Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 13 Tháng Năm, 2024, 04:26:48 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những gì tôi thấy ở Việt Nam  (Đọc 39463 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #50 vào lúc: 10 Tháng Sáu, 2009, 09:54:45 pm »


Vậy là có cả một kế hoạch được giới tư sản mại bản xếp đặt khéo léo để chống lại chính quyền mới. Một số biện pháp được thực hiện đã nhanh chóng làm ổn định việc cung cấp cho dân chúng và rất được lòng dân, kể cả người Hoa bởi họ cũng đa số là những người lao động. Tuy nhiên trong việc đổi tiền thì sự thể lại không hoàn toàn như thế.

Trước đây, do những mất cân bằng của họ từ 1972 chế độ ngụy Sài Gòn chỉ có hai cách để đương đầu với suy thoái kinh tế: đó là tăng thuế và lạm phát... Tỷ lệ lạm phát là từ 50 đến 60% năm 1974, và nếu không có Mỹ viện trợ, thì nó có thể lên tới từ 100 đến 200%.

Cuối năm 1974, các chuyên gia Mỹ ước tính tổng số tiền ở miền Nam đã lên tới 485 tỷ đồng, 377 tỷ đang lưu hành hoặc cất giữ; thế mà vào những ngày cuối của chế độ ngụy nhiều khoản tiền lớn đã được rút khỏi các ngân hàng. Vậy là khối lượng tiền khổng lồ mà giới tư sản mại bản kiểm soát đã trở thành một trở ngại lớn, thậm chí nguy hiểm cho chính sách kinh tế mới mà những người cách mạng có ý định thực thi. Họ cần phải làm dịu sự lạm phát ấy bằng phát hành tiền giấy và tước khỏi tay bọn mại bản cái công việc gây sức ép về kinh tế của chúng. Đó là một việc làm hết sức cần thiết để làm trong sạch những cơ sở của một sự phát triển kinh tế căn bản mới. Nhưng làm việc này, những người cách mạng đã đụng chạm đến cái mà cho đến giờ nó vẫn là “chất xi măng” của xã hội ấy: đó là tiền.

Ngày 21 tháng Chín 1975, Chính phủ cách mạng lâm thời đã ban hành một sắc lệnh: đưa ra lưu hành một đồng tiền mới ở Nam Việt Nam; đồng tiền này có mệnh giá khác với đồng tiền miền Bắc vì có tính đến những khác biệt giữa thị trường hai miền. Đồng tiền cũ Sài Gòn bắt buộc phải đổi.

Tỷ lệ đổi là 1 đơn vị tiền mới ăn 500 đơn vị tiền cũ. Trong thời gian đầu, mỗi hộ gia đình có thể đổi đến số tiền 100.000 đồng tiền cũ, tức tương đương với một món tiền tính theo nguyên tắc là đủ cho nhu cầu trong một tháng rưỡi, các cơ sở kinh doanh thì có thể đổi tới 500.000 đồng. Số dư được đưa vào vốn tiết kiệm và chuyển đổi cùng với số lãi sang tiền mới và tùy theo nhu cầu được rút ra sử dụng dần dần. “Chiến dịch” đổi tiền này phải được tiến hành nhanh chóng trong mười hai giờ.

Cùng với việc này, giá cả của một số mặt hàng thiết yếu cũng được hạn định để tránh mọi đầu cơ và nhằm ổn định thị trường. Để thành công mỹ mãn, chiến dịch chẳng những đòi hỏi phải nhanh chóng mà còn đặc biệt phải tuyệt đối giữ bí mật trong khâu chuẩn bị. Thế nhưng yêu cầu này lại có khó khăn đối với tình hình lúc bấy giờ: ngay một lúc phải có hàng vạn cán bộ để đổi tiền trên toàn miền, bởi các bàn đổi tiền phải triển khai trên rất nhiều nơi, đến tận các phường các xã. Cán bộ lại chưa có kinh nghiệm. Trong số những cán bộ mới - những cán bộ của “sư đoàn 304”, tên mà dân Sài Gòn đặt cho những người tham gia cách mạng trong dịp 30 tháng Tư, cũng có những người có quan hệ với giới làm áp phe cũ. Được kịp thời báo trước bọn này đã tìm cách đối phó và do đó, 10 đến 15% số tiền đổi đã vuột khỏi sự kiểm soát của chính quyền cách mạng. Nhưng thắng lợi vẫn là chủ yếu: quyền lực kinh tế của giới mại bản miền Nam đã bị giáng một đòn nặng.

Tuy nhiên, một loạt nhưng sai lầm phạm phải cũng gây nên một sự bất bình nào đó trong dân chúng: giá cả quy định không phù hợp với giá trị thực của hàng đã làm cho thị trường mất cân bằng; mức trần của số tiền được đổi còn quá thấp và gây khó khăn cho dân chúng, nhất là những bà con chỉ có ít tiền. Ngân hàng lại đóng cửa khiến không một hoạt động tài chính nào được thực hiện... Một sự bất ổn nào đó đã xuất hiện, mở rộng và làm lây lan ở Sài Gòn những tiếng “xì xầm” về những trại cải tạo, số phận của những sĩ quan ngụy cũ và tính hiệu lực của đồng tiền mới...

Càng hơn thế nữa, việc nhà nước nắm giữ độc quyền mua bán gạo cùng với giá cả không phù hợp, trong thời gian đầu đã làm rối loạn sự phân phối: một phóng viên báo Sài Gòn giải phóng đã báo hiệu rằng trong tháng Mười, tình trạng đầu cơ gạo vẫn tiếp tục ở vùng đồng bằng Cửu Long mà nguyên nhân chính là do trình độ còn quá yếu của những cán bộ phụ trách việc mua bán.

“Cán bộ của chúng ta phụ trách việc mua gạo (của nông dân) lại không có chuyên môn, họ còn chưa biết phân biệt từng loại gạo”, người phóng viên viết – “nhiều cán bộ đã bị người bán đánh lừa. Bọn đầu cơ đã bán cho họ cả thóc lép, thóc ướt trộn lẫn với thóc tốt, hoặc làm ẩm bao bì để được tăng cân.” Sự thiếu khả năng ấy đôi khi còn kéo theo cả thái độ hẹp hòi, hống hách của một số cán bộ:

“Tôi đã được chứng kiến một phụ nữ - phóng viên kể tiếp - từ một cửa hàng mua bán (của Nhà nước) vừa bước ra vừa khóc. Tôi hỏi chị, chị đáp: “Con tôi ốm, tôi mang bán hai thùng thóc, và tôi đã phải đợi hai ngày mới bán được. Giờ tôi không biết con tôi đang ra sao”. “Giá biết thế này, chị nói tiếp, thì tôi đã bán quách cho bọn đầu cơ với bất kỳ giá nào cho xong.”

Phóng viên đưa tiếp một ví dụ khác: “Bà Tâm ở chợ Bùng, Tân Hiệp, mang đi bán 30 thùng thóc cho trạm hàng nhà nước. Sau khi bà đã phải đợi hai ngày thì đến lúc ấy, anh cán bộ mới trả lời bà là trạm đã hết tiền để mua thóc. Bà đề nghị cho bà bán chịu vậy, nhưng anh cán bộ nhất định không nghe. Thế là bà đành phải mang về, mà thóc tất cả đã bị mọc mầm. Đó còn chưa kể bà lại phải mất thêm 8 đồng nữa để chuyên chở.”
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 10 Tháng Sáu, 2009, 09:56:07 pm »


Nhưng trong thời gian ấy, mặc dù trình độ có sự bất cập, các ủy ban cách mạng cũng đã hoàn thành được một khối lượng lớn công việc có lợi cho nhân dân, đặc biệt trong những công việc có nhiều khó khăn nhất. Sẽ rất thú vị khi xem xét những kết quả đạt được ở quận 6, một quận nằm ở tây Nam Sài Gòn, quận này tựa như một cây cầu nhỏ đi ra những vùng quê lân cận, bắc ngang qua hai con sông, Rạch Bình Tiên và VanCo (LiOm) nơi mà ở đấy mọc lúp xúp sát mặt nước những căn nhà tồi tàn của những người dân đi lánh nạn từ những vùng được “bắn thả cửa” (free fire Zones) ở liền ngay sát đấy. Đó là một trong những quận đông dân nhất với 225.000 dân; năm 1973, nó chỉ mới có 187.000 dân. Trước giải phóng, người ta thống kê được ở đây 23.000 người bị thất nghiệp, và thêm vào con số này là 25.000 binh sĩ và nhân viên ngụy quyền cũ đến trú ngụ.

Trong sáu tháng, chính quyền mới của quận đã phát không gần 1000 tấn gạo cho 129.000 gia đình; điều đó báo hiệu cho biết tình trạng nghèo khó đã tăng lên ở đây, bởi chính quyền chỉ phát gạo cứu tế cho những gia đình thật túng thiếu.

Cũng trong thời kỳ này, khoảng bốn chục cửa hàng bán một số mặt hàng như gạo, xăng dầu, xi măng, than củi... đã được mở. Tình đoàn kết tương trợ phát triển như ủy ban cách mạng đã thống kê được gần 70.000 người tham gia không lương vào các công tác vệ sinh công cộng. Năm mươi kilômét đường sá và tám kilômét cống rãnh được sửa chữa và nạo vét.

Các cơ sở y tế đã tiêm chủng cho 400.000 người, và đặc biệt, nhiều trường hợp đã nhanh chóng được mở để giải quyết việc học hành cho các cháu: 38 trường tư được quốc hữu hóa cùng với 8 trường công vẫn có.

Nếu việc gia nhập vào những hội quần chúng được khuyến khích chứ không bắt buộc, thì việc gia nhập những tổ chức cách mạng vẫn đòi hỏi phải qua tuyển chọn: như “hội Thanh niên” có 50.542 hội viên, thì hội “Thanh niên cách mạng”, phải qua một thời gian thử thách, mới chỉ có 169 hội viên và 7.809 đang được thử thách. Tổ chức phụ nữ cũng vậy, hội “Phụ nữ yêu nước” có 31.659 hội viên, nhưng trong đó duy nhất mới có 5.151 hội viên chính thức. Những hội nói trên được giao nhiệm vụ về giữ gìn trật tự, vệ sinh phòng bệnh quần chúng, vận động xây dựng những cơ cấu sản xuất mới; ngoài ra hội cũng còn được giao nhiệm vụ tham gia vào việc tuyên truyền giáo dục chính trị, xóa nạn mù chữ: 20.000 người thoát nạn mù chữ đã được thống kê tại quận 6, nhiều lớp học buổi tối được mở cho những người chưa biết chữ, có sự tham gia của những người dạy không lương, trong khi nhiều những buổi học khác cũng được tổ chúc ở các tổ dân phố - đơn vị hành chính cơ sở gồm khoảng hai chục hộ dân: đề tài đưa ra học là những vấn đề liên quan đến thống nhất nước nhà, những vùng kinh tế mới, chính sách kinh tế cách mạng, đấu tranh chống bọn mại bản gian thương... Trong những buổi học ấy, mọi người được làm rõ về nguồn gốc cuộc chiến tranh ở Việt Nam, những truyền thống đấu tranh anh hùng của dân tộc được khơi gợi lại và cũng có lúc người ta đưa ra thảo luận cả những vấn đề thường ngày của cuộc sống cũng như nhưng biện pháp để giải quyết nó. Cán bộ, chiến sĩ trong và ngoài quân đội cũng bắt buộc phải tham dự các buổi học tối đó.

