Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 12 Tháng Năm, 2024, 08:39:57 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp  (Đọc 152904 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #20 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2012, 09:20:43 am »


CHIẾN DỊCH LÊ LỢI
(Tiến công, từ ngày 25 tháng 11 năm 1949 đến ngày 30 tháng 1 năm 1950)1


Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 13 tháng 9 năm 1949, Bộ Tổng tư lệnh hạ mệnh lệnh giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Liên khu 3 mở chiến dịch tiến công vào phân khu Hoà Bình nhằm mục đích: Chọc thủng hành lang đông - tây của địch; đánh thông đường liên lạc của ta giữa Việt Bắc với miền xuôi (Liên khu 3,4); tiêu diệt sinh lực địch, phá khối ngụy binh Mường tại vùng Hoà Bình - Đường số 6.

Hoà Bình là vùng rừng rậm núi cao, ở phía tây Bắc Bộ, cách Hà Nội 75 ki-lô-mét. Phía tây là dãy núi Trường Sơn, phía đông có dãy Ba Vì, giữa hai dãy núi là vùng rừng rậm với nhiều đồi liên tiếp và cánh đồng Vĩnh Đồng, huyện Lương Sơn khá rộng. Đường bộ có ba tuyến: Đường số 6 từ ngã tư Xuân Mai lên Hoà Bình, Chợ Bờ, Sơn La. Đường 12 từ Nho Quan qua Vụ Bản sang Hoà Bình. Đường 21 từ Sơn Tây qua ngã tư Xuân Mai đi Chi Nê. Đường thuỷ có sông Đà thông với sông Hồng ở Trung Hà, Sơn Tây, ngược lên Hoà Bình, Chợ Bờ, là dòng sông lớn nước sâu, chảy xiết. Nhưng cả đường thuỷ và bộ đều là đường độc đạo bị rừng núi bao bọc. Thời tiết hai mùa rõ rệt, mùa mưa lũ (hè - thu) và mùa khô (thu - đông). Dân cư phần lớn là đồng bào dân tộc, đông nhất là người Mường, sống thưa thớt, nghèo và lạc hậu. Với chính sách thực dân, địch đã xây dựng đội quân ngụy Mường khá đông đảo, nhưng lính Mường nhát, dễ dao động.

Tại phân khu Hoà Bình, lực lượng địch có tiểu đoàn 1 trung đoàn 5 lê dương, 12 đại đội ngụy Mường và lính lang (trong số này có 80 phần trăm là ngụy Mường) có hai pháo 105 mm, 20 cối và nhiều vũ khí bộ binh; tổ chức thành bảy tiểu khu với 28 vị trí đồn bốt. Các tiểu khu: Thị xã Hoà Bình, Cao Phong, Vụ Bản, Chợ Bờ, Toàn Thắng, Mai Hạ và Tu Vũ, bố trí dọc đường 6 từ Đồng Bến tới Suối Rút, dọc đường 12 từ Vụ Bản tới Hoà Bình. Các vị trí cách nhau từ 5 đến 10 ki-lô-mét, đoạn Chợ Bờ - Hoà Bình cách nhau xa hơn. Binh lính chủ quan, lơ là, công sự sơ sài, ghép gỗ đổ đất, nhà tranh, có giao thông hào, xung quanh có hàng rào tre bao bọc, thỉnh thoảng có gài mìn và cắm chông, đào hào đề phòng lực lượng ta. Một số vị trí lô cốt xây gạch như Vụ Bản, Hoà Bình, Chợ Bờ dựa vào đồn lính khố xanh cũ.

Địch ở đây chủ yếu lấy trung đội làm đơn vị chiếm đóng. Một số vị trí có hai trung đội hoặc một đại đội; phần lớn là lính ngụy và lính lang, chỉ có một số chỉ huy là người Âu - Phi. Riêng thị xã Hoà Bình có một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 5 lê dương.

Lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm có ba trung đoàn chủ lực (9, 66 và 209); hai trung đoàn địa phương (12 và 48) và tiểu đoàn 930 của Liên khu 10; một tiểu đoàn và hai đại đội pháo binh (tiểu đoàn 750 trung đoàn 66 và hai đại đội thuộc trung đoàn 9 và 209); ba đại đội công binh thuộc các trung đoàn chủ lực. Ngoài ra còn bộ đội địa phương, dân quân du kích và hàng nghìn dân công phục vụ.

Bộ chỉ huy chiến dịch: Tư lệnh chiến dịch: Hoàng Sâm (nguyên Tư lệnh Liên khu 3), Chính ủy: đồng chí Lê Quang Hoà (Chính ủy Liên khu 3), Phó tư lệnh: Lê Trọng Tấn (trung đoàn trưởng 209) và một đồng chí trong Bộ tư lệnh liên khu 4 (đầu tháng 9, Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh chuẩn bị chiến dịch Lê Lợi và quyết định về thành phần Bộ chỉ huy như đã nêu. Nhưng đến cuối tháng 11, trước giờ nổ súng của chiến dịch, đồng chí Văn Tiến Dũng được chỉ định thay đồng chí Lê Quang Hoà làm chính ủy)2.

Phương châm tác chiến chiến dịch là: Đối với chủ lực, tập trung lực lượng đánh nhanh, giải quyết nhanh những vị trí chính của địch trong phạm vi Hoà Bình, Tu Vũ, Xuân Mai, Suối Rút. Chặn tiếp viện trên dọc sông Đà và đường số 6. Các đại đội độc lập và lực lượng vũ trang địa phương tổng phá ngụy quyền, phá xứ Mường tự trị; phát triển ngụy vận, phá khối ngụy Mường; thành lập chính quyền ta, phát động chiến tranh nhân dân, mở rộng cơ sở cách mạng trong xứ Mường.

Quyết tâm của Bộ chỉ huy chiến dịch là: Phân tán các trung đoàn chủ lực thành ba mặt trận để tiến công tiêu diệt các vị trí: Đồng Hến, Gò Bùi, Suối Rút, Mỏ Hẽm, Chợ Bờ trên đường 6; Ta-nê, Nghẹ trên đường 12. Thực hiện “chỉ đạo thống nhất, chỉ huy độc lập từng mặt trận”.

Trước chiến dịch, từ ngày 25 tháng 10 đến ngày 25 tháng 11, Bộ chỉ huy chiến dịch tổ chức nhiều cuộc họp quán triệt nhiệm vụ và soạn kế hoạch thực hiện nhiệm vụ. Tổ chức Ban chuẩn bị chiến trường của Bộ chỉ huy chiến dịch và các mặt trận; chỉ huy các cấp tiến hành trinh sát thực địa, điều tra tình hình địch, địa hình. Bộ đội tiến hành huấn luyện các khoa mục: Bộ binh đánh điểm, phục kích, tao ngộ, đánh đêm. Các đơn vị đắp sa bàn các vị trí được phân công đánh để luyện tập. Tổ chức hiệp đồng chiến đấu giữa bộ binh và các binh chủng. Công binh tập dọn mìn, chôn mìn, cắt dây thép gai bí mật, đánh bộc phá phá hàng rào dọn đường cho bộ binh. Pháo binh tập bắn đạn thật để điều chỉnh cho chính xác, tập bắn yểm hộ cho bộ binh xung phong. Các đơn vị đều học và tập hành quân, trú quân ở vùng rừng núi, chống quân nhảy dù, xe tăng, xe lội nước của địch và cách bắn máy bay bằng súng trường.

Công tác chính trị: Thực hiện “Tam đại dân chủ”3 quán triệt nhiệm vụ chiến dịch, các đơn vị, cá nhân hăng hái xung phong và đăng ký thi đua lập công. Tổ chức công tác chính trị trong hành quân, trú quân, đặc biệt chú trọng giáo dục công tác dân vận và địch vận cho bộ đội vì dân vùng này trình độ giác ngộ còn thấp, ngụy binh Mường cầu an, sợ chết, dễ tan rã.

Chuẩn bị hậu cần: Đặt ba trạm tiếp tế, cụ thể: khu A ở Chợ Bến - Chợ Đồi, tiếp tế cho các đơn vị hoạt động trên đường số 6 và 21. Khu B ở Nho Quan, tiếp tế cho bộ đội hoạt động dọc đường 12 đi Vụ Bản. Khu C ở Quảng Tế và Xóm Biện, tiếp tế cho bộ đội hoạt động dọc phía tây đường 12. Tổng cộng 2.442 tấn gạo, 144 tạ muối, 61 tạ cá, 15 tạ đường, 22 tạ vừng và một số lợn, gà, vịt. Ngoài ra các đơn vị còn tổ chức đội tiếp tế rau và hoa quả tươi đưa lên mặt trận.

Vũ khí chuẩn bị đủ cho chiến đấu đợt 1 và một phần đợt 2. Thông tin liên lạc: Liên lạc chạy chân 258 người, tổ chức thành nhiều trạm từ Bộ chỉ huy chiến dịch tới sở chỉ huy các trung đoàn và các đơn vị. Vô tuyến điện có bảy máy chia thành hai mạng: Các trung đoàn với Bộ chỉ huy chiến dịch, Bộ chỉ huy chiến dịch với Bộ Tổng tư lệnh. Hữu tuyến điện có 45 máy điện thoại, bảy tổng đài và 140 ki-lô-mét dây, chia thành hai mạng từ sở chỉ huy trung đoàn tới tiểu đoàn. Riêng trung đoàn 66 mắc dây tới sở chỉ huy của Bộ chỉ huy chiến dịch, còn các trung đoàn 9 và 209 ở xa nên không mắc.
___________________________________
1.Trong “Thống kê các chiến dịch chống Pháp, chống Mỹ” tr. 52 ghi 30-12-1949 kết thúc chiến dịch.
2.Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Chiến đấu trong vòng vây”, Nxb QĐND, H.1995, tr. 391.
3.Tổ chức cho toàn thể quân nhân bàn bạc, góp ý, xây dựng ba công tác lớn trong đơn vị: Công tác xây dựng về chính trị, công tác quân sự (bàn cách đánh, huấn luyện...) và công tác hậu cần, chăm lo đời sống bộ đội.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #21 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2012, 09:21:17 am »


Chiến dịch chia làm hai đợt:

Đợt 1 (từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 25 tháng 12 năm 1949):

Trên mặt trận đường số 6, Chiến dịch được mở màn bằng trận đánh diệt gọn vị trí Gốt ở nam đường 6 bằng nội ứng. Ngay sau đó ngày 25 tháng 11, trung đoàn 66 (thiếu một tiểu đoàn) chia thành hai bộ phận: tiểu đoàn 456 đánh kỳ tập vào vị trí Mát nhưng không thành công. Ngày 25 tháng 11, tiểu đoàn 567 cùng với một tiểu đoàn pháo và một trung đội công binh diệt gọn vị trí Đồng Bến và phá sập hai cầu. Ngày 27, địch tăng 1.300 quân lên khu vực Xuân Mai. Tiểu đoàn 567 cơ động về Miếu Môn chặn địch trên đường 21. Ngày 2 tháng 12, địch cho một trung đoàn lập vị trí Đầm Huống ở nam đường 6, đồng thời lập 1.000 quân cơ động (có hai phần ba là Âu - Phi), hai pháo 105mm tập trung ở Xuân Mai, Đồng Bái. Ngày 25 tháng 12, tiểu đoàn 567 và tiểu đoàn pháo tiến công tiêu diệt vị trí Đầm Huống.

Trên mặt trận sông Đà: 16 giờ ngày 25 tháng 11, trung đoàn 209 tiến công và bao vây Mỏ Hẽm, Suối Rút đến sáng 28 thì tiêu diệt hai vị trí. Từ 23 đến 28, để cứu nguy, địch phải dùng máy bay đánh phá, thả dù tiếp tế và đưa lực lượng lên đóng lại vị trí Mỏ Hẽm và tăng viện cho Chợ Bờ một tiểu đoàn Âu - Phi do trung tá Len-nuy-ơ chỉ huy. Tiểu đoàn 154 thuộc trung đoàn 209 đánh phục kích, diệt một trung đội quân tăng viện tại Bến Bưởi. Phán đoán quân địch ở vị trí Mỏ Hẽm là quân cơ động, chúng không thể ở lâu, sẽ có quân khác lên thay, trung đoàn 209 do trung đoàn trưởng Lê Trọng Tấn chỉ huy, để lại một tiểu đoàn vây hãm vị trí, còn lại phần lớn lực lượng bố trí trên đường số 6, đoạn chợ Bờ - Mỏ Hẽm. Ngày 6 tháng 12, khi địch rút qua, ta đã nổ súng tiêu diệt hoàn toàn đại đội 4 tiểu đoàn 1 trung đoàn lê dương 5. Ngày 14 tháng 12, tiểu đoàn 154 và lực lượng pháo binh, phòng không, công binh tăng cường bao vây chuẩn bị tiến công hai đại đội địch ở Chợ Bờ. Đánh lần một không thành, Bộ chỉ huy mặt trận điều thêm tiểu đoàn 930 nhưng tiến công cũng không thành công. Tiểu đoàn 154 rút về Khả Cầu, tiểu đoàn 930 tiếp tục bao vây.

Mặt trận đường số 12: Ngày 29 và 30 tháng 11, trung đoàn 9 tiêu diệt vị trí Tử Nê và Đồi Bóng. Địch hoang mang rút khỏi các đồn nhỏ về tập trung ở các vị trí lớn như Mang Luông, Khang rút về Toàn Thắng, Nghẹ rút về Cao Phong, Đầm rút về Vụ Bản. Ngày 10 tháng 12, quân ngụy ở Toàn Thắng và ngày 25 tháng 12 ở Cổ Lũng giết đồn trưởng và mang vũ khí ra hàng. Địch lập một đại đội cơ động (có hai phần ba là lính lê dương) trên đường 12 từ Hoà Bình về Quy Hậu để yểm hộ cho Bưng và Cao Phong. Đợt 1 chiến dịch kết thúc, trung đoàn 9 rút về Cẩm Thuỷ chuẩn bị cho đợt 2.

Đợt 2 (từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 30 tháng 1 năm 1950):

Ngày 15 tháng 1 năm 1950, Bộ chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm tiêu diệt Vụ Bản. Trên mặt trận Đường số 6: Ngày 16 tháng 1, tiểu đoàn 136 cùng bộ đội địa phương dùng nội ứng tiêu diệt hoàn toàn vị trí Rậm. Mặt trận Đường 12: Ngày 17 tháng 1, pháo ta bắn vào Vụ Bản, Chiềng Vang. Địch cho một tiểu đoàn (thiếu một đại đội) từ Hoà Bình xuống Khang và Toàn Thắng. Tiểu đoàn 353 trung đoàn 9 lên bố trí tại Nghẹ đề phòng địch từ Toàn Thắng tăng viện cho Vụ Bản. Địch rút đồn Thân Thương (tiền đồn) về Vang. 24 giờ ngày 19 tháng 1, ta tiến công Vụ Bản không thành công. Địch từ Quy Hậu tăng viện cho Vụ Bản một đại đội, bị trung đoàn 9 chặn đánh, ngày 21 tháng 1, chúng mới tới được Vụ Bản. Địch thả dù tiếp tế cho Vụ Bản và Vang, máy bay oanh tạc vào trận địa của quân ta. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết tâm tiến công lần thứ 2 vào Vụ Bản đêm 29 tháng 1 nhưng không thành công. Cùng ngày, trung đoàn 48 tiến công tiêu diệt vị trí Mát. Ngày 30 tháng 1 năm 1950, Bộ chỉ huy ra lệnh kết thúc chiến dịch.

Kết quả: Ta diệt 11 vị trí, bức rút 13 vị trí. Địch chết 830 tên, bị thương 351 tên, bị bắt và hàng 366 tên, tan rã 73 tên. Ta thu 407 súng trường, 51 liên thanh, sáu cối. Ta hy sinh 104 đồng chí, bị thương 208 và bị bắt ba đồng chí.



Chiến dịch Lê Lợi được chuẩn bị chu đáo, bộ đội có quyết tâm cao.

Đợt 1 mở màn đạt hiệu suất cao. Nhưng trên hướng chủ yếu của chiến dịch, sự chỉ đạo, chỉ huy không khai thác hết khả năng đánh điểm, vây điểm để diệt viện. Sau khi cát cứ điểm Đồng Bến, Tử Nê, Đồi Bóng, nhất là Đầm Huống bị diệt, địch co về các vị trí lớn và tăng viện từ Hà Nội lên nhưng ta chỉ đánh được một trận phục kích, diệt được một đại đội ở Bủng Chiêng. Cán bộ và chiến sĩ vẫn tồn tại khuynh hướng ham tiến công vị trí, kể cả khi địch đã tăng quân, sức ta đã giảm, nên việc triển khai lực lượng đánh viện chưa đầy đủ, hạn chế hiệu suất chiến đấu. Riêng trên hướng thứ yếu, trung đoàn 209 lúc đầu bỏ lỡ cơ hội diệt địch ngoài công sự khi chúng tăng viện cho Chợ Bờ, sau đó đã biết chuyển hướng hoạt động, hình thành thế trận vừa bao vây Chợ Bờ, Mỏ Hẽm vừa bố trí lực lượng phục kích nên ngày 16 tháng 12 đã diệt được hai đại đội Âu - Phi khi chúng rút về Chợ Bờ; đồng thời đẩy địch vào tình thế hoàn toàn bất lợi - chiếm đóng hay rút chạy khỏi Mỏ Hẽm, đều dễ bị tiêu diệt.

Kết quả chiến dịch tuy không đạt được tất cả mục tiêu đã đề ra, chưa khai thông được đường 6, nối Việt Bắc với Khu 3, Khu 4; chưa phá tan được ngụy Mường, nhưng ta đã diệt được 10 vị trí, bức rút 13 vị trí khác, tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, phá vỡ những mảng lớn cơ sở của địch, đánh mạnh vào kế hoạch lập xứ Mường tự trị và tinh thần lính ngụy người Mường; phá được một phần thế uy hiếp của địch đối với phía tây Liên khu 3, bước đầu mở được đường giao thông liên lạc giữa Việt Bắc với Thanh - Nghệ; xây dựng được cơ sở của ta trong địa bàn; nhất là trình độ chỉ huy và khả năng tác chiến của bộ đội đã tiến một bước đáng kể, tạo ra những yếu tố cơ bản để chuyển sang thời kỳ mới của cách mạng: Tổng phản công.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #22 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2012, 09:25:48 am »


CHIẾN DỊCH MỸ THO
(Tiến công, từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 12 năm 1949)


Phạm vi hoạt động của chiến dịch gồm tám xã thuộc hai huyện Châu Thành và Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho với chiều dài 14 ki-lô-mét, chiều rộng tám ki-lô-mét. Là vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long phì nhiêu, trù phú, không gian chiến dịch nằm giữa đường 16 ở phía bắc với lộ Phú Phong và sông Cửu Long ở phía nam, giữa lộ đá Vĩnh Kim ở phía đông và lộ Ba Dừa ở phía tây. Trong vùng còn có nhiều con lộ bằng đất chạy ngang dọc nối liền các làng mạc và các thị trấn Cái Bè, Cai Lậy, thị xã Mỹ Tho và hai cứ điểm lớn của địch: Vĩnh Kim, Tân Hiệp. Đường thuỷ có sông Cửu Long và nhiều kênh rạch lớn nối thông với nhau như Thông Lưu, Mỹ Long, Trà Tận, Bà Rài. Nhưng chiến dịch diễn ra trong mùa khô nên các cánh đồng khô cạn, bộ binh vận động thuận lợi. Các con sông khi nước ròng chỉ dùng được ghe, thuyền nhỏ, hàng ngày phải đợi thuỷ triều lên tàu lớn mới đi được. Ở đây cây cối tươi tốt thuận lợi cho bộ đội vận động kín đáo, nhưng tầm nhìn bị hạn chế.

Vùng Mỹ Tho - Gò Công tuy quân Pháp tái chiếm đóng sớm, nhưng chúng chưa kiểm soát được hết; hoạt động của bộ đội và dân quân du kích địa phương khá mạnh nên địch không dám càn quét lẻ tẻ mà thường dựa vào các cứ điểm Vĩnh Kim, Chợ Giữa, Tân Hiệp để tổ chức những cuộc càn quét lớn phối hợp quân thuỷ, bộ; lực lượng từ một tiểu đoàn trở lên, cao nhất là một trung đoàn1 nhằm đốt phá, cướp bóc, lùng bắt cán bộ kháng chiến, tiêu diệt du kích để mở rộng dần phạm vi kiểm soát, thành lập “khu quốc gia” phản động. Nhân dân trong vùng phần lớn đều hướng theo cách mạng, có tinh thần kháng chiến, căm thù giặc, mong muốn bộ đội về hoạt động; chỉ có một số ít gia đình theo đạo Hoà Hảo (ở ấp Mỹ Chánh) và Cao Đài (ở xóm Rạch Ông Ban) đã đầu hàng giặc. Đầu năm 1949, chúng tổ chức 600 dân vệ từ hai lực lượng này.

Đầu tháng 11 năm 1949, chấp hành chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân khu 8, Ban chỉ huy liên trung đoàn 105-1202 quyết định mở chiến dịch hoạt động tiến công ở vùng khu 3 huyện Châu Thành, khu 2 huyện Cai Lậy (Mỹ Tho) để tạo một hướng phối hợp với chiến dịch Cầu Kè của Khu; nhằm mục đích phá âm mưu càn quét và mở rộng khu tạm chiếm của địch ở Vĩnh Kim, Chợ Giữa, bảo vệ nhân lực, vật lực cho kháng chiến. Tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, thu được một số vũ khí trang bị, nâng cao sức chiến đấu cho bộ đội.

Phương châm tác chiến: Công đồn, đánh viện (diệt đồn bằng tập kích; dùng địa lôi để diệt cơ giới và tàu tuần dương; phục kích để chặn đánh viện). Lợi dụng quy luật càn quét của địch, dùng nghi binh để đánh phục kích, kết hợp với đánh vận động để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và cơ giới địch.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: tiểu đoàn chủ lực 3093, một đại đội độc lập 944, ba đội biệt động, hai trung đội của đại đội 1072 và hai trung đội dân quân của thị trấn Cai Lậy và Châu Thành.

Chỉ huy chiến dịch: Bộ tư lệnh Khu giao cho Ban chỉ huy liên trung đoàn 105-120 do đồng chí Lê Quốc Sản, trung đoàn trưởng làm Chỉ huy trưởng chiến dịch, đồng chí Phan Vân làm chính ủy.

Bộ đội và dân quân du kích đã được thử thách qua nhiều trận chống càn và đánh phục kích. Vũ khí trang bị chủ yếu là súng trường, mã tấu, lựu đạn thu được của địch và tự tạo, trung liên chỉ có đến trung, đại đội. Đại đội công đồn được tăng cường một đại liên và một cối 60mm. Đại đội đánh cơ giới được tăng cường một Badôca và nhiều địa lôi, lựu đạn gài. Ngoài ra anh em còn tự tạo loại ná bắn tên có ống đựng xăng dầu có kẹp một mảnh “lắc đề sạt” (thuốc mồi) để bắn vào đồn hoặc bắn xuống tàu thuỷ của địch. Bộ đội không có vũ khí mạnh để đánh công đồn và đánh cơ giới, kinh nghiệm đánh công đồn cũng chưa có.

Trước ngày nổ súng một tháng, Bộ chỉ huy liên trung đoàn đã sử dụng quân báo, trinh sát và cán bộ tham mưu đi điều tra nắm lực lượng và quy luật hoạt động của địch, nghiên cứu địa hình và cùng cán bộ chỉ huy các đơn vị xây dựng kế hoạch tác chiến. Việc liên lạc, tiếp tế, tải thương, v.v... Chuẩn bị rất đơn giản, phần lớn giao cho các đơn vị đảm trách mà chủ yếu là dựa vào lực lượng dân quân du kích và quần chúng nhân dân địa phương.

Ngày 1 tháng 12, thực hiện kế hoạch, du kích Châu Thành và nhân dân xã Bàng Long làm vật cản ngăn tàu trên sông Mỹ Long để dụ địch. 21 giờ 30 phút, đại đội 939 tiến công đồn Bình Trưng nhưng chần chừ trước khó khăn nên không thực hiện được. Đêm 2 tháng 12, đại đội 941 vào thay đại đội 939. 22 giờ 55 phút, ta nổ súng, sau 10 phút chiến đấu, đơn vị xung phong được vào đồn, giết 27 lính Pháp và tề điệp, đoạt chín súng trường. Địch co vào bốt chính cố thủ chống cự lại. Gần sáng ta rút lui về vị trí xuất phát. Đại đội hy sinh ba, bị thương ba đồng chí.

Khi đồn Bình Trưng bị tiến công, ba phút sau, địch ở Vĩnh Kim cho hai xe thiết giáp và một GMC lên tiếp viện, chúng đi lọt vào ổ phục kích của đại đội 944. Địa lôi nổ, chiếc GMC đi đầu hỏng, bốn tên giặc chết; hai chiếc thiết giáp dừng lại bắn rất mạnh làm ta không xung phong được, ta dùng Badôka tiêu diệt chiếc GMC. Pháo ở cứ điểm Vĩnh Kim chi viện cho Bình Trưng. Ta nã Trom-blom vào, đại bác địch ngừng hoạt động, chúng dùng súng bộ binh bắn dữ dội ra xung quanh, hai thiết giáp rút vào cứ điểm, ta lui quân an toàn.

Sau ba ngày, địch biết chủ lực ta đã về hoạt động, Bộ chỉ huy chiến dịch biết địch sẽ chờ lực lượng lớn đến mới tiến công đánh ta nên đã tổ chức bố trí lại trận địa và lực lượng để đón đánh địch.

6 giờ ngày 4 tháng 12, địch cho 10 xe tải chở 200 quân từ thị xã Mỹ Tho vào ngã ba Nhị Quý theo lộ đất đổ bộ vào. Đại đội 939 không bố trí quân trong vườn như quy định nên bị lộ, địch bao vây; sau 10 phút chiến đấu, hoả lực địch quá mạnh, đại đội phải rút quân về Mỹ Long. Pháo địch bắn mạnh vào trận địa đại đội 941, ta hy sinh bốn người, bị thương tám người, đại đội lui về Mỹ Hoa, cùng đại đội 939 bố trí thành trận địa thứ hai. Địch không tiến nữa.

12 giờ 30, cánh quân thứ hai của địch khoảng 100 tên từ Cai Lậy xuống lộ Ba Dừa, theo rạch Long Tiên dè dặt tiến vào trận địa đại đội 940. Sáu tên đi đầu băng vào vườn, ta bị lộ nên nổ súng diệt luôn toán này. Địch lợi dụng đoạn sông có lợi, cho một bộ phận đánh tạt sườn nhưng bị ta đánh lui, diệt thêm bảy tên, từ đó địch không dám tiến, đại đội 940 giữ vững trận địa.

15 giờ, cánh quân địch thứ ba từ phía Tam Bình tiến vào. Đại đội 940 rút về rạch Cà Mit, bố trí chặn địch; nhưng chúng chỉ dùng đại liên và cối bố trí cách 100 m bắn yểm hộ cho cánh thứ hai theo ven sông Long Tiên tiến xuống. Nhờ địa thế thuận lợi, đại đội 940 đẩy lui nhiều đợt tiến công của cánh này và diệt trên 40 tên. Ta hy sinh hai người, bị thương hai người.

Tối, địch tập trung cách trận địa đại đội 940 khoảng 700m, ta cho một trung đội, một trung liên và phóng lựu đạn bắn vào, gây cho chúng bất ổn và thiệt hại. Ta hy sinh một trinh sát.

Phía ngã ba Bà Nhang cách trận địa của đại đội 1027 và trung đội du kích thị trấn Châu Thành 600m có 30 lính địch nhưng chúng không dám tiến vào. Ba máy bay đến bay thấp ném bom, bị ta bắn rơi một chiếc. Tối ta lui quân an toàn.

Tối 4 tháng 12, hầu hết quân địch rút về hai hướng Cai Lậy và Vĩnh Kim, còn lại một đại đội bố trí trên rạch Trà Tân cách trận địa đại đội 940 khoảng 700 m. Trên lộ 16 địch rải quân phục từ đầu Giồng Dừa đến ngã ba Bình Phú và cho thiết giáp tuần tiễu trên lộ, tàu chiến tuần tiễu trên sông từ Cửu Long vào Vĩnh Kim.

Bộ chỉ huy nhận định: Địch tiến công nhiều, nhưng bị tổn thất mà chưa nắm rõ lực lượng ta; chúng sẽ tăng quân để bao vây hòng diệt chủ lực ta. Bộ chỉ huy chủ trương bố trí lại trận địa, cho dân quân du kích rầm rộ rút về hướng Ba Dừa, Cẩm Sơn để nghi binh; bí mật bố trí lực lượng về Phú Mỹ Hoà sát thị trấn Cai Lậy 250m, cách lộ Ba Dừa 250m, chủ trương đón đánh địch rút về sau khi đã càn quét.

Sáng 5 tháng 12, địch điều thêm quân ở Mỹ Tho, Vĩnh Long ồ ạt tiến công theo đường cũ. Riêng một bộ phận 300 tên, có ô tô chở đến đổ bộ tại lô cốt Phú Luông trên lộ Ba Dừa tiến vào trận địa ta lúc 7 giờ 30 phút. Đại đội 309 cố tránh (theo chỉ đạo của Bộ chỉ huy chiến dịch) để đợi đánh địch lúc chúng về. Nhưng 8 giờ 15 phút, địch lại đi đúng vào trận địa ta nên bắt buộc phải nổ súng. Sau 10 phút nổ súng, địch bỏ chạy, ta xung phong lên. Địch chiếm các bờ đất cao chống trả, giằng co với ta. 11 giờ 15, thấy không có lợi, ta đã rút về phía sau 1.000m bố trí trận địa thứ hai sau khi đã diệt 60 tên và làm bị thương một số tên khác, ta thu một trung liên, bảy súng trường, hai chiến sĩ và một du kích hy sinh, bốn người bị thương nhẹ. Từ đó địch không tiến lên nữa mà chỉ dùng phi pháo bắn phá nhưng không gây thiệt hại cho ta. Tối 5 tháng 12, toàn bộ quân ta lui quân về vùng tự do, kết thúc chiến dịch.

Kết quả: Địch chết 241 tên (có tám sĩ quan), bị thương hàng trăm tên.

Ta: hy sinh 13 người (có ba đồng chí tiểu đội trưởng, một dân quân), bị thương 18 người.

Ta thu: một FM, 16 súng trường và nhiều quân dụng, bắn cháy một GMC, một máy bay, bắn bị thương nặng một tàu đổ bộ.



Sau năm ngày chiến đấu, quân địch phải hủy bỏ cuộc càn lớn, hàng ngũ địch hoang mang, một số lính lê dương ở Mỹ Tho và Cai Lậy vác súng ra hàng, nhiều lính ngụy viết thư xin trở về nhập hội Liên Việt của ta. Nhân dân trong vùng phấn khởi, tin tưởng, gửi nhiều lương thực và thuốc men cho bộ đội.

Điểm rõ nhất của nghệ thuật chiến dịch là Bộ chỉ huy chiến dịch đã thực hiện được vừa nghi binh nhử địch trên sông, vừa công đồn nhử địch trên bộ để kéo viện binh địch ra, rồi bố trí trận địa và lực lượng tiêu diệt. Phát huy được sở trường đánh phục kích của bộ đội chủ lực và dân quân du kích. Nhất là sau đợt 1 đã thực hiện được “tập trung lực lượng”, bố trí sát địch để bất ngờ tiêu diệt, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Chính nhờ có lực lượng tập trung mà mặc dù bị lộ ta vẫn tiêu hao được khá lớn quân địch, giành thắng lợi lớn, địch không dám coi thường, phải rút lui; ta đạt được mục đích chính trị của chiến dịch là “phá âm mưu thành lập khu quốc gia” của thực dân Pháp.

Ta cũng còn bộc lộ rõ một số mặt yếu: Bố trí lực lượng còn phân tán nên khi địch tập trung đông, ta không đủ sức tiến công tiêu diệt, không hình thành được các mũi phối hợp, hạn chế đến hiệu suất chiến đấu nhất là giai đoạn đầu. Chấp hành kỷ luật mệnh lệnh chưa nghiêm (khi mở màn, đại đội 309 vì nghi ngờ kế hoạch, do dự nên không đánh được đồn Bình Trưng mở màn khơi ngòi như dự kiến). Công tác chính trị chưa triệt để tận dụng thời cơ khi trong hàng ngũ địch đã hoang mang, dao động để tiến hành công tác địch vận, làm hạn chế đến thắng lợi chung.
_____________________________________
1.Ngày 8 tháng 1 năm 1949, địch huy động ba tiểu đoàn bộ binh, năm tiểu đoàn lính lê dương và hai ngàn tù binh chiến tranh dưới sự yểm trợ của máy bay và pháo binh mở nhiều cuộc càn quét vào Gò Công; xã nào cũng bị đánh phá, chúng đốt hơn 200 nhà dân và hàng ngàn tấn lúa, đánh đập tra tấn và bắn chết hàng chục người.
2.Ngày 25 tháng 2 năm 1949, theo chỉ thị của Trung ương, Quân khu 8 có kế hoạch tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, thành lập liên trung đoàn 105-120. Bộ chỉ huy liên trung đoàn giữ tiểu đoàn 309 làm tiểu đoàn chủ lực tập trung; đưa các tiểu đoàn 314 và 358 phân tán hoạt động ở hai tỉnh Mỹ Tho và Long An - một đại đội độc lập hoạt động ở Chợ Gạo và một phần Châu Thành (Long An), một đại đội độc lập ở Cái Bè và Cai Lậy, một trung đội làm du kích ở thị trấn Cái Bè, một đại đội độc lập ở Thủ Thừa, Mộc Hoá. Đại đội dân quân Mỹ Tho cũng phân tán đi các huyện. Mỗi xã có một tiểu đội du kích thoát ly, trang bị vài khẩu súng. Ngoài ra có một đến hai đại đội dân quân làm nhiệm vụ tải thương, canh gác, vận tải, phá hoại...
3.Cuối 1948, tiểu đoàn 309 thành lập (nòng cốt từ đại đội 915) đồng chí Lê Văn Xay làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Tiên làm chính trị viên.
   Còn hai đại đội cùng đồng chí Nguyễn Văn Sỹ (tiểu đoàn trưởng 305 cũ) về thành lập tiểu đoàn 307 chủ lực khu, đồng chí Sỹ làm tiểu đoàn trưởng.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #23 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2012, 04:20:06 pm »


CHIẾN DỊCH CẦU KÈ
(Tiến công, từ ngày 7 đến ngày 26 tháng 12 năm 1949)


Chiến dịch diễn ra trong phạm vi huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh. Trung tâm chiến dịch cách thị trấn Trà Vinh 40 ki-lô-mét. Là vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long, nhưng Cầu Kè ít sông rạch hơn các vùng khác, lại có nhiều giồng đất khá cao và bằng phẳng, cây cối xanh tốt, ruộng đồng phì nhiêu. Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, một năm chia làm hai mùa rõ rệt. Đường bộ từ Trà Ôn xuống Cầu Kè đã hoàn toàn bị phá hoại; chỉ còn đường độc đạo từ Trà Vinh, Tiểu Cần xuống. Đường thủy có sông Hậu rộng lớn, tàu, thuyền có thể từ đó đi vào sông Bưng Bót rồi vào thẳng Cầu Kè; hoặc đổ bộ từ Hậu Giang theo lộ Chông Nô lên. Nhân dân hầu hết là người Khơ-me sống theo Sóc (xóm, làng). Đây là vùng địch đánh chiếm và bình định sớm nên chúng đã lợi dựng được dân để gây cơ sở, rào làng, xây dựng ngụy quân, ngụy quyền và tề điệp, bảo an tay sai. Dọc theo trục lộ chính và các đường nội bộ, địch đã xây dựng khá hoàn chỉnh hệ thống đồn bốt và phát huy tác dụng của “chiến thuật Đờ-la-tua” (hệ thống cứ điểm nhỏ kết hợp với những đội ứng chiến nhỏ).

Trong thị trấn Cầu Kè, địch bố trí ba cứ điểm chính: Đồn Pháp ở khu nhà thương, đồn tại dinh quận Rùm và đồn Cò. Để bảo vệ huyện ly, địch xây dựng hệ thống tiền đồn, từ Trà Ôn xuống có lô cốt Sóc Kha; dọc sông Bưng Bót có hai lô cốt, trên dọc lộ Tiểu Cần – Cầu Kè có chín lô cốt, trong đó vị trí Bác-sa-ma được xây dựng kiên cố. Ngoài hệ thống lô cốt, có ba sóc dân được võ trang để “tự vệ” và chống lại hoạt động của ta (Béc-sa-ma, Ô-tà-tưng và Chông Nô). Ở các vị trí, ngoài lô cốt còn có tường đất đắp dày 1m đến 1,2m, hai đến ba lớp rào tre và rào kẽm gai bao bọc.

Quân số địch ở toàn huyện có chín lính Pháp, 123 Miên gian, năm Việt gian và khá nhiều dân chúng theo Pháp được võ trang. Nhưng so với toàn khu thì đây là nơi mỏng yếu hơn cả. Lực lượng cơ động vòng ngoài có một tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn quân dù.

Theo “Mệnh lệnh chuẩn bị cho tổng phản công” của Bộ Tổng tư lệnh giao cho Nam Bộ đầu năm 1949, Bộ tư lệnh Khu 8 mở chiến dịch tiến công địch tại Cầu Kè nhằm mục đích: Tiêu diệt một phần sinh lực của địch, bồi dưỡng lực lượng ta; đánh phá chiến thuật lập tháp canh, giải tán bảo an, phá tề điệp, giành lại một phần về nhân lực, vật lực cho ta ở địa bàn Cầu Kè, mở rộng căn cứ địa cho liên trung đoàn 109-111 (trước chiến dịch, các vùng Tân An, Hữu Thành và Vinh Xuân ở phía bắc lộ Tiểu Cần - Cầu Kè là hậu phương của ta); cắt đứt giao thông địch từ Cầu Kè đi Tiểu Cần.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm1: Hai tiểu đoàn chủ lực của khu và của liên trung đoàn 109-111, ba đại đội địa phương, bốn trung đội độc lập (một trung đội Miên - Việt, một trung đội trợ chiến, hai trung đội công an xung phong). Một tiểu đoàn chủ lực làm dự bị chiến dịch. Ngoài ra còn huy động một vạn dân quân tham gia phá đường, phá cầu, đốt phần lô cốt và tải thương, tiếp tế.

Bộ chỉ huy Khu 8 trực tiếp tổ chức, chỉ đạo chiến dịch; cử đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến, liên trung đoàn trưởng 109-111 làm chỉ huy trưởng, đồng chí Dương Cự Tẩm, chính ủy liên trung đoàn làm chính ủy của chiến dịch.

Phương châm tác chiến: Đánh điểm diệt viện và vây điểm diệt viện; tác chiến đi đôi với địch vận.

Kế hoạch tác chiến chia thành ba hướng: Hướng chủ yếu (hồi đó gọi là hương chính), lực lượng gồm một tiểu đoàn, một đại đội và hai trung đội độc lập. Hướng thứ yếu (hướng phụ), gồm một tiểu đoàn, hai đại đội độc lập và hai trung đội công an xung phong. Hướng phối hợp gồm các tỉnh đội: Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh tích cực hoạt động phá hoại để cầm chân địch.

Để lãnh đạo công tác chuẩn bị, Ban chỉ huy chiến dịch triệu tập “Hội nghị quân - dân - chính” tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, huyện Cầu Kè và cán bộ các đơn vị tham chiến để phổ biến kế hoạch và phân công công tác chuẩn bị.

Về trinh sát và liên lạc: Ban chỉ huy liên trung đoàn cử một trung đội trinh sát nghiên cứu và tổ chức dẫn đường cho bộ đội; tổ chức các đường liên lạc (bằng người chạy bộ) giữa các mặt trận với Bộ chỉ huy chiến dịch. Bộ phận điện đài chuẩn bị mật mã mới và chuẩn bị vật chất cho máy móc trước ngày nổ súng một tháng.

Bộ chỉ huy chiến dịch cử một tiểu đội công binh chuyên nghiên cứu bố trí địa lôi trên các đường tiếp viện của địch theo dự kiến. Đồng thời Bộ chỉ huy soạn thảo kế hoạch tác chiến, hướng dẫn hành quân, cách đánh gửi cho từng mặt trận.

Về chính trị, trong hội nghị ngày 16 tháng 11, đã thành lập hai tiểu ban: “Tiểu ban chính trị” và “Tiểu ban tuyên truyền” , thành phần gồm cả quân, dân, chính. Trong đó phân công cho quân, dân, chính huyện Cầu Kè chuyên lo công tác dân vận, cụ thể đi sâu vào các tổ chức và dân chúng, mật giao với bảo an và lính Miên, chú ý nhằm vào vùng Bác-sa-ma, Ranh Hạt, Ô-tà-tưng, sóc Chông Nô và sóc Kha. Chuẩn bị tiệc để mời sếp bảo an và sếp đồn nhằm cầm chân chỉ huy ở ngoài sóc khi quân ta tiến công. Vận động trước binh lính địch sẵn sàng ra hàng khi ta tiến công. Tiểu ban tuyên truyền tiến hành in biểu ngữ, truyền đơn, tổ chức các tổ gọi loa tuyên truyền địch vận.

Tiến hành giáo dục bộ đội về chính sách cụ thể với từng đối tượng: Đồng bào Miên, lính Miên, lính bảo an, sư sãi, lính đồn và đối với những tên giặc ngoan cố v.v… Giáo dục kỷ luật dân vận chính sách chiến lợi phẩm, tổ chức “Hội đồng mặt trận” để thực hiện chính sách. Động viên tinh thần thi đua giết giặc lập công của bộ đội và giữa các đơn vị. Tổ chức các chiêu đãi sở để đón tiếp hàng binh.

Về cung cấp: Tổ chức ban quân y mặt trận và các trạm cứu thương, giải phẫu, chuẩn bị thuốc men, cáng, xuồng ghe và bộ phận dân quân tải thương. Công binh xưởng tiến hành cải tiến đạn Mỹ thành đạn Mas để cấp cho trung liên. Sản xuất lựu đạn, lựu đạn gài, địa lôi và đạn cối đủ dự trữ: Đạn súng trường tối thiểu 50 viên, tối đa 100 viên; trung liên tối thiểu 300 viên, tối đa 500 viên; đại liên tối thiểu 700 viên, tối đa 1000 viên. Tổ chức dân quân, chủ yếu của huyện Cầu Kè, một phần của huyện Tam Bình và Tiểu Cần làm nhiệm vụ tiếp tế, phá hoại và tải thương. Ban quân lương của từng đơn vị phối hợp chặt chẽ với quân, dân, chính từng xã trên địa bàn lo việc tiếp tế gạo, muối, củi khô, thực phẩm...
____________________________________
1.Trong “Lịch sử Nghệ thuật chiến dịch Việt Nam” Nxb QĐND 1995 (tr. 73) viết: Lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm bốn tiểu đoàn và ba đại đội địa phương.
   - Trong “Thống kê các chiến dịch” (Viện LSQS-1993) ghi: Lực lượng ta có hai trung đoàn, một phân đội liên quân và bốn đại đội địa phương.
   - Những tài liệu lưu trữ (BTTM-BQP) ghi rõ: Lúc đó cả Khu 8 chỉ có ba tiểu đoàn chủ lực và các đại đội bộ đội địa phương và quân của các tỉnh đội. Tại hồ sơ, phần diễn biến chiến dịch chỉ thấy xuất hiện các đại đội của hai tiểu đoàn 307 và 308. Như vậy có thể Bộ chỉ huy Khu 8 sử dựng hai tiểu đoàn chủ lực vào các hướng chiến dịch. Còn một tiểu đoàn làm lực lượng dự bị và cơ động để bảo vệ Bộ chỉ huy khu.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #24 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2012, 04:21:16 pm »


Chiến dịch chia thành ba đợt:

Đợt 1 (từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 12):

15 giờ 45 phút ngày 7 tháng 12, tiểu đoàn 307 tiến công và làm chủ sóc Bác-sa-ma, sau đó bao vây và tiến công chùa, đồn Bác-sa-ma và các lô cốt dọc lộ Cầu Kè - Tiểu Cần. Tiểu đoàn 308 tiến công sóc và đồn Chông Nô. Sau gần hai ngày, cả hai tiểu đoàn giành thắng lợi, diệt gọn hai cứ điểm, bắt và diệt nhiều địch, thu vũ khí, giải tán hơn 100 bảo an. Sau đó bố trí hai đại đội chặn viện ở giông đất Chông Nô từ Hậu Giang lên, đại đội 889 chặn tàu ở sông Bưng Bót. Tiếp đó, hai trung đội bộ binh và một tiểu đội công an xung phong đánh bốt Cò, một trung đội và một tiểu đội công an xung phong tiến công bốt nhà thương, nhưng cả hai cánh không thành công ta liền chuyển sang bao vây để buộc địch phải tăng viện từ Trà Vinh, Tiểu Cần lên.

Ngày 9 tháng 12, địch thả dù tiếp tế cho thị trấn Cầu Kè. 15 giờ, một tàu và bốn sà lan chở hơn 40 quân đổ bộ lọt vào trận địa phục kính, quân ta bắn chìm một sà lan, số còn lại rút lui. Bộ chỉ huy chiến dịch rút quân ở mặt Chông Nô để tăng cường cho vùng Cây Xanh giữ đường sông Bưng Bót. 17 giờ ngày 10, 300 tên địch đổ bộ lên Chông Nô tiến vào Cầu Kè. Ta bỏ lỡ cơ hội diệt viện binh.

Đợt 2 (từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 12): Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho bộ phận liên quân Miên-Việt tiếp tục hoạt động ở Bác-sa-ma, bố trí tiểu đoàn 307 triển khai trận địa đánh viện tại Phong Phú. 10 giờ ngày 10 tháng 12, địch cho máy bay trinh sát và ném bom vào trận địa ta. Ngày 11, một đại đội của tiểu đoàn Ma-rốc từ Trà Vinh lên Bác-sa-ma sục sạo nhưng ta vận động ra không kịp vì lực lượng bao vây Bác-sa-ma đã tự động rút trước đó. Bộ chỉ huy quyết định tập trung lực lượng hai tiểu đoàn tiêu diệt cánh quân ở Bác-sa-ma và kiềm chế bọn ở Cầu Kè xuống. 8 giờ phi pháo dọn đường, địch ở Bác-sa-ma vận động lọt vào trận địa tiểu đoàn 307 phục kích, ta bao vây chia cắt diệt 90 tên, bắt 62 tên, thu toàn bộ vũ khí. 9 giờ, cánh quân ở Cầu Kè lọt vào trận địa đại đội 933, nhưng chỉ huy thiếu bình tĩnh, kỷ luật lỏng lẻo, một tiểu đội dao động rút lui làm ảnh hưởng các bộ phận khác, để địch chiếm được địa hình có lợi đánh bật ta ra. Do đó ta chỉ diệt và làm bị thương hai tiểu đội địch. 30 xe lội nước từ vàm An Phú Tân đổ vào, nhưng đến Phong Phú ta đã thu dọn chiến trường, rút vào giông phòng ngự nên bỏ lỡ thời cơ diệt địch. Địch cũng không dám tiến công, chỉ đứng từ xa bắn vào, đến chiều thì rút lui. Lực lượng của tiểu đoàn 308 trong thị trấn cũng chỉ bao vây và pháo kích lẻ tẻ.

Đợt 3 (từ ngày 13 đến ngày 26 tháng 12):

Sau hai đợt, phần lớn mục đích chiến dịch đã đạt được. Ta chủ trương tiếp tục bao vây quấy rối thị trấn Cầu Kè, kết hợp phá hoại giao thông để cô lập chúng. Đẩy mạnh việc gây cơ sở vùng mới giải phóng, đánh địa lôi trên đường Trà Vinh - Tiểu Cần, sẵn sàng đánh viện từ Trà Vinh lên. Những ngày đầu đợt 3, lực lượng công binh đã phá huỷ hai xe vận tải, địch chết và bị thương 18 tên. Ta phá được thêm một cầu sắt, một cầu bê tông. Việc tuyên truyền thực hiện khá tốt ở vùng Chông Nô, Bác-sa-ma, Phong Phú và Ô-tà-tưng.

2 giờ đêm 25 tháng 12, tiểu đoàn 308 chia thành hai cánh đánh chiếm Lò Ngò. Đến sáng ta hoàn toàn làm chủ các sóc bảo an và bố trí lực lượng chặn viện. 9 giờ 30 phút, bảy xe và hai đại đội địch tiến vào mặt trận, ta nổ súng mãnh liệt, địch bỏ lại nhiều xác chết và chạy tán loạn. 14 giờ 30 phút, địch kết hợp cơ giới, máy bay, bộ binh tiến công ta một lần nữa, nhưng bị thất bại, ta diệt 40 tên và thu một số vũ khí. Suốt buổi chiều máy bay ném bom vào trận địa ta. 17 giờ, bảy chiếc Dakota đến thả một đại đội quân dù. Khi chúng còn lơ lửng trên không, ta đồng loạt nổ súng. Một số tên chết từ trên cao, một số vướng vào bụi tre bị ta diệt, số còn lại chạy về đồn. Ta diệt trên 20 lính dù, thu một số dù địch. 19 giờ, ta lui quân. Cùng ngày, tiểu đoan 307 diệt lô cốt Tân Đại. Một lực lượng của đại đội 975 và 991 tiểu đoàn 307 chiếm lô cốt Cầu Tre bằng mật giao. Ta tước 40 súng trường và tập trung bảo an của các sóc giải thích và thả ngay tại chỗ. Chiến dịch kết thúc sáng 26 tháng 12 năm 1949.

Kết quả: Sau 20 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt tiểu đoàn Ma-rốc, trung đoàn 1 ngụy Gò Công, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn Bến Tre; đánh tan hai đại đội của tiểu đoàn Sóc Trăng ở Lò Ngò, làm tan rã đại đội dù, đánh lui đoàn xe lội nước, đánh đắm một sà lan, phá huỷ hai xe vận tải; bắt sống 62 tù binh Pháp và Ma-rốc, tiêu diệt 20 tên Miên gian; bắt và tha tại chỗ trên 200 lính bảo an; phá tan hệ thống phòng ngự bằng tháp canh, lô cốt của địch trên lộ Tiểu Cần - Cầu Kè gồm: 12 lô cốt và cứ điểm, sáu sóc bảo an vũ trang. Ta thu vũ khí đủ trang bị cho một tiểu đoàn chủ lực. Ta hy sinh và bị thương 50 người.

Chiến dịch Cầu Kè là chiến dịch đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ, nhưng Bộ chỉ huy Khu 8 đã xác định được mục đích, mục tiêu đúng, sát hợp. Thành công của chiến dịch là đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo cách “đánh điểm - diệt viện” và “vây điểm - diệt viện” trên địa hình đồng bằng có nhiều sông rạch. Đã chia chiến dịch ra từng đợt rõ ràng, phân rõ nhiệm vụ, mục tiêu cho từng lực lượng cụ thể. Đã chọn mục tiêu vừa sức để mở màn chiến dịch (Bát-sa-ma), chọn mục tiêu quan trọng (quận lỵ Cầu Kè) để bao vây, khiến địch không thể không ứng cứu. Bố trí linh hoạt, hài hoà giữa lực lượng vây điểm và lực lượng chặn đánh viện. Bằng cách đó, không những ta đã điều động viện binh địch theo ý muốn mà còn thúc đẩy viện binh địch đến nhanh khu vực ta đã chọn để tiêu diệt. Do đó, ta giữ vững quyền chủ động chiến dịch và chủ động kết thúc chiến dịch trên thế thắng. Cầu Kè cũng là chiến dịch ta kết hợp, hiệp đồng tốt giữa lực lượng chủ lực với lực lượng vũ trang địa phương, quân, dân, chính, giữa tác chiến với công tác địch vận và công tác phá hoại. Do đó các mục tiêu cơ bản đề ra cho chiến dịch đều đạt được1.

Song, là chiến dịch đầu tiên nên còn bộc lộ sự lúng túng bỡ ngỡ trong chuẩn bị, trong tổ chức chỉ huy và trong cách đánh. Có lúc, có đơn vị chưa giữ được yếu tố bí mật bất ngờ. Sử dụng lực lượng có lúc chưa tập trung nên còn bỏ lỡ nhiều thời cơ diệt địch.
_______________________________________
1.Tờ Union Francaise (Liên hiệp Pháp) số ra ngày 28 tháng 12 năm 1949 đã thú nhận “... Cầu Kè mới đây là một chiến trường bi thảm, trong đó quân đội viễn chinh Pháp đã tổn thất nặng nề chẳng những theo dư luận công chúng mà còn theo báo chí ở Pa-ri loan báo dựa vào tin tức của Bộ Pháp quốc Hải ngoại”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #25 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2012, 04:26:12 pm »


CHIẾN DỊCH LÊ LAI
(Tiến công, từ ngày 22 tháng 12 năm 1949 đến ngày 27 tháng 1 năm 1950)


Cuối năm 1949, ở chiến trường chính Bắc Bộ, quân và dân ta mở chiến dịch Lê Lợi, chủ động tiến công địch ở Hoà Bình và đẩy mạnh tiến công địch ở nhiều nơi như Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, v.v... Để phối hợp với chiến dịch Lê Lợi, Liên khu uỷ và Bộ tư lệnh Liên khu 4 quyết định mở chiến dịch Lê Lai tại Bình - Trị - Thiên, nhằm mục đích: Giam chân quân cơ động Pháp, không cho chúng tiếp viện ra Bắc Bộ, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, xây dựng và mở rộng căn cứ cách mạng ở vùng đồng bằng.

Chiến dịch diễn ra chủ yếu trên địa bàn phía nam tỉnh Quảng Bình và phía bắc tỉnh Quảng Trị, cụ thể là các huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy, Phong Điền và Hải Lăng. Đây là dải đất hẹp nhất của miền Trung (chiều ngang từ biển Đông tới biên giới Việt - Lào chỉ hơn 40 ki-lô-mét), nhưng lại là địa bàn chiến lược quan trọng, là chiếc cầu nối liền hai miền Nam – Bắc và nối với vùng Trung Lào. Địa thế hiểm trở “Biển giăng trước mặt, núi vây ba bề”. Địa hình mấp mô lồi lõm, dốc và thấp dần từ tây sang đông. Phía tây là dãy núi Trường Sơn hiểm trở, phía đông là những dải đồng bằng hẹp ven biển, nằm giữa hai vùng núi và đồng bằng là những dải đồi bát úp, sát mép biển là những bãi, cồn, động cát trắng. Nhiều chỗ đồi núi chạy ra sát biển như đèo Ngang, đèo Lý Hoà. Địa hình càng thêm phức tạp vì có hệ thống sông ngòi và đường giao thông chia cắt thành từng tuyến song song theo hướng tây - đông. Sông ngòi ở vùng này ngắn và dốc. Toàn bộ sông ngòi xuất phát từ hàng trăm khe suối của dãy Trường Sơn đổ xuống các con sông Ròn, sông Gianh, sông Lý Hoà, sông Dinh, Kiến Giang, sông Nhật Lệ thuộc tỉnh Quảng Bình; sông Hiền Lương, sông Cam Lộ (tức sông Hiếu), sông Quảng Trị (Thạch Hãn) thuộc tỉnh Quảng Trị. Đây là mạng lưới giao thông thuỷ quan trọng. Quân Pháp thường lợi dụng các con sông lớn cho tàu thuỷ, ca nô thọc sâu thăm dò, phá hoại chiến khu của ta. Ngược lại, ta cũng lợi dụng sông ngòi để vận chuyển vũ khí và lương thực để đánh địch. Ngoài đường thuỷ, mạng lưới giao thông ở đây còn bao gồm đường bộ, đường sắt và đường không, nối Quảng Bình với chiến trường cả nước và vùng Trung Lào, Hạ Lào. Thực hiện mưu đồ khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã cải tạo, nâng cấp hai tuyến “ Thượng đạo” (đường giao thông vùng cao) và “Hạ đạo” (giao thông ven biển) có từ thời phong kiến thành tuyến đường sắt Bắc - Nam và quốc lộ 1A chạy suốt chiều dài ba tỉnh Bình - Trị - Thiên. Đồng thời chúng còn mở tỉnh lộ số 1, số 2, quốc lộ 9 từ Cửa Việt, Quảng Trị sang Lào qua cửa khẩu Lao Bảo và đường “không trung thiết lộ”1. Sân bay Đồng Hới là cửa khẩu đường không đi các nơi.

Đồng bằng ở Quảng Bình, Quảng Trị nhỏ, hẹp, nằm ven hạ lưu các con sông, chỉ chiếm 9,3 phần trăm diện tích tự nhiên. Nhưng chiến dịch Lê Lai lại nổ ra chủ yếu trên “đồng bằng hai huyện” Lệ Thủy, Quảng Ninh; nơi đây là vựa thóc chủ yếu của Quảng Bình, vốn là nơi tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Dân cư trong vùng đông đúc và tinh thần kháng chiến rất cao. Hầu hết các làng xã đều có đội dân quân du kích, nhiều làng đã thực hiện “rào làng chiến đấu”, xây dựng làng thành những pháo đài, đã nhiều lần phá tan các cuộc càn lớn của quân Pháp. Khi Liên khu mở chiến dịch, các làng kháng chiến đều trở thành hậu phương tại chỗ, nơi nuôi giấu quân, chuyển tải thương và vũ khí đạn dược của chiến dịch, và cũng là nơi tổ chức những mũi đánh phối hợp với chủ lực của Liên khu2.

Giữa năm 1949 (trước chiến dịch), lực lượng địch trên địa phận Quảng Bình có khoảng 4.000 tên, do trung tá Ni-ốc (Niox) chỉ huy. Thực hiện ráo riết “kế hoạch Rơ-ve”, chúng đóng thành 45 vị trí đồn bốt, cụ thể: khu vực nam và bắc sông Gianh có 10 vị trí chính và ba vị trí hương vệ; khu vực Bố Trạch tám vị trí; khu vực Quảng Ninh bảy vị trí; khu vực Lệ Thuỷ chín vị trí chính và hai đồn hương vệ; thị xã Đồng Hới bốn vị trí. Phía tây địch đóng hai vị trí lẻ ở sát biên giới Việt - Lào. Ngoài ra chúng còn lập hành lang chốt giữ dọc theo tỉnh lộ số 4 và số 2, từ Thượng Lâm (Lệ Thủy) ra Sen Bàng, từ Troóc kéo ra Tiên Lệ (Quảng Trạch). Với một loạt đồn bốt dày đặc nối tiếp nhau, chúng định bịt chặt các cửa ngõ chiến khu và uy hiếp các tuyến giao thông vận tải của ta ở phía tây. Ở vùng đồng bằng và địch hậu, quân Pháp tăng cường vây ráp, phục kích các ngả đường hòng lùng bắt cán bộ và cướp đoạt hàng hóa, của cải của đồng bào. Những vùng xa xôi chúng cho máy bay cất cánh từ sân bay Đồng Hới thường xuyên đánh phá để gây tổn thất cho ta. Nhưng kể từ ngày Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động toàn quốc kháng chiến, quân và dân Quảng Bình, Quảng Trị đã liên tục nổi dậy tiến công, phá được nhiều đồn bốt, diệt nhiều sinh lực địch, trong đó đã phá được 55 hội tề - chỗ dựa về chính trị của quân Pháp. Qua nhiều trận diệt đồn, nhiều trận chống càn, trước khi bước vào chiến dịch, bộ đội và dân quân du kích đã có nhiều kinh nghiệm trong tổ chức và thực hành chiến đấu.

Lực lượng ta: Tháng 10 năm 1949, theo chỉ thị của Bộ, Liên khu 4 quyết định thành lập “Mặt trận Bình - Trị - Thiên”, lực lượng chủ lực có ba trung đoàn bộ binh (95, 101 và 18); tiểu đoàn công pháo 888, đại đội thông tin và đại đội quân báo3. Lực lượng vũ trang địa phương có ba đại đội bộ đội địa phương và dân quân du kích của ba tỉnh Bình - Trị - Thiên. Ngoài ra, trên để tăng cường cho lực lượng tham gia chiến dịch trung đoàn 57. Trung đoàn 57 vào hoạt động ở vùng bắc Quảng Bình nên trung đoàn 18 vượt U Bò, Ba Rền vào vùng đồng bằng nam Quảng Bình hoạt động. Trung đoàn 101 vượt quốc lộ 1 về đứng chân ở đồng bằng Thừa Thiên. Trung đoàn 95 từ Quảng Trị hành quân ra vùng Quảng Ninh và Lệ Thủy - hướng tiến công chính của chiến dịch.

Chiến dịch do Đảng ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 4 trực tiếp chỉ đạo; Bộ tư lệnh Mặt trận Bình - Trị - Thiên trực tiếp chỉ huy; đồng chí Hà Văn Lâu làm Tư lệnh chiến dịch, đồng chí Hoàng Anh, Bí thư Phân khu ủy làm Chính ủy.

Phòng chính trị triển khai ngay đợt giáo dục, quán triệt nhiệm vụ chiến dịch cho toàn mặt trận. Khí thế ra quân lập công ở các đơn vị rất cao. Đội văn công được thành lập và xuống từng trung đoàn ca hát, động viên bộ đội và nhân dân. Đồng thời cho ra đời nhà in và tờ báo “Người lính” của Mặt trận để hướng dẫn tư tưởng, hành động và động viên phong trào thi đua của các lực lượng vũ trang trên toàn Mặt trận. Ta đã in và phát tán 2.500 tờ truyền đơn, 300 tờ tin “Dân quân” cổ vũ phong trào chiến đấu của các địa phương. Phòng hậu cần mở rộng xưởng quân giới, tiến hành sửa chữa và sản xuất vũ khí, đạn dược; củng cố bệnh xá của Mặt trận và các trạm cứu thương của chiến dịch. Các trung đoàn chủ lực hiệp đồng chặt chẽ với các cơ quan dân chính đảng địa phương huy động sức người, sức của tới mức tối đa, tổ chức tuyến hậu cần tại chỗ bảo đảm tốt các khâu: tiếp lương, tải đạn, cứu chữa và vận chuyển thương binh, tử sĩ. Cơ quan tham mưu, đại đội quân báo của Mặt trận và thành phần chỉ huy, trinh sát của các trung đoàn tiến hành trinh sát thực địa, nắm quy luật hoạt động và sự bố phòng của địch, điều chỉnh kế hoạch tác chiến cho phù hợp. Các trung đoàn chủ lực tranh thủ huấn luyện cho bộ đội với nội dung theo định hướng “chiến đấu chính quy, tiến tới thành lập đại đoàn” và kết hợp huấn luyện, xây dựng phong trào chiến tranh du kích cho lực lượng vũ trang địa phương. Trước ngày chiến dịch chính thức nổ súng, khí thế thi đua giết giặc lập công của toàn mặt trận rất sôi sục.

Thực hiện kế hoạch tác chiến “tạo đà” trước khi bước vào chiến dịch, trung đoàn 95 trên đường cơ động ra nam Quảng Bình đã liên tiếp tổ chức phục kích địch ở Thanh Lê diệt 52 tên, ở Dốc Miếu diệt gọn hai trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí, ở Bồ Bản diệt 90 địch, phá huỷ 20 ô tô. Trung đoàn 18 vượt qua dốc U Bò, vận động xuống Lệ Kỳ đánh địch. Trung đoàn 101 vừa hành quân tới Quảng Điền, Hương Trà đã phục kích diệt gọn hai trung đội địch ở Bôn Trì, Bôn Phổ, tập kích diệt đồn Thuỷ Cầu. Trung đoàn 57 vào tới bắc Quảng Bình cũng tiến hành tập kích diệt địch ở Đơn Sa, quấy rối địch ở Ba Đồn, phục kích diệt 100 tên địch ở Thanh Lê. Trên hướng Trung Lào, bộ đội ta và bạn cũng liên tiếp phục kích đánh địch trên đường số 9, triệt phá tề ngụy ở Ba-na-phào và Na-ha-xay. Bộ đội địa phương và dân quân du kích trên toàn mặt trận cũng tích cực hoạt động tác chiến, đã đánh mìn lật nhào đoàn tàu địch ở Đá Bạc (Phú Lộc), Hải Đạo (Hải Lăng), gài bom phá kho địch ở ga Huế, dùng địch vận hạ đồn Lao An, Mỹ Chánh, Phù Ốc. Đại đội 361 bộ đội địa phương cùng dân quân du kích Lệ Thuỷ phục kích diệt gọn trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí ở đoạn đường thôn Trung Lực xã Duy Tân, sau đó vây ép và diệt đồn Thượng Lâm và vị trí hương vệ An Lạc. Dân quân du kích liên tục phục kích và đánh phá giao thông trên quốc lộ 1, tỉnh lộ 2 và đường số 9. Quân và dân hai huyện Lệ Thủy và Quảng Ninh liên tiếp quấy rối, bức hàng, bức rút các đồn Võ Xá, Vạn Xuân, Cổ Hiền, Lệ Kỳ và vị trí hương vệ Xuân Bồ. Ta bao vây chặt đồn Mỹ Trạch - một vị trí tiền tiêu của địch ở phía tây nam Lệ Thuỷ, khiến quân địch ở đây đông mà không dám ra ngoài càn quét như trước đây, do đó đã tạo thuận lợi cho các đơn vị chủ lực hành quân chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công trước ngày chiến dịch chính thức mở màn.
__________________________________
1.Không trung thiết lộ là đường dây cáp trên không trung, vận chuyển người qua lại bằng chiếc thùng sắt trượt trên dây cáp. Không trung thiết lộ ở Quảng Bình được bắc từ xóm Cụp (Minh Hoá) sang Ba-na-phào (Lào).
2.Nhiều làng ở Quảng Bình (như Hiển Lộc, Cự Nẫm...) xây dựng trung đội du kích 36 người, cạnh đó là đội dân quân 70 người. Toàn tỉnh có 35.558 dân quân. Nhiều căn cứ du kích hình thành và phát triển như: Căn cứ Hoàng Hoa Thám, Lê Khiếu, Duy Tân ở Lệ Thuỷ; Minh Trạch, Ninh Trạch, Lệ Trạch ở Quảng Trạch; Tây Trạch ở Bố Trạch, v.v… Chỉ tính riêng đợt tháng 1 năm 1949 phát động ủng hộ dân quân nhân dân toàn tỉnh đã ủng hộ được 121.406 đồng (bạc giấy), 10 đồng bạc (bạc), 237 mẫu ruộng, năm mảnh vườn, ba ngôi nhà, 213 kg bông, 3.465 kg lúa, 90 thùng bắp, hàng trăm trâu, bò, lợn và gia súc gia cầm. Nhiều địa phương còn lập quỹ đỡ đầu, mua sắm súng đạn trang bị cho dân quân. Trước chiến dịch, Đảng ủy và ủy ban kháng chiến các làng, xã đều tổ chức lực lượng cơ động và vật chất tại chỗ, sẵn sàng cung cấp cho bộ đội bất cứ lúc nào cần đến.
3.Sau lễ thành lập Mặt trận (được tổ chức ở Chiến khu Ba Lòng, Quảng Trị), trung đoàn 95 đứng chân ở Quảng Trị, xây dựng thành đơn vị chủ lực cơ động của Mặt trận; được ưu tiên về quân số trang bị, biên chế hoàn chỉnh với ba tiểu đoàn bộ binh: 227 (chuyển từ 101 sang), 302 và 310, và một số phân đội trực thuộc cơ quan trung đoàn bộ. Trung đoàn 101 có hai tiểu đoàn bộ binh 319 và 328. Trung đoàn 18 đứng chân ở Quảng Bình, có tiểu đoàn 274 và tiểu đoàn 436 chủ lực Liên khu 4 vừa từ Thanh - Nghệ - Tĩnh vào mặt trận. Theo sự thoả thuận của Trung ương Đảng hai nước Việt - Lào, đáp ứng yêu cầu của Bộ chỉ huy Mặt trận Trung Lào, ngoài đại đội 55 đã được đưa sang Lào từ giữa năm 1948, Bộ tư lệnh Mặt trận Bình - Trị - Thiên đưa thêm tiểu đoàn độc lập 364 sang phối hợp với bộ đội Pa-thét Lào hoạt động ở nam, bắc đường số 9 (Xa-van-na-khét). Như vậy là lực lượng của Mặt trận được chia thành hai khối: Trung đoàn 95 là lực lượng cơ động, trung đoàn 101, trung đoàn 18 và các đơn vị quân tình nguyện ở Trung Lào là lực lượng chủ lực tài chỗ.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #26 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2012, 04:27:01 pm »


Chiến dịch chia làm hai đợt.

Đợt 1 (từ ngày 22 đến ngày 31 tháng 12 năm 1949):

Đêm 22 tháng 12 năm 1949, trung đoàn 18 được tăng cường một đại đội phóng bom, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công đồn Vạn Xuân, nhưng vì lực lượng địch ở đây mới được tăng cường nên cuộc tiến công của ta không thành, trung đoàn chuyển sang bao vây, đồng thời tổ chức lực lượng đánh quân tiếp viện.

Suốt ba ngày đêm mưa, rét nhưng bộ đội và dân quân du kích vẫn giấu mình trong lùm cây, động cát kiên trì chờ địch. Đến Nô-en (ngày 25-12), thiếu tá Lơ-briu-giơ (Lebrouse) chỉ huy phân khu nam Quảng Bình, đích thân dẫn hai đại đội Âu - Phi và một trung đội trợ chiến từ Đồng Hới hành quân vào phối hợp với bộ phận chiếm đóng ở Hoà Luật, giải vây cho Vạn Xuân. 18 giờ chiều, địch tới Thạch Xá Hạ, lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 227 trung đoàn 95 do đồng chí Lê Thuyết chỉ huy. Ta bất ngờ nổ súng, diệt và bắt gọn cánh quân này của địch; diệt và làm bị thương 30 tên, bắt 50 tên, trong đó có cả thiếu tá Lơ-briu-giơ, một đại úy và hai trung úy; thu 60 súng, hai máy vô tuyến điện, phá hỏng bảy xe. Ta bị thương nhẹ sáu đồng chí.

Ta tiếp tục triển khai trận địa phục kích trên dọc quốc lộ 1, nhưng địch hoảng sợ không dám đưa quân tiếp viện cho đồn Vạn Xuân. Ngày 30 tháng 12, tướng Lơ-brit phải hạ lệnh rút quân khỏi đồn Vạn Xuân và sau đó là đồn Thượng Lâm. Vùng tự do của ta được mở rộng, phía tây khu vực sông Kiến Giang, Lệ Thuỷ được giải phóng.

Ngày 31 tháng 12, được ta tuyên truyền giác ngộ, vệ binh đoàn ở đồn Cổ Hiền đã nổi dậy làm binh biến, diệt ba sĩ quan Pháp, đưa toàn bộ vũ khí, trang bị về với kháng chiến. Sự kiện này đã tác động tích cực đến số binh lính ngụy ở các đồn khác, do đó những ngày tiếp theo, quân ta đã tiến công và diệt gọn đồn Đôn Sa, bao vây và bức rút địch ở đồn Phú Hoà (có bảy lính khố đỏ quay về với cách mạng).

Trong khi ta tập trung lực lượng hoạt động ở hướng Quảng Ninh và Lệ Thuỷ, địch đã tăng cường binh lực và vũ khí cho một số vị trí phía bắc như Troóc, Cổ Giang, Hà Lời và phòng thủ tuyến tỉnh lộ 2, đồng thời cho quân nống ra càn quét một số xã như Hải Trạch, Trung Trạch, v.v...

Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho trung đoàn 57 tiến vào vùng bắc Quảng Bình. Từ ngày 13 tháng 12 năm 1949 đến ngày 15 tháng 1 năm 1950, trung đoàn đã đánh một loạt vị trí quan trọng của địch ở tuyến phòng thủ sông Gianh như Đại Nam, Hoà Ninh, Hướng Phương, Đơn Sa, Phù Kinh, giải phóng một vùng rộng lớn ở nam và bắc sông Gianh.

Ở phía nam, quân địch sợ không dám ra; chấp hành mệnh lệnh của Bộ tư lệnh, trung đoàn 95 và 18 chuyển sang phối hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến hành tổng phá tề ở vùng nam Quảng Bình. Toàn bộ hệ thống đồn bốt địch từ Quán Hầu vào tới Sen Hạ nhanh chóng bị vây chặt. Binh lính trong các đồn lo sợ chui vào cố thủ không dám ra ngoài. Lính địch ở các đồn Thượng Lãm, Vạn Xuân bỏ đồn co cụm về các vị trí lớn. Lực lượng vũ trang địa phương diệt đồn Xá, Cồn Lý. Nhân dân trong vùng tự võ trang bằng giáo mác, gậy gộc,vây bắt tề điệp, giải tán hương vệ. Ở nhiều làng như Xuân Bồ, Uẩn Áo, Xuân Dục, Xuân Hoà, Mỹ Trạch, Thuận Trạch... tuy nằm sát quốc lộ 1 và gần đồn địch nhưng trước sức mạnh áp đảo của quần chúng, bọn hào lý đã ra hàng và giao nộp vũ khí. Hai trung đoàn thu hồi được hàng trăm tấn lúa trong các kho của địch giao lại cho chính quyền địa phương cấp cho nhân dân. Phong trào kháng chiến của các làng xã phát triển mạnh và vững, trở thành những điển hình của Bình - Trị - Thiên và cả nước. Đợt 1 chiến dịch kết thúc.

Đợt 2 (từ ngày 15 đến ngày 27 tháng 1 năm 1950):

Từ giữa tháng 1 năm 1950, trung đoàn 95 được lệnh bí mật hành quân vào nam Thừa Thiên cùng trung đoàn 101 chuẩn bị đợt hoạt động mới. Vào tới bắc Quảng Trị, một bộ phận của tiểu đoàn 227 phối hợp với đại đội bộ đội địa phương Lê Hồng Phong tập kích bốt Chợ De, bao vây đồn Cửa Tùng, diệt hai trung đội địch, bắt sống một trung úy Pháp.

Bị thua đau ở phía nam Quảng Bình, bộ chỉ huy quân Pháp ở Bình - Trị - Thiên tìm cách phản kích giữ vững vùng bắc sông Gianh. Ngày 27 tháng 2 năm 1950, Pháp tập trung quân ứng chiến mở cuộc hành quân bằng đường thuỷ vào vùng có đồng bào theo đạo Thiên Chúa mà ta vừa giải phóng. Phán đoán đúng âm mưu địch, trung đoàn 57 cùng lực lượng vũ trang địa phương tổ chức phục kích ở bến đò Phù Trịnh, La Hà. 8 giờ, địch lọt vào trận địa phục kích, ta nổ súng, đại bác vào bộ binh địch ở các đồn xung quanh như Tiên Lệ, Ba Đồn nổ súng ứng cứu, quân địch trên bốn ca nô củng cố đội hình để phản kích nhưng đã bị quân ta đánh quyết liệt. Cả tiểu đoàn địch bị tan rã, hơn 120 tên bị diệt, ta bắt 10 tù binh Pháp và một số tay sai dẫn đường. Bốn ca nô địch bị hỏng nặng. Số địch sống sót rút chạy về Thanh Khê, bỏ lại hàng trăm súng. Trước sức uy hiếp của ta, địch buộc phải rút tiếp ở các vị trí chiếm đóng: Troóc, Cổ Giang, Cao Lao, Tiên Lệ. Ta triệt hạ tiếp ba đồn hương vệ: Phù Kinh, Hoà Bình, Hướng Phương.

Sáng ngày 27 tháng 1, hai trung đoàn 95 và 101 hành quân vào tới Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lợi dụng thời cơ này, địch lập tức tập trung ba tiểu đoàn ở Triệu Phong và Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị càn quét vào các xã Lương Mai, Phò Trạch, Phong Chương, Phong Lai, Vân Trình... Lực lượng vũ trang địa phương tổ chức chống càn. Được cấp trên đồng ý, hai trung đoàn (95 và 101) hành quân thần tốc quay trở lại vùng Triệu Phong và Hải Lăng. Địch cho máy bay bắn phá, ném bom vào trận địa quân ta. Đến tối 27 tháng 1, không chịu nổi đòn đánh trả quyết liệt của hai trung đoàn 95 và 101, quân Pháp phải hủy bỏ cuộc hành quân càn quét, lợi dụng đêm tối tháo chạy về Huế. Ta diệt và bắt gần 400 tên địch, thu hơn 50 súng các loại. Chiến thắng ở Lương Mai, Phò Trạch, Lê Thuyết đã kết thúc chiến dịch Lê Lai.

Trong hơn một tháng chiến đấu, bốn trung đoàn chủ lực của Liên khu đã đánh một trận vây điểm diệt viện, một trận vận động phản kích quy mô cấp trung đoàn và gần 30 trận đánh nhỏ. Ta loại khỏi vòng chiến đấu 1.370 tên, bắt sống 152 tên, phần lớn là lính Âu - Phi và Pháp; tiêu diệt gọn một đại đội, đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn, tạo thuận lợi để lực lượng vũ trang địa phương diệt nhiều đồn bốt nhỏ và các vị trí hương vệ, cùng nhân dân nổi dậy diệt tề, trừ gian và làm công tác binh địch vận đạt hiệu quả tốt.

Đây là chiến dịch đầu tiên ở chiến trường Bình - Trị - Thiên đo Bộ Tư lệnh Liên khu 4 chỉ đạo, Bộ Tư lệnh Mặt trận Bình - Trị - Thiên trực tiếp chỉ huy, chiến dịch đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được các mục tiêu đề ra. Kế hoạch tác chiến cụ thể, sát hợp với khả năng và tình hình tương quan lực lượng. Nét nổi bật của nghệ thuật chiến dịch là sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng: đánh điểm, vây điểm và phục kích diệt viện; giữa chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Biết vận dụng phương châm, phương pháp tác chiến chủ động, linh hoạt, đặc biệt là giữa tiến công của bộ đội chủ lực với binh vận, địch vận, nổi dậy phá tề, trừ gian của lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng, trong đó việc vận động binh lính đồn Cổ Hiền và một số nơi khác làm binh biến trở về với cách mạng là một điển hình xuất sắc. Chỉ huy các cấp đã sâu sát nắm chắc đơn vị, quyết đoán, sắc sảo, xử trí tình huống kịp thời, chính xác. Chiến dịch đạt được hiệu suất cao cả về tiêu diệt địch và giải phóng đất đai, củng cố và mở rộng vùng giải phóng ở đồng bằng Quảng Bình; nâng cao lòng tin tưởng và tinh thần cách mạng của quân và dân trên toàn Mặt trận Bình - Trị - Thiên. Chiến dịch còn để lại nhiều bài học quý về nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch và vận dụng các hình thức chiến thuật trong đánh điểm diệt viện và vận động tiến công phản kích phá càn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #27 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2012, 07:01:46 pm »


CHIẾN DỊCH VÕ NGUYÊN GIÁP
(Tiến công, từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 1950 ).


Đầu năm 1950, Bộ tư lệnh Liên khu 5 chủ trương mở chiến dịch tiến công trên địa bàn bắc Quảng Nam, lấy tên là chiến dịch Võ Nguyên Giáp; thời gian từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 1950; nhằm mục đích: Phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, tiêu hao và kìm chân địch, không cho chúng tăng viện ra Bắc Bộ, triệt đường giao thông tiếp tế của thực dân Pháp từ Đà Nẵng ra Huế, uy hiếp thành phố Đà Nẵng, bồi dưỡng lực lượng ta, đẩy mạnh chiến tranh du kích, làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của quân địch.

Lực lượng địch trên địa bàn có trên 6.000 tên, đóng chủ yếu trong các trại lính và hệ thống đồn bốt quanh thị xã Đà Nẵng và dọc tuyến giao thông huyết mạch quốc lộ 1 từ Đà Nẵng ra Huế.

Lực lượng ta tham gia chiến dịch có hai trung đoàn 210 và 1081 đến cuối chiến dịch tăng cường thêm hai đại đội bộ đội địa phương của hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định; phối hợp với bộ đội chủ lực của liên khu, lực lượng dân quân du kích Quảng Nam và tự vệ thành phố Đà Nẵng tham gia đánh phục kích, quấy rối, tải thương và tiếp tế hậu cần.

Bộ chỉ huy chiến dịch đã lo đủ cho mỗi chiến sĩ bình quân mỗi ngày sáu lạng gạo. Lượng lương thực, thực phẩm dự trữ chủ yếu huy động trong nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng tuy rất khó khăn về đời sống kinh tế, nhưng tinh thần kháng chiến rất cao, đã thực hiện “nhường cơm sẻ áo cho bộ đội đánh thắng”. Trước chiến dịch đã may đủ cho mỗi chiến sỹ một bộ quân phục; đáp ứng đầy đủ gạo và thực phẩm cho hơn một tháng chiến đấu (khi kết thúc chiến dịch gạo ở Hoà Vang còn 15 tấn, ở các huyện phía nam còn 20 tấn chưa sử dụng đến). Nhân dân đã tham gia 70 vạn ngày công phục vụ chiến dịch.

Đồng chí Đàm Quang Trung làm Tư lệnh chiến dịch, đồng chí Nguyễn Đôn làm Chính ủy.

Phương châm tác chiến là: Đánh điểm diệt viện kết hợp với đánh phục kích trên tuyến giao thông quốc lộ 1A, chủ yếu đoạn qua đèo Hải Vân. Chiến dịch chia làm ba đợt.

Đợt 1 (từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 6 tháng 2 năm 1950):

Theo kế hoạch, ngày 10 tháng giêng nổ súng đánh trận phục kích đoàn xe của quân Pháp trên đèo Hải Vân và tiến công diệt bốt địch ở phía tây bắc huyện Hoà Vang làm hiệu lệnh mở màn cho toàn chiến dịch. Nhưng quá trình chuẩn bị chiến trường, cán bộ tham mưu để mất tài liệu, kế hoạch tác chiến bị lộ nên không thực hiện được trận mở màn, do đó chiến dịch bị chững lại, chậm so với kế hoạch. Tuy nhiên từ ngày 10 tháng 1, lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích vẫn nổ súng tiến công địch ở nhiều nơi trong vùng chúng tạm chiếm.

Ngày 19 tháng 1, có cơ sở làm nội ứng, đại đội địa phương và du kích tiến công và diệt đồn Ngũ Giáp, diệt và bắt hai trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Sau đó, ta đánh phục kích trên đường số 1 (đoạn Đà Nẵng - Vĩnh Điện), diệt sáu xe tiếp tế của địch từ Vĩnh Điện ra, đồng thời diệt và bắt hai trung đội khác; buộc địch phải điều quân cơ động đến đối phó.

Trên hướng chính, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định để lại một bộ phận đánh các trận nhỏ, còn lực lượng cơ bản của trung đoàn 108 cơ động về chiến khu Phú Túc. Tối 2 tháng 2, trung đoàn từ Phú Túc bí mật hành quân xuống Điện Hoà. Được nhân dân che chở giữ bí mật và bố trí ăn, ở cho bộ đội, trung đoàn bí mật triển khai bố trí trận địa phục kích tại Thanh Quýt. Trưa 6 tháng 2, một trung đội địch thực hiện “An ninh lộ trình” từ Đà Nẵng tiến ra; sau đó một đoàn xe 14 chiếc, có một đại đội Âu - Phi hộ tống từ Đà Nẵng hành quân ra, lọt vào trận địa phục kích. Quân ta bất ngờ và đồng loạt nổ súng, tiêu diệt đại đội lê dương, bắt 50 tên, thu 100 súng các loại, phá huỷ toàn bộ đoàn xe 14 chiếc. Sau trận đánh, nhân dân xông ra đường thu chiến lợi phẩm, đồng thời dùng rơm rạ đốt khói mù mịt để che mắt địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị lui quân an toàn. Đợt 1 chiến dịch kết thúc.

Đợt 2 (từ ngày 7 tháng 2 đến ngày 14 tháng 3 năm 1950):

Bộ chỉ huy chủ trương đẩy mạnh các hoạt động trong toàn tỉnh. Bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân đã phá hoại các đường giao thông, phục kích diệt bọn địch đi lẻ, diệt tề, bắt gián điệp, quấy rối đồn bốt, nổi trống mõ, thanh la làm thanh viện từ huyện này sang huyện khác, uy hiếp tinh thần địch. Đêm 15 tháng 2, một bộ phận đột nhập thành phố Đà Nẵng, đánh vào khu vực ngã năm và ngã ba Cai Lang nhưng kết quả chiến đấu không đáng kể. Ngày 14 tháng 3, đợt 2 chiến dịch kết thúc.

Đợt 3 (từ ngày 15 đến ngày 31 tháng 3 năm 1950):

Đêm 15 tháng 3, quân ta tiến công đồn Cẩm Lệ bằng nội ứng. Đêm 20 tháng 3, ta diệt đồn Hòn Bàng bằng phương pháp cường tập. Ở bắc Hoà Vang, các đơn vị đánh nhiều trận phục kích nhỏ, và tập kích đánh vào Nam Ô, Gò Ông Tự, Liên Chiểu, Tùng Sơn và Hưởng Phước. Đêm 31 tháng 3, ta đột nhập vào thành phố Đà Nẵng lần thứ hai và kết hợp đánh phá giao thông. Kết thúc chiến dịch.

Kết quả: Địch bị diệt 417 tên, bị thương 278 tên, bị bắt 99 tên và 454 tên tề điệp. Ta phá hủy 17 xe vận tải, ba đầu máy xe lửa, 12 toa xe lửa, thu 203 súng; giải phóng một khu vực rộng 600 km2, gồm toàn bộ vùng Duy Xuyên và phía tây huyện Đại Lộc; mở rộng được căn cứ du kích ở Điện Bàn, Hoà Vang.

Qua ba tháng chiến đấu, chiến dịch đã đạt được những mục tiêu cơ bản đề ra là tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; mở rộng vùng giải phóng, thu hẹp vùng chiếm đóng của địch, củng cố và phát triển phong trào chiến tranh du kích. Riêng mục tiêu “Triệt đường vận chuyển, uy hiếp thị xã Đà Nẵng” đề ra như vậy là quá cao, không phù hợp nên không thực hiện được.

Nét nổi bật của nghệ thuật chiến dịch ở đây là: Đã phối hợp chặt chẽ các hoạt động của ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích), huy động được sức dân tham gia, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho chiến dịch. Hai là, trong quá trình diễn biến, Bộ chỉ huy đã biết điều chỉnh lực lượng, thay đổi cách đánh một cách kịp thời, uyển chuyển, do đó tác chiến của bộ đội đạt được hiệu quả tốt. Song, chưa chú trọng giữa tác chiến với xây dựng lực lượng quân sự địa phương. Đây là một trong những chiến dịch thành công của Liên khu 5 trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
___________________________________
1.Trong cuốn “Quảng Nam Đà Nẵng lịch sử chiến tranh nhân dân” tập 1, Nxb QĐND, 1994 trang 140 ghi: “Lực lượng tham gia chiến dịch có trung đoàn 210 chủ lực của Liên khu và lực lượng vũ trang tỉnh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #28 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2012, 07:22:19 pm »


CHIẾN DỊCH BẾN CÁT 11
(Tiến công, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 1 năm 1950)


Chiến dịch diễn ra chủ yếu trên hai tuyến đường số 7 và số 14 đoạn từ Bến Cát đi Dầu Tiếng, dài 36 ki-lô-mét. Địa hình tương đối bằng phẳng, hai bên đường là rừng chồi, vườn cao su xen kẽ ruộng lúa và làng mạc, nhưng do chiến tranh, dân đã đi sơ tán, khu vực tác chiến cây cối rậm rạp và vắng vẻ. Phía đông, cách trục đường bộ 7,5 ki-lô-mét có tuyến đường sắt Thủ Dầu Một - Lộc Ninh và đường 13 đi Lào. Phía tây nam có sông Sài Gòn chảy song song với đường 14 qua các vùng tự do của ta như xã An Thành, Phú An Nhơn và An Diễn thuộc Thủ Dầu Một; Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây thuộc Gia Định. Cả ba tuyến giao thông (bộ, sắt, thủy) đều rất quan trọng đối với quân sự và kinh tế của cả ta và địch. Đối với ta, các tuyến giao thông nối liền các vùng tự do, các khu căn cứ; đối với địch là tuyến huyết mạch hàng ngày chở vũ khí, phương tiện chiến tranh, chở quân từ Sài Gòn - Gia Định lên Tây Ninh đi càn quét và ngược lại, chở cao su từ Dầu Tiếng về. Cuối 1949 đầu 1950, địch liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét uy hiếp vùng giải phóng phía đông và đông bắc Sài Gòn - Gia Định, cắt đứt và uy hiếp các tuyến đường nói trên, làm cho sự liên lạc, vận chuyển của ta luôn bị gián đoạn, đặc biệt ở vùng Long Nguyên và Thanh Tuyền. Do đó đã trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của hai liên trung đoàn 306 - 312 thuộc Sài Gòn - Chợ Lớn và 301 - 310 của Khu 7, dẫn tới tình trạng thiếu lương thực, đạn dược, ảnh hưởng đến sức khoẻ và tinh thần của bộ đội. Bước sang 1950, địch càng ráo riết càn quét, phong toả vùng Hớn Quản và bắc Bến Cát của Khu 7, xây dựng hệ thống cứ điểm, tháp canh kết hợp với lực lượng cơ giới tương đối mạnh trên hai trục lộ 14 và số 7; thực hiện chiếm đóng huyện Hóc Môn, vừa trực tiếp chia cắt, uy hiếp khu căn cứ của ta, vừa bảo vệ cơ sở cao su Dầu Tiếng - Hớn Quản và tuyến vận chuyển của chúng.

Để đối phó với âm mưu của địch, giành lại thế chủ động, Bộ tư lệnh khu Sài Gòn – Chợ Lớn chủ trương mở chiến dịch Bến Cát 1 nhằm mục đích tiêu hao một số sinh lực địch bằng đánh vận chuyển và công đồn, diệt tháp canh để đánh viện. Tác chiến kết hợp với phá hoại để mở rộng khu căn cứ của ta từ đường số 1 (Gia Định) đến đường 13 (Thủ Dầu Một), chủ yếu là khu Long Nguyên - Thanh Tuyền.

Phương châm tác chiến: Đánh phục kích kết hợp với địa lôi chiến để tiêu diệt các đoàn xe địch từ Bến Cát đi Dầu Tiếng là chủ yếu. Bao vây uy hiếp cứ điểm, tháp canh, tổ chức chặn viện để tiêu hao địch, đồng thời phá hoại cầu, đường đi đôi với kêu gọi bức hàng.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm2: Hai tiểu đoàn chủ lực thuộc hai liên trung đoàn 306 - 312 và 301 - 310; hai đại đội độc lập; một đại đội trợ chiến và các lực lượng dân quân du kích, công an xung phong, đội công binh của khu Sài Gòn - Chợ Lớn, một trung đội công binh của Nam Bộ. Vũ khí có: 12 quả Badômìn, 16 mìn nhỏ, hai Badôca, sáu cối (60mm và 81mm), 25 súng phóng lựu đạn; sáu đại liên, 61 trung liên, 17 tiểu liên, lựu đạn và súng trường trang bị đủ cho chiến đấu viên.

Bộ chỉ huy chiến dịch gồm: Đồng chí Nguyễn Văn Thi làm Chỉ huy trưởng; Trần Đình Xu làm Chỉ huy phó; Lê Đức Anh-tham mưu trưởng. Sở chỉ huy ngày đầu chiến dịch đặt tại Thanh Tuyền và cuối chiến dịch đặt tại An Thành.

Thời gian hoạt động ấn định là một tuần bắt đầu từ ngày 25 tháng 1 năm 1950; nếu có điều kiện sẽ kéo dài thêm. Ban chỉ huy chiến dịch đã lên kế hoạch tác chiến cụ thể từng ngày và phân công nhiệm vụ cho các đơn vị.

Ngày 25, nhiệm vụ tiêu diệt đoàn xe trên tuyến Bến Cát - Dầu Tiếng giao cho hai đại đội của tiểu đoàn chủ lực thuộc liên trung đoàn 306 - 312, hai đại đội của tiểu đoàn chủ lực liên trung đoàn 301 - 310; bố trí trận địa từ xóm Cò Trạch đến Lâm Vồ.

Nhiệm vụ công đồn Bến Súc (đêm 25) giao cho một đại đội của tiểu đoàn chủ lực thuộc liên trung đoàn 301 - 310 và một bộ phận trợ chiến, được tăng cường bốn súng cối, bảy súng phóng lựu, chín trung liên và một Badôca.

Ngày 26, tiến hành bao vây cứ điểm, uy hiếp tháp canh, đánh viện và phá hoại.

Khu vực từ Bến Cát đến Rạch Bắp (đường số 7), do một đại đội chủ lực và năm tiểu đội dân quân du kích đảm nhiệm. Nhiệm vụ vây cứ điểm Rạch Bắp và sáu tháp canh trên trục lộ; tổ chức đánh viện từ Bến Cát lên, ngăn chặn việc sửa đường và cầu của địch.

Khu vực từ Rạch Bắp đến cứ điểm Bà Thiện, do một đại đội chủ lực và trung đội dân quân du kích Thanh Tuyền đảm nhiệm. Nhiệm vụ bao vây các tháp canh, chặn và đánh viện từ cứ điểm Bà Thiện ra tạo thuận lợi cho dân quân huyện Bến Cát phá giao phong đoạn từ Rạch Kiến xuống Rạch Bắp và dân quân huyện Hóc Môn phá đoạn từ cầu Xi Nô đến cầu Xả Nghi.

Bố trí một đại đội tăng cường gồm 16 tiểu đội bộ binh và hai trung đội trợ chiến từ ngã ba Bến Cỏ đến bến đò An Thuận, có nhiệm vụ diệt và đánh lui các tàu địch trên sông Sài Gòn. Nhiệm vụ ở những ngày tiếp sau tùy theo tình hình để phân công.

Lực lượng địch trong địa bàn chiến dịch gồm: hai vị trí, bốn cứ điểm và 14 tháp canh. Lực lượng bố trí như sau:

Vị trí Dầu Tiếng có 640 tên, trong đó có 150 lính lê dương, hai đại bác 105mm, tám thiết giáp, hai xe tăng, 50 xe vận tải, hai máy bay trinh sát, vũ khí đạn dược đầy đủ; Bến Cát có 100 quân, một thiết giáp, 13 xe vận tải, một đại bác 105mm, vũ khí đầy đủ.

Bốn cứ điểm: Rạch Bắp, Rạch Kiến, Bến Súc và Bà Thiện, mỗi cứ điểm bố trí từ một đến hai trung đội, từ một đến hai khẩu cối (60mm và 80mm), hai đến ba trung liên, tiểu liên và súng trường đầy đủ. Riêng ở Rạch Kiến có một đại bác 105mm.

Mỗi tháp canh bố trí từ bốn đến sáu lính, trang bị tiểu liên, súng trường và lựu đạn. Riêng hai tháp canh Bưng Công và Cây Cam có một trung đội và một khẩu trung liên.

Hàng tuần có hai chuyến xe vào thứ 4 và thứ 7, sáng từ Dầu Tiếng xuống Bến Cát chở cao su, chiều chở lương thực, hàng hoá ngược lại. Mỗi chuyến có từ 14 đến 16 xe, có hai thiết giáp và 50 tên địch hộ tống, đội hình kéo dài 6 ki-lô-mét. Trước khi đi, các bốt có một đến ba tiểu đội ra dò mìn và tuần đường để đề phòng ta phục kích.

Bộ chỉ huy chiến dịch đã triệu tập ba hội nghị để tổ chức thảo luận kế hoạch chiến đấu và phân công công việc chuẩn bị.

Ngoài thành phần quân báo, trinh sát, Bộ chỉ huy đã phân công cán bộ phòng tham mưu và cán bộ trực tiếp chỉ huy đi nghiên cứu thực địa, nắm vững tình hình địa hình, quy luật hoạt động của địch để bổ sung kế hoạch chung; đồng thời xây dựng kế hoạch tác chiến thuộc phạm vi mình phụ trách. Bộ chỉ huy chiến dịch đã tổ chức hiệp đồng chiến đấu giữa hai khu và tổ chức thảo luận giữa các đơn vị có liên quan để trong quá trình chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu, hành động các đơn vị ăn khớp, nhịp nhàng.

Trong huấn luyện quân sự, các đơn vị đã có nhiều kinh nghiệm đánh phục kích nên chỉ tập trung huấn luyện vào khâu yếu là “công đồn”. Những đơn vị được phân công đánh đồn Bến Súc đã chọn một địa hình tương tự, cấu trúc đồn bốt giả để luyện tập cho bộ đội trước một tháng. Bộ chỉ huy chiến dịch cũng đã phái cán bộ tham mưu đến đơn vị công binh giúp đỡ, bàn bạc xây dựng kế hoạch phá cầu.

Công tác chính trị: Phòng Chính trị khu Sài Gòn - Chợ Lớn được chỉ định là cơ quan chính trị chiến dịch. Trong những ngày chuẩn bị, đã xây dựng và triển khai kế hoạch giáo dục, động viên bộ đội thi đua thực hiện cho kỳ được mục đích của chiến dịch. Tuyên truyền và động viên quần chúng nhân dân ủng hộ và tham gia phục vụ chiến dịch, đồng thời phân công cán bộ chính trị đi sát để chỉ đạo và giúp đỡ từng đơn vị thực hiện công tác chính trị. Đặc biệt chú trọng công tác địch vận, ngụy vận, Miên vận trước và trong quá trình chiến đấu, tổ chức các đội tuyên truyền có trang bị đủ các phương tiện (loa, truyền đơn, v.v...).

Chuẩn bị hậu cần: Bộ chỉ huy chiến dịch đặc biệt chú ý hai vấn đề lớn là đạn dược và lương thực. Về đạn dược, ngoài cơ số đã có ở đơn vị, Bộ chỉ huy chỉ thị cho công xưởng sản xuất cấp tốc thêm 200 quả đạn cối, 35 quả Badômìn, 500 lựu đạn phóng, 400 lựu đạn gài và đạn Badôca. Về lương thực, mỗi người mang theo năm ngày gạo. Ngoài ra còn chuẩn bị thêm một vạn lít gạo (tương đương tám tấn); và dầu, đường, muối đầy đủ. Riêng công tác quân y thì đơn vị tự lo và tổ chức trạm, thuốc men, v.v... có kế hoạch và triển khai đủ trước ngày nổ súng.

15 giờ 30 phút ngày 25 tháng 1, quân ta đồng loạt nổ súng tiến công các đồn Bến Súc, Rạch Bắp và chặn đánh đoàn xe địch trên đường 14 đoạn từ Bến Súc lên cầu Suối Dứa. Quân địch cố thủ trong đồn (tường xây dày bằng đá), dùng hỏa lực mạnh khống chế các mũi tiến công của ta. Quân ta không tiến được chỉ bắn đạn cối rồi rút lui. Cuộc chiến đấu trên đường 14 diễn ra quyết liệt đến 18 giờ tối: Quân ta tổ chức thành năm trận địa phục kích ở các xóm Cò Trạch, Bến Chùa, Sam Bông, Gò Mối và Lâm Vồ. Khi hai xe thiết giáp và hai xe vận tải đi vào trận địa, sở chỉ huy biết rõ là xe tuần đường, điện xuống trận địa, nhưng vì thông tin hỏng nên tiểu đoàn trưởng nhận định là “đoàn vận tải” nên ra lệnh nổ súng. Địch trong xe thiết giáp phối hợp với bốt gác đường bắn trả quyết liệt. Quân ta chỉ diệt được chín tên địch, bắt một tên; phá huỷ một đại bác và ba xe thiết giáp. Ta hy sinh năm, bị thương 24; 18 giờ, các trận địa phục kích rút quân.

Trên đường số 7, ta tổ chức hai bộ phận bố trí gần đồn Bến Cát và đồn Rạch Bắp. 15 giờ 30 phút, địch phát hiện ta đặt địa lôi, cho hai tiểu đội ra gỡ. Ta nổ súng đánh và đuổi chúng vào cứ điểm Rạch Bắp, tiến hành bao vây. Địch cho pháo ở Bến Cát và Rạch Kiến bắn vào trận địa ta, đồng thời cho hai xe thiết giáp, tám xe vận tải chở đầy lính từ Bến Cát lên tiếp viện. Bộ phận phục kích gần Bến Cát nổ súng. Sau 10 phút ta rút lui. Địch chết 41 tên và bị thương một số, ba xe vận tải bị hỏng nặng. Ta hy sinh hai và bị thương hai chiến sĩ. 18 giờ 20 phút, bộ phận bao vây Rạch Bắp chuyển ra đường bố trí đánh phục kích, dùng địa lôi đánh hỏng nặng một xe thiết giáp. Địch dùng súng và lựu đạn chống trả. Trời tối ta không xung phong được nên lui quân.

Đêm 25, bộ phận phá hoại, đánh sập được cầu Suối Cát, còn cầu Bến Cát vì nghiên cứu chưa kỹ, nên khi đánh chỉ hư hỏng nhẹ.

Đêm 26 tháng 1, ta bao vây cứ điểm Rạch Kiến và các tháp canh, do bị lộ nên địch cho quân xông ra, ta nổ súng, địch chống trả và được sự chi viện hoả lực ở Rạch Kiến nên ta chỉ diệt được một tên, làm bị thương hai tên. Ta tiến hành rải truyền đơn và kêu gọi các tháp canh nhưng không có kết quả.

13 giờ ngày 27 tháng 1, địch tiếp viện và nối lại giao thông. Thấy không còn yếu tố bất ngờ nữa, Ban chỉ huy ra lệnh kết thúc chiến dịch và lui quân về căn cứ Thanh Tuyền.

Kết quả: Địch chết 61 tên, bị thương 23 tên, bị bắt hai tên. Ta hy sinh tám người, bị thương 29 người, mất một súng ngắn và hai súng trường. Ta thu được của địch hai trung liên, bốn tiểu liên, 10 lựu đạn, 300 viên đạn, phá huỷ một xe vận tải, hai cầu, một ca nông 24mm; đánh hỏng một cầu.

Trong ba ngày chiến đấu, ta đã làm gián đoạn giao thông của địch trong một thời gian khá dài, địch phải dùng máy bay tiếp tế cho sở cao su Dầu Tiếng và bị động đối phó, giảm bớt hoạt động trên đường số 5 Hóc Môn và đoạn đường xe lửa Dĩ An - Lái Thiêu.

Về phía ta không đạt được mục đích của chiến dịch. Do điện thoại hỏng: cán bộ chỉ huy cấp tiểu đoàn lại không nắm vững quy luật vận chuyển của địch nên đã đánh nhầm xe tuần đường. Kỹ thuật đánh địa lôi và bộc phá kém (hầu hết địa lôi không trung đích, bộc phá phá cầu không đạt kết quả). Chỉ huy không tập trung đơn vị, lại bố trí phân tán rời rạc, một số đơn vị kỷ luật kém, không báo cáo, tự động rút lui, tự động gỡ địa lôi để lỡ thời cơ đánh xe thiết giáp mà người chỉ huy không nắm được. Ban chỉ huy máy móc, thiếu linh hoạt, khi tình hình đã thay đổi mà vẫn bám kế hoạch cũ nên bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt địch; không bố trí lực lượng dự bị, không dự kiến đối phó khi tình huống khó khăn nên khi lui quân để địch truy kích mà không đánh được, khiến cho chiến dịch bị động, không giành được thắng lợi.

Những khuyết điểm, nhược điểm về khả năng, trình độ chiến đấu, chiến thuật và trình độ thực hành chiến dịch bộc lộ trong đợt hoạt động đã để lại những kinh nghiệm thiết thực cho quá trình “vận động chiến tiến tới” về sau. Nó là cuộc diễn tập cho chiến dịch Bến Cát 2 diễn ra vào dịp cuối năm này.
_______________________________________
1.Tài liệu tổng kết (đề ngày 28 tháng 9 năm 1961) của Cục tác chiến ghi “Chiến dịch Bến Cát - Dầu Tiếng 1”. Nhưng thực chất chiến dịch chỉ diễn ra trên địa bàn huyện Bến Cát, hơn nữa để phân biệt rõ với chiến dịch Bến Cát 2 diễn ra cuối năm 1950, ở nhiều tài liệu, sách và ở bài viết này, chúng tôi lấy tiêu đề là “Chiến dịch Bến Cát 1”. Trong “Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn...”. Nxb thành phố Hồ Chí Minh, trang 211 viết “Chiến dịch Bến Cát thực chất là đợt hoạt động quân sự trong ba ngày từ 25 đến 27 tháng 1 năm 1950...
2.Hồ sơ lưu trữ VL-11.951 ghi: Lực lượng phối hợp giữa hai khu (Khu Sài Gòn - Chợ Lớn và Khu 7) cho phép tập trung quân tương đương một trung đoàn.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #29 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2012, 07:27:24 pm »


CHIẾN DỊCH CAO LÃNH
(Tiến công, từ ngày 26 tháng 1 đến ngày 1 tháng 2 năm 1950)



Cuối 1949, phong trào chiến tranh du kích ở Khu 9 nói chung và vùng Đồng Tháp Mười nói riêng phát triển mạnh. Để kìm giữ, căng kéo lực lượng địch, không cho chúng yên tâm tăng viện cho chiến trường chính Bắc Bộ. Phối hợp đắc lực với chiến trường chính Bắc Bộ, đầu 1950, Bộ tư lệnh Khu 9 chỉ đạo mở chiến dịch Cao Lãnh trong sáu ngày: Từ ngày 26 tháng 1 đến ngày 1 tháng 2 năm 1950.

Bộ chỉ huy chiến dịch gồm các đồng chí ban chỉ huy trung đoàn 115 (chủ lực của khu): Đồng chí Đặng Văn Thông, trung đoàn trưởng làm chỉ huy trưởng; đồng chí Nguyễn Như Văn làm tham mưu trưởng; đồng chí Giọng (tiểu đoàn 309) làm chỉ huy phó chiến dịch.

Mục tiêu của chiến dịch là: Tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch; đánh đồn và tháp canh, mở rộng vùng giải phóng. Giành dân, xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch tạm chiếm, phá rã chính quyền địch tại địa phương. Tiến hành vũ trang tuyên truyền và công tác địch vận, lôi kéo binh lính địch về với nhân dân.

Tổng An Tịnh thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (tỉnh Đồng Tháp ngày nay) được chọn làm địa bàn chiến dịch. Đây là một cù lao nằm giữa hai con sông Cao Lãnh (ở phía bắc) và Tiền Giang (ở phía nam), cù lao có chiều dài 14 km, rộng tám km, là vùng đất phì nhiêu nhất của huyện, cây cối, ruộng vườn xanh tốt, sông rạch chằng chịt. Chạy giữa dọc cù lao là con lộ đá, bến phà Tân Tịch là cầu nối sang sông đi thị xã Sa Đec (cách 21 km về phía đông nam). Trên cù lao lại có nhiều con lộ bằng đất, đi lại thuận lợi. Đây là vùng đất mềm, nhiều sông rạch nên cơ giới đi lại khó khăn.

Tổng An Tịnh là vùng địch kiểm soát, gồm sáu xã Tịnh Thới, Tân Tịch, Tân Thuận Đông, Tân An, Hoà An, Tân Thuận Tây và thị trấn Cao Lãnh. Địch lợi dụng hai sông lớn làm chướng ngại vật thiên nhiên kết hợp với hệ thống đồn bốt dọc theo ven sông hình thành vành đai phòng thủ vững chắc bảo vệ hậu phương của chúng mà thị trấn Cao Lãnh là trung tâm. Lực lượng địch ở đây gồm có: Đại đội 10 Hòa Hảo do tên Phan Văn Phùng chỉ huy, đại đội 31 Hòa Hảo do tên Hồ Nhật Tảo chỉ huy đóng quân từ Mỹ Tho, tổng An Tịnh đến xã Phong Mỹ. Ngoài ra còn có một số đơn vị lính Cao Đài, một đại đội lính lê dương (Ma-rốc) là lực lượng hành quân cơ động1; khi bị tiến công, các đồn bốt trong phạm vi cù lao có thế tiếp viện nhanh chóng cho nhau, hỏa lực bắn thẳng và vòng cầu từ thị trấn có thể chi viện trực tiếp. Lực lượng cơ động và pháo cơ động trên sông sẵn sàng tổ chức các cuộc hành quân, tiếp viện những nơi bị ta uy hiếp và các cuộc ngăn chặn đường lui quân của ta. Đặc tính của lính ngụy Hòa Hảo là hay dùng lối đánh “chim sẻ” để ngăn chặn ta, đồng thời tổ chức mạng lưới gián điệp và báo động hành động của quân ta. Nhưng quân địch ở “địa bàn chiến dịch” xa chỉ huy trung tâm, đường tiếp viện chủ yếu là bằng tàu trên sông Tiền Giang vào, do đó nếu ta chặn được tàu, thì địch ở Cao Lãnh hoàn toàn bị cô lập.

Về ta, phía bắc sông Cao Lãnh là vùng tự do của ta thuận tiện cho việc tập kết, tiếp cận, tổ chức trạm tiếp tế, cứu thương, v.v... Nếu phương tiện vận chuyển của ta dồi dào, ta có thể tiến công địch từ nhiều hướng, mũi. Nhưng việc hành quân phải vượt qua nhiều sông rạch, nếu bị lộ dễ bị địch dùng xung lực, hoả lực chia cắt đội hình và bao vây tiêu diệt. Nhưng các chiến sĩ của ta rất thông thạo địa hình, lại được quần chúng nhân dân đã giác ngộ cách mạng sẵn lòng che chở là một thuận lợi rất cơ bản.

Lực lượng của ta tham gia chiến dịch gồm: Tiểu đoàn 309 chủ lực của khu, một tiểu đoàn tập trung thuộc trung đoàn 115, một đại đội trợ chiến (đại đội 1028 trung đoàn 115), một trung đội thủy lôi, một trung đội dân quân du kích tập trung và dân quân du kích xã, công an xung phong, quốc vệ đội và cán bộ dân chính đảng địa phương. Phương châm tác chiến là vây đồn diệt viện kết hợp với võ trang tuyên truyền.

Kế hoạch tác chiến: Lực lượng chia thành hai bộ phận:

Bộ phận bao vây đồn bốt, đánh chặn viện, đánh tàu trên sông Cao Lãnh gồm các tiểu đoàn 309, đại đội 1028 trợ chiến, trung đội thuỷ lôi (thuộc đại đội 1031) và một bộ phận địa lôi. Bố trí cụ thể như sau:

Đại đội 941 tiểu đoàn 309, một tổ thủy lôi, hai bộ phận của đại đội 1028 (có Badôca, 2AT, 1 trọng liên 12,7mm), bố trí dọc hai bên sông Cần Lố từ nam và Thông Lưu đến tháp canh số 19, có nhiệm vụ tiêu diệt tàu và bộ binh địch vào sông Cao Lãnh trên hướng Cần Lố và bảo vệ đường về cho đội vũ trang tuyên truyền.

Một tiểu đội thuộc đại đội 941 tiểu đoàn 309, một tiểu đội 12,7mm bố trí lại ngã ba sông Cần Lố và Cao Lãnh, có nhiệm vụ ngăn chặn tàu địch hoặc làm chậm bước tiến của chúng để đại đội 941 vận động về tăng cường cho đại đội 939 tiểu đoàn 309 chặn đánh tầu địch.

Một trung đội của đại đội 939, tiểu đoàn 309, một tổ địa lôi ba AT, bố trí trên bờ sông Cao Lãnh, đoạn ngã ba Rạch Bảy, có nhiệm vụ dùng hỏa lực kết hợp với địa lôi ngăn chặn bộ binh địch từ thị trấn và đồn số 9 ra hướng Cần Lố, ngăn chặn tàu địch khi chúng đã lọt qua hai trận địa trên.

Hai trung đội của đại đội 909, tiểu đoàn 309, một tổ địa lôi bố trí gần thị trấn (trên đồn 8 ) theo lộ mới đi Phong Mỹ đến lô cốt số 4, có nhiệm vụ bao vây, nếu có điều kiện thì đánh chiếm các lô cốt 4, 5, 6, 7, 8; dùng địa lôi kết hợp hoả lực ngăn chặn địch từ thị trấn ra tiếp viện cho các lô cốt trên.

Đại đội 940 tiểu đoàn 309, bộ phận thuỷ lôi của 1031, một trung đội thuộc đại đội 1029 trung đoàn 115, bộ phận trợ chiến của đại đội 1028 (có hai Pi-át, hai Badôca, hai AT, hai trọng liên 12,7mm, một cối 60mm), một bộ phận địa lôi; bố trí trên vàm sông Con (sông Tiền) phía tây Cao Lãnh, có nhiệm vụ tiêu diệt bộ binh và tàu địch vào sông Cao Lãnh, bảo vệ đường về cho bộ phận vũ trang tuyên truyền; đồng thời bao vây lô cốt số 1, số 3, tiêu diệt lô cốt số 2 ở ngã ba lộ mới để tạo điều kiện đánh viện sau này. Các bãi địa lôi bố trí ở khoảng gần lô cốt số 1; khoảng lộ mới đi Phong Mỹ và khoảng gần rạch Cái Kích để kết hợp với các trung đội bộ binh tiêu diệt quân địch từ hướng đổ bộ theo dọc sông Cao Lãnh và từ hướng lô cốt số 21 lên.

Bộ phận võ trang tuyên truyền trong tổng An Tịnh: Gồm đại đội 1027, đại đội 1030, một trung đội của đại đội 1035, hai trung đội của đại đội 1029 trung đoàn 115, một bộ phận địa lôi, hai trung đội dân quân du kích tập trung, công an xung phong, quốc vệ đội và cán bộ dân chính địa phương; có nhiệm vụ bao vây các lô cốt trong phạm vi vũ trang tuyên truyền, đảm bảo cho việc vũ trang tuyên truyền thắng lợi, trừ gian diệt tề và tổ chức đánh viện nhỏ. Bố trí như sau:

Hai trung đội thuộc đại đội 1029, một trung đội địa lôi bố trí ở vùng Hòa An từ Rạch Xếp sang Rạch Ba Khía đến rạch Cái Tôm có nhiệm vụ phong tỏa địch ở thị trấn ra và từ bến phà Tân Tịch theo lộ đá Cao Lãnh lên, hỗ trợ cho lực lượng dân quân du kích, công an xung phong và cán bộ địa phương làm nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, diệt tề trừ gian trong phạm vi xã Hòa An.

Hai trung đội của đại đội 1030 và một bộ phận địa lôi, có nhiệm vụ bao vây lô cốt 18, 14: ngăn chặn định từ bến phà lên.

Một bộ phận bao vây các lô cốt 15, 16, 17 và thiêu hủy kho dự trữ của địch, tổ chức đánh viện nhỏ trong khu vực.

Một trung đội quốc vệ đội và một tiểu đội dân quân du kích bao vây các lô cốt 21, 22 và 23.

Lực lượng còn lại: Đại đội 1027, một trung đội thuộc 1030, trung đội 16 đại đội 1035 phối hợp với công an xung phong, hai trung đội dân quân du kích, cán bộ địa phương tiến hành vũ trang tuyên truyền, diệt tề trừ gian trong các xã Tịnh Thới, Tân Tịch, Tân Thuận Đông ở giai đoạn đầu, sau đó chuyển lên vùng Hòa An và Tân Thuận Tây. Trường hợp trở ngại thì bằng mọi cách làm vũ trang tuyên truyền trong khu vực một ngày đêm xong.

Phương tiện chỉ huy: Có ba đài vô tuyến điện bố trí một đài ở Ban chỉ huy chiến dịch và hai đài ở hai trận địa chặn tàu và bộ binh ở Cần Lố và vàm Sông Con. Liên lạc giữa Ban chỉ huy và các mặt khác có tám trạm, chủ yếu là liên lạc chạy bộ. Tổ chức năm trạm tiếp tế ở vùng tự do sát mặt trận (Mỹ Ngải, Mỹ Trà, An Bình, Mỹ Tho) do các mẹ và các chị phụ trách. Riêng bộ phận vũ trang tuyên truyền thì mang theo lương khô, khi cần sẽ vận động đồng bào trong xã Hòa An giúp đỡ; ba trạm cứu thương và ba trạm phẫu ở An Bình, Bình Trị và Mỹ Tho.

Công tác chính trị, đã tập trung vào việc động viên bộ đội và dân quân xây dựng tinh thần quyết thắng, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Tổ chức học tập mục đích, ý nghĩa của chiến dịch, các chủ trương, chính sách đối với lính ngụy và với nhân dân vùng địch tạm chiếm cho bộ đội và cán bộ dân chính đảng địa phương; đề cao kỷ luật dân vận, kỷ luật chiến trường, chống những hành động tham lam lấy chiến lợi phẩm hoặc quân phiệt, trả thù... có ảnh hưởng xấu đến kháng chiến. Đồng thời đề ra kế hoạch, nội dung cho các đội vũ trang tuyên truyền tổ chức các cuộc mít tinh, họp gia đình, kêu gọi, truyền đơn... nhằm vạch rõ âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt” của địch; giải thích chủ trương chính sách của Chính phủ kháng chiến cho đồng bào.

Hoạt động nghi binh: Ngày 22 tháng 1 năm 1950, ta đưa tin địch sẽ càn quét vùng Cao Lãnh. Ban chỉ huy trung đoàn 115 ra lệnh cho các cơ quan tỉnh và huyện lập tức rời khỏi địa phương, đồng thời điều động một lực lượng về đối phó. Lệnh cho đơn vị bộ đội địa phương đang hoạt động ở Hồng Ngự chuẩn bị đón lực lượng chủ lực về Tân Châu, Hồng Ngự... Kết quả, chiến dịch đã giữ được bí mật đến phút chót, khi ta nổ súng, địch vẫn lạc mục tiêu nên đã oanh tạc vùng Sầm Sai, Bầu Giốc thuộc huyện Hồng Ngự trong hai ngày 27 và 28 tháng 1 năm 1950.
______________________________________
1.Một đại đội Pháp và Ma-rốc đóng ở thị trấn. Lực lượng Hòa Hảo gồm bốn cứ điểm, mỗi cứ điểm có một trung đội lính, trang bị một trung liên, một số súng trường và tiểu liên, 20 tháp canh với quân số một tiểu đội hoặc nửa tiểu đội mỗi tháp canh, trang bị sáu đến bảy súng trường, một đến hai tiểu liên và một số súng tự chế. Chúng thường đảo quân giữa các bốt để nghi binh, che giấu việc thiếu quân số của chúng.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM