Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2011, 04:00:53 pm



Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2011, 04:00:53 pm
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bến Tre
Năm xuất bàn: 1985
Số hóa: macbupda

BAN CHỈ ĐẠO

Thường vụ Tỉnh ủy
Người chịu trách nhiệm xuất bản
Đại tá NGUYỄN HỮU VỊ

Người hướng dẫn nghiệp vụ
Đại tá PHAN ĐỊNH

BAN BIÊN SOẠN

Thiếu tá VŨ BÌNH
Đại úy PHẠM HOÀI BÃO
Thượng úy PHẠM NGỌC TUẤN

LỜI GIỚI THIỆU

Bến Tre là tỉnh đầu tiên của miền Nam đã hoàn thành công tác tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Và đến nay, Bến Tre cũng là tỉnh đầu tiên hoàn thành cuốn “Lược sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”. Đó là những đóng góp rất quan trọng của Bến Tre vào công cuộc tổng kết chiến tranh và lịch sử quân sự chung của nước ta hiện nay.

Bến Tre là một tỉnh nằm trong vùng tam giác châu thổ sông Cửu Long và cùng với Vĩnh Long, Trà Vinh hình thành khu vực bản lề quan trọng của chiến trường Nam Bộ. Bến Tre là tỉnh đông dân, có tiềm lực kinh tế đa dạng, có địa hình sông rạch chằng chịt, hiểm trở. Nhân dân Bên Tre có lịch sử đấu tranh lâu dài, có truyền thống yêu nước, tự lực tự cường, kiên cường bất khuất, luôn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu. Đảng bộ Bến Tre có truyền thống đoàn kết nhất trí, bám sát quần chúng và dựa vào quần chúng, dũng cảm và kiên trì lãnh đạo nhân dân chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng. Đó là những điều kiện rất thuận lợi cho việc phát động một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện trên một địa bàn đặc thù bốn bề sông nước.

Qua gần 21 năm kiên trì chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, quân và dân Bến tre đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ chiến lược do trên giao cho địa phương mình. Nhân dân Bến Tre đã tiêu diệt và làm tan rã lực lượng quân sự, lực lượng chính trị ở địa phương, giải phóng tỉnh nhà góp phần vào việc giải phóng hoàn toàn miền Nam. Nhân dân Bến Tre đã làm tròn nhiệm vụ hậu phương trực tiếp và hành lang chiến lược, có thời kỳ đã giúp cho trên tổ chức tiếp nhận sự chi viện của miền Bắc để chuyển lên chiến trường miền Đông Nam Bộ và các chiến trường khác, đồng thời đã đóng góp sức người, sức của lên trên với một khối lượng khá lớn.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứn ước của Bến Tre là một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dận, toàn diện. Nó phát triển từ đấu tranh chính trị tiến lên cao trào “Đồng khởi” giành quyền làm chủ ở nông thôn, từ “Đồng khởi” chuyển lên chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân trên phạm vi toàn tỉnh. Quá tình đó là quá tình giành dân và giữ dân; ta phá kềm kẹp phá bình định, phá gom dân, giành quyền làm chủ.

Trong quá trình đó, Bến Tre đã nếu lên một mô hình về phong trào “Đồng khởi” giành quyền làm chủ nông thôn, trong đó chủ yếu là sử dụng bạo lực chính trị của quần chúng kết hợp với cơ sở binh vận và một bộ phận lực lượng vũ trang lúc đầu còn rất nhỏ bé. Bến Tre cũng nêu lên một mô hình về chiến tranh nhân dân, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị một cách nhuần nhuyễn, kết hợp ba mũi tại xã, ấp một cách chặt chẽ, thành công và thực hành tốt chác chiến dịch tổng hợp trên địa bàn tỉnh, trong đó kết hợp tấn công với nổi đậy, nổi dậy với tấn công, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ, giành quyền làm chủ với tiêu diệt địch.

Những bài học kinh nghiệm của Bến Tre đã đóng góp một phần quan trọng vào việc chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu vừa qua và ngày nay vẫn còn có tác dụng rất lớn đối với việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn cách mạng mới.

Là công trình đầu tiên nên nó không tránh khỏi những khuyết điểm, nhược điểm nhất định. Nhưng nhìn chung, nó đã nói lên được những nét lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ của Bến Tre. Các đồng chí trong ban biên tập công trình này đã có những cố gắng lớn về mặt sưu tầm và nghiên cứu chọn lực tư liệu, về dàn dựng bố cực và phương pháp thể hiện cụ thể. Do đó, cuốn sử này sẽ đóng góp một phần quan trọng trong công tác biên soạn lịch sử chiến tranh của các tỉnh ở phía Nam hiện nay.

Tôi trân trọng giới thiệu cuốn “Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre tới bạn đọc cả nước.

Tháng 4-1985         
Đại tướng Hoàng Văn Thái


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2011, 04:03:51 pm
THAY LỜI NÓI ĐẦU

ĐẤT NƯỚC, CON NGƯỜI

Bến Tre là một tỉnh đồng bằng mang hình thể rẻ quạt nằm cuối nguồn sông Cửu Long, giáp với biển Đông, cách thành phố Hồ Chí Minh 86km về hướng tây nam.

Bốn nhánh của sông Cửu Long: sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên cứ mỗi mùa nước lũ lại mang hàng triệu mét khối phù sa từ thượng nguồn về vun bồi cho vùng hạ lưu. Và trải qua bao thế kỷ nguồn phù sa này đã tạo nên ba cù lao: cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh. Bến Tre được hợp thành bởi ba cù lao ấy.

Tỉnh Bến Tre, về phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, lấy con sông Tiền làm ranh giới. Phía tây và nam giáp tỉnh Cửu Long phân ranh bởi con sông Cổ Chiên. Phía đông giáp biển Đông với bở biển dài 65km.

Bến Tre là tỉnh hẹp nhất trong 9 tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích tự nhiên là 2.224,75km2. Đây là xứ đất bồi, địa hình bằng phẳng, rải rác có những[5] giồng cát xen lẫn với ruộng vườn. Bến Tre không có rừng lớn, rừng già, chỉ có rừng chồi như cây mắm, đước, chà là, bần, chiếm diện tích 14.286 ha ở vùng ven biển ngập nước quanh năm.

Bến Tre được sự ưu đãi của sông Cửu long và biển Đông nên khí hậu mát mẻ dễ chịu. Nhiệt độ trung bình là 27,9 độ C. Mỗi năm có 2 mùa: mùa nắng và mùa mưa. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa trung bình là 1.497,8mm. Mùa nắng hay mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3, tháng 4. Số giờ nắng trung bình khoảng 2.696 giờ. Tuy mùa nắng nhưng nhờ có gió từ biển Đông thổi vào nên thời tiết vẫn dịu mát. Vào tháng 4, tháng 5 - tháng đổi mùa - thời tiết có trở nên gay gắt hơn, nhưng thời gian không kéo dài.

Đất đai ở Bến Tre là đất phù sa màu mỡ, rất thích hợp cho các loại cây trồng quanh năm, chỉ trừ vùng ven biển bị nước biển lên xuống nhiễm mặn. Ngoài ra 65km bờ biển và nhiều sông, ngòi, kinh, rạch là một nguồn cung cấp tôm cá dồi dào.

Do điều kiện đất đai và thời tiết nói trên, Bến Tre sớm hình thành một nền kinh tế đa dạng. Hiện nay, diện tích cấy lúa gần 9 vạn ha. Bến Tre còn có “ba đảo dừa xanh” và rừng mía bạt ngàn. Đó là hai thế mạnh kinh tế của tỉnh. Dừa Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành… chiếm diện tích 33.174 ha, mía 10.000 ha, các loại cây ăn trái như xoài, măng cụt, chôm chôm hơn 10.000 ha. Hải sản, thủy sản và chăn nuôi đều phát triển.

Bến Tre là một tỉnh bốn bề sông nước. Những con sông lớn như sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên, sông Bến Tre, sông Giồng Trôm. Các con rạch như Sóc Sỏi, Cái Mơn, Băng Cung… Các kinh lớn như: kinh Chẹt Sậy, kinh Giao Hòa, kinh Xáng Thơm, kinh Rạch Ranh, Kinh Lách. Sông, kinh rạch chằng chịt nối ngọn, kế nguồn, đan nhau ngang dọc như những mạch máu chảy khắp ba dải cù lao rất thuận lợi cho việc giao thông đường thủy.

Cùng với hệ thống đường thủy, Bến Tre có 247km đường bộ (hệ thống chính) và một hệ thống đường phụ (đường làng) phần lớn đắp đất nối liền với đường chính. Đường liên tỉnh 6A dài 36km chạy từ phá Rạch Miễu (sông Tiền) xuyên qua thị xã Bến tre đến cách Mỏ Cày ra phá Cổ Chiên. Cù lao Minh có tỉnh lộ 30 nối liền huyện Lách - Mỏ Cày - Thạnh Phú dài 95,5km. Cù lao Bảo có tỉnh lộ 27 nối tỉnh lộ 26 hạy từ một mỏm cù lao Bảo là đường liên huyện Châu Thành - Thị xã - Giồng Trôm - Ba Tri dài 74,5km. Cù lao An Hóa có tỉnh lộ số 7 và xương sống của cù lao này chạy từ liên tỉnh lộ 6A đến huyện Bình Đại dài 41,25km.

Với hệ thống đường thủy, đường bộ đan chèo chằng chịt trong chiến tranh - Bến Tre là một chiến trường dễ bị địch chia cắt, phong tỏa. việc chi viện, tiếp tế, chuyển quân cũng gặp nhiều khó khăn. Nhưng ngược lại, địa hình, sông rạch, rừng dừa, bãi mía liên hoàn, rừng chồi ven biển kín đáo đã “che bộ đội”, “vây quân thù”, tạo thuận lợi cho chiến tranh nhân dân phát triển với những trang sử hào hùng: “Cỡi sóng Hàm Luông, nhận chìm hạm Mỹ”.

Ngược dòng lịch sử - trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta - dưới triều Nguyễn, cù lao Bảo và cù[7] lao Minh thuộc phủ Hoàng Trị (tức tỉnh Vĩnh Long)(1).

Sau khi thực dân Pháp chiếm được lục tỉnh Nam Bộ, chúng chia Nam Bộ ra nhiêu tỉnh để đặt ách cai trị. Năm 1891, cù lao Bão và cù lao Minh sát nhập lại thành một tỉnh lấy tên là tỉnh Bến Tre. Lúc này, cù lao Bảo có hai huyện: huyện Châu Thành và huyện Ba Tri gồm 10 tổng với 53 làng. Cù lao Minh có hai huyện Mỏ Cày và Thạnh Phú gồm 10 tổng với 36 làng.

Trong kháng chiến chống Pháp (1945) tỉnh Bến Tre có thêm cù lao An Hóa (trước thuộc tỉnh Mỹ Tho) với 6 xã của huyện Chợ Lách (trước thuộc Vĩnh Long) sát nhập lại thành huyện An Hóa và huyện Chợ Lách.

Trong kháng chiến chống Mỹ, Bến Tre có bảy huyện và một thị xã với 115 xã, 786 ấp. Hiện nay Bến Te có bảy huyện và một thị xã với 152 xã phường. Cù lao Minh có ba huyện: huyện Chợ Lách, huyện Mỏ Cày, huyện Thạnh Phú. Cù lao Bảo có: Thị xã, huyện Châu Thành, huyện Giồng Trôm, huyện Ba Tri. Riêng huyện Bình Đại chiếm phần đất của lao An Hóa tới kinh Giao Hòa chạy tới biển Đông.



(1) Hoàng Trị phủ (tức Thành phủ) đặt tại cù lao Bảo.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2011, 04:07:11 pm
Dân số Bến Tre năm 1959 có 11 vạn người. Sau 70 năm (1929) có 31,5 vạn. Trong những năm đầu kháng chiến chống Mỹ có 60 vạn và gần đây (12-1980) là 1.058.370 người. Mật độ dân số là 475,5 người trên 1km2.

Bến Tre có 15 dân tộc. Dân tộc Kinh chiếm 95% dân số, kế đến 1 vạn người Hoa, còn lại 13 dân tộc khác chiếm tỷ lệ rất thấp.

Về tôn giáo, Bến Tre có 4 đạo lớn: đạo Phật, đạo Thiên chúa, đạo Cao đài và đạo Hòa hảo. Bọn thực dân Pháp và đế quốc Mỹ luôn tìm cách lợi dụng tôn giáo đê chia rẽ nhân dân, chống lại cách mạng. Nhưng với chính sách đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo trước sau như một, cách mạng vẫn thu hút được đại đa số tín đồ lao động nghèo ủng hộ và tham gia kháng chiến.

Trước đây, các tầng lớp xã hội chính ở Bến Tre gồm: trung nông, bần nông (99%) và một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ. Do khí hậu, đất đai ưu đãi, người nông dân lao động cấy trồng được thuận lợi trên những mảnh đất cha ông xa xưa đã để lại, rất ít người phải cầm cố ruộng đất cho địa chủ, nên ở Bến Tre không có nhiều địa chủ lớn như ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Khi thực dân Pháp chiếm đất nước ta - cùng với bọn vua quan, địa chủ phong kiến bóc lột nặng nề - phần lớn trung nông, bần nông rơi xuống tình trạng bần cố nông. Trên mảnh đất giàu có nhưng rất nhiều người nông dân phải sống cuộc đời nghèo đói.

Sau cách mạng Tháng Tám 1945, cách mạng đã nhiều lần tịch thu ruộng đất của bọn địa chủ phản động để tạm chia, tạm cấp cho những gia đình nông dân nghèo.

Từ thuở xã xưa - trong thời khai hoang, lập đất - người dân Bến Tre đã biết đoàn kết đắp đê ngăn mặn, lấp biển, chống chọi với rừng hoang, bùn lầy, biến vùng đất bồi ven biển này thành mảnh đất xanh tươi trù phú. Đoàn kết trong lao động, trong sinh hoạt, người dân Bến Tre còn đoàn kết keo sơn trong chống giặc ngoại xâm. Khi thực dân Pháp bắt đầu đánh chiếm Nam Bộ, nhân dân Bến Tre đã cùng với nhân dân Nam Bộ kết thành một khối, bằng mọi vũ khí thô sơ, ngăn bước giặc thù hung hãn. Họ đã đóng cọc, đắp cùa trên các cửa sông để ngăn tàu giặc. Với súng hỏa mai và giáo mác họ cũng tập kích trại giặc gtrong đêm. Quân Pháp chiếm được thành Vĩnh Long, nhưng cách đó 20km (xã Mỹ Quí) lại mọc lên một căn cứ kháng chiến khác của nhân dân làm điên đầu bọn chỉ huy xâm lược(1). Mỗi một thước đất giặc chiếm được là phải trải qua bao phen kinh hãi khi giao chiến với những nghĩa quân quả cảm bất chấp cả “tàu to, súng lớn, đạn chì”(2). Từ năm 1867 đến trước 1930 (khi Đảng Cộng sản ra đời), nhiều cuộc khởi nghĩa của các sĩ phu yêu nước đã nổ ra trên hai dải cù lao Minh - cù lao Bảo. Đó là những cuộc khởi nghĩa của anh em Phan Liêm - Phan Tôn, cuộc khởi nghĩa của Tán Kế (vùng Ba Châu), của Trần Văn Lực, Trần Văn Dinh (Mỏ Cày)… Nhưng cuộc khởi nghĩa nổ ra sớm nhất ở Bến Tre là cuộc khởi nghĩa của Phan Tòng. Ông đã hy sinh từ những ngày đầu đánh Pháp song tinh thần của ông và nghĩa quân Giồng rạch mãi mãi còn lưu lại trong 10 bài điếu của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu với những dòng chứa chan cảm phục:


“Tinh thần hai chữ phau sương tuyết
Khí phách nghìn thu rỡ núi non”

Tuy các cuộc khởi nghĩa đều dần dần bị thất bại, nhưng nó đã truyền lại cho các thế hệ kế tiếp ở Bến Tre một giá trị tinh thần cao quí. Đó là nhiệt huyết trả nợ nước, là tinh thần hy sinh quên mình vì độc lập dân tộc. Truyền thống đó quả thực đã ăn sâu bén rễ ở mảnh đất này để đến những năm 25, 30 của thế kỷ 20 - sau khi tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội được thành lập - nhiều thanh niên trí thức, công nhân đã lần lượt tình nguyện đứng vào hàng ngũ những người yêu nước Mác xít này. Tỉnh bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội ra đời. Bắt nguồn từ tổ chức này, cuối tháng 4-1930, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên được thành lập tại xã Tân Xuân (Ba Tri). Tiếp theo đó là sự ra đời của nhiều chi bộ và cơ sở Đảng ở các huyện khác. Cuộc đấu tranh yêu nước ở Bến Tre bước sang một thời kỳ mới với nội dung và phương pháp mới. Các cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ của nông dân trước đây bây giờ được thay bằng những cuộc biểu tình lớn có hàng vạn quần chúng tham gia dưới sự lãnh đạo của những người Cộng sản. Đó là cuộc biểu tình ở xã Tân Xuân, Ba Mỹ, Vĩnh Hòa (Ba Tri; Ba Châu (Giồng Trôm); Tân Bình, Ba Vát, Phước Hiệp (Mỏ Cày); Giao Thạnh, Thạnh Phong (Thạnh Phú). Trong các cuộc biểu tình, công nhân đòi giảm giờ làm, đòi tăng lương… nông dân đòi giảm tô, giảm tức, người cày có ruộng… Từ những quyền lợi dân sinh dân chủ thiết thực đó, Đảng Cộng sản đã đi vào lòng người dân Bến Tre, hun đúc nên tinh thần yêu nước và cách mạng. Chính lòng dân ấy đã là những lớp tường thành kín đáo và kiên cố nhất để bảo vệ những cán bộ của Đảng trong những năm đầu của những năm 30 khi thực dân Pháp khủng bố khốc liệt.


(1) Lịch sử Việt Nam cận đại (1858 đến cuối thế kỷ 19) - quyền 3 tập 1 - phần 1 - Phan Ngọc Liễn - Phan Văn Trị… (trích).
(2) Thơ Nguyễn Đình Chiểu (trích).


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2011, 04:08:52 pm
Năm 1935, các thành công cơ sơ Đảng bị thực dân Pháp đàn áp bắt bớ gây tổn thất không ít đã dần dần được củng cố và khôi phục lại tiếp tục hoạt động mạnh mẽ. Hưởng ứng phong trào Đông Dương Đại hội, gần 60 Ủy ban hành động trong tổng số 600 Ủy ban hành động của Nam Bộ) được lập nên ở Bến Tre.

Khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ nổ ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quần chúng Bến Tre đã góp phần hòa chung sức mạnh. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu, nhưng từ đó Đảng Cộng sản đã rút ra những bài học kinh nghiệm qúi giá dẫn tới sự thành công trọn vẹn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Sáng ngày 24-8-1945, Việt minh ra mắt đồng bào Bến Tre. Chiều và đêm 25-8-1945, toàn tỉnh khởi nghĩa giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Sáng 26-8-1945, Ủy ban cách mạng Bến Tre đã ra mắt nhân dân tại sân bóng đá thị xã. Ách đô hộ 87 năm của thực dân Pháp và 3 năm của Nhật bị lạt nhào. Bến Tre và toàn quốc được hưởng tự do và độc lập. Ước vọng dai dẳng của các chí sĩ và nghĩa sĩ năm xưa không thành hiện thực thì nay con cháu họ đã thực hiện được.

Nhưng niềm vui thật là ngắn ngủi. Chính quyền nhân dân chưa làm được bao nhiêu và còn bao nhiêu việc phải làm để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp và công bằng thì thực dân Pháp lại cấu kết với Anh quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23-9-1945, quân Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn, rồi đánh lan ra các tỉnh Nam Bộ. Hưởng ứng lừi kêu gọi “toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chủ tịch, Ủy ban kháng chiến tỉnh đã lãnh đạo nhân dân Bến Tre bước vào cuộc kháng chiến lâu dài chống lũ giặc cướp nước và bán nước. Nhân dân đã xây dựng chướng ngại vật, cắt đứt đường giao thông, chiến đấu, tìm mọi cách kìm bước tiến hung hãn của quân Pháp. Lịch sử dường như lại lập lại, nhưng có khác là: người dân Bến Tre nay bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp với một niềm tin vững chắ ở sự lãnh đạo của Chỉ tịch Hồ Chí Minh, vào Đảng Cộng sản, vào chính quyền và quân đội cách mạng tuy non trẻ nhưng giàu tiềm tàng sức sống.

Cuộc chiến đấu gìn giữ quê hương kéo dài suốt 5 tháng trời, đến ngày 8-2-1946 thực dân Pháp mới chiếm được thị xã Bến Tre. Nhưng lòng dân Bến Tre vẫn vững bền không phông khuất phục. Các cơ sở cách mạng tiếp tục củng cố. Đảng bộ Bến Tre tiếp tục lãnh đạo nhân dân kháng chiến, góp người, góp của, vừa xây dựng lực lượng cho địa phương mình vừa chi viện cho các chiến trường bạn.

Chiếm được thị xã và một số vùng nông thôn, thực dân Pháp ráo riết bắt lính, dùng “người Việt đánh người Việt”. Một hệ thống đồn bốt dày đặc được mọc lên. Đặc biệt, chúng thành lập một đạo quân bảo an lấy danh nghĩa bảo vệ đạo Thiên chúa, kỳ thực là một đạo quân chống cách mạng khét tiếng mang tên UMDC do tên Leon Leroy chỉ huy. Là con trai của một gia đình địa chủ phản động, Leon Leroy tỏ ra là một tên tay sai đắc lực của Pháp thường xuyên chỉ huy những cuộc càn quét, đánh phá các vùng cơ sở kháng chiến, gây ra những vụ thảm sát giết hại hàng trăm đồng bào ta ở Phong Mỹ, Phong Nẫm, Cầu Hòa, Cồn Thùng, Phú Túc (Châu Thành), Tân Hào Đông (Ba Tri).

Yêu nước, căm thù giặc, người dân Bến Tre đã đánh Pháp bằng mọi thứ vũ khí, từ những vũ khí thô sơ như tầm vông vót nhọn, giáo mác… đến những vũ khí cướp được của giặc để tự trang bị cho mình, vừa đánh địch vừa xây dựng ta lớn mạnh toàn diện, có lực lượng dân quân rộng rãi, đồng thời có lực lượng bộ đội tập trung đến chi đội, trung đoàn.

Từ những trận đầu ra quân với trang bị vũ khí ít ỏi, chi đôi 19 đã lập được nhiều chiến công như trận diệt đồn Cầu Móng, Hương Mỹ; diệt các đoàn xe địch tại cầu Sập An Định, Giồng Keo, Tân Bình (Mỏ Cày), Giồng Thủ, Tân Hào, Phú Lễ (Ba Tri); đánh thiệt hại binh đoàn Uy-ô ở Ban Tra.

Trong năm 1947-1948 Bến Tre còn góp phần quan trọng xây dựng các đơn vị chủ lực của Khu như các tiểu đoàn: 307, 308, 310.

Năm 1950, giặc Pháp đánh chiếm toàn bộ tỉnh Bến Tre. Cuộc kháng chiến trở nên hết sức gay go ác liệt. Chỗ đứng chân của các lực lượng kháng chiến tỉnh không còn. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy chỉ đạo giản chính một số cơ quan, đưa một số cán bộ về miền Tây hoạt động, số cán bộ còn lại vẫn bám trụ các địa bàn. Lực lượng bộ đội tập trung nay phân tán thành những đơn vị nhỏ cùng các chi bộ xã bám vào dân gây dựng phong trào, phát động nhân dân diệt ác phá kềm. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, đến giữa năm 1954 các nơi đều nổi lên phong trào diệt ác. Bị mất những tên đầu sỏ hung ác, địch bắt đầu co lại. Cuối năm 1952, các cơ sở hậu địch được khôi phục. Số cán bộ ly xã lại trở về bám xã, lực lượng vũ trang tỉnh lại tập trung đánh mạnh. Vùng kiểm soát của địch bắt đầu bị thu hẹp.

Năm 1953-1945, thực hiện kế hoạch của Trung ương trong chiến cuộc Đông xuân và phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, Bến Tre đã giành những thắng lợi to lớn. Lực lượng vũ trang cùng với nhân dân nổi dậy đã bao vây, tiêu diệt bức hàng, bức rút 700 đồn tua; thu 3.000 súng; diệt hơn 6.000 tên địch, giải phóng 3/4 đất đai với hơn 1/2 dân số trong tỉnh. Hầu hết hệ thống kềm kẹp của địch như tề ấp, tề xã đều bị phá rã. Vùng giải phóng được mở rộng liên hoàn. Quân địch bị bao vây cô lập trong các thị trấn, thị xã… Chính quyền cách mạng các cấp được phát triển và củng cố.

Chiến cuộc Đông xuân 53-54 được kết thúc bằng thắng lợi Điện Biên Phủ vang dội. Thế và lực của quân Pháp trên chiến trường Đông Dương và cả nước trong đó có Bến Tre đã trở nên hết sức bị động và suy yếu. Chính phủ Pháp buộc phải ký kết hiệp đình chiến tại hội nghị Genève.

Lịch sử Bến Tre cùng cả nước lại sang trang mới. Ai cũng thấy nền tự do và độc lập chưa trọn vẹn nhưng trải qua bao thăng trầm để đến thắng lợi này, nhân dân Bến Tre đã vững lòng tin Đảng, tin cách mạng, tin vào tương lai tươi sáng của đất nước và quê hương. Niềm tin đã tiếp sức mạnh cho nhân dân Bến Tre vững vàng bước vào những thử thách mới.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2011, 04:10:13 pm
Chương một

KẺ THÙ MỚI, CUỘC ĐẤU TRANH MỚI
(7-1954 - 12-1959)

I

TRIỂN KHAI CUỘC ĐẤU TRANH MỚI

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta kéo dài hơn 3.00 ngày đã giành được thắng lợi vĩ đại. Thực dân Pháp đã phải chấm dứt chiến tranh xâm lược; hòa bình được lập lại ở Việt Nam và toàn cõi Đông Dương. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn dưới ách thống trị của đế quốc và phong kiến.

Con đường giải phóng mới đi một nửa.

Tại Bến Tre, 0 giờ ngày 11 tháng 8 năm 1954, lệnh ngừng bắn được thực hiện triệt để.

Khắp nơi nhân dân mít tinh, biểu tình mừng chiến thắng, mừng hòa bình.

Theo qui định của Ban liên hiệp đình chiến, sau 25 ngày kể từ ngay nừng gắn, quân đội ta rút khỏi Bến tre để chuyển quân tập kết ra miền Bắc, quyền quản lý hành chính trong tỉnh tạm thời giao cho đối phương.

Nhân dân Bến Tre đã trải qua Cách mạng Tháng Tám, đã kháng chiến cực kỳ oanh liệt chín năm liền cùng với cả nước giàn thắng lợi vĩ đại giải phóng phần lớn các làng xã trong tỉnh. Nay trong tay không còn chính quyền và quân đội, nhân dân Bến Tre lại phải tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến. Niềm vui phấn khởi xen lẫn với những bắn khoăn, suy nghĩ, lo âu. Tỉnh ủy đã kịp thời tiến hành một đợt giải thích tình hình và nhiệm vụ mới rộng rãi trong Đảng bộ và nhân dân.

Từ đây cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Bến Tre chuyển sang giai đoạn mới.

Theo Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng bộ Bến Tre đã tiến hành một loạt công tác tổ chức, sắp xếp lực lượng triển khai cuộc chiến đấu mới.

Tỉnh ủy đã khẩn trương tổ chức đưa 2.000 cán bộ, chiến sĩ lập thành 7 đại đội hành quân xuống Cà Mau đáp tàu Liên Xô và Ba Lan tập kết ra miền Bắc. Đồng thời bám Tỉnh ủy cũng lựa chọn 2.000 cán bộ, đảng viên ở lại bám đất, bám dân lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Một số súng và một số máy móc, dụng cụ của công trường tỉnh mà ta đã để lại được chôn dấu. Các tuyến, trạm giao liên bí mật được gấp rút tổ chức. Một số cán bộ có kinh nghiệm trong công tác giao liên bí mật được chỉ định chuyên trách việc liên lạc với cấp trên và các cơ sở xã ấp.

Tháng 8 năm 1954, Tỉnh ủy bí mật được thành lập gồm 9 đồng chí do đồng chí Nguyễn Văn Khước (Năm Chung) làm Bí thư, đồng chí Lê Văn Chót (Mười Chót) làm Phó Bí thư và đồng chí Nguyễn Thị Định là ủy viên Thường vụ. Đây là Bộ tham mưu đầu não của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Bến Tre có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo 60 vạn nhân dân trong tỉnh bước vào cuộc chiến đấu mới.

Các huyện ủy và thị ủy bí mật cũng được chỉ định. Các chi bộ xã được chấn chỉnh rút vào bí mật. Mỗi cán bộ, đảng viên được phân công phụ trách một địa bàn rộng hẹp tùy theo khả năng. Tỉnh ủy chỉ thị: Cán bộ, đảng viên phải bám đất, bám dân và coi đây là chủ trương “sinh tử” của Đảng; phải lấy hoạt động bí mật làm chính, không được ra trình diện với địch.

Đoàn thanh niên lao động được củng cố và hoạt động bí mật dưới sự lãnh đạo của các chi ủy xã.

Các đoàn thể được tổ chức trong kháng chiến như nông dân, phụ nữ đều giải thể. Các tổ chức quần chúng dưới nhiều hình thức biến tướng được lập nên: vạn vần đổi công, hội đình, hội chùa, hội miếu, hội an táng, hội banh, hát bội, diễn kịch v.v… Các tổ chức này đã tập hợp đồng đảo quần chúng và có tác dụng vừa che giấu lực lượng, vừa tạo điều kiện hợp pháp để họ tham gia mọi công tác cách mạng.

Cũng lúc này, một cơ chế tổ chức mới gọi là “tổ nòng cốt rễ chuổi” ra đời. Mỗi đảng viên ở xã ấp quan hệ chặt chẽ và bí mật với một số cốt cán; mỗi cốt cán lại quan hệ chặt chẽ nắm một số quần chúng tích cực; một quần chúng tích cực lại quan hệ rộng rãi, tinh thần một số quần chúng khác trong xã ấp.

Cơ chế tổ chức này thể hiện chủ trương Đảng bám chắc vào quần chúng, xây dựng căn cứ trong lòng quần chúng nhân dân - căn cứ bất khả xâm phạm của Đảng ta.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2011, 04:11:50 pm
Tranh thủ lúc địch chưa kịp lập lại ngụy quyền cơ sở, Tỉnh ủy đã chỉ đạo các nơi phải tiến hành nhanh gọn việc tịch thu ruộng đất của việt gian và địa chủ phản động chia cho nông dân. Chỉ trong vài tháng cuối năm 1954, hơn 100.000 héc ta ruộng đất đã về tay bà con nông dân ở các vùng có đạo cũng như không có đạo với đầy đủ chứng từ của chính quyền cách mạng. Các chức sắc trong đạo Cao đài ban chỉnh có công với kháng chiến được tặng huy hiệu Hồ Chủ tịch và huân chương Kháng chiến hạng 3. Với các chính sách trên đây, khối đoàn kết toàn dân được tiếp tục củng cố, tăng cường.

Đi đôi với công tác tổ chức, Tỉnh ủy đã khẩn trương chỉ đạo việc tinh thần, giáo dục các điều khoản của hiệp định Genève trong toàn dân, trong đó đặc biệt chú trọng các thị trấn, thị xã, các vùng tôn giáo, các vùng cơ sở cách mạng còn non yếu để nhân dân nắm vững cơ sở pháp lý đấu tranh với địch, bảo vệ quyền dân sinh, dân chủ mà cách mạng đã đem lại cho họ. Đồng thời Tỉnh ủy đã triển khai ngay công tác giáo dục nội bộ; hướng dẫn cán bộ, đảng viên học tập tình hình, nhiệm vụ mới; nghiêm khắc phê bình một số đảng viên còn biểu hiện ảo tưởng hòa bình, chủ quan mất cảnh giác bộc lộ lực lượng.

Thi hành chỉ thị của cấp trên, Tỉnh ủy đã đặt công tác binh vận lên hàng chiến lược theo khẩu hiệu “công nông binh liên hiệp”; đã ra sức chuẩn bị một số đảng viên, đoàn viên và quần chúng nòng cốt để cài vào dân vệ, bảo an; thành công cơ sở nội tuyến trong các đồn bót; đưa cán bộ và cốt cán vào bộ máy tề xã, tề ấp.

Khi địch lập lại hội tề, đóng đồn bót, trong 115 xã gồm 500 ấp, nơi nào ta cũng đưa được người vào các tổ chức của địch. Có những ban hội tề và đồn dân vệ người của ta chiếm 1/2 hoặc 2/3. Nhờ đó những âm mưu, hành động của địch đều bị cơ sở ta phát hiện và kịp thời đối phó.

Tháng 10/1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập. Tỉnh ủy Bến Tre tiếp thu sự truyền đạt của cấp trên và quán triệt nội dung nghị quyết Xứ ủy: cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã kết thúc thắng lợi; cuộc đấu tranh ở miền Nam lúc này là chuyển hình thức đấu tranh quân sự sang đấu tranh chính trị nhằm giữ gìn củng cố hòa bình, tranh thủ thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, tiến tới thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn quốc.

Xứ ủy nhấn mạnh: tất cả công tác của Đảng đều nhằm động viên, tập hợp quần chúng đấu tranh chính trị. Đồng thời các Đảng bộ phải cảnh giác, sẵn sàng đối phó với khả năng đối phương phá hoại hiệp định gây chiến tranh trở lại.

Trong lúc Đảng bộ và nhân dân Bến Tre ra sức ổn định tổ chức, thi hành hiệp định Genève thì cũng chính là lúc địch ra sức tập hợp và tổ chức hàng ngũ, xây dựng cơ sở xã hội cho nền thống trị của chúng; từng bước phá hoại hiệp nghị Genève chuẩn bị đánh vào lực lượng và phong trào cách mạng của nhân dân. Ngay từ tháng 7-1954, sau khi thực dân Pháp đưa Ngô Đình Diệm vào ghế Thủ tướng chính phủ bù nhìn, đế quốc Mỹ đã thực sự bắt đầu trực tiếp nhảy vào thôn tính miền Nam. Chúng dùng tên tay sai trung thành đã được đào tạo ở Mỹ để gạt tay chân của Pháp ra khỏi bộ máy ngụy quyền và cuối cùng là hất cẳng thực dân Pháp ra khỏi miền Nam làm mất đi một bên cam kết thực hiện hiệp định Genève về điều khoản tổng tuyển cử sau 2 năm để thống nhất nước Việt Nam.

Tháng 11-1954 đế quốc Mỹ cử tướng Cô-lin đến Sài Gòn làm đại sứ nhằm thực hiện kế hoạch 6 điểm của chính quyền Ai-xen-hao.

Đây là kế hoạch thống trị của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ bằng những biện pháp cổ truyền nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểm mới và căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tiến công miền Bắc, ngăn chặn phong trào cách mạng lan xuống đông nam châu Á.

Tại Bến Tre, Mỹ Diệm gấp rút tạo ra một đội ngũ tay sai, dựng lên một bộ máy thống trị gồm những người thuộc phe cánh của chúng. Tên Nguyễn Văn Hối được Diệm đưa lên làm tỉnh trưởng. Chúng lập nhiều đại đội bảo an đóng tại thị xã và mỗi quận lỵ một đại đội. Chúng tăng cường lính cảnh sát “công dân vụ” gồm con cái địa chủ, lũ đầu hàng phản bội và bọn lưu manh côn đồ, cặn bã của xã hội.

Chúng đưa 6 vạn dân di cư từ miền Bắc vào Bến Tre (chiếm 1/10 dân số trong tỉnh) bố trí tại các vùng căn cứ Thạnh Phú, Ba Tri, Bình Đại, Sóc Sải hòng bao vây, án ngữ các địa bàn chiến lược của ta.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2011, 04:12:55 pm
Cuối năm 1954, chúng rải quân chiếm đóng lại khoảng 300 đồn bót sâu trong xã ấp. Chúng lập bộ máy kềm kẹp ở cơ sở như hội đồng hương chánh xã, ban đại diện ấp, ủy viên cảnh sát, tổng đoàn, xã đoàn dân vệ, tổ chức ngũ gia liên bảo, mạng lưới công an, do thám chìm, nổi. Chúng buộc nhân dân làm căn cước, lập sổ hộ tịch, phân loại từng gia đình hòng nắm chặt từng người dân. Chúng tung “công dân vụ” vào tận xã ấp thu thập tình hình nhân sự để lập danh sách cán bộ, đảng viên và người kháng chiến cũ. Chúng tuyên truyền xuyên tạc cách mạng, gây nghi ngờ chia rẽ nhân dân với Đảng. Chúng trương chiêu bài “quốc gia độc lập” giả hiệu và những khẩu hiệu tự do dân chủ bịp bợm; ra sức truyền bá hệ tư tưởng phản động “cần lao nhân vị”, ép buộc nhân dân vào các tổ chức của chúng như hiệp hội nông dân, phụ nữ liên đới, phong trào cách mạng quốc gia v.v…

Từ cuối năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, phong trào đấu tranh đã diễn ra sôi nổi. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình mừng hòa bình, đòi thi hành hiệp định Genève, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, đòi tôn trọng quyền tự do dân chủ của nhân dân có hàng ngàn, hàng vạn quần chúng tham gia.

Ở huyện Bình Đại, ngày 19-8-1954, một vạn người trương băng, cờ đỏ sao vàng biểu tình mừng hòa bình. Địch đàn áp bắn chế 5 người, làm bị thương 17 người và bắt 30 người. Cuộc biểu tình lập tức biến thành cuộc đấu tranh chống đàn áp, đòi bồi thường nhân mạng.

Ở xã Khánh Thạnh Tân (huyện Mỏ Cày) ngày 13-9-1954, lính ngụy ở bót Tài Đại ra cánh đồng ấp Tân Lợi (xã Khánh Thạnh Tân) bắt dân đi xâu làm bót đã đánh trọng thương một đồng bào ta. Lập tức bà con nông dân trên đồng ruộng hô vang khẩu hiệu: “đả đảo lính đánh dân” và khiêng nạn nhân đến bót Tài Đại đòi địch bồi thường. Nhân dân các xã An Thạnh, Thanh Thới, Đa Phước Hội, Nhuận Phú Tân, Tân Thạnh Tây, Tân Thành Bình… đông tới 2 vạn người kéo đến hỗ trợ vây kín bót Tài Đại buộc bọn chỉ huy và lính ngụy phải khiêng nạn nhân cùng đồng bào lên quận lỵ Mỏ Cày. Đoàn biểu tình vừa nổi trống vừa hô khẩu hiệu hùng dũng tràn vào quận lỵ. Hai đại đội lính bảo an và cảnh sát ra ngăn chặn nổ súng uy hiếp. Quần chúng xông lên dùng gạch, đá đánh lại. Địch bắn chết 11 quần chúng biểu tình, bắn bị thương 36 người và bắt đi 200 người. Quần chúng biểu tình đánh chế tại chỗ một số tên lính bảo an, đánh bị thương 15 tên khác.

Bộ mặt tự do dân chủ bịp bợm của chính quyền Diệm đã sớm bộc lộ trước nhân dân Bến Tre.

Tháng 10-1955, Mỹ Diệm tổ chức “trưng cầu dân ý” truất phế Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống ngụy quyền. Cũng trong tháng 10-1955, Ngô Đình Diệm ra dụ số 2 tước quyền sở hữu ruộng đất của nông dân, buộc nông dân phải làm khế ước ruộng đất với địa chủ. Với dụ số 2 này, ngụy quyền Diệm đã tự phơi bày bản chất địa chủ phong kiến, khơi sâu thêm mâu thuẫn giai cấp vốn có giữa đông đảo nông dân và tập đoàn bán nước Ngô Đình Diêm.

Dựa vào sự yểm trợ của ngụy quyền, nhiều tên địa chủ đã trở về ấp đòi nông dân lập khế ước; bắt nông dân truy nộp tô trong những năm kháng chiến. trong toàn tỉnh đã dấy lên phong trào đòi giữ nguyên canh ruộng đất do cách mạng cấp phát. Nhiều nơi nông dân đã cảnh cáo địa chủ; nhiều cán bộ, đảng viên đã phải đổ máu để bảo vệ quyền lợi ruộng đất cho nông dân. Tại cuộc biểu tình của hơn 1.000 người ở Ba Mỹ (huyện Ba Tri) cuối năm 1956 đòi tên tổng Sơn giảm tô, bọn cảnh sát đã bắn chết đồng chí Nguyễn Văn Sứa - người lãnh đạo cuộc biểu tình.

Chính sách “cải cách điền địa”, “hữu sản hóa dân vô sản” của Mỹ Diệm bị vạch trần.

Ngày 4-3-1956, Mỹ Diệm tổ chức cuộc bầu cử quốc hội bù nhìn. Khắp nơi nhân dân tìm mọi cách không bỏ phiếu. Bọn hội tề, cảnh sát, dân vệ lùng soát từng nhà, ép dân đi bỏ phiếu. Tại xã An Định (Mỏ Cày), theo kế hoạch của chi bộ, dúng 11 giờ hôm bỏ phiếu đột nhiên nhân dân ùn ùn kéo đến phòng bỏ phiếu. Tên Thiện - một tên tay sai ác ôn đội lốt thầy giáo đang hống hách đứng lên hòm phiếu nhìn mặt từng người dân. Các anh Đào Công Sinh, Trần Bình Thuyền, Tư Biện v.v…. xông vào dùng búa tay, bù loong đánh dập đầu tên Thiện. Quần chúng bỏ chạy hô hoán “Hòa hảo về”. Tề xã dân vệ cũng hốt hoảng chạy tứ tung. Ta đốt hòm phiếu nổi trống báo động ròi rút lui an toàn.

Tháng 6-1956, đồng chí Lê Duẩn về Bến Tre.

Trước tình hình bọn Mỹ Diệm đang phá hoại nghiêm trọng hiệp định Genève, đồng chí Lê Duẩn đã căn dặn Đảng bộ Bến Tre nhất thiết phải dựa vào dân, phải tổ chức và phát triển lực lượng cách mạng. Đồng chí còn căn dăn: Con đường đấu tranh cách mạng của nước ta là con đường bạo lực và nhắc nhở Tỉnh ủy phải tùy theo diễn biến tình hình mà tính toán chỉ đạo.

Đến đây cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Bến Tre đã được hai năm kể từ khi hiệp định Genève được ký kết. Trong 2 năm ấy, nhân dân Bến Tre đã tiến hành đấu tranh chính trị đòi địch thi hành hiệp định Genève; đòi địch không được trả thù những người kháng chiến và phải tôn trọng quyền tự do dân chủ của nhân dân. Đảng bộ Bến Tre tin tưởng và dựa vào quần chúng đã lấy cuộc đấu tranh ấy mà tập hợp lực lượng quần chúng, duy trì phong trào cách mạng ở cả nông thôn và thành thị. Cuộc đấu tranh đang bước vào thời kỳ quyết liệt đầy thử thách.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2011, 04:15:47 pm
II

ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ KẾT HỢP
VỚI VÕ TRANG TỰ VỆ

Sau hơn 2 năm tập hợp hàng ngũ và xây dựng củng cố quyền lực, đến cuối năm 1956, tập đoàn Ngô Đình Diệm đã loại trừ xong các lực lượng vũ trang giáo phái và tay chân của Pháp; thiết lập xong hệ thống ngụy quyền từ Trung ương đến xã ấp. Chúng đã tổ chức một đội quân gồm 15 vạn lính chính quy và 10 vạn lính bảo an, dân vệ địa phương. Chúng đã dựng một hệ thống đồn bót trên các trục giao thông thủy bộ, đóng sâu vào xã ấp. Lực lượng công an, cảnh sát được tăng cường. Mạng lưới gián điệp, chỉ điểm được gài đến từng ấp.

Lực lượng quân sự của địch tại Bến Tre lên tới 2.906 tên gồm 9 đại đội bảo an (840 tên) đóng ở 7 quận lỵ và thị xã, 24 tổng đoàn dân vệ, mỗi tổng đoàn 12 tên cơ động trong phạm vi ba, bốn xã; 1.380 dân vệ đóng tại 300 đồn bót và táp canh. Xã nào cũng có 1 đồn dân vệ 12 tên, có xã cớ tới 3 đồn dân vệ. Ngoải ra còn có 180 tên cảnh sát và 210 tên công an duyên hải được tuyển lựa trong số lưu manh côn đồ tại địa phương hoặc từ miền Bắc di cư vào. Lực lượng quân sự này là xương sống và là chỗ dựa cho hệ thống ngụy quyền kềm kẹp nhân dân.

Ngô Đình Diệm đã ra lệnh cho bọn tay sai dựng lên ở Bến Tre bốn “khu trù mật” ở các xã Thành Thới (Mỏ Cảy), Thới Thuận (Bình Đại), An Hiệp (Ba Tri), An Hiệp (Châu thành) làm thí điểm cho việc gom đân, kiểm soát chặt chẽ dân, tách cán bộ, đảng viên ra khỏi nhân dân để chúng tiêu diệt dễ dàng.

Tháng 7-1956, Ngô Đình Diệm tuyên bố không thi hành hiệp định Genève, chia cắt lâu dài đất nước ta. Tại Hoa-Thịnh-Đốn, Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao tuyên bố “cam kết” ủng hộ chính quyền Diệm.

Trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền, nhiều tên mấy năm qua còn chờ xem thời cuộc, đến đây tỏ ra hung hăng phản cách mạng và hết sức tin tưởng ở chủ mới là đế quốc Mỹ - tên đế quốc đầu sỏ nhiều tiền, lắm súng, hiếu chiến nhất trong phe đế quốc. Đế quốc Mỹ cũng tin ở lũ tay chân là những lực lượng phản động, phản cách mạng nhất, gian ác, xảo quyệt nhất ở nước ta. Chúng công khai giương lá cờ chống cộng để thẳng tay đánh phá cách mạng. Chúng đưa chủ trương “tố cộng, diệt cộng” thành quốc sách. Chúng tập trung lực lượng chính trị, quân sự, kinh tế có trong tay, huy động toàn thể bộ máy kềm kẹp đã thiết lập được, dùng mọi thủ đoạn biện pháp - từ lừa mị bịp bợm, dụ dỗ uy hiếp đến khủng bố tàn sát đẫm máu hòng tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam nước ta. Đảng bộ và nhân dân ta ở miền Nam đứng trước một thử thách cực kỳ nghiêm trọng.

Theo sự truyền đạt của cấp trên, tỉnh ủy nắm được tinh thần chủ yếu của Nghị quyết Bộ Chính trị họp tháng 6-1956 về “tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam”: “Chế độ miền Nam là một chế độ độc tài, phát xít của bọn tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ phản động nhất” “Miền Nam đang trở thành thuộc địa và căn cứ quân sự của Mỹ” “tính chất của cách mạng miền Nam nước ta là phản đế và phản phong kiến”. Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Vấn đề hết sức quan trọng là phải xây dựng lực lượng cách mạng”; tuy “hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang” nhưng “như thế không có nghĩa là không dùng vũ trang trong những hoàn cảnh nhất định”(1).

Tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn đã soạn thảo tài liệu “Đường lối cách mạng miền Nam” vạch ra phương hướng đánh đổ Mỹ Diệm. Tài liệu quan trọng này đã vạch rõ: “Để chống lại chế độ Mỹ Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có một con đường cứu nước và tự cứu lấy mình là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng không có một con đường nào khác(2).

Tiếp đến đầu tháng 12-1956, hội nghị Xứ ủy Nam Bộ chỉ ra rằng: Lúc này đấu tranh chính trị đơn thuần thì không được mà đấu tranh vũ trang thì chưa phải. Hội nghị xác định: đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ. Với bài học, kinh nghiệm đấu tranh trong 2 năm qua, Xứ ủy khẳng định; trong đấu tranh chính trị của quần chúng, nếu có lực lượng vũ trang tự vệ hỗ trợ rất có lợi. Nó tạo thế đấu tranh cho quần chúng: phát huy khả năng tập hợp quần chúng; xây dựng và bảo vệ cơ sở Đảng, có sở cách mạng. Xứ ủy đã chỉ thị thành lập “đội quân ngầm” thực chất là “lực lượng vũ trang” để chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp sau.


(1) Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 Nhà xuất bản QĐND - Hà Nội 1980, trang 28.
(2) Những sự kiện lịch sử Đảng tập III - Nhà xuất bản Thông tin lý luận Hà Nội 1985, trang 62.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2011, 04:16:52 pm
Dưới ánh sáng những chủ trương của Đảng, Tỉnh ủy Bến Tre đã mở đợt học tập và kiểm điểm trong toàn Đảng bộ. Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của Đảng, Tỉnh ủy đã tăng cường chỉ đạo vào khâu chủ yếu là phát triển và củng cố cơ sở quần chúng, bồi dưỡng, nâng cao lập trường giai cấp và tư tưởng cách mạng tiến công cho cán bộ, đảng viên.

Tổ chức lực lượng đấu tranh chính trị được hình thành ở mỗi xã, mỗi ấp đã thu hút vào hàng ngũ đấu tranh đông đảo các bà mẹ, các nữ thanh niên và nhiều gia đình binh sĩ tề ngụy; lực lượng nữ chiếm tới 80%. Hàng ngày chị em bày mưu tính kế, chuẩn bị lý lẽ sẵn sàng đấu tranh với tề ngụy, chống khủng bố, bắt bớ, bảo vệ quyền lợi của quần chúng, bảo vệ cán bộ, đảng viên. Dây chính là đạo quân chính trị mà nòng cốt là “đội quân tóc dài” có tiếng vang khắp niền Nam, khắp cả nước trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Đi đôi với lực lượng chính trị, ở các thôn xóm lực lượng tự vệ hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của quần chúng cũng được tổ chức.

Năm 1957, đội thanh niên ngầm được xây dựng có hệ thống tổ chức và sinh hoạt riêng với qui mô đại đội, có Chi bộ Đảng, chi đoàn thanh niên. Đại đội có 4 trung đội được xây dựng ở địa bàn liên xã. Đại đội do đồng chí Lê Minh Đào làm đại đội trưởng, đồng chí Đào Trung Nghĩa làm chính trị viên. Mỗi huyện có một tổ võ trang tuyên truyền được trang bị 2 đến 3 súng do đồng chí Bí thư Huyện ủy nắm để trừ ác ôn và tuyên truyền võ trang khi cần, đồng thời làm cả nhiệm vụ xây dựng căn cứ, bảo vệ Thường trực Huyện ủy.

Để giữ gìn lực lượng và nâng cao trình độ quân sự, Tỉnh ủy đã chọn một số cán bộ quân sự đưa đi tham gia xây dựng lực lượng võ trang và học tập kinh nghiệm chiến đấu ở các tỉnh bạn.

Cũng lúc này, Tỉnh ủy đã xúc tiến mạnh việc chọn người, đưa người vào cầm súng trong hàng ngũ địch, tuyên truyền giáo dục binh sĩ địch, phát triển cơ sở, sẵn sàng kết hợp trong ngoài diệt địch khi có thời cơ.

Từ các phương thức tổ chức trên, lực lượng vũ trang đầu tiên của Bến Tre đã hình thành. Nó đã hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của quần chúng và góp phần cùng lực lượng chính trị bảo vệ Đảng, bảo vệ tính mạng và tàn sản của nhân dân, giữ gìn lực lượng cách mạng.

Bước vào năm 1957, cuộc “tố cộng, diệt cộng” của Mỹ Diệm đã được tiến hành trên khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Tại Bến Tre, chúng đã phát xít hóa bộ máy ngụy quyền từ tỉnh đến huyện, xã. Chúng điều động hàng trăm sĩ quan loại ác ôn đã có nợ máu với quần chúng ở các tỉnh miền Trung, miền Tây Nam Bộ về nắm các chức vụ chủ chốt; ráo riết tiến hành các bước “tố cộng”, mở chiến dịch “đồng tâm diệt cộng”.

Chúng coi “dân Kiến Hòa là bất trị”. Chúng điều “tiểu đoàn công an Ngô Quyền” ác ôn về Bến Tre khoanh vùng ruồng ráp, vào từng ấp, từng nhà lùng sục; dùng chó béc-giê đánh hơi, gậy sắt nhọn đầu xăm hầm bí mật; dùng dao cắt cổ, mỏ bụng, moi gan… Chúng buộc mỗi nhà phải chuẩn bị đầy đủ đèn, cày, dây, mõ để cùng tham gia với chúng đuổi bắt cán bộ, đảng viên ta. Chúng biến các đình Hội Yên (Mỏ Cày), đình Bình Hòa (Giồng Trôm), đình Phước Tuy (Ba Tri), đình Bình Huề (Bình Đại) thành trại giam, nơi tra tấn, giết người man rợ. Tiếng rên xiết, tiếng gào thét căm hờn vang dậy thâu đêm. Xác người chúng liệng xuống sông - mình đầy thương tích - trôi tấp vào các bờ rạch, các miệng đáy sông Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thị xã.

Đau thương, uất hận đè nặng tinh thần, cuộc sống của nhân dân Bến Tre.

Ngay từ đầu năm 1957, Tỉnh ủy đã phát động một phong trào toàn dân đấu tranh chống khủng bố bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ, đảng viên; tổ chức toàn Đảng bộ học tập giữ vững khí tiết, lý tưởng của người Cộng sản. Một số cán bộ được lệnh “điều lắng” tạm lánh khỏi nơi ở cũ để bảo toàn lực lượng.

Nhân dân Bến Tre căm thù địch tàn bạo, càng ra sức đùm bọc che chở cán bộ, đảng viên. Mẹ Trần Thị Kế ở Giồng Trôm bị địch tra khảo bắt khai chỗ ở của chồng con đang hoạt động cách mạng. bà đã phanh áo, vạch ngực thét vào mặt chúng: “Chồng con tao đang ở trong tim tao, bay có kiếm mổ ra mà kiếm”.

Em Nguyễn Thị Chi 15 tuổi ở Giồng Trôm bị địch áp vào nhà thì mẹ đi vắng. Trong nhà có hầm giấu đồng chí Sáu Quân Tỉnh ủy viên. Giặc tra khảo em Chi hòng truy hầm bí mật. Đồng chí Sáu Quân ngồi dưới hầm nghe tiếng đánh đập em mà như đứt từng khúc ruột, muốn bật nắp lên cho địch bắt để cứu em Chi. Chịu đòn, chịu tra khảo em Chi đã thắng kẻ địch hung bạo. Khi chúng rút đi, em đã lết đến miệng hầm mở nắp hầm cho đồng chí Sáu Quân lên.

Cán bộ, đảng viên nằm hầm, nằm bụi, sống trên ngọn dừa chịu đừng biết bao khó khăn nguy hiểm quyết bám vào dân mà hoạt động. Gần 1.000 cán bộ, đảng viên bị bắt, bị giết đã nêu cao khí phách anh hùng của người Cộng sản mãi mãi là những tấm gương sáng chói: Hy sinh vì lý tưởng của Đảng.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Năm, 2011, 04:17:48 pm
Để phối hợp và hỗ trợ phong trào đấu tranh của quần chúng, những cuộc diệt ác ôn, trừ khử bọn do thám chỉ điểm xuất hiện ngày càng nhiều. Lúc đầu xã còn giấu huyện, huyện giấu tỉnh. Nhưng cái tất yếu phải đến thì sớm muộn cũng sẽ đến. Trong khi kẻ thù đã ra sức dùng gươm, súng trắng trợn tiến hành chiến tranh một phía chống lại nhân dân thì không lẽ gì nhân dân chịu bó tay chờ chết mà không tìm cách tự vệ.

Tháng 4-1958, Thường vụ Tỉnh ủy cho phép tổ thanh niên mật xã Phước Hiệp trừ khử tên Đa - một tên đầu hàng phản bội chuyên chỉ điểm, lùng bắt cán bộ, đảng viên. Đây là vụ diệt ác đầu tiên do Tỉnh ủy chủ trương nhằm bảo vệ cơ sở, giữ vững lòng tin của quần chúng. Sau đó, cũng tại xã Phước Hiệp tên cảnh sát Cái ác ôn cũng phải đền nợ máu.

Việc trừ khử hai tên ác ôn tại Phước Hiệp làm lũ công an cảnh sát chùn lại không dám xông xáo vào sâu xã ấp.

Tại xã An Ngãi Tây (Ba Tri) thanh niên mật đã lập mưu diệt tên đội Gấm ác ôn và 2 tên lính thu 3 súng.

Tháng 12-1958, Mỹ diệm đầu độc, thảm sát hơn 1.000 cán bộ và đồng bào ta ở nhà tù Phú Lợi. Cả nước sôi sục căm thù bọn giết người tàn bạo.

Tại Bến Tre, 500 người đã vượt qua đồn Bót, kềm kẹp của địch kéo thẳng lên Sài Gòn đấu tranh. Địch đàn áp bắt giam hàng trăm người. Lập tức hàng vạn quần chúng mặc đồ đen đi vào các thị trấn, thị xã trực tiếp đấu tranh với bọn ngụy quyền tỉnh, quận; vào các chùa thất, nhà thờ tổ chức cầu siêu, tố giác bọn giết người ở Phú Lợi.

Tháng 2-1959, Tỉnh ủy Bến Tre họp hội nghị mở rộng đã phân tích những mặt yếu cơ bản của địch và chỗ mạnh cơ bản của ta.

Tỉnh ủy đã út kinh nghiệm những vụ diệt ác trong thời gian qua và đề ra những chủ trương phát động quần chúng tố giác và diệt những tên tay sai ác ôn của Mỹ ngụy. Tỉnh ủy đã quyết định tổ chức những đội phòng trộm, cướp do thanh niên mật làm nòng cốt để bảo vệ cán bộ, bảo vệ cơ sở cách mạng.

Theo chỉ thị của Liên Tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ hội nghị đã bổ sung thành lập Tỉnh ủy mới gồm bảy đồng chí do đồng chí Võ Văn Phẩm (Tám Chữ) làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Thị Định làm Phó Bí thư.

Tháng 5-1959, Ngô đình Diệm ra luật 10/59 đặt Cộng sản ngoài vòng pháp luật. Với luật này, bất kỳ ai bị chúng gọi là “Việt cộng” hoặc chứa chấp Việt cộng đều bị tử hình bằng máy chém.

Không có cơ sở chính trị, xã hội và hoàn toàn bị cô lập trước nhân dân, chế độ Mỹ Diệm tìm cách tồn tại bằng thủ đoạn phát xít, dã man và tàn bạo nhất.

Tháng 7-1959, ngụy quyền Diệm kéo máy chém về Bến Tre “chặt đầu Cộng sản” hòng uy hiếp tinh thần nhân dân.

Chúng đem lính bảo an đến các xã An Hiệp (Ba Tri), Thới Thuận (Bình Đại), An Hiệp (Châu Thành), Thành Thới (Mỏ Cày) cào nhà, dồn hàng nghìn gia đình vào các “khu trù mật”.

Bọn địa chủ lại lồng về xã bắt nông dân nộp tô, trả ruộng. Chúng đã cướp giật hàng vạn hécta ruộng vườn của nông dân. Mỹ Diệm đã đưa sự khủng bố tàn sát đến cực độ gây nên những tội ác trời không dung, đất không tha.

Khắp nơi quần chúng nhân dân phẫn uất, căm hờn Mỹ Diệm đòi tiếp tục nổi dậy như năm 1953-1954, đòi cán bộ báo cáo khẩn cấp tình hình Bến tre lên Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, khẩn thiết xin Đảng xuống lệnh.

Cán bộ, đảng viên, một số phải điều lắng, số ở lại bám vị trí, bám địa bàn được phân công bám trong quần chúng, sinh hoạt trong hai loại chi bộ A, B .

Chấp hành nghị quyết của Tỉnh ủy, lúc này hàng loạt cuộc diệt ác trừ gian đã diễn ra. Có cuộc do cơ sở nội tuyến được lệnh hành động, có cuộc do thanh niên mật thực hiện, có cuộc do Huyện ủy tổ chức phối hợp giữa nội tuyến, thanh niên mật và quần chúng nòng cốt thực hiện. Tại Phước Hiệp, Thạnh Ngãi, Thới Thuận, An Ngãi Tây, Giồng Chùa, Tân Phú Tây, Hòa Lộc… bọn cảnh sát, ác ôn liên tiếp bị diệt. Ở một số nơi các đội vũ trang tuyên truyền hoạt động mạnh. Tại Tam Phước, Phú An Hóa (huyện Châu Thành) nhân dân xé thẻ cử tri, thẻ căn cước. Địch xuống thế. Có ấp nhân dân giành quyền làm chủ ban đêm.

Tình thế trực tiếp cách mạng đã xuất hiện.

Giữa lúc đó, tháng 11 năm 1959, Khu ủy Khu 8 điện cho Tỉnh ủy Bến Tre chỉ định đồng chí Nguyễn Thị Định, Phó Bí thư Tỉnh ủy lên Khu ủy nhận nghị quyết của Trung ương Đảng.

Cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Bến Tre bước sang thời kỳ mới: Thời kỳ toàn dân khởi nghĩa.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2011, 09:19:43 am
Chương hai

CUỘC ĐỒNG KHỞI NĂM 1960

I

TIẾP THU NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG,
GẤP RÚT CHUẨN BỊ KHỞI NGHĨA

Đầu năm 1959, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 họp dưới sự chủ tọa của Hồ Chủ tịch.

Sua khi phân tích tình hình phong trào cách mạng miền Nam và xuất phát từ nhận định về bản chất độc tài hiếu chiến của chính quyền Ngô Đình Diệm, hội nghị khẳng định: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”; “theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang[39] để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”(1).

Hội nghị Trung ương còn nêu rõ: Vì bản chất của đế quốc Mỹ là hiếu chiến chúng có thể can thiệt bằng quân sự để cữu vãn chính quyền tay sai. Trong điều kiện đó, cuộc khởi nghĩa sẽ chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ.

Tháng 12-1959, hội nghị Khu ủy Khu 8 (Liên Tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ) họp tại Hồng Ngự có đại biểu các tỉnh tham dự. Khu ủy nhận định rằng: các tỉnh miền Trung Nam Bộ đã trải qua một thời kỳ đen tối, cơ sở cách mạng bị tổn thất - có nơi tổn thất nghiêm trọng - nhưng lực lượng lãnh đạo và cơ sở quần chúng vẫn tồn tại. Đội ngũ tuy còn ít nhưng tất cả đều là những đảng viên, cán bộ và quần chúng trung kiên, vững vàng quyết tâm tiêu diệt địch.

Khu ủy quyết định phát động quần chúng nổi dậy phá thể kềm kẹp của địch giành quyền làm chủ nông thôn.

Khu ủy quyết định tháng 1-1960 phát động quần chúng khởi nghĩa ở xã ấp theo những phương châm hành động sau:

Phải phát động phong trào rộng khắp, không thể “nổi cộm” từng điểm nhỏ khiến địch có thể tập trung lực lượng đàn áp; ta không giữ được phong trào.

Phải đưa cho được đông đảo quần chúng nhân dân vùng lên đấu tranh với địch nhưng giữ cho được thế đấu tranh hợp pháp, trực diện của quần chúng. Hoạt động vũ trang phải khôn khéo, tránh “lấn dây” sang đấu tranh vũ trang đơn thuần.

Trước khi đồng chí Nguyễn Thị Định vê Bến Tre, Bến tre đã nhận được điện tóm tắt nghị quyết Khu ủy về chủ trương và yêu cầu chỉ đạo đối với cuộc khởi nghĩa.

Để tranh thủ thời cơ, trong điều kiện chiến trường bị chia cắt, đi lại khso khăn, sau khi nghiên cứu kỹ nội dung chỉ đạo của cấp trên, đồng chí Võ Văn Phẩm - Bí thư Tỉnh ủy đã hôi ý với các đồng chí Thường trực về quyết định tranh thủ triển khai ngay tại 2 khu vực:

Khu vực I: Cù lao Bảo và cù lao An Hóa do đồng chí Võ Văn Phẩm trực tiếp truyền đạt cho các đồng chí trong Tỉnh ủy như: đồng chí Nguyễn Văn Trung - phụ trách huyện Giồng Trôm; đồng chí Phan Văn Giảng; huyện Châu Thành; đồng chí Nguyễn Thanh Liêm (Tư Chi): huyện Bình Đại, Ba Tri.

Khu vực II: Cù lao Minh, Thường vụ Tỉnh ủy đã ủy nhiệm đồng chí Lê Minh Đào truyền đạt tới Thường vụ Huyện ủy Mỏ Cày; đồng chí Huỳnh Thanh Mua - Bí thư huyện Thạnh Phú; đồng chí Lê Văn Quang - Bí thư huyện Minh Tân (Mỏ Cày Bắc).

Đồng chí Lê Minh Đào còn có nhiệm vụ giữ và duy trì liên lạc với Khu ủy, đón đồng chí Nguyễn Thị Định đi chỉ đạo bổ sung cho cù lao Minh và đưa đồng chí Định sang gặp đồng chí Bí thư Tỉnh ủy và các đồng chí Tỉnh ủy viên ở cù lao Bảo.

Giữa lúc mọi việc chuẩn bị cho khởi nghĩa đang được triển khai thì ngày 30-12-1959, đồng chí Nguyễn Thị Định về đến xã Minh Đức huyện Mỏ Cày.

Để tranh thủ thời gian, ngày 1 tháng 1-1960, tại nhà chị Bảy Tốt ở ấp Tân Huề xã Minh Đức huyện Mỏ Cày, đồng chí Nguyễn Thị Định - Phó Bí thư Tỉnh ủy đã truyền đạt tinh thần nghị quyết Trung ương lần thứ 15 và chủ trương cụ thể của Khu ủy cho các đồng chí; Hai Thủy - Tỉnh ủy viên (lúc này đã được trên điều động nhưng chưa đi); Ba Đào - Chánh văn phòng Tỉnh ủy; Nguyễn Văn Sông (Năm Hỏa) - Bí thư Mỏ Cày; các đồng chí Ba Cầu, Sáu Huấn, Bảy Tranh - Huyện ủy viên huyện Mỏ Cày và đồng chí Lê Văn Quang - Bí thư Huyện ủy huyện Minh Tân.

Sau đó, cuộc họp đã đánh giá tình hình địch ta và quyết định phát động một tuần lễ nổi dậy đồng loạt trong toàn tỉnh bắt đâu từ ngày 17-1-1960. Ba xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh được chọn làm điểm của tỉnh do Thường vụ Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo.

Cuộc họp đã xác định nội dung, yêu cầu của khởi nghĩa: Dùng mọi cách phát động quần chúng nổi dậy mạnh mẽ liên tục, phá thế kềm kẹp giành quyền làm chủ của nhân dân; ra sức phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang; củng cố và phát triển cơ sở Đảng; giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân.

Yêu cầu của cuộc khởi nghĩa là phải đánh và phá tan bộ máy kềm kẹp ở xã ấp; phong trào phải diễn ra trên diện rộng, cùng một lúc nhiều nơi đồng khởi căng lực lượng địch ra, phân tán sự đối phó của chúng. Thuật ngữ “Đồng khởi” ra đời từ đây.

Cuộc họp còn đề ra yêu cầu kết hợp hoạt động giữa nông thôn và thị xã. Thị ủy phải theo dõi sát tình hình địch, củng cố đường giao liên công khai và bí mật, kịp thời báo cáo lên Tỉnh ủy hoạt động của địch tại thị xã; đồng thời dùng thanh niên mật đánh đồn công an và cầu Nhà thương (thị xã) gây tiếng vang hỗ trợ cho phong trào chung.

Cuộc họp cũng đã ra quyết định về công tác binh vận: về chính sách đối với địa chủ, ngụy quân, ngụy quyền và lấy danh nghĩa những người đấu tranh cho hòa bình, thống nhất để kêu gọi quần chúng và dùng tiểu đoàn 502(2) để nghi binh tác động tinh thần địch.

Tiếp theo, đồng chí Nguyễn Thị Định theo đường liên lạc đã được chuẩn bị sẵn, sang báo cáo với đồng chí Bí thư Tỉnh ủy ở khu vực cù lao Bảo.


(1) Những sự kiện lịch sử Đảng, tập III - sách đã dẫn trang 125.
(2) Tiểu đoàn 502 lực lượng vũ trang cách mạng tỉnh Kiến Phong đã tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn quân ngụy tài Gò Quảng Cung ngày 28-9-1959.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2011, 09:20:58 am
II

ĐỒNG KHỞI

Ngày 17-1-1960, cuộc Đồng khởi đã bùng lên tại 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh. Và từ ngày 17 đến 24 tháng 1, phong trào Đồng khởi đã lan rộng ở nhiều xã thuộc các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm, Thạnh Phú, Ba Tri, Châu Thành, Bình Địa. Đông đảo quần chúng nhân dân có các tổ, đội hành động làm lực lượng xung kích kết hượp với cơ sỏ nội tuyến đã nhất tề vùng dậy diệt ác, phá kềm, lấy đồn, xây đồn đập tan hệ thống kềm kẹp của địch giành quyền làm chủ  xã ấp. Vừa khởi nghĩa vừa tổ chức phát triển lực lượng lại vừa đánh trả quyết liệt quân địch phản kích, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bến Tre bước sang trang sử mới hết sức hào hùng.

Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh là 3 xã giáp ranh nhau với chiều ngang khoảng 4km, chiều dài hơn 10km; đông bắc giáp sông Hàm Luông, tây bắc giáp sông Vàm Nước Trong, đông nam giáp xã Tân Trung, An Định, có sông Cái Quao và rạch ông Bồng nối liền nhau. Hình thể 3 xã như một cù lao hình chữ nhật bên trong có nhiều kênh rạch nỏ chia cắt. Ở đây vườn dừa um tùm, bãi mía rập rạp, đường sá quanh co, phức tạp. Trong kháng chiến chống Pháp, tại đây đã có những trận đánh đồn Vàm Nước Trong (Định Thủy), Cầu Sập (Phước Hiệp); năm 1957-1959 đã có những trận diệt ác trừ gian. Lúc này mỗi xã đều có một chi bộ với 4, 5 đảng viên; có tổ chức thanh niên mật; có sở nội tuyến trong đồn bót.

So với 2 xã Phước Hiệp và Bình Khánh thì Định Thủy có những thuận lợi hơn nên được chọn làm ngòi nổ của cuộc Đồng khởi.

Đồng chí Hai Thủy, Tỉnh ủy viên được phân công về Định Thủy trực tiếp chỉ huy cuộc Đồng khởi.

Ngày 14-1-1960, đồng chí Nguyễn Thị Định đã từ cơ quan Tỉnh ủy đến Định Thủy.

Xã Định Thủy có một đồn dân vệ đóng tại Vàm Nước Trong. Cơ sở nội tuyến của ta đã nắm chắc số dân vệ trong đồn. Với ý định lấy thêm súng, ta lập kế và điều được tổng đoàn dân vệ lưu động Minh Đạt gồm 12 tên do đội Tý chỉ huy đang ở xã Hòa Lộc về Định Thủ. Ngày 15-1-1960, chúng đóng quân tại công sở cách đồn Vàm Nước Trong 500 mét. Chúng tổ chức rước gánh hát bán vé lấy tiền. Chớp thời cơ, ta lập kế hoạch tiêu diệt chúng. Nhưng kế hoạch bị lộ, chúng kéo quân về đóng tại đình Định Phước và bố trí canh gác cẩn mật.

Sáng 16-1, chi bộ họp rút kinh nghiệm và lập kế hoạch tiến công mới. 10 giờ đêm 16-1, ba mũi gồm 3 tổ hành động đã áp sát đình Định Phước. Một mũi do đồng chí Lê Văn On cùng hai thanh niên tiến thẳng vào đình định giết tên lính gác. Đội Tý nghe tiếng động bật dậy đánh thức đồng bọn. Ta không hành động mà bí mật rút lui.

6 giờ sáng ngày 17-1, Ban lãnh đạo ra lệnh: bí mật triển khai lực lượng bám sát chúng, gặp những tên đi lẻ diệt ngay, lấy súng.

8 giờ sáng ngày 17-1, được tin đội Tý dẫn một lính cận vệ ra quán trà ở ngã tư Định Thủy, tổ hành động của ta gồm 3 đồng chí: Bảy Thống, Ba Giai, Chín Chim giả đi quét mộ ghé vào tiệm uống trà rồi bất ngờ quật ngã đội Tý, giật súng tên dân vệ, bắn tên đội Tý ác ôn chết tại chỗ.

Nghe tiếng súng nổ, vợ đội Tý và 2 lính dân vệ trong đình chạy ra, ta bắt cả 3 tên. Lập tức 2 tổ hành động đã được bố trí sẵn cùng với 200 thanh niên và quần chúng tràn vào dinh áp đảo địch. Bốn tên đầu hàng, 2 tên chạy thoát. Ta thu 1 súng, 3 lựu đạn, 5000 viên đạn. Trận chiến đấu kết thúc vào lúc 9 giờ ngày 17-1-1960.

Trong khi ta diệt tổng đoàn dân vệ, cơ sở nội thuyến đã lãnh đạo anh em binh sĩ khởi nghĩa lấy gọn đồn Vàm Nước Trong và kết hợp với lực lượng quần chúng chiếm công sở, giải tán tề xã, thu 15 súng, 10 lựu đạn và trên 1.000 viên đạn.

Nhân dân xã Định Thuỷu từ lúc tiếng súng diệt địch nổ đã võ trang dao, mác, nổi tống mõ tràn ra khắp các ngả đường lùng bắt tề điệp, ác ôn, quét sạch mọi tổ chức kềm kẹp.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2011, 09:21:58 am
20 giờ ngày 17-1-1960, gần 2.000 đồng bào Định Thủy trương cờ, đốt đuốc, sôi sục tinh thần vùng dậy họp mít tinh mừng thắng lợi. Tại cuộc mít tinh, đồng chí đại diện Tỉnh ủy kêu gọi: Hãy phát huy thắng lợi, tiến công kiên quyết, sẵn sàng đối phó với quân địch đến phản kích.

Đêm 17-1, với 28 khẩu súng vừa mới thu được của địch, ta tổ chức các đội vũ trang kịp thời hỗ trợ cho phong trào quần chúng nổi dậy ở xã Phước Hiệp và Bình Khánh.

Từ tay không vùng dậy, đến đây nhân dân Định Thủy có súng, có lực lượng vũ trang và bước đầu hình thành cách tiến công địch bằng ba mặt. Đó là vốn quý, là những kinh nghiệm sáng tạo vô giá đầu tiên trong phong trào Đồng Khởi.

Tại xã Phước Hiệp, 18 giờ ngày 17-1, nhân dân đã vùng dậy cùng tổ hành động bao vây đồn dân vệ; lùng bắt do thám, chỉ điểm, tề ngụy; giải tán các tổ chức phản động. 20 giờ, tổ hành động dùng loa truyền quân lệnh của tiểu đoàn 502 gọi dân vệ trong đồn ra hàng. Đến nửa đêm, một tiểu đội vũ trang xã Định Thủy sang hỗ trợ.

Sáng ngày 18-1-1960, quận trưởng Mỏ Cày cho lính bảo an đi 3 đò máy theo rạch cầu ông Bồng vào Phước Hiệp. Tiểu đội vũ trang vừa mới thành lập nổ súng bắn chìm một đò, bắn chết tên trung úy chỉ huy. Bọn chúng tháo chạy về thị trấn Mỏ Cày. Đêm 18-1, do sở hở của ta, số dân vệ trong đồn xé rào rút chạy. Tên đội chỉ huy chạy lạc sang Định Thủy bị ta bắt sống. Xã Phước Hiệp hoàn toàn giải phóng.

Tại xã Bình Khánh, trong 2 ngày 15 và 16 tháng 1 năm 1960, địch tăng cường bọn công an tỉnh; công an Ngô Quyền về xã lùng sục, khủng bố nhân dân. Chúng đi từng tốp 1, 3 tên dò la tình hình theo dõi quần chúng.

Bám sát địch, đồng chí Năm Thơ - đảng viên hoạt động công khai được chi bộ giao nhiệm vụ - đã theo sát tên đội, tên công an và hai tên dân vệ thường đi lẻ vào nhà dân xin “nhậu”.

Sáng 17-1, tại ấp 8 xã An Định (cách đồn Bình Khánh 1km) đồng chí Năm Thơ cùng 6 thanh niên tổ chức tiệc rượu “mời” bọn này đến dự để giật súng. Nhưng địch đã có ý đề phòng nên việc không thành. Không để mất cơ hội, tiệc rượu vừa xong, anh em ta lại rủ bọn chúng tiếp tục đi nhậu tại nhà đồng chí Văn Anh ở ấp Phú Lợi Hạ. Ta khích bọn này xuống ao bắt cá tra kiếm “đồ nhậu”. Hai tên dân vệ cùng với một thanh niên của ta xuống ao bắt cá. Tên đội cầm súng ngồi gác trên bờ. Nhanh trí đồng chí Văn Anh vãi mẻ chài tùm lên đầu một tên lính. Chúng vùng vẫy, ta đập chết 1 tên còn 1 tên xé chài chạy thoát về đồn. Cùng lúc, 2 thanh niên ôm cổ quật nhào tên đội công an giật súng lôi ra đình trị tội. Lập tức tiếng trống lệnh Đồng khởi vang lên. Nhân dân nhất tề nổi dậy, ào ạt xuống đường diệt ác, phá kềm, bao vây đồn Bình Khánh, đưa gia đình dân vệ vào đồn gọi chúng đầu hàng. Kẻ địch ngoan cố bắn trả. Ban lãnh đạo tỉnh tăng cường một tiểu đội vũ trang do đồng chí Bảy Song chỉ huy đến hỗ trợ vây chặt đồn Bình Khánh. Quân ta diệt bọn ngoan cố trên tháp canh và nhanh chóng đột nhập vào đồn diệt và bắt sống một số tên. Ta thu 6 khẩu súng và đốt đồn. Xã Bình Khánh hoàn toàn giải phóng hồi 2 giờ đêm 20-1-1960.

Ba xã điểm - vùng Thường vụ Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo - đã giành toàn thắng. Đây là trận đột phá có tác dụng rung chuyển và cổ vũ mạnh mẽ sự vùng dậy của nhân dân trong tỉnh. Các xã được chọn làm điểm chỉ đạo của mỗi huyện cũng đều giành được thắng lợi càng thúc đẩy thêm khí thế cách mạng sôi nổi. Phong trào khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng trong toàn tỉnh Bến Tre.

Từ ngày 17 đến 24-1-1960, 47 xã thuộc các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú, nhân dân đã nhất tề nổi dậy, 22 xã diệt ác, lấy đồn, đập tan bộ máy kềm kẹp, giải phóng hoàn toàn xã ấp. 25 xã khác đã diệt ác, bao vây đồn bót, giải phóng nhiều ấp.

Cùng với vùng nông thôn rộng lớn, tại thị xã Bến Tre, lực lượng tự vê đã đánh bót Lò Tương, diệt ác ở phương 1, diệt công an ở ngã Ba Tháp, trừ gian ở xa Phú Khương và đưa 200 phụ nữ ấp Mỹ An vào thị xã phối hợp đấu tranh.

Trong tuần lễ Đồng khởi trên, 300 tên tề điệp, dân vệ ác ôn đã bị bắt; 37 đồn bót bị bức rút, bức hàng; ta giải phóng 22 xã và 18 ấp, thu 150 khẩu súng cùng nhiều đạn và lựu đạn.

Ngày 19 tháng 1-1960, tại xã Bình Khánh huyện Mỏ Cày, 2 đồng chí Nguyễn Tám Cang (Hai Thủy) và Lê Minh Đào đã tập trung số vũ khí thu được tổ chức thành 3 tiểu đội: 1 tiểu đội đưa về hoạt động phá kềm kẹp tuyên truyền võ trang ở Minh Tân do đồng chí Ba Châu làm tiểu đội trưởng; 1 tiểu đội đưa về Thạnh Phú do đồng chí Xi làm tiểu đội trưởng, 1 tiểu đội đưa về Mỏ Cày do đồng chí Cho làm tiểu đội trưởng. Đồng thời ta chọn một số cán bộ khá, vũ khí tốt (súng trường mas, mituyn) lập đội vũ trang đầu tiên của tỉnh mang phiên hiệu Đại đội 264 Ban chỉ huy đại đội gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Song (Bảy Song), Lê Phục (Mười Phục), Đinh Văn Chức (Tám Chức).

Các công trường sản xuất vũ khí được xây dựng. Công trường tỉnh đặt ở xã Bình Khánh do đồng chí Ba Tam và Ba Thành phụ trách đã sản xuất được “súng ngựa trời”.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2011, 09:23:31 am
Ngay sau ngày Đồng khởi, theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, các xã họp nhân dân, lập tòa án xét xử tề ngụy và các tên địa chỉ đã thu tô, giật đất của nông dân. Các tên tề ngụy không có nợ máu với dân được giao cho gia đình bảo lãnh, giáo dục, còn những tên địa chủ dựa vào thế ngụy quyền để thu tô, giật đất, phải thoái tô, trả ruộng cho người cày. Ở Mỏ Cày, trong tuần lễ Đồng khởi ta đã chia 600 công đất, bắt địa chủ thoái tô 750 giạ lúa cho nông dân. Nhân dân hồ hởi đóng góp tài chánh, lương thực cho cách mạng. Trong tháng 1 năm 1960 số tiền thu được lên tới 10 triệu đồng.

Trong những năm bị mất quyền làm chủ, vui không được cười, buồn không được khóc, đến đây nhân dân phấn khởi, bàn bạc mọi việc trong xã. Quyền làm chủ và ấp thuộc về nhân dân lao động.

Như vậy là 7 ngày đầu Đồng khởi đã mở ra một cục diện mới. Phần lớn hệ thống kềm kẹp của địch bị tan rã, khí thế cách mạng của quần chúng lên cao và đang ở thế áp đảo quân thù.

Ngay trong tuần lễ Đồng khởi, chi khu quân sự Mỏ Cày đã dùng từng trung đội bảo an phản kích, đóng đồn trở lại tạ hai xã Định Thủy, Bình Khánh.

Ngày 21-1-1960, ngụy quyền tỉnh Bến Tre đưa tiểu đoàn thủy quân lục chiến về đóng tại Phước Hiệp. Chúng tìm cách tung ra giải tỏa, tiếp tế cho các đồn Định Thủy, Bình Khánh đang bị ta bao vây.

Các đơn vị vũ trang ta đã đánh trả chúng. Tiểu đội vũ trang xã Định Thủy phục kích tại cầu rạch cầu Ông Bồng bắn chìm chiếc ghe chở bọn bảo an từ Phước Hiệp sang, diệt 8 tên thu 1 súng (26-1-1960). Đại đội vũ trang 264 chặn đánh địch ở An Thạnh, An Hóa (Bình Khánh) diệt 10 tên (3-2-1960). Trong trận này, lần đầu tiên súng ngựa trời của ta xuất hiện. Và cũng trong trận này em Hiếu thiếu nhi xã Bình Khánh đã dùng mã tấu xông lên chém chết tên trung úy Lương thủy quân lục chiến. Em Hiếu hy sinh nêu cao gương anh hùng của thiếu niên Bến Tre.

Ngày 4-2-1960, một phụ nữ xã Phước Hiệp bị lính bảo an hãm hiếp. Huyện ủy Mỏ Cày đã tổ chức 20 chị em khiêng nạn nhân lên quận đấu tranh và huy động 200 chị em khác đi theo hỗ trợ. Đoàn biểu tình kéo tới gần quận lỵ thì bị tiểu đoàn lính dù đi theo bảo vệ cho tên tướng Lê Văn Tỵ - Tổng tham mưu trưởng quân ngụy đang kinh lý Mỏ Cày ra cản đường. Chị em đã dùng lý lẽ tranh thủ được sự đồng tình của tên đại úy chỉ huy tiểu đoàn và xông thẳng vào quận lỵ. Nhân dân thị trấn và các xã lân cận đông tới 5.000 người cũng ùn ùn kéo vào vây kín trụ sở quận, tố cáo lính bảo an hãm hiếp phụ nữ, cướp bóc, tàn sát nhân dân. Tên quận trưởng hoảng sợ buộc phải đưa nạn nhân đi chữa bệnh và hứa trừng trị bọn lính bảo an, hứa không khủng bố, bắn giết nhân dân.

Cuộc đấu tranh chính trị trực diện đã giành thắng lợi, quần chúng càng thêm tin tưởng vào nghệ thuật đấu tranh đạt hiệu lực cao của mình; còn lãnh đạo, qua sự kiên này đã có thể rút ra kết luận quan trọng là trong đấu tranh vũ trang vẫn có khả năng giữ thế hơp pháp để tiếp tục đấu tranh chính trị.

Giữa tháng 2-1960, Thường trực Tỉnh ủy họp ở Mỏ Cày quyết định phân công đồng chí Lê Minh Đào, Trần Khắc Chung (bảo vệ đồng chí Bí thư) sang tập hợp các đội vũ trang ở cù lao Bảo và thành lập đại đội vũ trang tập trung thứ 2 mang phiên hiệu Đại đội 269. Ban chỉ huy đại đội gồm các đồng chí: Trần Khắc Chung (Sáu Chung), Trần Bì (Vệ Quốc), Nguyễn Hữu Vị (Tám Vị).

Sau khi thành lập, đại đội 269 đã hỗ trợ cho các xã phía nam Giồng Trôm diệt ác ôn phá kềm kẹp. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Lê Minh Đào cũng đã tổ chức đưa về Bình Đại, Châu Thành, Ba Tri, Giồng Trôm mỗi nơi một tiểu đội để hoạt động phát động quần chúng mở rộng địa bàn theo kinh nghiệm của cù lao Minh. Sau đó đại đội 269 được điều sang cù lao Minh cùng đại đội 254 củng cố tổ chức, huấn luyện, chuẩn bị chiến trường để phối hợp đánh địch phản kích thắng từ trận đầu theo yêu cầu của chính trị (đối tượng là đại đội thủy quân lục chiến do tên trung úy Nước chỉ huy đang đàn áp đẫm máu nhân dân tại xã Phước Hiệp).

Theo kế hoạch dự định của ta, chiều 23-3-1950, 2 đại đội của ta dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Minh Đào đã tổ chức ba điểm phục kích địch trên đường bộ đoạn từ Phước Hiệp sang Định Thủy và đường thủy - Rạch cầu Ông Bồng. Quân ta diệt 47 tên địch (có 1 trung úy), thu 20 súng (có 2 trung liên).

Chỉ qua 2 tháng tập hợp xây dựng, lần đầu tiên lực lượng vũ trang Bến Tre ra quân trận đầu thực hiện nhiệm vụ tiêu diệt nhanh gọn bằng 1 diệt 1, đánh đúng đối tượng ác ôn gây ảnh hưởng rất tốt với phong trào.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2011, 09:25:05 am
Tháng 3-1960, Ngô Đình Diệm đến Bến Tre khảo sát tình hình và trấn an bọn ngụy quân, ngụy quyền tỉnh, quận.

Ngô Đình Diệm đã ra lệnh tung hết lực lượng bảo an tỉnh, quận đi chiếm lại các đồn bót đã mất và tập trung lực lượng chính quy chủ lực đến “dập tắt cái ung độc Kiến Hòa ngay từ đầu để tránh nguy hại về sau”.

Ngày 25-3-1960, Diệm huy động gần 10.000 quân gồm thủy quân lục chiến, dù, biệt động và 70 xe quân sự, 17 tàu, 47 khẩu pháo 105 ly do tên Đỗ Cao Trí chỉ huy mở cuộc vây quét lớn vào 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh.

Cùng ngày, tàu chiến địch chạy trên các sông Hàm Luông, xe cơ giới chở đầy lính đổ quân trên đường giao thông Mỏ Cày - Thạnh Phú vây chặt 3 xã.

Sáng ngày 26-3, cùng một lúc, chúng chia nhiều mũi bao vây chia cắt từng khu vực; mỗi khu vực có 2 tiểu đoàn. Chúng chà đi xát lại, lục soát từng bụi cây, đám cỏ quyết tìm diệt lực lượng vũ trang và cơ quan đầu não của tỉnh, quyết dập tắt phong trào Đồng khởi ở 3 xã điểm. Đội quân “áo rằn” đi đến đâu là bắn giết, đốt phá, cướp bóc thẳng tay. Chúng đã chôn sống 36 thanh niên, trung niên và giết chết 80 đồng bào ta.

Nhân dân 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh đứng trước một thử thách mới. Từ tay không vùng lên khởi nghĩa giành được quyền làm chủ đã là việc rất khó. Nhưng cái khó hơn và trọng yếu hơn lại là giữ vững quyền làm chủ đã giành được. Đây không chỉ là sự sống còn của ba xã mà còn là sự sống còn của phong trào Đồng khởi của tỉnh Bến Tre mà ba xã là nơi đột phá đầu tiên “đầu có qua thì đuôi mới lọt”. Nhận thức ro điều này, Ban lãnh đạo tỉnh trực tiếp chỉ huy cuộc chống càn ở đây đã nghiên cứu, phân tích tình hình địch ta một cách cụ thể, cân nhắc các ý kiến của cán bộ nêu ra, tìm cách đánh sao cho thích hợp với lực lượng vũ trang còn nhỏ bé của ta.

Tỉnh quyết định tập trung lực lượng chủ động đánh trận đầu giành cho được thắng lợi để hạ uy thế địch, tạo uy thế ta; sau đó sẽ phân tán lực lượng phối hợp với du kích đánh địch.

Bám sát địch, nắm chắc địa hình, ta tổ chức phục kích ở ấp 6 Phước Hiệp - chỗ nhất định địch sẽ đi qua. Ta tập trung số súng có trong tay kể cả ngựa trời, đào công sự sát bờ mía, lấy lá mía ngụy trang trận địa. Khi địch lọt vào trận địa, súng ngựa trời và các loại súng khác nổ đồng loạt vào đội hình của chúng. Bộ đội ta từ các hầm nhảy lên dùng mã tấu chém địch, dùng súng bắn rượt địch. Bị bất ngờ, bọn địch còn sống sót đạp lên nhau cuốn chạy. Chúng bỏ lại 50 xác chết; ta thu một số súng. Sau trận này, địch dè dặt hơn. Bộ đội ta lừa thế, tránh mũi nhọn của chúng và cùng với các tiểu đoàn vũ trang xã lập thành những tổ du kích bắn tỉa, gài lựu đạn, quần nhau với địch hết ngày này qua ngày khác. Sau 10 ngày chiến đấu, quân ta diệt 200 tên địch, làm bị thương 100 tên khác.

Nhân dân hết lòng đùm bọc tiếp tế lương thực cho bộ đội, du kích, lo nuôi dưỡng thương binh. Các bà, các chị, các cụ lão tìm cách tranh thủ binh lính địch, đánh lừa, cầm chân chúng để bộ đội ta có thời gian tránh né, di chuyển.

Quân địch vẫn khủng bố, tàn sát ác liệt. Thêm một số đồng bào, chiến sĩ ta bị chết, bị thương. Để bảo toàn lực lượng, tránh thương vong cho đồng bào, ta muốn rút quân, nhưng địch vẫn bao vây chặt ba xã.

Các đồng chí lãnh đạo từ trong thế bị địch bao vây đã phân tích khả năng đánh thắng và khả năng tồn tại của ta. Sau khi phân tích và thấy rõ nhược điểm của địch, bộc lộ ngày càng lớn, Ban lãnh đạo đã nhất trí chủ trương phát động quần chúng từ chỗ rụt rè, ngán sợ địch đứng lên đấu tranh phủ đầu ngăn chặn, phân hóa binh sĩ tại chỗ không cho chúng cướp phá, hãm hiếp; đồng thời tổ chức lực lượng ra quận lỵ trực diện đấu tranh đòi địch rút quân. Bộ phận này do chị Ba Định và đồng chí Út Thắng - ủy viên Thường vụ Huyện ủy Mỏ Cày phụ trách. Địa điểm chỉ huy ngoài lộ Mỏ Cày - An Định. Bộ phận lực lượng vũ trang bám trụ, bảo toàn lực lượng, tránh những chạm súng không cần tiết và giữ không để có trường hợp chiến sỹ ta tự động nổ súng hoặc dao động bỏ hàng ngũ v.v… do đồng chí Ba Đào phụ trách. Bộ phận trung tâm nắm các tin tức trong vùng, tin tức đấu tranh chính trị và lực lượng vũ trang để phối hợp phát động trong vùng đang bị bao vây, đồng thời liên lạc với các huyện, liên lạc với trên (lúc này ta đã có máy vô tuyến) do đồng chí Hai Thủy phụ trách.

Với cách tổ chức, chỉ huy như trên, ta đã vươn lên giành chủ động sau 2 ngày bị bao vây và kịp thời phát động đấu tranh chính trị lên thành cao trào.

Sáng sớm ngày 1-4-1960, hàng ngàn nhân dân 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh dùng hàng trăm ghe thuyền chở người già, trẻ con, mùng mền, nồi chảo, heo gà… “tản cư” lên thị trấn Mỏ Cày. Lớp thì nằm, lớp thì ngồi la liệt các đường phố kêu la “khóc lóc” tố cáo lính chủ lực tàn sát dã man người vô tội, hãm hiếp phụ nữ, bắn giết, cướp bóc của cải của nhân dân. Tiếp đó 5.000 phụ nữ ở các xã xung quanh cũng “tản cư ngược” đến thị trấn để tránh địch hãm hiếp, cướp bóc. Hơn 10.000 người tràn ngập thị trấn Mỏ Cày, vào đầy các trường học, bệnh viện, thánh thất, nhà bưu điện, văn phòng nghị sĩ quốc hội và vây khu trụ sở quân. Nhân dân - lớp đưa đơn, lớp nói miệng - yêu cầu quận trưởng cho nhân dân tạm nương náu; khi lực lượng “áo rắn” rút, dân trở về ngay và báo cho quận trưởng biết lính chủ lực chửi quân địa phương, chửi cả quận trưởng, tỉnh trưởng.

Tên quận trưởng Mỏ Cày bị kích động đi báo cáo với tỉnh trưởng. Tỉnh trưởng bực mình lên Sài Gòn tố giác lính thủy quân lục chiến sát hại nhân dân, coi thường các “nhà chức trách địa phương”.

Cuộc đấu tranh kéo dài 12 này đêm. Nhân dân thị trấn Mỏ Cày đã tận tình tiếp tế cơm nước, phối hợp đấu tranh.

Trước sức mạnh đấu tranh quyết liệt của quần chúng, ngày 16-4-1960, đại diện ngụy quyền Sài Gòn tới Mỏ Cày hứa với nhân dân sẽ rút hết lính thủy đánh bộ về.

Trong lúc đó, lực lượng vũ trang ta và cơ quan Tỉnh ủy từ trong vòng vây của kẻ thù đã di chuyển an toàn lên huyện Minh Tân (Bắc Mỏ Cày) và sang huyện Giồng Trôm là công tác võ trang tuyên truyền hỗ trợ quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kềm, buộc địch phải đưa quân đối phó.

Ngày 30-4-1960, quân địch rút khỏi 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh.

Qua trận này, Tỉnh ủy kết luận: Bọn lính chủ lực của địch không thể tiêu diệt được lực lượng vũ trang non trẻ của ta và mũi đấu tranh chính trị đã phân hóa nội bộ địch có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bằng cả lực lượng đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và binh vận, ta đã làm thất bại cuộc càn quét quy mô lớn của địch, bảo toàn lực lượng ta, giữ vững quyền làm chủ xã ấp.

Đây là một kinh nghiệm lớn, một sáng tạo về phương thức đánh địch của Đảng bộ và nhân dân Bến Tre.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2011, 09:26:39 am
Cuối tháng 4-1960, hội nghị Tỉnh ủy mở rộng họp tại căn cứ Châu Bình huyện Giồng Trôm. Hội nghị đã tổng kết kinh nghiệm cuộc Đồng khởi mùa xuân và nhất trí kết luân: Hiện nay phong trào đang ở thế chủ động tiến công; khí thế quần chúng rất sôi nổi; thế trận nhân dân chống địch đã hình thành. Địch thì đang trên đà thất bại, hoang mang, dao động. Thời cơ thuận lợi cho ta ngày càng nhiều và sắp đến đây các tỉnh sẽ nổi dậy tiến công địch mạnh hơn, căng địch ra, phân tán lực lượng của chúng làm chúng khó tập trung quân đội đối phó với tỉnh ta. Đó là những điều kiện thuận lợi để ta tiếp tục đưa phong trào trong tỉnh tiến lên mạnh mẽ, đều khắp.

Hội nghị đã bầu đồng chí Nguyễn Thị Đình làm Bí thư Tỉnh ủy và cử đoàn đại biểu gồm đồng chí Võ Văn Phẩm - Phó Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Bảy Đấu - Tỉnh ủy viên lên Khu ủy báo cáo tình hình Đồng khởi của Bến Tre và xin chỉ thị mới.

Sau khi có chủ trương của Tỉnh ủy, Thường vụ Tỉnh ủy đã quyết định phát động các cuộc Đồng khởi đêm được gọi là “Đồng khởi nhồi”, “Đồng khởi bồi” vào hai ngày 19-5 và 19-8-1960 nhằm củng cố và mở rộng vùng giải phóng, xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng xã ấp chiến đấu, chuẩn bị cho cao trào Đồng khởi mới.

Lúc này, địch dùng lực lượng bảo an chiếm đóng lại 27 đồn bót đã bị san bằng trong cuộc Đồng khởi mùa xuân. Dựa vào các đồn bót này, những tên hội tề và dân vệ lưu vong trở về lập lại bộ máy kềm kẹp nhân dân. Quần chúng lại nổi dậy xuống đường cùng các tiểu đội vũ trang lùng bắt tề ngụy mới mọc lên, bao vây các đồn bót. Quân địch phải nằm im trong đồn. Quyền làm chủ xã ấp vẫn thuộc về nhân dân. Đầu tháng 6-1960, đại đội 269 phục kích đánh địch ở ngã tư Châu Bình (Giồng Trôm) diệt 1 trung đội bảo an (có 1 trung úy và 5 tên đội ác ôn) thu vũ khí (có 2 trung liên). đại đội 264 diệt tổng đoàn dân vệ Minh Thuận (Mỏ Cày) bắt sống tên chỉ huy tổng đoàn và vũ trang tuyên truyền vùng Cái Mơn (Chợ Lách) - một vùng Thiên chúa giáo có lực lượng vũ trang phản động mà xưa này địch cho là “bất khả xâm phạm”.

Đến đây lực lượng ta được củng cố phát triển lên một bước.

Lực lượng vũ trang tại các xã đều phát triển thành tiểu đội và được trang bị hai, ba khẩu súng cùng dao mác, gậy gốc, mã tấu. Thanh niên nam nữ trong xã được tập hợp lại tự may sắm quần áo bộ đội, mang súng giả, tập quân sự, tập hành quân chiến đấu. Các xã chưa Đồng khởi tổ chức phát triển các tổ, đội hành động, tự vệ mật. Ở các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm - nơi có phong trào mạnh - mỗi huyện đã xây dựng 1 trung đội vũ trang tập trung. Ở thị xã Bến Tre, tự vệ mật được phát triển trong công nhân nhà máy điện, công nhân bến phà, học sinh trường trung học.

Tại căn cứ Châu Bình (Giồng Trôm) cuối tháng 6-1960, Tỉnh ủy quyết định xây dựng một đại đội tập trung cơ động của tỉnh mang phiên hiệu đại đội 261.

Ban chỉ huy đại đội gồm các đồng chí Trần Khắc Chung, Nguyễn Văn Nguyễn, Đào Công Sinh.

Ngày 1-7-1960, trường huấn luyện tân binh, đào tạo cán bộ tiểu đội được thành lập tại huyện Thạnh Phú mang tên trường Võ Tấn Nhứt khai giảng khóa đầu có 130 học sinh tham gia học tập.

Lực lượng chính trị phát triển mạnh được tổ chức thành đội ngũ chặt chẽ, có sinh hoạt thường xuyên, có kinh nghiệm đấu tranh trực diện với địch. Xã nào cũng sẵn sàng một lực lượng từ 300 đến 1.000 người đi đấu tranh chính trị theo lệnh cấp trên. Đến mùa thu năm 1960, Bến Tre có thể huy động từ 5.000, 10.000 đến 20.000 lực lượng cho 1 cuộc đấu tranh và có khả năng hợp đồng tiến công địch trên diện rộng.

Các ban chuyên môn giúp việc Tỉnh ủy, Huyện ủy được hình thành.

Ban quân sự tỉnh được thành lập có cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần và tổ chức công trường sản xuất, sửa chữa vũ khí.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2011, 09:27:44 am
Trải qua đợt Đồng khởi mùa xuân và các đợt Đồng khởi đệm, phong trào cách mạng Bến Tre đã từng bước lớn mạnh. Lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang phát triển nhanh và chất lượng ngày càng cao. Các cơ quan tham mưu của tỉnh đã hình thành và được kiện toàn từng bước để thích ứng với yêu cầu tổ chức và chỉ đạo những cuộc đấu tranh chính trị, quân sự qui mô lớn.

Sau khi bị thất bại liên tiếp, ngụy quyền Sài Gòn đưa đến Bến Tre 10 đại đội lính bảo an, 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 21 chủ lực ngụy đóng giữ thị xã. Chúng tung toàn bộ lực lượng bảo an và biệt động trong tỉnh tăng cường cho các đồn bót, yểm hộ cho bọn tề, bọn dân vệ lưu vong trở lại xã ấp.

Với lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã phát triển vào có kinh nghiệm chiến đấu, tại các xã, ấp quân và dân ta đã chặn đánh quân địch, giam chân chúng trong các đồn bót; đồng thời liên tục mở các cuộc đấu tranh chính trị trực diện với bọn ngụy quân ngụy quyền ở các xã quận để phối hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự.

Ngày 19-8-1960, đại đội 261 lần đầu tiên xuất quân đã phục kích tiêu diệt gọn 1 đại đội bảo an địch ở ngã tư Phước Hiệp thu 20 súng.

Tháng 9-1960, Xứ ủy Nam bộ quyết định phát động toàn Nam Bộ Đồng khởi.

Khu ủy Khu 8 ra chỉ thị lấy ngày 23-9-1960 là ngày các tỉnh trong toàn Khu Đồng khởi.

Chấp hành chỉ thị của cấp trên, Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre chủ trương mở cuộc Đồng khởi đợt 1 trong toàn tỉnh thời gian từ 15 đến 20 ngày. Hướng chính là huyện Giồng Trôm, hướng phụ là huyện Mỏ Cày. Điểm chỉ đạo của Tỉnh ủy là 5 xã: Phong Nẫm, Phong Mỹ, Châu Phú, Châu Hòa, Châu Bình thuộc huyện Giồng Trôm.

Cuộc Đồng khởi đợt 2 này có nhiều thuận lợi. Nhưng cũng có khó khăn: Đó là yếu tố bất ngờ không còn, địch đã tăng cường đề phòng, đối phó - nhất là các đồn bót ở xã ấp.

Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ thị cho các thị trấn, thị xã phải đẩy mạnh hoạt động để thu hút quân địch, phân tán bớt sức đối phó của chúng ở nông thôn.

Ngày 21 và 22 tháng 9 năm 1960, hang vạn nhân dân được huy động vào thị xã mua gạo, muối, dầu lửa dự trữ, tung tin tiểu đoàn 502 sắp đánh lớn. Lớp lớp nối tiếp nhau đi vào thị xã; nhiều bà, nhiều chị ra vào chợ không biết bao nhiều lần và nhân dân gọi đây là cách “đi chợ nhồi”. Thị xã tràn ngập người đi chợ. Giá cả tăng vọt. Nhân dân xôn xao bàn tán. Ngày 23-9-60 - theo kế hoạch - dân không đi chợ, nhà buôn dẹp quầy hàng, đóng cửa tiệm. Thị xã Bến Tre bỗng nhiên lặng ngắt. Ngụy quyền tỉnh hốt hoảng. Tiếp đó trưa ngày 23-9, đại đội 261 - lực lượng vũ trang tập trung của tỉnh - phục kích tiêu diệt gọn 1 trung đội bảo an tại Tân Thạch trên đường từ Mỹ Tho vào thị xã. Cùng lúc, trung đội vũ trang huyện Giồng Trôm cũng tiêu diệt gọn một trung đội bảo an tại Lương Quới trên đường từ Giồng Trôm vào thị xã. Đêm 23-9 tự vệ thị xã diệt đồn dân vệ cầu Nhà thương, tước vũ khí của dân vệ cầu Cái Cối. Tưởng rằng ta sắp tiến công thị xã, sáng ngày 24-9, địch vội vàng điều hai tiểu đoàn đang đóng ở Giồng Trôm về phòng giữ thị xã Bến Tre. Chiều 24-9, nhân dân các xã Lương Hòa, Long Mỹ, Bình Hòa (Giồng Trôm) đã chuẩn bị sẵn một ngàn cây dừa, cây chuối kết thành chiếc bè khổng lồ theo dòng nước thủy triều đang xuống tấp vào cột cầu Bình Chánh làm sập cầu. Con đường từ thị xã đi Giồng Trôm, Ba Tri bị đứt.

Như vậy là quân chủ lực của địch bị hút về thị xã, đường giao thông bị cắt, kế hoạch nghị binh làm lạc hướng phán đoán của địch do Tỉnh ủy đề ra được đồng chí Nguyễn Văn Trung (Hai Trung) - Tỉnh ủy viên cùng huyện Giồng Trôm thực hiện một cách trọn vẹn.

Đúng 17 giờ ngày 24-9-1960, tiếng trống, tiếng mỏ nổi lên vang động khắp nơi trong tỉnh. Bến Tre bừng bừng khí thế bước vào Đồng khởi đợt 2.

Năm xã “điểm” của tỉnh: Phong Nẫm, Phong Mỹ, Châu Phú, Châu Hòa, Châu Bình do Thường vụ Tỉnh ủy trực tiếp chỉ huy nối liền nhau trên bờ sông Ba Lai (huyện Giồng Trôm) là nơi có cơ sở quần chúng mạnh, có đội vũ trang vừa mới xây dựng, có cơ sở nội tuyến vững chắc trong các đồn dân vệ. Đặc biệt tại đồn Châu Phú ta có cơ sở nội tuyến là anh Chống - đại đội trưởng đại đội bảo an - với danh nghĩa là “nghĩa binh công giáo”.

15 giờ ngày 24-9, bọn lính ở đồn Châu Phú được lệnh của đại đội trưởng gom súng để kiểm tra. Trong lúc đó, một tiểu đội của đại đội 261 giả làm lính bảo an kéo thẳng vào đồn. Cơ sở nội tuyến kêu gọi binh lính đầu hàng, đồng thời bộ đội ta xông vào tước súng; nhân dân kéo đến san bằng đồn. Ngay sau đó, lực lượng ta cùng cơ sở nội tuyến dùng xe lam tiến vào bót nhà thờ Châu Phú. Địch không kịp trở tay; ta thu gọn đồn này không tón một viên đạn. Lực lượng ta tiếp tục sang đồn Châu Thới. dẫn đầu các gia đình binh sĩ, đại đội trưởng Chống vừa kêu gọi địch đầu hàng vừa đạp bung cửa đồn. Quân ta tràn vào đồn, bọn lính buông súng đầu hàng.

Cùng lúc, nhân dân các xã Phong Nẫm, Phong Mỹ, Châu Bình, Châu Hòa cùng với các tiểu đội vũ trang trong xã kết hợp với nội tuyến san bằng các đồn bót ở dọc sông Ba Lai mở ra một vùng giải phóng rộng lớn. Ta thu 100 súng, bắt tên 100 tù binh.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2011, 09:29:08 am
Đêm 24-9-1960, nhân dân họp mít tinh mừng thắng lợi và bàn kế hoạch chống địch càn quét.

Sáng 25-9-1960, hơn 2.000 đồng bào kéo vào thị trấn Giồng Trôm, thị xã Bến Tre và nhà thờ La Mã (Hiệp Hưng) loan tin đại đội trưởng Chống cùng đại đội nghĩa binh đã theo cách mạng, yêu cầu “chánh quyền” bảo vệ tính mạng, tài sản cho dân; không được khủng bố bắn phá và đòi bồi thường chồng con đi lính bị mất tích. Đồng thời tại thị xã Bến Tre, ta đã thả 30 tù binh, giáo dục 100 tên khác rồi cho về với gia đình. Binh sĩ địch bàn tán xôn xao; gia đình binh sĩ ngụy hết lời ca ngợi chính sách khoan hồng, nhân đạo của cách mạng.

Cùng với 5 xã điểm, đêm 24-9-1960, hàng vạn nhân dân ở gần 100 xã trong tỉnh đồng loạt nổi trống mõ, đốt ống lói, đốt đuốc, thắp đèn sáng rực xã ấp biêu tình thị uy vây đồn, phát loa gọi hàng, chiếm đồn bót địch. Đèn, cây, dây, mõ là bốn thứ mới ngày hôm qua địch dùng để bắt dân lùng diệt Cộng sản thì hôm nay nó là vũ khí của mỗi người dân vùng dậy lùng bắt tề ngụy, đập tan ách kềm kẹp của chúng.

Trước uy lực của toàn dân Đồng khởi, tại Giồng Trôm, 20 đồn bót đã nộp súng xin hàng. Tại Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú, hàng chục đồn bị diệt, hang chục xã được giải phóng.

Tại huyện Mỏ Cày, kẻ địch ở đây đã bố trí đề phòng, đã tăng cường lực lượng cho một số đồn bót, khống chế chặt từng khu vực.

Ngày 30-10-1960, Ban lãnh đạo tỉnh điều đại đội 261 từ Giồng Trôm sang tăng cường cho Mỏ Cày. Đại đội 261 sau khi vượt sông Hàm Luông đã kết hợp vơi nội ứng lấy đồn Cái Quao, giải phóng xã An Định và tiếp đó xuống Hương Mỹ. Bọn dân vệ ở bót Tân Trung hoảng sợ rút chạy. Bộ đội ta bao vây, bức hàng đồn Minh Đức. Một loạt xã tại Nam Mỏ Cày nổi trống Đồng khởi, giành quyền làm chủ. Ở Bắc Mỏ Cày, trung đội vũ trang huyện cùng nhân dân bức hàng các đồn Thanh Tân, Tân Phú Tây, bao vây cô lập đồn Cái Mơn. Một loạt xã kể cả vùng nhân dân theo đạo Thiên chúa cũng thừa cơ nổi dậy giành quyền làm chủ.

Đồng khởi đợt 2 rộ lên trong khoảng 20 ngày và tiếp tục đến cuối năm.

Trong tháng 10-1960, địch đã tung lực lượng ra phản kích. Hàng loạt cuộc đấu tranh chính trị trực diện chống địch khủng bố, càn quét đã diễn ra khắp các xã, thị trấn, thị xã.

Tại nhà thờ La Mã, Cái Mơn hàng trăm giáo dân Thiên chúa đưa đơn kiến nghị buộc cha cố không được tiếp tay cho giặc. Tại quận lỵ Trúc Giang, hơn 1.000 dân các đạo giáo biêu tình phản đối quận trưởng đưa lính đi càn quét khủng bố nhân dân, đòi rút quân đang càn quét về.

Trong khi đó, với vùng giải phóng đã mở rộng, đại đội võ trang tập trung của tỉnh đã cơ động, chủ động đánh địch càn quét. Tháng 12-1960, tại Giồng Trôm đại đội 261 và 1 trung đội huyện vây đồn Sơn Đốc (Hiệp Hưng) để diệt viện đã tiêu diệt gọn 1 đại đội bảo an quân và 3 tên đại úy chỉ huy chi khu, bắt sống 32 tên, phá hủy 3 xe quân sự, thu toàn bộ vũ khí. Tiếp đó, tại huyện Mỏ Cày, đại đội 261 và trung đội của huyện phục kích đánh địch càn quét ở cầu Kinh nhỏ (An Thới) và cầu Kinh lớn (An Thạnh) diệt 1 đại đội bảo an quận, bắt sống 17 tên.

Chiến thắng ở Sơn Đốc, An Thới, An Thạnh đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang tỉnh Bến Tre, báo hiệu bước phát triển mới của đấu tranh vũ trang trên địa bàn tỉnh.

Cuố năm 1960, trong 115 xã ở tỉnh Bến Tre đã có 51 xã hoàn toàn giải phóng, 21 xã được giải phóng 1 phần. Nhân dân làm chủ 300 ấp trong tổng số 500 ấp. Hệ thống kềm kẹp của địch ở nông thôn bị đập tan nát.

Ngày 28-12-1960, Đại hội nhân dân tỉnh Bến Tre khai mạc tại huyện Ba Tri. 400 đại biểu các nơi về dự. Đại hội đã bầu ra ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh làm chức năng của chính quyền cách mạng tỉnh Bến Tre.

Cuộc Đồng khởi năm 1960 là biểu tượng của tiềm năng cách mạng và năng lực sáng tạo của quần chúng được phát huy cao độ. Nó là sản phẩm đầu tiên của nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15. Nó là cao trào cách mạng của quần chúng lây lực lượng chính trị làm chính kết hợp với lực lượng binh vận và lực lượng vũ trang còn nhỏ bé tiến hành một cuộc khởi nghĩa từng phần nhằm phá tan bộ máy chính quyền địch ở nông thôn, giành quyền làm chủ.

Cao trào Đồng khởi Bến Tre đã góp phần xuất sắc vào cao trào tiến công và nổi dậy ở các tỉnh Nam Bộ và toàn miền Nam. Nó mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của 60 vạn nhân dân tỉnh Bến Tre.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2011, 09:32:38 am
(http://img703.imageshack.us/img703/9379/43579227.jpg)

Nhân dân Bến Tre biểu tình chống chế độ Mỹ Diệm

(http://img855.imageshack.us/img855/5774/79431894.jpg)

Quang cảnh Đồng khởi ngày 17-1-1960

(http://img844.imageshack.us/img844/8676/29978081.jpg)

Nhân dân xử tội tề điệp

(http://img823.imageshack.us/img823/361/04aq.jpg)
(http://img696.imageshack.us/img696/372/04bk.jpg)

BỘ THAM MƯU CỦA CUỘC ĐỒNG KHỞI 1960
Trái sang phải: Nguyễn Tâm Cang, Lê Minh Đào, Võ Văn Phẩm
Nguyễn Thị Định, Nguyễn Văn Trung, Phan Văn Giảng


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2011, 09:34:59 am
(http://img849.imageshack.us/img849/6141/21613372.jpg)

Bọn địch hoảng sợ, xua lính ra ngăn chặn bước tiến của đội quân tóc dài

(http://img811.imageshack.us/img811/1877/32496200.jpg)

Lễ thượng cờ Mặt trận

(http://img96.imageshack.us/img96/84/96496626.jpg)

Cuộc mít-ting chào mừng Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
ra đời ngày 20-12-1960


(http://img854.imageshack.us/img854/7706/96323885.jpg)

Nhà ông Bảy Song (xã Bình Khánh), nơi thành lập trung đội vũ trang
đầu tiên của tỉnh (19-1-1960)


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2011, 09:36:25 am
(http://img641.imageshack.us/img641/5610/41879798.jpg)


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Sáu, 2011, 03:43:01 pm
Chương ba

ĐỒNG KHỞI PHÁT TRIỂN LÊN CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG
ĐÁNH ĐỊCH BÌNH ĐỊNH GOM DÂN LẬP ẤP CHIẾN LƯỢC
(1961 - 6-1963)

I

PHÁT TRIỂN CHIẾN TRANH DU KÍCH,
LIÊN TỤC TIẾN CÔNG QUÂN ĐỊCH

Bước vào năm 1961, cách mạng miền Nam đã chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ chuyển từ khởi nghĩa từng phần ở nông thôn lên chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện.

Tại vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng rừng núi khu 5, sáu triệu nhân dân đã làm chủ xã ấp, làm chủ cuộc sống. Mỗi người dân từ già, trẻ, gái, trai - ai ai cũng chăm lo xây dựng Mặt trận dân tộc giải phóng; vào các đoàn thể quần chúng; xây dựng du kích; tham gia và nuôi dưỡng quân giải phóng và không ngừng tiến công quân địch bảo vệ thành quả cách mạng.

Trên đà thắng lợi của cao trào Đồng khởi, nhân dân và các lực lượng vũ trang tỉnh Bến Tre đã liên tục đánh địch, dồn chúng vào thị xã, thị trấn, các vùng ven đường giao thông và các cứ điểm. Trên chiến trường đã hình thành 3 vùng rõ rệt: vùng giải phóng, vùng tranh chấp, vùng yếu thị xã, thị trấn.

Tháng 1-1963, Tỉnh ủy chủ trương nhanh chóng xây dựng lực lượng, phát triển rộng rãi phong trào du kích chiến tranh, xây dựng xã ấp chiến đấu và liên tục tấn công địch, bẻ gãy các cuộc càn quét lấn chiếm của chúng, bảo vệ củng cố vùng giải phóng, chuẩn bị mọi điều kiện để giải phóng thị xã Bến Tre.

Lúc này, vùng giải phóng rộng lớn bao gồm 40 xã đã tạo ra một thế trận liên hoàn trên các cù lao mà nổi bật là cù lao Minh và cù lao Bảo.

Việc xây dựng, củng cố vùng giải phóng đã được cá cấp ủy Đảng đặc biệt coi trọng. Ở các vùng này, gần 40 vạn nhân dân đã dốc sức, dốc lòng xây dựng cuộc sống mới, chế độ mới. Các Ủy ban Mặt trận với chức năng chính quyền tự quản đã điều hành mọi công việc trong xã, ấp. Việc giảm tô, đảm bảo nguyên canh, chia lại công điền được thực hiện. Hàng vạn hécta rruộng đất đã về tay nông dân lao động. Cảnh cơ cực, quanh năm túng thiếu, đói nghèo từng bước bị đẩy lùi. Các hội nông dân giải phóng, phụ nữ giải phóng được phát triển mạnh. Đội quân chính trị quần chúng đã thường xuyên hình thành từng bước mũi tranh chính trị, mũi đấu tranh binh vận. Trường học, phòng thông tin, nhà bảo sanh được dựng lên ở nhiều nơi. Thanh thế vùng giải phóng đã thu hút cổ vũ mạnh mẽ nhân dân vùng sâu, vùng yếu. Đồng bào thị xã, thị trấn ra vùng giải phóng, xem văn công, văn nghệ mang cả tiền của đóng góp cho cách mạng, nuôi dưỡng cán bộ và lực lượng vũ trang.

Trên địa bàn từng xã, nhân dân đã trồng cây, gây rừng, xẻ kinh, xắt mương, đào chiến hào. Du kích, tự vệ đắp vị trí bắn, gài mìn, xây ổ chiến đấu. Đường vào ấp trên rải lá, dưới cắm chông, trước cổng ấp đề hai chữ: “tử địa”. Hệ thống báo động dây chuyên được tổ chức từ ấp này sang ấp khác. Các phương án chiến đấu được vạch sẵn vừa bảo đảm diệt được giặc vừa giữ được thế họp pháp đấu tranh chính trị trực diện với địch. Hầu hết các xã đều lập lò rèn sản xuất dao găm, mã tấu… thực hiện võ trang toàn dân.

Xã ấp chiến đấu thực hiện ngày càng nhiều. Ở huyện Mỏ Cày có xã Đa Phước Hội, Phước Hiệp, Bình Khánh, Minh Đức, Thạnh Ngãi; ở huyện Thạnh Phú có xã Thạnh Phong; ở Châu Thành có xã Tân Thạch, An Khánh, Phú Túc; ở Giồng Trôm có xã Châu Bình; Thuận Điền; Ba Tri có xã Phú Lễ, An Bình Tây; Bình Đại có xã Bình Đại, Thới Thuận, Lộc Thuận, Thừa Đức. Đó là những xã chiến đấu điển hình; là những tế bào hoàn chỉnh của chiến tranh nhân dân địa phương; là những trận địa lợi hại thường xuyên tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch.

Cùng với xây dựng vùng giải phóng, Tỉnh ủy đã chọn các xã Lương Hòa, Lương Quới, Thuận Điền, Long Mỹ, Tân Hào, Phước Long, Thạnh Phú Đông, Hiệp Hưng của huyện Giồng Trôm và các xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh, An Định, Thành Thới ở huyện Mỏ Cày làm địa bàn cơ động và vùng căn cứ trọng yếu của tỉnh. Đứng chân ở các địa bàn này, Tỉnh ủy chỉ đạo xuống các huyện được dễ dàng, thông suốt và có điều kiện thuận lợi để tác động nhanh vào thị xã, tạo được thế hợp đồng chiến đấu giữa nông thôn và thành thị.

Về lực lượng vũ trang, Tỉnh ủy đã chủ trương phát triển ba thứ quân làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc.

Đầu năm 1961, Bến Tre đã đưa 2 đại đội bộ binh, một số cán bộ chủ chốt của tỉnh như đồng chí Lê Minh Đào và 3 đồng chí: Tư Vũ, Tư Lập, Tám Thư - Phó Bí thư Huyện ủy kiêm Trưởng ban quân sự huyện Ba Tri, Châu Thành, Giồng Trôm về quân khu góp phần xây dựng bộ đội chủ lực khu.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Sáu, 2011, 03:44:24 pm
Ban quân sự tỉnh đã gấp rút xây dựng một đại đội mới lấy phiên hiệu: đại đội 261B. Đồng thời mỗi huyện cũng xây dựng một đại đội bộ binh có đủ 3 trung đội; mỗi xã có từ một trung đội đến hai trung đội dân quân du kích. Các phân đội cối 60 ly, đặc công thủy, công binh, thông tin, trinh sát được thành lập. Bộ máy chỉ huy quân sự được hình thành từ tỉnh đến xã. Các ban binh vận, ban đấu tranh chính trị được tăng cường cán bộ và do các đồng chí cấp ủy viên có năng lực phụ trách. Mạng lưới thông tin vô tuyến điện được mở thêm ở nhiều huyện.

Lúc này, tại Nhà trắng và Lầu năm góc, Tổng thống Hoa Kỳ và bộ máy chiến tranh của ông ta đang bày mưu tính kế để chống lại phong trào cách mạng miền Nam. Kế hoạch “chống nổi dậy”(1) đã không ngăn chặn được phong trào Đồng khởi; bọn ngụy quân, ngụy quyền đang bị động đối phó khắp nơi.

Ngày 31-1-1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam. Chỉ thị vạch rõ: “… Đến nay, do lực lượng so sánh đã thay đổi, cần phải chuyển hướng phương châm đấu tranh: Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự”(2).

Hình thành từ trong lòng Đồng khởi, cuộc chiến đấu của quân và dân Bến Tre đã phát triển khắp các địa bàn, các xã ấp và đã đánh địch càn quét bảo vệ xóm làng.

Ngày 20-1-1961, địch sử dụng bọn thủy quân lục chiến càn quét ấp An Quy xã Đa Phước Hội, đại đội 261 đã phối hợp với lực lượng vũ trang huyện Mỏ Cày chặn đánh diệt 2 trung đội, thu 30 súng. Du kích xã Hữu Định (huyện Châu Thành) dựa vào xã ấp chiến đấu trong một ngày đã liên tiếp đánh trả 17 đợt xung phong của một tiểu đoàn địch, bẻ gãy cuộc càn quét của chúng, bảo vệ được xã ấp. Du kích xã Châu Bình (huyện Giồng Trôm) đánh lùi một đại đội địch khi chúng càn quét vào xã này. Ở huyện Ba Tri, chị em phụ nữ xã Phú Lễ, Phú Ngãi dùng súng ngựa trời chặn đứng cuộc hành quân biệt kích của địch ở chiến trường đồng trống. Tự vệ xã Bảo Thạnh dùng dao chém lính đoạt súng thomson của địch. Dân quân du kích tự vệ Thới Thuận (Bình Trại) dựa vào xã ấp chiến đấu chống lại địch càn quét, bắn bị thương máy bay địch. Ở huyện Mỏ Cày nữ du kích Tạ Thị Kiều (xã An Thạnh) và Út Tuyết (xã Đa Phước Hội) tay không dùng mưu lấy súng gỡ đồn bót địch. Đồng chí Nguyễn Văn Tư, Xã đội trưởng xã Tân Thành Bình đã dày công nuôi ong vò vẽ, kiên trì luyện ong đánh giặc. Qua nhiều lần tập dượt, đàn ong đã có thói quen truy đánh địch. Để nọc ong thêm độc, anh cho ong ăn rắn độc, chuột chết. Nhân dân và du kích đã phát triển đàn ong ra khắp tỉnh. Năm 1961, toàn tỉnh đã có trên 4.000 tổ ong. Mỗi bờ rào ở xa ấp chiến đấu đều có “đội quân ong” canh giữ và đón đánh địch. Ta đã đánh đồn An Định (Mỏ Cày) bằng ong vò vẽ. Tên quận trưởng Hương Mỹ và trung đội lính bảo an đi ứng cứu bị ong dượt đánh, buộc chúng phải tháo chay. Đồng chí Nguyễn Văn Tư đã được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.

Ở huyện Giồng Trôm, đồng chí Lê Văn Chính đã sáng chế giàn mang ên để đánh địch. Tại bến đò Phong Nẫm, ta đã kết hợp ong vò vẽ, hầm chông, mìn, lựu đạn gài với mang ên đánh diệt 20 tên địch. Đây là một trận đánh tổng hợp các loại vũ khí thô sơ - một sáng kiến diệt địch nổi tiếng. Đồng chí Lê Văn Chính được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua giết giặc lập công.

Với cách đánh địch tài giỏi, mưu trí của toàn dân, chiến tranh nhân dân đã phát triển rộng khắp các xã ấp.

Phối hợp nhịp nhàng với bộ đội, du kích, các tầng lớp nhân dân trong đó phụ nữ là lực lượng xung kích đã thường xuyên tổ chức các cuộc đấu tranh chính trị chống địch càn quét lấn chiếm vùng giải phóng.

Ngày 31-1-1961, tại huyện Giồng Trôm, trên 10.000 quân chúng từ khắp các xã trương cờ kéo đến thị trấn đòi bọn tay sai không được ném bom bắn phá tàn sát nhân dân và hô vang khẩu hiệu “Đả đảo Ngô Đình Diệm”. Địch lúng túng không kịp đối phó. Khi lực lượng ta quay về, địch đã bắn chết chị Xinh. Lập tức đoàn biểu tình quay lại, khiêng xác chị Xinh ập vào dinh quận trưởng, vạch mặt tố cáo bọn giết người man rợ, đòi bồi thường cho gia đình nạn nhân. Trước sức mạnh đấu tranh của quân chúng, địch khiếp sợ; chúng buộc phải mua hòm chôn cắt chị Xinh và đền 100.000 đồng cho gia đình chị.

Ngày 13-2-1961, toàn tỉnh, từ nông thôn đến thị xã, thị trấn; từ vùng giải phóng đến vùng sâu, vùng yếu, hàng ngàn quần chúng đủ mọi tầng lớp đã được huy động đi “chợ Tết” nhằm biểu dương lực lượng, nêu cao tinh thần đoàn kết đấu tranh chống Mỹ Diệm.


(1) Kế hoạch “chống nổi dậy” được Tổng thống Ken-nơ-đi duyệt và thực hiện từ tháng 2-1961 đến tháng 5-1961
(2) Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, sách đã dẫn trang 75.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Sáu, 2011, 03:49:21 pm
Như vậy là trong những tháng đầu năm 1961, lực lượng chính trị mà nòng cốt là đội quân tóc dài - một mũi nhọn lợi hại - vẫn giữ được thế đấu tranh hợp pháp, thường xuyên thọc sâu vào đàu não kẻ thù và cùng với lực lượng vũ trang dồn ép địch vào thế cố thủ, bị động đối phó khắp các địa bàn nông thôn và thành thị.

Ngày 1-4-1961, chấp hành nghị quyết của Tỉnh ủy, quân ta triển khai lực lượng tấn công thị xã.

Công tác chuẩn bị giải phóng thị xã đã được tiến hành từ tháng 1-1961. Bước vào chiến đấu, lực lượng trong nội đô gồm công nhân, học sinh, làm lực lượng chủ yếu. Các cơ sở nội tuyến trong cảnh sát, bảo an, hải thuyền được phân công, giao nhiệm vụ cụ thể. Đặc biệt trong lực lượng cảnh sát, ta có 100 nội tuyến sẵn sàng hành động. Lực lượng bên ngoài có hai đại đội của tỉnh và dân quân, du kích, thanh niên đợc trang bị dao găm mã tấu.

Lúc này, quân địch đang tập trung lực lượng giữ thị xã. tại đây chúng bố trí một đại đội bảo an, 3 đại đội thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn dù, 1 tiểu đoàn bảo an biệt kích lưu động, 7 đại đội biệt động quân, một số phân đội súng cối 81 ly, 106 ly.

Theo kế hoạch, lực lượng ta được tổ chức thành 4 cánh đánh vào thị xã: 1 cánh từ phía đông bắc thị xã đánh vào Hữu Định, cầu Bà mụ, cầu Cá lóc; một cánh từ tây bắc thị xã qua Bình Nguyên, Bình Phú đánh vào, hai cánh từ tả ngạn sông Bến Tre trong đó một cánh theo đường thủy, một cánh theo đường bộ đánh vào dinh tỉnh trưởng và nhanh chóng chiếm đài phát thanh, kêu gọi quần chúng nổi dậy giành chính quyền.

Khi được tin Bến Tre chuẩn bị tấn công thị xã, Khu ủy đã ra lệnh hoãn cuộc khởi nghĩa. Lệnh tới không kịp nên cuộc tiến công vẫn được tiến hành.

Đêm 1-4-1961, trong lúc quân ta đang triển khai lực lượng, một điều bất ngờ đã xảy ra: du kích nổ súng bắn nhầm một cán bộ lãnh đạo của ta trong khi chưa có hiệu lệnh tấn công. Địch phát hiện: chúng đã bắt được một cơ sở của ta trong nội thành. Kế hoạch bị lộ, cuộc tiến công thị xã không thành. Sau trận này, một số cán bộ và quần chúng bị bắt; cơ sở trong thị xã bị bể. Lực lượng của ta bị tiêu hao.

Rút bài học về lãnh đạo, Khu ủy Khu 8 đã nhận xét phê bình tư tưởng chủ quan, đặt yêu cầu trận đánh quá cao không phù hợp với tình hình chung của chiến trường lúc đó.

Ngày 12-5-1961, Tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi cử Giôn-xơn đến Sài Gòn phát động một cuộc “chiến tranh đặc biệt” nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta. Tiếp đó Stalay và Taylor đã vạch định và hoàn chỉnh chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.

Tại Bến Tre, tháng 5-1961, địch tăng 4 đại đội biệt động quân, 3 đại đội bảo an biệt kích, 1 tiểu đoàn công binh đưa lực lượng của chúng lên 4.000 tên. Có thêm lực lượng, chúng đã tăng cường càn quét, lấn chiếm và đóng thêm đồn bót xung quanh thị xã và các trục đường giao thông chính.

Tháng 6-1961, hội nghị Tỉnh ủy mở rộng đã xem xét tình hình địch ta trên chiến trường, rút kinh nghiệm cuộc tiến công thị xã và bàn định chủ trương, biện pháp lãnh đạo trong thời gian tới. Hội nghị đã kiểm điểm việc lãnh đạo tổ chức cuộc tiến công thị xã tháng 4 và vạch ra những khuyết điểm: Cuộc tiến công diễn ra trong khi điều kiện chủ quan và khách quan chưa thuận lợi; địch tuy bị động lúng túng trước cao trào Đồng khởi nhưng lực lượng quân sự của chúng còn mạnh, bộ máy chính quyền cấp quận, tỉnh còn ổn định. Về phía ta, tuy khí thế và phong tào cách mạng của quần chúng đang lên cao, có cơ sở nội tuyến trong bảo an, cảnh sát… Song lực lượng quân sự, nhất là bộ đội tập trung tỉnh chưa đủ sức đánh đòn quyết định để cùng với lực lượng chính trị và cơ sở binh viện “dứt điểm thị xã”. Ta lại có chủ trương lấy cơ sở binh vận làm lực lượng chủ yếu trong tấn công; điều đó không phù hợp với nguyên tắc quân sự của ta.

Cũng trong lúc này, theo chỉ thị của Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam Bộ, Tỉnh ủy đã cử một đoàn cán bộ do đồng chí Sáu Giáo và đồng chí Nguyễn Văn Kiệm dẫn đầu dùng thuyền vượt biển ra miền Bắc báo cáo với Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng về phong trào cách mạng của tỉnh nhà, đặc biệt là phong trào Đồng khởi năm 1960. Xứ ủy còn chỉ thị qua chuyến đi này tranh thủ sự chi viện của Trung ương về vũ khí, đạn dược, trang bị kỹ thuật quân sự của phong trào chiến tranh cách mạng miền Nam. tháng 7-1961, từ cửa Lợi huyện Thạnh Phú, qua 7 ngày đêm vượt sóng to gió lớn và sự kiểm soát gắt gao của địch, đoàn đã tới Thủ đô Hà Nội.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Sáu, 2011, 03:51:07 pm
Bác Hồ kính yêu đã gặp những người con của quê hương Đồng khởi - những người đã mở đầu cuộc khởi nghĩa từng phần ở đồng bằng Nam Bộ - nay lại mở đường biển ra miền Bắc, nối liền hậu phương và tiền tuyến trong năm đầu của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Phạm Hùng, đồng chí Lê Đức Thọ - ủy viên Bộ Chính trị đã nghe đoàn báo cáo bốn ngày liền về việc thực hiện phương châm hai chân, ba mũi; về xây dựng lực lượng cách mạng, tổ chức đội quân tóc dài; về vấn đề ruộng đất và chăm lo đời sống của nhân dân… Qua thực tiễn đấu tranh phong phú, sinh động của Đảng bộ, quân, dân Bến Tre, các đồng chí lãnh đạo của Đảng đã khẳng định rằng; So với thời kỳ Cách mạng Tháng Tám 1945 và chín năm đánh Pháp thì ngày nay chúng ta có những sáng tạo về nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang. Với phương thức này, ta có sức mạnh tổng hợp to lớn, do đó nhất định ta đánh thắng Mỹ.

Đây là một kết luận có tác dụng chỉ đạo xuyên suốt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre.

Tháng 9-1961, địch mở chiến dịch “bình định chiêu an” lấy huyện Mỏ Cày làm điểm hòng đánh phá vùng giải phóng và căn cứ bàn đạp của ta. Đại đội 261 của tỉnh và lực lượng vũ trang của huyện đã liên tiếp phục kích, tập kích đánh địch ở ngã tư Tân Trung, ngã tư Cái Quao diệt nhiều địch, thu nhiều vũ khí. Nổi bậy là trận tập kích của đại đội địa phương Mỏ Cày vào đại đội bảo an “Sông Mao” (Chi khu Hương Mỹ) tại An Định; ta diệt 2 trung đội địch, góp phần vào bẻ gãy chiến dịch “bình định chiêu an của địch”.

Phối hợp với lực lượng vũ trang, ngày 30-10-1961, hơn 20.000 chị em phụ nữ trong đo có 300 gia đình binh sĩ từ các ngả kéo vào thị xã biểu tinh chống địch khủng bố, chống bắt lính. Cuộc đấu tranh đã diễn ra 3 ngày liền. Địch dùng quân đội đàn áp, ném lựu đạn cay, lựu đạn khói và cắt tóc trên 300 chị em. Đoàn biểu tình vẫn không lùi bước, khôn khéo trong đấu tranh, thi gan với kẻ thù và đã chặn đứng bàn tay tội ác của chúng.

Trong lúc quân địch còn đang đối phó với lực lượng ta ở Mỏ Cày và ở thị xã, đại đội 261 cơ động xuống Thạnh Phú cùng với lực lượng vũ trang huyện công đồn diệt viện và đã diệt gọn đại đội bảo an 854 ở Giá Thẻ, thu 72 súng (có 7 trung liên).

Tháng 12-1961, theo chỉ thị của Tỉnh ủy, Ban quân sự tỉnh mở hội nghị quân sự toàn tỉnh. Nhìn lại năm qua - một năm từ Đồng khởi chuyển lên chiến tranh cách mạng với nội dung là vừa ra sức phát triển chiến tranh du kích, vừa xây dựng lực lượng, củng cố vùng giải phóng, xác định địa bàn căn cứ, xây dựng xã ấp chiến đấu… - hội nghị đánh giá: Năm 1961 hoạt động quân sự đã phát triển cả số lượng và chất lượng, phong phú về hình thức và nội dung; nhưng sự phát triển đó còn chậm so với tốc độ tăng cường lực lượng quân sự của địch và chưa tương xứng với phong trào quần chúng. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng bộ đội tập trung, đẩy mạnh hơn nữa phong trào chiến tranh du kích, đảm bảo yêu cầu phát triển ngày càng tăng cao của cuộc chiến tranh cách mạng.

(http://img844.imageshack.us/img844/3255/11156327.jpg)

Đồng chí Lê Chính quê xã Phong Nẫm huyện Giồng Trôm là người sáng kiến
ra giàn “mang ênh”. Đồng chí đang hướng dẫn du kích gài “mang ênh” diệt giặc.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Sáu, 2011, 03:53:20 pm
II

MỘT NĂM GIẰNG CO QUYẾT LIỆT

Sau hơn nửa năm chuẩn bị, tháng 11-1961 Tổng thống và Hội đồng an ninh Mỹ chính thức chấp nhận kế hoạch chiến lược “chiến tranh đặc biệt” do Stalay và Taylor đề ra.

Biện pháp chiến lược cơ bản của kế hoạch này là nhanh chóng tập trung nhân dân miền Nam vào từng khu vực gọi là “ấp chiến lược” hòng tách các tổ chức Đảng và các lực lượng vũ trang của ta ra khỏi dân. Đồng thời dùng các hình thức chiến thuật quân sự “trực thăng vận”, “thiết xa vận” càn quét bao vây, tiêu diệt các lực lượng vũ trang giải phóng. Theo kế hoạch này trong vòng 18 tháng - kể từ lúc bắt đầu chuẩn bị đến cuối năm 1962 - địch sẽ dồn hàng triệu nhân dân vào 16.000 ấp chiến lược và hoàn thành chương trình bình định của chúng.

Tháng 2-1962 Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra nghị quyết vạch rõ: “việc đế quốc Mỹ tiến thêm một bước can thiệp vũ trang vào miền Nam Việt Nam chắc chắn sẽ gây thêm khó khăn cho ta, nhưng với đà can thiệp hiện nay, về cơ bản so sánh lực lượng giữa ta với địch và đối tượng của cách mạng miền Nam chưa có gì thay đổi”(1). Bộ Chính trị chủ trương: “Kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh chính trị, quân sự, giành và giữ thế chủ động, đẩy địch vào thế bị động hơn nữa, tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, ra sức phá kế hoạch Stalay - Taylor”(2).

Tháng 3-1962, tại Bến Tre địch bắt đầu triển khai kế hoạch lập ấp chiến lược. Chúng điều chỉnh, tổ chức lại chiến trường, cắt nhỏ địa bàn thành 8 chi khu, 6 yếu khu, 3 đặc khu Thiên chúa và 3 biệt khu(3).

Tỉnh Bến Tre là một tiểu khu quân sự năm trong hệ thống khu chiến thuật Tiền Giang.

Chúng tăng cường đôn quân, bắt lính theo kế hoạch năm phát triển đội quân tay sai Mỹ. Chúng bắt thanh niên đạo Thiên chúa, Hòa hảo, thanh niên ở thị xã, thị trấn vào bảo an, dân vệ. Chúng tuyển mộ cả bọn lưu manh, những tên đầu hàng phản bội vào làm nòng cốt trong lực lượng vũ trang của chúng. Chúng mở trường huấn luyện thanh niên chiến đấu ở sân bay Tân Thành. Số quân trong tỉnh từ 5.400 tên cuối năm 1961 đã tăng lên 7.300 tên cuối năm 1962. Chúng còn điều hai phân đội thiết xa vận và hải đoàn xung phong số 21 từ Sài Gòn về Bến Tre. 47 tên cố vấn Mỹ đã trực tiếp điều khiển mọi hoạt động quân sự trong tỉnh. Cùng với việc đôn quân, bắt lính địch đã dùng quân chủ lực, bảo an mở hàng loạt cuộc càn quét quy mô từ 1, 2 đại đội đến 1, 2 tiểu đoàn ở từng khu vực vài ba xã, khủng bố bắn giết nhân dân “dẫm lên căm hờn” quyết gom dân, khoanh dân vào các ấp chiến lược. Ở huyện Thạnh Phú, từ ngày 20-4 đến 10-5-1962, địch đã càn quét, khủng bố nhân dân dọc theo sông Cổ Chiên từ ấp Phú Điền, kinh Cầu Ván, rạch Muối, Cái Cát… đến vùng cù lao Đất dọc theo sông Hàm Luông và cưỡng bức hàng trăm gia đình phải bỏ ruộng vườn vào các ấp chiến lược. Ở huyện Bình Đại, địch cũng sử dụng lực lượng quân sự đi càn quét và gom trên 350 gia đình ở các vùng Tân Phú Trung, kinh số 4, rạch Mây ven sông Ba Lai vào các khu, mảng 3, 4 xã, khoanh dân tại chỗ, lập ấp chiến lược tại chỗ. Chúng đã khoanh cả chi bộ Đảng, du kích, cơ sở mật của ta vào ấp chiến lược. Chúng đưa 80 cán bộ bình định từ Sài Gòn về đóng tại xã An Bình Tây.

Tại mỗi ấp, chúng thiết lập một hệ thống hàng rào dây kém gai nhiều lớp; đào hào, đắp lũy bao bọc; gài chông, mìn, xây công sự. Bên trong ấp lại chia làm nhiều khu vực nhỏ có hàng rào ngăn cách. Mỗi ấp chỉ có 2 cửa ra vào và nhiều vọng gác để kiểm soát chặt việc đi lại của nhân dân. Địch lập các “Ban trị sự”, các tổ chức phản động; phát triển mạng lưới tình báo, mật vụ; phân loại từng gia đình; lập sổ hộ tịch; phát thẻ căn cước để khống chế và nắm chắt từng người dân. Trong mỗi ấp có 1, 2 đồn dân vệ canh giữ. Mỗi đồn có 10, 12 tên. Cuối năm 1962 địch đã khoanh, gom hàng vạn dân và lập được 115 ấp chiến lược.


(1), (2) Những sự kiện lịch sử Đảng - sách dẫn, trang 235.
(3) 8 chi khu gồm: Đôn Nhơn, Mỏ Cày, Hương Mỹ, Thạnh Phú, Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Trúc Giang.
6 yếu khu gồm: Rạch Gừa, Thời Thuận, (Bình Đại), An Hiệp (Ba Tri), An Hiệp (Sóc Sải), Thành Thời (Mỏ Cày) và Cầu Móng (Hương Mỹ).
3 đặc khu Thiên chúa: đặc khu Thiên chúa Cáo Mơn, đặc khu Thiên chúa Rạch Dầu và đặc khu Cái Bông.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Sáu, 2011, 03:55:56 pm
Nhân dân ta ở trong các ấp chiến lược đã bị tước đoạt tất cả mọi quyền sống của con người; tính mạng bị đe dọa hàng ngày, hàng giờ. Ấp chiến lược thực sự là trại giam, là cứ điểm quân sự của địch để chống lại nhân dân ta. Địch còn tung biệt kích luồn sâu, bất ngờ đánh vào vùng giải phóng của huyện Giồng[99] Trôm và Mỏ Cày; kết hợp với chiến tranh tâm lý kêu gọi đầu hàng, đầu thú uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta. Đồng thời địch đã dùng chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” đánh vào một số địa bàn căn cứ hòng tìm cách tiêu diệt lực lượng vũ trang tập trung tỉnh, huyện, các công binh xưởng và cơ quan lãnh đạo của tỉnh.

Ngay khi địch triển khai kế hoạch bình định, gom dân, lập ấp chiến lược, nhân dân Bến Tre đão ý thức được rằng; chỉ có phá được kế hoạch này của địch mới bảo vệ được quyền sống, mới giữ được ruộng đất. Khi địch vào nhà, gom dân, với khẩu hiệu “một tấc không đi, một ly không rời”, nhân dân đã dùng lý lẽ tranh thủ binh lính, chân tay địch. Địch dỡ nhà, ông bà lão ôm chặt cột nhà; phụ nữ dùng câu liêm móc bọn lính dỡ nhà. Có nơi ban đêm quần chúng báo cơ sở đốt nhà mình để lấy cơ đấu tranh chống địch gom dân. Kết hợp với đấu tranh tại chỗ, các cấp ủy Đảng đã tổ chức các chuộc đấu tranh chính trị tập trung ra thị xã, thị trấn. Tháng 5-1962, xã An Định và một số xã khác đã tổ chức hơn 10.000 quần chúng vào thị xã tố giác những hành động cướp của, giết người của bọn ác ôn. Ở các huyện Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú, mỗi lần đấu tranh, lực lượng quần chúng đông tới 5.000 đến 1.5000 người chống địch càn quét, gom dân, cào nhà. Nhiều chị em phụ nữ bị địch cắt tóc, ngâm nước, phơi nắng. Để hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị, ngày 25-3-1962, tiểu đoàn 261(1) đã phục kích tiêu diệt đại đội bảo an 354 ở ngã ba Trảng Dù (Thạnh Phước, Bình Đại). Tiếp đó bộ đội tỉnh và lực lượng vũ trang tập trung huyện Mỏ Cày tập kích diệt một đại đội biệt kích tại ngã tư An Định, bẻ gãy cuộc càn quét của địch.

Trong các ấp chiến lược, quần chúng đã liên tục đấu tranh chống kềm kẹp, đòi ra vào tự do, đòi giải quyết nhà ở, chống các tổ chức phản động của địch. Đảng viên, du kích, tự vệ mật quyết bám vào quần chúng xây dựng cơ sở, lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Một số nơi, tổ chức thanh niên chiến đấu của địch trở thành lực lượng của ta và họ đã hoạt động, canh gác theo yêu cầu của cách mạng.

Kết hợp với lực lượng bên ngoài, nhân dân trong một số ấp đả nổi dậy diệt ác ôn, phá hàng rào, làm lỏng sự kềm kẹp của địch. Năm 1962, 100 ấp chiến lược bị ta phá lỏng, phá rã. Do có lực lượng cơ động, lực lượng chiếm đóng đông, kẻ địch đã phản ứng nhanh. Ta phá địch lập lại, ta lại phá. Các ấp chiến lược Tân Thạch (Châu Thành), Xóm Chòi (Đại Điền - Thạnh Phú), các khu trù mật Rạch Gừa (Bình Đại), An Hiệp (Ba Tri) ta phá đi phá lại 30, 40 lần trong năm. Qua mỗi lần đánh phá, ta gây dựng thêm cơ sở cách mạng, phát triển lực lượng tự vệ mật và chuẩn bị điều kiện tiến lên phá dứt điểm.

Tháng 7-1962, khu chiến thuật Tiền Giang điều trung đoàn 10, sư đoàn 7 - chủ lực ngụy - tăng cường cho tiểu khu Bến Tre. Kể từ đầu năm 1961, đây là lần đầu tiên quân chủ lực ngụy về chiếm đóng chiến trường Bến Tre đến cấp Trung đoàn.

Có lực lượng chủ lực thường xuyên hỗ trợ, những tháng cuối năm 1962, địch tăng cường càn quét, chà xát, củng cố hệ thống ấp chiến lược cũ và lập thêm ấp mới. Đầu năm 1963, địch lập ấp chiến lược kiểu mẫu Tường Đa (Châu Thành); củng cố ấp chiến lược Tân Thạnch để giữ trục lộ giao thông Kiến Hòa - Định Tường; lập ấp chiến lược Thạnh Phú (huyện Thạnh Phú) hình thành vành đai Cầu Ván, Giao Thạnh; củng cố các ấp chiến lược nội ngoại ô thị xã, thị trấn và các lộ giao thông. Đồng thời địch càn quét mạnh vùng Châu Hòa, Châu Bình (Giồng Trôm); tiếp tục lấy ấp chiến lược Bình Nguyên làm thí điểm. Đến giữa năm 1963 địch đã lập được 195 ấp chiến lược trên toàn tỉnh.

Lúc này, lực lượng vũ trang tập trung tỉnh huyện phân tán hoạt động nhỏ lẻ tránh những trận càn quét lớn của địch. Theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, các đảng viên bị lộ, quen chiến đấu, khong bám được các ấp chiến lược thì thành lập chi bộ bên ngoài và có nhiệm vụ đột nhập vào ấp chiến lược diệt trừ ác ôn, hỗ trợ cho phong trào quần chúng. Chi bộ bên trong gồm các đảng viên bí mật, sống công khai hợp pháp có nhiệm vụ theo dõi, nắm quần chúng, cùng cấp tình hình cho chi bộ bên ngoài; đồng thời tuyên truyền vận động tổ chức quần chúng, phát triển cơ sở và khi có thơi cơ phối hợp trong, ngoài dứt điểm ấp chiến lược.


(1) Tiểu đoàn Hê-rôn - chủ lực Quân khu 8.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Sáu, 2011, 03:57:05 pm
Với phương hướng đó, ở Ba Tri, Huyện ủy đã tuyển chọn cán bộ kiên trì bám trụ gây dựng cơ sở, đánh địch trong từng ấp. Ở xã Phú Lễ, ta đã xây dựng được 5 tiểu đội du kích, có 3 tiểu đội sống hợp pháp trong ấp chiến lược được trang bị 27 khẩu súng và 6 tiểu đội tự vệ nằm trong tổ chức “thanh niên bảo vệ hương thôn” của địch. Tự vệ mật đã diệt địch bằng mìn tự tạo, bằng lựu đạn gài. Cô Hồng, cô Ngọc gài mìn đánh tan xác xe địch ngay trước cửa nhà mình. Tự vệ mật xã Bảo Thạnh dùng khăn rằn xiết họng tên đồn trưởng bót Tổng Khương ngay trong ấp chiến lược.

Để uy hiếp tinh thần đấu tranh của nhân dân ta, ngày 15-1-1963, địch rải chất độc hóa học ở vùng Thuận Điền, Nhơn Thành, Mỹ Thạnh, lương Phú thuộc vùng căn cứ huyện Giồng Trôm. Một em bé 3 tuổi bị quân thù giết hại, một số đồng bào ta bị nhiễm độc. Vườn tược, cây trái bị phá trụi. Cả xóm làng xáo động; cả tỉnh căm thù bọn giết người man rợ. Ngày 17-1-1963, nhân dân các huyện Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri, Mỏ Cày, Thạnh Phú - đông tới 30 ngàn người - bất chấp sự ngăn chặn của địch, vượt qua bọn lính cản đường, tranh thủ binh sĩ, cảnh sát tràn vào thị xã và cùng với các tầng lớp nhân dân trong thị xã vây kín tòa hành chính buộc tên tỉnh trưởng phải ra nhận tội ác. Cuộc đấu tranh có có tiếng vang lớn và trực tiếp đánh vào âm mưu bình định nông thôn của địch.

Ngày 9-3-1963, địch dùng 2 trung đoàn chủ lực và bọn bảo an, dân vệ địa phương càn vào 3 xã Châu Hòa, Châu Bình, Phong Mỹ (Giồng Trôm). Ta vận động gia đình lính bảo an, dân vệ đến đấu tranh trực diện với địch. Mặc dầu bị bọn ác ôn ngăn cản đánh đập, nhiều người đã nhảy lên xe, xông ra đường cản xe, kéo, níu lôi chồng con em mình lại, không cho họ đi tàn sát đồng bào. Đồng bào thị trấn Giồng Trôm ra đứng chặn đường; đoàn xe của địch phải nằm dí tại chỗ. Dân quân, du kích bắn bị thương một số tên.

Như vậy là từ tháng 3-1962 đến những tháng đầu năm 1963, cuộc đấu tranh chống địch càn quét, gom dân, lập ấp chiến lược đã diễn ra gay go, quyết liệt trên khắp các địa bàn trong tỉnh. Kẻ địch tuy bị tiêu hao, tiêu diệt một số sinh lực, nhưng ta cũng dần dần bị lấn đất, mất dân. Ấp chiến lược của địch bị ta phá đi, phá lại nhiều lần, nhưng chưa phá được dứt điểm. Thực tiễn đó đòi hỏi phải có “đòn xeo” mới với cách đánh có hiệu quả để hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, làm thất bại cuộc phản công chiến lược của Mỹ ngụy trên chiến trường.

Ngay từ tháng 12-1962, đồng chí Võ Chí Công - Thường vụ Trung ương Cục khi về kiểm tra tình hình tỉnh Bến Tre đã xác định: trong cuộc chiến tranh cách mạng toàn dân, toàn diện của ta, lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân đều là lực lượng cơ bản quyết định; nhưng khi đã đi vào chiến tranh thì lực lượng vũ trang có vai trò trực tiếp quyết định. Đầu năm 1963, khi chuẩn bị cho hội nghị Tỉnh ủy, Đảng ủy Ban quân sự tỉnh cũng đã xác định: Trong công tác chỉ đạo quân sự ta chưa tập trung xoáy vào công tác phá ấp chiến lược; lực lượng vũ trang tập trung chưa đánh được những trận tiêu diệt để hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy tạo thành một cao trào phá tan ấp chiến lược của địch. Do đó ta chưa chuyển được tình hình có lợi cho ta.

Từ đây cuộc đấu tranh đánh phá ấp chiến lược của quân dân Bến Tre có bước phát triển mới.

(http://img705.imageshack.us/img705/3386/45053920.jpg)

(http://img6.imageshack.us/img6/4707/31766876.jpg)

Bãi biển Thạnh Phú và Vàm Khâu Băng - Nơi tiếp nhận vũ khí
từ hậu phương miền Bắc chi viện cho chiến trường Nam Bộ.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Sáu, 2011, 03:57:29 pm
Chương bốn

CAO TRÀO TẤN CÔNG VÀ NỔI DẬY ĐÁNH BẠI
QUỐC SÁCH ẤP CHIếN LƯỢC CỦA MỸ NGỤY
(7-1963 - 12-1964)

I

CHIẾN THẮNG GÒ KEO, CHUYỂN THẾ GIỒNG TRÔM

Những tháng đầu năm 1963, chiến trường Bến Tre đang ở thế giằng co quyết liệt giữa ta và địch. Trên toàn tỉnh, địch đã dựng lên 129 ấp chiến lược. Vùng giải phóng của ta bị thu hẹp một phần. Cuộc đấu tranh giành dân, chống càn quét, đánh phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ xã ấp diễn ra hết sức gay gắt. Quân và dân Bến Tre vượt qua khó khăn tiêu hao, tiêu diệt một số sinh lực địch nhưng vẫn chưa chuyển được tình hình chung.

Tháng 4-1963, hội nghị Tỉnh ủy nhấn mạnh: Địch lấn chiếm càn quét, ta không tích cực chống càn là sai; đấu tranh vũ trang không mạnh thì đấu tranh chính trị và binh vận sẽ gặp khó khăn.

Hội nghị đã phê phán tư tưởng co thủ, hữu khuynh trong một số cán bộ, đảng viên. Hội nghị đề ra yêu cầu: Tiêu diệt sinh lực địch, gỡ đồn bót, mở rộng vùng giải phóng, giành dân, giành quyền làm chủ xã ấp, xây dựng phát triển lực lượng về mọi mặt.

Tỉnh ủy đã đề ra nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang là: Tập trung huấn luyện, nâng cao sức chiến đấu của hai đại đội tỉnh; thành lập đại đội 3 và đại đội trợ chiến; phát triển các phân đội thông tin, trinh sát, đặc công, công binh thành đại đội. Hội nghị quyết định kiện toàn các cơ quan chỉ huy quân sự các cấp và kiên quyết chỉ đạo bộ đội tỉnh, huyện đứng lại cùng nhân dân du kích đánh địch càn quét hỗ trợ cho phong trào quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược.

Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy, Ban quân sự tỉnh phát động phong trào “thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công” trong lực lượng vũ trang.

Tháng 5-1963, Ban quân sự tỉnh đã đưa đại đội 1, đại đội 2(1) về căn cứ Thạnh Phong (huyện Thạnh Phú) - nơi có địa hình thuận lợi, có điều kiện bảo đảm vật chất để huấn luyện bộ đội. Nội dung huấn luyện lần này nhằm nâng cao cả về tình độ chính trị và quân sự, đáp ứng yêu cầu chiến đấu sắp tới của bộ đội tập trung tỉnh.

Về kỹ thuật: Huấn luyện cho bộ đội biết đắp công sự hình chữ L có nắp - kiểu công sự thuận tiện cho cả khi tiến công cũng như lúc phòng ngự trong chiến đấu. Bộ đội còn được học tập 3 bài xạ kích, đặc biệt là bài học bắn đón máy bay trực thăng bằng súng bộ binh. Về chiến thuật: chú trọng nâng cao trình độ chiến thuật phục kích vận động từ cấp tiểu đội đến đại đội. Đồng thời bộ đội còn được học kinh nghiệm của trận Ấp Bắc trên chiến trường Mỹ Tho.

Được sự chi viện của hậu phương miền Bắc, lực lượng vũ trang được trang bị thêm súng ĐK57, đại liên, Thomson, súng trường K44; đồng thời phần lớn khó khăn về đạn dược được giải quyết.

Sau đợt huấn luyện, với ý định đánh địch mở rộng địa bàn, căn cứ mở rộng hành lang giao thông, Ban quân sự tỉnh đã đưa lực lượng vũ trang cơ động đứng chân trên địa bàn Giồng Trôm. Sau đợt huấn luyện, với ý định đánh địch mở rộng địa bàn, căn cứ, mở rộng hành lang giao thông, Ban quân sự tỉnh đã đưa lực lượng vũ trang cơ động đứng chân trên địa bàn Giồng Trôm.

Ngày 5-7-1963, lực lượng vũ trang tỉnh kết hợp với bộ đội huyện đánh đồn chợ Cái Mít xã Thạnh Phú Đông và phục kích chặn đánh quân viện. Địa bàn hiểm yếu này nằm ở ven sông Hàm Luông bị quân ta uy hiếp. Địch điều tiểu đoàn 3, trung đoàn 12, sư đoàn 7 đến đối phó. Chũng đổ 1 đại đội bằng máy bay trực thăng xuống đồng Gò Keo. Địch chưa kịp triển khai đội hình thì đại đội 1 đã nhanh chóng tiến công mãnh liệt, tiêu diệt những hỏa điểm, bắn rơi máy bay trực thăng và dũng cảm xung phong ngoài đồng trống diệt gọn 1 đại đội địch. Chúng tiếp tục đổ 2 đại đội còn lại xuống trận địa. Có công sự vững chắc, đại đội 1 cùng đại đội 2 và bộ đội huyện bám trụ dọc theo tuyến rào ấp chiến lược (Thạnh Phú Đông) liên tiếp đánh địch, bẻ gãy nhiều đợt xung phong của chúng. Đại đội thứ 2 của tiểu đoàn 3 trung đoàn 12 bị tiêu hao nặng. Địch không vào được đồn Cái Mít.

Nhân dân trong ấp chiến lược nổi dậy diệt ác trừ gian, phá thế kềm kẹp, giải phóng xã Thạnh Phú Đông. Quần chúng họp mít tinh vạch trần tội ác bọn tề điệp và phấn khởi xây dựng xã ấp chiến đấu.

Phát huy thắng lợi, từ ngày 10 đến ngày 13-7-1963, gần 2.000 quần chúng và gia đình binh sĩ ở các xã Thạnh Phú Đông, Hiệp Hưng, Tân Hào, Phước Long kéo đến thị trấn Giồng Trôm đòi chính quyền bồi thường thiệt hại tài sản; đòi chấm dứt bắn phá càn quét; đòi bồi thường chồng, con em đi lính bị thiệt mạng và vận động binh sĩ trở về với cách mạng.


(1) Từ đầu năm 1963 đến tháng 5-1963 đại đội 2 mới có 2 trung đội.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Sáu, 2011, 03:57:48 pm
Với kinh nghiệm chiến thắng Gò Keo, lực lượng vũ trang tỉnh cùng bộ đội địa phương huyện liên tiếp đánh địch, giải phóng xã ấp, mở rộng vùng, mở rộng địa bàn, căn cứ.

Tại Giồng Trôm từ ngày 2 đến ngày 6-9-1963, đại đội 1, đại đội 2 và bộ đội huyện đánh đồn Sơn Phú; phục kích đánh tiêu hao nặng đại đội bảo an số 232; đánh đồn Lương Phú; chặn quân tiếp viện bằng tàu trên sông Tài Phú, bắn chìm, cháy 2 tàu, diệt gọn đại đội bảo an Giồng Trôm, có tên đại úy quận trưởng.

Tiếp đó lực lượng vũ trang tỉnh cơ động xuống Ba Tri. Ngày 9-9-1963, bộ đội huyện diệt đồn Mỹ Nhơn đại đội 1, đại đội 2 phục kích vận động tiêu diệt hoàn toàn đại đội bảo an số 907 Ba Tri, bắt 35 tù binh có tên trung úy đại đội trưởng, thu 80 súng các loại.

Đây là trận phục kích vận động hợp đồng chiến đấu bao vây chia cắt diệt địch ngài đồng trống, xóa phiêu hiệu 1 đại đội bảo an khét tiếng ác ôn được thành lập từ thời Pháp. Nó đánh dấu bước trưởng thành mới của lực lượng vũ trang tỉnh.

Cùng thời gian này, tại huyện Thạnh Phú, đại đội 3 của tỉnh vừa thành lập xong đã kết hợp với bộ đội huyện đánh đồn, diệt viện, tiêu hao nặng đại đội bảo an 854 ở Cầu Ván (Giao Thạnh).

Sau trận Gò Keo, chỉ trorg một thời gian ngắn, bộ đội ta đã tiêu diệt gọn 2 đo bảo an, đánh thiệt hại nhiều đại đội khác. Lực lượng vũ trang của tỉnh đã làm được nhiệm vụ “đòn xeo” cho phong trào 3 mặt đánh phá ấp chiến lược của địch.

Vừa chiến đấu vừa phát triển lực lượng, tháng 10-1963, đại đội 4 trợ chiến được thành lập gồm các phân dội ĐK57, ĐK75 ly, “Lăng Xà Bom”. Trung đội nữ vũ trang ra đời gồm 43 đồng chí do các đồng chí Thu Hà, Mười Thành, Năm Hoa chỉ huy. Đơn vị này có nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, phát động phong trào quần chúng ở các vùng sâu, vùng yếu; cải trang vào thị xã, thị trấn nắm tình hình địch phục vụ các trận đánh lớn.

Lực lượng vũ trang của huyện từ hai trung đội đã phát triển lên đại đội. Các huyện mạnh như Mỏ Cày, Giồng Trôm đã xây dựng đại đội bộ binh bao gồm 3 trung đội và các tiểu đội thông tin, trinh sát, đặc công. Các xã có từ 1 đến 2 trung đội du kích. Lực lượng vũ trang 3 thứ quân đã phát triển đồng đều, cân đối.

Theo yêu cầu của phong trào cách mạng và tác chiến của lực lượng vũ trang, trinh sát kỹ thuật Bến Tre đã có bước phát triển mới. Với tinh thần thông minh, sáng tạo, cán bộ và chiến sĩ ta đã kiên trì dùng những Ra-đi-ô lớn “lập sóng”(1) và máy thông tin PRC 10 theo dõi, nghiên cứu những tín hiệu, điện báo, điện thoại của địch và sử dụng những tổ chức quân áo khác. Trong các trận chiến đấu ác liệt, cán bộ và chiến sĩ đã thường xuyên nắm chắc tình hình địch có khi phát hiện cả ý đồ chiến lược của chúng phục vụ kịp thời cho chỉ huy, lãnh đạo của tỉnh và cấp trên.

Tháng 12-1963, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 đã đánh giá thắng lợi của quân và dân miền Nam sau 2 năm tiến hành chiến tranh cách mạng chống chiến tranh đặc biệt của địch. Hội nghị nhấn mạnh: cần phải “quán triệt phương châm đánh lâu dài đồng thời tranh thủ thời cơ giành thắng lợi trong thời gian ngắn”(2); biết “kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang một cách linh hoạt, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều đóng vai trò rất cơ bản và rất quyết định”(3) nhưng “đấu tranh quân sự đóng vai trò quyết định trực tiếp”(4). Để thực hiện yêu cầu đó “điều quan trọng nhất, quyết định nhất trong bất cứ trường hợp nào vẫn phải nỗ lực tăng cường lực lượng của ta về mọi mặt, đặc biệt là lực lượng quân sự”(5).

Để thực hiện nghị quyết của Đảng và được sự chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy Khu 2, Tỉnh ủy ến Tre quyết tâm xây dựng lực lượng tại chỗ tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thẳng vào hệ thống ấp chiến lược của địch.

Tỉnh ủy đề ra nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang là phải diệt đồn bót, tạo điều kiện cho lực lượng quần chúng ba mặt tại chỗ đấu tranh, bao vây dứt điểm từng ấp chiến lược, đi đến giải phóng từng mảng, từng vùng giành quyền làm chủ.

Tỉnh ủy đã chủ trương tổ chức 2 đợt hoạt động đồng loạt trên các địa bàn chủ yếu:

- Đợt một; Tại cù lao Bảo (gồm Giồng Trôm, Ba Tri, Châu thành, Bình Đại) tiêu diệt đồn bót trên các giao thông từ thị xã đến thị trấn.

- Đợt hai: Tập trung lực lượng chuyển sang Mỏ Cày, bao vây đồn bót đánh quân cứu viện phá rã hệ thống ấp chiến lược làm chủ vùng nông thôn.

Để mở rộng đường hành lang giao thông liên huyện Giồng Trôm - Châu Thành, ngày 5-1-1964, đại đội 1 tập kích diệt gọn đồn cấp trung đội ở xã Phong Nẫm (Giồng Trôm) gây phấn khởi trong toàn quân.

Vừa vào đợt một, địch mở cuộc càn quét lớn ở Thanh Phú mang tên “Phượng Hoàng T.G.1”.


(1) Dùng Ra-đi-ô lớn cùng thu 1 sóng để nghe rõ tín hiệu của địch.
(2), (3), (4), (5) Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sách đã dẫn, trang 91, 92.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2011, 10:45:15 am
II

THẠNH PHÚ ĐÁNH BẠI CUỘC HÀNH QUÂN
“PHƯỢNG HOÀNG T.G.1”

Bị thất bại trong kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược ở vùng châu thổ sông Cửu Long, địch tăng cường càn quét, phản kích khắp chiến trường.

Chúng đánh phá các vùng căn cứ kháng chiến, khôi phục đường giao thông, củng cố các vành đai, chia cắt chiến trường hòng xoay chuyển tình hình có lợi cho chúng.

Tại Bến Tre, địch mở cuộc càn quét lớn vào vùng ven biển Thạnh Phú. Vùng này gồm 2 xã Giao Thạnh và Thạnh Phong có chiều dài gần 20km, có nhiều sông rạch chia cắt hình thành nhiều cồn như: cồn Rừng, cồn Tra, cồn Điệp, cồn Bững, cồn Chi v.v… Địa hình hai xã phần lớn là rừng tạp thưa và thấp, phần còn lại là những giồng cát xen lẫn với đồng ruộng. Nhân dân ở đây chuyên làm nghề cá, nghề muối, nghề ruộng và nghề giồng.

Là một căn cứ cách mạng lâu đời, một hành lang chiến lược quan trọng, nhân dân ở đây có một truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường. Lúc cách mạng gặp khó khăn, lúc quân thù lùng bắt cán bộ, vây ráp cơ sở, các mẹ, các chị và tất cả bà con cô bác đã không quản ngại nguy hiểm, hy sinh, tận tình đùm bọc, che giấu, nuôi dưỡng cán bộ, đảng viên. Cuối năm 1963, hậu phương miền Bắc đã đưa vào đây những chiếc tàu chở đầy súng ống, đạn dược đã được nhân dân gìn giữ, cất giấu và chuyển đi khắp các chiến trường.

Để ngăn chặn đầu cầu tiếp tế và đánh phá kho vũ khí của ta, ngày 7-1-1964, tướng Lê Văn Kim - Tổng tham mưu trưởng quân ngụy, tướng Lâm Văn Phát - Tư lệnh khu chiến thuật Tiền Giang và tên cố vấn quân sự Mỹ cùng tên đại tá Hoàng gia Anh - chuyên viên vùng Đông Nam Á - dùng phi cơ quan sát chiến trường trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân càn quét.

Địch dùng 4 chiến đoàn thủy quân lục chiến gồm 16 tiểu đoàn (có hơn 6.000 quân), 1 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 7 (đóng sẵn tại Thạnh Phú), 6 đại đội biệt kích (ở Mỏ Cày và Hàm Long) tấn công 2 xã Giao Thạnh và Thạnh Phong. Chúng tăng cường cho cuộc hành quân 60 máy bay (phần lớn là HU1B và trực thăng vận tải hai cánh quạt), 14 tàu chiến, 19 gian thuyền, 26 dxe M113, 12 khẩu pháo 105 và 155 ly.

Đây là cuộc hành quân càn quét lớn nhất của địch kể từ sau cuộc phản kích thất bại của 10.000 thủy quân lục chiến vào cao trào Đồng khởi năm 1960.

Địch đánh vào địa bàn ta với chiến thuật mà chúng gọi là “sa mù trận”, “bủa lưới phóng lao”. Chúng dùng phi cơ, pháo binh bắn phá mãnh liệt hủy diệt địa hình. Tiếp đó chúng cho máy bay trực thăng, tàu chiến đổ quân vào Cái Cát (Thạnh Phong), Khâu Băng (Giao Thạnh) hình thành hai cánh quân bao vây chặt hai xã Giao Thạnh và Thạnh Phong. Đồng thời chúng đổ nhiều tiểu đoàn, hình thành những cụm quân chốt từng khu vực ở cồn Rừng, Voi Đước.

Sau đó chúng sử dụng 1 chiến đoàn được gọi là chiến đoàn “phóng lao” đổ quân bằng máy bay trực thăng xuống chợ Hồ Cỏ nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang ta. bom đạn của địch đã giết hại và làm bị thương 50 đồng bào ta - hầu hết là phụ nữ, trẻ em, ông bà lão. Ở chợ Hồ Cỏ, 22 người bị thiệt mạng trong một hầm trú ẩn. Tội ác của chúng nhanh chóng lan truyền khắp vùng.

Về lực lượng của ta có bộ đội huyện, du kích và lực lượng chính trị các xã ấp, đại đội 3 - bộ đội tập trung của tỉnh, trường huấn luyện tân binh, trường quân chính, trường y tá, hai trung đội bảo vệ cán sự của Quân khu và tiểu đoàn 263.

Tiểu đoàn 263 - một tiểu đoàn chủ lực của Quân khu - vừa thành lập cuối năm 1963 do đồng chí Lê Văn Phải (Hai Phải) làm tiểu đoàn trưởng và đồng chí Lê Minh Đào làm chính trị viên. Tiểu đoàn vừa huấn luyện được 31 ngày và đang chuẩn bị kế hoạch cùng với lực lượng vũ trang tỉnh vào chiến dịch đánh phá ấp chiến lược, mở rộng vùng. Khi được tin địch càn quét lớn, tiểu đoàn đã triển khai đội hình đánh địch, quyết bảo vệ địa bàn căn cứ, quyết trả thù cho đồng bào, đồng chí bị địch giết hại. Tại Hồ Cỏ, tiểu đoàn 263 đã phục kích chặn đánh một cánh quân gồm nhiều mũi của 5 tiểu đoàn địch. Cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt. Đây là sự thử thách đầu tiên đối với tiểu đoàn. Sau hai ngày quần nhau với địch quân ta đã diệt trên 200 tên, bắn rơi, bắn cháy 32 máy bay và giữ vững được trận địa. Sang ngày thứ ba chúng tập trung nhiều tiểu đoàn hòng bao vây tiêu diệt tiểu đoàn ta. Lợi dụng đêm tối, ta hành quân di chuyển địa bàn tiếp tục đánh địch.

Tại cồn Rừng (cách chợ Hồ Cỏ 2km) địch định đổ 4 tiểu đoàn bằng máy bay trực thăng. Đại đội 3 đã đánh trả mãnh liệt. Chúng chỉ đổ được một tiểu đoàn và bị kềm chân tại chỗ. Cùng lúc, hai cánh quân ở Cái Cát và Khâu Băng cũng bắt đầu xuất phát liền bị du kích và các tổ võ trang của các trường y tá, trường quân chính, trường tân binh chặn đánh từng mũi trên từng khu vực. Đồng thời hàng ngàn chị em phụ nữ, ông bà lão xuống đường tố cáo tội ác của địch; khiêng người chết, bị thương đòi bọn chỉ huy bồi thường cho gia đình những người bị thiệt mạng; đòi cứu chữa những người bị thương; đòi chấm dứt càn quét.

Tại xã Thạnh Phong, chị em phụ nữ đã đấu tranh trực diện với bọn cố vấn Mỹ. Ngôn ngữ bất đồng, chị em ra dấu biểu thị sự phẫn uất trước những hành động dã man của chúng. Đây là lần đầu tiên phụ nữ Bến Tre đấu tranh chính trị trực diện với quân Mỹ. Cuộc đấu tranh diễn ra liên tục và ngày càng quyết liệt ở Hồ Cỏ, chị em phụ nữ dùng tay bị nòng pháo địch, trì hoãn, kéo dài thời gian hợp đồng giữa các cánh quân của chúng. Tên tỉnh trưởng hoảng sợ buộc phải cho máy bay đến chở những người bị thương vào thị xã cứu chữa.

Lực lượng du kích dựa vào xã ấp chiến đấu đánh địch liên tục. Nhiều tên chết, bị thương vì hầm chông, lựu đạn gài của du kích. Địch sợ hãi không dám lùng sục; chúng vừa hành quân, vừa dõ dẫm. hai cánh quân không hợp điểm được theo kế hoạch. Chiến thuật “bủa lưới phóng lao” bị thất bại. Địch phải trú quân 17 ngày ở Thạnh Phú và Hồ Cỏ. Quân và dân ta liên tiếp tấn công chúng.

Ngày 18-1-1964, hãng thông tin AFP bình luận: “Trận đánh lớn nhứt trong lịch sử chiến tranh trực thăng vận của Mỹ trở thành ngày tồi tệ nhất của chiến thuật này…”.

Trong khi địch càn quét căn cứ Giao Thạnh, Thạnh Phong, Tỉnh ủy, Ban quân sự tỉnh chỉ đạo lực lượng vũ trang tỉnh đồng loạt phối hợp tiến công trên khắp các địa bàn. Bộ đội tỉnh đã đánh nhiều vị trí trong thị trấn Mỏ Cày, khu trù mật An Hiệp (Ba Tri), pháo kích thị trấn Giồng Trôm, tiểu khu quân sự và tòa hành chính tỉnh; phục kích bắn cháy tàu Thập ác chở tiểu đoàn 41 - biệt động quân - trên sông Hàm Luông (đoạn Định Thủy - Mỏ Cày). Lực lượng biệt động đánh vào nhiều khu vực ở nội ngoại ô thị xã. Địch nao núng; chúng phải điều một số đơn vị về phòng thủ thị xã.

Qua 21 ngày đêm chiến đấu gian khổ ác liệt trên một địa bàn hẹp, trống trải, ta đã đánh bại cuộc hành quân càn quét qui mô lớn của địch, bảo vệ được lực lượng, giữ được nguyên vẹn kho vũ khí (trên 300 tấn). Được sự phối hợp chặt chẽ của lực lượng đấu tranh chính trị, bộ đội ta đã diệt và làm bị thương 1.200 tên địch trong đó có tên đại tá Hoàng gia Anh; bắn rơi, bắn cháy 47 máy bay; thu 200 khẩu súng. Các đơn vị tham chiến được tặng thưởng huân chương Quân công hạng 3. Trong khi đó, bọn bảo an dân vệ hoang mang cao độ. Hàng chục tên đã bỏ 10 đồn và cuốn chạy theo quân chủ lực.

Tiếp theo chiến thắng Gò Keo, chiến thắng Thạnh Phú đã tạo ra một thế áp đảo quân địch, gây niềm tin mới cho quân và dân Bến Tre bước vào đợt tiến công và nổi dậy tiêu diệt hàng loạt ấp chiến lược, mở mảng, mở vùng khắp các địa bàn trong tỉnh.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2011, 10:47:36 am
III

DIỆT TIỂU ĐOÀN “Ó ĐỎ”, MỞ MẢNG BA TRI

Cuối tháng 2-1964, Tỉnh ủy đề ra chủ trương: Tiếp tục tiến công tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, kết hợp với thế nổi dậy của quần chúng giải phóng một số vùng, tiến tới đánh bại hoàn toàn kế hoạch gom dân, lập ấp của địch ở địa phương. Về nhiệm vụ của lực lượng vũ tramg, Tỉnh ủy khẳng định: Phải diệt được địch ở hai khu vực Ba Tri và Nam Mỏ Cày, đánh bại các cuộc hành quân càn quét của chúng hỗ trợ đắc lực cho quần chúng nổi dậy bao vây, bức hàng, bức rút đồn bót, đập tan ấp chiến lược. Đồng thời ra sức xây dựng và phát triển lực lượng ta lớn mạnh về mọi mặt.

Tỉnh ủy quyết định thành lập Ban chỉ huy chiến dịch gồm các đồng chí: Phạm Văn Bê (Năm Hậu) - Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh đội trưởng; Lê Phát Tân (Hai Hồ) - Tỉnh đội phó, tham mưu trưởng tỉnh; Nguyễn Văn Kiêm (Tư Chi) - Thường vụ Tỉnh ủy, Nguyễn Văn Sông (Năm Hỏa) Huyện ủy Ba Tri, Lê Minh Đào và Lê Văn Phải (Ban chỉ huy tiểu đoàn 263).

Để giành thắng lợi, Ban chỉ huy chiến dịch đã tập trung toàn bộ lực lượng vũ trang của tỉnh kết hợp với tiểu đoàn 263 làm nòng cốt cho cuộc tiến công và nổi dậy đánh phá ấp chiến lược.

Mở đầu chiến dịch, lực lượng vũ trang đã đánh địch đồng loạt ở các huyện Châu Thành, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Bình Đại vừa tiêu diệt, tiêu hao một số đồn bót trên các tuyến giao thông, cắt đứt liên lạc của chúng; vừa nghi binh, thu hút phấn tán lực lượng địch. Đồng thời các Huyện ủy đã huy động và tổ chức quần chúng đấu tranh chính trị, biểu tình liên tục gây cho địch nhiều lúng túng. Chúng vội vã điều trung đoàn 12 sư đoàn 7 từ khu chiến thuật Tiền Giang đến thị xã Bến Tre để đối phó.

Trong lúc địch đang bị động đưa các đội bảo an đi giải tỏa khắp nơi thì tại Ba Tri - vùng trọng điểm chiến dịch - ngày 16-3-1964, một đại đội của tiểu đoàn 263 được tăng cường khẩu ĐK 75 đánh đồn Mỹ Chánh. Đồn này là một căn cứ quân sự trung tâm của khu vực Ba Mỹ (Mỹ Nhơn, Mỹ Chánh, Mỹ Thạnh) do 1 đại đội bảo an Cao Đài đóng giữ. Ta đánh sập đồn; một số tên chết và bị thương. Bộ đội trụ lại vây đồn; hàng ngàn quần chúng nổi dậy đánh trống mõ, uy hiếp địch. Bọn địch trong đồn hoảng sợ lén trốn chạy. Trước khí thế tấn công mạnh mẽ của quân và dân ta, đồn Mỹ Nhơn, Mỹ Thạnh rút chạy về Tân Xuân. Quân địch ở Tân Xuân càng hỗn loạn và sáng ngày 17-3-1964, chúng cũng bỏ đồn rút chạy. Đồn Bảo Thuận (Bảo Thạnh) bị ta vây chặt. Tên quận trưởng Ba Tri đưa 1 đại đội bảo an đến Bảo Thạnh cứu nguy. Đại đội này vừa đến Bảo Thuận liền bị quân ta đánh thiệt hại nặng; chúng phải chạy về thị trấn. Quân địch ở các đồn Phú Lễ, Phước Tuy, Phú Ngãi rệu rã. Chúng cũng chạy luôn về Ba Tri và đồn xã Diệu.

Trước tình thế nguy ngập, địch buộc phải đưa trung đoàn 12 sư đoàn 7 đến Ba Tri. Lực lượng bảo vệ tại thị xã chỉ còn 1 đại đội bảo an. Nắm chắc tình hình, Tỉnh ủy đã huy động lực lượng quần chúng và tổ chức một cuộc đấu tranh rất lớn ngay trong thị xã. Hơn 25.000 quần chúng trong đó có gần 2.000 gia đình binh sĩ được chia thành từng đoàn, từng đội có chỉ huy chặt chẽ tiến vào thị xã. Bị bất ngờ, tên tỉnh trưởng vội vàng ra lệnh cho tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 2 trung đoàn 12 sư đoàn 7 trở lại bảo vệ thị xã. Tiểu đoàn 3 (trung đoàn 12) địch gọi là tiểu đoàn “Ó Đỏ” liều mạng xuống Ba Tri. Trong lúc đó, quần chúng và gia đình binh sĩ ở Ba Tri đã nhạy bén, liên tục đấu tranh với tên quận trưởng, đòi không cho đại đội bảo an quận đi tiếp viện. Tiểu đoàn “Ó Đỏ” đơn độc hành quân đến mặt trận. Qua trinh sát kỹ thuật, Ban chỉ huy chiến dịch đã nắm chắc mọi diễn biến của địch, nhanh chóng triển khai lực lượng chuẩn bị sẵn sàng đánh địch.

17 giờ ngày 17-3-1964, tiểu đoàn “Ó Đỏ” đến đóng quân ở nền đồn Phú Lễ. Sau khi nghiên cứu địa hình, Ban chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm tiêu diệt tiểu đoàn này. Huyện ủy Ba Tri huy động quần chúng lo việc tiếp tế cơm nước cho bộ đội và đưa 300 dân công phục vụ chiến đấu. Các đơn vị được lệnh hành quân và tổ chức ngay đội hình tác chiến. Tiểu đoàn 263 bố trí từ bắc Phú Lễ đến Phước Tuy - có bộ phận chặn đầu và 2 bộ phận đánh bên sườn phía bắc đội hình được bố trí cách trận địa 1km vận động đánh bên sườn phía nam đội hình địch.

Đúng như dự kiến của ta, 7 giờ sáng ngày 18-3-1964, tiểu đoàn “Ó Đỏ” vừa rời công sự 500 mét; bộ đội ta nổ súng tiêu diệt gọn tiểu đoàn này.

Đây là trận tiêu diệt lớn đầu tiên đánh vào một tiểu đoàn chủ lực địch trên chiến trường Ba Tri. Đó là kết quả của sức mạnh tổng hợp của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Nó chứng tỏ tài năng lãnh đạo, chỉ huy của cán bộ các cấp. Nó đánh dấu bước trưởng thành mới về trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội ta.

Sau khi tiểu đoàn “Ó Đỏ” bị diệt, đồn bót ở khu vực này bị quân ta bức hàng, bức rút; một số địch chạy dồn về xã Diệu. Sáng ngày 19-5-1964, trên 2.000 quần chúng và gia đình binh sĩ ở các xã Phú Lễ, Phú Ngãi, An Bình Tây kéo vào thị trấn Ba Tri đấu tranh suốt 2 ngày liền đòi địch bồi thường thiệt hại do trận đánh gây nên. Tên quận trưởng phải bồi thường 10.000 đồng. Thừa thắng quần chúng kêu gọi binh sĩ trở về với nhân dân. Các đồn xung quanh thị trấn Ba Tri sợ hãi, binh sĩ đào ngũ, rã ngũ hàng loạt. Riêng ngày 20-3-1964 có 165 tên dân vệ, bảo an bỏ ngũ trồn về gia đình.

Như vậy, sau 5 ngày tiến công nổi dậy, quân và dân Ba Tri đã giành được thắng lợi vang dội: tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn chủ lực địch; bức rút 12 đồn; giải phóng hoàn toàn 9 xã (Mỹ Nhơn, Mỹ Thạnh Mỹ Chánh, Tân Xuân, Bảo Thạnh, Phú Lễ, Phú Ngãi, Phước Tuy, An Ngãi Tây).

Chiến thắng Ba Tri đã làm rung chuyển vùng nông thôn rộng lớn; thối động mạnh tinh thần quân địch trên khắp các địa bàn trong tỉnh.

Ở Bình Đại, tên quận trưởng Hoa vốn khét tiếng gian ác và đã nhiều lần được khen về “thành tích” gom dân, lập ấp chiến lược đến nay cũng phải hoang mang dao động.

Không để lỡ thời cơ diệt địch, Ban chỉ huy chiến dịch vừa đề ra kế hoạch nghi binh, vừa điều ngay 1 trung đội của tiểu đoàn 263, đại đội 1 và khẩu đội ĐK 75 của tỉnh bí mật luồn sang Bình Đại hoạt động. Đêm 19-3-1964, một trung đội của tiểu đoàn 263 và khẩu đội ĐK 75 đã tiêu diệt đồn Lộ Ngang xã Vang Quới. Đại đội bảo an quận Bình Đại đến tiếp cứu. Chúng hành quân cùng xe chở hành khách. Để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, đại đội 1 đã phục kích sẵn nhưng không nổ súng. Lượt về chúng đi bộ; đại đội ta nhanh chóng tiến công tiêu diệt gọn đại đội địch, thu 37 súng. Lập tức quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược giải phóng xã Vang Quới.

Binh lực bị suy yếu và sợ bị ta tiến công, bọn chỉ huy tiểu khu quyết định bỏ đồn Thừa Đức, khu trù mật Thới Thuận và dùng 12 tàu rút quân bằng đường sông Ba Lai về thị xã. Nắm chắc tình hình địch, ngày 25-3-1964, Ban chỉ huy bố trí đại đội trợ chiến thành 4 cụm dọc theo tả ngạn sông Ba Lai phục kích đánh đoàn tàu này. Đoàn tàu vượt qua Tân Xuân và khi đến Bình Khương thì bị ta chặn đánh bắn cháy 4 chiếc. Chúng kéo nhau về thị xã. Tại vàm Bần Quỳ (Phong Mỹ) - nơi hẹp nhất của sông Ba Lai - ta bắn chìm 8 chiếc tại chỗ, 4 chiếc còn lại chạy thoát.

Tại mặt trận Châu Thành, với nhiệm vụ thu hút địch, đại đội 2 cùng bộ đội huyện đã tiêu diệt đồn Tân Lợi (Tân Phú) và vũ trang tuyên truyền uy hiếp thị trấn Sóc Sài (Hàm Long) hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng diệt ác phá kềm.

Sau thắng lợi ở Ba Tri, Bình Đại, Ban chỉ huy chiến dịch điều đại đội 2 hoạt động kềm chân địch trên lộ giao thông 26 (đoạn Mỹ Lồng - Giồng Trôm). Đồng thời chuyển toàn bộ lực lượng vũ trang sang địa bàn Mỏ Cày.



Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2011, 10:48:36 am
IV

DIỆT TIỂU ĐOÀN “Ó VÀNG”, MỞ MẢNG MỎ CÀY

Sau khi kết thúc đợt mở mảng Ba Tri, với kế hoạch đã được chuẩn bị trước, đầu tháng 4-1964, lực lượng vũ trang tỉnh và tiểu đoàn 263 chuyển sang hoạt động ở Mỏ Cày. Ban chỉ huy chiến dịch đã nghiên cứu, xác định khu vực trọng điểm đánh địch ở mảng, mở vùng. Sau khi đánh giá thuận lợi, khó khăn nhất là cân nhắc yếu tố bí mật, bất ngờ, mặt trận Thơm (An Thạnh) được chọn làm điểm của cuộc tiến công. Tại đây có hai đồn: đồn dân vệ (ở công sở) có 12 tên trong đo có cơ sở binh vận của ta; đồn bảo an ở ngã ba Cây Điệp có 1 tiểu đội. Hai đồn này từ trước Đồng khởi đến nay chưa bị đánh nên địch rất chủ quan.

Mở đầu cuộc tiến công, theo ý định ban đầu, ta kết hợp với nội tuyến diệt đồn dân vệ xã, tạo điều kiện để đánh quân cứu viện. Đến giờ hợp đồng nổ súng cơ sở không dám hành động. Đêm 8-4-1964, Ban chỉ huy ra lệnh cho đại đội đặc công diệt đồn bảo an ngã ba Cây Điệp, đồng thời bao vây đồn dân vệ xã tạo sức ép buộc địch phải đi cứu viện. Sau 20 phút chiến đấu, ta diệt gọn đồn này. Tên quận trưởng kêu cứu. Sáng ngày 9-4-1964, tên tỉnh trưởng buộc phải đưa quân giải tỏa. Đúng 13 giờ cùng ngày tiểu đoàn 1, trung đoàn 12 sư đoàn 7 được mệnh danh là tiểu đoàn “Ó Vàng” bắt đầu hành quân trên đường giao thông từ Mỏ Cày đến Thơm Mặt trận diệt địch cách Thơm 4km. Địa hình ở đây phần lớn là đồng trống. Nhân dân đã hết lòng giúp đỡ, giữ bí mật, tạo điều kiện cho bộ đội đánh địch. Đại đội 1 và đại đội 3 được tăng cường ĐK 75 bố trí ở phía đông lộ từ 80m đến 100m. Tiểu đoàn 263 phục kích sát phía tây lộ. Địch sử dụng pháo binh, máy bay bắn phá dọn đường, 5 xe M113 và tiểu đoàn “Ó Vàng” hành quân đúng như ta dự kiến tiến vào trận địa. Đại đội 3 nổ súng chặn đầu địch. Đại đội 1 vận động đánh ngang sườn địch. Tiểu đoàn 263 xung phong mãnh liệt. Sau 1 giờ chiến đấu, tiểu đoàn “Ó Vàng” bị tiêu diệt gọn, 5 xe M113 bị phá hủy, 1 máy bay khu trục và 3 máy bay trực thăng bị bắn cháy, bắn rơi tại chỗ. Quần chúng nổi dậy phá thế kềm kẹp, bao vây bức rút các đồn bót, giải phóng hoàn toàn xã An Thạnh.

Bộ đội huyện Mỏ Cày nhanh chóng chuyển thế bao vậy sang thế tiến công tiêu diệt các đồn Phước Mỹ Trung, Hưng Khánh Trung, Nhuận Phú Tân, Thành An và cùng lực lượng quần chúng bao vây bức hàng chi khu Đôn Nhơn (Ba Vát) thu 300 súng; bao vậy bức rút khu trù mật Thành Thới. Đây là khu trù mật “kiểu mẫu” được Ngô Đình Diệm xây dựng từ năm 1959 và luôn có từ 1 đến 2 đại đội bảo an đóng giữ. Trên thế áp đảo quân thù, lực lượng chính trị và du kích từng xã ấp nổi dậy bao vây bức rút, bức hàng một loạt đồn bót ở ác xã An Định, Tân Trung, Cẩm Sơn, Ngãi Đăng, An Thới, giải phóng một vùng rộng lớn ở Nam Mỏ Cày.

Đường giao thông 30 (Mỏ Cày - Thạnh Phú) bị cắt một đoạn dài 10km từ Hương Mỹ đến cống Cây Keo (Đa Phước Hội). Không ngại bom pháo địch, quần chúng đã ngày đêm dũng cảm phá hoại đường này không cho địch sửa chữa. Giao thông tiếp tế của địch bằng đường bộ từ Mỏ Cày đến Thạnh Phú bị gián đoạn.

Tiểu đoàn 263 cơ động xuống Thạnh Phú. Tiểu đoàn đã tiêu diệt đồn Phú Khánh, hỗ trợ, tiếp sức cho lực lượng vũ trang và phong trào quần chúng tiến công và nổi dậy diệt đồn An Qui, An Nhơn, bao vây bức rút căn cứ Cầu Ván (Giao Thạnh), giải phóng nhiều xã ấp.

Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tiểu đoàn 263 được lệnh về Quân khu. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn đã để lại trong nhân dân Bến Tre tình nghĩa quân dân sâu đậm. Lực lượng vũ trang của tỉnh hành quân sang cù lao Bảo.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2011, 10:50:01 am
V

SAN BẰNG CỨ ĐIỂM XÃ DIỆU,
MỞ HÀNH LANG VEN BIỂN

Cùng với chiến thắng dồn dập trên khắp mặt trận, ngay 18 tháng 4 năm 1964, đại đội 2 được tăng cường 1 trung đội của đại đội 3, 1 trung đội đặc công phối hợp với cơ sở binh vận tiến công cứ điểm xã Diệu.

Tỉnh ủy chủ trương diệt xã Diệu nhằm gây thối động mạnh cho quân địch, tạo thời cơ bức rút, bức hàng đồn bót giải phóng xã, mở rộng vùng đồng thời diệt trừ tên Tổng Huẩn và những tên ác ôn đưa phong trào quần chúng Ba Tri nổi dậy mạnh mẽ hơn nữa.

Căn cứ xã Diệu nằm trên lộ giao thông Ba Tri - Tân Thủy thuộc xã An Hòa Tây, tiếp giáp với xã Vĩnh Hòa, cách thị trấn Ba Tri 1500 mét. Xung quanh là ruộng và giồng trống trải; bên trong có chợ và nhiều dãy nhà ngang dọc. Cứ điểm này là tiền đồn ven biển của huyện Ba Tri. Ở đây quân địch đã kiểm soát chặt chẽ giao thông vùng duyên hải Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Nó được cấu trúc thành khu tức giác với 3 lô cốt bê tông và 3 cao điểm xây bằng đá xanh. Tường đất cao 2 mét. Quanh bờ tường là những hố cá nhân sâu khoảng 1 mét với nhiều hàng rào kẽm gai và ao mương cắm đầy chông. Căn cứ này thường xuyên có 1 đại đội dân vệ được trang bị mạnh do tên Tổng Huẩn chỉ huy. Đại đội này được thành lập từ thời Pháp và chưa bị đánh lần nào. Ỷ vào công sự kiên cố, chúng đã khoác loác tuyên bố với nhân dân trong vùng là thị trấn Ba Lai có thể mất, nhưng căn cứ quân sự xã Diệu không thể mất. Hàng ngàn cán bộ và đồng bào ta đã bị giết, bị tù đầy, tra tấn, mổ bụng mọi gan. Cưỡng hiếp phụ nữ, cướp giật tài sản của nhân dân là việc làm thường xuyên của chúng. Tiếng căm hờn không sao kể xiết!

Khi nhận nhiệm vụ diệt căn cứ quân sự xã Diệu, cán bộ chiến sĩ đại đội 2 đã hạ quyết tâm “… vì lợi ích của nhân dân sẵn sàng hy sinh chiến đấu…”.

Theo đúng kế hoạch, 24 giờ đêm 18-4-1964, đặc công đã bắt liên lạc với cơ sở binh vận trong đồn. Đồng thời các cánh quân cũng băng qua đường tiếp cận địch. 2 giờ 30 phút, bộ đội ta đang bí mật triển khai lực lượng thì địch đi tuần tra và chúng phát hiện quân ta. Nội ứng nhanh trí nổ súng. Các mũi lập tức tiến công địch trong lúc có tiểu đội, trung đội chưa vào kịp khu vực qui định. Địch lợi dụng điểm cao chống trả quyết liệt. Chiến sĩ ta đã dũng cảm xung phong diệt từng ổ đề kháng của địch. Sau 20 phút chiến đấu, ta tiêu diệt hoàn toàn căn cứ quân sự này. Địch chết và bị thương 80 tên, ta bắt sống 10 tên, một số tên chạy thoát về Ba Tri. Tên Tổng Huẩn phải đền tội ác. Ta thu 70 súng các loại, 21 máy thông tin và nhiều trang bị quân sự. Bọn địch ở đồn Giồng Nham - sát thị trấn Ba Tri - hoảng hốt bỏ chạy. Dân vệ, bảo an bỏ ngũ trên 150 tên.

Xã Diệu bị diệt, tên Tổng Huẩn phải đền tội, nhân dân Ba Tri phấn khởi, hả lòng, hả dạ, trang trọng treo cờ Mặt trận như những ngày lễ lớn. Nhiều gia đình ăn mừng từ nay thoát khỏi cảnh sống lo âu. Nhân dân tặng quà, khao thưởng bộ đội cả triệu đồng. Giải phóng xã Diệu, ta đã giải phóng một vùng nông thôn rộng lớn sát thị trấn Ba Tri, mở rộng hành lang giao thông vùng duyên hải, tạo thế liên hoàn giữa các vùng căn cứ chủ yếu của ba huyện: Ba Tri, Thạnh Phú, Bình Đại. Bộ đội tỉnh đã được rèn luyện thêm một bước về kỹ thuật tập kích diệt cứ điểm địch có công sự vững chắc và tin tưởng hơn về cách đánh hợp đồng chiến đấu với cơ sở binh vận.

Qua hai đợt tấn công và nổi dậy đánh phá ấp chiến lược, quân và dân Bến Tre đã giải phóng phần lớn vùng nông thôn mà rộng nhất là hai huyện Ba Tri và Mỏ Cày. 16 ngàn dân thoát khỏi ách kềm kẹp của địch. Ta đã tiêu diệt, bức rút, bức hàng 40 đồn bót - có 2 khu trù mật, 1 chi khu, 2 cứ điểm quân sự cấp đại đội: diệt gọn hai tiểu đoàn chủ lực địch. Lực lượng vũ trang Bến Tre đã chiến đấu liên tục và làm tròn nhiệm vụ “đòn xeo” cho phong trào ba mặt tấn công đánh phá ấp chiến lược của tỉnh.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2011, 10:51:53 am
VI

THÀNH LẬP TIỂU ĐOÀN 516; DIỆT TIỂU ĐOÀN “CỌP ĐEN”;
GIỮ VỮNG VÀ MỞ RỘNG VÙNG GIẢI PHONG

Mùa hè năm 1964, chiến tranh nhân dân địa phương đã phát triển đến đỉnh cao. Đề đáp ứng yêu cầu của chiến tranh, Tỉnh ủy quyết định xây dựng tiểu đoàn chủ lực của tỉnh.

Ngày 24-4-1964 tại xã Tân Xuân huyện Ba Tri, tiểu đoàn 516 được thành lập. Tiểu đoàn được hình thành từ 3 đại đội bộ binh và đại đội trợ chiến của tỉnh với quân số trên 1.300 đồng chí. Những đại đội này đã trải qua quá trình chiến đấu oanh liệt, đã được rèn luyện thử thách qua những năm tháng đầy gian khổ, khó khăn. Đội ngũ cán bộ gồm một số đồng chí đã kinh qua kháng chiến chống Pháp, một số đồng chí đã trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và đã được đào tạo bồi dưỡng ở các trường quân sự của Khu và Miền. Ban chỉ huy tiểu đoàn có các đồng chí: Trần Khắc Chung (Sáu Chung), Nguyễn Văn Nguyễn (Tư Nguyễn), Nguyễn Hữu Vị (Tám Vị), Võ Văn Phát (Chín Võ). Vừa thành lập xong tiểu đoàn đã ra quanh đánh giặc ngay.

(http://i1133.photobucket.com/albums/m587/adel_robag/137.jpg)

Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 516

Tháng 5-1964, đại đội 1 và đại đội 2 tập kích đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn biệt động quân số 41 ở yếu khu Nhơn Trạch (Giồng Trôm). Đại đội 3 tập kích diệt đồn cấp tủng đội ở khu phố An Hóa (Châu Thành) tiêu hao nhiều sinh lực địch, gây ảnh hưởng tốt đối với phong trào đấu tranh chính trị, binh vận của quần chúng.

Để lập thành tích kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và 2 tháng 9 năm 1964, Ban chỉ huy quân sự tỉnh chỉ đạo lực lượng vũ trang tỉnh tiêu diệt địch, mở rộng vùng giải phóng ở khu vực Châu Thành. Sau khi nghiên cứu tình hình, tiểu đoàn 516 hạ quyết tân diệt đồn cấp trung đội xã Phú Túc, phục kích đánh quân viện trên lộ Thơ xã Thành Triệu bằng ba phương án chiến đấu(1).

Đồn Phú Túc nằm ở ven sông Cửu Long, phía bắc thị trấn Sóc Sải (Hàm Long) và cách chi khu Trúc Giang 5km về phía tây. 1 giờ 30 phút ngày 20-8-1964, đại đội 3 và trung đội đặc công được tăng cường một khẩu ĐK 75 nổ súng tiêu diệt gọn đồn này. Địch chết 13 tên, bị bắt sống 9 tên; ta thu 24 súng các loại. Thắng lợi này đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thân cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn.


(1) Ba phương án: địch hành quân từ Sóc Sải vào Phú Túc bằng lộ Thơ; địch đổ quân bằng tàu và về Sóc Sải bằng lộ Thơ; địch vào Phú Túc bằng nhiều đường và ra lộ Thơ về lộ 27.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2011, 10:53:40 am
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đại đội 3 trở về đội hình tiểu đoàn làm nhiệm vụ dự bị cho trận phục kích đánh viện ở lộ Thơ.

Lộ Thơ thuộc xã Thành Triệu nằm trong một vùng vườn hoang có nhiều mương, kinh, rạch. Mặt đường rộng 5m nối liền từ Phú Túc đến Thành Triệu và tiếp giáp tỉnh lộ 27. Đoạn đường này đã bị ta phá hoại nên địch không thể hành quân bằng cơ giới. Chúng buộc phải đi bộ trên lộ hoặc bờ kinh rất thuận lợi cho bộ đội ta phục kích vận động tiếp cận đánh địch.

Ban chỉ huy tiểu đoàn có ý định phục kích vận động đánh địch bằng đội hình hai cánh đối diện - có chặn đầu và khóa đuôi - hình thành thế bao vây chia cắt tiêu diệt địch trong phạm vi 1000 mét. 9 giờ ngày 20-8, địch dùng hai tàu lớn đổ 1 tiểu đoàn lính dù ở ấp Phú Mỹ (Phú Túc) và dùng máy bay trực thăng đổ một tiểu đoàn của sư đoàn 7 xuống cạnh đồn Phú Túc. Hai cánh quân này phối hợp càn vào xã Phú Túc. Lực lượng du kích chặn đánh diệt 3 tên, bắn rơi 1 trực thăng. Sau đó (14 giờ) tiểu đoàn biệt động quân số 41 mang danh “Cọp Đen” từ Tường Đa đến lộ đất Phú Túc (ven sông Ba Lai) cùng lúc 1 tiểu đoàn (sư đoàn 7) hành quân càn quét vùng Phú Túc và Thành Triệu. 16 giờ 30 phút chúng chia làm 2 mũi hành quân ra lộ Thành Triệu về Sóc Sải. Như vậy, địch đi không đúng với ý định bố trí đánh địch lúc đầu của ta. Ban chỉ huy tiểu đoàn nhanh chóng chuyển đội hình phục kích sang phương án 3. Các đại đội vận động đánh địch. 16 giờ 50 phút, đại đội 2 nổ súng mạnh vào đội hình phía sau địch; đại đội 1 vận động 150 mét qua kinh đánh vào sườn bên phải của chúng. Các cánh hợp đồng chiến đấu bao vây chia cắt địch thành từng bộ phận nhỏ. Sau 65 phút chiến đấu, tiểu đoàn “Cọp Đen” bị tiêu diệt gọn. Tiểu đoàn chủ lực của sư đoàn 7 bị thiệt hại nặng chạy về đồn Thành Triệu.

Dân vệ trong các đồn bót hoang mang cao độ, đào rã ngũ liên tiếp. Tên trưởng đồn Thành Triệu trốn về tiểu khu. Bọn địch ở chi khu Hàm Long được lệnh truy kích ta. Chúng không dám hành quân; 2 sĩ quan chống lệnh chạy trốn.

Trận này địch chết và bị thương gần 500 tên (có cả Ban chỉ huy tiểu đoàn và 4 cố vấn quân sự Mỹ), bị bắt sống 52 tên. Ta thu 225 súng các loại (có 1 cối 60 ly, 2 đại liên), 25 máy vô tuyến điện, có 2 máy GRC.9, 2 máy siêu tần số TR20 và nhiều loại trang bị quân sự khác.

Lần đầu ra quân, tiểu đoàn ta đã diệt gọn tiểu đoàn địch. “Đây là một trận thảm bại của cả người Mỹ và Sài Gòn. Điều đáng chú ý là việc vận dụng tài tình sáng tạo chiến thuật công đồn đả viện của quân giải phóng”(1). Nó chứng tỏ trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội đã có bước phát triển nhảy vọt. Nổi bật là trình độ chỉ huy linh hoạt, xử trí nhạy bén, kịp thời của cán bộ tiểu đoàn 516.

Bị thất bại nặng, địch tập trung quân chủ lực của khu chiến thuật Tiền Giang đến Châu Thành hòng bao vây tiêu diệt gọn cả tiểu đoàn 516. Địch đã sử dụng 3 tiểu đoàn lính dù, 2 tiểu đoàn của sư đoàn 7, 1 tiểu đoàn bảo an số 23, 2 đại đội hải quân thuộc hải đoàn 21, 2 đại đội thiết xa vận M113, trên 30 phi cơ và 14 khẩu pháo 105, 155 ly.

Chúng bố trí 2 đại đội bảo an Hàm Long, Trúc Giang và 26 xe M113 bao vây dọc theo tuyến sông Hàm Luông và sông Cửu Long từ Tân Thạch đến An Hóa. Các tiểu đoàn chủ lực, bảo an chia ra thành nhiều mũi, nhiều cánh hành quân bộ, đổ quân bằng tàu, bằng máy bay trực thăng vào các xã: Tường Đa, Tam Phước, Phú Đức, Phú Túc, An Khánh, Thành Triệu và rải quân vây chặt các xã này hòng chặn đường rút lui của quân ta.

Sau chiến thắng lộ Thơ, ngày 21 tháng 8 năm 1964 tiểu đoàn 516 rút về xã An Khánh (Châu Thành để củng cố tổ chức.

Quân địch ngày đêm cho phi cơ quan sát, tìm kiếm tiểu đoàn ta. Chiều ngày 21-8-1964, chúng ném bom, bắn pháo vào trận địa. 11 giờ ngày 22 tháng 8 năm 1964, địch đổ quân bằng máy bay trực thăng và tàu chiến (dọc theo sông Cửu Long, sông Ba Lai) và tiến vào trận địa. Địch tập trung 2 mũi nhọn đánh vào đội hình tiểu đoàn. Tiểu đoàn nổ súng đánh địch. Chúng liên tiếp mở nhiều đợt xung phong và bắn trên 10.000 quả pháo vào mặt trận. ta và địch ở thế giằng co quyết liệt. Dây liên lạc giữa Ban chỉ huy tiểu đoàn và Ban chỉ huy quân sự tỉnh bị gián đoạn. Tiểu đoàn hoàn toàn độc lập tác chiến. Sau 35 phút chiến đấu, ta đẩy lùi địch, giữ vững trận địa. Địch chết và bị thương trên 200 tên.

Sau trận này, tiểu đoàn rút quân ra khỏi xã An Khánh để về căn cứ Giồng Trôm, Mỏ Cày. Khi đến xã Tam Phước thì mọi đường hành quân đều bị địch chốt chặn. Tiểu đoàn phải quay trở lại xã An Khánh và tổ chức phòng ngự tại ấp Phước Tự.


(1) Bình luận của hãng AFP ngày 25-8-1964.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2011, 10:54:52 am
Sáng ngày 23-8, địch ném bom, bắn pháo dữ dội gần khu vực phòng ngự của tiểu đoàn. Máy bay L.19 quần đảo uy hiếp; địch phát loa kêu gọi quân ta đầu hàng. Ban chỉ huy tiểu đoàn đã nhận định hướng tấn công chủ yếu của chúng và đưa nhiều tổ ra xa đội hình chặn đánh địch. 15 giờ ngày 25-8, quân địch chia ra làm nhiều mũi thọc sâu vào trận địa ta. Toàn tiểu đoàn nổ súng chặn đánh nhiều đợt xung phong của địch. Trận chiến đấu diễn ra ngày càng ác liệt. Cán bộ, chiến sĩ đại đội 2 dùng lưỡi lê, dao găm “xáp lá cà” với địch. Đồng chí Tâm trung đội 3 đã hai lần giành giật và lấy lại khẩu trung liên trên tay địch. Sau hơn 2 giờ chiến đấu quyết liệt, quân ta đã làm chết và bị thương gần 100 tên địch.

Trong quá trình chiến đấu, nhân dân đã hết lòng giúp đỡ bộ đội, nhiều bà mẹ, nhiều chị em phụ nữ không quản ngại bom pháo ác liệt đã dũng cảm ra mặt trận tải thương, chôn giấu thương binh, tử sĩ. Mẹ Sáu ở xã An Khánh tuổi cao, sức yếu đã gom góp từng lon gạo “nuôi quân”, đã ra tận công sự đưa từng nắm cơm, ly nước cho chiến sĩ.

Đêm ngày 23-8-64, tiểu đoàn rút ra khỏi vòng vây của địch, về đóng quân tại xã Thành Triệu. Ngày 24 tháng 8, Đảng ủy tiểu đoàn cùng đồng chí Bí thư Huyện ủy Châu Thành đã quyết định phân tán lực lượng, kiên quyết vượt qua lộ 27, lộ 6, qua sông Hàm Luông về căn cứ Giồng Trôm và Mỏ Cày. Các khẩu ĐK75 ly không di chuyển theo đội hình tiểu đoàn được, đồng chí Bí thư Huyện ủy Châu Thành đã có kế hoạch cất giấu an toàn. Đại đội đăc công, đại đội huyện Châu Thành đã phân tán thành từng bộ phận nhỏ bám trụ các xã ấp cùng du kích tiếp tục đánh địch.

Như vậy tiểu đoàn ta chẳng những không bị tiêu diệt như ý muốn của kẻ thù mà trái lại qua hai trận chiến đấu phá vòng vây, ta đã diệt trên 300 tên địch. Thắng lợi này chứng tỏ tiểu đoàn tập trung của tỉnh đã đủ sức độc lập chỉ huy tác chiến tiêu diệt địch.

Lúc này bộ đội các huyện Mỏ Cày, Châu Thành, Giồng Trôm, Bình Đại đã vươn lên đánh tập kích, diệt đồn địch, giải phóng xã ấp. Nổi bật là bộ đội đặc công huyện Mỏ Cày có khẩu hiệu “đã đánh là phải thắng”. Với các đánh áp sát bờ tường, dùng lựu đạn cường tập, xung phong tiêu diệt địch, bộ đội Mỏ Cày đã diệt các đồn Rạch Dầu (Phước Mỹ Trung), Cần Đập, Kinh Ngang (Đa Phước Hội), Phú Sơn v.v…. Năm 1964 đại đội này đã đánh 32 đồn, diệt và bắt sống nhiều địch, giải phóng nhiều xã ấp. Bộ đội Mỏ Cày đã được sự tin cậy của quần chúng nhân dân và tất cả lực lượng vũ trang trong tỉnh, được toàn Quân khu nêu gương học tập và xứng đáng là con chim đầu đàn của lực lượng vũ trang tỉnh.

Cuối năm 1964, sau hai đợt tấn công và nổi dậy đánh phá ấp chiến lược, 57 xã đã được giải phóng hoàn toàn; 27 xã đã dồn địch về 1 góc và nhiều xã đang chuyển lên thế tranh chấp mạnh. Gần 300.000 dân đã thoát khỏi ách kềm kẹp của địch. Đây là thời kỳ mà thế và lực của phong trào cách mạng Bến tre đã phát triển một bước nhảy vọt; là thời kỳ chiến tranh nhân dân địa phương phát triển đến đỉnh cao. Nhân dân vùng giải phóng đã ra sức xây dựng xã ấp chiến đấu, đã cùng với du kích đắp bờ, đắp công sự, ổ, ụ chiến đấu, phát triển “đội quân ong vò vẽ” và các loại vũ khí thô sơ đánh địch càn quét bảo vệ xóm làng. Những bãi, những khu đồng tróng đã được bà con cắm chông sào chống máy bay trực thăng “nhảy giò”. Dọc đường trong thôn xóm thanh niên đã đào hầm hố tránh phi pháo địch. Việc trồng cây, gây rừng, cải tạo địa hình đã trở thành một phong trào rộng lớn của quần chúng. Nhân dân đã tích cực đóng góp sức người, sức của cho cách mạng. 8.000 thanh niên đã tòng quân gia nhập lực lượng vũ trang. Tỉnh đã đưa lên trên 6.400 thanh niên góp phần xây dựng bộ đội chủ lực Khu và Miền.

Các cấp ủy Đảng đã hết sức chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mỗi xã đều có phòng thông tin, trạm y tế, trường học; nhiều đội văn công, văn nghệ được thành lập và đã thường xuyên biểu diễn phục vụ nhân dân sản xuất và chiến đấu. Ban nông nghiệp tỉnh đã hướng dẫn nông dân làm thủy lợi, khai mương, thau phèn; đã đem giống lúa Trà Trung Tử từ miền Bắc về nhân giống, phổ biến rộng rãi trong nhân dân kỹ thuật cấy, trồng, thâm canh, tăng vụ. Nhiều tổ vạn vần đổi công được xây dựng và phát triển thành phong trào làm ăn tập thể của đông đảo bà con nông dân lao động.

Các địa bàn căn cứ chiến lược của tỉnh ở các huyện Giồng Trôm, Mỏ Cày được củng cố ngày càng vững chắc. Các hành lang giao thông liên tỉnh, liên huyện được mở rộng. Việc liên lạc trên dưới được thống nhất.

Quân và dân Bến Tre đã đánh địch mà lớn lên toàn diện và đang giữ vững và phát triển thế chủ động chiến lược trên chiến trường.

Đồng khởi năm 1960 nhân dân Bến Tre đã vùng lên đập tan bộ máy kềm kẹp của địch ở cơ sở, giành quyền làm chủ xã ấp và đã bẻ gãy cuộc phản kích của 10.000 thủy quân lục chiến giữ vững thành quả cách mạng. Năm 1964 nhân dân Bến Tre lại nổi dậy làm cuộc tổng phá ấp chiến lược của địch lập nên thành tích vang dội, góp phần xứng đáng cùng toàn Miền đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ngụy.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2011, 10:55:32 am
(http://cc0.upanh.com/23.742.30806379.LPU0/bt2.jpg)


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Sáu, 2011, 07:43:27 am
Chương năm

ĐÁNH MỸ DIỆT NGỤY GIỮ VỮNG VÙNG GIẢI PHÓNG
(1965-1967)

I

LIÊN TỤC TIẾN CÔNG ĐỊCH, GIỮ VỮNG ĐỊA BÀN
CĂN CỨ, VÙNG GIẢI PHÓNG

Cuối năm 1964 và những tháng đầu năm 1965, cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam đã giành thắng lợi lớn. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ngày càng khủng hoảng và thất bại nghiêm trọng. Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ đã từng bước đưa lực lượng chiến đấu của Mỹ và chư hầu vào miền Nam, mở rộng hoạt động không quân ném bom bắn phá miền Bắc. Ngụy quân, ngụy quyền lục đục, mâu thuẫn sâu sắc. Những cuộc đảo chính nổ ra liên tiếp.

Vào đầu năm 1965, tại Bến Tre, địch đã tăng cường thêm 62 tên cố vấn Mỹ và một nhóm của phái đoàn USOM(1). Cuối năm, số cố vấn lên đến 162 tên, trong đó có 3 đại tá. Chúng đã nắm quyền chỉ huy trực tiếp đến các chi khu. Địch ráo riết thanh lọc nội bộ. Những tên không ăn cánh hoặc ngả nghiêng trước thời cuộc đều bị thay đổi. Chúng đưa tên Nguyễn Phát Đạt về làm tỉnh trưởng đồng thời đưa những tên đã được huấn luyện về “nghề bình định” từ Ma-lai-xi-a về để tăng cường và củng cố bộ máy chiến tranh ở địa phương.

Chúng tổ chức phòng vệ dân sự thay cho thanh niên chiến đấu. Thanh niên chiến đấu được đôn lên dân vệ, bảo an và quân chủ lực. Đồng thời với việc đôn quân, địch củng cố 5 đại đội bảo an biệt lập, xây dựng thêm 4 đại đội bảo an ở Trúc Giang Hàm Long, Giồng Trôm, Chợ Lách. Lực lượng biệt kích đã tăng vọt từ 10 toán lên 40 toán; mỗi toán từ 1 đến 2 tiểu đội. Chúng tập hợp những tên đầu hàng, phản bội vào cái tổ chức gọi là “lực lượng tuyên vận”.

Ngoài hệ thống trận địa pháo trên địa bành tỉnh, các trận địa pháo ở Gò Công, Bình Đức (Mỹ Tho), Vĩnh Long, Trà Vinh được giao nhiệm vụ bắn sang vùng đông, tây Châu Thành, Bình Đại, Mỏ Cày, Hương Mỹ, Chợ Lách. Pháo ở các hạm tàu cũng được lệnh bắn phá và hỗ trợ các hoạt động của bộ binh.

Trên các cửa sông và trên các con sông Cổ Chiên, Hàm Luông, Ba Lai, Cửa Đại, lực lượng tuần giang, hải thuyền thường xuyên phối hợp hoạt động hòng bao vây chia cắt ba cù lao, ngăn chặn sự vận chuyển của ta trong tỉnh và liên tỉnh. Để tăng cường kiểm soát vùng biển Ba Tri, Thạnh Phú, đầu năm 1965, địch đã tăng cường 1 đại đội hải thuyền cho các căn cứ hải thuyền Tiệm Tôm (Tân Thủy - Ba Tri). Ở Hương Mỹ, Thạnh Phú, Ba Tri, địch xây dựng các bãi đáp máy bay trinh sát L.19. Mỗi chi khu có từ 3 đến 4 bãi đáp máy bay lên thẳng. Sân bay Tân Thành được nâng lên cấp hai.

Địch đã bố trí lại chiến trường, xắt nhỏ địa bàn trong tỉnh thành 24 tiểu chi khu; mỗi tiểu chi khu gồm từ 3 đến 5 xã. Chúng đóng thêm đồn bót, tháp canh từ sân bay Tân Thành (tây bắc thị xã) đến vươn Ươm, cầu Bà mụ (đông nam thị xã) hình thành vành đai bảo vệ thị xã. Trong các vùng địch kiểm soát, chúng vẫn tiếp tục thực hiện kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược, nhưng tập trung vào các huyện Hàm Long, Trúc Giang và Tây Bình Đại.

Ở các vùng giải phóng, địch chà xát ác liệt bằng bom đạn. Những cuộc hành quân lớn sâu vào vùng ta thì địch sử dụng lực lượng chủ lực của khu chiến thuật còn bọn bảo an đánh phá vùng ven. Ở các vùng tranh chấp, chúng tổ chức những hoạt động biệt kích, phục kích đánh phá cơ sở, bắt cán bộ, đảng viên. Ở vùng ven thị xã, thị trấn, các trục đường giao thông, chúng dựng lên nhiều khu định cư để dồn số quần chúng ở các nơi khác không chịu nổi bom đạn chạy dạt về. Và chúng gọi đó là khu “tị nạn Cộng sản”. Tại đây chúng phân phát gạo tiền, vải vóc… hòng mua chuộc, dụ dỗ đồng bào ta. Chúng rải hóa chất độc xuống vùng ven biển, vùng Ba Châu (Giồng Trôm) để phá địa hình các vùng căn cứ của ta.

Ngay từ cuối năm 1964, Quân khu đã tăng cường tiểu đoàn 261 cho Bến Tre và đầu năm 1965 lại tăng thêm tiểu đoàn 265. Như vậy đến lúc này, tỉnh đã có 3 tiểu đoàn tập trung đứng chân trên các địa bàn trọng yếu: tiểu đoàn 261, 516 ở Giồng Trôm, tiểu đoàn 265 ở nam, bắc Mỏ Cày. Đồng thời Quân khu đã chỉ đạo cho Bến Tre lấy tân binh ở địa phương để thành lập tiểu đoàn 267, 269 - chủ lực của Quân khu. Hai tiểu đoàn này được xây dựng tại căn cứ huyện Thạnh Phú. Cũng thời gian này, theo chỉ thị của cấp trên, Ban quân sự tỉnh, Ban quân sự huyện được đổi thành Ban chỉ huy Tỉnh đội, Ban chỉ huy huyện đội. Đồng chí Lê Minh Đào được Quân khu đưa về làm Tỉnh đội trưởng thay cho đồng chí Nguyễn Quân rút về Quân khu.


(1) Phái bộ thông tin tuyên truyền Mỹ.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Sáu, 2011, 07:44:44 am
Để tiện cho việc lãnh đạo và chỉ huy, Quân khu 8 và Quân khu 9 đã thống nhất việc phân định lại ranh giới địa lý của 2 tỉnh Bến Tre và Vĩnh Long. Vĩnh Long đã giao cho Bến Tre huyện Chợ Lách gồm 8 xã: Đồng Phú, Bình Hòa Phước, Sơn Định, Vĩnh Bình, Phú Phụng, Long Thời, Hòa Nghĩa, Tân Thiềng. Đồng thời Bến Tre đã cắt 3 xã ở Bắc Mỏ Cày: Vĩnh Hòa, Vĩnh Thành và Phú Sơn nhập với 8 xã trên lập thành huyện Chợ Lách mới.

Lúc này ở Bến Tre hình thái chiến trường thay đổi hẳn. Vùng giải phóng của ta liên hoàn, hành lang mở rộng, vùng tranh chấp áp sát tới thị xã, thị trấn. Phong trào du kích chiến tranh phát triển cao. Thế và lực ta đang mạnh. Địch đang bị tiến công trên nhiều hướng. Phía cù lao Minh, ta vẫn tiếp tục bao vây chia cắt 5 chi khu Mỏ Cày, Hương Mỹ, Chợ Lách bằng đường bộ buộc địch phải tiếp tế lương thực, vũ khí bằng máy bay trực thưng. Phía cù lao Bảo, ta bao vây chi khu Giồng Trôm từ 3 hướng: đông, tây và nam, thường xuyên uy hiếp địch trên liên tỉnh lộ 6A (đoạn Tân Thạch, An Khánh, Phú An Hòa) và tỉnh lộ 26 (đoạn Bình Thành, Lương Hòa, Phong Mỹ). Ở Ba Tri, ta vây đồn địch vào 4 xã quanh thị trấn. Ở tả ngạn thị xã, du kích xã Mỹ Thạnh An thường xuyên bám trụ, bắn tỉa địch trên hữu ngạn sông Bến Tre.

Từ tháng giêng đến tháng 6 năm 1965, ta liên tục đánh vào vùng sâu, vùng yếu của địch, tạo thêm nhiều vùng tranh chấp mới.

Đêm 28 tháng giêng, tiểu đoàn 516 tiến công tiêu diệt đồn Ba Rọi (thuộc tiểu chi khu Nhơn An) cách thị xã khoảng 1500 mét về phía tả ngạn sông Bến Tre và phục kích đánh tiêu hao quân viện. Diệt đồn Ba Rọi, ta đã mở rộng thêm vùng tranh chấp ở các xã Mỹ Thạnh An, Nhơn Thạnh, Phú Nhuận, mở rộng địa bàn đứng chân cho các lực lượng của thị xã, tạo thuận lợi cho việc móc nối, tiếp xúc, liên lạc với cơ sở bên trong nội ô. Sau đó, tiểu đoàn 516 kết hợp với du kích và bộ đội địa phương hai huyện Ba Tri, Mỏ Cày mở thêm khu vực tranh chấp ở Tân Xuân (Ba Tri) và An Thạnh (Mỏ Cày).

Ngày 15 tháng giêng năm 1965, 2 đại đội của tiểu đoàn 261, 516 đã tiến công diệt 2 đồn địch tại ấp Cây Điệp giải phóng hoàn toàn xã Châu Hóa, huyện Giồng Trôm. Quét sạch địch ở đây, vùng giải phóng tây bắc Giồng Trôm được mở rộng kéo dài tới 20km nối tiếp vùng giải phóng đông Châu Thành và tây Ba Tri, củng cố căn cứ hậu cần và nối tiếp hành lang vận chuyển từ Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại và Gò Công.

Để khôi phục lại tuyến đường vận chuyển từ miền Tây về miền Đông Nam Bộ, Quân khu đã chỉ đạo Bến Tre mở mảng phía đông nam huyện Chợ Lách. Ban chỉ huy Tỉnh đội đã tập trung các tiểu đoàn 261, 265, 269, 516 để thực hiện nhiệm vụ này.

Đêm 24-2, ta đánh thiệt hại nặng đồn Cây Xanh xã Tân Thiềng, tiếp tục chặn đánh trung đoàn 13, sư đoàn 9 và 1 tiểu đoàn bảo an từ Vĩnh Long sang giải tỏa. Ta đã diệt gần 200 tên, bắn rơi và bắn hỏng 5 máy bay. Địch đối phó ác liệt bằng bom đạn; bộ đội chủ lực của ta không đứng chân lại được, bộ đội địa phương và du kích hoạt động yếu nên đường không mở ra được. Tiểu đoàn 261, 265 được lệnh của Quân khu rút khỏi chiến trường Bến Tre. Theo chỉ đạo của Bộ tư lệnh Miền, ngành giao bưu vận của tỉnh đã tổ chức một tuyến đường mới - đường vận chuyển vũ khí công khai - bằng ghe hai đáy trên tuyến sông Hàm Luông, sông Tiền, đoạn từ Thanh Tân (Mỏ Cày), Phong Mỹ (Giồng Trôm) đến Cai Lậy tỉnh Mỹ Tho. Một số cán bộ, đảng viên trung kiên, dũng cảm, mưu trí đã đưa nhiều chuyến hàng quân sự vượt qua mặt địch, góp phần làm nên những chiến thắng cho những năm sau này.

Để giữ vững và phát triển thế tiến công, tháng 4 năm 1965, Thường vụ Tỉnh ủy đã họp và ra nghị quyết phải liên tục đánh mạnh, đánh sâu vào vùng yếu, thị xã, thị trấn, giao thông buộc địch phải bị động đối phó, không rảnh tay để bung ra đánh phá, lấn chiếm vùng giải phóng; phải giữ thế phong trào chiến tranh du kích, tích cực xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch, tiếp tục xây dựng cơ sở nội tuyến nắm tình hình để đánh địch có hiệu quả hơn nữa.

Lúc này, trên chiến trường Quân khu, những trận đánh lớn diễn ra liên tiếp gây tổn thất nạng nề cho địch. Bọn chỉ huy khu chiến thuật Tiền Giang đã vạch kế hoạch hành quân vào vùng bờ biển huyện Thạnh Phú quyết triệt đường vận tải quân sự tiếp tế vũ khí từ Bắc vào Nam, ngăn chặn sức tiến công của ta.

Từ ngày 28-4 đến ngày 5 tháng 5, khu chiến thuật Tiền Giang mở cuộc càn cấp trung đoàn vào các xã An Thạnh, Thạnh Phong huyện Thạnh Phú. Địch sử dụng 2 tiểu đoàn của trung đoàn 10 sư đoàn 7, tiểu đoàn biệt động quân số 41, 4 đại đội bảo an và hàng trăm lượt chiếc máy bay đánh vào khu vực “đầu cầu”(1) này.


(1) Chỉ khu vực tiếp nhận vũ khí chở bằng đường biển từ Bắc vào.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Sáu, 2011, 07:46:58 am
Phối hợp với phong trào chiến tranh chính trị toàn Miền chống sự can thiệp trắng trợn vào miền Nam của đế quốc Mỹ, ngày 1 tháng 5-1965, Tỉnh ủy tổ chức một cuộc đấu tranh chính trị lớn vào thị xã. Hơn 6.000 người từ các xã Phước Thạnh, Hữu Định, Tam Phước, Tường Đa, Phú An Hòa đã tập trung tại ngã ba Tân Thành căng băng, trương cờ biểu tình kéo vào dinh tỉnh trưởng đòi Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, đòi chấm dứt bắn phá, rải hóa chất độc giết hại nhân dân. Đồng bào thị xã đã xuống đường phối hợp đấu tranh và lôi cuốn một số sĩ quan, binh sĩ, viên chức đồng tình ủng hộ. Tên tỉnh trưởng buộc phải chấp nhận yêu sách và hứa hẹn giải quyết.

Ngày 8-6-1965, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã chính thức ra lệnh cho quân viễn chinh Mỹ trực tiếp tham gia tác chiến ở miền Nam. Đến tháng 12-1965, lực lượng quân Mỹ và chư hầu ở miền Nam đã lên đến 20 vạn tên. Đế quốc Mỹ đã chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” để xâm lược nước ta.

Trước tình hình đó, ngày 10 tháng 6 năm 1965, Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã tuyên bố cực lực phải đối hành động xâm lược nghiêm trọng của đế quốc Mỹ.

Ngày 20-7-1965, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi: “Dù đế quốc Mỹ có tăng 10 vạn, 20 vạn quân Mỹ hay nhiều hơn nữa; dù phải chiến đấu 10 năm, 20 năm hay lâu hơn nữa, nhân dân Việt Nam cũng quyết đánh đến thắng lợi hoàn toàn”(1).

Đáp lời kêu gọi của Bác, quân và dân miền Nam đã lập nên những chiến công xuất sắc ở Vạn Tường, Đất Cuốc, Bầu Bàng, Pờ-lây-me diệt hàng ngàn tên Mỹ. Ở Bến Tre, từ tháng 8 đến tháng 11, quân ta đã dồn dập đánh địch trên khắp các địa bàn. Tại xã An Quí (Thạnh Phú), bộ đội tỉnh 2 lần đánh thiệt hại nặng đồn Băng Cung, uy hiếp nặng khu vực này buộc địch phải dùng máy bay B52 ném bom giải tỏa. Tại xã Tân Thủy (Ba Tri), Tân Thiềng (Chợ Lách) ta diệt gọn 5 trung đội hải thuyền của địch. Trên sông Hàm Luông, ngày 4 tháng 10 ta đã bố trí trận địa phục kích đối diện ở hai bên bờ sông đoạn xã Địnhh Thủy, Phước Hiệp huyện Mỏ Cày và đoạn Cồn Ốc xã Thạnh Phú Đông (huyện Giồng Trôm) bắn chìm, cháy 3 tàu, tiêu hao nặng tiểu đoàn biệt động quân số 41. Đây là trận đánh điểm đầu tiên mở ra một kinh nghiệm mới cho việc đánh tàu trên sông nước Bến Tre sau này.

Ngày 27 tháng 12 năm 1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp hội nghị lần thứ 12. Sau khi phân tích một cách sâu sắc khoa học và toàn diện tình hình, hội nghị khẳng định: “… Nhân dân ta có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch”(2). Trung ương còn khẳng định phương châm đấu tranh là: “phải tiếp tục kiên trì đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công”(3).

Tháng giêng năm 1966, Mỹ ngụy mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất trên toàn miền Nam. Với chiến lược 2 gọng kềm “tìm diệt và bình định”, đế quốc Mỹ mưu toan đảo lộn tình hình, thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho chúng. Chúng sẽ tăng cường xây dựng ngụy quân và gấp rút triển khai kế hoạch “bình định có trọng điểm”.

Ngay từ giữa năm 1965, tại Bến Tre, địch đã xây dựng thêm tiểu đoàn chủ lực thứ tư của trung đoàn 10 sư đoàn 7 và tăng thêm lực lượng cơ gới. Đến đầu năm 1966, chúng lại tiếp tục xây dựng thêm 10 đại đội bảo an, 1 đại đội tuần giang và tăng cường cối 106,7 ly cho các chi khu Hương Mỹ, Trúc Giang, Chợ Lách nâng số quân ngụy toàn tỉnh lên 12.000 tên. Số cố vẫn Mỹ cũng lên đến 286 tên. Chúng củng cố các tiểu chi khu Chẹt Sậy, Nhơn An, Thanh Tân để lập vành đai bảo vệ phía tả ngạn thị xã, chia cắt chiến trường hai huyện Châu Thành và Mỏ Cày.

Trong bối cảnh chung đó, Tỉnh ủy chủ trương: “… Để chấp hành nghị quyết của Trung ương Cục và Khu ủy Khu 2, nhằm hợp đồng chiến trường toàn Miền bẻ gãy ý đồ phản công chiến lược mùa khô và kế hoạch hai gọng kềm của Mỹ ngụy, toàn Đảng bộ, quân và dân Bến Tre phải kiên quyết đánh ngăn chặn các cuộc càn quét, lần chiếm giành dân của địch; giữ thế tấn công và liên tục tấn công không cho địch giành lại thế chủ động trên chiến trường; kiên quyết đánh địch bằng 3 mặt, tấn công bằng 3 mũi để tiêu diệt, tiêu hao sinh lực Mỹ, ngụy và chư hầu làm tan rã dần lực lượng chúng, kiên quyết xây dựng lực lượng vũ trang về số lượng lẫn chất lượng, đẩy mạnh xây dựng vùng giải phóng…” Tỉnh ủy đã nhấn mạnh nhiệm vụ củng cố tổ chức Đảng ở cơ sở để làm hạt nhân lãnh đạo tại chỗ, động viên nhân dân sản xuất, bồi dưỡng sức dân, tăng cường công tác đô thị, vùng tôn giáo, mở rộng Mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mỹ cứu nước.


(1) Hồ Chí Minh tuyển tập.
(2), (3) Những sự kiện lịch sử Đảng tập III - sách đã dẫn trang 354, 358.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Sáu, 2011, 07:48:58 am
Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy, quân và dân Bến Tre đã mở nhiều mặt trận tiến công địch. Từ tháng giêng đến tháng 3 năm 1966, các lực lượng vũ trang khắp nơi trong tỉnh đã diệt nhiều đồn tua, diệt hơn 200 tên địch và thu nhiều vũ khí. Trong khi quân địch còn lo đối phó thì đêm 13 rạng 14 tháng 4, ta tiến công vào “trung tâm huấn luyện Hưng Điền” cách thị xã khoảng 2.000 mét về phía đông bắc. Địch đã tập hợp về đây hơn 400 tên dân vệ, bảo an và lực lượng “xây dựng nông thôn”(1). Bọn chúng là những tên ác ôn có kinh nghiệm đàn áp, bắn giết, kềm kẹp nhân dân; ta đã xây dựng và gài được 2 cơ sở trong lực lượng này.

Tiểu đoàn 516 được tăng cường 1 đại đội trợ chiến 1 đại đội đặc công đánh vào mục tiêu này. Các trận địa cối của ta ở tả ngạn thị xã, tây Châu Thành, Giồng Trôm đã được lệnh kềm chế pháo địch, 12 giờ đêm ngày 13 tháng 4, ta đã bắt liên lạc với 2 cơ sở. Bộ đội ta nhanh chóng triển khai đội hình và nổ súng xung phong. Qua hơn 1 giờ chiến đấu, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn quân địch, diệt 300 tên, bắt sống 98 tên thu 200 súng và gần 2 tấn đạn dược, phá hủy 3 xe quân sự.

Diệt “Trung tâm huấn luyện Hưng Điền” ta đã đánh trúng vào đối tượng nòng cốt bình định của địch ở nông thôn.

Sau trận diệt cứ điểm xã Diệu, ở Ba Tri (tháng 4 năm 1964) thì đây là trận tiến công vào một cứ điểm lớn thứ hai của địch ngay sát thị xã bằng lực lượng 2 mũi quân sự và binh vận kết hợp. Nó đã thể hiện quyết tâm, tình độ chỉ huy của cán bộ và trình độ hợp đồng chiến đấu của bộ đội ta.

Giữa lúc đó, địch tập trung lực lượng lấn chiếm bình định Ba Tri. Huyện Ba Tri - vùng ven biển đông người, nhiều của có 17 xã với hơn 90 ngàn dân. Nhân dân ở đây phần đông theo đạo Cao Đài và Thiên chúa. Trong những năm giải phóng (1964-1965) nhiều thanh niên đã đi bộ đội, nhiều gia đình đã đóng góp lương thực, tiền của cho kháng chiến. Đây cũng là nguồn dự trữ nhân vật lực dồi dào của tỉnh.

Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1966, địch tập trung 2 tiểu đoàn của trung đoàn 10 sư đoàn 7, 8 đại đội bảo an, 12 đoàn bình định, 1 chi đoàn xe bọc thép M 113 do tên tỉnh trưởng và một tên thiếu tướng (phụ trách bình định Trung ương) trực tiếp chỉ huy đánh vào các xã Mỹ Nhơn, Mỹ Thạnh, Mỹ Chánh và một số ấp ở xã An Bình Tây. Đồng thời chúng dùng bom pháo uy hiếp các xã xung quanh, đánh phá ác liệt vùng căn cứ của ta. Chúng dùng thuốc khai quang phá trống rừng “lạc địa”(2) để đánh bật lực lượng cơ sở ra khỏi căn cứ này. Chúng đã lợi dụng một số tín đồ Cao đài ở Ba Mỹ để lập 1 đại đội vũ trang gọi là đại đội “bảo vệ đạo” và mua chuộc được một số chức sắc Cao đài vào bộ máy tề xã, tề ấp. Chúng xây cất trường học, trạm y tế, nhà bảo sanh, phân phát giống lúa mới để lừa mị, gạt gẫm đồng bào ta. Những tháng cuối năm 1967, chúng đánh chiếm các xã Phú Lễ, Phú Ngãi, Phước Tuy, Tân Xuân và một số ấp còn lại của An Bình Tây.

Ngay khi địch triển khai bình định, Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo Ba Tri tích cực chống phá kế hoạch bình định của chúng. Huyện ủy đã chủ trương để lại một số cán bộ bám xã phát động quần chúng đấu tranh. Tháng đầu, bộ đội địa phương và du kích liên tục đánh địch ở nhiều nơi, diệt 300 tên, phá hủy 2 xe bọc thép. Nhiều cuộc đấu tranh chính trị trực diện đã nổ ra tại chỗ. Nhưng do chưa nhận thức hết âm mưu và quyết tâm của địch - tưởng như lần gom dân lập ấp trước đây - nên cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và đoàn thể quần chúng không có những biện pháp đánh địch có hiệu quả. Mặt khác, lực lượng địch mạnh hơn ta gấp nhiều lần; ta phải lùi dần, phong trào bị núng thế.

Tháng 7 năm 1966 Thường vụ Tỉnh ủy đã đưa đồng chí Nguyễn Văn Phiên (Tư Cường) - ủy viên Thường vụ về làm Bí thư Huyện ủy. đồng thời Ban chỉ huy Tỉnh đội đã cử đồng chí Lê Phát Tân (Hai Hồ) - Tỉnh đội phó, tham mưu trưởng cùng với tiểu đoàn 516 đến phối hợp cùng lực lượng địa phương hoạt động trên các địa bàn này. Trong khi đi chuẩn bị chiến trường đồng chí Hai Hồ bị địch phát hiện và bao vây. Đồng chí đã cùng đồng chí Đức (chiến sĩ bảo vệ - đảng viên) đánh trả lại địch đến viên đạn cuối cùng và đã anh dũng hy sinh. Tháng 3 năm 1967 Thường vụ Tỉnh ủy lại cử tiếp đồng chí Trịnh Văn Nở (Tư Nguyễn) - Tỉnh ủy viên, chính trị viên Tỉnh đội về tăng cường cho Ba Tri. Cuộc chiến đấu chống phá bình định diễn ra dai dẳng và quyết liệt.

Hỗ trợ quân dân Ba Tri chống phá bình định, du kích, bộ đội tỉnh, bộ đội địa phương các huyện Giồng Trôm, Châu Thành, Mỏ Cày, thị xã, các đơn vị binh chủng đã tiến công vào đồn bót trên các đoạn giao thông 6 và 26. Ta đã đánh sập cầu Chẹt Sậy và diệt gọn 1 đại đội bảo an trong khu phố Mỹ Lồng. Trong thế chung đó, Ba Tri đã tổ chức sắp xếp, bố trí lại lực lượng để đánh phá bình định.


(1) Bọn bình định.
(2) Chỉ vùng rậm rạp khó đi, dễ lạc.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Sáu, 2011, 07:51:13 am
II

GIỮ VỮNG THẾ TIẾN CÔNG BA MẶT,
ĐÁNH BẠI CUỘC CÀN “SÓNG THẦN 5”,
DIỆT HẠM ĐỘI NHỎ TRÊN SÔNG

Giữa năm 1966 đến đầu năm 1967, đế quốc Mỹ đã ồ ạt tăng quân vào miền Nam và tiếp tục leo thang đánh phá miền Bắc. Chúng đã nâng tổng số quân viễn chinh Mỹ từ 31 vạn tên lên hơn 44 vạn tên và mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai hòng xoay chuyển tình thế, định ép ta “đàm phán” theo ý muốn của chúng.

Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược. Lời kêu gọi khẳng định; “chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phong và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ, không có gì quý hơn độc lập, tự do…”(1).

Tháng 10 năm 1966, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương họp và ra nghị quyết “đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam”(2). Bộ Chính trị chỉ rõ: Ta phải có những cố gắng lớn hơn nữa về mọi mặt, ra sức đánh phá cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của bọn xâm lược, tạo thời cơ và điều kiện cho những hoạt động lớn tiếp theo.

Cuối tháng 10 năm 1966, theo sự chỉ đạo của quân khu ủy, Đảng bộ, quân và dân Bến Tre đã tiến hành đợt sinh hoạt chính trị về tình hình nhiệm vụ nhằm củng cố và nâng cao quyết tâm đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Tiếp đó, Ban chỉ huy Tỉnh đội mở hội nghị tổng kết chiến tranh du kích toàn tỉnh. Hội nghị đã nghiên cứu, học tập cách đánh Mỹ của du kích Đức Hòa, Đức Huệ, Củ Chi nhằm bồi bổ thêm kinh nghiệm đánh Mỹ của quân và dân tỉnh nhà và phát động phong trào thi đua học đạt danh hiệu “dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt cơ giới” trong các lực lượng vũ trang.

Cuối năm 1966, Bộ Tư lệnh Quân khu đã cử đồng chí Bùi Thanh Khiết (Hai Thanh) - phó Tư lệnh Quân khu đi cùng tiểu đoàn 261, 1 đại đội pháo tăng cường cho Bến Tre, chuẩn bị cho chiến dịch Đông xuân 1966-1967. Cùng thời kỳ này, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã chú trọng xây dựng, phát triển một số đơn vị binh chủng: Phân đội đặc công nước được phát triển thành một đại đội, thành lập phân đội săn tàu, đại đội súng máy cao xạ 12,8 ly, trung đội sơn pháo 70 ly, phát triển phân đội trính sát kỹ thuật vô tuyến điện để nắm tình hình địch.

Đông xuân 1966-1967 ta mở chiến dịch Bình Đại - Ba Tri. Hướng tiến công chủ yếu là Bình Đại lấy Châu Hưng làm trọng điểm. Để nghi binh đánh lạc hướng địch, đêm 9-10, 2 đại đội của tiểu đoàn 516 san bằng 2 đồn ở xã Phú Khánh (Thạnh Phú - vùng giáp Mỏ Cày); ngày 11-10 chặn đánh quân cứu viện trên sông Hàm Luông bắn chìm cháy 4 tàu, tiêu hao nặng tiểu đoàn biệt động quân số 41 và tiếp tục đón đánh trung đoàn 10 sư đoàn 7 càn vào Bình Khánh, Phước Hiệp, diệt 130 tên, bắn hư 1 xe bọc thép M113. Trên hướng chính, quân ta tập kết bí mật, an toàn.

Vào chiến dịch, ta tập trung tiểu đoàn 261 và tiểu đoàn 516 vào hướng chính. Toàn bộ lực lượng của ta tập kết trên địa bàn các xã thuộc cánh B Giồng Trôm (Phong Mỹ, Châu Hòa).

Đêm 4-1, phân đội dặc công của tiểu đoàn 261 diệt gọn đồn dân vệ Châu Hưng; một bộ phận của tiểu đoàn 516 đánh thiệt hại nặng đồn Giồng Quéo. Cùng đêm này, bộ đội địa phương và du kích diệt gọn một trung đội “tuyên vận” tại chợ xã Phú Thuận. Dưới áp lực mạnh mẽ của ta bọn dân vệ trong các đồn bót ở khu vực này rút chạy. Địch đã đưa tiểu đoàn biệt động quân số 32 của khu chiến thuật Tiền Giang, đại đội bảo an số 893 của chi khu Bình Đại, liên đoàn dân vệ  Thới Lai đến tái chiếm(3).

Đêm 6-1, tiểu đoàn 261 và tiểu đoàn 516 vượt sông Ba Lai tiến công diệt gọn 2 đại đội và tiêu hao 1 đại đội của tiểu đoàn biệt động quân 32.

Bị thiệt hại nặng, địch tăng thêm đại đội bảo an số 994 từ chi khu đến.

Nắm chắc địch, đêm 8-1 toàn bộ lực lượng ta lại tiến công quân địch. Ta đã diệt hoàn toàn tiểu đoàn biệt động quân số 32, đánh tiêu hao nặng đại đội bảo an; giết và làm bị thương 300 tên, thu 50 súng, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng, bắn hư một máy bay dakota C47. Toàn bộ lực lượng ta đã vượt sông Ba Lai, qua lộ 26 về trú quân tại xã Lương Hòa, Long Mỹ an toàn.

Phối hợp với hướng chính, pháo cối ta đã bắn và ghìm các trận địa pháo địch ở cầu kinh Chẹt Sậy, thị trấn Giồng Trôm. Bộ đội địa phương và du kích kết hợp với cơ sở nội tuyến lấn đồn Vang Quới và liên tục vây ép các đồn bót, giải tán phòng vệ dân sự, cảnh cáo tề điệp ác ôn, bức rút 11 đồn bót địch. Ta đã giải phóng hoàn toàn xã Thạnh Tân, phước Thuận, Thới Lai và Châu Hưng.


(1) Những sự kiện lịch sử Đảng tập III sách đã dẫn, trang 373, 375.
(2) Những sự kiện lịch sử Đảng - sách đã dẫn trang 375-377.
(3) Tương đương với 1 đại đội.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Sáu, 2011, 07:52:06 am
Tại Ba Tri, Thường vụ Huyện ủy đã chủ trương phân tán bộ đội địa phương kết hợp với du kích và cán bộ xã ấp lập thành từng đội công tác luồn vào vùng địch trừ gian diệt ác hỗ trợ cho du kích mật tại chỗ đánh địch. Cán bộ, đảng viên tiếp tục trở về bám dân khôi phục xây dựng cơ sở, giáo dục, tổ chức quần chúng đấu tranh. Bộ đội tỉnh phục kích diệt 2 đại đội bảo an ở Giồng Trung và xã Vĩnh Hòa, đồng thời đưa cối 60 ly luồn sâu pháo kích vào chi khu. Du kích Phước Tuy, An Bình Tây đánh địch bằng lựu đạn gài. Du kích xã Tân Xuân diệt ác ôn giữa ban ngày. Ở Phú Ngãi, du kích đã dùng mìn định hướng treo trên cây bất ngờ đánh diệt 20 tên địch. Nhiều cuộc đấu tranh chống địch cào nhà, đòi được tự do đi lại làm ăn phát triển rộng và ngày càng mạnh. Nhiều tên ác ôn bị trừng trị. Nhiều ban tề, nhiều binh sĩ ngụy tỏ ra cầu an, sợ chết. Vùng địch tạm chiếm không còn ổn định nữa. 2 tiểu đoàn chủ lực, 8 đại đội bảo an, 1 đoàn bình định phải cắm chặt tại đây trong một thời gian dài.

Thắng lợi của chiến dịch “Bình Đại - Ba Tri” tương đối lớn. Tuy nhiên tại trọng điểm bình định của địch ở Ba Tri, lực lượng vũ trang chưa đánh được những trận quyết định làm đòn xeo cho phong trào. Tình hình ở đây chưa chuyển lên được.

Phát triển thế tiến công, Tỉnh ủy, Tỉnh đội quyết định chuyển hướng sang cù lao Minh, tập trung lực lượng diệt chi khu Hương Mỹ, cô lập uy hiếp chi khu Thạnh Phú, Mỏ Cày, mở vùng, mở đường hành lang Thạnh Phú - Mỏ Cày trên bộ và trên sông. Đêm 13 tháng 3 năm 1967, tiểu đoàn 261, 516 và đại đội bộ đội địa phương Mỏ Cày đã tiến công chi khu Hương Mỹ. Do công tác chuẩn bị chiến trường không kỹ và hợp đồng chiến đấu không chặt nên quân ta không hoàn thành nhiệm vụ. Hơn 100 chiến sĩ và dân công bị thương vong. Đó là bài học về công tác chuẩn bị chiến trường - nhất là việc chỉ huy hợp đồng chiến đấu. Sau trận này tiểu đoàn 261 về hoạt động ở Mỹ Tho. Tỉnh ủy đã chủ trương xây dựng tiểu đoàn mới. Giữa tháng 4-1967, tiểu đoàn 520 được thành lập.

Đầu tháng giêng năm 1967, quân Mỹ nhảy vào địa bàn Thạnh Phú mở cuộc càn với qui mô lớn mang tên “Sóng Thần 5” mở đầu cho việc sử dụng bộ binh Mỹ đổ bộ vào chiến trường đồng bằng sông Cửu Long. Từ ngày 6 đến ngày 15-1, địch tung vào các xã Thạnh Phong, Giao Thạnh, Thạnh Phú, An Nhơn, An Qui và An Thạnh 1 lữ đoàn thủy quân lục chiến Mỹ, 1 tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên, 57 tàu thuyền chiến đấu của hạm đội 7, 152 máy bay, hàng trăm pháo các cỡ và 12 chiếc xe tăng. Chúng đã tiến hành công tác chuẩn bị chiến trường rất kỹ. Ngay từ tháng 10-1966, chúng đã cho máy bay trinh sát chụp ảnh, dùng tàu nhỏ thọc sâu vào các cửa sông, bãi biển thăm dò, cài cắm do thám, gián điệp nắm tình hình. Để đánh lạc hướng và ngăn chặn các cuộc hành quân di chuyển của ta, từ ngày 2 đến ngày 5 tháng giêng chúng đã sử dụng lực lượng của tiểu khu đánh vào các xã An Thạnh, Thạnh Phú, An Qui và chũng đặt tên cuộc càn này là “Cửu Long 1”.

Trước tình hình đó, Huyện ủy, Huyện đội đã có những nhận định đánh giá đúng mức và đã chỉ đạo các địa phương vùng ven biển tổ chức chuẩn bị thế trận, chống phá càn quét của địch.

Đứng chân trên địa bàn Thạnh Phú, lực lượng vũ trang của ta có tiểu đoàn 518, mỗi xã có từ 1 tiểu đội đến 1 trung đội du kích được trang bị khá và từng trải qua nhiều thử thách trong chiến đấu. Nhân dân ở đây kiên cường bám trụ. Những lực lượng này được tổ chức và xây dựng thành thế đánh địch bằng ba mũi có phương án, kế hoạch hợp đồng chiến đấu cụ thể. Ở vùng ven biển các xã Thạnh Phong, Giao Thạnh, nhân dân đã cải tạo địa hình, xây dựng ô, ổ chiến đấu sẵn sàng đánh địch. Trước khi hành quân, địch đã ném 3 lượt bom B52 vào xã Thạnh Phong.

Ngay khi một cánh quân địch vừa đặt chân đến Hồ Cót (Giao Thạnh) lập tức chúng đã bị lực lượng vũ trang ta đón đánh. Hàng chục tên Mỹ chết và bị thương; 1 máy bay trực thăng, 1 máy bay ném bom bị bắn rơi; 2 tàu bị bắn chìm và cháy. Lực lượng chính trị đã tổ chức liền 4 cuộc đấu tranh trực diện với quân Mỹ đòi không được ném bom, không được phá hủy nhà cửa và hầm trú ẩn của đồng bào làm chậm bước tiến quân của chúng trong nhiều giờ. Ngày 8-1, địch dùng trực thăng định đổ quân xuống xã An Nhơn, du kích đã bắn cháy 4 chiếc làm chúng không đáp xuống được. Tài xã Giao Thạnh, tổ chiến đấu của công trường huyện đã dùng 1 quả bom lép sửa lại, mưu trí giăng bẫy đánh tan xác 1 trung đội Mỹ. Tổ chiến dấu của công trường được Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng huân chương Chiến công giải phóng hạng 3. Tại cồn Lớn, Khâu Băng, cồn Chim, cồn Điệp, Giồng Hạo… với phương thức đấu tranh ba mặt kết hợp với vũ khí thô sơ và xã ấp chiến đấu, các lực lượng tại chỗ đã bám sát Mỹ mà đánh. Quân địch đi đến đâu cũng bị bắn tỉa, sụp hầm chông, vướng chất nổ. Ban đêm ta pháo kích vào khu vực trú quân làm chúng mất ăn mất ngủ. Lực lượng phụ nữ đã dũng cảm đấu tranh ngăn chặn bàn tay tội ác của chúng. Có bà mẹ đã dùng cây chổi quét nhà đập đầu tên Mỹ khi nó hiếp con bà. Ở cồn Tra, 80 chị em phụ nữ vây quanh bọn giặc Mỹ “than khóc” tác động địch làm chúng phải dừng quân tại chỗ 1 ngày. Ở cồn Lớn, Bầu Mít 57 chị em ăn mặc rách rưới, hàng chục cháu nhỏ trần truồng “kêu khóc” làm cho một số binh sĩ Mỹ phải chùn tay trong khi gây tội ác. Tại Thạnh Phong, một tiểu đội bộ binh Mỹ chống lệnh hành quân buộc địch phải đưa trực thăng xúc về hậu cứ.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Sáu, 2011, 07:53:38 am
Qua 15 ngày đêm kiên cường bám trụ, anh dũng chiến đấu, quân và dân Thạn Phú đã giết và làm bị thương 233 tên Mỹ và chư hầu, 1 đại tá ngụy, bắn rơi 4 máy bay trực thăng, bắn chìm bắn cháy 2 tàu; phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh khác. Một lần nữa, trên mảnh đất căn cứ địa cách mạng lâu đời này, chỉ bằng lực lượng địa phương với thế trận đã được chuẩn bị sẵn quân dân Thạnh Phú đã giáng một đồn quyết liệt vào bọn xâm lược Mỹ. Sau trận đánh càn thắng lợi - nhất là với những kết quả trong đấu tranh chính trị trực diện với quân Mỹ mà ta vừa giành được, Tỉnh ủy đã kịp thời tổ chức nhiều đội tuyên truyền “người thật việc thật” đi khắp tỉnh để phổ biến kinh nghiệm đánh Mỹ. Nhân dân và lực lượng vũ trang Bến Tre đã khẳng định thêm niềm tin và quyết tâm đánh Mỹ của mình.

Tháng 7-1967, Thường vụ Tỉnh ủy đã họp để tiếp thu nghị quyết của Bộ Chính trị, chỉ đao của Trung ương Cục và Khu ủy về việc súc tích lực lượng chuẩn bị đón thời cơ tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Thường vụ Tỉnh ủy đã chủ trương phát động toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân ra sức chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng chớp thời cơ hợp đồng với chiến trường toàn miền xông lên tiến công địch giành thắng lợi quyết định.

Tháng 8, tháng 9, cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang đã được học tập “nghị quyết thời cơ” của Thường vụ Tỉnh ủy. Tháng 10, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã chỉ đạo mở một đợt hoat động quân sự đồng loạt tiến công vào tất cả các chi khu và 118 đồn bót trong tỉnh.

Trong những ngày tháng sôi động đó, đêm 23 tháng 11 một tổ bộ đội đặc công nước do đồng chí Hoàng Lam chỉ huy đã tiến công hạm tàu sửa chữa cơ động của Mỹ tại vàm Bến Tre. Tàu địch mang số hiệu 833, dài 300 mét, rộng 70 mét. Nơi đây địch canh phòng rất cẩn mật. Cứ 5 phút chúng ném xuống quanh tàu một loạt lựu đạn, mìn hơi. Ít phút chúng lại cho một dòng điện cực mạnh phóng xuống nước đề phòng ta đột nhập. Trên bờ sông có bót Giồng Xoài do một đại đội bảo an đóng giữ cùng công an, mặt vụ ngày đêm tuần tra canh gác bảo vệ tàu. 9 giờ đêm khi tổ chiến đấu tiếp cận tàu thì máy bay trực thăng, tàu tuần tiễu sục sạo, quần đảo liên tục. Sau khi bám sát, theo dõi hoạt động của địch, cả tổ hội ý chớp nhoáng giữa dòng sông và đã đưa khối thuốc nổ 200kg đặt vào buồng máy con tàu. 2 giờ khuya, một tiếng nổ lớn vang lên, dội vào thị xã Bến Tre và các vùng phụ cần. Một cột nước dâng cao gần 100 mét, một đám cháy trùm kín khúc sông. Tàu “833” bị nhận chìm. Ba trăm tên sĩ quan phần lớn là chuyên viên kỹ thuật Mỹ, Úc, Tân Tây Lan cùng 10 tàu đang sửa chữa và 12 khẩu pháo bị tan xác. Đơn vị đặc công nước được Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng huân chương Quân công giải phóng hạng 2. Trong khi địch còn đang choáng váng, đêm 29-12, các chiến sĩ bộ đội đặc công nước lập thêm một chiến công mới - tập kích căn cứ nổi của Mỹ trên sông Hàm Luông (vàm Thủ Cửu xã Phước Long huyện Giồng Trôm) nhận chìm 15 tàu, trong đó có 1 tàu hải quân số “821” dài 250 mét, rộng 70 mét; diệt 500 tên Mỹ, phá hủy 22 khẩu pháo và 6 xe bọc thép M113. Đây là những chiến công xuất sắc vang dội cả nước. Chiến thuật hạm đội nhỏ trên sông của Mỹ ngụy bước đầu đã bị đánh bại trên chiến trường Bến Tre.

(http://img802.imageshack.us/img802/5134/11114072.jpg)

Đồng chí Lê Minh Đào - Tỉnh đội trưởng trao danh hiệu 8 chữ vàng “Cởi sóng Hàm Luông, nhậm chìm hạm Mỹ” của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng cho đơn vị đặc công nước.

Cuộc chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ đã bước sang năm thứ ba. Nhưng, chúng vẫn chưa giành được quyền chủ động chiến trường mà chỉ chuốc lấy từ thất bại đến thất bại khác. Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã phải thừa nhận rằng: “Nói chung, chúng ta đang ở thế thủ. Chưa bao giờ có cuộc cuộc chiến tranh nào giành được thắng lợi mà ở trong thế thủ cả”(1).

Nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công và đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng, với tinh thần tự lực tự cường và sở trường hai chân ba mũi, quân và dân Bến Tre đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, liên tục tiến công địch. Bến Tre đã góp phần cùng cả nước làm thất bại những âm mưu và biện pháp chiến lược của kẻ thù giành thắng lợi ngày càng lớn và đã tạo ra thời cơ rất thuận lợi cho cuộc tiến công và nổi dậy Xuân 1968.


(1) Theo thời báo Mỹ Lốt-ăng-giơ-lét, số ra năm 1966.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Sáu, 2011, 07:56:20 am
Chương sáu

CUỘC TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1968

I

TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN

Cuối năm 1967, quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam đã lên tới 54 vạn tên, quân ngụy 60 vạn tên. Cuộc chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ đã đến đỉnh cao.

Ở Bến Tre, quân và dân ta luôn giữ thế chủ động đánh địch bằng ba mặt, tấn công bằng ba mũi, đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. 44 xã giải phóng được giữ vững. Lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang được xây dựng và phát triển ngày càng cao.

Tháng 12-1967, hội nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra nghị quyết chuyển cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định.

Bộ Chính trị chỉ rõ: “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”(1) nhằm đạt tới những mục tiêu chiến lược đã đề ra.

Tiếp thu Nghị quyết của cấp trên và căn cứ vào tình hình cụ thể của Bến Tre, hội nghị Tỉnh ủy đề ra nhiệm vụ: Phát huy truyền thống của quê hương Đồng khởi, với tư tưởng tự lực tự cường, Đảng bộ, quân và dân Bến Tre đoàn kết một lòng, tập trung cao độ cùng với quân và dân cả nước tổng công kích và nổi dậy để giành thắng lợi quyết định.

Tỉnh ủy chủ trương: … dồn tất cả lực lượng lấy cho được thị xã, rồi từ thị xã tỏa ra giải phóng nông thôn. Tàn bộ vùng nông thôn phải chớp lấy thời cơ tự lực tiến công quân địch. Phải dành ưu tiên cho thị xã; khi thị xã cần gì - kể cả cán bộ, vũ khí và mọi phương tiện khác - thì các nơi phải sẵn sàng và phải chấp hành nghiêm chỉnh.

Về xây dựng lực lượng vũ trang, Tỉnh ủy quyết định: rút đại đội bộ binh và lực lượng đặc công của các huyện để bổ sung cho lực lượng tỉnh. Đồng thời để lại một khung cán bộ khoảng trên dưới 20 đồng chí làm nòng cốt cho các huyện để thành lập đại đội mới.

Với tinh thần khẩn trương xây dựng, chỉ trong một thời gian ngắn, tỉnh đã có 4 tiểu đoàn bộ binh (516, 2, 3, 4), 1 tiểu đoàn đặc công, công binh; các đại đội săn tàu, đại đội 12 ly 8, ĐKZ 75, cối 82 ly, thông tin, trinh sát và 7 tiểu đoàn dân quân du kích. Ở Mỏ Cày, Giồng Trôm, mỗi huyện có 1 tiểu đoàn bộ binh thiếu. Các huyện Châu Thành, Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú, Chợ Lách mỗi huyện có 1 đại đội bộ binh và 1 tiểu đoàn dân quân du kích. Riêng huyện Mỏ Cày có 2 tiểu đoàn dân quân và 1 đại đội liên quân du kích. Ở thị xã có 1 đại đội bộ binh và 1 trung đội biệt động.

Các tiểu đoàn bộ binh và đại đội binh chủng trực thuộc tỉnh được trang bị mạnh. Mỗi tiểu đoàn bộ binh có 1 khẩu B40, 1 trung liên, 1 M 79. Mỗi trung đội được tăng cường 1 khẩu B 40 và 1 đại liên. Các tiểu đoàn dân quân du kích, phần lớn được trang bị súng trung liên, súng tự động Mỹ và súng trường K 44.

Đi đôi với việc tổ chức trang bị, các đơn vị đã gấp rút huấn luyện theo các phương án tác chiến mới nhằm nâng cao khả năng tác chiến độc lập và tác chiến hiệp đồng binh chủng với qui mô ngày càng lớn. Các đơn vị còn được học mười chính sách của Mặt trận trước khi đánh vào thành phố.

Lực lượng quần chúng đã được huy động đông tới 32 ngàn người và tổ chức thành đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn (tất cả có 10 trung đoàn). Các Ban chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội là những đồng chí Huyện ủy viên và một số cấp ủy viên của các xã.

Lúc này ở Bến Tre lực lượng địch có 13.118 tên gồm 4 tiểu đoàn chủ lực thuộc trung đoàn 10 sư đoàn bộ binh 7, 30 đại đội bảo an, 5.502 dân vệ và một số đơn vị công an, cảnh sát.

Địch chú trọng càn quét, đánh phá sâu vào căn cứ ở các địa bàn Giồng Trôm, Châu Thành, Mỏ Cày, Thạnh Phú. Vào những tháng cuối năm 1967, quân Mỹ đã trực tiếp mở 9 cuộc càn quét ven sông Cửu Long (đoạn Châu Thành của Bến Tre giáp với Mỹ Tho) để bảo vệ căn cứ Bình Đức (Mỹ Tho). Quân ngụy hoạt động ở các vùng ven thị xã, thị trấn và giao thông thủy bộ. Chúng tập trung một lực lượng lớn để phóng giữ thị xã.


(1) Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - sách đã dẫn trang 166.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Sáu, 2011, 07:58:24 am
Thị xã Bến Tre - một trong những thị xã nhỏ ở đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích khoảng 20km2. Nam giáp sông Bến Tre (rộng 150 mét); bắc giáp xã Sơn Đông và xã Tam Phước, đông giáp xã Hữu Định.Từ hướng đông lên hướng bắc và qua hướng tây là đồng bằng, vườn lõm tạo thành một vòng cung bao quanh thị xã. Trong nội ô có 5 phường, rộng hơn 1km2. Đường sá đan nhau như một hình tam giác, tụ điểm tại ngã ba Tháp. Ngoại ô có 6 xã: Mỹ Thạnh An, Mỹ Hóa, Bình Nguyên, Bình Phú, Phú Khương và Phú Hưng. Các con rạch: Kiến Vàng, Cái Cá, Cá Lóc, Gò Đàng từ sông Bến Tre chạy vào thị xã. Về hướng bắc và tây bắc có sân bay Tân Thành. Thị xã nhỏ, dân đông, phố xá chi chít. Ở các xóm nghèo, mỗi nhà địch dựng hàng rào dây thép gai bao bọc nằm trong hệ thống ấp chiến lược “Ấp Tân sinh” của Mỹ ngụy.

Tại thị xã, địch đã tập trung một lực lượng quân sự gồm 3.723 tên, chiếm 1/4 số quân toàn tỉnh. Chúng đã tổ chức bố trí lực lượng chiếm giữ những vị trí quan trọng. 3 tiểu đoàn chủ lực và 1 đại đội thám sát thuộc trung đoàn 10, sư đoàn bộ binh 7 đóng tại sân bòng đá, cầu Bà Mụ, Phú Khương, ngã ba Tháp, trong đó có 1 tiểu đoàn cơ động, 9 đại đội bảo an dân vệ chiếm giữ cầu Gò Đàng, khu chợ Ngã năm, cầu Nhà thương, chợ Bến Tre, trung tâm cải huấn, cầu Cá Lóc… Tiểu đoàn 72 pháo binh (gồm pháo 155 ly, 105 ly, 106,7 ly) bố trí tại sân bay Tân Thành và sân bóng đá thị xã. Tàu tuần giang thường trực tại sông Bến Bre. Xe nồi đồng, GMC… túc trực tại bãi quân xa tiểu khu. Địch bố trí từng tiểu đội chốt chặn ở các ngã ba, ngã tư đường, đồng thời chúng bố trí hỏa lực trọng liên, đại liên, cối 60 ly, súng M79… trên các nhà lầu, dinh tỉnh trưởng, tòa án để khống chế những vị trí then chốt trong nôi ô.

Ngày 10-1-1968, Tỉnh ủy triệu tập hội nghị gồm các đồng chí cán bộ chủ chốt để quán triệt nghị quyết hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng.

Sau đó, Tỉnh ủy, Ban chỉ huy tỉnh đội mở nhiều hội nghị để thảo luận nhiệm vụ và kế hoạch tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân. Cán bộ quân sự đã nghiên cứu kỹ phương án tác chiến tấn công thị xã.

Trong việc chọn hướng tấn công chủ yếu, cán bộ ta đã thảo luận, cân nhắc nhiều mặt và cuối cùng hội nghị đã quyết định chọn hướng nam thị xã làm hướng tấn công chủ yếu. Hướng này đảm bảo được yếu tố bí mật bất ngờ và tuy có bị con sông Bến Tre ngăn cách nhưng khi đã vượt qua sông, lực lượng ta tiếp cận ngay mục tiêu chủ yếu - dinh tỉnh trưởng.

Tỉnh ủy đã quyết định thành lập Ban chỉ huy Thống nhất gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Cánh (Bảy Đấu) Bí thư Tỉnh ủy, Nguyễn Văn Trung Phó Bí thư Tỉnh ủy, Nguyễn Văn Song (năm Hỏa), Lê Minh Đào - Tỉnh đội trưởng kiêm chỉ huy trưởng, Nguyễn Văn Thạnh (Mười Thi) - chính trị viên, Nguyễn Văn Ba (Lê Phục) - tham mưu trưởng. Đồng chí Nguyễn Văn Khước (Năm Chung) - Khu ủy viên khu 8 cũng được tăng cường trong Ban lãnh đạo của tỉnh.

Các tiểu đoàn bộ binh: 516, 2, 3, 4 và các đại đội binh chủng được tập trung lại và tổ chức thành trung đoàn. 7 tiểu đoàn dân quân du kích đều tập trung cho trọng điểm thị xã. Lực lượng quần chúng dành cho thị xã 10 ngàn người, số còn lại được bố trí ở phía sau sẵn sàng chờ lệnh.

Các tổ chức phụ trách công tác hậu cần có hệ thống từ tỉnh đế xã ấp. Công tác phát động quần chúng để quyên góp “đảm phụ quỹ giải phóng” được Tỉnh ủy chỉ đạo chặt chẽ.

Ngày 27-1-1968, Ban chỉ huy Thống nhất nhận được lệnh tấn công của Quân khu.

Ngày 28-1-1968, tại xã Tân Trào huyện Giồng Trôm, Ban chỉ huy Thống nhất đã triệu tập cán bộ chỉ huy quân sự các cấp để nghe bổ sung tình hình và phát lệnh tiến công.

Đêm 28, 29-1-1986, các đơn vị được lệnh hành quân đến địa điểm tập kết.

Lực lượng của hướng chủ yếu gồm tiểu đoàn bộ binh 516, 1 đại đội đặc công bộ, 2 trung đội đặc công nước, 1 cối 120 ly, 2 cối 82 ly, 2 ĐKZ 75 ly, 3 sơn pháo 70 ly, đều có mặt tại xã Lương Phú huyện Giồng Trôm, các thị xã 7km về hướng nam.

Lực lượng hướng thứ yếu 1 có tiểu đoàn bộ binh 3, tiểu đoàn bộ binh 4, 1 đại đội đặc công bộ đóng tại xã Hữu Định (Châu Thành) cách thị xã 5km về hướng đông, lực lượng thứ yếu 2 gồm tiểu đoàn bộ binh 2, 1 đại đội đặc công đóng tại xã Tam Phước, Tường Đa (huyện Châu Thành) cách thị xã 8km về hướng tây bắc.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Sáu, 2011, 07:59:35 am
Đêm 30 và ngày 31-1-1968, Sở chỉ huy của Ban chỉ huy mặt trận đóng tại xã Nhơn Thạnh (huyện Giồng Trôm) cách thị xã 1.800 mét về hướng nam.

Trong lúc bộ đội ta đã áp sát thị xã, 15 giờ ngày 31-1-1968, Bộ Tổng tham mưu ngụy thông báo đến tên tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa là Việt cộng đã tràn ngập từ Buôn Ma Thuột trở ra Quảng Trị (thuộc vùng rừng núi) còn ở đồng bằng chưa thấy hiện tượng gì nhưng phải đề phòng.

22 giờ đêm 31-1 lực lượng ta chiếm lĩnh vị trí chiến đấu.

Đúng 1 giờ ngày 1-2-1968, cùng một lúc với tỉnh Mỹ Tho, cụm hỏa lực ở hướng chủ yếu bắn vào trung thâm hành quân Sở chỉ huy trung đoàn 10 (sư đoàn bộ binh 7), Tỉnh đoàn bảo an… Trong lúc đó trung đội đặc công nước do đồng chí Hoàng Lam chỉ huy đã ém quân sẵn tại bờ sông Bến Tre nhanh chóng đánh chiếm trại Đinh Tiên Hoàng (bãi quân xa) diệt ngay 6 xe nồi đồng và bám giữ đầu cầu tạo điều kiện cho tiểu đoàn 516 vượt sông.

Tiểu đoàn bộ binh 516 có nhiệm vụ đánh chiếm dinh tỉnh trưởng đã chia thành 2 mũi vượt sông Bến Tre bằng 70 chiếc ghe. Mũi 1 vượt sông cách bến Lở khoảng 100 mét về hướng đông. Vừa đánh tàu địch, vừa vượt sông và khi chiếm được bờ bắc quân ta tiến theo đường Hùng Vương. Đến bến lở, quân địch trong dinh tỉnh trưởng dùng các loại hỏa khí bắn trả ác liệt. Các đại đội phân tán đội hình thành trung đội, tiểu đội và lợi dụng từng dãy nhà, góc phố chiến đấu với địch. Cùng lúc đó, mũi thứ 2 đã nhanh chóng vượt sông, chiếm được bờ bắc và tiến thẳng theo đường Nguyễn Huệ. Bộ đội ta đã diệt 1 số tua, lô cốt; đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an số 289 và trung đội dân vệ tại cầu Cá Lóc. Tại đại lộ Phan Thanh Giản(1) quân địch đã chiếm các điểm cao và dùng súng trọng liên, đại liên, cối 60 ly bắn chặn đường tiến của quân ta.

Như vậy, tiểu đoàn 516 không đánh chiếm được mục tiêu chủ yếu - Dinh tỉnh trưởng.

Trong lúc đó, các đơn vị ở hướng thứ yếu 2, do một tổ nữ vũ trang dẫn đường từ Bình Phú tiến vào thị xã có nhiệm vụ hợp đồng chiến đấu với tiểu đoàn 516. Vào gần nội ô, tổ dẫn đường bị hy sinh. Tiểu đoàn 2 hành quân lạc hướng. Cũng lúc này ở hướng thứ yếu 1, tiểu đoàn 3 và 2 trung đội đặc công bộ đã chia thành 2 mũi: một mũi đánh tiêu hao nặng tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 10, diệt trận địa pháo tại sân bóng đá; mũi khác đánh chiếm một góc Sở chỉ huy trung đoàn 10 và đánh hỏng đài phát thanh. Tiểu đoàn 4 bí mật tiếp cận bao vây, đánh tiêu hao nặng 1 đại đội thuộc tiểu đoàn 3 - trung đoàn 10 tại vườn Ươm, cầu Bà Mụ. Cùng đêm 2 trung đội đặc công đã tập kích sân bay Tân Thanh phá hủy 4 máy bay, diệt 1 trận địa pháo.

5 giờ sáng ngày 1-2, tất cả các lực lượng ở các cánh, các mũi đồng loạt nổ súng. Đại đội đặc công đã tiến đánh Sở chỉ huy trung đoàn 10, giết tên trung tá chỉ huy trung đoàn và phá hủy 3 xe quân sự. Đồng thời lực lượng ta truy lùng địch và bắt sống tên trung tá công binh. Đêm 1-2-1968, bộ đội ta làm chủ hầu hết thị xã và bao vây chặt dinh tỉnh trưởng.

Ngay từ 8 giờ sáng ngày 1-2, tiểu đoàn 4 thuộc trung đoàn 10 đã từ Mỹ Hóa đánh vào thị xã để giải vây dinh tỉnh trưởng. Khi vừa đến cầu Cái Cá, tiểu đoàn này bị quân ta chặn đánh. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Bộ đội ta đã đánh “xáp lá cà” với địch, đẩy lùi hàng chục đợt xung phong của chúng. Có tiểu đội súng không còn một viên đạn, anh em đã chiến đấu đến người cuối cùng. Đồng chí Hoàng Lam đại đội phó đội đặc công nước đã anh dũng hy sinh.

Ngày 2-2-1968, pháo dịch ở hạm tàu trên sông Hàm Luông (căn cứ Bình Đức - Mỹ Tho) bắn vào nội ô; các loại máy bay ném bom, máy bay trực thăng bắn hủy diệt khu chợ Bến Tre làm hơn 300 đồng bào ta chết và bị thương.

Cũng trong thời gian này, tiểu đoàn 516 đã diệt gọn 1 đại đội bảo an từ cầu Rạch Vong chạy về thị xã.

Ngày 3-2 lực lượng ta vẫn bám giữ các khu vực trong thị xã. Lực lượng công an vũ trang, tự vệ mật cùng các cơ sở cách mạng lùng quét bộ máy kềm kẹp của địch.

Chiều ngày 3-2, tiểu đoàn bộ binh 516 đánh chiếm tiểu khu bảo an, phá hủy kho súng với trên 1.000 khẩu. Địch tiếp tục dùng máy bay, pháo binh bắn phá dữ dội, hủy diệt hầu hết các khu phố. 16 giờ cùng ngày từ căn cứ Bình Đức (Mỹ Tho) 21 chiếc trực thăng chở một tiểu đoàn Mỹ định đổ quân xuống sân bóng đã thị xã. Các đơn vị phòng không của ta bắn bị thương 1 chiếc, buộc chúng phải quay lên sân bay Tân Thành và đổ quân tại đây.


(1) Đại lộ Đồng khởi hiện nay.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2011, 06:45:57 am
Trước tình hình đó, Ban chỉ huy Thống nhất cùng với đồng chí Bí thư thị xã họp và nhận định: Quân Mỹ đã nhảy vào Bến Tre và theo tin trinh sát kỹ thuật, chúng có thể đổ thêm 1 tiểu đoàn Mỹ để đánh ta. Lực lượng ta chưa đủ khả năng để lấy ngay dinh tỉnh trưởng. Ban chỉ huy Thống nhất quyết định: Tổ chức 1 lực lượng gọn, nhẹ, được trang bị tốt đứng lại trong thị xã chiến đấu kềm chân địch, giữ vững các khu vực đã làm chủ. Các tiểu đoàn bộ binh và các đại đội binh chủng rút ra ngoại ô lập trận địa sẵn sàng đánh quân Mỹ.

Đúng như nhận định của ta, 7 giờ sáng ngày 4-2-1968, 21 chiếc máy bay trực thăng chở 1 tiểu đoàn quân Mỹ từ Mỹ Tho sang đổ xuống đồng Cây đa xã Phú Hưng. Tiếp đó tiểu đoàn Mỹ từ sân bay Tân Thành chia làm nhiều mũi hành quân xuống thị xã. Đến đình Tân Thành chúng bị du kích xã Phú Khương và bộ đội đặc công chặn đánh; 11 giờ chúng mới đến nội ô. Sau đó chúng chia thành nhiều mũi hành quân qua cầu Cá Lóc trên tỉnh lộ 26 và khi đến cách cầu Gò Đàng 500 mét, 1 đại đội Mỹ đã lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 516. Bộ đội ta nổ súng mãnh liệt, nhanh chóng chia chắt đội hình địch, dồn chúng xuống bờ sông Bến Tre. Chỉ trong vòng 30 phút chiến đấu, ta diệt gọn đại đội Mỹ. Địch cho máy bay ném bom và pháo binh bắn gần 1 vạn quả xuống trận địa. 16 giờ tiểu đoàn Mỹ từ Phú Hưng hành quân vào thị xã. Khi đến cầu Cá Lóc, tiểu đoàn này đã bị tiểu đoàn 516 và 1 trung đội của tiểu đoàn 4 chặn đánh. Như vậy trong ngày 4-2-1968 quân ta đánh 2 trận lớn với 2 tiểu đoàn Mỹ và đã tiêu diệt gọn 1 đại đội, tiêu hao nặng 1 tiểu đoàn Mỹ.

Tại vùng ven thị xã và huyện Châu Thành, bộ đội ta kết hợp với lực lượng chính trị, binh vận và du kích liên tục đánh địch, đã bức hàng, bức rút các đồn Phú Tư, Cây đa, Chợ giữa, Thầy cai, Sơn Đông, Bình Phú, Mỹ Thành, vàm Cái Sơn. Ở tỉnh lộ 27 ta làm chủ một đoạn dài từ xã Thành Triệu đến xã Sơn Đông. Du kích và bộ đội đặc công huyện diệt đồn cống số 2, cống số 3, cắt đứt liên tỉnh lộ 6A, làm gián đoạn giao thông địch từ Mỹ Tho đến thị xã Bến Tre.

Tại thị trấn Mỏ Cày, trong đêm 31-1 - rạng ngày 1-2-1968, đại đội 1 và trung đội đặc công huyện diệt đồn Việt Hoa. Dân vệ trong đồn Cầu chợ hoảng sợ bỏ chạy. Bộ đội ta chiếm và làm chủ dãy phố trường trung học Hàm Luông, chọc thủng tuyến phòng ngự vòng ngoài của chi khu. 7 giờ sáng 1 đại đội bảo an do tên quận trưởng chỉ huy đến phản kích. Bộ đội ta chặn đánh chúng tại ngã ba Thơm, diệt gần 1 trung đội; tên quận trưởng chết; số còn lại tháo chạy về chi khu. Đồng thời quân ta tiến đánh công sở Đa Phước Hội, diệt một số dân vệ, tề xã, chiếm luôn công sở và làm chủ chợ Mỏ Cày, dồn ép địch vào chi khu. Phối hợp chiến đấu với bộ đội, lực lượng quần chúng, dân quân du kích đã rào đường, đắp ụ trên các trục lộ giao thông sát chi khu. Chiều ngày 2-2-1968 tại chợ Mỏ Cày, 200 quần chúng họp mít tinh tuyên truyền tin chiến thắng.

Ngày 3-2-1968, Ban chỉ huy huyện đội đã điều đại đội liên quân du kích lên thành lập đại đội 2. Để vây ép quân địch, tiểu đoàn dân quân du kích và đại đội 2 đào chiến hào dài khoảng 1km từ ngã ba Thơm qua Giồng Giữa. Sáng ngày 4-2-1968 đại đội bảo an từ chi khu ra chợ Mỏ Cày phản kích ta lần thứ 2. Đại đội 1 chặn đánh diệt gần 2 tiểu đội địch. Sau đó chúng cho máy bay, pháo binh bắn phá hủy diệt các dãy nhà, khu phố, hơn 50 đồng bào ta chết và bị thương. Bộ đội ta kiên cường bám trụ, liên tục chiến đấu đã làm chủ thị trấn Mỏ Cày trong 7 ngày đêm. Trong trận chiến đấu ác liệt này, đồng chí Mười Sinh - đại đội trưởng và 20 chiến sĩ của ta đã anh dũng hy sinh.

Phối hợp với thị xã, thị trấn trên các địa bàn nông thôn, cuộc tiến công và nổi dậy đã diễn ra ở nhiều nơi trong các vùng sâu, vùng yếu. Nổi bật là huyện Chợ Lách.

Huyện Chợ Lách nàm trên chót mõm của dải đất cù lao Minh, chiều dài khoảng 40km, gồm 8 xã có 50.000 dân phần lớn theo đạo Thiên chúa, Cao đài, Hòa hảo, Phật giáo. Cũng như nhiều địa phương khác, nhân dân ở đây bị địch kềm kẹp gắt gao. Việc xây dựng cơ sở cách mạng gặp nhiều khó khăn. So với các huyện khác thì lực lượng cách mạng ở Lách còn yếu. Để chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi dậy, Huyện ủy, huyện đội đã chú trọng móc nối lại cơ sở và nhanh chóng tổ chức lực lượng nhất là lực lượng vũ trang tập trung huyện. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, huyện đã xây dựng và cung cấp 1 đại đội bộ binh, 1 trung đội đặc công cho tỉnh. Sau đó, ta đã gấp rút xây dựng 1 trung đội bộ binh, 1 tiểu đội trinh sát đặc công cho huyện và ở mỗi xã phát triển 1 tiểu đội đến 1 trung đội du kích làm lực lượng nòng cốt cho phong trào nổi dậy của quần chúng.

Chi khu Chợ Lách chịu sự chỉ huy trực tiếp của tiểu khu Vĩnh Long. Địch lấy Chợ Lách làm trọng điểm bình định. Mỗi xã có 3, 4 ấp chiến lược. Lực lượng của chúng có 1.000 tên gồm bảo an, dân vệ, biệt kích… phần đông là người địa phương.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2011, 06:46:46 am
Mặc dù lực lượng ta ít nhưng với quyết tâm cao, Huyện ủy, huyện đội đã nắm vững thời cơ phát động được phong trào nổi dậy của quần chúng, kết hợp 3 mặt tại chỗ tấn công địch khắp các địa bàn trong huyện. Với cách đánh thọc sâu thối động quân địch, ta chọn đồn Cái Mít thuộc xã Sơn Định làm điểm của cuộc tiến công. Đồn này cách thị trấn 600 mét, có hai cơ sở mật của ta. Đêm 31 rạng 1-2-1968, các lực lượng ta tiếp cận mục tiêu chiến đấu. 7 giờ sáng 1-2-1968, cơ sở ta dụ tên trưởng đồn Cái Mít ra ngoài “dự tiệc” và bắn chết ngay tên này. Lập tức một tiểu đội vũ trang của ta nổ súng vào đồn. Lực lượng quần chúng có cả gia đình binh sĩ nổi trống mõ áp đảo địch. Sau 2 giờ bao vây và phát loa kêu gọi, toàn bộ binh sĩ trong đồn kéo ra hàng, ta thu 14 súng (có 1 trung liên). Phát huy thế tiến công địch bằng ba mặt, ta bức hàng đồn Phú Thuận và Phú hiệp vào 14 giờ ngày1-2-1968. Bọn dân vệ ở đồn Cống hoảng sợ; ta liền cử em Cam (15 tuổi) cùng gia đình binh sĩ vào đồn nói rõ chính sách khoan hồng của Mặt trận đối với binh sĩ ngụy; bên ngoài ta phát loa kêu gọi, 15 tên dân vệ ra hàng. Ta san bằng đồn và thu vũ khí. Bọn dân vệ đồn Cây Bàng, Cây Đa, Đình Thiếc tháo chạy.

Đêm 1-2, Ban chỉ đạo họp đánh giá tình hình và vạch kế hoạch tiếp tục tấn công địch. Ngày 2-2-1968 100 quần chúng và gia đình binh sĩ kết hợp với du kích và 1 tiểu đội bộ đội địa phương huyện bao vây công sở xã Phú Phụng, ta bắn chết tên cảnh sát ác ôn. Số tề và dân vệ trọng đồn kéo ra hàng, ta thu 23 súng (có 1 trung liên). Xã Phú Phụng với 5.500 dân hoàn toàn được giải phóng.

Ngày 3 và 4-2-1968, ta liên tiếp bức rút công sở xã Vĩnh Bình, đồn Hưng Nhơn, Bình Thạnh, Hòa Thanh, Cây Cuội, Vàm Cống, Tân Bường, Tân An, Thôi Lộ, Song Lân. Bọn tề và dân vệ xã Bình Hòa Phước hoang mang rút chạy sang cù lao Tân Phong (Mỹ Tho). Cơ sở binh vận ta kết hượp lực lượng quần chúng và gia đình binh sĩ áp sát tuyên truyền kêu gọi. Chúng quay trở về và nộp 80 súng cho cách mạng. Nổi bật là tại xã Đồng Phú. Trong những ngày đầu tiến công và nổi dậy, bọn dân vệ rút chạy về công sở xã. Quân địch ở đây tăng lên 76 tên do 3 tên ác ôn cầm đầu. Ban chỉ đạo huyện cử nữ đồng chí Tám Phụng Huyện ủy viên - Bí thư xã, người có nhiều kinh nghiệm công tác phong trào trong vùng sâu, vùng yếu, trực tiếp chỉ huy diệt công sở này. Bằng ba mũi giáp công ta đánh 2 lần nhưng không dứt điểm được. Đồng chí Tám Phụng đã có sáng kiến vận động vợ 3 tên ác ôn cùng 30 gia đình binh sĩ vào đồn kêu gọi chúng, đồng thời dùng 1 tiểu đội vũ trang và 200 quần chúng kéo pháo giả nghi binh bao vây chặt công sở; sau 7 ngày đêm, toàn bộ tề và dân vệ mang súng ra hàng. Xã Đồng Phú với 9.000 dân thoát khỏi ách kềm kẹp của địch.

Như vậy trong 10 ngày đêm tiến công và nổi dậy, quân dân Chợ Lách đã giải phóng hoàn toàn 4 xã, 25 ấp, bức hàng bức rút 40 đồn tua và công sở, giết chết và làm bị thương 19 tên trong đó có 2 tên Mỹ, 335 hảng binh, thu 413 súng các loại.

Kể từ năm 1960, đây là cuộc tiến công và nổi dậy đầu tiên của quân và dân huyện Chợ Lách. Nó làm phong phú thêm bài học kinh nghiệm về phương thức tiến công địch bằng ba mặt ở vùng sâu, vùng yếu. Nó góp phần tạo nên thế chiến lược mới trên chiến trường trong những ngày đầu xuân Mậu Thân 1968.

Kết thúc đợt 1, tuy chưa dứt điểm được thị xã nhưng quân và dân ta đã diệt, tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch; giải phóng vành đai và hình thành thế bao vây thị xã đã làm tan rã phần lớn bộ máy kềm kẹp của chúng từ tỉnh đến xã ấp, mở rộng thêm vùng giải phóng và làm chủ nhiều đoạn giao thông thủy bộ, dồn địch vào thế bị động đối phó.

Tháng 3-1968, Khu ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 8 mở hội nghị tổng kết đánh giá tình hình thắng lợi của đợt 1 và đề ra kế hoạch tiến công đợt II. Để bổ sung lực lượng cho trên ngày 5-3-1968 tiểu đoàn 3 được lệnh về Quân khu.

Căn cứ tình hình cụ thể của tỉnh nhà, Tỉnh ủy chủ trương: Kiện toàn tổ chức, biên chế lại lực lượng vũ trang tỉnh, huyện. Tăng cường cán bộ lãnh đạo và chỉ huy cho thị xã, chuẩn bị đón nhận chỉ thị mới của cấp trên. Lực lượng khởi nghĩa của quần chúng được đưa về địa phương.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã giải thể tiểu đoàn 4, tổ chức thành 3 đơn vị mũi nhọn đứng chân hoạt động ở vành đai để vây ép thị xã. Tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 2 và các đại đội binh chủng được tổ chức thành chiến đoàn nhẹ làm quả đấm của tỉnh và bám trụ lại các xã Hữu Định, Phước Thạnh, Song Phước, Phú An Hóa, Quới Sơn… sẵn sàng đánh bại các cuộc phản kích của địch, giữ vững thế tiến công, tạo điều kiện để bước vào đợt II.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2011, 06:48:04 am
II

BÁM TRỤ ĐÁNH ĐỊCH PHẢN KÍCH - TRẬN HỮU ĐỊNH

Cuối tháng 3-1968, hai tiểu đoàn quân Mỹ đã rút khỏi chiến trường Bến Tre. Quân ngụy trong thị xã thường bung ra và thăm dò lực lượng ta ở các vùng ven. Bộ đội đặc công huyện Châu Thành, biệt động thị xã, du kích vành đai liên tục đánh địch. Có trận ta diệt hàng chục tên. Cũng trong tháng 3-1968 hai tiểu đoàn chủ lực thuộc trung đoàn 10 hành quân yểm trợ cho tiểu đoàn công binh phá quang, mở đường để bọn dân vệ ở chi khu Trúc Giang chiếm lại đồn cống số 2, cống 3 hòng nối thông liên tỉnh lộ 6A. Tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 2 và bộ đội địa phương huyện Châu Thành chặn đánh tiêu hao nặng tiểu đoàn công binh; bọn dân vệ bỏ 2 đồn cuốn chạy luôn.

Tháng 4-1968, Tỉnh ủy nhận mật lệnh tiến công đợt 2 vào ngày 11-5-1968. Để giành thế chủ động, Tỉnh ủy chủ trương: phải diệt 1 bộ phận quân chủ lực địch trước khi đánh vào đợt. Thực hiện ý định này, đêm 4-5-68, ta đánh đồn Phú Hưng nhằm kéo trung đoàn 10 từ thị xã ra cứu viện để đánh chúng; nhưng chúng không dám đi. Ngày 6-5-1968, tiểu đoàn 516 và các đại đội binh chủng đến đóng tại xã Hữu Định; tiểu đoàn 2 chia thành 3 cụm đóng tại xã Phước Thạnh. 5 giờ sáng ngày 7-5 địch phát hiện ta có 1 đại đội địa phương ở xã Hữu Định(1). 2 giờ sau, 2 tiểu đoàn và 1 đại đội thám kích thuộc trung đoàn 10 chia thành 2 cánh gồm nhiều mũi tiến qua đồng Phú Hưng - Hữu Định hòng bao vây tiêu diệt bộ đội ta. Từ lộ Tú Điền, lộ Giữa, tiểu đoàn 3 và đại đội thám kích trung đoàn 10 đánh ngay vào tuyến phòng ngự của tiểu đoàn 516. Cùng lúc tiểu đoàn 1 - trung đoàn 10 hành quân theo kinh Chẹt Sậy đánh vào đại đội địa phương huyện Châu Thành. Trên toàn mặt trận quân ta đồng loạt nổ súng đánh bật địch ra đồng trống. Đại đội địa phương huyện chống trả quyết liệt với 1 tiểu đoàn địch. Ta bị tiêu hao 1 tiểu đội, trận địa bị địch chọc thủng. Liền lúc đó 2 trung đội dự bị của tiểu đoàn 516 được lệnh hợp sức cùng đại đội địa phương Châu Thành đánh chiếm lại vị trí đã mất. Ngay trong đợt chiến đấu đầu tiên ta đã diệt 70 tên địch. Chúng dùng máy bay ném bom và bắn hàng ngàn quả pháo xuống mặt trận. Lúc này Ban chỉ huy mặt trận gồm các đồng chí: Lê Minh Đào, Trần Khắc Chung, Phạm Văn Huấn, Nguyễn Hữu Vị… đang bàn tính kế hoạch diệt địch thì qua tin trinh sát kỹ thuật, ta nắm được: Tên Tư lệnh sư đoàn 7 không còn lực lượng chi viện đã ra lệnh cho trung đoàn 10 rút quân. Lúc này bộ đội ta vẫn bám và kềm chân địch. Chúng không rút quân được vì sợ ta truy kích. Cả 2 tiểu đoàn địch tiến thoái lưỡng nan. Nắm được điểm yếu của chúng, Ban chỉ huy mặt trận tăng cường cán bộ cho tiểu đoàn 516 và ra lệnh cho tiểu đoàn này đánh chia cắt địch, ghìm chúng tại chỗ. Tiểu đoàn 2 lợi dụng địa hình, bí mật vận động đánh vào sau lưng tiểu đoàn 1 của địch; tiểu đoàn 516 xuất kích diệt nhiều tên, số còn lại chạy tán loạn ra đồng trống. Trên một mặt trận dài 3 km, bộ đội ta đã phát huy tất cả các loại hỏa khí tiến công mãnh liệt vào đội hình địch. Tiểu đoàn 516 đã đánh trúng Sở chỉ huy trung đoàn 10. Tên thiếu tá trung đoàn phó và tên đại úy pháo binh chết ngay tại chỗ, tên trung đoàn trưởng chạy thoát mạng. Ta diệt 400 tên địch, thu 125 súng, 8 máy thông tin PRC 25… Đây là trận đánh tiêu diệt quy mô lớn đầu tiên ở chiến trường Bến Tre.

Ngay sau trận Hữu Định quân Mỹ lại nhảy vào cứu nguy cho quân ngụy. Ngày 8-5-1968, 14 chiếc tàu chở 1 tiểu đoàn quân Mỹ từ vàm An Hóa vào sông Ba Lai đã lọt vào trận địa phục kích của quân ta. Đại đội ĐKZ 75 và các tổ B40, B41 nổ súng vào đoàn tàu địch. Ta bắn chìm và cháy 12 chiếc, tiêu hao nặng 1 tiểu đoàn Mỹ. Cùng lúc, đúng như dự kiến của ta, 20 chiếc trực thăng từ căn cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho) chở một tiểu đoàn quân Mỹ đổ xuống đồng Song Phước -
Giao Long Hòa. Tiểu đoàn 2 bố trí đội hình đánh địch không đúng theo kế hoạch tác chiến nên ta chỉ diệt được một số tên.

Đêm 8-5-1968, các lực lượng ta di chuyển về đóng quân tại xã An Khánh (Châu Thành) để chuẩn bị vào đợt II. Địch phát hiện. Tiểu đoàn Mỹ từ xã Giao Long Hòa lên lộ 6A chia thành nhiều mũi theo đánh ta. Chúng ném 22 lượt bom và hàng vạn quả pháo xuống mặt trận. Bộ đội ta kiên cường giữ vững trận địa, chiến đấu với địch suốt 14 giờ liền và diệt gần 100 tên Mỹ. Đêm 11-5-1968, đúng ngày quy định của trên ta đánh vào thị xã. Đại đội đặc công diệt 2 đồn ở xã Bình Phú. Sáng 12-5-1968, 3 đại đội bảo an, 1 chi đội xe M113 phản kích ngay quân ta. Bộ đội ta diệt gần 100 tên địch. Chúng hốt hoảng ném 2 lượt bom B52 xuống xã Phước Thạnh thuộc vùng ven thị xã.

Trong 6 ngày đêm bám trụ đánh địch phản kích, bộ đội tỉnh, huyện đã đánh 4 trận lớn, diệt 2 tiểu đoàn chủ lực ngụy, 1 đại đội bảo an và tiêu hao nặng 1 tiểu đoàn và 1 đại đội Mỹ, bắn chìm và bắn cháy 12 tàu, thu 133 súng các loại. Đến đây địch đã yếu sức nhưng bộ đội ta cũng không đủ khả năng đánh dứt điểm thị xã. Chiến đoàn ta được lệnh rút ra vùng ven. Đó là một quyết định đúng đắn, kịp thời của Ban chỉ huy mặt trận.


(1) Theo tin trinh sát kỹ thuật.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2011, 06:48:58 am
III

ĐÁNH BẠI CUỘC CÀN QUÉT CỦA MỸ NGỤY,
BẢO VỆ CĂN CỨ GIỒNG TRÔM

Tháng 5-1968, tiểu đoàn 2 được rút về Quân khu. Để giữ vững quả đấm chủ lực tỉnh, Ban chỉ huy Tỉnh đội điều đại đội 2 cùng một số cán bộ chỉ huy của tiểu đoàn 516 và 3 trung đội bộ đội địa phương của các huyện Thạnh Phú, Mỏ Cày, Chợ Lách để xây dựng tiểu đoàn mới - tiểu đoàn 5.

Qua các đợt tiến công của ta, quân chủ lực ngụy đã mất sức chiến đấu. Quân Mỹ buộc phải vào Bến Tre để đối phó. Chúng tăng cường 1 lữ bộ binh, lữ xung kích 177 (hạm đội nhỏ trên sông) cùng phương tiện chiến tranh, xây dựng thêm các trận địa pháo như ở sân bay Tân Thành, Phú Hưng (thị xã), Gò Cát, Đồng Gò, Giồng Xoài (Giồng Trôm)…

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy, Tỉnh đội chỉ rõ: Lúc này đối tượng tác chiến chủ yếu của ta là quân Mỹ, hỏa lực Mỹ; cần phải có quyết tâm cao để đánh với đối hướng mới, phải xây dựng chiến đoàn mạnh và giữ hình thức tác chiến tập trung để đủ sức tiêu diệt đại đội Mỹ, tiểu đoàn Mỹ. Trong chiến đấu cần chú trọng vận dụng các đánh gần có công sự vững chắc, giải quyết chiến trường nhanh. Cán bộ chỉ huy cấp trên phải sâu sát đơn vị, kịp thời giải quyết mọi sự khó khăn vướng mắc cho cấp dưới.

Thượng tuần tháng 7-1968, các tiểu đoàn và các đại đội binh chủng được tập trung về các xã căn cứ: Lương Phú, Thuận Điền, Long Mỹ (Giồng Trôm) để củng cố tổ chức và giáo dục cho cán bộ chiến sĩ quán tiệt hơn nữa quyết tâm và cách đánh Mỹ, chuẩn bị cho những trận chiến đấu mới.

Đêm 22-7-1968, trinh sát kỹ thuật phát hiện địch sẽ tập trung quân càn quét địa bàn căn cứ Giồng Trôm. Trung đoàn 10 hành quân có quân Mỹ và máy bay B52 yểm trợ. Quân Mỹ dùng tàu vào sông Giồng Trôm đánh các xã Lương Phú, Thuận Điền, Long Mỹ; trung đoàn 10 đổ quân bằng trực thăng xuống các xã Tân Hào - Hiệp Hưng. Với phương án tác chiến đã chuẩn bị sẵn, Ban chỉ huy chiến đoàn bố trí đại đội ĐKZ75, ĐK57 ly cùng các tổ hỏa lực B40, B41 xây dựng trận địa đánh tàu trên sông Giồng Trôm (đoạn xã Lương Phú) để chặn đánh quân Mỹ. Tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 5 hành quân về đồng Gò Tranh (Tân Hào - Hiệp Hưng) tổ chức đánh trung đoàn 10 đổ bộ bằng đường không. Rạng sáng ngày 23-7, địch ném 6 lượt bom B52 xuống các xã Lương Phú, Thuận Điền, Long Mỹ, Tân Hòa. Đúng như nhận định của ta, 7 giờ sáng cùng ngày, 14 chiếc máy bay trực thăng chở 2 đại đội chủ lực thuộc trung đoàn 10 đổ quân xuống trận địa ta ở đồng Gò Tranh. Lập tức đại đội phòng không 12 ly 8 bắn rơi tại chỗ 7 chiếc, bắn bị thương 4 chiếc. Tiểu đoàn 5 và đại đội 3 tiểu đoàn 516 nhanh chóng xuất kích diệt khoảng 200 tên. Sau đó đoàn máy bay trực thăng thứ 2 chở 1 tiểu đoàn chủ lực của trung đoàn 10 đến tiếp cứu cách mặt trên 1.000 mét. Ta bắn bị thương thêm 1 chiếc. Cùng lúc, địch bắn gần 5.000 quả pháo xuống xã Lương Phú, Long Mỹ và cấp theo bờ sông Giồng Trôm dọn đường cho 20 chiếc tàu chở đầy quân Mỹ thuộc lữ đoàn 3 chạy vào song Giồng Trôm. Đoàn tàu chiến đến đoạn sông xã Lương Điền liền bị các tổ săn tù của ta diệt tại chỗ 16 chiếc. Tiếp đó, ta bắn chìm và cháy thêm 12 chiếc khi chúng vào kéo số tàu chìm về thị xã. Như vậy trong 2 ngày 23 và 24-7-1968, ta đã bắn chìm và cháy 28 tàu, bắn rơi và hỏng 12 chiếc máy bay trực thăng, diệt khoảng 500 tên Mỹ, 200 tên chủ lực ngụy.

Để tiếp tục đánh phá căn cứ Giồng Trôm và quyết diệt các tiểu đoàn cơ động của ta, đẩy quân ta ra xa thị xã, tháng 9, tháng 10-1986, địch tăng cường về chiến trường Bến Tre 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến ngụy, lữ 3 bộ binh, lữ tàu xuất kích 117 Mỹ.

Ngày 3-11-1968, địch tập trung 6 tiểu đoàn chủ lực thuộc trung đoàn 10, trung đoàn 11 sư đoàn 7 càn quét vào các xã Thạnh Phú Đông, Tân Hào, Phước Long, Thuận Điền, Long Mỹ - vùng căn cứ Giồng Trôm. Du kích các xã kết hợp với bộ đội địa phương huyện chặn đánh và tiêu hao 1 số tên địch. Cùng lúc, đại đội bảo an tiểu khu dựa vào quân chủ lực bung ra càn quét xã Nhơn Thạnh. Tiểu đoàn 5 diệt 1 trung đội địch. Phát hiện chủ lực ta, địch liền bốc 1 tiểu đoàn Mỹ ở tỉnh lộ 26 và 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến từ xã Phú Hưng sang bao vây đánh tiểu đoàn 5 của ta. Ta và địch chiến đấu quyết liệt suốt ngày 3-11-1968. Đêm 3-11-1968, Ban chỉ huy mặt trận nhận định: Địch đã tập trung một lực lượng lớn gồm 7 tiểu đoàn quân ngụy, 1 tiểu đoàn quân Mỹ quyết đánh diệt các tiểu đoàn ta. Quân ta chiến đấu trong điều kiện không thuận lợi; hơn nữa lúc này tiểu đoàn 5 và 1 cán bộ chỉ huy phó Tỉnh đọi (đồng chí Tám Vị) đã có lệnh về Quân khu để bổ sung cho các chiến trường bạn. Để giữ gìn lực lượng, Ban chỉ huy mặt trận đưa tiểu đoàn về bám trụ tại xã Sơn Phú - nơi địch ít chú ý; đồng thời ta lại có thể đánh 1 tiểu đoàn địch khi chúng rút quân bằng đường tàu trên sông Hàm Luông. Địch phát hiện vị trí đóng quân của ta. Sáng ngày 4-11-1968 chúng bắn vào xã Sơn Phú 400 quả pháo. Tên Tư lệnh sư đoàn 7 ra lệnh bao vây chặt lực lượng ta. Hải đoàn 23 từ Vĩnh Long đến hàn trên sông Hàm Luông, chi đoàn M113 bịt lộ số 5; 12 khẩu pháo 105 ly ở Mỹ Hòa bắn phá ác liệt. Sau khi hình thành thế bao vây, các cánh quân của địch đột phá vào trận địa ta. Suốt cả ngày 4-11-1968 ta đánh bật hàng chục đợt xung phong của địch và đẩy chúng ra đồng trống. 24 giờ, 1 trung đội đặc công được trang bị 6 khẩu B40 kết hợp với một trung đội bộ binh tập kích tiểu đoàn 1 trung đoàn 10 diệt gần 100 tên. Địch bị hút về 1 hướng, ta rút lui an toàn.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2011, 06:49:41 am
Đây là trận đánh càn gay go quyết liệt nhất. Bộ đội ta đã chiến đấu anh dũng kiên cường; người chỉ huy mặt trận đã xử trí tình huống linh hoạt kịp thời. Bộ đội ta đã diệt 600 tên địch giữ gìn được lực lượng, bảo vệ được địa bàn căn cứ. Một lần nữa ý đồ tìm diệt chủ lực ta, phá hủy căn cứ trọng yếu đất thép Giồng Trôm của địch bị đánh bại.

Tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 5 được Chính phủ tặng thường huân chương Quân công hạng 3.

Đi đôi với đánh phá căn cứ, tìm diệt chủ lực ta, địch đã chiếm lại một số vùng nông thôn vừa mới giải phóng. Ở Chợ Lách, các xã Phú Phụng, Vĩnh Bình, Bình Hòa Phước, Đồng Phú, địch đóng lại đồn bót, lập lại bộ máy kềm kẹp nhân dân. Ở các địa bàn căn cứ, địch tăng cường máy bay B52 ném bom, rải chất độc hóa học hủy diệt địa hình, khai quang vườn tược. Quân Mỹ dùng chiến thuật nhảy cóc cấp trung đội, đại đội bằng trực thăng xuống các cánh đồng lõm sâu trong căn cứ ta. Trên các con sông lớn như sông Ba Lai, Hàm Luông địch tăng cường tàu, xuồng máy, kiểm soát chặt, ngăn chặn giao thông tiếp tế, hạn chế sự di chuyển cơ động của lực lượng vũ trang ta. Qua các trận chiến đấu, các tiểu đoàn cơ động của ta quân số bị hao hụt lại còn đưa 2 tiểu đoàn về Quân khu. Việc xây dựng thêm tiểu đoàn mới gặp khó khăn, nhắt là thiếu cán bộ.

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy chủ trương: tiếp tục phát huy mạnh mẽ tinh thần quyết tâm đánh Mỹ, đẩy mạnh công tác binh địch vận, phát động tinh thần chống Mỹ, khoét sâu mâu thuẫn trong hàng ngũ địch, nhanh chóng củng cố tổ chức cơ sở Đảng nhứt là những nơi địch vừa chiếm lại; cán bộ phải bám sát xã, ấp, bám sát quần chúng, đồng thời chuẩn bị tư thế và mọi điều kiện để chủ động đánh địch trong tình hình khó khăn ác liệt hơn.

Để chủ động đối phó với các biện pháp chiến thuật mới của địch, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã tổ chức các đơn vị đặc công chốt, pháo chốt, thường xuyên đánh tàu, cầu, phà, trận địa pháo của địch. Đây là một sáng kiến mới đạt hiệu suất chiến đấu cao.

Những tháng cuối năm 1968 phong trào du kích chiến tranh được giữ vững. Nhiều đội du kích ở Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú, Châu Thành thường xuyên bám đánh địch. Du kích xã Long Mỹ đã gài trái đánh tan xác 3 chiếc trực thăng khi chúng dùng chiến thuật nhảy có đổ quân xuống vùng căn cứ của ta; du kích đội phẫu thuật 1 đã bắn rơi 1 chiếc trực thăng Mỹ tại xã An Địch. Huyện Mỏ Cày… Bộ đội đặc công nước, đặc công bộ đã liên tiếp đánh nhiều trận, diệt đội săn tàu kết hợp tiểu đoàn 516 đã bắn chìm và cháy 17 tàu thuộc lữ 2 - sư đoàn 9 và hải đoàn xung kích 117 khi chúng càn vào căn cứ Giồng Trôm, diệt hàng trăm tên Mỹ. Ngày 15-11-1968, đại đội đặc công nước đánh cháy 1 tiểu hạm, chìm 15 tàu diệt gần 500 tên Mỹ tại vàm Bến Tre. Đây là những chiến công xuất sắc có tiếng vang lớn khắp cả nước. Bộ đội đặc công nước Bến Tre đã xây dựng truyền thống vẻ vang “Cỡi sóng Hàm Luông, nhận chìm hạm Mỹ”.

Qua một năm tiến công và nổi dậy đánh địch phản kích, đánh địch càn quét, quân và dân Bến Tre đã loại khỏi vòng chiến đấu: 28.562 tên địch, bắn chìm và cháy 126 tàu, hạm, bắn rơi và hỏng 97 máy bay; phá hủy 86 xe quân sự, 1 kho súng hơn 1.000 khẩu; diệt bức hàng, bức rút 195 đồn tua; thu 1.481 súng các loại; giải phóng thêm 13 xã với 72.800 dân.

Sau những đợt tiến công của ta, quân chủ lực ngụy đã bị thất bại nặng nề; quân Mỹ trực tiếp nhảy vào Bến Tre kéo theo các phương tiện chiến tranh hiện đại của chúng. Với tư tưởng liên tục tiến công, thắng Mỹ, diệt ngụy; bằng những trận chiến đấu tài giỏi, quân và dân ta đã diệt hàng ngàn tên xâm lược Mỹ, làm phá sản các biện pháp chiến thuật của chúng. Nổi bật là đánh bại chiến thuật “Hạm đội nhỏ trên sông” của quân Mỹ.

Suốt một năm chiến đấu liên tục dưới ánh sáng đường lối của Đảng, được sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Tỉnh ủy, quân và dân Bến Tre đã tự lực, tự cường, vừa chiến đấu vừa xây dựng phát triển lực lượng, luôn luôn đáp ứng yêu cầu chiến tranh tại chỗ và sẵn sàng đưa lực lượng lên trên chi viện cho các chiến trường bạn, góp phần cùng toàn Miền, cùng cả nước đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.

Tháng 12-1968, Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tặng 8 chữ vàng: “Anh dũng Đồng khởi - thắng Mỹ, diệt ngụy” cho Bến Tre.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2011, 06:50:02 am
(http://img600.imageshack.us/img600/2610/bt3l.jpg)


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2011, 06:51:29 am
Chương bảy

CHỐNG PHÁ BÌNH ĐỊNH,
GIÀNH LẠI QUYỀN CHỦ ĐỘNG
(1969-1971)

I

THỜI KỲ KHÓ KHĂN QUYẾT LIỆT

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong tết Mậu Thân và những thắng lợi nối tiếp sau đó đã làm cho chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ bị phá sản hoàn toàn.

Chính quyền Giôn-xơn buộc phải từng bước xuống thang chiến tranh, chủ trương “Phi Mỹ hóa” chiến tranh, từ bỏ chiến lược “tìm và diệt”, chuyển sang chiến lược “quét và giữ”, lấy bình định cấp tốc làm nội dung chủ yếu.

Tháng 11-1968 khi trúng cử Tổng thống Mỹ, Ních-xơn đã điều chỉnh chủ trương “Phi Mỹ hóa” thành chiến lược “Việt Nam hóa” tiếp tục kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Việt Nam.

Lúc này, trên chiến trường Bến Tre, địch đã mở nhiều cuộc hành quân liên quân Mỹ ngụy, thực hiện “quét và giữ” đẩy lực lượng ta ra xa thị xã.

Ở Châu Thành, ngày 3 và 10-2, quân Mỹ và bảo an đã mở 2 cuộc càn vào Tam Phước, An Khánh. Tiểu đoàn 500 vừa xây dựng xong từ Mỏ Cày chuyển về đã chăn đánh diệt 1 trung đội bảo an và 82 tên Mỹ, bắn hư 3 máy bay. Trên địa bàn Giồng Trôm, những ngày giữa tháng 2, tiểu đoàn 560 mới về đứng chân ở đây lại liên tục đánh với 1 tiểu đoàn Mỹ càn vào xã Châu Bình, diệt 175 tên, bắn rơi 3 máy bay lên thẳng. Tiểu đoàn vượt qua thử thách mới, nhưng đồng chí Lê Văn Phát (Tư Kiên) chính trị viên tiểu đoàn và đồng chí Nguyễn Văn Hoàng (Hoàng Chim) phó chính trị viên tiểu đoàn hy sinh, đơn vị bị tổn thất nặng nề.

Hợp đồng với chiến trường toàn Miền trong cao điểm mùa Xuân, lực lượng vũ trang ta đã tiến công vào vùng sâu, vùng yếu. Đêm 22-2, ta pháo kích vào 20 mục tiêu của địch trong toàn tỉnh. Tiểu đoàn 560 luồn vào xã Tân Xuân kế hợp với du kích hỗ trợ quần chúng diệt ác phá kềm. Các lực lượng tại chỗ đã chiến đấu với 6 đại đội bảo an đi giải tỏa, diệt và làm bị thương 165 tên, có 2 tên Mỹ. Lực lượng địa phương đã giải tán toàn bộ phòng vệ dân sự, phá rã bộ máy kềm kẹp ở xã này. Qua chiến thắng Tân Xuân, tiểu đoàn 560 trưởng thành khá nhanh về chiến thuật.

Tại Thị xã đêm 21-2, 1 đại đội mũi nhọn của Thị xã, 1 đại đội đặc công tỉnh kết hợp với cơ sở nội tuyến đã tập kích tiểu đoàn 2 trung đoàn 10 tại Bình Phú (ngoại ô) diệt 120 tên. Cùng thời gian này, 1 đại đội đặc công tỉnh tập kích cụm pháo Mỹ ở Đồng Gò và Chợ Giữa phá hủy 5 khẩu pháo 105 ly.

Thực hiện âm mưu Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, ở Bến Tre địch ráo riết đôn quân, củng cố các đơn vị đã bị ta đánh thiệt hại nặng trong năm 1968; đồng thời chúng xây dựng thêm nhiều đơn vị mới. Chỉ trong 3 tháng đầu năm 1969, chúng đã bắt 1.348 thanh niên đi lính. Quân số địch tăng vọt. Đến cuối năm, lực lượng của chúng đã có 29.038 tên. Ở vùng thị xã, thị trấn, địch xây dựng các đại đội cảnh sát dã chiến để đảm bảo an ninh bên trong và đưa bảo an, dân vệ hành quân chiếm đóng. Trung đoàn 10, sư đoàn 7 được chia thành 2 chiến đoàn: 1 chiến đoàn ở Ba Tri gồm tiểu đoàn 1, 2; một chiến đoàn gồm tiểu đoàn 3, 4 làm nhiệm vụ cơ động ứng chiến trong toàn tỉnh. Địch đã thay đổi trang bị, cấp súng M 16 cho bảo an và dân vệ tập trung. Bom pháo địch đánh phá trùm lên khắp các địa bàn trong tỉnh. Có ngày chúng bắn hàng vạn quả vào các khu vực ở cánh A Giồng Trôm, đông, tây Châu Thành và nam, bắc Mỏ Cày. Địch đã dùng máy bay ném bom chiến lược B52 ném bom xuống vùng Thuận Điền, Lương Phú, Lương Hòa, Long Mỹ. Chúng ngăn chặn, phong tỏa sự đi lại của nhân dân giữa 2 vùng hòng triệt nguồn tiếp tế của các lực lượng cách mạng. Địch áp dụng rộng rãi chiến thuật trực thăng vận “cóc nhảy”; không kỵ đánh liên tục vào các vùng căn cứ hành lang giao thông. Chúng đã sử dụng từ 1 đến 2 tiểu đoàn đánh đi đánh lại dài ngày ở một xã, thậm chí trong một vài ấp. Các khu vực đầu cầu vận chuyển của ta ở liên tỉnh lộ 6A, tỉnh lộ 26, Mỏ Cày - Giồng Trôm, Châu Thành - Mỹ Tho thường xuyên bị địch đánh phá, chốt chặn. Chúng còn dùng máy thu tiếng động vô tuyến diện tử thả, đặt vào vùng ta phát hiện cơ quan và bộ đội ta; sau đó bất ngờ tập kích bằng hỏa lực. Trên sông tàu chiến, bo bo địch rập rình thả trôi thình lình chặn đánh những đoàn cán bộ, đơn vị quân đội qua sông. Lữ đoàn tàu xung kích số 117 của hạm đội 7 thường xuyên bắn phá các cửa sông Cửa Đại, Ba lai, Hàm Luông, Cổ Chiên và từng lúc thọc sâu vào các sông nhỏ trong vùng giải phóng như sông Thơm, Cái Quao (Mỏ Cày), Eo Lói, Khâu Băng, Băng Cung (Thạnh Phú) để thăm dò lực lượng ta. Vùng giải phóng, vùng căn cứ luôn luôn bị địch khống chế và ngăn cách.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2011, 06:52:05 am
Tiếp thu nghị quyết hội nghị Khu ủy tháng 4-1969, Tỉnh ủy đã đề ra quyết tâm: Phát động mọi khả năng, toàn Đảng bộ, quân và dân Bến Tre tiếp tục và nghiêm chỉnh thực hiện các đợt hợp đồng tiến công với các chiến trường chung, đồng thời ra sức năng chặn, tiêu diệt, tiêu hao bọn càn quét, đánh phá bình định, nhanh chóng tạo thế bám trụ của Đảng bộ, của các lực lượng vũ trang vào trong dân, vào các địa bàn then chốt, củng cố phát triển cơ sở cách mạng và phong trào tiến công ba mặt.

Chấp hành Nghị quyết của Tỉnh ủy, Đảng bộ cơ sở các cấp, các ban ngành, đoàn thể và các lực lượng vũ trang vừa khẩn trương củng cố bộ máy lãnh đạo ở cơ sở, củng cố địa bàn nông thôn vừa tiến công địch hợp đồng với chiến trường chung. Ban chỉ huy Tỉnh đội đã chỉ đạo các đơn vị tập trung vừa đánh địch, vừa xây dựng căn cứ bàn đạp. Tiểu đoàn 516 lấy địa bàn các xã Tường Đa, Tam Phước, An Khánh (Châu Thành), Tiểu đoàn 560 lấy xã Châu Bình, Châu Hòa (Giồng Trôm) làm trung tâm đứng chân hoạt động.

Hợp đồng cùng chiến trường chung từ ngày 11-5 đến ngày 25-6-1969, ta đã mở đợt tiến công mùa Hè. Qua 45 ngày đêm chiến đấu, trên các địa bàn thị xã, Châu Thành, Ba Tri các lực lượng vũ trang của ta đã diệt được nhiều sinh lực địch, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn Mỹ ở Tường Đa, 1 tiểu đoàn chủ lực ngụy tại cầu Bà Mụ và diệt 3 đại đội bảo an.

Trong khi ta liên tiếp mở những đợt tiến công trên địa bàn Châu Thành và vùng ven thị xã thì địch tập trung mọi nỗ lực để lấn chiếm nông thôn. Ở Ba Tri, địch kết thúc kế hoạch bình định “Ba Tri 2”. Chúng đã rút tiểu đoàn 1, 2 của trung đoàn 10 về thị xã.

Ngày 4-6-1969, bọn tiểu khu sử dụng 2 tiểu đoàn của trung đoàn 10, 17 đại đội bảo an, 12 đoàn bình định đánh chiếm 4 xã Minh Đức, Nghi Đăng, Tân Trung, Cẩm Sơn ở Nam Mỏ Cày. Chúng đã đánh bật các lực lượng cách mạng ra khỏi địa phương, đóng 11 đồn và đưa bọn tề lưu vong trở về đặt lại mộ máy kềm kẹp nhân dân. Giữa tháng 7 địch chiếm An Thới, An Định, An Thạnh sau đó chúng chiếm Thành Thới, Bình Khánh. Từ tháng 8 đến tháng 10, địch chiếm đóng các xã Lương Hòa, Châu Hòa, Hiệp Hưng (Giồng Trôm); An Nhơn, An Quí (Thạnh Phú); Thạnh Tân, Phước Thuận (Bình Đại). Vùng giải phóng của ta ở 2 địa bàn trọng yếu Giồng Trôm và Mỏ Cày bị thu hẹp.

Thực hiện âm mưu bình định, bọn ngụy quân, ngụy quyền Bến Tre đã sát hại 1.285 đồng bào ta, đánh đập giam cầm hàng ngàn người khác. Hàng vạn mẫu vườn bị bom pháo, hóa chất độc phá hại. Đời sống của nhân dân ta hết sức khó khăn và thiếu thốn.

Nhân dân ta đã đấu tranh quyết liệt với chúng. Tại ấp Tân Hòa (Minh Đức), một bà lão đã nắm chân lôi một tên giặc từ trên nóc nhà rơi xuống khi nó cào nhà của bà. Ở ấp Tân Quới, một phụ nữ đùng dầu lửa tự đốt nhà mình không cho địch dỡ nhà vào khu tập trung.

Ngay từ tháng 4-1969, Thường vụ Tỉnh ủy đã cử đồng chí Phạm Văn Bè (Năm Hậu) - ủy viên Thường vụ về làm Bí thư Huyện ủy Mỏ Cày. Ban chỉ huy Tỉnh đội cử đồng chí Nguyễn Sĩ Phong - Tỉnh đội phó và một số cán bộ về tăng cường cho Mỏ Cày.

Để hỗ trợ chống phá bình định, tháng 7, 8-1969 Ban chỉ huy Tỉnh đội đã điều tiểu đoàn 560 tiểu đoàn 516 sang Mỏ Cảy. Được sự tiếp sức của bộ đội tỉnh, bộ đội địa phương và du kích trong 15 này cuối tháng 7 đã đánh 8 trận ở Cẩm Sơn, Ngãi Đăng, An Định, Thành Thới diệt gần 200 tên địch. Một bộ phận của tiểu đoàn 560 tập kích diệt gọn 1 đoàn bình định tại chợ xã An Thới.

Tại xã An Thạnh, tiểu đoàn 560 đã phục kích diệt gần 200 tên của trung đoàn 10 và 2 đại đội bảo an. Bộ đội địa phương huyện luồn sâu vào sát thị trấn diệt gọn một trung đội biệt kích và 1 đoàn bình định. Du kích mật xã Minh Đức phục kích diệt 4 tên bảo an thu 4 súng.

Trong lúc cuộc đấu tranh giữa ta và địch đang diễn ra quyết liệt, một tổn thất vô cùng to lớn đến với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Hồi 9 giờ 47 phút ngày 3-9-1969 tại Hà Nội, Bác Hồ vô kính yêu, vị lãnh tụ thiên tàn, cha già của dân tộc Việt Nam đã qua đời.[304]

Ngày 3-9-1969, Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi đồng bào cả nước “Triệu người như một, biến đau thương thành hành động cách mạng, dũng cảm tiến lên tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của Hồ Chủ tịch. Thực hiện lý tưởng và hoài bão của Người!”.

Với tấm lòng nhớ thương Bác vô hạn, nhân dân ta nén đau thương vượt qua thử thách tiến công địch trên khắp chiến trường quyết thực hiện thắng lợi trọn vẹn lời di chúc của Bác.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2011, 03:19:11 pm
Tháng 9-1969, Tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 560 đã tập kích vào đội hình đóng quân của tiểu đoàn 1 trung đoàn 10 tại chợ xã An Thới, tiêu hao nặng 2 đại đội. Ngày hôm sau, bộ đội ta phục kích đánh quân viện tiêu hao nặng tiểu đoàn 3 của trung đoàn này. Tiếp đó, tiểu đoàn 560 diệt gọn đại đội cảnh sát dã chiến tại ấp Cổ Cò xã Minh Đức. Bọn chỉ huy tiểu khu phát hiện 2 tiểu đoàn ta trên hướng bắc Mỏ Cày, chúng đưa trung đoàn 10, trung đoàn 11 sư đoàn 7 bám sát lực lượng ta. Trên địa bàn các xã Thành An, Khánh Thạn Tân, Tân Thành Tây, tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 560 đã dựa vào địa hình có lợi và công sự vững chắc dũng cảm đánh địch, giết và làm bị thương 400 tên, ta bảo toàn được lực lượng.

Theo chủ trương của Tỉnh ủy, huyện Mỏ Cày thành lập đại đội bộ đội địa phương thứ 2, xây dựng thêm 2 tiểu đoàn biệt động ở 2 thị trấn Mỏ Cày và Hương Mỹ. Quân và dân ở đây đã vượt qua lúng túng ban đầu, vươn lên đánh địch có hiệu quả.

Cuối năm 1969, trong đợt tiến công mùa Đông, các lực lượng tại chỗ ở Mỏ Cày đã vây ép 41 đồn tua địch. Tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 560 đã diệt gọn 2 đại đội, tiêu hao nặng 4 đại đội bảo an tại xã Minh Đức, thu 50 súng. Bộ đội địa phương Mỏ Cày diệt 1 trung đội bình định ở ấp An Vĩnh xã Đa Phước Hội. Du kích xã Phước Hiệp, Định thủy đánh bằng đầu đạn pháo diệt 48 tên. Du kích các xã Ngãi Đăng, Cẩm Sơn, Thành Thới, An Thạnh, An Định, Bình Khánh vây ngặt 9 đồn địch vừa lấn chiếm. Du kích xã Hương Mỹ gài trái diệt tên quận phó quận Long Mỹ.

Với phương châm tác chiến linh hoạt, các tiểu đoàn tỉnh khi tập trung thành quả đấm đánh tiêu diệt tiểu đoàn, đại đội địch ở phía trước; khi đưa từng bộ phận nhỏ phối hợp cùng lực lượng ba mặt tại chỗ đánh địch ở phía sau, do đó đã làm hạn chế tốc độ lấn chiếm bình định của địch. Địch không thực hiện được âm mưu chiếm đóng vùng nam Mỏ Cày trong thời gian ngắn.

Cùng thời gian này, bộ đội địa phương huyện Bình Đại diệt gọn 1 đại đội bảo an; bộ đội huyện Thạnh Phú đánh bọn lấn chiếm diệt 88 tên; bộ đội biệt động Thị xã hóa trang, gài mìn hẹn giờ, ném lựu đạn diệt 147 tên trong nội ô thị xã.

Một tổ bộ đội đặc công nước do đồng chí Lê Văn Phích chỉ huy đã đánh sập cầu Bình Chánh dài 100 mét trên lộ 26 làm gián đoạn giao thông địch trong 2 tháng. Với chiến công này và những trận đánh diệt tàu Mỹ trên kinh Chẹt Sậy, sông Hàm Luông năm 1968, đồng chí Lê Văn Phích được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên dương Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.

Đầu năm 1970, Bộ Tổng tham mưu ngụy đã tăng cường về Bến Tre lữ đoàn B thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn pháo 18 khẩu, 3 giang đoàn 50 chiếc.

Từ ngày 8 đến ngày 14-1, lữ đoàn B thủy quân lục chiến đánh vào cánh A Giồng Trôm. Chúng dùng máy bay B52 ném bom rải thảm vào các xã Long Mỹ, Thuận Điền, Lương Phú. Chúng đã bắn chết và bị thương nhiều người, hãm hiếp hàng chục phụ nữ, đốt phá nhiều nhà cửa của đồng bào. Các cơ quan tỉnh, huyện, quân y, bệnh xá của ta phải di chuyển liên tục. Đồng chí Đoàn Thị E, y tá thuộc quân y huyện Giồng Trôm đã cõng hàng chục thương binh nặng thoát khỏi vòng vây của kẻ thù bảo đảm an toàn cho anh em thương binh. Với tinh thần xả thân quên mình vì thương binh trong những năm khó khăn ác liệt, Đoàn Thị E đã được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên dương danh hiệu “Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng”.

Cũng trong trận càn này, bộ đội địa phương du kích xã ấp, du kích cơ quan đã dựa vào địa hình quen thuộc liên tiếp chặn đánh chúng. Qua 6 ngày đêm, quân và dân trên địa bàn Giồng Trôm đã diệt 400 tên, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, thu nhiều đạn dược và quân dụng.

Trong khi bọn thủy quân lục chiến càn quét ở Giồng Trôm, trung đoàn 10 sư đoàn 7 mở nhiều cuộc càn cấp tiểu đoàn, trung đoàn đánh vào khu vực bờ nam sông Mỹ Tho thuộc các xã Phú Túc, Phú dức, An Khánh huyện Châu Thành. Địch tăng cường thủ đoạn đánh đêm, thọc sâu nhiều mũi vào vùng ta. Ban đêm trực thăng vũ trang soi đèn bắn phá các nơi có địa hình rậm rạp, có lúc bất ngờ hạ xuống đất đổ quân tập kích vào cơ quan, vào các đội du kích bắt cóc cán bộ, chiến sĩ ta.

Trong những vùng sâu, vùng yếu, cảnh sát dã chiến, phòng vệ dân sự thường xuyên lùng ráp vây bắt thanh niên. Vùng mới chiếm, bọn bình định, chiến tranh tâm lý mỗi tên bám vào 4, 5 gia đình khống chế quần chúng, ngăn chặn ta trở về bám trụ.

Đầu năm 1970, Quân khu đưa tiểu đoàn 263 từ chiến trường Gò Công về Bến Tre củng cố và tăng cường cho Bến Tre. Đơn vị này hầu hết hạ sĩ quan và chiến sĩ là những đồng chí quê ở miền Bắc. Tiếp đó, Quân khu chỉ đạo Bến Tre nhanh chóng bổ sung quân củng cố tiểu đoàn 518 (thay cho đơn vị cũ được rút về trên) chuẩn bị tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc vào. Đồng thời Ban chỉ huy Tỉnh đội tổ chức thành lập đại đội đặc công thứ ba, phiên hiệu 269C.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2011, 03:21:32 pm
Trong khi thiếu vũ khí, chất nổ và lựu đạn, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã phát động phong trào thu nhặt bom đạn lép ở các địa phương. Nhân dân khắp nơi đã hưởng ứng và gom nộp các loại vỏ đồ hộp, bom đạn lép cho các xưởng sản xuất vũ khí của ta.

Xưởng sản xuất - sửa chữa vũ khí của tỉnh (ở Giồng Trôm) do đồng chí Võ Viết Thanh phụ trách đã có nhiều sáng kiến đưa năng suất lên cao. Đồng chí đã chỉ huy đội tự vệ của xưởng kiên cường bám trụ dưới hỏa lực B52, chất độc hóa học và những cuộc càn quét liên tục dài ngày của địch ở địa bàn xã Lương Phú, diệt 181 tên Mỹ ngụy, bắn rơi và phá hủy 5 máy bay lên thẳng. Đồng chí Võ Viết Thanh được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.

Đội phẫu thuật tiền phương của Hậu cần Tỉnh đội do đồng chí y sĩ Nguyễn Thế Đoàn làm đội trưởng đã chiến đấu rất dũng cảm, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng của địch, gài lựu đạn, chất nổ đánh địch càn quét diệt nhiều tên Mỹ ngụy, bảo vệ an toàn cho thương binh. Đội phẫu thuật tiền phương của Hậu cần Tỉnh đội được tuyên dương danh hiệu đơn vị anh hùng với dòng chữ: “Anh dũng quên mình, phục vụ thương binh”. Đồng chí Nguyễn Thế Đoàn được tuyên dương danh hiệu anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.

Ngày 18-1, hợp đồng với chiến trường toàn Khu, ta đã tiến công pháo kích vào 12 mục tiêu của địch. Lực lượng vũ trang bao vây 80 đồn tua, Tiểu đoàn 263 chặn đánh viện tại Châu Bình diệt 1 đại đội chủ lực. Tiểu đoàn 560 đánh thiệt hại 2 đại đội bảo an ở Bình Thủy. Bộ đội đặc công nước đánh chìm và cháy 8 tàu ở gần bến phà Hàm Luông diệt 100 tên. Ngày 14-2, nắm chắc địch, đại đội 3 tiểu đoàn 516 và 3 khẩu đội súng máy cao xạ phục kích sẵn tại ấp Giồng Sâu (xã Tân Hào, huyện Giồng Trôm) diệt gọn đoàn bảo an số 245, bắn rơi 4 trực thăng. Lữ đoàn B thủy quân lục chiến không rút ra được phải chôn chân trong một thời gian dài. Ngày 25-2, tiểu đoàn 516 phục kích diệt gọn 1 đại đội của lữ đoàn này tại ấp Giồng Đồng thu 30 súng, 2 máy thông tin.

Ngày 18-3-1970 tại Campuchia, đế quốc Mỹ đã dùng Lon-nol làm cuộc đảo chính lật đổ Xi-ha-núc. Quân ngụy Sài Gòn nhảy sang chiến trường Campu-chia; lữ đoàn B thủy quân lục chiến rút ra khỏi tỉnh. Chấp hành sự chỉ đạo của trên, từ ngày 31-3 đến 15-7, quân và dân Bến Tre đã mở 3 đợt tiến công địch. Tỉnh ủy đã chọn Bình Đại, Ba Tri làm trọng điểm, Mỏ Cày và thị xã làm diện.

Trong đêm 31-3-1970, hàng trăm mục tiêu của địch đã bị ta đánh phá. Tại trọng điểm Bình Đại, ta tiến công vào thị trấn diệt 5 đồn tua, 1 ụ pháo; đánh thiệt hại đại đội bảo an của chi khu. 2 ngày sau bọn tiểu khu điều 6 đại đội bảo an của Ba Tri, Giồng Trôm đến phản kích. Tiểu đoàn 516 chặn đánh diệt 100 tên. Ngày 17, 17-5 tại Lộc Thuận, Vang Quới các lực lượng ở trọng điểm đã vây đồn đánh viện diệt 250 tên trong đó có tên thiếu tá quận trưởng quận Bình Đại. Ta thu 110 súng, 5 máy thông tin; bắn rơi và bắn cháy 8 trực thăng.

Ở Ba Tri, tiểu đoàn 263 kết hợp bộ đội huyện diệt 2 đồn ở xã Mỹ Chánh, đánh hư nặng 1 đồn ở xã Mỹ Nhơn và đồng thời đứng lại đánh tiêu hao 2 đại đội bảo an tại xã Mỹ Thạnh, diệt hàng trăm tên.

Phối hợp với trọng điểm, bộ đội địa phương và du kích Giồng Trôm, Châu Thành, Chợ Lách, Mỏ Cày, Thạnh Phú diệt 5 đồn tua, giết và làm bị thương 100 tên, bắt sống 23 tên, giải tán 55 phòng vệ dân sự. Bộ đội đặc công nước đánh chìm và hư nặng 3 tàu, 2 chiếc phà tại bến phà Hàm Luông diệt 150 tên.

Hơn 2 tháng phối hợp với chiến trường toàn Miền, lực lượng vũ trang 3 thứ quân của ta đã diệt được nhiều sinh lực địch, làm hỏng phần lớn bộ máy kềm kẹp ở vùng chúng vừa mới bình định. Chúng đóng được đồn mà không gom được dân, không lập được tề; lực lượng cơ sở ta vẫn tồn tại và giữ thế tranh chấp với địch. Nhưng với tương quan lực lượng lúc bây giờ, ta chỉ tiêu hao tiêu diệt một số sinh lực địch, làm giảm tốc độ bình định của chúng; chưa đủ sức giữ được vùng giải phóng.

Sau khi buộc phải rút lữ đoàn thủy quân lục chiến, tháng 5-1970, Quân khu 4 của địch đã đưa các trung đoàn 14, 15 sư đoàn 9, trung đoàn 11 sư đoàn 7, tiểu đoàn số 42, 44 biệt động quân từng lúc luân phiên đến Bến Tre.

Các trung đoàn 14, 15 sư đoàn 9 thay phiên đánh dài ngày, chốt đống ử các xã cánh A Giồng Trôm, yểm trợ cho các liên đội bảo an lấn chiếm bình định các xã Thạnh Phú Đông, Tân Hào, Mỹ Thạnh. Tiểu đoàn 42, 41 đánh phá vùng Ba Châu. Trung đoàn 10 sư đoàn 7 đánh hai bên sông Hàm Luông ngăn chặn hành lang của ta, chuẩn bị xây dựng căn cứ phía trước ở Bến Tranh (Phước Long). Trung đoàn 11 sư đoàn 7 đánh vào đầu cầu liên tỉnh Bến Tre - Mỹ Tho ở phía Châu Thành Tây.

Qua 2 năm chiến đấu liên tục đầy hy sinh gian khổ, quân và dân Bến Tre đã ra sức đánh phá bình định, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Nhưng lực lượng của ta cũng bị giảm sút; địa bàn căn cứ đứng chân bị thu hẹp, ta đã mất 19 xã và 40 ấp giải phóng; lực lượng cách mạng ở nhiều nơi bị bật ra khỏi dân; đường hành lang trong tỉnh và liên tỉnh bị cắt, bị uy hiếp; kinh tế vùng giải phóng bị phá hoại nghiêm trọng. Cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang đứng trước những thử thách gay go và quyết liệt.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2011, 03:26:33 pm
II

BÁM ĐẤT, BÁM DÂN,
VƯƠN LÊN GIÀNH THẾ CHỦ ĐỘNG

Trước tình hình khó khăn trên chiến trường, tháng 8-1970 Thường vụ Tỉnh ủy đã mở cuộc họp quan trọng. Hội nghị đánh giá: chiến trường Bến Tre đang ở trạng thái tạm bị chiếm, ta và địch tranh chấp - cài răng lược rất quyết liệt để giành quyền làm chủ trên từng xã ấp. Địch đang quyết tâm cố chiếm hết vùng giải phòng còn lại của ta, đẩy lực lượng ta ra khỏi xã ấp; nhưng chúng không kềm kẹp được dân như các lần chiếm đóng trước, các Huyện ủy, Xã ủy vẫn bám được địa bàn… Thường vụ Tỉnh ủy quyết định: Điều chỉnh thế bố trí toàn bộ các lực lượng kháng chiến cho phù hợp với thực tế chiến trường, hình thành các khu vực bám trụ, phân bố các lực lượng cơ động vào các địa bàn trọng yếu phối hợp với lực lượng tại chỗ mở ấp chuyển vùng. Kiện toàn cơ quan chỉ huy, thông tin liên lạc, tổ chức hiệp đồng các lực lượng, các mặt trận trên từng khu vực xã ấp. Về phương châm phương thức hoạt động hội nghị chỉ rõ: Tập trung cao độ diệt ác phá kềm giành quyền làm chủ ở những vùng địch mới bình định, tích cực giữ vững những vùng giải phóng còn lại; tiếp tục tiến công thị xã thị trấn, đánh phá giao thông. Các lực lượng vũ trang tập trung trụ lại các địa bàn trọng yếu, hoạt động hỗ trợ, dìu dắt các lực lượng địa phương; tổ chức nhiều chốt pháo, chốt đặc công, chốt biệt động để hợp đồng chiến đấu khi có lệnh; thực hiện đánh nhỏ, đánh đều trên diện rộng, phát huy ưu thế đánh địch của lực lượng tại chỗ, mở rộng diện diệt địch bằng vũ khí tự tạo. Tích cực phát động quần chúng, gầy dựng cơ sở. Tỉnh ủy nêu khẩu hiệu: “Một tấc không đi, một ly không rời. Dân bám đất. Đảng bám dân. Bộ đội bám địch mà đánh”.

 Do vị trí, tính chất từng địa bàn, Thường vụ Tỉnh ủy chủ trương phân chia chiến trường thành 3 khu vực.

Khu vực: Nam Mỏ Cày. Trong điểm gồm các xã An Định, Bình Khánh, Phước Hiệp. Lực lượng đứng chân ở đây gồm tiểu đoàn 530, đại đội 269C đặc công, đại đội 268B trợ chiến.

Khu vực 2: Cánh A Giồng Trôm. Trọng điểm gồm các xã Thạnh Phú Đông, Phước Long, Tân Hào, Long Mỹ, Lương Phú. Lực lượng bố trí ở đây gồm: tiểu đoàn 516, đại đội 269A đặc công, đại đội cối 82 ly và đại đội săn tàu.

Khu vực 3: Đông tây Châu thành. Trọng điểm gồm các xã Phước Thạnh, Hữu Định, An Phước, Tam Phước, An Khánh. Tiểu đoàn 263, đại đội 269B đặc công, đại đội 268C trợ chiến được bố trí trên hướng này.

Mỗi khu vực tổ chức 1 Ban chỉ huy tiền phương gồm 1 đồng chí Tỉnh ủy viên, 1 đồng chí trong Ban chỉ huy Tỉnh đội, một số cán bộ Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, ban ngành, đoàn thể. Các huyện khác do Thường vụ Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo.

Cùng thời gian này, Tỉnh ủy đã quyết định phân chia địa bàn Mỏ Cày thành 2 huyện: huyện Mỏ Cày Nam và huyện Mỏ Cày Bắc. Đồng chí Lý Hùng Chiến Phó Bí thư Huyện ủy Mỏ Cày được giao nhiệm vụ Bí thư Huyện ủy kiêm chính trị viên huyện đội huyện Mỏ Cày Bắc.

Theo chủ trương trên, tháng 10, tháng 11-1970, bộ phận nặng của các cơ quan, ban ngày của Tỉnh ủy, Tỉnh đội đã tạm thời chuyển xuống địa bàn Thạnh Phú.

Các cơ quan tỉnh, huyện, các đơn vị tập trung đã đánh địch tạo thế để bước vào đứng chân trên các địa bàn được phân công. Bộ đội tỉnh, huyện phân tán thành từng tiểu đội, trung đội bám sát đồn bót, ven lộ giao thông, đánh địch bung ra để giữ thế bám trụ. Các tiểu đoàn tỉnh còn được giao nhiệm vụ chốt giữ đảm bảo hành lang vận chuyển từ Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành sang Mỹ Tho. Ở từng xã ấp, chính quyền, đoàn thể đã sắp xếp bố trí lại lực lượng. Số quần chúng còn ở lại ta chủ trương di chuyển ra đồng để tránh bom đạn, số người chạy ra vùng địch ta đưa đảng viên, cán bộ bám theo làm nòng cốt lãnh đạo. Cán bộ địa phương, quần chúng trung kiên bám lại địa bàn cùng lực lượng vũ trang ban đêm về các khu dân cư giáo dục, nắm dân, thanh trừng do thám, gián điệp, vận động quần chúng sản xuất, đóng góp tài chính, tổ chức tiếp tế lương thực thực phẩm.

Trong những năm tháng gian khổ ác liệt đó hầu hết đảng viên, cán bộ, chiến sĩ vẫn một lòng tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng, kiên trì bám trụ; đánh địch để bám trụ và khi có điều kiện thì bung ra diệt địch

Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã bán cả tư trang, nhẫn cưới góp phần cùng đơn vị, cơ quan vượt qua lúc thiếu đói. Nhiều quần chúng cách mạng đã luồn lách qua mắt địch tiếp tế lương thực,thực phẩm cho bộ đội, cơ quan nuôi dưỡng thương bệnh binh. Nhiều cơ sở nội tuyến đã gửi vũ khí cho lực lượng vũ trang đánh giặc. Nhiều quần chúng trong vùng vũ trang đánh giặc. Nhiều quần chúng trong vùng địch trong đó có cả chị em tiểu thương, nhân sĩ yêu nước đã giúp ta mua sắm các loại thuốc điều trị bệnh, các loại phụ tùng máy thông tin phục vụ chiến đấu… Qua những hành động cách mạng đó, có quần chúng đã bị địch bắt đánh đập, giam cầm và có người đã hy sinh.

Với khẩu hiệu “hầm là nhà”, nhân dân đã không tiếc công, tiếc của xây dựng hầm trú ẩn nuôi chứa con em mình trong nhà tránh pháo bầy, bom rải thảm của địch. Đồng bào ta đã chặt dừa, đốn chuối, lầy giường ván làm thành những công sự kiên cố chống pháo 105, 155 ly của giặc. Bà con ở vùng biển đã làm những nhà hầm sâu dưới đất chống lại pháo bom từ biển bắn lên. Các cụ phụ lão, các em thiếu nhi canh gác máy bay tàu chiến báo động cho những người sản xuất Trong khó khăn gian khổ, tình cảm đồng đội, tình yêu đồng bào, đồng chí rực sáng trong những con người quyết sống chết không rời bỏ ruộng vườn, địa bàn vị trí chiến đấu.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2011, 03:30:51 pm
Trong khi ta đang điều chính bố trí lực lượng, tháng 10-1970, địch tập trung 2 trung đoàn của sư đoàn 7, 2 trung đoàn của sư đoàn 9 lấn chiêm các xã Phước Mỹ Trung, Tân Phú Tây, Thành An khôi phục lại chi khu Đôn Nhơn (Mỏ Cày Bắc). Tháng 11 năm 1970, chúng tập trung đánh phá vào các địa bàn cánh A Giồng Trôm, Mỏ Cày Nam, Châu Thành và Thạnh Phú. Ở các địa phương trên quân ta vừa kiên quyết đánh trả địch, vừa chuyển vào bám trụ.

Những tháng đầu năm 1971, địch tiếp tục lấn chiếm bình định các xã còn lại ở Giồng Trôm.

Đến tháng 3-1971, địch đã đóng chiếm hết các vùng giải phóng của ta. Ta chỉ còn lại một lõm giải phóng gồm 10 ấp ở các xã Long Mỹ, Lương Phú, Lương Hòa, Mỹ Thạnh thuộc huyện Giồng Trôm. Tổng số đồn bót của địch lên đến 918 cái. Địch đã xây dựng một đội quân ngụy gồm 29.121 tên và tổ chức thành 12 tiểu đoàn bảo an của tiểu khu, 50 liên đội, 20 đại đội bảo an chi khu.

Đóng xong đồn bót, địch tập trung lực lượng phá hủy địa hình nhằm làm mất hẳn “chỗ dựa cuối cùng” của ta. Các lực lượng tại tỉnh của địch không làm nổi việc phá địa hình, chúng phải đưa hàng tiểu đoàn, chiến đoàn bảo an Gò Công mang tất cả mọi phương tiện như cưa máy, chất nổ, bắt quần chúng các nơi đến chặt phá cây cối làm hư hại hàng ngàn mẫu vườn của đồng bào ta. Hoạt động chiến tranh tâm lý của địch cũng đã đi vào chiều sâu, nham hiểu và thâm độc hơn trước. Chúng giết gia đình cách mạng rồi vu khống cho ta. Chúng cưỡng ép “úp bộ” nhân dân vào các tổ chức phản động, “đoàn ngũ hóa” các giới nhằm bôi đen quần chúng. Địch triệt để sử dụng bọn chiêu hồi đánh phá cơ sở cách mạng. Hàng ngàn cán bộ, đảng viên bị bắt, bị hy sinh. Lực lượng vũ trang ta quân số ngày càng giảm. Tiểu đoàn tập trung của tỉnh chỉ còn 50 đến 70 tay súng. Không quản ngại hy sinh gian khổ, Đảng bộ, quân và dân Bến Tre đã kiên trì bám trụ, từng lúc, từng nơi ta đã dần dần tạo ra những chuyển biến mới.

Lúc này cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh vào đường 9 Nam Lào của Mỹ ngụy đã bị thất bại thảm hại. Quân chủ lực của ngụy quyền Sài Gòn đã bị đánh quỵ. Những chiến thắng vang dội đó đã làm nức lòng quân và dân cả nước.

Tháng 5-1971, chấp hành chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục, Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre đã nhanh chóng bung ra, tổ chức quần chúng gây dựng cơ sở, khôi phục và phát triển phong trào ba mặt, chuyển tương quan lực lượng tại chỗ, hợp đồng cùng chiến trường toàn Miền đánh phá bình định… Thường vụ Tỉnh ủy nhấn mạnh: Kiên quyết xây dựng cho được Đảng bộ cơ sở vững mạnh, nhanh chóng củng cố lại khối đoàn thể, các ngành, bổ sung lực lượng vũ trang tỉnh, huyện tạo quả đấm then chốt, chú trọng xây dựng cơ sở binh vận trong lòng địch. Tỉnh ủy cũng đã phân vùng phân loại xã ấp, đề ra kế hoạch mở mảng, giải phóng vùng.

Tháng 6-1971, cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội đã chuyền về đóng trên địa bàn Mỏ Cày Nam và Giồng Trôm; 3 Ban chỉ huy tiền phương được giải thể.

Được thắng lợi trên chiến trường cổ vũ, phong trào ba mặt có chuyển động và phát triển.
Ngày 29-6, 4 chiến sĩ du kích xã Bình Hòa (Giồng Trôm) đã ném lựu đạn vào đội hình đóng quân của tiểu đoàn 4 trung đoàn 10 diệt 35 tên. Du kích xã Phước Mỹ Trung (Mỏ Cày Bắc) luồn sâu vào nội ô chi khu Đôn Nhơn mưu trí gài mìn phá hủy 1 trực thăng, 1 xe quân sự. Du kích xã Phước Thạnh (Châu Thành) gài trái vây chặn bọn phá địa hình diệt 90 tên. Tiểu đoàn 516 cùng du kích xã Thạnh Phú Đông bắn tỉa bọn khai quang diệt 50 tên. Tiểu đoàn 263 đeo đánh diệt 70 tên thuộc liên đội bảo an Gò Công số 72 ở xã An Phước, Phú An Hòa; diệt 1 đoàn bình định tại Quới Sơn. Đại đội đặc công A tập kích diệt 2 đồn ở Lương Quới, Bình Thành. Bộ đội địa phương huyện Thạnh Phú diệt 6 đồn. Bộ đội an ninh vũ trang tỉnh diệt 10 tên cảnh sát, công an, ác ôn trong nội ô thị xã. Du kích xã Phước Long liên tiếp chặn đánh bọn đi tiếp tế cho trung đoàn 10 ở Bến Tranh thu hàng tấn gạo, hàng ngàn đạn các loại. Trên các địa bàn, bằng chông, mìn, lựu đạn kết hợp với bắn tỉa ta đã bẻ gãy nhiều cuộc biệt kích của địch. Ở xã Thới Thuận (Bình Đại), Cồn Bững (Thạnh Phong - Thạnh Phú), địch đem trực thăng xúc dân gom vào thị trấn. Bà con đã ôm lấy cột nhà cương quyết không đi. Ở xã An Định (Mỏ Cày), 300 bà con ta đã hợp đồng với du kích phá kế hoạch đốn cây, phá vườn tược của địch. Cùng với thắng lợi chung trên chiến trường toàn Miền, ta đã đẩy mạnh công tác vận động binh lính địch làm rã ngũ 1.839 binh sĩ chủ lực, bảo an, dân vệ và phòng vệ dân sự. Một số binh lính, trưởng đồn tìm cách liên lạc thanh minh với quần chúng. Nhiều đồn xã “án binh ất động” hoặc chấp nhận một số điều kiện của ta. Địch buộc phải rút bỏ những đồn bị ta vây ngặt và cô lập.

Bà con trước chạy ra thành thị, nay lác đác trở về; lúc đầu sáng vào chiều ra nay dần dần có người bám lại. Mới đầu chỉ 1, 2 gia đình sau về cả xóm. Chính quyền địa phương đã tận tình giúp đỡ ổn định việc ăn ở, sản xuất của quần chúng. Cuối năm 1971, ta đã chuyển 2548 ấp yếu thành tranh chấp mạnh. Xã nào cũng mở thêm lõm du kích. Có 55 Đảng bộ, 65 chi bộ trong 115 xã đã đứng vững trên địa bàn xã ấp. Bộ đội tập trung được củng cố bổ sung. Nhiều đội du kích được phát triển và đánh địch tốt.

Qua 3 năm chiến đấu gian khổ hy sinh, nhân dân Bến Tre tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào thắng lợi của cách mạng, dũng cảm, kiên trì chiến đấu đã đưa cuộc kháng chiến vượt qua thử thách ác liệt. Vùng giải phóng tuy còn hẹp nhưng ta đã bám được đất, bám giữ được dân, khôi phục được phong trào vươn lên giành quyền chủ động.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2011, 03:36:00 pm
(http://img31.imageshack.us/img31/9851/97257099.jpg)

Trung đội nữ (cối 82 ly) thuộc Tiểu đoàn 516

(http://img151.imageshack.us/img151/1012/69328490.jpg)

Hội nghị cán bộ (Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1968)

(http://img841.imageshack.us/img841/1882/12692459.jpg)

Đồng chí Lê Minh Đào đang theo dõi diễn biến cuộc tiến công và nổi dậy
tại thị xã vào tết Mậu Thân

(http://img3.imageshack.us/img3/6496/28139268.jpg)

Bộ đội ta đánh chìm tàu Mỹ trên sông Giồng Trôm (1969)


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2011, 03:46:41 pm
Trong khi ta đang điều chính bố trí lực lượng, tháng 10-1970, địch tập trung 2 trung đoàn của sư đoàn 7, 2 trung đoàn của sư đoàn 9 lấn chiêm các xã Phước Mỹ Trung, Tân Phú Tây, Thành An khôi phục lại chi khu Đôn Nhơn (Mỏ Cày Bắc). Tháng 11 năm 1970, chúng tập trung đánh phá vào các địa bàn cánh A Giồng Trôm, Mỏ Cày Nam, Châu Thành và Thạnh Phú. Ở các địa phương trên quân ta vừa kiên quyết đánh trả địch, vừa chuyển vào bám trụ.

Những tháng đầu năm 1971, địch tiếp tục lấn chiếm bình định các xã còn lại ở Giồng Trôm.

Đến tháng 3-1971, địch đã đóng chiếm hết các vùng giải phóng của ta. Ta chỉ còn lại một lõm giải phóng gồm 10 ấp ở các xã Long Mỹ, Lương Phú, Lương Hòa, Mỹ Thạnh thuộc huyện Giồng Trôm. Tổng số đồn bót của địch lên đến 918 cái. Địch đã xây dựng một đội quân ngụy gồm 29.121 tên và tổ chức thành 12 tiểu đoàn bảo an của tiểu khu, 50 liên đội, 20 đại đội bảo an chi khu.

Đóng xong đồn bót, địch tập trung lực lượng phá hủy địa hình nhằm làm mất hẳn “chỗ dựa cuối cùng” của ta. Các lực lượng tại tỉnh của địch không làm nổi việc phá địa hình, chúng phải đưa hàng tiểu đoàn, chiến đoàn bảo an Gò Công mang tất cả mọi phương tiện như cưa máy, chất nổ, bắt quần chúng các nơi đến chặt phá cây cối làm hư hại hàng ngàn mẫu vườn của đồng bào ta. Hoạt động chiến tranh tâm lý của địch cũng đã đi vào chiều sâu, nham hiểu và thâm độc hơn trước. Chúng giết gia đình cách mạng rồi vu khống cho ta. Chúng cưỡng ép “úp bộ” nhân dân vào các tổ chức phản động, “đoàn ngũ hóa” các giới nhằm bôi đen quần chúng. Địch triệt để sử dụng bọn chiêu hồi đánh phá cơ sở cách mạng. Hàng ngàn cán bộ, đảng viên bị bắt, bị hy sinh. Lực lượng vũ trang ta quân số ngày càng giảm. Tiểu đoàn tập trung của tỉnh chỉ còn 50 đến 70 tay súng. Không quản ngại hy sinh gian khổ, Đảng bộ, quân và dân Bến Tre đã kiên trì bám trụ, từng lúc, từng nơi ta đã dần dần tạo ra những chuyển biến mới.

Lúc này cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh vào đường 9 Nam Lào của Mỹ ngụy đã bị thất bại thảm hại. Quân chủ lực của ngụy quyền Sài Gòn đã bị đánh quỵ. Những chiến thắng vang dội đó đã làm nức lòng quân và dân cả nước.

Tháng 5-1971, chấp hành chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục, Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre đã nhanh chóng bung ra, tổ chức quần chúng gây dựng cơ sở, khôi phục và phát triển phong trào ba mặt, chuyển tương quan lực lượng tại chỗ, hợp đồng cùng chiến trường toàn Miền đánh phá bình định… Thường vụ Tỉnh ủy nhấn mạnh: Kiên quyết xây dựng cho được Đảng bộ cơ sở vững mạnh, nhanh chóng củng cố lại khối đoàn thể, các ngành, bổ sung lực lượng vũ trang tỉnh, huyện tạo quả đấm then chốt, chú trọng xây dựng cơ sở binh vận trong lòng địch. Tỉnh ủy cũng đã phân vùng phân loại xã ấp, đề ra kế hoạch mở mảng, giải phóng vùng.

Tháng 6-1971, cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội đã chuyền về đóng trên địa bàn Mỏ Cày Nam và Giồng Trôm; 3 Ban chỉ huy tiền phương được giải thể.

Được thắng lợi trên chiến trường cổ vũ, phong trào ba mặt có chuyển động và phát triển.
Ngày 29-6, 4 chiến sĩ du kích xã Bình Hòa (Giồng Trôm) đã ném lựu đạn vào đội hình đóng quân của tiểu đoàn 4 trung đoàn 10 diệt 35 tên. Du kích xã Phước Mỹ Trung (Mỏ Cày Bắc) luồn sâu vào nội ô chi khu Đôn Nhơn mưu trí gài mìn phá hủy 1 trực thăng, 1 xe quân sự. Du kích xã Phước Thạnh (Châu Thành) gài trái vây chặn bọn phá địa hình diệt 90 tên. Tiểu đoàn 516 cùng du kích xã Thạnh Phú Đông bắn tỉa bọn khai quang diệt 50 tên. Tiểu đoàn 263 đeo đánh diệt 70 tên thuộc liên đội bảo an Gò Công số 72 ở xã An Phước, Phú An Hòa; diệt 1 đoàn bình định tại Quới Sơn. Đại đội đặc công A tập kích diệt 2 đồn ở Lương Quới, Bình Thành. Bộ đội địa phương huyện Thạnh Phú diệt 6 đồn. Bộ đội an ninh vũ trang tỉnh diệt 10 tên cảnh sát, công an, ác ôn trong nội ô thị xã. Du kích xã Phước Long liên tiếp chặn đánh bọn đi tiếp tế cho trung đoàn 10 ở Bến Tranh thu hàng tấn gạo, hàng ngàn đạn các loại. Trên các địa bàn, bằng chông, mìn, lựu đạn kết hợp với bắn tỉa ta đã bẻ gãy nhiều cuộc biệt kích của địch. Ở xã Thới Thuận (Bình Đại), Cồn Bững (Thạnh Phong - Thạnh Phú), địch đem trực thăng xúc dân gom vào thị trấn. Bà con đã ôm lấy cột nhà cương quyết không đi. Ở xã An Định (Mỏ Cày), 300 bà con ta đã hợp đồng với du kích phá kế hoạch đốn cây, phá vườn tược của địch. Cùng với thắng lợi chung trên chiến trường toàn Miền, ta đã đẩy mạnh công tác vận động binh lính địch làm rã ngũ 1.839 binh sĩ chủ lực, bảo an, dân vệ và phòng vệ dân sự. Một số binh lính, trưởng đồn tìm cách liên lạc thanh minh với quần chúng. Nhiều đồn xã “án binh ất động” hoặc chấp nhận một số điều kiện của ta. Địch buộc phải rút bỏ những đồn bị ta vây ngặt và cô lập.

Bà con trước chạy ra thành thị, nay lác đác trở về; lúc đầu sáng vào chiều ra nay dần dần có người bám lại. Mới đầu chỉ 1, 2 gia đình sau về cả xóm. Chính quyền địa phương đã tận tình giúp đỡ ổn định việc ăn ở, sản xuất của quần chúng. Cuối năm 1971, ta đã chuyển 2548 ấp yếu thành tranh chấp mạnh. Xã nào cũng mở thêm lõm du kích. Có 55 Đảng bộ, 65 chi bộ trong 115 xã đã đứng vững trên địa bàn xã ấp. Bộ đội tập trung được củng cố bổ sung. Nhiều đội du kích được phát triển và đánh địch tốt.

Qua 3 năm chiến đấu gian khổ hy sinh, nhân dân Bến Tre tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào thắng lợi của cách mạng, dũng cảm, kiên trì chiến đấu đã đưa cuộc kháng chiến vượt qua thử thách ác liệt. Vùng giải phóng tuy còn hẹp nhưng ta đã bám được đất, bám giữ được dân, khôi phục được phong trào vươn lên giành quyền chủ động.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2011, 03:49:19 pm
II

TIẾN CÔNG ĐỊCH Ở GIỒNG TRÔM, BA TRI
TRUNG ĐOÀN ĐỒNG KHỞI RA ĐỜI

Chuẩn bị bước vào chiến dịch tiến công tổng hợp, tỉnh ủy thành lập Ban chỉ đạo chiến dịch gồm các đồng chí trong Thường vụ Tỉnh ủy, Ban chỉ huy Tỉnh đội, Bộ Tư lệnh Quân khu 8 đã cử đồng chí Lê Văn Khuyên (Tám Dần) Phó Tư lệnh Quân khu về Bến Tre trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Ở từng khu vực điểm, Tỉnh ủy cũng chỉ định Ban Chỉ huy Thống nhất.

Trong giai đoạn 1, Ban chỉ đạo chiến dịch chọn Nam Giồng Trôm làm trọng điểm đột phá, Ba Tri làm điểmchuyển vùng yếu; Mỏ Cày Nam làm diện. Sang giai đoạn 2, Mỏ Cày Nam là trọng điểm, Mỏ Cày Bắc là diện mở mảng.

Theo kế hoạch, Ban chỉ huy tỉnh đội chuyển địa bàn hoạt động của tiểu đoàn 263, tiểu đoàn 281 từ Châu Thành về Giòng Trôm cùng tiểu đoàn 516 và bộ đội huyện tiến công địch ở trọng điểm. Tiểu đoàn 560 đánh địch ở Mỏ Cày Nam; tiểu đoàn 590 phối hợp với lực lượng Mỏ Cày Bắc hoạt động mở mảng chuẩn bị cho bước tiếp sau. Từng huyện, bộ đội địa phương và du kích hợp đồng cùng trọng điểm tiến công địch, căng kéo kềm chân chúng.

Bước vào chiến dịch, Tỉnh ủy đã gửi thư kêu gọi cán bộ, chiến sĩ, đồng bào toàn tỉnh ra sức thi đua lập nên những thành tích như những ngày Đồng khởi 1960.

Các đơn vị trong lực lượng vũ trang đã làm lễ xuất quân với khí thế quyết vùng lên “Đồng khởi 1972” đập tan kế hoạch bình định của Mỹ ngụy.

Tại trọng điểm Giồng Trôm, đêm 6-4-1972, các đơn vị lực lượng vũ trang tiến công đồng loạt vào các đồn bót ở các xã Tân Hào, Long Mỹ, Phước Long, Thạnh Phú Đông. Bộ đội ta đã đánh thiệt hại nặng các đồn cấp đại đội: Bà Hòa, Ba Lạc, Cầu Cống trên tuyến giao thông số 5. Tiểu đoàn 263 và 516 đã phục kích chặn đánh quân cứu viện ở xã Long Mỹ. Đây là khu vực có địa hình che khuất nên giữ được yếu tố bí mật bất ngờ. Bộ đội ta đã bố trí đội hình thành thế bao vây chia cắt quân địch. Ngày 7-4-1972, tiểu đoàn 1 trung đoàn 10 đổ quân bằng máy bay trực thăng vào giải tỏa đồn Long Mỹ. Sáng ngày 8-4-1972 sau khi phi cơ pháo binh bắn dọn đường, quân địch chia ra làm 2 mũi hành quân vào trận địa ta. Tiểu đoàn 263 nổ súng đánh địch đúng theo phương án tác chiến. Tiểu đoàn 516 bị địch chặn lại không tiến quân được nên hoàn thành nhiệm vụ không cao. Sau 30 phút đã diệt 2 đại đội, tiêu hao 1 đại đội khác của tiểu đoàn 4 trung đoàn 10. Địch chết, bị thương và bị bắt 197 tên (có 8 sĩ quan cấp úy); ta thu 30 súng và nhiều đồ dùng quân sự. Trong lúc đó, các liên đội bảo an chi khu, tiểu đoàn 2, tiểu đoàn 3 (trung đoàn 10) liên tiếp hành quân giải tỏa các đồn bót ở cá xã Tân Hào, Thạnh Phú Đông, Hiệp Hưng đang bị các lực lượng ta bao vây. Bộ đội địa phương huyện, du kích, tiểu đoàn 263 và tiểu đoàn 281 chặn đánh tiêu diệt từng trung đội, tiêu hao từng đại đội của chúng. Đồng thời lực lượng du kích xã Phước Long kết hợp chặt chẽ với binh vận diệt 1 đồn ở Giồng Ké (ấp 4). Cơ sở nội tuyến ở Cồn Linh xã Thạnh Phú Đông đã vận động 14 phòng vệ dân sự mang 14 súng về gia nhập du kích.

Như vậy, qua 10 ngày chiến đấu ở khu vực trọng điểm của chiến dịch, ta chưa diệt được nhiều lực lượng cơ động của địch, chưa đẩy mạnh được phong trào ba mặt. Do đó khí thế tiến công địch chưa đạt yêu cầu chỉ đạo của Tỉnh ủy.

Tại Mỏ Cày Nam, lực lượng ba mặt ở địa phương đã hình thành thế bao vây 60 đồn bót. Tiểu đoàn 560 đã cùng bộ đội huyện kết hợp với cơ sở binh vận diệt đồn cấp đại đội ở Bờ Xoài (Bình Khánh)) và chặn đánh diệt 2 đại đội bảo an chi khu Hương Mỹ gây thối động toàn khu vực. Lực lượng cơ động tiểu khu bị kềm chân ở trọng điểm. Lực lượng quần chúng nổi dậy tiến công diệt 8 đồn ở Minh Đức, Cẩm Sơn, Tân Trung, An Định, Bình Khánh. Cơ sở phòng vệ dân sự cùng phong trào quần chúng đã đốt 5 trụ sở, giải tán 80 tên phòng vệ dân sự. Đồng thời gần 1.000 quần chúng và gia đình binh sĩ đã liên tiếp đấu tranh với bọn chỉ huy liên đội bảo an, bọn dân vệ ở các đồn bót trên tuyến giao thông 33 (An Định - Hương Mỹ) đòi tìm chồng, con, em, tuyên truyền tin chiến thắng, giáo dục vận động binh lính địch.

Phối hợp với chiến trường trọng điểm, ở Mỏ Cày Bắc, lực lượng vũ trang địa phương và tiểu đoàn 590 đã cùng quần chúng kết hợp với cơ sở binh vận diệt 10 đồn, 54 trụ sở tề xã và giải tán 5 toán phòng vệ dân sự ở các xã Hưng Khánh Trung, Phước Mỹ Trung, Nhuận Phú Tân, Tân Thành Bình.

Tại huyện Thạnh Phú, lực lượng quần chúng và gia đình binh sĩ cũng liên tục bao vây nhiều đồn bót địch. Bộ đội huyện cùng cơ sở nội tuyến diệt 3 đồn ở An Thạnh, An Nhơn.

Ở Châu Thành, du kích mật, tự vệ mật thọc vào đánh hiểm trên lộ giao thông 6A, khu phố An Hóa, khu phố Tân Thạch diệt ác ôn, huy động quần chúng nổi dậy phá lỏng thế kềm kẹp, giải tán phòng vệ dân sự.

Chiến trường Ba Tri, Bình Đại, Chợ Lách là những vùng yếu, ta đã đưa cán bộ cơ sở về từng xã phát động phong trào quần chúng, tạo điều kiện chuyển vùng.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2011, 03:50:57 pm
Đầu tháng 5-1972, Ban chỉ đạo chiến dịch quyết định chuyển lực lượng vũ trang về địa bàn Ba Tri mở tiếp cao điểm “Rạng Đông” - cao điểm 2 - mở mảng vùng yếu.

Địa bàn Ba Tri tuy địa hình đồng bằng trống trải và địch đã bình định trong một thời gian dài, nhưng ở đây ta có cơ sở binh vận mạnh có khả năng kết hợp ba mặt tiến công địch mở mảng, mở vùng, mặt khác, ở đây lực lượng ta có điều kiện chặn đánh quân cứu viện từ xa trên lộ giao thông 26 (Mỹ Lồng - Lương Quới).

Ngày 12-5-1972, đại đội đặc công tỉnh đã kết hợp binh vận đánh đồn Mỹ Chánh diệt gọn 1 đại đội bảo an. Lực lượng quần chúng cùng với du kích bao vây ngặt nhiều đồn ở các xã Mỹ Chánh, Mỹ Nhơn, Mỹ Hòa, Tân Xuân. Ngày 13-5-1972, tiểu đoàn 401 bảo an tiểu khu phải đến giải tỏa. Tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 263 lập tức chặn đánh địch. Cuộc chiến đấu đang diễn ra quyết liệt thì tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 2 trung đoàn 10 từ thị xã đến ứng cứu. Ở mặt trận giao thông 26, đại đội đặc công, đại đội trợ chiến không hoàn thành nhiệm vụ chặn địch. Do đó ở Ba Mỹ (Mỹ Nhơn, Mỹ Chánh, Mỹ Hòa) các lực lượng vũ trang phải liên tiếp chiến đấu với nhiều tiểu đoàn địch ngoài dự kiến. Bọn bảo an Ba Tri chiếm đóng lại đồn Mỹ Chánh. Trong lúc này lực lượng binh vận không hoạt động được, cơ sở nội tuyến ở các đồn bót không dám hành động. Địch dội bom, bắn pháo ác liệt vào các trận địa. Phong trào quần chúng ba mặt ở cơ sở núng thế và xuống dần. Lực lượng vũ trang đạn hết, quân số không kịp bổ sung nên đã không bám trụ được dài ngày và phải rút về căn cứ Giồng Trôm. Ta không mở được mảng ở Ba Tri như ý định.

Trọng điểm Ba Tri không mở được mảng, một lần nữa khẳng định rằng mặc dầu cơ sở nội tuyến mạnh nưhng bộ đội tập trung tỉnh, huyện không đánh được những trận then chốt, không diệt được lực lượng cơ động của địch thì ta cũng không thể xoay chuyển được tình hình.

Cuối tháng 5-1972, đợt 2 giai đoạn 1 của chiến dịch kết thúc. Ban chỉ đạo chiến dịch tập trung các lực lượng vũ trang về Nam Giồng Trôm, rút kinh nghiệm và học tập cách đánh “mở mảng cuốn chiếu” của Bắc Bình Định, Mỹ Tho, Kiến Tường.

Cũng trong thời gian này, chỉ thị 05/CT của Trung ương Cục đã nhấn mạnh: “… sử dụng một bộ phận chủ lực cùng với lực lượng vũ trang địa phương mở chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định trên chiến trường Quân khu 8 nhằm tiêu diệt từng đơn vị, tiến tới đánh quỵ sư đoàn 7 ngụy và một số đơn vị chủ lực khác, phá rã phần lớn bộ máy kềm kẹp của địch, giải phóng phần lớn vùng nông thôn ở các tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh; qua đó làm thay đổi cục diện chiến trường của Quân khu 8 và chiến trường đồng bằng sông Cửu Long”…

Ngày 23-6-1972, trung đoàn 10 sư đoàn 7 của ngụy đã rút khỏi chiến trường Bến Tre. Ngày 5-7-1972, bọn chỉ huy vùng 4 chiến thuật gấp rút xây dựng chiến đoàn A bảo an gồm các tiểu đoàn 418, tiểu đoàn 415, tiểu đoàn 413 làm nhiệm vụ cơ động thay quân chủ lực. Đây là chiến đoàn bảo an cơ động đầu tiên được xây dựng thí điểm ở chiến trường Bến Tre.

Được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư lệnh Quân khu 8, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy Tỉnh đội đã họp và quyết định xây dựng 1 trung đội cơ động của tỉnh gồm các tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 263, tiểu đoàn 590 và các phân đội thông tin, trinh sát, đặc công, trợ chiến. Trung đoàn được mang tên: Trung đoàn Đồng khởi. Ban chỉ huy trung đoàn gồm các đồng chí Nguyễn Văn Ba (Mười Phục), Lê Văn Việt (Hai Nghĩa), Đặng Văn Trò (Chín Quang), Trần Minh Tích (Ba Tích).

Trung đoàn Đồng khởi ra đời đánh dấu bước phát triển mới của chiến tranh nhân dân trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

Ngày 7-7-1972, trung đoàn làm lễ ra mắt đồng bào Bến Tre ở xã Bình Khánh huyện Mỏ Cày. Thường vụ Tỉnh ủy đã giao nhiệm vụ cho trung đoàn và nhấn mạnh: … Trung đoàn phải tiêu diệt từng tiểu đoàn, liên đội bảo an và đánh diệt được chi khu, yếu khu, đè bẹp được lực lượng cơ động ứng chiến của tiểu khu, kết hợp với phong trào ba mặt hình thành các “mảng cuốn chiếu” mở vùng giải phóng. Trung đoàn còn có nhiệm vụ phát động quần chúng làm công tác địch vận góp phần làm chuyển biến tương quan cách mạng ở địa phương; chấp hành tốt các chính sách, chủ trương của Đảng; phải thường xuyên rèn luyện để trưởng thành mọi mặt đủ sức làm tròn chức năng quả đấm quân sự của tỉnh. Phương châm xây dựng là phải lấy chất lượng làm chính và phải dựa vào các cơ cấu đã hình thành không hình thức rườm rà, phải tấn công để xây dựng, đảm bảo tiến công ngày càng mạnh.

Quán triệt nhiệm vụ của Tỉnh ủy giao, Đảng ủy trung đoàn đã khẩn trương giáo dục sâu sắc nhiệm vụ của Trung đoàn cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ; trước mắt là lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch năm 1972 và kiên quyết đánh thắng trận đầu để xây dựng truyền thống đơn vị.

Đâu tháng 7-1972, chấp hành mệnh lệnh phối hợp tiến công cùng chiến trường toàn Quân khu và toàn Miền, Ban lãnh đạo chiến dịch chuyển trọng điểm chiến dịch sang địa bàn Nam Mỏ Cày.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Sáu, 2011, 05:28:19 pm
III

ĐÁNH QUỴ CHIẾN ĐOÀN A BẢO AN NGỤY
MỞ MẢNG MỎ CÀY

Sau 2 cao điểm trong giai đoạn 1 của chiến dịch, phong trào tiến công ba mặt ở Mỏ Cày Nam đang phát triển và chuyển lên đều. Ban chỉ đạo chiến dịch chọn 3 xã Bình Khánh, Phước Hiệp, An Định làm điểm và 2 xã An Thới, Thành Thới làm diện cho cao điểm toàn chiến trường.

Để thăm dò khả năng đối phó của lực lượng bảo an cơ động tiểu khu, ngày 3-7-1972 đặc công tỉnh kết hợp với binh vận diệt 1 đồn cấp đại đội ở Bình Khánh. Tiểu đoàn 263 và tiểu đoàn 516 chặn đánh quân cứu viện đã diệt gọn 2 đại đội bảo an của chi khu Hương Mỹ. Tiếp theo, ngày 6-7-1972, tiểu đoàn 560 phục kích diệt thêm 1 đại đội bảo an Mỏ Cày ở Phước hiệp. Tiểu đoàn 401 bảo an của tiểu khu đến ứng cứu. Tiểu đoàn 590 chặn đánh tiêu hao nặng 1 đại đội địch.

Du kích xã ấp đã kết hợp với lực lượng quần chúng diệt 3 đồn ở lộ Chùa (Minh Đức), Địa Nhưỡng (An Định, Bà Hóc (Thành Thới) đưa khí thế tiến công của các lực lượng trọng điểm lên cao. Bị tiêu diệt, tiêu hao nặng, tinh thần sa sút, bọn địch trong các đồn bót ở khu vực này co cụm lại. Ban chỉ đạo chiến dịch kết luận: Ta có khả năng đánh quỵ lực lượng bảo an cơ động của tiểu khu đi cứu viện mặc dầu địch sẽ đối phó mạnh bằng hỏa lực kể cả máy bay B52.

Vào cao điểm 1 giai đoạn 2 của chiến dịch, Ban chỉ đạo đề ra 2 phương án chiến đấu:

Phương án 1: Sử dụng đặc công, pháo phối hợp với binh vận diệt chi khu Mỏ Cày và tổ chức đánh quân cứu viện tạo điều kiện cho phong trào quần chúng nổi dậy tiến công mở mảng, mở vùng.

Phương án 2: Diệt từng đồn, chặn đánh quân cứu viện diệt từng tiểu đoàn địch; kiên trì bám trụ mở mảng trên diện rộng buộc lực lượng bảo an cơ động tiểu khu đi ứng cứu, tạo điều khiện để bộ đội ta tiêu diệt chúng.

Đêm 9-7-1972, đặc công tiến đánh chi khu Mỏ Cày nhưng vì công tác nghiên cứu chiến trường chưa kỹ, không ước lượng đúng mực nước thủy triều lên xuống của sông Mỏ Cày nên bộ đội ta không tiếp cận được mục tiêu. Kế hoạch diệt chi khu Mỏ Cày không thành. Ban chỉ đạo nhanh chóng chuyển sang phương án 2.

Lực lượng vũ trang tỉnh cùng các lực lượng xã ấp bao vây ngặt 3 đồn ở ấp Phước Điền, Phước Hảo xã Bình Khánh. Trung đoàn Đồng Khởi tổ chức trận địa phục kích diệt địch ở khu vực Bình Khánh, Phước Hiệp đồng thời đưa tiểu đoàn 263 cùng bội đội huyện tiến công hướng thứ yếu ở An Thới, Thành Thới.

Trung đoàn Đồng khởi (thiếu) và tiểu đoàn 560 (độc lập) được tăng cường 1 đại đội trợ chiến (268A) bố trí trận địa đánh địch đi giải tỏa đồn bót ở xã Bình Khánh từ tấp 3 Phước Hiệp đến ấp Phước Tân (Bình Khánh).

3 giờ ngày 11-7-1972, khẩu ĐK 75 của đại đội trợ chiến đã bắn sập lô cốt dồn Phước Điền. Địch kêu cứu liên tục. tiểu đoàn 418 của chiến đoàn A bảo an đang ở Hương Mỹ đã hành quân bằng tàu trên sông Hàm Luông đến giải tỏa. Địch đổ quân lên đồn Phước Tân và chia làm 2 cánh tiến vào đồn Phước Điền, Phước Hảo. 13 giờ cùng ngày, tiểu đoàn 516 và tiểu đoàn 560 nổ súng diệt cánh quân vào đồn Phước Điền. Sau 15 phút chiến đấu, ta diệt Ban chỉ huy tiểu đoàn và tiêu hao nặng 1 đại đội của tiểu đoàn này. Bọn còn lại co cụm vào đồn Phước Điền. Không diệt gọn được địch, Ban chỉ huy trung đoàn quyết quyết tâm bám lại trận địa tiếp tục đánh địch khi chúng trở lại lấy thây. Đúng như dự kiến của ta, 16 giò, các cánh quân của chúng tiến vào trận địa. Bộ đội ta nổ súng quyết liệt. Sau 35 phút ta diệt gọn 2 đại đội của tiểu đoàn 418. Ban chỉ huy trung đoàn sử dụng 1 đại đội của tiểu đoàn 590, 1 đại đội của tiểu đoàn 516 hình thành thế bao vây bọn còn lại và tiếp tục đánh địch; các đơn vị khác rút về Phước Hiệp. Trong 3 trận liên tiếp bộ đội ta đã diệt và đã làm bị thương 290 tên (có tên tiểu đoàn trưởng và 7 sĩ quan cấp úy), thu 20 súng, bắn bị thương 1 máy bay trực thăng.

Ngày 15-7-1972, tiểu khu Bến Tre dùng tàu đổ tiểu đoàn 401 bảo an vào xã Định Thủy. Tiểu đoàn 415 hành quân bằng xe từ thị xã đến cống Cây Keo (trên lộ 30). Chúng chia làm nhiều cánh đánh xuống xã Bình Khánh.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Sáu, 2011, 05:29:02 pm
Phát huy thắng lợi, lực lượng vũ trang quyết tâm đánh quỵ chiến đoàn A bảo an để hỗ trợ cho phong trào ba mặt tiến công bao vây, bức rút, bức hàng đồn bót mở mảng, mở vùng. Trung đoàn Đồng Khởi và tiểu đoàn 560 đã tổ chức trận địa đánh tiểu đoàn 415 đang đóng quân tại ấp 6 Phước Hiệp. Ngày 16-7-192, khi chúng vừa rời khỏi công sự 500 mét, lực lượng ta nổ súng đánh tiêu hao nặng tiểu đoàn này. Địch dùng máy bay, pháo binh bắn phá ác liệt vào trận địa ta. Ban chỉ huy trung đoàn điều 1 đại đội của tiểu đoàn 590 bám trận địa tiếp tục đánh địch. Sau 2 trận chiến đấu, ta đã diệt 2 đại đội, tiêu hao 1 đại đội khác, làm chết và bị thương 195 tên, bắt sống 15 tên, thu 40 súng.

Trong 3 ngày chiến đấu ác liệt, trung đoàn Đồng khởi, tiểu đoàn 560 và các lực lượng vũ trang ở khu vực chủ yếu đã liên tiếp diệt 2 tiểu đoàn của chiến đoàn A bảo an. Chiến thắng Bình Khánh - Phước Hiệp đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào ba mặt tiến công địch ở trọng điểm và khắp các địa bàn trong tỉnh. Ở Bình Khánh, An Định lực lượng du kích tự vệ cùng phong trào quần chúng kết hợp với binh vận đánh diệt một số đồn. Sau đó ta lần lượt phá vỡ tuyến đôn bót của địch ở vùng này.

Đêm 23-7-1972, phân đội đặc công và du kích xã phát triển tiến công đánh chiếm và làm chủ khu chợ An Định, buộc lực lượng cơ động tiểu khu phải đi tiếp cứu.

Ngày 21-7-1972, trung đoàn Đồng khởi được tăng cường tiểu đoàn 560, 1 đại đội trợ chiến bố trí thành nhiều mặt trận ở nhiều hướng phục kích chặn đánh quân cứu viện của địch.

Trong 2 ngày 25 và 26-7-1972, tại xã An Định, bộ đội ta đã liên tiếp đánh 4 trận, tiêu diệt tiểu đoàn 405, đánh thiệt hại nặng các tiểu đoàn 413, 401, 433.

Cùng lúc với lực lượng vũ trang tiếp công tiêu diệt quân cơ động bảo an tiểu khu, lực lượng chính trị, binh vận đã liên tục huy động quần chúng và gia đình binh sĩ - mỗi ngày từ 100 đến 200 lực lượng - kéo vào các đồn bót và những điểm trú quân của các tiểu đoàn 401, 413, 405 đấu tranh với địch đòi gặp chồng con em, tuyên truyền tin thắng lợi của ta, giáo dục binh sĩ, tác động tinh thần tư tưởng của chúng. Toàn trọng điểm có hơn 200 binh sĩ bỏ ngũ về với gia đình.

Sau hơn 10 ngày chiến đấu, các lực lượng vũ trang ta đã bám trận địa tiến công địch mãnh liệt. ta đã đánh quỵ chiến đoàn A bảo an, ngụy và tiêu diệt, tiêu hao nhiều tiểu đoàn khác. Hầu hết đồn bót trên tuyến giao thông Phước Hiệp - Bình Khánh - An Định đã bị các lực lượng ta bao vây, tiêu diệt, bức rút. Ta giải phóng xã Phước Hiệp và 12 ấp liên hoàn ở Bình Khánh và An Định.

Hiệp đồng với khu vực chủ yếu, ở hướng thứ yếu, tiểu đoàn 263 đã cùng bộ đội huyện và phong trào ba mặt tại chỗ tiến công bao vây các đồn bót đánh quân cứu viện, tiêu hao, tiêu diệt một số sinh lực địch, giải phóng một số ấp. Tại xã Thành Thới bộ đội ta đánh 2 trận, diệt 2 đại đội bảo an và Ban chỉ huy liên đội 40 (có tên trung tá quận trưởng Mỏ Cày). Tiểu đoàn 401 đến bị tiểu đoàn 263 chặn đánh diệt một số tên. Ở ấp Thời Hòa, quần chúng và gia đình binh sĩ đạp rào vào 2 đồn Lò Lu và Tư Lực đấu tranh với địch buộc tên trưởng đồn đầu hàng và vận động binh sĩ giao đồn, nộp súng cho cách mạng. Phát triển tiến công, quần chúng đã nổi dậy bao vây bức rút 4 đồn khác giải phóng 2 ấp trên tuyến sông Cổ Chiên dài hơn 6km.

Ở xã An Thới ta đã diệt đồn Giồng Võ và bao vây nhiều đồn khác.

Như vậy trong tháng 7-1972, tại trọng điểm Mỏ Cày Nam, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện đã làm tròn vai trò đòn xeo hỗ trợ cho phong trào quần chúng nổi dậy ba mặt tiến công địch đều khắp, mở ra từng lõm, từng mảng giải phóng, tạo nên khí thế sôi nổi trên toàn chiến trường. Điều này cho phép ta khẳng định: khi nào quả đấm quân sự làm tốt nhiệm vụ “đòn xeo” thì sức mạnh tổng hợp ba mặt tiến công địch sẽ phát triển cao, giành thắng lợi lớn.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Sáu, 2011, 05:29:44 pm
Cùng với trọng điểm, tại Giồng Trôm, phong trào ba mặt đã bao vây trên 50 đồn địch buộc chúng phải rút chạy 14 đồn; lực lượng vũ trang huyện cùng cơ sở binh vận diệt 1 đồn. Ba xã Thuận Điền, Lương Phú, Long Mỹ và ấp 8 xã Tân Hòa, Phước Long hoàn toàn giải phóng. Tại Châu Thành ta diệt 9 đồn, giải phóng 6 ấp thuộc các xã Hữu Định, Phú Túc, Phú Đức, Phước Thạnh. Ở Thạnh Phú, Bình Đại, lực lượng quần chúng và dân quân du kích đã bao vây trên 60 đồn và dồn địch vào một góc 14 ấp, mở rộng nhiều lõm căn cứ, hành lang, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ cơ sở bám phong trào quần chúng chuyển thế tiến công địch.

Đầu tháng 8-1972, Quân khu 8 tăng cường đến Bến Tre trung đoàn Đồng Tháp đứng chân hoạt động ở Châu Thành Tây. Trung đoàn Đồng khởi được điều về Mỏ Cày Bắc. Ban chỉ đạo chiến dịch sử dụng 2 trung đoàn này hoạt động ở hai trọng điểm Mỏ Cày Bắc và Châu Thành Tây phối hợp căng kéo địch hỗ trợ cho phong trào quần chúng vây đồn, gỡ bót nhanh. Đồng thời tiểu đoàn 516 ở Mỏ Cày Nam cùng bộ đội huyện tiếp tục tiến công và kềm chân địch.

Ngày 11-8-1972, toàn tỉnh bước vào cao điểm 2 (giai đoạn 2) của chiến dịch). Vào cao điểm, đại đội trợ chiến đã sử dụng B40, ĐK75 đánh thiệt hại đồn công sở Thành An. Ngày 12-8-1972, trung đoàn Đồng khởi đã chặn đánh quân cứu viện, diệt 1 đại đội của tiểu đoàn 418 (vừa mới bổ sung), tiêu hao nặng 1 đại đội khác của tiểu đoàn 401. Bọn tiểu khu liên tiếp đưa tiểu đoàn 453, tiểu đoàn 415 đến mặt trận. Trung đoàn Đồng Khởi đã kiên trì bám trụ trận địa liên tiếp đánh tiêu hao từng đại đội địch.

Được bộ đội của tỉnh hỗ trợ, lực lượng quần chúng cùng bộ đội huyện kết hợp với binh vận đã diệt đồn ở Nhuận Phú, Tân Phước, Mỹ Trung, Hưng Khánh Trung và Thành An. Cuộc chiến đấu đã diễn ra liên tục và ngày càng quyết liệt. Tại các xã Thành An, Phước Mỹ Trung, Hưng Khánh Trung, Nhuận Phú Tân, Thạnh Ngãi du kích xã ấp đã cùng lực lượng quần chúng phối hợp với lực lượng vũ trang huyện diệt 5 đồn, bức rút 15 đồn khác. Ở những vùng yếu Vĩnh Hòa và ven đường giao thông 30 (Hóa Lộc - Thạnh Tân), ta đã diệt được một số đồn, làm chủ nhiều nơi, mở rộng vùng giải phóng liên hoàn trên 22 ấp. Cùng với tiến công địch, 200 lực lượng quần chúng và gia đình binh sĩ đã kéo vào chi khu Đôn Nhơn kêu gọi chồng con về với gia đình và vận động binh sĩ bảo an cơ động chống lệnh hành quân cứu viện. Nhiều binh sĩ và sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn 418 đã đồng tình “án binh bất động”.

Hiệp đồng với trọng điểm Mỏ Cày Bắc, tại Châu Thành Tây, bộ đội huyện và phong trào quần chúng địa phương đã bao vây bức rút 6 đồn ở Tân Lợi (Tân Phú), Thành Triệu, Phú Túc, Phú Đức mở rộng vùng giải phóng. Bọn chỉ huy vùng 4 chiến thuật phải đưa trung đoàn 16 sư đoàn 9 ngụy và tiểu đoàn biệt động quân 42 vào Châu Thành ứng cứu. Trung đoàn Đồng Tháp đã liên tiếp chặn đánh tiêu diệt, tiêu hao nhiều địch. Ở Mỏ Cày Nam, ta tiến công địch mở thêm một số lõm giải phóng ở Thành Thới, Đa Phước Hội, Định Thủy, An Định. Các huyện Ba Tri, Bình Đại, Giồng Trôm đều tích cực đẩy mạnh thế tiến công, bao vây trên 70 đồn; bức rút 6 đồn mở ra một số ấp giải phóng. Ở Thạnh Phú, đêm 12-8-1972 lực lượng vũ trang huyện đã cùng với 1 phân đội của tiểu đoàn 516 (tiếp vận A - Quân khu) kết hợp với cơ sở nội tuyến diệt đồn Cồn Rừng (Thạnh Phong). Đại đội 883 chi khu đi ứng cứu, ta chặn đánh diệt gần hết đại đội này. Bọn còn lại chạy tán loạn trốn vào nhà dân ở chợ Hồ Cỏ. Chị em phụ nữ và thiếu nhi vừa đấu tranh với địch không cho chúng chui vào hầm vừa ra hiệu cho bộ đội ta vào từng nhà bắt sống nhiều tên. Hàng trăm chị em phụ nữ khác đã cùng với lực lượng vũ trang xã ấp đắp “pháo đìa” bao vây tiến công địch diệt đồn Bầu Mít (Thạnh Phong) và 5 đồn khác ở xã Giao Thạnh, Thạnh Phú, An Quí, mở ra nhiều ấp giải phóng.

Đến cuối tháng 8-1972, chiến dịch tổng hợp đã kết thúc. Ta đã diệt 4.397 tên địch, làm bị thương 4.426 tên, bắt sống 316 tên và làm tan rã 8.094 tên. Ta đã bức rút, bức hàng, tiêu diệt 348 đồn bót, giải phóng 4 xã, 167 ấp với 65.000 dân.

Chiến dịch tổng hợp năm 1972 tuy chưa giành được thắng lợi lớn nhưng nó đã tạo tiền đề cho phong trào cách mạng Bến Tre vươn lên phát triển thế mới và lực mới giành chủ động trên chiến trường.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Sáu, 2011, 05:31:40 pm
IV

TIẾP TỤC TIẾN CÔNG ĐỊCH,
CHUẨN BỊ NHIỆM VỤ MỚI

Để phát triển thế tiến công địch, đầu tháng 9-1972 Ban chỉ đạo chiến dịch điều trung đoàn Đồng Tháp về Châu Thành Đông cùng với tiểu đoàn 560 đánh địch mở mảng ở khu vực này.

Trung đoàn Đồng Khởi chuyển về địa bàn Giồng Trôm phối hợp tiến công với trung đoàn Đồng Tháp hình thành 2 mũi ép địch vào giao thông 26, uy hiếp thị xã.

Ngày 6-9-1972, trung đoàn Đồng Tháp và tiểu đoàn 560 diệt địch trong khu phố An Hóa (Châu Thành Đông) và làm chủ khu vực này trong 3 ngày liền, đồng thời phục kích đánh thiệt hại nặng liên đội bảo an chi khu Trúc Giang đi cứu viện. Tình hình ở đây đang phát triển. Giữa tháng 9-1972, Bộ Tư lệnh Quân khu 8 điều trung đoàn Đồng Tháp về hoạt động ở Mỹ Tho. Trung đoàn 16 sư đoàn 9 ngụy cũng rời khởi Bến Tre.

Lúc này, trên toàn miền, quân và dân ta cũng giành thắng lợi to lớn. Chỉ thị 09, 09 CT của Quân khu hủy khu 8 đã đánh giá: … “Cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân ta từ tháng 4-1972 đến nay đã mở ra cục diện mới vô cùng thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, đưa Ních-xơn và bè lũ tay sai đứng trước nguy cơ phá sản trong chiến lược Việt Nam hóa. Tuy vậy chúng vẫn ngoan cố đang tìm mọi cách, mọi âm mưu thâm độc, đánh trả lại ta; ta phải sẵn sàng đối phó lại chúng!!. Quân khu ủy nhấn mạnh: “… Chúng ta phải nắm vững chủ trương của Trung ương Cục, tập trung mọi cố gắng giành mọi thắng lợi, trước mắt là ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, chính trị vững mạnh kết hợp với đấu tranh ngoại giao để buộc địch phải đi vào con đường thương lượng hòa bình. Quyết tâm chiến lược của chúng ta là đánh bại chính sách Việt Nam hóa buộc đế quốc Mỹ phải kết thúc chiến tranh xâm lược của chúng, chấp nhận một giải pháp chính trị có lợi cho ta…”.

Sau khi có chỉ thị của Quân khu ủy, Tỉnh ủy đã mở một đợt giáo dục chính trị làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức rõ ràng; Mỹ ngụy ký kết hiệp định hay chưa là do tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường quyết định. Toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân phải có quyết tâm cao, liên tục tiến công địch, không trông chờ, ỷ lại, không ngán ngại hy sinh gian khổ, không ảo tưởng hào bình.

Tháng 10-1972, Tỉnh ủy quyết định tiếp tục mở những đợt đánh địch trên khắp các địa bàn trong tỉnh.

Ở Giồng Trôm, Mỏ Cày, Châu Thành, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện đã kết hợp chặt chẽ với các lực lượng tại chỗ bao vây, bức rút 20 đồn, giải phóng thêm nhiều ấp ở các xã Lương Hòa, Tân Hào, Thạnh Phú Đông, Phước Long (Giồng Trôm), Ngãi Đăng, Cẩm Sơn, Thành Thời, An Thới, Bình Khánh, An Định (Mỏ Cày), Hữu Định, Phước Thạnh (Châu Thành).

Ở mặt trận giao thông 26, các đại đội đặc công liên tiếp chặn đánh diệt 8 xe quân sự, làm chết và bị thương 45 tên, gây nhiều thiệt hại cho địch. Đội săn tàu, đại đội trợ chiến đã phục kích bắn chìm, bắn cháy 6 tàu ở sông Lương Hòa, Phước Long (Giồng Trôm). Lực lượng biệt động, tự vệ mật thị xã, thị trấn đã luồn sâu đánh hiểm vào các cơ quan đầu não của địch, trừ gian, diệt ác và đánh thiệt hại nặng trung tâm huấn luyện tình báo của tiểu khu, diệt hàng chục tên sĩ quan. Phong trào du kích chiến tranh và lực lượng ba mặt tiến công địch ở cơ sở đã thường xuyên vây ép ngặt 120 đồn, vây lỏng trên 250 đồn tua khác của địch.

Cuối tháng 10-1972, tỉnh đội đã mở lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho 86 cán bộ đại đội, tiểu đoàn huyện đội về công tác quản lý đơn vị, nâng cao trình đội chỉ huy tác chiến. Trường quân sự địa phương tỉnh đã tổ chức huấn luyện cho 130 cán bộ xã đôi, ấp đội. Các trường lớp của các ban ngày chuyên môn như: thông tin vô tuyến điện báo, quân báo, cơ yếu, y tá đều mở lớp đào tạo cán bộ, nhân viên cho yêu cầu xây dựng lực lượng tác chiến sắp đến.

Lực lượng dân quân du kích cũng đang trên phát triển nhanh. Cuối năm 1972 toàn tỉnh đã có 900 du kích xã, 1.362 du kích ấp, 272 tự vệ mật. Đặc biệt trên địa bàn các huyện đã hình thành 26 đại đội du liên quân do các ban chỉ huy huyện đội trực tiếp chỉ huy.

Trong các vùng giải phóng, thanh niên nam, nữ sôi nổi tòng quân giết giặc. Trong vùng tạm chiếm, cán bộ ta đã vận động thanh niên chống bắt lính, giải tán các toán phòng vệ dân sự, giáo dục họ và đưa những người tối vào hàng ngũ các lực lượng vũ trang. Khó khăn về thiếu hụt quân số đối với bộ đội tập trung tỉnh và huyện được giải quyết một phần.

Cuối tháng 11-1972, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã bố trí lực lượng vũ trang ở trên các địa bàn then chốt sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ mới.

Năm 1972 quân và dân Bến Tre vừa đánh địch, vừa phát triển lực lượng giành lại thế chủ động trên chiến trường. Ta đã mở ra những lõm, những mảng giải phóng trên các địa bàn then chốt và giành quyền làm chủ với nhiều mức độ khác nhau trên diện rộng; các hành lang Mỏ Cày Nam - nam Giồng Trôm, bắc Giồng Trôm - đông tây Châu Thành đã được nối liền thông suốt.

Thành quả chiến dịch “Đồng khởi 1972” của Bến Tre đã góp phần cùng toàn Miền đánh bại “chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ ngụy, buộc chúng phải ký kết hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Sáu, 2011, 05:32:38 pm
(http://np8.upanh.com/b3.s28.d1/7838802841cdcd94a1599ac00b16316d_48211908.bt4.jpg)


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Sáu, 2011, 05:34:18 pm
Chương chín

CUỘC TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975
GIẢI PHÓNG TOÀN TỈNH
(1973 - 1-5-1975)

I

ĐỊCH TIẾP TỤC CHIẾN TRANH,
XÓA BỎ HIỆP ĐỊNH PARIS

Sau những thất bại liên tiếp trên chiến trường, ngay 27-1-1973 đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, rút hết quân đội Mỹ và chưa hầu ra khỏi miền Nam, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, chấm dứt dính líu quân sự và can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam; thừa nhận thực tế ở miền Nam có 2 chính quyền, 2 quân đội, 2 vùng kiểm soát và 3 lực lượng chính trị.

Đây là thắng lợi lớn của nhân dân ta, là thất bại lớn của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, là kết quả của 18 năm đấu tranh quyết liệt của nhân dân và các lực lượng vũ trang ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta.

Trước tình hình mới, ngày 28-1-1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi: nhiệm vụ trước mắt của đồng bào ở cả hai miền nước ta là: “Tăng cường đoàn kết, luôn luôn đề cao cảnh giác, ra sức phấn đấu để củng cố những thắng lợi đã giành được, giữ vững hòa bình lâu dài, hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhứt Tổ quốc”(1).

Với bản chất hiếu chiến và phản động, đế quốc Mỹ vẫn không chịu từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta. Chúng đã trắng trợn chà đạp lên các điều khoản của hiệp định Paris, tiếp tục thực hiện học thuyết “Ních-xơn”, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta.

Ngay từ đầu Mỹ đã chủ trương vừa ký hiệp định, vừa giúp ngụy quyền Sài Gòn tiếp tục chiến tranh, điên cuồng phá hoại hiệp định. Chúng tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho bọn ngụy. Trước khi rút quân, Mỹ đã đưa vào miền Nam 625 máy bay các loại, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép và nhiều phương tiện chiến tranh khác.

Được Mỹ tiếp tay, Nguyễn Văn Thiệu - tổng thống ngụy quyền - đã hô hào “tràn ngập lãnh thổ” và đưa quân chủ lực cùng toàn bộ lực lượng địa phương tiến hành lấn chiếm vùng giải phóng và nhiều căn cứ lõm của ta.

Đêm 27 rạng ngày 28-1-1973, trước khi hiệp định Paris có hiệu lực, địch tập trung một lực lượng lớn đánh chiếm một số vùng ở Quảng Trị, Khu 5, miền Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Tại Bến Tre địch đưa các tiểu đoàn 413, 418, 452, 453, 454, 420, tiến hành lấn chiếm các vùng Nam Bắc Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành, Bình Đại.

Ngày 17-2-1973 địch mở chiến dịch Trần Bình Trọng càn quét địa bàn căn cứ Giồng Trôm, Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc. Chúng lấy Giồng Trôm làm điểm đánh phá, lấn chiếm. Chúng đã sử dụng cùng một lúc 8 tiểu đoàn bảo an Bến Tre, 4 tiểu đoàn bảo an Gò Công và 3 liên đội bảo an Giồng Trôm ồ ạt lấn chiếm các xã căn cứ Thuận Điền, Lương Phú, Long Mỹ, Lương Hòa, Phước Long, Tân Hào, Thạnh Phú Đông. Chúng giao nhiệm vụ cho từng đại đội phải đóng xong từ 1 đến 2 đồn trong 1 ngày. Đến cuối tháng 3-1973 chúng đã đóng 54 đồn, riêng ở Giồng Trôm chỉ trong vòng 1 tháng chúng đã đóng 28 đồn, lấn chiếm hầu hết các khu giải phóng của ta.

Trong lúc địch tập trung lực lượng lấn chiếm vùng giải phóng, Tỉnh ủy đã đánh giá được âm mưu địch, song còn cân nhắc giữa tình hình thực tế và một số chủ trương của cấp trên nên còn ngập ngừng do dự, quyết tâm chưa rõ ràng. Mặt khác lực lượng vũ trang ta chưa kịp củng cố bổ sung, lực lượng địch còn sung ức.

Tình hình chiến trường lại gặp những khó khăn mới.

Sau khi tiếp thu chỉ thị của cấp trên, ngày 6-3-1973, Thường vụ Tỉnh ủy đã mở hội nghị bất thường đánh giá tình hình, xác định nhiệm vụ, phương châm, phương thức hoạt động; và đã chỉ đạo toàn tỉnh mở những đợt tiến công chống địch lấn chiếm, diệt những đồn bót đóng trái phép sau hiệp định.


(1) Những sự kiện lịch sử Đảng. NXB thông tin lý luận Hà Nội, 1985, trang 679.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Sáu, 2011, 05:37:10 pm
Ở Giồng Trôm, trung đoàn Đồng khởi ngăn chặn địch lấn chiếm diệt từng trung đội, đại đội địch. Các tiểu đoàn 516, 263 của ta liên tiếp đánh vào tiểu đoàn 420 ở Câu Cống, tiểu đoàn 453 ở Rạch Heo (Phước Long), tiểu đoàn 417 ở Thạnh Phú Đông. Đồng thời các đơn vị cối 82 ly, 120 ly bắn vào hậu cứ, trận địa pháo của địch. Trên lộ 26 ta đã thường xuyên dùng phân đội B41 đánh diệt xe quân sự địch ngăn chặn tuyến giao thông huyết mạch quan trọng nầy. Lực lượng du kích các xã ấp đã phối hợp với lực lượng vũ trang huyện vây chặt các đồn Tân Thanh, Đồng Gò (Phong Mỹ), Bến Tranh (Phước Long).

Ở thị xã, các đại đội mũi nhọn đã thọc sâu vào Phú Hưng tập kích đại đội công binh địch, tiêu hao nhiều sinh lực của chúng. Tự vệ mật thị xã đã diệt 1 trung đội địch ở sân bay Tân Thành, diệt Ban chỉ huy liên đội 40 ở Trúc Giang.

Trong tháng 3-1973, trên toàn chiến trường ta đã diệt và làm bị thương 1.733 tên, bắt sống 24 tên, phá rã 319 tên, thu 67 súng, bắn cháy 8 máy bay trực thăng và phá hủy một số phương tiện chiến tranh khác của địch. Tuy số lượng tiêu hao, tiêu diệt địch chưa cao, lực lượng vũ trang chưa đánh được những trận then chốt nhưng ta đã bước đầu ngăn chặn được sự lấn chiếm ồ ạt của địch.

Để nâng cao sức chiến đấu của bộ đội, tháng 4-1973, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã mở đợt học tập quân sự, chính trị cho các lực lượng vũ trang. Các đơn vị được bổ sung quân số, huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật theo yêu câu thực tế chiến đấu của chiến trường.

Cùng với binh định, lấn chiếm vùng giải phóng, địch tăng cường đôn quân bắt lính, xây dựng ngụy quân, củng cố ngụy quyền. Mỗi tháng chúng đã đào tạo từ 700 tên đến 1.000 tên phòng vệ dân sự. Đồng thời chúng đã chuyển 2 liên đoàn và 3 đại đội bảo an biệt lập thành 3 tiểu đoàn bảo an cơ động của tiểu khu(1).

Tuy địch có phát triển được lực lượng vũ trang nhưng tinh thần binh sĩ của quân ngụy đã có những biến động rấ lớn. Với khẩu hiệu “hòa bình, hòa hợp dân tộc”, ta đã kêu gọi giáo dục binh sĩ, cô lập bọn chỉ huy ác ôn, phân hóa hàng ngũ kẻ thù. Ngay từ tháng 1-1973 đã có 350 binh sĩ đào ngũ, riêng tiểu đoàn bảo an 418 đã có 130 binh sĩ bỏ ngũ trở về với gia đình.

Tháng 6-1973, Tỉnh ủy đã ra nghị quyết nêu rõ: phải động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong tỉnh đẩy mạnh tiến công địch, kiên quyết giành lại những vùng đã mất. Các lực lượng vũ trang phải thọc sâu, đánh mạnh, diệt ác ôn, gây thối động chung toàn chiến trường; đồng thời phải ra sức xây dựng lực lượng vũ trang đủ mạnh để cùng các tỉnh trong quân khu bước sang giai đoạn mới.

Sau khi có nghị quyết Tỉnh ủy, tiểu đoàn 560 đã di chuyển địa bàn hoạt động từ Châu Thành về Mỏ Cày Bắc cùng lực lượng của huyện đánh thiệt hại nặng các đồn ở xã Tân Phú, Thạnh Ngãi, Phú Sơn. Các đại đội của tiểu đoàn này đã phối hợp với du kích tập kích tiểu đoàn bảo an 418 lấn chiếm ở Thạnh Ngãi, phục kích diệt gọn 1 trung đội dân vệ ở Hưng Khánh Trung, pháo kích chi khu Đôn Nhơn hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị và binh vận tiến công địch. Đầu tháng 7-1973 tiểu đoàn 516 chuyền về hoạt động ở Mỏ Cày Nam và đã cùng với lực lượng cơ sở diệt đồn Định Thủy.

Cùng thời gian này địch tập trung 11 tiểu đoàn (có 5 tiểu đoàn bảo an Gò Công) mở chiến dịch Lý Thường Kiệt đánh phá, lấn chiếm khu vực Rạch Heo, Rạch Lá (Phước Long), Long Mỹ huyện Giồng Trôm. Một lần nữa địch lại càn quét lấn chiếm vùng Giồng Trôm, hòng đẩy lùi lực lượng ta ra khỏi địa bàn quan trọng này.

Trung đoàn Đồng khởi cùng các phân đội hỏa lực của tỉnh đã đứng sẵn trên địa bàn và liên tục đánh địch ở Long Mỹ, Phước Long làm thất bại kế hoạch mở rộng chi khu Phước Hưng của chúng.

Kể từ đầu năm 1973, đây là thất bại đầu tiên trong âm mưu bình định lấn chiếm của địch. Sau những trận này, phong trào đấu tranh chính trị và binh vận có bước phát triển mới. Ở Lương Quới, Hiệp Hưng (Giồng Trôm), Tiên Thủy (Châu Thành), nhiều gia đình binh sĩ đã cùng với quần chúng đấu tranh đòi địch phải rút những đồn mà chúng chiếm đóng trái phép sau ngày 28-1-1973; đòi chính quyền xã ấp phải thả những gia đình cán bộ còn bị chúng giam giữ; và buộc địch phải chấm dứt bắt bớ gia đình có chồng, con, em tham gia cách mạng phải đi ngủ khóm, gác cầu, đường…

Như vậy là trong 9 tháng qua, trên chiến trường Bến Tre địch vẫn tiếp tục chiến tranh, phá hoại hiệp định Paris. Chúng đã lấn chiếm 64 ấp giải phóng của ta, đóng thêm 171 đồn, tua và phát triển đội quân tay sai lên hàng vạn tên.

Quân và dân Bến Tre đã khắc phục khó khăn lúc đầu, từng bước ngăn chặn âm mưu và hành động bình định lấn chiếm của địch; bao vây đồn, củng cố phong trào đấu tranh ba mặt tại xã ấp, sẵn sàng cùng toàn Miền giành thắng lợi mới.


(1) Tiểu đoàn 507, 508 và 509.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 10:48:14 am
II

PHẢN CÔNG VÀ TIẾN CÔNG MÙA KHÔ 1973-1974

Trước tình hình địch phá hoại ngày càng nghiêm trọng hiệp định Paris, tháng 10-1973 hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp.

Sau khi đánh giá tình hình ta, địch, hội nghị nhấn mạnh: “… Dù phát triển theo khả năng nào, con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực cách mạng, bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”.

Về phương châm đấu tranh quân sự, hội nghị vạch rõ: “Kiên quyết phản công và tiến công, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta, đánh bại các cuộc hành quân của địch lấn chiếm vùng giải phóng hoặc bình định”… “Việc vận dụng phương châm trên phải gắn liền với yêu cầu giành dân và giành quyền làm chủ, nhằm giành lấy thế mạnh để thắng địch”(1).

Vào đầu quý 4 năm 1973, Tỉnh ủy Bến Tre đã mở hội nghị kiểm điểm tình hình đánh phá bình định trong 9 tháng qua và xác định nhiệm vụ của tỉnh là: Phải quán triệt và xuyên suốt quan điểm bạo lực cách mạng và tư tưởng chiến lược tiến công, huy động phong trào toàn dân nổi dậy với sinh khí mới, đánh địch bằng 3 mặt, ở cả 3 vùng, với sức mạnh của 3 thứ quân để đánh bại âm mưu lấn chiếm binh định của địch; phải kiên quyết tiến công liên tục; tiến công chuyển vùng, mở mảng và xây dựng lực lượng ta về mọi mặt. Đồng thời sử dụng pháp lý của Hiệp định hỗ trợ cho tiến công, tiến tới đạt mục đích cuối cùng của cách mạng.

Nghị quyết của Tỉnh ủy đã được triển khai nhanh xuống các đơn vị, các cơ sở.

Các lực lượng trên từng địa bàn đã chuyển lên tiến công quân địch.

 Ở thị xã và thị trấn Giồng Trôm, các đơn vị biệt động, trinh sát vũ trang đã đột sâu vào hậu cứ địch, diệt ác trừ gian. Ở nhiều nơi du kích cơ quan tỉnh, huyện cùng du kích xã ấp đánh địch đi càn quét cướp phá. Chỉ 10 ngày đầu tháng 10-1973 ta đã đánh 82 trận lớn nhỏ giết 51 tên địch, làm bị thương 82 tên khác, trong đó có 1 tiểu đội bảo an bị diệt gọn.

Bước vào mùa khô 1973-1974 trên chiến trường Bến Tre quân địch vẫn ra sức tăng cường lực lượng tiếp tục kế hoạch lấn chiếm bình định kềm kẹp nhân dân. Chúng đã sắt nhỏ chiến trường, lập 111 phân chi khu, đưa hơn 500 sĩ quan về nắm cơ sở xã ấp. Đồng thời chúng xây dựng 98 trung đội dân vệ và phát triển thêm 5 tiểu đoàn bảo an làm lực lượng cơ động cho các chi khu. Tổng số quân địch tính đến đầu tháng 1-1974 có 26.119 tên và số đồn bót lên đến 1.074 cái. Chúng đã sử dụng các tiểu đoàn bảo an cơ động của tiểu khu, chi khu đánh sâu vào vùng giải phóng, gom tát dân, phá hoại kinh tế, bắn giết nhân dân ta.

Ngày 15-10-1973 Bộ chỉ huy lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam ra lệnh cho các lực lượng vũ trang phải kiên quyết đánh trả và trừng trị kẻ địch không chỉ ở nơi chúng lấn chiếm mà còn ở tất cả mọi nơi xuất phát của chúng.

Cuối tháng 10-1973, Tỉnh ủy chỉ đạo mở chiến dịch phản công quân địch. Địa bàn Mỏ Cày Nam được chọn làm điểm; 2 xã Bình Khánh và Phước Hiệp - cái nôi của cao trào Đồng khởi năm 1960 được chọn làm trọng điểm mở mảng, mở vùng. Chuẩn bị cho chiến dịch, trung đoàn Đồng khởi được điều về vùng trọng điểm. Cán bộ chỉ đạo được tăng cường xuống xã ấp.

Mở đầu chiến dịch, 1 đại đội đặc công của tỉnh đã đánh thiệt hại nặg đồn Phước Hiền, vây lấn đồn Chuồng Trâu, đồn cầu Ông Hút ở xã Bình Khánh do đại đội bảo an 465 đóng giữ. Du kích 2 xã Bình Khánh, Phước Hiệp bao vây 8 đồn, căng kềm địch trên diện rộng. Tiểu khu đưa tiểu đoàn 401 và 415 đến giải tỏa. Trung đoàn Đồng Khởi đã liên tiếp đánh 3 trận diệt 2 đại đội của tiểu đoàn 401, tiêu hao 1 đại đội của tiểu đoàn 415. Địch lại đưa tiểu đoàn 2 trung đoàn 10 sư đoàn 7 cùng với 2 chi đoàn xe M113 và giang đoàn 21 đến đối phó. Một lần nữa quân chủ lực ngụy buộc phải quay lại chiến trường Bến Tre. Phân đội đặc công của ta đã chặn đánh phủ đầu địch trên lộ giao thông 30 diệt 5 xe M113.


(1) Những sự kiện lịch sử Đảng. Tập III. Sách đã dẫn. Trang 699, 700.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 10:48:31 am
Tháng 11-1973 chiến dịch bước vào cao điểm. Ban chỉ huy Tỉnh đội đã sử dụng trung đoàn Đồng khởi, tiểu đoàn 560 và các đại đội trợ chiến, đặc công, trinh sát bao vây bức rút, bức hàng đồn bót địch ở trọng điểm. Đồng thời ta bố trí trận địa phục kích đánh địch ở các trục giao thông đường thủy, đường bộ trên phạm vi hai xã Bình Khánh và Phước Hiệp.

Ngày 16 tháng 11-1973 ta đánh thiệt hại nặng 2 đồn ở ấp Phước Tân (Bình Khánh), tiểu đoàn 415, 451, 401 phải đến ứng cứu. Trung đoàn Đồng khởi đánh địch liên tục 3 ngày đã bắn cháy 4 tàu diệt nhiều tên; địch không giải tỏa được đồn; chúng buộc phải rút quân.

Ngày 25-11 địch lại đưa tiểu đoàn 401 và tiểu đoàn 451 đến vùng trọng điểm. Ta phục kích chặn đánh diệt 1 đại đội của tiểu đoàn 401. Tiếp đó bộ đội ta truy kích bắn cháy 3 tàu giết và làm bị thương gần 300 tên. Các tiểu đoàn 401, 451 - lực lượng bảo an cơ động của tiểu khu - bị mất sức chiến đấu.

Quần chúng ở các xã Định Thủy, Minh Đức, Tân Trung nổi dậy bao vây đồn bót địch; trên địa bàn Mỏ Cày Nam ta đã bao vây ngặt 62 đồn, giải phóng 6 ấp. Vùng giải phóng được mở rộng liên hoàn từ Bình Khánh đến sát thị trấn Mỏ Cày.

Với thắng lợi ở khu vực điểm của chiến dịch, phong trào đấu tranh 3 mặt ở các xã tranh chấp cũng bắt đầu trỗi dậy. Ở Thạnh Phú bằng sự kết hợp giữa lực lượng bên ngoài và cơ sở binh vận của ta đã diệt 2 đồn ở Quới Điền. Ở Ba Tri ta lấy hai đồn ở Ba Mỹ, Tân Xuân. Ở thị xã ta lấy đồn Phú Hưng.

Như vậy là trong 3 tháng phản công và tiến công địch, quân và dân ta đã tiêu diệt, tiêu hao một số sinh lực địch, giải phóng 1 xã và chuyển thế làm chủ trên 100 ấp; đẩy lùi âm mưu bình định lấn chiếm của địch. Song, thế của phong trào chưa cân đối, cơ sở quần chúng ở vùng yếu chưa được củng cố, du kích phát triển chưa đều, ba mũi tiến công chưa hợp đồng được chặt chẽ.

Tháng 1-1974, để chuẩn bị cho đợt tiến công mới, Tỉnh ủy, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã mở đợt chỉnh huấn cho các lực lượng vũ trang và phát động phong trào tham gia xây dựng quân đội ở các ngành, đoàn thể trong tỉnh. Chỉ trong mấy ngày đầu tháng giêng 220 thanh niên đã lên đường nhập ngũ, kịp thời bổ sung cho các đơn vị.

Tháng 12-1974 Ban chỉ huy Tỉnh đội đã chọn Gồng Trôm làm trọng điểm đợt 2 của chiến dịch.

Tại Trọng điểm, tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 263 diệt đại đội của tiểu đoàn 453 (ở Tân Hào); 1 đại đội của tiểu đoàn 452 (ở Thạnh Phú Đông); bao vây bức rút 8 đồn ở Lương Hòa, Lương Phú, Thạnh Phú Đông, giải phóng 6 ấp. Sau đó bằng chiến thuật vây ép kết hợp với lực lượng huyện và phong trào 3 mặt cơ sở, các tiểu đoàn của tỉnh ức rút 3 đồn ở Lương Phú, Thuận Điền; diệt 1 đại đội của tiểu đoàn 451 (ở Mỹ Thạnh), giải phóng 2 xã Thuận Điền, Lương Phú và 16 ấp. Ta đã khôi phục được một số vùng căn cứ trên địa bàn Giồng Trôm.

Cùng với trọng điểm Giồng Trôm, tại Mỏ Cày Bắc, Thạnh Phú, Ba Tri ta đã bao vây san bằng một số đồn bót, giải tán phòng vệ dân sự, diệt 1 đại đội bảo an. Ta còn đánh sập 10 cầu, làm gián đoạn giao thông trên lộ 30 và 26.

Tháng 4-1974 Tỉnh ủy đã mở hội nghị đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của địch và của ta, vạch ra phương hướng nhiệm vụ năm 1974: Kiên quyết xây dựng lực lượng vững mạnh về mọi mặt, giữ cho được vùng giải phóng và vùng ta mở ra. Đồng thời khẩn trương đánh bại một bước quan trọng kế hoạch bình định của địch ở cả 3 vùng; thu hồi và mở rộng vùng giải phóng cao hơn trước ngày 28-1-1973; chuyển vùng tranh chấp lên thế làm chủ 3 mặt tạo điều kiện giải phóng xã, ấp; chuyển vùng nông thôn yếu lên thế tranh chấp với nhiều mức độ khác nhau đi đến giải phóng dân, giải phóng ấp.

Dựa trên phương hướng chỉ đạo của Tỉnh ủy, các lực lượng đã phát triển thế tiến công mạnh mẽ trên địa bàn Giồng Trôm.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 10:48:48 am
Tại đây, tiểu đoàn 516 và tiểu đoàn 263 bám đánh địch lấn chiếm quanh chi khu Phước Hưng. Phân đội đặc công của tỉnh cùng với 1 bộ phận hỏa lực B40, B41 thọc sâu vào vùng yếu Hưng Phong, diệt 2 tiểu đội cảnh sát dã chiến, diệt 1 đồn ở Cồn Ốc, mở ra thế tranh chấp trong vùng yếu. Ta đã bức rút gần hết đồn bót ở các xã Tân Hào, Lương Hòa, Long Mỹ. Phong trào 3 mặt phát triển rộng mạnh ở các xã Lương Hòa, Thạnh Phú Đông, Phước Long.

Đến tháng 6-1974, quân và dân Bến Tre đã giải phóng 12 xã với trên 46.700 dân. Vùng địa bàn căn cứ của tỉnh được khôi phục và mở rộng. Ta đang ở thế mở ra, địch co cụm lại. Lực lượng của ta đã phát triển một bước mới tạo đà thắng lợi cho những bước tiếp theo.

Ngày 26-9-1974 Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ thị mở một đợt tiến công toàn diện để chủ động khoét sâu nhược điểm của địch, tiếp tục giành thắng lợi mới. Chỉ thị nêu rõ: Cao điểm nầy nhằm đánh vào lực lượng cơ sở và đồn bót địch, tiếp tục mở, chuyển vùng; chú trọng xây dựng lực lượng và phát động quần chúng.

Bước vào cao điểm, lực lượng vũ trang của tỉnh được bố trí trên nhiều địa bàn làm nòng cốt thúc đẩy chiến tranh nhân dân, xây dựng củng cố toàn diện các xã ấp. Tiểu đoàn 516 và tiểu đoàn 263 về khu vực Giồng Trôm; tiểu đoàn 560 về Mỏ Cày Nam; tiểu đoàn 590 và đặc công của tỉnh ở Ba Tri. Các đơn vị hoạt động rất linh hoạt, khi tập trung diệt quân cơ động của địch, khi phân tán kết hợp với phong trào du kích và 3 mũi ở cơ sở tiến công ở vùng tranh chấp, tạo điều kiện thọc sâu vào vùng yếu.

Ở Giồng Trôm tiểu đoàn 516 đã cùng du kích xã Châu Hòa, Châu Bình bao vây bức rút 5 đồn; mở ra 4 ấp. Ở Ba Tri, đại đội đặc công tỉnh đã thọc sâu vào vùng yếu diệt phân chi khu An Ngãi Tây. Ở Châu Thành, 1 đại đội của tiểu đoàn 516 diệt 1 đồn và đã đánh chìm An Hóa, cắt đứt giao thông 17 và đã đánh chìm phà An Hóa, cắt đứt giao thông 17 (Trúc Giang - Bình Đại); quần chúng khu phố An Hóa nổi dậy phá giao thông, diệt ác ôn phá lỏng kềm kẹp của địch; du kích xã Tân Vinh kết hợp với binh vận diệt 1 đồn. Ở Mỏ Cày tiểu đoàn 560 và 1 đại đội của tiểu đoàn 263 phục kích diệt 1 đại đội và tiêu hao nặng 1 đại đội của tiểu đoàn 413 ở giao thông Bình Khánh - An Định.

Tháng 10-1974 khi tiếp thu nghị quyết 09/CT của Quân khu, Ban chỉ huy Tỉnh đội vừa gấp rút chuẩn bị chiến dịch mùa khô 1974-1975 để chủ động hợp đồng chiến đấu với chiến trường toàn quân khu vừa sử dụng lực lượng vũ trang tập trung tỉnh cùng với 3 mũi ở cơ sở vây lấn, diệt và bức rút nhiều đồn bót địch trên các địa bàn Mỏ Cày Nam, Giồng Trôm, Châu Thành Đông, Tây Bình Đại. Lúc nầy lực lượng bảo an cơ động còn mạnh. Chúng còn đủ sức giải tỏa các đồn bót đang bị ta bao vây trên các địa bàn. Trong đó tiểu đoàn 401 đóng vai trò nòng cốt. Tiểu đoàn này do một tên đầu hàng phản bội làm tham mưu. Nó đã nắm được lực lượng và cách đánh của bộ đội ta. Nó đã gây nên biết bao tội ác với đồng bào Bến Tre. Ban chỉ huy Tỉnh đội hạ quyết tâm phải diệt cho được tiểu đoàn nầy. Ta lập kế hoạch hút địch xuống Bình Đại và bố trí trận địa phục kích trên lộ giao thông 17 (thuộc 2 xã Phú An Hòa và Quới Sơn - Châu Thành Đông) để chặn đánh khi chúng rút quân về thị xã.

Đêm 9-10-1974, 1 đại đội của tiểu đoàn 263 và bộ đội huyện Bình Đại hoạt động mạnh ở các xã Châu Hưng, Long Thạnh và vây ngặt đồn Đỉa. Sáng 10-10 tiểu đoàn 401 hung hăng đi ứng cứu.

Đúng như dự kiến của ta, 15 giờ ngày 11-10 chúng rút quân bằng xe. Tiểu đoàn 516 và một đại đội của tiểu đoàn 263 được tăng cường 1 phân đội trợ chiến nổ súng đánh địch. Bị đánh bất ngờ, chúng đối phó lúng túng, chống trả yếu ớt. Sau 20 phút chiến đấu ta diệt 7 xe GMC, 1 xe Jeep; 141 tên chết và bị thương trong đó có 1 đại đội bị diệt gọn. Tên trung tá tiểu đoàn trưởng và toàn bộ ban tham mưu tiểu đoàn bị giết chết tại chỗ.

Tiểu đoàn bảo an 401 bị mất sức chiến đấu, lực lượng cơ động của tiểu khu bị suy yếu; tinh thần binh sỹ hoang mang sa sút. Thừa thắng, tiểu đoàn 516 cùng du kích xã ấp vây ngặt, bức rút các đồn bót ở vùng yếu An Hóa, khu phố Tân Thạch, Quới Sơn, Hữu Định; ngăn chặn địch đi giải tỏa diệt 1 trung đội bảo an của chi khu Trúc Giang, phá hủy 2 xe quân sự trên lộ 6.

Những ngày cuối tháng 10-1974, phong trào 3 mặt tiến công địch đã diễn ra đều trên các địa bàn. Quân địch bị căng kéo và đang gặp khó khăn rất lớn về thiếu hụt quân số. Binh lính ở các đồn bót và các tiểu đoàn bảo an tiểu khu, chi khu liên tiếp đào rã ngũ, đồn bót tiếp tục bị diệt, bị bức rút, bức hàng. Vùng giải phóng được mở rộng. Ở vùng yếu ta đã làm chủ sát đến thị trấn, thị xã và vác tuyến giao thông huyết mạch. Thế kềm kẹp của địch bị phá lỏng ở nhiều nơi. nhất là vùng Giồng Trôm, Mỏ Cày, Châu Thành. Kế hoạch bình định lấn chiếm của địch cơ bản bị sụp đổ.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 10:49:15 am
III

TIẾN CÔNG ĐỊCH TRONG ĐÔNG XUÂN 1974-1975

Tháng 11-1974 tiếp thu nghị quyết của Đảng và căn cứ yêu cầu nhiệm vụ của Quân khu giao cho Bến Tre, Tỉnh ủy đã đề ra nhiệm vụ chung cho toàn tỉnh là: tập trung mọi khả năng hiện có, bằng sức mạnh của 3 mũi hình thành thế tiến công tổng hợp và phản công địch toàn diện khắp chiến trường. Đẩy mạnh công tác quân sự ở các trọng điểm, nhằm vào các vùng tranh chấp, vùng yếu, vùng ven. Kết hợp quả đấm trung đoàn 1 (của Quân khu 8 tăng cường) với lực lượng ở địa phương ra sức tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, đánh quỵ lực lượng cơ động của tiểu khu. Đồng thời phát động quần chúng nổi dậy kiên quyết đánh bại hoàn toàn kế hoạch bình định của địch, phá rã hệ thống kềm kẹp của chúng ở các vùng tôn giáo, ven thị trấn, thị xã; xây dựng tuyến hành lang giao thông liên tỉnh Bến Tre - Trà Vinh - Mỹ Tho.

Nghị quyết của Tỉnh ủy được nhanh chóng triển khai khắp các địa phương, đơn vị. Lúc này quân khu cử đồng chí Nguyễn Văn Trung (Hai Trung) ủy viên Thường vụ Quân khu ủy và đồng chí Lê Văn Khuyên (Tám Dần) Phó Tư lệnh quân khu về tăng cường cho Ban chỉ đạo chiến dịch. Ban chỉ đạo chiến dịch đã tổ chức nghiên cứu chiến trường, xây dựng kế hoạch quân sự, chuẩn bị mở đợt tiến công mùa khô 1974-1975. Theo kế hoạch, chiến trường Bến Tre được chia thành 2 khu vực trọng điểm và 3 mặt trận diện. Trọng điểm 1 gồm Mỏ Cày Bắc, Chợ Lách; trọng điểm 2 gồm nam Giồng Trôm, nam Ba Tri. Các huyện Thạnh Phú, bắc Ba Tri, Mỏ Cày Nam là khu vực diện. Về bố trí lực lượng, trung đoàn 1 cùng với lực lượng cơ sở đánh địch ở Mỏ Cày Bắc, Chợ Lách. Lực lượng vũ trang của tỉnh kết hợp với lực lượng ở xã ấp tiến công địch ở trọng điểm 2 - nam Giồng Trôm, nam Ba Tri.

Đêm 11-12-1974 trung đoàn 1 và bộ đội huyện đã diệt 8 đồn đồng thời cùng lực lượng 3 mặt bức hàng 1 đồn, bức rút 4 đồn ở xã Thành An, Tân Phú, Thạnh Ngãi.

Ngày 12-12 các tiểu đoàn của trung đoàn 1 phục kích diệt 1 đại đội, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội khác của tiểu đoàn 509 và xóa phiên hiệu liên trung đội dân vệ cơ động của Chợ Lách. Hôm sau địch đưa 6 tiểu đoàn bảo an tiểu khu đến ứng cứu, ta ngăn chặn đánh tiêu hao nặng các tiểu đoàn 451, 507, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy diệt đồn. Các tiểu đoàn cơ động của địch bị kềm chân tại đây tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường khác tiến công, bức rút, bức hàng đồn bót địch. Ở điểm Mỏ Cày Bắc ta đã mở ra 6 ấp nối liền với vùng giải phóng cũ.

Tại Giồng Trôm bộ đội tỉnh, huyện đã kết hợp với lực lượng xã ấp bao vây, bức rút 15 đồn, giải phóng xã Long Mỹ. Tiểu đoàn 560, tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 263 đã phục kích đánh viện diệt gọn 1 đại đội của tiểu đoàn 415, tiêu hao tiểu đoàn 453; giải phóng 8 ấp ở Hiệp Hưng; đẩy địch ra giao thông 26.

Trong lúc đó các phân đội cối 82 ly, 120 ly pháo kích vào trận địa pháo ở sân banh thị xã và các cơ quan chỉ huy quân sự của địch.

Như vậy là trong đợt 1 của chiến dịch ta đã diệt, bức rút, bức hàng 82 đồn tua (có 2 phân chi khu), giải phóng 38 ấp, có 2 xã được giải phóng hoàn toàn.

Sau những ngày liên tục tiến công địch, Ban chỉ huy chiến dịch quyết định đưa lực lượng ta về xã Hiệp Hưng để củng cố. Ngày 21-1-1975, địch đưa tiểu đoàn 451 và tiểu đoàn 453 đi càn quét xã Tân Hưng (Ba Tri, Hiệp hưng (Giồng Trôm). Chiều ngày 21-1, địch rút tiểu đoàn 451 ra đóng quân ở Tân Thanh (Giồng Trôm), tiểu đoàn 453 đóng quân ở ấp 12 xã Hiệp Hưng. Ban chỉ huy Tiền phương cùng cán bộ các tiểu đoàn quyết tâm tiêu diệt tiểu đoàn 453. Ban chỉ huy quyết định sử dụng 3 tiểu đoàn 516, 263 và 560 phục kích chặn đường về của địch. Lúc 8 giờ ngày 22-1-1975 chúng hành quân không đúng với ý định của ta. Ban chỉ huy Tiền phương lệnh cho tiểu đoàn 516 nổ súng chặn quân địch lại. Tiểu đoàn 263, tiểu đoàn 560 chia thành nhiều cánh, nhiều mũi vận động đánh địch. Sau 6 giờ chiến đấu giằng co ác liệt, quân ta đã tiêu diệt gọn tiểu đoàn 453.

Bộ đội các huyện đã phối hợp diệt địch đều khắp các địa bàn. Ở Châu Thành Đông ta diệt đồn Phước Thạnh và phục kích diệt 1 đại đội bảo an chi khu trên giao thông 17, phá hủy 1 xe quân sự. Du kích xã An Định đã bức rút đồn Phú Lợi Thượng, giải tán phòng về dân sự xã. Tại Ba Tri, du kích xã An Đức đã kết hợp cơ sở nội tuyến diệt đồn Giồng Cà, bắt 15 tên, thu 30 súng.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 10:49:31 am
Bước vào tháng 3-1975, Ban chỉ huy chiến dịch rút kinh nghiệm hai tháng tiến công và nổi dậy vừa qua và vạch kế hoạch tiến công mới: Vùng yếu bắc Ba Tri và Chợ Lách được chọn làm điểm; đồng thời đẩy mạnh tiến công ở các huyện, xã đưa phong trào quần chúng nổi dậy, bằng 3 mặt đánh địch sâu, rộng trên khắp các chiến trường trong tỉnh.

Theo kế hoạch, trung đoàn 1 và các tiểu đoàn tập trung của tỉnh về hoạt động ở các vùng yếu.

Ở vùng trọng điểm bắc Ba Tri lực lượng vũ trang tỉnh kết hợp với binh vận và lực lượng quần chúng hoạt động trên 5 xã: Tân Xuân, Phước Tuy, Mỹ Nhơn, Mỹ Thạnh, Mỹ Chánh; trong đó Tân Xuân và Phước Tuy được chọn làm điểm mở vùng. Đêm 10-3-1975, tiểu đoàn 560 sau 5 phút chiến đấu đã diệt gọn phân chi khu Tân Xuân. Tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 263 đã đánh chiếm 2 đồn Cây đá đói (Tân Xuân), Mỹ Hòa (Mỹ Chánh). Đại đội đặc công đánh thiệt hại nặng phân chi khu Phước Tuy, diệt 22 tên buộc địch phải rút chạy. Đại đội trợ chiến dùng hỏa lực diệt đồn Bến Bàu ở chợ Mỹ Chánh và đưa 1 phân đội cối 82 ly pháo kích vào chi khu Ba Tri. Bộ đội huyện cùng với du kích địa phương bao vây ngặt các đồn Bảo Thạnh, Tân Thủy. Địch ở chi khu không dám đến giải tỏa. Tiếp đó bằng sức mạnh của quần chúng và gia đình binh sĩ, ta đã liên tiếp bức hàng 9 đồn ở Tân Xuân.

Ngày 12-3-1975 địch điều tiểu đoàn 454, 453 và 401 đến cứu viện. Ban chỉ huy tiền phương quyết định tập trung lực lượng tiêu diệt tiểu đoàn 454. Cùng ngày, tiểu đoàn này chia làm 2 mũi hành quân vào chợ Tân Xuân ngoài ý định của ta. Với quyết tân tiêu diệt địch, Ban chỉ huy Tiền phương lệnh cho các đơn vị vận động đánh địch theo kế hoạch mới. 14 giờ 10 phút bội đội ta nổ súng quyết liệt vào đội hình địch; hàng ngũ chúng bị rối loạn. Sau 15 phút chiến đấu ta đã tiêu diệt gọn tiểu đoàn 451, bắt sống 29 tên, thu 126 súng (Có 1 ĐK57) và 9 máy PRC25. Lúc này tiểu đoàn 401, 453 từ Phước Tuy, Bảo Thạnh hành quân đến tiếp ứng cũng bị các lực lượng ta chặn đánh. 15 giờ cùng ngày, địch ở đồn Kinh Điều (Tân Xuân) đã liên lạc bằng máy thông tin xin hàng. Xã Tân Xuân hoàn toàn giải phóng.

Tiếp đó các tiểu đoàn 516, 560, 263 hành quân chuyển sang khu vực Ba Mỹ, Bảo Thạnh, Tân Thủy cùng phong trào quần chúng bao vây, bức rút và đánh diệt nhiều đồn bót địch. Bộ đội huyện đã cùng du kích xã ấp kết hợp quần chúng nổi dậy bao vây bức rút, bức hàng các đồn bót giành quyền làm chủ ở các xã An Bình Tây, An Ngãi Trung, An Đức, Tân Hưng.

Trọng điểm Ba Tri đã giành được thế chủ động tiêu diệt địch nhanh, bức rút, bức hàng 40 đồn bót (có 2 phân chi khu) mở ra nhiều vùng giải phóng.

Hợp đồng với Ba Tri, ở Chợ Lách và Mỏ Cày Bắc, tiểu đoàn 29 diệt 2 đồn ở xã Vĩnh Hòa, Tân Thiềng. Một tiểu đoàn của trung đoàn 1 và tiểu đoàn 4 đặc công chia làm 2 mũi: 1 mũi thọc sâu diệt phân chi khu Sơn Định; mũi khác từ phía đông nam đánh lên diệt các đồn xung quanh thị trấn và diệt 5 trung đội dân vệ gây thối động toàn khu vực Chợ Lách. Ta tiếp tục đánh diệt 17 đồn, giải phóng 2 xã, 7 ấp. Hàng ngàn quần chúng các xã Hưng Khánh Trung, Nhuận Phú Tân, Tân Thạnh Tây, Thành An, đấu tranh với địch ở Chợ Lách, Đôn Nhơn, kêu gọi chồng con em ở các đồn bót trở về gia đình.

Ở các trục giao thông 28, 30, 17, 27 ta đã đánh phá liên tục trong suốt thời gian cao điểm. Trên lộ giao thông 26 phân đội hỏa lực B40, B41 đã phục kích đánh tiêu hao tiểu đoàn 415 phá hủy 4 xe quân sự, diệt 45 tên.

Ở Mỏ Cày Nam ta mở mảng Cẩm Sơn, Minh Đức, Tân Trung, Hương Mỹ. Ở thị xã ta đánh thiệt hại nặng Ban chỉ huy Cảnh sát tỉnh, bắt sống 1 số tên phòng vệ dân sự ở nội ô. Bọn chỉ huy vùng chiến thuật Tiền Giang lại phải đưa trung đoàn 10, sư đoàn 7 về Bến Tre. Khi chúng càn vào xã Thuận Điền (Giồng Trôm), tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 263 phục kích đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 1 (trung đoàn 10) diệt 150 tên, thu 200 súng.

Từ tháng 7-1974 đến cuối tháng 3-1975 qua các đợt tiến công liên tục, quân dân Bến Tre đã đánh bại kế hoạch bình định của địch, mở ra được nhiều vùng giải phóng rộng lớn và liên hoàn, phá lỏng thế kềm kẹp của địch ở vùng yếu và đang ra sức chuẩn bị lực lượng để cùng với toàn Miền bước vào trận quyết chiến chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 10:50:28 am
IV

PHỐI HỢP VỚI CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH,
BẾN TRE TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY GIẢI PHÓNG TOÀN TỈNH

Cuối tháng 3-1975, những thắng lợi dồn dập trên chiến trường miền Nam đã làm nức lòng đồng bào cả nước.

Quân địch đang đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn.

Ngày 1-4-1975 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp. Sau khi đánh giá thắng lợi đã đạt được, phân tích tình hình địch và ta, Bộ Chính trị hạ quyết tâm như sau: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực hiện tổng công kích tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4-1975, không thể để chậm”(1).

Đầu tháng 4-1975, Thường vụ Trung ương Cục đã ra nghị quyết chỉ đạo việc nắm thời cơ thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Nghị quyết nêu rõ: Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung cao nhất mọi sức mạnh tinh thần và lực lượng của mình, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp ba mũi giáp công, ba thứ quân, ba vùng, vùng lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa nhanh chóng đánh sụp hoàn toàn ngụy quân, ngụy quyền giành toàn bộ chánh quyền về tay nhân dân với khí thế tiến công quyết liệt, thần tốc, táo bạo và quyết giành toàn thắng giải phóng xã mình, huyện mình, tỉnh mình và toàn miền Nam.

Đứng trước nguy cơ bị sụp đổ, quân địch ở Bến Tre vẫn ngoan cố mở những cuộc hành quân lấn chiếm, ra sức phòng thủ thị xã, thị trấn. Chúng đã sắp xếp, bố trí lại binh lực: mở chiến dịch “Diên Hồng 4” lấp lại đồn bót ở một số vùng xung yếu, điều quân cơ động đánh phá vùng ven.

Ngày 9-4-1975, Tỉnh ủy Bến Tre ra chỉ thị: khẩn trương tổ chức lực lượng chính trị, vũ trang với tốc độ qui mô nhảy vọt, hình thành đội ngũ chặt chẽ chớp lấy thời cơ giành thắng lợi hoàn toàn.

Mọi công tác chuẩn bị được tiến hành với nhịp độ khẩn trương. Đầu tháng 4-1975 trung đoàn 1 của khu rời khỏi Bến Tre, lực lượng của tỉnh chỉ còn 3 tiểu đoàn. Ban chỉ huy Tỉnh đội nhanh chóng thành lập tiểu đoàn 8, tiểu đoàn 10 và bổ sung, củng cố tiểu đoàn 590, ổn định tổ chức trang bị sẵn sàng chiến đấu.

Ở từng huyện đã xây dựng thêm một đại đội mới và mở rộng lực lượng dân quân từ 1 đến 2 tiểu đoàn.

Lực lượng 3 đoàn thể đã hình thành tổ chức sẵn sàng tư thế xuống đường với trang bị vũ khí tự tạo như gậy gộc, dao mác… Mỗi huyện có từ 3 đến 4 tiểu đoàn quần chúng khởi nghĩa. Mỗi tiểu đoàn có từ 500 đến 600 lực lượng. Ở vùng yếu ta cũng đưa cán bộ cơ sở nắm chắc lực lượng nòng cốt và tổ chức hầu hết quần chúng tốt, gia đình binh sỹ vào từng nhóm. Trong vòng 15 ngày cuối tháng 4, lực lượng chính trị đã tổ chức thành đại đội, tiểu đoàn, có chỉ huy lãnh đạo chặt chẽ, có khả năng huy động 50.000 quần chúng và hàng vạn gia đình binh sỹ xuống đường.

Tỉnh ủy đã tập trung tất cả ra phía trước, phát động toàn bộ cơ quan, lực lượng dân chính Đảng dốc sức cho chiến dịch cả về người và của cũng như mọi phương tiện khác.

Vừa sôi nổi xúc tiến công tác chuẩn bị, vừa liên tục tiến công địch, từ đầu tháng 4 các lực lượng vũ trang cùng với ba mũi tại chỗ tiếp tục gỡ đồn, mở thêm nhiều mảng mới, đưa lực lượng áp sát thị xã. Lực lượng binh vận đã gởi nhiều thơ quan hệ móc nối với sĩ quan chỉ huy và sĩ quan các binh chủng địch gầy dựng cơ sở tạo thêm thế mới, lực mới trên khắp địa bàn.

Ngày 13-4-1975, Ban chỉ đạo chiến dịch đã điều lực lượng vũ trang của tỉnh về địa bàn Châu Thành, xung quanh thị xã Bến Tre. Các huyện, các xã chuẩn bị kế hoạch tiến công giải phóng địa phương mình. Hơn 30 vạn quần chúng được phân công bí mật bao vây đồn bót, tháp canh chờ giờ hành động. Tất cả đều trong tư thế sẵn sàng nổi dậy. Khắp Bến Tre như sống lại những ngày của Đồng khởi 15 năm về trước.


(1) Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 NXB QĐND trang 302.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 10:50:45 am
Với nhiệm vụ được Quân khu giao là một hướng tiến công quan trọng, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã chuẩn bị 6 tiểu đoàn bộ binh, các đại đội đặc công, trinh sát, thông tin, trợ chiến, đồng thời tập trung 4 tiểu đoàn dân quân du kích, 11 tiểu đoàn lực lượng quần chúng tiến công vảo thị xã. Ban chỉ đạo thống nhất dùng tiểu đoàn 560 và 1 đại đội đặc công từ phía tây bắc thị xã đánh xuống; tiểu đoàn 263, 516 và 1 đại đội đặc công từ đông bắc thị xã đánh lên; tiểu đoàn 8 và đại đội trợ chiến từ tả ngạn phía nam thị xã đánh qua sông Bến Tre; tiểu đoàn 590 chốt lộ 26 từ kinh Chẹt Sậy đến Mỹ Lồng (Mỹ Thạnh - Giồng Trôm); tiểu đoàn 10 tăng cường cho huyện Mỏ Cày. Nhưng khi triển khai thực hiện kế hoạch, do sơ hở của cán bộ ta, địch đánh lấy tài liệu và bản đồ tác chiến. Chúng liền đánh phá địa bàn ven thị xã và đưa 7 tiểu đoàn bảo an cơ động về phòng thủ thị xã. Thế bất ngờ tiến công địch giành thắng lợi của ta bị lộ.

Ngày 27-4-1975, Ban chỉ đạo chiến dịch thống nhứt chuyển phương án chiến đấu. Theo phương án mới, tiểu đoàn 263 và 516 cùng với đại đội đặc công được điều về địa bàn Giồng Trôm. Đêm 29-4 ta tổ chức tiểu đoàn 263 và đại đội đặc công đánh phân chi khu Lương Quới và 3 đồn trên giao thông 26 (Bến Tre - Giồng Trôm) buộc địch phải đưa các tiểu đoàn bảo an đi ứng cứu. Đồng thời ta tập trung tiểu đoàn 516, tiểu đoàn 590 phục kích diệt địch và giữ chân chúng ở khu vực Đồng Gò (Phong Mỹ), Lương Quới.

Sáng 30-4-1975, địch đưa các tiểu đoàn 418, 453, 401, 507 đến giải tỏa Lương Quới. Trong khi ta và địch đang giằng co quyết liệt thì hồi 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975, Dương Văn Minh - tên tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Sài Gòn đã hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch mang tên Bác Hồ kính yêu toàn thắng. Trong lúc đó tại thị xã Bến Tre tên đại tá Phạm Chí Kim tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng ngoan cố ra lệnh “tử thủ”; bọn địch ở các chi khu, phân chi khu chống trả với ta quyết liệt. Có nơi chúng bắn pháo 105 ly, 155 ly để ngăn chặn sức tiến công của quân và dân ta. Tại mặt trận Lương Quới, bộ đội ta ở trên thế áp đảo quân địch; kẻ địch thì hoang mang cực độ, binh sĩ bỏ súng chạy trốn. Các lực lượng vũ trang ta tiếp tục tiến công địch và cùng quần chúng xuống đường đồng loạt nổi dậy giành quyền làm chủ ở các xã Lương Quới, Châu Hòa, Bình Hòa, Phong Mỹ và dọc theo lộ giao thông 26 từ Giồng Trôm đến kinh Chẹt Sậy.

Bộ đội ta vừa nhanh chóng tiếp cận thị xã vừa dùng máy thông tin PRC25 kêu gọi bọn chỉ huy tiểu khu đầu hàng..

Lực lượng huyện, xã tranh thủ thời cơ đánh chiếm các mục tiêu then chốt và phát huy khả năng quần chúng tại chỗ giải phóng địa phương mình.

Theo mệnh lệnh của Ban chỉ đạo chiến dịch và hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh, chiều 30-4-1975, các lực lượng vũ trang phối hợp với lực lượng khởi nghĩa của quần chúng tiến công hầu hết các đồn bót, phân chi khu và căn cứ quan trọng ở các huyện và hàng loạt đồn tua ven thị xã. Các lực lượng ta đã giải phóng hầu hết các đồn bót ở vùng yếu, vùng tranh chấp. Cùng với tiến công quân sự ta đưa lực lượng chính trị, binh vận triển khai vào nội ô thị trấn, thị xã thúc ép địch đầu hàng. Trước áp lực mạnh mẽ của gia đình binh sỹ, sỹ quan, nhân viên ngụy quân, ngụy quyền lần lượ bỏ hàng ngũ, bỏ nhiệm sở.

Hai mươi giờ ngày 30-4-1975 tên tỉnh trưởng trốn chạy thoát thân; ban chỉ huy tiểu khu lo âu, chới với. Thiếu tá Bửu và đại úy Chương được sự móc nối của ta đã triệu tập bọn chỉ huy tiểu khu lại chấp nhận đầu hàng.

Trong lúc đó ở hướng Tây bắc Thị xã, ta dùng cối 82 ly bắn vào trận địa pháo và sử dụng đặc công tiến đánh nhiều “lô cốt” ở sân bay Tân Thành (Sơn Đông - Thị xã). Đến 21 giờ, tên Chương - đại úy chỉ huy pháo binh - buộc phải chấp nhận những điều kiện của ta và đầu hàng quân giải phóng.

Sáng 1-5-1975, tên Chương đã trực tiếp đến ngã tư Trường Đậu (Tam Phước - Châu Thành) rước lực lượng ta vào tiếp quản sân bay, căn cứ pháo binh.

Đồng chí Phan Định (Tư Định) Tham mưu trưởng Tỉnh đội kiêm chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Tiền phương cùng đồng chí Sáu Bình cán bộ chính trị dẫn đầu các lực lượng vũ trang và quần chúng tiến thẳng vào Thị xã chiếm tòa hành chánh tỉnh, tiểu khu quân sự, dinh tỉnh trưởng vào 7 giờ sáng ngày 1-5-1975.

Bộ đội ta tiếp tục tiến quân vào thị xã và lần lượt tiếp quản các vị trí quân sự, cơ quan chính quyền tỉnh. Hàng vạn quần chúng nổi dậy xuống đường và từ các ngả tiến vào thị xã. Quần chúng thị xã đổ ra đường đông nghẹt, vui tươi, tay bắt mặt mừng, đi tuần hành hô khẩu hiệu mừng chiến thắng. Cờ mặt trận tung bay khắp phố phường. Thị xã Bến Tre đã giải phóng.

Cũng trong thời điểm này ở các thị trấn Mỏ Cày, Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Thạnh Phú, Châu Thành, Chợ Lách và cả một vùng nông thôn rộng lớn hàng chục vạn quần chúng nhất tề xông lên tiến vào các phân chi khu, công sở, đồn bót kêu gọi binh lính đầu hàng. Tỉnh Bến Tre hoàn toàn giải phóng.

Nhân dân Bến Tre đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình: Tỉnh giải phóng tỉnh; huyện giải phóng huyên; xã giải phóng xã góp phần cùng với quân và dân cả Miền Nam, cả nước lập nên kỳ tích mùa xuân đại thắng; Miền Nam nước ta hoàn toàn giải phóng.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 10:51:04 am
(http://img94.imageshack.us/img94/7448/85906361.jpg)

Nhân dân Giồng Trôm cắm chông diệt giặc

(http://img59.imageshack.us/img59/4695/25683404.jpg)

Binh sỹ thuộc Tiểu đoàn 418 - chiến đoàn Bảo an ngụy đầu hàng
tại mặt trận Phước Điền xã Bình Khánh ngày 14-7-1972

(http://img215.imageshack.us/img215/1973/73081902.jpg)

Tiểu đoàn 263 vào tiếp quản thị xã Bến Tre

(http://img263.imageshack.us/img263/6336/66053041.jpg)

Nhân dân thị xã Bến Tre chào mừng chiến thắng 1975


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 10:51:39 am
CHƯƠNG KẾT LUẬN

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre là một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện; là một bộ phận không thể tách rời cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của chiến trường đồng bằng sông Cửu Long.

Do những đặc điểm khác biệt về dân cư, địa hình, địa thế; về kinh tế, xã hội, truyền thống đấu tranh cách mạng; về ý định chiến lược và thế bố trí chiến lược của địch, của ta chi phối, cho nên có thể nói: Trong suốt 21 năm chống Mỹ, chiến trường Bến Tre là nơi diễn ra cuộc “đấu trí, đấu lực” giằng co quyết liệt giữa ta và địch. Nó thể hiện rõ nét trong qui luật chiến tranh mà hai bên đã tiến hành.

Về địch, với bốn chiến lược chiến tranh thực dân mới của năm đời tổng thống Mỹ, trên chiến trường Bến Tre, đế quốc Mỹ đã nhắm hai mục tiêu: chiếm đất, giành dân và tiêu diệt lực lượng cách mạng.

Để thực hiện những mục tiêu ấy, chúng đã sử dụng hai biện pháp cơ bản: hành quân càn quét đi đôi với bình định, lấn chiếm; vừa dùng bom pháo, máy bay B52 triệt hạ xóm làng, dùng chất độc hóa học, bom Napan hủy diệt màu xanh và sự sống; vừa dùng chiến tranh gián diệp, chiến tranh tâm lý lừa mị, mua chuộc, sử dụng tôn giáo, tận dụng vơ vét sức người sức của cung cấp cho chiến tranh. Đồng thời chiến trường Bến Tre cũng là nơi thí điểm các biện pháp chiến lược, chiến thuật của địch như: “khu trù mật”, “ấp chiến lược”, chiến thuật “trực thăng vận”, bủa lưới phóng lao” trong chiến tranh đặc biệt; các chiến lược “tìm diệt bình định, “quét và giữ”, chiến thuật “hạm đội nhỏ trên sông” trong chiến tranh cục bộ; các chương trình “bình định đặc biệt”, bình định cấp tốc” trong “Việt Nam hóa chiến tranh”. Mỗi bước leo thang chiến tranh là một bước âm mưu của địch càng sâu, thủ đoạn của địch ngày càng thêm tàn bạo xảo quyệt. Và mỗi khi hành động dã man của chúng lên đến đỉnh cao thì đó cũng là lúc báo hiệu sự sụp đổ tất yếu của chúng. Đó là bản chất và những nét lớn về quy luật của cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ trên chiến trường Bến Tre.

Về phía ta - như đã nói ở trên - cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Bến Tre là một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện; là một quá trình đấu tranh liên tục: từ đấu tranh chính trị lên khởi nghĩa từ khởi nghĩa lên đấu tranh cách mạng, kết hợp chiến tranh cách mạng với khởi nghĩa, kết hợp tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công tiêu diệt, làm tan rã sinh lực địch nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược cơ bản thường xuyên của chiến trường là đánh bại âm mưu, biện pháp bình định của địch trong giai đoạn chiến tranh để giành dân, giành quyền làm chủ xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Đó là một quá trình tiến công liên tục, đánh bại địch từng bước, giành thắng lợi từng phần và tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

Trên đây là một số nội dung lớn về quy luật giành thắng lợi của chiến tranh cách mạng trên chiến trường Bến Tre.

Song, con đường dẫn đến thắng lợi không phải chỉ có thuận buồm xuôi gió, không phải chỉ có chiến thắng mà còn phải vượt qua nhiều khó khăn thử thách, phải chịu đựng biết bao tổn thất có lúc tưởng chừng không vượt qua nổi. Nhưng nắm vững đường lối của Đảng; tin tưởng và dựa vào quần chúng, Đảng bộ cùng với quân dân Bến Tre đã giải quyết thành công những vấn đề đặt rta trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù để giành thắng lợi vẻ vang.

Từ thực tiễn sinh động đó, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau đây:


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 10:52:48 am
I - NẮM VỮNG ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG, QUAN ĐIỂM BẠO LỰC
VÀ NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG, VẬN DỤNG SÁT ĐÚNG
VỚI THỰC TẾ CHIẾN TRƯỜNG, ĐỂ RA CHỦ TRƯƠNG BIỆN PHÁP THÍCH HỢP.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là một cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp và quyết liệt. Trong cuộc đấu tranh đó, có nắm vững đường lối, quan điểm bạo lực, nhiệm vụ chiến lược của Đảng mới thấy rõ con đường và phương hướng tiến lên của cách mạng. Do đó, việc quán triệt và kiên quyết chấp hành đầy đủ đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng là nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi. Nhìn lại 21 năm kháng chiến chống Mỹ, qua thực tiễn chiến trường, rõ ràng đường lối, chủ trương của Trung ương đề ra là hoàn toàn chính xác, phù hợp với tình hình chung trong từng giai đoạn, Đảng bộ Bến Tre đã nghiên cứu, vận dụng sát hợp đường lối ấy vào tình hình địa phương mình; đề ra những nghị quyết đúng đắn, tạo được niềm tin trong nội bộ và biến thành sức mạnh của phong trào, của quần chúng giành những thắng lợi to lớn qua các giai đoạn của chiến tranh. Về vấn đề này có thể nêu lên một bài học quý: Sau hiệp định Genève, trên cơ sở nắm vững mục tiêu của cách mạng miền Nam, với ý thức chuẩn bị cho địa phương mình một lực lượng sẵn sàng chiến đấu với kẻ thù trong giai đoạn mới, cán bộ, đảng viên ở lại đều hòa mình vào tổ chức cơ sở, bám chặt quần chúng và coi việc bám dân, bám địa bàn là một chủ trương “sinh tử” của Đảng. Đồng thời Đảng bộ Bến Tre cũng xác định nhiệm vụ và phương thức đấu tranh trước mắt là đấu tranh chính trị; nhưng phải nắm chắc quan điểm bạo lực cách mạng. Từ đó, cán bộ, đảng viên đã lợi dụng các tổ chức công khai, bán công khai để tập hợp và lãnh đạo quần chúng đấu tranh; bí mật tổ chức những đội vũ trang tuyên truyền, tổ, đội “thanh niên ngầm”; tích cực đưa người vào cầm súng trong hàng ngũ địch và đã xây dựng được một lực lượng binh vận to lớn trong nhiều đơn vị ở khắp các địa phương. Khi địch tiến hành “tố cộng, diệt cộng” đến mức quần chúng không thể sống nổi, nhiều đảng viên, cán bộ đòi hỏi được chiến đấu vũ trang. Nhưng với lòng tin tưởng và kiên quyết chấp hành đường lối chủ trương của Đảng, Đảng bộ Bến Tre đã có những biện pháp đấu tranh thích hợp, giữ gìn thực lực và luôn luôn súc tích, phát triển lực lượng, chuẩn bị sẵn sàng nổi dậy khi có thời cơ. Khi có nghị quyết 15 của Trung ương, vận dụng sát đúng với tình hình trong tỉnh, Đảng bộ đã kiên quyết mạnh dạn hành động; đã tiến hành Đồng khởi làm đảo ngược lại tình thế tạo nên một cục diện mới hết sức thuận lợi mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre. Đây là bài học sinh động về nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng và vận dụng sát đúng đường lối khởi nghĩa vũ trang của Đảng.

Trong các giai đoạn kháng chiến tiếp theo, việc vận dụng và nắm vững quan điểm, đường lối chiến tranh cách mạng của Đảng cũng có nhiều bài học cụ thể, phong phú. Nhưng vấn đề nổi bật, xuyên suốt là Đảng bộ, quân và dân Bến Tre đã biết phát huy tinh thần tự lực, tự cường; nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, liên tục tiến công địch; biết kết hợp tiến công và nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã địch với giành quyền làm chủ, giành quyền làm chủ với tiêu diệt địch xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Qua 21 năm chiến tranh, với 5 cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt đã chứng minh rõ điều này. Đó là cao trào Đồng khởi năm 1960 đập tan bộ máy kềm kẹp của địch, giành quyền làm chủ trên hầu hết các vùng nông thôn rộng lớn. Đó là cuộc tiến công và nổi dậy đánh phá “quốc sách ấp chiến lược” của địch năm 1964. Và khi quân viễn chinh Mỹ nhảy vào miền Nam với đầy đủ phương tiện chiến tranh hiện đại - cùng với chiến trường chung toàn Miền, theo ý đồ chiến lược chung của Trung ương - quân và dân Bến Tre mở cuộc tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968 thắng cả Mỹ lẫn ngụy. Đến cuộc tiến công và nổi dậy năm 1972 Bến Tre lại đánh bại một bước quan trọng âm mưu bình định của địch ở địa phương mình dẫn đến cuộc tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi Xuân 1975.

Thực tiễn chiến trường còn chứng minh rằng: trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Trung ương mặc dù có lúc thuận lợi, có lúc khó khăn rất lớn, nhưng bất cứ lúc nào, bất cứ trong hoàn cảnh nào cũng phải nắm vững đường lối, cũng phải khẳng định lòng tin tất thắng vào sự nghiệp cách mạng, vào sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ và luôn kiên trì tổ chức thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên một cách nghiêm chỉnh và sáng trạo, quyết tâm khắc phục khó khăn vươn lên giành thắng lợi mới.

Tuy nhiên, có những lúc do Đảng bộ ta chưa nắm chắc chủ trương, ý định của cấp trên hoặc không đánh giá đúng mức tình hình tại chỗ, vận dụng không thích hợp và kịp thời nên không chuyển được phong trào. Để làm rõ điều này, cần nêu lại hai thời kỳ ta bị mất đất, mất dân mà đáng kẽ ra ta có thể chủ động hạn chế được khó khăn. Sau đợt đầu của Xuân Mậu Thân, địch đã khôi phục, tăng cường được lực lượng và phương tiện chiến tranh; quân Mỹ đã nhảy vào chiến trường phản kích lại ta, đồng thời, quân ngụy đã triển khai kế hoạch bình định lấn chiếm nông thôn. Trong lúc đó lực lượng ta vừa điều động một phần về trên vừa bị tiêu hao; lòng tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vào thắng lợi qua các đợt tiến công vào thị xã, thị trấn bị giảm sút, nhưng ta cứ dốc sức tấn công vào thị xã, thị trấn mà không kịp thời củng cố lại thế trận ở cơ sở đang bị xộc xệch, bị xáo động ở thời cao điểm “tất cả cho giải phóng thị xã”, thế chính trị trong quần chúng bị sa sút đã tạo ra sơ hở rất lớn trên địa bàn nông thôn. Do đó khi địch tiến hành bình định lấn chiếm trong những năm 1969, 1970, 1971 ta gặp nhiều khó khăn và không đủ sức đối phó, ngăn chặn, đánh trả bình định của địch. Bởi thế, việ khôi phục lại cơ sở, gây dựng lại phong trào phải mất nhiều thời gian. Cũng như sau hiệp định Paris, ta chưa đánh giá đúng ản chất ngoan cố, lật lọng của kẻ địch nên khi chúng bung quân ra lấn chiếm giành dân - có thời gian - cả ba vùng, bằng cả ba mặt, do đó không ngăn được địch, để mất đất, mất dân. Sau đó Tỉnh ủy đã đánh giá lại tình hình địch, ta; nắm chắc hơn nữa quan điểm bạo lực cách mạng và tư tưởng chiến lược tiến công và đã kiên quyết phản công, tiến công quân địch. Cục diện chiến trường lại thay đổi có lợi cho ta. Thế và lực của cách mạng lại phát triển đều trên cả ba vùng.

Trên đây là bài học lớn nhất của Đảng bộ, quân và dân Bến Tre.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 04:43:56 pm
II - TIN TƯỞNG VÀ DỰA VÀO QUẦN CHÚNG, TỔ CHỨC XÂY DỰNG
LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG BAO GỒM LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ,
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG, BINH VẬN VÀ CÁC LỰC LƯỢNG KHÁC
HÌNH THÀNH SỨC MẠNH TỔNG HỢP ĐÁNH ĐỔ KẺ THÙ

Từ nhận thức cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đồng thời thấm nhuần quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng, trong 21 năm chống đế quốc Mỹ, Đảng bộ Bến Tre đã nhận thức được rằng: muốn giành thắng lợi trong chiến tranh, muốn đạt được mục tiêu chính trị của chiến tranh thì nhất thiết phải tin và dựa vào quần chúng, phải giáo dục, tổ chức tập hợp quần chúng, từng bước hình thành sức mạnh bạo lực của cách mạng, sức mạnh tổng hợp của chiến tranh - một sức mạnh áp đảo quân thù - mới đánh đổ được chúng, giải phóng được tỉnh nhà và giải phóng hoàn toàn miền Nam. Nắm vững quan điểm đó, Đảng bộ, nhân dân Bến Tre đã kiên trì bám trụ, luôn luôn giữ mối liên lạc mật thiết giữa Đảng và quần chúng, giữ mối quan hệ quân dân như cá với nước, thường xuyên chăm lo giải quyết những lợi ích trước mắt và lâu dài của quần chúng.

Có bám sát, có tồn tại ngay trong quần chúng ta mới hiểu được tinh thần nguyện vọng của quần chúng, mới tiến hành giáo dục giác ngộ họ, mới lãnh đạo tổ chức được lực lượng cách mạng. Ngược lại, không bám sát quần chúng thì không thể đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu của địch, không thể xây dựng phát triển được thế và lực của cách mạng, thế và lực của chiến tranh.

Lịch sử đã chứng minh rõ ràng trong những năm khó khăn ác liệt như các năm: 1957, 1958, 1959 nhờ bám quần chúng, sống trong dân, hiểu được dân, nắm được địch mới có cơ sở nghiên cứu đánh giá đúng tình hình hạ quyết tâm thực hiện cao trào Đồng khởi năm 1960. Trong những năm chiến tranh, đại đa số cán bộ, đảng viên đều kiên quyết bám quần chúng, bám trong các ấp chiến lược, các vùng yếu, vùng tôn giáo, thị trấn, thị xã. Ngay trong những năm 1970, 1971, khi địch bình định chiếm đóng trong toàn tỉnh, các cấp ủy, các đơn vị vũ trang, các ngành cũng bám chặt trong quần chúng. Do đó tuy địch tạm thời chiếm đóng được nhiều đồn bót, nhưng không bao vây, tiêu diệt được lực lượng cách mạng. Ngược lại đại bộ phận đồn bót của chúng bị nhân dân luôn bao vây và hàng ngày, hàng giờ chúng phải chống đỡ với ba mũi tiến công của lực lượng cách mạng cơ sở. Âm mưu thâm độc của kẻ địch hòng tách Đảng ra khỏi dân “tát nước để bắt cá” hoàn toàn bị thất bại.

Trong quá trình bám đân, cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang đã vận dụng sáng tạo những phương thức bám trụ phù hợp với điều kiện, tình hình từng nơi, từng lúc. Với kinh nghiệm những năm kháng chiến chống Pháp, cán bộ ly xã về bám xã căn bản là dựa vào cơ sở cách mạng, vào gia đình cán bộ. đảng viên, vào quần chúng công nông, vào cơ sở binh vận trong lòng địch. Trong những năm từ cuối năm 1956 đến năm 1959, một cơ chế tổ chức mới gọi là “Tổ nòng cốt rễ chuổi” được hình thành chính là thể hiện chủ trương Đảng bám chắc vào quần chúng… Như vậy là trong bất cứ tình huống nào, Đảng bộ, quân và dân Bến Tre vẫn giữ được thế bám trụ trong dân; không ngừng giáo dục, giác ngộ nhân dân; và điều quan trọng là đưa họ vào các tổ chức cách mạng; hướng dẫn họ đấu tranh, bảo đảm sự thống nhất hành động, do đó xây dựng được thế chính trị vững chắc của quần chúng.

Với thế bám trụ trong dân, dựa vào lực lượng công nông và bằng sự vận dụng đúng đắn các chủ trương, chính sách của Đảng - nhất là giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân - Đảng bộ đã xây dựng được khối liên minh công nông chặt chẽ - lực lượng trụ cột của cách mạng và của chiến tranh. Từ đó ta đã thu hút các tầng lớp trung gian, các tôn giáo, các gia đình binh sĩ, sĩ quan ngụy; đã khéo léo khoét sâu những mâu thuẫn của các tầng lớp này đối với địch; phát huy tinh thần dân tộc chống chiến tranh và khéo vận dụng sách lược của Đảng nên đã lôi kéo họ ngã về với kháng chiến, với cách mạng. Nhờ vậy ta đã hình thành được Mặt trận dân tộc đoàn kết đấu tranh rộng rãi chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai.

Trên cơ sở đoàn kết toàn dân, lấy liên minh công nông làm nền tảng và xuất phát từ tình hình thực tế chiến trường, sự so sánh lực lượng giữa ta và địch, yêu cầu nhiệm vụ trong từng thời kỳ, từng giai đoạn chiến tranh, đảng bộ Bến Tre đã giải quyết thành công việc tổ chức xây dựng lực lượng bao gồm lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, binh vận và các loại lực lượng khác hình thành sức mạnh tổng hợp, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương.

Trong suốt 21 năm chiến tranh chống Mỹ, các lực lượng này không ngừng phát triển nhờ sự kết hợp chặt chẽ việc xây dựng với phong trào tiến công địch thực hiện tốt phương châm càng tiến công càng mạnh, càng trưởng thành bảo đảm đánh dài hơi, liên tục.

Lực lượng vũ trang Bến Tre hình thành và phát triển từ phong trào đấu tranh chính trị rộng rãi, mạnh mẽ của quần chúng và trong chiến tranh cách mạng, từ quần chúng mà xây dựng lực lượng vũ trang, đào tạo cán bộ đi đôi với vũ trang, quần chúng rộng rãi. Cũng trên chiến trường miền Nam, việc xây dựng lực lượng vũ trang Bến Tre đã đi đúng đường lối của Đảng và có nhiều sáng tạo phù hợp với thực tiễn điều kiện, khả năng của địa phương - đặc biệt là ở trên một chiến trường không có căn cứ rừng núi.

Ngay từ đầu, khi lực lượng vũ trang mới ra đời, quần chúng đã thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ và bảo đảm mọi yêu cầu cho hoạt động của lực lượng vũ trang.

Các lực lượng vũ trang Bến Tre bao gồm lực lượng tỉnh, huyện, xã ấp đã hình thành, phát triển từ nhỏ đến lớn. qua các thời kỳ, ba thứ quân được tổ chức cân đối. Bộ đội tỉnh và huyện nhất là bộ đội tỉnh được ưu tiên xây dựng và đã phát triển kịp với yêu cầu đòi hỏi của từng giai đoạn chiến tranh. Lực lượng vũ trang của tỉnh đứng trên các địa bàn chủ yếu của tỉnh làm nhiệm vụ cơ động khắp các chiến trường trong tỉnh. Bộ đội huyện bám sát địa bàn huyện. Du kích, dân quân xã bám trụ tại xã đã cùng với nhân dân đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của địch, thực hiện chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện.

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo và chỉ huy đều từ trong phong trào cách mạng mà ra, am hiểu quần chúng, am hiểu địa phương, chiến trường và các địa bàn chiến đấu. Tỉnh ủy, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã luôn luôn chăm lo đến sự lớn mạnh, trưởng thành của đội ngũ cán bộ quân sự các cấp; thường xuyên có lực lượng dự trữ, nguồn kế tiếp, nhờ đó mà đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng vũ trang trong tỉnh đồng thời còn cung cấp cán bộ cho Miền, cho Khu.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 04:45:05 pm
Các cấp đã quan tâm và nổ lực xây dựng lực lượng vũ trang của cấp mình; đã phát động mạnh mẽ phong trào thanh niên tòng quân để phát triển lực lượng tại địa phương và cung cấp cho trên. Việc trang bị cấp dưỡng, nuôi quân, bảo đảm sức khỏe cho bộ đội, đều dựa vào hậu cần nhân dân tại chỗ.

Lực lượng vũ trang Bến Tre vừa ra đời đã phải chiến đấu liên tục, quyết liệt với kẻ thù. Nắm vững đặc điểm này, các cấp lãnh đạo, chỉ huy đã khéo léo kết hợp phương châm vừa xây dựng, vừa chiến đấu: xây dựng để chiến đấu và chiến đấu để củng cố xây dựng lực lượng. Lực lượng vũ trang tập trung đã coi trọng nhiệm vụ đánh tiêu diệt và không ngừng sáng tạo cách đánh

Sau mỗi đợt chiến đấu, sau mỗi chiến dịch, các cấp đều tổ chức rút kinh nghiệm, tập huấn để kịp thời bồi dưỡng cho cán bộ chiến sĩ nhận thức sâu sắc hơn về đường lối quân sự, phương châm tác chiến của Đảng, về công tác chính trị, tư tưởng và công tác xây dựng Đảng; đồng thời phát hiện và vận dụng nhanh nhạy những kinh nghiệm mới nhắt về lãnh đạo, tổ chức chỉ huy, vận dụng chiến thuật kỹ thuật. Đặc biệt trong công tác chỉ đạo chỉ huy đối với một chiến trường có địa hình, địa thế đặc biệt, cuộc “đấu trí, đấu lực” giữa ta và địch lại diễn ra hàng ngày, hàng giờ, cán bộ chỉ huy chỉ đạo đã rút ra một kinh nghiệm quý: cấp lãnh đạo phải đứng trên địa bàn trọng điểm, người chỉ huy phải luôn luôn sát chiến trường, thường xuyên ở vị trí chiến đấu, nắm chắc lực lượng chủ yếu, xử trí kịp thời những tình huống phức tạp, tạo điều kiện giành thắng lợi cao hơn. Đồng thời đó cũng là nguồn động viên cán bộ chiến sĩ cấp dưới vững lòng tin, nâng cao hiệu suất chiến đấu.

Được sự lãnh đạo chặt chẽ của Tỉnh ủy, lực lượng vũ trang Bến Tre luôn luôn nêu cao tinh thần tự lực tự cường, luôn chủ động và độc lập chiến đấu, không trông chờ ỷ lại bên trên. Phát huy mọi tiềm năng sẵn có tại địa phương, phát huy lòng dũng cảm và tính sáng tạo, mưu lược, kết họp trang bị vũ khí hiện đại và thô sơ, dựa hẳn vào phong trào quần chúng, khéo tranh thủ thời cơ để chủ động hiệp đồng với chiến trường chung, chiến trường trong Quân khu, trong tỉnh để căng kềm địch, lừa địch, lực lượng vũ trang Bến Tre đã chủ động liên tục tiến công quân địch, liên tục giành thắng lợi xứng đáng với vai trò “đòn xeo” của phong trào ba mặt tiến công địch tại địa phương.

Trong quá trình xây dựng và tiến công địch, lực lượng chính trị, lực lượng binh vận và các lực lượng khác đã không nừng phát triển lớn mạnh và trưởng thành.

Lực lượng chính trị quần chúng bao gồm các đoàn thể, các tổ chức quần chúng và phát huy tác dụng toàn diện qua các giai đoạn chiến tranh.

Lực lượng đấu tranh chính trị từ đấu tranh với khẩu hiệu dân sinh, dân chủ đến những khẩu hiệu cao hơn, với hình thức, qui mô ác liệt hơn như tấn công phân hóa kẻ thù, làm công tác binh vận… đã hình thành tổ chức lực lượng tiến công địch ba mặt tại chỗ, tại đồn bót, tại từng đơn vị địch, đã diệt, phá rã lực lượng địch, dứt điểm đồn bót, giành quyền làm chủ và cùng phối hợp đắc lực với lực lượng vũ trang tác chiến trên các địa bàn trong tỉnh. Trong những đợt phối hợp đấu tranh dài ngày, trong những cuộc tiến công và nổi dậy, lực lượng này có thể huy động tới hàng chục ngàn với hệ thống tổ chức, chỉ huy chặt chẽ.

Trong xây dựng lực lượng, Đảng bộ Bến Tre rất coi trọng và quan tâm đúng mức đến lực lượng phụ nữ. Ngoài vai trò nòng cốt, then chốt trong lực lượng đấu tranh chính trị, tiến công binh vận, chị em còn có mặt trong lực lượng vũ trang, trong các ngành nghề của cách mạng tại địa phương. Vừa tiến công địch ở phía trước, vừa đảm đương mọi công tác ở hậu phương và đã đi hoạt động trên khắp mọi miền của đất nước. Lực lượng phụ nữ đã trở thành “đội quân tóc dài” nổi tiếng - một mũi tiến công địch rất lợi hại trong suốt cả cuộc kháng chiến chống Mỹ tại địa phương.

Lực lượng binh vận ngày càng được củng cố và phát triển theo nhiệm vụ chính trị, theo yêu cầu chiến đấu ở từng lúc, từng thời kỳ. Từ tiến công chính trị vào hàng ngũ địch đến phá rã tổ chức địch, xây dựng lực lượng cách mạng bên trong, kết hợp với lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang bên ngoài tiến công địch, hình thành thế công nông binh liên hiệp đánh địch từ thấp đến cao - từ dệt ác, phá phương tiện chiến tranh đến phản chiến, làm binh biến khởi nghĩa. Số lượng và chất lượng binh vận đã phát triển từ lẻ tẻ trong một số đồn, một số đơn vị đến tổ chức trong những mục tiêu then chốt, trong lực lượng cơ động của địch, trong từng tập thể lực lượng phòng vệ dân sự tại xã ấp và ngay trong một số sĩ quan của chúng.

Bến Tre không chỉ vừa nỗ lực xây dựng lực lượng cho mình mà còn cung cấp lực lượng cho trên. Đảng bộ, quân và dân Bến Tre luôn luôn xác định: chiến trường Bến Tre là một bộ phận, một địa bàn không thể tách khỏi với phong trào chung toàn Miền và trong cả nước. Việc đóng góp sức người, sức của cho trên và các chiến trường khác là nghĩa vụ phải làm tròn. Trong suốt quá trình chống Mỹ, 70.000 cán bộ chiến sĩ, thanh niên xung phong đã lần lượt được đưa lên trên và các tỉnh bạn. Bến Tre đã làm tròn nhiệm vụ của một chiến trường đánh thắng Mỹ, diệt ngụy, làm tốt nhiệm vụ của một hậu phương tại chỗ, đáp ứng yêu cầu của chiến tranh.

Một bài học sâu sắc khác - bài học dựa vào dân để xây dựng ăn cứ, họn thế đứng, xây dựng hành lang giao thông - Đảng bộ, quân và dân Bến Tre đã giải quyết đúng đắn vấn đề này. Để bảo đảm yêu cầu chỉ đạo chỉ huy sâu sát, kịp thời, nhạy bén và hoàn chỉnh được thế trận tiến công địch liên tục trên khắp ở cả ba vùng, Bến Tre đã dựa vào sức mạnh của quần chúng, nền tảng chính trị trong dân để xây dựng thế đứng, xây dựng căn cứ cho từng cấp, cho lực lượng vũ trang, cho hành lang, kho tàng và cho việc xây dựng hệ thống giao thông liên lạc trên chiến trường tỉnh và tiếp giáp với các chiến trường bạn. Bến Tre không chủ trương dựa vào căn cứ thiên nhiên. Có thể nói, đó là một kinh nghiệm quí báu trong việc chỉ đạo chiến tranh ở địa phương.

Trên đây là một số nét về bài học kinh nghiệm xây dựng và phát triển sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở chiến trường Bến Tre.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 04:46:16 pm
III - PHÁT HUY SỨC MẠNH TỔNG HỢP VÀ VẬN DỤNG CHIẾN LƯỢC
TỔNG HỢP CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN MỘT CÁCH ĐÚNG ĐẮN,
SÁNG TẠO, THÍCH HỢP VỚI ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ CỦA CHIẾN TRƯỜNG
GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ

Nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công và đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng, Đảng bộ, quân và dân Bến Tre đã vận dụng đúng dắn chiến lược tổng hợp đưa chiến tranh nhân dân địa phương phát triển lên đỉnh cao và đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên chiến trường Bến Tre. Chiến lược tổng hợp - chiến lược cơ bản của chiến tranh nhân dân nước ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ - được thể hiện trên địa bàn tỉnh với những nội dung phong phú và đa dạng. Có thể tóm tắt như sau: đó la sự kết hợp giữa đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị và binh vận; thực hiện 3 mũi giáp công; kết hợp tác chiến giữa ba thứ quân; kết hợp đòn chủ lực (bộ đội tập trung tỉnh, có lúc chủ lực khu cấp tiểu đoàn và trung đoàn) với lực lượng 3 mặt tại chỗ: kết hợp đấu tranh chặt chẽ thường xuyên giữa 3 vùng… luôn luôn giữ thế tiến công, giành quyền chủ động tiến công địch trong mọi lúc, mọi nơi; thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ, giành thắng lợi từng phần, đẩy lùi địch từng bước tiến tới thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, giải phóng hoàn toàn địa phương mình.

Vận dụng chiến lược tổng hợp của chiến tranh nhân dân, trên chiến trường Bến Tre đã hình thành phát triển từng đợt hoạt động tổng hợp, từng chiến dịch tổng hợp trong các thời điểm và địa bàn khác nhau với ý định, mục đích, nhiệm vụ và tương quan ta - địch khác nhau. Trong các chiến dịch tổng hợp đó, điều cốt lõi là tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, diệt gọn từng đại đội, tiểu đoàn chủ lực ngụy; đại đội, tiểu đoàn Mỹ; tiểu đoàn, chiến đoàn bảo an cơ động tiểu khu, phá thế kềm kẹp, giành dân, mở mảng, mở vùng. Các chiến dịch tổng hợp đó đã đạt hiệu quả chiến lược rất cao.

Hình thành từ trong cao trào Đồng khởi và phát triển lên một bước trong những năm đầu của chiến tranh đặc biệt, phương châm ba mặt đã hình thành ba mũi tiến công địch trên diện rộng tại từng đồn bót, từng ấp chiến lược. Ta đã ngăn chặn, đẩy lùi nhiều cuộc càn quét, đánh phá của địch, giữ vững vùng ta, đã diệt, bức hàng, bức rút hàng loạt đồn bót, mở rộng nhiều vùng.

Trong cao trào phá ấp chiến lược năm 1964, ta đã nâng những cuộc tiến công ba mũi của lực lượng tổng hợp lên những cuộc tiến công và nổi dậy quy mô trong toàn tỉnh và có điểm, có diện, có yêu cầu mức độ cho từng vùng. Lực lượng vũ trang tỉnh kết hợp chặt chẽ với lực lượng chủ lực của Quân khu (tiểu đoàn 263) đánh tiêu diệt mạnh các đối tượng chủ yếu của địch trên từng địa bàn huyện (như tiêu diệt tiểu đoàn “Ó Đỏ” ở Ba Tri, tiểu đoàn “Ó Vàng” ở Mỏ Cày) tạo nên những trận then chốt mở đầu, thúc đẩy sự nổi dậy của quần chúng tiến công địch bằng ba mũi, đánh thẳng vào hệ thống ấp chiến lược, giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn.

Đây là chiến dịch tổng hợp đầu tiên với nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy sắc bén đã diệt gọn hai tiểu đoàn chủ lực của sư đoàn 7, giải phóng hàng vạn dân, phá tan hệ thống ấp chiến lược, làm chuyển biến tương quan lực lượng trên chiến trường Bến Tre, tạo nên bước nhảy vọt rất có ý nghĩa của chiến tranh nhân dân.

Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang bao gồm bộ binh, các đơn vị binh chủng, lực lượng dân quân với số lượng thích hợp, trang bị khá, được chuẩn bị tốt về cách đánh trên địa bàn thị xã, cùng với 30.000 lực lượng quần chúng xuống đường khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Ngay từ ngày đầu tiến công thị xã, ta đã hình thành nhiều mũi tiến công xung kích, thực hiện đánh và làm chủ hầu hết các mục tiêu quân sự, căn cứ, kho tàng, cơ quan đầu não của địch (chỉ còn một khu vực nhỏ - dinh tỉnh trưởng). Đồng thời lực lượng ba mặt tiến công bằng ba mũi đã diệt và bức hàng hàng chục đồn bót, giải phóng vành đai ngoại ô. Các xã, các huyện trên cả ba vùng cùng một lúc với lực lượng tỉnh tiến hành đánh chiếm và bao vây các thị trấn, các trục giao thông huyết mạch, áp đảo bao vây quân địch như ở thị trấn Mỏ Cày; ba mũi tiến công và nổi dậy giải phóng vùng sâu như huyện Chợ Lách… Quân Mỹ nhảy vào cứu nguy, chúng đã bị diệt gọn một đại đội, bị tiêu hao nặng một tiểu đoàn. Đây là một chiến dịch tiến công tổng hợp cùng một lúc đánh vào nhiều địa bàn, nhiều mục tiêu khác nhau trên khắp cả ba vùng, đánh với nhiều sắc lính - kể cả quân Mỹ - và đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm chủ thị xã 4 ngày đêm, giải phóng nhiều xã ấp. Chiến dịch tiến công tổng hợp Xuân 1968 đã phát triển thêm một số nét mới về nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy. Nét nổi bậy là cuộc tiến công thị xã đã tạo nên một mô hình về tổ chức lực lượng tổng hợp qui mô lớn; về chọn hướng tiến công chủ yếu; về bố trí lực lượng ở các mũi, các hướng… và để lại những kinh nghiệm bổ ích cho Xuân năm 1975. đối với việc giải phóng gần hết huyện Chợ Lách đó là kinh nghiệm chớp thời cơ giành quyền chủ động trong khi lực lượng ta chỉ có hơn một trung đội còn địch có cả hệ thống đồn bót dày đặc.

Đến chiến dịch tổng hợp năm 1972 sẵn có kinh nghiệm các chiến dịch trước và nằm trong thời cơ chung của toàn Miền, Bến Tre kết hợp ba mặt tiến công địch, ở cơ sở, hình thành sức mạnh tổng hợp ở từng địa phương thực hành tiến công và nổi dậy giành nhiều thắng lợi. Và lần đầu tiên lực lượng ta diệt gọn một chi khu (chi khu Trúc Giang) bằng hai mũi: vũ trang kết hợp với binh vận; sau đó diệt chiến đoàn bảo an cơ động làm thất bại kế hoạch thí điểm của địch - lấy quân bảo an cơ động địa phương thay cho quân chủ lực của khu chiến thuật. Chiến đấu kết hợp chặt chẽ với xây dựng, càng đánh càng mạnh, lực lượng vũ trang tập trung tỉnh đã được tổ chức đến cấp trung đoàn (trung đoàn Đồng khởi).

Trong các chiến dịch mùa khô 1973-1974, đặc biệt là chiến dịch mùa khô năm 1974-1975 - trong thế chiến lược chung của cả nước, của toàn miền Nam - một thời kỳ sôi động nhất, bằng tất cả sức mạnh của địa phương mình, với sự chỉ đạo chỉ huy sâu sát, nhạy bén, theo dõi nắm chắc mọi diễn biến tình hình ta và địch; chỉ huy chiến đấu hết sức linh hoạt; phán đoán được tình huống - nhất là chọn điểm diện tiến công, hướng phát triển, đối tượng chiến đấu và vận dụng phương châm, phương thức đúng đắn cho từng lực lượng, từng mũi trên cả ba vùng - có thể nói: khắp các địa bàn trong tỉnh, tất cả những gì đã tích lũy trong mấy năm qua đều được đem ra vận dụng, dồn ra phía trước, quyết thực hiện cho kỳ được quyết tâm chiến lược: xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh.

Một đặc điểm khác, trong các chiến dịch tổng hợp hay nói cho đúng hơn là ngay trong từng trận chiến đấu, từng đợt hoạt động, ngoài việc phát huy sức mạnh tổng hợp, các cấp chỉ đạo, chỉ huy còn luôn quan tâm kết hợp hình thành nghi binh, nghi trang để đánh lạc hướng, chia xẻ lực lượng địch, tạo nên thế mạnh, bảo đảm gianh thắng lợi. Nhờ khéo léo nghi binh, nghi trang mà có lúc thế ta yếu trở thành mạnh; lực lượng ta ít trở thành nhiều, áp đảo được tinh thần địch, làm cho bọn địch tại chỗ hoang mang dao động, làm cho bọn bên trên bối rối không chống đỡ được. Có lúc khéo léo nghi binh, nghi trang mà lực lượng địch bị căng kéo hoặc bị thu hút vào một hướng, tạo điều kiện cho lực lượng ta thực hiện những trận đánh then chốt trong một chiến dịch, một đợt hoạt động. Có khi ta dùng áp lực của quần chúng kết hợp với nghi binh, nghi trang áp đảo tinh thần địch nên đã gỡ hàng loạt đồn bót, giải phóng xã ấp. Thực tế đó cũng là một nghệ thuật chỉ huy được vận dụng xuyên suốt trong quá trình kháng chiến - nhất là trong các chiến dịch và đã góp phần vào thắng lợi chung.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 04:47:54 pm
IV - NĂM VỮNG VÀ ĐÁNH GIÁ ĐÚNG ĐỊCH TA

Các cấp lãnh đạo và chỉ huy ở Bến Tre đã nhận thức đầy đủ vấn đề then chốt trong chiến tranh là: hiểu địch hiểu ta thì trăm trận trăm thắng. Đây cũng là qui luật trong chỉ đạo chiến tranh.

Muốn đánh giá địch, ta đúng đắn, kinh nghiệm 21 năm chống Mỹ trên chiến trường Bến Tre cho thấy: một mặt phải nắm vững những nhận định cơ bản của Đảng, mặt khác, phải bám sát thực tế ở địa phương, bám sát cơ sở, kịp thời phát hiện và đánh giá đúng mức, thực chất âm mưu, chủ trương, biện pháp cụ thể của địch từng lúc nhằm kịp thời đối phó và chủ động đề ra kế hoạch đánh địch có hiệu quả nhất. Trong việc đánh giá địch ta, điều quan trọng khác là còn phải luôn luôn quán triệt ý định chiến lược của trên, có quan điểm cách mạng và khoa học, có tinh thần dám đánh địch mới phát hiện một cách đầy đủ chỗ yếu của địch, chỗ mạnh của ta; biết hạn chế chỗ mạnh và khoét sâu chỗ yếu của địch làm cho sức mạnh của ta nhân lên gấp bội. Thực tế quá trình kháng chiến vừa qua đã chững minh điều này rất rõ. Trong Đồng khởi năm 1960, Tỉnh ủy đã đánh giá đúng bản chất tình hình địch, ta với những nhận định hết sức sâu sắc: Nhìn bề ngoài thấy địch có vẻ mạnh nhưng đi sâu vào bên trong thì chứa chất đầy mâu thuẫn; càng đi xuống dưới mâu thuẫn đó càng sâu sắc hơn. Nhìn bề ngoài thấy phong trào cách mạng có vẻ yếu, nhưng đi sâu vào bên trong thì nó chưa đựng những tiềm năng to lớn, Từ nhận định đó, Tỉnh ủy Bến Tre đã hạ quyết tâm phát động quần chúng “Đồng khởi” và giành thắng lợi.

Trong chiến tranh, ngay khi quân Mỹ ồ ạt đem lực lượng và phương tiện chiến tranh vào, chúng đã làm thay đổi tương quan lực lượng trên chiến trường. Với quan điểm đánh giá địch đúng đắn, Tỉnh ủy đã phát động toàn Đảng bộ, quân và dân sẵn sàng chống Mỹ và có những phương thức phù hợp cho tất cả các loại lực lượng: nhờ đó phát huy được thế trận chiến tranh nhân dân. Các đơn vị, cơ quan, các lực lượng đã đứng vững trên địa bàn, đánh đúng vào chỗ yếu của từng loại lực lượng địch…

Trong công tác nắm địch, Bến Tre đã dựa vào quần chúng, tổ chức mạng lưới quần chúng nòng cốt ở cơ sở xã ấp - nơi thu thập nhiều nguồn tin nhất. Đồng thời ta còn khai thác triệt để các nguồn tin từ cơ sở binh vận, từ các tổ chức nghiệp vụ thuộc các ngành quân sự, công an và khéo tận dụng các phương tiện kỹ thuật vô tuyến để phát hiện một cách nhanh chóng chính xác những nguồn tin quan trọng cho chỉ đạo chỉ huy xử trí kịp thởi bảo đảm giành thắng lợi trong nhiều tình huống phức tạp.

V - ĐẢNG BỘ VỮNG VÀNG KIÊN CƯỜNG LÃNH ĐẠO
ĐÚNG ĐẮN SÁNG TẠO LÀ NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN
ĐI ĐẾN THẮNG LỢI TRONG CHIẾN TRANH

Dưới ánh sáng đường lối chính trị và đường lối quân sự của Đảng, được sự lãnh đạo và sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục, Các Bộ Tư lệnh Miền, Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, Đảng bộ Bến Tre đã lãnh đạo quân và dân trong tỉnh tổ chức và tiến hành thắng lợi cuộc khởi nghĩa vũ trang từng phần và chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện ở địa phương, hoàn thành nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước trên địa bàn tỉnh.

Thắng lợi đó chứng minh sâu sắc, toàn diện sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ trong suốt 21 năm chống Mỹ cứu nước. Nó khẳng định sự vững mạnh về chính trị của Đảng bộ - trước hết là việc nắm đường lối và kiên quyết chấp hành đường lối của Đảng sát hợp với tình hình cụ thể của địa phương. Đồng thời nó nói lên được tính nhạy bén của cấp lãnh đạo chỉ huy về nắm vững quan điểm bạo lực, qui luật khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân địa phương.

Đạt được thành quả như trên, Đảng bộ Bến Tre đã phải trải qua một quá trình phấn đấu liên tục: vừa lãnh đạo, vừa xây dựng củng cố mình trong thực tế đấu tranh và luôn luôn nắm chắc vũ khí phê bình và tự phê bình, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong bội bộ và không ngừng nâng cao trình độ và hiệu lực lãnh đạo của Đảng.

Đội ngũ cán bộ, đảng viên trong suốt chặng đường chống Mỹ đã chiến đấu anh dũng kiên cường. Bất cứ lúc nào, ở đâu, làm nhiệm vụ gì cán bộ, đảng viên đều bám chắc quần chúng để hiểu địch, hiểu ta tìm tòi sáng tạo cách đánh, sáng chế các loại vũ khí để tiến công diệt địch. Nhiều đồng chí bị tù đày đã chịu đựng mọi cực hình tra tấn dã man của địch, bền bỉ chiến đấu và hy sinh trong các nhà tù, giữ gìn khí tiết cao cả của người Cộng sản, bảo vệ sơ sở, bảo vệ nhân dân.

Trong vô số sự kiện lịch sử gắn liền sự hy sinh của đồng bào, đồng chí, gắn liền với trí tuệ và xương máu của Đảng bộ, quân và dân Bến Tre, những bài học trên đây chưa phải là tất cả kinh nghiệm trên chiến trường, nhiệm vụ còn đặt ra cho chúng ta dày công nghiên cứu và vận dụng nó trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 04:49:02 pm
PHỤ LỤC

THÀNH TÍCH DIỆT SINH LỰC ĐỊCH

Năm
         LOẠI KHỎI VÒNG CHIẾN ĐẤU
        (chết, bị thương, bắt sống, đào rã ngũ)
1960
3.800
1961
5.630
1962
10.021
1963
12.742
1964
13.790
1965
14.283
1966
13.097
1967
13.983
1968
28.562
1969
25.840
1970
21.451
1971
11.067
1972
32.366
1973
14.252
1974
13.561
1975
25.013 (tính đến 1-5-1975)


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 04:49:54 pm
THÀNH TÍCH DIỆT ĐÒN BÓT PHÁ ẤP CHIẾN LƯỢC

Năm
    ĐỒN BÓT BỊ DIỆT
    PHÁ ẤP CHIẾN LƯỢC
    HÀNG VÀ BỨC RÚT
    (Phá hoàn toàn, phá banh, phá lỏng)
1960
100
1961
60
1962
35
100
1963
75
121
1964
101
181
1965
33
108
1966
34
117
1967
60
119
1968
195
102
1969
35
104
1970
15
112
1971
10
115
1972
332
118
1973
65
133
1974
263
105
1975
754
    (Giái phóng hết ấp chiến lược trong toàn tỉnh)


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 04:50:31 pm
THU CHIẾN LỢI PHẨM CỦA ĐỊCH

Năm
 Súng các loại
 Máy thông tin
 Pháo 105mm
 GHI CHÚ
  155mm
1960
1.700
10
1961
358
25
1962
406
38
1963
792
53
1964
967
56
1965
690
26
1966
937
32
1967
869
29
1968
1.481
48
1969
889
26
1970
897
34
1971
480
21
1972
1.806
127
1973
799
37
1974
850
72
1975
Thu toàn bộ
Toàn bộ
28
 (tính đến ngày 1-5-1975)


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 05:04:47 pm
THÀNH TÍCH DIỆT VÀ PHÁ HỦY
PHƯƠNG TIỆN CHIẾN TRANH CỦA ĐỊCH

Năm
 MÁY THÔNG TIN
 PHÁO CÁC LOẠI
 MÁY BAY
TÀU
 XE QUÂN SỰ
 GHI CHÚ
 Phá hủy
 Phá hủy
 Rơi và
 Chìm tại chỗ
 Phá hủy
và hư hại
 và hư hại
 bị thương
 và bị thương
 và hỏng
1960
5
   
1961
9
1962
10
4
10
1963
12
35
6
37
1964
15
64
15
39
1965
12
4
59
31
43
1966
7
22
57
13
59
1967
5
23
73
55
74
1968
13
45
97
126
86
1969
6
36
75
95
57
1970
39
30
45
67
75
1971
32
20
18
49
40
1972
25
23
29
68
104
1973
5
16
23
21
86
1974
10
2
2
8
53
1975
11
5
8
19
 Đến 1-5-1975


Tiêu đề: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Sáu, 2011, 05:07:24 pm
THÀNH TÍCH CỦA QUÂN DÂN BẾN TRE
VỀ GÓP NGƯỜI, GÓP CỦA VỀ TRÊN
(1960-1975)

- 70.000 cán bộ, chiến sĩ và thanh niên xung phong
- 700 triệu đồng
- 160 lượng vàng

SỐ LIỆT SĨ, THƯƠNG BINH…
SAU 21 NĂM CHIẾN TRANH

- Liệt sĩ: 21.171 đồng chí
- Thương binh: 6.520 đồng chí
- Số người bị nhiễm chất độc hóa học: 300.000 người
- Bị bắt, đánh đập, tù đày, tàn phế: 17.000 người

Tổng số người bị thiệt mạng trong chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra: 250.000 người

ĐƠN VỊ ĐƯỢC TUYÊN DƯƠNG ANH HÙNG
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=324&Itemid=47

CÁ NHÂN ĐƯỢC TUYÊN DƯƠNG ANH HÙNG
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=2864&Itemid=175

Danh sách anh hùng lực lượng vũ trang tỉnh Bến Tre in trong sách đã quá cũ. Xin giới thiệu danh sách từ trang web của tỉnh Bến Tre để bố sung đầy đủ hơn.