Cũng như ở tất cả các nơi khác vấn đề nổi cộm của quận 6 là nạn thất nghiệp: trong 607 cơ sở sản xuất các loại thống kê được ở quận, kể cả thủ công, thì đã có 92 cơ sở phải nghỉ việc, làm 2869 công nhân và nhân viên không có việc làm; 515 cơ sở đã hoạt động trở lại, sử dụng 7694 lao động, trong đó có gần 3.000 người gia nhập công đoàn mặc dù việc đó không bắt buộc.

Để giải tỏa thành phố đồng thời cũng để lập lại sự cân bằng kinh tế chính quyền cách mạng khuyến khích người dân “quay trở về với ruộng đất”. Trong sáu tháng, ở quận 6, 2672 gia đình (khoảng 12.000 người) đã đi các “vùng kinh tế mới”. Trong đó có 1.505 gia đình binh sĩ ngụy cũ, 4500 người mà phần lớn đối với họ thì không phải là một sự trở về mà đúng hơn là một sự “chuyển đổi” trong cách sinh sống làm ăn.

Để tạo thuận lợi cho phong trào “đi kinh tế mới”, chính quyền và các đoàn thể trong quận đã giúp cho 380 gia đình một số tiền quyên góp được là 5.300.000 đồng (tiền cũ); món tiền quyên góp này cũng nói lên sự phát triển của tinh thần đoàn kết tương trợ của bà con dân phố đồng thời cũng biểu thị sự hưởng ứng của họ đối với những chủ trương chính sách của chính quyền cách mạng.

Sài Gòn, với 11 quận, trải rộng trên một diện tích 69 kilômét vuông. Giống như một khối u, nó phát triển quá nhanh. Nhìn từ trên tầng cao của khách sạn Caravelle, một trong những khách sạn lớn nhất thành phố. Sài Gòn vẫn có một cái gì đó quyến rũ con mắt người ta: từ đây người ta có thể bao quát được cả một doi đất cao nằm trên một khuỷu sông Sài Gòn, ở đó mọc lên thành phố cũ xây từ thời Pháp thoáng đãng, trật tự, sạch sẽ. Nhưng trên đường phố, người ta đã nhanh chóng nhận ra những “tế bào lành” đã bị những “tế bào độc” lấn át. Bên ngoài những “khu phố Tây” được xây dựng một cách có tổ chức xung quanh Nhà thờ lớn, Sài Gòn đã bung ra với một quy hoạch đô thị hỗn loạn, bừa bãi, chẳng có một kiểu cách gì cả và thiếu hẳn vẻ duyên dáng, in đậm dấu ấn của những ngôi nhà cho thuê mà nổi bật ở đấy là những tòa nhà của các ngân hàng của hãng dầu Shell - nay là trụ sở của Tổng công ty xăng dầu nhà nước - trông thù lù như những cái két sắt.

Đi theo những đại lộ, như Trần Hưng Đạo chẳng hạn, luồn lách trong những dòng xe mà Honda nhiều hơn xe đạp, người ta bỗng rơi vào Chợ Lớn... Cả một thế giới khác. Chợ Lớn sống về đêm, chật ních những người, ăn chơi, nhậu nhẹt một cách say sưa cuồng nhiệt. Rồi ban ngày, no nê, đôi mắt khép hờ, nó chìm vào một giấc ngủ, nửa tỉnh, nửa thức...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 10 Tháng Sáu, 2009, 09:58:06 pm »


Kể cả trong ngoài thành phố, Sài Gòn chiếm một tổng diện tích 830 km2. Bên ngoài thành phố chính là các huyện Thủ Đức, Gò Vấp, Hóc Môn, Tân Bình, Bình Chánh, Nhà Bè.

Do vai trò thủ đô của mình, Sài Gòn luôn luôn có một sức hấp dẫn hàng đầu. Năm 1960, Sài Gòn chiếm 66,7% dân số thành thị miền Nam, nhưng chính là do chiến tranh mà dân số của nó tăng lên một cách ghê gớm. Một mặt, sự có mặt của đạo quân viễn chinh Mỹ đã tạo cho Sài Gòn một bộ mặt giống như một tủ kính của sự xa hoa và đồng thời dâm ô đồi trụy, náu mình trong một sự yên bình tương đối; nhưng mặt khác cũng do chiến tranh và công cuộc bình định đã làm trống vắng và xua đuổi đi khỏi những vùng quê quanh Sài Gòn, những dòng người lánh nạn chạy về thành phố. Từ 1960 đến 1970, dân số Sài Gòn đã tăng lên 68%: dân số của nó ước tính khoảng 3.300.000 người, trong đó chỉ có một phần ba sống ở ngoại thành. Từ 1972, nhịp độ tăng của thành phố lại mạnh lên và đến khi giải phóng, Sài Gòn đã có tới 4,5 triệu dân.

Mặc dù đóng vai trò trung tâm chính trị và quân sự, Sài Gòn vẫn in dấu một sự nổi trội của tính chất nông thôn miền Nam: khu vực đô thị hóa mới chỉ chiếm 26% tổng diện tích của nó; và ngay cả trong phạm vi thành phố chính, tỷ lệ đó mới chỉ lên tới 70,5%.1. Từ 1970, dân càng đổ dồn vào nội thành: trong khi ở các quận ven đô, mật độ dân là khoảng 3 người một hecta, thì ở trong nội thành, mật độ của nó là 658 người một hécta. Những nơi đông dân nhất lại là những khu “xóm liều”, nằm ở trung tâm thành phố, ven theo các con rạch. Một phóng viên báo Tia sáng đã mô tả một khu “xóm liều” như sau:

“Không thể gọi đó là một ngôi nhà được, mà đúng hơn đó là một chiếc hộp rách nát, vá víu chằng chịt bằng những mảnh tôn gỉ, những thanh gỗ mục, những vỏ bao xi măng. Chiếc hộp ấy chứa cả một gia đình: một bà mẹ già, hai người lớn và sáu đứa trẻ con. (...) Xung quanh đó, tất cả vẫn là cảnh nghèo túng ấy. Những nhà “giàu” nhất thì họ có thêm một vài tấm ván để lát sàn và trên vách treo mấy tắm ảnh cắt từ họa báo. Người ta không thể phân biệt được đâu là bếp, là buồng ăn, buồng tắm... Tất cả chỗ ăn uống, giặt giũ, tắm rửa, nghỉ ngơi đều vẻn vẹn có chục thước vuông ấy. Để nấu nướng, người ta kéo ra chiếc lò đất sét, nhóm vào lò vài que củi rồi bắc nồi lên. Rồi ăn uống cũng dọn ra cạnh đấy, bát đũa khi rửa thì bỏ tùm lum vào cùng một xô nước, đến khi đi ngủ thì dẹp tất cả vào một góc để lấy chỗ nằm. Còn muốn tắm rửa hay tiểu tiện, người ta cũng chẳng còn một chỗ nào khác. Do điều kiện sinh sống ấy, tất cả bọn trẻ đều gầy gò, ghẻ lở, ốm yếu: đứa lớn nhất bảy tuổi nhưng nom cháu, người ta có thể ngỡ khéo nó mới chỉ lên bốn”. Người phóng viên cho biết tiếp “khu nhà ổ chuột này đã tồn tại từ 30 năm nay...”. Việc “đô thị hóa” của miền Nam đã không còn biết đến giới hạn nào nữa.

Cùng với quá trình của cuộc chiến, một xã hội thành thị ăn bám đã thế chân cho một xã hội kinh tế nông nghiệp như vậy đất. Trong thời kỳ quân Mỹ còn đông, Sài Gòn có thể gây cho người ta ảo tưởng: những cơn mưa đôla của chiến tranh xâm lược đổ vào đã che đậy những vết thương do nó gây ra: lấy ví dụ chỉ riêng cho việc giặt ủi quần áo của đạo quân viễn chinh Mỹ, Hoa Kỳ đã phải chi ra 120 triệu đôla, tức ngang với tổng thu về xuất khẩu của Việt Nam dân chủ cộng hòa trong một năm. Nhưng từ 1972, những “vết thương” ấy há miệng và Sài Gòn rơi vào suy thoái một cách vô phương cứu chữa.

Như vậy là với những người cách mạng, nhiệm vụ của họ là phải chữa lành vết thương và dựng xã hội ấy đứng lên. Trước hết là giúp nó khôi phục lại khả năng nông nghiệp: trong chiến tranh, 600.000 héc ta đất canh tác đã bị bỏ hoang; bây giờ phải khôi phục nó lại, đặc biệt là bằng khai hoang ở đồng bằng và cao nguyên, phải đưa số đất canh tác hiện có là 3.100.000 hecta lên thêm từ 3 đến 5 triệu hécta nữa. Nhằm mục tiêu ấy việc đầu tiên là phải phân phối lại lao động. Làm như thế, người ta đồng thời giải quyết được vấn đề thất nghiệp ở các thành phố. Bằng khai hoang, phục hóa, người ta chẳng những giải quyết được vấn đề lương thực cho cả nước, mà còn bảo đảm cho rất nhiều người có công ăn việc làm, nhất là trong cùng một lúc, nhà nước đang có chủ trương giãn bớt dân ở thành phố. Bởi ở các thành phố lúc này, nhất là ở Sài Gòn, rất đông người đang ở tình trạng dư thừa: những người buôn bán nhỏ, những người làm công, những nhân viên của một số dịch vụ nay không cần thiết nữa. Đó là mục đích của kế hoạch “những vùng kinh tế mới”…

Mục tiêu của kế hoạch là cho đến hết năm 1976, 1.500.000 người sẽ rời Sài Gòn, tức 100.000 một tháng. Làm thế nào để đưa được dân đi làm kinh tế mới? Không hề dùng cưỡng bức, chính quyền cách mạng đã vận động họ trên cơ sở nêu rõ mục đích ý nghĩa của việc làm, khơi gợi sự gắn bó của họ đối với đất đai và đồng thời có những biện pháp vật chất để bảo đảm và khuyến khích việc đi của họ. Ở vành đai Sài Gòn, mỗi gia đình được cấp 500 mét vuông đất để làm nhà, làm vườn và 1500 mét vuông nữa để khai phá, canh tác. Đất, theo nguyên tắc, vẫn thuộc về sở hữu của nhà nước nhưng người dân được hưởng hoa lợi. Nguyên tắc này cũng được áp dụng ở những vùng kinh tế mới, nhưng ở đấy, người dân được chia nhiều hơn: 1000 mét vuông để làm nhà làm vườn và 5000 mét vuông để khai phá, canh tác.

Khi đi họ được nhà nước giúp: tiền thì 60 đến 80 đồng (tức 30 đến 40.000 đồng tiền cũ), còn vật chất thì xe để chuyên chở, một số xẻng, cuốc, rìu, cưa, hái cho mỗi gia đình, 13 kilô gạo, 500 gam muối và một số thuốc men cho mỗi đầu người trong một tháng... Tóm lại là một số vật chất cần thiết trước mắt và phù hợp với những khả năng cung cấp còn rất hạn chế của nhà nước lúc bấy giờ.

Ở vùng kinh tế mới, 5.000 dân lập thành một đơn vị hành chính. Ở mỗi đơn vị hành chính, người ta xây dựng một trường học, một trạm xá, một nhà hộ sinh, cơ quan hành chính, một cái chợ, một cửa hàng quốc doanh. Cuối cùng, ở tương dương cấp tỉnh, nhà nước cho mở một chi nhánh ngân hàng tín dụng.

Từ lúc bắt đầu rời khỏi Sài Gòn, người ta lại thấy lại nước Việt Nam, một đất nước trước hết và cơ bản là nông nghiệp. Quốc lộ 13 đi về hướng tây bắc, leo lên trung nguyên dần từng chặng, để lộ ra một quang cảnh vắng vẻ, đất đai còn rất sẵn để sử dụng. Ở đây, ruộng lúa nước nhường chỗ cho việc canh tác trên cạn, những vườn hồng cây ăn trái, rồi những đồn điền cao su bạt ngàn của vùng “đất đỏ”, những trái ngược với đồng bằng Cửu Long, quang cảnh của nó còn đầy rẫy những vết sẹo của chiến tranh.

Qua vành đai bên ngoài Sài Gòn, nơi cung cấp cái ăn cho thành phố, trải rộng ra đường chạy lên An Lộc, Lộc Ninh và biên giới Campuchia là những cùng đất cây cối bị rụng lá mà người ta thấy rất rõ nét nổi bật của nó là những đám lau cỏ khô, và những thân cây bị bạc phếch bởi các chất độc hóa học. Khu vục bị trụi lá này rộng tới hàng trăm kilômét và kéo dài tới tận biên giới Campuchia. Ngay những đồn điền lớn trồng cao su cũng không được miễn trừ để tránh khỏi số phận ấy. Những trận ném bom của không quân Mỹ và của quân đội Sài Gòn đã tàn phá nặng nề các đồn điền cao su xưa từng là niềm kiêu hãnh của hãng Michaelin. Bây giờ nó đã được quốc hữu hóa, nhưng nhà nước mới chỉ quốc hữu hóa những hécta nào bị tàn phá. Ở khu nhà quản trị cũ của hãng ở Quản Lợi, xưởng sơ chế nhựa cao su nay chỉ còn lại một đống đổ nát sắt thép han gỉ bị cỏ cây lấn dần lấn mòn.

Một số tộc người miền núi, Sơ-triêng hay Châu Ro, nay trở về dần dần nơi đất cũ để làm ăn sinh sống. Chính quyền tỉnh ước tính trong 10.000 kilômét vuông ở đây thì có gần 40% bị bom đạn và chất độc hóa học Mỹ tàn phá, khoảng 20.000 hecta cao su bị huỷ hoại.

Đường số 13 đổ vào chiến trường xưa An Lộc, kéo dài trên vài chục kilômét, nơi mà năm 1972 dưới bom đạn ác liệt của Mỹ, đã diễn ra trong ba tháng những trận giao tranh đẫm máu giữa quân giải phóng và quân ngụy Sài Gòn. Đây là một trong những cuộc chiến gay go ác liệt nhất trong chiến tranh giải phóng. Cả hai bên đều bị tổn thất nặng nề. Chiến trường có người gọi là “cối xay thịt” này giờ hãy còn mang dấu tích cũ của nó: những con đường, những gò đất bị bom và đạn pháo chém ngang chém dọc, những xác xe bọc thép, những mảng dây thép gai nằm phơi mình trong nắng gió, tất cả những cái ấy đã tạo nên một cảnh hoang vắng trên hàng chục kilômét. Thị trấn An Lộc chỉ còn lại một ngôi nhà đứng vững còn tất cả đã gần như biến mất, bị nuốt chửng bởi cỏ cây chen lấn.

Tuy nhiên, dân đã lần hồi quay trở lại, sống trong những túp nhà tạm bợ; người đã đông hơn năm 1972, do hàng nghìn người từ Campuchia lánh nạn chạy về. Chính quyền đã cố gắng lập một số cơ sở buôn bán và phục vụ xã hội để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu trước mặt. Nhưng còn những đồn điền hay đất đai bị tàn phá thì tất cả đều phải khôi phục lại. Trong bốn tháng 30.000 dân từ vùng Sài Gòn lên đã lần đầu tiên đến ở vùng đất còn lạ nước lạ cái đối với họ này.

Ví dụ như gia đình Vong Hồng Kỳ, tất cả chín người, hai vợ chồng và bảy đứa con, lớn bé từ mười sáu đến mười hai tuổi: “Sống ở Sài Gòn rất khó khăn, ông ta nói, gia đình tôi không có việc gì làm. Nghe lời khuyên của các anh cán bộ tôi nghĩ rằng sống ở đây sẵn đất thế này, gia đình tôi có thể dễ dàng hơn để làm ăn sinh sống”. Tất cả của cải ông ta mang theo chỉ chứa đầy một chiếc rương và hai bao tải lớn. “Có gì ở Sài Gòn tôi đều bán tất tật và tôi chẳng tiếc gì hết. Bây giờ vì bọn trẻ, tôi có thể hy vọng hơn. Còn trước kia, tôi chẳng biết lấy gì để mà hy vọng”

Gia đình ông lên đến nơi thì đất đai đã có bộ đội dọn mìn và nhà cửa thì các anh ấy đã làm cho sẵn. “Nếu tôi lên nhanh hơn nữa thì có phải tôi đã chọn được một căn nhà tốt hơn không?” Ông ta cứ tiếc rẻ mãi. Xung quanh ông, dân đến ở cũng không phải là những người xa lạ. Giống như ông, họ đều từ huyện Gò Vấp lên, cả anh trưởng xóm cũng thế. Hồng Kỳ ngạc nhiên khi không thấy ở đây có công an. “Có lẽ họ ở đâu cả trên huyện?”, ông ta nghĩ. Như tất cả mọi người, ông ta cũng được nhà nước trợ cấp: “Ai làm được bao nhiêu đất, Nhà nước đều cấp cho hết, không hạn chế. Đất ở đây mới đầu lổn nhổn những mảnh đạn pháo, nhưng bây giờ thì đỡ nhiều rồi. Tôi đã gieo thử vài miếng, nếu tốt, tôi sẽ làm nhiều hơn.”

Hồng Kỳ là một viên cai cũ trong quân đội Pháp. “Chả có ai nhắc với tôi bất cứ điều gì về chuyện ấy hết”, ông nói.
____________________________________
1. Tất cả những số liệu này đều lấy từ một bản nghiên cứu của chuyên gia Mỹ James E.Beyle, làm tháng 1-1972 theo yêu cầu của Bộ công chính ngụy quyền Sài Gòn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2009, 05:06:10 pm »


CHƯƠNG V
TỪ CHIẾN ĐẤU Ở BƯNG BIỀN SANG QUẢN LÝ XÃ HỘI


Ngày 4 tháng Mười, ban quân quản thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra công khai lời tự phê bình về những sai lầm mà ban đã phạm phải trong áp dụng chính sách giá cả:

“Trong thành phố, việc quy định những giá chuẩn để hướng dẫn việc buôn bán đã không chính xác và chưa căn cứ vào thực tế cụ thể, cho nên nó đã gây ra một số khó khăn và thiệt hại cho nhân dân. Uỷ ban quân quản thành phố xin nhận trách nhiệm trước chính phủ và nhân dân về những khuyết điểm của việc làm này”.

Và ban đã quyết định đưa giá cả một số mặt hàng, như gạo, xăng, phân bón, bột ngọt, nước mắm... trở về với giá vẫn lưu hành trước thời gian phong tỏa giá. Quyết định này là khởi điểm cho một chiến dịch mạnh mẽ chống lại những bất cập của một số cán bộ, và thậm chí như một trí thức tiến bộ đã gọi, là chống lại một thứ “mặc cảm chiến thắng” nào đấy.

“Chúng ta làm việc cho ai và chịu trách nhiệm với ai?”, báo Đảng của thành phố, tờ Sài Gòn giải phóng số ra ngày 10 tháng Mười nêu lên câu hỏi và báo Đảng đã phê phán những cán bộ, số người đã tách “Đảng và nhà nước một bên, nhân dân một bên” và họ đã có thái độ độc đoán trong thi hành chính sách của nhà nước: “Ngay cả bánh ngon, những nếu ta cứ nhét vào miệng người ta bắt phải ăn thì người ta cũng chẳng thấy ngon”, tờ báo đó viết và nhấn mạnh rằng điều chủ yếu là phải biết giải thích và tạo được niềm tin trong quần chúng...

Trong bài xã luận số báo cùng ngày, dưới tiêu đề “Đầy tớ của dân chứ không phải kẻ áp bức dân”, tờ báo cực lực tố cáo “một số ít cán bộ” tuy hàng ngày tiếp xúc với dân, nhưng họ lại “tự tách mình khỏi dân, đứng ở trên dân, coi thường và không biết đến lợi ích của dân”. Tờ báo tiếp tục phê phán những hiện tượng “quan liêu giấy tờ, những sự chậm trễ, thái độ cửa quyền, thói vô trách nhiệm và bất chấp luật lệ” đang hoành hành ở một số nơi, trong đó có cả một số trường hợp “tham nhũng, mưu lợi cá nhân”, “lợi dụng chức quyền” của một số cán bộ. Trong trường hợp ấy “nếu cần thiết thì phải kiên quyết loại bỏ” những phần tử xấu. “Tất cả mọi ý muốn và thái độ ép buộc, cưỡng bức dân đều cần phải được phán xử một cách nghiêm khắc và loại trừ khỏi bộ máy chính quyền”, tờ báo kết luận và đề nghị, khuyến khích nhân dân “hãy phê bình và giáo dục cán bộ của chúng ta”.

