Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 30 Tháng Ba, 2023, 10:22:27 am



Tiêu đề: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Ba, 2023, 10:22:27 am
- Tên sách: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
- Tác giả: Nhiều tác giả
- Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
- Năm xuất bản: 2000
- Người số hóa: giangtvx, ptlinh, chuongxedap


NGỌN CỜ CÁCH MẠNG
CÔNG KHAI CẮM TẠI SÀI GÒN
(1955-1958)


Hồi ký về Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Quốc tế giám sát và kiểm soát thi hành Hiệp định Giơnevơ

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HÀ NỘI - 2000

 

Ban biên tập:
- Huỳnh Minh Hiển   : Nguyên Trưởng ban
- Nguyễn Linh      : Trưởng ban
- Hồ Vĩnh Thuận    : Thường trực
- Lữ Minh Châu       : Ủy viên
- Nguyễn Văn Hiếu   : Ủy viên


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Ba, 2023, 10:25:47 am

LỜI GIỚI THIỆU

Cuộc kháng chiến 9 năm với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, kết hợp với đấu tranh ngoại giao của ta đã buộc thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, ký kết Hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương; các nước dự hội nghị tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Cămpuchia.

Đây là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta trên con đường đi tới hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước.

Ngay từ tháng 7 năm 1954, Đảng đã xác định: “Đế quốc Mỹ hiện nay trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Việt Nam, của nhân dân Đông Dương, với âm mưu thay thế Pháp, tiêu diệt phong trào yêu nước và cách mạng, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự xâm lược”.

Chủ trương của Đảng lúc này là ra sức xây dựng củng cố miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Ở miền Nam trong mấy năm đầu, Đảng chủ trương giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, đồng thời tích cực chuẩn bị con đường đấu tranh thích hợp để đưa cách mạng tiến lên.

Đảng ta coi Hiệp định Giơnevơ là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng mà ta cần nắm lấy để đấu tranh với địch. Trong đường hướng đó, Đảng chủ trương lập Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Quốc tế giám sát và kiểm soát thi hành Hiệp định đóng tại Sài Gòn. Đây cũng là một đầu cầu tai mắt của ta góp phần nắm bắt âm mưu động thái của địch cũng như tình hình các mặt tại chỗ. Đối với đồng bào Sài Gòn và miền Nam, đây là ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại thủ phủ của địch, ngọn cờ cổ vũ lòng tin và ý chí đấu tranh kiên cường, tất thắng. Sự xuất hiện của Phái đoàn tại Sài Gòn thể hiện tính liên tục của cuộc đấu tranh cách mạng thống nhất trên cả nước. Do nhiệm vụ và các ý nghĩa quan trọng ấy, Phái đoàn được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong ba năm đứng chân và hoạt động tại Sài Gòn, Phai đoàn đã làm tốt nhiệm vụ, thực hiện đúng tư tưởng chỉ đạo của Đảng, tranh thủ được sự ủng hộ, đồng tình và cảm tình của Ủy ban Quốc tế, làm sáng rõ tư thế sáng ngời chính nghĩa của chiến sĩ cách mạng, của anh bộ đội Cụ Hồ, vượt qua mọi sự hù dọa, khiêu khích, thậm chí hành hung, bao vây của địch.

Mỹ ngụy ngày càng bộc lộ rõ bản chất cực kỳ phản động tàn bạo, xé bỏ Hiệp định Giơnevơ, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam ngày càng quyết liệt và phát triển, có những cuộc nổi dậy ở nơi này, nơi khác, xuất hiện dần tình hình khởi nghĩa từng phần. Từ thực tiễn đó, Trung ương Đảng đã nghiên cứu và tới đầu năm 1959 ra Nghị quyết 15 đưa cách mạng miền Nam sang một giai đoạn mới.

Do vậy, vai trò và nhiệm vụ của Phái đoàn không còn cần thiết nữa, Bộ Chính trị chủ trương rút Phái đoàn trở về vào giữa năm 1958.

Tôi rất hoan nghênh các đồng chí trong Phái đoàn và anh chị em có dịp tiếp xúc với Phái đoàn thời đó, sau 45 năm, đã cố gắng tổ chức viết và xuất bản tập hồi ký chân thực và sinh động này. Cuốn sách đã góp phần vào kho tàng thực tiễn cách mạng vô cùng phong phú, đa dạng của quân dân ta, góp phần lưu giữ, giáo dục và phát huy truyền thống đấu tranh anh hùng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Mong rằng các thư viện, tủ sách các cấp trong và ngoài lực lượng vũ trang nhân dân, các bảo tàng cách mạng, nhà truyền thống, phòng truyền thống, v.v., được trang bị tập sách này cùng với những cuốn hồi ký cách mạng khác.


Ngày 8 tháng 4 năm 2000

 

Đại tướng VĂN TIẾN DŨNG
Nguyên ủy viên Bộ Chính trị
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Ba, 2023, 10:27:49 am

LỜI NÓI ĐẦU

Thi hành Hiệp định Giơnevơ, quân ta tập kết ra miền Bắc và chiều ngày 28-2-1955 chuyến tàu tập kết cuối cùng rời bến sông Ông Đốc (Cà Mau). Đến thời điểm này thì các cấp chính quyền của ta ở miền Nam đã giải thể. Nhưng ở khắp nơi, các cơ sở Đảng được sắp xếp và bố trí lại cho phù hợp với tình hình hoạt động.

Cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới, từ đấu tranh vũ trang chuyển sang đấu tranh chính trị. Các cấp ủy Đảng ở vùng nông thôn bằng những hình thức khác nhau chuyển vào thị trấn, thị xã và thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn để lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị, đòi hòa bình, đòi các quyền tự do dân chủ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà. Đây là cuộc đấu tranh quần chúng rộng lớn dựa vào cơ sở pháp lý của Hiệp định Giơnevơ.

Tranh thủ cắm một ngọn cờ Cách mạng ở Sài Gòn, trung tâm đầu não của địch, Trung ương đã đấu tranh với đối phương để lập ra Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban kiểm soát và giám sát Quốc tế ở Sài Gòn.

Phái đoàn ta đã có mặt tại Sài Gòn tròn ba năm, từ 17-5-1955 đến 17-5-1958. Đây là một đơn vị sống và làm việc công khai, tiến hành một dạng đấu tranh đặc biệt hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam.

Trong thời gian ấy, nhiều đồng bào ta ở Sài Gòn - Chợ Lớn và cả miền Nam đều biết sự có mặt của Phái đoàn. Tuy vậy, hoạt động của Phái đoàn cụ thể như thế nào thì lại rất ít người biết đến. Những tư liệu viết về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ rất phong phú, đa dạng. Nhưng có lẽ, chưa ở đâu nói rõ về đơn vị đặc biệt này. Anh em công tác trong Phái đoàn, người trẻ nhất lúc bấy giờ nay cũng đã 70 tuổi, còn lại cũng đã bước sang tuổi 80 và nhiều người đã đi xa. Sẽ là một thiếu sót, nếu không ghi lại hình ảnh của cuộc đấu tranh đặc biệt này trong lịch sử Cách mạng Việt Nam.

Nay làm việc này cũng đã quá muộn, nhưng nếu để lùi lại vài năm nữa, thì chắc rằng khó còn có thể làm được.

Trong cuộc họp mặt đầu Xuân 1999, một số anh em trước đây có công tác ở Phái đoàn hẹn với nhau mỗi người viết một vài bài, theo dạng kể chuyện, ghi lại ký ức về những ngày sống và làm việc tại Phái đoàn. Cuốn sách nhỏ này là sự tập hợp các bài viết đó. Anh chị em đã thể hiện nhiệt tình và sự cố gắng cao. Có anh mắt đã mờ, mà cặm cụi cả tháng để viết, có anh chuyên làm công tác kỹ thuật, không quen viết, mà vẫn cố gắng có bài, v.v..

Vì nhiều người viết lại những kỷ niệm của mình, tuy cùng một sự việc mà cách nhìn và diễn đạt khác nhau, cho nên không tránh khỏi vài chi tiết trong câu chuyện không hoàn toàn giống nhau. Vì người viết không phải là nhà văn, cho nên, có thể cuốn sách chưa đạt được giá trị văn chương. Nhưng đây là người thật việc thật, do những người trong cuộc ghi lại, không hư cấu. Với cuốn sách nhỏ này, chúng tôi mong muốn đóng góp thêm vào kho tàng tư liệu quý giá của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đồng thời góp sức để giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau.

Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn gần xa.

TM. NHỮNG NGƯỜI VIẾT
NGUYỄN VĂN LONG
(Nguyên Phó Trưởng Đoàn, Trưởng Phái đoàn)


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Ba, 2023, 10:30:29 am

HOẠT ĐỘNG TRONG BƯỚC NGOẶT LỊCH SỬ
CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

NGUYỄN VĂN LONG

Chín năm kháng chiến chống quân Pháp xâm lược trên cả nước, đã đi đến chiến thắng vang dội ở Điện Biên Phủ và nhiều nơi khác. Thực dân Pháp buộc phải trở lại bàn đàm phán, ký vào bản Hiệp định Giơnevơ, công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Cămpuchia và Lào. Lịch sử của Cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn mới, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng, nhưng miền Nam tạm thời do đối phương kiểm soát, phải chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị.

Hội nghị Giơnevơ (1954), là một hội nghị quốc tế, do Liên Xô và Anh làm đồng chủ tịch. Sau khi kết thúc phần một, bàn về Triều Tiên, Hội nghị tiếp sang phần hai, bàn về Đông Dương, với sự có mặt của 9 đoàn đại biểu, trong đó có 5 cường quốc: Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp và Mỹ. Đấu tranh ở Hội nghị, không chỉ giữa ta và Pháp mà còn giữa 5 cường quốc nên rất phức tạp. Khác với Hội nghị Pari sau này, mà thực chất là hội nghị giữa ta và Mỹ, bên ta hoàn toàn chủ động.

Lúc bấy giờ, tương quan lực lượng ở chiến trường Đông Dương sau Điện Biên Phủ, xét về lực giữa ta và quân đội Liên hiệp Pháp có thể ngang nhau, nhưng về thế ta hơn hẳn. Quân địch thì tinh thần suy sụp, còn quân dân ta đang bừng bừng khí thế và đang ở thế tấn công trên các chiến trường, cộng với sự giúp đỡ của các nước anh em. Cho nên, nếu tiếp tục cuộc chiến thì khó khăn gì ta cũng vượt qua được.

Tuy ta mới giải phóng hoàn toàn được một nửa đất nước, nhưng đây là lãnh thổ có đường nối liền với Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu khác, trong tình huống xấu nhất cũng đủ điều kiện xây dựng thành hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà sau này. Chúng ta lại có thêm cơ sở pháp lý để phát triển các hoạt động ngoại giao, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta.

Mấy ngày sau khi ký Hiệp định Giơnevơ, Hội nghị hai bên: Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân đội Liên hiệp Pháp được tổ chức ở Phúc Yên tại Trung Giã là vùng nằm giữa Hà Nội và Thái Nguyên, để thu xếp việc thực hiện đình chiến trên toàn chiến trường Đông Dương. Hội nghị Trung Giã quyết định lập ra ở Việt Nam Ủy ban Liên hợp đình chiến Trung ương và ba Ủy ban Liên hợp đình chiến địa phương: Ủy ban Liên hợp đình chiến Bắc Bộ, Ủy ban Liên hợp đình chiến Trung Bộ và Ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ. Mỗi Ủy ban Liên hợp đình chiến có số lượng sĩ quan của hai bên ngang nhau. Việc thực hiện đình chiến và tập kết quân đội hai bên sang hai miền Nam, Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời, diễn ra khá suôn sẻ.

Phái đoàn quân sự Việt Nam ở Hội nghị Trung Giã do Thiếu tướng Văn Tiến Dũng làm trưởng đoàn và có các ủy viên: Song Hào, Lê Quang Đạo, Nguyễn Văn Long, Lê Minh Nghĩa. Phái đoàn quân sự Pháp do Thiếu tướng Delteil cầm đầu.

Sau Hội nghị Trung Giã, tôi được phái vào miền Nam. Máy bay Pháp đưa tôi đến sân bay Quy Nhơn. Từ đó tôi vào Khu ủy 5 để báo cáo với đồng chí Lê Duẩn về những ý kiến chỉ đạo của Bác Hồ và Thường vụ Trung ương Đảng. Chủ trương quan trọng nhất đối với miền Nam là: Để lại vũ khí thích hợp, cất giấu chu đáo, để khi cần thiết đem ra sử dụng. Cán bộ quân sự tập kết ra miền Bắc là 1/3, cán bộ chính trị 1/2, các cơ sở Đảng và tổ chức quần chúng phải tinh giảm, bố trí hết sức bí mật. Cán bộ đã bị lộ phải tập kết ra miền Bắc, cán bộ đảng viên ở lại hoạt động phải thay đổi địa bàn, v.v..

Sau khi vào Nam Bộ với đồng chí Lê Duẩn, tôi được chỉ định ở lại công tác trong Ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ với đồng chí Phạm Hùng, đóng tại Phụng Hiệp (Cần Thơ).

Khi chuyển quân tập kết ở Nam Bộ sắp xong, ta chuẩn bị nhân sự cho Phái đoàn Liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Quốc tế ở Sài Gòn. Cho đến khi chuyến tàu tập kết cuối cùng rời bến sông Ông Đốc, thì Phái đoàn Liên hiệp đình chiến Nam Bộ và Phái đoàn Sài Gòn cùng ra Hà Nội theo chuyến tàu của Ba Lan và máy bay của Pháp tại sân bay Sóc Trăng vào ngày 28-2-1955.

Cuộc đấu tranh với Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Liên hiệp Pháp tại Đông Dương để thành lập cho được Phái đoàn Sài Gòn, có ý nghĩa rất quan trọng, vì đó là ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn. Thư đi thư lại rất lâu giữa ta với Pháp, Ủy ban Quốc tế và chính quyền Sài Gòn mãi đến ngày 31-3-1955 việc lập ra Phái đoàn ta ở Sài Gòn mới được chấp nhận. Hiệp định Giơnevơ, chủ yếu là Hiệp định đình chiến, với tổ chức Ủy ban Quốc tế là cơ quan kiểm sát đình chiến, nên Phái đoàn ta có tên gọi là “Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam ở Sài Gòn”, về nội dung, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Đồng chí Phạm Hùng, lúc đó là ủy viên Trung ương Đảng được chỉ định làm Trưởng Phái đoàn và đại diện Bộ tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Kiểm soát Quốc tế ở Việt Nam tại Sài Gòn. Những cán bộ cốt cán khác đều có trình độ chính trị vững vàng. Pháp và chính quyền Sài Gòn tìm mọi cách để hạn chế ảnh hưởng của Phái đoàn ta như không cho treo cờ Tố quốc bên ngoài trụ sở của Phái đoàn, chỉ cho đi lại trong phạm vi Sài Gòn - Gia Định, không cho cắm cờ trên xe khi chạy trong thành phố, v.v..

Đầu tháng 3 năm 1955, đồng chí Phạm Hùng cho một bộ phận tiền trạm vào Sài Gòn để cùng với Pháp lo thu xếp trụ sở của Phái đoàn. Cho đến ngày 17-5-1955, tôi và các cán bộ của Phái đoàn, gồm tất cả 16 người, vào Sài Gòn trên hai chiếc máy bay của quân đội Pháp. Khi Phái đoàn đến sân bay Tân Sơn Nhất, có đại diện Ủy ban Quốc tế ra đón. Riêng các đồng chí Phái đoàn Ba Lan cùng đi theo chúng tôi về trụ sở Phái đoàn ở Gia Dịnh (nay là số nhà 87A đường Trần Kế Xương, phường 7, quận Phú Nhuận). Mấy ngay sau đó đồng chí Phạm Hùng vào Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Ba, 2023, 10:32:08 am

Năm 1955 tình thế đã rõ

Nhiều sự kiện chính trị bắt đầu cho thấy rõ những âm mưu phá hoại giải pháp chính trị của Hội nghị Giơnevơ. Năm 1956 sẽ không có tổng tuyển cử để thống nhất nưởc nhà, đó là điều chắc chắn:

- Mỹ lập ra khối quân sự Đông Nam Á, gọi tắt là SEATO với các nước nòng cốt là: Mỹ, Thái Lan, Úc, Tân Tây Lan,... Pháp, Anh cũng tham gia khối quân sự này. Trái với tinh thần Hiệp định Giơnevơ, Nam Việt Nam, Cămpuchia, Lào bị đặt dưới sự bảo hộ của SEATO. Hiệp ước Manille, là sự cam kết liên minh quân sự chống lại cái gọi là “Làn sóng cộng sản ở Đông Nam Á”, lấy các căn cứ quân sự của Mỹ làm bàn đạp để bao vây các nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.

Pháp bàn giao miền Nam Việt Nam cho Mỹ quản lý để trừ món nợ mà Mỹ đã giúp Pháp trong chiến tranh Đông Dương. Pháp bàn giao bộ máy cai trị, nhân viên hành chính và quân đội ngụy cho Mỹ. Như vậy, các lực lượng tay sai do Pháp đào tạo và gây dựng gần một thế kỷ nay đã chuyển giao sang tay chủ mới là Mỹ.

Tên trùm mật thám Đông Dương Cousseau đã chua chát nói lên tình hình này. Ngày 22-7-1955, vào dịp Quốc khánh Ba Lan, Phái đoàn Ba Lan chiêu đãi có mời Phái đoàn ta và Đại sứ quán Pháp tham dự. Tôi mới vừa bước vào phòng khách chính, thì gặp ngay một người Pháp, đầu bạc, cỡ chừng 60 tuổi nói tiếng Việt giọng Hà Đông rất rành mạch. Hắn cầm cốc rượu mạnh đi thẳng đến tôi và nói:

- “Xin chào ngài Trưởng đoàn Việt Nam. Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Cousseau, người đã tổ chức đưa vua Bảo Đại sang Hồng Kông, rồi sang Pháp”. Tôi bắt tay xã giao, và nghĩ: Đây đúng là tên trùm mật thám đã từng đàn áp dã man những người Cộng sản chúng ta. Tôi đã nghe tiếng từ lâu, nay mới gặp mặt. Cousseau nói tiếp:

- “Nhờ ông chuyển lời tôi chúc sức khỏe Cụ Hồ Chí Minh, chúc sức khỏe Ông Phạm Văn Đồng, Ông Đặng Xuân Khu (tức là đồng chí Trường Chinh - đồng chí Trường Chinh đã từng bị hắn bắt giam và làm án). Tôi đáp: “Cám ơn Ông, tôi sẽ chuyển lời của Ông”.

- “Xin Ông nói hộ giúp tôi, ở miền Bắc có việc gì làm, Ông Phạm Văn Đồng, Ông Đặng Xuân Khu cho tôi ra làm việc với. Ông có đồng ý giúp tôi không?”.

- “Tại sao Ông không ở lại miền Nam với chế độ Ngô Đình Diệm, lại xin ra miền Bắc?”

- “Chế độ miền Nam thối tha. Ở đây nghẹt thở lắm, không sao chịu nổi. Nó đã bước vào bóng đen như đêm tối, nên tôi phải xin ra miền Bắc thôi”.

- “Xin Ông hãy nói rõ hơn, Ông muốn ra miền Bắc để làm nghiệp vụ trước đây hay là làm ngoại giao giúp chúng tôi?”

- “Tôi sẽ làm việc có lợi cho các Ông. Tôi nói để Ông rõ, nước Pháp chúng tôi, đã bán Đông Dương này cho người Mỹ rồi. Chỉ có hơn một năm nay mà chính phủ tôi đã giao hết cho Mỹ. Ông biết đó, chúng tôi đã bỏ công đào tạo từ ông vua đến hệ thống quan lại, cho đến viên chức hành chính hơn cả trăm năm. Nay chúng tôi mất hết, trắng tay rồi, còn gì mà ở lại đây làm việc. Tôi nói chân thực đấy. Chắc các Ông sẽ không thấy diễn ra Tổng tuyển cử 1956 đâu, vì chủ mới và tay sai mới, họ lại không có ký kết gì với các ông. Còn người Pháp chúng tôi đã phải ra đi rồi”.

Những lời của Cousseau, đã phản ánh tâm trạng cay đắng của thực dân Pháp, khi họ thất bại trong chiến tranh xâm lược, lẫn thất bại đối với người bạn đồng minh của họ. Đến giữa năm 1955, chúng tôi đã đi đến nhận định: Không còn khả năng thực hiện tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà và đã thảo ra một báo cáo viết tay, đề nghị với Bộ Chính trị cho thành lập lại các lực lượng vũ trang, tiến hành đấu tranh dưới danh nghĩa một chính phủ trung lập ở miền Nam. Tháng 7 năm 1955, đồng chí Phạm Hùng ra Hà Nội mang theo bản báo cáo của chúng tôi. Bộ Chính trị đã quyết định giữ đồng chí Phạm Hùng ở lại Hà Nội để giúp lãnh đạo công tác miền Nam. Lúc bấy giờ đồng chí Lê Duẩn còn ở Nam Bộ.

Đồng chí Nguyễn Văn Vịnh được chỉ định vào thay thế đồng chí Phạm Hùng làm trưởng đoàn.

Song đến tháng 8 năm 1956, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh lại được điều ra Hà Nội. Tôi ở lại phụ trách Phái đoàn cho đến ngày 17-5-1958, cùng cả Phái đoàn rút ra Hà Nội theo chỉ thị của Trung ương.


Ủy ban Quốc tế

Ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế gồm 3 nước: Ấn Độ, Ba Lan và Canada, do Ấn Độ làm chủ tịch, được thành lập ngay khi ký Hiệp định Giơnevơ. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tiếp Đại sứ Desai, Chủ tịch Ủy ban Quốc tế tại Thái Nguyên. Lúc ấy Chính phủ ta còn chưa về Hà Nội. Ủy ban Quốc tế lúc đầu đóng ở Hà Nội và có một Phân ban đóng ở Sài Gòn. Ở Hà Nội, ta có Phái đoàn liên lạc do Đại tá Hà Văn Lâu phụ trách, làm việc với Ủy ban Quốc tế. Còn ở Sài Gòn, thì Phái đoàn liên lạc của ta làm việc với một Phân ban của Ủy ban Quốc tế.

Khi việc chuyển quân tập kết và trao trả tù binh đã hoàn thành, công việc còn lại của Ủy ban Quốc tế phần lớn là điều tra, kết luận các đơn khiếu nại về việc thi hành Điều 14C của Hiệp định Giơnevơ, ngăn cấm trả thù và phân biệt đối xử đối với người đã cộng tác với phía bên này hay phía bên kia trong thời gian chiến tranh. Điều 14C đối với ta rất quan trọng, bởi vì Mỹ - Diệm đang tiến hành các chiến dịch tố cộng, lùng sục bắt giết cán bộ ta, với âm mưu tiêu diệt các cơ sở cách mạng. Cho nên ta hết sức tranh thủ Ủy ban Quốc tế đi điều tra các vụ khủng bố vi phạm Điều 14C.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Ba, 2023, 10:34:08 am

Phái đoàn Ấn Độ

Quan hệ giữa ta và phái đoàn Ấn Độ rất tốt. Phần lớn các vấn đề ta nêu ra, đều được Chủ tịch Phân ban Quốc tế là bác sĩ Menon ủng hộ, làm việc với ta rất thân tình. Có lần Ông mời tôi đến nhà riêng ăn bữa cơm dân tộc, do tự tay Bà Menon nấu. Ăn bốc tay, chứ không có đũa hay dao nĩa. Trong bữa ăn, ông Menon đã nói với tôi rằng:

- “Nhân dân Ấn Độ chúng tôi rất khâm phục cuộc chiến đấu chống xâm lược của nhân dân Việt Nam. Có việc gì Ông cứ cho tôi biết, tôi sẽ hết sức giúp đỡ các Ông”

Bác sĩ Menon luôn ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh, gắn cuộc chiến đấu của nhân dân ta với cuộc chiến đấu của nhân dân Ấn Độ chống thực dân Anh, và các lãnh tụ như Găngđi, Nêru... Cho đến khi Ủy ban Quốc tế di chuyển từ Hà Nội vào Sài Gòn, quan hệ làm việc giữa Phái đoàn ta với Phái đoàn Ấn Độ vẫn thuận lợi. Đặc biệt có nhiều sĩ quan Phái đoàn Ấn Độ đã giúp ta biết thêm về tình hình nội bộ Pháp, Mỹ và bọn Ngô Đình Diệm.


Phái đoàn Canada

Tất nhiên Canada đứng về phía Pháp, Mỹ - ngụy. Tuy vậy, Đại sứ Canada và các sĩ quan cao cấp khác, trong thái độ đối xử với phái đoàn ta luôn luôn tỏ ra kính trọng. Các buổi chiêu đãi do ta tổ chức, họ đều đến dự đông đủ và có khi còn ở nán lại để xem chiếu phim hoặc để trò chuyện xã giao. Có nhiều lần, Đại sứ Canada một mình đến Phái đoàn ta để trò chuyện đến 12 giờ đêm. Ông Đại sứ nói:

- “Canada có thời gian bị xâm chiếm, cũng phải đứng lên chiến đấu chống ngoại xâm nên rất thông cảm với nhân dân Việt Nam”.

Họ yêu cầu Phái đoàn ta có vấn đề gì khó khăn cứ cho họ biết, họ sẽ can thiệp với Ủy ban Quốc tế. Sự thật cũng đúng như vậy, không có vấn đề gì Phái đoàn ta nêu ra mà Phái đoàn Canada bác bỏ.


Phái đoàn Ba Lan

Đồng chí Đại sứ Trưởng phái đoàn Ba Lan cho ta biết: Tất cả, từ đại sứ cho đến các sĩ quan trong Phái đoàn đều là đảng viên Cộng sản. Các đồng chí Ba Lan thường đón Phái đoàn ta và ta cũng thường đến Phái đoàn Ba Lan để trao đổi thông tin, nhận định tình hình, thống nhất chủ trương đấu tranh và để nói chuyện vui hay đánh cờ. Phái đoàn Ba Lan cũng cử người đến trụ sở Phái đoàn ta, giúp ta học tiếng Nga. Được tin Phái đoàn ta bị quấy rối, Đại sứ Ba Lan đến thăm ngay và chủ động can thiệp với Ủy ban Quốc tế.
Trong một buổi tiệc rượu tại trụ sở Phái đoàn Ấn Độ ở số 3 Phạm Ngũ Lão, đồng chí Đại sứ Gôtốcxki, Trưởng Phái đoàn Ba Lan và tôi đang đứng nói chuyện, thì Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu đến gợi chuyện, khiêu khích. Lệ Xuân hỏi:

- “Thưa ngài Đại sứ, xin ngài cho biết giữa người cộng sản Ba Lan và người cộng sản Việt Nam khác ở chỗ nào?”.

Đồng chí Đại sứ Ba Lan trả lời:

- “Câu hói của bà rất hay, còn câu trả lời của tôi không biết bà tán thưởng hay không?”

- “Xin Đại sứ cứ nói”.

- “Tôi là người cộng sản Ba Lan vào Đảng lúc 15 tuổi. Là người cộng sản thì Việt Nam hay Ba Lan không có gì khác nhau vì họ đều chiến đấu cho lợi ích của đất nước họ và cho lợi ích của cả loài người trên thế giới này. Tuy vậy, cũng có chỗ khác nhau về tính dân tộc: dân tộc Ba Lan có 80% là người theo đạo Thiên Chúa nhưng phần lớn đã gia nhập theo Đảng Cộng sản Ba Lan. Còn ở Việt Nam, theo tôi được biết, thì có đến 80% theo đạo Phật và rất nhiều người theo đạo Phật đã vào Đảng Cộng sản. Tôi tin chắc là không bao lâu nữa, phần lớn người Việt Nam dù đạo Phật hay đạo Thiên Chúa đều đi theo Đảng Cộng sản, và bà Lệ Xuân cũng không tránh được phải đi theo Đảng Cộng sản đâu”.

Lệ Xuân đưa tay lên che miệng và nói:

- “Thưa Ông, tôi không thể trở thành người Cộng sản được”.

- “Bà không tin vào lời tôi nói ư? Có Ông Trưởng đoàn Việt Nam đây, chúng ta sẽ chứng kiến cách mạng Việt Nam đi tới, dù bà có muốn hay không cũng không cưỡng lại được sự tiến triển của cách mạng Việt Nam đâu!”

Đó là câu chuyện đối đáp giữa Đại sứ Ba Lan với một trong những nhân vật phản động vào bậc nhất của Mỹ - Diệm. Ngày nay, ngẫm lại càng thấy sự sắc sảo của đồng chí Trưởng đoàn Ba Lan trong cuộc đấu trí với kẻ thù hôm đó.

Thái độ chính trị của ba Phái đoàn trên cho thấy hoạt động của Ủy ban Quốc tế có lợi cho ta hơn là cho địch. Vì Mỹ - Diệm chống lại việc thi hành Hiệp định Giơnevơ nên sự có mặt của Ủy ban Quốc tế không có lợi cho chúng. Chúng tìm cách hạn chế vai trò của Ủy ban Quốc tế, dở thủ đoạn uy hiếp, như cho bọn côn đồ đến đập phá khách sạn Majestic, khách sạn Galliéni, nơi ở của sĩ quan các phái đoàn. Chúng tổ chức biểu tình, hô khẩu hiệu: “Đả đảo Ủy ban Quốc tế...”, ném đá vào trụ sở Ủy ban ở đường Champagne. Càng về sau, Mỹ - Diệm càng vô hiệu hóa Ủy ban Quốc tế, càng hạn chế việc đi lại, không tổ chức đi điều tra các đơn khiếu nại... và Ủy ban Quốc tế dần dần không còn có việc để làm nữa.

Cũng cần nói về Phái đoàn Pháp. Thật đáng thương cho các sĩ quan đại diện cho Bộ Tổng chỉ huy Liên hiệp Pháp ở Đông Dương. Họ ở trong tình thế chịu nhiều sức ép: Mỹ — Diệm, Phái đoàn ta, Ủy ban Quốc tế. Thái độ của họ lúc bấy giờ cái gì cũng “Vâng - dạ”, tỏ ra đồng tình với ta, nhưng không làm được gì. Họ mong thoát khỏi trách nhiệm của họ. Một đại tá Pháp nói: “Chúng tôi chỉ muốn nhanh chóng trở về Pháp sống yên lành với vợ con. Kết thúc chiến tranh Đông Dương là sự may mắn được Chúa ban cho. Chúng tôi không có ý định tiếp tục chiến tranh với các Ông”.

Chúng tôi không quên sự giúp đỡ tận tình của một sĩ quan Pháp. Đó là đại tá Giám đốc Bệnh viện Đồn Đất (Hôpital Grall, nay là bệnh viện Nhi Đồng 2). Khi cán bộ của ta bị hành hung ở chợ Bến Thành, chính vị đại tá bác sĩ này và hai bác sĩ Pháp mang hàm đại úy đã đến trụ sở Phái đoàn ta, băng bó vết thương và đưa xe cứu thương đến chở hai cán bộ ta về Bệnh viện Grall điều trị rất chu đáo. Ba ngày sau, họ lại đưa hai đồng chí của ta trở về Phái đoàn, để đưa ra Hà Nội tiếp tục điều trị. Từ đó, vị đại tá bác sĩ làm thân với ta, thường đến thăm phái đoàn, hỏi han nhiều việc như: người Pháp ở lại Sài Gòn có yên ổn không, người Pháp cần làm gì để người Việt Nam tin cậy, làm thế nào duy trì sự có mặt của người Pháp tại Bệnh viện Grall. Có lần Ông ta hỏi: “Tổ chức công đoàn nên hỏi ý kiến ai, bầu cử vào ban chấp hành công đoàn nên hướng dẫn bầu ai v.v...”. Tôi không rõ đó là những câu hỏi thật tình hay là cách thăm dò của Phòng nhì Pháp. Tôi chỉ trả lời:

- “Việc này là việc nội bộ của bệnh viện. Ông nên hỏi ý kiến công nhân viên chức của bệnh viện thì rõ hơn”

Ông ta cũng cho tôi biết nhiều tin tức về hoạt động của Mỹ - Diệm. Qua nhiều lần nói chuyện, tôi cảm nhận được sự lo sợ của người Pháp còn ở lại Sài Gòn, lo sợ về vị trí và sinh mạng của họ. Khi nghe tin Phái đoàn ta sắp rút về Hà Nội, vị bác sĩ này đến chào tạm biệt và biếu cho chúng ta những thùng thuốc quý để đưa ra miền Bắc.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Ba, 2023, 10:35:24 am

Những công việc chính của Phái đoàn

Trưởng Phái đoàn ta, đại diện cho Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nạm làm việc với Ủy ban Quốc tế trong đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, hoàn toàn không liên hệ với tổ chức Đảng ở miền Nam. Đây là mặt trận đấu tranh pháp lý, song song với phong trào quần chúng do Đảng bộ miền Nam lãnh đạo, chống khủng bố trả thù những người kháng chiến cũ, đòi các quyền tự do dân chủ, hiệp thương tổng tuyển cử.

Công việc chính của Phái đoàn ta là tạo ra mối quan hệ tốt nhất với các Phái đoàn trong Ủy ban Quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của họ trong cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân ta với nhiều mức độ khác nhau. Qua việc cung cấp tình hình từ Trung ương, Phái đoàn ta tố cáo các vụ khủng bố vi phạm Điều 14C của Hiệp định Giơnevơ và kiên nghị với Ủy ban Quốc tế đi điều tra, kết luận những vụ vi phạm lớn.

Phái đoàn ta đã có sự đóng góp đáng kể cho Trung ương, theo dõi tình hình miền Nam nhất là tình hình nội bộ Mỹ - Diệm. Chúng ta có được những thông tin có giá trị, từ quan hệ với các trưởng đoàn, các sĩ quan trong Ủy ban Quốc tế, các sĩ quan Pháp, và các nguồn tin khác. Hàng ngày, ta thu lượm tin tức trên nhật báo và tuần báo tại Sài Gòn để nắm bắt một cách cụ thể việc Mỹ công khai nhảy vào miền Nam, như sự tăng cường các cố vấn quân sự, các trang thiết bị phục vụ cho chiến tranh, các loại vũ khí cũng như tiền bạc để nuôi chính quyền Ngô Đình Diệm. Các nguồn tin đó giúp ta nghiên cứu các vấn đề chính trị ở miền Nam và báo cáo về Trung ương. Để được sự lãnh đạo kịp thời của Trung ương, Phái đoàn ta liên lạc bằng điện đài và khi cần báo cáo trực tiếp thì phái cán bộ ra Hà Nội bằng máy bay của Ủy ban Quốc tế.

Tuy nhiên, do hoạt động của bản thân Ủy ban Quốc tế cũng bị hạn chế và về sau bị vô hiệu hóa dần, cho nên mặt trận đấu tranh pháp lý của Phái đoàn ta không thể phát triển được. Chính vì thấy trước điều này, Trung ương đã sớm rút đồng chí Phạm Hùng và đồng chí Nguyễn Văn Vịnh về Hà Nội.

Theo chỉ đạo của Trung ương, duy trì sự có mặt của Phái đoàn ta ở Sài Gòn dù công việc không có gì nhiều nhưng cũng vẫn là quan trọng. Có thể nói rằng, đây mới là nhiệm vụ chủ yếu nhất. Vì, khi Phái đoàn ta còn đó thì còn duy trì một sức mạnh tiềm tàng làm cho Mỹ - Diệm phải kiêng sợ. Nó là ngọn cờ cổ vũ tinh thần đấu tranh của đồng bào miền Nam và cảnh cáo kẻ thù rằng: Cách mạng đang ở đây, Cách mạng sẽ phát triển và sẽ đi đến thắng lợi.


Nhìn lại ba năm hoạt động của Phái đoàn ở Sài Gòn

Ba năm ở Sài Gòn, không gì đau khổ bằng khi thấy trước mắt cảnh kẻ thù giết hại đồng chí của mình, giết hại đồng bào mà không được cầm vũ khí chống lại chúng. Có lúc phải cầm nước mắt đau thương để nói ra những lời lẽ xã giao ôn hòa, phải nén lòng căm thù đề cầm ly rượu, nói lời chúc tụng. Và, những đêm đi xe trên đường phố Sài Gòn, không khỏi khóc thầm vì cảnh Diệm, Nhu bố ráp bắt bớ đồng bào đưa vào các trại tập trung, bắt đi những người của phong trào Bảo vệ Hòa bình ở thành phố. Thâm tâm, tôi rất mong muốn Đảng sớm phát động đấu tranh vũ trang trở lại.

Phái đoàn ta ở Sài Gòn như cây đinh đóng vào đầu bọn Mỹ - Diệm, nên chúng tìm mọi cách nhổ ra càng sớm càng tốt. Từ năm 1956, chính quyền Sài Gòn đã gửi công hàm cho Ủy ban Quốc tế yêu cầu triệt thoái Phái đoàn ta. Họ cho lính ngụy cải trang bao vây trụ sở, ném đá đòi chúng ta phải rút về Hà Nội. Họ hạn chế gắt gao việc đi lại kể cả đi chợ. Họ hành hung cán bộ ta ở chợ Bến Thành, cắt điện nước sinh hoạt, gài máy nghe trộm trong trụ sở, nhưng đã bị ta phát hiện. Họ đưa gián điệp vào làm vườn để lấy tin tức. Tên gián điệp này làm được một thời gian, thì tự thú với ta và xin nghỉ việc.

Ngày 9-1-1958, khi hai cán bộ của ta từ Hà Nội trở về đến sân bay Tân Sơn Nhất, bị chúng giữ lại, buộc phải trở ra Hà Nội. Tuy Chủ tịch Ủy ban Quốc tế, Đại sứ Kaul can thiệp, nhưng chúng vẫn từ chối không cho xuống máy bay. Sự việc này nằm trong âm mưu xua đuổi Phái đoàn ta và vô hiệu hóa Ủy ban Quốc tế.

Một sự việc lý thú trong đời hoạt động của tôi là có lần gặp trực tiếp Diệm, Nhu tại khách sạn Continental trong dịp Phái đoàn Canada tổ chức Quốc khánh của họ. Khi chúng tôi bước vào phòng khánh tiết, đã thấy Diệm, Nhu đang ở đó. Họ bắt tay chào chúng tôi. Không nén được lòng căm thù, tôi liền nói ngay:

- “Chào ngài Tổng thống, ngài định phá hoại sự thống nhất đất nước. Nếu việc đó xảy ra, thì các ngài phải chịu trách nhiệm trước lịch sử của dân tộc”.

Tôi vừa nói xong, Diệm, Nhu bị bất ngờ nên lúng túng một lúc, Diệm đáp lại:

- “Thưa ngài, chúng tôi không phá hoại thống nhất đất nước, xin ngài biết cho”.

- “Ngài nói có thật không?”.

- “Vâng, tôi nói thật đó”.

Câu chuyện là thế. Nhưng...


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Ba, 2023, 10:36:21 am

Một hôm vào đầu năm 1958, Chủ tịch Ủy ban Quốc tế mở tiệc đứng tổ chức tại nhà khách của Phái đoàn Ấn Độ (nay là nhà số 3 đường Phạm Ngũ Lão), có khoảng ba trăm khách tham dự. Đến giữa buổi tiệc, Chủ tịch Kaul mời tôi vào một buồng riêng, để nói về tin tức tuyệt mật, liên quan đến sinh mạng của Phái đoàn ta. Đi với tôi, có đồng chí Kha phiên dịch tiếng Anh. Chủ tịch Kaul nói:

- “Tôi thông báo cho ngài tin tuyệt mật mà tôi biết được để ngài có quyết định kịp thời trước khi sự việc xảy ra. Chính quyền miền Nam dự định cho lực lượng vũ trang xông vào nhà Phái đoàn để bắt các ngài, phân tán đi các nơi, hành hạ các ngài trước khi trao trả các ngài cho miền Bắc. Vậy ngài nghĩ sao?”.

Tôi trả lời:

- “Tôi cám ơn Ông Chủ tịch đã thông báo tin này. Bây giờ điều trước tiên tôi yêu cầu Ông, điện ngay tin này cho Thủ tướng Chính phủ Ấn Độ, để ngăn chặn hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ, phá hoại Ủy ban Quốc tế. Sáng ngày mai, yêu cầu Ông Chủ tịch cho triệu tập họp khẩn cấp Ủy ban Quốc tế, có mặt các trưởng đoàn Ba Lan và Canada để thông báo tin này. Ủy ban Quốc tế cần tỏ thái độ kiên quyết đối với âm mưu phá hoại của chính quyền miền Nam. Phần chúng tôi, sẽ điện báo tin này cho Bộ Tổng tự lệnh chúng tôi. Ngài cần báo cho chính quyền miền Nam biết, Phái đoàn chúng tôi chỉ có 16 người với 16 khẩu súng ngắn. Chúng tôi sẽ bắn đến viên đạn cuối cùng vào những ai xâm phạm đến Phái đoàn. Họ sẽ ngã gục trước khi chúng tôi ngã xuống. Quân đội Nhân dân chúng tôi không bao giờ đầu hàng và không để cho bất cứ ai xâm phạm đến danh dự của mình. Xin cám ơn ngài Chủ tịch”.

Chủ tịch Kaul trả lời:

- “Chúng tôi sẽ chuyển đạt lời của ngài”.

Khi trở về trụ sở, tôi nói lại tin này với các đồng chí trong Phái đoàn để biết, mọi người đều phẫn nộ và tỏ thái độ sẵn sàng chiến đấu nếu chúng dám làm càn.

Tháng 5 năm 1958, thấy Phái đoàn bị bao vây phong tỏa không còn điều kiện hoạt động, Bộ Chính trị quyết định rút Phái đoàn về Hà Nội.

Ngày Phái đoàn ta ra đi, Mỹ - Diệm lo sợ xẩy ra biểu tình nên bố trí hàng ngàn cảnh sái và quân đội trên đường từ trụ sở Phái đoàn và Ủy ban Quốc tế đến sân bay Tân Sơn Nhất. Nhưng đồng bào vẫn đứng ở hai bên lề đường để chào đón và tiễn đưa đoàn xe ra sân bay, bất chấp bọn lính xô đẩy, đe dọa.

Đến sân bay Tân Sơn Nhất, lòng đầy xúc động, tôi đã tranh thủ nói chuyện với đồng bào, để chia tay. Chủ tịch Ủy ban Quốc tế Kaul đã thốt lên rằng:

- “Chính quyền miền Nam tiễn Phái đoàn các Ông, hơn hẳn cuộc đón tiếp một vị tổng thống của một nước” và còn nói thêm: “Nhân dân Việt Nam thực sự ủng hộ các Ông”.

Phái đoàn ra đi nhưng không thể nào quên tình cảm của nhân dân đối với Phái đoàn ta trong ba năm có mặt tại Sài Gòn. Nhân dân gần xa có người ở tận Huế, Khu 5 cũng vào xem. Mặc dù bọn mật vụ đóng nhiều vai, hàng ngày đi quanh trụ sở Phái đoàn, vậy mà đồng bào Sài Gòn vẫn qua lại, kín đáo nhìn vào xem cờ Tổ quốc, xem ảnh Bác Hồ, bỏ tài liệu tin tức vào bên trong rào của trụ sở, lợi dụng chở hàng cho Phái đoàn, để vào xem cờ Tổ quốc, ảnh Bác Hồ, hỏi han về thống nhất đất nước... Khi Phái đoàn mới vào, mua sắm tiện nghi trong nhà, có người không nhận tiền, không tính tiền công. Cán bộ đi chợ mua thực phẩm, nhiều lần gặp người bán hàng không nhận tiền, xin được ủng hộ Phái đoàn, v.v..

Đó là những biểu hiện tình cảm thân yêu và lòng tin tưởng của nhân dân thành phố đối với Bác Hồ, với Đảng, với kháng chiến, với cách mạng lúc bấy giờ.

Ta nhớ lại cũng trong thời đó, tư tưởng phục Mỹ, sợ Mỹ khá lan tràn ở nhiều nước, nhiều người, sự phân vân, e ngại đã xuất hiện khi Đảng và nhân dân ta quyết định tiến hành bạo lực cách mạng cả chính trị và vũ trang để chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với chân lý: “Không có gì quý hơn dộc lập tự do”. Hai mươi năm sau, tình cảm, ý chí cách mạng và lòng tin tưởng ấy của nhân dân Sài Gòn, nhân dân miền Nam và nhân dân cả nước đã biến thành sức mạnh to lớn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng thành phố mang tên Bác, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Ngày nay chúng ta có hòa bình, độc lập và thống nhất, đã đạt nhiều thành tựu trong xây dựng đất nước. Nhưng tình hình thế giới đang diễn ra hết sức phức tạp, chúng ta phải luôn cảnh giác. Nhân dân ta bao giờ cũng biết cách vận dụng những biện pháp cách mạng thích hợp với từng tình huống để bảo vệ nền độc lập của mình. Chúng ta vững tin dầu trong tình thế nào, dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh, dân tộc ta một dân tộc anh hùng, nhất định vượt qua mọi khó khăn và giành thắng lợi.

Ngày 2 tháng 9 năm 1999


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Tư, 2023, 08:39:10 am

MẤY NĂM TIẾP SAU HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ...


HUỲNH MINH HIỂN

Câu hỏi đặt ra cho mọi người Việt Nam yêu nước khi quân đội ta đã hoàn thành tập kết chuyển quân ra phía Bắc vĩ tuyến 17, là việc thống nhất Tổ quốc, sẽ được thực hiện bằng con đường nào?

Sau 5 năm, câu hỏi đó mới được giải đáp bằng Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng.


1. Cục diện nước ta trong những năm 1954-1959

Chiến thắng vang dội của quân dân ta ở Điện Biên Phủ và trên khắp các mặt trận, đã đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ ngày 20-7-1954: Hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam giữa ta và Pháp và Tuyên bố cuối cùng của các đoàn đại biểu tham dự Hội nghị.

- Nội dung chủ yếu của Hiệp định đình chỉ chiến sự là: Đình chiến và tập kết chuyển quân sang hai bên giới tuyến quân sự tạm thời. Cấm đưa thêm quân và vũ khí vào Việt Nam. Trao trả tù binh và dân thường bị bắt. Cam kết không trả thù và phân biệt đối xử. Bảo đảm quyền tự do dân chủ cho những người và tổ chức đã hợp tác với phía bên này hoặc bên kia. Thành lập Ủy ban Kiểm soát và Giám sát quốc tế gồm có: Ấn Độ, Ba Lan và Canada. Ủy ban này do Ấn Độ làm Chủ tịch. Thành lập Ủy ban Liên hợp đình chiến gồm có đại diện của Bộ Tư lệnh hai bên với số lượng đại biểu bằng nhau.

- Nội dung chủ yếu của Tuyên bố cuối cùng là: Công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Cămpuchia và Lào. Đối với Việt Nam sau hai năm, kể từ ngày ký Hiệp định Giơnevơ, tức là ngày 20-7-1956, sẽ tổ chức hiệp thương và tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất nước Việt Nam. Từ ngày 20-7-1955, nhà đương cục hai miền Nam — Bắc sẽ tham khảo ý kiến về vấn đề này.

Đoàn đại biểu Mỹ ra một tuyên bố riêng, đại ý như sau: “Hoa Kỳ tránh không dùng vũ lực, hoặc đe dọa dùng vũ lực để ngăn trở việc thi hành Hiệp định Giơnevơ, trừ khi có cuộc xâm lược mới, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình thế giới”.

Khi nhận làm Chủ tịch Ủy ban Quốc tế, Chính phủ Ấn Độ tuyên bố đại ý hoan nghênh Hiệp định Giơnevơ, chúc mừng Ba Lan và Canada là thành viên của Ủy ban.

Lúc bấy giờ khí thế cách mạng trong cả nước đang sục sôi. Địch rút nhiều đồn bót, tinh thần sa sút, ngụy quân hoang mang đào rã ngũ hàng đoàn, vùng giải phóng được mở rộng. Nhưng khi nghe truyền đạt nội dung Hiệp định Giơnevơ, nói về tập kết chuyển quân, thì trong cán bộ và cả trong nhân dân có nhiều thắc mắc, không yên tâm.

- “Có phải là hai năm hay lâu hơn?”.

Thật ra lúc bấy giờ, những đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng ta biết rằng khả năng thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử rất ít, nhưng dù khả năng này rất ít vẫn phải hết sức tranh thủ. Vả lại điều đó có ảnh hưởng đến việc tập kết chuyển quân đang cần được thực hiện suôn sẻ, ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh của quần chúng đòi hòa bình và dân sinh dân chủ. Khi đồng chí Lê Duẩn đến chia tay với anh em trong Ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ, để ở lại lãnh đạo trực tiếp cách mạng miền Nam, thì đồng chí có nói:

- “Hẹn 15 - 20 năm nữa, chúng ta sẽ gặp lại nhau”.

Ước đoán khi đó của đồng chí Lê Duẩn, đã trở thành sự thật.

Ngày 21-12-1955, tại bến sông Ông Đốc, đoàn cán bộ các cơ quan chung quanh Trung ương Cục miền Nam lên chuyến tàu cuối cùng của Ba Lan, chiếc Kilinski, tập kết ra miền Bắc. Để đánh lạc hướng địch, đồng chí Lê Duẩn cũng lên tàu như đi tập kết. Trong cabin thuyền trưởng, đồng chí Lê Duẩn đã nói với các đồng chí Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Kỉnh:

- “Các anh ra miền Bắc, cho tôi gửi lời thăm hỏi sức khỏe của Bác. Hiểu rõ bản chất của Mỹ và tay sai, thì theo tôi không thể có hiệp thương tổng tuyển cử sau hai năm đâu. Các anh thưa với Bác rằng, ở trong này tôi đã chuẩn bị đối phó với địch, đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Xin Bác yên tâm”.

Từ cuối năm 1954 — 1955, không chỉ riêng đồng chí Lê Duẩn, mà Đảng ta đã dự kiến khả năng phải đấu tranh vũ trang để giải phóng miền Nam.

Ở miền Nam. Khi ký Hiệp định Giơnevơ, ta muốn ngăn chặn sự can thiệp sâu hơn của Mỹ, giữ chân Pháp ở lại miền Nam, tiếp tục là đối tác của ta trong việc thực hiện giải pháp chính trị. Lúc bấy giờ, Ủy ban Kiểm soát và Giám sát Quốc tế ở Đông Dương, có trụ sở tại Hà Nội và Sài Gòn. Phía Pháp cũng có một Phái đoàn liên lạc ở Hà Nội và Sài Gòn còn phía ta chỉ có Phái đoàn liên lạc ở Hà Nội. Vì vậy khi ta đặt vấn đề với Ủy ban Quốc tế và Pháp rằng, chúng ta cần có Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Quốc tế tại Sài Gòn là hợp lý, nên được ủng hộ. Phía Pháp cũng tán thành. Nhưng do Mỹ - Diệm phá hoại, việc thành lập Phái đoàn ta ở Sài Gòn không thực hiện được ngay. Cuối cùng chúng phải chấp nhận. Ngày 17-5-1955, Phái đoàn liên lạc của ta đã vào Sài Gòn. Đồng chí Phạm Hùng lúc đó là ủy viên Trung ương Đảng, làm Trưởng Phái đoàn và đại diện cho Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Quốc tế.

