Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 12 Tháng Năm, 2024, 10:10:21 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp  (Đọc 152907 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #40 vào lúc: 04 Tháng Bảy, 2012, 10:26:12 am »


CHIẾN DỊCH HOÀNG DIỆU*
(Tiến công, từ ngày 5 tháng 8 đến ngày 4 tháng 11 năm 1950)


Từ giữa năm 1950, được Mỹ viện trợ, Pháp đã đưa thêm nhiều quân sang Đông Dương, ra sức bắt lính lập thêm ngụy quân nhằm “bình định gấp rút, phản công quyết liệt” nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Ở Quảng Nam, Đà Nẵng, chúng xây dựng hàng loạt tháp canh bằng bê tông kiên cố để chống lại các hoạt động của du kích ta, phục vụ chính sách chiêu an bình định. Chúng tiến hành dồn dân một cách quyết liệt ở những nơi trọng điểm: Gò Nổi, Vĩnh Điện (Điện Bàn), Bắc Hòa Vang, Cẩm Phô (Hội An), Kiều Thượng (Duy Xuyên), ráo riết bao vây phá hoại kinh tế ta, lập các “ủy ban gặt lúa” xã, tổng để cướp lúa của nhân dân vùng tạm chiếm.

Trước tình hình đó, tháng 8 năm 1950, Bộ tư lệnh Liên khu 5 quyết định mở chiến dịch Thu Đông 1950 lấy tên “Chiến dịch Hoàng Diệu”, nhằm đánh bại âm mưu bình định của địch, bảo vệ mùa lúa tháng 8, diệt một số cứ điểm, hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh chống địch chiêu an, dồn làng, đưa phong trào du kích chiến tranh vượt khó khăn, giữ vững phong trào kháng chiến ở vùng tạm chiếm.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm trung đoàn 108 chủ lực Liên khu, tiểu đoàn 29 và lực lượng vũ trang địa phương Quảng Nam, Đà Nẵng. Đồng chí Nguyễn Bá Phát được cử làm Tư lệnh chiến dịch, đồng chí Nguyễn Quyết làm Chính ủy.

Với mục đích tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, Bộ chỉ huy chiến dịch xác định phương châm: Không đánh to mà phân tán hoạt động. Chủ lực tổ chức một bộ phận đánh vào cứ điểm nhỏ, còn tập trung đánh quân ứng chiến, dân quân tổ chức phá hoại, bao vây và vũ trang tuyên truyền.

Sau khi tiến hành mọi công tác chuẩn bị, ngày 5 tháng 8 năm 1950, ta nổ súng mở màn đợt 1 chiến dịch. Đại đội 7 tiểu đoàn 29, cùng đại đội 61 Điện Bàn tổ chức trận địa phục kích trên đường Xuân Đài – Bảo An. Hai trung đội địch ở Xuân Đài đi hành quân sục sạo, lọt vào trận địa phục kích bị bộ đội ta nổ súng tiêu diệt toàn bộ, thu 50 súng.

Ngày 8 tháng 8, tiểu đoàn 29 tập tục tổ chức phục kích trên đường Giao Thủy - Túy La và Ái Nghĩa - Điện Hồng. Đại đội 7 phục kích ở Giao Thủy - Túy La, đại đội 9 và 12 đảm nhiệm đoạn Ái Nghĩa, Điện Hồng, đại đội 8 là lực lượng cơ động bố trí ở Bình Yên. Do mưa lớn nên địch hành quân từ Giao Thủy xuống Túy La ta không nắm được, khi chúng quay trở về, vào làng Bình Yên, đại đội 8 đang ở đây mới nổ súng diệt một trung đội địch, bắt bốn tù binh, thu một số vũ khí. Phối hợp với hoạt động của tiểu đoàn 29, các đại đội bộ đội địa phương các huyện Điện Bàn, Đại Lộc, Hòa Vang, Hội An cùng dân quân du kích bám sát các đồn địch, bắn tỉa quấy rối, đặt mìn, canh gác chống địch cướp lúa của nhân dân. Các đại đội địa phương còn cử người làm nòng cốt trong các đội vũ trang công tác tiến sâu vào các vùng xung yếu diệt tề, trừ gian, xây dựng cơ sở vận động nhân dân phá chiêu an, dồn dân của địch. Đợt tuyên truyền vũ trang phá chiêu an, dồn dân của địch kéo dài đến ngày 8 tháng 9 thì kết thúc.

Cũng thời gian này, trung đoàn 108 chủ lực Liên khu đang làm nhiệm vụ gây cơ sở ở Quảng Ngãi, được lệnh ra chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng tham gia đợt 2 chiến dịch.

Ngày 9 tháng 9 chiến dịch bước vào đợt 2. Trung đoàn 108 (gồm tiểu đoàn 79 và 19), tổ chức một bộ phận diệt tháp canh Tú Hải nhưng không thành, do đó không thực hiện được kế hoạch đánh viện. Trung đoàn chuyển sang phân tán đánh nhỏ ở La Nghi, Gò Nổi để bảo vệ nhân dân thu hoạch mùa. Tiểu đoàn 19 hoạt động khá hiệu quả ở La Nghi, Gò Nổi, kiềm chế được địch, bảo vệ nhân dân, tiểu đoàn đã diệt được một trung đội địch đi tuần tiễu trên đường La Nghi, thu hai trung liên và 21 súng trường.

Cùng với hoạt động quân sự của trung đoàn 108, các lực lượng bộ đội địa phương tiếp tục đi sâu vũ trang tuyên truyền, vận động nhân dân phá chiêu an, dồn dân của địch, thực hiện đợt cao điểm đấu tranh chính trị do tỉnh phát động. Ở Trương Định, Nam Định, Hưởng Phước, dân bung về làng cũ làm ăn, tham gia du kích, canh phòng giữ làng. Ở Điện Phong xây dựng được 80 cơ sở, ở Điện Quang, Điện Hồng tổ chức được du kích, đào hầm bí mật cất giấu cán bộ.

Trước hoạt động quân sự, chính trị rộng khắp của ta, ngày 4 tháng 11 năm 1950, địch tập trung 1.500 quân cơ động cùng với lực lượng chiếm đóng ở các cứ điểm Bình Long, Phong Thử, Ngũ Giáp, Quá Giang, có máy bay yểm trợ tổ chức thành ba cánh quân hòng bao vây càn quét diệt trung đoàn 108 ở khu vực xã Điện Hòa.

Các tiểu đoàn 79, 19 phân tán cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích, lợi dụng làng mạc, bờ tre, gò mả kiên cường chiến đấu chặn địch. Cuộc chiến đấu chống càn hết sức ác liệt kéo dài suốt ngày 4 tháng 11, địch bị tổn thất nặng phải chấm dứt cuộc càn và ngậm ngùi thừa nhận: “cuộc hành quân với 1.500 binh lính có đủ máy bay đại bác, cơ giới vào Điện Hòa đã đưa đến kết quả không đi đến đâu cả”. Sau ngày chống càn này, ta cũng kết thúc chiến dịch để củng cố lực lượng.

Kết quả, sau ba tháng chiến đấu, ta đã diệt 600 tên địch, làm bị thương 300 tên, bắt sống 20 tù binh, thu ba trung liên, 40 súng trường.



Chiến dịch Hoàng Diệu đã hoàn thành nhiệm vụ chống “chiêu an”, “bình định” của địch, bảo vệ được mùa màng cho nhân dân. Chiến dịch đã góp phần thúc đẩy các hoạt động ở các chiến trường khác trên địa bàn Liên khu, kịp thời phối hợp với chiến trường toàn quốc trong Chiến dịch Biên giới, làm thất bại một bước kế hoạch củng cố vùng chiếm đóng, chiêu an bắt lính của địch, tiêu hao sinh lực địch, giữ được phong trào chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch.

Chiến dịch Hoàng Diệu là chiến dịch nhỏ, nằm trong bước quá độ từ tác chiến du kích lên tác chiến chính quy ở địa bàn Liên khu 5. Phương châm chiến dịch ban đầu là tập trung đánh quân ứng chiến, đánh điểm diệt viện, song thực tế chiến dịch diễn ra không được rõ nét. Nhiều trận đánh cứ điểm không thành nên không đánh được quân ứng chiến. Trong chiến dịch, ta chủ yếu phân tán cùng lực lượng địa phương chống càn, chống chiêu an, bảo vệ nhân dân thu hoạch mùa màng.

Mặc dù kết quả đánh điểm diệt viện còn hạn chế, song thắng lợi của chiến dịch trong đánh bại âm mưu dồn dân bình định của địch đã làm tăng thêm niềm tin và sự phấn khởi trong quân dân Quảng Nam, Đà Nẵng, góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến ở địa phương đi lên.


*
*   *


Từ khởi đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến đây (sau Chiến dịch Hoàng Diệu, trước Chiến dịch Biên Giới), quân đội ta đã tiến hành hơn 26 chiến dịch (chưa kể một vài chiến dịch nhỏ của địa phương, do chưa đủ tài liệu nên những người viết chưa đề cập trong cuốn sách này); mỗi chiến dịch có quy mô khác nhau, nhưng đều đạt được những kết quả nhất định. Nhìn chung, về nghệ thuật chiến dịch đều chưa hoàn thiện, chưa thật đặc sắc nhưng đều đã bộc lộ những yếu tố, những mầm mống của nghệ thuật chiến dịch. Một chuỗi các chiến dịch diễn ra đã thật sự là “sự tích luỹ về lượng” rất cơ bản để quân đội ta có cuộc “nhảy vọt về chất”. Đó là sự ra đời của nghệ thuật chiến dịch đích thực và hoàn hảo ở Chiến dịch Biên Giới năm 1950.
____________________________________
*.Còn có tên gọi Chiến dịch Thu Đông.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #41 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2012, 09:50:51 am »

CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI1
(Tiến công, từ ngày 16 tháng 9 đến ngày 14 tháng 10 năm 1950)


Đến giữa năm 1950, cuộc kháng chiến của ta đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng và có bước phát triển mạnh. Ta đã xây dựng lực lượng ba thứ quân, xây dựng được một đại đoàn và nhiều trung đoàn chủ lực để đẩy mạnh vận động chiến tiến tới trên chiến trường Bắc Bộ.

Cách mạng Trung Quốc thành công, thế lực bao vây bốn bề đối với Việt Nam bị phá vỡ một mảng lớn, nhân dân ta có điều kiện tiếp nhận sự viện trợ về vật chất của bạn bè, trang bị vũ khí của quân đội ta có bước tiến bộ đáng kể.

Tuy nhiên, việc Pháp mở rộng chiếm đóng ở Trung Du và đồng bằng Bắc Bộ, cướp mất kho người, kho của, tăng cường đánh phá ta về mọi mặt trên khắp các chiến trường đã ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng và phát triển lực lượng. Việt Bắc, hậu phương chính của kháng chiến lại nghèo và bị bao vây cô lập, nên không đủ khả năng đáp ứng những nhu cầu ngày một tăng của cuộc kháng chiến.

Trong bối cảnh đó, tháng 6 năm 1950, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch trên hướng biên giới Đông Bắc thuộc hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn nhằm mục đích: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch; giải phóng một phần biên giới, mở đường giao thông với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.

Hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn phía bắc tiếp với Trung Quốc, rừng núi chiếm chín mươi phần trăm diện tích đất đai. Quốc lộ số 4 là trục giao thông chính chạy dọc biên giới nối liền các thị trấn, thị xã Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn. Ven hai bên quốc lộ 4 là núi rừng trùng điệp, núi đá tai mèo lẫn núi đất, rừng cây xen lẫn đồi tranh. Nhiều đoạn đường địa thế rất hiểm trở, uốn lượn chữ chi, một bên là vách đứng, một bên là vực sâu. Từ đường 4 ra phía biên giới có ba con đường thông sang Trung Quốc: đường Cao Bằng - Pác Mường, đường Đông Khê - Thuỷ Khẩu, đường Đồng Đăng - Bằng Tường, bên trong đi vào nội địa là đường số 3 nối Cao Bằng với Bắc Cạn, đường Bình Gia - Bắc Sơn nối Thất Khê với Thái Nguyên.