Ngày 11, báo Đảng lại trở về vấn đề trên. Báo hoan nghênh nỗ lực của chung các cán bộ từ trước đến giờ mà trong đó “đại đa số là tốt”, nhưng báo tiếp tục phê phán “một số ít” cán bộ, khi “nắm chính quyền trong tay, họ đã xa rời quần chúng. Khi cuộc sống bưng biền kết thúc, họ đã mất dần đi sự thông cảm với những khó khăn của nhân dân vẫn đang hàng ngày vật lộn với cuộc sống để có miếng cơm manh áo. Họ dùng những bức tường của bàn giấy để tự mình ngăn cách với nhân dân và từ đó thói vô trách nhiệm và tệ quan liêu độc đoán dần dần sinh sôi, nảy nở”. “Đảng dạy họ phải phục vụ nhân dân, nhưng họ lại muốn nhân dân phải phục vụ họ, chờ đợi họ và nịnh nọt mỗi khi dân có việc gì phải tiếp xúc với cơ quan nhà nước. Để có được một giấy thông hành, người dân đã phải chạy đi chạy lại suốt cả một tuần; để lĩnh được một món tiền, người dân đã phải chờ đợi cả ngày cả buổi gõ hết cửa này đến cửa khác, bị đe dọa bởi đủ thứ nguyên tắc, trói buộc bởi đủ thứ giấy tờ (…). Để được gặp một vị chủ tịch hoặc một ông trưởng phòng nào đó người dân đã phải chầu chực hàng giờ thậm chí hàng buổi. Cho phép một người bệnh vào nằm bệnh viện, “ông quan” trực phòng ngoài gây cho anh không ít khó khăn và đến khi anh được vào khám thì “quan” bác sỹ lại chỉ khám cho anh một cách qua loa đại khái. Để mua vài lít xăng, vài mét vải ư? Thì anh cứ việc chạy đủ hàng chục các thứ phòng ban, một ngày, vài ngày, và đôi khi chẳng được kết quả gì hết.” Trước tình hình đó, nếu nhân dân có sự bất bình, thì đó là một “sự bất bình chính đáng”, bài báo nhận xét.

Và bài xã luận viết tiếp: “Đạo đức cách mạng không chỉ đòi hỏi cán bộ không được quan liêu, độc đoán đối với nhân dân, mà còn đòi hỏi họ phải thấu hiểu hơn nữa những vui, buồn của dân, quan tâm hơn nữa đến hạnh phúc và những nỗi khổ của dân để từ đó tìm ra biện pháp giải quyết. Nếu trông thấy có những đồng bào của mình còn phải ngủ ở vỉa hè, những trẻ em phải bới rác, mà người cán bộ nào không thấy đau đớn suy nghĩ, nếu được chứng kiến những dòng người phải xếp hàng dài trước những cửa hàng mua bán, hay những đám người phải chầu chực trước các công sở để xin một tờ giấy mà người cán bộ nào không thấy băn khoăn phiền muộn, thì điều đó có nghĩa là ở người cán bộ đó, mọi tình cảm cách mạng đã bị tê liệt, và anh ta bắt đầu suy thoái về tư cách cách mạng”.

Rõ ràng sự thẳng thắn và những lời phê bình ấy đã không hợp với “khẩu vị” của một số cán bộ. Một số người đã trách là bài báo nói “quá nặng lời” và “làm mất mặt” cán bộ. “Chúng tôi chia sẻ sự lo lắng ấy, báo Sài Gòn giải phóng ra ngày 12 tháng Mười liền đáp, nhưng có cần phải xem báo đâu thì nhân dân mới biết cán bộ có khuyết điểm (...) Cán bộ và đảng viên đều là những con người, với những ưu điểm và khuyết điểm của nó”. Song khác với những người bình thường khác, họ là những con người “thừa nhận và sửa chữa sai lầm.” “Đặc biệt lúc này, khi Đảng ta cầm quyền, thì chúng ta càng cần phải ý thức rõ về những nguy hiểm có thể đe dọa Đảng ta; nguy hiểm ở đây không phải là hàng triệu quân thù, cũng không phải là bom nguyên tử, mà nó là cái còn nghìn lần nguy hiểm hơn: đó là tệ quan liêu”.

Không nên ngại quần chúng phê bình. Những phê bình ấy là bổ ích, bài báo khẳng định và cho rằng nhiệm vụ của báo là phải “công khai phê bình những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên một cách mạnh mẽ hơn nữa” để làm cho “Đảng, chính quyền thành phố và cán bộ chúng ta luôn luôn trung thực và phát triển vững mạnh”. Bởi “điều duy nhất mà nhân dân chờ đợi, đó là trông thấy sự khác biệt giữa thái độ của cán bộ cách mạng với thái độ của các “ông quan trong bộ máy thống trị cũ”.

Để làm chỗ dựa cho lập luận của mình, bài báo nhắc lại một bài viết từ 1947 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phê bình, đó là một liều thuốc”.

“Có người nói: nếu chúng ta tự phê bình những khuyết điểm của chúng ta, những khuyết điểm của Đảng Cộng sản, của Đảng và Nhà nước thì kẻ thù sẽ lợi dụng những cái đó để tấn công lại chúng ta. Lập luận ấy là một sai lầm lớn; khuyết điểm cũng giống như các căn bệnh: phê bình là liều thuốc để chữa trị nó. Nếu sợ phê bình thì khác nào như có bệnh mà giấu, mà không dám uống thuốc, do đó bệnh ngày càng nặng thêm và nếu không chết thì cũng khó khỏi lành bệnh.”
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2009, 05:07:22 pm »


Người Việt Nam có câu: “Lá lành đùm lá rách.” Đối với những người cách mạng họ phải đảm đương lấy trọng trách về những “nỗi vui, buồn” của nhân dân họ, chữa trị dần dần những chấn thương tinh thần do hai mươi năm bị chia cắt, ba mươi năm chiến tranh gây ra. Đối với họ, không có ai là người thắng và cũng không có ai là kẻ bại...

Sài Gòn xầm xì những dư luận. Nó lan truyền khắp nơi: giai cấp tư sản lo lắng về “chủ nghĩa xã hội đến từ miền Bắc”, họ hình dung nó nghiêm khắc, một màu xám xịt… Ngay cả những người nghèo cũng không tránh khỏi tiêm nhiễm một số thói quen. Cuộc sống nghèo khổ trên những mảnh vụn của sự giàu có Mỹ cũng kéo theo không ít những ham muốn riêng... Năm 1954, ở miền Bắc, trong một đất nước bị chiến tranh tàn phá thiếu thốn đủ mọi thứ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có thể nói: “Khi người ta chỉ có một quả táo cho tất cả, thì người ta phải lấy nó nấu một nồi nước để mọi người cùng ăn…”. Ở miền Nam, khéo xoay xở, mỗi người cũng có thể kiếm được một quả táo riêng. Dù rằng nó đã bị hư...

Vì vậy, cứ cho rằng không phạm sai lầm khuyết điểm, những người cách mạng cũng khó có thể ngăn cản nổi một sự vỡ mộng xuất hiện cùng với những khó khăn đầu tiên. Xã hội thành thị miền Nam, mất đi một cách đột ngột những hàng hóa thừa thãi của Mỹ, đã phản ứng như kiểu một con nghiện đói thuốc... Trong bối cảnh ấy những lúng túng vụng về, thậm chí sai lầm khuyết điểm của cán bộ chỉ càng tác động như một yếu tố tiêu cực, nhất là khi họ lại là những người bị “lý tưởng hóa”, bởi người cách mạng nào mà chẳng mang theo họ một ảo ảnh hữu hình, mà ảo ảnh này thì làm sao nó có thể chống lại nổi sức nặng của cái thường ngày...

Nhưng những cán bộ ấy, họ là ai?

Chúng tôi đi ngang qua tỉnh Rạch Giá. Và có lẽ nhìn từ chiếc xe “Jeep”, quang cảnh thiên nhiên hào phóng này của một vùng đất đồng bằng Cửu Long đã lôi cuốn Khải, một cán bộ lãnh đạo tỉnh, khiến anh thổ lộ tâm sự với tôi:

“Thực ra, cái khó lớn nhất của chúng tôi lúc này là vấn đề thiếu hiểu biết của cán bộ. Tất cả họ đều là nông dân và gần như không biết chữ. Theo dòng năm tháng của chiến tranh, họ học làm chiến tranh, nhưng giờ đây, cái đó chẳng dùng gì được cho họ nữa, người ta đòi hỏi ở họ những cái khác kia; thế mà để viết một báo cáo, họ đã phải toát cả mồ hôi ra để viết được hai trang giấy… rồi lại phải xóa đi để viết lại. Lẽ ra chỉ mất độ hai chục phút, thì đằng này họ đã phải bỏ ra cả giờ cả buổi để đánh vật với nó. Vậy là chúng tôi cần phải làm việc, làm việc và làm việc nữa và phải thức thêu đêm để học. Lớp học được mở ở khắp nơi và cán bộ của chúng tôi đều bắt buộc phải đến lớp”.

Một tối, tôi được một số cán bộ lãnh đạo tỉnh kể cho tôi nghe về họ:

“Tôi sinh năm 1930 tại rừng U Minh và tôi sống ở đấy đến ngày toàn thắng”, ông K, người phụ trách đảng bộ, kể “và dĩ nhiên tôi tham gia hai cuộc kháng chiến cũng ở đấy”. U Minh, rừng của tràm, đước, sú, vẹt và đầm lầy, vùng rừng nổi tiếng trong chiến tranh Đông Dương, trước đây mười lăm năm nó giăng trải bạt ngàn trên một chu vi hàng trăm kilômét tới tận một phần của đất mũi Cà Mau ở cực nam Việt Nam. Nhưng nay, bị chất trụi lá, xe ủi, bom 7 tấn của Mỹ huỷ hoại, chu vi của nó rút lại chỉ còn khoảng sáu chục kilômét. Với cây cối rậm rạp, rất khó vào, từ năm 1945, U Minh đã trở thành một trong những căn cứ vững chắc của cách mạng Nam Bộ, trực tiếp là đồng bằng Cửu Long, cả trong kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ. Từ nơi đây, quân du kích tiến ra đánh kẻ thù và cũng tại đây, những cán bộ bị truy lùng, những tổ chức bị tan vỡ kéo vào ẩn náu, xây dựng củng cố để rồi lại tiếp tục cuộc chiến đấu.

Giữa đồng bằng Cửu Long và Trường Sơn việc giao thông liên lạc rất bị hạn chế: dãy Trường Sơn, con đường chi viện từ miền Bắc vào, không chạy tới đồng bằng Cửu Long. Quân ngụy Sài Gòn đã giăng ngang giữa U Minh với Trường Sơn; cán bộ đào tạo từ ngoài Bắc vào đôi khi phải dùng đến tàu ngầm để vượt biển tới U Minh và cũng vì vậy việc tiếp tế cho U Minh chủ yếu là phải dựa vào nguồn tại chỗ với sự giúp đỡ của nhân dân. Có hai thời kỳ gay go nhất đối với U Minh. Thời kỳ thứ nhất là hai năm 1957-1958 dưới thời Diệm: bị địch đàn áp, trong 500 đảng viên thì chỉ còn 27 đảng viên sống sót. Thời kỳ thứ hai là vào năm 1969, 1970, thời kỳ Mỹ - ngụy đẩy mạnh chương trình “bình định”. Những người đã sống, chịu đựng gian khổ, chiến đấu ở đấy và từ đấy bước ra chiến đấu, đã nhắc lại U Minh với một tình cảm trìu mến, thân thương...

“Khi tôi mới lên năm, quân Pháp đã đến U Minh...”, một cán bộ trẻ ở độ tuổi ba mươi kể, “cha mẹ tôi phải cõng tôi chạy vào rừng sâu... Đất ở đấy thì đen mà nước lại đỏ quạch... dây leo chằng chịt, có dây thân lớn tới 80 phân đường kính, chắn hết cả tầm mắt chỉ cách một mét là đã chẳng trông thấy gì, đất bùn sâu tới ba mét. Rừng rất sẵn ong tha hồ lấy mật mà ăn, nhưng kiến vàng, muỗi, vắt thì nhiều vô kể, còn sốt rét thì khỏi phải nói, đó là cái nợ mà ông trời bắt trả...”

Thế rồi năm 1975: Đối với những người chiến đấu ở bưng biền này, đó là những trận đánh cuối cùng của chiến tranh giải phóng và rất đột ngột, không một chút ngưng nghỉ, gần như chỉ hôm sau của ngày giải phóng, họ đã phải đứng ra gánh vác một nhiệm vụ mới, đó là xây dựng lại đất nước.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2009, 05:07:59 pm »


Kiều Thị Chân, năm mười lăm tuổi, vốn gốc nông dân. Bà đã hiến cả tuổi thanh xuân của mình cho đấu tranh cách mạng với nhiệm vụ giao liên của một tỉnh miền Nam. Bây giờ bà được giao làm giám đốc xí nghiệp số 1 thuộc công ty quốc doanh đông lạnh và chế biến hải sản. Thực ra, từ năm 1972, trong tỉnh cũng đã có một số xí nghiệp quy mô khác nhau, được xây dựng, một vài cái đang xây dựng dang dở, trong tất cả số đó thì có sáu xí nghiệp hoạt động với vốn nước ngoài chủ yếu là vốn của Thái. Một tháng trước giải phóng, chủ của các xí nghiệp bỏ đi di tản và các nhà máy đều đóng cửa. Sau giải phóng, các xí nghiệp được quốc hữu hóa và tổ chức thành một công ty, tập hợp khoảng năm trăm lao động. Việc khôi phục lại nhà máy quả không đơn giản: được xây dựng ở một tỉnh gồm toàn nông dân và dân chài, các nhà máy thường sử dụng nhân công nữ và thuê theo công nhật. Thợ làm tháng phần lớn đều ở Sài Gòn và khi nhà máy đóng cửa, họ đã trở về nhà. Bây giờ phải gọi họ quay trở lại, nhưng thậm chí những người gọi là “thợ” này cũng không phải là dân chuyên nghiệp, họ cũng mới chỉ bước vào nghề, còn trước kia họ hoặc là thủy thủ, hoặc là kế toán hay thư ký văn phòng... chỉ có một số rất ít là công nhân cơ khí, còn cán bộ hay nhân viên kỹ thuật thì họ là người Thái và đã bỏ về nước. Việc thiếu một tầng lớp vô sản chính gốc là một trở ngại đầu tiên; ngay cả tổ chức công đoàn, dù là bù nhìn thời trước ngụy ngày trước ở đây cũng không có. Trong sáu xí nghiệp, riêng nay chỉ còn xí nghiệp số 1 đang hoạt động với 400 công nhân và nhân viên.

“Sau giải phóng, bà Chân kể, Đảng phân công tôi về lãnh đạo xí nghiệp này...” Bà tới Rạch Giá ngày 1 tháng Mười, tức sáu tháng sau giải phóng. Đương nhiên, bà đâu có biết gì về kỹ thuật. Để giúp bà, trên đã cử về một cán bộ kỹ thuật, trước đây đã học cao đẳng ở Liên Xô về nghề cá. Anh cán bộ này tới đây ngày 30 tháng Tư, đúng vào ngày giải phóng...

Trong những điều kiện ấy, người ta có thể hình dung được có biết bao vấn đề về con người, về chính trị phải giải quyết. “Công nhân ở đây còn bị ảnh hưởng bởi những tuyên truyền của bọn bù nhìn”, bà giám đốc mới nói, “cần phải gây cho họ một tinh thần, một ý thức mới. Công tác giáo dục, vận động của chúng tôi đối với họ là dựa vào nguyên tắc: giúp cho họ hiểu được rằng từ nay họ là những chủ nhân mới của các công cụ lao động và của chính số phận họ”.

Thể hiện ở việc làm cụ thể, ban lãnh đạo nhà máy chủ trương tin tưởng ở công nhân và sử dụng những kinh nghiệm của họ: những ai trước đây làm công tác chỉ huy, điều hành thì nay vẫn giũ nguyên vị trí cũ, đề bạt một số người mới, những người khác thì xếp sắp họ vào những công việc phù hợp với khả năng... Một công nhân nay được giao phụ trách về “kỹ thuật” trong nhà máy tâm sự: “Tôi cảm thấy như mình là một anh học trò, trước kia tôi chỉ là một người thợ bình thường nhưng vì người kỹ sư cũ đã ra đi, mà công việc thì đòi hỏi vẫn cứ phải chạy đều đều”.

Với tất cả những khó khăn về vật liệu, như thiếu chất đốt, thiếu bộ phận thay thế... còn thêm vào những khó khăn về lương bổng có sự chênh lệch nào đấy với lương ở Sài Gòn. Nhưng vì thiếu vốn lưu động nên xí nghiệp cũng chẳng thể giải quyết vấn đề này một cách thỏa đáng. Một phó giám đốc nhà máy vẫn được giữ nguyên ở vị trí cũ cho biết ngày trước ông ta lĩnh được 45.000 đồng tiền cũ một tháng, “với số lượng ấy, gia đình tôi bảy miệng ăn chẳng biết sống như thế nào. Cái gì cũng đắt, đắt hơn bây giờ...”. Thế mà hiện nay, theo lương tạm thời, ông chỉ còn được lĩnh một khoản lương tương đương yới 20.000 đồng tiền cũ thì “thành thực mà nói, ông thú nhận, quả là không đủ, cứ đến 20 hàng tháng là gia đình tôi đã cạn tiền rồi”.

Nhưng lương tháng của những người lãnh đạo mới thì sao? Kỹ sư Nguyễn Ngọc Sơn tốt nghiệp ở Liên Xô trả lời tôi: “Như tất cả các cán bộ cách mạng khác, hiện thời tôi không có lương. Cái ăn thì đã có nhà máy bao, còn mỗi tháng được phụ cấp 280 đồng (14.000 tiền cũ)”, tức là đủ để mua xà phòng và... một bao thuốc lá.

Những vấn đề nói trên thì chẳng riêng gì xí nghiệp 1 công ty đông lạnh và chế biến hải sản Rạch Giá mới có, mà đó là những vấn đề được đặt ra đối với toàn miền Nam sau giải phóng, trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế cũng như quản lý xã hội.

Ảnh hưởng của kháng chiến, nói chung tác động mạnh ở nông thôn đã bị đánh bật mất gốc rễ do những thủ đoạn đánh phá ngày càng ác liệt của kẻ thù trong quá trình phát triển của chiến tranh giống như nó đã bị đánh bật mất gốc rễ ở các cơ cấu xã hội khác. Đặc biệt là ở vùng vành đai nông thôn của Sài Gòn, nơi mà số dân bị những chiến dịch càn quét lớn và chính sách bình định của Mỹ làm giảm mạnh. Thiệt hại của những mạng lưới kháng chiến bí mật là rất lớn: riêng với chương trình “Phượng hoàng”, giám đốc C.I.A. William Colby đã đưa ra con số là 67.000 “Việt cộng”, phần lớn là các cán bộ chiến sĩ hoạt động bí mật xuất sắc nhất, bị giết hại hoặc bắt giữ.

Ví dụ chúng ta hãy xem xét tình hình Đảng bộ Gò Vấp, một huyện nửa thành thị, nửa thôn quê của tỉnh Gia Định ở bắc Sài Gòn. Vào lúc giải phóng, Gò Vấp có tám xã với 250.000 dân, thì Đảng bộ chỉ có 140 đảng viên và cạnh đó là 75 đoàn viên thanh niên; lực lượng tự vệ có 30 đội viên. Năm 1959, Đảng bộ tổ chức được 200 đảng viên, nhưng tới tháng Mười năm ấy, lực lượng này đã gần như không còn lại một người nào, Đảng bộ dần dần tổ chức lại lực lượng; năm 1961, trong tỉnh đã diễn ra một cuộc nổi dậy cục bộ và số đảng viên của Đảng bộ lại tăng lên tới 200. Nhưng đến năm 1968, số đảng viên lại giảm xuống còn trên 60, và số tự vệ chỉ còn lại bảy đội viên.

Vài con số trên giúp cho người ta có một ý niệm về thực tế cuộc đấu tranh bí mật của lực lượng kháng chiến ở miền Nam. Một tình hình tương tự như thế cũng đã diễn ra ở quận 6, một trong những quận đông dân nhất của Sài Gòn. Tiếp giáp với vùng ven Sài Gòn, quận 6 bảo đảm mối liên hệ giữa thành phố và nông thôn và do đó nó đã trở thành một địa bàn được chú ý của hoạt động kháng chiến. Chính quyền ngụy Sài Gòn ý thức được rất rõ điều đó và để bao vây truy lùng kháng chiến, họ đã lập ra một bộ máy cai trị đặt toàn vùng đó dưới quyền kiểm soát của Sài Gòn: quận có 225.000 dân được chia thành năm tiểu khu, 38 phường, 1150 khu nhà; toàn bộ bộ máy cảnh sát và hành chính của quận 6 có: 4.180 viên chức, 1.500 cảnh sát, 17.469 binh lính và 730 đảng viên các đảng phái phản động trong đó có đảng Dân chủ của Thiệu. Cạnh đó là các tổ chức quần chúng bù nhìn: phụ lão, phụ nữ và thanh niên, bắt chước mô hình tổ chức của cách mạng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2009, 05:08:21 pm »


Từ 1968, tại quận 6 các gia đình ít hay nhiều dính dáng tới kháng chiến đều bị phân loại thành hai màu: “đỏ” là những gia đình nào có người ruột thịt hoặc họ hàng đi kháng chiến, còn “vàng” là những gia đình nào có cảm tình với kháng chiến.

Người ta tính được 4.300 gia đình “đỏ” và “vàng”, tức một phần mười số gia đình của quận. “Đỏ” hay “vàng” thì gia đình nào cũng bị những gia đình “xanh” vây quanh - xanh là những gia đình được chính quyền thừa nhận, hay ít ra thì cũng được coi là “thân chính phủ”. Và ở các gia đình bị tình nghi, chính quyền luôn luôn tiến hành bắt bớ, tra hỏi... một cách có hệ thống. Với danh nghĩa là phòng xa!

Với chiến thuật “kẻ ô vuông” đó để giám sát, truy lùng, từ sau tiến công Tết 1968, 3.000 chiến sĩ cách mạng đã bị địch bắt giữ. Cũng từ ngày đó, ban lãnh đạo đảng trong quận đã phải bốn lần thay đổi, bổ sung.

Chính trong tình hình nói trên, một phụ nữ bốn mươi mốt tuổi, Nguyễn Chí Thành đã được giao nhiệm vụ lãnh đạo Đảng bộ quận và củng cố lại nó. Chị Thành sinh trưởng trong một gia đình nông dân ở Gò Vấp, đi theo cách mạng từ hồi kháng chiến chống Pháp. Trong sáu anh chị em trong gia đình chị thì đã có năm người tham gia cách mạng. Năm 1945, chị vào Việt Minh. Năm hai mươi sáu tuổi, chị lập gia đình và chồng chị cũng là một người kháng chiến. Năm 1965, anh đã hy sinh trong một lần bị địch phục kích. Gay go nhất đối với chị Thành là thời kỳ từ tháng Tư 1969 đến tháng Sáu 1972: một tên phản bội tố giác, chị đã bị cơ quan an ninh ngụy bao vây theo dõi, rất gắt. Thời kỳ ấy cấp uỷ đảng có bốn người và cả quận chỉ còn một chi bộ.

Cuối năm 1973, chị Thành có thêm được sự giúp đỡ của một đồng chí mới: anh Bảy Hồng, vừa mới ra khỏi “chuồng cọp” Côn Đảo trước đây ba tháng. Bị bắt sau cuộc Tổng tiến công Tết 1968, Bảy Hồng vừa được trao trả với 30.000 tù binh và tù chính trị khác trong khuôn khổ Hiệp định Paris. Lúc được trao trả, anh không còn có thể đi lại được nữa, địch đã xiềng xích anh trong ba tháng. Tất cả các đòn tra tấn dã man của địch, anh đã phải nếm trải hết: quay điện, đi “tầu ngầm”, đánh dùi cui, treo ngược..., những di tật giờ hãy còn in đậm dấu vết trên mình anh. Sau ba tháng phục hồi sức khỏe và một lớp học chính trị, người còn mang đầy thương tích ra đi lại khó khăn, anh bí mật trở lại Sài Gòn với nhiệm vụ tổ chức một đội tự vệ ở quận 6.

Để bảo đảm bí mật tuyệt đối, anh chỉ có liên lạc duy nhất với chị Thành; mỗi lần gặp nhau đều do cấp trên tổ chức... Điểm hẹn thường được bố trí ở các gia đình cơ sở và nó cũng luôn luôn thay đổi: họ phải nói chuyện với nhau qua những bức vách và đầu người nào cũng trùm kín, chỉ để hở hai con mắt. Mãi đến ngày giải phóng, anh mới được biết mặt chị. Không biết lúc đó, anh có nói với chị rằng chị đẹp không? Chị Thành, người nông dân và chiến sĩ cách mạng ấy, trong hoạt động thì cải trang thành cô hàng bán hoa quả hay chị đầy tớ, bây giờ chị đã trở thành chủ tịch Uỷ ban cách mạng quận 6 và ở chị người ta thấy toát lên một phẩm cách mà khối kẻ quyền quý ở Sài Gòn phải thèm muốn.

Bảy Hồng nhớ lại những tháng năm gian khổ ấy: “Suốt thời gian đó, chúng tôi thường xuyên sống trong tình trạng căng thẳng. Tôi biết ở ngoài Bắc, đồng bào đồng chí của tôi cũng đang phải hứng chịu hàng ngàn tấn bom, nhưng tinh thần của họ được tự do thoải mái. Còn chúng tôi, suốt ngày đêm chúng tôi bị địch lùng sục vây ráp.”

Ngày 30 tháng Tư, quận 6 có 61 người hoạt động trong các tổ chức cách mạng, trong đó chỉ có 10 đảng viên và khoảng một trăm người trong diện cảm tình có thể đưa vào các tổ chức cách mạng. Bây giờ, họ có tất cả bao nhiêu? Chị Thành cười: “Đủ cho những công việc phải làm.”

Nhưng những con số đó là chưa đúng với thực tế. Ảnh hưởng của cách mạng còn phức tạp hơn nhiều: bị chiến tranh làm xáo trộn, nhiều chiến sĩ cách mạng đã mất liên lạc với tổ chức của mình, phải mãi đến khi giải phóng, họ mới có được điều kiện để bắt liên lạc trở lại. Như sáu tháng sau giải phóng ở Gò Vấp, số đảng viên lại lên tới 358, đoàn viên thanh niên là 600, cạnh đó còn có 41.000 người tham gia các đoàn thể quần chúng. Ở Quận 6 cũng như ở tất cả các nơi thác, các đoàn thể này đều thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, điều đó chứng tỏ những người lãnh đạo mới đã gây được lòng tin trong nhân dân và tìm thấy ở nhân dân sự hưởng ứng.

“Tất cả chúng tôi đều là những người tập sự đối với những công việc mới của cách mạng. Một số việc đã vượt khả năng của chúng tôi. Nhiều điều chúng tôi còn phải học lắm”, một uỷ viên của Ủy ban cách mạng Tân Cảng đã nói với tôi như vậy. Đó cũng là cảm nghĩ chung của tất cả các cán bộ cách mạng, khi họ đột ngột rời cuộc chiến đấu ở vùng biên để chuyển sang làm nhiệm vụ quản lý xã hội...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2009, 05:11:18 pm »


CHƯƠNG VI
NHANH CHÓNG THỐNG NHẤT


Sau giải phóng, Nam Việt Nam có thể tự mình đảm đương được nhiệm vụ khôi phục lại không?

Khi xem xét những cơ cấu thừa hưởng của chế độ cũ thì người ta thấy ngay khó khăn là điều tất nhiên: nên công việc đang tồn tại phụ thuộc hoàn toàn vào nước ngoài. Năm 1971, tờ tạp chí của phòng thương mại và công nghiệp Sài Gòn đã vẽ ra một bức tranh như sau: “Đặc điểm của công nghiệp Nam Việt Nam thể hiện ở một thực tế là toàn bộ máy móc cũng như phần lớn nguyên liệu để sản xuất đều phải nhập từ nước ngoài. Mà phần lớn những ngành công nghiệp của nó thì đều có quan hệ mật thiết với nhập khẩu nguyên liệu: 90% đối với đường, 70% đối với công nghiệp thực phẩm, 95% đối với dệt, 95% đối với thuốc lá, 80% đối với giấy...” Mặt khác, cơ cấu công nghiệp của Nam Việt Nam lại rất mất cân đối: riêng sản xuất bia, nước giải khát không có chất cồn và thuốc lá đã chiếm 73% của tổng sản phẩm công nghiệp. Và nếu có một vài dự định thay đổi nào đó thì công nghiệp Nam Việt Nam cũng không nhằm sản xuất cơ khí hay tạo ra một cơ sở công nghiệp nặng nào.

Thế mạnh của kinh tế miền Nam là nông nghiệp và nghề cá. Nhưng thế mạnh đó như thế nào? Chỉ riêng nông nghiệp mà nói thì bản thân nó đã có những hạn chế lớn: mặc dù trình độ cơ giới hoá phát triển, nhưng việc thâm canh của nó lại yếu và năng suất đạt được thấp, lúa mỗi năm chỉ trồng một vụ, khác với miền Bắc cấy những hai, ba vụ. Ngay việc cơ giới hoá của nó cũng làm nảy sinh một số vấn đề, bởi việc đó đòi hỏi phải có nhiên liệu và phụ tùng thay thế. Hơn nữa nhiều diện tích lớn do chiến tranh phải bỏ hoang hay vẫn chưa được khai phá...

Nghề cá và khai thác từng có nhiều khả năng lớn. Những trung tâm đánh bắt cá lớn thường có nhiều ở miền Nam. Nhưng ở đây thì ngư dân cũng gặp phải những vấn đề về phụ tùng và nhiên liệu của việc cơ giới hoá. Tuy nhiên, miền Nam cũng đã xây dựng được một số cơ sở công nghiệp, so với những gì mà miền Bắc thừa hưởng được của người Pháp năm 1954 thì nó phát triển hơn nhiều. Ví dụ: năm 1954, nhà máy điện Hà Nội chỉ sản xuất được 8.000kw/giờ thì năm 1975, nhà máy điện Thủ Đức sản xuất được 165.000kw/giờ.

Đối với công nghiệp miền Nam sau giải phóng 1975, vấn đề của nó là “chuyển đổi”. Còn ở miền Bắc năm 1954, thì vấn đề của nó là “tạo ra”.

Tuy rằng những đầu tư của Mỹ vào Nam Việt Nam chủ yếu nhằm đáp ứng những nhu cầu chiến tranh chứ không phải nhu cầu kinh tế, nhưng dù sao trong những giới hạn ấy, người Mỹ cũng đã để lại ở đấy một cơ sở hạ tầng và một kỹ thuật tiên tiến: 10.000km đường rải nhựa, ba cảng nước sâu, năm sân bay không kể sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, một hệ thống thông tin liên lạc hiện đại chủ yếu nằm quanh những thành phố lớn.

Nhưng trong cơ sở hạ tầng đó, có những cái lộ ra quá mức, không phù hợp với những nhu cầu thực tế của miền Nam. Ví dụ như về thông tin: người ta thấy Nam Việt Nam có trong tay mình cả một hệ thống thông tin đầy ấn tượng, trị giá tới 15 tỷ Francs cũ, trong đó có mười hai hệ thống I.B.M1-360, những máy tính vào loại lý tưởng nhất thế giới.

Hệ thống thông tin này, so với hệ thống của Angiêri chẳng hạn, thì nó lớn hơn; nó điều hành cả cuộc chiến tranh của Mỹ ở Đông Dương. Tại trung tâm máy tính của M.A.C.V (Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự tại Việt Nam) ở Tân Sơn Nhất, Mỹ có năm máy tính hoạt động: máy khá nhất quản lý tổng kho Long Bình; máy thứ hai, lập chương trình toàn bộ quân ngụy; máy thứ ba, lập chương trình các phi vụ ở Đông Dương; máy thứ tư, lập chương trình hải quân; và máy thứ năm, tới tháng 1 năm 1975 vẫn do nhân viên kỹ thuật Mỹ sử dụng, lập phương trình tất cả các chiến dịch quân sự ở Đông Dương, đặc biệt là các chiến dịch đánh vào “đường mòn” Hồ Chí Minh.

Nhưng vấn đề ở đây là làm thế nào bảo quản, duy trì được hoạt động của hệ thống thông tin đó: riêng để làm việc này, năm 1974, ngụy Sài Gòn đã phải chi ra 2 triệu đô la. Sáu tháng sau giải phóng, chính quyền mới đã giảm việc sử dụng nó xuống còn một nửa. Một đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ cao được đào tạo. Nhưng Nam Việt Nam, khi bị cắt đứt khỏi cuống nhau viện trợ nước ngoài, mình nó đã không thể đương đầu được với những nhu cầu của nó và cũng không thể nhanh chóng tự hồi phục và có một sự phát triển độc lập do những mất cân bằng vì cơ cấu vốn có. Trái lại, với nhân công, với nền công nghiệp nặng và kinh nghiệm xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc sẽ có thể bổ sung cho những thế mạnh và những khả năng của miền Nam.

Việc giải phóng miền Nam trên thực tế đã thống nhất cả hai miền Nam, Bắc. Như vậy từ nay công cuộc xây dựng và phát triển đất nước đã có thể tính trên quy mô toàn quốc. Người ta trù tính sẽ có thể đưa tổng diện tích đất canh tác lên 6 triệu hécta, chứ không phải chỉ có hai triệu cho miền Bắc và ba triệu cho miền Nam như hiện nay. Hơn nũa, hàng trăm nghìn hécta đất khác cũng có thể sẵn sàng được canh tác nếu người ta có khả năng khai phá hoang. Do vậy vấn đề lương thực sẽ được giải quyết và ngoài ra còn có dư thừa để xuất khẩu.
_____________________________________
1. International Business Machine: Công ty máy kinh doanh quốc tế.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2009, 05:12:20 pm »


Từ năm 1976, việc phân phối lại nhân công cũng được dự kiến trên quy mô lớn: chẳng những Sài Gòn và các thành phố lớn ở miền Nam có thể giải toả được số dân, mà ngay cả đồng bằng sông Hồng quá đông người cũng vậy; người ta có thể đưa bớt họ lên làm ăn ở cao nguyên miền Nam và vùng trung du miền Bắc. Cuộc vận động di dân này sẽ được thực hiện trong suốt thời kỳ kế hoạch 5 năm 1976-1980, và nếu làm được việc đó, các chuyên gia Việt Nam ước tính sẽ không có thành phố nào có số dân vượt quá một triệu. Mặt khác, nó cung cấp được một lực lượng nhân công đáng kể để xây dựng những công trình thuỷ lợi lớn, làm cơ sở cho công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam.

Về công nghiệp, dựa vào những cơ sở hiện có, sẽ dần dần xây dựng công nghiệp nặng ở miền Nam. Điều đó chẳng những làm cân bằng cơ cấu kinh tế xã hội của miền Nam mà về mặt quốc phòng, nó còn bảo đảm được nguyên tắc là phải bố trí phân tán những trung tâm công nghiệp ra làm nhiều khu vực trên lãnh thổ. Với việc giải phóng miền Nam, mọi kế hoạch của Việt Nam từ nay sẽ phải được hoạch định ở tầm cỡ quốc gia và đặt trong khuôn khổ quốc gia. Các chuyên gia miền Bắc đã nhanh chóng xem xét lại kế hoạch dự định cho 5 năm 1976-1980, và trong công việc này, một số chuyên gia giỏi của miền Nam cũng được mời tham dự, như trường hợp ông Nguyễn Văn Hảo, cựu phó thủ tướng phụ trách phát triển kinh tế trong chính quyền Thiệu cũ.

Trong Hội nghị toàn thể họp vào đầu hè 1975 tại Đà Lạt, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra đề nghị đẩy nhanh quá trình thống nhất đất nước. Việc thống nhất này sẽ được tiến hành trên cơ sở lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa...

Hội nghị xét thấy vừa có thể tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đồng thời đẩy nhanh miền Nam cùng tiến lên theo con đường đó. Hội nghị đánh giá, sự thống nhất của Việt Nam chỉ có thể trọn vẹn khi mà đất nước có cùng chung một quan hệ sản xuất. Thế nhưng ở miền Bắc hiện nay, quan hệ sản xuất đang tồn tại là quan hệ xã hội chủ nghĩa, vì vậy muốn cơ sở miền Nam cùng một quan hệ sản xuất ấy thì cần phải có những hình thức quá độ trong khi vẫn tạm thời giữ một số quan hệ tư hữu và tư bản chủ nghĩa... Việc thống nhất chỉ được coi là hoàn thành vào ngày mà một chế độ xã hội thống nhất được thiết lập trên toàn bộ đất nước. Ngay trước mắt, việc giải phóng những vấn đề đặt ra ở quy mô toàn quốc đòi hỏi phải có một bộ máy thống nhất, mà duy nhất chỉ có nó mới có thể bảo đảm được tính khoa học và sự nhanh chóng. Hơn nữa đẩy nhanh quá trình xây dựng một chính phủ thống nhất là phù hợp với thực tế của tình hình miền Nam: từ cuộc Đồng khởi những năm 1960 giải phóng nhiều vùng nông thôn, rồi trước sự can thiệp của Mỹ, và công cuộc bình định, đàn áp, giết hại, bắt bớ của địch, các tổ chức cánh mạng đã bị thiệt hại nặng nề, nhiều nơi gần như mất trắng. Sau giải phóng, các cán bộ xuất thân từ kháng chiến miền Nam đã phải lên cầm quyền trong những điều kiện gấp gáp như chúng ta vừa nói. Vì thế, duy trì một chính phủ miền Nam, trì hoãn hoàn thành thống nhất đất nước sẽ có nghĩa là phải tổ chức cả một bộ máy to lớn với đầy đủ các cơ cấu của nó, nhất là ở cấp chính quyền cơ sở, và điều đó chẳng những không làm giảm đi, mà còn làm tăng thêm những cách biệt tồn tại giữa hai miền Nam, Bắc.

Trong cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng gay go ác liệt ở miền Nam, để đương đầu với bão tố, cán bộ và nhân dân đã ngày càng xiết chặt hàng ngũ xung quanh hạt nhân kiên cường nhất, vững chắc nhất của họ, tới mức đã hoà tan vào nó: đó là Đảng Cộng sản việt Nam, một thứ thép đã tôi không gì có thể phá vỡ nổi. Chính Đảng là người đã lãnh đạo cuộc đấu tranh và quản lý các vùng giải phóng, và với ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền cách mạng mà Đảng nắm từ lâu nay đã được thiết lập trên toàn miền Nam. Từ nay, cùng với miền Nam giải phóng, nhân dân Việt Nam trên cả nước đã có cùng chung một chính quyền cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 7 tháng 11, “Hội nghị chính trị hiệp thương về thống nhất đất nước đã họp” ở Sài Gòn, với sự tham gia của đoàn đại biểu miền Bắc và đoàn đại biểu miền Nam. Trong đoàn miền Nam, cùng với các ông Phạm Hùng, Nguyễn Hữu Thọ và Huỳnh Tấn Phát, đại diện cho Đảng lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản Việt Nam) và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, người ta còn thấy có mặt các đại diện của lực lượng thứ ba trong đó có bà Ngô Bá Thành, một gương mặt nổi tiếng của lực lượng này; linh mục Chân Tín, người cổ động cho phong trào đòi “trả tự do cho những tù nhân chính trị”, và ông Hồ Ngọc Nhuận, cựu nghị sĩ chế độ Sài Gòn và nguyên cố vấn của tổng thống cuối cùng Dương Văn Minh.

Trong diễn văn khai mạc Hội nghị, ông Trường Chinh, uỷ viên Bộ chính trị Trung ương Đảng trình bày đường lối do Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 24 xác định. Ông nhấn mạnh: Hội nghị chính trị hiệp thương này có mục đích là “thống nhất nhận thức của chúng ta về sự cần thiết và cơ sở của sự nghiệp thống nhất đất nước, tầm quan trọng, tính cấp bách, những bước đi và những biện pháp cần phải có để tiến hành sự nghiệp đó”, trong đó “vấn đề mấu chốt” nhất là vấn đề nhà nước. Ông phát biểu rằng “nhiệm vụ chiến lược của cuộc cách mạng của chúng ta trong giai đoạn mới này là hoàn thành việc thống nhất đất nước, đưa đất nước ta tiến nhanh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. (...) “Trước đây, miền Nam tiến hành một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân - Với việc hoàn toàn giải phóng hiện nay, ta có nên tiếp tục cuộc cách mạng đó trong một thời gian nào nữa không, trước khi chuyển qua làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội?”

“Chúng tôi nghĩ rằng điều đó không cần thiết”, ông Trường Chinh đáp “Thắng lợi lớn mùa xuân vừa qua đã kết thúc giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và mở đường cho nhân dân miền Nam tiến lên một giai đoạn mới, một nhiệm vụ chiến lược mới, giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.”.

Ông Trường Chinh thừa nhận có những khác biệt “về giai cấp” giữa miền Nam và miền Bắc, những ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng của chủ nghĩa thực dân mới đối với xã hội miền Nam, nhưng những khác biệt ấy là “tạm thời và do hoàn cảnh” “trong khi những điểm chung giữa hai miền lại là cơ bản”. “Vấn đề của chúng ta hiện nay là tăng cường và hoàn thiện những điểm chung giữa hai miền, xoá bỏ dần dần những khác biệt, trong một quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa.” Như vậy việc thống nhất đất nước được quan niệm như một “chuỗi” những quá trình mà “khâu chính” là thống nhất nhà nước “càng sớm càng tốt”. Cùng thời gian ấy phải “hợp pháp hoá sự nghiệp thống nhất đất nước bởi toàn dân.”

Những đề nghị trên được toàn thể Hội nghị nhất trí thông qua và trong tình hình ấy, Hội nghị quyết định sẽ tiến hành một cuộc tổng tuyển cử trên cả nước theo nguyên tắc “phổ thông đầu phiếu, công bằng, trực tiếp và bí mật” để bầu ra một quốc hội chung cho hai miền. Nhiệm vụ của quốc hội này là cử ra các cơ quan lãnh đạo nhà nước, quy định Hiến pháp mới, quốc huy, quốc hiệu và thủ đô nước Việt Nam thống nhất. Tổng tuyển cử được dự kiến sẽ tiến hành vào tháng Tư năm 1976, tức hai mươi năm sau thời hạn do Hiệp định Geneve quy định. Vậy là cuối cùng, quyền tự quyết của nhân dân miền Nam đã được bảo đảm.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2009, 05:12:50 pm »


Với cuộc tổng tuyển cử, vai trò lịch sử mà Chính phủ cách mạng lâm thời đảm đương cũng kết thúc: nó phù hợp với nguyện vọng chung của những người cách mạng Việt Nam là đạt tới một giải pháp chính trị, một Chính phủ liên minh tập hợp xung quanh họ. Với liên minh này, lịch sử muốn rằng nó phải được thực hiện bằng sự loại trừ những lực lượng nào đã khước từ nó...

Nhìn chung, tin về việc thống nhất đất nước đã được nhân dân hân hoan chào đón. Cha Trần Xuân Thảo của giáo xứ Hà Nội ở Hố Nai nới: “Dân vùng tôi đã nhiệt liệt hoan nghênh nó. Tôi không nhận thấy có bất cứ sự dè dặt nào về vấn đề đó. Bởi rõ ràng từ sau giải phóng, quan hệ giữa họ với gia đình quê hương của họ ở ngoài Bắc đã có nhiều phát triển, bà con của họ ở ngoài đấy thỉnh thoảng vẫn vào đây thăm nhau... Vì vậy, trên thực tế thì đã có sự thống nhất giữa hai miền rồi. Đối với tôi, cha Thảo nói thêm, việc chia cắt năm 1954 luôn luôn chỉ là tạm thời, tôi quê ở miền Bắc, thế mà từ hai chục năm nay tôi đã sống ở miền Nam, nhưng tôi chẳng thấy xa lạ gì hết; vẫn là văn hoá ấy, con người ấy, chẳng có lý do gì mà kéo dài xa cách mãi.”

Một số sĩ quan Sài Gòn cũ, trở về với đời sống dân thường ba tháng sau ngày thống nhất, đã tỏ ra đặc biệt nhạy cảm với sức mạnh của một nước Việt Nam thống nhất: với 45 triệu dân, Việt Nam đứng hàng thứ 16 thế giới, nhưng với phe xã hội chủ nghĩa thì nó đứng thứ 3, chỉ sau có Trung Quốc và Liên Xô, còn lực lượng có khả năng lao động thì nó ngang với nước Pháp: 20 triệu dân.

Thực ra xung quanh việc thống nhất, ý kiến tập trung nhiều là về vấn đề “xã hội chủ nghĩa”. Cha Nguyễn Đức Sự ở giáo xứ Ngọc Đồng, Hố Nai, một người chống cộng ai cũng biết nói với tôi: “Mọi người ở đây đều hoàn toàn nhất trí về sự cần thiết phải thống nhất đất nước. Nhưng nhiều người sợ “chủ nghĩa xã hội”. Bởi họ không biết nó ra sao. Họ sợ chủ nghĩa xã hội là vô thần, là duy vật... Nếu chính phủ giải thích được cho họ hiểu thế nào là chủ nghĩa xã hội thì chắc mọi chuyện sẽ mất đi... Nếu trong chủ nghĩa xã hội, giáo dân chúng tôi vẫn được quyền hành đạo thì trong trường hợp này, tôi nghĩ sẽ chẳng còn có vấn đề gì nữa. Trái lại chúng tôi sẽ hợp tác với “chế độ mới.”

Ở Sài Gòn, gặp những người kêu ca nhiều về vấn đề này không phải là chuyện hiếm... Thường nhiều nhất ở những bà có chồng trước đây là sĩ quan cao cấp hay quan chức chính quyền ngụy. Bởi đối với họ, đó là cả một thiên đường bị mất: đầu cơ trục lợi trên chức quyền của các ông chồng hay người tình, họ có trong tay đủ mọi thứ và sống một cuộc đời còn hơn cả mức sung sướng. Họ chính là những người trước đây đã tạo nên vẻ mặt xa hoa hào nhoáng của Sài Gòn nói chung và khu tứ giác của quận 1 nói riêng, nơi có những đường phố như Catinat, Pasteur, các khách sạn Caravelle, Continental, rạp Majectia, câu lạc bộ thể thao... Giờ đây, tiền kiếm được ít hơn, họ ngồi đó, lo sợ và cay đắng, mặc sức buông ra những lời đàm tiếu...

Nhưng còn nhân dân, những người lao động thì họ nghĩ sao về vấn đề thống nhất?

“Những ngày đầu sau 30 tháng Tư, chúng tôi đến nhà máy nói chuyện với anh chị em công nhân về ý nghĩa của giải phóng, chỉ cho họ hiểu rằng từ nay cuộc đời của họ đã thay đổi, giúp cho họ hiểu biết về cuộc đấu tranh để nắm chính quyền của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng... Anh chị em rất phấn khởi, nhất là những người lao động tay chân”, một chiến sĩ nữ còn rất trẻ người công giáo thuộc Hội nữ thanh niên công nhân công giáo nói với tôi như vậy. Từ đầu 1975, cô đã tham gia ủy ban bảo vệ các quyền của người lao động do một cha tuyên úy trong công nhân của Hội nữ thanh niên công nhân công giáo lãnh đạo, một tổ chức mà cô biết có cả các chiến sĩ cộng sản tham gia. Đối với cô đó là sự dấn thân bước đầu vào con đường đấu tranh cách mạng, con đường mà với một số đông học sinh, sinh viên thì nó đã được khởi đầu bằng các cuộc biểu tình năm 1950 của học sinh, sinh viên Sài Gòn chống sự can thiệp của Mỹ do luật sư Nguyễn Hữu Thọ lãnh đạo. Bây giờ cô là thành viên trong ban lãnh đạo của Trung ương công đoàn giải phóng. Cô phác một bức tranh nói lên ảnh hưởng của kháng chiến trong giai cấp công nhân: ảnh hưởng này mạnh trong những khu vực truyền thống - có nghĩa là những khu vực công nghiệp có từ lâu đời - nhưng yếu trong những khu vực có nhà máy mới, song lại thường là quan trọng nhất; Sài Gòn hiện có 250.000 lao động thuộc khu vực công nghiệp. “Trong một số xí nghiệp cán bộ mặt trận dân tộc giải phóng đã tổ chức được một số công nhân còn ở một số khác thì chưa, nhưng càng ngày người ta càng phát hiện ra ở đấy có cả những cán bộ bị mất liên lạc với Đảng do chiến tranh làm xáo trộn gây ra. Nhiều người đến từ các tỉnh, hoặc họ chạy theo dân, hoặc bị lộ nên phải chạy trốn.” Cô cán bộ trẻ nói với tôi và khẳng định: Trong tất cả các xí nghiệp xây dựng, Đảng chưa thành lập được tổ chức. Ví dụ như trong 60.000 công nhân ngành dệt, duy nhất chỉ có Vineco mới có một chi bộ.

Trong các xí nghiệp quan trọng như Shell, Esso thành lập từ 1972 để khảo sát dầu, “do sự kiểm soát ngặt nghèo của chính quyền ngụy và không khí khủng bố bao trùm nên cách mạng chưa cấy được tổ chức nào”. Ngay cả ở xưởng Ba Son, một tâm điểm có truyền thống đấu tranh lâu đời của giai cấp công nhân miền Nam, nơi Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã từng làm việc và khởi đầu sự nghiệp của một chiến sỹ cách mạng, thì tình hình cũng thế. Sự khủng bố gắt gao của địch đã loại trừ tất cả các cán bộ cách mạng, “Đảng chỉ tổ chức được các chi bộ ở bên ngoài xưởng, nằm ở các phường.”

Như vậy thì có phải giai cấp công nhân chưa sẵn sàng cho ngày giải phóng? “Tuy nhiên, cô cán bộ trẻ nói, về những gì liên quan đến việc bảo vệ nhà máy cho đến ngày giải phóng thì có cả một mạng lưới những người lao động tham gia. Thông qua một số người làm việc ở bộ phận quản hộ nhà máy, cán bộ cách mạng đã giúp họ tiến hành việc ấy”.

Từ năm 1960, số lượng giai cấp công nhân miền Nam tăng gấp đôi, nhưng chục năm gần đây, nó đã gần như chựng lại: năm 1969, thời kỳ thịnh vượng nhất của nó, giai cấp công nhân chỉ chiếm 12% dân số thành thị. Thành phần của nó khá phức tạp; nhiều người xuất thân từ những tầng lớp khác bị chiến tranh làm đảo lộn: nông dân, thợ thủ công, dân nghèo thành thị, tiểu thương, tiểu chủ bị phá sản, viên chức và người làm công thất nghiệp. Thành phần nữ trong công nhân, do nam giới bị động viên vào quân đội cũng tăng lên: năm 1960 là 19% thì năm 1967, tỷ lệ này đã lên tới 32%. Công việc của công nhân lại hướng vào những hoạt động không phải là chủ yếu. Tất cả những yếu tố trên đã ảnh hưởng tới ý thức giai cấp của công nhân miền Nam vốn đã không thuần nhất.

Tuy nhiên, bù lại cho những yếu tố tiêu cực ấy, công nhân miền Nam có sự tập trung về địa lý: phần lớn các nhà máy đều nằm trong khu vực Biên Hoà - Sài Gòn, trong đó những nhà máy lớn nhất tập trung tới một, hai nghìn công nhân. Nhưng cũng nhắc lại rằng từ 1972, do sự suy thoái của công nghiệp miền Nam, gần một nửa số nhà máy của nó đã phải đóng cửa.

Mặc dù bị đàn áp mạnh, ảnh hưởng lâu đời của Đảng trong công nhân vẫn không bị mai một. Người ta có thể thấy được điều đó trong ngành công nhân hoả xa. Do ảnh hưởng của chiến tranh, hệ thống đường sắt của miền Nam, dễ bị tổn thương bởi cách đánh giao thông sở trường của quân cách mạng, đã bị đình đốn: trước 1945, ngành có 6.000 công nhân, thì nay nó chỉ còn có 2.000 công nhân. Tuy nhiên, trong nhà máy xe lửa Chí Hoà, trước ngày giải phóng Đảng vẫn có 3 đảng viên hoạt động trong 268 công nhân. Dựa vào lực lượng cảm tình là 170 công nhân, họ đã tiến hành được hai cuộc đấu tranh thắng lợi vào năm 1973 và đầu 1974...

Từ sau giải phóng cách mạng đã có một nỗ lực lớn trong việc giáo dục và quan tâm đến đời sống của giai cấp công nhân. Điều đó được nhanh chóng thể hiện bằng việc cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân: trong những xí nghiệp đầu đàn, lương thợ được tăng, lương cán bộ được giữ vững, thợ thất nghiệp được hưởng toàn bộ lương cũ. Ví dụ như ở xí nghiệp tôm đông lạnh Seakingo ở quận 6 - nơi có mặt hàng xuất khẩu chính, tất cả lương thợ được chuyển sang lương tháng và tăng từ 55 đến 100 đồng một giờ, lương cán bộ vẫn được giữ ở mức 60.000 đồng một tháng. Thợ đến làm việc có nhiều người nhà ở xa, nhà máy cho mở một căng tin bán với giá rất rẻ, công nhân được nghỉ nửa tiếng để đến đấy ăn trưa...

“Đối với chủ nghĩa xã hội, cô cán bộ công đoàn trẻ nói, công nhân đều rất phấn khởi, nhiệt tình. Bởi đây là lần đầu tiên, họ được đặt lên vị trí hàng đầu: trong tất cả các nhà máy, người ta trao đổi, thảo luận về vai trò tiên phong của giai cấp công nhân; thoạt đầu, họ cho rằng đây chỉ là một sự thay đổi bình thường về địa vị xã hội của họ, nhưng dần dần qua học tập, họ đã nhận thức được điều đó một cách sâu sắc hơn và bây giờ, họ thấy tự hào được làm người thợ, tự hào về vai trò thúc đẩy, tiên phong của giai cấp công nhân”.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM