CHƯƠNG III
NHỮNG NĂM TỚI...
Hiệp định Paris vừa được ký kết, Bắc Việt Nam đã bắt tay ngay vào tổ chức lại xã hội một cách cơ bản. Hơn một lần nữa toàn bộ những biện pháp đề ra đều chứng tỏ các nhà lãnh đạo Việt Nam mong muốn hiệp định Paris được chấp hành một cách nghiêm chỉnh. Mình còn đầy những thương tích chiến tranh trong cuộc đương đầu trực tiếp với cường quốc đầu sỏ đế quốc chủ nghĩa, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tập trung không chậm trễ vào những vấn đề phát triển đất nước. Thế rồi hai năm sau nữa, khi những vết thương còn chưa kín miệng, các nhà lãnh đạo Việt Nam lại tìm thấy ở nhân dân mình quyết tâm và sức mạnh cần thiết để đánh thắng một trận quyết định cuối cùng, làm thất bại mọi toan tính của người Mỹ... Điều đó chỉ có thể làm được là nhờ vào những mối liên hệ mật thiết giữa chế độ và nhân dân, sự đoàn kết của nhân dân xung quanh Đảng, và sự tài tình trong việc chỉ đạo chiến lược của các nhà lãnh đạo Việt Nam, những người đã biết dựa vào sự linh hoạt mềm dẻo của những cơ cấu xã hội để đương đầu với kẻ thù và chuẩn bị cho tương lai. Tương lai ấy, người ta có thể dựa vào những phương hướng lớn của kế hoạch 5 năm 1976-1980, để phác ra những nét chính của nó. Đó là một kế hoạch tất nhiên được xây dựng trên quy mô toàn quốc, nhằm xây dựng một đất nước thống nhất với 320.000 kilômét vuông và thềm lục địa thuộc chủ quyền quốc gia, một đất nước có 45 triệu dân đứng hàng thứ ba trong phe xã hội chủ nghĩa về dân số, trong đó có 21 triệu lao động, tức ngang bằng dân số lao động của nước Pháp.
Kế hoạch này dựa vào một phân tích chủ yếu: mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam trong tổng thể là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tiên tiến với lực lượng sản xuất lạc hậu. Vậy để giải quyết mâu thuẫn này, Việt Nam cần phải huy động và phát triển những khả năng của cách mạng khoa học và kỹ thuật để chuyển từ một nền sản xuất nhỏ phân tán sang một nền sản xuất lớn dựa trên cơ sở phát triển công nghiệp hoá... Đường lối chủ yếu là: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, bằng cách cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp; kết hợp phát triển kinh tế địa phương với kinh tế trung ương; kết hợp kinh tế với quốc phòng...
Thực hiện kế hoạch này, Việt Nam có những thuận lợi lớn: đất nước đã hoà bình, Việt Nam có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa đồng thời có thể hợp tác về khoa học và kỹ thuật với các nước khác trên thế giới. Cuối cùng, tiềm lực của miền Nam sẽ làm thay đổi đáng kể những điều kiện để tích luỹ: tiềm lực ấy sẽ giúp giải quyết một vấn đề lớn là vấn đề tự túc về lương thực và tạo ra một lượng dư thừa để xuất khẩu; tiềm lực ấy cũng sẽ mở rộng thị trường quốc gia và cho phép phân bố những cơ cấu kinh tế một cách hợp lý...
Nhìn vào những mục tiêu mà kế hoạch 5 năm nhằm đạt tới vào năm 1980, người ta cũng thấy rõ nhân dân Việt Nam qua chiến tranh đã phải chịu đựng những khó khăn thiếu thốn như thế nào. Lĩnh vực xã hội đầu tiên mà mục tiêu của kế hoạch đề cập là việc cải thiện đời sống nhân dân về cái ăn, và để làm việc này, người ta đã dự kiến trong vòng hai, ba năm, sẽ bảo đảm cho dân đủ no và bữa ăn có thêm thịt, cá. Rồi đến nhà ở: từ 1976, nhà nước đã tăng đầu tư vào đây 10% so với trước và mục tiêu đề ra vào cuối kế hoạch, nhân dân thành phố sẽ mỗi người có 4 mét vuông nhà ở (hiện nay là 1,2 đến 1,5 mét vuông một đầu người). Về các mặt, sẽ tăng từ 4-5 mét (tiêu chuẩn cán bộ và công nhân viên) trên 7 mét cho mỗi người dân.
Về việc học hành: năm 1976, Việt Nam có 11 triệu học sinh. Nếu kể tất cả số người đi học, trong đó có cả những người học bổ túc, thì cứ ba người dân Việt Nam có một người đi học.
Còn về kinh tế, những mục tiêu đề ra cho nó thể hiện quyết tâm của Việt Nam là tiến nhanh lên thời hiện đại. Mục tiêu đầu tiên là tăng sản lượng gạo để vừa bảo đảm nhu cầu trong nước, vừa bảo đảm có khả năng xuất khẩu. Năm 1980, mục tiêu dự kiến là sẽ đạt được 18 triệu tấn. Về công nghiệp nặng thì sẽ ưu tiên cho sản xuất điện, và ưu tiên này vẫn sẽ được tiếp tục trong kế hoạch 5 năm tiếp theo. Mục tiêu là đến năm 1980, sản lượng điện sẽ tăng gấp đôi so với sản lượng điện của cả nước năm 1975.
Nhà nước cũng sẽ tập trung nỗ lực vào phát triển công nghiệp cơ khí để trang bị cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Hiện nay nông nghiệp mới được 11% cơ khí hoá, cuối kế hoạch 5 năm sẽ tăng lên 30%. Sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa sẽ rất quan trọng. Liên Xô dự kiến sẽ cung cấp cho Việt Nam một nhà máy chế tạo máy kéo có khả năng sản xuất được 20 đến 25.000 máy kéo trong một năm. Việc tìm kiếm dầu mỏ ở vùng biển miền Nam được đề ra trong kế hoạch 5 năm cũng sẽ mở ra cho Việt Nam kỷ nguyên khai thác dầu khí. Nhưng công trình quan trọng nhất là công trình thuỷ điện sông Đà sẽ được xây dựng ở Hoà Bình với sự giúp đỡ của Liên Xô. Ngoài ra Liên Xô sẽ còn giúp xây dựng một khu liên hợp luyện thép mới với năng suất 1,5 triệu tấn thép một năm...
Vậy là chẳng những không bị “quay về thời kỳ đồ đá”, như lời đe doạ của một người nào đó trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo quân sự Mỹ, mà Việt Nam còn đứng vững và giờ đây đang xây dựng tương lai.
Vài tháng sau giải phóng, bà Ngô Bá Thành tiếp tôi ở Sài Gòn. Bà vừa dự hội nghị giữa các đại diện hai miền để quyết định về việc thống nhất đất nước và bà tỏ ra hoàn toàn tán thành các kết luận của hội nghị, đặc biệt là về lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Bà cho biết, đối với riêng bà cũng như đối với phần lớn trí thức miền Nam, sự lựa chọn ấy không hề mang tính chất “tiên nghiệm về mặt học thuyết” mà nó là kết quả của thực tế, căn cứ vào “kinh nghiệm của những sự việc...” Và bà kết luận: “Tất cả mọi người đều có cơ hội ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua tự mình xem xét...”
Hoa Kỳ đã tìm mọi cách để phá hoại Việt Nam, bằng bom đạn cũng như bằng các thủ đoạn đánh vào quyết tâm, ý chí. Họ đã để lại trên đất nước này 25 triệu hố bom. Và chỉ riêng để làm cái mà họ gọi là tác động tâm lý, họ đã quẳng xuống Việt Nam hơn... sáu tỷ hai trăm triệu tờ truyền đơn mà buồn thay cho họ, người Việt Nam chỉ coi nó như những tờ giấy lộn. Chế độ bù nhìn Sài Gòn mà họ muốn dựng lên theo hình ảnh của họ thì nó chỉ càng làm cho hình ảnh ấy thêm đồi bại. Và khi ra khỏi cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Hoa Kỳ hiện lên như một người ốm yếu...
Về phía mình, Bắc Việt Nam đã phải ba lần xây dựng lại đất nước: 1954, 1969 và 1972... để rồi lại phải nhìn thấy biết bao công sức trong mười năm của họ đã bị phá huỷ trong tám năm chiến tranh. Thế nhưng qua lửa đạn của những trận ném bom, miền Bắc đầy sức sống vẫn hiên ngang đứng vững...