Sau cuộc tiến công lên Việt Bắc năm 1947, địch chiếm vùng Cao - Bắc - Lạng để “khoá chặt biên giới”, “bóp nghẹt lực lượng kháng chiến”. Trong kế hoạch Rơ-ve (Revers) (1949), địch đã coi việc tăng cường tuyến phòng thủ biên giới nhằm ngăn chặn quân Trung Quốc, ngăn cản sự tiếp xúc giữa Việt Nam và bên ngoài là một trong những nhiệm vụ cấp thiết nhất. Nhưng do lực lượng có hạn, Rơ-ve chủ trương chỉ phòng thủ có trọng điểm ở một số vị trí trọng điểm. Từ cuối năm 1949, Cao Bằng, Đông Khê trở thành những “con nhím” cô lập trên tuyến biên giới và việc tiếp tế cho những nơi này bằng đường bộ trở lên quá phức tạp và nguy hiểm. Đầu tháng 9 năm 1950, phát hiện nguy cơ có thể bị tiến công, địch dự kiến sẽ rút khỏi Cao Bằng vào đầu tháng 10.

Trước ngày ta nổ súng mở màn chiến dịch, địch chia Liên khu Biên Giới thành hai khu và hai phân khu Cao Bằng và Thất Khê, khu Lạng Sơn, khu An Châu, với tổng số binh lực vừa chiếm đóng và cơ động là 11 tiểu đoàn, chín đại đội bộ binh, bốn đại đội cơ giới, bốn đại đội công binh, 27 khẩu pháo các loại và tám máy bay. Lực lượng địch tại biên giới hầu hết là các đơn vị Âu - Phi tinh nhuệ, có “truyền thống” chiến đấu tại châu Âu. Tại các vị trí chiếm đóng, chúng xây dựng các cụm cứ điểm với binh lực từ hai đại đội trở lên, có hoả lực và binh chủng kỹ thuật tăng cường. Mỗi cụm cứ điểm gồm có đồn chính và các đồn tiền tiêu bảo vệ xung quanh để ngăn chặn ta từ xa. Chúng tăng cường cải tiến công sự ở các đồn, xây dựng hệ thống hào giao thông, hầm ngầm, lô cốt để tăng sức phòng thủ và xây dựng sân bay để đảm bảo tiếp vận đường không.

Về phía ta, thực hiện nhiệm vụ Trung ương giao, ngày 7 tháng 7 năm 1950, Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh mở Chiến dịch biên giới Cao - Lạng, lấy mật danh là Chiến dịch Lê Hồng Phong 2. Ngày 27 tháng 7, Thường vụ Trung ương ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch. Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư Đảng uỷ mặt trận và Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch. Các đảng ủy viên gồm các đồng chí Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng chiến dịch, Trần Đăng Ninh – chủ nhiệm cung cấp, Lê Liêm - Chủ nhiệm chính trị và đồng chí Bùi Quang Tạo. Ngay sau đó, các cơ quan chiến dịch cũng gấp rút được thành lập để giúp việc cho Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch.

Với ý định ban đầu đánh Cao Bằng trước, sau đó chuyển xuống đánh Đông Khê, Thất Khê, đầu tháng 8, Bộ chỉ huy chiến dịch tổ chức trinh sát thực địa Cao Bằng. Qua nghiên cứu thực tế, Bộ chỉ huy thấy Cao Bằng tuy là thị xã cô lập, đột xuất, nhưng đó là quần thể kiến trúc phức tạp, có hệ thống đồn trại, pháo đài kiên cố do hai tiểu đoàn đóng giữ, nếu đánh Cao Bằng, “ta chưa có thể nói chắc chắn bảo đảm thắng lợi”. Ngày 16 tháng 8, Đảng ủy chiến dịch cân nhắc thảo luận, sau đó đi đến quyết nghị một phương án tác chiến mới là đánh Đông Khê trước để mở màn chiến dịch, đồng thời tổ chức tiêu diệt quân ứng cứu cho Đông Khê, sau đó xuống đánh Thất Khê và chỉnh đốn rồi tiếp tục đánh Cao Bằng.

Để đảm bảo chắc thắng, Bộ Tổng tư lệnh quyết định sử dụng nhiều đơn vị mạnh tham gia chiến dịch: Đại đoàn 308, trung đoàn 209, 174 (khoảng hai phần ba chủ lực Bộ); ba tiểu đoàn chủ lực (426, 428, 888) của Liên khu Việt Bắc và tỉnh Lạng Sơn cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích của hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Về lực lượng binh chủng, Bộ Tổng tư lệnh đã tập trung số lớn pháo binh và công binh của Bộ cho chiến dịch, gồm bốn đại đội sơn pháo (20 khẩu 70 và 75mm), năm đại đội công binh. Tổng số lực lượng tham gia chiến dịch tương đương hai đại đoàn, được phân chia thành ba mặt trận:

Mặt trận Đông Khê đánh cụm cứ điểm Đông Khê và quân dù có thể nhảy xuống quanh Đông Khê gồm trung đoàn 174 (được tăng cường hai tiểu đoàn), trung đoàn 209, trung đoàn 36 Đại đoàn 308, tiểu đoàn pháo 75mm (thiếu).

Mặt trận đánh quân ứng chiến do Đại đoàn 308 đảm nhiệm, bố trí ớ đoạn đường giữa Đông Khê - Thất Khê.

Mặt trận Na Sầm - Lạng Sơn gồm các tiểu đoàn 428 của Liên khu Việt Bắc, tiểu đoàn 888 Lạng Sơn có nhiệm vụ phá đường, tiêu hao, quấy rối, phục kích địch trên đoạn đường Thất Khê - Lạng Sơn.

Sở chỉ huy chiến dịch được tổ chức thành hai bộ phận: bộ phận nặng ở Tà Lùng và Thủy Khẩu, bộ phận nhẹ ở Nà Lạn.
__________________________________________
1.Còn gọi là Chiến dịch Lê Hồng Phong 2.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #42 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2012, 09:57:21 am »


Ngày 24 tháng 8, Bộ chỉ huy chiến dịch mở hội nghị cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên, để thảo luận và quán triệt quyết tâm mới. Sau hội nghị, đi đôi với việc hoàn chỉnh quyết tâm chiến dịch, nhiều mặt công tác chuẩn bị chiến đấu cũng được tiến hành rất khẩn trương.

Bảo đảm hậu cần là công việc đòi hỏi phải dốc nhiều công sức nhất. Với lực lượng tham gia chiến dịch gần ba vạn quân (25.000 thuộc các đơn vị chiến đấu, 4.500 thuộc Bộ chỉ huy chiến dịch và cơ quan), cùng hàng vạn dân công, lại chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, nên nhu cầu vật chất đảm bảo cho chiến dịch rất lớn, vượt xa các chiến dịch trước hàng chục lần. Trung ương đã cử đồng chí Trần Đăng Ninh - Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, trực tiếp phụ trách bộ máy hậu cần chiến dịch, và điều động hơn 200 cán bộ của các cơ quan trung ương và các liên khu tăng cường cho cơ quan cung cấp mặt trận. Trung ương còn giao cho Liên khu ủy Việt Bắc tổng động viên sức người, sức của toàn Liên khu vào việc chuẩn bị và phục vụ chiến dịch. Hàng chục vạn dân công đã được huy động phục vụ cho chiến dịch. Đội vận tải cơ giới của quân đội (gồm 60 xe) mới thành lập cũng nhanh chóng lên đường phục vụ chiến dịch. Đến trung tuần tháng 9, công tác chuẩn bị hậu cần đã căn bản hoàn thành1. Gần 4.000 tấn lương thực, súng đạn đã được vận chuyển đến những địa điểm thích hợp, phù hợp với ý định chiến dịch.

Ngày 1 tháng 9 năm 1950, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng ra mệnh lệnh hành quân cho các đơn vị. Trước đó các đơn vị đã được củng cố, huấn luyện, kiện toàn tổ chức, trang bị lại vũ khí, quán triệt nhiệm vụ... nên bộ đội ra quân rất sung sức và đầy khí thế. Ngày 10 tháng 9, các đơn vị đã hành quân đến vị trí tập kết cuối cùng, hoàn chỉnh mọi công tác chuẩn bị.

Cũng thời gian này, Chủ tịch Hồ Chí Minh tự mình trèo đèo lội suối cùng bộ đội, dân công lên đường ra mặt trận để trực tiếp chỉ đạo và động viên các lực lượng tham gia chiến dịch. Tin Bác Hồ đi chiến dịch càng tăng thêm sức mạnh cho cán bộ chiến sĩ, làm mọi người càng thấm sâu ý nghĩa quan trọng của chiến dịch và càng thêm hăng hái tin tưởng.

Ngày 14 tháng 9 năm 1950, Bộ chỉ huy chiến dịch ra mệnh lệnh tác chiến số 3 cho Mặt trận Đông Khê. Ngày 15, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư thăm hỏi các đơn vị tham gia trận đánh Đông Khê. Đến đây mọi công tác chuẩn bị đã hoàn thành. Chiến dịch Biên Giới trên thực tế tiến hành theo ba đợt:

Đợt 1 (từ ngày 16 đến ngà] 20 tháng 9 năm 1950): Ta tập trung lực lượng đánh trận then chốt tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê.

Đông Khê là vị trí quan trọng của địch trên tuyến phòng thủ đường số 4, phía bắc cách thị xã Cao Bằng 45 ki-lô-mét. Sau trận tiến công của trung đoàn 174 vào tháng 5, địch củng cố Đông Khê thành một cụm cứ điểm mạnh, có công sự kiên cố, hầm ngầm, trận địa pháo và sân bay.

Nằm lọt trong thung lũng và chiếm gần toàn bộ thị trấn là khu trung tâm đề kháng của căn cứ với hai điểm tựa lớn, trong đó quan trọng và vững chắc nhất là đồn to. Xung quanh khu trung tâm, trên những mỏm đồi và núi đá là một vành đai gồm bảy cứ điểm ngoại vi. Lực lượng chiếm giữ Đông Khê gồm hai đại đội lê dương thiện chiến thuộc trung đoàn 3 lê dương, một trung đội ngụy, hai khẩu pháo (105mm và 57mm), tất cả gồm 321 tên, do đại úy A-li-úc (Allioux) chỉ huy.

Để đảm bảo chắc thắng trận đầu, Ban chỉ huy mặt trận Đông Khê, do đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách, quyết định sử dụng một lực lượng ưu thế để đánh Đông Khê. Nhiệm vụ các đơn vị được phân công như sau:

Trung đoàn 174 được tăng cường tiểu đoàn 426, tiểu đoàn 11 Đại đoàn 308, sáu khẩu sơn pháo 75mm, bốn khẩu ĐKZ57mm có nhiệm vụ tiến công trên hướng chủ yếu từ hướng đông bắc và bắc.

Trung đoàn 209 được tăng cường bốn khẩu sơn pháo 75mm, hai khẩu ĐKZ, có nhiệm vụ tiến công trên hướng thứ yếu từ hướng tây nam và tây.

Tiểu đoàn pháo 75mm gồm ba khẩu bố trí ở đông cụm cứ điểm, chi viện trực tiếp cho trận đánh.

Trung đoàn 36 Đại đoàn 308 bố trí ở đông nam Đông Khê, có nhiệm vụ tiêu diệt quân nhảy dù và chặn đánh địch ở Đông Khê tháo chạy về phía nam, đồng thời làm lực lượng dự bị đánh Đông Khê khi cần thiết.

Đêm 15 tháng 9, các đơn vị đánh Đông Khê tiến vào chiếm lĩnh trận địa. Đúng 6 giờ sáng ngày 16 tháng 9, sau khi nghe trung đoàn trưởng trung đoàn 174 báo cáo đơn vị đã chiếm lĩnh trận địa xong, Chỉ huy trưởng mặt trận quyết định phát lệnh nổ súng. Pháo các cỡ bắn dồn dập vào các đồn. Trung đoàn 174 tổ chức mở cuộc tiến công các vị trí tiền tiêu đến 9 giờ ta chiếm được đồn Yên Ngựa, 10 giờ 30 phút, chiếm đồn Thìa Khoá.

Hướng tây nam, trung đoàn 209 có một bộ phận hành quân lạc, triển khai trận địa chậm, nên đến 18 giờ mới nổ súng, 21 giờ diệt được đồn Pò Đình, tiếp tục tiến công đồn Pò Hầu, nhưng đồn này địch chống trả quyết liệt, ta chưa giải quyết xong.

