không có công, thì chắc các Thủ trưởng cũng chẳng còn nỡ lòng nào mà giận chúng em mãi, phải không các Thủ trưởng ?


(Vũ Công Chiến)


Đọc đoạn này của Bác, thấy se lòng .....


Tiêu đề: Kể chuyện "Thần Đề"
Gửi bởi: Trinhsat trong 03 Tháng Mười, 2008, 06:41:19 pm
      Chuyện này kể về một Đội trưởng TNXP thời chống Mỹ trong đời thường.
Anh ấy hiện là Chủ tịch Hội cựu TNXP của một Quận có tiếng ở Hà Nội.
Còn câu chuyện này về anh ấy xảy ra đã lâu rồi. Thật khó lý giải về tình tiết, nhưng xin cứ kể ra đây, coi như một chút vui để các bạn giải trí ...


Kể chuyện Thần "đề"

   Chuyện "đề" ở đây là nói đến chuyện chơi "đề" cờ bạc, mà trong dân gian vẫn gọi là "đề đóm".
   Có thể nói không ngoa là ở nơi nào trên đất nước Việt Nam này người ta cũng biết đến chơi "đề". Có thể ai đó nói rằng họ không ham, không thích, hay thậm chí không chơi, nhưng chơi đề như thế nào, luật của nó ra sao, thì họ lại biết rõ. Cách chơi hết sức đơn giản. Chỉ cần bỏ ra một số tiền đặt cho "chủ đề" kèm theo một con số tự đoán có 2 chữ số. Nếu cuối  ngày, so số đó với 2 số đuôi của giải sổ số đặc biệt (Hà Nội, hay của địa phương nào là do qui ước) mà trùng, thì người chơi được nhận một số tiền gấp 70 lần số tiền đặt. Cái chỉ số gấp 70 lần ấy, chính là ma lực kéo người ta vào trò chơi. Hơn nữa, người chơi có thể đặt tiền chơi từ một nghìn đồng  tới nhiều triệu đồng cho một số đoán. Nghĩa là đối tượng dân cư nào cũng có thể tham gia chơi nếu muốn, không cứ phải có nhiều hay ít tiền.
   Trò chơi "đề" đã bị cấm, bị coi là đánh bạc, là phạm pháp, nhưng nó vẫn cứ phát triển khi công khai, lúc ngấm ngầm mà không có cách gì triệt bỏ được. Dù rằng đánh "đề" bị xếp vào loại tệ nạn xã hội, nhiều người tan cửa nát nhà, nhưng người ta vẫn chơi. Thậm chí nhà nước còn đặt ra một loại xổ số tương tự như cách chơi đề cho người ta chơi công khai để dẹp "đề" chui (hay cạnh tranh?), nhưng kết quả thu được vẫn không khả quan.

    Anh Thiều, Trưởng phòng Quản trị cơ quan tôi là một người say mê món "đề" này. Anh say mê theo một kiểu đặc biệt, muốn nâng kỹ thuật "đánh đề" lên thành một môn khoa học. Không hiểu tìm tòi từ đâu, mà anh khăng khăng là kết quả của giải sổ số đặc biệt xuất hiện theo một quy luật. Lúc thì anh bảo qui luật đó có dính dáng đến toán học, môn xác suất thống kê. Lúc thì anh bảo, đơn giản chỉ là sự gắp thăm tự chọn của một nhóm người quản trị nào đấy, sau đó lái việc quay số mở thưởng theo cái kết quả gắp thăm có trước ấy. Trong túi anh luôn có một cuốn sổ nhỏ kèm theo cây bút bi. Lúc rỗi là lại thấy lôi ra ghi ghi chép chép, rồi tính toán. Nhìn vào cuốn sổ của anh thì chắc Shelockhome cũng chịu thua, không biết bắt đầu đọc từ đâu.
   Anh Thiều chơi "đề" với mức đặt nho nhỏ, nhưng rất hay chơi. Đôi lúc cũng thấy anh "trúng". Khi đó, anh thường đến cơ quan sớm và đứng đón tôi ở cổng ra vào. Anh rủ tôi ra ăn sáng ở quán mỳ vằn thắn đầu phố, là món ăn anh thích khi có chút tiền. Dần dà, tôi cũng quen với lệ đó, và gọi món mỳ vằn thắn là món mỳ "đề". Vừa ăn mỳ, anh vừa hào hứng kể về tình tiết dẫn đến sự đoán trúng số "đề". Anh kể say sưa và phân tích có vẻ logic lắm, nhưng theo cách hiểu của tôi thì, khi mà người ta đã làm xong việc có kết quả rồi, thì phân tích thế nào chả đúng.
   Chuyện anh được gọi là "Thần đề" thật lạ lùng và có chút huyền bí. Chỉ có thể cho đó là một loại ngẫu nhiên, nhưng cũng là sự ngẫu nhiên hiếm có.
   Đấy là một lần anh "trúng" một "con đề" kha khá. Thái độ của anh có chiều khác so với mấy lần "trúng đề" trước. Anh có vẻ tự tin và ung dung hiếm thấy. Anh rủ cả một đám trong cơ quan ra quán nước, đãi kẹo lạc và thuốc lào. Chả là anh rất say món "thuốc lào Vĩnh Bảo". Rồi anh thì thào nghe có vẻ bí hiểm lắm. Thông tin mà anh đưa ra là anh đã tìm ra quy luật đề, với lời tuyên bố xanh rờn: "Từ nay, tớ mà đánh con nào là trúng con ấy". Cả bọn gật gù, nhưng nịnh anh là chính, chứ chưa tin lắm. Riêng bà hàng nước thì nhìn anh ngưỡng mộ như bụt sống hiện lên.
   Khi mọi người đã đứng dậy ra về, anh ghé tai bà hàng nước và nói một con số. Tất cả chỉ cười, rồi ai về phòng nấy.
   Chuyện lạ xảy ra. Tối hôm đó "đề" về đúng con số mà anh Thiều đã nói. Trưa hôm sau cả bọn lại láo nháo kéo nhau ra hàng nước, nhưng lần này do bà hàng nước khao. Bà ta đã đánh một "con đề" có mệnh giá 50.000 đồng và thu về ba triệu rưỡi. Bằng tới hai tháng lãi tiền nước chứ không phải chuyện chơi.
   Cuối buổi, anh Thiều lại phán một con số. Thái độ của anh như một vị thần linh bao dung, độ lượng và tràn đầy nhân ái. Anh đang ban phát của cải của Ngọc Hoàng Thượng đế cho bàn dân thiên hạ. Lần này thì cả đám "chiến sĩ " trong cơ quan nhìn anh thần tượng. Mọi người đều nhẩm tính và lặng lẽ thử vận may cho riêng mình. Thông tin lúc đó vẫn chỉ gói gọn trong cái đám láo nháo ấy và thêm bà hàng nước được biết.
   Tối hôm đó "đề" lại về đúng như anh Thiều đoán. Cái hội nước chè của anh Thiều, tuy buổi tối ai ở nhà nấy, nhưng đều chết lặng đi. Chết lặng vì sung sướng. Điện thoại tíu tít trong đêm.
   Sáng hôm sau, không chỉ anh Thiều, mà tất cả bọn đều đi ăn mỳ vằn thằn, khiến cô bán hàng vừa vui, vừa cuống cả lên vì thiếu chỗ ngối ở vỉa hè và phục vụ không kịp. Anh Thiều trở thành tâm điểm của giữa lố nhố những gương mặt tràn đầy hạnh phúc. Cả bọn lần lượt khai báo thành tích. Người mạnh dạn đánh to nhất trong cả bọn là thằng Dương, lái xe riêng cho Sếp. Nó thu về 14 triệu đồng, bằng gần một năm lương "cứng". Dương nhận trả tiền ăn sáng cho cả bọn.


(Còn tiếp...)


Tiêu đề: Kể chuyện "Thần Đề"
Gửi bởi: Trinhsat trong 06 Tháng Mười, 2008, 03:11:14 pm
           Sáng hôm đó, hầu như chẳng ai làm việc gì nên hồn. Tất cả đều lóng ngóng, ngồi không yên chỗ. Cả bọn chỉ chờ đến giờ họp mặt buổi trưa. Lần này là hội tụ ở quán cà-phê "Con Gà" sang trọng giữa phố, chứ không phải ở quán nước chè thanh bạch nữa. Ai cũng nhìn anh Thiều như vị cứu tinh. Không khí hào hứng và rạo rực còn hơn cả khi toàn cơ quan nhận được cờ thi đua của Bộ, kèm số tiền đủ cho cả cơ quan được đi du thuyền một vòng quanh hồ Tây có tiệc đứng. Cà-phê xong, ai cũng tranh trả tiền khiến cô chủ quán xinh đẹp phải tròn xoe mắt nhìn các chàng trai đầy ngưỡng mộ. Trưa hôm đó, anh Thiều không tuyên bố ngay "con đề" tiếp theo, mà nháy mắt tỏ ý thần bí, hẹn cuối chiều sẽ phán.

   Chưa đến 4 rưỡi chiều mà đám Fan hâm mộ đã tụ tập trước cửa phòng làm việc của anh Thiều. Ngoài những gương mặt quen thuộc trong cơ quan, bữa nay còn có thêm cả vài người tự xưng là bạn của anh Thiều. Họ làm ở cơ quan khác, nhưng là chiến hữu của anh từ thuở nào không rõ. Có anh bên Xây dựng, có anh ở bên Y tế. Lại có hẳn một ông chuyên viên có hàm râu quai nón rậm rì làm ở tận Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Tất cả bọn họ đã nghe được tin đồn từ đâu không rõ, là anh Thiều đã tìm ra qui luật "đề". Họ đến để xin lộc trời thông qua ông bạn tốt của họ.

   Đúng 5 giờ chiều, anh Thiều mới mở cửa phòng, bước ra vươn vai. Có lẽ cái việc tính "đề" đã vắt đi của anh một phần không nhỏ  sức lực của người đàn ông tuổi 45. Anh vui vẻ gọi tất cả vào phòng. Phòng thì chật, ghế ngồi có ít nên tất cả phải lao xao một lúc lâu mới ổn định trật tự. Anh Thiều chậm rãi đưa mắt nhìn tất cả một lượt rồi tuyên bố:
   - Hôm nay "đề" về …. Nhưng xin các bố đừng có làm ồn ào quá. Việc này là tiết lộ thiên cơ, hao người lắm chứ không phải chơi đâu.

   Cả bọn há mồm nuốt từng lời nói của anh Thiều, thấm nhuần tư tưởng. Sau đó tất cả rút lui có trật tự.

   Tối về lại trúng đề. Nhân bảo như thần bảo. Thế là anh Thiều đã đoán đúng số "đề" tới 4 lần liên tiếp. Bây giờ thì tất cả những  kẻ chầu rìa đều đã được hưởng "sái" và đã thu được một món lợi không nhỏ.

   Sang đến buổi chiều của ngày thứ năm, mấy ông bạn hữu của anh Thiều đã mò sang từ sớm. Cái ông râu quai nón nhân danh bạn hữu anh Thiều và là người cao tuổi nhất tập trung tất cả lại và tổ chức ngay một cuộc họp nội bộ phía sau nhà bếp. Điều thứ nhất, ông suy tôn anh Thiều là "Thần đề", thiêng như Thánh sống. Cả bọn nhất trí ngay, không phải bàn cãi. Điều thứ hai, ông nêu ra tầm quan trọng và 2 lý do phải bảo vệ "Thần đề". Ông hùng hồn:
   - Bây giờ anh Thiều chính là người đem lại cơm áo cho chúng ta. Nhưng đồng thời, anh cũng sẽ có hai kẻ thù to lớn và nguy hiểm. Thứ nhất là bọn chủ đề. Đối với chúng, anh Thiều là con dao hai lưỡi. Nếu anh theo chúng, chúng sẽ thâu tóm và lũng đoạn cả xã hội, vì khi đó, chúng nắm đằng chuôi trong mọi cuộc chơi "đề". Ngược lại, anh sẽ làm cho chúng nhanh chóng khuynh gia bại sản. Vì lợi, chúng có thể thủ tiêu anh Thiều bất cứ lúc nào. Thứ hai là nhà nước. Sổ số cũng có hình thức mua vé số chọn trước, giống như chơi đề. Khi đó, số phận của các Công ty sổ số nhà nước cũng không khác gì chủ đề khi liên tục phải trả thưởng những số tiền lớn. Nhà nước cũng có thể bắt tù anh Thiều bất cứ lúc nào.

   Cả bọn nghe mà vừa sợ lại vừa lo cho anh Thiều. Nhưng bảo không đánh đề theo anh Thiều nữa thì không ai muốn bỏ.

   Cuối cùng, ông râu quai nón tuyên bố:   
   - Vì thế bây giờ chúng ta phải đi vào bí mật. Không được tụ tập ồn ào, ầm ĩ. Nhất là phải khống chế số tiền chơi, không được đánh to quá dễ lộ.

   Tất cả đồng ý và lập ra cả một Ban quản trị để điều hành.

   Đề lại về lần thứ năm. Bây giờ thì ai cũng yên chí là nằm trong cái tổ chức "đánh đề" này  rồi thì trước sau cũng sẽ giàu có. Đương nhiên là phải chấp hành kỷ luật thật nghiêm chỉnh.

   Ngày thứ sáu, anh Thiều lại phán "đề". Nhưng cái chuyện giữ bí mật để bảo vệ anh có vẻ khó mà thực hiện. Đứa cháu bà hàng nước cùng mấy đứa bạn quanh phố sùng sục đòi vào cơ quan gặp anh Thiều. Chúng đã được bà hàng nước rỉ tai câu chuyện. Kiếm tiền dễ quá thì ai mà chả ham. Tham lam vốn là bản tính con người mà. Chúng cũng từng là "bạn đề" của anh Thiều từ lâu rồi, nên anh Thiều cũng khó mà  lảng tránh cho được. Chắc cái đà này thì cả cơ quan, rồi cả phố sẽ giàu lên, hay tất cả sẽ tan tành ra mây khói, không ai có thể đoán hay dám nghĩ đến điều gì xa hơn.
*
   Sau một chuyến đi công tác tỉnh xa dài ngày, cuối giờ ngày hôm đó tôi cũng về đến cơ quan. Tôi rẽ vào phòng anh Thiều chơi, bình thường như mọi khi. Ngồi uống xong chén nước, chợt anh Thiều bảo:
   . Hình như ngày mai sinh nhật thằng lớn nhà cậu thì phải. Tớ có quà cho nó.

   Tôi chợt thấy xúc động và bối rối trước sự quan tâm của anh. Nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy anh đưa cho tôi mỗi tờ hai nghìn đồng. Từng này chỉ đủ mua hai chiếc kẹo lạc. Thấy vẻ ngơ ngác của tôi, anh xé mẩu giấy, viết gì vào đó rồi đưa tôi:
   - Cậu về nhà ngay đi, nhớ rẽ qua hàng nước đánh hai nghìn con "đề" này là mai đủ tiền mua một hộp bánh to cho cháu.

   Rồi anh đút hai tay vào túi, ngửa mặt lên trần nhà vẻ phớt Ăng-lê và chậm rãi đánh gót đi về cuối phòng. Tôi vẫn ngơ ngác không hiểu thế nào, nhưng vẫn phải chào anh rồi rút lui.

   Về đến gần nhà, nhớ lời anh Thiều dặn tôi rẽ qua hàng nước xin đánh con "đề". Bà hàng nước vốn quen mặt mà hôm nay nhìn tôi như nhìn người từ trên trời rơi xuống. Nhưng rồi bà cũng ghi đề cho tôi. Mảnh giấy anh Thiều ghi cho tôi có số 88.

   Tối đó tôi không xem Ti vi, cũng không hỏi kết quả. Sáng hôm sau  ở cơ quan, phải đến nửa buổi tôi mới nhớ ra và mở tờ báo Hà Nội mới ra xem. Hai số đuôi của giải đặc biệt không phải số 88. Tôi khẽ cười và gấp tờ báo lại. Chắc anh Thiều nghĩ ra trò gì vui đùa mình.
*

   Về sau tôi mới biết cái chuyện anh Thiều đoán đúng "đề" năm lần liên tiếp. Còn sáng hôm đó trong cơ quan tôi có cả một lũ ngơ ngác. Chúng nó nháo nhác nhìn nhau như đám gà con lạc mẹ.

   Hôm sau, rồi những hôm sau nữa, anh Thiều không còn đoán đúng "đề" nữa. Cả đám hâm mộ trong cơ quan lẫn các "chiến hữu" của anh Thiều tự nhiên giải tán dần hết. Ông râu quai nón cũng không còn phải lo lên kế hoạch chi tiết để bảo vệ "Thần đề" nữa.

   Chắc anh Thiều vẫn tiếp tục chơi "đề" nho nhỏ như ngày trước. Có thể cũng có lúc anh trúng, nhưng cái sự ngẫu nhiên kể ở trên thì không bao giờ lặp lại nữa.

   Tôi cũng không còn nhớ lần cuối cùng anh Thiều mời tôi đi ăn mỳ vằn thắn buổi sáng là khi nào.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 15 Tháng Mười, 2008, 09:44:39 am
Xin copy câu chuyện: TÌM   TRONG   NỖI   NHỚ của tác giả LÊ   NGỌC  MAI để các bác thư giãn.

1

     Đó là một ngày mùa hè nắng chói chang cách đây vừa đúng hai mươi năm. Chiếc xe commăngca dã chiến bạt sờn, sơn lở mà bố tôi mượn của cơ quan chở ba bố con tôi ra sân bay Nội Bài. Tôi lên đường đi học đại học ở Nga, bố và em trai đi tiễn. Đây là lần đầu tiên tôi rời Việt Nam. Mười tám tuổi, bốn mươi ba cân, hành lý là một chiếc vali lèn đầy quần áo và các mặt hàng tạp hóa. Son phấn Thái (xịn), kimono Nhật (rởm), áo phông nữ "cành mai", áo phông nam "cá sấu"..., mỗi loại xếp thành một xấp. Một đống quần lót "hoa hồng" xanh đỏ tím vàng với số lượng thừa thãi cho cả năm năm đại học. Hai bức tranh sơn mài màu sắc na ná như nhau, đỏ đỏ, xỉn xỉn, một bức "chăn trâu thổi sáo" và một bức "vịnh Hạ Long". Vài tấm tranh lụa, cái nào cũng tre, chim với thiếu nữ áo dài ( khi tre chim nhiều thì áo dài ít, khi tre, chim ít thì áo dài nhiều). Dăm gói bột nghệ, một lô dầu cao "Sao Vàng", mấy hộp "sâm quy bổ thận" (thành phần ghi ngoài vỏ hộp gồm nhiều loại cây thuốc nghe tên rất đáng nể, nhưng không thấy có sâm.)
     Số hàng hóa này không phải là dành cho tôi, tức là không phải để tôi dùng. Phần tôi, chỉ có vài bộ quần áo và hai tập từ điển Nga-Việt dày cộp. Còn lại, quần áo, son phấn, thuốc thang là để xuất khẩu sang thị trường Nga với mục đích đổi về bàn là, nồi hầm, ấm điện, tủ lạnh... Các tác phẩm nghệ thuật thì dành để khi có dịp dùng làm quà tặng thầy giáo, bạn bè (người Nga, tất nhiên, chứ người mình có ai treo những thứ này trong nhà.) Suốt cả tuần lễ trước ngày tôi lên đường, chiều nào sau giờ làm việc cô tôi cũng phải lăn lóc lượn đi lượn lại Hàng Ngang, Hàng Đào để kiếm cho đủ chủng loại, số lượng hàng hóa cần thiết. Cô nhất quyết dành cái công việc khổ sai này về phần mình vì không tín nhiệm bố con tôi." Lù đù như bố con mày, không mua nhầm hàng rởm thì cũng bị chúng nó chém cho, thôi cứ để đấy cô lo, cô có kinh nghiệm mua đồ cho thằng V. đi Hung năm ngoái rồi". Những túi to, bọc nhỏ mà cô hì hụi vác đến làm bố tôi phát hoảng : "Con L. C. đi học chứ có đi buôn đâu mà cô bắt nó tha đi nhiều thứ thế !" " Ai cũng mang đi như vậy cả, tội gì không mang", cô tôi gạt phắt.
     Đúng, ai cũng mang đi như vậy cả. Lúc kiểm tra ở hải quan, hơn ba chục cái vali của cả đoàn mở ra, cái nào cũng có ngần ấy thứ : "cành mai", "cá sấu", phấn "con bướm", xi líp "hoa hồng"... Mấy cậu bạn tôi, trong lúc xếp lại đồ đạc, vụng về làm tung ra ngoài xấp quần lót nữ màu sặc sỡ, mặt đỏ lựng lên ngang màu đỏ của bông hồng thêu trên quần lót (thời ấy khái niệm "đỏ mặt" còn tương đối thông dụng.)
     Trong vali của tôi có một thứ mà chắc chẳng ai trong đoàn cùng đi hôm ấy có. Không, không phải là một mặt hàng "độc" mang lậu qua hải quan. Đó chỉ là một tờ giấy đơn sơ với vài hàng chữ viết to, đường nét rắn rỏi, tự tay bố tôi viết và dán vào mặt trong của nắp vali cho tôi trước hôm tôi lên đường. "Tính con hay quên nên bố dán vào đây cho khỏi thất lạc, và để mỗi lần con mở vali ra thì lại thấy ngay", bố tôi bảo. Nội dung tờ giấy là những điều bố tôi căn dặn cô con gái lần đầu tiên đi học xa nhà. Ông đánh số cẩn thận, có bảy điều cả thảy.
     Hai mươi năm đã qua, chiếc vali cũ mòn và quê kệch của chuyến xuất ngoại đầu tiên đã bị quẳng từ lâu ra bãi rác, nhưng tờ giấy ấy thì đến giờ tôi vẫn giữ. Ố vàng, mép giấy chỗ sờn mỏng tang, chỗ cộm vệt hồ dán, nó nằm sâu trong một ngăn tủ của tôi, kẹp giữa cuốn sổ thơ thời sinh viên. Bây giờ đọc lại, thấy thương bố đến nao lòng.
     Nhưng ngày đầu tiên ở Matxcơva, lúc mở vali ra, đập vào mắt những lời dặn dò của bố, tôi chỉ thấy buồn cười. Từ khi mẹ tôi mất, mọi nỗi lo toan cho hai đứa con dồn cả lên vai bố tôi, ông đâm ra thành người kỹ tính. Con gái đã mười tám tuổi mà bố phải dặn chi li từ chuyện ăn, chuyện mặc. Mặc đủ ấm khi trời lạnh... (Ông già không yên tâm với cô con gái chủ trương ăn mặc vị nghệ thật, bất chấp thời tiết. "Mặc gì" luôn luôn là đề tài tranh luận nảy lửa giữa hai bố con, những sáng mùa đông trước giờ đi học, kể từ khi tôi bắt đầu trở thành một cô bé thích làm điệu, lớn lên giữa Hà Nội đói nghèo của thời bao cấp mà khái niệm "ấm" và khái niệm "đẹp" chẳng mấy khi may mắn đi đôi được cùng nhau.) Ăn uống điều độ...  (chứ đừng thỉnh thoảng lại bỏ bữa ban ngày, lục cơm nguội ăn đêm, như hồi ôn thi đại học !)  Chịu khó tập thể thao... (đây là điều mà cụ vẫn phàn nàn rằng con chẳng giống cha : bố thì hăng hái hết chạy lại bơi, con thì rảnh rỗi chỉ thích nằm dài ra đọc truyện.)  Học tập là nhiệm vụ chính, không được để các hoạt động khác làm ảnh hưởng đến việc học... (Các hoạt động khác ? Hẳn cụ muốn nói đến "hoạt động thương mại" ? Nghe nói sinh viên Việt Nam ở Liên Xô và Đông Âu bây giờ buôn bán rầm rầm, bố tôi chỉ sợ con gái theo đuôi bạn bè mà xao lãng chuyện học. Nếu không có cô tôi vừa thuyết phục vừa trách móc thì bố tôi đã quyết không cho tôi mang đi những mặt hàng "chiến lược" kể trên . ("Dính vào chuyện buôn bán phức tạp lắm, nhà mình không có khiếu đi buôn !"). Tôi đang háo hức với chuyến đi, thấy bố bảo sao cũng sẵn sàng nghe vậy, nhưng cô tôi đã đưa ra một lý lẽ đơn giản : "Anh có lo được cho con L.C. không, mà không để nó tự lo cho nó ? Mấy năm nữa nó học xong về nước, lấy chồng đẻ con, anh muốn nó cũng sống cực như anh bây giờ à ?". Bố tôi lập tức đầu hàng, những rõ ràng trong lòng vẫn không yên.)  Tuyệt đối tránh quan hệ yêu đương với người nước ngoài... A, đây mới là vấn đề mấu chốt !
     "Tình không biên giới" là nỗi lo sợ ám ảnh hầu hết các ông bố bà mẹ có con đi du học thời bấy giờ. Đương nhiên, ở một cái xứ, một cái thời, mà việc cô con gái Hà Nội lấy chồng Nghệ Tĩnh đôi khi cũng đủ làm nên một bi kịch gia đình, thì chuyện dâu tây rể tây phải bị coi là đại họa. Vả lại, ai cũng biết rằng đi du học mà "lấy tây" thì chẳng còn đường về nước : đương sự bị coi như kẻ đào ngũ, bố mẹ mất con, gia đình mất danh dự. Đây mới là điều đáng sợ nhất đối với các bậc phụ huynh. Hai tiếng "lưu vong" thời ấy nghe giống như một án tù. Những trường hợp "lưu vong ái tình" trong giới lưu học sinh mới chỉ xảy ra hiếm hoi lẻ tẻ, nhưng cũng đủ để treo gương tày liếp.
     Cuộc đời luôn luôn có những biến động bất ngờ. Thế hệ của chúng tôi, lớp du học sinh ra đi vào những năm tám mươi, sẽ mở đầu cho một làn sóng lưu vong mới mà "ái tình" không phải là nguyên nhân và con đường duy nhất như các năm về trước. Nhưng vào thời điểm đó, đứng chen chúc trên sân bay Nội Bài, nhễ nhại mồ hôi trong cái oi ả của một ngày cuối tháng tám, không ai trong chúng tôi có thể ngờ trước được điều này. Vali đầy ắp hàng và đầu đầy ắp ước mơ, chúng tôi ra đi, để lại sau lưng mình quê hương mà sau này đối với nhiều người mãi mãi sẽ chỉ còn là một chốn để thương để nhớ.
     Đêm đầu tiên ở  Matxcơva, trời cuối hè bắt đầu se lạnh. Mệt phờ người sau một chuyến bay dài và một lô thủ tục hành chính rắc rối, nhưng không sao ngủ được, tôi và T.H. ra đứng bên cửa sổ, nhìn xuống thành phố lấp lánh dưới ánh đèn. Choáng ngợp trước vẻ đẹp lộng lẫy của đêm Matxcơva, choáng ngợp vì nhiều cảm xúc mơ hồ, lẫn lộn, choáng ngợp với những dự cảm về một tương lai còn chưa rõ nét nhưng chính vì vậy mà lại có vẻ đẹp huyền bí đến nao lòng. Còn gì rạo rực hơn khi người ta mười tám tuổi, thả hồn bay bổng đến một vùng trời mà mọi mơ ước đều được phép, một vùng trời bí ẩn có cái tên gọi rất quyến rũ là Tương Lai.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 16 Tháng Mười, 2008, 08:52:06 am
Tiếp "TÌM TRONG NÔĨ NHỚ"

2

     Tương lai, cái tương lai mà Lan Chi hình dung cho mình hai mươi năm trước đây, hoàn toàn chẳng có chút gì giống với cuộc sống của cô hiện tại. Chẳng phải do cô có trí tưởng tượng quá nghèo nàn, hay ngược lại, quá "giàu trí tưởng bở". Chỉ vì cuộc đời cứ thích đi theo những đường ngoắt nghéo, thích rẽ ngoặt ở những khúc bất ngờ, thích đẩy người ta vào những hướng mà nhìn qua cứ tưởng là quen, cuối cùng hóa ra lại dẫn đến một nơi lạ hơ, lạ hoắc. Chẳng hạn, làm sao cô có thể đoán trước được rằng đời mình sẽ neo bến ở đây, ở cái thành phố miền Nam nước Pháp này, nơi mà hai mươi năm trước nếu có ai hỏi thì chắc chắn cô phải mở sách giáo khoa địa lý ra mới trả lời được là nó nằm ở góc nào trên bản đồ thế giới.
     Bây giờ thì hiển nhiên tương lai không còn là đề tài để Lan Chi mơ mộng. Nếu có nói, có nghĩ về tương lai, thì đối với Lan Chi đó chỉ là tương lai của mấy đứa con. Bản thân cô chưa già, ba mươi tám tuổi, trong thâm tâm thậm chí còn tự thấy mình khá trẻ (và các ánh mắt đàn ông mà cô vẫn thường xuyên thấy hướng vào mình trên đường phố cũng khẳng định điều ấy), nhưng đời cô thì dường như đã an bài . Một ông chồng, ba đứa con (đây cũng là một bất ngờ  ngoài sức tưởng tượng : trong các giấc mơ thời thiếu nữ, chưa bao giờ Lan Chi thấy mình có quá hai kẻ hậu sinh). Một biệt thự hai tầng xinh xắn nằm giữa một khu phố lịch sự, một chiếc ôtô Ford Fiesta (chung cho hai vợ chồng), hai chiếc xe đạp (vợ một cái, chồng một cái), hai chiếc máy vi tính (vợ một cái, chồng một cái). Trong nhà, đồ đạc và cách thức bài trí nhìn chung giống như mọi gia đình trung lưu ở Pháp, chỉ khác ở chỗ là tất cả các mặt tường đều để trống, hoàn toàn không có lấy một bức tranh. Đây là kết quả của sự thỏa hiệp giữa hai vợ chồng, sau khi họ phát hiện ra rằng gu nghệ thuật của họ hoàn toàn không giống nhau : anh cho rằng những bức cô muốn treo không phải là tranh, mà là một hình thức phản nghệ thuật kỳ quái, còn cô thì không chịu nổi sở thích của anh đối với những bức "tranh hàng chợ" thô thiển theo quan điểm của cô ( có thể đó là một hậu quả của quá khứ : thời kỳ "nhà nhà sơn mài, người người tranh lụa" xa xưa đã làm Lan Chi trở nên cực đoan, dị ứng với tất cả những môtíp tranh đơn giản và quen thuộc).

     Một ngày bình thường của Lan Chi bắt đầu từ bảy giờ sáng. Chính xác hơn là từ bảy giờ kém mười lăm. Đây là thời điểm phải đấu tranh tư tưởng quyết liệt nhất trong ngày. Sáng nào cũng vậy, khi chuông đồng hồ reo lên một cách quái ác, việc đầu tiên của Lan Chi là nhỏm dậy với tay tắt nút chuông đồng hồ. Xong lại nằm xuống và tự nhủ : Hãy còn sớm, có thể nằm thêm năm phút nữa. Rồi lại thêm năm phút nữa tiếp theo...Nhất là vào mùa đông như hiện nay, khi bên ngoài trời lạnh gần 0 độ, trong giường chăn và chồng thì lại ấm, phải có nhiều nghị lực lắm mới dứt khoát chui được ra khỏi chăn. Trung ít khi dậy cùng lúc với vợ : anh là bác sĩ, giờ giấc thất thường, có hôm đi từ lúc trời còn tối đen, có hôm lại ngủ bù sau ca trực đêm trước.
     Như vậy, đúng bảy giờ thì Lan Chi bật dậy được khỏi giường. Đồ ăn sáng gọn nhẹ cho bốn mẹ con chuẩn bị trong mười phút. Xong xuôi, cô gọi ba đứa con dậy. Việc này không đơn giản vì lũ trẻ cũng hệt như mẹ nó (có lẽ, lỗi tại mùa đông châu Âu). Giai đoạn đầu, cả ba đứa đều lờ đi, làm như không nghe thấy tiếng mẹ gọi. Đến khi Lan Chi vừa gọi vừa thò tay vào giường  lay từng đứa một thì cu Nam mới cựa mình, làu nhàu, mắt vẫn nhắm tịt : "Cho con nằm thêm một tí !" Việt Anh và Lan Anh - hai bé sinh đôi - cũng ê a nói theo anh : "Cho con nằm thêm một tí í í ...!" Một tí là khoảng thời gian dao động từ mười đến mười lăm phút. Sau đó bắt đầu giai đoạn cuống cuồng cuồng : thay quần áo, ăn sáng, đánh răng rửa mặt, tất cả phải hoàn thành trong vòng nửa tiếng. Mẹ vừa lo lắng liếc đồng hồ vừa gắt gỏng vì lo muộn giờ, lũ con thì cãi nhau chí chóe để dành chỗ trong buồng tắm, rồi :  "Mẹ ơi, mũ của con đâu ?” ,  "Sao giầy của con chỉ có mỗi một chiếc ?", "Việt Anh lấy nhầm găng tay của con rồi"...  Nhà cửa được đảo lộn lên để truy tìm đồ thất lạc, mũ của Nam hóa ra ở trong buồng tắm, giầy của Việt Anh tìm thấy ở một góc hành lang, Việt Anh và Lan Anh đổi lại găng tay cho nhau, và bốn mẹ con hớt hải chạy đến trường.
     Sáng nào cũng là một cuộc chạy đua cấp tốc như vậy. Trường tiểu học của Nam và trường mẫu giáo của Việt Anh, Lan Anh nằm sát cạnh nhau, cách nhà chừng mười lăm phút đi bộ. Với tốc độ chạy của mẹ con Lan Chi thì chỉ mất hơn mười phút. Hai bé sinh đôi rất khoái trò này. Tuy mới năm tuổi mà chúng chạy còn nhanh hơn mẹ, vì không vướng đôi giày cao gót , và lại có cái đích trước mắt để đuổi theo là anh Nam.
     Đưa ba đứa con vào trường xong, Lan Chi đi bộ ra bến tàu điện ngầm. Từ ngày hai bé sinh đôi có thể đi bộ ( tức là chạy bộ) đến trường, Lan Chi thường để ôtô cho chồng đi. Bệnh viện của anh ở cách nhà khá xa, ngoài công việc ở bệnh viện ra anh còn làm thêm một tuần ba buổi tại một phòng khám tư, lộ trình nhà-bệnh viện-phòng khám, nếu sử dụng phương tiện giao thông công cộng thì phải đổi tuyến mấy lần, rất phức tạp và mất thời gian. Ngược lại, Lan Chi làm việc ở ngay trung tâm thành phố, cách trường học của lũ trẻ chừng sáu bến tàu điện ngầm, không phải đổi tuyến lần nào, tàu chạy thẳng một lèo mười lăm phút là tới nơi.
     Nơi Lan Chi làm việc là một hiệu sách. Công việc của cô là bán sách : đứng quầy, trả lời những câu hỏi của khách hàng, nếu cần thì giúp khách tìm sách, và quan trọng nhất là gõ hóa đơn, nhận tiền. Tóm lại, một công việc hoàn toàn không đòi hỏi chuyên môn tâm lý học và tấm bằng tiến sĩ của cô.
     Công việc này đến với Lan Chi một cách hoàn toàn tình cờ. Nó năm ngoài dự kiến của những năm đại học ngập đầu trong thi cử và luận án. Nó nằm ngoài cả những ước mộng nghề nghiệp táo bạo nhất thời thơ bé, khi mà Lan Chi cứ vài tháng lại đổi nghề một lần, từ thủy thủ thành phi công vũ trụ, từ phi công vũ trụ thành diễn viên điển ảnh nổi tiếng... Một buổi sáng, vào thời điểm mà Lan Chi đã hoàn toàn mất hy vọng tìm được việc đúng chuyên môn của mình ở thành phố này, một mẩu quảng cáo nhỏ trên Internet bỗng lọt vào mắt cô : "Tìm người bán sách cho một hiệu sách ở trung tâm thành phố ..."
     Đây là một hiệu sách nhỏ chuyên bán sách châu Á, nói đúng hơn là bán các sản phẩm văn hóa châu Á : ngoài sách là mặt hàng chính ra, còn có băng đĩa nhạc, tranh ( lại tranh lụa, sơn mài !), đồ mỹ nghệ, một ít đồ gốm sứ trang trí hoa văn kiểu Tàu, được gọi là đồ cổ, nhưng chắc chỉ cổ được đến vài chục năm là căng. Ông chủ là người Pháp. Nghe nói, ông đã có đến hơn chục năm sống và làm việc ở các nước vùng Đông Nam Á, rồi đâm ra phải lòng nền văn hóa của các xứ sở này. Lan Chi được nhận vào làm việc ở đây vì cô là người Việt ( sản phẩm Việt Nam chiếm một phần khá lớn ở đây), vì cô nói thành thạo cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, và có lẽ một phần còn vì cô có ngoại hình rất phụ nữ Á Đông, dịu dàng và dễ thương dưới mắt người Âu.
     Khách lui tới cửa hàng có cả người Á lẫn người Âu. Lan Chi hầu như không có mấy dịp được trổ tài nói tiếng Việt, vì nói chung thì khách hàng chẳng có việc gì cần hỏi đến người bán hàng. Thi thoảng có chuyện cần thì họ đều nói  bằng tiếng Pháp, kể cả những người đến để mua sách tiếng Việt và mặt mũi thì trông đặc "Mít". Cũng phải, vì họ chỉ có thể biết cô là người gốc Á, chứ làm sao đoán chính xác được là người nước nào. Có lần, một khách hàng đã nhận nhầm cô là đồng hương : ông ta vừa cười hỉ hả vừa nói rất to, tuôn ra một tràng dài toàn dấu hỏi và dấu sắc làm tai Lan Chi ù cả lại . Tuy chẳng hiểu gì hết, nhưng qua âm điệu thì Lan Chi cũng đoán được ông ta nói tiếng gì, cô bèn nhã nhặn trả lời bằng tiếng Pháp : "Xin lỗi ông, tôi không hiểu tiếng Hoa". Ông già khựng lại một tí rồi vội vàng xin lỗi bằng tiếng Pháp.
      Kể từ khi Lan Chi làm việc ở đây, chỉ một lần duy nhất có khách hàng chủ động nói tiếng Việt với cô. Đó một chàng thanh niên Pháp trẻ măng (không quá hai nhăm tuổi), sau khi trả tiền mua một cuốn sách hướng dẫn du lịch Việt Nam (bằng tiếng Pháp) và một quyển "Hội thoại Pháp-Việt" loại bỏ túi ( chắc để chuẩn bị đi du lịch Việt Nam), anh ta bỗng nhiên mỉm cười ranh mãnh với Lan Chi và nói bằng một thứ tiếng Việt không có dấu : "Cam ơn em nhe. Tam biêt." Lan Chi cũng "tạm biệt" đáp lại kèm theo một nụ cười rất tươi, biết chắc rằng có nói hơn thì anh chàng cũng chẳng hiểu gì. Bụng nhủ thầm may mà anh ta mới chỉ gọi  mình là "em nhé" thôi, chứ chưa đến mức trịnh trọng "lạy cụ ạ".
      Khoảng ba năm trước, hồi Lan Chi mới nhận việc, một lần có cặp vợ chồng già người Á Đông vào cửa hàng chọn mua tranh. Nghe họ bàn luận với nhau, cô nhận ra là họ nói thứ tiếng mẹ đẻ của mình. Khi họ ra quầy trả tiền, Lan Chi sốt sắng bắt chuyện : "Thưa, hai bác là người Việt ?" Rất nhanh, cả hai người ngước mắt nhìn cô chòng chọc vài giây, bà già mấp máy môi định nói điều gì rồi lại thôi, còn ông già thì đưa mắt nhìn đi chỗ khác. Bối rối, Lan Chi lặp lại câu hỏi trên, nhưng bằng tiếng Pháp. Vẫn không có một câu trả lời. Nhận bức tranh đã gói ghém lại cẩn thận từ tay Lan Chi, hai người khách ra khỏi cửa hàng, mặt vẫn lạnh tanh, không "merci, au revoir" gì hết. Sau này, nghe Lan Chi than thở, Thanh Hoa, cô bạn thân của Lan Chi hiện sống ở Paris, bảo : "Người ta ghét cái giọng Hà Nội của mày nên không thèm nói chuyện chứ có gì đâu !" Trung, chồng cô, thì gạt đi : "Người già nặng tai nghe không ra, mình sức mấy mà để bụng.." Chẳng để bụng thì Lan Chi cũng không bao giờ dại dột lặp lại cái thử nghiệm nói tiếng Việt với một người Việt không quen biết ở xứ này nữa.
     Mùa đông bao giờ cũng là mùa cửa hàng vắng khách nhất trong năm. Kỳ nghỉ Noel đến gần, thiên hạ nô nức đi mua sắm quà cáp, các cửa hàng quần áo, giày dép, đồ chơi ...ở trung tâm thành phố đông nghịt người. Hiệu sách to đùng bên cạnh cũng kẻ ra người vào tấp nập, nhưng cửa hàng của Lan Chi thì vắng hắt vắng hiu. Văn hóa Á đông không phải là một món quà Noel thích hợp đối với cả người Âu lẫn người Á.
     Cả buổi sáng nay cánh cửa ra vào cửa hàng được đẩy ra có năm lần. Đầu tiên, một người Âu vào mua một quyển sách về đạo Phật. Tiếp đến là ba người Á Đông cùng đi với nhau, mua một quyển truyện ở ngăn "văn học Thái Lan". Rồi  một tốp năm người Á Đông nữa, cười rất to, tranh luận rất ồn ào (bằng một thứ tiếng mà Lan Chi không hiểu), nhưng không mua gì hết. Sau khi nhóm người này đi ra, cửa hàng rơi vào trạng thái lặng như tờ đến gần một tiếng, rồi có một phụ nữ tóc vàng vào mua một bức tượng gỗ. Đến quá trưa, khi Lan Chi chuẩn bị kết thúc ca làm việc của mình, thì một đôi nam nữ thanh niên đẩy cửa bước vào. Chàng trai tóc đen, rõ là dân châu Á. Cô gái tóc nâu, nhưng mặt mũi cũng không Âu gì  hơn. Căn cứ vào hai đĩa nhạc Việt Nam mà họ mua, Lan Chi giả thiết rằng họ là đồng hương của mình. Nhưng vì đã có kinh nghiệm cay đắng nên tất nhiên cô không thốt ra một câu tiếng Việt nào. Đôi thanh niên nhìn cô vẻ dò hỏi, mỉm cười thân thiện, nhưng có thể vì họ cũng có kinh nghiệm cay đắng như cô, hay vì một lý do gì khác mà cô không rõ, họ chỉ trao đổi với Lan Chi vài câu ngắn gọn bằng tiếng Pháp.
     Một giờ trưa, Lan Chi bàn giao cửa hàng cho Julie, cô bạn người Pháp làm ca chiều. Cả Lan Chi lẫn Julie đều chọn làm việc theo hình thức "mi-temps", tức là chỉ làm nửa ngày. Làm như vậy thu nhập ít, nhưng lại có thời gian và sức lực để chăm sóc chồng con. Lan Chi chủ trương làm việc "tà tà", vì với cái nghề bán sách của cô, dù có làm cả ngày, hay thậm chí làm cả đêm đi nữa, thì cũng đến thế mà thôi. Đường công danh có gì hứa hẹn đâu mà phải cố.
     Về đến nhà, việc đầu tiên của Lan Chi là bật máy vi tính lên. Sau đó, cô mở tủ lạnh nhặt ra vài thứ, đặt vào máy vi sóng cho nóng lại, rồi đem ra bàn làm việc, vừa ăn, vừa dán mắt vào màn hình vi tính. Trung đã đi làm, ăn trưa ở bệnh viện. Ba đứa con ăn ở trường. Có một mình, Lan Chi chỉ ăn qua quýt vài miếng cho xong chuyện.
     Nếu không kể thời gian ngủ mà sáng nào Lan Chi cũng phải rời bỏ với rất nhiều lưu luyến, thì quãng thời gian từ hai giờ chiều đến bốn giờ chiều là quãng thời gian mà cô cho là "xa xỉ" nhất trong hai mươi tư tiếng đồng hồ của một ngày, tức là quãng thời gian mà cô có thể yên tâm dành hoàn toàn cho những sở thích cá nhân của riêng cô.
     Ba mươi phút đầu, Lan Chi dùng để xem e-mail, trả lời thư từ, và vào những địa chỉ yêu thích trên Internet để xem bài vở, tin tức. Tuy đã qua cái tuổi dễ bị mốt ảnh hưởng, nhưng cô vẫn không tránh được cái bệnh dịch thời đại đang lan nhiễm toàn cầu, tức là căn bệnh "nghiện Internet". Ngày nào không mò được vào mạng một chút là cô ăn không ngon, ngủ không yên, cảm giác như là mình bỗng trở thành Robinson sống giữa đảo hoang, bị cắt đứt mọi liên lạc với thế giới loài người. Lòng dạ bồn chồn như thể có biến cố gì vĩ đại lắm đang diễn ra, mà mình lại bị đẩy ra ngoài cuộc, không được ai cho biết.
     Có hai bức e-mail nằm trong hộp thư của Lan Chi hôm nay. Bức đầu là của Thanh Hoa. Cô bạn thông báo rằng đến kỳ nghỉ Noel sắp tới sẽ cùng chồng con đi  xuống miền Nam trượt tuyết ở vùng núi Alpes, nếu tiện thì lúc về sẽ lái xe đi vòng vài trăm cây số để đến thăm gia đình Lan Chi. "Nếu tiện", cô bạn nhấn mạnh. "Nhất định phải tiện", Lan Chi viết trả  lời, bỗng thấy cồn lên trong lòng niềm ước muốn được gặp lại cô bạn cũ, để trò chuyện, hàn huyên, kể lể... Hay thậm chí là để không nói gì hết, chỉ khóc một chút thôi cho vợi bớt nỗi lòng. Thanh Hoa là nhịp cầu duy nhất ở đây nối Lan Chi với khoảng trời xưa, với cái thời tuổi trẻ xa quá mà thương quá.
     Bức thư thứ hai là của cậu em trai ở Berlin, giục chị đến kỳ nghỉ thì đem lũ nhóc sang Đức chơi với hai đứa em họ ở Đức, cho chúng nó luyện tiếng Việt với nhau, "cố sang nhé, chị hứa nhiều lần rồi đấy!". Lan Chi biết là mình lại phải khất thêm lần nữa. " Năm nay chị không thu xếp đi được. Hay vợ chồng em đem bọn trẻ sang đây chơi ?"
    Thư từ xong, dạo một vòng qua mấy site Internet, biết thế giới vẫn không có gì đặc biệt, tức là vẫn động đất ở chỗ này, lũ lụt ở chỗ kia, khủng bố ở một (hay vài) nơi khác, các loại tội phạm giết người, trộm cắp...  ở khắp mọi nơi, Lan Chi thở dài, gạt ra khỏi đầu một triết lý sáo mòn về nhân tình thế thái mà bao giờ cũng hiện đến với cô ngoài ý muốn, những lúc cô vào Internet đọc tin. Rồi Lan Chi ngắt mạng và nhấn con chuột, mở ra một cửa sổ mới trên màn hình vi tính.
     Cái cửa sổ này là bí mật của Lan Chi, nỗi đam mê của cô, niềm hạnh phúc của cô. Cô giấu nó với chồng như người vợ ngoại tình giấu thư của tình nhân. Cô giấu nó với tất cả người quen như một người đàn bà đoan chính giấu thói nghiện rượu hay thói ham cờ bạc của mình. Mỗi ngày, cô chỉ dành cho cái ô cửa ấy chừng một tiếng rưỡi đồng hồ, nhưng đó là những giờ phút cô sống mãnh liệt nhất, hết mình nhất, những giờ phút mà quá khứ, tương lai, hiện tại hòa trộn vào nhau, hiện thực và ước mơ không còn ranh giới. Ở ô cửa này, Lan Chi viết và lưu giữ một bản thảo đang dở dang của cô.
(còn tiếp...)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 16 Tháng Mười, 2008, 08:54:12 am
Tiếp chương 2: "TÌM TRONG NỖI NHỚ"
     
Lan Chi chưa bao giờ là nhà văn. Cô chưa biết nên gọi bản thảo đang viết dở là gì. Nó bắt đầu từ những hồi ức xa xưa, nhưng không hẳn là hồi ký : Lan Chi muốn hình dung lại cái không khí chung của một thời đã sống, chứ không định ghi lại chính xác một trăm phần trăm từng chi tiết, từng sự kiện. Vả lại, Lan Chi không định dừng câu chuyện của mình lại trong quá khứ, cô vẫn còn chưa biết sẽ kéo dài nó đến tận đâu. Thôi thì cứ tạm gọi đó là một cuốn tiểu thuyết tự truyện.
      Đây là lần đầu tiên Lan Chi viết tiểu thuyết. Dự định về cuốn tiểu thuyết ấy cô đã ấp ủ rất lâu rồi, nhưng sau khi xóa đi viết lại nhiều lần và bỏ dở nửa chừng, cô chỉ mới thực sự bắt đầu lại cách đây có vài tháng. Cô chưa hề nghĩ đến chuyện mình sẽ gửi in ở đâu (thậm chí có gửi in hay không cũng chưa nghĩ đến), chỉ thấy có sức mạnh vô hình nào cứ thôi thúc mình phải viết. Viết như một sự giải thoát. Viết để sống lại với quá khứ, để nhìn lại con đường đi của mình và bạn bè, một thế hệ mà cô cho rằng có số phận thật là đặc biệt (thực ra, thế hệ nào mà chẳng coi số phận của họ là đặc biệt ?) Và có lẽ còn viết để thực hiện những ước mơ thầm kín mà cô không thể thực hiện được ngoài đời.
     Người duy nhất được Lan Chi tiết lộ về cuốn tiểu thuyết này là Thanh Hoa. Chính Thanh Hoa là người đầu tiên đã gieo vào đầu Lan Chi cái ý định viết tiểu thuyết. Từ hồi học cấp ba, cô bạn đã ngưỡng mộ Lan Chi như một " tài năng văn học", vì đợt thi báo tường nào của trường lớp họ cũng giật giải nhờ những bài thơ vần điệu du dương của Lan Chi ( những câu thơ đại loại như "Con đường mờ sương ngày ta đi học", hay "Làn tóc em bay, mát cả trời chiều"... một thời đã khiến cho các cậu con trai trong trường ra ngẩn vào ngơ, chốc chốc lại tìm dịp nhìn trộm nữ thi sĩ một cái, - của đáng tội, không có thơ thì cũng đã khối người muốn liếc trộm cô rồi). Trong một lần ngồi trò chuyện với nhau, nhắc đến bạn bè giờ đây chỉ có vài đứa còn ở trong nước, còn thì tung tán khắp mọi nơi, Nga, Pháp, Anh, Đức, Mỹ, Nhật ... nơi nào cũng có, Thanh Hoa chợt buột miệng nói : "Tao mà có tài như mày thì tao sẽ viết một cuốn tiểu thuyết về thế hệ bọn mình. Mà sao mày không viết đi, tha hồ lắm chuyện giật gân."
     Vậy là Lan Chi viết tiểu thuyết. Viết một cách giấu giếm vì cô không muốn trở thành lố bịch dưới mắt người đời (đặc biệt là dưới mắt chồng). Thời buổi này tiến sĩ tâm lý học đi bán sách thì chẳng ai ngạc nhiên, chứ cô bán sách mà lại viết tiểu thuyết thì đúng là làm trò cười cho thiên hạ.
     Đúng bốn giờ chiều, chuông đồng hồ reo vang, Lan Chi rời máy vi tính đứng dậy nhưng mắt vẫn mơ màng như người chưa tỉnh ngủ. Cô phải đặt chuông đồng hồ, nếu không thì thể nào cũng mê mải viết mà quên đi giờ giấc. Cô dành nửa tiếng để dọn dẹp nhà cửa trước giờ đi đón con ở trường. Nửa tiếng ấy cũng là để cho Lan Chi hồi tỉnh, bứt ra khỏi cái trạng thái như người lên đồng mà cô thường có trong khi viết, để trở về với hiện thực. Kỷ luật này Lan Chi đặt ra cho mình sau một lần suýt phải trả giá đắt : lần ấy, quá ham viết, cô ngồi lỳ trước máy vi tính cho đến tận bốn giờ rưỡi mới hốt hoảng bật dậy chạy đi đón con, và vừa đi vừa chìm trong dòng suy nghĩ như một kẻ mộng du, cô đã lững thững bước qua đường giữa lúc chưa có đèn xanh cho người đi bộ. Nếu người lái chiếc xe ô tô hôm ấy không phanh két lại kịp thời (kèm theo một câu gắt gỏng), thì có lẽ giờ đây ba đứa con cô đã mồ côi mẹ.
      Lan Chi đến trường mẫu giáo đón hai bé sinh đôi trước, rồi dẫn hai đứa sang trường tiểu học đón cu Nam. Bốn mẹ con thong thả đi bộ về nhà. Không ai chạy như lúc sáng nữa, vì bây giờ chẳng có gì mà vội. Vả lại, sau một ngày ở trường cả ba đứa trẻ đều đã thấm mệt.
     Mới quãng năm giờ chiều mà trời đã xâm xẩm tối. Thành phố bắt đầu lên đèn. Còn hơn chục ngày nữa mới đến Noel, nhưng phố xá đã chăng đèn kết hoa rực rỡ. Gió thổi vù vù làm những chuỗi dây đèn màu chao đi đảo lại. Trời lạnh buốt, bốn mẹ con bước co ro, chỉ mong chóng về đến nhà. Vẫn là con đường đi buổi sáng, mà sao như dài ra gấp đôi. Lan Chi bỗng thấy thèm một vài bông tuyết rơi, thật nhẹ, thật mềm, để xóa mờ đi cái vẻ nghiệt ngã của thành phố mùa đông mà tất cả những chùm đèn lấp lánh kia cũng không sao làm dịu được.
     Mùa đông năm nay thật lạ. Trời lạnh đến thế rồi mà sao vẫn chưa có tuyết rơi ?
                                                                           (Còn tiếp...)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 17 Tháng Mười, 2008, 08:55:32 am
Tiếp: TÌM TRONG NỖI NHỚ
Chương 3:
Tuyết rơi nhiều, rất nhiều, mùa đông năm ấy ở Matxcơva.
     Đầu tháng mười một, tuyết bắt đầu rơi, như thường lệ năm nào cũng vậy. Tinh khiết và dịu dàng, những bông tuyết đầu mùa rơi thật chậm trong không trung, lượn lờ mãi rồi mới thong thả ngập ngừng đáp xuống. Đất và trời hòa lẫn vào nhau trong một màu trắng muốt tinh khôi.
     Nhưng rồi tuyết cứ rơi mãi, mỗi lúc một hối hả hơn, dạn dĩ hơn, đáo để hơn. Rơi như không có cách nào ngừng lại được.Từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, từ phố này qua phố khác...,  người ta có cảm giác như không đi đâu cho thoát nổi cái màu trắng ấy, đơn điệu đến mức tẻ ngắt, buồn bã đến độ thê lương.
     Đó là một mùa đông khắc nghiệt của tôi. Tôi bước vào năm cuối đại học. Kỳ thi tốt nghiệp đến gần, và lấp ló ngay sau đó là ngày về nước. Đi cùng với khái niệm " về nước" là khái niệm "gửi hàng biển". Đi cùng với khái niệm "gửi hàng biển" là khái niệm "magazin"  Vấn đề nan giải đặt ra là làm sao có đủ thời gian để vừa học thi và làm luận văn tốt nghiệp, vừa đi magazin kiếm đồ lấp cho đầy thùng hàng sẽ được gửi về nước bằng đường biển. Sau một mùa đông hớt hải chạy trên những con đường ngập tuyết theo lộ trình "trường-thư viện-cửa hàng-nhà", người cứng đờ vì lạnh, ê ẩm vì những cú trượt chân, tuyết đọng trên má, trên mi và táo tợn chui vào tận cổ... , tôi thôi không làm thơ về những bông tuyết dịu dàng trong trắng nữa. Và cứ nghe nói đến từ magazin là ngao ngán cả người.

     Thậm chí cho đến tận mấy năm sau, cứ nghe nhắc tới từ magazin là tôi vẫn còn thấy chóng mặt. Thấy hiện lên trước mắt những cửa hàng rộng thênh thang hàng ít, người nhiều. Thấy hàng trăm con người nhẫn nhục đứng chờ từ giờ này sang giờ khác trong giá lạnh, xếp thành những cái đuôi rồng rắn dễ đến vài cây số. Thấy những cảnh ẩu đả loạn xị ngậu, võ mồm và võ tay chân, trên cái nền là một bản hợp âm nhiều thứ tiếng (Việt, Nga và gì gì nữa), nhiều thứ giọng ( đanh đá, hăm dọa, than thở, phân bua và gì gì nữa) .... , tất cả là để bảo vệ chỗ đứng chính đáng của mình trong hàng, để duy trì niềm mơ ước cũng vô cùng chính đáng là một cái ấm điện. Thấy nụ cười khoái trá một cách độc ác của cô bán hàng trước sự tẽn tò, thất vọng của đám dân đen khi bỗng nhiên nghe người nắm trong tay niềm mơ ước của mình dõng dạc tuyên bố : "Hôm nay thôi không bán nữa !" Thấy mình thiểu não ra về, mặt mũi bơ phờ, nhân cách tơi tả...
     "Chiến hữu" gần gũi nhất của tôi, người luôn luôn kề vai sát cánh với tôi trong những chiến dịch "đánh quả" là T.H. Đó là cô bạn gái thân từ hồi học cấp ba, đến khi sang Nga thì hai đứa lại may mắn được học cùng trường (tuy khác ngành nhau). T.H. nhanh nhẹn, xông xáo hơn tôi, cho nên cô giữ vai trò thủ lĩnh trong mọi " phi vụ thương mại" mà chúng tôi thực hiện. Nhưng cô cũng gầy và nhỏ như tôi, nên mỗi khi may mắn "trúng quả" thì hai đứa đều thở không ra hơi lúc chuyên chở chiến lợi phẩm về. Hồi đó bọn tôi nghèo lắm, toàn lấy công làm lãi, đâu dám động tí bỏ tiền ra đi taxi như những lớp sinh viên về sau. Mùa đông, đường thật trơn, gió thật lạnh, tay xách nách mang, hai đứa đi lò dò như ríu vào nhau, chỉ sợ ngã. Nhưng ngã còn không đau bằng thỉnh thoảng bắt gặp những cái nhìn thiếu thiện cảm của dân Nga ném vào mình. Chạm trán các đấng mày râu đồng hương, cũng còm và làm thân ngựa thồ như mình, thì chẳng hy vọng gì được họ giúp, mà còn phải nghe họ chớt nhả :  “Xinh thế mà sao không có anh nào giúp ?”
     Ừ, sao không có anh nào giúp ? Lũ bạn gái cùng trường bảo tôi và T.H. khổ vì quá kiêu, bao nhiêu thằng theo, sao không nhận đại một thằng làm bồ để nó đi đánh quả hộ cho khỏi nhọc thân. Thì ai chả biết rằng làm thân con gái đã muốn đánh quả mà không có bồ là rất thiệt. Nhìn chị em phụ nữ ở đây thì thấy ngay, người nào có bồ thật đúng như có cánh. Bàn là, nồi hầm... cứ tự dưng bay vèo vèo về nhà.
     Nhưng "nhận đại" thì tôi và T.H. chịu không làm được. Thâm tâm cũng muốn có bồ, nhưng trong đám con trai  lượn lờ xung quanh, chẳng thấy ai làm mình rung động. Hai đứa đều được coi là xinh xắn, dễ thương, nhưng học đến năm cuối đại học rồi, bạn gái có đứa đã thay đến bồ thứ ba, mà tôi với T.H. thì vẫn "trơ thổ địa".

     Một trong những vệ tinh lượn quanh tôi dai dẳng nhất hồi ấy là T., thường được bạn bè gọi là T. "ủng", còn bản thân anh ta thì luôn luôn tự giới thiệu mình bằng tên kép như nghệ sĩ là S.T.
     T. hơn tôi 4 tuổi, là nghiên cứu sinh ngành kinh tế. Đẹp trai, dân Hà Nội gốc ba đời là ít ( bố mẹ anh ta có cửa hàng buôn bát rất phát đạt ở khu Hàng Ngang, Hàng Đào), chỉ riêng hai ưu điểm ấy đã đủ để T. lọt vào mắt xanh của nhiều cô gái. Một ưu điểm cực kỳ quan trọng nữa của T. là anh ta rất giàu (cái này khiến nhiều chị em chết hẳn !). Giàu vì được hưởng lộc nhà thì đã đành, nhưng anh ta còn giầu thêm gấp nhiều lần do tài làm kinh tế. Đó là một nhà kinh tế bẩm sinh mà ảnh hưởng rất đậm nét trong hoạt động thương mại của sinh viên Việt Nam ở Nga lúc bấy giờ : anh buôn gì là nhân dân ào ào buôn theo. Từng là trùm buôn "sâm bổ thận" ( nhà anh ta có thời giống như kho chứa hàng của xí nghiệp dược phẩm, thuốc "bổ thận" xếp chót vót đến tận trần ), T. lại là người đầu tiên đánh hơi thấy rằng mặt hàng này đã bão hòa trên thị trường Nga. Trong lúc nhiều người còn lóc cóc vác thuốc "bổ thận" từ Việt Nam sang Nga, để rồi ế chỏng ế trơ tiếc của đành đem ra tự uống (hậu quả thế nào có trời mà biết được !), thì T. đã nhanh nhẹn chuyển sang lĩnh vực khác : anh ta trở thành người đi tiên phong trong việc buôn bao cao su, mặt hàng của thời kỳ "hậu bổ thận". Chính vì phát hiện ra mặt hàng bao cao su này mà T. được gọi là T. "ủng", chứ anh ta hoàn toàn không có quan hệ gì với loại giày cao cổ đi mưa.
     Tôi không hiểu sao một người như vậy lại mê tôi, một đứa con gái chẳng có gì đặc biệt ( thực lòng, tôi biết mình cũng dễ thương, nhưng trong số con gái mê anh ta có cô còn xinh hơn tôi), đã thế còn hết sức lớ ngớ trong chuyện làm ăn. Bạn gái thì bao nhiêu đứa bảo :"Gật nhanh đi kẻo hết rồi lại tiếc". Đến T.H., tuy không tỏ thái độ vun vào, cũng nói : "Mày mà lấy T. thì đúng là chuột sa chĩnh gạo nhé".
     Nhưng tôi không chịu được T. Không chịu được cái vẻ đẹp trai trơ trẽn và lọc lõi của anh ta. Không chịu được cái lối cười hơ hớ vừa tự mãn, vừa khả ố của anh ta. Không chịu được cái thói suồng sã, gặp con gái chưa quen biết gì mà đã xưng "anh, em" xoen xoét.
     Phải công nhận là T. rất kiên nhẫn với tôi. Dù cho tôi đã nói hết sức thẳng thắn về tình cảm của mình, dù cho anh ta cực kỳ bận với các hoạt động kinh tế, T. vẫn đều đặn một tuần một buổi đến thăm tôi rất đúng lịch. Lần nào đến thăm anh ta cũng có hai thứ quà, lãng mạn và hiện thực : nước hoa thì đi cùng bàn là, sôcôla thì cặp đôi với ấm điện. Ngày mùng 8 tháng 3 năm trước, anh ta mang tặng tôi một bó hoa hồng to tướng, kèm theo một cái nồi hầm. Tất nhiên, bao giờ tôi cũng tìm cách từ chối lịch sự nhưng kiên quyết. T. chẳng hề chạnh lòng, không nhận thì thôi, anh ta gói lại cẩn thận để mang về, rồi thản nhiên ngồi nói chuyện như không có việc gì xảy ra (và lần sau đến lại tiếp tục mang theo quà khác). Tán chuyện cũng là một cái tài của T., mồm anh ta dẻo quèo quẹo, ngồi mấy tiếng cũng không hết chuyện. Đối với tôi, ngồi tiếp chuyện T. quả là một cực hình, nhưng may quá cực hình đó không kéo dài lắm. Tôi nhanh chóng nhận ra lịch đến thăm của T. : tuần nào cũng đúng tối thứ sáu. Thế là tôi chỉ việc đi lánh nạn sang nhà T.H. vào tối thứ sáu hàng tuần. Sau nhiều lần đến hụt, để lại những mẩu giấy đầy tình cảm (âu yếm, trách móc như đã là gì của nhau !), T. có thử đến thăm tôi một cách thất thường, không theo lịch, và bắt gặp tôi ở nhà được vài lần. Nhưng hình như việc đi thăm tôi thất thường như vậy là quá sức đối với T., một nhà kinh doanh mà thời giờ hết sức khít khao và kế hoạch đã lên trước đến cả tháng. Thành thử những chuyến viếng thăm của anh ta cuối cùng thưa dần đi, chỉ còn được ở mức khoảng mỗi tháng một lần.
     Thời ấy, T.H. cũng thường được hưởng những chuyến viếng thăm đều đặn như tôi, nhưng cây si trung thành của cô là một đối cực của T "ủng". Không dám nói là quy luật, nhưng tôi nghiệm ra rằng những chàng đáo để đôi khi hay mê những cô gái hiền hiền, nhà lành, còn ngược lại những chàng lành như bụt thì cứ thấy các cô gái sắc sảo là y như rằng bị hút hồn, không tránh vào đâu được. Tội nghiệp Q., anh hoàn toàn như bị thôi miên, không còn sức kháng cự trước cô bạn thông minh, lém lỉnh của tôi.
(còn tiếp...)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 17 Tháng Mười, 2008, 08:57:53 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 3)
Q. bằng tuổi tôi và T.H., học cùng năm, cùng trường, nhưng khác khoa. Anh cũng đẹp trai, nhưng là một vẻ đẹp trí thức hơi "cây cảnh". Anh cũng nổi tiếng lẫy lừng như T. "ủng", nhưng không phải vì tài làm ăn, mà vì học giỏi. Q. đã từng được giải cao trong một kỳ thi toán quốc tế, tên và ảnh của anh có thời đã từng xuất hiện trên nhiều tờ báo lớn nhỏ ở Việt Nam. Với những chi tiết có thật và không có thật về Q., báo chí đã làm cho anh trở thành một nhân vật gần như huyền thoại trong giới sinh viên, anh đi đến đâu là con gái ở đấy đổ xô ra xem mặt. Nhưng bụt chùa nhà không thiêng, tuần nào T.H. cũng được nhìn mặt Q. ít nhất là vài lần rồi, nên cô không thấy ở anh có gì là huyền thoại cả.
     Thực tình, tôi thấy Q. có rất nhiều ưu điểm. Anh không chỉ học giỏi mà còn có máu nghệ sĩ, đàn ngọt, hát hay. Hội diễn văn nghệ nào của trường mà không có Q. lên sân khấu thì đám con gái bỏ về đến một nửa. Có lần tôi nói với T.H., nửa đùa nửa thật : " Tao không hiểu mày còn chê gì nữa. Tao mà là mày thì đã đổ từ lâu." T.H. trả lời tỉnh bơ : "Thằng này còn non lắm, phải dạy dỗ nhiều mới cho đi lấy vợ được." Tôi biết, trong thâm tâm T.H. cũng quý Q., nhưng gọi là tình yêu thì chưa phải, hoàn toàn không phải. Cho nên cô cứ để lửng lơ con cá vàng mãi, không từ chối mà cũng chẳng nhận lời. Nói đúng ra thì cũng có lời gì mà nhận đâu, Q. chưa bao giờ đủ can đảm thốt lên một câu tỏ tình với T.H. Lỗi chính là tại T.H. thôi : với loại nhát gái tầm cỡ như Q. mà T.H. lại nhất quyết không chịu bật đèn xanh thì đời nào anh dám tiến.
     Vậy là trong khi tất cả sinh viên Việt Nam ở Matxcơva đều biết là Q. chết mê chết mệt vì T.H., thậm chí thỉnh thoảng có người gặp anh còn hỏi thăm "bao giờ cưới", Q. vẫn không hề dám thổ lộ với T.H. về tình cảm của mình. Cứ vài tối anh lại đến thăm cô một lần, sau mấy câu ấp úng hỏi thăm sức khỏe, bàn chuyện thời tiết, anh bèn ngồi vào bàn giở báo ra đọc. Bao giờ T.H.cũng để sẵn trên bàn một chồng báo dầy cộp, "cho hắn có việc mà làm". Đọc hết xấp báo, uống xong bốn cốc nước chè to tướng (T.H. phải đổ thêm nước ít nhất là hai lần vào bình trà), Q. nhìn quanh quất dường như để tìm xem có cớ gì ngồi thêm nữa không. Vì việc tìm cái cớ này đối với Q. cũng khó ngang việc kiếm hàng "độc" ở Matxcơva thời ấy, cho nên nói chung Q. thường phải ngậm ngùi đứng dậy ra về sau cốc nước chè thứ tư, miệng lí nhí vài lời "chúc ngủ ngon nhé".
     Thỉnh thoảng tôi cũng gặp Q. trong những tối sang nhà T.H. để tránh mặt T. "ủng". Bình thường, đi tán gái mà lại gặp phải bạn gái của đối tượng ngồi lù lù ra ở đấy thì ai chẳng bực mình (còn làm ăn gì được nữa !), nhưng Q. thì ngược lại : anh có vẻ thoải mái hẳn lên với sự có mặt của tôi.. Chưa đủ bản lĩnh để mặt đối mặt với ý trung nhân, khi chỉ có một mình với T.H., dáng điệu Q. cứ như người xấu hổ vì có ba tay bốn chân thừa thãi quá không biết để đâu. Tấm thân mét bảy của anh cứng đờ ra mỗi khi chạm phải ánh mắt tinh quái của nàng. Cái không khí căng thẳng này được phá vỡ với sự xuất hiện của một người thứ ba : thần kinh của Q.được giải tỏa khỏi trạng thái ức chế. Chồng báo bị bỏ rơi, trà chỉ nhấp vài ngụm rất phong thái con người lịch lãm, óc hài hước được phát huy hết sức triệt để, Q. trở nên dạn dĩ hẳn, đến mức đã vài bận dám liều mình nhìn thẳng vào mắt nàng một cái ( công nhận là một cái nhìn hãy còn ngắn, và chưa thể hiện được hết độ sâu tình cảm, nhưng như vậy đã hứa hẹn lắm rồi). Nói chung là tình hình tỏ ra có rất nhiều triển vọng. Từ lúc nào không biết, tôi nhận thấy mình đã bất giác trở thành đồng minh của Q. : tôi đâm ra mến anh và rất muốn tác thành anh với cô bạn thân nhất của mình.

     Những buổi tối ngồi nói chuyện trong căn phòng ấm áp của T.H. thật thoải mái, dễ chịu, nhưng đề tài rồi cũng đến lúc cạn dần. Từ chuyện hài hước đến chuyện nghiêm chỉnh, từ tình hình chính trị Việt Nam và quốc tế đến tình hình buôn bán của dân ta ở Nga ...., tóm lại, chỉ còn thiếu mỗi đề tài tình yêu thôi, còn thì không đề tài nào là không được lôi ra phân tích hết sức kỹ lưỡng. Q. bắt đầu rơi vào tình trạng phải đối đầu với nguy cơ lặp lại những điều "biết rồi, khổ lắm, nói mãi". Hoặc là đành trở về với chồng báo mà ít lâu nay đã bị lãng quên. Cả hai nguy cơ này đều đe dọa những thành quả rất đáng khích lệ đã đạt được.
     Thêm nữa, căn phòng của T.H. ấm thì có ấm, nhưng trong khi chưa chuyển sang được giai đoạn "hai trái tim vàng", thì khung cảnh lâu dần đâm trở nên đơn điệu. Không thể trông chờ bất cứ một sự thăng hoa tình cảm nào diễn ra ở đây.
     Q. nhận thấy rằng thời cơ đã chín muồi cho một cuộc nhảy vọt mới về chất. Anh quyết định rủ T.H. đi xem phim.
     Sau ba lần rình đợi trên con đường đi học quen thuộc của T.H. để "tình cờ" gặp nàng  một mình, sau ba lần ném cho nàng một cái nhìn theo dự định là dài và đắm đuối, nhưng không hiểu sao lại biến thành một cái cụp mắt hướng xuống đất quá nhanh, sau ba lần lời mời đi xem phim (đã ôn luyện trước cả đêm) tự dưng biến thành một câu hỏi ngớ ngẩn và ấp úng "T.H. đi đâu đấy ?", Q. hiểu rằng thời cơ vẫn chưa chín muồi cho một cuộc đi xem phim chỉ có nàng và anh, vai kề vai, mặt đối mặt. Anh bèn gọi điện thoại cho tôi.
     Sứ mệnh lịch sử mà Q. muốn giao phó cho tôi thực ra rất đơn giản : tôi phải chuyển hộ Q. lời mời đi xem phim đến T.H., đồng thời chính tôi cũng là người được mời đi. “Mình sẽ rủ thêm mấy thằng bạn nữa, -Q. bảo, - cả hội sẽ cùng đi cho vui, còn lúc về thì mình sẽ đi tiễn T.H”.
     Kế hoạch như vậy là đã được suy tính khá chặt chẽ. Tôi thực hiện nhiệm vụ của mình không chút khó khăn. Gì chứ chuyện vui chơi giải trí thì cô bạn tôi rất ít khi từ chối, nhất là khi có tôi cùng tham dự.
     Điểm hẹn để cùng xuất phát là trước cổng B của tòa nhà chính trường bọn tôi. Khi tôi và T.H. đến nơi thì Q. đã có mặt ở đó, dáng điệu không giấu được vẻ bồn chồn. Tôi nhận thấy cái gọi là "mấy thằng bạn" của Q.thực ra chỉ là một nhân vật không dưới 1m75, mái tóc bờm xờm nuôi ít ra đã được ba tháng, ánh mắt tò mò hướng về T.H. và nụ cười tủm tỉm cho thấy đây là một người ý thức rất rõ về vai trò ông mối của mình. Q. giới thiệu : "K., bạn mình, học bên trường kiến trúc."
     Q. chọn một rạp chiếu bóng khá xa trường, hẳn là do đặt nhiều hy vọng vào màn "đưa em về trong tuyết lạnh". Phải chuyển tuyến tàu điện ngầm hai bận, đi mất chừng bốn mươi phút mới tới được rạp. Hai tiếng đồng hồ ngồi trong rạp trôi nhanh, rất nhanh đối với Q., lần đầu tiên được ngồi bên nàng cùng xem một bộ phim tình yêu khá lâm ly.
     Đường về, chúng tôi đi cùng một đoạn rồi phải chia đôi ngả, vì T.H. và tôi tuy học cùng trường nhưng sống ở hai ký túc xá khác nhau. Mạnh dạn một cách đáng ngạc nhiên ( chắc là do tác động của bộ phim vừa xem), Q. nhận đưa T.H. về, và đương nhiên, theo phép lịch sự, K. nói sẽ đi tiễn tôi. Giờ G. đã điểm, chúng tôi tạm biệt nhau, và không ai bảo ai, tôi và K. cùng gửi cho Q. một cái nháy mắt tinh nghịch.  
      K. tiễn tôi về. Dọc đường anh bảo : “Q. tính hay lắm đấy, phải cái mê cô bạn của L.C. quá rồi thành ra cứ như thằng mất hồn, mà cái cô T.H. này xem chừng nói năng đáo để ra phết nhỉ, cô ấy thương cho thì thôi, chứ muốn hành kiểu gì thì thằng Q. cũng phải chịu.” “T.H. dễ thương lắm, - tôi cãi, - mồm miệng nó loe toe như vậy, chứ nó rất tốt bụng và tình cảm.” “Q. thực sự là loại thiên tài hiếm có đấy, -K. tiếp, - cô nào vớ được nó thì bằng trúng số độc đắc.” “Thì T.H. cũng lắm tài, - tôi lại nói, - cả thành phố này kiếm được một đứa con gái tài sắc vẹn toàn như nó chẳng phải dễ đâu.” Câu chuyện cứ thế tiếp tục. K. khen Q. hết lời, tôi khen T.H. hết lời, cuối cùng chúng tôi nhất trí với nhau ở chỗ mong sao cho trai anh hùng chiếm được trái tim của gái thuyền quyên.
     Hết chuyện người đến chuyện mình. Tôi được biết K. cũng là người Hà Nội như tôi. Anh đã tốt nghiệp đại học từ năm ngoái, hiện là nghiên cứu sinh năm thứ nhất ở trường kiến trúc. Thấy tôi bảo học ngành tâm lý, K. kêu sợ quá, kiểu này mình nghĩ gì L.C. biết hết phải không ? “Việc gì mà sợ, -tôi cười, - cây ngay đâu có sợ chết đứng, nếu K. không nghĩ gì xấu thì chẳng có gì phải lo.” “Biết thế nào là tốt là xấu,- K. nói,- tốt xấu nhiều khi phụ thuộc vào quan niệm của mỗi người”. Sực nhớ mình đang phải làm một cuộc điều tra xã hội học về "quan niệm tình yêu và hôn nhân" để lấy tài liệu cho luận văn tốt nghiệp, tôi bèn hỏi K. có nhận phát giùm tôi khoảng vài chục tờ anketa   cho các bạn trai của anh được không. K. đồng ý ngay. Chúng tôi thỏa thuận là K. sẽ phát hộ tôi hai mươi tờ, cho các sinh viên hoặc nghiên cứu sinh  nam độ tuổi từ 20 đến 25, nếu được mười người Việt và mười người Nga là tốt nhất.
     K. đưa tôi lên đến tận phòng để nhận anketa. Tôi cám ơn anh rồi tiễn anh ra thang máy. Trong lúc đợi thang máy, K. bảo tối nay đi xem phim vui quá nhỉ, có khi lần sau thì lại đến lượt mình phải nhờ Q. mời L.C. và T.H. đi xem phim mới được. “K. cứ phát anketa hộ mình đi cái đã, chuyện xem phim sẽ bàn sau”, tôi nói. K. định đáp lại điều gì, nhưng thang máy đã đến, anh bước vào, mỉm cười và chào tôi "hẹn gặp lại" . Cánh cửa tự động đóng sập ngay tức khắc, mang theo nụ cười rất tươi của anh. Tôi nhận thấy K. có nụ cười thật dễ thương.

    
(còn tiếp....)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 17 Tháng Mười, 2008, 08:59:32 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(tiếp chương 3)
     Đúng hẹn, một tuần sau, K. đến tìm tôi để đưa cho tôi tập anketa đã điền câu trả lời. Thay vào hai mươi tờ như tôi chờ đợi, K. chỉ chìa ra được có năm tờ.
     - Tại mấy thằng bạn mình ẩu quá, - K. thanh minh, - đã hứa như đinh đóng cột là chậm nhất chiều nay sẽ đưa, vậy mà cuối cùng thằng thì quên, thằng thì biến đâu mất hút, chịu không tìm ra được. Vì đã hẹn nên mình phải đến kẻo L.C. lại trách. Thôi, nhất định lần sau mình sẽ mang đến đủ những tờ còn lại. Còn bây giờ có cái này để đền cho L.C. đây.
     Nói rồi, K. chìa ra một bông hoa. Chỉ một bông hoa thôi, chứ không phải cả một bó to đùng như T. "ủng" tặng tôi hồi trước, nhưng đó là một bông hồng nhung tuyệt đẹp. Trên cái cọng rất thẳng và cứng cáp là một cái nụ vừa mới chúm chím hé nở thành hoa, đỏ thắm và óng ả, thật hợp với lọ hoa xinh xinh của tôi. Mọi lời trách móc của tôi tiêu tan hết, tôi chỉ còn biết mỉm cười và cám ơn K.
     Ngồi nói chuyện trên trời dưới biển thế nào mà ba tiếng đồng hồ trôi vèo qua chẳng ai kịp nhận thấy. Đã đến lúc K. phải ra về. Chia tay, anh hứa đi hứa lại mấy lần là nhất định tuần sau tôi sẽ có đủ các bản anketa mong đợi.
     Một tuần nữa trôi qua. Vào buổi tối mà K. hẹn đến, tôi nhận thấy mình nhấp nhổm đứng ngồi không yên trước đó cả tiếng đồng hồ. Chốc chốc lại đứng dậy nhìn qua cửa sổ hoặc vểnh tai lên khi nghe thấy tiếng ồn của thang máy, tiếng bước chân ngoài hành lang. Đúng tám giờ có tiếng gõ cửa. Tôi ra mở cửa và thấy trước mắt mình là một bông hoa. Một bông hồng nhung tuyệt đẹp vừa hé nở, đỏ thắm và óng ả, thật hợp với lọ hoa xinh xinh của tôi.
     - Sao, lại lỡ hẹn nên phải đền lần nữa à ? - Tôi vừa cười vừa hỏi.
     - Chịu L.C. thật, đúng là nhà tâm lý học, chỉ cần nhìn hoa là đoán ngay được tội lỗi của kẻ tặng hoa. Lần này mình chỉ đem thêm được tám tờ nữa thôi. Tại mấy thằng bạn mình ẩu quá... - K. lại bắt đầu thanh minh, nội dung không có gì mới hơn là những lý do lần trước.
     Bông hồng được đem cắm ngay vào lọ, thay cho bông hôm nọ đã bắt đầu tàn mà lúc trước tôi còn lưu luyến chưa muốn bỏ đi. "Lọ hoa đẹp thế này thì phải luôn luôn có hoa tươi mới xứng", K. bảo.
     Hai ngày trước buổi hẹn lần thứ ba với K., tôi được biết là đúng buổi tối hôm đó tôi sẽ không rảnh. Ông thầy của tôi bảo tôi đến làm việc với ông vào buổi chiều, sau đó ở lại ăn cơm luôn với gia đình ông buổi tối. Lý do là vì nhân dịp một giáo sư người Anh cùng chuyên môn với thày trò tôi đang dự hội nghị ở Matxcơva, ông thầy tôi có mời vị giáo sư này đến nhà ăn tối, và ông muốn tôi có mặt để tham gia câu chuyện.
     Tôi gọi điện thoại cho K. để đổi lại ngày hẹn. Tìm mãi không thấy ngày nào thích hợp, hôm tôi rảnh thì K. bận, lúc tôi bận thì K.  rảnh, mà đợi thêm một tuần nữa thì cả tôi và K. đều không muốn. Cuối cùng chúng tôi thỏa thuận là vẫn giữ nguyên ngày cũ, nhưng thay vào việc đến nhà tôi buổi tối thì K sẽ đợi tôi ở ga tàu điện ngầm "Thư viện Lênin". Buổi chiều tôi phải đọc tài liệu ở thư viện đó, đến năm giờ rưỡi thì có hẹn ở nhà thầy giáo. Về phần K., quãng bốn rưỡi năm giờ chiều anh cũng có việc đi về phía này. Vì vậy, chúng tôi hẹn nhau vào lúc năm giờ kém mười lăm ở trước cửa ga tàu điện ngầm ấy để K. trao tập anketa cho tôi, xong xuôi tôi vẫn còn hơn nửa tiếng đồng hồ, đủ thời gian thong dong đến nhà ông giáo (cũng nằm trên tuyến đường đó, chỉ cách có vài bến tàu). "Liệu có phải để lại vài tờ đến lần sau không ?", tôi hỏi qua điện thoại, nửa đùa nửa thật. " Đừng lo, sẽ thanh toán dứt điểm lần này. Lần sau thì để dành cho chuyện khác", K. trả lời.
     Chúng tôi đến chỗ hẹn gần như cùng một lúc. Khi tôi đang đi về phía cửa ga thì thấy K. từ trong ga đi ra. Nhìn thấy trong tay anh không có hoa, tôi cười bảo :
     - May quá, không mang cái gì để đền thế này thì chắc là đã có đủ anketa ?
     - Không phải vậy đâu. Mình không mang hoa tặng L.C. là vì biết L.C. phải đến nhà ông thầy ngay nên không tiện, chứ chuyện này chẳng liên quan gì đến mấy tờ anketa cả.
     - Vậy K. có mang được đủ tất cả các tờ còn lại cho mình không ? - tôi hỏi.
     - Có chứ, - K. trả lời, tay lục lọi trong cặp, - tức là chỉ còn thiếu một tờ thôi.
     - Lại thiếu một tờ ? Chắc vẫn còn một thằng bạn ẩu quá !
     - Không, bọn bạn mình lần này chu đáo hết ý, chẳng có thằng nào ẩu cả, - K. cười hì hì trả lời.- Thiếu một tờ, nhưng là một tờ có thể giải quyết ngay tại chỗ, tức là tờ của mình ấy mà. Mình sẽ điền anketa cho L.C. ngay bây giờ đây.
     K. hỏi nhà ông thầy tôi ở chỗ nào. “Phố Arbat”, tôi đáp. “Mình cũng có việc phải đi về hướng đó,- K. nói như reo lên,- vậy mình sẽ điền anketa cho L.C. lúc ngồi đợi tàu và trong khi tàu chạy.”
     Chúng tôi cùng đi vào ga. K. ngồi viết hí hoáy trong lúc đợi tàu, vẻ mặt rất tập trung khiến tôi không dám nói chuyện. Tàu đến, K. ngẩng lên, tôi hỏi anh đã làm xong chưa. “Còn một câu cuối cùng thôi”, K. đáp.
     Giờ cao điểm, trong tàu đông nghẹt người. Có chỗ đứng là may, hy vọng gì viết lách được. K. bảo : “ Mình sẽ viết nốt khi xuống tàu, được không ?” “ Tất nhiên là được”, tôi trả lời.
     Tàu đến nơi. Chúng tôi đi ra. K. rút tờ giấy, viết thêm vài chữ rồi đưa cho tôi và bảo :  “L.C. đọc hộ mình xem đã đạt yêu cầu chưa ?” “ K. điền câu trả lời thế nào chẳng được, làm gì có chuyện đạt hay không đạt ở đây”, tôi đáp. “Thì L.C. cứ đọc thử xem, biết đâu có câu hỏi mình hiểu sai thì còn chữa lại được kịp thời”, K.nhất quyết nài.
     Tôi vừa đi vừa đọc, K. đi theo. Rẽ vào phố Arbat thì tôi đọc đến câu hỏi thứ năm : Mẫu người yêu lý tưởng của bạn? Có ba câu trả lời cho sẵn để lựa chọn và một dòng thứ tư để trống cho người làm test tự viết ý của mình, nếu cảm thấy không thích hợp với cả ba câu trả lời trên. Tôi đọc thấy tên tôi ở dòng thứ tư, viết bằng nét chữ to và đậm : L.C.
     Có lẽ chỉ có tuổi sinh viên cách đây hai mươi năm mới tỏ tình ngây thơ và vòng vo như vậy. Có lẽ, chỉ cần thêm vài năm nữa, nếu một tờ giấy như vậy rơi vào tay tôi thì tôi sẽ dứt khoát coi đó là một trò đùa ngớ ngẩn. Có lẽ, vào ngay thời điểm này, nếu người trao cho tôi tờ giấy  là T. "ủng" chứ không phải là K, thì lập tức anh ta sẽ bị tôi cười khẩy vào mặt và dán ngay cho cái nhãn "lố bịch" to tướng. Nhưng lúc này đây, ở bên tôi là K., căng thẳng, đợi chờ và hơi hốt hoảng, hệt như một chú bé vừa mới đánh liều châm vào ngòi nổ của quả pháo đùng. Sự hốt hoảng của K. lan sang tôi.
     - Sao K. lại viết thế ? - Tôi lúng búng nói một câu thật vô nghĩa, giọng hơi lạc đi.
     Giọng nói của K. cũng lạc đi không khác gì tôi :
     - Tại vì, tại vì... anh yêu em, - anh nói như hụt hơi.
     Chúng tôi dừng lại bên một cây đèn lồng. Tôi ngước mắt nhìn K., đầu óc rối loạn, chưa biết đáp lại thế nào thì anh đã cúi xuống, đôi môi kề sát miệng tôi. Câu nói chưa kịp thốt lên vụt tắt ngấm, người tôi như tan đi trong một cái hôn dài.
     Khi tôi mở mắt ra, hoàng hôn hình như vừa buông xuống. Đường phố bồng bềnh trong một màu tím hồng huyền ảo, ánh chiều đang lịm dần phía trên những ngọn đèn đường còn chưa kịp sáng lên.   
     Matxcơva bắt đầu vào tháng ba, tuyết đang tan, trời rất trong, rất dịu.
(còn tiếp.....)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 20 Tháng Mười, 2008, 07:43:55 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Chương 4)
4
     Trời rất trong, rất dịu khi Lan Chi bước ra đường vào buổi sáng hôm nay. Cô đang có tâm trạng khá vui vẻ. Chỉ còn một hôm nữa thôi là hai tuần nghỉ lễ sẽ bắt đầu, lũ trẻ nhà cô sẽ được nghỉ ở nhà, Lan Chi cũng không đi làm vì vào dịp này cửa hàng của cô bao giờ cũng đóng cửa cùng một lúc với các trường học. Và sau đó, vào giữa kỳ nghỉ, Thanh Hoa sẽ cùng chồng con đến chơi với gia đình Lan Chi chừng bốn, năm hôm. Một kế hoạch chu đáo đến từng chi tiết cho dịp hội ngộ này đã được vạch ra. Lần đầu tiên sau rất nhiều năm hoàn toàn dửng dưng với Noel, Lan Chi nhận thấy mình bị cuốn vào không khí náo nức, hội hè của dân châu Âu từ lúc nào không biết.
     Một tiếng đồng hồ sau, bên ngoài cửa sổ tình hình thời tiết và không khí đường phố dường như vẫn không có gì thay đổi, nhưng tâm trạng của Lan Chi thì đã không còn dấu vết gì của sự vui vẻ lúc trước. Nguyên nhân của sự biến chuyển đột ngột này là hai cú điện thoại mà cô vừa nhận được. Cú đầu tiên cho Lan Chi biết rằng kỳ nghỉ này nhà cô sẽ không có những người khách đang mong đợi : hai đứa con của Thanh Hoa tự dưng lăn ra ốm làm cho kế hoạch đi nghỉ của cả gia đình phải hủy bỏ. Cú thứ hai thông báo một sự kiện bất ngờ : bà mẹ chồng sẽ từ Paris xuống miền Nam nghỉ Noel đợt này với gia đình Lan Chi. Qua điện thoại, cô em chồng giải thích một cách rất dài dòng lý do dẫn đến chuyến đi Mỹ ngoài dự kiến của vợ chồng mình vào đúng dịp Noel, thổ lộ một cách rất thân tình rằng để má lại một mình ở Paris vào dịp lễ tết này thì tội quá, em đã tính hay đem má đi chơi cùng, mà nhiều việc quá lo không kịp, mà má cũng đâu có muốn... Rồi, sau khi thông báo rằng em đã mua vé máy bay cho má xuống chỗ anh chị ngày mai, cô em như sực nhớ ra bèn hỏi bằng giọng của một người đã biết trước câu trả lời : “Má xuống chơi đường đột vậy có phiền anh chị quá không ?”  “Phiền gì đâu”, Lan Chi đáp lại bằng  giọng của một người biết rằng mình không có cách trả lời nào khác.

     Trưa hôm sau, hết ca làm việc, Lan Chi không về nhà mà lái xe ôtô ra thẳng sân bay đón mẹ chồng. Như thường lệ, ban ngày Trung không có được một phút rảnh rỗi, nếu không bận rộn ở bệnh viện thì lại có người bệnh đợi ở phòng khám, vì vậy, buổi sáng trước khi đi làm, anh giao hẹn với Lan Chi là để lại cho cô chiếc ôtô cùng với nhiệm vụ đi đón mẹ.
     Máy bay từ Paris đến chậm hai mươi phút. Hai mươi phút ngồi đợi ở sân bay, không mang theo cái gì để đọc, đầu óc Lan Chi chỉ có mỗi một việc để nghĩ là cuộc giáp mặt sắp tới với mẹ chồng. Lần cuối cùng cô gặp bà cách đây đã năm năm, khi hai bé sinh đôi ra đời và bà nội từ Paris xuống thăm cháu, đánh dấu sự kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh dai dẳng nhiều năm giữa mẹ chồng và nàng dâu. Từ đó đến nay, quan hệ của họ vẫn chỉ dừng lại ở vài câu trao đổi ngắn gọn, lạnh lùng nhưng lịch sự qua điện thoại. Đôi lần, vợ chồng Lan Chi cũng đã dự định thu xếp một kỳ nghỉ nào đó đưa lũ trẻ lên Paris chơi với bà nội, nhưng rồi cô luôn luôn có những lý do chính đáng để hoãn lại chuyến đi, nhiều khi vào phút cuối cùng. Thường thì năm nào Trung cũng có việc phải đi Paris ít nhất một lần, kết hợp luôn ghé thăm mẹ, nhưng gần một năm nay anh quá bận công việc ở đây nên chưa đi được, có lẽ đó cũng là một trong những lý do của việc mẹ anh đột ngột quyết định đến chơi vào kỳ nghỉ cuối năm này.
     Phút đầu gặp lại diễn ra hơi sượng sùng. "Thằng Trung đâu ?", bà mẹ chồng hỏi thay câu chào, tuy đã biết từ trước là con trai bận không ra sân bay được. "Dạ, giờ này anh ấy bận ở bệnh viện. Má đưa vali con xách cho", Lan Chi nói rồi tự cảm thấy cái từ "má" phát ra bằng chất giọng Hà Nội trăm phần trăm của mình nghe giả dối đến nỗi cô bực bội cắn vào lưỡi mình một cái.
     Ngồi vào ôtô, hai bên trao đi đổi lại những lời thăm hỏi. Đầu tiên, mẹ chồng hỏi lũ nhỏ có khỏe không, có ngoan không, có nhanh lớn không. Lan Chi túm ngay lấy cơ hội kể lể về con để chuyển cách xưng hô, vẫn xưng "con" nhưng gọi mẹ chồng là "bà", cái lối gọi thay con này làm cô nhẹ nhõm hẳn. Nói được chừng năm phút thì Lan Chi nhận thấy mẹ chồng bắt đầu lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ, cô bèn chuyển đề tài, hỏi thăm tình hình gia đình cô em chồng ở  Paris. Câu hỏi này đem lại cho cô hơn mười phút khỏi động não tìm chuyện để nói, chỉ việc nghe mẹ chồng kể về lũ cháu ngoại một cách say sưa, say sưa đến mức tự dưng cô đâm chạnh lòng nghĩ đến mấy đứa con mình chẳng còn bà ngoại. Rồi Lan Chi hỏi thăm đến gia đình ông chú ruột chồng và được biết tiệm ăn của bà thím dạo này không còn đông khách như trước, cậu em họ sắp cưới đến nơi thì chả biết bị bồ bỏ hay bỏ bồ, giờ lại cặp với một cô bồ khác, lần này là tây ..."Vậy cái cô định cưới thì là người Việt ạ ?", Lan Chi hỏi. "Ờ, ... mà không, con trước cũng tây, nhưng con trước nữa thì là Việt. Con nhỏ nhà ông Tư Bình đó. Hai nhà ưng lắm rồi mà hai đứa nó lại chẳng chịu nhau..."  Câu chuyện được chuyển sang nhà ông Tư Bình. Lan Chi thoáng nghĩ không biết ông Tư Bình là ai nhỉ, tuy vậy cô không hỏi để mẹ chồng khỏi mất hứng. Điểm một vòng hết tình hình bà con, người quen và không quen ở Paris, thêm được mười phút nữa mà vẫn chưa về được tới nhà. Mấy phút im lặng nặng nề, rồi mẹ chồng kêu buồn ngủ và ngả người vào lưng ghế lim dim mắt. 
     Vào đến trung tâm thành phố, ôtô giảm tốc độ rồi lăn từng tí một như bò trên những đường phố tắc nghẽn xe và đông nghịt người qua lại. Ở mỗi ngã tư, đèn hiệu màu xanh lấp lóe như trêu ngươi : cứ mỗi một lần ôtô nhích lại được đến gần thì nó lập tức chuyển sang thành màu đỏ. Mười phút đã trôi qua mà ôtô của Lan Chi vẫn chưa ra khỏi được cái đại lộ chỉ dài có quãng nửa cây số. Không khí nhốn nháo ngoài đường làm sự im lặng trong xe trở nên mỗi lúc một ngột ngạt hơn. Lan Chi hạ cửa kính xuống, gió lạnh và và những âm thanh đường phố hỗn độn ập vào. Mắt vẫn nhắm lim dim, người vẫn ngả trên lưng ghế, mẹ chồng bỗng nói như than : "Chỗ này tỉnh lẻ mà sao cũng đông dữ vậy !" "Dạ, sắp đến Noel nên người ta đi mua sắm", Lan Chi đáp bằng một giọng chán nản. Noel, sao Noel nào cũng vậy, cứ đến cái thời điểm mà thiên hạ vui vẻ nhất thì cô lại thấy lòng mình cô độc nhất.
     Cuối cùng thì ngôi nhà nhỏ nằm nép mình buồn bã trong một góc phố vắng cũng hiện ra. Lan Chi nhìn đồng hồ : ba giờ mười lăm, còn hơn một tiếng nữa mới đến giờ đi đón bọn trẻ ở trường về. Ăn trưa giờ này đã muộn nhưng tối qua Lan Chi biết trước là buổi trưa sẽ cập rập nên đã cẩn thận nấu nướng sẵn vài món. Cô vừa vào bếp định làm nóng lại thức ăn thì mẹ chồng nói ngay là không đói, đã ăn trên máy bay rồi. Bà kêu mệt và muốn đi nằm. Lan Chi đành tự thưởng thức một mình những món ăn mà cô đã lụi hụi làm cả tối hôm qua, món nào cũng cho đường ngọt lự để chứng tỏ thiện chí với mẹ chồng.

     Cây thông cao mét rưỡi đã được dựng lên ở một góc phòng khách từ cách đây mấy hôm. Thông nhựa, nhưng nhìn xa cũng na ná như thông thật. Đèn màu nhấp nháy, dây kim tuyến lóng lánh, những đồ trang trí hình quả thông, quả chuông, hình ông già Noel ... đủ màu sắc treo lủng lẳng khá vui mắt trên những cành thông. Kỳ nghỉ đã bắt đầu. Không khí Noel cuối cùng cũng đã lan được đến đây.
     Sáng 24 tháng 12, tuy không phải đi đâu nhưng Lan Chi dậy rất sớm. Trung vẫn phải đi làm như thường lệ, sáu giờ rưỡi sáng đã vừa ngáp ngắn ngáp dài vừa làu bàu than thở rồi chui ra khỏi giường. Ở phòng bên cạnh, mẹ chồng cũng cựa mình, lục đục. Lan Chi bật dậy theo Trung, xăng xái đi pha cà phê và làm mấy lát bánh cho chồng ăn sáng, mặc dù anh đã ra sức can ngăn "ngủ tiếp đi, anh tự làm lấy được mà". Trung đi rồi, ba đứa con còn ngủ say sưa, Lan Chi bèn tranh thủ dọn dẹp nhà cửa. Bữa ăn Noel tối nay sẽ đặc biệt hơn mọi năm : ngoài mẹ chồng ra, nhà còn có thêm một vị khách nữa là bà hàng xóm Xvetlana. Cô đã có lời mời bà đến ăn tối Noel với gia đình cô từ tuần trước, sau khi tình cờ biết rằng dịp nghỉ lễ này cô con gái duy nhất của bà có việc bận nên không về thăm mẹ được.
     Lan Chi vừa đặt vào dưới gốc thông vài gói quà mua sẵn từ hôm trước cho lũ trẻ thì mẹ chồng từ phòng ngủ bước ra. Nhìn thấy những gói quà bọc giấy màu bóng bẩy và thắt nơ diêm dúa, bà sực kêu lên : "Mấy thứ đồ chơi mua ở Paris lại đưa ngay cho sắp nhỏ từ hôm trước mất rồi, tối nay vậy là không còn gì hết trơn cho tụi nó". Cô con dâu phải ra sức can ngăn bà mới đành từ bỏ ý định chạy ra cửa hàng mua thêm quà khác cho cháu, bụng vẫn áy náy không yên, bảo vậy là tối nay lũ trẻ chỉ có quà của ba mẹ chúng thôi mà không có quà của bà. “Quà Noel thì phải để tối Noel mới mở chớ”, bà nói. Rồi bà lại băn khoăn hỏi : “Không biết để quà dưới gốc thông vậy đã đúng chưa, hay phải cho vào trong cái giày cao cổ ? Mà là đưa ngay cho tụi nó tối nay, hay phải giấu đi đợi đến sáng ngày mai mới đúng? Có phải thuê ông già Noel đến đưa quà không ? Vợ chồng con Hạnh ở Paris năm nào cũng thuê người làm ông già Noel mang quà đến tận nhà cho bọn nhỏ đó.”
     “Mấy thứ thủ tục ấy con cũng không rõ lắm, - Lan Chi nói. - Thôi thì cứ có quà cho bọn trẻ con nó vui là được rồi, cho nó khỏi thấy khác biệt con nhà người ta. Chứ còn truyền thống của người ta, phong tục của người ta, mình làm sao biết hết, theo hết được. Bọn con cứ phiên phiến thôi bà ạ.”

     Bảo là phiên phiến nhưng bữa ăn tối nay vẫn phải có sâm banh và một con gà tây rôti nhồi thịt băm to đùng cho đúng lệ. Trung thắp mấy cây nến thơm tỏa hương ngào ngạt để tạo thêm không khí Noel. Mẹ anh bảo đã thắp nến rồi sao còn để đèn điện làm gì. Cu Nam nghe bà nói liền nhanh nhảu chạy đi tắt đèn. Mọi người ngắm nghía một hồi rồi quyết định phải châm thêm cây nến nữa không thì tối quá. Trung châm thêm luôn hai ngọn nến cuối cùng còn sót lại trong nhà. Cả nhà lại ngắm nghía thêm lần nữa rồi quyết định bật đèn lên, vừa nến vừa đèn càng tốt.
     Đúng bảy giờ rưỡi tối thì có tiếng chuông. Lan Chi ra mở cửa. Bà hàng xóm Xvetlana xuất hiện với một chiếc bánh gatô rất to. “Gatô tôi làm theo kiểu Nga đấy,- bà nói,- chắc cô đã ăn loại này rồi chứ nhỉ ?” “Cám ơn bác, cháu cũng không nhớ nữa bác ạ, lâu quá rồi mà, để tí nữa ăn thử có khi lại nhớ”, Lan Chi vừa đáp vừa nhận chiếc bánh từ tay bà hàng xóm rồi mang vào bếp.
     Trung giới thiệu bà Xvetlana với mẹ. Sau vài câu chào hỏi xã giao, mẹ anh ồ lên sửng sốt khi biết bà hàng xóm là người Nga.
     - Bà nói tiếng Pháp hay quá, hệt như người Pháp vậy, - mẹ Trung khen bà khách bằng một thứ tiếng Pháp ngọng nghịu.
     - Tôi sống ở đây gần bốn chục năm rồi, toàn nói tiếng Pháp chứ có mấy dịp để nói tiếng Nga đâu, muốn nói tiếng Nga ở nhà với chồng con cũng khó thì còn nói ở đâu được nữa, - bà hàng xóm cười trả lời.
     - Vậy ông nhà là người Pháp ? - mẹ Trung hỏi.
     - Ông ấy cũng người gốc Nga, nhưng sinh ở Pháp. Ông ấy mất mười năm rồi.
     Mẹ Trung có vẻ định hỏi tiếp điều gì, nhưng xem ra phải diễn đạt bằng một câu tiếng Pháp không đơn giản, cho nên bà nhăn mặt lại, căng thẳng lựa lời,  rồi sau một hồi ậm ừ đành bỏ cuộc. Để lấp chỗ trống trong lúc đợi người đối thoại tìm được một câu khác dễ nói hơn, bà Xvetlana quay sang chỉ vào Lan Chi và nói rất âu yếm :
     - Cô Lan Chi thì nói tiếng Nga giỏi lắm. Từ khi quen cô ấy, tôi lại có thêm dịp nói tiếng Nga.
     Mẹ chồng ném cho con dâu một cái nhìn lạ lẫm nhưng không bình luận gì mà quay sang hỏi thăm chuyện con cái của bà hàng xóm. Đề tài "mấy con, mấy cháu" rõ ràng là vừa đơn giản về mặt ngôn ngữ, vừa thích hợp về mặt tuổi tác và giới tính đối với cả hai người, cho nên câu chuyện lại có cơ kéo dài thêm được.
     Bà Xvetlana là người hàng xóm duy nhất ở phố này mà Lan Chi có quen thân. Những người khác thì quan hệ nhiều nhất cũng chỉ ở mức một câu chào khi thỉnh thoảng chạm trán nhau ngoài phố. Trong hai năm đầu Lan Chi sống ở đây, quan hệ của cô với bà Xvetlana thực ra cũng chỉ có vậy. Bà sống ở ngay ngôi nhà bên cạnh, hàng ngày Lan Chi vẫn nhìn thấy bà đi ra đi vào, nhưng cô không hề biết điều gì về bà, thậm chí đến cả cái tên cũng không biết. Thế rồi một hôm cô vừa về đến cửa thì gặp bà đi chợ về. Hai tay xách khệ nệ hai túi to, bà trượt chân ngã làm cà chua, cà rốt, khoai tây ... rơi ra vỉa hè tung tóe. Lan Chi vội chạy đến đỡ bà già dậy, giúp bà nhặt các thứ đồ ăn xếp lại vào trong túi. Rồi tiện thể, cô xách hộ luôn cả hai cái túi đến tận cửa nhà bà. Trong lúc bà già cám ơn Lan Chi rối rít thì tình cờ cô nhìn thấy cái tên đề trên một khung giấy nhỏ phía dưới nút bấm chuông ở cửa : Xvetlana Popova. Một cái tên Nga chính hiệu không lẫn đi đâu được. Lan Chi buột miệng hỏi bằng tiếng Nga : "Bác là người Nga ạ ?" " Vâng", bà già ngẩn người ra sững sờ, đáp lại câu đầu bằng tiếng Pháp, rồi lập tức chuyển sang tiếng Nga : "Sao cô lại nói được tiếng Nga ?" "Cháu đã học ở Nga tám năm". "Những tám năm cơ à ? Vậy cô học ở thành phố nào ?" "Ở Matxcơva ạ ." "Tôi là người Matxcơva đây", bà già nói và đột nhiên cầm lấy tay Lan Chi, miệng cười như mếu, rồi nhất định kéo cô vào nhà chơi, "để nói chuyện về Matxcơva một chút cho đỡ nhớ". Đang có thời gian rảnh, Lan Chi theo bà hàng xóm vào nhà ngay. Cô cũng muốn nói chuyện về Matxcơva một chút cho đỡ nhớ.
     Ngồi nửa tiếng với bà Xvetlana, Lan Chi đã biết rất nhiều điều về bà. Biết rằng bà đến Paris vào đầu những năm sáu mươi, khi đang là sinh viên Pháp văn, được gửi qua Pháp thực tập. Chỉ định đi có một năm thôi, rồi lấy chồng là người gốc Nga (bố mẹ ông ấy sang Pháp sống ngay sau cuộc cách mạng năm 1917), thế rồi ở lại Pháp mãi cho đến tận bây giờ. Mấy năm trước chồng bà chết vì tai nạn ôtô. Cô con gái duy nhất lấy chồng người Pháp, hiện sống ở Lille, một thành phố tận cực bắc nước Pháp,  thỉnh thoảng mới đem con về thăm bà. "Sao bác không chuyển đến đó ở cho gần con cháu ?", Lan Chi hỏi. "Tôi sống ở đây mấy chục năm rồi. Nhà cửa ở đây, thói quen cũng ở đây, không nhổ rễ đi đâu được nữa. Nếu đi được thì tôi đã về Matxcơva sống chứ chẳng đi chỗ khác. Bao nhiêu năm nay lúc nào cũng nghĩ đợi thêm ít nữa rồi về Nga hẳn, vậy mà cuối cùng có về được đâu."

(còn tiếp...)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 20 Tháng Mười, 2008, 07:45:04 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 4)
Từ đó họ thường xuyên qua lại thăm nhau. Để chia xẻ với nhau những hồi ức về một thành phố xa xăm trong quá khứ. Matxcơva, thời thơ ấu của bà. Matxcơva, tuổi trẻ của cô. Đôi lúc, nhìn cặp mắt long lanh ngấn lệ của bà khi nhắc tới những tên đường, tên phố, Lan Chi tự hỏi không biết đằng sau những cái tên ấy bà cất giữ những kỷ niệm gì. Còn cô, ở mỗi một con đường xưa cô đều nhìn thấy bóng hình Kiên. Ở góc phố này là nụ hôn đầu cháy bỏng của anh, một ngày cuối đông tuyết tan. Ở vỉa hè kia, dưới một hàng hiên, cô đã nép trong vòng tay anh để tránh một cơn mưa tầm tã đến hơn tiếng đồng hồ, hai đứa trò chuyện huyên thuyên, trời tạnh lúc nào không biết. Còn ở con đường nhỏ rợp bóng cây ấy, cô đã gục vào vai anh khóc nức nở sau một trận cãi nhau kịch liệt rồi lại làm lành, hai tháng trước ngày họ chia tay mãi mãi... Bà Xvetlana rất ngạc nhiên và cảm động khi thấy Lan Chi biết rõ cả cái phố nhỏ của bà, một phố hoàn toàn chẳng có gì đặc biệt ở gần ga Kiev. Đành rằng Lan Chi đã sống ở thành phố này tám năm, nhưng Matxcơva rộng mênh mông, nhiều người sống ở đó cả đời cũng chưa chắc đã biết được hết tất cả các phố. Mà phố của bà thì có danh lam thắng cảnh gì đâu. Lan Chi chỉ cười, không dám khai thật rằng cô hay lui tới nơi này, vì ở gần đó có một "danh lam thắng cảnh" rất quan trọng đối với cô : một cửa hàng bán dụng cụ gia đình khá lớn, nơi thường bán nhiều mặt hàng được dân Việt Nam hồi đó ưa chuộng. Có những buổi chiều cùng Kiên đi "đánh quả" ở đó nhưng chẳng kiếm được gì, cô và anh bèn đi dạo lang thang và bao giờ cũng tạt vào cái phố nhỏ này, một con phố vắng lặng và thơ mộng, tách biệt hẳn thế giới náo động bên ngoài, dường như được làm ra để dành riêng cho các cặp tình nhân. Nếu cô không lầm thì họ đã từng có lần dừng lại hôn nhau ngay trước ngôi nhà mà có thời đã là nhà của bà. Có phải nhà số sáu mươi của bác là cái nhà bốn tầng có cây phong trước cửa, hàng rào xanh, cửa sổ xanh không ạ ? Cây phong thì có đấy, còn hàng rào, cửa sổ tôi cũng không dám chắc nữa cô ạ. Bao nhiêu năm rồi, chắc người ta đã sơn lại nhiều lần. Bao nhiêu năm rồi còn gì...
     Các món ăn đã được dọn lên bàn. Sâm banh sủi bọt trong các ly dành cho người lớn. Nước cam vàng óng trong những cốc nhỏ của lũ trẻ con. Mọi người cùng nâng cốc, chẳng biết chúc gì đặc biệt vào lễ Noel, cho nên cuối cùng tất cả đều chúc nhau điều có thể chúc vào bất cứ dịp nào là sức khỏe. Hai bé sinh đôi là hăng hái nhất với việc chạm cốc : chúng nhất định đòi đập cốc rõ to vào ly của từng người một, không chịu bỏ sót một ai.
     Câu chuyện được đưa ra khai mào ở bữa ăn tiện nhất tất nhiên vẫn là chuyện thời tiết. Lan Chi nói : “Sao Noel năm nay buồn quá nhỉ, chẳng có lấy một bông tuyết rơi.” Trung bảo : “Hình như ở Paris mấy hôm rồi cũng có tuyết đấy, phải không má (mẹ anh gật đầu), nhưng tuyết thì có gì hay đâu, ở đây miền Nam ấm áp sướng hơn nhiều chứ.”  “Đúng là vùng này ấm áp dễ chịu hơn Paris, - bà hàng xóm góp chuyện,- nhưng Noel mà lại không có tuyết thì tôi thấy không giống Noel. Ở Nga vào dịp này thì tuyết phủ trắng đường.”  “Năm nào cũng vậy hả bà”, mẹ Trung hỏi. “Vâng, năm nào cũng vậy, tuyết rơi suốt bốn tháng mùa đông”, bà hàng xóm trả lời. Cu Nam hóng chuyện đến đây bèn kêu lên là bốn tháng tuyết rơi liền thì thích quá nhỉ, con thích đi trượt tuyết lắm. Trung bèn vỗ vào vai con trai rồi hứa để kỳ nghỉ sau ba sẽ đưa cả nhà lên núi Pyrenees trượt tuyết, chịu không ?
     Chuyện tuyết đến đây hình như là cạn ý. Mọi người bèn cúi đầu vào đĩa chăm chú ăn. Mẹ Trung ăn vài miếng rồi ngẩng lên, quay sang nói với con trai bằng tiếng Việt :
     - Cái món gà tây rôti này ăn vài miếng thì được, chớ ăn nhiều ngán thấy mồ, sao Noel nào, nhà nào cũng cứ ăn hoài vậy ?
     - Thì nó đã thành tục lệ rồi, làm sao bỏ được. Cũng như bánh chưng bánh tét của mình đó má, - ông con trai trả lời.
     - Bánh tét của mình ngon chớ, ăn đâu có ngán. So vậy sao được, - bà mẹ cãi.
     Thấy tiếng nói chuyện, bà hàng xóm bèn ngẩng lên nhìn chăm chú. Nhận ra là người ta nói một thứ tiếng mà mình không hiểu, bà mỉm cười hơi ngượng nghịu rồi quay sang Lan Chi :
     - Cái món gà tây này cô làm ngon quá, ăn nhiều cũng không sợ ngán, có phải cô làm theo kiểu Việt Nam không, lúc nào bày cho tôi cách làm với nhé.
     - Không phải kiểu Việt Nam đâu bác ạ, - Lan  Chi trả lời. - Cách làm này cháu học theo một quyển sách Pháp thôi. Thực ra về cơ bản cũng như cách làm thông thường, chỉ đặc biệt ở chỗ có một vài loại gia vị lạ và phải bơm thêm rượu vào dưới da gà cho đỡ ngán. Còn ở Việt Nam thì không có lệ ăn gà tây vào lễ Noel đâu, đúng hơn là không có ăn mừng Noel gì cả.
     - Thế à ! - bà Xvetlana tỏ ra sửng sốt.
     - Vâng, à mà cháu cũng không biết chắc. Hồi trước thì không có, còn bây giờ thì không biết thế nào. Nghe nói ở châu Âu có gì  Việt Nam bây giờ có hết. Nghe nói vậy thôi, chứ cháu đi lâu rồi nên cũng không biết nữa.
     - Ở Nga bây giờ cũng thay đổi nhiều lắm, - bà hàng xóm thở dài. - Không như cái hồi xưa tôi ở đó ...
     Câu chuyện lại rộ lên quanh bàn ăn. Ở góc này mẹ Trung kể với con trai (bằng tiếng Việt) rằng nhà cô em gái anh ở Paris Noel năm ngoái cũng làm con gà tây to lắm, dễ đến bốn cân, cả nhà ăn hai ngày không xong, ngán quá phải đem vứt đi đến gần một nửa. Rồi bà kể tiếp đến chuyện nhà ông chú, xong chuyển sang nhắc đến người quen nào đó còn sống ở Sài Gòn, xong lại sực nhớ đến một người bà con bên Mỹ... Ở một góc bàn khác, bà Xvetlana và Lan Chi hồi tưởng (bằng tiếng Pháp, thỉnh thoảng xen lẫn tiếng Nga) những Noel ở Matxcơva. Rồi cô kể cho bà nghe Noel ở Hà Nội của cô, không có tuyết nhưng cũng lạnh cắt da và thỉnh thoảng lại mưa phùn bác ạ, người ta không ăn gà tây ở nhà, nhưng thanh niên đi ra đường đông như trảy hội, vui lắm, quanh Hồ Gươm đông nghịt toàn người là người...

     Sau lễ Noel, Trung được nghỉ hai ngày liền. Lâu lắm rồi bữa ăn sáng mới quây quần cả nhà đông vui như vậy. Sáng hôm ấy, trong lúc ngồi ăn, mẹ Trung bảo : “Mai là ngày rằm, má ăn chay đó.” Rồi bà hỏi : "Hai đứa xem liệu ngày mai có đưa má lên chùa được không, à mà ở đây có cái chùa nào không vậy ?" Chuyện chùa chiền thì vợ chồng Lan Chi chịu không có khái niệm gì. Trung bèn gọi điện hỏi bà Thanh, một người quen, sống ở thành phố này đã mấy chục năm. May quá túm đúng được chuyên gia. "Chùa thì thiếu gì, - bà Thanh bảo, - nhưng má cháu muốn đi chùa nào ?"  "Chùa nào cũng vậy thôi, - Trung lúng túng, - có cái nào gần gần của người Việt mình là được". "Ấy, không đại khái vậy được đâu, - bà Thanh kêu lên trong điện thoại. - Thì toàn là chùa của người Việt mình đó chớ, nhưng có đến năm bảy cái, năm bảy hội khác nhau, ông nào cũng thờ Phật hết nhưng mỗi ông thờ một kiểu, cách thức khác nhau, khác nhau nhiều thứ lắm, hội nào đi chùa của hội đó thôi. Vậy má cháu thường đi chùa nào ở Paris ?" Đến đây thì Trung đành chịu, anh chuyển máy cho mẹ anh nói chuyện trực tiếp với bà Thanh. Hóa ra mẹ anh cũng là người đã dạn dày  kinh nghiệm và chính kiến vững chắc trong lĩnh vực này. Hai bà trao đổi với nhau sôi nổi một hồi, rồi cuối cùng mẹ Trung cũng chọn được một cái chùa phù hợp. Hơi xa một tí, cơ ngơi thì cũng hãy sơ sài, chỉ là một căn phòng ở tầng trệt của một cư xá thôi, nhưng các mặt khác thì đều hợp ý bà cả. Vậy là tốt rồi, thờ Phật tại tâm chớ đâu phải hơn kém nhau cái chỗ chùa to chùa nhỏ.
(Còn tiếp...)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 20 Tháng Mười, 2008, 07:46:11 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 4)
Sáng hôm sau, Trung đưa mẹ lên chùa. Lan Chi vào phòng ngủ thắp một nén hương trên cái tủ thấp kê ở góc phòng. Ở đó có tấm ảnh đã ố vàng của một người phụ nữ ba mươi nhăm tuổi, trẻ hơn cô hiện nay. Mấy chục năm  rồi, vào ngày này bao giờ Lan Chi cũng thắp hương. Bao giờ cô cũng khóc. Mấy chục năm rồi, vết thương chỉ dịu đi chứ không lành hẳn được.
     Hai mẹ con Trung đi chùa về khi Lan Chi đang lúi húi chuẩn bị bữa ăn trưa trong bếp. Vừa bước vào cửa, mẹ Trung nhận ngay ra mùa hương. Bà thắc mắc sao ở nhà lại cũng thắp nhang vậy ? Trung thoáng giật mình, hình như lúc này anh mới nhớ ra, anh hạ giọng nói với mẹ rằng hôm nay là ngày giỗ bà ngoại lũ nhỏ đó. Mẹ Trung im lặng không nói gì. Không ai nói gì nữa cả. Mọi người đều biết mẹ Lan Chi mất  năm 1972 ở Hà Nội, trong một trận bom B52.
     Bữa trưa, món gà tây Noel còn thừa lại được bê ra. Lan Chi rán thêm mấy cái nem vì lũ trẻ không muốn ăn gà tây nữa. Mẹ Trung ăn chay thì có đĩa rau và đĩa đậu phụ riêng. Mùa hương từ phòng ngủ đưa ra làm không khí trầm lắng hẳn. Chỉ có ba đứa trẻ là đùa nghịch trêu ghẹo nhau chí chóe, còn người lớn ai nấy ngồi ăn chẳng nói năng gì. Cuối bữa, mẹ Trung buông đũa rồi quay sang bảo con trai : "Tháng sau là giỗ ba mày. Định làm ở nhà chú Cừ cho nó tiện và mời được bà con đông đủ. Con tính xem rồi cố thu xếp để lên Paris. Năm nay là vừa đúng hai mươi năm rồi đó."
     Hai mươi năm trước, mẹ Trung được gọi đến nhận vài thứ kỷ vật của ba anh, sĩ quan của quân đội Sài Gòn cũ, chết bệnh trong một trại cải tạo ở vùng núi phía Bắc. Sau ngày này, cả gia đình Trung rời Việt Nam.

     Trung không lên Paris ngày giỗ ba anh được. Bệnh viện đang lúc thiếu người, không thể tìm được một bác sĩ khác để tạm thay anh dù chỉ một hôm. Mẹ anh buồn. Trung cũng buồn và áy náy, nhưng anh hứa với mẹ là ít ngày nữa, đến Tết ta, anh sẽ đưa cả nhà lên Paris cùng ăn Tết, rồi thắp nhang luôn cho ba. Tết âm lịch năm nay rơi đúng vào kỳ nghỉ đông tháng hai của bọn trẻ con, Lan Chi không phải đi làm, Trung cũng đã xin được nghỉ vào ngày hôm đó.
     Vậy là đúng ngày ba mươi Tết cả nhà có mặt ở Paris. Đi máy bay thì chỉ hơn một tiếng đồng hồ, nhưng lũ trẻ cứ nhất quyết đòi đi tàu hỏa. Lan Chi cũng cùng ý thích như con nên Trung đành miễn cưỡng đầu hàng. Kết quả là hôm đó cả nhà phải dậy từ sáng sớm, chỉ kịp ăn sáng qua quýt vài miếng rồi chạy vội ra ga, vậy mà đến quá trưa bầu đoàn thê tử mới lếch thếch kéo nhau tới Paris được.
     Hạnh, em gái Trung, ra đón anh chị và các cháu ở ga rồi lái xe chở mọi người về thẳng nhà mình. Gia đình cô sống trong một căn hộ bốn phòng, ở tầng ba của một tòa nhà xây theo kiểu cũ, trần rất cao. Mẹ Trung cũng sống trong tòa nhà này, bà có căn hộ một phòng ở ngay tầng trệt. Thành thử, tuy là con gái đã lấy chồng, ở riêng, mà mẹ con bà cháu vẫn được gần nhau.
     Vào đến nhà Hạnh, lập tức thấy mùi phở bò thơm ngào ngạt. Hạnh bảo biết anh chị đi tàu mệt và háo lắm, nên em nấu phở bò cho nó dễ ăn, còn cỗ giao thừa thì tối nay mình qua ăn bên chú Cừ, chú thím đã hẹn trước rồi. Mọi người đều đói ngấu nên ngồi vào ăn ngay, không đợi mời đến lần thứ hai. Trung ăn nhoáng một cái đã xong bát phở to đùng, cô em gái lại tất tả làm thêm bát khác. Bốn mẹ con Lan Chi ăn từ tốn hơn. Lan Chi ăn chậm phần vì còn mệt, phần vì thói quen, còn ba đứa trẻ thì rõ ràng không thích ăn phở lắm. Chẳng cần tinh ý cô Hạnh cũng nhận thấy điều này, cô hỏi :
     - Sao, ba đứa không thích ăn phở hả ? Có phải tại phở cô nấu khác phở mẹ nấu không ?
     - Không phải vậy đâu, - Lan Chi trả lời thay con.- Tại bọn này nó không thích ăn những món nhiều nước lõng bõng. Phở, bún hay miến mì gì cũng vậy thôi.
     - Vậy thì cũng giống con Linh nhà này, - cô Hạnh bảo. Rồi cô động viên lũ trẻ :  - Các con ráng ăn một chút cho đỡ đói nghen, ngoan rồi mai cô cho đi ăn McDonald với thằng Vinh, con Linh.
     Trẻ con cả hai nhà vừa a lên mừng rỡ thì bà chúng đã lừ mắt bảo con gái : "Mai mùng một Tết, thiếu gì cái ăn, sao lại đi ăn McDonald ? " "Tại con quên mất", Hạnh cười xí xóa rồi quay sang hỏi Lan Chi :
     - Phở em nấu kiểu Sài Gòn vậy chị ăn được không ?
     - Ăn được chứ, - Lan Chi trả lời. - Có phở ăn là thích rồi. Phở Sài Gòn hay phở Hà Nội thì mình đều thấy ngon cả..
     - Dân Bắc nhiều người ăn phở Sài Gòn riết rồi lại ghiền hơn phở Hà Nội đó, - Hạnh nói. - Người ta cứ bảo phở Hà  Nội thanh, chớ em thấy nó hơi lạt lẽo, lại ít rau, chỉ có vài cọng hành lơ thơ, không đậm đà phong phú như phở  Sài Gòn.
     "Đừng có dại mà sa vào cái trận chiến muôn thuở này", Lan Chi tự nhủ. Nghĩ vậy, nhưng nuốt miếng phở đang ăn dở trong miệng xong, cô lại quay sang  nhìn em chồng, cười thật hiền rồi nói rất nhẹ nhàng :
     - Ừ, đúng đấy, phở Sài Gòn ai ăn quen như mình thì thấy cũng ngon lắm. Nhưng người không quen thì họ kêu là  cho nhiều đường thành ra hơi ngọt lợ. Với lại ăn kèm giá nó không hợp, cứ tanh tanh thế nào ấy. Rau cho đủ loại cũng hơi hổ lốn, chả vị nào ra vị nào cả.
     Trung vừa giải quyết xong hai bát phở bèn ngẩng lên cười bảo : "Lại bắt đầu rồi. Thôi dẹp đi hai bà. Hôm nay ngày Tết đó. Tranh luận mấy cái thứ này thì vài chục năm nữa cũng chưa xong."

     Vài chục năm nữa thì chưa biết có đúng không, nhưng trên thực tế cuộc tranh luận này suýt nữa đã kéo dài từ năm cũ sang năm mới. Bữa ăn tất niên ở nhà ông chú, nó lại thập thò xuất hiện ở bàn tiệc, lúc thì dưới dạng cụ thể "bánh tét - bánh chưng", lúc thì ở mức khái quát "Tết Nam - Tết Bắc". Nhưng lần này Lan Chi nhất quyết không chịu tham chiến, phần vì đã ngán, phần nữa lại biết mình thân cô thế cô, sức mấy đọ lại được với một lực lượng áp đảo dễ đến hai chục người của bà con họ hàng nhà chồng. Cô bèn đóng vai gái ngoan nghe lời chồng dạy, đáp lại mọi nhận xét có tính chất "khiêu chiến" bằng một nụ cười tủm tỉm, chẳng ra phản đối, chẳng ra đồng tình. Cuộc tranh luận được nhen lên nhưng thiếu người đối đáp nên đâm ra chết yểu.
     Cảm giác rõ rệt nhất mà Lan Chi lưu giữ lại từ bữa tiệc tất niên này là quá đông và quá ồn ào. Hơn hai chục người dự tiệc trong căn phòng rộng thênh thang, tiệm ăn của nhà ông chú : bà thím đã đóng cửa tiệm để ăn tết trong gia đình. Nhưng bữa tiệc gia đình này không có gì giống với những bữa ăn đêm ba mươi Tết đầm ấm ở nhà Lan Chi ngày xưa. Ngoài bánh tét cũng có cả bánh chưng (không biết vì mọi người thích ăn cả hai thứ bánh, hay chỉ do chiếu cố đến cô con dâu Bắc Kỳ ?), nhưng bánh chưng Paris ăn không thấy giống bánh chưng Hà Nội, không buộc lạt, mà lại buộc bằng dây nylon. Lại thêm mấy quả dưa hấu to đùng, kiếm được ở Pháp mùa này là một thành tích không nhỏ. Trung bảo ăn dưa hấu nhớ Tết Sài Gòn quá, nhưng đối với Lan Chi, quả dưa ngày Tết này chẳng khác gì món gà tây Noel.
     Vui nhất có lẽ chỉ là khi bữa tiệc đã tàn, lũ trẻ con trổ tài biểu diễn múa hát. Đầu tiên, bà thím đem cô cháu ngoại ra khoe : cô bé sáu tuổi, xinh như một con búp bê, mắt đen láy trong veo, giọng hát cũng trong veo và đặc biệt là hát rất diễn cảm và đúng nhạc.Điệu đàng trong chiếc áo dài màu đỏ xinh xắn may vừa khít, cô bé hát luôn ba bài, hai bài tiếng Pháp và một bài tiếng Việt về trăng Trung Thu, không hợp cảnh lắm, nhưng hát tiếng Việt mà hay được như thế thì đã là quá giỏi. Tất cả mọi người vỗ tay nhiệt liệt. Thế là trẻ con các nhà khác, được bố mẹ chúng khuyến khích, cũng hăng hái xông ra. Sau khi hai đứa con của Hạnh trình diễn xong một tiết mục song ca, Hạnh bèn quay sang hỏi : “Ba anh em cu Nam chắc cũng biết hát chớ ?” Ba đứa đã nhấp nha nhấp nhổm muốn lên biểu diễn từ lâu, nhưng còn e ngại vì là người lạ, nay thấy cô hỏi vậy phấn khởi đứng lên ngay. Cu Nam chọn bài hát và lĩnh xướng, hai bé sinh đôi ra sức gân cổ hát theo anh. Ba đứa say sưa hát liền một lúc ba bài hát trẻ con tiếng Pháp, hết "Au clair de la lune”  đến "Il était un petit navire” , xong lại "Joli tambour" . Được mọi người cổ vũ bằng những tràng pháo tay sôi nổi, cu Nam phấn khởi bèn quyết định gây ấn tượng với dân Paris bằng bài hát tủ của mình : ba anh em liền hát tiếp bài hát thứ tư, một bài hát người lớn mà chúng rất thích và thuộc làu do nghe đĩa CD của mẹ : " À toutes les filles que j'ai aimées avant” . Khỏi phải nói bài hát đã thu được thành công lớn đến thế nào : mọi người vừa cười nghiêng ngả vừa vỗ tay không ngớt, mà người vỗ tay to nhất có lẽ là ông bố của ba đứa. Khi tiếng vỗ tay lắng lại, bà nội hỏi : "Ba đứa có biết bài hát tiếng Việt nào không ? Hát hay lắm, nhưng Tết ta sao toàn hát bài tây vậy ? Má bầy nhỏ không dạy con hát tiếng Việt à ?". Lan Chi cười chống chế : " Hồi nhỏ bọn nó cũng biết nhiều bài hát tiếng Việt lắm ạ. Con có mấy cái băng nhạc cũ mang đi từ Việt Nam, bọn nó nghe rồi hát theo được hết. Nhưng lớn lên, đi học ở trường cả ngày, chúng nó đâm ra quên dần bài hát Việt Nam." Cu Nam cãi lại ngay : "Có bài con vẫn thuộc đấy chứ mẹ !". "Bài nào, hát thử coi", bà nội bảo. " Bài "Hà Nội, niềm tin và hy vọng", cu Nam trả lời. Một thoáng im lặng. Rồi bà nội bỗng à lên như vừa mới sực nhớ ra, bà bèn quay sang nhắc cô Hạnh tuần sau phải gọi thợ đến sửa lại cho bà cái lò sưởi. Trung và Lan Chi cười cười nhìn con trai, chưa biết nói sao thì cu Nam chạy đến bên mẹ, bảo : "Con thuộc thật đấy, ba mẹ không tin con hát cho mà xem". Lan Chi dịu dàng vuốt nhẹ tóc con : "Mẹ tin, mẹ tin chứ. Nhưng hôm nay hát thế nhiều rồi. Để lần sau con nhé."

(Còn tiếp...)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 20 Tháng Mười, 2008, 07:47:31 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 4 )
Mùng một Tết là ngày chủ nhật. Đêm hôm trước, sau bữa tiệc tất niên, lúc vợ chồng nằm trong giường, Lan Chi vừa định nói chuyện với Trung thì anh đã đoán ngay được ý vợ và bảo : "Mình còn ở đây nốt ngày mai thôi. Mai em tranh thủ ghé thăm Thanh Hoa đi. Để con anh giữ cho. Anh sẽ dẫn bọn nhỏ đi chơi với lũ con nhà Hạnh."
     Để đền bù cho lũ trẻ chuyện không được đi ăn McDonald ngày mùng một Tết, Hạnh và Trung quyết định cho chúng đi chơi Disneyland. Lan Chi ấn vào tay chồng một cái túi to, nào khăn mùi xoa, nào nước uống, nào bánh phòng khi bọn trẻ đói, nào áo quần dự trữ nhỡ đứa nào ngã bẩn hay uống nước rớt ra còn có cái thay. .. Trung phải sốt ruột kêu lên :" Mấy ba con đi chơi không có mẹ mỗi một buổi thôi mà mẹ làm như xa cả năm vậy." Sau khi lặp lại đến lần thứ ba những lời dặn dò cho cả bốn bố con, Lan Chi tiễn Trung và ba đứa trẻ cùng mẹ con Hạnh ra ôtô rồi đi đến nhà Thanh Hoa bằng tàu điện ngầm.
     Bốn năm rồi họ mới lại gặp nhau. Thanh Hoa nhìn Lan Chi vẻ xót xa rồi bảo :
     - Tao thấy mày hơi gầy đi đấy.
     - Một chồng ba con rồi còn béo làm sao được, - Lan Chi đáp. - Mà mày cũng gầy đi thì phải. Có sụt cân không?   
     - Sụt hai cân so với trước đây vài năm. Thôi thế là vừa. Khỏi phải thể dục, khỏi phải ăn kiêng để giữ co nữa nhé.
     - Tuổi bọn mình bây giờ phải béo mới sang Hoa ạ. Gầy như tao với mày về nước thế nào cũng bị chê là số vất vả.
     - Thì vất vả thật chứ còn gì, - Thanh Hoa cười.- Chục năm rồi chẳng được ăn một cái Tết nào cho ra hồn. Ở Việt Nam có ai vất vả đến thế không ?
     Rồi Thanh Hoa than thở : "Hôm qua mua một cái bánh chưng ở chợ về, thấy sao mà quái dị. Đã một lớp lá bên trong, lại phải thêm một lớp giấy nylon bên ngoài. Mở ra ăn, thấy nếp đỗ thịt đủ cả, không biết thiếu cái gì, mà sao ăn chẳng giống bánh chưng. Bực mình chỉ muốn mua gạo mua lá về tự gói, nhưng chồng con có ai thích ăn đâu, ăn một mình thì chẳng bõ công gói. Đấy, mấy hôm vừa rồi thấy thèm canh măng quá bèn ninh một nồi rõ to cho có không khí Tết, mà chồng con mỗi người chỉ nếm thử một hai thìa rồi thôi, mình tao ăn chắc phải đến Tết sang năm mới xong. Tết năm ngoái đi chợ thấy có quả gấc đẹp quá lại còn hứng chí vác về nấu đĩa xôi, lão kia (Thanh Hoa hất đầu chỉ về phía ông chồng đang ngồi đọc báo ở góc phòng)  ăn một miếng tí teo rồi lịch sự rút lui chẳng phát biểu gì. Còn mấy đứa nhóc không được lịch sự như bố nó nên bảo thẳng : "Khiếp, mẹ nấu món gì mà kinh thế." Từ đó tao cạch, không trổ tài nấu các món ăn dân tộc nữa mày ạ. Chả ai hưởng ứng mình cả, mà mình thì Noel nào cũng chịu khó gặm gà tây với chúng đấy chứ, mày bảo thế có bất công không ? À, may còn món nem thì cả nhà đều thích, nên tao phải tích cực làm nem cho bố con nó ăn, chứ không dám mua ở chợ. Nem mua chợ họ cho đường ăn ngọt khé cổ, hỏng khẩu vị đi mình..."
     Pascal, "lão kia", ngồi đọc báo, chẳng hiểu được câu tiếng Việt nào, nhưng chắc nghe giọng điệu của Thanh Hoa, rồi nhìn vẻ mặt của cô và cái hất đầu hướng về phía anh, anh cũng đủ hiểu là vợ mình đang kể khổ, và kẻ phải chịu trách nhiệm về nỗi thống khổ bao la ấy đích thị là mình chứ không còn ai khác. Hẳn là để lập công chuộc tội (hay cũng có thể do đã bàn trước với Thanh Hoa ?), anh đứng dậy lại gần hai người, mỉm cười ra chiều thông cảm và bảo rằng hôm nay là Tết Việt Nam, lại chẳng mấy khi có Lan Chi đến chơi, nếu Thanh Hoa muốn dẫn bạn đi chơi Paris thì anh xung phong quản lý lũ nhóc và chịu trách nhiệm cơm nước, cứ đi đi rồi tí nữa về là có cơm ăn. Thanh Hoa bảo anh trông hai đứa trẻ không để xảy ra chuyện gì là được rồi, còn ăn uống thì bọn này đi chơi tiện đâu ăn đấy (cô quay lại thì thầm với Lan Chi : "Đừng có dại ăn cơm lão ấy nấu !"). Lan Chi hỏi : "Mày định đi đâu ?"   "Đi dạo loăng quăng ngoài đường một chút cho thoáng, đâu chả được. Hôm nay mùng một, đi hái lộc !"
     Gọi là hái lộc chứ lấy đâu ra lộc mà hái. Hai người đi lang thang trên đường phố, nhìn bất cứ cái gì cũng nhớ đến Tết ở quê hương. Ngày chủ nhật, người đi chơi ngoài đường khá đông vui, Lan Chi bảo nếu mình ở Hà Nội thì giờ này cũng đang đi chúc Tết đấy. Thấy một quầy bán hoa, Thanh Hoa kêu nhớ cái lần cuối bọn mình cùng đi chợ hoa Hàng Lược quá, hôm ấy hai đứa mua được hai cành đào đẹp ghê người, chỉ phải cái hơi đắt, Chi nhớ không, cứ như mới ngày nào Chi nhỉ. Hơn hai chục năm rồi, còn mới mẻ gì nữa, hồi ấy bọn mình chỉ có mười bảy tuổi thôi mà Hoa... Rẽ vào một phố vắng, đi ngang qua một biệt thự, thấy trong vườn nhà người ta có cây gì nở hoa na ná giống hoa đào, Thanh Hoa bảo  : "Bây giờ già rồi nên bắt buộc phải đứng đắn, chứ không tao đã nhảy vào kia bẻ trộm một cành về cắm cho đỡ nhớ hoa đào. Không có ngày nào trong năm thấy nhớ nhà như ngày Tết ta, Chi ạ."
     Đi một lúc đã đến giữa trưa, Thanh Hoa nói xem gần đây có hiệu nào ăn được thì ghé vào ăn tạm. "Hôm nay Tết ta, mình vào ăn quán Việt Nam đi", Lan Chi đề nghị. "Thôi, ăn Việt Nam làm gì chán lắm, - Thanh Hoa gạt đi. - Gọi là Việt Nam chứ ta chẳng ra ta, Tàu chẳng ra Tàu. Món nào cũng có, món nào cũng hơi giông giống, nhưng chẳng món nào đúng hẳn, ăn cứ như ăn của giả. Ngày Tết ăn như thế càng thêm nhớ nhà. Muốn ăn món ta thì để khi nào về Hà Nội ăn cho bõ. Còn bây giờ ở đây mình đi ăn món Pháp cho xong."
     Vào một hiệu ăn tình cờ ở dọc đường, Lan Chi chọn món cá hấp, Thanh Hoa gọi miếng thịt bò bifteck nướng đúng kiểu Pháp, bên trong còn hồng hồng, nước đỏ chảy ra. "Không sợ bò điên à ?", Lan Chi hỏi. "Sợ gì, bây giờ muốn điên cũng không phải dễ đâu", Thanh Hoa cười đáp.
     - Vợ chồng mày dạo này thế nào ?, - ăn được một chút, Thanh Hoa bỗng hỏi.
     - À, bình thường thôi, vẫn chịu đựng được nhau, -  Lan Chi trả lời.
     - Chịu được nhau là tốt rồi. Tao với Pascal cũng vậy. Thế mẹ chồng mày bây giờ ra sao ?
     - Không có vấn đề gì.
     - Quá trình hòa giải hòa hợp dân tộc vậy là tiến triển tốt hả ? - Thanh Hoa cười hỏi .
     - Sự thể đã thế, không hòa giải thì mày bảo còn làm gì nữa ? - Lan Chi cũng cười theo. Rồi bỗng nhiên, cô đổi  đề tài :
     - Lâu nay mày có tin tức gì của Quân không, Hoa ?
     - Hình như hiện giờ hắn dạy đại học ở Mỹ hay Canađa ấy, tao cũng không rõ lắm. Mấy năm trước thì hình như ở Anh. Nghe nói hắn có vợ và một con trai rồi thì phải. Toàn là nghe nói thôi, chứ hơn chục năm rồi có lúc nào thư từ cho nhau đâu mà biết rõ được. Còn Kiên ra sao, mày biết tin tức gì của hắn không ?
     - Cũng toàn tin cũ và tin "nghe nói" thôi. Thấy bảo Kiên vẫn ở Hà Nội, vợ con đề huề, làm giám đốc công ty gì đó, có biệt thự to hơn đứt bọn mình ở đây.
     Im lặng một chút, rồi Thanh Hoa thở dài :
     - Tao không bao giờ hiểu nổi vì sao hồi đó mày và Kiên lại bỏ nhau. Yêu nhau dữ dội như Romeo và Juliette, vậy mà đùng một cái...
     - Thời đại này chết vì tình hết mốt rồi. Càng Romeo - Juliette thì lại càng dễ tan.
     - Nhưng tại sao bọn mày lại bỏ nhau ? Có chuyện gì vậy ? Bao nhiêu năm rồi, tại sao không khi nào mày chịu kể cho tao nghe chuyện gì đã xảy ra ?
     - Tại vì chính tao cũng không biết rõ chuyện gì đã xảy ra, - Lan Chi nói. - Có lẽ vì tất cả. Vì Kiên, vì tao, vì hoàn cảnh. Mọi sự đã thay đổi rất nhiều sau khi mày rời khỏi Matxcơva, Hoa ạ.
(Hết chương 4, còn tiếp....)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 21 Tháng Mười, 2008, 08:08:53 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Chương 5)
                                                                              5

     Mọi sự đã thay đổi rất nhiều sau khi T.H. rời khỏi Matxcơva.
     Trước đó một năm, chúng tôi cứ tưởng mình không còn có thể hạnh phúc hơn được nữa. Tốt nghiệp đại học xong, về nước nghỉ ngơi được vài tháng thì cả tôi, T.H. và Q. đều được trở lại Matxcơva làm tiếp nghiên cứu sinh. Ba đứa lại cùng đi một chuyến máy bay, lần này có cảm giác như trở  về nhà. Sau năm năm, Matxcơva đã trở nên thân thương với đầy kỷ niệm.
     K. ra đón tôi ở sân bay. Anh ôm ghì lấy tôi rồi kêu sao có mấy tháng mà em gầy đi thế. “Tại mùa hè nóng quá, em chưa quen lại được với khí hậu ở nhà”, tôi bảo. Tôi không muốn thú nhận với K. rằng lý do chính là vì tôi chưa quen sống xa anh. Kể từ buổi hoàng hôn trên phố Arbat ấy, tôi như bị cuốn theo K. vào một cơn bão lốc. Tình yêu của anh mạnh mẽ, ào ạt đến nỗi tôi không có lúc nào dừng lại để thở, để suy nghĩ, để nhìn ra xung quanh. Lúc nào cũng chỉ thấy có K. trước mắt. Đi đâu cũng có anh ở bên. Tôi ngồi nhà viết luận văn tốt nghiệp, K. mang tài liệu sách vở của anh đến nhà tôi, ngồi bên cạnh, nói là để cùng "thi đua" học tập. Nhưng chốc chốc anh lại rời sách ra, lúc thì vuốt tóc tôi rồi bảo :"Cứ viết đi, đừng để ý gì đến anh", lúc khác lại năn nỉ : "L.C. ơi, cho anh hôn một cái, một cái thôi, không thì anh chết mất !" "Hôn lên trán thôi nhé", tôi đùa. "Hôn trán thì chán chết", K. cười, rồi tự coi là đã được phép, anh nghiêng người về phía tôi, sách vở của hai đứa rơi rào rào xuống sàn nhà và phải đến mười lăm phút sau mới được K. cúi xuống nhặt lên đặt lại vào chỗ cũ. Kết quả là chương cuối cùng trong luận văn của tôi bị ông thầy bắt viết lại lần thứ hai và kêu là mắc nhiều lỗi chính tả vớ vẩn (" Có chuyện gì thế ? Những chương trước khó hơn thì em lại viết rất tốt, và hầu như không có lỗi", - ông thầy tôi ngạc nhiên bảo). May mà trước đó tôi đã viết xong những phần cơ bản, cho nên cuối cùng cũng hoàn thành được luận văn và tốt nghiệp đại học với bằng đỏ. Nhận bằng, vừa mừng vừa lo sợ vì không hình dung nổi về nước sẽ sống ra sao khi không có K.bên cạnh. Thời hạn nghiên cứu sinh của anh còn hai năm nữa mới xong. Tôi và anh đều không dám nghĩ đến chuyện phải sống xa nhau những hai năm. Cả hai đứa đều bám vào niềm hy vọng là mấy tháng sau tôi sẽ được quay lại để học tiếp. "Nhưng nếu em không được sang lại thì sao ?", tôi hỏi. "Thì đến kỳ nghỉ Noel anh sẽ về Hà Nội. Chúng mình sẽ làm đám cưới", K. trả lời chắc như đinh đóng cột. Tôi ngả đầu vào vai anh, mơ màng tưởng tượng đến lễ cưới của mình ở Hà Nội, tưởng tượng đến một bé con sẽ ra đời chín tháng sau đó, tưởng tượng rằng cái nhìn sâu thẳm và nụ cười dễ thương của bé, giống hệt như K., sẽ giúp cho tôi chịu đựng nốt một năm cuối cùng sống xa anh.
     Nhưng niềm hy vọng của bọn tôi vậy là đã thành hiện thực. Trước mắt chúng tôi còn có hai năm sống bên nhau ở Matxcơva. Kế hoạch về lễ cưới và "baby" tạm gác lại, bây giờ chuyện cần phải lo là học hành, thi cử, luận án. "Chỉ hoãn lại ba năm, đợi em học xong thôi đấy nhé", K. cảnh cáo tôi. Rồi nghĩ ngợi một lúc, anh hăng hái bảo :"Mà sao phải hoãn lại nhỉ ? Chúng mình cứ làm luôn đám cưới ở Matxcơva ngay bây giờ đi !" Anh đâm ra phấn khởi với sáng kiến đó tới mức ngày nào cũng nhắc đi nhắc lại đến mấy lần, làm tôi sốt cả ruột. "Thì cứ từ từ, để em thở một cái đã, rồi chúng mình tính sau", tôi bảo.
     Tính đi tính lại tôi vẫn muốn đợi lúc học xong về Hà Nội mới làm đám cưới. Tôi muốn lễ cưới của tôi phải có mặt bố tôi, có mặt cô tôi mà từ khi mẹ tôi mất đã thương yêu chăm sóc chị em tôi như mẹ, có mặt đông đủ bạn bè học cùng từ phổ thông đến đại học. Vả lại có gì mà vội ? Cưới hay không thì lúc nào K. cũng vẫn ở bên tôi. "Mày có đuổi hắn cũng chẳng chịu đi đâu, việc gì phải lo giữ", T.H. xui. Lúc tưởng rằng sẽ phải sống xa K. lâu thì tôi phát hoảng, sẵn sàng cưới ngay, sẵn sàng có con ngay. Bây giờ anh đang ở bên, tôi lại nấn ná chưa muốn vội bước vào cuộc sống đó. Tôi luyến tiếc cái thời lãng mạn, tán tỉnh, tặng hoa... "Cưới rồi thì anh vẫn tặng hoa cho em hàng ngày", K. thề thốt. Tôi bèn cò kè mặc cả : "Thôi, không phải ba năm, mà chỉ hai năm nữa thôi nhé. Khi nào anh bảo vệ xong  về nước, thì em sẽ xin về phép cùng với anh. Chúng mình cưới ở Hà Nội rồi em quay sang học tiếp. Anh ở lại nhà chẳng biết có đủ sức thủ tiết đợi em một năm không ?" "Đợi em thì mấy chục năm anh cũng đợi được. Nhưng giá em đừng bắt anh đợi ngày nào thì hơn", K. bảo. Nhưng rồi cuối cùng anh cũng đồng ý với "kế hoạch hai năm" của tôi, chỉ bảo thêm rằng nếu em thay đổi ý kiến, muốn cưới sớm hơn thì nói ngay với anh nhé, anh lúc nào cũng sẵn sàng "nộp mạng" cho em.
(còn tiếp...)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 21 Tháng Mười, 2008, 08:10:01 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 5)
Tạm thời thì hầu như ngày nào K. cũng đã đến "nộp mạng" ở nhà tôi. Ngoảnh đi ngoảnh lại, tự nhiên tôi thấy căn phòng nhỏ của mình bị lấn chiếm từ lúc nào không biết, khắp nơi bừa bộn sách vở đồ đạc của K. Đầu tiên chỉ là mấy quyển sách thôi, K. mang đến đọc (vẫn với tinh thần "thi đua" như trước), rồi buổi tối đứng dậy ra về thì bảo :"Anh để sách lại đây L.C. nhé. Mai anh đến đọc tiếp". Dần dần, hình như cả tủ sách của K. đã được chuyển hẳn về nhà tôi. Sau thì đến các loại quần áo, đồ dùng, cũng xâm nhập bằng cách ấy. Cuối cùng đến lượt  cái giá vẽ cồng kềnh với tất cả đống phụ tùng kèm theo. Hôm K. vác cái đống lỉnh kỉnh này vào nhà, tôi vừa định mở miệng phản đối thì anh chặn họng ngay :
     - Thiếu những thứ này anh không sống thoải mái được. Cảm thấy hình như không phải là nhà của mình nữa !
     - Thì tất nhiên đây không phải là nhà của anh. Em nhắc cho anh nhớ đây vẫn là nhà em đấy nhé, - tôi nhận xét.
     - Ừ nhỉ, dạo này ngày nào cũng ở đây từ sáng đến tối nên đâm ra quên mất, cứ tưởng bở, - K. cười xòa. - Nhưng mà không có em thì anh càng không sống thoải mái đựợc, thấy rõ ràng không phải là nhà của mình. Hay là em chuyển đến chỗ anh ở đi, anh sẽ mang đồ của anh về đó ngay.
     Tôi lắc đầu.
     - Thấy chưa, - K. đắc thắng. - Chuyển mấy thứ đồ này dễ hơn là chuyển em.
     Tôi đành chấp nhận cho cái giá vẽ vị trí thứ nhì trong đời K., sau tôi, và chia sẻ căn phòng chật chội của mình với nó. Nhờ đó mà tôi biết được niềm đam mê lớn của anh : vẽ. Vẽ chỉ là một say mê nghiệp dư của K., ngành học của anh là kiến trúc, nhưng đôi khi tôi có cảm giác là anh dành nhiều tâm huyết cho hoạt động này hơn cho ngành học chính của mình. Anh có thể vẽ hầu như mọi lúc : lúc vui, lúc buồn, lúc gặp bế tắc trong luận án, lúc nghĩ ra một ý tưởng hay. Tranh của K. rất trừu tượng, khó hiểu. Tôi vốn đã mù tịt về hội họa, xem tranh của anh cứ thấy đầu óc mình sao mà u u mê mê. Nhưng càng không hiểu thì lại càng ngưỡng mộ. K. bảo, từ khi anh gặp tôi, trong tranh nào của anh cũng có tôi. Anh nói vậy thì tôi sung sướng tin là vậy, chứ thực ra nhìn căng cả mắt tôi cũng không dám quả quyết là có mình trong tranh của anh. Giữa những bố cục kỳ lạ, đôi khi thấy thấp thoáng mờ ảo cái gì đó giống như một bờ vai gầy với mái tóc đen dài buông xõa, một thân hình thon thả với vạt váy trong gió bay bay, hay là một đôi mắt to, to quá khổ... Tất cả đều là tôi, theo như K. nói. Tôi gật gù đồng tình và nói với vẻ mãn nguyện :"Ít nhất thì những đứa béo quay và tóc ngắn cũng không thể nhận vơ là được anh vẽ. Mấy cô tây tóc vàng cũng không có cớ để nhận xằng !" Rồi tôi chỉ vào bức tranh có đôi mắt to và hỏi : "Mắt em thô lố như thế này à ?"  "Mắt em mênh mông như thế đó", K. cười và cúi xuống hôn vào mắt tôi.

     T.H. và Q. đến chơi, sửng sốt khi thấy căn phòng của tôi đã biến thành xưởng vẽ với ngổn ngang đồ đạc.
     - Chết thật !- cô bạn tôi thốt lên. - Hai vị này đã xây tổ ấm ở đây rồi đấy hả ? Sao không báo cho bà con biết để ăn mừng ?
     Tôi hơi ngượng, chưa biết nói sao thì K. đã nhanh nhảu trả lời :
     - Chưa xây gì đâu. Mới chỉ là tổng diễn tập thôi. Mục đích là để huấn luyện L.C. dần dần. Tại vì L.C. kêu sợ cuộc sống gia đình, tiếc thời lãng mạn, nên phải có thời kỳ quá độ.
     - Thằng cha này số đỏ thật, - Q. bình luận rồi liếc xéo T.H. một cái. - Thời kỳ quá độ như thế này thì mình cũng muốn tiến vào lắm, mà không biết làm sao để tiến được.
     Quan hệ giữa Q. và T.H. vẫn đang ở giai đoạn mập mờ khó hiểu. Tất nhiên, cái thời chàng không dám nhìn thẳng vào mắt nàng thì từ lâu đã thuộc về cổ tích. Hai người dạo này thường hay đi chơi với nhau, nhưng mỗi khi tôi hỏi đến, T.H. đều khăng khăng bảo : "Bạn thân thôi, không có gì khác đâu". Giới tự cho là thạo tin trong trường nói rằng Q. đang ở bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ. Nhưng K., nguồn tin sát nhất với Q., lại ngao ngán bảo tôi rằng : "Cái thằng lóng ngóng ấy bao nhiêu lâu rồi vẫn chỉ giơ chân ra, chứ đã bước được bước nào đâu. Dạy mãi rồi mà cũng không khá lên được".
     Cái giọng kẻ cả của một kẻ dày dạn kinh nghiệm trong tình trường ấy, K. mới sắm được kể từ ngày có tôi. Lắm lúc tôi bực mình, chỉ muốn dẹp ngay cái giọng này đi. Nhưng khổ nỗi, chẳng làm sao dẹp nổi, vì bọn con trai ở đây thán phục thành tích "đánh nhanh thắng nhanh" của K. đã đồng loạt tôn anh lên làm sư phụ. Thỉnh thoảng lại có một kẻ thất tình đến hỏi ý kiến quân sư. Gì chứ về khoản lời khuyên thì bao giờ K. cũng rộng rãi ban phát. Rồi, sau khi kẻ đi "thỉnh kinh" đã ra về, anh lại quay sang tôi, nói với một vẻ rất hoài nghi :" Chỉ bảo cho cu cậu cặn kẽ lắm rồi đấy, nhưng chẳng biết có ăn thua gì không. Chuyện này nhiều khi học mấy cũng không đủ. Còn phải có khiếu nữa!"
     Q. được K. xếp vào loại "học trò" đặc biệt không có khiếu của anh. Về mặt chuyên cần học hỏi và tinh thần cầu tiến thì đố ai dám chê Q. Động có vấn đề gì là anh lại hớt hải đến thỉnh ý quân sư ngay lập tức. Nhiều khi hai gã ngồi bày mưu tính kế cả buổi. K. phán gì, Q. cũng ngoan ngoãn nuốt lấy từng lời. Vậy mà trời chẳng đền đáp cho cái công khó nhọc ấy. Cứ mỗi lần tôi hỏi thăm K. về tình hình "học trò" anh thì anh lại thở dài : "Thê thảm lắm L.C. ạ. Theo đuổi gần hai năm rồi mà vẫn chưa hôn được cái nào thì đúng là tuyệt vọng !" "Lỗi tại thầy trước hết, - tôi nói. - Anh từ chức đi cho Q. kiếm thầy khác". "Vấn đề không phải là ở thầy, -K. phản đối.- Nói em đừng bảo là tự kiêu, chứ thầy giỏi tầm cỡ như anh thì cả Mat  này không kiếm được người thứ hai đâu. Tại cái thằng Q. ấy chứ, lý thuyết thì hỏi đến đâu nói vanh vách đến đó, mà thực hành thì chả biết gì sất cả. "
     Quả thật, lỗi không phải ở thầy. Nhưng theo tôi, lỗi cũng không phải ở trò nốt. Sau khi gặng hỏi T.H. nhiều lần, tôi ngờ rằng nguyên do chủ yếu là tại cô bạn tôi đọc quá nhiều tiểu thuyết. Từ lâu, T.H. đã mắc phải một khuyết điểm rất lớn là có sự ham mê thái quá đối với các loại truyện tình yêu lâm ly đẫm nước mắt. Đọc nhiều, rồi so sánh với tình cảm của mình và Q., cô nhận thấy là hình như nó không giống. "Không giống cái gì ?", tôi hỏi. "Không giống tình yêu", T.H. trả lời. "Không tình yêu thì là tình bạn à ?", tôi lại hỏi. "Hình như cũng không phải là tình bạn", T.H. ậm ừ nói. Tôi phì cười : "Không tình yêu, không tình bạn, thế thì mày bảo là tình gì ?"
     Vấn đề hóa ra là không đơn giản tí nào. Theo như T.H. nói thì cô rất quý mến Q. Đi chơi với Q. thấy rất thoải mái. Lâu không gặp cũng thấy trống trải, vắng vẻ. Như vậy chắc là hơn tình bạn rồi. Khốn nỗi, gọi là trống trải vắng vẻ, nhưng có lần Q. bận việc phải đi xa, không gặp nhau đến hai tuần mà vẫn cứ chịu được. Không hề thấy khắc khoải đau thương như trong sách tả. Lúc gặp lại nhau thì quả là có vui mừng, nhưng không thấy tim mình đập loạn xạ gì hết. Vậy chắc chưa phải là tình yêu.
     Tình hình đã phức tạp như vậy thì tôi và K. lại vô tình làm rối thêm. Vẫn theo T.H., thì sau khi nhìn tôi với K., cô mới hiểu thế nào là tình yêu đích thực, mãnh liệt, say đắm và v.v... ( vân vân ở đây là nhiều tính từ mạnh khác.) Tình cảm với Q. lại bị T.H. đem ra so sánh thêm lần nữa, rồi bị nhận thêm một dấu hỏi to đùng.
     - Thế mày định thế nào ? - tôi hỏi.
     - Chưa định gì hết, - T.H. trả lời.
     - Gì thì cũng nên quyết định sớm đi cho Q. nó được nhờ, - tôi bảo. - Nếu không xơ múi gì thì nó còn được giải phóng để đi kiếm chỗ khác. Cứ om nó mãi thế tội nghiệp.
     - Tao có om gì đâu, - T.H. cãi. - Tao đã nói hết với Q. như vừa nói với mày ấy. Nhưng Q. vẫn hy vọng là sẽ có lúc tao hiểu ra rằng đó là tình yêu đích thực. Thật tình, tao cũng hy vọng như vậy.
     Tất cả chúng tôi đều hy vọng như vậy. Nhưng cuộc đời đã quyết định theo kiểu khác, bằng cách đưa vào một nhân tố mới.
(còn tiếp)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 21 Tháng Mười, 2008, 08:13:03 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 5)
     Nhân tố mới này là một nhà khoa học Pháp đến làm việc ba tháng trong phòng thí nghiệm của T.H., theo chương trình hợp tác khoa học Pháp - Nga (T.H. học ngành sinh học phân tử). Cùng với ông thầy của mình, T.H. là một trong những người tham gia trực tiếp vào chương trình này. Vì ông thầy của T.H., một giáo sư có tên tuổi khá uy tín, còn bận rất nhiều việc khác, nên nói chung ông chỉ đứng tên vào đề tài là chính, còn mọi công việc "trâu bò" thì giao cả cho T.H. Lại vì đề tài luận án của T.H. gắn liền với chương trình hợp tác này, cho nên quyền lợi thiết thân của mình khiến cô phải hùng hục kéo cái cày ông thầy giao cho một cách vui vẻ, tự nguyện. Thành thử, cuối cùng, người đại diện cho nền khoa học Nga để làm việc với nền khoa học Pháp, trên thực tế chính là cô bạn T.H. của tôi.
     Sứ giả của nền khoa học Pháp là một giáo sư tiến sĩ có những công trình nghiên cứu nghe nói rất đáng nể, nhưng lại hiện diện dưới cái lốt của một người đàn ông trẻ, tuổi mới ngoài ba mươi. Giáo sư hãy còn độc thân vui tính, lại rất say mê khoa học, thành ra suốt ba tháng ở Matxcơva ông chẳng còn biết làm gì, ngoài việc miệt mài tối ngày trong phòng thí nghiệm. Đề tài nghiên cứu nghe nói rất lý thú. Đại diện cho nền khoa học Nga thì rõ ràng vừa có tài, vừa duyên dáng, xinh tươi. Giáo sư không còn muốn rời phòng thí nghiệm ra nữa. Ngày nào ông cũng yêu cầu đồng nghiệp ở lại làm việc cùng ông đến tận gần nửa đêm. Một sự tận tụy với khoa học như vậy hiển nhiên sẽ dẫn đến những kết quả tuôn ra ào ạt. Ào ạt đến nỗi là sau khi thời hạn ba tháng kết thúc, giáo sư Pháp cho rằng sẽ có tội với khoa học nếu dừng chương trình hợp tác lại ở đây. Mọi người đều nhất trí là phải tiếp tục chương trình này, nhưng địa điểm của sự hợp tác sắp tới sẽ chuyển từ Matxcơva sang Paris.
     Giáo sư Pháp đúng  là người có tác phong làm việc khoa học, nhanh nhẹn. Về Pháp được một tháng, ông đã dàn xếp xong chuyến đi Paris của các nhà khoa học Nga. Ông thầy của T.H. bận đủ thứ việc nên chỉ nhận lời đi một tháng. Về phần T.H. thì lời mời của giáo sư Pháp quả thực là hơi bất ngờ : ông không mời cô đi  hợp tác nghiên cứu ngắn hạn, mà đề nghị cô chuyển hẳn sang làm tiếp luận án ở phòng thí nghiệm của ông. Ông đã kiếm được cho cô một học bổng để làm luận án tiến sĩ ở Paris, thời hạn ba năm.
     T.H. tự dưng bị đặt trước sự lựa chọn Matxcơva -Paris. Một bên giống như ngôi nhà thân thương với những thói quen, bạn bè, thầy cô, kỷ niệm..., nhưng đi cùng với nó là cuộc sống vất vả : vừa làm khoa học lại phải vừa lo "đánh quả" để có "lương khô" về nước ăn dần. Bên kia là chân trời mới choáng ngợp, niềm mơ ước của bao người, và quan trọng nhất là ở đó, chỉ với khoản tiền học bổng của mình, T.H. cũng đã có thể yên tâm với công việc nghiên cứu khoa học, không phải lo nghĩ nhiều đến chuyện "dự trữ" cho tương lai. Vả lại (cái "vả lại" này chỉ là một lý do tiện thể nói thêm, nhưng xem chừng cũng hơi quan trọng), như T.H. tâm sự với tôi, thì cô thấy mình làm việc với ông thầy hiện nay tuy cũng tốt, nhưng không được ăn ý như khi làm việc với Pascal (giáo sư tiến sĩ Durant, chỉ sau nửa tháng hợp tác khoa học, đã bị đồng nghiệp hạ bệ xuống thành "Pascal" cụt lủn). T.H. cũng có nghĩ đến Q., nhưng những tình cảm mơ hồ của cô đối với anh không đủ sức nặng để thay đổi cán cân lực lượng. Sự lựa chọn như vậy là đã rõ. Ông thầy của T.H. phải trả giá cho sự hợp tác với nền khoa học Pháp bằng việc mất cô học trò cưng. Nhưng sự mất mát này làm sao so sánh nổi với sự mất mát của Q.
     T.H. đi rồi, Q. gần như suy sụp hẳn. Một trong những mục tiêu phấn đấu chính của đời anh, tưởng như đã ở trong tầm tay đến nơi, đùng một cái lại tự nhiên biến mất, thử hỏi làm sao mà không suy sụp được? Ngoài những bài toán yêu quý của mình ra, từ nay thế là Q. không còn có chỗ nào để tiêu hao cho hết thời gian và năng lượng. Thỉnh thoảng buồn quá không chịu nổi,  Q. lại mò đến nhà tôi để ăn vạ ông bạn thân thiết nhất của mình. K. bị mất vai trò "cố vấn ái tình", nhưng anh lập tức vào vai "chị Thanh Tâm", an ủi, động viên rất khá, cho nên dần dần thì nỗi buồn của Q. cũng có vẻ phần nào nguôi đi. Mà nguôi đi là phải, vì đã là đàn ông chân chính thì không nên để cho những chuyện tình cảm nhỏ mọn ấy nó làm ảnh hưởng đến sự nghiệp lớn của mình, càng không nên chấp nhặt hay luyến tiếc cái bọn đàn bà nhẹ dạ, không biết đâu là giá trị đích thực (câu này là của K. nói với Q., sau khi nhìn quanh quất và hạ giọng thì thào, tưởng rằng tôi không nghe thấy, và được Q. cho là rất chí lý).
     Thời gian có lẽ sẽ làm lành mọi vết thương. Cuộc sống có lẽ sẽ trở lại với dòng chảy bình thường của nó.

     Nhưng mọi sự đã thay đổi rất nhiều sau khi T.H. rời khỏi Matxcơva.
     Tất cả chúng tôi đều bước vào thời kỳ bận rộn với việc làm luận án : năm đầu thong dong đã trôi qua, thời hạn càng rút ngắn đi thì sức ép lại càng lớn.
     Trong ba người chúng tôi thì K. là người bận nhất. Anh học trên Q. và tôi một năm, thời hạn bảo vệ luận án của anh đã đến gần, chỉ còn tính bằng từng tháng
     Thực ra, những phần cơ bản trong luận án của K. cũng đã hòm hòm, anh có thể ung dung hoàn chỉnh nốt những phần còn lại nếu không bị các công việc khác chi phối. Có điều, bao giờ cũng vậy, bảo vệ luận án xong là phải nghĩ đến chuyện về nước, phải lo đến cuộc sống tương lai ở Việt Nam. Với K., nỗi lo này còn nhân lên gấp bội, vì cái dự định lễ cưới đã ôm ấp từ hai năm nay. Chàng họa sĩ chuyên vẽ tranh siêu thực và trừu tượng của tôi giờ đây đã không còn tâm trí và thời gian để ngó ngàng đến giá vẽ. Trong đầu anh lúc này, chỉ còn bức tranh rất hiện thực và rất cụ thể về một ngôi nhà nhỏ, tổ ấm tương lai của chúng tôi.
     "Anh muốn chúng mình cưới  xong phải có nhà ở riêng. Anh không muốn em về nước phải vất vả, lam lũ, đầu tắt mặt tối. Anh muốn anh với em có tiền đủ sống để làm công việc chuyên môn của mình. Anh không muốn nhìn thấy em phải đi nuôi lợn, nuôi gà, hay gò lưng may thuê, đan thuê. Anh muốn con mình sinh ra phải được nuôi nấng tử tế..." Để giải quyết những cái "muốn" và "không muốn" này, lúc đó K. chỉ còn một cách là lao đầu vào "đánh quả".
     Nhưng "đánh quả" ở Matxcơva trước đã không đơn giản, đến thời kỳ này lại càng rắc rối. Nước Nga đang ở những ngày cuối cùng trước khi Liên Xô sụp đổ. Các cửa hàng hầu như trống rỗng. Tình hình xã hội bắt đầu rối ren. Thời thế thay đổi, những người Việt Nam tháo vát cũng tìm đến những phương án làm ăn khác, chẳng mấy khi buồn bỏ thời gian đi lùng sục cửa hàng để chầu chực mua vài thứ đồ lặt vặt như trước nữa. Hoạt động thương mại của người Việt ở Nga đã chuyển sang giai đoạn "làm ăn lớn" với nhiều cách thức phức tạp mà tôi chỉ có một khái niệm hết sức mù mờ , vì K. kiên quyết không cho tôi tham gia vào những hoạt động này.
     Anh bảo, những việc này hoàn toàn không thích hợp với loại con gái chân yếu, tay mềm, ngơ ngác như em. Anh bảo, anh không muốn em làm những cái trò đó vì sợ em sẽ không còn là em nữa. Thế nhưng anh lại bảo, những việc ấy sẽ cho chúng mình nhiều tiền để sống thoải mái ở Việt Nam, vì vậy anh không thể bỏ lỡ cơ hội. Tôi không hiểu mình phải làm gì, không thể và không dám ngăn cản anh, chỉ còn biết thương xót nhìn anh gầy rộc đi giữa những chuyến đi, những chuyến hàng và bản luận án.
     Rồi cuối cùng, đúng hạn, K.cũng bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ . Ngày anh bảo vệ, lại có những đóa hồng nhung thắm đỏ, nhưng lần này, lần đầu tiên, người tặng là tôi, còn người nhận là anh. Có lẽ đến khi tôi bảo vệ thành công luận án của mình, tôi cũng không thể mừng hơn thế được. Một năm nay, tôi luôn luôn trong tình trạng căng thẳng, nín thở lo sợ nhìn anh chơi trò xiếc leo dây, đi chênh vênh giữa công việc nghiên cứu khoa học và hoạt động kinh tế. Nhiều lúc đứng tim lại vì tưởng thấy anh ngã lộn nhào đến nơi. Nhưng bây giờ, tất cả những nỗi lo sợ này đã chấm dứt, chấm dứt một cách may mắn. K. sẽ về nước với tấm bằng phó tiến sĩ và một khoản tiền, không nhiều lắm nhưng cũng đỡ được phần nào cho cuộc sống tương lai của chúng tôi. Một nỗi buồn ập đến khi tôi nghĩ rằng mình sẽ còn phải ở lại Matxcơva học tiếp một năm nữa, xa K. Nhưng tôi tự an ủi mình là tôi sẽ chỉ xa anh sau khi đã làm đám cưới. Một năm sẽ trôi qua rất nhanh. Tôi sẽ trở về với anh. Chúng tôi sẽ có một cuộc sống gia đình thực sự ở Hà Nội. Những bé con xinh xắn, giống anh và giống tôi, sẽ ra đời. Sau một "thời kỳ quá độ" được K. "huấn luyện", tôi cảm thấy mình đã hoàn toàn sẵn sàng cho cuộc sống đó.
     Thế nhưng, người chưa sẵn sàng bây giờ lại là K.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 21 Tháng Mười, 2008, 08:14:02 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếpchương 5)
Ở Matxcơva, K. đã nhận bằng. Ở Hà Nội, bố mẹ anh đã đến gặp bố tôi để làm lễ ăn hỏi và bàn chuyện tổ chức đám cưới. Mọi việc đều phải lo tính trước thật chu đáo, vì tôi chỉ được về phép ít ngày, cưới xong là phải quay lại Matxcơva ngay.
     Đột nhiên, K. tuyên bố là anh chưa muốn về nước lúc này. Anh muốn ở lại Matxcơva, đợi tôi bảo vệ xong thì hai đứa về luôn một thể. Anh đã xin được giấy tờ để ở lại thêm một năm nữa, dưới dạng "cộng tác viên khoa học". Nhưng anh cũng nói thẳng với tôi rằng chuyện "cộng tác" ấy chỉ là hình thức. Lý do chính của việc anh ở lại đây, ngoài chuyện muốn được ở gần tôi ra (K. nhấn mạnh điều này), là vì anh đang có một mối làm ăn rất tốt, bỏ đi bây giờ thì quá phí. "Chỉ cần thêm một năm nữa thôi, anh sẽ kiếm thừa tiền cho chúng mình về nước sống thoải mái, rồi em xem", K. bảo. Rồi, nhìn thấy vẻ mặt băn khoăn của tôi, anh hỏi : "Em không thích anh ở lại đây với em à ?"
     Tất nhiên là tôi thích, nhưng cái thích ấy không đủ để bóp nghẹt nỗi sợ trong tôi. Tôi sợ khi thấy anh quyết định bỏ ra một năm để toàn tâm toàn ý dấn thân vào cái thế giới làm ăn ngày càng trở nên kinh khủng ấy. Gần đây, thỉnh thoảng lại nghe thấy những tin hãi hùng. Những chuyện trấn lột, đâm chém, giết người xảy ra trong giới làm kinh tế. Tôi sợ cho anh, cho tôi.
     Suốt một năm tiếp đó, tôi triền miên sống trong nỗi buồn và nỗi sợ. K. nói là chưa về nước vội để được ở lại gần tôi, nhưng công việc làm ăn cứ buộc anh phải đi vắng suốt. Những chuyến đi ngày một xa hơn, ngày một kéo dài hơn. Đầu tiên chỉ là đi đến các thành phố khác, vài ngày thôi. Rồi sau đó anh bắt đầu phải đi xa hơn, sang Ba Lan. Độ dài cây số kéo theo độ dài thời gian. K. bắt đầu vắng mặt một tuần, hai tuần, rồi đôi khi thành cả tháng.
     Nếu không có bản luận án phải hoàn thành mà thời hạn bảo vệ ngày càng đến sát, thì có lẽ sự đợi chờ căng thẳng đã làm cho tôi phát điên lên. Tôi vùi đầu vào luận án, tự nhủ rằng một khi tôi bảo vệ xong, thì mọi chuyện điên rồ này sẽ chấm dứt.

     Sau mỗi chuyến đi về, giờ đây K. đến ở hẳn nhà tôi. Căn phòng của anh bây giờ hoàn toàn bỏ trống, kể cả ban đêm.
     Lần đầu tiên chuyện đó xảy ra là khi K. trở về sau một phi vụ làm ăn ở một thành phố phía Nam. Chuyến tàu của anh quá nửa đêm mới về đến Matxcơva. Gần một giờ, khi tôi đã lên giường ngủ, nhưng chưa tài nào ngủ được vì những nỗi lo cho K. ám ảnh trong đầu, thì anh đập cửa và ào vào như một cơn gió lốc. Anh bảo, anh nhớ em quá không chịu được nên phải đến đây ngay. Anh bảo, anh không muốn một mình về ngủ trong căn phòng lạnh lẽo trống hơ trống hoác của anh nữa. Anh bảo, em nhìn bạn bè mà xem, mọi người có cần đợi cưới đâu mà đều đã sống hẳn với nhau rồi. Anh bảo, chúng mình đã ăn hỏi, lẽ ra là đã cưới, thực chất cũng sắp cưới, anh có điên mới trở về ngủ một mình ở cái căn phòng đáng ghét ấy. Anh bảo... rất nhiều thứ, tôi không kịp nghe, không kịp hiểu, không kịp có ý kiến, chỉ còn kịp nhận thấy những cái hôn của anh tới tấp phủ khắp người mình. Nỗi mừng được gặp lại anh, nỗi nhẹ nhõm vì anh đã trở về nguyên vẹn, tình yêu dâng lên tràn ngập khiến tôi không còn đủ sức kháng cự, không còn ý định kháng cự. Tôi để yên cho anh kéo mình vào một cơn xoáy lốc điên cuồng.
     Buổi sáng tỉnh dậy, một cảm giác dịu dàng tràn ngập người tôi. Bàn tay anh đang nhẹ nhàng nghịch một túm tóc tôi. Mở mắt ra, tôi nhận thấy anh đang nhìn tôi đăm đắm. "Sáng dậy, ngái ngủ trông em xinh quá !", anh nói. Tôi mỉm cười, định đáp lại là trông anh cũng rất "xinh", nhưng anh đã cắt ngang câu nói của tôi bằng một nụ hôn cuồng nhiệt.
     Ngày hôm ấy, chúng tôi nằm lỳ trong giường đến hơn mười một giờ sáng. K. bảo hôm nay anh quyết định nghỉ ngơi, không làm việc gì cả. Tôi cũng không muốn làm việc, bản luận án cứ để nằm đấy đợi tôi thêm một ngày cũng chẳng sao. Hai đứa chúng tôi nói đủ thứ chuyện linh tinh. Anh hỏi : “Tình hình luận án của em bây giờ ra sao, có cần anh phát hộ anketa nữa không ?” Tôi bảo : “Bây giờ mà còn đợi anh giúp thì chắc luận án của em toi mất rồi anh ạ.” Rồi tôi hỏi về những chuyến đi của anh. K. kể cho tôi về những thành phố mà anh đến, về những câu chuyện buồn cười mà anh gặp ở dọc đường, về nỗi nhớ tôi, nỗi nhớ đã làm anh khổ sở ra sao..., nhưng không đả động một câu nào đến những chuyện làm ăn của anh. Sau này cũng vậy, không bao giờ anh hé răng nói một lời đến chuyện đó. Tôi có gặng hỏi thì anh cũng dứt khoát gạt đi bằng một câu trả lời ngắn gọn là anh không muốn tôi phải dính vào những chuyện như thế.
     Lâu lắm rồi chúng tôi mới lại cảm thấy hạnh phúc đến như vậy. K. không muốn xa tôi nửa bước. Như thời xưa, anh lại luẩn quẩn bên tôi khi tôi ngồi viết luận án. Nhưng bây giờ K. đã bảo vệ luận án rồi, anh không còn gì để "thi đua" với tôi, thành thử anh bèn trở về với niềm say mê của mình là cái giá vẽ. Và thế là tôi lại được dịp căng mắt ra để tìm những đường nét của mình trong bức tranh khó hiểu của anh.
     Một tuần sau đó, lẽ ra K. lại có việc phải đi xa. Nhưng đang ở trạng thái ngất ngây như trong tuần trăng mật, anh quyết định tung hê tất cả. Anh bảo anh không thích đi đâu bây giờ, thế thôi, muốn ra sao thì ra. Sau một cú điện thoại gọi đến một nơi nào đó, thuyết phục, cãi cọ một hồi, cuối cùng K. bảo tôi rằng anh đã giải quyết xong việc này. Chuyến đi đã hoãn lại. Tuần này, anh sẽ ở nhà với em, đồng ý không L.C. ?
     Ngày tôi bảo vệ luận án, K. không ở nhà với tôi. Tôi khóc, khi nhận những bông hoa hồng nhung do bạn bè tặng. K. đang có việc bận ở Ba Lan. Cách đó vài ngày, anh còn gọi điện thoại cho tôi, bảo rằng nhất định anh sẽ về. Rằng anh không thể vắng mặt trong một ngày như vậy được. Nhưng cuối cùng anh đã vắng mặt.
     Hai ngày sau anh mới trở về. Với một đống quà, một bó hồng nhung đồ sộ và hàng trăm lời thanh minh, hàng ngàn lời xin lỗi. Rằng anh bị giữ lại đúng phút cuối cùng. Rằng nếu anh bỏ đi lúc đó thì hỏng hết cả, bao nhiêu công lao của mình bấy lâu nay sẽ thành công cốc... Tôi thấy mình quá mệt mỏi, những lời anh nói nghe bập bùng chẳng lọt vào tai. Đợi cho anh nói xong, tôi hỏi :
     - Bao giờ chúng mình về nước ?
     - Từ từ cái đã, để anh giải quyết xong mấy việc rồi tính sau, - K. hơi bối rối.
     - Anh đã nói là đợi em bảo vệ luận án xong thì chúng mình sẽ cùng về nước. Em đã bảo vệ xong rồi. Vậy bao giờ thì chúng mình về ? - tôi nhắc lại.
     - Anh nghĩ là chỉ khoảng hai tháng nữa là anh giải quyết xong mọi chuyện. Đợi anh hai tháng nữa thôi, L.C. nhé.
     Tôi đã đợi anh hai tháng. Tôi lại đợi anh thêm hai tháng nữa. Những tháng ngày dài dằng dặc sau khi bảo vệ luận án. Không còn có việc gì làm cho khỏi điên đầu. Tôi sống vật vờ giữa những chuyến đi của anh, giữa những ngày nhớ nhung lo sợ dài lê thê, và những đêm yêu đương cuồng nhiệt ngắn ngủi.
     Loáng thoáng đến tai tôi những tin đồn thực hư chẳng biết ra sao. Người ta bảo là K. gần đây "đánh quả" bị lừa mất sạch hết tiền. Rồi có cô bạn cùng trường lại nói với tôi, vẻ rất thương hại, rằng thấy bảo hình như K. đã từng qua đêm ở đâu đó, với một cô gái nào đó, trong hội cùng đi "đánh quả". "Nghe đồn vậy thôi, chứ chẳng có gì chắc chắn đâu. Nhưng L.C. cũng nên biết để đề phòng. Khi người ta đi làm ăn xa nhà thì những chuyện như vậy cũng dễ xảy ra lắm", cô bạn bảo.
     Sức chịu đựng của tôi đã đến lúc cạn kiệt.
(còn tiếp...)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 21 Tháng Mười, 2008, 08:15:06 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 5)
Anh lại trở về sau một chuyến đi, ập vào nhà, ôm ghì lấy tôi, dữ dội và cuồng nhiệt như lần nào cũng vậy.
     Tôi quay mặt đi để tránh cái hôn của anh.
     - Có chuyện gì thế, L.C. ? - anh sững sờ hỏi.
     - Bao giờ chúng mình về nước ? - tôi trả lời bằng một câu hỏi khác.
     - Sao em cứ hỏi mãi một câu ấy thế, - K. nói với vẻ chán nản. - Anh đã bảo đợi thêm một thời gian nữa, anh giải quyết xong mọi việc thì chúng mình về.
     - Em không muốn đợi thêm nữa, - tôi nói gay gắt.
     - Vậy em muốn gì ? - K. bực bội hỏi.
     - Anh không biết là em muốn gì à ? - tôi gào lên. - Em muốn chúng mình về nước. Em muốn chúng mình làm lễ cưới. Em muốn đi làm. Em muốn có một gia đình. Em muốn có con. Em muốn có con !
     Chợt nhìn thấy vỉ thuốc tránh thai đang uống giở để trên cái tủ nhỏ phía đầu giường, tôi chộp lấy, giơ lên và nói vẻ hăm dọa :
     - Em nói cho anh biết, em không nuốt cái của này vào người nữa đâu !
     Rồi tôi xăm xăm cầm vỉ thuốc ra bỏ tọt vào sọt rác.
     K. đứng đờ người ra, nhìn tôi kinh hãi. Anh chưa bao giờ nhìn thấy tôi hung hăng như vậy cả. Anh lúng búng :
     - L.C, nghe anh nói đây...
     Nhưng tôi không còn muốn nghe gì nữa. Tôi khóc òa lên, vớ lấy cái áo khoác rồi chạy ra ngoài cửa.
     K. chạy theo tôi. Tôi lao vào thang máy, ấn nút. Cánh cửa tự động đóng sập lại trước mặt anh.
     Khi bước ra khỏi thang máy, tôi nghe tiếng K. gọi từ cầu thang vọng xuống. Phòng chúng tôi ở trên tầng thứ bảy, không biết bằng cách nào mà anh đã chạy được gần xuống tới tầng trệt.
     Người tôi mụ mẫm đi, không còn suy nghĩ được gì. Tôi cứ vừa khóc vừa lao ra đường, mặc cho K. đuổi theo gọi đằng sau. Trong đầu tôi bây giờ chỉ còn một ý muốn là hành hạ anh cho bõ ghét.
     Một chiếc xe buýt xịch đến, tôi nhảy vội lên ngay. Khi xe bắt đầu chạy tiếp, tôi ngoái lại nhìn qua cửa kính, thấy K. đang vẫy một chiếc taxi.
     Xe đi qua bao nhiêu bến tôi cũng không nhớ nữa. Đứng dựa vào thành xe, nhìn ra ngoài đường, tôi thổn thức, mặc kệ những cái nhìn tò mò của hành khách trên xe.
     Khi xe dừng lại ở một phố nhỏ rợp bóng cây, mấy hành khách đứng sau tôi lách ra để xuống. Tôi bèn xuống theo họ, thẫn thờ bước đi, như một cái máy, chẳng hiểu mình định đi đâu.
     Có tiếng bước chân chạy phía sau tôi. Tôi chẳng buồn quay lại mà vẫn biết đó là ai. Rồi K. chạy tới gần. Anh thở hổn hển, đặt tay lên vai tôi và bảo : "L.C., tha lỗi cho anh. Anh biết anh làm khổ em nhiều lắm. Nhưng anh không bao giờ muốn như thế cả. Đó là vì hoàn cảnh. Có những chuyện không may..."
     Không đợi K. nói hết câu, tôi gục đầu vào vai anh, khóc như mưa như gió.

     Đêm, nằm trên giường, trong vòng tay K., tôi lặp lại câu hỏi cũ :" Bao giờ chúng mình về nước ?" "Cho anh thêm một tháng nữa, anh sẽ cố thu xếp xong mọi việc, rồi chúng mình về", K. hứa. Rồi anh nói rằng chính anh cũng rất muốn về, muốn chúng tôi làm lễ cưới, muốn có con với tôi ... "Em sẽ sinh ngay cho anh một thằng cu thật giống anh", tôi bảo. "Không, con trai để sau. Anh muốn đứa đầu của chúng mình là con gái. Một bé gái giống hệt như em. Nước da trắng mịn như thế này này. Hàng mi rợp như thế này này. Và đôi mắt phải đúng như thế này này, mênh mông, mênh mông... " Và K. kết thúc bài văn tả chân dung của mình bằng những cái hôn cuồng nhiệt như thường lệ.

     Một tháng sau đêm đó, K. lại đang trong một chuyến đi xa.
     Tôi đi mua một vé máy bay về Hà Nội. Ngày bay ghi trên vé là đúng một tháng sau. Tôi đã cho anh một tháng như anh yêu cầu. Tôi lại sẽ cho anh thêm một tháng nữa. Nhưng đây là lần cuối cùng.
     Một tuần lễ trôi qua, K. trở về. Tôi lẳng lặng đưa vé máy bay của mình cho anh xem. Mặt K. nhợt đi.
     - Sao em tự ý mua, không bàn bạc gì với anh cả ?
     - Anh đi đánh quả có bao giờ bàn bạc gì với em không ?
     Im lặng một lúc, rồi K. lại hỏi :
     - Em định bỏ anh thật đấy à, L.C. ?
     - Không. Em không bao giờ bỏ anh cả. Em chỉ về Hà Nội thôi. Anh cũng về với em đi.
     - Nhưng anh không về được, lúc này anh không thể về được, - K. nói như rên lên.
     - Tại sao thế ? Anh có vay nợ gì ai không ? - tôi hỏi.
    - Có những khó khăn, - K. lấp lửng. Rồi anh lại giở bài ca quen thuộc của mình : - Anh không muốn em phải dính vào những chuyện như thế này. Em biết cũng chẳng ích gì, chỉ tổ đau đầu.  Để đó rồi dần dần anh sẽ giải quyết xong.
     - Vậy thì anh cứ giải quyết đi, - tôi nói. - Nhưng nhanh nhanh lên. Em sẽ đợi anh ở Hà Nội. Đừng bắt em phải đợi cả đời.
     - Sao em không ở lại đây đợi anh ? Trả vé máy bay lại đi, L.C., trả vé lại đi, anh xin em, - anh nhìn tôi với một vẻ van xin, tội nghiệp đến nỗi tôi suýt khóc.
     - Em không thể chịu đựng nổi cuộc sống như thế này nữa. Nếu em không về, anh sẽ chẳng bao giờ về cả. Em phải về để kéo anh ra khỏi cái vũng lầy ấy, - tôi nói.
     K. không nài nỉ gì thêm nữa. Anh ngồi ngả lưng vào ghế, nhắm mắt lại, vẻ hết sức mệt mỏi.
     Ba tuần cuối cùng trước khi tôi về Hà Nội, K. không đi đâu xa cả. Anh cùng tôi đi mua sắm những đồ linh tinh vớ vẩn, giúp tôi thu dọn đồ đạc, giành lấy việc xếp vali cho tôi. Anh nhét vào vali của tôi một xấp phong bì đã có sẵn tem Nga, ghi sẵn tên và địa chỉ của anh, và dặn :" Nếu có ai đi Nga thì em nhờ gửi thư cho nhanh nhé, còn nếu không cứ bỏ bưu điện ở Hà Nội cũng được, đừng để anh đợi lâu". Anh có vẻ khá là bình thản. Tôi nghĩ, anh đã hiểu quyết định về Hà Nội của tôi là đúng.
     K. giữ được vẻ bình thản ấy cho đến tận lúc tiễn tôi ra sân bay. Nhưng đến khi chuẩn bị chia tay, chúng tôi hôn nhau lần cuối, cái hôn từ biệt, thì tự nhiên anh xiết chặt lấy tôi, chặt đến nỗi làm tôi phát đau lên, và toàn thân anh run lên trong những tiếng nức nở cố ghìm.
     - Anh không muốn mất em, - anh nói bằng một giọng khàn khàn, đứt đoạn.
     - Nhưng anh có mất em đâu, - tôi đáp, nước mắt rơi lã chã. - Về với em đi. Em chờ anh ở Hà Nội.
     Tôi đợi K. nói rằng anh sẽ về ngay đây, ngay trong chuyến bay sau. Nhưng anh đứng đờ đẫn, không nói gì hết cả, nước mắt chảy ràn rụa trên mặt chẳng buồn lau. Đây là lần đầu tiên tôi thấy anh khóc. Từ trước đến giờ, chỉ có tôi chuyên lấy nước mắt để dọa anh.
     Tôi vừa bước lên máy bay vừa khóc, nhưng vẫn tin rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ lại gặp anh. Tôi biết anh không thể chịu đựng nổi cuộc sống xa tôi quá lâu. Anh sẽ vứt bỏ tất cả để về Hà Nội với tôi, chậm nhất thì cũng chỉ thêm vài tháng nữa. Tôi tin chắc là như vậy.
(hết chương 5, còn tiếp..0


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 07:26:40 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Chương 6)
6
    Không điều gì có thể tin chắc được ở đời, đặc biệt khi đó lại là lời hứa của một ông chồng mắc bệnh đãng trí. Lan Chi đã rút ra kết luận này vào buổi tối hôm nay, khi cô hỏi Trung :
    - Chú Cừ bảo thế nào hả anh ?
    - Bảo cái gì nhỉ ? - Trung lơ đãng hỏi lại.
    - Ơ kìa, còn cái gì nữa ! Thế anh đã gọi điện cho chú Cừ chưa ? - Lan Chi sốt ruột kêu lên.
    - Trời đất ! Anh quên béng đi mất cái chuyện này rồi ! - Trung ồ lên, có vẻ bây giờ mới sực nhớ ra.
    - Quên là thế nào ? - Lan Chi cáu. - Anh đã hứa đi hứa lại với em bao nhiêu lần, chắc như đinh đóng cột. Em tin anh mới đi hứa lại với Thanh Hoa. Bây giờ để lỡ việc của người ta ra thì có phải ê mặt mình không !
    - Lỡ sao được, anh sẽ đi gọi điện ngay bây giờ đây, - Trung cười xí xóa. - Vậy cái ông viện sĩ của em bao giờ thì về nước đó ?
    - Thấy Thanh Hoa bảo là ngày hai mươi tư tháng ba này ông ta sẽ bay về Hà Nội. Hôm nay là ngày bao nhiêu nhỉ ? - Lan Chi nhìn lịch và nhẩm tính. - Mười chín tháng ba. Như vậy chỉ còn năm hôm nữa thôi. Anh làm sao giải quyết cho xong việc này thì làm.
    - Rồi, xong ngay chớ có gì đâu, - Trung đáp. - Mà nói thiệt, anh vẫn chưa hiểu tại sao em với Thanh Hoa lại nghĩ ra cái trò này. Hết sức vớ vẩn. Vậy mà em cứ làm như quan trọng lắm, - Trung làu bàu nói, nhưng không giấu được nụ cười tủm tỉm.

    Không riêng Trung, mà đến cả Lan Chi lúc đầu cũng không hiểu được ngay tầm quan trọng của vấn đề. Cô hết sức sửng sốt khi Thanh Hoa gọi điện cho cô, tha thiết nhờ vợ chồng cô giúp cho việc tổ chức cuộc gặp gỡ giữa một nhà khoa học Việt Nam,  giáo sư viện sĩ viện gì đó, với ông chú của chồng cô.
    - Này, mày định đùa đấy hả ? - Lan Chi hỏi. - Giáo sư, viện sĩ thì gặp cái ông hâm ấy để làm gì ?
    - À, nhưng mà giáo sư viện sĩ này lại là lão Tài mày ạ, - Thanh Hoa đáp.
    - Tài nào ? - Lan Chi hỏi.
    - Tài "ủng " ấy, cây si của mày ngày xưa ấy. Mày không nhớ à  ?
    - Tài "ủng" thì tao nhớ. Nhưng sao mày lại bảo là giáo sư, viện sĩ ? - Lan Chi vẫn chưa hiểu.
    - Chậm hiểu quá, - Thanh Hoa cười rộ lên trong máy điện thoại. - Này, bây giờ chớ có gọi là Tài "ủng" mà phạm thượng đấy nhé. Người ta bây giờ là giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài !
    Hóa ra là từ cái thuở trồng cây si trước cửa phòng Lan Chi đến giờ, Tài "ủng" đã đi được một chặng đường rất xa, vượt lên tất cả bạn bè cùng trang lứa. Vượt một cách xuất sắc mà không ai ngờ đến.
    Tất nhiên, ở Matxcơva  thời ấy, ai cũng phải công nhận Tài là một tay anh hùng hảo hán, chứ không phải là loại tầm thường. Trong khi thiên hạ đi buôn hầu như ai cũng phải trải qua những thời kỳ lên voi xuống chó, thì Tài bao giờ cũng vẫn cứ giàu sụ. Bất kể thời nào, bất kể phương thức làm ăn nào, Tài luôn luôn ung dung giữ vai trò thủ lĩnh trên thương trường. Về cái khoản làm kinh tế này, thì tài năng và bản lĩnh của Tài đã thể hiện quá rõ. Giá như bảo rằng anh bây giờ đã trở thành  triệu phú, tỷ phú, giám đốc công ty gì gì đó..., thì hẳn là chẳng có ai lấy làm ngạc nhiên.
    Thế nhưng, không hiểu mồ mả tổ tiên anh chọn được chỗ long mạch tốt thế nào, mà bây giờ con cháu không những chỉ được hưởng phúc đức ở khoản no cơm ấm cật, mà lại còn phát cả sang đường khoa học nữa ! Điều này quả thật nghe có hơi lạ tai. Rất lạ tai đối với những người đã biết Tài từ cái thời Matxcơva xa vắng ấy.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 07:27:32 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 6)
Thời ấy, ai cũng biết là toàn bộ thời gian, tâm huyết của Tài đều được dành hết cho việc làm kinh tế. Làm kinh tế, chứ không phải là nghiên cứu kinh tế học, cái ngành học của anh. Nói đến việc học của anh, thì kết quả của nó cho thấy rằng kinh tế học hóa ra lại là một khoa học hết sức xa rời thực tế. Vì thế mới có hiện tượng quái lạ như thế này : một nhà thực hành kinh tế xuất sắc như Tài, trong khi toàn bộ tài ba và nhiệt huyết đã thể hiện chói sáng trên thương trường không ai có thể chối cãi, thì cứ đến kỳ thi ở khoa Kinh tế lại vác về một đống điểm hai ! Tình hình trầm trọng đến mức suýt nữa Tài đã bị đuổi học. May quá, cuối cùng nhờ rất nhiều tác động ở đủ mọi phía, nhờ cả thái độ ăn năn thành khẩn, những lời hứa quyết tâm học tập và những điểm ba khi thi lại của Tài, cuối cùng, khoa Kinh tế đã tránh được cái sai lầm tai hại là đuổi nhầm một nhà kinh tế có tài năng thực sự.
    Rồi mọi việc cũng đâu vào đấy. Tài cũng bảo vệ xong luận án phó tiến sĩ, nhận bằng đàng hoàng. Bọn xấu miệng thì bảo rằng đó là bằng đi mua. Những kẻ khác (có thể do ghen tị với tài sản của anh) thì bảo rằng luận án của anh là thuê người viết, chứ một chữ trong đó anh cũng chẳng hiểu. Mua hay thuê không biết, không có bằng chứng gì cả. Có điều chắc chắn rằng đó là bằng thật, xịn một trăm phần trăm. Đố ai dám bảo đó là bằng giả. Điều này mới là quan trọng, chứ còn miệng lưỡi thế gian thì người đứng đắn hơi đâu thèm để ý đến.
    Có lẽ chính nhờ một số người giữ những trọng trách nào đó ở trong nước có thái độ nghiêm túc và thận trọng với những điều thị phi như vậy, mà Tài bỗng dưng xuất hiện ở Việt Nam với danh nghĩa một nhà khoa học có tên tuổi tầm cỡ thế giới. Trong khi bạn bè cứ tưởng anh vẫn còn đi buôn ở Nga, thì báo chí trong nước cho biết rằng anh hiện là giáo sư viện sĩ của những cơ quan khoa học danh tiếng ở nước ngoài, niềm tự hào của khoa học Việt Nam, người đã mở ra một chân trời mới cho nền khoa học thế giới. Giáo sư trường nào, viện sĩ ở đâu thì còn là một vấn đề khó hiểu. Vì cứ căn cứ vào những cái tên trường, tên viện mà một vài tờ báo trong nước cung cấp, thì bạn bè của anh ở nước ngoài chưa lần ra được, hoặc đã lần ra được rồi nhưng lại thấy nó không giống như báo nói. Theo như những kẻ tò mò, đa nghi, cứ thích đi kiểm tra lại những điều viết trong báo, thì cái trường mà anh nhận chức danh giáo sư chỉ là một cái trường ma, không hề tồn tại trên đời. Còn cái viện hàn lâm khoa học mà anh là viện sĩ thì quả là có thật, nhưng lại không thiêng liêng như sự mô tả của nhà báo. Là vì bất cứ ai có được tấm bằng tiến sĩ  đều có thể thành viện sĩ ở đây, không cần phải qua bầu chọn gì hết cả. Điều kiện duy nhất để có được danh hiệu cao quý đó là phải nộp tiền. Tai hại nhất là cái viện hàn lâm khoa học này lại không hề biết giữ giá, lại đi bán giấy chứng nhận viện sĩ với giá rẻ mạt đến mức đau lòng. Thành thử người Việt mình làm ăn ở Nga thừa tiền là đua nhau trở thành viện sĩ cả loạt.
    Về phần Tài thì, với những chức danh khoa học vẻ vang trên, tuy làm ăn ( hay là hoạt động khoa học, theo cách gọi của báo chí) ở Nga, nhưng anh vẫn thường xuyên đi về thăm Tổ quốc. Nghe nói mỗi lần anh về nước là báo chí lại có dịp để bàn về tương lai tươi sáng của khoa học Việt Nam, mà một trong những niềm hy vọng lớn là Tài. Thậm chí, hình như có một đài truyền hình nào đó còn phấn chấn đến mức làm hẳn một bộ phim tài liệu về cuộc đời hoạt động khoa học của anh, tái hiện lại những nỗ lực của anh trong việc vượt khó khăn để làm khoa học, cảm động không kém gì chuyện Lomonoxop ngày xưa đi bộ hàng ngàn cây số từ nhà quê lên Matxcơva để tìm đến với khoa học vậy. Xem phim, bạn bè của Tài sững sờ được biết rằng thuở hàn vi, khi còn làm nghiên cứu sinh ở  Matxcơva, do không muốn mất thời giờ vào chuyện làm ăn buôn bán, nên Tài đã phải sống rất vất vả bằng số tiền học bổng ít ỏi, chỉ toàn ăn bánh mỳ với bơ thôi mà đã đóng góp được cho đời những công trình khoa học đồ sộ.
    Sau khi danh tiếng đã nổi như cồn ở trong nước, tiền đô đã ních chặt túi ở Nga, Tài quyết định về nước hẳn để dành trọn những ngày còn lại của đời mình (nếu không có gì bất trắc thì còn khá dài) cho nền khoa học nước nhà. Dễ hiểu là với một tên tuổi như vậy, anh được mời ngay về làm việc ở một viện khoa học lớn, được giao cho một chức vụ khá quan trọng. Và bây giờ,  với tư cách là đại diện cho viện khoa học này, anh đang có mặt ở Paris.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 07:28:19 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 6)
Thực ra, chuyện giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài đến Paris cũng có nhiều pha khá là gay cấn, chứ không đơn giản như việc người ta đi trao đổi khoa học thông thường. Số là, tuy rằng anh đã mở ra một chân trời mới cho nền khoa học thế giới như báo chí nước nhà cho biết, nhưng các nhà khoa học Pháp hình như thiếu thông tin, nên không hề biết đến anh là ai. Vì vậy, sau nhiều năm tung hoành ngang dọc ở  Nga, giờ đây Tài muốn đưa chân trời của anh đến phương tây, cụ thể là sang Pháp, nhưng tìm mãi mà chưa thấy được nhà khoa học nào ở nước này hưởng ứng.
    May thay, trời thương (hoặc là do long mạch của tổ tiên anh quá tốt), cứ mỗi lúc Tài bí kế thì lại có trời hiến kế cho. Tự dưng, vợ Tài được một suất đi thực tập ở Pháp một năm. Tài bèn quyết định nhân dịp này bám váy vợ sang Pháp để xem xét tình hình khoa học của nước này.
    Tuy vậy, tham vọng của Tài là mang lại vinh quang cho khoa học nước nhà. Là để chứng tỏ cho đồng nghiệp trong nước rằng uy tín khoa học của anh vang dội không chỉ ở Nga, mà còn ở phương tây. Là để báo chí nước nhà còn có dịp vui mừng bàn luận về vị trí sáng giá của các nhà khoa học Việt Nam trong nền khoa học thế giới. Vì thế, nếu giáo sư viện sĩ lại xuất ngoại một cách chính thức dưới dạng bám váy vợ thì còn ăn thua gì nữa.
    Cần phải có một cái giấy mời. Một cái giấy mời khống cũng được, nhưng phải là giấy mời hẳn hoi. Do một nhà khoa học hẳn hoi hoặc một cơ quan khoa học hẳn hoi ở Pháp đứng tên chịu trách nhiệm. Tài nghĩ rằng việc xin cái giấy mời này có thể là chuyện khả thi nếu anh hứa với phía mời là anh không đòi hỏi gì hết, không quấy rầy gì hết. Không đòi hỏi kinh phí tài chính cho chuyến đi. Không đòi hỏi cả việc đón tiếp. Tức là trong  thời gian anh ở Pháp, phía mời thậm chí không cần biết đến mặt anh. Chỉ cần họ biết tên anh để viết giấy mời cho đúng. Đã có vợ Tài ở Pháp để lo cho anh những chuyện lạ nước lạ cái, Tài chỉ cần một tấm giấy mời để xuất ngoại cho vẻ vang.
    Với những yêu cầu khiêm tốn như thế, Tài thấy rằng không cần các nhà khoa học Pháp phải biết đến chân trời khoa học của anh. Chỉ cần anh tìm được một người nào đang ở Pháp, có nhiều quan hệ trong giới khoa học Pháp, có thể đứng ra đảm bảo về những lời hứa của anh để xin được cho anh một tấm giấy mời. Sau một thời gian ngắn đi điều tra tìm hiểu, Tài đã chộp được đúng cái con người hội đủ mọi điều kiện ấy. Người ấy là Thanh Hoa.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 07:29:07 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 6)
    Lan Chi rất ngạc nhiên trước sự tận tâm của Thanh Hoa trong việc thực hiện những tham vọng của Tài "ủng". Theo trí nhớ của cô thì thời ở Matxcơva hai người này có thân thiết gì với nhau đâu. Hay là họ có những mối liên quan họ hàng mà hồi trước Thanh Hoa không cho cô biết ?
    - Không có họ hàng gì cả, - Thanh Hoa bảo. - Nhưng lại quan trọng hơn cả họ hàng mày ạ. Là vì em họ của vợ Tài "ủng" là cô giáo của thằng con trai của ông anh ruột của tao.
    Chết thật, một cái quan hệ phức tạp như thế này thì người thường nghe qua làm sao có thể hiểu được cho thấu đáo. Lan Chi cứ phải hỏi đi hỏi lại mấy bận, đếm đi đếm lại mấy lần "của", mà cuối cùng vẫn chịu chết không luận ra nổi tầm quan trọng của mối quan hệ ấy. Cô chỉ vỡ ra sau khi đã được Thanh Hoa bỏ công giải thích cặn kẽ. Phải thừa nhận rằng đây là một chuyện không thể xem nhẹ được.
    Sự thể là thế này : vợ chồng ông anh ruột của Thanh Hoa có độc mỗi một cậu quý tử, năm nay học lớp bảy. Cậu này không những là niềm hy vọng duy nhất của hai bậc thân sinh, mà còn là biểu tượng tương lai của cả dòng họ. Là vì dòng họ nhà Thanh Hoa đã ba bốn đời rồi toàn là độc đinh cả. Bố cô là con trai duy nhất, anh cô là con trai duy nhất, và đời này thì đến lượt cậu quý tử này. Nhưng cu cậu vô tư, chẳng hề ý thức chút nào về trách nhiệm nặng nề của mình đối với tổ tiên, cho nên học hành hết sức ấm ớ, năm ngoái vừa mới bị đúp. Cả họ phát hoảng, phải họp bàn, rồi ra quyết định là tốn bao nhiêu thì tốn cũng phải lo cho quý tử nên người bằng được, mục tiêu phấn đấu lâu dài là phải nhồi cho được cu cậu vào đại học, mục tiêu cụ thể trước mắt là làm sao đừng có đúp năm nào nữa. Vợ chồng ông anh ruột của Thanh Hoa, chịu trách nhiệm trước dòng họ về việc thực hiện những mục tiêu khó khăn trên, đã đến gặp cô giáo chủ nhiệm của quý tử để bàn bạc cặn kẽ những phương án thực hiện. May được cô giáo thông cảm, nhận lời giúp đỡ. Chỉ sau ba tháng học thêm ở nhà cô giáo theo chế độ đặc biệt (số giờ học gấp đôi các bạn cùng lớp, số tiền học còn gấp nhiều lần hơn), cu cậu đã có những kết quả khá là hứa hẹn, tuy chưa được hẳn như mong muốn. Bố mẹ quý tử nhẩm tính rằng nếu tăng tiền học lên mà kết quả tăng nhanh hơn thì cũng bõ. Thế nhưng, chưa kịp bàn phương án này với cô giáo thì cô đã đích thân đến tận nhà, bảo là có việc muốn nhờ vả. Cái việc ấy, tất nhiên, chính là cái việc mà Tài "ủng" muốn nhờ Thanh Hoa.
   Cô giáo hết sức tha thiết muốn giúp đỡ ông anh rể họ, vì tuy chỉ là em họ, nhưng quan hệ của cô với vợ chồng Tài thân thiết quý hóa có khi còn hơn anh chị em ruột trong nhà. Chẳng thân, chẳng quý, sao khi vợ chồng cô mua nhà, ông anh rể họ lại đồng ý cho vay ngay năm ngàn đô ? Mà là với lãi suất hữu nghị thôi đấy nhé. Năm ngàn đô ấy, cô mới trả được có hai ngàn, còn ba ngàn hiện chưa có khả năng, anh chị họ cũng không nỡ thúc ép quá (đành rằng đôi khi anh chị cũng có nhắc nhở, bảo rằng đang có nhiều khoản cần tiêu). Bây giờ, anh rể muốn nhờ mỗi một việc này, mà mình không giúp được, thì thật là áy náy.
    Không những cô giáo áy náy, mà anh ruột chị dâu của Thanh Hoa cũng áy náy, thậm chí đến mẹ của Thanh Hoa cũng áy náy nốt. Cho nên, sau khi ông anh ruột đích thân gọi điện sang Pháp để bàn với Thanh Hoa về việc này, thì mẹ cô vẫn không yên tâm, còn phải gọi điện thêm lần nữa. Bảo rằng con cố giúp anh Tài con nhé, chứ có mỗi một việc như vậy mà không giúp người ta được thì cô giáo của thằng Thắng cô ấy giận cho đấy, mà thằng Thắng nó lại đúp thêm một lần nữa thì mẹ khổ lắm con ơi. Thanh Hoa hiểu rằng vấn đề không đơn giản là một cái giấy mời, mà là danh dự của cả dòng họ.
    Phải nói thêm rằng sở dĩ Thanh Hoa được Tài "ủng" chọn mặt gửi vàng, là vì gia đình chồng cô là một gia đình có nhiều quan hệ rộng rãi trong giới khoa học Pháp. Bố chồng cô, mẹ chồng cô đều là những giáo sư đại học có tên tuổi. Bản thân Pascal, chồng Thanh Hoa, cũng đã trở thành giáo sư từ khi tuổi còn rất trẻ, chưa đến ba mươi. Chuyện này thì cả Hà Nội đều biết, thậm chí còn biết hơn cả Thanh Hoa. Có lần cô về Hà Nội thăm nhà, nghe nói chuyện mới vỡ nhẽ ra rằng cả bố chồng, mẹ chồng lẫn chồng mình đều là viện sĩ hết.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 07:30:09 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 6)
Như vậy, Thanh Hoa đã phải huy động hết những mối quen biết của mình, của chồng ra để tìm cho được một nhà kinh tế học đồng ý làm một cái giấy mời khống cho Tài. Cuối cùng thì cũng tìm được một ông bạn của Pascal nhận giúp cho việc đó. Cái giấy mời lập tức được gửi về Hà Nội. Công việc đến đây tưởng là đã xong.
    Nhưng giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài  đến được Paris rồi thì lại nảy ra những tham vọng khác. Sau khi đi dạo Paris một vòng, chụp một cái ảnh ở nhà thờ Đức Bà Paris, ba cái ở tháp Eiffel (ba góc độ khác nhau), một cái đứng tư lự bên dòng sông Seine, hai cái cười trước trường Đại học Tổng hợp Paris 7, một cái cũng trước trường này nhưng đăm chiêu trầm tư..., Tài thấy rằng tư liệu ảnh để cung cấp cho giới báo chí vậy là đã đủ. Nhưng vẫn còn thiếu một cái gì đó. Một cái gì đó làm bằng chứng về những hoạt động khoa học của Tài ở Paris.
    Suy đi nghĩ lại, Tài nảy ra ý muốn gặp gỡ một nhà kinh tế học Pháp để bàn luận, trao đổi. Không nhất thiết phải bàn luận sâu vào những vấn đề chuyên môn cụ thể, mà chỉ cần là một sự gặp gỡ làm quen giữa giới kinh tế học hai nước, đặt tiền đề cho sự hợp tác khoa học trong tương lai. Bản thân Tài cũng không sẵn sàng cho những trao đổi chuyên môn, vì khi sang đây, có thể do quá nặng, anh không mang theo tài liệu công trình gì của mình hết cả . Bù lại, Tài mang theo một đống danh thiếp, in rất đẹp, chữ đã lấp lánh lại còn tỏa mùi thơm ngan ngát, trong đó ghi rõ họ tên chức vụ và mọi học hàm học vị của anh. Ngoài ra, Tài còn cẩn thận mang kèm cả tờ giấy giới thiệu của viện khoa học nơi anh làm việc, viết cả bằng hai thứ tiếng Việt - Pháp, xác nhận tư cách đại diện cho viện của anh. Giấy giới thiệu có đóng dấu đỏ chói, hoàn toàn là dấu thật (Trần Sỹ Tài xưa nay không có xài của rởm bao giờ !) Với từng ấy thứ giấy tờ, Tài thấy anh đã được trang bị đầy đủ cho một cuộc gặp gỡ khoa học. Vấn đề là phải tìm cho được ra đối tác.
    Chuyện này tất nhiên lại phải nhờ đến Thanh Hoa. Cô bạn của Lan Chi, sau khi nghe Tài bày tỏ nguyện vọng trên, thì vò đầu kêu khổ. Là vì cô không hình dung được có nhà kinh tế học Pháp nào lại chịu bỏ thời gian ra để làm cái công việc khó nhọc đó. Nhưng cô không dám gạt phắt đi, vì sợ làm cho nhiều người ở Hà Nội áy náy.
    Được cái, Thanh Hoa xưa nay bao giờ cũng là người lắm sáng kiến. Vò đầu bứt trán, đào sâu suy nghĩ một hồi, trong đầu cô chợt lóe ra một cái tên. Một cái tên hoàn toàn ngang tầm cỡ giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài. Hoàn toàn đủ tư cách để đàm đạo khoa học với giáo sư viện sĩ. Cái tên đó là Ba Lê Dị Nhân.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 07:31:00 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 6)
Ba Lê Dị Nhân chính là ông chú của chồng Lan Chi. Tên cha sinh mẹ đẻ của ông là Phan Cừ. Tên riêng của ông khi nhập làng tây là Philippe. Tên đầy đủ của ông khi xuất hiện trên những tờ báo tiếng Việt của cộng đồng người Việt hải ngoại là giáo sư tiến sĩ Philippe Phan Cừ. Tên do những miệng lưỡi thích châm chọc ở Paris đặt cho ông và được những người quen dùng để gọi vụng sau lưng ông là Ba Lê Dị Nhân.
    Ba Lê Dị Nhân có một lý lịch khoa học kỳ bí không kém gì giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài. Trước năm 1975, ông đã từng học luật ở Sài Gòn. Nhưng học được hai năm thì phải đi quân dịch, thành ra sự học nửa chừng dang dở. Rời  Sài Gòn sau tháng 4 năm 1975, ông đến Paris, lúc đó mới ngoài ba mươi tuổi. Thôi binh nghiệp, không biết làm gì, ông bèn quyết chí trở lại với con đường khoa bảng. Lần này, ông chọn học ngành kinh tế.
    Chí lớn, thế thời thuận lợi, nhưng không rõ vì lý do gì ông cũng chỉ mài đũng quần trên ghế giảng đường đại học ba năm rồi thôi. Hẳn là ông cho rằng đã đến lúc nên mang học vấn của mình ra giúp sức cho đời. Bằng chứng là từ đó ông thôi hẳn đời học trò dài lưng tốn vải, chuyển sang ngạch làm công ăn lương.
    Tiểu sử của Ba Lê Dị Nhân đến chỗ này thì hoàn toàn minh bạch. Bà con, bạn bè nhiều người có thể đứng ra xác nhận cho ông.
    Hành tung của ông mới chỉ trở nên mù mờ bí hiểm trong vòng một chục năm trở lại đây, khi tên tuổi ông bỗng dưng xuất hiện rộn rã trên báo chí tiếng Việt hải ngoại, kèm theo các chức danh "tiến sĩ kinh tế học, giáo sư trường X kiêm giám đốc viện Y". Những người quen ông lúc bấy giờ mới ngã ngửa ra, không hiểu ông âm thầm đi học lấy bằng tiến sĩ lúc nào mà khiêm tốn không cho bà con biết. Nhiều người thường gặp ông ở trường X, nơi ông lui tới làm việc hàng ngày, thì bảo rằng chức danh của ông tại đó là nhân viên thư viện, chứ chẳng phải giáo sư gì hết. Thực hư chưa biết thế nào, nhưng ít ra trường X còn tồn tại thật bằng gạch, bằng bê tông ở giữa Paris, chứ còn viện Y nơi ông làm giám đốc thì chỉ có độc mỗi một cái tên và một địa chỉ e-mail trên Internet.
    Ba Lê Dị Nhân là một nhà khoa học uyên bác trong nhiều lĩnh vực. Ông không chỉ thu hẹp hoạt động khoa học của mình trong lĩnh vực kinh tế học, mà còn xông xáo đánh Nam dẹp Bắc trong cả chính trị học và sử học. Tất cả các công trình nghiên cứu khoa học của ông đều được đăng tải trên các tờ báo tiếng Việt đại chúng hải ngoại, báo giấy hoặc báo Internet. Theo như ông cho biết, thì bản gốc của những công trình này được công bố dưới dạng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, trên những tạp chí khoa học quốc tế danh tiếng. Nhưng do khiêm tốn, hoặc vì thông cảm với trình độ ngoại ngữ có hạn của đồng bào mình, không bao giờ ông chịu nên tên những tạp chí quốc tế đã đăng công trình của ông ra.
    Một trong những điều khiến Ba Lê Dị Nhân nổi bật lên trong giới khoa học là vốn cổ học vô cùng thâm thúy của ông. Các công trình khoa học của ông, do vậy, là một sự kết hợp tài tình đông tây kim cổ. Tên gọi thì là "điều trần khoa học" hoặc "tham luận khoa học", từ ngữ sử dụng thì  "khảo sát", "chứng minh", "luận cứ", luận điểm"... đâu ra đấy, nhưng nội dung khoa học (bản tiếng Việt, còn tiếng ngoại quốc không biết ra sao) lại thường được trình bày bằng thể văn biền ngẫu, thỉnh thoảng lại xen một hai khổ thơ tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ý tứ hết sức sâu xa. Làm khoa học với cả bầu nhiệt huyết, nên ông không thể che giấu được cảm xúc của mình : nhiều khi chứng minh xong một "luận điểm khoa học", ông lại tuôn ra một câu cảm thán "ô hô, ai tai"... Có lẽ, chính do đem cái phong cách quân tử Tàu này ra làm khoa học, nên ông mới được nhận cái tên gọi là Ba Lê Dị Nhân.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 07:31:46 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 6)
Xem đi xét lại, Thanh Hoa thấy rằng không thể tìm ra được một đối tượng nào phù hợp hơn là Ba Lê Dị Nhân cho cuộc gặp gỡ khoa học với giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài. Ngành nghề phù hợp, chức danh tương đương, tên tuổi đều vang dội như nhau trên báo chí : một người là niềm hy vọng của khoa học nước nhà, người kia lại là biểu tượng "vẻ vang dân Việt" của cộng đồng người Việt hải ngoại. Thanh Hoa bèn đề xuất ý kiến này với Tài. Mới đầu, Tài không được phấn khởi lắm, vì anh muốn gặp một nhà kinh tế học Pháp xịn kia. Nhưng Thanh Hoa đã thuyết phục được Tài bằng cách đưa ra đầy đủ học hàm, học vị, chức vụ của đối tác, kèm thêm cả cái tên tây Philippe của ông.
    Nhiệm vụ môi giới được giao cho vợ chồng Lan Chi, mà Trung là người trực tiếp thực hiện.
    Đúng như Lan Chi dự kiến, thoạt đầu ông chú của chồng cô tỏ ra không mặn mà với cuộc trao đổi khoa học này. Ông bảo là ngôn ngữ bất đồng, e rằng không nói chuyện với nhau được.
    Phải công nhận rằng nỗi lo ngại của Ba Lê Dị Nhân là hoàn toàn có cơ sở. Ai cũng biết rằng tiếng Việt Hà Nội với tiếng Việt Sài Gòn vốn đã có nhiều chỗ khác nhau, đằng này lại là tiếng Việt Hà Nội nguyên chất từ trong nước, và tiếng Việt Sài Gòn đã phôi pha nhiều năm ở Paris, thì sự khác nhau có thể còn hơn cả tiếng Việt và tiếng Pháp.
    Nhưng Trung không phải là người dễ đầu hàng. Một trong những ưu điểm lớn của anh là rất kính nể vợ, nên nhiệm vụ vợ giao anh quyết thực hiện cho bằng được, chứ không có chuyện nửa chừng thoái lui. Anh ra sức thuyết phục ông chú bằng nhiều lý lẽ, đặc biệt là cứ nhằm vào tình yêu khoa học của ông mà kích động.
    Có cái may là người Việt mình, tuy có thể không nhìn mặt nhau vì đối lập chính kiến, cãi nhau chí chóe vì dị biệt địa phương, nhưng vẫn mang trong người rất nhiều điểm chung chứng tỏ ngày xưa chui ra từ cùng một bọc. Một trong những điểm chung ấy chính là tình yêu thiêng liêng đến mức sùng kính đối với khoa học (cụ thể trong trường hợp này là đối với các danh vị khoa học, đặc biệt là danh vị ngoại). Bị Trung lôi cái tình yêu ấy ra để kích động, bằng cách trưng bày toàn danh vị có nguồn gốc châu Âu, kêu vang như tiếng kèn đồng, của giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài, cuối cùng Ba Lê Dị Nhân đã phải xiêu lòng, nhượng bộ. Ông đồng ý tiến hành cuộc trao đổi khoa học này.
    Cuộc gặp gỡ như vậy về nguyên tắc đã có thể tiến hành, nhưng cụ thể thế nào thì còn phải để Ba Lê Dị Nhân xem lại lịch làm việc cái đã. Vì rằng lịch làm việc của ông bao giờ cũng xếp đặt trước cả tháng rất khít khao. Những người thường gặp ông luẩn quẩn ở nhà hàng của vợ ông mà tưởng rằng ông rỗi rãi là hết sức nhầm. Phải đọc báo tiếng Việt hải ngoại thì mới biết là hoạt động khoa học của ông cực kỳ bận rộn : lúc thì đi điều trần ở viện khoa học uy tín nọ, khi lại đi thỉnh giảng ở trường đại học danh tiếng kia...
    Cái sự xem lại lịch của ông chú làm Lan Chi hơi lo, vì thời gian còn lại trước chuyến bay của Tài không còn nhiều, nhỡ trong thời gian đó ông chú lại phải đi thỉnh giảng ở đâu thì phiền quá. Nhưng đúng là vì số Tài bao giờ cũng đỏ, cho nên cuối cùng Ba Lê Dị Nhân cũng tìm được một ngày còn trống trong lịch làm việc của ông. Ông ấn định cuộc gặp gỡ vào ngày hai mươi hai tháng đó, vào lúc bốn giờ chiều.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 07:32:34 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 6)
Cuộc gặp gỡ của đại diện giới kinh tế học hai nước Việt -Pháp mới đầu dự định tổ chức trong phòng giám đốc của viện Y, nhưng đến phút cuối cùng, Ba Lê Dị Nhân cho biết phòng làm việc của ông tạm thời không sử dụng được, vì có một vài công việc thay đổi về trang trí nội thất đang tiến hành dở dang. Ông đề nghị chuyển địa điểm gặp gỡ sang nhà hàng của vợ ông cho ấm cúng.
    Vì theo như thỏa thuận thì cuộc gặp gỡ này mới chỉ có tính chất làm quen, giới thiệu, đặt nền móng..., cho nên nó diễn ra khá là ngắn ngủi. Nó được bắt đầu bằng sự kiện then chốt là hai bên trao cho nhau những chứng cớ khoa học của mình, tức là hai tấm danh thiếp, nội dung dài xấp xỉ nhau, về độ lấp lánh thì tài liệu Hà Nội xem ra có phần trội hơn tài liệu Paris một chút. Sau khi bên này đã khảo sát kỹ càng tài liệu của bên kia, sự tin cậy có vẻ đã được thiết lập. Hai bên bèn chuyển sang bàn đến những vấn đề cụ thể hơn của việc hợp tác khoa học Pháp - Việt trong tương lai.
    Kết quả của sự hợp tác khoa học này như thế nào thì phải đợi tương lai lâu dài mới biết rõ được, vì làm khoa học là một quá trình gian khổ, không phải ngày một ngày hai là xong. Tuy vậy, trong tương lai không xa lắm, tức là chỉ khoảng một tháng sau, cuộc gặp gỡ này cũng đã đem lại cho đời được hai kết quả cụ thể là hai bài báo. Bài thứ nhất đăng trên một tờ báo đứng đắn ở trong nước, thuật lại những hoạt động khoa học của giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài ở Paris, mà đáng chú ý nhất là việc xây dựng một đề án hợp tác khoa học với giới kinh tế học Pháp, đại diện là giáo sư tiến sĩ giám đốc Philippe Phan Cừ. Bài thứ hai đăng trên một tờ báo tiếng Việt hải ngoại, cũng đứng đắn không kém, trong đó tác giả (chính là Ba Lê Dị Nhân) cho biết rằng vừa rồi, trên cương vị giám đốc của mình, ông đã giúp cho ngành kinh tế học Việt Nam (thông qua một giáo sư viện sĩ) một số phương hướng nghiên cứu mới, ngõ hầu đưa kinh tế học Việt Nam ra khỏi tình trạng tụt hậu so với thế giới.
    Trước mắt thì cuộc gặp gỡ này có một kết quả rõ ràng là giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài khá thỏa mãn, Thanh Hoa cũng nhẹ cả người, và ở Hà Nội không có ai phải áy náy cả. Công việc đến đây hẳn đã là xong.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 07:33:41 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 6)
Buổi sáng ngày hai mươi ba tháng ba, Lan Chi đang ngồi ở hiệu sách thì một hồi chuông điện thoại vang lên. Cô nhấc ống nghe. Một giọng đàn ông nói bằng tiếng Việt xin được gặp cô.
    - Vâng, tôi đây, - Lan Chi trả lời.
     - Hê hê hê hê...- lập tức, một tràng cười vang dội lên ở đầu máy bên kia. - Lan Chi đấy hả, Sỹ Tài đây, có nhận ra anh không em ?
    Bao nhiêu năm rồi mà nghe cái tiếng cười khả ố ấy Lan Chi vẫn thấy gai cả người. "Lại vẫn xoen xoét anh em như là thân thiết lắm", cô nghĩ thầm rồi nói  :
    - Vâng, chào anh Tài, nghe Thanh Hoa bảo anh đang ở Paris phải không ?
    Tài gọi điện để cảm ơn về việc vợ chồng Lan Chi đã giúp anh. Mồm miệng vẫn dẻo như xưa, anh kể tràng giang đại hải về những ấn tượng của anh khi đến Paris, rồi về cuộc sống và công việc của anh ở Hà Nội ("Sống trong nước bây giờ sướng lắm rồi, Lan Chi ạ. Gì cũng có, mà rẻ hơn ở Pháp nhiều !"). Tiếp đó, Tài nhắc đến những bạn bè thuở Matxcơva hiện sống ở Hà Nội, ai cũng ăn nên làm ra. Vẻ hết sức tình cờ, Tài kể chuyện trước hôm đi sang đây anh có gặp Kiên.
    - Kiên bây giờ làm ăn rất phát đạt, xây nhà ba tầng, có một con trai rồi, vợ trẻ và xinh lắm, chắc Lan Chi cũng biết ?
    - Vâng, cũng có nghe nói thế, - Lan Chi trả lời, cố giữ giọng thật bình thản.
    - Anh có bảo Kiên nếu muốn gửi thư hay quà gì cho Lan Chi thì anh cầm sang cho, nhưng không thấy nó đến gửi gì cả. À, mà đến giữa tháng bảy này thì Kiên đi công tác sang Berlin hai tuần đấy. - Tài nói, rồi sau một lúc im lặng tế nhị đủ để cho cái tin ấy có thời giờ tác động đến Lan Chi, anh nói tiếp, vẫn với một vẻ hết sức tình cờ :
    - Thấy Thanh Hoa bảo cậu em của Lan Chi ở Đức đang mời Lan Chi sang đó chơi. Hè này Lan Chi có định sang Đức chơi với cậu em không  đấy ?
    "Sang hay không thì việc gì đến ông mà hỏi", Lan Chi bực bội nghĩ rồi xẵng giọng trả lời :
    - Chưa định gì hết cả. Để xem tình hình thế nào cái đã.

(hết chương 6,còn tiếp)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:34:57 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Chương 7)
                                                                                7
     “Anh chưa định gì hết cả. Để xem tình hình thế nào cái đã.”
     K. đã trả lời tôi như vậy trong cuộc nói chuyện điện thoại lần thứ hai của chúng tôi sau ngày tôi về Hà Nội, khi tôi nhắc lại câu hỏi muôn thuở của mình : “Anh định bao giờ thì về nước ?”
     Lần nói chuyện đầu tiên, lúc tôi mới về được một tuần, K. vẫn còn bảo anh sẽ cố về sau một, hai tháng nữa. Một tháng trôi qua, bây giờ, đến cả một cái thời hạn anh cũng không thể xác định nổi. Giọng anh đầy vẻ mệt mỏi và thiếu tin tưởng đến nỗi tôi không dám gặng hỏi gì thêm. Mà có hỏi nữa thì cũng vô ích. K. vẫn tránh nói về chuyện làm ăn của mình như thường lệ. Chỉ nói đi nói lại là anh rất nhớ tôi. Rồi anh hỏi tôi đã quen được với cuộc sống ở trong nước chưa, đã nghĩ đến chuyện thử đi xin việc làm chưa ?
      Rời máy điện thoại, tôi ngồi lặng hồi lâu, nước mắt chỉ chực trào ra. Tôi đã hy vọng biết bao nhiêu vào cú điện thoại này. Tôi cứ đinh ninh rằng K. gọi điện để báo cho tôi biết ngày giờ anh về nước. Thế mà giờ đây thậm chí anh không còn dám hứa hẹn bất cứ điều gì. Tình hình ngày càng xấu hơn, hay trước kia nó đã xấu như vậy rồi, mà K. cứ hứa bừa để giữ tôi ở lại ? Một linh cảm đen tối ập đến bóp nghẹt tim tôi. Lần đầu tiên kể từ ngày cầm trên tay tấm vé máy bay về Hà Nội, tôi tự hỏi liệu quyết định về nước của mình lúc đó có vội vàng quá không ?
     Dù thế nào đi nữa thì bây giờ cũng không thể nghĩ đến chuyện trở lại Matxcơva được. Chỉ còn cách duy nhất là ổn định dần cuộc sống ở Hà Nội trong lúc chờ đợi K. về.

     Một tháng sau ngày về nước, tôi bắt đầu tính chuyện đi xin việc. Lúc mới về, nhiều người xui tôi là cứ nghỉ ngơi vài tháng cho bõ tám năm đèn sách nhọc nhằn, chứ làm việc thì còn làm cả đời, đi đâu mà vội. Nhưng chỉ nghỉ được hai ba tuần, đi thăm họ hàng bạn bè một lượt xong, tôi đã bắt đầu cảm thấy buồn chán. Nửa năm ngồi đợi K. ở Matxcơva đã làm tôi ngấy đến tận cổ cuộc sống ăn không ngồi rồi. Thêm nữa, nhìn bạn bè nhiều người về nước trước tôi cả năm mà giờ vẫn cứ lông bông chưa có việc làm, tôi đâm ra sốt ruột, nghĩ mình cần phải nhanh chân, chứ không lại rơi vào cảnh trâu chậm uống nước đục.
     Tôi bắt đầu bằng việc đi tìm hiểu tình hình, lên một danh sách các cơ quan cần đến những ngành nghề gần gũi với chuyên môn của tôi. Sơ bộ ban đầu, có khoảng hơn một chục cơ quan như vậy đóng trên địa bàn Hà Nội hoặc các vùng lân cận. Tôi đánh số theo thứ tự ưu tiên, đứng đầu là những cơ quan mà tôi thích nhất, đến cuối bảng thì là những nơi không thật phù hợp với ngành học của tôi, nhưng nếu không kiếm được chỗ khác thì làm việc ở đó cũng tạm được.
     Tuy đã đi học ở nước ngoài tám năm, tôi vẫn có đủ kiến thức thực tế để hiểu rằng nếu tự dưng lại tò tò vác mặt đến xin việc ở một cơ quan không có quan hệ quen biết gì, thì chắc chắn người ta sẽ nhìn mình như nhìn người từ hành tinh khác rơi xuống. Vì vậy, bước tiếp theo của tôi là mở cuộc điều tra trong tất cả bà con họ hàng xa gần lẫn bạn bè người quen thân sơ, xem có người nào dính dáng dây mơ rễ má gì đến những cơ quan mà tôi đang nhòm ngó không.
     Thật là một công việc mò kim đáy bể. Hai bố con tôi ngồi bàn bạc suốt cả buổi tối mà không tìm ra được một ai có thể giúp tôi xin việc. Cả họ nhà tôi xưa nay chẳng có ai học ngành tâm lý bao giờ. Bố tôi là kỹ sư, làm việc ở một Viện khoa học kỹ thuật. Mẹ tôi khi còn sống cũng là kỹ sư, làm việc ở một nhà máy.Tóm lại là phạm vi quan hệ của bố mẹ tôi hoàn toàn không có liên quan gì đến lĩnh vực ngành nghề của tôi.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:36:08 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
Tình hình khả quan hẳn lên khi bố con tôi đi tham khảo ý kiến họ hàng. Chú tôi cho biết rằng một bà làm việc cùng phòng với chú có ông chồng vốn là viện phó của viện B (cơ quan đứng thứ hai trong danh sách của tôi), nay đã về hưu. Cô tôi thì nhớ ra được rằng mẹ của anh bạn rất thân của cậu em họ tôi (tức là con trai đầu của cô tôi) là giảng viên đại học, dạy chính ở khoa C (đứng thứ ba trong danh sách của tôi). Bà bác ruột (chị ruột của mẹ tôi) lại cung cấp thêm rằng cô em chồng của bác có ông chồng làm việc ở cơ quan E (đứng thứ năm trong danh sách ), ông này vừa mới về hưu cách đây có vài tháng.
     Vậy là trước mắt tôi đã có con đường tiếp cận đến ba cơ quan. Tôi đành từ bỏ mơ ước về Viện A, cơ quan mà tôi xếp số một trong danh sách, vì không tìm được người quen nào ở đó. Bù lại, tôi có thể tự coi mình là người tốt số, nếu xin được vào làm việc ở một trong ba cơ quan B, C và E.
    Sau khi được ông chú, bà cô và bà bác dẫn đi thăm hỏi, trình diện (và quà cáp) ở ba nơi cần thiết, tôi đã có trong tay hai lá thư giới thiệu, lời lẽ rất nhiệt tình, làm vũ khí phòng thân để đến Viện B và cơ quan E. Riêng cô Châu, mẹ của anh bạn cậu em họ tôi thì lại còn nhiệt tình hơn một bậc : cô hẹn ngày đích thân dắt tôi đến trường để yết kiến ông trưởng khoa C.

     Viện B là nơi mà tôi chọn để mở màn chiến dịch đi xin việc của mình.
     Chẳng cần học tâm lý cũng phải biết rằng ấn tượng đầu tiên là hết sức quan trọng. Vì vậy, buổi sáng hôm ấy, tôi mất hơn nửa tiếng đồng hồ để lựa áo chọn quần. Tiêu chuẩn là trang nhã mà không già, tươi trẻ mà không lòe loẹt, diện nhưng không được phô trương quá làm cho người ta ghét, giản dị nhưng không được nhếch nhác để người ta có thể coi thường... Toàn bộ kho quần áo của tôi đem ở Nga về bị bới tung ra nhưng tôi không thể tìm được cái gì khả dĩ đáp ứng được những yêu cầu trên. Cuối cùng tôi đành phải cắn răng khoác vào người mình một bộ, nhủ thầm rằng nếu mình biết cách thì lụa sẽ đẹp vì người.
     Tiếp đó, mục trang điểm mà mọi khi tôi chỉ mất có mười phút là xong, lần này cũng ngốn của tôi mất đứt hơn nửa tiếng. Sau ba lần bôi vẽ mắt xanh mỏ đỏ rồi xóa đi làm lại từ đầu (lúc thì đậm quá, lúc thì nhạt quá), tôi đành phải dừng lại ở lần thứ tư, không phải do đã chọn được gam màu thích hợp, mà vì sợ nếu còn tiếp tục thì chắc là đến chính ngọ mới có thể xuất hành . Hớt hải nhét cái thư quý vào túi rồi dắt xe ra ngoài cửa, chuẩn bị lên xe mới tôi sực nhớ ra rằng mình để quên tập hồ sơ ở nhà, lại phải quay vào lấy. Lúc đi ra vội vã, tí nữa thì tôi đâm sầm phải cô bé hàng xóm đang lễ mễ xách hai tay hai xô nước. Cô hàng xóm cười hỏi thay câu chào : “Chị L.C. đi đâu mà diện thế ?” Tôi cười đáp lại rồi lao vọt đi, vốn tính vô thần nên chẳng nghĩ ngợi gì, nhưng đến tối về ngán ngẩm nhớ lại mới thấy rằng cái câu “ra ngõ gặp gái” của ông bà mình có khi lại đúng. Rõ ràng ngày lành, tháng tốt, thời tiết đẹp, thế mà đi chẳng được việc gì.
     Đến viện B, cầm lăm lăm lá thư của ông cựu viện phó trong tay, tôi vào xin gặp ông viện trưởng.
     - Cô tìm bác viện trưởng có việc gì ? , - một bà quãng ngoài năm chục tuổi, mặt khó đăm đăm, ngồi ở một cái phòng mà tôi đoán là phòng thường trực, hỏi.
     - Dạ, cháu có một cái thư của bác Bình gửi cho bác viện trưởng ạ, - tôi vừa nói vừa đưa cái thư quý cho bà này xem.
     Bà ta lơ đãng liếc qua phong bì rồi lại hỏi :
  - Bình nào nhỉ ? 
  - Dạ, bác Bình trước là viện phó ở đây, -  tôi trả lời.
     - À à..., - người đối thoại của tôi gật gù đáp lại một cách khó hiểu như vậy rồi cúi xuống tờ báo đang đọc dở.
     Tôi đứng đần ra một lúc, hy vọng bà ta sẽ ngẩng lên nói tiếp, nhưng đợi mãi không thấy động tĩnh gì, tôi đành phải đánh bạo hỏi tiếp :
     - Thưa bác, cháu có thể vào gặp bác viện trưởng bây giờ không ạ ?
     - Cô cứ để thư lại đây rồi tôi chuyển cho, - người đối thoại của tôi nói, không buồn ngẩng đầu lên.
     - Nhưng cháu có việc cần phải nói trực tiếp với bác viện trưởng cơ ạ.
     - Bác viện trưởng đang bận họp, chẳng biết sáng nay có xong không. Không xong buổi sáng thì chiều còn họp tiếp. Cô muốn đợi thì ra ngồi trước cái cửa phòng ở cuối hành lang kia mà đợi.                                                                                               
     - Thế cháu có thể gặp bác viện trưởng một hôm khác được không ạ, một hôm nào đó không có họp ? - nghĩ đến chuyện chờ đợi vô vọng, tôi hơi nản, định lấy hẹn trước cho một ngày khác.
     - Tôi không biết, cô tìm bác ấy mà hỏi. Nói chung thì ngày nào bác ấy cũng bận, không họp chỗ này thì họp chỗ kia.
     Không còn cách nào khác, phải đợi thôi. Tôi ra trước cửa căn phòng ở cuối hành lang, nhớ lời dặn “ngồi đợi” nên bèn nhìn quanh quất tìm một cái ghế để ngồi. Hành lang trống trơn, không có bất cứ một vật gì có thể làm chức năng của ghế. Chắc bà kia có ý nói ngồi bệt, ngồi xổm hay ngồi lên thành cửa sổ chăng ? Tôi không dám chọn kiểu nào trong ba kiểu ngồi nói trên, cho nên đành dựa lưng vào tường đứng đợi.
      Một tiếng đồng hồ trôi qua, chân tôi bắt đầu tê cứng. Tôi bèn đi đi lại lại trong hành lang, không dám xa cái cửa phòng kia quá năm mét, mắt vẫn dán chặt vào đó. Thỉnh thoảng lại có người đi qua hành lang, nhìn tôi tò mò, nhưng không hỏi gì, tôi cũng thấy chả có việc gì phải hỏi, cho nên chỉ tập trung toàn bộ sức lực vào việc bám sát mục tiêu.
     Hai tiếng đồng hồ trôi qua, đã gần mười hai giờ trưa, tôi bắt đầu thoái chí thì cánh cửa phòng đột nhiên bật mở. Một tốp chừng bốn năm người đi ra. Tôi lao đến, hỏi ngay ông đi đầu : “Chú làm ơn cho cháu hỏi bác viện trưởng có ở đây không ạ ?” Ông này nhìn tôi tủm tỉm cười, lúc đó tôi mới nhận ra rằng “chú” chỉ quãng ngoài ba mươi, hơn tôi dăm tuổi là căng. “Bác viện trưởng đang ở trong phòng đấy”, “chú” chỉ tay vào phòng nói rất nhã nhặn.
     Qua cánh cửa hé mở, tôi nhìn thấy ông viện trưởng ngồi trầm ngâm trước một chồng tài liệu, có vẻ đang suy nghĩ rất mông lung. Tôi ý tứ gõ nhẹ vào cánh cửa hai tiếng. Đợi một lát, chẳng thấy động tĩnh gì, tôi bèn gõ tiếp hai cái nữa, mạnh hơn lần trước. Ông viện trưởng vẫn ngồi trầm tư, mắt tiếp tục nhìn vào cõi hư vô. Để kéo ông trở lại với thực tế, tôi đánh liều gõ ba tiếng “cộc cộc cộc” thật to. Quả là hiệu nghiệm, viện trưởng giật nảy mình, quay nhìn ra cửa rồi nghiêm khắc hỏi :
  - Có chuyện gì thế ?
     Hốt hoảng trước sự nghiêm khắc của viện trưởng, tôi luống cuống nói líu cả lưỡi :
     - Dạ, thưa bác, cháu... cháu có việc...
     - Việc gì ? - viện trưởng cắt ngang.   
  - Dạ, cháu có việc xin được gặp bác ạ.
     - Cô ở phòng ông Liêm phải không ? Đã xin ý kiến trưởng phòng chưa ?
     - Dạ, không ạ, cháu không ở phòng nào cả, - tôi hoang mang nói.
     - Không ở phòng nào thì đến đây có việc gì ? – ông viện trưởng bắt đầu có vẻ khó chịu.
     - Dạ, cháu có một cái thư của bác Bình gửi bác, nói rõ chuyện này, - vừa nói, tôi vừa đưa bức thư ra.
     - Bình nào ? - ông viện trưởng hỏi, không buồn nhìn vào phong bì.
     - Dạ, bác Bình trước là viện phó ở đây.
     - À à..., - lại một chuỗi “à à” bí hiểm hệt như cái bà ở phòng thường trực, rồi ông viện trưởng cầm phong bì, lấy thư ra đọc.
     Tôi nín thở, hồi hộp theo rõi từng nét mặt, cử chỉ của ông.
     Đọc được một chút, viện trưởng có vẻ sốt ruột, ông gập thư lại rồi ngẩng lên bảo tôi : 
     - Tóm lại là cô muốn về làm việc ở đây phải không ?
     - Dạ, vâng ạ, - tôi đáp.
     - Thôi, thế này nhé, để tôi dẫn cô ra gặp cậu Công, phụ trách về tổ chức cán bộ ở đây, chuyện này phải làm việc trực tiếp với cậu ấy mới được. Cầm cả cái thư này đưa cho cậu ấy xem, - ông viện trưởng vừa nói vừa đứng lên, đưa cái thư lại cho tôi và đi ra cửa, ra hiệu cho tôi đi theo.
     Tôi cầm lấy cái thư bảo bối của mình và lẽo đẽo theo đuôi ông viện trưởng. Đi được một đoạn trong hành lang thì thấy một người đàn ông bước từ một căn phòng ra, khép cửa lại rồi bước đi. Ông ta không nhìn thấy chúng tôi. Ông viện trưởng gọi :
     - Này, Công !
     - Dạ, anh gọi em ạ ? - người đàn ông quay lại, cười rất nhũn nhặn.
    - Có cô này muốn xin về làm việc ở đây. Cậu xem tình hình thế nào thì nói cho cô ấy biết. Có thủ tục gì cần làm thì hướng dẫn người ta, - ông viện trưởng nói, rồi vừa định quay đi thì ông sực nhớ, bèn nói tiếp :
     - Cô ấy có cái thư giới thiệu, cậu đọc kỹ xem trong thư nói gì.
     - Dạ, vâng, em sẽ giải quyết ngay chuyện này, - ông Công nói, vẫn với nụ cười nhũn nhặn trên môi. Rồi ông ta quay sang tôi, bảo :
     - Bây giờ hết giờ làm việc buổi sáng rồi. Cô về nhà nghỉ ngơi rồi đầu giờ buổi chiều quay lại đây, ta nói chuyện.
     Đúng hai giờ chiều, tôi có mặt ở trước cửa phòng ông Công. Cửa đóng im ỉm. Tôi thử gõ nhẹ hai tiếng, rồi lại ba tiếng tiếp theo mạnh hơn. Không có ai trả lời. Tôi bèn kiên tâm đứng đợi.
     Lần đợi này may mắn hơn buổi sáng. Quãng hai giờ rưỡi, khi chân tôi mới bắt đầu mỏi chứ chưa kịp tê cứng, thì ông Công xuất hiện.
     - À, cô đến rồi đấy à, vào đây, - ông Công vừa nói, vừa mở cửa phòng bước vào.
     Tôi vào theo, đang lựa lời để nói thì cán bộ tổ chức đã nhanh nhẹn bảo :
     - Thư giới thiệu của cô đâu, đưa tôi xem nào.
     Tôi vội vã đưa ngay bảo bối. Ông Công vừa cầm phong bì vừa hỏi :
     - Ai viết cho cô thư này ?
     - Dạ, bác Bình, trước là viện phó ở đây ạ, - rút kinh nghiệm hai lần trước, tôi khai tuồn tuột ra ngay để tránh câu hỏi “Bình nào ?”
     - À, à..., - cán bộ tổ chức gật gù.  Rồi ông gập luôn cái thư vừa mới lấy ra chưa kịp xem, nhét lại vào phong bì và lắc đầu bảo :
     - Ông Bình về hưu lâu rồi, thành ra quên hết cả nguyên tắc làm việc. Lẽ ra ông ấy phải giới thiệu cô lên Bộ, Bộ có giới thiệu xuống thì chúng tôi mới nghiên cứu xem có phù hợp với Viện không, có thể nhận được không. Nói thật với cô, hiện giờ chúng tôi cũng không có biên chế đâu. Biên chế là ở trên Bộ dội xuống, mà muốn làm hợp đồng để đợi biên chế thì cũng phải do Bộ quyết định mới được. Tóm lại là cô phải lên Bộ cái đã. Lấy được cái giấy giới thiệu của Bộ xuống đây, thì chúng tôi sẽ nhận hồ sơ của cô và xem xét.
     Rồi ông Công đưa trả lại tôi lá thư. Tôi chẳng còn biết nói gì nữa, đành chào một câu và lủi thủi đi ra.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:36:57 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
Mấy ngày sau, tôi đi lên Bộ, đương nhiên là phải được trang bị bằng một lá thư giới thiệu, cũng của bác Bình. Chú tôi đã lóc cóc đến nhà bác nói khó thêm lần nữa. Nể đồng nghiệp của vợ lắm, bác Bình mới viết thêm cho một lá thư, dài chỉ bằng nửa thư trước, độ nhiệt tình cũng giảm đi một nửa. Nhưng tôi đã có kinh nghiệm là nội dung dài ngắn ra sao không quan trọng, người ta đâu có thời giờ đọc hết lá thư. Cái chính là có tên người nhận ở ngoài phong bì, để tôi còn có chỗ mà bấu víu.
     Người mà bác Bình có nhã ý gửi gắm tôi trên Bộ là một bà trông tuổi chắc cũng sắp về hưu đến nơi. Tôi phải mất thời gian giải thích khá dài dòng bà mới hiểu bác Bình của tôi là ai. Có điều đáng mừng là sau khi hiểu ra, bà bèn mở thư ra đọc rất chăm chú. Đáng mừng hơn nữa là đọc xong bà còn đăm chiêu suy nghĩ một lúc (chứng tỏ có sự quan tâm !). Rồi bà hỏi tôi :
  - Hồ sơ của cô chuyển lên Bộ lâu chưa ?
  Tôi vội rút ngay tập hồ sơ của mình ra và nói :
     - Cháu chưa nộp hồ sơ. Cháu nộp ngay bây giờ có được không ạ ?
     Bà bạn bác Bình xua tay, có vẻ ngán ngẩm vì sự thiếu hiểu biết của tôi :
     - Không, là tôi nói hồ sơ do Viện chuyển lên ấy chứ, cái quan trọng là phải có ý kiến của Viện.
     - Ở Viện người ta bảo cháu là phải có Bộ giới thiệu xuống thì người ta mới nhận hồ sơ.
     - Ai bảo cô mà linh tinh thế ? Viện có chuyển hồ sơ lên thì Bộ mới căn cứ vào đó mà xem xét được chứ.     
     - Vậy bác có thế cấp cho cháu một cái giấy giới thiệu xuống Viện, để cháu được nộp hồ sơ ở Viện không ạ ?- tôi năn nỉ.
     - Không có nguyên tắc làm việc nào như thế cả, - bạn bác Bình trả lời. – Làm thế rồi người ta lại bảo là trên áp đặt dưới. Cô cứ về nộp hồ sơ ở Viện đi. Khi nào Viện chuyển lên Bộ thì tôi sẽ cố giúp cô ở trên này. Nhưng đầu tiên phải ở cấp Viện cái đã. - Rồi bà đổi giọng rất thân mật : - Bảo bác Bình viết cho cái thư đến Viện. Bác ấy vốn là người của Viện, dễ quá còn gì.
     - Bác Bình đã viết thư cho cháu đến Viện rồi, nhưng người ta bảo phải có Bộ giới thiệu mới được, - nhớ đến ông Công, tôi cố lèo nhèo.
     Nhưng bà bạn bác Bình tỏ ra không muốn tiếp tục câu chuyện nữa. “Bao giờ hồ sơ của cô chuyển từ Viện lên đây thì báo cho tôi biết”, bà nói rồi đứng dậy đích thân đưa tôi ra khỏi phòng.
     Hôm sau, tôi nhẫn nhục vác mặt đến viện B lần nữa để trình bày với ông Công ý kiến của “Bộ”. “ Bộ nào bảo cô mà linh tinh thế, - ông Công nói. – Nguyên tắc làm việc xưa nay vẫn thể, Viện cứ thế mà làm. Bộ muốn thay đổi thì gửi công văn xuống đây. Trong khi chưa có gì thay đổi, thì cứ phải có giấy giới thiệu của Bộ chúng tôi mới nhận hồ sơ của cô được.” Vẻ mặt và giọng điệu của ông Công đanh thép đến nỗi tôi đâm ra nghi ngờ, không hiểu cái Bộ của ông và Bộ của bà bạn bác Bình có phải là một không nữa.
     Biết là có lên Bộ lần nữa cũng chẳng ích gì, tôi bèn ngậm ngùi gạch viện B ra khỏi danh sách của mình. Cũng không buồn lắm, vì tôi vẫn còn hai niềm hy vọng nữa. Ở khoa C và cơ quan E, tình hình có vẻ tươi sáng hơn hẳn.   


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:38:05 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
Ông trưởng khoa C là một người vui tính và gần gũi quần chúng. Khi cô Châu dẫn tôi đến yết kiến ông, đang đi lên cầu thang thì tôi nghe thấy một tiếng cười sảng khoái từ tầng trên vọng xuống. “Ông ấy đã ở trên khoa rồi đấy”, cô Châu vui vẻ bảo. Đi gần đến cánh cửa phòng  có biển đề “Ban Chủ nhiệm khoa C” thì lại được nghe thêm một tràng cười nữa, rộn rã hơn, hào hùng hơn, không đơn lẻ như lần trước mà được nhiều chất giọng khác nhau cùng hòa nhịp. Trong phòng chủ nhiệm khoa như vậy là đang có nhiều người. Tôi ngần ngại bước chậm lại. Cô Châu bảo : “Vào đi, đừng sợ”. Rồi chẳng gõ cửa gì hết, cô đẩy cửa bước vào luôn. Tôi líu ríu đi theo cô. Trong phòng có bốn người (vậy mà lúc nghe tiếng cười tôi lại cứ tưởng phải có ít ra là chục giọng), một bà và ba ông. Tôi và cô Châu vào, mọi người quay ra nhìn, vẻ mặt  ai cũng như đang cười dở chuyện gì hay lắm. “Xin lỗi, các vị họp ban chủ nhiệm khoa đấy à ?”, cô Châu hỏi. “Xong từ nãy rồi, ngồi nói chuyện thôi”, ông to béo đeo kính vừa cười vừa trả lời. Cô Châu quay lại chỉ tôi (đang đứng rúm ró trong một góc ), bảo : “Đây là L.C. mà hôm trước tôi đã nói qua với anh rồi đấy”. “À, L.C. đấy hả ?”, ông to béo (chính là trưởng khoa) thân mật nói rồi vồn vã đứng lên bắt tay tôi và mời tôi ngồi xuống. Ba người kia ý tứ cáo lui. Cô Châu bảo : “L.C. ngồi nói chuyện với chú Thành nhé, cô có việc đi chỗ này một chút.” Tôi vừa đáp “vâng ạ” thì trưởng khoa đã cười ròn rã và bảo : “Gọi “anh” thôi. Sắp thành đồng nghiệp ở đây rồi, gọi là  “chú” nó bất bình đẳng, khó làm việc ra.” Câu đầu của trưởng khoa làm tôi hơi hoảng (vì tôi chưa từng gọi ai quãng ngoài năm chục như ông là anh), nhưng câu sau của ông làm cho tôi sướng râm ran, vì vậy tôi quyết định liều mình gọi ông là “anh” cho đúng lệ làng. 
     Trưởng khoa và tôi ngồi trò chuyện đến hơn một tiếng đồng hồ. Đúng hơn, người nói chủ yếu là trưởng khoa. Tôi  chỉ nghe, trả lời, và đưa đẩy vài câu phụ họa. Hóa ra trước đây ông đã từng làm nghiên cứu sinh ở Matxcơva, ở chính trường mà tôi học. Thành thử, bao nhiêu kỷ niệm tuổi trẻ được dịp tuôn ra. Bao nhiêu người quen chung, từ các giáo sư đến bà giữ thư viện, được dịp nhắc đến. Ôn chuyện cũ chán chê rồi thì trưởng khoa cũng sực nhớ đến mục đích cuộc yết kiến này, ông bèn hỏi tôi về đề tài luận án tốt nghiệp và hướng nghiên cứu của tôi, tóm lại là về các vấn đề chuyên môn. Rồi ông hỏi tôi có mang theo hồ sơ và luận án của tôi không ? Tôi sướng rơn, đưa ngay cho trưởng khoa đủ mọi thứ mà ông yêu cầu. Trưởng khoa bảo sẽ nghiên cứu kỹ những thứ này và hẹn tôi mười ngày nữa thì quay lại để biết trả lời của khoa.
     Câu trả lời của trưởng khoa C sau đó mười hôm làm cho tôi mất ngủ ít nhất là một đêm vì sung sướng. Ngành chuyên môn và trình độ của tôi hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của khoa C, khoa sẽ ủng hộ tôi nếu có biên chế, anh trưởng khoa tuyên bố rõ ràng như vậy (đến lần gặp thứ hai này, tôi đã gọi được trưởng khoa bằng “anh” một cách rất trơn tru). Thêm nữa, anh trưởng khoa còn cho biết rằng theo một nguồn tin khá chắc chắn thì Bộ sắp cho trường một vài chỉ tiêu biên chế năm nay, trong đó khoa C nhất định sẽ được một suất. Bây giờ, tôi chỉ còn việc mang hồ sơ lên nộp ở phòng tổ chức của trường, đợi xét duyệt, khi trường hỏi ý kiến thì khoa sẽ trả lời ủng hộ ngay lập tức. Vốn đã có kinh nghiệm về cán bộ tổ chức, tôi bèn xin ngay anh trưởng khoa một cái giấy giới thiệu để lên phòng tổ chức của trường. “Cần gì giấy giới thiệu, - trưởng khoa gạt đi. - Em cứ bảo là anh Thành đồng ý nhận rồi, anh Thành nói em lên nộp hồ sơ ở đây, thế là được.” “Thì anh cứ cho em một cái giấy giới thiệu để đề phòng gặp người khó tính, có mất gì đâu”, tôi nói bằng một giọng thân mật không kém gì trưởng khoa. “Cô này kỹ tính nhỉ, - trưởng khoa cười hề hề bảo. – Thôi được, ngồi đây đợi tí rồi anh viết giấy giới thiệu cho.” Nói rồi, trưởng khoa lục tung các ngăn kéo, lôi ra một quyển vở, xé một mảnh giấy và ngồi hý hoáy viết. Xong, anh đưa cho tôi và hỏi : “Thế này được chưa ?”
     Nhìn mảnh giấy xé nham nhở với vài dòng chữ viết tay loằng ngoằng, tôi hơi ngạc nhiên. “Khoa mình không có mẫu giấy giới thiệu in sẵn, không có dấu má gì hả anh ?”, tôi hỏi. “Cô này tây du lâu nên quan liêu quá, - trưởng khoa cười rộ lên. - Lại còn đòi khoa phải có mẫu giấy in sẵn với lại dấu má nữa cơ chứ ! Này, em về năm nay là khoa mình đã hiện đại hóa lên nhiều rồi đấy, chứ năm ngoái thì đến cái điện thoại cũng chẳng có đâu, khoa mới đặt điện thoại được hơn nửa năm nay thôi em ạ.”
     Kể ra một cái khoa lớn của một trường đại học lớn nằm ở ngay thủ đô mà lại giản dị thế thì cũng lạ. Nhưng tôi chẳng lấy đó làm điều. Thậm chí tôi còn mong rằng phòng tổ chức của trường cũng xuề xòa, giản dị, dễ gần như thế để mọi việc của tôi trót lọt.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:39:01 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
Trái lại với mong đợi của tôi, ở phòng tổ chức của trường không có ai cười cả. Khi tôi bước vào, có ba người ngồi ở trong phòng. Ngồi trong cùng là một ông già mặt mũi nghiêm trang, tiếp đó là một bàn để trống, hai bàn gần cửa ra vào thì có một cô còn khá trẻ và một bà cỡ trung niên. Mặt cô trẻ có vẻ bất cần, mặt bà trung niên thì đầy mệt mỏi. Tôi hắng giọng đánh tiếng, bà trung niên ngẩng đầu lên hỏi tôi đến có việc gì.
     - Em đến nộp hồ sơ để xin làm việc ở đây ạ. Em xin về khoa C, anh Thành trưởng khoa đã nhận rồi, anh ấy bảo em mang hồ sơ lên đây để trường xét duyệt. Giấy giới thiệu của anh Thành đây ạ, - đã dày kinh nghiệm nên tôi nói luôn một lèo rồi đưa tờ giấy của anh trưởng khoa ra (mép giấy đã được tôi cắt lại tối hôm trước nên không còn lem nhem nữa).
     Bà trung niên uể oải cầm lấy tác phẩm của thủ trưởng tương lai của tôi, nhìn qua, rồi đứng dậy lấy một tờ giấy khác đưa cho tôi và bảo :
  - Cô điền tờ giấy này đi
     Đó là một mẫu giấy in sẵn, chỉ có vài mục đơn giản : tên tuổi, ngày tháng năm sinh, địa chỉ thường trú, ngành nghề, nguyện vọng ... Tôi viết ngoáy một cái là xong rồi đưa lại cho bà trung niên. Bà lơ đãng nhét vào một ngăn kéo rồi không nói gì thêm nữa.
     - Còn hồ sơ thì em phải nộp ở đâu hả chị ? - tôi vội hỏi.
     - Hồ sơ đầy đủ thì bây giờ chưa cần, vì hiện trường chưa có chỉ tiêu. Bao giờ Bộ cho chỉ tiêu, trường chuẩn bị họp xét duyệt, thì cô nộp hồ sơ là vừa.
  - Vậy bao giờ thì Bộ cho chỉ tiêu ạ ? - tôi lại hỏi.
     - Nghe nói sắp có, nhưng chính xác thì tôi không biết.   Khi nào có thì chúng tôi sẽ thông báo.
     Tôi năn nỉ xin được để hồ sơ lại vì sợ lỡ, nhưng bà trung niên kiên quyết từ chối. “Ở đây không còn chỗ nào để chứa hồ sơ mới cả”, bà bảo. Thế là tập hồ sơ của tôi lại bị cán bộ tổ chức hắt hủi thêm lần nữa. Nhưng tôi vẫn thấy mừng vì không bị bắt lên Bộ xin thêm giấy giới thiệu. Như vậy là có tiến bộ nhiều so với viện B.
     Để nắm sát tin tức về chỉ tiêu của Bộ, cứ một tuần tôi lại lên phòng tổ chức trường một lần. Sau hai lần thì bà trung niên nhẵn mặt tôi, cứ nhìn thấy tôi là bà nói luôn : “Chưa có gì đâu”. Đến lần thứ năm thì bà bảo, vẻ khó chịu hiện rõ trên nét mặt : “Sao ngày nào cô cũng đến thế. Thôi từ nay cô đừng đến nữa, ảnh hưởng đến chúng tôi làm việc. Địa chỉ của cô có ở đây rôi, cần gì thì chúng tôi sẽ gửi giấy báo cho cô”. Tôi định thanh minh là không phải ngày nào tôi cũng đến, nhưng vẻ mặt nghiêm khắc của bà làm tôi sợ rụt cả lưỡi lại, chả dám nói gì.
     Ngồi nhà đợi hai tuần không thấy giấy báo đâu, tôi sốt ruột liều mạng ôm tập hồ sơ rủi ro lên phòng Tổ Chức trường lần nữa. Vừa thò mặt vào cửa thì bà trung niên nhìn ra, quắc mắt lên. Tôi hoảng quá, lí nhí nói một câu xin lỗi, làm như vào nhầm phòng, rồi chuồn thẳng.
     Cái quắc mắt ấy yểm tôi ngồi nhà được thêm một tháng nữa thì nỗi sợ nhường chỗ cho nỗi lo. Mãi chả thấy giấy báo gì cả, tôi quyết định lại lên phòng tổ chức hỏi tình hình.
     May quá, khi tôi đến thì bà trung niên không ngồi ở đó. Tôi bèn tiến lại gần cô gái trẻ có vẻ mặt bất cần để hỏi. Phải giải thích rất dài dòng cô ấy mới hiểu tôi nói chuyện gì. “Bộ cho chỉ tiêu lâu rồi, trường họp xét cả tháng nay rồi, còn nộp hồ sơ gì nữa”, cô gái thản nhiên bảo. “Ơ ..., chị xem lại hộ xem có nhầm không. Mới hôm nọ bà gì ngồi đây còn bảo tôi là chưa có gì hết cả”, tôi ú ớ nói. Cô gái nhìn tôi thương hại rồi bới ra một đống giấy tờ, đọc vanh vách công văn của Bộ, rồi quyết định của trường về việc tuyển người, đọc cả tên người được nhận về khoa C năm nay (không phải tôi). Theo như ngày tháng cô gái đọc, thì mọi việc mới được giải quyết khoảng ba tuần nay. Tôi bực quá hóa liều, nói một cách cáu kỉnh :”Sao tôi không nhận được giấy báo gì cả ?” “Cái gì ?”, cô gái kinh ngạc hỏi. “Bà gì ngồi đây hôm nọ bảo rằng khi nào Bộ cho chỉ tiêu thì sẽ gửi giấy báo để tôi đến nộp hồ sơ. Tôi đợi mãi không thấy giấy báo đâu”, tôi nói. “Ối giời ơi ! – cô gái cười rú lên. – Chị đi xin việc mà lại ngồi nhà đợi giấy báo à ? Thế thì có đến mùng thất mới xin được việc. Chị tưởng chị là con ai ? Con Tổng bí thư chắc ? Hi hi hi...”, cô gái ôm bụng cười ngặt nghẽo mãi không dừng lại được. Ông già trang nghiêm ngồi ở góc phòng cũng ngẩng đầu lên cười khùng khục rung cả kính. Bất giác, tôi cũng cười theo một cách ngớ ngẩn. Vui thật, thế mà lúc trước tôi lại cứ tưởng các cán bộ phòng này không biết cười.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:39:52 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
Thế là cuối cùng, tôi chỉ còn có mỗi cơ quan E để mà hy vọng. Một niềm hy vọng rất đáng để bám chặt lấy, vì ngay từ đầu, cơ quan này đã hơn hẳn hai nơi kia ở chỗ họ sẵn sàng nhận hồ sơ của tôi. Nhận luôn, ngay tại chỗ, không đòi giấy giới thiệu nào, cũng không bắt đợi chỉ tiêu của Bộ. Người trực tiếp nhận hồ sơ của tôi là một ông già có vẻ mặt khá hiền lành, đôi mắt hơi dài dại sau cặp kính dày cộp. Không ai giới thiệu nên tôi không biết ông giữ chức vụ gì, nhưng chắc không phải là nhân viên quèn, vì ngồi bàn cạnh ông là một bà  (cũng già nhưng ít nhăn nheo hơn ông một chút), thường  xuyên bị ông sai vặt. Ông nhận hồ sơ từ tay tôi, xem qua một tí rồi đưa cho bà kia bảo cất đi. Có lúc cần tìm giấy tờ gì ông cũng sai bà kia đi lấy.
     Thực ra, trước khi tiếp cận được ông này tôi cũng đã phải đi một vòng qua ba bốn cửa. Đầu tiên, cầm thư giới thiệu của ông em rể bà bác ruột, tôi đến gặp cái ông có tên ghi trên phong bì. Ông này đọc thư xong bèn sốt sắng dẫn tôi đến trình diện một ông khác. Ông khác hỏi tôi khá kỹ về quá trình học tâp, bằng cấp, chuyên môn rồi bảo là có thể nhận tôi về được nhưng phải tham khảo ý kiến cấp trên. Cấp trên không đọc hồ sơ của tôi, cũng không hỏi han gì, chỉ đọc ý kiến của cấp dưới ghi ngoài hồ sơ của tôi, rồi bảo tôi đến nộp hồ sơ ở phòng tổ chức đợi xét duyệt. Nghe nói đến phòng tổ chức tôi đã hãi hùng, không ngờ gặp được một ông già mặt mũi thật là phúc hậu, đã thế lại còn nhận ngay hồ sơ của tôi, không đòi hỏi hạch sách thêm gì nữa. Ông bảo hồ sơ của tôi như vậy là đầy đủ rồi, ít nữa lãnh đạo cơ quan sẽ họp xét duyệt, có kết quả sẽ thông báo công khai. Tôi chỉ còn mỗi việc chờ đợi.
     Lãnh đạo cơ quan E chắc cũng nhiều việc bận, nên tôi đợi đến mấy tháng mà cuộc họp vẫn chưa diễn ra. Được cái may là cán bộ tổ chức ở đây rất hiền, tuần nào tôi cũng vác mặt đến hỏi tình hình, nhưng luôn luôn được ông tiếp đón rất nhã nhặn. Phải cái trí nhớ ông không được tốt như cái bà trung niên ở trường đại học nọ, cho nên sau bốn năm lần mà ông vẫn nhìn tôi như mới gặp lần đầu, và tôi luôn luôn phải trình bày lại hết sức dài dòng điều mình muốn hỏi.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:40:48 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
     Sau trận cười vĩnh biệt khoa C tại phòng tổ chức trường ấy độ một tháng, một buổi sáng tôi đến cơ quan E thì được ông già ở đó cho biết rằng lãnh đạo cơ quan đã họp để xét chuyện tuyển người. Ông giải thích khá kỹ về việc cơ quan hiện chưa có biên chế, cho nên chỉ tuyển để làm hợp đồng, nhưng đến khi nào có biên chế thì những người đã được nhận làm hợp đồng sẽ được chuyển sang diện biên chế, tất nhiên là phải xét duyệt thêm lần nữa, nhưng... Tim tôi đập thình thịch, tôi sốt ruột cắt ngang lời ông, hỏi xem kết quả thông báo công khai ở đâu. “Tên cô là gì ?”, ông già hỏi. “Dạ, cháu là Hoàng L.C. ạ”, tôi trả lời. Ông già liền ra lệnh cho bà ngồi cạnh tìm xem Hoàng L.C. có trong danh sách được tuyển không. Bà nọ lục tìm một lúc rồi rút ra một hồ sơ, nhìn tôi mỉm cười rất trìu mến và bảo : “Hoàng L.C. phải không ? Cháu được nhận rồi đấy.” Tim tôi như nhảy vọt ra ngoài lồng ngực. Bà nọ vừa đưa hồ sơ cho cấp trên của mình, vừa thì thầm nói với ông điều gì đó. Ông già cầm lấy hồ sơ, giở ra đọc, rồi hỏi tôi một cách thận trọng :
     - Cô là Hoàng L.C. phải không ?
     - Dạ, vâng ạ.
     - Sinh ngày... tháng...năm... có đúng không ?
     - Đúng ạ.
     - Cô học ở trường M. tại Liên Xô về có đúng không ?
     - Vâng ạ.
     - Chuyên ngành của cô là tâm lý xã hội có phải không ?
     - Vâng ạ, - tôi vừa đáp vừa liếc mắt vào tập hồ sơ trên tay ông già, nhận ra ngay đó chính là hồ sơ của mình, có cái ảnh của tôi dán ở trang đầu đập vào mắt. Tôi bèn bảo :
     - Đây đúng là hồ sơ của cháu đấy bác ạ, bác xem cái ảnh đây này.
     Ông già nhìn ảnh, rồi lại ngẩng lên nhìn tôi, rồi một nụ cười rất tươi nở trên gương mặt ông. Ông gập hồ sơ lại, gật gù bảo :   
     - Hồ sơ của cháu tốt lắm. Điểm học tất cả các năm đều tốt. Ngành nghề chuyên môn, đề tài luận án thế là phù hợp với cơ quan này. Cháu về làm hợp đồng tạm một thời gian, rồi thế nào cũng được vào biên chế sớm.
     Tôi không dám tin ngay vào tai mình, phải hỏi lại thêm lần nữa : “Cháu được nhận vào làm hợp đồng rồi thật hả bác ?” “Thật chứ còn gì nữa”, ông già vui vẻ đáp. Bà ngồi bên cạnh cũng âu yếm nói thêm một câu : “Con bé này lớn lên trông xinh quá nhỉ. Ăn bơ sữa tây nhiều có khác, trắng nõn trắng nà. Hồi bé thì đen nhẻm, không nói thì bây giờ đố ai nhận ra được.” Tôi giật thót cả người. Quái lạ, sao bà này lại biết tôi hồi bé ? Mà tôi có đen nhẻm bao giờ đâu ? Tôi giống mẹ, từ khi sinh ra đã có nước da rất trắng.
     Nghĩ vậy, nhưng tôi thấy tốt nhất là lờ chuyện này đi. Cái quan trọng là mình đã được nhận, hồ sơ đúng là của mình. Tôi liền hỏi ông già về những thủ tục giấy tờ phải làm. “Cháu sang gặp chị Nhung ở phòng bên cạnh, chị ấy sẽ hướng dẫn. Hôm nay thì chị ấy nghỉ con ốm, vài ngày nữa cháu quay lại là vừa”, ông già ân cần dặn dò. Tôi vừa định chào và đi ra thì bà ngồi bên cạnh chợt hỏi : “Mẹ cháu dạo này vẫn khỏe chứ ?” Tôi lạnh cả người, lúng búng hỏi : “Dạ, bác bảo gì ạ ?” “Mẹ cháu vẫn khỏe chứ ?”, bà nọ hờ hững nhắc lại. “Mẹ cháu mất rồi”, tôi nói ngắc ngứ trong họng vì không đủ khả năng để nói dối. “Sao ?”, cả ông già lẫn bà phụ tá đều kêu lên ngạc nhiên cùng một lúc. “Sao không nghe ai nói gì hết cả. Mà mới vài tháng trước tôi còn gặp bà ấy ở đám cưới con ông Bảo kia mà”, bà nọ nói một cách sửng sốt. “Chắc bác nhầm cháu với ai. Mẹ cháu mất lâu rồi. Từ năm bảy hai cơ ạ”, tôi nhìn xuống đất, lí nhí thú nhận. Im lặng một lúc. Rồi ông già hỏi : “Thế cô không phải là con ông Hùng à ?” “Bố cháu tên là Hưng, không phải Hùng ạ”, tôi dũng cảm trả lời. Lại một lát im lặng nữa, lần này dài hơn lần trước. Ông già mở hồ sơ của tôi ra, xem lại một chỗ nào đó, lắc đầu, rồi lôi ra một tờ giấy, giơ lên trước mắt tôi và hỏi : “Cái thư này có phải của cô  không ?” “Không ạ”, tôi nói một cách đau đớn. Ông già thở dài, đặt cái thư sang một phía, rồi đưa tập hồ sơ cho tôi và bảo : “Cô cầm hồ sơ về đi. Có sự nhầm lẫn. Chúng tôi chỉ có ít chỗ nên không nhận cô được.” “Nhưng bác vừa bảo là hồ sơ của cháu tốt, ngành chuyên môn của cháu phù hợp cơ mà”, tôi hốt hoảng nói, cố kìm để khỏi khóc. “Cô không phải là con ông Hùng thì không được”, ông già trả lời, vẻ vừa bực bội vừa ái ngại.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:41:30 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
Sáu tháng sau ngày về nước, tôi lại trở về điểm xuất phát ban đầu. Việc làm vẫn chưa tìm được, hy vọng hầu như không còn, tinh thần hoàn toàn suy sụp. Bố tôi và cô tôi xúm lại động viên, an ủi, đưa ra rất nhiều lý lẽ. Nào là mới về nước sáu tháng thì có vội gì, nhiều người phải đi xin việc đến hai ba năm mới được. Nào là mới bị có ba cơ quan từ chối mà sao đã nản chí, còn bao nhiêu cơ quan khác mình đã thử đâu. Nào là đã có kinh nghiệm rồi, từ nay đi xin việc chắc chắn sẽ thuận lợi hơn...
     Quả là tôi đã thu được nhiều kinh nghiệm. Tôi biết, tôi không xin được về viện B là vì đi nhầm cửa, cho nên mới bị đá đi đá lại như quả bóng giữa Viện và Bộ. Tôi không được nhận vào khoa C vì tôi tưởng nhầm rằng tôi là con Tổng bí thư. Tôi không có chỗ ở cơ quan E vì tôi không phải là con ông Hùng. Có điều, những kinh nghiệm này không làm cho tôi trưởng thành hơn, mà chỉ khiến tôi khiếp sợ. Không biết còn phải thu hoạch thêm những kinh nghiệm nào nữa thì mới xin được việc ?
     Tôi nằm bẹp ở nhà suốt một tháng, chẳng thiết đi đâu. Đã buồn về chuyện xin việc, lại điên cả đầu vì lâu không có tin tức gì của K. Lá thư cuối cùng của anh, tôi nhận được cách đây một tháng. Hai tháng đầu, tuần nào K. cũng viết thư cho tôi. Tôi thì viết cho anh hàng ngày, như viết nhật ký, mỗi tuần gom lại thành một tập dày, gửi một lần. Sau hai tháng, những lá thư của K. thưa thớt hẳn đi. Anh viết rằng dạo này anh phải đi suốt, ít ở Matxcơva lắm, thành ra anh đã trả lại căn phòng ở Matxcơva rồi, mỗi lần về anh đến ở nhờ nhà bạn bè, tiện đâu ở đó vì chỉ có vài ngày rồi lại phải đi. K. bảo tôi gửi thư về địa chỉ hòm thư lưu của anh, mỗi lần về Matxcơva anh sẽ ra bưu điện nhận. Có lẽ lâu lắm rồi K. không về Matxcơva, cho nên đã năm lá thư của tôi gửi đi không hề có hồi âm.
     Thỉnh thoảng tôi mới đi ra phố một lần. Công việc duy nhất là bán đồ mang ở Nga về để lấy tiền ăn. Mỗi lần bán đồ, tôi lại nghĩ có khi phải bỏ ngành chuyên môn đi kiếm việc khác làm, cốt để ra tiền là được. Chứ nếu không xin được việc làm mà bán hết sạch đồ rồi thì làm sao ? Thôi, tạm thời cứ sống được ngày nào hay ngày ấy.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:42:46 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
Một buổi tối, tôi đang nhàn rỗi ngồi nhà, xem một vở kịch tivi nhạt thếch, thì cô tôi đến. Mặt cô rạng rỡ như vừa trúng số độc đắc. Cô cho biết là cô mới có một phát hiện kinh thiên động địa : một bà hàng xóm của cô hóa ra lại làm việc ở phòng tài vụ của trường đại học D, cơ quan mà tôi xếp ở vị trí thứ tư trong cái danh sách dự định đi xin việc của tôi.
     Bà Thơm (tên bà tài vụ) là hàng xóm cùng phố với cô tôi, cách dăm số nhà chứ không phải là gần lắm, thành thử xưa nay cô tôi chỉ biết bà qua loa chứ không thân thiết gì. Hôm vừa rồi đi họp tổ dân phố, tình cờ ngồi cạnh bà, sau vài câu chuyện xã giao thì cô tôi mừng rú vì phát hiện ra cái nơi làm việc quý hóa của bà Thơm. Cô vội vã nói chuyện với bà về cô cháu của mình (tức là tôi), ngỏ ý nhờ bà giúp cho tôi về làm việc ở trường D. Mới đầu bà Thơm cũng còn nói năng dè dặt, thận trọng, nhưng sau khi hỏi kỹ, biết tôi học ở Nga về, thì bà tỏ ra thông cảm hơn, bảo cô tôi dẫn tôi đến nhà bà nói chuyện, nếu thấy giúp được thì bà sẽ cố giúp.
     Ngay tối hôm sau, tôi lon ton theo cô tôi đến nhà bà Thơm. Đã có cô tôi giới thiệu nên tôi không cần mang theo giấy giới thiệu gì cả. Chỉ mang theo một cái nồi hầm (vốn nằm trong thùng hàng biển của tôi) và một lọ nước hoa Pháp (vừa mua vội ngoài phố), gọi là có chút quà mọn đem ở Nga về. Những thứ này là do cô tôi chỉ đạo, chứ tự tôi thì không thể nghĩ ra. Vừa xách quà đi, tôi vừa tủm tỉm cười vì thấy mình sao giống T.” ủng” quá.
     Bà Thơm nhận quà mà cứ trách cô cháu tôi sao lại khách sáo bày vẽ thế. Nhìn bà ở nhà mà cũng son phấn kỹ càng, mùi thơm sực nức, tôi mừng thầm rằng lọ nước hoa Pháp của mình thế là hữu dụng. Cái nồi hầm thì chưa biết có được hữu dụng như vậy hay không, nhưng khi thấy bà Thơm nhanh nhẹn đem nó cất đi ngay thì hai cô cháu tôi đưa mắt nhìn nhau sung sướng.
     Chuyện trò dài dòng cả buổi tối, vì bà Thơm là người rất hay chuyện, lại đặc biệt quan tâm đến tình hình nước Nga, hỏi kỹ càng từng chuyện giá cả lên xuống ra sao, hàng họ thay đổi thế nào ở cái xứ xa xôi ấy. Tôi ngoan ngoãn ngồi hầu chuyện bà, tập trung tư tưởng không kém gì khi trả lời những câu hỏi về ngành nghề, chuyên môn. Đến quãng chín giờ tối thì chúng tôi đi đến được cái kết luận mà hai cô cháu tôi đang căng thẳng mong đợi : bà Thơm hứa sẽ giúp tôi xin về làm việc ở trường D, mới đầu làm hợp đồng, khi nào trường có biên chế thì bà sẽ giúp tiếp cho vào biên chế. Đã mừng hụt vài bận rồi, nên tôi cố ghìm cảm xúc. Nhưng đến khi bà Thơm bảo là tôi không phải lên phòng tổ chức hay gặp ai ở trường cả, chỉ việc đưa hồ sơ của tôi cho bà, bà sẽ lo cho từ A đến Z, thì tôi suýt nữa nhảy lên vì hạnh phúc.
     Chưa đầy một tháng sau đó, bà Thơm trở thành anh hùng kiêm ân nhân trong mắt gia đình tôi, vì tôi đã có trong tay mọi giấy tờ để về làm hợp đồng ở trường D. Cô tôi vừa cười hỉ hả vừa tự trách mình quan liêu, nếu chịu khó đi điều tra sớm, phát hiện ra mối tốt thế này, thì cháu mình đâu đến nỗi mất toi sáu tháng trời lăn lóc khổ nhục ở mấy cái cơ quan giời đánh kia.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:43:34 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
Vậy là nhờ bà Thơm phòng tài vụ, tôi đã trở thành giảng viên đại học của trường D. Mới là giảng viên hợp đồng thôi, nhưng là diện “hợp đồng đợi biên chế”. Đã biết tài năng của bà Thơm, tôi gần như tin chắc rằng nếu có biên chế thì ắt sẽ đến lượt mình, vì mình có lợi thế là được quý nhân phù trợ.
     Tôi đến nhận việc nhưng chưa có việc gì làm ngay. Ông tổ trưởng bộ môn bảo tôi đi dự một số giờ giảng của giáo viên trong khoa, để có khái niệm về phương pháp giảng dạy. Sau đó ông sẽ cho tôi dạy thử một số giờ. Tạm thời, mỗi tuần tôi chỉ phải đến trường dự giờ hai buổi, mỗi buổi ba tiếng, thời gian còn lại tự do muốn làm gì thì làm. Đời giảng viên đại học hóa ra sung sướng thật.
     Một tuần sau khi nhận việc, tôi có dịp làm quen với các đồng nghiệp của mình, nhờ một cuộc họp cán bộ toàn khoa. Nếu mọi người không châm chước cho lính mới thì tôi đã bị coi là hâm nặng, vì ai đời giờ họp khoa thông báo trên bảng là 8h30 rõ rành rành, mà tôi lại nhè đúng 8h30 đã sốt sắng trình diện. Đứng trơ ra một mình mất hơn nửa tiếng, quãng 9h15 mới thấy vài người lững thững xuất hiện, rồi các giáo sư lục tục kéo đến nhiều nhất trong khoảng từ 9h30 đến 9h45, và đúng mười giờ thì cuộc họp bắt đầu, sau khi trưởng khoa đã dăm lần bảy lượt hô hào kêu gọi anh em vào phòng họp với một giọng vừa năn nỉ vừa dọa dẫm.
     Họp bộ môn thì thời điểm xuất hiện của các thành viên có khẩn trương hơn một chút, nhưng lại mất nhiều thời gian vào việc trà lá và những chuyện ngoài đề. Cuộc họp thường diễn ra ở nhà ông tổ trưởng bộ môn, đôi khi ở nhà bà tổ phó, vì ở khoa này cấp bộ môn chưa đủ tư cách để được sở hữu riêng một phòng làm việc. Bộ môn của tôi có một ông tổ trưởng, một bà tổ phó, cộng với hai bà và một ông tổ viên, giờ có thêm tôi thì cả thảy là sáu. Hiện tại, ông tổ viên đang đi thực tập ở nước ngoài (nghe nói sắp về) nên bộ môn chỉ còn lại  có năm. Tổ trưởng của tôi một mình lọt giữa Tây Lương nữ quốc nhưng thoải mái như cá trong nước. Giọng sang sảng đúng cốt cách lãnh đạo, ông nói thao thao hàng tiếng không biết mệt, cả ba bà kia cộng lại cũng không đủ sức lấn át được ông.
     Sau mấy buổi họp bộ môn, tôi đã thu được nhiều thông tin khá quan trọng, nhờ nghe lỏm các câu chuyện ngoài lề. Thực ra tôi cũng không định nghe lỏm, mà chuyện người ta nói cứ tự nhiên lọt vào tai tôi. Buổi đầu tiên, tôi được biết rằng cái bọn đi học nước ngoài về, có bằng này cấp nọ nhưng nhiều khi dốt đặc, chẳng biết gì về thực tế Việt Nam nên chỉ ngồi chơi xơi nước chứ không được việc gì hết. Buổi thứ hai tôi lại biết thêm rằng cái bọn do trên ép xuống bắt dưới phải nhận mới là bọn dốt nhất. Các thông tin này lần nào cũng do đúng hai bà phát ra, một bà nạ dòng sồn sồn, còn bà kia chắc chỉ hơn tôi vài tuổi. Đến buổi thứ ba, tôi quyết định tự mình tìm hiểu thêm thông tin bằng cách bắt chuyện với một chị trông khá hiền mà tôi nhận thấy là thường hay ngồi nghe chứ không tham gia vào câu chuyện của hai bà kia. Nhờ chị Vi, tôi mới rõ rằng ở bộ môn này người có học vị cao nhất là ông tổ trưởng, phó tiến sĩ, bảo vệ luận án ở chính khoa này cách đây vài năm . Chị Vi thì đang làm nghiên cứu sinh trong nước, sắp tới có hy vọng được đi thực tập nước ngoài. Hai bà kia thì khoa cũng đang động viên thi nghiên cứu sinh trong nước, nhưng họ còn chưa sắp xếp được thời gian. Cũng phải, vì thời gian của giảng viên đại học thoạt nhìn cứ tưởng là rộng rãi, nhưng thực chất vô cùng eo hẹo, do ai cũng phải kiếm việc làm thêm chứ làm sao sống nổi với đồng lương.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:44:24 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
Lương tôi diện hợp đồng thì lại càng còm hơn, chỉ đủ tiền ăn sáng. Hàng tháng vẫn phải ăn vào tiền bán đồ mang ở Nga về. Ổn định được chỗ làm rồi, noi gương đồng nghiệp, tôi cũng lăm le kiếm việc làm thêm. Đang lúc chưa biết làm gì thì một lần nữa bà Thơm lại ra tay cứu độ. Nhưng khác với lần trước, lần này chuyện xảy ra hoàn toàn tình cờ.
     Hôm ấy, tôi đang đi trong trường thì chạm trán bà Thơm. Sau khi cung kính chào ân nhân, tôi vừa quay gót đi tiếp thì bỗng bà giật giọng gọi tôi lại hỏi một câu hết sức bất ngờ : “Em có muốn kiếm việc làm thêm không ?” Tôi ngẩn người ra, tự bảo bà này lại còn có cả tài đọc được ý nghĩ người khác thì khiếp quá. Bà Thơm giải thích : “Chị có một quầy bán hoa, lấy mối từ Đà Lạt, bán chạy lắm. Phải cái chị không đứng bán được, vì phải làm việc theo giờ hành chính ngày tám tiếng.Thành thử chị thuê hai con bé cùng phố bán hai ca khác nhau, nhưng hôm qua một con láo quá, dám tắt mắt lấy tiền của chị, chị vừa đuổi nó đi xong. Thấy em xinh xắn, tươi tỉnh, chị nghĩ em làm nghề bán hàng hợp đấy. Với lại trông em thật thà chị cũng yên tâm.” Tôi chưa làm nghề bán hàng bao giờ, nhưng nghe bà Thơm nói thế thì cũng yên tâm theo bà. Với lại, còn đòi hỏi gì nữa, có việc làm thêm để tăng thu nhập là may quá rồi.

     Từ ngày bán hoa thuê cho bà Thơm, tôi có tiền chi tiêu rủng rỉnh hẳn. Thời gian mà tôi đứng ở quầy bán hoa ít ra cũng nhiều gấp đôi thời gian tôi xuất hiện ở trường. Bù lại, thu nhập do việc này mang lại cũng hơn đứt tiền lương của tôi. Tóm lại là đủ sống mà không phải gặm thêm vào số hàng mang ở Nga về còn sót lại.
     Tôi viết thư cho K. kể hết mọi chuyện và lại giục anh trở về Hà Nội. Em tìm được chỗ làm đúng chuyên môn rồi, lại có việc làm thêm nhẹ nhàng đủ tiền để sống. Về đi anh, rồi anh cũng sẽ kiếm được việc như em thôi. Dù không giàu có thì mình cũng sống được, còn hơn là lăn lóc đánh quả ở nước ngoài. Sống xa nhau mãi như thế này em không chịu nổi...
     Nhưng những lá thư của tôi gửi đi không hề có hồi âm. Một tháng, hai tháng, rồi ba tháng, không thư từ, không điện thoại, không hề có bất cứ một tin tức nào của K. Gần như phát điên lên vì lo sợ, tôi tìm đến bố mẹ K. để hỏi tin anh.
     Mẹ K. tiếp tôi với một vẻ rầu rĩ. Bà cũng đang héo ruột héo gan vì cậu con trai quý của mình. Lâu lắm rồi K. không viết thư cho bố mẹ. Mới đây, mẹ K. nghe có người nói rằng anh đã sang hẳn Ba Lan. Bà trách tôi không ở lại Matxcơva để thúc ép anh về nước. Tự dưng đùng đùng bỏ về một mình, rồi có chuyện gì xảy ra thì còn kêu ai được ?
     Có chuyện gì đã xảy ra ? Tôi cảm thấy mẹ K. biết điều gì đó nhưng giấu tôi. Gặng hỏi mãi mà bà không chịu nói, tôi sục đến nhà tất cả những người quen mới ở Matxcơva về nước để tìm hiểu tình hình. Nhặt nhạnh thông tin mỗi nơi một tí, cuối cùng tôi cũng đoán ra được một câu trả lời đại thể về sự im lặng của K.
     Vậy là K. đã sang hẳn Ba Lan. Anh vay nợ nhiều đến mức bị chủ nợ đe dọa và khống chế, chỉ nai lưng ra làm để trả nợ mà cũng không xong. Rồi, trong lúc K. đang tuyệt vọng nhất thì có một người quen đã giúp đỡ anh. Chị cho anh vay tiền để trả nợ một phần. Anh chuyển sang Ba Lan để hợp tác cùng làm ăn với chị. Chị là một người cực kỳ tháo vát, làm ăn giỏi. Công việc của K. gần đây đã khá hẳn lên. Hình như anh đã trả gần xong nợ. Chị bạn anh bỏ chồng, sống một mình. Sau một thời gian ở Ba Lan, K. đến sống cùng với chị. Sống như vợ chồng.
     Tôi đã mất K. Mẹ anh nói đúng, lỗi tại tôi, còn trách ai được nữa. Tôi đã bỏ đi trong lúc anh cần tôi. Còn người phụ nữ ấy, chị đã chìa tay cho K. khi anh bị lún xuống hố sâu. Chị đã làm cho anh cái điều mà tôi không làm nổi. Không làm nổi hồi ấy, và đã quá muộn để làm bây giờ.



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:45:09 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
Bây giờ, bà Thơm không còn được hài lòng như lúc đầu về công việc bán hoa của tôi. Vài lần tạt qua kiểm tra bất ngờ, bà kêu tôi bán hàng mà đầu óc cứ ở trên mây trên gió, đã thế mặt mũi lại còn khó đăm đăm, chẳng thấy cười được cái nào.
     Chắc là vì đã sẵn bực mình nên hôm ấy chỉ mất một ít tiền mà cơn tức giận của bà Thơm bùng lên thật dữ dội. Tại sao lại mất tiền thì mãi đến bây giờ tôi cũng không hiểu được. Có lẽ tại vì hôm ấy tự dưng có quá nhiều người vào mua hoa hồng nhung. Những bông hoa quái ác ấy, nó cứ bắt tôi nhớ đến những kỷ niệm mà tôi muốn quên đi. Có nhiều lúc trao hoa cho khách, tôi phải nhìn đi chỗ khác để giấu đôi mắt mờ lệ của mình. Cả buổi, tôi không sao tập trung tư tưởng nổi vào chuyện bán hàng, đầu óc lộn xộn toàn những hình ảnh xa xưa. Đến lúc ra về, tôi lại còn đãng trí không kiểm tra lại tiền trước lúc giao cho bà chủ. Cán bộ phòng tài vụ không cần đến năm phút đã phát hiện ngay ra là tài sản của mình bị hao hụt. Cả dãy phố thì không cần đến hai phút sau đã biết tôi là đứa tắt mắt. Tôi hốt hoảng xin đền tiền ngay lập tức nhưng bà chủ không chịu hạ giọng đi cho. Máy bà đã mở ra rồi, bà phải tiếp tục xả cho hết cỡ. Nào là mặt mũi thì trí thức mà hóa ra cũng giở trò ăn cắp vặt thế à. Nào là nếu thiếu thì xin, tôi cũng thí cho, chỗ tiền ấy với tôi chẳng đáng gì, nhưng tôi ghét là ghét cái thói gian lận... Cuối cùng, bà chủ tuyên bố là nể cô tôi lắm nên bà cho tôi làm tiếp, nhưng bà mà còn bắt quả tang được lần nữa thì cứ tự động mà xéo đi. Biết mình chẳng đủ sức xen vào khi đại bác còn đang gầm rú, tôi đợi cho bà chủ nói xong rồi xỉa tiền túi ra trả bà và bảo là tôi thôi việc. “Lại sĩ à ? – bà chủ cười khẩy. – Sĩ thì thiệt thân, chứ tôi thì cần đếch gì cô. Tôi chỉ cần hô lên một tiếng là khối đứa nhảy bổ vào chỗ này ngay.”
     Về khoản này thì bà Thơm nói đúng. Chưa đầy một tuần sau khi tôi thôi việc đã có một cô gái khác đến bán hàng cho bà thay tôi. Tôi biết cô gái ấy. Cô ấy cũng là giảng viên trường tôi, dạy ở khoa bên cạnh.

     Thôi bán hoa cho bà Thơm, tôi lại phải ăn vào tiền bán đồ mang ở Nga về. Vẫn biết là phải đi tìm việc làm thêm khác mới sống được, nhưng bây giờ tôi không còn nhiệt tình như trước nên cứ lần chần. Vả lại, tình hình của tôi ở trường ngày càng tồi tệ nên tôi không còn lòng dạ nào nghĩ đến chuyện làm thêm nữa.
     Ông tổ trưởng bộ môn vẫn chưa cho tôi dạy thử giờ nào. Ông không nói rõ vì lý do gì, chỉ bảo cứ từ từ, rồi lúc nào tiện thì ông sẽ sắp xếp. Đề tài khoa học của bộ môn, tôi cũng không được tham gia vì là người mới, chưa có kinh nghiệm thực tế Việt Nam.Bù lại, tôi được phong chức tổ phó công đoàn, mỗi lần công đoàn cấp trên triệu tập họp thì tôi được đại diện cho công đoàn bộ môn đi họp. Thỉnh thoảng, ông tổ trưởng cũng an ủi tư cách giảng viên đại học của tôi, cho tôi tiếp xúc với sinh viên bằng cách đi coi thi hộ người này người nọ.
     Nếu không có chị Vi thương hại nói cho biết thì tôi cũng không hình dung được tình hình của mình trầm trọng đến mức nào. Hóa ra, khoa này hiện không hề có nhu cầu về chuyên môn của tôi. Bộ môn của tôi lúc trước đã thừa người, trên trường cứ ấn tôi xuống, khoa đành phải nhận. Số giờ dạy của bộ môn so với số giáo viên vốn đã ít nên  tổ trưởng bộ môn chẳng muốn san thêm ra cho một người mới về chưa có kinh nghiệm làm gì. Với lại, bộ môn không muốn mất công giao việc cho tôi vì ai cũng nghĩ rằng tôi chỉ làm hợp đồng một thời gian rồi chán sẽ bỏ đi, chứ chẳng có hy vọng gì được vào biên chế. Ở khoa còn có vài người đang ngồi đợi biên chế từ mấy năm nay, toàn là những ngành khoa cần cả, nên trường bắt nhận tôi làm hợp đồng thì khoa chịu, chứ vào biên chế thì còn lâu. Chưa kể đến chuyện tôi còn can tội mang bằng cấp cao ở nước ngoài về, điều này khiến cho một số người trong khoa đâm ra cảnh giác về những tham vọng xấu của tôi.
     Chị Vi còn chưa biết là chỗ dựa duy nhất của tôi ở cấp trường cũng đã mất. Từ sau khi xảy ra sự cố bán hoa để mất tiền với bà Thơm, tôi không còn hy vọng gì được bà phù trợ cho việc vào biên chế. Tóm lại, tôi không còn hy vọng nào ở trường này cả.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:45:55 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
Mẹ K. bất ngờ đến tìm tôi vào lúc tôi đang ở trong tình trạng nửa thất nghiệp. Không phải đi họp công đoàn, không có kỳ thi nào để đi coi, cũng chán chẳng buồn đi dự giờ của ai nữa cả. Hoạt động của tôi ở trường hạn chế ở các buổi họp khoa và bộ môn, cộng với việc đi lĩnh vài đồng lương còm mỗi tháng một lần.
     Tôi không kể với mẹ K. về những chuyện ấy, vì tuy bà hỏi thăm công việc của tôi, nhưng tôi có cảm giác rất rõ rằng bà đến vì một chuyện gì khác. Loanh quanh một hồi, bà hỏi tôi có biết thêm gì về tình hình của K. ở Ba Lan không ? Tôi thấy cũng chẳng cần giấu nên bèn nói thẳng ra rằng tôi biết anh dạo này làm ăn đã khá hơn nhiều, và anh đã gặp một người phụ nữ khác. Tôi tránh không nói đến chuyện K. sống cùng người đó, nhưng mẹ anh đã biết hết. Bà bảo rằng không bao giờ bà chấp nhận cho con trai bà sống với cái loại gái bỏ chồng như vậy. Rằng thằng K. nó chẳng yêu gì con đó, nó có thèm đả động đến chuyện cưới xin gì đâu. Cuối cùng, bà khóc và nói tôi là niềm hy vọng duy nhất của bà, chỉ có tôi mới kéo con trai bà ra khỏi nanh vuốt của “cái con kia” được. Rồi bà đưa cho tôi địa chỉ của K. ở Ba Lan và gần như van xin tôi viết thư gọi anh về. “Cháu viết thư thì có ích gì đâu, - tôi bảo. - Địa chỉ của cháu không hề thay đổi, nếu anh ấy muốn thì anh ấy đã viết cho cháu rồi. Anh ấy đã có sự lựa chọn khác, cháu không muốn xen vào nữa.” Mẹ  K. kêu lên : “Nó không dám viết cho con vì nó đã trót sa chân nên sợ con không tha thứ. Nếu nó biết là con vẫn chờ đợi thì chắc chắn nó sẽ bỏ tất cả để về ”.

     Khi rời Matxcơva, tôi cũng đã tưởng rằng anh sẽ phải vứt bỏ tất cả để về theo tôi. Bây giờ, tôi không còn niềm tin ấy nữa. Tờ giấy ghi địa chỉ của K. mà mẹ anh đưa cho tôi, tôi nhét vào ngăn kéo, nó nằm yên trong đó ba tuần.
     Ba tuần sau, tôi mở ngăn kéo ra nhìn, tự hỏi mình có nên viết thư cho K. không. Không phải để gọi anh về, mà chỉ để chúc mừng sinh nhật anh thôi, vì hơn nửa tháng nữa anh sẽ tròn hai mươi chín tuổi. Đấu tranh tư tưởng một hồi, tôi lại cất mảnh giấy vào ngăn kéo.
     Ngày sinh nhật K., buổi sáng, tôi tỉnh dậy trong giường với ý nghĩ rằng giờ này, người phụ nữ ấy chắc đang chúc mừng anh với một cái hôn dài như tôi vẫn thường làm trong những dịp sinh nhật trước của anh. Chị ấy có biết rõ thị hiếu của K. để chọn cho anh đúng món quà mà anh thích ? Tối nay, anh có mời bạn bè, hay chỉ muốn ở nhà một mình với chị như năm xưa anh vẫn thích làm như vậy với tôi ? Anh đã quên hẳn tôi rồi, hay ít nhất cũng nghĩ rằng tôi đã quên anh.
     Không chịu đựng nổi ý nghĩ ấy, tôi làm một việc điên rồ là mở ngăn kéo, lấy tờ giấy ghi địa chỉ của K. và chạy bổ ra bưu điện. Tôi gửi đi một bức điện dài, bắt đầu bằng dòng chữ “Chúc mừng sinh nhật lần thứ hai mươi chín...” Tôi không ký tên vào bức điện, sợ rằng nếu nó rơi vào tay người khác thì cái tên tôi có thể làm hỏng mất ngày vui của anh. Vả lại, cần gì phải ký tên, nếu K. còn nhớ tới tôi, anh sẽ hiểu bức điện từ Hà Nội này là do ai gửi.
     Rõ ràng, K. đã dứt khoát quên tôi. Bức điện này cũng chung số phận với những bức thư mà tôi gửi cho anh hồi trước, không hề có một hồi âm.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 22 Tháng Mười, 2008, 01:46:56 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 7)
Cần phải sống, tôi tự nhủ mình như vậy. Nói cụ thể hơn là cần phải kiếm tiền. Tôi vừa có một hướng mới do chị Vi mách cho. Chị chuẩn bị đi thực tập nước ngoài nên bỏ việc làm thêm ở một sạp bán sách báo. Chị xui tôi đến xin làm thay chị, chủ sạp đang tìm người.
     Tưởng chủ sạp là ai xa lạ, hóa ra lại là một cặp vợ chồng làm việc ở trường tôi. Bà làm phòng hành chính, ông làm phòng đào tạo, tôi không quen nhưng thỉnh thoảng có gặp ở trường.
     Tôi đến ngay sau khi chị Vi thôi việc, thế mà chỗ làm đã có người khác. Ít ra, đó cũng là điều mà bà chủ sạp trả lời tôi. Giọng bà lạnh lùng và khó chịu đến nỗi tôi đâm ngờ rằng chưa chắc đã có người nào, mà lý do chính khiến bà chủ không muốn nhận tôi là vì tôi đã mang tiếng xấu. Ai chứ bà Thơm thì chẳng thể giữ mồm giữ miệng được. Tôi hiểu rằng từ nay đi kiếm việc thì nên tránh dân cùng trường ra cho đỡ mất thời giờ.
      Giữa lúc tôi đang buồn thì T.H. từ Pháp về Hà Nội chơi. Cô vừa mới lấy chồng xong nên đem chú rể về trình diện. Chẳng báo trước gì hết, T.H. đến nhà tôi một cách rất bất ngờ. Đến một mình, không mang theo chồng, để hàn huyên cho thoải mái. Tôi mừng đến phát khóc lên.
     Câu đầu tiên của T.H. là hỏi thăm K. và thắc mắc sao chúng tôi đợi gì mà mãi không chịu cưới. Cô sững sờ khi biết rằng K. chưa về nước, tôi và anh đã cắt đứt rồi. T.H. muốn hỏi thêm nhưng tôi kiên quyết nói sang chuyện khác nên cô đành chịu. Cô bèn hỏi đến chuyện việc làm. Tôi bảo, bây giờ tôi làm hợp đồng ở trường D, đang đợi biên chế. “Có đủ sống không ?”, T.H. hỏi. “Thì cũng như người khác thôi”, tôi trả lời và lại muốn đổi đề tài, nói đến chuyện đám bạn cũ. Nhưng lần này, T.H. nhất định không bỏ cuộc.
     - Có chuyện gì thế ? – T.H. hỏi.
     - Chẳng có chuyện gì đâu, - tôi chối.
     - Mày đừng có giấu tao. Nhìn mặt mày là tao biết. Hồi trước, có chuyện gì mày cũng kể cho tao hết cả. Mày không coi tao là bạn nữa à, - T.H. nói dỗi.
     - Thực ra cũng không có gì quan trọng cả, nói nó mất vui đi, - tôi lúng túng.
     - Kể cho tao nghe đi, xem tao có giúp gì được mày không, - T.H. nài nỉ.
      Nhìn vẻ mặt lo lắng của T.H., đột nhiên tôi không kìm được, khóc nức lên :     
      - Ở đây, tao không có gì hết cả. Tình không, tiền không, sự nghiệp không. Tao không còn biết sống để làm gì nữa H. ạ.
     Rồi tôi kể hết mọi chuyện cho T.H. nghe, từ chuyện tôi đi xin việc đến chuyện tôi bán hoa để mất tiền, rồi tình hình bi đát của tôi ở trường hiện nay... Nước mắt T.H. ứa ra, cô bảo :
     - Tao không thể để mặc mày như thế này được. Tao sẽ kéo mày ra khỏi đây. Mày có muốn quay lại Matxcơva với K. không ?
     - Không, - tôi kêu lên. – Tao biết làm gì ở Matxcơva bây giờ. Mà K. cũng không còn ở Matxcơva nữa.
     - Thế thì sang Pháp với tao đi, - T.H. bảo. - Tao sẽ nói Pascal tìm cho mày một học bổng sang Pháp học.
  - Nhưng tao bảo vệ luận án ở Nga rồi, còn học gì nữa.
     - Có bằng Nga rồi thì học lấy thêm bằng Pháp, có sao đâu. Học, học nữa, học mãi. Mày chưa đến hai tám tuổi, đi học là phải quá. Sang Paris mà xem, tao quen mấy bác người Việt mình, gần sáu chục tuổi rồi mà vẫn còn được cơ quan cử đi Pháp học, học xong về nước thì vừa đến tuổi về hưu. Đi học bây giờ là cái nghề hữu ích nhất của trí thức nước mình C. ạ. Mày cứ sang Pháp một thời gian, thay đổi không khí. Không phải lo nghĩ kiếm sống mà lại được học thêm, tiếp xúc với giới khoa học bên đó cũng hay lắm chứ. Rồi tương lai thế nào thì tính sau.
     Tôi đưa cho T.H. toàn bộ hồ sơ khoa học của tôi để vợ chồng cô đi liên hệ xin học bổng. T.H. trở lại Paris, tôi bắt đầu đi học tiếng Pháp cấp tốc (cũng may, không phải bập bẹ từ đầu, vì tôi đã từng học tiếng Pháp trong những năm đại học ở Nga). Bốn tháng sau, tôi nhận được thư của cô bạn cùng với những giấy tờ để tôi sang Pháp làm luận án tiến sĩ. “Tao rất muốn mày sang đây sớm, nhưng vì mày khác ngành bọn tao nên hơi khó liên hệ. Mãi vừa đây mới có trường trả lời đồng ý nhận, nhưng lại ở thành phố khác chứ không phải ở Paris. Kể cũng buồn vì bọn mình sẽ không được ở gần nhau, nhưng tạm thời mày cứ sang Pháp đi, rồi sau đó nếu muốn chuyển lên Paris thì chắc cũng có cách”, T.H. viết.

     Một năm rưỡi sau ngày về nước, tôi lại rời Hà Nội ra đi. Chẳng có gì luyến tiếc khi bỏ hợp đồng ở trường D, chỉ thương bố đã bắt đầu già yếu, giờ lại sống lủi thủi một mình ở Hà Nội. Nhưng bố tôi thì có vẻ thanh thản hơn, cụ nói giống hệt T.H. : “Con cứ đi một thời gian cho thay đổi không khí. Lúc này ở nhà làm việc chưa thuận lợi thì tranh thủ đi học thêm cũng tốt. Ít nữa về có thể tình hình sẽ sáng sủa hơn”. Rồi cụ nói thêm : “Đừng lo cho bố. Thằng D. cũng sắp về rồi.” D., em trai tôi, đang ở Đức, quãng nửa năm nữa học xong nó sẽ trở về. Đó là điều an ủi duy nhất của tôi.
     Trước hôm đi, tôi đến chào bố mẹ K. “Con bỏ thằng K. thật đấy à ?”, mẹ anh hỏi, hệt như ngày nào anh hỏi tôi ở Matxcơva. Nước mắt tôi trào ra, tôi nghẹn ngào nói : “Nếu anh về Hà Nội, bác nói anh tha lỗi cho cháu”.
     Thế là lại Nội Bài. Một năm rưỡi trước, khi tôi từ Nga trở về xuống đến đây, tôi cứ nghĩ rằng tôi sẽ quay lại sân bay này để đón K. Bây giờ, tôi đến để lại ra đi. Tương lai sẽ ra sao, tôi cũng chưa biết nữa. Trong vali tôi có đủ giấy tờ ghi rõ rằng tôi đến trường... để làm luận án tiến sĩ ba năm. Trong tay tôi có tấm vé máy bay ghi rõ nơi đến : sân bay Charles De Gaulle- Paris. Vậy mà tôi bước lên máy bay như một người ngơ ngẩn. Không biết mình đang làm gì. Không biết mình đang đi đâu.

(hết chương 7)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 23 Tháng Mười, 2008, 08:09:12 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Chương tám)
                                                                          8
     "Đi đâu" luôn luôn là vấn đề phải lo nghĩ trước hàng tháng của vợ chồng Lan Chi mỗi khi kỳ nghỉ hè đến gần. Từ cuối tháng tư, khi đợt nghỉ mùa xuân của lũ trẻ vừa kết thúc, hai vợ chồng đã bắt đầu hỏi nhau : "Hè này nhà mình đi đâu nhỉ ?" Ra biển, lên núi, đi trong nước Pháp hay ra nước ngoài ? Đi đâu thì đi, phải quyết định cho nhanh để trong tháng năm còn tìm thuê nhà hay thuê khách sạn, đặt chỗ trước, chứ cứ lần lữa đợi đến tháng sáu thì chẳng còn nhiều nơi tốt mà kén chọn. "Tốt" ở đây còn kèm theo tiêu chuẩn là "không đắt", cho nên thực ra cũng chẳng được kén chọn gì nhiều. Ngân sách eo hẹp, đi xa thì tốn kém, đi gần thì loanh quanh cũng chỉ có vài nơi. Có những năm Lan Chi chả thấy hào hứng gì, lại nghĩ đến cảnh chen chúc tàu xe, đảo lộn cuộc sống mà phát ngán, cô bảo : "Thôi, hè này mình ở nhà một lần thì đã sao, đi mãi cũng chán !". Nhưng Trung phản đối : "Cả năm đã ở nhà rồi, chịu khó đi ít ngày cho lũ trẻ được thay đổi không khí". Lại có năm tìm mãi không được nơi ưng ý, đến lượt Trung chán ngán đề xuất ý kiến tẩy chay chuyện đi nghỉ một năm, nhưng Lan Chi không chịu : " Nghỉ hè, nhà nào người ta cũng cho con đi chơi cả, mình lại giam con ở nhà sợ chúng nó tủi thân".
     Đúng vậy, tháng bảy và nhất là vào đầu tháng tám, cả nước Pháp ồ ạt xuống đường đi nghỉ, ai không đi được tự dưng cảm thấy mình lạc lõng, thua kém thiên hạ. Các nhà ga đông nghịt người. Trên các con đường cao tốc, vào những ngày và những giờ cao điểm, tốc độ xe chạy còn chậm hơn trong đường làng, hàng đoàn ô tô lũ lượt mệt mỏi nhích từng tí một, người và xe vã mồ hôi dưới ánh mặt trời gay gắt. Vậy mà ai cũng hớn hở ra đi. Dãy phố của Lan Chi thường ngày đã vắng, vào những dịp này lại càng vắng tanh, hầu như nhà nào cũng có vài tuần đóng cửa im ỉm. Kể ra ở lại nhà vào lúc này thì điều kiện nghỉ ngơi còn yên tĩnh hơn là lên núi hay ra biển. Nhưng mà buồn, trẻ con chẳng có bạn để chơi. Đến đầu năm học mới, cô giáo ra bài văn "Kể lại kỳ nghỉ hè của em" thì đứa nào không đi đâu sẽ chẳng biết kể gì hết. Đấy là trẻ con, chứ còn người lớn bị người quen hỏi thăm "hè này đi đâu" mà lại trả lời là "không đi đâu cả", thì thấy như mình tự nhiên bị tụt xuống mất vài nấc trong bậc thang xã hội. Nghe nói có nhà sa sút không còn tiền đi nghỉ đã phải đóng cửa tắt đèn, chui xuống kho ở tầng hầm sống một tuần để giữ sĩ diện với hàng xóm. Chắc là chuyện đùa thôi, nhưng chuyện thật một trăm phần trăm là gia đình em gái Trung đã từng phải vác lều bạt lên núi cắm trại một tuần để khỏi phải chui vào kho ở. Không phải là do thiếu tiền, mà vì vợ chồng Hạnh đột nhiên có sự cố nên không đi nghỉ được đúng vào thời gian dự kiến, đến phút cuối cùng mới thay đổi kế hoạch nên chỉ còn kiếm được một chỗ "camping" ở một vùng dưới chân núi. Lên núi cắm trại thì cũng là một thú vui của dân tây, phải cái dân mình không có tình thần thể thao leo núi như tây, lại kém chịu lạnh, nên tuy cả nhà đã chả dám leo đâu cao, chủ yếu chỉ chui ra chui vào cái lều, vậy mà sau kỳ nghỉ về đến Paris mẹ Trung còn bị ho dai dẳng đến hơn một tháng. Thế nhưng hè nào bà cũng chịu khó đi nghỉ cùng gia đình con gái, tuy rằng chuyện đó đối với bà có vẻ là nghĩa vụ hơn là niềm vui. Hè năm ngoái, gia đình Hạnh đi nghỉ tại một bờ biển nổi tiếng ở Tây Ban Nha, đúng được hai tuần trời nắng rực rỡ. Bãi biển đẹp, nước biển đã ấm lại trong, nhưng Hạnh phàn nàn là cô dỗ thế nào mẹ cũng chỉ chịu ra bãi biển có đúng một lần (không nhúng chân xuống nước), rồi lại về nhà ngồi vì sợ nắng.
     Lan Chi nhớ lại tuổi thơ của mình, nghèo đói mà sao thật dễ vui. Nghỉ hè hầu như chẳng ai đi đâu hết, lũ trẻ cùng phố được thả ra là tụ tập ngay lại với nhau, tự nghĩ ra đủ thứ trò chơi, vui nổ trời, đến chiều tối bố mẹ phải rát cổ bỏng họng gọi năm lần bảy lượt thì mới chịu về nhà tắm rửa, ăn uống. Ở đây, những nhà tử tế không có cái lối thả rông con ra đường như vậy. Trẻ con được nghỉ hè hai tháng, không lẽ đóng cửa nhốt chúng ở nhà cả sáu chục ngày. Vì thế, hè mới lấp ló đến gần mà vợ chồng Lan Chi đã lo sốt vó đến trách nhiệm mua vui giải trí cho con.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 23 Tháng Mười, 2008, 08:10:07 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương tám)
Năm nay, Lan Chi có vẻ ung dung hơn mọi năm về chuyện đi nghỉ hè. Đã đầu tháng năm rồi, sực nhớ là chưa thấy vợ bàn gì đến chuyện này cả, Trung hỏi :
     - Em đã chọn được nơi nào đưa con đi nghỉ hè năm nay chưa?
     - Anh có sắp xếp đi nghỉ với em và bọn trẻ được không, hay lại để bốn mẹ con đi với nhau thôi ? - Lan Chi không trả lời mà hỏi lại.
     - Em đưa con đi rồi anh tranh thủ đến vài ngày thôi. Hè năm nay chắc anh phải ở lại trực bệnh viện.
     Xin nghỉ phép vài tuần vào dịp hè đối với Lan Chi là một vấn đề đơn giản, chỉ cần báo trước một tháng cho ông chủ là xong. Mùa hè, sinh viên nghỉ học đi kiếm việc làm thêm đông như kiến, cửa hàng chẳng khó khăn gì để tìm người bán hàng tạm vài tuần. Nhưng cái nghề bác sĩ của Trung thì lại hay bắt anh làm việc vào lúc thiên hạ đi chơi : kỳ nghỉ hè không những người ta chẳng chịu ốm bớt đi cho, mà lại còn có thêm bao nhiêu bệnh tật tai nạn cứ trái khoáy xảy ra vào đúng lúc tinh thần nghỉ ngơi của dân chúng lên đến cao điểm . Không phải năm nào Trung cũng lấy phép được vào dịp hè để đi nghỉ với vợ con. Những lần như vậy, vợ chồng Trung thường chọn một nơi nghỉ gần nhà, để anh có thể đến vào dịp cuối tuần hay vào ngày nghỉ bù nào khác rồi lại quay về làm việc mà không mất nhiều thời gian đi lại.
     - Nếu anh không đi nghỉ được thì hè này em mang bọn trẻ con sang Đức chơi với con nhà Duy. Hẹn với vợ chồng nó đã mấy năm nay rồi, thôi thì dịp này đi luôn là tiện nhất, - Lan Chi bảo.
     - Cũng hay đó, - Trung nói. - Nhưng đi Berlin thì có lẽ một tuần là đủ. Rồi đem bọn nó về đây, đi biển hay lên núi thêm một tuần cho thoáng. Mùa hè nóng ở Berlin lâu anh sợ lũ trẻ nó chán. Thì cũng thành phố, nhà cửa như đây chớ có gì đâu.
     - Em muốn sang chỗ Duy hai tuần. Mấy năm rồi chị em không gặp nhau. Với lại có hai đứa con nhà Duy chơi cùng thì bọn trẻ nhà mình nó cũng vui. Để chúng nó luyện nói tiếng Việt với nhau. Biển với núi thì chúng nó đi mãi rồi, còn lạ gì nữa.
     - Tùy em thôi. Vậy em định bao giờ đi ?
     - Em định đi hai tuần cuối tháng bảy. Đã hỏi Duy rồi, nó bảo lúc đó đối với nhà nó là tiện nhất.
     Thế là quyết định. Giữa tháng bảy này, bốn mẹ con sẽ đi Berlin. Lan Chi thở phào nhẹ nhõm. Mọi chuyện giải quyết dễ dàng nhanh gọn như vậy mà cô cứ băn khoăn suy tính cả tháng nay.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 23 Tháng Mười, 2008, 08:12:28 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương tám)
Nhưng cuộc đời thường hay có những sự cố bất ngờ. Quãng cuối tháng năm, khi Lan Chi đã hoàn toàn ung dung với kế hoạch đi Đức chơi, thì bỗng dưng Trung lại đề nghị cô chuyển chuyến đi Berlin lên đầu tháng bảy hoặc sang tháng tám. Lý do là vì cuối tháng bảy, một anh bạn của Trung sẽ từ Mỹ qua Pháp chơi và dự định ghé thăm anh vài hôm. Trung muốn vợ con có mặt ở nhà vào dịp đó.
     Chuyện tưởng hết sức đơn giản, không ngờ Lan Chi lại giãy nảy lên :
     - Em có kế hoạch hết rồi, không thay đổi được nữa đâu. Đã hẹn chính xác với Duy là hai tuần cuối tháng bảy, bây giờ lại đổi sang dịp khác thì không tiện cho nhà nó. Nó cũng có kế hoạch của nó chứ, đâu phải cứ ngồi nhà đợi mình mãi được. Sao anh không nói từ trước ?
     - Anh mới nhận được thư của Tuấn hôm nay. Mà trước sau vài tuần có gì là quan trọng ? Nếu em thấy đi dịp khác không tiện cho Duy thì cứ đi như đã hẹn vậy, nhưng về sớm một tuần có được không ? Anh sẽ hẹn Tuấn đến chơi mấy ngày cuối tháng bảy,  - ngạc nhiên trước phản ứng của vợ, Trung nhượng bộ.
     - Anh bảo anh ấy đến vào đầu tháng tám ấy, - Lan Chi không chịu.
     - Không được đâu. Nó bảo là ba mươi tháng bảy đã phải quay về Mỹ rồi.
     - Thôi, thế thì anh chịu khó tiếp bạn anh một mình. Hai ông với nhau, muốn làm gì thì làm, đi đâu thì đi, càng vui chứ sao. Chẳng mấy khi được sống lại đời độc thân vui tính. Em mà là anh thì em thích như vậy hơn. Có em với bọn trẻ con ở nhà chỉ thêm vướng bận chứ được ích gì.
     Khổ nỗi, ông bạn của Trung không sang Pháp dưới dạng độc thân vui tính, mà đi cùng với vợ con. Vì vậy, Trung muốn vợ con mình cũng có mặt ở nhà cho vui vẻ. Hơn nữa, thiếu Lan Chi , anh sợ không đón tiếp gia đình bạn chu đáo được. Nhất là anh lại làm việc ở bệnh viện, giờ giấc linh tinh.
     Vấn đề đâm ra rắc rối. Lan Chi khăng khăng không chịu thay đổi chuyến đi Berlin. Cô bảo rằng cô không muốn sai lời hứa với Duy. Rằng đã hẹn là sang Đức hai tuần thì cô sẽ ở đó đúng hai tuần. Rằng mấy năm rồi chị em không gặp nhau, thế mà anh lại muốn em về sớm chỉ để tiếp đón bạn bè anh, nào em có quen biết gì họ đâu...
      “Nếu em không muốn thì thôi”, Trung lạnh lùng nói rồi quay ngoắt người bỏ đi, không buồn nghe hết những lý lẽ dài dòng của vợ. Lan Chi ngẩn người ra nhìn theo chồng. Rất ít khi cô thấy anh có vẻ bực bội như vậy. “Hay là mình chỉ đi một tuần thôi nhỉ ?”, Lan Chi nghĩ nhưng vẫn đứng yên, không nói lại câu nào.

     Đúng là Trung rất bực. Không hẳn do yêu cầu của anh bị Lan Chi từ chối, mà cái chính là vì anh thấy vợ mình đột nhiên trở nên xa cách và khó hiểu. Tất cả những lý lẽ mà cô đưa ra anh đều thấy chẳng xuôi tai. Anh có cảm giác như cô che giấu anh điều gì. Ừ thì cô cứ đi Berlin, nhưng sao nhất thiết lại phải đi hai tuần bằng được ? Sao không thể chiều chồng mà về sớm một tuần ? Nào anh có yêu cầu điều gì quá đáng đâu.
     Kể ra, yêu cầu của Trung không có gì là quá đáng thật, nhưng nói cho khách quan thì vợ anh cũng không phải là không có lý khi thích ở thăm em trai hơn là về nhà sớm để đón tiếp bạn của chồng. Có điều, cô lại giải thích cái lý của mình một cách thiếu tự tin đến nỗi không làm sáng tỏ được “chính nghĩa”. Hẳn là trong thâm tâm Lan Chi không được thanh thản cho lắm : cô biết rằng mình chưa hoàn toàn thành thật với chồng. Nhưng làm sao cô có thể thú nhận được với anh, khi ngay cả với chính bản thân mình cô cũng không muốn thừa nhận rằng ngoài việc muốn gặp em trai, ngoài những lý do khiến cô không hào hứng với đề nghị của Trung, còn có một nguyên nhân thầm kín khác thúc đẩy cô phải có mặt ở Berlin cả hai tuần cuối tháng bảy. Cô không muốn thừa nhận rằng cái ý định đi Đức chơi quả là đã có từ lâu, nhưng chỉ thực sự ám ảnh cô kể từ khi nghe cái tin do Tài “ủng” đem đến. Điều này, tất nhiên, Trung không thể biết.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 23 Tháng Mười, 2008, 08:13:17 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương tám)
     Vậy là đến ngày bốn mẹ con lên đường, cả Trung lẫn Lan Chi đều có tâm trạng không thoải mái. Anh tự nhủ là không đáng để bực mình vì một chuyện nhỏ nhặt như vậy, cái chính là vợ con có kỳ nghỉ vui, thế là được rồi. Cô tự nhủ là mình không có lỗi gì với chồng, mình không định làm điều gì không phải, việc mình có mặt hay không có mặt ở nhà khi bạn Trung đến chơi đâu có gì là quan trọng...
     Trung lái xe đưa vợ con ra ga. Đến lúc chia tay, tự nhiên Lan Chi mủi lòng, cô đột ngột vòng tay ôm cổ chồng, gắn vào môi anh một cái hôn thật thắm thiết và hứa : “Nếu bọn trẻ con ở đó một tuần thấy chán thì em sẽ mang con về sớm, có gì em sẽ gọi điện cho anh”. “”Anh sẽ gọi điện cho em đến nhà Duy, như vậy tiện hơn”, Trung nói, cảm động vì cái hôn thắm thiết bất ngờ của vợ.
     Tàu bắt đầu chuyển bánh. Lan Chi nhìn bóng chồng lùi xa dần trên sân ga, chẳng hiểu sao bỗng thấy lòng se lại như sắp phải xa anh lâu lắm. Cô cũng chẳng rõ mình chờ đợi gì ở chuyến đi này. Có lẽ chẳng đợi chờ gì hết cả. Vậy mà cứ thấy trong lòng pha trộn những cảm giác lạ lùng, một chút hy vọng, một chút bồn chồn, và dường như có cả một chút lo sợ nữa.
     Đây là lần đầu tiên được đi Berlin nên cả ba đứa trẻ đều hớn hở. Nhất là cu Nam, tàu chạy mới được chừng một tiếng mà cu cậu đã sốt ruột hỏi : “ Sắp đến Berlin chưa hả mẹ ?”  “Đầu tiên phải đến Paris cái đã. Sau đó chúng mình sẽ chuyển tàu đi Berlin”, Lan Chi giải thích. Thấy con trai nhấp nhổm không yên, cô bèn lấy một quyển sách mang ở nhà đi, đưa cho thằng bé và bảo : “Nếu con chán ngắm cảnh rồi thì đọc sách vậy. Đọc hết quyển này chắc sẽ đến Paris.” Rồi cô cũng lấy ra cho mình một quyển sách. Đọc cho khỏi nghĩ ngợi linh tinh. Trước mắt là cả một chặng đường dài. Còn hơn ba tiếng nữa tàu mới đến Paris
(hết chương tám)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 24 Tháng Mười, 2008, 07:53:05 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Chương 9)
9
     Paris trong lần gặp gỡ đầu tiên không kịp để lại cho tôi ấn tượng gì đặc biệt ngoài một vài cửa hàng vào dễ ra  khó mà bây giờ tôi không còn nhớ nổi tên. Chỉ nhớ rằng một khi đã trót sa chân vào đó thì phải là mặt dày lắm mới dám bỏ đi mà không mua một thứ gì, sau khi đã được những cô bán hàng cười tươi như hoa, tận tâm với khách một cách đáng sợ, ra sức vồ vập, săn đón, chiều chuộng. Hàng hóa thì cái gì cũng đẹp, cái gì cũng đắt, cái gì cũng muốn mua, nhưng nếu không có cô bạn quyết định hộ cho chắc là tôi đã nhắm mắt mua đại một thứ để thoát thân chứ không dứt khoát chọn nổi một cái gì. Tôi chỉ ở lại Paris có hai ngày. Không đủ thời gian để đi thăm danh lam thắng cảnh Paris, theo ý kiến của T.H. Cô bạn khuyên tôi dành các hoạt động văn hóa ấy cho một kỳ nghỉ dài ngày, còn trước mắt thì nên thưởng thức một thú vui không văn hóa bằng là đi dạo cửa hàng, mua sắm vài thứ cần thiết (đúng hơn là không thật cần thiết, nhưng không sao cầm lòng được). Paris khi ấy đã vào cuối tháng mười một, không có tuyết như ở Matxcơva nhưng lạnh buốt, trời phập phù lúc nắng, lúc mưa. Đi một vòng dăm cửa hàng, mua được vài thứ lặt vặt xong thì tôi cũng bắt đầu hắt hơi xổ mũi. Mang theo cái kỷ niệm đầu tiên không mấy ngọt ngào này của thời tiết Paris, tôi lên tàu đi xuống phía nam, người ngây ngấy sốt, lòng dạ bồn chồn, không biết điều gì sẽ chờ đợi mình ở cái thành phố xa lạ kia. Lúc ấy, làm sao tôi có thể ngờ được rằng đó sẽ là nơi neo bến của đời mình.
     Khái niệm của tôi về thành phố này tuần đầu tiên thu hẹp trong một khung cửa sổ, một mảnh trời xám xịt, những mái nhà cao thấp nhấp nhô, một cành cây trơ trụi, khẳng khiu, chốc chốc lại rũ rượi trong cơn gió giật, và tôi, nằm bẹp một mình trong phòng, mặt mũi đỏ bừng vì sốt, người chốc chốc lại rũ rượi trong cơn ho, đầu óc ong ong toàn những ý nghĩ u ám. Tôi không ngớt tự hỏi chẳng biết mình làm gì ở cái nơi lạ hơ lạ hoắc này ? Đi học ? Gần ba chục tuổi rồi mà cái việc duy nhất có thể làm vẫn chỉ là đi học !
     Bắt đầu từ tuần thứ hai, tôi khỏi ốm, chân trời được mở rộng ra ngoài khung cửa sổ, đầu óc cũng bớt u ám hơn. Đến trường đại học, lập tức cảm giác xa lạ ban đầu biến mất : lại giảng đường, thư viện, xêmina..., tôi bận ngập cổ nhưng thấy mình như trẻ ra vài tuổi. Hồi ở Matxcơva, nhiều lúc quá mệt mỏi vì thi cử, luận án, tôi chỉ mong chóng học xong để được đi làm. Phải có kinh nghiệm của một thời gian “làm việc” vật vờ giữa những cuộc họp vô bổ, đầu óc thì chỉ bận tâm lo nghĩ kiếm tiền hoặc đấu trí những chuyện không mảy may liên quan gì đến khoa học, đến giờ tôi mới giác ngộ ra rằng được vô tư đi học quả là một hạnh phúc lớn. Rita, cô bạn người Nga của tôi, người bạn đầu tiên của tôi ở thành phố này, thì bảo đi học là một cứu cánh, không chỉ cho cô mà còn cho khối người nước ngoài ở đây. Cô này xấp xỉ tuổi tôi, tức là cũng gần ba chục, một lứa tuổi rất thích hợp với việc đi học.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 24 Tháng Mười, 2008, 07:54:03 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 9)
     Tôi quen Rita một cách hoàn toàn tình cờ, không phải ở trường đại học, mà trong lúc xếp hàng đứng đợi để làm thủ tục nhận giấy tạm trú ở Pháp. Hàng người cũng dài lê thê, màu da và ngôn ngữ cũng phong phú, mặt người cũng nhẫn nhục không khác gì khi xếp hàng mua nồi hầm ở Matxcơva. Sau hai buổi đều tình cờ đứng cạnh nhau, tôi và Rita trở thành người quen. Phải mất hai buổi, là vì buổi đầu tiên tôi không có kinh nghiệm, mười giờ sáng mới lò dò đến nơi. Cứ tưởng chủ nghĩa tư bản thì không phải xếp hàng, hóa ra phàm thứ nào nhu cầu nhiều mà cung cấp nhỏ giọt thì đều phải hết sức kiên nhẫn mới may ra đến lượt. Xếp hàng được hai tiếng đồng hồ, phía trước còn quãng gần một chục người nữa thì hết giờ làm việc, thế là hôm sau đành phải phấn đấu lại từ đầu. Rút kinh nghiệm, sáng hôm sau tôi quyết dậy sớm, đến nơi từ chín giờ kém năm, tức là năm phút trước giờ mở cửa. Thất vọng tràn trề vì hóa ra không chỉ có mình khôn lỏi : bên ngoài tấm rèm sắt đóng kín mít đã có một đám người chầu chực sẵn, vẻ mặt mới sáng ra xem chừng đã phờ phạc như phải đứng cả đêm giữ chỗ ở đây. Đúng chín giờ, tấm rèm sắt được từ từ kéo lên. Đám đông bắt đầu nhốn nháo xô đẩy. Những người đứng trước thì vội vàng cúi khom xuống chui qua khe hở cho nhanh( tấm rèm trêu ngươi kéo lên rất chậm, mới hở ra một khoảng cách mặt đất chưa đến một mét : đợi thêm vài phút nữa cho nó kéo lên hẳn thì sốt ruột làm sao chịu nổi!), rồi ào ào chạy tọt vào trong. Những người đứng sau thấy thế cuống cuồng mạnh ai nấy chen để lao lên phía trước . Rita đứng cạnh tôi hốt hoảng lấy người che cho đứa con gái chừng hai tuổi đang ngồi trong xe đẩy vừa mới bị một gã to béo vô ý đạp vào : con bé khóc thét lên vì sợ hãi. Tôi giúp cô kéo cái xe đẩy ra khỏi dòng người, đợi cho mọi người vào hết, bức rèm cũng kéo hết lên, rồi tôi, Rita và một cô bụng to nữa (sau này hỏi ra thì biết là người Rumani) là ba người đi vào sau cùng. Vào trong nhà thì bắt đầu được xếp hàng, lấy số. Những người vào theo tư thế lom khom tất nhiên được nhận số đầu tiên, chỉ phải đợi năm mười phút là được giải quyết (bõ công chui). Những người dám chen thì phải đợi từ nửa tiếng đến một tiếng. Không dám chen như tôi, Rita và cô gái bụng to thì phải đợi quãng tiếng rưỡi nhưng rồi cũng xong việc. Phía sau tôi dần dần mọc ra một cái đuôi dài, những kẻ sẽ xếp hàng chừng hai tiếng để  đổi được một kinh nghiệm quý báu, hôm sau sẽ biết điều dậy sớm hơn.
     Du học sinh được xếp một hàng riêng, giải quyết chóng vánh hơn các đối tượng khác. Tôi đứng cạnh Rita, nói chuyện một lát thì biết là cô học cùng trường với tôi. Cô sang Pháp mục đích chính không phải là đi học, mà là đi theo chồng. Vợ chồng cô đã quyết định rời bỏ hẳn nước Nga sau khi chồng cô xin được học bổng học cao học ở Pháp. Tuy nhiên, chồng Rita đi học nên không được phép mang theo vợ con, vì thế Rita bèn tìm cách đi theo danh nghĩa du học tự túc. Ở Nga, cô là giáo viên cấp ba, dạy tiếng Pháp. Sang đây, lúc đầu cô học ngành văn học Pháp, nhưng đến khi sinh con thì không còn có thời gian để học, lại túng tiền, cho nên cô bèn đổi sang ngành ngôn ngữ và văn học Nga. Lợi thế của ngành này  là Rita không cần học cũng đã nói tiếng Nga hay hơn đứt các giáo sư. Phần lớn thời gian cô phải ở nhà trông con và hì hụi với những bản dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Nga để kiếm thêm tiền. Mỗi tuần, cô chỉ tranh thủ đảo qua trường một hai buổi, đến kỳ thi thì vác mặt đi thi để có đủ điều kiện tiếp tục gia hạn giấy tạm trú. Cái tờ giấy quý hóa này cũng là mục đích học tập của quãng một phần ba sinh viên lớp Rita, tức là những sinh viên người Nga như cô, mỗi lần gặp nhau (chủ yếu trong kỳ thi) là lại có dịp thực hành hội thoại tiếng Nga rào rào.
     Tôi và Rita trao đổi số điện thoại cho nhau, nhưng cả hai đều chẳng có dịp nào dùng đến vì không có việc gì cần, lại chưa thân đến mức thích tán gẫu qua điện thoại Tuy vậy, thỉnh thoảng tình cờ gặp nhau ở trường, chúng tôi vẫn dừng lại nói chuyện. Trong một lần gặp gỡ tình cờ như vậy, Rita đã “làm quà” cho tôi một thông tin : cô hỏi tôi đã biết về một buổi dạ hội có liên quan đến Việt Nam sắp diễn ra ở thành phố này chưa ? Đó là một buổi dạ hội nhằm mục đích quyên tiền mua thuốc men và thiết bị y tế giúp các bệnh viện ở Việt Nam, do một nhóm bác sĩ Pháp phối hợp với hội “Những người bạn của Việt nam” tổ chức. Hôm trước, khi nhìn thấy tờ quảng cáo về chuyện ấy ở một phòng khám bệnh lúc đưa con gái đi tiêm chủng, Rita chợt nghĩ rằng có thể tôi sẽ quan tâm đến thông tin này.
     Quãng nửa năm sau, chồng Rita học xong và xin được việc làm ở thành phố khác. Cô bỏ học để đi theo chồng. Chúng tôi không còn gặp nhau nữa, cũng không giữ liên lạc với nhau. Vì vậy, Rita không hề biết rằng do câu chuyện “làm quà “ ấy của cô mà đời tôi đảo lộn. Tôi đã đến buổi dạ hội này, và ở đó tôi đã gặp Tr.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 24 Tháng Mười, 2008, 07:55:03 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 9)
Thực ra, nếu Cécile, cô bạn cùng khoa đồng thời là hàng xóm ở ký túc xá của tôi không rầu rĩ cả tuần vì bị bồ bỏ thì có khi buổi tối hôm ấy tôi vẫn vùi đầu vào đống sách ở nhà. Trước đó, đã hai tối liền tôi phải ngồi nghe nỗi lòng của Cécile. Cô chọn tôi để dốc bầu tâm sự chẳng phải vì thân thiết gì đặc biệt với tôi, càng không phải vì muốn hỏi ý kiến nhà tâm lý học (bản thân Cécile cũng học tâm lý nên các “võ” của dân tâm lý cô chẳng lạ gì). Chẳng qua vì cứ tối đến là mấy cô bạn gái khác trong ký túc xá biến đâu hết sạch, còn trơ lại có mỗi tôi. Thấy tôi tối nào cũng chăm chỉ ngồi nhà, có lẽ Cécile chắc mẩm rằng tôi cũng mang mối hận với bọn đàn ông như cô, nên cô bèn tạt vào phòng tôi để cùng nói xấu bọn ấy cho bõ ghét. Trình độ tiếng Pháp của tôi thời đó chỉ đủ để gật gù tán thưởng và thỉnh thoảng chêm vào một vài câu đưa đẩy (loại câu có thể sử dụng trong bất cứ trường hợp đau lòng nào), chứ chưa đạt đến độ góp được ý kiến riêng gì đối với một đề tài tinh tế như vậy. Nhưng Cécile cũng chẳng cần tôi nói, vì mới chỉ có mình cô nói thôi mà mất hai tối vẫn chưa xong bản cáo trạng dành cho giới đàn ông. Bản cáo trạng khá dài, vì hóa ra gã bạc tình kia không phải là kẻ có tội duy nhất, mà đã là người thứ tư ở danh sách bồ của Cécile trong vòng ba năm qua. Hai chàng đầu tội nhẹ thôi vì họ không định bỏ Cécile mà bị cô bỏ (tất nhiên, bỏ là có lý do chính đáng). Chàng thứ ba, mối tình day dứt nhất của Cécile (chia tay nhau vì một sự hiểu lầm), thì được hưởng quy chế “giận thì giận, mà thương thì thương”. Những cơn bão táp dữ dội nhất được trút cả lên đầu gã thứ tư, kẻ vừa mới chia tay với Cécile tuần trước. Mà chia tay là để đi lấy vợ mới khốn nạn chứ ! Điều làm Cécile uất nhất là cô đã để lỡ cơ hội đá gã, cho nên phải chịu cái nhục là bị gã đá mình. Một mối nhục bất ngờ, vì từ trước đến nay cô vẫn nghĩ mình yêu tên này là hạ cố. Gã đã theo đuổi Cécile từ mấy năm nay, khi cô còn đang ở đời bồ thứ hai, sau đó vì quá đau buồn do tan vỡ mối tình thứ ba mà cách đây bốn tháng cô chấp nhận đến với gã. Đùng một cái, sau bốn tháng chiếm đoạt được trái tim (và những thứ đi kèm) của người đẹp mà mình đã khổ công đeo đuổi mấy năm trời, đột nhiên gã giời đánh tuyên bố rằng họ không hợp nhau, rằng với Cécile gã chỉ có sự say mê mù quáng nhất thời, chứ không thể có được hạnh phúc bền vững, thứ hạnh phúc mà gã tin rằng gã đã tìm được ở một cô gái khác. Sôi lên vì giận, Cécile đi tìm hiểu thì được biết thêm rằng đám cưới của người yêu mình đã được dự định tổ chức vào tháng sau. Thế còn chưa đủ, gã bạc tình còn giáng thêm một cú vào lòng tự trọng của Cécile khi (chẳng biết cố tình hay vô ý) để cho cô  nhìn thấy “hạnh phúc bền vững” của gã : một mụ vừa già vừa xấu, béo như cái thùng tônô, chân như chân voi mà còn mặc váy ngắn, tóc xơ xác, mặt đầy tàn nhang, mỗi khi bước đi thì cằm tiến lên trước mông ít nhất nửa mét... Nói đến đây, nước mắt Cécile chảy tong tong, răng cô nghiến lại, uất hận vì bị mất người yêu về tay một kẻ không xứng là tình địch của mình. Lòng tự ái của cô bị tổn thương, sự tự tin bỗng dưng như ngọn nến lung lay trước gió.
     Kỳ quái làm sao, những giọt nước mắt của Cécile làm cho tôi cũng muốn khóc theo, thương bạn thì ít mà động lòng thương thân thì nhiều. Dẹp tự ái đi mà nói thì tôi cũng bị bồ đá như Cécile chứ có khác gì đâu. Cécile chỉ mất cho gã kia có bốn tháng thôi, chứ tôi đã dành cho K. cả năm năm tuổi trẻ. Thương yêu, đợi chờ, để rồi anh đột ngột bỏ đi với người khác mà không thèm nói lại một câu. Tôi không thể nào bắt mình căm giận được K. như Cécile, nhưng tôi quyết định không chôn vùi cuộc đời mình vào việc nhớ thương anh nữa.
     Tôi an ủi Cécile là cô rất đẹp (sự thực là như vậy : người cô dong dỏng cao và thon thả như “top model”, mọi đường nét đều thanh tú), thiếu gì người mê, việc gì phải đi thương tiếc một kẻ chẳng ra gì, thằng kia nó ngu thì nó thiệt ... Rồi để giải khuây cho cô, cho mình, và để tránh một buổi tối thứ ba ngồi nghe tâm sự, tôi nghĩ cách rủ cô đi chơi. Cécile lắc đầu quầy quậy, bảo rằng cô đã chán những cuộc vui chơi giải trí, ngán đến tận cổ khi phải nhìn mặt bọn đàn ông, trông thằng nào thằng nấy đều rặt một phường lừa đảo... 
     Cuối cùng, tôi cũng rủ được Cécile đến buổi dạ hội mà Rita đã báo cho biết. Cécile đồng ý đi chỉ vì chiều tôi, không nỡ để tôi phải đi một mình. Thêm nữa, đây lại là một buổi dạ hội từ thiện ...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 24 Tháng Mười, 2008, 07:56:06 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 9)
Buổi dạ hội thu hút được khá nhiều người, cả Pháp lẫn Việt. Người Việt thì đủ thành phần, còn người Pháp thì chủ yếu là giới bác sĩ, nhân viên y tế, sinh viên y khoa (điều này về sau tôi biết là do nghe Tr. nói (anh ở trong ban tổ chức), chứ lúc ấy tất nhiên tôi không nhận diện ra được bác sĩ nào, vì ở đây không có ai mặc blouse trắng cả).
     Sau khi ăn hai cái nem rán, vài miếng tôm chiên bọc bột, mặt Cécile đã bớt đi vẻ u sầu. Người cô bắt đầu hơi nhún nhảy đung đưa theo điệu nhạc, tuy vậy cô vẫn chỉ đứng ngoài nhìn thôi chứ chưa bước chân vào sàn nhảy.
     Tôi chạy đi mua hai cốc nước quả cho tôi và Cécile, lúc quay lại thì thấy cô đang nói chuyện sôi nổi với một anh chàng tóc nâu, đeo kính cận. Nhìn qua thì thấy nhan sắc chàng này chẳng có gì đặc biệt, nhưng thật may là mặt anh ta hình như trông không giống phường lừa đảo, không làm cho Cécile ngán đến tận cổ. Bằng chứng là đôi mắt của Cécile không những không lúc nào rời người đối thoại ra, mà còn chuyển từ u sầu sang đong đưa, lúng liếng.
     Đưa cốc nước cho Cécile xong, tôi tế nhị đứng tránh xa ra một quãng. Lãng đi một tí, uống chưa xong cốc nước thì tôi đã nhìn thấy Cécile yểu điệu áp sát người vào chàng trai trong một điệu slow tình tứ từ lúc nào không biết.
      Chẳng còn cô bạn đứng cùng để tán chuyện, tôi bèn bỏ ra ngoài hít thở khí trời cho thoáng.
     Đêm đầu xuân có vị ngọt ngào của một que kem làm bằng nhiều loại trái cây hỗn hợp. Không khí se lạnh và phảng phất mùi hoa. Tôi bỗng nhận thấy cách mình mấy bước chân có một bụi tử đinh hương nở hoa tím ngắt. “ Xiren  ! Sao mới đầu tháng tư mà đã có xiren rồi nhỉ ?”, tôi thầm nghĩ, bước lại gần và chợt nhận ra rằng cho đến giờ mình vẫn chưa biết tên tiếng Pháp của loại hoa này. Đối với tôi, nó vẫn chỉ là xiren, loài hoa mà cứ mỗi độ xuân về lại rạo rực phủ khắp quả đồi của thời sinh viên của tôi. Có lẽ vì ở đây ấm hơn nên xiren nở sớm. Ở Matxcơva, tháng năm mới là tháng của xiren.
     Đang định thưởng thức hương hoa thì bất chợt có mùi thuốc lá xộc vào mũi. Tôi nhăn mặt, khịt mũi, phẩy tay xua đi cái mùi khó chịu đó rồi đưa mắt nhìn quanh để tìm thủ phạm, nhưng trong ánh sáng mờ mờ tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài rặng hoa xiren tím một màu bí ẩn. Không muốn tiếp tục bị khói thuốc lá đầu độc, tôi bèn quay gót bước vào nhà.
     - Tôi dập điếu thuốc rồi đó, chị khỏi cần đi tránh khói thuốc nữa nhen, - anh đột ngột bước ra từ phía sau rặng cây, nói bằng một giọng bình thản thoáng một nụ cười, như là đã quen nhau từ lâu lắm.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 24 Tháng Mười, 2008, 07:57:12 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 9)
Tr. bước vào đời tôi bất ngờ như vậy. Với anh, tôi đi từ bất ngờ này sang bất ngờ khác.
     Buổi tối hôm ấy, lúc tôi đang đứng nói chuyện với Tr. thì Cecile khoác tay cậu bạn mới chạy ập đến, bảo : “Đừng đợi mình nhé, mình có việc phải đi chỗ khác”. Trước khi lao vút đi, cô còn liếc mắt nhìn Tr. một cái rồi mỉm cười ranh mãnh với tôi ( ra ý bảo : “Hai chúng mình tối nay đều trúng quả !”). Cecile đi một lát thì tôi cũng muốn về, tuy buổi dạ hội chưa kết thúc. Tr. bảo để anh lái xe đưa tôi về. Tôi từ chối. Tr. cũng không nài, anh chỉ ghi cho tôi số điện thoại của anh và nói “hy vọng có dịp gặp lại”. Phân vân một lát rồi tôi cũng ghi cho anh số điện thoại của tôi.
     Tôi ra gần đến bến xe buýt thì thấy một chuyến xe đang rời bến. Đuổi theo không kịp nữa, tôi nhìn bảng giờ xe chạy mà chán nản cả người : vào cái giờ khuya này số chuyến xe bị giảm đi, phải nửa tiếng nữa mới có thêm chuyến khác. Bến xe vắng tanh không một bóng người. Tôi đứng co ro chưa được năm phút thì bất ngờ có một chiếc ôtô đỗ xịch ngay trước mặt. Tr. thò đầu ra, cười bảo : “Giờ này đợi xe buýt thì lâu lắm. Lên đây tôi chở về luôn đi. Tiện đường thôi, đừng ngại.” Thấy tôi còn ngần ngừ, anh dọa : “Chỗ này ban đêm không an toàn đâu.” Lý lẽ sau cùng này của Tr. quả là có sức thuyết phục : chẳng đợi anh mời thêm, tôi cun cút chui ngay vào xe của anh.
     Mấy ngày sau, một buổi tối Tr. gọi điện thoại cho tôi. Sau khi trao đổi vài câu xã giao, tôi hơi bất ngờ khi nghe anh hỏi tôi đã ăn tối chưa, nếu chưa, anh muốn rủ tôi đi ăn để giới thiệu cho tôi một tiệm ăn Việt Nam hay lắm (“Có đủ các món Bắc do đầu bếp người Bắc nấu”, Tr. nhấn mạnh). Bất ngờ với cả chính mình, tôi đồng ý ngay và hỏi anh là phải gặp nhau ở đâu, vào lúc mấy giờ. “Ở trước cổng nhà L.C., ngay bây giờ”, Tr. đáp. Tôi vội chạy ra cửa sổ nhìn xuống đường : Tr. bước ra từ chiếc ôtô đỗ ở lề đường, một tay cầm điện thoại, tay kia giơ lên vẫy tôi, mỉm cười.
     Quãng hai tháng sau đó, một buổi chiều chủ nhật, khi chúng tôi đi dạo bên bờ sông Garonne, đang nói chuyện linh tinh thì bất ngờ, không rào trước đón sau gì hết,  Tr. bảo rằng anh yêu tôi và muốn cưới tôi.
     - Nhưng anh đã biết gì về em đâu mà muốn cưới em, - tôi nói, cảm thấy tim mình như nhảy dựng lên.
     - Anh biết về em nhiều hơn em tưởng, - Tr. trả lời.
     - Anh mới quen em hai tháng nay, làm sao mà biết nhiều được, - tôi phản đối.
     - Cũng đã đủ để tin rằng chúng mình rất hợp nhau, - Tr. nói hết sức tự tin.
     - Nhưng em thì chưa biết về anh đủ để có thể tin được như thế, - tôi bảo.
     - Vậy em muốn biết gì thì cứ hỏi, anh sẵn sàng trả lời, - Tr. cười đáp. - Hỏi cung nhiều lắm thì cũng một buổi là khai xong hết chứ mấy.
 
     Sau đây là những đoạn trích từ cuộc “hỏi cung”.
     - Sao đến giờ anh vẫn sống một mình ? Trước đây, đã có lúc nào anh định lấy vợ chưa ?
     - Anh muốn lấy vợ sớm lắm (cười),  từ lúc chưa đến hai mươi tuổi, dạo còn ở Sài Gòn, nhưng không thành. Sau đó, cách đây ba năm thì có cô định lấy anh, nhưng rồi cũng không thành nốt (lại cười). Bây giờ là lần thứ ba, quá tam ba bận chắc phải xong (cả hai chúng tôi cùng cười,  rồi tôi bảo : “ Anh đừng có nói trước mà bước không qua đấy”).
     - Anh kể cho em nghe về lần đầu của anh đi. Vì sao lại không thành ?   
    - Vì gia đình anh quyết định rời Việt Nam. Anh nhất quyết đi vì ở Sài Gòn lúc đó anh không thấy có tương lai. Cô ấy là bạn học của anh. Anh muốn cô ấy đi cùng nhưng cô ấy không thể đi được. Ba cô ấy còn trong trại cải tạo, má thì bệnh nặng, cô ấy có bốn đứa em nhỏ. Anh phải đi một mình, hẹn nếu ổn định được thì sẽ tìm cách quay lại đón. Nhưng sự đời đâu có đơn giản như mình mong muốn. Cô ấy đợi anh năm năm rồi đi lấy chồng. Anh nghe nói... – Tr. đột ngột dừng giữa câu, rút một điếu thuốc ra châm lửa hút. Rồi có lẽ sực nhớ rằng tôi sợ mùi khói thuốc, anh lại vội dụi điếu thuốc, vứt đi. 
     - Chắc là chị ấy buồn lắm, - tôi nói, tự nhiên thấy thương người con gái xa lạ ấy đến thắt cả lòng. Hẳn là chị cũng đã ngóng chờ anh như tôi từng ngóng chờ K.
     Tr. khẽ thở dài, không nói gì, nhưng tôi đọc được trên gương mặt anh câu trả lời : “Anh cũng buồn lắm.”
     - Còn lần thứ hai ? – tôi hỏi tiếp.
     - Lần thứ hai thì không có gì thật đáng nói, - Tr. trả lời. - Đó là hồi anh ở Paris. Anh đi làm rồi, còn cô ấy vẫn là sinh viên. Đã có lúc nghĩ đến chuyện cưới, đã sống với nhau một thời gian, nhưng càng ngày càng thấy là tính tình không hợp, cứ cãi nhau hoài thôi. Sau hết chịu nổi nên quyết định chia tay. Cô ấy có ngay bồ khác, còn anh thì rời Paris xuống đây.
     - Vậy mà anh bảo là “không có gì thật đáng nói”. Anh phải chạy trốn khỏi Paris tức là cũng sâu sắc lắm rồi.
     - Không có chuyện “chạy trốn” đâu. Anh chuyển đến đây hoàn toàn là vì công việc. Ở Paris anh chưa có công việc ổn định, lại phải làm việc như bác sĩ đa khoa, trong khi anh tốt nghiệp chuyên khoa nhi. Chỗ làm việc của anh ở đây tốt hơn hẳn, được nhận là anh đi liền.
     - Anh yêu nghề lắm phải không ? Bác sĩ nhi khoa là một nghề hay thật đấy. Hồi trước, cũng có dạo em mơ làm bác sĩ chữa bệnh cho trẻ con.
     - Bây giờ thì anh thích nghề này, nhưng thực ra hồi đầu anh học ngành y cái chính là vì chiều má anh thôi. Người Việt mình cỡ tuổi má anh ở đây, không biết sao ai cũng chỉ muốn con mình làm bác sĩ. Đối với mấy ông bà già thì không có nghề gì oai hơn là bác sĩ hết. Má anh cứ nói hoài, anh thấy cũng được nên nghe theo. Chớ còn trước đó, anh lại thích theo nghề khác.
     - Nghề gì vậy ? – tôi tò mò hỏi.
     - Nghề kiến trúc. Hồi xưa anh thích làm kiến trúc sư lắm. Đến giờ, thỉnh thoảng vẫn thấy hơi tiếc, - Tr. thú nhận.
     Có một cái gì đó nhói lên trong tim tôi. Trong chốc lát, tôi tưởng như lại nhìn thấy K. đứng bên tôi, say sưa nói về ngành kiến trúc của mình.  Nhưng bề ngoài Tr. không giống K., hoàn toàn không giống. Vóc người anh tầm thước, hơi gầy chứ không cao to như K., da ngăm ngăm đen, nụ cười lúc nào cũng thoáng vẻ tinh nghịch. Có lẽ, cái gây ấn tượng nhất đối với tôi là giọng nói của anh. Tôi không ngờ con trai Sài Gòn lại có giọng nói hay đến vậy : trầm, nam tính nhưng lại khá nhẹ nhàng, ấm áp, tình cảm nhưng không hề suồng sã, tóm lại là một giọng nói trời cho để gây lòng tin ngay phút ban đầu ở người đối thoại ( chính xác hơn là ở người đối thoại thuộc nữ giới).
     - Nghề kiến trúc à ? Vậy chắc là anh thích vẽ lắm nhỉ ? – tôi lại hỏi.
     - Hồi xưa anh cũng ham vẽ, nhưng từ khi học y thì bỏ. Bây giờ chắc không cầm nổi cây cọ nữa rồi, - Tr. cười.                                                       

     Sau này, Tr. phàn nàn rằng anh đã bị tôi “tra tấn” về mặt tâm lý một cách hết sức “dã man”, vì sau khi anh đã thành khẩn khai báo hết mọi tội lỗi rồi mà tôi vẫn còn bắt anh phải sống trong trạng thái căng thẳng chờ đợi bản án mất gần hai tháng.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 24 Tháng Mười, 2008, 07:58:05 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 9)
Điều này Tr. tố lên như vậy sau ngày cưới của chúng tôi ( để kể khổ và đòi bồi thường thiệt hại !), chứ còn trong chính thời gian chờ đợi đó, tôi không hề nhận thấy anh “căng thẳng” bao giờ. Lần nào gặp nhau anh cũng có thái độ bình thản với nụ cười tinh nghịch cố hữu. Chỉ có cái buổi tối quyết định ấy, khi anh đến rủ tôi đi xem phim và tôi bảo : “Để hôm khác đi xem phim được không anh ? Tối nay, em có chuyện muốn nói với anh”, thì Tr. có vẻ hơi bối rối, nhưng anh trấn tĩnh lại ngay và cười đáp : “Em đã quyết định rồi phải không ? Vậy thì em cứ tuyên án đi, anh nghe đây.” “Em muốn kể cho anh nghe một chuyện...một chuyện ngày xưa của em. Em nghĩ là anh nên biết, nếu anh vẫn muốn cưới em.”  “Gì mà trang trọng vậy ? Mà anh có yêu cầu em phải cung khai lý lịch hồi nào đâu ?”, Tr. đùa, nhưng mắt thoáng vẻ lo ngại. “Chính vì anh không yêu cầu nên em mới càng thấy là phải kể cho anh biết, nếu không, em cảm thấy trong lòng không thanh thản”, tôi bảo.
     Tr. ngồi xuống đi văng, cạnh tôi, và tôi bắt đầu kể cho anh nghe câu chuyện của tôi và K., từ cái thời hạnh phúc ở Matxcơva đến những ngày chờ đợi tuyệt vọng ở Hà Nội. Tôi kể rằng suốt năm năm trời tôi không thể hình dung được cuộc đời của mình thiếu K., rằng tôi đã sống với K. một thời gian và cứ đinh ninh rằng sẽ sống với K. cả đời, rằng tôi chỉ thực sự đoạn tuyệt với giấc mơ này khi rời Hà Nội ra đi...Khi dừng lời, tôi nhận ra đầu mình đã tựa vào vai Tr. từ lúc nào không biết. Anh vòng tay ôm tôi thật dịu dàng và nói khẽ : “Anh hy vọng là sống với anh em sẽ được hạnh phúc.” “Em tin chắc là như vậy. Em tin điều đó ngay từ hôm anh nói là anh muốn cưới em”, tôi bảo. “Vậy sao em không nói với anh ngay từ hôm đó ? Sao cứ bắt anh đợi hoài vậy ? Em muốn thử thách anh à ?” “ Không phải thế đâu. Cái chính là vì sống với anh có nghĩa là phải ở lại Pháp cả đời, mà em thì không hiểu mình có chịu đựng nổi cuộc sống lưu vong không. Em khác anh. Em còn bố, còn em trai ở Hà Nội. Em thương bố em lắm. Mẹ em mất vì trúng bom từ hồi hai chị em em còn bé xíu, bố em ở vậy nuôi bọn em bao nhiêu năm trời...”, tôi nói và bật khóc. Tr. khẽ xiết lại vòng tay, ôm tôi chặt hơn, rồi anh lấy mùi soa lau nước mắt cho tôi và bảo :”Bố em sẽ hiểu. Nhất định bố em sẽ hiểu. Mà em vẫn có thể đi về Hà Nội thăm bố được chớ.”

     Tôi viết thư cho em trai trước khi viết thư cho bố. D. lúc đó đã học xong ở Đức và mới trở về Hà Nội được ít lâu. Tôi hỏi ý kiến D. và nhờ nó làm “công tác tư tưởng” cho bố trước. Nhớ đến mảnh giấy ghi những lời dặn dò của bố cách đây hơn mười năm, khi tôi rời Hà Nội lần đầu để đi học ở Nga, nước mắt tôi trào ra, tôi lần lữa mãi vì không có đủ can đảm để viết thư cho bố.
     “Tất nhiên là bố sẽ buồn, nhưng nếu chị thực sự yêu anh Tr. thì em tin là bố sẽ không phản đối đâu. Chị đã hai chín tuổi rồi, chắc chắn là bố không muốn làm lỡ hạnh phúc của chị. Nếu vì thương bố mà chị bỏ anh Tr. về đây để rồi lại khổ sở thì chắc bố còn buồn hơn. Đến bây giờ mà nhắc lại cái hồi chị ở Nga về đi xin việc làm mãi chẳng ra sao, bố vẫn còn thương lắm...”, D. viết.
     “Con đã suy nghĩ kỹ chưa ?” Bố tôi hỏi đi hỏi lại mấy lần câu đó, cả trong lá thư trả lời tôi lẫn trong lần tôi gọi điện thoại về Hà Nội để nói chuyện với bố. Bố bảo rằng nếu tôi đã quyết thì bố cũng không ngăn cản, điều mong muốn duy nhất của bố là tôi hạnh phúc. Nhưng bố tôi chỉ sợ là tôi quyết định vội vàng, sợ tôi không hợp với Tr., vì anh và tôi sinh ra, lớn lên trong những môi trường quá khác nhau.
     Chẳng riêng gì bố tôi, mà ngay cả T.H., cô bạn thân nhất của tôi cũng nghĩ thế. Khi tôi nói chuyện này với T.H. qua điện thoai, giọng cô bạn không giấu được vẻ băn khoăn.
     - Mày đã suy nghĩ kỹ chưa ? Mày mới sang đây chưa lâu nên không biết, chứ tao ở đây lâu rồi tao biết. Dân Việt kiều di tản cũng phức tạp lắm C. ạ, họ nghĩ không giống mình, có những người không ưa du học sinh đâu, thậm chí có khi chỉ nghe mình nói giọng Hà Nội là họ đã ghét, - T.H. nói.
     - Tao không định lấy “dân Việt kiều di tản” chung chung, tao lấy một người cụ thể. Anh Tr. có thể có chuyện nghĩ không giống tao, nhưng chẳng bao giờ bắt tao phải nghĩ giống anh ấy cả. Mà cái chuyện “ghét giọng Hà Nội” chắc cũng tùy người thôi, chứ anh Tr. anh ấy lại bảo rằng giọng con gái Hà Nội trong trẻo, thanh thoát, dễ thương đấy chứ, - tôi đáp.
     - Khi mới yêu nhau nhiều khi không nhận thấy đâu. Với lại, ông ấy là một chuyện, còn gia đình ông ấy nữa chứ...
     - Này, sao tự nhiên mày lại thành bà già kỹ tính thế ? - tôi sốt ruột kêu lên. – Mày với Pascal thì sao nào? Tây với ta còn hiểu nhau được, chả lẽ người trong một nước lại không hiểu nổi nhau.
     - Ấy, tây với ta cũng có lúc không hiểu nhau đấy, nhưng cái quan trọng là còn muốn hiểu, chứ người cùng một nước nhiều khi lại khăng khăng không muốn hiểu nhau đâu C. ạ. Nói thế thôi chứ cũng tùy người, tao có quen vài người giới ấy mà thấy cũng dễ chịu lắm. Mày dẫn hắn đến cho tao xem mặt đi, có khi gặp rồi tao lại đâm ra mê mẩn tâm thần như mày ấy chứ, - T.H. cười hì hì, đấu dịu.
     Tr. không cần mất nhiều thời gian để làm “mê mẩn tâm thần” cô bạn của tôi. T.H. lập tức có thiện cảm với anh ngày từ lần đầu tiên gặp mặt. Sau cuộc gặp gỡ đó, T.H. bảo tôi : “Bây giờ thì tao hiểu sao mày lại mê hắn. Mà sao ông này có giọng nói hay thế nhỉ ?” Tôi cười tủm tỉm : “Tao biết mà. Nghe giọng nói đó là mày phải đầu hàng ngay, đố dám nghĩ xấu gì nữa nhé.”


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 24 Tháng Mười, 2008, 07:59:02 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 9)
Tr. cũng hy vọng là sau khi gặp mặt tôi, mẹ anh sẽ phải “đầu hàng”. Mẹ anh sống ở Paris cùng em gái anh, anh chỉ mới nói chuyện với bà qua điện thoại. Nghe con trai bảo định lấy vợ, bà mừng bao nhiêu, thì khi biết lý lịch cô con dâu tương lai bà bực bội bấy nhiêu. Nhưng Tr. không nhụt chí, anh bảo rằng mẹ anh phản đối chỉ vì những định kiến vốn có từ lâu đối với dân Bắc, rằng những định kiến ấy chắc chắn sẽ tiêu tan khi mẹ anh gặp tôi. Trong con mắt si tình của Tr., tôi xinh đẹp, dịu dàng. Anh lạc quan, cứ tưởng rằng mẹ anh cũng sẽ nhìn tôi với con mắt như anh. Tôi thì thiếu kinh nghiệm, thừa tự tin, nên cũng không lo lắng lắm. Tôi vẫn nhớ hồi còn ở Hà Nội, không ít bậc cha mẹ có con trai đến tuổi lấy vợ coi tôi là con dâu lý tưởng (xinh vừa phải, vẻ mặt dáng điệu rất “con nhà” !). Bạn của bố tôi có khối người đòi “giấm” tôi làm con dâu. Khi tôi ở Nga về đến trình diện bố mẹ K., tôi đã được bố mẹ anh yêu quý ngay như con đẻ, mẹ anh cứ mong ngóng anh về để cưới tôi cho nhanh.
     Nhưng tiêu chuẩn “con dâu lý tưởng” của mẹ Tr. có lẽ không giống các bậc phụ huynh ở Hà Nội. Buổi ra mắt của tôi ở nhà anh là một thất bại ê chề. Mẹ Tr. thậm chí gần như không thèm nhìn mặt tôi nữa, bà sầm sầm bỏ ngay sang phòng khác khi Tr. vừa dắt tôi bước vào nhà, để mặc cho H., em gái Tr., tiếp bọn tôi. Không khí hết sức gượng gạo. H. luống cuống không biết cư xử thế nào cho phải : thương anh, muốn tỏ ra lịch sự với khách, nhưng lại sợ mẹ. Tr. vẫn cố tỏ ra bình thản, nhưng nhìn mắt anh tôi biết anh bực lắm. Ngồi được năm phút, tôi dứt khoát đứng dậy ra về. Tr. cũng đứng dậy theo tôi. H. không giữ, nhưng mẹ Tr. đột nhiên từ phòng bên cạnh bước ra nói bằng một giọng lạnh lùng : “Thằng Tr. ở lại đây má bảo !” Tr. trả lời bằng một giọng cũng lạnh lùng không kém : “Để bữa khác. Hôm nay con mắc bận.” Rồi không để mẹ anh kịp nói gì thêm, anh kéo tay tôi đi luôn. Chúng tôi đi thẳng ra ga, lên tàu về thành phố của mình.
     Ngồi trên tàu, Tr. bảo rằng dù mẹ anh muốn hay không thì anh vẫn cứ cưới tôi, anh đã ba mươi mốt tuổi rồi, mẹ anh không thể quyết định cuộc đời anh thay anh được. Anh vẫn tin rằng mẹ anh thực chất rất thương con, nên thấy chúng tôi hạnh phúc thì bà sẽ hiểu. Rồi anh thú nhận là còn chưa kể với tôi một lý do đã góp phần làm cho mẹ anh có thái độ dữ dội đến thế : hóa ra, bà cũng đã “giấm” sẵn cho mình một cô con dâu lý tưởng. Đó là một cô gái người Sài Gòn di tản như Tr. Hai gia đình quen nhau, muốn thông gia lắm, nhưng khổ nỗi là cả hai bên đương sự lại đều không có cùng ý muốn ấy với các bậc tiền bối. Mẹ Tr. chủ trương “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén” nên ra sức tổ chức những cuộc gặp gỡ “tình cờ” giữa cậu con trai và cô con dâu mơ ước của mình. Trong lúc bà đang hy vọng tràn  trề (hay là hão huyền, theo lời Tr.) thì anh gặp tôi. Tôi trở thành người phải hứng chịu trách nhiệm về chuyện ước mong của mẹ anh bị đổ bể.

     Mấy ngày sau, mẹ Tr. bắn tin rằng bà sẽ từ con trai nếu anh cứ nhất định lấy tôi. Đây là tin bắn trực tiếp qua đường điện thoại, do mẹ Tr. ra lệnh cho H. truyền đạt lại với anh trai. Còn theo một nguồn tin vòng vèo (truyền qua dăm ba miệng người) mà tôi nhận được vài tuần sau đó thì tôi bị mẹ chồng tương lai kết tội là “thâm hiểm”. Bà đã kể lể với rất nhiều người quen ở Paris rằng bà vẫn biết con gái Hà Nội nó gian ngoan chớ không chân thật như con gái Sài Gòn mình, nhưng không ngờ nó thâm hiểm quá, nó giấu biệt đi cái vẻ nanh nọc, đáo để của gái Bắc kỳ, nó làm ra cái bộ hiền lành thục nữ để bỏ bùa mê thuốc lú cho con trai bà (hóa ra là tôi có được mẹ chồng quan sát, vậy mà tôi lại ngờ oan là bà không thèm nhìn mặt tôi). Nhưng đóng kịch giỏi mấy thì cũng chỉ lừa được thằng con trai dại gái của bà thôi, chớ qua mắt bà sao nổi !
     (Bản luận tội này của mẹ chồng đến tai tôi qua miệng T.H. Cô bạn nhanh nhẹn của tôi đã kiếm ngay ra được một người quen có quan hệ quen biết xa gần gì đó với gia đình Tr. ở Paris để điều tra tình hình. T.H. nói cho tôi biết điều này để “đề phòng”, nhưng lại cổ vũ tôi : “Đã quyết lấy thì cứ lấy, sợ gì !”)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 24 Tháng Mười, 2008, 07:59:46 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 9)
Tr. xin nghỉ phép một tuần để đưa tôi đi Italia chơi sau khi đăng ký kết hôn ở tòa thị chính. Thái độ của mẹ anh khiến cho cả hai chúng tôi đều không còn hứng thú tổ chức lễ cưới ồn ào. Tôi mơ ước đưa Tr. về Hà Nội thăm bố, nhưng cũng hiểu rằng giữa lúc mẹ anh đang giận dữ thế này thì việc anh theo tôi về Hà Nội có khác gì đổ thêm dầu vào lửa.
     Chuyến du lịch tuần trăng mật của chúng tôi gợn vệt buồn của một hạnh phúc không được những người thân chia sẻ. Nhưng cũng chính lý do đó lại làm cho nó đượm sắc màu lãng mạn và hương vị quyến rũ đặc biệt của trái cấm. Chỉ có một tuần mà Tr. kéo tôi đi khắp nơi : Venezia, Firenze, Roma và thậm chí cả Verona, quê hương của Romeo và Juliette, một thành phố nhỏ miền bắc Italia, kiến trúc chẳng có gì thật đặc biệt nhưng mỗi đường phố đều nhuốm vẻ huyền bí dịu dàng nhờ cái huyền thoại về cặp tình nhân nổi tiếng thời Trung Cổ.
     Ngày cuối cùng trước khi trở về Pháp, chúng tôi đứng trên tháp chuông cao chót vót của tòa thánh Vatican, nhìn xuống đường phố Roma với những dòng xe chạy ngược xuôi đã bị độ cao biến thành bé xíu, trông ngộ nghĩnh như ở xứ sở tí hon mà Guliver lạc đến. Bất chợt, choáng váng, chóng mặt trước khoảng không hun hút, tôi vội nép sát người vào Tr. và tự nhiên thấy hạnh phúc vô cùng khi cảm nhận phía sau đầu mình bờ vai vững chắc của anh, quanh người mình vòng tay ấm áp của anh. Tôi ngước mắt nhìn Tr., nhoẻn cười và phác một nụ hôn trên môi. Anh lập tức cúi xuống hôn tôi rồi nhìn tôi bằng ánh mắt “Romeo” đến nỗi tôi đột ngột rùng mình. Hình như...hình như tôi đã từng gặp một cái nhìn hệt như thế này ở một nơi nào đó, lâu lắm rồi... Matxcơva, một chiều buốt lạnh... Tôi vội úp mặt vào vai Tr. để giấu giọt nước mắt bỗng trào ra ngoài ý muốn. Trong lồng ngực tôi, quả tim như thắt lại, vật vã: nó biết rằng tôi yêu Tr., yêu thực sự, vậy mà tại sao một góc sâu thẳm trong lòng tôi vẫn chẳng thể quên K. ?


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 24 Tháng Mười, 2008, 08:00:28 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 9)

     Đi Italia về được hơn một tháng thì tôi ốm lăn ốm lóc. Mới hưởng cái thú được vợ chiều chuộng cơm bưng nước rót có ít ngày, nay đã phải đổi phận xuống làm đầu bếp, đi chợ, nấu cơm, hầu vợ ốm..., vậy mà mặt mũi Tr. rạng rỡ vì hạnh phúc. Con mắt bác sĩ của anh nhanh chóng nhận ra ngay, trước cả tôi, là tôi ốm bệnh gì.
     Khi thằng con trai đầu lòng của chúng tôi ra đời, bà nội nó từ Paris gửi xuống cho cháu một con gấu bông to tướng và mấy bộ áo liền quần xinh xắn. Thằng cu chưa đủ trình độ để phấn khởi vì được quà, nhưng ba nó thì mừng đến rơm rớm nước mắt : một năm qua, anh vẫn ngấm ngầm đau khổ vì xung đột với mẹ, giờ đây, anh hiểu rằng bà đã nhượng bộ, bà không thể “từ” con cháu nổi. Tr. lập tức thu xếp đi Paris, mang theo một lô ảnh của con trai. Khi trở về, anh kể với tôi rằng hai mẹ con anh đã có một cuộc nói chuyện rất dài. Mẹ anh khóc lóc, mắng mỏ, trách móc, nói dỗi ..., nhưng khi nhìn ảnh thằng cháu đích tôn thì bà mê lắm (làm sao mà không mê được : nó giống ba nó như đúc ). Tuy bà vẫn chưa muốn nghe nói đến con dâu, nhưng Tr. rất ung dung, anh bảo là bà muốn cháu thì trước sau cũng phải làm lành với mẹ nó.
     Tôi gửi ảnh con trai về khoe với ông ngoại và cậu nó ở Hà Nội. Bố tôi cũng thích mê thằng cu mũm mĩm (tuy nó chẳng giống mẹ tí nào !). Nói chuyện với bố qua điện thoại, tôi hứa : “Đợi cháu cứng cáp thêm một chút, con sẽ đem nó về Hà Nội thăm ông”.
     Nhưng tôi đã không bao giờ thực hiện được lời hứa ấy. Bố tôi mất đột ngột khi thằng cháu ngoại đầu tiên của cụ mới được bốn tháng tuổi.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 24 Tháng Mười, 2008, 08:01:27 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 9)
     D. gọi điện báo cho tôi tin bố mất vào lúc nửa đêm. Đêm hôm đó, Tr. phải đi trực ở bệnh viện, tôi ở nhà một mình với con trai. Vừa dỗ được thằng bé ngủ lại sau bữa bú, tôi ngả lưng xuống giường, mắt ríu lại vì thiếu ngủ, thì đột nhiên một hồi chuông điện thoại vang lên. Ở đầu máy bên kia, D. nghẹn ngào bảo :”Bố ốm nặng lắm, khó lòng qua khỏi, chị về ngay đi...” Tôi cuống quýt hỏi : “Bố ốm bệnh gì ? Từ lúc nào ? Có cần thuốc gì để chị đi kiếm mang về ngay ?” D. khóc nức lên : “Bố mất rồi... Hai tiếng trước... Chị về ngay để còn kịp làm tang lễ. Ở nhà chỉ còn đợi chị về thôi .”
     Tr. định đưa tôi và con trai về Hà Nội, nhưng thời gian gấp quá, chỉ kiếm được một vé máy bay để hai hôm sau thì bay ngay, chúng tôi đành quyết định là tôi về một mình. Tôi không kìm được nỗi lo cho con, thằng bé mới có bốn tháng đã phải xa mẹ, nhưng Tr. bảo tôi là không có gì phải lo hết cả, vì thằng cu lúc nào cũng có bác sĩ nhi khoa kè kè ở bên, ba nó chữa bệnh cho con người ta mãi rồi, chả lẽ không chăm nổi con mình. Rồi anh gọi điện thoại lên Paris nhờ mẹ anh xuống trông con giúp những lúc anh phải làm việc ở bệnh viện, bà đồng ý ngay.
   


     D. đợi tôi ở sân bay Nội Bài. Nó kể rằng bố tôi vào viện được một tuần thì mất.
     - Sao không báo ngay cho chị biết khi bố mới vào viện ? - tôi trách.
     - Tại bố không cho. Bố bảo bố ốm thường thôi, chị thì lại có con nhỏ, nói chị chỉ thêm lo chứ chẳng được việc gì. Em cũng không ngờ bố ốm nặng thế.
     - Bố bị bệnh gì vậy ?
  - Bệnh tim. 
     - Sao lại thế được nhỉ ? Từ trước đến giờ bố có bị bệnh tim bao giờ đâu ?
     - Hơn một năm nay bố không được khỏe như trước nữa đâu. Bố hay kêu mệt. Em nghĩ có lẽ bố đã có vấn đề về tim rồi, nhưng bố cứ chủ quan. Cũng tại em nữa, em cũng chủ quan nốt ...
     Hơn một năm nay... Có nghĩa là từ khi tôi lấy chồng...



     Kể từ ngày hôm đó, tôi biết rằng gánh nặng này sẽ đi theo tôi suốt cả cuộc đời. Nó ám ảnh tôi trong những đêm không ngủ, nó bất chợt hiện ra mọi lúc mọi nơi : khi hạnh phúc bên chồng con, lúc lẩn tránh tất cả để co lại với nỗi đau của riêng mình ...  Không bao giờ tôi có thể xóa bỏ  nổi mặc cảm rằng bố tôi mắc bệnh tim là do tôi, là do quá đau buồn về việc tôi lấy Tr. và ở lại Pháp.
     Trong lễ tang bố tôi, tôi nhìn thấy bố mẹ K. Hai ông bà đến nói với tôi vài câu chia buồn. K. không có mặt ở đó. Tôi nghĩ chắc là anh vẫn còn ở Ba Lan. Nhưng tôi không muốn hỏi bố mẹ anh về chuyện này, bây giờ không phải lúc. Vả lại, chuyện ấy có gì quan trọng với tôi nữa đâu ?
     Sau tang lễ một tuần, tôi rời Hà Nội. Dọc đường ra sân bay, tôi nhìn những phố xá thân quen với cặp mắt vô hồn, tự hỏi chẳng biết có khi nào trở lại đây nữa không ? Tôi có còn gì ở Hà Nội nữa đâu ngoài những kỷ niệm đau buồn. Ở đây, tôi đã mất tất cả : mẹ, bố, một tình yêu đầu đời, những hy vọng về một hạnh phúc tương lai bình dị ... Tự nhiên, trong lòng tôi trào lên cảm giác oán giận thành phố chôn rau cắt rốn của mình. Một sự oán giận bất công, vô lý, tôi biết vậy. Nhưng con tim đau đớn có bao giờ chịu lắng nghe tiếng nói của lý trí.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 24 Tháng Mười, 2008, 08:02:12 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 9)
Ba tháng sau ngày bố tôi mất, D. sang Đức dự một hội nghị khoa học rồi ở lại đó luôn. D. kiếm được việc làm ra tiền rất khá ở Đức, lại có người yêu đang học đại học ở đây, nên chẳng muốn về Hà Nội nữa. D. bảo tôi là đáng lẽ nó đã ở lại Đức ngay từ khi học xong, chỉ vì thương bố mà về.
     Tôi gọi điện thoại sang Đức cho D., hỏi thăm việc giải quyết tình hình nhà cửa. Nói chuyện một lát, tự nhiên D. sực nhớ ra :
     - Chết thật ! Nhiều việc quá nên em quên mất. Anh K. dặn đi dặn lại em là chuyển lời chia buồn đến chị đấy.
     - Em gặp anh K. ở đâu ? - tôi bàng hoàng hỏi.
     - Ở nhà mình. Chị quay lại Pháp được một hôm thì anh ấy đến. Anh ấy bảo là đi công tác trong Nam ra, biết tin là anh ấy đến ngay. Không được gặp chị, anh ấy buồn lắm.
     - Anh K. về Hà Nội từ lúc nào vậy ?
     - Lâu rồi. Sau khi em về nước quãng nửa năm.
     - Anh ấy sống thế nào, em có biết không ? – tôi ngập ngừng hỏi.
     - Hình như cũng vất vả. Chạy hết chỗ này đến chỗ khác. Khi em sang đây thì nghe nói anh ấy đang định lập công ty cùng với mấy ông bạn hay sao ấy, chẳng biết có khá hơn được không.
     Do dự một lát rồi D. nói thêm :
     - Chị biết không, anh K. vẫn chưa lấy vợ.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 24 Tháng Mười, 2008, 08:03:09 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 9)
Nhiều năm sau đó, thỉnh thoảng tôi vẫn được biết tin tức của K. qua em trai tôi. Ở Berlin, tình cờ D. lại làm việc cùng chỗ với S., bạn khá thân của K. từ hồi học phổ thông (tôi đã từng gặp S. dạo ở Mat xcơva, lúc đó anh đang học ở Đức, sang Nga chơi với K. trong kỳ nghỉ). Chính là qua S. mà vài năm sau tôi biết được tin K. lấy vợ. Một cô gái trẻ mà anh quen ở trong nước, không phải là người đã sống với anh ở Ba Lan.
     Chuyện gì đã xảy ra khiến K. từ Ba Lan về nước một mình ? Tại sao suốt thời gian ở Ba Lan anh nhất quyết không viết thư cho tôi ? Anh có nghĩ đến tôi không khi quyết định về nước ? Anh biết tin tôi lấy chồng từ khi ở Ba Lan hay đến lúc về Hà Nội mới hay ?
     Quá nhiều câu hỏi không có câu trả lời chất chứa trong đầu tôi. Tôi tự nhủ rằng mình và K. đều đã có hạnh phúc riêng, chẳng còn gì để phải vương vấn về nhau nữa. Vậy mà đôi khi những câu hỏi ấy vẫn cứ ập về. Tôi không sao gạt khỏi hẳn đầu mình những ý nghĩ về K. được.
(hết chương 9)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 27 Tháng Mười, 2008, 08:33:04 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Chương 10)
                                                                         10

     Lan Chi không sao gạt được khỏi đầu mình những ý nghĩ về Kiên kể từ hôm đặt chân đến Berlin. Mặc dù cô ra sức tự khẳng định với mình rằng mục đích chính của chuyến đi này chỉ là thăm gia đình cậu em trai, có “chuyện gì khác” thì cũng chỉ là nhân thể, thế nhưng ngay từ đêm đầu tiên ở đây, trằn trọc khó ngủ vì cảm giác lạ nhà, trong đầu cô chốc chốc lại lởn vởn một câu hỏi : ”Không biết giờ này Kiên đã ở Berlin chưa nhỉ ?”
     Cũng khó mà không nghĩ về cái “chuyện gì khác” ấy, khi biết rằng rất có thể hiện giờ Kiên đã ở đây, trong chính thành phố này, cùng hít thở bầu không khí này, cùng ngắm vòm trời đầy sao này bên ngoài cửa sổ... Và rất có thể sáng mai, một hồi chuông cửa sẽ vang lên, cô sẽ ra mở cửa và sẽ thấy trước mắt mình là một bông hồng nhung đỏ thắm.
     Bắt quả tang mình đang mơ mộng vẩn vơ như vậy, tự nhiên Lan Chi thấy hơi xấu hổ, cô tự mắng mình là “cải lương” rồi tự dội cho mình một gáo nước lạnh : “Vớ vẩn thật ! Chắc gì cái tin mà Tài “ủng” tung ra đã đúng. Tin ai chả tin, lại đi tin cái mồm dẻo như kẹo kéo ấy. Vả lại, nếu Kiên có mặt ở Berlin thời điểm này thật thì cũng chắc gì anh ấy đã biết là mình đang ở đây. Mà nếu anh ấy biết mình đang ở đây thì cũng chắc gì anh ấy đã muốn tìm gặp mình. Mỗi người một phận rồi, còn hoa cúc hoa hồng gì nữa !”
     Tự trấn áp mình như vậy cho lương tâm yên ổn thôi, chứ thực ra Lan Chi cũng biết rằng những mơ mộng của cô không hẳn là không có cơ sở. Ngay từ khi mới dự kiến chuyến đi này, cô đã nhẩm tính rất nhanh rằng nếu Kiên đến Berlin thì thể nào anh cũng phải đến chỗ Sơn, ông bạn thân của anh ở thành phố này. Sơn thì hàng ngày đều gặp Duy ở chỗ làm việc, nhất định phải biết chuyện Lan Chi từ Pháp sang thăm em trai. Chẳng có lý do gì mà Sơn lại không nhanh nhảu truyền ngay cái tin ấy cho Kiên để làm quà. Diễn biến tiếp theo thế nào thì... hạ hồi phân giải.
     “Hạ hồi” không diễn ra nhanh chóng lắm : ngày hôm sau, lại ngày hôm sau, rồi thêm ngày hôm sau nữa, vẫn chẳng thấy động tĩnh gì. Nhưng Lan Chi cũng không có thời gian để bận tâm nhiều đến chuyện đó : vừa mới sang Đức được vài hôm, cô còn đang rối rít tít mù với con, với cháu, với em trai em dâu. Ban ngày thì cùng em dâu dắt một bầy năm đứa vừa con vừa cháu đi chơi. Tối đến thì hàn huyên với em trai, đủ thứ chuyện trên trời dưới biển của mấy năm xa cách. Hai chị em vẫn thường xuyên liên lạc với nhau qua điện thoại và e-mail, nhưng với lối trao đổi ngắn gọn này thì có nhiều chuyện dài dòng chẳng tiện nói ra, bây giờ gặp nhau mới là lúc dốc bầu tâm sự.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 27 Tháng Mười, 2008, 08:33:43 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 10)
     “Bầu tâm sự” của Duy chủ yếu là những chuyện liên quan đến Thu Uyên (vợ Duy). Lúc vừa mới bước vào nhà, Lan Chi đã hơi sửng sốt khi nhìn thấy vẻ mặt mệt mỏi, buồn bã của em dâu. Chẳng còn gì giống cô gái tươi roi rói, mắt long lanh hạnh phúc mà Lan Chi gặp lần đầu trong lễ cưới của em trai cách đây dăm năm nữa. Ở thêm vài hôm thì lại chứng kiến thêm nhiều chuyện lạ : thỉnh thoảng, lại thấy cô em dâu thắp hương xì xụp khấn vái thần thánh gì đó với một vẻ hết sức thiết tha trước cái bàn thờ nhỏ kê ở góc phòng. Rồi đến bữa ăn, sau khi đã trổ tài xào nấu đủ món thơm điếc mũi để thết chị chồng xong, ngồi vào bàn, Thu Uyên lại dọn riêng ra cho mình một đĩa rau luộc và bảo : “Cả nhà cứ ăn ngon miệng nhé. Hôm nay em ăn chay.”  Lan Chi ngạc nhiên đưa mắt nhìn Duy, nhưng cậu em trai ra hiệu cho cô cứ ăn đi, đừng bận tâm đến chuyện đó, cho nên cô đành giả bộ toàn tâm toàn ý tập trung vào bữa ăn, nhưng trong lòng thì cứ thắc mắc mãi không yên. Đợi lúc chỉ còn hai chị em ngồi lại với nhau, Lan Chi hỏi ngay : “Này, sao tự nhiên Thu Uyên lại cúng vái ăn chay thế nhỉ ? Cái này là từ trước hay mới đây thôi ? Vợ chồng em có chuyện gì trục trặc không đấy ?” Duy thở dài : “Mới gần đây thôi. Bọn em thì chẳng có chuyện gì. Có chuyện là chuyện gia đình Uyên ở Hà Nội ấy chứ.”


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 27 Tháng Mười, 2008, 08:34:36 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 10)

     Gia đình Thu Uyên ở Hà Nội mấy năm nay không hiểu sao cứ bị vận hạn trút xuống đầu tới tấp. Đầu tiên là việc cậu em rể của cô chả rõ làm ăn thế nào mà tự dưng vỡ nợ. Chuyện hết sức mù mờ, Duy không hiểu nổi vì ngay cả Thu Uyên cũng chẳng hiểu gì mấy. Chỉ biết rằng cậu em rể này mấy năm trước thì làm ăn vô cùng phát đạt, tiền của thu về như nước (cũng chẳng rõ bằng cách nào), nhà xây cao ngất ngưởng, cô vợ (em gái của Thu Uyên) vốn là giáo viên cấp hai thì đẻ con xong bèn bỏ việc luôn, chỉ ở nhà ôm con, quản lý ôsin và đi “shopping” để tiêu tiền cho bớt nặng túi. Nhưng tiền đến nhanh nhẹn như thế nào thì tiền đi cũng chóng vánh như vậy. Trong lúc Thu Uyên còn đang hết sức ngưỡng mộ tài làm kinh tế của cậu em rể, thỉnh thoảng vẫn đem ra để treo gương sáng cho chồng mình noi theo, thì tự nhiên cô nhận được lá thư kêu cứu của mẹ gửi từ Hà Nội. Trong thư, mẹ Thu Uyên cho biết rằng công việc làm ăn của Tùng, em rể cô, đã  bị đổ bể, do cậu ta vừa bị lừa trong một phi vụ làm ăn lớn ( hay là chính cậu ta đi lừa người khác rồi bị phát giác - điều này chỉ là nghi vấn thôi chứ vợ chồng Duy không xác định được, vì mẹ Thu Uyên nói hết sức lấp lửng). Chỉ có điều chắc chắn là cái nhà cao ngất ngưởng đã bị tịch thu, Tùng nợ ngập cổ đang đợi ngày ra tòa, và Trâm (em gái Thu Uyên) thì dọa rằng nếu chồng phải đi tù thì cô sẽ tự tử. Mẹ của Thu Uyên viết bằng một giọng vừa ra lệnh vừa van xin, giục vợ chồng cô gửi tiền về để cứu em, chứ chẳng lẽ anh chị sống sung sướng mà nỡ để gia đình em nó tan nát, con Trâm nó có làm sao thì mẹ cũng chẳng thiết sống làm gì. Đọc thư, Thu Uyên hoảng loạn tâm thần, cuống cuồng bắt chồng vét hết sạch số tiền dành dụm trong nhà băng ( tích cóp nhằm mục đích mua nhà ) để gửi về trả nợ cho em rể. Ai ngờ, anh chị kiếm tiền ở tây không giỏi bằng cậu em rể tiêu tiền ở nhà. Hy vọng mua nhà của vợ chồng Duy vỡ tan như bong bóng xà phòng mà vẫn không cứu được Tùng khỏi cái cảnh vào nhà đá ngồi bóc lịch. Em gái của Thu Uyên không tự tử nhưng khóc lóc ôm con về ở với bố mẹ, việc làm chưa có, tiền cũng không. Gia đình tự nhiên lâm vào cảnh cùng quẫn : bố mẹ Thu Uyên xưa nay vốn không có nguồn thu nhập nào khác ngoài lương hưu và trợ cấp của con, cả con phát đạt trong nước lẫn con kéo cày ở nước ngoài. Nay không những đã mất đi một nguồn quan trọng, mà lại phải gánh thêm con gái và cháu ngoại tay trắng về ăn bám. Tất nhiên, sức các cụ thì tự thân vận động hãy còn mệt, làm sao gánh nổi ai. Lại phải trông chờ vào con gái con rể ở Đức thôi.
     Vợ chồng Duy nhận thêm trách nhiệm chu cấp cho một gia đình bốn miệng ăn ở Hà Nội đúng vào thời điểm Thu Uyên vừa mới sinh đứa con thứ hai. Lúc trước, cô vốn đã chỉ có chỗ làm việc nhì nhằng, thu nhập không đáng kể, nên khi có thêm bé thứ hai, vợ chồng Duy tính toán thấy Thu Uyên đi làm chẳng bõ tiền thuê người trông con, nên bèn quyết định để cô thôi việc, ít nhất là vài năm khi con còn nhỏ. Nhân khẩu tăng, tiền không những không nở ra mà còn teo lại, vốn liếng trong nhà băng thì đã vét sạch cả rồi, đương nhiên vợ chồng Duy không có đủ khả năng để trợ cấp cho gia đình Thu Uyên ở Hà Nội với mức độ như mong muốn. Những lá thư nhà bắt đầu bay sang tới tấp, mỗi lá thư có ít nhất một câu chuyện đau lòng về cuộc sống của gia đình Thu Uyên ở Hà Nội, kèm theo dăm câu ám chỉ bóng gió đến những kẻ bội bạc, ích kỷ, chỉ biết sướng cái thân mình ở nước ngoài mà chẳng thiết gì đến những người ruột thịt ở quê hương. Mỗi lần đi làm về, chỉ cần nhìn thấy mắt vợ đỏ mọng lên là Duy biết ngay rằng vừa mới có thư từ Hà Nội gửi đến. 
     Tai họa chưa dừng lại ở đó. Cách đây hơn nửa năm, bố Thu Uyên đột nhiên bị tai biến mạch máu não, cả nhà đã có lúc tưởng cụ không qua khỏi, may được Giời Phật phù hộ nên cụ thoát khỏi tay tử thần, nhưng vẫn phải nằm liệt giường liệt chiếu. Nhà đã quẫn lại càng quẫn : bao nhiêu khoản chi tiêu nảy ra, nào tiền thuốc thang, nào tiền thuê nguời chăm sóc bố..., mà nguồn trợ cấp thì không có cách gì sinh sôi nảy nở thêm ra được. Thấy Thu Uyên khóc nhiều quá, Duy xót ruột nên chạy đi vay tiền cho vợ về Hà Nội thăm bố ốm, tất nhiên ngoài tình cảm ra còn phải mang theo về được một khoản kha khá để đỡ đần các cụ ở nhà. Trở lại Berlin, vợ Duy đã có vẻ thanh thản hơn. Nhưng chỉ vài tháng sau, khoản tiền ở Hà Nội tiêu xong thì sự thanh thản của Thu Uyên cũng hết. Mắt cô lại đỏ mọng lên mỗi lần nhận được thư nhà. Những câu chuyện kể trong thư giờ đây không chỉ dừng lại ở chỗ đau lòng mà đã lên đến mức thê thảm. Những câu ám chỉ bóng gió đã chuyển thành những lời mắng mỏ, đay nghiến. Chỉ còn một chỗ bấu víu duy nhất trong lúc tuyệt vọng, mẹ Thu Uyên không thể nào hiểu nổi rằng nước Đức không phải là cái kho của “Alibaba” và túi tiền của con gái con rể bà không giống như nồi cơm Thạch Sanh. Tiền càng chậm gửi thì độ sâu sắc trong thư của bà càng tăng lên, không còn là thể văn kể chuyện thông thường mà đã nâng lên đến tầm triết lý với những lời cảnh báo về cái tòa án lương tâm khủng khiếp sẽ chờ đợi những kẻ bất hiếu, nhẫn tâm bỏ rơi bố mẹ khốn khổ ở trong nước để hưởng giàu sang phú quý một mình ở nước ngoài.
     Thế nhưng, trái với dự kiến của mẹ Thu Uyên, tra tấn lương tâm hóa ra chẳng phải là một biện pháp kinh tế tốt để làm nảy ra tiền. Dù có sợ vạc dầu sôi sùng sục nơi địa ngục đến mấy thì vợ chồng Duy cũng chịu chết, không biết làm sao kiếm ra đủ tiền để đáp ứng nổi nhu cầu của gia đình Thu Uyên ở Hà Nội. Vợ Duy không chỉ khóc mỗi lần nhận được thư nhà nữa, cô bắt đầu rơi vào trạng thái thẫn thờ thường xuyên. Khổ sở vì cảnh nhà, đau đớn vì những lời mắng mỏ của mẹ, mặc cảm vì để chồng phải bao bố mẹ mình quá nhiều, chán chường vì cuộc sống của mình với chồng con ở Đức tự nhiên trở thành chật vật..., Thu Uyên suy sụp thần kinh hoàn toàn. Duy cố gắng động viên an ủi vợ, nhưng chính bản thân anh nhiều lúc cũng bực bội chán nản, chẳng đủ sức làm chỗ dựa tinh thần cho Thu Uyên. Vậy là từ hai tháng nay, Thu Uyên bắt đầu lập bàn thờ ở nhà và chăm chỉ đi lễ. Thấy vợ ăn chay, tụng niệm, thoạt đầu Duy cứ tưởng Thu Uyên quy đạo Phật, sau mới rõ là cô theo một thứ đạo đa thần, cúng vái từ Giời Phật đến thần linh ma quỷ, đối với vị nào cũng thành tâm như nhau . Kinh kệ chả thuộc câu nào, cũng chẳng biết chính xác đối tượng thờ cúng của mình là ai nữa, Thu Uyên chỉ nghĩ ra được độc có mỗi một kiểu khấn duy nhất là “xin các vị linh thiêng phù trợ, giải hạn cho gia đình con”. Nghe bảo ăn chay giúp cho thể xác phàm tục trở nên thanh thoát, mà càng thanh thoát thì càng dễ làm động lòng các “các vị” hơn, vậy là Thu Uyên cũng ăn chay. Nhưng cô không câu nệ ngày rằm hay mùng một gì cả, mà cứ vài hôm lại ăn chay một lần, tùy theo tâm trạng, với chủ thuyết rằng càng ăn chay nhiều càng tốt. Người truyền cho Thu Uyên chủ thuyết này là chị Ngoan, một chị hàng xóm cùng phố, chị này ăn chay theo lịch ba trăm sáu mươi nhăm ngày một năm.
     Ảnh hưởng của chị Ngoan đối với Thu Uyên trong thời gian gần đây làm cho Duy vừa ngạc nhiên, vừa lo sợ. Chị này vốn thuộc diện “xuất khẩu lao động”, tốt bụng nhưng đơn giản, lại hơi quê mùa, cho nên trước đây vợ Duy chỉ có quan hệ xã giao với chị như với một người đồng hương cùng phố, chứ chưa bao giờ thân thiết. Thế rồi cách đây quãng hai năm, một lần gặp chị Ngoan ngoài phố trong tình trạng đột nhiên không còn sợi tóc nào trên đầu, Thu Uyên sửng sốt dừng lại hỏi thăm. Tỉ tê trò chuyện một lúc, cô bàng hoàng được biết rằng chị mới cạo đầu sau khi nhận được tin thằng con trai duy nhất của mình gửi ông bà ngoại ở quê nuôi vừa bị chết đuối. Đi “xuất khẩu” ở Đức bị chồng ở nhà bỏ, mấy năm nay chị Ngoan vừa ky cóp tiền để gửi về nuôi con và nuôi bố mẹ ở trong nước, vừa tìm cách đón con sang. Nhờ người dắt mối, chị đã tìm được một ông tây đồng ý làm đám cưới giả với chị, giá cả phải chăng. Tiền đã trao, đến lúc sắp sửa tiến hành làm thủ tục giấy tờ thì đột nhiên ông tây lại ngãng ra, trả lại tiền, không chịu làm chồng hờ nữa. Hỏi đi hỏi lại mãi, tốn bao nhiêu thời gian, ông tây mới tiết lộ ra rằng tại chị vừa già vừa xấu, cho nên ông thấy khoản tiền ấy chẳng bõ công ông phải xấu hổ vác mặt đi làm các thủ tục kia (“Mà lão còn già và xấu gấp mấy mình ấy chứ”, chị Ngoan căm giận kể lại như vậy, không biết trong nhận xét này có bao nhiêu phần chủ quan.) Chẳng còn cách nào khác, chị Ngoan lại phải mặc cả trả thêm tiền, rồi cuối cùng cũng nhận được cái giấy xác nhận là vợ (hờ) của ông tây. Đang mừng rỡ chuyển sang giai đoạn làm giấy tờ để đón con trai sang Đức thì nhận được tin thằng bé chết đuối. Quá đau đớn, chị cạo trọc đầu, ăn chay, và ngoài giờ làm việc ra thì dồn toàn bộ tâm huyết vào việc lễ bái.
     Câu chuyện thương tâm của chị Ngoan làm Thu Uyên xúc động đến nỗi từ đó thỉnh thoảng cô lại chủ động ghé vào thăm chị, hỏi xem chị có cần giúp đỡ gì không. Chị Ngoan bắt đầu “truyền đạo” cho Thu Uyên. Mới đầu, vợ Duy chỉ nghe chị Ngoan vì lịch sự, nhưng rồi gần đây, sau những biến cố xảy ra với gia đình mình, cô bèn theo chị đi lễ. Nếu không vì Duy vừa dỗ dành, vừa dọa dẫm thì Thu Uyên còn định noi gương chị Ngoan mà cự tuyệt thịt cá hoàn toàn. Bây giờ, một trong những nỗi ám ảnh lớn của Duy là một hôm nào đó đi làm về nhà sẽ thấy vợ đón mình với cái đầu trọc lốc.
     “Chị nói chuyện với Uyên hộ em đi, - Duy năn nỉ Lan Chi. – Em thì chịu rồi, chẳng biết nói làm sao cho Uyên tỉnh lại. Chị khách quan hơn, lại học ngành tâm lý, nhiều kinh nghiệm, có khi Uyên nghe chị đấy.” “Ừ, chị sẽ cố thử xem sao, - Lan Chi hứa. – Nhưng chị nghĩ, nếu lễ bái một chút mà làm cho Uyên nó thanh thản hơn thì có lẽ cũng chẳng hại gì. Cái chính là đừng có quá đà, đừng có trở thành mê muội thôi. Chứ ai mà chẳng cần một chỗ dựa tinh thần hả Duy. Em biết không, cái hồi bố mới mất nhiều lúc chị tưởng như không chịu nổi, giá có một cái gì để bấu víu vào thì có khi cũng đỡ khổ hơn.”


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 27 Tháng Mười, 2008, 08:35:50 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 10)
     Đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dùi mài kinh sử, Lan Chi được giao nhiệm vụ áp dụng kiến thức chuyên môn tâm lý học của mình vào một đối tượng cụ thể “có vấn đề”. Mục đích đặt ra là phải làm giảm bớt ảnh hưởng của chị hàng xóm trong địa hạt tư tưởng của cô em dâu. Chuẩn bị tinh thần hết sức kỹ càng, nhưng cuối cùng hóa ra gợi chuyện vợ Duy hoàn toàn không phải khó. Lan Chi chỉ vừa mới thử lựa lời hỏi han vài câu mà mắt cô em dâu đã lập tức rưng rưng : “Em biết anh Duy không thích em như thế này đâu, nhưng nhiều lúc em không có cách nào chịu nổi...” Thế rồi, chị chồng em dâu ngồi trò chuyện hết cả một buổi chiều, quanh đi quẩn lại cũng chỉ đến “đời là bể khổ”thôi chứ chả có chân lý gì mới mẻ. Vậy mà Thu Uyên hình như cũng nhẹ nhõm hẳn đi  khi trút ra được những nỗi niềm bao lâu dồn nén trong lòng : cảm giác bất lực trước nỗi khổ của người thân, mặc cảm do hàng trăm ngàn cây số cách xa mà mình đã biến thành kẻ ngoài cuộc, nỗi đau đớn khi ngay cả những người ruột thịt nhất cũng không hiểu và oán giận mình, tâm trạng thắc thỏm lo âu khi lâu không nhận được thư nhà, nhưng đến khi cầm lá thư trên tay thì lại không đủ cam đảm để bóc ra đọc... “Rồi còn bao nhiêu nỗi lo sợ vơ vẩn nữa, chị biết không, mỗi khi nghe chuông điện thoại vào một giờ bất thường là em lại sợ đến thắt cả tim, không muốn nhấc máy lên, chỉ lo phải nghe tin xấu ...” “Chị hiểu chứ, chị đã trải qua nỗi sợ ấy rồi, chị đã từng nhận một hồi chuông điện thoại réo lên vào lúc nửa đêm, và sau đó không bao giờ còn tìm lại được sự bình yên như trước nữa... Nhưng tất cả những điều mà em vừa nói đó : cái cảm giác bất lực ấy, cái mặc cảm ngoài cuộc ấy, cái nỗi đau không được hiểu ấy... hình như chẳng phải của riêng ai nữa đâu, nó đã là một phần của cuộc sống tha hương rồi, Uyên ạ.”


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 27 Tháng Mười, 2008, 08:36:32 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 10)
Ngoảnh đi ngoảnh lại, một tuần lễ ở Berlin trôi vèo qua lúc nào không biết. Trung đã ba lần gọi điện thoại đến nhà Duy, hai lần đầu chỉ để biết tình hình vợ con, nhưng đến lần thứ ba thì anh hỏi : “Mấy mẹ con có định về sớm hơn không, hay vẫn ở lại hết cả hai tuần ?” “Em cũng chưa quyết định, - Lan Chi do dự nói. - Mấy đứa trẻ chơi với nhau vẫn vui lắm, chưa muốn về đâu. Thôi, để em xem thế nào rồi vài hôm nữa em gọi lại cho anh nhé.”
     Hết một tuần rồi mà vẫn chẳng có tin tức gì của Kiên, Lan Chi bắt đầu phân vân, cô phỏng đoán : “ Hay là vì  hiện nay Sơn không có mặt ở Berlin, cho nên chẳng có ai báo cho Kiên biết chuyện mình đến thăm Duy cả ?” Để kiểm tra lại điều này, trong bữa ăn tối, Lan Chi làm ra vẻ tình cờ hỏi Duy :
     - À, anh Sơn có làm việc ở chỗ em nữa không hả Duy ? Nếu gặp thì bảo là chị gửi lời thăm anh ấy nhé.
     - Anh ấy vẫn làm cùng chỗ với em. Hôm nọ, em có kể chuyện chị với lũ nhóc đến đây chơi, anh ấy cũng hỏi thăm chị mà em quên không nói lại, - Duy đáp.
     “Vậy chắc là Kiên không đến Berlin rồi. Nếu không, ít nhất Sơn cũng phải báo cho Duy tin đó”, Lan Chi nghĩ. Tự nhiên, cô thấy bực bội với chính mình. “Sao mình lại dễ tin đến thế nhỉ, nghe lão Tài “ủng” nói vu vơ một câu như vậy mà cũng tin ngay được.”
     Còn sáu ngày nữa là hết tháng bảy. Tuy lũ trẻ con vẫn quấn quýt nhau nô đùa cả ngày không biết chán ( kể cũng lạ : ngôn ngữ giao tiếp của chúng là một sự pha trộn hết sức liều mạng ba thứ tiếng Việt-Pháp-Đức, vậy mà chúng hiểu và thân nhau rất nhanh), nhưng Lan Chi đã nghĩ đến chuyện về sớm vài hôm để làm vui lòng chồng. “Ngày mai, mình sẽ ra ga xem mua vé tàu thế nào, rồi sau đó sẽ gọi điện báo ngay cho anh ấy”, cô dự tính.
     Nhưng Lan Chi chưa kịp gọi điện nói chuyện với chồng thì chuông điện thoại đã gióng giả vang lên trong bữa ăn tối hôm đó ở nhà Duy. Duy đi sang phòng bên cạnh nhấc máy nghe rồi gọi vọng ra :
    - Chị Chi ơi ! Có điện thoại cho chị đấy !
    - Anh Trung lại gọi phải không ? Chắc anh ấy sốt ruột rồi. Thôi có khi ngày mai chị đi mua vé tàu về, Duy ạ, - Lan Chi vừa bước về phía em trai vừa nói.
     - Không, không phải anh Trung đâu, - Duy đáp. - Anh Kiên muốn nói chuyện với chị, anh ấy đang ở nhà anh Sơn.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 27 Tháng Mười, 2008, 08:37:25 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 10)
     Mười mấy năm trời ngăn cách hiện tại với quá khứ dường như vụt biến đi khi Lan Chi bước đến bên máy điện thoại. Cô hít một hơi dài để tự trấn tĩnh rồi nhận ống nghe từ tay Duy.
     - Alô... - cô nói bằng một giọng ngập ngừng và hơi yếu ớt.
  - Lan Chi phải không ?
     Giọng nói vang lên ở đầu dây bên kia thân thuộc đến nỗi tự dưng Lan Chi có cảm giác như nghẹt thở. Trong khoảnh khắc, cô thấy mình như đột ngột rơi vào một khoảng trống bồng bềnh : không còn thời gian, không còn không gian, chỉ còn cô và anh giữa những kỷ niệm quay cuồng.

(hết chương 10)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 27 Tháng Mười, 2008, 03:48:37 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Chương 11)
11

     Không có thời gian, không có không gian, chỉ có tôi, anh và kỷ niệm.
     Đã bao nhiêu năm tôi nghĩ về cuộc hội ngộ này, và lần nào nó cũng hiện ra như vậy trong trí tưởng tượng của tôi. Tôi không hình dung ra được mình sẽ gặp lại anh ở đâu, vào lúc nào, trong hoàn cảnh nào, nhưng tôi gần như tin chắc rằng sớm hay muộn thì chuyện này cũng sẽ xảy ra. Tôi và anh còn có quá nhiều điều để nói với nhau, dù cuộc đời hai đứa đã từ lâu rẽ thành hai ngả.
     K. không khác mấy so với thời ở Matxcơva. Trên gương mặt anh hẳn là đã có thêm những nếp nhăn mờ của thời gian, nhưng nụ cười và cái nhìn vẫn nguyên xi như vậy. Anh bước vội gần như chạy về phía tôi, gió thổi tung lòa xòa mái tóc bờm xờm “nghệ sĩ”.
     Tôi hy vọng mình không thay đổi nhiều dưới con mắt của anh. Bao nhiêu năm rồi tôi vẫn nhất quyết để đúng một kiểu tóc dài ngang vai như vậy, kiểu tóc mà anh thích (và chồng tôi cũng thích).  Những sợi tóc dài bay rối lên trong gió khi tôi bước lại gần anh. K. đưa tay vuốt lại tóc cho tôi, và đột nhiên tôi có cảm giác như anh muốn ôm ghì lấy tôi nhưng kìm lại được.
     - Em đã biết trước rằng thế nào chúng mình cũng gặp lại nhau, - tôi nói.
     - Anh cũng tin như vậy, nhưng anh không ngờ là phải đợi lâu đến thế này, - K. đáp.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 27 Tháng Mười, 2008, 03:49:29 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 11)
Thời gian đột ngột ập về sau câu nói đó của K. Bao nhiêu lời định nói bỗng nhiên trở thành lạc lõng và vô nghĩa trước sự hiện diện lặng lẽ nhưng nặng nề của nó. Qua màn sương mờ ảo của thời gian, tôi nhìn thấy hai bóng hình xa lắc xa lơ - tôi và anh trên sân bay Seremetievo ngày ấy.
     - Khi chúng mình chia tay nhau ở sân bay Seremetievo, em cứ hy vọng là chỉ ít ngày sau anh cũng sẽ về Hà Nội, - tôi nói.
     - Anh rất muốn về, anh đã cố hết sức, nhưng anh không thể về được. Hoàn cảnh lúc đó như vậy, chắc là em cũng hiểu, phải không ?
     - Có những điều em không bao giờ hiểu nổi. Tại sao khi chúng mình ở Matxcơva, anh cứ khăng khăng không chịu giải thích cho em tình hình làm ăn của anh lúc đó ?
     - Nhưng giải thích cho em những chuyện ấy thì có ích gì đâu, L.C. ? Em cũng sẽ không thể giải quyết được gì, mà chỉ khổ thêm thôi.
     - Nếu em biết rõ tình hình, ít nhất, em cũng có thể ở lại Matxcơva để đợi anh, em sẽ không đời nào bỏ về Hà Nội trước một mình khi biết rằng anh đang ở trong tình trạng khốn khổ như vậy.
     - Lúc đó, chính em cũng đã khổ lắm rồi. Em nói rằng “em không chịu đựng nổi cuộc sống như thế này nữa”. Anh không có quyền yêu cầu em tiếp tục cuộc sống như vậy nữa.
     - Khi ấy, em nói thế vì em không hiểu gì hết cả ! Em chỉ nhìn thấy nỗi khổ của em thôi. Nếu em biết rõ...
     - Nếu em biết rõ, có thể em sẽ ở lại đợi anh thêm một thời gian nữa, nhưng cuối cùng chắc em cũng sẽ không chịu đựng nổi và bỏ đi thôi. Anh đã nghĩ mãi rồi. Hồi ấy, anh rơi vào một tình trạng bế tắc, một vũng lầy như em đã nói, em có nhớ không ? Em bảo rằng em muốn kéo anh ra khỏi vũng lầy này. Nhưng em không hiểu rằng điều đó là quá sức em. Còn anh, việc duy nhất mà anh có thể làm lúc ấy là không kéo em rơi vào vũng lầy cùng với anh.
     - Nhiều lúc, em cứ nghĩ lẽ ra em phải ngăn cản anh ngay từ đầu. Lẽ ra, anh không bao giờ nên dấn thân vào con đường ấy. Lẽ ra chúng mình phải về nước cưới luôn ngay sau khi anh bảo vệ xong...
     - Nhưng làm sao mà biết trước được sự đời hả L.C. ? Làm sao anh biết trước được mọi sự sẽ đến nông nỗi này ? Lúc ấy, anh chỉ hình dung rất rõ cuộc sống của chúng mình sẽ vất vả ra sao nếu về nước trắng tay. Anh đã muốn tránh cho chúng mình cuộc sống đó. Anh hy vọng...
     - Anh đã mất hy vọng từ khi nào ? Có phải từ khi tiễn em ở sân bay Seremetievo không ? Lúc ấy, anh bảo : “Anh không muốn mất em”. Em không hiểu ngay tại sao anh nói thế. Nhưng về sau, em nghĩ rằng chắc là ngay từ lúc đó, anh đã biết là chúng mình sẽ mất nhau rồi.
     - Không hẳn thế đâu. Lúc đó, anh đã linh cảm thấy điều này, nhưng anh vẫn còn hy vọng. Anh chỉ thực sự mất hy vọng khi ngừng viết thư cho em.
     - Nhưng tại sao anh không viết thư cho em ? Dù thế nào đi nữa thì em cũng có quyền được biết rõ sự thực. Dù anh thấy chúng mình không còn hy vọng thì anh cũng phải nói với em một lời từ biệt cuối cùng. Anh chưa bao giờ nói với em lời từ biệt ấy cả. Bao nhiêu năm rồi em vẫn day dứt không yên vì chuyện đó.
     - Tha lỗi cho anh, L.C., anh biết, lẽ ra anh phải viết hết sự thực cho em. Nhưng anh quá khổ sở và không đủ can đảm để viết một lá thư đoạn tuyệt. Vả lại, nếu anh viết cho em rằng anh không thể trở về với em được vì đã hết sạch tiền, vì anh đã nợ ngập cổ, thì liệu em có vì những lý do ấy mà bỏ anh được không ? Anh nghĩ là không. Anh sợ chỉ làm tăng thêm nỗi đau khổ của em và kéo dài sự chờ đợi vô vọng của em thôi.
     - Đối với em lúc đó, chờ đợi vô vọng còn đỡ đau khổ hơn là không có gì để chờ đợi cả. Em có thể đợi anh bao lâu cũng được, chỉ cần biết là anh vẫn yêu em. Em chỉ bỏ đi khi không còn hy vọng gì thôi.
     - Khi ở Matxcơva, em nói với anh : “Đừng bắt em phải đợi cả đời”. Anh đã suy nghĩ nhiều về câu nói đó. Anh hiểu là em nói đúng. Anh không có quyền bắt em chờ đợi cả đời. Anh không có quyền để cho em chờ đợi khi chính anh không còn hy vọng gì nữa.
     - Sau này, em đã đau khổ mãi vì câu nói đó, anh biết không ? Em cứ tự dằn vạt mình mãi vì đã nói một câu ngu ngốc và ích kỷ như vậy. Lúc ấy, em không hiểu rằng sự chờ đợi là điều duy nhất mà em có thể làm được cho anh trong hoàn cảnh này. Nếu anh biết rằng em sẵn sàng chờ đợi anh đến cùng, có lẽ anh sẽ có thêm sức lực để thoát ra khỏi vũng lầy ấy, phải không ? Có lẽ, anh sẽ không dập tắt mọi hy vọng của anh và của em. Có lẽ, em sẽ đợi được cho đến lúc anh về. Vì cuối cùng thì anh cũng đã trở về cơ mà !
     - Đừng tự dằn vặt mình như thế, L.C. ! Hoàn cảnh lúc đó phức tạp hơn em tưởng. Có nhiều chuyện xảy ra sau đó khiến anh nghĩ rằng mình không còn xứng đáng với sự chờ đợi của em.
     - Anh muốn nói đến chuyện anh đã gặp và yêu một người khác phải không ? Tại sao anh không viết thư nói thẳng với em về việc đó ? Anh không nghĩ rằng ít nhất là trong chuyện đó anh cũng cần phải trung thực với em à ?
     - Nhưng đó có phải là tình yêu đâu, L.C. ! Anh không phủ nhận rằng anh có nhiều tình cảm đối với người ấy, nhưng yêu thì anh chỉ yêu có một mình em. Anh không biết phải viết cho em thế nào cả. Anh có cảm giác như mình thoát khỏi vũng lầy này rồi lại sa vào một vũng lầy khác. Mọi việc trong đầu anh lúc đó hết sức mù mờ. Điều duy nhất mà anh hiểu rõ là em sẽ không thể nào tha thứ cho anh được.
     - Anh vẫn nghĩ như thế ngay cả sau khi đã nhận được bức điện của em ?
     - Bức điện nào nhỉ ?
     - Bức điện em gửi sang Ba Lan để chúc mừng sinh nhật anh, ngày anh tròn hai mươi chín tuổi.
     - Anh không nhận được bức điện đó. Em có chắc là em viết đúng địa chỉ không ? Mà làm sao em lại có địa chỉ của anh ở Ba Lan ? Anh có dám viết thư cho em từ Ba Lan bao giờ đâu ?
     - Mẹ anh đưa cho em địa chỉ đó, có lẽ không sai đâu. Lúc ấy, không có hồi âm của anh, em tin chắc rằng anh đã kiên quyết gạt em ra khỏi đời anh rồi. Nhưng về sau, khi biết tin anh từ Ba Lan về nước một mình, em cứ nghĩ đi nghĩ lại mãi. Em đâm ra ngờ rằng có thể anh không nhận được bức điện đó của em. 
     - Anh không nhận được thật, L.C. ạ. Em viết gì trong bức điện ấy ?
     - Không có gì thật đặc biệt cả. Em chỉ chúc mừng sinh nhật anh thôi. Lúc ấy, em muốn anh biết rằng em không thể quên anh, em hiểu hoàn cảnh của anh và không oán giận anh. Nếu anh nhận được bức điện đó, có thể anh đã trở về với em rồi, phải không ?
     - Thực ra, em biết đấy, cuối cùng thì anh cũng đã trở về, dù không nhận được bức điện ấy. Ở Ba Lan, anh sống với người khác mà vẫn chỉ nghĩ đến em. Một cuộc sống như vậy không thể đem lại hạnh phúc cho ai cả. Anh thấy không thể tiếp tục mãi như vậy được nên quyết định trở về Hà Nội. Có điều, khi anh về đến nơi thì em đã bỏ đi rồi.
     - Anh bất ngờ lắm về chuyện em bỏ đi, phải không ?
     - Anh không bất ngờ về việc em bỏ anh, anh đã bắt mình phải quen với ý nghĩ đó từ lâu rồi. Nhưng anh bất ngờ về việc em bỏ Hà Nội. Anh cứ nghĩ em yêu Hà Nội lắm. Khi ở Matxcơva, em cứ mong chóng đến lúc trở về Hà Nội sống. Em cứ giục giã anh suốt về chuyện đó.
     - Em không bao giờ muốn bỏ anh hay bỏ Hà Nội cả. Em bỏ đi chỉ vì quá tuyệt vọng mà thôi. Lúc ấy, em cũng không định đi mãi mãi. Cuộc đời đã xô đẩy em đến chỗ này, rồi em quen dần, rồi em chấp nhận, vậy thôi.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 27 Tháng Mười, 2008, 03:50:18 pm
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 11)
- Anh cũng thế, anh quen dần, rồi anh chấp nhận, vậy thôi, - K. nói khẽ, sau một khoảng im lặng rất dài, rất nặng nề giữa hai chúng tôi.
     - Anh có hạnh phúc không ? – tôi ngập ngừng hỏi.
     - Anh không thể quên em được, - K. không trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi. - Thỉnh thoảng, anh vẫn nằm mơ thấy em. Anh thấy chúng mình ở Matxcơva. Anh thấy em trong vòng tay anh. Anh cảm thấy rất rõ nụ hôn của em. Anh không còn muốn tỉnh dậy nữa vì sợ em biến mất. Em có bao giờ gặp những giấc mơ như vậy không ?
     “Em đang mơ một giấc mơ như vậy”, tôi đáp.
     Nhưng K. không còn nghe tôi nói nữa. Anh đã từ từ biến mất khỏi giấc mơ của tôi.

(hết chương 11)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 28 Tháng Mười, 2008, 07:52:23 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Chương 12)
12


     Giấc mơ ấy của Lan Chi đột nhiên hiện về ám ảnh trong đầu cô suốt dọc đường cô đi đến chỗ hẹn gặp Kiên.
     Khi gọi điện thoại đến nhà Duy, Kiên bảo rằng anh vừa mới từ Leipzig đến Berlin được vài tiếng đồng hồ và sáng ngày kia đã phải bay về Hà Nội. Anh nói rất muốn được gặp Lan Chi trước khi về nước. Trao đổi một hồi, họ thỏa thuận hôm sau sẽ đi ăn tối cùng nhau, tại một tiệm ăn không xa nhà Duy mà Sơn đã giới thiệu cho Kiên.
     Thoạt đầu, Kiên muốn ghé qua nhà Duy để đón Lan Chi, nhưng cô không hào hứng lắm với đề nghị đó. Cô cảm thấy không thoải mái khi nghĩ rằng phút đầu tiên gặp lại của họ sẽ diễn ra trước sự chứng kiến của vợ chồng Duy và lũ trẻ con. Bất chợt, một ý nghĩ vụt đến trong đầu, cô bèn hẹn gặp anh trước cửa ga tàu điện ngầm gần nhà Duy rồi hai người sẽ cùng đi tàu đến tiệm ăn (cách đó ba bến). Ý kiến này của cô lập tức được Kiên hưởng ứng một cách vui mừng đến nỗi cô gần như tin chắc rằng  anh cũng đã liên tưởng đến cái kỷ niệm mà cô vừa chợt nhớ ra.
     Vậy là gần bảy giờ tối, sau khi đã gửi gắm ba đứa con cho vợ chồng Duy với một lô lời dặn dò, rồi lại bắt cả ba đứa trẻ phải hứa là sẽ ăn ngoan và không quấy cô Uyên cậu Duy, Lan Chi nhìn lại mình trong gương lần cuối rồi đi ra cửa. Đến ngưỡng cửa, tự nhiên thấy nao nao trong lòng, cô quay lại thơm lần lượt cả ba đứa con và hứa : “Mẹ sẽ cố gắng về sớm !” Ba anh em cu Nam còn đang có nhiều trò vui với hai đứa em họ nên không bận tâm lắm đến sự vắng mặt của mẹ chúng trong bữa ăn tối, cũng chẳng hề tỏ ra mừng rỡ đặc biệt gì trước lời hứa “về sớm” của mẹ.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 28 Tháng Mười, 2008, 07:53:01 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 12)

     Bảy giờ tối, nắng chiều chưa tắt hết mà đã có một mảnh trăng non nhợt nhạt đính chơ vơ, lạc lõng ở một góc trời. Không khí ngưng đọng, ngột ngạt, oi ả, chẳng có lấy một gợn gió thoảng qua. Đi đến gần lối vào ga tàu điện ngầm, Lan Chi bước chậm lại, đưa mắt nhìn những dòng người ngược xuôi hối hả. Cảm thấy mồ hôi lấm tấm rịn ra trên trán, cô dừng lại, rút một chiếc mùi soa giấy trong túi ra lau, và đúng lúc ấy, cô nhìn thấy Kiên tách khỏi dòng người, thong thả bước lại gần cô.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 28 Tháng Mười, 2008, 07:53:49 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 12)
     Kiên đến trước giờ hẹn quãng hơn mười phút. Anh đi sớm vì không muốn để lộ thái độ bồn chồn của mình trước mặt vợ chồng Sơn, cũng để khỏi phải nghe những lời khuyên bảo và châm chọc của ông bạn.
     Ngay từ hôm qua, khi Kiên vừa mới đặt chân đến Berlin, anh đã lập tức bị Sơn biến thành đối tượng để trêu ghẹo. Ra đón Kiên ở ga, sau vài câu thăm hỏi thông thường, Sơn vỗ vai bạn nói với vẻ đầy bí ẩn :
     - Này, tao có một tin quan trọng cho mày đấy, nhưng chẳng biết tim mày có đủ khỏe để nghe không ?
     - Tin gì mà kinh dị thế ? - Kiên cười hỏi.
     - Nàng đang ở đây, - Sơn hạ giọng nói, vẻ mặt hết sức quan trọng.
     - Nàng nào ? - Kiên không hiểu.
  - Đoán thử xem, - Sơn cười tinh nghịch.
  - Chịu, - Kiên thờ ơ đáp.
     - Chán mày thật, - Sơn lắc đầu vẻ chê trách. - Tình yêu thiêng liêng của đời mày đấy, biết chưa ? Nàng mới từ Pháp đến Berlin thăm thằng em quãng một tuần nay.                         
     - Lan Chi đang ở Berlin à ? - Kiên sững sờ hỏi.
     - Ừ. Thôi, đi đi, đừng đứng nghệt ra thế nữa. Nghĩ cho kỹ xem, nếu không sợ bu nó ở nhà, muốn liều mạng gặp nàng thì để tao bố trí cho, - Sơn cười hì hì nói.
     Dọc đường từ ga về nhà, Sơn bảo : “Tao có số điện thoại của thằng Duy đấy. Cứ để thong thả, ăn tối xong rồi nếu mày muốn thì gọi điện đến đó mà hỏi thăm tình hình.” Thấy Kiên ậm ừ, Sơn hỏi lại : “Sao ? Nóng ruột quá, muốn gọi điện cho nàng ngay à ?”  “Có gì vội đâu, - Kiên chối. - Cứ từ từ, ăn tối xong rồi tao sẽ tính sau.”
     Bữa tối ở nhà Sơn, Kiên ngồi ăn như một cái máy, miệng nhai trệu trạo mà chẳng để ý mình đang ăn món gì. Vẻ mặt anh bần thần đến nỗi vợ Sơn phải ái ngại hỏi : “Anh Kiên hình như đi đường bị mệt ? Anh có cần thuốc cảm cúm gì không thì để em lấy cho ?” “Không, có mệt gì đâu”, Kiên bừng tỉnh. Sơn tủm tỉm cười bảo vợ : “Không có thuốc nào chữa cho anh ấy được đâu em ạ. Chỉ còn cách để anh ấy đi gọi điện thoại một chầu, may ra thì đỡ.”
     Mấy tiếng đồng hồ trước giờ hẹn của Kiên với Lan Chi, bắt gặp Kiên chốc chốc lại nhìn đồng hồ, Sơn bảo :
     - Còn lâu mới đến giờ, đừng có cuống thế. Theo tao, mày nên đến muộn chừng năm mười phút cho cao giá.
     - Cao giá hay thấp giá cái gì, - Kiên phì cười. – Tình xưa nghĩa cũ, đến thăm nhau thôi chứ có phải đi tán tỉnh gì đâu. Người ta có chồng có con rồi...
     - Ba con, - Sơn thản nhiên nói.
  - Ba con thật à ? - Kiên hỏi.
     - Thì thấy thằng Duy nó bảo thế. Ít nhất là ba con ở thời điểm này. Tương lai có nhiều hơn không thì tao chưa nắm được thông tin.
     Nhìn vẻ mặt ngơ ngẩn của Kiên, Sơn bồi thêm :
     - Tao thành thật khuyên mày nên lấy cặp kính cận của tao đeo vào để đi gặp cố nhân cho thi vị. Phải nhìn mờ mờ ảo ảo thì mới tưởng nhớ được quá khứ, chứ nhìn rõ sự thật e rằng sẽ thất vọng đấy. Mày cứ thử tính mà xem : đàn bà đẻ con xong nói chung ai cũng tăng sơ sơ dăm bảy cân, nàng có ba đứa, vậy chắc tấm thân thon thả bây giờ không dưới sáu chục ký đâu.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 28 Tháng Mười, 2008, 07:54:24 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 12)
Kiên mỉm cười nhớ lại những lời nói của Sơn khi anh nhìn thấy Lan Chi hiện ra từ một góc phố. Vẫn cái vóc dáng mảnh mai ấy, vẫn mái tóc buông xõa ngang vai ấy ..., anh nhận ra cô ngay lập tức và cảm thấy trào lên trong lòng một nỗi xúc động pha lẫn nhẹ nhõm. Anh định chạy ra đón Lan Chi nhưng bỗng nhiên đổi ý và lùi vào một góc khuất để kín đáo quan sát cô. Lan Chi tiến lại gần, cô không nhìn thấy anh. Khi cô đứng lại, đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm, Kiên cảm giác như có một luồng điện chạy giần giật khắp người mình : cặp mắt của cô vẫn hơi ngơ ngác và mơ mộng không khác gì ngày xưa, làn môi của cô vẫn có một thoáng cong nũng nịu giống hệt thuở nào... Một nỗi buồn da diết tràn ngập lòng Kiên khi anh nghĩ rằng tất cả những đường nét thân thương này bây giờ đã thuộc về một người đàn ông khác. Anh cố giữ dáng điệu thật bình thản và bước lại gần Lan Chi.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 28 Tháng Mười, 2008, 07:55:11 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 12)
- Trời nóng quá, Lan Chi nhỉ, - Kiên nói với một nụ cười thay câu chào.
     - Vâng, nóng thật đấy, - Lan Chi mỉm cười đáp lại. – Hình như hôm nay lên đến ba mươi hai độ.
     Sau đoạn bình luận thời tiết là một khoảng im lặng bối rối, rồi Kiên là người lên tiếng đầu tiên :
     - Anh không ngờ lại được gặp em ở Berlin.
     - Ngày mai anh đã bay về Hà Nội rồi phải không ? Sao anh đi công tác gấp thế ? – Lan Chi hỏi.
     - Anh sang Đức làm việc hai tuần, nhưng là ở Leipzig chứ không phải ở Berlin. Xong việc ở Leipzig rồi anh mới đến đây thăm Sơn. Nếu biết trước là em đang ở Berlin thì anh đã thu xếp lên đây sớm hơn. 
     Họ cùng đi vào ga. Lan Chi hỏi thăm về chuyến công tác của Kiên ở Leipzig. Anh trả lời một cách hết sức sôi nổi, cô lắng nghe với vẻ hết sức chăm chú, dù trong thâm tâm cả hai người đều hiểu rằng chuyện này chẳng có gì là quan trọng đối với họ.
     Tàu đến, Kiên ngừng ngay câu chuyện giữa chừng để cùng Lan Chi lên tàu. Trong toa đã đầy ắp người, không còn chỗ nào để ngồi, họ phải đứng sát vào nhau. Anh xúc động đến nghẹt thở khi cảm nhận sát người mình thân hình nhỏ nhắn của cô, thân thiết và gần gũi hệt như trong những giấc mơ vẫn thường trở đi trở lại ám ảnh anh suốt bao năm ròng. Tàu lắc mạnh và Kiên như tỉnh mộng : anh nhận thấy Lan Chi cố bám chắc vào tay vịn để khỏi ngã vào người anh. Chưa bao giờ anh hình dung rõ rệt và thấm thía đến vậy về cái vực sâu hun hút mà cuộc đời dùng để ngăn cách họ như lúc này đây, khi cô đứng ngay bên anh, gần như lọt thỏm trong vòng tay anh.



     Nơi họ đến ăn tối là một tiệm ăn Italia. Theo lời giới thiệu của Sơn, ngoài cái tiện là không xa nhà Duy, tiệm ăn này còn có ưu điểm là bài trí trang nhã, lịch sự, phục vụ tận tình, đồ ăn không phải là xuất sắc lắm nhưng cũng khá, khung cảnh tương đối yên tĩnh, nói tóm lại là một nơi rất hợp để diễn ra những màn tình cảm.
     Kiên hơi lúng túng trước quyển thực đơn với những món ăn ghi bằng tiếng Đức và tiếng Italia.
     - Anh chẳng có khái niệm gì mấy về món ăn Ý ngoài pizza và spaghetti, - anh thú nhận. – Em có kinh nghiệm gì không ?
     - Kinh nghiệm của em thì cũng nghèo nàn thôi, nhưng nếu anh tín nhiệm em thì để em chọn cho anh nhé, - Lan Chi cười đáp. - Đừng ăn pizza, khô lắm, trời nóng thế này nuốt không nổi đâu.
     Sau một hồi nghiên cứu thực đơn, Lan Chi gợi ý Kiên lấy món Insalata di Mare làm khai vị và Scaloppina alla Milanese làm món chính.
     - Món khai vị này là một thứ salat có trộn tôm, sò huyết, nếu anh vẫn thích ăn đồ hải sản như xưa thì ăn cái này hợp đấy. Còn món chính là một loại thịt bê, làm theo kiểu Milano, theo em thì cũng được, - cô nói.
     - Em sống ở Pháp mà sao cũng thạo món ăn Ý thế ? – Kiên hỏi, vẻ hơi ngạc nhiên.
     - Thạo gì đâu. Chẳng qua là vì em đã có dịp sang Ý chơi một tuần. Một tuần toàn đi ăn hiệu, toàn ăn đồ Ý, nên cuối cùng cũng phải nhớ lõm bõm được vài thứ chứ.
     - Em đã đi Ý rồi à ? Nước Ý đẹp lắm phải không ?
     - Vâng... - giọng Lan Chi đột nhiên trở nên gượng gạo. Kỷ niệm về chuyến du lịch tuần trăng mật bỗng hiện ra rõ mồn một trong đầu cô. Bất chợt, cô nghĩ đến chồng và bồn chồn tự hỏi chẳng hiểu tối nay anh có gọi điện thoại đến nhà Duy không. Để gạt khỏi đầu ý nghĩ đó, cô bèn đột ngột đổi đề tài.
     - Lâu nay anh có gặp Quân không ? - cô hỏi.
     - À, Quân hả ? Có đấy, anh mới gặp nó hồi Tết vừa rồi xong, - Kiên cười, mắt chợt lấp lánh những tia tinh nghịch. - Cậu ta bây giờ đạo mạo lắm, không còn tồ như hồi trước nữa đâu. Giáo sư đại học ở Mỹ, vợ khôn con đẹp, nói chung là yên ấm mọi bề...
     Việc Quân kiếm được “vợ khôn”, theo Kiên, hoàn toàn chẳng phải do anh chàng đã tiến bộ hơn trước, ứng dụng được nhuần nhuyễn lý thuyết “tán gái” vào thực hành, mà chỉ nhờ một phương pháp hết sức cổ điển là phương pháp mối lái. Chuyện này thoạt nghe có vẻ hơi lạ, vì Quân thời trai trẻ vốn là người có tâm hồn lãng mạn, luôn luôn theo chủ trương “tình yêu là sự gặp gỡ tình cờ của hai trái tim có chung nhịp đập”. Thế nhưng, sau khi nhận bằng tiến sĩ rồi lại chu du châu Âu mất một vòng ba nước và bốn năm (hai năm post- doc ở Đức ngay sau khi bảo vệ xong luận án tiến sĩ, một năm visiting tại một viện khoa học ở Italia, một năm “giáo sư mời” tại một trường đại học của Bỉ), con tim cô đơn của Quân mãi chẳng tình cờ gặp được con tim đồng điệu nào thì anh bắt đầu hơi nao núng. Bố mẹ của Quân còn nao núng hơn khi thấy cậu con trai đã đến tuổi “băm” rồi mà mãi vẫn cứ lông bông, cho nên bèn để ý tìm sẵn cho anh vài đám ở Hà Nội. Hết thời hạn làm việc ở Bỉ, Quân có ngay một suất sang làm việc ở Mỹ. Anh về Hà Nội nghỉ trong thời kỳ chuyển giai đoạn này thì được bố mẹ thông báo rằng việc tìm kiếm của các cụ đã đạt kết quả hết sức mỹ mãn, hiện đã có một danh sách vài đám để Quân lựa chọn. Quân chỉ có việc khảo sát đại thể “sơ yếu lý lịch” của các ứng cử viên (ngành nghề, tuổi tác, cân nặng, chiều cao...) rồi thấy đám nào phù hợp thì gia đình sẽ xúc tiến tổ chức ngay một cuộc gặp gỡ “tình cờ” để hai trẻ làm quen với nhau. Mới nghe nói vậy, tất nhiên phản ứng đầu tiên của Quân là giãy nảy lên như đỉa phải vôi. Anh hùng hồn giải thích cho hai bậc thân sinh rằng ở cái thời đại Internet này mà lại còn tính chuyện hôn nhân bằng cách mối lái thì thật là hết sức sai, hết sức đáng cười. Nhưng sau khi mẹ anh thẽ thọt phân tích một hồi, chỉ ra cái lợi của việc được bố mẹ chọn sẵn đối tượng cho, ca tụng ưu điểm của các ứng cử viên đã lọt vào trong danh sách tuyển lựa, rồi lại nói nửa dỗi nửa thách đố kiểu “có giỏi thì tự tìm lấy xem, có tìm được không ?”, cuối cùng Quân đành lầu bầu một cách đáng yêu rằng “thôi thì bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy vậy, nhưng nhớ đặt con vào chỗ nào xinh xinh, hiền hiền một tí”.
     Cứ như lời Quân tâm sự với Kiên thì lúc đầu anh gật bừa như thế chỉ cốt để yên thân, khỏi nghe mẹ nói ra nói vào thôi, chứ cũng chẳng hy vọng gì cả. Ai ngờ đến khi gặp đối tượng thì thấy hóa ra cũng được quá. Lễ cưới được tổ chức ngay tắp lự (sau buổi gặp gỡ đầu tiên ngót nghét có một tháng), để kịp cho cô dâu còn theo chú rể đi Mỹ. Giữa mùa hè, trời nóng như đổ lửa, dân Hà Nội chẳng có ai dại gì mà cưới, cho nên đám cưới của Quân cũng được coi là một hiện tượng đáng nhớ trong năm của thủ đô lúc bấy giờ. Nhiều kẻ đa nghi không rõ chuyện cứ đặt nghi vấn “có việc gì mà phải cưới chạy ?”, nhưng nhìn cô dâu chú rể mặt mũi tươi hơn hớn cả hai, dù mồ hôi chảy tong tong làm phấn son trên mặt cô dâu có phần nhòe nhoẹt, thì mọi người đều phải thừa nhận rằng đây là một cuộc hôn nhân hạnh phúc.
      Sau lễ cưới mười ngày thì xảy ra một sự cố mà lúc kể lại cho Kiên nghe Quân vẫn còn kinh hoàng, cứ xuýt xoa mãi rằng may mà vợ mình độ lượng chứ nếu không chắc đã nhà tan cửa nát. Ấy là việc có kẻ rỗi hơi xấu miệng nào không biết tự nhiên lại đưa đến tai vợ Quân câu chuyện về mối tình si ngày xưa của anh ở Matxcơva. Vợ Quân lập tức về nhà nghiêm khắc lôi chồng ra tra khảo. Quân sợ quá, thề sống thề chết rằng “trái tim anh chỉ đập rộn ràng từ khi gặp em, còn cái cô kia thì... (nói đến đây anh bèn cười khẩy một cái), nói thật với em, quan hệ của anh với cô ta hoàn toàn chỉ dựa trên cơ sở tình bạn, lịch sự với nhau mà thôi. Phải, chính là vì lịch sự mà anh rủ cô ta đi xem phim, cũng là vì lịch sự mà đôi khi anh đi chơi với cô ta trong những lúc rảnh rỗi. Những kẻ phao tin lăng nhăng là chỉ nhìn hiện tượng bề mặt mà không có hiểu biết thực chất gì hết cả...”
     Lý lẽ của Quân kể ra cũng không có sức thuyết phục cho lắm, nhưng được cái là thái độ của anh lại hết sức thành khẩn, chẳng những anh đã năm lần bảy lượt đập đầu tuyên thệ nói đúng sự thật, mà còn có một lần (trong lúc tuyệt vọng) anh đi đến chỗ toan đem nước mắt ra để chứng tỏ với vợ tấm lòng thành của mình. Vì vậy cuối cùng vợ độ lượng của Quân cũng thương tình mà thể tất tha cho, không chì chiết thêm nhiều nữa. Chỉ có sau này, mỗi lần anh chàng sơ ý nói hay làm điều gì không hợp ý vợ thì cô mới tức giận lôi chuyện tình xưa nghĩa cũ của anh ra đay nghiến.
     Theo Kiên, vợ Quân tuy về mặt nhan sắc thì không được bằng Thanh Hoa, nhưng lại có ưu điểm lớn là rất khéo dạy chồng. Thành thử, ngoài chuyện làm toán là cô nàng không biết gì nên không tham gia ý kiến thôi, chứ còn trong mọi lĩnh vực khác thì anh chàng nhất cử nhất động đều tự nguyện thỉnh ý vợ. Đặc biệt là sau khi cậu quý tử giống bố như đúc ra đời thì Quân lại càng “nhất vợ nhì trời”, anh phấn khởi gửi ngay e-mail báo tin mừng đến bạn bè khắp nơi, ghi rõ rằng ngày này tháng nọ giờ ấy vợ hiền của tôi đã sinh hạ một bé trai chiều dài... cân nặng... (việc Quân sử dụng một cách có chủ ý tính từ “hiền” kèm theo danh từ “vợ” đã khiến cho bạn bè xì xào rằng đây là một nỗ lực của anh nhằm đập tan cái tin đồn vô căn cứ là Quân sợ vợ). Thiên hạ nói gì mặc họ, không ai có thể phủ nhận được một thực tế rành rành là Quân rất thỏa mãn về chuyện vợ con của mình. Bằng chứng là anh đã trở nên tự tin đến mức nói năng cứ như là chuyên gia trong lĩnh vực hôn nhân - gia đình, đi rao rảng kinh nghiệm kiếm vợ cho khá nhiều đồng đội hãy còn phòng không nhà trống. Kinh nghiệm của Quân chỉ thu gọn trong một câu giản dị là “chớ nên coi thường sự giúp đỡ của các bậc phụ huynh”, nhưng vì nó đi kèm một thí dụ minh họa sinh động là tấm gương gia đình hạnh phúc của Quân, thành ra ai cũng phải công nhận là có sức thuyết phục lớn.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 28 Tháng Mười, 2008, 07:56:06 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 12)
     Lan Chi cười chảy cả nước mắt khi nghe Kiên kể chuyện về Quân. Câu chuyện về người bạn chung tự nhiên làm cho họ xích gần hẳn lại với quá khứ. Sự xa cách, gượng gạo ban đầu trong chốc lát dường như vụt biến đi, Kiên nhìn Lan Chi và buột miệng nói lên cái ý nghĩ cứ luẩn quẩn trong đầu anh từ nãy :
     - Em hầu như không thay đổi. Không thể hình dung được rằng đã hơn mười năm rồi, và em thì đã có ba con... Em có ba con rồi, phải không ?
     - Vâng. Hai cậu con trai nghịch như quỷ sứ và một bé gái đáo để hơn mẹ nhiều, - Lan Chi mỉm cười đáp.
     - Anh vẫn biết em yêu trẻ con lắm, nhưng ba con thì cũng dũng cảm đấy nhỉ, - Kiên nói với một nụ cười quen thuộc đến nỗi đột nhiên Lan Chi cảm thấy nhói trong tim.
     - Tại vì lần thứ hai em sinh được hai bé sinh đôi. Trời cho thì được vậy thôi chứ có dũng cảm gì đâu, - cô đáp.
     - Chồng em làm ngành gì vậy ? – Kiên lại hỏi.
     - Anh ấy là bác sĩ.
     - Còn em ? Em có làm ngành tâm lý nữa không ?
     - Em bỏ ngành rồi. Em không thể kiếm được việc làm đúng ngành này ở cùng thành phố với ông xã em. Em lại có ba đứa con, sức thì yếu, không thể sống theo kiểu chồng một nơi, vợ một nơi được. Đành phải chọn giữa công việc và gia đình thôi. Đàn bà, có mấy ai dám coi gia đình nhẹ hơn sự nghiệp đâu.
     - Kể cũng tiếc nhỉ... – Kiên tư lự nói.
     Một nét buồn bỗng hiện lên làm gương mặt Kiên tối lại. Mắt anh thoáng vẻ thẫn thờ xa xôi đến nỗi Lan Chi tự hỏi không hiểu anh chỉ nói tiếc việc cô bỏ ngành hay còn ám chỉ đến một chuyện gì khác nữa ?
     - Còn anh thì sao ? Nghe nói công việc của anh ở Hà Nội thuận lợi lắm phải không ? – Lan Chi hỏi.
     - Ừ, cũng tạm được. Nói chung bây giờ ở nhà làm ăn dễ hơn trước nhiều Lan Chi ạ, - Kiên nói.
     - Em nghe nói công ty của anh làm ăn phát đạt, cuộc sống gia đình anh dễ chịu lắm, phải không ? Em thực sự mừng cho anh.
     - Chúng mình có lẽ sinh nhầm thời, Lan Chi ạ, - Kiên nói, mắt vẫn nhìn xa xôi. - Nếu như hơn chục năm trước mà tình hình ở trong nước đã được như bây giờ thì chắc anh chẳng phải đi Ba Lan đánh quả làm gì. Cả em nữa, có khi em cũng chẳng sang Pháp, đúng không ? Cuộc đời chúng mình lẽ ra đã có thể khác hẳn rồi.
     - Anh biết tin em sang Pháp từ lúc nào ? Khi ở Ba Lan hay mãi đến lúc về Hà Nội ? - do dự một lát, cô khẽ hỏi.
     - Đến lúc về Hà Nội anh mới biết. Khi ngồi trên máy bay từ Ba Lan về nước, anh cứ sợ thắt cả tim, chỉ lo về đến nhà thì em sẽ không thèm nhìn mặt anh nữa, rồi lo không biết em sẽ nói gì. Lúc ấy, anh không thể ngờ rằng mười năm sau anh mới được gặp lại em, mà lại là gặp ở nước Đức này.
     - Trước khi đi Pháp, em có đến chào bố mẹ anh. Em cứ nghĩ là các cụ sẽ báo cho anh biết chuyện ấy.
     - Hồi ấy, thỉnh thoảng mẹ anh vẫn viết thư sang Ba Lan cho anh, nhưng cụ giấu biệt chuyện này đi. Chắc cụ sợ anh biết thì sẽ không chịu về nước nữa. Mãi tận khi anh đã ở Hà Nội rồi, đang chuẩn bị đến nhà em thì mẹ anh mới nói. Mẹ anh bảo khi em đến chào bố mẹ anh, em khóc.
     - Tính em thì bao giờ chẳng vậy, anh còn lạ gì, - Lan Chi mỉm cười, cúi xuống để giấu giọt nước mắt đang trào ra. - Đến bây giờ, già rồi mà em vẫn chẳng sửa được cái tật mau nước mắt ấy.
     Cả hai ngồi lặng đi một lúc. Bao nhiêu câu hỏi dội lên dồn dập trong đầu Lan Chi : “Tại sao hồi ấy anh không viết thư cho em ? Tại sao anh không trả lời những lá thư cuối cùng mà em gửi sang Matxcơva ? Anh có nhận được những lá thư ấy không ? Anh có nhận được bức điện em gửi sang Ba Lan không ?...” Cô muốn cất tiếng hỏi, nhưng  cảm thấy không sao thốt nổi nên lời. Vài phút yên lặng trôi qua, rồi Lan Chi chợt hiểu rằng những câu hỏi vẫn day dứt lòng mình trong bao nhiêu năm ấy giờ đây đã trở thành lạc lõng, nó đã bị lỡ mất hơn chục năm rồi. Biết câu trả lời bây giờ thì cũng còn có ích gì nữa đâu ? Có thay đổi được gì đâu ?
     - Anh có một con trai rồi phải không ? - cô hỏi.
     - Ừ, thằng nhóc năm nay bốn tuổi rồi, - Kiên đáp, một nụ cười thoáng qua trên gương mặt.
     - Vợ anh có cùng ngành kiến trúc với anh không ?
     - Không. Cô ấy học tiếng Anh, làm cho một công ty xuất nhập khẩu.
     Lan Chi chăm chú quan sát Kiên khi anh nói về vợ, nhưng cô không thể đoán ra được điều gì qua vẻ mặt và giọng nói bình thản của anh. Cô rất muốn hỏi : “Anh có hạnh phúc không ?”, nhưng sau một lúc ngần ngại, không hiểu sao cô lại bật ra một câu hỏi khác :
     - Nhà anh có còn ở chỗ cũ không ?
     - Bố mẹ anh thì vẫn ở đấy, nhưng anh thì mua đất xây nhà ở chỗ khác rồi.
     - Nghe nói anh có cái nhà vĩ đại lắm thì phải ? - Lan Chi cười hỏi.
     - Vĩ đại là so với mơ ước của mình ngày xưa thôi, chứ so với thiên hạ bây giờ thì ăn thua gì, - Kiên cũng cười theo. - Hà Nội bây giờ xây dựng khiếp lắm. Sao em không về Hà Nội chơi đi ? Bao nhiêu năm rồi, sao em chẳng về Hà Nội ?
     - Bố em mất rồi, anh cũng biết đấy.
     - Ừ, dạo đó anh đang công tác ở Sài Gòn, lúc ra anh có đến nhà em nhưng em trở lại Pháp mất rồi.
     - Duy có nói lại cho em như vậy.
     - Nhưng ở Hà Nội em vẫn còn bà cô ruột, đúng không ? Rồi còn bao nhiêu bạn bè nữa, mọi người vẫn nhớ đến em. Thỉnh thoảng bạn cũ gặp nhau vẫn hỏi sao lâu lắm không thấy Lan Chi về Hà Nội.
     - Sau khi bố em mất, em buồn quá, mãi không có lòng dạ nào nghĩ đến chuyện trở về. Rồi em lại sinh thêm hai bé sinh đôi, ba đứa con cũng vướng bận lắm, thành ra cứ trì hoãn mãi chuyện về thăm quê, cứ bảo đợi một thời gian nữa để lũ trẻ lớn thêm thì đi lại đỡ vất vả hơn. Tết năm ngoái em đã có ý định về, nhưng bà cô của em dịp đó lại vào Vũng Tàu nuôi con gái đẻ, nấn ná trong đó đến hơn nửa năm, thành ra em cũng chẳng về nữa. Có lẽ Tết năm nay hay năm sau cũng phải nghĩ đến chuyện về thăm Hà Nội thật, cô em đã già yếu rồi, em cũng sốt ruột lắm.
     - Về ngay Tết năm nay đi Lan Chi, - giọng Kiên bỗng sôi nổi hẳn lên. - Anh vẫn nợ em một thứ ở Hà Nội đấy. Em có nhớ dạo ở Matxcơva, đôi khi em cứ kêu thèm ăn bánh tôm Hồ Tây quá, và anh đã hứa với em là lúc nào chúng mình về Hà Nội, anh sẽ đưa em lên Hồ Tây, khao một chầu bánh tôm cho em ăn phát chán thì thôi. Bao nhiêu năm nay, mỗi lần đi qua Hồ Tây là anh lại nhớ đến lời hứa đó.
     - Anh lại làm em phát thèm lên rồi, - Lan Chi cười. - Thế này thì Tết năm nay phải cố về Hà Nội thật. Ít nhất là để được ăn bánh tôm Hồ Tây không mất tiền.
     - Khi nào chuẩn bị về thì gọi điện báo cho anh nhé, - Kiên vừa hăng hái nói vừa lấy tay sục sạo hết túi áo này đến túi quần nọ tìm kiếm một hồi, cuối cùng anh lôi ra được một tấm danh thiếp đã hơi bị quăn mép, đưa cho Lan Chi và nói một cách hớn hở : - May quá, hóa ra vẫn có một cái các đây. Địa chỉ và số điện thoại của anh có đầy đủ trong này. Có gì cứ gọi điện báo cho anh biết. Anh sẽ ra sân bay đón em ... à , tức là đón gia đình em. Chắc ông xã với lũ nhóc cũng sẽ về cùng em chứ ?
     - Bọn trẻ con nhà em thì em đi đâu cũng phải vác chúng nó đi theo, còn chồng em thì chưa biết thế nào. Hy vọng là anh ấy thu xếp về cùng em được. – Lan Chi chợt cười tủm tỉm. - Nhưng gọi điện bắt anh đi đón thế có phiền gì không ? Bà xã anh có “độ lượng” như vợ Quân không ?
     - Sao em lại nói đến chuyện “phiền” ở đây được nhỉ ? Còn bà xã thì có liên quan gì đến việc này mà phải can thiệp, - Kiên cũng cười.
     - Nói thật đi, anh đã bao giờ phải đập đầu thề thốt “tình bạn, lịch sự” như Quân chưa nào ? - Lan Chi vẫn chưa chịu tha.
     - Quân khác, anh khác, em cứ nhìn Quân để suy ra anh thì không đúng đâu, - Kiên mỉm cười, đáp. Rồi, có vẻ như muốn lẩn tránh vấn đề tế nhị ấy, anh bèn trở lại với đề tài tha thiết của mình : - Nhất định Tết này em sẽ về Hà Nội nhé. Anh sẽ đợi em. Anh coi như là em đã hứa với anh rồi đấy.

(hết chương 12)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 29 Tháng Mười, 2008, 07:50:29 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Chương 13)
13

     Tôi đã hứa với K. Tết này sẽ về thăm Hà Nội.
     Đó là điều duy nhất mà anh yêu cầu tôi trong cuộc gặp gỡ của chúng tôi ở Berlin, một cuộc gặp lại sau mười hai năm đường chia đôi ngả kể từ buổi giã từ trên sân bay Seremetievo. Cuộc đời sao thật trớ trêu : hơn chục năm trước đây, tôi không còn mong muốn gì hơn là được đón K. về Hà Nội. Giờ đây, đến lượt anh nói sẽ đợi tôi về. Nhưng là chỉ về thăm ít ngày để rồi lại ra đi.
     Đó là điều duy nhất mà tôi có thể hứa được với anh trong cuộc gặp gỡ này. Tất cả những nỗi day dứt, ân hận trĩu nặng lòng tôi suốt mười hai năm trời, tôi muốn nói ra với anh cho nhẹ lòng nhưng không hiểu sao chẳng thể nào nói nổi. Bao nhiêu câu hỏi ám ảnh vậy là sẽ mãi mãi ám ảnh trong đầu tôi. Tất cả những điều phỏng đoán sẽ mãi mãi chỉ là phỏng đoán. Cuộc hội ngộ của chúng tôi trên thực tế đã không diễn ra như tôi vẫn hình dung.
     Tôi không dám hỏi K. xem anh có hạnh phúc không, anh rất ít lời khi nói về cuộc sống hiện tại của mình, nhưng giọng nói và ánh mắt của anh đôi khi gieo vào lòng tôi một cảm giác mơ hồ rằng hình như anh không hạnh phúc như trước đây tôi vẫn tưởng. Nỗi ngờ vực này đã trở thành một niềm day dứt mới của tôi, nó làm tăng thêm mặc cảm có lỗi trong tôi sau khi nghe anh nói rằng mười năm trước đây, lúc từ Ba Lan trở về Hà Nội, anh không ngờ rằng tôi đã bỏ đi. Anh về với hy vọng tìm lại tôi, nhưng hóa ra đã trở về quá muộn.



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 29 Tháng Mười, 2008, 07:51:13 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 13)
Cuộc trở về của tôi lần này cũng là quá muộn. Chín năm, thành phố của tôi chắc chắn đã thay đổi nhiều kể từ ngày tôi về Hà Nội chịu tang bố rồi mang tâm trạng hờn giận ra đi. Năm tháng trôi qua, nỗi giận hờn tan lẫn vào thời gian như một tiếng thở dài không lưu dấu vết. Còn đọng lại là nỗi nhớ, lúc thoảng qua, lúc da diết, lúc hiển hiện rõ nét, lúc mơ hồ chập chờn.
     Nỗi nhớ là một hạnh phúc và một cực hình không sao dứt bỏ được của cuộc sống tha hương. Thời gian là một đồng minh và một kẻ thù luôn luôn cặp kè bám theo nỗi nhớ. Với thời gian, nỗi nhớ trở thành thấm thía hơn trong máu thịt và mờ nhạt hơn trong hình ảnh. Đôi lúc, nó là một cảm giác nhức nhối không tên gọi, không đường nét. Cũng có khi, trái lại, nó hiện ra có tên có hình cụ thể nhưng kèm theo một dư vị bẽ bàng : tôi thấy mình nhớ hương hoa sữa đường Nguyễn Du, Tháp Rùa in bóng nước, dáng cong của cầu Thê Húc, liễu rủ chiều Hồ Tây... và bàng hoàng chợt hiểu rằng nỗi nhớ của tôi đã nhạt nhòa đến mức phải chui vào một cái vỏ vay mượn để tồn tại, nó đã mong manh đến độ phải hóa thân vào những công thức khuôn mẫu trong sách vở, nó không còn là nỗi nhớ của riêng tôi.
     Vậy là không tránh khỏi một cuộc phiêu lưu nhọc nhằn, lo âu, đôi lúc hoang mang và thậm chí gần như tuyệt vọng, nhưng bao giờ cũng tràn đầy thôi thúc : một cuộc lục tìm trong nỗi nhớ.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 29 Tháng Mười, 2008, 07:51:50 am
TÌM RONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 13)
     Chỗ bắt đầu hẳn là phải ở đây : một ngõ cụt trong một khu phố vắng, mặt đường giống như mảnh áo vá với những mụn vải đậm nhạt khác nhau : dấu tích của nhiều lần đào lên lấp lại mà mục tiêu nhằm tới lần nào cũng chỉ là cái đường ống dẫn nước - hạnh phúc và nỗi khổ của người Hà Nội lúc hè về. Cái ngõ nhỏ này là thế giới riêng biệt của tuổi thơ tôi, những kỳ nghỉ hè của tôi, bãi biển và đỉnh núi của tôi, nơi tụ tập của lũ trẻ lau nhau vừa mới thoát khỏi bom đạn chiến tranh, chẳng có gì chơi nên lại hồn nhiên say sưa chơi trò “chiến tranh bùng nổ”. Đầu ngõ có một cây bàng mà ấn tượng còn lại trong nỗi nhớ của tôi không phải là “mùa đông lá đỏ, mùa hạ lá xanh”, mà là những con sâu róm thường xuyên từ các tán lá rơi xuống đất : nỗi sợ của lũ con gái và vũ khí của bọn con trai ( lơ mơ là các cậu lại túm một con dứ vào người để dọa thì đành chịu thua, hết cả đành hanh, đanh đá). Cuối ngõ có hai cây phượng vĩ mà những cánh hoa đỏ thắm của nó hè nào cũng được nhặt lên kết lại thành vòng để trang điểm cho tất cả các cô bé trong ngõ, lúc giả làm công chúa, lúc trong vai cô dâu.  Một cây phượng sẽ bị chặt đi để lấy chỗ xây nhà năm tôi học cuối cấp hai, cây còn lại cùng chung số phận sau vài năm nữa. Ngày tôi rời Hà Nội đi Nga học, hình ảnh mang theo là hai gốc cây còn trơ lại trên mặt đất. Khi tôi từ Nga trở về, hai gốc cây cũng không còn. Chỉ còn lại sắc lá xanh, màu hoa đỏ và tiếng ve ngân trong nỗi nhớ của tôi.
     Chỗ nhiều kỷ niệm nhất hẳn phải là phố Lý Thường Kiệt, đoạn đường đã chứng kiến tôi từ một cô bé vô tư áo còn vấy mực lớn bồng lên thành một thiếu nữ điệu đàng, buổi tan trường bao giờ cũng có một hai ánh mắt vụng trộm bám theo. Sáu năm đi học, hai ngôi trường - trường cấp hai ở đoạn dưới, trường cấp ba ở đoạn trên, vậy mà nỗi nhớ của tôi ở đây không sao có nổi một khuôn hình rõ nét. Chỉ thấy vang vọng mơ hồ tiếng tầu điện leng keng chỗ cắt ngang phố Hàng Bài, nhập nhòa những mảng tường khắc khổ của ngôi trường mang dáng hình tu viện góc phố giáp Quang Trung, thấp thoáng một gánh táo rong phía gần đường Bà Triệu ... Những điểm tựa quá mông lung cho một nỗi nhớ quá nặng nề.
     Chỗ kết thúc là một khoảng mập mờ, phân vân, không cố định. Có thể đó là con đường dẫn ra sân bay, những phố ngoại ô chen chúc và nhem nhuốc. Có thể đó là Hồ Tây, một buổi ngồi trong “Quán Gió” cùng K., một ước mơ không bao giờ được hóa thành kỷ niệm, một vết đau luôn luôn hiện diện mỗi khi nỗi nhớ ập về.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 29 Tháng Mười, 2008, 07:52:47 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương 13)

    Dù biết là đã quá muộn để thực hiện ước mơ xưa, tôi vẫn hứa với anh, tôi vẫn hứa với mình, Tết này tôi sẽ về thăm Hà Nội.

(hết chương 13)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Mười, 2008, 07:52:01 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Chương cuối)
14


     Dự định về Hà Nội chơi vào dịp Tết của Lan Chi hóa ra không thể thực hiện được. Tết âm lịch năm nay không trùng vào kỳ nghỉ nào ở Pháp, đã thế Julie lại còn đang rập rình chuẩn bị nghỉ đẻ. Chủ cửa hàng lo kiếm người bán hàng thay Julie đã khó nên không muốn cho Lan Chi nghỉ phép mấy tuần liền vào dịp đó.
     Sau khi Lan Chi bàn đi tính lại với Trung, cuối cùng hai vợ chồng bèn quyết định sẽ tận dụng kỳ nghỉ Noel để về nước. Lan Chi hơi thất vọng : đã mười một năm rồi cô không được ăn Tết ở Việt Nam. Từ mấy tháng nay, cô đã khấp khởi mừng thầm khi nghĩ đến chuyện sẽ được “hắt hủi” bánh chưng bọc giấy nylon một năm để về đắm mình trong không khí Tết rất đặc biệt, rất thân thương của Hà Nội. Lập tức nghĩ ngay đến những món ngon sẽ được ăn vào dịp Tết và thấy thèm thuồng luôn cả những “miếng ngon Hà Nội ” khác, những “miếng ngon” quanh năm chứ không phải chỉ vào dịp Tết mà thôi. Lan Chi phải tự thừa nhận rằng nỗi nhớ quê hương của mình có tính ẩm thực hơi cao : bao giờ cũng vậy, cứ nghĩ đến chuyện về thăm quê là trong đầu cô lại hiện lên ngay một danh sách dài những món nhất thiết phải ăn cho bõ. Các loại phở, các loại bún, các loại xôi, rồi miến lươn, chả cá, bánh cuốn, ốc luộc, rồi cá rô phi nấu canh rau cải, cà pháo, cải cúc, rau ngót, rau cần ..., món ngoài hàng, món gia đình, món ngồi trong tiệm, món lê la với chiếc ghế đẩu trên hè phố, tất cả, không phân biệt đẳng cấp, chen nhau đổ xô vào những dự tính của Lan Chi một cách lộn xộn và đầy háo hức. Thực ra, gần như hầu hết các món ăn này Lan Chi đều có thể ăn hoặc mua trong các nhà hàng và các khu chợ châu Á ở Pháp, nhưng với món nào cũng vậy, sau khi thử một vài lần, bao giờ cô cũng có cảm giác như bị đánh lừa, luôn luôn thấy một cái gì đó thiếu thiếu, một cái gì đó không giống, và đành tự nhủ : “Thôi, đợi đến khi nào về Hà Nội...”
     “Đợi đến khi nào về Hà Nội ...” đã trở thành điệp khúc láy đi láy lại trong đầu Lan Chi đến gần một chục năm nay. Đã phải trì hoãn một lần vào dịp Tết năm trước do bà cô vào Vũng Tàu chăm con gái đẻ, và nhất là giờ đây lại có lời hẹn hò với Kiên (mà cô thấy là hoàn toàn không cần thiết phải tiết lộ với chồng), Lan Chi dứt khoát không muốn đẩy lùi chuyến về thăm quê thêm một thời gian nữa. Đối với Trung, sau nhiều năm liên tục trực bệnh viện vào kỳ nghỉ Noel, xin nghỉ phép vào dịp này năm nay là một vấn đề không có gì trắc trở. Thôi thì cả nhà kéo nhau  đi trốn gà tây rôti một năm, cũng hay !


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Mười, 2008, 07:52:49 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
Vấn đề “về Hà Nội trước hay về Sài Gòn trước” thoạt đầu có gây ra một bất đồng nho nhỏ, nhưng rồi cũng được giải quyết ổn thỏa một cách khá nhanh chóng nhờ tinh thần “kính vợ sống lâu” của Trung. Trước hay sau thì cũng chỉ ít ngày, đã chờ được hàng chục năm rồi thì đợi thêm vài ngày nữa cũng có sao, tội gì tổn hại thần kinh để tranh hơn với vợ. Gì chứ kinh nghiệm về “gái Hà Nội” thì Trung có thừa : từ lâu anh đã rút ra được bài học quý báu rằng khôn ngoan nhất là đầu hàng ngay ở giai đoạn “dịu dàng quá dịu dàng không chịu nổi”, chứ lại cứ tưởng mình có lý mà dám cầm cự lâu hơn thì sẽ được biết thế nào là “nhức đầu quá, nhức đầu không chịu thấu”.
     Vậy là kế hoạch đã được nhất trí thông qua : đầu tiên cả nhà sẽ đi máy bay từ Paris về Hà Nội, ở lại chơi quãng mười ngày tại đó rồi sẽ vào Sài Gòn. Lan Chi chợt bắt gặp mình có một thoáng lo âu khi nghĩ đến cuộc hội ngộ (chắc là không tránh khỏi) của Trung với người yêu cũ. Nhưng cô kiên quyết gạt phắt cái “tư tưởng lệch lạc” đó ra khỏi đầu bằng cách hướng những suy tư của mình vào niềm vui được trở về quê hương, được gặp lại những người thân thiết. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, một ý nghĩ khác cũng không được lành mạnh cho lắm bèn lập tức nảy sinh : Lan Chi cảm thấy hơi bị hẫng khi hình dung cuộc gặp gỡ sắp tới với Kiên ở Hà Nội sẽ không chỉ là “mặt đối mặt” như hồi ở Berlin, mà sẽ diễn ra trong niềm vui gượng gạo và hẳn là có nhiều phần khách khí, với vợ Kiên bên cạnh anh, và Trung bên cạnh cô. “Thế là phải rồi. Mình còn đợi chờ gì nữa ?”, cô tự nhủ, thấy khó chịu với chính mình.
     Tháng mười một trôi qua trong nhịp điệu dồn dập của những cú điện thoại gọi đi khắp nơi để hỏi kinh nghiệm mua quà về nước. Càng lắm ý kiến cố vấn thì lại càng hoang mang. Quân sư này vừa khuyên mua một mặt hàng thì quân sư khác lại gạt phắt đi : “Mua làm gì thứ ấy, trong nước nhiều ê hề, bán đầy đường đầy chợ mà lại rẻ”. Ngay xưa đi tây mang về thứ gì cũng quý, bây giờ lại chỉ sợ mua nhầm phải loại quà quá tầm thường thì thành ra vô duyên. Lâu lắm rồi không về nước, Lan Chi không ngờ hóa ra cái sự chọn mua quà lại đau đầu nát óc đến thế này.
     Đầu tháng mười hai, Lan Chi bắt đầu vác vali ra để thử xếp vào một lô hàng tạp hóa : đồ mỹ phẩm cho bạn gái, rượu cho giới đàn ông, quần áo đồ chơi cho trẻ con, sôcôla cho các đối tượng không phân biệt tuổi tác và giới tính..., lèn hết sức khéo thì cũng đã gần đầy một vali. Ngắm nghía kho hàng của mình, cô mỉm cười vì bất giác nhớ lại cái vali của ngày lên đường đi học ở Nga. Đang hài lòng vì việc chuẩn bị quà cáp như vậy là đã tạm ổn thì đột nhiên Hạnh gọi điện từ Paris xuống hốt hoảng báo tin vừa phải đưa mẹ vào bệnh viện cấp cứu. Trung hớt hải đi máy bay ngay lên Paris. Vài ngày sau, anh trở về, rầu rĩ bảo vợ rằng có lẽ dịp Noel này anh không thể đi đâu chơi xa được, chuyến về nước chắc đành phải hoãn lại thôi. Mẹ Trung bị chảy máu dạ dày, cơn nguy kịch qua rồi nhưng tuổi đã cao, sức vốn yếu, lại mất máu nhiều nên cụ hãy còn mệt lắm, chắc sẽ phải nằm viện lâu để theo dõi biến chứng. Tình hình như vậy thì làm sao Trung dám rời khỏi Pháp lúc này, để một mình Hạnh với mẹ được. Nhìn vẻ mặt tràn trề thất vọng của Lan Chi, Trung vội bảo ngay rằng anh thấy cô không cần thiết phải hủy chuyến đi này : một mình anh ở lại đây là đã đủ, vé máy bay đã đặt, quà cáp đã mua, lại có bà cô già yếu đang chờ đợi ở nhà, Lan Chi cứ mang lũ trẻ về Hà Nội chơi ít ngày, còn anh thì đành lui lại đến một dịp khác vậy.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Mười, 2008, 07:53:44 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
Không có chồng đi cùng, niềm vui về thăm quê của Lan  Chi giảm đi đến một nửa. Từ trước đến nay, khi nghĩ về chuyến đi này, bao giờ cô cũng hình dung có Trung bên cạnh. Ước muốn giới thiệu Trung với họ hàng bạn bè và khoe Hà Nội của mình với chồng vậy là tan thành mây khói. Tuy vậy, Lan Chi hiểu rằng cô không thể trì hoãn chuyến đi này được nữa. Bà cô ruột của Lan Chi năm nay đột nhiên yếu đi nhiều, tuổi già mong manh, nếu cô cứ lần chần mãi không về thăm thì có khi sẽ không còn kịp gặp. Và lại còn lời hứa với Kiên...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Mười, 2008, 07:54:29 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
Máy bay về đến Nội Bài vào quãng tám giờ sáng. Lấy đồ đạc xong, Lan Chi hì hụi đi ra cửa với chiếc xe đẩy ì ạch, đã nặng vì hai cái vali to đùng lại còn có thêm Việt Anh và Lan Anh - mặt mũi bơ phờ sau chuyến bay dài - ngồi chễm trệ phía trên. Cu Nam lẽo đẽo đi bên cạnh mẹ, hỏi một cách sốt ruột : “Đây là Hà Nội hả mẹ ?” “Đây là sân bay Nội Bài. Chúng mình còn phải đi ôtô thêm một đoạn nữa thì mới về đến Hà Nội”, Lan Chi đáp.
     Ra khỏi cửa kiểm tra của hải quan, Lan Chi nghe thấy có tiếng gọi tên mình. Ngơ ngác một lúc cô mới nhìn ra Vũ, cậu em họ con bà cô, đang vẫy tay rối rít phía sau hàng rào sắt. “Trông chị chả khác tí nào, em nhận ra ngay lập tức”, Vũ vừa đỡ vali cho Lan Chi vừa nói.
     Hà Nội thì khác đi nhiều. Ngồi trên taxi dọc đường từ sân bay về nhà bà cô, Lan Chi ngỡ ngàng nhìn khung cảnh hai bên đường nửa quen nửa lạ. Nhà mới xây mọc khắp nơi, nhất là ở những chỗ ngày xưa là đồng không mông quạnh, rất nhiều kiểu lạ mắt, nhưng Lan Chi không ngạc nhiên lắm vì đã được nghe nói từ trước khá nhiều rồi. Đôi khi, gặp một kiểu nhà kỳ quái, cô mỉm cười tự hỏi không biết đây có phải là sản phẩm của trí tưởng tượng “siêu thực” của Kiên không, rồi lại tự gạt phắt đi ngay : “Kiên “siêu thực” thì có, nhưng không đời nào lại kệch cỡm thế này.”


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Mười, 2008, 07:55:07 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
Cảm giác lạ lẫm nhất không phải là nhà mà là người. Chẳng hiểu người ở đâu đổ ra mà đông như kiến thế không biết ? Ở Pháp, rất ít khi Lan Chi nhìn thấy người đi ngoài đường đông nghìn nghịt đến mức độ này. Cô có cảm tưởng như cả Hà Nội ồ ạt kéo nhau xuống đường biểu diễn xe máy. Ngày cô ra đi, hình như thành phố chưa chen chúc toàn người là người như vậy. Ít nhất, khung cảnh rất ấn tượng này đã không hề được lưu giữ trong ký ức của cô. “Đông người quá !”, Lan Chi buột miệng thốt lên. “Nhiều xe máy quá !”, cu Nam hớn hở nói. Mắt thằng bé sáng rực lên đầy vẻ tò mò trước những quang cảnh lạ. Ngắm xe máy chán, nó bèn quay ra say sưa đọc bất cứ hàng chữ tiếng Việt nào lọt vào mắt, từ tên phố, tên cửa hàng đến nội dung của các tấm biển quảng cáo. Cu cậu được mẹ dạy đọc tiếng Việt ở nhà từ bé, nhưng đây là lần đầu tiên được ứng dụng vào cuộc sống nên có vẻ rất thích thú. “Sans souci !”, cu Nam chợt reo lên khi nhìn thấy hàng chữ in trên một chiếc xích lô lướt qua trước mặt. Rồi nó quay sang hỏi mẹ : “Tiếng Việt cũng có sans souci như tiếng Pháp hả mẹ ?” “Không, đó là tiếng Pháp hoàn toàn đấy chứ”, Lan Chi mỉm cười, đáp. “Hà Nội cũng nói tiếng Pháp”, thằng bé nhận xét với vẻ hơi ngạc nhiên.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Mười, 2008, 07:55:41 am
TIM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
     Bà cô đón cháu bằng món bún chả yêu thích của Lan Chi. “Buổi trưa ăn tạm thế này cho gọn nhẹ, đến tối cô sẽ làm bữa cơm đàng hoàng”, bà nói. “Ô, bún chả thì cháu ăn mấy bữa liền cũng chẳng chán, việc gì phải làm cơm nữa hả cô”, Lan Chi vừa đáp vừa hân hoan hít mùi chả nướng quyến rũ rất quen thuộc.
     Bốn mẹ con xà vào ăn ngay với một vẻ ngon miệng không khách khí. Đây là lần đầu tiên lũ trẻ được thưởng thức loại bún tươi mà mẹ chúng luôn luôn quảng cáo kèm theo câu “bao giờ về Hà Nội...”, mỗi lần làm bún khô cho cả nhà ăn. “Thịt nướng này ngon hơn thịt barbecue  mẹ nhỉ”, cu Nam nhận xét. “Tất nhiên rồi”, Lan Chi trả lời với một vẻ tự hào. Tuy vậy, cô cảm thấy trong lòng hơi phân vân : món bún chả này công nhận ngon thật là ngon, nhưng hình như có cái gì đó chưa thật giống hoàn toàn loại bún chả ngày xưa cô thường ăn. Không giống cái gì thì cô chịu không phân tích nổi. Nhưng có lẽ đây không hẳn là món bún chả vẫn hiện về trong nỗi nhớ của cô. “Nếu có thời gian thì lúc nào mình phải dẫn bọn trẻ con ra ăn bún chả hàng bà Thịnh mới được”, Lan Chi thầm nghĩ với hy vọng tìm lại được hương vị cũ trong hàng bún yêu thích ngày xưa của mình.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Mười, 2008, 07:56:28 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)

     Ngày thứ hai ở Hà Nội, Lan Chi bắt đầu lên kế hoạch đi thăm họ hàng, bạn bè. Tất nhiên, tên Kiên hiện lên đầu tiên trong danh sách của cô. Khi chuẩn bị về nước, cô đã không gọi điện thoại cho Kiên đi đón như anh yêu cầu. Lý do rất đơn giản : cô cảm thấy khó coi đối với cả bà cô của mình lẫn gia đình Kiên, nếu cô về thăm nước sau gần chục năm trời lại chọn đúng Kiên để nhờ ra đón. Thêm nữa, cô cũng muốn dành cho anh một sự bất ngờ vì đã về sớm hơn lời hẹn.
     Với tâm trạng có phần hồi hộp, Lan Chi lấy từ trong ví ra tấm các mà Kiên đưa cho hồi ở Berlin và bấm máy gọi điện thoại cho anh. Cô gọi theo số máy cơ quan anh, vì bây giờ đang là giờ làm việc. Vả lại, chưa biết vợ Kiên “độ lượng” thế nào, cứ gọi đến cơ quan là chắc nhất.
     Chuông điện thoại reo mãi mà không có ai nhấc máy. “Chắc Kiên chạy đi đâu đó”, Lan Chi nghĩ và quay sang gọi điện thoại cho mấy người bạn khác.  Sau khi đã hẹn hò đến chơi được với mấy cô bạn cũ rồi, cô bèn gọi điện thoại lại cho Kiên. Vẫn không có ai trả lời. Gọi thêm vài lần buổi sáng, rồi vài lần buổi chiều nữa vẫn không được, Lan Chi bắt đầu lo. “Nhỡ Kiên lại đi công tác xa đúng vào dịp này thì phiền quá. Mình ẩu thật đấy, đáng lẽ phải gọi điện hẹn trước với anh ấy từ khi ở Pháp”, cô tự trách mình.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Mười, 2008, 07:57:09 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
     Không còn cách nào khác, sau giờ làm việc buổi chiều, Lan Chi đành gọi điện thoại đến nhà Kiên. Đúng như cô lo ngại, người nhấc máy trả lời là phụ nữ. Một giọng nữ trong trẻo và khá trẻ trung.
     - Chào chị, đây có phải là nhà anh Kiên không ạ ? – Lan Chi rụt rè hỏi.
     - Vâng, tôi là vợ anh Kiên đây. Chị cần hỏi gì ạ ? - vợ Kiên đáp lại khá nhã nhặn.
     - Anh Kiên có nhà không hả chị ? Tôi có thể nói chuyện với anh ấy được không ?
     - Chị là ai nhỉ mà tôi không nhận ra ? - giọng nói của vợ Kiên đã bớt nhã nhặn đi một chút.
     - Tôi tên là Chi, - Lan Chi trả lời một cách có tính toán, tự xưng tên mình ngắn gọn chứ không xưng “Lan Chi” đầy đủ như cách Kiên vẫn quen gọi, cách mà bạn bè ở Nga vẫn thường gọi để phân biệt cô với cô bạn Kim Chi cùng trường.
     - Chị gọi cho anh Kiên về chuyện công việc phải không ? - cuộc thẩm vấn vẫn tiếp tục.
     - Không, tôi là bạn cũ, gọi điện hỏi thăm chút thôi, - Lan Chi không muốn nói dối, tuy biết rằng danh xưng “bạn cũ” khó mà gây nổi thiện cảm ở vợ Kiên.
     - Bạn cũ à ? Thế chị ở đâu vậy ?
     - Tôi đang ở Hà Nội, - Lan Chi đáp một cách lấp lửng. Cô đã bắt đầu mệt mỏi và hơi khó chịu vì cuộc thẩm vấn này thì nghe có tiếng đàn ông nói loáng thoáng xa xăm gì đó, rồi vợ Kiên nói vào điện thoại :
     - Đây, anh Kiên ra rồi đây. Chị nói chuyện với anh ấy nhé.
     - Alô, ai đấy ? - giọng Kiên vang lên trong máy điện thoại.
     - Lan Chi đây, anh Kiên. Em vừa mới về Hà Nội, - Lan Chi nhẹ nhàng nói, cảm thấy thần kinh như dịu hẳn đi.
     - Em về Hà Nội từ lúc nào ? Sao không gọi điện cho anh ra đón ? Em đang ở đâu đấy ? – Kiên hỏi dồn dập bằng một giọng mừng rỡ không che đậy.
     - Em vừa về hôm qua thôi, hiện em đang ở nhà bà cô của em. Em muốn đến thăm vợ chồng anh và thằng cu, tiện thể chiêm ngưỡng cái nhà vĩ đại của anh một tí, mà không biết đến lúc nào thì tiện nhỉ ?
     - Em đến chơi ngay tối nay có được không ? Đối với anh thì lúc nào cũng tiện cả.
     - Tối nay em đã hẹn đến nhà bà bác rồi. Thôi để ngày mai vậy nhé. Mai em đến quãng sáu giờ chiều có được không ? Trước đó, em lại có hẹn với mấy đứa bạn cũ.
     - Hay là mai anh mời vợ chồng em đi ăn tối luôn thể ? Anh sẽ chọn một nhà hàng nào ăn được...- Kiên đề nghị.
     - Thôi, chuyện ăn uống để sau. Mai em đến nhà anh rồi có gì sẽ bàn thêm, - Lan Chi gạt đi. Chẳng hiểu sao, cô chưa muốn nói lộ ra ngay là Trung không về nước cùng cô lần này. 


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Mười, 2008, 07:58:02 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
     Hôm sau là một ngày vô cùng bận rộn của bốn mẹ con Lan Chi. Buổi sáng, cả mẹ lẫn con đều chưa quen được giờ giấc nên ngủ quên trong giường đến gần mười giờ sáng mới bừng tỉnh dậy. Bà cô đã mua sẵn xôi xéo ngoài hàng về theo đúng “đơn đặt hàng” của Lan Chi từ tối hôm trước. Lâu lắm rồi mới được ăn món ăn bình dân mà cô rất thích này để tạm quên đi bánh mỳ-bơ-xúc xích-cà phê đơn điệu lặp đi lặp lại sáng sáng, đã thế lại được bà cô xăng xái phục vụ cả mấy mẹ con đến tận miệng rồi âu yếm đứng loanh quanh nói chuyện rất rôm rả, Lan Chi chỉ muốn kéo thật dài bữa ăn sáng ra để tận hưởng cái cảm giác hạnh phúc  như được trở về quá khứ ấy. Nhưng nhìn đồng hồ thấy đã gần mười rưỡi, cô không dám ngồi lâu thêm nữa mà vội giục giã mấy đứa con chuẩn bị nhanh nhẹn lên để còn đi chơi. Cô đã hẹn mang con đến chơi nhà ông chú em ruột bố sáng nay và ở lại ăn trưa tại đó.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Mười, 2008, 07:58:57 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
Nhà ông chú thì xa, bầu đoàn của Lan Chi thì một đám lít nhít, chẳng có cách di chuyển nào tiện hơn là gọi taxi. Sau chừng nửa tiếng luồn lách qua những đường phố nườm nượp xe máy mà có nhiều chỗ Lan Chi không thể nhớ ra được là phố gì, cuối cùng taxi dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng có mái cong cong na ná giống như một ngôi chùa Thái Lan. Nếu không nhìn thấy ông chú đứng đợi sẵn với nụ cười rất tươi trước cổng “chùa” thì Lan Chi không dám tin ngay là đã đến đúng nhà. Nhà này, nghe nói ông chú mới mua được cách đây vài năm. Trước đây, hồi Lan Chi còn ở Hà Nội, gia đình ông sống trong một căn hộ tập thể hai phòng.
     Sau bữa trưa, nấn ná ngồi lại chơi đến quãng gần ba giờ chiều thì Lan Chi xin phép ông chú đưa lũ con ra về để đến thăm một cô bạn như hẹn trước. Nhà cô bạn ở tít đầu kia của thành phố nên Lan Chi lại gọi taxi. Hơn nửa tiếng lòng vòng, rồi xe lại dừng trước một biệt thự mới tinh. Lần này không phải chùa, cũng không khiêm tốn hai tầng như nhà ông chú, mà là hẳn một “lâu đài” ba tầng khá to, kiến trúc củ hành. “Chắc là để tưởng nhớ đến nước Nga”, Lan Chi thầm nghĩ khi ngắm nghía ngôi nhà của bạn ( cả hai vợ chồng cô bạn của Lan Chi đều học ở Nga về).
     Tuyết, bạn của Lan Chi, ra mở cổng trong bộ quần áo mặc nhà nhưng diêm dúa như chuẩn bị đi dạ hội. Tay bắt mặt mừng xong, cả hai rối rít khen lẫn nhau “trẻ” và “xinh ra”, rồi câu chuyện tiếp tục phát triển theo hướng tất yếu là ôn lại quá khứ và nhắc đến đám bạn cũ. Điểm qua được một vài người bạn xong thì Tuyết bèn hỏi Lan Chi đã đến thăm Kiên chưa ?
     - Chưa, nhưng tao đã hẹn tí nữa sẽ đến, - Lan Chi bình thản trả lời.
     - Chuyện của Kiên kể ra cũng buồn nhỉ, - Tuyết nói với vẻ đầy thông cảm và bí ẩn.
     - Chuyện gì mà buồn ? - Lan Chi sửng sốt hỏi.
     - Ơ, thế mày chưa biết à ? - Tuyết ngạc nhiên hỏi lại.
     - Tao chẳng biết gì hết cả, - Lan Chi lo ngại đáp.
     - Tao cứ tưởng mày biết rồi, vì bạn bè Kiên ở Hà Nội ai cũng biết. Công ty của Kiên đang phải đóng cửa ngừng hoạt động để thanh tra. Nghe nói có chuyện làm ăn phi pháp gì đó, - Tuyết nói.
     - Kiên... làm ăn phi pháp à ? – Lan Chi ngơ ngẩn hỏi.
     - Hình như làm trực tiếp vụ này thì không phải là Kiên, mà là thằng phó giám đốc. Thấy bảo tay này nhân lúc Kiên đi Đức có làm một phi vụ gì đó với danh nghĩa công ty sau lưng Kiên, bây giờ mới bị khui ra, người ta bèn thanh tra lại toàn bộ hoạt động của công ty. Kiên là giám đốc tất nhiên cũng phải chịu trách nhiệm. Nói chung làm ăn ở nhà mình thời buổi này chóng mặt lắm Lan Chi ạ, phát tài cũng dễ mà đổ bể cũng nhanh, chẳng biết thế nào mà lường trước được.
     “Ra thế... Công ty đóng cửa ngừng hoạt động, thảo nào mà mình gọi điện thoại đến đó không có ai trả lời”, Lan Chi thầm nghĩ. Lòng cô bỗng trào lên một nỗi xót xa cho Kiên. Sao số anh vất vả thế không biết. Cứ tưởng đã đến lúc sung sướng rồi thì lại gặp chuyện.
     Câu chuyện tự nhiên trở nên rời rạc hẳn vì Lan Chi không còn đầu óc đâu để tán chuyện. Cô muốn đứng dậy ra về ngay nhưng cố nán ngồi lại vì nể bạn, lại vì anh em cu Nam vẫn còn thích ở lại chơi với con của Tuyết (chạy lên chạy xuống thám hiểm khắp ba tầng gác của “lâu đài” đối với bọn trẻ cũng là một thú vui). Đến quãng bốn giờ rưỡi thì Việt Anh và Lan Anh đã thấm mệt, Lan Chi thấy có cớ để ra về một cách vui vẻ. Cô liền nhờ Tuyết gọi điện thoại cho taxi đến đón mấy mẹ con. Chui vào taxi lần thứ ba trong ngày, cu Nam bèn đưa ra một nhận định rất chắc chắn : “Hà Nội toàn đi taxi ”.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Mười, 2008, 08:00:21 am
TÌM TRONG NỖI NHÓ
(Tiếp chương cuối)
Năm giờ chiều, về đến nhà bà cô, Việt Anh và Lan Anh lăn ra ngủ ngay lập tức. Nghỉ ngơi được một lúc,  Lan Chi nhìn đồng hồ, thấy là đã đến giờ đi đến nhà Kiên. Cô quyết định để hai bé sinh đôi ở lại nhà gửi bà cô trông, vì biết nhất định là chúng còn ngủ lâu : chúng chưa quen giờ giấc, ngủ nghê hết sức linh tinh, lại đi chơi cả ngày mệt lử thế này thì súng nổ bên tai chắc cũng không buồn dậy. Thấy cu Nam vẫn còn hoạt bát, Lan Chi bèn rủ : “Đi chơi với mẹ không con ?” “Đi đâu hả mẹ ?”, thằng bé hỏi lại. “Đi đến nhà một bác bạn mẹ”, Lan Chi trả lời. “Lại đi taxi, con chán rồi”, cu Nam nói với vẻ rất thiếu nhiệt tình. “Không đi taxi đâu, nhà bác này gần, mẹ đèo con đi xe đạp”, Lan Chi cố nài. Nghĩ đến cuộc thẩm vấn hôm qua của vợ Kiên, rồi lại liên tưởng đến câu chuyện về “vợ độ lượng” của Quân, cô thấy đi một mình đến nhà Kiên có lẽ là hơi nguy hiểm. Tốt nhất là mang cu Nam đi làm bình phong “chắn đạn” cho mẹ. Nghe nói được đi xe đạp, Nam bèn đồng ý đi theo.
     Rất may, nhà Kiên không xa nhà bà cô của Lan Chi thật. Lan Chi bèn mượn bà cô cái xe đạp và đèo con trai đi. Mất khoảng hai mươi phút đi đường, rồi tìm nhà loanh quanh chừng năm phút nữa thì hai mẹ con đến được địa chỉ cần tìm. Một ngôi nhà ba tầng, to hơn nhà ông chú của Lan Chi nhưng nhỏ hơn nhà của Tuyết. Không mái cong, không củ hành. Kiểu nhà khá giản dị, không hề kệch cỡm nhưng cũng không có gì chứng tỏ đó là nhà của một kiến trúc sư có tính nghệ sĩ như Kiên.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Mười, 2008, 08:01:41 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
Kiên ra mở cửa ngay khi Lan Chi vừa ấn nút chuông, cứ như là anh đã đứng chờ sẵn đó.
     - Con trai đây phải không ? Lớn quá nhỉ. Mà bố nó và hai đứa nữa đâu mà chỉ có hai mẹ con thế này ? - Kiên cười rất tươi, nhìn cu Nam rồi quay sang Lan Chi, hỏi.
     - Mẹ chồng em ốm nên chồng em không về lần này được. Hai đứa bé thì đi chơi cả ngày mệt rồi, em để cho chúng nó ngủ ở nhà bà cô em, - Lan Chi vừa trả lời xong thì nhìn thấy vợ Kiên bước ra.
     Đó là một cô gái khá xinh, trông không quá ba mươi tuổi, mặc diện một cách rất có “gu”, duyên dáng dễ thương hơn nhiều so với cái hình ảnh mà Lan Chi hình dung khi nói chuyện qua điện thoại.
     - Chào chị, - vợ Kiên nói với nụ cười vồn vã, trái hẳn với sự lo ngại trước đó của Lan Chi.
     Lan Chi mỉm cười chào lại.
     Kiên giới thiệu hai người với nhau :
     - Đây là Thi, còn đây là Lan Chi, mới từ Pháp về chơi, - anh nói ngắn gọn, không giải thích quan hệ của mình với hai người, dường như cho rằng cả hai đều đã tự hiểu.
     - Chị là chị Lan Chi à ? - vợ Kiên reo lên vui vẻ. - Chị là bạn của anh Kiên từ hồi ở Nga phải không ? Em đã nghe anh Kiên nhắc đến chị và một vài người nữa. Nghe tên chị là em nhớ ra ngay. Tại vì anh Kiên hay kể cho em nghe chuyện các anh chị hồi ở Nga lắm, nhiều chuyện rất là vui, - Thi nói và bật cười một cách hồn nhiên.
     “Không biết Kiên kể cho vợ nghe những chuyện gì mà vui thế nhỉ ?”, Lan Chi băn khoăn nghĩ. Thái độ thân thiện vui vẻ của vợ Kiên làm cô hơi bối rối. Cô đã chuẩn bị tinh thần để đối phó với một sự đón tiếp lạnh nhạt và xét nét, cho nên hoàn toàn bất ngờ trước tiếng cười thoải mái như vậy.
     Thi quay sang cu Nam, nắc nỏm khen thằng bé xinh quá, trông cứ như con tây. Lan Chi bèn hỏi thăm thằng con trai của Thi. “Nó đang ngồi chơi với thằng anh họ con bà chị em ở trên gác, để em lên đem nó xuống chào bác”, Thi nói và đi lên cầu thang.
     Ngồi lại với Kiên và cu Nam trong phòng khách sang trọng, rộng rãi của nhà Kiên, Lan Chi tự nhiên có cảm giác gượng gạo và xa lạ. Với dáng điệu có vẻ hơi ngượng ngập, khác hẳn hồi ở Berlin, Kiên định pha nước mời Lan Chi. “Thôi, em không khát đâu, anh khỏi phải pha nước”, Lan Chi nói bằng một giọng khá là khách khí.
     Kiên bảo anh cứ tưởng Lan Chi đến Tết ta mới về Hà Nội chơi, không ngờ cô lại về sớm thế này. Lan Chi giải thích một cách ngắn gọn lý do khiến cô không thể về Tết được. Kiên lại hỏi cô về chơi bao lâu. “Nửa tháng thôi”, Lan Chi đáp. “Sao em về ít thế ?”, Kiên khẽ kêu lên. “Đợt này em không xin nghỉ nhiều hơn được. Với lại, bọn trẻ con cũng phải về đi học nữa”, Lan Chi nói.
     Cả hai người đang lúng túng chưa biết nói gì thêm thì vợ Kiên dắt con trai từ trên gác xuống. Lan Chi vội lấy quà đưa cho thằng bé và đưa luôn quà cho vợ chồng Kiên, rồi cô khen lấy khen để “con trai xinh quá” với một vẻ nhiệt tình ngang với vợ Kiên lúc trước. “Chị thấy nó có giống anh Kiên không ?”, Thi hỏi. “Có lẽ giống cả bố lẫn mẹ”, Lan Chi vừa do dự trả lời vừa nhận xét thầm trong đầu rằng thằng bé quả thật là rất xinh, nhưng không có được cặp mắt và nụ cười của bố nó. “Nó giống mẹ là chính”, cô nghĩ. Dường như đọc được ý nghĩ của Lan Chi, Thi bảo : “Nó có cái trán giống hệt anh Kiên, chị thấy không ? Cả ngón tay nó cũng là của anh ấy, ngón dài thế này thì cho đi học đàn piano được đấy chị Lan Chi nhỉ”, cô nói và kéo bàn tay của con trai ra trước mặt Lan Chi để mời xem. “Ừ, ngón tay dài đẹp thật”, Lan Chi công nhận rồi mỉm cười nhìn Kiên. Anh cũng mỉm cười, không nói gì.
     - Chết thật, anh ơi, sao anh không đem gì ra mời chị và cháu thế này ? Khách ở nước ngoài về mà anh lại tiếp thế này thì chán quá anh ạ - vợ Kiên chợt kêu lên.
     Mặc cho Lan Chi từ chối với lý do “chỉ ngồi một tí rồi phải về ngay”, Thi nhất quyết đi pha nước và bê ra một lô bánh kẹo, hoa quả, ép mẹ con Lan Chi ăn bằng được.
(còn tiếp)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 31 Tháng Mười, 2008, 08:09:51 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
Tranh thủ lúc nhấm nháp một miếng bánh, Lan Chi bèn kín đáo quan sát vợ Kiên. Phải công nhận rằng Thi có một vẻ đẹp rất hiện đại, trước hết là ở thân hình cao ráo, đầy đặn khỏe mạnh nhưng chưa đến mức béo, càng không “còi cọc” như thế hệ sinh ra trong chiến tranh của Lan Chi. Cô lăng xăng đi lại trong nhà, cười nói với dáng điệu rất nhanh nhẹn, hoạt bát, tự tin, cặp mắt đen sắc sảo có vẻ như không để lọt cái gì ra khỏi tầm nhìn, tóm lại, thoạt trông đã có thể thấy ngay rằng đây là loại người cực kỳ tháo vát trong cuộc sống. “Gu của Kiên đã thay đổi”, Lan Chi nghĩ. Cô buồn bã nhớ lại rằng ngày xưa Kiên mê nhất là đôi mắt mơ mộng của cô, anh thú nhận rằng ngay từ lần gặp đầu tiên anh đã bị đôi mắt ấy hút hồn. Vẻ yếu ớt và hơi ngơ ngác trẻ thơ của cô làm cho anh mềm lòng, anh sung sướng tự hào được giữ vai trò che chở cho cô trước cuộc đời đầy sóng gió, anh gồng lên để thực hiện vai trò đó đến quá sức mình, để rồi cuối cùng chính anh là người gặp nạn... “Kiên chọn vợ như vậy là phải quá rồi. Một cô vợ tháo vát thế này mới có thể làm chỗ dựa cho anh ấy được, nhất là khi công việc làm ăn gặp khó khăn như hiện nay, chứ cứ như mình thì...”, Lan Chi nghĩ với đôi chút chạnh lòng. Cô rất muốn hỏi thăm Kiên về những chuyện không may của công ty anh, nhưng lại ngần ngại khi nhớ rằng hồi xưa anh luôn luôn tránh nói chuyện làm ăn với cô. “Với Thi thì chắc anh ấy nói hết được, có khi còn phải hỏi ý kiến ấy chứ”, Lan Chi chua chát nghĩ.
     Kiên có vẻ hơi mệt mỏi và già đi so với hồi gặp Lan Chi ở Berlin. Cô nhận thấy những nếp nhăn hằn rõ ở khóe mắt anh mà lần gặp trước hình như không có.
     - Anh có khỏe không ? - Lan Chi khẽ hỏi khi vợ Kiên đi ra khỏi phòng khách để lấy khăn lau mũi cho thằng con.
     - Anh bình thường thôi, - tự nhiên, Kiên cũng hạ giọng trả lời. Rồi, vẫn nói nhỏ như vậy, anh chuyển sang đề tài khác : - À, hôm nào phải lên Hồ Tây ăn bánh tôm chứ Lan Chi nhỉ.
     Lan Chi chưa kịp trả lời thì Thi đã đột ngột bước từ phòng bên cạnh ra, nói một cách vui vẻ quá mức :
     - Anh ơi, chị Lan Chi ở Pháp về mà anh lại định mời đi ăn bánh tôm thì chị ấy cười cho đấy. Hồ Tây thì thiếu gì nhà hàng đặc sản mà anh lại mời chị ấy đi ăn cái thứ rẻ tiền như thế. Hay là để hôm nào vợ chồng mình mời chị Lan Chi đi ăn nhà hàng anh nhỉ ? Cái chỗ mà bọn mình thỉnh thoảng vẫn đến ăn ấy, em thấy được đấy anh ạ, - Thi vừa nói vừa ngồi xuống sát cạnh Kiên.
     Một ý nghĩ lướt nhanh trong đầu Lan Chi : “Bánh tôm Hồ Tây thế là toi rồi !” Cô đang cười cười vì chưa biết nói gì thì Kiên chợt bảo :
     - À, quên chưa kể với Lan Chi. Quân đang ở Hà Nội đấy, em biết chưa ? Có gì bọn mình rủ Quân, hôm nào cả hội chọn chỗ nào đi ăn cùng luôn thể cho vui.
     - Quân đang ở Hà Nội à ? - Lan Chi mừng rỡ hỏi. – Quân về từ lúc nào đấy ? Về có lâu không, có mang theo vợ con không ?
     - Quân mới về quãng hơn một tuần nay. Về công tác vài tuần thôi. Đi một mình, - Kiên đáp.
     - Chị Huyền với thằng cu con vừa về hồi đầu năm rồi còn gì. Với lại, nghe nói chị ấy lại đang có bầu đứa thứ hai đấy anh ạ, - Thi nói xen vào và chẳng hiểu sao lại nhìn Kiên mỉm cười âu yếm một cách đầy ẩn ý.
     - Huyền là vợ Quân, - Kiên giải thích cho Lan Chi.
     Lan Chi hỏi Kiên số điện thoại và địa chỉ của Quân để đến chơi. “Nhà Quân hơi khó tìm đấy. Hay để anh đưa em đi cho tiện ?”, Kiên đề nghị. Lan Chi từ chối, viện cớ chưa sắp xếp được thời gian, rảnh lúc nào thì đi lúc ấy thôi. Kiên bèn dặn Lan Chi nhớ hẹn Quân chọn ngày đi ăn cùng rồi báo lại cho anh biết. “Anh ơi, để em gọi điện cho anh Quân hẹn ngay bây giờ có hơn không, khỏi phiền chị Lan Chi gọi điện nhiều lần, anh nhé ?”, Thi khẽ đặt tay lên đùi chồng, sốt sắng nói. “Thôi, cứ để Lan Chi bàn với Quân”, Kiên gạt đi.
     Ngồi một lúc, Lan Chi bắt đầu thấy chóng mặt vì nhịp điệu dồn dập của những “anh ạ, anh nhé, anh ơi, anh nhỉ” ngọt ngào và rộn rã. Tự nhiên, cô thấy mình lạc lõng vô duyên trong khung cảnh gia đình đầm ấm này, và càng tiếc là không có Trung cùng về Hà Nội. “Thôi, em phải về đây. Mình về Thi nhé”, cô đột ngột đứng dậy nói nhân lúc câu chuyện vừa lắng xuống. “Hãy còn sớm. Em vừa mới đến có mấy phút”, Kiên vụt nói như bị hẫng. “Chị và cháu ở lại ăn cơm với nhà em đi. Bạn cũ lâu ngày gặp nhau, chắc anh Kiên còn muốn nói chuyện nhiều”, Thi mời. “Cám ơn Thi, nhưng mình còn hai đứa bé ở nhà nên phải về cho chúng nó ăn tối”, Lan Chi vừa nói vừa đi ra cửa. Kiên lẳng lặng đi theo tiễn, chẳng nói thêm câu nào. Khi mở cửa cho Lan Chi bước ra, anh bỗng nói như vừa sực nhớ : “Cho anh địa chỉ và số điện thoại nhà bà cô của em đi”. “Em chẳng mang theo giấy bút gì cả”, Lan Chi trả lời. Trong lúc đứng đợi Kiên chạy đi lấy giấy bút, Lan Chi chợt cảm thấy cái nhìn của vợ Kiên hướng vào mình không còn được thân thiện như trước nữa. Ghi xong những thứ mà Kiên yêu cầu, cô bèn vội vã kéo con trai ra về ngay.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 31 Tháng Mười, 2008, 08:10:28 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
     Buồn, buồn rười rượi là cảm giác tràn ngập lòng Lan Chi dọc đường đạp xe về. Từ lâu, trong thâm tâm cô vẫn luôn luôn mong Kiên hạnh phúc, nhưng hóa ra chứng kiến tận mắt hạnh phúc của anh lại là một điều hoàn toàn không phải dễ. Giọng nói, tiếng cười vui vẻ của vợ Kiên cứ vang lên lảnh lói bên tai Lan Chi mãi không thôi. Vậy là Kiên có một cuộc sống gia đình hạnh phúc thực sự chứ không có gì đáng buồn như cô tưởng nhầm hồi gặp anh ở Berlin. Anh có một người vợ trẻ hơn cô, xinh ít nhất không kém cô, nhanh nhẹn tháo vát chắc chắn hơn cô nhiều. Anh có một ngôi nhà to đẹp gấp nhiều lần ngôi nhà ngày xưa anh từng mơ ước cho cô và anh. Anh có tất cả để hạnh phúc, những chuyện không may trong công việc chắc chắn rồi sẽ qua đi. Với anh, Lan Chi bây giờ chỉ là một kỷ niệm đẹp không hơn không kém. Nếu trong mắt anh đôi lúc có những thoáng buồn thì cũng chỉ là một chút nhớ thương dành cho tuổi trẻ đã mất mà thôi. Cô không hề có chỗ trong cuộc sống của anh, không có từ mười hai năm nay rồi và sẽ không bao giờ có cả. Cô tự bắt mình phải mừng cho Kiên, tự mắng mình là ích kỷ, tự nhủ rằng nếu anh bất hạnh thì mình sẽ còn đau khổ hơn nhiều. Nhưng mặc cho lý trí tha hồ lên tiếng, nỗi buồn vẫn cứ khăng khăng bám riết trái tim.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 31 Tháng Mười, 2008, 08:11:07 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
Sáng hôm sau, Lan Chi gọi điện thoại đến nhà Quân. Chỉ gặp mẹ Quân, cô bèn xưng là bạn cũ, mới ở xa về. Mẹ Quân nói là anh đang về quê với bố, đến sáng ngày kia mới quay lại Hà Nội. “Vậy quãng chiều ngày kia cháu đến thăm Quân có tiện không hả bác ?”, Lan Chi hỏi. “Vâng, ngày kia, hai mươi sáu tháng mười hai, chị cứ lại, buổi chiều thì chắc chắn em nó có ở nhà rồi”, mẹ Quân nói rõ thêm.
     “Ừ nhỉ, hôm nay đã là hai mươi tư tháng mười hai, Noel rồi đấy !”, Lan Chi sực nhớ. Cô tự hỏi không biết Trung đang ở đâu ? Ở bệnh viện, ở nhà hay lên Paris ăn Noel với gia đình Hạnh ? Cô bỗng thấy nao nao thương chồng. Đây là lễ Noel xa vợ con đầu tiên của Trung, nhìn cảnh thiên hạ tụ họp gia đình, chắc là anh sẽ thấy cô đơn lắm. Nhìn đồng hồ, Lan Chi nhẩm tính bây giờ đang là đêm ở Pháp. Cô dự định đợi thêm vài tiếng nữa rồi gọi điện thoại cho chồng : sáng sớm, may ra thì anh có ở nhà.
     Nhưng Trung không ở nhà, cũng không ở bệnh viện  khi Lan Chi gọi điện thoại đến. Cô đoán anh đi Paris, đang phân vân chưa biết nên gọi điện đến nhà Hạnh lúc nào thì Trung đã gọi về nhà bà cô của Lan Chi.  “Anh ở đâu đấy ? Em đang định gọi điện cho anh”, Lan Chi mừng cuống quýt. Trung bảo anh vừa mới đến Paris, đang ở nhà Hạnh và chuẩn bị vào bệnh viện thăm má, thấy Hạnh nói má đã đỡ mệt nhiều. Tối nay, anh sẽ ăn Noel cùng với gia đình Hạnh, sáng mai lại về nhà. Trung kêu vợ con mới đi có vài ngày mà sao anh đã thấy như lâu quá, anh đã mua quà Noel cho cả bốn mẹ con, để ở nhà đợi mọi người về đó. “Noel ở Paris có vui không anh ?”, Lan Chi hỏi. “Không có gì đặc biệt. Món gà tây thì chắc không ngon bằng em làm được đâu”, Trung hạ giọng thấp hẳn đi khi nói câu cuối, có lẽ để mọi người xung quanh khỏi nghe thấy. Lan Chi hình dung anh đang khẽ mỉm cười. Tự dưng, cô thấy nhớ quá chừng không khí gia đình ấm cúng quanh bàn tiệc Noel, mùi gà tây rôti thơm nức mũi, ánh đèn màu nhấp nháy trên cây thông đặt ở góc phòng, những gói quà bọc giấy màu bóng bẩy và thắt nơ diêm dúa, tất cả những thứ mà bao nhiêu năm nay cô vẫn hờ hững nhìn như là các nghi thức không tránh được mà thôi...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 31 Tháng Mười, 2008, 08:11:56 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
     Quân mừng ra mặt khi nhìn thấy Lan Chi : “Nghe mẹ mình bảo có chị Chi nào đó hẹn đến chơi, đoán già đoán non mãi không ra, không ngờ lại là Lan Chi”.
     Hai bên nhanh chóng xúc tiến trao đổi thông tin hai chiều. Về mặt con cái, Quân chỉ bằng nửa Lan Chi : cô có ba con, còn anh hiện mới có “một rưỡi”. “Đang hy vọng sẽ được một cô con gái cho có nếp có tẻ đây”, Quân nói một cách hớn hở. Về đường công danh, Quân đang bước vào giai đoạn đỉnh cao của “sự nghiệp lớn” : ngoài công việc cố định với tư cách giáo sư ở một trường đại học Mỹ, anh còn thường xuyên tung hoành năm châu bốn biển với danh nghĩa “giáo sư mời” thực chất hẳn hoi ( chứ không phải chỉ là cái vỏ như một vài vị “giáo sư xin” vẫn được nêu gương trên báo chí). Quân bảo năm nào anh cũng về nước ít nhất một lần trong chương trình hợp tác khoa học với Việt Nam, để giảng bài, hướng dẫn nghiên cứu sinh hoặc tham dự các hội nghị khoa học. “Giới báo chí có đến phỏng vấn không ?”, Lan Chi cười hỏi. “Không thấy ai đến cả. Mình lỗi thời rồi, không còn gì hấp dẫn nữa”, Quân cũng cười đáp.
     Ngồi nói chuyện một lát, Lan Chi bèn hỏi Quân về chuyện công ty Kiên bị đóng cửa - điều mà cô vẫn canh cánh trong lòng từ khi nghe Tuyết kể, nhưng không dám hỏi Kiên. Quân bảo rằng anh có biết chuyện này : đó là một vụ trốn thuế quy mô nhỏ thôi, Kiên không phải chịu trách nhiệm trực tiếp, công ty của Kiên chắc sẽ lao đao một dạo nhưng rồi cũng qua khỏi chứ không phải đóng cửa hẳn đâu. Cảm thấy nhẹ nhõm hẳn đi, Lan Chi liền quay sang chuyện khác :
     - Tuần này Quân có rảnh không ? Vợ chồng Kiên đang muốn rủ bọn mình hôm nào cùng đi ăn nhà hàng cho vui đấy.
     - Vợ Kiên về rồi à ? - Quân ngạc nhiên hỏi.
     - Hôm nọ mình có gặp Thi khi đến chơi nhà Kiên. Thế ra Thi mới đi công tác xa về à ? - Lan Chi hỏi lại.
     - Công tác gì đâu, - Quân cười một cách bí ẩn. - Đi “tị nạn” ở nhà bố mẹ đẻ thì có. Chả lẽ Lan Chi không biết chuyện này hay sao ?
     Không, Lan Chi không hề biết, đây là lần đầu tiên cô được nghe nói đến chuyện này. Thế thì lạc hậu thật, Quân bảo. Hóa ra, việc vợ Kiên đi “tị nạn” vẫn xảy ra liên tục như cơm bữa, đến bây giờ chẳng còn là bí mật đối với ai, cũng không còn làm ai ngạc nhiên được. Nhưng lần đầu tiên thì kể cũng khá kinh hoàng : chưa đầy một tháng sau ngày cưới, không hiểu vợ chồng cãi nhau thế nào mà tự dưng thấy Thi đùng đùng vác quần áo về nhà bố mẹ đẻ ở. Hai gia đình xúm lại hỏi lý do nhưng cả anh lẫn ả đều nhất quyết không chịu nói. Nếu không có mẹ Kiên đem đến cả nước mắt ra làm vũ khí thì chưa chắc Kiên đã vội đến nhà bố mẹ vợ để làm lành và đón vợ về. Sau đó, tưởng đã yên được một dạo khi vợ chồng Kiên bận rộn lo việc làm nhà, rồi Thi có bầu và sinh con. Nhưng thằng bé chưa đầy một tuổi thì lại có chuyến “tị nạn” thứ hai, lần này bố mẹ vợ Kiên phải đón luôn hai nhân khẩu. Rồi từ đó thì cứ là những cuộc thay đổi chỗ ở thường xuyên giữa hai nhà của vợ con Kiên. Mẹ Kiên đã phát ngán lên, không còn nhỏ ra được giọt nước mắt nào, cũng chẳng thèm can thiệp nữa. Chuyến “tị nạn” kéo dài nhất của Thi chính là lần này : nó bắt đầu cách đây năm tháng, sau khi Kiên đi công tác ở Đức về, và mười ngày trước đây, lúc Quân mới về nước, đến chơi với Kiên thì được biết là Thi vẫn còn bám trụ ở nhà bố mẹ đẻ. Kiên không hề có ý định làm lành, thậm chí còn nói đến chuyện ly dị khi Quân hỏi thăm. Cứ tưởng phen này hỏng thật rồi, không ngờ vợ Kiên lại quay về đột ngột như vậy.
     - Sao lại khổ thế hả Quân ? – Lan Chi choáng váng hỏi. - Mình thấy vợ Kiên được lắm cơ mà : xinh đẹp, trẻ trung, lại có vẻ nhanh nhẹn, thông minh và rất khéo cư xử ...
     - Thì đúng vậy. Cô Thi này hồi chưa chồng là có nhiều anh theo lắm đấy. Còn Kiên lúc ấy nói thành thực ra cũng đã “cà cuống” rồi, sắp ế đến nơi, không lấy vợ nhanh thì thành hâm ấy chứ. Cứ tưởng cậu ta lấy được Thi là mèo mù vớ được cá rán, vậy mà sống với nhau ẩm ương chả ra sao cả. Cái chính có lẽ do không hợp tính tình. Thi thực dụng quá, trong khi Kiên từng ấy tuổi rồi mà vẫn cứ tâm hồn nghệ sĩ phiêu diêu. Thấy Kiên bảo là chả biết nói chuyện gì với vợ cả. Lúc làm nhà thì còn có chuyện cái nhà mà nói. Nhà xong rồi thì cả tháng không kiếm ra được chuyện để nói với nhau, mà cũng chẳng thấy có nhu cầu. May mà còn có được một đề tài chung là thằng cu con, chứ không chắc đã bỏ nhau lâu rồi. Sau vụ này, mình đã thề là từ nay không có mối lái cho ai nữa. Đúng là làm phúc phải tội.
     - Quân nói vậy là thế nào ? - Lan Chi ngạc nhiên. - Có phải Quân làm mối cho Kiên và Thi không ?
     - Chính thế, - Quân tự hào xác nhận.
     Sự kiện lạ đời này diễn ra sau đám cưới “đổ  mồ hôi” của Quân khoảng một năm. Dạo đó, Quân cùng vợ từ Mỹ về nước chơi. Đến thăm Kiên, thấy ông bạn cố tri mãi vẫn còn bơ vơ, Quân ái ngại bèn giúp cho mấy lời khuyên thiết thực. Đầu tiên, anh vạch ra cho Kiên thấy rằng đến tuổi này mà cứ còn hy vọng vào những cuộc gặp gỡ tình cờ thì thật là hết sức hão huyền. Rồi anh lại hùng hồn chứng minh tiếp rằng việc mai mối không hề ngăn cản người ta có được một tình yêu chân chính. Không những thế, anh nhấn mạnh thêm là phương pháp này lại có một cái lợi hiển nhiên : cả hai bên đều đã rõ ý đồ của nhau, khỏi phải vòng vo mất thời gian. Kiên tự nhiên bị thay bậc đổi ngôi, biến thành học trò, trong bụng hẳn là rất hận nhưng rõ ràng lép vế nên đành nhẫn nhục ngồi nghe Quân dạy. Được một lúc thì Kiên sốt ruột bảo : “Nói lý thuyết nhiều nghe chán lắm, có đám nào thì giới thiệu đi, thực hành cái thử xem.” Quân ngắc ngứ, đã định tìm cách đánh bài chuồn, nhưng vợ anh lại nghĩ ngay đến một cô bạn hàng xóm xinh đẹp chưa chồng. Thi hồi đó rất cao giá, có khối kẻ mê, vậy mà chẳng hiểu tại sao lại chết anh Kiên ngay lập tức. Được người đẹp như thế mê mình, ai mà chẳng thích, nói gì đến một anh chàng đang cần lấy vợ như Kiên. Quen nhau chỉ hai tháng là họ làm đám cưới, Quân đã quay lại Mỹ nên không được dự. Năm sau trở về thì đã nghe chuyện vợ chồng Kiên lục đục rồi.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 31 Tháng Mười, 2008, 08:12:53 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
Sau buổi gặp Quân vài ngày, Lan Chi gọi điện đến nhà Kiên để báo rằng cô và Quân không thu xếp thời gian đi ăn nhà hàng cùng vợ chồng Kiên được : Quân phải vào dự hội nghị khoa học ở Sài Gòn cho đến sát ngày Lan Chi quay lại Pháp mới trở ra Hà Nội, về phần Lan Chi thì về nước có ít ngày nên cũng rất nhiều việc bận, thôi đành khất hẹn đến một dịp sau.
     Kiên không có ở nhà, người nghe điện thoại là vợ anh. Giọng Thi khá lạnh lùng, khô khan, không hề có chút âm sắc vui vẻ, niềm nở của ngày hôm trước. Hai người trao đổi với nhau vài câu ngắn gọn rồi dập máy. Lan Chi thở phào : dù thái độ của Thi làm cho cô không thoải mái, cô vẫn cảm thấy nhẹ nhõm vì không phải trực tiếp nói chuyện với Kiên. Cô sợ phải nghe giọng nói thất vọng của anh.
     Kiên gọi điện lại cho Lan Chi ngay ngày hôm sau. “Anh không thể mời em đi ăn thiếu Quân được à ?”, anh giận dỗi hỏi. Lan Chi ấp úng. Cô không dám nói rằng cô đã biết hết cả rồi, cô không thể nhận lời mời của anh vì không lòng dạ nào mà bắt cả mình lẫn vợ chồng anh phải chịu đựng cái màn bi hài kịch “gia đình hạnh phúc” ấy thêm lần nữa, và nhất là cô lại càng không muốn làm tổn hại đến hạnh phúc vốn đã rất mong manh của gia đình anh.
     - Lần này em về nước ít ngày quá nên bận thật đấy, - Lan Chi nói sau vài giây do dự. - Họ hàng, bạn bè kéo đi khắp nơi, mà cũng chẳng dám đi nhiều vì sợ bọn trẻ con nó mệt. Thôi, anh cho em khất đến lần sau nhé.
     - Nhưng còn bánh tôm Hồ Tây thì sao hả Lan Chi ? Anh đã hứa với em, em cũng đã hẹn với anh...- Kiên nói với vẻ tuyệt vọng như thể toàn bộ vận mệnh anh đều phụ thuộc vào việc có rủ được Lan Chi đi ăn bánh tôm hay không.
     - Để lần sau vậy, - không biết nói gì hơn, Lan Chi lặp lại. Cảm thấy sống mũi đã cay cay, cô vội vã cắt ngang cuộc nói chuyện : - Thôi nhé, bây giờ em có việc phải đi, có gì em sẽ gọi điện lại cho anh.
     Nhưng Lan Chi không gọi điện thoại lại cho Kiên : cô đã quyết định sẽ tránh mặt anh cho đến trước khi trở về Pháp mới chào tạm biệt.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 31 Tháng Mười, 2008, 08:13:44 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
Những ngày còn lại ở Hà Nội của Lan Chi trở nên u ám hẳn sau khi cô được biết về nỗi bất hạnh của gia đình Kiên. Cô đau đớn nghĩ rằng mình không có khả năng làm gì được cho anh ngoài việc cầu mong cho anh và Thi hàn gắn lại. Thi yêu anh, Thi có thể đem lại cho anh hạnh phúc. Còn cô, điều duy nhất mà cô nên làm bây giờ là biến hẳn khỏi đời anh để tránh cho tình hình phức tạp thêm. Ý nghĩ rằng trong lúc cô hạnh phúc với Trung thì Kiên có thể ly dị vợ và sống cô độc một mình làm Lan Chi khổ tâm không chịu nổi. Mặc cảm có lỗi với Kiên lại trở về đè nặng trong lòng cô, day dứt hơn bao giờ hết.
     Kiên còn gọi điện thoại đến nhà bà cô của Lan Chi thêm hai lần nữa để hỏi xem cô có rảnh không thì anh đến chơi. Cả hai lần, Lan Chi đều thoái thác là “có hẹn” và “rất bận”.
     Mà đúng là Lan Chi bận thật. Sau bao nhiêu năm cô mới trở về Hà Nội, lại về đúng vào tháng mười hai, tháng có ngày giỗ mẹ cô. Mộ bố mẹ Lan Chi hiện giờ nằm cạnh nhau ở quê nội của cô, một làng ngoại thành Hà Nội. Lan Chi mua hương hoa và đưa ba đứa con về quê thăm mộ ông bà ngoại chúng. Ở lại nhà ông bác trong quê một ngày, hôm sau cô trở lại nhà bà cô ở Hà Nội, buồn rũ rượi mất mấy hôm chẳng thiết đi đâu. Nhưng rồi cũng phải đi vì lũ trẻ cuồng cẳng không ngồi nhà lâu được. Lại có thêm một lô bạn bè cũ liên tục đến rủ đi chơi : bạn cấp hai, bạn cấp ba, bạn thời đại học ở Nga..., đủ cả. Nhiệm vụ trọng tâm của những chuyến đi chơi cùng bạn bè này là nếm lại bằng hết tất cả những món ăn thuộc cái danh sách “thèm”  mà Lan Chi đã lập ra với bao nhiêu nhớ tiếc trong những năm dài của cuộc sống tha hương. Quán ăn được bọn bạn cô chọn lựa rất kỹ lưỡng, vậy mà không hiểu sao khi ăn Lan Chi luôn luôn gặp phải cái cảm giác kỳ lạ “rất ngon nhưng không giống hẳn” như hôm đầu ăn bún chả ở nhà bà cô. Sau khi nghe bạn bè cô khẳng định rằng những hàng này bao nhiêu năm vẫn làm đúng một kiểu như vậy, không hề thay đổi, Lan Chi buồn rầu nghĩ rằng có lẽ sự thay đổi chính là ở phía cô.
     Cái ngõ nhỏ của Lan Chi cũng không còn giống như cô vẫn hình dung trong nỗi nhớ. Hôm chiêu đãi ba đứa con một chầu đi chơi phố bằng xích lô sans souci ( một trong những kỷ niệm đáng ghi nhớ nhất của ba anh em cu Nam trong chuyến đi này ), Lan Chi đã chỉ đường cho xích lô rẽ qua nhà cũ của mình. Xích lô dừng lại vài phút, Lan Chi lạ lẫm nhìn khung cảnh xưa :  cây bàng “sâu róm” đầu ngõ không còn, mặt đường phẳng phiu chứ không gồ ghề đậm nhạt nhiều mảnh vá, nhà cũ phá bỏ nhà mới xây lên khắp nơi... Và điều bất ngờ nhất là cái “thế giới tuổi thơ” của cô bây giờ sao trông như nhỏ hẹp lại đi đến chỉ còn một nửa ! Tại vì những ngôi nhà mới nhiều tầng đã choán mất một phần không gian trong ngõ, hay vì suốt bao nhiêu năm qua mắt cô chỉ quen nhìn những đường phố lớn mà thôi ? Ngồi trên xích lô đi tiếp loanh quanh vài vòng cho lũ trẻ được dạo chơi, Lan Chi vừa ngượng ngùng vừa buồn bực vì phải hỏi và nghe ông xích lô giải thích cặn kẽ cho cô như cho một khách du lịch nước ngoài về những đường phố mà cô không thể nhận ra, về những công trình mới xây sau khi cô đã rời Hà Nội. Mọi thứ đã thay đổi quá nhiều trong hơn chục năm qua, cuộc đời cô đã tách rời khỏi số phận của quê hương, cô đã phần nào trở thành người lạ.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 31 Tháng Mười, 2008, 08:14:27 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
Hai ngày trước khi Lan Chi trở lại Pháp, Kiên đến tìm cô bất ngờ vào quãng hơn chín giờ tối, lúc cả ba đứa con cô đều đã lên giường đi ngủ. “Anh phải đến vào giờ này mới chắc gặp được em. Ban ngày, sợ em đi chơi”, anh nói.
     Kiên đưa cho Lan Chi một đống quà cho ba đứa trẻ con và một bức tranh được gói ghém cẩn thận.
     - Anh đem đến cho em cái này, không hiểu em còn thích không, - anh nói một cách hơi lúng túng. - Để làm kỷ niệm thôi chứ chẳng có giá trị gì đâu. Đây là cái tranh anh vẽ ngày xưa. Cái mà em thích nhất.
     - “Mắt thô lố” à ? - Lan Chi cười hỏi.
     - “Mắt mênh mông”, - Kiên trả lời, vẻ lúng túng bị xóa đi ngay bằng một nụ cười rất thân thương đối với Lan Chi.
     - Bao nhiêu năm rồi mà sao anh vẫn còn giữ được ? - Lan Chi ngạc nhiên.
     - Anh chỉ còn giữ một vài bức thôi. Trước khi sang Ba Lan, anh có đem mấy bức được nhất đến gửi nhà một thằng bạn ở Matxcơva, đến khi nó về nước thì nó lại quẳng vào thùng hàng biển, mang về Hà Nội hộ anh.
     - Dạo này chắc anh vẫn còn vẽ chứ ?
     - Không đâu, anh bỏ lâu rồi. Chẳng có thời gian. Cũng chẳng còn cảm hứng.
     - Tiếc nhỉ... Hồi trước, em chẳng thể hình dung anh thiếu cái giá vẽ được.
     - Có bao nhiêu điều mà hồi trước mình có hình dung được đâu.
     Vài phút im lặng trôi qua. “Em pha nước anh uống nhé”, Lan Chi nói và định đi lấy ấm chén để pha trà. Kiên vội xua tay : “Thôi, muộn rồi, anh về ngay đây. Anh chỉ định đến hỏi xem ngày kia mẹ con em đi lúc mấy giờ.” Lan Chi nói giờ của chuyến bay. Kiên hỏi anh có thể đi tiễn mấy mẹ con được không ? “Đã có Vũ, em họ của em đi tiễn rồi. Như vậy tiện hơn anh ạ”, Lan Chi trả lời. “Thế thì anh sẽ ra thẳng sân bay”, Kiên nói bằng một giọng cương quyết khiến Lan Chi không thể có thêm ý kiến gì được nữa.
    Lan Chi đi tiễn Kiên ra đến tận cổng của khu nhà. Lúc đi đến chỗ để xe máy của anh, đột nhiên Kiên quay lại hỏi Lan Chi :
     - Tại sao mấy ngày qua em cứ tìm cách tránh mặt anh ?
     - Em... em có tránh mặt anh đâu, - Lan Chi luống cuống nói.
     - Quân nói cho em biết hết rồi phải không ? - Kiên lại hỏi, giọng bỗng trở nên hơi gay gắt.
     - Vâng, em biết hết cả rồi. - Lan Chi thú nhận. Rồi cô nói liền một mạch, rất nhanh : - Vợ chồng anh đang có chuyện không vui, em không muốn đổ thêm dầu vào lửa. Em không muốn làm cho Thi khó chịu. Em không muốn gây thêm bất hòa giữa anh và Thi.
     - Em có gây bất hòa bao giờ đâu, - giọng Kiên dịu hẳn đi. - Anh và Thi đã lục đục từ lâu rồi. Em về nước mà tránh anh thì chỉ làm cho anh buồn thôi chứ cũng chẳng cứu vãn gia đình anh được.
     - Sao lại không cứu vãn được ? Nếu anh cố lên một tí thì nhất định sẽ đâu vào đấy thôi. Em thấy Thi rất dễ thương. Cô ấy xinh hơn em nhiều, - Lan Chi nói bằng một giọng như dỗ dành, năn nỉ.
     - Anh có nói Thi xấu bao giờ đâu, - Kiên bật cười. - Hồi mới quen, anh cũng thấy cô ấy khá xinh. Nhưng xinh hơn em thì... mắt anh không bao giờ thấy thế. Trong mắt anh, không ai có thể đẹp bằng em được.
     - Thi hơn em nhiều thứ lắm, - Lan Chi nói với vẻ gần như tuyệt vọng. - Thi nhanh nhẹn, tháo vát chứ không lớ ngớ như em...
     - Thi không có những cái mà anh yêu nhất ở em, - Kiên ngắt lời Lan Chi. - Cô ấy không nhẹ nhàng, tinh tế như em. Cô ấy không dịu dàng, đằm thắm như em. Hồi đầu, anh cứ tưởng Thi có thể giúp anh quên em được. Nhưng càng sống lâu với Thi thì anh lại càng nhớ em hơn.
     - Nhưng anh cần phải quên em ! - nước mắt Lan Chi đã bắt đầu chảy ra, cô nghẹn ngào nói.
     - Anh không thể quên em. Anh không muốn quên em ! - Kiên đáp một cách bướng bỉnh.
     - Thi mới là người có thể cho anh hạnh phúc. Còn em, em chẳng có gì để cho anh nữa cả. Muộn quá rồi ! -  Lan Chi vừa nói vừa cố cầm nước mắt.
     - Nhưng anh có yêu cầu gì em đâu. Được đứng bên em, được nhìn thấy em, được nghe em nói thế này đối với anh đã là hạnh phúc.
     - Đến cả cái hạnh phúc nhỏ nhoi ấy em cũng chẳng thể cho anh lâu được. Mấy ngày nữa là em lại đi rồi. Anh phải quên em đi. Em không thể chịu đựng được nếu anh cô độc và bất hạnh. Em không thể chịu đựng được... - Lan Chi thổn thức.
     Anh bước sát lại gần và vuốt nhẹ tóc cô : “Đừng khóc nữa Lan Chi. Anh cũng không chịu đựng được khi nhìn em khóc.” Không kìm nổi, cô gục đầu vào vai anh và khóc nức lên. Kiên đứng lặng, sững sờ. Anh có cảm giác như đang trở về quá khứ khi nhìn mái đầu của Lan Chi run rẩy trên vai mình, như ngày xưa... như ngày xưa.
    Khi cô ngẩng đầu lên, Kiên cúi xuống và phác một cử chỉ như muốn hôn lên môi cô. Lan Chi lắc đầu và lùi lại. Kiên như bừng tỉnh, anh vội nói : “Thôi, anh về đây. Ngày kia, anh sẽ ra sân bay.”


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 31 Tháng Mười, 2008, 08:15:06 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
    Đường ra sân bay có vẻ thoáng đãng hơn, không chen chúc toàn người là người như hôm Lan Chi trở về Hà Nội. “Có thể là vì mình đã bắt đầu quen nhìn cảnh này rồi”, Lan Chi nghĩ. Cô mơ màng nhìn khung cảnh lướt qua cửa xe, tự hỏi không biết đã bao nhiêu lần mình đi trên con đường này nhỉ ? Đã bao nhiêu lần cô rời Hà Nội ra đi ?
     - Chúng mình đi về nhà với ba hả mẹ ? - ngồi bên cạnh Lan Chi, bé Lan Anh chợt hỏi.
     - Ừ, chúng mình về nhà. Con nhớ ba lắm rồi phải không ? - Lan Chi âu yếm hỏi lại.
     Con bé gật đầu rồi nói, nửa như hỏi, nửa như khẳng định :
     - Mẹ cũng nhớ.
     - Ừ, mẹ cũng nhớ, - Lan Chi mỉm cười xác nhận.
     Cô ngả người vào lưng ghế, nhắm mắt lại. Bỗng thấy thèm giọng nói ấm áp của chồng, sự gần gũi dịu dàng và âu yếm của anh. Bỗng thấy cần sự yên ổn ở ngôi nhà nhỏ thân thương, ở nhịp điệu đều đặn của cuộc sống hàng ngày quen thuộc. Bỗng thấy nhớ bờ sông Garonne những chiều thư thả, ngồi tựa đầu vào vai chồng, nhìn lũ con đùa nghịch trên thảm cỏ xanh... Rồi bỗng thấy chạnh lòng tủi thân khi chợt bắt gặp mình đang ghen tị với dòng người hối hả ngược xuôi trên đường phố. Ghen với sự thanh thản của một tình yêu trọn vẹn không bị giằng xé làm đôi. Ghen với cái hạnh phúc bình yên khi nhà và quê hương là một.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 31 Tháng Mười, 2008, 08:15:46 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
     Taxi dừng lại ở sân bay. Vũ vừa chạy đi tìm xe đẩy để chở các vali của Lan Chi thì Kiên xuất hiện. Bó hồng nhung đỏ thắm trong tay anh làm chiếc áo khoác màu be sáng mà anh mặc trên người cũng hồng rực lên.
     - Đây là hoa hồng Đà Lạt. Không đẹp bằng hoa hồng Matxcơva, nhưng anh đã tìm khắp nơi rồi, chỉ có thế này là được nhất thôi, - Kiên nói như xin lỗi.
     - Hoa đẹp lắm đấy chứ, - Lan Chi đỡ bó hoa từ tay Kiên và bỗng mỉm cười. - Anh biết không, hồi em mới ở Matxcơva về Hà Nội, em cũng đi bán hoa Đà Lạt để kiếm thêm tiền đấy.
     - Thật à ? - Kiên hỏi với vẻ hết sức ngạc nhiên. - Thế mà hồi xưa anh lại cứ tưởng tính em mơ mộng, không làm những chuyện dính dáng đến buôn bán tiền nong được.
     Một ý nghĩ vụt qua trong đầu Lan Chi : “Vậy là Kiên không nhận được thư mình kể chuyện đi bán hoa. Hay là anh ấy quên ?” 
     - Thì đúng là hồi xưa em mơ mộng thật, cho nên đi bán hoa đã đánh mất tiền đấy, - cô cười đáp. - Nhưng bây giờ thì em “tỉnh” ra nhiều rồi. Bao nhiêu năm nay em bán sách có xảy ra chuyện gì đâu.
     - Hoa hồng Matxcơva đúng là đẹp hơn hẳn thật. Mọi khi anh không chú ý đến điều này, hôm nay đi chọn hoa mới nhận ra, - Kiên lại nói. Rồi mắt anh chợt sáng lên. - À, nếu mọi chuyện ở công ty anh yên ổn thì có thể nửa năm nữa anh sẽ có việc phải đi Matxcơva đấy. Nếu lúc đó mà gặp được ai sang Pháp thì anh sẽ gửi hoa hồng cho em nhé.
     - Thôi, việc gì phải rắc rối thế hả anh. Mà Matxcơva chắc bây giờ cũng đã thay đổi nhiều rồi.
     Kiên có vẻ muốn đáp lại điều gì thì bất chợt bé Lan Anh đang ngồi trên chiếc vali cạnh đó đứng dậy giật áo mẹ : “Mẹ ơi, chú Vũ lấy được xe đẩy rồi kìa. Chúng mình xếp vali lên nhé.” Kiên hơi giật mình. Từ nãy, mải nói chuyện, anh không để ý đến mấy đứa con của Lan Chi.
     - Hai đứa sinh đôi của em đây phải không ? - anh nhìn Lan Anh và Việt Anh rồi hỏi. - Sao giống mẹ quá thế này !
     - Vâng, ai cũng bảo là hai đứa này giống mẹ. Thằng cu đầu thì lại giống ba nó...- Lan Chi kể.
     Nhưng Kiên hình như không còn chú ý nghe cô nói nữa. Mắt anh hướng vào bé Lan Anh của cô. “Con gái em xinh quá !”, anh nói. Con bé thấy được người lạ khen thì thẹn thò mỉm cười với Kiên rồi hạ hàng mi rợp hướng cái nhìn xuống đất. Lan Chi thấy mắt Kiên như mờ đi, xa xăm. Ngày xưa, anh mơ một bé gái đầu lòng có nước da trắng mịn, đôi mắt to dưới hàng mi rợp, mênh mông, mênh mông...
     Vũ mang xe đẩy lại gần. Kiên nhanh nhẹn xách luôn cả hai chiếc vali của Lan Chi đặt lên xe. Phân vân một lát, Lan Chi quay lại bảo Vũ :
     - Thôi, em còn nhiều việc phải làm, cứ về luôn bây giờ cũng được. Có anh Kiên tiễn chị đây rồi.
     - Ừ, phải đấy, - Kiên mừng rỡ nói theo. - Vũ có việc bận thì cứ về đi. Mình rộng rãi thời gian, có thể ở lại đây đợi đến lúc Lan Chi vào được bên trong.
     Vũ chào hai người rồi đi về. Kiên đẩy chiếc xe chở vali đi cạnh Lan Chi và lũ trẻ. Họ tiến đến gần cửa kiểm tra của hải quan. Còn mười phút nữa mới đến giờ làm thủ tục cho chuyến bay của Lan Chi. “Mình đứng lại đợi ở đây thôi”, Lan Chi nói rồi nhờ Kiên hạ một chiếc vali to đặt nằm xuống đất để lũ trẻ ngồi lên đỡ mỏi.
     - Em có định bao giờ lại về nước nữa không ? - Kiên hỏi.
     - Em chưa định chính xác được, nhưng chắc chắn thế nào cũng phải về thôi. Lần sau nhất định sẽ về lâu hơn, rồi còn phải cho bọn trẻ con vào Sài Gòn thăm quê ba chúng nó nữa chứ. Có lẽ từ nay em sẽ cố về thật thường xuyên. Lần vừa rồi chần chừ mãi mới về, thấy mọi thứ thay đổi nhiều quá, cảm giác mình cứ như là người lạ, buồn ghê cơ, - Lan Chi nói và thở dài.
     - Vợ chồng em có lúc nào nghĩ đến chuyện về nước hẳn không ? Bây giờ tình hình trong nước thoáng hơn nhiều rồi, anh thấy có những người đã về hẳn đấy.
     - Nếu em chỉ có một mình thì em sẽ về ngay. Nhưng bây giờ nặng gánh quá rồi. Đến tuổi này, lại có ba đứa con, không phải ai cũng dám làm lại từ đầu, - Lan Chi trả lời. Rồi nhìn thấy vẻ mặt buồn bã của Kiên, cô mỉm cười nói nửa đùa nửa thật : - Thôi, đợi khi nào mấy đứa con của em lớn lên, tự lập được, em không phải lo cho chúng nó nữa thì sẽ rủ ông xã về ở hẳn Hà Nội, tham gia câu lạc bộ hưu trí với vợ chồng anh cho vui. Rồi sáng sáng chúng mình sẽ cùng nhau ra Hồ Gươm múa võ.
- Em vẫn hệt như xưa, lúc nào cũng đùa được, - Kiên phì cười.
    Đã đến giờ làm thủ tục hải quan. Nhìn dòng người đang rậm rịch chuyển động về phía cửa, Lan Chi bảo : “Có lẽ đến lúc em phải vào rồi”. Cô định nhờ Kiên nhấc chiếc vali đặt lại lên xe đẩy thì thấy anh ngập ngừng như muốn nói điều gì.
     - Có chuyện gì vậy anh ? - Lan Chi hỏi.
     - Anh có thể hôn em để từ biệt được không ? - Kiên rụt rè nói. Nhận thấy vẻ mặt lúng túng của Lan Chi, anh nói thêm : - Một cái thôi, một cái hôn từ biệt.
     Lan Chi bối rối nhìn xung quanh. Sau lưng cô, anh em cu Nam đang ngồi trên chiếc vali, chụm đầu vào nhau say sưa đọc quyển truyện tranh tiếng Việt mà mẹ chúng vừa mua cho. Cô quay lại nhìn Kiên, thở nhẹ, và một tia tinh nghịch chợt lóe lên trong mắt cô.
     - Hôn lên trán thôi nhé, - cô nói.
     Một nụ cười làm gương mặt Kiên sáng bừng lên.
     - Hôn trán thì chán chết, - anh đáp và cúi xuống đặt một nụ hôn nhẹ nhàng lên môi cô. Một nụ hôn thật dịu dàng nhưng ngắn ngủi. Rồi anh lùi lại, thở dài.
     Lan Chi ngước mắt nhìn Kiên. Cô nhận thấy cặp mắt anh ngấn nước.
     - Thôi, em đi nhé, - cô nói sau vài giây im lặng, đưa bàn tay gạt ngang hàng mi đẫm lệ và cố mỉm cười.
     - Ừ, em đi...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: baoleo trong 31 Tháng Mười, 2008, 08:16:37 am
TÌM TRONG NỖI NHỚ
(Tiếp chương cuối)
Máy bay cất cánh được khoảng mười lăm phút là Việt Anh và Lan Anh đã cùng nhau lăn ra ngủ. Cu Nam thì không buồn ngủ, nó lấy cái tai nghe mà cô tiếp viên vừa phát cho, đeo vào đầu và nghe nhạc với vẻ mặt rất say sưa.
     Lan Chi xếp lại chỗ ngồi để hai bé sinh đôi có thể nằm cho thoải mái. Cô cẩn thận đặt bó hoa hồng vào một góc xa để hai đứa khỏi vô ý đạp vào. “Không biết khi về đến nhà thì hoa có còn tươi không nhỉ ? Hoa hồng Matxcơva thì tươi lâu lắm”, cô nghĩ. Rồi cô mỉm cười nhớ đến Kiên, nhớ đến lời anh hứa gửi hoa hồng Matxcơva sang Pháp cho cô. Tính Kiên vẫn thế, khi nào bốc lên là sẵn sàng hứa đủ mọi điều, hứa đến cả những chuyện hái trăng sao trên trời đem xuống. Anh tưởng có thể tìm được ở Matxcơva cho cô những bông hồng đẹp như hình ảnh mà anh lưu giữ trong ký ức. Nhưng làm sao mà tìm được hả Kiên ? Những bông hồng đẹp như ngày xưa ấy, mình chỉ có thể tìm trong nỗi nhớ thôi anh.



                                                                                         2 - 5 / 2003
                                                                                          L.N.M.
HẾT


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: gicungduoc trong 03 Tháng Mười Một, 2008, 11:44:45 pm
Vừa rồi VTV1 có giới thiệu về 1 quyển tiểu thuyết, của 1 cô gái k, nhân vật trong TT chính là tác giả, với tựa đề là "VƯỢT QUA CÁNH ĐỒNG CHẾT", nếu các bác thích đọc thì em sẽ post lên.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến
Gửi bởi: Trinhsat trong 04 Tháng Mười Một, 2008, 07:31:01 am
    Bác post lên đi, để bà con hiểu thêm khía cạnh khác nữa ở K.

      Theo TS nghí, vì tham gia công tác và chiến đấu ở K nhiều năm nên nhiều CCB hiểu đất K và có tình cảm rất lớn với xứ sở đó. (còn hiểu hơn cả xứ phương Bắc ấy chứ).

      Chờ đọc truyện bạn gửi.


Tiêu đề: Sao nỡ bắn người tù binh ấy (!?)
Gửi bởi: taupaypay trong 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:38:18 pm
Nếu thấy nhạy cảm quá thì các bác cứ xóa đi cũng được !!!

Sau trận đánh phục kích bọn lính Thái ở Bản Vườn lê 42, tôi được cử đi học lớp tập huấn công binh, chuyên về gỡ mìn và kỹ thuật mở cửa hàng rào đánh căn cứ. Mục đích của lớp học là để giúp cho các đơn vị bộ binh, khi đánh các cứ điểm của địch có thể tự mình gỡ mìn và sử dụng kỹ thuật đặt  mìn định hướng phá hàng rào thép gai để tạo cửa mở, hiệu quả hơn cách dùng bộc phá ống thông thường. Sau hơn một tháng, kết thúc khoá học, tôi trở về đơn vị và được phiên chế vào B5, trung đội chuyên làm nhiệm vụ mở cửa và đánh lô-cốt đầu cầu của đại đội. Chỉ huy mới của tôi là tiểu đội trưởng Trịnh.
A trưởng Trịnh không có gì đặc biệt lắm. Dáng người cũng chỉ tầm thước, nhưng to khoẻ theo kiểu lực điền. Anh vào chiến trường trước tôi hai mùa chiến dịch. Thế cũng đủ để tôi nể phục lắm rồi. Điều đáng nói hơn là anh gan dạ và rất xông xáo trong chiến trận. Anh là một trong những tiểu đội trưởng "cứng" của đại đội. Anh Trịnh đón nhận tôi về tiểu đội một cách hồ hởi. Thái độ của anh làm cho tôi rất thoải mái. Anh giữ tôi lại nằm chung hầm với anh. Căn hầm chữ A có đáy dài 2 mét và rộng hơn 1 mét làm cho chúng tôi thêm gần gũi nhau. Chúng tôi cùng kể chuyện về bản thân mình cho nhau nghe. Chẳng bao lâu mà chúng tôi trở nên thân thiết. Về cá nhân anh, tôi không ngờ là anh lại không biết chữ. Quê anh ở Sơn Tây. Chỉ cách Hà nội có hơn bốn chục cây số, vậy mà do nhà nghèo mà anh không được đi học. Tuổi thơ của anh gắn liền với chăn trâu, cắt cỏ và biết làm ruộng sớm. Trước khi đi bộ đội, anh làm ruộng và là lao động chính trong gia đình. Ở quê, anh còn không biết đến cái tàu hoả hay tàu điện là gì. Cũng vì vậy nên anh càng quý tôi, khi biết tôi đã học hết lớp 10 phổ thông. Sự chân thành và nghịch cảnh đã gắn bó tôi với anh thành đôi bạn lính. Lúc ở hậu cứ, hai chúng tôi luôn ở chung hầm. Còn khi ra trận thì tôi và anh bao giờ cũng đào hầm cạnh nhau. Là tiểu đội trưởng, nhưng trong những trận đánh chốt, anh thích sử dụng hoả lực B40, dù rằng giữ súng này thì phải năng vận động và thay đổi vị trí bắn để tránh địch phản pháo. Nhờ có hàm răng hơi hô, nên anh bắn B40 rất tốt. Có trận chốt, anh bắn tới 12 quả đạn trong một buổi sáng mà vẫn không ù tai hoa mắt như cảnh báo trong lý thuyết. Những lúc ra trận như thế mà được quạt AK yểm hộ cho anh thì thật tuyệt.
Anh Trịnh tỏ ra quan tâm đến tôi có phần thiên vị hơn so với anh em khác trong tiểu đội. Cũng chút ít thôi, và có phần hợp lý nên cũng không ảnh hưởng đến tình cảm chung trong cả tiểu đội. Chả gì thì tôi cũng là lính thành phố, vóc dáng thư sinh và yếu nhất tiểu đội. Nhưng khi chuẩn bị ra trận thì hầu như toàn bộ thủ pháo và bộc phá trong cả trung đội, tôi đều giành phần bấm kíp và gói, vì tôi đã được học về công binh một cách bài bản. Tôi cũng là người thạo nhất về cách đặt  giá mìn định hướng. Thực ra, nói vậy cho nó đầy đủ thôi, chứ lính tráng trong chiến trường sống chết vì nhau lắm. Ai cũng có thể sẵn sàng hy sinh vì đồng đội.


Tiêu đề: Re: Sao nỡ bắn người tù binh ấy (!?)
Gửi bởi: taupaypay trong 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:38:46 pm
Thời gian mùa mưa, đơn vị chúng tôi phải làm nhiệm vụ cùi cõng đạn dược và lương thực để chuẩn bị hậu cần cho mùa khô. Các loại hàng hoá bình thường như gạo, thuốc nổ, đạn cối…thì chia đều trọng lượng cho nhau  được. Riêng những lần vác đạn DKB thì phải hai người vác chung một quả. Quả đạn DKB chính là đạn của hoả tiễn Ca-chiu-sa tháo rời, gồm phần thân và đầu đạn. Phần đầu đạn chỉ nặng có 21 cân, nhưng phần thân nặng tới 35 cân. Mọi cặp khác đều chia ra thay đổi cho nhau, nhưng riêng cặp tôi với anh Trịnh, thì anh giành phần vác thân quả đạn suốt cả quãng đường vận chuyển 6 tiếng đồng hồ. Vậy mà đến bữa thì mọi suất ăn của lính tráng đều như nhau, còn đói nữa là khác, nhưng cũng chẳng ai ăn hơn ai đến một miếng.
Trận đánh đầu tiên của mùa khô 1973, anh Trịnh đã cứu tôi trong một tình huống khác thường. Căn cứ Ba-lào-ngam có hệ thống công sự vững chắc, do một tiểu đoàn lính Thái Lan chiếm giữ. Do phải đánh cứ điểm kiên cố, chúng tôi được tăng cường 4 xe tăng phối hợp. Các trận đánh thông thường, chúng tôi chỉ mở cửa rộng 4 đến 6 mét là đủ cho bộ binh xung phong. Trận này có xe tăng nên cấp trên yêu cầu mở cửa rộng 8 mét. Anh Trịnh lại hạ quyết tâm thêm, là sẽ mở cửa rộng 12 mét. Cứ điểm địch có 5 lớp hàng rào. Đêm đó, chúng tôi bò vào dùng kìm cắt đứt 3 lớp rào ngoài. Sau đó tại chân mỗi hàng rào, chúng tôi đặt nối nhau tới 6 ống bộc phá loại 1,2 mét. Trước 2 lớp rào trong cùng, chúng tôi dựng 2 giá mìn định hướng DH10, mỗi giá 3 quả. Tất cả các giá mìn và bộc phá đều được nối liền nhau bằng dây nổ, để khi điểm hoả thì tất cả đều nổ cùng một lúc. Kết quả là khi chúng tôi điểm hoả mở màn trận đánh vào 5 giờ sáng thì cả một vệt 5 lớp rào đã bị phá bay, tạo thành cửa mở rộng tới 12 mét. Cả trung đội chúng tôi tiếp tục chiến đấu tại chỗ suốt ngày hôm đó để giữ cửa mở, không cho địch ra bít lại.
Một ngày trôi qua. Khoảng sáu giờ tối thì xe tăng của ta vào đến cửa mở. Trận đánh chính thức bắt đầu. Chiếc xe tăng đi đầu chạy sát qua căn hầm của tôi. Vì quanh cứ điểm này, địch không phát quang hết cây lúp súp, nên xe tăng không nhận rõ hướng cửa mở. Một người lính trên xe tăng mở nắp xe quát to hỏi tôi trong tiếng máy nổ ầm ầm:
         - Hướng cửa mở đâu?
Tôi chỉ tay, nhưng vẫn chưa nhìn rõ nên người lính tăng vẫy tay, và tôi trèo lên thành xe tăng, định ngồi đó chỉ đường. Đúng lúc chiếc xe tăng dịch đít xe chỉnh hướng thì anh Trịnh bỗng xuất hiện. Anh nhảy bổ lên thành xe tăng quát to lên câu gì đó, rồi nắm cổ áo  tôi, kéo tôi ngã nhào xuống đất. Đoạn anh vụt đứng dậy kêu to với người lính tăng:
           - Hướng cửa mở đây này.
Và anh chĩa AK về hướng cửa mở bắn một loạt dài. Những viên đạn lửa lắp sẵn của anh tạo thành một vệt đỏ dài thẳng hướng cửa mở. Chiếc xe tăng đóng nắp và xịt khói lao vào cửa mở, kéo theo những chiếc xe tăng khác và đám bộ binh có nhiệm vụ đánh thọc sâu.
Tôi còn chưa hết bàng hoàng thì anh Trịnh đã lại túm lấy cổ áo tôi, gí sát mặt anh  vào mặt tôi mà quát:
          - Sao mày ngu thế. Ngồi trên nóc xe tăng mà làm bia đỡ đạn à.
Rồi anh chỉ tay theo hướng xe tăng, và tôi cũng còn kịp nhận ra những vệt đạn liên thanh của địch bắn vào thành xe tăng toé lửa.
Thế là tôi thoát chết, nhờ sự dày dạn kinh nghiệm chiến đấu của anh. Sau trận đó tôi càng quý mến anh hơn.


Tiêu đề: Re: Sao nỡ bắn người tù binh ấy (!?)
Gửi bởi: taupaypay trong 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:39:20 pm
Một lần khác, anh lại cứu tôi cũng trong một bối cảnh đặc biệt. Lần đó, ta và địch cứ giằng co mãi quanh chân núi Chư Pa. Có một điểm cao phía Đông, nhỏ nhưng dốc đứng,  bị địch chiếm giữ. Quân ta ở một quả đồi thấp hơn. Cầm cự được khoảng 1 tháng thì chúng tôi phát hiện địch chuyển quân và rời bỏ chốt đó. Cấp trên ra lệnh cho tiểu đội chúng tôi lên chiếm ngay chốt. Vì biết địch bỏ chốt, bao giờ cũng cài bẫy mìn, nên tôi và anh Trịnh lên trước. Điểm chốt này nhỏ, chỉ có dăm căn hầm, và có 3 lối mòn lên đó. Tôi thận trọng đi trước và dễ dàng phát hiện ra những quả lựu đạn mà địch gài bẫy bằng dây cước chăng ngang lối mòn. Bản thân quả lựu đạn đã được tháo bỏ cần mỏ vịt và đút hờ vào trong một vỏ ống bơ. Chỉ cần đá nhẹ vào sợi dây, quả lựu đạn sẽ tuột ra, giải phóng lẫy chính và phát nổ. Tất cả các loại lựu đạn gài đều là loại nổ tức thì, nghĩa là chúng không có phần dây cháy chậm như những quả lựu đạn thông thường khác. Hai quả đầu là loại lựu đạn bầu dục. Tôi dễ dàng luồn tay bóp chặt lẫy chính, kéo quả lựu đạn ra,  ghì nó trở lại vị trí ban đầu và sâu 1 cái kim băng vào lỗ định vị để vô hiệu hoá nó. Tôi làm như vậy để giữ an toàn về lâu dài cho điểm chốt, chứ thực ra chỉ cần xử lý đơn giản là nhét sâu nó vào trong ống bơ, quấn chặt nắp lại rồi chôn xuống đất là xong. Đến quả lựu đạn thứ ba thì gặp phải loại lựu đạn tròn. Tư thế cầm và lực bóp ghì lẫy chính nặng hơn, vì mẩu lẫy chỉ dài độ hơn 1 phân. Tôi ghì tay đến hơn nửa phút mà vẫn không đưa được lẫy chính về vị trí an toàn. Hai ngón tay trỏ và cái của tôi cứng đờ. Chỉ cần mỏi tay để tuột ra làm quả lựu đạn nổ là tôi tan xác. Mồ hôi tôi vã ra. Tôi ghì thêm một lần nữa mà không được. Ngón tay càng cứng đờ. Tôi đã nghĩ đến cái chết. Hoặc nhẹ hơn là tôi phải lần đến một cái hầm, nằm sát trên miệng hầm rồi đưa tay thả quả lựu đạn vào hầm. Như vậy chắc chắn tôi sẽ chỉ mất một cánh tay. Anh Trịnh vẫn ở sát bên tôi, theo dõi được mọi chi tiết xảy ra và chắc cũng đọc được ý nghĩ của tôi. Anh nói, giọng nhỏ nhưng kiên quyết:
- Cố gắng lên. Hít thở sâu và ghì mạnh vào. Tao sẽ xỏ kim băng giúp mày. Nào!
Tôi liếc nhìn anh. Quả lựu đạn mà nổ thì tan cả hai thằng. Tôi hít một hơi dài rồi nghiến răng dồn lực vào hai ngón tay. Máu căng ra ở hai bên thái dương, giật giật. Anh Trịnh vẫn quỳ sát bên tôi, và khi tay tôi vừa uốn được cái lẫy về vị trí gốc của quả lựu đạn, thì anh kịp thời nhét cây kim băng vào lỗ chốt an toàn. Tôi buông tay, thả quả lựu đạn rơi xuống đất rồi nằm vật ra, thở dốc. Hai bàn tay cứng như bị chuột rút. Tôi nhìn lên bầu trời xanh tít tắp, cảm thấy mặt đất như đang xoay tròn. Một lúc lâu sau, tôi mới lồm cồm bò dậy. Tôi và anh Trịnh nhìn nhau, rồi chúng tôi ôm lấy nhau, thật lâu.
Sau đó chúng tôi tiếp tục gỡ thêm được 3 quả lựu đạn gài nữa, nhưng chỉ dám làm theo cách đơn giản là quấn nó lại và vùi xuống đất. Rồi anh Trịnh quay xuống chân đồi kéo cả tiểu đội lên, triển khai giữ chốt.
Thế là sự động viên tinh thần của anh Trịnh lại một lần nữa kéo tôi ra khỏi cái chết. Sau này, chúng tôi còn nhắc lại sự việc trên nhiều lần, mà mỗi lần nhớ lại tôi đều không khỏi rùng mình, sởn gai ốc. Tình cảm của tôi với anh Trịnh ngày càng gắn bó hơn.
Anh Trịnh không chỉ gan dạ và giỏi xử lý tình huống trong chiến đấu. Sinh hoạt đời thường của anh cũng nhiều kinh nghiệm, đôi khi có một chút láu cá. Dạo còn chiến đấu bên Lào, ăn đói nhưng người dân Lào không tiếc chúng tôi những thứ rau quả họ trồng ngoài nương rẫy. Chỉ có điều, do bận rộn hành quân tác chiến nên không phải lúc nào chúng tôi cũng gặp được dân mà xin. Một lần hành quân dã ngoại, chúng tôi được lệnh dừng chân ven một cánh rừng nhỏ. Lúc đó đã nhá nhem tối. Sau khi được phân công vị trí đóng quân, tiểu đội chúng tôi bắt tay đào hầm. Anh Trịnh nhắc nhỏ chúng tôi cứ im lặng đào hầm, rồi anh cắp AK quay ngược trở lại đường hành quân. Chừng một tiếng rưỡi sau anh quay lại, hồ hởi cho chúng tôi xem một quả bí ngô to tướng quấn trong mảnh dù. Hoá ra lúc chiều hành quân, anh đã liếc thấy một quả bí ngô ở vạt nương gần đường, và ghi nhớ vị trí của nó. Đến khi có lệnh dừng chân trú quân, đoán biết khoảng cách chỉ vài cây số, anh đã quyết định quay lại để lấy. Tối hôm đó, sau bữa cơm ít ỏi, anh lấy quả bí ngô ra, khoét nắp, bỏ ruột, cho vào đó một ít đường rồi đem xuống hầm chất lửa nướng. Đêm đó, tiểu đội chúng tôi có thêm món chè bí ngô cải thiện. Đại loại những trò vặt vãnh như thế, A trưởng nào tháo vát thì lính tráng được nhờ. Đối với cuộc sống chiến trường thì chỉ như thế thôi, cũng làm chúng tôi thấy hạnh phúc lắm rồi.


Tiêu đề: Re: Sao nỡ bắn người tù binh ấy (!?)
Gửi bởi: taupaypay trong 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:39:53 pm
Mùa mưa năm 1973, chiến sự thưa thớt do có hiệp định đình chiến Pari. Tôi nhận được hai ba lá thư nhà. Mấy thằng khác trong tiểu đội cũng có thư. Riêng anh Trịnh thì chẳng có lá thư nào. Lính tráng chiến trường vốn coi nhau như một nhà, nên tất cả thư đều đem đọc chung và được giải thích một phần những nội dung trong đó. Đời sống tinh thần khá hơn. Tuy vậy, anh Trịnh thường chỉ im lặng nghe đọc thư, ít góp thêm chuyện. Thế rồi một lần tôi bảo anh:
          - Anh cần phải biết chữ. Em sẽ dạy anh học. 
          - Liệu có được không?- anh băn khoăn hỏi lại.
          - Được. Nhất định được. Ai cũng học được mà. Chỉ cần anh nghe em là được.
Thế là tôi bắt tay vào chuẩn bị dạy anh học. Cả tiểu đội, rồi cả đại đội biết tin, ai cũng ủng hộ. Mọi người đều tin tưởng là một thằng học lớp 10 như tôi nhất định sẽ dạy được vỡ lòng. Chính trị viên đại đội là người dân tộc, văn hoá mới hết lớp 5, nhưng thích cái ý định của tôi lắm. Anh lần qua các trung đội, thu thập cho tôi một lô giấy trắng và vài cây bút bi chiến lợi phẩm. Tôi nhận, nhưng tôi làm theo cách của tôi. Tôi nhớ lại ngày xưa học vỡ lòng, có hộp ô chữ bằng gỗ. Thế là tôi hì hục lấy gỗ đẽo thành những miếng vuông be bé, phơi khô rồi lấy dùi nung khắc những chữ cái vào các miếng gỗ đó. Tôi khâu một cái túi nhỏ bằng vải dù để đựng các ô chữ cái. Thế là từ đó di chuyển quân đến đâu, anh Trịnh cũng đem theo túi chữ đó. Tôi còn dùi thêm trên mỗi miếng gỗ một cái lỗ. Mỗi ngày, tôi lấy ra một chữ cái, sỏ dây vào và bắt anh Trịnh đeo vào cổ như đeo số lính. Cứ dừng chân, hay giải lao trong các buổi hành quân hay luyện tập là anh Trịnh lôi miếng gỗ ra nhận mặt chữ, đọc to ê a và lấy que viết lên mặt đất . Nếu ở lán thì lấy bút viết ra giấy. Học thuộc xong chữ cái thì tập ghép vần, tập đọc. Cái phương pháp của tôi chả hiểu có tính sư phạm nào không, nhưng được cái anh Trịnh rất chịu khó và chăm chỉ. Dần dà anh đã đọc được chữ và đã chép được các bài tập viết do tôi soạn, tuy còn chậm. Sáu tháng sau, cả đại đội vui mừng khi chứng kiến anh đã viết được một lá thư ngắn đầu tiên gửi về nhà. Lá thư đó đã được cả đơn vị xem trước khi bỏ vào phong bì gửi đi.
Cũng liền sau đó, tôi được cử làm A trưởng một A khác trong cùng đại đội. Tôi với anh, tuy mỗi người phải lo công việc riêng của tiểu đội mình, nhưng chúng tôi vẫn thường gặp nhau. Anh vẫn nhiệt tình giúp đỡ tôi lúc cần thiết.
Gần cuối mùa mưa năm 1974, đại đội chúng tôi nhận nhiệm vụ luồn sâu để tổ chức những trận tập kích hoặc phục kích nhằm tiêu hao sinh lực địch. Cả đại đội luồn rừng lọt hẳn vào một khu vực nằm giữa hai khu căn cứ của địch ở đường 5A và 5B, phía Tây thị xã Pleiku. Khu vực chúng tôi hoạt động là những dãy đồi rộng lớn có nhiều rừng cây nhỏ, nhưng chủ yếu là rừng le. Xen kẽ những dãy đồi dài là các con suối đất, đa số được hình thành trong mùa mưa. Các bụi le nằm ken nhau như những bụi tre nhỏ, nhưng không có gai, kéo dài suốt từ bờ suối lên đến tận đỉnh đồi. Thời gian này hầu như ngày nào cũng có mưa. Mưa tầm tã, mưa rả rích tới mức dằn vặt. Quần áo  lúc nào cũng cứ ẩm ẩm và dẻo dẻo vì dính bùn đất. Không có chỗ và thời gian để tắm, vì chúng tôi phải di chuyển liên tục. Nhiều khi phải tắm qua quít, vội vàng trong lúc lội qua suối giống như người dân tộc. Cứ vừa lội suối, vừa hạ thấp người cho ngập xuống nước rồi luồn tay vào trong người khua khoắng loạn xạ cho nhạt bớt đất và ghét. Dừng chân ở đâu, chúng tôi cũng phải đào hầm. Mùa mưa, đất mềm nên đào hầm rất dễ. Sẵn các cây le vừa tầm bắp tay, dễ chặt để ghép làm nắp hầm, nên mỗi khi dừng chân, chúng tôi chỉ mất độ một giờ là đào xong hầm cá nhân. Đang là mùa mưa nên măng le ở đây rất nhiều. Loại măng này không đắng, chỉ cần luộc qua một nước là nấu ăn được. Hầu như bữa ăn nào của chúng tôi cũng có măng le.
Đường đi trong rừng le ngoắt ngoéo, nên tầm quan sát bị hạn chế nhiều. Để chống lại các đơn vị luồn sâu của ta, địch cũng cho nhiều tốp thám báo lùng sục, phát hiện quân ta rồi gọi pháo bắn. Nhiều lúc chúng cũng cho các đơn vị bộ binh, chủ yếu là bọn lính Biệt động quân biên phòng, tổ chức theo từng trung đội để lùng sục quân ta. Có lúc hai bên đã chạm trán nhau bất ngờ và phải nổ súng theo kiểu tao ngộ chiến.
Trong một lần cũng bất ngờ gặp địch, chúng tôi đã đánh tan một trung đội địch, bắn chết ngay tên lính thông tin mang điện đài, và tên chỉ huy. Ngoài ra chúng tôi còn bắt sống được một tên tù binh. Nó chưa kịp bắn một phát nào thì đã bị anh Trịnh chồm tới sát người, dí súng vào cổ, bắt sống. Chúng tôi nắm cổ nó lôi theo và lập tức rút lui. Bọn lính địch còn sống sót mất cả chỉ huy lẫn thông tin, nên không thể gọi pháo bắn theo. Chúng tôi rút lui an toàn.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: taupaypay trong 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:41:52 pm
Về đến vị trí dừng chân, chúng tôi mới kịp trói tên tù binh. Tên tù binh còn quá trẻ, mặt non choẹt. Bên má nó như còn cả lớp lông măng tơ. Nó sợ hãi nhìn chúng tôi. Tôi thấy nó còn non hơn cả đứa em ở nhà, trông tội tội. Nó khai tên là Tín, nhà ở khu cầu Ông Lãnh, Sài Gòn. Nhà chỉ có hai má con. Nó mới 17 tuổi, bị bắt lính hơn 1 tháng. Nó vừa được bổ xung vào đơn vị Biệt động quân biên phòng trên cao nguyên này một tuần, ra trận lần đầu, chưa bắn phát nào thì bị bắt sống. Nó ngồi co ro, nép vào bụi le để tránh những giọt mưa rừng, trông gầy gò ốm yếu. Nó gọi chúng tôi là ông giải phóng, xưng con. Thằng này chẳng khai được thông tin gì, ngoài số hiệu đơn vị của nó. Chúng tôi cũng biết tỏng là nó cũng chẳng thể biết gì hơn. Từ hôm đó, chúng tôi di chuyển đến đâu là lôi nó theo đến đó. Chắc là đến hôm nào trong đại đội có người về tuyến sau thì sẽ giải nó về luôn thể.
Ba ngày sau, trung đội tôi lên giữ chốt trên cao điểm 631. Hai trung đội bạn đứng chân bên dưới, tổ chức đánh nhỏ lẻ và sẵn sàng chi viện cho chốt. Anh Trịnh ở khác trung đội tôi. Tiểu đội anh Trịnh vẫn được giao trông giữ tên tù binh. Thời gian này, đại đội trưởng của chúng tôi bị thương, đang nằm điều trị trên trạm xá trung đoàn, chính trị viên trưởng đang đi tập huấn, nên trong đơn vị chỉ còn đại đội phó Nghiêm và chính trị viên phó Thành chỉ huy. Không hiểu sao, đại đội phó Hoàng Nghiêm lại hay đến quát nạt tên tù binh. Anh cứ đổ cho vết xước trên trán anh trong trận bắt tên tù binh là do nó bắn, mặc dù khẩu súng của nó còn nguyên đạn.
Thấy thời gian trôi qua lâu mà không có đợt cử người về tuyến sau, anh Thành đã nghĩ đến chuyện phóng thích tên tù binh. Cỡ như thằng này có thả về cũng chẳng làm nên trò trống gì. Anh định tạo cho nó một vết thương để khi phóng thích về, nó cũng phải giải ngũ. Việc này tất nhiên chưa có tiền lệ và có vẻ không đúng quan điểm giai cấp. Nhưng xét về tính nhân đạo thì có thể chấp nhận được. Bản thân anh Trịnh cũng chẳng phàn nàn gì về việc phải trông giữ thêm tù binh. Tên tù binh trông hiền lành, ngoan ngoãn và im lặng chịu đựng. Đến bữa ăn cho nó bát cơm với măng le, nó nhìn biết ơn rồi cúi đầu cặm cụi ăn trong thật tội nghiệp. Anh Trịnh bảo đôi lúc chạnh lòng vì thấy nó ăn như con chó nuôi trong nhà. Nhiều lúc anh còn không có cảm giác nó là một tên địch nữa. Khi nghe phong thanh có thể được phóng thích, nó mừng lắm. Nó líu ríu nói rằng nó vô cùng biết ơn giải phóng, và mong được về gặp má nó. Nó còn thề sống thề chết sẽ không khai báo gì với tụi nguỵ về chúng tôi.  Nó bảo: "Các ông cứ bắn gãy tay con trước khi thả con ra cũng được".
Nhưng đại đội phó Nghiêm không nghĩ vậy. Anh bảo nó là địch, khác giai cấp, nên không thể tha. Vả lại, sự an toàn cho đơn vị là trên hết. Không có điều kiện giải nó về tuyến sau, thì tiêu diệt. Thực ra điều này lại vi phạm chính sách tù hàng binh, nhưng nhìn cái mặt sắt đen sì của anh Nghiêm  lúc đó thì chẳng ai dám cãi.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: taupaypay trong 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:42:29 pm
Một hôm, anh Trịnh được giao nhiệm vụ dẫn tên tù binh ra suối để bắn nó. Thằng Tín không biết chuyện, tưởng được tha, nên rất hớn hở. Anh Trịnh trói nó giải đi, lầm lũi không bắt chuyện. Khi đến một con suối, anh bảo tên lính đi lên cầu trước. Chiếc cầu độc mộc chênh vênh và trơn, lại bị tróí nên thằng Tín loay hoay mãi mới leo lên được. Anh Trịnh đứng sau một đoạn, thở dài và bật chốt an toàn súng. Nhưng hình như thằng Tín linh cảm được. Nó quay người lại nhảy đại xuống đất, rồi chạy ào lại, quỳ xuống dập đầu lạy dưới chân anh Trịnh. Nó vừa khóc, vừa van xin anh tha chết cho nó. Nước mắt nó chảy dài làm anh Trịnh mủi lòng. Anh đóng lại chốt an toàn của khẩu AK, rồi đưa tên tù binh quay lại đơn vị. Tối đó, đại đội phó Nghiêm gọi anh Trịnh ra một góc xa, rồi đay nghiến anh Trịnh vì không hoàn thành nhiệm vụ. Anh Trịnh lặng im nghe, rồi chợt nói:
          - Tôi không hoàn thành nhiệm vụ. Bây giờ muốn kỷ luật tôi thế nào cũng được, nhưng tôi không bắn tên tù binh đó đâu.
Anh Nghiêm hơi sững người, nhưng không nói gì thêm. Cả hai quay lại hầm trú quân.
Hai hôm sau, đại đội phó Nghiêm lại gọi anh Trịnh, ra lệnh cho anh đưa tên tù binh lên đồi le để bắn. Anh Trịnh lại dẫn thằng Tín đi, nhưng lần này hướng về phía căn cứ địch, nên nó cũng bớt nghi ngờ. Nhưng như con chim bị đạn, sợ cả làn cây cong, nó vẫn đưa mắt nhìn anh Trịnh nghi ngại. Rồi anh Trịnh dẫn nó lên đồi. Vừa lên đến đỉnh đồi, cách nơi trú quân chỉ chừng trăm mét, bất thình lình có tiếng pháo của địch câu theo kiểu  cầm canh bắn tới. Anh Trịnh thừa dịp đó, thét bảo thằng Tín chui vào 1 cái hầm gần đó để tránh pháo. Thằng Tín làm theo. Đúng lúc tên tù binh vừa lom khom  chui được vào cửa hầm, thì anh Trịnh bật nhanh chốt an toàn rồi bắn một loạt đạn vào lưng nó. Thằng Tín trúng đạn, khuỵu chân xuống. Nó cố oằn  người quay lại, mở to mắt nhìn anh Trịnh mà không kêu lên được một tiếng nào. Ánh mắt của nó vừa thảng thốt, vừa ai oán, vừa cam chịu. Rồi hai hàng nước mắt từ từ lăn xuống khuôn mặt còn non choẹt của nó. Không dám nhìn thêm nữa, anh Trịnh quay người chạy xuống chân đồi, lôi theo cả khẩu AK còn chưa kịp đóng chốt.
Đại đội phó Nghiêm chạy ra đón, hỏi anh Trịnh một câu gì đó. Hai tai ù ra, chẳng còn nghe được gì, anh Trịnh lao về hầm rồi nằm vật ra, bật khóc. Tối hôm đó anh Trịnh bỏ cơm. Rồi hai ngày tiếp theo, anh cũng chẳng chịu ăn uống gì. Cả ngày cứ nằm im trong căn hầm ẩm ướt, ai đến hỏi anh cũng chẳng trả lời gì.
Sau đó hai hôm, tôi từ trên chốt 631 trở về và sang hầm thăm anh. Anh Trịnh ôm lấy tôi, nước mắt ứa ra. Rồi anh vừa nghẹn ngào vừa kể cho tôi nghe việc anh bắn tên tù binh. Anh bảo tôi:
          - Mày đã bao giờ nuôi một con chó, rồi lại tự tay giết thịt nó chưa. Mày có nhìn thấy ánh mắt của nó lúc bị giết ai oán, giận trách và buồn cam chịu như thế nào không? Thằng Tín nó nhìn anh y như thế đấy. Trời ơi! Anh đã bắn chết một người trong tay không có súng, mà còn bị trói. Nó đã bị bắn chết đúng lúc nó tưởng được sống. Sao tao lại hèn hạ thế này. Tao là một thằng tồi, phải không?
Anh Trịnh còn nói nhiều nữa, day dứt và dằn vặt. Tôi không nói được gì, chỉ biết im lặng nắm cánh tay anh. Anh Trịnh còn dằn vặt hơn vì ai đó trong đại đội đã nói rằng, vì anh là thằng không biết chữ nên mới bị giao cái việc bắn tù binh ấy. Trời ơi? Sao ai lại độc mồm độc miệng đến thế. Cái tình quân ngũ sống chết có nhau nơi chiến trường đâu rồi. Nói thế có khác gì bọn du thủ du thực ngoài chợ. Tôi thấy buồn, lo không hiểu cú sốc này sẽ làm anh Trịnh ra sao.
Hôm sau, tôi lại phải quay lên chốt 631. Đại đội phải di chuyển địa điểm và anh Trịnh vẫn phải đi theo đơn vị. Ở trên chốt, tôi cứ nghĩ mãi về anh Trịnh và vẫn thấy rờn rợn khi hình dung ra nét mặt tên tù binh lúc bị bắn theo lời anh Trịnh kể. Tôi rùng mình khi nghĩ rằng, nếu không phải anh Trịnh, mà là chính tôi bị giao cái nhiệm vụ ấy, thì sự thể sẽ thế nào?
Sau đợt luồn sâu kéo dài hai tháng đó, chúng tôi trở về hậu cứ. Anh Trịnh trở nên lầm lì, ít nói hơn. Anh hay cúi gầm mặt xuống đất, dáng đi trở nên chậm rãi, lòng khòng. Không còn nhận ra ở anh cái dáng nhanh nhẹn, dũng mãnh khi cắp AK dẫn cả tiểu đội xung trận. Không còn cả ánh mắt rực lên như có lửa, đầy quyết tâm khi anh phổ biến nhiệm vụ chiến đấu. Tôi có cảm nhận trong anh đang có gì thay đổi.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: taupaypay trong 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:43:25 pm
Đầu tháng 12 năm 1974, đại đội tôi lại hành quân ra tuyến trước. Lần này chúng tôi nhận nhiệm vụ chốt đường 5B. Sau những tháng mùa mưa tác chiến, đại đội tôi chỉ còn bốn chục tay súng. Sau 5 tiếng đồng hồ hành quân, chúng tôi đã chiếm lĩnh xong trân địa chốt. Trận địa chốt này được chuẩn bị sẵn từ trước, rất kiên cố. Các hầm chính nằm sâu dưới mặt đất 3 mét, có thể chịu được đạn pháo 105 ly. Hầm nào cũng được đào thêm nhiều nhánh hầm râu tôm ra hai bên để tiện tác chiến. Cả đại đội lập 3 chốt gác. Sau khi phân công gác xong, những người ở phiên gác sau lăn ra ngủ. Lúc ấy đã là 12 giờ đêm.

Mờ sáng hôm sau, cả đại đội bị đánh thức dậy bởi lệnh báo động. Chính trị viên trưởng thức giấc sớm, đã phát hiện ra cả điểm chốt vắng tanh, không còn người gác. Chúng tôi nhanh chóng kiểm tra quân số. Tất cả cùng bàng hoàng, sửng sốt và lặng người đi khi thấy toàn đơn vị thiếu mất 12 người. Trong đêm qua, họ đã đảo ngũ tập thể, có tổ chức. Trong 12 người ấy có tới 3 tiểu đội trưởng, có cả anh Trịnh.  Các anh đều là những người lính có nhiều tuổi quân hơn tôi. Tôi có hơi lờ mờ nghĩ đến sự việc này sẽ xảy ra, nhưng không ngờ là số người bỏ ngũ lớn đến như vậy. Mất tới gần một phần ba quân số, chúng tôi chỉ còn lại 28 người giữ chốt. Không thể làm thêm được gì khác, ngoài việc sắp xếp, bố trí lại đội hình trên chốt  và báo cáo về tiểu đoàn.
Trong tôi trào lên một tình cảm khó tả. Thế là các anh ấy đã bỏ chúng tôi mà đi, ngay trước trận đánh. Cá nhân tôi không dám phán quyết các anh, bởi các anh là những người đi trước chúng tôi. Các anh đã từng dẫn dắt chúng tôi từ những ngày đầu bỡ ngỡ vào chiến trường, thương yêu chúng tôi như những đứa em. Bây giờ, các anh có lý do riêng để phải ra đi, dù là day dứt lương tâm như anh Trịnh, hay chán chường vì những tháng ngày gian nan mệt mỏi. Tôi không bao giờ dám nghĩ các anh hèn nhát. Nhưng chúng tôi cũng trách các anh, bởi trận đánh sắp bắt đầu rồi. Các anh đã nỡ bỏ đi, để lại chúng tôi mỏng manh, yếu ớt trên cả trận địa chốt này. Nếu vì thế mà chúng tôi phải hy sinh tất cả, các anh có ân hận không?
Buổi sáng trên cao nguyên vào độ cuối năm này, thường có rất nhiều sương mù. Phải đến tầm nửa buổi sáng, khi mặt trời đã lên cao thì sương mù mới tan hết. Hôm đó cũng vào lúc tan hết sương, thì địch bắt đầu tấn công lên chốt chúng tôi. Phía cánh trái, đúng hướng con đường mòn dẫn lên chốt, đã nổ súng đầu tiên. Bọn địch lùi lại rồi bắn trả dữ dội. Chúng vòng sang các hướng khác bắn thăm dò và tiến quân. Chỉ trong khoảng một thời gian ngắn, khi tất cả các hướng đều nổ súng, thì toàn bộ bề rộng trận địa chốt của chúng tôi đã lộ diện. Địch lùi xuống chân đồi và gọi pháo bắn. Pháo từ trong căn cứ phía sân bay Cù Hanh ầm ầm bắn vào trận địa. Chỉ chừng hai chục phút, toàn bộ đồi cây lúp súp trên trận địa đã bị bắn nát, tơi tả. Khắp trận địa xộc lên mùi khói thuốc súng khét lẹt, cộng với mùi hăng hăng ngai ngái của cây rừng bị bắn nát. Không còn có một nhánh cây nào to cỡ ngón tay trở lên mà không bị trúng mảnh đạn. Nhưng chúng tôi không bị sao, vì có hầm sâu kiên cố. Bây giờ tầm quan sát đã rộng, và địch tiếp tục tổ chức tấn công.
Ngày hôm đó, chúng tôi đã đánh lui 4 đợt tấn công của địch, giữ được chốt. Phía ta không có ai hy sinh hay bị thương. Song mấy đợt pháo kích tơi bời của địch đã cày sới khắp quả đồi và phá hỏng nhiều nhánh hầm râu tôm. Đêm đó, chúng tôi phải thức để sửa lại các râu tôm, và đào thêm một số đoạn giao thông hào để di chuyển, vì trên trận địa không còn cây che khuất nữa.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: taupaypay trong 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:43:54 pm
Ngày hôm sau, bọn địch lại tổ chức đánh chiếm chốt. Cũng chỉ có 4 đợt tấn công, nhưng mỗi đợt kéo dài và ác liệt hơn. Trong các đợt pháo kích, đich tập trung bắn kết hợp đủ các loại đạn pháo hòng tiêu diệt chúng tôi. Đạn chơm chơm phát nổ từ trên không trung ở khoảng cách 3 mét rồi hắt mảnh đạn xuống đất để sát thương bộ binh. Đạn cày, sau khi rơi xuống đất không nổ ngay, mà còn cày một đường dài tới 4 mét ở độ sâu 50 phân rồi mới nổ. Các hầm nắp bằng và hầm chữ A thông thường không chịu nổi loại pháo này. Ghê gớm hơn nữa là pháo khoan. Quả đạn pháo rơi xuống đất còn khoan sâu 2 mét mới phát nổ. Chỉ có hầm sâu hơn 3 mét mới chịu nổi loại đạn này, song nếu trúng đạn ngay trên nóc hầm thì cũng bị sức ép rất lớn.
Các hầm chính của chúng tôi ở độ sâu 3 mét, cộng với lớp đất đắp nổi khá dày đã giúp chúng tôi qua được các trận pháo kích của địch. Chúng tôi vẫn giữ được chốt, nhưng phải chịu tổn thất nặng. Cả đại đội bị hy sinh 5 người, bị thương phải đưa về tuyến sau 3. Tất cả chỉ còn lại hai chục tay súng giữ chốt. Chúng tôi vẫn phải kiên trì sửa chữa hầm hào để tiếp tục chiến đấu.
Tuy vậy, đêm hôm đó, tiểu đoàn đã đưa một đại đội khác có đủ quân số ra thay chốt, cho chúng tôi về tuyến sau củng cố.
Thời gian này, không khí trong đơn vị có chiều trầm lắng. Đại đội sắp xếp lại người và tổ chức rút kinh nghiệm. Sự việc 12 người lính đào ngũ được nêu ra. Tôi cũng bị khiển trách, vì là người chơi thân với anh Trịnh mà sao không phát hiện ra ý định đào ngũ của anh. Tôi ngồi im lặng, chẳng muốn nói gì. Nhưng tôi thầm nghĩ: cái sự day dứt vì bắn người tù binh đã chấn động đến tư tưởng anh Trịnh, một người lính vốn dũng cảm, kiên trung và có nhiều chiến công.  Sự chấn động này chắc còn lây đến cả nhiều người khác nữa. Trong đời lính, phải nói với nhau bằng hành động cụ thể và đối xử với nhau bằng tình người, chứ chỉ làm công tác tư tưởng suông thì chẳng giải quyết được gì. Lớp người chúng tôi, đơn giản là làm trai thời loạn thì phải cầm súng ra chiến trường, làm tròn nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, dẫu biết rằng đến một ngày nào đó sẽ phải ngã xuống trên chiến hào. Chúng tôi đã sống với nhau như anh em, bằng tình đồng đội của những người cùng cảnh. Thế thôi.
Còn nói rằng chúng tôi đi chiến đấu vì cái lý tưởng, mà đến khi đạt được nó, ai cũng chỉ phải làm theo sức mình, còn muốn ăn bao nhiêu thì ăn; thì ngay cả  một thằng học hết lớp 10 sống ở thành phố như tôi còn hiểu lờ mờ, nói gì đến những người như anh Trịnh nghèo đến mức không  được đi học để biết chữ, mà trách.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: taupaypay trong 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:44:11 pm
Tháng 1 năm 1975, chúng tôi được bổ xung thêm quân, toàn tân binh từ miền Bắc vào. Chúng tôi khẩn trương tập luyện. Sau đó, hoà cùng các đơn vị khác, chúng tôi tham gia các chiến dịch Tây nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến đấu cho tới ngày miền Nam giải phóng.
Ngày 7 tháng 5 năm 1975, các đơn vị tổ chức duyệt binh mừng chiến thắng, mừng công tại Sài Gòn. Lúc đứng trong hàng quân, biểu dương lực lượng, tôi lại nhớ đến anh Trịnh và những  đồng đội trong nhóm 12 người đảo ngũ. Tôi lại thấy tiếc cho các anh. Các anh đã đi qua hàng ngàn ngày lửa đạn không nghỉ, vậy mà chỉ còn một trăm bốn chục ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, các anh lại không có mặt. Tổ quốc này, Đất nước này đã quên các anh. Chỉ còn có chúng tôi, những người đã cùng sống và chiến đấu cùng các anh là nhớ đến các anh, mỗi khi ôn lại những ngày quân ngũ.


Kỷ kuật là sức mạnh của quân đội. Những người lính chúng tôi chỉ thật sự có sức mạnh khi đứng trong đội ngũ, chiến đấu vì lời thề quân ngũ của mình. Mười hai người lính cùng đảo ngũ khỏi đơn vị tôi trong cái đêm lạnh lẽo tháng 12 năm 1974 ấy, tuy có quân số bằng cả một trung đội, nhưng họ lại không còn đủ sức mạnh như khi còn chiến đấu trong đội hình đơn vị. Họ đã bị các đơn vị tuyến sau của sư đoàn, của mặt trận săn đuổi, trốn chạy trong rừng và tan rã một phần. Ba người bị bắt giữ phải quay trở lại đơn vị. Sau đó, họ đã tiếp tục tham gia chiến đấu cùng cả đơn vị cho tới ngày chiến thắng, nhưng họ vẫn bị kỷ luật nặng và phải chịu nhiều thiệt thòi khi giải ngũ sau chiến tranh. Một người bị ốm chết dọc đường khi còn ở trong rừng. Tám người còn lại phải hơn một tháng sau mới lần ra được đến sông Bến Hải và bơi vượt sông ra Bắc trong một đêm đông. Lại cũng chỉ có 5 người qua sông an toàn và tìm về được đến nhà. Đúng thời gian đó, chiến trường Tây Nguyên đang thắng lớn. Người ở hậu phương tạm quên các anh, nhưng sau ngày miền Nam giải phóng, các anh đều phải nhập ngũ trở lại. Các anh phải vào Tây nguyên lao động cải tạo trồng rừng tới hai năm sau mới được trả về nhà. Tất nhiên, các anh chẳng được hưởng chế độ chính sách gì của một quân nhân giải ngũ.
Một buổi chiều 30 tháng tư của hai mươi ba năm sau ngày miền Nam giải phóng, tôi mới tìm được về quê anh Trịnh. Đứng đón tôi trên nền đất trong một ngôi nhà cấp bốn ở một vùng quê Sơn Tây, là một người đàn ông luống tuổi. Anh mặc một chiếc áo sơ-mi đã ngả màu cháo lòng, một chiếc quần sẫm màu đã bạc, và đi một đôi dép tổ ong. Không còn vẻ cường tráng của một người nông dân mặc áo lính, không còn vẻ dũng mãnh của một người tiểu đội trưởng kiên cường, nhưng tôi vẫn nhận ra anh nhờ ánh mắt rực lên như có lửa. Anh Trịnh, người tiểu đội trưởng một thời của tôi đó. Tôi lao vào ôm chầm lấy anh, ôm thật lâu như năm nào trên ngọn đồi chốt ở Chư Pa, chúng tôi  đã ôm nhau khi vừa thoát ra khỏi cái chết chỉ trong gang tấc, sau khi hóa giải được quả lựu đạn gài. Cả hai cùng xúc động trào rơi nước mắt. Số phận con người đã đun đẩy chúng tôi mỗi người một kiểu. Nhưng tôi thầm nói với anh Trịnh rằng: "anh Trịnh ơi, cuộc đời này dù phũ phàng đến đâu, xô đẩy anh và em đến nơi nào chăng nữa, thì trong lòng em, anh vẫn luôn là người tiểu đội trưởng thân thiết như xưa".

NGUỒN: http://www.ngoisaoblog.com/m.php?u=chienc6&p=168021


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: mig21-58 trong 11 Tháng Giêng, 2009, 10:19:26 pm
Tháng 1 năm 1975, chúng tôi được bổ xung thêm quân, toàn tân binh từ miền Bắc vào. Chúng tôi khẩn trương tập luyện. Sau đó, hoà cùng các đơn vị khác, chúng tôi tham gia các chiến dịch Tây nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến đấu cho tới ngày miền Nam giải phóng.
Ngày 7 tháng 5 năm 1975, các đơn vị tổ chức duyệt binh mừng chiến thắng, mừng công tại Sài Gòn. Lúc đứng trong hàng quân, biểu dương lực lượng, tôi lại nhớ đến anh Trịnh và những  đồng đội trong nhóm 12 người đảo ngũ. Tôi lại thấy tiếc cho các anh. Các anh đã đi qua hàng ngàn ngày lửa đạn không nghỉ, vậy mà chỉ còn một trăm bốn chục ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, các anh lại không có mặt. Tổ quốc này, Đất nước này đã quên các anh. Chỉ còn có chúng tôi, những người đã cùng sống và chiến đấu cùng các anh là nhớ đến các anh, mỗi khi ôn lại những ngày quân ngũ.


Kỷ kuật là sức mạnh của quân đội. Những người lính chúng tôi chỉ thật sự có sức mạnh khi đứng trong đội ngũ, chiến đấu vì lời thề quân ngũ của mình. Mười hai người lính cùng đảo ngũ khỏi đơn vị tôi trong cái đêm lạnh lẽo tháng 12 năm 1974 ấy, tuy có quân số bằng cả một trung đội, nhưng họ lại không còn đủ sức mạnh như khi còn chiến đấu trong đội hình đơn vị. Họ đã bị các đơn vị tuyến sau của sư đoàn, của mặt trận săn đuổi, trốn chạy trong rừng và tan rã một phần. Ba người bị bắt giữ phải quay trở lại đơn vị. Sau đó, họ đã tiếp tục tham gia chiến đấu cùng cả đơn vị cho tới ngày chiến thắng, nhưng họ vẫn bị kỷ luật nặng và phải chịu nhiều thiệt thòi khi giải ngũ sau chiến tranh. Một người bị ốm chết dọc đường khi còn ở trong rừng. Tám người còn lại phải hơn một tháng sau mới lần ra được đến sông Bến Hải và bơi vượt sông ra Bắc trong một đêm đông. Lại cũng chỉ có 5 người qua sông an toàn và tìm về được đến nhà. Đúng thời gian đó, chiến trường Tây Nguyên đang thắng lớn. Người ở hậu phương tạm quên các anh, nhưng sau ngày miền Nam giải phóng, các anh đều phải nhập ngũ trở lại. Các anh phải vào Tây nguyên lao động cải tạo trồng rừng tới hai năm sau mới được trả về nhà. Tất nhiên, các anh chẳng được hưởng chế độ chính sách gì của một quân nhân giải ngũ.
Một buổi chiều 30 tháng tư của hai mươi ba năm sau ngày miền Nam giải phóng, tôi mới tìm được về quê anh Trịnh. Đứng đón tôi trên nền đất trong một ngôi nhà cấp bốn ở một vùng quê Sơn Tây, là một người đàn ông luống tuổi. Anh mặc một chiếc áo sơ-mi đã ngả màu cháo lòng, một chiếc quần sẫm màu đã bạc, và đi một đôi dép tổ ong. Không còn vẻ cường tráng của một người nông dân mặc áo lính, không còn vẻ dũng mãnh của một người tiểu đội trưởng kiên cường, nhưng tôi vẫn nhận ra anh nhờ ánh mắt rực lên như có lửa. Anh Trịnh, người tiểu đội trưởng một thời của tôi đó. Tôi lao vào ôm chầm lấy anh, ôm thật lâu như năm nào trên ngọn đồi chốt ở Chư Pa, chúng tôi  đã ôm nhau khi vừa thoát ra khỏi cái chết chỉ trong gang tấc, sau khi hóa giải được quả lựu đạn gài. Cả hai cùng xúc động trào rơi nước mắt. Số phận con người đã đun đẩy chúng tôi mỗi người một kiểu. Nhưng tôi thầm nói với anh Trịnh rằng: "anh Trịnh ơi, cuộc đời này dù phũ phàng đến đâu, xô đẩy anh và em đến nơi nào chăng nữa, thì trong lòng em, anh vẫn luôn là người tiểu đội trưởng thân thiết như xưa".

NGUỒN: http://www.ngoisaoblog.com/m.php?u=chienc6&p=168021
ngày 15/5/1975 là ngày duyệt binh mừng chiến thắng  ở cả
 
 SAÌ GÒN lẫn HÀ NỘI  sao lại  là ngày 7/5 ở đây nhỉ ? ông này nói không đúng rồi /


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 09 Tháng Hai, 2009, 08:52:24 am
@ bác Mig21-58:

      Tôi đã hỏi lại tác giả. Đúng là tác giả nhớ nhầm ngày. Ngày 15/5/1975 mới duyệt binh. Ngày 7/5 là ngày các đơn vị tham gia duyệt binh, diễu binh bắt đầu được lênh tập gấp đội ngũ.

       Ngoài Bắc thì còn có khối các trường sĩ quan tham gia duyệt binh chứ trong Sài gòn chủ yếu là các đơn vị vừa tham chiến. Thằng nào có dáng một tý thì tham gia khối đi, thằng nào kém hơn thì vào đội hình đứng.


Tiêu đề: Truyện ngắn: Anh vẫn đi tìm em
Gửi bởi: Trinhsat trong 17 Tháng Hai, 2009, 09:14:52 pm
    " Cái quý nhất của con người là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần … "   - ( Nhi-ca-lai  A-xtơ-rốp-xki )
   Thế còn điều quý nhất trong cuộc đời con người?
   Phải chăng, đó là TÌNH YÊU

Anh vẫn đi tìm em

   "Ròng rã hơn hai tháng trời hành quân dọc núi rừng Trường Sơn, chúng tôi mới vào đến vùng đất của tỉnh Sa-ra-van thuộc Nam Lào. Chúng tôi được thông báo là đã tới nơi, và tất cả sẽ được bổ xung vào Sư đoàn đang chiến đấu tại đó.

   Cuộc hành quân của chúng tôi dọc Trường Sơn đúng vào mùa mưa nên thật vất vả. Ai đã từng phải leo núi, đi rừng vào những ngày mưa mới thấu hiểu hết nỗi vất vả của chúng tôi. Đường đi trong rừng chỉ là đường mòn, trơn tuột. Đường đi trên Trường Sơn đa phần là rừng núi, dốc tiếp liền dốc. Lên dốc khó một thì xuống dốc khó hai. Đoạn nào có cây rừng thì níu lấy cho khỏi ngã, đoạn nào trống trải thì nhiều khi phải quay người đi lùi trong tư thế bò. Nhiều đoạn dốc quá, một người ngã tuột dốc là kéo theo luôn vài người nữa cùng ngã. Phần mông và hai đầu gối luôn lấm đầy bùn đất. Hành quân gặp đúng hôm mưa còn khổ hơn. Giữa bầu trời âm u xám xịt, mưa rừng có thể trút xuống bất cứ lúc nào không hẹn trước. Không thể quàng áo mưa đi rừng vì những cành cây hai bên đường sẽ cào tơi tả tấm áo mưa ngay. Tấm Ni-lon là thứ tài sản cá nhân, là quân dụng nên phải giữ gìn, vì rất có thể trong suốt quãng đời ở Trường Sơn, chúng tôi sẽ không bao giờ được phát bổ xung nữa. Mà dù trời không mưa thì những đám nước đọng lại đẫm trên cây lá hai bên đường cũng sẽ quệt vào người, khiến lúc nào quần áo cũng ướt. Nhưng cơ cực và nguy hiểm nhất là những lần vượt sông. Không có cầu, chúng tôi phải lội bộ ở những đoạn sông có ghềnh đá. Tại những chỗ này, mực nước đỡ sâu hơn, nhưng lại chảy xiết. Tất cả phải bám tay vào sợi dây làm bằng cây song do công binh căng qua mặt sông và dò dẫm từng bước đi cho khỏi ngã. Nhưng hầu như không có ai thoát khỏi bị ngã ít nhất một lần trong tổng số những lần vượt  sông đó.

   Hành quân vào mùa mưa ít có nguy cơ bị máy bay địch phát hiện và oanh tạc. Suốt cả chặng đường hành quân qua Trường Sơn, chúng tôi chỉ gặp máy bay đánh phá có hai lần. Gặp hôm trời không mưa, ít mây, máy bay trinh sát OV-10 của địch cứ bay vè vè trên đầu. Hễ phát hiện ra điều gì nghi ngờ là chúng bắn pháo khói chỉ điểm rồi gọi máy bay đến ném bom. Một lần chúng ném bom ở tít cánh rừng bên cạnh. Lần khác thì chúng ném bom xong, phải hơn một tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới hành quân tới nơi. Cả một khoảng rừng chỉ còn lại cảnh cây gãy đổ ngổn ngang, mùi khét của khói bom hòa lẫn mùi cây tươi ngai ngái.

*

   Chúng tôi được tạm nghỉ hai ngày, kết hợp tắm giặt và học chính trị, nghe phổ biến tình hình và một vài qui tắc chiến trường. Sau đó, cả một tiểu đoàn tân binh mấy trăm người được xé lẻ ra và phân chia về bổ xung cho các đại đội. Tôi được vào một đại đội bộ binh đang đứng chân ở phía Tây Bắc Thị xã Sa-ra-van. Đơn vị đang chuẩn bị đánh địch trong khu sân bay cũ. Tôi được phân công về một tiểu đội có ba người. Tôi mới chỉ kịp nhớ tên của tiểu đội trưởng là Bình và một chiến sĩ nữa là Đức. Tôi được phát hai quả lựu đạn tròn USA và một khẩu tiểu liên AK cùng 250 viên đạn. Anh Bình phổ biến luôn  mệnh lệnh, chuẩn bị đêm nay sẽ ra trận. Tôi bám ngay lấy Đức để học hỏi cách thức chuẩn bị súng đạn. Cảm giác trước giờ ra trận thật hồi hộp và náo nức.

   Đêm nay, trung đội chúng tôi được giao nhiệm vụ đánh địch ở khu xưởng cưa. Cả trung đội chỉ có 12 người, bằng đúng một tiểu đội tân binh huấn luyện ngoài Bắc. Đêm cuối mùa mưa, trời không trăng sao. Cả đơn vị mò mẫm đi trong đêm theo bước chân của trinh sát dẫn đường. Gần sáng, chúng tôi tiếp cận được khu xưởng cưa nằm ở bên ngoài phía Bắc sân bay. Có một trung đội địch đóng tại đây. Chúng chỉ đào hầm cá nhân làm công sự và dựa lưng vào khu tường nhà, xung quanh không có hàng rào.

   Tờ mờ sáng, chúng tôi nổ súng. Các tiểu đội tập trung cả ba khẩu B40 nhất loạt bắn vào đội hình đich. Lính xung lực chúng tôi lập tức xung phong áp sát. Những tên địch còn sống choàng tỉnh chĩa súng bắn ra loạn xạ. Chúng chỉ có  tiểu liên cực nhanh AR15 và súng cối cá nhân M79. Chúng tôi chia thành từng tốp, toả ra hai cánh yểm hộ nhau và tìm cách tiêu diệt từng tên địch. Theo chân Đức, tôi cũng ném một quả lựu đạn và quạt AK lia lịa. Bọn địch bị đánh bất ngờ, hao tổn ngay từ khi trúng mấy quả B40 của ta, nên sức chống cự yếu. Chỉ sau khoảng 15 phút, chúng tôi đã tiêu diệt cả trung đội địch và làm chủ xưởng cưa. Về phía ta, một chiến sĩ ở tiểu đội bên cạnh bị trúng đạn vào đùi, phải đưa về tuyến sau.

   Vị trí xưởng cưa này là một điểm chốt của địch, bảo vệ cho khu sân bay. Chúng tôi trụ lại ở đây một ngày, chờ đến đêm sẽ tiếp tục phối hợp cùng các đơn vị khác đánh tiếp khu sân bay.

   Sau trận ra quân đầu tiên, tôi cảm thấy rất phấn chấn. Thế là mình đã được trực tiếp chiến đấu, đã được bắn súng vào kẻ địch thật, chứ không phải bắn vào mấy tấm bia ở thao trường.

   Chúng tôi lại lau chùi súng đạn, nghe quán triệt nhiệm vụ và chờ đến tối.

(Còn tiếp...)


Tiêu đề: Truyện ngắn: Anh vẫn đi tìm em
Gửi bởi: Trinhsat trong 24 Tháng Hai, 2009, 09:51:25 am
...
       Sấm tối, trung đội tiềm nhập tiếp vào khu sân bay. Thị xã Sa-ra-van này đã được bộ đội ta giải phóng từ một năm rưỡi trước.     Sau đó, quân ta lại tiếp tục đánh địch vào sâu trong cao nguyên Bô-lô-ven, không có đơn vị nào đóng quân lại ở đây. Người dân Thị xã chạy loạn chưa trở lại, nên đâu đâu cũng chỉ là cảnh đổ nát hoang tàn. Trải qua một mùa mưa nên cỏ cây mọc rất rậm rạp. Hai trung đoàn địch đổ quân nhảy cóc ra đây cũng chỉ đóng quân chiếm giữ được một vài vị trí then chốt. Những nơi còn lại vẫn bị bỏ hoang.
   Vượt qua những khu nhà gỗ đổ nát, những đám cỏ cao lút, khoảng  tầm nửa đêm thì chúng tôi vào đến rìa sân bay. Chúng tôi bước thấp bước cao lội dọc theo một số đoạn hào ẩm ướt, chui qua vài ống cống xi măng thì đặt chân được lên nền đất sân bay. Cả trung đội cần phải vượt qua một khu trống không có vật che đỡ.
   Bất ngờ, hàng loạt pháo của địch cấp tập dội tới, trúng ngay giữa đội hình trung đội chúng tôi. Tiếng nổ đinh tai, đất đá rào rào bay tứ tung trong ánh chớp lửa liên hồi.
   Tôi đi sau cùng đội hình, chỉ kịp nhảy lùi lại xuống rãnh và chui vào trong một ống cống theo bản năng. Mặt đất rung lên theo tiếng pháo. Hơi trong lòng cống cũng rung lên từng đợt, tức ngực. Tôi cứ nằm im như thế, úp mặt xuống đất, không dám ngóc đầu lên.
   Khi tiếng pháo dứt được một lúc, tôi bò ra ngoài miệng cống. Chỉ có mùi đạn khét, còn không gian tối đen lặng lờ. Tôi không nghe thấy tiếng động gì. Tôi run run cất tiếng gọi anh Bình và Đức. Không có ai đáp lời. Tôi lại gọi to hơn. Vẫn không thấy gì. Tôi chợt hoảng, nhưng vẫn cố lần ra ngoài bãi đất trống. Tôi vấp phải một thân người và ngã sóng xoài. Tôi nhoài người quay lại, thấy người lính đó đã chết. Tôi ngồi im một lúc, cố gắng trấn tĩnh và nhìn xung quanh. Khi mắt đã  quen hơn với bóng tối, tôi phát hiện thêm những xác người. Tôi chợt nhận ra một sự thật kinh hoàng: trung đội tôi đã bị trúng đạn pháo hy sinh tất cả, chỉ còn sót lại mình tôi. Đột nhiên tôi thấy sợ hãi vô cùng, lạnh toát xương sống. Rồi không kìm được nữa, tôi cầm súng vùng đứng dậy, nhảy đại xuống rãnh nước rồi chạy ngược trở lại theo hướng xưởng cưa. Trong đêm tối đen, tôi cứ cắm đầu cắm cổ chạy với ý nghĩ là cần phải thoát nhanh ra khỏi nơi này. Bị vấp ngã, tôi lại vùng dậy chạy. Lại ngã, lại vùng dậy chạy. Cứ thế, ngã mấy lần nhưng tôi vẫn cứ chạy và chỉ có một ý nghĩ là chạy. Gần sáng, tôi lần được ra tới bờ sông Sê-Công. Tôi nằm vật xuống bên bờ nước và  thiếp đi vì mệt.
   Khi tôi tỉnh lại thì trời đã sáng rất rõ. Hình như vẫn có tiếng súng nổ lục bục phía Thị xã. Tôi nhìn lên trời và thấy hai chiếc máy bay T-28 của địch đang quần lượn. Bộ đội ta vẫn còn đang đánh nhau với địch trong Thị xã, hay đã rút đi đâu rồi? Nhưng tràn ngập trong lòng tôi vẫn là nỗi sợ hãi. Lòng can đảm và ý thức về người lính trong  tôi đã bay đi tất cả.
   Tôi lần giở ba-lô lấy gói cơm ra ăn. Gói cơm đã sang ngày thứ ba, có mùi, song cái đói đã át tất cả. Ăn xong, tôi lấy bi-đông nước ra tu ừng ực, rồi lại nằm xuống nghỉ một lát. Đầu óc tôi mung lung. Tôi vẫn không chiến thắng nổi nỗi sợ hãi đêm qua. Thế là tôi quyết định đảo ngũ, trở ra Bắc.
   Tôi lấy ni lông gói ba-lô lại, rồi quàng súng lên vai. Chờ khi không còn tiếng máy bay vè vè, tôi lội ào xuống sông. Nước chỉ sâu đến ngực, nên tôi lội qua sông khá dễ dàng. Lên đến bờ bên kia, tôi đeo ba-lô, xốc lại súng rồi nhắm hướng Đông thẳng tiến. Nơi đây không có đường. Bốn bề chỉ là rừng Khôôc, loại cây lá to, mọc thưa. Tầm nhìn xa đến vài chục mét. Chỉ có thể chọn hướng mà đi thôi. Tôi nghĩ, đi về phía Đông, thể nào cũng gặp con đường vận tải, chuyển quân của bộ đội Trường sơn. Tôi cứ vừa đi, vừa chạy, lúc nào cũng có cảm giác như có ai đuổi phía sau. Mệt thì tôi ngồi nghỉ, rồi lại đi tiếp. Phải lâu lắm, tôi mới vượt qua được những khu rừng khôôc rộng mênh mông của bình nguyên Sa-ra-van. Rừng bắt đầu dày với đa dạng loại cây hơn. Tôi phát hiện ra một con đường mòn có dấu vết xe ô-tô, nhưng vệt xe đã quá cũ, và cây cỏ đã mọc tràn hai bên đường. Có lẽ đây chỉ là con đường tạm mở ra cho một mặt trận nào đó, chứ chưa phải là đường của tuyến Trường sơn. Tôi lần theo dọc con đường, hướng về phía Bắc. Song chỉ được vài quãng, con đường lại quay sang hướng Tây đi vào bình nguyên. Thế là tôi lại rời bỏ con đường và đi cắt rừng theo hướng Đông.
   Đi mãi, rồi tôi cũng vào đến những cánh rừng rậm mà tôi cho rằng đã thuộc dãy Trường  Sơn. Đã có những ngọn núi cao trước mặt. Không có đường, việc đi cắt rừng qua núi thật khó, nhất là đối với một tân binh mới vào chiến trường được mấy ngày như tôi. Quãng đường trong rừng, tôi đi không được bao nhiêu. Nhiều lúc, tôi còn có cảm giác như mình đi theo vòng tròn. Loanh quanh một lúc, lại thấy như mình trở lại chỗ vừa đi qua. Mấy ngọn núi cao vẫn như nằm ngay trước mặt.
   Chiều tắt nắng, rồi rừng tối lúc nào không hay. Không còn biết đâu mà lần nữa, tôi đành tìm mấy gốc cây nhỏ căng võng nghỉ đêm. Tôi phải buộc ba-lô vào đầu võng và ôm súng trong lòng để ngủ. Lúc này tôi mới thấy thấm mệt. Không hiểu ngày hôm nay tôi đã đi được bao nhiêu đường đất. Rồi mệt quá, tôi ngủ thiếp đi.
   Tôi tỉnh dậy lúc trời còn chưa sáng. Rừng đêm tĩnh mịch. Tôi nằm im lắng nghe, chỉ thấy có mỗi tiếng côn trùng kêu rả rích. Rồi cơn đói kéo đến. Chút cơm thiu cuối cùng, tôi đã ăn hết từ trưa qua. Bi-đông nước cũng chỉ còn một nửa. Thế là trước mắt, tôi không còn chút lương thực nào cả, mà đường đi thì không biết tới đâu. Tôi bỗng cảm thấy cô đơn quá. Từ khi rời nhà bước chân vào lính, tôi đã quen cuộc sống quân ngũ có đồng đội rồi. Đi công tác lẻ thì chí ít cũng có hai người. Thế mà bây giờ chỉ có một mình, và lại phải tự quyết định tất cả. Chợt tôi thấy nhớ đơn vị. Nhưng đó lại là những bạn bè của đơn vị cũ ngoài Bắc cơ. Còn đơn vị trong này, tôi mới chỉ quen có hai ngày, mà mọi người lại hy sinh cả rồi. Tôi đã đi quá xa, bây giờ  mà có quay lại thì biết tìm ai. Tôi cứ nằm suy nghĩ vơ vẩn như thế cho tới lúc trời sáng.
   Gấp gọn tăng võng cất vào ba-lô xong, tôi lại khoác súng lên đường. Thôi, đã quyết định đảo ngũ rồi thì cứ nhằm miền Bắc mà tiến thôi.
   Đi được chừng hai tiếng đồng hồ, tôi tới một khu rừng rộng và tương đối thưa. Đột nhiên tôi nghe thấy rất nhiều tiếng bom nổ, rung chuyển cả mặt đất. Tiếng nổ ầm vang, liên hoàn  kéo nhanh lại hướng chỗ tôi. Rồi cả khu rừng như chìm trong bom đạn. Tôi chạy và  ngã gục xuống đất lúc nào không biết.



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: daibangden trong 26 Tháng Hai, 2009, 04:14:59 pm
 Các bài lạc đề từ Văn học qua hỏi đáp lựu đạn hay chăn trâu, đi bộ đội, em đã chuyển qua box Kiến thức quốc phòng.
 Các bác không lạc đề nữa nhé!


Tiêu đề: Truyện ngắn: Anh vẫn đi tìm em
Gửi bởi: Trinhsat trong 27 Tháng Hai, 2009, 04:15:50 pm
           ... Hình như tôi đang trôi trên mặt nước, dập dềnh nhưng không bị chìm hẳn. Tôi thấy ngạt thở, cố nhoi lên mặt nước mà không được.
   Tôi cảm thấy như có ai lay lay vào  vai mình, rồi tôi tỉnh dậy, mở mắt.
   Trước mắt tôi là một gương mặt trái xoan con gái dưới chiếc mũ tai bèo. Tôi nghe thấy một giọng nói nhẹ nhàng, nhưng vẫn như vọng từ đâu đó: "Đồng chí  tỉnh rồi à".
   - Tôi đang ở đâu đây?- Tôi hỏi.
   - Đồng chí vừa bị ngất vì sức ép của bom đấy. Để tôi đỡ đồng chí ngồi dậy.
   Cô gái đỡ tôi ngồi dậy. Tôi nhìn xung quanh, cố nhớ và chắp nối lại sự việc. Hóa ra vô tình tôi đã gặp phải một trận bom rải thảm B52 của địch. May mà tôi chỉ ở rìa của tọa độ bom, nên chỉ bị sức ép bom mà ngất đi thôi. Nếu tôi đi sâu hơn nữa vào tọa độ bom thì chắc không thể thoát chết. Cũng rất tình cờ, vì gặp bãi bom phải đi vòng để tránh, mà Liên - tên cô gái giao liên của một binh trạm Trường Sơn - đã gặp tôi.
   Ngoài việc bị sức ép bom, tôi còn bị bong gân bên chân trái, có lẽ do bị vấp ngã trong lúc chạy hoảng loạn. Liên hỏi chuyện và tôi đã nói dối là bị lạc đơn vị. Tưởng tôi thuộc một đoàn tân binh hành quân trên đường dây, nên Liên bảo:
   - Anh bị lạc cả ngày trời thế này, chắc đơn vị đã đi xa rồi. Anh nên về binh trạm rồi nhập theo đoàn tân binh sau thôi. - Liên đã chuyển cách xưng hô anh em với tôi tự lúc nào không rõ.
   Rồi Liên bảo: "Quay lại trạm trước cũng phải sáu bảy cây số, tự anh đi sẽ rất vất vả. Em cũng không thể quay lại cùng anh được vì còn phải chuyển công văn vào trạm sau. Có lẽ anh đi cùng em vào trạm sau thì hơn".
   Tôi rất muốn từ chối, muốn thoát khỏi Liên để còn chuồn ra Bắc. Nhưng tôi lại đang đau chân, đói và không biết đường. Thế là tôi đồng ý.  Liên chặt một cành cây cho tôi làm gậy chống, rồi chúng tôi lên đường. Từ đây, tôi không còn phải lo tìm đường nữa vì đã có Liên. Nhưng tôi đi được rất chậm. Phần vì đau chân, phần vì đói. Liên cứ phải chờ tôi. Đến một con suối nhỏ, Liên bảo ngồi nghỉ, rồi lấy nắm cơm vắt ra bảo tôi cùng ăn. Liên đã nhường cho tôi quá nửa, có lẽ vì cảm nhận thấy cái vẻ háu đói của tôi.
   Ăn xong, Liên kiểm tra lại vết  chân đau của tôi. Sau đó, Liên bảo tôi cứ ngồi nghỉ, rồi cắp AK đi sâu vào rừng. Tôi nhìn theo cái dáng nhỏ nhắn của Liên trong bộ quân phục bạc màu và hai bím tóc lắc lắc theo nhịp đi mà vừa cảm phục cô ấy, lại thấy xấu hổ cho mình.
   Liên quay lại, mang theo một nắm lá thân dài như lá dong. Liên vò nát ra rồi đắp vào chỗ bong gân của tôi và lấy băng  buộc lại. Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Do đi chậm, Liên bảo hôm nay không thể về được đến trạm, cần phải tìm chỗ nghỉ đêm. Rồi Liên chủ động đưa tôi đến một khu rừng đã bị bom phá nát từ những đợt trước. Liên tìm được một khe suối nhỏ có một cái hầm  cũ kiểu hàm ếch. Phía bên trên là những bụi tre lớn, thân đổ ngổn ngang, xơ xác do bị bom. Liên bảo nơi này trông thì trống trải, nhưng an toàn. Nơi đã bị rải bom rồi thì hiếm khi bị bom lại. Liên đưa tôi vào ngồi trong cái hầm lộ thiên đó.
   Một lần nữa, Liên lại để tôi ở lại một mình rồi đi vào rừng. Rất lâu sau, cô ấy mới quay lại. Lần này Liên mang về một túi gạo nhỏ. Liên bảo ở giữa các cung đường của các trạm giao liên, thường có các kho bí mật của binh trạm để cất giữ lương thực. Kho rất nhỏ, nhưng cũng đủ để trợ giúp cho các giao liên khi lỡ đường. Các giao liên như cô đều biết vị trí của kho này. Rồi Liên tranh thủ đặt hăng-gô, bẻ những cành tre khô nhóm lửa nấu cơm. Liên bảo ở những chỗ như thế này không sợ khói, nhưng không được có ánh lửa lúc ban đêm.
   Bữa cơm tối chỉ có cơm với canh lá chua rừng, nhưng tôi ăn thật ngon lành. Tôi cảm động với cái cách Liên chăm chút cho tôi, có cái gì đó thân thương như trong gia đình, chứ không chỉ đơn thuần là tình đồng đội.
   Khi màn đêm buông xuống, chúng tôi chui vào hầm. Liên đã trải ra một tấm nilon  để ngồi lên cho khỏi lạnh.  Chúng tôi ngồi trong bóng tối, dựa lưng vào vách hầm và nhìn ra khoảng trời trắng mờ trước mặt. Bây giờ là lúc nghỉ ngơi qua một ngày mệt nhọc. Rồi tôi và Liên kể chuyện mình cho nhau nghe. Liên kể, quê em ở Hà Tây, bên bờ sông Đáy. Làng có nghề trồng dâu nuôi tằm. Ngày chợ phiên, Liên thường theo mẹ qua đò sang bên kia sông bán tơ cho phường dệt vải. Liên đi thanh niên xung phong từ năm 17 tuổi. Em tham gia làm giao thông ở khu Bốn chừng nửa năm thì được chuyển sang bộ đội Trường sơn. Đây là địa bàn thuộc Binh trạm của em. Nhiệm vụ chính của em là giao liên, chuyển công văn hoặc dẫn đường cho các đoàn tân binh hay cán bộ vào Nam, ra Bắc. Năm nay, Liên đã 18 tuổi.
   Thế là tôi hơn Liên gần một tuổi. Tôi cũng kể chuyện mình. Kể về cái góc phố nhỏ  Hòa Mã ở Thủ đô Hà Nội, nơi tôi còn cha mẹ và một chị gái đang sinh sống. Kể về cái trường cấp III Hai bà Trưng là mái trường cuối cùng trong đời học sinh của tôi. Bạn bè cùng lớp, bọn con trai đi bộ đội cũng nhiều. Bọn con gái thì hoặc đã đi học Đại học, hoặc đi công nhân cả. Con gái Hà Nội ít ai đi thanh niên xung phong. Tôi cũng nói với Liên là chưa có một cô bạn gái nào hẹn hò với tôi cả.
   Đến khi kể đến chuyện hiện tại thì tôi ngồi im khá lâu. Tôi ngần ngừ, phân vân và ngắc ngứ trong cổ. Liên ngồi bó gối bên cạnh, thỉnh thoảng ngước mắt nhìn sang tôi, đôi mắt đen lay láy. Tôi bỗng thấy nóng bừng cả mặt. Rồi tôi quyết định nói thật với Liên tất cả. Cả một ngày trời, Liên đã lo lắng chăm sóc và giúp đỡ cho một người đồng đội tận tình như thế, mà chỉ nhận được điều dối trá thì thật bất công. Tôi thấy xấu hổ về mình trước tinh thần lạc quan, yêu đời và tận tụy vì công việc của Liên. Em ngồi lặng im nghe tôi kể. Em cũng không tỏ ra bất ngờ hay có thái độ gì căng thẳng. Kết thúc câu chuyện, tôi bảo:
   - Liên ơi. Bây giờ Liên khuyên tôi nên như thế nào.
   Liên có vẻ nghĩ ngợi một lúc, rồi bảo:
   - Em cảm nhận được suy nghĩ của anh. Em không trách gì anh. Có điều, trốn ra tận Bắc thì không nên. Nếu anh không muốn chiến đấu thì cùng em về binh trạm. Anh báo là lạc đơn vị rồi xin ở lại trạm công tác cũng được. Nhiều binh trạm cũng thu nhận bộ đội lạc đơn vị. Nhưng em nghĩ, anh nên tìm về đơn vị của anh. Mặt trận Sa-ra-van cách đây cũng chỉ hai chục cây số thôi.
   Khi quyết định kể hết mọi chuyện cho Liên, tôi cũng đã nghĩ tới điều này. Vì thế tôi bảo Liên, mai tôi sẽ tìm trở lại đơn vị.
   Quyết định rồi, tôi và Liên quay sang nói những chuyện khác, thật thoải mái.
...



Tiêu đề: Truyện ngắn: Anh vẫn đi tìm em
Gửi bởi: Trinhsat trong 03 Tháng Ba, 2009, 10:24:34 am
         ... Về khuya, trời bỗng đổ mưa. Cơn mưa cuối mùa mà cũng nặng hạt. Liên đứng dậy lấy tấm tăng của tôi ra, buộc dây che chéo lên cửa hầm. Bây giờ căn hầm  có vẻ kín đáo và ấm áp hơn. Ngồi một lúc, Liên bảo:
   - Đêm còn dài mà chúng mình cứ ngồi mãi thế này thì mỏi mệt lắm. Anh và em cùng nằm xuống đi.
   Thế là Liên nằm lui vào trong, còn tôi nằm phía ngoài. Quả là được duỗi chân duỗi tay thì dễ chịu hơn thật. Tôi nằm quay lưng vào Liên. Mệt mỏi nên rồi tôi cũng ngủ thiếp đi.
   Gần sáng, trời xe lạnh. Liên đã nằm sát vào tôi. Bờ vai phía lưng tôi có cái gì đó mềm và ấm tỳ vào. Tôi cảm nhận được một điều gì đó thật hạnh phúc, nhưng cũng rất thiêng liêng. Tôi xoay người lại, nắm lấy bàn tay Liên. Liên cứ để im, không rút tay lại. Chỉ như thế thôi, không hơn, cho đến sáng.
*
   Buổi sáng, trời tạnh.
   Tôi thu dọn, xếp lại ba-lô, còn Liên tranh thủ nấu cơm. Liên nấu đủ cho bữa sáng, và gói cho mỗi người một nắm cơm.
   Xong xuôi, Liên bảo:
   - Em sẽ cùng anh đi một chặng đường. Sau đó, em sẽ chỉ hướng cho anh.
   Nhờ đắp  nắm lá rừng Liên kiếm hôm qua, cái chân đau của tôi đã đỡ hẳn. Tôi đã có thể đi nhanh hơn. Chúng tôi đi xuôi xuống phía Nam chừng 5 cây số thì gặp một con suối nhỏ. Liên dừng lại:
   - Chúng mình chia tay ở đây thôi. Anh đi qua suối, cứ thẳng hướng tây sẽ gặp sông Sê-công. Chỗ nào có tiếng súng, sẽ có bộ đội ta ở đó. Anh đi mạnh khỏe nhé.
   Tôi hất khẩu AK xoay vòng ra phía sau, rồi đưa cả hai tay mình nắm lấy hai bàn tay Liên:
   - Cảm ơn Liên. Anh sẽ nhớ em nhiều lắm.
   Liên ngước mắt nhìn tôi, ánh mắt bịn rịn.
   Tôi buông tay Liên, rồi lội qua suối. Sang đến bên kia bờ, tôi quay lại nhìn, vẫn thấy Liên đứng đó. Một cảm xúc trào dâng trong tôi. Tôi quay người, lội ào trở lại suối. Lên đến bờ, tôi nhào lại ôm lấy Liên. Liên cũng vòng tay ôm quàng qua cổ tôi. Tôi ghé môi hôn em. Nụ hôn đầu đời. Đôi môi Liên ướt, mềm và ấm, thơm mùi con gái. Trời đất xoay tròn. Chúng tôi hôn nhau rất lâu, tưởng như trên đời này chỉ có mỗi hai chúng tôi.
   Liên bình tĩnh lại trước. Em đẩy nhẹ tôi ra, nói trong hơi thở:
   - Hết chiến tranh, về quê tìm em anh nhé.
   - Anh sẽ về. Liên ơi! Nhất định anh sẽ về tìm em. - Tôi cũng nói gấp gáp trong hơi thở.
   Chúng tôi buông tay nhau, trở về thực tại. Tôi lại lội qua suối, vừa lội vừa ngoái lại nhìn Liên. Em đứng trên bờ đưa tay vẫy theo tôi một lát, rồi quả quyết xốc lại khẩu AK, quay mình bước đi. Tôi nhìn theo bóng Liên khuất  dần sau mấy lùm cây.
   Không gian bỗng trở lại yên tĩnh. Tôi xốc lại ba-lô, hít một hơi dài cho thêm phần can đảm, rồi nhằm hướng Sa-ra-van, vừa đi vừa chạy.
   Chiều tối hôm đó, tôi tìm về được Tiểu đoàn. Thế là tôi lạc đơn vị đã ba ngày trời. Đợt chiến đấu ở khu sân bay Sa-ra-van đã diễn ra rất ác liệt. Các đơn vị đều có tổn thất. Cũng có một số trường hợp bộ đội lạc và được ghép sang chiến đấu ở tiểu đoàn khác, nên trường hợp của tôi cũng không bị coi là ngoại lệ. Ít ngày sau, tôi được sắp xếp lại vào đơn vị mới.

*
   Đơn vị chúng tôi vẫn tiếp tục chiến đấu, và chuyển dần địa bàn. Càng ngày, tôi càng xa con đường chiến lược Trường Sơn, xa cái Binh trạm có Liên ở đó.
   Tôi không kể cho ai nghe về chuyện tôi bị lạc đơn vị 3 ngày như thế nào. Tôi không có vật kỷ niệm nào của Liên, nhưng cái cảm giác nhớ về đôi môi mềm và ấm của Liên đã theo tôi  đi qua khắp các trận đánh.  Phải chăng, đó là nguồn sức mạnh đã giúp tôi đi qua  suốt cuộc chiến tranh này, cho đến ngày chiến thắng.

*
   Mãi đến giữa năm 1976, tôi mới được rời quân ngũ. Về nhà được nửa tháng là tôi bắt đầu đi tìm Liên. Chúng tôi chưa nói với nhau được một chữ Yêu, nhưng lời nói của Liên trong hơi thở giữa rừng Trường Sơn năm nào,"về tìm em anh nhé", đã như một lời ước hẹn của hai chúng tôi. Nó thiêng liêng như một lời thề quân ngũ của hai người lính.
   Suốt hơn một tháng trời, tôi cứ lần mò dọc theo hai bờ sông Đáy, suốt từ Hát Môn bên bờ sông Hồng cho đến tận Vân Đình, xem nơi nào có bến đò, làng nào có nghề trồng dâu nuôi tằm, là tìm vào đó hỏi thăm. Nhưng hình như bãi bồi sông Đáy là dành cho nghề trồng dâu, nên đâu đâu cũng có làng nghề này. Không ai biết Liên của tôi ở đâu.
   Tôi trở về Hà Nội với ý nghĩ hy vọng rằng, hay là Liên chưa được xuất ngũ, nên tôi chưa tìm được em.
   Nửa năm sau, tôi lại đi tìm Liên. Tôi đã từng hồi hộp chờ đợi giây phút tìm gặp được Liên. Chúng tôi sẽ ôm lấy nhau, sẽ hôn nhau giữa thanh thiên bạch nhật, trước cả xóm cả làng để công bố tình yêu của chúng tôi. Vậy mà tôi vẫn chưa thấy Liên.
   Rồi từ đó, năm nào, đến cái độ cuối thu, trùng với khoảng thời gian cuối mùa mưa trong chiến trường, tôi cũng lại về sông Đáy tìm Liên . . ."

...


Tiêu đề: Truyện ngắn: Anh vẫn đi tìm em
Gửi bởi: Trinhsat trong 04 Tháng Ba, 2009, 10:45:21 pm
         ... Giọng Trung trầm lại, rồi nhỏ dần. Trung ngừng kể, mắt nhìn xa xăm ra mặt sông. Con sông Đáy mùa này trong xanh và hiền hòa.
   
   Cuối thu năm 1987, tôi đến vùng Phúc Thọ và Đan phượng  công tác ít ngày. Trong một quán nước bên bến sông gần Phùng, tôi thấy một người đàn ông trạc tuổi mình ngồi trầm ngâm. Nghe mọi người trong quán hỏi thăm anh về chuyện tìm một người con gái nào đó, tuồng như họ đã quá quen với chuyện của anh rồi. Cảm thấy có điều gì đó khác thường, tôi đã lân la làm quen với anh. Lang thang với nhau trong các làng suốt một ngày, rồi kéo nhau ra bờ sông, anh mới kể lại chuyện mình cho tôi nghe. Trung là tên của anh.

    Nghe xong, tôi hỏi anh:
   - Năm nào cậu cũng đi tìm Liên? Đã hơn mười năm rồi còn gì.
   - Phải, hơn mười năm rồi, thế mà vẫn chưa tìm thấy Liên.- anh đáp chậm rãi, mắt nhìn xa xăm ra mặt sông, giọng buồn buồn.
   Tôi cũng từng là lính Trường Sơn. Cũng từng chiến đấu ở mặt trận Sa-ra-van trong câu chuyện của anh. Anh là đồng đội của tôi.
   -Thế cậu vẫn tiếp tục đi tìm Liên sao. - Tôi hỏi.
   - Phải, mình sẽ tiếp tục đi tìm Liên. Mình không thể nào quên được Liên.
   -Thế …

   Tôi định nói, mà lại không dám nói nữa. Đó là điều mà cả tôi và anh đều không muốn nghĩ tới. Chính từ trong thâm tâm, tôi cũng muốn nghĩ là Liên chỉ ở nơi nào đó thôi.

   "Anh đi tìm em, biết em ở nơi đâu? Phải qua bao nhiêu suối, qua bao nhịp cầu, qua bao dòng sông sâu? Để anh đi tìm em, em ở nơi đâu …?"
   
             Lời một bài hát bỗng vang lên trong tôi.

   Đúng rồi, tôi nghĩ. Liên vẫn ở một nơi nào đó trong Trường Sơn thôi. Có thể vào lại đó, Trung sẽ gặp được Liên. Vai khoác AK, mũ tai bèo và quân phục bạc màu, mắt đen tròn, mặt trái xoan có đôi bím tóc ngắn, cô ấy đang đứng giữa một đỉnh đèo lộng gió, giơ cao tay vẫy vẫy…
   Tôi hình dung ra Liên rất đẹp. Một người con gái yêu đời, đầy sức sống, vượt qua đạn bom, dâng hiến hết cả tuổi xuân, và có thể là cả cuộc đời, cho cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của Dân tộc.
   "Cái quý nhất của con người là đời sống ...". Một nhà văn Nga đã viết vậy. Và tôi nghĩ, cái quý nhất trong cuộc đời con người ta chính là tình yêu. Không phải thế sao, khi mà chỉ riêng nỗi nhớ về một nụ hôn đầu đời ấm áp của Liên, đã giúp cho Trung vững vàng đi qua cả cuộc chiến tranh.
*
   Tôi chia tay Trung. Rồi thời gian cứ trôi qua, nhiều năm tôi đã không gặp lại Trung. Tôi vẫn tin rằng, trong suốt cuộc đời này Trung vẫn sẽ đi tìm Liên và nhất định sẽ gặp Liên, dù cho những cuộc tìm kiếm và gặp gỡ ấy chỉ là những đêm mơ. Có đêm mưa, chợt thức giấc, nằm nghe tiếng mưa rơi mà tôi tưởng như nhìn thấy Liên đang đứng nép mình bên Trung trong một căn lán nhỏ. Trong đêm mưa lạnh, thế gian này đối với họ, chỉ có hai người ôm nhau trong hơi ấm của Tình yêu.

(Vũ Công Chiến)


Tiêu đề: Re: Người lính và gia đình
Gửi bởi: hoasimbiengioi trong 24 Tháng Ba, 2009, 10:51:30 pm
Chiếc xe dừng lại trước cửa nhà và bấm còi như thúc giục. Anh chỉ kịp quay ra nhìn em âu yếm " Anh đi đây, em ở nhà chăm sóc con chu đáo, đừng buồn em nhé ". Em quay mặt đi như hờn giận anh, trách anh sao anh về rồi lại phải đi ngay? Bàn tay anh vỗ nhẹ vào vai em như chính anh tự an ủi lòng mình rằng chỉ vì nhiệm vụ thôi, em phải thông cảm cho anh chứ. Chiều nay tan lớp, em qua trường mẫu giáo đón con về. Tội nghiệp con bé, mấy tháng rồi chưa được gặp bố. Hàng đêm em và con vẫn luôn nhớ anh trong nỗi khắc khoải mong chờ, có những lúc lịm người đi khi nghe con hỏi " Mẹ ơi ! Bố đâu rồi? ". Ngẫm mình như câu chuyện về chàng Trương Chi thuở nào, em chỉ biết cưng nựng con và vỗ về nó bằng sự thổn thức của trái tim người mẹ trẻ : Bố đi công tác con à, con phải ngoan thì mẹ sẽ bảo bố mua thật nhiều búp bê cho con nhé " . Ánh mắt con ngời sáng, cho em thêm niềm hi vọng rằng anh cũng sẽ sớm về với mẹ con em. Chơi một lúc rồi con cũng ngủ , một mình em đêm dài thao thức với nỗi nhớ anh khôn nguôi.
Em còn nhớ...........
Ngày anh về phép lần ấy, hàng xóm láng giềng xôn xao, đi đâu họ cũng như chung một niềm vui với em : Chú bộ đội đã về rồi. Em thấy mình hạnh phúc anh à, các chị đồng nghiệp cũng thông cảm và tạo điều kiện cho em được ở bên anh, chăm sóc anh nhiều hơn, bù đắp những tháng ngày vợ chồng xa nhau. Anh gày đi và có vẻ rắn rỏi hơn, nước da xạm đen bởi nắng gió nơi miền sơn cước xa xôi. Mọi việc không tên trong nhà lẽ ra thường ngày là của em thì hôm nay anh gánh hết về mình, anh cười và bảo : Bộ đội mà em, có gì là không biết làm đâu, em cứ để đấy anh làm cho. Rồi anh hì hụi mang cái quạt ra lau chùi từng cánh, anh sửa lại công tắc điện và cho lên cao để tránh tầm với của con khi nó đang ở tuổi hiếu động........Đến giờ đón con, phải rất lâu rồi chúng mình mới được đi cùng một xe. Anh đèo em ngồi sau vòng tay ôm xiết chặt lấy anh, chúng mình đã đi qua những con đường hẹn hò mà nhớ lại thời còn yêu nhau. Đây rồi trường mầm non Hoa Hồng, em để anh vào đón con, còn em đứng ngoài. Em cứ xót xa mà trộm nghĩ rằng lâu anh không về có khi anh chẳng nhận ra con vì trẻ con nó khôn lớn từng ngày, vậy mà mới chỉ nhìn thấy anh thôi, con bé đã chạy ra ôm cổ bố, hôn lên má và bi bô rất nhiều. Nhìn hai cha con nô đùa mà niềm hạnh phúc trong em lan toả. Cả gia đình thong thả và đi thật chậm trên đường về nhà, ghé qua chợ em mua đồ ăn về để nấu chiêu đãi hai bố con. Vậy mà anh lại tranh làm hết, anh bảo em vất vả vì anh và con nhiều rồi, hôm nay anh sẽ tự tay nấu những món ngon nhất để chăm sóc sức khoẻ cho con và em. Rồi anh kể chuyện về anh em trên đồn, biên giới lúc nào cũng phức tạp, anh và đồng đội luôn luôn phải cảnh giác và cũng rất yên tâm khi có hậu phương vững chắc nơi quê nhà đấy em à.
Cảm ơn anh, em sẽ không bao giờ quên được những phút giây cả gia đình mình hạnh phúc bên nhau. Thỉnh thoáng đi làm về em vẫn đi qua con đường tình yêu, con đường có những cặp tình nhân hạnh phúc tay trong tay, em nhớ lại hình ảnh chúng mình ngày xưa. Thấy lòng mình đọng lại một nỗi buồn, vì sao vợ chồng mình không có được niềm hạnh phúc giản dị bên nhau như người ta? Em thật ích kỷ phải không anh? Vì em biết anh vì nhiệm vụ của một người lính với Quân đội và Đất nước. Đêm nay một mình em lại cô đơn trong nỗi nhớ anh, miệt mài bên trang giáo án cho những bài giảng tiếp theo, em sẽ chắp cánh cho những vần thơ này gửi đến bên anh một tình yêu son sắc và thủy chung :
 
Phép cộng nào diệu kỳ như phép cộng của tình yêu
Khi một cộng một bằng vô cùng mãi mãi

Phép trừ nào lạ kỳ, khi hai trừ một, mất đi những gì còn lại
Chỉ là trống rỗng vô cùng

Phép nhân nào đo đếm hết nhớ nhung
Tăng từng giây mình không gặp gỡ

Phép chia nào chia sang anh nỗi nhớ
Em lại nhận về nồng ấm những thương yêu.

Con gái sư phạm Toán chỉ biết viết như vậy, khô khan lắm phải không anh? Anh cũng biết em chẳng bao giờ mơ mộng từ những ngày mình còn yêu nhau.

Đêm đã về khuya rồi, anh vặn nhỏ volum đi, để nghe thấy tiếng em hát thì thầm - chỉ riêng mình anh thôi " ...bàn tay em xây ngôi trường, bàn tay em gieo lúa vàng. gửi tình lên biên giới có khoản trời thành phố mênh mong và trong xanh với bao người bạn thân tâm tình. Như hoa phong lan chờ đợi, mưa gió không phai tàn người về nhụy hoa ngát hương, anh ơi em lại đón anh về. "


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 27 Tháng Ba, 2009, 11:43:46 am
Chào Hoasimbiengioi,

   Tôi không phải nhà văn, nhưng cũng mạo muội góp đôi lời cho bài viết của bạn.

   Bài bạn viết chưa đủ để làm một truyện ngắn:
   - Truyện ngắn phải có cốt chuyện, cô đọng và đủ cả các phần mở ý, thân chuyện và kết luận. Thông qua chuyện để kể về một chuyện xảy ra, mang chủ đề nào đó. Ngay cả chuyện kể cũng phải mở ý để dẫn người đọc theo dõi một nội dung gì đó, khiến người đọc bị tò mò, cuốn hút và muốn đọc hết để biết kết cục câu chuyện thế nào. (Đọc xong mà người đọc ngồi lặng đi một chút, bồi hồi... là kể như cũng đạt đôi ba phần)
   - Bài của bạn mới chỉ tựa như một bức thư, một tâm sự kể lại về người chồng là anh lính biên phòng thông qua nỗi nhớ nhung của người vợ. Cái đó chưa đủ cốt chuyện. Người đọc chỉ thấy trong bài một người lính tốt, ham việc, thương vợ và sự nhớ mong chồng (chưa đủ khắc khoải) của người vợ trẻ cùng đứa con nhỏ.  Câu chuyện hơi bình thường, chưa nêu bật được điều gì (công trạng, sự hy sinh vì đồng đội, vì Tổ quóc...) ở người lính biên phòng khiến người đọc xúc động mà cảm thông và chia sẻ cho nỗi lòng người vợ nhớ chồng.
   - Về bố cục, nếu là truyện ngắn, nên ngắt đoạn rõ ràng khi chuyển ý để người đọc dễ chuyển trạng thái tình cảm khi chuyển cảnh, theo dõi chuyện được mạch lạc.
   - Về chi tiết, câu chuyện tình của Trương Chi (Tr chứ không phải Ch) thổi sáo và nàng Mỵ Nương là chuyện tình buồn, không thành công, không thể ví với trường hợp người vợ xa chồng...

   Đôi lời vậy, nếu nghe không lọt, xin bỏ qua cho TS nhé.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: phonglan trong 30 Tháng Ba, 2009, 02:51:41 pm
 hoasimbiengioi: Bài của bạn giống giống như những câu chuyện trong mục " Hậu phương quân đội " trên báo QĐND. Mong bạn luôn là một hậu phương vững chắc.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Con gà vàng của Tham tán Ma-ca-rop
Gửi bởi: Trinhsat trong 26 Tháng Tư, 2009, 09:49:14 am
   Câu chuyện này đã từng được tác giả đưa lên mạng.
   Đáng lẽ gửi lại vào tháng 3 thì hợp hơn, nhưng có lẽ không hề gì vì đoạn kết câu câu chuyện kéo dài sang cả tháng 4.

    Xin gửi các bạn xem từ phần một...

Con gà vàng của Tham tán Ma-ca-rop


           Tháng 8 năm 1967. Tại Đại sứ quán Liên-xô ở phố Trần Phú, Hà Nội xảy ra một vụ trộm vô cùng kỳ lạ.

   Một buổi sáng, khi đến phòng làm việc của mình tại tầng 3 của toà nhà chính trong Sứ quán, sau khi mở toang hai cánh cửa sổ, Tham tán Thương mại Ma-ca-rop bỗng nhận thấy con gà bằng vàng vẫn để trên bàn làm việc của mình đã không còn nữa. Ông định thần lại một lúc rồi thận trọng kiểm tra lại sàn nhà và bên thành bàn làm việc. Vẫn không thấy con gà vàng. Lúc này ông mới lên tiếng gọi người thư ký, và nhẹ nhàng hỏi về con gà vàng. Viên thư ký Mi-sen-ko ngây người ra một lúc, rồi nghiêng ngó quanh bàn. Ông này cũng hy vọng là con gà vàng bị rơi xuống đâu đó trên sàn nhà. Nhưng rồi kết quả cũng không có gì. Khi đã xác định chắc chắn sự việc, viên thư ký liền báo gọi bộ phận an ninh của Sứ quán. Hiện trường được giữ nguyên.

   Một cuộc truy tìm trong phạm vi hẹp được tiến hành. Trong khu nhà làm việc 3 tầng chính này của Sứ quán, chỉ có các cán bộ người Liên-xô. Mặc dù trong phạm vi cơ quan của Sứ quán còn có  nhiều người Việt Nam, nhưng họ thuộc bộ phận phục vụ, và chỉ làm các việc như lái xe, dọn dẹp vệ sinh ngoài sân, chăm sóc vài luống hoa, cây cỏ  trong khuôn viên của Sứ quán. Hết giờ làm việc, không có người Việt Nam nào được phép ở lại. Ngay cả các cán bộ người Liên-xô của Sứ quán cũng về nhà riêng sau khi hết giờ làm. Trong Sứ quán, ban đêm chỉ có một bộ phận nhỏ bảo vệ là người Liên-xô. Bên ngoài cổng ra vào của Sứ quán có các trạm gác của cảnh vệ Việt Nam. Về nguyên tắc thì họ chỉ canh gác vòng ngoài và cũng không được phép đi vào bên trong Sứ quán.

   Kết quả ban đầu của cuộc điều tra không thu được thông tin gì. Bộ phận an ninh của Sứ quán xác định, sau giờ làm việc hôm qua, không có ai ở lại ban đêm. Trong đêm cũng không phát hiện được điều gì lạ. Tại hiện trường, mọi quan sát tìm tòi dấu vết và tìm dấu vân tay đều không có kết quả. Các dấu vết khoá cửa vẫn nguyên vẹn. Tìm các dấu vết trèo tường qua cửa sổ cũng không có. Ngoài con gà vàng bị mất, mọi thứ trong phòng đều còn nguyên và không có gì xáo trộn.

   Các cán bộ, nhân viên của Sứ quán, thậm chí cũng không ai xác định rõ mình nhìn thấy con gà vàng lần cuối cùng vào lúc nào. Tất cả mọi người đều biết ông Tham tán có con gà bằng vàng ròng vẫn bày trang trí trên bàn làm việc, nhưng vì đã quá quen thuộc nên cũng không ai chú ý nhiều. Chỉ có bản thân Tham tán là người khẳng định chiều qua trước khi ra về, ông vẫn còn nhìn thấy con gà vàng, và chính tay ông là người khoá cửa.

   Một mất thì mười ngờ. Một cuộc thẩm vấn nhẹ nhàng và cố gắng tiến hành hết sức tế nhị diễn ra trong nội bộ cán bộ Sứ quán. Kết quả vẫn không có gì, ngoài việc tạo nên một bầu không khí trầm lắng trong Sứ quán.

   Sang đến ngày thứ hai, an ninh Sứ quán mới thông báo cho các bộ phận có trách nhiệm trong Tổng cục An ninh và Bộ Ngoại giao của Việt Nam. Lại tiến hành điều tra, thẩm vấn, nhưng lần này là đối với các nhân viên người Việt Nam được bố trí làm việc trong Sứ quán Liên-xô. Tất cả đều không biết gì. Thậm chí, mọi người còn khẳng định là mình chưa bao giờ được nhìn thấy hình thù cái con gà vàng ấy nó như thế nào.

   Bộ phận cảnh vệ gác ngoài cổng được đặt ngoài diện nghi vấn. Các ca gác của đêm hôm đó còn trình đầy đủ nhật ký gác, xác định không phát hiện có gì khả nghi. Thời gian này, đế quốc Mỹ đang leo thang chiến tranh, đưa không quân ra đánh phá miền Bắc. Hà Nội cũng đã bị đánh bom nhiều lần. Người dân Hà Nội đã đi sơ tán hết, chỉ còn những người có trách nhiệm ở lại sản xuất và chiến đấu. Ban đêm, đường phố Hà Nội vắng ngắt. Chỉ có một số con đường là có cánh tự vệ - công nhân đi về lúc ca ba. Vì thế nên cũng loại trừ được khả năng đông người trà trộn để qua mắt cảnh vệ lúc đêm.

   Cả phía Liên-xô và Việt Nam đều cố gắng, hợp tác cùng nhau, song vẫn không tìm ra manh mối gì. Vài ngày, rồi một tuần, thậm chí hai tuần trôi qua. Các bên đều sốt ruột. Vụ việc này có phần khó xử, liên quan đến tính chất ngoại giao, nên làm các quan chức liên quan của cả hai bên, dù lớn hay bé đều hết sức đau đầu. Phía Liên-xô còn cử một ông chuyên gia của KGB có tên là Cu-do-nhet-xop sang hỗ trợ.

   Ông này làm việc rất bài bản. Việc trước tiên của ông là  tìm hiểu, đánh giá khả năng, trình độ của các cán bộ an ninh Việt Nam để tìm cách phối hợp. Các sĩ quan KGB đang công tác tại Việt Nam tìm và cung cấp cho ông đủ loại tài liệu về công an Việt Nam. Nghe đâu còn lẫn vào trong đó cả cuốn tiểu thuyết "Trinh thám An Nam" của nhà văn Nguyễn Công Hoan viết từ trước năm 1945 về vụ án "cái lò gạch", khiến ông phải kêu trời và nghi ngờ khả năng nghiệp vụ của các đồng nghiệp Việt Nam. Cũng còn may lúc này, các tác phẩm của đồng chí Azit Nexin người Thổ Nhĩ Kỳ còn chưa phổ biến và chưa được dịch ra tiếng ta, chứ nếu không, ông Cu-do-nhet-xop còn rối bời hơn nữa.
...


Tiêu đề: Các Truyện ngắn của lính - Con gà vàng của Tham tán Ma-ca-rop
Gửi bởi: Trinhsat trong 29 Tháng Tư, 2009, 05:07:25 pm
       ... Nhóm chuyên gia KGB của bạn có tiến triển thêm được một chút. Họ phát hiện ra rằng vào cái đêm bị mất con gà vàng, cửa sổ phía bàn làm việc của vị Tham tán chỉ đóng có cửa chớp, còn cửa kính để mở. Như vậy rất có khả năng kẻ gian vào qua đường cửa sổ. Nhưng kiểm tra bên ngoài tường suốt từ dưới đất lên vẫn không phát hiện ra vết trèo tường, hay vệt chân trên bậu cửa sổ. Cạnh cửa sổ cũng không có ống thoát nước hay dây thu lôi để mà trèo. Cửa chớp cũng không bị phá. Chả lẽ kẻ gian bay vào? Phía ngoài sân có một cây sà cừ to, nhưng cách nhà rất xa. Chỉ có cành của nó  vươn vào phía nhà, nhưng lại cao vút lên tận nóc nhà. Xem xét thân cây từ gốc lên không có vệt xước của sự leo trèo. Không hiểu kẻ gian vào, ra Sứ quán lúc nào, bằng cách nào mà không ai phát hiện được.

   Sự nghi ngờ quay sang nội bộ. Xuất phát từ suy đoán kẻ gian phải là người biết rõ trên bàn vị Tham tán có con gà vàng, các cán bộ KGB cho rằng kẻ gian rất có thể là người Liên-xô trong cơ quan Sứ quán. Do tìm mãi mà chưa ra dấu vết gì, ngay cả ngài Tham tán Ma-ca-rop đáng kính cũng được các nhân viên KGB đặt cho một dấu hỏi to tướng.  Nhưng nếu như vậy, thì không phải là mục đích kinh tế, mà là vì mục đích chính trị. Có thể từ chuyện con gà vàng, kẻ địch muốn làm xấu đi quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Liên xô. Thế thì tầm cỡ của kẻ địch trong vụ này phải là một tên gián điệp được đào tạo rất cơ bản…Thật là rối bời. Nhất định vụ này phải tìm ra để giải quyết vấn đề danh dự và quan hệ ngoại giao hai nước. Nhưng tìm như thế nào, thì tất cả đều tịt.

   May sao, các "trinh thám An nam" nhà ta lại tìm ra đúng hướng. Tây có cách nghĩ của Tây, mà ta thì có cách nghĩ của ta. Vốn mang trong đầu tư tưởng sùng bái người Tây thời đó, quân ta thiên về hướng kẻ gian là người Việt Nam ta. Động cơ của vụ trộm này có khi lại rất đơn giản cũng nên. Người dân ta vốn đâu có ham mê cái chuyện chính trị. Chắc là "đói ăn vụng, túng làm liều" thôi. Phải công nhận cái thằng trộm này quá giỏi. Nhưng giỏi mấy thì cũng phải cần ăn. Lúc đói, nó sẽ phải đi bán con gà vàng đó để lấy tiền. Thế là công an ta, chìm có, nổi có, dù là dân an ninh hay công an giao thông đều được huy động đi rình mò, theo dõi xem có ai bán gà vàng.

   Trong giai đoạn này, việc buôn bán vàng ở Việt Nam bị coi là cấm. Cả Hà Nội chỉ có mấy cái tổ hợp tác mỹ nghệ vàng bạc, chế tác đồ trang sức nằm ở phố Hàng Bạc. Ngay cả hoạt động của các thợ thủ công đó cũng nằm trong sự quản lý của Nhà nước. Thế là cái phố Hàng Bạc bé tẹo ở khu Hoàn Kiếm, dài có vài trăm mét đó trở thành mục tiêu chính, mật độ công an chìm nổi đông hơn dân thường.

   Kể từ hôm ngài Tham tán Ma-ca-rop mất con gà vàng, ba tháng trời đã trôi qua. Mọi việc có vẻ im ắng và đi vào bế tắc. Cấp trên thì ăn không ngon, ngủ không yên, còn cánh trinh sát thì đã có phần uể oải.

   May sao, vào một buổi chiều, có một người đàn bà ăn vận như người mua bán đồng nát đi vào một tổ hợp tác chế tác vàng trên phố Hàng Bạc. Dáng vẻ ngập ngừng của bà ta lập tức được trinh sát công an để ý. Vì vậy, khi bà ta vừa mở chiếc khăn tay lấy ra một mẩu vàng để dạm bán, lập tức các "trinh thám An Nam" ập lại. Mẩu vàng đó có hình một chiếc chân gà con, tuy đã bị bóp bẹp.

   Tại cơ quan công an, bà ta dễ dàng khai ngay ra người bán. Theo đó,  các chiến sĩ công an tìm đến một căn nhà tập thể nằm cuối phố Cát Linh. Trong nhà chỉ có một cậu bé gầy gò, đen nhẻm chừng 12, 13 tuổi. Trên khuôn mặt gầy là đôi mắt sáng và có vẻ lanh lợi.

   Thấy nhiều người đến nhà, có cả bà bán đồng nát, cậu bé hiểu ngay ra sự việc. Tuy có hơi sợ, nhưng cậu ta không tìm cách bỏ trốn, cũng không chối quanh co. Cậu chui vào gầm giường và lôi ra một gói giấy, giao nộp. Trong đó là một con gà bằng vàng to bằng nắm tay trẻ con, bị mất một chân.

...


Tiêu đề: Các Truyện ngắn của lính - Con gà vàng của Tham tán Ma-ca-rop
Gửi bởi: Trinhsat trong 03 Tháng Năm, 2009, 08:53:25 pm
       Câu chuyện lấy cắp con gà vàng được kể lại qua lời khai của cậu bé:

   Cậu ta tên là Hào. Hào năm nay 13 tuổi, là con một cán bộ có cỡ trong ngành Ngoại giao Việt Nam. Hiện ông đang làm Tham tán tại Đại sứ quán Việt Nam tại Liên-xô. Do quan hệ công tác nên ông có quen biết với Tham tán Liên-xô Ma-ca-rop, có phần hơi thân một chút. Đầu năm nay, ông có dịp về Việt Nam nghỉ phép. Vì chỉ có một cậu con trai cưng, nên hầu như đi đâu, ông cũng cho Hào đi theo. Trong một lần như thế, Hào đã được cùng bố vào cơ quan Đại sứ quán Liên-xô thăm Tham tán Ma-ca-rop. Trong lúc bố và ông Tham tán nói chuyện thì Hào ngồi im, khép nép và lặng lẽ ăn kẹo. Nhưng có lẽ trong người nó đã có phẩm chất của một người lính trinh sát bẩm sinh. Những chiếc kẹo Tây có vị ngòn ngọt, chua chua của ông Tham tán cho nó, dầu là của hiếm cũng không làm át đi được tính cách lanh lợi của nó lúc này. Hào đã kín đáo quan sát được khá đầy đủ căn phòng làm việc của ông Tham tán. Dĩ nhiên, nó nhìn thấy con gà vàng.

   Về nhà, Hào hỏi chuyện bố nhiều thứ, trong đó có con gà vàng. Bố cậu đã hào hứng kể cho con trai nghe về lai lịch con gà vàng. Trong một nhiệm kỳ công tác tại Nam Phi, ông Ma-ca-rop đã được một người bạn là thương gia Nam Phi tặng cho một món quà quý: một con gà vàng. Nó được làm từ gần 300gr vàng nguyên chất theo dáng của một chú gà con. Ông Ma-ca-rop rất quý món quà này. Khi nhận nhiệm vụ sang Việt Nam làm Tham tán thương mại, ông đã mang theo con gà vàng kỷ niệm. Hầu như tất cả bè bạn, và các cán bộ của Cơ quan Sứ quán Liên-xô đều biết đến con gà vàng của ngài Tham tán.

   Sau đó ít lâu, bố Hào trở lại Liên-xô công tác. Vốn là một chú bé thông minh và hết sức tinh nghịch, Hào đã nảy ra ý định lấy cắp con gà vàng. Nó hình dung trong đầu và lập một kế hoạch có phần hoàn hảo tới mức ngay cả các cán bộ công an thực thụ cũng chưa chắc đã nghĩ ra.

   Hào tìm cách thâm nhập trở lại cơ quan Sứ quán. Nó theo dõi và phát hiện ra một việc gần như qui luật. Cứ khoảng 7 giờ tối là có một chiếc xe Com-măng-ca đi từ đường Cát Linh xuyên tắt qua con đường đất phía bên phải sân vân động Hàng Đẫy, để ra góc đường giữa phố Hàng Cháo và Nguyễn Thái Học, rồi từ đó đi sang phố Trần Phú về cơ quan Sứ quán Liên-xô. Quãng đường vòng qua sân vận động Hàng Đẫy là đường đất, gập ghềnh có nhiều ổ voi. Tại góc ngoặt, chỗ cột đèn pha cao thế phía phố Phan Phù Tiên có một cái ổ lõm to. Khi đi qua đó, chiếc xe phải đi chậm, và đèn xe không rọi rõ được trong lòng hố. Cả đoạn đường này lại không hề có đèn đường. Buổi sáng hôm sau, vẫn chiếc xe đó từ cơ quan Sứ quán đi ra theo đường cũ vào lúc 5 giờ sáng. Lúc này trời hãy còn tối, và hầu như không có người qua lại trên đường.

   Hào đã thận trọng quan sát và kiểm tra kỹ nhiều lần. Đoạn đường từ cái ổ voi to mà nó chọn đến cổng cơ quan Sứ quán chỉ dài hơn nửa cây số. Chiếc xe Com-măng-ca đi theo chiều ra hay vào thì lần nào cũng chỉ hết chưa đầy 10 phút. Đó chính là cơ sở để nó quyết định chọn kế hoạch đột nhập cơ quan Sứ quán Liên-xô.

   Một buổi tối trời, Hào đã nằm sẵn trong lòng cái hố to ở góc ngoặt chỗ cột đèn pha cao áp đó. Nó chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi và bôi đất khắp người. Khi chiếc xe ô-tô chầm chậm đi qua hố, nó ôm bám vào gầm cầu xe và nằm treo như thế để theo xe vào cơ quan Sứ quán. Chiếc ô-tô vào cổng và đi vòng ra sau toà nhà chính rồi đỗ lại, để chủ nhân xuống xe. Sau đó người lái xe lùi xe vào khu ga-ra. Nhà để xe ô-tô của Sứ quán cũng chỉ là một dãy nhà thấp sát tường lợp phibro xi-măng và không có cửa. Người lái xe tắt máy, đóng cửa xe và ra về. Hào còn đợi một lúc, rồi nó mới buông mình rơi xuống nền nhà và nằm im tại đó.

   Về đêm, khu cơ quan Sứ quán im lìm. Những người trực đêm chỉ ngồi trong phòng và không tổ chức đi tuần. Cửa sổ căn phòng làm việc của ông Tham tán thuộc mặt sau của toà nhà. Cả vùng sân sau của Sứ quán chỉ có hai ngọn đèn tròn mắc tít trên góc, sát mái tầng ba của toà nhà, hắt xuống đất một thứ ánh sáng mờ mờ vàng ệch và không soi sáng được cả sân. Trong sân có nhiều cây sà cừ to, tạo thành nhiều bóng khuất. Có một cây sà cừ vươn cành cao quá nóc nhà và chếch phía trên cửa sổ phòng làm việc của ông Tham tán. Toàn bộ sân được rải một lớp sỏi, những hòn cuội to như ngón chân cái. Khi bước chân qua, đám sỏi trượt vòng lạo xạo và không thể lưu lại dấu vết.

   Đó là tất cả những gì Hào thu thập được trong một đêm quan sát. Mờ sáng, nó bám sẵn vào gầm cầu xe ô-tô và theo xe ra được bên ngoài. Khi tới cái ổ voi ngoài đường đất, Hào thả tay rơi xuống đất. Đợi chiếc xe ô-tô  chạy khuất, nó mới lồm cồm bò dậy và về nhà. Mẹ nó bận đi làm ca nên cũng không hay biết gì.

   Kế hoạch tiếp tục được thằng Hào hoàn thiện và ngấm ngầm chuẩn bị. Cũng vào một đêm tối trời, vụ lấy cắp con gà vàng chính thức bắt đầu. Hào mặc một chiếc quần đùi đen và một cái áo sẫm mầu. Vạt áo được cài vào cạp quần. Người vốn đã đen, nên nó chỉ lấy một chút đất bùn xoa thêm lên vài chỗ trên người là đã khó nhận ra nó trong bóng tối. Lần này nó đem theo một sợi dây thừng dài, một cái túi vải nhỏ, một đôi tất và một chiếc nan hoa xe đạp.

   Chập tối, Hào nằm phục sẵn trong lòng hố. Lần này, nó dễ dàng bám vào được gầm xe, khi chiếc ô-tô Com-măng-ca chậm rãi lăn bánh qua. Vào đến cơ quan Sứ quán, nó lại lọt được vào khu ga-ra ô-tô và nằm im tại đó. Chừng quá nửa đêm, Hào chui ra khỏi nhà xe. Không gian bốn bề vẫn yên tĩnh. Hào khom người rón rén tiến lại cái cây sà cừ to thẳng với cửa sổ phòng làm việc của ông Tham tán. Nó lấy sợi dây thừng, buộc vào đó một viên sỏi to rồi ném vắt lên cành  sà cừ ở tầm ngang cách đất chừng 4 mét. Sau đó nó túm lấy đầu dây có viên sỏi, so 2 đầu dây buộc lại rồi đu người leo lên cây sà cừ. Tại đây, Hào rút lại sợi dây thừng rồi trèo dần lên tận tít cành cao phía trên cửa sổ tầng 3, chỗ phòng làm việc của ông Tham tán. Từ chỗ đó, nó lại buộc sợi dây thừng vòng vào cành cây. Đầu kia, Hào buộc thắt quanh bụng rồi đu người theo sợi dây tụt xuống, lơ lửng đúng vị trí cửa sổ. Cứ treo người như thế, Hào xỏ tay vào chiếc tất rồi loay hoay dùng chiếc nan hoa xe đạp luồn vào cậy chốt cửa. Cũng phải nói thêm là thằng Hào tuy gầy, nhưng khoẻ, cơ bắp tốt, chứ bọn trẻ con ở vào tuổi nó, đã mấy ai có thể treo được mình trên sợi dây thừng suốt mấy chục phút như thế. Rồi thằng Hào cũng cậy được cái chốt và nhẹ nhàng kéo mở được cánh cửa chớp. Nó mừng rơn khi thấy hai cánh cửa kính mở toang, và con gà vàng vẫn đặt ở góc bàn ngay sát cửa sổ. Vẫn trong tư thế treo mình, Hào lắc người đu đưa vài nhịp để văng mình vào sâu trong cửa sổ, rồi nhoài tay vào túm lấy con gà vàng. Nó nhanh chóng cất con gà vào cái túi đeo ở cổ, lựa chốt khép lại hai cánh cửa chớp, rồi rút người trèo ngược lên cành cây. Nó bình tĩnh ngồi nghỉ ít phút trên cành cây cho lại sức, rồi theo đúng lối cũ tụt xuống đất. Sau khi lò dò lại gầm cái ô-tô, Hào buộc chặt lại mọi thứ rồi nằm nghỉ. Buổi sáng hôm sau, Hào lại bám gầm ô-tô và thoát  được ra ngoài tại cái ổ voi ở con đường đất cạnh sân Hàng Đẫy, đúng y như cách nó đã làm trong lần trinh sát trước. Không một ai nhìn thấy nó. Cu cậu về nhà bình an vô sự.
 
   Mọi dấu vết của cuộc đột nhập chỉ bao gồm hai cái vết lằn của sợi dây  thừng buộc ở hai chỗ trên cây sà cừ, và vết  thằng Hào bò trên một đoạn  cành cây giữa hai chỗ buộc đó, nhưng chắc chỉ mờ mờ. Vì không một ai, kể cả các cán bộ an ninh  Việt nam và Liên xô có thể suy đoán ra đối tượng và cách đột nhập, nên cũng chẳng ai đề xuất ra việc kiểm tra dấu vết trên cành cây ở tít cái chỗ trên cao ấy. Mọi việc kiểm tra thông thường như tìm dấu vết trong nhà, trên cửa sổ, trên tường, lấy dấu vân tay, hay tìm dấu vết tại ngay các gốc cây đều không có kết quả là điều dễ hiểu.

   Không thể ngờ đến đối tượng của vụ trộm là một đứa trẻ dân thường như Hào, lại càng không thể ngờ đến diễn biến xảy ra như lời kể của nó, dù sự thật đã là hiển nhiên, vụ việc được yêu cầu dựng lại. Ngoài các cán bộ nghiệp vụ an ninh của cả ta và bạn, có đích thân Thứ trưởng Công an Tạ Đình Khai, cán bộ KGB Cu-do-nhet-xop và cả ngài Tham tán Ma-ca-rop cùng chứng kiến cảnh diễn lại của Hào. Theo yêu cầu của ông Cu-do-nhet-xop, cuộc trình diễn được thực hiện theo đúng các mốc thời gian như Hào đã trình bày. Tất cả những người có mặt đều vô cùng hồi hộp và phấn khích theo dõi các động tác của Hào. Nó đã thực hiện cuộc trình diễn một cách chính xác và hoàn hảo, cứ như nó sinh ra để làm việc đó vậy. Cảm giác cuối cùng của mọi người là vô cùng thán phục thằng bé Việt Nam 13 tuổi ấy.

   Tất nhiên là thằng Hào có tội. Tội to nữa là đằng khác. Song, cảm phục tài năng của Hào và cũng vì nó mới là một thiếu niên, nên đã có nhiều sự tác động tích cực của nhiều người, từ nhiều phía đến số phận của nó. Hào được đưa vào trường Thiếu sinh quân. Cũng năm đó, Binh chủng Đặc công được thành lập, và Hào được chuyển tiếp về trường Đặc công.

   Ba năm sau, khi mới 16 tuổi, Hào trở thành một chiến sĩ đặc công, và tình nguyện vào Nam chiến đấu.

...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: lixeta trong 03 Tháng Năm, 2009, 10:30:13 pm
Lixeta xin góp vui một tý:

VÔ TÍCH SỰ

   Nửa  đêm, tiểu đoàn nhận được điện báo “Sẵn sàng nhạn nhiệm vụ”. Mờ sáng, phái viên của lữ đoàn vượt hơn 200 cây số đường trường đã có mặt tại tiểu đoàn để trực tiếp truyền lệnh: “Chậm nhất là tối nay, đại đội 4 phải lên đường, hai ngày sau phải có mặt tại Động Truồi để tham gia tiến công giải phóng Huế”.
   Toàn đại đội như một guồng máy lao vào làm công tác chuẩn bị; lái xe thì mở niêm động cơ, kiểm tra tình trạng kỹ thuật xe máy, các thành viên khác kiểm tra điện đài, vũ khí. Gần trưa, công việc đã hòm hòm, các xe được lệnh nổ máy kiểm tra. Đại phó kỹ thuật Phương và kỹ thuật viên Linh chia nhau ra từng xe để kiểm tra và cho nổ máy. Một xe, hai xe rồi cả 7 xe lần lượt nổ máy, tiếng động cơ lúc đầu còn rời rạc, lạch bạch; sau giòn giã làm lay động cả cánh rừng vốn yên tĩnh từ lâu. Cả phái viên của lữ đoàn và Ban chỉ huy thở phào nhẹ nhõm, bây giờ chỉ còn tập trung cố định khí tài dự trữ, lương thực thực phẩm lên xe là xong, và chiều nay có thể xuất phát sớm được.
   Tại nhà chỉ huy, nét mặt tươi tỉnh- phái viên của lữ đoàn biểu dương toàn đại đội đã thường xuyên làm tốt công tác bảo quản trang bị vũ khí, tiến hành công tác chuẩn bị nhanh, vượt thời gian quy định. Bỗng lái xe 386 mặt xanh như tàu lá chạy vào lắp bắp: “Xe...xe.... em hỏng máy... máy.... bơm”. Đại phó Phương trợn mắt quát “Máy bơm nào?”. “Máy bơm nước ạ”.
   Cả phái viên và Ban chỉ huy cùng đâm bổ xuống lán xe 386. Đèn công tác được bật lên, hết người này đến người khác chui vào trong xe xem xét. Đích thị là máy bơm của hệ làm mát động cơ đã bị hỏng. Một dòng nước như cái đũa vọt ra từ lỗ kiểm tra, chân ga càng to nước phun càng mạnh. Nếu cứ như thế này chẳng mấy chốc sẽ hết nước làm mát, và cái động cơ hơn 500 sức ngựa này sẽ bị phá hỏng ngay lập tức.
   “Thay máy bơm ngay”- Đại phó Phương đưa ra quyết định và không ai có ý kiến gì khác. Máy bơm dự trữ đã có sẵn trong kho khí tài của đơn vị và nếu làm nhanh vẫn kịp thời gian xuất phát theo quy định.
   Kỹ thuật viên Linh về ngay kho khí tài lấy máy bơm, đại phó Phương và lái xe 386 bắt đầu xả nước trong hệ làm mát và tháo máy bơm. Chỉ gần một tiếng các bu-lông cố định máy bơm đã được tháo xong. Nhưng thật oái oăm- không thể lấy được cái máy bơm ra vì vướng vào cam điều độ cần lái. Để giảm đến mức tối thiểu kích thước xe chiến đấu, không gian trong xe được sử dụng một cách tối ưu, các chi tiết máy móc nằm sít nhau nên gần như không còn khoảng hở, và đó chính là nguyên nhân chúng tôi không lấy được máy bơm ra..
   Xoay xở mãi cái máy bơm vẫn nằm ỳ ra đấy. Đã quá trưa, mồ hôi ướt đầm lưng áo nhưng chả ai nghĩ đến chuyện ăn uống. Phái viên lữ đoàn hỏi đại phó Phương: “Làm sao bây giờ?”. Không cần suy nghĩ, đại phó Phương trả lời ngay: “Cẩu động cơ ra để lắp máy bơm mới”. Quay sang kỹ thuật viên Linh anh quát: “Bảo thằng vô tích sự đánh xe ra đây ngay, nhớ mang cả cẩu đấy nhé”.
   Linh chạy vụt đi, phái viên lữ đoàn ngơ ngác hỏi “Cả một đống người đây không làm gì được thì gọi cái thằng vô tích sự đến làm gì?”. Mọi người cười ồ cả lên. Đại trưởng Thân giờ mới lên tiếng :” Nó vô tích sự một số thứ thôi, chứ còn cái khoản này- cái khoản kỹ thuật xe máy ấy thì chẳng mấy ai qua được mặt nó”.  Vài  phút sau, như một cơn lốc- xe của cái gã được gọi là vô tích sự đã có mặt. Phái viên lữ đoàn tò mò nhìn kẻ được gọi là vô tích sự- một chàng trai cao ráo, bộ mặt thông minh với đôi mắt sáng luôn như cười, đặc biệt là nước da trắng hồng, đôi môi đỏ như chưa bao giờ biết đến sốt rét rừng. Chẳng chào hỏi ai, vừa vọt ra khỏi cửa lái xe hắn hỏi luôn “Nó làm sao anh?”. Đại phó Phương hất hàm về phía truyền động xe 386 trả lời :”Nó hỏng máy bơm, tháo ra được rồi nhưng vướng cam điều độ không rút ra được. Mày cho triển khai cẩu để cẩu động cơ ngay”.
   Chẳng cần suy nghĩ hắn  độp ngay: “Thế anh định đến bao giờ mới xuất phát; bây giờ mới bắt đầu thì nửa đêm mới cẩu được động cơ ra; thay xong máy bơm, lắp vào, bổ sung nước, căn chỉnh, kiểm tra lại mọi thứ thì có nhanh cũng phải trưa mai mới xong, làm sao kịp được”. Đại phó Phương quát “Không bàn cãi gì nữa, làm đi, thay nhau làm suốt đêm bằng xong thì thôi, kíp xe đâu. Lắp cẩu!”.
   Kệ cho mấy tên trong kíp xe lúi húi lắp cẩu, hắn trèo lên buồng truyền động cùng lái xe 386 rúc xuống gầm động cơ. Lại xoay, lại kéo, rồi chui ra cầm cái máy bơm dự bị lên lật đi lật lại, ngắm nghía các chiều, vầng trán trắng trẻo nhăn lại suy tư. Sốt ruột, đại phó Phương quát :”Không xem xét gì nữa, tháo tấm thiết giáp đi”.
   Hắn vẫn bình tĩnh :”Anh cho em thử một tý rồi tháo cũng chưa muộn”. Đại phó Phương vẫn quát bắt kíp xe 386 và tổ thợ của tiểu đoàn chuẩn bị dụng cụ tháo tấm thiết giáp. Hắn vẫn cứng cỏi “Em xin anh mười phút thôi”. Đại phó Phương càng quát to. Hắn cũng vằn mắt lên :”Cứ làm như anh thì có đến trưa mai cũng không xong; cứ để tôi thử, chỉ mười phút nữa mà không được thì tháo cũng chưa muộn cơ mà”. Thấy căng thẳng cả phái viên lữ đoàn và đại đội trưởng Thân cùng hỏi hắn sẽ làm thế nào.
   Tay cầm cái máy bơm hắn giảng giải :”Cái bơm này gồm hai nửa, thân bơm và nắp bơm. Cả cái bơm thì dày nên không rút ra được, song nếu tháo riêng nắp bơm và thân bơm thì có thể được vì nó mỏng hơn. Bây giờ em chỉ cần 10 phút để thử, nếu tháo ra được thì sẽ lắp bơm mới vào được. Tất nhiên khi lắp cũng phải lắp thân trước, lắp nắp sau; làm như vậy không thật đúng quy trình kỹ thuật nhưng vẫn có thể chấp nhận được”. Đại trưởng Thân quyết định cho hắn thử,.
   Lại rúc vào buồng truyền động, cả phái viên lữ đoàn, ban chỉ huy đại đội, cả tổ thợ cũng trèo lên xe xem hắn làm thế nào. Nhưng có nhìn thấy gì đâu, chỉ thấy cái mình dài ngoẵng của hắn nằm nghiêng trên hộp số, cái đầu thì dúi sát vào thân động cơ, tay phải ôm choàng lấy nắp động cơ, tay kia luồn sâu xuống chỗ cái máy bơm hỏng. Một phút, hai phút...năm phút trôi qua, hắn vẫn nằm im như tượng, chỉ có cánh tay trái vẫn khua khoắng lạch cạch những gì không biết. Tám phút, chín phút, mọi người đã bắt đầu nóng ruột. Đại phó Phương đã nhảy xuống xe ra lệnh cho tổ thợ chuẩn bị dụng cụ. Đúng lúc ấy hắn nhổm lên, miệng hét “Được rồi”, và tay trái từ từ gượng nhẹ rút từ gầm động cơ ra  giơ lên cái nắp máy bơm, vứt nó ra bên cạnh rồi lại rúc xuống mò mẫm tiếp. Mọi con mắt lại chú mục vào buồng truyền động. Một loáng sau cái thân bơm cũng được lôi ra. Tất cả ồ lên nhẹ nhõm. Mấy cánh tay cùng giơ ra kéo hắn lên. Đôi bàn tay đầy dầu mỡ của hắn nắm lấy cổ tay đồng chí phái viên lấy đà nhổm dậy, cả cái ống tay áo Tô châu mới tinh của phái viên lữ đoàn đen nhẻm như một mảnh giẻ lau xe. Đại phó Phương nhăn nhó “Đúng là đồ vô tích sự”.
   Hắn ngoác cái miệng ra cười, hàm răng trắng bóng tươi rói trên bộ mặt đen nhẻm dầu mỡ. Quay lại tổ thợ và lái xe 386 hắn bảo: “Thôi bây giờ các ông lắp lấy, tôi phải về chuẩn bị tiếp đây’. Thế là nhảy xuống, chẳng chào hỏi ai chui vào xe nổ máy chạy luôn.
   Gần một tiếng sau, máy bơm mới đã được lắp vào, nước được bổ sung đủ, nổ máy kiểm tra thấy kín như bưng. Thế là xong. Ban chỉ huy và phái viên lữ đoàn cùng thở phào nhẹ nhõm, quyết định ăn cơm chiều xong sẽ xuất phát ngay.
   Về nhà chỉ huy, đại phó Phương lấy ngay cái áo mới ra khẩn khoản đề nghị phái viên lữ đoàn thay và thông cảm cho cái thằng vô tích sự ấy. Phái viên cười rất tươi “Đã làm lính xe tăng thì dầu mỡ là chuyện bình thường, tớ chỉ băn khoăn vì sao nó ngon như vậy mà các cậu lại gọi nó là đồ vô tích sự”.
   Cả đại trưởng Thân, chính trị viên Toan và đại phó kỹ thuật Phương đều cười ồ lên. Chính trị viên Toan giải thích:” Biết thế đấy nhưng gọi mãi rồi nó quen đi, mà nó cũng vô tích sự lắm cơ.  Cái hồi mùa mưa năm 72, đơn vị hết gạo ăn, xe ôtô thì không chạy được phải tổ chức đi gùi gạo. Từ kho về đến đơn vị chỉ gần 50 cây số nhưng lính xe tăng vốn ít được rèn hành quân xa mang vác nặng nên phải tổ chức một kho trung chuyển ở đoạn giữa. Nó cũng xung phong đi gùi, thấy nó to cao bọn tôi cũng đồng ý cho đi. Ai ngờ ra đến sông A- sáp thì nó mếu máo báo cáo với trung đội trưởng là không biết bơi. Sông thì chảy xiết, phải tổ chức cho hai đứa bơi giỏi bơi kèm, đứa kéo, đứa đẩy mới qua được. Đi gùi chuyến đầu tiên, mọi người đã về đến kho từ lâu mới thấy nó về, không gùi mà lại vác ba-lô gạo trên vai. Hỏi làm sao nó vạch lưng ra thấy một đám trầy da bằng bàn tay mọng nước. Hôm sau phải bố trí nó ở nhà nấu cơm, coi kho. Ai ngờ, bữa cơm sáng hôm ấy cả trung đội không ai nuốt được vì trên sống dưới khê, tứ bề nát bét”. Đến nước ấy trung đội trưởng Trị phải thốt lên: ”Đúng là đồ vô tích sự”. Thế là thành tên từ hồi ấy”.
   Đại trưởng Thân chêm vào: “ Con nhà khá giả, thuở bé chỉ biết học, chẳng phải làm gì, cơm không biết nấu, gánh gồng cũng chả biết, đi tập bơi chết hụt nên bố cấm tiệt. Nhưng nó học giỏi lắm, đỗ đại học rồi nhưng tình nguyện đi bộ đội, vào chiến trường mà balô toàn sách giáo khoa thôi”.
   Đúng lúc ấy tiếng máy xe tăng lại rộ lên, rồi “ầm” một cái. Mọi người đưa mắt nhìn nhau không hiểu cái gì đã xảy ra, cậu liên lạc hiểu ý chạy vụt đi. Một lúc sau quay về vừa hổn hển thở vừa nói: “Lái xe 380 húc đổ lán xe rồi. Anh ấy bảo lần này đã đi là đi luôn tới Sài gòn chứ về đây làm gì nữa mà để”.
   Đại phó Phương vỗ hai tay vào đùi buột ra :”Đúng là đồ vô tích sự”.


Tiêu đề: Các Truyện ngắn của lính - Con gà vàng của Tham tán Ma-ca-rop
Gửi bởi: Trinhsat trong 09 Tháng Năm, 2009, 10:00:18 pm
.....
         Trong một đêm mưa tầm tã ở chốt Khe Đá dưới chân dãy núi Chư Giông Giàng giữa mùa mưa năm 1974, tôi đã được đại đội trưởng đặc công Phan Thế Hào kể cho nghe câu chuyện này. Đơn vị chúng tôi nhận bàn giao chốt thay cho đại đội đặc công của Hào. Các đơn vị đặc công thường chỉ đánh mật tập vào các sở chỉ huy hay căn cứ tập trung của địch trong những chiến dịch then chốt, giành chiến thắng nhanh. Nói chung, họ không cần phải chiếm giữ trận địa. Trường hợp cần giữ địa bàn lâu dài như vùng Khe Đá này, thì các đơn vị bộ binh phải tiếp quản. Quen nhau đã 3 ngày, và khi biết tôi là lính Hà Nội, lại trạc tuổi, nên đêm nay anh nằm cùng hầm và kể lại chuyện cho tôi. Tiếng anh kể đều đều và nhỏ, đôi lúc lẫn vào tiếng mưa rơi lộp bộp trên mặt tấm tăng căng che xéo trên nóc cửa hầm. Thỉnh thoảng anh dừng kể, im lặng một chút như để nhớ cho rõ lại sự việc. Những lúc đó, tôi vẫn nằm lặng im, không ngắt lời và cố hình dung ra từng hành động của anh trong câu chuyện.

             Kể xong, Hào ngồi dậy quấn một điếu thuốc rê và châm lửa hút. Hơi thuốc anh phả ra nồng nồng, nhưng cũng làm cho căn hầm ấm áp thêm trong đêm mưa lạnh. Bên ngoài căn hầm, mưa vẫn rơi nặng hạt. Thỉnh thoảng lại có đợt gió thổi ào ào, kéo nghiêng ngả những cây Bằng lăng lưa thưa trên chốt, hắt cả đám nước mưa ràn rạt lên nóc tăng. Chúng tôi cùng lặng im và nhớ về Hà Nội. Tôi nhìn cái vóc dáng nhỏ bé và rắn chắc của anh, hình dung ra cái lúc anh trèo cây và đu đưa người trước cửa sổ tầng 3 của Sứ quán Liên-xô.

        Tôi bảo:
   - Cậu ghê thật đấy. Tớ chỉ nghe thôi mà cũng thấy hồi hộp và run hết cả người. Thế cậu định lấy con gà vàng để làm gì?
   - Chơi thôi, nghịch ngợm trẻ con ấy mà.- Hào cười, giọng bình thản.
   - Nhưng mà cậu cũng liều thật. Nhỡ mấy ông Tây trong Sứ quán mà canh gác hẳn hoi, tương cho cậu mấy phát đạn thì xong rồi còn gì.
   - Đúng vậy, bây giờ nghĩ lại thấy cũng hơi liều mà dại. Chứ lúc đó chỉ thấy hăng hái thôi. -Hào thú nhận.
   - Nhưng dầu sao cũng có cái hay. Tớ nghĩ, lúc đó mà cậu đã thế rồi thì bây giờ đánh nhau giỏi là phải. Bốn năm chiến đấu, lên đến đại đội trưởng rồi còn gì.

   Hào im lặng một lúc, rồi bảo, có vẻ như lạc đề:
   - Cũng chẳng giỏi giang gì đâu. Tớ nghĩ đặc công giỏi đánh mật tập, đánh điểm, nhưng ở kiềng, giữ chốt thì thua xa cánh bộ binh các cậu.
   - Thế nên bọn mình mới phải ra thay chốt ngay cho các cậu.

   Hào cười. Sao lúc ấy trông anh hiền thế.

   Chúng tôi còn tán gẫu vơ vẩn nhiều chuyện khác nữa. Rồi hai thằng ôm nhau ngủ. Lính mà.

   Sáng hôm sau, chúng tôi chia tay nhau. Đơn vị Hào chuyển địa bàn nhận nhiệm vụ khác, còn chúng tôi ở lại giữ chốt Khe Đá. Chúng tôi đã ở đó và đánh địch, giữ chốt đến cuối mùa mưa.

*
*  *
   Tháng 3 năm 1975.
   Quân ta mở chiến dịch Tây Nguyên.

   Các đơn vị thuộc Quân đoàn 3, mặt trận Tây Nguyên tấn công đánh chiếm Thị xã Buôn Ma Thuột. Nằm trong đội hình của Đoàn Đặc công 198, đại đội của Hào đánh chiếm Phi trường Hoà Bình nằm ở phía Đông Thị xã. Trận đánh Phi trường của đặc công diễn ra thật gọn gẽ. Lúc 10 giờ sáng ngày 10/ 3/ 1975, khi các đơn vị bộ binh của Sư 316 và Trung đoàn 95B của ta còn đang giằng co đánh nhau với địch tại khu căn cứ của Sư 23 ngụy và khu kho Mai Hắc Đế, thì đại đội của Hào đã làm chủ Phi trường Hoà Bình. Xác bọn lính nguỵ và súng đạn của chúng ngổn ngang khắp trận địa. Cả đại đội của Hào được lệnh nằm lại chốt giữ Phi trường, sẵn sàng đánh quân phản kích. Không có đơn vị bộ binh nào của ta  tiếp quản Phi trường, thay thế cho đơn vị của Hào.

   Điều Hào nghi ngại và tâm sự với tôi vào cái đêm mưa năm trước ở chốt Khe Đá, thì nay đã xảy ra. Trong Phi trường Hoà Bình có khu hầm ngầm của địch mà trinh sát ta không biết. Buổi sáng, khi bị đặc công ta bất ngờ tấn công, một lực lượng lớn của đich đã nhanh chóng và bí mật rút xuống hầm ngầm. Lính đặc công quen mật tập, giỏi chiến thuật "Nở hoa trong lòng địch", đánh nhanh, thắng nhanh nhưng không thạo đánh chốt. Sau khi làm chủ trận địa, đơn vị đặc công được lệnh chốt giữ tại đó, sẵn sàng đánh địch phản kích để giữ vững Phi trường. Họ không có đủ người và cũng đã không tổ chức sục sạo khắp cả Phi trường, không phát hiện ra khu hầm ngầm. Trong ngày hôm đó, cả đại đội của Hào hầu như chỉ nghỉ ngơi lấy sức. Đến đêm, họ cũng chỉ tổ chức canh gác bình thường, mà hướng quan sát chủ yếu lại là phía bên ngoài. Tất cả hầu như vẫn trong trạng thái nghỉ ngơi, chờ sáng để đánh địch từ ngoài phản kích vào.

   Không phải chờ đến hôm sau, mà ngay đêm đó, vào lúc 2 giờ sáng, bọn Nguỵ từ dưới khu hầm ngầm đã chui lên tổ chức phản kích. Chúng hoàn toàn nắm thế chủ động, bất ngờ xuất hiện ngay giữa đội hình đơn vị đặc công. Đại đội của Hào đã bị tổn thất nặng ngay từ đầu. Số chiến sĩ còn lại, mặc dù chiến đấu dũng cảm nhưng cũng không chống lại được bọn Nguỵ đông và có tổ chức tốt. Cả đại đội hy sinh gần hết, trong đó có đại đội trưởng Phan Thế Hào. Khi đó, Hào mới vừa tròn 21 tuổi.

   Phải đến gần trưa hôm sau, các đơn vị bộ binh của trung đoàn 95B mới được điều đến đánh chiếm lại sân bay.

*
   Trong chiến dịch Tây Nguyên, đơn vị chúng tôi chiến đấu ở chi khu quân sự Thuần Mẫn bên đường 14, cách thị xã Buôn Ma Thuột hơn 60 cây số về phía Bắc. Sau đó Sư đoàn chúng tôi qua Cheo-reo đánh cắt xuống đồng bằng Tuy Hoà. Chiến sự ở Buôn Ma Thuột, chúng tôi không biết được gì thêm ngoài thông báo: Thị xã đã được giải phóng.

*
   Tin tức cuối cùng của Hào, tôi chỉ được biết sau khi miền Nam đã giải phóng. Từ khu Bình Dương, Sư đoàn chúng tôi trở lại Cao nguyên làm nhiệm vụ tiễu trừ Fulro vào tháng 8/ 1975. Tiểu đoàn chúng tôi đóng quân ngay tại Phi trường Hoà Bình. Tôi đã có dịp đi khắp trong Phi trường, được xem xét khu công sự và khu hầm ngầm của bọn Nguỵ. Lúc đó trên mặt đất và trong các hầm hào vẫn còn vương đầy các loại đạn đại liên, đạn cối cá nhân M79, rốc két M 72 và nhiều khí tài của địch. Tại đây, tôi đã được nghe kể lại cuộc chiến đấu của đơn vị đặc công trong một buổi học tập rút kinh nghiệm các trận đánh điển hình. Tôi đã lặng người trước tin Hào hy sinh. Tôi nghĩ, nếu như có bộ binh phối thuộc kịp thời, chắc Hào đã không chết.

*
*   *
    
   Bây giờ, tôi vẫn có dịp đi qua phố Trần Phú của Thủ đô Hà Nội. Khu Sứ quán Liên-xô cũ, giờ là trụ sở của cơ quan Bộ Tư pháp. Tôi không có điều kiện được vào trong đó để nhìn lại toà nhà cơ quan và cái cây sà cừ trong câu chuyện của Hào. Nhưng chắc là cái cây đó vẫn còn. Đôi khi tôi tự hỏi, trong những người đang ra vào cơ quan Bộ Tư pháp kia, có mấy người biết được là nơi đó đã ghi dấu ấn quan trọng trong cuộc đời của một người lính đặc công Việt nam tài giỏi.

   Ngày 19/3 là ngày truyền thống của Bộ đội Đặc công. Tôi viết lại câu chuyện này, như một nén hương thắp cho hương hồn người đại đội trưởng đặc công Phan Thế Hào, mà cuộc đời và tên tuổi của anh đã lẫn vào trong cuộc đời của muôn vạn người lính đã ngã xuống trong chiến tranh.


(Vũ Công Chiến)


Tiêu đề: Truyện ngắn của lính - Thoát khỏi bẫy cờ bạc
Gửi bởi: Trinhsat trong 14 Tháng Sáu, 2009, 09:33:48 am
Thoát khỏi bẫy cờ bạc

           Tôi vốn là một thằng lính trinh sát trong chiến tranh. Có trải qua trận mạc, có va chạm với mất mát hy sinh, nên tính tình cũng gan lỳ và liều lĩnh. Sau chiến tranh, tôi chuyển ngành về làm việc ở một cơ quan nhà nước. Chuyển qua chuyển lại vài nơi, cuối cùng tôi trụ lại ở Cơ quan Thanh tra kỹ thuật của một Tổng cục.
 
               Gia đình tôi mở một Công ty kinh doanh hàng điện máy, do vợ tôi đứng tên làm chủ. Mặt hàng kinh doanh cũng gần với cái thứ máy móc của các nơi mà tôi đến thanh tra, nên việc làm ăn thuận lợi cả đôi bề công tư.

               Tôi cũng hay phải đi công tác các tỉnh xa, khi thì là công tác thanh tra của cơ quan, khi thì là đi ký hợp đồng bán thiết bị cho Công ty của vợ, thậm chí lúc cần còn đi giao hàng. Các đối tác thường lẫn lộn tôi giữa vai trò đối tác làm ăn và cán bộ kiểm tra. Nói chung là công việc thuận lợi.

               Tôi giao du và kết bạn với đủ loại thành phần trong xã hội. Từ quan chức nhà nước cho đến bọn làm ăn chợ Giời, hay những gã nông dân làm ăn chất phác đều có thể là bạn của tôi. Bạn bè tôi, có kẻ vốn liếng vài triệu "đô" trong tay, nhưng cũng có những thằng bạn từ thời lính còn bần hàn tới mức không có tiền sắm nổi cái TV đen trắng. Loại bạn nào, tôi cũng có thể đến chơi theo kiểu tạt qua một lúc, hay ở chơi vài ngày. Tất cả bạn bè, tôi đều coi bình đẳng như nhau. Tôi không choáng ngợp trước kẻ lắm tiền, nhiều của, và cũng không coi thường bạn nghèo. Cái quý nhất đối với tôi là tình cảm chân thành, tôn trọng nhau và sẵn sàng giúp đỡ nhau lúc khó khăn, không tính toán. Đám bạn thân của tôi cũng quý tôi vì thế.

               Công việc của tôi khá thuận lợi. Tôi không phải là thằng giàu nứt đố đổ vách, song cũng không khó khăn về kinh tế. Cái Công ty của vợ tôi là chỗ dựa kinh tế cho tôi. Vì thế tôi cũng hơi ham chơi. Các cuộc nhậu với bạn bè có khi chiếm đến sáu buổi chiều trong một tuần. Không kể những lần đi công tác xa, còn nói chung, tôi không đi nhậu nhẹt hay cờ bạc qua đêm. Chỉ những lúc đi xa nhà, tôi mới sa vào các canh bạc với bạn bè nơi công tác. Tôi biết chơi đủ loại bài, đủ kiểu chơi biến hóa, nhưng tôi thích đánh tá lả hơn. Một ván tá lả diễn ra không nhanh và cũng không quá lâu, ít nhức đầu. Nó cũng đủ độ hấp dẫn để người ta có thể ngồi chơi bài qua đêm.

               Tôi cũng thuộc loại chịu chơi. Một đêm chơi bài có thể thắng hay thua tới dăm bảy triệu đồng cũng không phải là hiếm với tôi. Nhưng đánh bài tá lả, khi người ta chơi một cách bình thường, không lừa  bịp nhau, thì xô đi bù lại cũng có thể coi như là hòa. Mỗi cuộc chơi bỏ ra vài trăm ngàn kể cả ăn uống, thì cũng chỉ coi như điều kiện để kết thân và tạo mối quan hệ làm ăn với đối tác mà thôi.

               Tôi lại có một nguyên  tắc là không bao giờ chơi bài kiểu cờ bạc với bạn thân. Với chúng nó, tôi chỉ cùng uống chè, uống rượu  và ngồi đàm đạo. Thích nhất là khi có hai thằng mà ngồi uống cà-phê phin ngoài quán vào đêm mưa. Chúng tôi ngồi cho đến khi chủ quán yêu cầu đóng cửa, chúng tôi mới đội mưa ra về.
...


Tiêu đề: Truyện ngắn của lính - Thoát khỏi bẫy cờ bạc
Gửi bởi: Trinhsat trong 21 Tháng Sáu, 2009, 10:18:46 am
...
       Trong cuộc đời, sống va chạm như thế, nhưng phải rất lâu tôi mới hiểu ra rằng, không phải lúc nào mình cũng cứ sống tốt với mọi người, là mọi người sẽ tốt cả với mình. Đúng như các cụ nói, phải chọn bạn mà chơi. Câu chuyện tôi kể sau đây, tuy không phải với những người thật là bạn của tôi, nhưng thông qua làm ăn,  cũng đã có lúc tôi coi họ là bạn.

               Tôi quen Thường, trưởng phòng của một Công ty về Điện máy trên Hòa Bình, do một lần lên đó kiểm tra công tác an toàn theo nhiệm vụ được phân công. Sau đó, Thường lại làm môi giới hai lần để mua hàng của Công ty vợ tôi, bán cho khách hàng trên đó để ăn chênh lệch, kiếm cũng kha khá. Tôi đã mấy lần lên Hòa Bình với Thường, ở lại đó vài ngày. Tôi cũng biết thêm vài người trong phòng của Thường. Bọn này khá chịu chơi và có vẻ cũng lắm tiền. Thường còn giới thiệu tôi với Lụa, một nhân viên của Thường. Lụa mới ngoài ba mươi tuổi, xinh gái, đẹp dáng và khá sởi lởi. Cô ấy nói chuyện có duyên và dễ gây thân thiện với người đối diện. Gặp đến lần thứ hai thì Lụa đã tỏ ra dễ gần gũi với tôi. Tuy nhiên, tôi nghĩ Lụa là người của Thường. Hơn nữa, tôi cũng không thích gì cái trò loạng quạng, nên tuy tỏ ra thân thiện, tôi vẫn giữ khoảng cách đúng mực với cô ấy.
 
               Một lần, tôi nhận được điện của Thường mời lên Hòa Bình bàn chuyện làm ăn. Thế là chiều hôm đó, tôi rời cơ quan về sớm và lái xe lên Hòa Bình. Tôi mới mua chiếc xe Toyota Vios 1.5G với giá hơn 25 ngàn "đô"  được nửa năm và tự mình lài xe. Trong tôi vẫn có một chút máu giang hồ, nên những lần đi công tác xa như Hải Phòng hay Vinh, tôi vấn thích tự mình cầm lái vi vu. Cũng tình cờ, ra đến đường Trần Duy Hưng thì tôi gặp Quốc Thịnh. Thằng này là bạn lính từ xưa. Ngạch làm ăn của nó sặc chất chợ Giời, hung hãn, liều lĩnh và lừa đảo. Nhưng với bạn lính thì chân tình. Dù vội, nó vẫn lôi tôi vào nhà nó uống chén trà. Khi biết tôi đi Hòa Bình vào chiều tối, đột nhiên nó mở tủ lôi ra khẩu súng K59, loại súng của sỹ quan cấp tá, đưa cho tôi. Nó bảo, "độ này tình hình an ninh hơi nhuộm nhoạm, mày nên cầm theo. Bí quá mới dùng chứ có phải chìa ra dọa ai đâu". Không hiểu sao, mạch máu lính bỗng chạy dần dật trong tôi. Thế là tôi cầm súng dắt vào người và lên đường.

               Chưa đến bảy giờ tối, tôi đã lên tới nơi. Thường và cả Lụa đã chờ đón tôi. Cả hai tỏ vẻ vui mừng. Tôi vào rửa mặt mũi chân tay, rồi mời hai người lên xe. Theo ý của Thường, chúng tôi đến một nhà hàng đặc sản dựng theo kiểu nhà sàn ở góc đường Đồng Tiến. Thường gọi rượu thuốc và mấy món thịt thú rừng. Ba chúng tôi ngồi ăn uống, nói chuyện, nhưng chỉ là những chuyện tào lao. Tôi nghĩ, có lẽ đêm nay về cơ quan, Thường mới bàn riêng chuyện làm ăn với tôi.

               Hơn chín giờ tối, chúng tôi rời nhà hàng, về cơ quan Thường. Cả ba không ai say, nhưng đều có vẻ ngất ngây. Trạng thái này thường làm cho người ta bạo dạn hơn.

               Lên đến tầng hai, Thường mở cửa phòng làm việc. Nhưng đột nhiên anh ta lại ngoái nhìn sang cái phòng phía cuối hành lang. Ở đó có đèn sáng và có tiếng ồn ào. Theo chân Thường, tôi và Lụa cùng đi lại đấy. Đẩy cửa bước vào, chúng tôi thấy trong phòng có bốn gã đang chơi tá lả. Trong số đó, tôi thấy có hai thằng quen mặt. Một trong hai đứa là Tùng, thuộc hạ thân tín của Thường. Thường thản nhiên nhìn một lượt qua bốn người chơi rồi nói:

              - Chơi vừa vừa thôi nhé, các ông tướng.

             Đoạn Thường quay sang bảo tôi:

              - Em về phòng dọn dẹp một lát. Anh với Lụa cứ ở đây chơi một lúc, rồi sang phòng em nhé.

   Tôi gật đầu.
...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 25 Tháng Sáu, 2009, 05:35:58 pm
     ...Bây giờ tôi mới nhìn kỹ đám chơi bài. Tá lả chỉ có một cách chơi, nhưng qui ước về luật chi tiền thì thiên hình, vạn trạng.  Ở đây họ đang chơi tá lả kiểu chồng "gà". Trên chiếu là một chồng tiền "gà" đã khá dày. Không biết khởi đầu của đợt chồng "gà" này từ bao giờ mà chồng tiền có vẻ nhiều thế. Tôi và Lụa đứng xem. Luật chơi ở đây là ai thắng thì chia bài. Kẻ thua theo thứ  tự hai, ba, tư  phải nộp cho người thắng là một, hai, ba trăm ngàn đồng. Sau đó, cả bốn người đều phải nộp thêm vào "gà", mỗi người 400 ngàn đồng. Như vậy sau một ván chơi, người thắng chỉ thu được hai trăm ngàn đồng, còn chồng "gà" thì tăng thêm một triệu sáu trăm ngàn đồng.

                "Ái chà. Chơi to đây. Thảo nào mà đống gà to thế" - tôi thầm nghĩ.
 
               Kiểu chơi này, khi có ai "ù" thì được ăn toàn bộ số tiền "gà" trên chiếu. Chỉ khi đó, một ván "chồng gà" mới thật sự kết thúc. Nhưng nếu ván "ù" đó lại do ngưòi thắng "ù" ăn được ba cây của người ngồi bên tay trái, thì người ngồi bên trái đó phải "đền ù". "Đền ù", tức là người đền phải lấy trong túi mình ra số tiền bằng đúng số tiền trong ô "gà", trả cho người thắng "ù", còn số tiền trong ô "gà" vẫn để nguyên. Tiếp tục chơi, số tiền chồng vào "gà"  đó lại tiếp tục tăng lên. Cứ như vậy cho đến khi có người thắng "ù" khác. Vì thế, có khi chỉ mang tiếng là chơi một canh "tá lả", mà canh bài đó kéo thâu đêm với số tiền "gà" cuối cùng lên đến nhiều chục triệu đồng.

               Xem được vài ván, tôi định kéo Lụa đi. Chợt Tùng có điện thoại. Cậu ta nghe, vâng dạ vài câu rồi đưa mắt nhìn tôi cầu cứu. Cậu ta bảo, "em phải đi đằng này một lát, anh vào thế chân hộ em một lúc". Rồi Tùng lôi tuột từ trong người ra một nắm tiền ước chừng độ hai triệu đồng, đặt lên chiếu và nói tiếp:

               - Anh cứ chơi đi. Lỡ có thua hết cũng không sao đâu. Anh giúp em với.

               Tôi bị rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Thực tình tôi muốn quay lại phòng Thường. Nhưng nếu tôi cũng bỏ đi thì ván bài này bị dở dang, phải chờ Tùng về. Mà chờ thì cả bọn sẽ vô cùng sốt ruột, vì chồng "gà" đang to thế kia cơ mà. Tôi cũng tự cho mình là loại biết chơi bài. Thế là vì máu sĩ với Lụa, với cả bọn, tôi ngồi vào chỗ Tùng.

               Chơi độ sáu bảy ván, tôi cũng có ván được, ván thua, nhưng chưa có ai được "ù". Cũng đã có ván, tôi tưởng như mình suýt "ù" đến nơi. Cái trò cờ bạc, đã ngồi vào là say. Tôi quên thời gian và gần như quên cả chuyện tại sao thằng Tùng bảo đi một lát mà mãi vẫn chưa quay lại. Trong khi đó thì Lụa ngồi phía sau tôi cổ vũ. Cô ấy hơi xoay người, tỳ cả một bên vai vào lưng tôi. Rồi có vẻ như không thích lắm với chuyện cờ bạc, thỉnh thoảng cô ấy lấy điện thoại di động ra tí toáy bấm, nhưng không gọi cho ai. Chắc là lại đang chơi trò chơi trong điện thoại.

              Cuộc chơi đang đến độ  cao trào. Một đôi lần, tôi đang rình chờ quân "ù", thì cái thằng khỉ gió ngồi bên trái tôi lại có chuông điện thoại di động, phải tạm dừng chơi để nghe. Chắc vợ nó gọi giục về, nên cu cậu cứ lúng búng chối quanh. Đã có thằng khác phải nhắc nó, "thôi, dẹp cái điện thoại đi để tập trung mà chơi, rắc rối bỏ mẹ". Tôi ra vẻ độ lượng, nên ngồi im. Nhưng ván ấy tôi vẫn không "ù" nổi, chỉ thắng điểm thôi. Chồng "gà" vẫn nằm im đó.

              Số tiền hai triệu Tùng để lại đã chui hết vào chồng "gà". Tôi chuẩn bị móc túi lấy tiền của mình. Thực ra, những cuộc chơi như thế này không làm cho tôi lo lắng lắm. Mỗi lần đi công tác xa, bao giờ trong người tôi cũng giắt chừng hai chục triệu. Đề phòng bất trắc mà. Tôi liếc mắt  ước tính, chồng "gà" kia chắc cũng độ hai chục triệu.

             Đến một ván quyết định. Tôi ăn được của thằng bên trái hai quân, tạo được hai "phỏm". Các quân bài còn lại cũng vào thế "chờ ù". Nhưng vì cố tạo bài của mình, tôi cũng bị thằng bên phải ăn hai quân. Tôi cũng lo nó đang "chờ ù", nhưng vẫn hy vọng số mình may mắn. Thằng khỉ gió bên trái lại có điện thoại. Tôi hơi nóng tiết nhưng vẫn phải kiên nhẫn chờ. Ván này, tôi sẽ hạ bài cuối nên tràn trề hy vọng.

               Vòng cuối cùng này, tôi hạ một quân "Át". Tôi mẩm chắc đối phương không ăn nổi. Đột nhiên, thằng bên phải tôi hạ bài xuống và kêu lên, "ù". Tai tôi như có tiếng sấm. Cay ơi là cay. Tôi đã bị "đền ù".
.....


Tiêu đề: Truyện ngắn của lính - Thoát khỏi bẫy cờ bạc
Gửi bởi: Trinhsat trong 29 Tháng Sáu, 2009, 07:04:15 pm
   ...
         Vẫn còn sĩ diện, tôi cố giữ nét mặt bình thản. Thôi thì đền "ù", chúng mày đếm "gà" đi. Ba thằng kia xới đống tiền lên đếm. Mắt tôi hoa cả lên. Dưới xấp tiền 100 ngàn đồng tiền Việt, là cả một đống tiền "đô" loại 100. Sao lại thế này. Ba thằng giải thích, chúng em chơi lâu rồi, hết tiền "đô" mới chồng "gà" bằng tiền Việt.

             Bọn chúng đếm chồng "gà". Tất cả có 6.200 "đô" và 20 triệu tiền Việt. Tai tôi ù đi, mặt tôi nóng bừng, còn người thì lạnh toát. Tôi có cảm tưởng tay chân mình đã nhũn hết cả ra, không thể đứng lên được nữa. Số tiền quá lớn. Tôi ngồi thừ ra đến dăm phút rồi bảo chúng nó:

              - Tao chưa có đủ ngay tiền mặt ở đây, nhưng chúng mày cứ tiếp tục chơi đi. Tao sẽ thanh toán sòng phẳng. - Rồi tôi nói liều - Nếu thua nữa, tao sẽ gán cái xe của tao dưới sân.

              Ván bài lại tiếp tục được chia.  Dần dần, cái bản năng bình tĩnh và lỳ lợm trước hiểm nguy của người lính trinh sát đã giúp tôi hồi tâm trở lại. Tôi vừa chơi bài, vừa suy xét tình thế. Số tiền hơn một trăm triệu đồng không phải quá khó kiếm đối với tôi, nhưng cũng không phải là số tiền có thể kiếm được một sớm một chiều. Tôi linh cảm thấy có một sự liên kết lừa đảo ở đây. Tôi chỉ nhận xét vài ý chính. Tại sao chơi bài lâu thế mà không có ai "ù". Phải chăng, chúng nó đã thỏa thuận với nhau để cố tính xé bài ra, đánh không "ù" để kéo dài ván chồng "gà". Hai là, muốn đưa tôi vào thế "đền ù" thì nhất định bài tôi bị lộ, và thằng ngồi bên trái tôi phải biết được bài của tôi. Mà tại sao bài tôi bị lộ.

          Tôi chợt nhớ đến một tập phim trong bộ phim nhiều tập "Điệp viên 007", trong đó cũng có cảnh chơi bài. Một cô gái ngồi trên một hành lang ở tầng hai phía xa đã dùng kính viễn vọng nhìn bài của nạn nhân từ phía sau và báo bằng bộ đàm cho kẻ đồng bọn ngồi đối diện. Tôi sâu chuỗi lại sự việc và lờ mờ nhận ra sự liên quan giữa việc Lụa ngồi nghịch điện thoại sau lưng tôi, và thằng bên trái liên tục nghe điện thoại của vợ. Điểm cuối cùng, mục đích của việc đưa tôi vào "đền ù" là số tiền "gà" phải lớn. Chúng nó đã chuẩn bị từ trước, cố tình xếp  tiền "đô" bên dưới, rồi phủ tiền Việt lên trên, để không làm tôi lo ngại khi ngồi vào thay Tùng.

              Tôi vạch nhanh trong đầu một kế hoạch. Thứ nhất, tôi phải loại Lụa ra khỏi vị trí sau lưng tôi để cắt việc lộ bài. Hai là tôi phải vờ tiếp tục chơi một cách cay cú, để đánh vào lòng tham của bọn lừa đảo này, khiến chúng vẫn né tránh "ù" với hy vọng bắt tôi "đền ù" lần nữa. Nếu không, có một đứa nào "ù" là cuộc chơi kết thúc, và tôi vẫn mất hơn trăm triệu. Lối thoát duy nhất của tôi là sẽ tự chơi và chờ đợi một dịp "ù" của mình để kết thúc.

              Nghĩ là làm. Để không đánh động bọn chúng, tôi vờ rút tiền ra rồi bảo Lụa:

             - Em chạy xuống đường mua cho anh một bao thuốc lá, loại đầu lọc trắng ấy. Loại  đầu nâu bây giờ hút nhức đầu lắm. Giúp anh nhé.

             Tôi còn vờ bóp bóp vào cánh tay Lụa một cách thân thiện.

              Lụa đi rồi, tôi tập trung vào ván bài.
...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 04 Tháng Bảy, 2009, 08:36:27 pm
...
        Trời xanh có mắt, và số tôi còn có người phù hộ. Khi tôi bốc lên bài của ván thứ ba thì trong tay tôi đã được sẵn hai "phỏm". Lụa vẫn chưa quay trở lại.

               Tôi vừa im lặng chơi, vừa khấn thầm. Qua hai vòng đánh bài, tôi đã ở thế chờ "ù". Ngoài hai "phỏm", trong tay tôi còn có cây 2 "nhép" và 3 "nhép", kèm theo cây 2 "cơ". Khả năng tạo "phỏm" rất lớn. Đến vòng đánh thứ ba, tôi bốc được cây 4 "nhép". Thật tuyệt vời như trong mơ. Tôi hít một hơi thật dài, thở sâu, cố nén cảm xúc.  Ngồi im vài chục giây nhìn mặt ba thằng cùng chơi, rồi tôi từ từ xòe bài xuống. Tôi đã "ù".

               Ba thằng cùng chơi ngây người, mặt thộn ra. Tôi đứng dậy:

             - Kết thúc nhé. Chúng mày có thích tính tiền thì tính đi.

               Ba chúng nó nhìn nhau. Rồi một thằng gào lên.

               - Chơi tiếp đi. Ông không được ăn non.

              Tôi cười gằn và bước ra cửa. Vẫn cái thằng to mồm chồm ra trước mặt tôi để ngăn, tay thò vào trong túi quần. Đoán thằng này có dao, đang manh động, tôi nhanh tay  túm lấy tay nó, bóp mạnh vào huyệt hộ khẩu tay khiến nó đờ người ra. Đoạn tôi thò tay vào bụng rút luôn khẩu K59 ra dí sát vào mặt nó. Tôi quát:

               - Đứng im. Mày muốn ăn đạn hả.

              Thằng đó tái mặt. Mấy thằng kia cũng há hốc mồm, không dám ngọ nguậy. Chúng không thể ngờ tôi có súng. Chúng sợ, vì loại người dám chơi súng đều là dân bất hảo cả, không thể đùa.

            Vẫy nòng súng vào mặt từng đứa, tôi bảo:

              - Chúng mày hãy thôi cái trò lưu manh lừa đảo ấy đi. Từ nay hãy kiềng cái mặt tao ra. Còn bây giờ, tao nói cho mà biết. Số tiền chồng "gà" kia còn nhiều hơn số tiền đền "ù" lúc nãy. Tao chỉ lấy lại đúng số tiền chồng gà của tao, còn lại trả chúng mày. Tao không còn nợ nần gì chúng mày  nữa.

              Đoạn, tôi cúi xuống cầm lại hai triệu đồng là số tiền tôi chồng "gà" cho 5 ván cuối sau khi đền "ù". Tôi nhét súng vào người rồi đi ra, mặc cho ba thằng ngồi im nhìn nhau. Ra đến cửa, tôi đi lướt qua Lụa đang đứng bẽ bàng vì đã chứng kiến đoạn cuối cuộc chơi, không nói gì. Trên tay cô ta vẫn cầm bao thuốc lá tôi nhờ mua.
 
               Ra đến đầu tầng hai, tôi liếc thấy phòng của Thường đóng cửa, tắt điện tối om. Tôi cười nhạt rồi đi thẳng xuống dưới nhà, lấy xe lái ra đường.

              Ra đến ngoại ô, tôi nhìn đồng hồ thấy đã quá nửa đêm. Tôi dừng xe vào một quán ăn bán hàng đêm. Tôi  ăn một bát phở rồi gọi một ly cà phê, ngồi uống. Tôi muốn bình tĩnh lại hơn nữa để xem xét lại sự việc vừa rồi. Càng  nghĩ, tôi càng tin chắc rằng mình vừa thoát ra khỏi một cú lừa bẫy cờ bạc có sắp đặt trước. Từ việc Thường mời tôi lên Hòa Bình, rủ đi ăn tối có cả Lụa, đến chuyện vờ đưa tôi vào đám đánh bài ấy. Chúng sắp sẵn một chồng "gà", giấu tiền "đô" ở dưới, tạo tình thế để tôi vào thay Tùng thật khéo léo, tự nhiên. Bây giờ thì tôi đã đoán ra là Lụa nhìn bài tôi rồi nhắn tin ra cho Tùng, hoặc Thường ở bên ngoài. Sau đó kẻ này lại gọi điện cho thằng ngồi bên trái tôi. Nhiều lần như thế, chúng cũng gặp được cơ hội đưa tôi vào bẫy đền "ù".
 
             Đêm đó, tôi lái xe về thẳng Hà Nội.

              Cũng từ đó về sau, tôi cắt quan hệ, không giao du gì với Thường nữa.


*
**

              Bên trong cái xã hội ồn ào náo nhiệt mà chúng ta đang sống, luôn tồn tại một loại hoạt động chìm khác của những kẻ lừa đảo. Không chỉ là đánh vào lòng tham cố hữu của con người, đôi khi chúng còn nhằm vào thói ham chơi và sĩ diện của kẻ có tiền. Chúng lừa đảo dựa trên tâm lý là người bị lừa, nếu có nghi ngờ cũng sẽ không dám kêu to. Không ai dám kêu, vì tham gia đánh bạc với số tiền lớn như thế tất nhiên là phạm pháp. Bị bắt quả tang, chắc không ai thoát khỏi ngồi tù.

               Tôi đã thoát ra khỏi một cái bẫy cờ bạc trong sự may mắn hiếm có. Tôi  kể lại câu chuyện này với mong muốn, có thể giúp được ai còn lỡ ham vui cờ bạc, rút kinh nghiệm mà tránh được chăng?


                                                     Tam Đảo, tháng 10/2007
                                                             Vũ Công Chiến



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 20 Tháng Bảy, 2009, 09:30:35 pm
Con rắn trắng
   [/color]

             Chuyện đã xa rồi, xa tới nửa thế kỷ. Gần một đời người, mấy ai còn nhớ, mấy ai còn nhắc nữa.

               Làng Kim Liên khi đó tuy nằm bên trong vùng đê quai của Hà Nội, nhưng cũng có thể coi như ngoại thành. Từ tháp Rùa hồ Gươm về tới làng tuy chỉ có 4 cây số, nhưng cũng chẳng mấy ai ra đến đây làm gì. Đình Kim Liên là một trong Tứ trấn của Thành Thăng Long. Con đường Đào Duy Anh kéo dài đến Ô Chợ dừa được mệnh danh là đắt nhất hành tinh ngày nay, khi đó chỉ là những ruộng rau muống nằm ngoài đê quai. Các khu Kim Liên, Trung Tự ngày ấy còn là bãi tha ma, ruộng lúa và đầm rau muống. Dân làng Kim Liên chủ yếu sống về làm ruộng, và đặc biệt là trồng rau muống cung cấp cho cả Hà Nội. Trai làng thì có biệt tài câu bắt cá trộm tại các hồ Bảy mẫu và Ba mẫu. Cá của Hợp tác xã giữa hồ rộng mênh mông mà như cá trong ao của họ. Trong làng đa phần nhà ngói, nhưng vẫn còn nhiều nhà tranh, và hầu như nhà nào cũng có một mảnh vườn trồng đủ các thứ rau. Nhiều nhà vườn rộng không trồng hết đất, còn để cỏ lác mọc um tùm.

               Nhà ông Bá Hường nằm gần hồ Ba Mẫu. Vườn rộng, cây cối um tùm. Gọi là ông Bá, nhưng hình như đó là tên dòng họ chứ không phải chức vị gì liên quan đến chính quyền nhà nước. Cô Huyền là con dâu của ông Bá, mới hai mươi tuổi, đẹp người nhất làng. Cô vừa ở cữ, sinh hạ một đứa bé trai bụ bẫm và kháu khỉnh. Chẳng biết theo lệ gì, cô được ở riêng một gian nhà ngang be bé, trong đó chỉ kê một chiếc giường nhỏ. Có người nhà chăm sóc, nên cô cũng chỉ có việc hàng ngày là ăn, ngủ và cho con bú.

               Là gái làng, khỏe mạnh và sinh con so, nên cô Huyền rất nhiều sữa. Chỉ sinh con được một ngày là sữa đã về đầy căng hai bầu ngực của cô. Cô sinh con tại nhà, có bà đỡ bên nhà thương Phủ Doãn sang giúp, nên đã dạy cô những điều tân tiến truyền bá từ sứ Phăng-xe tận bên trời Tây sang. Cô cũng lau rửa sạch sẽ hai bầu ngực bằng khăn mềm, ấm mỗi lần cho con bú, và cũng vắt bỏ phần sữa đầu, sữa cuối. Nếu như bầu sữa của cô chỉ nhiều một chút, mỗi lần vắt bỏ một ít thì không sao. Đằng này cô lại có quá nhiều sữa. Ở thôn quê hay có kiểu cho bú nhờ, bú chực của những người đàn bà có nhiều sữa, cho những đứa trẻ trong làng, mà mẹ chúng mất sữa, hay bố chúng rơi vào cảnh gà trống nuôi con quá sớm. Nhưng cô Huyền lại là con dâu ông Bá, kinh tế khá giả nên không làm chuyện đó. Bầu ngực căng quá, đau rức không chịu được nên mỗi lần cho con bú xong, cô Huyền lại phải vắt bỏ đi cả một bát sữa to. Sữa người là có nhiều chất bổ vào hạng nhất và có những kháng sinh tự nhiên rất quý, nhưng trong nhà không ai sử dụng phần sữa dư đó, kể cả chồng cô. Thế là người giúp việc tiện tay đặt cái bát sữa dư xuống đất, cạnh cái chân giường, để đến buổi sau thì đổ đi. Nhưng chỉ một hai lần thì không phải đổ, vì bát sữa cạn hết tự lúc nào. Mọi người nghĩ đơn giản, chắc con chó vện nuôi trong nhà vào uống hết. Ngày nào cũng một hai lần như thế, cả nhà cảm thấy quen và chẳng ai chú ý gì nữa. Chị giúp việc vẫn làm cái phận sự là rửa cái bát đó đều đặn mỗi ngày.
 
               Dần dà đứa trẻ bú nhiều hơn, lượng sữ dư ít dần. Đầu tiên là mỗi ngày chỉ còn vắt bỏ hai lần, mỗi lần nửa bát. Về sau chỉ vắt bỏ  mỗi ngày một lần, có nửa bát, và cô Huyền tự tay đặt xuống chân giường.

               Hơn một tháng trôi qua. Rồi cũng đến lúc đứa trẻ bú cạn bầu sữa mẹ hàng ngày, không còn sữa dư nữa. Cái bát bị bỏ không dưới chân giường.

               Một buổi trưa, cả nhà chợt nghe tiếng đứa trẻ khóc lên ngằn ngặt bên cái nhà ngang. Chị giúp việc chạy sang và kêu lên thất thanh. Cả nhà hoảng hốt chạy lại. Tới cửa, mọi người cùng sững lại trước một cạnh tượng kinh hoàng. Cô Huyền vẫn nằm ngửa trên giường, áo ngực lật tung ra. Một con rắn hổ mang chúa to chưa từng thấy, cỡ trên chục cân, béo trắng, nằm cuộn khúc trên người cô Huyền. Cái miệng của nó há to, hàm răng cắn chặt vào một bên bầu sữa của người thiếu phụ. Một dòng máu lẫn sữa rỉ ra thành dòng chảy từ vệt răng con rắn, loang xuống ngực cô, đang dần khô. Cô Huyền đã chết. Đứa trẻ vẫn đang vừa khóc vừa quờ quạng bên mẹ nó, bên con rắn mà chẳng hay biết gì.

               Con rằn như vẫn đang no, đang say. Người ta đễ dàng đập chết con rắn và kéo nó ra khỏi cơ thể vẫn còn hơi ấm của cô Huyền. Tại vết rắn cắn, cả bầu ngực sưng to, tím bầm.

               Hóa ra những bát sữa dư của cô Huyền vắt ra không phải do con chó vện trong nhà uống hết, mà do một con rắn hổ mang chúa trong vườn nhà bò qua phát hiện được đã uống hết. Nó bò vào uống đã thành lệ, thành thói quen, thành ham thích. Chất bổ trong bát sữa người làm cho con rắn béo trắng ra. Cứ quen lệ như thế cho đến khi bát sữa ít dần, rồi không còn nữa. Giữa buổi trưa hè, khi mẹ con cô Huyền đang ngủ, con rằn đã theo mùi thơm của sữa mà bò lên người cô Huyền. Nó cắn vào bầu ngực của cô để mút sữa và tiết luôn nọc độc làm chết cô.

*

               Chuyện về con rắn trắng được dân làng Kim Liên đồn đại nhiều năm. Rất nhiều người sợ hãi. Sợ, rồi người ta đồn rằng đó là con rắn thần. Đồn như thế nhưng cũng chẳng ai cúng tế.

               Được ít năm, ông Bá Hường mất. Những người con ông cũng bán đất bỏ làng đi đâu không rõ. Cái mảnh đất ấy trong khoảng hai chục năm gần đây được mua đi bán lại nhiều lần. Cuối cùng, có những người giàu mới phất lên trong thời kỳ đổi mới, từ nơi khác kéo đến tậu lại. Họ xây lên nhiều căn nhà cao tầng quay ra hồ Ba Mẫu.

               Câu chuyện con rắn trắng rồi không còn được ai biết hay nhắc đến nữa. Nó đã chìm vào quên lãng.

                                                                    Tháng 5/2008
                                                                    Vũ Công Chiến



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 25 Tháng Bảy, 2009, 08:58:52 pm
Đấy là cái chăn của em đấy ạ.
   
         Dạo chiến tranh chống Mỹ, ở chiến trường B3 (Tây Nguyên) hay có hình thức tập trung một số cán bộ tiểu đội (A trưởng) lên Trường Quân Chính Sư đoàn tập huấn ngắn hạn. Sau đợt tập huấn trở về đơn vị, một số sẽ được giao làm trung đội phó, còn số đông sẽ nắm các A chủ công trong đơn vị. Cái đích cuối cùng là nâng cao trình độ chiến đấu và chỉ huy chiến đấu cho các tiểu đội trưởng.

              Khoảng tháng 3 năm đó, đến lượt tôi, một tiểu đội trưởng trinh sát được đi tập huấn. Trong cả Trung đoàn cũng có đến hơn chục người. Toàn lớp của cả Sư đoàn là trên bốn chục người, được phiên chế tạm thời như một đại đội.

             Chúng tôi được tập trung ăn ở thành lán trại hẳn hoi ở khu hậu cứ. Nếp sống và sinh hoạt theo đúng kiểu chính qui. Mọi sinh hoạt có giờ giấc qui củ theo hiệu lệnh thống nhất, ở theo dãy lán và ăn cơm tập trung theo kẻng.

               Được tập huấn có nghĩa là được tập luyện và không phải đánh nhau ở tuyến trước, không có hy sinh. Chúng tôi biết ơn sự quan tâm của cấp trên nên cố gắng tập tành và tiếp thu kiến thức quân sự. Không có gì đáng phàn nàn ngoài chuyện đói. Khi ở đơn vị thì chúng tôi cũng cải thiện đây đó một chút như đào củ mài, kiếm rau, nấm, hay đào sắn ở những khu tăng gia cũ. Lên trên này tuy có khẩu phần ăn nhỉnh hơn dưới đơn vị, nhưng chủ yếu vẫn là sắn, lại thêm tập cường độ cao nên lúc nào cũng thấy đói. Đã thế chúng tôi còn phát hiện ra tay Quản lý Nguyễn Văn Vè bớt xén khẩu phần của chúng tôi. Cả cái xong 20 vốn dĩ vẫn nấu cơm 20 xuất mà chúng tôi đã quen ở dưới đơn vị, nay nấu cơm độn sắn mà hắn chia tới 25 người. Đã thế với cái muôi cong khi xắn cơm chia theo hình dẻ quạt thì không thể đều được. Chỉ cần hắn hơi nghiêng tay về bên nào là bên đó thiệt trông thấy.

              Đám học viên chúng tôi tức lắm. Tuy mang tiếng là cán bộ, nhưng chúng tôi thuộc loại "đầu binh cuối cán" nên chất lính trơn còn đậm lắm. Chúng tôi quyết định cảnh cáo lão một mẻ. Nhóm 5 thằng trong cùng tiểu đoàn 18 chúng tôi quyết định đánh hội đồng tay Vè theo kiểu trùm chăn. Tôi vốn là A trưởng trinh sát nên được giao nhiệm vụ kiếm cái chăn trước lúc hành sự.

              Hôm đó là tối thứ bảy, chúng tôi được nghỉ sinh hoạt nhưng vẫn phải đi ngủ lúc 9 giờ tối. Tôi phát hiện thấy tay Vè lên nhà Ban chỉ huy đánh bài tiến lện. Nhóm 5 thằng chúng tôi vẫn giả vờ đi ngủ sớm, nhưng sát lúc 9 giờ, tôi lẻn nhanh vào lán hậu cần và thó luôn cái vỏ chăn đơn bằng vải phin của Vè. Chúng tôi núp vào bụi chuối rừng ngay gần lán hậu cần, cách nhà Ban chỉ huy gần ba chục mét. Đúng 9 giờ, tay Vè từ nhà chỉ huy đi về. Chắc vẫn say sưa sau mấy ván bài tiến lên, nên hắn nhìn vào bóng đêm không rõ bằng chúng tôi. Khi hắn đi ngang bụi chuối, chúng tôi xồ nhanh ra chụp cái chăn vào đầu hắn kín đến nửa người rồi thi nhau cốc túi bụi. Tay Vè ú ớ không kêu ra được một tiếng nào. Đến lúc hắn vùng được người ra thì chỉ còn mình hắn với cái chăn bên bụi chuối. Hắn ta bực lắm, ôm chặt cái chăn lên nhà chỉ huy. Nghe hắn báo cáo, Chính trị viên bảo:

               - Được rồi, cậu để cái chăn đây, tôi sẽ báo động ngay toàn đơn vị. Tìm ra cái chăn của cậu nào thì tôi sẽ trị cho cậu đó đến nơi đến chốn.

              Tay Vè ra về.

              Năm phút sau, khi chính trị viên chuẩn bị thổi còi phát lệnh báo động toàn đơn vị, thì thấy Vè lóc cóc chạy lên, vẻ mặt đau khổ:

               - Báo cáo thủ trưởng, cho em xin lại cái chăn. Cái chăn ấy là chăn của em đấy ạ.

              Chính trị viên hơi sững người, rồi hiểu ra ngay.

              Đêm đó chúng tôi không bị báo động kiểm tra. Đơn vị rồi cũng không tìm ra ai là thủ phạm. Ban chỉ huy cũng không muốn ầm ĩ, nên mọi người quên dần đi.

               Tay Vè, có lẽ cũng hiểu chúng tôi chỉ là loại lính tráng, đến rồi lại đi, không phải ăn đời ở kiếp nên cũng có vẻ thoáng với chúng tôi hơn.


Tiêu đề: Các Truyện ngắn của lính - Chuyện Chí Phèo...
Gửi bởi: Trinhsat trong 08 Tháng Tám, 2009, 01:34:02 pm
Kể chuyện chí phèo, cuộc đời hay phim ảnh?
   
         Chí Phèo thực ra là dân gốc xóm Đại. Làng chỉ có hai xóm là Đại và Vũ, hợp lại thành làng Vũ Đại. Chí Phèo là một thanh niên nông dân cường tráng và ưa nhìn. Tên cúng cơm thì cũng chỉ là Chí thôi. Nhưng Chí nổi bật hơn tất cả trai tráng ù lì trong thôn bởi tính tình bộc trực và can đảm, không sợ cường quyền. Cái chất con người của Chí được ví như khúc "phèo" trong con lợn, nơi chứa đầy chất lỏng đặc sệt như nước gạo pha sữa nằm ngay sát dạ dày. Người dân tộc khi chia thịt lợn có thể chênh nhau mỗi phần tới một hai cân cũng không có vấn đề gì, nhưng chia cái khúc "phèo" ấy thì không thể không đều tới từng phân. Vì thế Chí mới có tên là Chí Phèo. Cái từ "phèo" là theo nghĩa tốt lắm đấy.

              Làng Vũ Đại nằm ở vùng đồng chiêm trũng, nơi làng nào cũng có nghề đóng gạch. Cái lò gạch Làng Vũ Đại thuộc loại to nhất Tổng, nhưng đến mùa chiêm thì cũng đành phải bỏ hoang, trở thành nơi trú ngụ cho Chí phèo trong những đêm đông mưa phùn gió bấc, hay lúc gặp bão mưa gió dầm dề. Trời quang mây tạnh thì chân đạp đất, đầu đội trời, ngả lưng đâu thì nơi đó là giường.

               Chí Phèo không cha không mẹ, nhà cửa ruộng vườn chẳng có gì, nên quanh năm chỉ đi làm thuê kiếm sống. Thực ra, người làng vẫn đồn vụng  Chí phèo là con rơi của lão Bá Kiến. Vì thế trong làng chỉ có mình Chí Phèo là dám chửi Bá Kiến. Thường thì chỉ chửi vào lúc say, nhưng nếu như có chửi trong lúc tỉnh thì cũng chẳng việc gì. Dao sắc không gọt được chuôi. Chí Phèo như người gánh hạn cho cả nhà, nên lão Bá Kiến cũng chỉ dám mắng dọa Chí Phèo lấy lệ. Lý Cường là con công khai của Bá Kiến, làm chức dịch trong làng nên cũng đôi lần ra oai dọa nạt Chí Phèo. Thì là dọa vậy thôi, chứ thử xắn tay áo vào xới mà xem, cái vóc lẻo khoẻo lèo khoèo của Lý Cường may lắm cũng chỉ chịu nổi chưa quá ba hồi trống là lấm lưng trắng bụng với Chí Phèo. Mẹ Chí Phèo vốn cũng là ngưòi đàn bà lực điền, chứ có đâu ẻo lả con quan như mẹ của Lý Cường. Hổ mẫu sinh hổ tử mà. Tiếc là bà bán sới khỏi quê từ lúc nào, không để cho Chí Phèo được thấy mặt.

              Vợ ba của Bá Kiến chỉ hơn Chí Phèo vài tuổi. Làm vợ Bá Kiến là theo sự ép gả thôi chứ cũng chẳng sóng đôi gì. Suốt ngày quanh quẩn trong khu nhà, tuy rộng nhưng vẫn là bị "nhốt" sau hai cánh cổng gỗ lim. Bá Kiến tuy có bồi bổ thuốc phiện để tăng lực, nhưng lại hay rượu nên tạng người đã chuyển dạng "chân ống giang, đầu gối củ lạc", không làm nên cơm cháo gì. Thế cho nên mỗi lần Chí Phèo tìm đến nhà Bá Kiến chửi ngoặng là chị ta khoái lắm. Cánh cửa lim cổng nhà Bá Kiến đâm ra cứ hay bị mở chốt gỗ vô tình, dễ bề cho kẻ gian lẻn vào. May là Chí Phèo vừa đi vừa chửi như người đánh động, chứ nếu cứ im lặng mà tiến thì có ngày Bá Kiến bị gí mảnh chai vỡ vào cổ lúc nào cũng chưa biết chừng. Nhưng vợ ba Bá Kiến cũng chỉ nhìn Chí Phèo cho vui mắt thế thôi, chứ lúc nào đến nhà mà cũng trong trạng thái say, lại chửi ông ổng cho cả làng nghe thế thì còn làm ăn được gì.

               Có một điều cả làng Vũ Đại không biết rõ, ấy là Chí Phèo chỉ say giả vờ thôi. Bần hàn thế thì lấy đâu ra tiền mua rượu. Hơn nữa, nếu Chí Phèo suốt ngày uống rượu, lục phủ ngũ tạng bị ngâm trong rượu mãi thì làm sao còn sức mà cày thuê cuốc mướn.

              Có lẽ cả làng cả nước cũng không mấy ai biết đến Chí Phèo đâu, nếu như cuộc đời anh ta không gặp được Thị Nở trong cái lò gạch cuối làng. Mới hay cái sự đời nó lạ lùng thế đấy. Chỗ nào cũng thế thôi. Từ chốn thâm cung, chỗ quan trường đến nơi thôn quê dân dã,  phải có tí hơi đàn bà vào thì cuộc đời nó mới ầm vang lên được. "Có nam có nữ mới nên xuân" mà. Bát cháo hành của Thị Nở đã vực dậy cả một cuộc đời lầm lũi, đã làm xoay chuyển cả cuộc đời của một con người có vẻ như đang nằm ở tận cùng của xã hội.

*
               Sau cách mạng tháng Tám, người ta không thấy Chí Phèo trong cái làng Vũ Đại ấy nữa. Có thể anh đã tham gia cùng nhân dân đi cướp chính quyền tại một địa phương khác. Không hiểu Chí Phèo có trong đoàn quân Nam tiến sau ngày Nam Bộ kháng chiến 23/9/1945 không? Nhưng chắc chắn trong chín năm kháng chiến chống Pháp, anh đã tham gia du kích ở Nam Bộ. Sau Hiệp Định Giơ-ne-vơ 1954, Chí Phèo cũng không tập kết ra Bắc, mà ở lại miền Nam.

              Đầu năm 1964, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mac-na-ma-ra sang thăm chính quyền Việt Nam Cộng hòa của Tướng Nguyễn Khánh. Tại cầu Công Lý trên đường Tự Do, chiến sĩ biệt động Sài Gòn Nguyễn Văn Trỗi đã đặt bom mưu sát Mac-na-ma-ra, nhưng không thành. Ngày 15/10 năm đó, Nguyễn Văn Trỗi đã bị xử bắn tại trường bắn Chí Hòa.

               Cũng trong đợt Mac-na-ma-ra sang thăm Việt Nam Cộng hòa ấy, Chí Phèo đã tự phát rủ một ngưòi bạn du kích từ hồi chín năm đón đường ném lựu đạn nhằm mưu sát Mac-na-ma-ra ngay trên đường phố Sài Gòn. Không may, lựu đạn bị tịt không nổ, nên Mac-na-ma-ra thoát chết. Cũng từ đó về sau, viên tướng Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ này không bao giờ dám sang thăm Nam Việt Nam nữa. Hãi đến già.

             Năm 1964, Tư Chung được Bộ tư lệnh Miền (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) cử vào Sài gòn để tổ chức lại và chỉ huy Biệt động Sài gòn đánh vào các mục tiêu có nhiều sĩ quan Mỹ nhằm tiêu hao sinh lực địch. Chí Phèo đã cùng Sáu Tâm chủ động tìm cách liên lạc với Bộ Tư lệnh Sài gòn mà người chỉ huy cao nhất chính là Tư Chung. Cũng chính Chí Phèo là một trong những chiến sĩ đầu tiên của Biệt động Sài Gòn. Anh đã tham gia nhiều trận đánh, từ nhà hàng Mỹ Cảnh bên sông Sài gòn, khách sạn Caravel, Câu lạc bộ không quân Mỹ đến khu cơ quan Đại sứ Mỹ cũ. Lập nhiều chiến công, trở thành dân Sài gòn thứ thiệt, nhưng cái vẻ mặt của anh trông lúc nào cũng "Phèo" như khi còn ở làng Vũ Đại.

              Mậu Thân 1968, trong chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy của quân và dân miền Nam, Chí Phèo được giao phụ trách một mũi đặc công gồm 15 chiến sĩ đánh vào khu Đại sữ quán Mỹ (mới) trên đại lộ nằm thẳng hướng trước dinh Độc lập. Đội của anh đã lập nên kỳ tich với những tình tiết như trong huyền thoại. Khi cả đội đang xung phong vào cổng cơ quan Đại sứ quán Mỹ, thì vấp phải lính quân cảnh Ngụy canh gác vòng ngoài. Để đỡ tốn đạn và tổn thất cho trận chiến đấu chính, Chí phèo đã vừa xung phong vừa hô to:

               - Anh em binh sĩ ngụy quân hãy lui ra. Chúng tôi không đánh người Việt. Hãy mở đường cho chúng tôi vào đánh Mỹ.

              "Giải phóng không động tới mình, thì mình động tới họ làm chi. Càng đỡ phải đánh nhau, đỡ phải sứt đầu mẻ trán". Thế là đám quân cảnh Ngụy dạt ra, rộng đường cho Chí Phèo cùng các chiến sĩ của mình lao vào tìm đánh Mỹ.
 
             Về sau cũng chính vì chuyện này mà sau chiến cuộc Mậu Thân, đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker đã phải chỉ tay vào mặt Tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu mà chửi rầm rầm: "Chúng tôi vượt nửa vòng trái đất qua đây giúp các ông đánh cộng sản, vậy mà lính của ông né ra cho tụi VC vào đánh lính Mỹ chúng tôi, thì các ông còn là đồng minh cái nỗi gì nữa".

              Chỉ có mỗi 15 người lính mà đánh cả một tòa Đại sứ Mỹ. Lực lượng quá mỏng manh, những chiến sĩ biệt động lần lượt hy sinh. Chí Phèo đã đánh lên tận cùng tầng gác tòa Đại sứ, bị bịt mất cầu thang, bị thả khói độc và đã anh dũng hy sinh.

             Không biết ở làng Vũ Đại còn ai thắp hương cho anh không, nhưng chắc chắn trong một nghĩa trang liệt sĩ nào đó, trong một ngôi mộ vô danh nào đó có anh: Chí Phèo ở làng Vũ Đại.

*

             Không biết những nội dung suy đoán trên có đúng không, nhưng đấy là do Trínhat rút ra sau khi lần lượt xem hai bộ phim "Làng Vũ Đại ngày ấy" và "Biệt động Sài Gòn".



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: dongadoan trong 08 Tháng Tám, 2009, 02:03:54 pm
Nhân vật mà anh "Chí phèo" đóng trong phim Biệt động Sài Gòn lấy nguyên mẫu từ AHLLVTND Nguyễn Thanh Xuân tức Bảy Bê, bác Trinhsat ạ! ;D


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: kimlongkhanh trong 18 Tháng Tám, 2009, 05:22:11 pm
Xin hỏi : Trang này phải viết theo chủ đề về Lính hay là theo đề tài tự do ? Cám ơn.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: dongadoan trong 18 Tháng Tám, 2009, 05:29:49 pm
Xin hỏi : Trang này phải viết theo chủ đề về Lính hay là theo đề tài tự do ? Cám ơn.
-----------------------------
 Tên topic có rồi đấy bạn! ;D


Tiêu đề: Truyện ngắn của lính - Chuyện kê khai thu nhập
Gửi bởi: Trinhsat trong 31 Tháng Tám, 2009, 09:27:50 pm
Chuyện kê khai thu nhập
   
        Chú Thái là em họ xa với tôi. Bố vợ ông anh rể nó là chồng  bà gì ruột của chị vợ tôi. Sau tám năm đi học tập nước ngoài, cu cậu đã mang về một cái bằng thạc sĩ khoa học và xin được vào làm ở một cơ quan khoa học nhà nước. Lăn lóc tám năm nữa thì được đề bạt làm phó phòng. Dân khoa học, lắm nguyên tắc nên trong lĩnh vực xã hội thì nhiều khi như "bò đội nón".

              Sau nhiều năm bàn cãi, sau nhiều kỳ họp Quốc hội tranh luận, cuối cùng thì nhà nước cũng đề ra được một qui định là cán bộ từ cấp phó phòng trở lên thuộc các cơ quan nhà nước phải "tự kê khai tài sản" cá nhân. Đây là một bước đầu tiên trên con đường làm trong sạch đội ngũ cán bộ có chức có quyền, góp phần phòng chống tệ nạn tham nhũng trong tương lai. Còn hiện tại thì tất nhiên là để hợp thức hóa số tài sản đã có của các cán bộ trong quá khứ.

               Cầm tờ mẫu kê khai tài sản được phát, thằng Thái đem bộ mặt dài bằng nửa cái bơm xe đạp đến gặp tôi nhờ tham mưu. Tôi liền đưa nó đến gặp ông chú bên nội tôi, một cán bộ chính trị đã nghỉ hưu, có một thời oanh liệt trong quân đội được mệnh danh là "thượng sĩ lâu năm, nằm trong cấp ủy" để hỏi. Chú tôi không thuộc loại cán bộ phải đăng ký kê khai tài sản vì không đương chức, dù ông có đến 3 ngôi nhà cổ tại Thủ đô Hà Nội, do các người yêu cũ một thời oanh liệt của ông tặng cho, từ thời các nàng lần lượt chia tay ông rồi vượt biên ra đi. Qua bao bước thăng trầm đến nay các nàng đều có danh hiệu "Việt kiều yêu nước" vô cùng danh giá.

              Pha xong ấm chè móc câu ướp sen, nghe tôi trình bày qua, chú tôi quay sang hỏi Thái: " Thế chú mày có những tài sản gì, và chú mày sợ không dám kê khai cái gì?".

               Thái lúng túng, ấp a ấp úng như miệng ngậm hột thị: "Có thì cũng có đấy, nhưng chẳng cái gì ra hồn chú ạ, không biết kê khai vào đâu. Có cái nhà của bố mẹ để lại, nhưng là nhà thuê của nhà nước, nay vẫn phải trả tiền thuê nhà. Nhưng nếu bán đi thì vẫn có người mua, chỉ cần giấy viết tay và giao nhà, cũng tới mấy trăm triệu đồng chứ đâu ít. Nhưng nói vậy thôi chứ bán đi thì ở vào đâu? Lại còn hai cái xe máy của hai vợ chồng cháu. Để riêng thì không cái nào tới giá 50 triệu, nhưng gộp lại thì lại đủ để kê khai tài sản. Cứ rắc rối như thế đấy. Mà ghi là không có gì thì hóa ra mình là người "vô sản" à? Hai vợ chồng cháu lương tháng cộng lại cũng ngót chục triệu, mức sống cũng trên mức của 40% dân nghèo mà mình khai không có gì liệu có xấu hổ không?"

               Tôi nghe mà buồn cười quá, dù cái mặt nó lúc ấy chẳng đáng cười chút nào. Chú tôi cũng cười rồi nhẹ nhàng bảo:

               - Chú mày có tính cách như thế, phải vào làm trong Ban chống tham nhũng của Nhà nước mới đúng. Nhưng thôi, bây giờ tớ mách chú mày 2 cách ghi nhé: hoặc là chú mày ghi vào trong phiếu khai tài sản là không có gì. Hoặc cứ ghi là có độ dăm tỷ (hoặc ngàn cây vàng), thì hai điều đó như nhau.

              Nhìn cái mặt ngơ ngác, mồm chữ O của Thái, chú tôi giải thích:
         
              - Này nhé, nếu chú mày ghi không có gì, nhìn cái áo ka-ki dày cộp đã ngả màu và cái thắt lưng da thòi như đuôi chuột của chú mày thế kia, người ta cũng gật đầu, đồng ý ngay là loại chỉ chăm chăm kỹ thuật như chú mày chắc cũng chẳng có đếch gì. Nhưng chẳng có ai thương chú mày cả, cũng như chẳng có ai cảm phục hay chia cho chú mày cái gì. Nếu chú mày có chết đói cũng chẳng ai bận tâm. Nhưng chú mày cũng đừng quá lo rằng nếu trong nhà có tiền thì sao? Kể cả chú mày có hàng tỷ cũng đố ai dám hỏi, cũng chẳng thằng đếch nào dám thóc mách. Của ai nấy dùng. Nếu kẻ nào đó dò hỏi mà biết thày u chú mày ở quê vừa bán mảnh đất và chia cho dăm tỷ thì có phải ngượng mặt, mang tiếng ghen ăn tức ở  không? Mà có luật nào cho phép ai dòm ngó tủ tiền nhà chú mày đâu.

               Chiêu một ngụm nước chè móc câu đặc cỡ "cắm tăm", chép một cái cho ngọt giọng, chú tôi giảng tiếp:

              - Ngược lại, chú mày ghi luôn là tài sản có dăm tỷ cũng chẳng sao. Ai dám kiểm tra, ai dám đòi xem số tiền ấy. Cũng chẳng thằng nào có quyền hỏi chú mày số tiền ấy từ đâu mà có. Nếu như trong luật có qui định kê khai tài sản và kê khai rõ nguồn gốc, tớ dám khẳng định không có ai dám hạ bút ký cái luật định đó. Không có thằng điên nào lại tự cầm một cục đá to ghè vào gót chân mình. Hiểu chưa? Vì thế, ghi xong rồi thì cứ ung dung mà sống, mà tiêu tiền nếu chú mày có tiền thật. Còn nếu không có tiền mà ghi thế thì cũng như tự an ủi rằng mình có tiền mà thôi. Hừ, nhưng biết đâu sau này luật định nó khác, chặt chẽ hơn mà đến đời con chú mày làm quan có điều kiện tham nhũng, thì có cớ để mà "hợp thức" hóa tài sản.

              Thằng Thái dãn dần nét mặt ra, nhưng vẫn hỏi vớt một câu:

              - Vậy ra là mình nói dối hả chú?

               - Vậy thì, trừ những đứa trẻ sơ sinh chưa biết nói, cháu hãy chỉ dùm chú ai là người không bao giờ nói dối? - Bây giờ chú tôi mới vỗ vai nó và thân mật trở về đại từ nhân xưng thật.




Tiêu đề: Các Truyện ngắn của lính - Nghề Thanh lý
Gửi bởi: Trinhsat trong 03 Tháng Chín, 2009, 10:12:12 pm
Nghề thanh lý.
   
           Chẳng có gì là vĩnh cửu. Tất nhiên rồi, bởi cả vũ trụ đang vận động. Vật chất luôn biến hóa từ dạng này dang dạng khác chứ không mất đi. Có thế xã hội mới phát triển.

               Mọi thứ máy móc, dù hiện đại, tinh xảo và tối tân đến đâu cũng có thời gian sử dụng hữu hạn. Trong một bộ máy thì tuổi thọ và giá trị sử dụng của các bộ phận lại không giống nhau. Thế cho nên thay vì vứt xoẹt ra bãi rác như những cục xương sau khi bị gặm hết thịt, các loại thiết bị máy móc thường được đem bán thanh lý. Những người thợ có tay nghề, kỹ thuật và ham phát minh sáng chế hay cải tiến sẽ tìm thấy trong cái đống cũ nát đó những bộ phận có thể tái sử dụng. Đôi khi sau khi phân lọc lại, thì mọi thứ từ một cỗ máy cũ nát đó lại chẳng có gì vứt đi cả. ( À, cũng như cục xương vất ra bãi rác nói ở trên, đó sẽ là món ăn tốt cho những con chó hoang, hay lũ chuột lang thang không nơi nương tựa).

               Tôi có anh bạn, là kỹ sư điện tử hẳn hoi, nhưng lại rất yêu cái nghề thanh lý. Vốn là một người lính kỹ thuật trong Quân chủng Phòng không những năm đánh Mỹ, am tường khí tài máy móc, giàu tính cần kiệm của anh bộ đội cụ Hồ, nên sau khi ra trường được một năm, anh đã bỏ nhà nước để ra bám chợ Giời. Hàng họ ban đầu của anh, chính là những đồ thanh lý từ các máy móc cao cấp, hay thiết bị quân sự. Chiếc máy tính Minscơ 22 to sù sụ của Liên-xô, chiếm cả một gian phòng năm chục mét vuông trên tầng ba của tòa nhà C1 trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã thuộc về anh sau khi hoàn thành nhiệm vụ là công cụ nghiên cứu khoa học cho Nhà trường suốt 8 năm ròng. Rất nhiều thiết bị điện tử và các bộ điều khiển được các Viện hay các Nhà máy thiết kế ra thời cuối những năm 1980 đã dùng lại linh kiện trong chiếc máy tính đó.

               Không chỉ có đồ dân dụng, quân đội cũng bán ra cả những quả tên lửa SAM 2 (loại đã từng dùng để diệt B52 trong chiến dịch ĐBP trên không 12 ngày đêm cuối năm 1972 ở Hà Nội) sau khi tháo bỏ thuốc. Không kể phần vỏ nhôm và Duya-ra, thì trong quả tên lửa còn rất nhiều bảng mạch và linh kiện điện tử, chẳng khác gì một chiếc máy bay không người lái loại nhỏ. Rồi cả những chiếc xe Điều khiển tên lửa dùng cho những dàn Vol-ga SAM 6 bệ kép to như cái thùng xe container. Thiết bị điện tử trong đó thì nhiều vô kể. Những năm 1990 trở về trước thì thiết kế điều khiển nào, nhất là trong các nhà máy Quốc phòng mà lại chẳng dùng linh kiện Liên-xô. Vì thế đồ thanh lý tháo gỡ ra, phân loại rồi thì "Quốc phòng tại trả về Quốc phòng". Một vốn mấy lời, ăn ra chủ yếu nhờ công tháo gỡ.

               Có lần anh bạn đó còn cho tôi xem cả một chiếc bóng đèn điện tử loại phát công suất cao tần. Nó to cỡ hai hộp sữa đặc ông Thọ chồng lên nhau. Giá bán là 2 chỉ rưỡi vàng, nhưng nếu không bán mà đập vỡ ra thì riêng cái Ka-tot của nó cũng là một khoen vàng ròng bốn con chín nặng bằng 2 chỉ.

              Anh thiên về mua đồ thanh lý của Quân chủng Phòng không. Các thứ khác như xe tăng hay tàu chiển loại nhỏ quá "đát" thì anh không mua. Cái này là sân nhà của các bác đồ sắt trên đường Thành gần chỗ Ô Chợ Dừa rẽ vào. Dân buôn biết rất rõ sân chơi của nhau, không đá nhầm sân bao giờ, khác hẳn các cầu thủ bóng đá đang trong thời kỳ quá độ lên chuyên nghiệp của ta.

               Ghê nhất là một lần anh mua thanh lý 2 chiếc máy bay A37 của Mỹ. Thật ra đó là di sản của các phi công trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa "bỏ của chạy lấy người", bỏ lại sau khi tháo chạy tháng 4 năm 1975. Chúng cũng được tận dụng ít nhiều, đến khi quá hạn sử dụng, lại không có phụ tùng thay thế, nên được đem ra làm "kế hoạch Ba". Từ mảnh đất miền Trung yêu thương, máy bay A37 đã "bay" về chợ Giời Hà Nội để được "pha" ra bán lẻ.

               Hơn một phần tư thế kỷ gắn bó với nghề thanh lý và chợ Giời, nay anh bạn tôi đã tở thành một doanh nhân có tiếng. Nhà ba tầng tọa lạc ba nơi, cuộc sống sung túc, con cái học hành đến nơi đến chốn, thật ung dung tự tại.

              Tôi không kể tên anh, nhưng có lẽ hầu hết dân kỹ thuật có dính dáng về điện tử ở Hà Nội, khi xem bài này đều biết anh là ai.




Tiêu đề: Truyện ngắn của lính - Lần này cấp trên quy định...
Gửi bởi: Trinhsat trong 17 Tháng Chín, 2009, 10:05:19 am
Lần này cấp trên quy định …


   Đã bước sang tháng cuối cùng của mùa mưa.

   Trung đội chúng tôi được lệnh rời chốt, rút về hậu cứ. Thế là kết thúc 26 ngày nằm trên chốt Thê-va-đa, một chuỗi ngày dài đằng đẵng.

   Trong chiến tranh, lính giải phóng chúng tôi chủ yếu ở trong rừng. Các vị trí trú quân thường bí mật. Ở nơi nào, chúng tôi cũng phải dựng nhà hầm, làm lán và  không ở cố định lâu. Hậu cứ nào ở lâu nhất cũng không dài quá 3 tháng.

   Các trận đánh thường diễn ra trong thời gian rất ngắn. Các điểm chốt chỉ được lập ra trong ít ngày phục vụ cho chiến dịch, hay cho một trận đánh. Các vị trí lập chốt cũng được thay đổi thường xuyên. Trong một số chiến dịch quan trọng, cần giữ chốt lâu, chúng tôi phải lập "kiềng", gồm  3 điểm chốt tạo thành thế chân kiềng, có thể chi viện đắc lực cho nhau. Đợt  chiến đấu và giữ chốt Thê-va-đa kéo dài tới 26 ngày là một trong những đợt chốt hiếm hoi. Không một ai trong trung đội chúng tôi lại có thể quên điểm chốt đó.

   Suốt 26 ngày đêm trung đội chúng tôi không một lần rời chốt. Điểm cao này án ngữ bên con đường 23 huyết mạch trên cao nguyên Bô-lô-ven. Cả một đoạn đường dài tới vài cây số nằm trong tầm nhìn của cao điểm này. Từ đây dùng loại ống nhòm pháo binh có thể quan sát rõ người đi trên đường cái ở khoảng cách tới 3 nghìn mét. Vì thế điểm cao này được bộ đội ta lập chốt giữ lâu dài.

   Hai mươi sáu ngày đêm giữ chốt. Chúng tôi chỉ phải đánh nhau với địch có 3 ngày. Những ngày sau, bọn địch không đánh lên chốt nữa. Song ngày nào chúng cũng nã pháo lên, bất kể ngày đêm, giờ giấc. Pháo không nã trúng hầm thì chúng tôi cũng chẳng hề gì. Cái ác liệt không thấm vào đâu so với sự vất vả. Trong suốt khoảng thời gian trên chốt, chúng tôi  không được tắm giặt. Chuyện đánh răng rửa mặt cũng nghỉ luôn. Mỗi ngày ở tuyến sau chỉ tiếp tế được cho chúng tôi mỗi người một bọc cơm ăn cả ngày và nửa bi-đông nước. Ban ngày hầu như trời nắng, mà nắng rất gắt. Ban đêm thường là mưa, kiểu mưa tầm tã kéo dài cả đêm. Không thể ngủ trong hầm vì bùn đất nhão nhoét. Chúng tôi mỗi người phải đào một vòng rãnh thoát nước bao quanh một khoảnh đất nhỏ cạnh hầm của mình. Đến đêm khuya thì lấy tấm ni-long quấn quanh nửa người, từ hông lên trùm kín đầu, rồi ôm súng ngủ trên cái khoảnh đất nhỏ ấy. Từ đùi trở xuống phơi ra, mặc cho nước mưa dầm ướt cả đêm. Ban đêm tuy lạnh lẽo, nhưng như thế cũng tạm ổn. Ban ngày nắng lên mới thấy khổ vì lâu không tắm. Dưới nắng gắt, quần áo khô giòn nên người lúc nào cũng bứt dứt như có con gì cắn. Chỗ nào ngứa quá thì đành phải thò tay vào vê ra từng sợi ghét để tắm khô. Quần áo không còn giữ được màu xanh nữa mà đã dày lên với màu nâu đỏ.


*

   Được lệnh rời chốt, chúng tôi vô cùng mừng rỡ. Sau khi hành quân về phía sau cách khoảng hơn chục cây số, chúng tôi được dừng lại đào hầm làm hậu cứ. Buổi chiều cả bọn ra suối tắm. Suối đá, nước trong veo và có nhiều mô đá cao cạnh suối. Gác súng trên bờ, chúng tôi nhào xuống suối. Nước mát. Tất cả cứ trần như nhộng ra mà tắm. Kỳ cọ đến đâu, người như được lột da đến đấy, thật sung sướng. Vui quá, có thằng còn hồn nhiên đứng trên mô đá giữa suối mà nghêu ngao hát. Lúc chúng tôi giặt quần áo, cả một khúc suối đỏ ngầu. Quần áo của chúng tôi sạch và xanh dần trở lại.

   Vui hơn nữa là lúc về đến bếp ăn, chúng tôi được thông báo có đợt phát đường. Để biểu dương các đơn vị trong trung đoàn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh địch mùa mưa, lần này mỗi người sẽ được phát 5 lạng đường, chứ không phải chỉ có 3 lạng như đợt phát trước cách đây nửa năm. Thật là tuyệt vời. Buổi tối ngồi với nhau, chúng tôi đã bàn tính vài kế hoạch nho nhỏ để thưởng thức món đường. Hoặc là chúng tôi sẽ tìm cách trở lại khu đường 23, đến các vườn chè vô chủ mà dân đã bỏ đi để hái chè về sao, uống với đường. Hoặc là chúng tôi sẽ tạt sang các bản như Phù-đin hay Xăm-xi-núc để xin cà phê tươi. Sau đó chúng tôi sẽ về rang, giã để uống. Trên mảnh đất cao nguyên này có nhiều cà phê, và đồng bào sẵn lòng cho chúng tôi bất cứ lúc nào.

   Sau đợt chốt kéo dài mới cảm thấy rõ hạnh phúc của sinh hoạt hậu cứ. Chúng tôi được tự do nói chuyện, tha hồ nói to. Rồi chúng tôi hát hò, văn nghệ tự túc. Phải hát thật nhiều, hát thật to cho bõ những ngày ngồi chốt  câm lặng. Ai cũng đòi được hát. Bên ánh sáng của những cây nến tự tạo bằng loại vải dầu bọc đạn pháo lấy của địch, chúng tôi háo hức hát và nghe nhau hát. Cả đơn vị đều đã thuộc giọng của nhau, và biết ai sẽ hát bài gì. Nhưng vẫn sướng, vì chúng tôi đang trong tâm trạng thoải mái, tự do. Cả bọn lại buồn cười nghe hai thằng Hoà và Sớm song ca bài "Sợi rơm vàng". Đây là một bài hát thiếu nhi, có câu "một sợi rơm vàng, hai sợi vàng rơm …". Hai thằng này là lính mới, đoàn Hà Tây, vào chiến thường mới được nửa năm. Chúng nó rất thích hát bài này, và hát khá hay. Lính tráng chúng tôi chỉ cần ít giây phút thư thái cho giãn tâm hồn trong những lúc văn nghệ như thế, nên ai hát bài nào không quan trọng. Có điều nó hơi ngồ ngộ, hai thằng mặt non choẹt, nghiêng nghiêng đầu hát, đôi lúc nhìn cứ như hai thiếu nhi nên hình ảnh đó đã tạo nên một ấn tượng ghi nhớ đặc biệt về Hoà và Sớm.
...



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 23 Tháng Chín, 2009, 10:25:10 am
...
           Nói là được phát đường, song cũng phải đến hai  tuần sau mới đến lượt đại đội chúng tôi được lĩnh. Quân số đại đội bảy chục người, tất cả chỉ có hơn ba chục cân đường, nhưng đơn vị vẫn cử 3 người đi lĩnh, trong đó có tôi và Sớm. Từ hậu cứ của chúng tôi về tuyến sau nơi có kho hậu cần xa 4 tiếng đồng hồ đi đường, như vậy tổng cộng cũng hết cả ngày trời. Tuy vậy, tất cả đều náo nức.

   Buổi trưa, đến lượt chúng tôi nhận đường. Cả 3 đứa tròn xoe mắt khi thấy đồng chí quân nhu trung đoàn lấy cái bát sắt loại nhỏ đong đường cho chúng tôi, mỗi suất chỉ có một bát. Cả bọn thắc mắc. Xưa nay trong lính, ai cũng biết có 2 loại bát sắt. Bát loại to, còn gọi là bát B52, khi đong đầy có ngọn là 5 lạng đường. Còn bát loại nhỏ chúng tôi vẫn hay dùng để ăn cơm, khi đong đầy chỉ có 3 lạng đường thôi. Nay dùng bát nhỏ đong đường cho chúng tôi thì chắc chắn không phải là 5 lạng rồi. Mà chúng tôi được phổ biến là lần này mỗi người được 5 lạng cơ mà. Thế là cãi cọ. Nhưng dù nói thế nào thì tay quân nhu vẫn bảo chỉ có vậy thôi, không lĩnh thì về. Chúng tôi tức lắm, nhưng chẳng lẽ lại về không. Chẳng có thủ trưởng nào ở đây để phân giải cho chúng tôi cả. Rồi chúng tôi ngó quanh. Các nhóm đi lĩnh đường của các đại đội khác hôm nay cũng không hơn gì chúng tôi. Ai cũng hậm hực, tức ghê lắm, nhưng rốt cuộc tất cả đều phải bằng lòng mà lĩnh đường về cho đơn vị.

   Chúng tôi đem đường về đại đội, báo cáo các thủ trưởng. Thái độ của các thủ trưởng thật bình tĩnh, chỉ bảo đem chia cho bộ đội, có gì xem xét sau. Chúng tôi chia đường cho nhau, nhưng vẫn bàn tán và nói chung là chẳng ai vui. Cũng chẳng ai hào hứng bàn chuyện kiếm cà phê hay chè mạn nữa.


*
   Hai hôm sau, trong một buổi sinh hoạt đơn vị, chính trị viên đứng lên công  bố về vấn đề đường. Anh bảo:" Cấp trên không có gì sai. Mỗi cán bộ chiến sĩ vẫn được phát 5 lạng đường. Nhưng .." - anh nhấn mạnh: "Lần này cấp trên qui định cái bát sắt nhỏ ấy là 5 lạng đường!".

   Rồi anh phê bình nhóm 3 người đi lĩnh đường chúng tôi hôm đó đã có thái độ vô kỷ luật, đã cãi nhau với quân nhu, gây nên tình trạng lộn xộn không đáng có …

   Cả đại đội hơi ồn ào lên một chút, rồi lại im ắng ngay.

   Thú thực là nghe phổ biến thế, tôi không khoái lắm. Nhưng biết làm thế nào được vì lệnh là lệnh, lính tráng phải chấp hành. Mà qui định của cấp trên thì cũng là mệnh lệnh thôi. Dầu sao có qui định thống nhất của cấp trên cũng là được rồi. Ba lạng hay năm lạng thì cũng thế. Lính tráng vốn vẫn quen "nhiều no, ít đủ, không có cũng không sao" cơ mà.

   Lẽ ra thì mọi sự như thế là chấm dứt. Nếu như tất cả chúng tôi chỉ là loại lính tráng an phận, hay ít học một chút thì đã không có gì xảy ra thêm. Rắc rối bắt đầu xuất hiện từ thằng Sớm. Tuy thuộc nhóm lính mới, nhưng Sớm có nhiều điểm đặc biệt. Nó đã học hết lớp 10, từng có 2 năm bươn chải kiếm sống, và đã suýt lấy vợ.
...



Tiêu đề: Các Truyện ngắn của lính - Lần này cấp trên quy định...
Gửi bởi: Trinhsat trong 29 Tháng Chín, 2009, 10:53:19 pm
...
        Lê Duy Sớm là một người lính khoẻ mạnh, trắng trẻo và đẹp trai. Nó rất tốt bụng, sống chan hoà với mọi người và bạo dạn trong chiến đấu. Nó rất thích nói chuyện, và nói chuyện có duyên. Nghe nó kể những chuyện của nó, với nụ cười phô hàm răng trắng có cái răng khểnh thì thật hấp dẫn. Mà con trai quái gì ở một bên má lại có cái lúm đồng tiền như con gái. Anh Quân, trung đội trưởng thường bảo: "Nếu có biểu diễn văn nghệ, thằng Sớm đóng vai con gái thì đố đứa nào biết".

              Sớm có kỷ niệm và mối tình của thời học sinh khá đẹp. Khi còn ở nhà, một lần vào đầu năm lớp 10, trường nó tham gia đào thuỷ lợi giúp dân. Học sinh nông thôn quen lao động từ bé, nên chúng nó đào, xắn và vác đất rất giỏi. Bọn con gái gánh đất đua nhau như không biết mệt. Thằng Sớm đẹp trai, lao động giỏi, lại rất hay chuyện. Không chỉ đám con gái trong lớp, mà ngay cả con gái lớp khác cũng biết đến hắn sau mấy ngày lao động. Ở lớp 10B bên cạnh có cái Liên, khá xinh đã chú ý đến hắn. Nhưng cái kiểu đâu, không nói thẳng lại đi nói vòng. Một lần Sớm vác đất đi ngang qua chỗ lớp 10B, nghe thấy giọng cái Liên: "Trông ghét ghê cơ". Ơ! Không ai làm gì mà lại đi gây sự trước. Phải đả lại cho cô nàng một câu mới được. Thế là trong một lần khác khi đi ngang qua chỗ Liên, thằng Sớm vờ như đang nói chuyện to với đứa đi bên cạnh, cố tình để cho Liên nghe thấy: "Cái yêu nhiều khi được bắt nguồn từ những cái ghét. Khi một người con gái nói rằng rất ghét ta, tức là nàng đã bắt đầu yêu ta". Cái Liên đỏ mặt.

              "Không ngờ tưởng đùa chơi hoá thật". Sớm nói vậy.

              Sau đó, nó biết nhà Liên  ở thôn bên, cùng xã. Rồi cả hai đứa gần nhau, bén nhau lúc nào không rõ. Học xong lớp 10 thì hai đứa đã yêu nhau. Nhưng lúc đó cả hai mới vừa 18 tuổi. Liên đã là cô học sinh-thôn nữ trưởng thành, đầy đặn. Nhưng anh Sớm nhà ta thì hoá ra lại vẫn còn đang thuộc loại thanh niên choai vì chưa đủ tuổi lấy vợ.

               Hết vụ hè lớp 10, cả hai không ai học tiếp lên đại học. Liên tham gia đội thuỷ lợi của xã. Còn Sớm thì thoát ly khỏi xã. Nó theo một nhóm thợ mộc của làng lên làm ăn tận  trên Yên Bái. Biền biệt 2 năm chẳng thư từ hay một lần về thăm nhà. Nó chỉ lo làm ăn mà quên đi thời cuộc, là cả nước đang có chiến tranh, và nó thuộc danh sách thanh niên trong xã phải nhập ngũ.

              Kiếm được một số tiền kha khá làm vốn, và ngẫm mình đã đủ 20 tuổi để lấy vợ, nó tìm đường về quê. Táo tợn hơn nữa, nó còn đóng một bè nứa gần vạn cây, rồi tự mình theo bè thả trôi sông Hồng về xuôi. Về đến ngã Ba sông ở Việt Trì, nó dừng bè lại và gặp được một đám người cũng thường dọc sông buôn bán. Họ hỏi chuyện rồi thương tình báo cho nó biết, xuôi xuống dưới Việt Trì độ 2 cây số có một trạm kiểm lâm. Gặp kiểm lâm, thì coi như cả cái bè nứa lậu này mất trắng. Mà bè của cậu về đến đây thì thể nào cũng đã có tai mắt của kiểm lâm đi xe đạp xuống báo trước để chặn rồi. Rồi họ còn mách nước giải quyết cho thằng Sớm. Thế là xuôi Việt Trì được độ cây số, Sớm tạt vào bờ và bán non luôn cả bè nứa cho phường gỗ trên bờ. Cẩn thận cất gói tiền vào cái túi dết treo ở cổ, Sớm ung dung cuốc bộ trên triền đê xuôi theo dọc sông. Qua trạm kiểm lâm, nó còn khoái chí nhìn mấy anh kiểm lâm đang nhấp nhổm nghó nghé ra mặt sông chờ đón bè nứa lậu.

              Về đến quê, Sớm dành ra vài ngày thăm nom thày mẹ và làm mấy việc nhà. Rồi nó tìm đường sang thôn bên đến nhà Liên. Gặp  thày mẹ Liên, Sớm mới hay tin, Liên đã đi thanh niên xung phong, và vào chiến trường khu Bốn được một năm nay rồi. Thăm hỏi thày mẹ Liên và ngồi chơi một lát, Sớm xin phép ra về mà trong lòng tần ngần, buồn bã. Thế là hụt mất ý định trở về quê lấy vợ.

              Sớm cũng không trở lên Yên Bái được nữa, vì mấy ngày sau, nó có giấy gọi vào bộ đội. Rồi nửa năm trôi qua, sau những ngày huấn luyện và hành quân vào Nam, Sớm đã trở thành một  người lính trong đơn vị chúng tôi.

             Sớm kể là dọc đường hành quân vào Nam, qua khu Bốn, đến chỗ nào có thanh niên xung phong, nó cũng hỏi xem có  Liên không. Sớm hy vọng được gặp Liên ghê lắm. Rồi càng hành quân vào sâu, thì cơ hội gặp các đơn vị thanh niên xung phong càng ít đi. Cho tới khi được bổ xung vào đơn vị chiến đấu, Sớm vẫn chưa gặp được Liên. Nó cũng buồn nhiều. Nhưng cu cậu cũng thuộc loại lãng mạn lắm. Nó hùng hồn tuyên bố với chúng tôi:

              - Chúng mày vào đây chiến đấu chỉ có mỗi một mục đích là làm cái nghĩa vụ của trai thời loạn. Còn tao vào đây  có thêm một mục đích là đi tìm người yêu. Nếu gặp được Liên thì tao sẽ là kẻ hạnh phúc nhất trên đời này.

              Chúng tôi chưa ai có người yêu. Nhưng tất cả đều tin điều Sớm nói.
...



Tiêu đề: Truyện ngắn của lính - Lần này cấp trên quy định...
Gửi bởi: Trinhsat trong 05 Tháng Mười, 2009, 04:36:59 pm
...
            Cái sự từng trải của Sớm đã làm khổ cả nó và chúng tôi. Nó không bằng lòng với lời giải thích của chính trị viên về chuyện cái bát đong đường. Nó bảo tuyên bố như thế là bao biện, là vụng chèo khéo chống. Nếu không có đủ đường phát cho chiến sĩ, thì cứ bảo là chỉ  được phát 3 lạng thôi. Việc gì phải thông báo được phát 5 lạng, mà cuối cùng chỉ có 3 lạng, rồi lại quy định này nọ gây rắc rối ra. Vân vân và vân vân. Nó còn lôi kéo cả một đám lính chúng tôi đồng tình với nó nữa. Thế là không khí trong đơn vị lại ồn áo ầm ĩ. Chuyện xì xầm lên đến cả tiểu đoàn. Thế là lại phải họp hành. Lại nghe phân tích , giáo dục, nâng lên quan điểm của cấp trên.

           Kết cục cuối cùng là cả tiểu đội anh Hùng trong đó có Sớm, cộng thêm tôi và Vĩnh là hai thằng cùng đi lĩnh đường bữa trước bị kết tội đầu trò. Trong 6 người thì có tới 3 thằng đã học hết lớp 10 là tôi, Sớm và Vĩnh. Chính trị viên bảo, các cậu được học hành tử tế, văn hoá cao mà hoá ra lại yếu kém về nhận thức. Cả 6 chúng tôi đều bị kỷ luật cảnh cáo trước đại đội, ghi vào lý lịch. Chúng tôi chấp hành, nhưng cảm giác cứ thấy nó cứ ấm ức như thế nào ấy. Khó nói.

*

               Những trận mưa cuối của mùa mưa đã thưa và nhạt dần. Lại phải chuẩn bị cho nhiệm vụ đánh địch mùa khô. Tiểu đoàn chúng tôi được lệnh lật cánh sang phía Nam đường 23. Để đảm bảo cho các đơn vượt đường an toàn, đại đội tôi được lệnh lập chốt bên đường 23, chỗ gần khu vực Bãi Dứa. Đại đội cử tiểu đội anh Hùng và bổ xung thêm tôi từ tiểu đội khác sang. Nhóm 5 người chúng tôi có Sớm mang B40, tôi mang M79 và 3 người còn lại mang AK. M79 là súng phóng lựu của Mỹ được bộ đội ta ưa dùng. Tác dụng sát thương của quả đạn M79 ngang với lựu đạn, nhưng bắn xa được tới 375 mét.

              Anh Hùng dẫn chúng tôi vượt Huội Chăm-pi sang khu Bãi Dứa lập chốt. Chúng tôi đào hầm ở mé Bắc, ngay sát đường 23. Phía sau lưng là Huội Chăm-pi. Với cách bố trí thế này, chúng tôi vừa có thể đánh chặn địch theo kiểu chốt, vừa có thể chuyển thành trận địa phục kích khi cần.

               Con đường 23 bị bỏ hoang cả một mùa mưa không người qua lại, cây cỏ thả sức mọc um tùm. Suốt vài trăm mét đường gần khu Bãi Dứa, cây Xấu-hổ và cây Mâm-xôi phát triển mạnh, bò lan ra mặt đường. Cả con đường rộng ba làn xe chạy, giờ đây bị hai loại cây trên mọc lấn ra, chỉ còn rộng chừng 2 mét.

              Chúng tôi đào hầm lẫn vào đám bụi Mâm-xôi và nguỵ trang cẩn thận. Bây giờ chỉ còn việc ngồi chờ địch. Nếu chúng không hành quân tới đây thì chúng tôi càng có dịp nghỉ ngơi.

               Ngày đầu không có gì xảy ra. Đến gần cuối chiều thì chúng tôi đã có thể phân công nhau cảnh giới rồi nằm ngắm nhìn trời xanh. Về đêm cảnh vật yên tĩnh. Hơi lạnh một tý. Nhìn lên trời đêm đã thấy có những ngôi sao li ti lấp lánh.

               Hôm sau, khung cảnh buổi sớm cũng thật thanh bình. Đến độ nửa buổi sáng thì chúng tôi phát hiện thấy địch ở đoạn cong trên con đường phía xa. Chúng đang hành quân về phía chúng tôi. Lực lượng địch khá đông. Chúng có vẻ chủ quan, nên đội hình đi khá dày và không tổ chức lùng sục phía trước. Chắc chúng tưởng bộ đội ta còn ở tít trong rừng xa. Đến cách chúng tôi chừng 50 mét, bọn địch dừng lại nghỉ giải lao. Chúng hạ ba-lô, ngồi co cụm lại giữa mặt đường nhựa để tránh những cành Xấu-hổ, Mâm-xôi đầy gai mắc vào người. Hình như chúng coi đây vẫn là phần đất  chúng đang làm chủ, nên cũng chẳng ngó ngàng gì xung quanh. Chúng tôi vẫn im lặng núp trong hầm, đưa súng lên bật chốt an toàn và sẵn sàng nhả đạn. Khoảng cách 50 mét là  quá xa để nổ súng có hiệu quả, mặc dù đây cũng là thời cơ tốt. Qua những kẽ hở của đám lá Mâm-xôi, chúng tôi nhận ra bọn địch này vừa mới hành quân từ hậu cứ đến. Xét về kiểu cách thì đây là lính Thái Lan, lũ lính  nhà giàu luôn no đủ và được trang bị tốt.

               Chừng hai chục phút sau, chúng thổi còi rồi đeo ba-lô  đứng dậy hành quân tiếp. Bọn đi đầu đã đến sát chỗ chúng tôi, trong khi đám phía sau còn đang lục tục đeo ba-lô. Đúng lúc chúng đang mất cảnh giác như thế, anh Hùng phẩy tay ra hiệu rồi nổ súng. Tất cả chúng tôi cùng đồng loạt nổ súng theo. Sớm liên tiếp lắp đạn B40 bắn cấp tập vào đội hình địch. Địch hầu như không bắn trả được phát nào. Những tên đi đầu đã ngã gục hết. Bọn đi sau bị vướng cây Xấu-hổ, chật chội không xoay sở được. Chúng không thể tiến lên, không tạt được sang hai bên vì bị gai móc, còn lùi chạy thì ngã dúi dụi vào nhau. Bọn nằm lại cũng vị vướng, không quan sát được để bắn trả. Chúng tôi cứ đứng nguyên tại hầm mà nã hết loạt đạn này đến loạt đạn khác. Xác địch nằm ngổn ngang, cây cỏ hai bên đường tơi tả.

               Sớm đã bắn hết cả năm quả đạn B40. Các tay súng AK đã bắn hết băng đạn thứ hai. Tôi cũng đã bắn gần hai chục quả đạn M79. Địch đã lùi lại phía xa. Lác đác đã có tiếng súng của địch bắn trả. Trận chiến đấu diễn ra rất nhanh, chỉ chừng 5 phút. Anh Hùng lệnh cho tiểu đội bật khỏi công sự, lao lên thu nhanh mấy khẩu súng chiến lợi phẩm của mấy tên địch nằm chết gần đó. Chỉ còn M79 là bắn được xa. Tôi tranh thủ "cốc" thêm mấy quả đạn M79 nữa, rót cầu vồng về phía địch. Rồi anh Hùng ra lệnh rút. Chắc chỉ ít phút nữa thôi, địch sẽ gọi pháo từ căn cứ bắn trả. Khi đó, nếu còn chần chừ nán lại chúng tôi sẽ bị thương vong vô ích.
......


Tiêu đề: Truyện ngắn của lính - Lần này cấp trên quy định...
Gửi bởi: Trinhsat trong 12 Tháng Mười, 2009, 10:21:25 am
...
         Theo lối cũ lúc đến, chúng tôi vận động thoát nhanh khỏi trận địa, tụt qua dốc rồi vượt Huội Chăm-pi. Đoạn suối này sâu, nhưng bữa trước chúng tôi đã hạ một cây to đổ ngang suối làm cầu, nên chúng tôi vượt suối rất nhanh. Địch vẫn chưa nã pháo bắn trả. Chúng tôi cứ cắm cổ chạy nhanh theo lối cũ hướng về hậu cứ.

              Chạy xa khỏi trận địa tới hơn 200 mét, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm, tin rằng đã an toàn. Đột nhiên, chúng tôi nghe rõ tiếng đề-pa pháo của địch, rồi có tiếng rít đè nặng trên đầu. Một quả đạn pháo của địch bay vọt qua đầu rồi rơi sập  ngay xuống phía trước chúng tôi gần chục mét, tiếng nổ xé tai, đất cát văng rào rào. Cả bọn vội nằm rạp xuống, rồi lại nhanh chóng vùng dậy chạy tiếp. Cần phải nhanh chóng thoát ra khỏi toạ độ pháo này của địch. Chạy được vài chục mét, đột nhiên anh Hùng kêu lên: "Thằng Sớm đâu rồi". Chúng tôi cùng dừng lại, nhìn nhau điểm mặt thì thấy đúng là thiếu thằng Sớm. Lúc nãy nó chạy sau cùng mà. Chờ một chút, không thấy pháo địch bắn thêm nữa, chúng tôi cùng quay trở lại.

              Tại gần chỗ quả đạn pháo nổ vừa nãy, chúng tôi thấy Sớm nằm sấp, bất động trên mặt đất. Tay trái nó giang ra, còn tay phải đang ôm khẩu B40 đè trước ngực. Anh Hùng vội gọi và lay nó. Sớm vẫn nằm im. Sao lại thế này. Ban nãy nó chạy sau cùng, mà quả đạn pháo lại nổ phía trước cả bọn cơ mà. Có ai làm sao đâu. Chúng tôi lật ngửa nó lên. Người Sớm mềm và vẫn ấm. Sờ chân tay không thấy gì. Anh Hùng cởi áo nó ra xem, cũng không thấy vết thương. Mãi đến khi ghé tai vào ngực nó, thấy tim đã ngừng đập, anh Hùng mới phát hiện một vết máu nhỏ trên ngực ngay vùng tim của Sớm. Anh nghi ngờ lấy tay lau lau thì lại thấy máu ứa ra. Chúng tôi cùng xem kỹ, thì nhận ra đó là vết một mảnh đạn pháo, chỉ bé bằng hạt đỗ. Chúng tôi cùng lặng người đi trước tổn thất này.

               Thật là oan trái. Bọn địch chỉ bắn vu vơ có đúng một quả pháo. Cả 4 người chạy phía trước chắn hướng quả pháo nổ thì không sao, còn Sớm chạy sau cùng thì lại bị dính mảnh pháo. Một mảnh pháo định mệnh chỉ nhỏ tý, nhưng lại cắm trúng vào tim khiến nó gục ngay mà không kêu được tiếng nào. Sớm nằm đó, mắt nhắm nhưng nét mặt vẫn như cười, phô cái răng khểnh và cái lúm đồng tiền như con gái. Nó như gã trai đang ngủ quên dưới rặng tre làng trong buổi trưa hè. Chúng tôi nhìn Sớm nằm trên mặt đất  mà không muốn tin là nó đã chết.

              Anh Hùng còn ôm Sớm một lúc, rồi bảo chúng tôi chặt cây làm cáng khiêng Sớm về hậu cứ.

               Buổi chiều, chúng tôi lau rửa, rồi thay cho Sớm bộ quần áo sạch trong ba-lô. Sớm được quấn trong chiếc võng, bọc ngoài bằng tấm tăng rồi chôn cất ở cánh rừng cạnh hậu cứ. Những đau thương mất mát không làm chúng tôi bật khóc, nhưng nước mắt vẫn chảy vào trong. Chúng tôi lấy ra gói đường của Sớm, đã vơi mất mấy thìa sau một  lần pha nước, đem rắc lên mộ của nó. Lính tráng có suất có phần. Cậu đã phải mất công đấu tranh cho cả bọn vì cái gói đường ấy, thì bọn mình cũng không thể nào dùng nó được đâu. Bây giờ đối với cậu, tất cả đều đã hết và đã trở nên vô nghĩa. Cả những chiến công, những huân chương hay phê bình kỷ luật cũng không làm cậu phải bận tâm nữa rồi. Nhưng có thể những hạt đường này sẽ làm cho linh hồn cậu ấm lên.

....


Tiêu đề: Truyện ngắn của lính - Lần này cấp trên quy định...
Gửi bởi: Trinhsat trong 18 Tháng Mười, 2009, 10:09:22 am
...
        *
               Trận đánh bọn lính Thái ấy là một trong những trận đánh đơn giản mà hiệu quả cao. Vừa mới hành quân từ hậu cứ ra, bị đánh bất ngờ, thiệt hại nặng, cái tiểu đoàn Thái Lan ấy phải rút chạy một mạch hơn hai chục cây số về tận thủ phủ Pắc-xế. Đài kỹ thuật của ta bắt được tin bọn địch báo bị chết gần bốn chục tên, Với kết quả ấy, cả năm người chúng tôi tham gia trận đánh đều được xét tặng huân chương.

               Cũng khá bất ngờ, anh Hùng bàn với chúng tôi  đề nghị lên cấp trên không nhận huân chương. Anh Hùng tâm sự: "Nếu như bọn mình trước sau cùng chết cả như thằng Sớm thì mọi việc đơn giản. Khi đó tất cả sẽ chẳng còn ý nghĩa gì hết. Nhưng nhỡ ra có đứa nào còn sống sót, thì cái án kỷ luật kia sẽ là chuyện hết sức dở hơi. Vào chiến trường đến mạng sống còn chả tiếc, lúc về nhà lại ôm cái kỷ luật chỉ vì ăn thì nhục lắm, chịu thế đếch nào được". Thế là chúng tôi cùng đề đạt nguyện vọng được lấy công bù tội, không nhận huân chương để được xoá đi cái kỷ luật trong vụ lĩnh đường vừa rồi. Lúc đầu các thủ trưởng đại đội không đồng ý, nói rằng chuyện nào đi chuyện đó. Sau chúng tôi đề nghị khẩn thiết quá, nên các thủ trưởng cũng chấp nhận. Vậy là trong số 6 người bị kỷ  luật, năm chúng tôi được xoá án. Chỉ còn thằng Vĩnh không tham gia trận đánh vừa rồi, nên vẫn phải chịu án kỷ luật. Nhưng thật ra chuyện đó cũng chẳng làm nó bận tâm lắm.


*
*     *

               Ngày tháng qua đi, chúng tôi vẫn tiếp tục chiến đấu và công tác trong chiến trường.

               Rồi chiến tranh kết thúc.

               Tổ quốc không còn cần đến sự hy sinh của chúng tôi nữa. Chúng tôi lần lượt được giải ngũ về quê. Đa số lại về cầm cày, làm ruộng. Một số đi công nhân. Trong đại đội có tôi và Vĩnh đã học xong lớp 10. Vốn trước khi đi bộ đội, chúng tôi đã có giấy gọi tập trung học đại học, nên cả hai thằng nộp giấy về trường xin học tiếp. Tôi và Vĩnh cùng về một trường Đại học kỹ thuật.

               Trong cuộc đời, con người ta khó đoán trước được số phận của mình. Có lẽ những cơ hội đến với mỗi người, phần nhiều do may mắn. Cái tâm sự ngày trước  trong chiến trường của anh Hùng không biết có phải là sự nhìn xa trông rộng, hay chỉ là lòng tự trọng của con người? Nhưng dù là gì đi nữa thì tôi cũng thầm cảm ơn anh đã đem lại điều may mắn cho tôi.

               Khi tôi và Vĩnh cùng đem giấy tờ về nộp cho trường đại học, thì chỉ có mình tôi được vào học luôn một cách bình thường. Còn Vĩnh, vì trong lý lịch quân nhân của nó có ghi bị kỷ luật cảnh cáo, nên theo quy định của nhà trường khi đó, nó phải chịu cải tạo lao động một năm rồi mới được vào học. Nó trình bày như mếu về cái lý do bị kỷ luật, nhưng chẳng ai nghe. Người ta chỉ biết, trong lý lịch quân nhân của nó có ghi là bị kỷ luật vì "không chấp hành mệnh lệnh cấp trên".

               Thế là trong khi tôi ngày ngày được cắp sách lên giảng đường đại học, thì thằng Vĩnh vẫn phải khoác bộ quân phục bạc màu, dép đúc, mũ cối lầm lũi đến làm ở khu lò gạch sau trường để tham gia sản xuất gạch cho nhà trường.

              Được ba tháng, không chịu nổi nỗi nhục nhã âm thầm vô lý đó, thằng Vĩnh bỏ việc, bỏ luôn cả cái quyền sẽ được vào học đại học, nếu trải qua một năm lao động tốt.

               Vĩnh về nhà, mượn sách vở và cặm cụi lao vào ôn thi đại học. Đến kỳ thi đại học năm sau, trong tư cách thí sinh tự do, Vĩnh đã thi đỗ vào trường Đại học Kinh tế Kế hoạch (nay là trường Đại học Kinh tế Quốc dân). Bốn năm sau, Vĩnh tốt nghiệp ra trường, trở thành cử nhân kinh tế.


*

              Sau nhiều năm công tác, chuyển qua chuyển lại trong các cơ quan nhà nước, cuối cùng Vĩnh ra ngoài lập Công ty Kinh doanh. Nó làm ăn khá thành đạt cho đến tận bây giờ.

               Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp Vĩnh, và đến nhà nó chơi. Hai thằng vẫn thích pha cà phê phin ngồi uống và ôn chuyện lính.

               Một lần tôi đến nhà Vĩnh chơi. Lúc chúng tôi đang tán gẫu và nhìn những giọt cà phê phin tí tách rơi, thì vợ Vĩnh đi chợ về. Thấy chúng tôi đang chờ cà phê, cô ấy lấy trong làn ra một túi ni-long to và hớn hở khoe:

              - Em vừa mua được cân đường trắng Quảng Ngãi. Loại này pha cà phê ngon lắm các anh ạ.

               Vĩnh cầm túi đường có in Logo của Nhà máy đường Quảng Ngãi lên nhìn, rồi chợt bật cười nói:

              - Không biết trong cái gói này có đúng là 1 cân đường theo chuẩn đo lường quốc tế không,  hay lại do qui định dùng cái túi này là 1 cân.

               Nhớ lại chuyện cũ, cả tôi và Vĩnh cùng cười, trong sự ngơ ngác của vợ Vĩnh.


Tháng 9 năm 2007
Vũ Công Chiến


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 27 Tháng Mười, 2009, 09:06:48 pm
Phép tính chia trong đời thường
   

            Tất cả chúng ta đều đã học qua lớp hai. Chắc chắn rồi, nếu không như thế, bạn đã không thể vào đây mà đọc bài viết này. Cái thuở tôi học lớp hai đã xa xưa lắm rồi. Khi đó thày dạy tôi là một thày giáo làng đã cao tuổi. Chúng tôi gọi thày, xưng con, cách gọi có từ thời các thày đồ dạy chữ nho. Về sau người ta bỏ cách gọi này, rồi sau hơn hai chục năm chia cách hai miền Tổ quốc, người ta lại dùng lại cách gọi này trong nhà trường.

               Tôi đã được học 4 phép tính ở lớp hai trường làng. Vốn sáng dạ, nên tôi thích học toán lắm. Theo tôi, cả bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia đều dễ hoặc khó như nhau. Chúng được áp dụng một cách tự nhiên và chính xác vào trong thực tế cuộc sống. Thế nhưng trong một lần thày giáo và thày (đẻ) tôi ngồi uống nước chè và đàm đạo, tôi lại nghe thày giáo nói:

               - Các phép tính đều có linh hồn trong cuộc sống. Phép chia là phức tạp nhất. Trong toán học thì phép chia rất đơn giản và chính xác, nhưng trong cuộc đời thì phép chia lại là khó nhất. Nó là biểu hiện  tính cách con người, nhiều khi quyết định đến cả những vấn đề xã hội không thể lường trước được.

               Tôi nghe hóng mà chẳng hiểu gì cả, nhưng tôi nhớ nhất cái ý rằng, phép chia là tính cách con người.

              Rồi tôi lớn lên, đi bộ đội, rồi đi làm. Tôi dần dà hiểu lờ mờ ra cái ý nghĩa của phép chia trong cuộc sống. Trong chiến đấu thì có chia lửa. Trong cuộc sống thì có chia cơm xẻ áo, chia vui, chia buồn … Những điều đó thì cũng là tốt đấy chứ, có gì phức tạp đâu nhỉ. Nhưng "đi một ngày đàng, học một sàng khôn". Va chạm nhiều và suy nghĩ một chút, tôi mới hiểu dần dần cái thâm ý trong lời nói của thày giáo tôi.

               Không muốn làm khó cho các bạn, tôi kể chuyện luôn nhé.

              Có một thời ở cơ quan tôi ít việc. Anh Hiệu cùng một nhóm 4 người nữa được Giám đốc cho phép thành lập ra Ban đời sống, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ để tạo thêm nguồn tiền cải thiện đời sống cho các công đoàn viên trong cơ quan. Tất nhiên là mặt hàng thương mại nằm ngoài lĩnh vực sản xuất của cơ quan, và trong hoạt động của Ban cũng được cơ quan hỗ trợ. Số tiền đóng góp hàng tháng nộp về cơ quan được đặt ra cũng vừa phải và dễ thực hiện. Thế là cả Ban hào hứng triển khai hoạt động.
 
              Ba tháng đầu vất vả, các thành viên luôn trong tình trạng "cơm nhà việc chợ". Anh Hiệu thường xuyên họp Ban, có thể nói là từng ngày để giao ban, và luôn tuyên bố một câu cửa miệng để làm "tư tưởng chỉ đạo" cho hoạt động của Ban Đời sống là: "Bình đẳng và chia đều lợi nhuận". Dễ hiểu quá. Phép chia thì ai mà chả biết.

               Từ tháng thứ tư bắt đầu làm ăn có kết quả. Tiền chia cho các thành viên (tất nhiên đã có trừ ra để nộp cơ quan) được chia theo từng tuần, thậm chí theo từng phi vụ.

              Kiếm được 50 ngàn đồng, lập tức chia đều cho 5, hay quá.

              Kiếm được  500 ngàn đồng, chia đều luôn, mỗi người được 100 ngàn đồng, quá tốt.

               Kiếm được 1 triệu đồng, lại chia mỗi người được 200 ngàn đồng, tuyệt vời.

              Mọi người trong Ban ai cũng vui vẻ và phấn khởi, càng tích cực hoạt động đều tay.

               Tháng thứ sáu, kiếm được 5 triệu đồng, anh Hiệu lập tức chia ngay cho mỗi người một triệu. Thật không còn gì để nói thêm, tuyệt vời đến thế là cùng. Anh Hiệu sáng ngời trong con mắt mọi người. Nói thêm điều này các bạn mới hiểu rõ ý nghĩa của sự kiện, vàng lúc đó là 200 ngàn đồng một chỉ.

              Công việc làm ăn càng ngày càng có vẻ thuận lợi. Tháng thứ bảy, lợi nhuận của cả Ban ở mức khiến nhiều người nằm mơ cũng không dám nghĩ tới: 10 triệu đồng. Các thành viên trong Ban Đời sống đã có người nghĩ tới viễn cảnh của sự giàu có.

              Nhưng từ cái khúc này,  phép chia bắt đầu bộc lộ tính phức tạp của nó: Phép chia trong toán học bắt đầu phân kỳ với phép chia trong cuộc đời.

               Bốn người trong Ban được chia 6 triệu đồng, anh Hiệu giữ lại 4 triệu đồng với lời giải thích mang nặng tính "điều khiển mờ" trong ngành Tự động hóa là "còn để lo những việc chung". Viên Ru-bi đã có vết gợn và sự phản quang của nó không còn ánh lên màu lung linh huyền bí nữa. Độ cao của tầng khí quyển cũng như sà thấp xuống.

               Thời gian tiếp tục trôi, công việc vẫn tiếp diễn. Phép chia trong cuộc đời ngày càng phân kỳ và có vẻ không còn khả năng hội nhập trở lại với phép chia toán học nữa.

              Việc gì phải đến sẽ đến. Trong một lần được giao khóa đuôi cho một phi vụ buôn bán, anh Đối, một nhân viên nhiều tuổi và thiếu tính kiên nhẫn nhất trong Ban đã ôm cả số tiền lãi 15 triệu đồng bỏ về quê, không quên để lại một bức thư "chia tay vĩnh viễn" để tạ tội cùng cả Ban.

               Hoạt động thêm một thời gian nữa, đủ để trang trải mọi thứ và không ai còn nợ nần gì nữa, các thành viên chia tay. Ban Đời sống giải tán sau chưa đầy một năm hoạt động. Có nhiều chuyện muốn làm nên được phải có sự góp sức tập thể. Thiếu người tâm huyết nên Ban Đời sống không thể thành lập lại được nữa.

*

               Tôi trở về làng, gặp lại người thày từ thuở ấu thơ, nay đã gần 90 tuổi. Tôi đến thăm ông và kể lại câu chuyện trên cho ông nghe. Thầy giáo tôi gật đầu cười, bảo: "Vậy là con đã hiểu điều thày dạy rồi đó. Nhưng đấy mới chỉ là hiện tượng, còn qua đó mà rút ra bài học để hành xử thế nào thì lại là cả một vấn đề khác, con ạ".

              Rồi thày kể thêm cho tôi nghe một chuyện khác.

              Có hai người bạn thân nối khố từ làng quê nghèo ra đi tìm cuộc sống mới. Họ đã trải qua nhiều gian truân vất vả, no đói có nhau. Sau thời gian dài không thành đạt, họ trở về quê, trong tay không có một đồng. Dọc đường họ vừa làm thuê, vừa xin ăn. Có một củ khoai họ cũng bẻ đôi chia nhau. Có một mẩu bánh, họ cũng chia đôi mỗi người một nửa. Đến một ngày nọ, trên đường cái vắng tanh không một bóng người, họ cùng nhìn thấy hai viên kim cương bên vệ đường. Mỗi viên to bằng qủa trứng ngỗng đủ cho mỗi người no đủ cả đời. Mọi việc tưởng đơn giản, bài toán 2 chia cho 2 thì đứa trẻ  lớp hai nào cũng giải được. Thế nhưng hai người bạn ai cũng cho rằng mình nhìn thấy trước, và mình có quyền chia, nhưng không phải chia theo qui tắc số học. Cãi nhau mãi, nhưng không ai chịu ai, cũng không ai nhớ đến bài toán chia học từ lớp hai …

              - Cuộc đời là thế đấy con ạ.

               Thày giáo tôi nghiêng mặt nhìn tôi cười nhân hậu, rồi chắp tay sau hông chậm rãi bước vào nhà. Tôi đứng im lặng nhìn theo thày, trong lòng trào lên một nỗi niềm thật khó nói hết bằng lời.

                                                                               Trinhsat



Tiêu đề: Truyện ngắn của lính - Lê Như Cọp
Gửi bởi: Trinhsat trong 12 Tháng Mười Một, 2009, 08:16:02 pm
Lê Như Cọp
   
          Quê tôi ở Huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Làng tôi nằm cách Tiên Châu xưa chỉ một cánh đồng. Thuở xa xưa, vào thời nhà Mạc, làng bên ấy có ông Trạng ăn Lê Như Hổ. Năm 30 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ, rồi ra làm quan, lên cao nhất đến chức Thượng thư trong Triều nhà Mạc.

               Nhưng cái sự nổi tiếng của ông mà không ai có, để được truyền tụng đến muôn đời lại chính là tài ăn và sức khỏe. Bình thường, ông ăn bằng mười người khác, tất nhiên làm việc cũng phi thường. Còn để ăn cho đã thì ông ăn phải bằng ba mươi người. Cha mẹ ông thuộc hàng trung lưu trong làng mà cũng chỉ đủ sức nuôi ông đến tuổi trưởng thành. Ông phải đi ở rể sớm vào nhà giàu, và rồi sau này làm quan có bổng lộc triều đình, mới có thể đủ ăn mà sống đến năm 70 tuổi.

               Chẳng hiểu ông Đác-Uyn người Anh, cha đẻ của thuyết tiến hóa có nghiên cứu về Gen di truyền "ăn" hay không, nhưng Tiên Châu ngày nay vẫn nổi tiếng là có nhiều người ăn khỏe. Tất nhiên bây giờ mà khoe ăn thì chẳng hay ho gì, vì người ta cứ hay quan niệm "miếng ăn là miếng nhục". Cũng chẳng ai dại gì tổ chức cuộc "thi ăn" vì "thóc đâu mà đãi gà rừng". Của đáng tội, bây giờ mà có khách Tiên Châu đến nhà chơi là cũng hơi lo khoản ăn. Đãi bôi thì người ta cười cho là keo kiệt, không mến khách, còn đãi thật thì một ngày khách ăn bằng cả tháng nhà ăn.

               Tôi cũng có một thằng vừa là bạn lính, vừa là anh em họ xa bên bà nội tôi ở Tiên Châu. Tên cúng cơm là Lê Loáng, nhưng có biệt danh là Lê Như Cọp, vì sức ăn của hắn cũng mang Gen di truyền của tiền bối. Hắn ra nhà tôi chơi đúng đợt vợ con tôi đi nghỉ một tuần theo cơ quan vợ, chỉ có mình tôi ở nhà. Hôm đầu tiên hắn ra nhà, tiện gì ăn nấy, tôi thổi năm bơ gạo, luộc hai đĩa rau muống và mươi bìa đậu rán, kèm tí tôm rang. Có hai thằng mà sau bữa ăn, mọi thứ nhẵn như chùi, nồi cơm không còn sót một hạt, khiến con mèo Hoàng miêu nhà tôi một phen suýt chết đói. Buổi tối nằm gác chân nói chuyện, hắn chỉ xoa bụng, nói chuyện uể oải. Tôi bảo: "Mày còn đói à". Nó giả lời, không đói, nhưng chưa đã.

               Sáng sau, tôi nấu cả bịch mì ăn liền, loại mì cân MICOEM đóng gói 1 ký. Tôi chỉ chén hết một bát nhỏ, còn Loáng xơi sạch. Sau đó tôi rủ hắn ngồi hàn huyên, ôn đủ thứ chuyện, từ chuyện làng xã, chuyện mấy thằng bạn đi làm cửu vạn trên Lạng Sơn, đến chuyện giải bóng đá châu Âu. Tôi lấy cà-phê cho vào túi vải rồi bỏ vào ấm nấu lên như kiểu nấu cà-phê bit-tất, vì pha phin thì có mà đợi dài mặt ra cũng không kịp có để uống. Thằng Loáng uống cũng phi thường. Cả cái ấm cà-phê lít rưỡi, tôi chỉ làm một ly nhỏ, còn hắn uống hết. Cũng chả say hay cồn cào ruột gan gì hết. Thôi, bữa trưa nay phải nấu một mẻ cho ra hồn mới được.

               Tôi với nó cùng ra chợ. Tôi mua hai cân vó bò và nửa lít tương. Loại này rất hợp để kề cà, chưa no thì răng đã muốn tạm biệt hàm ra đi rồi. Tôi mua thêm nửa cân sườn, hai cân khoai sọ kèm mớ rau muống về nấu canh. Lại một chục củ su hào to và không quên mua lít rượu làng Vân Hà Bắc, thứ rượu nấu bằng sắn chảy rựa có gia giảm chút phân đạm đựng trong xăm ô tô. Về nhà tôi luộc tất su hào, nấu canh sườn khoai tây và thổi ba ký gạo. Chẳng cỗ bàn gì, nhưng khi bày ra nhìn, khéo đủ ăn cho hơn chục người. Đúng 11 giờ 30, hai thằng ngồi vào mâm. Tôi chỉ làm chén rượu nhỏ rồi nhẩn nha nhắm vó bò. Tôi bảo Loáng:" Thôi, có hai thằng, mày ăn gì cứ ăn, cơm tự xới cho nó tiện". Loáng gật đầu. Chúng tôi lại vừa ăn vừa nói chuyện. Loáng ăn khỏe mà nhanh. Tôi định bảo nó là "nhai kỹ no lâu", nhưng nhìn nó nhai như máy khâu, tôi nghĩ mình nhai chưa chắc đã nhuyễn bằng nó nên lại thôi. Sau nửa tiếng thì tôi chỉ nói chuyện đưa bữa, còn Loáng vẫn nhịp nhàng. Chợt nghĩ đến chuyện nàng dâu nhập hộ thời phong kiến, tôi cười trong bụng. Cô con dâu nào về nhà thằng Loáng này mà phải ngồi đầu nồi xới cơm cho bố chồng thì mỏi tay bằng đi tát nước một đêm trăng. Gần cuối bữa, tôi chợt nhớ ra vội gẩy muôi cơm làm suất ăn cho con Hoàng miêu thì Loáng cũng sới nốt chỗ cơm còn lại. Nó tổng động viên toàn bộ canh sườn, su hào còn lại cho vào bát, "soạt" ba nhát là kết thúc bữa. Đĩa vó bò cũng chỉ còn lại nửa cọng rau thơm, và chai "cuốc lủi rởm" cũng vất chỏng chơ góc mâm. "Đã chưa", tôi hỏi. Loáng gật đầu cười mãn nguyện. Tôi dọn dẹp qua loa, rồi hai thằng lăn ra ngủ.

....



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 17 Tháng Mười Một, 2009, 09:08:52 pm
......

       Buổi chiều tỉnh dậy tôi vơ vẩn nghĩ. Cứ cái điệp khúc này thì chỉ riêng đi chợ đã đủ mệt. Gạo thì không có vấn đề gì vì vợ tôi vừa gửi mua được dăm chục cân trên Điện Biên. Nhưng còn thức ăn, đã mua phải số lượng lớn, bữa nào cho bữa ấy chứ không để lâu được. Mà chả lẽ cứ hôm nào cũng sào với luộc, vì tôi cũng không giỏi khoản chế biến lắm. Tôi định bụng sẽ đãi hắn một bữa toàn thịt xem hắn ăn được bao nhiêu. Tôi chợt nhớ tới vận động viên thể hình Lý Đức. Nghe nói khi luyện tập ở cường độ căng, vị này phải xơi mỗi bữa hai con gà loại hai cân, cân rưỡi thịt nạc, ba chục quả trứng gà và hai nải chuối. Thế thì tôi đãi thằng Loáng này chưa được tới như thế. Tôi nhìn hắn ngủ, nghĩ thầm. Sao không có ai giới thiệu thằng này đi tập và thi đấu thể hình nhỉ. Được ăn như hoặc hơn Lý Đức, chắc năm nào nó cũng giành Huy chương Vàng giải Khu vực.

               Nghĩ vơ vẩn thế, nhìn đồng hồ đã gần 6 giờ tối. Bây giờ mà đi chợ chắc phải mua vét toàn của ôi. Tôi chợt nảy ra ý nghĩ. Sao mình không đưa nó đi ăn Buffet nhỉ. Dạng này là ăn khoán tự chọn, không hạn chế. Bây giờ ở Hà Nội cửa hàng ăn loại này mọc lên nhan nhản. Có khi thế lại hay.

               Thế là tôi lôi cổ nó dậy bắt đi tắm, rồi hai thằng đóng bộ lên đường. Đầu tiên tôi chọn cửa hàng Hoàng hậu Mariana trên phố Trấn Vũ, vì nghe nói ở đây tuy ít món, nhưng giá khá mềm, có 120 ngàn đồng một suất không kể đồ uống. Nhưng có hề gì, ít món mà lượng nhiều là được rồi, vì mục tiêu của chúng tôi là "ăn lấy được" chứ có cần thưởng thức phong cách ẩm thực gì đâu.

               Trên đường đi, tôi giảng giải cho Loáng một số điều căn bản. Trong tất cả các ngành thương mại, thì dịch vụ ăn uống là có tỷ lệ lãi cao nhất. Có thể đạt đến 40%, thậm chí là 60%. Có nghĩa là nếu mày bỏ tiền đi mua đồ rồi về nhà nấu hết có 4 đồng, thì cũng với lượng ăn như thế, ra cửa hàng phải trả 10 đồng. Điều này đã được qui định từ thời bao cấp xa xưa. Bây giờ các cửa hàng ăn loại Buffet người ta thu khoán một số tiền vào cửa. Sau đó, ở trong ấy mình muốn ăn gì trong những món họ bày thì ăn. Mục đích của khách là ăn được ngon và ăn càng nhiều món có giá trị càng tốt. Thường người ta chọn ăn các món có nhiều đạm như thịt, cá … , nhưng dù thế nào cũng không thể ăn bằng được với số tiền vào cửa. Có như thế cửa hàng mới có lãi chứ. Trong cửa hàng cũng có nhiều món bình dân loại rẻ tiền nhưng ăn chóng no như bánh mỳ, bánh cuốn, phở, bún riêu, thậm chí là ngô, khoai. Xơi độ dăm lát bánh mỳ với hai bát bún riêu thì no rồi, còn ăn gì khác được nữa. Trường hợp này thì khách chỉ ăn độ bẳng một phần năm  số tiền bỏ ra thôi, và cửa hàng càng lãi. Đại thể là như vậy, sau khi vào cửa rồi thì mày cứ "độc lập tác chiến", không phải nhìn ai.

               Lúc chúng tôi bước vào cửa hàng, chỉ có độ vài chục người. Cửa hàng này khá rộng, đủ chỗ ăn cho 200 thực khách. Trong khi những người khách khác xúm xít quanh các món ngao hấp, đuôi bò hầm đỗ đỏ, thịt bê thui, gà KFC … thì thằng Loáng tiến ngay lại chỗ bánh cuốn. Nó nhấc luôn cả hai đĩa loại tẩm hành và loại có quấn thịt, cùng một đĩa chả quấn trước sự nhạc nhiên của tay đầu bếp. Nhưng ăn là quyền của khách, chỉ cần không bỏ dở là được. Tôi bảo nó, sao mày lại ăn thế. Loáng cười, mày yên chí, chỗ mấy món thịt kia đang đông người, tao xơi cái này trước, đằng nào rồi cũng sang đó cơ mà. Biết Loáng ăn khỏe, tôi im lặng. Khi tôi vừa mới ăn xong bát súp cua với ngô xay khai vị, thằng Loáng đã xơi xong cả hai đĩa bánh cuốn và đĩa chả. Thấy nó nhìn quanh, tôi bảo:"Mày cứ để đĩa bẩn đấy, khắc có người dọn. Cứ ra mà lấy món khác đi". Nhoáng một cái, thằng Loáng đã đem về bàn một cục thịt bê to tướng, một đĩa gà KFC, một đĩa thịt nướng và mươi lát bánh mì, kèm một cục bơ to. Thấy bàn chỉ có hai thằng tôi, đám phục vụ bàn bắt đầu để ý. "Lấy nhiều thế kia mà không ăn hết thì chết với chúng ông", chắc chúng nó nghĩ vậy. Tôi cười thầm trong bụng, cầm lát bánh mì nhẩn nha ăn trong khi vừa nhìn Loáng ăn, vừa liếc xéo quan sát vẻ mặt từ nhạc nhiên đến nghệt ra của bọn phục vụ. Cả mấy đĩa thức ăn vậy mà Loáng cũng làm nhanh gọn trong mấy phút.

               Loáng lại ra quầy lấy đồ ăn. Lần này có cả một cậu phục vụ bám theo sau. Nó lại ôm về một lô thứ, và lại chén hết. Lại ra lấy tiếp. Hình như đến lúc này sự lao xao của đám phục vụ đã đánh động những khách ăn. Họ kín đáo xem Loáng ăn. Rồi tay quản lý cửa hàng cũng mò ra xem. Cuối cùng thì mọi người công khai xem Loáng ăn. Bây giờ thì trước mặt họ không phải là một kẻ phàm ăn tục uống, mà là một gã đang trổ tài ăn khỏe, và cửa hàng Hoàng hậu Mariana là nhà tổ chức bất đắc dĩ. Họ trầm trồ xem Loáng ăn, khoái trá đến mức bản thân họ không ăn mấy cũng thấy no. Lúc này có thêm rất nhiều khách đã vào cửa hàng và họ cũng bị đám đông xem ăn thu hút mà quên cả ăn. Loáng đã đảo qua hầu hết mọi món trong cửa hàng, điều mà hầu như không thực khách nào làm được nếu chỉ vào cửa hàng một lần, dù cho mỗi món chỉ ăn một miếng. Loáng cũng biết mọi người đang tò mò xem hắn ăn, nên hắn cũng tỏ thái độ như một đấu thủ đang trong một cuộc thi ăn, chẳng ngượng ngùng gì. Bốn bát chè đỗ đen kèm thạch có trộn nước cốt dừa đã kết thúc màn biểu diến ăn của Loáng. Nó đứng dậy lấy khăn lau miệng. Mọi người im lặng một lúc, rồi chợt vỗ tay hoan hô rào rào. Tay quản lý nhà hàng ứng xử cực kỳ linh hoạt, để tỏ ý là nhà hàng mong muốn khách ăn được nhiều, đã tiến tới bắt tay Loáng và trao cho nó một bó hoa không biết kiếm ra từ lúc nào.

........




Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 22 Tháng Mười Một, 2009, 08:41:52 am
...
     Chúng tôi ra về trong không khí hân hoan và náo nhiệt của đám đông thực khách. Về tới nhà, tôi pha ấm chè và hai thằng ngồi xem ti vi. Loáng có vẻ phấn khích ghê lắm. Nó bảo, Hà Nội có kiểu hàng ăn hay thật đấy. "Hay cái con khỉ", tôi gắt. "Toàn là khách thường thôi, chứ nếu ai cũng như mày thì các cửa hàng ăn loại này sập tiệm, bán xới". Thằng Loáng hê hê cười.

               Sáng hôm sau, chúng tôi lại nấu mì ăn liền điểm tâm sáng. Tôi bảo Loáng, ăn ít thôi còn để bụng trưa nay đi ăn Buffet tiếp. Loáng cười bảo: "Mày cứ nấu cả cân đi, lại đói veo ngay ấy mà". Tôi trợn mắt, gừ cho nó một cái, nhưng rồi vẫn nấu cả cân mì. Ăn xong ngồi nói chuyện tào lao, chán rồi lại quay sang chuyện ăn. Tôi bảo Loáng: "Hôm nay bọn mình đến chỗ khác, cho biết mỗi nơi một tý. Nhưng thống nhất là chủ yếu đến ăn thôi, còn uống thì về nhà. Nếu mày thích rượu, tao sẽ mua vài chai Votka Lò Đúc cho mày nhâm nhi". Loáng gật đầu đồng ý.
 
               Gần trưa, tôi đưa Loáng đến nhà hàng "Cây cau lùn"  trên phố Tô HIến Thành. Ở đây có một sân rộng và nhiều phòng nhỏ có máy lạnh. Các loại đồ ăn để một dãy dài hình thước thợ ở một phía góc sân. Cũng đủ các món chế biến từ thịt lợn, thịt bò, gà và cả vịt quay Bắc Kinh. Rau cũng đủ loại từ su hào xào bầu dục, súp lơ xào nấm hương có tim gan, đến salat Nga phủ đầy kem bơ và đỗ trọng. Ở đây còn có món cá thu nướng thơm lừng, mỗi khúc to như cái bánh đa khoai dày cộp. Mới đi qua một lượt, chưa kịp chọn bàn để ngồi mà thằng Loáng đã nuốt nước miếng đánh ực. Tôi kéo nó ngồi xuống ghế, bảo nó xé khăn lạnh lau mặt cho mát, mày cứ bình tĩnh quan sát toàn bộ trận địa đi, đánh chắc tiến chắc cho có trọng điểm. Loáng cười.

               Bây giờ tôi đóng vai như người bảo vệ, hay là tai mắt của Loáng cũng được. Tôi lấy ít món cho vào cái đĩa rồi đem về bàn ngồi ăn và quan sát Loáng chiến đấu. Ngay pha đầu tiên của Loáng gồm một đĩa gà rán to tướng, gần nửa con vịt quay chặt miếng ăn theo kiểu Việt Nam cùng một đĩa đầy tú ụ thịt lợn hun khói đã làm tay đầu bếp người mập mạp và thấp lùn như Napoleon phải tròn mắt ngạc nhiên và há hốc mồm nhìn, đến 5 phút sau mới ngậm miệng lại được. Chẳng cần phải dao với nĩa cắt từng mẩu thịt bé tẹo như cái lưỡi mèo kiểu cách, Loáng xua cả "năm quân" rồi cả "thập cẩm y vệ" vào trận chiến. Mười phút là đủ giải quyết đợt tấn công thứ nhất. Loáng ra lấy các món ăn đợt hai. Lần này thì toàn là chất bột. Lượng bánh mỳ mà Loáng lấy ra bằng cả một cái bánh gối vuông loại cân rưỡi. Tất nhiên kèm theo đó giò, chả và cả bơ lẫn đường. Cửa hàng này chơi sang có cả món Pho-ma bò cười, Loáng cũng lấy đủ cả nguyên một khoanh 10 miếng. Đợt này Loáng không ôm một lúc nhiều đĩa, mà nó đi làm ba lượt, xếp về cho đủ một góc bàn đồ ăn rồi mới chén một thể. Một thằng phục vụ bàn ở đây có vẻ thiếu kiên nhẫn đã nhắc nhẹ nó: "Chú cứ lấy ít một, ăn hết rồi lấy tiếp chứ không ăn hết lại bỏ phí". Loáng nhe răng cười, gí mũi vào sát cái mặt vừa nhăn nhó, vừa căng thẳng của thằng phục vụ bàn: "Cậu em lại gần mà xem anh đánh chén nhé. Nếu anh chén hết mà còn đói, phiền chú mày lấy giúp tiếp đồ ăn cho anh đỡ mất công đi lại, hì hì". Nói rồi Loáng ngồi vào bàn ăn như máy trước sự ngơ ngác của tay phục vụ. Nói thật là tôi cũng tập trung quan sát xung quanh xem tình thế để có gì còn hỗ trợ Loáng xử lý tình huống, nên ăn uống cũng thiếu tập trung và tất nhiên là không nhẩn nha đi chọn các món theo ý thích được.

               Cũng như ở cửa hàng Hoàng hậu Mariana, đến đợt ăn thứ ba của Loáng thì đã thu hút sự chú ý của nhóm phục vụ. Tôi liếc nhìn đồng hồ, mới có hơn nửa tiếng mà Loáng đã giải quyết xong ba đợt ăn. Đến đợt thứ tư, khi Loáng vừa soạn xong mấy đĩa đồ ăn thì người quản lý của cửa hàng bước đến. Đó là một người phụ nữ gần độ tứ tuần, có nhiều nét đẹp, còn kém xa tuổi Loáng. Cô ta chào Loáng, tự giới thiệu và ngỏ ý xin được tiếp bữa ăn cùng Loáng. Thắng Loáng chưa gặp phải tình huống này, mặt hơi nghệt ra rồi nhìn tôi dò hỏi. Tôi lịch sự mỉm cười chào cô chủ, cũng tự giới thiệu và kéo ghế mời cô ngồi. Cái vẻ mặt tự tin và hơi hài, nhưng thân thiện của tôi làm cô ta yên lòng và vui vẻ ngồi xuống. Tôi tỏ ý quan tâm, hỏi cô ăn món gì để tôi đi lấy cho cô, nhưng tôi thừa biết những người chủ tiệm sẽ làm gì trong những tình huống như thế này. Cô ta bảo tôi cứ ngồi vào bàn, rồi quay lại nói nhỏ câu gì đó với người phục vụ vừa tiến đến phía sau. Chỉ một lát, mấy người phục vụ đã bê ra mấy đĩa thức ăn gồm gà rán, tôm nướng và một đĩa nộm, kèm theo một chai vang Bordeaux của Pháp loại 1,25 lit và 3 chiếc cốc chân cao. Người phục vụ khui rượu và rót ra lưng 3 chiếc cốc. Cô chủ tiệm mời rồi nâng cốc cùng chúng tôi. Cô chủ động mời Loáng ăn tự nhiên, và nhỏ nhẹ trò chuyện. Thực ra chỉ có tôi và cô nói chuyện là chính, còn Loáng thì ăn là chủ yếu, thỉnh thoảng nó mới tạm dừng lại gật đầu xác nhận để đưa đẩy câu chuyện của chúng tôi.

         Tôi đã kể cho cô chủ cửa hàng nghe về cái làng Tiên Châu cùng vị Tổ sư của làng, Trạng ăn Lê Như Hổ. Cái sự tích này có ghi chép trong Chuyện Dân gian Việt nam, nhưng không đưa vào sách giáo khoa cho học sinh học, nên không phải ai cũng biết. Nhiều người cũng chỉ nghe nói phong thanh về Trạng ăn, cũng như nghe chuyện về Trạng Quỳnh, Trạng lợn … nên không tường chuyện lắm. Vì thế mà cô chủ đã rất thú vị khi nghe tôi kể chuyện ông Lê Như Hổ. Chuyện về ông thì không phải cầm sách, cả xã tôi ai cũng thuộc lòng. Tôi lại thêm tí gia vị vào câu chuyện nữa, khiến nó vừa thần thoại, vừa thật, vì đã có hậu duệ Lê Loáng đây chứng minh. Cô chủ nghe chuyện vui vẻ và thích thú ra mặt. Thật đúng là “tai con gái”. Chỉ nghe chuyện ăn thôi mà đã có vẻ quên cả ngôi chủ khách, khiến cho tôi càng thêm hào hứng. Mấy gã phục vụ phải đứng xa phía sau nghe hôi câu chuyện tiếng được tiếng mất nhưng cũng có vẻ náo nức lắm.

              Hết chai rượu ngon, hết thêm vài đĩa thức ăn nữa, bữa ăn kết thúc. Mọi người uống chén trà, còn Loáng tráng miệng hết một quả dưa hấu. Sau đó cô chủ tiệm vui vẻ tiễn chân chúng tôi. Chỉ tiếc rằng chúng tôi chỉ là khách ăn, bữa nay làm vui cho người phụ nữ này một lần rồi chia tay, chứ nếu là đối tác hay quan hệ khác thì chắc cô cũng sẽ mong gặp lại chúng tôi và quan hệ cũng có nhiều cơ sở để phát triển.

.....


Tiêu đề: Truyện ngắn của lính - Lê Như Cọp
Gửi bởi: Trinhsat trong 26 Tháng Mười Một, 2009, 04:02:52 pm
.....
       Buổi chiều, loáng không ngủ. Nó bảo tôi hay là chúng mình đi bơi vẫy vùng sông nước tí chút. Tôi đồng ý và đưa nó ra bể bơi Thái Hà.

        Chưa kịp gửi xe, Loáng đã nhìn bể nước và nghi ngại bảo tôi: “Bơi ở cái bể bơi bằng cái lỗ mũi này ấy à”. “Mũi là mũi thế quái nào”, tôi cự lại. Mày nhìn xem, mấy chục người đang vẫy vùng thế kia cơ mà. "Nhưng tao thấy nó bé lắm, có đủ quạt độ dăm sải không", nó nói, thái độ chán nản ra mặt. Thấy vậy, tôi đưa Loáng quay ra, vòng lên bể bơi Ngọc Khánh. Bể này tương đối cao cấp, giá bơi thuộc loại đắt nhất Hà Nội. Vẫn không đủ rộng để thuyết phục Loáng, nó nhìn qua rồi ngao ngán bảo: “Hà Nội chỉ có mấy cái chỗ bơi toen hoẻn thế này thôi à”. Tôi tự ái, nhưng thầm nghĩ nó nói cũng đúng. Tôi quay ra bảo nó. Nếu chính thống thì Hà Nội từ xưa cũng chỉ có độ dăm cái bể bơi thôi, toàn loại này. Ngày trước tao cũng ưa thoáng nên hay lên hồ bơi Quảng Bá. Nước sâu và chiều ngang hồ cũng tới hơn 200 mét. Mùa nước đầy thì trông cũng mênh mông lắm. Nhưng bây giờ dân họ lấn chiếm quanh hồ, lại xây đủ các quán ăn đặc sản vứt bừa chất thải xuống đó nên nước hồ cũng ô nhiễm lắm, bơi chỉ tổ bẩn ngứa thêm. To nhất thì có hồ Tây, nhưng không có bến xuống. Ở đó chỉ có dân sở tại quanh vùng và bọn câu cá trộm bơi lội thôi.

              Loáng cười buồn, rồi chúng tôi quay về. Dọc đường tôi chợt nhớ ra bên con đường cao tốc Láng-Hòa Lạc mới mở, phía gần Tây Mỗ có một hồ nước lớn, một số dân bơi Hà Nội đã rủ nhau tới đó bơi buổi chiều. Nhưng mình phải tự lo là chính, vì đó không phải hồ bơi nên không có dịch vụ hay công tác cứu hộ nào cả. Loáng thích thú gật đầu liền. Nó bảo tôi, "mày yên tâm đi, thế mọi khi ra sông bơi thì ai dịch vụ và bảo hộ". Tôi cười. Nói thế thôi chứ tài sông nước của Loáng thì tôi chịu rồi. Khi bé ở quê, mặc dù ao hồ lẫn mương tiêu nhan nhản khắp quanh làng, nhưng Loáng vẫn hay rủ chúng bạn ra sông Hồng hay sông Luộc tắm. Đi xe đạp mà cũng phải gần tiếng mới ra đến sông. Loáng nổi tiếng bơi giỏi khắp vùng. Nó cũng thuộc loại to khỏe có sức vóc hơn người. Lại nhớ, ngày xưa thời Chúa Trịnh Doanh thế kỷ 18, bên Thanh Hà, Hải Dương có cuộc khởi nghĩa nông dân của ông Quận He Nguyễn Hữu Cầu. Tài bơi lội của ông được ví với cá He ngoài biển Đông, được tôn là Yết Kiêu tái thế. Đội quân thủy của ông rất mạnh, ngang dọc sông nước khắp vùng. Tôi chợt nghĩ, nếu thằng Loáng sinh vào thời đó, thể nào nó cũng gia nhập nghĩa quân, được làm tướng dưới trướng Nguyến Hữu Cầu.

         Sau này lớn lên, Loáng có đi bộ đội, vào Hải quân và được tuyển chọn vào Đặc công nước. Nó đã từng bơi 30 cây số trên mặt biển. Tuy thế đến khi đơn vị nó được điều động vào Nam thì chiển cuộc đã thay đổi, miền Nam giải phóng đến nơi rồi. Loáng theo đơn vị ra tiếp quản quần đảo Trường Sa mà không phải đánh trận đặc công nào. Nếu không, chắc nó cũng đã nằm lại dưới lòng sông nào đó trong Nam rồi, vì đặc công nước ra đi 100 thì chỉ có 1 trở về.

              Đến cái hồ bơi thiên nhiên bên đường Láng-Hòa lạc ấy thì đã có hơn hai chục người đang bơi. Toàn là thanh niên, đàn ông. Hồ rộng có dễ đến gần chục hec-ta, mênh mông nước. Chúng tôi chọn chỗ, dựng xe rồi cởi quần áo xuống bơi. Tha hồ mà vẫy vùng. Thằng Loáng sải những cánh tay dài bơi vòng rộng ra giữa hồ. Tôi bơi kém hơn nên chỉ làm vòng nhỏ gần bờ. Trong đám thanh niên ở đây, nhiều đứa bơi tốt ra phết, nhưng xem sức vóc và tầm cỡ bơi lội thì không ai có thể so được với Loáng.

              Vùng vẫy giữa trời nước phải đến hai tiếng đồng hồ, chúng tôi mới chịu lên bờ, mặc quần áo và ra về. Thế mà tới nhà cũng đã gần 6 giờ tối rồi. Tôi giục Loáng thay quần áo để còn đi ăn tối.
.....



Tiêu đề: Truyện ngắn của lính - Lê Như Cọp
Gửi bởi: Trinhsat trong 02 Tháng Mười Hai, 2009, 09:25:28 am
.....
          Tôi nhẩm tính lướt qua trong đầu rồi chọn quán Khang Sinh trên phố Nguyễn Thái Học. Chỗ ấy là vừa phải, không xa quá và cũng tương đối náo nhiệt vào buổi tối. Quán này chỉ có vài buồng nhỏ bật đèn mờ, còn chủ yếu khách ăn ngoài trời. Cái sân gạch đỏ rất to kê nhiều dãy bàn, có một ít cây cau và tre đàng ngà nghiêng cành sát bàn ăn, lại có cả vài bụi chuối rừng tạo vẻ gần gũi thiên nhiên. Dãy đồ ăn cũng nằm sát góc sân, có mái che sương. Quán này mưa to là phải đóng cửa. Tiền vào ăn là 15 “đô” một người, cũng vào loại thứ hạng cao trong các quán ở Hà Nội. Chỗ này có hơi đặc biệt một chút, có món sườn cừu nướng sả ớt mà dân miền Trung hay miền Nam rất khoái. Nó thơm ngon chứ không hôi rình và gây gây như món thịt cừu hun khói mà những gã thảo dân Mông cổ vẫn mang theo làm lương thực trên các chuyến tàu hỏa xuyên Á chạy từ Liên xô về Trung Quốc. Lại có một quầy có 2 gã phục vụ món tôm nướng tại chỗ. Tôm đang bơi vớt ngay từ bể kính ra, loại tôm sú to cỡ 25-30 con một cân. Ngoài ra lại có mấy quang gánh có bún ốc, bánh đúc riêu, phở gánh do mấy cô gái mặc áo tứ thân kiểu thôn nữ phục vụ. Thằng Loáng có vẻ thích mắt, nó không vội ăn như ở mấy quán trước, mà ngồi tại bàn chống tay lên má nghiêng người ngắm các cô một lúc khá lâu.

               Chén xong đĩa ngao hấp, tôi mới giục Loáng ăn. Ở quê đi kéo vó ngoài ruộng chỉ có tép nhỏ, hợp với món kho khế. Tôm càng to chỉ có ở các ao lâu tát. Loại này phải câu hoặc đánh dậm. Xét về chất, tôm càng ở đồng ngon hơn tôm sú, nhưng lại bé hơn nhiều. Tôm càng mà làm món bánh tôm là số một. Thằng Loáng chắc cũng muốn so sánh, nên quyết định khởi đầu bằng món tôm nướng. Ở đây không nướng sẵn mà chờ khách yêu cầu mới bắt tôm để nướng. Mỗi kẹp chỉ có năm con. Thường mỗi người chỉ lựa một kẹp, ăn xong nếu thích mới yêu cầu thêm, còn thường là đổi sang món khác. Loáng yêu cầu luôn 2 kẹp. Mười con tôm sú nướng chấm tương ớt không đủ cho Loáng ngồi nóng chỗ. Nó lại ra yêu cầu hai kẹp nữa và lại thanh toán xong trong chớp nhoáng. Khi Loáng yêu cầu hai kẹp tôm lần thứ ba thì thằng nướng tôm hơi cau mặt. Nó bảo, anh nên ăn sang món khác đi, để người khác còn ăn. Loáng không chịu, nó bảo, cậu cứ nướng đi, ăn gì là quyền tớ cơ mà. Thằng nướng tôm tỏ vẻ khó chịu nhưng vẫn phải nướng tiếp hai kẹp tôm đưa cho Loáng. Tôi vừa cắt miếng thịt bò bít-tết chậm rãi nhai vừa nhìn Loáng. Lần này nó ăn từ tốn hơn, nhưng mười con tôm to cũng không kéo được quá năm phút. Loáng lại ra yêu cầu tôm nướng. Thằng nướng tôm có vẻ cáu, nhưng nhìn bắp thịt cuồn cuộn ở cánh tay của Loáng thì cũng ngại. Nó giở trò trẻ con nói với Loáng để hoãn binh, hay anh cứ ăn tạm món gì khác đi, chờ em nướng mấy kẹp này cho khách khác rồi em nướng cho anh. Loáng phẩy tay, ừ một tiếng rồi quay sang bên cô hàng bún gần đó: “Em làm cho anh hai bát bún ốc thật to, cho nhiều ớt một chút”. Cô gái vâng khẽ rồi nhanh nhẹn làm bún. Thằng nướng tôm thấy thế quay người cười thầm. Chắc nó nghĩ cái đồ vai u thịt bắp như gã khách này chắc quái gì đã xơi hết cả hai bát bún ốc. Mà xơi xong rồi thì no lòi kèn, còn chỗ nào trong bụng mà đòi thêm tôm nướng. Loáng bê hai bát bún nóng về bàn, đẩy một bát sang phía tôi, "mày ăn một bát cho vui". Tôi lắc đầu, miếng bò bít-tết tôi đã chén xong đâu. Loáng không khách xáo, cầm thìa và đũa lên chén sạch hai bát bún khi còn chưa hết nóng. Nó khà nhẹ một tiếng khoan khoái, lấy cái khăn lau mồm rồi đứng dậy. Mày đi đâu đấy, tôi níu nó. Tao ra lấy tôm, Loáng nhe răng cười. Tôi thấy hơi ngài ngại, nhưng rồi để mặc Loáng.

       Thằng Loáng tiến lại chỗ nướng tôm, e hèm: “cho anh hai kẹp tôm”. Gã nướng tôm đã quan sát, biết Loáng vừa chén hết hai bát bún ốc to, nên kêu lên: “Anh chưa no cơ à? Làm sao anh ăn hết hai kẹp tôm bây giờ?”. Loáng bảo, "hai kẹp tôm ăn thua gì, chục kẹp nữa tớ xơi cũng hết". Mười kẹp tôm là năm chục con, cỡ hai cân chứ ít ỏi gì. Loáng đã xơi hết sáu kẹp tôm và hai bát bún ốc to. Thằng nướng tôm biết vậy nhưng không thể biết Loáng thuộc loại “Trạng ăn”, nên đã làm một việc ngu ngốc là cá cược với Loáng. Nó bảo," em sẽ đưa 4 kẹp tôm nướng nữa, nếu anh ăn hết, em sẽ chịu suất tiền ăn tối nay cho anh, nếu không, anh phải trả em năm trăm ngàn, chịu không?". Loáng cười, đưa bàn tay vạm vỡ ra bắt.

              Loáng cầm 4 kẹp tôm về bàn, nói nhỏ với tôi chuyện cá cược. Tôi gật đầu, thầm nghĩ, mọi người lại phải chuẩn bị xem Loáng biểu diễn đây. Bọn nướng tôm chỉ để lại một đứa làm việc tiếp, còn một đứa và hai thằng phục vụ bàn tiến lại cạnh bàn chúng tôi làm vai trò trọng tài. Tôi vẫn ngồi nhưng không ăn nữa mà nhìn Loáng biểu diễn. Loáng từ tốn bóc vỏ từng con tôm, chấm đẫm vào đĩa tương ớt rồi đưa lên mồm. Nó cũng từ tốn cắn mỗi con làm ba miếng. Liên tục hết con tôm này đến con tôm khác. Hai chục con tôm hết veo, Loáng lấy khăn lau tay và liếm mép tỏ vẻ như còn thèm thuồng trước sự tròn mắt ngạc nhiên của ba gã thanh niên nhà hàng. Tôi cũng cười, vì biết trước sự việc sẽ diễn ra như thế. Loáng vỗ vai gã nướng tôm: “Thôi, chú mày về làm việc đi và chuẩn bị lát nữa trả tiền cho anh. Còn bây giờ, để anh còn đi thưởng thức các món khác". Nghe vậy, ba gã thanh niên càng tròn mắt ngạc nhiên hơn. Chúng đứng ngây người ra hồi lâu, nhìn Loáng ra xúc một bát chân giò hầm đậu Hà Lan to đem về bàn xúc ăn ngon lành như không, rồi mới giải tán. Tôi chỉ túc tắc ăn và làm tiếp nhiệm vụ giới thiệu cho Loáng biết nhà hàng này còn món gì, để ở chỗ nào …



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 05:23:58 pm
...
        Ăn kiểu như Loáng mà không gây sự chú ý với ai thì mới là điều lạ. Sự việc bây giờ lại diễn ra gần như ở các quán khác và không còn làm chúng tôi phải nghĩ ngợi gì nữa. Bọn phục vụ lại báo chuyện với tay quản lý. Gã quản lý ở đây tuổi cũng tầm ngoài 40, người to tròn trông như gã đồ tể trong chuyện Thủy Hử của ông Thi Nại Am. Gã tiến lại chào chúng tôi. Sau vài câu chào hỏi thăm dò, gã đề nghị được tiếp ăn cho Loáng. Sau cái phẩy tay của hắn, một gã phục vụ bê ra một thùng bia Heineken, bóc hộp rồi xếp bia lên bàn. Gã quản lý đưa tay mời mọc. Tôi biết thằng này có ý thử đểu. Thường uống bia thì không thể ăn nhiều. Thằng Loáng bạn tôi đã ăn một lô thứ đủ để bội thực nhiều người, nay nốc bia có men vào dạ dày, nó sủi lên làm trương tất cả các thứ trong đó lên thì chỉ còn nước vỡ bụng. Tôi không lo lắm vì biết sức của Loáng, nhưng về cái khoản kiến thức khoa học thì tự cho mình cũng hơn nó, nên nhắc nhỏ Loáng về chuyện bia có khả năng làm lên men đủ thứ. Loáng cười rồi tự tay ra chỗ để đồ ăn lấy về một lô các món toàn loại chắc nịch như sườn sào chua ngọt, sườn cừu nướng, bê thui và gà rán. Ở đây thằng quản lý chỉ mời bia thôi chứ không phải tiếp chuyện lịch sự như cô chủ quán “Cây cau lùn” nên nó không ngồi ăn cùng, mà cũng để mặc Loáng muốn lấy món ăn gì thì lấy. Cả một thùng bia 24 lon, nó chỉ bật ra một lon rồi xoay xoay trên tay nhấp từng ngụm và đẩy cả 23 lon còn lại về phía Loáng. Tôi cũng muốn uống đỡ Loáng một chút, nhưng vì vốn kém cái khoản rượu bia, lại vì thằng quản lý có ý mời riêng Loáng khoản uống này nên tôi cũng coi như không quan tâm.

               Loáng vẫn vừa ăn vừa uống một cách bình thường, vẻ ngon lành kiểu thưởng thức chứ không phải là cố gắng ăn kiểu thách đố. Tôi biết Loáng dư sức ăn bữa dăm cân thịt luộc, cơm nấu dăm bảy đấu gạo và hết cả lít “cuốc lủi”, nhưng không nghĩ bụng nó chứa được cả hơn hai chục lon bia. Thế mà hết nhẵn, lại chẳng thấy đỏ mặt tía tai hay say sưa gì cả. Dọn sạch mọi thứ trên bàn xong, Loáng còn thong thả ngồi lấy tăm xỉa răng, dáng vẻ ung dung thư thái. Nó cứ nhe răng ra mà xỉa như lão Nghị Quế trong cuốn "Tắt đèn" của cố nhà văn Ngô Tất Tố. Đúng là quê. Nhưng hình như nó cố làm vậy để chọc tức thằng quản lý thì phải. Gã quản lý ngồi im không nói gì, hình như chờ nó vỡ bụng thì phải. Xỉa răng chán rồi, Loáng mới vươn vai đi ra khu Toilet. Nó vào đấy chừng năm phút, đủ để thải cái chỗ nước bia sau khi đã được lọc qua cơ thể nó. Chén một mạch, rồi mới đi "tồ" một mạch, thế chẳng phải đã khác người sao?

              Chưa hết. Về đến bàn, Loáng còn chén thêm ba ly kem và một đĩa dưa hấu to nữa rồi mới chịu chùi mép kết thúc bữa.

               Chúng tôi vui vẻ bắt tay chào gã quản lý rồi ra về. Tất nhiên là tôi chỉ phải trả tiền cho một suất ăn thôi.

               Về nhà, tôi cứ sợ Loáng ăn bữa tối nay hơi nhiều, liệu có sao không. Nói dại chứ, phải đi cấp cứu bệnh viện vì chuyện bội thực ăn uống thì thật chẳng ra làm sao, ê cả mặt. Nhưng tôi lo cũng bằng thừa. Quen thân là thế mà hóa ra tôi vẫn chưa phải là kẻ đã hiểu hết về Loáng. Các ông "Trạng văn" còn có giới hạn bởi 3 quyển thi trong ba ngày lều chõng, chứ cái loại "trạng ăn" này thì đã có sách nào định lượng được đâu?  Rửa chân tay xong, cởi bỏ đám quần áo dài vướng víu, đánh mỗi quần đùi áo may-ô, Loáng lại hô tôi pha ấm chè thái ướp sen. Hai thằng lại ngồi ngoài hiên uống chè, ngửa cổ ngắm sao trời và tán láo đủ thứ chuyện đến tận khuya.
...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 10 Tháng Mười Hai, 2009, 09:14:04 am
.....
         Đấy mới là hơn hai ngày Loáng ở chơi nhà tôi với ba bữa đi ăn buffet. Kể tiếp tỉ mỉ nữa thì cũng bằng thừa. Tất nhiên trong mấy ngày ở chơi nhà tôi, Loáng không chỉ ngồi ăn và tán chuyện. Nó đòi tôi đưa đi thăm danh lam thắng cảnh của Hà Nội. Quả là bắt bí nhau, biết đi loanh quanh chỗ nào bây giờ ở đất Hà thành này. Tôi ở Hà Nội lâu, nhưng có lẽ chưa biết đến mấy cái danh lam thắng cảnh nào. Đọc thơ, nghe hát thì hay đấy, nào là Chiều hồ Tây lộng gió, đàn chim Sâm Cầm bay rợp  đầm sen, rồi phố vắng thơm mùi hoa sữa … nhưng hình như chẳng có chỗ cụ thể nào cả.

         Tôi nhớ ngày bé có một lần thăm Di tích Cổ Loa bên Đông Anh, nhưng hình như không phải ngày hội thì cũng chẳng có ai đến. Thôi thì cứ xem người các tỉnh lên Hà Nội thì đi đâu, thì mình cũng đưa nó đến đấy. Tôi dành một buổi sáng đưa nó đến Lăng Bác, cảm nhận cái không khí nghiêm trang của dòng người lặng lẽ chầm chậm vào Lăng, sau đó theo ra khu nhà sàn của Bác, xem đàn cá thế hệ thứ bao nhiêu đó của đàn cá thời Bác còn sống, thăm ngôi chùa Một-cột. Thằng Loáng hơi ngỡ ngàng trước chùa Một cột. Nó bảo chùa này chỉ độc đáo về kiến trúc thôi, chứ bé tẹo mà vắng vẻ. Vắng vì có mấy ai được vào chùa ngoạn cảnh hay thắp hương gì đâu.

              Hôm khác chúng tôi đến công viên Thủ Lệ xem con voi già và mấy con hổ ốm nhách. Mấy con hổ ấy đói ăn gầy còm sống trong chuống sắt đã mất hết cả sinh khí, có khi còn không được ăn nhiều bằng thằng Loáng. Cảnh vật công viên nói chung buồn tẻ. Chỗ nào cũng thấy người bán rong mấy thứ đồ vơ vẩn như vài qủa bóng bay, tí kẹo cao su, chai nước khoáng… Mà cũng toàn do người nhà quê ra kiếm sống vặt vãnh qua ngày đem bán. Vèo một cái đã hết các nơi cần đến. Loáng bảo còn chỗ nào nữa. Tôi bảo nó, hay mày có đến các Nhà Bảo tàng không, mỗi nơi phải hết một ngày. Loáng lưỡng lự rồi hỏi tôi khu phố cổ. Tôi cười, chúng mình có phải như mấy ông Tây bà Đầm ngô ngô nghê nghê như từ mặt trăng rơi xuống đâu mà phải đi xem phố cổ.

         Thế là ngoài cái vụ đi bơi đúng gu của Loáng, tôi rủ nó đi xem bóng đá. Không phải bóng đá giải Quốc gia hay khu vực gì vì độ này không đúng dịp. Chúng tôi đi xem bóng đá ngoài sân vận động của phường, vào và ngồi xem tự do không phải mua vé. Chỉ là thanh niên 2 phường cá cược nhau một trận bia, vậy mà khí thế và sôi nổi, hay chả kém gì V-league.

              Chơi chán rồi, đến bữa thì phải ăn. Trừ bữa sáng chúng tôi tự nấu, còn trưa và tối nào tôi cũng đưa Loáng đi ăn Buffet. Mỗi nơi chúng tôi đến một lần cho biết. Từ những nhà hàng trên phố Liễu Giai, ở đường Nguyễn Chí Thanh, Láng Hạ hay phố Hàng Chuối hoặc cho đến nơi xa tít như đường Lạc Long Quân hoặc tận Nguyến Văn Cừ bên Long Biên, tôi đều đưa Loáng đi. Giá cả các nhà hàng không chênh nhau nhiều lắm, cứ trong khoảng hơn trăm đến hai trăm nghìn một suất tùy theo bữa. Bữa tối thường đắt hơn bữa trưa 40%, vì có nhiều món hơn, và thời gian ngồi ăn nhâm nhi cũng được lâu hơn. Chỗ nào Loáng cũng gây sự chú ý đặc biệt cho cả nhà hàng lẫn thực khách. Mỗi nơi một hình thức tiếp nhận, nhưng ở đâu người ta cũng tò mò xem Loáng ăn. Có phải ai cũng ăn nhiều được như thế đâu, và có phải hôm nào cũng có ông khách như thế này vào nhà hàng đâu. Bởi vậy chỗ nào người ta cũng tiếp đón tốt thằng Loáng và không nhà hàng nào dám để xảy ra ấn tượng là không mến khách, vì thực khách nhìn vào là chính chứ nếu chỉ hai chúng tôi thì có đáng kể gì.

              Đúng vào lúc cánh nhà báo săn tin biết chuyện, muốn tìm rủ Loáng đi ăn buffet để phỏng vấn nó và viết phóng sự cho mấy tờ báo đang trên đà "lá cải hóa", thì Loáng ngỏ ý muốn về quê. Cũng phải. Vụ cày sắp đến rồi, bao việc đồng áng đang chờ nó ở nhà.

               Tôi đưa Loáng ra bến xe Lương Yên, bắt tay và hẹn gặp lại nó vào  kỳ Seagames sau tổ chức tại Việt Nam.,.

Trinhsat


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 16 Tháng Hai, 2010, 09:14:23 pm
Ngày Xuân nói chuyện rượu

          Tôi không phải là đệ tử lưu linh. Nói cho chính xác hơn thì tôi ở phe đối lập, nghĩa là không thích rượu, thậm chí dị ứng với rượu. Đối với tôi, mọi loại rượu từ nội hay ngoại, màu trắng hay nâu, xanh, ngà ngà đều giống nhau. Chúng có chung đặc điểm là cay xè và gây choáng váng khi nhấp vào miệng. Đi ăn mà bị bắt uống rượu là một cực hình đối với tôi. Vì thế chỉ có bạn bè quen là thông cảm khi rủ tôi ăn uống, còn người lạ thì không thích thế, nhất là đối tác làm ăn vì họ cho rằng tôi không thật lòng.

               Tôi đã cố thử tập uống rượu nhiều lần nhưng không thành công. Lần nào cố gắng uống hết một chén hạt mít rượu là tôi bị lừ đừ và đau đầu suốt một ngày, bất kể là rượu gì. Sau mỗi lần tập như thế, tôi lại sợ hàng tháng và tự nhủ sẽ không dại gì mà thử nữa. Có lẽ do cái máu của tôi không hợp. Chỉ cần ngồi nhìn người khác uống rượu thôi, tôi cũng đủ thấy ngây ngất rồi.

               Vợ tôi nghe lời ai đó, ngâm cho tôi một bình rượu to tướng với những cái củ gì trông như con chuột nhắt và mấy con chim gì đó còn nguềnh ngoàng cả chân lẫn cánh, mục đích để tôi bồi bổ sức khỏe. Tôi không muốn nhìn, xếp xó cái bình đó tám chín năm trời. Năm ngoái vợ tôi chắt ra một lít, bảo tôi mỗi tối uống một tẹo, uống ít mà điều độ là được. Tôi làm theo, nhưng có hôm chỉ lè lưỡi chạm vào thấy cay là dừng luôn. Trầy trật gần năm trời, tôi mới uống cạn một nửa. May vào độ cuối năm có ba thằng bạn lính cũ ở tỉnh khác đến chơi. Tôi làm cơm nhì nhằng đãi chúng nó tại nhà cho ấm cúng. Nữa lít rượu thuốc còn lại nhờ ba thằng bạn uống nốt. Chúng nó giải quyết xong ngay, còn nhận xét là, "nửa lít này bình thường không thấm vào đâu với chúng tao, nhưng vì là rượu thuốc "chất" quá nên cũng đủ độ".

               Nhưng có lẽ sợ rượu chỉ có số ít cá nhân như tôi thôi, còn thiên hạ chắc không mấy ai sợ. Rượu được coi là một thành phần thủ tục không thể thiếu trong các cuộc chè chén. Rượu còn là một tiêu chuẩn hình thức trong những món quà mà người ta biếu xén nhau để giải quyết các mối quan hệ. Vì thế mà cái thứ rượu nâu nâu, đo đỏ đựng trong những cái chai có hình thù khác lạ và dán mẩu giấy có loằng ngoằng những chữ Tây trở nên đắt giá, và là thước đo về tầm quan trọng cho các mối quan hệ. Một chén rượu loại đó nhiều khi lớn hơn cả số tiền ta kiếm được của một ngày lao động vất vả. Và thật nhiêu khê, khi có người nói chuyện với tôi rằng tới 80% số rượu ngoại trên thị trường là "hàng giả". Hóa ra bao lâu nay thiên hạ biếu nhau cái thứ "nước màu" ấy, tự uống, rủ nhau uống và ép nhau uống với điệu bộ "sành điệu" và sang trọng mà thực chất không mấy ai hiểu được thực ra thức uống ấy nó là cái gì. Hóa ra là tự huyễn hoặc mình và lôi kéo huyễn hoặc người khác.
 
               Sếp tôi thời trẻ có đi học bên trời Tây cả chục năm. Không biết cái thời du học ấy có nhiều tiền để thưởng thức tất cả các loại rượu Tây thứ thiệt không, nhưng bây giờ ông tự cho mình là người sành rượu nhất cơ quan. Ông hay giảng giải là trong một bữa tiệc thì người ta uống những thứ rượu gì, thứ tự trước sau ra sao. Tôi vốn không khoái rượu nên nghe cứ thấy ù cả tai như vịt nghe sấm và tất nhiên là chẳng ghi nhớ được gì. Nhưng tôi suy ra rằng, hẳn Sếp biết rõ giá trị cao thấp của từng loại rượu, như Johnny Walker Blue, Hennessy, Remy Martin, Chivas Regal 18, Gold Label Reserve..., một hãng có bao nhiêu chủng loại, có XO hay không và phân biệt được đâu là rượu thật, rượu giả và hàng nhái.

               Hàng năm có hai dịp người ta biếu xén nhau dồn dâp là  Tết Dương lịch và Tết Nguyên Đán. Sếp tôi được biếu nhiều rượu vì có mối quan hệ rộng lớn và có nhiều người phải nhờ vả ông. Nếu như năm nào cũng phải uống hết số rượu đó, chắc Sếp tôi đã phải đi "buôn hoa quả" từ lâu rồi. Sếp giải quyết số rượu rất linh hoạt. Sau Tết Dương lịch vài ngày, nhân sinh nhật cá nhân, ông mời cả cơ quan tới phòng riêng uống rượu. Tất nhiên nhân viên tới đó không thể đi tay không, và lịch sự nhất vẫn là phải ôm theo chai rượu ngoại. Sếp nhận hết và vui vẻ bật rượu của sếp mời nhân viên, không quên giới thiệu tên tuổi trứ danh của chúng, kèm theo xuất xứ là hàng xách tay. Những tay sành rượu trong cơ quan tôi đồn thổi là Sếp mời anh em toàn rượu "giả" (lọc trong số rượu được biếu), còn rượu thật Sếp dành "đẩy" đi. Nhưng tôi nghĩ nói thế là oan cho Sếp. Thị trường rượu ngoại có tới 80% là rượu "giả", thì cái số rượu trông bóng bẩy mà Sếp được biếu, chắc cũng chủ yếu là hàng "giả". Chẳng qua Sếp chỉ chọn ra những chai có "ngoại hình" tốt để đưa trở lại thị trường cho dễ mà thôi.

               Bây giờ ở Hà Nội có những người vào dịp trước Tết, chuyên tìm mua lại các loại rượu và "quà Tết" cao cấp tận nhà (của các quan được biếu mà không dùng đến) để giúp các chủ nhân đỡ phải ngượng ngùng thò mặt ra đường rao bán. Họ quảng cáo và có số điện thoại cá nhân để tiện liên hệ, nhưng Sếp tôi là người cẩn thận nên không bao giờ chọn loại giao tiếp này. Sếp cho đóng cẩn thận những chai rượu "dôi dư" vào các thùng các-tông để người giúp việc thân tín chở đi nơi thật xa mới "hòa trở lại thị trường". Như thế mới kín kẽ, mới xứng đáng với tầm nhìn của Sếp chứ.

               Nói chuyện rượu, tôi lại rùng mình khi nghĩ đến Tết này đi chúc Tết, đến đâu cũng sẽ bị ép uống "chén rượu đầu xuân". Các công chức bây giờ cũng sính lễ nghĩa lắm, nhà nào cũng học đòi sắm chai rượu ngoại uống Tết, chả ai còn mời chén chè mộc mạc như ở làng quê.

               Rồi ngày gặp mặt đầu xuân tại cơ quan, lại bày vẽ mở chai rượu ngoại chúc nhau một chén. Toàn mua phải rượu "giả" (vì có mấy đâu rượu thật mà mua), rồi hân hoan chúc nhau bằng thứ rượu đau đầu ấy.

             Ôi! Mệt quá. Biết đến bao giờ trở lại ngày xưa.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 22 Tháng Chín, 2010, 11:42:39 am
Nếu là vợ tôi, xin em đừng đọc truyện này

      Đó là một câu chuyện của lính hay là lính viết cũng được.
Vì một lý do nào đó, nó đã được Ban biên tập đổi tên thành "Lời cần nói bây giờ đã muộn".

     Tôi không muốn bị ném đá nếu Post cả bài, vì nó đã được đăng gốc ở nơi khác, nên tôi chỉ dẫn ra đường Link thôi:

http://tintuconline.com.vn/vn/moitinhdau/462819/index.html

    Kính mời các bác qua đọc.



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 10 Tháng Mười, 2010, 09:39:43 am
Giới hạn

   Chúng tôi quen biết nhau khi học lớp 8 tại một trường cấp III sơ tán ở ngoại thành Hà Nội thời chiến tranh, khi không quân Mỹ đang leo thang ra đánh phá miền Bắc. Ngôi trường chỉ là trụ sở của Ban Giám hiệu, còn các lớp học phải sơ tán, làm nhà dạng tranh tre phân tán nhờ vào các khu vườn nhà dân.

   Khai giảng đã được nửa tháng rồi thì một hôm lớp tôi có thêm một bạn học sinh mới. Đang giờ học tiếng Nga, bỗng thày giáo dừng giảng bài nhìn ra cửa. Cả lũ học sinh hơn bốn chục đứa chúng tôi nghển hết cả đầu ra qua cái vách cửa trống huếch trống hoác của lớp học, nhìn thấy cô hiệu phó dẫn vào một bạn gái. Bạn ấy mặc một cái áo trắng cổ hoa sen, quần lụa đen, dáng người đầy đặn, tay xách chiếc túi đựng sách vở, có lồng trên tay cả một chiếc mũ rơm mới tinh. Cô hiệu phó nói câu gì đó rồi thày giáo tiếng Nga quay ra giới thiệu với chúng tôi bằng tiếng Nga: "Ét tơ - Novai ia - U tri tren nhít xa" (đây là học sinh nữ mới). Bạn ấy không nói gì, nhưng nhoẻn miệng cười, đặt khẽ bàn tay không cầm túi xách lên ngực, hơi hạ mình xuống thay cho lời chào cả lớp. Khuôn trăng đầy đặn và nụ cười tươi của cô bạn mới khiến tôi không cưỡng lại được và buột miệng thốt lên: "I - Kraxivai ia". Chả là tôi có học trước một ít trong hè nên cũng biết vài câu tiếng Nga. Cả lớp còn ngơ ngác thì thày giáo đã cười bảo: "Các em có biết bạn ấy nói gì không?", rồi thày trả lời luôn: "Và đẹp". Cả lớp quay sang tôi cười rộ lên, còn tôi và cô bạn mới thì đều hơi ngượng nghịu.

   Chúng tôi đã quen nhau và biết đến nhau lần đầu như thế đó. Hoài Nam, đó là tên cô bạn gái mới cùng lớp ấy. Hoài Nam đang học dở dang ở một trường sơ tán tỉnh xa; năm nay mẹ bạn ấy, cũng là giáo viên cấp III được chuyển về dạy trường này nên Hoài Nam đã theo mẹ cùng về và bị muộn nửa tháng. Hoài Nam, cái tên nghe là lạ, hơi cứng đối với một người con gái nhưng đọc lên thấy có một cái gì đó man mác nhớ nhung. Cái thời ấy tình cảm bạn bè của đám học sinh cấp III như chúng tôi trong sáng và thơ ngây lắm. Thế nhưng tôi cũng chẳng hiểu tại sao ở cái tuổi 16 măng tơ còn đang vùi đầu vào lo học tập và chạy tránh bom Mỹ khi có báo động như thế mà mình lại vẫn có cảm nhận về nét đẹp của người bạn gái cùng lớp, đang độ tuổi chưa đến trăng tròn. Chưa thể nói là yêu, cũng không thể nói là thích hay thậm chí là mến bạn. Có lẽ chỉ là sự thân ái và có chút vui vẻ hào hứng thêm trong học tập khi trong lớp có những bạn gái xinh xắn, thế thôi.

   Hoài Nam được phân công vào cùng tổ và ngồi cùng bàn ở cuối lớp với tôi. Tôi phải ngồi cuối lớp do hơi nghịch ngợm, còn Hoài Nam do vào lớp sau nên phải ngồi ở bàn còn trống ấy. Cái sự bất thường hôm nhập lớp mau chóng được bình thường hóa, nhưng nó cũng là một cái gì đó góp phần tạo nên tình bạn giữa hai chúng tôi. Hoài Nam chăm chỉ, học khá đểu các môn. Nếu so sánh thì các môn xã hội bạn ấy khá hơn tôi, nhưng các môn tự nhiên thì tôi lại trội hơn một chút. Điều đó cũng là thường tình trong lứa học sinh chúng tôi. Vì thế chúng tôi giúp nhau được trong học tập, nhất là khi được phân công học cùng nhóm. Nhóm chúng tôi có bốn người, còn có thêm hai bạn trai nữa. Chúng tôi cùng nhóm vì cùng tổ và cùng có nhà ở trong nội thành. Công bằng mà nói, tôi học trội hơn cả nhóm nhưng không được làm nhóm trưởng vì tính tình không nền nã. Hoài Nam được bầu là nhóm trưởng hợp lý hơn vì chỉ có mình bạn ấy là nữ, nói gì cũng dễ nghe hơn. Chúng tôi đặt ra quy ước là muốn học tốt thì ai cũng phải cố gắng, nhưng cần phải nhất nhất nghe theo ý nhóm trưởng. Con trai thời đó vốn lười suy nghĩ và ít sáng tạo mà.

   Ngày đó ngoài những buổi học, chúng tôi hay phải tham gia lao động. Khi thì đào hầm trú ẩn, lúc lại gánh bùn đất rồi trộn rơm xây trát lại tường lớp bị bong. Thậm chí cuối mỗi học kỳ chúng tôi còn đi lao động xây dựng công viên, giúp các xã sở tại đào thủy lợi hay thậm chí giúp dân gặt mùa. Mỗi khi học sáng xong rồi phải ở lại lao động như thế, chúng tôi góp tem gạo lại cho một đứa đem ra thị trấn đổi bánh mỳ. Mỗi cái tem có định lượng 225 gram đổi được một cái bánh mỳ đủ một suất ăn ở tổ phục vụ làm bánh, trả thêm một hào tiền công. Thường chì chỉ có bánh mỳ ăn suông như thế thôi. Hôm nào khá hơn thì có ai đó đem sẵn theo một ít muối vừng, hoặc một hai quả dưa chuột thêm vào. Thế là bốn chúng tôi ngồi túm tụm dưới gốc tre hay gốc khế trong vườn nhà dân cùng ăn trưa và chuyện trò rôm rả. Thỉnh thoảng Hoài Nam đem theo được mấy cái kẹo chanh chia cho cả nhóm thưởng thức. Chả là bố bạn ấy làm bác sĩ, chắc bớt lại tiêu chuẩn bồi dưỡng cá nhân gì đó rồi đem cho con gái. Tất nhiên trong lao động thì bọn con trai làm khỏe hơn và nhận những phần vất vả hơn.

    Vui nhất là khi giúp dân gặt lúa. Mùa hè của chúng tôi rơi đúng vào vụ chiêm của bà con nông dân, thể nào cũng gặp ruộng nước. Học sinh chúng tôi không phải gặt lúa vì không đứa nào thạo, mà chủ yếu làm công tác vận chuyển. Cứ gánh hay khiêng lúa từ ruộng lên bờ rồi chất lên xe cải tiển đẩy về sân kho hợp tác. Chẳng bao giờ tránh được cái chuyện gặp đỉa. Tuy ghét đỉa nhưng con trai dù sao cũng không sợ đỉa bằng con gái. Đám con gái gặp đỉa bám vào chân là kêu ré lên, không dám tự mình gỡ ra. Hoài Nam cũng vậy. Kéo ống quần bạn ấy lên để gỡ con đỉa, chạm tay vào bắp chân trần trắng hồng mà cảm thấy tim đập tăng lên mấy nhịp. Nhưng tuổi học trò thì vẫn chỉ là tình bạn học trò, trong trắng và thơ ngây.

   Cuối năm có học về hệ tuần hoàn ếch. chúng tôi phải xin tiền bố mẹ để mua ếch về mổ thực hành. Xem cái quả tim ếch đập như thế nào và dùng cả thuốc tím để thử xem tính thẩm thấu một chiều của da ếch. Mỗi nhóm mổ một con ếch. Hoài Nam chỉ đạo việc mổ thực hành nhưng không dám sờ tay vào, thật đúng là con gái.

   Thời gian cứ trôi, chúng tôi học tập và lao động thật bình thường như nhịp sống chung của xã hội. Mới ngày nào đó vào đầu kỳ học, ngoảnh đi ngoảnh lại đã thi cử hết học kỳ, rồi sang học kỳ mới, rồi hết năm học. Chúng tôi học khá tốt nên không lo lắng gì nhiều đến chuyện được lên hay ở lại lớp. Hết hè là tất nhiên phải lên lớp mới. Lên lớp mới, bạn bè đa phần vẫn thế. Lác đác có bạn chuyển đi, có bạn khác chuyển đến, nhưng nhóm chúng tôi nguyên vẹn. Ngày đó bận rộn, hầu như không có chuyện họp phụ huynh. Cha mẹ bận rộn đi làm và tin tưởng ở trách nhiệm học hành của con cái. Tất nhiên chúng tôi không phụ lòng tin của cha mẹ. Tôi học ngày càng tốt, cuối năm lớp chín có giấy khen của nhà trường đem về khoe với bố mẹ. Cuối năm đó trường tôi lại có hội diễn văn nghệ. Trong trường cấp III thì hội diễn văn nghệ cuối năm bao giờ cũng trông chờ vào học sinh khối chín, vì khối tám còn non, khối mười lại bận rộn với chuyện thi cử. Đám con gái lớp tôi có tám bạn tham gia tiết mục múa nón của dân tộc Thái. Chả biết tập vào lúc nào, học ở đâu, nhưng cái đêm hội diễn thì nổi trội lắm. Các lớp khác có các tiết mục thổi sáo, gảy đàn bầu và ca hát, chỉ riêng lớp tôi có múa. Tất nhiên tiết mục múa phải tập công phu hơn, lại mang tính tập thể cao nên rất được coi trọng. Hoài Nam cũng tham gia tốp múa. Đây là lần đầu tiên tôi được nhìn các bạn nữ mặc váy và có trang điểm son phấn. Tất cả đều đẹp lên bất ngờ và có phần lạ lẫm, dù rằng thường ngày chúng tôi vẫn nhìn thấy nhau và biết các bạn ấy đẹp. Tuổi mười bảy rồi, tuy chưa bẻ được gãy sừng trâu, nhưng tôi cảm nhận được cái đẹp nhiều hơn và cho rằng Hoài Nam đẹp nhất. Suốt tiết mục, tôi cứ nhìn mãi bạn ấy múa với một niềm phấn chấn khó tả.
...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: kisilangthang trong 10 Tháng Mười, 2010, 03:28:33 pm
Truyện hay quá, tiếp tục đi bác ơi ::)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 12 Tháng Mười, 2010, 09:58:57 pm
.....
          Mùa hè năm ấy, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Các trường học từ nơi sơ tán tấp nập chuyển trở về Hà Nội. Cuộc sống của người dân ở Hà Nội trở nên náo nhiệt hơn. Ngôi trường cấp sơ tán III của chúng tôi giải tán, thế là chúng tôi nhận hồ sơ đem về xin nhập trường mới trong nội thành. Ba thằng con trai trong nhóm học chúng tôi vì ở cùng một cụm dân cư nên xin vào cùng trường ở khu phố. Hoài Nam nhà ở gần trung tâm thành phố nên chắc theo mẹ về trường khác. Như những bạn bè bình thường, chúng tôi chia tay nhau sau khi lần lượt kéo cả bọn rồng rắn đến thăm từng nhà nhau. Lần đầu tiên nhóm chúng tôi mới biết nhà Hoài Nam được ở một nửa cái biệt thự trên tận khu phố của trung ương. Nhà rộng, có vườn và có cây thoáng mát. Chúng tôi vui vẻ ôn lại đủ thứ chuyện của hai năm học, nhưng dự định năm sau học hành thế nào thì chẳng ai bàn, cứ như là chuyện thế nào tất phải xảy ra như thế. Cũng chẳng có một lời hẹn hò, vì chẳng biết trong ba chúng tôi, ai có tình cảm với Hoài Nam nhiều hơn, hay Hoài Nam có chú ý đến ai không. Học sinh là thế mà.

   Ngày khai giảng năm cuối cùng phổ thông đối với chúng tôi diễn ra thật trang trọng. Học sinh tất cả các khối được tập trung cùng lúc trong sân trường rộng lớn. Tha hồ mặc áo màu sáng và chẳng ai phải bận rộn với chiếc mũ rơm trên tay. Chiến tranh có vẻ như đã lùi xa vào dĩ vãng rồi. Lớp mới, thày cô mới và bạn bè cũng mới. Trong cái ríu rít làm quen ấy, tôi thật bất ngờ khi gặp lại Hoài Nam. Hóa ra mẹ bạn ấy cũng về trường này dạy và bạn ấy lại theo mẹ. Chúng tôi gặp nhau, trong ngày vui tựu trường có thêm một niềm vui nữa. Hoài Nam vào cùng lớp nhưng không cùng tổ học tập với tôi, song điều đó chẳng hề làm giảm niềm vui của chúng tôi chút nào.

   Năm cuối cấp bận rộn hơn. Ngoài giờ học chính, chúng tôi phải tự học là chính. Thày giáo chủ nhiệm dạy toán chỉ mỗi tháng một lần dạy thêm cho chúng tôi một lần vào chủ nhật, chủ yếu dưới hình thức làm một bài kiểm tra để ôn lại kiến thức. Sách giáo khoa không có nhiều hơn mấy so với mấy năm chiến tranh nên chúng tôi vẫn phải áp dụng hình thức học chung, học nhóm. Hoài Nam dù khác nhóm vẫn thỉnh thoảng đến nhà học chung với chúng tôi. Năm học lớp mười, tôi cố gắng nhiều hơn và học tốt hơn. Ngoài các môn tự nhiên, tôi cũng chú ý nhiều hơn đến cả các môn xã hội. Có lần bài kiểm tra Văn 2 tiết của tôi được điểm chín và được đọc trước cả lớp như một bài mẫu điển hình. Còn về toán thì hầu như các bài kiểm tra của tôi không có điểm chín. Tôi rất chú ý và cẩn thận khi làm bài nên thường đạt điểm tối đa. Có những lần thày chủ nhiệm cho làm thử theo kiểu bài thi cuối cấp, cả lớp chỉ có tôi làm trọn vẹn bài kiểm tra đến tận cùng. Thày giáo khen ngợi và tất nhiên tôi nhận được nhiều ánh mắt thán phục của các bạn trong lớp. Những học sinh nam học giỏi bao giờ cũng nhận được mối thiện cảm không chỉ của các thày cô giáo mà còn có cả sự mến mộ của các bạn học, nhất là các bạn gái nữa. Khi thời gian qua đi có nhớ lại những kỷ niệm thì thường người ta hay nhớ về những điều đặc biệt mà hiện tượng học giỏi cũng được xếp vào loại đó. Điều này về sau tôi nghiệm dần ra, nhưng ngày đó quả thật tôi thấy Hoài Nam cũng tỏ nhiều phần mến tôi.

   Thêm một chuyện này nữa. Thày giáo dạy Vật lý khối 10 là một thày giáo trẻ, chỉ hơn chúng tôi độ sáu, bảy tuổi, là giáo viên giỏi và rất muốn có những hoạt động đặc biệt. Thày đã tận dụng các dụng cụ có nhiều trong phòng thí nghiệm của trường để lập ra một nhóm ngoại khóa học thêm vào một số buổi sáng chủ nhật. Cả tôi và Hoài Nam đều được thày cho tham gia nhóm đó. Năm đó chúng tôi được làm rất nhiều thí nghiệm về điện. Nhờ những buổi học ngoại khóa ấy, tôi và Hoài Nam có điều kiện được gặp nhau nhiều hơn, tình bạn giữa chúng tôi ngày càng trở nên thân thiết hơn.

   Cuối năm đó, chúng tôi tập trung thi tốt nghiệp rồi thi đại học. Đây là năm thứ hai nhà nước đưa trở lại chuyện thi đại học, sau một thời gian của mấy năm chiến tranh chỉ tuyển đại học thông qua xét tuyển kết quả học tập mà không phải thi. Cũng phải lo học hành cho tử tế nên đến tháng tư thì nhóm ngoại khóa Vật lý giải tán. Tôi và Hoài Nam ít gặp nhau hơn, dù rằng có gặp nhau thì chúng tôi cũng chỉ nói chuyện học tập là chủ yếu. Mùa thi năm đó diễn ra xuôn sẻ đối với chúng tôi. Hoài Nam thi vào trường Đại học Sư phạm còn tôi thi vào Đại học Bách khoa. Chúng tôi đều tin chắc mình đỗ và chỉ chờ giấy gọi vào Đại học.

   Mùa hè cuối cùng của đời học sinh phổ thông. Quá rỗi rãi và hầu như không phải làm gì giúp gia đình nên đám học sinh chúng tôi thả cửa rong chơi theo ý thích. Sau buổi họp lại lớp liên hoan để chia tay các thày cô giáo và bè bạn, tôi lên Tuyên Quang chơi một tháng, thăm lại nơi ngày xưa bố mẹ tôi đã sống trong kháng chiến chống Pháp và đã sinh ra tôi. Trên đó cũng có người bà con họ hàng bên ngoại. Tôi đã thả mình vào những cuộc leo núi, đi rừng, tắm suối, bẫy chim, lấy củi… Hầu như thời gian đó tôi quên hẳn việc mình lên đây chỉ là đi chơi để xả hơi chuẩn bị cho thời kỳ bước vào đại học sắp tới. Tôi còn tranh thủ học được nghề đan rổ rá từ những cây nứa, cây tre kiếm được trên rừng.

   Đầu tháng tám, tôi trở về Hà Nội. Tôi dự định đến chơi nhà Hoài Nam hỏi thăm chuyện học tập trong tương lai và biết đâu đó mình lại có thể dám ngỏ lời hò hẹn cho tình bạn đi xa…

   Ba ngày sau, trong khi giấy gọi nhập đại học chưa thấy đâu, thì tôi nhận được giấy gọi nhập ngũ. Đế quốc Mỹ xuống thang chiến tranh, tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, nhưng chiến sự trong Nam thì ngày càng ác liệt hơn. Hồi tháng ba khi còn đang giữa học kỳ II, chúng tôi đã cảm nhận được điều đó qua cuộc tuyên truyền cho chiến thắng Đường chín Nam Lào. Đất nước đang có lệnh tổng động viên thanh niên vào quân đội. Bọn con trai cùng lớp chúng tôi nháo nhào tìm nhau hỏi tin. Chẳng mấy chốc, cả lớp chúng tôi biết tin có đến ba phần tư số con trai trong lớp có giấy gọi nhập ngũ. Các lớp khác trong khối 10 trường tôi chắc cũng vậy. Thế là mặc dù đã làm lễ ra trường, Liên chi đoàn Thanh niên của trường vẫn quyết định tập trung tất cả để làm lễ chia tay và tiễn chúng tôi vào bộ đội. Minh Thu, bí thư chi đoàn lớp đến tận nhà tôi đưa giấy mời của liên chi. Minh Thu cũng có biết chút ít về mối thiện cảm giữa tôi và Hoài Nam trong lớp. Không hiểu vô tình hay hữu ý, Minh Thu kể vừa rồi có lần thấy thày giáo dạy Vật lý đèo Hoài Nam ở mạn Cầu Giấy, hai người nói chuyện cười vui vẻ lắm. Tôi chỉ cười.

   Minh Thu đi rồi, tôi mới ngồi suy nghĩ. Cái tin Minh Thu nói làm tôi thấy có một cái gì đó hơi nghèn nghẹn. Tôi ghen chăng? Nhưng mà mình với Hoài Nam đã có ngỏ lời hay hẹn hò gì đâu. Bạn ấy yêu ai là quyền của bạn ấy chứ. Nghĩ thế nhưng tôi vẫn thấy buồn. Lúc trước,  sau khi nhận được giấy gọi nhập ngũ, tôi đã phân vân với ý định có nên đến báo cho Hoài Nam biết không? Tôi vừa muốn coi đây là lý do, là động lực để tôi ngỏ lời với Hoài Nam. Tôi cũng muốn có một người con gái "Đợi anh về" như của Ximonop, cũng muốn trong tim mình có hình ảnh của một người con gái để sưởi ấm trái mình những lúc hành quân hay trước giờ vào trận. Đồng thời ngược lại, tôi lại muốn thanh thản ra đi. Chiến tranh chẳng ai đoán trước được số phận. Nếu tôi không trở về, sẽ có một người phụ nữ phải khóc là mẹ tôi. Chẳng nên để có thêm người thứ hai nữa phải khóc thì hơn. Tôi cứ phân vân suy nghĩ mãi giữa hai luồng tư tưởng. Sau cùng tôi quyết định sẽ không nói gì. Nếu gặp lại Hoài Nam trong buổi Liên chi đoàn trường tổ chức chia tay, tôi sẽ chỉ nói lời tạm biệt như với tất cả những người ở lại khác. Đến lúc này, tôi vẫn chưa cầm tay Hoài Nam lần nào, vậy thì tạo thêm bịn rịn làm gì cho nản chí trai.

   Buổi tối chia tay ở trường, các bạn trong lớp và trong khối 10 đến rất đông, có nhiều thày cô giáo dù không phải là chủ nhiệm lớp nào cũng đến, nhưng không có Hoài Nam. Cả thày giáo dạy Vật lý cũng không có mặt. Một thoáng buồn lướt qua trong tôi rồi tan biến rất nhanh trong cái ồn ào của buổi gặp mặt chia tay rất đông người. Nhà trường và Ban chấp hành liên chi đoàn căn dặn, còn chúng tôi thì hứa hẹn. Mỗi người ra đi được tặng một cuốn sổ tay có đóng dấu của Liên chi đoàn trường. Riêng bọn con gái lớp tôi còn tặng cho mỗi người ra đi thêm một chiếc khăn mùi xoa để trắng, chẳng có thêu thùa gì cả.

   Tôi về nhà, làm nốt thủ tục thăm họ hàng trong mấy ngày tiếp theo rồi lên đường nhập ngũ. Không có một liên lạc gì giữa tôi và Hoài Nam nữa. Chúng tôi đã và sẽ chỉ là những người bạn học thôi.

...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 15 Tháng Mười, 2010, 08:41:38 am
...
       Hết nửa năm tập tành sau ngày nhập ngũ, tôi vào chiến trường Nam Lào tham gia chiến đấu. Cuộc sống chiến trường cuốn tôi trôi qua hết ngày này sang tháng khác. Khi đói, lúc no, khi gian khổ đạn bom ác liệt, lúc thắng trận cười vang, nhưng vào những đêm hành quân mưa rơi tầm tã, hay lúc chìm đi trong giấc ngủ dưới những chiếc hầm chữ A giữa các trận đánh, tôi vẫn mơ về hậu phương. Rồi thể nào cũng nhớ về mái trường phổ thông và bè bạn, nhớ về Hoài Nam. Dù chưa hề ngỏ lời và vẫn nghĩ rằng Hoài Nam sẽ thuộc về người khác, nhưng tôi vẫn cứ tự gắn hình ảnh của cô ấy cho riêng mình. Nếu tôi trở về gặp lại thì cô ấy sẽ gặp tôi như thế nào nhỉ. Lại còn nghĩ vơ vẩn rằng nếu như mình ngã xuống trong một trận đánh nào đó thì khi hay tin, Hoài Nam có khóc không.

   Hơn một năm trời tôi không viết thư gửi về nhà và tất nhiên cũng chẳng thể có thư hậu phương. Điều kiện chiến tranh đã không cho phép những người lính trong chiến trường chúng tôi liên lạc dễ dàng bằng thư với gia đình. Mãi đến gần giữa năm 1973, khi Hiệp định Pari đã ký kết và chiến trường Lào cũng tạm im tiếng súng nhờ Hiệp định đình chiến Viên Chăn, tôi mới gửi được thư về gia đình. Tôi viết cả thư cho Hoài Nam. Cuối năm ấy tôi nhận được mấy lá thư của gia đình và bè bạn, trong đó có cả thư của Hoài Nam. Hoài Nam cho biết ngôi nhà của gia đình cô đã bị trúng một quả bom Mỹ vào tháng 12 năm 1972, khi tổng thống Mỹ Nich-xon ra lệnh cho B52 đánh bom rải thảm Hà nội để đưa Thủ đô của nước ta trở về thời kỳ đồ đá. May là cả nhà lại đã đi sơ tán nên an toàn. Thế là tôi biết lá thư của tôi viết đã không đến được với Hoài Nam vì không còn địa chỉ. Hoài Nam chủ động hỏi địa chỉ Hòm thư của tôi qua các bạn khác để viết thư cho tôi. Vậy là cô ấy vẫn nhớ đến mình. Một chút gì đó xao xuyến. Trong cái không gian yên ắng của buổi trưa mùa khô giữa rừng già, tôi lắng nghe trái tim mình đập. Một tiếng dài xen lẫn trong những tiếng ngắn. Tôi đọc chậm từng chữ trong lá thư, như muốn nuốt lấy từng lời. Đến gần cuối thư, Hoài Nam mới báo tin đã lập gia đình. Chồng cô ấy chẳng phải ai xa lạ mà chính là thày giáo dạy vật lý của chúng tôi. Một tin không thể nói là vui nhưng cũng khó mà kết luận là tin buồn. Lá thư như nhẹ đi trong tay tôi. Ngồi lặng im một lát, tôi đọc lại lá thư thêm lần nữa rồi mới cất vào ba-lô. Chẳng muốn chia sẻ cùng ai cả. Hít một hơi thở dài, thấy tim mình đập chậm đi mấy nhịp. Thôi, dù sao cũng chúc mừng cho bạn được hạnh phúc.

   Một tuần sau tôi mới viết thư về cho Hoài Nam, chúc mừng hạnh phúc của cô ấy và nói thêm vài điều xã giao. Tôi không còn kể cho cô ấy những chuyện chiến đấu thơ mộng của người con trai luôn có hình ảnh của bạn gái động viên để vượt qua cái chết như trong lá thư trước. Nghĩ lại cũng thấy may là lá thư ấy đã không đến tay người nhận. Từ hôm ấy tôi cố gắng quên đi để không còn ghi nhớ hình ảnh của Hoài Nam trong trái tim mình nữa. Thay vào đó, những lúc để tự động viên mình, tôi thường nghĩ về những nàng công chúa trong các câu chuyện cổ tích mà tôi đã đọc. Không phải tôi giận hờn hay thù ghét gì Hoài Nam, đơn giản vì cô ấy đã có chồng thì mọi sự đã an bài. Còn nhớ về cô ấy nữa, có khác nào mình tơ tưởng đến vợ người khác, nhất lại là vợ thày giáo cũ của mình. Biết đâu thày ấy đem lại hạnh phúc cho Hoài Nam rất nhiều, hơn cả cái mong ước của tôi dành cho Hoài Nam thì sao?

   Chiến tranh còn tiếp diễn hơn một năm trời nữa mới kết thúc, tôi may mắn được bom đạn nó nhường nên còn được thấy ngày chiến thắng. Cuối năm 1975 tôi được ra Bắc nghỉ phép. Dù gì giữa tôi và Hoài Nam vẫn là bạn học và trong chuyện đã qua chẳng ai có lỗi, nên tôi vẫn muốn đến thăm Hoài Nam. Hai năm trời mà cha mẹ cô ấy vẫn chưa thu xếp được nhà mới. Nghe tin cô ấy đang tạm ở với mẹ tại khu tập thể của nhà trường nên tôi vội tới thăm vì trong thâm tâm lúc ấy tôi vẫn chưa chuẩn bị tinh thần để gặp lại thày giáo dạy vật lý. Hoài Nam đã có một cháu trai hơn một tuổi. Tôi nhìn cô ấy thấy cũng chẳng khác xưa là mấy, có chăng là hơi đẫy hơn một chút, kiểu gái một con. Còn về tôi theo nhận xét của Hoài Nam thì vừa đen vừa gầy và khuôn mặt có vẻ già. Cũng đúng thôi, lính chiến trường mà béo tốt thì chắc cả nước xung phong vào bộ đội. Để giữ ý, hôm ấy chúng tôi nói những chuyện rất chung chung dưới sự có mặt của mẹ cô ấy trong phòng.

   Tôi trở lại đơn vị tham gia đánh Fulro đến gần hai năm sau mới được giải ngũ. Vừa lo học hành, vừa lo kiếm sống trong cái tình hình kinh tế khó khăn vẫn còn bao cấp ngày ấy đã chiếm hết thời gian của tôi. Bạn học cũ cũng như bạn bè lính ít khi đến thăm nhau nếu không có việc. Hầu như ai cũng phải lo cơm, áo, gạo, tiền. Tôi có qua trường cũ một lần nhưng không gặp Hoài Nam vì cô ấy đã chuyển đi. Thế là chúng tôi bặt tin nhau luôn. Thực ra nhà tôi vẫn ở chỗ cũ, Hoài Nam vẫn có thể tìm được tôi nếu cô ấy muốn gặp, song có lẽ chính cô ấy cũng bận rộn với việc mưu sinh. Thế là đã xa lại càng xa.

   Nhưng chính cái lúc không cần tìm tin nhau thì tôi lại biết tin về Hoài Nam, đúng hơn là về chồng cô ấy. Bọn con trai chưa vợ như tôi lúc ấy dù sao cũng vẫn có quyền tìm bạn gái. Nơi đến cuối tuần hấp dẫn của đám sinh viên ngày đó chính là trường Đại học Sư phạm. Cũng vô tình, tôi và bạn bè cùng học đã nhiều lần bắt gặp thày giáo Vật lý cũ của tôi đèo khi thì nữ sinh này, lúc lại nữ sinh khác trên chiếc xe Mobilet sành điệu của thày khi đó. Nhiều khi còn nghe được cả tiếng cười vang và lõm bõm vài câu tán tỉnh của thày lúc chiếc xe máy vù qua. Thày không nhìn thấy tôi, mà chắc có nhìn cũng chẳng nhận ra tôi vì thày đang bận tâm vào chuyện khác. Từ chỗ ngày xưa nghĩ thày đào hoa thì nay trong mắt tôi thày lại là một người trăng hoa vô trách nhiệm. Chắc trong cảnh này, cô bạn Hoài Nam của tôi không thể có hạnh phúc.

   Vài năm sau tôi nghe tin Hoài Nam đi xuất khẩu lao động ở CHDC Đức theo cái trào lưu đang rộ lên ngày đó. Rồi tôi cũng lập gia đình.

....


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 20 Tháng Mười, 2010, 11:12:02 am
...
         Chuyện cũ tưởng có thể quên đi được rồi thì một buổi tối, sau cái ngày bức tường Beclin sụp đổ ít lâu, Hoài Nam đến nhà thăm tôi. Sau khi tôi giới thiệu Hoài Nam và vợ tôi với nhau, vợ tôi ý nhị chỉ ngồi nói chuyện dăm phút rồi xin phép rút lui để cho chúng tôi ngồi nói chuyện được tự nhiên. Tôi cũng đã kể ít nhiều về Hoài Nam cho vợ tôi từ trước rồi, nên vợ tôi cũng biết Hoài Nam là bạn học cũ nhiều năm thời phổ thông của tôi. Sau đó tôi và Hoài Nam kể cho nhau nghe về tình hình gia đình và cuộc sống của mỗi người. Hoài Nam cho biết đã li dị chồng vì không thể chịu nổi cái kiểu trăng hoa và không chung thủy của chồng. Con trai Hoài Nam nay đã 16 tuổi, sẽ sống cùng mẹ để cho bố được tự do. Hoài Nam đã quyết định sẽ định cư ở Đức và lần này về dón con trai sang cùng. Như vậy là mấy năm qua vợ chồng cô ấy cũng đã sống ly thân. Tôi không ngạc nhiên trước tin Hoài Nam kể. Tôi đã đoán trước là sự việc sẽ như thế. Hoài Nam là người coi trọng chuyện gia đình, tất sẽ không thể bỏ qua chuyện trăng hoa quá đáng của chồng. Tôi chỉ biết cảm thông cùng Hoài Nam chứ bây giờ không thể nói là thương cho cô ấy được nữa. Rồi cô ấy nói ra một câu, y hệt như  câu mà  tôi đã từng nghe vợ tôi nói: "Người vợ có thể tha thứ được tất cả mọi khuyết điểm của chồng, trừ tội không chung thủy".

   Hoài Nam xin phép ra về. Tôi theo ra cổng định tiễn cô ấy một đoạn. Hoài Nam dắt xe đi cùng tôi một đoạn khá dài bên hè đường. Đến góc đường bỗng nhiên cô ấy dừng lại dựng chân chống xe sát một gốc Xà cừ. Tôi biết Hoài Nam còn chuyện muốn nói nên chiều lòng nán lại. Cái góc đường khi ấy thưa vắng người qua lại, hầu như chỉ có hai chúng tôi. Thế là Hoài Nam bắt đầu nói và chỉ mình cô ấy nói là chính thôi. Hoài Nam đưa tôi trở lại cái thời học sinh xa xưa với những kỷ niệm đẹp, nói cho tôi nghe nhiều lúc cô ấy đã nghĩ về tôi như thế nào. Ngày ấy, cô đã biết tình cảm của tôi và cũng đang mong chờ một tín hiệu từ tôi. Nhưng cũng chính trong những ngày hè đầy chất thơ ấy, người thứ ba đã xuất hiện. Chuyện phải xảy ra đã xảy ra… Tôi nghe mà nhiều lúc như mơ đi, phải cố gắng lắm mới đưa mình trở lại được với thực tại. Con người ta có số phận, chuyện cũ qua rồi đâu có kéo ngược lại được thời gian. Tôi không hoàn toàn tin khi Hoài Nam bảo rằng ngày trước cô ấy đã vội nghe theo lời khuyên của mẹ, đã vội lập gia đình mà bỏ lỡ mất đi cái mà lẽ ra cô ấy có thể có.  Thế mà Hoài Nam vẫn cứ nói như người xưng tội. Rồi Hoài Nam khẩn khoản yêu cầu tôi đi cùng cô ấy: "Bạn hãy đi cùng tôi trọn đêm nay đi, chỉ một đêm thôi. Tôi muốn bù đắp cho bạn tất cả tình cảm ngày xưa mà chúng mình đã có". Đêm hè mà người tôi run rẩy. Sao Hoài Nam lại nói thế. Tôi nhìn vào mắt Hoài Nam rồi nắm lấy bàn tay cô ấy, lần đầu tiên mà chắc cũng sẽ là lần cuối cùng: "Không nên đâu Hoài Nam ơi. Đừng làm thế. Bây giờ mình đã có vợ rồi và đang sống hạnh phúc. Vợ mình cũng đã từng nói với mình cái câu mà Hoài Nam vừa nói khi nãy ấy, người vợ không thể tha thứ cho chồng tội không chung thủy. Mình vẫn mến Hoài Nam nhưng không đòi hỏi gì ở Hoài Nam đâu. Làm thêm một điều gì nữa lúc này là không thể. Chúng mình hãy vẫn cứ như thế này để giữ nguyên tình bạn, để luôn nghĩ tốt về nhau, Hoài Nam nhé". Hoài Nam im lặng hồi lâu rồi hơi mím môi, từ từ rút bàn tay lại, hơi khẽ gật đầu. Tôi biết cô ấy đang nén một tiếng thở dài. Vậy là chúng tôi chia tay nhau.

   Khi tôi trở về nhà, vợ tôi vẫn đang ngồi chờ. Tôi đi tiễn bạn một đoạn thế mà hết gần một tiếng, tất nhiên vợ tôi đoán có chuyện gì đó không bình thường xảy ra. Thấy vợ ngồi im, tôi biết nàng đang chờ tôi nói. Tôi ngồi xuống bên cạnh và kể lại điều vừa xảy ra giữa tôi với Hoài Nam. Kể xong, vợ tôi không nói gì nhưng ngồi xích lại gần tôi hơn. Tôi biết mình đã xử sự đúng và quàng tay ôm lấy vợ.

   Trong cuộc sống cái gì cũng có giới hạn của nó và tốt nhất là đừng tự cho phép mình biện minh ra một lý do nào đó để dễ dãi bước qua./.

Trinhsat   



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Chuyện cổ tích về máy vi tính
Gửi bởi: Trinhsat trong 31 Tháng Mười, 2010, 10:52:52 am
Chuyện cổ tích về máy vi tính

           Máy vi tính bây giờ đã trở thành một công cụ, một phương tiện làm việc phổ thông trong mọi lĩnh vực của xã hội Việt Nam. Mọi người ai cũng nghe quen từ máy vi tính, cùng nhiều thuật ngữ quanh nó. Chuyện một gia đình, một cá nhân có máy vi tính riêng đã trở thành thường tình. Nhưng hãy ngược lại về trước 28 năm, tương ứng với thời kỳ Đại hội V của Đảng ta …

   Viện Khoa học Tính toán và Điều khiển (TT&ĐK) thuộc viện Khoa học Việt Nam là đơn vị đầu tiên nghiên cứu thiết kế và ghép nối các thành phần của máy vi tính (mà hiện nay mọi người đã nghe quen) như ghép nối ổ đọc đĩa mềm, ghép nối để hiển thị tín hiệu ra màn hình … Viện đã chế tạo ra 2 mẫu máy vi tính đơn giản đặt tên là ĐT81 và ĐT82, trong đó ĐT có nghĩa là Đồi Thông (vì khi đó Viện TTĐK đóng tại khu đồi thông ở Đường Hoàng Hoa Thám rẽ vào, gần khách sạn Khăn quàng đỏ). Hai chiếc máy vi tính này là sản phẩm của Đề tài cấp Nhà nước, nhưng cũng chỉ để trong phòng thí nghiệm, không đưa ra sử dụng được. Trong công việc, Viện có phòng Máy tính vẫn sử dụng 1 máy tính lớn ODRA 1304 của Đức (dùng bóng bán dẫn) và 1 máy mini CM4 dùng IC của Nga (nhưng từ ngày nhập về thì thường xuyên sửa chữa chứ chưa sử dụng khai thác được gì).

   Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cho đến năm 1982 cũng chỉ có mỗi bộ KIT vi xử lý có bàn phím mini để lập trình bằng ASSEMBLE và nhìn mã trên đèn LED. Năm 1982 khoa Vô tuyến điện (khoa Điện tử Viễn thông ngày nay) mới có lớp Vi xử lý đầu tiên, và mới bắt đầu cho sinh viên làm quen thuật ngữ "Vi xử lý" và "Vi tính". Năm 1983, Trường cũng được trang bị một phòng máy tính, nhưng là chiếc máy tính lớn Minscơ 32 của Liên-xô, và đến năm 1995 thì nó đã phải ra chợ Giời như trong chuyện "Thanh lý" tôi đã kể.

   Cuối năm 1983, Viện Khoa học TT&ĐK tổ chức Hội nghị Quốc gia đầu tiên về các nghiên cứu và ứng dụng của kỹ thuật Vi xử lý. Thuật ngữ chưa thống nhất, các Giáo sư bàn cãi mãi mới chọn được tên là "Hội nghị Vi tin học lần 1". Hội nghị tổ chức tại Trụ sở Công đoàn Hà nội ở phố Hai Bà Trưng. Trước hôm Hội nghị bị mưa, băng-rôn rụng mất chữ, còn mỗi dòng "Hội nghị Khoa học lần 1 về i t học" để đón đại biểu, vậy mà cũng chả ai thắc mắc về "i tờ" học là gì. Rồi vì cái chuyện tổ chức Hội nghị theo lĩnh vực này mới mẻ quá, không biết tiếp theo sẽ làm gì, nên không bao giờ còn có Hội nghị Vi tin học lần hai nữa.

   Khi đó, Viện khoa học Việt Nam là Cơ quan sở hữu duy nhất 15 máy vi tính 8 bit có tên APPLE II (do Đảng CS Mỹ tặng) và 02 Máy MICRAL có tính năng tương tự (do một tổ chức phi chính phủ của Pháp tặng). Chỉ có một số kỹ sư trong Viện được phép tiếp xúc với máy vi tính. Ngay cả việc được nhìn thấy nó chạy cũng đã là vinh dự đối với nhiều cán bộ.
...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Chuyện cổ tích về máy vi tính
Gửi bởi: Trinhsat trong 02 Tháng Mười Một, 2010, 10:36:56 am
....
         Tháng 8/1984, Tổng cục Điện tử và Kỹ thuật Tin học (ĐT & KTTH) được thành lập. Cái tên Kỹ thuật Tin học là kết quả bàn cãi của nhiều Giáo sư để đi đến chọn nó. Trong suốt thời gian từ đó đến hết năm 1985, không biết bao nhiêu bài báo đã đăng trên các tạp chí khoa học trong nước để nêu định nghĩa và giải thích thế nào là "Kỹ thuật Tin học" cho toàn xã hội. Các kỹ sư, cán bộ khi chuyển công tác từ các cơ quan khác về Tổng cục ĐT&KTTH và các Kỹ sư mới ra trường khi chuyển hồ sơ ở Bộ Đại học đã phải rất vất vả giải thích cho các cán bộ bàn giấy về một ngành mới. Tại rất nhiều nơi thuộc cả cơ quan Đảng và Chính quyền, người ta cứ khăng khăng là không thể có một ngành nào gọi là Kỹ thuật Tin học.

   Thời kỳ này Mỹ đang thực hiện chính sách cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Vào cuối năm 1984, đầu 1985 ấy, nhiều cán bộ khoa học của Việt Nam ra nước ngoài công tác đã mô tả về máy vi tính IBM-PC và những kỳ diệu của nó. Tổng cục ĐT&KTTH mà hạt nhân là Viện nghiên cứu Kỹ thuật Điện tử đã được Nhà nước giao nhiệm vụ lên phương án đưa máy vi tính vượt qua hàng rào cấm vận của Mỹ về Việt Nam.

   Con đường nhập máy phải đi vòng vèo. Máy tính xuất sứ từ Singapore, là loại máy tính không thương hiệu giống như chúng ta lắp ráp máy vi tính gọi là Đông Nam Á bây giờ. Các bộ phận của máy vi tính được chuyển qua Thái Lan, tháo rời ra và đóng gói vào các vỏ thùng Ti vi, giả như các đồ điện tử. Khi đó, ở Việt Nam mới có rất ít TV màu, chủ yếu do người đi công tác nước ngoài mua về. Nghề chuyển hệ TV màu mới đang ở bước chuyển từ hệ màu NTSC sang SECAM. Đài truyền hình Trung ương chưa phát tín hiệu màu hệ PAL như bây giờ. Hai miền Nam Bắc là hai hệ thống máy phát màu khác nhau, không đồng nhất. Việc mua TV đem từ Nam ra Bắc rồi phải chuyển hệ là cả một nan giải. TV màu nhập ngoại số lượng nhiều bị đánh thuế rất cao, còn đầu Video thì phải có đăng ký của Bộ Văn hóa mới được sử dụng. Vì thế, Nhà nước phải lập ra một Ban chỉ đạo do đích thân một Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng làm Trưởng ban. Còn có thêm một Thứ trưởng Công an và một Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nữa làm phó Ban. Các lô hàng máy vi tính chuyển từ Thái Lan về đóng trong vỏ thùng TV màu được đánh mã có ký hiệu riêng, có giấy phép đăc biệt. Hải quan sân bay không được kiểm hóa, vì nếu không sẽ lộ hết loại hàng, và đương nhiên Công ty Máy tính bên Singapore cũng sẽ không dám bán hàng cho chúng ta nữa. Cũng chỉ vì tò mò, một lần mấy anh cán bộ Hải quan sân bay Nội Bài bóc trộm một chiếc thùng có in hình chiếc tivi rất đẹp ra xem, song chẳng hiểu những thứ bên trong là cái gì. Vụ đó, nếu bên nhận hàng không châm chước bỏ qua cho sau khi nhắc nhở nhẹ nhàng, thì mấy vị tò mò kia chỉ có nước về nhà đuổi gà cho vợ.

*
   Đến tháng 8/1985, lô hàng máy vi tính đầu tiên về đến Việt Nam. Đó là loại máy vi tính theo chuẩn IBM-PC, dùng bộ Vi xử lý 8bit 8088, bộ nhớ trong 128KB, 2 ổ đĩa mềm 360KB (5,25"), chưa có ổ cứng, màn hình đơn sắc. Hệ điều hành là DOS 1.10 .

   Vì là máy tính không thương hiệu, nên sau khi ráp lại và chạy thử, chúng được đặt tên mới. Một vị Tổng cục phó Tổng cục ĐT&KTTH đã chọn cho nó cái tên BAMBOO (cây tre). Các kỹ sư Tin học của Viện n/c KT Điện tử đã làm một chương trình DEMO với biểu tượng cây tre Việt Nam để giới thiệu nó. Đến lúc đó, một tiểu Ban máy tính được thành lập với sự đóng góp của 3 cơ quan: Ủy Ban Khoa học Kỹ thuật nhà nước có 15 máy vi tính (được trang bị bằng con đường viện trợ bí mật nào đó) do ông Trần Lưu Chương đại diện, Viện NC KT Điện tử có 10 máy vi tính vừa nhập, do ông Đậu Quang Lâm đại diện, và cuối cùng là Cục tác chiến Điện tử thuộc Bộ Quốc phòng có 3 máy vi tính do thiếu tá Đào Hữu Chí đại diện. Tất cả 28 máy vi tính nói trên đều là loại IBM-PC compative có cùng cấu hình. Một khóa học cấp tốc về máy vi tính và Hệ ĐH DOS được phổ biến cho dăm chục người từ nhiều cơ quan quan trọng hợp lại, do các kỹ sư Tin học tốt nghiệp tại Vương quốc Bỉ đứng lớp. Sau đó 3 tháng thì cái tiểu Ban máy tính tự nhiên giải thể, vì số máy vi tính tương ứng với số tài sản quá lớn, không thể đem dùng chung. Mỗi Cơ quan sẽ có quyền riêng với số máy vi tính đó. Kết quả vớt vát cuối cùng của tiểu ban là ba đơn vị chính, cộng thêm Viện Khoa học TT&ĐK được lập thư viện phần mềm với tài sản ban đầu của mỗi thư viện là một đĩa mềm có HĐH DOS Version 1.10, kèm theo một đĩa Utility.
...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 05 Tháng Mười Một, 2010, 04:37:06 pm
...
        Công ty Điện lực Việt nam là Đơn vị đầu tiên của Việt Nam được phép và đã mua 3 máy vi tính BAMBOO nói trên với giá 15 ngàn USD một chiếc. Tiếp theo là các Công ty của ngành Dệt thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ. Tiếp theo nữa là các đơn vị như Bộ Ngoại giao, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Tổng cục Hàng Không, Cục Thông tin Bộ Công an, Viện Máy công cụ …

   Viện NC KT Điện tử còn nhập thêm nhiều lô hàng máy vi tính nữa, từ IBM-PC đến XT, rồi IBM-AT Compative có ổ đĩa cứng 20MB. Màn hình chuyển từ đơn sắc sang màn hình màu EGA, rồi VGA. Tất cả vẫn được lấy tên là BAMBOO.

   Năm 1987, Phòng Kỹ thuật Tin học thuộc Viện có 6 bộ máy tính cùng đồng thời làm việc, một kỷ lục mà không còn bất cứ nơi nào trên đất Việt nam có được lúc ấy. Viện đã đón nhiều đoàn chuyên gia khoa học của các nước XHCN, kể cả Liên Xô đến thăm quan. Nội dung thăm quan gói gọn trong nửa giờ đồng hồ, mà nội dung cũng chỉ là xem cái máy vi tính ấy nó chạy HĐH DOS như thế nào. Hình như lúc đó chính Liên Xô cũng bị cấm vận nên không có điều kiện tiếp xúc với máy vi tính của Mỹ, dù chỉ là loại Compative.

   *
   Theo cách làm đó, đến năm 1988 thì đã có một vài đơn vị khác cũng nhập được về Việt Nam một số lượng nhỏ máy vi tính. Cuối năm 1988, giá một máy vi tính IBM-AT mua chui ở Việt Nam ước khoảng 10 cây vàng. Cuối năm đó đã có một sự kiện gây xôn xao trong làng kỹ thuật. Có một cán bộ của Viện Công nghệ Quốc gia đã đánh liều xách theo một bộ máy vi tính IBM-AT trong đợt đi công tác ngắn ngày ở một nước thuộc vùng Trung Á của Liên Xô. Đó là Uzơbekistan. Tại đó, ông ta đã bán được bộ máy vi tính đó với giá 40 cây vàng mà chẳng cần phải có một loại hóa đơn chứng từ gì. Thời đó Hải quan sân bay mù mờ coi bộ máy vi tính đó như một loại hàng xách tay vớ vẩn không đánh thuế. Người ta chỉ nhăm nhăm đánh thuế các loại hàng lậu như đồng hồ điện tử, áo ki-mo-no hay áo lông Đức … Số vàng lãi đó qui ra tiền đem đóng hàng từ Liên Xô chuyển về Việt Nam nhiều bằng gần chục người đi xuất khẩu lao động 5 năm đóng hàng. Không cần nói thì cũng có thể hình dung sau chuyến đó, người cán bộ nhạy bén thời cơ ấy đổi đời như thế nào. Khi đó, một kỹ sư hạng hai làm ở một Viện khoa học mà không được đi nước ngoài công tác thì phải mất đến 20 năm mới dành đủ số tiền 2 chỉ rưỡi để sắm một chiếc xe máy Babetta không hộp số của nước Tiệp Khắc anh em.

   Tiền đề là vậy, nhưng câu chuyện thời cơ như trên lại không có hậu với chủ nhân của nó. Những người thức thời biết dừng đúng  lúc vào thời điểm vinh quang nhất chính là những bậc anh hùng ghi danh sử sách, kiểu như Tể tướng Phạm Lãi nước Việt thời Chiến Quốc, hay quân sư Trương Lương thời Hán Sở tranh hùng. Ông cán bộ nói trên không phải là người anh hùng lưu danh sử sách, nên đã phạm phải thuộc tính cố hữu xấu xa nhất của con người, đó là lòng tham. Sau thành công của chuyến công tác, ông đã làm chuyến thứ hai dưới dạng tự túc. Thật không may, khi đang ôm trong người cả đống tiền sau khi hoàn thành phi vụ thứ hai, ông đã bị các tay cướp cạn "Xi-bê-ri", mà thực chất là các lao động Việt Nam trốn ở lại Liên Xô sống bất hợp pháp dưới mật danh là "bộ đội", thanh toán. Ông đã trở về quê hương trong một cái lọ sành nhỏ, để lại bài học rợn người cho hậu thế.
...



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Chuyện cổ tích về máy vi tính
Gửi bởi: Trinhsat trong 07 Tháng Mười Một, 2010, 07:27:45 pm
...
       
         Trong cái năm 1988 ấy, có nhiều người có máu liều ở các cơ quan khoa học hay trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã lên phương án và mời các cán bộ phòng Kỹ thuật Tin học của Viện NCKT Điện tử cùng tham gia buôn máy tính qua Liên Xô, nhưng không thành công. Có nhiều nguyên nhân, trong số đó có cả sự tác động của câu chuyện kể trên. Trưởng phòng KT Tin học vốn là một người lính đã trực tiếp chiến đấu trên chiến trường nhiều năm. Anh không ham giàu, cũng như không còn ham hố gì với cái chuyện chém giết “Thương trường như chiến trường” nữa, nên đã chọn con đường sống an phận trong thanh bình cho cả đơn vị. Nếu nói về chuyện thời cơ làm ăn, thì quả thật Viện NCKT Điện tử khi đó đã bỏ qua một cơ hội lớn. Nhưng số phận con người là vậy, ông trời đã sắp đặt, biết làm sao được.

   Câu chuyện về thời cơ làm ăn trong lĩnh vực máy tính vào cái thời buổi nhập nhoạng của sự cấm vận kinh tế đó, chỉ có một đơn vị làm được, và thành công vang dội. Chỉ duy nhất một đơn vị đó, và chỉ làm được có một phi vụ. Dăm mười năm sau, nhiều Công ty Tin học ra đời và làm ăn phát đạt, nhưng cái cách của họ hoàn toàn khác câu chuyện đang nói, vì thời cơ chỉ có một.

   Công ty đó là Công ty 3x, được thành lập bởi những người chủ chốt ra đi từ Tổng cục Điện tử và KT Tin học, sau khi Tổng cục này bị hạ cấp xuống thành Liên hiệp Khoa học Điện tử & Tin học, sát nhập vào Bộ Cơ khí Luyện kim cuối năm 1988. Tình hình xã hội lúc đó là Việt Nam, sau 3 năm đổi tiền để thực hiện chính sách “Giá-Lương-Tiền”, đang trên đà suy thoái nặng. Giá vàng chỉ có 200 ngàn đồng một chỉ, nhưng người ta không mua vàng dự trữ, mà đem tiền đi gửi tiết kiệm để hưởng lãi. Ngoài các Quỹ tiết kiệm thuộc hệ thống ngân hàng nhà nước, các Quỹ Tín dụng nhân dân, một hình thức quỹ tiết kiệm dân lập “vô trách nhiệm vô thời hạn” mà thực chất là những điểm “Hụi” được sự bảo trợ “vô trách nhiệm” của chính quyền đã mọc lên như nấm rừng sau mưa. Lãi suất 12%/tháng khiến người ta quên đi hiểm họa của sự lạm phát, mà bán đi đủ mọi thứ, kể cả nhà ở để đem tiền gửi tiết kiệm hưởng lãi. Lãi suất ấy tương ứng với 144%/năm. Điều đó có nghĩa là nếu lấy đơn vị 1 năm làm cơ số, thì cái sự lãi đó là cấp số nhân với công bội là 2, sau mỗi năm số tiền vốn tăng lên gấp đôi. Bạn còn nhớ câu chuyện bàn cờ vua có 64 ô trong ví dụ kinh điển minh họa khi học cấp số nhân không? Nếu lấy 1 hạt thóc bỏ vào ô số 1 của bàn cờ, bỏ 2 hạt vào ô số 2, bỏ 4 hạt vào ô số 3 … cứ như thế ô sau gấp đôi ô trước, thì khi đến ô 64, toàn bộ số thóc làm ra trên toàn trái đất cũng không đủ để cho vào ô đó. (người ta đã tính thử là số thóc ở ô số 64 đó, nếu rải đều phủ kín toàn bộ bề mặt trái đất, thì sẽ có một lớp thóc dày  tới 9 cm!?). Từ điều đó cũng có thể suy ra là, nếu kinh tế như vậy mà không phải là suy thoái và bất ổn, thì cứ với đà như thế, hôm nay bạn gửi 1 đồng vào quỹ tiết kiệm, thì 64 năm sau, toàn bộ tiền tệ của tất cả các nước trên thế giới đều thuộc về bạn. Kinh khủng quá phải không? Tất nhiên đến bây giờ chúng ta đã biết là chỉ sau hơn một năm hoạt động, trong cái nền kinh tế bất ổn và suy thoái đó, tất cả các quỹ tín dụng kiểu đó, bắt đầu là nước hoa Thanh Hương của Nguyễn Văn Mười Hai, đã nhanh chóng đổ sụp, gây cho cả xã hội một cơn chấn động còn hơn cả một mùa bão lũ.

   Nhưng trở lại lúc đó, đầu năm 1989 tình hình kinh tế trong nước thì như vậy. Còn trên thế giới thì phe XHCN đang bị phá vỡ nghiêm trọng. Chỉ còn chưa đầy một năm nữa thôi, bức tường Berlin sẽ sụp đổ, và Liên Xô- thành trì của phe XHCN sẽ tan rã. Trong bối cảnh chính trị ấy, kinh tế của các nước XHCN, đặc biệt là Liên Xô hết sức hỗn độn. Liên Xô vẫn thực hiện chính sách viện trợ và bán hàng cho các nước anh em bằng đồng Rup chuyển nhượng. Trên giấy tờ, mỗi Rúp vẫn được coi và thanh toán tương đương 1USD, nhưng trên thị trường chợ đen, 10 Rup không mua nổi một Mỹ kim.
...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: vitính trong 09 Tháng Mười Một, 2010, 08:07:21 am
Bác Trinhsat kể tiếp chuyện cổ tích về "vitính" tôi đi chứ. Tôi đang muốn nghe "cổ sử" mà  ;D


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Chuyện cổ tích về máy vi tính
Gửi bởi: Trinhsat trong 09 Tháng Mười Một, 2010, 04:32:19 pm
...
         Các chuyên gia kinh tế, mà thực chất là Ban lãnh đạo  Công ty 3x vào cuộc. Họ không hổ danh là những người được đào tạo tại nước ngoài, và đã tìm ra kẽ hở của việc thanh toán qua đồng Rúp chuyển nhượng giữa Liên Xô và các nước anh em để tính toán cho phi vụ của mình.

    Thoạt tiên, Công Ty 3x hùn vốn (vay hay huy động từ đâu đó)  đặt mua hàng ngàn bộ máy vi tính lắp ráp Đông Nam Á từ Singapore, rồi chuyển qua Liên Xô. Tất nhiên lúc này các chuyên gia 3x đã là bậc thầy trong việc tổ chức đường dây chuyển hàng, khiến các đội Hải quan cửa khẩu không còn là hàng rào thuế quan, mà trở thành đồng minh của họ. Nếu không thế, chỉ có Tề thiên Đại thánh mới có thể chuyển chót lọt một lượng hàng lớn như vậy ra nước ngoài bằng máy bay. Toàn bộ số hàng đó được bán cho các nước Trung Á thuộc Liên bang Xô-viết, không phải chỉ một vốn bốn lời, mà là một vốn năm lời (lãi tới 500%), vì với số lượng hàng lớn như thế, người ta không trả bằng đồng Rup thật, mà trả bằng đồng Rup chuyển nhượng dưới hình thức Séc chuyển khoản. Với những người làm ăn cá thể, hay non gan thiếu kinh nghiệm thương trường Quốc tế, thì sau khi giao hàng mà nhận tiền kiểu đó, chỉ còn nước phá sản hoặc gia nhập đội quân Taliban mà bắn giết thiên hạ cho hả nỗi hận đời.

    Nhưng các chuyên gia 3x thuộc hạng cao thủ thượng thừa trên thương trường khi đó, nên chỉ cười nhạt. Họ đã tìm được kẻ đang cần loại tiền Rup chuyển nhượng. Đó là CHDC Đức, người anh em XHCN nằm ở tiền đồn phía Tây. Nước Đông Đức này nhận hàng viện trợ và buôn bán với Liên-xô thông qua hình thức thanh toán bằng đồng Rúp chuyển nhượng, đang nợ người anh Cả một lượng tiền khổng lồ đã đến kỳ phải trả. Trong ngân khố lúc đó không có đủ đồng Rúp chuyển nhượng. Đem đồng Mác Đức, hay đồng Mỹ kim trả nợ cho Liên-xô thì họa chỉ có thằng điên, mà dòng giống người Ariang không phải là điên, dù cho kẻ đó là Hitle cuồng vọng với giấc mộng bá chủ thế giới. Có manh chiếu rách đem bán cho thằng buồn ngủ thì còn gì bằng, các cụ nhà ta chả bảo “buồn ngủ gặp chiếu manh”  đó ư? Các chuyên gia 3x đã dặt vấn đề mua hàng của Đức với giá cao và trả tiền bằng đồng Rúp chuyển nhượng. Xét cho cùng, bán được đắt hàng, tiền Rúp chuyển nhượng thu về lại đem trả nợ luôn cho Liên-xô thì cũng chẳng hại gì, lại tiện cả đôi đường. Thế là một Hợp đồng mua bán mới lại được các chuyên gia 3x ký với CHDC Đức.

   CHDC Đức khi đó được coi là nước có mức sống cao nhất trong khối các nước XHCN. Hàng hóa có rất nhiều loại, chất lượng đỉnh cao. Đơn giản như xe đạp Mifa màu cánh chả của Đức đem về Việt Nam luôn có giá cao gấp rưỡi xe Favorit của Tiệp Khắc, gấp đôi xe đua Khacop của Nga. Đem đồng Rúp chuyển nhượng đổi lấy hàng gì, một lần nữa lại thể hiện tầm nhìn chiến lược của các chuyên gia 3x. Nếu chọn mua xe đạp thì có cấp không cho dân cả Thành phố Hà Nội cũng không hết chứ đừng nói đến bán. Nhập các dụng cụ máy móc cơ khí thì có bán cho ma, vì lúc này ở Việt Nam, ngành cơ khí đang xuống dốc, đâu đâu cũng thấy rao bán nhà xưởng, nhà khung kho Tiệp …

   Các nhà chiến lược 3x đã chọn nhập mặt hàng bông sợi. Loại hàng này được coi là nguyên liệu sản xuất, Việt Nam đang khan hiếm. Chính nhà máy sợi Tây Đức-Hà Nội cũng đang đói nguyên liệu này. Loại nguyên vật liệu này còn được hỗ trợ bằng chính sách thuế nhập ưu đãi. Thế là toàn bộ số tiền Rúp chuyển nhượng thu được do bán máy vi tính cho Liên-xô đã được chuyển qua mua bông sợi của Đức. Theo báo chí lúc đó, Công ty 3x thu được số tiền lãi từ phi vụ xuyên quốc gia ấy là 56 tỷ đồng Việt Nam, mà hầu như không phải nộp một đồng thuế nào. Thời điểm này, giá vàng là 210.000 đVN/ 1 chỉ, còn giá “đô” là 3.950 đVN/1USD.

   Trước khoản lãi khổng lồ đó, nhiều cơ quan hữu quan của Nhà nước đã vào cuộc xăm soi Công ty 3x. Tranh cái ầm ĩ tốn nhiều giấy bút và chè thuốc tại các quán nước ven đường. Cuối cùng Công ty 3x đứng vững với lý do đem số tiền đó đầu tư sản xuất và tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động Việt Nam. Đầu tư sản xuất cái gì, cụ thể ra sao, cuối cùng cũng chẳng ai biết. Ở nước ta có nhiều việc xảy ra giống như vác một hòn đá rất to tưởng dời non lấp biển gì, nhưng rồi lại đem ném xuống ao bèo nghe “tũm” một cái, nước bắn lên tung tóe rồi tất cả yên lặng không sủi thêm tăm nào. Bèo có một tác dụng rất lớn mà trong khoa học và nông nghiệp hầu như không được nhắc tới, đó là khả năng làm cho mặt nước ổn định trở lại rất nhanh sau những cái “tũm”, dù cho cái “tũm” đó do cái gì gây nên. Mọi việc rồi lặng im trôi vào quên lãng.

   Thời cơ chỉ đến có một lần và không bao giờ trở lại. Công ty 3x cũng chỉ làm được có một lần, nhưng ghi danh sử sách. Thành công lớn và hiếm hoi của nó đã khiến cho câu chuyện đáng được ghi vào danh sách những chuyện “cổ tích”.
...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Chuyện cổ tích về máy vi tính
Gửi bởi: Trinhsat trong 11 Tháng Mười Một, 2010, 03:01:59 pm
...
      Ngày 3/2/1994, đúng vào ngày thành lập Đảng CSVN, tổng thống Mỹ Bill Clinton với chính sách cởi mở đã tuyên bố lệnh bãi bỏ hàng rào cấm vận kinh tế với Việt Nam. Nhưng trước đó đã có nhiều cuộc vận động về việc này, và Mỹ cũng đã tỏ thái độ thiện chí bằng cách lờ đi nhiều việc đang diễn ra. Vì thế, từ năm 1991 đã có rất nhiều Công ty của Việt Nam bắt tay làm ăn với các công ty nước ngoài, chủ yếu thuộc Singapore và Malaixia để nhập khẩu máy tính Compative và các phụ kiện của nó mà chúng ta quen gọi là máy tính Đông Nam Á. Tuy thế, ngoài các Công ty máy tính thuộc Tổng Công ty Điện tử-Tin học Việt Nam của Nhà nước, chưa có công ty nào dám công khai trương biển Công ty Máy tính. Nhưng chỉ từ sau khi Mỹ bỏ cấm vận, các Công ty Tin học đã mọc lên như nấm. Từ năm 1995 đến năm 1997, người ta còn có thể đếm được trong một thành phố như Hà Nội hay Tp Hồ Chí Minh có bao nhiêu Công ty hoạt động về Máy tính, hay Công nghệ Thông tin. Nhưng bước sang thế kỷ XXI thì ngay cả Sở kế hoạch Đầu tư là cơ quan cấp phép kinh doanh cũng bó tay không thể xác định chính xác được trên địa bàn mình quản lý có bao nhiêu đơn vị làm về Công nghệ Thông tin.

   Trong thời kỳ cận đại này, chuyện “cổ tích" nên chăng dành cho một seri các mẩu chuyện về sự ngô nghê trong hiểu biết về máy vi tính của nhiều cơ quan và ban ngành chức năng cũng như những hành sử "đáng cười mà không thể cười".

   Mẩu chuyện thứ nhất là sự đầu tư để dành. Công ty FPT ra đời và chuyển đổi từ một đơn vị chuyên kinh doanh về thực phẩm sang kinh doanh thiết bị tin học (cùng có tên viết tắt là FPT) vào năm 1989 thì những lô hàng đầu tiên mà họ nhập và đem đấu thầu bán cho ngành ngân hàng là máy tính Olivety của nước Ý. Đầu tiên là các ngân hàng ở Hà Nội, sau đó đến các ngân hàng các tỉnh khác. Đầu những năm 1990, các tỉnh biên giới phía Bắc được Nhà nước ưu tiên đầu tư (nghe nói chỉ xếp hàng sau Trường Sa). Giá cả không cần xét duyệt trước. Khoảng cuối năm 1992, đầu 1993, ngành Ngân hàng LaoKai mua về của FPT 20 bộ máy vi tính AT-286 với cái giá trên 3000 Mỹ kim một bộ. Cái giá ấy "hơi" cao, chỉ gần gấp đôi so với thị trường tự do, nhưng đấy không phải là điều chính. Điều đáng nói là nếu đem giao ngay số máy vi tính có cấu hình thời thượng lúc ấy cho các ngân hàng cấp huyện sử dụng thì hiệu quả của nó sẽ át đi mọi chuyện giá cả. Nhưng Ngân hàng cấp tỉnh lại chọn giải pháp cho vào kho để dành. Mười hai năm sau, tức là vào năm 2005, họ mới đem phân phối để trừ vào tiền đầu tư cho ngân hàng các huyện. Lúc này thị trường máy tính đã chuyển sang loại Pentium IV và sử dụng thịnh hành Hệ điều hành Windows XP rồi, thì những máy tính AT-286 có bộ nhớ Ram phổ biến là 2MB, ổ đĩa cứng dung luợng 100MB còn làm được gì nữa. Tất nhiên các ngân hàng cấp huyện vẫn phải nhận, vẫn bị trừ đi vào vốn đầu tư mấy chục triệu đồng một bộ máy vi tính ấy, nhưng nó chỉ có tác dụng bày làm cảnh. Không ai dám bỏ đi ngay hay thanh lý. Phải chờ đến hết thời hạn khấu hao 5 năm đã chứ, không thì ai chịu trách nhiệm bây giờ. Thật đúng là tiền dân.

   Mẩu chuyện thứ hai nói về Ủy ban 10-80 thuộc Bộ Y tế. Ủy ban này ra đời nhằm nghiên cứu về hậu quả của chất độc da cam đối với thường dân Việt nam trong cuộc chiến tranh trước năm 1975 ở Miền Nam đất Việt. Chiếm hẳn một tầng hai trong tòa nhà chính của 138 Giảng Võ, các cán bộ chỉ làm việc bằng giấy và bút với sự hỗ trợ của máy đánh chữ Robotron (CHDC Đức). Hoàn cảnh quá nên sau một lần sang thăm vào năm 1998, mấy người Mỹ yêu hòa bình trong một tổ chức phi chính phủ của Mỹ đã về nước vận động và quyên góp được 5 bộ máy vi tính gửi sang tặng. Phía Ủy ban chỉ phải chi trả tiền vận chuyển 150 USD cho một bộ máy. Nhận hàng rầm rộ, trao quà hoan hỷ, vỗ tay rào rào, nhưng khi đem về lắp ráp thì hỡi ôi. Máy tính là loại PC 8 bít, tốc độ 4.7KHz, 128KB Ram, chỉ có 2 ổ mềm loại 5.25 " 360KB, không có ổ cứng, màn hình đơn sắc. Chắc mấy người Mỹ tốt bụng đó tưởng người Việt mới vừa qua thời kỳ đồ đá nên như thế chắc là quá hiện đại rồi. Giá như khi ấy là năm 1984 thì tốt thật, còn đã vào năm 1998 rồi thì tất nhiên là bó tay.
...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Chuyện cổ tích về máy vi tính
Gửi bởi: vitính trong 11 Tháng Mười Một, 2010, 03:46:48 pm
Khoảng cuối năm 1992, đầu 1993, ngành Ngân hàng LaoKai mua về của FPT 20 bộ máy vi tính AT-286 với cái giá trên 3000 Mỹ kim một bộ... Mười hai năm sau, tức là vào năm 2005, họ mới đem phân phối để trừ vào tiền đầu tư cho ngân hàng các huyện.
Quả là khó tin  :o Làm gì có ai thế nhỉ?

năm 1998, mấy người Mỹ yêu hòa bình trong một tổ chức phi chính phủ của Mỹ đã về nước vận động và quyên góp được 5 bộ máy vi tính gửi sang tặng... nhưng khi đem về lắp ráp thì hỡi ôi. Máy tính là loại PC 8 bít, tốc độ 4.7KHz, 128KB Ram, chỉ có 2 ổ mềm loại 5.25 " 360KB, không có ổ cứng, màn hình đơn sắc.
Chuyện này đôi khi mắc phải vì cái khâu trung gian. Quê tôi, nghe nói, được tổ chức CCB Mỹ ủng hộ cho một bộ thiết bị y tế cho trạm xá Huyện. Một ông VK (Mai Lĩnh?) trúng thầu, ôm tiền của CCB mua hàng thanh lý căn cứ Subic Philipin, chuyển về VN. Phía ta khui ra rồi đóng lại không nhận, vì hàng không đúng chủng loại  >:( Sau rồi ông VK này cũng bị bên Mỹ bắt vì chuyện khác, lừa đảo chứng khoán gì đó.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: qtdc trong 11 Tháng Mười Một, 2010, 06:15:53 pm
Cái vụ buôn máy tính của 3x thì nổi tiếng thời 80 rồi, bác vitinh chắc quá rành. Đó là chuyện có thật. Nó thật như chuyện ta có tàu phá băng vậy. Còn vụ Ngân hàng Lao Kay thì bó tay, nhưng ngẫm ra ở nước mình cái gì cũng có thể, bác vitinh ạ.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Chuyện cổ tích về máy vi tính
Gửi bởi: Trinhsat trong 13 Tháng Mười Một, 2010, 09:19:19 am
...
       Câu chuyện thứ ba dài hơn, nói về một Dự án lắp ráp và bán 1 triệu máy vi tính mang tên Thánh Gióng cho thanh niên nông thôn của TW Đoàn Thanh niên nước ta.

   Năm 1992, có thể đếm trên đầu ngón tay những cán bộ khoa học nào có máy vi tính của cá nhân. Lúc đó, chủ yếu là các máy vi tính IBM-PC compative đời 286, mang về từ Úc hay các nước Đông Nam Á. Năm 1994 thì đã có nhiều cá nhân có máy vi tính hơn, mua tại Việt Nam, loại máy đời 386. Các ông chủ dự án và dân thầu xây dựng mua cho cá nhân nhiều hơn vào năm 1995, máy 486 có bộ đồng xử lý toán học tích hợp sẵn trong chip CPU, không phải dùng bộ gắn ngoài 80387 như đời 386. Họ cần để vẽ AutoCAD (version 12) cho các thiết kế nhà tư, và các dự toán xây dựng. Họ sắm cả máy in riêng. Có như thế, mọi dự toán xây dựng có nhiều “phết phẩy” mới giữ kín được trước khi được duyệt, tránh những kẻ tò mò thóc mách xem trộm nếu làm ở máy cơ quan. Còn từ năm 1997 thì việc các gia đình mua sắm máy vi tính đã trở thành chuyện “thường ngày ở huyện”.

   Rồi xã hội phát triển theo xu hướng tin học hóa. Nhất là từ khi Việt Nam có Internet vào cuối năm 1997. Cơ quan có máy vi tính rồi cá nhân cũng có máy vi tính. Thành thị có máy vi tính thì tất nông thôn cũng sẽ phải có máy vi tính. Người ta cứ muốn đốt cháy giai đoạn cho mọi thứ. Các vị có chức sắc thích dùng hình ảnh “đi tắt đón đầu” để mô tả việc Việt Nam tiếp cận với khoa học kỹ thuật thế giới mà quên mất đi một hình ảnh cũng đơn giản và dễ hiểu là, nếu thế giới họ cũng đang đi trên đường thẳng thì con đường tắt của chúng ta sẽ là con đường nào?

   Tháng 6/2004, Trung ương Đoàn TNCS HCM lập dự án "Phổ cập tin học - Nối mạng tri thức cho thanh niên"  với mục tiêu “Đưa tin học về nông thôn, phổ cập tin học cho thanh niên, đẩy mạnh xã hội hoá tin học... “ và ngay lập tức được nhiều Công ty Tin học hưởng ứng. Hai Công ty Tin học hàng đầu ở miền Bắc là FPT và CMS giành được quyền kết hợp với 4 Hãng nước ngoài tạo ra một liên minh và độc quyền lắp ráp ra một loại máy tính để bàn mang tên Thánh Gióng để phục vụ cho dự án này. Mục tiêu thì tốt, nhưng dự án muốn thực hiện được thì phải bán được máy tính cho thanh niên nông thôn. Các Công ty Tin học tham gia  rất quan tâm đến Dự án này ở góc độ kinh doanh, vì tổ chức Đoàn lập dự án bán tới một triệu máy tính về nông thôn. Thật là một dự án lớn khủng khiếp về doanh thu. Ở thời điểm đó theo điều tra của Intel thì tại Việt Nam chưa tới 1% số gia đình có máy vi tính (Việt Nam ước có khoảng 20 triệu hộ gia đình, và số máy tính gia đình ước khoảng 200 ngàn, lại chỉ tập trung ở thành phố). Bán số máy tính về nông thôn mà tới gấp năm lần số máy tính đang có ở thành phố cho dự đoán phổ cập tin học cho 20 triệu thanh niên nông thôn thì quả thật là kiểu “đếm cua trong lỗ”. Các máy tính Thánh Gióng bán ra ban đầu có 3 cấu hình theo các cấp độ khác nhau, nhưng theo các chuyên gia đánh giá là không quá đắt nhưng cũng không rẻ. Lúc đầu các cơ sở Đoàn còn vẽ vời thủ tục là chỉ bán cho “đoàn viên nông thôn” và phải có giấy chứng nhận để quan trọng hóa, trong khi với số tiền tương tự thì mua ở đâu cũng có.

   Chính vì thế, chẳng cần quan tâm đến việc có được tham gia chính thức vào Dự án to lớn nói trên của TW Đoàn TN hay không, cũng ngay trong tháng 6/2004 đó, 6 công ty Tin học nhỏ hơn là Phúc Anh, Trần Anh, Ben, Hà Nội, Mai Hoàng và Vĩnh Trinh đã tự liên minh với nhau để lắp ráp ra dòng máy tính G6 để cạnh tranh với máy tính Thánh Gióng, với tuyên bố xanh rờn là giá máy tính G6 có cùng cấu hình rẻ hơn máy tính Thánh Gióng. Nếu quả thật Dự án mà bán được ra tới 1 triệu máy vi tính (với giá trung bình 5 triệu đồng/ bộ) thì cái miếng bánh tới 5 nghìn tỷ đồng đâu dễ để cho ai có thể xơi riêng được. Cạnh tranh thị trường cơ mà.

   Dự án đã không thành công vì cơ quan TW Đoàn đã thiếu khâu “khảo sát thị trường” khi lập Dự án. Số tiền trung bình để mua một bộ máy tính Thánh Gióng có thể dùng tốt được khi đó khoảng 5 triệu đồng, tương đương một cây vàng hoặc mua được một con bò. Thanh niên nông thôn không dễ có số tiền như thế để mua máy tính, và mua máy tính để làm gì. Họ không biết dùng máy tính để có ích cụ thể gì cho họ trong cuộc sống hàng ngày, khi mà ngay ở thành phố khi đó cũng không xác định rõ nếu dạy tin học thì dạy gì cho học sinh. Còn lướt Internet để đọc báo, nghe nhạc với chơi Game như quảng cáo và hướng dẫn ban đầu của một vài đội Thanh niên tình nguyện khi tuyên truyền về nông thôn, thì thanh niên nông thôn cũng không có thời gian, không có cả tiền trả tiền điện và tiền kết nối Internet. Mức thu nhập của họ còn quá thấp và họ còn phải đi kiếm ăn hàng ngày. Ngay cả việc nếu họ có muốn học để sử dụng thì cũng chẳng có ai về nông thôn mà dạy cho họ.

   Dự án trên bị phá sản sau 3 năm. Không ai thống kê được trong 3 năm đó, đã có bao nhiêu bộ máy tính thực sự bán tới tay thanh niên nông thôn. Trên các phóng sự chung, người ta chỉ thường nhắc tới thiên tai, bão lụt, lũ quét, tình trạng người dân bỏ ruộng ra thành phố, cảnh có hàng ngàn lao động thủ công tại các điểm "chợ lao động" ở các thành phố.

   Các Công ty Tin học trong cả liên minh Thánh Gióng và nhóm G6 chia tay, ai về nhà nấy để lập kế hoạch kinh doanh riêng cho thực tế hơn, kết thúc bài học về “lạc quan tếu” một thời mà chắc chưa phải là cuối cùng./.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Năm Mão nói chuyện Mèo
Gửi bởi: Trinhsat trong 31 Tháng Giêng, 2011, 06:03:34 pm
Năm Mão nói chuyện Mèo
[/color]

         Mèo thì trên thế giới đâu đâu cũng có. Chắc chẳng có quốc gia nào không có mèo vì chúng sống thích nghi được trong mọi điều kiện địa dư và khí hậu, cũng gần như con người vậy. Mèo là động vật bậc cao được thuần hóa từ lâu đời, lại có ích cho con người trong cuộc sống nên chúng được nuôi, được chăm sóc chu đáo.

   Con người ta trong cuộc sống gia đình và xã hội có nhiều bộn bề những mối quan hệ, lo toan và trăn trở. Tác động giữa con người và con người tạo cho ta muôn vàn cung bậc của tình cảm, nhưng bạn sẽ luôn tìm thấy sự thanh thản khi  nuôi một con vật trong nhà. Có nhiều loại để lựa chọn, nhưng mèo là giống vật được số người chọn nuôi chiếm tỷ lệ cao hơn cả. Mèo sống theo bản năng nhưng cũng rất biết tiếp thu sự dạy dỗ và chăm sóc của chủ. Hình như nuôi mèo rất nhẹ nhàng và không tốn nhiều công sức và tiền bạc, nhưng chúng đem lại cho bạn một thứ tình cảm có thể nói là vô giá. Bạn quý chúng bao nhiêu thì chúng quý bạn bấy nhiêu.

   Tuy thế không phải ai cũng nuôi được mèo. Điều này khác hẳn với những con vật nuôi khác. Có nhiều người rất muốn nuôi mèo, dù chỉ đơn giản là để bắt chuột trong nhà, nhưng mèo nuôi hoặc chết, hoặc bỏ đi. Có thể do vía hay một thứ vô hình nào đó, phải chăng mèo cảm nhận được rất rõ từng cung bậc tình cảm của người nuôi nó.

   Tôi cũng nuôi một con mèo cái "hoàng miêu", tức là lông nó có mầu vàng pha ít sọc sẫm, khuôn mặt rất xinh. Tôi đặt tên nó là "Tép" cho gần với cái tên "Tôm" truyền thống của chú mèo trong Walt Disney. Qua hơn 7 năm nuôi nấng, tôi ngộ ra được rất nhiều điều về mèo. Ngay từ khi đem về mới hai tháng tuổi, mèo Tép đã thể hiện rõ tình cảm của mình. Nó rất thích được bế và vuốt ve, đặc biệt là gãi nhẹ dưới cằm. Bài học đầu tiên tôi dạy nó là lấy một cái que cắt dài bằng đúng chiều dài đuôi của nó rồi cắm vào chậu than xỉ, sau đó bế nó đặt vào đó. Con mèo lượn quanh cái que một vòng như thể ướm đuôi vào đó. Từ đó về sau mỗi khi đi vệ sinh là nó tìm ra cái chậu than xỉ ấy, dù tôi đặt cái chậu ở bất cứ chỗ nào trong nhà. Mèo là giống ưa sạch sẽ. Khi cái chậu than xỉ dùng hơi lâu đã bẩn có mùi, nó sẽ không đi vào đó nữa mà sẽ gại chân nó vào chân mình rồi dẫn mình đến cái chậu như nhắc nhở. Thay than xỉ mới rồi là nó nhảy vào ngay. Nhập hộ khẩu vào nhà tôi đúng mùa đông nên lúc nào mèo Tép cũng muốn gần người. Khi tôi đọc sách buổi tối, nó mon men đến leo lên ngồi trên đùi. Nó cũng biết để ý xem tôi có đồng ý không, nếu thấy tôi vuốt nhẹ là nó yên tâm thu chân lại nằm luôn trên lòng mình. Cũng có hôm trời lạnh quá, nó leo lên nằm ngay trên trang sách cho gần cái đèn bàn hơn để hưởng hơi ấm, che hết cả phần chữ mà tôi đang đọc.

   Trong nhà tôi mọi người đều quý nó, nhưng tôi quý nó nhất. Tôi hay vuốt ve, cho ngồi trong lòng hoặc cho nó ăn. Khi nó đi ra cửa tôi hay dọa nó là đừng có đi xa người ta bắt mất, thế mà nó cũng hiểu. Nhiều khi nó đi theo tôi ra cửa, nhưng đi xa độ 10 mét là nó lập tức quay về nhà. Có khi đang sưởi nắng ngoài sân nghe tiếng người lạ đi qua từ xa, nó chạy vào nhà trước. Hầu như những người lạ không ai đến gần được nó. Chính vì vậy mà nó vẫn tồn tại được ở nhà tôi, trong khi ở xung quanh không mấy nhà nuôi mèo được quá một năm mà không bị bắt trộm. Mèo Tép bắt chuột rất tài tình. Nó cứ đi loanh quanh khắp nhà và sân. Tôi để ý thấy hễ chủ nhà đi tới đâu là nó cũng sẽ theo tới đó cào chân như cào đất hay làm gì đó để đánh dấu lãnh thổ. Đem về một cái tủ hay cái thùng cactong mới là thể nào nó cũng tìm cách chui vào, có vẻ như để kiểm tra xác định vật quen trong nhà thì phải. Những lần đi kiểm tra ấy nó đánh dấu mùi và sau đó phát hiện ra những con chuột đi vào vùng lãnh thổ của nó. Nó theo dõi hệt như lính trinh sát, quan sát, tìm hiểu và đánh giá tình hình. Sau đó nó nằm im để rình ở một chỗ thuận lợi. Đa phần là đêm, nhưng cũng có khi ban ngày nó vồ được chuột ở chỗ nó rình rất chính xác. Tôi hầu như không nhìn thấy nó bất chợt gặp và đuổi chuột bao giờ, toàn là rình và chỉ vồ một nhát thôi. Những con chuột nhắt bé quá nó chỉ vờn cho chết rồi bỏ. Con chuột to hơn cỡ nắm tay trở lên nó mới ăn. Mèo không ăn cả con chuột mà thường chỉ ăn một nửa, tùy theo lịch âm. Nếu trước ngày rằm, nó ăn nửa đầu. Từ ngày 16 trở đi nó ăn nửa đuôi. Phần còn lại bao giờ nó cũng tha vào để giữa nhà và sau đó kêu "meo, meo" mấy tiếng để khoe. Sau này lớn lên vẫn vậy. Đặc biệt là nó không bắt chuột cống. Cũng có thể mèo không phải là đối thủ của chuột cống, nhưng cũng có thể loại chuột cống có một cái mùi gì đó mèo không ưa, hoặc giả là chuột cống không bò vào nhà lục lọi nên mèo nó không bắt theo kiểu "mi không động đến ta thì ta cũng không động đến mi".

   Nuôi được gần một năm thì mèo Tép đẻ lứa đầu tiên. Mèo chửa đúng 61 ngày thì đẻ. Hình như nó cũng ốm nghén như người hay sao ấy vì chửa khoảng 2 tuần thì nó ăn ít mà ngủ li bì suốt ngày, tối mới mò ra. Con mèo Tép nhà tôi không đi tìm chỗ đẻ hoang như nhiều người nói về mèo. Gần đến ngày đẻ, nó lục lọi các ngách kể cả ngăn tủ để tìm ổ. Đến khi tôi tìm một cái thùng giấy to rải khăn vải vào đó và đặt nó vào thì nó mới có vẻ yên tâm. Mèo thường đẻ ban đêm, ít khi đẻ ban ngày. Trước lúc đẻ nó bồn chồn đi lại, nhảy ra nhảy vào cái thùng rồi đi lại phía tôi như cầu cứu trợ giúp. Nếu mình không để ý mà bỏ đi ngủ là nó nhảy lên đầu giường kêu liên tục. Chỉ khi đi ngủ mà để cái thùng giấy sát giường nó mới yên tâm nằm trong đó. Chuyện đó diễn ra  trùng lặp trong cả các lứa đẻ khác nữa khiến tôi trở thành người đỡ bất đắc dĩ cho nó. Qua nhiều lần tôi nhận xét về chuyện sinh nở của mèo thế này. Nếu không có khì khác biệt thì một năm mèo đẻ 3 lứa. Mèo chửa 2 tháng, nuôi con 2 tháng rồi lại chửa ngay được. Mỗi lần gặp mèo đực thì chỉ đậu được một con. Điều đó có nghĩa là nếu con mèo nhà bạn đẻ năm con thì nó đã phải đi gặp mèo đực 5 đêm và rất có thể là không phải chỉ duy nhất một chú mèo đực trong 5 đêm đó. Khi đẻ nó cũng vỡ nước ối như người. Có một điểm khác là trong khi người không thể đẻ ngược ngôi thì mèo lại có thể đẻ con theo chiều đầu hay đuôi ra trước đều được. Giả sử như con thứ nhất đầu ra trước thì con thứ 2 đuôi ra trước, con thứ 3 lại đầu ra trước, cứ như thế con nọ nối con kia theo đúng chiều đầu với đầu, đuôi với đuôi. Mèo mẹ thường rặn một đến 2 nhịp một lần là đẻ xong một con. Nếu khi đó mèo con chưa chui ra hẳn, bạn có thể cầm tay vào mèo con kéo nhẹ giúp mèo mẹ. Nhau của mèo thường ra liền ngay sau mèo con. Dù đẻ nhiều hay ít con, mèo mẹ cũng ăn toàn bộ số nhau. Sau khi đẻ ra độ 5 phút được mèo mẹ liếm hết nhớt là mèo con đã kêu được tiếng "meo" khe khẽ và tự tìm được đến vú mẹ để bú. Mèo mẹ đẻ con nọ cách con kia thường khoảng 15 phút. Đôi khi khó đẻ thì lâu hơn. Có một điều hết sức đặc biệt mà tạo hóa đã ban cho loài mèo. Mèo hiếm khi sảy thai. Nếu vì một lý do gì đó mèo chửa mà không đẻ hết số con trong bụng hoặc thậm chí không đẻ được thì những cái thai lưu trong bụng mèo mẹ sau một thời gian sẽ tự hủy và mèo mẹ vẫn khỏe bình thường, kể cả việc chửa đẻ lứa sau. Mèo con mở mắt đồng loạt sau khoảng thời gian 10 ngày cộng số luợng con. Ví dụ mèo đẻ 3 con thì chúng mở mắt sau 13 ngày, đẻ 5 con thì chúng mở mắt sau 15 ngày. Khi nuôi con thì mèo mẹ đặc biệt chú ý trông con. Khi mèo mẹ đi đâu đó mà nghe tiếng con "ngoeo" khẽ một tiếng là nó chạy về với con ngay. Trong thời gian đầu nuôi con, chủ nhà nhìn ngó, thậm chí bắt mèo con lên xem thì không sao, nhưng nếu chỉ để cho người lạ ngó vào ổ xem con nó dù chỉ một lần thì chỉ ngay đêm đó mèo mẹ sẽ tha con đi giấu chỗ khác. Còn bình thường thì sau khi mèo con mở mắt, mèo mẹ cũng đem giấu con một đến hai lần. Khi đó mèo mẹ biết dạy con giữ bí mật. Có khi cả đàn mèo con chỉ nằm nấp ở một khe tủ nào đó cách mình chỉ nửa thước, mà mèo mẹ chưa gọi ra thì dù đói chúng cũng không kêu lấy một tiểng, đừng tưởng trẻ con lau nhau sẽ kêu loạn xạ không biết giữ bí mật đâu. Nhưng chưa hẳn là lúc nào mèo mẹ cũng  giấu con với người chủ nhà mà hình như nó chỉ biết làm thế theo bản năng thôi. Tôi nói thế vì có một lần vào mùa đông năm kia mèo Tép đẻ năm con. Cái hộp không đủ ấm nên nó cứ tìm quanh. Sau cùng nó leo lên giường tôi nằm, khi đó là buổi chiều. Tôi vẫn thức, thấy nó bò lên nhìn vào cái khoảng chăn bên cạnh nách tôi. Mèo Tép chui vào, ngọ nguậy trong đó một lát rồi quay ra. Một lát sau thấy nó cắp một con (cắn vào cổ) tha từ ngoài cái hộp rồi nhảy lên giường chui đúng vào chỗ chăn cạnh tôi. Tôi nằm im quan sát và theo dõi mèo Tép tha cả năm con chui vào đó, rồi nó cuộn người lại nằm quấn các con. Nó cứ làm như nách mình là cái tổ ấm vậy. Buồn cười quá nhưng thương chúng nó nên tôi nằm im, ủ ấm cho chúng chừng nửa giờ. Sau đó phải đưa chúng trở lại thùng giấy chứ vợ tôi đi làm về (làm ca ngày chủ nhật) mà nhìn thấy thì sẽ kêu ầm lên, khổ lây cả mấy con mèo. Sau đó tôi phải cắm điện đưa một cái đèn bàn vào đó sưởi cho chúng đỡ lạnh.

   Mèo mẹ nuôi con rất khéo. Khi mèo con biết ăn cơm, mèo mẹ bao giờ cũng nhường con và ăn sau cùng. Nếu nó đang ăn mà có một con quay lại ăn thêm là nó cũng nhường, lùi lại nằm chờ con một cách kiên nhẫn. Kể cả khi chỉ có một chút thức ăn thôi, nó cũng nhường con ăn hết, không bao giờ ăn tranh. Thật là bản năng của một người mẹ tuyệt vời. Khi mèo con độ tháng rưỡi tuổi, mèo Tép dẫn con ra sân dậy trèo lên trên mấy cây cảnh. Vì thế mấy cây lộc vừng của vợ tôi rất hay bị gẫy cành. Đôi khi chúng tập đùa giỡn, chạy đuổi nhau va cả vào mình mà chúng cũng không để ý.

   Mèo mẹ có rất nhiều sắc thái tiếng kêu khác nhau. Từ kêu đòi ăn, tìm bạn, gọi con … đều có âm hưởng khác nhau, nhiều khi nghe như tiếng phát ra từ đâu đâu ấy. Nghe nhiều đâm quen, theo tiếng mèo kêu biết nó cần gì. Thường sau 2 tháng tuổi là vợ tôi lại bắt mèo con đem cho hay bán đi xa đâu đó. Mèo mà bán gần trong xóm thì có khi mèo mẹ tìm ra con ngay. Đó là khoảng thời gian tôi buồn nhất, phải đến ba bốn ngày. Mèo mẹ không thấy con, tìm kêu nghe thảm thiết lắm. Nhưng biết làm thế nào được vì một nhà không thể nuôi tất cả số mèo. May mà rồi mèo Tép cũng quên được đi theo thời gian để tiếp tục chửa đẻ một lứa khác.

   Mèo biểu hiện tình cảm rất hay. Khi mèo Tép được tôi chăm sóc nhiều thì hình như nó quen cả hơi. Có những khi cả ngày nó trốn ở đâu đó không ra ăn, chẳng ai nhìn thấy, nhưng khi nghe tiếng xe tôi về đầu nhà là nó nhận ra ngay và chui ra đón. Đầu tiên mọi người không chú ý, nhưng sau rồi cũng phát hiện ra điều này. Có khi buổi chiều nằm chơi, nó mon men đến nằm cạnh. Thế nhưng chỉ nghe kẹt cửa hay tiếng vợ tôi về là nó nhổm dậy chui ngay xuống gậm giường. Nếu vợ tôi sang phòng khác làm gì đó lâu một chút, nó lại leo lên nằm cạnh mình. Buồn cười thế vì thấy nó thật khôn và khéo. Nó biết vợ tôi tuy quý nó nhưng không bao giờ cho leo lên giường nằm cùng.

   Có những chiều đi làm về thấy nó đi lượn quanh chân mình, lướt nhẹ thân hình mềm mại vào mình đòi ăn hoặc đòi bế. Những lúc ấy dù bạn có buồn phiền điều gì ở cơ quan thì cũng dễ dàng quên ngay được. Bế nó lên và nhìn vào mắt nó, nghe nó kêu khe khẽ, bạn sẽ nhận ra là con mèo của bạn dù có nhiều tuổi đến đâu thì khuôn mặt nó luôn giữ vẻ xinh xắn đáng yêu như khi bạn mới đem nó về. Hầu như vẻ đẹp và ngây thơ của nó không thay đổi theo thời gian. Phải chăng vì thế mà từ xa xưa người Pháp sang xứ ta đem theo văn hóa của họ đã gọi những người phụ nữ thân thiết ngoài vợ mình là "mèo". Cái từ ấy bây giờ theo kiểu Mỹ người ta gọi là "bồ", nhưng tôi nghĩ không thể diễn tả hay và đầy đủ như từ "mèo" được.

   Năm Mão đến rồi. Không hiểu những người phụ nữ tuổi Mão thế nào, nhưng "mão" thật có rất nhiều thú vị. Nếu chưa nuôi một con vật nào trong nhà mà bây giờ có ý định nuôi, bạn hãy chọn mèo thử xem.


                    
ChienC6


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Mai Châu "mùi" em thơm nếp xôi
Gửi bởi: Trinhsat trong 19 Tháng Hai, 2011, 06:17:28 pm
     Nhân đọc bài của bác Baoleo trên trang này

    http://khucquanhanh.vn/diendan/viewtopic.php?f=30&t=100&start=200

     Xin gửi tặng Baoleo và các đồng chí một tản bình thơ (chỉ một câu thôi trong bài thơ Tây Tiến)

Mai Châu "mùi" em thơm nếp xôi

   Tôi không được học thơ Quang Dũng. Ngày học phổ thông, trong dòng thơ ca cách mạng, ngoài mấy bài thơ như "Quê hương" của Giang Nam hay "Nhớ con sông quê hương" của Tế Hanh, chúng tôi toàn học thơ Tố Hữu. Hầu như tôi không biết đến nhà thơ Quang Dũng.

   Sau này khi đã rời quân ngũ trở về dân thường, tôi mới thấy trong chương trình học của học sinh có bài thơ "Tây tiến" của Quang Dũng. Bài thơ này được mổ xẻ ngôn từ, câu cú và ý tứ trong nhiều khóa thi tốt nghiệp PTTH, thậm chí nó còn được đưa vào cả chương trình trò chơi trên VTV3 cho sinh viên là SV96.

   Tôi đọc "Tây tiến" thấy nhịp thơ trúc trắc, tuy có nhiều nội dung hay ẩn ý trong câu chữ, nhưng tôi vẫn thấy có gì đó không ổn ở một dòng thơ:

   "Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"

   Thế nào là mùa em? Nó diễn tả cái đẹp của người con gái Thái hay nó diễn tả cái không khí ngày mùa của bản Thái Mai Châu tràn đầy mùi xôi xếp khi trung đoàn Tây Tiến hành quân đến. Và đọng lại trong lòng người lính là cái gì, hình ảnh người con gái đậm tình quân dân hay chỉ là mùi xôi nếp cứu đói? Nếu là ý thứ nhất thì không hợp lý vì "mùa em" chẳng có nghĩa gì gắn với cái đẹp của người con gái, còn nếu theo ý thứ hai thì quá tầm thường. Tôi nghĩ rằng người ta đã quá yêu Quang Dũng, chỉ biết theo nhau ca ngợi bài thơ đó nên đã cố gán và biện hộ cho cái ý thứ nhất rất bất hợp lý mà không ai cố thử tìm hiểu đúng sai thế nào.

   Tình cờ gần đây tôi được đọc bản gốc bài thơ "Tây tiến của Quang Dũng. Khi đọc đến dòng thơ "Mai Châu mùi em thơm nếp xôi", tôi ngẩn người ra thật lâu. Càng ngẫm nghĩ càng thấy cái hợp lý, thấy cái hay, cái độc của từ mùi đó. Đúng ra phải là thế chứ. Nhưng tại sao suốt bao lâu không ai tìm ra điều đó mà cứ phải mặc nhiên thừa nhận cái câu thơ bất hợp lý với từ "mùa".

   Thì ra cũng có nguyên nhân của nó. Quang Dũng là một nhà thơ chiến sĩ bởi trước khi trở thành nhà thơ, anh đã là người lính trong trung đoàn Tây Tiến hành quân lên Mai Châu, Hòa Bình năm 1947 để đánh giặc, và trước ngày toàn quốc kháng chiến anh là học sinh Hà Nội. Dễ hiểu vì sao anh lại là một nhà thơ tài hoa. Có điều thơ anh là thơ từ góc nhìn của một người lính nên nó khá trần trụi và đặc biệt là rất thật. Vụ án văn thơ "Nhân văn giai phẩm" năm 1958 đã làm chao đảo cuộc đời của nhiều nhà văn nhà thơ theo khuynh hướng "nghệ thuật vị nghệ thuật" trong đó có Quang Dũng. Số phận anh không may, nhưng bài thơ của anh là một bài thơ hay nên anh đã chấp nhận cho nó tồn tại sau khi phải sửa câu thơ "Mai Châu mùi em thơm nếp xôi" thành "Mai Châu mùa em thơm nếp xôi" cho hợp với ý của những người cầm cân nảy mực về văn hóa khi đó. Các cụ nhà ta khi vui thú thì cũng không ngại ngần rúc đầu vào tận những ngang cùng ngõ hẻm, nhưng khi ngồi trước bàn dân thiên hạ lại đạo mạo giảng đạo đức. Đành rằng trước đám đông thì không nên văng tục chửi bậy vì cái văn hóa truyền thống Á Đông nó thế, nhưng những dòng thơ ý nhị mà hay thì có khi phải để nguyên mới thấy toát lên được cái hay, cái thâm thúy của nó thông qua sự suy ngẫm thầm của từng người. Thơ của nữ danh sĩ Hồ Xuân Hương chả phải là minh chứng đó sao. Tục mà thanh, thanh mà tục. Tâm mà thanh thì sẽ thấy cái hay cái đúng của nó. Bài thơ chỉ thật tục khi người đọc nó mà trong tâm lại tục mà thôi. Vậy là bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng được tồn tại và phổ biến nhờ cái từ mùa có cùng âm điệu với từ mùi như vậy. Cũng chính từ bài thơ bị sửa ấy mà có lúc tôi đã nghĩ lầm về Quang Dũng.

   Sau này khi tư duy của con người đã đổi khác, cởi mở hơn, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng mới được phổ biến sâu rộng và được giảng dạy trong nhà trường, nhưng là bản sửa chứ không phải bản gốc. Bao lớp người đã phải mặc nhận như vậy, đôi khi có người không hiểu cũng có thắc mắc nhưng cuối cùng lại tặc lưỡi cho qua với ý nghĩ rằng với các bố nhà thơ thì nhiều khi trong thơ họ có những câu dở hơi lắm, chỉ cốt vần điệu mà không cần biết nghĩa nó phải ra sao, có đúng với dân gian hay không. Thú thật chính tôi cũng hiểu lầm thơ Quang Dũng một thời như thế.

   Trở lại với câu thơ gốc "Mai Châu mùi em thơm nếp xôi", mới thấy Quang Dũng thật là có hồn và có thần khi hạ bút viết từ mùi đó. Nó đưa bài thơ trở về đúng nghĩa, dễ hiểu biết bao nhiêu đối với những người lính chiến từng xông pha bom đạn có được những giây phút sống cùng dân, được gần gũi những người con gái. Phải là cái từ mùi ấy mới toát lên được vẻ đẹp, vẻ tinh khiết và đầy bản sắc của người con gái dân tộc Thái nói riêng và những người con gái Việt Nam nói chung. Cái hương vị tỏa ra từ người con gái Thái mà được người lính cảm nhận  như mùi thơm xôi nếp thoảng qua thì quả thật là thần tình. Mà dứt khoát phải là xôi nếp, đặc trưng của những ống cơm lam đặc sản của người dân tộc thì mới hay và độc đáo chứ nếu chỉ như mùi mít, mùi cam, mùi bưởi thì cái ấn tượng ấy sẽ không sâu. Nếu có dịp lên Mai Châu, Hòa Bình, ngắm nhìn những cô gái Thái với dáng đi sóng sánh và ngẫm về câu thơ Quang Dũng, bạn sẽ cảm thấy có một cái gì rất gần gũi, thân thương, tưởng như có thể vòng tay mà ôm lấy được, nhưng lại bảng lảng xa vời như những đám mây nhẹ trôi.

   Bạn đã từng tắm cho con trẻ và hít hà mùi thơm da thịt của chúng chưa? Thuở yêu đương bạn có nhớ đã từng được ngồi cạnh người yêu và cảm nhận mùi thơm hoa bưởi hay hương xả, hương bồ kết tỏa ra từ mái tóc, bờ vai của người bạn yêu chưa. Và ngay cả khi đã lập gia đình, lúc hạnh phúc có khi nào bạn tận hưởng mùi thơm dịu mát từ từng Centimet của người bạn yêu thương chưa (Nếu bạn công nhận người con gái đẹp từng Centimet như trong một bộ phim nào đó thì chắc cũng dễ thừa nhận là có nhiều lúc họ cũng sẽ dịu thơm trên từng Centimet chứ?)

   Đấy chỉ thế thôi, cứ ngẫm nghĩ đi, bạn sẽ thấy càng nghĩ càng thấy câu thơ "Mai Châu mùi em thơm nếp xôi" của Quang Dũng mới thật và hay biết bao nhiêu. Có điều người ta có dám trả lại nội dung cho bản gốc bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hay không thì chỉ có thời gian mới trả lời được.





Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Cô giáo Mường
Gửi bởi: Trinhsat trong 02 Tháng Năm, 2011, 03:19:26 pm
Chuyện viểt dựa trên ý của hồi ức trong "Ngày này 34 năm trước",
---------------------

Cô giáo Mường

   Bước chân đầu tiên của tôi khi vào đời là cuộc sống quân ngũ. Tôi đã trở thành người lính cụ Hồ trước khi đủ tuổi công dân. Cùng đồng đội, tôi đã theo đơn vị đi qua nhiều miền đất của Tổ quốc trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ. Mỗi vùng đất, mỗi con người tôi gặp là một kỷ niệm. Tình quân dân đã vun đắp thêm cho tôi lòng yêu Tổ quốc, yêu đồng bào. Tôi đã gặp nhiều người con gái trên đường ra trận, và mỗi kỷ niệm về tình cảm tốt đẹp của họ đã như nguồn lực đi theo tôi suốt cuộc chiến tranh, giúp tôi có thêm nghị lực để vượt qua bao khó khăn. Nhưng những người lính như tôi tuy làm tròn bổn phận với đất nước thì hình như lại luôn có lỗi với những người con gái đã gặp vì mình chẳng đáp ứng được gì cho mong ước tốt đẹp của họ. Người con gái đầu tiên tôi gặp đã để lại sự tin tưởng vào chính  mình của tôi là một cô giáo: cô giáo người dân tộc Mường.

   Đó là mùa đông năm 1971. Lớp tân binh chúng tôi đang vào cuối kỳ huấn luyện để chuẩn bị vào chiến trường miền Nam. Tiểu đoàn chúng tôi hành quân dã ngoại qua thị xã Hòa Bình để xuống Tân Lạc. Tôi được cử đi trong nhóm tiền trạm do Trung đội phó Thụy chỉ huy. Vượt dốc Cun hơn chục cây số, chúng tôi dừng chân tại một nông trường cam. Chỉ kịp tìm vào hỏi nghỉ nhờ một gia đình công nhân thì trời đã ập tối. Sau cơm nước, khi chuyện trò buổi tối, chúng tôi biết chủ nhà là một công nhân nông trường còn vợ là một cô giáo dạy cấp I trường bản.

   Hôm sau chúng tôi liên hệ các nhà dân tìm chỗ nghỉ đêm cho đơn vị, sau đó thì chỉ còn việc nghỉ ngơi chờ đơn vị hành quân đến. Tôi và thằng Xuyên được cử vào Bản Mường gần đó kiếm rau. Tinh thần chỉ đạo là có thể mua, nhưng xin được là tốt nhất.

   Hai chúng tôi hỏi đường rồi cứ theo con đường đất to mà đi vào phía chân núi. Chưa được cây số thì thấy cả một không gian rộng mở ra trước mắt. Một con suối nước to, nông, toàn đá và trong veo chảy hiền hòa na ná như suối cạn Bãi Nai ở Kỳ Sơn, chỗ đóng quân cũ. Bờ bên kia là cả một khu vườn trồng rau rộng lớn ríu rít tiếng của hơn chục cô cậu học sinh. Phụ trách chúng là một cô giáo ăn mặc kiểu dân tộc Mường, người nhỏ nhắn và… xinh quá đi mất. Hai thằng tôi đứng ngây ra nhìn. Chỉ một nhoáng là đám học sinh đã phát hiện ra có hai chú bộ đội đứng bên kia suối. Chúng líu ríu vẫy tay gọi. Hai chúng tôi nhìn nhau rồi cùng xắn quần lội sang.

   Đám học sinh quây lấy chúng tôi như người nhà, còn cô giáo thì e thẹn đứng lùi sau một chút, nhưng không giấu được nụ cười tươi. Vốn đã có một vài bài tập nho nhỏ về công tác dân vận, tôi và Xuyên hòa nhập ngay với cô giáo và học sinh. Tôi đề nghị được cùng tham gia tưới rau và nhổ cỏ. Việc này cũng dễ thôi, thằng Xuyên vốn là dân Thanh Trì, nông dân chính hiệu trước khi vào lính, còn tôi cũng đã nhiều năm sơ tán về quê.

   Vừa làm vừa tán chuyện, chúng tôi nhanh chóng chiếm được cảm tình của đám học sinh và cả… cô giáo. Chừng một tiếng sau, chúng tôi ra về sau khi được cô giáo và học sinh tặng cho một ôm rau cải to tướng. Được biết tên cô giáo là Hoa, và còn được cô hẹn buổi tối sẽ ra chỗ chúng tôi chơi. Giá không còn phải về lo cơm nước chung cho cả nhóm, chắc tôi và Xuyên còn muốn nhổ cỏ, bắt sâu lâu hơn nữa.

   Hôm đó là một ngày thảnh thơi hiếm có từ ngày nhập ngũ. Từ đấy, tôi bắt đầu hiểu được cái sướng của đi công tác lẻ. Không chỉ ngoài Bắc mà sau này vào chiến trường cũng thế. Không gò bó, ăn uống bao giờ cũng tốt hơn và nếu khéo sắp xếp thì kể cả không phải gác, dù ở gần ngay sát địch.

   Buổi chiều chúng tôi chờ đợi nhưng vì một lý do nào đó nên đơn vị chưa đến. Thế là chúng tôi được nghỉ thêm một ngày. Tối đó cả nhóm tiền trạm tập trung ở nhà uống nước nói chuyện. Chúng tôi  kể chuyện xin rau buổi sáng với chủ nhà. Anh cười, hóa ra vợ anh dạy học ở đúng cái trường cấp I mà lúc sáng chúng tôi đã tới. Anh chị ấy mới có một đứa con gái chừng 3 tuổi. Buổi tối trời lạnh ngồi trong nhà uống nước, tôi ngồi khoanh tròn trên giường và cho cháu bé ngồi trong lòng. Đứa bé ngồi im, thỉnh thoảng ngoái cổ ngước nhìn mặt chú bộ đội. Anh chị em công nhân cũng kéo nhau đến chơi khá đông. Anh Thụy (vốn trước đây là lính trong Đội Danh dự của Quân đội, cao to, đẹp trai) trổ tài tán chuyện. Đôi lúc tôi chợt quên đi mình đang là lính, và nghĩ rằng nếu cuộc đời cứ như thế này thì đẹp biết bao nhiêu.

   Hơn tám giờ tối, cô giáo chủ nhà nháy tôi ra ngoài. Cô giáo Hoa (dân tộc Mường) đang chờ tôi ngoài sân và rất mạnh bạo rủ tôi dạo chơi. Bây giờ trông Hoa bình dị như một cô gái kinh, áo trắng (có khoác thêm một chiếc áo len hay sợi gì đó), quần lụa, cái hình ảnh thiếu nữ đơn giản một thời đã làm xao xuyến lòng trai của cả một thế hệ. Chúng tôi chậm rãi đi dạo ra phía suối. Trời mùa đông, mọi khi thì chiếc áo vệ sinh (một loại áo khoác nỉ dài tay cài khuy màu cỏ úa phát cho lính khi đó) chưa phải đủ ấm, nhưng hôm đó tôi lại không thấy lạnh. Tôi mới 18 tuổi, và Hoa thì cũng chắc tuổi đó, nếu không muốn nói là nhỉnh hơn. Nhưng cô ấy bé nhỏ và xinh xắn trước cái thằng trai mới lớn là tôi. Vụng về và ngượng nghịu, nhưng cũng khoái vì chính tôi được rủ đi dạo chứ không phải mấy thằng khác trong tốp tiền trạm. Chúng tôi cứ chậm rãi đi trên con đường đất nhỏ và nói đủ thứ chuyện linh tinh. Hoa kể về mình ít thôi, nhưng gợi ý để tôi kể chuyện. Kể chuyện Hà Nội, chuyện lính tráng tập tành chứ không phải là tán. Thú thực là nếu cô giáo Hoa không bạo dạn, thì tôi không biết nói chuyện gì cho phải. Nhưng tôi nhớ nhất cái cảm giác lúc đó là tuy nói chuyện rất vui vẻ, nhưng trong lòng tôi thoáng có chút buồn. Chiến tranh không biết trước thế nào. Số phận con người càng mong manh, khó đoán. Đón nhận một tình cảm trên đường hành quân, liệu mình có đem lại điều tốt lành cho người ta? Tính tôi cầu toàn nên không muốn làm điều gì trái lương tâm mình khi đó.

   Chúng tôi chỉ lang thang và nói chuyện đâu đâu thế thôi, cho đến khi trở lại nhà cô giáo người kinh thì đã khuya khuya. Chia tay nhau cũng chỉ là cái bắt tay chứ không phải cầm tay. Rồi anh Thụy thò đầu ra gọi tôi đi ngủ.

   Lại chơi gần một ngày nữa, chiều hôm sau thì đơn vị hành quân đến. Rồi sau một đêm nghỉ, cả đơn vị hành quân tiếp xuống phía Ninh Bình.

   Chuyện thoáng qua của tôi và Hoa, nhiều đứa trong đại đội biết. Chúng nó bàn tán đủ kiểu, nhưng nói chung là bậy bạ. Tôi không chấp nhận cái kiểu sống gấp của kẻ sắp chết. Tôi tự hào mình vừa là trai Hà Nội, có học và lại là anh bộ đội cụ Hồ, nên sẽ phải sống cho xứng với niềm tự hào đó.

   Chúng tôi đã dừng lại trú quân tại một bản người Mường ở Tân Lạc, cách vùng đất Nho Quan chừng hơn chục cây số. Đến nơi mới hơn một tuần thì nhận được thư Hoa. Chả hiểu cô ấy hỏi ai được số Hòm thư của đơn vị tôi. Không ngờ cô ấy mến tôi thật sự và muốn kết bạn. Tôi cũng có thư hồi âm cho cô ấy. Chỉ một lần thôi. Tôi đánh bạo nói là sẽ hẹn gặp cô ấy khi đơn vị hành quân trở lại Thị xã Hòa Bình sau đợt dã ngoại, khi đi ngang qua nông trường cam.

   Một tháng trời ở đó lo tập thêm chiến thuật, bắn đạn thật bài ba và một đợt đi leo núi dã ngoại 5 ngày. Những kỹ năng cần trang bị cho một người lính để vào chiến trường đã hoàn thành.

   Một ngày đầu tháng 2/1972, cả tiểu đoàn báo động sớm, sắp xếp ba-lô rồi nhận lệnh hành quân về Hà Nội. Đợt dã ngoại xa này đã kết thúc toàn đợt huấn luyện và chúng tôi chuẩn bị vào chiến trường. Đêm hôm trước, chúng tôi đã được xem một buổi biểu diễn ca múa nhạc do đoàn Văn công quân đội về biểu diễn, đó là món ăn tinh thần cuối cùng trong đợt huấn luyện để động viên đoàn tân binh.

   Tiểu đoàn trưởng đọc lệnh hành quân, tuyên bố chúng tôi đã hành quân dã ngoại mang vác nặng đủ 400 cây số. Còn thiếu 100 cây nữa mới đủ tiêu chuẩn đi B, thì từ đây về Hà Nội hơn 100 cây sô, cộng vào là đủ tiêu chuẩn. Thế là cả đoàn quân hăm hở lên đường. Không hiểu sao buổi sáng hôm ấy phấn khích lắm, không thấy mệt bao nhiêu. Thằng Thái anh nuôi nhập ngũ từ đợt trước được biên chế vào trung đội tôi để đợt này vào Nam luôn, không phải ở lại làm anh nuôi nữa. Cái ba lô của nó lép xẹp, lại không phải mang súng nên nó phởn chí vừa đi vừa hát. Thằng này có biệt tài âm nhạc. Nó hát lại đúng theo các bài mà các anh chị văn công đã hát tối qua. Nó uốn giọng theo diễn viên, kể cả giọng nữ nghe cũng lả lướt mềm mại lắm. Nó làm chúng tôi không thấy mệt vì như được nghe lại buổi biểu diễn. Đoạn đường rút ngắn lại dần.

   Tôi còn có một niềm vui khác ở nông trường cam. Lần này tôi không được đi tiền trạm, nhưng nếu đêm nay dừng chân ở khu nông trường cam bữa trước thì tôi cũng sẽ gặp được Hoa. Sẽ có người giúp tôi tìm Hoa, đó là vợ chồng cô giáo người Kinh, chủ nhà bữa trước tôi ở. Tôi sẽ trò chuyện chân tình với Hoa. Nếu dám hẹn ước, nếu cuộc chiến tranh này còn có hồi kết thúc, nếu bom đạn chê tôi thì tôi sẽ trở lại nơi này tìm em.

   Nhưng số phận con người ta quả là do ông trời sắp đặt. Khi còn cách nông trường cam rất xa thì đơn vị tôi lại rẽ theo một con đường khác để về Hà Nội theo hướng Kim Bôi. (Con đường này là đường 128 hay gì đó, nghe nói do TNXP làm từ thời mới hòa bình 1954). Tôi hẫng cả người, rồi từ đó cứ lầm lũi đi, không còn nghe cả tiếng thằng Thái "anh nuôi" hát hay thôi lúc nào nữa. Tôi còn phải nghĩ vơ vẩn về cô giáo Hoa cho đến hết ngày hành quân đó. Thôi, số trời là vậy. Nhưng chắc Hoa cũng chẳng giận tôi hay phải buồn nhiều, vì tình cảm của chúng tôi chưa có bao nhiêu. Rồi cô ấy sẽ nhanh quên tôi. Nhưng có lẽ cô ấy cũng trách cái thằng trai Hà Nội không có được cái thật mộc mạc của những người dân tộc như cô. Tự nhiên tôi lại nghĩ quẩn là nếu vào trong kia, tôi ngã xuống trong một trận đánh nào đó, rồi tin tôi hy sinh được báo tới cô, thì khi đó cô sẽ ra bên bờ suối cạnh trường, nơi có những vườn cải xanh mướt, ngồi khóc một mình rồi tha thứ hết cho tôi. Hoa ơi, thôi anh đi đây. Bao giờ anh cũng là người có lỗi mà chẳng biết làm thế nào được. Đành đổ lỗi tất cả cho chiến tranh vậy, em nhé.

   Tôi đã phải đi tiếp hơn sáu năm trời trên con đường quân ngũ. Những năm đầu vào chiến trường cũng không có điều kiện thư từ, ngay cả với gia đình. Rồi những trận đánh cứ cuốn hút tôi. Địa chỉ của Hoa, tôi đã để thất lạc nên suốt những tháng năm đó tôi cũng không một lần thư về được cho Hoa. Tôi không còn tin tức gì của Hoa nữa.  Ngày trở về, tôi cũng không tìm gặp lại cô ấy, bởi chắc Hoa đã lấy chồng.

   Nhiều năm trôi qua rồi, bây giờ có gặp lại nhau chắc cũng chỉ biết man mác buồn và ôn lại kỷ niệm thôi. Nhưng tôi muốn Hoa nghĩ là tôi đã hy sinh thì tốt hơn, bởi như thế thì kỷ niệm đẹp sẽ mãi còn là kỷ niệm đẹp.

   Tôi cũng hay sống lại với kỷ niệm, dù nhiều khi chỉ là những hoài niệm buồn. Chợt lúc nào đó mà có ai nói lên ba từ "Cô giáo Mường" là tôi lại chạnh lòng nhớ đến Hoa./.





Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Bộ đèn xe Lada
Gửi bởi: Trinhsat trong 02 Tháng Bảy, 2011, 08:48:49 pm
Bộ đèn xe Lada

   Chuyện này xảy ra đã lâu lắm rồi, từ những năm cuối thập niên 198x cơ. Khi đó đã xóa bỏ cơ chế bao cấp được vài năm, nhưng tính chất của cơ chế thị trường thì mới chỉ chập chững, chưa "bạo tàn" như bây giờ. Phe xã hội chủ nghĩa vẫn còn đang đứng vững chắc và những công chức đi công tác nước ngoài dù chỉ ngắn đôi ba tuần cũng có cơ hội kiếm tiền cải thiện đáng kể cho kinh tế gia đình. Nhặt nhạnh vay mượn chút tiền mua ít đồ xa xỉ trong nước như đồng hồ điện tử, áo phông hay thậm chí là mũ lưới… đem theo chuyến công tác. Đến mấy nước XHCN Đông Âu thì nhờ bán, rồi tìm mua bên đó đủ thứ linh tinh, về nhà bán lại lần nữa thì số tiền chênh lệch kiếm được có khi cũng bằng đến cả năm lương làm ở nhà. Thế cho nên ngày đó người ta ham đi nước ngoài, sau chuyến công tác nhớ về cảnh vật bên nước bạn thì ít mà nhớ về tên chợ hay loại hàng hóa ăn khách bên đó thì nhiều.

   Tuy thế, ở đâu và thời nào thì cũng có những người láu cá hơn sống xen kẽ với những người cần cù chân chỉ hạt bột. Cùng điều kiện na ná như nhau, có người kiếm về tiền triệu, nhưng cũng có người mong thấy trăm nghìn cũng chỉ như trong mơ.

    Năm đó cơ quan tôi được Bộ duyệt cho mua một chiếc xe ô-tô hiệu Lada của Liên-xô để trang bị cho tiêu chuẩn của Thủ trưởng cơ quan. Ngày đó xe Lada đã là trang bị hạng sang theo tiêu chuẩn của cán bộ hàng Thứ trưởng. Loại thủ trưởng Cục, Vụ, Viện thì chưa có tiêu chuẩn, chỉ có ở đơn vị nào năng động có tiền tự có, chạy chọt một tí với Vụ Kế hoạch của Bộ thì xin được phiếu mua xe thôi. Cơ quan tôi bỏ ra số tiền tương đương 5.000 đô la, kèm thêm 2 cái Tivi đen trắng 14 inch hiệu Samsung (cũng là của hiếm ngày đó) để lót tay và lặn lội vào tận kho Hà Đông thì cũng chọn mua được một cái xe Lada màu sữa đẹp long lanh. Thủ trưởng tôi có xe ô-tô đưa đón hàng ngày nên lúc nào nhân dung cũng tươi tỉnh, phong thái chững chạc, phong độ được nâng lên mấy tầng cao mới. Nhân viên chúng tôi cũng vui lây, hãnh diện ra mặt vì cơ quan mình cũng được xếp vào hàng danh giá, tức là loại cơ quan mà thủ trưởng có xe ô-tô riêng.

   Chuyện kể minh họa cho điều đã dạo đầu ở phần trên xảy ra sau đó chừng 5 tháng. Chẳng hiểu bảo vệ cơ quan gác sách ban đêm thế nào mà vào một đêm tối trời, bọn đạo chích bất chấp cả một trạm trực "Tuần tra nhân dân" của khu phố nằm chỉ cách cổng cơ quan tôi hơn chục mét, trèo qua hàng rào sắt chui vào cơ quan tháo trộm nguyên vẹn cả bộ đèn trước của chiếc xe Lada, biểu tượng danh giá của cơ quan tôi. Hai anh bảo vệ gác đêm cũng chỉ giật mình biết được sự việc khi sáng ra cậu lái xe đến lấy ô-tô đi đón thủ trưởng. Mất đèn nhưng xe vẫn chạy được, chả còn cách nào khác nên vẫn phải đem cái xe "thương tật" ấy đi đón Sếp. Sếp đến cơ quan, mặt nặng như hai cân sắt, ánh mắt lóe lên hình viên đạn trước mắt mọi người. Cả cơ quan không ai dám nói gì, thậm chí thở cũng phải khe khẽ. Nhiều người liên đới, nhưng rồi dù cho có lập biên bản, có họp kiểm điểm, có chửi mắng dọa bắt đền, cắt lương, thậm chí sa thải bảo vệ thì cái xe ô-tô Lada cũng không thể lành lặn ngay được. Khi đó xe máy còn rất hiếm, xe buyt cũng chẳng có bao nhiêu, không nhẽ lại đi làm bằng xe đạp, thế là Sếp tôi vẫn đành phải hàng ngày đi về bằng cái xe ô-tô mất đèn ấy. Có điều ông không thể sĩ diện đến thăm các cơ quan bạn nhiều như trước hoặc không dám đi đêm tối vì sợ bị cảnh sát giao thông phạt do tội không có đèn.

   Đấy là nói chuyện giải pháp tình thế về sau, chứ lúc ấy Sếp lệnh cho cơ quan bằng mọi giá phải trả lại ngay diện mạo ban đầu cho chiếc xe. Ông Đan, trưởng phòng quản trị cơ quan tôi cũng là một tay tháo vát. Ông liên hệ ngay với mấy thằng thân quen dân ngõ đê Thanh Lương chuyên đánh hàng lậu, rồi cùng chúng nó lùng ngay ra chợ Giời. Cái lý đơn giản là bọn trộm cắp chỉ có đưa của ăn cắp ra chợ Giời tiêu thụ cho nhanh, vì chỉ có nơi ấy mới có gan tàng trữ và tiêu thụ loại hàng như thế. Nhưng lần này ông Đan lại không gặp may dù suy đoán của ông có tính quy luật. Lão Tiến "béo", trùm buôn hàng phụ tùng ô-tô ở chợ Giời, nhận lời với ông Đan nhưng chờ cả tuần cũng không thấy có người đến gạ bán đèn xe Lada. Lão cho cả đàn em tỏa ra săn lùng nhưng không có kết quả. Về sau lão giải thích với ông Đan là chắc có thằng chủ xe Lada nào đó đâm xe bị vỡ đèn nên đã đặt hàng trực tiếp với bọn đạo chích rồi, chứ không phải bộ đèn xe Lada cơ quan tôi bị mất do bọn lượn lờ ăn may nào đó đâu. Không hoàn thành nhiệm vụ mà ban đầu tưởng như đơn giản, ông Đan lại nhờ lão Tiến "béo" tìm giúp xem cơ quan nào đó có cái Lada gặp nạn mà còn dư bộ đèn xe không. Lão Tiến "béo" cười ngất, bảo ông Đan là "Xe đâm thì cái bộ đèn tan trước chứ làm sao xe nát mà đèn lại còn được". Bí thật.

   Ông Đan về kể chuyện với anh em trong cơ quan, cốt để xả bớt stress chứ chúng tôi cũng chỉ là loại cán bộ quèn thì giúp được gì. Ông ấy bảo là mỗi xe Lada chỉ có một bộ đèn, Liên-xô họ không xuất phụ tùng sơcua nên cũng không nhờ đâu được. Chả nhẽ lại móc đường dây nhờ bọn đạo chích kiếm cho bộ đèn ở xe Lada của cơ quan nào đó. Ôi, nếu như thế thì hóa ra lại thành cái vòng luẩn quẩn để nuôi bọn trộm cắp à. Cuối cùng ông Đan đành như kẻ chết đuối tìm cọc, nhờ lão Tiến "béo" chợ Giời bằng cách nào đó phục kích tìm hàng giúp hay đặt mua ở Liên-xô cũng được. Ông Đan sẽ chờ.

   Trong khi không khí trong cơ quan vẫn còn nặng nề, còn chúng tôi có vẻ đã dần quen với hình ảnh chiếc xe Lada mù mắt của Sếp, thì cơ quan tôi được cử một đoàn cán bộ đi công tác Tiệp-Khắc hai tuần. Ngày đó đi công tác nước ngoài bằng tiền nhà nước theo nội dung "tham quan, khảo sát" thì thế nào trong đoàn cũng phải "cõng" một ông của một Vụ nào đó trên Bộ. Chuyến công tác nước ngoài này của cơ quan tôi cũng không là ngoại lệ, tất nhiên cũng "kèm" một ông trên Vụ Kế hoạch, "hoa thơm mỗi người ngửi một tí" mà. Đây là cơ hội để ông Đan trưởng phòng Quản trị khắc phục lỗi lầm về công tác quản lý tài sản, nên ông đã phải gửi gắm ai đó trong đoàn mua cho bộ đèn xe Lada, nếu đoàn có về qua Liên-xô. Nhờ là nhờ thôi chứ chưa chắc chắn.

   Chuyện bắt đầu vui sau khi đoàn công tác sang Tiệp Khắc được một tuần. Vốn lúc đi chả ai dám nhận lời ông Đan cho cái tình huống nước đôi đó, vì sang Tiệp thì phải lo mua hàng Tiệp đem về bán chứ nếu dành tiền lại nhỡ khi về không qua Liên-xô thì mấy đồng Cua-ron đem về nhà làm kỷ niệm à? Không ngờ trong lần dạo quanh thị trường ở cái chủ nhật đầu tiên ấy bên nước bạn, các vị trong đoàn  phát hiện ra trong cửa hàng phụ tùng ô-tô của họ có bán bộ đèn xe Lada. Hóa ra các nước Đông Âu buôn bán với nhau, họ nhập hàng thoải mái để phục vụ dân chứ không chắc lép nhập khẩu đồng bộ một-một như mấy ông làm thương mại bên ta. Chuyện đáng nói hơn nữa là đáng lẽ năm ông trong đoàn công tác nên trao đổi thống nhất với nhau để mua một bộ đèn xe thôi, còn lại dành tiền mua cái khác như cốc chén pha lê hay vải vóc chẳng hạn; đằng này ông nào cũng chỉ biết tính nhẩm trong đầu của riêng mình. Mua một bộ đèn xe Lada đem về lúc đó tính ra có giá trị hơn nhiều so với mua loại hàng khác. Vậy là không ai bảo ai nhưng ông nào cũng âm thầm lén ra cửa hàng mua về và đóng gói thật chặt một bộ đèn xe Lada trong đám hành lý của mình. Lại còn đinh ninh là chỉ có mình khôn mua về thứ hàng đó chứ người khác chắc không mua mới hay chứ.

   Máy bay của đoàn hạ cánh trên sân bay Nội Bài vào một chiều thứ bảy. Tối hôm đó năm cán bộ trong đoàn công tác, ông nào cũng có mặt ở nhà hoan hỉ kể chuyện đi nước ngoài trong bữa cơm cho vợ con.

   Anh Tình, trưởng phòng Kế hoạch cơ quan tôi không hổ danh là kẻ nhạy bén số một của cơ quan. Anh ta có thâm niên đi công tác nước ngoài cũng kha khá nên đã ngờ ngợ nhận ra trong đám hành lý của các thành viên trong đoàn có gì đó giống nhau. Thế là ngay tối hôm ấy, dù còn mỏi mệt sau chuyến đi, anh Tình đã đến chơi nhà ông Đan. Thăm hỏi và tặng chút quà chỉ là cái cớ, cái chính là thỏa thuận để qua ông Đan bán cái bộ đèn xe Lada cho cơ quan. Tất nhiên ông Đan nhận lời ngay, lại còn nồng nhiệt cảm ơn và duyệt cho anh Tình giá bộ đèn Lada ngang với cái giá đặt hàng cao nhất ở chỗ lão Tiến "béo" chợ Giời. Để cho ăn chắc, anh Tình sốt sắng lên kế hoạch giúp ông Đan thuê thợ đến lắp ngay bộ đèn xe Lada vào sáng hôm sau, chủ nhật để cho sáng thứ hai Sếp được trọn niềm vui khi  ngồi lên chiếc xe ô-tô lại đẹp như lúc mới mua. Lý do chính đáng quá còn gì.

   Sáng thứ hai, người vui nhất tất nhiên là Sếp. Vui hân hoan là ông Đan, còn người có niềm vui âm ỉ trong lòng là anh Tình. Bây giờ mới sang phần hài hước. Cũng ngay trong sáng hôm đó, có ba người trong cơ quan, chính là ba ông trong đoàn công tác, đã lần lượt tìm gặp và vui vẻ với nét mặt đầy bí hiểm gặp ông Đan để đưa ra đề nghị bán bộ đèn xe Lada cho cơ quan, giúp ông Đan thoát khỏi một nỗi lo đầy trách nhiệm kéo dài đã nhiều ngày qua. Tưởng rằng người vui "bất ngờ" phải là ông Đan, không dè chính cả ba vị cán bộ đó đều lần lượt ngẩn người, mặt thộn ra dài có nhẽ gần bằng cái bơm khi nghe ông Đan thông báo xe Lada của cơ quan đã được lắp xong đèn từ sáng hôm qua rồi. Càng thẹn thùng hơn nữa khi biết tin bộ đèn xe Lada đó do chính anh Tình trong đoàn mang về. Tình huống này do ông Đan kể lại sau đó chúng tôi mới được biết. Hiển nhiên là óc tưởng tưởng của chúng tôi cũng đủ hình dung ra vẻ mặt các vị ấy nó như thế nào.

   Có lẽ cực điểm hơn của chuyện hài này là lúc ông Kích, vị cán bộ cùng đoàn công tác Tiệp Khắc ở trên Vụ kế hoạch gọi điện cho ông Đan vào đầu giờ chiều để dạm bán bộ đèn xe Lada với thái độ rất bề trên. Tất nhiên sau đó thì ai cũng đoán ra tình huống thế nào qua lời kể không kém phần dí dỏm của ông Đan.

   Số phận cuối cùng của bốn bộ đèn xe Lada khá lận đận. Bán cho ai bây giờ để được giá khi mà chẳng có chủ nhân nào quen buôn bán chợ Giời. Lại nhờ qua ông Đan, nhưng bây giờ bán đi cũng không dễ. Lão Tiến "béo" ngoài chợ Giời khi nghe thủng câu chuyện cũng không nén được phì cười. Đúng là chuyện "cải thiện" của mấy bố công chức nhà nước, ai lại thế bao giờ. Lão Tiến "béo" cũng không sốt sắng mua, vì theo ý lão, số đèn này trong điều kiện xã hội Việt Nam khi đó có lẽ phải bán đến Tết Công-gô mới hết.

   Chờ mãi mong mỏi có nhiều cơ quan có xe Lada gặp nạn vỡ đèn xe để bán mà không được, sáu tháng sau, cả bốn cán bộ trong đoàn công tác nước ngoài năm đó của cơ quan tôi đành phải lần lượt bán hết cho lão Tiến "béo" chợ Giời những bộ đèn xe ô-tô Lada cất công đem từ trời Tây về đó với cái giá còn thấp hơn khi mua tại chính quốc, mà còn phải mang ơn lão Tiến./.




Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Trọn lời ủy thác
Gửi bởi: Trinhsat trong 31 Tháng Bảy, 2011, 11:18:52 am
Trọn lời ủy thác

(Viết tặng một người đồng đội của tôi)

   Bình sửa lại lọ hoa, bát nước trên bàn thờ rồi rút ba nén hương châm lửa. Cắm ngay ngắn mấy nén hương vào bát hương, anh chắp tay vái 3 lần rồi nhìn chăm chú vào di ảnh của một người phụ nữ trẻ trên bàn thờ khấn nhỏ:

   - …Thưa chị, hôm nay em làm mâm cơm, thắp mấy nén hương này để báo tin cho chị: Cháu Tiến đã thi đỗ và có giấy gọi vào đại học. Tháng sau cháu sẽ nhập trường. Em đã nuôi dạy cháu theo lời ủy thác của chị lúc lâm chung. Nay cháu đã mười tám tuổi, tạm gọi là đủ trưởng thành, em báo tin và xin phép chị cho em năm nay được lập gia đình. Mong chị phù hộ cho em và cháu…

   Đã khấn xong nhưng Bình vẫn còn đứng đó, nhìn mãi vào bức di ảnh ẩn hiện sau làn khói hương phảng phất. Đôi mắt sâu thẳm của người phụ nữ trong ảnh  nhìn Bình như chợt sáng lên, le lói một chút cười. Đấy là chị Hà, chị ruột của Bình đó. Bình như trôi ra khỏi thực tại để về với những hình ảnh của hơn mười năm trước.

*

   Bình thuộc lớp thanh niên tham gia cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cuối cùng của đất nước. Một cuộc chiến tranh không tuyên bố, ít tuyên truyền nhưng vẫn có đổ máu. Cuộc sống quân ngũ đã tôi luyện anh thành một con người có nghị lực, có lòng kiên nhẫn, chịu khó và đầy đức tính hy sinh. Bình trở về nhà, trở về mái trường đại học để tiếp tục những ước mơ còn dang dở sau năm năm quân ngũ. Đáng lẽ anh sẽ theo con đường binh nghiệp, nhưng sức khỏe không cho phép.

   Ngày ra quân trở về, trong ngôi nhà bé nhỏ chỉ còn có mẹ chờ đón anh. Chị Hà, người chị gái hơn anh vài tuổi đã đi lấy chồng và đã có một cháu trai lên hai. Tuy thế nhà chị Hà ở cách không xa nên những lần hội ngộ gia đình cũng thuận tiện.

   Bình vào đại học, trở thành chàng sinh viên già trong lớp, nhưng điều đó không ngăn được sự sôi nổi say mê học tập và đạt nhiều kết quả tốt của anh. Đáng lẽ cuộc sống như thế cũng là bình thường như bao gia đình khác, nếu như không có biến cố xảy ra với gia đình chị gái anh. Khi anh học năm thứ tư thì anh Thành, chồng chị Hà bị lâm bệnh nặng. Bình đã biết về mối tình đẹp và đầy lãng mạn của vợ chồng chị Hà. Họ yêu nhau và chăm sóc nhau đến độ người ngoài nhìn vào có khi sốt ruột. Sốt ruột đấy, nhưng ai cũng mong trong gia đình mình có tình cảm và hạnh phúc như họ. Khi biết tin anh Thành sẽ không qua khỏi, chị Hà như phát dại. Chị không tin điều bác sĩ nói. Chị xin tạm nghỉ dạy học ở trường cấp II nơi chị công tác để dành thời gian chăm sóc anh. Ngay cả cháu Tiến vừa mới bắt đầu vào học lớp một, chị cũng gửi về nhờ mẹ và em trai trông nom. Chị vẫn nuôi hy vọng, dù chỉ là một phần nghìn tia hy vọng rằng anh sẽ qua khỏi. Nhìn vợ tất tả, loay hoay khuya sớm chăm sóc mình từng thìa cháo, từng ngụm nước, anh Thành thương lắm. Rồi không thể cưỡng lại được số phận, sáu tháng sau anh Thành ra đi. Trước lúc đi xa, anh còn gắng được chút sức lực nắm tay vợ dặn dò:

   - Con người sống chết có mệnh trời. Em đừng buồn nhiều. Phải gắng sống mà nuôi dạy con khôn lớn để anh thanh thản nơi suối vàng. Anh sẽ luôn phù hộ cho mẹ con em.

   Chị Hà khóc nấc lên. Ngay cả khi anh đã trút hơi thở cuối cùng, chị vẫn còn gục đầu mãi vào ngực anh, nước mắt đầm đìa. Đến lúc ấy chị vẫn không muốn tin đó là sự thật.

   *

   Sau tang lễ của chồng, chị Hà bán nhà trang trải những món tiền vay lúc anh ốm rồi đưa con về ở chung với mẹ và em trai. Lúc ấy Bình bước vào năm học cuối của đại học. Cuộc sống của bốn con người dưới một mái nhà, dù kinh tế có đạm bạc thì lẽ ra rồi vẫn có thể trở lại ổn định bởi còn có tiếng cười của con trẻ. Cháu Tiến bước vào lớp hai, đã nhận thức được sự mất bố nên rất ngoan, thương mẹ, biết nghe lời người lớn và chịu khó học tập. Đó sẽ chính là điều an ủi người mẹ gắng sống để nuôi con.

   Vậy mà ông trời vẫn còn bắt những con người hiền lành trong căn nhà ấy phải chịu nhiều thử thách. Sau này nghĩ lại, Bình chỉ luận được một điều, một căn nguyên cho tất cả, ấy là tình yêu của chị mình với chồng quá lớn, quá đặc biệt và khác thường. Nó mang màu sắc như mối tình của Rome-ô và Juliet, bi tráng như tình cảnh của Hạng Vũ biệt Ngu-cơ. Chị Hà sống mà tưởng như không hề âm dương cách biệt với chồng. Lúc nào cũng đau đáu và da diết nhớ chồng, nhiều khi lớn tới mức vượt cả tình thương con. Chị sống hiện tại mà cứ như trong mơ. Chẳng có điều gì có thể làm chị cười vui, ngay cả với những điểm mười kiểm tra trên lớp của thằng Tiến đem về. Nó khoe với bà ngoại và cậu Bình thì còn nhận được nhiều lời khen động viên hơn. Chị Hà chắc có lúc tỉnh táo cũng nhận ra mình có điều không phải với con, nhưng rồi lại chìm đắm vào nỗi nhớ thương chồng. Bà ngoại thằng Tiến lúc thắp hương cho con rể cũng thầm khấn anh Thành có yêu mấy cũng hãy buông tha vợ để cho vợ còn nuôi con. Thế nhưng chắc lỗi không phải ở anh Thành.

   Chị Hà càng ngày càng héo hon, sức khỏe kém dần. Chị gày rộc đi trông thấy. Công việc dạy học của chị cũng đành bỏ bễ. Gắng sức được một năm, sang đến năm thứ hai thì chị Hà ngã bệnh. Chẳng phải bệnh hiểm nghèo mà cái gốc chỉ là suy nhược cơ thể, suy nhược đến mức trầm trọng. Chẳng ăn uống hay thuốc thang nào bù lại được bởi chị không thể vượt qua được tinh thần của chính mình. Lúc nào chị cũng chỉ cảm thấy như đang sống với chồng, mơ mơ, tỉnh tỉnh.

   Sau khi anh Thành mất được hai năm thì chị Hà cũng ra đi. Chị yêu chồng quá và không thể xa chồng lâu hơn được nữa nên chị đã đi theo anh. Những ngày cuối cùng, chị Hà rất tỉnh táo, nhưng đó là dấu hiệu của ngọn đèn sắp tắt, cố bùng lên chút ánh sáng cuối cùng. Chị xin lỗi mẹ, chị dặn dò con. Cuối cùng chị cầm tay em trai khẩn khoản:

   - Bình ơi! Chị sắp đến với anh Thành rồi. Thông cảm cho chị nhé vì anh chị không thể xa nhau được đâu. Chị cũng có lỗi với anh Thành là không thể sống mà chăm sóc cháu Tiến được. Bây giờ, chị nhờ cậy tất cả vào em và gửi gắm cho em. Hãy thương cháu và nuôi dạy cháu dùm chị. Chị đi đây…


   Bàn tay chị Hà cứ lạnh dần trong tay Bình, không còn kịp nghe tiếng "vâng" đáp khẽ của em mình nữa. Người đàn ông hai mươi chín tuổi đời đã qua năm năm cầm súng mà giờ đây cũng không nén nổi nước mắt. Bình đã òa khóc. Mẹ anh và cháu Tiến cũng khóc. Nỗi đau này bây giờ là hiện hữu và không còn gì phải che dấu nữa rồi.

   Cháu Tiến bước vào lớp ba, tám tuổi đầu đã mồ côi cả bố lẫn mẹ. Trong ánh mắt nó nhiều khi có những nét thảng thốt mà không nói được thành lời. Mẹ anh đã yếu, nay lại càng yếu hơn. Bây giờ tất cả trông vào Bình. Anh đã ra trường và đi làm được một năm. Cái tuổi sát băm của người đàn ông lẽ ra là tuổi đã cần phải lập gia đình. Khi chị Hà dặn dò gửi gắm cháu Tiến, Bình chỉ kịp đáp "vâng", giờ đây anh chấp nhận lời ủy thác của chị. Anh tự nhủ mình sẽ thay cả anh và chị mình để nuôi dạy cháu. Anh sẽ phải vừa là cha, vừa là mẹ của cháu Tiến.

*
...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Trọn lời ủy thác
Gửi bởi: Trinhsat trong 04 Tháng Tám, 2011, 11:49:25 am
...

   Cành cây non phải dựa vào thân già, con chim non phải cần hơi tổ ấm. Bình trở thành trụ cột của căn nhà có ba thế hệ, mà mỗi thế hệ chỉ có đại diện một người. Phẩm chất của người lính chưa phải là tất cả để đủ giúp anh vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, nhưng nó cũng là cội nguồn giúp anh có quyết tâm và nghị lực trước những khó khăn. Anh đã phải tự vấn an mình, phải thuyết phục mẹ để bà không bắt anh phải cưới vợ cho hợp lẽ thường tình. Anh đã suy nghĩ rất nhiều và quyết định tạm quên đi hạnh phúc của riêng mình để tập trung nuôi dạy cháu. Chỉ có như thế thì cháu Tiến mới thật sự được chăm sóc trọn vẹn. Những cảnh đời trong xã hội cũng quá đủ để anh so sánh và đi đến quyết định của riêng mình.

   Bình bắt đầu tập làm vai trò của cả người bố và người mẹ đối với đứa cháu ruột của mình. "Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ", Bình đã thấm hiểu điều đó trong những ngày chăm dạy cháu. Anh lắng nghe thời tiết để bắt cháu mặc đủ áo ấm vào những ngày giá lạnh. Chợt khi có gió mùa Đông Bắc tràn về ngang giữa buổi chiều là anh phải xin cơ quan về sớm để đem tấm áo rét đến trường đón cháu. Đêm ngủ nằm chung, anh cũng phải chú ý kéo cho cháu tấm chăn đắp khi thằng Tiến ngủ say chót đạp chăn xuống góc giường. Nó chỉ hơi ho một tí là anh hỏi han hàng thuốc gần nhà để mua thuốc cho cháu, chọn cẩn thận từng loại thuốc cho hợp tuổi trẻ con. Là kỹ sư một ngành kỹ thuật mà Bình thạo về các bệnh trẻ con và các loại thuốc không kém những cô y tá trong bệnh viện bao nhiêu.

   Mỗi mùa một lo toan khác nhau. Ngày hè thì lo cả trời nắng lẫn mưa. Bình mua và bắt cháu thường xuyên phải đội mũ và mang theo tấm áo mưa mỏng đến trường, nhưng trẻ con mải chơi nên cũng hay quên. Không ít lần anh đã phải bỏ cả công việc để đem áo mưa đến trường đón cháu. Mỗi khi cu Tiến ốm là Bình phải xin nghỉ làm theo chế độ "con ốm, mẹ nghỉ" để chăm sóc cháu mình. Được cái ở cơ quan mọi người đều biết hoàn cảnh của Bình; hơn nữa công việc của anh là làm theo khoán việc chứ không phải theo giờ hành chính; Bình lại là kỹ sư có chuyên môn khá, tinh thần và ý thức trách nhiệm cao trong công việc nên mọi người cũng dễ thông cảm cho anh.

   Cả một gia đình ba người già trẻ đều trông vào đồng lương của Bình nên anh phải cố gắng nhiều và cũng thật vất vả. Tuy thế, Bình vẫn cố gắng để cháu mình tuy không sung túc nhưng cũng đủ về vật chất. Từ những thức ăn trong bữa cơm, đến những hoa quả các mùa, Bình đều cố gắng để cháu mình không bị thiếu đến mức phải thèm thuồng.

   Có lẽ ở cơ quan chỉ có Bình là người ít tham gia sinh hoạt tập thể nhất. Các dịp tham quan dã ngoại của công đoàn cơ quan tổ chức, anh đều từ chối; từ chối luôn cả những lời mời nhiệt tình hay những ánh mắt đầy tình cảm của đồng nghiệp nữ dành cho anh. Họ biết anh không khô khan, nhưng mời mọc rủ rê anh vào những cuộc chơi thì quá khó. Anh chỉ nhỏ nhẹ cảm ơn lòng tốt của bạn bè rồi cáo từ. Những cuộc liên hoan của cơ quan không nhiều, thường chỉ tổ chức vào những dịp cuối năm hay khi kết thúc Đề tài, Hợp đồng nghiên cứu, nhưng có thể nói hầu như Bình chẳng tham dự bao giờ. Mẹ anh già yếu tuy có lo được phần cơm nước, nhưng Bình thương mẹ, thương cháu nên chiều nào anh cũng về nhà để xăm xắn vào bếp, bận rộn chẳng kém phụ nữ con mọn là bao. Dần dà, đồng nghiệp và bè bạn cũng cảm thông cho hoàn cảnh của Bình, nhưng cơ hội để anh có thể có bạn gái để lo cho hạnh phúc riêng thì cứ trôi dần qua.


   Cháu Tiến tuy còn nhỏ nhưng đã thể hiện rõ tính tự lập và cố gắng trong cuộc sống. Vật chất đạm bạc, còn cuộc sống tinh thần thì dù có sự kết hợp của bà ngoại và cậu ruột cũng không thể bằng bố mẹ, nhưng nó cũng đã biết cảm nhận phần nào. Nó quấn bà và cậu, không làm nũng mà rất biết nghe lời. Đến lớp cũng vậy, nó biết nghe lời cô giáo, chơi tốt với bạn bè và chăm học. Bình đi họp phụ huynh cho cháu cũng không bao giờ phải nghe điều phàn nàn của cô giáo. Chỉ với riêng cô giáo của Tiến, Bình mới trình bày hoàn cảnh của cháu mình, còn các phụ huynh khác không biết thì chỉ cảm nhận anh là một người bố trẻ có con lớn mà thôi. Điều làm Bình rất an tâm là cháu Tiến đến lớp vẫn hồn nhiên và chơi đùa rất trẻ thơ. Bình muốn giữ nguyên điều đó nên những kỳ nghỉ, những dịp hè, anh cố gắng đưa cháu đi chơi thăm thú mỗi lần một nơi để cháu không thiệt thòi nhiều so với chúng bạn.

   Trong cuộc sống hàng ngày, hầu như bà và cậu Bình không nhắc đến sự thiếu vắng của bố mẹ với Tiến, nhưng hàng năm đến ngày giỗ anh Thành, chị Hà thì trong nhà vẫn phải làm mâm cơm cúng để tưởng nhớ. Những dịp đó Bình mới nói chuyện về bố mẹ cho cháu Tiến, cũng chỉ mong cháu nhớ cội nguồn và cố gắng chăm ngoan hơn.

   Năm tháng qua đi, Tiến lớn dần lên và trong người nó dần hình thành tính cách. Nó vẫn ngoan, vẫn chăm học và hầu như năm nào cũng đạt học sinh giỏi, nhưng rồi nó trầm hơn. Nó cảm nhận được nhiều hơn sự thiếu hụt tình cảm của bố và mẹ trong gia đình, dù bà và cậu vẫn hết lòng chăm sóc nó. Nó cảm nhận được nhiều hơn sự hy sinh của cậu ruột vì nó. Tính tự lập của Tiến càng cao hơn.

   Học hết phổ thông cơ sở, Tiến xin tiền cậu rồi tự mua hồ sơ và xin thi vào một trường Phổ thông trung học chuyên của thành phố. Nó thi đỗ và nhập học vào đó một cách nhẹ nhàng trong khi có rất nhiều đứa bạn khác bố mẹ phải vất vả chạy chọt để được vào học ở một trường tốt của khu vực hay cố chạy để vào lớp chuyên của một trường nào đó.

   Những năm cháu Tiến học cấp III, Bình đỡ vất vả hơn vì mọi thứ đứa cháu đều có thể tự làm. Đôi khi nó giúp cậu đi chợ mua thức ăn, hay nấu cơm chiều. Tiến tham gia đầy đủ mọi hoạt động ngoại khóa của lớp, học giỏi và thường được khen thưởng sau mỗi học kỳ. Nó chỉ có điểm khác nhiều với chúng bạn là ăn mặc hết sức giản dị và ít khi tham gia vào những chuyện mà các bạn thích thú như kiểu tổ chức sinh nhật linh đình.

   Năm cháu Tiến học lớp 11 thì bà ngoại mất do sức khỏe yếu. Việc đó cũng ảnh hưởng ít nhiều đến việc học của nó và cuộc sống của hai cậu cháu bây giờ phải thay đổi và điều chỉnh lại một chút. Bình vẫn cố sắp xếp và ưu tiên cho mục đích chăm sóc sức khỏe và sự học tập của cháu Tiến là cao nhất.

   Hai năm cuối cùng Tiến học phổ thông, Bình có vất vả hơn do phải lo cho cháu khoản học thêm, dù rằng sức học của Tiến rất tốt và thường hiểu được bài ngay trên lớp. Anh phải xin nhận làm thêm phần việc của một vài nhóm hợp đồng trong cơ quan để tăng thu nhập; hỏi han bè bạn rồi chạy nơi này nơi khác tìm cơ sở tốt và thày giỏi để xin cho cháu Tiến học thêm ba môn học chủ chốt. Cả hai cậu cháu cùng nỗ lực cho cuộc chạy đua vào ngưỡng cửa cuộc đời của Tiến.

   Trời xanh có mắt và không phụ lòng người. Năm cuối cùng phổ thông, Tiến thi tốt nghiệp đạt điểm cao và trong kỳ thi đại học sau đó, nó thi đỗ vào cả hai trường thuộc nhóm đầu khối A với điểm khá cao. Ngay sau kỳ thi đại học, Bình đưa cháu đi nghỉ hè một tuần tại một vùng biển miền Trung để ghi nhận thành thích và động viên cháu.

   Một chiều đứng ngắm những con sóng xô bờ tung bọt trắng xóa và những con người đang hăng hái nhảy sóng và tắm biển, Bình chợt nhận ra anh đã ba mươi chín tuổi rồi.

*

   Hôm nay đã gần cuối hè, cháu Tiến chuẩn bị nhập trường đại học. Tuy không phải ngày giỗ của chị Hà, nhưng hai cậu cháu Bình cùng nhau làm mâm cơm cúng. Bình muốn báo cáo thành tích học tập của cháu Tiến với chị Hà để chị được ngậm cười nơi suối vàng. Qua đó, anh cũng muốn báo rằng anh đã làm trọn lời ủy thác của chị mình lúc lâm chung. Cháu Tiến còn bốn năm đại học, gian nan tuy còn nhiều, nhưng lúc này cũng có thể coi là bước ngoặt vào đời của đứa cháu đã thành công. Bình tin rằng mọi sự sẽ tốt đẹp và thuận lợi hơn những năm qua.

   Từ hôm đưa Tiến đi biển về, Bình đã tâm sự với đứa cháu về chuyện riêng của mình. Tiến nay đã là một thanh niên nên đã biết suy nghĩ và ủng hộ ý định lập gia đình của cậu Bình. Nó còn biết chia sẻ và nói lên được sự hy sinh của cậu Bình trong nhiều năm qua là vì nó. Điều đó làm Bình ấm lòng.

   Bình nhớ lại những ngày quân ngũ đã rèn luyện phẩm chất con người anh. Sống và hy sinh vì người khác là một lẽ sống cao đẹp của những người lính chân chính. Năm năm quân ngũ, Bình đã sống tròn trách nhiệm của người thanh niên với đất nước, chia sẻ buồn vui cùng đồng đội. Mười năm của quãng đời sau khi đã rời quân ngũ, anh lại thay chị mà nuôi dạy cháu, tiếp tục hy sinh tuổi trẻ và hạnh phúc riêng để trọn nghĩa gia đình, thì cái phẩm chất người lính tốt đẹp trong anh cũng như vẫn còn nguyên vậy.

   Từ ngày mai đến cơ quan, Bình sẽ nở nụ cười nhiều hơn, tán chuyện nhiều hơn. Để nếu có cô gái đồng nghiệp nào cảm thông mà chia sẻ tình cảm thì Bình sẽ nồng nhiệt đón nhận.

   Nhưng mà liệu có điều đó không nhỉ, vì Bình đã 39 tuổi rồi. Liệu anh có già quá không?

7/2011

   


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Tr kỹ thuật trong 24 Tháng Tám, 2011, 09:51:50 pm
Có hẹn với ti vi

Cái quán đá đậu đó chừng mười năm rồi mình không ghé. Một bữa tạt qua với bạn học hồi cấp ba, bật cười nhận ra những cái ghế gỗ xưa hai đứa học trò có thể ngồi chung giờ quá nhỏ nhắn so với những cái mông đàn bà đã chảy nhão, sồ sề. Bạn với mình đã con cái đùm đề. Quán vẫn nằm chỗ cũ, vẫn cách bài trí cũ, bàn cũ, ghế cũ, hương vị cũ... Chỉ những người cũ ngồi đây chiều nay là bị thời gian thể nghiệm sự nghiệt ngã, ráo riết của nó. Tóc hai chị em bà chủ quán đã trắng xóa.

Hồi mình còn học thì hai mái đầu kia chỉ bạc lai rai, đôi lần thấy họ nhuộm. Khi chị, khi em. Những khi tóc một trong hai người đàn bà lỡ thời bỗng trở lại xanh mịt mùng, luôn xuất hiện một ông ăn mặc chải chuốt bắc ghế ngồi gần quầy nước, cười nói rù rì. Mấy đứa học trò tinh quái ó ré lên, kêu  “Tụi bây ơi, Năm sắp lên xe bông kìa”. Và theo sau đó là tiếng nạt nộ sượng trân của người đàn bà đã qua xuân sắc, “đồ con nít quỷ”.

Nhưng hai chị em mãi chưa kiếm được tấm chồng. Cũng đẹp, hiền hậu, giỏi giắn, chỉ chữ duyên là hẹn nay hẹn mai, rồi biệt mù. “Mấy thằng cha đó hả, toàn hứa rồi xách đít đi mất”, bà Hai cười, trả lời câu hỏi của khách cũ rằng mấy ông hồi xưa chàng ràng ở đây, giờ đâu ? Miệng bà móm vì mấy cái răng sâu bị rụng một cách mất trật tự, như hậu quả một cuộc cướp bóc thô bạo. Như không phải tự dưng mà chúng rụng. Một lời hứa lấy đi  vài ba năm tuổi, ít nhiều hy vọng, lôi tuột thuốc nhuộm ra khỏi tóc, khắc nhì nhằng thêm vài nếp nhăn lên da. Thời gian đã bạc, biết lấy gì nhuộm bây giờ.

“Em ơi lửa tắt bình khô rượu…”, tự nhiên câu thơ của Vũ Hoàng Chương nhảy nhót trong đầu mình, khi thấy bà Hai cặm cụi dọn ly, còn bà Năm túc tắc cầm giẻ lau bàn, và tiếng ho rớt lay lắt nhẹ hều, không đủ sức nảy lên sàn nhà nhiều mảng gạch đắp vá. Chỗ mà mấy ông tán tỉnh xưa ngồi chéo nguẩy, giờ là cái ti vi màu đang chạy chữ giới thiệu chương trình phát sóng buổi chiều. Hai bà già trở nên rạo rực, “không biết bữa nay họ bắt được thằng trời đánh ấy không hen ?”. “Ừ, phim gì vô duyên, lòng vòng mấy bữa rày mà thằng ôn dịch đó vẫn chưa đền tội”.
 
Cái xao xuyến đó khuấy cái không khí chìm ngỉm ù lì của buổi xế trưa lên, mơn man loang qua chỗ tụi mình ngồi. Bạn dẹp mình qua một bên, phụ họa với hai bà già, hồ hởi bàn tán cái phim Đài Loan dài tập chiếu trên đài truyền hình đang vào độ gay cấn nhất. Mình ngạc nhiên khi biết bạn có thể thảnh thơi khóc cười với phim sến rện ngay vào giờ cơm tối, giờ cả nhà xúm về.

- Giờ đó có ai ở nhà đâu mà không rảnh.

Bạn bồi hồi giải thích. Chồng hứa về ăn cơm, nhưng thường hứng chí tạt qua quán nhậu. Con cũng đi chơi bóng rổ sau buổi học thêm. Có bữa cả nhà rủ nhau đi ăn ốc thì cơ quan chồng tiếp khách đột xuất, “thôi để mai…”. Chừng chục cái mai thì mới thành một bữa ngồi quán tiu ngỉu vì nguội thèm, cụt hứng.

Và gốc cột bị mối ăn, bếp dột, một người họ hàng nằm bệnh cần thăm viếng… bạn hay nhận được lời hẹn : mai. Những hẹn hò bẽ bàng, mòn mỏi vì người hẹn nghĩ rằng mình còn nhiều thời gian phía trước.
   
Chỉ ti vi là đúng hẹn. Rủ mình đứng lên về, bạn nói phải nấu cơm cho xong trước khi kênh Tám chiếu tập năm mươi bộ phim tình cảm, xong xúc tô cơm vừa ăn vừa coi tập mười hai trên kênh Ba, đến tập ba mươi sáu trên kênh Bảy thì đi ngủ là vừa. Hai bà già bán quán gật gù tán đồng. Buổi tối của những người đàn bà này giống hệt nhau.

Lúc mình với bạn chẻ nhau mỗi đứa đi một hướng, mình sực nhớ tụi mình không hẹn lại cuộc sau, mà hai bà già bán quán cũng không đon đả kêu mai nhớ ghé ăn đá đậu, như mười năm trước. Hẹn hò trở nên đầy rủi ro, gây sát thương trong đời sống quá nhiều bất trắc. Về ngang qua ngôi mộ cổ nằm bên đường, tự hỏi cùng với người nằm dưới mộ này, có bao nhiêu lời hứa được chôn theo, có bao nhiêu thời gian của người ở lại bị bạc màu ?


Truyện ngắn này của nhà văn Nguyễn ngọc Tư (Blog Sầu riêng).


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Mai Châu "mùi" em thơm nếp xôi
Gửi bởi: baoleo trong 25 Tháng Tám, 2011, 04:29:21 pm
    Nhân đọc bài của bác Baoleo trên trang này

    http://khucquanhanh.vn/diendan/viewtopic.php?f=30&t=100&start=200

     Xin gửi tặng Baoleo và các đồng chí một tản bình thơ (chỉ một câu thôi trong bài thơ Tây Tiến)

Mai Châu "mùi" em thơm nếp xôi

   .......

   Tình cờ gần đây tôi được đọc bản gốc bài thơ "Tây tiến của Quang Dũng. Khi đọc đến dòng thơ "Mai Châu mùi em thơm nếp xôi", tôi ngẩn người ra thật lâu. Càng ngẫm nghĩ càng thấy cái hợp lý, thấy cái hay, cái độc của từ mùi đó. Đúng ra phải là thế chứ. Nhưng tại sao suốt bao lâu không ai tìm ra điều đó mà cứ phải mặc nhiên thừa nhận cái câu thơ bất hợp lý với từ "mùa"........

Cảm ơn bạn tri âm  ;)


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: landuy trong 27 Tháng Mười Hai, 2011, 05:20:11 pm
:D


Tiêu đề: NHững đứa con của hai người lính
Gửi bởi: Nguyễn thế Duyên trong 14 Tháng Hai, 2012, 10:23:41 pm
Những đứa con của hai người lính

Thành đứng nghiêm, dập mạnh gót giầy, đưa tay lên vành mũ
- Báo cáo sư trưởng, tôi, thiếu tá Nguyễn Thành có mặt theo mệnh lệnh.

Sư trưởng, một người nửa đời chinh chiến, mái tóc đã bạc gần hết,ngẩng đầu lên vui vẻ
- Thành đấy à, ngồi đi – Ông chỉ tay vào chiếc ghế. Thành rụt rè ngồi xuống. Sư trưởng chỉ tay sang người đang ngồi nói chuyện với mình giới thiệu - Giới thiệu với cậu, đây là thượng tá Hân, người của vụ đối ngoại của bộ. Đồng chí ấy có việc muốn làm việc với cậu
Người ngồi cùng với sư trưởng chìa tay ra bắt tay Thành. Ông ta đưa mắt nhìn Thành từ đầu đến chân với một ánh mắt dò xét khiến Thành cảm thấy gai hết cả người. Từ tốn, ông lấy trong cặp ra một tấm ảnh chìa cho Thành
- Cậu có quen biết người này không?
Thành cầm lấy tấm ảnh ngắm nghía. Ảnh một phụ nữ gần ba mươi. Đẹp gái nhưng lạ hoắc
- Báo cáo thủ trưởng tôi không biết người này
- Lạ nhỉ !Ông Hân lẩm bẩm- Cậu xem kỹ lại đi và cố nhớ xem đã gặp cô ta bao giờ chưa
Thành ngắm kỹ bức ảnh một lần nữa rồi kiên quyết lắc đầu
- Chắc chắn là tôi không biết người này. Nhưng có việc gì đấy ạ?
- Vấn đề là thế này đồng chí thiếu tá ạ -  Ông vừa cất tấm ảnh vào cặp vừa nói – Cô gái này là một tiến sĩ sử học của Mỹ sang đây nghiên cứu về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam theo một hiệp định trao đổi văn hóa giữa hai chính phủ. Về phía chúng ta, chúng ta phải cử một người đi theo cô ta để thuyết trình cho cô ta biết về cuộc chiến tranh và liên hệ với các cơ quan hữu quan của ta giúp đỡ cô ta trong quá trình làm đề tài nghiên cứu của mình. Văn phòng bộ đã cử người nhưng cô ta không chấp nhận mà lại chỉ đích danh cậu
- Chỉ đích danh tôi- Thành kêu lên kinh ngạc- Nhưng tôi có quen biết gì cô ta đâu?
- Đấy mới là vấn đề.. Thượng tá Hân trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp:
- Hiện tại chúng ta không biết tại sao cô ta lại biết cậu và cô ta làm thế có mục đích gì. Tôi chỉ dặn cậu mấy điểm: Thứ nhất, phải hết sức cảnh giác.
Thứ hai, cô ta là một học giả có uy tín ở Mỹ. Bộ ngoại giao lưu ý chúng ta là hiện nay chủ trương của Đảng và nhà nước ta là khép lại quá khứ. Cố gắng tạo dựng một hình ảnh tốt đẹp, thân thiện với nhân dân Mỹ và nhất là với cộng đồng người việt nam tại Mỹ. Nhiệm vụ của cậu lần này là hết sức nặng nề. Cô ta không những là một học giả có uy tín mà còn là người Mỹ gốc việt vì vậy tình cảm của cô ta với đất nước trong lần về nước này có ảnh hưởng rất sâu rộng trong cộng đồng người Việt. Chúng tôi hi vọng đồng chí làm được điều này

***

Đón Hà ở sân bay là một chàng thiếu tá. Chững chạc trong bộ quân phục, Thành lịch sự mở cửa, mời cô gái lên xe. Xe từ từ lăn bánh ra khỏi khu vực sân bay. Thành tranh thủ giới thiệu:
- Trước đây, thời chiến tranh phá hoại, nơi này là một sân bay quân sự. Chính từ sân bay này, những chiếc Mic của chúng tôi đã bay lên bắn rơi pháo đài bay B52 của không quân Mỹ.
Mặt Hà hơi cau lại. “Sặc mùi cộng sản” cô thầm nghĩ. Nhưng cô đã nhanh chóng lấy lại được vẻ thản nhiên:
- Thế chỗ đấu tố địa chủ đầu tiên trong cải cách ruộng đất có gần đây không hả anh?
Cô giả vờ hỏi một cách bâng quơ. Thành giật mình. “Con mẹ này ghê gớm thật” Thành nghĩ nhanh.
- Xin lỗi chị.

Hà thích thú nhìn bộ mặt đỏ rực vì ngượng nghịu của anh chàng thiếu tá. Một niềm vui hiếu thắng rất thơ trẻ bỗng xâm chiếm tâm hồn cô. “Một không nhé, anh bạn” cô mỉm cười.

Tám giờ tối, anh chàng thiếu tá lại sang bên phòng cô, mời cô đi thăm Hà nội vào ban đêm. Cô vui vẻ nhận lời. Thành dắt xe máy ra sân. Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của cô gái, Anh giải thích
- Đi chơi đêm ở Hà nội không nên đi bằng ô tô. Tốt nhất là đi bộ. Có như thế mới tận hưởng được vẻ đẹp và hương vị của thành phố Hà nội vào ban đêm.
- Thế tại sao chúng ta không đi bộ?

Thành đưa cô gái lên Hồ Tây, vào một nhà vườn kín đáo và yên tĩnh. Chọn một góc khuất nhìn thẳng ra ngoài hồ, anh gọi hai tách cà phê phin, một ít hoa quả và bánh ngọt. Tiếng nhạc cổ điển du dương nhè nhẹ vang lên trong một không gian yên tĩnh mà ấm cúng làm con người như thoát khỏi cuộc sống náo nhiệt hiện tại lơ lửng bay giữa chốn thiên đường.Trăng sáng vằng vặc. Mặt hồ như trải rộng mênh mông dưới ánh trăng vàng.

- Ngày xưa thời còn đi học, khi đọc hai câu thơ:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
của Hàn mặc Tử, tôi không thể cảm nhận được hai câu thơ đó. Câu thơ hư hư, thực thực, mờ mờ, ảo ảo chẳng biết ông định nói cái gì. Đêm nay, ngồi đây, tôi mới thấy câu thơ thật đẹp. Chị nhìn xem, nếu đây là một dòng sông đang chảy thì có khác gì một dòng ánh trăng đâu. Ông dùng hai từ sông trăng mới chính xác và thơ mộng biết bao.

Thành tựa vào khung cửa, ánh mắt mơ màng. Hà hết sức ngạc nhiên. Trước mặt cô, không còn là một anh chàng quân nhân khô cứng trong bộ quân phục chỉnh tề mà là một nhà thơ đang đắm mình trong vẻ đẹp mĩ lệ của đất trời. Cô có cảm giác anh có thể nhảy xuống dòng sông trăng mênh mông kia để ôm lấy vầng trăng đang sáng ngời giữa lòng hồ sâu thẳm. Từ lâu lắm rồi, Lâu đến mức cô không thể nhớ nổi trong đời mình, đã có bao giờ mình được thả mình phiêu diêu trong mây trời, trăng nước như thế này chưa. Cuộc sống tất bật của một nền văn hóa tất bật nước Mỹ làm cô quên mất cuộc đời còn có những phút tĩnh lặng thiên thần.

- Cả một dòng sông trăng như thế mà Hàn mặc Tử vẫn thấy chưa đủ-  Thành mơ màng nói tiếp
- Ông vẫn muốn nhiều trăng hơn nữa. Ông muốn những con thuyền kia.
Thành dơ tay chỉ ra phía xa xa ngoài hồ, có một vài con thuyền nhỏ đang lững lờ trôi trên sóng nước
- Chở thêm nữa ánh trăng huyền diệu về để đổ thêm vào dòng sông trăng vốn đã mênh mông. Một tứ thơ tuyệt vời có phải không chị?
- Anh Thành có làm thơ không? Hà hỏi, trong lòng đầy ngạc nhiên về sức cảm thụ thơ đầy tinh tế của anh chàng đang ngồi trước mặt mình.
- Tôi không nghĩ rằng các anh là những người như thế này
-Thế chị nghĩ chúng tôi như thế nào?- Thành cười hỏi lại
- Chắc là những con người khô cứng, quằn quại trong đói nghèo. Hằn học trong thù hận và nụ cười thì đã biến mất trên những bộ mặt khắc khổ. Có đúng vậy không?- Thành nhìn cô gái, trong mắt ánh lên một nét giễu cợt không hề che dấu
- Đói nghèo thì đúng nhưng làm gì đến mức quằn quại phải không chị? Còn nụ cười?- Thành cười. Một nụ cười rất tươi- Thì ở đâu cũng có. Chị có thể bắt gặp nó ở tất cả những khuôn mặt nào mà chị gặp

Cách nói chuyện thẳng thắn và trực diện của anh làm cô gái lúng túng. Nhưng cô công nhận là anh đúng. Từ hôm về nước đến nay, ở đâu cô cũng gặp những nụ cười thân thiện, tươi rói và tràn trề sức sống. Là một sử gia, cô đã đi nhiều nơi, đã gặp gỡ bao nhiêu khuôn mặt, đã nghiên cứu về lịch sử của bao nhiêu dân tộc và cô biết trên trái đất này có biết bao dân tộc nụ cười đã bị biến dạng vì chiến tranh, vì đói nghèo và vì thù hận nên khi đặt chân xuống sân bay, cái đầu tiên làm cho cô ngỡ ngàng lại chính là nụ cười. Cô không thể ngờ được trên mảnh đất đầy đau thương, bom đạn, máu, nước mắt và nghèo khổ này nụ cười vẫn nở trên môi mọi người như một minh chứng hùng hồn về sức sống mãnh liệt của một dân tộc
- Vâng! Anh nói đúng. –Giọng cô gái bỗng trầm xuống xa xó-  Tôi chưa hiểu mảnh đất này. Lúc còn ở bên Mỹ, thú thật với anh tôi hiểu về mảnh đất này đúng như anh nói đấy. Tôi sinh ra và lớn lên trên đất Mỹ, nhiều lúc tôi đã quên đi mất mình là người Việt Na-  Môi cô nở một nụ cười cay đắn-  Thật không thể tin nổi, một sử gia như tôi, hiểu thấu đáo lịch sử của bao nhiêu dân tộc thế mà lại không hiểu chính dân tộc của mình.
Đột nhiên, cô gái bỗng thở hắt ra một cái, cô nhìn thành tươi cười.
- Nhưng tôi vẫn còn một cái may hơn hẳn những người cùng lứa với tôi trên đất Mỹ đó là ba mẹ tôi luôn luôn kể về Việt nam cho chúng tôi nghe và không bao giờ ông cho phép chúng tôi nói tiếng Anh khi về đến nhà. Ơn trời! Tôi vẫn còn nói được tiếng Việt.
- Thế nghĩa là nhiều người vào lứa tuổi chị ở Mỹ không biết nói tiếng Việt? –Thành ngạc nhiên hỏi lại
- Vâng. ở Mỹ cuộc sống quá bận rộn, không phải ai cũng có thời gian để làm việc này
- Tôi muốn hỏi chị- Thành trầm ngâm - Với tư cách là một sử gia thì theo chị một dân tộc bị mất đi tiếng nói của mình thì dân tộc đó còn tồn tại nữa không?

Câu hỏi của anh khiến cô gái rùng mình. Trời ơi! Cô thầm kêu lên thoảng thốt. Một dân tộc hơn một nghìn năm Bắc thuộc với chính sách đồng hóa của người Tàu dân tộc ấy vẫn không mất đi tiếng nói của mình. Thế mà thế hệ của cô chỉ mới ba mươi năm tiếng nói của dân tộc ấy đang dần dần biến mất. Ý nghĩ ấy làm cô gái ớn lạnh.

Rất muộn họ mới trở về nhà khách của bộ quốc phòng. Hà không ngủ được. Buổi đi chơi đã để lại trong cô quá nhiều những cảm tưởng mới lạ. Cô mở ngăn kéo, lấy ra từ trong một cuốn sổ tay một tấm ảnh nhỏ đã ố vàng theo năm tháng. Cô chăm chú nhìn bức ảnh, một người lính giải phóng đội mũ tai bèo với một khẩu AK khoác trên vai và một nụ cười tươi thắm. Cô lặng lẽ thở dài

***

Gần hai tháng trời,Thành đưa cô gái đi khắp nơi cùng chốn. Anh không thể không khâm phục sức làm việc một cách kinh khủng của cô gái nhìn rất mảnh mai này. “Đúng là phong cách làm việc của người Mỹ” anh thầm nghĩ. Cô sục sạo mọi nơi, lôi về hàng đống tài liệu, rồi suốt đêm đọc phân loại và đưa vào máy tính.

Một buổi sáng, Thành gõ cửa phòng. Không có tiếng trả lời, anh đẩy cửa bước vào. Cô gái đang ngủ gục trên bàn. Nhẹ nhàng, anh lấy chiếc chăn mỏng khoác nhẹ lên mình cô gái. Máy tính vẫn đang mở, tò mò, anh đọc lướt qua xem cô gái ghi chép những gì. Một loạt những bảng, biểu thống kê những viện trợ quân sự của Liên Xô và Trunh quốc. Song song với những bảng đó là những bảng thống kê trang bị của quân đội Mỹ ở chiến trường Việt nam. Đang mải mê đọc những tài liệu đó, đột nhiên Thành nghe thấy tiếng hỏi ngay đằng sau lưng mình.
- Anh có suy nghĩ gì trước những bảng so sánh này?
Thành giật mình quay lại. Cô gái đã dậy từ lúc nào mà anh không biết.
- Tôi chẳng có suy nghĩ gì cả.
- Chẳng có suy nghĩ gì cả? Cô gái trầm tư hỏi lại - Lạ nhỉ! Còn tôi, khi nhìn bảng so sánh này, tôi luôn tự hỏi làm sao các anh có thể thắng được người Mỹ trong cuộc chiến ấy? - Cô cười nhìn Thành - Mà anh đừng trả lời tôi theo cái giọng cũ rích của báo Nhân Dân các anh đấy nhé
Môi cô gái chẩu ra, bai giọng: - Chúng tôi thắng vì có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, vì tinh thần….
Thành bật cười, cắt ngang lời cô gái:
- Thế chị đã tìm ra câu trả lời chưa? Chưa chứ gì? Cứ nhìn vào cách chị lập bảng so sánh tiềm lực quân sự của hai bên là tôi biết ngay chị không thể tìm được câu trả lời rồi.
Mắt cô gái sáng lên
- Anh có ý gì khác à? Anh nói đi.
- Tôi cho rằng chị phải tìm câu trả lời trong truyền thống văn hóa của dân tộc Việt và tôi nghĩ nghệ thuật quân sự cũng là một phần trong nền văn hóa đó. Theo tôi được biết - Thành nhìn cô gái ngập ngừng - Không biết có đúng không? Vì tôi không biết nhiều về lịch sử thì trên mảnh đất này vốn có một trăm bộ lạc Việt sinh sống nên còn gọi là bách Việt nhưng cuối cùng chỉ còn lại hai bộ lạc là Âu Việt và Lạc Việt còn tồn tại trên mảnh đất này. Hai bộ lạc đó kết hợp hợp lại thành chúng ta ngày nay. Mà sao chị có thể nghĩ về chúng tôi xấu như vậy được nhỉ? - Thành thở dài - Chị cũng là một thành viên trong đại gia đình ấy. Chưa bao giờ chúng tôi coi chị là người Mỹ. Với tôi, chị luôn là người Việt - Thành nói một cách chân thành, làm cô gái súc động. Cô định nói thì anh dơ tay ngăn lại - Vấn đề giữa chị và chúng tôi, tôi cho rằng không phải là cộng sản hay không cộng sản. - Giọng Thành bỗng sôi nổi hẳn lên - Đúng là đảng cộng sản đã lãnh đạo cuộc kháng chiến này thành công. Nhưng nếu không có đảng cộng sản thì chúng ta vẫn chiến thắng. Đấy là một quy luật tất yếu của lịch sử dân tộc.
Hà không tin nổi vào đôi tai mình nữa. Cô kinh ngạc nhìn Thành. Một người cộng sản chính tông vừa nói một câu không cộng sản. Quá lạ. Cô chăm chú nhìn Thành
- Anh cho tôi hỏi một câu nhé. Anh có phải là Đảng viên cộng sản không?
- Vâng, Tôi là một đảng viên. Thì sao? Thành gật đầu công nhận.
- Thế mà anh lại cho rằng không có Đảng của anh lãnh đạo thì các anh vẫn chiến thắng?
- Trước tiên tôi là người Việt chị ạ. – Anh nhấn mạnh – Là người Việt tôi tự hào về dân tộc mình. Thời nhà Trần, theo tôi được biết dân số chúng ta chỉ khoảng mười triệu người chống lại một đội quân năm mươi vạn. Nếu so sánh về tương quan lực lượng thì cuộc chống Mỹ vừa qua không thể so sánh được với cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông hồi ấy. Lúc ấy lấy đâu ra Đảng cộng sản thế mà dân tộc ta vẫn chiến thắng đấy thôi. Đúng là đảng cộng sản lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ thật nhưng không thể nói do có đảng lãnh đạo. Nói thế là cướp công lao của cả một dân tộc….

Thành định nói tiếp, bỗng nhiên anh dừng lại vì anh thấy mặt cô gái dần dần đỏ lên. Anh vội vàng hỏi:
- Chị làm sao vậy? tôi nói gì xúc phạm đến chị à?
- Không! Không! – Hà vội nói – Em cảm thấy xấu hổ vì trong mình không có được một niềm tự hào dân tộc như anh.

Tiếng “Em” thốt ra một cách vô thức nhưng đầy rung cảm

***


Tiêu đề: Re: NHững đứa con của hai người lính
Gửi bởi: Nguyễn thế Duyên trong 14 Tháng Hai, 2012, 10:28:08 pm
  Những đứa con của hai người lính (Tiếp)









***


Lại một nửa tháng nữa trôi qua. Một buổi sáng, Hà bỗng đến gặp Thành:
- Hôm nay anh bố trí cho em xe đi Thái Nguyên nhé.
- Đi Thái nguyên? Làm gì Thành hỏi. Cô gái trả lời một cách bí hiểm.
- Anh cứ đi khắc biết.

Lúc ra xe, cô gái khuân từ phòng mình ra một lô vàng mã, hương, rượu, bánh kẹo mà Thành cũng không biết cô ta chuẩn bị từ bao giờ. Tuy rất ngạc nhiên nhưng anh vẫn im lặng không hỏi. Xe bon trên đường. Ra khỏi địa phận Hà nội, thì cô gái nói:
- Hôm nay chúng ta về thăm nhà anh.
- Thăm nhà tôi? – Thành kinh ngạc phanh khựng xe lại làm cả hai dúi về phía trước.
- Vâng, anh chẳng khuyên em tìm câu trả lời trong truyền thống văn hóa của dân tộc là gì. Hôm nay em bắt đầu tìm hiểu truyền thống văn hóa đó và bắt đầu từ gia đình anh. Anh không đồng ý sao?
- Không phải thế. - Thành ngần ngừ - Có điều…..
- Có điều hôm nay là ngày giỗ của bác trai. Đúng không? Chính vì vậy mà em mới phải về nhà anh trong hôm nay.

Cô gái nói một cách cương quyết. Thành không nói gì. Anh nhả phanh. Chiếc xe lao vút đi. Lòng anh rối bời. Anh linh cảm thấy có một điều gì đó rất hệ trọng sắp xảy ra. Tại sao cô ta lại biết hôm nay là ngày giỗ bố mình nhỉ? Anh tự hỏi nhưng không sao trả lời được. Trong suốt quãng thời gian vừa qua, Thành luôn có cảm giác cô gái hiểu rất rõ về mình. Anh chợt hiểu vì sao có đám vàng hương cô gái mang theo.
Hơn mười giờ, xe về đến nhà Thành. Nhà đang rất đông người. Khi Hà bước xuống xe, mọi con mắt đều đổ dồn vào cô. Cô nghe thấy những tiếng xì xào “Xinh quá, chắc là người yêu của cậu Thành”. Một ai đó cất tiếng hỏi
- Hôm nay thằng Thành làm lễ ra mắt đấy hả?
Nhiều tiếng cười bật ra. Một lũ ba bốn đứa con gái trạc hai ba hai bốn, xúm vào cô ríu rít:
- Chị mặc kệ bọn họ, chị để em sách túi giúp cho.
- Chị với anh Thành từ Hà nội về à?
- Chị ơi….

Hà cảm thấy ngỡ ngàng trước những tình cảm thân thiết, cởi mở mà mọi người dành cho cô. Mẹ Thành từ trong nhà đi ra. Anh vội vàng giới thiệu Hà với mọi người để dập tắt những lời nói đùa vô ý.
- Giới thiệu với chị đây là mẹ tôi - Thành quay sang nói với mẹ - Thưa mẹ. Anh cố ý nói to cho mọi người nghe thấy - Đây là chị Hà một tiến sĩ ở Mỹ sang Việt nam để nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày trước. Chị ấy muốn về thăm nhà ta để tìm hiểu về truyền thống văn hóa dân tộc.

Bà mẹ Thành chưng hửng:
- Thế à, Bố anh, thế mà tôi cứ tưởng.
Mọi người cười ầm lên. Mặt Thành đỏ lựng. Bà quay sang Hà sởi lởi.
- Mời chị vào trong nhà sơi chén nước. Gớm quý hóa quá. Ngày giỗ mà cũng được chị lại thăm.
Mọi người vào cả trong nhà. Hà cẩn thận đặt đồ lễ mang theo lên bàn thờ. Cô quay ra thưa với mẹ Thành và mọi người:
- Thưa bác và tất cả mọi người. Hôm nay là ngày giỗ bác trai. Trước tiên xin phép bác cho cháu thắp nén nhang trước bàn thờ bác trai và sau đó cháu có một câu chuyện muốn được thưa lại với bác và tất cả mọi người.

Mọi người kinh ngạc nhìn nhau. Tất cả đều im lặng. Cô gái kính cẩn châm ba cây nhang, cắm vào bát hương. Lùi lại một bước, cô kính cẩn chắp hai tay trước ngực, nhìn trân trân vào bức ảnh một người chiến sĩ giải phóng đặt trên ban thờ. Đột nhiên, ngoài sự tiên liệu của tất cả mọi người, cô gái bỗng quỳ sụp xuống, lạy mấy lạy và nói to:
- Bác ơi hôm nay cháu thay mặt ba cháu đến đây để tạ tội với bác. Ba cháu rất ân hận vì đã cướp đi tính mạng của bác, người đã tha chết cho ba cháu. Cháu về Việt Nam lần này là để thực hiện di vọng cuối cùng của ba cháu là được tạ lỗi với bác và gia đình.

Lời của cô gái như một tiếng sét. Tất cả đều bàng hoàng. Một khoảng im lặng khá dài. Người lấy lại được bình tĩnh đầu tiên lại chính là mẹ Thành. Bà đi lại, nâng cô gái dậy:
- Thôi nào cháu. Đứng lên đi, có gì từ từ ta sẽ nói chuyện.
Cô gái đứng dậy, ôm chặt lấy bà nghẹn ngào:
- Bác ơi, bác tha thứ cho ba cháu bác nhé.
- Bác tha thứ. - Bà nói khẽ, tay khe khẽ vỗ về cô gái.

***

Đấy là mùa mưa năm 1974, tại đồi 601 chiến trường Tây Nguyên. Đại đội biệt động của Toàn (Bố của Hà) được trực thăng thả xuống đỉnh đồi vào buổi trưa. Chưa kịp đào xong công sự thì mới chập tối đại đội biệt động bị quân giải phóng tiến đánh. Anh lính trẻ lần đầu ra trận Toàn, một sinh viên văn khoa bị bắt lính ngay trên đường phố Sài Gòn, co dúm người lại, đạn pháo Việt cộng trùm kín đỉnh đồi. Một quả pháo nổ gần hất toàn ngã dúi vào một góc công sự. Đến lúc Toàn hoàn hồn ngẩng đầu lên thì một họng súng AK đen ngòm đang chĩa vào giữa mặt. Nhìn người lính đang chĩa súng vào mình Toàn biết, anh ta sắp bóp cò. Người Toàn nhũn ra, anh nhắm mắt đợi một tiếng nổ. Đột nhiên có tiếng quát:
- Không được bắn!
Toàn mở mắt. Một bóng đen từ phía dưới băng lên gạt mạnh người lính sang một bên. Một tiếng nổ chát chúa. Viên đạn sượt qua má Toàn bỏng rát.
- Báo cáo đại trưởng có mỗi một tên này để làm gì cho vướng.
Bóng đen vừa cứu Toàn khoát tay:
- Đưa tên này đi. Tất cả rút ngay pháo địch sắp bắn vào đây bây giờ.

Đúng như lời người vừa cứu Toàn nói. Đoàn người vừa rút ra được vài trăm thước thì đạn pháo từ Playcu đã tới tấp nã vào trận địa. Người đại đội trưởng hét to trong tiếng pháo gầm:
- Tản ra. Chạy nhanh lên! Pháo địch sắp chuyển làn đấy!
Hét xong anh ta túm cổ áo Toàn quát lớn:
- Còn mày cố mà chạy nhanh cho kịp nếu không tao có muốn cứu mày một lần nữa cũng không cứu được đâu. Hiểu chưa?
Toàn líu ríu gật đầu. Pháo bắt đầu chuyển làn rơi trúng vào đội hình hành quân. Người đại đội trưởng hét to:
- Nằm xuống! tản ra!
Nằm giữa bãi pháo bầy, nghe tiếng hú của những quả đạn pháo ngay trên đầu quả thật là kinh sợ. Không giữ nổi, Toàn vùng bỏ chạy. Người đại đội trưởng lao theo quật một báng súng như trời giáng vào lưng Toàn khiến anh ngã dúi về phía trước.
- Đồ ngu. muốn chết à?
Quát xong, nhìn vào đôi mắt đã dại đi vì sợ hãi của Toàn, anh ta nhổ một bãi nước bọt:
- Lính với chả tráng, đánh trận lần đầu hả?
- Vâng, vâng! - Toàn líu ríu.
- Nghe đây, mày có nhìn thấy gốc cây cụt kia không? – vừa nói người lính việt cộng vừa chỉ về phía trước. Toàn gật đầu - Lúc nào tao hô chạy thì cố mà chạy thật nhanh về đấy và nằm im ở đấy. Rõ chưa?
Toàn gật đầu. Một lúc sau pháo ngớt, người lính Việt cộng hô “ Chạy”. Toàn vọt lên, lăn vào gốc cây. Ngoái đầu nhìn lại, Toàn thấy người lính Việt cộng thu chân phải lại, cả người anh ta chồm lên phía trước. Đúng lúc đó, một quả đạn pháo nổ phía sau lưng anh ta, hất khẩu AK bay đến chỗ Toàn đang nằm. Hoảng sợ đến mức mất hết ý thức, Toàn vớ lấy khẩu súng,xả cả một băng đạn về phía người lính việt cộng rồi cắm cổ bỏ chạy giữa những tiếng hú điên loạn và tiếng nổ long trời của một trận pháo bầy.

***

Hà ngừng kể nhìn mọi người đang im lặng ngồi quanh cô.Giọng cô nghẹn lại:
- Bác ơi! - Cô nói với mẹ Thành - Đúng là ba con đã có lỗi với bác và gia đình nhưng con mong mọi người hiểu cho ba con. Không phải là ba con độc ác, bất nhân đâu mà đó là vì ba con sợ hãi quá mà hành động một cách vô thức. Sau này, cho đến tận lúc ba con mất, ổng luôn luôn bị giày vò vì điều đó.
- Thôi mà con, bác không trách ba con đâu. - Mẹ Thành nói nhẹ, bà đưa cho cô gái chiếc khăn tay - Lau nước mắt đi con, chuyện xảy ra đã quá lâu rồi nhắc lại cũng chẳng để làm gì. Con về đây với bác là bác đã vui rồi. Mà sao con lại biết gia đình bác mà đến?
- Chính ba con cũng không hiểu vì sao mà ổng lại sống sót trong lúc cắm cổ chạy như thế. Đến lúc mọi việc đã yên trở lại, ba con quay lại lối cũ thì thấy bác trai đã chết. Không thể làm gì khác được.
Ba con liền tháo lấy túi gùi bác trai đeo trên người và chôn ông bên cạnh dòng suối bên một tảng đá rất to. Ổng nói với con: Để cho khỏi quên ổng đã nhét vào hai túi áo ngực của bác trai hai vỏ đạn AK và bắn vào tảng đá cạnh mộ bác trai năm phát đạn. Chính nhờ túi gùi lấy được của bác trai mà ba con mới biết địa chỉ gia đình bác. Ba con đã giữ túi gùi mấy chục năm nay. Trước khi mất, Ổng có dặn con phải bằng mọi cách mang những di vật của bác trai giao lại cho gia đình và nói lại với bác mộ của bác trai để gia đình tìm kiếm.

Nói xong, Hà mở túi xách du lịch lấy ra một chiếc gùi may bằng vải dù hai tay đưa cho mẹ Thành. Trong túi gùi là một bộ quần áo bộ đội đã bạc mầu vì mưa nắng và năm tháng, một cuốn nhật kí và một tấm ảnh khổ nhỏ giống hệt bức ảnh đặt trên ban thờ. Gia tài của một người cả đời trận mạc chỉ có vậy. Mẹ Thành đỡ lấy túi gùi, ôm nó vào ngực, hai dòng nước mắt từ từ lăn trên đôi má nhăn nheo.

***

Khuya lắm rồi, Hà trằn trọc không sao ngủ được. Cô ngồi dậy, không bật đèn ngồi im lặng trong phòng. Mọi việc xảy ra không như cô dự đoán. Cô đã chuẩn bị tinh thần để nghe những tiếng chửi rủa, để nhìn thấy những cặp mắt phẫn nộ, oán hờn. Thậm chí cô đã đặt ra cả những tình huống xấu nhất. Cô bị đánh đập, trả thù. Cô đã tự đặt mình vào hoàn cảnh của gia đình Thành và cô hiểu: Không có gì có thể bào chữa cho ba mình. Giá mà mọi việc xảy ra như cô dự đoán thì tốt biết bao. Cô thầm nghĩ. Cô sẽ thấy nhẹ lòng, sẽ thấy mình được thanh thản. Sự việc không xảy ra như vậy. Không một lời chửi rủa, không một ánh mắt thù hận, chỉ có những giọt nước mắt. Điều đó làm tâm hồn cô trĩu nặng. Cô có cảm giác thêm một lần nữa mình mắc nợ gia đình này
Không thể ngủ được, cô mở cửa bươc ra ngoài sân. Giật mình, cô thấy Thành đang ngồi bên bờ ao nhìn xuống vườn chè. Điếu thuốc trên môi anh rực đỏ. Cô gái bước lại phía anh. Không quay lại, Thành hỏi:
- Chị cũng không ngủ được à?
- Em không ngủ được
Cô ngồi xuống bên cạnh Thành. Cả hai đều im lặng. Đêm yên tĩnh, tiếng côn trùng rả rích càng làm cho đêm trở nên sâu thẳm. Cô gái cắn môi. Cô không thể chịu đựng nổi sự im lặng nặng nề này:
- Sao anh lại cứ im lặng thế? Thà anh cứ mắng chửi em, hay tát cho em mấy cái em còn thấy dễ chịu hơn phải nhìn thấy anh im lặng như thế này - Đột nhiên cô túm chặt lấy vai Thành lắc mạnh - Anh! Anh đánh em đi, anh mắng chửi em đi. Em xin anh!
Giọng cô tắc nghẹn. Dưới ánh trăng Thành nhìn thấy mắt cô ướt đẫm:
- Em đã đọc Dubopsky của Puskin chưa? - Thành hỏi, rồi không đợi cô gái trả lời anh nói tiếp - Tâm trạng của anh bây giờ cũng giống như của Dubopsky ấy. Khi anh ta nâng khẩu súng lên nhằm vào kẻ thù của mình thì người con gái của kẻ thù xuất hiện và anh ta đã không thể bóp cò. Còn anh, anh không còn kẻ thù để nhằm vào. Anh biết bắn vào đâu đây? Vào em chăng? - Thành rít một hơi thuốc dài rồi ném mẩu thuốc xuống đất lấy mũi giày di cho nó tắt ngấm - Ngọn lửa thù hận đã đến lúc phải tắt rồi em ạ. Anh tự hỏi “ Lấy gì đây để lấp đi cái vực sâu thù hận giữa hai đứa chúng mình?”

Anh lấy tay nhẹ nâng mặt Hà lên, nhìn vào mắt cô. Hà ôm lấy anh thì thầm:
- Tình yêu! Chúng ta hãy lấy tình yêu để lấp đi cái vực sâu thù hận ấy.

Trăng trong quá. Đêm yên tĩnh quá và tình yêu đẹp quá.

Nguyễn Thế Duyên




Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 26 Tháng Ba, 2012, 08:33:12 pm
Kỷ niệm Tuy Hòa
   
      


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 28 Tháng Ba, 2012, 10:28:27 am
Kỷ niệm Tuy Hòa
   
        Cơn gió lốc của cuộc truy kích địch trên Cao Nguyên miền Trung tháo chạy theo liên tỉnh lộ 7B cuối tháng 3/1975 đã cuốn chúng tôi về đến đồng bằng Phú Yên. Trong đội hình rút chạy, ngoài các đơn vị trợ chiến, địch vẫn còn khoảng một trung đoàn bộ binh, nhiều đơn vị thiết giáp và một Liên đoàn Biệt động quân Biên phòng. Bị chặn đánh tại Thị trấn Củng Sơn, quân địch bị thiệt hại nặng, nhưng vẫn còn một số lớn lọt về đến Thị xã Tuy Hòa của tỉnh Phú Yên. Chúng cùng lực lượng tại chỗ co cụm lại trong Thị xã để chống trả quân giải phóng. Lúc này Đà Nẵng và Quảng Ngãi đã được giải phóng. Phía bắc Phú yên chỉ còn có tỉnh Bình Định vẫn do quân ngụy chiếm giữ và làm lá chắn tạm thời cho Phú Yên.

   Hai trung đoàn chủ lực của ta nhận nhiệm vụ đánh chiếm Thị xã Tuy Hòa.  Trung đoàn chúng tôi sẽ đánh Thị xã từ hướng Nam phía cầu Đà Rằng có đồi Nhạn Tháp. Tiểu đoàn chúng tôi là chủ công của Trung đoàn nên được làm mũi xung kích. Ngày 29/3, chúng tôi tập kết bên một cánh rùng nhỏ cạnh bờ sông máng, tổ chức hậu cần và bổ sung đạn dược. Đêm 31 tháng 3, chúng tôi theo chân du kích dẫn đường lần ra sông Ba rồi cứ men theo bờ phía Bắc đó mà tiềm nhập áp sát cầu Đà Rằng. Trên bờ cát ven sông toàn là ruộng dưa hấu. Những quả dưa đã già đến độ, to như chiếc mũ sắt nằm lăn lóc khắp ruộng. Phía Đông nhìn rõ cây cầu Đà Rằng vắt ngang sông Ba. Hai bên thành cầu sáng rực đèn pha. Nhiều tốp lính ngụy canh gác đi lại trên cầu, chốc chốc lại quăng lựu đạn xuống lòng sông nhằm ngăn đặc công nước đánh cầu. Nhìn những cột nước dựng lên liên tiếp dưới lòng sông, tôi thầm nghĩ: "Kiểu này chắc quanh chân cầu chẳng có con cá nào sống nổi".

        Suốt đoạn đường hành quân tiềm nhập, không gặp phải vị trí chốt giữ nào của địch. Thậm chí bóng dáng của bọn lính địa phương quân vốn tràn ngập ở các thôn xã do địch nắm giữ cũng chẳng thấy đâu. Chúng tôi cứ thẳng người, im lặng mà đi. Đội hình của cả một tiểu đoàn cứ rậm rịch bước trong đêm. Gần đến khu vực cầu, chúng tôi rẽ vào một thôn nhỏ. Đèn trong các nhà dân đều tắt, tối om, nhưng chúng tôi biết người dân chắc không ngủ được mà vẫn còn thức để nghe ngóng. Đây là vùng địch, nhưng những người dân có lẽ đã biết rõ tình hình chiến sự, quân giải phóng đang thắng lớn khắp nơi và truy đuổi quân ngụy hết tỉnh này qua tình khác như một cơn lốc, nên họ thu mình lại trong nhà để tránh tên bay đạn lạc. Còn tụi chính quyền thôn ấp, chắc cũng tự tan rã hết rồi nên chúng tôi đi trên đường làng mà cảm giác bình an như hành quân trên đất Bắc.

   Mờ sáng ngày 1/4/1975, đơn vị chúng tôi đã nép mình chiếm lĩnh ven các bờ ruộng và con mương gần một bốt điện nhỏ chỉ cách Quốc lộ 1 đầu cầu Đà Rằng có một trăm mét. Tụi địch đã co quân lại sát trục đường 1, chứng tỏ chúng cũng đang nao núng trên con đường tháo chạy. Chúng tôi dàn hỏa lực DK và cối 82, cối 60 chuấn bị giờ nổ súng.

   5 giờ, trời đã sáng rõ mặt người. Vẫn như thời gian mở màn các trận công đồn quen thuộc, chúng tôi được lệnh nổ súng. Đạn DK cấp tập một loạt vào hướng con đường bốt điện, còn cốí 82 và cối 60 tập trung bắn lên con lộ 1 đầu cầu Đà Rằng. Đèn trên cầu Đà Rằng vụt tắt ngấm, bọn địch bắt đầu xả súng bắn trả. Trên ngọn Nhạn Tháp, một khấu DK của địch cũng dập đạn về hướng chúng tôi. Do bị độ cong của quả núi và dãy nhà ven đường 1 chắn tầm nhìn nên chúng chỉ bắn được ra xa, về phía sau lưng chúng tôi. Đại đội tôi được lệnh áp sát lên để tránh đạn DK của địch. Cả đại đội dồn B40 và B41 bắn cấp tập lên đường 1, rồi chúng tôi xung phong. Quân địch vốn đang hoang mang lại không có công sự ẩn tránh nên tan rã nhanh chóng. Chỉ 20 phút tính từ lúc nổ súng, chúng tôi đã chiếm lĩnh được mặt đường 1. Trên đường 1 và mặt cầu Đà Rằng chỉ còn lại một số xác lính. Bọn địch, phần đã rút vào trong Thị xã, phần vượt qua cầu Đà rằng sang bờ Nam của quận Hiếu Xương. Đại đội tôi vận động về bên trái, đánh theo đường 1 vào Thị xã. Tôi được lệnh dẫn trung đội tách ra theo con đường nhựa đánh thẳng lên khu đồi Nhạn Tháp phía bên kia đường 1. Trên căn cứ này vốn chỉ có một khẩu đội pháo 105 của địch kèm một trung đội bộ binh bảo vệ. Tụi lính pháo binh đã bỏ chạy hết. Đám bộ binh chỉ còn lại mươi tên, chống cự yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng. Chúng tôi làm chủ khu Nhạn Tháp cũng chỉ trong vòng hai chục phút, không có ai bị thương vong. Một tiểu đội của Bộ đội địa phương chừng non chục người, tay đeo băng đỏ không biết từ đâu xuất hiện và cũng nhanh chóng bám theo chân chúng tôi chỉ sau chừng dăm phút. Họ giúp chúng tôi tiếp quản mấy tên tù binh và tổ chức cảnh giới theo sự phân công của chúng tôi.
...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 30 Tháng Ba, 2012, 11:44:44 am
...
      Lực lượng chính của đại đội tôi và các C khác trong tiểu đoàn tiếp tục theo đường 1 tiến vòng ra sau Trường Kỹ nghệ, theo một con đường lớn (Đường Trần Hưng Đạo) đánh dọc ra biển. Cạnh con đường này bên phía tay phải có một bệnh viện, đầy thương binh của địch. Các nhóm tàn quân địch rút về và trụ lại đây chống trả. Chúng đặt trung liên Bar trên tầng gác bắn xối xả xuống mặt đường làm tiểu đội xung phong đầu hy sinh gần hết. Súng B40, B41 không bắn được lên cao vì góc tạt lửa rất thấp. Đơn vị tôi chỉ còn AK và cối cá nhân M79, chia thành nhiều tốp nhỏ yểm hộ nhau đánh lấn lên tiếp cận tiêu diệt địch, làm chủ khu bệnh viện. Tiểu đoàn đánh tiếp thẳng ra biển. Tụi lính địch tháo chạy ra biển đã vứt lại trên con đường sát biển ngổn ngang xe ô-tô các loại và đầy vũ khí, quân trang quân dụng. Chúng theo các xuồng, thuyền chèo ra một chiếc tàu biển neo đậu ngoài xa. Rất nhiều tên không có thuyền cũng ào xuống tự bơi và chắc bị chết đuối cũng nhiều. Những tên không bơi kịp bị bộ đội ta truy kích đến nơi phải quay lại đầu hàng. Quân ta cũng không bắn theo tụi đã bơi ra xa vì đã ngoài tầm đạn.

   Trên đỉnh Nhạn Tháp, chúng tôi vớ được ống nhòm và quan sát rõ tất cả. Vài anh em trong trung đội đề nghị tôi cho quay hướng nòng khấu pháo 105 ly thu được của địch để bắn đại ra biển, tiêu diệt bọn địch đang bơi ngoài biển bằng sức ép. Tôi nghĩ một lát rồi không đồng ý. Phần vì trong trung đội tôi không ai biết sử dụng pháo 105ly, phần nghĩ rằng những người đang bơi trên biển là những kẻ đường cùng trong tay không có vũ khí, bắn thế thì tàn nhẫn quá. Chúng tôi chỉ chia nhau nghỉ ngơi, canh gác, lục tìm trong các hầm ở căn cứ tìm đồ ăn bữa trưa.

       Buổi chiều có nhiều người dân mò lên căn cứ Nhạn Tháp làm quen với chúng tôi. Trên khu căn cứ này lúc địch rút chạy còn bỏ lại khoảng chừng ba chục chiếc xe máy loại Hon-da nữ 50cc, và Hon-da 67. Nghĩ rằng chúng tôi còn theo đường 1 chiến đấu tiếp, chả kịp bàn giao gì cho các đơn vị bộ đội địa phương có lực luợng ít mà Thị xã lại quá rộng, nên khi những người dân ngỏ ý xin, chúng tôi đã cho hết.

   Chiều tối, theo lệnh trên, chúng tôi nhập vào cánh quân chính của đại đội và rút tạm ra ngoài Thị xã. Chúng tôi lại về một thôn nhỏ nằm trên con đường mà đêm qua lúc tiềm nhập chúng tôi đã đi qua, cách thị xã Tuy Hòa chỉ chừng 2 cây số. Trung đội tôi được sắp xếp vào ở nhờ một nhà dân. Nhà khá rộng, có sân gạch, giếng nước. Khoảng hè và một góc sân nhỏ đủ cho hơn chục người trong trung đội chúng tôi giải ni-lon nghỉ qua đêm. Đây là lần đầu tiên kể từ khi vào chiến trường, tôi được nghỉ đêm tại một nhà dân, trên một cái sân gạch sạch sẽ giống như những sân gạch quê tôi.

   Gia đình chủ nhà có hai ông bà già, một cô gái 18 tuổi tên là Hoa và dưới đó là lóc nhóc tám chín đứa trẻ cả trai lẫn gái. Người miền Nam đẻ nhiều con thật. Họ niềm nở mời chúng tôi quét dọn sân lấy chỗ nghỉ, giúp chúng tôi kéo nước rửa mặt và chân tay ngoài giếng, chỉ chỗ bếp cùng củi cho chúng tôi nấu cơm. Bà chủ nhà còn cắt hai quả bầu to trên giàn đưa cho chúng tôi làm thức ăn. Thật là quý hóa. Thế là chúng tôi mượn nồi to rồi phân công nhau nấu cơm và tranh thủ nghỉ ngơi. Từ lúc đánh đuổi địch trên đường 7B ở Cheo Reo, chúng tôi đã lấy được rất nhiều gạo của địch và nấu ăn thoải mái theo ý thích, không phải hạn chế. Khi chúng tôi nấu cơm xong, gia đình nhà chủ cũng vừa dọn cơm để ăn. Lúc này tôi mới để ý là không hiểu nhường cả nồi và bếp cho chúng tôi rồi thì gia đình nấu bằng gì, vào lúc nào. Tôi lại gần thì mới phát hiện ra cả nhà ông bà chủ, số người đông không kém gì trung đội chúng tôi đang ngồi ăn bánh đa.

          Tôi đã nghe nói trong các gia đình nông thôn miền Nam thường hay ăn thêm bánh đa nướng trong bữa cơm, nhưng sao ở đây chỉ có bánh đa mà không có cơm. Tôi cố gặng hỏi mãi bà chủ nhà mới cho biết gia đình đã hết gạo, mấy bữa nay chỉ còn ít bánh đa đem ăn dần. Thế là tôi liền quyết định dồn chung cả trung đội chúng tôi và gia đình nhà chủ làm thành một mâm dài giữa sân và cùng ăn chung. Tất cả mọi người đều ăn cơm và bánh đa. Thức ăn thì chỉ có nồi canh bầu to. Không khí bữa ăn thật vui vẻ và đầm ấm. Kết thúc bữa cơm, mọi thứ đều nhẵn như chùi.

   Sau bữa cơm, chúng tôi còn cùng gia đình đun nước pha  chè uống. Loại chè gói miền Nam có tên Blao, chúng tôi mới lấy được của địch khá nhiều khi đánh vào Cheo-reo. Cô Hoa là tâm điểm cho cả đám lính chúng tôi trêu chọc, cười đùa. Không khí thật vui vẻ, chẳng ai nghĩ rằng chúng tôi vừa mới đi qua một trận chiến đấu cách đây chỉ có hơn chục tiếng đồng hồ.

   Đêm hôm đó, chúng tôi thức rất khuya. Nửa đêm, Hoa vẫn còn đun nước để đổ dần vào bi-đông cho trung đội chúng tôi. Tôi vào bếp ngồi nói chuyện với Hoa. Bếp đun củi với mấy hòn đất làm kiềng thì chắc khắp đất nước mình giống nhau. Rì rầm nói chuyện, rồi Hoa mới cho biết cô còn có hai người anh là lính ngụy hôm qua còn gác trên cầu Đà Rằng, bữa nay không biết sống chết ra sao. Thảo nào mà lúc chiều anh du kích thôn cứ ngần ngừ một lúc lâu rồi mới quyết định dẫn trung đội chúng tôi vào đây nghỉ nhờ qua đêm. Bộ đội giải phóng đông quá, chứ nếu không, chắc anh không phải nhờ đến gia đình này. Tôi an ủi Hoa, nhưng thực tình lúc đó cũng không biết nói gì. Chúng tôi đang là người chiến thắng, quân lính Sài Gòn đang tan rã và những người lính VNCH đang tìm cách trở về nhà. Cũng có người tìm cách lẩn trốn vì họ sợ bị phía giải phóng trả thù. Tôi cũng nuôi hy vọng cho Hoa là trong trận đánh sáng nay quân Sài Gòn chạy là chính, số bị chết rất ít.

   Chuyện vẩn vơ, và rồi tôi còn được biết hai quả bầu gia đình cắt cho chúng tôi nấu ăn lúc tối là hai quả bầu cuối cùng trên giàn mà gia đình định giữ làm giống. Tôi cảm động và cảm ơn Hoa.
...


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 03 Tháng Tư, 2012, 01:21:12 pm
...
         Sáng sớm hôm sau, tôi hội ý với anh em trong trung đội, rồi tổ chức nấu thật nhiều cơm, đủ để nắm cho mỗi chúng tôi một nắm cơm ăn trưa, còn lại thì ăn sáng với gia đình. Thức ăn chỉ có muối rang, nhưng như thế cũng quý rồi. Chúng tôi còn san lại cho gia đình chủ nhà cả chục cân gạo. Sau đó chúng tôi tập trung rồi hành quân tiếp cùng cả đại đội. Cả đại đội được lệnh tảo thanh khu Nam thị xã Tuy Hòa và tổ chức canh gác cầu Đà Rằng.

   Cùng với Phú Yên, Bình Định cũng đã được giải phóng. Trên đường 1 lũ lượt một dòng xe đò, xe tải chở đầy người từ phía Bắc di tản vào trong Nam. Chúng tôi biết người dân đang chạy "giặc" vì chưa hiểu bộ đội giải phóng, nhưng chúng tôi cũng không có quyền ngăn cản, chỉ khuyên họ một đôi câu rồi phải mở Barie cho họ đi qua. Riêng những thanh niên và đàn ông trung niên, chúng tôi bắt quay trở lại hướng Bắc hết. Trong số họ có rất nhiều người là lính Sài Gòn đã mặc thường phục để tìm cách chạy vào Sài gòn. Cũng có thể họ tìm cách về nhà trong đó thật, nhưng nếu vào trong đó họ lại đầu quân trở lại vào các đơn vị thu dung của địch thì rất không hay cho chiến sự. Vì thế chúng tôi giữ lại hết rồi tạm giao cho bộ đội địa phương quản lý. Lúc khoảng mười giờ, tôi thấy một ông già cứ tìm cách khóc lóc van xin bộ đội cho qua cầu Đà Rằng sang quận Hiếu Xương ở bờ Nam sông Ba mà không được. Tôi lại gần và nhận ra ông chủ nhà tối qua. Thấy tôi, ông nắm tay tôi mừng rối rít và cho tôi biết ông muốn sang đó tìm hai đứa con trai. Phần nể nang, phần nghĩ điều đó không hại gì nên tôi đã đưa ông qua cầu sang bờ phía Nam để cho ông đi tìm con.

   Gần như cả ngày hôm đó chúng tôi chỉ lùng sục quanh các khu phố ở Thị xã. Nhà nào có người, chúng tôi chỉ hỏi qua, rồi tuyên truyền chính sách an dân vùng giải phóng của cách mạng. Rất nhiều nhà vô chủ. Chúng tôi chỉ vào những nhà không khóa cửa. Thật là tội nghiệp. Nhiều người dân đã hoảng loạn bỏ chạy, chỉ đem theo các đồ nhẹ, còn các thứ khác vẫn nguyên. Hầu như trong các nhà đó, chúng tôi đều có cảm giác như họ vừa mới đi thôi, mọi đồ sinh hoạt như đang dở dang. Buổi trưa nghỉ chân trong một căn nhà như thế, tôi đã tò mò giở xem mấy cuốn truyện trên giá sách. Phần lớn là truyện của các văn sĩ Sài gòn. Có một cuốn truyện mang tên "Châu Kool" của nhà văn Duyên Anh viết theo giọng tự kể của một vũ nữ, nội dung phơi bày cả một mảng đời sống xã hội của một lớp quan chức chính quyền và kẻ có tiền trong chế độ Sài Gòn.

         Tôi còn thấy một cuốn nhật ký và đã tò mò xem. Chủ nhân của nó là một nữ sinh đang học Tú tài bán phần. Nhẩm ra thì cô ấy cũng chỉ kém tôi có dăm sáu tuổi. Lời lẽ học trò, câu chuyện trường lớp và bạn bè khiến tôi đọc mà mụ người đi. Trong một khoảnh khắc nào đó, tôi đã quên mình là một người lính đang ôm khấu AK trong lòng, mà tưởng như đang còn là học sinh và đang nghe lời thầm thì của một cô bạn trong lớp cấp 3 thuở nào. Tôi rất muốn lấy một cuốn truyện, hay cuốn nhật ký của cô nữ sinh không quen biết đó để làm kỷ niệm chiến tranh. Tôi sẽ viết một bức thư để lại cho người bạn chưa quen biết ấy, kể cho cô ấy biết có một người lính Bắc Việt trên đường chinh chiến đã mạo muội nghỉ chân nhờ trong nhà cô ấy vào một buổi trưa, đã mạn phép xem truyện và nhật ký của cô, đã có những cảm xúc bột phát trong tưởng tượng về cô, và lại mạo muội lấy đi của cô một cuốn sách để làm kỷ niệm. Trái đất tròn, biết đâu sau này chẳng có lúc được gặp nhau. Nhưng cuối cùng tôi không làm điều gì cả. Ai biết chiến tranh còn kéo dài tới bao giờ, dù lúc này quân ta đang thắng lớn. Rồi sau này có người phát hiện ra việc tôi làm, qui tội vi phạm chính sách, ủy mị này khác cho mình thì biết phân bua thế nào.

   Buổi chiều, tôi dẫn trung đội đi tiếp sang các khu phố khác. Hầu như chúng tôi chỉ kiểm tra được tình hình chung nào đó chứ không phát hiện ra lính ngụy lẩn trốn hay có vũ khí trong các gia đình nhà dân. Trong cả ngày, tình hình như có vẻ ổn.

   Buổi chiều hôm qua khi khói súng vừa tan, sau lưng bộ đội giải phóng và du kích địa phương, đã có những kẻ đi hôi của. Chủ yếu là đám thiếu niên, phụ nữ và vài người lớn tuổi. Họ đã phá tung cả một chi nhánh ngân hàng ngay phía đầu vào Thị xã và cướp tiền. Bộ đội chúng tôi còn mải nhiệm vụ chiến đấu nên cũng không can thiệp. Một vài cửa hàng cũng bị cướp phá, không phải do tụi lính ngụy, mà do những người dân bất hảo gây ra.

   Ngày hôm nay tình hình có vẻ yên vì lực lượng bộ đội giải phóng và du kích địa phương đang kiểm soát. Ngoài những cửa hàng vô chủ đã bị phá hôm trước, các nhà dân dù vô chủ vẫn giữ yên lành. Chắc bây giờ chúng tôi sẽ không ngần ngại nổ súng tiêu diệt những kẻ cướp bóc đó, nếu bắt gặp.
...

   


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 03 Tháng Tư, 2012, 02:16:31 pm
@Trinhsat: Hôm nay đọc Những đưa con của 2 người lính của bác tôi đã tìm thấy câu trả lời cho thế hệ chúng ta khi cầm súng là vì đất nước này và vì dân tộc này. Chắc chắn cái đó đều chảy trong huyết quản tất cả chúng ta trong cuộc chiến 30 năm vì độc lập và thống nhất giang sơn.

Tôi có đề nghị như thế này bác nên cho ra tập sách này của bác đi cũng như Nó và Tôi của NNT, cùng các bài thơ, bài viết của NTL để cho Kho sách của DN-GN thêm phong phú.   


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 05 Tháng Tư, 2012, 11:20:53 am
...
         Buổi tối, trung đội tôi được lệnh nghỉ lại tại Trường Kỹ Nghệ phía Nam Thị xã. Những người quản lý ở đây đã bỏ chạy hết. Tôi vào trong khu phòng thí nghiệm và giảng dạy, thấy rất nhiều dụng cụ mô phỏng cho học tập. Tôi đã say mê ngẩn người ra trước những sơ đồ mô phỏng rất sinh động của các loại mạch điện, của ô-tô, của động cơ đốt trong hay máy phát điện. Những thiết bị thật hẳn hoi được gắn trên những tấm mi-ca lớn kèm theo nét vẽ sơ đồ, có đèn điện nhấp nháy tạo cho người xem hình dung rất rõ cấu tạo, nguyên lý cũng như quá trình hoạt động của nó ra sao.

         Nhớ lại ngày học phổ thông, giáo cụ trực quan của chúng tôi cũng chỉ là những hình vẽ trên giấy khổ lớn, thiếu hẳn sự sinh động, nếu trí tưởng tưởng hạn chế thì cũng chẳng hiểu được bao nhiêu. Nếu học sinh chúng tôi mà cũng được học trên những đồ dùng học tập như ở đây thì sẽ hiểu bài nhanh biết bao. Tự nhiên tôi nghĩ quẩn, nếu mình lấy được những thứ này đem về gửi tặng ngôi trường phổ thông mình đã học thì sẽ là một món quà vô giá trong chiến tranh để giúp cho những lớp học sinh đàn em. Tôi biết là khi chúng tôi rút đi khỏi đây mà chẳng bàn giao được cho ai, vì lực lượng địa phương cũng chẳng có đủ người mà tiếp quản, thì những thứ quý giá này rồi cũng bị lấy cắp hay phá hỏng hết. Nhưng thôi, tiếc cũng chẳng làm gì vì có ai trong chúng tôi biết được chiến tranh còn kéo dài đến bao giờ đâu.

   Sau trường Kỹ Nghệ có một khu đất nhỏ trồng toàn rau muống, chắc của những nhân viên ở đây trồng để cải thiện bữa ăn. Nghĩ để mọc già cũng phí, lại vô chủ nên chúng tôi đã mạn phép hái và nấu cho cả trung đội một bữa toái loái. Lần cuối cùng chúng tôi được ăn rau muống có lẽ cũng cách đây đến gần 4 năm rồi. Lính tráng sống trên rừng thì lúc nào mà chả thèm rau. Chỉ là món rau muống luộc chấm nước muối có pha mì chính thôi mà sao ngon thế, cả trung đội chén sạch chẳng bỏ lại cọng nào.

   Thị xã về đêm có vẻ yên ắng, nhưng không yên tĩnh. Thị xã được giới nghiêm về ban đêm. Bộ đội đã tổ chức các nhóm tuần tra 3 người đi tuần dọc theo các phố và lập nhiều chốt gác. Nhưng lác đác có vài vị cán bộ chủ quan đi lẻ từ khu này sang khu khác đã bị bắn tỉa. Khi đơn vị chính được điều đến kiểm tra lục soát thì lại chẳng phát hiện được gì. Chúng tôi đành co cụm lại vì không có kinh nghiệm chiến đấu trong trường hợp như thế này.

   Ngày hôm sau, chúng tôi vẫn tiếp tục công việc tảo thanh. Thị xã trở lại nếp sinh hoạt cũ một cách nhanh chóng. Tại các khu căn cứ cũ của địch vẫn chỉ có bộ đội giải phóng, người dân ít đi lại trên đường phố, nhưng lác đác đã có hàng quán mở cửa bán các đồ tạp hóa hay ăn uống. Chúng tôi được lệnh không vào các cửa hàng đó.

   Đầu giờ chiều, chúng tôi được phổ biến chiều tối sẽ tập kết về khu vực ngoại thị hôm trước để hành quân tiếp vào phía trong. Tôi chợt nhớ đến gia đình cô Hoa mà chúng tôi nghỉ nhờ đêm trước, và nảy ra một ý định táo bạo, sẽ lấy một ít gạo trong kho của địch để giúp cho gia đình cô ấy. Tôi dặn lại trung đội tập trung chốt giữ một vị trí gần cầu Đà Rằng rồi dẫn Thanh Sai, một chiến sĩ trong trung đội đi ra đường cái. Lúc này trên các con đường của Thị xã Tuy Hòa, ngoài các xe vận tải quân sự chở hàng và người của bộ đội, còn có nhiều du kích địa phương đeo băng đỏ mang súng AR15 đí trên các xe Jep cũ của địch chạy quanh các con đường. Họ vừa biểu dương lực lượng, vừa đi tiếp quản các vị trí, nhất là các khu kho hàng của địch. Tôi vẫy một chiếc xe Jep chạy qua và yêu cầu chở chúng tôi đến kho gạo. Người lái xe cùng hai du kích trên đó đã vui vẻ chở chúng tôi chạy thẳng theo con đường lớn Trần Hưng Đạo ra biển. Dọc theo biển Tuy Hòa là cả một khu quân sự với nhiều kho hàng lớn của địch. Chúng tôi chia tay họ tại bãi biển. Biển Tuy Hòa lộng gió nhưng sóng nhỏ. Trên bờ cát la liệt quần áo và quân trang quân dụng của lính ngụy vứt bỏ lúc tháo chạy hôm trước. Tôi và Sai chạy ào xuống nước, để nguyên quần dài lội ra ngập đến đầu gối. Chúng tôi cùng khỏa nước và cười vang. Tôi bảo Sai:"Thế là bàn chân bọn mình đã đi ngang qua đất nước từ rừng Trường Sơn đến Biển Đông rồi đấy". Sai cũng cười và đập nước tung tóe.

   Chúng tôi đi vào khu kho và tìm đến kho gạo. Cả một nhà kho dài chứa đầy các bao tải gạo loại 45 kg bằng vải dứa trắng, có ghi chữ Thái Lan. Một nhóm 3 người thanh niên mặc đồ thường phục đeo băng đỏ, đội mũ tai bèo, khoác túi dết và cầm sổ tay ghi ghi chép chép, sau đó chỉ tay và ra lệnh cho mấy nhóm người bốc gạo  đưa lên hai chiếc xe Jép đậu ngoài cửa. Tôi tiến vào yêu cầu lấy hai bao gạo. Người thanh niên lớn tuổi hơn có lẽ là phụ trách nhìn tôi hơi có vẻ ngỡ ngàng, rồi giải thích đây là kho gạo đang cấp cho các đơn vị du kích địa phương, không phải của bộ đội. Tôi biết trong tình tình à uôm này thì mọi quy định chỉ là ước lệ, nên tôi nói đại tên đơn vị và bảo anh ta, chúng tôi là nhóm trinh sát tiền trạm cần đi gấp, không thể chờ xe hậu cần bộ đội được, yêu cầu giúp đỡ. Tôi nhấn mạnh thêm là bằng bất cứ giá nào chúng tôi cũng phải có gạo cho bộ đội hành quân. Tôi biết cái kho to lớn này lực lượng địa phương mới tiếp quản nên cũng chưa thể kiểm kê kiểm soát hết được, nên cũng không thể nguyên tắc với chúng tôi. Vả lại thấy chúng tôi nói giọng Bắc, nét mặt hầm hầm, AK lăm lăm trong tay nên anh ta chùng giọng xuống bảo người bên cạnh kéo hai bao gạo ra cửa kho cho chúng tôi. Anh ta còn hỏi tôi, đồng chí chở gạo bằng gì? Đang loay hoay chưa biết mang đi bằng cách nào thì một cậu thanh niên trên chiếc xe Jép phía ngoài đã lên tiếng lởi xởi: " Xe tụi em ra ngoài cầu Đà Rằng đây, mấy anh có qua hướng đó thì đi cùng tụi em". Đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh, tôi mừng rỡ líu ríu cảm ơn anh ta rồi cùng mấy người bỏ hai bao gạo lên xe. Xe của anh ta có ba người, cũng chỉ chở có hai bao gạo, thêm chúng tôi và hai bao gạo nữa cũng không chật lắm. Chúng tôi leo lên xe ngồi xoài lên những bao gạo.

   Xe chạy tới đầu cầu Đà Rằng thì gặp chốt của trung đội tôi. Chúng tôi vần gạo xuống đất, cảm ơn và chia tay mấy người du kích. Chiếc xe Jép lại chạy lên cầu qua bờ nam sông Ba. Anh em trong trung đội tôi tròn xoe mắt nhìn, không hiểu tôi và Sai lấy đâu ra gạo, và định làm gì. Tôi nói ý định và mọi người nhất trí luôn.

   Cuối chiều hôm đó, một chiếc xe tải GMC đến đón trung đội tôi về vị trí tập kết của đại đội hôm trước. Chúng tôi sẽ ăn cơm tối tại bãi cỏ đầu thôn để tối còn hành quân luôn. Tôi và Sai tranh thủ lấy 2 chiếc xe đạp mà chúng tôi đã lấy theo lúc chiều ở khu Trường Kỹ Nghệ chở 2 bao gạo đem vào nhà Hoa, cũng chỉ cách đó dăm trăm mét. Chúng tôi nói ý định với gia đình và tặng luôn cả gạo và xe đạp rồi quay ra, cũng không kịp uống chén nước. Bà chủ nhà cứ nắm lấy tay tôi  cảm ơn và rơm rớm nước mắt. Hoa đứng bẽn lẽn ở góc sân, lí nhí chào  chúng tôi.

   Việc làm của chúng tôi cả đại đội đều biết.

   Đêm đó chúng tôi hành quân bằng xe GMC ngược lại Cheo reo Phú Bổn. Chúng tôi trở lại đường 14, hành quân qua Ban Mê Thuột, xuống Lâm Đồng rồi về Bình Dương chuẩn bị đánh căn cứ Đồng Dù. Khi đã yên vị, có thời gian, anh Mỵ chính trị viên đại đội mới gọi tôi ra phê bình. Anh bảo việc lấy gạo giúp dân của tôi về ý định thì đúng, nhưng cách làm lại sai, vô tổ chức. Cả thôn đó cần cứu trợ chứ đâu chỉ có riêng gia đình mà trung đội cậu trú quân. Đáng lẽ phải báo cáo cấp trên, làm việc gì cũng phải có chủ trương, mệnh lệnh và tập thể chứ. Cậu làm thế là cá nhân chủ nghĩa, bột phát, có khi lại gây mất đoàn kết trong dân vì nhà được nhà không, khiến họ nghĩ là bộ đội có người này tốt, người kia không tốt. Tôi chỉ biết im lặng nhận lỗi, nhưng vẫn nghĩ việc làm của mình cũng không phải là xấu, nên chẳng mấy bận tâm. Những trận chiến đấu vẫn còn đang chờ chúng tôi phia trước. 
.....



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 09 Tháng Tư, 2012, 10:38:07 am
...
*
   Miền Nam được giải phóng. Hai năm sau tôi được ra quân. Trên đường ra Bắc, tôi có ghé qua Thị xã Tuy Hòa. Tôi đã đến đúng cái bãi cỏ mà trong buổi tối cuối cùng ở đây ngày trước, cả đại đội tôi đã ăn cơm và lên xe hành quân. Chỗ này cách nhà cô Hoa mà chúng tôi đã trú quân đêm 1/4/1975 không xa. Tôi trở ra Bắc, về nhà rồi thì chắc cũng không còn có dịp vào đây nữa. Vì thế, tôi định tìm vào nhà Hoa thăm cô và gia đình lần cuối, xem họ sinh sống ra sao. Có lẽ khi nhận ra tôi, họ cũng sẽ rất vui mừng. Tôi rẽ vào quán nước đầu làng uống chén nước. Vài người dân trong quán nhìn tôi bình thản, nhưng tôi lại nhìn thấy trong mắt họ một sự dè dặt và nghi ngại. Tôi lặng im ngồi uống nước, nghe chuyện họ và suy nghĩ một chút.

   Không kể những người lính, sĩ quan và công chức chế độ Sài Gòn đã vội vã di tản lúc tàn chiến cuộc, còn có rất nhiều gia đình có người phải đi học tập và cải tạo, vì người dân miền Nam sống dưới chế độ Sài Gòn thì có mấy nhà mà không liên quan cho được. Lúc mới giải phóng chúng tôi vẫn phải đóng quân nhờ nhà dân và chúng tôi đã tưởng là mình được sống trong lòng nhân dân như ở hậu phương miền Bắc. Thực tế không hoàn toàn vậy. Trong lòng dân ở đây, chúng tôi phải chọn nhà không bị liên quan hay chỉ liên quan ít đến ngụy quân ngụy quyền để ở nhờ. Chúng tôi đã thấy, dù là nhà nông thôn thì cuộc sống của người dân trong Nam vẫn có gì đó khác hơn nông thôn miền Bắc. Ở các khu ngoại thị thì lại khác nhiều hơn. Tôi là lính Hà Nội, gia đình chỉ là công chức thường nhưng tôi cũng hơn rất nhiều anh em khác trong đơn vị ở sự học hành và hiểu biết. Tôi cũng đã được nhìn thấy cái máy "vô tuyến truyền hình", biết tiếng Anh gọi là Television hay TV, biết cái tủ lạnh và biết phụ nữ có áo nịt ngực lồng đệm mút. Nhà tôi cũng có tới hai chiếc xe đạp. Vì thế tôi không đến mức ngơ ngác sĩ diện khoe với dân miền Nam là "ngoài Bắc Ti vi chạy đầy đường" vì tưởng nhầm đó là một loại xe máy, hay ngớ ngẩn đến mức lấy cái áo ngực của phụ nữ đem cắt đôi ra làm phin lọc cà-phê vì trong đó có lớp mút.

   Chúng tôi được học tập rằng miền Nam dưới thời Mỹ-ngụy đang đi theo chế độ tư bản"giãy chết" và cuộc sống của người miền Nam chỉ là "phồn vinh giả tạo", nhưng quả thật đem so ra thì thấy cuộc sống của người dân miền Bắc, nhất là ở nông thôn thì còn nghèo nàn  và thiếu thốn  nhiều lắm. Thời chiến tranh ở miền Bắc mà có ông cán bộ nào trong xã vừa đi xe đạp quệnh quạng trong làng, vừa vặn to cái đài bán dẫn đeo ở túi dết bên hông thì "oách" và vênh vang lắm, thơm lây cả họ. Nhưng ở trong Nam thì có vẻ những thứ đó không xa lạ với người dân. Tuyên truyền chính trị là thế, quán triệt lính tráng coi thường vật chất là thế, song nhiều người lính Bắc, thậm chí cả những cán bộ chính trị vốn thường vẫn lên lớp tuyên truyền lập trường cho lính trong đơn vị chúng tôi, nay cũng không giấu được lòng ham muốn có vài thứ "phồn vinh giả tạo" đem về làm quà cho gia đình. Nhất là khi chúng tôi bắt đầu được phát phụ cấp sinh hoạt hàng tháng bằng tiền, có phân biệt cấp bậc sĩ quan và lính thì điều kiện để thực hiện ham muốn vật chất lại khả quan hơn. Lính tráng tìm mua các khung xe đạp cũ mà nhiều gia đình nông thôn miền Nam đã gác bếp từ lâu vì không dùng đến, hay tìm mua các đài bán dẫn cũ trong các làng dân tộc đã lâu không dùng vì không có pin. Còn búp-bê thì mua ngoài thị trấn, chỗ nào cũng có bán. Đó là ba thứ hàng được cả quan và lính ta ưa thích. Có điều tiền ít nên phải lùng và làm sao mua được thật rẻ. Nếu gặp được ai quý mình mà tặng cho thì càng tuyệt, nhưng phải báo cáo đơn vị cẩn thận để khỏi bị tịch thu. Mua và chờ đợi đến lượt về phép. Ở nhà tôi ngoài Bắc, cả ba thứ đó đều đã có nên tôi thờ ơ, nhưng tôi cũng rất thông cảm với ham muốn và nguyện vọng của các anh em nhà ở nông thôn trong đơn vị. Nói cho cùng thì đó cũng không phải là tội lỗi, nếu không muốn nói là còn đáng thương.

   Nhưng ở đời cái gì thái quá cũng bất cập. Sự việc như thế ở mọi nơi, mọi đơn vị đã làm cho người dân miền Nam nhìn bộ đội giải phóng bằng con mắt khác. Họ cười cái sự nghèo nàn của miền Bắc, cười cái sự ngây ngô và thèm muốn của đám lính Bắc đối với những thứ mà đối với họ thì lại quá tầm thường. Họ không còn tin nhiều lắm vào sự tuyên truyền và hứa hẹn tương lai của cán bộ miền Bắc. Họ ghét lây và coi thường cả những ngưòi lính giải phóng…

*

   Tôi cứ ngồi miên man nghĩ như thế, rồi quyết định không vào thăm gia đình Hoa nữa. Tôi không muốn họ lúng túng, họ coi mình trở nên tầm thường như cái cảnh người lính đeo ba-lô có buộc con búp-bê và chiếc khung xe đạp vác trên vai mà họ vẫn nhìn thấy. Cũng có thể tôi đã nghĩ sai về lòng tốt của họ thì sao? Nhưng thôi, hãy để cho hình ảnh những người lính giải phóng vui vẻ và ồn áo trong đêm trú quân tại nhà họ năm xưa và đã giúp đỡ họ, trở thành một câu chuyện huyền thoại đẹp  trong lòng họ.  Cứ để họ chờ đợi, hay cho rằng những người lính đó đã ngã hết trên đường tiến quân, không còn ai trở về, để lại sự thương tiếc trong lòng họ, lại chẳng hay hơn sao. Một bức tranh đẹp, một câu chuyện đẹp, không nên để cho nó bị hoen ố.

   Tôi đứng đậy, khoác ba-lô và ra bến xe, trở về nhà.

   Kỷ niệm Tuy Hòa đã lùi dần mãi vào dĩ vãng trong tôi./.



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: TANVINHprc25 trong 10 Tháng Tư, 2012, 12:46:38 am
Chào bác Trinhsat, lâu không gặp bác giao lưu, chắc vẫn khỏe ?

     Đọc bác tỉ tê chuyện xưa tuổi trẻ một thời chiến trận, tôi cũng thấy bồi hồi. Lớp lứa anh em mình bây giờ nhìn lại thấy có những chuyện không vui. Có những vấn đề không phải lỗi của chúng ta mà thuộc về, như bây giờ goi là lỗi giáo điều hay gì gì ấy, ta quen với tư duy phe ta phe địch, nhìn nhận một chiều. Điều này là bình thường lúc đó, rồi sau này theo thời gian nó không còn là vấn đề nữa. Hay cái chuyện khung xe đạp, con búp bê trên ba lô người lính ra bắc cũng là cái sự thường thôi, hình ảnh chẳng đẹp gì nhưng nó là phổ biến vì sự nghèo túng của chúng ta ngày ấy, nó không phải là điều xấu. Cuối tháng 6/75 tôi đã được ra quân nên chỉ có chiếc ba lô trơn nhẹ nhõm, nếu còn ở lại lâu mới ra có khi cũng ba lô lỉnh lỉnh như ai.

     Nhớ sáng 30/4/75 sau khi qua phà Cát Lái, lúc ấy trong trung tâm thành phố chiến cuộc đã xong, chúng tôi đi ngược vào trung tâm. Ngược chiều với chúng tôi, bên kia đường có một đơn vị bộ binh hàng một đang hành quân bộ dọc đường quay lại phía bến phà, chắc là họ sau khi qua phà rồi tiến về phía trước để vào thành phố nhưng đã được lệnh quay lại, dãn ra phía ngoài để tránh ùn ã bộ đội trong trung tâm. Tình hình chiều 30/4 là như vậy. Chúng tôi nhìn thấy trong hàng quân đi ngược chiều ấy có một ông bạn đeo trước ngực một cái đầu máy khâu, một tay giữ máy khâu một tay giữ súng vác vai. Anh em chúng tôi bảo nhau nhìn, rồi chỉ trỏ, có anh giơ nắm tay dứ dứ, có anh chửi đổng. Anh bạn kia cũng nhận biết sự phản ứng này, vươn mặt lên ra điều gì đó. Ai đó trong tốp chúng tôi nói rất to như hắt ra sự bực bội “ thật xấu hổ”. Đúng là một hình ảnh xấu của người lính vừa thắng trận mà tôi nhìn thấy trên đường gần bến phà Cát Lái chiều 30/4.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 13 Tháng Năm, 2012, 04:29:06 pm
Cảm nhận về bài thơ "Đêm cuối cùng mẹ ru con" của Nguyễn Trọng Luân

Đêm cuối cùng Mẹ ru con

Biền biệt mấy chục năm mẹ đón con về
Đồng đã gặt rồi , đón con rơm vàng xóm ngõ
Tám mươi tuổi mẹ lại bồng con , vườn nhà nức nở
Nức nở ...à ơi

Đêm nay nhà mình đèn lại sáng choang
Nước mắt tưởng khô mấy chục năm không khô nổi
Thức cùng con đêm nay
Mai con lại đi rồi

Mẹ bồng con à ơi
Hài cốt quấn vuông vải mới
Có tã lót nào đau xé lòng đến thế ?
Me ru con quằn quại tiếng trống kèn

Cái tên Cửa ngõ Sài gòn
Ba mươi ba năm mẹ nằm mơ đêm nào cũng thấy
Ngày một ngày rằm thắp hương bánh Cáy
Ngày thường rau tập tàng cua ốc ...à ơi ..

Mai lại đưa con đi với đồng đội con rồi
Nghĩa trang heo heo gió  tím
À ...ơi ..
Ngủ đi con
Đêm nay mẹ ru con lần cuối ..

À ...ơi...

                                          (Viết tặng mẹ đồng đội tôi liệt sĩ Phí văn Măng
                                                                                              NTL)


   Bài thơ này đã hai lần được in. Lần đầu được in trong Tạp chí VNQĐ tháng 11/2008, ngay sau khi tác giả viết xong bài thơ trong chỉ có một đêm, khi hay tin gia đình đã đưa được hài cốt của liệt sĩ về quê. Lần thứ hai là trong tập thơ "Mây trên trời Quảng Trị", xuất bản tháng 4/2012 với sự cổ vũ và góp công của nhiều thành viên trang mạng VMH.

   Giữa hai khoảng thời gian đó, tôi đã được đọc bài thơ này vào tháng 1/2012, khi tác giả Nguyễn Trọng Luân gửi đăng trên trang VMH. Lúc đó tôi chưa biết và thân thiết với anh như bây giờ, dù chúng tôi cùng có thời gian là lính của sư đoàn 320A, chiến đấu trên chiến trường B3 Tây Nguyên những năm chống Mỹ. Những câu thơ như xé lòng của người lính chiến nặng nghĩa tình đồng đội Nguyễn Trọng Luân đã làm tôi không cầm được nước mắt. Dù đã cắn chặt răng mà nước mắt vẫn chảy giàn dụa.

   Cuộc chiến tranh nào cũng tàn khốc và đem lại nhiều khổ đau mà gánh nặng nhất luôn đè lên người mẹ. Bởi người lính cầm súng tham chiến và ngã xuống trên chiến trường là con trai của Mẹ. Mang nặng đẻ đau và tần tảo nuôi con khôn lớn, để rồi cuối cùng lại phải tiễn con vào trận tuyến, để canh cánh chờ mong tin con trong nỗi nhớ khôn nguôi.

   Năm xưa khi còn khoác áo lính, mỗi khi nghe bài hát "Rồi hai mươi năm sau" của Trầm Tử Thiêng - Tấn An do ca sĩ Hương Lan hát, lòng tôi luôn trĩu nặng nỗi buồn và suy tư. Những tiếng "à ơi…" lặp đi lặp lại trong câu hát của người mẹ hai mươi tuổi ru con trong giấc ngủ ban đầu, mong con lớn khôn, nhưng rồi lại cánh cánh nỗi lo về hai mươi năm sau sao mà day dứt lòng người. Chiến tranh điêu tàn, đứa con bé bỏng hồng hào thiu thiu ngủ trên tay mẹ ru hôm nay sẽ thế nào sau hai mươi năm? Người mẹ ru con, lời ru nặng tình mẫu tử chứa chan tình thương hôm nay, nhưng lại chứa đầy sự âu lo nếu hai mươi năm sau, con cũng hai mươi tuổi như mẹ hôm nay, nhưng lại là người trai phải cầm súng xông trận thì sao? Rời khỏi vòng tay mẹ rồi, liệu con có trở về không? Bởi con thì lúc nào cũng bé bỏng trong mắt người mẹ.

   Những năm chiến tranh, khi hoàng hôn buông xuống trên chốt ở Cao nguyên, nhìn làn mây giăng mờ những đỉnh núi xa xa, trong sương chiều lành lạnh, tôi luôn nhớ về mẹ. Nhớ cái lúc mẹ tiễn chân đi, cái nắm tay vừa dùng dằng như níu kéo, còn cái buông tay thì cố dứt khoát để  đứa con yên lòng lên đường. Nước mắt chảy vào trong, để mong có thể dành cho ngày gặp mặt. Chặng đường chiến chinh gian khổ, nếu con có khóc một thì mẹ khóc mười vì thương con. Nếu con không về thì sao? Người ra đi thanh thản lắm, nhưng người chờ đợi thì sao có thể ngăn được nỗi buồn? "Nếu con không về, chỉ xin mẹ đừng buồn", lời mong ấy của người đi xa sẽ chẳng bao giờ thực hiện được, vì tấm lòng người mẹ chẳng có thể nào đo được, làm sao có thể không buồn khi mất con?

   Chiến tranh đi qua, có bao nhiêu người lính không trở về là có bấy nhiêu bà mẹ phải khóc thầm từng đêm vì mất con. Cuộc chiến tranh ba mươi năm giành độc lập của dân tộc ta quá dài, nên không thể đếm hết được có bao nhiêu người mẹ khổ đau như thế. Chút an ủi cuối cùng của mẹ là đưa được phần xương cốt của con về quê hương để còn tháng ngày hương khói. Năm tháng dần trôi, dù cả vài chục năm trôi qua vì những gian nan trắc trở, mẹ vẫn hy vọng đưa được "đón" con về.

   Ba mươi ba năm sau ngày chiến thắng, khi đón được con về thì lưng mẹ đã còng xuống quá nhiều rồi. Chân đã run, mắt đã mờ, nhưng đứa con trong mắt người mẹ vẫn là đứa con bé bỏng.

 Mẹ bồng con à ơi
Hài cốt quấn vuông vải mới
Có tã lót nào đau xé lòng đến thế ?
Me ru con quằn quại tiếng trống kèn



   Tôi đã khóc chính vì đọc câu thơ đọc đau đến xé lòng này. Có ai bồng ru hài cốt không? Có ai nhìn tấm vải liệm con phủ lá quốc kỳ là tấm tã lót sơ sinh không? Chỉ có thể là Mẹ thôi. Mẹ vẫn nhìn ra hình bóng đứa con trong gói hài cốt vô tình. Không phải là hình hài của đứa con hai mươi tuổi ngày ra trận, mà chỉ là đứa con bé bỏng mẹ ru trong giấc ngủ ban đầu. Chỉ còn một đêm thôi, đêm cuối cùng và mãi mãi không bao giờ mẹ còn được ôm con trong lòng nữa, dù chỉ là gói hài cốt.

   Hình ảnh người mẹ ôm "con" vừa ru vừa khóc trong ánh đèn leo lét, bập bùng sao mà đau xót thế. Mẹ đang ru con lần cuối, trút hết tình thương con lần cuối để con ra đi, hiểu tấm lòng mẹ và đừng trách mẹ. Đau lòng lắm, nhưng chiến tranh mà, có ai quyết định được số phận mình đâu?

   Càng đọc, càng ngẫm câu thơ và càng không cầm được nước mắt. Tiếng "à…ơi…" của điệu ru như một điệp khúc trong bài thơ sao quá não lòng. Tôi biết bài thơ này đã lấy đi nước mắt của không biết bao nhiêu người khi đọc nó. Và cả Nguyễn Trong Luân nữa, bài thơ này anh viết trong một đêm, nhưng không thể viết liền một mạch, vì anh sẽ phải vừa viết ra, vừa khóc.

   Cảm ơn nhà thơ đã nói hộ tấm lòng bao bà mẹ liệt sĩ, thêm một lần nữa tô vào bức tranh của "Tình mẹ thương con"./.




Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: xuanxoan trong 08 Tháng Bảy, 2012, 07:05:47 pm

  Trinh sát

  Cám ơn bạn đã viết những dòng nước mắt thay chúng tôi qua bài thơ " Đêm cuối mẹ ru con". hôm nay mình bắt đầu đọc ngược những bài biết của bạn.
   Chào - Lính nhập ngũ 1971.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: Trinhsat trong 11 Tháng Mười Hai, 2012, 09:29:33 am
       Bây giờ, người ta thoải mái đặt tên con, kể cả trùng tên các vĩ nhân, danh nhân hay anh hùng lịch sử, lãnh tụ cách mạng... Vì thế mà bây giờ chuyện trong lớp một có chú bé thò lò mũi xanh mang tên Cao Bá Quát, Lương Thế Vinh... cũng chẳng lạ gì.

         Ngày xưa không thế. Xin gửi các bạn một bài thơ vui minh họa nhé:


Rắc rối đặt tên con

Xưa, bà Lý Toét đẻ con trai

Ông Lý đặt tên sánh với đời

Phải lục tìm trong gia phả họ

Kẻo khỏi trùng, trúng tên húy của ai.


Đầu tiên bà định đặt là Mai

Ông Lý bấm tay rồi ngáp dài

Đấy tên bà ngoại ông Chánh Tổng

Động vào, nghe nó chửi rác tai.


Hay đặt tên con mình là Chung

Quanh làng chắc chẳng có ai trùng

Suy nghĩ hồi lâu ông Lý bảo

Chung là đồng hao lão Phán Thung.


Ông ngoại chọn tên đặt là Thành

Bà Lý giật mình, mặt tái xanh

Tên ấy thông gia nhà Đề Lại

Đặt rồi tất lại có chiến tranh.


Bà cô góp ý đặt là Minh

Ông Lý mới nghe đã giật mình

Trùng tên cụ ngoại quan Tri huyện

Đặt thế, rồi sinh sự sự sinh


Đầy tháng tuổi tôi đã cận kề,

Có cái tên mà rắc rối ghê

Xóm dưới, làng trên trùng hết cả

Thôi thì bố Toét, đặt con Toe.


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Làm sao để có Danh hiệu "Lao động tiên tiến"?
Gửi bởi: Trinhsat trong 28 Tháng Mười Hai, 2012, 05:07:41 pm
Làm sao để có Danh hiệu "Lao động tiên tiến"?

   Đơn vị tôi họp tổng kết cuối năm. Chỗ nào mà chả thế nhỉ, hết năm rồi mà. Họp đi để rồi còn phát khen thưởng, rồi chuẩn bị Tết là vừa. Năm nay Tết đến muộn, nhưng phải lo dần đi chứ nên không khí trong cơ quan đã nháo cả lên rồi, vì chí ít thì cũng đón Tết Tây.

   Nhưng phải được xếp loại "Danh hiệu lao động" gì thì mới có thưởng, có tiền chứ. Không thì "bằng nhau" với đồng bào dân tộc vùng cao còn gì.

   Bạn có làm trong cơ quan Nhà nước không? Không à? Thế thì mất hẳn cái khoản hồi hộp rồi. Lý do là vì nếu bạn làm tư nhân thì hoặc là tự thưởng, hoặc là đã đoán được mình sẽ được thưởng như thế nào một cách khá công khai thông qua đóng góp công sức lao động một năm của mình. Tư nhân dù sao cũng khá rõ ràng trong việc thỏa thuận.

   Còn tôi, vì là cơ quan Nhà nước, chẳng ai thỏa thuận cụ thể gì, chỉ là "qui định" của Nhà nước, mà qui định đó lại có một khoảng barem khá thoáng, cho nên phải hồi hộp chờ công bố kết quả mới biết được mình thuộc cái "loại" gì.

   Bảy năm về trước (không phải "…anh mười bảy" như trong bài thơ "Núi đôi" đâu), tôi cũng thường xuyên đạt danh hiệu "Lao động tiên tiến" hàng năm. Tuy không có "phát kiến" gì làm lợi cho cơ quan hàng tỉ đồng, nhưng công việc nào được giao tôi cũng hoàn thành tốt với tinh thần trách nhiệm vốn có của một người lính. Bản tính tôi vốn cần cù chịu khó, hay lam hay làm và tay nghề của tôi cũng không đến nỗi nào (nếu không muốn nói là thuộc vào hàng "top" trong cơ quan).  Đôi khi trong các đợt công tác, tôi cũng có một hai sáng kiến nhỏ giúp cho anh em đỡ vất vả, và có lúc các bạn kỹ sư trẻ đã phải thốt lên thán phục.

   Nhưng nếu cứ như vậy, năm nào cũng đạt danh hiệu "Lao động tiên tiến", biết trước sự việc sẽ xảy ra như thế nào thì đâu còn gì là hồi hộp nữa. Việc tôi muốn kể là từ cách đây bảy năm, tôi đã mất danh hiệu "Lao động tiên tiến" cuối năm, và mất luôn cả khoản tiền thưởng đi kèm, dù chỉ có vài trăm nghìn đồng khiêm tốn.

   Trong cơ quan Nhà nước có một đặc điểm là các Sếp sử dụng vốn và tiền, trang thiết bị của Nhà nước, nhưng lại luôn coi đó như tài sản của nhà mình. Vì thế các Sếp phán xét mọi việc với nhân viên cứ như nhà giàu đang bố thí cho kẻ ăn mày. Qui chế lại "lỏng lẻo" nên các Sếp cứ xử mọi việc thoải mái, na ná như ông trọng tài thổi phạt các pha "nhạy cảm" trên sân. (Trên sân bóng, trọng tài được coi "là cha là mẹ", quyết sao thì các cầu thủ chịu vậy).

   Thời đó, tôi đã phát hiện ra (không khó khăn lắm, vì đôi khi những người có quyền rất chủ quan) trong 3 năm liền, các suất "trợ cấp khó khăn" của Công đoàn cấp trên rót xuống cho cơ quan tôi đã không được xét chọn công khai, mà được "lặng lẽ" phân bổ cho các công đoàn viên có "hoàn cảnh khó khăn" trong cơ quan, gồm Trưởng phòng Tổ chức, Kế toán trưởng và thư ký riêng của Sếp. Cứ đều đặn như thế, các thành viên ấy luôn gặp "hoàn cảnh khó khăn", chẳng có ai tự cảm thấy xấu hổ và xỉ nhục khi cứ liên tục nhận tiền như thế. (Còn những kẻ khó khăn thật, nhưng đã "quen chịu khó" rồi thì chẳng hề hay biết gì về việc Công đoàn cấp trên cũng có quan tâm, hàng năm rót xuống ít tiền). Hơn thế nữa, cuối năm nào ba "vị" ấy cũng được nhận danh hiệu "Chiến sĩ thi đua" (danh hiệu cao nhất kèm theo tiền thưởng cả triệu đồng), do Sếp "quyết" chứ cũng chẳng phải do tập thể bình chọn "làm chi cho mệt".

   Đem cái bản chất thẳng thắn của thằng lính chiến (khổ thế đấy), tôi đã lên tiếng trong một cuộc họp cuối năm về sự bất công vô lý đó. Tôi đã nói rõ trong đợt cơ quan phát động thi đua đầu năm là, mỗi năm cơ quan ta chỉ qui định được có 5 suất "chiến sĩ thi đua" mà năm nào cũng biết trước có 3 vị ấy chiếm 3 suất rồi, chỉ còn hai "suất" dành cho cả trăm người còn lại, thì ai còn muốn thi đua làm gì nữa. Nghe tôi phát biểu, cả hội trường im lặng, nghe rõ cả tiếng thổi của gió mùa Đông Bắc tràn về lật phật bên cửa. Nhưng rồi tất cả lại đều im lặng sau lời hứa "sẽ xem xét" của Sếp. Bao giờ Sếp hồi âm? Xin thưa, để đến cuộc họp sau, tức là đến mùa Tổng kết năm sau khi lại có gió mùa Đông Bắc tràn về. Với thời gian dài như thế, đến "cái gì… còn hóa bùn" nữa là lời hứa của Sếp.

   Mọi thứ có thể còn mập mờ, nhưng với tôi thì lại có một thứ rất rõ ràng, hệt như quả đá Penanti vào cầu môn không thể chối cãi. Từ năm sau trở đi, tôi không còn đạt bất kỳ "danh hiệu lao động" lần nào cuối năm nữa, dù cho có cố gắng đến mấy. Có thắc mắc thì được trả lời, cấp trên khống chế số lượng khen thưởng, nếu đồng chí đòi hỏi thì phải xem xét bỏ bớt người khác trong phòng (và phòng phải họp lại để bình xét lại). Đồng đội được cũng như ta được, truyền thống Quân đội trót nhiễm vào máu thịt mất rồi, bây giờ lại ganh đua tranh giành với anh em thì còn ra thể thống gì nữa.

   Tết năm ấy tôi về nhà, im lặng nhìn vợ với vẻ mặt có lỗi. Tất nhiên là phải kể lại chuyện cho vợ. Người bạn "đầu gối tay ấp" với mình mà không chia sẻ, thì còn chia sẻ với ai được nữa. Vợ tôi chỉ trách nhẹ một câu: "Anh thật chẳng hiểu gì về điện cả". Tôi ngây người, láng máng nghi ngờ cái bằng Kỹ sư điện phải học hết 5 năm của mình để có nó.

   Tôi không phải thiên tài, mọi việc muốn hiểu phải có thời gian chứ. Nhưng chẳng phải tìm đâu xa, bảy năm tiếp sau đó, tôi không lần nào được lọt vào cái danh sách "Danh hiệu thi đua" cuối năm của cơ quan. Điều đó đồng nghĩa với việc bảy năm liền tôi không có tiền thưởng đón rét. Mấy năm đầu, quả là tôi cũng có thấp thỏm chút ít mong chờ và hy vọng được thưởng, nhưng rồi dần dần tôi đâm ra chai lỳ khi mọi hy vọng mong manh đều tan ra như làn khói bếp ban chiều, và tôi không còn hứng thú gì mỗi khi vào dịp cơ quan tổng kết cuối năm.

   "Đằng nào mà chả thế, mình đã biết trước là chẳng được gì cả rồi mà"- tôi tự nhủ.

   Tôi chẳng muốn nói chuyện gì với mọi người xung quanh nữa. Vô hình chung, tôi đã học câm. "Người ta học nói chứ ai lại học câm. Chắc người này lẩm cẩm rồi"- Thể nào cũng có bạn nghĩ thế. Nhưng đúng là như thế thật, chứ không phải lẩm cẩm, vì tôi vẫn đi làm và vẫn hoàn thành tốt mọi công việc. Và thật tuyệt vời, một cách ngẫu nhiên thôi, là cái việc học câm của tôi lại đi đúng vào quỹ đạo Qui luật của cuộc sống.

   Con người ta thật nhỏ bé và mong manh trước thiên nhiên. Từ cả ngàn đời nay rồi, con người luôn đi tìm qui luật của thiên nhiên để tìm cách sống chung, hòa nhập với nó. Sống chung với bão lũ, sống chung với vùng có động đất, núi lửa, băng tuyết… Với Qui luật của cuộc sống cũng vậy. Cái gì tồn tại hiển nhiên, mang tính qui luật thì người ta phải tìm cách sống chung với nó (còn chế ngự nó thì xa vời quá). Xã hội loài người đã phải sống chung với bệnh tật (như HIV), các tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm và cả chiến tranh…

   Ngay cả nạn tham nhũng cũng thế. Nếu đó đã là qui luật, thì ta cũng phải sống chung với nó. Nhưng liệu nó có phải là qui luật không nhỉ? Tôi không biết chắc lắm, vì còn phải bươn chải hàng ngày lo mưu sinh, thời gian sức lực đâu mà để tâm nghiên cứu nó. Nhưng những sự vụ đập vào mắt hàng ngày thì không dễ gì mà nhắm mắt quên được. Những điều học được từ khi còn là trẻ thơ, bây giờ có vẻ không còn đúng. Nhặt được của rơi, dù thương người đánh rơi, cũng không biết nộp cho ai để trả. Trường học bây giờ không có hướng dẫn nhất quán để trẻ em biết rằng khi nhặt được của rơi thì nộp cho ai? Ra đưòng nhìn thấy kẻ gian móc túi ăn cắp của người lương thiện, cũng không mấy ai đám tri hô hay ra tay bắt. Nhỡ thằng ăn cắp đánh lại cho thì sao, ai bảo vệ mình. Đến công an nhiều khi còn sợ chúng nó, lảng tránh nữa là. Bạn thử nghĩ lại xem, bạn gặp cảnh công an đang "xử lý" người lành yếu bóng vía nhiều hơn, hay đang ra tay trị và trấn áp bọn lưu manh và những kẻ bất hảo nhiều hơn?

   Trong cơ quan nhà nước, Sếp trưởng kiêm luôn chức Trưởng ban chống tham nhũng. Khi đó, bạn cũng có thể đoán ra những kẻ "tham nhũng" nào sẽ bị trừng trị.

   Trong cơ quan tôi, trước tiên đó là "lũ" bảo vệ. Bị bắt quả tang trong ca trực chơi tá lả, lại ăn tiền thì hết đường chối cãi rồi. Đã "ăn cắp thời gian" của nhà nước, lại còn cờ bạc, "xa đọa" đến thế thì ai thương cho nổi. Còn các nhân viên đi làm muộn nữa chứ. Đích thị là cũng "ăn cắp" thời gian rồi còn gì. Đi đâu cũng nhìn thấy "kẻ cắp" thế này thì cơ quan không phát triển là đúng rồi. Cuối năm lại còn dài cổ ra trông thưởng, thật không biết điều. Và vậy là cơ quan tôi cứ tiến lên đều đều, năm nào cũng có thành tích xử vài vụ "tham nhũng", phạt được chút tiền còm nộp vào nhà ăn để "tất cả cùng hưởng".

   "Tôi vẫn câm… và tôi vẫn câm…". Hình như có điệp khúc như thế. Ở hiền gặp lành, đột nhiên cuối năm nay, tên tôi được hiện lên ngời ngời trong danh sách thưởng "Lao động tiên tiến". Dù là đứng ở vị trí cuối cùng thì cũng vẫn là nằm trong danh sách. Tôi mừng như trúng sổ số độc đắc. Cầm số tiền thưởng ba trăm nghìn đồng về đưa vợ mà suôt ngày hôm đó, tôi cứ tưởng mình đang mơ.

   Vợ tôi cũng ngạc nhiên trước sự kiện "động trời" đó. Cho đến hôm nay, cái phong bì tiền thưởng vẫn được vợ tôi cất trang trọng trong cái tủ ly, chưa dám tiêu đến vì có vẻ vẫn chưa thật tin nó là của mình./.

(Vũ Công Chiến)



Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - May là cái tai bò
Gửi bởi: Trinhsat trong 20 Tháng Bảy, 2013, 02:39:56 pm
MAY LÀ CÁI TAI BÒ

            Dạo đó đơn vị bộ đội chúng tôi đóng quân ở Quảng Bình. Trong hoạt động, thỉnh thoảng đơn vị cũng được giao lưu với chi đoàn dân quân địa phương. Chủ yếu là văn hóa văn nghệ, hát hò và đối đáp. Cũng là để củng cố tình quân dân thôi. Lính tráng thì toàn nam, còn chi đoàn dân quân chỉ toàn nữ, vì nam giới ở địa phương tới tuổi cũng tòng quân hết cả rồi. Quen nhau, rồi biết tên các o dân quân, nên đôi khi vào tối thứ bảy chúng tôi cũng được qua lại nhà dân chơi. Thực ra chỉ là đi từ nhà này qua nhà khác trong thôn, vì lúc đó chúng tôi vẫn đóng quân nhờ nhà dân.

           Quản lý đại đội Nguyễn Thiết của chúng tôi là một tay cực kỳ lém và rất nhanh trí trong ứng xử tình huống. Khá đẹp trai và thích hoạt động văn hóa văn nghệ nên tiếng tăm của anh lan khắp các chi đoàn dân quân trong xã.

            Một lần vào tối thứ bảy được nghỉ sinh hoạt, anh rủ tôi đi đánh lẻ, thực chất cũng là đi tán vớ tán vẩn thôi mà. Hai chúng tôi thong dong thẳng tiến đến nhà o Đào, phó bí thư chi đoàn thôn Trung. O Đào cũng có tiếng là lém lỉnh và lúng liếng. Lúc chúng tôi đến nơi thì trong nhà o đã có dăm o nữa đang cùng ngồi tán chuyện. Hai chúng tôi nhập cuộc. Chuyện trò qua lại rôm rả xoay quanh quan điểm tình bạn, tình quân dân …

        Khi vãn chuyện, bỗng o Đào nói với anh Thiết:

   - Nghe tiếng anh giỏi đoán chuyện trên trời dưới bể, em đố hai anh câu đố ni nghe.

       Anh Thiết hào hứng hưởng ứng. O Đào hắng giọng đọc luôn:

   "Bằng cái lá mít
   Chi chít những lông
   Chỗ lõm chỗ phồng
   Lại ngoe nguẩy được."


       Tôi thấy anh Thiết hơi đỏ mặt. Lặng im, rồi anh ghé sang tôi: "Thế nào?". Tôi cũng nhún vai, chịu không nghĩ ra. Anh Thiết là người nhanh nhẹn cơ mà, sao lại phải bàn với tôi. Bỗng anh Thiết mím môi, rồi lên giọng:

   - Tôi biết thừa câu đố của o rồi. Nhưng tôi đố o câu này trước nhá.

         Rồi anh đọc nhanh:

   "Vừa bằng cái cổ tay.
   Mọc ngay trên cái của chị"


       Tôi hơi sững người. Có vẻ là bậy bạ rồi đây. Các o dân quân  trân người ngạc nhiên. O Đào cũng đỏ mặt:

   - Ư! Em đang đố vui cơ mà. Sao anh lại nói vậy.

   - Thế o thử nói câu đố của o là gì nào. - Anh Thiết gân cổ lên.

   - Em đố là cái tai bò.

   - Thì … đúng rồi. Vì thế anh mới đố lại em cái sừng bò. Cái sừng bò chả mọc phía trên cái tai bò là gì. Anh cũng đố vui mà. - Anh Thiết kêu lên sung sướng.

   - Nhưng sao lại gọi em là chị?

   - Thì để cho nó vần thôi mà.

   Ngơ ngác một tí, rồi cả hai bên cùng cười vui vẻ.

      Quấy quá thêm lúc nữa, chúng tôi ra về.

       Dọc đường, tôi bảo anh Thiết: "Anh đoán giỏi thật đấy".

   - Giỏi cái quái gì. Tao cũng có đoán ra đâu. - Anh Thiết phân trần.- Tao đã nghĩ là nó đố bậy, nhưng tao sợ không dám nói cái sự bậy ấy trước, nên đành nói liều. Nếu nó nói bậy thật thì mình cũng là nói bậy, sợ quái gì. Nhưng cũng may là nó đố cái tai bò, nên mình được thể lên nước. Nếu nó mà đố là cái tai lợn thì chết mất ngáp còn gì.

             Hai chúng tôi cười vang. Song cũng từ đó anh Thiết cảnh giác, không dám khoe tài cùng các o dân quân nữa.
   


Tiêu đề: Re: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 20 Tháng Bảy, 2013, 09:03:15 pm
Hay quá , thằng em ơi . Phục chú