Nhiệm vụ chính thức của Phái đoàn là đấu tranh pháp lý đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà. Thực ra, ngoài nhiệm vụ quan trọng đó, nhiệm vụ chính yếu và thực tế là duy trì sự có mặt của phái đoàn ta ở Sài Gòn càng lâu càng tốt, như một ngọn cờ cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Sài Gòn và nhân dân miền Nam.

Nhưng tình hình diễn ra theo chiều hướng rất phức tạp. Pháp lúc bấy giờ đã kiệt quệ, không đủ sức để duy trì đội quân viễn chinh ở Đông Dương. Từ năm 1950, Mỹ đã gánh phần lớn chi phí cho chiến tranh Đông Dương. Vì vậy dưới sức ép của Mỹ, Pháp đã phải giao lại miền Nam Việt Nam cho Mỹ, cam chịu rút toàn bộ quân viễn chinh. Khi đó Bảo Đại làm Quốc trưởng bù nhìn, Bửu Lộc làm Thủ tướng tay sai cho Pháp.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Tư, 2023, 08:39:53 am

Ngày 7-7-1954, Mỹ dựng Ngô Đình Diệm lên thay Bửu Lộc. Đến 23-10-1955, Diệm phế truất Bảo Đại, tổ chức bầu cử giả hiệu, lên làm tổng thống “Việt Nam Cộng hòa”. Và từ ngày 1-11-1954, viện trợ Mỹ trao thẳng cho Sài Gòn, không thông qua Pháp. Sau đó, phái bộ quân sự của Mỹ trực tiếp tổ chức và huấn luyện quân ngụy. Mỹ đã thay Pháp, làm chủ miền Nam mà không tốn bao nhiêu công sức. Với bộ máy cố vấn quân sự, chính trị, cộng với đòn bẩy viện trợ kinh tế, Mỹ đã điều khiển chặt chẽ chính quyền Sài Gòn. Phần lớn bọn tay sai của Pháp bỏ chủ cũ chạy theo chủ mới là Mỹ, ủng hộ Ngô Đình Diệm. Nhưng chỉ một số được Mỹ chấp nhận.

Diệm khi mới về Sài Gòn, còn rất đơn độc. Là người miền Trung, nhờ trước đây do mâu thuẫn bè phái, đã từ chức “Lại bộ Thượng thư” triều đình Huế, nên có một ít tiếng tăm. Còn đối với Nam Bộ, Diệm chưa có ảnh hưởng gì. Ngày 30-6-1954, trước khi vào Sài Gòn làm Thủ tướng bù nhìn, theo kế hoạch của Mỹ, Diệm ra Hà Nội tập hợp các chức sắc thiên chúa giáo địa phận Bùi Chu - Phát Diệm, tổ chức làn sóng người di cư vào Nam, bỏ nhà cửa ruộng vườn, nhằm tạo chỗ dựa cho chế độ Ngô Đình Diệm còn non yếu. Âm mưu của địch là dụ dỗ, kết hợp cưỡng ép người di cư. Khoảng 800.000 người đã di cư vào Nam. Đa số dân di cư được bố trí chung quanh vòng đai Sài Gòn, mà nay vẫn còn dấu ấn của làng xóm mang tên quê hương miền Bắc. Từ tháng 3-1955, vừa mua chuộc phân hóa, vừa dùng quân sự đàn áp, Diệm dẹp bỏ các lực lượng vũ trang thân Pháp, Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên và thực hiện sự thống nhất quân đội ngụy. Sau Hội nghị Giơnevơ, chính phủ Pháp của Mendès France, thi hành chính sách hai mặt: vừa muốn mở rộng quan hệ bình thường với miền Bắc, vừa theo đuôi Mỹ trong chính sách chống cộng cực đoan. Ngày 7-8- 1954, Sainteny được cử làm Tổng đại diện Pháp ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sainteny đến Hà Nội rất sớm, trước cả đại sứ Liên Xô và Trung Quốc, được Chính phủ ta đối xử trọng thị. Nhưng tướng Ely, Tổng Cao ủy và Tổng chỉ huy các lực lượng Liên hiệp Pháp, theo đuổi chính sách liên minh với Mỹ, không hợp tác với miền Bắc, chống lại Tổng tuyển cử. Chính phủ Pháp ngả theo quan điểm tướng Ely, không giao cho Sainteny quyền hạn cụ thể về chính trị.

Ngày 8-9-1954, Chính phủ Pháp ký Hiệp ước Manille, lập ra khối quân sự Đông Nam Á gọi tắt là SEATO. Đây là khối liên minh quân sự do Mỹ cầm đầu gồm các nước nòng cốt là Thái Lan, Philippin, Úc, Tân Tây Lan và cả Anh, Pháp cũng tham gia, đặt Việt Nam, Cămpuchia và Lào dưới sự bảo trợ của Hiệp ước này. Như vậy chỉ 7 tháng sau khi ký, Pháp đã từ bỏ tinh thần Hiệp định Giơnevơ. Ngân sách chính quyền Sài Gòn phần lớn lấy từ viện trợ Mỹ và tăng lên từng năm. Nhờ đó, đời sống kinh tế trong những năm đầu của chế độ Ngô Đình Diệm khá ổn định. Đầu năm 1955, ngân hàng quốc gia ngụy được thành lập, phát hành đồng tiền miền Nam thay cho tiền Đông Dương. Trong những năm đó, chúng tập trung sức tiêu diệt các giáo phái, củng cố chính quyền và truy bắt cán bộ ta, tiêu diệt cơ sở cách mạng.

Cũng trong thời gian 200 ngày vừa lo việc chuyển quân, ta còn phải lo sắp xếp cán bộ đi tập kết và ở lại miền Nam, tổ chức đảng từ Xứ ủy đến các Tỉnh ủy, Huyện ủy và cơ sở. Ở vùng nông thôn, ta tổ chức các hình thức hoạt động hợp pháp như nhà bảo sanh, trạm y tế, trường học, tổ vần đổi công... Các loại vũ khí thích hợp thì cất giấu ở nhiều nơi, nhưng quan trọng hơn cả là vốn chính trị vô giá để lại trong lòng người dân, những chính sách đúng đắn đã thực hiện trong 9 năm kháng chiến như: chính sách đại đoàn kết, chính sách ruộng đất, chính sách đối với tôn giáo, đối với trí thức, đối với dân tộc. Chúng ta tranh thủ thành lập Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam ở Sài Gòn sau ngày tập kết cũng chính là để đồng bào luôn cảm thấy có Đảng trong cuộc đấu tranh với kẻ thù tàn bạo. Đối với người dân miền Nam, Chính phủ Cụ Hồ là chính nghĩa, là độc lập thật sự, là cơm no áo ấm. Còn chế độ Sài Gòn là sản phẩm ngoại bang. Mỹ - Diệm muốn thay đổi hình ảnh đó, giành lại ngọn cờ dân tộc, nhưng chúng không sao làm được.

Ở đồng bằng Nam Bộ và Khu 5, sau khi ta vừa rút đi và bàn giao quản lý, thì chúng tổ chức ngay những đợt càn quét và tố cộng, ra sức lùng bắt cán bộ và tiêu diệt cơ sở cách mạng. Có chiến dịch chúng sử dụng nhiều trung đoàn quân chính quy đi càn quét. Dân gọi đó là “chiến tranh một bên”. Trong những năm 1955 đến 1958, mặc dù có vũ khí cất giấu, nhưng các địa phương vẫn tuân thủ phương pháp đấu tranh hòa bình, đòi tự do dân chủ, đòi tổng tuyển cử, kéo biểu tình, hô khẩu hiệu, tranh thủ lính ngụy... Mỹ ngụy ngoan cố, tàn ác làm các cơ sở Đảng bị tổn thất rất lớn ở nhiều nơi.

Trước tình hình đó, nhất là vùng nông thôn, những nơi trước đây là căn cứ cách mạng chiếm, phần lớn đảng viên và quần chúng, đòi hỏi bức bách phải thay đổi phương thức đấu tranh. Mọi người cảm thấy chỉ một chiều đấu tranh hòa bình hợp pháp thì không bảo vệ được cơ sở cách mạng, không ngăn chặn được sự tàn bạo của quân thù. Từ năm 1958, vài nơi đã bắt đầu hành động vũ trang để tự vệ. Thực tế đã cho thấy, chỉ cần có người đứng lên nổ súng chống lại sẽ có nhiều người hưởng ứng. Còn địch thì co lại, không dám tự do lùng sục như trước. Cơ sở cách mạng được giữ vững và phát triển.

Ở miền Bắc. Quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Hà Nội chiều ngày 10-10-1954. Sáng ngày 11-10-1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào tiếp quản. Chính phủ ta làm chủ Thủ đô, nơi mà trước đó 8 năm ta phải tạm thời rút đi.

Ngày 17-10-1954, chuyến viếng thăm của Thủ tướng Ấn Độ J. Nehru là sự thừa nhận có tính cách quốc tế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và khi quân Pháp rút khỏi Hải Phòng, giờ đây ta có một lãnh thổ hoàn chỉnh độc lập, hòa bình, có thủ đô, có cảng biển, tiếp giáp với Lào, liền đường với Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.

Miền Bắc xây dựng và phát triển quân đội chính quy, lực lượng từ miền Nam tập kết được tổ chức lại, một bộ phận được rút đi xây dựng nông trường. Bắt đầu kế hoạch ba năm khôi phục kinh tế. Nông dân được chia đất, hăng hái sản xuất, bảo đảm đủ nhu cầu lương thực cho xã hội. Chính phủ Liên Xô, Trung Quốc viện trợ lượng hàng tiêu dùng quan trọng góp phần cân đối tiền hàng và ngân sách. Đến cuối năm 1959, hàng hóa còn lưu thông tự do, giá cả tương đối ổn định.

Do những sai lầm trong cải cách ruộng đất, gây căng thẳng ở nông thôn đã làm lắng xuống sự phấn khởi tràn ngập của những ngày mới giải phóng. Qua phong trào sửa sai, đã ổn định lại tình hình và khẳng định những thành tựu nhiều mặt đã đạt được.

Diện hợp tác hóa nông nghiệp mở rộng rất nhanh như một phong trào chính trị. Đến năm 1960, cơ bản đã hoàn thành cải tạo nông nghiệp. Trong công nghiệp, các nhà máy thời Pháp được khôi phục, sản xuất tăng rất nhanh như: than Hòn Gai, xi măng Hải Phòng, dệt Nam Định, xưởng đóng tàu Bạch Đằng, v.v., và một số nhà máy mới được xây dựng.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Tư, 2023, 08:46:20 am

2. Nghị quyết 15 ra đời, là bó đuốc soi đường cho Cách mạng miền Nam

Trong sự lãnh đạo của Đảng và trong tư tưởng cán bộ, nhất là cán bộ miền Nam tập kết luôn đeo đẳng băn khoăn day dứt: “Làm thế nào thống nhất nước nhà?”

Từ cuối tháng 11 năm 1954, đề xuất của miền Bắc về việc lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền đều không có hồi âm. Cho đến quan hệ thấp nhất là quan hệ thư tín, Mỹ - Diệm cũng không nhận. Phái đoàn liên lạc của ta cạnh Ủy ban Quốc tế ở Sài Gòn cũng bị chúng gây khó khăn, đã trở ra Hà Nội vào giữa năm 1958. Sau đó ít lâu, Ủy ban Quốc tế cũng ngưng hoạt động. Tình hình nhiều mặt diễn ra cho thấy ngày càng rõ, khả năng thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử là không thể có được.

Trong các nước anh em, có ý kiến khuyên ta phải ra sức xây dựng miền Bắc về mọi mặt cho thật giàu mạnh làm tấm gương thu hút, sẽ thực hiện được thống nhất nước nhà. Có nơi khuyên ta không nên sốt ruột, ở miền Nam phải: “Trường kỳ mai phục, chờ đợi thời cơ”. Liên Xô, Trung Quốc là đồng minh chiến lược của chúng ta cần có hòa bình để phát triển và không muốn bị lôi cuốn vào một cuộc xung đột mới. Quan điểm của bạn là: “Một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy cả cánh đồng”.

Ngay khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đồng chí Lê Duẩn nhận định ít có khả năng thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình, mà phải bằng bạo lực. Khi nhìn cán bộ miền Nam đi tập kết, đồng bào và gia đình ra tiễn đưa, giơ 2 ngón tay hẹn 2 năm trở về, lòng đồng chí se thắt lại mà không dám nói ra. Đồng chí nói:

- “Lúc đó tôi rất thương đồng bào miền Nam phải đi trước về sau”.

Quan điểm này, đồng chí Lê Duẩn chỉ nói trong Xứ ủy Nam Bộ, Thường vụ Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, không phổ biến rộng, vì theo đồng chí nếu nói rộng ra không khác gì dội gáo nước lạnh vào phong trào đấu tranh cho hòa bình dân chủ, cho hiệp thương tổng tuyển cử mà các cấp lãnh đạo của Đảng đang phát động vào những năm 1955 - 1956.

Năm 1956, đồng chí Lê Duẩn lúc đó là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, đã soạn thảo: “Đề cương cách mạng miền Nam”, đó là cơ sở và tiền thân Nghị quyết Trung ương 15 khóa 2. Đề cương vạch rõ: “Nhân dân ta ở miền Nam đang rên xiết dưới ách áp bức, bóc lột, tù đầy, chém giết man rợ, đất nước bị chia cắt và bị chiến tranh của Mỹ - Diệm hăm dọa. Tình hình đó buộc nhân dân phải vùng dậy đập tan chế độ Mỹ - Diệm để tự cứu mình... Muốn chống Mỹ - Diệm, ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác”1.

Đề cương còn dự kiến:

“Nếu cuộc nổi dậy của nhân dân thành công, sẽ thành lập chính quyền liên hiệp để cùng với cả nước thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ”2.

Ngày 15-5-1957, đồng chí Lê Duẩn ra Hà Nội nhận công tác mới. Theo Chỉ thị của Bác Hồ, đồng chí viết báo cáo về tình hình Nam Bộ sau hai năm thi hành Hiệp định Giơnevơ và đề xuất đường lối giải quyết, để trình cho Bộ Chính trị. Bản báo cáo viết:

“Cách mạng nước ta có nhiệm vụ chung và đồng thời có nhiệm vụ riêng của hai miền. Muốn thực hiện yêu cầu chung của cả nước, trước hết và căn bản phải giữ vững và củng cố những thắng lợi cách mạng của mình. Vậy phải dựa trên cơ sở chính là củng cố miền Bắc, xây dựng miền Bắc thật vững mạnh. Nhưng lực lượng đang cản trở hòa bình, thống nhất dân tộc lại đang ở miền Nam. Cách mạng miền Nam phải đi đến đánh đổ chính quyền đế quốc phong kiến thì mới thực hiện được hòa bình thống nhất.

Để thực hiện thống nhất nước nhà hoàn thành độc lập dân chủ cho cả nước, nhân dân hai miền Nam Bắc nhất định theo đường lối hòa bình. Nhưng đối với cách mạng miền Nam muốn thực hiện độc lập dân chủ, giải phóng khỏi ách đế quốc phong kiến, nhất thiết phải đánh đổ bọn Mỹ - Diệm. Nhất định không thể do con đường nghị trường hay một hội nghị nào đó mà giải quyết được. Chúng ta theo đường lối hòa bình, nhưng phải thấy trong hòa bình luôn luôn có phương sách nắm cho được lực lượng vũ trang bằng cách này hay cách khác. Đường lối hòa bình của ta, là đường lối vận động cách mạng, sự biến chuyển của nó tùy theo sự biến chuyển của thời cuộc. Cần nắm kịp tình hình và có những phương pháp thích đáng để chiến thắng địch”3.

Tháng 8 năm 1957, đồng chí Hai Đáng và đồng chí Hai Xô, được Xứ ủy Nam Bộ cử ra Hà Nội báo cáo tình hình và xin Trung ương phương hướng chỉ đạo mới (Tháng 4 năm 1959 các đồng chí rời Hà Nội và tháng 9 năm 1959 về tới Nam Bộ). Khi đến thăm Bác Hồ, Bác nói đại thể như sau:

- “Thế giới hiện nay, họ muốn hòa bình, ổn định. Còn việc nước ta, các chú về báo cáo với Xứ ủy, Trung ương ở xa đã có Xứ ủy chỉ đạo thay. Vậy Xứ ủy phải chịu trách nhiệm trước phong trào cách mạng miền Nam. Cấp ủy phải chịu trách nhiệm với bên trên đồng thời phải chịu trách nhiệm với bên dưới. Đấu tranh chính trị đến đỉnh cao, sẽ nổ ra đấu tranh vũ trang để giải quyết vấn đề chính trị”.

Tư tưởng chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn phát triển dần từ: “Đề cương cách mạng miền Nam 1956, qua báo cáo “Tình hình Nam Bộ sau hai năm thi hành Hiệp định Giơnevơ năm 1957”, rồi từng" bước tiến lên hoàn chỉnh thành Nghị quyết Trung ương 5 khóa 2, tháng 1 năm 1959.

Nghị quyết Trung ương 15 ra chậm vài tháng. Đồng chí Lê Duẩn giải thích:

“Cần phải chờ đợi để có sự nhất trí cao ở cấp lãnh đạo và ở Nam Bộ, khu 5, là hai nơi trực tiếp thực hiện cuộc đấu tranh cách mạng bằng bạo lực chính trị và vũ trang. Phải qua quá trình cọ xát các quan điểm gắn với diễn biến của tình hình miền Nam, mới đi đến sự nhất trí. Đấu tranh để thống nhất ý kiến đảm bảo đoàn kết trong Đảng, không thể nóng vội. Vấn đề đặt ra lúc bấy giờ, là phải tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, nhưng phải giữ được hòa bình ổn định ở miền Bắc, ở cả khu vực và trên thế giới. Về lâu dài miền Bắc được xây dựng vững mạnh, là nhân tố quyết định cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”.

Đồng chí Phan Bá (tức Võ Đông Giang, chuyên viên Ban Thống nhất) kể lại rằng, khi được đồng chí Phạm Hùng giao soạn thảo đề án: “Hòa bình thống nhất nước nhà và Cách mạng miền Nam”, phải qua 27 lần dự thảo mới ra được văn bản Nghị quyết.

Hội nghị Trung ương 15 họp vào tháng 1 năm 1959 ở Thủ đô Hà Nội xác định:

“Cách mạng Việt Nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược, song song tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hai cuộc cách mạng có quan hệ hữu cơ với nhau... Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân... Con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến... Trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ”4.

Tháng 10 năm 1959, Xứ ủy Nam Bộ họp bàn về đồng khởi vũ trang ở khoảng 2/3 số xã, ấp vùng nông thôn, vì nếu đấu tranh lẻ tẻ sẽ bị địch dập tắt. Mở màn là hai đại đội bảo vệ Xứ ủy kết hợp nội tuyến đánh vào hậu cứ một Trung đoàn chủ lực ngụy tại Tua 2 (Tây Ninh) đúng vào dịp Tết. Ta thu được 1000 súng mà không tổn thất bao nhiêu. Cùng thời điểm này, nhiều nơi trên toàn Nam Bộ nổ ra đồng khởi đều thắng lợi. Thế cách mạng của quần chúng đã thay đổi hẳn.

Nghị quyết Trung ương 15 mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, làm xoay chuyển tình thế, dẫn đến các cuộc “Đồng khởi” oanh liệt toàn miền Nam, đáp ứng nguyện vọng tha thiết và nóng bỏng của quần chúng, vùng dậy phá tan xiềng xích nô lệ, từng bước giành quyền làm chủ. Nghị quyết Trung ương 15 ra đời thể hiện tinh thần độc lập tự chủ của Đảng ta, trở thành bó đuốc soi đường cho cách mạng miền Nam, chuyển sang thế chủ động tấn công địch về chính trị, quân sự. Nghị quyết Trung ương 15 như luồng gió mạnh, thổi bùng lên làn sóng đấu tranh chính trị và vũ trang. Miền Bắc phát huy vai trò hậu phương lớn của mình, cung cấp đầy đủ mọi yêu cầu cho cách mạng miền Nam.

Sức mạnh tổng hợp của cả nước đã đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ từ thắng lợi này đến thắng lợi khác mà đỉnh cao cuối cùng là Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng vào mùa xuân ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
_________________________________________
1, 2. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chinh trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập II, trang 52, 53.
3. Báo cáo tình hình miền Nam, 1957, trang 33, 39, 42.
4. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, lập II, trang 100-102.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Tư, 2023, 08:56:32 am

THẾ LÀ TỐT

PHẠM CHUNG

Đầu năm 1955, thi hành Hiệp định Giơnevơ, việc tập kết chuyển quân đã hoàn thành, việc đình chỉ chiến sự giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam đã thực hiện. Ủy ban Liên hợp đình chiến ở các miền đã thực hiện xong nhiệm vụ khá suôn sẻ. Nhưng phần còn lại là việc thống nhất nước nhà bằng hiệp thương tổng tuyển cử chưa biết sẽ ra sao. Trung ương Đảng thấy cần phải thành lập một Phái đoàn Liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam cạnh Ủy ban Quốc tế kiểm soát và giám sát đình chiến tại Sài Gòn, góp phần đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, nhất là đòi thi hành Điều 14C, đòi hiệp thương tổng tuyển cử.

Nhưng cũng từ đầu năm 1955, đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, đưa Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ lên thay Bảo Đại bù nhìn của Pháp. Mỹ đã trở thành ông chủ mới ở miền Nam Việt Nam. Chúng âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, chuẩn bị tiến công miền Bắc. Chúng thành lập khối quân sự xâm lược Đông Nam Á (SEATO), nhằm bao vây ngăn chặn phong trào cộng sản, không để phát triển ra toàn Đông Dương và Đông Nam Á.

Mỹ - Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tìm cách chống lại sự có mặt của Phái đoàn ta ở Sài Gòn. Nhưng với sự đấu tranh kiên trì của ta buộc chúng phải chấp nhận. Ngày 31-3-1955, một Nghị định thư được ký kết giữa Đại tá Hà Văn Lâu, Trưởng Phái đoàn Liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam và Tướng De Beaufort, Trưởng Phái đoàn Liên lạc Tổng Chỉ huy Quân đội Liên hiệp Pháp, đặt quy chế cho việc thành lập một Phái đoàn của ta bên cạnh Ủy ban Quốc tế tại Sài Gòn.


1. Chuẩn bị

- Về tổ chức. Ngay từ cuối tháng 12 năm 1954, tại Phụng Hiệp (Cần Thơ), ta đã chuẩn bị tổ chức Phái đoàn Sài Gòn. Đồng chí Phạm Hùng ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng Phái đoàn Ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ, được Trung ương chỉ định làm Trưởng Phái đoàn Sài Gòn và đại diện Bộ Tổng tư lệnh kiêm Bí thư Đoàn ủy. Sau đó đồng chí Nguyễn Văn Vịnh thay Ihế. Đến khoảng tháng 8 năm 1956, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh ra Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Văn Long phó Trưởng đoàn, được ủy nhiệm thay mặt Trưởng đoàn giải quyết mọi công việc thuộc phạm vi của Phái đoàn cho đến khi Phái đoàn rút về Hà Nội.

Dự kiến trước những âm mưu phá hoại của địch, đồng chí Phạm Hùng đã thành lập Phái đoàn Sài Gòn với tổ chức gọn nhẹ, nhưng có chất lượng. Phái đoàn gồm khoảng 24 đồng chí đều là đảng viên, có phẩm chất chính trị tốt và năng lực chuyên môn khá được lựa chọn từ Văn phòng Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ và các cơ quan quân sự. Toàn thể đảng viên tổ chức thành một chi bộ, có Chi ủy và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Đoàn ủy. Tuy thành lập sớm, nhưng do sự chống phá của địch nên mãi đến ngày 17-5-1955, Phái đoàn mới vào được Sài Gòn, với số người hạn chế là 16 người.

Trong thời gian còn ở Hà Nội, anh em trong Phái đoàn tranh thủ rèn luyện học tập chính trị trau dồi tư tưởng và nghiệp vụ, chuẩn bị trụ sở cùng các phương tiện làm việc để có thể hoạt động được tốt.

- Về chính trị - tư tưởng. Chi bộ thường xuyên tổ chức các cuộc thảo luận chủ yếu quanh mấy vấn đề: Về tình hình và nhiệm vụ, về phương pháp đấu tranh khi tiếp xúc với địch, về cảnh giác cách mạng, về khí tiết của người Cộng sản, về ý thức tổ chức kỷ luật... Các cuộc thảo luận kết thúc bằng việc xây dựng quy chế nội bộ, về công tác và sinh hoạt.

- Về nghiệp vụ. Các đồng chí chuyên viên tranh thủ nghiên cứu kinh nghiệm đấu tranh pháp lý ở Ủy ban Liên hợp đình chiến Trung ương. Còn các đồng chí khác chuẩn bị thêm về phương tiện làm việc, về thiết bị máy móc và rèn luyện thêm tay nghề chuyên môn kỹ thuật.

- Về trụ sở làm việc tại Sài Gòn. Vào tháng 3 năm 1955, đồng chí Phạm Hùng đã cử đồng chí Nguyễn Văn Thơm (tức Đại úy Sơn Việt) làm sĩ quan liên lạc, cùng với đồng chí Kha (Tự) làm phiên dịch vào Sài Gòn để tìm nơi đặt trụ sở của Phái đoàn. Hai đồng chí đã phải đối phó với những vụ khiêu khích của bọn phản động di cư, song nhờ tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của Ủy ban Quốc tế, các đồng chí đã đấu tranh khôn khéo với bọn sĩ quan Pháp, đã hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp.


2. Vào trận

Ngày 17-5-1955, Phái đoàn đã đáp máy bay của quân đội Pháp vào Sài Gòn. Mọi người đều tràn ngập niềm vui được trở lại chiến trường cũ. Vài ngày sau đó, đồng chí Phạm Hùng mới vào.

Trước khi Phái đoàn lên đường, Trung ương đã chỉ thị:

“Duy trì sự có mặt của ta tại Sài Gòn càng lâu càng tốt. Hết sức cảnh giác chống mọi âm mưu phá hoại của địch. Bảo vệ tốt nội bộ”...

Toàn thể chúng tôi đã quyết tâm quán triệt các chỉ thị quan trọng này.

Vào đến Sài Gòn, Đoàn ủy đã họp ngay để nhận định tình hình, đề ra nhiệm vụ rồi phân công trong Đoàn. Có 4 nhiệm vụ chính:

— Theo dõi và đấu tranh đòi tiếp tục thi hành Hiệp định Giơnevơ, nhất là Điều 14C. Đòi hiệp thương tổng tuyển cử.

— Tranh thủ sự ủng hộ của Ủy ban Quốc tế và thúc đẩy các việc trên.

— Thu thập tin tức về những âm mưu, hoạt động của Mỹ - Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ, phá hoại sự thống nhất đất nước. Theo dõi phong trào đấu tranh của quần chúng vì dân sinh dân chủ, vì hòa bình và thống nhất Tổ quốc qua báo chí công khai và những tin tức của Ủy ban Quốc tế. Tổng hợp lại và báo cáo về Trung ương.

— Xây dựng bảo vệ tốt nội bộ.

A. Giáp mặt với quân thù. Sự có mặt của Phái đoàn ta ở Sài Gòn, sào huyệt đầu não của địch, là sự cố vũ lớn đối với đồng bào miền Nam đang anh dũng đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, đòi hòa bình thống nhất Tổ quốc. Phái đoàn là cây gai đâm vào mắt bọn Mỹ - Diệm, nên chúng tìm mọi cách nhổ ra. Trong suốt ba năm tồn tại, Phái đoàn ta đã phải liên tục đối phó với các âm mưu, thủ đoạn của địch ngày càng quyết liệt hơn. Những thủ đoạn phá hoại của chúng đối với Phái đoàn ta như:

a) Chúng tìm mọi cách để hạn chế sự hiện điện của Phái đoàn trước đồng bào. Trụ sở của Phái đoàn đặt tại một hẻm nhỏ ở quận Phú Nhuận. Nơi đây cách xa trung tâm Sài Gòn, thuộc tỉnh Gia Định.

Chúng hạn chế cán bộ ta đi lại, không được mặc quân phục khi ra đường, chỉ trừ những lần đi làm việc với Ủy ban Quốc tế. Chúng bố trí chung quanh trụ sở Phái đoàn ta một mạng lưới dày đặc bọn cảnh sát, mật vụ, ngày đêm theo dõi đồng bào qua lại trước cổng trụ sở, khủng bố ngăn cấm không cho liên hệ với Phái đoàn ta.

b) Chúng tổ chức hoạt động gián điệp. Với lý do bảo vệ Phái đoàn, chúng bố trí chung quanh trụ sở phái đoàn ta bốn sắc lính ngày đêm canh gác tuần tra, nhưng thực chất là để theo dõi các hoạt động của ta.

Chúng gài máy nghe trộm trong phòng của Trưởng đoàn, bị ta phát hiện và loại bỏ.

Chúng cho một tên mật vụ vào làm vườn để hoạt động gián điệp. Nhưng do chúng ta cảnh giác, đối xử tốt nên đã cảm hóa được y. Y đã tự thú với ta và nghỉ việc.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Tư, 2023, 08:57:29 am

c) Chúng tổ chức hành hung và hăm dọa cán bộ ta. Ngày 20-7-1956, theo tuyên bố chung của Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, là ngày sẽ tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, chúng huy động nhiều tên côn đồ lưu manh biểu tình phản đối Ủy ban Quốc tế, phản đối Hiệp định Giơnevơ. Chúng đập phá khách sạn Majestic, khách sạn Galliéni, là nơi ăn ở của các Trưởng đoàn và sĩ quan Ủy ban Quốc tế. Sau đó, chúng tập trung trước trụ sở Phái đoàn ta, ném đá, chửi bới với những lời lẽ thô tục, đòi Phái đoàn ta rút về miền Bắc.

Cũng từ đó, chúng ngày càng dùng những thủ đoạn quyết liệt hơn. Vào giữa năm 1956, khi hai đồng chí Tuân và Thình đi chợ Bến Thành bị chúng cho bọn côn đồ dùng búa đánh trộm vào đầu rồi bỏ chạy. Hai đồng chí chúng ta bình tĩnh vạch mặt hành vi đê hèn của chúng. Và được đồng bào đã nhiệt tình giúp đỡ cấp cứu ban đầu. Sau đó hai đồng chí được ra Hà Nội chữa trị ở Bệnh viện 108 và sau khi bình phục đã trở vào công tác.

Đầu năm 1958, nhân một buổi chiêu đãi, Chủ tịch Ủy ban Quốc tế gặp riêng Trưởng đoàn của ta để cho biết: “Chính quyền miền Nam” hăm dọa sẽ cho quân đội tràn vào cơ quan ta, và bắt hết cán bộ đem đi biệt giam. Chúng sẽ đánh đập, hành hạ, rồi trả về miền Bắc.

Trưởng đoàn của ta đã đáp lại rằng:

- “Ngài cần báo cho chính quyền miền Nam biết, Phái đoàn chúng tôi chỉ có 16 người với 16 khẩu súng ngắn. Chúng tôi sẽ bắn đến viên đạn cuối cùng vào những ai xâm phạm đến Phái đoàn. Họ sẽ ngã gục trước khi chúng tôi ngã xuống. Quân đội Nhân dân chúng tôi không bao giờ đầu hàng và để cho bất cứ ai xâm phạm đến danh dự của mình”.

Câu chuyện này được thông báo trong toàn cơ quan. Mọi người sôi sục căm phẫn và sẵn sàng chiến đấu.

d) Chúng cắt lương thực. Cuối cùng chúng dùng đến biện pháp dã man, là bỏ đói Phái đoàn. Chúng khóa cổng ra vào trụ sở, cắt đứt mọi nguồn tiếp tế lương thực thực phẩm. Nhưng do cảnh giác, chúng ta đã có chuẩn bị đối phó, thường xuyên có dự trữ lương thực, nước uống. Trong 21 ngày ròng rã không được tiếp tế, anh em vẫn bình tĩnh chịu đựng vững vàng cho đến khi được lệnh của Trung ương rút về Hà Nội.

Suốt trong ba năm, trước những âm mưu thủ đoạn phá hoại của địch, Đoàn ủy và Chi ủy đã phối hợp quản lý chặt chẽ đảng viên. Sau các lần công tác, các cán bộ đều báo cáo cho Chi ủy, Đoàn ủy về hoạt động của địch, của ta và rút kinh nghiệm phổ biến kịp thời sinh hoạt chi bộ hàng tháng, cũng tập trung phân tích tình hình địch ta, kinh nghiệm đối phó, dự đoán tình hình sắp tới, những nhiệm vụ và biện pháp công tác. Nhờ công tác quản lý chặt chẽ, động viên giáo dục đảng viên kịp thời, nên chi bộ đã bảo vệ tốt nội bộ, chống lại mọi âm mưu phá hoại của địch.

B. Tấm lòng của đồng bào miền Nam ruột thịt. Trái với cảnh căng thẳng do địch gây ra, chúng ta lại được những cử chỉ thân thương cảm mến, những sự giúp đỡ của đồng bào Sài Gòn cổ vũ động viên rất nhiều. Mặc dù sống dưới ách kìm kẹp, luôn bị đe dọa khủng bố của bọn Mỹ - Diệm, đồng bào mỗi lần gặp cán bộ Phái đoàn đều tỏ thái độ trìu mến thân thương. Trước con mắt cú vọ của bọn mật vụ, đồng bào vẫn qua lại trước trụ sở của Phái đoàn, để được nhìn ảnh Bác Hồ và lá cờ Tổ quốc. Có người vứt vào bên trong rào thư gửi cho người thân đi tập kết hoặc những đơn khiếu nại các vụ vi phạm Hiệp định Giơnevơ. Có người tìm cách đi theo xe chở hàng, để được vào thăm Phái đoàn và nói lên lòng kính yêu đối với Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lòng mong mỏi thống nhất Tổ quốc. Có những cụ già vào được bên trong trụ sở, đã cung kính quỳ lạy trước ảnh Bác Hồ và lá cờ Tổ quốc. Có những nhà công thương như ông Vũ Bản, Công Thành đã giúp đỡ mua sắm phương tiện sinh hoạt và làm việc, còn tặng một chiếc xe hơi Vedette để cho cán bộ đi làm việc. Đồng bào tiểu thương ở các chợ nhiều lần bán hàng cho ta không nhận tiền. Khi hai đồng chí của ta bị bọn phản động hành hung giữa chợ Bến Thành, nhiều người không ngần ngại xông vào cứu giúp trước mặt bọn công an mật vụ. Ngày cuối cùng, lúc Phái đoàn ra sân bay trở về Hà Nội, trước cặp mắt hăm dọa của hàng nghìn cảnh sát ngụy, đồng bào vẫn ra đường để tiễn đưa lưu luyến anh bộ đội Cụ Hồ.

Tấm lòng yêu nước nồng nàn, lòng tin yêu sâu sắc vào Đảng và Bác Hồ của đồng bào Sài Gòn, đồng bào miền Nam thật sâu sắc và cao quý. Với tấm lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất của đồng bào thì nhất định sẽ thực hiện được lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi ký kết Hiệp định Giơnevơ.

- “Trong khi đình chiến quân đội ta tập trung ra miền Bắc, quân đội Pháp tập trung vào miền Nam là cần thiết. Nhưng Nam, Trung, Bắc vẫn là bờ cõi của ta. Nước ta nhất định sẽ được thống nhất, đồng bào cả nước nhất định sẽ được giải phóng”.


3. Thế là tốt!

Từ cuối tháng 4 năm 1958, chúng không cho ta đi chợ Bến Thành, sau đó cả chợ Bà Chiểu.

Từ ngày 10-5-1958, chúng khóa chặt cổng trụ sở, không cho ra vào, kể cả khi Ủy ban Quốc tế đến làm việc.

Trước những khó khăn do chúng gây ra, Đoàn ủy, Chi ủy đã tăng cường công tác tư tưởng. Tinh thần của anh em không chút nao núng, vẫn làm tốt mọi việc hàng ngày. Đoàn ủy đã báo cáo với Trung ương Đảng về tình hình này. Đồng chí Lê Duẩn nhận định khả năng tồn tại của Phái đoàn đã hết. Sau khi xin ý kiến Bác Hồ và Trung ương đã cho phép Phái đoàn rút về Hà Nội.

Chấp hành lệnh của Trung ương, chúng ta đã bàn bạc và nhờ Ủy ban Quốc tế tổ chức cho Phái đoàn rút đi được trang trọng, an toàn và trật tự.

Ngày 17-5-1958, toàn bộ Phái đoàn ra sân bay Tân Sơn Nhất trên 6 xe công vụ, với sự hộ tống của cảnh sát ngụy và sự tiễn đưa của Ủy ban Quốc tế. Chúng bố trí dọc theo đường ra sân bay hàng ngàn tên cảnh sát và lính ngụy cầm súng đe dọa nhưng đồng bào vẫn đứng ở hai bên đường, lưu luyến nhìn Phái đoàn ra đi.

Ở sân bay, Phái đoàn dừng lại chào Ủy ban Quốc tế ra tiễn và cũng chào tạm biệt đồng bào trước khi lên máy bay trở về Hà Nội.

Xin chào tạm biệt Thành phố Sài Gòn!

Đến sân bay Gia Lâm, đại diện Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, và Ủy ban Liên hợp đình chiến Trung ương, cùng một số đồng bào đã nồng nhiệt đón tiếp đoàn.

Vài ngày sau, Bác Hồ cho gọi cả đoàn vào gặp. Chúng tôi đứng xếp hàng hồi hộp trước hiên cửa Nhà khách Chính phủ để đón Bác.

Vừa gặp mặt, giọng dịu dàng và vui vẻ Bác hỏi:

- “Bọn Mỹ — Diệm đuổi các chú về không cho ở nữa phải không?”

Đồng chí Long đáp:

- “Thưa Bác, theo lệnh của Bác chúng cháu đã trở ra Hà Nội”.

- “Các chú rút lui có trật tự không?”

- “Thưa Bác, có ạ”.

- “Thế là tốt!”

Nói xong, Bác cùng với toàn thể Phái đoàn chụp ảnh chung làm kỷ niệm. Không có phần thưởng nào cao quý hơn lời khen của Bác.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Tư, 2023, 02:28:26 pm

NHỮNG CUỘC ĐIỀU TRA CỦA ỦY BAN QUỐC TẾ

ĐẶNG SĨ HÙNG

Tôi vốn là cán bộ kỹ thuật, tham gia quân đội với nhiệm vụ đảm bảo cung cấp và trang bị vũ khí cho bộ đội. Đến năm 1953, tôi được bổ nhiệm làm Trưởng ban tác chiến Phân liên khu miền Đông Nam Bộ. Năm 1954, khi có lệnh đình chiến, với nhiệm vụ này, tôi làm kế hoạch tập kết chuyển quân cho Tham mưu trưởng và Tư lệnh Miền.

Miền Đông Nam Bộ có hai nơi tập kết: Khu Xuyên Phước Cơ và khu Cao Lãnh - Đồng Tháp Mười. Tổ liên hợp đình chiến Tây Ninh được thành lập, ban đầu do anh Cao Đăng Chiếm làm tổ trưởng, về sau thay anh Chiếm là anh Trần Đình Xu, cho đến khi tập kết chuyển quân xong. Tôi và anh Trần Bửu Kiếm làm ủy viên, còn anh Võ Văn Thậm (luật sư) làm phiên dịch. Tổ này họp cùng bọn chỉ huy Pháp khu vực Tây Ninh để bàn và thực hiện việc tập kết, chuyển quân của các tỉnh Thủ Dầu Một, Gia Định Ninh và Cao Lãnh - Đồng Tháp Mười.

Chuyến chuyển quân cuối cùng, anh Trần Bửu Kiếm cùng với anh Võ Văn Thậm đưa quân đến Đức Hòa rồi đi luôn về Cao Lãnh. Còn tôi về Phụng Hiệp để báo cáo cho Ủy ban liên hợp Nam Bộ: “Tổ liên hợp Tây Ninh đã hoàn thành nhiệm vụ, xin được giải thể”. Ngay chiều hôm đó, tôi trở về Tây Ninh gặp anh Xu. Rồi chúng tôi đi về Cai Lậy, sang Cao Lãnh. Tôi được điện anh Phạm Hùng gọi về Phụng Hiệp làm chuyên viên. Như vậy, từ khoảng tháng 8 năm 1954, tôi là cán bộ của Ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ.

Đến tháng 10 năm 1954, tôi được lệnh ra Bắc, báo cáo với Ban Liên hợp đình chiến Trung ương về tình hình thi hành Hiệp định Giơnevơ ở Nam Bộ. Tôi được lệnh của anh Văn Tiến Dũng ở lại Ban Liên hợp Trung ương làm sĩ quan liên lạc, theo các Tổ quốc tế đi điều tra các vụ chính quyền Sài Gòn vi phạm Điều 14C, trả thù người kháng chiến cũ ở phía Nam vĩ tuyến 17. Từ đó đến ngày 20-7-1956, tôi đã cùng với Tổ Quốc tế đi điều tra 12 vụ, từ Quảng Trị đến Cần Thơ, Côn Đảo. Có một số vụ quan trọng nhất:


Vụ Bình Thành - Cao Lãnh

Tháng 11 năm 1954, tôi nhận hồ sơ vụ Bình Thành. Nội dung là bọn ngụy bắt và giết 8 người kháng chiến cũ và đang truy tìm những người khác.

Tôi rút kinh nghiệm vụ Vĩnh Xuân (Cầu Kè) về việc điều tra vụ trả thù người kháng chiến cũ. Do sự phối hợp giữa cơ cở và Trung ương không ăn khớp, thiếu sự kết hợp với Ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ nên công việc tiến hành chưa thật tốt. Cho nên tôi không cùng đi với Tổ Quốc tế để vào thẳng nơi xẩy ra sự việc, Từ Hà Nội, tôi bay vào Tân Sơn Nhất, rồi đến Sóc Trăng. Từ Sóc Trăng tôi yêu cầu viên thiếu tá Pháp trong Tổ Liên hợp cho xe đưa tôi đến Phụng Hiệp. Ở đây, tôi nhận được sự chỉ đạo cụ thể của anh Phạm Hùng. Sáng hôm sau, tôi và đồng chí phiên dịch từ Phụng Hiệp đi Cần Thơ gặp lại Tổ quốc tế. Sau đó chúng tôi xuống tàu của hải quân Pháp, theo sông Hậu lên kênh Vàm Nao, rẽ sang sông Tiền về Cao Lãnh.

Cuộc đấu tranh bắt đầu, khi tàu ghé trước dinh tỉnh trưởng Sa Đéc.

Tổ Quốc tế yêu cầu tỉnh trưởng đến báo cáo trước Tổ, về sự việc vi phạm Điều 14C. Tỉnh trưởng Sa Đéc, Nguyễn Ngọc Thơ (sau này là Phó Tổng thống Việt Nam cộng hòa), từ chối không xuống tàu mà đề nghị Tổ Quốc tế lên dinh tỉnh trường làm việc. Sau khi bàn bạc thống nhất, Chủ tịch Tổ Quốc tế từ chối không lên dinh tỉnh trưởng mà đòi tỉnh trưởng phải xuống tàu, là trụ sở của Tổ, để khai báo với tư cách là người được Tổ Quốc tế hỏi cung, chứ không phải Tổ đến gặp tỉnh trưởng. Cuối cùng Thơ phải xuống tàu trả lời những vấn đề về vụ án. Tôi cho đây là thắng lợi bước đầu, có lợi cho cuộc điều tra

Sau cuộc hỏi cung, tên tỉnh trưởng mời Tổ Quốc tế lên nhà dùng nước. Nể tình và tế nhị trong xã giao nên Tổ đồng ý. Chúng đã bày sẵn mọi thứ, có rất nhiều rượu tây đủ các loại và thức nhắm để chiêu đãi. Nhưng cái mà địch và cả tôi không thể ngờ tới, là tất cả những người trong Tổ Quốc tế của các nước Ấn Độ, Canada và Ba Lan đều từ chối không dùng một cốc rượu nào cả. Nói chuyện xã giao độ vài phút, Tổ chào tạm biệt, xuống tàu để đi lên Bình Thành.

Tàu đậu giữa sông Tiền. Tổ ăn ngủ ngay trên tàu, đi canô vào làm việc và nghỉ trưa tại xã Bình Thành. Hai ngày đầu, ngoài việc hỏi cung mấy tên tề ngụy không hề có người dân nào đến gặp Tổ. Một hôm, vào giờ nghỉ trưa, bất chợt tôi thấy có hai em nhỏ đi bắn chim bằng ná cao su nói chuyện, đùa giỡn với nhau. Tôi sinh nghi. Vì sao các em lại vào chỗ này là chỗ cấm. Tôi giả vờ ra đi vệ sinh để tìm cách gặp các em. Tôi được các em cho biết, bọn Hòa Hảo lùa hết dân vào Đồng Tháp Mười cho lính gác ở đầu các kênh, không cho dân ra gặp Tổ quốc tế.

Ngay chiều hôm đó, lúc 3 giờ, để chúng không kịp đối phó, bất thình lình tôi yêu cầu cho đi kiểm tra nơi làm việc. Theo quy định, khi Tổ Quốc tế đến làm việc nơi nào thì chung quanh nơi đó trong phạm vi một cây số không được có lực lượng quân sự, để dân không bị ngăn cản đến gặp Tổ Quốc tế. Trên đường đi kiểm tra, có một tốp trẻ con từ 10 đến 15 tuổi chạy theo Tổ để xem mấy ông Tây. Lúc đó, phía sau chúng tôi có hai em nhỏ nói chuyện với nhau nhưng cố ý báo cho tôi biết, phải gỡ mấy trạm gác ở đầu kênh từ Đồng Tháp ra thì đồng bào mới đến gặp Tổ Quốc tế được. Tôi giả vờ như đang trò chuyện với đồng chí phiên dịch, nhưng cố ý nói khá lớn để cho các em nghe được:

- “Cử một vài người, tối đi xuồng qua bên kia sông, sáng hôm sau chèo thuyền thẳng ra tàu của Tổ Quốc tế. Tôi ở trên tàu, sẽ trông chừng và bảo đảm an toàn”.

Đúng như lời hẹn, sáng hôm sau, có một chiếc xuống nhỏ chở ba người từ bờ sông bên kia đi thẳng ra tàu. Biết ngay là người của ta, tôi gọi viên đại úy hải quân Canada ra xem, mà không gọi các đồng chí Ba Lan. Mục đích là để cùng tôi chứng kiến việc này. Nếu có xảy ra điều gì thì gọi sự viện trợ của Tổ. Anh đại úy Hải quân này khá dễ tính và kính nể tôi, vì khi đi công tác, anh Văn Tiến Dũng có giới thiệu tôi là thiếu tá.

Người đi xuồng ra tàu là anh Kiệt, người lãnh đạo nhân dân xã đấu tranh. Anh Kiệt cũng đi canô với Tổ Quốc tế vào xã Bình Thành, đến các trạm gác ở đầu các kênh từ Đồng Tháp Mười ra. Đứng ở đây thấy xuồng của đồng bào ở cách khoảng một cây số đang chờ đợi. Tổ Quốc tế yêu cầu viên đại úy Pháp cho giải thể các trạm gác. Anh Kiệt làm tín hiệu để đồng bào đi xuồng từ Đồng Tháp ra xã Bình Thành, có đến vài ba trăm người. Tất cả mọi người đều đội khăn tang làm cho Tổ Quốc tế cũng bất ngờ và rất xúc động. Cả ngày hôm đó, dân đưa đơn tố giác tội ác bọn ngụy, mà chủ yếu là tố cáo bọn Hòa Hảo. Đêm đó, tôi bàn với các đồng chí Ba Lan nên đề nghị với Tổ không lên tàu mà ngủ đêm tại chỗ. Mục đích là để bảo đảm an toàn cho đồng bào. Đó là một đêm đặc biệt. Đồng bào thì đem cơm nắm ăn với khô cá lò tho (loại cá sặt lớn) và mời Tổ quốc tế cùng ăn. Các vị rất thích, gây được sự thông cảm giữa người dân với đại biểu Ấn Độ và Canada. Sau đó đem ghế bố trên tàu xuống ngủ. Sáng hôm sau làm việc đến 3 giờ chiều thì kết thúc. Hồ sơ tố giác đã đầy đủ. Tôi đề nghị Tổ đến kiểm tra nơi bọn chúng chôn 8 cán bộ ta ở bót Cao Lãnh. Tổ đồng ý. Tôi yêu cầu đồng bào nào biết vị trí chôn đi theo để hướng dẫn. Số còn lại thì giải tán. Đồng bào đề nghị Tổ Quốc tế bảo đảm an toàn bằng cách đưa đến đầu kênh, cho đến khi đồng bào vào xa ngoài cây số, ra hiệu thì Tổ mới ra về.

Sau đó, Tổ quốc tế đi Cao Lãnh, được 3 người dân hướng dẫn đến tận chỗ chôn 8 cán bộ ta. Ban đầu bọn lính bót Cao Lãnh chối. Tổ yêu cầu cho quật mồ để kiểm tra. Cuối cùng chúng mới nhận và ký vào biên bản. Sau đó, Tổ Quốc tế đưa ba người dân này vào sâu trong Đồng Tháp Mười rồi mới rút về.

Như vậy, việc điều tra vụ Bình Thành đã kết thúc thắng lợi.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Tư, 2023, 02:29:38 pm

Vụ Cam Mai - Cam Lộ, Quảng Trị

Tôi trở về Ban Liên hợp ở Phụng Hiệp nhận hồ sơ vụ Mỏ Cày. Tôi cùng với Tổ Quốc tế sang Bến Tre và hàng ngày xuống Mỏ Cày làm việc. Ngày đầu trên đường đi, bọn ngụy cho từng nhóm lính gác dọc đường. Tối về, tôi bàn với đồng chí Ba Lan đấu tranh không cho chúng đặt các trạm gác này nữa. Và hôm sau trên dọc đường đi, từng tốp nhân dân ra đón, đưa đơn tố cáo. Đến lễ Noel (25-12-1954), Tổ nghỉ và sau đó không đi nữa mặc dầu ta có yêu cầu. Địch công nhận là có vi phạm rồi bỏ luôn.

Tôi lại trở về Phụng Hiệp nằm đợi. Một hôm, tôi nhận được điện từ Hà Nội giao nhiệm vụ phải cùng đi với Tổ Quốc tế kiểm tra bến tập kết sông Ông Đốc. Anh Phạm Hùng cho biết là Pháp kiện ta. Tại bến tập kết sông Ông Đốc, chúng thấy ta chuyển vũ khí từ miền Bắc vào và chuyển tù binh Pháp ra. Tôi xuống sông Ông Đốc làm việc với Tổ Quốc tế cho đến khi hết thời gian tập kết 200 ngày. Ở đây không có gì phức tạp, mọi việc giải quyết cho Tổ, mà chủ yếu là Ấn Độ và Canada, do anh Nguyễn Chánh, Tư lệnh Khu tập kết lo chu đáo.

Tôi được lệnh theo chuyến tập kết cuối cùng ra Trung ương nhận một vụ điều tra mới. Đến Sầm Sơn trời đã xế chiều. Tối có xe từ Hà Nội vào đón. Sáng hôm sau tôi đi Hà Nội tại phà Ròn, tôi và đồng chí lái xe mỗi người ăn một bát bún riêu. Tôi đến Hà Nội đúng 8 giờ tối vì đường quá xấu. Tôi nhận hồ sơ mới, nghiên cứu đến 10 giờ đêm, gặp các đồng chí Ba Lan rồi mới về nghỉ. Vậy là cả ngày hôm đó tôi chỉ được ăn bát bún riêu và chịu trận. Sáng hôm sau, tôi ra gặp Tổ Quốc tế ở khách sạn Métropole, rồi bay vào Đà Nẵng để ra Quảng Trị tiến hành điều tra vụ ở liên xã Cam Mai - Cam Lộ (thị trấn Cùa). Từ Đà Nẵng chúng tôi đi xe ra Huế ở khách sạn Trung Tâm (Hôtel du centre). Cả Tổ ra nhà hàng dùng cơm tối. Các đại biểu Ấn Độ, Canada, Ba Lan được mời vào nhà ăn đại sảnh (chung với dân) còn tôi và đồng chí phiên dịch với viên đại úy Pháp xuống một phòng ăn riêng ở phía sau. Tôi gọi chủ nhà hàng hỏi: “- Vì sao chúng tôi ăn ở đây?”. Tôi được biết là do viên đại úy Pháp chỉ thị. Ý đồ của chúng là không cho ta tiếp xúc với dân. Tôi nói với viên đại úy Pháp:

- “Anh là sĩ quan liên lạc, còn đây là khách sạn tư nhân. Tôi là khách đến dùng cơm nên tôi muốn ngồi ở đâu, bàn nào là do tôi quyết định. Đây không phải là cơ quan của quân đội Pháp. Tôi đi làm việc với Tổ quốc tế, tôi cùng ăn với Tổ”.

Nói xong, tôi bỏ phòng ăn, cùng với đồng chí phiên dịch lên đại sảnh. Các bạn trong Tổ Quốc tế hỏi tôi vì sao đến trễ. Tôi thuật lại sự việc. Cả Tổ đều cười và gọi bồi bàn đưa thêm ghế đến cho chúng tôi cùng ngồi ăn. Từ đó đến lúc kết thúc điều tra, chúng tôi vẫn ăn chung với Tổ quốc tế. Hai hôm sau, chúng đưa thiếu tá Kiệm, sĩ quan ngụy thay cho đại úy Pháp đến cùng ăn.

Tổ đến Quảng Trị bắt đầu công việc điều tra. Nội dung vấn đề là cán bộ của ta, các anh Trần Đèn, Trần Mãi, ông Võ Toại bị chúng hãm hại. Khi bầu Hội đồng hương chánh liên xã, dân bầu anh Trần Đèn làm chủ tịch. Địch cay cú nên bắt giết anh Trần Đèn, vất xác ngoài bờ suối rồi vu khống ta trả thù vì anh Trần Đèn hợp tác với chúng. Chúng bắt anh Trần Mãi, em chú bác ruột với anh Trần Đèn, đem ra sân bóng, rồi tập trung dân, đọc tờ cáo trạng buộc tội anh Trần Mãi giết chết anh Trần Đèn. Chúng tuyên bố tử hình, nói đây là Tòa án nhân dân, là lòng dân. Chúng giết anh Trần Mãi ngay tại chỗ. Chúng định bắt ông Võ Toại, cậu ruột của anh Trần Đèn, nhưng ông chạy thoát. Ta kiện chúng trả thù người kháng chiến cũ, chúng kiện ta giết anh Trần Đèn, là chủ tịch Hội đồng hương chánh ngụy.

Người được hỏi cung đầu tiên là tên phó tỉnh trưởng, tiếp đến làm tên trưởng ty cảnh sát. Bọn này đều nói:

- “Anh Trần Đèn nguyên là cán bộ kháng chiến cũ, nay là chủ tịch hội đồng hương chánh ngụy nên bị ta giết. Như vậy, ta bí mật để người ở lại miền Nam, trả thù người ra hợp tác với chính quyền ngụy là ta vi phạm”.

Ngay chiều hôm đó, trước khi ăn cơm, ngồi uống bia, chủ tịch Ấn Độ hỏi tôi:

- “Thưa Thiếu tá, về phía bên Thiếu tá cũng có tổ chức Tòa án nhân dân. Vậy cách tổ chức đó có giống Tòa án nhân dân mà phía Liên hiệp Pháp tổ chức tại thị trấn Cùa để xử anh Trần Mãi không?”.

Tôi trả lời, có cả viên thiếu tá ngụy ngồi nghe:

- “Chữ nhân dân ở đây, chúng tôi dùng với một nghĩa rộng. Thí dụ: phía Liên hiệp Pháp gọi hội đồng hương chánh xã, phía chúng tôi là Ủy ban nhân dân xã. Quân đội chúng tôi là Quân đội Nhân dân, v.v.. Còn Tòa án nhân dân của chúng tôi vẫn tổ chức như các tòa án khác trên thế giới, cũng có cơ quan điều tra, có chánh án, có hội thẩm, có luật sư, v.v.. Như vậy chữ “nhân dân” nói lên bản chất của Nhà nước chúng tôi là từ nhân dân mà ra và vì nhân dân mà phục vụ.

Tôi xin hỏi ông Chủ tịch, vụ án anh Trần Đèn, Trần Mãi phức tạp như vậy, Tổ Quốc tế có nhiều điều kiện thuận lợi, có nhân chứng khai báo, làm việc nhiều tuần mà tìm thủ phạm còn có khó khăn. Thư hỏi người dân bị tập trung từ 7 giờ sáng đến 11 giờ trưa, nghe bán cáo trạng của chính quyền Liên hiệp Pháp thì làm sao xác định được anh Trần Mãi có giết anh Trần Đèn hay không? Theo tôi, đó chỉ là chuyện lừa bịp, cưỡng bức người dân. Chúng giết người mà không có tòa án”.

Hôm sau, Tổ Quốc tế đòi ở thị xã Quảng Trị để tiện việc đi lại, vì vị trí điều tra ở liên xã Cam Mai - Cam Lệ (thị trấn Cùa), từ Đông Hà vào hơn 10km. Liên tục mấy ngày sau, Tổ lên thị trấn Cùa nơi xảy ra vụ án. Hai ngày đầu làm việc với hội đồng hương chánh ngụy nên cũng chỉ nói lại nội dung mà chúng kiện ta. Tôi rất sốt ruột.

Khi tôi ăn cơm tối, không còn khách qua lại thì anh bồi bàn đem đến đưa cho tôi một gói thuốc lá Mélia và một hộp quẹt. Tôi lấy gói thuốc và hộp quẹt bỏ vào túi, rồi về phòng nghỉ. Tôi đóng cửa phòng và xé gói thuốc ra, thấy trong đó có thư, nội dung như sau: “Ôn Mệ hỏi Anh, vô đây làm gì, cho Ôn Mệ biết để giúp đỡ”. Vì không biết có phải là cơ sở của ta hay không nên tôi không trả lời. Ngày hôm sau tôi nhờ đồng chí Ba Lan, mượn cớ đi thăm các đồng chí Ba Lan ở Tổ Quốc tế giới tuyến, để nhờ anh Trần Chí Hiền trưởng khu phi quân sự cho biết có cơ sở của ta ở khách sạn Trung tâm hay không? Anh Hiền giới thiệu tổ 3 người: chị Hảo làm thủ quỹ, anh bồi bàn và anh nâu bếp. Sáng hôm sau, tôi đến khách sạn thật sớm, uống cà phê, ăn sáng. Tôi giả vờ làm đổ ly cà phê, rồi ra phía sau rửa tay. Chị Hảo đem khăn lau tay ra phía sau đưa cho tôi. Trong khi lau tay, tôi nói với chị Hảo:

- “Tôi vào điều tra vụ anh Trần Đèn. Tôi nhờ bố trí cho ông Võ Toại ra khai báo”.

Nhưng ngày hôm sau, người ra khai báo là viên thư ký hội đồng hương chánh do ngụy đào tạo ở Trường Quốc gia Hành chánh. Tôi tin chắc nội dung lời khai sẽ giống như bọn tề. Thật bất ngờ, lời khai báo của anh hoàn toàn có lợi cho ta. Anh đã chỉ rõ sự bố trí giả tạo để giết anh Trần Mãi. Anh nói: “Sáng sớm hôm đó, tỉnh ra lệnh cho hội đồng hương chánh gom dân ra sân bóng thị trấn Cùa, rồi đọc cáo trạng, rằng anh Trần Mãi giết anh Trần Đèn cho nên chính quyền tuyên án tử hình. Hỏi dân có đồng ý hay không. Dân không có ý kiến. Chỉ có bọn lính mặc thường phục đưa tay tán thành. Thế là bắn anh Trần Mãi ngay tại chỗ, trước mặt số dân đang bị tập trung”.

Tiếp sau đó là ông Võ Toại đến. Bị lính ngăn cản, ông la to. Tôi ra xem và biết ngay là ông Toại nên yêu cầu Tổ Quốc tế can thiệp. Tất nhiên ông Toại tố cáo bọn ngụy giết anh Trần Đèn vì anh là cán bộ kháng chiến cũ, được dân bầu làm chủ tịch hội đồng hương chánh trái với ý đồ của chúng. Để lấp liếm sự việc đổ tội cho người kháng chiến còn ở lại nên đã bắt anh Trần Mãi, cũng là cán bộ kháng chiến cũ đem bắn. Chúng còn định bắt ông Võ Toại nhưng ông đã trốn thoát.

Sau đó tôi và đại biểu Canada đưa ông đi vào rừng an toàn vì ở đây qua một đoạn đường rừng, đến bờ sông Sa Lung là đầu nguồn sông Bến Hải. Bên kia sông là miền Bắc của chúng ta. Còn anh thư ký hội đồng hương chánh trên danh nghĩa là người của ngụy do chúng bố trí khai báo, nên tôi không thể đả động đến.

Với các mâu thuẫn trong những lời khai, từ viên tỉnh phó, trưởng ty cảnh sát và Hội đồng hương chánh mà chủ yếu là của viên thư ký, cộng thêm với lời khai của ông Võ Toại, Tổ quốc tế cho rằng vụ án đã rõ nên kết thúc và báo cáo về Hà Nội.

Tôi nhận nhiệm vụ tiếp theo là đi điều tra vụ bắt người ở huyện Phú Vang (Huế) và nhà lao Quảng Trị.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Tư, 2023, 02:31:10 pm

Vụ Phủ Vang

Vụ bắt người ở huyện Phú Vang là vụ nhỏ nên Tổ quốc tế chỉ làm việc hai ngày là xong. Nội dung sự việc là: Bọn công an, tề ngụy đem cờ Tổ quốc chôn trong sân nhà dân rồi đào lên lấy cớ bắt chủ nhà. Ta kiện chúng bắt dân vô tội.

Tổ Quốc tế hỏi chúng:

- “Vì sao biết là trong sân nhà có chôn cờ?”. Chúng nói là có chỉ điểm. Tổ Quốc tế đòi gặp tên chỉ điểm. Chúng nói là bí mật quốc gia không thể gặp được. Tổ hỏi: “Tên chỉ điểm có biết rõ vị trí chôn cờ hay không?”. Chúng không dám nhận, chỉ nói tên chỉ điểm nói chung chung ở trong sân, rồi bọn lính dùng cây sắt xăm đất, đụng nghe “cụp cụp”. Chúng đào lên, thấy đúng hòm chôn cờ. Tổ Quốc tế nói: “Tiếng cụp cụp, có thể là gỗ hay đá. Vậy thì các anh phân biệt thế nào mà đào chỉ một lần lại đúng hòm chôn cờ?”. Bọn chúng không trả lời được. Cả tổ cười xòa. Như vậy, Tổ Quốc tế đã chứng minh được và kết luận rằng: “Sự việc đã rõ, chính quyền ngụy bố trí cho chôn cờ ở vườn nhà dân rồi tổ chức cho đào, lấy cớ đó đề bắt người kháng chiến cũ”.


Vụ Nhà lao Quảng Trị

Tổ quốc tế về Huế để điều tra vụ nhà lao Quảng Trị.

Hàng ngày Tổ Quốc tế lên Quảng Trị gặp nhân chứng ở ty cảnh sát, chủ yếu là gặp tù nhân. Trưa, Tổ ăn cơm ở một nhà hàng của một người Pháp có vợ là người Việt Nam, gần sông Quảng Trị.

Danh sách tù nhân nhà lao mà ta đưa ra gồm có 111 người. Ta cho rằng bọn ngụy trả thù người kháng chiến cũ và tìm cách bắt giam. Còn chúng nói những người này chống đối chính quyền. Điều chủ yếu là những người bị giam không qua tòa án. Tổ Quốc tế cho rằng, giam người như vậy không phù hợp về mặt pháp lý. Vì vậy, chúng luôn tìm cách ngăn cản hoạt động của Tổ Quốc tế và âm mưu đẩy Tổ đi khỏi Quảng Trị.

Một buổi trưa, tôi đang nghỉ ở nhà hàng bên bờ sông thì nghe tiếng nói của một thanh niên ở ngoài đường: “Anh ơi! xuống bến tắm, em có việc cần nói" Một câu nói trống không. Không có tiếng đáp lại nên tôi nghi là ám hiệu cho tôi. Mười lăm phút sau, tôi lấy khăn mặt và đi xuống bến sông. Tôi thấy có hai thanh niên đang ở bên cồn Cát lội về bến, giả vờ tắm và đùa giỡn. Hai em cho tôi biết, chiều nay khoảng 4 đến 5 giờ, giờ mà Tổ Quốc tế đi về Huế thì tại nhà thờ Đức Mẹ La San, cách Quảng Trị 2 km, bọn lính ngụy mặc thường phục giả làm dân tập trung để đón đánh Tổ Quốc tế, chủ yếu là sĩ quan ta. Tôi lên nhà, bàn riêng với đồng chí phiên dịch Ba Lan. Vì nói tiếng Pháp, nên tôi bàn trực tiếp không ai để ý. Tôi thống nhất với đồng chí Ba Lan sẽ đề nghị về Huế vào lúc 3 giờ, sớm hơn dự định. Thường lệ thứ tự đoàn xe do sĩ quan ngụy đi trước, tới xe chủ tịch Ấn Độ, xe đại biểu Canada, xe của ta, còn xe của Ba Lan cố tình đi sau cùng để đảm bảo an ninh cho ta. Chiều nay thứ tự thay đổi. Khi bắt đầu đi, xe sĩ quan ngụy chạy trước, xe của ta bám sát theo, còn đồng chí Ba Lan kiếm cớ hội ý với Ấn Độ và Canada ở lại. Sau đó, mới bắt đầu đi.

Đúng như dân đã báo trước, tại nhà thờ Đức Mẹ, chúng đã tập trung gần 100 tên. Khi Tổ Quốc tế đi ngang qua, xe ngụy đi trước là xe không sơn màu trắng, xe của ta tiếp theo là xe sơn màu trắng. Chúng bị bất ngờ vì thời gian sớm hơn hai tiếng đồng hồ. Khi chúng phát hiện, kéo ra đường chặn các xe sau là xe của Ấn Độ, Canada, Ba Lan. Trước tình hình bất lợi, thiếu tá Kiệm lệnh cho trung úy ngụy, lên xe tôi, hộ tống về Huế. Còn Y thì trở lại giải thoát cho Tổ Quốc tế. Về tới Huế, chủ tịch Ấn Độ lấy một chai rượu mời tôi và thiếu tá Kiệm. Chủ tịch Ấn Độ bực dọc nhắc lại chuyện vừa qua, Tổ Quốc tế bị khủng bố là vi phạm Điều 10 Hiệp định Giơnevơ. Ông nặng lời cho đó là hành động kém văn hóa, thiếu lịch sự, không tôn trọng Ủy ban Quốc tế. Thiếu tá Kiệm vội vàng xin lỗi và hứa sẽ trình lên cấp trên xem xét, để biết ai đã tổ chức, hòng có biện pháp xử lý thích đáng. Ngay ngày hôm sau, tỉnh trưởng Bửu Uyên đến gặp Tổ Quốc tế để xin lỗi và hứa sẽ bảo đảm an toàn cho Tổ cho đến khi kết thúc.

Việc điều tra nhà lao Quáng Trị lại được tiếp tục.

Tôi xem hồ sơ khai báo của tù nhân thì số nữ khai báo tốt, còn một số nam khai báo không có lợi cho ta. Trong quá trình hỏi cung, tù nhân tìm mọi cách nêu tên một tù nhân là Hoàng. Có lẽ anh này là bí thư chi bộ nhà tù. Tôi bàn với các đồng chí Ba Lan bố trí kế hoạch gọi anh Hoàng hỏi cung. Trong lúc đang hỏi cung, đồng chí Ba Lan đề nghị giải lao. Nhân dịp đồng chí vừa nhận được chai rượu từ Hà Nội, muốn mời cả Tổ cùng uống. Trong khi các vị đi uống rượu, tôi báo gấp cho anh Hoàng một ý ngắn gọn: “Bảo các anh khai không tốt thì phản cung”. Việc này bọn ngụy không biết, vì chúng bố trí tù nhân ra khai báo trước Tổ quốc tế toàn những người có lợi cho chúng. Nhưng lần này, ra trước Tổ Quốc tế anh em phản cung. Tổ Quốc tế hỏi: “Vì sao trước đây các anh khai thế này, còn bây giờ lại khai khác”. Tất cả đều nhất trí trả lời: “Vì bị o ép, đánh đập nên buộc lòng phải khai như vậy. Bây giờ trước Tổ quốc tế mới dám khai thật”. Thế là tình hình bất lợi cho chúng.

“Bắt giam mà không qua tòa án. Dùng hình thức đánh đập bắt ép khai báo”, đã đủ để chứng minh là có sự trả thù người kháng chiến cũ. Muốn đuổi Tổ Quốc tế đi, rồi tìm cách đánh sĩ quan ta không thành, tình hình tù nhân khai bất lợi cho chúng. Hôm sau tên tỉnh trưởng đến thông báo cho tổ biết, chúng sẽ thả tượng trưng 50 tù nhân, hầu hết là phụ nữ. Sau này sẽ tiếp tục thả tiếp.

Trước khi kết thúc nhiệm vụ, Tổ được mời đến chứng kiến việc chúng thả 50 tù nhân tượng trưng. Các anh chị được thả đề nghị Tổ Quốc tế đưa họ đến bìa rừng để bảo đảm an toàn. Tổ đồng ý và chia thành ba nhóm: một nhóm là đoàn Ấn Độ đi với viên đại úy Pháp, nhóm đoàn Ba Lan đi với thiếu tá ngụy, còn một nhóm là đoàn Canada đi với chúng tôi. Cuộc điều tra nhà lao Quảng Trị đã kết thúc. Tổ Quốc tế trở ra Hà Nội.

Tôi nhận hồ sơ đi điều tra vụ vi phạm ở huyện Ô Môn, Cần Thơ. Tổ Quốc tế làm việc được một tuần rồi rút về Sài Gòn. Trong lúc nằm chờ tại khách sạn Galliéni để tiếp tục đi Ô Môn, thì tôi nhận được lệnh đi điều tra nhà lao Côn Đảo. Ta kiện phía Pháp không trao trả tù binh.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Tư, 2023, 02:32:24 pm

Vụ Côn Đảo

Tàu hải quân Pháp đưa Tổ Quốc tế ra đến Côn Đảo, khoảng 8 giờ sáng. Đảo trưởng là thiếu tá Bạch Văn Bốn. Tay này khôn ngoan hơn bọn đầu sỏ Quảng Trị. Y đề nghị Tổ Quốc tế nghỉ hai ngày để tham quan Côn Đảo và chiêu đãi các đặc sản như cháo dơi, trứng vích đốt rượu Rhum (Omelette au kirsch). Quá trình hỏi cung cũng có kết quả. Có tù binh còn bị giam giữ như anh Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 307 (do anh tự khai), nhưng chúng cũng xen kẽ được một số thường phạm vào.

Thế rồi xảy ra một việc bất ngờ. Sau bữa cơm chiều, anh bồi bàn đưa cho tôi một gói thuốc Mélia và bao diêm. Tôi rất ngạc nhiên nhưng vẫn nhận và cám ơn. Khi mở bao diêm ra, thấy có thư hẹn khoảng 8 giờ tối ra đường ven biển để nhận tài liệu quan trọng. Ký tên “Xuân, Tiểu đoàn phó 307, người vừa được hỏi cung vào buổi chiều”. Thật hay giả? Có phải đây là cái bẫy do chúng bố trí để đuổi Tổ quốc tế. Tôi bàn với các đồng chí Ba Lan và thống nhất kế hoạch. Đến tối, đồng chí Ba Lan lấy rượu ra mời cả Tổ cùng uống. Tôi từ chối vì không dùng được rượu mạnh. Trong lúc họ uống rượu thì nữ đồng chí phiên dịch Ba Lan mời tôi đi dạo mát. Đúng như thư hẹn, khi tôi và nữ đồng chí Ba Lan đi ra bờ biển thì từ trong rừng, có hai tù nhân đến trao cho tôi một gói xin gửi cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bác Hồ. Tôi chỉ kịp dặn các đồng chí từ nay không được mạo hiểm như vậy, vì việc đi lại ngoài đường vào ban đêm của tù nhân có thể bị chúng bắn chết.

Về buồng ngủ, mở ra xem, tôi thấy có hai bức thư gửi cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bác Hồ. Kèm theo thư có 3 con ốc xà cừ màu rất đẹp và một gọng kính bằng đồi mồi. Khi về Sài Gòn, tôi gửi tất cả quà và thư cho đồng chí Phẩm (sĩ quan liên lạc Tổ 14D) để đưa về Hà Nội nhờ báo cáo cho Trung ương Đảng.

Tôi tiếp tục đi điều tra nhà lao Chí Hòa. Ở đây tôi lại gặp Tổ Quốc tế quen thuộc đã từng công tác ở Quảng Trị. Tôi nhiều lần yêu cầu bố trí đi điều tra nhưng phía ngụy từ chối. Lúc này Diệm đã thay Bảo Đại. Pháp hết quyền hạn. Tôi nằm đợi ở khách sạn cho đến ngày 20-7-1955, ngày mà chúng tấn công đánh phá vào trụ sở Ủy ban Quốc tế ở khách sạn Majestic và Galliéni.

Chiều tối ngày 19-7-1955, bọn Pháp đưa một trung đội Âu Phi đến tăng cường bảo vệ khách sạn Galliéni. Tôi nghi là có chuyện và đồng chí Ba Lan cũng nói với tôi có khả năng chúng sẽ đánh phá. Đêm đó, tôi và đồng chí Trịnh Ngọc Thái (phiên dịch) đốt hết tài liệu, chuẩn bị tư thế bị đánh đập, kể cả hy sinh. Vào lúc 5g30 sáng ngày 20 tháng 7, bọn ngụy đã cho xe loa đi kêu gọi biểu tình. Tiếp theo đó, từng đoàn người kéo đến tập trung trên đường Galliéni, trước khách sạn... Khoảng 9 giờ, chúng bắt đầu tấn công đánh phá khách sạn. Chúng không vào được cửa chính, do trung đội Âu Phi chiếm giữ nên kéo sang nhà chuyên gia Mỹ, rồi lên tầng thượng để sang khách sạn. Chúng bắt đầu đánh phá từ tầng 4 trở xuống. Tầng trệt là nơi ăn uống, còn phòng ở bắt đầu từ tầng 1. Tôi ở tầng 1, phòng nằm trong cùng với một số phòng của các đồng chí Ba Lan. Tất cả Ủy ban Quốc tế đều dồn xuống tầng 1, về phía chỗ phòng tôi và các đồng chí Ba Lan. Từ trên tầng 2 xuống là chỗ thường trực của khách sạn. Bọn lính Âu Phi kéo một tủ búp phê để chắn ngang hành lang vào phía phòng tôi, cũng là nơi tập trung Ủy ban Quốc tế và người phục vụ trong khách sạn. Hai người lính da đen gác nòng 2 khẩu tiểu liên lên tủ, giữ không cho bọn biểu tình vào. Bên cạnh là phòng để quần áo, drap và các vật dụng khác. Không vào được phía trong, bọn biểu tình tạt vào phòng áo, cướp giật, cấu xé lẫn nhau, chửi bới giành đồ đạc rồi chạy ra đường. Do vậy, cuộc đập phá này trở thành một vụ cướp giật quần áo ở các phòng của khách sạn từ tầng 1 đến tầng 4. Ở tầng trệt, chúng lấy dụng cụ nấu ăn, khăn trải bàn, thực phẩm, tủ lạnh, radio... Cái nào không lấy được thì chúng đập phá. Đến gần 11 giờ, chúng rút hết. Trưa hôm đó, cả Ủy ban Quốc tế phải ăn bánh mì nguội vì không có gì để nấu ăn cả. Có việc cảm động là các chị lao công dọn phòng tìm được hai bộ quần áo thường phục, đem đến cho tôi và đồng chí Thái mặc, để trà trộn với anh em bồi bếp khi chúng tấn công vào. Chúng tôi cám ơn và từ chối, giải thích cho các chị hiểu rõ không thể làm như vậy.

Đến 7 giờ tối, bọn Pháp do một thiếu tá chỉ huy, đến với một xe khách 50 chỗ ngồi và một xe du lịch Peugeot 203, để đưa Ủy ban Quốc tế đến chỗ ở tạm. Các vị lên xe 50 chỗ ngồi. Còn tôi lên xe du lịch để đảm bảo an toàn. Chúng định đưa chúng tôi đến trụ sở Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ở Sài Gòn đang đóng tại Gia Định. Tôi phản đối. Tôi nói: “Tôi là người của Ủy ban liên hợp Trung ương Hà Nội đi với Tổ quốc tế, nên Tổ đi đâu thì tôi đi đó”. Các đồng chí Ba Lan cũng phản đối nên buộc lòng chúng phải để tôi và đồng chí Thái cùng đi với Tổ quốc tế.

Chúng đưa chúng tôi lên Gò Vấp vào tạm trú tại Bệnh viện Rock, nay là Bệnh viện 175. Hôm sau, chúng đưa tất cả về ở trong khu nhà “Chú Hỏa”. Cũng trong ngày hôm đó, anh Nguyễn Văn Long, quyền Trưởng đoàn viết thư cho chúng tôi bảo về trụ sở Phái đoàn, về danh nghĩa, anh Long là trung tá, còn tôi là thiếu tá nên tôi chấp hành mệnh lệnh. Vì vậy, kể từ ngày 22-7-1955, tôi là thành viên của Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Quốc tế tại Sài Gòn.

Một tuần sau, tôi được lệnh đến làm việc với Tổ quốc tế điều tra về vụ các sĩ quan ngụy được ta thả từ miền Bắc về. Chúng kiện ta. Đối với tôi vụ này hơi khó vì đó là vụ mà ta phòng ngự. Từ trước tới nay, tôi nhận các vụ điều tra theo 14C, 14D là ta chủ động tấn công. Còn vụ này tôi chưa nắm được nội dung, chưa biết yêu cầu sự việc, chưa gặp các đồng chí Ba Lan để bàn bạc, thống nhất kế hoạch đấu tranh. Nhưng đứng trước thực tế như vậy tôi đành chấp nhận.

Đúng hẹn tôi đến trụ sở Ủy ban Quốc tế. Đại biểu Ba Lan là một nữ đồng chí có tuổi, cỡ hơn 40. Sau này tôi được biết đồng chí là nhà báo. Số người được gọi hỏi cung là 3 sĩ quan ngụy, cấp úy, được thả từ miền Bắc. Trong khi làm việc, tôi xin phép phát biểu tham gia hỏi cung. Nhưng nữ đồng chí Ba Lan ngăn lại. Tôi đành chỉ ngồi nghe cho đến khi kết thúc cuộc điều tra.

Nữ đồng chí Ba Lan chỉ hỏi mấy vấn đề:

- “Anh có làm đơn tình nguyện ở lại miền Bắc không?”
- “Có”.
- “Anh có làm đơn xin Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho về miền Nam không?”
- “Có”.

Nữ đồng chí Ba Lan tiếp tục hỏi và nói như kết luận:

- “Vậy Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giữ anh ở lại miền Bắc là theo nguyện vọng trong đơn của anh. Nay trả anh về miền Nam cũng theo nguyện vọng trong đơn của anh. Như thế, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm theo nguyện vọng của anh là khoan hồng hay là cưỡng bức?”.

Bọn chúng ấp úng. Bà tiếp tục yêu cầu chúng trả lời: “Khoan hồng hay cường bức?”

Cuối cùng bọn chúng nhìn nhận: “Điều đó là khoan hồng”.

Cả Tổ Quốc tế đều cười xòa và như vậy là kết thúc cuộc điều tra.

Tôi lại trở về Phái đoàn, chờ xem có đi điều tra vụ nhà lao Chí Hòa không? Nhưng chờ mãi không thấy.



Ngày 20-7-1956 đã qua. Hiệp thương Tổng tuyển cử rõ ràng là không thể có được. Tình hình đã thay đổi. Đến cuối năm 1956, tôi được gọi về Hà Nội, học Trường Nguyễn Ái Quốc và sau đó trở lại phục vụ quân đội.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Tư, 2023, 02:35:41 pm

“NHƯ CÂY ĐINH ĐÂM VÀO MẮT”

HỒ VĨNH THUẬN


1. Đường về Sài Gòn

Chiến thắng Điện Biên Phủ, cùng với các chiến dịch phối hợp trên cả nước làm cho mọi người tin rằng, ngày thắng lợi cuối cùng không còn xa nữa. Hiệp định Giơnevơ (1954) về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương đã mang lại không khí vui tươi khắp vùng giải phóng. Anh chị em trong văn phòng Trung ương Cục miền Nam - Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ nhộn nhịp chuẩn bị tập kết. “Đi” để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam, cần người có chuẩn chất. Còn “ở”, là cùng đồng bào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, hiệp thương tổng tuyển cử cũng là nhiệm vụ rất vinh quang. Vậy “đi” là nhiệm vụ, “ở” là vinh quang. Chúng tôi nghĩ như thế.

Phần lớn anh chị em trong cơ quan đều được đi. Có nhiều người vui ra mặt. Hai năm có là bao. Nhưng cũng có người lo lắng vì chưa chắc hai năm được trở về. Đối với tôi, đã xếp bút nghiên ra đi từ lúc 14 tuổi, nay đã ngoài 20 không có điều gì phải bận tâm. Đi hay ở, cũng đều thấy vui. Nhưng từ đáy lòng, tôi vẫn mong được ở lại quê hương, vì cảm thấy khó có thể xa mảnh đất này, nơi anh tôi đã ngã xuống mà vẫn chưa yên mồ yên mả. Và, còn biết bao tình cảm khác không dễ dứt ra được.

Thế rồi tôi nhận được quyết định ở lại, phụ trách điện đài Phái đoàn ta ở Sài Gòn.

Tôi được về Sài Gòn, đến chỗ tập trung cán bộ được ở lại để học tập tình hình - nhiệm vụ. Cuối khóa, tôi được phân công ra Hà Nội để nhận thiết bị và bàn việc nối tuyến giữa Sài Gòn và các điện đài miền Nam với điện đài Trung ương Đảng và Chính phú. Cùng đi với tôi có anh Thống và các anh cơ yếu.

Chúng tôi đi theo chuyến tập kết đầu tiên ở bến Chắc Băng, trên chiếc tàu Ba Lan Kilinski. Khi đến Sầm Sơn, chúng tôi ra ngay Hà Nội, về Văn phòng Trung ương Đảng. Chúng tôi được đón tiếp chu đáo, được bố trí ăn ở cách ly, không tiếp xúc với bên ngoài, không mua bán, cũng không có tiền tiêu vặt. Cạnh chỗ chúng tôi ở là chợ làng hoa Ngọc Hà. Chúng tôi làm việc với các đồng chí phụ trách điện đài Trung ương, xin cấp thiết bị thông tin cho Xứ ủy và Phái đoàn Sài Gòn. Chúng tôi thống nhất lề lối làm việc, bàn kỹ về các trường hợp khó khăn của Nam Bộ. Điện đài Sài Gòn nhất định bị địch theo dõi vì nằm ngay trong nội thành, hoạt động công khai. Phải thay đổi lề lối làm việc cũ mới giữ được bí mật để địch không thể lần ra các đầu mối khác. Không sử dụng các mã Q, mã Z, không gọi và xưng tên, ngay cả ký tự Morse cũng thay đổi. Phương thức liên lạc: trực tiếp, hỏi đáp ngay có BK. Phải rút thật ngắn thời gian lên sóng. Chúng tỏi làm việc căng thẳng, sợ không kịp thời gian quy định cho tập kết chuyển quân thì rắc rối to. Có đêm thức đến sáng để soạn thảo quy ước, làm quen với loại ký tự mới.

Có hôm thức khuya nghe ngoài phố có tiếng rao: “...Tầm... quất”(?). Anh Thống ngưng công việc và hỏi tỏi:

- “Ê mày, nghe coi nó rao bán cái giống gì đó?”.

Tôi lắng nghe. Tiếng rao “Tầm... quất” vẫn cứ vang lên, lanh lảnh. Tôi nói:

- “Trong mình có trái quấc, không hiểu có phải bán chè trái quấc hay không? Hôm nào xong xuôi công việc, mình đề nghị mua ăn thử cho biết”.

Trong buổi liên hoan tiễn đưa sau khi hoàn thành công việc, tôi cũng nghe rao ngoài phố:

- ...“Tầm... quất”.

Tôi liền hỏi đồng chí phụ trách:

- “Nó bán cái gì vậy? Anh cho mua ăn thử xem sao”. Các anh rất quý trọng cán hộ miền Nam nên sốt sắng hỏi lại:

- “Có cái gì đâu?”.

- ...“Tầm... quất”.

Các anh lăn ra cười làm chúng tôi ngượng chín người:

- “Đó là đấm lưng đấy, các bố ơi!”.

Bây giờ chúng tôi mới hiểu và cười xòa.

“Vì tiếng nói có đôi chỗ khác nhau. Trong Nam, chúng tôi không gọi thế”.

Chúng tôi từ giã các anh và quay trở lại Nam Bộ bằng chuyến tàu của Liên Xô trở vào đón quân tập kết mới. Về đến bến sông Ông Đốc vào đúng đêm 30 Tết, chúng tôi đến ngay văn phòng Xứ ủy Nam Bộ. Tôi báo cáo lại kết quả và bàn giao máy móc, tài liệu cho Xứ ủy. Anh Thống, anh Hằng ở lại, còn tôi, anh Dầy ra trụ sở Ủy ban liên hợp đình chiến Nam Bộ ở Phụng Hiệp, chờ ngày đi Sài Gòn. Khi hết thời hạn 200 ngày, chuyến tàu tập kết cuối cùng đã nhổ neo, chúng tôi phải ra thị trấn Phụng Hiệp thuộc vùng kiểm soát của địch để bay ra Hà Nội, với các thiết bị vừa mới mang vào.

Sáng sớm, xe GMC của quân đội Pháp đến đón chúng tôi tại chân cầu Phụng Hiệp để đưa đến sân bay Sóc Trăng. Trên đường, dài hàng chục cây số đồng bào đã dứng chờ từ lúc nào. Khi xe vun vút chạy ngang qua, đồng bào hoan hô, vẫy chào, đưa hai ngón tay “Xin tạm biệt hai năm”. Có nhà lập cả bàn hương án ngoài đường, đàn ông mặc áo dài đen, đội khăn đóng chỉnh tề đứng đợi có lẽ từ lâu để được vẫy chào trong khoảnh khắc, đồng bào hoan hô không ngớt, chúng tôi ngồi trên xe vẫy tay đáp lại mà nước mắt lưng tròng. Khi đến sân bay Sóc Trăng, đồng bào cũng đã đứng ngoài rào từ lúc nào để chào tạm biệt các anh bộ đội. Và cũng với hai ngón tay:

- “Xin hẹn hai năm gặp lại”.

Có bốn chiếc máy bay loại hai thân của quân đội Pháp đón chúng tôi. Lần đầu tiên được đi máy bay, tôi thử nhìn xuống đất xem có rõ hay không mà chúng có thể bắn phá được xóm làng ta. Đúng, đây chính là những chiếc máy bay đã có lần đánh trúng nơi chúng tôi ở.

Đến sân bay Gia Lâm trời đã xế chiều, chúng tôi được đón tiếp long trọng vì là chuyến tập kết cuối cùng. Cũng cờ, cũng biểu ngữ, cũng diễn văn, cũng hoan hô, cũng trà bánh... Tôi nghĩ thầm, không biết có ai để ý rằng mình đã được đón tiếp đến hai lần: Lần ở Sầm Sơn và lần này nữa, cách nhau trong khoảng hơn một tháng.

Chúng tôi được đưa về doanh trại nằm ngay dưới chân cột cờ Thăng Long. Vài ngày sau, Phái đoàn Sài Gòn mới được tập trung đông đủ và ở tại nhà khách của Ủy ban liên hợp Trung ương. Anh Phạm Hùng là Trưởng đoàn, ít hôm có đến thăm. Còn trực tiếp làm việc với chúng tôi, có anh Phạm Chung và anh Long. Chúng tôi chờ ngày vào Sài Gòn.

Hàng ngày chúng tôi tập thể dục, học chính trị và trau dồi nghiệp vụ. Thỉnh thoảng cả tập thể được đi xem phim. Rồi một hôm có tin vui. Phía Pháp và ta đã ký kết Nghị định thư để Phái đoàn vào Sài Gòn. Số người được vào đầu tiên, hạn chế trong khoảng mười lăm. Trong số đó có tôi. Nhưng giấy thông hành, lại là tên: “Huỳnh Việt Phong”. Đổi tên thì hiểu, nhưng sao lại là tên Phong? Anh Phạm Chung giải thích với giọng đặc sệt Quảng Trị:

"Thuận buồm xuôi gió, mà gió là Phong. Còn Phạm Chung, đối là Thủy. Chung Thủy rứa. Nguyền Hoàng Kính đổi là Ngọc. Ngọc Hoàng mà lị...”. Giải thích nghe vui tai, và được mọi người đồng tình. Điều quan trọng là ngay từ bây giờ phải ghi nhớ tên mới. Ai gọi Thuận thì không thưa, chỉ có Phong trên trái đất này mà thôi. Từ đó tôi tên là “Phong”. Cho đến năm 1966, khi tôi móc nối với người trong đô, tên Phong được dùng làm ám hiệu. Các anh khác cũng đều có tên mới, đổi cả ngày tháng năm sinh. Có chuyện nghe buồn cười, là ngày 7-12-1957, bọn Diệm gửi công hàm cho Ủy ban Quốc tế, phàn nàn rằng: “Có 4 tên Việt Minh khai man lý lịch...”, làm rùm beng trên báo chí coi đó là một chiến tích. Đâu phải chỉ có 4 tên, vì có ai dại mà khai tên họ thật để chúng khủng bố người thân.

Thế rồi, ngày lên đường đã đến. Lệnh chuẩn bị sẵn sàng được ban hành. Ngày mai 17-5-1955, chúng tôi sẽ bay vào Sài Gòn. Tôi kiểm tra các thùng máy đã từ Hà Nội vào Cà Mau, ra Phụng Hiệp, đi Sóc Trăng về Hà Nội và giờ đây trở vào Sài Gòn, nguyên đai nguyên kiện. Tôi đến điện đài Trung ương, yêu cầu từ 12 giờ trưa mai theo dõi Sài Gòn cho đến khi nối được tuyến liên lạc. Đâu đó xong xuôi, tôi sắp xếp lại quần áo và đồ dùng cá nhân. Đến trưa, tổ trưởng Đảng phổ biến chiều nay ăn mặc đàng hoàng để đến Phủ Chủ tịch. Bác Hồ cho gọi cả Phái đoàn.

Lúc 2 giờ kém 15, chúng tôi xếp hàng hai đi bộ đến Phủ Chủ tịch. Chúng tôi được đưa vào phòng khách lớn. Khi đã ngồi đâu đó xong xuôi thì Bác Hồ xuất hiện, cũng với bộ quần áo kaki, đôi dép râu, bộ râu dài trên khuôn mặt hiền từ và đôi mắt sáng, đúng với hình ảnh mà tôi đã nhiều lần thấy trên sách báo. Chúng tôi đứng dậy vỗ tay hồi lâu.

Bác đưa hai tay ra hiệu và bảo:

- “Các chú ngồi xuống”. Anh Phạm Hùng giới thiệu với Bác từng người một trong phái đoàn cùng nhiệm vụ được giao. Bác nói:

- “Các chú vào Sài Gòn, phải hết sức cảnh giác, tránh đạn bọc đường. Các chú là ngọn cờ cách mạng giương cao trong lòng địch, như cây đinh đâm vào mắt chúng. Nhất định chúng sẽ tìm cách nhổ ra. Bác chúc các chú lên đường mạnh khỏe, và trông tin vui của các chú”.

Anh hai Phạm Hùng, thay mặt anh em hứa với Bác sẽ làm theo lời Bác dạy, chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu. Bác nói:

- “Các chú làm việc tốt, lập được nhiều thành tích là Bác sẽ khỏe mạnh, sống lâu”.

Buổi gặp mặt kết thúc. Bác đứng dậy, chúng tôi cũng đứng theo vỗ tay cho đến khi Bác đi khuất. Chúng tôi ra về. Đến sân cỏ, gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi vào. Đại tướng bắt tay chúng tôi và chúc lên đường mạnh khỏe.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Tư, 2023, 02:36:31 pm

2. Từ thành phố này, có một làn sóng

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi ăn mặc quân phục chỉnh tề, ra sân bay Gia Lâm. Có hai chiếc Dakota của quân đội Pháp đưa chúng tôi vào Tân Sơn Nhất. Xin chào tạm biệt Hà Nội, Thủ đô của Tổ quốc.

Máy bay đáp xuống Tân Sơn Nhất khoảng 12 giờ trưa. Trời hè rất nóng. Sân bay vắng khách, chỉ có các xe tải GMC ra đón chúng tôi. Có một vài tên lính ngụy nhìn chúng tôi có vẻ như muốn hỏi: “Tại sao Việt Minh lại vào đây?”. Từ sân bay về trụ sở khá xa. Hai bên đường là ruộng lúa đang xanh tốt. Mùi thơm bông lúa ngậm sữa phảng phất hương vị ngọt ngào quen thuộc. Nhiều người đi đường thấy chúng tôi giở nón ra chào những chiến sĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã trở về với họ sau thời gian tập kết, để đấu tranh cho Tổ quốc thống nhất. Mặc dầu tôi ra miền Bắc chỉ mới vài tháng, nhưng nay được trở lại quê hương, sao cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Khoảng 20 phút sau, chúng tôi đã đến trụ sở. Nơi đây đã có lính gác. Xe chạy thẳng vào sân.

Tôi được giao cho một phòng nhỏ ở dãy nhà phụ phía sau nằm giữa khu nhà. Tôi lắp đặt máy, dựng ăngten phát là loại ăngten Zeeplin, có thể định hướng được và hiệu suất cao. Còn ăngten thu thì đơn giản. Tôi xem đồng hồ. Đã gần 4 giờ chiều. Có lẽ từ 12 giờ, các anh ở Hà Nội đã sốt ruột tìm tôi. Tôi lên máy và bắt đầu gọi. Một lần, rồi hai lần, đến lần thứ ba thì lẫn lộn trong muôn ngàn tín hiệu khác nhau, giữa những tiếng “hú hí" của các làn sóng điện, tiếng của Hà Nội trong sáng lạ kỳ, thân thương xiết bao. Tôi vội “OK”, nhưng không thấy Hà Nội trả lời, tội gọi và “OK” tiếp. Hà Nội đã hiểu, trả lời đúng ám hiệu. Tôi hình dung các đồng chí Hà Nội vui mừng biết dường nào, hình như tôi nghe thấy tiếng reo hò của bạn. Tôi cũng mừng. Chúng tôi chào nhau, liên tiếp đánh con số 8 (hôn bạn). Tuyến liên lạc được nối và từ đó cho đến khi Phái đoàn chấm dứt nhiệm vụ, tuyến liên lạc này không hề bị gián đoạn. Tuy nhiên cũng có vài sự cố.

Có lần biến áp nguồn máy phát lớn bị cháy. Đây là loại thiết bị chuyên dụng do Trung Quốc sản xuất. Tôi không tự quấn lại được. Nếu gửi ra Hà Nội phải đợi chuyến bay mất ít nhất một tháng mới xong. Nếu gửi sang Trung Quốc thì không biết phải đợi đến bao lâu nữa. Tuy có máy dự trữ thay thễ nhưng công suất yếu hơn, không bảo đảm an toàn. Tôi hỏi anh Sơn Việt, có thể đem ra chợ Sài Gòn giải quyết được không? Tôi nói tính năng của thiết bị, những khó khăn sẽ gặp phải để lo liệu trước. Anh Sơn Việt mang đi sửa. Hai ngày sau mang trả về. Tôi lắp vào, máy chạy tốt và đảm bảo hoạt động cho đến ngày cuối cùng. Tôi thầm cảm ơn người đã giúp quấn lại biến áp nhanh chóng.

Trong liên lạc có hai lần khi thông tuyến với Hà Nội, thì tôi nghe có tín hiệu lạ chèn vào, gọi đúng theo ký hiệu quy ước. Tôi trả lời “OK” và hỏi lại mật hiệu. Đối phương trả lời không đúng, tôi tắt máy. Hôm sau, cũng vào giờ đó, tôi cũng tìm thấy đài lạ gọi. Tôi không đáp, theo dõi một lúc rồi tắt máy. Tôi hỏi đại diện đài Trung ương. Các anh không biết. Vậy là ai, “Ta hay địch?”. Cũng có thể một điện đài cơ sở muốn bắt liên lạc vì các quy ước này anh Thống (cùng đi với tôi ra Hà Nọi, nay ở lại Xứ ủy) có một bản. Mà cũng có thể là địch đã theo dõi được ta và có hành động dò dẫm, khiêu khích. Nhưng tôi không thể nào tự ý nối tuyến, nếu không có lệnh từ cấp trên.

Có một hôm, khi nghỉ giữa hai phiên liên lạc, tôi tháo súng ra lau. Thấy trong nòng còn một viên đạn, tôi kéo culát thì viên đạn lại nằm ngang. Anh Hiển đi ngang qua phòng thấy tôi loay hoay, nên vào giúp, anh kéo mạnh culát, viên đạn bật ra. Anh đưa súng thắng lên nóc nhà lẩy cò, súng nổ đùng. Hú hồn! Vì nòng súng chĩa lên trời nên không trúng ai và cũng không trúng máy.

Công việc ngày càng ít đi, có khi suốt cả ngày mà không có bức điện nào. Chúng tôi giảm dần các phiên liên lạc. Về sau lại thêm một báo vụ mới từ Cục Thông tin quân đội nên tôi càng rảnh rỗi. Vì vậy, tôi xin đảm nhận thêm các công việc mà tôi có khả năng.

1. Tôi có đôi chút hiểu biết về điện và điện tử nên đảm nhận việc sửa chữa radio, tăng âm, điện thoại, điện đèn, điện mạng... kể cả điện sáng, điện mờ, không kể đến điện đài vì đó là nhiệm vụ.

Mấy lần có tiệc, tôi lắp bóng đèn nhỏ xung quanh ảnh Bác Hồ và trước cửa nhà lấp lánh như những viên ngọc, mọi người rất thích thú. Tôi cũng muốn làm cho nó “tắt - cháy” nhưng lúc bấy giờ kỹ thuật này còn khó. Tôi đi căng dây điện, lắp đèn bảo vệ, vô dầu quạt trần... làm mọi việc. Có việc đáng nói là việc phát hiện “máy nghe trộm”.

Vào Sài Gòn được mấy ngày, các anh gợi ý tìm “máy nghe trộm”. Đó là loại máy có kết cấu như thế nào tôi chưa hề biết, nhưng hiểu rằng muốn nghe được tiếng nói từ xa thì phải có micrô nối vào đường dây hoặc nối vào máy phát sóng. Vấn đề là phải tìm nơi chúng giấu micrô. Tôi xem xét mọi nơi và nghĩ đến máy điện thoại có thể giấu được micrô. Tôi tháo máy điện thoại ở phòng Trưởng đoàn ra xem. Tôi cố gắng nhớ từng chi tiết để khi lắp lại đừng sai. Tôi thấy bên trong máy có một micro điện động. “Nó đây rồi chăng?” Để có thể kết luận, tôi thực hiện mấy việc: cắt hai đầu dây nối vào micrô, lấy micrô ra ngoài. Xong lắp lại điện thoại như cũ. Sau đó nhờ anh Sơn Việt “Alô cho Ủy ban Quốc tế”, nói chuyện linh tinh xem điện thoại có bình thường không. Anh Sơn Việt gọi, hỏi chuyện thời tiết vu vơ. Điện thoại bình thường. Tôi lấy micrô vừa tháo ra, lắp vào máy cinê rồi “Alô, một, hai...” xem có nói được không. Tiếng nói nghe tốt, không kém micrô “đương chức”. Thế là đúng rồi, tôi đã tìm được máy nghe trộm. Chiều hôm đó, họp cơ quan báo cáo việc này, và được xem là một thắng lợi. Tôi thấy vui mừng đã có phần đóng góp đạt kết quả. Ngày hôm sau có ba tên lính, trong đó có lính Tây, đến trụ sở xin vào kiểm tra máy điện thoại. Đúng là đã động ổ. Anh Sơn Việt lịch sự từ chối, vì điện thoại đang hoạt động bình thường không cần kiểm tra. Chúng ra về như chó cụp đuôi, rất xấu hố đã làm chuyện dại dột, bị bắt quả tang. Từ sự việc này, chúng tôi càng cảnh giác, chú ý đến mọi ngóc ngách trong cơ quan, xem kỹ có vật gì lạ không. Khi cần liên hệ ngoài cơ quan, sử dụng điện thoại ngoài hành lang.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Tư, 2023, 02:37:03 pm

2. Trụ sở Phái đoàn có đất trống khá rộng, bên hông lại có một vũng nước đọng do nước mưa và nước xả từ nhà bếp. Tôi liền nghĩ đến việc trồng rau, làm rẫy. Chỗ vũng nước thì cắm rau muống, rau ôm, rau diệu, trên đất gò thì cuốc đất trồng cải, trồng hành, ngoài hàng rào thì cắm gốc mì, trồng đu đủ, làm giàn trồng rau thơm. Tôi có đôi chút kinh nghiệm chăm sóc, bón phân nên ít lâu sau, rau lên tốt. Anh em trong cơ quan thấy kết quả cũng cổ vũ. Tôi có “sáng kiến” lấy các tỉn nước mắm ủ đầu tôm, đầu cá làm phân bón rau. Về sau trò này bị phản đối vì mùi hôi thối, kém lịch sự. Thôi thì đành bỏ nhưng rau vẫn tốt, phủ màu xanh trông mát mắt. Lâu lâu được anh nuôi cho bữa rau tươi hay đào củ mì ăn cho vui. Còn khi chúng phong tỏa không đi chợ được thì các liếp rau càng phát huy được tác dụng.

3. Cơ quan thỉnh thoảng có chiêu đãi và tiếp khách quốc tế. Các ông tướng Tây, Ấn Độ... ăn mặc thật sang trọng đến chào xã giao hay dự lễ quốc khánh ngày 2 tháng 9, v.v.. Công việc tiếp tân chỉ có chú Mười Tuân là sành sỏi. Trước đây chú làm bếp trưởng cho nhà hàng Continental, mới biết cách bưng ly, bưng chén dọn ăn. Nhưng phải thêm người phụ giúp. Chẳng lẽ để các anh cán bộ bưng dọn coi sao được. Tôi và một số anh em còn trẻ, lanh lợi và khá đẹp trai như anh Nghĩa, anh An được chỉ định làm bồi bàn, học cách trải khăn, bưng ly, dọn bàn theo chỉ bảo của chú Mười Tuân. Thế là mỗi lần có khách, tôi phải mặc áo sơ mi trắng, thắt cái nơ con bướm đen ra làm bồi, bưng dọn cho khách ăn uống. Việc làm cũng trôi chảy. Duy có một lần...

Hôm đó dọn ăn, không hiểu tôi sơ ý thế nào mà làm rơi cái nĩa trên quần áo trắng của một ông tướng Canada. Ông ta nói: “Phải lấy muối rắc, xả xui”. Tôi luýnh quýnh, không còn biết phải làm gì, xử lý ra sao. Chuyện này đâu có được học. May mà anh Vịnh nói đỡ giúp. “Chúng tôi không đủ người chuyên để làm mọi việc, anh này làm kỹ thuật, còn luộm thuộm lắm”. Mọi người cười xòa. Tàn cuộc, chú Mười Tuân phải mở riêng cho tôi một khóa huấn luyện đặc biệt.

4. Trong cơ quan anh Ý, chuyên trách bảo vệ cho trưởng đoàn. Còn về phía đối phương, để bảo vệ cơ quan, chúng bố trí đến 3 sắc lính: Bọn cảnh binh Pháp (P.M) mặc quần áo vàng đội mũ kêpi, đeo súng ngắn, chỉ gác cổng. Bọn lính dù Pháp mặc quần áo rằn ri đeo tiểu liên, đội bêrê đỏ, đi gác chung quanh trụ sở, phía trong rào. Bọn cảnh sát người Việt mặc thường phục đi đứng rải rác khắp chung quanh trụ sở, kể cả nằm thường xuyên tại nhà dân hoặc rình mò ngoài tường rào. Không thể trông cậy vào chúng, việc ta tự bảo vệ bên trong, đêm cũng như ngày đều phái có tổ chức. Đêm thì ai cũng tham gia được. Ngày thì khó hơn. Một số anh em trẻ, khỏe được chọn để làm lính trực. Chúng tôi thay phiên nhau, mặc quân phục chỉnh tề, đi đứng đúng quân phong quân kỷ, tiếp khách từ ngoài cổng, chào hỏi thật oai nghiêm, thực hiện cho đúng tác phong “anh bộ đội Cụ Hồ”. Chúng tôi thường xuyên đứng trước cửa nhà, cách tường rào khá xa, thỉnh thoảng đi chung quanh nhà xem xét động tĩnh. Có lần đi tuần tra, tôi tìm thấy một huy hiệu lính Lê Dương, đạn và có cả một trái lựu đạn O.F. Có lẽ mấy tên lính dù khi đi gác làm rơi. Nhưng cũng có thể là việc làm khiêu khích của địch vì có mật tin báo rằng chúng sẽ đặt mìn ở bờ rào trụ sở cho nổ, để gây tiếng vang. Khi đi canh gác, tôi được dịp quan sát tình hình chung quanh trụ sở. Nhà dân có ở phía sau và phía hông trái, còn phía trước chỉ có vài nhà. Phần lớn là dân lao động hoặc công tư chức. Bên hông phải, có cửa trổ sang trại của bọn lính dù (nay là trụ sở của Ủy ban nhân dân phường 7, quận Phú Nhuận). Trước trụ sở có nhà chứa gái điếm. Chiều chiều bọn gái điếm thường ra trước cổng, ăn mặc hở hang, phấn son lòe loẹt, đùa giỡn với bọn cảnh binh và mật thám. Một trò khiêu khích dơ bẩn. Cũng có lần chúng nói với tôi:

- “Khi nào cần, các ông cho biết. Chắc xa nhà các ông buồn”.

Được đi canh gác, ra sát tường rào, cạnh đường đi, tôi quen mặt nhiều người thường qua lại, nhất là các em nhỏ. Nhiều người, tuy không nói lời nào, nhưng qua ánh mắt, nụ cười, nét mặt của họ đã biểu lộ rất rõ cảm tình sâu đậm với cách mạng. Chung quanh nhung nhúc bọn mật thám thì nụ cười, ánh mắt cũng phái đúng lúc. Tôi đã chứng kiến cảnh một cô gái đi trên đường, ăn mặc khá lịch sự, nở nụ cười khi thấy chúng tôi, anh bộ đội Cụ Hồ, liền bị bọn cảnh sát ngụy hạch hỏi đe dọa. Có lần một bà lão tóc bạc phơ đi thẳng vào trụ sở. Vì bất ngờ nên bọn cảnh binh không ngăn kịp. Tôi đến chào hỏi. Bà nói to: “Để tao vào thăm chúng nó, có mạnh khỏe không?”. Tên cảnh binh Pháp chạy đến can thiệp nhưng có tôi và Đại úy Sơn Việt, nên chúng không làm khó được. Chúng tôi cảm ơn bà và kêu xe đưa bà về nhà.

Tuy nhiên cũng có bọn xấu. Chúng thường hay ném đá vào trụ sở. Có lần chúng bắn lén vào nhà, cách mui xe chừng 1cm. Nhiều lần chúng chõ mỏ vào chửi chúng tôi. Và lần khác, chúng kéo đến hàng chục tên, ném đá, chửĩ bới suốt cả tiếng đồng hồ. Chúng đem cả xe tăng thiết giáp đến trước cổng, gầm rú tưởng chừng như muốn san bằng trụ sở Phái đoàn ta.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Tư, 2023, 02:37:51 pm

3. Quê hương tôi, một mối tình

Được trở về quê hương khiến tôi vô cùng hạnh phúc. Có điều là vì sự an toàn của đồng bào mà chúng tôi không được tiếp xúc, trò chuyện và giao tiếp. Mối liên hệ tình cảm chỉ có thể biểu hiện qua ánh mắt, sắc mặt, nụ cười hay vài cử chỉ đơn giản, được biểu lộ trong phạm vi hạn hẹp. Có lẽ do sống xa đồng bào và ăn ở trong vòng rào nên chúng tôi có cảm giác bị ức chế vì phải đè nén tình cảm của mình đến mức xót xa cao độ.

Chúng tôi đã tìm đủ mọi cách để kín đáo biểu thị tấm lòng của mình đối với đồng bào. Và ngược lại, đồng bào cũng tìm đủ mọi cách để bày tỏ tình yêu thương đối với anh bộ đội Cụ Hồ, với từng cá nhân và với cả Phái đoàn. Nói đúng hơn đó là tình yêu thương, là lòng tin đối với Đảng, với Chính phủ và Bác Hồ.

Chúng tôi làm quen dễ dàng và nhanh chóng các em nhỏ, có cả những em bé độ 6 - 7 tuổi. Có hôm, một em đánh xe ngựa đến thẳng trước cổng xin phép bọn cảnh binh cho vào sân để cắt cỏ cho ngựa ăn. Tên cảnh binh lưỡng lự, nhưng đây là chuyện bình thường tự nhiên. Cỏ cắt bỏ, cho ngựa ăn thì có gì lạ. Cảnh binh hỏi ý kiến anh Sơn Việt và cho phép vào. Về sau không phải một em mà ba bốn em. Tôi còn nhớ rõ, em Ba đánh xe ngựa, em Lai lưng gù, em Cảnh, em Kháng (nay là Phó giám đốc Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh). Lúc đầu, các em cắt cỏ, sau đó rủ nhau đá banh với chúng tôi, rồi lượm mận, lượm thị... rồi vào nhà xem sách báo, rồi nói chuyện ngoài đường phố, chỗ nào có nổ lựu đạn, rải truyền đơn, có biểu tình... Tết, thì mang quà vào. Có em bé gái cho cả con chó kiểng rất đẹp. Được vài hôm thì các anh lãnh đạo không cho phép các em vào nữa vì sợ liên lụy đến đồng bào. Tuy ở ngoài rào, các em vẫn đùa giỡn với chúng tôi. Nhất là các tối thứ bảy, chủ nhật các em tập trung ở góc rào xem phim khá đông, lôi kéo cả người lớn và bọn mật thám. Có khi chiếu phim đến khuya mà bọn chúng không giải tán được.

Trong số các em nhỏ, có một em gái trạc 14 tuổi, thường bận quần đen, áo túi trắng, sáng nào cũng đi gánh nước, rồi về thay quần áo đi học bằng xe đạp. Đến trưa, đi mua nước đá, rồi xế chiều lại đi gánh nước, hai thùng nước nặng trĩu trên vai. Ngày nào cũng vậy, kể cả ngày chủ nhật. Nhưng mỗi lần đi qua hay đi ngược lại trước trụ sở, thì thế nào cũng dành cho chúng tôi ánh mắt tươi cười và gương mặt thật rực rỡ. Nụ cười, tình cảm và tấm lòng trong trắng này dành cho cả Phái đoàn, cho cách mạng, cho Bác Hồ, chứ không riêng cho ai. Còn khi nào đi ngang mà không thấy em cười, là “có động”, mật thám ở đâu đó hoặc có chuyện gì ngoài phố. Hết ngày này đến tháng nọ, chúng tôi quen chờ em đi qua và nhận một nụ cười. Tôi và các anh bàn nhau. Đây là con nhà lao động, biết thương cha mẹ, biết lo cho gia đình nhất định có cảm tình với cách mạng. Để tìm hiểu rõ hơn, tôi đoán giờ em đi qua, đứng gần tường rào, vào chỗ thật trống trải, mặt thì ngó về hướng trụ sở. Đến khi thấy em đi qua, hỏi nhỏ, bâng quơ: “Tên gì, nhà ở đâu, cha mẹ anh chị em ra sao...” Mỗi ngày một câu, dần dần ghép lại thì đại khái hình dung được. “Em tên Bảy, là con út, mẹ bán bánh cho học trò, cha đau yếu. Có anh thứ năm đi tập kết, vợ anh năm làm dâu ở nhà. Một anh thứ sáu, thường đi chiếc xe Vespa chở chị dâu đi làm hàng ngày. Em Bảy còn cho các anh trong Phái đoàn hình ảnh của gia đình.

Chúng tôi cho đây là một gia đình tốt. Có dịp ra Hà Nội công tác tôi tìm cách hỏi thăm tin tức anh thứ năm của em. Nhờ có người giúp đỡ, tôi tìm được anh Nguyễn Hữu Anh, đảng viên, tù binh vừa được trao trả, công tác tại Bộ Công nghiệp làm Đội trưởng đội xe Sở Địa chất. Tôi đến gặp, đưa ảnh và cho biết tin tức gia đình. Khi trở lại Sài Gòn, tôi báo cáo với các anh và được phép chuyển thư. Thư gửi vào gói với cục đá, ném qua rào, là việc làm không khó. Còn thư gửi ra cho em Bảy, phải khéo ngụy trang bằng lá cây hay bao thuốc lá, rồi đợi đúng lúc, đúng thời cơ vứt ra đường. Mọi việc trót lọt, bọn chúng không phát hiện được.

Nhưng... có điều lạ. Một hôm khi đứng gác trước cửa nhà, tôi nghe tiếng “chéo” của viên đạn bay gần, tiếp theo là tiếng nổ của súng ngắn. Tôi nhìn ra đường, thấy bóng một người mặc complet đi xe vespa ngang qua. Có phải anh Sáu không? Viên đạn bay cao trên mui xe hơi đang đậu trước nhà. Một lần khác, khi tôi đang đứng ở trước sân cỏ, thấy một người đi Vespa hình dạng giống anh Sáu, ngang qua trụ sở. Tôi nhìn, mỉm cười xã giao. Không ngờ rằng anh này ngó vào tôi và chửi: “Đồ Ba Tàu (Ba Tàu là tiếng chửi người Hoa). Tôi ngạc nhiên và trao đổi với anh Nghĩa, cũng là lính trực. Anh Nghĩa nói là có xảy ra chuyện ấy với anh. Có một hôm, tôi đang trèo lên tường trước cổng trụ sở để sửa đèn bảo vệ, có tên cảnh binh đứng gác dưới chân thang. Tôi thấy em Bảy đi xe đạp từ ngoài đường vào hẻm. Tôi nhìn có lẽ với vẻ mặt thân thiện. Tên cảnh binh quay ngoặt lại và ngó thẳng vào em Bảy. Còn em Bảy thì không tỏ ra cử chỉ gì. Tôi nghĩ, lộ rồi thế nào bọn chúng cũng làm khó cho gia đình. Đến chiều, không thấy em Bảy đi ngang qua như thường lệ, cả ngày hôm sau cũng vậy. Tôi ân hận quá. Nhưng đến ngày thứ ba, thì mọi việc trở lại bình thường.

Như vậy là thế nào? Chuyện này cần phải suy nghĩ. Ta hay địch, cần cảnh giác.

Thế nhưng trong cơ quan, nhiều người cũng biết có chuyện một em bé gái tên là Bảy hay đi ngang qua và cười với các anh, chuyện chuyển thư... Có người gọi đùa, là cô dâu của Phái đoàn. Tôi chỉ cười. Tuy nhiên, việc chuyển thư cho gia đình vẫn cứ tiếp tục. Lúc đầu tôi báo cáo đầy đủ, về sau thì thất thường nhưng vẫn không gián đoạn việc chuyển thư cho gia đình em Bảy.

Cho đến khi trở ra Hà Nội công tác, tôi nhờ được các bạn Việt kiều giúp đỡ chuyển thư từ Hà Nội - Phnômpênh - Sài Gòn hay Hà Nội - Paris - Sài Gòn. Tôi vẫn muốn biết tin tức và sự an toàn của gia đình. Lý do chuyển thư là giúp anh Năm, nhưng cũng có kèm đôi chữ hỏi thăm, về sau, thư viết riêng mà gửi chung, cho đến khi chỉ còn có thư của tôi. Mỗi tuần có đến hai bức thư. Tôi có thể chấm dứt mọi việc, anh Năm có thể tự liên lạc với gia đình, nhưng có điều gì đó ràng buộc mà tôi không gỡ ra được, một nhu cầu mà tôi không thể thiếu. Bức thư của em Bảy với những lời hỏi thăm đơn giản nhưng đối với tôi quý báu vô cùng. Tình thương quê hương và đồng bào dần dần đã chuyển thành tình yêu, ngọt ngào, say đắm với hương vị quê nhà trong mỗi nét chữ của em Bảy mà tôi cảm nhận được, từng bước đã làm tôi mơ mộng. Hình ảnh của em Bảy là niềm vui, niềm động viên và hy vọng mà còn làm tấm lá chắn, giữ cho tôi không vấp ngã. Khi tôi học ở Liên Xô, tấm ảnh của em Bảy treo trên đầu giường là vật trang trí, mà còn để ngăn chặn từ xa, cho các cô đầm Nga biết rằng: Xin đừng đến với tôi vì trái tim tôi đã có chủ rồi. Tốt nghiệp xong trở về nước, cha mẹ tôi và bạn bè mối mai nhiều đám nhưng tôi không thể đồng ý. Mọi lời khuyên bảo thực dụng không thể nào làm tôi nản lòng với “Cô dâu của Phái đoàn, tuy không hẹn ước, nhưng là tình duyên”.

Năm 1964, khi cuộc chiến tranh trở nên tàn khốc, miền Nam đang rực lửa căm thù, tôi tin rằng em Bảy đang cùng với đồng bào đứng lên chống giặc. Cô bé học sinh trước đây thường hay cười với anh bộ đội Cụ Hồ không thể nào đứng ngoài cuộc chiến này được. Tôi ao ước được trở về quê hương cùng em tham gia chiến đấu. Tôi làm đơn tình nguyện. Đơn không được chấp nhận, vì: Tôi là thầy giáo đại học, lại là người miền Nam phải được tiếp tục đi học cho xây dựng sau hòa bình. Tôi không chịu thua, tiếp tục xin đi chiến đấu. Một lần không được, hai lần, ba lần. Cuối cùng, nhờ anh Nguyễn Văn Vịnh, người chính ủy cũ, đã nói giúp để tổ chức cho phép tôi đi chiến trường, trở về “Ông Cụ”. Tôi được vào Trường 105 ở Sơn Tây để học tập, thử thách và chuẩn bị vượt Trường Sơn, theo đường mòn Hồ Chí Minh.

Sau hơn một tháng rèn luyện tôi lên đường, ba lô trên vai vượt các đỉnh núi cao ngất trời, ngày đi đêm nghỉ, đói không đủ ăn, khát không nước uống, sốt rét với lách số 3, lê lết trong 6 tháng ròng có lúc tưởng phải bỏ cuộc. Tôi đi ra trận tuyến mà chân không lùi, lòng không sờn, vẫn luôn luôn tin rằng sẽ tìm thấy em Bảy trong khói lửa chiến tranh. Trước mặt tôi là quê hương, là cuộc sống, là hương vị mà tôi hằng mong ước. Mặc cho sốt rét, bom đạn, thú rừng và chết chóc, hình ảnh của Sài Gòn với cô học sinh đi ngang qua trụ sở Phái đoàn, cười tươi để chào anh lính Cụ Hồ, thôi thúc tôi đi đến nơi mà tôi mong muốn:

- “Sài Gòn 1968 - chiến dịch Quang Trung với Tết Mậu Thân”, tôi đã trở lại nơi ở cũ, trong một thành phố rực lửa căm hờn. Cũng vẫn xóm nghèo xưa với những người dân lao động mà trước đây đã chào đón chúng tôi bằng những nụ cười hiền hòa, thì nay đang giúp đỡ bộ đội đánh vào tận sào huyệt quân thù.

Nhưng rồi tôi lại phải ra khỏi thành phố một lần nữa, với nhiều hy sinh mất mát, với bao nỗi buồn phiền, đau xót. Cho đến khi trở lại rừng miền Đông, tôi nhờ được người tìm đến gia đình em Bảy.

Rồi buổi gặp mặt đầu tiên trên đất biên giới, thì trước mặt tôi không phải là em bé học sinh luôn luôn cười tươi mà là một cô gái xinh đẹp của Sài Gòn hoa lệ, tóc dài thướt tha, mắt đen trong sáng, má hồng môi son. Và còn hơn thế nữa... lại là một chiến sĩ trên trận tuyến chống Mỹ của phong trào Sài Gòn, là đồng chí, là bạn chiến đấu cùng chiến hào với tôi, đã từng vào tù ra khám Mỹ ngụy.

- “Chào em Bảy, con dâu của Phái đoàn”.

Những dòng lệ bấy lâu nay được nén chặt trong lòng, đang tuôn trào vì hạnh phúc. Một mùa xuân vĩnh viễn đã đến.

Chúng tôi báo cáo với tổ chức và được phép làm lễ cưới vào đầu năm 1969, trong rừng già Tây Ninh, lúc mai vàng nở rộ.

Một hôm, trong rừng sâu, tôi tình cờ gặp anh Kính từ biên giới vượt sang khu căn cứ. Anh Kính là người đầu tiên của Phái đoàn mà bao năm nay tôi mới gặp lại. Mừng quá, có biết bao nhiêu chuyện xảy ra từ buổi chia tay ở Sài Gòn, buồn vui lẫn lộn.

Nhưng khi cả tôi và anh Kính chưa kịp nói với nhau những lời thăm hỏi thì câu đầu tiên mà tôi thốt ra là:

- “Em Bảy đã xuống đây rồi!”.

Câu nói đó đã từ trong đáy lòng tuôn ra, chứa đựng tất cả mọi ý nghĩa.

Cho đến ngày 30-4-1975, với Chiến dịch Hồ Chí Minh, tôi mới thật sự trở lại Sài Gòn.

Tôi đã tìm đến khu nhà cũ, còn in đậm dấu vết xưa Phái đoàn Sài Gòn có anh bộ đội đang đứng gác trước cổng, để sống những ngày cuối cùng. Vì đó là quê hương của tôi. Giờ đây chúng tôi sống hạnh phúc thanh thản cùng với ba đứa con trai, như đã từng mong ước khi xa cách, với niềm tin sẽ có ngày gặp lại.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2023, 08:59:39 am

CÂU CHUYỆN CỦA NGƯỜI SĨ QUAN HẬU CẦN

NGUYỄN VĂN THƠM


1. Đi tiền trạm

Tôi được phân công làm sĩ quan liên lạc đi trước vào Sài Gòn làm việc với Phái đoàn Pháp bên cạnh Ủy ban Quốc tế, để chuẩn bị chỗ làm việc và ăn ở của Phái đoàn ta. Tôi lấy bí danh là Đại úy Sơn Việt. Cùng đi với tôi có anh Kha (Tự), làm phiên dịch.

Chúng tôi lên đường vào đầu tháng 3 năm 1955.

Lúc đến sân bay Tân Sơn Nhất, vừa bước ra khỏi cửa máy bay nhìn xuống đã thấy có 8 cảnh binh Pháp đứng chờ sẵn ở hai bên cầu thang máy bay. Chúng tôi thong thả bước xuống. Khi vừa chạm đất, có một sĩ quan Pháp đến trước mặt tôi chào và tự giới thiệu là Đại úy Moulonguet, sĩ quan liên lạc có nhiệm vụ đón và đưa chúng tôi về chỗ nghĩ ngơi để sáng mai sẽ làm việc. Tôi đáp lễ và cũng tự giới thiệu. Tôi và Moulonguer bắt tay nhau, nói vài câu xã giao, thăm hỏi sức khỏe, nói về thời tiết nóng bức ở Sài Gòn... Có 2 tốp người đứng gần đó, trong đó có một nhóm đeo kính râm là mật thám. Chúng soi mói nhìn chúng tôi. Ngoài ra, còn khoảng 20 người, dường như là công nhân sân bay. Họ đi đứng không yên, miệng xì xào, không biết họ nói với nhau những gì. Họ nhìn chúng tôi có vẻ ngạc nhiên nhưng đầy thiện cảm. Dường như họ muốn lại gần chúng tôi, nhưng ngần ngại... Chúng tôi chậm rãi bước lên chiếc xe du lịch đang chờ sẵn. Tôi hỏi:

- “À, còn hành lý của chúng tôi ?”

- “Xin các Ông cho thẻ hành lý, chúng tôi sẽ lãnh và mang về chỗ nghỉ của các Ông”.

Chúng tôi rời khỏi sân bay, có một xe jeep dẫn đầu và một xe khác khóa đuôi để bảo vệ. Xe chạy rất nhanh vì chúng sợ nhân dân thành phố này biết sự có mặt của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đoàn xe dừng trước khách sạn Galliéni, tại ngã tư đường Galliéni (nay là Trần Hưng Đạo và Huỳnh Quang Tiên). Đây là một căn nhà dài 20 mét, một lầu chia thành 6 căn phòng ở mặt tiền và 4 căn phòng ở phía trong. Dưới đất là nhà ăn, phía sau là nhà bếp. Trước đây khách sạn này là nhà tắm công cộng mỗi lần tắm phải trả 2 xu.

Xuống xe tôi hỏi đùa:

- “Này Đại úy, anh cho chúng tôi ở nơi đây là để tắm mát chớ gì?”.

- “Không phải vậy đâu, chúng tôi bố trí để các Ông tạm, nghỉ. Ở đây có bộ phận Phái đoàn Ba Lan bên cạnh các Ông”.

Thật vậy, có bốn đồng chí cán bộ trong Phái đoàn Ba Lan, hai đồng chí ở một phòng. Chúng tôi và các đồng chí Ba Lan thường gặp nhau lúc ở trong phòng, khi ở ngoài bàn ăn. Các đồng chí cho biết mọi việc đều ổn cả. Nhưng vị trí của chúng tôi khác hơn nên phái cảnh giác. Qua theo dõi, chúng tôi biết bọn mật thám có mặt thường xuyên và theo sát chúng tôi.

Ngày hôm sau, lúc 8 giờ, Đại úy Moulonguet đến gặp chúng tôi để bàn về chương trình làm việc. Chúng tôi đặt ngay vấn đề phải tìm gấp nơi đặt trụ sở cho Phái đoàn ta có thể sớm vào làm việc. Ông ta ra vẻ suy nghĩ và trả lời.

- “Vâng, tôi sẽ cố gắng”.

- “Về công việc thì chúng tôi cần đến Ủy ban Quốc tế, gặp ông Chủ tịch, các Trưởng đoàn Ba Lan và Canada. Giờ giấc sẽ báo sau”.

- “Vâng, các ông đi ngay bây giờ cũng được, chúng tôi sẵn sàng đưa đón”.

- “Vậy thì đúng 10 giờ, xin cho xe đến đón”.

Chúng tôi hội ý thống nhất, ngày đầu chỉ đến thăm xã giao Ủy ban Quốc tế. Khi nào gặp khó khăn mới nhờ họ giúp đỡ. Chúng tôi điện thoại xin gặp đồng chí Trưởng đoàn Ba Lan. Việc này được thực hiện hoàn hảo, an toàn. Những ngày sau đó, chúng tôi đã gặp đủ, từ ông Chủ tịch đến các ông Trưởng đoàn khác trong Ủy ban Quốc tế. Tất cả đều hài lòng về sự có mặt của Phái đoàn ta ở Sài Gòn, động viên chúng tôi khắc phục khó khăn và hứa sẽ lưu ý giúp đỡ. Riêng Trưởng đoàn Ba Lan còn dặn dò chúng tôi cảnh giác với bọn phản động. Đồng chí nói:

- “Chúng không để các đồng chí yên đâu. Tôi sẽ nói với các đồng chí Ba Lan ở khách sạn giúp đỡ các đồng chí khi cần”.

Cảnh binh Pháp chỉ làm nhiệm vụ đưa đón chúng tôi. Chúng thờ ơ với trách nhiệm bảo vệ an toàn. Có lần đến ngã tư gặp đèn đỏ, xe phải ngừng. Vài tên côn đồ đang đứng gần đó, thấy chúng tôi, chúng chửi bới thô tục, thậm chí còn ném đá vào xe. Đôi khi không có đá, chúng ném bất cứ vật gì có được vào chúng tôi. Nhặt được mảnh giấy, chúng dùng 2 tay vò lia lịa rồi ném vội. Bọn cảnh binh pháp vẫn lặng lẽ ngồi trên xe, không làm bất cứ điều gì để ngăn chặn. Chúng chỉ chờ đèn xanh bật lên để xe chạy. Trước tình hình như vậy, chúng tôi phải luôn cảnh giác đề phòng.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2023, 09:00:25 am

Ở đây được 12 ngày. Một đêm khoảng 22 giờ, chúng tôi đang ở trong phòng và đã đóng cửa. Bỗng nghe tiếng chửi bới. Tôi mở hé cửa sổ quan sát, thấy một tốp khoảng 20 tên vác thang ập vào tường rồi trèo lên lầu, ngay nơi ở của các đồng chí Ba Lan, vì phòng này còn đèn để sáng, cách chúng tôi 2 phòng. Bọn phản động vào được phòng các đồng chí Ba Lan, chúng vừa ẩu đả vừa kêu la ầm ĩ.

Có 4 phòng liền nhau và tắt đèn nên chúng tưởng không có người ở. Độ 20 phút sau thì chúng rút lui, có một đồng chí Ba Lan bị thương nhẹ ở tay.

Sáng hôm sau Đại úy Moulonguet đến đón chúng tòi sớm hơn mọi khi. Y bước nhanh lên cầu thang có vẻ lo lắng. Y hỏi thăm vụ phá rối đêm qua của bọn lưu manh.

Tôi hỏi:

- “Anh đưa chúng tôi đến đây và tổ chức đánh phá chúng tôi, có phải thế không? Anh không bảo vệ được an toàn cho chúng tôi, không bố trí cảnh binh canh gác. Và như vậy anh đã vi phạm cam kết của Phái đoàn Pháp với Phái đoàn Việt Nam. Anh phải tìm ngay chỗ khác thật an toàn và có bảo vệ thường trực 24/24 cho chúng tôi”.

- “Xin các ông thông cảm, chúng tôi không bao giờ làm việc bậy ấy đâu”.

- “Vậy chớ ai tổ chức ?”.

Im lặng một lúc, rồi y nói tránh sang chuyện khác:

- “Xin các ông cho biết chương trình đi công tác ngày hôm nay?”

- “Tôi muốn anh bố trí chỗ ở khác cho chúng tôi, bảo đảm thật an toàn. Vì vậy hôm nay dành thời gian cho anh chuẩn bị làm việc đó. Anh còn nhiệm vụ tìm nơi đặt trụ sở của Phái đoàn Việt Nam. Ngày vào sắp đến, nếu anh trì hoãn thì Phái đoàn Pháp phải chịu trách nhiệm. Từ ngày hôm nay, tôi thấy cần có cảnh binh trực tại khách sạn”.

Qua ngày thứ 15, Đại úy Moulonguet đến gặp chúng tôi vào 22 giờ đêm để xin chúng tôi dời chỗ ở. Y thông báo cho chúng tôi là chuẩn bị đi ngay. Tôi hỏi:

- “Đi đâu ?”
 
- “Đến trung tâm thành phố. Tại chỗ này chúng tôi có thể bảo vệ được các Ông. Bọn côn đồ không leo trèo, không ném đá vào được”.

Vẫn 2 xe jeep cảnh binh chờ dưới đường. Chúng đưa chúng tôi đến khách sạn Continental rồi vội vã đưa chúng tôi lên phòng. Chúng tôi quan sát kỹ không thấy có gì lạ, tìm chỗ không thể đặt máy nghe trộm để hội ý. Chúng tôi nhận định chúng sợ đồng bào Sài Gòn biết sự có mặt của Quân đội Nhân dân Việt Nam hơn là sợ sự gây rốì của bọn phản động. Cách bố trí kiểm soát người ra vào của khách sạn đã giúp cảnh binh nhẹ phần canh gác. Chúng chỉ còn nhiệm vụ bảo vệ chúng tôi lúc đi công tác. Chúng bố trí thêm một xe jeep và có 4 cảnh binh thường trực ở cửa khách sạn. Khi chúng tôi đi công tác, như thường lệ có 2 xe jeep đến. Còn chiếc xe thường trực nổ máy chạy lạng lách vòng vèo để phá vòng vây của bọn côn đồ mở đường cho đoàn xe thoát đi. Lúc trở về chúng cũng làm như vậy. Bọn côn đồ ở các nơi tập trung đến đây ngày càng đông. Người đi đường thấy lạ mắt cũng dừng chân đứng xem. Thậm chí các loại xe hơi, xe đạp... cũng ngừng lại xem cho đến khi đoàn xe thoát đi. Còn khi chúng tôi trở về, vào khuất bên trong khách sạn thì người xem mới lần lượt giải tán. Mỗi khi ra đi hay trở về khách sạn, chúng tôi đều bị bọn phản động tay thì ném gạch đá còn miệng thì gầm thét chửi bới không ngớt. Mười ngày ở đây, bọn cảnh binh thấy bảo vệ chúng tôi khó khăn nên xin cho dời chỗ khác một lần nữa.

Hôm sau lúc 4 giờ sáng, Đại úy Moulonguet đột ngột đến phòng chúng tôi và nói:

- “Tôi xin lỗi và mong các Ông thông cảm cho phép dời các Ông đến chỗ khác”.

- “Nhưng không được xa thành phố và phải có người bảo vệ chúng tôi”.

Lúc này bọn phản động còn đang ngủ, đường phố vắng người, chúng tôi ra đi rất yên tĩnh. Chúng tôi đến một villa không lớn lắm, nằm trong hẻm rộng ở quận ba mà xe tải vào được. Cách khoảng 30m, tôi nhìn thấy có cơ quan quân sự treo cờ Mỹ có chòi canh trước cửa nên cương quyết không chấp nhận. Sau khi nài nỉ không kết quả, chúng đưa chúng tôi trở lại khách sạn Continental.

Qua ngày hôm sau, chúng đưa chúng tôi xem villa nằm trên đường Richaud (nay là Nguyễn Đình Chiểu). Villa này của Bardouillet, chủ hãng rượu Bình Tây đang nghỉ ở Pháp, còn để lại bồi bếp có cả lái xe để trông nom nhà cửa, chăm sóc vườn tược. Chúng tôi không đồng ý vì có người ngoài ở chung. Vùng này không có đồng bào lao động mà chỉ toàn là villa nhà giàu và người nước ngoài.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2023, 09:01:18 am

Ba hôm sau, Đại úy Moulonguet vui mừng ra mặt báo cho chúng tôi biết, đã tìm được nhà cho Phái đoàn Việt Nam. Y mời chúng tôi đi xem ngay. Đây là một villa nằm ở đoạn giữa đường Chi Lăng (nay là Phan Đăng Lưu). Để vào nhà phải rẽ vào con đường đất nhỏ (nay là đường Trần Kế Xương), rồi đi chừng 10 mét. Villa tuy không mới nhưng đạt yêu cầu. Điện tích nhà khoảng 200 mét vuông, có tường rào bằng gạch bên hông nhà, còn phía trước là hàng rào song sắt, phía sau là hàng rào lưới B40. Trước nhà có vườn hoa, sau nhà có sân rộng, có dãy nhà phụ dành cho những người phục vụ, bên cạnh có gara để ôtô. Mặc dầu đây không phải là trung tâm, nhưng cũng nằm sát nách thành phố nhưng nhà bỏ trống, không có tiện nghi. Tôi nói ngay với Đại úy Moulonguet:

- “Tôi chấp nhận nhà này, nhưng còn tiện nghi bên trong thì sao? Theo thỏa thuận ở Hà Nội, phía Pháp lo về vật chất như ăn ở đi lại của Phái đoàn Việt Nam. Vậy thì anh lo luôn”. Tôi nói bừa chứ không biết có đúng như vậy không. Đại úy Moulonguet đáp:

- “Tôi chỉ có nhiệm vụ tìm nhà cho Phái đoàn Việt Nam, bảo vệ đưa đón các ông đi làm việc. Còn phần vật chất, tôi chưa nhận được chỉ thị của cấp trên. Hơn nữa, như các Ông biết, quân đội chúng tôi không có các thứ ấy. Nếu các Ông có yêu cầu, tôi có thể giải quyết cho các Ông giường sắt, nệm và mùng”.

Tôi thoáng nghĩ, đây là cơ hội để phá âm mưu cầm chân không cho chúng tôi ra phố nên đáp:

- “Chúng tôi nhận những thứ đó, còn các nhu cầu cần thiết khác, chúng tôi sẽ tự đi mua. Bây giờ anh cho người đến làm vệ sinh chung quanh nhà, quét vôi bên trong và bên ngoài, cho điện nước và mắc điện thoại”.

Qua nhiều lần giới thiệu nhà làm trụ sở cho Phái đoàn ta mà không đạt yêu cầu làm tôi suy nghĩ: “Phải chăng đây là một âm mưu phá hoại, hay muốn phủi tay để giao trách nhiệm cho chính quyền miền Nam. Nếu thật sự như vậy, chúng tôi cần tiếp tục đấu tranh, tìm biện pháp để Phái đoàn ta vào được trước khi xảy ra những diễn biến xấu”. Không ngờ sự việc thuận lợi, đến sớm hơn dự tính.

Qua ngày hôm sau, mọi việc đều được thực hiện. Chúng chở đến 20 giường sắt, nệm, mùng... Trong thời gian này chúng tôi đi mua sắm bàn ghế và các tiện nghi khác. Vì phía Pháp không thỏa mãn được các yêu cầu mà ta đặt ra, nên khi chúng tôi ra phố mua bán chúng không dám gây khó khăn. Còn chúng tôi cố tránh không làm gì quá mức để chúng nghi ngờ, hết sức thận trọng cố gắng làm sao không trở ngại cho sự chuẩn bị cơ sở vật chất đủ điều kiện đón tiếp Phái đoàn ta sớm vào Sài Gòn.

Chúng tôi đến đường Chasseloup Laubat (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), nơi tập trung bán đồ gỗ, vào xem các cửa hàng. Chỉ có 2 cửa hàng là Công Thành và Vũ Bản có hàng tốt (hiện nay các cửa hàng này vẫn còn). Việc mua bán giao tận nhà là bình thường. Nhưng làm sao cho êm, không để chính quyền Sài Gòn có cớ gây khó dễ và cũng không để đồng bào tập trung quá đông. Bộ quân phục của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã khơi dậy biết bao nhiêu tình cảm. Có người muốn chạy đến ôm choàng chúng tôi, có người đứng nhìn không chớp mắt. Chúng tôi vào thẳng trong tiệm và tự giới thiệu:

- “Chúng tôi là Quân đội Nhân dân Việt Nam từ Hà Nội vào”.

Rồi tôi chỉ các thứ hàng đã chọn, ghi địa chỉ giao hàng. Sau đó trả tiền mà không mặc cả, lấy hóa đơn, rồi ra về bình thường như mọi người khác. Chúng tôi cố gắng giảm số lần đi ra phố, tránh lặp lại ngày giờ, đi không theo quy luật.

Sau 3 ngày, hai anh Vũ Bản và Công Thành cho chở bàn ghế và các thứ khác đến trự sở Phái đoàn ta. Cùng đi có 4 công nhân bốc xếp. Khi họ đến cổng, thấy bọn cảnh binh Pháp đứng gác và bên cạnh có bọn công an chìm đang rình mò, nên họ lo lắng, đi đứng, ăn nói mất tự nhiên. Cho đến khi vào nhà độ 10 phút sau, họ mới định thần, ăn nói vui vẻ. Anh Vũ Bản kê sát tai tôi nói nhỏ:

- “Chúng tôi làm theo lệnh của Công đoàn. Ngoài số bàn ghế này nếu còn thiếu cần bổ sung thứ gì cứ cho chúng tôi biết, sẽ làm thêm”.

Tôi không biết lệnh của Công đoàn là thế nào, nhưng có thể cơ sở ở đây đã biết có Phái đoàn ta sẽ vào Sài Gòn.

Lúc này anh em công nhân khuân vác bàn ghế và sửa chữa nhà ra vào trụ sở khá đông, bọn cảnh binh Pháp không ngăn chặn hỏi han gì. Chỉ có công an ngụy thường xuyên chặn người lại xét giấy tờ, tìm hiểu lai lịch rồi mới cho đi mà không bắt bớ.

Hôm sau anh Vũ Bản đến một mình, mang theo một số dụng cụ cho văn phòng, như hộc có ngăn để thẻ ghi tài liệu, hộp gỗ hình chữ nhật để hồ sơ, v.v.. Sau vài câu thăm hỏi xã giao, anh nói:

- “Tôi xin tặng các ông chiếc ôtô của tôi, để các ông có phương tiện đi làm việc”.

Rồi anh ra về mặc dầu chúng tôi đã hết lời từ chối. Mấy hôm sau chúng tôi khéo léo tìm cách nhắc nhở anh nên cảnh giác và cảm ơn.

Trong thời gian này, bọn Pháp đang bàn giao miền Nam cho Mỹ - Diệm. Chúng chỉ chờ ngày rút về nước. Còn bọn ngụy thì chống lại sự có mặt của Phái đoàn ta ở Sài Gòn. Tôi nghĩ, khi phía Pháp bàn giao việc bảo vệ Phái đoàn ta cho chính quyền Sài Gòn, hẳn là chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn.

Ngày 20-4-1955, chúng tôi hoàn thành việc sửa sang nhà cửa, mua sắm bàn ghế dọn dẹp các phòng cho khang trang đẹp đẽ và gọn gàng. Tôi ngắm nhìn ngôi nhà, bên ngoài cũng như bên trong, thấy dáng vẻ lịch sự vừa ý, đủ điều kiện cho 20 người ăn ở và làm việc, sẵn sàng để đón Phái đoàn ta.

Chúng tôi nhận được tin, ngày 17-5-1955, Phái đoàn ta sẽ vào Sài Gòn. Phía Pháp cũng biết. Họ báo tin mừng cho chúng tôi, chuẩn bị xe để ra sân bay Tân Sơn Nhất đón. Lần này chúng tăng cường lực lượng bảo vệ nhiều hơn lần đón chúng tôi. Có tất cả 6 ôtô, 3 xe jeep cảnh binh, 2 xe GMC có băng ngồi để chở cán bộ và 1 xe du lịch cho trưởng đoàn. Có 10 cảnh binh theo hộ tống không tính số lái xe. Chúng đứng theo hình vòng cung hướng về chỗ máy bay đang đậu để làm hàng rào bảo vệ. Khi xuống máy bay, Phái đoàn đi thẳng đến đoàn xe đang chờ. Phía sau vòng cung là bọn công an đủ loại, chìm nổi, nội ngoại tuyến đứng rải rác gần 20 tên. Các đồng chí chúng ta vừa xuống cầu thang thì bọn chúng ùa ra nhìn mặt từng người. Ngoài ra còn có các công nhân bốc xếp, số nhân viên đang làm việc đi ngang qua cũng ghé lại xem.

Phái đoàn ta về đến trụ sở an toàn.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2023, 09:02:35 am

2. Ổn định nơi ăn ở

Phái đoàn ta, từ sân bay về ngay trụ sở (nay là số 87A đường Trần Kế Xương, P.7, Q. Phú Nhuận). Tuy nhà cửa sơ bộ có trang bị, nhưng cũng còn nhiều việc phải làm. Tôi được phân công lo công tác quản trị, lo cơm áo gạo tiền cho cơ quan ngoài nhiệm vụ sĩ quan liên lạc. Tôi suy nghĩ rất nhiều về nhiệm vụ khó khăn phức tạp này. Còn biết bao nhiêu công việc mà tôi chưa thể hình dung nổi. Tôi nghĩ phải bàn bạc tập thể và cùng nhau làm thì mới hoàn thành được.

Việc đầu tiên là thiết lập hệ thống đèn bảo vệ chung quanh vòng rào và 4 góc tường, mắc thêm đường dây điện cho máy điện dự phòng để luôn có ánh sáng khi bị cắt điện mạng, kịp thời đối phó khi có sự cố. Cần mua thêm 1 chiếc xe hơi ngoài chiếc Vedette mà ông Vũ Bản đã tặng cho cơ quan, để giải quyết việc đi lại, làm việc và đi chợ.

Lúc Phái đoàn ta mới vào, việc đi chợ tiếp phẩm cũng dễ dàng. Nhưng phải luôn có dự trữ lương thực và thực phẩm, luôn có dự phòng 3 bao gạo, thịt cá hộp đủ cho một tháng ăn. Anh em trồng được 5 liếp cải, xu hào, rau muống và làm chuồng nuôi gà. Trong nhà nuôi 5 con chó giữ nhà. Để dự trữ nước uống, tôi cho xây hồ chứa nước cỡ 2 mét khối, dưới hầm rượu. Để có gạch xây, chúng tôi đào số gạch cũ của nền nhà. Khi xây xong, tôi nối ống cao su đưa nước từ nhà bếp sang đổ đầy hồ. Để có thể leo lên trần nhà khi cần phải chiến đấu trong những tình huống khẩn cấp, tôi tự tạo thang dây, vì không thể mua thang tre sợ lộ bí mật. Sau đó giấu thang tự tạo trên trần nhà.   -

Tôi đóng các thùng gỗ chuẩn bị sẵn sàng khi phải di dời địa điểm. Nhưng để có đủ ván đóng thùng và giữ bí mật, tôi bàn với ông chủ cửa hàng Thái Thạch mỗi khi giao rượu, nước ngọt thì đóng thùng to thêm ván cho dư thừa. Cửa hàng Thái Thạch nằm trên đường Tự Do, thường xuyên cung cấp cho cơ quan các loại rượu, nước ngọt. Vì có cảm tình với ta, nên ông Thái Thạch đồng ý, thực hiện việc đóng thùng thừa ván được nhiều lần an toàn. Số ván có được, đủ để đóng thùng cho máy nổ, điện đài, tủ lạnh và các vật dụng khác. Sau đó, các thùng được đánh dấu và cất giữ phía sau nhà. Còn các thứ chưa dùng đến thì cho vào thùng, để sẵn dưới hầm rượu. Nhờ có chuấn bị như thế nên khi có lệnh rút ra Hà Nội mọi thứ đều được chuẩn bị nhanh chóng và gọn gàng.


3. Người làm vườn

Cơ quan cần có người làm cỏ trong sân và chăm sóc hoa kiểng. Tôi mời Đại úy Moulonguet đến nhờ tìm giúp một anh làm vườn. Qua ngày sau ông ta dẫn đến một người. Tôi nhận mà không hỏi giấy tờ gì cả vì biết trước chúng sẽ đưa người của bọn công an. Nhìn kỹ anh này, tôi thấy không phải người lao động chân tay. Anh ta mặc sơ mi trắng, quần tây dài màu nâu, chân đi giày, tóc chải bóng mượt, không đội nón. Tôi hỏi:

- “Anh có mang theo dụng cụ làm cỏ hay không ?”

- “Dạ,... không”.

- Tôi đã nói với họ tìm người làm cỏ, lẽ ra họ phải cho anh mượn dụng cụ chớ. Thôi, lỡ rồi, anh tạm lấy con dao phay của tôi mà làm tạm, vừa dẫy cỏ vừa nhổ. Đường đi rải sạn cũng dễ làm thôi. Ngày mai anh hỏi lại. Phải có dụng cụ mới làm được”.

Theo dõi suốt buổi sáng tôi thấy chốc chốc anh ta đứng dậy rồi ngồi xuống. Có lúc anh duỗi thẳng chân mặt rồi chân trái và liên tục lấy khăn lau mặt. Trời đang nắng nóng. Có lúc anh tự động vào bóng mát đứng nghỉ.

Buổi chiều anh đến đúng giờ. Tôi nói:

- “Bây giờ là một giờ rưỡi trưa, còn nắng nóng lắm. Anh vào trong sân có bóng mát, đào cho tôi bốn lỗ, mỗi lỗ bề mặt là một thước vuông, sâu 5 tấc, tại chỗ tôi có cắm cây làm dấu. Anh đem đất đổ dựa tường. Đào xong lỗ này tôi sẽ chỉ chỗ để tiếp tục đào”.

Độ một giờ sau tôi trở lại mang theo một cái thúng, để anh bỏ đất vào. Tôi hỏi:

- “Bỏ đất đầy đến miệng thúng, anh có mang đi được không?

- “Dạ được”

- “Đào đến đâu, hốt hết đất đến đó. Dọn cho sạch sân”.

Tôi xem anh làm, thấy anh lúng túng. Bưng thúng đất mà không biết làm sao để đem đi đổ. Khi bước đi, anh mất thăng bằng. Đi độ hai thước, anh đặt thúng xuống đất, nghỉ một chút, rồi bê đi tiếp một đoạn ngắn hơn lần trước, lại đặt thúng xuống đất, thở hổn hển. Sau đó đi tiếp và đổ đất vào đúng chỗ đã định. Khi anh trở lại chỗ đào đất, tôi dặn:

- “Sáng mai trời mát, anh tiếp tục làm cỏ, còn chiều thì đào đất. Nhưng anh nên bỏ giày, đi dép hoặc giày cao su”.

Sự thật, tôi muốn xem bàn chân của anh. Theo tôi, anh không phải là người lao động.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2023, 09:03:07 am

Hôm sau, tôi tranh thủ gần anh nhiều hơn. Khi tôi bắt tay anh, tôi có cảm giác tay mềm như bột, da mặt khá mịn. Tôi gợi ý về chuyện làm ăn nhưng anh chỉ nói đời sống khó khăn giá cả ở các chợ đều tăng cao, mà không nói một tí nào về nghề nghiệp. Sáng nay anh vẫn tiếp tục làm cỏ. Khi nắng nóng, tôi mang cho anh một chai nước ngọt và cốc có nước đá. Tôi gợi ý anh nói chuyện.

- “Tại sao trưa anh không về nhà ăn cơm rồi nghỉ?”.

- “Vì nhà xa, về rồi không kịp trở lại giờ làm. Tôi ăn quán đỡ, chiều về nhà ăn cơm tối”.

- “Trưa nay tôi cho phép anh nghỉ ở đây. Sau khi ăn cơm xong đúng 12 giờ anh trở lại”. Tôi đứng trong nhà đón anh và để anh nghỉ trên hành lang nối liền nhà trước với nhà sau. Tại đây có bàn dài, có thể nằm nghỉ được. Tôi nói:

- “Anh nằm nghỉ ở đây rất yên tĩnh thoải mái”.

Tôi thấy anh quan sát, cặp mắt đảo quanh lia lịa. Rồi anh thấy dây ăngten điện đài. Cho nên nằm không được bao lâu, anh ngồi dậy và đi ra sau nhà. Thấy vậy từ nhà trên tôi chạy xuống, vòng chặn đầu anh ta. Tôi hỏi:

- “Anh đi đâu?”.

- “Dạ, tôi đi kiếm toa lét”.

- “Anh đi tìm không đúng hướng. Anh trở lại, tôi chỉ chỗ cho anh”.

Khi trở vào nhà, thì đã 1 giờ 15 nên anh đi luôn ra sân cỏ. Tôi thấy anh vẫn mang giày. Khoảng 3 giờ tôi đem cho anh chai nước ngọt và cốc đá. Nhân tiện anh ngồi nghỉ, tôi đến cạnh anh và nói:

- “Chiều nay anh làm hết hai buổi. Công việc còn lại, ngày mai anh không thể kết thúc được. Vậy anh có cách nào làm nhanh hơn không ?”.

- “Tôi chỉ biết cố gắng và làm hết sức mình, không biết còn cách nào khác nữa”.

- “Do đế giày cứng nên anh bước không vững. Anh hãy cởi giày ra lấy đôi dép cao su của tôi để đi, xem có nhanh hơn không”.

Tôi vừa nói vừa kéo đôi giày anh đang mang cho tuột ra và tìm cách chạm vào chân anh. Rồi tôi giúp đỡ thúng đất lên và động viên anh:

- “Nếu anh thấy đi giày tiện thì hãy mang giày trở lại để đi đổ đất”.

Qua lần quan sát này, tôi thấy hai bàn chân của anh trắng phau, gót đỏ hồng. Đúng, anh không phải là người lao động.

Ngày hôm sau anh xin nghỉ vì vợ ốm. Tôi cho xe đưa đồng chí Mạnh là y sĩ cơ quan đến tận nhà để khám và trị bệnh cho vợ anh. Khi đồng chí Mạnh trở về, tôi hỏi thăm tình hình. Được biết vợ chồng anh rất cảm động và cảm ơn chúng ta. Nhưng theo mô tả thì nhà anh không phải thuộc loại nhà của dân lao động.

Qua nhiều ngày theo dõi tôi khắng định, anh là mật thám. Tôi hỏi thẳng và anh đã thú nhận. Vậy có nên trả lại ngay cho Moulonguet hay không? Tôi nghĩ nên giữ anh thêm vài ngày để vừa giáo dục vừa cảnh cáo. Tôi gọi anh đến và nói:

- “Hôm rồi anh có nhận là mật vụ. Anh hãy cho biết thêm trước khi vào đây anh làm việc ở đâu, người chỉ huy trực tiếp của anh là ai? Anh phải khai báo rõ ràng và chân chật, không được khai gian”.

- “Dạ, tôi xin khai thật không giấu giếm thêm bớt. Trước khi vào đây tôi làm ở phòng nhì Tổng nha cảnh sát, Người chỉ huy trực tiếp của tôi là Trung úy Đào”.

- “Trung ý Đào bảo anh vào cơ quan Phái đoàn để làm gì ?”

- “Vào đây các Ông phân công gì thì cứ làm không được từ chối. Thứ hai là phải nhìn chung quanh nhà thấy có gì lạ không? Hệ thống canh gác bố trí ra sao? Lực lượng cảnh sát có bao nhiêu người, đổi ca vào giờ nào? Tìm hiểu nhà ở, ai ở phòng nào nhất là vị trí của phòng điện đài, phòng của Ông chỉ huy Phái đoàn?”

- “Anh đã cung cấp cho Trung úy Đào những tin tức gì?”

- “Trung úy Đào yêu cầu nhiều việc quá. Muốn trả lời đầy đủ phải mất cả tháng. Mỗi buổi chiều tôi phải báo cáo và trong hai buổi chiều vừa rồi, tôi đã báo cáo như sau:

Nhà có bố trí lính canh gác đi chung quanh tường rào khu nhà. Đi tới rồi đi trở lại. Sáng thấy có một người, chiều có người khác thay thế ở phía trước và bên trong nhà. Trên nóc nhà thấy có cần ăngten, nhưng không biết điện đài đặt ở đâu. Vì chỉ có nhổ cỏ và đào đất nên không biết thêm được việc gì khác. Tôi chỉ có báo cáo như vậy, ngoài ra không nói gì hơn”.

- “Nếu anh được vào nhà, chắc anh sẽ báo cáo nhiều hơn cho Trung úy Đào chứ gì ?”

- “Dạ chắc thế, tôi không làm gì khác được. Ăn cơm chúa phải múa tối ngày. Với tấm lòng thành thật tôi không dám nói dối hay giấu giếm các ông điều gì. Cũng vì miếng cơm manh áo để nuôi vợ con, nên tôi phải mắc nghiệp này. Xin các ông tha tội. Tôi và vợ con tôi cám ơn các ông suốt đời”.

Cuối cùng tôi bảo:

- “Sáng mai cho anh nghỉ việc”.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2023, 09:04:13 am

4. Đổi tiền

Chính phủ giao nhiệm vụ đột xuất cho Phái đoàn ta, đổi bạc Đông Dương ra bạc Việt Nam do chính quyền Ngô Đình Diệm phát hành. Tôi bay ra Hà Nội, đến ngân hàng Trung ương nhận 17 triệu đồng bạc Đông Dương. Ngân hàng đã đóng gói sẵn trong hai thùng gỗ. Tôi hỏi:

- “Sáng sớm mai, tôi phải trở vào Sài Gòn, làm sao tôi đếm kịp?”.

- “Đồng chí khỏi lo. Giấy bạc đã được bó sẵn từng bó 100.000 đồng. Nếu vào trong đó đếm lại thấy thiếu, thì xin chữ ký của thủ trưởng xác nhận là được”.

Sáng sớm hôm sau, có hai cán bộ ngân hàng mang hai thùng bạc đưa tôi ra sân bay.

Đổi bạc trong tình hình căng thắng giữa Phái đoàn ta với phía Sài Gòn chắc chắn là không dễ dàng. Nhưng yêu cầu phải được sớm thực hiện vì ngày ngưng đổi bạc đã đến gần rồi. Các anh lãnh đạo Phái đoàn rất băn khoăn lo lắng. Đặt vấn đề này với đối phương như thế nào đây, biện pháp tiến hành ra sao để trót lọt?

Chúng tôi suy nghĩ tìm biện pháp giải quyết mà chưa thấy lối ra. Một ngày rồi hai ba ngày trôi qua cũng chưa nhúc nhích. Phải đấu tranh ra sao, phải nhờ ai đây? Không thể dựa vào Ủy ban Quốc tế được vì việc này không liên quan gì đến Hiệp định Giơnevơ. Còn nếu đấu tranh thì chúng ta không có cơ sở pháp lý. Chúng tôi nghĩ, Pháp rút đi, đồng bạc mới của Việt Nam thay cho bạc Đông Dương là đúng lý không thể đấu tranh. Vấn đề là vì sao chúng ta phải đổi số bạc lớn như thế. Đề nghị anh Long là trung tá, thay mặt cho trưởng Phái đoàn ta đến gặp trực tiếp với trưởng Phái đoàn chính quyền Sài Gòn để thương lượng là thất sách.

Năm ngày đã trôi qua. Cái khó ló cái khôn, tôi nghĩ mình cứ đến trực tiếp ngân hàng hay kho bạc tranh thủ thì có thế được việc. Sau khi cân nhắc tôi quyết định đến ngân hàng trước tiên. Họp nhóm 3 người có đồng chí Ý là bảo vệ, đồng chí Nghĩa là lái xe, tôi phổ biến kế hoạch đi đổi tiền, nói rõ nhiệm vụ từng người, những khó khăn phức tạp có thể xảy ra và cách đối phó. Tôi phân công cụ thể, hướng dẫn từng động tác, cách đi đứng, cách xách valy tiền. Tôi yêu cầu phái bình tĩnh để xử lý trong mọi tình huống.

Sau khi báo cáo kế hoạch cho đồng chí Long và được chấp thuận cho thực hiện, tôi chuẩn bị giấy giới thiệu với nội dung như sau: “Đại úy Sơn Việt sĩ quan liên lạc của Phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đến ngân hàng, đổi bạc Đông Dương ngân hàng lấy tiền Ngân hàng Quốc gia để trả lương cho lính”. Giấy giới thiệu được đóng dấu và chữ ký của đồng chí Long.

Hôm sau đúng 8 giờ, chúng tôi từ trụ sở Phái đoàn ta đi thẳng đến Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngồi trên xe tôi hỏi:

- “Anh em ta đã chuẩn bị tốt chưa, sẵn sàng chưa? Nhớ bình tĩnh, cảnh giác, thận trọng”.

Xe đậu trước Ngân hàng. Tôi và đồng chí Ý chậm rãi bước lên bậc thang. Khi đến cửa Ngân hàng, tôi ngoái lại nhìn phía sau thấy xe và đồng chí Nghĩa vẫn ở yên tại chỗ. Còn ba tên cảnh sát đi theo chúng tôi vẫn bám sát.

Vào Ngân hàng tôi đi thẳng đến phòng Giám đốc. Tôi gõ cửa và đẩy cửa bước vào.

- “Xin chào ông Giám đốc. Tôi có một việc sẽ làm ông mất chút thời giờ. Tôi xin lỗi trước. Tôi tin rằng ông sẽ vui lòng giúp đỡ”.

Tôi vui vẻ lên tiếng chào hỏi và trao cho ông giấy giới thiệu. Ông Giám đốc vừa chào đáp lễ vừa chỉ tay mời tôi ngồi. Khi ông mở tờ giấy giới thiệu, tôi nhìn nét mặt ông, theo dõi sự diễn biến sắc thái như thế nào nhưng không thấy có phản ứng khi ông đọc giấy giới thiệu. Đọc xong, ông để tờ giấy lên bàn và cầm bút phê vào giấy. Tôi mở mắt thật to nhìn vào chữ mà ông đang viết. Cuối cùng tôi đọc được hàng chữ: “Chấp thuận cho đổi” với chữ ký nguệch ngoạc, không rõ tên gì. Ông nói:

- “Ông vui lòng cầm tờ giấy này sang quầy đổi bạc, các cô sẽ giải quyết cho ông”.

Tôi rất mừng đứng dậy cảm ơn, chào ông và nói:

- “Rất mong được gặp lại ông trong dịp khác”.

Tôi chưa biết ông là người như thế nào mà có thể giải quyết đổi bạc cho ta mau lẹ dễ dàng như thế. Tại sao ông không chút đắn đo?

Bước ra khỏi phòng Giám đốc, tôi ra hiệu cho đồng chí Ý mang valy tiền vào. Trong lúc này bọn cảnh sát đứng trước cửa phòng không biết tôi vào đây làm gì. Chúng xầm xì, đùn đẩy nhau, rồi có một tên đi theo đồng chí Ý, còn tên kia bám theo tôi đến quầy đổi tiền. Đứng trước quầy tôi thấy có nhiều cô đang làm việc. Tôi đến chỗ cô gần nhất và đưa giấy giới thiệu có lời phê của ông Giám đốc, nhờ cô giúp làm nhanh. Cô ta nói:

- “Xin ông đưa tiền đến đây”.

Tôi chưa kịp trả lời thì vừa lúc đó đồng chí Ý mang valy tiền đến và đưa luôn vào quầy.

- “Xin ông cho biết có bao nhiêu tiền?”

- “Mười bảy triệu đồng. Bó sẵn mỗi bó là 100.000 đồng. Khi giao lại giấy bạc mới, xin cũng tính theo bó. Nếu lô tiền của tôi có thiếu, xin các cô vui lòng gọi điện thoại theo số có ghi trong giấy giới thiệu. Tôi sẽ đến và giải quyết ngay tại chỗ”.

Nói hết câu, tôi nhìn ra phía sau thấy tên cảnh sát đứng gần tôi nghe lén. Tôi liền nói:

- “Anh không được phép đứng gần tôi. Chúng tôi nói chuyện công khai, anh không cần phải nghe làm gì”

Trong khi chờ đổi tiền, tôi cứ nghĩ mãi về thái độ của ông Giám đốc Ngân hàng. Ông là người như thế nào? Đến khi valy tiền được đưa ra, dòng suy nghĩ này mới chấm dứt. Đồng chí Ý bước tới nhận valy và chúng tôi xuống xe trở về nhà an toàn với niềm vui mừng đã thực hiện được một công việc tưởng chừng như không thể làm nổi.

Khoảng 2 giờ sau khi chúng tôi đã về đến nhà, tên trung úy cảnh binh xin vào gặp:

- “Tôi có báo cáo lên ông Hoàng Thụy Nam, trưởng Phái đoàn chúng tôi rằng sáng nay ông Đại úy đến Ngân hàng đổi tiền. Ông bảo tôi sang hỏi ông có đi nữa hay không? Nếu còn, thì xin hãy giao tiền cho chúng tôi đi đổi, vì ông đi như vậy rất nguy hiểm, lực lượng chúng tôi không bảo vệ nổi. Nếu xảy ra điều gì, chúng tôi sẽ bị khiển trách”.

- “Nhờ anh báo lại với ông Hoàng Thụy Nam rằng tôi cảm ơn ông về sự quan tâm này, tiền của chúng tôi chỉ có bấy nhiêu và đã đổi xong rồi”.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2023, 09:04:48 am

5. Một vụ khiêu khích

Như thường lệ, trưa nào tôi cũng đi một vòng chung quanh rào xem có hiện tượng gì lạ không, hoạt động của cảnh binh, công an ngụy có gì cần chú ý. Hôm nay tôi thấy có hiện tượng lạ. Có mấy nhóm người ngồi cách nhau khoảng 2 mét, lưng dựa vào tường ở góc đường vào trụ sở. Họ ở phía trước chòi gác khoảng 6 mét mà bọn công an không xua đuổi. Khoảng nửa giờ sau tôi thấy chúng không thay đổi vị trí. Có lẽ đây là bọn công an mới đến thay cho bọn cũ. Cũng có thể đây là lực lượng được tăng cường nên chúng ngồi yên như vậy. Khoảng 4 giờ chiều, người tập hợp trước cổng trụ sở mỗi lúc một thêm đông. Rõ ràng chúng đang chuẩn bị tổ chức mít tinh phản đối. Anh em trong Phái đoàn được lệnh chuẩn bị sẵn sàng. Tôi ra gặp Đại úy Moulonguet. Ông ta cho tôi biết là có bọn xấu đến quấy rối. Tôi hỏi:

- “Còn lực lượng bảo vệ của anh ở đâu mà để tình hình diễn ra như thế này?”

- “Chúng nó đông quá, tôi đã xin tăng cường thêm lực lượng bảo vệ nhưng chưa đến”.

Lúc này có khoảng 100 tên, chiếm một đoạn đường Chi Lăng, trước ngã ba rẽ vào nhà trụ sở Phái đoàn ta. Một số khác bao vây chung quanh trụ sở. Chúng chở đến hai xe GMC đá xanh, đổ ngay tại cửa ngõ, chuẩn bị ném vào nhà chúng ta. Bọn cảnh binh Pháp chỉ để 5 - 6 tên đứng gác cổng. Còn lính dù tuần tra phía trong được tăng cường thêm. Chúng đặt súng trung liên ở 4 góc tường rào và chĩa nòng súng ra phía ngoài.

Đến chiều, có khoảng một đại đội bộ binh kéo đến trên các xe GMC. Có hai thiết giáp có gắn súng đại bác 20 ly chĩa thẳng vào trụ sở Phái đoàn. Còn bọn lính thì chạy rầm rập chiếm các vị trí chiến đấu giương súng về phía ngôi nhà sẵn sàng nhả đạn. Chúng ngăn chặn không cho lưu thông từ đường Chi Lăng đến cổng trụ sở Phái đoàn. Bọn chúng bắt đầu hò hét, chửi bới, đòi Phái đoàn rút về Bắc... Rồi chúng ném đá vào trụ sở như mưa. Có nhóm nhảy lên tường rào nhưng không vượt qua được. Còn bọn khác xô đẩy cổng, làm một cánh cửa đổ xuống, nhưng không tên nào dám vượt qua cửa rào đã bị đổ. Trong cơ quan các đồng chí chúng ta cũng sẵn sàng nếu có nổ súng.

Trong khi đó, bọn cảnh binh Pháp mở lối qua rào B40, để mời chúng tôi lên xe đi nơi khác. Tôi từ chối vừa nói nhỏ nhẹ vừa cười với chúng:

- “Chúng tôi không đi đâu hết, đã có cách giải quyết. Còn các anh có trách nhiệm bảo vệ Phái đoàn, cần làm đúng theo quy định đã được ký kết”.

Đại úy Moulonguet nhăn mặt nhíu mày. Rồi sau đó quay lưng ra về.

Bên ngoài bọn phản động vẫn tiếp tục hò hét, chửi bới, ném đá. Các xe thiết giáp vẫn nổ máy gầm rú, còn bọn lính vẫn ở nguyên vị trí cũ. Có lẽ chúng đang chờ lệnh. Tôi tin chắc rằng chỉ còn có lệnh rút lui mà thôi. Ngay từ đầu, khi chúng mới vừa kéo đến thì chúng ta cũng đoán được rằng, chúng chỉ dọa dẫm thế thôi chứ chưa dám làm gì.

Hơn 7 giờ tối, chúng lần lượt rút lui. Một số nán lại, viết các khẩu hiệu phản động lên các bức tường rào và nhà dân. Còn bọn cảnh binh thì sửa lại cánh cửa bị đổ.

Sáng hôm sau, chúng tôi thấy các khẩu hiệu phản động nhất đã bị ai đó xóa bỏ. Chúng viết lại, rồi bị xóa... đôi ba lần như vậy.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tư, 2023, 09:05:37 am

6. Một chuyến đi đặc biệt

Một buổi sáng khi ăn nhẹ xong, anh Phạm Hùng gọi tôi vào phòng làm việc. Anh đứng dậy đi đi lại lại, chỉ ghế mời tôi ngồi và uống trà. Tôi lo lắng không hiểu mình có khuyết điểm gì đây. Anh hớp ngụm trà, rồi đứng dậy đi lại chỗ móc quần áo, thò tay vào túi áo trên lấy ra mằnh giấy nhỏ.

Trở lại ghế ngồi, anh chậm rãi nói:

- “Tôi sắp trở về Hà Nội. Trước khi đi, anh bố trí cho tôi thăm Ba Son, Bến tàu và đi vòng thành phố trên vài con đường lớn”.

- “Xin anh nói rõ là đi thăm như thế nào? Nếu làm thủ tục chắc tụi nó không chịu đâu”.

- “Tôi nói đi thăm là đi trên đường phố cho tôi nhìn kỹ lại Ba Son, Bến tàu chứ không phải vào bên trong cơ sở, không như các anh phải vào trong các cửa hàng. Còn đi phố, cũng để xem qua mà thôi. Như vậy đã rõ chưa?”

- “Xin anh cho tôi suy nghĩ. Tôi sẽ vạch kế hoạch và trình lên anh trước khi thực hiện”.

Theo yêu cầu mà anh nêu ra, việc đi phố xem chỗ này chỗ nọ về mặt bảo vệ không khó lắm.

Sau đó một tuần, tôi trình bày kế hoạch đi trên phố, có cả phần bảo vệ. Anh Hai chấp thuận kế hoạch và hỏi:

- “Ngày mai có đi được không?”

- “Dạ được, tùy anh có rảnh hay không”.

Như thường lệ, tôi báo cho cảnh binh biết đúng 9 giờ chúng tôi sẽ đi phố.

Lúc 9 giờ kém 5, xe nhà đã ra trước cửa. Nhìn ra cổng tôi thấy xe cảnh binh và công an cũng sẵn sàng. Đúng 9 giờ, đồng chí Ý mở cửa xe cho anh bước lên xe ngồi bên phải, tôi ngồi bên trái, đồng chí Ý ngồi ghế trước với đồng chí Tòng lái xe. Tôi nhắc đồng chí Tòng chạy như bình thường theo con đường đã phổ biến. Chúng tôi tập trung chú ý phía trước. Phía sau chúng tôi là xe của hiến binh và cảnh sát.

Dọc đường từ nhà đến ngã tư Norodom (nay là đường Lê Duẩn), tôi giới thiệu cho anh những nơi cần biết như trường Mỹ thuật Gia Định, Tòa bô Gia Định (nay là trụ sở Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh), chợ Bà Chiểu... Đến đây tôi nhắc đồng chí Tòng cho xe chạy chậm vì qua ngã tư Norodom là gặp ngay ranh giới của xưởng Ba Son ở phía trái chạy dài cho đến mé sông Sài Gòn.

Trên xe, tôi thấy anh chỉ ngồi nhìn và lặng lẽ nghe tôi nói. Khi đến Ba Son, anh chăm chú nhìn kỹ hơn. Tôi giữ yên lặng tôn trọng sự suy nghĩ của anh. Gần đến góc đường xuống bờ sông, tôi báo cho anh biết đã hết khu vực Ba Son. Khi xe qua khỏi mấy chiếc tàu to đang đậu ở ụ chờ sửa chữa, nhìn thấy cảng Sài Gòn, có nhiều tàu đang bốc hàng. Trên bến sông Bạch Đằng không có người ngồi hóng mát. Chỉ có bến đò Thủ Thiêm là vẫn đông người qua lại. Đồng chí Tòng lái xe vòng lên đường Bonard (nay là Lê Lợi), chạy qua chợ Bến Thành ra Paul Blanchy (nay là Hai Bà Trưng), rồi về thẳng đường Chi Lăng, trụ sở Phái đoàn.

Đó là tấm lòng của anh, người chiến sĩ cách mạng hoạt động trong lòng Sài Gòn, anh muốn ghi lại tất cả những hình ảnh quen thuộc và đầy kỷ niệm trước khi tạm biệt Sài Gòn trở về Hà Nội.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:31:28 am

7. Những cơ hội tiếp xúc với đồng bào Sài Gòn

Một buổi chiều, khi mới vào Sài Gòn, tôi đi mua một chiếc xe du lịch để sử dụng đi công tác. Cùng đi với tôi có 3 cảnh binh. Chúng tôi chủ trương mua xe Pháp, không mua xe Mỹ. Chúng tôi đến công ty Citroen ở 30 đường Espagne. Vừa bước vào cửa hãng, mấy anh công nhân đứng gần đó trân trân nhìn chúng tôi, thấy quân phục chúng tôi khác hẳn với quân đội Sài Gòn. Chúng tôi đến chỗ trưng bày xe. Anh em công nhân ngưng làm việc, đứng tập trung nhìn chúng tôi. Đối với họ, là chuyện lạ: Có hai người ăn mặc trang phục khác thường lại có 3 cảnh binh Pháp đi theo hộ tống. Có một người Việt Nam đứng tuổi ăn mặc chỉnh tề, từ một căn phòng đi thẳng đến chúng tôi. Ông tự giới thiệu là Giám đốc, mời chúng tôi vào văn phòng. Ông giới thiệu ngắn gọn công ty Citroen, đưa cho chúng tôi xem ảnh các loại xe mới của năm 1954, mời chúng tôi đi xem xe. Có 3 loại: Traction thường, traction 15 và traction DI mới nhất có thể lội qua được những nơi ngập nước cỡ 0,50m. Ông cũng giới thiệu tính năng và tiện nghi của xe. Có 2 công nhân thao tác theo lời giới thiệu của ông. Tôi nói:

- “Tôi mua xe cho Phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam. Theo ý ông, nên mua loại nào?”.

Ông mỉm cười và nói:

- “Việc chọn lựa là do các ông. Chúng tôi sẽ làm vừa lòng các ông”.

- “Thôi được, chúng tôi chọn chiếc Traction avant 15. Còn màu gì sẽ cho ông biết sau”.

Như vậy là hôm đó tất cả nhân viên công ty Citroen và gia đình họ đều biết sự có mặt của Phái đoàn ta ở Sài Gòn.

Mấy ngày hôm sau chúng tôi đi mua bảo hiểm ở công ty “Le secours”, nằm tại góc đường Charner và Espagne. Lần đi này chúng tôi cũng mặc quân phục. Khi đi ngang qua dãy bàn làm việc của nhân viên để đến phòng Giám đốc, mọi người thấy lạ nhìn chúng tôi và trao đổi thì thầm với nhau. Chắc rồi họ cũng biết vì trên mũ lưỡi trai của chúng tôi, có phù hiệu nền đỏ sao vàng.

Sau khi chỉnh trang nội thất trụ sở Phái đoàn, chúng tôi đến mấy kiosque bán hoa tươi ở đường Charner mua hoa trang trí phòng khách. Lần này chúng tôi ăn mặc thường phục, có xe công an ngụy hộ tống. Xe đậu cách chỗ bán độ 50 m. Chúng tôi xuống xe đi bộ. Đến kiosque đầu tiên tôi hơi lúng túng, không biết nên chọn hoa nào để đặt ở phòng khách. Chị bán hoa chào mời:

- “Mua hoa đi ông ơi, hoa Đà Lạt mới về”.

Chị lấy mấy cành hoa đưa lên giới thiệu. Không chần chừ nữa, tôi nói:

- “Chị chọn cho tôi một số hoa loại lâu tàn để chưng ở phòng khách”.

Chị nhẹ tay lấy giấy bóng cuộn bó hoa trên 20 cành có nhiều thứ, kèm số lá măng và tính 10.000 đồng. Chúng tôi sang kiosque khác, mua một bó nữa có vài loại hoa khác giá 12.000 đồng.

Có lần chúng tôi ghé bên kia đường Charner (nay là Nguyễn Huệ) mua hai bó hoa ở hai nơi khác nhau.

Bỗng nhiên có một anh chủ cửa hàng hoa đi thẳng đến có vẻ mừng rỡ và nói:

- “Xin lỗi, có phải ông ở Phái đoàn từ Hà Nội vào không?”

- “Đúng, chúng tôi ở trong Phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam vào thường trú ở đây để làm việc với Ủy ban Quốc tế, đấu tranh cho hòa bình thống nhất nước nhà”.

Ngày 1-9-1955, chúng tôi đi mua hoa chuẩn bị cho Quốc khánh 2-9. Như thường lệ, xe đậu ở xa và chúng tôi đi bộ đến cửa hàng hoa. Lần này khác hơn các lần trước, từ bên kia lề đường Charner (Nguyễn Huệ), có bốn chị cầm bốn bó hoa, băng qua đường rồi tập trung cùng các anh chị đứng bên này đường. Tôi giật mình. Trong số 8 người cầm hoa có anh mà tôi đã gặp lần trước. Anh nói với vẻ đầy xúc động:

- “Được biết các ông rồi, xin cho anh chị em chúng tôi tặng Phái đoàn mấy bó hoa để chưng trong ngày Quốc khánh”.

Một chị nói với nụ cười rất tươi:

- “Bó hoa của tôi xin kính tặng cụ Hồ Chí Minh. Ngày mai là ngày Quốc khánh, xin kính chúc các ông đã đến với anh chị em chúng tôi...”

Hai chúng tôi ôm hoa tươi chẳng khác nào các nghệ sĩ vừa thành công một bài hát trên sân khấu mà lòng tràn ngập niềm vui.

Về đến nhà chúng tôi có kiểm điếm rút kinh nghiệm không thấy có gì sai. Trong tình hình đó không nhận hoa cũng không được. Nhớ lại thái độ bọn cảnh sát trong lúc đó cũng bình thường nên chúng tôi yên tâm.

Để bảo vệ bà con bán hoa và tránh nhận hoa biếu, tôi không đi mua nữa mà giao lại cho anh Mười Tuân kết hợp đi chợ Bến Thành, ghé đường Charner (Nguyễn Huệ) mua luôn. Mấy lần đầu, đồng bào không để ý nên việc mua bán vẫn bình thường. Nhưng sau đó, vì thấy lần nào cũng có xe cảnh sát hộ tống đi theo thì biết là mấy ông Phái đoàn rồi. Đồng bào lại để hoa trong xe, trên mui xe, trên đầu xe và không lấy tiền. Anh Mười Tuân cứ để lại trên sạp 10.000 đồng mỗi bó rồi lên xe đi ngay.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:33:05 am

Chúng tôi đến cửa hàng Thái Thạch 32 Catinat (nay là Đồng Khởi), bán thực phẩm có tiếng ở Sài Gòn thời đó. Chúng tôi mua đồ hộp để dự trữ, rượu tây cho các buổi chiêu đãi Quốc tế. Người quản lý cửa hàng là người Hoa có vẻ mừng vì gặp mối lớn nên hỏi địa chỉ. Sau khi tôi tự giới thiệu, ông rất ngạc nhiên và thay đổi cách đón tiếp. Ông mời chúng tôi ngồi và gọi phổ ky rót trà. Tôi lấy đơn đặt hàng đưa cho ông, rồi dặn khi giao hàng, thì các thùng nhỏ để trong thùng gỗ lớn chở đến địa chỉ của trụ sở.

Khi xe chở hàng tới, anh em công nhân thấy có cảnh binh gác ở cổng nên lo sợ. Chúng tôi ra đón xe và cho xe vào sân nhà. Giao hàng xong anh em xin lên nhà trên xem cờ Tổ quốc và ảnh Bác Hồ. Từ trước tới nay chưa khi nào ở Sài Gòn có lá cờ đỏ sao vàng lớn như vậy. Những lần giao hàng sau, các anh em công nhân khác cũng xin lên xem cờ và ảnh Bác mới thỏa lòng.

Chúng tôi đến hiệu sách Albert Portail, ở đường Catinat, một hiệu sách có tiếng ở Sài Gòn. Ông đứng bán ở quầy hàng chào tôi, mời tôi đi xem sách. Tôi thấy có quyển sách tựa đề “Điện Biên Phủ” giá 15.000 đồng và nhiều sách nói về Việt Nam của nhiều tác giả Mỹ, Pháp... đi vòng xem một lượt, tôi trở lại mua quyển “Điện Biên Phủ”. Tôi nói:

- “Hôm nay tôi đến đây để tìm hiểu vì tôi cần mua nhiều loại sách khác”.

- “Xin lỗi, ông ở cơ quan nào mà mua quyển này?”

Tôi không trả lời ngay mà hỏi lại:

- “Ông có biết tác giả nói gì trong quyển sách này không”.

- “Tác giả là người Pháp, tả nhiều trận đánh ở đồi núi, nào là phá được hầm trú ẩn của Việt Minh, đặt nhiều súng đại bác, bắn cháy nhiều xe vận tải nhãn hiệu Trung Quốc, v.v.. Lúc đầu nhiều đơn vị quân đội và sĩ quan cao cấp mua. Bây giờ thì không ai còn chú ý nữa.

- “Vậy lúc này ông bán loại sách nào chạy nhất?”

- “Dạ, sách dạy tiếng Anh, kế đến là sách khoa học. Còn sách tiểu thuyết thì ít ai rờ tới”.

Thấy ông có vẻ thật thà, tôi mới tự giới thiệu. Ông hết sức vui mừng, không dằn lòng được xin bắt tay tôi. Để tránh nghi ngờ của bọn công an, tôi chào ông ra về.

Sau đó ít lâu, cơ quan xuất nhập khẩu sách báo Hà Nội (XUNHASABA), có gửi cho Phái đoàn ta một danh mục khoảng 20 quyển sách nhờ mua giúp. Tôi trở lại hiệu sách Albert Portail. Người bán sách vui lòng nhận tìm giúp. Nửa tháng sau tôi trở lại, ông đã tìm được 5 quyển, gói đàng hoàng. Trả tiền, ông không nhận. Tôi cám ơn và ra về.

Một tháng sau, tôi trở lại. Ông đã mua thêm được 10 quyển nữa. Ông cho biết tiền sách kể cả lần trước là 270.000 đồng. Tôi đưa tiền, ông vẫn không nhận mà còn dặn tôi có đơn hàng mới cứ đưa cho ông. Biết được giá tiền, tôi đếm đủ, dằn dưới quyển vở trước mặt ông rồi mới ra về. Qua hai tháng, ông đã hoàn thành mua sách giúp ta và chấp nhận điều kiện là khi giao hàng phải nhận tiền. Hai bên đều vui vẻ. Có lần ông nói:

- “Tôi rất vui được các ông giao cho việc tìm sách, cả gia đình tôi cũng vui. Tôi cảm thấy được đóng góp một phần nhỏ vào công việc của các ông”.

- “Chúng tôi sẽ tiếp tục nhờ ông mua sách giúp, nhưng không đến thường vì muốn bảo vệ ông. Công an đi theo chúng tôi, ông thấy đó”.

Sách mà ta nhờ mua, phần lớn là loại phục vụ cho nghiên cứu chính trị, kinh tế, khoa học và mua theo yêu cầu của cơ quan XUNHASABA.

Một hôm chúng tôi đến hiệu thuốc tây Pharmacie Normal ở số 201 Catinat tìm mua vài thứ thuốc trị thần kinh và tim mạch. Người bán hàng hỏi:

- “Ông mua thuốc gì?”

Tôi lấy trong túi áo trên ra mảnh giấy nhỏ có ghi tên thuốc và đưa cho người bán.

- “Hai thứ thuốc này chúng tôi có bán”.

- “Giá bao nhiêu?”

- Dạ thuốc tim mạch giá 50 đồng/hộp, thuốc thần kinh giá 30 đồng/hộp. Nếu mua nhiều thì giá có khác”.

- “Nếu mua nhiều thì giảm giá bao nhiêu?”

- “Dạ ở đây chúng tôi không giảm giá bán mà cho hoa hồng. Nếu mua 100 hộp thì cho 1%, mua 1.000 hộp thì cho 3%. Còn mua nhiều, chúng tôi sẽ giao tận nhà miễn phí.

- “Chúng tôi cần mua số lượng khá. Chúng tôi sẽ báo sau”.

- “Xin các ông cho biết địa chỉ để khi các ông cần, chúng tôi sẽ cử người đến”.

Tôi ghi: Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam... Ông ngạc nhiên nhìn chúng tôi.

- “Các ông ở Hà Nội vào à?”

Ông có vẻ băn khoăn vì đã tiếp chúng tôi như bình thường. Để ông yên tâm, tôi nói:

- “Chúng ta là người Việt Nam, dễ thông cảm với nhau. Chắc là ông sẵn lòng giúp chúng tôi khi cần mua một vài loại thuốc hiếm”.

Lần sau, khi chúng tôi đến ông tiếp chúng tôi niềm nở.

- “Hôm nay chúng tôi mua thuốc tim mạch và thần kinh, mỗi thứ 5 hộp. Chúng tôi chưa dám mua nhiều vì chưa có điều kiện bảo quản tốt”.

Ông cúi xuống quầy hàng, lấy đủ mỗi thứ 5 hộp gói lại. Ông thêm 2 hộp khác và nói:

- “Đây là thuốc của Mỹ. Chúng tôi vừa mới nhận một số mẫu. Xin biếu các ông mỗi thứ một hộp dùng thử”.

Trả tiền xong tôi đưa cho ông đơn hàng, trong đó có thuốc gây tê. Ông xem và nói:

- “Các thứ trong đơn hàng tôi đều có, trừ thuốc gây tê không được bán, chỉ dành cung cấp cho các nhà thương. Tuy vậy tôi vẫn có thể tìm được nhưng không nhiều”.

Từ đó về sau, ông giúp giải quyết các đơn hàng, trừ những thuốc dùng cho phẫu thuật mà cửa hàng không có. Ông còn tìm được cho chúng ta những loại thuốc đặc trị mới.

Việc đi lại mua bán đó, là trong những năm đầu khi Phái đoàn mới vào. Về sau khi chúng bao vây ngày càng gắt gao thì chúng tôi ít khi ra ngoài tiếp xúc với dân.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:33:51 am

8. Rút về Hà Nội

Ngày 17-5-1958, theo lệnh của Trung ương, Phái đoàn ta rời Sài Gòn trở ra Hà Nội, chấm dứt nhiệm vụ sau 1.095 ngày tồn tại ở một trung tâm phản động vào bậc nhất ở Đông Nam Á. Phái đoàn ta như cây đinh đâm vào mắt kẻ thù, nên ngay từ những ngày đầu, chúng đã tìm đủ mọi cách o ép. Năm 1956, Vũ Văn Mẫu đã gửi công hàm cho Ủy ban Quốc tế, vu cáo Phái đoàn ta làm gián điệp, xúi giục nhân dân nổi loạn...

Chúng còn dở trò khiêu khích. Như những tháng cuối năm 1955, chúng bố trí hành hung nhân viên Phái đoàn ta tại chợ Bến Thành - Sài Gòn. Đầu năm 1956, chúng tổ chức hằng trăm tên phản động đến bao vây trụ sở Phái đoàn ta, hò hét chửi bới và ném đá vào nhà. Chúng còn bắn lén đồng chí bảo vệ của ta đang làm nhiệm vụ, v.v..

Cho đến sáng ngày 26-4-1958, bọn cảnh binh ngụy dùng lòi tói khóa chặt cổng ra vào, không ra ngoài, kể cả đi chợ. Tôi hỏi:

- “Tại sao lại khóa cổng?”

- “Tôi chỉ biết làm theo lệnh cấp trên. Xin Đại úy hỏi Đại tá Hoàng Thụy Nam. Chúng tôi được lệnh khóa cổng cho đến khi các ông đồng ý rút về Hà Nội”.

Vào khoảng 9 giờ, có Ủy ban Quốc tế đến làm việc, chúng vẫn không mở cổng, chờ xin ý kiến. Sau đó chúng mới chịu mở. Trước tình hình đó, đồng chí Long chỉ thị cho anh em sẵn sàng đối phó khi có tình huống xấu.

Tuy nhiên, hằng ngày mọi sinh hoạt cơ quan đều giữ được bình thường. Mỗi chiều anh em ra sân bóng chơi đông đảo, các nề nếp làm việc, giải trí không thay đổi có khi còn nghiêm túc hơn trước. Chúng ta theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến bên ngoài, các hoạt động của bọn cảnh binh và công an. Để kịp thời đối phó, chúng ta cho điện đài mở máy túc trực, máy nổ sẵn sàng phát điện. Còn nhà bếp thì bảo đảm ba bữa ăn trên tinh thần tiết kiệm. Trước tình hình khó khăn, anh em nêu cao tinh thần kỷ luật, tư tưởng ổn định, không bàn ra tán vào, không bi quan dao động.

Mười lăm ngày trôi qua. Anh Mười Tuân cho biết thực phẩm tươi sống sắp hết. Tôi nói:

- “Trong chuồng gà còn 5 con, ba cây đu đủ đơm đầy trái xanh to lớn đang chờ anh trổ tài chế biến có thể ăn trong 5 ngày: đu đủ kho, nấu canh, bóp gỏi, xào mỡ... Còn có rau diệu ăn được 10 ngày, đám rau om ăn cũng được 2 ngày không hết...”

- “Còn thịt thì sao?”

- “Còn có một đùi heo to tướng, 5 con gà, cá thịt hộp... tha hồ cho anh thi thố”.

Tuy nói vậy, chứ trong lòng tôi vẫn không yên. Tôi thấy trước rằng lương thực và thực phẩm không thể bảo đảm quá một tháng. Nếu thời gian kéo dài thì sẽ khó khăn.

Qua ngày thứ 20, Phái đoàn ta nhận được điện Trung ương, đồng ý cho rút về Hà Nội. Ủy ban Quốc tế và ngụy quyền đều biết tin này. Buổi sáng hôm đó, Ủy ban Quốc tế đến Phái đoàn ta báo tin và làm việc với đồng chí Long bàn kế hoạch và biện pháp để bảo vệ an toàn cho cơ quan. Sau đó đồng chí Long báo lại sự việc này cho anh em biết và ra lệnh chuẩn bị sẵn sàng trở về Hà Nội.

Về nội bộ, tôi thấy không có gì khó khăn. Mọi thứ đều được xếp vào thùng gỗ. Chỉ để lại hai ôtô nhờ Ủy ban Quốc tế chuyển về Hà Nội. Còn 20 giường sắt mượn của Pháp thì để nguyên tại chỗ. Mấy con chó quá khôn, cứ chạy quấn quýt theo chân anh em. Tuy anh Phạm Hùng cho phép mang về Hà Nội nhưng vì không làm kịp thủ tục xuất cảnh nên đành phải bỏ lại. Số tài sản trong nhà, từ trưa đến nửa đêm đã đem hết ra sau sân nhà, kể cả các thùng đồ dùng, thức ăn uống và chờ xe vào chở đi.

Đúng 4 giờ sáng ngày 17-5-1958, có 5 xe GMC đến trước, chạy thẳng vào sân nhà sau. Đồ đạc được xếp hết lên xe. Độ một giờ sau, khi trời còn nhá nhem tối, từng tốp người trong đó có Ủy ban Quốc tế, cảnh binh và công an mặc thường phục, đến trước cổng trụ sở. Có nhiều xe du lịch đang đậu chờ. Đồng chí Long đứng ngoài sân tiếp chuyện với Ủy ban Quốc tế. Sau đó ra lệnh cho anh em lên xe.

Đoàn xe gần 20 chiếc, nối đuôi nhau chạy lên sân bay Tân Sơn Nhất.

Vài giờ sau, chúng tôi đáp xuống sân bay Gia Lâm.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:37:36 am

BA NĂM HOẠT ĐỘNG CÔNG KHAI GIỮA SÀI GÒN
(Từ 17-5-1955 đến 17-5-1958)

HUỲNH MINH HIỂN


Thi hành Hiệp định Giơnevơ năm 1954, anh chị em ở văn phòng Trung ương Cục và Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ chuẩn bị tập kết ra miền Bắc. Còn tôi thì được phân công ở lại miền Nam công tác. Học xong lớp học về tình hình và nhiệm vụ mới dành cho cán bộ ở lại, tôi còn đang suy nghĩ cách bí mật trở về Sài Gòn thì được quyết định điều động đến công tác ở Phái đoàn Liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Sài Gòn. Như vậy tôi cũng về Sài Gòn, nhưng không phải về bí mật mà đàng hoàng công khai.

Phái đoàn liên lạc của ta ở Sài Gòn được hình thành tại Ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ có trụ sở ở Phụng Hiệp (Cần Thơ). Biên chế của Phái đoàn gồm khoảng 24 người, phần lớn là cán bộ Dân Chính Đảng và Ủy ban Liên hợp đinh chiến Nam Bộ chuyển sang. Anh Phạm Hùng trưởng Phái đoàn Việt Nam trong Ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ, được Trung ương chỉ định làm trưởng Phái đoàn Sài Gòn. Chúng tôi dùng quân phục từ Trung ương gửi vào. Đối với ta sau khi chuyển quân tập kết và giải thể chính quyền cách mạng ở miền Nam, sự có mặt của một “Phái đoàn Việt Minh” ở giữa Sài Gòn có ý nghĩa rất quan trọng. Ta muốn vào Sài Gòn trước ngày kết thúc chuyển quân tập kết nhưng phía Pháp còn giằng co nên đấu tranh.

Đã qua tháng 1 năm 1955, thời hạn 200 ngày sắp hết, công việc của Ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ sắp kết thúc và Phái đoàn Sài Gòn phải ra Hà Nội theo chuyến tàu tập kết cuối cùng tại bến sông Ông Đốc, vào chiều ngày 28-2-1955.

Anh Hai Đốc và tôi được ra Hà Nội trước để nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị nắm bắt công việc ở Ủy ban Liên hợp đình chiến Trung ương. Vào xế chiều, một xe jeep của Pháp đưa hai chúng tôi đến sân bay Sóc Trăng. Đêm đó chúng tôi ngủ tại nhà khách của Pháp ở sân bay. Sáng hôm sau, một máy bay nhỏ có ba chỗ ngồi, đưa chúng tôi đến Tân Sơn Nhất. Máy bay không có cửa ra vào. Lật nắp đậy trên ra, chúng tôi leo lên cánh máy bay vào buồng lái. Anh Hai Đốc ngồi phía trước với phi công, còn tôi ngồi phía sau. Viên phi công trẻ người Pháp có thái độ rất hữu nghị. Đến Tân Sơn Nhất, chúng tôi chuyển sang máy bay lớn của Ủy ban Quốc tế ra Hà Nội. Từ sân bay Gia Lâm có xe đón chúng tôi về chỗ làm việc cũng là nhà riêng của Đại tá Hà Văn Lâu, trưởng Phái đoàn Việt Nam ở Ủy ban Liên hợp đình chiến Trung ương.

Lần đầu tiên đến Hà Nội giữa mùa đông, áo không đủ ấm. Tôi tuy còn trẻ nhưng chịu lạnh không quen.

Chúng tôi tìm đến nhà anh Phạm Văn Bạch, nguyên Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ mới ra Hà Nội nhận chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Anh Bạch giới thiệu chúng tôi đi nhận chăn bông, áo ấm với ít tiền tiêu vặt.

Chúng tôi ăn cái tết đầu tiên ở miền Bắc tại nhà anh Hà Văn Lâu. Mới ra mà sao nhớ miền Nam quá! Ít hôm sau tết, toàn Phái đoàn ta từ Phụng Hiệp ra đến Hà Nội, được bố trí ở số 6 đường Lý Nam Đế, trong khu vực Bộ Quốc phòng.

Rốt cuộc rồi Pháp cũng ép được chính quyền Sài Gòn, chấp thuận Phái đoàn ta vào Sài Gòn. Ngày 31-3-1955, Pháp ký với ta Nghị định thư, xác định quy chế của Phái đoàn ta ở Sài Gòn. Qua thảo luận với phía Pháp, nhân sự Phái đoàn ta rút lại là 16 người. Anh Sơn Việt và anh Kha được phái vào Sài Gòn trước để cùng với phía Pháp chuẩn bị chỗ ăn ở và làm việc. Toàn Phái đoàn rất vui mừng được Bác Hồ tiếp ở Phủ Chủ tịch. Chúng tôi lần đầu tiên được gặp Bác. Bác căn dặn phải luôn luôn cảnh giác tránh đạn bọc đường. Mọi người hết sức phấn khởi, nhận rõ hơn trách nhiệm và vinh dự trong nhiệm vụ mới.

Ngày 17-5-1955, hai máy bav Dakota của quân đội Pháp đưa chúng tôi từ Gia Lâm đến Tân Sơn Nhất. Tại sân bay, xe của quân đội Pháp đưa chúng tôi về trụ sở Phái đoàn. Mấy ngày sau, Anh Phạm Hùng và anh Nguyễn Kim Cương vào theo máy bay của Ủy ban Quốc tế.

Tôi rời Sài Gòn từ tháng 9 năm 1945, đã qua 10 năm nay mới trở lại. Cảnh quan thay đổi nhiều, người đông đúc gấp mấy lần, xe hơi chạy nối đuôi nhau, thường kẹt xe ở ngã tư những đường chính. Trụ sở Phái đoàn là một ngôi nhà trệt, có dãy nhà phụ ở phía sau, nằm giữa một khuôn viên rộng, có tường rào bao quanh. Ngoài một cây thị cao ở sát rào phía sau, phần còn lại là sân cỏ trống trải. Nhân sự của Phái đoàn được tính toán với số người ít nhưng có thể đảm bảo mọi việc cần thiết. Có chuyên viên chính trị, có phiên dịch tiếng Pháp, tiếng Anh, có văn thư đánh máy, có cơ yếu, điện báo, có lái xe, thợ máy, y sĩ, bảo vệ, có người đủ khả năng tổ chức tiệc tại trụ sở Phái đoàn. Chúng tôi mang theo điện đài, máy phát điện, máy chiếu phim. Tuy từng người có chuyên môn riêng nhưng khi cần thì huy động cùng nhau làm.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:38:30 am

Theo quy chế, ta không được treo cờ bên ngoài trụ sở, cho nên ta treo một lá cờ và ảnh Bác Hồ to trên tường ở phòng khách giữa nhà, người đi lại ngoài đường nhìn qua cửa trước thấy rất rõ. Chúng tôi biết thế nào địch cũng đặt máy nghe trộm ở đâu đó, nhưng hai ngày đầu chưa tìm được. Những việc quan trọng, phải xuống nhà bếp nói với nhau. Sang ngày thứ ba, theo gợi ý của đồng chí Trưởng đoàn Ba Lan, anh Thuận tháo máy điện thoại đặt ở phòng làm việc của trưởng đoàn, phát hiện máy nghe trộm đặt trong đó. Ta lấy ra và cắt luôn dây. Mấy lần phía Pháp đề nghị cho người đến sửa chữa nhưng chúng ta từ chối, vì có thể sử dụng máy điện thoại đặt ở phòng ngoài đã được kiểm tra kỹ, không cần sửa máy điện thoại đặt trong phòng trưởng đoàn. Ta lắp ngay một đường dây điện dự phòng chạy máy nổ, để sẵn sàng cho chạy khi điện lưới bị cắt. Đã có lần mất điện giữa buổi tiệc chiêu đãi Ủy ban Quốc tế, không rõ do sự cố hay do địch phá. Nhưng chỉ một giây sau, điện dự phòng bật sáng.

Mỗi người trong Phái đoàn đều được trang bị súng ngắn loại colt 12 của Mỹ. Phần lớn anh em chưa sử dụng loại súng này, vì mới nhận ở Hà Nội rồi vào Sài Gòn ngay, không có thì giờ bắn thử. Một hôm anh Thuận mở súng ra lau chùi trong phòng điện đài, làm kẹt một viên đạn trên nòng, loay hoay chưa lấy ra được. Tôi đi qua đó, vào giúp lấy viên đạn ra, rồi chĩa súng lên trời bóp cò. Súng nổ, viên đạn xuyên thẳng nóc nhà. Thì ra lấy được viên đạn này thì còn một viên đạn nữa nhảy lên nòng.

Phái đoàn được bảo vệ chặt chẽ, do đối phương chịu trách nhiệm. Nhưng họ dùng sự bảo vệ đó để cách ly chúng ta với bên ngoài và kiểm soát mọi hoạt động của ta. Lính dù Pháp suốt ngày đêm đi phía trong tường rào quanh trụ sở. Cứ một tuần thì đổi quân. Một tiểu đội cảnh binh Pháp ở nhà bên cạnh, với nhiệm vụ giao thiệp và đáp ứng các yêu cầu của Phái đoàn. Hàng ngày, chúng theo hộ tống cán bộ ta đi làm việc bên ngoài trụ sở. Tiểu đội cảnh binh được bố trí ổn định, không thay đổi người, do một hạ sĩ quan chỉ huy. Phụ trách chung công việc bảo vệ cho Phái đoàn là một Đại úy Pháp. Phía chính quyền Sài Gòn bố trí hai nhóm cảnh sát: Bọn ở Catinat và bọn ở bót Gia Định đến ở một nhà gần đó. Theo quy chế, cán bộ ta khi đi làm việc thì mặc quân phục, còn anh em đi chợ, lo cho sinh hoạt của Phái đoàn thì mặc thường phục.

Tôi được phân công phụ trách văn phòng. Mỗi tuần tôi đến trụ sở Ủy ban Quốc tế một lần ở đường Champagne, nay là đường Lý Chính Thắng, để nhận công văn, thư từ và thỉnh thoảng trao đổi thông tin với đoàn Ba Lan. Tôi đi chiếc xe Vedette của Phái đoàn, phía trước là một xe jeep với ba cảnh binh Pháp dẫn đường, lẽo đẽo theo sau là một xe jeep với ba tên công an ngụy. Còn đi chợ thì không có xe của cảnh binh Pháp, mà chỉ có một xe của công an ngụy đi theo.

Có lần tôi đến gần trụ sở Ủy ban Quốc tế, thì gặp phải cuộc biểu tình “đả đảo Ủy ban Quốc tế”. Họ đứng bít đường, la ó om sòm. Xe tôi trờ tới sau đuôi đoàn biểu tình. Nhiều người thấy tôi mặc quân phục, đội mũ lưỡi trai có sao vàng nền đỏ ngồi trong xe. Họ có thể là người qua đường đứng xem hay bọn đi biểu tình. Tôi chỉ nghe được một tiếng nói nhỏ có vẻ ngượng nghịu: “Đả đảo Việt Cộng”. Không ai hưởng ứng, rồi êm luôn. Nhiều xe dồn tới phía sau, cảnh binh Pháp vất vả dẹp đường cho xe tôi quay lại, đi đường khác. Có lần tôi đến nhà riêng của các Trưởng đoàn Ấn Độ, Ba Lan và Canada để trao thiệp mời tiệc, nhân dịp Quốc khánh nước ta. Nhà riêng qua các Trưởng đoàn ở khu vực biệt thự “Chú Hỏa”. Tôi hơi ngạc nhiên khi Trưởng đoàn Canada đích thân mời tôi vào phòng khách, tiếp đón rất ân cần. Ông ta mấy lần đề cao Đại tá Hà Văn Lâu để tranh thủ cảm tình, sau đó thăm dò xem ta có quan hệ gì với Cao Đài, Hòa Hảo không. Chắc ông ta cho rằng, moi tin sĩ quan cấp thấp dễ hơn. Tôi nói không biết gì hơn những gì có trên báo chí. Khi ra về, xe cảnh binh Pháp dẫn xe tôi đi cửa sau, bỏ xe công an ngụy lại. Họ rất ghét và khinh bọn cảnh sát ngụy.

Khi Phái đoàn ta vào được vài ngày thì có người lấp ló ở ngoài hàng rào, phía sau nhà, chỗ gốc cây thị. Anh Phạm Chung chờ lúc tên lính gác đi vòng ra phía trước, để tranh thủ đi ra phía sau xem ai. Thì ra là anh Lê Duy Nhuận, lúc đó là cán bộ Xứ ủy Nam Bộ. Anh Phạm Chung bảo anh ấy đi, dặn đừng trở lại nữa. Nguyên tắc của ta là hoạt động bí mật và hoạt động công khai phải tách biệt. Việc này diễn ra trong nháy mắt.

Mấy hôm, tôi thấy sức khỏe sa sút, hình như có vấn đề gì. Mấy anh trong Đoàn ủy thu xếp cho tôi đi khám bệnh, xem đó là chuyện vặt nên không báo cáo cho anh Phạm Hùng. Anh Mai Văn Bộ đưa tôi đến một bác sĩ có phương tiện X quang, quen với anh từ trước. Đi như thế này thì mặc thường phục. Chắc họ không biết chúng tôi đang làm gì nhưng biết là từ kháng chiến mới về. Khám bệnh xong, bác sĩ nháy mắt cho cô y tá không thu tiền. Về đến nhà, bị anh Hai Hùng phê bình rất gay gắt. Lẽ ra phải về Hà Nội để khám hay trị bệnh. Đi như thế này có thể ảnh hưởng đến an toàn của bác sĩ.

Độ vài tuần sau, anh Phạm Hùng trở ra Hà Nội, anh Nguyễn Văn Vịnh vào thay thế. Đến tháng 10 năm 1956, anh Vịnh lại về Hà Nội. Anh Nguyễn Văn Long là Phó Trưởng đoàn thay mặt Trưởng đoàn giải quyết mọi công việc thuộc phạm vi của Phái đoàn.

Quan hệ giữa ta và Pháp khá bình thường. Do mắc nợ Mỹ quá nhiều và không còn khả năng duy trì quân viễn chinh ở Đông Dương, lại phải đối phó với cuộc nổi dậy ở Algérie nên Pháp phải nhượng lại miền Nam và Mỹ thay Pháp không mất nhiều công sức. Quân Pháp chuẩn bị cuốn gói về nước. Họ làm trách nhiệm với Phái đoàn ta cho qua ngày, không gây rắc rối gì cho ta. Nhưng Phái đoàn ta như cái gai đâm vào mắt của Mỹ - Diệm, chúng nhất định không để cho ta yên.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:40:01 am

Từ ngày Phái đoàn ta mới vào, đã thấy không khí căng thẳng ngày càng tăng. Người đem báo đến bán cho Phái đoàn ta hàng ngày, được vài tuần bỗng nhiên biến mất. Từ đó ta mua báo ở nhiều nơi, không mua ở một chỗ nữa. Một buổi tối khoảng 7 giờ, không biết do bọn nào tổ chức, có 5 chiếc xe GMC chở bọn lính ngụy trang thường dân và bọn lưu manh côn đồ đến giăng hàng ngang trước cổng trụ sở Phái đoàn ta, đồng loạt rọi đèn pha vào nhà và dùng loa chửi bới om sòm. Ta vẫn để đèn trong nhà sáng bình thường các cửa mở toang như không có việc gì xảy ra. Nhưng mọi người đều thủ súng ngắn, không ra ngoài, tránh mọi sự khiêu khích. Sau cùng chúng cũng phải rút đi.

Anh Ba Tòng, bị viêm ruột thừa cấp tính phải đưa đi mổ ở bệnh viện Grall. Hai tên công an ngụy canh gác ở cửa phòng bệnh suốt ngày đêm, cho đến khi anh ra viện. Còn anh Mười Tuân và anh Thình đi chợ Bến Thành bị mấy tên khủng bố dùng búa thợ bạc đánh bị thương, được đưa ra Hà Nội điều trị.

Phía Pháp giới thiệu cho ta một người làm vườn. Qua theo dõi, chúng ta biết y không phải người lao động chân tay. Cung cách ăn ở, làm việc và đối xử của chúng ta đã cảm hóa được y. Hắn thú thật là nhân viên phòng nhì, được cài vào trụ sở Phái đoàn ta để lấy tin tức, nhưng không làm được gì và sau đó ta cho nghỉ việc.

Mấy năm sống căng thẳng, không giao tiếp với bên ngoài. Có khi đi chợ anh em gặp người thân nhưng không dám nhận để tránh liên lụy. Để giải trí, làm giảm bớt căng thẳng thì có sách báo, cờ tướng, tulơkhơ, đá bóng, đánh bóng chuyền... Tối thứ bảy, chủ nhật có chiếu phim. Cứ vài tuần, anh Uyển mang phim mới từ Hà Nội vào. Tuy nhiên, cũng nhiều lúc mát lòng vì những tình cảm của đồng bào ở chung quanh trụ sở Phái đoàn ta đối với chúng tôi. Người qua lại, kín đáo nhìn ảnh Bác Hồ và lá cờ Tổ quốc treo giữa nhà. Có em nhỏ đi ngang qua cửa trụ sở đưa tay lên hô lớn: - “Anh Hai quyết thắng!”. Còn có em, nhô đầu lên khỏi tường rào, lúc ở đầu này, lúc ở đầu kia, đưa cao một con chó lông xù rất đẹp có ý tặng cho Phái đoàn. Chắc việc làm này là có người lớn ở phía sau. Có em thừa lúc lính gác đã đi ngang qua, leo nhanh vào tường rào trụ sở, chạy vào bên trong Phái đoàn, xin giao công tác: “Việc gì cũng được, em không sợ nguy hiểm”. Tất nhiên, phải giải thích để cho em trở ra. Anh em đi chợ gặp nhiều chuyện cảm động, vì tuy mặc thường phục mà đồng bào vẫn biết.

Đầu năm 1956, phần lớn quân Pháp rút về nước. Đến ngày 25-4-1956, Bộ Chỉ huy quân đội Pháp giải thể, Phái đoàn liên lạc của Pháp bên cạnh Ủy ban Quốc tế ở Hà Nội và Sài Gòn cũng giải thể. Chỉ còn lại Phái đoàn của chính quyền Ngụy ở Sài Gòn. Quân ngụy thay quân Pháp canh gác trụ sở của ta và càng tăng thêm sự bao vây, o ép.

Ngày 26-11-1956, Vũ Văn Mẫu, Bộ trưởng Ngoại giao chính quyền Sài Gòn gửi công hàm cho Đại sứ Ấn Độ Partharasathi, Chủ tịch Ủy ban Quốc tế, đặt vấn đề triệt thoái Phái đoàn ta ở Sài Gòn với lý do Phái đoàn Pháp bên cạnh Ủy ban Quốc tế tại Hà Nội đã giải thể. Chủ tịch Ủy ban Quốc tế hứa sẽ xem xét nhưng vẫn cố gắng kéo dài thời gian cho ta.

Ngày 7-11-1957, Hoàng Thụy Nam, Trưởng Phái đoàn ngụy, gửi công hàm cho Ủy ban Quốc tế thông báo, nếu các sĩ quan ta ra Hà Nội công tác sẽ không được trở vào Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn không chấp nhận sự tiếp tục có mặt của Phái đoàn ta.

Từ tháng 10 năm 1957, địch hạn chế việc ta đi chợ. Chúng đòi ta nộp ảnh và lý lịch, cho người đến trụ sở Phái đoàn ta, lấy dấu vân tay với lý do đổi giấy thông hành mới. Hai sĩ quan của Phái đoàn ta ra Hà Nội khi trở vào bị giữ tại sân bay, buộc phải quay về Hà Nội. Thêm một bước nữa, từ ngày 26-4-1958, không cho ta đi chợ. Ta phải sử dụng lương thực, thực phẩm dự trữ đã chuẩn bị từ trước.

Qua lời Đại sứ T.N. Kaul, Chủ tịch Ủy ban Quốc tế nói với anh Long ở buổi tiệc đứng tại nhà khách của Phái đoàn Ấn Độ, thì ta biết rằng Phái đoàn Ấn Độ, tất nhiên cả Phái đoàn Canada, không còn ủng hộ việc Phái đoàn ta ở lại Sài Gòn.

Duy trì sự có mặt của Phái đoàn ta ở Sài Gòn đến đây là cố gắng rất lớn, không có điều kiện kéo dài hơn nữa. Ngày 17-5-1958, toàn Phái đoàn ta rút về Hà Nội theo đường bay của Ủy ban Quốc tế. Quân ngụy và cảnh sát được bố trí dài theo từ trụ sở của Phái đoàn ta đến sân bay. Đồng bào đứng dài theo đường nhìn đoàn xe của Phái đoàn ta đi qua. Ủy ban Quốc tế có cả Chủ tịch Ấn Độ Kaul đã ra sân bay tiễn đưa Phái đoàn ta trở về Hà Nội. Anh Long thay mặt Phái đoàn từ biệt đồng bào.

Khi về đến Hà Nội, Bác Hồ đã gặp mặt Phái đoàn tại Phủ Chủ tịch. Bác nói:

- Các chú đã làm nhiệm vụ như vậy là tốt !

Không còn có gì quý hơn lời khen thưởng đó!


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:45:47 am

NHỚ LẠI PHÁI ĐOÀN SÀI GÒN

TRẦN HỮU NGHĨA


Tôi đang cộng tác tại phòng quân giới miền Tây Nam Bộ, được quyết định của Bộ Tư lệnh Quân khu 9, điều động đi nhận công tác lái xe cho Phái đoàn Liên hợp đình chiến Nam Bộ đóng tại Phụng Hiệp (Cần Thơ).

Qua mấy ngày chờ đợi, anh Phan Trọng Tuệ, Phó Trưởng Phái đoàn Ủy ban Liên hợp đình chiến gọi tôi đến giao nhiệm vụ ra Hà Nội nhận hai bộ máy chiếu phim 35 ly và 3 bộ phim: Công phá Bá Linh, Điện Biên Phủ và phim tư liệu về sinh hoạt của Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc. Tôi được anh Nguyễn Thế Đoàn và anh Mạnh, hướng dẫn chiếu phim hàng đêm, tại các vùng tập kết Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Rất đông đồng bào đi xem, hết lời ca ngợi quân đội Liên Xô chiến thắng phát xít Đức, rất phấn khởi xem hình ảnh quân dân miền Bắc chiến thắng quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Qua hình ảnh Bác Hồ sống ở chiến khu Việt Bắc, đồng bào rất xót xa trìu mến, ước mong mau đến ngày độc lập thống nhất để được thấy Bác Hồ vào thăm miền Nam.

Đi chiếu phim hơn một tháng, tôi được lệnh bàn giao đoàn chiếu phim cho Sở Thông tin Văn hóa Nam Bộ để trở lại Phái đoàn Liên hợp Nam Bộ chờ nhận nhiệm vụ lái xe. Hết thời hạn tập kết, Phái đoàn Liên hợp đình chiến Nam Bộ theo chuyến tàu tập kết cuối cùng, chiếc Kilinski của Ba Lan rời bến sông Ông Đốc ngày 28-2-1955. Tôi được chứng kiến cảnh đồng bào tại chợ Cà Mau không cho gỡ ảnh Bác Hồ tại chợ. Chúng tôi ai cũng ngậm ngùi xúc động đến chảy nước mắt. Cán bộ tập kết đứng ra giải thích với đồng bào: “Cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục, miền Nam nhất định sẽ được giải phóng, Tổ quốc nhất định sẽ thống nhất. Xin bà con cho phép tạm rước ảnh Bác Hồ, hẹn ngày tái ngộ”.

Nghe vậy, đồng bào mới trao ảnh Bác Hồ và trịnh trọng đưa xuống thuyền. Từ chợ Cà Mau ra Vàm Tắc Thủ, chúng tôi nhìn thấy nhiều thanh niên nam nữ tay cầm cờ đỏ sao vàng, chạy dọc bờ sông theo chúng tôi và hô to: “Hồ Chủ tịch muôn năm!... Hồ Chủ tịch muôn năm!...” Chúng tôi vẫy tay đáp lại tạm biệt, nước mắt mỗi người cứ trào ra, khăn tay ướt đẫm cho tới khi khuất dạng.

Tại cửa sông Ông Đốc, tàu Ba Lan sắp kéo neo rời bến. Tàu kéo ba lần còi nhưng không khởi hành được. Chúng tôi chạy lên boong tàu nhìn thấy nhiều thuyền máy chở đầy ắp đồng bào nối đuôi nhau chạy quanh tàu Kilinski. Lúc bấy giờ thuyền trưởng tàu Ba Lan nhờ phiên dịch Việt Nam gọi loa: “Xin bà con hãy về nhà an toàn hạnh phúc. Chúng tôi đến giờ phải đi, đưa cán bộ chiến sĩ Việt Nam ra miền Bắc. Hẹn ngày gặp lại mang chiến thắng trở về sum họp mọi gia đình”. Sau đó chụp ảnh kỷ niệm.

Khi chạy ngang sông Bến Hải, tàu giảm tốc độ kéo ba hồi còi chào tạm biệt. Nhiều thủy thủ Ba Lan bày tỏ cảm tưởng: “Việt Nam rất đẹp và anh hùng”. Họ hứa về nước, sẽ kể lại những sự kiện mắt thấy tai nghe ở Việt Nam cho đồng bào họ biết.

Chúng tôi ra Hà Nội chờ đến ngày 17-5-1955, thì Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam mới lên đường công tác. Máy bay của quân đội Pháp đưa chúng tôi từ sân bay Gia Lâm đến sân bay Tân Sơn Nhất, rồi xe GMC đưa chúng tôi về trụ sở Phái đoàn. Trong phòng khách của trụ sở có một tấm ảnh lớn và lá cờ đỏ sao vàng, được trịnh trọng đặt giữa nhà. Đồng bào quanh vùng, qua lại ngoài vòng rào ngôi nhà đều có thể nhìn rất rõ lá cờ tổ quốc và ảnh Bác Hồ. Tôi rất vui sướng hãnh điện, vì đây là địa chỉ đỏ đầu tiên tiến hành đấu tranh công khai trong lòng địch đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Để có phương tiện đi lại, trước tiên đồng chí Sơn Việt mua chiếc Citroen dùng đi chợ hàng ngày. Cuối tháng 5 năm 1955, Phái đoàn ta được tặng chiếc Vedette màu đen bóng nhoáng để đi làm việc với Ủy ban Quốc tế. Nhớ những lần đi công tác, xe hộ tống của cảnh binh Pháp chạy trước, kế đến là xe của Phái đoàn ta, xe sau là công an địch mặc sắc phục và cuối cùng là xe của công an mặc thường phục. Nhưng trên đường phố, mỗi khi biết chúng tôi là sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, thì những ánh mắt đầy cảm tình của đồng bào sáng lên cùng với những nụ cười kín đáo. Có một lần xe chúng tôi đang chạy trên đường Galliéni, nay là Trần Hưng Đạo, có một xe taxi chạy nhanh vượt lên. Khi ngang tầm xe, anh tài xế taxi nói:

- “Các anh ơi, chạy chậm chậm cho chúng tôi nhìn đỡ khổ”.

Hàng năm để chào mừng các ngày lễ lớn, ngày Quốc khánh 2 tháng 9, ngày thành lập Quân đội 22 tháng 12, Phái đoàn ta mời Ủy ban Quốc tế đến trụ sở ta để chiếu phim chiêu đãi. Còn vào dịp đầu năm mới, ngày tết cổ truyền của dân tộc các anh ở Hà Nội mang vào cành đào thật đẹp chưng trước ảnh Bác Hồ để mừng Xuân mới. Tiếng lành đồn xa, đồng bào các tỉnh cũng như cơ sở cách mạng của ta dần dần cũng tìm ra được địa chỉ của Phái đoàn ta. Khi đi qua trụ sở Phái đoàn, nhiều người cố tình đi chậm lại để được nhìn rõ lá cờ đỏ sao vàng và ảnh Bác Hồ.

Để đảm bảo an toàn, anh em trong Phái đoàn luân phiên canh gác ngày cũng như đêm. Chúng tôi thường xuyên nhận được thư từ của đồng bào hoặc cơ sở ném qua hàng rào, tố cáo tội ác của địch vi phạm Hiệp định Giơnevơ, hoặc gửi lời chào mừng động viên chúng tôi. Đồng bào có người thân đi tập kết cũng gửi thư nhờ chúng tôi chuyển ra miền Bắc. Họ gói thư từ thành từng gói nhỏ rồi ném qua rào.

Sự có mặt của Phái đoàn ta trong lòng địch, như ngọn cờ kêu gọi đấu tranh chống ngụy quân ngụy quyền làm tay sai cho bọn xâm lược Mỹ, như cây đinh đâm vào mắt chúng. Chúng tổ chức khiêu khích, cho tay sai ném đá vào trụ sở Phái đoàn, hành hung sĩ quan ta đi chợ. Chúng cắt điện, cắt nước, thậm chí không cho đi chợ. Những sự kiện này xảy ra liên tiếp vào đầu năm 1958. Chính quyền Sài Gòn bằng nhiều cách gây sức ép với Ủy ban Quốc tế để đẩy Phái đoàn ta về Hà Nội.

Lãnh đạo Phái đoàn dự đoán âm mưu của địch sẽ bao vây không cho ta tiếp tế lương thực nên đồng chí Sơn Việt đã chuẩn bị dự trữ lương thực thực phẩm, chất đốt, nước uống và nước sinh hoạt, để có thể kéo dài thời gian có mặt của Phái đoàn ta trong lòng địch. Chúng tôi được lãnh đạo động viên giữ vững vị trí chiến đấu, hết sức cảnh giác để chống lại mọi âm mưu thủ đoạn thâm độc của địch. Chúng tôi sống rất căng thẳng, nhưng rất lạc quan biết rằng đồng bào cả nước theo dõi, ủng hộ chúng tôi.

Giữa tháng 5 năm 1958, Phái đoàn ta được lệnh của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam rút về Hà Nội. Ngày 17-5-1958, Phái đoàn ta rời sân bay Tân Sơn Nhất, có mặt đủ số cán bộ đảng viên đã giữ vững vị trí chiến đấu của mình trong lòng địch suốt 1.095 ngày đêm.

Phái đoàn ta về Hà Nội được thu xếp nghỉ tại nhà khách Quân đội, được Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho phép gặp mặt tại Phủ Chủ tịch. Buổi gặp mặt diễn ra rất thân thương trìu mến.

Trong đoàn ai cũng chăm chú nhìn Bác, như các con về gặp lại người Cha già dân tộc trong đại gia đình. Bác thăm hỏi từng đồng chí trong đoàn. Bác nghe từng lời báo cáo tình hình của anh Long và vui vẻ hỏi:

- “Chú Nghĩa đâu?”. Tôi liền đáp:

- “Dạ kính thưa Bác, có cháu đây”.

- “Chú Nghĩa lái xe bảo vệ an toàn cho cán bộ đi đến nơi về đến chốn. Bác có lời khen”. Sau đó Bác nói với Thủ tướng Phạm Văn Đồng thu xếp cho Phái đoàn được đi nghỉ mát 15 ngày. Rồi toàn đoàn chụp ảnh lưu niệm với Bác Hồ. Mọi người đều xúc động, Bác bận trăm công nghìn việc mà vẫn thu xếp gặp Phái đoàn. Thật là niềm vinh dự lớn. Được nhìn thấy Bác khỏe mạnh hồng hào, ai ai cũng mừng thầm, lắng nghe những lời Bác hỏi thăm đồng bào miền Nam nhất là đồng bào Sài Gòn. Chúng tôi biết là Bác luôn luôn hướng về miền Nam ruột thịt. Toàn đoàn hứa quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ, để không phụ lòng Bác.

Sau 15 ngày nghỉ mát ở Đồ Sơn trở về Hà Nội, tuần tự từng đồng chí nhận quyết định mới. Phần tôi được về nhận nhiệm vụ tại Sư đoàn 350 bảo vệ Thủ đô.

Nhớ lại buổi chia tay thật lưu luyến tình đồng chí. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau ôn lại thời gian ba năm sống chung, công tác tại Phái đoàn Sài Gòn, vui buồn có nhau, đoàn kết như anh em một nhà, lúc ốm đau có anh Hạnh y sĩ chăm sóc chu đáo. Cán bộ khi đi công tác về muộn có chú Mười Tuân để dành cơm lành canh ngọt, bồi dưỡng tận tình, xe cộ hỏng có chú Tư Thình sửa chữa phục hồi nhanh chóng, các anh điện đài mật mã làm việc không quản mệt nhọc, các anh phiên dịch làm việc ngày đêm căng thẳng bảo đảm chính xác, v.v.. Chú Ba Tòng đau ruột thừa thập tử nhất sinh, được đưa đi cứu chữa ở bệnh viện Đồn Đất. Chú Mười Tuân và chú Tư Thình bị địch hành hung đã được anh Hạnh tận tình chăm sóc và đưa ra Hà Nội chữa trị. Những sự cố đó đều được lãnh đạo Phái đoàn can thiệp với Ủy ban Quốc tế và lo lắng chu toàn.

Riêng tôi sống chiến đấu và công tác tại Phái đoàn, được học tập gương người tốt việc tốt của từng thành viên, của Trưởng Phó đoàn và các chuyên viên. Các anh đã ân cần truyền lại những bài học cảnh giác bí mật, trước mọi âm mưu thủ đoạn của địch, giáo dục ý chí chiến đấu bằng sự trung thành tuyệt đối, rèn luyện quan điểm quần chúng, đi dân nhớ, ở dân thương...


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:48:39 am

HƠN BA NĂM CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI TRONG LÒNG ĐỊCH

TRỊNH NGỌC THÁI


Đầu năm 1954, ta thắng to ở Điện Biên Phủ. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp tại Việt Nam và trên toàn cõi Đông Dương, đánh dấu một bước thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ. Cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị để giành độc lập hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc.

Tôi chuyển về công tác ở Sở Giáo dục Liên khu 4 từ đầu năm 1954. Một hôm, nhận được quyết định của cấp trên, cử tôi cùng với một đồng chí khác ra Việt Bắc tham dự lớp huấn luyện về nội dung Hiệp định Giơnevơ, về thắng lợi của ta và thất bại của địch, về phương hướng đấu tranh trong thời gian tới.

Tham dự lớp huấn luyện có nhiều đồng chí từ nhiều địa phương khác đến. Trong lớp huấn luyện này, chúng tôi ôn lại tiếng Anh và tiếng Pháp, chuẩn bị tham gia vào đội ngũ cán bộ đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ, để có thể tiếp xúc với quân đội Pháp và Ủy ban Quốc tế gồm có Ấn Độ, Ba Lan và Canađa.

Sau khi mãn khóa, tôi tham gia đoàn đi đón Ủy ban Quốc tế theo đường từ Lạng Sơn rồi sang Bằng Tường (Trupg Quốc) và trở về bằng xe hơi, từ Bằng Tường đến Thái Nguyên và ở trên đồi thông gần Thị xã.

Chỗ ở của Ủy ban Quốc tế là mấy dãy nhà lợp tranh. Mỗi nhà được ngăn nhiều phòng bằng các liếp tre đan thành phòng ngủ, phòng ăn, phòng làm việc. Giường ngủ cũng có nệm, có khăn hoa trải giường. Nền nhà bằng đất nện, mỗi nhà có một chum nước bên cạnh đặt một chậu sắt tráng men, có khăn mặt, xà phòng thơm.

Ngày 10-10-1954, quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Hà Nội. Ngày hôm sau, Đại quân ta vào tiếp quản Thủ đô.

Ra đi từ năm ,1946, 9 năm trôi qua tôi mới được trở về Hà Nội trong nỗi vui mừng và hồi hộp. Từ Thái Nguyên, xe chạy qua Trung Giã sang cầu Long Biên. Tôi xao xuyến nhìn xuống sông Hồng quen thuộc, nước đỏ phù sa. Hà Nội đây rồi, với Hồ Gươm, Hồ Tây và 36 phố phường đầy ắp những kỷ niệm từ thời niên thiếu. Tôi ở chung với một số anh em khác tại một căn nhà trên phố Ngô Quyền, nay là văn phòng Bộ Văn hóa Thông tin. Gia đình tôi trước ngày Toàn quốc kháng chiến ở tại số 30 Hàng Tre cách đây không xa. Cả gia đình ra đi theo kháng chiến, không biết ai còn ai mất.

Về Hà Nội, nhưng kỷ luật tiếp quản chưa cho phép được về thăm nhà, cũng chưa được gặp người thân sống trong vùng bị giặc tạm chiếm nên chỉ có thể đi ngang qua mà nhìn vào căn nhà quen thuộc cho đỡ nhớ mà thôi. Vài hôm sau khi về Hà Nội, tôi được điều động đi cùng với anh Đỗ Như Chung sang làm việc trong Ủy ban Liên hợp ở Lào. Máy bay của Quân đội Pháp đã đưa chúng tôi đến Cánh Đồng Chum. Đến đây anh Chung đi Phong Xa Lỵ, còn tôi về Sầm Nưa bằng trực thăng, Sầm Nưa là tỉnh giải phóng của Pathét Lào. Nhưng ở Sốp Hào, còn một căn cứ của bọn thổ phỉ do Pháp trang bị, đang đóng quân. Tôi đã nhiều lần đến điều tra với Tổ Quốc tế đòi chúng phải rút. Ở Sầm Nưa, chúng tôi nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của anh Thao Ma (tỉnh trưởng), anh Cheo Xúc (chánh văn phòng) và chị Keo, nên có nhiều thuận lợi trong khi làm việc với Ủy ban Quốc tế.

Ít lâu sau, tôi được lệnh vào Sài Gòn làm việc với tổ 47 của Ủy ban Quốc tế, đi điều tra việc thi hành Điều 14C Hiệp định Giơnevơ với tên mới là Nguyễn Văn Hoa. Tôi được phát một bộ quân phục. Khi đó trang bị của Quân đội ta chưa có quân hàm, chỉ có quân hiệu của Quân đội nhân dân Việt Nam trên mũ lưỡi trai. Tôi chọn bộ quần áo số 3 là số nhỏ nhất nhưng vẫn phải chữa lại mới mặc được.

Vẫn chiếc máy bay quân sự với tốc độ 300 km/giờ đưa chúng tôi từ sân bay Gia Lâm đến Viên Chăn qua Phnôm Pênh rồi hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất. Sau đó tôi được đưa đến khách sạn Galliéni ở ngã tư Galliéni và Huỳnh Quang Tiên. Lúc đó tôi thấy khách sạn khá to, nhưng sau ngày giải phóng, tôi đến nơi đây tìm mãi mới nhận ra được vì ngôi nhà này bị lọt thỏm giữa các nhà cao tầng chung quanh.

Tôi làm việc với anh Đặng Sĩ Hùng người miền Nam, sĩ quan liên lạc của Quân đội ta từ Phụng Hiệp lên. Chúng tôi ở cùng khách sạn với đoàn Ba Lan.

Hằng ngày chúng tôi làm việc với Tổ Quốc tế về những vi phạm Điều 14C Hiệp định Giơnevơ của phía Pháp. Chúng không chịu trao trả tù binh và tù chính trị. Theo đơn tố cáo của ta, chúng vẫn tiếp tục giam giữ anh chị em ở nhà lao Côn Đảo và khám Chí Hòa.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:50:30 am

Lần đầu tiên, tôi được đưa ra Côn Đảo với Tổ điều tra của Ủy ban Quốc tế, bằng tàu thủy của Quân đội Pháp. Từ lâu tôi đã nghe nói đến Côn Đảo là nơi khét tiếng tàn ác, tra tấn tù nhân hết sức khủng khiếp. Khi tàu cặp bến, bọn chúa đảo cho người xuống tàu xách valy chúng tôi lên bờ. Tôi và anh Đặng Sĩ Hùng ở một villa nhỏ nằm sát bờ biển. Từ hiên nhà có thể nhìn ra biển mênh mông. Tôi nhớ đến những mẩu chuyện về các đồng chí chúng ta đã dùng bè gỗ ghép lại, vượt biển trốn khỏi nhà tù trở về đất liền để tiếp tục hoạt động. Thật là mạo hiểm và dũng cảm.

Ngay tối hôm đó, tên chúa đảo mở tiệc rượu chiêu đãi Ủy ban Quốc tế. Có các món ăn đặc sản như bánh bao thịt dơi, trứng vích... Tôi chưa bao giờ ăn các món này nên ngài ngại. Nhưng thử thì thấy cũng ăn được.

Đảng và Bác Hồ vẫn luôn hiện điện trong tim tù chính trị. Anh chị em tù nhân tìm cách liên lạc với chúng tôi, nhờ chuyển thư và quà cho Trung ương Đảng và Bác Hồ. Đó là cái gọng kính bằng đồi mồi và một vài thứ khác. Thật là cảm động. Điều quan trọng là họ đã chuyển đến cho chúng tôi, danh sách tù binh và tù chính trị hiện còn đang bị giam giữ. Bọn địch đã đưa cho chúng tôi bản danh sách tù thường phạm mà chúng đã trà trộn tù binh và tù chính trị, để tiếp tục giam giữ các đồng chí chúng ta, không chịu trao trả như Hiệp định Giơnevơ quy định.

Có trường hợp, các đồng chí chúng ta vào nhà sĩ quan Pháp hay ngụy nhằm tiêu diệt chúng, nhưng khi việc không thành bị bắt thì khai là vào nhà ăn trộm để được hưởng án nhẹ hơn. Nay ta đòi chúng phải trao trả thì phải có bằng chứng. Và khi Tổ quốc tế đến điều tra thì phải phản cung. Anh em phải khai lại và khớp với đơn tố cáo của ta. Có trường hợp địch chuyển các đồng chí ta sang nhà lao khác, làm cho mất tăm tích để Tổ Quốc tế không thể đến điều tra được. Ngược lại bọn tội phạm hình sự lợi dụng lúc này, khai là tù chính trị để được thả. Vì ta đã biết nên không chấp nhận. Đã có lần chúng lập Tổ Quốc tế giả để phát hiện tù chính trị thật sự, nhằm mục đích trả thù khủng bố, đe dọa anh chị em tù không cho phản cung.

Nhờ những thông tin chính xác của bạn bè và sự khôn khéo của ta, nên hằng chục tù binh và tù chính trị đang bị giam giữ trái phép đã được trao trả. Nhiều anh chị bị đánh đập, bị giam giữ lâu năm, nên khi hỏi cung phải nằm trên giường và khi được trao trả, ra miền Bắc, phải vào bệnh viện điều trị hằng năm trời.

Vào năm 1955, tình hình miền Nam ngày càng căng thẳng. Mỹ hất cẳng Pháp, đưa Ngô Đình Diệm làm Tổng thống. Chúng tiến hành tố cộng, lùng bắt và tiêu diệt các cơ sở cách mạng hòng biến miền Nam thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Vì vậy, ta đặt Phái đoàn liên lạc Quân đội nhân dân Việt Nam ở Sài Gòn thì chẳng khác nào cắm một cây gai vào mắt chúng.

Chúng ra sức gây khó khăn nhưng ta kiến trì đấu tranh nên ngày 31-3-1955, ta và Pháp đã ký Nghị định thư thành lập Phái đoàn ta ở Sài Gòn. Và ngày 17-5-1955, thì Phái đoàn ta mới vào. Trụ sở của Phái đoàn nằm trên đường Chi Lăng (Gia Định).

Đó là một villa vừa phải do các anh Sơn Việt và Kha chọn khi đi tiền trạm. Nhà nằm cách đường Chi Lăng khoảng chục mét, điện tích khoảng 200 mét vuông. Chung quanh có tường rào bằng gạch. Phía trước là hàng rào song sắt nên đi ngoài đường vẫn có thể nhìn vào nhà được. Ngôi nhà chính có nền cao là nơi làm việc. Phía sau có dãy nhà phụ, có bếp ở giữa và gara ôtô bên cạnh. Nhà chính và nhà phụ nối bằng một hành lang rộng mát, là nơi anh em thường ngồi ăn cơm, nói chuyện, đánh tú lơ khơ hoặc cờ tướng. Chung quanh nhà có vườn. Bên hông có đường đi. Thông thường vào buổi chiều, chúng tôi ra phía sau nhà đá bóng rồi tắm rửa trước khi ăn cơm tối. Phía trước có cây xoài lâu năm, phía sau có cây thị cổ thụ. Ngoài ra còn có khoảnh đất trống để trồng rau.

Ngoài cổng có 3 - 4 loại lính của Pháp và ngụy mượn cớ canh gác nhằm theo dõi hoạt động của Phái đoàn ta, ngăn cản nhân dân tiếp xúc. Chúng không muốn để nhiều người biết sự có mặt Phái đoàn ta ở Sài Gòn. Chúng ra sức hạn chế sự đi lại của ta. Mỗi lần cán bộ ta đi công tác bên ngoài trụ sở thì có xe cảnh binh đi trước, xe cảnh sát ngụy theo sau. Khi chúng ta xuống xe đi vào phố hoặc đi chợ, thì mấy tên lính kín lẽo đẽo theo sau.

Tuy Phái đoàn ta đã có mặt ở Sài Gòn, nhưng tôi và anh Đặng Sĩ Hùng vẫn ở khách sạn Galliéni vì chúng tôi đi với Tổ của Ủy ban Quốc tế.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:51:21 am

Ngày 20-7-1955, kỷ niệm một năm ký kết Hiệp định Giơnevơ, ngày mà ngụy quyền xem là ngày “quốc hận”, chúng cho tay sai đến uy hiếp và khủng bố Ủy ban Quốc tế đang ở tại khách sạn Galliéni. Các bạn Ba Lan và chúng tôi dự đoán rằng chúng sẽ đến giở thói côn đồ. Chúng tôi chuẩn bị đối phó, quyết chống cự đến cùng kể cả khi phải hy sinh. Chúng tôi đốt tài liệu, dùng cọc màn làm vũ khí và kéo tủ đứng ra ngoài hành lang, ngăn chặn không cho chúng tràn đến phòng chúng tôi. Anh chị em lao công phục vụ khách sạn có nhiều cảm tình với ta. Họ lo sợ chúng tôi bị hành hung nên mang quần áo thường phục đến để chúng tôi thay bộ quân phục, rồi trà trộn trong số anh em phục vụ thoát ra ngoài. Chúng tôi giải thích, sự có mặt của chúng tôi là hợp pháp và chúng tôi là sĩ quan của Quân đội Nhân dân Việt Nam nên không thể làm như thế được. Quân đội Liên hiệp Pháp có trách nhiệm bảo vệ chúng tôi.

Chúng tôi gọi điện cho Ủy ban Quốc tế và Bộ Chỉ huy Liên hiệp Pháp thông báo về việc này và yêu cầu họ can thiệp.

9 giờ sáng, bọn côn đồ, có cả lính ngụy cải trang thành dân thường, tập trung dưới lòng đường, phát loa phóng thanh kêu gọi biểu tình và hô các khẩu hiệu phản động. Sau đó chúng xông vào khách sạn. Nhưng chúng không vào được cửa chính vì có bọn lính Âu Phi thuộc Quân đội Liên hiệp Pháp án ngữ. Bọn côn đồ trèo qua lầu các nhà chung quanh, rồi từ trên cao leo sang khách sạn. Các bạn Ba Lan dồn hết xuống tầng một là nơi có phòng ở của chúng tôi và cũng tìm cách chống lại bọn côn đồ khi chúng xâm nhập. Lính Âu Phi từ tầng trệt được điều lên tầng một, đặt súng liên thanh tại hành lang. Bọn côn đồ không dám xông đến phòng chúng tôi bèn chuyển sang cướp bóc đồ đạc trong khách sạn.

Đến chiều tối, bọn Pháp đưa xe đến đón. Từ phòng, chúng tôi xuống cửa khách sạn đi giữa hai hàng lính Âu Phi dàn thành hành lang bảo vệ. Chúng đưa chúng tôi về Gò Vấp tạm trú tại một bệnh viện (nay là Bệnh viện 175). Ngày hôm sau, chúng tôi về khu nhà Chú Hỏa, gầm có 7 villa, là nơi làm việc và ăn ở của Ủy ban Quốc tế.

Mấy ngày sau đó, anh Đặng Sĩ Hùng và tôi được chuyển về trụ sở Phái đoàn ta. Sau đó anh Hùng được chuyển ra Hà Nội, còn tôi thì tiếp tục công tác trong Phái đoàn Sài Gòn cho đến ngày Phái đoàn được lệnh rút về Hà Nội. Sau đúng 3 năm, tức là 1095 ngày đêm, Phái đoàn ta có mặt ở Sài Gòn.

Hằng ngày tôi tham gia điểm báo, viết và dịch tài liệu, công văn. Thỉnh thoảng được đi ra phố, đến trụ sở Ủy ban Quốc tế hay đi với các đồng chí làm nhiệm vụ hậu cần. Kỷ luật trong cơ quan không được tiếp xúc người thân và người quen cũ. Tôi là người miền Bắc nên ít có người thân quen ở Sài Gòn như các anh em khác. Thế mà cũng có lúc gặp người quen di cư vào đây phải cố gắng không để lộ.

Anh em gặp người thân ngoài phố, chỉ nhìn nhau rồi tìm cách ra hiệu thật kín đáo. Nếu tiếp xúc hay để lộ có quen biết nhau sẽ có hại cho họ. Tôi nhớ chuyện thương tâm và cảm động của anh Mười Tuân. Anh là người nấu bếp giỏi. Trước đây, anh có làm ở khách sạn của Pháp. Một hôm đi chợ về, lẽ ra anh phải vào bếp nấu ăn thì lại chạy về phòng mình nằm khóc. Hôm nay, anh gặp chị mà hai người không nói với nhau được câu nào. Trong kháng chiến, chị hoạt động trong thành phố, anh ra chiến khu. Hai vợ chồng gặp lại mà không dám nhìn nhau. Có lẽ, vì biết anh hay đi chợ nên đã đóng giả làm người bán thịt ngồi chờ. Khi anh đến mua, chị gói thịt cho anh mà không lấy tiền, về đến nhà, mở gói thịt ra mới thấy trong đó có tiền của chị gửi cho anh. Chị buôn bán vặt để có điều kiện hoạt động, đời sống khó khăn có dư dật gì đâu. Anh cầm tiền mà nước mắt tuôn trào.

Từ đó trở đi, anh không gặp lại chị nữa.

Có hôm đi chợ Bến Thành - Sài Gòn, hai anh Mười Tuân và Mười Thình bị bọn ngụy bố trí cho côn đồ tấn công bằng búa. Rồi chúng bỏ chạy, vứt lại cái búa gây án. Anh Mười Tuân thì bị thương ở đầu, còn anh Mười Thình thì gãy răng. Đồng bào trong chợ xúm lại chăm sóc hai anh, còn bọn cảnh sát theo bảo vệ thì lảng ra xa. Hai anh được vào bệnh viện điều trị mấy hôm, sau đó ra Hà Nội vào Bệnh viện 108 mất mấy tháng. Còn cái búa gây án nay được trưng bày tại Viện bảo tàng Cách mạng ở Hà Nội.

Cũng nói thêm là khi anh Mười Tuân ra miền Bắc, được bố trí của anh Nguyễn Thọ Chân, anh làm Giám đốc Nhà khách Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Không ngờ khi có Hội nghị Pari về Việt Nam vào giữa năm 1968, chúng tôi gặp nhau, cùng làm việc trong Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Anh vẫn giản dị, nhiệt tình với nhiệm vụ nấu bếp như trước kia. Anh rất tự hào về món rượu cocktail của mình. Trong một cái bình có nắp kín bằng inox bóng nhoáng, anh pha trộn một số loại rượu, rồi đưa bình lên xuống, ngang dọc, lúc bằng hai tay lúc chỉ một tay như một nghệ sĩ xiếc.

Anh Mười Tuân đã mất trong một chuyến đi công tác nước ngoài. Nhớ anh, tôi cầm lòng nghĩ đến một đồng chí giản dị, khiêm tốn, thương yêu đồng đội. Anh đã hy sinh cả cuộc đời mình cho nhiệm vụ mà Đảng giao phó.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:51:51 am

Trong điều kiện công tác khó khăn do địch dùng mọi thủ đoạn để chống phá ta như vậy, ngoài công tác nghiệp vụ, chúng tôi còn phải tổ chức canh gác 24/24. Ban đêm luân phiên mỗi người một tiếng, trừ trưởng đoàn. Chúng tôi đi tuần tra chung quanh nhà ở. Ngoài hàng rào và 4 góc tường đều có đèn sáng suốt đêm. Có máy nổ dự phòng khi bị cắt điện. Trong cơ quan có nuôi chó để giữ nhà. Mỗi lần đến phiên gác, tôi mặc quân phục chỉnh tề, đeo súng ngắn và mang theo đèn pin. Không khí rất căng thẳng, có lúc nghe tiếng một quả xoài rơi từ trên cây xuống cũng giật mình.

Ngoài sân trước trụ sở không có cột cờ, nhưng ngay bên trong phòng khách chính có treo trên tường lá cờ đỏ sao vàng lớn, dưới là ảnh Bác Hồ để trên tủ buffet. Do sân hẹp hành lang trống trải, hàng rào song sắt nên bà con đi ngoài đường có thể nhìn rõ cờ và ảnh. Các cô chú và các cháu mỗi lần qua lại trước trụ sở đều đi chậm để ngắm nhìn. Có những cô bác từ miền Trung và các tỉnh Nam Bộ có dịp lên Sài Gòn cũng đến xem trụ sở Phái đoàn ta.

Hằng tuần cơ quan tổ chức chiếu phim cho anh em xem hoặc chiêu đãi khách quốc tế. Đồng bào tụ tập ngoài hàng rào để xem, tuy không rõ nhưng vẫn cứ xem. Thỉnh thoảng bọn lính lại đuổi. Có những phim hay như: Công phá Bá Linh, Chiến thắng Điện Biên Phủ, phim về Bác Hồ, v.v.. Bọn lính gác cũng đứng xem.

Thỉnh thoảng cũng có người ngoài vào cơ quan để chuyên chở hàng hóa. Đó là dịp để có thể trò chuyện với anh em trong cơ quan một lúc. Có lần chúng cài mật thám vào làm vườn. Nhưng vì cảm phục trước thái độ của ta, anh ta đã khai thật là người của Tổng nha cảnh sát đến và nghỉ việc.

Ngày 20-7-1956 trôi qua mà không có Tổng tuyển cử. Mỹ - Diệm ra sức đàn áp những người tiến bộ. Chúng hạn chế hoạt động của Ủy ban Quốc tế và Phái đoàn ta, hạn chế đi lại, bao vây cơ quan chặt chẽ hơn trước, đưa ra những đòi hỏi không thể chấp nhận, để ta không thể đi chợ mua lương thực và thực phẩm được. Chúng đặt máy nghe trộm, bị ta phát hiện. Chúng cắt nước cắt điện, khóa cổng trụ sở không cho ra vào. Có lần chúng huy động hàng trăm tên côn đồ đến bao vây trụ sở, ném đá vào nhà, xô ngã cánh cổng sắt, hò hét chửi bới, viết khẩu hiệu bậy bạ vào tường đòi Phái đoàn rút về miền Bắc. Chúng dọa bắt hết cán bộ trong Phái đoàn, giam giữ đánh đập, rồi trả ra miền Bắc. Anh em trong cơ quan chuẩn bị sẵn sàng đối phó, giữ vững vị trí cho đến cùng. Lần khác, chúng bắn lén vào cơ quan định ám hại đồng chí của ta... Tất cả chúng tôi đoàn kết nhất trí, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.

Để có thể duy trì sự có mặt lâu dài của chúng ta, anh em đã xây bể dự trữ nước, dự trữ gạo và thực phẩm, trồng rau tự túc có cải bẹ, xu hào, đu đủ, mùng tơi, rau muống. Điện đài luôn sẵn sàng liên lạc với Trung ương. Anh Mười Tuân cân đong đo đếm sao cho đủ khẩu phần mà không phải đi chợ. Bụng tuy đói nhưng anh em vẫn phải tỏ ra đàng hoàng, sinh hoạt bình thường, làm việc nghiêm túc. Sau giờ làm việc buổi chiều, anh em vẫn ra sân đá bóng. Anh Hoàn thì gầy ốm xương sườn dô ra, anh Mười Thình thì bụng to như có chửa... thủ trưởng Nguyễn Văn Long người tròn chắc nịch là hăng hái nhất. Mỗi lần đá được bóng vào gôn, anh phà lên cười thỏa thích. Sau đá bóng, chúng tôi tắm chung trong một buồng tắm, thoải mái đùa giỡn với nhau. Làm như vậy, để bọn địch thấy rằng ta vẫn trơ ra đấy và sẽ kiên cường bám trụ. Đối với tôi, thời gian công tác ở Phái đoàn Sài Gòn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó là thời gian tôi được kết nạp vào Đảng. Anh Phạm Chung, và Mai Văn Bộ là hai đảng viên giới thiệu. Trong lòng địch, dưới lá Quốc kỳ và Đảng kỳ, tôi đã được kết nạp Đảng. Đến nay đã trên 40 tuổi Đảng, mà hình ảnh đó vẫn còn rạng rỡ trong lòng.

Đến năm 1958, tình hình đã khác hẳn, Hiệp định Giơnevơ đã bị phá hoại, Tổng tuyển cử không diễn ra, đồng bào miền Nam bị khủng bố, bị đàn áp dã man. Mỹ - Diệm tuyên bố không ký nên không thi hành Hiệp định Giơnevơ. Chúng vô hiệu hóa hoạt động của Ủy ban Quốc tế. Trung ương Đảng ra lệnh cho Phái đoàn rút về Hà Nội vào ngày 17-5-1958. Phái đoàn ta đã chuẩn bị chu đáo ra đi với tư thế đàng hoàng. Từ trước cổng trụ sở đến sân bay Tân Sơn Nhất, đồng bào đứng dọc hai bên đường lưu luyến tiễn đưa. Vài giờ sau máy bay đáp xuống sân bay Gia Lâm an toàn.

Đông đảo đồng bào, đại diện Bộ Tổng tư lệnh và Ban Liên hợp Trung ương, ra sân bay đón đoàn. Chúng tôi được Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp tại Phủ Chủ tịch. Sau đó chụp chung ảnh lưu niệm. Bác Hồ khen Phái đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ của Trung ương giao thế là tốt. Không thể có niềm vui nào hơn thế.

Tuy thời gian không dài nhưng những năm công tác ở Sài Gòn đối với tôi là thời gian rèn luyện đầy thử thách. Đến nay, gần một nửa số người trong Phái đoàn đã mất, anh em còn lại cũng đã 70-80 tuổi, hầu hết đã nghỉ hưu. Nhưng chắc chắn là đối với mỗi người, những ngày ở Sài Gòn mãi mãi còn lại trong lòng những tình cảm và kỷ niệm không thể nào quên.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:54:27 am

NHỮNG CHUYỆN GIỮA CHỢ BẾN THÀNH

TRẦN VĂN THÌNH


Năm 1954, sau Hiệp định Giơnevơ, tôi được Tỉnh ủy Sa Đéc giao nhiệm vụ đi công tác trong Phái đoàn của ta ở Sài Gòn, với trách nhiệm sửa chữa cơ khí. Tôi theo giao liên đến Ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ, ở Phụng Hiệp (Cần Thơ). Trong khi chờ tổ chức Phái đoàn, tôi phụ trách sửa chữa các thuyền máy đưa đón cán bộ trong Ủy ban Liên hợp đi công tác. Cho đến hết 200 ngày tập kết, tôi theo chuyến tập kết cuối cùng trên chiếc tàu Ba Lan Kilinsky tại bến sông Ông Đốc, ra miền Bắc.

Sau khi Phái đoàn Liên lạc Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Quốc tế ở Sài Gòn được thành lập, chúng tôi vào Sài Gòn ngày 17-5-1955. Tôi được giao nhiệm vụ phụ trách máy điện, máy xe hơi, phụ bếp, bảo vệ và cắt tóc cho anh em.

Thường ngày tôi đi chợ với anh Mười Tuân. Trước khi đi chợ, chúng tôi hội ý nhận định tình hình, nên đi chợ nào: chợ Sài Gòn, chợ Phú Nhuận, hay chợ Gia Định... và mỗi chiều đều có kiểm điểm lại công việc để rút kinh nghiệm kịp thời. Chúng tôi thường xuyên thay đổi chợ, có hôm thì đi chợ Sài Gòn, hôm sau đi chợ Phú Nhuận hoặc chợ Bà Chiểu,... để địch khó theo dõi. Chúng tôi đi chợ bằng chiếc Citroen và hết sức tuân theo luật lệ giao thông, cố gắng không để xảy ra những chuyện rắc rối trên đường phố có thể tạo lý do để chúng gây khó khăn cho Phái đoàn của ta. Thời gian đi và về trong vòng hai tiếng đồng hồ. Xe của Phái đoàn ta khi chạy trên đường phố, không cắm cờ nhưng trên mặt tay lái có tấm plắc bằng đồng ghi tên Phái đoàn. Khi đi chợ, chúng tôi ăn mặc thường phục. Còn bọn công an đi xe jeep phía sau, có cắm cờ xanh với danh nghĩa là bảo vệ, nhưng thực chất để theo dõi chúng tôi. Bọn công an cũng ăn mặc thường phục.

1. Phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam có mặt ở Sài Gòn

Khi chúng tôi ăn mặc thường phục, đi trên đường phố bằng xe du lịch loại thông thường thì không ai để ý. Cũng không ai để ý đến chiếc xe jeep của bọn công an mang cờ xanh chạy phía sau.

Nhưng có một lần, khi chúng tôi đến chợ Sài Gòn thì bọn công an chỉ chỗ đậu xe trên đường Amiral Courbet (Nguyễn An Ninh). Tôi thấy bảng cấm đậu xe vào ngày chẵn, chỉ cho công an đi theo xe thấy tấm bảng. Chúng bảo: “Cứ đậu”. Độ nửa giờ sau, cảnh sát giao thông đến lập biên bản phạt vì đậu sai quy định. Tôi gọi cảnh sát bảo vệ đến giải quyết. Hai bên tranh cãi nhau.

- “Xe cảnh sát đi bảo vệ xe của Phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam cạnh Ủy ban Quốc tế có quyền đậu”. Cảnh sát hỏi:

- “Tại sao xe của Phái đoàn mà không cắm cờ?”

- “Xem tấm plắc bên trong xe thì rõ”.

Cảnh sát giao thông xin lỗi vì không biết. Rồi nhờ cảnh sát bảo vệ ghi vào biên bản là phạt sai để hủy bỏ.

Chuyện lùm xùm, làm cho những người đi mua bán xúm lại xem. Vì vậy họ mới biết xe của “Phái đoàn ta, là Bộ đội Cụ Hồ hiện đang có mặt tại Sài Gòn”. Nhiều người nói: “Mấy ông bộ đội ăn mặc đàng hoàng, ăn nói lịch sự lễ phép, mua bán sòng phẳng, vậy mà họ nói là Việt Minh ốm yếu, mình mẩy đầy lông lá”. Có người còn nói: “Việt Minh đi đứng công khai mà chính phủ lại bảo Tố Cộng”.

Tiếng lành đồn xa. Từ đó về sau, hễ thấy chúng tôi thì đồng bào niềm nở. Những ngày lễ lớn như ngày 2-9, 19-5... các kiosque bán hoa cho chúng tôi không lấy tiền. Các nơi bán thực phẩm với giá rẻ. Có lần khi mua thịt xong, họ kêu chúng tôi lại: “Mấy ông ơi! quên gói thịt nè”. Tôi biết là họ muốn tặng cho Phái đoàn nên trở lại lấy gói thịt và nói:

- “Tôi mua rồi mà lại quên trả tiền”. Và lấy tiền ra trả thêm...

Đi ra ngoài phố hay khi đi chợ, sợ nhất là gặp người quen. Phải cố gắng lánh mặt để họ đừng bị liên lụy. Có lần tôi đang mua hàng, có người đến vỗ vai:

- “Thầy Tư...” Tôi ngước nhìn lên. Trời đất ơi! Vợ tôi đang đứng tươi cười trước mặt. Tôi liền nói: “Chị lầm rồi, tôi không phải là thầy Tư, tôi tên Được, người giống người đó”. Bà vợ tôi cãi lại: “Anh là Tư Thình, chồng của tôi mà không biết sao được...”.

- “Chị lầm rồi, không tin chị hỏi mấy ông công an thì rõ”. Nghe nói đến công an, vợ tôi tỏ vẻ ngạc nhiên. Công an theo bảo vệ đang đứng phía sau tôi, nói: “Chị lầm rồi, đây là người mấy ông trong Phái đoàn Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam đó. Chị đi đi, người giống người mà...”. Vợ tôi liền bỏ đi một nước. Tôi liếc nhìn theo, cho đến khi khuất dạng, xem có chuyện gì xẩy ra không. Thật là đứng tim.

Một lần khác, tôi đang chọn mua vải cho cơ quan để làm khăn trải bàn. Có một bà đến sát bên tôi hỏi: “Cậu ơi! Vải này có tốt không?” Tôi ngó lại. Trời đất quỷ thần ơi! Chị Sự là chị ruột của tôi đang đứng liếc nhìn tôi. Tôi trả lời: “Vải này bề ngoài thì thấy tốt, nhưng không biết có chắc không?”. Rồi nói nhỏ: “Tôi còn công tác, chị coi chừng công an”. Rồi bỏ đi mà nước mắt muốn trào ra. Chị em sống với nhau từ lúc nhỏ đến ngày kháng chiến, mỗi người đi một nơi. Nay gặp lại mà chẳng hỏi thăm được câu nào, chị sinh sống ra sao? Chị ơi,... xin hẹn ngày thống nhất.

Có lần tôi lái xe đến ngã tư gặp đèn đỏ. Tôi dừng xe lại, trước hãng ASAM, là nơi trước đây tôi làm cặp rằn. Anh em thợ họ gọi “Tư Thình kìa tụi bây ơi”, kêu cả thằng xếp Tây đến xem. Nhưng thấy tôi mặc quân phục, họ chỉ nhìn mà không dám gọi.

Còn anh Mười Tuân, có lần đang mua thịt, tôi thấy có một chị khá đẹp đứng kế bên, cuốn gói tiền cầm trong tay rồi nhét vào tay anh Mười, về nhà tôi hỏi: “Cha nội, sao tiền của người ta mà qua tay anh”.

“Vợ tao đó mày ơi. Bây giờ mày phê bình tao chịu, chớ tao không biết sao”. Tôi liền lên lớp cho anh Mười: “Sau này tìm cách lánh mặt, đừng mang hại cho vợ con đó”.


2. Vụ hành hung

Hôm đó chúng tôi đi chợ Sài Gòn. Anh Tòng lái xe, anh Ý bảo vệ, còn tôi và anh Mười Tuân thì vào chợ. Thông thường, có hai tên công an theo sau chúng tôi còn hôm nay chỉ có một. Đến chợ, tên này nhìn tôi với ánh mắt rất khác thường, ý chừng như muốn báo có điều chẳng lành. Rồi y lủi đi mất, chỉ còn tôi với anh Mười Tuân vào chợ. Tôi có ý đề phòng trước và sẵn sàng đối phó. Chúng tôi đến khu trung tâm mua cá. Tôi thấy có một tên mặc quần sọc mang giày, đội nón Fléchet chèn vào đi sau anh Mười Tuân. Sau lưng tôi cũng có một thằng khác. Tôi nghĩ phải coi chừng chúng muốn gì?...

Anh Mười Tuân vừa mới mua xong mấy con cá lù đù thì thằng đi sau lưng nói lớn: “Cộng sản, tao đánh cho mày biết tay”. Rồi đánh vào đầu anh Mười Tuân 3 búa (loại búa thợ bạc). Tôi chưa kịp phản ứng gì, thằng đi phía sau tôi cũng đánh lên đầu tôi 2 búa, rồi bỏ chạy, quăng luôn cả búa. Đồng bào xúm lại xem. Chuyện đánh nhau ở giữa chợ cũng thường xảy ra, nên đồng bào nói: “Mấy ông làm gì mà đánh với nhau dữ vậy?”. Tôi bàn với anh Mười Tuân phải nói cho đồng bào rõ. Tôi liền leo lên sạp cá, và nói: “Xin bà con vui lòng cho tôi nói vài lời. Chúng tôi là bộ đội trong Phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam từ Hà Nội vào Sài Gòn để tổ chức hiệp thương Tổng tuyến cử thống nhất nước nhà. Nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tổ chức bọn lưu manh đánh chúng tôi”.

Nghe như vậy đồng bào mới biết và bu lại càng đông hơn chung quanh chúng tôi. Người thì lấy khăn lau máu, người thì than thở:

- “Sao lại đánh người ta, tội nghiệp quá. Họ đi chợ chớ có làm gì đâu mà đánh đập”.

- “Cộng sản đi chợ công khai đó, sao không giỏi mà bắt họ đi, lại tổ chức tố cộng !”

Có người muốn giúp, đưa chúng tôi vào nhà thương Sài Gòn băng bó. Chúng tôi nói:

- “Ở cơ quan có bác sĩ đầy đủ, không phải đi bệnh viện”. Từ đó đến chỗ để xe, suốt dọc đường, chúng tôi vừa đi vừa giải thích cho đồng bào biết chúng tôi là ai và chính quyền miền Nam đã tổ chức đánh chúng tôi như thế này.

Khi đến xe, chúng tôi về trụ sở mà không có cảnh sát đi theo. Chúng đã trốn mất.

Tại trụ sở, có Ủy ban Quốc tế đến thăm. Ông Chủ tịch đòi phía Pháp phải đưa chúng tôi ra Hà Nội ngay để chữa trị. Nhưng phía Pháp sợ ảnh hưởng chính trị, bảo là chưa có chuyến bay nên độ mươi ngày sau mới chở chúng tôi đi.

Những ngày sau đó, đồng chí An và đồng chí Ý đi chợ thay chúng tôi. Đồng bào ở chợ Sài Gòn và các chợ khác đến hỏi thăm chúng tôi xem sức khỏe đã bình phục chưa.

Ra Hà Nội, chúng tôi vào Bệnh viện 108 chữa trị, độ vài tháng sau thì vết thương lành hẳn. Chúng tôi trở lại công tác ở Phái đoàn Sài Gòn cho đến khi chấm dứt nhiệm vụ.

Ngày 17-5-1958, chúng tôi trở ra Hà Nội, được gặp Bác Hồ và các đồng chí trong Bộ Chính trị, Bác hỏi đùa: “Bọn Mỹ - Diệm đuổi các chú về không cho ở nữa phải không?” Đồng chí Long trả lời Bác:

- “Thưa Bác, theo lệnh của Bác, chúng cháu đã trở ra Hà Nội”.

Bác nói:

- “Thế là tốt!”

Bác hỏi thăm nhân dân miền Nam sống như thế nào. Khi đồng chí Long báo cáo về những chuyện khủng bố dã man của Mỹ - Diệm, Bác lấy khăn lau nước mắt. Bác nói:

- “Công tác Trung ương giao cho các chú đã xong rồi. Bây giờ các chú đi nghỉ hai tháng, sau đó nhận công tác mới tùy theo nhu cầu của nhân dân và tùy theo trình độ, để kiến thiết và xây dựng Tổ quốc”.

Chúng tôi được ảnh hình lưu niệm với Bác và Thủ tướng Phạm Văn Đồng với những niềm vui không sao tả xiết.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2023, 08:56:21 am

 
NGÀY TÔI GẶP LẠI MẸ

LÊ GẤM


Khi công tác tại Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam ở Sài Gòn vào năm 1955, tôi lấy bí danh là Nguyễn Văn An. Có lần tôi cùng với hai đồng chí nữa ra trung tâm Sài Gòn để mua một số hàng hóa cho cơ quan. Như thường lệ, khi chúng tôi ra đi, có một xe hiến binh đi trước và một xe công an theo sau xe chúng tôi, để hộ tống.

Khi đến đoạn giữa đường Bonard (nay là Lê Lợi), xe chúng tôi dừng lại, đậu sát lề. Chúng tôi xuống đi bộ dọc theo các phố hướng về chợ Bến Thành - Sài Gòn, để tìm mua các thứ cần thiết. Xe công an đậu sát xe chúng tôi. Chúng cũng xuống xe, theo sát chúng tôi.

Chúng tôi rảo bước trên hè phố, nhìn vào các cửa tiệm tràn ngập đủ loại hàng hóa, đầy màu sắc bóng nhoáng. Bỗng nhiên, tôi thấy mẹ tôi với một người quen đang đi ngược chiều, cách tôi khoảng 10 mét.

Trời đất! Tôi hết sức kiềm chế, để không kêu thành tiếng “Mẹ ơi!”, để không chạy lại ôm chầm lấy mẹ sau ngót 10 năm xa cách.

Kể sao cho hết những kỷ niệm của những ngày thơ ấu trong vòng tay thương yêu của mẹ, lúc vui buồn được mẹ khuyên bảo, lúc sai quấy được mẹ chỉ dạy, lúc đau ốm được mẹ chăm sóc thuốc thang... Cho đến ngày lớn khôn, tôi xa mẹ ra đi theo các anh bộ đội đánh Tây, mẹ tiễn đưa và gửi gắm. Rồi một đêm vào năm 1947, trên đường đi công tác, tôi chỉ ghé nhà thăm mẹ được giây lát. Mẹ tôi mừng không sao tả xiết. Chưa kịp nói được câu nào thì mẹ đã vội ra ngay phía sau nhà, bới đống vỏ dừa khô lâu năm, cao gần 1 mét, rồi đào lên một hộp nhỏ được giấu kín, lau sạch và đưa cho tôi. Với giọng dịu hiền xúc động mẹ nói:

- “Con giữ đôi bông tai để sau này cưới vợ”.

Tôi mở hộp ra, thấy đôi bông tai bằng vàng ròng. Tuy trời còn tối, nhưng tôi biết mẹ đang khóc. Có lẽ vì mẹ nghĩ rằng, mẹ sẽ không chờ được tới ngày tôi cưới vợ. Tôi đã luôn mang theo bên mình và giữ gìn đôi bông tai đó như một phần máu thịt của mình.

Giờ đây gặp lại mẹ trong gang tấc, mà tôi phải làm như không quen biết. Đến chợ Bến Thành - Sài Gòn, hình ảnh của mẹ vẫn còn vảng vất đâu đây thì bỗng nhiên lại nghe tiếng gọi bên tai:

- “Gấm ơi!...”

Tôi giữ bình tĩnh, phớt lờ như không phải gọi tên mình. Tôi là “An” mà. Người gọi đã đến gần với tôi. Tôi nhận thấy ngay, đó là thằng bạn thân cùng xã, học cùng trường với tôi. Tôi liền nói rất khẽ, mặt vẫn nhìn về phía trước bình thường:

- “Báy Võ, mày tránh đi, cảnh sát đang theo sau tao đấy”.

Và nó đã nhanh trí bỏ đi luôn. Thật hú hồn, chúng không phát hiện được.

Giờ đây suy ngẫm lại, tôi còn giật mình, không biết sao mình đã nhanh trí ứng phó được, không để xảy ra việc gì đáng tiếc.

Sự giáo dục thường xuyên của Đảng, sự giúp đỡ tận tình của tập thể cộng với sự tu dưỡng rèn luyện không ngừng của bản thân, đã giúp tôi vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2023, 12:15:04 pm

ĐỔI BẠC

LÊ HOÀNG NGỌC


Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho phép Nam Bộ in bạc Cụ Hồ, để lưu hành trong vùng tự do, song song với tiền Đông Dương ngân hàng (còn gọi là tiền xanh), có giá trị như nhau và rất được nhân dân tín nhiệm.

Hiệp định Giơnevơ 1954 quy định vùng tập kết Cà Mau có thời hạn là 200 ngày. Vấn đề được đặt ra là làm sao thu hồi hết số bạc Cụ Hồ đang lưu hành và đổi lại bạc xanh cho nhân dân, trước khi chấm dứt thời hạn tập kết chuyển quân. Trong khi đó, số bạc xanh mà ta có không đủ để đổi.

Ở miền Bắc, khi chúng ta tiếp quản đến đâu, thì Chính phủ ta cũng dùng tiền Việt Nam đổi và thu hồi lại bạc xanh trong nhân dân ở các vùng mới được giải phóng. Số bạc xanh thu hồi được chuyến cấp tốc, lúc đầu bằng máy bay quân đội Pháp cho kịp thời gian và về sau bằng các chuyến tàu chuyển quân tập kết của Liên Xô và Ba Lan.

Vì vậy việc đổi bạc được thực hiện kịp thời. Số bạc xanh còn dư thừa sau khi đổi xong, được phân phối về các tỉnh, làm quỹ cho các cơ sở cách mạng hoạt động ở miền Nam. Có một phần giao cho Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Quốc tế ở Sài Gòn. Lúc đó vào cuối năm 1954, Ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ sắp hết nhiệm vụ và bắt đầu hình thành Phái đoàn liên lạc Sài Gòn do đồng chí Phạm Hùng làm trưởng đoàn.

Số bạc xanh từ Trung ương chuyển cho Phái đoàn Sài Gòn để chi tiêu trong thời gian sắp tới, gồm nhiều tiền lẻ khá cồng kềnh và nặng nề, nên cần thiết đổi lấy tiền chẵn.

Vào tháng giêng 1955, còn độ nửa tháng nữa đến tết, một số cán bộ Phái đoàn Sài Gòn đã ra thị trấn Cà Mau, đang còn do quân đội ta quản lý, để mỗi ngày ra chợ đổi tiền lẻ lấy tiền chẵn. Số thanh thiếu niên ở chợ Cà Mau thuộc lớp nghèo thành thị, thường phải dựa vào chợ để kiếm sống hàng ngày, nhưng rất tích cực đổi tiền giúp ta. Mỗi buổi sáng số thanh thiếu niên này đến nhận tiền lẻ đem ra chợ đổi, trưa mang về giao nộp không thiếu một xu.

Nhưng một hôm, có một thanh niên không đến nộp tiền chẵn, khiến anh em ta lo lắng. Đến sáng hôm sau, anh thanh niên này đã đến và nộp đủ số tiền được đổi. Chuyện nhỏ thôi, nhưng chúng ta càng thêm tin tưởng vào lòng dân trong vùng tạm chiếm đối với cách mạng.

Sau khi Đế quốc Mỹ hất cẳng Pháp và đưa Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ bày trò phế truất Bảo Đại để làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, thì vào giữa năm 1956,   Chính quyền miền Nam chủ trương đổi bạc, mà chỉ đổi giấy bạc 100 đồng Đông Dương ngân hàng, trong vòng một tuần lễ. Mục đích chính của việc đổi tiền là để cướp số bạc xanh còn ở miền Bắc, do Chính phủ ta đã thu hồi trong nhân dân sau khi tiếp quản và số bạc xanh của các cơ sở ta đang hoạt động.

Riêng Phái đoàn Sài Gòn cũng được giao số bạc xanh khá lớn đi đổi, nhưng làm sao để chính quyền Sài Gòn không gây trở ngại. Sau khi trao đổi thống nhất, dùng biện pháp “Đột kích” ngay từ ngày đầu.

Số bạc xanh 100 đồng, được mang ra đếm và sắp xếp theo thứ tự, gói ghém đàng hoàng rồi cho vào vali sẵn sàng đưa ra ngân hàng, để đổi vào giờ đầu ngày đổi bạc đầu tiên. Để gây bất ngờ, không cho địch kịp đối phó, chúng tôi đã làm giấy giới thiệu với nội dung :

“Đại úy Sơn Việt sĩ quan liên lạc của Phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đến ngân hàng, đổi bạc Đông Dương ngân hàng lấy tiền Ngân hàng Quốc gia để trả lương cho lính”.

Đêm hôm trước ngày đổi bạc, chúng ta bí mật đưa valy tiền vào trong cốp xe. Đồng chí Sơn Việt được giao trách nhiệm đem đi đổi và có thêm đồng chí Ý bảo vệ. Sáng hôm sau như thường lệ, ta báo cho cảnh binh gác cổng biết là ta đi chợ, để chúng theo hộ tống. Xe ta vừa đến ngân hàng, là đúng giờ bắt đầu làm việc. Ta đường hoàng xách vali vào và trình giấy giới thiệu đổi bạc cho Giám đốc. Sau vài phút suy nghĩ, ông Giám đốc Ngân hàng đã ký tên vào giấy giới thiệu, đồng ý cho đổi. Chúng ta lập tức đưa vali tiền vào đổi.

Trong khi chờ đợi nhân viên ngân hàng đếm tiền, cán bộ ta hồi hộp lo bọn cảnh sát theo bảo vệ, gọi điện, báo cho chỉ huy và ngân hàng sẽ thay đổi ý kiến. Đến khi tiền được đưa ra, chúng ta không cần kiểm lại mà nhanh chóng đi ra khỏi ngân hàng.

Thế là việc đổi tiền được trót lọt!


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2023, 12:20:43 pm

Sứ mạng

Kính tặng Phái đoàn liên lạc
Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam
tại Sài Gòn (1955 - 1958)


Phái đoàn của bộ đội anh hùng
Cắm giữa Sài Gòn, thế tiến công
Giám sát, răn đe loài giặc nước
Dân tin, địch sợ, trái tim hồng

Tháng 5-1958
Đại tá Thúc Tâm
Đại tá Mạnh Khoát





 

NHÀ VIỆT MINH TẠI SÀI GÒN

G.S NGUYỄN NGỌC THƯỞNG


1. Hội Nghị Giơnevơ

Thông tin về những vấn đề mà Hội nghị Giơnevơ thảo luận và quyết định đến với nhân dân Sài Gòn rất nhanh, rất nhiều và đa dạng. Những người đang hoạt động ở một thành phố lớn nhất trong cả nước, vừa vui mừng vừa chóng mặt.

Quyết định của Hội nghị về việc thành lập một Phái đoàn Quốc tế và một Phái đoàn liên lạc Quân đội ta, để kiểm tra và giám sát việc thi hành Hiệp định ở phía Nam, là một tình hình rất mới đối với cuộc chiến đấu của nhân dân ta và thực hiện việc kết thúc một cuộc chiến tranh xâm lược đã bị hầu hết mọi người tiến bộ trên thế giới lên án.

Nỗi vui mừng như bao trùm. Mọi người đều thấy được sự lớn mạnh, vững chắc của chế độ ta và lực lượng vũ trang của ta. Đỉnh cao nhất của các thông tin là Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh của ta sẽ đến đóng tại Sài Gòn. Tuy nhiên, trong sự vui mừng lớn lao đó vẫn còn những câu hỏi:

- “Sao tụi nó cứ trơ ra như thế... Sao ta không diệt chúng luôn... Sao không đánh tới... hay là chúng nó muốn cầu viện cái gì đây...?”

Anh chị em giáo viên, thanh niên và sinh viên học sinh chúng tôi ở cơ sở cũng nêu những câu hỏi như vậy và còn có câu hỏi khác là:

- “Bao giờ trường mình, thanh niên mình được học tập và làm việc theo chế độ mới?”

Khi chúng tôi phản ánh lên cấp trên tình hình này thì mới biết nhiều cơ sở khác cũng đã lên tiếng. Câu trả lời là:

- “Cứ vận động ở cơ sơ theo đường lối phương châm của mình. Còn khi có chủ trương chung đối với Hiệp định và Phái đoàn thì sẽ có phân công vận động riêng”.

Đồng chí Bí thư nói xong, lặng thinh. Chúng tôi thường nghe ý kiến này của cấp trên, nhưng lần này thì thật là nặng nề. Đồng chí Bí thư lại nói:

- “Tình hình có nhiều phấn khởi nên có nhiều ý kiến là tốt. Các đồng chí cấp trên cũng khen việc góp ý, chỉ dè dặt với ý kiến đánh tới... Nhưng chúng ta ở cơ sở, cố gắng tìm hiểu ý kiến nhân dân, tuyên truyền và động viên cơ sở thực hiện nhiệm vụ thường xuyên. Các đồng chí cấp trên nói, khi có sự kết hợp, phối hợp và phân công riêng cho cơ sở thì cố gắng làm cho tốt...”.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2023, 12:22:12 pm

2. Tình hình kéo dài

Đến khi có tin một Phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ đến đóng ở Sài Gòn với Ủy ban Quốc tế thì tình hình trở lại sôi nổi trong các cuộc hội nghị và trong các lần hội ý, hội báo với nhau. Ở cơ sở anh chị em thấy số lượng thành viên Phái đoàn quá ít. Nhưng cũng phải hiểu rằng, Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh không thể nhiều như một trung đoàn hay thậm chí như một trung đội. Còn trụ sở thì không thể khác hơn một chỗ trong trại lính hay một khách sạn Quốc tế. Cuối cùng khi có tin Phái đoàn sẽ đóng trên đường đi từ ngã tư Phú Nhuận sang chợ Bà Chiểu và Lăng Ông Tả Quân Lê Văn Duyệt, thì các đồng chí chúng tôi thấy trụ sở đó ở ngay trong vùng của mình hoạt động. Trong các trường học vùng ĐaKao, Tân Định và Sài Gòn, tôi nghe thanh niên và thầy giáo nói rất nhiều, nhưng mấy hôm sau tôi mới đi tìm xem.

Qua khỏi Cầu Cống khoảng 500 — 600 thước, tôi xuống xe đạp dắt bộ đến một khoảng trống, tôi dừng lại, chưa biết phải làm gì. Bỗng có một cậu thanh niên bán càrem cây, đi ngược chiều với tôi và hỏi trổng:

- “Kiếm nhà Việt Minh hả?... Đó, chỗ đèn sáng đó, thấy không?”

Rồi cậu ta tiếp tục bước đi rao bán hàng bỏ mặc tôi.

Tôi đi lần tới, nhìn thấy một villa trệt khá lớn, nhưng cũng nhỏ so với sức tưởng tượng của mình. Tôi nhớ hình như có cột cờ trước sân. Tôi vừa đi qua thì nghe tiếng mở cửa. Tôi ngoái lại nhìn thấy có hai chiếc xe hơi chạy ra. Chiếc xe đầu là xe jeep, chở bốn quân nhân mặc quân phục chính quy Việt Nam, theo như mình thấy trên số màn ảnh ở Sài Gòn. Chiếc sau là xe mui kiếng, không thể nhìn thấy bên trong được.

Bây giờ tôi mới nhớ đến người bạn đã thông báo cho tôi lúc nãy, một điều mong ước mà tôi không dám hỏi ai. Tôi cảm thương sự nhạy bén đối với tình hình đất nước của một người lao động vất vả trên đường phố để giúp đỡ một người đi đường, không hề quen biết với mình.

Hôm sau khi tôi đang đứng nói chuyện cùng một nhóm học sinh và thầy giáo trên lề đường ở Tân Định, có một nữ sinh quen với vài người trong nhóm chúng tôi, đến nói:

- “Cháu cũng mới đi ngang qua nhà Việt Minh. Khi cháu còn đang ngó mong tìm kiếm, bỗng nhiên có một anh thanh niên bước tới sau lưng cháu và hỏi:

- “Cô tìm ai đó? Muốn kiếm nhà Việt Minh hả?”

Cháu đi từ trường Đức Trí lên và đã chuẩn bị đối phó các tình huống xảy ra. Khi nghe hỏi như vậy, cháu quay lại thì anh thanh niên này đã bước đến bên cháu, hỏi tiếp:

- “Đó, nhà Việt Minh đó, cô có việc gì và cần tìm ai phải không?”

- “Dạ, tôi muốn gặp người trong Phái đoàn để hỏi thăm về cha tôi. Mẹ tôi dặn kỹ trước khi tôi đi, phải ráng tìm gặp cho được người trong Phái đoàn”.

- “Bộ cha cô là Việt Minh hả?”

- “Cha tôi đi vắng từ khi tôi còn nhỏ. Bây giờ mẹ tôi mới nói cho tôi biết”.

Anh thanh niên tự tiện với tay rút lấy tờ đơn mà tôi đang cầm trong tay. Tôi không giành lại nhưng cho biết đây là đơn của mẹ tôi gửi cho Phái đoàn.

- “Nhờ anh giúp đưa tôi đến Phái đoàn hay chỉ cho tôi vô gặp Phái đoàn cũng được”.

- “Được, tôi sẽ chuyển đơn này cho Phái đoàn giùm cô. Và người ta sẽ trả lời trên báo cho cô biết”.

Nghe cô nữ sinh thuật lại xong, mọi người im lặng, theo đuổi những suy nghĩ riêng của mình. Cuối cùng, có một thanh niên lên tiếng:

- “Nếu tôi, chắc nó đã thộp cổ rồi”.

Một thanh niên khác nói:

- “Cái đó là giả dụ thôi. Sự thật thì anh ta đã nhận đơn và còn hứa là Phái đoàn sẽ trả lời. Đó là anh ta hứa, chứ không phải Phái đoàn hứa”.

Tôi rời khỏi nhóm, vừa đi vừa suy nghĩ. Trong hàng ngũ bao vây Phái đoàn, cũng có người này người nọ. Tâm tư nguyện vọng của nhân dân đều rõ ràng đối với mọi người. Người đồng tình và ủng hộ cũng nhiều, kể cả những người bên hàng ngũ đối phương. Trong các báo, cũng có những chuyện ngắn, năm ba hàng kể lại những chuyện chung quanh trụ sở Phái đoàn. Tất cả những điều này nói lên phần nào sự thay đổi trong cuộc sống của nhân dân thành phố và của nhân dân miền Nam với việc lập trụ sở Phái đoàn Quốc tế và Phái đoàn Việt Minh. Chúng tôi ở cơ sở, làm công tác của mình với tinh thần mới, chú ý đến các việc xảy ra chung quanh Phái đoàn để tăng cường hỗ trợ cho cô bác trong vùng và để tích cực bổ sung các nội dung công tác.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2023, 12:22:38 pm

3. Tình hình thay đổi nhanh chóng

Trường tư thục Cấp Tiến được thành lập ở Bà Chiểu, trường tư thục Hoài An và Chu Mạnh Trinh ở Phú Nhuận. Xa hơn là trường Đức Hòa ở Long An và ở Bà Rịa. Học sinh các trường tiểu học công vui chơi ca hát tự do như ở vùng giải phóng. Còn các trường trung học công thì không khí cởi mở tự do, là nửa công khai. Nhiều vùng ở phía Nam hoặc đông Bắc miền Nam, có những lõm giải phóng. Nhiều đồng chí không tập kết và ở chiến khu về, sống với bà con, bạn bè hướng dẫn trẻ con trong xóm học hành ca hát tự do.

Lính tráng, dân vệ của chế độ đương thời co lại không dám đi lung tung, vì sợ bị bắt sống và tước khí giới. Nhiều đơn vị thân binh như Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo tách khỏi Quân đội Cộng hòa. Có nơi phát sinh những cuộc xung đột lớn bằng vũ khí, làm cháy nhà, gây chết người, thúc đẩy thêm phong trào đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại trật tự an ninh và cứu trợ nạn nhân. Lúc bấy giờ chính quyền Sài Gòn thẳng tay đàn áp, khủng bố bắt bớ tràn lan trong nhân dân. Tình hình rất căng thẳng. Ở một số cơ sở, có nhiều anh chị em nghĩ rằng chiến tranh đã tràn về thành phố. Nhiều thanh niên biến mất theo bạn bè các cơ sở khác, để kéo đến trụ sở Ủy ban Quốc tế ở đường Champagne, đưa đơn và không chờ trả lời, đi ra vĩ tuyến vượt lằn ranh chia cắt hai vùng. Có người đi chung với người yêu hay bạn bè, và cũng có người chỉ đi một mình. Ở cơ sở phát sinh nỗi lo mất liên lạc hay mất người công tác. Các cuộc hội ý hội báo trở nên lúng túng.

Nhiều cuộc đấu tranh như biểu tình ở đường Kitchener, chùa Phật Ấn hay ở trường trung học Pháp Hoa, dẫn đến việc nhiều người bị bắt, bị giam giữ. Nhiều đồng chí nhớ lại cục điện lúc bấy giờ, giống như tình hình sau năm 1949, khi Hồng quân Trung Quốc “Nam hạ”, tiến đến gần biên giới Hoa - Việt và nghĩ rằng tình hình bất an sẽ không dừng lại nếu không có một kết thúc thỏa đáng. Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh cũng bị uy hiếp bằng nhiều cách và nhiều lần, cuối cùng đã rút về Hà Nội. Thế là Hiệp định Giơnevơ đã bị vi phạm trắng trợn sau khi Mỹ hất cẳng Pháp dựng lên chế độ Diệm bán nước.

Các Phái đoàn trong Ủy ban Quốc tế cũng rút đi trước sự chứng kiến của nhân dân thành phố Sài Gòn. Họ đứng dài trên các đường phố, không tụ tập đông đảo để tránh bị khiêu khích. Nhưng chắc chắn là họ sẵn sàng bảo vệ các đại diện Ủy ban Quốc tế và Phái đoàn của ta, bất cứ lúc nào và ở đâu.

Có một số thanh niên nam nữ mà trước đây chúng tôi tưởng là họ đã đi tập kết rồi, nhưng nay lại quay về với cơ sở bạn bè. Và giờ đây các cơ sở tiếp tục xây dựng như trong thời kỳ còn chiến tranh. Một cục điện mới đã bắt đầu.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2023, 12:28:04 pm

PHÁI ĐOÀN! NIỀM TIN VÀ HY VỌNG

NGUYỄN THỊ BẢY


Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng ngã ba Đốc Công thuộc xã Bình Hòa, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, trên tỉnh lộ 22. Về sau đường này đổi tên là đường Chi Lăng, còn nay là đường Phan Đăng Lưu.

Thuở ấy, nơi đây là vùng thôn quê nằm sát nách Sài Gòn. Trong những năm 1950, vùng này có nhiều khu đất thánh và nghĩa địa, cỏ lau mọc um tùm với những đầm lầy âm u, tĩnh mịch. Khi trời chạng vạng tối, bọn trẻ con chúng tôi không dám đi ngang qua vì sợ ma. Những cơn gió thổi nhẹ đưa đẩy cành tre dọc hai bên nghĩa địa kêu “cọt kẹt” làm rợn người yếu vía.

Nhà tôi nằm trong khuôn viên Trường tiểu học Quang Trung. Tại đây có khoảng 20 gia đình sinh sống, quây quần đầm ấm. Chung quanh khuôn viên là các bụi tre tầm vông mọc um tùm, chen lẫn với các cây găng có hoa trắng thơm phức. Ra đến đường Chi Lăng là khu Trường tiểu học Nhiêu Tứ của thầy giáo Thanh. Cách một con hẻm, là villa xinh xắn của một Trung tá người Pháp. Dân ở đây gọi là nhà “ông Năm”, nằm ở giữa một khu đất rộng, phía sau có một cây thị cổ thụ, tàn lá xum xuê. Khi có trái chín mùi thơm phức lan ra khắp cả vùng. Villa này thường bỏ trống, nên bọn trẻ chúng tôi hay lẻn vào hái thị. Phía trước villa là trạm biến điện, còn gọi là “nhà hơi”. Trạm biến điện được bảo vệ nghiêm ngặt, có trạm gác và lính canh.

Trong xóm, bọn trẻ cùng trang lứa với tôi rất đông, thường vui đùa với nhau. Một hôm, anh Bé Niểng thầm thì bên tai tôi:

- “Bảy ơi, các anh về ở nhà “ông Năm” đông lắm...!”

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

- “Các anh nào?”

- “Thì các anh đằng mình đó”.

Nhìn vẻ mặt rạng rỡ nhưng nghiêm túc của anh, tôi ngỡ ngàng đến kinh ngạc không sao hiểu nổi. Tôi tự hỏi: “Tại sao các anh lại dám về đây giữa thanh thiên bạch nhật, không sợ chúng vây bắt hay sao?”

Anh Bé Niểng là tên chúng tôi đặt, còn tên thật của anh là “Cẩm Lai”, con của chú Tư “Cơm Tấm”. Chú Tư tham gia kháng chiến ngay từ những ngày đầu, làm công tác thành bị địch bắt tra tấn dã man. Vừa ra tù thì ốm nặng do bị tra tấn hiểm độc ở bót Catinat khét tiếng gian ác và nhà lao Gia Định. Thím Tư gánh vác gánh nặng gia đình. Hằng ngày thím quẩy gánh cơm tấm, đi bán ở chợ Cầu Cống, lo nuôi chồng con đau ốm. Ít ai biết tên thật của chú Tư. Còn anh Cẩm Lai vì hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bị lao hạch mà không tiền chạy chữa. Hậu quả là cổ anh bị niểng qua một bên và trở thành tên anh. Tuy thể trạng ốm yếu nhưng anh rất lạc quan yêu đời, thường có mặt trong các lần biểu diễn văn nghệ ở trường hoặc đi cứu trợ nạn nhân bị hỏa hoạn...

Anh Bé Niểng nói tiếp:

- “Các anh về đông lắm. Phái đoàn của ta đó mà! Anh với thằng ba “Đánh Xe Ngựa” đã chui lỗ chó vào bên trong rào sau cây thị, được các anh cho xem tranh ảnh rất nhiều. Chiều chiều bọn anh còn chui vào đá banh với các ảnh, vui lắm”.

Từ những ngày đầu, khi còn tầm vông vạt nhọn, với “Mùa thu rồi ngày hăm ba”, nơi đây đã là căn cứ địa của kháng chiến vùng ven đô. Chiều nào các anh thanh niên trong xóm cũng tụ tập trong khu nhà của tôi để tập luyện, chuẩn bị đánh Tây. Rồi một ngày nọ, các bụi tầm vông chung quanh nhà đều bị chặt xuống làm vũ khí. Tay trong tay, các anh tập hợp lại và xông ra mặt trận về hướng Cầu Kiệu. Tuy tôi còn rất nhỏ, mẹ tôi cũng dắt theo các anh. Tôi bước đều theo tiếng hô “Một, Hai...”. Rồi súng nổ, tôi thấy mọi người chạy tán loạn...

Từ đó những buổi chiều nhộn nhịp không còn nữa. Có những ngày lính Tây đi càn quét, với “bao bố” nhìn mặt. Trong trí óc thơ ngây, tôi không hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra. Những điều gì mà tôi trông thấy thật quá khủng khiếp.

Có lần anh Mì, là một thanh niên trong xóm bị Tây bắt dẫn đi làm “bao bố”. Anh không gật đầu trước những khuôn mặt quen biết trong xóm. Và liền sau đó là những cú đánh tơi bời mà anh vẫn lắc dầu. Rồi đến anh Cung, anh Dừa bị bắt đưa lên trại Cẩm Giang, anh Xiêm bị tra tấn đến chết ở cầu Ông Thìn. Bóng dáng các anh thanh niên trong xóm thưa dần. Thảm cảnh đó được tôi ghi sâu trong lòng.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2023, 12:29:08 pm

Một hôm, khi cả nhà tôi đang ăn cơm trưa thì thình lình tôi thấy anh Thiên đứng lù lù bên hông nhà, tóc tai rũ rượi. Nhìn quanh tôi thấy bọn phòng Nhì dày đặc. Anh Sáu tôi chưa kịp nuốt xong miếng cơm đã bị chúng trói tay dắt ra xe “cây” (xe chở tù). Mẹ tôi như điên dại chạy theo chiếc xe đang nhả khói lao đi vun vút. Rồi đến anh Năm tôi, mặt mày tím bầm bị chúng dẫn về nhà tìm tài liệu nhưng chúng có tìm được gì đâu. Mẹ tôi lại điên cuồng chạy theo xe “cây” cho đến bót Lò Heo (nay là Bưu điện Phú Nhuận).
Nghe tiếng la hét của tù nhân đang bị tra tấn bên trong bót, mẹ tôi chạy quanh mà khóc nức nở, chẳng làm gì được. Còn nỗi đau nào hơn đối với mẹ?

Nhà tôi trở nên vắng lạnh, cha mẹ ngày càng ủ rũ, thôn xóm đìu hiu. Hàng tuần cha mẹ tôi xách giỏ đi nuôi hai anh. Tôi lẽo đẽo theo cha mẹ vào trại giam thăm các anh. Cha tôi đã già yếu không còn đi làm được. Chỉ còn mẹ tảo tần lo thu vén cho gia đình, cho các con đang gặp nạn và cho tôi đang còn đi học. Từ những ngày đó, gia đình tôi không bao giờ đủ mặt. Mẹ tôi suốt ngày lê la hết bót Catinat đến nhà lao Gia Định, rồi khám lớn Sài Gòn. Tuổi thơ của tôi gắn liền với những năm tháng tù đày của các anh và những ngày xách giỏ theo cha mẹ nuôi tù. Anh năm bị chúng kết án và đày đi “Căng” ở Tân An. Khi đến thăm anh, nghe kể chuyện trong tù, chuyện tra tấn, tôi càng yêu mến và kính nể những người xả thân vì nghĩa lớn. Tình cảm đó ngày càng in đậm trong trái tim tôi. Nỗi đau của mẹ già, và sự ngóng trông mong đợi các con mình đang bị giam cầm làm tôi thêm căm ghét bọn giặc ngoại xâm.

Vì vậy khi nghe tin các anh về, mẹ cảm thấy dường như các con mình đang ở gần bên, lòng già ấm lại, nỗi mong nhớ các con đứt ruột tưởng chừng không thể nguôi đã được an ủi phần nào. Mẹ có những đứa con khác đang sống gần, làm bớt nỗi cô quạnh.

- “Các Anh đã về!”

Ba má tôi, các bác các chú trong xóm hồ hởi ra mặt. Bác Tám Đáo là nhân viên điện lực bị sa thải vì có con theo kháng chiến, đã cười giòn:

- “Thấy mấy đứa tụi nó mừng quá nhưng lại càng nhớ con mình kinh khủng”.

Bác đạp xe đi thông báo tin này cho bạn bè khắp nơi.

- “Chúng nó đã về !”

Những tấm lòng già rộn lên vì sự kiện lớn lao này. Nhìn bóng dáng các anh, các bác già dường như trẻ lại. Bác Tường vào thăm ba tôi, cười thỏa mãn:

- “Hôm nay tui mua một sắp báo, đi ngang qua nhà mấy đứa, dòm trước dòm sau không thấy tụi hiến binh, cảnh sát đâu hết, tui quăng vào trỏng cho chúng nó”.

Bác Tường làm Hương quản ở làng Phú Nhuận, có anh trai bị Tây giết ở Côn Đảo nên bác ôm mối hận thù sâu kín. Hàng ngày bác đạp xe từ nhà làng Phú Nhuận (đường Hoàng Văn Thụ), về tới chùa Quảng Tám. Mọi người biết danh ông già “Quyết tiến” này. Hết giờ làm việc, bác ra khỏi nhà làng, là tu ngay một chai bia. Rồi bác hát vang:

...“Quyết tiến ta giống dân Lạc Hồng, liều thân sống...”

Hát xong bác chửi Tây. Tây bắt nhiều lần, giam vào nhà lao Gia Định, rồi cũng phải thả ra vì bác... say rượu nên “nói bậy”.

Hàng rào hoa giấy trước nhà với lớp hiến binh công an không sao ngăn cách được tình cảm của đồng bào, những người dân lao động đang ngày đêm mong đợi các anh bộ đội Cụ Hồ.

Một hôm, anh Bé Niểng lại thì thầm với tôi:

- “Tối hôm qua, anh được xem bộ phim “Chiến thắng Điện Biên”. Anh với thằng Ba, thằng Kháng đội mưa, ngồi ngoài hàng rào xem đến hết phim. Đã quá! Nghe nói thứ bảy này sẽ chiếu phim “Tiếp quản Thủ đô” nữa đó”.

Tiếng lành đồn xa, đến hôm thứ bảy, khi trời vừa mờ tối thì con đường nhỏ trước nhà Phái đoàn đã đông nghẹt người. Bất ngờ trước sự tập hợp này nhưng bọn hiến binh không dám đàn áp. Chúng chỉ dùng sức để đẩy lùi bà con đến góc rào, không cho tập trung trước cửa nhà. Có người bạo dạn nói:

- “Cho tụi tôi ngồi trật tự ở hàng rào để xem phim”.

Tên hiến binh Pháp nói nhỏ nhẹ như phân bua:

- “Chúng tôi như con nít, đâu có quyền gì”.

Tuy nói thế, nhưng chúng cũng nhượng bộ, để chúng tôi đứng ở góc rào xem phim. Từ đó mỗi tối thứ bảy, chúng tôi tụ tập tại góc tường rào nhà Phái đoàn xem chiếu phim, cho dầu chỉ được thấy loáng thoáng hình ảnh nhưng vẫn cứ xem.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2023, 12:30:30 pm

Bao tình cảm đối với các anh Phái đoàn, lại trỗi dậy mãnh liệt trong lòng thơ ngây của tôi cũng như của bao nhiêu người khác trong xóm lao động này. Hàng ngày chúng tôi tìm cớ để được đi ngang qua hàng rào trước cửa nhà Phái đoàn, được nhìn thấy ảnh Bác Hồ và lá cờ Tổ quốc. Hình anh Bác uy nghiêm dưới lá cờ đỏ sao vàng sáng chói hiển hiện trước mắt, như một lời nhắn nhủ mà chúng tôi cảm thấy không thể thiếu được. Có lần em Kháng đã đi sát tường rào, rồi dừng lại để nhìn cho rõ thì tên hiến binh chạy lại xua đuổi, lôi kéo em đi, nhưng không làm gì được vì em chưa đầy 10 tuổi. Em về khoe với tôi và cười rộn rã:

- “Nhìn ảnh Bác Hồ và cờ đỏ sao vàng... khoái ơi là khoái!”

Bọn trẻ chúng tôi gửi đến các anh tình cảm sâu đậm của mình qua ánh mắt và nụ cười. Còn các cụ già thì bày tỏ lòng trìu mến theo cách riêng. Các bác cứ lo sợ những đứa con của mình thiếu thốn mọi thứ, nên tìm cách quăng qua rào gói bánh gói kẹo hay những tờ báo... Có lần em Kháng vui vẻ trao cho tôi mấy trái thị:

- “Các anh Phái đoàn gửi cho chị nè”.

Những quả thị vàng óng, thơm phức được hái từ cây thị phía sau nhà. Tôi đem vào lớp chia cho các bạn thân, nói đó là quà của các Anh. Tôi còn rủ các bạn đi chợ Bà Chiểu hay chợ Phú Nhuận, thì sẽ có dịp gặp các Anh. Đã bao lần, tôi đến nhà bạn ở phía sau trụ sở Phái đoàn, nhìn lên cây thị, mà lòng rộn lên bao ước mơ. Lúc đó tôi đang học năm đệ tứ, trường Việt Nam học đường. Tuy là trường tư nhưng nổi tiếng ở Sài Gòn lúc bấy giờ là trường dạy tốt. Trường có cả chi bộ Đảng do thầy Chiêu (Hồ Hảo Hớn) làm Bí thư, thầy Mưu làm Phó bí thư chi bộ. Các thầy thường tổ chức cho học trò đi du ngoạn hay đi cứu trợ nạn nhân bị hỏa hoạn, bị Bình Xuyên bắn phá. Đêm trung thu, trường tổ chức làm lồng đèn cho trẻ em mồ côi. Nhà tôi có sân rộng nên các bạn trong lớp tập trung để làm lồng đèn. Các thầy cũng đến. Khi đi ngang trụ sở Phái đoàn, tất cả đều nhìn vào cửa chính mắt ngời sáng, lòng rạo rực. Sau đó, thầy Nguyễn Ngọc Thưởng và thầy Trần Thượng Thu bị bắt giam vì kể chuyện Phái đoàn, chuyện kháng chiến trong lớp học... Nhưng rồi các bạn cũng vẫn thường xuyên đến nhà tôi, để có dịp nhìn ảnh Bác Hồ, nhìn lá cờ Tổ quốc. Thỉnh thoảng các anh trong Phái đoàn khi có điều kiện, cũng có trao đổi với tôi vài lời ngắn gọn, như:

- “Em tên gì?”

- “Dạ, tên Bảy”.

- “Ba Má có mạnh không?”

- “Dạ, mạnh”.

Một hôm gia đình tôi nhận được bưu thiếp của anh Năm từ Hà Nội gửi vào, có ghi địa chỉ rõ ràng: Nguyễn Hữu Anh - Bệnh viện A Hà Nội.

Tôi được biết, Bệnh viện A là bệnh viện chống lao. Vậy là anh Năm bị lao, do những năm tháng tù đày với những trận đòn tra tấn khủng khiếp. Những lúc vào thăm anh, tôi đã thấy anh ho khúc khắc. Mẹ đã nhiều lần mua thuốc gửi cho anh nhưng nào có thấm tháp gì đâu. Nhìn địa chỉ trong bưu thiếp, mẹ băn khoăn nói:

- “Anh con chắc đau nhiều lắm. Con thử nhờ các anh Phái đoàn gửi thư xem sao?”

Tấm lòng của mẹ già ngày đêm ưu tư buồn phiền vì sức khỏe của con. Làm cách nào để liên lạc với anh tôi qua Phái đoàn? Tôi đánh liều, viết một thư ngắn cho anh Năm và nhờ các anh Phái đoàn chuyển giúp.

Dọc theo rào trụ sở, phía bên ngoài, cỏ mọc cao hơn gang tay. Thỉnh thoảng các anh Phái đoàn cũng ra sát rào, cắt tỉa hoa giấy cho thông thoáng. Đó là dịp tốt mà tôi có thể trao thư cho các anh. Và tôi đã làm điều đó.

Thư đã gửi đi, tôi băn khoăn không hiểu anh tôi có nhận được không vì địa chỉ bệnh viện chỉ là địa chỉ tạm thời.

Một hôm, khi tôi đi ngang qua trước hàng rào trụ sở gặp anh Phong. Anh nói nhỏ:

- “Có thư anh Năm. Trưa khoảng một giờ, em đi qua, anh sẽ đưa”.

Tôi chờ đến một giờ trưa để đi mua nước đá. Lúc này bọn hiến binh và công an bận nghỉ trưa, nên con hẻm tương đối vắng người qua lại. Khi đi trở về, tay cầm cục nước đá, tôi đã thấy bóng anh Phong đứng ở rào chờ đợi. Khi tôi đến gần, thấy anh để một gói nhỏ trên bệ hàng rào, rồi bỏ đi vào trong nhà. Vẫn bước đi đều đặn, tôi đến gần nhìn trước nhìn sau không thấy ai, tôi thộp lẹ, bỏ vào túi áo và nhanh bước.

- “Má ơi! Có thư anh Năm nè. Các anh Phái đoàn vừa trao lại”.

Thư viết dài kể tường tận anh đã trị bệnh như thế nào. Hiện đã chuyển sang công tác ở Bộ Công nghiệp, Hà Nội.

Mẹ tôi mừng khôn xiết. Như cây khô gặp nước, mẹ đã tươi hẳn lên, nét mặt rạng rỡ với hai dòng lệ hạnh phúc. Từ đó những bức thư của anh Năm được chuyển qua Phái đoàn thỉnh thoảng được anh Nghĩa hay anh Phong giao lại. Anh Nghĩa cẩn thận nghi trang thư giữa 2 lá cây hay đặt giữa ống đu đủ đã được cắt gọt cẩn thận.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2023, 12:31:07 pm

Thuở đó, từ lúc 10 tuổi tôi bắt đầu gánh nước uống giúp đỡ mẹ. Mỗi ngày tôi gánh hai đôi nước ở nhà chị Bảy “nhà hơi” là đủ dùng cho gia đình. Tại nhà chị Bảy, tôi có thể nhìn vào cửa chính nhà Phái đoàn rõ mồn một. Tôi thấy các anh tuần tra chung quanh nhà, sửa xe hay lau xe sau chuyến công tác... Ngoài anh Phong, anh Nghĩa mà tôi thường gặp tôi còn biết anh “mắt kính”, vì anh luôn luôn đeo cặp kính dày cộm (Sau này tôi mới biết tên, là anh Kính). Anh cũng thường gặp, hỏi han động viên tôi. Có lần anh nói:

- “Em ráng giữ gìn sức khỏe, học tập tốt. Ngày thống nhất nước nhà, anh sẽ tìm cách giới thiệu em đi học cao hơn”.

Học cao là niềm mơ ước của tôi từ những ngày còn bé. Thấy cha già mẹ yếu, bệnh tật luôn, thấy biết bao người nghèo khổ trong xóm như chị Ba Hường, anh Cẩm Lai bệnh mà không dám mua thuốc vì không tiền. Tôi nuôi mơ ước học ngành Y. Nay nghe anh “mắt kính” nói, lòng tôi rộn lên biết bao hy vọng.

Lần khác, vào mùng 2 Tết, tôi đi ngang qua cửa nhà Phái đoàn, tay cầm cục nước đá, thấy anh “mắt kính” đứng gần gốc cây xoài. Tôi định khi đến gần, để nói lời chúc Tết. Bỗng có tên cảnh sát xuất hiện và đi ngược chiều với tôi. Tôi bình tĩnh bước đều, mắt ngó thẳng phía trước. Thình lình, anh “mắt kính” cầm máy ảnh đưa qua rào song sắt hướng vào tôi. Tôi đành chịu, không dám làm một cử chỉ gì để báo cho anh biết. Tôi vẫn bước đi thong thả như không có chuyện gì xảy ra. Tôi làm như không thấy gì cả. Khi tôi qua khỏi khu nhà Phái đoàn, tên công an bám theo tôi, kêu tôi giật ngược lại:

- “Cô có thấy ông ở Phái đoàn Việt Minh chụp hình cô không?”

- “Dạ tôi không thấy”.

Rồi bỏ đi thẳng. Tên công an không nói gì. Từ đó tôi càng thận trọng.

Một hôm tôi đi chợ Bà Chiểu, từ chợ Cá đi ra, thấy anh “mắt kính” với một anh khác đi ngược lại. Thấy tôi, anh “mắt kính” tươi cười nói:

- “Chào em, mạnh giỏi?”

Tôi vẫn im lặng bước đi thẳng. Gặp các anh trong gang tấc với bao tình cảm trìu mến, nhưng đành phải giấu thật kín trong đáy lòng. Khi đến đầu chợ thấy các anh đang mua báo, tôi cũng chỉ dám nhìn thoáng qua.

Những lần đi chợ, tôi thường gặp Bác lái xe Citroen, mặt hơi rỗ, đầu hơi hói. Bác đứng hay ngồi trong xe để giữ xe. Có đôi khi Bác đứng gác trước cửa nhà Phái đoàn. Bác chăm chú nhìn tôi trìu mến khi thấy tôi đi qua. Tôi thầm nghĩ, chắc Bác cũng có con cỡ trạc tuổi tôi. Xa con chắc Bác nhớ lắm...

Trong các khuôn mặt quen thuộc của các anh, tôi thường gặp một anh có dáng khỏe mạnh cao to, tóc carê. Khi thuận tiện, anh cũng thường thăm hỏi tôi. Có hôm anh ra ngoài hàng rào, gặp tôi từ trong nhà đi ra. Và khi chợt nhìn thấy, anh nhìn tôi mỉm cười... Còn biết bao kỷ niệm về các anh, các chú trong Phái đoàn.

Rồi một ngày, vào buổi trưa, tôi thấy anh Phong đứng bên hông nhà ra hiệu cho tôi hiểu rằng hẹn 5 giờ sáng mai. Khi đó, mẹ tôi đang đau nặng nằm ở Bệnh viện Chợ Rẫy. Nên sáng sớm hôm sau, tôi đi đúng lúc và thấy anh Phong chờ sẵn, đưa cho tôi thư của anh Năm. Đường vắng hoe, tôi lấy nhanh thư và đi thẳng vào bệnh viện thăm mẹ. Tôi đọc thư anh Năm cho mẹ nghe. Có vài hàng chữ của anh Phong, anh cho biết, anh sắp chuyển công tác. Mẹ tôi buồn bã nói:

- “Thằng Phong đi rồi, biết chừng nào mẹ con mình mới gặp lại nó. Thấy mấy đứa, mẹ nhớ anh Năm con quá. Mẹ cũng thấy được khuây khỏa một phần”.

Từ đó vắng bóng anh Phong trong khu nhà của Phái đoàn.

Chợt một ngày nọ, tôi nhận được thư của anh Năm từ Pháp gởi về. Có cả thư của anh Phong. Nghìn trùng đã không ngăn cách được những tình cảm chân thực của anh với người con gái miền Nam. Và cũng từ đó tôi đã nhận được thường xuyên thư của anh Phong dù muôn trùng cách trở. Trong lòng tôi và cả trong lòng mẹ tôi, những tình cảm đối với anh ngày càng sâu đậm. Một ngày nọ, biết mình không thể chờ đến ngày thống nhất đất nước, mẹ tôi đã nói lên nguyện vọng cuối cùng.

- “Con ráng chờ thằng Phong. Còn má thì má nhắc con, khi má mất rồi, má vẫn tin rằng con vẫn nhớ”.

Và tôi đã giữ đúng lời hứa với mẹ trước lúc lâm chung. Trong những năm xa cách đầy thử thách, trong lòng địch tôi vẫn sống với niềm tin và hy vọng.

Sáng sớm ngày 17-5-1958, sau nhiều năm dài gắn bó với các anh Phái đoàn, lần đầu tiên tôi thấy ngôi nhà vắng lạnh. Các hình bóng thân thương không còn ở đây nữa. Tôi muốn trào nước mắt mỗi lần đi ngang qua ngôi nhà đầy ắp kỷ niệm này. Biết bao giờ mới gặp lại các anh... Tôi không còn dịp nhìn ảnh Bác Hồ với lá cờ Tổ quốc nữa. Tôi sẽ luôn ghi nhớ những lời dặn dò của các anh. Tôi vẫn một lòng son sắt với mối tình đầu, với niềm tin rằng đất nước rồi sẽ thống nhất trong vinh quang. Tôi sẽ gặp lại những người thân vào một ngày mai tươi sáng.

Các bạn trẻ của tôi đã lần lượt theo cách mạng. Anh Cẩm Lai là chiến sĩ của ban Binh vận đô, anh Ba đánh xe ngựa tham gia đấu tranh chống Mỹ, đã hy sinh ở Côn Đảo, em Kháng đã vào ban Thông tin R...

Đến đầu năm 1969, sau 10 năm xa cách tôi gặp lại anh Phong ở Đài phát Thanh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam trong rừng già Tây Ninh, khu căn cứ R.

Mùa xuân năm ấy, anh đã tặng tôi một nhành mai rừng.

Một đoạn đường mới của chúng tôi...

Một niềm tin trọn vẹn!


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2023, 12:33:37 pm

ĐÔI ĐIỀU GHI NHỚ VỀ BỘ PHẬN Ở LẠI HÀ NỘI

LỮ MINH CHÂU


Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, tôi được phân công ở lại miền Nam theo hai hướng, tham gia Huyện ủy Thới Bình hoặc về Sài Gòn tìm cách hợp pháp hóa để tiếp tục hoạt động trong lòng địch, vì trước năm 1945 tôi học ở Sài Gòn nên am hiểu tình hình.

Tôi vừa mới kết hôn và vợ tôi là ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh đoàn Thanh niên Cứu quốc Bạc Liêu. Tôi được quyết định ở lại nên vợ tôi cũng không đi tập kết. Mọi việc đều được chuẩn bị sắp xếp theo hướng ở lại.

Một ngày tháng 10 năm 1954, anh Tư Kỉnh, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam gọi tôi đến cho biết, anh Hai Hùng xin tôi về Ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ đóng ở Phụng Hiệp (Cần Thơ). Thường vụ đã đồng ý. Anh Tư Kỉnh bảo tôi bàn giao ngay công việc thu xếp việc gia đình để đi nhận nhiệm vụ mới.

Đảng quyết định thì tôi chấp hành. Nhưng vẫn băn khoăn vì không biết tôi còn được ở lại hay không? Nếu phải tập kết thì rất gay go vì mọi việc chuẩn bị với gia đình và với vợ tôi là cả hai cùng ở lại miền Nam. Rồi sau một năm sẽ gặp lại, khi “chỗ đứng” và công việc của hai chúng tôi đã ổn định.

Từ khi tôi ra Phụng Hiệp, vợ chồng tôi đã mất liên lạc với nhau. Và hơn 10 năm sau, vợ tôi không biết tôi ở đâu, sống chết ra sao?

Về ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ, tôi được giao nhiệm vụ làm sĩ quan liên lạc. Nhiều lần, tôi cùng đi với sĩ quan Rháp và ngụy đến làm việc với Ủy ban Quốc tế ở Cà Mau và Giá Rai. Sau đó, tôi được phân công về Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam cạnh Ủy ban Quốc tế ở Sài Gòn vừa mới được thành lập tại trụ sở Ủy ban Liên hợp đình chiến Nam Bộ. Số cán bộ được dự kiến trong Phái đoàn này thì nhiều, nhưng phần lớn đang còn bận công việc nơi khác nên chưa tập hợp đông đủ.

Cho đến khi hết 200 ngày tập kết chuyển quân, mà phía Pháp còn gây khó khăn nên Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam chưa vào Sài Gòn được, phải theo chuyến tàu tập kết cuối cùng ra Hà Nội vào ngày 28-2-1955. Phái đoàn được bố trí ăn ở tại số 6 Lý Nam Đế trong khu vực doanh trại Bộ Quốc phòng. Phái đoàn được hình thành và tích cực chuẩn bị mọi mặt chờ ngày vào Sài Gòn.

Tháng 3-1955, phía Pháp đã thỏa thuận để Phái đoàn ta vào Sài Gòn. Ngày 17-5-1955, Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam từ Hà Nội bay vào Sài Gòn, do đồng chí Phạm Hùng làm trưởng đoàn. Tổng số sĩ quan Phái đoàn khoảng 24 người, nhưng phía Pháp chỉ chấp nhận số ban đầu là 16. Do đó còn lại 8 người phải nằm chờ thêm ít lâu nữa, để vào sau. Bộ phận ở lại do anh Hai Đốc phụ trách chung, còn tôi thì lo công tác Đảng.

Tình hình miền Nam diễn biến ngày càng phức tạp. Mỹ hất cẳng Pháp và cùng với ngụy quyền đánh phá ác liệt phong trào cách mạng của quần chúng. Đồng thời chúng gây khó khăn ngày càng nhiều cho Phái đoàn Sài Gòn. Do đó khả năng tăng người cho Phái đoàn không còn nữa. Đảng chủ trương cố gắng duy trì sự có mặt phái đoàn Sài Gòn càng lâu càng tốt. Đồng thời chuyển dần số cán bộ còn lại ở Hà Nội sang các công tác thích hợp khác.

Tháng 7 năm 1955, tôi được tổ chức điều về công tác tại Ban Thống nhất trực thuộc Thủ tướng Chính Phủ. Ban này do đồng chí Phạm Hùng làm Trưởng ban trực tiếp chỉ đạo công việc hàng ngày (khác với Ban Quan hệ Bắc Nam và Ban Thống nhất Trung ương sau này). Do mới hình thành, nên số người trong ban chỉ có trên dưới 10 cán bộ trung cao cấp về chính trị, biết ngoại ngữ Anh hoặc Pháp để vừa theo dõi tình hình miền Nam, chuẩn bị phương án hiệp thương nếu điều đó xảy ra sau hai năm đình chiến. Chánh Văn phòng Ban là đồng chí Ngô Đức Đệ, Phó Văn phòng là đồng chí Nguyễn Minh Vĩ (Tôn Thất Vĩ) và một số cán bộ khác, như anh Trương Văn Tư, Nguyễn Bá Đàn, Hoàng Mạnh, Lê Anh Trà, Hoàng Nguyên, anh Viên, tôi và một số các anh khác. Vì ít người và để giữ bí mật nên chỗ làm việc và ăn ở của Ban được bố trí tại lầu 1 của Văn phòng Thủ tướng Chính phủ. Nhiệm vụ chính của chúng tôi là chuẩn bị sẵn một số phương án để hiệp thương, làm đầu mối liên lạc với Phái đoàn Sài Gòn, nhận các thông tin, báo cáo, các loại tạp chí, sách báo kể cả tiếng Anh, Pháp, Hoa từ Sài Gòn gửi ra, theo dõi đài địch bằng nhiều thứ tiếng thu nhận các thông tin có liên quan, cung cấp hàng ngày cho lãnh đạo Ban và Chính phủ. Lúc bấy giờ ở miền Bắc chỉ có chúng tôi mới nhận thường xuyên và nhanh chóng các loại báo chí ở miền Nam do Phái đoàn ta gửi ra hàng tuần theo chuyến máy bay Quốc tế. Nhờ đó thông tin của chúng tôi luôn rất mới. Khi nhận được báo chí từ Sài Gòn, chúng tôi lướt nhanh ghi nhận những tin quan trong, rồi chuyển ngay đến Bác Hồ. Có khi tôi trực tiếp mang báo đến cho Bác. Giao báo lần này, nhận lại báo lần trước để mang về nghiên cứu khai thác kỹ hơn. Có báo Sài Gòn, chúng tôi thường viết bài phản ảnh tình hình miền Nam đăng trên nhiều tờ báo ở Hà Nội. Bác Hồ đọc báo rất nhanh, cả báo tiếng Pháp, Anh và Hoa. Những chỗ quan trọng, Bác đánh dấu bằng bút màu đỏ.

Mấy năm làm việc trong Ban Thống nhất, ở chung trong khuôn viên Phủ Chủ tịch, chúng tôi thường ngày được gặp Bác Hồ, trong các buổi tập thể dục, các buổi xem phim hoặc khi Bác đến thăm anh em bị bệnh, khi Bác đến nhà ăn xem chúng tôi ăn uống thế nào. Thời gian này đã để lại trong tôi nhiều bài học và những kỷ niệm sâu sắc về tình người, về đạo đức tác phong giản dị ân cần vì mọi người của Bác. Điều đó đã giúp tôi luôn kiên định lý tưởng mình đang theo đuổi, vững vàng vượt mọi khó khăn và cám dỗ, nhất là trong gần 10 năm hoạt động bí mật giữa lòng địch sau này.
Chúng tôi luôn được tin về hoạt động của Phái đoàn ta ở Sài Gòn, những khó khăn do Mỹ ngụy gây ra. Chúng tôi rất tự hào về những việc mà Phái đoàn ta đã làm được trong hang ổ của địch. Sau 3 năm hoạt động gian khổ, Phái đoàn ta đã trở về Hà Nội an toàn.

Sau đó, ban Thống nhất của Chính phủ cũng giải thể. Một số anh em chúng tôi được chuyển sang ban Thống nhất Trung ương, để tiếp tục lo cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2023, 10:04:56 am

PHỤ LỤC


IC/43/Rev.2
21 tháng 7 năm 1954


TUYÊN BỐ CUỐI CÙNG CỦA HỘI NGHỊ
GIƠNEVƠ VỀ ĐÔNG DƯƠNG


TUYÊN BỐ CUỐI CÙNG đề ngày 21 tháng 7 năm 1954, của HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương có các đoàn đại biểu Cămpuchia, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Pháp, Lào, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Quốc gia Việt Nam, Cộng hòa Liên bang Xô Viết, Vương quốc Anh và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tham dự.

1. Hội nghị ghi nhận Hiệp định chấm dứt chiến sự ở Cămpuchia, Lào và Việt Nam và lập ra tổ chức giám sát và kiểm soát Quốc tế, để thực hiện những điều khoản trong Hiệp định này.

2. Hội nghị bày tỏ hài lòng về việc chấm dứt chiến sự ở Campuchia, Lào, và Việt Nam; Hội nghị tin tưởng rằng việc thi hành những điều khoản trong Tuyên bố này và trong Hiệp định đình chỉ chiến sự sẽ cho phép Cămpuchia, Lào và Việt Nam từ nay trở đi, sẽ tham gia vào cộng đồng hòa bình các quốc gia, với Độc lập và Chủ quyền đầy đủ.

3. Hội nghị ghi nhận tuyên bố của Chính phủ các nước Lào và Cămpuchia về ý định của họ, cho thực hiện những biện pháp để mọi công dân được tham gia vào cộng đồng quốc gia, đặc biệt bằng việc tham gia các cuộc tổng tuyển cử sắp tới, đúng theo hiến pháp của mỗi nước, được tổ chức vào năm 1955, bằng việc bỏ phiếu kín và trong điều kiện tôn trọng các quyền tự do cơ bản.

4. Hội nghị ghi nhận các điều khoản trong Hiệp định chấm dứt chiến sự ở Việt Nam, về việc cấm đưa Quân đội và nhân viên quân sự nước ngoài vào Việt Nam cũng như các loại vũ khí đạn dược. Hội nghị cũng ghi nhận tuyên bố của Chính phủ các nước Lào và Cămpuchia về quyết định của họ, không yêu cầu các nước ngoài hỗ trợ, cho dù đó là dụng cụ chiến tranh, nhân viên và huấn luyện viên, ngoại trừ sự hỗ trợ đó nhằm mục đích bảo vệ hữu hiệu lãnh thổ, và đối với nước Lào chỉ được đặt ra trong giới hạn của Hiệp định chấm dứt chiến sự ở Lào.

5. Hội nghị ghi nhận những điều khoản trong Hiệp định chấm dứt chiến sự ở Việt Nam, với ý nghĩa rằng, không một căn cứ quân sự nào thuộc nước ngoài kiểm soát, được thiết lập trong khu vực tập kết của hai bên, các bên có nhiệm vụ bảo đảm khu vực được giao cho mình không tham gia bất cứ một liên minh quân sự nào, dùng để gây lại chiến sự hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược. Hội nghị cũng ghi nhận lời tuyên bố của Chính phú Cămpuchia và Lào rằng họ sẽ không ký kết vào bất cứ một hiệp định nào với một quốc gia khác để liên minh quân sự mà không phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, hoặc đối với Lào, với những nguyên tắc trong Hiệp định chấm dứt chiến sự ở Lào, hoặc trách nhiệm buộc họ phải thiết lập những căn cứ cho các lực lượng quân sự nước ngoài trên lãnh thổ Cămpuchia và Lào, khi mà an ninh của họ không bị đe dọa.

6. Hội nghị thừa nhận rằng, mục đích chính của Hiệp định liên quan đến Việt Nam, là dàn xếp các vấn đề quân sự nhằm chấm dứt chiến sự và giới tuyến quân sự là tạm thời và không được hiểu là ranh giới chính trị hay biên giới lãnh thổ, dưới bất cứ hình thức nào. Hội nghị bày tỏ sự tin tưởng vào việc thực hiện những điều khoản trong Tuyên bố này và trong Hiệp định chấm dứt chiến sự, sẽ tạo nên những nền tảng cần thiết để đạt đến sự ổn định chính trị ở Việt Nam, trong một tương lai gần.

7. Hội nghị tuyên bố rằng, đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị được thực hiện trên nền tảng tôn trọng những nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ sẽ cho phép người Việt Nam được hưởng những quyền tự do cơ bản bảo đảm bởi hiến pháp dân chủ được thiết lập từ kết quả tổng tuyển cử tự do bằng bỏ phiếu kín.

Nhằm bảo đảm cho sự tiến triển trong việc lập lại hòa bình được thực hiện và tất cả những điều kiện cần thiết để đạt đến quyền tự do bày tỏ ý muốn của nhân dân, cuộc tổng tuyên cử sẽ được tiến hành vào tháng 7 năm 1956, dưới sự giám sát của Ủy ban Quốc tế gồm đại diện các nước thành viên trong Ủy ban giám sát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Các cuộc tham khảo ý kiến về vấn đề này giữa nhà cầm quyền hai vùng sẽ bắt đầu từ ngày 20 tháng 7 năm 1955.

8. Những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự liên quan đến việc bảo đảm cho tính mạng và tài sản của mọi người phải được thực hiện triệt để, đặc biệt là phải cho phép mọi người ở Việt Nam được tự do lựa chọn vùng mình muốn sinh sống.

9. Những người có thẩm quyền ở miền Bắc và ở miền Nam Việt Nam cũng như nhà cầm quyền ở Cămpuchia và Lào, không được dung thứ bất cứ hành vi trả thù cá nhân hay tập thể nào, đối với những người đã từng cộng tác với một trong hai bên trong thời gian chiến tranh, hoặc các thành viên trong gia đình của những người đó.

10. Hội nghị ghi nhận tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Pháp, sẵn sàng rút quân khỏi lãnh thổ Cămpuchia, Lào và Việt Nam theo yêu cầu của các Chính phủ liên quan và trong thời hạn do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp một số nơi do thỏa thuận hai bên, một số quân đội Pháp sẽ ở lại những điểm nhất định và trong thời hạn nhất định.

11. Hội nghị ghi nhận tuyên bố của Chính phủ Pháp nói rằng việc giải quyết ôn thỏa các vấn đề liên quan đến việc lập lại và củng cố hòa bình ở Lào, Cămpuchia và Việt Nam, Chính phủ Pháp sẽ thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập và chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Cămpuchia, Lào và Việt Nam.

12. Trong quan hệ với Cămpuchia, Lào và Việt Nam, mỗi nước tham gia hội nghị Giơnevơ cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia nói trên, và không can thiệp vào nội bộ các nước này.

13. Các nước tham gia hội nghị thỏa thuận sẽ hỏi ý kiến với nhau về mọi vấn đề do Ủy ban kiểm soát Quốc tế đề cập đến, nhằm nghiên cứu những biện pháp cần thiết để bảo đảm sự tôn trọng Hiệp định chấm dứt chiến sự ở Cămpuchia, Lào và Việt Nam.

(Dịch từ bản gốc tiếng Pháp)


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2023, 10:08:46 am

TUYÊN BỐ CỦA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA PHÁP
Văn bản về hai điều khoản trong Bản Tuyên bố cuối cùng.


A. Theo Điều 10 trong Bản Tuyên bố cuối cùng, Chính phủ nước Cộng hòa Pháp tuyên bố sẵn sàng rút quân ra khỏi lãnh thổ Cămpuchia, Lào và Việt Nam theo yêu cầu của các chính phủ liên quan, trong thời hạn do các bên quy định, trừ trường hợp một số lính Pháp được ở lại, trên những địa điểm và thời gian theo sự thỏa thuận riêng giữa các bên.

B. Theo Điều 11 trong Bản Tuyên bố cuối cùng, Chính phủ nước Cộng hòa Pháp tuyên bố sẽ tiến hành các công việc nhằm giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến việc lập lại hòa bình ở Cămpuachia, Lào và Việt Nam, căn cứ vào các nguyên tắc tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Cămpuchia, Lào và Việt Nam.

(dịch theo bản gốc)


 




IC/54

Ngày 21 tháng 7 năm 1954
HỢP CHỦNG QUỐC HOA KỲ
Bản gốc: TIẾNG ANH

TUYÊN BỐ CỦA ĐẠI DIỆN HỢP CHỦNG QUỐC
HOA KỲ VỀ HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ


Chính phủ Hợp chủng quốc quyết định cống hiến những nỗ lực của mình vào công việc củng cố hòa bình thể theo những nguyên tắc và mục đích của nước Mỹ.

Ghi nhận:

Hiệp định đã đạt được tại Giơnevơ ngày 20 và 21 tháng 7 năm 1954 giữa (a) Bộ chỉ huy Quân đội Pháp — Lào và Bộ chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam; (b) Bộ chỉ huy Quân đội Hoàng gia Cămpuchia và Bộ chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam; (c) Bộ chỉ huy Quân đội Pháp — Việt và Bộ chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Và từ đoạn 1 đến đoạn 12 trong Bản Tuyên bố trình tại Hội nghị Giơnevơ ngày 21 tháng 7 năm 1954.

Tuyên bố:

Dựa vào cách nhìn nhận Hiệp định với những đoạn văn nói trên rằng (i) nước Mỹ sẽ tự kìm chế mình trong việc dọa dẫm dùng vũ lực để gây rối những quyết định có liên quan, thể theo Điều 2 (4) trong Công ước của Liên Hợp Quốc đề cập đến nghĩa vụ các nước thành viên tự kìm chế trong các quan hệ Quốc tế của mình, không dọa dẫm hay sử dụng vũ lực và (ii) Mỹ sẽ xem xét bất cứ toan tính tấn công mới nào vi phạm Hiệp định nói trên ở mức độ nghiêm trọng và coi như uy hiếp nặng nề hòa bình và an ninh quốc tế.



 

TUYÊN BỐ CỦA CHÍNH PHỦ ẤN ĐỘ
VỀ HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ


1. Chính phủ Ấn Độ ghi nhận Hiệp định chấm dứt chiến tranh ở Cămpuchia, Lào và Việt Nam, và triển khai những việc chuẩn bị nhằm thực hiện việc kiểm soát và giám sát Quốc tế về những nội dung của Hiệp định.

2. Chính phủ Ấn Độ hoan nghênh những nội dung Hiệp định và rất hài lòng về việc chấm dứt chiến tranh Cămpuchia, Lào và Việt Nam nay đã trở thành hiện thực. Chính phủ Ấn Độ tin tưởng vững chắc và hy vọng chân thành rằng những nội dung nêu trong Bản Tuyên bố cuối cùng Hội nghị Giơnevơ và trong ba điều thỏa thuận ngưng chiến tại Cămpuchia, Lào và Việt Nam tạo cho mỗi quốc gia cơ hội và khả năng đóng góp vai trò của mình trong cộng đồng Quốc tế với độc lập và chủ quyền hoàn toàn.

3. Chính phủ Ấn Độ đã ghi nhận tất cả những điều khoản và quy ước của Bản Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ, ngày 21 tháng 7 mà Ấn Độ đã tiếp nhận một cách hài lòng. Chính phủ Ấn Độ sẽ tôn trọng danh dự và đề cao nội dung của Bản Tuyên bố cuối cùng với tất cả khả năng của mình và đặc biệt là những nội dung liên quan đến một hay cả ba nước nói trên. Chính phủ Ấn Độ cũng thiết tha hy vọng rằng những điều khoản nói trên sẽ được tôn trọng và đề cao một cách danh dự bởi các nước liên quan.

4. Chính phủ Ấn Độ đánh giá sâu sắc chân lý và tin tưởng đối với Hiệp định Giơnevơ của từng nước và toàn thể, thể hiện nhiều lần qua việc đề cập Ấn Độ đứng vào số thành viên Ủy ban giám sát Quốc tế và cuối cùng, cử Ấn Độ làm chủ tịch của các Ủy ban ở từng nơi.

5. Chính phủ Ấn Độ bày tỏ tinh thần biết ơn đối với việc Canada và Ba Lan đã nhận làm thành viên của Ủy ban, nhanh chóng đáp ứng lời mời của Ấn Độ cử đại diện đến dự Hội nghị của ba nước họp tại New Delhi và đồng tình với các quy trình tiến hành việc triệu tập Ủy ban đúng ngày do Hiệp định đề ra.

6. Chính phủ Ấn Độ rất hài lòng ghi nhận và thông báo cho các nước thành viên Hội nghị Giơnevơ rằng ba nước thành viên của Ủy ban kiểm soát và giám sát Quốc tế đạt đến sự nhất trí hoàn toàn tại Hội nghị New Delhi và sau đó ba Ủy ban đã được thiết lập theo đúng ngày 11 tháng 8 trên 3 lãnh thổ, đúng với lời văn của Hiệp định.

7. Chính phủ Ấn Độ rất sung sướng ghi nhận và thông báo đến các nước thành viên Hội nghị Giơnevơ rằng một tinh thần thống nhất và đồng tâm tại Hội nghị, nhấn mạnh rằng ba nước hội viên của Ủy ban đã được sự hỗ trợ lớn lao do sự có mặt của đại diện Cămpuchia, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Lào và Quốc gia Việt Nam tại New Delhi theo lời mời của Chính phủ Ấn Độ.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2023, 10:24:29 am

LỜI KÊU GỌI SAU KHI
HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ THÀNH CÔNG1


Cùng đồng bào toàn quốc,

Cùng toàn thể quân đội và cán bộ,


Hội nghị Giơnevơ đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to.

Tôi thay mặt Chính phủ thân ái kêu gọi toàn thể đồng bào, quân đội và cán bộ.

1. Vì hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ của Tổ quốc mà 8, 9 năm nay, nhân dân, quân đội, cán bộ và Chính phủ ta, đoàn kết chặt chẽ, trên dưới một lòng, chịu đựng gian khổ, vượt mọi khó khăn, kiên quyết kháng chiến và đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang. Nhân dịp này, tôi thay mặt Chính phủ ngỏ lời thân ái khen ngợi toàn thể đồng bào, quân đội và cán bộ từ Nam đến Bắc. Tôi kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn các chiến sĩ và đồng bào đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc và gửi lời an ủi anh em thương binh, bệnh binh.

Chúng ta giành được thắng lợi to lớn cũng là do nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của ta.

Vì những thắng lợi ấy và do sự cố gắng của đại biểu Liên Xô tại Hội nghị Béclin, mà có cuộc đàm phán giữa ta và Pháp ở Hội nghị Giơnevơ. Ở Hội nghị Giơnevơ, do sự đấu tranh của đoàn đại biểu ta và sự giúp đỡ của hai đoàn đại biểu Liên Xô và Trung Quốc, ta đã thu được thắng lợi lớn: Chính phủ Pháp đã thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta, thừa nhận quân đội Pháp sẽ rút khỏi nước ta, v.v..

Từ nay, chúng ta phải ra sức đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc.

2. Để thực hiện hòa bình, bước đầu tiên là quân đội hai bên phải ngừng bắn.

Để ngừng bắn, thì cần phải tách quân đội hai bên ra hai vùng khác nhau: tức là điều chỉnh khu vực.

Điều chỉnh khu vực là việc tạm thời, là bước quá độ để thực hiện đình chiến, lập lại hòa bình và tiến đến thống nhất nước nhà bằng cách tổng tuyển cử. Điều chỉnh khu vực quyết không phải là chia xẻ đất nước ta, quyết không phải là phân trị.

Trong khi đình chiến, quân đội ta tập trung vào miền Bắc, quân đội Pháp tập trung vào miền Nam, nghĩa là có sự đổi vùng. Một số địa phương trước kia là vùng Pháp chiếm, nay thành vùng giải phóng của ta. Ngược lại, một số vùng giải phóng cũ của ta, nay sẽ là nơi Pháp tạm đóng quân trước khi rút về Pháp.

Đó là một việc cần thiết. Nhưng Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng.

Đồng bào miền Nam kháng chiến trước hết, giác ngộ rất cao. Tôi chắc rằng đồng bào sẽ đặt lợi ích cả nước trên lợi ích địa phương, lợi ích lâu dài trên lợi ích trước mắt, mà ra sức cùng đồng bào toàn quốc phấn đấu để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc. Đảng, Chính phủ và tôi luôn luôn theo dõi sự cố gắng của đồng bào và tin chắc đồng bào sẽ thắng lợi.

3. Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ. Để giành lấy thắng lợi, toàn thể nhân dân, quân đội và cán bộ ta từ Bắc đến Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng phải thống nhất, hành động phải nhất trí.

Chúng ta quyết làm đúng những điều đã ký kết với Chính phủ Pháp, đồng thời chúng ta đòi Chính phủ Pháp phải làm đúng những điều họ đã ký kết với ta.

Chúng ta phải ra sức củng cố hòa bình, tỉnh táo đề phòng âm mưu của những kẻ phá hoại hòa bình.

Chúng ta phải ra sức đấu tranh để thực hiện tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc đặng thống nhất nước nhà.

Chúng ta phải ra sức khôi phục và xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng của ta về mọi mặt, để thực hiện quyền độc lập hoàn toàn của nước ta.

Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự.

Chúng ta thắt chặt thêm mối tình nghĩa anh em với hai nước Miên và Lào.

Chúng ta củng cố tình hữu nghị vĩ đại giữa ta với Liên Xô, Trung Quốc và các nước bạn khác. Chúng ta đoàn kết hơn nữa với nhân dân Pháp, nhân dân châu Á và nhân dân toàn thế giới để giữ gìn hòa bình.

4. Tôi thân ái kêu gọi toàn thể đồng bào, quân đội và cán bộ hãy theo đúng đường lối, làm đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc.

Tôi thiết tha kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đã đứng về phe nào, chúng ta hãy thật thà cộng tác, vì dân vì nước mà phấn đấu để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong nước Việt Nam yêu quý của chúng ta.

Cả nước đồng lòng, muôn người như một, chúng ta nhất định thắng lợi.

Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ muôn năm!

   
   
                                                                                                                       
Ngày 22 tháng 7 năm 1954
                                                                                                                       
CHỦ TỊCH
                                                                                                                       
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
                                                                                                                       
HỒ CHÍ MINH

________________________________________
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. NXB Chinh trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 321 - 323.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2023, 10:38:53 am

NGHỊ ĐỊNH THƯ

Về các điều kiện thành lập Phái đoàn liên lạc của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Kiểm soát Quốc tế ở Sài Gòn

1. Trụ sở

Bộ Tổng chỉ huy Liên hiệp Pháp đảm bảo chỗ ở và làm việc cho Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ở Sài Gòn theo nhu cầu của Phái đoàn với thỏa thuận là các nhà không quá xa nhau, càng ở gần trụ sở Ủy ban Quốc tế càng tốt.

2. Tiếp tế

Bộ Tổng chỉ huy Liên hiệp Pháp cam kết tạm thời đảm bảo cung cấp xăng dầu, chất đốt và các nhu cầu cần thiết khác cho Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam

Đối với việc tiếp tế thực phẩm, Phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam khi cần thiết, đề ra yêu cầu cho Phái đoàn liên lạc Pháp. Hai bên thỏa thuận rằng Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể tự mình đi mua sắm các thiết bị văn phòng, máy đánh chữ, và thiết bị vô tuyến điện.

Các thiết bị này sẽ không chịu sự kiểm soát nào, và không phải qua thủ tục hải quan.

3. Đi lại

Khi đi lại do nhu cầu công vụ, nhân viên Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam được hộ tống bởi một đơn vị bảo vệ, do Bộ Chỉ huy các lực lượng Liên hiệp Pháp cung cấp.

Ở Sài Gòn, các nhân viên của Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam khi đi ra ngoài không phải vì công vụ, thì sẽ mặc thường phục và không phải bảo vệ như đã nói ở phần trên

Tuy nhiên, họ cần thông báo cho Phái đoàn liên lạc Pháp biết về các cuộc di chuyển này để có thể có các biện pháp bảo vệ, cho đến khi có ý kiến khác.

Các xe được sử dụng phải cùng loại, và không khác biệt với các kiểu xe có trong thành phố đã được nói trên.

Các xe này không có dấu hiệu khác biệt.

Trong những điều kiện bảo đảm an ninh đã được xác định ở phần trên, việc đi lại của các nhân viên Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trong nội thành Sài Gòn - trụ sở của Ủy ban Quốc tế - được tự do. Việc di chuyển giữa Sài Gòn và Hà Nội, được thực hiện bằng phương tiện hàng không của Liên hiệp Pháp. Những việc di chuyển khác hơn phần nói trên, cần phải có sự thỏa thuận trước với các lực lượng Liên hiệp Pháp và mang tính chất đặc biệt.

Mỗi nhân viên của Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ giữ một giấy thông hành thay cho giấy căn cước và do Bộ Tổng chỉ huy các lực lượng Liên hiệp Pháp cấp.

Khi đi làm việc, các nhân viên của Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam, có thể sử dụng xe cá nhân. Nhưng những xe này không được mang một dấu hiệu nào khác, ngoài biển số kiểm soát của xe.

Không có sự kiểm soát nào khác, ngoài giấy thông hành, đối với người đi trên xe. Khi có xe và người theo hộ tống, thì sự xuất trình giấy tờ của xe hộ tống và giấy thông hành là đầy đủ.

4. Biện pháp an ninh

A. Trong vùng kiểm soát của mình, Bộ Tổng chỉ huy các lực lượng Liên hiệp Pháp, chịu trách nhiệm bảo đảm an ninh cho các nhân viên trong Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, cụ thể như sau:

- Các nơi ở và làm việc được bảo vệ bên ngoài do một đơn vị lực lượng Liên hiệp Pháp.

- Việc đi lại của các nhân viên Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ được bảo vệ như đã được xác định ở phần III trên đây.

- Nhà cửa và trang thiết bị của Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng được bảo đảm như các điều kiện đã nói ở phần trên.

B. Các nhân viên quân sự trong Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam được giữ súng ngắn hoặc súng sáu cá nhân ở bên trong trụ sở của Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Khi đi ra bên ngoài thì họ không được mang theo các vũ khí này.

C. Các nhà dành cho Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam sử dụng, không được cho tạm trú những người ngoài Phái đoàn hay đại diện Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam được ủy nhiệm đến làm một nhiệm vụ tạm thời với Ủy ban Quốc tế ở Sài Gòn hay chính với Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Những nhà này sẽ không bị khám xét trong bất cứ trường hợp nào.

5. Liên lạc

Các tuyến liên lạc giữa Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam với Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam hay với Ủy ban Liên hợp Trung ương sẽ được thực hiện bằng phương tiện vô tuyến điện riêng của mình, và bằng các phương tiện vận chuyển hàng không của các lực lượng Liên hiệp Pháp.

Các tuyến liên lạc giữa Phái đoàn với Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam với Ủy ban Liên hợp Trung ương bằng phương tiện vận chuyển hàng không của Liên hiệp Pháp sẽ không có bất cứ hạn chế nào.

Các tuyến liên lạc giữa Phái đoàn và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam với Ủy ban Quốc tế ở Sài Gòn với Phái đoàn liên lạc Pháp bên cạnh Ủy ban Quốc tế được thực hiện bằng tuyến điện thoại và bằng tuyến đường bộ. Các xe được sử dụng là xe của Phái đoàn có giấy thông hành; các tuyến điện thoại sẽ được các lực lượng Liên hiệp Pháp lắp đặt.

6.

Do những khó khăn hiện tại trong việc tìm chỗ ở, nên quân số của Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ở Sài Gòn sẽ được tạm thời ấn định lúc ban đầu, trong khoảng mười lăm người, kể cả nhân viên cấp dưới.

Làm tại Hà Nội, ngày 31 tháng 3 năm 1955. Bằng hai thứ tiếng: tiếng Việt và tiếng Pháp có giá trị như nhau.


Đại tá HÀ VĂN LÂU
                                           
Tướng DE BEAUFORT
Trưởng Phái đoàn liên lạc của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân cạnh Ủy ban kiểm soát Quốc tế,
                                           
Trưởng Phái đoàn liên lạc các lực lượng Liên hiệp Pháp cạnh Ủy ban kiểm soát Quốc tế,
Đã ký: HÀ VĂN LÂU
                                           
Đã ký: DE BEAUFORT


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2023, 11:53:43 am

TỔNG CAO UY PHÁP
                                                                                                                       
   SÀI GÒN, ngày 18 tháng
VÀ CHỈ HUY TRƯỞNG
                                                                                                                       
      Giêng năm 1955
Ở ĐÔNG DƯƠNG
                                                                                                                       
   
PC/OC/32
         
      No.0461/CAB


Kính gửi: NGÀI THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VIỆT NAM SÀI GÒN

Ngài Thủ tướng,

Như Ngài đã biết, Ủy ban kiểm soát và giám sát Quốc tế đã cho biết vào đầu tháng chạp, rằng họ đã quyết định thành lập ngay một Phân ban Quốc tế tại Sài Gòn và họ sẽ chuyển trụ sở trung tâm vào thành phố này vào tháng 8 năm 1955. Họ cũng xác nhận rằng vào lúc đó thì Phân ban tại Sài Gòn sẽ chuyển ra Hà Nội.

Tôi hân hạnh được cho ngài biết, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam nhân dịp này đã đề nghị với Đại sứ DESAI yêu cầu cho một Phái đoàn liên lạc bên cạnh Phân ban Quốc tế để “thiết lập một sự hợp tác chặt chẽ và hữu hiệu với Ủy ban Quốc tế và các bên”, theo như nguyên văn của họ. Nhà cầm quyền đối phương tuyên bố thêm rằng, họ sẵn sàng cam kết nguyên tắc “Có đi có lại” sẽ được thực hiện có lợi cho chúng ta khi Ủy ban Quốc tế sẽ di chuyển vào miền Nam Việt Nam.

Khi chuyển các đề nghị này đến Phái đoàn liên lạc Pháp - Việt, thì Ủy ban Quốc tế đã cho biết rằng, họ muốn có các tổ chức liên lạc của hai bên được thiết lập tại Sài Gòn. Họ hy vọng rằng tất cả những biện pháp sẽ được thực hiện theo hướng này vào cuối tháng giêng năm 1955, thời gian mà Phân ban Quốc tế sẽ được hình thành.

Tôi sẽ rất biết ơn Ngài, nếu được Ngài cho biết ý kiến về đề nghị mà Ủy ban Quốc tế vừa mới gửi đến cho tôi.

Tôi xin Ngài Thủ tướng hãy nhận nơi đây lời đảm bảo về sự tôn kính vô hạn.

                                                                                                                           
Ký tên: J.H.DARIDAN
                                                 
Phó Đại sứ Tổng Cao ủy Pháp tại Đông Dương.
Kính gửi Đại tướng P.ELY
                                                                                 
Tổng Cao ủy Pháp
                                                                                       
Chỉ huy trưởng ở Đông Dương
                                                                     








Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2023, 11:54:30 am

TỔNG CAO UY PHÁP
                                                                                                                     
SÀI GÒN, ngày 8 tháng 2
VÀ CHỈ HUY TRƯỞNG
                                                                                                                       
năm 1955
Ở ĐÔNG DƯƠNG
                                                                                                                       
No 1163/Cab


Ngài Thủ tướng NGÔ ĐÌNH DIỆM,
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam - Sài Gòn


Thưa Ngài Thủ tướng,

Cũng như Tổng Cao ủy đã cho ngài biết bằng Văn thư No 461 ngày 18 tháng giêng, về việc Ủy ban Quốc tế yêu cầu chúng tôi cho đặt một Phái đoàn liên lạc bên cạnh “Phân ban Quốc tế” ở Sài Gòn với khẳng định là họ chờ câu trả lời trước ngày 1 tháng 2.

Ngày 2 tháng 2, một trong những cộng tác viên của tôi, đã thông báo cho chính phủ của ngài, về ý định của Trưởng Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam, sẽ cùng đi với Ủy ban kiểm soát Quốc tế trong thời gian Ủy ban lưu lại tại thủ đô, từ ngày 7 đến ngày 11 tháng 2, để thiết lập bộ phận này.

Những điều bất lợi đặt ra cho chúng ta về một yêu sách như vậy, đã làm cho tôi không thể không quan tâm, và tôi mời ngay tướng DE BEAUFORT đánh giá vai trò chủ yếu của Đại tá HÀ VĂN LẢU ở Giơnevơ, được xem là một nhân vật chính trị nổi bật, hơn là một sĩ quan liên lạc. Tôi lưu ý rằng, sự có mặt của ông HÀ VĂN LÂU ở Sài Gòn không thể che giấu được, và điều đó sẽ mang lại những hậu quả nghiêm trọng.

Ngày 5 tháng 2, Ủy ban kiểm soát Quốc tế đã nhắc lại đề nghị của mình bằng văn bản. Ngày 7, sau cuộc hội nghị toàn thể, Ủy ban kiểm soát Quốc tế đã cảnh báo với đại diện của tôi, họ sẽ xem như sự từ chối dứt khoát, chống đối ý muốn có đại diện Việt Minh bên cạnh, và bác bỏ một trong những kiến nghị của họ. Họ sẽ đình hoãn chuyến đi vào Sài Gòn cho đến khi yêu cầu của họ được giải quyết.

Mặt khác tướng DE BEAUFORT còn cho biết, sự bác bỏ cuối cùng, sẽ là dịp để Ủy ban kiểm soát Quốc tế căn cứ vào Điều 43 của Hiệp định đình chỉ chiến sự, mà thông báo cho các thành viên Hội nghị Giơnevơ. Thật vậy, họ sẽ xem thái độ như vậy, là sự vi phạm Thỏa hiệp Phú Lộ vì theo họ trụ sở chính được đặt ở đâu là quyền của họ, một tổ chức kiểm soát cao cấp Quốc tế, ngay cả khi điều đó chỉ là tạm thời.

Xin ngài hãy cùng tôi hiểu rõ lợi ích của việc không làm trở ngại cho một vấn đề thứ yếu của Ủy ban kiểm soát Quốc tế, mà sự hợp tác quyết định cho một kết thúc tốt đẹp các vấn đề đang được đặt ra. Chúng ta đừng quên rằng thời gian gần đây tổ chức Quốc tế này đã làm chúng ta vừa lòng trên 3 vấn đề chủ yếu: Sự triệt thoái về nước khí cụ ở Hải Phòng, sự tăng cường kiểm soát biên giới Trung Quốc và nhất là các biện pháp thuận lợi cho dân di cư, bằng những khuyến cáo được trình bày vào ngày 1 tháng 2. Vì lẽ đó, nên điều lo lắng của chúng ta là tranh thủ để được kéo dài thêm thời gian di tản. Tôi không che dấu sự lo lắng sâu sắc mà tôi cảm nhận khi nghĩ rằng Ủy ban có thể nản lòng trước những khó khăn mà họ phải gánh chịu trong thực thi nhiệm vụ. Do đó dẫn đến sự từ chối trách nhiệm nặng nề đối với sự thách thức về quyền hạn mà họ cần có. Đó là định mệnh của hằng triệu đồng bào của ngài phải gánh chịu. Tôi không nghi ngờ tấm lòng của ngài mong muốn giúp đỡ họ, để cùng tôi tìm cách tháo gỡ sự khủng hoảng này, tránh những hậu quả nghiêm trọng.

Tôi xin ngài Tổng thống, hãy nhận nơi đây sự đảm bảo lòng kính trọng của tôi.

                                                   
Đại tướng ELY
                                                   
Tổng Cao ủy Pháp và Chỉ huy trưởng ở Đông Dương.
                                                   
Ký tên: P.ELY



Trong Văn thư trả lời số 75/9TT/VP ngày 10-2-1955, Ngô Đình Diệm thuận cho Phái đoàn liên lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2023, 12:20:45 pm

BỘ QUỐC PHÒNG
                                                                        
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
TỔNG TƯ LỆNH
ĐỘC LẬP — TƯ DO — HẠNH PHÚC
------
==================
Số: 150-UN/TTL

Trích yếu:


GIẤY ỦY NHIỆM
---:---
BỘ TỔNG TƯ LỆNH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT-NAM chỉ định:

Đại tá PHẠM-HÙNG

Làm đại diện BỘ TỔNG TƯ LỆNH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT-NAM bên cạnh Ủy-ban Kiểm-soát Quốc-tế ở Việt Nam tại Sài-gòn.


   
Nay ủy nhiệm

   Tổng hành dinh BỘ TỔNG TƯ LỆNH
   QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

   Ngày 10 tháng 4 năm 1955
   TỔNG TƯ LỆNH
   QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
   


   Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP



Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2023, 12:55:53 pm

BỘ TỔNG TƯ LỆNH
                                                            
VIỆT-NAM DÂN-CHỦ CỘNG-HÒA
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT-NAM
                           
Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
--------
                           
===============
PHÁI ĐOÀN LIÊN LẠC
                              
CẠNH UỶ BAN QUỐC TẾ
                              
Ở SÀI GÒN
                              
------
HÀ NỘI, ngày 15 tháng 5 năm 1965
Số 9 FDSA
                              



GIẤY ỦY NHIỆM

Đại tá PHẠM-HÙNG, Trưởng phái-đoàn, Đại-diện BỘ TỔNG TƯ—LỊNH Quân-đội Nhân-dân Việt-Nam bên cạnh ỦY—BAN KIỂM-SOÁT QUỐC-TẾ tại SÀIGÒN ủy-nhiệm: Trung-tá NGUYỄN-VĂN-LONG Phó Trưởng Đoàn thay mặt Trưởng Đoàn giải-quyết mọi công việc thuộc phạm—vi của Phái-đoàn, trong khi Trưởng Đoàn vắng mặt.

 

   
TRƯỞNG PHÁI ĐOÀN
   Đại-tá PHẠM-HÙNG


Tiêu đề: Re: Ngọn cờ cách mạng công khai cắm tại Sài Gòn 1955-1958
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2023, 01:07:00 pm

Danh sách cán bộ chiến sĩ Phái đoàn liên lạc QĐND Việt Nam đã vào công tác ở Sài Gòn
(1955 - 1958)

Họ và tên Bí danh Nhiệm vụ
1. Phạm Hùng Trưởng Phái đoàn (từ tháng 5 đến tháng 7-1955)
2. Nguyễn Văn Vịnh Trưởng Phái đoàn thay đồng chí Phạm Hùng (từ tháng 3 đến tháng 6-1956)
3. Nguyễn Văn Long Phó Trưởng đoàn, từ tháng 8-1956 đến tháng 5-1958 được ủy quyền Trưởng đoàn
4. Phạm Chung (Thủy) Bí thư chi bộ Phái đoàn
5. Nguyễn Hoàn Cán bộ
6. Mai Văn Bộ Cán bộ
7. Huỳnh Minh Hiển (Hòa) Văn phòng
8. Nguyễn Hoàng Kính Văn phòng
9. Đặng Sĩ Hùng Cán bộ
10. Nguyễn Văn Thơm (Sơn Việt) Quản trị
11. Nguyễn Kim Cương Phiên dịch
12. Nguyễn Văn Kha (Tự) Phiên dịch
13. Trịnh Ngọc Thái Phiên dịch
14. Võ Văn Thậm Phiên dịch
15. Dương Đồng Khiêm (Hương) Cơ yếu
16. Hồ Vĩnh Thuận (Phong) Điện đài
17. Lê Văn Duyên (Tiến) Điện đài
18. Trần Văn Thình (Được) Máy nổ, cơ khí
19. Nguyễn Văn Gấm (An) Thư ký đánh máy
20. Nguyễn Văn Hạnh (Mạnh) Y sĩ bảo vệ sức khỏe
21. Phạm Văn Tuân (Mười) Cấp dưỡng
22. Trần Ngọc Cứng (Nghĩa) Lái xe
23. Nguyễn Văn Tòng Lái xe

Ngoài các đồng chí trên, còn có:

- Đồng chí Lữ Minh Châu, làm nhiệm vụ trực của Phái đoàn tại Ủy ban Liên hợp đình chiến Trung ương ở Hà Nội.

- Đồng chí Uyển thường ra vào Sài Gòn mang phim và tài liệu cho Phái đoàn.

Hết!