Cuộc chiến đấu trên cả hai hướng kéo dài suốt đêm 16, rạng sáng ngày 17. Đến 4 giờ sáng, trung đoàn 174 chiếm được Cẩm Phầy, trung đoàn 209 chiếm được Phủ Thiện, Nhà Cũ, khu trường học. Địch thu dần phạm vi cố thủ, nhưng vẫn ngoan cố dựa vào pháo đài đánh bật nhiều đợt tiến công của ta. Bộ đội ta giằng co với địch, bị thương vong khá lớn.

Cả ngày 17, ta quyết giữ các vị trí Cẩm Phầy, Pò Hầu và chuẩn bị cho trận tiến công dứt điểm vào đêm 17 tháng 9. Các trung đoàn củng cố, chấn chỉnh lại bộ đội, rút kinh nghiệm để khắc phục các thiếu sót. Đồng chí Chỉ huy trưởng mặt trận Đông Khê nhất trí để trung đoàn 174 chuyển hướng đột phá từ hướng bắc xuống hướng đông bắc và yêu cầu trung đoàn cần tập trung lực lượng diệt cho được pháo đài. Đồng chí cũng chỉ thị cho trung đoàn 209 đánh từ phía nam lên phải tổ chức một mũi đánh vào sau lưng pháo đài.

Đúng 18 giờ 30 ngày 17 tháng 9, ta đồng loạt nổ súng mở đợt tiến công mới. Sau đợt hoả lực chuẩn bị, các mũi tiến công của ta bắt đầu đột phá. Tiểu đoàn 251 tiến công trên hướng đông pháo đài, đã chiếm được đầu cầu. Trên hướng bắc, tiểu đoàn 249 cũng chiếm được đồn Nhà Thương, phát triển vào bên trong, bắt liên lạc được với một bộ phận của trung đoàn 209, cùng phối hợp tổ chức mũi tiến công vào sau lưng pháo đài. Trận chiến đấu ác liệt kéo dài suốt đêm, nhiều gương chiến đấu dũng cảm xuất hiện: Đại đội trưởng Trần Cừ lấy thân mình lấp lỗ châu mai, tiểu đội trưởng La Văn Cầu nhờ đồng đội chặt cánh tay bị thương để tiếp tục lao lên đánh bộc phá... 4 giờ 30 phút ngày 18, ta thọc sâu vào sở chỉ huy địch và đến 10 giờ ngày 18, tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Đông Khê, loại khỏi vòng chiến đấu 300 tên, kết thúc thắng lợi trận then chốt mở màn chiến dịch.

Hướng mặt trận Na Sầm - Lạng Sơn, trước khi đánh Đông Khê, bộ đội địa phương đã phá bốn cầu, nhiều ki-lô-mét đường trên đường 4 đoạn phía nam Thất Khê. Ngày 16 tháng 9, tiểu đoàn 428 phục kích ở đoạn Pắc Luông đánh tiểu đoàn 3 Ta-bo từ Lạng Sơn lên Na Sầm, phá bốn xe, diệt 60 địch. Ngày 17 tháng 9, tiểu đoàn 888 phục kích ở Tha Lai phá hai xe, diệt 120 tên, đến 18 tháng 9 phá cầu Tha Lai.
____________________________________
1.Phòng Cung cấp chiến dịch đã triển khai các cơ sơ hậu cần thành hai tuyến: tuyến phía trước gồm các kho gạo, kho đạn, đội phẫu, ở gần khu vực tập kết của các trung đoàn chiến đấu; tuyến sau là các tổng kho, các bệnh viện hậu phương chiến dịch, triển khai ở cuối tuyến đường ô tô, đầu tuyến vận tải bộ (Thủy Khẩu, Phục Hòa), cách trung tuyến từ một đến hai cung vận tải bộ.
   Kết quả thực tế hậu cần chiến dịch đã tiếp tế cho bộ đội 1.886 tấn lương thực thực phẩm, 41 tấn đạn, cứu chữa hơn 1.550 thương binh, huy động 121.700 lượt người đi dân công, phục vụ 1.716.000 ngày công.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #43 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2012, 09:59:07 am »


Đợt 2 (từ ngày 21 tháng 9 đến ngày 29 tháng 9): Tiến hành trận then chốt quyết định tiêu diệt hai binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác-tông.

Mất Đông Khê, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông dương là Các-păng-chi-ê lập tức quyết định rút quân khỏi Cao Bằng. Kế hoạch rút Cao Bằng gồm hai cuộc hành quân: Cuộc hành quân Ti-nhít (Tizgnit), do trung tá Lơ Pa-giơ (Le Page) chỉ huy có nhiệm vụ đưa quân từ Thất Khê chiếm lại Đông Khê, làm bàn đạp đón cánh quân từ Cao Bằng về; Cuộc hành quân O-ra-giơ (Orage: Bão táp), do trung tá Sác-tông (Charton) chỉ huy, rút quân khỏi Cao Bằng về Đông Khê rồi cùng Lơ Pa-giơ rút về Thất Khê. Phối hợp với kế hoạch rút Cao Bằng, địch còn mở cuộc hành quân lớn đánh chiếm Thái Nguyên hòng thu hút lực lượng ta, đỡ đòn cho hướng Biên Giới.

Ngày 21 tháng 9, sau khi nắm được tin địch đã tăng cường cho Thất Khê bốn tiểu đoàn, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận định địch có thể chiếm lại Đông Khê đồng thời thọc sâu vào các cơ sở hậu phương ta ở xung quanh Thất Khê, nên quyết định tập trung lực lượng tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch (khoảng hai tiểu đoàn) từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê, khu vực quyết chiến điểm là đoạn từ Đông Khê đến Lũng Phầy.

Đại đoàn 308, được bố trí ở khu vực tam giác Lũng Chà - Bản Xiên - Nà Pá có nhiệm vụ tiêu diệt quân viện đi theo đường bộ. Trung đoàn 174 bố trí ở bắc - đông bắc Đông Khê sẵn sàng đánh quân nhảy dù. Trung đoàn 209 bố trí ở Bố Trạch làm lực lượng dự bị chiến dịch. Bộ chỉ huy chiến dịch trực tiếp chỉ huy các đơn vị trên.

Chờ đánh viện đến ngày 25 tháng 9, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận được tin địch tăng cường cho Cao Bằng một tiểu đoàn Ta-bo (chúng đưa lên từ 20 tháng 9) nên cho rằng trước mắt địch chưa có ý định chiếm lại Đông Khê. Vì vậy, trong khi kiên trì chờ đánh viện, ta cần đẩy mạnh hoạt động ở nam Thất Khê, tạo thời cơ, và khi có điều kiện thì đánh Thất Khê. Trung đoàn 174 được lệnh cơ động xuống nam Thất Khê, hoạt động trên đoạn Na Sầm - Thất Khê. Đại đoàn 308 và trung đoàn 209 cử cán bộ đi chuẩn bị chiến trường ở Thất Khê, các đơn vị dành một phần ba quân số đi Thuỷ Khẩu lấy gạo. Nhìn chung, mặc dù Bộ chỉ huy chiến dịch vẫn kiên trì chờ đánh viện, nhưng ở đơn vị thì xuất hiện tư tưởng chuẩn bị đánh Thất Khê.

Đêm 30 tháng 9, dự đoán lực lượng của ta đã chuyển xuống hoạt động ở phía nam, binh đoàn Lơ Pa-giơ, gồm bốn tiểu đoàn bí mật tiến quân theo kiểu sâu đo theo đường số 4, định bất ngờ đánh chiếm lại Đông Khê. Do thiếu cảnh giới chu đáo, bộ đội ta đã không phát hiện được cuộc hành quân của địch, bỏ lỡ cơ hội diệt địch bằng một trận phục kích đã chuẩn bị trước.

Ngày 1 tháng 10, hồi 8 giờ, trinh sát tiểu đoàn 426 chạm địch ở Bông Lau. 11 giờ, trinh sát trung đoàn 209 chạm địch ở Nà Pá. Đến 11 giờ 30, địch tới cửa ngõ Đông Khê và lập tức cho tiểu đoàn dù lê dương số 1 đi đầu tổ chức tiến công. Lực lượng này bị một bộ phận của trung đoàn 209 chặn đánh phải dừng lại ở Pò Hầu.

Mưu toan bất ngờ chiếm Đông Khê không thành, Lơ Pa-giơ cho quân dừng lại chờ pháo nặng từ Na Sầm lên để tổ chức tiến công Đông Khê.

Về phía ta, chiều 1 tháng 10, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định “tập trung lực lượng tiêu diệt toàn bộ quân địch…, trọng điểm tiêu diệt từ Đông Khê đến Keo Ái”. Các đơn vị được giao nhiệm vụ như sau: Trung đoàn 209 chiếm lĩnh các điểm cao trong thị trấn và bắc thị trấn không cho địch chiếm lại Đông Khê; trung đoàn 88 chiếm lĩnh Keo Ái chặn không cho địch rút về cũng như không cho chúng tăng quân từ Thất Khê lên; Trung đoàn 36 chiếm lại Khâu Luông, sẵn sàng đánh quân dù trong phạm vi từ Nà Pá đến Pò Hầu; trung đoàn 102 làm lực lượng dự bị.

Sáng ngày 2 tháng 10, Lơ Pa-giơ dàn quân chuẩn bị đánh Đông Khê. Tiểu đoàn 1/8 Ma-rốc chiếm Nà Pá - Hạ Pha; tiểu đoàn dù 1 ở Khâu Luông; tiểu đoàn 1 Ta-bo ở Khâu Áng; tiểu đoàn 11 Ta-bo ở điểm cao tây nam Khâu Luông. Đến 14 giờ, Lơ Pa-giơ nhận được lệnh: để lại một bộ phận kiềm chế Đông Khê, còn đại bộ phận nhanh chóng lên Quang Liệt - Nậm Nàng đón binh đoàn Sác-tông từ Cao Bằng về. Biết quanh Đông Khê ta có lực lượng mạnh, Lơ Pa-giơ chủ trương dùng hai tiểu đoàn giữ Khâu Luông - Nà Pá để ngăn chặn, thu hút lực lượng ta, còn hai tiểu đoàn do y trực tiếp chỉ huy, tiến lên đón Sác-tông.

Chiều ngày 2 tháng 10, ta mới bắt đầu nổ súng đánh binh đoàn Lơ Pa-giơ. Tiểu đoàn 154 trung đoàn 209 đánh địch ở Khâu Áng. Trung đoàn 36 đánh Khâu Luông không thành công. 17 giờ, tiểu đoàn 18 trung đoàn 102 và tiểu đoàn 29 trung đoàn 88 tiến công địch ở Chốc Ngà. 20 giờ, tiểu đoàn 322 trung đoàn 88 diệt một đại đội của tiểu đoàn 1/8 Ma-rốc ở Nà Mục. Mờ sáng ngày 3 tháng 10, tiểu đoàn 88 và 84 trung đoàn 36 tiếp tục tập kích vào Khâu Luông, chiếm được một trong bốn mỏm, ta và địch tranh chấp khu vực này suốt buổi sáng.

Bị ta bám đánh, Lơ Pa-giơ lúng túng, nửa binh đoàn đi đón Sác-tông, ngày 3 tháng 10 vẫn còn quanh quẩn ở khu vực Khâu Áng - Nà Kéo, tiểu đoàn 1 Ta-bo giữ Khâu Áng bị ta tiến công, bỏ chạy sang khu vực điểm cao Xuân Hòa, phía tây Đông Khê.

Trong khi cánh quân La-pa-giơ đang bị bám đánh, 0 giờ ngày 3 tháng 10, Sác-tông bắt đầu cho quân rút khỏi Cao Bằng. Lực lượng gồm: tiểu đoàn 3 trung đoàn 3 lê dương, tiểu đoàn 3 Ta-bo (3e Tabor), một tiểu đoàn ngụy, một khẩu pháo 105mm, 15 xe vận tải và khoảng 500 thường dân đi theo. Tối ngày 3, gần tới Nậm Nàng (điểm quy định hội quân), Sác-tông nhận được lệnh bỏ đường 4 đi vòng theo đường mòn Quang Liệt, Cốc Xá để về Thất Khê.

Ở phía Đông Khê, binh đoàn Lơ Pa-giơ bị cắt làm đôi. Hai tiểu đoàn ở khu vực Khâu Luông - Nà Pá, hai tiểu đoàn cùng sở chỉ huy của Lơ Pa-giơ ở khu vực điểm cao Xuân Hòa. Bộ chỉ huy chiến dịch của ta chủ trương diệt từng bộ phận của binh đoàn này.

Đêm 3 rạng sáng 4, trung đoàn 36 được tăng cường tiểu đoàn 11, tiến công Khâu Luông. Địch không chống cự nổi phải bỏ chạy, ta tổ chức truy đuổi đến Na Kéo, bắt một số tù binh, thu bốn khẩu pháo. Trung đoàn 209 vận động tiếp cận địch ở khu vực Xuân Hoà, địch dùng không quân ngăn chặn và di chuyển về điểm cao 649 (hang Cốc Xá). Trung đoàn 88 (thiếu tiểu đoàn 29) được lệnh đưa tiểu đoàn 322 chốt ở Cốc Tồn, ngăn chặn địch ở phía nam tiếp viện lên. Lực lượng còn lại được phối thuộc tiểu đoàn 18 trung đoàn 102 chiếm điểm cao 533, tạo thế bao vây địch ở phía nam Cốc Xá.

Trong thời gian này, ở phía nam Thất Khê, trung đoàn 174 diệt đồn Nà Lẹng đêm 3 tháng 10, đồn Nà Cạn đêm 4 tháng 10. Bộ đội địa phương, dân quân du kích tiếp tục hoạt động quấy phá địch.

Sau mấy ngày bị ta bám đánh liên tục, quân Lơ Pa-giơ bị mệt nhọc và thương vong nhiều. Lơ Pa-giơ bỏ ý định lên Nậm Nàng mà rút toàn bộ lực lượng về Cốc Xá chờ hội quân với Sác-tông. Chiều 5 tháng 10, phần lớn quân Lơ Pa-giơ đã về đến Cốc Xá, tiểu đoàn 1 dù chiếm giữ phía tây, tiểu đoàn 1/8 Ma-rốc phía nam và đông nam, tiểu đoàn 1 Ta-bo phía đông. Còn Sác-tông, mãi 10 giờ ngày 4 tháng 10 mới về tới Nậm Nàng. Hàng mấy nghìn binh lính bỏ xe pháo tìm đường tắt xuyên rừng về Quang Liệt.

Trưa ngày 4 tháng 10, Bộ chỉ huy chiến dịch mới nhận được tin định rút khỏi Cao Bằng. Ngày 5 tháng 10. Bộ chỉ huy họp và nhận định: phía Cốc Xá, binh đoàn Lơ Pa-giơ đang bị vây, song vẫn có ý định phát triển lên chiếm khu vực điểm cao 477 để đón Sác-tông, còn phía Sác-tông cũng đang cố gắng tiến về để bắt liên lạc với Lơ Pa-giơ. Quyết tâm của ta là tranh thủ tiêu diệt binh đoàn Lơ Pa-giơ trước khi binh đoàn Sác-tông về đến nơi, đồng thời tích cực ngăn chặn tiêu hao binh đoàn Sác-tông, tạo điều kiện để sau khi tiêu diệt Binh đoàn Lơ Pa-giơ thì chuyển sang tiêu diệt binh đoàn Sác-tông. Đại đoàn 308 được tăng cường tiểu đoàn 154 trung đoàn 209, có nhiệm vụ tiêu diệt binh đoàn Lơ Pa-giơ... trung đoàn 209 bám sát, ngăn chặn, chia cắt, tiêu hao binh đoàn Sác-tông, không để chúng liên lạc với binh đoàn Lơ Pa-giơ. Trung đoàn 174 cơ động chiếm khu vực Cốc Tồn, Khâu Pia để tiêu diệt địch rút chạy.

Chiều ngày 5 tháng 10, các đơn vị được phân công tiêu diệt địch ở Cốc Xá gồm bốn tiểu đoàn do trung đoàn trưởng trung đoàn 36 chỉ huy chung đã hình thành thế bao vây Cốc Xá. Tiểu đoàn 89 trung đoàn 36 tiến công trên hướng chủ yếu vào sườn quân địch từ hướng đông. Tiểu đoàn 154 trung đoàn 209 đánh từ hướng bắc; tiểu đoàn 11 Đại đoàn 308 đánh từ hướng nam; tiểu đoàn 80 trung đoàn 36 bố trí ở đồi tranh đông nam Cốc Xá ngăn chặn không cho địch từ Cốc Xá sang 477.

Lực lượng bao vây ngăn chặn vòng ngoài gồm: tiểu đoàn 18 trung đoàn 102 chiếm điểm cao 533 nam Cốc Xá hai ki-lô-mét, trung đoàn 88 chiếm các điểm cao khu vực 477, tiểu đoàn 84 trung đoàn 36 đón lõng ở Bản Ca.

Đúng 17 giờ ngày 5 tháng 10, ta bắt đầu nổ súng tiến công Cốc Xá. Cốc Xá là khu vực địa hình hiểm trở, có thung lũng lòng chảo với núi đá vôi dốc đứng bao quanh. Dựa vào các mỏm cao, hẻm núi, hang sâu, bốn tiểu đoàn địch bố trí binh hoả lực nhiều tầng ngoan cố chống cự các đợt tiến công của ta. Cuộc chiến đấu kéo dài suốt ngày 6 vẫn chưa giải quyết được. Đêm 6 tháng 10, ta sử dụng đại đội 395 tiểu đoàn 89 bí mật luồn sâu chiếm được điểm cao phía đông. Sáng ngày 7, các đơn vị đồng loạt công kích, đại đội 395 bất ngờ xuất hiện từ trên cao đánh xuống, quân địch nhanh chóng rối loạn. Bộ đội ta tràn vào thung lũng, vừa đánh vừa gọi hàng, làm chủ hoàn toàn khu vực Cốc Xá. Lơ Pa-giơ cùng ban tham mưu và một bộ phận tàn quân thoát ra ngoài chạy xuống phía nam, chiều hôm sau (8 tháng 10), bị bắt gọn ở Nà Cao. Như vậy, sau bảy ngày đêm chiến đấu liên tục, ta đã tiêu diệt gọn binh đoàn Lơ Pa-giơ, loại khỏi vòng chiến đấu 1.200 tên.

Trên hướng binh đoàn Sác-tông, trung đoàn 209 vận động lên phía Nậm Nàng, nhưng địch đã chuyển hướng vào đường Quang Liệt. Bộ chỉ huy chiến dịch điều thêm trung đoàn 102 (thiếu tiểu đoàn 18) tiến về phía Nà Pô với nhiệm vụ gặp địch đâu đánh đấy.

Sáng ngày 6 tháng 10, quân của Sác-tông về tới điểm cao 590 (Bản Bẹ). Trung đoàn 209 (hai tiểu đoàn) đánh từ hướng bắc và tây, tiểu đoàn 29 trung đoàn 88 đánh từ hướng đông. Trận này ta đánh tan một tiểu đoàn ngụy và đại đội Ta-bo, bắt trên 200 tên. Tối ngày 6 tháng 10, binh đoàn Sác-tông chạy về tới Lán Hai và điểm cao 477.

Cũng chiều ngày 6 tháng 10, nhận thấy binh đoàn Lơ Pa-giơ đã căn bản bị tiêu diệt, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định “tập trung lực lượng tiêu diệt binh đoàn Sác-tông ở khu vực điểm cao 477” - một khu núi đất gồm năm mỏm cách Cốc Xá ba ki-lô-mét về phía tây.

Lực lượng tiến công địch ở 477 gồm tiểu đoàn 23 trung đoàn 88 đánh trên hướng chủ yếu từ phía tây nam; tiểu đoàn 18 trung đoàn 102 đánh trên hướng đông nam; tiểu đoàn 29 trung đoàn 88 đánh trên hướng đông bắc; trung đoàn 209 đánh trên hướng tây bắc. 7 giờ sáng ngày 7 tháng 10, ta bắt đầu nổ súng tiến công. 9 giờ, ta chiếm được các điểm cao phía tây nam và đông nam. 12 giờ, vòng vây của ta khép chặt. Cũng khoảng 12 giờ, hòng tìm cách thoát vây, Sác-tông cho một bộ phận ra sức phản kích để nghi binh thu hút ta, còn đại bộ phận bí mật xuống núi men theo suối tìm đường chạy về phía nam. Lực lượng này về đến Bản Ca bị tiểu đoàn 84 trung đoàn 36 và một đại đội của tiểu đoàn 18 trung đoàn 102 chặn đánh. Đến 17 giờ ngày 7 tháng 10, toàn bộ binh đoàn Sác-tông đã bị tiêu diệt, phần lớn bị bắt làm tù binh, trong đó có cả trung tá Sác-tông và các sĩ quan tham mưu của y.

Cũng chiều ngày 7 tháng 10, trong lúc cả hai binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác-tông đang bị ta bao vây tiêu diệt, thì bộ chỉ huy ở Liên khu Biên Giới của địch thu gom một lực lượng khoảng bốn đại đội Âu - Phi, do tên đại tá Đờ la Bôm (De la Beaume) chỉ huy, từ Thất Khê lên Lũng Phầy để đón lực lượng từ phía bắc rút về. Đêm 7, chúng tới các khu vực điểm cao 703, 608. Sáng ngày 8 tháng 10, chúng cho quân phát triển tiếp thì bị tiểu đoàn 322 trung đoàn 88, tiểu đoàn 88 trung đoàn 66 chặn đánh, buộc phải quay về Thất Khê. Đến đây cả hai binh đoàn (bảy tiểu đoàn) địch bị xoá sổ. Đợt 2 chiến dịch kết thúc.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #44 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2012, 10:00:10 am »


Đợt 3 (từ ngày 9 đến ngày 14 tháng 10 năm 1950): Địch ở Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn rút chạy, ta truy kích địch giải phóng Thất Khê, Na Sầm.

Trên vùng biên giới, sau khi bị mất hai binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác-tông, địch tăng thêm tiểu đoàn dù 3 cho Thất Khê, đưa số quân ở đây lên ba tiểu đoàn. Lực lượng đông, nhưng tinh thần binh lính thì rất hoang mang lo sợ.

Về phía ta, ngày 10 tháng 10, Bộ chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm bao vây tiêu diệt Thất Khê. Trong khi Đại đoàn 308 và hai trung đoàn 209, 174 đang cơ động về Thất Khê, thì 21 giờ ngày 10 tháng 10, địch bắt đầu rút khỏi Thất Khê. Bộ đội ta cơ động quá chậm, nên mặc dù địch ùn tắc ở cầu Bản Trại (do cầu bị ta phá đêm 9) sáu tiếng đồng hồ nhưng ta cũng không có đơn vị nào đến kịp. Các tiểu đoàn 426 và 428 bố trí ngăn chặn địch ở đoạn Hắt Con, Đèo Khách vì cho rằng địch không dám rút ban đêm nên mất cảnh giác, đã để các tiểu đoàn đi trước của chúng thoát hết, chỉ chặn được tiểu đoàn dù 3 thuộc địa. Tiểu đoàn này bị chặn, phải đi vào đường rừng về Na Sầm, tới gần Na Sầm thì bị trung đoàn 174 tiêu diệt.

Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho bộ đội tiếp tục truy kích địch, thừa thắng vận động tới bao vây và tiêu diệt Na Sầm. Ngày 14 tháng 10, ta chưa kịp tới thì địch ở Na Sầm rút chạy, sau đó tiếp tục rút ra các vị trí lẻ trên đường Na Sầm - Đồng Đăng. Đến lúc này, tình hình địch ở biên giới chuyển biến quá nhanh, Bộ chỉ huy chiến dịch không lường hết khả năng địch sẽ còn tiếp tục rút nên không có kế hoạch phát triển tiến công mà chỉ lệnh cho tiểu đoàn 426, 428 xuống hoạt động trên đường Lạng Sơn - Đồng Đăng, trung đoàn 98 về hoạt động dọc đường Lạng Sơn - Tiên Yên. Tuy các đơn vị còn tiếp tục truy lùng diệt tàn binh địch, nhưng về cơ bản, chiến dịch kết thúc vào ngày 14 tháng 10 năm 1950. Trong khi đó địch rút bỏ Đồng Đăng (17.10); Lạng Sơn, Lạng Giang (18.10), Lộc Bình, Đình Lập (20.10), An Châu (20.10)... trong quá trình địch rút, các tiểu đoàn 426, 428, 888 phối hợp với dân quân du kích diệt thêm một số ngụy binh, riêng trung đoàn 98 thì không về kịp.

Sau 29 ngày chiến đấu ta đã đánh và tiêu diệt gần 10 tiểu đoàn địch (trong số này bảy tiểu đoàn Âu - Phi và một tiểu đoàn ngụy bị diệt gọn), loại khỏi vòng chiến đấu 8.296 tên (bắt sống 3.576, có 3.000 là lính Âu - Phi), bắt được toàn bộ ban chỉ huy binh đoàn Lơ Pa-giơ, Sác-tông và đồn Đông Khê. Ta thu trên 3.000 tấn vũ khí, phương tiện (trong đó có 58 khẩu pháo cối các loại). Số vũ khí này đủ trang bị cho hai trung đoàn chủ lực của ta. Ta giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập.

Thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Sau bốn năm kháng chiến, đây là lần đầu tiên ta mở một chiến dịch tiến công lớn, đánh vào tuyến phòng thủ mạnh của địch, nhằm thực hiện những mục tiêu chiến lược quan trọng. Ta không chỉ tiêu diệt một khối sinh lực tinh nhuệ của địch mà còn giải phóng một vùng đất đai rộng lớn, nối liền hậu phương của ta với Trung Quốc, khơi thông nguồn giao lưu nhiều mặt của ta với phong trào hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Thế bị bao vây cả trong lẫn ngoài của ta được phá vỡ.



Thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới mở ra một bước ngoặt chuyển cuộc kháng chiến của ta từ hình thái chiến tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích ở trình độ cao hơn.

Chiến dịch Biên giới đã làm phá sản kế hoạch quân sự chính trị của Pháp. Vòng vây biên giới bị đập tan, hành lang đông - tây bị chọc thủng, kế hoạch Rơ-ve cơ bản bị sụp đổ. Thất bại ở biên giới đã gây đảo lộn lớn đối với chiến lược, chiến thuật của Pháp, làm quân Pháp choáng váng, hốt hoảng bố trí lại lực lượng, thay đổi chiến thuật, thay đổi chỉ huy... Thất bại ở Biên Giới là thất bại chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp.

Chiến thắng Biên Giới cũng đánh dấu một bước tiến nhảy vọt của quân đội ta về nghệ thuật chiến dịch. Lần đầu tiên, từ những đợt hoạt động, những chiến dịch nhỏ, ta tiến lên mở một chiến dịch quy mô lớn, đánh tập trung chính quy, hiệp đồng binh chủng với lực lượng gần ba vạn cán bộ, chiến sĩ, hiệp đồng hàng vạn dân công, tiến công vào một hệ thống phòng ngự mạnh của địch trên tuyến dài gần 100 ki-lô-mét, đánh liên tục hàng tháng.

Trong Chiến dịch Biên Giới ta đã chọn đúng khu vực tác chiến chủ yếu. Đó là khu vực Cao Bằng - Thất Khê nơi các vị trí phòng ngự của địch (Cao Bằng, Thất Khê, Đông Khê) cách nhau từ 25 - 45 ki-lô-mét, lại ở mút đường 4 nên khả năng tự vệ của từng vị trí đã kém, khả năng ứng cứu tăng viện lại khó khăn và tốn kém. Đây là khu vực phòng ngự sơ hở cửa địch, song lại gần hậu phương kháng chiến của ta, có nhiều đường nối liền với Trung Quốc, tiện việc chỉ đạo và huy động nhân lực, vật lực.

Việc chọn Đông Khê là mục tiêu mở màn chiến dịch là sự lựa chọn thận trọng, đảm bảo chắc thắng trận đầu. Đây cũng là sự lựa chọn phù hợp với phương châm chiến dịch là đánh điểm diệt viện, lấy đánh địch ngoài công sự là chính.

Sự phát triển của nghệ thuật chiến dịch trong Chiến dịch Biên Giới còn thể hiện ở chỗ: ta đã biết tập trung ưu thế binh hoả lực trong các trận then chốt để đánh chắc thắng1; vận dụng tốt phương châm “đánh điểm diệt viện”; tạo thế liên tục trong quá trình chiến dịch, chuyển hoá thế trận tốt, xử trí tình huống tập trung, chia cắt diệt từng bộ phận dẫn tới diệt toàn bộ địch; giữ vững phát huy quyền chủ động trong suốt quá trình chiến dịch và có sự chuẩn bị trước cho bộ đội chiến đấu dài ngày.

Trải qua bốn năm kháng chiến gian khổ, chiến thắng Biên Giới là nguồn động viên to lớn đối với quân và dân ta. Chiến dịch Biên Giới có một ý nghĩa đặc biệt trong cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Nó đánh dấu một thất bại chiến lược của địch, là bước phát triển nhảy vọt của kháng chiến, tạo nên một chuyển biến mới về cục diện chiến trường, tạo thế và lực mới cho quân dân ta giành nhiều thắng lợi to lớn hơn.
______________________________________
1.Trận Đông Khê về binh lực ta gấp chín lần địch, về hoả lực ta sử dụng 13 khẩu sơn pháo và ĐKZ. Ngày 2 tháng 10, khi quân ta bắt đầu đánh binh đoàn Lơ Pa-giơ tỷ lệ giữa ta và địch là: ta 3.25, địch 1. Ngày hôm sau, khi binh đoàn Sác-tông xuất hiện, tỉ lệ tụt xuống còn: ta 2.28, địch 1.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #45 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2012, 10:02:24 am »


CHIẾN DỊCH LONG CHÂU HÀ 1
(Tiến công, từ ngày 3 đến ngày 12 tháng 10 năm 1950)


Vào năm 1950, ở Nam Bộ, Pháp chú trọng củng cố ngụy quân, ngụy quyền, giao việc bình định chiếm đóng cho ngụy binh, tiến hành các cuộc càn quét mở rộng địa bàn chiếm đóng, thi hành nhiều biện pháp nhằm cắt liên lạc giữa các khu 7, 8, 9, giữa Nam Bộ với Cam-pu-chia và Nam Bộ với Trung Bộ.

Ở vùng Long Châu Hậu, chúng tăng cường các hoạt động quân sự, tung do thám, gián điệp vào vùng căn cứ du kích để thăm dò lực lượng ta, tăng quân đóng thêm đồn bốt ở vùng tranh chấp và trục giao thông chính như Long Xuyên - Châu Đốc, Châu Đốc - Nhà Bàn, Tịnh Biên - Chi Lăng, Mặc Cần Dưng - Núi Sập.

Lợi dụng mùa nước địch có nhiều sơ hở, tháng 9 năm 1950, Bộ tư lệnh Khu 9 quyết định mở chiến dịch tiến công địch ở địa bàn ba huyện Tịnh Biên, Châu Thành và Tri Tôn tỉnh Long Châu Hậu. Giữa tháng 9, Bộ tư lệnh Khu 9 điều tiểu đoàn 404 thuộc trung đoàn Tây Đô lên tham gia chiến dịch và thành lập các bộ phận chỉ đạo chiến dịch. Ngày 22 tháng 9, Ban chỉ huy chiến dịch được thành lập, đồng chí Huỳnh Thủ làm chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Sa làm Chính uỷ, đồng chí Nguyễn Tấn Khương làm Chỉ huy phó.

Chiến dịch được mang tên Chiến dịch Long Châu Hậu1 với mục đích giành dân, khôi phục cơ sở đồng bào Khơ-me, Bảy Núi, tạo điều kiện tiến ra vùng Long Xuyên, Châu Phú A và vùng Hoà Hảo, Long Châu Tiền, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, gây khí thế mới để chuyển sang tổng phản công.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm hai tiểu đoàn chủ lực của Khu là 404 và 406 thuộc trung đoàn Tây Đô; ba đại đội bộ đội địa phương Long Châu Hậu (1084, 1095, 2004); Biệt động đội 304; một tiểu đội I-sa-rắc, một trung đội dân quân tập trung của Tịnh Biên và Tri Tôn, cùng các đơn vị dân quân du kích các xã trong vùng mở chiến dịch.

Đầu tháng 10 năm 1950 (lúc này là tháng nước nổi lớn nhất ở vùng Long Châu Hậu), mọi công việc chuẩn bị cho chiến dịch đã hoàn tất. Ban chỉ huy chiến dịch quyết định mở màn chiến dịch vào đêm 3 tháng 10 năm 1950 để kịp thời hưởng ứng với Chiến dịch Biên Giới ở ngoài Bắc. Chiến dịch được tiến hành theo hai đợt.

Đợt 1: Trên hướng chính, đêm 3 tháng 10, tiểu đoàn 404 tiến công đồn Vĩnh Trung, diệt 17 tên. Địch ở Nhà Bàn đưa lực lượng vào ứng cứu. Tiểu đoàn 406 phục kích bên ngoài, chặn đánh diệt 10 tên, phá hai xe, bảo đảm an toàn cho lực lượng của tiểu đoàn 404.

Ở mặt trận phụ, đại đội 2004 phá nhiều đoạn lộ từ Tri Tôn ra cầu sắt Cây Me và phá sập cầu Cây Me; đại đội 1084 chặn đánh địch từ Vĩnh Thông vào núi Tượng; đại đội 1095 ở ngã ba Lê Trì cũng phá được nhiều đoạn lộ. Ở mặt trận phối hợp, du kích thành Châu Đốc đốt kho lúa của địch ở Châu Thành, phá hỏng cầu sắt Núi Sam. Du kích và quần chúng Châu Phú A làm nhiều chướng ngại vật trên đường Châu Đốc - Núi Sam và quanh chân Núi Sam.

Do chưa diệt được cứ điểm Vĩnh Trung, ngày 4 tháng 10, tiểu đoàn 404 tiếp tục vây đồn, tiểu đoàn 406 phá sập cầu Bưng Tiền, uy hiếp địch trên đường Nhà Bàn - Vĩnh Trung. Địch ở các lô cốt 1, 2, 3, 4, 5 dọc đường Nhà Bàn - Vĩnh Trung bỏ chạy. Ngày 6 tháng 10, địch phải tăng quân đến Nhà Bàn để chuẩn bị giải tỏa cho Vĩnh Trung.

Hướng Tri Tôn, đêm 6 trăng 10 các tháp canh từ số 10 đến 15 cũng bỏ chạy, ta hoàn toàn làm chủ lộ Vĩnh Trung - Tri Tôn. Đồn Vĩnh Trung hoàn toàn bị cô lập.

Sáng ngày 7 tháng 10, địch sử dụng bảy xe cam nhông chở 150 lính, được sự chi viện của pháo binh đặt ở Cầu Mai, tổ chức giải toả cho Vĩnh Trung. Bộ đội ta ngăn chặn địch ở đoạn Nhà Bàn - Vĩnh Trung quyết liệt, song nhận thấy đạn dược có hạn, Ban chỉ huy chiến dịch quyết định lui quân, kết thúc đợt 1 chiến dịch.

Đợt 2: Chiến dịch được bắt đầu từ ngày 9 tháng 10. Đại đội 1095 cùng đội biệt động 304 và dân quân du kích Tri Tôn đánh các tháp canh quanh thị trấn Tri Tôn, đại đội 2004 hoạt động vũ trang tuyên truyền từ Châu Lăng đến Tri Tôn, hỗ trợ quần chúng thành lập Ban chấp hành hội Liên Việt lâm thời ở xã Nam Quy. Đại đội 1068 hoạt động từ ngã ba Chơn Cu đi Vĩnh Trung và Nhà Bàn để nghi binh thu hút địch. Các tiểu đoàn 406 và 404 làm nhiệm vụ đánh viện trên đường Nhà Bàn - Tri Tôn và vũ trang tuyên truyền từ Tri Tôn ra Châu Lăng.

Trước hoạt động của ta, địch không có phản ứng gì. Chiều ngày 12, ta chủ động kết thúc chiến dịch. Các đơn vị chủ lực rút về căn cứ để lại đại đội 2006 của tiểu đoàn 406 cùng địa phương củng cố cơ sở quần chúng.

Kết quả 10 ngày chiến dịch, ta tiêu diệt 49 tên, làm bị thương 65 tên, bức hàng 25 tên, phá hủy ba xe, san bằng 42 lô cốt, thu 22 súng và nhiều đạn dược, đồ dùng quân sự.

Chiến dịch Long Châu Hà 1 đã diệt một bộ phận sinh lực địch, bẻ gãy kế hoạch tiến công mùa nước của chúng ở vùng Bảy Núi, vũ trang tuyên truyền, vận động được nhiều đồng bào Khơ-me ở vùng Tịnh Biên - Tri Tôn trở về với kháng chiến.

Chiến dịch quy mô tuy nhỏ song đã có sự phối hợp hoạt động trên nhiều hướng, phối hợp giữa tiến công quân sự với vũ trang tuyên truyền, vận động quần chúng, tạo được sự đoàn kết phấn khởi của nhân dân và lực lượng vũ trang trong vùng.
___________________________________
1.Sau này có Chiến dịch Long Châu Hà 2, nên gọi chiến dịch này là Long Châu Hà 1.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #46 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2012, 10:05:28 am »


CHIẾN DỊCH BẾN CÁT 2
(Tiến công, từ ngày 7 tháng 10 đến ngày 15 tháng 11 năm 1950)


Mùa thu 1950, tại Gia Định, sau khi tăng cường đóng quân trong hệ thống đồn bốt và lập thêm nhiều tháp canh mới, thực dân Pháp bung ra lấn chiếm các vùng ngoại vi Hóc Môn, Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè và tung quân càn quét mãnh liệt vào các căn cứ của ta ở Mỹ Bình, Bến Cát, Vườn Thơm, Rừng Sác, trong đó uy hiếp mạnh căn cứ Hóc Môn và Bến Cát, ngăn chặn hành lang vận tải và thông tin liên lạc từ thành phố Sài Gòn lên các căn cứ Hố Bò, An Nhơn Tây và Long Nguyên của ta.

Trước tình hình đó, tháng 10 năm 1950, phối hợp với Chiến dịch Biên Giới ngoài Bắc Bộ, Bộ tư lệnh Khu 7 quyết định mở Chiến dịch Bến Cát lần thứ hai, nhằm mục đích cắt đứt và giải phóng đường số 7 và số 14 của địch mở rộng căn cứ liên hoàn của ta hai bên sông Sài Gòn, đẩy mạnh chiến tranh du kích trong toàn khu, mở thông đường tiếp tế từ Khu 8 lên Sài Gòn và vùng căn cứ miền Đông Nam Bộ. Với riêng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định thì Chiến dịch Bến Cát 2 sẽ có tác dụng trực tiếp chia cắt đường 5, Hóc Môn, giải toả áp lực của địch ở Hóc Môn vào căn cứ của ta, nối thông hành lang từ Sài Gòn lên căn cứ của Đặc khu.

Huyện Bến Cát ở phía tây bắc Sài Gòn, nằm kẹp giữa đường 13 ở phía đông và sông Sài Gòn ở phía tây (địa hình: như ở Chiến dịch Bến Cát 1 đã trình bày).

Trên địa bàn chiến dịch, địch tổ chức phòng thủ tương đối mạnh. Ngoài hai cứ điểm chính Bến Cát và Dầu Tiếng, chúng còn có bốn đồn kiên cố: Bến Súc, Rạch Bắp, Rạch Kiến và Bà Thiện. Trên tuyến đường số 7 và 14 chúng đóng 17 tháp canh. Quân số lên tới hai tiểu đoàn bộ binh với trang bị vũ khí mạnh, có 12 máy bay, tám xe tăng, 73 xe cơ giới ngoài ra còn có pháo 105mm và 155mm chi viện.

Lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm hai tiểu đoàn 303 chủ lực Khu và tiểu đoàn 302 thuộc liên trung đoàn 301 - 310; chín đại đội độc lập gồm hai đại đội của tiểu đoàn 304 thuộc liên trung đoàn 306 - 312; hai đại đội binh chủng và năm đại đội độc lập của các huyện Bến Cát, Hớn Quản, Châu Thành, Trảng Bàng, Hóc Môn, cùng với hơn ba vạn dân quân du kích và dân công của các địa phương trên. Phối hợp với chiến dịch, bộ đội và dân quân du kích các tỉnh lân cận (Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Tây Ninh) phá giao thông, đánh nghi binh, quấy rối kìm chân địch, không cho chúng tiếp viện cho Bến Cát khi bộ đội ta tiến công.

Bộ chỉ huy chiến dịch: Chỉ huy trưởng: Tô Ký; Chính trị viên: Nguyễn Duy Hanh; Tham mưu trưởng: Lê Đức Anh.

Chiến dịch chia làm ba đợt.

Đợt 1 (từ ngày 7 đến 10 tháng 10):

Theo kế hoạch, 23 giờ ngày 7 tháng 10 phân đội đánh cầu Bến Cát cho nổ mìn đánh sập cầu làm hiệu lệnh nổ súng, mở màn chiến dịch. Nhưng 21 giờ cùng ngày, phân đội đánh tháp canh Suy-nô (Sunaud) trên đường tiếp cận mục tiêu gặp địch, đã nổ súng trước giờ quy định. Thấy vậy, phân đội đánh tháp canh Kiến Điền cũng nổ súng, làm cho quân địch đề phòng và đưa quân ra ứng viện. Do đó phân đội đánh cầu Bến Cát chưa kịp nổ bộc phá, phải rút quân.

Tại đồn Bến Súc1 mục tiêu chủ yếu của chiến dịch do hai đại đội của tiểu đoàn 302 và đại đội 902 bộ đội địa phương huyện Bến Cát đảm nhiệm; do có bộ phận bị lạc đường nên đến 3 giờ ngày 8 tháng 10 mới triển khai xong (chậm hơn 4 giờ). 3 giờ 10 phút, tập trung hoả lực bắn vào đồn, trong đó có khẩu 75mm vừa moi ở dưới đất lên (chôn giấu từ năm 1949), pháo bắn được hai quả, không trúng đồn thì hỏng, phải sửa chữa. Hai tổ trinh sát công binh dùng FT phá hai lô cốt số 1 và số 2. Bộ đội xung phong đánh chiếm trại lính, sở chỉ huy, kho đạn, làm chủ được nửa phần phía nam đồn. Địch cho xe thiết giáp ra, dùng hoả lực ngăn chặn ta quyết liệt. Khẩu pháo bị hỏng, ta sửa mãi không được, nên ban chỉ huy trận đánh cho bộ đội rút lui. Ngày hôm sau, quân Pháp mở trận càn lớn vào căn cứ của tỉnh, chúng sục sạo cố tìm khẩu pháo của ta; nhiều nhà cửa ruộng vườn bị chúng đốt phá.

Cũng trong đêm 7 rạng 8 tháng 10, ta tiến công và diệt các tháp canh Suy-nô, Kiến Điền, Sở Sao, Truông Thân. Tại đồn Rạch Bắp, quân ta đào hầm ngầm mới tới ngoài hàng rào, đúng giờ hiệp đồng, các chiến sĩ ta xung phong, nhưng không vào được đồn phải lui quân.

Ngày 8 tháng 10, địch tổ chức ứng cứu Bến Cát. Chúng cho ba máy bay đánh phá các xã Thanh Tuyền và Kiến An. Ba trung đội thiết giáp từ cây Soài theo đường 7 tăng viện cho Bến Súc. Một tàu và hai ca nô từ Thủ Dầu Một theo đường sông lên bảo vệ cho Bến Súc từ phía tây.

Ngày 9 tháng 10, ta chuyển sang phá hoại đường 7 và 14. Lực lượng dự bị được điều lên bố trí trận địa đánh phục kích trên đường 14, đoạn từ Dầu Tiếng đi Bến Súc. Tiểu đoàn 304 vận động về Long Nguyên theo quốc lộ 13 đón đánh địch càn vào căn cứ. Bốn ngày chiến đấu đầu tiên, chiến dịch phát triển không thuận lợi. Ngày 10 tháng 10 đợt 1 kết thúc.

Đợt 2 (từ 13 đến 30 tháng 10):

Các đơn vị triển khai lực lượng bao vây các vị trí, tháp canh và tiến hành phá giao thông.

Ngày 15, có cơ sở làm nội ứng trong đồn Mát-xa-ri, hai tiểu đội trinh sát của tiểu đoàn 302 bao vây đồn và buộc hai trung đội lính ngụy ra hàng, mang hết vũ khí theo kháng chiến. Ta thu hai xe vũ khí và đồ dùng quân sự. Cùng ngày, đại đội 902 đánh sập một tháp canh trên quốc lộ 7. Các tháp canh: Làng 18, Nhíp 27, IRCI, Mỹ Thành, Cây Đa... lần lượt bị quân ta tiêu diệt hoặc bức rút.

Trên hướng quốc lộ 13, trong hai ngày 21 và 22 tháng 10, các tiểu đoàn 303, 302 và 304 chặn đánh quyết liệt các đoàn xe vận tải, đốt và phá 65 xe, 175 tấn mủ cao su, thu 12 xe, 11 máy thông tin vô tuyến điện. Từ cuối tháng 10 trở đi, hàng chục tháp canh của địch bị nhổ. Đoạn đường từ Bến Súc đi Dầu Tiếng bị cắt đứt. Ngày 30 tháng 10, ta đánh chìm ba tàu (trong đoàn tàu tiếp tế) trên sông Sài Gòn. Đợt 2 chiến dịch kết thúc.

Đợt 3 (từ 11 đến 15 tháng 11 năm 1950):

Hai tiểu đoàn 302, 304 trở lại hoạt động dọc tuyến quốc lộ 7 và 14, bao vây đồn Rạch Bắp, Rạch Kiến, hỗ trợ lực lượng dân quân du kích và quần chúng phá đường. Tiểu đoàn 303 cùng bộ đội địa phương bám đánh địch trên đường 13 và đường xe lửa.

Đêm 8 tháng 11, bằng phương pháp bí mật luồn sâu lót sẵn, nổ súng bất ngờ, trong ngoài kết hợp, tiểu đoàn 302 tiến công tiêu diệt đồn Bến Súc; diệt một trung đội Âu - Phi, thu một khẩu trọng liên và nhiều súng trường, đạn dược. Ngày 15 tháng 11, hai tiểu đoàn 302 và 303 diệt 20 xe địch và lực lượng đi hộ tống trên quốc lộ 13, đoạn phía nam Hớn Quản. Đêm 15 ta đặt bộc phá đánh sập cầu Bến Cát, cắt đứt đường số 7. Ta chủ động kết thúc chiến dịch.

Kết quả: Địch bị diệt 509 tên, bị thương 155 tên, bị bắt 120 tên. Ta đánh sập và bức rút hơn một chục tháp canh, đồn bốt, 12 cầu cống, phá 84 xe quân sự, năm đầu máy xe lửa, bảy xuồng và tàu thuỷ, thu nhiều súng đạn và đồ dùng quân sự.

Đây là một chiến dịch được coi là đầu tiên và lớn nhất của miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp. Lần đầu tiên lực lượng vũ trang nhân dân Gia Định tham gia một chiến dịch hợp đồng nhiều đơn vị. Chiến dịch không những đạt được yêu cầu cơ bản đề ra ban đầu, mà còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho quân và dân miền Đông Nam Bộ về khả năng hiệp đồng tác chiến, sử dụng nhiều lực lượng trên một địa bàn rộng, về đánh đồn bốt, về sử dụng đặc công, pháo binh, chuẩn bị hậu cần và huy động lực lượng quần chúng tham gia với quy mô lớn, về cách phân chia chiến dịch ra nhiều đợt và tổ chức củng cố, điều chỉnh, rút kinh nghiệm giữa hai đợt chiến đấu, về kết hợp linh hoạt, sáng tạo giữa tiến công trực diện với công tác binh vận, giữa lực lượng đánh từ ngoài vào với lực lượng nội ứng ở bên trong để đạt được hiệu quả chiến đấu cao.

Trong Hội nghị tổng kết chiến dịch, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ uỷ đánh giá: Chiến dịch Bến Cát 2 đã đánh dấu một bước trưởng thành quan trọng của các lực lượng vũ trang Khu 7, đưa phong trào kháng chiến của quân và dân miền Đông Nam Bộ hoà nhịp với cuộc kháng chiến trên chiến trường cả nước.
______________________________________
1.Trong cuốn “Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến” tr. 241 ghi là đồn Rạch Kiến.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #47 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2012, 10:10:19 am »


CHIẾN DỊCH TRẦN HƯNG ĐẠO1
(Tiến công, từ ngày 25 tháng 12 năm 1950 đến ngày 18 tháng 1 năm 1951)


Ngay từ đầu năm 1950, Đảng ta đã xác định “Đánh dần trung du, củng cố căn cứ địa chính” là một nhiệm vụ thiết thực của quân và dân ta. Trong kế hoạch tác chiến Thu Đông 1950, Bộ Tổng tham mưu đã xác định sau Chiến dịch Biên Giới sẽ mở tiếp chiến dịch mới ở Trung du. Cuối tháng 9 năm 1950, Bộ Tổng tham mưu đã cử cán bộ xuống phối hợp với Liên khu Việt Bắc tiến hành chuẩn bị chiến trường. Sau Chiến dịch Biên Giới sau khi được Ban Thường vụ Trung ương Đảng phê chuẩn Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở Chiến dịch Trần Hưng Đạo tiến công địch ở Trung Du và một số hướng khác nhằm mục đích: “Tiêu diệt sinh lực địch. Mở rộng khu lương thực, phát triển du kích chiến tranh. Tranh thủ thời gian, phá kế hoạch củng cố của địch, tạo điều kiện mới để tiêu diệt sinh lực địch nhiều hơn nữa”.

Trung du là miền đất có giá trị chiến lược nhiều mặt. Sau khi ta giải phóng biên giới, mở rộng vùng tự do ra khắp vùng phía bắc Bắc bộ, thì Trung du trở thành tuyến phòng thủ chủ yếu của địch, cùng với tuyến sông Đáy ở phía tây nam tạo thành một vành đai ôm lấy vùng đồng bằng, chống lại mọi sự xâm nhập của ta. Trung du cũng là một kho người, kho của có khả năng cung cấp khá dồi dào cho chiến tranh và là một bàn đạp thuận tiện để địch tập trung lực lượng và binh khí kỹ thuật tiến công, uy hiếp Việt Bắc.

Sau thất bại ở Chiến dịch Biên Giới, địch hết sức hoang mang dao động, chúng tăng cường phòng thủ trên tuyến bắc Hà Nội, rút bỏ nhiều vị trí ở vùng rừng núi cô lập, tập trung hầu như toàn bộ lực lượng cơ động chiến lược ra chiến trường Bắc bộ và hướng lực lượng này về phía Trung du nhằm đối phó với cuộc tiến công lớn của ta từ phía bắc xuống.

Lực lượng địch ở Trung du lúc này có tám tiểu đoàn và tám đại đội chiếm đóng ở các khu vực Phú Yên (một tiểu đoàn), Phù Lỗ (một tiểu đoàn, hai đại đội), Vĩnh Yên (hai tiểu đoàn, hai đại đội), Bắc Ninh (hai tiểu đoàn), Lục Nam (một tiểu đoàn), Bắc Giang (một tiểu đoàn, bốn đại đội). Ngoài ra còn các binh đoàn cơ động mới thành lập đứng chân ở Bắc Ninh (GM1), Gia Lâm (GM2), Vĩnh Yên (GM3), Bắc Giang (GM5), Phù Lỗ (GMNA)... sẵn sàng được tung ra để làm nhiệm vụ tiến công và tăng cường phòng thủ cho phía trước.

Về phía ta, ngay từ trung tuần tháng 112, Đảng uỷ, Bộ chỉ huy chiến dịch đã được thành lập. Đồng chí Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Ủy viên thường vụ Trung ương Đảng được chỉ định làm Bí thư kiêm Chỉ huy trưởng mặt trận, các cơ quan của Bộ chỉ huy chiến dịch Biên Giới được chuyển thành cơ quan của Bộ chỉ huy Chiến dịch Trần Hưng Đạo.

Sau khi được thành lập, Đảng ủy chiến dịch đã họp và xác định: trong thời kỳ đầu, hướng chính chiến dịch là vùng Trung du từ Việt Trì đến Bắc Giang, trong đó hướng tiến công chủ yếu nhằm vào Vĩnh Yên, Phúc Yên. Hướng phối hợp là đông bắc và Liên khu 3. Nếu tình hình thuận lợi sẽ tiếp tục tiến công chủ yếu ở Trung du, trong trường hợp khác có thể chuyển hướng sang đường 18 hoặc Liên khu 3.

Về lực lượng, trên hướng chính, Bộ chỉ huy chiến dịch sử dụng Đại đoàn 308, Đại đoàn 312 (thiếu trung đoàn 165) và ba liên đội sơn pháo 75mm (mỗi liên đội có sáu khẩu). Hướng đông bắc (hướng phụ), thành lập mặt trận có trung đoàn 174 và 98. Hướng Liên khu 3, giao cho Đại đoàn 320 và 304 hoạt động ở vùng Ninh Bình và Sơn Tây. Tổng quân số tham gia chiến dịch lên tới 43.500 người.

Trong quá trình chuẩn bị, Bộ chỉ huy xác định nguyên tắc chiến dịch là: “Trước chia lực lượng đánh nhỏ, sau tập trung đánh to”, đồng loạt đánh nhiều trận nhỏ, song từng trận phải tập trung ưu thế lực lượng, góp nhiều thắng lợi nhỏ thành thắng lợi lớn. Về chiến thuật, áp dụng cách đánh “Bôn tập” tức là chuẩn bị sẵn rồi từ xa cơ động tới đánh nhanh, giải quyết nhanh, rút nhanh.

Cũng trong tháng 11, phòng cung cấp chiến dịch được thành lập do đồng chí Trần Hữu Dực - Phó chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp trực tiếp phụ trách và bắt đầu triển khai toàn diện công tác bảo đảm. Một hệ thống kho tàng, bệnh viện dã chiến được bố trí trên các hướng tiến công của chiến dịch. Nhiều kho gạo nhỏ được đưa sát vào khu vực dự kiến chiến đấu để đảm bảo có thể nhanh chóng tiếp lương cho bộ đội khi chiến đấu. Bộ đội được cấp lương khô, các đại đội được cấp phiếu “vận động chiến” để có thể lấy lương thực, thực phẩm ngay tại chỗ ở tất cả các xã vùng tạm chiếm trên địa bàn xảy ra chiến sự.

Các trường quân y tạm thời nghỉ học để tập trung phục vụ chiến dịch. Trên 300 y sĩ, bác sĩ, y tá, cứu thương được huy động. Cục Quân y đã tổ chức ba bệnh viện, ba đội điều trị trên ba hướng chiến dịch. Các trung đoàn được phối thuộc từ 250 đến 300 dân công làm nhiệm vụ tải thương. Trên 27.600 dân công thường trực được huy động và ta đã chuẩn bị được 4.960 tấn lương thực, 416 tấn đạn dược vũ khí đảm bảo cho chiến dịch3.

Ngày 15 tháng 12 năm 1950, Đảng uỷ chiến dịch họp tại xã Hợp Thành, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên kiểm điểm công tác chuẩn bị và triệu tập hội nghị giao nhiệm vụ cho các đại đoàn trên hướng chủ yếu. Đại đoàn 308 được phối thuộc hai đại đội sơn pháo 75mm có nhiệm vụ tiến công địch trên hướng chủ yếu Trung du, trước mắt tiêu diệt bốn vị trí: Hữu Bằng, Tú Tạo, đồi Cà Phê, Chợ Thá. Đại đoàn 312 (hai trung đoàn) được phối thuộc một đại đội sơn pháo 75mm, tiến công trên hướng thứ yếu. Trước mặt tiêu diệt hai vị trí Chợ Vàng và Ba Huyên.

Trên các hướng phối hợp: khu Duyên hải Đông bắc, trung đoàn 174 và trung đoàn 98 tiêu diệt hai cứ điểm Bình Liêu và Hoành Mô. Ở hướng Liên khu 3, các trung đoàn 48, 64, 52 và lực lượng vũ trang địa phương do Bộ tư lệnh Liên khu trực tiếp chỉ huy và đặt kế hoạch.

Bộ chỉ huy dự kiến nổ súng vào đêm 26 tháng 12. Thượng tuần tháng 12 năm 1950, sau một thời gian chấn chỉnh huấn luyện ở Cao Bằng, Lạng Sơn, năm trung đoàn của Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312 bắt đầu hành quân về Trung du và hoàn tất mọi công tác chuẩn bị.

Chiến dịch được tiến hành theo hai đợt. Đợt 1, theo kế hoạch, ta sẽ nổ súng vào ngày 26 tháng 12, nhưng ngày 25, binh đoàn cơ động số 3 (GM3) của địch gồm ba tiểu đoàn mở cuộc hành quân Bê-cát-sin đánh lên Xuân Trạch, Liễu Sơn, Thản Sơn (Vĩnh Yên), đúng vào khu vực tập kết của Đại đoàn 312.

Cuộc hành quân của địch tuy bất ngờ, song không gây đảo lộn lớn cho ta. Bộ đội ta đã chuẩn bị xong và sẵn sàng nổ súng, nên Bộ chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ cho Đại đoàn 312 nổ súng chặn đánh cuộc hành quân, mở màn đợt 1 chiến dịch.

Đại đoàn 312 nhanh chóng triển khai thế trận chặn đánh địch. Ngày 25 tháng 12 năm 1950, tiểu đoàn 10 dù thuộc địa (10e BPC) và tiểu đoàn Mường chia làm hai cánh tiến vào Thản Sơn, Liễn Sơn. Trung đoàn 141 cùng bộ đội địa phương Vĩnh Phú, Phú Thọ chặn đánh, địch buộc phải dừng tại Liễn Sơn chờ quân ứng cứu. Ngày 26, tiểu đoàn 24 Xê-nê-gan (24e BMTS) lên ứng cứu cũng bị chặn đánh phải dừng lại ở Xuân Trạch, một làng nằm giữa những quả đồi xen kẽ rừng thưa, tây Liễn Sơn khoảng năm ki-lô-mét.

Dự kiến địch sẽ dừng lại tại Xuân Trạch, Đại đoàn 312 đã điều trung đoàn 209 và tiểu đoàn 428 trung đoàn 141 về hướng Xuân Trạch chặn địch và hình thành thế bao vây không cho địch rút chạy. Khi biết tiểu đoàn 24 Xê-nê-gan dừng lại ở Xuân Trạch, trung đoàn 209 đã nhanh chóng tổ chức lực lượng quyết tâm tiêu diệt tiểu đoàn địch vào sáng ngày 27. Theo phương án, tiểu đoàn 154 được tăng cường hoả lực tiến công trên hướng chủ yếu vào bắc Xuân Trạch. Tiểu đoàn 130 tiến công điểm cao 10, nam làng Xuân Trạch. Tiểu đoàn 428 trung đoàn 141 đánh vào Xuân Trạch từ phía tây. Tiểu đoàn 166 làm lực lượng dự bị của trung đoàn.
_____________________________________
1.Còn gọi là Chiến dịch Trung Du.
2.Đảng uỷ chiến dịch được chỉ định sớm, nhưng ngày 30 tháng 11 mới có quyết định chính thức (số 64 QW/TƯ) gồm: Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Chu Văn Tấn, Trần Hữu Dực, Đào Văn Trường.
3.Trong thực tế chiến đấu, Hậu cần chiến dịch đã cung cấp cho bộ đội 1.653 tấn lương thực thực phẩm, 3,2 tấn đạn (nhỏ hơn nhiều so với kế hoạch chuẩn bị), cứu chữa 2.048 thương binh.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #48 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2012, 10:11:22 am »


5 giờ sáng ngày 27 tháng 12 năm 1950, Đại đoàn 312 phát lệnh tiến công Xuân Trạch, sau 15 phút hoả lực chuẩn bị, bộ đội ta trên các hướng tổ chức nhiều mũi xung phong, vây chặt làng Xuân Trạch. Ở điểm cao 10 địch chống trả quyết liệt, tiểu đoàn 130 tiến công gặp khó khăn, tiểu đoàn 154 phải tổ chức một mũi đánh sang phía tây hỗ trợ cho tiểu đoàn 130. Khoảng 7 giờ 30 phút, sau hai đợt tiến công quyết liệt ta hoàn toàn làm chủ khu vực Xuân Trạch diệt gọn cả tiểu đoàn địch, bắt sống 240 tù binh, trong đó có tên đại uý tiểu đoàn trưởng. Bị thua đau ở Xuân Trạch, Liễn Sơn, binh đoàn số 3 vội vã rút về Vĩnh Yên củng cố.

Nhận thấy về cơ bản ta vẫn giữ được bí mật, bất ngờ, địch chưa có biến động đáng kể, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tiếp tục tác chiến theo kế hoạch đã định, chỉ điều chỉnh tạm thời chưa đánh Ba Huyên mà đánh hai vị trí khác là Thằn Lằn và Yên Phụ. Trên hướng chủ yếu, trong ba đêm 27, 28, 29 tháng 12, Đại đoàn 308 lần lượt tiêu diệt năm vị trí Tú Đạo, đồi Cà Phê, Hữu Bằng, Thằn Lằn và Yên Phụ. Đánh các vị trí này, các đơn vị đều dùng hình thức “bôn tập”, bộ đội vận động một chặng đường hơn 10 ki-lô-mét, vừa hành quân vừa chuẩn bị, tiếp cận mục tiêu, đánh nhanh, giải quyết nhanh gọn rồi rút trong đêm.

Trên hướng thứ yếu, đến 27 tháng 12, tiểu đoàn 166 trung đoàn 209 được tăng cường hai khẩu pháo 75mm tiến đánh đồn Chợ Vàng. Do tổ chức không chặt chẽ, chủ quan, trận đánh kéo dài đến sáng ta vẫn chưa chiếm được đồn, thương vong lớn, tiểu đoàn 166 phải rút ra ngoài củng cố. Đêm 28, tiểu đoàn được tăng cường hai đại đội của tiểu đoàn 130 vào đánh tiếp cũng không được, ta không giải quyết được đồn Chợ Vàng. Cùng đêm 28, tiểu đoàn 154 đánh hai bốt Sơn Kiệu và Hội An cũng không thành công.

Ở hướng phối hợp Duyên hải Đông bắc, trung đoàn 174 và 98 tiêu diệt cứ điểm Bình Liêu (khoảng 300 địch) vào đêm 26 và tổ chức đánh viện trên đường 18 vào ngày hôm sau. Địch ở đây phải rút bỏ một số vị trí, co về lập khu trung tâm đề kháng ở Tiên Yên để cố thủ.

Sau đêm 29, ta chủ động kết thúc đợt 1. Kết quả ta loại khỏi vòng chiến đấu 1.300 tên địch, thu nhiều vũ khí. Ta thương vong khá lớn: hy sinh 118 đồng chí, bị thương 630 đồng chí.

Trước những trận tiến công bất ngờ của ta ở Trung du, địch vội vã điều ba tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo binh từ Nam bộ ra tăng cường cho Bắc bộ, đưa bốn tiểu đoàn bộ binh ở đồng bằng Bắc bộ lên tăng cường cho vùng Duyên hải Đông bắc. Trên hướng Trung du, các binh đoàn cơ động Pháp vẫn tập trung chủ yếu ở khu vực Cầu Đuống, có ý định phản kích lại để giành thế chủ động.

Về ta, kế hoạch đợt 2 được xác định như sau: trung đoàn 141 của Đại đoàn 312 tiến công đồn Bảo Chúc, một vị trí quan trọng của địch để thu hút viện binh; Đại đoàn 308 và trung đoàn 209 Đại đoàn 312 làm nhiệm vụ đánh viện trên các hướng từ Vĩnh Yên và Phúc Yên tới. Trên hướng phối hợp, trước ngày hướng chính nổ súng, trung đoàn 98 và 174 sẽ đánh Cẩm Lý và Đồng Kế để nghi binh thu hút địch.

Đêm 12 tháng 1 năm 1951, trung đoàn 98 và 174 nổ súng mở đầu đợt hai chiến dịch. Trung đoàn 174 diệt được đồn Đồng Kế, trung đoàn 98 đánh đồn Cẩm Lý không thành công.

Đêm 13 tháng 1, các đơn vị trên hướng chính bước vào chiến dịch. Trung đoàn 141 đánh đồn Ba Huyên (Bảo Chúc), hai trung đoàn 86, 36 của Đại đoàn 308 và trung đoàn 209 tiến ra chiếm lĩnh trận địa ở Cẩm Trạch, Thanh Vân, Đạo Tú sẵn sàng đánh viện.

Ba Huyên là một cứ điểm mạnh, tiền đồn phía bắc của thị xã Vĩnh Yên, đồn được xây dựng trên quả đồi cao hơn địa hình xung quanh, có hệ thống lô cốt, hầm hào và nhiều lớp vật cản bằng tường cao, hào sâu, hàng rào kẽm gai... Đồn do năm trung đội (hai trung đội ngụy, ba trung đội Âu - Phi) chiếm giữ.

Được đại đoàn giao nhiệm vụ tiến công tiêu diệt đồn Ba Huyên, trung đoàn 141 sử dụng tiểu đoàn 11 và đại đội 58 của tiểu đoàn 428 tiến công trên hướng chủ yếu. Tiểu đoàn 16 làm nhiệm vụ dương công, tiểu đoàn 428 làm lực lượng dự bị. Sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương, đêm ngày 13 tháng 1, trung đoàn vào chiếm lĩnh trận địa, tổ chức cắt rào, khắc phục vật cản. 1 giờ 10 phút ngày 14 tháng 1 năm 1951, ta bắt đầu nổ súng tiến công. Trận chiến đấu diễn ra gay go ác liệt. Từ nửa đêm đến 4 giờ sáng, ta mới mở hết hàng rào và đến 10 giờ ngày 14, ta mới tiêu diệt toàn bộ địch, làm chủ trận địa.

Được tin Ba Huyên bị đánh, GM3 của địch tổ chức hai cánh quân từ Vĩnh Yên đến ứng cứu. Khoảng 8 giờ sáng, tiểu đoàn 8 Mường đi đầu đội hình tới ngang Thuỷ An thì bị trung đoàn 209 chặn đánh, bị thiệt hại nặng phải quay về dãy đồi Cẩm Trạch tổ chức chống đỡ, chờ lực lượng phía sau lên. Thấy địch ở phía sau đã tới khu vực dự kiến, trung đoàn 36 và 88 xuất kích, kết hợp với trung đoàn 209 hình thành thế bao vây chia cắt, đánh địch thiệt hại nặng ở khu vực Xóm Le, Đạo Tú và truy kích chúng đến sát cửa ngõ thị xã Vĩnh Yên.

Các lực lượng còn lại của hai đại đoàn thừa thắng hạ một loạt đồn bốt Tam Lộng, Quất Lưu, Mậu Thông, Mậu Lâm... áp sát xuống đường số 2.

Cuộc tiến công của ta ở sát thị xã Vĩnh Yên lập tức gây náo động tới Hà Nội. Ngay ngày 14, địch điều vội GM1 từ Lục Nam lên hỗ trợ cho GM3, đồng thời thả một tiểu đoàn dù xuống tây Vĩnh Yên năm ki-lô-mét.

Về ta, sau thắng lợi ngày 14 tháng 1, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định bao vây thị xã Vĩnh Yên và tổ chức đánh viện đến giải vây cho thị xã. Đại đoàn 312 triển khai ở khu vực Bảo Sơn - Đình Trung. Đại đoàn 308 triển khai ở nam, bắc đường số 2, phía đông thị xã trên khu vực Khai Quang, Ấp Hương, Tam Lộng, Ngoại Trạch, Mậu Thông...

Sáng ngày 15, sau khi cho máy bay ném bom bắn phá dọc đường 2, GM1 từ Hương Canh tiến quân lên thị xã. Đại đoàn 308 tổ chức phục kích chặn đánh ở Mậu Thông - Khai Quang và tây nam Ngoại Trạch. Cuộc chiến ở khu vực phía đông thị xã diễn ra ác liệt, địch dùng cả bom napan - loại bom cháy mới được Mỹ viện trợ, để đánh ta. Đến tối, do bị thương vong nhiều, các đơn vị của ta được lệnh rời khỏi trận địa.

Quyết giữ thị xã Vĩnh Yên, sáng ngày 16, hai binh đoàn cơ động (GM1, GM3) chia làm ba cánh đánh chiếm khu núi Đanh, một dãy điểm cao có giá trị ở phía bắc, đông bắc thị xã Vĩnh Yên 6 - 7 ki-lô-mét. Trên điểm cao Núi Đanh, đã có một bộ phận của trung đoàn 209 chiếm giữ từ trước, song do có lực lượng áp đảo và có sự chi viện của không quân, pháo binh, địch đã đánh chiếm lại toàn bộ khu vực.

Trước tình hình trên, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tập trung lực lượng tiêu diệt địch ở khu vực núi Đanh. Hai trung đoàn 88, 36 của Đại đoàn 308 cùng trung đoàn 209 Đại đoàn 312 tiến công địch ở núi Đanh, trung đoàn 141 chặn đường rút của chúng về thị xã, trung đoàn 102 làm lực lượng dự bị.

Khoảng 13 giờ 30 ngày 16, ta bắt đầu tiến công địch ở núi Đanh. Trung đoàn 209 chiếm các điểm cao 70, 103 chặn đánh một bộ phận GM3 buộc chúng phải quay về Vĩnh Yên. Trung đoàn 36 tiến công địch ở điểm cao 157 song không thành công. Đêm 16, ta tiến công các điểm cao 47, 101, 210. Sau nhiều đợt xung phong ta chiếm các điểm cao 47, 101, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn Ma-rốc. Riêng điểm cao 210, ta xung phong nhiều lần song đều không thành công. Khoảng 2 giờ ngày 17, ta thu quân, kết thúc chiến dịch.

Kết quả, qua 23 ngày đêm chiến đấu, ta loại khỏi vòng chiến đấu 5.000 tên địch (bắt sống hơn 2.036 tên), đánh thiệt hại nặng sáu tiểu đoàn, diệt 30 vị trí, thu hơn 1.200 súng (có 13 pháo 75mm), 48 máy vô tuyến điện phá huỷ nhiều xe và phương tiện kỹ thuật, giải phóng một phần phía bắc tỉnh Vĩnh Yên - Phúc Yên ở Trung du và hai huyện Bình Liêu, Hoành Mô ở Đông bắc.



Chiến dịch Trung du là chiến dịch đầu tiên ta sử dụng hai đại đoàn tác chiến ở vùng đồi núi thấp, nơi địch có điều kiện phát huy thế mạnh về hoả lực và cơ động hơn ở chiến trường rừng núi. Chiến dịch đã tạo điều kiện cho bộ đội trưởng thành một bước quan trọng cả về đánh địch trong công sự (công kiên) và đánh địch ngoài công sự (vận động), cả đánh đêm và đánh ngày, trong điều kiện phải thường xuyên đối phó với phi pháo địch ở địa hình trống trải.

Mặc dù kết quả chiến dịch còn hạn chế so vai yêu cầu đề ra và ta còn có một số khuyết điểm trong chỉ đạo và thực hành chiến dịch, song Chiến dịch Trung Du vẫn là “một thắng lợi quan trọng, một bước tiến vững chắc của bộ đội ta về kỹ thuật, chiến thuật và tinh thần chiến đấu... một bước thành công trên con đường tiến tới vận động chiến của quân đội ta”1.

Về nghệ thuật chiến dịch, để khoét sâu chỗ yếu của địch là binh lực bố trí phân tán thành những cứ điểm nhỏ và để hạn chế chỗ mạnh của chúng về lực lượng ứng chiến và hoả lực phi pháo, Bộ chỉ huy chiến dịch đã đề ra cách đánh khá phù hợp. Đó là bôn tập để tiêu diệt cứ điểm nhỏ, đánh đồng loạt để căng kéo lực lượng cơ động ứng chiến của địch, đánh đêm, đánh nhanh, rút nhanh, giải quyết trong đêm để hạn chế phi pháo.

Trong quá trình chiến dịch, ta thực hiện phương châm “đánh điểm diệt viện, vây điểm diệt viện, lấy diệt viện làm chính”. Vừa tổ chức tiến công đồng loạt các cứ điểm theo kế hoạch, vừa nhanh chóng chớp thời cơ tập trung lực lượng diệt các cụm lớn quân địch tạm dừng hoặc phòng ngự lâm thời ngoài căn cứ (như ở Xuân Trạch, Liễn Sơn, núi Đanh...).

Tuy nhiên, việc chọn hướng tiến công vào Trung du của ta lúc ấy là chưa phù hợp, vì đây là nơi địch phát huy được chỗ mạnh của chúng là hoả lực và sức cơ động. Còn ta, tuy đã có bước phát triển đáng kể song vẫn còn nhiều hạn chế so với chúng về trang bị binh khí kỹ thuật. Trong quá trình chiến dịch có những thời điểm ta đã bỏ lỡ thời cơ như không kịp thời truy kích khi địch tháo chạy (sau trận Liễn Sơn - Xuân Trạch), hoặc không tổ chức tiến công ngay thị xã Vĩnh Yên khi địch đang hoang mang dao động.
_______________________________________
1.Báo cáo kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm trong các chiến dịch lớn, Bộ Tổng tham mưu xb 1963. t.1, tr.142.
Logged
macbupda
Moderator
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #49 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2012, 10:35:07 am »

Góp sức với bác Chuongxedap một chút nào: Bản đồ chiến dịch Long Châu Hà 1


Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM