Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:05:59 am



Tiêu đề: Dấu chân trên cát
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:05:59 am
Tên sách: Dấu chân trên cát
Tác giả: thiếu tướng Trần Minh Hùng
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2011
Số hóa: macbupda

(https://i.imgur.com/jQEeHWm.jpg)

LỜI THƯA

Hồi ký “Dấu chân trên cát” là những kỷ niệm của tôi trên một quãng đời, từ tuổi thơ đến khi trở thành tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, với hơn 40 năm (10.1962 -3.2010) tham gia kháng chiến, từ khi tham gia Quân giải phóng miền Nam cho đến ngày nay. Trong một dung lượng mỏng manh, hữu hạn quyển sách này chưa thể nói hết tâm tư tình cảm của tôi với Đảng, với quân đội, nơi tôi đã rèn luyện bản lĩnh của người chiến sĩ giải phóng từ trong tăm tối biết “rũ bùn đứng dậy” cùng số phận của quê hương, dân tộc. “Dấu chân trên cát” là những hồi ức về những chặng hành quân chiến đấu từ miền sông Thu quê hương đến sông Thạch Hãn, Thành cổ Quảng Trị vào sông Tiền, sông Hậu đến Mê Kông rồi ra Kỳ Cùng biên giới phía Bắc; hay đi đến miền đất đỏ bazan Tây Nguyên đầy nắng và gió rồi qua tận những thảo nguyên nước Nga xa xôi, có biết bao bóng dáng đồng đội, đồng chí, những người anh, người chị, người, em đã sát cánh bên tôi dệt thành kỷ niệm đời quân ngũ không thể nào quên.

Và nhất là hình ảnh của những người mẹ. Từ người mẹ sinh dưỡng tôi bằng dòng sữa và tiếng ru của sóng biển rừng dương đất Quảng đến người mẹ ở đất lửa Quảng Trị, người mẹ Campuchia tần tảo, người mẹ ở Cao Nguyên nắng sớm mưa chiều, người mẹ ở miền Bắc bao dung và nhân hậu... đã đi vào trong tôi mênh mông những niềm thương kính, nhắc nhở tôi về sự hy sinh thầm lặng mà rất đỗi anh hùng, không có giấy bút nào tả hết, kể hết nỗi niềm.

Ra đi từ tuổi thiếu niên, nay tóc đã pha sương, tôi thành kính dâng lên Đảng, quê hương tấm lòng biết ơn và những chắt lọc từ trải nghiệm thực tiễn qua quyển sách nhỏ này.

Kính dâng lên hương hồn mẹ, cha!

Kính dâng lên những đồng đội đã ngã xuống cho ngày hôm nay của tôi và của chúng ta, cho đất nước quê hương hằng sáng.

Dâng tặng những đồng chí, đồng đội còn tiếp bước cùng tôi trong hàng ngũ, những cựu chiến binh của Bộ đội Cụ Hồ vì sự bình yên của Tổ quốc, đồng bào.

Riêng tặng cho gia đình tôi những gì còn mãi nhớ, để tin yêu cuộc đời này.

Tác giả


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:08:43 am
Chương một

QUÊ HƯƠNG-GIA ĐÌNH-TUỔI THƠ

Dòng sông trên cát

Tôi sinh ra bên dòng lộ Cảnh Giang, người dân quê tôi quen gọi là sông Cổ Cò hay Đế Võng. Dòng sông từng là con đường thủy nội địa đóng vai trò huyết mạch giao thương giữa Cảng thị Hội An với Cửa Hàn - Đà Nẵng từ nhiều thế kỷ trước. Nhiều tài liệu cũ mô tả rằng, trên con sông này luôn tấp nập tàu bè ngược xuôi của thương gia các nước đến trao đổi, mua bán hàng hóa với xứ Đàng Trong của Đại Việt. Dọc hai bên bờ sông này mọc lên nhiều thương điếm. Trong đó có chợ cầu của Điện Dương từng là trung tâm buôn bán nổi tiếng của huyện Điện Bàn, lưu truyền câu hát:

“Bồng con mà bỏ vô nôi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Bất Nhị, mua trầu Hội An...”

Dọc theo sông Cổ Cò là những ngôi làng, nỗng cát. Dòng sông như chảy vào nguồn mạch của làng, chảy trong tiềm thức của người dân quê tôi, ẩn mình trong cát bao biến thiên của thế thái nhân tình, bao dời đổi của cát bụi thời gian và những thăng trầm lịch sử.

Dấu ấn tiến nhân

Ngược thời gian trở về nguồn cội, qua lời kể của các bậc cao niên về công ơn tiền nhân trong buổi đầu khai hoang lập nghiệp thì những cư dân đầu tiên từ phía Bắc vào sinh sống dọc vùng hạ lưu sông Cổ Cò - Đế Võng. Một đoạn sông có nhiều cá sấu nên đặt tên là sông Hà Sấu. Năm tháng trôi qua cùng với việc quy dân lập điền, dân cư ngày thêm đông đúc, các làng lần lượt hình thành. Làng thường lấy tên có chữ Hà (sông): Hà Mòi là làng chuyên đánh bắt cá mòi trên biển; Hà Tôm là làng chuyên đánh bắt tôm trên sông, về sau Hà Mòi đổi thành Hà Quảng, Hà Tôm đổi thành Hà My, sông Hà Sấu có tên mới là Đế Võng. Làng Hà Quảng cùng với các làng ven sông gồm Hà Lộc, Gia Lộc, Hà My, Hà Bản hợp thành Ngũ Xã.

Ngày ấy, Ngũ Xã quê tôi không chỉ có cảnh đẹp của dòng sông và dải cát uốn lượn cùng những lũy tre xanh bao bọc mà còn có những cánh rừng Hà Gia, Hà Quảng đến Hà My. Rừng có nhiều cây cổ thụ như Mít nài, Trẩu, Chỏi, Cốc... trên quãng dài hơn chục cây số của dòng sông, trải qua thăng trầm dâu bể, nhiều đoạn bị bồi lấp hình tháp, những vùng đầm nhiều dừa nước,..., dưng, lát (cói)... cửa rừng ngập mặn Hà My và vô số những hoa sen, hoa súng, lục bình ở Hà Gia, Gia Lộc... Sông và những vùng đầm lầy nhiều cây cỏ là thế giới trù phú cá, tôm, cua quyến rũ vô số chim cồng cộc, ngỗng trời, trích, cò... cùng những đàn rái cá tinh ranh ngày đêm lặn ngụp săn bắt cá tôm trong thiên nhiên hoang sơ. Đó cũng là khi dòng sông không còn là con đường thủy tấp nập ghe thuyền giao thương giữa cửa Đại - Hội An với Cửa Hàn - Đà Nẵng.

Sau năm 1930, khi cây phi lao (dương liễu) được người Pháp du nhập vào trồng ở vùng cát duyên hải miền Trung thì người dân quê tôi cũng đã được nhanh chóng học hỏi cách ươm trồng. Rồi từ bờ giậu quanh nhà lan ra bờ ao, đến những cồn cát, trảng cát, chỉ sau gần một thập niên, cây phi lao đã khép tán thành rừng. Dọc theo bờ biển dài hơn bảy cây số, xanh biếc rừng phi lao, quanh năm rì rào đón gió, chắn cát lấp, cát bay cung cấp nguồn lá khô vàng ươm cho người dân đun nấu, thân gỗ dành để làm củi chẻ, vỏ ngâm để nhuộm lưới, mành và rao bán khắp các chợ phố thị Hội An, Đà Nẵng...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:10:13 am
Xóm nhỏ nhà tôi ở đó...

Còn nhớ, cái xóm nhỏ Bắc Hải của làng Hà Quảng quê tôi vào những thập niên 40-60 của thế kỷ XX, cũng như bao làng chài ven biến khác hầu hết cư dân sống bằng nghề biển ngang. Có lẽ các thế hệ tiền nhân khi đến khai cơ lập nghiệp ở đây đã trải qua những biến cố và tình huống khó khăn: Hoặc vì không có những ưu thế chính trị nên phải tránh xa chỗ quan quyền, nơi tấp nập phồn vinh. Hoặc vì nghèo túng mà phải chấp nhận gian nguy để tìm kế mưu sinh nơi vùng cát heo hút đầu sóng ngọn gió này. Chỉ có biển và cát. Biển vỗ rì rào quanh năm và cát bao bọc quanh nhà, làng xóm. Vào mùa nồm nam nắng rát, những nỗng cát như rộng dài thêm, khắp nhà như sống cùng với những cụm hoa lông chông đuổi bắt nhau không mỏi trong luồn nồm nam qua cát. Đây đó hiện ra những lối mòn qua cát. Từng đoạn ngắn, vào mỗi buổi sáng, mỗi nhà thường góp đôi gánh nước tưới cát tạo ra các điểm nho nhỏ cho người đi đường nghỉ chân tạm bớt nóng lúc xế trưa.

Biển một bên, sông một bên, giữa là cát dài và hẹp, thấp thoáng những ngôi nhà mái tranh yên ả, khuất sau rặng dương liễu, quanh năm rì rào sóng gió biển đông. Hà Quảng một thời đã cuốn hút khách phương xa với lời thơ:

            Hà Quảng thông xanh mấy dặm trường
            Bao ngày đo đạc luyến tình thương
            Lênh đênh Bắc Hải thuyền ngư phủ
            Lác đác Tây Đình xóm thiện lương...


Vẫn còn đó, thế hệ cha ông với những tháng ngày cơ cực, khi biển vẫn muôn đời hào phóng nhưng cũng vô cùng dữ dội, luôn giấu bao bí ẩn đối với những ngư dân sống trên một vùng làng cá biển ngang mà phương tiện đánh bắt là những chiếc thuyền nan dùng buồm cùng những tay chèo, nên không thể ra khơi đánh bắt dài ngày. Thuở ấy, mùa nắng với những ngày trời yên biển lặng, ngư dân quê tôi chủ yếu đánh bắt ven bờ bằng các nghề lưới rùng, lưới quét, mành chà, câu... Ngày ấy, khi nghe tiếng gà gáy sáng “chở nhứt”, cha anh tôi và những người đàn ông lực lưỡng của làng chài vội vã thức dậy, uống vội bát nước chè đen đậm đặc, mang theo những phần ăn cơm độn nhiều khoai, sắn, khoác vội lên người chiếc áo vá sờn vai mặn mồ hôi biển cùng đôi chân trần kéo nhau ra bến, hì hục khiêng đẩy những chiếc thuyền nan từ trên bãi cát xuống nước để ra khơi. Chiều xuống trên những chiếc thuyền đầy cá lại đón gió nồm quay về bến, cũng là lúc những người phụ nữ từ các làng chài đã đợi sẵn vội ùa xuống mép sóng, tranh nhau bưng bê những thúng cá tươi, mặc cả, trả giá ồn ã. Xong họ vội vàng quang gánh chạy bộ đưa đến các chợ Hội An, Vĩnh Điện vào các ngõ xóm, đường quê để bán hoặc đổi lấy gạo sắn khoai... Còn với lũ trẻ chúng tôi, sau niềm vui khấp khởi vừa nhặt được nhiều cá tôm vụn sót lại trong thuyền đem đổi lấy những trái ổi chín vàng ruột đỏ mọng, những trái thị thơm lừng... giờ là lúc cả bọn lại nô đùa, vẫy vùng với sóng rồi kéo nhau đến đầu làng mong ngóng mẹ đi chợ về để có quà là những lọn mía, cục đường đen, viên kẹo ú ngọt ngào... Vào những ngày biển động, thường từ cuối thu sang đông, sóng to gió lớn làng biển sông thắc thảm trong cảnh “chim trời cá nước” bữa đói bữa no. Hơi thở của cát, vì thế cũng nhấp nhỏm không yên với giọng ru hời:

“Lấy chồng nghề ruộng em theo
Có chồng nghề biển hồn treo cột buồm...”.

Cuộc sống cơ cực nhọc nhằn nhưng yên bình ấy thật ngắn ngủi. Chiến tranh ập đến, kéo dài mỗi ngày thêm ác liệt. Các khu rừng nguyên sinh ở Hà Gia, Hà Quảng, Hà My bị chặt phá trụi vì kẻ thù lo sợ lực lượng kháng chiến có chỗ ẩn nấp. Tiếp đến rừng dương liễu ven biển cũng chung số phận. Đạn bom giặc cày xới làng thành những giếng cát đen, hun hút bụi mù, người ở lại bám trụ, người đi ngập chìm thêm dâu bể, trôi dạt như cát bụi... Có những tháng năm dài quê hương Điện Dương “trắng đất, trắng dân”. Cán bộ du kích bám trụ phải sống chui, sống lủi dưới lục bình, dừa nước, cỏ lác, cỏ lùng... trên các sông đầm... Thư nhà tôi mỏi mắt chờ trông. Cho đến ngày đầu giải phóng năm 1975 có nhiều người trở về làng đã không còn nhận ra lối cũ vườn xưa...

Những chuyện u hoài ấy còn không? Với những người Điện Dương phải xa quê nhiều năm vì biến động lịch sử chưa một lần trở lại chắc khó hình dung những đổi thay với quê xứ. Con sông Cổ Cò chảy qua làng giờ đây không còn hình dáng cũ. Cuộc mưu sinh vẫn chưa hết nhọc nhằn với những người dân quê cát ngày một đông, nhưng nhờ cần cù chịu khó một nắng hai sương lao động, xây dựng cuộc sống mới, sau mỗi mùa thu hoạch người dân quê tôi càng có thêm kinh nghiệm sản xuất để làm cho đồng đất, sông hồ, biển cả có thêm sản phẩm nuôi sống con người. Với những giống cây trồng, vật nuôi mới và ánh sáng điện đã tỏa về các xóm thôn, góp phần cho đời sống ngày càng thay da đổi thịt. Trên đất cát thổ, đất vườn, mùa nào cũng có rau quả. Nhiều nhất vẫn là lúc cuối đông sang xuân nào cà chua, khổ qua (mướp đắng), rau, hành, cải... từ vùng cát này tỏa đi các chợ Hội An, Vĩnh Điện, Điện Ngọc, Chợ Hàn...

... Vùng đất sình lầy ngập mặn hoang hóa lác đác dừa nước cằn cỗi vì thiếu phù sa đã được cải tạo thành nhiều hồ nuôi tôm, cá... hiệu quả. Nghề biển với những chiếc thuyền nan dùng buồm đã đi vào quá khứ. Nhiều ngư dân đã đóng tàu mã lực lớn để vươn khơi xa, gắn với nuôi trồng thủy sản cùng với những cơ sở sản xuất, gia công chế biến hải sản xuất khẩu, thu hút hàng ngàn chị em vùng biển...

Nhớ lại ngày vừa giải phóng, tưng bừng với khí thế mùa xuân đại thắng, hàng ngàn người dân quê tôi từ các khu dồn trại tập trung gồng gánh, bồng bế con cái hăm hở trở về ước muốn cất lại nhà trên mảnh đất xưa. Nhưng với tầm nhìn xa trông rộng về một ngày “đất chật người đông”, ngay từ đầu, Điện Dương đã quyết xây dựng khu dân cư mới trên vùng cồn cát bỏng Sa Khê, Tân Khai, Hà Quảng, Hà My nhường lại những khu đất mỡ màu hơn để gieo trồng cây trái. Quanh lũy làng, dương liễu chắn gió, chắn cát ngày một nhiều thêm. Những cuộc đuổi bắt của gió Bắc mùa đông và gió Nam mùa hạ cuốn theo hàng tỷ tỷ bụi cát cùng những chùm lông chông chỉ còn trong ký ức. Những đứa trẻ bây giờ lớn lên không còn bị bệnh toét mắt vì cát. Những ngôi nhà xây mái ngói, mái tôn thấp thoáng trong vườn xanh cây xoài, cây ổi, mãng cầu, đào lộn hột... nối liền nhau bằng những tuyến đường quê được thảm nhựa phẳng lỳ rộng thoáng và bằng đường bê tông ngang dọc, thuận tiện cho việc đi lại, giao thương. Sát cạnh cứ điểm Nam Hàn xưa là bãi tắm Hà My với bờ cát trắng, nước trong xanh, trông ra xa là bán đảo Sơn Trà, Cù Lao Chàm mờ sương khói mây trời thơ mộng. Toàn tuyến bờ biển hơn bảy cây số đã có nhiều khách sạn Nam Hải, Resort.... cao cấp dần mọc lên, đầu tư hạ tầng du lịch với số vốn hàng chục triệu đô la để chuẩn bị đón khách trong và ngoài nước đến tắm biển, du lịch, nghỉ ngơi...

Điện Dương quê tôi đã và đang rạng lên những chồi non lộc biếc. Tuổi của cát ngàn đời, tuổi của thế hệ chúng tôi - tóc đã hoa râm, rồi sẽ về... chợt tôi nhớ đến mẹ, cha và những người thân yêu nhất không còn, họ đã hóa thân vào lòng cát quê nhà, vào nguồn mạch dòng sông trong cát ngàn đời thì thầm những câu chuyện với thời gian...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:13:02 am
Thấm đẫm truyền thống văn hóa, khí chất anh hùng

Dải cát dài và hẹp Điện Dương quê tôi chừng hơn 1.000 ha, dựa lưng vào những nỗng cát với những tên cồn: Cồn Hĩnh, Cồn Chờ, Cồn Chất, Cồn Đó, Cồn Thương...

Hình thế đất mặt quay vào sông, mặt hướng ra Biển Đông trên tuyến hành lang ven biển nối Đà Nẵng - Hội An. Trải qua nhiều thế kỷ, từ cuộc bình Chiêm của vua Lê Thánh Tông (1471), những tộc họ ngoài Bắc quê ở Thanh, Nghệ Tĩnh vào đây sinh cơ lập nghiệp “chân đồng, chân biển”. Và cuộc mưu sinh nhọc nhằn trên một vùng đất cát bạc màu, chua mặn, thiên tai bão lũ triền miên ấy đã trải qua nhiều biến cố lịch sử nhưng những tên của Ngũ Xã (Hà Quảng, Hà Lộc, Hà Gia, Hà Bản, Hà My) vẫn mãi in sâu trong tâm thức và tình cảm của bao thế hệ người dân quê tôi. Ý thức nguồn cội đó đã hun đúc các thế hệ của dân Điện Dương luôn gắn bó với quê hương, xây đắp nên truyền thông lao động cần cù, đoàn kết chiến đấu kiên cường với thiên tai, địch hoạ vượt lên những hoàn cảnh khắc nghiệt éo le...

Lam lũ làm ăn nhưng không cam chịu cuộc sống nghèo khó “Tối ăn khoai đi ngủ, sáng ăn củ đi làm” người dân Điện Dương đã biết chăm lo việc học hành của con cái. Tiêu biểu về tài trí và ý chí nghị lực vươn lên trên con đường học hành khoa cử được nhắc đến nhiều là cử nhân Lê Tấn Toán, sinh năm Đinh Dậu (1837) tại làng Hà Lộc. Năm 1861, khoa thi Tân Dậu, Tự Đức thứ 14, cả ba anh em ruột cụ Toán cùng đi thi thì hai người đỗ tú tài, một cử nhân. Không ra làm quan, cử nhân Lê Tấn Toán về làng mở trường dạy học. Một số tài liệu cho biết, trong nhiều “học tràng” hay “lò học” của Quảng Nam ngày ấy, “học tràng” của cụ Toán ở Hà Lộc nổi tiếng bởi chất lượng giảng dạy cùng đức độ của người thầy nên sĩ tử từ Quảng Ngãi, Bình Định cũng tìm đến học rất đông. Nhiều học trò sau này đỗ đạt cao trong các hội thi, trở thành danh nhân đất nước như Nguyễn Duy Hiệu đỗ Phó bảng được ban tước Hồng lô Tự Khanh, sau thành hội chủ Nghĩa hội Quảng Nam, vung thanh gươm hào kiệt dấy lên phong trào Cần Vương chống Pháp khắp các tỉnh Nam - Ngãi, Bình - Phú. Hay như chiến sĩ yêu nước Châu Thượng Văn cũng từng là môn sinh học tràng của cụ Toán. Những người học trò ưu tú đã ảnh hưởng bởi tư tưởng trọng nghĩa khinh tài của thầy, luôn đặt lợi ích của nhân quần và Tố quốc lên trên mạng sống của mình. Và thật bi tráng khi cử nhân Lê Tấn Toán - người thầy khả kính của chí sĩ Nguyễn Duy Hiệu, bị triều đình phong kiến tay sai ghép tội vì dạy học trò “khởi ngụy” và làm quân sư cho “ngụy hội”, ông đã chọn chén thuốc độc để vong thân giữ tròn tiết tháo. Chí khí cương trực của cử nhân Lê Tấn Toán cùng hy sinh oanh liệt của những học trò đã trở thành câu chuyện lịch sử hun đúc tình yêu nước và lòng tự hào của nhiều thế hệ người Điện Dương.

Noi gương thầy Toán, sau này Điện Dương có nhiều người học hành đỗ đạt đã trở về làng mở trường dạy học, vừa dạy chữ Hán vừa dạy chữ Quốc ngữ như Đinh Triết (Hà Quảng) Lê Công Diễn, Nguyễn Ứng (Gia Lộc), tú tài Lê Tấn Tiễn, Cù Duy Tá, Lê Tấn Đoái (Hà Lộc), Văn Hiến, Trần Mô (Hà My)... Thời chống Pháp, các thầy: Văn Dương, Văn Huệ, Văn Huyền (Hà My) cùng góp phần vào cuộc “khai dân trí, chấn dân khí” do các cụ Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng... phát động. Từ đó một lớp tri thức hình thành trên các xã vùng cát Điện Bàn trong đó có Điện Dương nung nấu bầu nhiệt huyết yêu nước, căm thù xâm lược, sẵn sàng lên đường tham gia đánh giặc. Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, truyền thống yêu quê hương đất nước của nhân dân Điện Dương càng được phát huy cao độ, trở thành sức mạnh chiến thắng quân thù. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, Điện Dương là vùng có phong trào du kích chiến tranh phát triển rất mạnh của huyện Điện Bàn. Nơi đây còn có một mắt xích quan trọng của con đường giao lưu huyết mạch giữa vùng tạm chiến và vùng tự do của tỉnh Quảng Nam từ Kiến Tân (Duy Xuyên) qua Thanh Hiệp, cầu Cống (Hội An) lên Hà My, chợ Cầu (Điện Ngọc),... rồi tỏa ra các vùng. Nhân dân Điện Dương không những lập nên những chiến công vang dội trên quê hương mình mà còn có những đóng góp lớn cho phong trào cách mạng của huyện Điện Bàn, thị xã Hội An, Quận 3 - Đà Nẵng cả trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Có thể nói, trong dòng chảy không ngừng của lịch sử dân tộc, Điện Dương quê tôi thời nào cũng có những con người yêu nước kiên trung mà công lao sự nghiệp, nhân cách của họ đã trở thành tấm gương sáng cho lớp con cháu noi theo.

Đó là gương chiến đấu dũng cảm và hy sinh oanh liệt của lãnh binh Lê Ngọc Sỹ và cụ Đàm Thân dưới cờ nghĩa hội của Nguyễn Duy Hiệu.

Đó là hình ảnh bất khuất, kiên trung của những đảng viên cộng sản như: anh hùng liệt sĩ Lê Ngọc Giá (hay ông Diện) mà cuộc chiến đấu chống Mỹ - Diệm đã trở thành huyền thoại...

Đó là người cộng sản Nguyễn Triết biến lao tù của giặc thành nơi trui rèn ý chí, là mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Bưng, cơ sở trung kiên che giấu cho nhiều cán bộ Huyện ủy, Tỉnh ủy hoạt động cách mạng, là người anh hùng Nguyễn Cây, vinh dự được Bác Hồ đặt tên Hồ Văn Biển...

Và còn biết bao hình ảnh của những người con yêu nước và cách mạng đã dựng nên thành đồng lũy thép chống giặc ngoại xâm trên quê hương tôi. Chỉ tính riêng hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, quê tôi đã có hơn 1.240 liệt sĩ (bình quân trong chiến tranh cứ 6 người có 1 liệt sĩ, 2 gia đình có 7 liệt sĩ, 1 gia đình có 6 liệt sĩ, 2 gia đình có 5 liệt sĩ và 63 gia đình có 3-4 liệt sĩ). Trong 2.020 hộ gia đình, toàn xã có 800 hộ là thân nhân gia đình liệt sĩ, 1.470 gia đình có công cách mạng, hơn 150 bà mẹ được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Với thành tích và những chiến công oanh liệt trong kháng chiến, Điện Dương đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào tháng 12 năm 1988(1). Quê hương với những hình ảnh đau thương mà anh dũng đã nuôi dưỡng cho thế hệ chúng tôi, bồi đắp cho hành trang đi vào cuộc đời binh nghiệp sau này sự tự tin và lòng dũng cảm.


(1) Theo Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Điện Dương 1930-1945. Nxb Đà Nẵng, tháng 4-2003.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:15:06 am
Nguồn cội thân thương

Cùng nhiều dòng họ từ Bắc vào Nam sinh cơ lập nghiệp, một nhánh con cháu của tộc Đàm ở Hương Mặc, Bắc Ninh đã dừng chân ở dải đất Điện Dương. Tôi được sinh thành, lớn lên trong chiếc tao nôi bắt vào cây đa, cội rễ của tộc họ ấy.

Theo lời các vị cao niên, tộc Đàm gốc tích ở làng Me, Hương Mặc, Bắc Ninh. Cụ triết nghĩa Đàm Văn Thân (đời thứ ba ở làng Hương Mặc) trước khi về cõi vĩnh hằng đã dặn rằng: “Dòng họ ta là dòng họ trâm anh, thế phiệt, nếu các con không nên người thì đừng nhắc đến nguyên quán làm gì mà nhục tổ tiên”. Từ đó, kế thế nhiều đời con cháu tộc Đàm truyền miệng cho nhau giai thoại, tâm niệm lời di huấn vàng ngọc của tổ tiên mà phấn đấu vươn lên giúp ích cho đời, cho đất nước. Trải qua bao bước thăng trầm cùng lịch sử dân tộc, dòng họ Đàm tỏa đi khắp nơi, sinh cơ lập nghiệp từ La Khê, Tiên An, Yên Hưng, Quảng Ninh... đến Quảng Nam rồi Nam Bộ. Riêng ở Quảng Nam, một chi họ Đàm về đất Mỹ Khê, Phước Mỹ, Sơn Trà đến làng Hà Quảng, Điện Dương, Điện Bàn(1).

Một câu chuyện bi tráng mà ông nội rồi đến ba tôi thường kể cho con cháu nghe là chuyện thay đổi danh tính trong dòng họ: Cụ Đàm Văn Thân tham gia nghĩa hội Cần Vương chống Pháp bị giặc bắt. Chúng đã xử bắn ông và quyết truy tìm tung tích những người thân để tiêu diệt mầm mống “phản loạn”. Vì thế để bảo tồn nòi giống, họ Đàm ở Hà Quảng liền cải thành họ Trần (sinh vị Trần, tử vị Đàm – sống viết là họ Trần, mà chết khắc trên bia họ Đàm). Khi thế hệ chúng tôi lớn lên mang họ Trần như mang lời di huấn của tổ tiên họ Đàm phải rửa mối hận của dòng tộc và của đất nước dưới ách đô hộ của thực dân.

Tộc Đàm Trần đến đời cha tôi đã nối được 14 đời. Cha tôi là Đàm Trần Văn Chước, song bà con lối xóm gọi với cái tên thân mật là Ông Tửu. Ông sinh năm 1910 ở Hà Quảng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, cha tôi đã biến ngôi nhà của mình thành nơi nuôi giấu cán bộ của Đảng của cách mạng, đồng thời tích cực tham gia các cuộc đấu tranh hợp pháp với kẻ thù. Năm 1960, ông đã dẫn đầu đoàn biểu tình xông vào chém tên quận trưởng quận Hiếu Nhơn khi bọn chúng đang xua quân lùng xục, bắt bớ, đánh đập dân làng. Ngô Đình Diệm đổ, Nguyễn Văn Thiệu lên thay, rồi Mỹ đưa quân qua, làng xóm quê hương ngày càng bị chiến dịch “ba sạch” (đốt sạch, phá sạch, giết sạch) làm cho tan hoang. Nhưng cha tôi vẫn bám trụ trên mảnh đất Điện Dương cát trắng, một lòng son sắt với cách mạng. Ngày 20 tháng 1 năm 1967, ở tuổi 57 ông đã dẫn đầu đoàn quân nông dân dùng mã tấu, gậy gộc ngăn chặn cuộc hành quân của Nam Hàn để cho du kích chiến đấu rút lui bí mật. Ông đã bị quân Nam Hàn xả súng bắn chết ngay trên mảnh đất quê hương. Ông hy sinh để lại cho con cháu không phải là tiền của, gia sản mà là giọt máu son sắt trên tấm bằng Tổ quốc ghi công (được Nhà nước truy tặng năm 1976). Không kiên cường như cha, mẹ tôi - bà Ngô Thị Hữu là người phụ nữ tần tảo chịu thương chịu khó, đảm đương hầu hết công việc làm ra hạt lúa, củ khoai, hũ mắm... để nuôi chồng con và nuôi giấu cán bộ cách mạng. Thời son trẻ, mẹ tham gia hội phụ nữ xã tổ chức đấu tranh hợp pháp với địch, chống bắt chồng, con đi lính... Công việc của mẹ âm thầm lặng lẽ như bao đời nay những người đàn bà biển vẫn thế, nhưng trong lòng vẫn hoài thai bao bọc những hạt cát hy vọng trong đêm đen lịch sử. Lòng mẹ như đại dương, che chắn và ru tôi lớn lên trong tình yêu thương vô bờ bến, dạy tôi biết làm điều phải, biết lao động để sống, biết gắn bó với quê hương bà con lối xóm. Có lẽ chính vì tính mẹ hiền như thế mà những công việc mẹ làm cho cách mạng cũng bình dị như là chuyện giúp chồng, giúp con, nhưng đã tạo thành chỗ dựa vững chắc cho những căn hầm bí mật, cho ba, anh tôi có thể tham gia các hoạt động kháng chiến.

Trong tình cha và lòng mẹ, tám anh em chúng tôi, trừ hai người mất lúc nhỏ, một chết vì bom đạn giặc, còn lại (ba trai hai gái) đã lớn lên. Với sự bao bọc của cha mẹ uống sữa nguồn dòng họ và quê hương, anh em chúng tôi đã tiếp bước truyền thống, tham gia cách mạng từ tuổi thiếu niên. Người anh trai thứ ba là Trần Minh Thọ vào những năm 50 của thế kỷ trước, anh theo cậu tôi là Ngô Trường Thuận dự các buổi bình dân học vụ. Năm 1954 cậu tôi tập kết ra Bắc, anh Thọ ở lại hoạt động tại địa phương vào du kích rồi làm xã đội trưởng. Trong một trận chống càn không cân sức vào tháng 11 năm 1967, du kích xã đánh lui nhiều đợt tấn công vào làng của một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ. Từ khi mặt trời vừa mọc đến lúc hoàng hôn, khi thì băng mình trên cát bỏng, lúc lặn ngụp dưới cỏ lùng, cỏ lác để tránh đại bác, máy bay... quần lộn, chiến đấu đến đợt tấn công cuối ngày của bọn quỷ sa tăng thì lúc ông bị thương gãy chân nhưng vẫn bình tĩnh kiềm chế và ra lệnh cho du kích rút lui rồi rút chốt lựu đạn giả chết nằm chờ... Trong lúc vừa tỉnh vừa mê bọn lính thủy đánh bộ Mỹ đến gần và hoảng loạn kêu “vi...xi...xi” (Việt cộng), ông lăn mình xả loạt đạn cuối cùng rồi tung lựu đạn... nhưng không nổ, chúng nhào tới ôm chặt ông tiêm thuốc mê băng bó để khi tỉnh dậy có thể khai thác được gì ở ông. Đến khi mặt trời khuất sau những nỗng cát, bọn trực thăng HU-1A hạ cánh chở ông về trại giam Non Nước, nhưng chúng đã không thể khuất phục được người con kiên trung của quê hương “một tấc không đi, một li không rời”. Chẳng khai thác được gì chúng giam ông cho đến sau cuộc Tổng tiến công nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 rồi đày ra Côn Đảo đến khi Hiệp định Pa-ri ký kết năm 1973, ông được trao trả tại Lộc Ninh rồi về làm Chính trị viên Đại đội bộ binh 2 huyện Điện Bàn. Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, anh tôi về làm Bí thư xã, rồi giám đốc Công ty Thủy sản huyện Điện Bàn. Sau đó nghỉ hưu, hiện nay là Chủ tịch tù yêu nước của huyện và tham gia các hoạt động của địa phương. Bước chân anh tôi vẫn trải dài trên cát tiếp tục đóng góp cho đời những gì mà bà con chòm xóm cũng như cấp ủy, chính quyền xã Điện Dương hằng tin tưởng như những năm dài kháng chiến giải phóng quê hương.

Riêng chú em út là Trần Minh Chín, cũng giống tôi ngày trước, khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra, em tôi chưa đến tuổi nhập ngũ, với quyết tâm là cùng các anh giúp sức đuổi bọn diệt chủng ra khỏi biên thùy, em đã khai tăng tuổi và đăng ký nghĩa vụ lên đường. Sau thời gian huấn luyện ở Sư đoàn 859 (Quân khu 5) và bổ sung sang chiến đấu giúp bạn Campuchia. Khi đất nước Chùa Tháp được giải phóng, em tôi được về nước và tiếp tục cuộc đời binh nghiệp của mình trải qua những cương vị từ binh nhi... đến đại tá, Trưởng phòng Cán bộ Cục Chính trị Quân khu 5; đến tháng 6 năm 2010 đảm nhiệm chức vụ Chính ủy - Bí thư Đảng ủy Sư đoàn 315 (Quân khu 5). Là Đáng ủy viên Quân khu nhiệm kỳ (2010-2015) cùng Ban chấp hành Đảng bộ xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, cùng cả nước thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ công bằng văn minh... Em tôi là thế hệ kế tiếp truyền thống của hai anh và gia đình để cha mẹ tôi nơi vĩnh hằng yên nghỉ thảnh thơi.

Như cây đa ngày một lớn lên, tỏa thêm nhiều cành nhánh, từ cha mẹ tôi đã sinh thành nên hơn 40 cháu, chắt nội, ngoại trong đó có 6 cháu nội trai (1 cháu là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Điện Dương, 5 cháu là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam) 3 gia đình anh em chúng tôi đã có 14 người đứng trong đội ngũ của Đảng. Các con cháu đã biết phát huy truyền thống của gia đình, tộc họ, học tập rèn luyện nên người, giúp ích cho đời, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dù ở trong hay ngoài quân đội, cán bộ nhà nước hay làm người lao động bình thường.

Có một nhà thơ đã viết: “Không yêu được họ hàng, yêu chi nổi nhân dân” Từ nguồn cội thân thương với một tình yêu giản dị, tôi bước ra đời dấn thân vào binh nghiệp gắn bó với bao đồng đội, đồng chí, đồng bào, như một chiếc thuyền bắt đầu từ bến nhỏ đi dần ra khơi, đi dần vào biển lớn.


(1) Theo các nhà nghiên cứu lịch sử thì các dòng họ từ miền Bắc vào châu Ô, Lý (Bắc miền Trung) từ thời nhà Hồ (sau năm 1402) và cuộc di dân lớn thứ hai, bắt đầu sau khi vua Lê Thánh Tông lập Đạo thừa tuyên Quảng Nam năm 1471.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:16:05 am
Tuổi thơ

Khi đất nước quê hương bị kẻ thù giày xéo, chết chóc đau thương máu và nước mắt đã tràn ngập làng quê bé nhỏ, từ một cậu học trò tiểu học tôi được các người chị dẫn đường hòa vào biển lớn cách mạng tháng 10 năm 1962, tuổi 12 được cậu ruột và chú Hoàng kết nạp vào đội công tác mật từ thị xã Hội An đến các vùng Điện Dương và cánh bắc Quảng Đà. Sau những tháng ngày dìu dắt tôi trưởng thành và được bầu làm thiếu đoàn trưởng thiếu niên Tiền phong của xã... đến tháng 3 năm 1963, là 13 tuổi, cậu tôi đưa lên núi để gia nhập vào đội công tác Đ64. Vậy là tôi đã giã từ trường lớp, bạn bè, xếp bút nghiên lên đường tranh đấu...

Những vết đòn roi

Tôi nhớ trận đòn, tên cảnh sát quất vào đầu tôi cái tát và thầy giáo H.C ghi vào sổ điểm 2. Không phải buổi đó mà cách đó hai năm (năm học 1960 - 1961) tại một mảnh sân trường ở làng cát Cẩm Hải quê tôi (nay là Điện Dương) vì quá mải mê cái trò bịt mắt bắt dê, tập trận giả làm ná cao su “bắn nát đầu bọn giặc”. Và cũng cái ngày mà Đủ bạn học của tôi bị thầy giáo ném thước trúng vào giữa thái dương, máu trào ra lai láng giữa phòng học của lũ trẻ thơ “ngông cuồng” khờ dại ham chơi, tinh nghịch, tôi hiểu mình hơn. Lũ học trò chúng tôi lại bị bắt quỳ trên xơ mít. Tôi van xin: “Thầy ơi! Đừng đánh em nữa vì mẹ ốm em phải nấu cơm và đưa cơm cho cha đi biển nên đêm chưa học bài thuộc...”. Nhưng thầy đâu màng những tiếng van xin thất vọng bị chặn lại. Tiếng tróc... tróc...” của roi dương (cành phi lao) đau xé da và rát buốt hai đầu gối vì gai vỏ mít.

Từ đó, từ cái hôm đó, sau những trận đòn của bạn, của bản thân do không thuộc bài bị thầy phạt, tôi cứ căm cái cách trị học trò của nhà trường mà nền giáo dục của chế độ cũ bảo là phương pháp để học sinh nhanh chóng thông minh và để “phụng sự Tổ quốc khi hữu sự”. Rồi những cái tát, tiếng nguyền rủa của bọn cảnh sát, bảo an, hội đồng xã v..v.. cũng thường ám ảnh những đứa trẻ của gia đình bị tình nghi giúp đỡ kháng chiến. Bị nhiều trận đòn đau, song chúng tôi vẫn cứ cần mẫn học hành chứ đâu có hiểu hết những việc gì đang xảy ra chung quanh cái trường học mà bốn bề là hàng rào dày kẽm gai, rồi gót giày đinh tuần tra của lính ngụy lạo xạo ngày đêm...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:17:18 am
Lửa cháy và ý thức bùng lên

Năm học 1960 - 1961 đã qua, năm học 1962 - 1963 tôi không được đến trường. Quê hương đã có tiếng súng phá kèm, diệt điệp. Tôi theo các anh, các chị với tâm trạng vui vui. Các chị bảo cầm báo thì cầm báo, cầm giấy thì cầm giấy, bảo vào thành vào thị thì vào. Cứ như vậy tôi đi vào thực hiện những lời dạy của các chị. Thấy việc tôi làm ngày có kết quả, các chị lại cho lựu đạn bảo cài trên cầu lúc xe ngụy đi qua, hoặc lúc xe đậu hay tạm dừng ở bãi trú quân khi chúng ngủ say. Có lần (trong mùa xuân 1963) tôi và Đình (tên thật là Nuôi, sau này đi bộ đội, hy sinh) xông vào một tốp lính đi đường ném lựu đạn diệt 3 tên thu 2 súng rồi biến vào rừng dương chạy miết về nhà. Bao nhiêu việc táo bạo mà tôi thấy vui thích và cuốn hút tôi vào như trò ú tim. Những việc ấy chị Ngành - người “chỉ huy” của tôi chỉ còn biết mắng yêu: “Bọn bay liều như vậy có ngày không ai đến ứng cứu kịp đâu nghe...”. Chị nói vậy nhưng chị ôm chặt chúng tôi vào lòng, tôi thấy mắt chị vui. Và mùa xuân năm ấy tôi được chính thức vào đội do chị chỉ huy làm những gì mà chị thấy vừa sức của mỗi đứa.

Việc học sao không lôi kéo tôi ham đến vậy, mà sao những công việc mạo hiểm kia cứ mỗi ngày đưa tôi vào không khí sôi động của lứa tuổi 12. Tôi hành động mạo hiểm mà không biết sợ là gì. Một hôm tôi từ dưới biên chạy về nhà, khi nhìn thấy bọn lính bảo an đang xúm quanh một hình nộm bằng rơm “gầy như que củi” đầu đội mũ nan, tay bưng cái rổ có một ít lát khoai khô, một bên có tấm biển đề “7 người cộng sản bu ống đu đủ không gãy” chúng vừa chỉ, vừa cười hí hố mà không nhìn dòng chữ viết bằng than đè lên: “Đả đảo Ngô tổng thống, Hồ Chí Minh muôn năm” và dưới cái hình nộm đó, tối qua các chú du kích chỉ cho tôi và Đình cài hai quả lựu đạn M.26 của Mỹ rồi dòng dây vào gốc cây keo ở cạnh chuồng heo nhà tôi. Nhân lúc không nhìn thấy, tôi hô to: “Các ông ơi! Việt cộng kìa...” rồi nhanh như sóc nhảy vào gốc keo giật dây, một tiếng ầm ầm làm cả bọn đang lùng sục trong làng chạy ra hốt hoảng vãi đạn loạn xạ xúm lại khiêng đồng bọn. Tôi kịp thời lao xuống giếng nước mà cha tôi đào để tưới nước khoai vào những ngày nắng nóng cách sân nhà tôi chừng 200m rồi chui vào hầm bí mật nơi chú Minh Hoàng, cán bộ Huyện ủy nằm vùng đang ở đó. Chú xoa đầu tôi đang thở hổn hển rồi tấm tắc: “Giỏi... tuổi nhỏ, chí lớn... Giỏi... Giỏi thiệt...” rồi tôi ngủ say trong vòng tay của chú.

Và có lần vào Hội An về, cha tôi quát: “Mi là thằng mất dạy, ai bảo mi đi đầu đoàn biểu tình sáng nay...”. Cha tôi mắng nhưng ông đâu có nói hết lời và cũng chẳng thấy ông bảo không được làm việc ấy. Bởi chỉ vì tôi sợ nói ra cha tôi không cho làm và may sao đêm đó chị Ngành nghe được đến an ủi tôi và xin cha để chị dạy bảo các em. Ấy là lời của một bà chị và cũng là một vị “chỉ huy” hàng ngày giao nhiệm vụ cho tôi (...)..

Tôi nhớ Nhung, em sinh ra cùng tôi trên mảnh đất mà mỗi hạt cát cũng mang một vết thương, rì rầm những câu chuyện về lẽ sống. Cũng từ đó và chính mảnh đất này chắp cánh và nâng bước đời tôi.

Trên mỗi lối mòn bãi cỏ, vườn ươm nơi sân trường vắng bóng thầy trò, rồi những buổi trăng thanh soi bóng trên các sân nhà chúng tôi hết đóng kịch “lưỡi gươm đẫm máu” rồi hát vang bài ca “Vùng lên! Nhân dân miền Nam anh hùng...” rồi những đêm gần như không ngủ, tôi và Nhung hô to “đả đảo đế quốc Mỹ! Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam muôn năm!”. Cứ như vậy suốt một quãng thời gian dài khi tôi làm Thiếu đoàn trưởng Thiếu niên Tiền phong của xã, tôi cùng Nhung và các bạn trang lứa như bầy chim chưa đủ lông đủ cánh, cứ chập chững bay đi mãi vào cuộc sống lạc quan những ngày đầu quê tôi vừa giải phóng.

Tất nhiên lúc đó tôi chỉ biết nghe theo các anh chị về bảo Nhung và các em đi đào hầm, đặt chông, báo cho du kích biết là Mỹ - ngụy đi lối nào, và “chạy đưa giấy” hết chỗ này sang chỗ khác... vắt chân lên cổ mà chạy cho nhanh đến chỗ hẹn để gặp du kích. Hết ngày này qua ngày khác, công việc cuốn hút tôi có lúc như quên ăn, thậm chí quên cả việc “tề gia nội trợ” mà mẹ đã dặn (lúc đó không còn ai lớn trong nhà nên tôi phải đảm nhiệm cái “vinh dự” lớn lao ấy). Thật vậy, không biết mấy lần tôi bị cha lôi về nằm sấp lên ván và đánh cho bốn, năm roi dương liễu vì bỏ việc nhà mẹ dặn (đi chợ, mua rau heo, giã gạo nấu cơm, giặt giũ quần áo v...v).

Nhưng dù có bốn, năm chứ hàng trăm roi cũng không thể bắt tôi ở nhà. Mặc dầu cha biết việc tôi làm là có ích nhưng vì tuổi tôi còn nhỏ cha sợ lỡ việc lớn sau này mới biết cách dạy của cha là để che mắt mọi người, chứ thâm tâm cha rất muốn vì lúc đó ở nhà có nuôi ba cán bộ cơ sở, kể cả chú Minh Hoàng (đã hy sinh sau này).

Đánh mãi nên lì đòn... Vào một sáng mùa thu, tôi được chị Ngành giao nhiệm vụ đóng vai “học sinh” trường Trần Quý Cáp - Hội An cùng với Đình (tức Nuôi) lãnh trách nhiệm làm liên lạc cho đoàn đấu tranh chính trị. Tôi không chần chừ nhận ngay. Cha không hề biết và tối hôm đó cha bảo: “Mai con ở nhà nấu cơm cho các chú du kích và các em ăn; cha mẹ đến tối và không biết đến bao giờ mới về”. Tôi cứ “dạ” mà trong bụng chẳng lấy gì làm phấn khởi...

Sáng hôm đó mới 3 giờ gà chưa gáy nhưng khắp các nẻo đường của làng quê cát, tôi thấy không biết bao nhiêu đoàn và mỗi đoàn không biết bao nhiêu người, mà chỗ nào cũng có, kẻ khăn người nón, bà gánh ông mang băng cờ khẩu hiệu... Tôi và Đình được trang bị chẳng kém gì các chàng “thư sinh” của thị xã chạy khắp các đoàn biểu tình, chỗ nào cũng thấy người từ già đến trẻ. Chạy đến đoàn này đến đoàn khác, tôi thấy cả những bà chị đầu bịt khăn, tay bồng con nhỏ, tay xách mo cơm cũng hăng hái đi cùng đoàn.

Có tiếng gọi từ hàng trên xuống dưới của một phụ nữ: “Hùng... Hùng! Bắt đầu nghe em”. Đó là mật hiệu, là mệnh lệnh. Tôi vâng và chạy, chị nói theo: “Hai em đi khỏe và học giỏi nghe” đó cũng là mật hiệu liên lạc. Tôi chạy theo đoàn người hết ngả này đến ngả khác, từ Tân Khai, Hà My, Hà Quảng, chợ Cầu và nhiều nơi khác. Bà con rùng rùng đổ về ngã ba cầu Phước Trạch quận Hiếu Nhơn đó là mục tiêu tiến công từ nhiều hướng, cả những xã, phường Hội An cũng tiến vào. Tôi và Đình hăm hở và tìm mọi cách để lách qua các đoàn người lao về phía trước đoàn biếu tình nơi mà người chỉ huy đang đợi. Nhưng vượt qua chưa được hai phần ba đoàn thì phía trước có tiếng gọi: “Hỡi anh em binh sĩ, không được bắn vào bà con!” Đó là lời hịch và mệnh lệnh của những người chính nghĩa đang kêu gọi bọn lính gác quận. Nhưng không, bất chấp những lời kêu gọi khẩn thiết của đồng bào, địch vẫn nổ súng và tiếng kêu vang lên: “Có người trúng đạn bà con ơi!”. Mắt tôi nhìn thấy hai người đàn ông cầm băng rôn đi đầu ngã xuống trước họng súng của bọn lính đang chốt giữ cầu Phước Trạch. Trong sóng người nhô lên, tôi phải tìm cách quay lui để báo tin cho chị Ngành. Khi ra khỏi, tôi bắt đầu chạy về báo tin, bọn lính phát hiện bắn theo rào rào trên đầu. Băng về tới điểm hẹn thì các anh chị ra đón. Mặt cắt không còn giọt máu, tôi hổn hển: “Chết... chết hai người”. Chừng để một lát cho tôi lại sức hoàn hồn, các anh chị hội ý nhanh và rồi chị Ngành bảo: “Bây giờ, em chạy xuống nói với bà con là tiếp tục tấn vô quận, khoảng 10 giờ trưa, chị sẽ cho người tiếp tế cơm nước”. Thế là tôi lại băng đi, khi trở lại, người ở đâu đã kéo đến nghìn nghịt. Hướng có tiếng súng nổ đã có thêm 3 người nữa bị địch bắn trọng thương. Các chú nằm đó trên đầu cầu, máu loang thắm đỏ những tấm băng đắp. Tìm được người chỉ huy trực tiếp đoàn biểu tình, tôi truyền đạt lại mệnh lệnh chỉ đạo và chú ấy lập tức kêu gọi bà con: “Đồng bào hãy tiếp tục tiến lên, cho đến khi nào quận chấp nhận yêu cầu không bắn phá vào làng xóm và bồi thường tính mạng cho người đã chết”. Rồi chú ấy kéo tay tôi đi lên phía trước. Bất ngờ gặp cha sợ mất hồn vì biết cha sẽ la. Nhưng sao lúc đó cha chẳng nói chi, chỉ hỏi: “Chứ giày dép con đâu? Quần áo ràng mà lấm bùn đất nhiều rứa?”. Ánh mắt cha nhìn như quở trách mà chan chứa yêu thương con trẻ.

Cuộc đấu tranh của bà con Điện Dương (Cẩm Hải - Hội An) đến 17 giờ cùng ngày thì kết thúc. Quận trưởng quận Hiếu Nhơn đã phải chấp thuận yêu cầu của những người biểu tình. Tối hôm ấy những người chỉ huy cuộc biểu tình họp rút kinh nghiệm. Riêng tôi thì bị cha lừ mắt như muốn đánh đòn vì không nghe lời mẹ dặn ở nhà nấu cơm tiếp tế.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:19:33 am
Xa mẹ

Tháng 3 năm 1965, Mỹ đổ quân vào miền Nam. Quê tôi bắt đầu oằn lưng vì giày đinh và xích xe tăng Mỹ. Cuộc sống đảo lộn. Tiếng súng lại vang xa và nổ nhiều ở các xóm làng Quảng Đà yêu dấu. Trong giấc nồng tôi mơ bồng súng xông vào đám quỷ sa tăng đang ào ạt đổ vào cảng Đà Nẵng (...). Sông Hàn cuộn sóng, đường phố tràn ngập máu và nước mắt. Tôi hét to trước cảnh một tên Mỹ cắp một em bé ném vào bụng xe vì em chưa kịp bê thùng cà rem chạy khỏi đường để xe chúng qua. Và cứ thế tôi kêu thét: “Không... không được!”. Cặp mắt thơ dại ngây ra khi tôi chợt tính, thấy cha ôm chầm lấy tôi mà dỗ và lau mồ hôi. Rồi ông sờ soạng khắp người tôi xem có sao không. Tôi lại thiếp đi trong chiếc chiếu còn thơm mùi cói, trong hơi thở của cha tỏa khắp...

Biết tôi khao khát một cuộc ra đi (như đã có lần đi vào tháng 3 năm 1963), cha mẹ băn khoăn lắm. Lần đi trước, khi anh Nhan, Chính trị viên Đ.64 về nhận quân thì anh Minh Hoàng - Huyện ủy viên hoạt động ở nhà tôi nói với anh Nhan: “em còn nhỏ quá, tuổi 13 có điều kiện hoạt động hợp pháp trong đội công tác binh vận...”. Đến lần này thì cậu tôi cũng lên căn cứ nên nhất quyết đưa tôi đi cùng.

Cha mẹ băn khoăn không phải vì lẽ tôi đi sẽ thiếu người lo cơm nước cho cha, anh đi biển. Cũng không sợ thiếu một tay đỡ đần mẹ trong việc nhà và trông nom hai em nhỏ. Hình như cha mẹ chưa thể nào tin đứa con thứ sáu mới mười lăm tuổi đầu dám xung phong vào bộ đội. Mà cha mẹ nào không thương nghĩ và nhìn đứa con thơ dại. Mẹ sợ tôi cực, mẹ lặng lẽ ngồi vá chiếc áo cũ cho tôi. Anh Ba Thọ thì không nói gì, hai em Tám, Chín nhìn tôi ngơ ngác: “Anh muốn làm anh giải phóng à?”. Tôi không biết nói gì hơn, chỉ một câu: “Tui đi!”. Cha rằng: “Mày mà sợ cực quay lui, tao chặt làm ba khúc”. Nói rồi ông lặng lẽ bảo anh và tôi cùng sửa soạn thuyền lưới ra biển. Một cuộc ra biển để tìm kiếm chút cá tôm làm mâm cơm cúng ông bà cho tôi lên đường...

Đêm trước lúc ra đi, gió nồm mát rượi, nhìn bốn bức phên không còn ai ngoài mẹ và hai em. Tôi ôm mẹ, hôn em rồi mang chiếc gùi lặng lẽ ra đi. Không dám hỏi thêm cha mẹ điều gì. Bởi mẹ tôi hay rớm lệ, Tám còn bé, Chín em út đang ngủ say. Cha đi biển chưa về, anh ba Thọ thì lặn lội ngoài trảng. Đêm say đắm trong muôn vàn mùi vị. Chỉ có mùi nước biển bốc lên mằn mặn là khác, khác hẳn với không trung của đêm tháng ba ở vùng cát. “Con đi mẹ đừng nói với cha và anh, đừng bảo gì với Tám, Chín nghe mẹ”. Tôi nói và lùi dần ra khỏi cửa. Gió nồm vùng biển đưa tôi xa dần, xa dần cái miền quê đầy khát vọng của tuổi thơ. “Nhớ gửi thơ về nghe con!”, “Dạ” tôi trả lời và khuất dần sau mấy hàng dương uốn mình vẫy theo trong đêm gió biển. Biển lại cuộn theo từng đợt sóng và rồi phẳng lặng với dân chài như bao năm rồi họ lặn lội nơi đây. Để sống mãi với biển, họ đã đi lên trên đại dương dập dềnh sóng nước, vượt qua những hiểm nguy nhiều lúc như chiếc lá mong manh trong bão tố. Đứa con của biến như tôi ra “biển đấu tranh cho độc lập của quê hương” sẽ có bao nhiêu người nâng bước? Chắc chắn là nhiều, như lá rừng dương góp phần thổi bùng lên ngọn lửa...

Từ buổi đó cho đến những năm tháng chiến đấu sau này và khi biên giới Tây Nam vẫy gọi lần thứ hai tôi ra đi mà lòng luôn nung nấu những vần thơ về mẹ:

                        “Thưa mẹ, con đi”:

                        Xa mẹ tuổi mười ba
                        Nay mới ghé qua nhà
                        Xuân xanh tròn ba sáu
                        Đời vẫn còn bôn ba
                        Mẹ ơi! Con đi nhé
                        Biên cương đang đợi kia...


(Điện Dương, tháng 3-1963
Đông Bắc Campuchia tháng 3-1986)


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:23:19 am
Chương hai

TỪ CHIẾN TRƯỜNG ĐẾN CHIẾN TRƯỜNG

Nháy núi

... Đêm về khuya, biển lùi dần. Chúng tôi men theo nỗng cát dọc đường số 6 từ Điện Dương ra sở Mỹ (Bệnh viện người cùi - bệnh phong do Mỹ xây dựng) đến Điện Ngọc, huyện Điện Bàn giáp Hòa Hải huyện Hòa Vang rồi men theo bờ ruộng của Điện Thắng để vượt đường 1A. Hành trang không có gì nhiều chỉ có 2 bộ quần áo bà ba cũ, đôi dép cao su, lương thực là 2 ổ bánh mỳ và một cặp đường đen mẹ tôi nhét vội vào cái gùi, mà sao lúc này cảm thấy nằng nặng trên vai. Tôi vừa xốc lại cái gùi thì có một tín hiệu phía trước: “Nằm xuống!”. Lợi dụng bờ ruộng chúng tôi tản ra để ẩn nấp, từ hướng Đà Nẵng vào Vĩnh Điện có một tốp lính đi tuần tra... Tôi buột miệng: “Bị lộ à?”. Đình bấm vai: “Chưa chắc, có khi bọn nó đi theo quy luật...”. Bình tĩnh chờ lệnh.

Nằm áp người vào lòng đất mẹ, hương lúa đông xuân vừa lên đòng lòng tôi nhẹ nhõm và thầm cảm ơn các anh, chị du kích đã dạy cho tôi biết về cách phòng tránh khi trên đường gặp địch, thở không phát ra tiếng động, nằm mà địch đi qua không biết, mắt nhìn mà không để phát ra ánh sáng nhất là khi có đèn pha ô tô chiếu vào v..v.. Tôi đang miên man nghĩ suy thì lệnh: “Vượt đường”, tôi và mọi người cắm đầu chạy một mạch cho đến khi vượt qua khỏi nỗng Bầu Mưng, xã Điện Thắng rồi lẩn vào làng để kiểm tra quân số đi tiếp...

Cứ thế, đêm quê hương trải dài theo bước chúng tôi di, luồn lách giữa khoảng cách của huyện Điện Bàn và huyện Hòa Vang để tránh bọn giặc và chỉ điểm. Đêm thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, phía trước chúng tôi là một miền xanh bất tận. Tôi vui quá reo lên: “Ôi rừng, anh em ơi!”. Suối chảy róc rách, tôi dừng lại làm một hơi thật đã khát, rồi quơ tay tung nước lên cao để làm mưa..., không ngờ đã vô tình làm cho các chú chim đang ngái ngủ tung cánh vẫy vùng giữa đại ngàn xao động nắng xuân.

Tất cả đều mới lạ, một người con của biển được lên rừng, từ đỉnh núi của dốc xe đạp (tên giao liên thường gọi khi qua đây) tôi nhìn về biển: “Phương đông hừng sáng, nắng lên đỏ ngàn...” đã in sâu trong tâm trí của tôi để rồi sau này thay lời kết của bài thơ (Đêm biên cương nghe vọng lời non nước - Dáng núi năm 2003).

Núi rừng là điểm dừng chân đầu tiên của tôi để làm quen với môi trường mới, môi trường quân giải phóng Quảng Đà và biết thêm phiên hiệu của đơn vị là K71; anh Ngọc và anh Sen là người lớn nhất và lần đầu tiên tôi được nghe mọi người gọi là thủ trưởng, rồi các anh bảo chúng tôi hàng ngày phải gọi nhau bằng đồng chí. Còn bọn chúng tôi thì trố mắt nhìn nhau. Đứa thì cao, đứa thì thấp mặt mũi chẳng ai giống ai (răng) mà gọi đồng chí? Tôi đang thắc mắc thì anh Ngọc vỗ vai: “Đồng chí có nghĩa là đồng chí hướng đi đánh giặc, giải phóng quê hương anh bạn ạ...!”. À là như vậy? Tôi thở phào rồi lẩn vào đám đông vì xấu hổ... Sau một tuần ổn định biên chế, vì tôi nhỏ nhất đơn vị nên được anh Ngọc và anh Sen cho ở chung một chỗ, hàng ngày cùng hai anh đi rừng với anh em. Người chặt cây, bẻ lá, san nền để làm nhà. Chiều về, anh Ngọc giao cho tôi một tay lưới cước ra suối đánh cá cho đơn vị cải thiện. Bởi Đình giới thiệu ở nhà tôi đã theo cha và anh đi đánh cá biển nên các anh tin tưởng. Tôi suy ngẫm về câu nói mỗi lần ngồi bên cha vá lưới: “Nhứt chạng vạng nhì rạng đông...”. Có nghĩa là vào thời điểm đó thường đánh bắt được nhiều cá, tôi vận dụng làm theo mỗi lần chiều đến và sáng ra lúc nào cái ăng-gô cũng đầy ắp vừa tung tăng vừa nghêu ngao: “Thuyền ơi! Thuyền lưới ơi! Dưới khoang, nhặt cá đầy...”. Cứ hát đại cho đến lúc về đến nhà mọi người chạy ra trầm trồ nhiều, nhiều hỉ? Anh Ngọc và anh Sen cứ xoa đầu, không chọn nhầm “ngư phủ”.

Biết vậy, hằng ngày tôi vẫn đều đặn đi tập quân sự, học 10 lời thề, 12 điều kỷ luật và nhất là mỗi lần nghe cả đơn vị hát bài: “Giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước...” rồi: “Vì nhân dân quên mình...” cứ cháy lên theo ngọn lửa bập bùng quanh lán, trại... làm cho núi rừng, khe suối, chim muông cùng hòa chung bản nhạc thôi thúc chúng tôi ra trận...

Cái gì đến rồi cũng đến, giữa những ngày tháng tư, tôi đang thu lưới bắt mẻ cá lúc chạng vạng dưới suối, thì Đình chạy ra gọi về sinh hoạt đơn vị. Hai chúng tôi vừa đi vừa nghĩ ngợi không biết có chuyện gì? Vì mọi hôm tôi mải miết đánh bắt cá tối 21 giờ mới về, bữa nay về sớm vậy? Sau khi giao cá cho anh nuôi, tôi chạy lên báo cáo anh Ngọc, anh Ngọc hỏi: “Hôm nay đủ liên hoan cho đơn vị một bữa không?”. Tôi định thưa thì anh Sen an ủi: “Nói cho vui thôi, đã có một con heo và thịt hộp, rồi cá của Hùng nữa là đã đời rồi, đừng lo! về thay quần áo để đi sinh hoạt đơn vị”. “Dạ!”.

Núi rừng, tây Quảng Đà về đêm càng yên tĩnh lạ thường. Dưới ánh đèn tự tạo thắp bằng dầu rái của những người dân đi đốt than còn sót lại, đơn vị thu gom đồ dùng mỗi khi sinh hoạt tập trung, tôi cứ mải nhìn lên mái nhà lợp bằng lá trung quân còn tươi xanh rồi liên tưởng những ngày đi rừng bị vắt cắn, muỗi đốt, thèm muối, đói cơm, sao đời vẫn vô tư vậy. Và nữa nhớ nhất là mỗi khi được xuống đồng bằng vùng A Điện Bàn, vùng B Đại Lộc để gùi gạo, vào những buổi chiều khi mặt trời khuất núi rồi, vùng giáp ranh, đồng bằng hiện lên trước mắt là những cánh đồng lúa xanh rì rào trước gió, thấp thoáng các nếp nhà dân tỏa khói lam chiều. Đêm đến, chỗ nào có ánh đèn chớp chớp trong các lùm cây hoặc gốc rơm đó là “tín hiệu” an toàn, nhân dân báo hiệu không có địch đi càn quét. Tôi cùng anh em nhào tới hạ gùi đổ gạo, muối, có hôm có cả thịt, cá hộp và đường sữa... ước chừng 15 đến 20kg vừa sức của mỗi đứa... xong xuôi, các mẹ, các chị thu giấy ghi nhận rồi dẫn vào nhà “chiêu đãi” một bữa no say đến khi tiếng gà gáy báo hiệu chở nhứt, tôi và anh em lại lên đường bịn rịn chia tay những tấm lòng thơm thảo của nhân dân đồng bằng Quảng Đà dành cho mỗi lần đi gùi gạo...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:25:34 am
Đi gùi gạo, có khi cũng đổi bằng máu nếu gặp địch phục kích không về được trong đêm hoặc trên đường đi cũng có lần bị phi pháo chặn đường rồi biệt kích, thám báo rình rập ngày đêm.

Có lần từ vùng B Đại Lộc, tôi và Ư cùng tiểu đội vừa ra khỏi nhà dân chuẩn bị lên ranh (vùng giáp giới giữa đồng bằng và căn cứ), vừa đi thì thấy mấy bụi chà là lá sắc nhọn như chông tua tủa những trái vàng, trái đen đang lấp lánh những giọt sương mai. Tôi bảo Ư nghỉ làm mấy quả đỡ khát nước nhân thể chờ phía sau lên rồi cùng vượt dốc Ông Thủ (tên địa phương quen gọi). Bất ngờ một loạt pháo bầy ụp tới, tôi vơ vội chiếc gùi rồi cắm đầu chạy tìm chỗ ẩn núp. Khi quay lại nhìn thấy Ư đang lê chân mà cái gùi gạo vẫn cõng trên lưng. Tôi đến cạnh dìu Ư, thấy bắp chân phải đã trúng mảnh pháo, tôi cầm máu rồi cố hết sức bình sinh cõng gùi của mình và khoác gùi của Ư trước ngực, vừa động viên Ư vừa kéo vào một tụ thủy gần đó ngồi chờ.

Khi cả đơn vị tới, nhìn tôi chỗ nào cũng rớm máu. Anh Ngọc sờ soạng khắp người và hỏi: “Mi bị thương chỗ mô mà máu ra nhiều rứa?”. Tôi ấp úng: “Không! Em không việc chi” rồi chỉ sang Ư đang nằm lấy sức. Anh Ngọc đến chăm sóc cho Ư, tôi mới sực nhớ là mình bị gai, lá chà là cào khi tìm chỗ tránh pháo...

Đình, tôi và Ư ba anh em cùng thôn. Nhưng Ư lớn tuổi hơn đang ôn lại những gì mà ba đứa từ ngày xa quê đến nay chưa có dịp chuyện trò.

Rồi đơn vị đứng dậy, trực ban báo cáo anh Ngọc: “Đơn vị đã đông đủ mời thủ trưởng làm việc...!”. Tất cả ngồi xuống, anh Ngọc ra lệnh! Và giới thiệu anh Sen phát biểu với đơn vị:

- Như các đồng chí đã biết, Ban chỉ huy Tỉnh đội Quảng Đà đã điều các đại đội Đ61, Đ62, Đ63 xuống các vùng địch còn kìm kẹp, kết hợp với nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược. Đại đội Đ64 là đại đội trợ chiến, gồm hỏa lực ĐKZ, cối 81 và đại liên, phối hợp với bộ binh và đặc công, đêm 30 tháng 5 năm 1961 với truyền thống “chân đồng vai sắt, đánh giỏi bắn trúng” bí mật dùng cối và ĐKZ tập kích sân bay Đà Nẵng, lập công xuất sắc được tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Hai...

Trước yêu cầu nhiệm vụ mới mà vị trí chiến lược của tỉnh Quảng Đà bao giờ cũng thành mảnh đất đầu sóng ngọn gió của Tổ quốc. Khi mà chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ đã sụp đổ hoàn toàn, ngụy quyển ở miền Nam rệu rã, ngày 8 tháng 3 năm 1965 hơn 3.000 quân thuộc lữ đoàn lính thủy đánh bộ số 3 của Mỹ từ Ô-ki-na-oa ào ạt đổ bộ lên Đà Nẵng.

Miền núi là nơi các lực lượng vũ trang cách mạng phát triển để tiến về đồng bằng đánh địch, “phá ấp chiến lược” giải phóng nông thôn, giải phóng nhân dân... Do vậy, thời gian huấn luyện của chúng ta phải tạm ngừng để bổ sung quân số cho các đơn vị chuẩn bị mở rộng lực lượng và thành lập đơn vị chiến thuật cấp tiểu đoàn...

Anh Sen nói vừa dứt, cả hội trường vang dậy tiếng vỗ tay dội vào vách núi tỏa lan một hồn thiêng sông núi: “Ra đi giữ trọn lời thề. Diệt chưa hết giặc chưa về quê hương...” cứ âm vang mãi khi những cánh tay giương cao sẵn sàng... sẵn sàng...

Tiếp theo, anh Ngọc đọc danh sách từng tiểu đội, ai đi đâu, đơn vị nào rất rõ và to. Đến lượt tôi, anh hỏi: “Hùng bao nhiêu tuổi? Từ ngày về đây cân được bao nhiêu cân?”. “Dạ, em sinh năm Canh Dần 1950, hôm vô đơn vị cân được 35kg!” Anh ngạc nhiên: “Ủa mi mới 15 tuổi à, 35kg có vác nổi nòng cối 81 không?”. Như sợ chưa được đi về đơn vị chiến đấu, tôi nhanh miệng nói “tuổi nhỏ nhưng cố gắng tập luyện sẽ tăng cân ạ. Cho em đi lần này nghe thủ trưởng? Thôn em có ba đứa; Đình, Ư đi, em ở lại thì buồn... buồn lắm!”.

Từ đầu hàng quân, anh Sen đến cạnh tôi và ân cần: Thôi được, sau đây về láng gặp nhân viên quân lực hướng dẫn bổ sung vào hồ sơ trước khi về đơn vị, thời gian chúng ta còn ba ngày để chuẩn bị...

Đêm đó và ba ngày còn lại, tôi, Đình, Ư mỗi đứa một ý nghĩ. Trong ba đứa thì Ư hơn tôi và Đình tới 2, 3 tuổi, còn tôi và Đình cùng là tuổi Dần (theo hồ sơ gốc trước khi đi). Bây giờ bổ sung như thế nào đây? Băn khoăn nghĩ mãi không ra...

Anh Ngọc đến và hỏi: “Ba đứa đang bàn mưu tính kế gì mà thì thầm mãi vậy?”. Ư thay tôi và Đình trình bày: “Hai đứa không biết tính tuổi như thế nào cho đúng ý thủ trưởng - Sen nói!”. À ra vậy, rồi anh Ngọc mách đường, nếu hai đứa cùng sinh năm 1950 thì mới 15 tuổi, e đơn vị mới không nhận đâu, vì bọn bay chưa đủ vị thành niên mà... Nghe đến đây, tôi lại thắc mắc: “Sao hôm học chính trị, thủ trưởng bảo Bác Hồ kêu gọi toàn dân kháng chiến thì không kể trẻ già, trai, gái. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm...”. Răng bọn tôi 15 tuổi mà không vào bộ đội chủ lực của tỉnh được? Anh Ngọc cười rồi bế thốc tôi lên: “Thằng này giác ngộ thật, đưa ngay cả lời Bác Hồ dạy ra để thách đố cấp trên...”. Rồi ông ôn tồn chí dẫn tôi và Đình bổ sung hồ sơ khai tăng lên một tuổi cho tròn 16 tuổi.

Và từ đây năm sinh của tôi là 1949, được bổ sung về Đại đội hỏa lực Đ64.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:29:50 am
Về với Đ64 – R20 xứ Quảng

Rời K71, chúng tôi theo anh Ngọc qua không biết bao nhiêu suối, vượt qua bao nhiêu đồi. Đứng bóng thì cả đội hình dừng lại bên một con suối lớn, nước trong veo xanh biếc cả lũ chúng tôi thỏa mái vẫy vùng. Sau chừng 15 phút, anh Ngọc quay lại đưa chúng tôi đi vòng qua một đoạn nữa thì vượt qua một chiếc cầu khỉ làm bằng thân cây rừng có bện song mây thay lan can để vịn, mặt cầu lát bằng thân lồ ô to bằng cổ tay, đi cứ đu đưa rất thích. Hết cầu, vượt một cái dốc thoai thoải nữa lại hiện ra con suối to hơn và bằng phẳng, bên bờ cây to, lá xanh cao chót vót ngửa mặt nhìn không thấy trời. Anh chỉ mọi người vào ngôi nhà lợp lá nón ngồi chờ...

Anh dẫn tôi vào một cái nhà cách đó chừng 50m. Bên cạnh là chiếc hầm bán âm. xung quanh thưng bằng cây gỗ tròn, trên cũng lợp lá nón rất xinh, ở giữa đặt một cái bàn ken bằng nứa, ghế hai bên bằng thân cây gỗ đẽo vuông vức phía đầu cùng, từ trong nhà đi ra cũng có một cái ghế nhưng chỉ một người ngồi...

Tôi chào những người đang ngồi chờ trong hầm thì anh Ngọc nói luôn: Báo cáo các anh đơn vị chí chọn được một “chàng thư sinh” này, người nhỏ nhưng rất nhanh nhẹn, dễ thương, biết đánh bắt cá sông rất giỏi, xin bàn giao để ban chỉ huy đại đội giao nhiệm vụ; tôi xin phép về kẻo để anh em chờ lâu...

Anh Ngọc ra về. Một anh trong bốn người ở bàn đứng lên nói: Mình là Kỉnh, Đại đội trưởng, anh Nhan bên cạnh đồng chí là Chính trị viên Đại đội, tiếp theo là anh Nhĩ, Chính trị viên phó, bên kia là anh Tùng, Đại đội phó. Nhiệm vụ của đồng chí là cùng với Phước Hùng phục vụ các anh trong ban chỉ huy đại đội; khi nào đi chiến đấu sẽ phân công cụ thể. Nhưng nói chung làm đủ mọi việc lúc huấn luyện công tác cũng như đi chiến đấu là rất gian nan vất vả thậm chí cả hy sinh nữa, đồng chí thấy thế nào?

Tiếp lời anh Kỉnh, anh Nhan nói: “Yên tâm, gia đình Hùng thế nào? Từ tháng 3 năm 1963 đến nay chắc thay đổi lắm phải không?”. Tôi đáp: “Thưa thủ trưởng, cha mẹ em và chú Minh Hoàng vẫn khỏe, anh Ba Thọ đã làm Xã đội trưởng. Từ bữa em đi đến nay không có địa chỉ cụ thể nên chưa liên lạc được ạ”. Anh ân cần: “Không sao, bọn mình sẽ giúp để gửi thư thăm gia đình!”.

Từ hôm nay tôi được gặp lại anh Nhan, người mà hồi tháng 3 năm 1963 đã về nhận tôi đi, nhưng chú Minh Hoàng cán bộ cơ sở nằm vùng nói em còn nhỏ và đang hoạt động cho cơ sở địch vận tại địa phương, anh Nhan đồng ý rồi nói như ra lệnh: “Hùng đã là người của Đ64 đó anh Hoàng nghe...!”. Hai anh cùng cười rồi chia tay, không ngờ chuyện đó nay đã thành sự thật và tôi như mơ mình đang đi giữa đoàn quân trùng trùng, điệp điệp trong không khí mùa xuân rạo rực.

Sau một giấc ngủ trưa, chiều đó tôi được Phước Hùng (liên lạc cũ) dẫn tôi đến Trung đội cối 81, do anh Giảng làm Trung đội trưởng, qua trung đội ĐKZ do anh Chương làm Trung đội trưởng, leo lên một quả đồi thấp ở dưới có một dòng suối nhỏ róc rách ngày đêm là vị trí của trung đội đại liên, thấy anh Ngọc đang nằm trên võng ngồi dậy, tôi chột dạ hỏi: “Răng anh lại ở đây?”. Anh tỉnh bơ: “Không ở đây thì đi đâu!” Tôi hỏi tiếp: “Anh Sen đâu?”. “À Sen về tiểu đoàn rồi”. “Tiểu đoàn ở mô”, tôi hỏi. “Mai mốt sẽ biết”, anh đáp!

Đêm đến, anh Nhan cột võng gần tôi, ôn tồn giảng giải: Hùng về đây, nếu khi đi chiến đấu sẽ là người tháp tùng Đại đội trưởng. Anh Kỉnh rất nóng tính và có lúc quyết đoán rất táo bạo, em chịu khó nghe lời và làm đúng chức trách của người chiến sĩ liên trinh (tức vừa liên lạc vừa làm trinh sát của đại đội). Gan dạ, dũng cảm cũng chưa đủ, mà phải có bản lĩnh vững vàng để khi có tình huống phức tạp có thể xử trí đúng lúc, đúng chỗ và đúng sự việc được giao...

Tôi vâng rồi thiếp đi. Khi nghe tiếng gà rừng gáy, chim muông chao liệng, cả khu vang vọng nhịp thể dục một... hai của các trung đội. Tôi vội chạy ra suối múc đầy mấy ống lồ ô nước, vội vã nấu sôi rồi chạy đi vớt lưới đêm qua đi thả dưới suối về để các anh cải thiện. Trời ơi, tay lưới chừng 20m tôi bao quanh một khúc suối rồi bọc vào một khoảng cát ở dưới dòng chảy của thác mà sau một đêm không biết cơ ngơi nào cá trắng, cá trê, cá chuối... con nào con nấy to như hoa chuối rừng. Có con vừa dính lúc chạng vạng đang vẫy vùng... Tôi mừng quýnh, không gỡ mà ôm luôn cả lưới và cá chạy một mạch về lán.

Thấy tôi khệ nệ cả đơn vị đang tập thể dục ùa tới trầm trồ: “Đúng là ngư phủ”. Đình và Ư thì bảo: “Mày giỏi thế, mấy ông đại đội răng mà không thích”. Tôi ghé sát tai Đình: “Tao cất 2 con cá trắng to bằng cổ tay dưới chân cầu đánh răng, mi ra lấy về cho trung đội anh Ngọc dùm nghe!...”.

Là đại đội trợ chiến, có cối 81, ĐKZ và đại liên, ngày này qua ngày khác khi xong việc của chiến sĩ liên trinh, tôi và Phước Hùng cùng tham gia học tập với các khẩu đội. Tôi thích nhất là ngắm các quả đạn cối 81 như cái bắp chuối hột, vỏ xám rì, mùi thuốc lại thơm thơm rồi lân la đến mấy khẩu đại liên cao lèo khoèo khi giá, 3 chân chạng ra như bà nông dân đi tát nước bằng gàu sòng ở quê tôi. Nhưng được một cái là băng đạn tròn da đỏ au vàng rực, tôi khoác thử một dây kín cả người, nặng ơi là nặng.

Đang giờ giải lao nên mọi người nhìn tôi nhỏ thó quấn đạn đầy người giống như chú lùn trong phim “Chú lùn và nàng Bạch Tuyết”. Mặc kệ cho cười, tôi thích làm xạ thủ đại liên mà... Tôi qua Trung đội ĐKZ của anh Chương. Mọi người ca hát, còn anh ngồi trên hòn đá, bên bờ suối để cắt tóc. Thấy tôi tới, anh hỏi: “Đố Hùng ở đây ai to nhất?”. Tôi chưa rõ câu hỏi, nhìn quanh mọi người như đang cầu cứu câu giải đáp... Anh Cán, Khẩu đội trưởng bảo: “Đại đội trưởng của mi chứ ai...”, cả khẩu đội được một trận cười, anh Chương kéo tay tôi và chỉ: “Cái ông đang sờ đầu tao là to nhất đó...”. Lúc này tôi mới vỡ lẽ đó là câu chuyện vui mà sau này bọn chúng tôi gọi là “tiếu lâm của lính”.

Giai đoạn huấn luyện đồng hóa giữa “tân binh” và “cựu binh” được kiểm nghiệm bằng một cuộc bắn đạn thật cả ba loại hỏa lực đều đạt loại giỏi, học chính trị quán triệt chủ trương của Tỉnh ủy và được sự chỉ đạo của Quân khu: “Điều động các đại đội trực thuộc tỉnh đội đang hoạt động ở các huyện và huấn luyện bổ sung về vùng B Đại Lộc để thành lập tiểu đoàn bộ binh đầu tiên của lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Đà. 100% cán bộ, chiến sĩ viết quyết tâm thư chờ ngày xung trận.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:30:43 am
Trở lại đồng bằng

Sau chặng đường hành quân xuyên rừng, vượt thác, nhằm hướng đồng bằng, mảnh đất mà đại đội đã được nhân dân chở che đùm bọc những năm tháng chiến đấu đầu tiên, diệt ác, hỗ trợ cho phong trào nổi dậy phá ấp chiến lược chính là vùng B Đại Lộc. Đây là nơi đã nâng bước cho Đại đội Đ64 vượt qua vùng ven Đà Nẵng đầy rẫy đồn bốt địch làm nên chiến công đêm 30 tháng 5 năm 1964 nhả những viên đạn cối 81, ĐKZ chính xác vào mục tiêu phá hỏng nhiều máy bay, kho tàng và sinh lực địch...

Quên sao được từ những năm 1964, khi Đại đội Đ64 ra đời trên mảnh đất Đại Lộc đang trong cao trào giải phóng quê hương, đã giúp cho đơn vị dày dạn kinh nghiệm và lập nhiều chiến công trong chiến đấu cũng như công tác dân vận. Đây là chiến trường quen thuộc đã từng gắn bó máu thịt với vùng B Đại Lộc, khi bám dân diệt ác, phá kèm, phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền...

Giờ đây chúng tôi chuẩn bị vượt sông Vu Gia để về với sông Thu Bồn. Cán bộ, chiến sĩ Đ64 quên sao được trận lũ cuồng phong năm Thìn (1964). Vùng B Đại Lộc ngập chìm giữa hai vùng nước của hai con sông Vu Gia và Thu Bồn. Những chiến sĩ giải phóng quân một tay chèo, một tay súng băng mình giữa cuồn cuộn sóng gió vừa đánh giặc vừa cứu dân, để có một vùng B Đại Lộc hôm nay làm điểm tựa cho sự ra mắt của tiểu đoàn.

Đêm thứ ba thì cả đại đội đã về đến xã Lộc Hưng (nay Đại Hòa) huyện Đại Lộc. Đại đội trưởng Huỳnh Kỉnh bảo tôi vào liên lạc với du kích đã chờ sẵn ở đình Hoà Thạch rồi ra đưa các trung đội vào bố trí ở nhà dân. Cái đáng nhớ nhất của tôi người chiến sĩ liên trinh lúc này là:

- Dẫn trung đội nào đến đâu, bố trí mấy nhà, trung đội trưởng và các khẩu đội trưởng ở nhà ai, tên gì, chỗ đó có đặc điểm gì đáng nhớ? Trời ơi, đêm khuya địa hình mới lạ, nhà dân cũng vừa mới tới, làm liên trinh trong chiến đấu làm gì có sổ sách để mà ghi, thôi thì cứ đưa vào trí nhớ cũng được.

- Mặt khác, khi đã ghi hết tên chủ nhà vào “bộ nhớ” của mình thì về chép vào sổ thông tri của đại đội để ngay cạnh máy điện thoại hữu tuyến, rồi tìm đường lên bắt liên lạc với trinh sát tiểu đoàn...

Cứ như vậy đi đến đâu, dù ở gần địch hay xa địch, hỗ đại đội dừng chân triển khai đội hình trú quân thì người chiến sĩ liên trinh là mạch máu của ban chỉ huy đại đội lưu thông với các trung đội và cấp trên, phòng khi có tình huống khỏi bị động trong xử trí.

Đúng 19 giờ ngày 19 tháng 5 năm 1965, trên các nẻo đường quen thuộc của vùng B Đại Lộc rộn rã bước chân những đơn vị Đ61, Đ62, Đ63 và Đ64 rầm rập thẳng hướng bờ sông Thu Bồn xanh mát bóng tre rồi đến từng nương dâu ngút ngàn bên bãi cát trắng thôn Giảng Hòa, xã Đại Thắng, huyện Đại Lộc. Cả một rừng cờ phấp phới tung bay dưới trời đêm vùng quê giải phóng.

Lễ ra mắt, thành lập Tiểu đoàn 1 bộ binh, bộ đội địa phương Quảng Đà, mang mật danh “Đơn vị R20” được tổ chức trọng thể trang nghiêm. Các đoàn đại biểu thay mặt cho đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân cùng toàn thể cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn tràn đầy tin tưởng phấn khởi.

Đứng cạnh tôi là các mẹ, các chị của thôn Hòa Thạch, xã Đại Hòa. Có một bà mẹ vì quá xúc động trong những tháng ngày bị bọn giặc kìm kẹp, bộc bạch: “Qua rồi, những ngày “tố Cộng”, “diệt Cộng” của quân thù, các con đã lớn lên, cách mạng đã mạnh rồi, đông như rứa mà làm răng không thắng!”. Mẹ say sưa nhìn ngắm bộ đội và lắng nghe lời hứa quyết tâm “quyết thắng” cùng với lá quân kỳ từ tay Tỉnh đội trưởng Nguyễn Hữu Đức trao cho Tiểu đoàn trưởng Lê Lan Chi và hứa hẹn: “Tiểu đoàn 1-R20 sẽ xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà. Dù kẻ thù là Mỹ hay ngụy, chúng tôi nhất định ra quân trận đầu sẽ làm cho kẻ thù bạt vía kinh hồn ngay trong tháng 5 này để dâng lên ngày sinh nhật của Bác Hồ kính yêu”. “Quyết tâm! Quyết tâm!...” tiếng hô vang dậy cả khúc sông cho đến bãi mía, nương dâu cũng phất cờ cùng tiểu đoàn ra trận...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:34:05 am
Trận đầu thành dũng sĩ

Sau lễ thành lập tiểu đoàn, đại đội trưởng, chính trị viên và các trung đội trưởng đi chuẩn bị chiến trường. Bộ đội ở nhà tiếp tục huấn luyện, học tập chính trị. Tôi đi đến khẩu đội nào cũng thấy các anh bàn và quyết tâm lập công. Khi đi ngang qua khẩu đội anh Nguyễn Huy Sô và Lê Vĩnh An, anh nào cũng bảo: “Bắn mục tiêu cố định thì bách quả bách trúng. Nếu là di động thì phải chuyển đi cho kịp thời...”. Đến khẩu đội ĐKZ của anh Minh (thường gọi Minh Bạc - đầu bạc trắng) thì xôn xao: “Dù cố định hay di động, tụi này cũng phang hết đạn mới hả dạ...” Còn đại liên của anh Bông thì: “Dù AH-1U hay AC-37 cả F-105 ta cũng quét mỗi loạt là một thằng cắm đầu xuống đất hoặc bốc lửa trên trời để dâng lên Bác kính yêu...”.

Qua hai ngày đêm đi nghiên cứu chuẩn bị chiến trường, Đại đội trưởng Huỳnh Kỉnh cùng ban chỉ huy đại đội lên phương án đánh địch, sinh hoạt toàn đại đội dân chủ quân sự thảo luận cách đánh của từng loại hỏa lực theo cách đánh của trận địa phục kích đánh cắt giao thông trên trục đường số 1 đoạn từ cầu Bà Rén - Hương An vào thị xã Tam Kỳ...

Với đại liên sẽ tăng cường cho các hướng của bộ binh, còn ĐKZ sẽ phục 2 đầu đường đoàn xe địch sẽ đi qua được bố trí bí mật trước rìa làng và tận dụng các gò đất cao hoặc gò mả ngụy trang thật bất ngờ...

Riêng trận địa cối 81 sẽ lùi phía sau về chính giữa đội hình ở cự ly trong tầm bắn có hiệu quả. Nhưng phải có từ 1-2 trận địa dự bị khi cần di chuyển trên hướng chủ yếu và thứ yếu của tiểu đoàn...

Đây là dịp để Đại đội 4 (Đ64) tỏ ra khí phách của sức mạnh: “Chân đồng vai sắt đánh giỏi bắn trúng...”. Ai ai cũng hồ hởi tham gia, có đồng chí đang sốt rét chưa khỏi cũng tỉnh dậy nhất quyết xin đi chiến đấu, không chịu nằm nhà... Đại đội trưởng kết luận xong phương án đánh phục kích và nhấn mạnh: Đây là phương án chính, khi nào triển khai trận địa tiếp tục theo dõi diễn biến nắm địch của lực lượng trinh sát phía trước cung cấp sẽ tùy cơ ứng biến... Rõ! Mọi người đồng thanh hô như một lời hứa quyết tâm, rồi làm công tác chuẩn bị, đợi lệnh lên đường...

Đêm 27 tháng 5 năm 1965 đường quê giải phóng yên tĩnh, chỉ còn nghe những bước chân rậm rịch nặng nhọc của các xạ thủ cối 81, ĐKZ và đại liên... lao vun vút giữa những hàng cây rợp lá. Tôi được đại đội trưởng cho phép chạy đi chạy lại để nhắc nhở mọi người bám sát đội hình khi qua ngã ba, ngã tư cứ như một đoàn tàu đang chuyển mình theo hướng núi Xuyên Hiệp rồi vượt dốc Bà Son thì ông mặt trời cũng đi ngủ. Đêm tối, ngửa bàn tay không thấy.

Tôi chạy lên đầu đội hình đi gần đại đội trưởng để chuẩn bị vượt qua quốc lộ 1A, thì anh Kỉnh bảo chuyển lệnh: “Đi theo lối có hương cắm!.”. Tôi ngạc nhiên chì biết làm theo cho đến khi đội hình đã vào triển khai tại xã Duy Thành, huyện Duy Xuyên. Lúc đi kiểm tra trận địa cối, ĐKZ, đại liên bố trí rồi quay về đào công sự chờ lệnh anh Nhan - Chính trị viên mới cho biết: “Hương cắm dọc đường là của trinh sát tiểu đoàn đi trước làm lộ tiêu cho bộ đội hành quân khỏi lạc...!”. “À, ra thế lúc này tôi mới hiểu hết cái giá trị kinh nghiệm chiến đấu của cha anh, hèn gì mà kẻ thù nào cũng đánh thắng...”.

Lúc này đã 3 giờ 30 phút sáng, ngày 28 tháng 5 năm 1965. Các đại đội bộ binh, chặn đầu, khóa đuôi, chính diện và bên sườn, hỏa lực cối, ĐKZ hoàn thành công tác chuẩn bị chiến đấu đúng kế hoạch. Tôi chạy truyền lệnh của đại đội để các trung đội ăn cơm và sẵn sàng chờ lệnh.

Thôn 3 Văn Quật rộng khoảng 2km2 ở phía bắc sông Bà Rén, dọc quốc lộ 1A phía đông là vùng giải phóng liên hoàn từ Duy Xuyên đến Thăng Bình, Tam Kỳ. Khi trận đánh kết thúc bộ đội có thể lui quân về vùng đông để nghỉ ngơi đồng thời làng Văn Quật khi trận chiến đấu xảy ra, nếu quân địch chi viện từ Quế Sơn ra cũng phải qua cầu Bà Rén hoặc ngoài Vĩnh Điện, Nam Phước vào sẽ đi trên quốc lộ 1A. Cả hai cánh quân đều dễ bị ta phát hiện từ xa và nằm trong tầm hỏa lực ĐKZ, súng cối, đại liên. Như vậy ta luôn giành thế chủ động chiến trường để buộc địch đánh theo cách đánh của ta.

Nhưng vì đêm hôm trước, bộ đội địa phương huyện Duy Xuyên hành quân qua đây sơ suất để lại dấu vết nên ngày 28 tháng 5 năm 1965 địch phát hiện và huy động 2 đại đội biệt kích “Tây Hồ”, 2 đại đội bảo an và gần một nửa số tổng đoàn dân vệ đã bí mật bao vây làng Văn Quật.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:45:57 am
“Vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, từ trận địa phục kích đánh giao thông, tiểu đoàn di chuyển vị trí chỉ huy và đại đội hỏa lực về phía sau để thiết lập trận địa. Các đại đội bộ binh 1, 2, 3 bí mật cơ động hình thành thế bao vây chia cắt theo cách đánh vận động tiến, công địch đi càn.

Mệnh lệnh phát ra, nắm thắt lưng địch mà đánh! Kiên quyết không cho chúng nó thoát... Từ các hướng mũi đồng loạt nổ súng tiêu diệt bọn gần nhất và thọc thẳng vào bọn biệt kích đang co cụm phía trước. Bị đánh bất ngờ, quân địch rối loạn dồn hết ra rìa làng, gặp Đại đội bộ binh 2 hất tung trở lại, các chiến sĩ Đại đội bộ binh 1 tả xung hữu đột dùng lê đâm thẳng quân thù, cả bọn biệt kích, bảo an, dân vệ tháo chạy về hướng gò mả, co cụm hòng tìm cách thoát thân liền bị các khẩu đội cối 81 của Đại đội 4 rót những quả đạn căm thù xuống đầu quân giặc băm nát những tên biệt kích ngoan cố, đẩy quật chúng nó trở lại cánh đồng trống trải...

Phần tôi, thường ngày bị các anh chọc quê là chiến sĩ “tí hon” của đại đội (lúc bây giờ mới 15 tuổi). Đại đội trưởng Huỳnh Kỉnh ra lệnh cho tôi xuống truyền đạt cho các trận địa di chuyển theo phương án đánh địch co cụm ngoài đồng trống...

Bom, đạn vẫn nổ, tôi cứ chạy, khi qua một cái cầu bắc qua sông cụt gần đình Văn Quật thấy 3-4 tên ngụy nằm úp mặt xuống đất máu me be bét, tôi vừa vịn cầu vừa nhìn thì một loạt pháo chụp ngay trên đầu. Tôi như con sóc nhảy xuống bờ ruộng tránh đạn, bất ngờ thấy một tên biệt kích chết, tôi tước luôn khẩu cácbin-M2 rồi lao đến khẩu đội anh Trà Thanh Lân khói đạn nghi ngút, người hy sinh, người bị thương. Anh Sô và anh An đang lấy phần tử bắn. Trong tình thế cấp bách tôi truyền lệnh của đại đội trưởng cho anh Lân, rồi quên mình là liên lạc đại đội tôi, cứ nhào vào giúp sức cùng các anh di chuyển bắn theo mệnh lệnh của đại đội trưởng hướng cánh đồng... độ hướng... thước tầm 3-5 quả cấp tập nã băm nát bọn chúng và đẩy bọn biệt kích, bảo an ra khỏi cánh đồng, tạo điều kiện cho bộ binh ta xuất kích... bọn địch còn sống sót chạy thục mạng ra sát sông Bà Rén.

Và thật trớ trêu, 4 chiếc phản lực từ Đà Nẵng đến định oanh tạc cứu nguy cho bọn ngụy quân trên trận địa Văn Quật, lại dội trúng đội hình của chúng kết liễu bọn tàn quân sớm hơn dự định của ta.

Đến 15 giờ cùng ngày, trận đánh kết thúc. Tôi rời khỏi trận địa chạy về báo cáo đại đội. Khi đi qua khu vực tác chiến của Đại đội 1 do anh Lại Nam Dương chỉ huy, tôi thấy cả một đoàn lính địch khá đông, quần áo xộc xệch đủ màu sắc, mặt hốt hoảng nhìn quanh của bọn biệt kích, bảo an, dân vệ đang ngoan ngoãn đi theo sự chỉ dẫn của quân ta, ước chừng đến 200 tên bị bắt.

Về đến đại đội, tôi vừa thở vừa khệ nệ vác tới 3 khẩu súng (1 khẩu garan-M1 được trang bị, 1 cácbin-M2 thu trên đường xuống khẩu đội anh Lân và một khẩu garan-M2 xin của Đại đội bộ lệnh 1 trên đường về). Anh Kỉnh hỏi:

- Răng mi chừ mới về? Tôi trình bày diễn biến trên đường đi đến trận địa và lúc về, anh cắt lời: “Thôi được 2 khẩu súng là xóa tội...”. Thấy tôi vừa mừng vừa lo, anh Nhan đỡ lời: “Anh xuống kiểm tra Trung đội ĐKZ và đại liên rồi ra trước với anh em, tôi và Hùng xuống trung đội cối ra sau...”.

Anh Nhan cầm tay tôi kéo đi nhưng chân chưa mười bước, anh Kỉnh liền bảo: “Mi bỏ khẩu garan-M1 lại, khoác khẩu cácbin-M2 đi với anh Nhan!”. Chỉ chờ chừng đó thôi, tôi đưa anh Nhan qua hết những nơi tôi vừa gặp rồi đến khẩu đội của anh Sô.

Các anh đang thu dọn trận địa, không gian chìm lắng dưới làn khói đạn còn vương vãi trên các thân cây quanh làng đã bị chặt đứt sau trận oanh tạc của máy bay và pháo địch... Đồng đội nằm đó, các anh chưa muốn rời xa...

Anh Nhan, người chính trị viên đại đội trong sinh hoạt cũng như lúc vào trận, lúc nào cũng kiên nghị, vững vàng là linh hồn chỗ dựa của cán bộ, chiến sĩ, giờ đây cũng phải rút khăn lau mặt, rồi ân cần:

“Trong chiến đấu việc thương vong không thể tránh khỏi, các đồng chí bàn giao anh em đã hy sinh cho bộ phận làm chính sách cùng địa phương chuyển về nơi đã định, khẩn trương thu dọn chiến trường đưa đơn vị rời khỏi trận địa theo kế hoạch của đại đội”.

Vĩnh biệt các anh, chúng tôi sẽ bắt quân thù đền tội trong những trận đánh tiếp sau.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Tư, 2022, 08:46:55 am
Đến 21 giờ ngày 29 tháng 5 toàn đơn vị về chợ La Tháp, xã Xuyên Thanh nơi mà cách dây 2 ngày chúng tôi xuất quân. Sau gần 3 giờ đồng hồ, chúng tôi triển khai phương án chống càn, các loại công sự dựa vào lũy tre và hào giao thông, mương nước rìa làng để bố trí trận địa hoàn tất. Theo sự phân công của ban chỉ huy đại đội, tôi cùng đại đội trưởng đi kiểm tra trận địa. Ngoài số được cắt cử canh gác, còn lại cứ 2-3 người một nhà dân vào ngủ để lấy lại sức cho ngày chiến đấu tiếp theo. Nhưng lạ thay, đã 5 giờ sáng, gà gáy tối canh năm mà nhà nào cũng đóng cửa im lìm, ra trận địa thì thấy bộ đội trải lá chuối cái nằm, cái dắp cho đỡ lạnh...

Tôi lặng lẽ bước theo đại đội trưởng về đến hầm chỉ huy thì các anh trong ban chỉ huy đã tề tựu đông đủ, chụm lại hội ý nhận định tình hình: Sao nhà nào cũng đóng cửa, họ mới tiễn chân mình tối 25 tháng 5 kia mà, tất cả tình yêu thương và tấm lòng bao dung của người dân xứ Quảng: “Các con đi chiến thắng lại về!”.

Mãi đến 11 giờ, khi bộ đội chưa tìm ra nước để uống, cơm cũng không có mà ăn (quân giải phóng Quảng Đà vào những năm 1965 khi đi chiến đấu đến đâu đều có dân nấu cơm cho ăn rồi ghi vào biên nhận). Anh Nhan - Chính trị viên đại đội bảo tôi cùng đi đến nhà mà khẩu đội đại liên của Thanh, Thùy, Minh ở hôm trước xem sao?

Tôi đưa anh Nhan đến một gia đình ngay bên cạnh chợ La Tháp, vừa bước vào nhà bất ngờ nhìn cảnh một người đàn bà và 2 đứa trẻ đầu quấn khăn tang khóc méo mó:

Chồng em, cha tui bị sự bắt buộc phải đi lính, chứ chưa gây tội ác chi mô... Tiếng than khóc của người quả phụ và 2 đứa trẻ làm cho những chiến sĩ giải phóng quân chúng tôi thấy nao lòng. Tôi chia sẻ: “Chị ơi! Sẽ không có sự chết chóc oan ức nào nữa, khi mà cả nhân dân miền Nam đứng lên diệt ác, phá kèm, kêu gọi con em đang lầm đường lạc lối hãy quay về góp sức mình giải phóng quê hương, đánh đuổi bọn cướp nước và bán nước. Chúng tôi là con em của nhân dân cũng như người thân của gia đình chị, nên biết gạt đi những giọt nước mắt “lầm đường” đứng lên đánh đổ kẻ thù đã làm cho chị và các cháu mất mát người thân, biến đau thương ngày hôm nay để có được ngày mai, đó là sự phân biệt giữa những người chính nghĩa (quân giải phóng) và những kẻ phi nghĩa (bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai ngụy quyền) để xây dựng lòng yêu nước, yêu quê hương và căm thù giặc...”.

Anh Nhan vỗ vai tôi: “Hùng học ở đâu mà giải thích lưu loát đến vậy?”. “Dạ”, học Chính trị viên..!. Anh hôn tôi rồi gọi đồng chí Thanh, đảng viên, khẩu đội phó ra ngoài... một lúc sau, thấy cả tổ Thùy, Minh cùng mang theo gùi vào nhà...

Khoảng 14 giờ, tôi quay lại, thấy nhà cửa sạch sẽ, nước đầy chum, rau, gạo, cá khô, củi để trong bếp, 2 đứa nhỏ chạy quanh nhìn khẩu đại liên đang vươn nòng bên vườn chuối trước sân.

Chị chủ chào tôi rồi bảo: “Chú ở đây ăn cơm với mấy anh cho vui!”. Tôi ngạc nhiên thì Thanh bảo: “Chị vừa ra chợ mua cá về có người nói chồng chị bị bắt, chứ không phải “Việt cộng” giết”.

Tôi “vâng!”, bụng đang đói đây. Cả nhà vừa ăn vừa nhìn ra cánh đồng chợ La Tháp đang trải một màu xanh bất tận giữa ánh nắng hồng của chiều xuân miền quê xứ Quảng.

Tổng kết trận đánh, đại đội trưởng thông báo kết quả là ta diệt một liên đoàn địa phương quân (tương đương 1 tiểu đoàn), thu hơn 300 súng các loại, bắt hơn 200 tên (có tên Bường, đại đội trưởng biệt kích và tên Được, đại đội trưởng bảo an).

Đây là trận đánh từ phục kích đánh cơ giới trên quốc lộ 1A, sang vận động tiến công, bao vây tiêu diệt quân địch đi càn. Đó là kết quả của trí tuệ, tài năng vận dụng nguyên tắc chiến thuật và cách xử trí linh hoạt của đội ngũ cán bộ, trình độ chiến thuật - kỹ thuật của chiến sĩ và phân đội, là trí thông minh và lòng dũng cảm của quân giải phóng Quảng Đà đạp lên đầu thù xốc tới.

Với Đại đội 4 hỏa lực, đây là trận đầu đã nâng cao trình độ hiệp đồng tác chiến và phương pháp bắn chính xác, linh hoạt góp phần cùng bộ binh tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

Đại đội trưởng nhấn mạnh: “Tuy nhiên, sự mất mát, đau buồn khi mất đi một số đồng chí là điều không tránh khỏi dưới mũi tên, làn đạn quyết sống mái với quân thù. Ta đã thắng! Qua đây, tôi cần lưu tâm với các đồng chí rằng:

Trong tác chiến, bất luận dưới hình thức chiến thuật nào, dù địa hình đồng bằng hay rừng núi hoặc ven biển, đầm lầy với bất cứ đối tượng tác chiến nào, chúng ta phải luôn nắm vững nguyên tắc phải có dự bị mạnh cả về sinh lực và hỏa khí, phải có nhiều trận địa bắn, nắm chắc thời cơ, cơ động để hạn chế bị động và thương vong”.

Nghe đại đội trưởng thuyết trình, tôi vẫn chưa hình dung hết những gì đã diễn ra sau trận đánh. Anh Nhan, Chính trị viên bố sung:

“Trận đầu ra quân giành thắng lợi giòn giã, đơn vị ta xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân chiến đấu dũng cảm, sử dụng được nhiều loại vũ khí. Không bắt được tù binh nhưng lại thu được vũ khí cho đơn vị để đánh địch, các đồng chí xứng đáng được đề nghị lên cấp trên khen thưởng... Mong rằng các trận tiếp theo, đại đội ta cần phát huy gương chiến đấu đó, dù là chiến sĩ liên lạc, trinh sát, nuôi quân... đều là xạ thủ, pháo thủ, biết sử dụng cả đại liên, cối 81 và ĐKZ...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2022, 06:35:47 am
Xạ thủ “tí hon”

... Từ sau trận Văn Quật, tôi được điều về trung đội đại liên do anh Ngọc làm Trung đội trưởng, anh Mãi làm Trung đội phó, bổ sung vào khẩu đội do anh Bông làm Khẩu đội trưởng, anh Thanh làm Khẩu đội phó. Bôn cạnh tôi có Thùy, Minh, Ư và những đồng đội khác, tôi vô cùng phấn khởi được sống trong tình thương yêu của đồng đội và sự chăm sóc chở che của nhân dân vùng B Đại Lộc.

Khẩu đội bắt tay ngay vào đợt huấn luyện mới, củng cố và phát triển đội ngũ đoàn viên và tôi được vinh dự kết nạp vào Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng ở tuổi 15. Sau đó được chọn làm xạ thủ số 1 của khẩu đội.

Trong khẩu đội, tôi là người nhỏ nhất, nhưng được anh Bông tín nhiệm là nhanh nhẹn, mắt sáng, lần tập nào cũng lấy đường ngắm chuẩn, từ bắn đón, bổ nhào của các loại máy bay bay thấp, đến ngắm bắn các loại mục tiêu cố định, di động của bộ binh rồi lô cốt...

Một hôm đang tập ngoài trận địa, gần chùa Quảng Đợi, bất ngờ có một vệt khói trắng trên bầu trời... Anh Bông ra lệnh: “Máy bay! vào “ngắm!”. Tôi lúng túng: “Báo cáo, không thấy máy bay?”. “Thôi ngắm!” Anh vỗ vai:

“Rất thông minh anh chỉ thử xạ thủ “tí hon” thôi, chứ bắn sao được, vừa cao lại vừa nằm trong khu vực trú quân của ta dễ bị lộ, không khéo còn kỷ luật nữa chứ đừng có vội nghe!”.

Từ sau lần đó, kinh nghiệm kiến thức làm người xạ thủ đại liên trong tôi cứ nung nấu chờ ngày lập công...

Luyện quân được hơn 1 tuần, chúng tôi lội sông Thu Bồn, vượt núi Trà Kiệu về Sơn Phúc, huyện Quế Sơn, qua chợ La Tháp, Xuyên Thanh, huyện Duy Xuyên, vượt quốc lộ 1A xuống vùng C Điện Bàn ra Hòa Vang.

Đôm 30 tháng 5 rạng ngày 1 tháng 6 năm 1965, tập kích sân bay Đà Nẵng, phá hủy 47 máy bay các loại, diệt trên 160 phi công và nhân viên chuyên môn kỹ thuật của địch, mớ màn cho cách đánh hiểm của lực lượng vũ trang địa phương tỉnh vào căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất miền Trung Trung Bộ của bọn Mỹ xâm lược. Đây là trận chiến đấu đạt hiệu suất chiến đấu cao, làm nức lòng quán dân miền Nam và cả nước. Đồng thời cũng là đòn giáng trả sấm sét của quân giải phóng Quảng Đà đối với bọn cướp nước và bè lũ bán nước.

Từ ngọn lửa thiêu cháy căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng, tôi cùng khẩu đội ngược sông Thu Bồn về Gò Nổi tháng 8 năm 1965 để đọ sức với hàng ngàn tên lính thủy đánh bộ Mỹ và tiểu đoàn báo an, góp phần cùng các lực lượng tô thêm trang sử vàng của quê hương chị Trần Thị Lý, chị Trần Thị Vân đi vào lịch sử của dân tộc.

Gò Nổi, đúng cái nghĩa của mảnh đất đào mồ chôn quân xâm lược và bọn tay sai thành từng gò, đống. Chưa hả giận của lòng căm thù, khẩu đội chúng tôi cùng đơn vị về Gò Phật, Kiểm Lâm, Mỹ Lược quê hương của “Triệu Tử Long”, Trần Dưỡng, trút bão lửa xuống sân bay An Hoà dốt cháy và phá hủy bọn quạ sắt “máy bay quân sự” buộc chúng phải đền tội của những cuộc ném bom bắn phá dân thường trên chiến trường tây nam Quảng Đà, để cho Mỹ Lược cùng dòng sông Thu Bồn bốn mùa xanh trong cùng guồng xe nước tưới mát những cánh đồng dưới đêm trăng khoan nhặt điệu hò khoan...

Phát huy chiến thắng sân bay Đà Nẵng, Gò Nổi, An Hòa trong khí thế hừng hực chuẩn bị cho trận chiến đấu mới với quyết tâm “lùng Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”, vào cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1965, tiểu đoàn chuẩn bị thế trận đánh địch càn quét nhằm bẻ gãy chiến dịch “Tám thơm”, bảo vệ cho nhân dân thu hoạch mùa.

Trận này, khẩu đội tôi phối thuộc cho Đại đội 1, chặn đầu trên đường 100 từ Vĩnh Điện đến km số 6. Mai phục mãi đến 14 giờ 30 phút ngày 2 tháng 9 năm 1965, dưới cái nắng tháng 8 “nám cả da” cứ phừng phực đổ lửa lên dầu, lên lưng, rồi những cơn mưa ập đến làm cho công sự trận địa của quân ta ngập nước.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2022, 06:36:44 am
Mặc kệ cái nóng chưa tan hết, nước mưa ướt sũng người, tôi vừa lau nòng khẩu đại liên vừa quan sát về hướng đông nào xe tăng M48, thiết giáp M113 dẫn dắt bọn lính đi hàng dọc tiến về phía trận địa ta, cách 50m, 30m rồi 10m... Một phát pháo hiệu vụt lên. “Bắn!”. Dứt tiếng hô của khẩu đội trưởng, tôi căng cò nã từng loạt đạn báo hiệu cho bộ binh đồng loạt xung phong...

Cối 81 của Đại đội 4 gầm lên dữ dội làm cho quân địch bạt vía kinh hồn kêu lên “Đ.M, đụng chủ lực Việt cộng rồi, chạy mau tụi bay”. Tôi lại siết cò, mày có chạy đằng trời, tôi thay đạn thì anh Lại Nam Dương - Đại đội trưởng Đại đội 1 khích lệ: Cứ bám mép đường 100 mà điểm xạ thật chính xác, đừng để bọn chúng chạy về Bồ Bồ... Cứ thế đại liên, súng cối 60, cối 81 bắn nát đội hình địch đang tháo chạy. Chỉ huy tiểu đoàn ra lệnh xung phong, tiếng hô xung phong của các hướng vang khắp trận địa.

Đến 16 giờ cùng ngày, tiếng súng thưa dần, bọn địch còn sống sót dẫm đạp lên xác đồng bọn chạy về căn cứ bỏ lại 200 xác chết và 25 tên bị bắt sống, ta thu 180 súng các loại, 3 máy PRC-25 kết liễu chiến dịch “Tám thơm” đánh bại ý đồ chiếm vùng A, B, C Điện Bàn của quân ngụy có máy bay, xe tăng, pháo binh Mỹ yểm trợ.

Trận đánh vừa tan khói súng, khẩu đội trở về vùng B Đại Lộc. Tôi được phân công ở nhà chị Mười Mai. Nói là nhà, nhung chỉ có một cái chõng tre và căn hầm tránh pháo. Hàng ngày chúng tôi trực ngoài trận địa, đêm đến trai ni lông nằm cạnh căn hầm tránh pháo của gia đình.

Tôi nhỏ nhất khẩu đội nên được ưu tiên nằm gần cửa để tiện ẩn nấp khi có tình huống. Bên trong là mẹ rồi đến chị. Sau giờ canh gác, chị ân cần hỏi tôi về những người thân và gia đình, chị chăm sóc tôi như đứa em trong gia đình.

Vào một ngày cuối tháng 5 năm 1965, anh trai tôi là Trần Minh Thọ đi dự Đại hội Chiến sĩ Thi đua và Dũng sĩ diệt Mỹ trên tỉnh về tình cờ gặp anh Bảo, quân y sĩ của tiểu đoàn đang trên đường xuống Đại đội 4.

Anh tôi ngờ ngợ hỏi: “Anh ở đơn vị nào, sao trông giống thằng em tôi rứa?”. Anh Bảo hỏi lại: “Em anh tên gì, đơn vị nào?”. Anh tôi ái ngại: “À người giống người xin lỗi” rồi đi. Anh Bảo nghĩ không thể như vậy được và chạy theo. “Anh gì ơi! Quê anh ở đâu?” Anh trả lời nhanh và gọn: “Điện Dương”. Anh Bảo lại hỏi: “Em anh tên gì?, à, Hùng, Trần Minh Hùng... có phải ở nhà gọi là Xu không?”. Anh tôi nói: “Đúng rồi” và hai anh ôm nhau rồi cùng đến chỗ tôi...

Lúc này khoảng 10 giờ 30 phút, cả khẩu đội chuẩn bị cơm trưa, tôi đang ngồi ở giếng bên nhà để chị Mười múc nước tắm và giặt đồ...

Thấy hai anh, chị Mười chào rồi bưng chậu quần áo vừa giặt đi phơi. Hai anh cứ nhìn theo bóng chị khuất dần sau khóm chuối mới quay lại hỏi tôi:

“Cô nào mà coi bộ thương mi dữ vậy?”. Tôi cười: “Chị Mười hộ lý xã đó, em ở nhà chị, nên coi như em vậy”.

Từ sau hôm đó, cứ mỗi lần đi chiến đấu ở đồng bằng hay ven đô Đà Nẵng về, chị lo toan nhiều hơn mọi sinh hoạt cho mọi người trong gia đình. Ngôi nhà của chị lúc nào cũng đầy ắp tiêng nói, tiếng cười. Tôi là niềm an ủi của mẹ, của chị là cầu nối giữa gia đình với Đại đội 4 hỏa lực và anh Bảo.

Anh Bảo khá đẹp trai, đôi lông mày rậm, sóng mũi cao, mắt sáng, khỏe mạnh, thông minh và có chuyên môn cao làm chị mê hồn. Anh cười, nhìn tôi trìu mến: “Nếu Mười gọi Bảo là anh, Bảo sẽ cho Hùng làm em trai Mười, đồng ý chứ?”.

Chị cười đôi má ửng hồng dưới làn da trắng ngần, đôi mắt dẹp và mái tóc dài óng mượt làm cho anh Bảo ngất ngây...

Năm tháng qua mau, địch thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” ồ ạt đánh phá vùng giải phóng Tây Quảng Đà. Tính chất chiến đấu, nhiệm vụ cách đánh, địa bàn hoạt động của R20 cũng thay đổi cho sát với phương châm “gặp ngụy là đánh, tìm Mỹ mà diệt...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2022, 06:37:49 am
Từ vùng B Đại Lộc, ngày 8 tháng 10 năm 1965, khẩu đội tôi tiếp tục phối thuộc cho Đại đội 1, hành quân về Xuân Diệm đón đánh đại đội Mỹ có chi đoàn tăng thiết giáp (M-113) từ Hòa Lương, huyện Hòa Vang băng qua đồng trống xông thẳng vào trận địa của đại đội.

Tôi đang thiết bị trận địa và lấy đường ngắm, anh Nguyễn Chí Sa, Tham mưu trưởng Tiểu đoàn, động viên tôi bắn phải tiết kiệm đạn. Trận này, khẩu đội tôi vừa diệt bộ binh vừa bắn máy bay bay thấp, chi viện có hiệu quả cho hướng Trung đội 3 đánh phủ đầu quân Mỹ, góp phần cùng đại đội diệt 87 tên, bắn cháy 6 máy bay trực thăng bắn bị thương 2 xe thiết giáp M-113, thu 14 súng, 2 máy PRC-10. Đây là chiến công của sự hiệp đồng chặt chẽ giữa bộ binh và hỏa lực, thể hiện tình đồng chí, đồng đội, tình yêu quê hương, sự dũng cảm kiên cường của cán bộ, chiến sĩ, lòng căm thù giặc Mỹ, bắt chúng phải đền tội cho sự tàn phá xóm làng, giết hại đồng bào ta mỗi khi chúng càn qua.

Riêng tôi, trong đêm hôm đó, anh Bông gọi lên thông báo: Thủ trưởng Sa rất khen ngợi Hùng, trận này sẽ đề nghị cấp trên thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba cho khẩu đội và dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt máy bay cho cậu... Tôi mừng mà quên cảm ơn anh...

Đánh Mỹ ngoài công sự ở Xuân Diệm đã khẳng định quyết tâm dám đánh và đánh thắng cũng như sự trưởng thành của Tiểu đoàn R20 - Tiểu đoàn An-giê-ri huyền thoại, là hành trang để tiểu đoàn đánh những trận then chốt tiếp theo.   '

Vui chung xen cả vui riêng, chúng tôi chấn chỉnh lực lượng, bố sung quân số, chình huấn chính trị và luyện tập quân sự. Đợt học tập này khác với lần trước là hành quân đêm, vượt sông, mang vác nặng qua các loại địa hình, thao trường bãi tập có hàng rào kẽm gai, ụ súng, lô cốt và cả máy bay, xe tăng, xe bọc thép đắp bằng đất.

Khẩu đội tôi huấn luyện chuyên sâu bắn vào lỗ châu mai của lô cốt và các loại máy bay đậu tại sân bay cũng như bố nhào từ các hướng vào trận địa. Có lúc ngắm thử các loại máy bay xuất hiện trên bầu trời khu vực đóng quân, nhưng không được nổ súng.

Luyện quân được hơn 1 tuần, từ Châu Sơn, đêm tối trời mưa đường trơn, ruộng nước, sông rộng chảy xiết, pháo địch bắn cầm canh, chúng tôi lặng lẽ vượt sông Yên vào chiếm lĩnh trận địa đúng quy định.

Trời vẫn tiếp tục mưa rả rích, Gò Hà nằm trên trục đường 14, cách Đà Nẵng vế hướng Tây khoảng 15km, do một đại đội thủy quân lục chiến Mỹ chiếm đóng bố trí theo kiểu hình tròn có công sự và xe tăng thiết giáp bố phòng, hệ thống hàng rào kẽm gai và hào giao thông nối thông, bao bọc xen kẽ mìn, lựu đạn, trái sáng đề phòng quân ta tiến công, là căn cứ tiền đồn trong công sự vững chắc án ngữ vành đai bảo vệ căn cứ liên hợp của Mỹ, ngụy tại Đà Nẵng.

Trận này, khẩu đội tôi vẫn đi trên hướng chủ yếu chi viện cho Đại đội 1 và bảo vệ vị trí chỉ huy tiểu đoàn có phái viên của Tỉnh đội đi cùng chỉ huy. Trước mặt tôi là một gò mả nằm sát bờ sông Yên. Người nhỏ, súng lại nặng, cự ly tiếp cận để bố trí phải nhìn thấy lỗ châu mai, ụ súng là một yêu cầu của trận đánh. Trong khi chiếm lĩnh giá súng xong, đồng chí Minh, xạ thủ số 2 lùi ra để tôi lấy đường ngắm, không may trượt chân va vào chân súng phát ra tiếng động... Từ hướng đông, một, rồi hai loạt súng nổ vụt qua đầu, cả khẩu đội nín thở, lộ rồi sao?: “Bình tĩnh, đó là súng cầm canh theo quy luật của bọn địch hay bắn vu vơ, khi đi trinh sát tụi mình hay gặp như vậy” - Anh Bông, Khẩu đội trưởng trấn an. Tôi tiếp tục lấy phần tử bắn vào lỗ châu mai của lô cốt, ụ súng chính diện và 2 bên sườn cửa mở, rồi hồi hộp chờ đợi.

Đúng 2 giờ ngày 1 tháng 10 năm 1965, một, rồi hai phát báo hiệu đỏ vụt lên không trung. “Bắn!” lệnh tiến công của Đại đội trưởng Lại Nam Dương, tôi lấy hết sức bình sinh căn cò nhả từng loạt đạn vào lỗ châu mai rồi nâng súng bắn qua đầu chi viện mũi chủ yếu thọc sâu vào bên trong trận địa địch.

Đồng chí Lê Tự Cả, phái viên của Tỉnh đội ra lệnh: Đại liên bắn máy bay trong tầm có hiệu quả bảo vệ đội hình chiến đấu của tiểu đoàn.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2022, 06:38:31 am
Tôi thao tác tư thế chiến đấu trên không cũng là lúc bọn máy bay C47 từ Đà Nẵng bay lên thả trái pháo sáng rực cả bầu trời.

Trận đánh diễn ra chưa đầy một giờ đồng hồ, căn cứ Gò Hà đã bị đánh chiếm, đại đội thủy quân lục chiến Mỹ bị tiêu diệt, ta thu hơn 150 súng các loại, khẩu đội tôi vẫn giá cao sẵn sàng bắn máy bay bảo vệ đội hình lui quân.

Sau trận Gò Hà, khẩu đội tôi được trang bị đại liên M60 thu được, nhẹ hơn, gọn hơn. Tôi yêu quý nó như người thân, theo tôi huấn luyện nâng cao trình độ chiến thuật - kỹ thuật và cách dùng súng mới thành thạo chuẩn bị mọi mặt cho trận giáp chiến mới.

Đúng như dự kiến của trên, bọn “cọp biển” từ Thăng Bình, Tam Kỳ rồi ra Gò Nổi, Điện Bàn, vùng B Đại Lộc; như vậy, quân Mỹ đã trực tiếp đọ sức với quân và dân ta trên chiến trường Quảng Đà.

Được sự cưu mang đùm bọc của nhân dân vùng B Đại Lộc, trong huấn luyện cũng như khi đánh địch đi càn, khẩu đội tôi được du kích và nhân dân làm sẵn công sự trong các làng xã chiến đấu từ An Phú, Gò Gia, Phú Lâm đến Quảng Đợi (Đại Thắng, Đại Lộc) để bố trí giữ được bí mật bất ngờ.

Sáng ngày 28 tháng 1 năm 1966, khoảng 200 lần chiếc máy bay trực thăng đổ quân xuống vùng B Đại Lộc, chia thành nhiều mũi đánh thẳng vào làng, xã chiến đấu của ta.

Từ kinh nghiệm trận Xuân Diệm, đường 100, bộ đội ta mai phục kiên trì, khẩu đội tôi cũng nóng lòng chờ đợi. Bọn địch tiến vào trận địa, cách 50m, 30m rồi 20m từng tên Mỹ to lù lù đã lọt vào đường ngắm.

Bắn! Khẩu đại liên rung lên, trút căm thù vào đầu quân xâm lược, tôi xuýt xoa: Rát quá, nóng tay quá! Anh Bông - Khẩu đội trưởng ra lệnh: “Thay nòng, để tôi yểm trợ”. Trong tích tắc cái nòng thứ 2 vừa thay cũng nghi ngút khói, nhìn ra phía trước công sự 20-30 rồi 50 tên Mỹ lăm lăm xông vào. Tôi hét: “Nhiều quá anh Bông ơi!”. “Mặc kệ! Bắn! Bắn!”. Mặt đất rung lên quân thù đổ như chuối chặt, bọn máy bay trực thăng vút lên cao bắn rốc-ket và đạn 20 ly nhưng vãi nhầm vào đồng bọn của chúng đang rên la chạy tán loạn.

Suốt gần một tháng trời trôi qua, khẩu đội theo sát đội hình chiến đấu của tiểu đoàn, đã đánh 54 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến 310 tên lính Mỹ, bắn cháy 4 máy bay trực thăng, thu 17 máy thông tin PRC10, PRC25 và nhiều vũ khí trang bị khác. Một lần nữa, bọn Mỹ phải ôm đầu máu thoát khỏi vùng B Đại Lộc.

Yêu cầu tác chiến ngày càng mở rộng, cả địa bàn hoạt động và vũ khí trang bị đảm bảo cho những trận đánh quy mô lớn hơn, tầm bắn các loại hỏa lực phải vươn xa hơn. Cuối tháng 1 năm 1966, khẩu đội tôi chuyển giao đại liên M60 cho các đại đội bộ binh để đi nhận vũ khí khác...

Từ Quảng Đà vượt Trường Sơn ra Bình Trị Thiên để nhận vũ khí mới. cả khẩu đội ai cũng: “Loại gì hè, to hay nhỏ, bắn có đã không? Cứ đi cho nhanh để trở về chứ không còn giặc mà đánh!”.

Đến miền Tây Quảng Trị, tôi không nhớ địa điểm, sau này mới biết đó là một kho vũ khí nằm dọc đường dây 559 đoạn A sầu - A Lưới của tỉnh Quảng Trị. Khi nhập trạm cũng là lúc lương thực trên vai đã cạn, sức khỏe của chúng tôi đã giảm. Tội nhất là Minh sốt rét gầy nhom, nhưng được bù lại các anh chị ở kho cho ăn thoải mái để lấy lại sức.

Hai ngày hôm sau thì anh Bông thông báo đã có phiếu nhận loại súng máy phòng không 12,7 ly, khác nhiều với đại liên MACS của Pháp và đại liên M60 của Mỹ... chúng tôi reo vui rồi cũng thấy lo lo...

Súng được lau chùi kỹ, có người hướng dẫn tính năng kỹ, chiến thuật, kỹ hơn là sử dụng máy ngắm có vòng và sửa chữa khi hỏng hóc. Tôi vẫn được ở nguyên vị trí số 1, nhưng vác nòng, anh Bông giao người khác...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2022, 06:39:27 am
Sau một tuần cả khẩu đội huấn luyện rồi bắn thử đạn thật mục tiêu mặt đất. Thích nhất là nổ to và đanh có thể bắn được tàu xuồng...

Trở lại chiến trường quen thuộc, trận đầu tiên sử dụng súng máy 12,7 ly. Đêm mồng 5 Tết âm lịch (24-2-1966) chúng tôi cùng tiểu đoàn vượt sông Thu Bồn, qua đường 100, đêm 26 tháng 2 bất ngờ tập kích xóa sổ tiểu đoàn 11 biệt động quân khét tiếng gian ác, làm nức lòng đồng bào giữa mùa xuân, ghi một chiến công mới của khẩu đội góp phần tô thắm truyền thống của Tiểu đoàn 1-R20 lập nên chiến công vang dội trên quê hương Quảng Đà.

Như vậy, “tìm Mỹ mà diệt” ngoài công sự ở vành đai diệt Mỹ Hòa Vang của tiểu đội Huỳnh Dạng, chỉ mới 25 ngày đêm đã xóa sổ 1 trung đội, đánh thiệt hại nặng 2 trung đội Mỹ, diệt 61 tên, thu 5 súng garan-M2 và nhiều đồ dùng quân sự... đã thể hiện ý chí quyết tâm và lòng dũng cảm biết đánh Mỹ và thắng Mỹ...

Cơ động ngoài công sự bị đánh, chúng co về cố thủ ở Gò Hà cũng bị Tiểu đoàn 1 - R20 đào mồ chôn quân xâm lược. Càng thua đau càng cắn càn... Bọn ngụy quân thúc giục tiểu đoàn 11 biệt động quân đi càn quét đốt phá vùng A, B Điện Bàn, cũng bị xoá sổ.

Quân ta thắng lớn, cứ ngỡ mình đi trẩy hội giữa mùa xuân. Đúng vào ngày 19 tháng 5 năm 1966, tiểu đoàn vừa tròn 1 tuổi kể từ trận Văn Quật đến nay. Ký ức chiến trận cứ dội về hun đúc khí thế cho ngày hội lập công mừng sinh nhật Bác Hồ, đó là phương án đánh Mỹ đi càn từ An Hòa vượt sông Thu Bồn sang vùng B Đại Lộc.

Ngày 16 tháng 5 năm 1966, tôi vừa ngụy trang xong trận địa thì nhận được thông báo: xe tăng M48, thiết giáp M113 và bọn Mỹ đang vượt sông Thu Bồn, chuẩn bị chiến đấu.

Nhằm thẳng bọn trung đoàn 5 lính thủy đánh bộ Mỹ bắn! Khẩu 12,7 ly rung lên hòa với dòng Thu Bồn nhấn chìm bọn Mỹ, bãi cát trắng Giảng Hòa đào mồ chôn cả một khối sắt thép khổng lồ quân xâm lược...

Gần một ngày chiến đấu hơn 200 tên Mỹ, 8 xe tăng M48 và thiết giáp M113 phơi xác, bọn Mỹ rất sợ đánh đêm, số còn lại quay về bên kia sông theo đường mà chúng đã đến.

Thể theo nguyện vọng của nhân dân, chúng tôi vượt sông Vu Gia về Đại Hòa, bảo vệ cho nhân dân thu hoạch mía.

Thế trận “Thiên la địa võng” của chiến tranh nhân dân vùng B Đại Lộc, kết hợp nghệ thuật chống càn của Tiểu đoàn 1-R20 đã giăng thành chiến lũy...

Từ Ái Nghĩa bọn địch chia thành 2 mũi đánh vào đình Không Chái và chợ Quảng Huế qua cây Đa Lý vào Hòa Thạch.

Phối hợp với cối 81 ly của đại đội đang trút bão lửa vào đội hình địch tập trung ở cây Đa Lý... khẩu 12,7 ly của tôi phục đón địch trên đường bay ở rìa làng, do vướng cây không bắn được, cả khẩu đội khiêng chạy đến khu gò mả ngay trên cánh đồng, nhả đạn vào bọn máy bay lên thẳng. Rồi gát súng vào hàng rào quét vào đội hình bọn thủy quân lục chiến Mỹ; bọn ngụy tay sai bỏ súng chạy, tôi quét theo làm chúng đổ như chuối chặt. Trong phút chốc, cả trận địa mặt đất lẫn trên không quần nhau với quân giặc; bọn địch chết la liệt, những tên sống sót và bị thương dẫm đạp lên nhau chạy tán loạn.

Trận đánh kết thúc, ta loại khỏi vòng chiến đấu 1 đại đội thủy quân lục chiến Mỹ, đánh thiệt hại cánh quân ngụy từ Ái Nghĩa đến, bắn rơi 7 máy bay trực thăng, bị thương 1 phản lực F-105, thu nhiều vũ khí quân trang quân dụng.

Trận cây Đa Lý đã tạo nỗi hoang mang lo sợ cho bọn địch ở quận lỵ Ái Nghĩa. Chúng cho rằng quân Mỹ, ngụy có trang bị vũ khí phương tiện tối tân, hiện đại chi đi nữa hoặc được sự chi viện sát sườn của đồng bọn cũng không thắng nổi “Việt cộng”, luôn xuất quỷ nhập thần, cách đánh mưu trí, gan dạ, khi gặp Việt cộng phải cẩn thận kẻo mất mạng như chơi.

Với Tiểu đoàn 1-R20, được Đảng bộ, chính quyền nhân dân Quảng Đà tặng cho câu ca dao thắm đượm tình dân xứ Quảng:

            “Trên trời có phản lực cơ
            Dưới đất đã có R-20...”


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2022, 06:40:13 am
Tham vọng đánh chiếm vùng B Đại Lộc của liên quân Mỹ - ngụy bị thất bại. Chiến công của Tiểu đoàn 1-R20 đã vượt đại dương đến với nhân dân thế giới. Nước An-giê-ri vừa giành được độc lập từ tay thực dân Pháp đã đề nghị Tiểu đoàn 1-R20 của tỉnh Quảng Đà mang danh hiệu: Tiểu đoàn An-giê-ri chiến thắng danh hiệu vẻ vang đó đã ghi vào Từ điển bách khoa Quân sự.

Trận cây Đa Lý bị thua đau, bọn Mỹ càng hung hăng càn quét trên diện rộng, đánh sâu vào vùng giải phóng của ta, xúc tác nhân dân các xã Lộc Phong, Lộc Hưng... mở rộng phạm vi lấn chiếm và bình định mùa khô của chúng.

Được nhân dân du kích vùng B Đại Lộc hỗ trợ, mở rộng lực lượng cùng với tiểu đoàn đánh sâu, đánh hiểm, đánh gần, đánh đêm phủ đầu bọn chúng bằng những đòn sấm sét ngay trong hậu cứ của quân Mỹ và chư hầu làm cho chúng vốn đã bạc nhược về tinh thần càng trở nên lúng túng đối phó.

Chiến công nối tiếp chiến công. Hưởng ứng lời kêu gọi ngày 17 tháng 7 năm 1966 của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, cả nước “Quyết thắng giặc Mỹ xâm lược”, khắp miền Nam, quân và dân ta thi đua giết giặc lập công cùng “chia lửa” với đồng bào, chiến sĩ miền Bắc và thủ đô Hà Nội bắn rơi nhiều máy bay Mỹ.

Quân giải phóng miền Nam nói chung, lực lượng vũ trang Quảng Đà nói riêng đã đúc kết kinh nghiệm qua các trận đánh trên chiến trường và nhận định: Chiến thuật của quân Mỹ - ngụy vẫn là thủ đoạn càn quét, tìm diệt chứ chưa có gì mới để dối phó với bộ đội ta. Ngược lại, các lực lượng vũ trang cách mạng trên chiến trường đã có bước phát triển cả về chất và lượng. Chiến thuật, nghệ thuật quân sự vận dụng vào từng trận đánh đều linh hoạt sáng tạo, trận sau hiệu suất chiến đấu cao hơn trận trước, thế của ta đang lên và đẩy quân Mỹ - ngụy vào thế bị động, thế thua nhưng bản chất ngoan cố và hiếu chiến của đế quốc Mỹ và bọn tay sai ngụy quyền Sài Gòn không bao giờ thay đổi.

Với tôi, sau trận cây Đa Lý được bổ nhiệm “Tiểu đội bậc phó”. Từ vùng B Đại Lộc về Gò Nổi đang bám đánh địch và chuẩn bị cho đợt hoạt động (Đông Xuân 1966-1967) thì có lệnh của trung đội về gặp đại đội trưởng nhận nhiệm vụ.

Năm tháng chiến đấu từ chiến sĩ liên trinh, rồi xạ thủ đến tiểu đội bậc phó, tôi đều hoàn thành nhiệm vụ, bữa ni cũng đang chuẩn bị cho mùa hoạt động mới sao lại lên gặp đại đội, chuyện hung hay lành? Cứ như tổ ong, dày vò cái đầu bé nhỏ của tôi... trẽn suốt chặng đường ngoài trận địa về nhà chỉ huy...

Mải nghĩ suy, lức ngước lên thì đã đến ngôi nhà vừa bị bom đạn địch đốt cháy, các anh trong ban chỉ huy đều có mặt. Tôi vội sửa lại trang phục rồi báo cáo: “Dạ! Em có mặt”. Anh Vân - Chính trị viên lên tiếng: “Cả người, chứ sao chỉ có mặt?”. Rồi cả ba cùng cười!

“Vào đây, đi đường có mệt không? Khẩu đội đang làm gì?”. Vồn vã đôi câu anh vào đề: “Lần này tiểu đoàn chọn Hùng đi học xa tận ngoài Bắc kia, thế nào thích học làm cán bộ gì?”. Tôi bối rối nói đại: “Các anh cho em ở lại chiến đấu, ra Bắc xa sợ lắm...!”. Anh hỏi: “Sợ gì?”. Tôi đáp: “Dạ, sợ đi không đến nơi, bỏ lỡ cơ hội đánh giặc, uổng lắm... lắm!”.

Anh Vân vỗ vai: “Mới tiểu đội bậc phó mà ý chí cao nghe. Được đi học là còn chiến đấu lâu dài, yên tâm di”. Khi đã lấy lại bình tĩnh, tôi mạnh dạn thưa. “Do tổ chức phân công, đi học gì cũng được thủ trưởng ạ!”

Anh Kỉnh - Đại đội trưởng bây giờ mới “ra lệnh”: “Về bổ sung hồ sơ, ngày mai nạp lên đại đội, chuẩn bị tư trang, thời gian không có nhiều đâu!...”.

Đại đội 4 hỏa lực, Tiểu đoàn 1 - R20 nhất là các anh Kỉnh, anh Nhan, bây giờ là anh Vân lúc nào cũng chăm sóc tôi, dạy bảo cách làm người và cả nghệ thuật đánh giặc để có ngày hôm nay đây. Tôi biết sức vóc, trí tuệ, nhân cách trong tôi đã được tôi luyện thông qua cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc... Song, kế sách giữ nước còn lâu dài để có đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng Tổ quốc ngày mai, tôi được đơn vị chọn đi học sĩ quan lục quân tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2022, 06:41:40 am
Hành trình

Trên quê hương Gò Nổi - đất Hoàng Diệu thắm ngàn vải bông, tôi thao thức mãi, hồi tưởng lại trận đánh bọn thủy quân lục chiến Mỹ và Nam Hàn có bọn ngụy dẫn đường vào chợ Nồi Rang, xã Bình Đào huyện Thăng Bình. Thằng Đình bạn thân hy sinh, thằng Ư thì nhút nhát làm tôi khó xử khi khẩu đại liên bị kẹt đạn, tôi giật cây K44 của Ư nện liên tiếp ba bốn phát mấy thằng L19 vọt lên cao, bọn Nam Hàn xông vào, tôi quay về dùng đại liên nã mấy loạt cả bọn tháo chạy...

Khi tỉnh dậy, mồ hôi đầy người, thấy chị chủ nhà đứng bên cạnh. Em mơ chi mà dữ rứa? Chị không dám kêu!

Chị dịu hiền như dòng sông Thu xanh biếc đang tắm mát hồn tôi, cảm ơn chị, chị âu yếm thiết tha như điệu hò quê mẹ, chị nắm tay tôi và lưu luyến: “Chiều qua nghe Ư kể, mấy bữa nữa em được đi học ngoài Bắc, chị không có chi, chỉ làm ít lương khô đặc sản cá mòi sông Thu và gà rang mắm, em đi đường bồi dưỡng...”.

Cảm ơn chị hai con bác Nam chợ Điện Quang, Gò Nổi tình chị như nương dâu đang mùa chăn tằm chan chứa tình thân. Tôi thầm hứa sẽ cố gắng học để không phụ lòng chị và bác.

Đang lụi cụi chuẩn bị hành trang, Phước Hùng bạn liên lạc cùng thời ở đại đội đến báo lên tiểu đoàn, thủ trưởng gặp. Tôi theo Hùng đến nơi thấy anh Cứ - Chính trị viên Tiểu đoàn, anh Chi - Tiểu đoàn trưởng hỏi: “Sao Đại đội 4 không giữ dũng sĩ tí hon và chim sơn ca nữa”. Anh Khoa - Chính trị viên phó ân cần: “Hùng có biết tin gia đình không!”. Tôi: “Dạ, không ạ”. Anh tiếp: “Có gì thắc mắc không?”. Tôi cứ ngồi yên mà không nghe rõ câu hỏi, nên anh giải thích: “Tiểu đoàn biết gia đình ở tận bờ biển, giữa Đà Nẵng và Hội An, từ đây về đó phải vượt qua bao nhiêu chốt giặc: căn cứ Bình Long, Phong Thử, thị trấn Vĩnh Điện và Cẩm Sa, chưa kế địch phục kích dọc đường... nguy hiểm lắm”. Anh đang động viên tôi, bỗng ầm...ầm... một loạt pháo nổ, cây cối ngổn ngang, đất đá rào rào...

Anh Chi ra lệnh: “Tất cả về chống càn, tối sẽ tập trung”. Tôi chạy một mạch về khẩu đội. Cả một bầu trời khói mù mịt, máy bay phản lực gầm rít, trực thăng quần bắn tứ tung, dưới mặt đất súng nổ đì dùng...

Ra vị trí chiến đấu, tôi nhào tới siết cò khẩu trọng liên rung lên, quân giặc ngã như rạ, bọn trực thăng cắm đầu xuống ruộng, bọn phản lực cút về Đà Nẵng.

Hoàng hôn ập xuống, cảnh vật xóm làng sau chiến đấu còn vương khói súng. Anh Nhỉ - Chính trị viên phó Đại đội đến: “Anh em ổn cả chứ?”. “Vâng” - tôi báo cáo, anh cùng chứng kiến để tôi bàn giao khẩu đội cho Phan Thanh Lâm Thùy, Khẩu đội phó, rồi ôm chặt từng người chia tay...

Giữa ngổn ngang chiến trận, Ư người bạn cùng thôn cứ đứng như trời trồng, tôi biết tâm trạng của Ư, tuy đã qua chiến đấu nhiều trận nhưng tính nhút nhát vẫn còn, nên bảo với khẩu đội tận tình giúp Ư khi tôi vắng...

Lục chiếc gùi, những gì có tôi đưa hết cho Ư, chỉ mang theo một bộ đồ bà ba của chị Mười Mai cho đang mặc với ít lương khô của chị Hai con bác Nam vừa mới làm, siết chặt Ư vào lòng rồi đi...! Giã biệt khẩu đội, lòng tôi thầm nhủ:

            “... Đời bộ đội là thế thôi
            Lúc ở khi đi đã hiểu rồi
            Bạn ơi! Thông cảm dùm tôi nhé
            Đừng buồn chi nữa lúc chia phôi...”


Đến 18 giờ ngày 28 tháng 12 năm 1966, ba chúng tôi: Huỳnh Đức Lân - Đại đội 2, Phan Đình Tứ - Đại đội 3 và tôi lẽ ra cả Thanh - Đại đội 1 nhưng vừa bị thương sáng nay, được anh Phạm Xuân Khoa - Chính trị viên phó Tiểu đoàn thay mặt ban chỉ huy Tiểu đoàn căn dặn:

- Các đồng chí là những chiến sĩ ưu tú của Tiểu đoàn 1-R20 được cử đi miền Bắc học là niềm vinh dự của bản thân và đơn vị, ráng học giỏi mau trở lại chiến trường... Chúc các đồng chí lên đường mạnh khỏe...

Khoảng 20 giờ cùng ngày, giao liên Tỉnh đội dẫn chúng tôi ngược về vùng B Đại Lộc. Đêm cuối năm trời se lạnh, nước sông Thu Bồn dâng cao, chúng tôi vất vả mới vượt qua được dòng chảy để đến trạm.

Chúng tôi đến trạm đón tiếp ở thôn Phú Phong xã Lộc Quý huyện Đại Lộc để làm thủ tục lên Trường Sơn nhập trạm. Chị chủ nhà hỏi: “Ai là Hùng quê Điện Dương?”. “Dạ, em!”.Tôi trả lời. Chị chủ nhà cứ nhìn mãi...: “Đẹp trai ra ri mà làm gì Mười không khóc...”.

Tôi chẳng hiểu gì, chị giãi bày: Hôm qua có cô Mười Mai làm y sĩ trên đội phẫu của tỉnh, xuống đây nói ngày mai có đoàn dũng sĩ Tiểu đoàn 1-R20 đi Bắc, chị đến tìm em để thăm chờ mãi không được nó về rồi. Chị đoán Mười đẹp thì chắc chắn là em cũng giống nó, chị bảo ở lại nó nói chờ lúc khác...

Thời gian chuẩn bị lại rất ngắn, đêm đó tôi phải lên Trường Sơn nhập trạm giao liên đi Bắc. Vừa đến dốc Ông Thủ ở vùng giáp ranh, gặp biệt kích, pháo binh và máy bay địch đánh phá chặn đường.

Tôi quay lại chỗ cũ, chị chủ nhà lại bảo: Chị Mười nức nở vì hai lần không gặp được em để trao quà, nghe đâu trạm quân y có người bị thương, chị phải về...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2022, 06:42:43 am
Vượt Trường Sơn

Đến ngày thứ ba, chúng tôi cũng nhập được trạm tại Ô Rây. Nghe cán bộ phổ biến kế hoạch và chỉ định đoàn trưởng.

Lúc này tôi mới biết ngoài ba chúng tôi còn có các đơn vị của các huyện thuộc tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà. Tất cả là 16 người, do Nguyễn Thành Quảng lớn tuổi hơn làm trưởng đoàn.

Thoạt đầu mới nghe trạm trưởng phổ biến chặng đường từ đây ra đến Thủ đô Hà Nội phải mất 90 ngày, chuyện gì sẽ xảy ra thì chưa ai đoán được, các đồng chí gắng sức hành quân...

Trạm trưởng vừa dứt lời, phía sau đã có ý kiến xôn xao, răng mà dài rứa, về lại đơn vị cho khoẻ... Tôi thì bụng bảo dạ quay về chẳng khác chi đầu hàng “giặc”. Anh Quảng đồng ý và nhắc mọi người về nghỉ ngơi để sáng mai lên đường.

Gà rừng gáy te te, các chú bìm bịp cũng bìm - bìm - bịp...! vang cả trạm. Mọi người khăn gói gọn gàng. Khi kiểm tra đếm mãi chỉ có 15 người, trạm trưởng giục đi tìm có ai đánh răng ngoài suối chưa về không?

Một giờ, hai giờ khi anh Quảng quay lại bảo: “Nam, lính của huyện Điện Bàn đang sốt rét... Ta cứ đi để Nam đuổi theo sau vậy...”

Ngày thứ nhất chúng tôi đi từ trạm T1, đến T2 mới 10 giờ trưa đã nghỉ chờ sáng hôm sau đi tiếp...

Lúc đi tắm, bọn tôi lân la hỏi mây anh giao liên: “Trạm sao ngắn thế?”. Anh ấy bảo đó là đường bằng, khi gặp dốc hoặc mưa thì dài lắm.

Kệ, đi ngày thứ hai xem sao: Ngày thứ hai xuất phát sớm hơn, mới 9 giờ đã đến, người còn khoẻ.

Đêm đến chúng tôi bàn nhau, muốn rút ngắn thời gian, phải vượt trạm, anh Quảng đồng ý trình bày với T3. Thế là từ T4 trở đi, mỗi ngày chúng tôi vượt hai trạm mà có trạm mới 17 giờ đã đến nơi...

Cứ thế hết đất Quảng Đà, Quảng Trị vượt sông Bến Hải đến làng Ho, Quảng Bình, gặp đoàn quân đi B đang trú quân.

Chính ủy Việt Phương, chỉ huy binh trạm yêu cầu đoàn tôi dừng lại để kể chuyện chiến đấu cho các đơn vị phía Bắc vào...

Anh Quảng, trưởng đoàn phân công thành ba tổ (mỗi tổ 5 người) xuống 3 khu vực nói chuyện. Ban đầu, chúng tôi lúng túng vì chưa đứng trước đám đông bao giờ, được các anh cán bộ khung người miền Bắc học hỏi nhiều nên bảo chúng tôi: “Cứ đánh Mỹ sao, nói vậy, không cần văn chương”.

Được đà, “đánh giặc miệng” tôi cứ liến thoắng kể chuyện rồi hát bài chòi Liên khu 5, mấy anh thích và thưởng thịt hộp, ruốc bông và nhiều thuốc lá...

Hết ngày thứ nhất, giao liên lại đưa chúng tôi về trạm nghỉ, sẵn có thịt hộp và ruốc bông, tôi chia phần cho các bạn giao liên và được “bật mí”: Trạm vừa tiếp nhận nhiều xe đạp Phượng Hoàng của Trung Quốc, do cán bộ ngoài Bắc đi vào. Nếu các anh biết đi, thì xin mỗi người một chiếc đi ra rồi bàn giao cho trạm cuối cùng...

Tôi mừng quýnh báo với đoàn trưởng, ngày thứ hai, sau giờ nói chuyện, chúng tôi đem xe ra bãi trống để tập. Thế mà cậu Lộc quê ở Hòa Liên sát nách Đà Nẵng lại không đi được chút nào...

Ngày thứ ba, sau buổi cuối cùng, Chính ủy Việt Phương và trạm giao liên chiêu đãi tụi tôi một bữa ăn tươi. Toàn rau khô Trung Quốc với thịt hộp xay và cơm trắng.

Ngày thứ tư, cả đoàn 15 người sử dụng 14 xe đạp, bọn tôi phải thay phiên đèo cậu Lộc, hết đường rừng, qua đường 15, xuống đường 1, nhằm hướng Hà Nội mà đi, tối đến đâu ngủ đó...

Kể từ đó các địa danh phà Quán Hầu, phà Gianh, Bổn Thủy, Hàm Rồng.v.v... trên quốc lộ số 1A mỗi lần đi qua lại bị kiểm soát...

Máy bay Mỹ cứ bắn phá, xe cứ đạp, qua phà đã có giấy đóng dấu “quân giải phóng” đỏ chót, ai chẳng cho qua.

Đúng thật, càng đi chúng tôi càng cảm nhận đồng bào chiến sĩ miền Bắc nơi nào đi qua cũng thấy “người sẵn sàng, vũ khí sẵn sàng”, tất cả vì miền Nam ruột thịt. Biết chúng tôi là quân giải phóng miền Nam được ra Bắc học tập, họ còn giúp đỡ tận tình chu đáo như chính người thân của mình.

Dọc đường hành quân, một kỷ niệm đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ mãi. Đó là hôm vượt cầu Hàm Rồng vào khoảng 11 giờ ngày 3 tháng 2 năm 1967 để về Hoằng Quý, Hoằng Hóa, huyện kết nghĩa với Điện Bàn để bàn giao quà của huyện Điện Bàn tặng. Khi đến đầu cầu phía Nam thì máy bay Mỹ ập đến thả bom. Anh em công nhân gác cầu ách lại, lực lượng pháo phòng không và dân quân Nam Ngạn đánh trả quyết liệt...

Chúng tôi muốn qua nhưng không được, liền đề nghị cho tham gia chiến đấu. Các đồng chí gác cầu nói: Các ông toàn dân công mà đánh đấm gì? Tôi tức quá vọt khỏi công sự mà rằng: “Ai bảo chúng tôi là dân công? Anh chàng đứng cạnh quát lớn: “Không dân công răng đi toàn xe đạp nhớp thế kia?”.

Đang giằng co thì còi báo yên: Máy bay đã đi xa. Lúc này giữa hai bên mới có dịp hàn huyên: Chúng tôi là “quân giải phóng Quảng Đà” trên đường ra Hà Nội được quân và dân huyện Điện Bàn ủy thác mang quà “chiến lợi phẩm” ra tặng huyện Hoàng Hóa kết nghĩa... yêu cầu các đồng chí cho chúng tôi đi...

Đến lúc này, chang ai bảo ai cứ ôm nhau rồi trút bầu tâm sự: Ôi! Rứa mà các anh không nói ngay từ đầu để chúng tôi hiểu nhầm, dẫu sao chúng ta bảo vệ cho nhau cũng là điều tốt, các anh đã chiến đấu với giặc Mỹ xâm lược để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, chúng tôi chiến đấu để bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và cho cầu Hàm Rồng sống mãi với thời gian cũng là nhiệm vụ, dừng giận nghe! Tất cả chúng ta đều “tất cả cho đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, chúc các anh thượng lộ bình an, ra Hà Nội được gặp Bác Hồ thưa dùm với Người: “Nhân dân Thanh Hóa còn, thì cầu Hàm Rồng còn để đón Bác vào Nam...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2022, 06:43:55 am
Giữa hậu phương lớn

Mỗi vòng xe đạp lăn bánh, tôi cứ thấy Hà Nội như gần hơn. Ôi! Hà Nội thủ đô của cả nước, nơi có Bác Hồ, có Đảng có niềm tin...! Giục bước nhanh hơn mà chúng tôi quên vào trạm Thường Tín để trả xe như đã giao hẹn ở Làng Ho, Quảng Bình.

Gần trưa ngày 15 tháng 3 năm 1967, sau 75 ngày vừa hành quân bộ vừa “cơ giới - 2 bánh”, mọi người cứ ngơ ngơ ngác ngác ngắm nhìn phố xá, dự định sẽ đạp quanh bờ hồ Hoàn Kiêm rồi ăn một bữa phở Hà Nội cho “đã đời”. Cứ 15 xe đạp tứ tung giữa đường phố mãi đến 1 giờ chiều mà chẳng thấy hồ Hoàn Kiếm đâu, lại gặp công an chặn đường.

Đoàn trưởng xuất trình giấy tờ tùy thân, các đồng chí công an lại chỉ ngay đến trạm 83 Lý Nam Đế... hết được ăn phở, còn bị “nhốt chặt” trong nhà...

Đồng chí trạm trưởng tuyên bố: Các đồng chí là vốn quý của đồng bào miền Nam gửi ra, chúng tôi phải có trách nhiệm “bảo vệ”.

Ôi trời! Xuống nhà bếp mà ăn cơm chứ biết đi đâu nữa, nhìn bữa ăn thôi thì đủ thứ rau, cá, thịt... nhưng chẳng ai muốn nhai bởi không quen mùi vị của rau cần và đậu phụ...

Đến ngày thứ 3 thì cô Loan, nhân viên quân nhu đến đăng ký cỡ, số quân trang và hỏi chuyện:

- Các chú đi đường mệt hay sao mà không ăn hết một suất cơm trung táo? Tôi hỏi lại: “Trung táo” là gì hở cô? Cô giải thích, ngoài Bắc, bộ đội ăn theo ba mức: Đại táo là của binh sĩ, trung táo là cán bộ từ chuẩn úy đến trung úy, tiểu táo là của cao cấp từ thượng úy trở lên...

Vâng, nhưng chúng tôi đâu có vinh dự được ăn trung táo? Cô bảo “các chú ăn theo chế độ an dưỡng đó, cố gắng mà lấy lại sức để vào trường học...”.

Lại còi báo động: Các đồng chí trực kéo chúng tôi ra công sự cá nhân rồi đậy nắp... Lúc này mới nhận ra, ngoài chúng tôi còn có đoàn anh hùng dũng sĩ như Trần Dưỡng, Tạ Thị Kiều cũng chờ nhập học.

Sáng ngày thứ tư, chúng tôi được cấp quân trang để chuẩn bị đi gặp Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng... Nhưng đoàn 15 người thì hết 7 anh em không mặc vừa cỡ số 3. Với tôi đũng quần tới gối, ống dài 20cm, bụng cũng rộng thênh thang, ống tay áo phải gấp lên 5 - 7 lần vẫn còn dài, giày không đúng cỡ, dép nhựa thì cỡ số 36 đi tạm được.

Cả đoàn đang lụng thụng trong bộ đồ mới thì có cô Hồ Thị Bi đến, thấy vậy liền gọi trạm trưởng và cô Loan đến:

- Các cháu ăn mặc thế này, Bác Hồ, Bác Đồng sẽ không chấp nhận đâu, tại sao lại cấp loại quân trang vải mềm nhũn vậy?

Rồi cô nói: - Cỡ số thì có thể chấp nhận được, riêng loại quân phục của “Triều Tiên” loại mềm nhũn, mũ mềm đội như lính Nhật, e không tiện đâu, thay ngay.

Tối hôm đó, thợ may đo đến rồi ngày hôm sau quần áo đã được sửa chữa tạm ổn, về giày tôi phải độn 1/2 chiếc khăn mặt rồi mới đi lững thững vài bước...

Lại báo động: Máy bay địch... các lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu... ai không có phận sự vào hầm ẩn nấp...

Bữa nay, mặc kệ cứ nhìn xem loại máy bay gì? Ném bom ở đâu? Phía sau có người chạy tới đội mũ sắt lên đầu bắt vào hầm. Tôi không chịu, cô ta bật khóc: “Các anh hề gì thì chúng em bị kỷ luật”... Tôi hỏi ra mới biết tên là cô Liên phục vụ nhà khách được giao chăm sóc chúng tôi... Tôi mạnh bạo nói: “Chị ơi! Chúng em là quân giải phóng mà trốn dưới hầm, dị lắm!”.

Đến đây thì tôi càng da diết nhớ thương chị Mười Mai, không biết đến ngày nào chị em mới được gặp nhau để được chị ôm vào lòng âu yếm sau mỗi trận đánh. Chao ôi, tình thương của chị dành cho em thật sâu lắng, dịu dàng biết bao... Em sẽ giữ gìn sức khỏe và nghị lực vượt qua lửa đạn của chiến tranh phá hoại mà kẻ thù đang bắn phá Thủ đô, cùng đồng đội đi tiếp trong học tập cũng như cuộc chiến đấu gian khó, ác liệt này...

Đến ngày thứ bảy, hôm đó khoảng 3 giờ chiều, cô Hồ Thị Bi đến và thông báo: “Trước khi các cháu chuyển đi thì được gặp Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nhưng trận bom vừa qua đánh vào ga Hà Nội, cầu Long Biên... nên cuộc gặp lại hoãn... Đừng buồn, Bác sẽ có quà cho các cháu đây?

Tất cả chúng tôi, người như ngây ra, cầm bánh kẹo mà không ai muốn bóc, thấy vậy anh Dưỡng và chị Kiều an ủi: Lũ mình ra trước đến bây giờ vẫn chưa được gặp Bác, thôi đừng buồn nữa, thời gian còn học tập, chắc sớm muộn cũng được gặp...

Biết vậy, động cơ của tôi cũng như cả đoàn khi bàn nhau vượt trạm, bất chấp hiểm nguy cũng chỉ vì mục đích muốn nhìn thấy miền Bắc xã hội chủ nghĩa, biết Thủ đô Hà Nội là được gặp Bác Hồ. Người là hiện thân của đất nước... thế mà... bao giờ mới gặp được Bác đây!

Máy bay lại đánh bom, chúng tôi phải di chuyển về trường Tuyên giáo Trung ương (nay là Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) tại Cầu Giấy...

Được cán bộ cho biết: các đồng chí sẽ được an dưỡng một tháng và đi thăm một số tỉnh miền Bắc trước khi về trường... Chế độ ăn, nghỉ, sinh hoạt đã có nội quy. Về phòng tránh máy bay theo hướng dẫn của nhân viên trạm...

Phía sau có tiếng xì xèo, lại máy bay, bay tít trên trời xanh làm chi mà trốn với tránh... Tôi buột miệng: Việc của họ mà, “tùy cơ ứng biến”.

Thời gian cứ trôi, chúng tôi cứ ngồi chờ. Lại nhận thông báo: Máy bay Mỹ đang ném bom ở Hải Phòng, Quảng Ninh và ngay trường sĩ quan tại Sơn Tây cũng bị uy hiếp...

Việc đi tham quan tạm dừng, an dưỡng cũng chuyển về trường vừa “ăn” vừa “học” đành vậy...

Một buổi sáng cuối tháng 3 năm 1967 trời rét đậm, mới chui ra khỏi chăn thì có thông báo tất cả chuẩn bị lên đường, tôi vừa tỉnh vừa mơ ngủ, ủa đi đâu mà nhanh vậy.

Đồng chí Quảng, trưởng đoàn giục còi: mỗi xe 10 người ra nhận bánh mỳ và hành quân.

Sương chưa tan khỏi mặt đường, đây đó ngược xuôi đủ loại phương tiện, kẻ ra người vào tấp nập, xe chúng tôi thì mui bịt kín, lúc rẽ vào đường cấp phối, tôi mới hé bạt ra nhìn.

Tất cả đồi đá ong, rừng bao phủ, nhà thì lưa thưa cảm giác như vừa qua cơn bão lửa. 12 giờ trưa thì xe dừng lại và chúng tôi tập trung vào một sân xi măng. Nhà thì dài và đóng cửa (sau này mới biết đó là sân kho của hợp tác xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây...).

Một tổ 3 người vào nhà dân, sau 30 phút có kẻng báo đi ăn cơm, lại lục tục dắt bát sau lưng, một hàng dọc, hướng nhà ăn bước...!

Đây cũng là điệp khúc suốt quãng đời làm học viên lục quân trinh sát của tôi.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2022, 06:45:07 am
Ngày tựu trường

Bố sung lý lịch, tự kể chuyện, làm học cụ, thao trường... hết tuần thứ nhất. Bây giờ tôi mới hiểu hết cái ý nghĩa của mấy anh ở Đại đội 4 nói: Lẽ ra mi đi học chính trị, nhưng thiên về tham mưu nên phải vào trường sĩ quan “luộc quân”.

Do chiến tranh phá hoại miền Bắc mỗi ngày thêm ác liệt và đòi hỏi của chiến trường miền Nam, nên thời gian học rút ngắn và sơ tán trong dân nên mọi sinh hoạt cũng có phần nhẹ nhàng hơn.

Tôi, Thuẩn, Lục cùng một tổ ở chung một nhà, nhà lợp tranh, trình tường đất, gia đình dành một gian, lại không có giường, bọn tôi kê phản nằm, mùa đông gấp lại dùng ổ rơm và lá chuối để chống chọi với rét. Lúc này tôi mới hiểu mấy anh quê miền Bắc hay kể “Rét tháng 3 bà già chết cóng”.

Lại còn thấu hiểu câu thơ của Tố Hữu: “Bầm ra ruộng cấy bầm run. Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non...” mỗi lần ra thao trường hình ảnh đó cứ bám riết theo chúng tôi...

Năm tháng học tập, tôi được đồng bào miền Bắc, nhất là gia đình chúng tôi đang ở chăm lo chu đáo, tôi càng thấu hiểu hơn thế nào là “thắt lưng buộc bụng”, cả nước dồn sức cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Ngay trong gia đình cũng như bà con ở cái thôn Khoan Mè, xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây này đây, mỗi ngày chỉ có một bữa cơm, còn lại là độn bo bo, khoai sắn, thực phẩm là lá sắn, lá đu đủ non luộc chấm với muối. Thế mà sau mỗi buổi đi thao trường về, gia đình dành cho tổ tôi một nồi khoai lang luộc với ấm nước chè xanh đặc quánh, không ăn thì bụng cồn cào, ăn vào đến đâu tình yêu thương của gia chủ cứ thúc giục chúng tôi học tập đến đó...

Tình thương giục giã tình thương, từ đó tôi đặt ra cho mình một chỉ tiêu học tập, khi mà đồng bào miến Nam “ngàn cân treo sợi tóc” đồng bào miền Bắc “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Vì vậy nhiệm vụ của mình là phải học cho thật tốt, mang những kiến thức đã học sớm được về góp sức giải phóng quê hương, đất nước, xây dựng quân đội.

Sắp kết thúc khóa học, tôi được chọn đóng vai đại đội phó thực tập. Giai đoạn này đơn vị đi vòng tổng hợp từ Sơn Tây lên Hòa Bình đánh địch trên đường số 6, rồi vượt sông Đà về đánh địch phòng ngự trong công sự vững chắc ở điểm cao 27,8 cạnh Trường Sĩ quan Lục quân 1 bây giờ.

Kỷ niệm sâu sắc nhất trong dịp này là khi vượt núi Vua Bà (tên địa phương) dốc cao, dài phải đi nhiều chặng mới lên đến đỉnh. Trời mưa, rét buốt, mang nặng, đường trơn, trọng lượng mỗi người mang không dưới 30kg (đây vừa để rèn sức khi trở lại chiến trường). Mới được giờ đầu, ngày đầu, cả Đại đội 80 người đã rải rác dọc đường.

Tôi nảy ra sáng kiến thành lập tổ “dũng sĩ” vượt khó, mỗi trung đội 3 tổ, anh nào to khỏe được chỉ định, do tôi phụ trách với các đồng chí y tá, nuôi quân là nữ vượt lên trước mỗi chặng hò hát: “Rẽ mây lên núi Vua Bà. Nước chưa hết giặc thì ta chưa về...”, “Hò dô ta nào, kéo pháo ta vượt qua núi...”. Cứ thế kèn, sáo, tiếng vỗ tay vang rền khi vượt dốc. Tối đến vị trí tập kết lại bình xét để tặng danh hiệu “dũng sĩ,” mời chính trị viên trao hoa trước khi hành quân chặng thứ 2...

Không ngờ sáng kiến của tôi được đơn vị vận dụng suốt 15 ngày đi vòng tổng hợp, đâu khó ở đó có “dũng sĩ” vượt khó đến hỗ trợ dìu, cõng giúp ba lô cho những đồng chí yếu hoặc đau chân. Đi nhanh, đến gọn, đúng địa điểm thời gian an toàn... Kết thúc giai đoạn hành quân vòng tổng hợp, tôi được bổ nhiệm “đại đội trưởng” cho đến khi ra trường...

Thời gian thấm thoát thoi đưa, tình thầy trò, nghĩa bạn bè, tình quân dân, đặc biệt là tình nghĩa của các chị nuôi, biết chúng tôi là con em miền Nam còn trẻ mà đã sớm tham gia cách mạng về trường học, như tôi mới 17 tuổi mà phải tiếp thu cả khối kiến thức quân sự tổng hợp dưới mái trường được mệnh danh là “luộc quân”, trong khi trình độ văn hóa mới hết lớp 3 trường làng. Nay đã đủ lông đủ cánh sắp đi vào chỗ tử sinh... Biết vậy, cứ mỗi lần làm trực nhật các chị dành phần cơm nhiều hơn, bữa nào đến phiên gác sáng, các chị lại đến cho thêm 1 cái bánh bao, rồi trưa hè đổ lửa chị cũng dành thêm canh cho cánh trẻ... Nhất là chị Thoáng ở Cao Bằng có chồng đang đi thực tế ở chiến trường đường 9 - Khe Sanh, bữa nào nghỉ nấu cơm thường đến chỗ tôi chơi và chuyện trò như chị em, đã để lại trong tôi một tình cảm sâu sắc đặc biệt của lòng quý trọng người phụ nữ Việt Nam “trung hậu đảm đang”.

Khắc sâu lời dặn của anh Kỉnh, anh Vân và anh Khoa - Chính trị viên phó Tiểu đoàn 1 - R20: “Học giỏi sớm về giải phóng quê hương”. Với hành trang đó, sau gần một năm học tập 80 trong tổng số 81 anh em chúng tôi đều tốt nghiệp 100% ra trường, được phong quân hàm thiếu úy (5-1-1968) (trừ một đồng chí quê Thanh Hóa, bố chết, về phép khi quay lại trường, bị bom hy sinh).

Ngày ra trường thật bất ngờ, nhân dân cứ tưởng chúng tôi cùng ăn Tết Mậu Thân tại Sơn Tây. Song mọi dự đoán đều phải lưu luyến bùi ngùi vì phải xa những gì mà chúng tôi đã gắn bó, tất cả tình cảm cứ trào dâng. Chia tay mái trường, chia tay thầy, cô, bạn bè và nhân dân đã cưu mang. Tất cả đều không nói nên lời, chị Thoáng cứ vuốt má và hôn tôi như đứa em ruột thịt, xuýt xoa: Thiếu úy trẻ quá, xinh trai quá, về quê cho chị gửi lời thăm ba, má và gia đình; rồi chị nhét vội vào ba lô tôi mấy gói thuốc, bánh kẹo, mắt chị ngấn lệ, tôi quay đi xen lẫn niềm vui và nỗi buồn cuốn theo dòng chảy của đoàn xe.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2022, 08:48:27 am
Ngày đầu ra trường

Xe chạy trong đêm, ngày hôm sau lại thấy rừng và đồng bằng cứ xen kẽ, càng đi tôi càng không hiểu đây là đâu. Có lệnh xuống xe mang tư trang vào nhà dân. Tôi, anh Quảng (nay là Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Đà Nẵng), Phi Hùng (quê Điện Minh, Điện Bàn nay đã phục viên), Hợi (quê Phú Yên, nay chưa rõ ở đâu), Ngành (quê Thăng Bình, nghe nói đã hy sinh), năm anh em vào hai nhà: Tôi, Hợi, Ngành một nhà. Anh Quảng và Hùng một nhà.

Đêm tháng 1 năm 1968 rét đậm, tất cả chia nhau đi xin rơm và lá chuối lót làm chăn mà vẫn buốt tận xương. Đêm khó ngủ, lại nhớ nhà, tôi chưa bao giờ nhớ nhà như bữa nay như linh tính mách bảo điều gì đang xảy ra mà tôi vẫn không thể nào đoán được... Cho mãi đến khi Cậu tôi đang an dưỡng ở Nam Hà, biết tôi ra trường về Quân khu Hữu Ngạn đóng tại Gia Viễn, Ninh Bình, ông khăn gói đến thăm. Khi chị chủ nhà vào gọi chú nào là Hùng ra có khách... tôi vừa bước ra khỏi cửa, Cậu tôi rơi cả đồ đạc ôm lấy tôi rồi nức nở: Cha con đã hy sinh ngày 20 tháng 1 năm 1967 khi chống trả bọn lính Nam Hàn để bảo vệ an toàn cho du kích... Anh Ba con bị thương gãy chân trong một trận chống càn đánh với 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ và bị bắt tháng 11 năm 1967 rồi đày ra Côn Đảo...

Tim tôi thắt lại với hai nỗi đau cùng ập đến... Tôi van tôi khóc như chưa được khóc bao giờ.

Cả gia đình tôi ở và đồng đội của tôi chưa hiểu xảy ra điều gì, khi nghe cậu tôi nấc lên từng tiếng vì thương cháu còn quá trẻ (tròn 18 tuổi) lại mới ra trường sĩ quan, nhiệm vụ nặng nề không biết nó có vượt qua nỗi đau này không?

Từ hôm đó trở đi, năm anh em càng thương nhau hơn, gia đình tôi ở cũng chia sẻ với tôi, thương yêu chăm sóc tôi như người thân...

Nén đau và tôi nhủ thầm: “Lời nguyền như tựa nhát dao. Thề cùng giặc Mỹ có tao không mày” theo tôi suốt cuộc đời binh nghiệp.

Nằm đây được hai hôm, tôi, Hợi, Ngành về Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 320B đóng tại Mống Lá, Nho Quan, Ninh Bình. Ban Chính trị Trung đoàn phổ biến nhiệm vụ: Trong khi chờ quyết định điều động của trên, các đồng chí giúp ban xuống các tiểu đoàn đang huấn luyện quân đi B đợt 1 để kể chuyện chiến đấu; mỗi đồng chí đến một tiểu đoàn và do đơn vị sắp xếp thời gian. Nội dung do các đồng chí chuẩn bị...

Ba anh em cứ ngồi ngây như phỗng chẳng biết làm gì, tôi mạnh dạn hỏi: Nội dung chuẩn bị như thế nào các anh nói qua để bọn tôi liệu? Và được trả lời: Chẳng có gì khó cả, việc các anh đã làm ở miền Nam và thời gian học ở trường... mà chủ yếu là đánh Mỹ, đánh ngụy như thế nào mà thành dũng sĩ, khó khăn, ác liệt, Mỹ to, ngụy nhỏ v.v.. nhớ đâu nói đó...

Vừa ra trường về một đơn vị mới lại gặp ngay điều “hóc búa”, tôi tặc lưỡi, mấy cha này nắn gân tụi mình đây? Hợi, Ngành đồng tình nhưng không nói, theo tôi ôm ba lô về nơi nghỉ...

Một tuần, hai tuần, rồi ba tuần mỗi đứa một tiểu đoàn tối đi sáng về... Được một cái là đến đâu bộ đội vỗ tay đến đó, nói năng ngày càng “bốc”. Riêng tôi được bình chọn là “nói hay, hát cũng hay” được thay đổi luân phiên cả 3 tiểu đoàn rồi giữ lại làm trợ lý tuyên huấn...

Tháng 2 năm 1968, chuẩn bị cho huấn luyện đợt 2 tháng 3 đến tháng 5 năm 1968 đi B3 Tây Nguyên. Trung đoàn tổ chức tập huấn từ cán bộ trung đội trở lên, khi giáo viên đang hướng dẫn: Tổ bộ binh đánh chiếm mục tiêu, thì một đồng chí cán bộ cao dong dỏng, chắp tay sau lưng cứ đi đi lại lại khắp hàng quân rồi dừng lại chỗ ba chúng tôi đang đứng và hỏi:

- “Các đồng chí ở đơn vị nào? Ở đâu mới về mà quần áo quân hàm còn mới thế?”. Tôi đứng nghiêm và báo cáo: “Chúng tôi ở Ban Chính trị Trung đoàn, vừa tốt nghiệp Trường Sĩ quan Lục quân”.

“Tốt nghiệp lục quân sao lại ở Ban Chính trị?” - ông hỏi. Đứng bên tôi là trưởng tiểu ban cán bộ trả lời: “Đang chò sắp xếp và nhân tiện để các đồng chí đi nói chuyện chiến đấu cho các đơn vị mới về ạ...”.

Ông lại hỏi: “Thế các đồng chí thấy tổ đánh chiếm mục tiêu vừa rồi như thế nào?”. Lần đầu đứng trước một vị cán bộ chưa hiểu lắm về câp bậc, chức vụ nên ba anh em cứ như gà mắc tóc, chưa biết xoay xở ra sao.

Ông ôn tồn: Tôi là Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu đi kiểm tra công tác huấn luyện chiến đấu của đơn vị nên mới hỏi như vậy, trong ba đồng chí có ai làm được hoặc hơn các đồng chí vừa rồi không?


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2022, 08:49:20 am
Tôi giơ tay cùng gọi Hợi, Ngành ra thực hiện động tác,... không ngờ ông kết luận: Phải đưa ngay các đồng chí này về đơn vị để huấn luyện bộ đội đi B.

Cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 1968, tôi nhận nhiệm vụ Đại đội phó Đại đội 2, Tiểu đoàn 445, Sư đoàn 320B làm công tác nhận quân, huấn luyện và vào chiến trường Tây Nguyên (mật danh Đoàn 3029, xuất phát ngày 24 tháng 7 năm 1968 đến T6-559 ngày 10 tháng 12 năm 1968) bàn giao chiến sĩ cho Mặt trận B3 và chờ lệnh.

Biết được thời gian phải ra lại miền Bắc, tôi và Ngành tìm cách xin ở lại vẫn chưa được; bất ngờ đêm nằm tại T6, anh Quang quê Quảng Nam mách bảo có thủ trưởng Việt Phương binh trạm vừa đến kiểm tra, hai đứa đến đó xem sao?

Tôi và Ngành lẻn tiểu đoàn đi gặp Chính ủy Việt Phương, vì khi đi ra làng Ho, Quảng Bình cuối năm 1966 ông đã biết, hai đứa tôi có thể xin được?

Không ngờ được nhận một câu an ủi: Tinh thần hai bạn vì quê hương là chính đáng, nhưng đây không thuộc chức trách của đường dây 559 mà phải là quân lực, cán bộ B3 và cả “cụ” Song Hào nữa (Trung tướng Song Hào, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị).

Hỡi ơi, niềm hy vọng không thành, mà dù có được ở lại thì dễ bị “mất Đảng”, bởi giấy sinh hoạt do Bí thư Đảng ủy Tiểu đoàn Phạm Cài giữ hết trọi...

Đến lúc này tôi mới nhớ ra người cán bộ kiểm tra trước lúc xuống đơn vị là Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, nói với cán bộ khung của trung đoàn: Đây là hạt giống đỏ của đồng bào miền Nam gửi, chúng ta phải có trách nhiệm bồi dưỡng và phát triển...

Biết nguyện vọng xin ở lại chiến trường của tôi không thành, Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy Tiểu đoàn Phạm Cài chia sẻ:

- Tiểu đoàn ta chỉ có ba em là quân giải phóng miền Nam được đào tạo cơ bản. Hợi lấy vợ để từ chối đi B, Ngành nằm lại trên đường, còn mình em mà không cùng đơn vị trở ra, các anh biết nói như thế nào với cấp trên!

Giờ đây tôi càng hiểu sâu sắc hơn về khẩu hiệu hành động, trước lúc đi B: “Vai trăm cân, chân ngàn dặm” “Quyết di, quyết đến và quyết thắng” là động lực để chính trị viên tiểu đoàn yên tâm.

Tôi biết, khi lên đường đại đội tôi có 4 đồng chí: Lê Văn Điển - Đại đội trưởng, Nguyễn Đệ - Chính trị viên, Đào Quang Bốn - Chính trị viên phó, tôi Đại đội phó. Thế mà giờ đây chỉ còn mình tôi chỉ huy 3 trung đội trưởng là Ngọc, Hảo và Đỉnh trở ra.

Chân bước mà vai tôi như có vật gì đồ nặng. Nghĩ mà thương cho anh Độ vừa đến Quảng Bình bị bệnh hiểm nghèo phải quay ra. Đơn vị sắp vượt Con Cuông, Nghệ An thì anh Bôn sốt rét ác tính, rời khỏi đất Lào thì anh Điển cũng vào viện trên đường dây 559.

Đại đội gần 200 quân, nay chỉ còn lại 4 cán bộ khung (1 đại đội phó, 3 trung đội trưởng). Từ đây về đến hậu phương phải 3 - 4 tháng trời, chuyện gì sẽ xảy ra nữa đây. Chuẩn bị bước sang tuổi 19, trong đầu tôi bao ngổn ngang chồng chất và xin phép Chính trị viên Tiểu đoàn cho tôi tách đội hình vượt trạm may ra rút ngắn thời gian và giảm hao hụt quân số...

Tiểu đoàn đồng ý, tôi động viên 3 trung đội trưởng cùng tôi băng đèo, vượt suối, bất chấp hiểm nguy mỗi ngày vượt 2-3 trạm (kinh nghiệm này khi tôi mới lần đầu ra Bắc).

Quả thật “gái có công, chồng không phụ” cuối tháng 2 năm 1969, bốn anh em chúng tôi ra đến trạm Thường Tín, sắp chuẩn bị đón xuân. Tôi chịu trách nhiệm báo cáo với tiểu đoàn để 3 cán bộ trung đội về quê ăn Tết, tôi về điểm tập trung của tiểu đoàn.

Tết đầu tiên trên quê hương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, biết tôi không có gia đình và người thân, bà con nơi đơn vị đóng quân Yên Mô, Gia Viễn, Ninh Bình nhà nào cũng dành đón tôi về ăn Tết.

Giữa những ngày này tôi hiểu sâu hơn cái ý nghĩa “ngày Bắc đêm Nam”. Dẫu rằng được đồng bào hậu phương chăm lo chu toàn từng bát cơm tấm áo, song làm sao quên được “đêm sám hối - ngày tố Cộng” của kẻ thù đang giày xéo quê hương cứ thôi thúc tôi mau chóng trở về...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2022, 08:50:38 am
Nguyện ước được thực hiện, sau an dưỡng, tôi lên Trường Văn hóa quân khu giữa lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vô cùng tiếc thương, kính cẩn vĩnh biệt Bác Hồ (3-9-1969); cũng là lúc tôi nhận quyết định về giữ chức Đại đội phó Đại đội 124, Tiểu đoàn 12, Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 đóng tại Nông Cống, Thanh Hóa.

Giai đoạn này nội dung huấn luyện đề mục đánh thành phố với mở cửa bằng phương pháp bộc phá đồng loạt và liên tục phải thành thạo hơn do yêu cầu của chiến trường miền Nam.

Đại đội tôi được trên chỉ định chuyên sâu huấn luyện hai nội dung trên, nhưng thao trường đánh thành phố nhà 2-3 tầng không tìm đâu ra; quanh khu vực đóng quân chỉ có 1-2 trường cấp 2, cấp 3 mà cũng chỉ là nhà cấp 4 lại xây dựng từ những năm 1960... Đang lúc “cái khó lại ló cái thông minh”, tranh thủ khi bộ đội giải lao sau khi huấn luyện xong “Trung đội mở cửa”, tôi giả bộ vào trường cấp 2 xã Thăng Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa để xin nước uống.

Người đem nước cho chúng tôi là cô giáo Hoa, quê Hải Hòa, Tĩnh Gia, Thanh Hóa (mãi đến năm 1982 tôi mới biết...). Thấy tôi nói tiếng miền Nam, cô Hoa ngỏ lời: Sao trời nắng thế mà các anh không cho bộ đội vào trường nghỉ cho mát, hôm nay học sinh nghỉ mà... Lúc này tôi mới sực nhớ là ngày chủ nhật, tôi trả lời bâng quơ là bộ đội quen nắng gió mà...

Được đà, cô giáo “tấn” công: “Chủ nhật sao lại “bắt” bộ đội tập?”. “Thế cô giáo không vì miền Nam ruột thịt rồi”... tôi đáp! “Vâng, chúng tôi mỗi người làm việc bằng hai các anh không thấy đó à?” Tôi lại hỏi: “Sao lúc nãy cô bảo học sinh nghỉ kia mà? Học sinh nghỉ nhưng cô giáo phải làm! Làm gì đâu?” “Đang nấu nước đem ra thao trường cho bộ đội kia kìa!” - Cô giáo trả lời. Trời nắng, ánh mặt trời làm tôi chưa kịp phân giải thì... từ đầu làng đã thấy 1-2 rồi cả đoàn cả cô giáo và học sinh người gánh, người bê đang đến chỗ bộ đội nghỉ.

Tôi vội nói: “Thay mặt đơn vị, xin cảm ơn sự nhiệt tình của thầy, cô”. Cô giáo: “Anh lại khách sáo rồi!” Chớp thời cơ tôi vào đề: “Đơn vị đang bí thao trường huấn luyện leo trèo, nếu ngày nghỉ nhà trường cho chúng tôi tập 1-2 giờ cạnh đầu hồi của trường được không?”.

Cô Hoa lễ phép: “Để em hỏi ý kiến thầy hiệu trưởng... chắc là được, bộ đội mà tập thì ai không muốn...!”.

Nơi để luyện cho bộ đội leo trèo của nội dung đánh chiếm thành phố... đã có. Tôi báo cáo tiểu đoàn đồng ý và điện cho Tham mưu trưởng Trung đoàn Bùi Đức Ngoan phê chuẩn.

Kể từ hôm đó, cứ sáng chủ nhật hàng tuần, tôi đưa bộ đội ra huấn luyện, khi bộ đội dùng dây, lúc dùng sào và thang... các cô cứ đứng xem rồi vỗ tay hoan hô như đi xem xiếc. Đứng cạnh tôi, cô Hoa vô tình: “Ôi! Bộ đội giỏi quá” cứ nhè lưng tôi mà vỗ, không ngờ Tham mưu trưởng Trung đoàn cũng đến lúc nào: “Đẹp đôi nhỉ?”. Cô Hoa đỏ mặt rồi lẩn vào giữa tốp thầy cô...

Tham mưu trưởng, thăm dò: “Quen nhau lâu chưa?”. Tôi vội vàng: “Em chỉ biết cô ta từ hôm đi mượn thao trường chứ có quen gì đâu!”. “Như vậy là cắn câu rồi đấy anh bạn trẻ ạ, xinh trai, huấn luyện giỏi như Hùng tớ cũng thích huống chi cô giáo...”.

Không ngờ, ngày 22 tháng 2 năm 1971, tôi được điều về làm trợ lý tác huấn trung đoàn. Ngày 19 tháng 3, tôi có mặt tại Tiểu ban Tác huấn, cô Hoa cũng đang ở đó. Sau này khi đồng chí Cường trợ lý kỹ thuật cùng tiểu ban nói tôi mới biết.

- Từ khi cậu đưa bộ đội đến huấn luyện tại trường rồi về, chiều nào các cô cũng đến đây chơi và hỏi thăm, anh gì cán bộ miền Nam sao không có ở đây? Tớ bảo cậu ở dưới đơn vị và cũng sắp về dây, thế là cô ta cứ hỏi miết rồi “mai phục”.

Đời lính chiến là vậy, khi đi học cũng như lúc trở thành sĩ quan rồi làm chỉ huy một đại đội, lúc nào cũng canh cánh bên tôi là: về Nam chiến đấu, chứ đâu có để ý gì đến chuyện riêng tư, vậy mà tôi đã làm cho các em “thất vọng”.

Do yêu cầu huấn luyện chi viện cho chiến trường ngày càng tăng, Trung đoàn đã bàn giao 2.000 chiến sĩ mới, có 120 đảng viên, 1.600 đoàn viên, 220 chiến sĩ có học vấn đại học, 600 có trình độ cấp ba bổ sung cho chiến trường. Đợt 2 nhận tiếp 600 quân để huấn luyện, đến tháng 11 năm 1971 Trung đoàn 95D được lệnh đưa ba tiểu đoàn đã hoàn thành khóa huấn luyện vào Nam chiến đấu tại chiến trường đồng bằng Khu 5 và mặt trận đường số 4 (Tây Nam Bộ).

Tháng 3 năm 1971, chúng tôi được lệnh hành quân ra Hà Bắc tiếp tục huấn luyện theo yêu cầu nhiệm vụ mới.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2022, 08:51:34 am
Trên quê hương Quan họ

Tạm biệt sông Mã anh hùng, trung đoàn cơ động về sông Cầu của miền quê “liền chị liền anh”. Trung đoàn bộ đứng chân tại thôn Ninh Động, xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc.

Đứng chân ở địa bàn mới, bộ đội phân tán trong nhà dân, song việc xây dựng nền nếp chính quy và yêu cầu huấn luyện sát với yêu cầu chiến trường là chống phá chủ trương “bình định” của địch, vừa tác chiến độc lập tốt, chiến đấu tập trung được, vừa đánh địch ở đồng bằng, vừa đánh địch được ở vùng rừng núi và đô thị...

Thời gian này, ngoài nhiệm vụ huấn luyện theo yêu cầu của chiến trường miền Nam, trung đoàn còn tập trung lực lượng giúp nhân dân khắc phục hậu quả trận lụt lịch sử vào cuối năm 1971, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Vừa xây dựng hoàn chỉnh khung trung đoàn đủ quân để huấn luyện cơ động chiến đấu cấp trung đoàn theo chỉ đạo của sư đoàn và Bộ. Trước thời cơ tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, đặc biệt là chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, quân ngụy Sài Gòn mất dần thế chủ động, khả năng tiến công và lâm vào thế phòng ngự chiến lược. Ta đang ở thế chủ động.

Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương mở rộng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ.

Cả trung đoàn náo nức không khí “hướng ra chiến trường” chuyển hướng huấn luyện tập trung hiệp đồng binh chủng đánh quy mô cấp trung đoàn bằng các loại hình chiến thuật: Tiến công, phòng ngự, tập kích, phục kích... nhất là rèn luyện hành quân xa, mang vác nặng: “Vai trăm cân, chân vạn dặm” với khẩu hiệu: “Ngày không giờ, tuần không thứ...”.

Là trợ lý chiến thuật của trung đoàn, tôi được Trưởng tiểu ban Lê Quảng phân công nằm vùng cả 3 tiểu đoàn 4, 5 và 6 để theo dõi bộ đội huấn luyện, một tuần chỉ về chiều thứ 6 dự giao ban và phản ánh, xong lại xuống đơn vị.

Cuối tháng 11 năm 1971, khi đang theo dõi huấn luyện hướng Tiểu đoàn 5, đơn vị chủ công của trung đoàn, Tham mưu trưởng Trung đoàn phân công tôi xuống đê sông Cầu nắm tình hình của các đơn vị đang hàn gắn đê, giúp dân khắc phục hậu quả trong suốt 15 ngày “cùng ở, cùng làm” để nắm kết quả của bộ đội.

Sau hơn 10 ngày tôi mới về đến bìa làng Ninh Sơn. Chị em xã viên hợp tác xã đang tập trung ra đồng reo lên: Chú rể đã về chị em ơi...(!)”

Tôi chẳng hiểu mô tê, chị Lếnh chủ nhà tôi đóng quân đến bên rỉ tai: “Chú có thế không mà mấy ngày nay cả xóm đồn ầm lên là sắp cưới cô T?”

Quá bất ngờ, tôi hỏi chị: “T nào?” Chị bảo: “T gần bếp ăn chứ T nào?”

Trời ơi! Mỗi lần đi ăn cơm chỉ qua đây (vì bếp ăn đặt tại nhà kho hợp tác xã cạnh đường qua nhà cô T), mấy anh em cơ quan đùa:

- “T có ưng bộ đội miền Nam không để các anh giới thiệu? Chỉ có thế mà sao lại có chuyện động trời vậy?”

Tôi vừa đặt ba lô thì anh Quảng gọi lên gặp: “Chuyện đó thế nào? Tối nay Chính ủy Quách Hồ sẽ gọi Hùng lên đấy, liệu mà giải trình”.

Chính ủy Quách Hồ là cán bộ miền Nam nên ông rất khắt khe với tôi, khi nghe chuyện đó...

Tôi vừa đến cửa nhà chỉ huy trung đoàn, ông chưa hỏi gì về sức khỏe, công tác... mà chắp tay sau lưng đi lại chẳng thèm nhìn tôi và cứ nhắc đi nhắc lại: “Đồng bào miền Nam cho các anh ra đây ăn học rồi lấy vợ để trốn tránh trách nhiệm phải không?”

Không cho tôi trình bày, ông tiếp: “Tại sao học đến thiếu úy, là cán bộ, là tổ trưởng Đảng mà đồng chí không hiểu gì về nguyên tắc cả? Cứ thích lấy vợ là lấy mà không cần thông qua tổ chức hả?”

Tai tôi như ong vỡ tổ, rồi liên tưởng đến việc của Hợi bạn tôi thời ở Tiểu đoàn 445 Trung đoàn 3 Sư đoàn 320B Quân khu Hữu Ngạn trước lúc đi B. Chờ Chính ủy, người anh quê hương “hạ hỏa”, tôi mạnh dạn trình bày: “Thưa anh, tất cả những việc xảy ra trong thời gian đi vắng đề nghị anh cho cơ quan xác minh nhất là chị Lếnh, bà con xung quanh khu vực đóng quân của trung đoàn bộ và cả chi bộ Tác huấn nơi tôi sinh hoạt. Nếu không thì “oan” cho tôi”. Ông dằn giọng:

- Không có lửa, tại sao có khói, chẳng lẽ hai mẹ con cô ta mang thuốc, chè đến trung đoàn trực tiếp gặp tôi làm lễ hỏi “chồng” cho con gái à...?”.

Một tuần, hai tuần, công việc cứ kéo tôi xuống Tiểu đoàn 11 theo dõi huấn luyện đợt sinh viên nhập ngũ tháng 9 năm 1971 để kịp phân chia về các đơn vị kịp thời đồng hóa các loại chuyên môn kỹ thuật...

Tin chiến thắng từ chiến trường Trị Thiên, Tây Nguyên rồi Bình Long dội về. Cả sư đoàn, trung đoàn có lệnh cơ động vào Quảng Bình vừa diễn tập nâng cao trình độ tác chiến, vừa để bộ đội làm quen với phương án đánh địch tại chỗ, đồng thời cũng là mục đích răn đe kẻ thù có ý định đánh ra Nam Quân khu 4.

Trong những ngày chốt giữ trên Đèo Ngang, sau thời gian đốc chiến và kiểm tra huấn luyện, tôi lội bộ về sở chỉ huy trung đoàn đóng tại Quảng Hợp - Quảng Bình. Đi dưới mưa bom khi bọn Mỹ đánh phá từ Phà Ròn đến Quảng Hợp, lại rơi vào đội hình đơn vị giữa buổi trưa cuối tháng 3 năm 1972. Đồng chí Chủ nhiệm Chính trị Hoa Xuân Tùng bị thương, 2 đồng chí trợ lý của Ban Chính trị hy sinh...

Sau khi giải quyết xong hậu quả, tôi đề xuất với Trung đoàn trưởng Lý Long Quân, không nên để trung đoàn bộ ngoài dân, cần di chuyển ngay trong đêm vào chân núi phía Nam xã Quảng Hợp, thiết lập sở chỉ huy thời chiến.

Trung đoàn trưởng đồng ý, tôi được trực tiếp chỉ đạo đại đội công binh thi công đến gần sáng thì đội hình trung đoàn bộ (trừ bộ phận phục vụ) đã triển khai làm việc...

Khi tôi đang kiểm tra hệ thống thông tin với các lực lượng phòng ngự ở Đèo Ngang về phía sau, anh Quân đến bên và thổ lộ: “Việc của cậu, mình đã nói với anh Hồ rồi, đó là bịa đặt của mẹ con bà T, chứ ai đi hỏi “chồng” cho con gái mà ông Hồ cũng nghe”.

Tôi thật sự cảm ơn Trung đoàn trưởng, chuyện đó tôi đã quên rồi bởi “cây ngay không sợ chết đứng”, bây giờ chỉ biết tập trung cho chuyến trở về quê mẹ đã thủ trưởng ạ.

Ông bắt tay và giật mạnh: “Đúng là đấng nam nhi của quê hương”...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2022, 08:53:02 am
Với chiến trường Trị - Thiên

Tôi sinh ra và lớn lên khi quê hương đầy bóng giặc, chứng kiến một quá khứ gian truân đầy bi hùng của một miền quê kiên trung bất khuất đã giúp tôi hiểu rõ hơn về thế giới xung quanh, về chí làm trai. Khi quê hương, đất nước bị địch giày xéo thôi thúc tôi cầm súng tuổi 13, được tôi luyện qua những năm tháng trên chiến trường Khu 5, trau dồi kiến thức dưới mái trường sĩ quan khi tròn 18 tuổi rồi vào Nam ra Bắc nay trở lại chiến trường Trị - Thiên để làm tròn sứ mệnh lời hứa: “Đánh chưa hết giặc thì ta chưa về...”.

Tháng 5 năm 1972, Trung đoàn 95 nhận lệnh cơ động vào chiến trường, Tiểu ban Tác huấn có sự thay đổi: Đồng chí Quảng - Trưởng tiểu ban và đồng chí Sách vì tuổi cao nên ở lại hậu phương.

Tôi được Tham mưu trưởng Trung đoàn cử đi đốc chiến trên dọc đường hành quân, từ Quảng Bình vào Quảng Trị, băng qua căn cứ Ái Tử, thị xã Đông Hà phải vượt qua giữa những loạt bom B-52 rải thảm và pháo hạm oanh kích ngay vào đội hình, một số cán bộ và chiến sĩ bị thương và hy sinh.

Song được tin thắng trận từ phía trước báo về, tiếp thêm sức mạnh cho trung đoàn dồn bước để sớm tham gia đánh địch bảo vệ quê hương Quảng Trị thân yêu.

Bến vượt Nhan Biều

Giữa lúc cuộc phản công “Lam Sơn 72” của địch bắt đầu, chúng thực hành hỏa lực chuẩn bị trực tiếp bằng pháo binh của quân đoàn 1 ngụy và hàng trăm lần chiếc máy bay chiến thuật, máy bay ném bom chiến lược B-52, hàng chục tàu chiến trong đó có cả tàu sân bay của hai quân chủng hải quân và không quân Hoa Kỳ, bắn phá ác liệt vào tất cả các trận địa pháo binh và pháo phòng không, các khu vực đứng chân của các đơn vị từ Bắc sông Mỹ Chánh trở ra đặc biệt khu vực thị xã Quảng Trị vào những ngày từ 26 đến 28 tháng 6 năm 1972.

Thời điểm này, quân chủ lực ta chuyển sang củng cố thế trận “phòng ngự”, “chốt giữ” bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ Thành cổ Quảng Trị; địch ra sức lấn chiếm kết hợp với phản kích “tái chiếm” vùng giải phóng, mục tiêu chủ yếu là Thành cổ Quảng Trị. Cuộc chiến đấu trở nên vô cùng gay go và quyết liệt.

Trung đoàn 95 và Tiểu đoàn pháo phòng không 37mm đang bố trí khu vực Ái Tử - Nhan Biều, Tây sông Thạch Hãn, nhận lệnh sẵn sàng bước vào chiến đấu chi viện cho các lực lượng trong thị xã. Để đảm bảo cho trung đoàn bước vào chiến đấu giành thắng lợi, trong khi các đơn vị phía trước đang thiếu lương thực, đạn dược, tuyến vận chuyển tiếp tế hậu cần của mặt trận bị địch liên tục chặn đánh gây cho ta nhiều khó khăn, kinh nghiệm tác chiến phòng ngự và phương thức bảo đảm hậu cần còn ít. Trước tình hình đó, trung đoàn khẩn trương tổ chức sở chỉ huy bến vượt tại Nhan Biều do đồng chí Hoàng Trọng Nam -Tham mưu phó làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Quang - Phó Chủ nhiệm Hậu cần làm Chỉ huy phó, cùng một số cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần tham gia giúp việc.

Tôi được chỉ định đảm nhiệm trợ lý 1 tác huấn kiêm kế hoạch lên phương án thiết lập sở chỉ huy, bến vượt, khu vực kho trạm... và hiệp đồng với địa phương sử dụng du kích dẫn đường, bảo vệ, làm công tác bảo đảm cho sở chỉ huy.

Sau hai ngày đêm nghiên cứu, kế hoạch được Chỉ huy trưởng thông qua, Tham mưu trưởng Trung đoàn phê chuẩn.

Hệ thống hào giao thông và công sự cá nhân nối từ Nhan Biều đến An Đôn (bắc Thành cổ), khu tiếp nhận hàng hướng Tây từ Phượng Hoàng, Đá Đứng đến bắc Cầu Sắt. Phía bắc từ Hồ Xá, Đông Hà theo đường 1A đến cao điểm 30 nam Ái Tử, bắc Nhan Biều...

Hướng bảo đảm: Tiểu đoàn 4 chốt chặn đánh địch trên hướng nam và tập kích đại đội dù ở Mỹ Đông; Tiểu đoàn 6 ở An Tiêm, Nại Cửu; Tiểu đoàn 5 phản kích địch ở Trị Bưu đông bắc Thành Cổ... sẵn sàng bảo đảm cho sở chỉ huy khu vực cùng các lực lượng chốt giữ bảo vệ Thành Cổ...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2022, 08:53:48 am
Mọi hoạt động của bến vượt, hoạt động có hiệu quả an toàn. Sau một tuần, đồng chí Nam về làm việc tại sở chỉ huy cơ bản. Tôi và anh Quang quán xuyến tất cả các lực lượng theo nhiệm vụ được giao.

Giai đoạn này, các lực lượng chốt giữ chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị như đứng giữa tiêu điểm của một vùng bão lửa mà kẻ thù điên cuồng dội xuống, có người ví bằng 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống thành phố Hi-rô-si-ma ở Nhật Bản trong đại chiến thế giới II vào ngày 6 tháng 8 năm 1945, làm 247.787 người thiệt mạng.

Song các chiến sĩ của ta vẫn kiên cường trụ vững, dẫu cho tổn thất thương vong, có tiểu đoàn chỉ chưa đầy một tháng từ 400-500 tay súng mà chỉ còn lại 40-50 người. Có đơn vị, cán bộ, chiến sĩ chưa nhận biết mặt nhau, chứ chưa nói gì đến họ tên, quê quán. Đau thương mất mát quá lớn đối với lực lượng phía trước.

Bên bờ Bắc sông Thạch Hãn, tôi và đồng chí, đồng bào không quản ác liệt hy sinh của bom B-52 rải thảm, pháo bầy, pháo chụp, tọa độ..., với phương tiện vận chuyển bè mảng của thân cây chuối, tre, nứa ghép lại, phao bơi ni lông, thuyền cao su và ngay cả thân thể của mình... ngày đêm bám bến nắm chắc quy luật hoạt động của quân thù để đưa nhanh từng chuyến hàng, lương thực, thực phẩm, vũ khí, trang bị, đạn dược, thuốc quân y qua sông Thạch Hãn...

“Tất cả cho phía trước”, đó là mệnh lệnh từ trái tim của mỗi chúng tôi. Hàng... không thể tính bằng tấn tạ... mà làm sao đáp ứng đủ nhu cầu để các đơn vị bám trụ đánh địch, giảm thương vong khi chưa có chủ trương chuyển vào phòng ngự; đồng thời vận chuyển, khiêng cáng thương binh về phía sau điều trị chóng bình phục trở lại chiến đấu.

Sau 10 ngày chiến đấu, với hơn 20.000 quân tinh nhuệ và hàng vạn tấn bom đạn của Mỹ, địch dồn sức tiến công nhưng cuộc hành quân “Lam Sơn 72” không đạt kết quả. Mỹ và ngụy Sài Gòn lúng túng, nhưng vẫn thúc quân lính bằng mọi giá phải cắm cờ lên Thành cổ trước ngày 17 tháng 7, tức trước ngày có cuộc gặp giữa phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mỹ ở Hội nghị Pa-ri sau nhiều tháng gián đoạn.

Đối diện bờ Nam sông Thạch Hãn, mật độ hỏa lực địch ngày đêm liên tục đánh phá ác liệt hơn bao giờ hết. Song chúng tôi vẫn không chịu rời xa bến, từ trong gian khó, tôi và đồng đội vượt qua nghiệt ngã của thời gian và không gian, mọi hành động chỉ diễn ra vào ban đêm hoặc trong lúc mưa lũ, sương mù giăng kín hạn chế tầm nhìn của địch từ máy bay và pháo hạm. Còn ban ngày khi thời tiết tốt, quân ta phải ém mình chờ đợi. Hễ khi địch sơ hở, quân ta lại chớp lấy thời cơ tiến về phía trước.

Cứ như vậy hết ngày đêm này đến ngày đêm khác, mỗi chuyến hàng thấm đẫm mồ hôi của đồng đội và máu của những người ngã xuống. Công binh, vận tải, bộ đội du kích và nhân dân vẫn hiên ngang vượt rào lửa của quân thù.

Sáng ngày 10 tháng 7, như thường lệ khi mọi dấu vết tại bến vượt đã ngụy trang xong, bộ đội và các lực lượng tham gia vận chuyển cũng về nơi trú ẩn... Tôi vừa đến sở chỉ huy thì có điện của trung đoàn:

Tư lệnh chiến dịch có điện biểu dương các lực lượng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu kiên quyết giữ Quảng Trị trong mấy ngày vừa qua là nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định trong dịp chuẩn bị Hội nghị Pa-ri... Riêng Hùng ngày 9 tháng 7 đã có quyết định của sư đoàn thăng quân hàm trung úy. Chúc mừng và tin tưởng Bến vượt Nhan Biều sẽ hoàn thành nhiệm vụ của trung đoàn giao. Ký tên Nam.

Trong 24 ngày đêm được giao trọng trách chỉ huy các lực lượng bảo đảm chiến đấu cho Thành Cổ, trên bom dưới đạn việc sống chết có khi trong gang tấc, tôi vẫn không nghĩ rằng mình có niềm vui lớn như hôm nay. Đây là phần thưởng và cũng là trọng trách mà trung đoàn đã giao phó.

Nhìn dòng Thạch Hãn, mỗi khi bình minh lên sao mà hiền hòa đến vậy. Thế mà mỗi lúc bom gầm đạn thét, dòng sông cứ cuồn cuộn đỏ ngầu như đang chờ nhấn chìm bè lũ cướp nước và bán nước. Mãi đăm chiêu đôi bờ Thạch Hãn tôi liên tưởng đến sông Cầu êm đềm với làn quan họ thiết tha.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2022, 08:55:19 am
Nơi ấy đã một thời vào những năm 70, 71 trên quê hương Hà Bắc tôi là người được trực tiếp tham gia huấn luyện lớp sinh viên vừa rời giảng đường đại học đã vững vàng trong sắc áo người chiến sĩ, từ giã miền Bắc yêu thương, ra đầu chiến tuyến giáp mặt với quân thù dẫu phải đương đầu với cái chết đang kể cận, vẫn chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, tả xung hữu đột trên chiến trường Quảng Trị, chiếc nôi đã sinh ra Trung đoàn 95.

Nay có đồng chí đang đảm nhiệm các trọng trách của Nhà nước như: Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu -Tổng biên tập báo Nhân Dân - Đinh Thế Huynh. Có đồng chí đã trở thành tướng lĩnh trong quân đội như: Thiếu tướng Vũ Quốc Hùng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Bộ Quốc phòng và nhiều anh hùng lực lượng vũ trang, cán bộ cao cấp của Nhà nước và quân đội. Các đồng chí đã cùng trung đoàn đánh hơn 50 trận lớn, nhỏ loại khỏi vùng chiến đấu trên 1.715 tên lính thủy đánh bộ, lính dù ngụy góp phần tạo nên chiến công xuất sắc xứng đáng với danh hiệu “Lũy thép Thành Cổ”.

Riêng tôi, dòng Thạch Hãn có những đêm nhất là cuối thu trời se lạnh, ánh trăng thượng nguồn đã xuyên qua những cành lá còn sót lại giữa hoang tàn đổ nát của làng Nhan Biều... Một hoài niệm tiếc thương cứ vọng mãi trong tôi.

Hôm đó, tôi cùng anh Quang đi kiểm tra khu vực tiếp nhận hàng do mặt trận chuyển xuống bằng đường ô tô từ hướng Phượng Hoàng - Đá Đứng đến cầu sắt. Đồng hồ vừa chỉ 20 giờ ngày 27 tháng 7 năm 1972, hai chúng tôi vừa đến đầu cầu sắt phía Bắc thị xã Quảng Trị để hướng dẫn xe vào khu vực giao hàng, bỗng từ hướng đông có tiếng động cơ máy bay C130 thả trái pháo sáng rực cả khúc sông Thạch Hãn, rồi máy bay tiêm kích lao xuống ném bom chặn đầu đoàn xe, lửa cháy ngút trời, tiếng kêu xao xác, đất đá văng tứ tung.

Tôi ra lệnh cho mọi người phân tán tránh pháo, bom địch rồi vội nhảy xuống công sự bên đường ẩn nấp, cùng lúc anh Quang đè lên người tôi. Một mảnh bom oan nghiệt găm thẳng vào lưng anh, tôi gượng dậy cùng quân y băng bó, nhưng vết thương quá nặng, anh đã ra đi mãi mãi. Cả đêm hôm đó, tôi và đồng đội lặng lẽ cứu chữa thương binh, mai táng tử sĩ và thu gom vật chất, xóa dấu vết, ngụy trang xong hiện trường thì trời cũng vừa sáng.

Tôi về đến sở chỉ huy sau một đêm thức trắng, các o du kích Nhan Biều ùa tới, nói cười tíu tít:

Ăng (anh) bị thương ở mô? Có đau lắm không? Tôi cười: Anh “bằng an”.

Các em lại trách móc: Tại tối qua không cho bọn em đi cùng.

Các em đúng, biết rằng các em là người thông thạo địa bàn hơn bọn anh nhưng chiến tranh chuyện sinh tử có ai lường, giúp bộ đội phục vụ tại sở chỉ huy cho các anh cũng là nhiệm vụ vất vả lắm rồi. Thôi đi lo công việc của các em đi.

Các em như đàn chim chao liệng giữa trời xuân dưới những khóm tre còn sót lại sau đợt bom B-52 chiều hôm trước. Người gánh nước, người hái rau để lo bữa sáng cho cả bộ đội và du kích, nói cười líu lo...

Ngồi trong hầm chỉ huy vừa để lấy lại sức và tổng hợp tình hình đêm qua báo cáo lên trung đoàn. Bỗng ầm... ầm... căn hầm rung lên, mảnh đạn và đất đá bay xào xạc. Địch pháo kích vào xung quanh khu vực sở chỉ huy, tôi vụt khỏi hầm.

Có ai việc gì không, các em du kích đâu cả rồi? Thuấn, chiến sĩ vệ binh đang canh gác từ hướng giếng nước hối hả “dính... dính... rồi”. Tôi hỏi ai dính, ở đâu, cấp cứu!

Cả sở chỉ huy đổ xô đi tìm. Tôi và Lê Tấn Hổ, trợ lý trinh sát lao đến... Phụng nằm đó, tóc xõa trên nền giếng, bên cạnh rổ rau dền còn vương vãi, mắt em mở to, môi như còn âm vang câu hát: “Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng... Là người, tôi sẽ chết cho quê hương...”. Sao lại thế Phụng ơi. Mới hôm qua em còn nói với anh về nguyện ước, mong cho đất nước mau thống nhất để đón gia đình đang sơ tán ở Vĩnh Linh về Quảng Trị để hưởng trọn mùa xuân độc lập, thống nhất đất nước...

Vậy mà giờ đây em lại ra đi khi tuổi đời chưa tròn đôi mươi. Nỗi đau quặn thắt lòng những người đồng đội, nước mắt mặn chát bờ môi. Vĩnh biệt em, các anh sẽ thay em chiến đấu cho Quảng Trị và mỗi gia đình từ Nam sông Bến Hải sớm đoàn tụ như lời Bác Hồ đã dạy: “Nước không thể chia”, cầu Hiền Lương, Quảng Trị đã trở thành điểm hẹn của lịch sử, dẫu những trận chiến đấu ác liệt nhất mà cuộc đọ sức với kẻ thù của dân tộc ta trong thế kỷ XX này “dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn” hoặc “máu có nhuộm đỏ bùn non nơi Thành cổ” các anh cũng sẽ cùng dòng Thạch Hãn quét sạch bọn xâm lăng ra khỏi bờ cõi để cho em được thanh thản chốn vĩnh hằng...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2022, 08:56:45 am
Vào Thành Cổ (Sở chỉ huy bổ trợ)

Từ ngày 14 đến ngày 27 tháng 7 năm 1972, lữ đoàn dù 2 của địch bị thiệt hại nặng, Mỹ - ngụy thúc ép sư đoàn lính thủy đánh bộ vào thay thế. Những ngày này chúng tập trung chi viện hỏa lực với mật độ cao chưa từng có. Thành cổ Quảng Trị trung bình mỗi ngày bị chúng bắn hơn 8.000 viên lên 15.000 viên đạn pháo, ngày cao đến 30.000 viên. Máy bay tiêm kích bom từ 40 đến 60 lần/chiếc phun chất độc hóa học và thả bom khoan, bom hơi để phá tường thành, đánh sập hào, công sự của bộ đội ta. Số phi vụ B-52 mỗi ngày từ 30-40 lần chiếc lên 60-70 lần chiếc để chặn các hướng tiếp tế vào Thành cổ.

Để tăng cường cho sở chỉ huy bổ trợ, tôi được lệnh cùng đi với đồng chí Vũ Quang Thọ, Phó Chính ủy Trung đoàn vượt sông... Đã một thời canh giữ bờ Bắc sông Thạch Hãn, mọi hoạt động quy luật của địch và đường đi, khu vực tôi đã nắm chắc. Anh Thọ hạ lệnh xuất phát!

Như “kình ngư”, ba anh em (anh Thọ, đồng chí công vụ và tôi) nhằm hướng dinh tỉnh trưởng ngụy (nơi đặt trụ sở chỉ huy bổ trợ) với bao gói ngụp lặn một mạch, vừa bám bờ thì loạt pháo cầm canh rơi xuống lòng sông, pháo sáng vụt lên, bầu trời và lòng sông xanh, đỏ, trắng ảo ảnh... Ba thầy trò biến vào hầm chỉ huy, cười sảng khoái.

Ơ kìa, thủ trưởng Thọ. Không chỉ một người mà cả ba đều giống nhau... ha... ha. Anh Vũ Thả - Trung đoàn phó vỗ vai:

“Lâu lắm rồi không được tắm phải không? Ba thầy trò đi như vậy là nhanh, gọn đấy, từ khi biết tin anh vào chúng tôi bây giờ mới đỡ lo”.

Tôi hiểu được nỗi khó khăn của những người bảo vệ Thành Cổ, sống chiến đấu dưới bom đạn quân thù, việc sinh hoạt ăn nghỉ, tắm giặt đều phải nắm chắc quy luật hoạt động của địch như một trận đánh nắm và tạo thời cơ “xuất kích”. Mỗi lần như vậy, phải “thoát y vũ” dứt pháo, bom là “tiên sa” xuống sông, rồi quay lại trong tích tắc nếu không thì dính đòn...

Vào đến sở chỉ huy, tôi được giao tổng hợp mọi hoạt động tác chiến của trung đoàn và được thông báo:

Hiện địch đã tăng cường lực lượng, bố trí lại thế trận đổ chuẩn bị tiến công vào thị xã trên các hướng. Tiểu đoàn 5 dù và 2 đại đội biệt kích ở khu vực Tri Bưu cũng đánh chiếm Tri Bưu và góc Đông Bắc Thành Cổ, tiểu đoàn 6 dù ở khu vực quận Mai Lĩnh, tiểu đoàn 11 dù ở khu vực Long Hưng, tiểu đoàn 9 dù ở xung quanh khu vực La Vang, tiểu đoàn 7 dù làm dự bị. Triển khai khu vực Đại Nãi sẵn sàng tăng cường cho hướng Đông Bắc, các hướng đều có xe tăng, thiết giáp, máy bay, pháo binh yểm trợ khi tác chiến.

Mới chân ướt, chân ráo vào Thành cổ, ngay trong đêm, tôi đã phải thông qua kế hoạch tác chiến bổ sung với chủ trương của trung đoàn là:

Đánh địch cải tạo thế trận phòng ngự thị xã Quảng Trị để các tiểu đoàn tung trinh sát bám nắm, tổ chức tập kích bằng hỏa lực và phân đội nhỏ đánh vào quân địch ở khu nhà xanh, nhà Mỹ Tây, khu nhà thờ Tin Lành, nhà thờ Tri Bưu, ngã 3 Long Hưng...vừa tiêu diệt sinh lực địch vừa đánh chiếm gọn từng mục tiêu và tổ chức chốt giữ đông, tây, nam, bắc Thành cổ Quảng Trị, đồng thời đẩy mạnh phản kích không cho địch thực hiện kế hoạch “tái chiếm” Quảng Trị như dự kiến.

Điển hình trong đêm và sáng ngày 16 tháng 7, Tiểu đoàn 4, sử dụng Đại đội 3 lợi dụng thời cơ địch đứng chân chưa vững, táo bạo tập kích giữa ban ngày tiêu diệt hơn 100 tên địch ở khu vực Mỹ Đông, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.

Tiểu đoàn 5 tập kích diệt gọn một đại đội địch ở khu vực nhà thờ Tri Bưu và liên tục phản kích đẩy lùi nhiều đợt tiến công của lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến, diệt thêm nhiều địch giữ vững trận địa.

Bọn Mỹ - ngụy như con thú giãy chết “càng thua đau, càng cắn càn”, tập trung phi pháo và máy bay B-52 rải thảm bom đạn vào thị xã Quảng Trị. Vượt lên bom đạn và mất mát hy sinh, các tiểu đoàn của Trung đoàn 95 cùng các đơn vị bạn chiến đấu kiên cường “còn người, còn trận địa” dù cho quân thù đông, hỏa lực mạnh nhưng địch không thể lấn dũi từng ngõ, phố, thôn xóm... mà còn bị cán bộ, chiến sĩ bảo vệ Thành Cổ đánh cho tơi tả.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2022, 08:57:07 am
Là cán bộ đốc chiến của Trung đoàn 95 vào Thành Cổ, những ngày đầu tháng 8 và nửa tháng 9 năm 1972, tôi được tận mắt chứng kiến trận lũ lụt rất lớn, nước từ thượng nguồn Vĩnh Định, sông Nhùng, sông Thạch Hãn quanh thị xã Quảng Trị đột ngột dâng cao, chảy cuồn cuộn như muốn đẩy mọi thứ ra Biển Đông. Nước tràn vào thị xã, ngập hết công sự, hầm hào, nấu cơm, cháo phải kê hòm đạn, nước đến đâu thì người bị hằn vết đến đó (từ dưới đầu gối đến lưng rồi qua ngực thành 3 ngấn nước).

Cái khó nhất là hàng trăm liệt sĩ, thương binh chưa đưa qua bờ Bắc sông Thạch Hãn được, lương thực, thực phẩm chỉ tính từng ngày, vũ khí đạn dược thiếu, quân số còn quá ít, có tiểu đoàn chỉ còn 30-50 đồng chí, đại đội chỉ còn trên dưới mười tay súng...

Đi giữa bốn bề nước, bùn và máu của đồng đội hòa lẫn với nước sông đang trào vào thị xã tôi lại nhớ câu thơ của Tố Hữu:

“Năm mươi sáu ngày đêm/Khoét núi ngủ hầm/Mưa dầm cơm vắt/Máu trộn bùn non/Gan không núng chí không sờn...”.

Nhưng đây tới 81 ngày đêm mà đỉnh cao của sự ác liệt vào thời điểm từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 8 trên toàn bộ Quảng Trị, quân ta đã tiêu diệt 26.400 tên và bắt sống gần 100 tên địch, phá hủy 250 khẩu pháo, bắn cháy và phá hủy 200 xe tăng và xe quân sự khác, bắn rơi 200 máy bay.

Với Trung đoàn 95 đã đánh nhiều trận xuất sắc được nhân dân và cấp trên đặt cho nhiều biệt danh như: Tiểu đoàn 4 là “Lũy thép Đông Nam Thành Cổ”, Tiểu đoàn 5 là “Tiểu đoàn đánh giỏi”... Trung đoàn 95 và các đơn vị bạn được Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khen ngợi: “Bộ đội đã nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, chiến đấu cực kỳ anh dũng, đánh bại một bước quan trọng trong chiến lược chủ yếu của địch giành thắng lợi...”.

Đêm 15 tháng 9 năm 1972, tôi vừa tổng hợp kết quả chiến đấu trong ngày, anh Thọ, Phó Chính ủy Trung đoàn hỏi: “Tiểu đoàn 4 còn bao nhiêu tay súng? Chú ý nắm lại quân số vũ khí trang bị nhất là thương binh, tử sĩ hướng Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 6. Tôi và anh Thả về sở chỉ huy khu vực họp, thường xuyên liên lạc nhé...”. Khoảng 2 giờ sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972, tôi nhận được lệnh qua điện thoại: “Thông báo cho các tiểu đoàn cho bộ đội qua bờ Bắc sông Thạch Hãn - chúng tôi đón!”.

Giữa ngổn ngang nào là thương binh, tử sĩ trong ngày còn hơn 100 đồng chí, bộ đội lội bì bõm dưới bùn, nước, người thì khát, đói... ngoài bờ sông bom đạn mỗi lúc một dữ dội, hết nhìn chiến sĩ bị thương nặng đến xoay xở anh em tử sĩ đã đưa vào bao gói (bao ni lông), lòng rối như tơ vò, nhưng tôi cố bình tâm truyền đạt lệnh của trên cho các đơn vị.

Tôi không quên lưu ý các đơn vị, chôn cất tử sĩ phải nhớ ghi tên, gói các loại vũ khí không chuyển được phải cột bằng dây dù thả xuống sông (không cho địch thu hoặc phá hủy). Người còn khỏe phải dìu cáng thương binh bám xuồng cao su và phao bơi bằng bao gói lần lượt vượt sông...

Chỉ thị cho lực lượng vệ binh kiểm tra, thu dọn sở chỉ huy lần cuối cùng, xóa dấu vết và bơi sau cùng đến giữa sông thì một loạt pháo chụp xuống đội hình, phao thủng, bộ đội kêu cứu, tôi động viên mọi người giữ thăng bằng thuyền cao su và phao bơi nhanh vào phía bờ Bắc. Bỗng từ hướng cầu sắt thượng nguồn sông Thạch Hãn vọng xuống một giọng Quảng Nam quen quen. Tôi cố nghe và nhận ra đó là đồng chí Nguyễn Đức Hiền - Chính trị viên Tiểu đoàn 4: “Hùng đó phải không, kéo tau với...”. Tôi đáp: “Đừng la to, cứ bám chặt phao, thả xuôi sông, tôi sẽ đón”. Giữa lúc cam go, tôi càng thấm sâu tình bạn hữu, nghĩa quê hương: “Chuyến đò nên nghĩa tương tri / Tình sâu nghĩa nặng sá gì phong ba...”.

5 giờ sáng, các hướng bám được vào bờ Bắc sông Thạch Hãn, dựa vào hào giao thông, công sự chiến đấu của thôn An Đôn, làng Nhan Biều, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong. Từng đơn vị tổ chức đội hình hành quân về Tây Bắc sông Thạch Hãn, bổ sung quân số củng cố xây dựng lực lượng, bước vào bảo vệ Thượng Phước, Phương Thúy, Phượng Hoàng theo kế hoạch của trung đoàn.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2022, 08:58:47 am
Trước và sau Hội nghị Pa-ri

Từ sau ngày rời khỏi Thành cổ Quảng Trị, tôi được về giữ chức Tiểu đoàn phó 1, rồi Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 95, Sư đoàn 325, Mặt trận B5.

Tuổi 22 dù đã trải qua chiến đấu bảo vệ Thành cổ với cương vị là trợ lý tác huấn nhưng tôi luôn bám sát chiến công của tiểu đoàn.

Dẫu biết rằng là tiểu đoàn có biệt danh “đánh giỏi” nhưng quân số chưa được bổ sung, sức khỏe bộ đội giảm sút, vũ khí trang bị chưa đồng bộ, yêu cầu đặt ra lúc này là huấn luyện nâng cao về kỹ, chiến thuật, đánh hiệp đồng trong điều kiện tác chiến trực tiếp tiếp xúc để hoàn thành nhiệm vụ trên giao.

Đối diện với trận địa phòng ngự của tiểu đoàn tôi, quân thù ra sức kìm kẹp, đàn áp đồng bào vùng mới “tái chiếm” và thời gian không cho phép nghỉ ngơi. Tôi nhớ đến áng văn bất hủ của Trần Hưng Đạo đã dạy cho người cầm quân về nghĩa khí đối với nước: “... Dẫu trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác ta bọc trong da ngựa cũng nguyện xin làm...”. Vì thế ngày đêm, tôi cùng ban chỉ huy xin chủ trương của trung đoàn tập trung điều trị thương, bệnh binh nhanh chóng hồi phục sức khỏe, trả quân số về tiểu đoàn sớm ổn định bước vào huấn luyện.

Đảng ủy, chỉ huy trung đoàn đồng ý và cử cơ quan trực tiếp giúp đỡ. Sau hơn một tháng củng cố huấn luyện, trình độ chiến, kỹ thuật được nâng lên, sức khỏe của bộ đội khá dần (giai đoạn này, có ngày trên một nửa quân số của tiểu đoàn bị sốt xuất huyết).

Ngày 15 tháng 12 năm 1972, trung đoàn giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn đánh chiếm Tích Tường - Như Lệ bị địch tái chiếm ngày 16 tháng 9 năm 1972, diệt một đại đội lính dù ngụy mở rộng bàn đạp về bờ Nam sông Thạch Hãn, tạo được thế đứng mới.

Đêm 21 tháng 12 năm 1972, nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22.12.1944 - 22.12.1972), tôi xin chủ trương đánh một trận chào mừng. Tiểu đoàn sử dụng Đại đội 5 tiến công “nở hoa trong lòng địch” đánh chiếm Tích Tường diệt và bắt sống 88 tên lính dù ngụy, thu nhiều vũ khí và quân trang, quân dụng (trong đó có 1 cối 81 và 2 đại liên M60). Sau đó giữ vững bàn đạp, bám trụ đánh lại nhiều đợt phản kích của địch, diệt 40 tên. Ngày 22 tháng 12 năm 1972 đơn vị được lệnh rời khỏi trận đánh, bàn giao Tích Tường cho lực lượng vũ trang địa phương và đơn vị bạn chốt giữ.

Trước thất bại liên tiếp của cái gọi là “tái chiếm”, địch vẫn “cố đấm ăn xôi” tập trung mật độ pháo có ngày từ 2.000 quả đến 5.000 quả đánh vào Như Lệ, Tích Tường nhằm đánh bật ta sang bờ Bắc sông Thạch Hãn lấy đó làm giới tuyển để kiểm soát. “Vỏ quýt dày đã có móng tay nhọn”, đêm 31 tháng 12 năm 1972 rạng ngày 1 tháng 1 năm 1973, được hỏa lực trung đoàn, sư đoàn chi viện, Tiểu đoàn 5 chúng tôi lại xuất quân đánh một trận tuyệt đẹp chào mừng xuân mới - xuân giải phóng trên quê hương Quảng Trị, diệt tại chỗ 200 tên lính dù ngụy, giữ vững khu vực Như Lệ và liên tục đánh bật nhiều đợt tiến công của tiểu đoàn dù 2 ra khỏi trận địa. “Như Lệ đã trở thành chốt thép” để Tiểu đoàn 4 vào chiến đấu thắng lợi. Tiểu đoàn 5 chuyển sang làm lực lượng cơ động theo mệnh lệnh của trung đoàn.

Ghi nhận sự đóng góp từ khi được cấp trên cử xuống chỉ huy tiểu đoàn, cùng đơn vị củng cố, xây dựng và chiến đấu giành được nhiều thắng lợi, cán bộ, chiến sĩ bầu tôi là “Chiến sĩ Thi đua” năm 1972 và đề nghị cấp trên tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2022, 07:46:16 am
Trận đánh mừng Xuân

Ngày ấy, trên chiến trường cứ mỗi bận xuân về, cánh lính B5 chúng tôi thường sắm cho mình những món quà đầy ý nghĩa để chào đón mùa xuân. Xôi thịt, bánh kẹo ư? Không! Đó là hoa, hoa chiến công để mừng Đảng, mừng Xuân...

Đi giữa tiết trời đang chuyển sang xuân, với khí thế hừng hực, tuổi trẻ khát khao trong niềm vui hiện về bao ký ức quê hương chiến trận nâng bước tôi đến thượng nguồn sông Lai Phước, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Nơi đây là Sở chỉ huy của Sư đoàn 325. Nhìn thấy tôi, Phó Chính ủy Sư đoàn - Lê Văn Dương vuốt nhẹ mái tóc đã điểm sương với chất giọng thư thái của làng quê xứ Nghệ, ông hỏi về sức khỏe của tôi, tình hình đơn vị nghe sao mà ấm áp lạ thường... Tôi dạ: “Đơn vị đang sẵn sàng...”.

Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Phạm Minh Tâm nâng bút chì đỏ, chân chất giọng Quảng Nam, chỉ cho tôi nơi phải đến. Đó là đồi chè, án ngữ phía Tây Thành Cổ kiểm soát sông Thạch Hãn cả ngày lẫn đêm do một đại đội lính dù ngụy chiếm đóng. Tiểu đoàn 5 được phối hợp 1 đại đội đặc công của sư đoàn và du kích địa phương đánh chiếm lại đồi chè trong đêm 31 tháng 12 năm 1972 đến 0 giờ ngày 1 tháng 1 năm 1973 phải kết thúc.

Nhớ lại những ngày bảo vệ Thành Cổ, tôi mạnh dạn hỏi: “Việc bảo đảm vượt sông Thạch Hãn giữa ban ngày có được tăng cường phương tiện và chi viện hỏa lực không?” Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng, giọng trầm ấm, chắc nịch: “Vượt sông trước 18 giờ do đơn vị tổ chức, có sự chi viện hỏa lực của trên nhưng thời gian không dài, phải vượt nhanh và đánh thắng...”.

Đã trải qua chiến đấu từ chiến sĩ đến cán bộ tiểu đoàn, tồi hiểu mệnh lệnh của người chỉ huy bao giờ cũng ngắn gọn, nhưng thể hiện niềm tin tưởng tuyệt đối của cấp trên khi giao phó nhiệm vụ, cũng là động lực thôi thúc người lính quyết tâm thực hiện tốt trọng trách đó.

Đúng 17 giờ 30 phút ngày 31 tháng 12 năm 1972, toàn đơn vị vượt sông. Khi đã bám bờ đối diện, một tình huống xảy ra: 2 khẩu cối 82 ly của tiểu đoàn do công binh trung đoàn vận chuyển bằng thuyền cao su, ra giữa sông Thạch Hãn bị pháo bắn chìm rơi xuống sông và đồng chí Chính trị viên phó Tiểu đoàn không bơi được, đang kẹt bên bờ Bắc...

Tôi ra lệnh cho các đơn vị vào triển khai theo phương án chò lệnh, rồi bất chấp pháo đạn và dòng chảy, tôi bơi một mạch ra nơi 2 khẩu cối và động viên bộ đội lặn tìm. Rất may là khi chuẩn bị vượt sông tôi đã giao cho Đại đội 8 hỏa lực dùng dây võng buộc cối vào thuyền cao su, nên thuyền có thủng nhưng súng cối không bị mất... Tất cả cho trận đánh là sức mạnh vượt hiểm nguy. Khi đưa được cối vào trận địa, đồng hồ đã điểm sang 20 giờ...

Bọn địch đánh hơi, pháo từ Thành Cổ, ngã ba Phước Môn bắn tối tấp ra sát gần bờ Nam và giữa sông Thạch Hãn có quả trúng đội hình, bộ đội hướng Đại đội 6 đã có đồng chí bị thương vong...

Đúng giờ G, tôi hạ lệnh nổ súng. Lập tức Đại đội đặc công, Đại đội 5 mũi chủ yếu xông lên nhưng bị đại liên M60 của địch bắn chặn. Đồng chí Dương - Đại đội trưởng bị thương, tôi ra lệnh đồng chí Hạc - Đại đội phó thay, rồi từ vị trí chỉ huy tiểu đoàn tôi lên ngay cửa mở của Đại đội 5.

Đến 21 giờ cùng ngày, chúng tôi làm chủ trận địa, đánh thiệt hại nặng đại đội dù, thu chiến lợi phẩm, giải quyết chiến trường, ra khỏi trận địa về chốt giữ Tích Tường, Như Lệ, bờ Nam sông Thạch Hãn. Cho đến 0 giờ ngày 1 tháng 1 năm 1973, hai bên tạm ngừng tiếng súng theo nhật lệnh của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong dịp Tết dương lịch và cổ truyền của dân tộc, hai bên tạm đình chiến để giữ yên bình cho đồng bào hai miền Nam - Bắc vui xuân.

Trận đánh đêm 31 tháng 12 năm 1972 rạng ngày 1 tháng 1 năm 1973 là một trong những kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời binh nghiệp của tôi. Trên bình diện chiến trường, nó có ý nghĩa đập tan âm mưu lấn chiếm vùng giải phóng của kẻ thù trước khi ký Hiệp định Pa-ri. Đối với tôi, nó đánh dấu một bước trưởng thành trong xây dựng và chỉ huy đơn vị chiến đấu, được cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ nào cũng hoàn thành xuất sắc, được Trung đoàn 95 chọn đi báo cáo điển hình trong Đại hội thi đua quyết thắng của Sư đoàn 325 vào cuối năm 1973.

Và tự hào hơn, sau năm tháng chiến đấu đầy cam go, thử thách, lập nhiều chiến công khi bảo vệ Thành cổ Quảng Trị và trong chống lấn chiếm, giữ vững mục tiêu, địa bàn đảm nhiệm, tháng 12 năm 1973, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 95, Sư đoàn 325, Mặt trận Trị Thiên được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Riêng tôi được công nhận chiến sĩ thi đua năm 1973.

Giờ đây, cứ mỗi độ xuân về trên quê hương thanh bình đang thay da đổi thịt từng ngày, tôi lại hồi tưởng mùa xuân năm xưa, trên Quảng Trị thân thương, nơi tuyến đầu giáp mặt quân thù, bao cam go, ác liệt có cả những hy sinh mất mát nhưng tràn đầy khí phách anh dũng. Những khuôn mặt đồng đội thân yêu, những ánh mắt trao nhau sáng ngời niềm tin, những cái siết tay đầy tâm huyết, những bước chân hối hả, rầm rập lên đường, tất cả... tất cả đểu thể hiện quyết tâm sắt đá của một dân tộc khát khao độc lập, tự do và đang dần đi đến thắng lợi cuối cùng.

Chiến tranh đã đi qua, nhưng trong suốt cuộc đời binh nghiệp, chúng tôi luôn ghi nhớ và làm tiếp những phần việc còn lại của bao đồng bào, đồng chí đã vĩnh viễn ra đi để cho đất nước được hưởng trọn mùa xuân độc lập, tự do.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2022, 07:47:17 am
Thoát hiểm

Trận Đồi Chè là tiêu điểm của hệ thống tác chiến phòng ngự trực tiếp tiếp xúc của quân giải phóng Quảng Trị đã làm cho quân ngụy Sài Gòn sau ngày “tái chiếm” bị thua đau. Chúng lớn tiếng rêu rao “Bắc Việt” xâm lăng!. Tôi là một trong số cán bộ tiểu đoàn là người con của miền Nam đại diện cho lực lượng phòng ngự tại đó phải suốt ngày lăn lộn từ điểm tựa này đến điểm tựa khác để “khẩu chiến” với bọn lính dù là chúng tôi chính là Quân giải phóng miền Nam đang nói chuyện với các “bạn” đây.

Cách gọi “bạn” là theo chủ trương hòa giải dân tộc, ta không cần đao to búa lớn làm gì khi mà Mỹ đã rút, ngụy ắt phải nhào. Bọn chúng rêu rao: Ông (tức nói với tôi) là dân miền Nam có bài gì hay hát nghe chơi. Nhân tiện có loa công suất lớn của trung đoàn chuyển xuống để làm địch vận tại điểm cao 50, Đồi Phẫu, tôi ca bài: “Gánh bưởi Biên Hòa” rồi “Tình anh bán chiếu” đến “Gánh nước đêm trăng”...; tay trung úy tâm lý chiến chỉ huy đơn vị đối diện thốt lên: “Xin bái phục các ngài”. Sau hôm đó, chúng chuyển tên này về ngã ba Phước Môn nơi sở chỉ huy của tiểu đoàn dù ngụy Sài Gòn.

Biết được điểm yếu của quân dù liên tục thay chỉ huy từ phía sau ra phía trước và ngược lại, trung tuần tháng 1 năm 1973, trung đoàn gọi tôi về sở chỉ huy tại Khe Cóc giao nhiệm vụ tổ chức luồn sâu đánh hiểm vào sở chỉ huy tiểu đoàn dù ngụy.

Từ phía trước về trung đoàn, trên đường đi nhận nhiệm vụ, tôi gặp Nguyễn Đức Hiền - Chính trị viên Tiểu đoàn 4 gọi vào hầm uống nước nhân lúc chờ cùng về trung đoàn. Vì quá mừng nên sẵn điếu thuốc lào cạnh hầm chữ A (hầm kèo), tôi rít một hơi nhả khói và thẩn người nghĩ ngợi, không may vứt cái đóm vào ngay đống thuốc phóng (bộ đội dùng để nhóm lửa khi trời mưa) lửa bốc cháy chăn, màn, ba lô. Quá bất ngờ tôi vội kêu: Cứu... cứu rồi nhào vô dập lửa, đến khi ra khỏi hầm thấy mọi người cười ầm lên: “Thầy tu bay ơi...ơi...!”. Tôi vội lấy khăn lau mặt mới biết tóc cháy sém và hai hàng lông mày cũng đã thành than...

Vừa lúc anh Trầm - Trung đoàn phó đi cùng vỗ vai: “Thôi vào gặp Sư trưởng đi, coi như đã qua một trận chiến đấu, người còn là tốt rồi hi..hi...”.

Ngồi đối diện tôi là Sư đoàn trưởng Lê Kích, tuy tuổi đã cao nhưng giọng nói còn rõ và truyền cảm: Tớ là dân Quảng Ngãi, biết Hùng quê Quảng Nam, lâu nay anh Tâm và anh Dương thường kể về cậu, nhất là qua trận đánh Đồi Chè đêm 31 tháng 12 năm 1972. Bữa ni, mình muốn hỏi Hùng về vị trí của sở chỉ huy tiểu đoàn dù ngụy tại ngã ba Phước Môn”. Không để Sư đoàn trưởng chờ lâu, tôi trình bày luôn: “Ngã ba Phước Môn nằm giữa các quả đồi lúp xúp đã bị B-52 dọn sạch từ ngày tái chiếm Thành cổ Quảng Trị (16-9-1972) cách Tây Nam sông Thạch Hãn nơi trận địa phòng ngự của Tiểu đoàn 5 khoảng 7km theo đường chim bay”. Ông hỏi: “Cách bố trí thế nào”?. Tôi đáp: “Dạ, theo anh em du kích cho biết, các đại đội dù và bọn thám báo tăng cường cho hướng này đều bố trí vòng ngoài từ Tích Tường đến Như Lệ, còn phía sau rất trống, lực lượng phục vụ là chủ yếu. Nếu được sư đoàn đồng ý, Tiểu đoàn 5 thực hiện chiến thuật “Đặc công hóa” nghĩa là vừa bộ binh vừa trinh sát với chiến thuật đặc công, luồn sâu đánh hiểm diệt sở chỉ huy tiểu đoàn”. “Hôm nay là ngày 25 tháng 1 năm 1973. Thời gian chuẩn bị không dài, ngày 27 tháng 1 năm 1973 phải nhổ xong nhé” - Sư đoàn trưởng xác định.

Sau hai ngày đêm chuẩn bị điều nghiên, quyết tâm chiến đấu đã được cấp trên phê chuẩn. Đêm 27 tháng 1 năm 1973, tiểu đoàn vượt sông, dựa vào trận địa phòng ngự của Tiểu đoàn 4, bí mật chiếm lĩnh trận địa, triển khai đội hình an toàn trên các hướng, thông tin thông suốt. Tôi đang đi kiểm tra trận địa hỏa lực của tiểu đoàn thì nhận được điện của trung đoàn.

Tiểu đoàn bí mật rời khỏi trận địa, từng đại đội du kích sẽ dẫn đường luồn lách giữa các tụ thủy dựa vào các làng: Tích Tường 1 - Tích Tường 2 và Như Lệ, nhanh lên không được chậm trễ...

Nhìn đồng hồ đã 2 giờ 30 phút... nhưng tại sao phải dừng chứ? Vừa lúc đó đồng chí thông tin chuyển điện của sư đoàn qua vô tuyến bằng mật mã vừa dịch: Tiểu đoàn 5 đã bị 3 đại đội dù và 1 đại đội thám báo bao vây phía Nam sông Thạch Hãn, ngay trên đường các đồng chí vừa tiếp cận... để bảo tồn lực lượng và kịp thời gian cho thời khắc “lịch sử” sư đoàn ra lệnh chuyển hướng tiến công...

Vừa lui quân, vừa thăm dò động tĩnh, tôi cùng Xuân Vịnh - Chính trị viên Tiểu đoàn mỗi người đi cùng 1 đại đội đồng chí Sơn trợ lý tham mưu đi với đại đội hỏa lực, riêng Đại đội 6 dự bị ra sau dựa vào trận địa phòng ngự của Tiểu đoàn 4 làm lực lượng nghi binh thu hút địch, nếu các hướng gặp địch nổ súng thì Đại đội 6 là lực lượng chủ yếu giải vây cho tiểu đoàn...

Kế hoạch “thoát hiểm” được anh Trầm thông qua và báo cáo với sư đoàn. Toàn đơn vị chuyển hướng về Tích Tường vừa đúng 4 giờ 30 phút ngày 28 tháng 1 năm 1973 theo đúng ý định của sư đoàn.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2022, 07:48:14 am
Trước giờ lịch sử

Mải hành quân chốt giữ chiến đấu, chúng tôi đâu có biết thời gian ký kết Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Chỉ biết với tinh thần tích cực chủ động, kiên quyết tiến công địch, khắc phục khó khăn, vượt lên mọi mất mát hy sinh để thoát khỏi vòng vây của địch, về triển khai đội hình chiến đấu tại làng Tích Tường 1.

Đúng 4 giờ 30 phút ngày 28 tháng 1 năm 1973, khi Chính trị viên Trần Xuân Vịnh mở ra-đi-ô, tiếng phát thanh viên của Đài tiếng nói Việt Nam trịnh trọng: Hiệp định Pa-ri về việc chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.

Cũng là lúc hiệu lệnh tiến công “đêm trước” vào làng Tích Tường 1 lần thứ ba của Tiểu đoàn 5. Không để cho bọn chỉ huy ở ngã ba Phước Môn phản ứng, địch ở làng Như Lệ rút chạy. Tôi ra lệnh cho Đại đội 5, Đại đội 7 tiến công kiên quyết làm chủ làng Tích Tường, chỉ thị cho Đại đội 6 hướng Như Lệ kiên quyết ngăn chặn, cùng với Tiểu đoàn 4 đánh địch bảo vệ đội hình phía tây của tiểu đoàn.

Sông Thạch Hãn đang êm ả trôi, bỗng dậy sóng nhấn chìm đại đội dù xuống tận đáy sông... Sau hơn 30 phút nổ súng, đại bộ phận đại đội dù bị tiêu diệt, số còn lại bị đẩy lùi từ sát bờ Nam sông Thạch Hãn về hướng tây nam và làm chủ toàn bộ thôn Tích Tường 1.

Cả khu vực bị đánh chiếm và những nơi bộ đội ta chốt giữ là một rừng cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trước gió chào đón cái tết “hòa bình” đầu tiên giữa chiến trường Quảng Trị.

Đối diện chúng tôi, cách một thửa ruộng là đại đội dù khác, do tên trung úy chiến chỉ huy. Thực hiện lệnh ngừng bắn của mặt trận, chúng tôi cùng đi kiểm tra khu vực đóng quân của hai bên... Khi đến đại đội hỏa lực của tiểu đoàn, tên trung úy thấy trung đội thám báo của chúng bị quân ta bao vây bốn bề, liền hốt hoảng la lên: “Sao thế này?”. Tôi trả lời: “Vì các ông không thực hiện nghiêm lệnh ngừng bắn của hai bên đã thỏa thuận, ngang nhiên xua quân đi lấn chiếm chớ sao. Nếu anh em nào muốn đoàn tụ với gia đình, chúng tôi sẵn sàng mở cửa cho đi...”.

Tên trung úy lúng túng thanh minh: “Việc đó là do thượng cấp, trung đội này không thuộc đại đội tôi”. Tôi tuyên bố: “Chúng tôi sẽ cho các chiến hữu của ông hưởng chính sách khoan hồng của Mặt trận”.

Trong không khí làm chủ chiến trường, chiến sĩ ta được hưởng một mùa xuân thật sự ở ngay trên Mặt trận, được nhận những món quà ấm áp tình nghĩa từ hậu phương lớn miền Bắc gửi vô. Đây là cái Tết mà cả trung đội thám báo địch cùng đón xuân với chúng tôi. Những người chiến sĩ giải phóng quân đang hiến dâng tuổi thanh xuân của mình, xả thân chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, đã sẵn sàng nhường phần quà Tết của mình cho lính đối phương, những kẻ đánh thuê, của chế độ Sài Gòn mới hôm qua còn quyết sống mái với nhau trong gang tấc.

Bằng những cử chỉ của người chiến thắng, chúng tôi đã cảm hóa được kẻ lầm đường, chỉ sau một ngày tuyên truyền vận động, trung đội thám báo đồng ý kế hoạch thoát thân theo hướng dẫn của chúng tôi sang bờ Bắc sông Thạch Hãn về với Mặt trận dân tộc giải phóng.

Suốt thời gian này chúng tôi bảo vệ vững chắc vùng giải phóng góp phần cùng Trung đoàn 95 đánh hơn 300 trận lớn nhỏ, diệt và bắt sống 4.000 tên địch, bắn rơi hàng chục máy bay, phá hủy hơn 40 xe tăng, xe bọc thép...

Trận địa phòng ngự trực tiếp tiếp xúc của Tiểu đoàn 5 nối liền từ Tích Tường, Đồi Chè, điểm cao 50, Như Lệ, Phương Thúy, Đá Đứng bảo đảm hành lang chiến đấu, vận chuyển cơ sở vật chất cho các lực lượng của Mặt trận B5 thông suốt theo dòng Thạch Hãn từ động Ông Do đến cảng Cửa Việt.

Mãi đến khi về dự Đại hội thi đua Quyết thắng của sư đoàn, sau khi báo cáo thành tích của tiểu đoàn, lúc nghỉ giải lao, Chính ủy Sư đoàn - Nguyễn Công Trang đến bắt tay và khen: “Đúng là Tiểu đoàn trưởng” thoát hiểm “để có chiến công ngày hôm nay..!”.Tôi chưa hiểu gì thì Chính ủy nói tiếp: “Hôm 27 tháng 1 năm 1973, khi Tiểu đoàn 5 vượt qua 3 đại đội dù và 1 đại đội thám báo, Sư đoàn nhận được tin kỹ thuật: Nếu quân giải phóng đánh chiếm sở chỉ huy tiểu đoàn dù ở ngã ba Phước Môn thì chúng nó chẳng cho các cậu thoát đâu...

Bây giờ, tôi mới hiểu... Chúng tôi dù có phải lao vào nơi nguy hiểm, ác liệt đến mấy, bên cạnh tôi vẫn luôn luôn được cấp trên theo dõi và xử trí lập thời những tình huống mà cấp phân đội như tôi đâu đã lường hết và thầm cảm ơn: Không có các thủ trưởng ngày ấy thì tôi đâu có được ngày hôm nay...!


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2022, 07:49:10 am
Chia lửa với Thú đô

Hiệp định Pa-ri ký kết vừa ráo mực, thì ngày 28 tháng 1 năm 1973, địch lại mở cuộc hành quân “Sóng thần” đánh chiếm cảng Cửa Việt; từ đó tiếng súng chống địch lấn chiếm toàn tuyến nổ giòn từ Cửa Việt đến động Ông Do.

Tiểu đoàn 5 do tôi chỉ huy vững vàng phòng ngự trực tiếp tiếp xúc, ngày đêm chốt giữ và phản kích đánh bại âm mưu lấn chiếm vùng giải phóng của bọn thủy quân lục chiến và lính dù thuộc lực lượng tổng dự bị của quân ngụy Sài Gòn, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng và tài sản tính mạng của nhân dân, đồng thời giáo dục cho mỗi cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” rằng. Đồng bào và chiến sĩ miền Bắc đang anh dũng đánh trả những đòn đích đáng vào đội hình oanh tạc của pháo đài bay B-52 bắn phá miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là khi nghe bọn xâm lược Mỹ rải thảm ngay vào Bệnh viện Bạch Mai giết chết những người dân vô tội.

Biến đau thương thành sức mạnh: “Tiền phương thi đua với hậu phương - chiến trường thi đua với chiến trường...” để chia lửa và trả thù cho những mất mát, hy sinh, thiệt hại mà đồng bào, chiến sĩ Thủ đô Hà Nội phải gánh chịu, đồng bào và chiến sĩ miền Nam nói chung, quân giải phóng Mặt trận B5 nói riêng sẵn sàng chiến đấu anh dũng, giáng vào kẻ thù những đòn chí mạng ngay tại sào huyệt của chúng.

Vừa chiến đấu, vừa củng cố trận địa và hướng dẫn nhân dân trở về làng cũ Tích Tường, Như Lệ để sản xuất và ổn định cuộc sống, tôi và đơn vị vừa phòng ngự vững chắc vừa tổ chức nghiên cứu địa hình, nắm chắc mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, thực hiện chủ trương của Mặt trận cùng với các đơn vị bạn kiên quyết phản kích tiểu đoàn 6 và tiểu đoàn 11 lính dù ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu gần 800 tên, bắt 36 tên bắn cháy 4 xe tăng, bắn rơi 1 máy bay A37 lấy lại những vùng lõm mà quân ngụy tái chiếm Quảng Trị tháng 9 năm 1972, bảo vệ bình yên cho cái Tết “giải phóng” đầu tiên ngay tại chiến trường.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2022, 07:50:44 am
Thao trường giữa chiến trường

Giữa những ngày tháng 8 năm 1974 lịch sử, Tiểu đoàn 5 chúng tôi tổng kết phong trào thi đua quyết thắng và đón nhận danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” do Nhà nước phong tặng (20-12-1973). Hội nghị thi đua “giết giặc lập công” và đón nhận danh hiệu anh hùng có đồng chí Nguyễn Công Trang - Phó Chính ủy Quân đoàn 2 - nguyên Chính ủy Sư đoàn 325 dự và phát biểu.

Từ thực tiễn chiến đấu, Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 95 đã rút ra nhiều kinh nghiệm quý báu, xứng đáng là “Tiểu đoàn đánh giỏi” khi bảo vệ Thành cổ và “Rồng đất” khi chống lấn chiếm... càng tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho tiểu đoàn bước vào nhận nhiệm vụ mới.

Sau hội nghị một tuần, tôi được sư đoàn cho về Trường Quân chính Quân khu Trị Thiên để nâng cao kiến thức. Từ phía trước trở về Cồn Tiên - Dốc Miếu nơi trường đang đứng chân, bao nhiêu suy nghĩ cứ dồn về: Đánh giặc thì khỏi lo, việc học răng đây? Mải bước đi mà tôi đã qua bao nhiêu địa danh: Nhan Biều, Ái Tử, Đông Hà, Cùa, Mai Lộc, Tân Lâm... lùi lại phía sau, ký ức chiến trận lại dội về và cứ đi...

Bước vào nơi ở đã thấy Trần Minh Thiệt - Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 18 cũng đang hiện diện tại đây, tay bắt mặt mừng từ khi tham gia chiến dịch bữa nay mới gặp đồng hương, bao chuyện vui buồn cứ râm ran cả lán trại...

Một tuần, hai tuần vừa ổn định tổ chức vừa chuẩn bị thao trường, bãi tập và đồ dùng huấn luyện thì Ban Giám hiệu gọi tôi:

- Đồng chí dừng học trở về đơn vị theo yêu cầu của sư đoàn...

Là người lính đang thời điểm của chiến tranh, học cũng tốt mà về cũng chẳng sao... tôi bụng bảo dạ và chấp hành. Về đến tiểu đoàn thì đồng chí Thượng tá Phạm Minh Tâm - Sư đoàn trưởng, Thượng tá Lê Văn Dương - Chính ủy Sư đoàn vào đề ngay: quán triệt sâu sắc Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “về đẩy mạnh tiến công địch trên chiến trường...” và thực hiện chỉ lệnh huấn luyện... trung đoàn và sư đoàn chọn Tiểu đoàn 5 cơ động về Cùa - Mai Lộc, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị để thực hiện cuộc diễn tập thực binh “Trung đoàn bộ binh tăng cường tiến công địch phòng ngự trong công sự vững chắc” ở địa hình rừng núi. Tiểu đoàn 5 là hướng chủ yếu... làm cho tốt, rồi việc học sẽ tính sau.

Ba Hồ dựa lưng vào đông dãy Trường Sơn cách Tây Cùa - Mai Lộc, huyện Cam Lộ nơi cấp trên chọn làm thao trường “Cứ điểm phòng ngự của đại đội địch...” ở bình độ khoảng 30 - 35, được cấu trúc một hệ thống công sự, ụ súng, lô cốt, hầm ngầm bằng cọc sắt, bao cát và ghi sóng thu được của địch ở căn cứ Ái Tử vào những năm 1972 có độ sâu từ 1,2 - l,5m, đất dày 0,5 - 1,1m, các loại hào giao thông và hào chiến đấu rộng 0,6 - 0,8m, sâu 1,2 - l,5m liên hoàn cho cả 3 tuyến. Tiền duyên, giữa và trung tâm chỉ huy, kết hợp 5 lớp rào kẽm gai và mìn các loại, để thực nghiệm mở cửa bằng bộ phá rào FR (rồng lửa của Liên Xô) chống sát thương do các loại hỏa lực cầu vồng và trực tiếp trong biên chế từ cấp chiến dịch trở xuống.

Sau hơn một tháng chống chọi với mưa nguồn và gió Lào, Tiểu đoàn 5 cùng với lực lượng công binh đã hoàn tất việc thiết bị thao trường, chuyển sang huấn luyện theo phương án chuyên sâu và phân đoạn theo chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị... Điều làm tôi lo lắng là làm sao truyền thụ và tự mình nắm chắc nguyên tắc, cách đánh địch trong công sự vững chắc của cấp đại đội và tiểu đoàn. Vừa trên cương vị huấn luyện cho cấp dưới vừa đảm nhiệm cương vị chỉ huy của tiểu đoàn trưởng trong tác chiến hiệp đồng binh chủng với xe tăng thiết giáp, pháo binh phòng không, công binh, đặc biệt là lần đầu tiên mở cửa bằng FR... Đây là cuộc diễn tập “thực nghiệm” cho cả Mặt trận Trị Thiên - Huế, ngay trên chiến trường vừa mới giải phóng theo cách gọi của B5: “Thao trường giữa chiến trường”, trong khi kiến thức quân sự của tôi chỉ mới qua lớp cán bộ phân đội tại Trường sĩ quan Lục quân vào năm 1967. Cương vị chiến đấu vừa được điều từ trợ lý tác huấn trung đoàn xuống làm tiểu đoàn trưởng cũng chỉ tham gia đánh cấp đại đội, tiểu đoàn, chủ yếu là phòng ngự trực tiếp tiếp xúc, tập kích, vận động tiến công kết hợp chốt... còn tiến công địch phòng ngự trong công sự vững chắc ở địa hình rừng núi có các binh chủng tham gia là hoàn toàn mới mẻ.

Được cấp trên tin tưởng chọn làm “điểm” là vinh dự lớn, cũng vừa là cơ hội để thử thách học hỏi, nâng cao trình độ, kiến thức khoa học quân sự, dù khó mấy cũng nỗ lực vượt qua, tôi tự nhủ và bàn với đồng chí Nhã - Chính trị viên Tiểu đoàn ra nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ. Được sự nhất trí của tập thể Đảng ủy, chỉ huy quyết tâm xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, lấy chất lượng làm chính kết hợp chặt chẽ giữa tư tưởng, năng lực với ý thức tổ chức kỷ luật, giữa xây dựng và chiến đấu mà huấn luyện và chỉ có thông qua chiến đấu mới có thể nâng cao chất lượng mọi mặt cho tiểu đoàn.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2022, 07:51:42 am
Nhận rõ vị trí ý nghĩa đó, trước khi thực hành diễn tập, tôi tổ chức bồi dưỡng cán bộ từ tiểu đội trưởng trở lên về tổ chức và phương pháp huấn luyện kỹ, chiến thuật chiến đấu bộ binh và binh chủng, huấn luyện điều lệnh, huấn luyện thể lực và các chuyên ngành công tác đảng, công tác chính trị, hậu cần, kỹ thuật... Nhờ đó mà đội ngũ cán bộ các cấp đã phát huy và vận dùng tốt vào trong huấn luyện đạt chất lượng khá tốt.

Với lãnh đạo chỉ huy các cấp, tôi giao rõ từng khâu để duy trì chặt chẽ quy chế cấp trên dạy cấp dưới trong suốt quá trình trước, trong và sau huấn luyện. Quá trình thực hành huấn luyện phải chuẩn bị chu đáo, đúng quy chế thủ tục đã quy định. Phương pháp phải được chuẩn bị thống nhất, động tác phải được luyện tập thuần thục, chuẩn xác ngay tại thực địa cho từng loại súng B40, B41, cối 60 ly, cối 82 ly, ĐKZ, 12,7 ly phải xác định cự ly, đo đạc chính xác chuẩn bị nhiều vị trí bắn trong từng giai đoạn chiến đấu (cả chính thức, dự bị và bắn đêm).

Về huấn luyện chiến thuật phân đội phải đặt ra nhiều tình huống giả định, buộc người chỉ huy phải biết xử trí linh hoạt, tránh rập khuôn máy móc... Tổ chức điều hành huấn luyện phải nghiêm túc, phân cấp, phân công rõ ràng và phải gắn trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy đơn vị với kết quả huấn luyện cá nhân được giao đề mục cho từng cương vị đảm nhiệm.

Với phân đội, chú trọng đầu tư về tổ chức phương pháp huấn luyện kỹ đối tượng cán bộ binh chủng chuyên ngành cho tiểu (khẩu) đội trưởng, chiến đấu tốt nhưng chưa qua trường cơ bản, đồng thời đồng bộ vũ khí trang bị sau chiến đấu còn chưa thống nhất. Quá trình huấn luyện tập trung rèn tác phong chỉ huy, cán bộ sâu sát, cụ thể, tỉ mỉ quy định thời gian và chỉ tiêu bám nắm thao trường, bãi tập của cán bộ các cấp.

Chú trọng huấn luyện, giáo dục và rèn luyện cán bộ, chiến sĩ toàn diện về tâm lý, lòng tin vào vũ khí và cách đánh thắng địch trong công sự vững chắc; đi sâu động tác cơ bản, kỹ năng, kỹ xảo, sử dụng vũ khí trang bị trong biên chế và khi được tăng cường, phối thuộc; nâng trình độ hiệp đồng qua các giai đoạn trong huấn luyện chiến thuật cũng như thực hành diễn tập...

Dành tỷ lệ thời gian học đêm và mờ sáng, hành, trú quân dã ngoại, hành quân xa mang vác nặng qua các loại địa hình, thời tiết khác nhau; duy trì chặt chẽ học mới, ôn cũ, kỹ thuật với chiến thuật và xử trí tình huống sát với thực tế chiến đấu...

Vượt nắng thắng mưa, hơn một tháng các nội dung đã huấn luyện cơ bản ở cấp phân đội (tiểu đội, trung đội, đại đội) và tiến hành hợp luyện cấp tiểu đoàn với các binh chủng được liên kết chặt chẽ khi thực hành diễn tập. Kết quả bắn đạn thật 100% mục tiêu hỏa lực bị diệt, trên 85 -95% mục tiêu bộ binh đều bị hạ. Lần đầu tiên sử dụng bộ FR mở cửa nhanh, sạch, đúng hướng, bảo đảm cho xe tăng cùng bộ binh đột phá đánh chiếm mục tiêu quy định, được Bộ Tư lệnh Mặt trận Trị Thiên (Quân đoàn 2 - Binh đoàn Hương Giang) đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bảo đảm an toàn người, trang bị và phương tiện.

Thành công của cuộc diễn tập phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng yếu tố cơ bản hàng đầu là ý định diễn tập gắn với chiến trường của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 và sư đoàn đã vạch ra để trung đoàn chỉ đạo tiểu đoàn làm công tác chuẩn bị, bắt đầu từ khâu quán triệt sâu sắc các chỉ thị, hướng dẫn những nội dung có liên quan đến cuộc diễn tập của cấp trên...

Mặt khác, tiểu đoàn biết cụ thể hóa kế hoạch cấp mình và tổ chức bồi dưỡng cho cán bộ thuộc quyền, đồng thời triển khai một cách đồng bộ, đầy đủ, tỉ mỉ đến phân đội và chiến sĩ những việc cần phải làm, tiêu chí mỗi cấp, mỗi người phải đạt được trước khi bước vào diễn tập...

Nhờ vậy, khi thực hành diễn tập bắt đầu từ giai đoạn: “Hỏa lực chuẩn bị - Mở cửa đánh chiếm đầu cầu...”. Khi hỏa lực của chiến dịch, sư đoàn đang bắn phá hoại, chế áp (chưa di chuyển), đồng chí Vĩnh - Trung đoàn phó đi cùng ra lệnh cho tôi dùng hỏa lực cấp mình, tôi bình tĩnh thưa: Báo cáo Trung đoàn phó, hỏa lực của trung đoàn chưa bắn! Còn 3 phút nữa tiểu đoàn mới tham gia và thực hành xung phong đánh chiếm mục tiêu quy định...

Từ trên đài quan sát, Tư lệnh mặt trận Hoàng Văn Thái phát ngay: “Đồng chí Tiểu đoàn trưởng mới là cán bộ trung đoàn...” tôi mừng nhưng rất lo... kết thúc diễn tập về rút kinh nghiệm, Sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm biểu dương cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 5 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, riêng đồng chí Tiểu đoàn trưởng được Tư lệnh Mặt trận rất khen ngợi...

Kể từ sau cuộc diễn tập, bao kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời binh nghiệp lúc chiến đấu cam go, ác liệt... cho đến khi diễn tập thành công, tôi luôn được sự quan tâm đặc biệt của các thủ trưởng cấp trên mà gần gũi nhất là sư đoàn trưởng và chính ủy sư đoàn. Tôi nhớ mãi cái ngày “thoát hiểm” rồi đánh diệt đại đội dù “trước giờ lịch sử”. Sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm động viên tôi cứ đánh giỏi, miền Nam giải phóng sẽ làm rể ông. Đó là câu chuyện “tình sử” cả đơn vị cứ thêu dệt vẫn không thành. Khi về Hải Phòng, Hương con gái đầu của sư trưởng cứ gọi tôi bằng chú cho đến ngày thống nhất đất nước năm 1975 và hiện nay đã sang thế kỷ XXI, Hương mới gặp lại tôi và gọi bằng anh, khi mỗi người đã trở thành ông nội, bà ngoại cả rồi...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2022, 07:53:51 am
Về Thượng Đức

Sau diễn tập, Tiểu đoàn 5 về Tân Pho, Tân Lê, tây nam sông Lai Phước tiếp tục xây dựng huấn luyện. Những tháng ngày này, tin chiến thắng của Sư đoàn 304 giải phóng chi khu quận lỵ Thượng Đức dội về làm nức lòngcán bộ, chiến sĩ, cả tiểu đoàn hăng say luyện tập chờ ngày ra trận.

Khoảng trung tuần tháng 8 năm 1974, tôi nhận lệnh trực tiếp của Sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm: “Chuẩn bị sẵn sàng có xe của quân đoàn đến là đi ngay...”. Tôi chưa kịp hỏi đi đâu, làm gì thì đầu dây bên kia đã cúp máy. Tôi hiểu đó là mệnh lệnh.

Tôi tổ chức họp ban chỉ huy tiểu đoàn và trao đổi nhanh với đồng chí Nguyễn Văn Nhã - Chính trị viên Tiểu đoàn và bàn giao chỉ huy cho đồng chí Công - Tiểu đoàn phó điều hành mọi công việc trong thời gian tôi đi công tác.

Ngoài trời mưa vẫn rả rích, gió từng cơn ập vào căn hầm vốn đã chật lại càng chật chội hơn... Ba anh em thử làm “tham mưu” nhưng đành chịu. Khoảng 20 giờ cùng ngày đã thấy chiếc xe con “Bắc Kinh” đỗ ngay trước cửa hầm, tôi vừa bước ra khỏi cửa liền gặp Chính ủy Sư đoàn Lê Văn Dương bước đến ôm chặt: “Đi làm phái viên cho quân đoàn vào Thượng Đức chiến đấu, giữ gìn sức khỏe và làm tốt như diễn tập vừa rồi nghe!...”. “Rõ!”.

Chiếc xe gồng mình băng qua bãi cỏ trước cửa hầm tiểu đoàn vụt nhanh ra quốc lộ 1A đến thị xã Đông Hà, ngược đường 9 rồi theo đường quân sự làm gấp, khoảng hơn 3 giờ sáng ngày 24 tháng 8 năm 1974 thì đến sở chỉ huy quân đoàn đóng tại Ba Nang - Ba Lòng. Gặp anh Đặng Tụ, cùng đi cho biết: Chúng ta thành một tổ giúp Bộ Tư lệnh Quân đoàn vào chỉ đạo Sư đoàn 304 tác chiến phòng ngự tại Thượng Đức - Quảng Đà.

Thượng Đức, vùng B Đại Lộc là chiến trường quen thuộc đã đào luyện tôi trong khói lửa và chắp cánh cho tôi được ra Bắc học tập trở thành sĩ quan. Nay được về tham gia chiến đấu ngay trên mảnh đất đã sinh ra mình là ước nguyện bấy lâu, dù phải đổ máu hy sinh vì mảnh đất “trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ” là niềm vinh dự lớn.

Nhưng điều băn khoăn là làm trợ lý mặt trận đi cùng với Tư lệnh và Chính ủy Quân đoàn thì quả thật tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Đêm càng về khuya, mưa càng nặng hạt giữa đại ngàn, đâu đó tiếng con nai lạc đàn toang... toác... cứ dội vào lòng bao suy tưởng mông lung...

Trời hửng sáng, sương còn vương, chưa nhìn rõ mặt người, chúng tôi vũ khí trang bị nai nịt chỉnh tề, dọc đường nào là xe tăng - thiết giáp, ô tô vận tải Hồng Hà, Zin 131... đi đến chiếc thứ ba, anh Tụ cùng tôi vào ca bin, lái xe nổ máy. Đường,Trường Sơn mưa càng to, lầy, lên dốc phải dùng tời...

Khi cả đội hình chuẩn bị vượt ngầm Ti Tôn, tôi đang kiểm tra lực lượng công binh lắp ghép phà, đồng chí Tư lệnh Quân đoàn từ phía sau đi đến bắt tay tôi mà rằng: “Lần này vào Thượng Đức, nhưng chưa về quê được đâu bạn trẻ nhé” Tôi ngạc nhiên: “Ủa, sao thủ trưởng biết?”. Ông ân cần: “Mình ở thôn 3 - Điện Ngọc, Hùng ở Hà Quảng - Điện Dương phải không?”. Trước khi chọn cậu anh Tâm, Sư trưởng đã nói hết với mình về cậu rồi... Nếu lần này vào Sự đoàn 304 yêu cầu thì Hùng ở đó luôn đấy!”. “Dạ, được chiến đấu ngay trên chiến trường Khu 5 quen thuộc còn gì hạnh phúc hơn, thủ trưởng”. “Biết thế, cứ làm chuyên gia mở cửa FR và xây dựng trận địa chiến đấu phòng ngự tốt đã”. Đến đây thì những trăn trở từ cuộc diễn tập ở Ba Hồ, Cam Lộ đã giúp tôi hiểu rõ hơn tấm lòng của cấp trên khi đã tin tưởng thì dù có vào sinh ra tử cũng vượt qua để làm tròn nhiệm vụ...

Dọc đường hành quân hết băng đèo, lội suối, tôi nghĩ đến những ngày sắp tới, việc diệt chi khu Thượng Đức vốn khó đã làm được, nay việc giữ gìn càng khó nhưng ta phải tìm cách tháo gỡ, trước mắt là phòng ngự trận địa, có thể áp dụng những kinh nghiệm từ thời đánh nhau ở Quảng Trị, khó mấy cũng phải cố gắng làm được...

Xe cứ chạy, tôi cứ nghĩ, đã qua hết đông Trường Sơn đến A Sầu, A Lưới xuống An Trao rồi đến Giằng về Thượng Đức mất hơn hai ngày đêm...

Đón Tư lệnh và Chính ủy Quân đoàn tại tác chiến thất của sở chỉ huy Sư đoàn 304 gồm chỉ huy, cơ quan và cả Phó Tư lệnh Quân đoàn, Hoàng Đan vào trước cũng tề tựu đông đủ. Bắt tay tôi, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304, Lê Công Phê lạc quan: “Chào các bạn “Rồng đất” đã vào Thượng Đức. Anh em trên chốt đang chờ phái viên phòng ngự đó...”. Vậy là đã rõ, tiếng tăm của Sư đoàn 325 trong tác chiến phòng ngự trực tiếp tiếp xúc, trừng trị đích đáng bọn thủy quân lục chiến và lính dù tái chiếm Quảng Trị năm 1973 đã vang khắp mặt trận, nay cán bộ sư đoàn được quân đoàn cử vào góp sức cùng Sư đoàn 304 bày thế trận đập tan âm mưu bọn lính dù đang tái chiếm Thượng Đức.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2022, 07:55:02 am
Được sư đoàn cung cấp tình hình, Phó Tư lệnh Quân đoàn trình bày kế hoạch xây dựng trận địa phòng ngự phía trước và rút cán bộ về tập huấn. Tư lệnh Quân đoàn chỉ thị điều chỉnh lực lượng, bố trí lại hệ thống hỏa lực xen kẽ giữa pháo 85 ly bắn thẳng, hỏa tiễn H12 và cả pháo phòng không 37 ly cũng hạ nòng bắn được bộ binh.

Tổ chức cán bộ mới vào cùng Sư đoàn 304 đi nghiên cứu địa hình các điểm cao 126, 283 và 1062. Sử dụng lực lượng công binh xây dựng cho mỗi đại đội bộ binh một điểm tựa mẫu để các đơn vị đủ khả năng phòng ngự chống trả, sử dụng lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân hỗ trợ vận chuyển vật liệu để hoàn chỉnh các cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn đánh địch cả mùa mưa và mùa khô...

Rút 1/2 đến 1/3 cán bộ từ tiểu đội trở lên về phía sau tập huấn, phải làm cho cán bộ biết xây dựng trận địa, biết cách đánh phòng ngự, xây dựng lòng tin vào nghệ thuật tác chiến của ta, trong phòng ngự các cấp phải nắm vững các yếu tố công sự là then chốt quyết định là xương sống để bảo toàn lực lượng, kết hợp với vật cản để ngăn chặn địch, hỏa lực bố trí xen kẽ nhiều tầng, nhiều lớp tạo thành lưới lửa và đánh địch được trên các hướng, phòng ngự phải biết nắm và tạo thời cơ tích cực phản kích để diệt địch... có như vậy mới vừa đánh địch, giảm thương vong giữ được trận địa lâu dài.

Qua lớp tập huấn, cán bộ đã từng bước trưởng thành, trong thực tế biết tổ chức xây dựng trận địa phòng ngự và tổ chức đánh địch trong suốt mùa mưa làm cho quân dù thương vong lớn. Đến tháng 12 năm 1974, sư đoàn dù ngụy đã không tái chiếm nổi Thượng Đức mà còn bị Sư đoàn 304 Quân đoàn 2 và lực lượng vũ trang Quảng Đà, Khu 5 đánh cho tan tác, không những “nước sông Vu Gia không chảy ngược” mà nhấn chìm và cuốn trôi quan thầy Dư Quốc Đống, sư đoàn trưởng sư đoàn dù cùng bọn tay sai ôm đầu máu xuôi về Đà Nẵng.

Trước khi chia tay Thượng Đức về Quảng Trị, Tư lệnh Quân đoàn cho nghỉ “xả hơi” một ngày, tôi lần về Thành Mỹ thăm Nhung, người bạn gái quê hương ở Ban Tài mậu Quảng Đà, cũng là để biết thêm về gia đình sau những năm tháng đi xa. Đến nơi, anh Lễ - người cùng quê cho biết: Nhung vừa về đồng bằng thu mua lương thực cho bộ đội. Rồi gọi Phương cùng thôn lên giới thiệu: Đây là Hùng cùng quê với em đó. Phương làm một câu lạnh ngắt: Đồng hương chi mà ăn mặc giống bộ đội “miền Bắc” rứa?

Tôi không ngờ các em chưa bao giờ tiếp xúc với bộ đội “cơm Bắc giặc Nam” như chúng tôi. Với bản năng của quân giải phóng tôi chữa thẹn cho Phương: “Anh mang quân phục hay quần áo bà ba cũng là Bộ đội Cụ Hồ, răng em lại nghĩ như thế, em có phải Phương con ông Tửu không? Cha anh và cha em trùng tên đó...”.

Phương thoáng đi ra giữa tiếng lá rừng bay xào xạc, mãi đến trưa thì trở lại lán của anh Lễ. À ra, em đi lo “tiếp khách”. Trưa hôm đó tôi được thưởng thức cháo gà do Phương nấu và tâm sự về quê hương, gia đình và cũng như quá trình chiến đấu của tôi từ Trị Thiên - Huế vào Thượng Đức. Anh Lễ kể nhiều về Nhung: Ngoan, công tác chuyên cần... chưa để ý ai. Phương đế thêm: đang chờ anh đó. Và hai người đồng hương khuyên tôi cố đợi, sáng mai chắc Nhung về. Tuy nhiên thời gian không cho phép, tôi cảm ơn anh Lễ và Phương, nhờ anh nhắn dùm: Tôi khỏe, chúc Nhung mọi sự như ý, hẹn ngày tái ngộ...

Một lần nữa lại xa Quảng Đà, dặm dài giữa đông Trường Sơn, tôi ước một ngày nào đó sẽ cùng Nhung đi giữa rừng cờ và hoa của quê hương giải phóng, hai đứa cùng tắm mình trên biển quê tôi. Cùng nhớ về ngày còn thơ hai đứa đi quơ lá phi lao, bắt còng và chơi trò bịt mắt bắt dê... Mãi mông lung rồi giật mình khi chiếc zin 131 khựng lại “xuống xe vào trạm khách, sáng mai Tham mưu trưởng Quân đoàn làm việc” nói xong anh Tụ chỉ cho tôi chỗ mắc võng.

Sau hơn ba tháng đi làm phái viên cho quân đoàn về tác chiến phòng ngự tri thức quân sự, kinh nghiệm chiến đấu trong tôi dần được nâng lên, tuổi quân, tuổi đời cũng rắn rỏi hẳn. Cuối năm 1974, tôi được đơn vị bầu chọn Chiến sĩ Thi đua và đi dự Hội nghị Thi đua Quyết thắng “giết giặc lập công” tại sư đoàn, kết thúc một mùa chiến dịch thắng lợi. Ngày 22 tháng 12 năm 1974, tôi được thăng quân hàm thượng úy ở tuổi 24, cũng là lúc cả đơn vị chào đón mùa xuân 1975 lịch sử.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2022, 07:58:24 am
Theo dấu chân trung đoàn

Trong thời gian tham gia chiến đấu phòng ngự cùng Sư đoàn 304 ở Thượng Đức, tôi bị bom phốt pho (còn gọi là lân tinh) bắn vào tay trong khi hướng dẫn bộ đội xây dựng công sự trận địa rồi phản kích đánh địch trong thời tiết mưa gió, mải theo việc, tôi không đi bệnh xá chỉ để anh em sơ cứu tại chỗ cho đến khi về tiểu đoàn lại lao vào công tác Đại hội thi đua, đón danh hiệu anh hùng và Đại hội Đảng bộ..., vết thương dai dẳng, sức khỏe bị giảm sút.

Cuối tháng 12 năm 1974 đến tháng 1 năm 1975, Trung đoàn thông báo: Sư đoàn cho tôi đi an dưỡng, sau đó về Trường Quân chính Quân khu Trị Thiên tiếp tục học tập bổ túc lớp cán bộ tiểu đoàn mà tôi học dang dở vào tháng 8 năm 1974 do yêu cầu diễn tập. Vừa mừng lại cũng chẳng vui, mừng là được ra phía sau an dưỡng bình phục sức khỏe để đi học, chẳng vui là phải xa đơn vị cái nơi mà tôi đã một thời gắn bó với đồng đội và những chiến công đầu trên chiến trường Quảng Trị thân yêu.

Được sư đoàn cho xe ra Đoàn an dưỡng 40B tại Đồng Hới - Quảng Bình, nơi đây lại gợi cho tôi nhớ đến quê hương với những nỗng cát, cồn cát trắng mịn, chiều về gió biển rì rào, dưới rặng phi lao đã một thời tôi chưa được thả mình để thương thức cái hương vị mằn mặn của một miền trời nước bao la, cảnh đẹp nên thơ, nơi đó có một kỷ niệm thuở thiếu thời...

An dưỡng được 10 ngày, ăn, ngủ ngon nhưng quá buồn, tôi xin Trạm trưởng đi Đoàn an dưỡng Nam Hà, nơi đó nghe tin cậu tôi cũng từ Quảng Đà ra, nhân thể biết thêm tình hình gia đình và quê hương. Nhưng trạm bảo tôi là người của B5 gửi ra nên phải xin ý kiến Cục Cán bộ và Mặt trận rồi mới trả lời. Sau hai ngày thơ thẩn dọc biển để giải khuây, đêm 15 tháng 1 năm 1975, Trạm trưởng gọi tôi lên và tâm sự: “Tụi mình biết Hùng từ miền Nam ra có một mình, dù trạm cố gắng nhưng không giúp thêm gì để bạn vui. Tôi đã báo cáo rõ nguyện vọng của ông, trên đồng ý, khi đi nên ghi địa chỉ để lại cho chúng tôi liên lạc lúc cần”. Tôi mừng rỡ cảm ơn, Trạm trưởng nhắc lại: “Chuẩn bị sáng mai có xe ra Hà Nội cùng quá giang luôn...”.

Đến Đoàn an dưỡng 83 Nam Hà, nơi cậu tôi đang an dưỡng cùng với các chú từ Quảng Đà ra. Biết tôi cũng từ Quảng Trị đến, các cụ hỏi đủ chuyện: “Nghe nói ác liệt lắm phải không cháu?” Tôi cười: “Ác liệt hay không, thấy cháu vẫn khỏe mạnh ra đến đây là đủ biết rồi...”. Chiều đó, bà chủ nhà nhượng lại cho các chú một con ngỗng, tôi được giao chế biến để các “cụ” hàn huyên. Ngỗng khó nấu, răng các “cụ” lại yếu. Tôi ra thịt ướp gia vị nấu giả cầy, cổ làm dồi, xương và cánh cho ninh nhừ nấu với đu đủ, khoai tây đồ ăn với miến... các “cụ” khen: “Một sĩ quan trẻ như mày tưởng chỉ có “choảng” nhau với Mỹ-ngụy, rứa mà biết nấu ăn, ngon hè...”. Cậu tôi thêm: “Thằng này biết nấu cơm từ lúc 10 tuổi kia...”.

Ở được vài hôm, hàng ngày cậu tôi đánh tranh dùm cho gia đình. Tôi và các chú, các anh tha thẩn hết ra đồng xem bà con đi đánh dậm, bắt cua... rồi về nhà đọc sách. Thấy buồn, cậu tôi bảo: “Mọi chế độ ở đây đều theo định suất, con không ăn theo phải không?” Sao cậu lại đoán vậy tôi cũng sợ cậu buồn nên trả lời không: “Cậu yên tâm cháu quen rồi...” Tối đó nằm cạnh tôi, cậu xoa dầu: “ít khi có dịp ra dây, Tết này cậu cháu về Việt Trì ăn tết với dì Hai Rế, dì nghe tin con đã lâu mà chưa được biết...”. Tôi hỏi: “Đi bằng cách nào ạ?”. Cậu ân cần: “Con cứ lên trước, gần Tết, Hội con rể của dì đến đón cậu lên sau”.

Ngày hôm sau, cậu mượn xe đạp đèo tôi lên Nam Định rồi ra Hà Nội đến Trường Đại học Ngoại thương gần Cầu Giấy, nơi mà vợ chồng Hội, Nỷ con của dì Hai Rế đang tá túc. Từ ngày tập kết đến nay, hai em mới được gặp lại người thân tay bắt mặt mừng định giữ tôi ở lại gần Tết cùng đi Việt Trì, tôi từ chối, vì Cầu Giấy năm 1967 tôi đã ở và biết rồi, còn Việt Trì chỉ mới nghe qua nên nôn nóng muốn đi sớm, hai em chiều ý rồi lấy vé tàu hỏa. Tối hôm sau tôi đã có mặt ở Việt Trì thành phố ngã ba sông.

Được ngắm nhìn “anh giải phóng”, Việt và Trì (hai chị em cùng sinh ra tại Việt Trì), con của dì Hai Rế và Dượng Thêm, cứ quấn quýt không rời tôi nửa bước. Tôi và Trì con trai của dì, dượng rảo bước trên cầu Việt Trì. Đang tuổi hay ăn, hay nói, Trì cứ thao thao về những ngày bom Mỹ đánh vào cầu, thành phố và ga, trường học sơ tán, nhà cháy v.v... rồi bắt tôi kể chuyện chiến đấu, Mỹ to, Mỹ đen, Nam Hàn và bọn ngụy Sài Gòn cũng là con người sao mà chúng ác thế hả anh?. Tôi giải thích cho em về những người bên kia chiến tuyến, về những kẻ cầm đầu buộc họ phải cầm súng chĩa vào chính đồng loại của mình... khi nào em lớn, đất nước thống nhất, Nam - Bắc sum họp một nhà em sẽ hiểu nhiều về giá trị cuộc chiến đấu mà các anh đang thực hiện, hiểu được ý Đảng, lòng dân...

Thấm thoát được ba ngày, dù chưa hiểu hết mảnh đất lịch sử thành phố “Ngã ba sông”, nhưng khung cảnh và không khí xung quanh đã giúp tôi nhận ra một điều là người dân nơi đây cũng đang hối hả lo toan cuộc sống để chống chọi với cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của để quốc Mỹ, đồng thời dốc sức chi viện cho miền Nam, “tất cả cho tiền tuyến...”. Những khẩu hiệu hành động đó lại được giăng thêm và cao hơn quanh thành phố Việt Trì vừa đổ nát qua một trận bom để mọi người cùng thấy... Tôi và Trì đang mải miết ngắm nhìn thì Việt - chị gái Trì chạy đến hối hả: “Cậu Năm lên bảo anh về nhà ngay... ngay...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2022, 07:59:12 am
Bước vào đến cửa, cậu, dì và dượng hết nhìn tôi lại vuốt ve Việt và Trì, cậu thông báo: “Con có điện về đơn vị nhận nhiệm vụ gấp...”, cầm bức điện đánh đi từ Đồng Hới, tôi biết ngay là của đơn vị rồi xin phép cậu, dì, dượng và an ủi Việt, Trì, Tết nay anh phải đi chiến đấu không ở lại vui xuân cùng các em được...

Hôm đó vào khoảng ngày 30 tháng 1 năm 1975, gia đình dì, dượng và các em cho tôi ăn Tết sớm, rồi giục Hội, chồng em Nỷ con gái đầu của dượng chuẩn bị đưa tôi ra tàu về Hà Nội... Bữa cơm diễn ra đầm ấm giữa kẻ ở người đi, thương nhất là Việt - Trì cứ ôm khư khư ba lô của tôi, tôi chọn ra 2 thứ để kỷ niệm 2 em. Việt con gái được ưu tiên tấm dù hoa, Trì chiếc võng ni lông và 1 quả bóng... Những kỷ niệm không cần mang theo tôi gửi hết cho dì Hai rồi chia tay gia đình, tạm biệt Việt Trì...

Ngày 2 tháng 2 năm 1975, xe vừa dừng ở Hồ Xá phía bắc cầu Hiền Lương, tôi gặp một số anh em đi viện về đang chờ rút tiền, tôi hỏi: Làm gì mà rút tiền vậy các bạn? Anh Đồng - Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 6 quê Thanh Hóa vừa đi phép vào gặp tôi và nói: “Đơn vị chuẩn bị hành quân rồi, nếu có tiền rút rồi về sư đoàn để theo trung đoàn ông ạ”.

Vậy là đã rõ, về đến sư đoàn (trung đoàn không để lại hậu cứ), tôi thấy anh Tạ Rà, Tham mưu trưởng Trung đoàn và một số cán bộ đi chuẩn bị chiến trường phía Tây Trị Thiên - Huế cũng đang chờ tập hợp lực lượng, kể cả số chiến sĩ, các đơn vị trong trung đoàn còn rải rác ở bệnh xá, đoàn an dưỡng, đi công tác cùng tập trung về để sư đoàn giao nhiệm vụ.

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 5 tháng 2 năm 1975 tại sở chỉ huy sư đoàn ở Tân Kim, Tân Vĩnh, tây nam Đông Hà, Chính ủy Sư đoàn Lê Văn Dương giao nhiệm vụ: “Trung đoàn 95 cơ động đi tăng cường cho mặt trận Tây Nguyên, trước khi đi Trung đoàn trưởng Đặng Tụ và Chính ủy Vũ Quang Thọ báo với sư đoàn còn một số cán bộ chủ chốt và chiến sĩ nhờ sư đoàn đưa tiếp theo cho trung đoàn... Vì vậy thay mặt Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Sư đoàn, tôi chỉ định đồng chí Tạ Rà làm trưởng đoàn, đồng chí Hùng làm phó đoàn, được mặt trận bảo đảm 3 xe zin 130 và 1 xe Hồng Hà - 2 cầu hộ tống. Bằng mọi giá các đồng chí phải đuổi theo cho kịp. Dẫn đường do đường dây 559 liên lạc các đồng chí tự tìm hiểu. Từ khi Trung đoàn 95 cơ động đến nay, sư đoàn không được bắt liên lạc...”.

Rừng thì bao la, đường thì vô tận, Tây Nguyên nhưng Nam hay Bắc? Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk hay Lâm Đồng? Trên núi còn luồn lách chứ xuống đồng bằng địch thì bốn bề, dân tình chưa, hiểu địa bàn mới lạ như “tìm kim đáy bể” thế này biết đâu mà tìm? Anh Rà và tôi tự hỏi rồi tự tìm câu trả lời để động viên bộ đội bám sát đội hình, sẵn sàng chiến đấu.

Đi hết Trường Sơn Đông, lẽ ra theo đường 14 từ Ngọc Hồi đi Kon Tum nhưng giao liên vượt cửa khẩu Bờ Y qua Lào rồi trở lại cửa khẩu Đắk Pơ xuôi xuồng Buôn Ma Thuột. Trên đường đi dọc biên giới Việt Nam - Campuchia bị mìn hỏng 1 xe, 1 số bị thương lại đến cửa khẩu Đắk Pơ gặp tàn quân địch lẫn trong rừng. Đêm đến chúng tôi canh phòng và cho lực lượng trinh sát trà trộn vào dân đi rẫy để hỏi tình hình thì được biết Buôn Ma Thuột đã giải phóng. Vượt qua Đắk Song, Đắk Min, xe đi đầu gặp một toán du kích và bộ đội địa phương đang chốt cầu 14 trên sông Sê-rê-pốc.

Hai bên đường, cờ giải phóng tung bay, trong rừng và ven thị xã Buôn Ma Thuột vẫn còn tiếng pháo nổ và máy bay. Anh Rà cho bộ đội triển khai đội hình chiến đấu rồi cùng tôi đi tìm hiểu tình hình, biết rằng ở Đắk Lắk có rất nhiều bà con Quảng Nam, nên tôi được phép hỏi để đồng bào khỏi ngại... Được nhân dân chỉ lôi, sáng hôm sau tức ngày 1 tháng 4 năm 1975, sau 20 ngày giải phóng Buôn Ma Thuột, trung đoàn lại phát triển ra hướng đèo Măng Giang, vườn xoài cùng Sư đoàn 320 làm quân quản tại thị xã Cheo Reo - Phú Bổn.

Trung đoàn cơ động, chúng tôi ra đến Cheo Reo - Phú Bổn vào ngày 6 tháng 4 năm 1975, rồi cơ động vào Đồng Xoài, vượt sông Đồng Nai để tham gia đánh địch ở Dầu Giây, Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Cùng Quân đoàn 4 đập tan ý đồ “tử thủ” của chiến đoàn 52, liên đoàn 15 biệt động, thiết đoàn 23, lữ đoàn 2 dù, trung đoàn 8 bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh...mở toang cánh cửa thép đông bắc Sài Gòn - Gia Định.

Chiến công nối tiếp chiến công, trung đoàn chiến đấu rồi cơ động ngày đêm. Chúng tôi cũng cơ động mãi đến ngày 20 tháng 4 năm 1975 mới đuổi kịp trung đoàn đang tập kết ở vườn sầu riêng Tân Yên - Biên Hòa làm dự bị cho Quân đoàn 1 tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

Trong niềm vui lớn của cuộc hội ngộ lịch sử, có niềm vui gặp gỡ của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 95 với 3 trung đoàn cùng sinh ra từ một “gốc” đã sớm trở về miền Nam từ những ngày đầu đánh Mỹ. Đó là Trung đoàn 95 (Trung đoàn 3) đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân nằm trong đội hình Sư đoàn 9. Quân đoàn 4, tham gia giải phóng Dầu Tiếng, An Lộc, Chơn Thành, tiếp đó đánh vào nội đô Sài Gòn, giải phóng quận 5 và quận 8. Trung đoàn 95B Quân khu 5 - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân từ miền Trung vào làm lực lượng dự bị mạnh của Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh. Trung đoàn 95A (Trung đoàn 10) đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tác chiến trên hướng phối hợp của chiến dịch Hồ Chí Minh tham gia giải phóng Cần Thơ và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (Lịch sử Trung đoàn 95 - Thiện Thuật: 1945 - 1995).


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2022, 10:25:44 am
Đến đầu tháng 5 năm 1975, Trung đoàn 95 cơ động về đóng quân ở thành Tuy Hạ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Long Thành vùng ven Sài Gòn. Tôi được tăng cường cho ban tham mưu giúp tiểu ban tác huấn xây dựng kế hoạch huấn luyện và tham gia xây dựng cơ sở, củng cố chính quyền vùng mới giải phóng. Tháng 9 năm 1975, Trung đoàn 95 được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì thành tích xuất sắc 9 năm chống Pháp và 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Tháng 11 năm 1975 tôi được thăng quân hàm đại úy, tiếp tục công tác ở tiểu ban tác huấn, ban tham mưu trung đoàn chỉ đạo Tiểu đoàn 5 cơ động về căn cứ Vạn Kiếp, Bà Rịa - Vũng Tàu làm đội mẫu cho lớp tập huấn điều lệnh đầu tiên của Bộ cho các lực lượng từ miền Trung đến đồng bằng sông Cửu Long.

Tại đây, tôi gặp lại Nguyễn Ngọc Hùng, y tá của Tiểu đoàn 1-R20 Quảng Đà sau 10 năm xa cách (1965-1975). Trong thời gian tôi mải mê đi khắp các chiến trường, Ngọc Hùng bị địch bắt vào Xuân Mậu Thân 1968 và đày ra Côn Đảo, năm 1973 mới được trao trả, về lại tỉnh Quảng Đà tiếp tục tham gia chiến đấu. Hôm gặp lại, chúng tôi cùng nhau xem bộ phim “Người dân quê tôi” trên màn ảnh rộng, có nói về khẩu đội cối 81 ly của tôi thời đánh trận Văn Quật năm 1965, thấy hình ảnh của Huy Sô, Lê Vĩnh An, Trà Thanh Lân... phấn khởi quá, chúng tôi ôm chầm lấy nhau mà hát làm cho mọi người xung quanh cũng vui lây.

Trong thời gian ở gần nhau, hàng ngày sau giờ ăn cơm chiều, chúng tôi rảo bước quanh doanh trại rồi ghé lại quán nước bên đường bữa thì con mực, lúc thì lon đậu phụng với một chai lave (loại con cọp) sau 30 tháng 4 năm 1975 còn lại hai đứa kể cho nhau nghe chuyện chiến đấu thời R20. Chuyện quê hương sau cùng là tình yêu đôi lứa, tôi kể về Nhung, Ngọc Hùng kể về Sắt (vợ của Ngọc Hùng bây giờ) cứ râm ran cho đến kẻng báo đi ngủ hai đứa mới chịu rời nhau về chỗ nằm...

Kết thúc lớp tập huấn, tôi được sư đoàn cho nghỉ phép theo xe của Sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm, vừa vào đến sở chỉ huy sư đoàn đóng tại căn cứ Nước Trong (nay là Trường sĩ quan Lục quân 2), Phó Chính ủy Quách Hồ bắt tay tôi nói rằng: “Sắp làm rể ông Tâm mà mình nghĩ là cậu chờ khi ra Hà Bắc. Bây giờ nghĩ lại mà thương Hùng, mình cứ ngỡ là thật, ngờ đâu họ đặt chuyện làm cho anh em ta hiểu sai, thông cảm nhé!”. Nhân thể tôi cũng vui theo: “Vì thế mà thủ trưởng giữ quân hàm trung úy của tôi mãi đến tháng 7 năm 1972 mới trao...”.

Thấy tôi và Phó Chính ủy nói chuyện, Sư đoàn trưởng không hiểu đầu đuôi, ông cũng tham gia: “Thằng này cừ lắm, bản lĩnh lắm! Đến bây giờ mà vẫn chưa nghĩ đến việc lấy vợ...” rồi cùng ra xe. Từ Long Thành chiếc P0 - chiến lợi phẩm, màu vàng đưa chúng tôi đi hết dải đất miền Đông Nam Bộ ra miền Trung. Khi chạy qua Phan Rang, Phan Thiết đến Khánh Hòa thì dừng bên đường nghỉ để nấu cơm ăn tối (hồi đó tất cả đều chuẩn bị tới đâu nấu ăn ở đó)...

Nồi cơm “dã ngoại” vừa sôi, thức ăn cũng đã chuẩn bị bên bếp, tôi còn miên man suy nghĩ giữa sóng biển rì rào, phi lao vi vu trong gió, khung cảnh giống quê tôi quá. Không biết giờ này Nhung đang làm gì? Nhớ quá Nhung ơi!.

Nhớ bến nước, bờ ao, những con đường quen thuộc ngày ngày dẫn ra bãi biển. Nhớ những đêm bắt còng, u mọi, những buổi chiều tấp nập ghe thuyền. Nhớ cả những người đổi ổi, bánh sắn, nhớ những lần đi quơ lá bị gai cào, cơm nấu chưa sôi đã bị tắt lửa. Nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ anh, chị, em... tất cả đều không thể mờ đi trong tâm trí. Rồi gì nữa Nhung ơi? Những đêm trăng chắc bọn mình chẳng thiếu trong đoàn đi “cổ động” khắp thôn. Rồi có lúc ôm đầu nằm sát bên nhau vì pháo địch, khi tỉnh dậy mới thấy thẹn, phải vụt chạy đi cho “người ta” không thấy cái mặt ngượng ngùng. Cái ngày âu thơ thế là đã hết ư? Không, anh còn nhớ những chiều chúng mình đi trồng dứa, đi đào hầm công cộng dọc lộ 6 và quanh đường làng của mình. Nhớ hôm anh nói câu gì? Anh không nhớ... còn em chắc chẳng thể quên...

Nhung ơi! cả một chuỗi ngày như vậy, cả một ký ức xa xưa đẹp thế làm sao khỏi có những phút giây xao xuyến hả em? Anh đang nấu cơm trên đường về bên bãi biển Nha Trang đây, nhớ và nhớ nhiều.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2022, 10:27:08 am
Vừa mông lung, suýt nữa cái mở hộp làm mất ngón tay, đồng chí lái xe bảo: “ơi, anh Hùng hộp thịt bị...bị... kìa”. Tôi bừng tỉnh cùng lúc Sư đoàn trưởng giục mọi người ăn cơm và lên đường. “Ăn xong, nghỉ 15 phút rồi ta đi trong đêm cho mát, Hùng tỉnh ngủ với lái xe nghe!”. “Dạ”.

Lên đường, đêm miền Trung sau ngày giải phóng hình như dài thêm ra, xe chạy mà tôi cứ miên man, lần này gặp Nhung thì kể chuyện chi dây? Không nhớ rõ tôi đã viết cho em bao nhiêu cánh thư nhưng mạch nguồn tâm tình gửi trao cho nhau thì còn mãi thấm đượm trong hồn mỗi khi lần giở trang nhật ký đã ố vàng...

Sáng thứ 2 thì từ quốc lộ 1A rẽ phải theo đường Vĩnh Điện - Hội An đến ngã ba Lai Nghi rồi qua cầu Nghĩa Tự thì xe bị banh do cầu đã bị đánh sụp trước giải phóng, nước biển tràn vào ngập xe không qua được. Bà con chòm xóm quanh cầu chưa biết chúng tôi là ai; cả làng, trai, gái, trẻ già người vác ván, người mang cuốc, xẻng và dây kéo lưới... hì hục kéo giúp sau gần 30 phút thì xe lên khỏi cầu, gặp ngay anh trai tôi từ Ủy ban xã nghe ồn ào chạy ra, tôi giới thiệu với Sư đoàn trưởng rồi cùng đi về nhà.

Nói là nhà nhưng xung quanh vách lợp tôn với khung cột sắt, sau giải phóng mẹ và hai em lánh nạn ngoài Mỹ Khê, Đà Nẵng về nhờ anh em du kích làm tạm bên cạnh Ủy ban nhân dân xã để an hưởng tuổi già... Tôi mời Sư đoàn trưởng ở lại ăn cơm tối rồi nhờ anh tôi dẫn đường để ông về Điện Ngọc thăm quê (lúc này vợ và các con của ông đang ở Hải Phòng chưa vào).

Sư đoàn trưởng vừa ăn vừa nói chuyện với anh tôi: “Hùng chiến đấu gan dạ lắm nhưng hỏi chuyện vợ con thì không chịu, lần này về anh và bà kiếm chỗ rồi báo chúng tôi về dự...!”. Cả nhà cười, Tám và Chín thì quanh quẩn bên chiếc P0 một lúc mới chạy vào hỏi quà, tôi chỉ trong ba lô, hai chị em lục tìm chẳng thấy gì rồi lại chạy đi chơi...

Thú thực, sau giải phóng, trong túi của tôi còn 20 đồng tiền miền Bắc mang vào, mọi người kháo nhau đi đổi để mua quà. Tôi chần chừ giữ lại 10 đồng làm lưu niệm, còn 10 đồng đổi vừa đủ mua cho mẹ tôi 1 cái áo len; Tám, Chín mỗi đứa một gói kẹo là hết. Riêng anh em tiểu ban tác huấn dồn lại cũng chỉ đủ mua mấy thứ lặt vặt xà phòng, kem bót đánh răng, đâu có hợp với hai đứa.

Tất nhiên, trong thời gian 15 ngày nghỉ của cái phép giải phóng, anh em chúng tôi cũng dễ hiểu bộ đội giải phóng làm gì có tiền mà đòi hỏi quà cáp. Hai em đưa tôi đi thăm bà con làng xóm cứ tung tăng nắm tay tôi: “Chạy đến nhà chị Nhung đi anh Sáu!”. Chiều lòng hai em, từ thôn 4 đưa chân lên thôn 5, những ngày chưa đi bộ đội, tôi cũng ở đó, sau giải phóng mẹ tôi theo anh trai về thôn 4 (ủy ban xã đi đâu, anh tôi đưa mẹ theo đó).

Thời gian nghỉ 15 ngày cũng chưa đủ để chúng tôi nói nhiều và có lẽ như là sự sắp đặt của tạo hóa khi em và tôi cùng sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương đẫm đầy yêu thương mà anh dũng. Khi tôi bước vào tuổi thanh niên trên đường tranh đấu thì em ở quê nhà còn xuân xanh thiếu nữ, rồi cũng đứng vào đội ngũ giải phóng quân. Hai khoảng trời nhớ thương, dệt nên bao kỷ niệm thời niên thiếu đã gắn kết tình tôi và em suốt một quãng đời dài, ươm mầm tình yêu đôi lứa rồi mai đây sẽ có thể xây nên căn nhà hạnh phúc của ngày đầu quê hương giải phóng.

Tôi trở lại đơn vị, như công việc thường ngày của người sĩ quan trẻ được trung đoàn giao đi cùng Tiểu đoàn 5 xuổng ấp Thị Cầu (nơi đây hầu hết là dân di cư trước và sau năm 1954), vẫn còn canh cánh sự “trả thù”. Thấy chúng tôi đến, họ lánh mặt. Tôi và cơ quan chính trị trung đoàn chỉ đạo cho Tiểu đoàn 5 đóng quân quanh khu nhà thờ, dựa vào rừng cây ven làng mắc võng căng tăng, kể cả bếp nấu ăn cũng ở ngoài nhà dân rồi chia nhau từng tổ, đi tay không vào nhà dân, thấy bẩn thì quét, thấy nước hết thì gánh, thấy trẻ con thì vui đùa, tắm giặt cho các cháu. Cứ như vậy sau một tuần, bà con giáo dân mời chúng tôi vào nhà ở và tiếp đón thịnh soạn. Vị linh mục tại nhà thờ Thị Cầu, quê chính gốc Bắc Ninh phân bua:

“Bà con giáo dân cứ âm ỉ khi quân giải phóng đánh vào Nhơn Trạch rồi xuổng Cát Lái sang nội đô Sài Gòn. Lúc bọn tàn quân ngụy bỏ chạy qua đây, dặn vợ con chưa di tản được chớ có nghe theo cộng sản chúng “rút” móng tay và “hãm hiếp” phụ nữ v...v... Cho nên khi bộ đội giải phóng đến bà con e ngại, nay thì hiểu rồi, các ông cứ ở với bà con cho vui...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2022, 10:28:46 am
Quán triệt sâu sắc yêu cầu của Đảng ủy trung đoàn phải làm tròn nhiệm vụ của anh Bộ đội Cụ Hồ là: Không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị và tinh thần cảnh giác cách mạng kể cả với kẻ thù bằng xương bằng thịt và những “viên đạn bọc đường” thường xuất hiện sau từng cuộc chiến.

Từ ấp Thị Cầu, tôi theo 15 đội và hơn 20 tổ công tác trực tiếp xuống 50 ấp thuộc 13 xã trong huyện Nhơn Trạch, trại cải huấn và sở cao su cùng với chính quyền giải quyết các ổ nhóm phản động và lực lượng chống đối. Cùng với 80 cán bộ trung cấp, sơ cấp tăng cường cho chính quyền địa phương tham gia ổn định và tổ chức lại hoạt động trong một số ngành sản xuất dịch vụ.

Nhờ làm tốt công tác vận động quần chúng, được sự hỗ trợ của chính quyền nhân dân huyện Nhơn Trạch, từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 3 năm 1976, Trung đoàn 95 truy quét và bắt hơn 100 tên chống đối không chịu ra đầu thú, thu hơn 400 súng các loại, đồng thời cùng nhân dân vận động hơn 100 người từng cầm súng cho địch trước đây trở về với gia đình, với đời sống cộng đồng. Ngoài ra còn quản lý một địa bàn có tới 24.000 binh lính, nhân viên quân đội, chính quyền Sài Gòn trước đây đang tập trung cải tạo tại chỗ, hướng dẫn phương pháp vận động để đồng bào tìm gọi được hơn 400 người thân trở về trình diện, thanh lọc 100 tên tề điệp cũ lợi dụng trà trộn vào chính quyền đoàn thể cách mạng.

Bên cạnh sàng lọc phân loại kẻ địch, xây dựng sự bình yên cho nhân dân, trung đoàn đã tổ chức bồi dưỡng cho gần 400 cán bộ chính quyền thôn ấp, gần 100 cán bộ đoàn thể, 20 cán bộ quân sự và huấn luyện cho hơn 500 du kích làm nòng cốt bảo vệ chính quyền, mở 20 lớp “bình dân học vụ” xóa mù cho hơn 300 người thất học dưới chế độ cũ và thành lập các đội văn nghệ quần chúng, dạy múa hát, kết nghĩa với đoàn thanh niên ở địa phương đem lại cuộc sống vui tươi lành mạnh cho từng nhà và lối xóm. Ám ảnh về “một cuộc tắm máu” do bọn địch xuyên tạc đã nhường lại sự yên ả bình yên, hòa hợp cộng đồng.

Ngày 8 tháng 4 năm 1976, tôi được bổ nhiệm Trung đoàn phó Trung đoàn 95 anh hùng khi tròn tuổi 26. Đồng thời cũng nhận thông báo chuẩn bị đi bổ túc lớp cán bộ chỉ huy tham mưu cấp trung đoàn tại Học viện Lục quân Đà Lạt, mọi việc phải hoàn tất để ngày 1 tháng 7 năm 1976 khai giảng.

Tôi nhẩm tính từ hôm nay đến lúc vào trường còn gần 4 tháng, nên tôi mạnh dạn đề xuất với tiểu ban cán bộ trung đoàn: “Tôi chưa có gì phải bàn giao, nên công tác chuẩn bị cũng thuận lợi. Nhân dịp này để nghị trung đoàn cho tôi về lo việc gia đình rồi vào trường nhập học luôn”.

Ngày hôm sau, anh Thọ - Chính ủy trung đoàn gọi tôi lên và trao đổi: “Chờ anh Đắc - Trung đoàn trưởng mới về liên hoan chia tay anh Đặng Tụ về sư đoàn rồi Hùng nghỉ phép trước lúc vào trường. Nhưng trước hết là phải báo cáo lai lịch của người vợ sắp cưới đã chứ?...”. “Vâng ạ”. Vì quá mừng mà tôi quên mất các thủ tục quy định của cấp trên, mấy ngày hôm sau tôi điện cho anh trai ở quê nhà thăm dò gia đình Nhung và gửi gấp hồ sơ vào đơn vị duyệt...

Đến tháng 5 năm 1976 mọi thủ tục đã hoàn tất và hai gia đình dự kiến ngày tháng để tôi yên tâm lo bề “gia thất”. Từ đó thời gian cảm thấy như kéo dài ra, anh em tiểu ban tác huấn trung đoàn và Tiểu đoàn 5 nơi tôi đã từng gắn bó ngày đêm lo “vẽ” thiệp mời, mua cát sét Sony tặng cho tôi. Riêng tôi thì gia tài chỉ có một chiếc Lam-bét-ta, lúc bấy giờ trên dưới 1 chỉ vàng, thế là mọi việc cũng ổn...

Ngày 20 tháng 6 năm 1976, tôi lên đường về quê bao nhiêu chuyện cứ đến với tôi luôn nghĩ về Nhung, người bạn gắn bó bao kỷ niệm và nhớ nhung như thế nên trải hơn mười năm cầm súng đánh Mỹ trên nhiều chiến trường, tôi vẫn ghi sâu hình bóng của em. Tình yêu theo tôi, nâng cánh ước mơ và tiếp thêm nguồn sinh lực để vượt lên những thử thách, chông gai. Vì vậy, nay nước nhà hòa bình, thống nhất, được trên quan tâm cho tôi trở về quê hương để xây dựng “tổ ấm”. Trong niềm chung vui của bà con nơi chôn nhau cắt rốn, chứng kiến của hai họ và gia tộc Trần - Lê, tôi còn hạnh phúc hơn là được gặp lại mẹ và em. Mối tình duyên trên cát biển quê hương thêm vị mặn cuộc đời và bão táp lịch sử đã vun đắp cho chúng tôi đến với nhau trong hạnh phúc lứa đôi được tổ chức vào ngày 25 tháng 6 năm 1976. Nhưng vì binh nghiệp, tôi lại lên đường, để lại em và mẹ già nơi xóm nhỏ...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2022, 10:31:07 am
Chương ba

NHỮNG NĂM THÁNG SAU CHIẾN TRANH

Đà Lạt đến Khe Sanh

Theo quy định học viên có mặt sớm để ổn định biên chế tổ chức và làm công tác chuẩn bị của Học viện Lục quân (địa điểm của trường võ bị Đà Lạt quân đội Sài Gòn, ta tiếp thu), một số thiết bị học tập được chuyển từ Trường Trung cao Hà Nội vào (nay là Học viện Quốc phòng) nên cần có người để sắp xếp và bảo dưỡng.

Thời gian khóa học bắt đầu từ ngày 3 tháng 9 năm 1976 khai giảng và kết thúc vào ngày 7 tháng 7 năm 1977. Tôi được biên chế vào Tiểu đội 11, do đồng chí Trần Văn Thân làm tổ trưởng, lớp K11B, anh Trần Ngọc Nhiên, chủ nhiệm lớp, hệ bổ túc 3... Nội dung học không có gì vất vả vì tôi cũng đã qua chiến đấu cấp tiểu đoàn và đã là Trung đoàn phó (4.1976 - 9.1976). Nhưng cái khó ở đây là lạnh, ngày học đêm phải gác như một người chiến sĩ, mặt khác thực hiện chỉ tiêu tăng gia. Đà Lạt là xứ rau, củ, quả không thiếu như nơi khác. Song học viên là nghĩa vụ mỗi tháng phải nạp 10kg/người.

Tôi có phần được ưu tiên hơn trong thực hiện các chế độ sinh hoạt, vì là hạt nhân văn nghệ và cộng tác viên tờ tin của hệ và nhà trường. Sau một tuần học tập hoặc đợt sát hạch phải có bài đăng tờ tin và có tin phát trên hệ thống truyền thanh của nhà trường, học lực của tôi các môn đều đạt khá trở lên đặc biệt là công tác tham mưu - tác chiến và phương pháp truyền đạt mỗi khi được đóng vai chỉ huy của khung tập, thường là trung đoàn trưởng hoặc trung đoàn phó - tham mưu trưởng đều được thầy giáo cho điểm giỏi.

Đạt được những kết quả học tập trên là nhờ các thầy giáo và trực tiếp là bạn Tiếu - trợ lý tham mưu, quê Điện Ngọc, Tuân - Khoa Hậu phương, quê Thăng Bình, hai bạn lúc nào cũng có mặt khi tôi gặp khó khăn, ngoài ra còn có đội ngũ nhân viên, chiến sĩ phục vụ rất nhiệt tình chu đáo trong đó có chị Phô, quê Quảng Nam làm nuôi quân bếp trung cấp. Chiều thứ 7 hay chủ nhật đều nhường phần cơm và thức ăn cho tôi nhiều hơn. Ngày lễ Tết thường dành phần dưa bồi dưỡng đến tận nơi ở cho cán bộ học viên... Đặc biệt hơn là tình quân dân nơi đây. Xóm Thái Phiên và khu tập thể Lâm viên toàn dân quê Quảng Nam, Quảng Ngãi vào đây trước giải phóng, khi gặp anh em chúng tôi đi mua hoặc xin hoa về cắm ngày lễ hoặc có hội nghị, liên hoan văn nghệ bà con không những không bán mà cho lấy thỏa thích rồi còn “bắt” mỗi tuần một bữa ra chơi ăn cơm với gia đình, tình cảm tha thiết đó cũng là một nguồn động viên cổ vũ chúng tôi học tập tốt hơn...

Thời gian học tại trường có một kỷ niệm mà đến bây giờ tôi không thể nào nguôi. Đó là vào những ngày Tết năm 1976 - 1977, do thời gian học có một năm nên nhà trường không cho đi tranh thủ vì chỉ có 3 ngày Tết sợ vào không kịp học, tôi đã báo cho gia đình và Nhung không về Tết (thư đến nhà, còn Nhung học bổ túc văn hóa tại Hội An không biết tin). Mãi gần 27 Tết thì nhà trường thông báo: “Anh em quê từ Đà Nẵng trở vào được về ăn Tết...” tiện có xe bạn quen của Tuân và Tiếu là Nhung, quê Quảng Ngãi, ngày 28 Tết đưa hoa và rau quả ra Đà Nẵng, cho tôi đi cùng.

Đêm 29 Tết năm đó, vừa về đến nhà cũng là lúc Tuân và Tiếu điện cho tôi: “Nhung đang ở khách sạn Ka-ti-na của học viện... Hùng vào ngay...”. Thế là đêm 30 Tết, sau khi rước ông bà, tôi và Chín - em trai út phóng Honda ra Đà Nẵng để vào Đà Lạt. Chạy ngược chạy xuôi ở bến xe liên tỉnh, chỉ duy nhất còn một chiếc. Nhưng khách chỉ có 1/3 xe nên chủ xe không chạy. Bí kế em tôi lo là không đi được, lục túi trong người chỉ có 20 đồng, Chín đưa thêm 5 đồng mẹ cho mua đồ chơi Tết. Nhưng chủ xe yêu cầu: “Nếu bà con có nhu cầu đi, mỗi người mua 2 vé thì mới đủ tiền xăng dầu...”.

Mọi người lưỡng lự, cùng cảnh xa quê toàn từ ngoài Bắc vào thăm người thân sau giải phóng. Tôi là bộ đội nên mạnh dạn “quân vận”: Thưa bà con, năm hết tết đến, thà ta chịu gấp đôi tiền vé chỉ sau một ngày đêm sẽ vào đến nơi, còn nằm lại giữa bến xe như “màn trời chiếu đất” 2-3 ngày thì còn tốn hơn... Nếu ai đi thì đăng ký để tôi thương lượng với chủ xe... Bà con nghe tôi nói có lý nên cử tôi làm “trưởng đoàn” hành quân. Mỗi người 2 vé – nếu có Honda là 1 vé nữa như vậy tôi phải mất 3 vé bằng 30 đồng trong lúc đó chỉ có 25 đồng. “Tiến thoái lưỡng nan” để xe lại thì gửi cho ai (Chín chưa đi được) mặt khác vào đơn vị lại không có cái để đi mấy ngày Tết... Cuối cùng tôi quyết đi đến Nha Trang, đoạn đường còn lại phóng Honda vượt đèo Xông Pha để kịp gặp em!

Cái tuổi 26 lúc đó sao mà mạnh mẽ vậy? 16 giờ 30 phút ngày mồng Một Tết năm 1977 về đến Đà Lạt, tôi đang thả hồn trên Hồ Xuân Hương để lấy sức thì thấy anh Trần Minh Thiệt và chị Liễu đang rảo bước từ Đồi Cù xuống Thúy Vạ. Thấy tôi đang ngồi, anh chị ngạc nhiên hỏi: “Nhung bọn mình nhờ Tuân và Tiếu đưa ra Thái Phiên nhờ Nhung B chăm sóc chờ mày mồng 3 vào sao đã ở đây? Tôi đáp: “Sức mạnh của trái tim mà anh...!”, “Thôi bọn mình về cho Nhung vui...”.

Ngày mồng 6 Tết em lại về và tôi lại học, suốt 11 tháng miệt mài đèn sách mà vẫn chưa nguôi được nỗi vất vả suốt chặng đường ra vào giữa mùa xuân, để rồi sau đó tôi bị một trận cảm vừa sốt vừa ho mà quân y của nhà trường không tìm ra nguyên nhân... Mãi một hôm Tuân bạn của tôi vừa xuống lớp ghé thăm thấy tôi nằm co ro trong phòng, Tuân gọi Kế (vợ của Tuân) đi tìm lá đưa vào nấu nước xông, 1 nồi, 2 nồi, rồi 3 nồi. Cho đến ngày hôm sau tôi ăn, ngủ được tiếp tục đến lớp, đúng là tình bạn thật nồng thắm và chân thành biết nhường nào, dù đi đâu làm gì tôi vẫn không thể quên cái tình cảm thân thương ấy...

Năm học kết thúc, lý luận khoa học quân sự được hun đúc sau 30 năm cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc được Đảng, Bác Hồ dẫn đường chỉ lối để chúng tôi được đào luyện hôm nay, để ngày mai vận dụng vào thực tiễn của người chỉ huy. Nhưng tôi lại đang đứng giữa hai sự lựa chọn: Nhà trường thông báo giữ tôi lại làm giáo viên khoa Tham mưu; một mặt đơn vị đang cần tôi sớm trở về... Vì lúc này ở nhà chỉ có một mình anh Trần Thiện Thuật, Phó Chính ủy; Trung đoàn trưởng và Chính ủy đều đi vắng. Một năm học trôi qua đã giúp tôi trưởng thành cả về lý luận và thực hành đủ để nhận thức sâu sắc nhiệm vụ và chức năng của lực lượng vũ trang, nhưng dù ở đâu cũng là sự phân công của tổ chức, nhưng suy nghĩ của tôi là sau khi tốt nghiệp phải trở về đội ngũ cầm quân chiến đấu, nơi đó có thêm thời gian để vận dụng lý luận vào thực tiễn.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2022, 10:32:57 am
Nguyện vọng của tôi được chấp nhận, thay vào đó là đồng chí quê ở gần Đà Lạt. Tôi cảm ơn thầy và nhà trường trải bước dưới màu xanh của núi rừng bốn mùa hoa thơm trái ngọt với tấm bằng đạt loại giỏi sau một năm tập trung trí tuệ vào học tập và tu dưỡng để trở về phục vụ quân đội lâu dài. Ngày 3 tháng 9 năm 1977, khi tuổi đời cũng vừa tròn 27 xuân xanh, tôi tiếp tục đảm nhiệm Trung đoàn phó Trung đoàn 95 Sư Đoàn 325 Quân Đoàn 2. Thời gian này Trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng, Trưởng ban Tác huấn đều đi học, tôi lao vào huấn luyện chiến sĩ mới 3 tháng một khóa. Việc huấn luyện chiến sĩ mới không đáng lo mà cái lo nhất ở đây là sau một năm xa đơn vị, cơ quan biến đổi, cán bộ cơ sở biến động và giữa lúc cả đơn vị đang trải qua một cơn “ác mộng” là tệ quân phiệt nảy nở ở một số cán bộ từ cấp tiểu đoàn trở xuống, tình hình kỷ luật bị buông lỏng, tư tưởng thiếu yên tâm xây dựng đơn vị nảy sinh, đoàn kết nội bộ trên dưới thiếu lòng tin lẫn nhau chủ yếu là năng lực và phương pháp công tác.

“Trăm dâu đổ đầu tằm”. Tôi và anh Thuật, Phó Chính ủy tập trung tìm cách xoay xở, bên cạnh cái chung thì đã đành, cái riêng thì mọi người đang nhìn vào “Ông Trung đoàn phó” vừa ra trường về sẽ làm ăn ra sao đây? Khó thật, bởi từ năm 1968 đến năm 1972 tôi chỉ huy phân đội đâu có phụ thuộc vào cơ quan, nay là chỉ huy trung đoàn thì không thể một mình đương đầu với cái thiếu: năng lực, tác phong, cảm phục đang chờ... Đan xen giữa cái chung và cái riêng, với tư cách là một chỉ huy quân sự khi cấp trưởng và cơ quan tham mưu vắng cán bộ chủ trì, bất chấp “dư luận”, được Phó Chính ủy đồng tình, tôi quyết định triệu tập hội nghị cán bộ khi kết thúc 1/3 tháng huấn luyện để tìm nguyên nhân.

Thực vậy, sau một ngày tranh luận giữa cán bộ các cấp, nhất là cán bộ đại đội và tiểu đoàn đã chỉ ra: Khi đi tuyển quân thường hay về nhà; lúc huấn luyện ít bám bộ đội; cơ sở vật chất giữa các đợt huấn luyện chiến sĩ mới bàn giao cho đơn vị bạn thiếu rõ ràng; chiến sĩ yếu thì ít khuyên giải mà nặng về hình phạt, có trường hợp xúc phạm nặng đến nhân cách quân nhân buộc cơ quan pháp luật cấp trên phải vào cuộc... Nguyên nhân đã rõ, kế hoạch và biện pháp khắc phục cho mỗi cấp được đặt ra, nghị quyết của cấp ủy giám sát chặt chẽ đối với các cấp chỉ huy; giao ước thi đua giữa các đơn vị được kí kết, tình hình đơn vị dần ổn định, sư đoàn, quân đoàn biểu dương.

Tháng 11 năm 1977, Quân đoàn tuyển quân từ Quảng Trị đến Hà Tĩnh - Nghệ An, nơi giàu truyền thống cách mạng, quê hương Xô-viết với tiếng trống năm 30 đã đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam. Tuy tình hình kinh tế còn khó khăn nhưng thanh niên vẫn hăng hái lên đường để về xây dựng Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang) đã một thời “thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, quyết thắng” đánh thẳng vào dinh Độc Lập bắt Dương Văn Minh và nội các Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện lúc 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử.

Tôi được Quân đoàn giao phụ trách đợt tuyển quân này cho cả Quân đoàn. Riêng Trung Đoàn 95 nhận tại các huyện: Vĩnh Linh (Quảng Trị); Lệ Thủy, Đồng Hới, Bố Trạch (Quảng Bình); Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà (Hà Tĩnh); Hương Sơn, Hưng Nguyên (Nghệ An) và Trung đoàn 177 Quân khu 4 với tổng số 1.100 quân với thời gian hơn 20 ngày vừa hành quân, thâm nhập tuyển chọn. Cái khó nhất là có huyện không thực hiện đúng kế hoạch hiệp đồng giao quân, trước khi lên đường không có lương thực, thực phẩm đi cùng bộ đội... Đồng chí Lê Thế Phiệt, Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn cùng quê hương cũng không can thiệp được. Tôi từ Lệ Thủy - Quảng Bình phải ra “đàm đạo” với cấp ủy, chính quyền mà trực tiếp là huyện đội.

Tại một cuộc họp với lãnh đạo, chính quyền địa phương, tôi đã kiên trì phân tích rõ chức năng nhiệm vụ của các bên hữu quan trong công tác tuyển quân, nên khi ra khỏi hội trường, đồng chí Bí thư Huyện ủy cầm tay tôi phân bua: - Việc này địa phương chúng tôi sẽ rút kinh nghiệm, bây giờ anh nán lại vài tiếng đồng hồ để cho bên cửa hàng lương thực họ làm thủ tục vận chuyển ra xe cho bộ đội rồi đi cũng chưa muộn... Tôi cười và siết chặt tay ông mà lòng vơi đi bao nỗi nhọc nhằn.

Từ kinh nghiệm tuyển quân đến ngày 28, 29 tháng 11 năm 1977, Quân đoàn tổ chức rút kinh nghiệm tại Sư đoàn 304 đóng quân trên địa bàn Đà Nẵng và đi thực tế để thăm quan các đơn vị của Quân khu 5, Quân khu 4, những vấn đề cốt lõi được rút ra để nâng cao chất lượng tuyển quân huấn luyện chiến sĩ mới là:

- Quán triệt phương châm, nội dung, yêu cầu, tiêu chuẩn, phương pháp...

- Nhiệm vụ cụ thể các ngành các cấp giữa địa phương và đơn vị...

- Trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trực tiếp tuyển quân và huấn luyện...

- Tổ chức rút kinh nghiệm chặt chẽ, chỉ đạo kịp thời dứt điểm khâu yếu mặt yếu một cách thường xuyên và thành nền nếp...

Vì lẽ đó, trung đoàn tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm 1 năm (10.1976 - 10.1977) với 3 khoá huấn luyện, mỗi khoá 16 đại đội mà tỷ lệ đạt thấp so với yêu cầu, chỉ đến khoá thứ 3 năm 1978 mới có 16 đại đội huấn luyện bắn đạn thật AK bài 1 đạt loại giỏi, bài 2 đạt loại khá... Đó là kết quả của sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng ủy các cấp, vai trò trách nhiệm của cán bộ làm công tác huấn luyện và vai trò làm chủ của quần chúng (chiến sĩ mới) được phát huy. Từ kết quả trên, tôi rút ra một điều là: khiêm tốn, giản dị, đoàn kết, dân chủ, kỷ luật, kiên quyết và chắc thắng luôn luôn là bản lĩnh, phương pháp, hành động của người cầm quân.

Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, tháng 10 năm 1978 trung đoàn kiện toàn biên chế tổ chức đủ 3 tiểu đoàn bộ binh 4, 5 và 6, giải thể tiểu đoàn huấn luyện chiến sĩ mới để thành lập 8 đại đội trực thuộc; đồng thời di chuyển vị trí đóng quân từ sân bay Sa Mưu lên Khe Sanh, huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị bằng một cuộc hành quân rèn luyện tổng hợp, vượt sông Rào Quán giữa mùa mưa lũ. Được đồng bào Vân Kiều ở các bản làng giúp đỡ, hướng dẫn bộ đội băng qua các nhịp cầu treo do bà con tự làm mất hai ngày đêm ròng rã, nhưng người, vũ khí trang bị an toàn hoàn thành nhiệm vụ hành quân diễn tập theo đúng kế hoạch.

Cuộc diễn tập vừa kết thúc, ban chỉ huy Trung đoàn 95 cũng được củng cố: Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Miên và Chính ủy Nguyễn Văn Thái được điều từ cơ quan Quân đoàn xuống để chuẩn bị cho cuộc hành quân làm nhiệm vụ chiến đấu ở mặt trận Tây Nam. Ngày 1 tháng 12 năm 1978, tôi được thăng quân hàm thiếu tá.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2022, 10:36:10 am
Tây Nam vẫy gọi

Ngày 2 tháng 12 năm 1978, Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ra tuyên bố thành lập, quyết “giương cao ngọn cờ yêu nước, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, đánh đổ chế độ độc tài khát máu Pôn-pốt - Iêng Xa-ri”, Mặt trận còn tha thiết kêu gọi nhân dân và các nước, các tổ chức quốc tế đang đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ hãy tích cực ủng hộ và giúp đỡ mọi mặt cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Campuchia.

Trong tình hình nước sôi lửa bỏng ấy, “giúp bạn là tự giúp mình” với cương vị là Trung đoàn phó, tôi được vinh dự được giao nhiệm vụ tổ chức chỉ huy trung đoàn hành quân đi giúp bạn. Thời gian quán triệt phổ biến nhiệm vụ hết sức khẩn trương và chúng tôi hiểu đây là cuộc hành quân dài ngày sẽ vượt qua bao gian khó, nhưng với tinh thần người lính đã sẵn sàng với mệnh lệnh của trái tim... “Nếu là chiến sĩ thì không bao giờ buông vũ khí/Đã là chỉ huy thì không thể nghỉ khi Tổ quốc cần/Hy sinh cho Đảng vì dân/Ấy là đức tính, phải cần luyện tôi”.

Hành quân

17 giờ ngày 20 tháng 12 năm 1978, mọi công tác chuẩn bị đã hoàn tất, chúng tôi vượt 74km từ Khe Sanh, Hướng Hoá về Cam Lộ (Quảng Trị), tạm dừng để tiếp nhận phương tiện và sắp xếp đội hình hành quân bằng cơ giới. Đến 16 giờ ngày 22 đơn vị đã đi được 250km, đến Kỳ Chánh, phía nam thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam - Đà Nẵng cũ), chúng tôi kể cho nhau nghe về câu chuyện anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, về mảnh đất “Trung dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”.

Chúng tôi đi trong khí thế cả dân tộc bước vào kỷ nguyên mới xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một đất nước thống nhất và vì tiếng gọi của hàng triệu người dân Campuchia đang rên xiết dưới chế độ thống trị tàn bạo của bọn diệt chủng Pôn-pốt - Iêng Xa-ri. Đêm hành quân trời mưa nhưng những người dân xứ Quảng đứng hai bên đường gặp xe chúng tôi qua vẫy chào với ánh mắt và niềm tin tất thắng.

Ngày 23 tháng 12, chuẩn bị chặng đường 249km, cuộc hành quân tạm dừng ở bắc đèo Cù Mông, tỉnh Bình Định thì nhận được điện của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân đoàn biểu dương cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 95: “Đợt hành quân diễn tập sẵn sàng chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ chấp hành nghiêm mệnh lệnh; quán triệt nhiệm vụ tốt, bảo đảm quân số cao, kỷ luật nghiêm; trong từng ngày hành quân đã ổn định nền nếp và tiến bộ...”. Bức điện là nguồn động viên, tiếp sức cho quyết tâm, khí thế được nhân lên, cán bộ tăng trách nhiệm, chiến sĩ tự giác, quyền làm chủ tập thể và kỷ luật bộ đội trong hành quân được tăng cường, công tác hiệp đồng với Tiểu đoàn vận tải ô tô 10 của Đoàn Quang Trung trong cơ động luôn gắn bó mật thiết trên suốt chặng đường đi qua các làng quê miền Trung yêu dấu.

Càng vào sâu phía Nam, chúng tôi lại gặp thêm nhiều đơn vị cũng hành quân bằng cơ giới, càng đi nhanh càng thêm bụi đường, càng thêm phấn chấn và rạo rực lạ thường. Tâm tư của người ra trận tuy bên ngoài là chất lửa, yêu đời nhưng bên trong là cả một bầu nhiệt huyết nung nấu. Đã là đêm thứ tư, chúng tôi đi qua không biết bao nhiêu làng quê quen thuộc trải dài trên tấm bản đồ Việt Nam. Cán bộ, chiến sĩ đã thấm mệt, trên khuôn mặt đã bắt đầu hằn lên nét thâm quầng vì thiếu ngủ. Bác sĩ Điện, Chủ nhiệm Quân y trung đoàn trong số các anh lớn tuổi, tuy khá vất vả để bám theo đơn vị vẫn luôn miệng động viên bộ đội: “Đường dài, gối mỏi, lưng đau/Chân đi không được lấy đầu mà đi...”.

Chúng tôi tiếp tục hành quân, phương Nam đang nhích lại gần. Tinh thần sẵn sàng chiến đấu đã đi sâu vào ý thức của mỗi quân nhân, sự trưởng thành và ý thức kỷ luật được nâng lên. Tính khẩn trương, năng động, sáng tạo bắt nguồn từ trách nhiệm của cán bộ chỉ huy, sâu sát, nhạy bén của lãnh đạo và của các tổ chức quần chúng được củng cố. Là người chỉ huy trưởng trong cuộc hành quân (thay cho Trung đoàn trưởng đi chuẩn bị chiến trường), tôi thấy mình lớn lên nhiều và mỗi ngày đúc kết thêm kinh nghiệm tổ chức chỉ huy và bảo đảm hậu cần. Thông qua hành quân chiến đấu đường dài bằng cơ giới, tính tập thể của Đảng ủy, trách nhiệm của các đồng chí cấp phó và các cơ quan đến các chiến sĩ xung kích quyện chặt là yếu tố bảo đảm cho mỗi chặng đường hành quân được tổ chức nhanh gọn, đến đúng địa điểm theo thời gian quy định, bảo đảm an toàn.

Ngày 25 tháng 12 năm 1978, phải vượt chặng đường 281km, chúng tôi tập kết phía đông bắc thị xã Xuân Lộc, nơi vẫn còn hằn in dấu chân của chiến sĩ Trung đoàn 95 trong Tổng tiến công Xuân 1975, khi phối hợp chiến đấu với các lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ đập tan chiến đoàn 52 ngụy, giải phóng ấp Nguyễn Thái Học, mở toang cánh cửa thép đông bắc để tiến vào giải phóng thành đô Sài Gòn - Gia Định. Giờ đây, những người lính tiếp bước cha anh với chặng đường chiến đấu mới.

18 giờ cùng ngày, chúng tôi qua xa lộ Biên Hoà về lộ 2, lộ 4 vào ngã ba Mỹ Tho, một đêm hành quân đội hình gọn, tốc độ đều và có lẽ cùng chung tâm trạng phấn khích đi giữa Nam Bộ thành đồng. Càng về khuya, đồng bằng Nam Bộ càng man mác hương quê, trào dâng những cảm xúc về xứ sở sầu riêng, về nơi “gạo trắng nước trong”, khi xe sắp qua cầu Bến Lức có chiến sĩ thốt lên: “Thủ trưởng ơi! Nhầm đường rồi, rẽ phải thôi...”. “Không phải nhầm đâu, vị trí tập kết cuộc hành quân không ở thành phố Hồ Chí Minh đâu, cứ đi tiếp!”. Sau câu trả lời của tôi, mọi người ồ lên tỏ vẻ tiếc một đêm được vào thành phố mang tên Bác. Lúc 1 giờ 30 phút ngày 26 tháng 12 năm 1978, toàn bộ 46 xe ô tô đã vào tập kết tại căn cứ Đồng Tâm đúng quy định và an toàn. Riêng xe Đội Quân y thu dung lúc 2 giờ cũng về đến điểm tập kết. Tôi yên tâm và biểu dương Đội Quân y của trung đoàn đã làm được một việc có ý nghĩa là cấp cứu kịp thời một xe của đơn vị bạn (Tiểu đoàn 17 của Sư đoàn) bị tai nạn dọc đường, càng thêm tin tưởng vào trình độ chuyên môn của đội ngũ y, bác sĩ trước khi bước vào trận chiến đấu mới.

18 giờ ngày 26 tháng 12 năm 1978, chặng đường 280km, căn cứ Đồng Tâm thị xã Mỹ Tho xa dần, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình theo lộ 4, khói bụi đường nghi ngút sau một ngày dầm mình dưới nắng. Tốc độ hành quân tăng dần theo chiều dài xa lộ, chúng tôi tận hưởng hương đồng gió nội trong buổi chiều quê, rồi khi đêm xuống phong cảnh Mỹ Tho thật đẹp. Tạm dừng kiểm tra đội hình, đi ngang qua đội hình Tiểu đoàn 5, nghe tiếng ra-đi-ô vút lên giọng nữ: “... Cuộc đời vẫn đẹp sao...!”. Ôi, sao mà tha thiết êm dịu, cảm ơn em người con quê hương đã hát thay nỗi niềm chúng tôi, có cuộc đời nào đẹp hơn cuộc đời những người mặc áo lính “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đêm nay đơn vị sẽ vượt phà Mỹ Thuận (sông Tiền) sang Hậu Giang.

Chào Cần Thơ, theo liên tỉnh lộ 27 chúng tôi xuôi về đất Mê Linh. Lúc 4 giờ ngày 27 tháng 12 năm 1978, chiếc xe cuối cùng cũng đã đến đích sau một đêm hành quân đầy hứng khởi, “Sông nước trong xanh / Trời ôm bóng anh / Người chiến sĩ chân đất / Chảy như dòng sông / Tiền Giang - Hậu Giang / Đêm nay thương nhớ...”.

Ngày 27 tháng 12, vượt chặng đường 70km, rời Mê Linh, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang theo tỉnh lộ 90B, chúng tôi đi mà lòng rộn rã niềm vui, dòng sông như cuộn sóng, cây cối bên đường cũng lay động cổ vũ cho đoàn quân ra trận. Nơi đây nhân dân cùng sống chung với nước, đất đai trù phú, lúa xanh mơn mởn, cây trái sum suê, song rõ là lòng dân đang canh cánh lo âu, bởi huyện Bảy Núi, chỉ cách biên giới Việt Nam - Campuchia chưa đầy 20km. Đêm bộ đội dừng chân, phía trước đã có tiếng súng nổ đì đùng xen lẫn từng loại đại bác, cuộc chiến đấu đang diễn ra.

            “Chúng tôi đã đến Tây Nam
            Nơi tiếng gọi của tình yêu
            Sự trong sáng và vững bền
            Việt Nam - Campuchia...”.


Ngày 28 tháng 12 năm 1978, tại tây Tô Cô đơn vị dừng chân, cln huy quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ về tinh thần quốc tế vô sản để chuẩn bị cho ngày ra quân. Trên đường đi nhận nhiệm vụ từ binh đoàn về, tôi mải miết suy tư, trái tim như đang bốc lửa, từ ra-đi-ô lại cất lên lời hát: “Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi/Khí thế tiến công như sức mạnh thần kỳ...”. Đêm ấy, tôi viết vội vào sổ tay:

            “Vâng, Bảy Núi đây, Tây Nam ơi!
            Chúng tôi đang đợi chờ ngày xuất quân”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2022, 10:39:33 am
Vào trận

Ngày 1 tháng 1 năm 1979, tại vị trí tập kết ở huyện Bảy Núi tỉnh Kiên Giang, Đảng ủy trung đoàn họp, chính thức thông qua phương án tác chiến và bàn biện pháp lãnh đạo bộ đội thực hiện thắng lợi nhiệm vụ sư đoàn giao. Ngay chiều tối hôm đó, chỉ huy trung đoàn thông qua quyết tâm chiến đấu của ba tiểu đoàn 4, 5, 6 và ra chỉ thị hiệp đồng chiến đấu cho các binh chủng. Để giành thắng lợi, yêu cầu đặt ra với các lực lượng của trung đoàn là phải đột phá mạnh, thọc sâu nhanh vào mục tiêu, vừa bảo vệ vững chắc vùng biên giới, vừa hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả, góp phần tô thắm truyền thống vẻ vang của quân đội ta và truyền thống tốt đẹp của trung đoàn, quyết tâm của Đảng ủy cũng đồng thời là quyết tâm, nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 95 anh hùng.

Thời điểm mở màn chiến dịch đã gần kề, các đơn vị khẩn trương hoàn tất mọi công tác chuẩn bị để bước vào chiến đấu theo đúng yêu cầu của Mặt trận. Một trong những công tác trọng tâm lúc này là giáo dục quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững những qui định về chấp hành chính sách trong quá trình làm nhiệm vụ quốc tế “cho không lấy, thấy không xin”, đặc biệt là phân công chỉ huy đi cùng các hướng để giúp đỡ đơn vị thực hiện một cách triệt để nghiêm túc sứ mệnh được giao. Tôi cùng Tiểu đoàn 6 bước vào trận khai hỏa ở An Trao. Điều đầu tiên chúng tôi bàn bạc dân chủ và xin ý kiến chỉ đạo của anh Đặng Tụ, Sư đoàn phó đi cùng để chọn người chỉ huy các mũi, hướng cũng như phương pháp khắc phục các loại chướng ngại vật trên đường hành quân ở địa hình mới lạ và chưa được chuẩn bị kỹ.

Đúng 5 giờ 30 phút ngày 7 tháng 1 năm 1979, Trung đoàn 95 đột phá vào mục tiêu chủ yếu Túc Mía; Tiểu đoàn 5 loại khỏi vòng chiến đấu 100 tên địch, Tiểu đoàn 4 giành thắng lợi giòn giã tiêu diệt 200 tên. Kết thúc giai đoạn 1 của chiến dịch, trung đoàn cùng đơn vị bạn đã đánh bật kẻ thù ra khỏi lãnh thổ của Tổ quốc và phát triển tiến công tiêu diệt, đánh thiệt hại nặng một bộ phận lực lượng địch, góp phần hỗ trợ cho lực lượng vũ trang của bạn đập tan chính quyền Pôn-pốt - Iêng Xa-ri.

Trong quá trình trung đoàn chiến đấu, là người chỉ huy trực tiếp đi cùng đơn vị, được chứng kiến biết bao tấm gương chiến đấu anh dũng hy sinh của đồng đội, trong đó có đồng chí Thiếu úy, Đại đội phó Đại đội 9, Tiểu đoàn 6, Đoàn Thăng Long. Anh dẫn đầu một mũi thọc sâu vào căn cứ địch ở Kờ-răng-leo (ngày 6-1), chiến đấu ngoan cường và anh dũng hy sinh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Hay như Lê Tiến Dũng, hạ sĩ, Tiểu đội trưởng thuộc Đại đội 9 đã chỉ huy tiểu đội thọc sâu đánh vào Túc Mía, bị thương nặng ở chân vẫn trực tiếp chỉ huy đơn vị chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Và đây nữa các chiến sĩ thông tin, trinh sát của trung đoàn cùng tôi đi trên xe tăng trong đêm tiến công vào Túc Mía, có đồng chí bị thương hỏng mắt, đồng chí mất chân ngay trên nóc xe tăng, mặc cho pháo gầm đạn xé vẫn kiên cường cùng đồng đội tiến đến mục tiêu đúng giờ quy định.

Những tấm gương hy sinh và tinh thần chiến đấu ngoan cường của các anh đã đi vào truyền thống hào hùng của quân đội ta, tô thắm thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, ghi dấu tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia thủy chung, son sắt.

Ngày 8 tháng 1 năm 1979, sau ba ngày hành tiến từ biên giới, chúng tôi đã thực hiện một loạt trận đánh. Tôi tóm lược đôi dòng:

            “Ki-ri-vông dập tắt
            Qua An Trao quân đi như thác đổ
            Quyết chiến Kờ-răng leo
            Đột tung Túc Mía
            Bẻ gãy ngã tư Xúc
            Phnôm Pênh thôi thúc
            Chúng tôi chọc thủng đường 3
            Giải phóng thị xã Căm Pốt...”.


Về thị xã Căm Pốt đường chim bay chỉ cách khoảng 10 đến 15km nhưng rất khó đi. Bụng đói, khát nước; đoàn xe vận tải của Công ty Hợp doanh Đồng Tháp xung phong chở bộ đội, tuy rất cố gắng nhưng mất gần 10 tiếng đồng hồ mà vẫn chưa đưa được chúng tôi ra đến đường 3. Đến 14 giờ cùng ngày, tôi đành cho bộ đội tạm dừng để lo cơm nước và làm công tác chuẩn bị tổ chức hành quân tiếp theo. Đảng ủy, chỉ huy Trung đoàn họp, tôi không thể phát biểu được vì mất tiếng từ đêm tiến công vào Túc Mía (trực tiếp ngồi trên xe tăng, trời nắng nóng, thiếu nước, tiếng pháo nổ, tiếng gầm rú của xe tăng và truyền khẩu lệnh cho bộ đội trong suốt ba ngày đêm mất ngủ). Nhìn cử chỉ và ánh mắt của tôi, các anh thấu hiểu được tấm lòng nhiệt huyết và ý chí quyết tâm của tôi, chỉ huy Trung đoàn tiếp tục giao cho tôi chỉ huy 1 tiểu đoàn bộ binh và 1 đại đội xe tăng thiết giáp cùng một số phân đội bảo đảm khác thọc sâu vào thị xã Căm Pốt.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2022, 10:40:42 am
Ngày 9 tháng 1 năm 1979 phải đột phá chiếm được Căm Pốt, một chặng đường đầy cam go và quyết liệt, vừa hành tiến vừa trinh sát thăm dò đối phương, gặp địch là đánh, mở đường mà tiến. Bản lĩnh chiến trường đã tôi luyện cùng những trải nghiệm qua mùa hè đỏ lửa ở Thành cổ Quảng Trị năm 1972 càng thôi thúc tôi xung trận. Tôi chọn thời cơ thích hợp, địa điểm an toàn trên đường hành quân hội ý cán bộ và tổ chức đội hình chiến đấu. Tôi ra lệnh toàn bộ hỏa lực: súng máy phòng không 12,7 ly, đại liên, ĐKZ, cối 82 ly đều giá trên các xe zin 130, xe tăng thiết giáp, xen kẽ đội hình, khi hành tiến phát hiện mục tiêu thì dùng pháo tăng, súng máy 12,7 ly, đại liên “nện” vào những nơi nghi ngờ để yểm trợ cho đơn vị hành tiến. Đúng như dự đoán, quá trình hành tiên phải tạm dừng 5 lần để tổ chức chiến đấu, trong đó có một trọng điểm mà những tháng ngày tham gia chiến đấu trên đất bạn tôi khó có thể quên.

Lúc đó khoảng 10 giờ, khi tôi đang chỉ huy trinh sát của Trung đoàn vượt qua một chiếc cầu bị sập thì địch nổ súng hai bên, phải dừng. Bất ngờ từ phía sau, một đồng chí cán bộ người to cao, quắc thước đến gần vỗ vai tôi: “Nào, đi được chưa anh bạn?”. Tôi ngẩn người và nhận ra đó là Tư lệnh Quân đoàn Nguyễn Hữu An. Tôi vội thưa thì đồng chí ôn tồn bảo: “Không thưa gửi gì cả, Sở chỉ huy chiến dịch đang ở phía sau các đồng chí, nếu không nhổ sớm mấy thằng áo đen (chỉ quân Pôn-pốt) kia, thì tôi cứ đi đấy nhé...”. Rồi ông ra lệnh cho những người đi cùng lùi ra để tôi trình bày cách đánh và làm công tác bảo đảm để thủ trưởng đi. Rất may cùng đi với ông có Trần Minh Sơn, cán bộ Tiểu đoàn trinh sát của Quân đoàn lại là đồng hương đất Quảng, lúc này tôi mới thấy cái ý nghĩa của tình bạn. Sơn cùng tôi chụm đầu bàn bạc, chúng tôi thống nhất phương án tác chiến, báo cáo với Tư lệnh, được sự nhất trí của cấp trên, tôi sử dụng lực lượng trinh sát trung đoàn được 2 xe tăng và 2 thiết giáp yểm trợ đánh thẳng vào đội hình địch rồi tạt sườn, chốt chặn 2 bên đường để xe Tư lệnh, Sở chỉ huy chiến dịch và các đơn vị bảo đảm của binh đoàn vượt qua trọng điểm an toàn. Kỷ niệm trong chiến đấu càng cam go ác liệt bao nhiêu càng trở nên sâu sắc bấy nhiêu, về sau khi gặp lại ở Học viện Quốc phòng, Thủ trưởng Nguyễn Hữu An, lúc này là Giám đốc Học viện vẫn cùng tôi ôn lại những kỷ niệm sâu sắc ấy.

Sở chỉ huy chiến dịch đã vượt qua trọng điểm, đến 15 giờ 30 phút bộ phận đi đầu đã chiếm được ngã ba đường vào thị xã Căm Pốt. Đến đây chúng tôi mới thấy hết sự thâm độc, tàn ác của bọn “phát xít mới” Pôn-pốt - Iêng Xa-ri. Chúng đã biến nơi đây thành vườn không nhà trống, không chợ búa, lưu thông. Nằm ven con sông, vốn sầm uất, là vựa lúa của miền Tây Nam Campuchia mà thị xã thật tiêu điều, xơ xác, nhân dân bị lính của Ăng-ka rình rập thủ tiêu. Trong cương vị của người chiến sĩ làm nghĩa vụ quốc tế, chúng tôi càng hiểu sâu sắc hơn lời dạy của Bác Hồ: “Giúp bạn là tự giúp mình...”. Vì vậy, trong những ngày bộ đội tạm dừng lấy sức, chúng tôi tranh thủ làm công tác dân vận.

Qua 9 ngày hành tiến đánh địch, trung đoàn đã trải qua những trận đánh khốc liệt, vừa vào thị xã Căm Pốt chưa lấy lại sức thì nhận được lệnh của sư đoàn: cùng xe tăng, pháo phòng không 37,2 ly ngược đường số 3 từ Căm Pốt qua đèo 244 để giải vây cho Trung đoàn 18 (do anh Trần Minh Thiệt chỉ huy) bị bọn Pôn-pốt chặn đường. Ban đêm, trời tối, thiếu nước lại chỉ huy một lực lượng tổng hợp giữa bốn bề lửa đạn, chưa biết làm cách nào để liên lạc với cấp trên, thì có tiếng chiến sĩ vô tuyến: “Thủ trưởng có điện”, tôi khẩn trương bắt máy, từ đầu dây bên kia giọng nói ấm áp quen thuộc của anh Phạm Công Nhân, Chính ủy Sư đoàn: “A lô, Hùng đó hả, trời tối lắm phải không, cố gắng tìm nước để bộ đội đỡ khát nhé. Mình biết cậu và Thiệt là bạn chiến đấu thân thiết từ hồi Trị Thiên năm 1972, vừa là đồng hương, dễ nhận nhau khi bắt liên lạc bằng vô tuyến, Đảng ủy, chỉ huy Sư đoàn chờ tin các cậu đó...”. Mệnh lệnh từ Chính ủy Sư đoàn cũng là lời nhắn nhủ, động viên, như tiếp thêm sức mạnh giúp chúng tôi vững tin bước vào trận chiến đấu mới đầy khó khăn, thử thách.

Vừa buông ống nghe, ùng... ùng... oàng, 2 rồi 3 loạt pháo nổ sát 2 bên đường tiến quân. Lợi dụng tháp pháo của xe tăng, tôi hạ lệnh cho xe tăng, pháo 37,2 ly nã đạn vào nơi vừa phát ra tiếng nổ để uy hiếp đối phương và khẩn trương liên lạc với Trung đoàn 18. Trong mớ hỗn tạp âm thanh pháo, đạn, gầm rú của xe tăng, tôi cố căng tai để bắt tín hiệu... “A lô, sông Hồng phải không? Mê Kông đây!”. Có tín hiệu rồi, mừng quá quên cả mật danh tôi hét lớn giữa đêm khuya “Anh Tư phải không?”, “Mình, mình đây, Hùng bắn pháo hiệu và đạn vạch đường lên, cho xe tăng và pháo 37,2 ly dừng bắn, mình xuống núi ngay...”. Mãi đến 4 giờ sáng cùng ngày, tôi và anh Tư Thiệt mới gặp nhau, hai anh em ôm chầm nhau vui trào nước mắt, tình đồng hương, đồng đội của những người vừa bước qua cuộc chiến sống mái càng thêm thắm đượm sắt son.

Cuộc tổng tiến công của liên quân cách mạng và cuộc nổi dậy của nhân dân Campuchia toàn thắng. Nước Cộng hòa nhân dân được thành lập, mở ra chương mới trong lịch sử cách mạng của Campuchia. Sau đó vào ngày 18 tháng 2 năm 1979, Hiệp ước hòa bình hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia đã được ký kết. Theo yêu cầu của bạn, một số đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam ở lại phối hợp cùng bạn tiếp tục tiến công xóa bỏ các căn cứ của địch ở vùng rừng núi, phát động quần chúng củng cố vùng giải phóng, xây dựng chế độ mới.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2022, 10:43:06 am
Lúc này, tôi lại tiếp tục chỉ huy các phân đội bộ binh luồn sâu, trinh sát các sào huyệt của địch, nghiên cứu tình hình, triển khai thế trận theo phương án chiến đấu mới: vừa bảo vệ cầu đường, chốt giữ các mục tiêu trọng yếu, vừa hành quân luồn sâu bao vây, chặn cắt địch ngoài rừng không cho chúng về quấy nhiễu nhân dân. Cuộc tiến công bắt đầu từ phía đông đường số 3, điểm cao 46 đến điểm cao 127, bắc đường số 3 đến tây nam núi Con Sâu, đèo 224, rồi luồn sâu vào tiến công các điểm cao 21-H, 44, 173... phối hợp đánh địch trên đường số 3 đoạn từ Chu Ki về thị xã Căm Pốt. Đến khi thời cơ thuận lợi, hành lang được nối thông chúng tôi tiến công thẳng vào sở chỉ huy trung đoàn 123 sư đoàn 230 của địch đang co cụm ở Trốp Sa La. Sau hơn 15 ngày hoạt động, Tiểu đoàn 5 cùng các đơn vị trực thuộc của trung đoàn đã loại khỏi vòng chiến gần 100 tên địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại, phối hợp với các lực lượng bạn giải phóng hơn 4.000 dân, thoát khỏi ách đàn áp tàn bạo của chế độ diệt chủng Pôn-pốt, người dân vui mừng xiết bao như được hồi sinh:

            “Suốt mười lăm ngày chiến dịch
            Chúng tôi gặp dân
            Mắt nhìn mắt, tay bắt tay
            Họ kể rất hăng say
            Về làng khi giết giặc...”.


Thực hiện ý định chiến dịch đợt 2, tôi cùng Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 6 luồn sâu vào tập kích địch ở điểm cao 177 đông bắc Trốp Sa La. Mới qua hai ngày đêm luồn rừng mà chúng tôi cảm nhận sự gian truân, vất vả hơn cả một tháng vượt Trường Sơn đi đánh Mỹ, khi mà B-52, pháo bầy tọa độ, biệt kích, thám báo bủa vây, phải vừa đi vừa đánh; nhưng ở đây sự gian truân vất vả lúc này lại là chống chọi với cái khát, cái nóng khủng khiếp của cháy rừng vây quanh (một phần do giặc đốt để cản đường quân ta, phần vì trời nắng nóng rừng tự bốc cháy). Trong gian khó, càng rõ khí phách anh hùng, được chứng kiến tận mắt, tôi càng khâm phục lòng dũng cảm, trí thông minh của người chiến sĩ đang cùng tôi chống khát bằng cách chặt dây rừng để tìm nước, khoét suối tìm hơi ấm để nương thân, chặn đầu gió để vượt biển lửa của quân thù. Tôi nhớ mãi hình ảnh của chiến sĩ vác súng 12,7 ly vì thiếu nước mà ngất đi rồi tỉnh lại vẫn bám theo đội hình, rồi đại đội trưởng quân y tìm bùn vắt lấy nước hoà mì tôm và sữa để bón cho thương binh và chiến sĩ yếu mau hồi phục, tăng tốc độ, rút ngắn thời gian cho kịp giờ nổ súng. Đến 18 giờ 30 phút, một chiến sĩ trinh sát phát hiện ra một vũng nước nhỏ bằng cái nón, nhưng với đoản quân gần cả một trung đoàn làm sao cho đã khát. Tôi phân công cán bộ tổ chức vét bùn, vớt lá rồi luân phiên cho từng phân đội, ai khỏe hơn nhường cho người yếu, ai bụng tốt nhận phần bùn cho vào băng gạc để lọc lấy nước, dùng nước trong nấu cháo, pha mì tôm cho bộ đội. Cứ như thế, từ chỉ huy đến quân y phân chia từng giọt nước cho bộ đội. Đến 21 giờ thì việc lấy lại sức của bộ đội cũng tạm ổn. Đêm đến, đơn vị tổ chức triển khai phòng vệ và phục lót...

9 giờ 20 phút ngày 2 tháng 2 năm 1979, đơn vị nổ súng tiến công tiêu diệt lực lượng địch co cụm ở Trốp Sa La, loại khỏi vòng chiến hơn 400 tên địch, thu 71 súng, hơn 43.000 viên đạn các loại, giúp bạn giải phóng hơn hai vạn dân. Đợt luồn sâu, đánh hiểm vừa kết thúc, tôi về Sở chỉ huy Trung đoàn ở thị xã Căm Pốt để nhận nhiệm vụ tiếp theo. Gặp anh Điện, Chủ nhiệm Quân y Trung đoàn, cầm tay tôi anh nói: “Thương anh quá, trong suốt chiến dịch giúp bạn ở biên giới Tây Nam, nơi nào khó khăn anh đều có mặt, hướng nào cần anh đều đến. Lần này vào điểm cao 84 xa hơn, sâu hơn, anh đánh xong, sợ chúng tôi vào không kịp...”. Nói đến đấy giọng anh như nghẹn lại: “Bệnh xá Trung đoàn có hai chai sâm Trung Quốc loại “cải tử hoàn sinh”, anh cầm một chai đi đường, khi nào thấm mệt anh nhấp một ngụm là khỏe liền”. Ôi anh Điện, tình bạn hữu, tình đồng đội sao mà sâu nặng thế, tôi thầm nhủ trận này quyết diệt thật nhiều giặc để không phụ lòng anh.

Điểm cao Trốp Sa La đã thuộc về ta, tôi điện báo để sở chỉ huy cơ bản của trung đoàn di chuyển. Khi gặp lại, mọi người ôm chầm lấy nhau mừng đến chảy nước mắt. Thấy đồng chí công vụ Hoàng Kỳ Lân mắt đỏ hoe, tôi ngạc nhiên hỏi, đồng chí ấp úng “Bác Điện... đi rồi!”, đồng chí Thái - Chính ủy vỗ vai tôi ngậm ngùi: “Anh Điện hy sinh trên đường cơ động rồi...”. Ôi, anh Điện, anh đã luôn lo lắng cho tính mạng cho những người xông pha phía trước đến mức quên cả sự an nguy của bản thân mình, một bác sĩ đầy y đức, người chiến sĩ già nhất trung đoàn, sao anh lại ra đi trong ngày kết thúc chiến dịch, khi mà những gian khó đã đi qua, hạnh phúc đã đến gần. Gương hy sinh và tấm lòng nhân hậu của anh thật cao cả. Anh Điện ơi! Cho phép tôi thắp nén hương lòng để tri ân anh và những đồng đội đã ngã xuống cho trận đánh hôm nay.

Kể từ sau trận luồn sâu vào Trốp Sa La, chúng tôi về lại thị xã Căm Pốt, thấy tưng bừng náo nhiệt cờ, hoa. Nhân dân tự do đi bầu cử các cấp, nhà nhà làm bún ăn mừng. Buổi lễ ra mắt của ủy ban nhân dân thị xã Căm Pốt, nhân dân thị xã và những phum, sóc phụ cận tề tựu đông đủ, trật tự. Người về dự hội với những bộ quần áo rực rỡ sắc màu, đã qua rồi những tháng ngày chỉ có màu những chiếc áo đen - màu tang tóc ngự trị. Nhiều thiếu nữ Campuchia vui mừng trào nước mắt xen lẫn chút nuối tiếc mái tóc dài buộc phải cắt ngắn dưới thời Pôn-pốt. Thật sự là một cuộc hồi sinh. Họ cùng chúng tôi hát mừng:

            “Không còn nữa những bầy phản động
            Cờ Mặt trận tung bay lồng lộng
            Nước Campuchia ra đời
            Hãy hát lên Mê Kông ơi!
            Người con gái
            Tay nắm tay, thắt lòng nhân ái
            Không cúng bái
            Hãy thổi khèn gọi bạn về phum...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Tư, 2022, 08:43:44 am
Trở về Tổ quốc

Khi cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam ầm vang tiếng súng thì cuộc chiến tranh “vệ quốc” ở biên giới phía Bắc gọi chúng tôi về... Tôi cùng trung đoàn (thiếu) vừa truy quét xong tàn quân Pôn-pốt ở Trốp Sa La và trở về thị xã Căm Pốt, nay lại lưu luyến chia tay nhân dân bạn thì nhận được tin sét đánh từ quê hương: Sáu Nhung đã không còn trên cõi đời. Ngày đó còn in sâu trong tâm trí của tôi (21-2-1979).

Trời di! Làm sao lại như thế được? Mười lăm năm chờ đợi, đắp bồi, tôi và em mới có điều kiện bên nhau. Trước lúc lên đường đi biên giới Tây Nam, Nhung ốm dở nhưng còn tràn đầy niềm tin, hy vọng một mầm xanh... Ngày hành quân từ Bắc vào Nam, đi trên quốc lộ 1A chỉ cách nhà khoảng năm, sáu cây số mà tôi không thể tạt qua nhà thăm em, biết bao là ân hận, bao nuối tiếc nhớ nhung, trách giận mình. Tôi như đổ quỵ không phải vì quân thù trước mặt mà vì những đau thương về người bạn đời... Em đi trong tuổi thanh xuân, ngay hôm tôi cũng hành quân ra trận (20-12-1978) mang theo cả mùa xuân hy vọng của đời lính về một mái ấm gia đình có chồng vợ và con cái bên nhau.

Đêm đó và những ngày tiếp sau dòng nhật ký vẫn cuộn đầy nước mắt nhớ thương. Sau khi Chính ủy Quân đoàn Lê Linh ra về, rồi anh Thái - Chính ủy, anh Miên - Trung đoàn trưởng không chịu rời xa tôi, tội nhất là Hoàng Kỳ Lân, người chiến sĩ công vụ từ ngày nhập ngũ tháng 5 năm 1978 đến nay vẫn theo tôi vào trận. Em hết đứng lại ngồi để canh tôi ăn nghỉ, lúc cam go bom pháo địch chặn đường em cũng tìm cách che chắn cho tôi an toàn, giờ đây em cũng khổ tâm vì mất mát của tôi cũng chính là người chị của em...

Thời gian trung đoàn chuẩn bị cơ động về chiến đấu bảo vệ Tô quốc ở biên giới phía Bắc rất gấp rút bằng hai phương tiện là đường bộ và đường không. Trung đoàn trưởng và Chính ủy ưu tiên cho tôi đi đường bộ bằng xe Jeép của chỉ huy. Tôi và đồng chí Ky lái xe cùng tổ vệ binh và Lân công vụ, hạ quyết tâm đi cả ngày lẫn đêm để về thăm nhà rồi trở lại đội hình chiến đấu của trung đoàn.

Ngày 27 tháng 2 năm 1979, sau khi cất bốc phần mộ các liệt sĩ của trung đoàn hy sinh trên đất bạn về quy tập tại nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Hà Tiên, cũng là điểm kết thúc khi làm nghĩa vụ quốc tế trên hướng Tây Nam khi mà cuộc chiến đấu ở biên giới phía Bắc của quân và dân ta đang diễn ra quyết liệt. Tôi chỉ được ghé qua nhà chia buồn với gia đình trong một ngày đêm rồi đuổi theo đơn vị.

Ngày 15 tháng 3 năm 1979, sau khi đi trinh sát sẵn sàng chiến đấu truy quét trên hướng Cao Bằng - Lạng Sơn, Trung đoàn về dừng chân tại huyện Phú Bình, tỉnh Bắc Thái. Đóng quân trong nhà dân, được sự cưu mang đùm bọc nhân ái của cấp ủy, chính quyền và đồng bào các dân tộc địa phương, đơn vị và cá nhân tôi cũng dần ổn định mọi mặt và nguôi ngoai đau buồn. Tiếp đó tôi cùng đội hình trung đoàn cơ động về huyện Lục Ngạn, tỉnh Hà Bắc tiếp tục thực hiện nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của một trung đoàn chủ lực cơ động, phù hợp với nhiệm vụ mới ở một vị trí, địa bàn chiến lược quan trọng hướng biên giới phía Bắc của Tổ quốc.

Đến tháng 5 năm 1979, theo yêu cầu của tổ chức đồng chí Nguyễn Văn Miên được điều động đi nhận công tác khác, đồng chí Phạm Tài Liến sẽ về thay. Thời gian này, tôi làm Quyền Trung đoàn trưởng, hết lăn lộn với bộ đội ngoài thao trường, đêm về ngồi tư lự một mình. Anh Thái - Chính ủy Trung đoàn thương tình tâm sự: “Chuyện cũ sẽ qua đi, Hùng nên suy nghĩ một tương lai đến...”. Tôi cũng trong tâm trạng như anh: “Biết làm sao đây hả anh?”. Anh cũng đồng tình: “Bên cạnh sở chỉ huy Trung đoàn có trường tiểu học Kiên Thành huyện Lục Ngạn, mình thấy có nhiều cô giáo còn trẻ và dễ thương, lúc nghỉ Hùng ra chơi xem sao?!”.

Không phụ lòng anh, tôi đủng đỉnh cho cái “buồn” qua đi rồi hãy tính. Anh bàn tới: “Nếu không ưng cô giáo thì khi nào lên quân đoàn bộ, mình chỉ cho Hùng mấy cô cũng dễ thương lắm!”. “Tôi nghĩ trong mắt nguyên Trưởng phòng Tuyên huấn Quân đoàn thì cô nào cũng đẹp cả...!”. Anh đấm lưng tôi, nói chắc: “Ưng rồi đó nghe, trai đất Quảng mà chọn gái tỉnh Thanh là hợp đôi đó!...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Tư, 2022, 08:45:01 am
Tình quân duyên thắm

Tôi gặp em trong dịp Quân đoàn 2 tổ chức tập huấn vũ khí mới để chuẩn bị đối phó với chiến tranh biên giới phía Bắc. Cán bộ từ trung đoàn trở lên của Sư đoàn 325 do Cục Chính trị Quân đoàn chịu trách nhiệm sắp xếp chỗ ở và phục vụ. Bởi Đại tá Lê Văn Dương - Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn vừa kế nhiệm Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn Lê Khả Phiêu vào Mặt trận 719. Hai ông đều là bạn thân của bố Hồng Thơm thời quân đoàn còn đóng quân ở Phú Bài, nhân dịp ông vào Đà Nẵng công tác ra Huế thăm con nghỉ lại ở đó rồi các cụ giao hẹn với nhau sau này sẽ dựng vợ gả chồng cho em...

Thời bao cấp, cán bộ tập huấn đâu có điều kiện xem văn công; nhân hội nghị tập huấn, Quân đoàn tổ chức văn nghệ quần chúng để phục vụ. Đêm đó anh Thái bắt tôi ngồi hàng trên cùng, thấy em nào được là chỉ để anh tạo điều kiện gặp gỡ. Tuy tuổi đã 29 là Quyền Trung đoàn trưởng nhưng tôi lại chưa tiếp xúc nhiều với con gái đất Bắc mà nhất là lính của Quân đoàn bộ nhiều người biết hơn mình ở đơn vị chiến đấu, nên tôi cứ ậm ừ cho qua chuyện.

Hết đợt tập huấn tôi về đơn vị rồi sau đó đi học văn hoá ở quân đoàn, trường đóng tại phố Giỏ, Lạng Giang; lao vào học tập cho hết cấp II để đi trường văn hóa Quân đội học cấp III... Đây là “thời cơ” tôi tiếp xúc với các đồng chí giáo viên, vừa làm học viên toàn cán bộ sơ cấp và trung cấp. Tôi lại làm Đại đội trưởng, hàng tuần được đi giao ban ở Cục Chính trị Quân đoàn để báo cáo tình hình học tập của cán bộ. Qua tìm hiểu tôi được biết anh Sum – Trưởng phòng Bảo vệ, anh Liêm, Trưởng phòng Xe máy của Quân đoàn bộ lại là cán bộ miền Nam tập kết đều lấy vợ Bắc...

Biết tôi đang băn khoăn chuyện gia đình sau cú “sốc” chưa nguôi, nhưng là chinh chiến cứ có thời cơ thuận lợi thì nên tính và hai anh khuyên: “Bọn mình ở độc thân, thứ bảy, chủ nhật nghỉ học lên đây chơi rồi có gì tính tiếp...!”. Được hai anh em ủng hộ tôi dần dà tiếp cận Chủ nhiệm Chính trị Lê Văn Dương, nguyên là Chính ủy Sư đoàn 325. Ông cũng đã từng biết tôi và sử dụng cối vào những trận đánh khó khăn ác liệt nhất mà hiệu suất chiến đấu cao nhất, đồng thời cũng là người hiểu tâm tư của tôi sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở Tây Nam ra đang trống trải chuyện gia đình.

Thời gian học văn hóa là thời gian mà tôi và em được chú Dương ưu tiên gặp nhau vào tối chủ nhật, cùng ăn cơm với chú rồi thả hồn trên những đồi bạch đàn miền quê hương quan họ. Em tâm sự: “Chú Dương với bố em kết nghĩa anh em và giao phó em cho chú. Chú có một người con trai ít tuổi hơn anh, nhưng cô Đới em chưa nhất trí, còn chú cũng rất thích cô... nên biết đi với anh, chú không có ý kiến gì...”. Tối hôm đó về mà không kịp chào chú... tôi cũng chưa gặp lại em. Rồi việc học hành dang dở...

Ngày 27 tháng 3 năm 1981, tôi được bổ nhiệm Trung đoàn trưởng. Trung đoàn 18 thay cho Trung đoàn trưởng Trần Minh Thiệt tiếp tục chuyển đi học Trường Văn hóa Quân đội. Trở về trung đoàn trong lúc được Bộ Tư lệnh Quân đoàn chỉ định thực hiện trước chế độ một người chỉ huy để sư đoàn và quân đoàn rút kinh nghiệm; tôi cùng Trung đoàn phó chính trị Đinh Tiến Hoặc thống nhất nhận định:

- Thực hiện chế độ một người chỉ huy (1980) là một vấn đề khó và mới, chưa có khuôn mẫu, chưa có kinh nghiệm, nên bước đầu trung đoàn sẽ lúng túng. Vì vậy ta cần có nghị quyết xây dựng cơ bản, hệ thống toàn diện đội ngũ cán bộ theo quy hoạch của Bộ Quốc phòng, trung đoàn khẩn trương điều chỉnh, kiện toàn sắp xếp theo yêu cầu trước mắt và quy hoạch 5 năm theo kế hoạch của Quân đoàn.

Đầu năm 1981, nghị quyết được triển khai, đội ngũ cán bộ chủ trì biến động nhưng trung đoàn chủ động điều chỉnh đủ số lượng, cơ cấu hợp lý giữ vững được sự lãnh đạo của Đảng trong tất cả các nhiệm vụ. Nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tập thể lãnh đạo được giữ vững, tính chiến đấu của tổ chức Đảng trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình, trong các đợt phát thẻ Đảng được nâng cao.

Đơn vị mới nhiều công việc phải làm, đến tháng 4 năm 1980 Bộ Tổng Tham mưu ban hành chỉ thị “Toàn quân hành động theo điều lệnh”. Trong khi đơn vị đóng quân trên địa bàn huyện Lục Ngạn, doanh trại tận dụng lại của Lữ đoàn dù 305, xây dựng vào những năm đầu thập niên 1960 đã xuống cấp; tình hình kỷ luật của bộ đội sau những năm tháng chiến đấu trên chiến trường Campuchia và biên giới phía Bắc còn muốn “xả hơi”. Đảng ủy Trung đoàn và các cấp ủy ra nghị quyết chuyên đề, chỉ đạo Tiểu đoàn 7 làm điểm gắn các nội dung, chỉ tiêu của cuộc vận động vào xây dựng đơn vị bằng duy trì thực hiện chế độ trong ngày, trong tuần. Nhờ vậy trong thời gian ngắn việc chấp hành kỷ luật của bộ đội từng bước tiến bộ, hạn chế thấp nhất các vụ việc vi phạm nghiêm trọng, giảm dần các vụ việc thông thường. Quá trình chuyển biên đơn vị cũng là quá trình được quân đoàn theo dõi giúp đỡ. Trong hội nghị tổng kết một năm làm thí điểm xây dựng chế độ một người chỉ huy và “Toàn quân hành động theo điều lệnh” Trung đoàn 18 được quân đoàn khen thưởng.

Sau hội nghị rút kinh nghiệm, tôi mới gặp lại Hồng Thơm khi em đi kiểm tra sức khỏe của cán bộ về dự hội nghị, đêm đến đi nhỏ thuốc đau mắt cho cán bộ. Nhưng đến lượt tôi, em vội tránh đi, thì anh Hợi - Trung đoàn trưởng pháo binh 84 gọi với: “Còn chú nằm trong cùng chưa nhỏ...”. Lúc đó chú Dương vừa đi tới và nắm tay em: “Sao vậy?”, em khóc rồi về phòng đóng chặt cửa. Chú bảo: “Hết sách. Sáng mai hai đứa lên gặp chú nói chuyện...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Tư, 2022, 08:47:28 am
Do tình yêu mách bảo hay sao mà bụng còn phân vân nhưng chân cứ bước đến trước cửa phòng nhà nghỉ của Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn, tôi đứng như trời trồng. Trông thấy tôi, Chủ nhiệm bảo: “Vào đi” và ân cần hỏi: “Công việc đến đâu rồi, đã báo cáo tổ chức được chưa?”. Tôi quá bất ngờ vì câu hỏi của chú và mạnh dạn trình bày: “Cháu chưa hỏi ý gia đình vì ở quá xa, hơn nữa...”, ông ngắt lời và giảng giải: “Với gia đình Thơm, tôi chịu trách nhiệm với ông Trinh (bố đẻ của Thơm). Còn gia đình anh vì đường sá xa xôi thì nhờ mấy anh em quê hương ở đây đại diện, sau diễn tập (MB-80) tôi sẽ tạo điều kiện về Hà Nội gặp cô Đới để hỏi chuyện (cô ruột của Thơm)... Chiều đó, tôi cùng đơn vị trở về Lục Ngạn chỉ kịp gửi lại em bài thơ Tỏ tình:

            “... Anh muốn đến em nhưng sao khó quá
            Do vụng về hay có gì xao xuyến trong anh
            Kể đi em!
            Đừng thấy khó...
            Bởi hồn mình là gió của tình thương...”.


Trở về trung đoàn trong hoàn cảnh khó khăn chung của đất nước, tôi cùng tập thể vừa huấn luyện sẵn sàng chiến đấu vừa dồn sức cho một cuộc “mưu sinh” khai hoang phục hóa được 60ha đất để trồng sắn, cấy lúa thu hoạch được 35 tấn sắn tươi, 4,4 tấn sắn khô, 26 tấn thóc (quy ra gạo được 27,7 tấn), tăng gia với diện tích 90.000m2, thu hoạch bình quân 62kg/người/năm. Chăn nuôi gia súc gia cầm, cá các loại từ cấp đại đội, tiểu đoàn đến trung đoàn thu hoạch được 8.948kg góp phần cải thiện nâng cao cuộc sống cho bộ đội, bảo đảm quân số cao trong công tác và huấn luyện.

Trong những ngày đóng quân tại xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn, tỉnh Hà Bắc, tình cảm giữa đơn vị với địa phương thể hiện trong chương trình hành động “quân dân một ý chí”. Ngoài việc phối hợp hoạt động tác chiến bảo vệ làng xã tại chỗ, hàng tháng, quý, chỉ huy trung đoàn thường xuyên duy trì mối quan hệ nghĩa tình với cấp ủy và chính quyền huyện, xã để nắm tình hình xây dựng vành đai an toàn cho đơn vị; đồng thời giúp dân đào 6.120m3 mương chống hạn, làm 830m đường, trồng 30ha ta cây xanh trên đất trống đồi trọc, đào 1.800m2 “Ao cá Bác Hồ” và sửa chữa trường học lại mỗi khi vào năm học mới. Hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” của Trung đoàn 18 đã làm cho các “liền chị - liền anh” lưu luyến mỗi khi cơ động đi làm nhiệm vụ nơi xa...

Cuộc diễn tập (MB-80), Trung đoàn 18 được chọn làm lực lượng “đối kháng” để Sư đoàn bộ binh cơ giới 304 tiến công. Trời tháng ba vùng bán sơn địa của quê hương quan họ rét buốt, bộ đội đóng quân dã ngoại, lán trại làm bằng tăng ni lông và lợp tranh, vách bằng lau sậy, dù sạp nằm cách đất 20cm được lát ổ rơm mà vẫn thấy lạnh giá, răng cứ va vào nhau lập cập.

Qua diễn tập, đội ngũ cán bộ cơ bản hoàn thành chức trách, trình độ tổ chức chỉ huy, quản lý đơn vị ngày càng nâng lên, chiến sĩ cơ bản nắm và làm chủ được vũ khí trang bị, vận dụng các hình thức chiến thuật ở mọi địa hình khác nhau tương đối linh hoạt, đặc biệt khi đóng quân xanh “đối kháng” lại nâng cao thêm nhận thức và hiểu biết cách đánh phòng ngự của quân đội ta rất đa dạng và phong phú.

Kết thúc diễn tập, cơ quan quân đoàn chuẩn bị thu quân. Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn Lê Văn Dương đến bên Sư đoàn trưởng Nguyễn Đức Huy bắt tay và dặn: “Rút kinh nghiệm xong, cho Hùng về Hà Nội mấy hôm thăm gia đình nhé!...”. Anh Huy ngạc nhiên: “Hùng có người nhà ở Hà Nội à?”. Đứng cạnh tôi anh Hoặc - Trung đoàn phó Chính trị đỡ lời: “Chuyện đó chúng tôi báo cáo sư đoàn sau...”. Ba thế hệ cán bộ: quân, sư, trung đoàn tuy tuổi khác nhau nhưng các anh rất tâm đầu ý hợp, cùng cười tếu: “Lớp cán bộ trẻ bây giờ hơn chúng mình là ở chỗ đó...”. Trời chiều Hà Bắc rét đậm mà lòng tôi bỗng thấy dịu dàng, ấm áp lạ thường.

Khi Chủ nhiệm lên xe, tôi vội gửi lá thư cho em hẹn ngày đi Hà Nội cùng chú Dương. Không ngờ chú lại thử em bằng cách viết sau bì thư của tôi: “... 2 giờ... ngày... tháng đón anh tại cổng chính...”. Em xem thấy nét chữ giống hệt chữ tôi ghi mặt trước bì thư và tin ngay, hôm đó em mặc bộ quân phục nữ quân nhân ra cổng chờ từ 2 giờ mãi đến 5 giờ, trời mưa giá rét ai đi qua cổng cũng thấy ái ngại, rồi có kẻng cơm chiều em mới về... Tối chú gọi lên hỏi: “Hai đứa đã bàn gì khi về Hà Nội chưa?”. Em khóc và bắt đền chú: “Chú lừa cháu... cháu”, về sau, em kể chú bảo: “Chú thử mày có yêu nó thật không? Chữ phía sau là do chú khịa ra đó...”.

Cuối tháng 3 đầu tháng 4 năm 1980, tôi mới được nghỉ 3 ngày theo chú về Hà Nội. Em đã về trước chuẩn bị cho đám cưới của anh Tưởng, anh trai em. Đến Hà Nội, chú cho tôi ở nhà cháu gái chú rồi gọi em đến, hai đứa đi chợ nấu ăn cùng gia đình. Rất vui, là lần đầu đi chợ Đồng Xuân mua cá Chép về nấu với dưa chua và chiên xù ai cũng ngạc nhiên: “Trung đoàn trưởng nấu ăn hợp khẩu vị quá nhỉ...”. Em rất vui, bảo đó là: “Khẩu nhân kế của lính đó chú và chị ạ...”. Chú không nói gì, cả nhà cùng cười vang, không khí đầm ấm như một gia đình đoàn tụ.

Ngày hôm sau chú gọi tôi ra nhà chú ở khu tập thể Nam Đồng để gặp cô Xuân (vợ chú) cùng trò chuyện. Chú đặt vấn đề: “Nhân đám cưới của anh trai Thơm, có đông đủ gia đình ta sắm một cặp rượu rồi chú cháu mình đến gặp bố Trinh...”. Tôi quá đột ngột chưa nghĩ ra câu trả lời thì cô Xuân ân cần: “Cô thấy thế là được vì hai ông đã là chỗ thân tình, còn cháu thì hoàn cảnh gia đình ở xa, vả lại chú đã hứa với ông Trinh là việc chồng con của Thơm để chú lo”.

Nghe vậy, tôi thấy phấn chấn trong lòng như trút bỏ được mọi nỗi băn khoăn, lo lắng. Đêm xuân Hà Nội, mùi hoa Sữa cứ vương vấn quanh người, tôi vào chợ cửa Nam mua một cặp rượu “Lúa mới” Hà Nội, một cây thuốc Điện Biên đúng như lời chú dặn. Ngày thứ 3 cũng là ngày hết thời hạn phải trở về trung đoàn, tôi và chú đến nhà cô Ninh em ruột của bố Trinh và cũng là nơi bố đang ở đó; khi thấy tôi và chú Dương vào em ra đón rồi giới thiệu với bố và cô... Vừa ngồi chưa ấm chỗ thì Hồng, con của cô Ninh từ đâu chạy về cười nói liến thoắng: “À anh này là... của chị Thơm đây à?... coi bộ dạng cũng được đấy...”. Tôi như người vừa thoát ra khỏi lò nướng bánh mỳ...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Tư, 2022, 08:48:48 am
Hai ông già cùng bàn chuyện, cô Ninh cũng vui được biết thêm tôi là người miền Nam đã từng chiến đấu với Mỹ - ngụy, nay là cán bộ quân đội dưới quyền chú Dương, được chú đỡ đầu nên càng làm cho bà yên tâm. Với bố Thơm thì ông đã là Giám đốc Sở Vật tư Nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa, là cán bộ lão thành trong thời kháng Pháp đến chống Mỹ... lại càng yêu quí chúng tôi hơn. Kể từ hôm đó việc xưng hô giữa tôi, chú Dương và gia đình Thơm cũng thuận tiện, rồi việc đi lại thăm viếng người thân của em ở Hà Nội mỗi khi có dịp về thăm cũng gần gũi hơn.

Và cái ngày được mong chờ nhất của chúng tôi đã đến, đó là ngày 22 tháng 6 năm 1980, lễ thành hôn được tổ chức tại Hội trường Cục Chính trị Quân đoàn 2. Trong ngày vui hạnh phúc, bên tôi không có người thân ngoài những đồng chí, đồng đội đã từng gắn bó keo sơn. Đại diện họ nhà trai gồm có: chú Dương và các anh Trần Minh Thiệt, Phạm Văn Ba, anh Sum, anh Liêm vừa là bạn chiến đấu vừa là đồng hương miền Nam; ngoài ra còn có cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 95, Trung đoàn 18 và Trường Văn hóa Quân đoàn nơi tôi gắn bó. Một đám cưới “nhà binh” mà rất đỗi ngọt ngào:

            “... Anh không may cho em áo cưới
            Không sắm hoa hường, không có nhung son
            Với chiếc ba lô, căn phòng chật hẹp
            Anh đón em về chung gánh nước non...”.


Tổ ấm đêm tân hôn cũng chỉ là một căn phòng ở Trạm khách T56 của Quân đoàn, hai chiếc giường một ghép đôi, chăn, chiếu, mùng màn cũng là màu xanh quân phục, màu xanh của cỏ cây, của dòng kênh chảy quanh trạm, căn phòng đơn sơ nhưng ngập tràn hạnh phúc lứa đôi trong những chuỗi ngày sống xa quê.

Vào thời đó Ban chỉ huy Trung đoàn 18 được phân phối một chiếc xe đạp Thái Bình, mỗi người chỉ được một bộ phận, ai bốc được cái nào hưởng cái đó. Trước khi thực hiện chế độ phân phối, anh Hoặc - Trung đoàn phó Chính trị nêu vấn đề: “Đây là hàng phân phối, ai cũng rất cần cho sinh hoạt bản thân và gia đình, nhưng hiện tại Trung đoàn trưởng vừa cưới vợ, gia đình thì ở xa, theo tôi đề nghị nhượng cả chiếc xe này để tạo điều kiện cho anh Hùng đi lại thăm vợ ở Quân đoàn bộ...!”. Tôi không ngờ là của “hiếm” nhưng mới nghe anh Hoặc đặt vấn đề tất cả Ban chỉ huy đều tán thành. Từ khi có xe, cứ mỗi tháng một lần chiều thứ 7 tôi túc tắc đạp xe kèm theo một bi đông nước từ Lục Ngạn về Lạng Giang cùng chung vui với vợ...

Năm tháng sống xa quê rồi yêu cầu giảm biên chế nữ trong các binh đoàn chủ lực cơ động của Bộ, đầu năm 1981 sau khi chuyển quân nhân chuyên nghiệp, tôi xin cho Thơm chuyển ngành về Bệnh viện Tĩnh Gia, Thanh Hóa trong khi đang thai nghén đứa con trai đầu lòng (cháu Trần Minh Sơn)... Cái khó lúc này là bệnh viện chỉ ưu tiên nhận bộ đội nữ có nghề y nhưng chưa có gia đình, bởi khi đã nhận phải kèm theo cả việc bố trí chỗ ở.

Không có cách nào khác, tôi bàn với bố Thơm và chú Lê Hữu Khang đang là Chủ nhiệm Công ty Vật tư huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa có quen thân với bác Khuê - Giám đốc bệnh viện để trình bày nguyện vọng. Thật may cho tôi, cả ba ông già đều đồng ý phương án là Thơm “chưa” có chồng và trong suốt thời gian chờ tiếp nhận cũng như khi về công tác tôi chưa được xuất hiện...

Từ đó cho đến ngày 13 tháng 7 năm 1981, khi cháu Sơn ra đời trong vòng tay yêu thương của gia đình bên ngoại và bà con khu tập thể bệnh viện, lúc này mọi việc “đàm tiếu” xôn xao: bộ đội “chửa hoang”, rồi xin về lại giấu... Nhưng bất chấp dư luận, mẹ con em cứ sống và làm việc như mọi người, cho đến tháng thứ 6 thì tôi mới xuất hiện... rồi lại đồn đại: “Con gái mới 22 tuổi mà lấy “ông” cán bộ miền Nam nghe đâu làm đến cấp Trung đoàn...”.

Sau hai năm xây dựng trung đoàn vững mạnh toàn diện, tháng 3 năm 1982, tôi được thăng quân hàm trung tá. Cuối năm 1982, tổng kết bốn năm thực hiện cuộc vận động lớn “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân”, Trung đoàn 18 được đánh giá là một trong những đơn vị có nhiều thành tích xuất sắc, thực hiện tốt cuộc vận động.

Tháng 3 năm 1983, tôi được đi đào tạo cán bộ chỉ huy - tham mưu chiến dịch, chiến lược tại Học viện Cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng). Thời gian này được nghỉ phép theo chế độ dài hơn, tôi có điều kiện về chăm sóc vợ và con cũng là dịp để bệnh viện hiểu thêm về tôi. Đến đây thì cả Giám đốc lẫn cán bộ, nhân viên... đều “bái phục” mưu kế, thế trận của bộ đội làm lúc đầu hiểu sai về Thơm...

Nhân dịp này, tôi cảm ơn bệnh viện đã cưu mang vợ con tôi suốt một thời gian dài âu cũng là “hoàn cảnh” của một thời bao cấp mà, nếu không được sự cưu mang đó không biết cuộc sống của chúng tôi sẽ đi đến đâu? Khi mà cuộc sống bên ngoài xã hội vấn đề “giá - lương - tiền” đang đòi hỏi bức xúc. Trong quân đội thì có tình trạng “dân không muốn làm lính, lính không muốn làm quan, quan trẻ muốn ra, quan già xin ở lại...”. Hồi đó, mỗi khi từ Hà Bắc về Thanh Hóa, tôi phải bán hết nhu yếu phẩm và đồ dùng không cần thiết thì mới có tiền đi về, lúc ra phải tính kế... khác, thật nan giải...

Với tấm lòng biết ơn đó, thời gian ở với vợ con tại bệnh viện tôi luôn cố gắng giúp được gì cho bệnh viện thì giúp, từ việc sửa chữa nhà ở đến tham gia dọn dẹp vệ sinh các khu nhà. Trong thời gian nghỉ phép, tôi thường qua lại khu nhà trẻ để trông nom cu Sơn. Một hôm bận làm vệ sinh khu tập thể, khi qua giếng múc nước thấy cu Sơn đang khóc, tôi chạy vào hỏi thì ra cu cậu đòi uống nước, nhìn quanh không thấy cô mẫu giáo đâu, tôi chạy vào khu vực để đồ ăn uống của các cháu, nhìn thấy một ca nước đo đỏ lại ngửi không có mùi vị gì rồi cho cu cậu uống... Không ngờ vừa uống xong cu cậu trợn mắt... tôi hoảng, đúng lúc cô Biên giữ trẻ chạy vào bảo: “Anh cho cháu uống nhầm dầu ma dứt rồi... cấp cứu... cấp cứu...”. Bác sĩ Khuê, Giám đốc bệnh viện trực tiếp súc ruột cho con trai tôi. Khi trả phép, tôi viết bài báo: “Cảm ơn bệnh viện đã cứu sống con tôi” được đăng trên Báo Quân đội nhân dân và phát trên sóng Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam. Từ đó tiếng tăm bệnh viện được ngợi ca và năm đó bệnh viện vinh dự nhận phần thưởng của Bộ Y tế, sở Y tế: “Lương y như từ mẫu...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Tư, 2022, 08:50:00 am
Từ học viện về Khu 5

Lớp đào tạo khóa 5 (1983 - 1985), của Học viện Quân sự cấp cao, tiểu đội tôi do Trung tá Trần Công Thìn làm Tiểu đội trưởng (sau này đồng chí Thìn là Trung tướng, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu năm 2003) gồm 12 người, trong đó có Thiếu tá Nguyễn Khắc Nghiên (Thượng tướng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam đã mất tháng 11-2010) và Thiếu tá Nguyễn Hữu Khảm (Trung tướng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu năm 2008).

Kết thúc giai đoạn dự khóa, tôi đóng vai Phó Sư đoàn trưởng - Tham mưu trưởng rồi Sư đoàn trưởng, được xếp loại giỏi. Riêng bảo vệ luận văn tốt nghiệp đề tài: “Đưa cụm cơ động vào chiến đấu trong chiến dịch tiến công quân đoàn ở địa hình rừng núi” do Đại tướng Hoàng Văn Thái làm Chủ tịch Hội đồng thi quốc gia, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo - Giám đốc Học viện làm Phó chủ tịch Thiếu tướng Dũng Mã và Thiếu tướng Bùi Công Ái, Tư lệnh Quân đoàn 2 làm thư ký, có sự tham gia của cố vấn số 1 Bộ Quốc phòng (chuyên gia Liên Xô).

Sau khi báo cáo tóm tắt theo quy định là 30 phút. Nhưng chỉ hết 25 phút có chứng minh giữa lý luận đã học với thực tiễn sử dụng cụm cơ động của Quân đoàn 2 khi tiến công trên hướng chủ yếu trong chiến dịch Hồ Chí Minh, của Sư đoàn 304 và lực lượng tăng thiết giáp vào dinh Độc Lập và hướng Quân đoàn 3 từ cầu Bông, cầu Sáng vào sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ tổng tham mưu ngụy... So với địa hình thực tế Na Dương, Lục Bình, Lạng Sơn của đề tài... được hội đồng thi chấm điểm giỏi. Riêng cố vấn số 1 Liên Xô khen: “Một phương án thật tuyệt vời, xứng đáng nhận bằng đỏ...”.

Thời gian thi tốt nghiệp cũng là lúc chiến trường Đông Bắc Campuchia mùa khô (1984 - 1985) chiến sự đang diễn ra quyết liệt. Đồng chí Trương Hồng Anh, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 Quân khu 5 hy sinh, có đồng chí sư đoàn do chỉ huy trận đánh không thành công đã phải điều về cơ quan... Biết tôi sắp tốt nghiệp, Quân khu xin về và Quân đoàn 2, cũng muốn tôi về lại Quân đoàn.

Để giải quyết thuận lợi cho cả hai đơn vị và nguyện vọng cá nhân trước khi ra trường, Cục Cán bộ gặp và hỏi ý kiến, tôi trả lời: “Theo phân công của tổ chức, tôi quê Khu 5 nhưng vợ ở Quân khu 4, đơn vị quen thuộc là Quân đoàn 2, từ cán bộ đại đội đến trung đoàn trưởng, trên xem xét...”.

Ngày tốt nghiệp, tôi được công bố quyết định bổ nhiệm: Phó Sư đoàn trưởng - Tham mưu trưởng Sư đoàn 2, Quân khu 5 (Quyết định số 185/QP ngày 10-7-1985 do Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Trọng Tấn ký). Nhận quyết định, tôi hiểu chiến trường bao giờ cũng là nơi tôi phải đến để kiểm nghiệm sau thời gian học tập. Tôi khoác ba lô về bệnh viện Tĩnh Gia, Thanh Hóa gửi gắm vợ con cho ông ngoại và bệnh viện để sớm về đơn vị.

Một lần nữa chồng Nam, vợ Bắc, Sơn con trai đầu vừa tròn 5 tuổi và chuẩn bị ra đời đứa thứ 2. Chúng tôi lại phải xa nhau. Tôi an ủi vợ con và dồn hết tình thương cho những ngày nghỉ phép để sửa chữa củng cố lại bếp, công trình phụ, mua sắm những thứ cần thiết cho vợ trước lúc lên đường. Cái khổ nhất lúc bấy giờ là phải đạp xe hơn 10 cây số trên đường cát từ Bệnh viện về nhà ngoại tại thôn Trung Hậu, xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia để xin tre, lá chuối rồi chở lên bệnh viện mới có cái để làm, mọi vất vả cũng qua đi, tình thương của ngoại và bà con khu tập thể bệnh viện, nhất là vợ chồng chị Bổn anh Lực, anh Phong cùng quê tập kết lấy vợ, sau giải phóng còn ở lại đó. Ngoài ra có vợ chồng anh Doanh - Trưởng phòng Y vụ... coi chúng tôi như em nên có chỗ dựa cho mẹ con Thơm để tôi yên tâm vào Nam chiến đấu trên mặt trận mới...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Tư, 2022, 08:51:17 am
Về Sư đoàn 2 - Quân khu 5

Sau gần 20 năm bôn ba khắp các chiến trường với binh đoàn chủ lực cơ động của bộ (Quân đoàn 2) và gần ba năm đèn sách (1983 - 1985) bạn bè chia tay đứa biên giới phía Bắc, đứa ra hải đảo. Riêng tôi được trở lại chiến trường năm xưa (Tiểu đoàn 1 - R20 Quảng Đà) nhưng với Sư đoàn 2 tôi chưa một ngày vinh dự sống và chiến đấu với các bạn...

21 giờ ngày 12 tháng 9 năm 1985, chiếc xe con Bắc Kinh của Trung đoàn bộ binh 1 (thu được trong chiến dịch ba biên) dừng lại, hôm đó tôi đi cùng Trần Minh Thiệt - Sư đoàn phó là đồng đội từng ở Quân đoàn 2. Sau 5-10 phút tâm sự tại căn phòng của anh, tôi lên gặp Sư đoàn trưởng Mai Tiến Mỹ báo cáo và trình quyết định Bộ điều tôi về đơn vị. May mắn cho tôi là anh Mỹ cũng đã từng học ở Học viện Lục quân (1976 - 1977) nên phần thủ tục cũng đơn giản. Anh Mỹ cũng chân tình: “Tâm tư còn dài để tâm sự sau, bây giờ hãy về cùng anh Thiệt trao đổi công việc của Phòng Tham mưu để ngày 13 tháng 9 năm 1985 đi dự hội nghị truy quét FULRO ở Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum”. Sau đó anh về và trực tiếp chỉ huy lực lượng triển khai sở chỉ huy tại tây Biển Hồ lúc 20 giờ ngày 24 tháng 9. Khi tôi đang kiểm tra các kế hoạch truy quét thì ngày 26 tháng 9, Sư đoàn trưởng lại giao đi chuẩn bị chiến trường ở Khu 3 huyện của tỉnh Rát-ta-na-ki-ri Đông Bắc Campuchia và Nam Lào.

Trở lại Đông Bắc Campuchia và Nam Lào

Là sư đoàn chủ lực cơ động của Quân khu 5, trước những yêu cầu mới của các tỉnh Đông Bắc Campuchia, Nhà nước ta chủ trương, đưa quân tình nguyện và chuyên gia sang giúp bạn giữ vững những thành quả của cách mạng, bảo đảm vững chắc tuyến biên giới, giữ thế ổn định để xây dựng phát triển đất nước.

Phát huy những thắng lợi đã giúp bạn giải phóng và bảo vệ thành quả cách mạng ở các tỉnh Đông Bắc Campuchia vào những năm 1978 - 1984, mùa khô 1983 - 1984, Sư đoàn 2 cùng với các lực lượng Mặt trận 579 (Quân khu 5) mở chiến dịch tiến công vào căn cứ 547 do 2 sư đoàn (612 và 616) quân Pôn-pốt chiếm đóng nằm trên biên giới tỉnh Prết-vi-hia với Thái Lan. Trên hướng tiến công đảm nhiệm, sư đoàn phải tiêu diệt 16 mục tiêu, phía trước là dãy Đăng Rếch sừng sững như bức tường thành, nhiều dốc cao dựng đứng, địa hình hiểm trở gây bất lợi cho ta bởi bọn địch lợi dụng núi cao, vách đứng, rừng rậm, khe sâu và hang đá bố trí thành 3 tuyến có các cụm điểm tựa liên hoàn hiểm hóc để đối phó khi bị ta tiến công.

Về phía ta, sư đoàn cơ động chiến đấu trong điều kiện Tết Nguyên đán đang cận kề; tư tưởng cán bộ, chiến sĩ bị phân tán, bên cạnh đó những tác động tiêu cực của xã hội, từ hậu phương len lỏi vào tâm tư cán bộ, chiến sĩ khiến cho tình hình diễn biến phức tạp. Kế đến là khu vực tác chiến thiếu nước, phương tiện vận chuyển vừa thiếu vừa thô sơ, nhu cầu hàng hóa, đạn dược rất cao, cấp bách, trong khi hầu hết được vận chuyển bằng sức bộ đội, số còn lại phải gùi, thồ lót dọc đường hành quân và khu vực tác chiến. Song, dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Quân khu và Mặt trận, nhất là tài thao lược của “Người chỉ huy huyền thoại” - Tư lệnh Nguyễn Chơn. Mọi công tác bảo đảm đã dần hoàn tất. Riêng về giải quyết vướng mắc tư tưởng của bộ đội, thông qua học tập chính trị đi sâu làm rõ di huấn của Bác Hồ: “Giúp bạn là tự giúp mình”, dẫu hôm nay chúng ta có ngã xuống cho đất nước và nhân dân Campuchia hồi sinh, thì đó cũng là nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng để cho phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” luôn sáng mãi với thời gian. “Tư tưởng thông, bi đông không đủ nước cũng đánh” đã trở thành quyết tâm của bộ đội. Về cách đánh, cán bộ chỉ huy các cấp đến từng phân đội, gặp mặt chiến sĩ bàn cách dâng mưu, hiến kế dự trữ nước uống, tổ chức huấn luyện bổ sung cách đánh ở địa hình núi cao, rừng rậm. Phương án tác chiến của đơn vị đã được cấp trên phê duyệt, toàn sư đoàn đã sẵn sàng xung trận.

Đúng 7 giờ ngày 25 tháng 3, sư đoàn nổ súng, với cách đánh hiệp đồng binh chủng “hành tiến - tiến công” tiêu diệt từng mục tiêu đến dứt điểm hoàn toàn 16 mục tiêu, loại khỏi vòng chiến đấu 116 tên địch, bắt 2 tên, thu và phá hủy 249 khẩu súng, hơn 150.000 viên đạn các loại và nhiều đồ dùng quân sự. Cùng các đơn vị bạn phá nát căn cứ quan trọng 547 ở biên giới phía Tây Bắc Campuchia, buộc chúng phải từ bỏ ý đồ khôi phục lại căn cứ này, tạo điều kiện cho bạn triển khai kế hoạch rào, lấp biên giới (KT-5). Thắng lợi này có ý nghĩa kiểm nghiệm sức mạnh chiến đấu của sư đoàn, đã tô thắm truyền thống “Trên tin, bạn mến, dân thương, đã đi là đến, đã đánh là thắng”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Tư, 2022, 08:53:38 am
Đông Bắc Campuchia

Mùa khô 1985 - 1986, tình hình trên hướng Đông Bắc Campuchia tiếp tục diễn biến phức tạp. Địch chuyển hướng chiến lược, đẩy mạnh hoạt động ở nội địa để giành dân, cài cắm nắm chính quyền ở cơ sở, mặt khác chúng ra sức phá hoại tuyến phòng thủ biên giới của bạn, xoi mở hành lang, tuồn hàng và vũ khí vào nội địa tạo thế và lực, chờ thời cơ khi ta rút hết quân sẽ đảo ngược tình thế có lợi cho chúng. Được sự hà hơi tiếp sức của bọn phản động quốc tế và thế lực cực hữu... chúng tiến hành đánh phá trên diện rộng hòng tìm cơ hội lật đổ chính quyền cách mạng từ bên trong, kết hợp tiến công quân sự để giành lại địa bàn.

Tháng 9 năm 1985, khi cả sư đoàn đang dồn sức cho lễ kỷ niệm 20 năm ngày truyền thống (20.10.1965 - 20.10.1985), chấp hành mệnh lệnh của Quân khu, từ đầu tháng 11 năm 1985, sư đoàn tổ chức 2 sở chỉ huy. Với cương vị Phó Sư đoàn trưởng - Tham mưu trưởng rồi Sư đoàn trưởng, tôi được phân công trực tiếp chỉ huy cán bộ cơ quan và các trung đoàn đi trinh sát chuẩn bị chiến trường và tiếp đón đơn vị cơ động với khí thế:

            “... Quê hương vang khúc hát
            Đường rợp sắc phong lan
            Ngụy trang cười trong gió
            Quân đi rừng âm vang...”.


Tù' huyện An Khê, tỉnh Gia Lai, mảnh đất Quang Trung dụng võ, Trung đoàn 1, bôn tập qua cửa khẩu 19 đến huyện Bô Keo, tỉnh Rát-ta-na-ki-ri vào triển khai đội hình truy quét Khu 3 huyện và Rừng Xanh. Trung đoàn 38 vào huyện Lâm Phát và hướng Môn-đôn-ki-ri, sẵn sàng đánh vào căn cứ Ô-ta-ô. Trung đoàn 93 chiếm lĩnh chặn địch từ Xiêm Bàng, huyện Viên Xây đến Tây Bắc huyện Bô Keo. Sở chỉ huy Sư đoàn triển khai tại hồ Xi-ha-núc đông bắc thị trấn Bung Lung.

Ba cánh quân giăng thành chiến lũy, tuyến biên giới do lực lượng trinh sát các đơn vị phục lót, tuyến 2 là các đại đội, tiểu đoàn bộ binh truy quét, sau cùng là các lực lượng binh chủng và bảo đảm chiến đấu, chốt cắt các nút giao thông, bảo vệ hành lang vận chuyển, kho trạm và sở chỉ huy, đồng thời phối hợp với các lực lượng của bạn tham gia vận động nhân dân bóc gỡ địch ngầm, bảo đảm an toàn khu vực đứng chân.

Đầu mùa khô, mưa vẫn còn nặng hạt. Bộ đội phải vượt sông, lội suối, luồn rừng, rét buốt vẫn không ngăn được quyết tâm vào khu chiến đúng kế hoạch. Thông tin thông suốt, vật chất trên vai bộ đội và lót tại chỗ cũng bảo đảm đồng bộ cho cả mùa hoạt động. 16 đội công tác vận động quần chúng với 102 cán bộ được tuyển chọn, bồi dưỡng nội dung, phương pháp và tiếng Khơ-me đảm nhiệm địa bàn 4 huyện của tỉnh Rát-ta-na-ki-ri (Lâm Phát, Bung Lung, Bô Keo, Viên Xây) và một số xã thuộc 2 tỉnh lân cận Stung Treng, Môn-đun-ki-ri cũng đã xuống cơ sở ổn định nơi sinh hoạt và hiệp đồng chặt chẽ với bạn.

Mở màn mùa hoạt động, Trung đoàn 1 truy quét làm chủ khu vực 3 huyện và Rừng Xanh, đập tan ý đồ thiết lập “căn cứ lõm” của địch, đưa dân về ổn định sản xuất xây dựng cuộc sống mới xung quanh thị trấn Bung Lung, bảo vệ sườn đông và bắc sở chỉ huy Sư đoàn. Trung đoàn 38 sử dụng phân đội nhỏ và cấp tiểu đoàn luồn rừng quét sạch căn cứ Ô-ta-ô, mở thông hành lang đi Môn-đun-ki-ri và chốt giữ cầu Sê-rê-pốk trên quốc lộ 19 kéo dài từ Stung Treng, Campuchia đến cửa khẩu 19, Đức Cơ, Gia Lai, Việt Nam cả mùa khô và mùa mưa. Trung đoàn 93 (thiếu) thực hiện cách đánh vừa tác chiến vừa địch vận vào căn cứ La Lay, huyện Viên Xây, kêu gọi binh lính, người thân của họ và nhân dân còn đang ở ngoài rừng ra hàng trở về phum sóc.

Đoàn quân lặng lẽ dò từng bước để không phát ra tiếng động và tránh các loại mìn địch cài cắm nhằm cản đường quân ta. Là người đi cùng trực tiếp chỉ huy trên hướng chủ yếu của Trung đoàn, lúc băng đèo, khi vượt suối, dầm mình dưới cái nắng gay gắt hay tắm mình trong ánh trăng thanh giữa đại ngàn núi rừng đất bạn, tôi thầm tự hào về tinh thần kiên cường của chiến sĩ, “máu” thi sĩ lại trỗi dậy:

            “... Anh vào trận đánh La Lay
            Chăn theo suối hát, trăng bay dẫn đường
            Ơi người chiến sĩ kiên trung
            Anh đi cho cả hậu phương thanh bình...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Tư, 2022, 08:55:35 am
Đang phút ngẫu hứng, phía trước đoàn quân có tin: “Báo cáo thủ trưởng, bộ phận đi đầu đã gặp địch”. Theo phản xạ “nhà binh”, tôi hạ lệnh: “Tiến công!”. Các mũi, các hướng đồng loạt xung phong, địch bị đánh bất ngờ, dùng B40, B41, ĐKZ hòng chặn đường quân ta. Tôi động viên bộ đội: “Rình tĩnh, kiên quyết thọc sâu không để mắc mưu quân Pôn-pốt dùng hỏa lực chế áp để tìm cách thoát thân.” Bộ đội tả xung hữu đột trút căm thù xuống đầu bọn diệt chủng, nhiều tên chết, những tên bị thương rên la thảm thiết. Tôi và Trung đoàn trưởng Trung đoàn 93 đã có mặt kịp thời và chứng kiến một hình ảnh cảm động của chiến sĩ quân y đang cấp cứu một sản phụ là vợ lính Pôn-pôt bị bỏ rơi trên đường tháo chạy. Chị ta nằm đó, đôi mắt đỏ hoe, chắp 2 tay ấp úng: “Koong-top (bộ đội) Việt Nam ơi! Tôi đang trở dạ”. Dù không phải là chuyên khoa, song với tinh thần “trọng đạo nghĩa nhân”, bộ đội ta đã giúp chị ta sinh “mẹ tròn con vuông” rồi chuyển về tuyến sau. Chứng kiến sự việc, cảm kích trước nghĩa cử của bộ đội ta, những người dân được ta cứu thoát cùng thốt lên: “Prochia Choon (nhân dân Campuchia) cảm ơn, Koong top Việt Nam... đúng là người của nhà Phật...”.

Kết thúc mùa hoạt động, sư đoàn loại khỏi vòng chiến đấu hơn 400 tên địch, thu 78 súng các loại, xóa sổ 3 căn cứ (khu 3 huyện, La Lay, Ô-ta-ô), tuyên truyền vận động và tổ chức học tập cho hơn 10 ngàn lượt người dân, 12 lượt cán bộ xã, 850 lượt du kích, vận động nhân dân kêu gọi 110 lính địch còn đang ở ngoài rừng ra hàng và hơn 215 lượt người dân trở về phum sóc làm ăn, sinh sống, bóc gỡ 16 tên địch hoạt động ngầm trong chính quyền và nhân dân, xây dựng 125 du kích xã, 214 du kích thôn, cử cán bộ giúp đỡ huấn luyện các tiểu đoàn 50, 96, 79 bộ đội địa phương bạn. Với phương thức hoạt động tác chiến truy quét và vận động quần chúng giúp bạn, sư đoàn tiếp tục mở rộng địa bàn thực hiện một loạt trận đánh cho đến hết mùa khô 1987 - 1988, loại khỏi vòng chiến đấu 61 tên và bắt sống 137 tên địch, tạo điều kiện cho các lực lượng của bạn bước vào hoạt động mùa mưa 1988 - 1989 thuận lợi.

Để hỗ trợ cho bạn và đối phó với những hành động mới của địch vào mùa mưa 1988 - 1989, sư đoàn tổ chức hội nghị cán bộ để rút kinh nghiệm đề ra những giải pháp giúp bạn. Một vinh dự đối với sư đoàn là sau hội nghị được đón chị Lay On - ủy viên Trung ương Đảng (CPP), Bí thư Tỉnh ủy, bác Bu Chuông - Chủ tịch Ủy ban nhân dân và anh Khăm Ba – Tỉnh đội Rát-ta-na-ki-ri đến thăm và động viên. Khi nghe chỉ huy sư đoàn báo cáo kết quả giúp bạn, chị Lay On xúc động nhắc lại lời của ngài Chay Y Hiêng, cố vấn Hoàng gia Campuchia: “Điều gì còn đọng lại trong trái tim của người dân Campuchia về Việt Nam trong thế kỷ XX, đó là lòng biết ơn, là tình hữu nghị, là hình ảnh về một “Đội quân nhà Phật” từ cõi thiện xa xôi đến cứu giúp nhân dân Campuchia”. Như vậy, dù là đối với nhân dân bạn (khi đi làm nghĩa vụ quốc tế) hay đối với nhân dân mình (trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại), hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, “Đội quân nhà Phật” luôn được kính yêu và tôn trọng. Đây chính là điều mà quân đội ta khác xa với quân đội các nước về bản chất.

Tiếp lời, bác Bu Chuông ôm chặt từng cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện vào lòng, giữa khu rừng sinh thái bên hồ Xi-ha-núc. Bác hứa: “Tôi và chị Lay On sẽ sang thăm sư đoàn tại Việt Nam trong thời gian gần nhất”. Tình cảm của bác thể hiện tấm lòng của người dân Campuchia đối với bộ đội Việt Nam, biểu hiện cho tình hữu nghị bền chặt giữa nhân dân hai nước. Cảm ơn bác đã sưởi ấm lòng những đứa con xa quê hương sắp tạm biệt đất nước Ăng-ko tươi đẹp để trở về Tổ quốc thân yêu chuẩn bị đón một mùa xuân trong sự thanh bình của hai đất nước, từ trong sâu thẳm trái tim tôi, những cảm xúc lại trào dâng:

“... Tổ quốc ơi!
Người mẹ hiền yêu quý
Đã có chúng con, những chiến sĩ
Giữ biển trời
Cho non sông đẹp mãi tuổi đời
Dựng đất nước
Nhiều mùa xuân hạnh phúc
Xuân: phấp phỏng chờ mong
Yêu thương trọn vẹn
Lời hẹn không hương hoa
Chỉ kết bằng tâm trí
Đầy tình đồng chí
Nặng nghĩa đồng hào
Chúc nhau lời chào
Nhắc cũng tiến tới
Cầu cho năm mới
Tổ quốc hẹn ngày
Mê Kông và Cửu Long Giang
Hòa chung nhịp đập...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Tư, 2022, 08:56:46 am
Kỷ niệm Nam Lào

Chuyện xảy ra vào mùa mưa năm (1987 - 1988) trong quá trình phục lót đón đánh bọn diệt chủng Pôn-pôt - Iêng Xa-ri trên tuyến biên giới Đông Bắc Campuchia và Nam Lào. Đơn vị chúng tôi (Trung đoàn 1 Sư đoàn 2) mở màn nổ súng nhưng lại để địch lọt qua. Để tìm hiểu rõ căn nguyên, chúng tôi phải ra khu chiến xác minh từ điểm đứng, hướng bắn của chiến sĩ đến vị trí rơi của vỏ đạn và mất gần hai tiếng đồng hồ mới tìm ra “thủ phạm” nằm cách khu vực chiến sĩ cảnh giới của đại đội khoảng một mét. Lý do vì quá bất ngờ khi địch vượt qua, một chiến sĩ buộc phải nổ súng để báo động nhưng đạn bị thối, trong lúc lúng túng đối phó thì anh chàng bị hai quả B40 của địch phủ đầu, khói bụi mù mịt nên không biết địch chạy về hướng nào; chiến sĩ này mới bổ sung vào đơn vị rồi đi chiến đấu ngay nên kinh nghiệm chưa có. Lực lượng công binh dừng tìm, đại đội gọi đồng chí chiến sĩ nổ súng không thành, lên gặp tôi.

Đứng trước tôi là một thanh niên trẻ măng, khôi ngô. Qua hỏi han tôi biết cậu ta được học hành bài bản quê Quảng Nam “Trung dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ” nhưng chưa hề có kinh nghiệm trận mạc. Tôi thầm trách cán bộ thuộc quyền sao lại sử dụng một chiến sĩ “mới toanh” vào vị trí phục lót tại nơi trọng điểm của đơn vị. Vừa dặn mình và cũng để củng cố lòng tin cho chiến sĩ, tôi ân cần: “Về đơn vị ráng học tập cho thành thạo cách dùng súng và làm quen với chiến đấu để lần sau lập công nghe!”. “Dạ”. Nhìn bóng chiến sĩ hòa vào bóng núi, tôi se lại nghĩ suy về câu hỏi của đồng chí Tư lệnh Mặt trận: “Không diệt được địch là tội lớn đó...”. Đầu tôi như có lửa, không phải chỉ có tội với Đảng, quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam, Campuchia mà còn có tội với chiến sĩ của mình, nếu như hôm đó bọn Pôn-pốt không thần hồn nát thần tính thì hai quả B40 chắc gì đã bỏ qua mạng sống kia.

Rời bản Ka Điêng, huyện Mường Mun, tỉnh Chăm-pa-sắc, Nam Lào tôi cứ đau đáu về yêu cầu nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của Đại đội trinh sát Trung đoàn 1 trong thời gian tới; cần phải nghiên cứu kỹ phương thức và thủ đoạn phục lót, tranh thủ huấn luyện bộ đội theo phương án, điều chỉnh lực lượng cho phù hợp và linh hoạt. Đối với chiến sĩ mới bổ sung phải dành nhiều thời gian và phân công cán bộ phân đội trực tiếp hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ từng động tác kỹ, chiến thuật và nếp sống chiến đấu. Chiến dịch còn dài, mùa mưa đã bắt đầu, phải hết sức cảnh giác và giữ gìn sức khỏe cho bộ đội để duy trì sức chiến đấu bền bỉ dẻo dai của một đơn vị “tinh nhuệ”, nếu để địch lọt lưới thì thật hổ danh “lính trinh sát Ba Gia”. Từ kinh nghiệm này, chúng tôi phải hiểu sâu hơn phép dùng binh của các bậc hiền nhân, khi nào thì sử dụng thuật “tướng quân tại ngoại”, lúc nào mới tung chiêu “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, đừng có “hữu dũng vô mưu”, xem xét kết luận sự vật theo kiểu một chiều, xử lý oan sai dẫn đến hậu quả khó lường. Sau sự cố xảy ra, tập thể chỉ huy đơn vị đã cùng với Trung tá Buông Hương - Huyện đội trưởng Mường Mun tỉnh Chăm-pa-sắc, Nam Lào phân tích tình hình và thống nhất kế hoạch hoạt động sắp đến.

Chia tay Buôn Hương, từ Mường Mun về Sở chỉ huy Sư đoàn tại Bản Beo, đoạn đường gần 60 cây số, tôi và đoàn cán bộ lặng lẽ dồn bước trên con đường quân sự làm gấp sau cơn mưa chiều trời mát dịu mà lòng mãi nghĩ về đợt hoạt động đến của Trung đoàn bộ binh 1. Khi cách sở chỉ huy Sư đoàn khoảng 500m, bộ phận hành chính báo lên xin cho nuôi quân về trước chuẩn bị cơm chiều. “Đồng ý”, tôi vừa nói xong thì đồng chí nuôi quân vừa đi tới phía sau hô lớn: “Thủ trưởng dưới chân có mìn...”. Theo quán tính của bước chân hành quân, tôi trụ mũi bàn chân và nâng gót đứng tại chỗ. Sau tôi là đồng chí Do - Phó Chủ nhiệm Công binh Sư đoàn vượt lên phát lệnh mọi người tản ra hai bên đường cảnh giới, đồng chí Phương - Chủ nhiệm Chính trị lên động viên bộ đội bình bĩnh, sẵn sàng chiến đấu. Đồng chí Phạm Chân Lý - Phó Tham mưu trưởng, Trưởng ban Tác chiến triển khai lực lượng dò gỡ. Sau 30 phút lực lượng công binh dò tìm và đưa lên 2 quả mìn 65-2A (1 quả đặt trên, 1 quả đặt dưới) và 4 quả B40 (3 quả đặt theo chiều thẳng đứng, 1 quả nằm ngang) nhưng rất may là 2 quả mìn 65-2A kíp lắp ngược... Tôi nhận định: Đây là bẫy của bọn Pôn-pốt cài để đánh xe cơ giới của ta thường vận chuyển bộ đội và hàng hóa từ Mường Mun vào Sở chỉ huy sư đoàn và cũng là con đường ngang nối với đường 13 (Lào sang Stung Treng, Campuchia) từ Bản Beo qua Đầm Rây, Chép về phía sau và lên Ngã ba biên giới, điểm cao 547 giáp với Thái Lan. Khi chúng tôi đi trời chưa mưa nên không phát hiện ra). Lúc về, sau cơn mưa nước chảy cuốn đi lớp đất ngụy trang phía trên dễ nhận thấy màu xanh của vỏ mìn 65-2A. Mặt khác đây là đoạn đường do lực lượng công binh của sư đoàn chốt giữ và tuần tra bảo vệ thường xuyên nên bọn Pôn-pôt đặt vội vàng, lắp ngược cả kíp mìn. Nếu không thì chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi và đoàn công tác.

Tôi cảm kích ôm chặt đồng chí nuôi quân, mắt nhìn sâu vào mắt thấy ấm áp tình yêu thương đồng đội, hai trái tim rung lên cùng nhịp đập. Đêm trên đất bạn, mưa rả rích, tôi nằm thao thức, lòng vẫn còn bao suy tư trăn trở:

            “Đêm nằm thao thức lắng mưa rơi
            Đâu phải riêng tư nghĩ cho đời
            Nhà trống, thiếu chăn chiến sĩ lạnh
            Mưa gì dai dẳng rứa mưa ơi!”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Tư, 2022, 08:58:18 am
Từ Tây Nguyên đến Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết

Ngày 12 tháng 6 năm 1986, tôi được bổ nhiệm Sư đoàn trưởng, đến ngày 29 tháng 12 năm 1987 đề bạt quân hàm đại tá (3 sao). Đây là thời gian thử thách cả về trí tuệ và tình cảm bởi lẽ: tình hình sư đoàn suốt những năm dài chiến đấu chưa được củng cố doanh trại và đời sống chưa được cải thiện trong khi đơn vị lo chiến đấu giúp bạn thì một bộ phận cán bộ ở phía sau thiếu trách nhiệm để xảy ra nhiều điều về thất thoát cơ sở vật chất, ý thức kỷ luật bị buông lỏng, quan hệ quân dân bị giảm lòng tin. Tình hình kinh tế - xã hội của đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng, tiêu cực xã hội phát triển mạnh tác động vào đơn vị làm một số cán bộ (kể cả cán bộ chủ chốt của sư đoàn và trung đoàn) bản lĩnh chưa vững vàng, bị cám dỗ trước lợi ích vật chất cá nhân tầm thường đã vi phạm phẩm chất đạo đức: Tham ô, buôn lậu, lấy cắp tài sản của đơn vị, có đồng chí phải xử lý bằng pháp luật. Tình hình trên đã để lại hậu quả nặng nề, làm ảnh hưởng đến truyền thống của sư đoàn.

Trong bối cảnh sư đoàn như vậy, Trung tướng Nguyễn Chơn - Tư lệnh Quân khu vừa giao quyết định vừa chỉ thị cho Đảng ủy Sư đoàn tổ chức rút kinh nghiệm sau 10 năm (1975 - 1985), tìm nguyên nhân mà chữa trị. Đồng chí còn nhấn mạnh: “Sư đoàn bị “ghẻ” phải tìm đúng thuốc và chữa trị dứt điểm từng phần như thời chữa bệnh sốt rét - phù - suy dinh dưỡng ở chiến trường Campuchia để truy tìm dấu vết của bọn tàn quân Pôn-pốt và bóc gỡ địch ngầm trong phum bản...”.

Tôi vừa nhận trách nhiệm chỉ huy một sư đoàn có truyền thống hai lần Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân... vừa tháo gỡ những vấn đề mà Tư lệnh Quân khu chỉ thị. Bên cạnh đó vợ và hai con tôi từ Bệnh viện Tĩnh Gia chuyển vào từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1986 vẫn chưa biết rõ Quân khu sẽ bố trí thế nào, nơi ăn nghỉ cũng chưa có v.v... Trong bối cảnh này tôi lại nhớ đến lời dạy của cổ nhân: “Uy vũ không khuất phục, giàu sang không quyến rũ, nghèo khó chẳng chuyển lay...” để động viên vợ con tằn tiện từng đồng lương của tôi gửi về mà sống qua ngày chờ đợi...

Chấp hành chỉ thị của Tư lệnh Quân khu, tôi được tháp tùng Phó Tư lệnh Quân khu Đoàn Y Thanh làm một chuyến công du ra đất Bắc để nghiên cứu cách làm kinh tế của Sư đoàn 390 Quân đoàn 1; Trung đoàn công binh 513 và Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hải Phòng (Quân khu 3). Thời gian đi thực tế cũng là thời gian vạch ra ý định trong tôi: “Làm gì đây, làm như thế nào cho đơn vị đỡ khổ, đỡ “rách nát” giữa núi rừng trùng điệp mà bộ đội bữa ăn chưa được cải thiện, nhà cửa xuống cấp, phải ngói hóa và làm kinh tế bằng chính sức lao động của bộ đội mới thoát cảnh “nhà tranh vách đất”.

Tất cả những suy nghĩ của tôi là hành động của tập thể, bằng nghị quyết của Đảng ủy Sư đoàn “an cư mới lạc nghiệp” từ 1986 - 1990 phải cơ bản ngói hóa... Chỉ huy lên kế hoạch chỉ đạo các đơn vị chủ động liên hệ với địa phương để tổ chức sản xuất và khai thác vật liệu xây dựng như: Gạch, ngói, gỗ, hình thành các khu sản xuất nông nghiệp tập trung của sư đoàn và từng trung đoàn, phát triển các hồ nuôi cá, đàn bò, đàn heo và một đại đội khai thác than tại mỏ than Ngọc Kinh, huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam... Tuy nhiên xây dựng lòng tin cần phải có thời gian, bởi Đông Bắc Campuchia vẫn chưa im tiếng súng, xây dựng chính quy cũng là một quá trình chuyển hướng tư tưởng, ngói hóa thì cơ sở chưa tạo ra được bao nhiêu.

Trong lúc tưởng như bế tắc thì tổ chức Đoàn Thanh niên đứng ra thực hiện vai trò xung kích “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”. Đang chỉ huy chiến đấu tại Đông Bắc Campuchia và Nam Lào, tôi hành quân một mạch về dự lễ kỷ niệm 56 năm ngày thành lập Đoàn... Không dừng lại ở sinh hoạt hiếu hỉ chung chung, chính dịp kỷ niệm này là “Hội thi tuổi trẻ sáng tạo” toàn sư đoàn lần thứ nhất, nhằm chiêu mộ nhân tài, tích góp nhân lực phục vụ cho công cuộc cải tạo xây dựng doanh trại, tăng gia cải thiện đời sống của sư đoàn...

Từ đó, toàn sư đoàn như một “công trường” tiến quân vào “khoa học kỹ thuật” tạo được một phận cơ sở vật chất cho việc xây dựng sư đoàn sau này, một phần đáp ứng bổ sung cho yêu cầu phía trước. Chỉ tính đến hết năm 1987, toàn sư đoàn đã xây dựng được 2.500m2 nhà cấp bốn, hoàn chỉnh 1 hội trường với kết cấu kiên cố khang trang và hoàn chỉnh nhà truyền thống 2 tầng, tổng diện tích mặt nước nuôi cá 24ha, đàn bò có 700 con, đàn heo 320 con, trồng cây phủ xanh đất trống đồi trọc trong toàn bộ diện tích đất do sư đoàn quản lý được cấp ủy, chính quyền và nhân dân huyện An Khê nói riêng, tỉnh Gia Lai - Kon Tum nói chung thương yêu và mến phục...

Đến cuối năm 1987, để tiện việc chỉ huy quản lý bộ đội và xây dựng chính quy, được Quân khu phê duyệt cho sư đoàn điều chỉnh vị trí đóng quân: Trung đoàn bộ binh 38 từ Châu Khê (huyện Măng Giang) về Song Anh (huyện An Khê). Trung đoàn bộ binh 1 từ xã Hà Tam về xã Cư An, huyện An Khê; các tiểu đoàn trực thuộc: 15 (công binh), 17 (thông tin), 16 (huấn luyện), Đại đội trinh sát 21 cũng thu gọn cạnh sư đoàn bộ phải xây dựng lại toàn bộ doanh trại từ đầu trong 2 năm 1988 - 1989.

Tháng 2 năm 1989, tôi nhận điện của Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Quân khu Lê An: “Bàn giao sư đoàn cho đồng chí Phạm Đới - Phó Sư đoàn trưởng Tham mưu trưởng, để đi học nước ngoài...”. Nhận điện mà bao nỗi suy tư, bởi vợ tôi đang nằm Bệnh viện Quân y 17 của Quân khu hơn một tuần vẫn chưa tìm ra nguyên nhân đau. Tôi thì do việc điều chỉnh khu vực đóng quân của sư đoàn nên chưa về thăm, hơn nữa đi học nước ngoài (Liên Xô) tới 3 năm, ngoại ngữ thì chưa biết mô tê gì. Song tôi xác định rõ mình là cán bộ đảng viên, khi được giao nhiệm vụ thì không thể chối từ.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2022, 08:04:33 am
Đến Mátxcơva

Từ giã đại ngàn cao nguyên, chia tay Lê Minh Cược - Phó Sư đoàn trưởng về Chính trị, Phạm Đới - Phó Sư đoàn trưởng Tham mưu trưởng, Nguyễn Chí Dần - Phó Sư đoàn trưởng kỹ thuật, Đàm Văn Sánh - Phó Sư đoàn trưởng quân sự... và tất cả đồng đội đồng chí... Trên đường từ An Khê về Đà Nẵng có Phạm Chân Lý - Phó Tham mưu trưởng tác chiến cùng về thăm vợ cũng đau cột sống đang điều trị tại Bệnh viện 17. Hai anh em đã hiểu nhau từ những trận đánh khu 3 huyện đến ba biên giới Việt - Lào - Campuchia, cùng chia sẻ khi hai người vợ ốm nheo nhóc nằm viện mà cả hai sĩ quan chẳng có một chút quà ngoài nhành phong lan mang từ rừng về, tôi buột miệng:

            “Thân em một nách ba con
            Lo ăn chưa đủ hỏi còn béo chi
            Bọn anh trên quãng đường đi
            Có nhành hoa tặng để ghi chút tình...”.


Cả thầy thuốc, bệnh nhân và người đi thăm phá lên cười: Đúng là “tướng” Sư đoàn 2.

Sau ba ngày, tôi xin vợ ra viện về nhà để “bồi dưỡng”. Trước khi đi học, nhà ở được Tư lệnh Nguyễn Chơn cấp cho một nửa; điện nước, giường phản chưa có... Tôi gặp anh Lạng - Phó Tham mưu trưởng Quân khu và anh Mai - Trưởng phòng Doanh trại xin nhượng ống nước và bóng đèn hóa giá rồi mượn Bộ Tham mưu một chiếc giường sắt đang để bên anh Yên - Chủ nhiệm Công binh, cùng chia một nửa nhà với tôi, nhưng không có ai dùng... Công việc tạm ổn, tôi lại chia tay vợ con và về Khoa Ngoại ngữ Học viện Kỹ thuật Quân sự để học Nga văn.

Lớp có 5 anh em: Đại tá Phùng Quang Thanh, Sư đoàn trưởng 390, Quân đoàn 1 (nay là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng); Đại tá Nguyễn Ngọc Thanh, Học viện Quốc phòng (Trung tướng, Phó Giám đốc đã nghỉ hưu); Đại tá Trần Bá Toàn - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 324 Quân khu 4 (nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân khu 4 đã từ trần năm 2004); Đại tá Triệu Xuân Hòa - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 5 Quân khu 7 (nay là Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 7) và tôi. Thời gian dự kiến (tháng 3 - 7.1989) làm quen với cách xã giao để khi sang học chính thức khỏi bỡ ngỡ. Thầy dạy của lớp tôi là đồng chí Xuân và cô Nhung. Có thể nói, ngày đầu, tuần đầu đối với tôi là “cực hình” vì trong lớp 5 người thì hai anh Thanh đã học 2 - 3 năm trước rồi, còn tôi, anh Toàn và Hòa là y tờ, nhưng Hòa trẻ tuổi tiếp thu nhanh, riêng tôi và anh Toàn học phát âm vô cùng khó.

“Có công mài sắt có ngày nên kim” được thầy cô giáo chỉ bảo tận tình, hai anh Thanh kèm cặp rồi cũng qua đi, khi thi cuối khóa đạt loại khá Nga văn, sức khỏe đủ điều kiện đi nước ngoài... Rời Vĩnh Yên, xa thầy cô trở về Đà Nẵng, vợ vẫn ốm, gia tài không có gì để chuẩn bị. May sao có chị Nhữ vợ anh Kim cùng quê cho vay 1 chỉ vàng để mua mấy hộp son phấn, quần bò, áo phông... Cậu ruột Ngô Trường Thuận thương tình cho cặp gà để liên hoan, thấy vợ con còn khổ chỉ thịt con gà trống để gà mái làm giống. Trong khi đó Phòng Chính sách Quân khu cho 200 đồng để gửi tiết kiệm, lương để lại 40% cho vợ và con. Ngày lên đường cũng thảnh thơi, không xe ô tô cũng chẳng có ai đưa tiễn. Ngày 22 tháng 8 năm 1989, tôi ra Gia Lâm nhập Đoàn 871 đi nước ngoài...

Sau 18 giờ bay, máy bay hạ cánh 2 lần để tiếp nhiên liệu, chúng tôi không được ra ngoài nên chẳng biết đó là đâu. 16 giờ ngày 25 tháng 8 năm 1989 đến sân bay Mockba ra đón chúng tôi là anh Đoàn Cửu, nghiên cứu sinh (pháo binh), anh Tuyên, tùy viên quân sự và các em học Prunde, sau đó về ký túc xá dành cho học viên Việt Nam: “HOBOKOHЊШEHЫЙ ПEPEУɅOK ДOM3 - KB40” cảm giác đầu tiên là lên thang máy gặp mùi bơ và thuốc chống gián rồi cũng quen dần.

Theo “giao ước” của các lớp học trước đó, ai đến trước sẽ lo trách nhiệm làm “hướng dẫn” viên và nuôi dưỡng người đến sau ít nhất là một tháng để khi đã “nhập gia tùy tục” được rồi thì phần ai người nấy lo. Như vậy lớp tôi được các em Lương, Trung, Dung, Trình sắp kết thúc lớp Phrunde đảm nhiệm, hàng ngày đưa đến các chợ, cửa hàng thực phẩm để biết cách đi chợ mua hàng, lúc đi tàu điện ngầm, khi thì đi taxi... Cứ một tuần tôi lại đi chợ cho cả lớp một lần, mua nào là: gạo, rau, gà, cá, thịt..., thuận lợi là mỗi khi đi chợ mặc quân phục có mang cả huy hiệu, huân chương, huy chương thì ai cũng ngưỡng mộ trước hết là các bạn Cu Ba, Lào và Campuchia rất mến và bênh vực cho học viên Việt Nam.

Cứ như vậy, hàng ngày 9 giờ (giờ Mátxcơva) chúng tôi lại đi bộ đến trường phải đi qua một vườn hoa. Được ở ngay thủ đô của Liên Xô vĩ đại, tôi thật sự ngưỡng mộ sự hùng vĩ của những công trình xây dựng như: Quảng trường Đỏ, nhà quốc hội, nhà máy, công viên, trường học,v.v... đặc biệt là tiềm lực quân sự, kinh tế của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết thật đáng khâm phục, đi giữa mùa đông đường phố cỏ cây tuyết phủ trắng xoá... người dân Nga khoác áo lông cừu, đội mũ lông đi ủng, chúng tôi thì mặc áo Bađờxuy, đội mũ lông (của quân đội Liên Xô) đi giày, dẫu rét buốt vẫn ngày ngày đều đặn đến trường...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2022, 08:05:33 am
Nơi chúng tôi học sau tết có thêm anh Tâm (Quân khu 1), anh Thanh (Quân khu 2), anh An (Quân khu 5), anh Phúc (Quân khu 7), anh Niên (Quân khu 9) cũng sang bổ túc ngắn ngày. Cứ thứ bảy và chủ nhật hoặc lễ tết chúng tôi qua lại với nhau để động viên học tập. Ngoại ngữ (Nga văn) vốn là cái khó của tôi và anh Toàn nên phải tự miệt mài luyện tập chứ tại ký túc xá thì cô giáo không thể đến được chỉ mỗi ngày học từ 9 giờ đến 2 giờ chiều (giờ Mátxcơva). Lòng say mê, nhiệt tình cộng với sự trợ giúp của các bạn trẻ Phrunde nên tôi cũng tiến bộ nhiều.

Bởi ý thức của 5 anh em chúng tôi là lớp cán bộ cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam được đào tạo tại trường Bộ Tổng Tham mưu Liên Xô (Vô-lô-xi-lôp) hay còn gọi là “trường tướng”, nên quá trình học tập, chúng tôi đặt ra cho mình chỉ tiêu phấn đấu cao, trong quá trình học tập với điều kiện cơ sở vật chất đầy đủ, thầy cô rất nhiệt tình đặc biệt là cô giáo “Cobemlanaa” có phương pháp sư phạm giảng dạy tiếng Nga rất tốt luôn bên cạnh kèm cặp tôi, học sinh “cá biệt” do phát âm chưa chuẩn vì tôi là người miền Nam thất học thời niên thiếu, chiến tranh chống Mỹ phải thoát ly sớm nên được ưu tiên ngồi bàn đầu. Nhờ vậy mà chỉ gần hết mùa đông năm 1989 toàn lớp dự định sẽ được đi tham quan Lêningrát rồi hè năm 1990 tham quan Sêbêri hoặc bờ biển Đen...

Nhưng trong thời gian học tập của chúng tôi vào gần cuối năm 1989 tình hình Liên Xô có nhiều biến động bất thường khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ. Những dự tính nghỉ đông, nghỉ hè không thể thực hiện, ngay như tham quan theo chế độ hàng tuần tại Mátxcơva cũng bị đảo lộn. Việc đi lại mua bán để bảo đảm cho ăn học cũng không dám đi đêm... Cho đến ngày 1 tháng 1 năm 1990, lớp tổ chức ăn Tết mời thầy cô giáo dự tại khu ký túc xá, trong niềm vui của năm mới Tết Tây, bạn cũng rất phấn khởi khi chúng tôi chiêu đãi rượu “lúa mới” Hà Nội, bạn rất thích. Nhân cơ hội này thầy trò trút bầu tâm sự: Chúng tôi sống ở đây cũng như sống trong lòng nhân ái của Tổ quốc, tình cảm của các bạn dành cho chúng tôi như tình nghĩa của hai Nhà nước, hai Đảng và hai quân đội anh em... Tuy thời gian ngắn ngủi ấy không thể nói hết, tả hết những tình cảm của các thầy, cô giáo và người bạn Nga dành cho chúng tôi cũng như nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngày nay...

Từ những câu chuyện về đoàn kết chiến đấu mà chúng tôi đã chứng minh, những đóng góp về vật chất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Liên Xô trước đây khi mà mỗi chúng tôi “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước...”. Các thầy cô càng thêm yêu quí chúng tôi hơn bao giờ hết, bởi chúng tôi là 5 đại tá, 5 sư đoàn trưởng (có 2 đồng chí là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân là anh Thanh và anh Hòa) họ lại càng khâm phục và bộc bạch: “Những việc làm của chúng tôi hôm nay cũng là mang đậm nét văn hóa Nga hòa quyện với văn hóa Việt Nam, tạo nên sức mạnh mới trong quan hệ truyền thống giữa hai dân tộc, hai nước trên chặng đường xây dựng và phát triển vì lợi ích của mỗi nước vì hòa bình, hạnh phúc của nhân loại trên thế giới”.

Được cởi mở như người thân trong một gia đình, chúng tôi đề cập: “Tình hình các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, rồi đây nước Nga sau 70 năm xây dựng từ sau đại chiến thế giới, nay với quân đội Xô-viết là thành trì của cách mạng thế giới... Các anh nghĩ thế nào?”. Ngồi cạnh tôi là một đại tá đã nghỉ hưu hợp đồng dạy môn vật lý, trầm ngâm trả lời “Nhichevô” (nghĩa là: Không có gì), đại ý rằng: việc này do cấp trên, còn chúng tôi chỉ dạy theo hợp đồng với nhà trường, các thầy, cô khác không ai nói gì. Qua ánh mắt và thái độ của các bạn, tôi nghĩ là họ không quan tâm lắm đến tình hình hiện đang xảy ra trên đất nước họ sau khi Đông Âu sụp đổ, có lẽ mọi người chỉ tập trung vào dạy học.

Mùa đông càng đến gần, đường đi học và các ngôi nhà dọc hai bên đường, những hàng bạch dương phủ đầy tuyết, các loại xe dọn đường làm việc ngày đêm nhưng độ dày cứ mỗi ngày càng tăng lên, có hôm tới 20 - 30cm. Chương trình đến kỳ thi càng khó (tự học trên máy vừa xem vừa phát âm) thầy cô giáo nghe và sửa. Trời lạnh, căn bệnh “đại tràng mãn” của tôi lại xuất hiện; thư nhà gửi sang báo vợ tôi phải xin nghỉ việc làm ở Trại giam B14, Bộ Chỉ huy quân sự Quảng Nam - Đà Nẵng (nay Đà Nẵng bàn giao cho Bộ Tham mưu Quân khu 5) để bán thịt cầy và nuôi heo mới bảo đảm được đời sống nuôi 3 con còn nhỏ. Thương tình hoàn cảnh neo đơn, đồng chí Khiển, giám thị giấu Bộ Chỉ huy, cứ để vợ tôi thực hiện ý định và hàng ngày cho thêm người đến hỗ trợ...

Trước tình cảnh đó, tôi trình bày với anh Ngọc Thanh, lớp trưởng và anh Quang Thanh bí thư chi bộ cùng tham khảo ý kiến các anh hệ bổ túc (anh Tâm, anh An) báo cáo Phòng Tùy viên quân sự “ưu tiên” cho tôi được nghỉ đông về ổn định chuyện gia đình (vì chưa hết năm đầu nên không bố trí nghỉ đông vào cuối năm 1989)... Trong khi chờ đợi trả lời, hằng ngày tôi vẫn đi học và Tết âm lịch (1989 - 1990) đi Trường Quân chính Lê-nin thăm người cháu gọi vợ tôi bằng o (cô) tên là Chính, thăm anh em học Trường Công binh (đồng chí Nguyễn Quy Nhơn, đồng chí Khoái) và Trường Cảnh sát... Những nơi tôi đến thăm chơi đều tỏ lòng chia sẻ những khó khăn của gia đình, đồng thời cùng tác động với Phòng Tùy viên quân sự của quân đội ta xin tạo điều kiện giúp đỡ.

Đến tháng 2 năm 1990, tôi được về nghỉ đông, lần chia tay nào cũng bùi ngùi xúc động, nhưng lần này cả lớp còn lại 4 anh em phải học tập. Chính, cháu vợ tôi tiễn ra sân bay, hành lý chẳng có gì nên cũng tiện, nước mắt tôi cứ trào dâng khi phải nói lời tạm biệt thầy cô và lớp giữa sân bay Mockba rét buốt, không ngờ đến hè năm 1990 các bạn của tôi cũng được về hẳn Việt Nam, do tình hình chính trị của Liên bang Xô-viết đã biến đổi.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2022, 08:06:23 am
Về đất mẹ

Mới hơn 6 tháng xa Tổ quốc, khi trở về lòng tôi vui sướng khôn cùng, bao nhiêu kỷ niệm thầy trò, bạn bè vẫn cứ đuổi theo bước chân tôi cho đến một ngày rời khỏi máy bay của Hãng hàng không Việt Nam tại Đà Nẵng mới thấy lòng mình như đang bay bổng giữa trời xuân quê mẹ.

Sau bao ngày xa nhớ, nay mới được ngắm vợ, hôn con trong bữa ăn vẫn còn đạm bạc nhưng cũng vơi đi một phần gian truân của vợ. Biết rằng đời binh nghiệp vẫn còn dài, nhiệm vụ đang chờ tôi... dẫu sao thì ngay trên đất quê hương mình có đi xa mấy vẫn còn có điều kiện chăm sóc gia đình “khi tối lửa tắt lửa”, thời gian nghỉ không được nhiều, tôi dành hết tâm lực để cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình phụ, mua sắm đồ dùng sinh hoạt cần thiết, rồi đơn vị. Công tác “vợ vận” thuận lợi, vợ tôi tuy còn chút băn khoăn nhưng rồi cũng vui vẻ đồng ý.

Tại Sư đoàn 307 - Quân khu 5

Năm 1990, tôi được điều về giữ chức Quyền Sư đoàn trưởng (5-1990), rồi Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh 307 (18-10-1990). Vào một buổi sáng tháng 5 năm 1990, chiếc U-oát của Văn phòng Bộ Tư lệnh Quân khu đưa tôi rời Đà Nẵng, đến 19 giờ 30 phút mới đến trung tâm sở chỉ huy Sư đoàn ở phía tây núi Phượng Hoàng, thôn Moóc Đen, xã Ia Dôm, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai. Chỉ huy sư đoàn có: Đại tá Nguyễn Văn Thành - Phó Sư đoàn trưởng về Chính trị; Đại tá Võ Thạnh - Phó Sư đoàn trưởng Tham mưu trưởng (sau đó Đại tá Nguyễn Văn Tuấn về thay), Đại tá Văn Viên - Phó Sư đoàn trưởng.

Sư đoàn bộ binh 307 trải qua 10 năm làm nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của bọn Pôn-pốt - Iêng Xa-ri, đã quen với nếp sống trận mạc, lửa đạn, chưa có điều kiện sinh hoạt tập trung, lại về đứng chân ở địa bàn vô cùng phức tạp, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội chưa được củng cố, đời sống kinh tế, văn hóa xã hội của địa phương chưa thoát khỏi cảnh nghèo khó. Đơn vị sau thời gian tham gia chiến trận dài hơi trên đất bạn về đến hậu cứ nảy sinh tư tưởng “xả hơi”, nơi ăn ở, sinh hoạt còn tạm bợ, nếp sống chính quy chưa thống nhất. Trong khi đó đơn vị lại phân tán: Sư đoàn bộ, Trung đoàn 95, Trung đoàn pháo binh 576 và khối trực thuộc đóng quân tại Đức Cơ - Gia Lai; hai trung đoàn 29, 94 lại ở tận Đức Phổ - Quảng Ngãi, đi lại gần 300km. Tất cả những điều đó đặt người chỉ huy trước một bài toán khó, phải giải quyết sao đây để thu phục nhân tâm cán bộ, chiến sĩ, đồng lòng xây dựng đơn vị vững mạnh, chính quy.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2022, 08:07:59 am
Tập trung tạo chuyển biến đơn vị

Đơn vị tổ chức hội nghị thống nhất xác định: Trước mắt phải nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của sư đoàn để bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới phía Tây của Quân khu và sẵn sàng cơ động trên các hướng khi có lệnh. Đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của địa phương và đơn vị bạn, tận dụng thế mạnh tại chỗ quy hoạch, xây dựng doanh trại nhà tạm nhưng vẫn bảo đảm chính quy, đột phá vào khâu quản lý, rèn luyện kỷ luật, lễ tiết tác phong quân nhân, tổ chức cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội, đẩy lùi căn bệnh sốt rét nhất là sốt rét ác tính. Quan hệ mật thiết với cấp ủy, chính quyền, đơn vị bạn, giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, vạch mặt bọn tội phạm, giữ vững chủ quyền an ninh biên giới, địa bàn an toàn. Chọn cơ quan sư đoàn làm điểm đột phá, phát quang đất trống làm nhà ăn tập trung, điểm chiếu video “Quân dân một ý chí”, chỉ đạo các đơn vị xây dựng bếp ăn tập trung, trải thảm xanh xung quanh doanh trại bằng các loại cây ăn quả, vườn rau ao cá. Kết quả nổi bật của bước đột phá này là bếp ăn của cơ quan sư đoàn, Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 95, Tiểu đoàn công binh 15 và Tiểu đoàn quân y 18 luôn dẫn đầu “bếp nuôi quân giỏi - quản lý tốt”.

Tuổi trẻ Trung đoàn 95 kết nghĩa với Trường Tiểu học xã la Dôm, tận dụng gỗ phát rẫy của đồng bào đóng bàn ghế, biển bảng, tủ, giường tặng nhà trường, giúp trường trồng cây, làm cổng chào, đường đi và tường rào, cải thiện cảnh quan môi trường, tạo nên điểm sáng văn hóa trên vùng biên. Trung đoàn pháo binh 576, Tiểu đoàn công binh 15 và Tiểu đoàn thông tin 17 đào giếng nước, làm đường. Tiểu đoàn quân y 18 khám, chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho đồng bào các dân tộc. Các lực lượng khác phối hợp với Công ty 72 - Binh đoàn 15, Đồn Biên phòng 721, Hạt kiểm lâm và Cơ quan Quân sự huyện Đức Cơ tham gia ngăn chặn tệ nạn ăn trộm mủ cao su, nạn đốt phá rừng và buôn lậu qua biên giới, góp phần làm trong sạch địa bàn. Đồng chí Phạm Thế Dũng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đức Cơ nhận xét: “Sư đoàn 307 không chỉ đánh giặc giỏi mà làm công tác dân vận cũng rất hiệu quả...”. Già làng Plin ở làng Nú - xã Ia Nan thì nói: “Bộ đội giỏi lắm, nói đúng và làm được, giúp buôn làng trồng cây lúa, cà phê, cao su và nhiều thứ nữa. Bây giờ đồng bào mình chỉ làm theo Bộ đội Cụ Hồ để cái bụng khỏi đói, cái tai không nghe theo bọn xấu”.

Ngói hóa doanh trại và xây dựng chính quy

Tháng 2 năm 1992, Sư đoàn cơ động về huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi tiếp thu doanh trại gồm toàn nhà tranh vách đất của đơn vị bạn để lại. Trừ một số nhà chỉ huy của hai trung đoàn 29, 94 và sở chỉ huy Sư đoàn, còn lại rơi vào cảnh “màn trời chiếu đất”, nơi làm việc chẳng có gì, đường đi lại lầy lội, tin tức qua vô tuyến truyền hình cũng không...

Đảng ủy Sư đoàn kịp thời ra nghị quyết chuyên đề xác định từ năm 1990 đến năm 1992 phải cơ bản ổn định nơi ăn ở, làm việc để xây dựng nền nếp chính quy. Trước hết phải tạo chuyển biến tư tưởng đối với đội ngũ cán bộ từ cơ sở đến cơ quan sư đoàn về lề lối, tác phong làm việc, sinh hoạt, thực hiện ăn bếp tập trung, quy hoạch xây dựng doanh trại theo hướng ngói hóa. Lấy cơ quan Sư đoàn bộ và Trung đoàn 95 làm điểm, chỉ đạo chung cho toàn đơn vị. Chỉ trong một tháng phát động “toàn sư đoàn hành động theo điều lệnh”, “cả đơn vị là một công trường”, bắt tay vào đào ao thả cá, lấy đất làm gạch, đắp và nâng cấp đường đi lại, bạt núi lắp đặt trạm Pa-ra-bôn thu sóng truyền hình, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, tạo cảnh quan môi trường, phát triển chăn nuôi, trồng trọt cải thiện đời sống bộ đội, chương trình 11 điểm “Quân với dân một ý chí” giữa Sư đoàn với ba huyện: Đức Phổ, Mộ Đức, Ba Tơ (Quảng Ngãi) đã đi vào hoạt động. Gạch của Đại đội 23, Trung đoàn 29, Trung đoàn 94 ra lò, gỗ do Tiểu đoàn công binh 15 chế biến được ưu tiên để ngói hóa Trung đoàn 95. Những ngôi nhà mái ngói tuy chưa được bề thế lắm nhưng đã tạo nên diện mạo của một doanh trại chính quy soi bóng bên dòng sông Trà Câu (Phổ Phong - Đức Phổ - Quảng Ngãi). Trung tướng Đào Đình Luyện, Tổng Tham mưu trưởng khi đến thăm đã có lời khen ngợi.

Đơn vị đang đi vào hoạt động có nền nếp thì tình hình Tây Nguyên có sự biến động: Bọn FULRO cấu kết với bọn phản động người Việt Nam lưu vong từ Thái Lan và phỉ Lào thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ để đẩy mạnh hoạt động ở các tỉnh Tây Nguyên mà trọng tâm là tỉnh Đắk Lắk.

Nhận rõ ý nghĩa Tây Nguyên là vị trí chiến lược hết sức quan trọng của Quân khu 5 nói riêng và cả nước nói chung, bởi qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Tây Nguyên là “mái nhà chung” của Việt Nam - Campuchia - Lào, có những huyết mạch giao thông và cửa khẩu hết sức hiểm yếu như Bến Héc, Ngã ba Đông Dương, cửa khẩu Lệ Thanh đường 19 sang Campuchia và Bờ Y đường 14 qua Lào...

Bộ Tư lệnh Quân khu mà trực tiếp là Tư lệnh Phan Hoan giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 307 và cơ quan Quân khu do đồng chí Võ Củng - Phó Trưởng phòng Tác chiến cùng cán bộ Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu lên Đắk Lắk nghiên cứu tình hình từ tuyến biên giới vào nội địa. Cuối cùng tôi đề xuất đưa Trung đoàn 95 lên đứng chân tại huyện Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Kế hoạch di chuyển và vị trí đóng quân vào mùa khô thiếu nước nên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chơn phê chuẩn cơ động lần lượt trước hết là Tiểu đoàn bộ binh 3 và một bộ phận cơ quan trung đoàn do sư đoàn trực tiếp chỉ đạo lên triển khai ở vị trí đóng quân mới. Trong năm 1992 và sau đó đến Tiểu đoàn 2, trung đoàn bộ, khối trực thuộc, cuối cùng là Tiểu đoàn 1.

Từ khi có Trung đoàn 95 đứng chân đã góp phần làm cho tình hình an ninh chính trị trong khu vực dần ổn định, kinh tế khởi sắc, cấp ủy chính quyền và đồng bào các dân tộc yên tâm xây dựng địa phương ngày càng phát triển. Đắk Lắk luôn là tỉnh đạt tỷ trọng kinh tế khá nhất hàng năm của các tỉnh Tây Nguyên (về sau Trung đoàn 95 chuyển về đội hình Sư đoàn 2; Trung đoàn 93 của Sư đoàn 2 chuyển về Sư đoàn 307).

Với sự nỗ lực của bản thân, lại được cấp trên và địa phương hỗ trợ đắc lực, công tác xây dựng đơn vị vững mạnh, chính quy của sư đoàn đã phát triển tốt trong những năm tiếp theo. Qua đó, Đảng ủy, chỉ huy Sư đoàn đã rút ra một bài học kinh nghiệm thiết thực: Khi cán bộ cấp trên gương mẫu, sâu sát; cơ quan có kế hoạch cụ thể, chặt chẽ, sát đúng; cơ sở chấp hành và tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc; quần chúng tin tưởng hăng hái tham gia thì việc dù khó đến mấy cũng thành công. Đây cũng là kỷ niệm sâu sắc của tôi khi được góp sức mình cùng các thế hệ sư đoàn viết tiếp những trang sử hào hùng đánh dấu một bước chuyển mình lớn lao của đơn vị trong quá trình xây dựng và trưởng thành. Trong quãng thời gian gắn bó với sư đoàn, nỗ lực cùng cán bộ, chiến sĩ đưa sư đoàn chuyển biến từng ngày, từng tháng, tự trong lòng mình chất chứa những tình cảm thiết tha, sâu đậm dành cho sư đoàn và mảnh đất đầy gian khó, nhưng rất kiên trung này:

“Chín hai (1992) về với sông Trà
Luyện binh, rèn cán, làm nhà, đào ao
Vật chất chẳng có là bao
Cán binh hợp lực thanh tao tuyệt vời
Chín ba (1993) vật đổi sao dời
Sư đoàn ngói hóa đồng thời chính quy
Pa-ra-pôn xem ti vi
Trong nước, thế giới tin gì cũng hay
Quân - dân ý chí mỗi ngày
Thành chiến lũy thép dựng xây sơn hà
Sông Trà sóng hát, gió ca
Những năm tháng ấy biết bao nghĩa tình...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2022, 08:09:26 am
Công tác tại Bộ Tham mưu Quân khu 5

Trong thời gian từ tháng 3 năm 1993 đến tháng 11 năm 1998, Bộ Tham mưu Quân khu gồm có: Trần Minh Thiệt - Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng, Võ Đình Trí - Chủ nhiệm Chính trị, Nguyễn Đức Liên - Phó Chủ nhiệm Chính trị và tôi - Phó Tham mưu trưởng sau đó bổ sung thêm anh Phạm Đới - Phó Tham mưu trưởng.

Tôi được phân công chỉ đạo công tác huấn luyện và thể dục thể thao nên thường xuyên gần gũi gắn bó mật thiết với đồng chí Dương Bá Quát, Trưởng phòng Quân huấn - Nhà trường. Có thể nói là một cặp “tâm đầu ý hợp” nên công tác huấn luyện, thể thao các năm luôn được Bộ Tư lệnh đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ, cá nhân tôi năm nào cũng được cấp trên khen thưởng, Phòng Quân huấn - Nhà trường liên tục là đơn vị quyết thắng, chi bộ trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị đều tin yêu và mến phục.

Trước hết nói về công tác huấn luyện của lực lượng vũ trang Quân khu luôn được phát huy truyền thống vẻ vang, quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt tư duy mới về quốc phòng, quân sự của Đảng; lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã tập trung nâng cao chất lượng và khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc như: Thường xuyên nghiên cứu những bài học kinh nghiệm và giải pháp lớn đã được rút ra trong tổng kết 20 năm đổi mới huấn luyện. Những nội dung cơ bản của Chỉ thị 16/CT-TM ngày 3 tháng 4 năm 2003 của Tổng Tham mưu trưởng về “Đổi mới công tác huấn luyện, nâng cao chất lượng lên một bước mới”. Từ đó cụ thể hóa những biện pháp cả trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự nói chung và nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu nói riêng. Mỗi năm chất lượng đều được nâng lên một cách khá toàn diện cho cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, từ cán bộ đến phân đội, từ cơ quan Quân khu đến đơn vị cơ sở, cả huấn luyện diễn tập chỉ huy - cơ quan và vận hành cơ chế... góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang Quân khu, đáp ứng yêu cầu chiến tranh bảo vệ Tổ quốc theo tư duy mới về nhiệm vụ quốc phòng, quân sự mà Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) của Đảng đề ra. Vì vậy, những năm qua Quân khu thấy rõ vị trí chiến lược của địa bàn đã tập trung đột phá và yêu cầu vững chắc trong xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, thực sự làm nòng cốt cho cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương giải quyết kịp thời các điểm nóng xảy ra ở Tây Nguyên (năm 2001 và 2004...).

Về quản lý, rèn luyện, kỷ luật và nền nếp chính quy: Với đặc điểm địa lý của Quân khu 5 gồm 11 tỉnh (thành) trong đó có: 7 tỉnh (thành) đồng bằng ven biển có chiều dài bờ biển: 1.152km, 4 tỉnh Tây Nguyên có đường biên giới 761km (Lào 288km, Campuchia 473km); đến ngày 30 tháng 6 năm 2008 có 122 huyện, thị và 1.478 xã, phường và nhiều đảo trong đó có 2 đảo lớn là Hoàng Sa (thành phố Đà Nẵng) và Trường Sa (Khánh Hòa).

Các địa phương và đơn vị chủ lực của quân khu đóng quân hầu hết trên các địa bàn biển, đảo, tuyến biên giới. Trước những tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, những tiêu cực xã hội, Bộ Tư lệnh và cơ quan Quân khu luôn luôn quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất truyền thống của quân đội và của từng đơn vị, trên cơ sở đó tiếp tục nghiên cứu đổi mới nội dung và tổ chức phương pháp giáo dục chính trị, quản lý kỷ luật, tăng cường giáo dục pháp luật cho bộ đội. Đầu tư củng cố, phát triển các thiết chế văn hóa cơ sở vật chất cho hoạt động thể dục thể thao... Nhờ vậy mà tình hình quản lý kỷ luật, duy trì nền nếp sinh hoạt và xây dựng chính quy ngày càng chuyển biến tốt, những năm 1998 nhiều đơn vị không có quân nhân đào ngũ, tỷ lệ đào ngũ của chiến sĩ mới chỉ còn dưới 0,47%, một số lỗi không tái phạm như trộm cắp tài sản công dân, quấy nhiễu dân, sử dụng chất nổ đánh cá. Đặc biệt là ở các đơn vị đủ quân, cán bộ vẫn giữ được phong cách, nền nếp, xây dựng chính quy gắn với môi trường văn hóa phát triển toàn diện và rộng khắp...

Có thể nói tình hình chấp hành kỷ luật đã có bước chuyển biên so với năm 1995, số lượng người vi phạm năm 1996 giảm 1,21% so với tổng quân số, trong đó quân nhân đào bỏ ngũ giảm 1,86%. Tình hình vi phạm kỷ luật của đảng viên năm 1996 giảm 0,4% so với năm 1995. Điều đáng phấn khởi là đầu năm 1996 các Bộ chỉ huy quân sự tỉnh đều đạt và vượt chỉ tiêu tuyển quân, năm 1997 tổ chức chặt chẽ hơn và đạt 100,4% kế hoạch. Riêng quân nhân đào bỏ ngũ đã giảm so với những năm trước... về xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện gắn với tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, đến cuối năm 1996 có 40% lữ, trung đoàn và tương đương, 50% cấp sư đoàn, bộ chỉ huy quân sự tỉnh, cơ quan Quân khu đạt vững mạnh toàn diện. Ngày 3 tháng 4 năm 1996, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký quyết định bổ nhiệm tôi làm Phó Trưởng ban quản lý dự án Khu công nghiệp Dung Quất.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2022, 08:10:53 am
Rèn luyện thể lực hoạt động thể thao trong giai đoạn này có những chuyển biến khá vững chắc, thể thao thành tích cao đều giữ hạng qua các mùa giải, các môn thể thao truyền thống đạt thứ hạng cao. Đặc biệt các lần đại hội thể dục thể thao quốc phòng và hội thao thể thao quân sự do Bộ tổ chức các năm 1994, 1997 Quân khu đểu đoạt giải Nhất toàn đoàn. Phong trào “Sáng thể dục, chiều thể thao, tối cất cao tiếng hát...” đã đi vào tiềm thức mỗi quân nhân ở mọi lứa tuổi, nhằm rèn luyện tăng cường thể lực, sức dẻo dai, nhanh nhẹn, đời sống tinh thần phong phú, góp phần nâng cao chất lượng và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang Quân khu...

Về diễn tập vận hành cơ chế tác chiến khu vực phòng thủ theo Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị ở tỉnh, thành và diễn tập chỉ huy - cơ quan có hoặc không có thực binh, bắn đạn thật, sử dụng đạn hơi thuốc nổ của mỗi giai đoạn, mỗi nhiệm kỳ theo phân cấp hàng năm Quân khu đều tập trung chỉ đạo: về tư duy quân sự, với người chỉ huy không chỉ dừng lại ở vai trò chỉ đạo và điều hành cơ quan thực hiện theo chức trách, mà cần phải có một năng lực thực hành thành thục. Được hội tụ tư duy độc lập và tính quyết đoán cao khi hạ quyết tâm của mỗi cấp.

Đối với tỉnh (thành), phải nắm chắc lý luận cơ bản trong đường lối quân sự, nghệ thuật quân sự của Đảng và cách đánh của quân đội. Hiểu sâu sắc chức năng quản lý nhà nước về quốc phòng, gắn tình hình qua mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể và mỗi thế hệ của từng địa phương. Từ đó làm tham mưu đúng, trúng cho cấp ủy, chính quyền trong thế trận phòng thủ ngay trong thời bình và cũng là chuẩn bị trước để khi huy động tiềm lực kinh tế quốc dân, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân tạo thành sức mạnh tổng hợp khi có chiến tranh xảy ra trên địa bàn của tỉnh (thành) để đánh thắng mọi kẻ thù bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và trật tự an toàn tại địa phương chi viện cho địa phương khác khi có yêu cầu.

Đối với các đơn vị chủ lực cơ động của Quân khu, Bộ Tư lệnh giao cho tôi và Phòng Quân huấn - Nhà trường phải bám sát và đặt ra yêu cầu cao cho việc nâng cao cường độ luyện tập sức bền bỉ dẻo dai, hành quân xa, mang vác nặng qua các loại địa hình thời tiết khác nhau; huấn luyện cho bộ đội sử dụng thành thạo các loại súng được trang bị, biết tác chiến cả địa hình đồng bằng, đô thị, ven biển đảo và rừng núi... Riêng cán bộ chỉ huy phải nắm vững nguyên tắc, cách đánh các loại hình chiến đấu của quân đội ta, biết nhận định đánh giá chính xác về âm mưu thủ đoạn của đối tượng tác chiến trực tiếp hoặc cơ động từ xa đến để từ đó mà quyết đoán khi hạ quyết tâm. Sử dụng lực lượng tổ chức chỉ huy chiến đấu buộc địch phải đánh theo cách đánh của ta. Khi tác chiến, đối với người chỉ huy binh chủng hợp thành phải nắm vững tính năng chiến đấu và cách sử dụng các quân, binh chủng khi tác chiến hiệp đồng đúng chủng loại, đúng thời cơ. Điều đó cần phải có bản lĩnh vững vàng quyết tâm chính xác, xử trí khoa học logic cho phù hợp với tình huống, nguyên tắc và thời cơ của tình huống khi sử dụng các quân binh chủng đó (nhất là không quân và hải quân).

Từ việc quán triệt sâu sắc phương châm huấn luyện “cơ bản, thiết thực, vững chắc” đã được cán bộ nhận thức đúng, vận dụng linh hoạt vào mỗi giai đoạn huấn luyện cho các đối tượng trong đó khâu huấn luyện, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ các cấp đặc biệt là cán bộ trực tiếp huấn luyện. Kết quả được thể hiện ngay trong cuộc diễn tập quy mô lớn của Quân khu từ sau ngày đất nước thống nhất, đó là đề mục: “Sư đoàn bộ binh tăng cường đánh địch phòng ngự trong công sự” tại Ninh Hòa, Khánh Hòa năm 1996 với mật danh “CQ-96”. Vừa để phục vụ cho lớp tập huấn cán bộ từ cấp sư đoàn trở lên cho Bộ thực nghiệm, đồng thời cũng đánh giá sự trưởng thành của các lực lượng vũ trang Quân khu.

Kể từ khi nhận được Chỉ thị số 22 ngày 19 tháng 4 năm 1996 của Bộ Tổng Tham mưu, Tư lệnh Quân khu - Trung tướng Phan Hoan giao cho tôi làm Phó Trưởng ban Chỉ đạo thường trực cùng Dương Bá Quát - Trưởng phòng Quân huấn - Nhà trường và các cơ quan chức năng lập kế hoạch khảo sát địa hình báo cáo Bộ, đến ngày 27 tháng 2 năm 1996 Quân khu đã có chỉ thị triển khai cho các đơn vị và cơ quan làm công tác chuẩn bị.

Được sự giúp đỡ trực tiếp của các cơ quan Bộ do Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh - Cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Tổng Tham mưu cùng các cơ quan, các đơn vị quân binh chủng của Bộ vào kiểm tra địa hình xây dựng ý định diễn tập đến tháng 3 năm 1996 là hoàn chỉnh.

Cuối tháng 4 năm 1996, Bộ Tư lệnh Quân khu ủy nhiệm cho tôi cùng đồng chí Quát ra thông qua ý định diễn tập để Bộ phê chuẩn. Hội nghị thông qua ý định do Bộ trưởng Đoàn Khuê chủ trì, các đồng chí: Nguyễn Chơn - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Nguyễn Huy Hiệu - Phó Tổng tham mưu trưởng, thủ trưởng các tổng cục, các đơn vị quân binh chủng và cơ quan chức năng của Bộ tham dự... Điều hạnh phúc nhất trong thời gian làm công tác chuẩn bị huấn luyện của tôi là khi thông qua ý định diễn tập cấp Quân khu mà chỉ trình có một lần được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phê chuẩn ngay.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2022, 08:12:21 am
Tôi và đồng chí Quát về báo cáo kết quả với Bộ Tư lệnh Quân khu và triệu tập ngay các đơn vị, cơ quan để Tư lệnh Quân khu giao nhiệm vụ làm công tác thiết bị thao trường, cơ động lực lượng vào khu vực diễn tập. Điều đáng quan tâm nhất là việc cơ động lực lượng lớn: Sư đoàn bộ binh 2, Trung đoàn pháo binh 368, Trung đoàn công binh 280 từ Gia Lai theo quốc lộ 19 phải vượt qua đèo Mang Giang, An Khê, đèo Cù Mông. Lữ đoàn pháo binh 572, Lữ đoàn phòng không 573, Lữ đoàn công binh 270, Trung đoàn tăng thiết giáp 574 và Trung đoàn thông tin 575 theo quốc lộ 1A. Trong khi phương tiện thiếu, lái xe lâu ngày chưa được bổ túc tay lái “phải học thêm ngoài giờ” đường dài yêu cầu cơ động trong ngày phải vào khu vực triển khai. Tôi và đồng chí Đỗ Quang Dự - Phó Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu và đồng chí trợ lý xe máy Cục Kỹ thuật Quân khu theo sát cuộc hành quân hết đứng đèo An Khê lại đứng đèo Cù Mông cho đến chiếc xe cuối cùng qua khỏi đèo mới về vị trí của ban chỉ đạo và cơ quan “kể cả lúc đi và về”; toàn bộ đội hình hành quân bằng cơ giới đi về đều an toàn người, trang bị và phương tiện.

Điều quan tâm thứ hai là tổ chức thiết bị thao trường, ngoài lực lượng công binh của Quân khu thì bộ binh của Trung đoàn 1, Sư đoàn 2 “đơn vị thực binh” là chủ yếu; từ việc khai thác nguyên vật liệu đào đắp giao thông hào, ụ súng, lô cốt, xe tăng và bố trí các loại hàng rào... theo kiểu trận địa phòng ngự của đối phương mới đạt yêu cầu để thực nghiệm. Trong đó cấu trúc hàng rào và bố trí các loại mìn sao cho đúng mật độ và vững chắc để khi pháo binh ta “mở cửa”. Song, có sự giúp đỡ trực tiếp của Phó Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn Huy Hiệu, Phó Cục trưởng Cục Quân huấn - Nguyễn Hải Như và các anh ở Học viện Kỹ thuật quân sự hướng dẫn chỉ đạo bố trí các loại bia cố định và di động của Liên Xô cũ và phá rào RF-MINI. Trong hơn một tháng dầm mưa dãi nắng làm đi làm lại, bắn thử không biết bao nhiêu lần của bộ binh và công binh kể cả ngày và đêm, cuối cùng trận địa phòng ngự của “địch” cũng đạt được ý định chiến thuật của ta.

Bước vào huấn luyện phân đoạn và tổng hợp hơn một tháng, trước khi phục vụ cho lớp tập huấn tham quan, Trung tướng Tổng Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ đạo bắn thử bằng phương pháp dùng pháo binh mở cửa cho bộ binh và xe tăng...! Trước đó tôi cũng đã mạnh dạn đề xuất với Tổng Tham mưu trưởng về phương pháp này rất ít khả quan vì: Cửa mở cho xe tăng có chính diện là 6m, chiều sâu 30m; cho bộ binh chính diện 3m, chiều sâu 30m mà yêu cầu phải sạch các loại vật cản nhất là các loại mìn chống bộ binh và xe tăng. Nhưng Tổng Tham mưu trưởng vẫn quyết định, cuối cùng khi bắn thử, cọc sắt vẫn còn trên 50cm, mìn bộ binh và chống tăng còn sót lại trên 50% cả trên 2 cửa mở không bảo đảm yêu cầu “nhanh, sạch, đứng hướng”; bởi mật độ pháo binh không đủ dọn sạch các loại mìn và cọc sắt làm hàng rào thì không thể đưa xe tăng và bộ binh vượt qua cửa mở được. Cũng trong lần bắn thử đó một tình huống xảy ra là 2 quả đạn pháo 105mm lệch hướng rơi bên cạnh một đại đội bộ binh nhưng không nổ. Tôi đến, tôi triển khai cho đồng chí Dương Mong - Chủ nhiệm Pháo binh Quân khu tổ chức lực lượng đi tìm nguyên nhân... Nhưng trời tối và không có người, sáng hôm sau mới tổ chức công binh đi tìm thì 2 đầu nổ rơi cách quả đạn 1m nhưng đã thối. Thật hú vía nếu không thì đại đội bộ binh sẽ như thế nào và chắc tôi cũng sẽ lãnh trách nhiệm với Bộ và Quân khu.

Khi thực hành diễn tập, không thực hiện dùng pháo binh mở cửa nữa mà vẫn mở theo truyền thống của quân đội ta là bộc phá liên tục kết hợp với phá rào RF-M1NI, mìn định hướng để quét sạch hàng rào, pháo binh bắn phá hoại, chuyển di không quân chi viện bằng trực thăng vũ trang “2MI-8 của Sư đoàn phòng không 372” để bộ binh mở cửa đánh chiếm đầu cầu cùng xe tăng đột phá thọc sâu đánh vào trung tâm trận địa theo đúng ý định chiến thuật. Kết quả 100% mục tiêu hỏa lực bị diệt, 90% -95 % mục tiêu bộ binh bị hạ, pháo binh bắn thẳng và pháo tăng là hai loại hỏa lực lợi hại tiêu diệt mục tiêu chính xác nhất trong tầm bắn hiệu quả 800 - 1.000m. Riêng pháo 76,2 ly và ĐKZ thì ngắn hơn 300 - 500m, pháo phòng không 37 - 2,57 ly và súng máy phòng không 12,7 ly bắn rơi mục tiêu (tàu lượn, bóng bay) ngay loạt đạn đầu; phóng nổ của dân quân Ninh Hòa, đánh cắt giao thông, bắn máy bay bay thấp của lực lượng vũ trang tỉnh Khánh Hòa đạt hiệu quả cao.

Sau 1 giờ vừa nổ súng tiến công và thu quân nghe nhận xét cuộc diễn tập, Bộ trưởng Đoàn Khuê khen ngợi: “Quân khu chấp hành chỉ thị của Bộ nghiêm túc, công tác chuẩn bị chu đáo, các đơn vị tham gia diễn tập đề cao vai trò trách nhiệm, ý định diễn tập đạt được nguyên tắc sư đoàn bộ binh tăng cường đánh địch trong công sự, bắn đạn thật chính xác an toàn, hoàn thành tốt nhiệm vụ Bộ giao”. Cán bộ tham quan đồng tình cách làm của Bộ và khen ngợi đơn vị thực binh. Riêng tôi trình độ cũng được bổ sung, kinh nghiệm thành công và hạn chế cũng từ đây rút ra nhiều bài học bổ ích...

Đầu năm 1997, công tác chuẩn bị tiến hành tập huấn cán bộ để chuẩn bị bước vào huấn luyện giai đoạn 1. Chúng tôi tiễn đồng chí Trần Minh Thiệt - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng đi thăm chiến trường xưa ở nước bạn Lào, nhưng vì tai nạn máy bay, đồng chí cùng toàn đoàn của ta đã hy sinh. Trong khi đó Hội thi chỉ huy trưởng tỉnh (thành) cứ cuốn hút tôi. Để thực hiện ý định của Bộ Tư lệnh giao, cuộc hội thi cần phải có người tham mưu cho Bộ Tư lệnh để theo dõi từ đầu. Tôi được giao phụ trách, kết quả hội thi viết tiểu luận, hạ quyết tâm xử trí tình huống, trả lời vấn đáp đạt khá, bắn súng K54 bài 1 (nội dung này không tính điểm nhưng kết quả chưa cao). Qua đây giúp cho Quân khu và các thí sinh dự thi bổ sung hoàn chỉnh nội dung chuẩn bị đi dự hội thi ở Bộ vào cuối năm 1997.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2022, 08:15:31 am
Trở lại Tây Nguyên

Tháng 12 năm 1998, tôi được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Quân đoàn 3, trong quyết định ghi rõ “ngày 1 tháng 3 năm 1999 phải có mặt tại đơn vị mới...”.

Tính đến năm 1998, tôi đã trải qua 36 năm quân ngũ, nhiều lần được nhận quyết định bổ nhiệm, điều động và mỗi lần như vậy lại có những nỗi niềm riêng. Nhưng lần này sao nặng nỗi suy tư, thế thái nhân tình. Nhìn lại suốt cuộc trường chinh tôi mới sống được gần gia đình chưa đầy 5 năm. 5 năm ấy cũng là cả một chuỗi dài nhọc nhằn, chắt chiu dành dụm mãi mới ổn định được nếp nhà nhưng đã xuống cấp, ba lần bão là ba lần tốc mái. Nay đóng quân xa nhà 500km, đồng lương có hạn khi ba con đang tuổi ăn học, mẹ già cần được chăm sóc nhiều hơn... nhưng cũng chỉ còn cách động viên gia đình và ký thác lên vai người vợ hiền, người đồng chí Lê Hồng Thơm để trở về đơn vị mới.

Sáng ngày 1 tháng 3 năm 1999, chiếc xe Toyota màu xanh cùng Nguyễn Quang Tuấn chiến sĩ lái xe đã đồng hành cùng tôi những năm tháng Phó Tham mưu trưởng Quân khu. Chào quê hương, chia tay vợ và con, hai anh em đi giữa mùa xuân của đất nước đang đổi mới, cảnh vật và con người dọc quốc lộ 1A, đường 19 mai vàng còn khoe sắc dõi theo khi đến đèo An Khê, tỉnh Gia Lai bỗng nhiên mây trời bồng bềnh như vẫy gọi, tôi nhớ mẹ, nhớ em, nhớ biển biết nhường nào:

         “... Anh lên Tây Nguyên
         Mang theo tình của biển
         Nắng xuân tiễn chân tóc chạm mây trời
         Anh lên Tây Nguyên
         Mang theo tình của mẹ và mang theo tinh em
         Nụ hôn trao ngăn gió biên thùy
         Chiều nhà rông nghe già làng kể chuyện
         Tháng ba con ong đi lấy mật cho đời...”.


Tôi cứ nhẩm, xe cứ chạy theo nhịp xuân giữa đại ngàn mà lòng tôi cứ ngất ngây tận hưởng cái không khí trong lành bình dị đến thiêng liêng...

Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1975 trên cơ sở các Sư đoàn đã có bề dày truyền thống thời kháng chiến chống Pháp như Sư đoàn 320 (Đoàn Đồng bằng)... đã gắn bó với chiến trường Tây Nguyên (Mặt trận B3) mở màn chiến dịch 1975 đột phá Buôn Ma Thuột, truy kích địch trên đường số 7 Cheo Reo, Phú Bổn, thần tốc tham gia chiến dịch giải phóng Đồng Dù, đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ tổng tham mưu ngụy, kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Năm 1978, Quân đoàn tham gia giải phóng Campuchia, cứu dân tộc bạn thoát họa diệt chủng của tập đoàn phản động Pôn-pốt - Iêng Xa-ri, năm 1979 tham gia cuộc chiến tranh “vệ quốc” bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc; nay trở về chiến trường xưa bảo vệ sự bình yên một dãy biên cương các tỉnh Tây Nguyên và phía Bắc miền Đông Nam Bộ.

Thời gian công tác tại Bộ Tư lệnh quân đoàn 3: Thiếu tướng Nguyễn Hữu Hạ - Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Xuân Thanh - Phó Tư lệnh về Chính trị, Đại tá Phạm Xuân Hùng - Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng, Đại tá Vũ Khắc Đua - Phó Tư lệnh. Các anh là những người con của miền Bắc thân yêu đã gắn bó với quân đoàn từ những ngày thành lập. Tôi được phân công đảm nhiệm Phó Tư lệnh phụ trách: phúc tra đăng ký, quản lý huấn luyện quân dự bị động viên, chỉ đạo xây dựng 4 cơ quan quân đoàn, công tác pháp chế, phụ nữ, hoạt động thể dục thể thao và quản lý đất quốc phòng.

Tất cả những nội dung trên đối với tôi không có gì trở ngại, nhưng về đơn vị mới, cán bộ cấp dưới chưa hiểu biết nhau nhiều, nên quá trình làm việc là quá trình tiếp cận để tạo sự đồng thuận cao trong công tác. Điều mà tôi tâm đắc nhất là khi tiếp xúc với cấp ủy, chính quyền các địa phương nơi có vùng động viên của quân đoàn đều chung một nhận xét: “Xây dựng huấn luyện dự bị động viên trong điều kiện hiện nay tuy khó, nhưng Bộ đội Cụ Hồ, bộ độ Binh đoàn Tây Nguyên thì “khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Nhờ sự giúp đỡ tận tình của cấp ủy, chính quyền nhân dân các địa phương và phối hợp chặt chẽ với cơ quan quân sự các cấp nên công tác phúc tra, sắp xếp, quản lý và tổ chức huấn luyện quân dự bị động viên mỗi ngày đi vào nền nếp sát thực tế ở từng địa phương: Năm 1988, đúng chuyên nghiệp quân sự đạt 56,24%, gần đúng đạt 28,85%, tập trung huấn luyện đạt từ 73,33% đến 98% trong mỗi đợt. Năm 1999 tỷ lệ không đúng chuyên nghiệp quân sự của sĩ quan 14,89%, hạ sĩ quan, chiến sĩ 24,64%. Tháng 5 năm 1999, kiểm tra sẵn sàng động viên 1 tiểu đoàn dự bị động viên bộ binh cơ giới tại xã Cát Tân, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định đạt 73,33% đến cuối năm đạt 79%, trong đó Đoàn Lam Hồng với huyện Hoài Nhơn đã làm tốt công tác động viên nên quân số đạt 100% trong một lần kiểm tra đúng vào dịp 22 tháng 12 năm 2000.

Những kết quả đó đã dần “xóa” đi những dư luận không lành mạnh do một số người không nắm chắc về Pháp lệnh Dự bị động viên số 52-L/CTN (29-9-1996) của Chủ tịch nước, hay “mặc cảm” với đơn vị chủ lực của Bộ phải đi xa địa phương nên ngại giao quân hoặc chưa tạo điều kiện thuận lợi trong việc phúc tra quân dự bị động viên. Để rồi từ đó Bộ Tư lệnh Quân đoàn giao tôi chỉ đạo cho các đơn vị cần có sự phối hợp tốt hơn nữa giữa đơn vị với địa phương có nguồn, bằng nhiều biện pháp qua các phương tiện thông tin đại chúng, quy chế sinh hoạt kết hợp với các phong trào hoạt động đoàn thể của từng địa phương; phân công cán bộ nói chuyện truyền thống của quân đoàn, quân đội với truyền thống địa phương kết hợp truyền đạt đưa pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên của Chủ tịch nước, Nghị định của Thủ tướng Chính phủ vào thực tiễn cuộc sống của mỗi công dân, thiết thực xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu ngay trong thời bình “ngụ binh ư nông” góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2022, 08:16:43 am
Từ thực tiễn đó đã góp một phần quan trọng cùng các lực lượng khác đập tan âm mưu chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch trong mọi tình huống. Trong đó có sự kiện năm 2001 ở Gia Lai, Đắk Lắk khi bọn phản động đội lốt Tin lành Đề Ga xúi giục một bộ phận đồng bào thiểu số các dân tộc đi biểu tình gây rối... thì các lực lượng dự bị động viên đã có tác dụng hỗ trợ và làm nòng cốt cho cấp ủy, chính quyền địa phương ngăn chặn và giải quyết các “điểm nóng”. “Trăm nghe không bằng một thấy”, sau các sự kiện đã diễn ra trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung nên từ đó cứ mỗi lần về địa phương động viên và giữ lại huấn luyện, nhân dân lại có phong trào cho bộ đội mượn đất, gom góp nguyên vật liệu ủng hộ đơn vị làm thao trường huấn luyện. Đơn vị nào có diễn tập chiến thuật từ cấp đại đội đến tiểu đoàn có sử dụng đạn hơi thuốc nổ thì hội phụ nữ, đoàn thanh niên địa phương tổ chức đến thăm tặng quà, giúp nuôi quân nấu cơm, đun nước cho bộ đội hành quân “chiến đấu”. Khi khói súng vừa tan, thì lương thực, thực phẩm đã mang đến “cửa mở” cùng bộ đội ăn mừng chiến thắng không khác nào hào khí của một thời ra trận những năm tháng chống Mỹ, cứu nước.

Cũng thời gian này, công tác xây dựng 4 cơ quan quân đoàn đã được quan tâm đúng mức. Nhất là công tác rèn luyện thể lực, hoạt động thể thao được đẩy mạnh và rộng khắp. Tôi nhớ mãi tâm sự của đồng chí Trần Đình Hạng – Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn lúc bấy giờ: “Muốn chơi bóng bàn mà chưa có chỗ để chơi...”; chị em phụ nữ cũng phàn nàn: “Hết giờ làm việc, chúng em lại về nhà...”. Biết vậy, nhưng không có kinh phí để xây dựng các công trình thể thao đã là khó, và tìm người đứng ra tổ chức lại càng khó hơn. Tôi trao đổi với các anh trong Bộ Tư lệnh rồi về gặp Bộ Tư lệnh Quân khu 5 xin hỗ trợ 50 tấn xi măng, sử dụng công sức của Công ty Lam Sơn và huy động ngày nghỉ của 4 cơ quan làm được 1 nhà cầu lông và nâng cấp 2 nhà bóng bàn rồi tiếp đến xây dựng 1 sân quần vợt... Cứ vào ngày 26 tháng 3 hàng năm, lấy đó để tổ chức giải truyền thống cho 4 cơ quan và mở rộng các đơn vị trong vùng, từ đó phong trào thể dục thể thao luôn sôi nổi góp phần đẩy lùi tệ nạn “say rượu” vi phạm kỷ luật và giảm cả tai nạn giao thông.

Song song với rèn luyện thể lực hoạt động thể thao, một vấn đề đặt ra là tạo điều kiện cho hội phụ nữ của Quân đoàn đẩy mạnh các hoạt động, trong đó có các cuộc gặp gỡ giao lưu. Thể theo nguyện vọng của chị em, năm 2000 nhân ngày mùng 8 tháng 3, tôi chủ trì việc tổ chức hội thi: “Tiếng hát ru và dân ca, nấu ăn, cắm hoa” và thăm danh lam thắng cảnh của Tây Nguyên để chị em học hỏi kinh nghiệm chuyên môn, cách nuôi dạy con cái và xây dựng hạnh phúc gia đình... Dư âm những thành công của hội phụ nữ lan tỏa nhanh và ngày càng được sự quan tâm của cấp ủy và người chỉ huy các cấp. Cứ đến ngày mùng 8 tháng 3 và 26 tháng 3 hàng năm mà phụ nữ và đoàn thanh niên chưa có kế hoạch hoạt động liền “bị” chỉ huy nhắc nhở rồi tạo kinh phí để duy trì phát triển ngày thêm đa dạng và phong phú hơn.

Về công tác xây dựng địa bàn và giải quyết thu hồi đất quốc phòng trong khu vực đóng quân của quân đoàn. Từ khi trở lại mảnh đất Tây Nguyên nơi mà đồng bào các dân tộc đã từng nhương cơm sẻ áo, che giấu nuôi dưỡng bộ đội trong kháng chiến, vừa cưu mang đùm bọc trong những ngày cơ động từ miền Bắc vào để xây dựng doanh trại, do đó Quân đoàn xác định: “... Quân đoàn có đứng vững và phát triển được hay không vấn đề cốt lõi là phải dựa vào dân, thắt chặt mối quan hệ đoàn kết giữa đơn vị với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc địa phương tích cực tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng an ninh trên địa bàn vững chắc...”.

Quán triệt chủ trương đó, từ những năm vào Tây Nguyên cho đến năm 2000, các đơn vị trong quân đoàn đã tổ chức kết nghĩa với 1 cơ quan quân sự cấp tỉnh, 2 huyện, 28 xã phường..., phối hợp hoạt động với 51 tổ chức quần chúng và 15 trường học, tổ chức gần 300 đội công tác dân vận đến các xã có “điểm nóng” thực hiện 4 cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc, để tuyên truyền vận động nhân dân không nghe không tin kẻ xấu, phát hiện bọn cầm đầu chống phá cách mạng để trừng trị, cảm hóa giáo dục hàng trăm người lầm đường lạc lối nghe theo kẻ xấu hoặc vượt biên trái phép trở về đoàn tụ với gia đình làm ăn lương thiện. Đồng thời, qua nắm tình hình tại cơ sở cấp ủy, chính quyền tại địa phương đã cung cấp cho đơn vị một số cán bộ (xã phường và thành phố) lợi dụng chức vụ quyền hạn che giấu một số hộ lấn chiếm đất quốc phòng của đơn vị. Những thông tin đó giúp đơn vị kịp thời xác minh vận động và đấu tranh lấy lại hàng chục hecta đất bị chiếm dụng trái phép, góp phần ổn định tình hình xây dựng mối quan hệ đoàn kết Kinh - Thượng, đoàn kết quân dân cùng tham gia vận động quần chúng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ mục tiêu vành đai an toàn nơi đơn vị đóng quân. Xây dựng lòng tin vững chắc đối với cấp ủy, chính quyền và trận địa lòng dân góp phần xây dựng cơ sở xã phường và địa bàn vững mạnh trong sạch hoàn thành tốt chức năng quản lý nhà nước tại địa phương trong mọi tình huống.

Trong thời gian công tác tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) trong Đại hội đại biểu Đảng bộ nhiệm kỳ (2000 - 2005), tôi được bầu vào Đảng ủy Quân đoàn và được tặng các huy chương: Vì sự nghiệp kiểm tra Đảng, vì sự nghiệp công tác dân vận và vì thế hệ trẻ... Những phần thưởng đó đã động viên tôi tiếp tục cống hiến để xây dựng quân đội nói chung và địa bàn Tây Nguyên nói riêng. Đầu năm 2003, cả Tây Nguyên rộn ràng trong “mùa con ong đi lấy mật, mùa em đi phát rẫy làm nương” cũng là lúc tôi lưu luyến chia tay Quân đoàn 3 để về Hà Nội nhận công tác mới.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 03:53:50 pm
Trở lại Bộ Tư lệnh Quân khu 5

Ngày 1 tháng 3 năm 2006 tôi vào Bộ Tư lệnh Quân khu, nhận nhiệm vụ. Thời gian này Bộ Tư lệnh gồm các đồng chí: Huỳnh Ngọc Sơn - Tư lệnh, Nguyễn Văn Thảng - Chính ủy, Nguyễn Văn Tuyên - Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng, Nguyễn Thành Đức - Phó Chính ủy, Trần Công Thức - Phó Tư lệnh, Võ Tiến Trung - Phó Tư lệnh, Rơ-ô-cheo - Phó Tư lệnh (đang học ở Học viện Quốc phòng).

Sau khi gặp gỡ với đồng chí Chính ủy và Tư lệnh, nghe các anh thẳng thắn trao đổi một số vấn đề cần lưu ý trên cương vị mới, tôi được anh Huỳnh Ngọc Sơn phân công theo dõi giúp đỡ công tác huấn luyện và sinh hoạt Đảng tại Phòng Quân huấn - Nhà trường, đây vốn là sở trường của tôi; phụ trách 4 cơ quan Quân khu, theo dõi chỉ đạo bộ đội biên phòng - Trưởng ban chỉ đạo phân giới cắm mốc, Trưởng ban phòng chống lụt bão tìm kiếm cứu nạn... Đến năm 2007, làm Chỉ huy trưởng Tiền phương tại Tây Nguyên; đó là những việc phân công cụ thể, còn tùy theo yêu cầu tình hình Tư lệnh sẽ có những điều chỉnh cho phù hợp. Đến đầu năm 2008, làm Trưởng ban chỉ đạo xây dựng đơn vị, cơ quan vững mạnh toàn diện (Cục Kỹ thuật quân khu, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Gia Lai), Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu các đề tài cải tiến súng đạn do các cơ sở công nghiệp quốc phòng của các địa phương trong Quân khu sản xuất; và là Trưởng ban chỉ đạo xây dựng đường tuần tra biên giới và đường Trường Sơn Đông...

Cuối năm 2006, khi đang tập trung chỉ đạo công tác huấn luyện và diễn tập các đơn vị chủ lực và Bộ Chỉ huy quân sự các tỉnh Tây Nguyên vận động quần chúng truy quét FULRO thì Bộ Tư lệnh gọi tôi về để chỉ đạo phòng chống lụt bão tại các tỉnh đồng bằng. Ngày 5 tháng 10 năm 2006, cơn bão số 6 (Xangsane) đổ bộ vào Đà Nẵng, đó là một cơn bão có sức tàn phá cực lớn, sức gió lên đến cấp 14, 15, đúng vào hôm tôi trực chỉ huy đã kịp thời dùng xe thiết giáp DM-2 cùng cơ quan băng qua mưa bão đến các địa bàn giúp nhân dân phòng chống, khắc phục hậu quả cơn bão, ở quận Ngũ Hành Sơn. Sau khi vật lộn cùng gió to, bão lớn đã cứu sống 3 người dân trong một gia đình (hai vợ chồng và một người con) ở phường Hòa Hải; tiếp tục qua Cẩm Lệ, Hòa Vang chỉ đạo các lực lượng vũ trang cùng nhân dân khẩn trương di dời nhân dân ra khỏi vùng nguy hiểm. Sau đó, tôi lên Đại Lộc, xuống Hội An qua Điện Bàn kiểm tra chỉ đạo bộ đội nhanh chóng khắc phục hậu quả khi bão đã đi qua. Với thành tích đó, cuối năm 2006 tôi được Bộ Quốc phòng tặng bằng khen “đạt thành tích xuất sắc trong nhiệm vụ phòng chống và khắc phục hậu quả trong cơn bão số 6” (qua 5 cơn bão, 7 đợt áp thấp nhiệt đới, 9 đợt lũ lớn, 22 cơn tố lốc. Đặc biệt là bão số 1, số 6 năm 2006; số 9, số 11 năm 2009, đã làm chết, mất tích 917 người dân, bị thương 1.824 người dân, sụp 28.000 ngôi nhà, tốc mái hư hỏng trên 56 vạn nhà, chìm và hỏng 1.300 tàu, hư hại hàng vạn hécta lúa, hoa màu nuôi trồng thủy sản... Tổng thiệt hại của nhân dân ước tính 25.000 tỷ đồng, thiệt hại của lực lượng vũ trang Quân khu trên 111.955 triệu đồng.

Đầu năm 2007, tôi được cấp trên phân công làm Chỉ huy trưởng sở chỉ huy Tiền phương Quân khu tại thành phố Plei Ku - Gia Lai. Nhiệm vụ của sở chỉ huy tiền phương là củng cố xây dựng nền nếp làm việc, xây dựng chính quy, môi trường văn hóa, tăng gia, chăn nuôi tập trung để nâng cao đời sống cho đơn vị; cùng các Bộ Chỉ huy quân sự Biên phòng các tỉnh Tây Nguyên tăng cường kiểm tra và nâng cao chất lượng, công tác của các đội công tác 123, huấn luyện tác chiến phòng thủ bảo vệ đồn, hoạt động phối hợp giữa ba lực lượng: bộ đội, biên phòng, dân quân tự vệ về phương pháp vận động quần chúng, xây dựng cơ sở xã, phường tuyến biên giới, chống xâm nhập và vượt biên trái phép của một số đồng bào dân tộc thiểu số “nhẹ dạ cả tin” nghe theo kẻ xấu, làm mất ổn định vành đai an toàn dọc tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia - Lào, ngăn chặn có hiệu quả việc truyền đạo Tin lành Đề Ga trái phép, truy tìm bóc gỡ Fulrô hoạt động ngầm chống đối sự bình yên của buôn làng, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới. Đây cũng là năm mà tôi ở lại xã Ia Chia, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai đón xuân cùng với đồng bào các dân tộc (từ 11-4 đến 15-4-2008 FULRO lưu vong chỉ đạo cốt cán các buôn, làng lôi kéo một số đồng bào các dân tộc thiểu số lên Ủy ban nhân dân xã gây rối, biểu tình 35 buôn làng trên địa bàn 19 xã, 9 huyện của 3 tỉnh: Gia Lai: 6 huyện, 15 xã, 25 buôn làng. Đắk Lắk: 2 huyện, 3 xã, 6 buôn. Phú Yên: 1 huyện, 1 xã, 1 buôn với trên 1.000 người dân tham gia. Dân di cư tự do vào địa bàn Tây Nguyên từ 2006 - 2009 trên 2.248 hộ với 10.059 khẩu “Đắk Lắk: 1.099 hộ, 5.497 khẩu, Đắk Nông: 1.144 hộ, 4.562 khẩu”.

Năm 2008, tôi trở lại đồng bằng chỉ đạo công tác huấn luyện diễn tập cho các lực lượng vũ trang Quân khu, trong đó có Sư đoàn 307 nhận huấn luyện và giữ lại diễn tập có bắn đạn thật cho một tiểu đoàn bộ binh thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ngãi đạt loại giỏi, bảo đảm an toàn. Những ngày đầu tháng 3, tôi chỉ đạo tổ chức 4 cơ quan Quân khu xây dựng cơ quan vững mạnh toàn diện. Trước thực trạng tai nạn giao thông ngày càng gia tăng, việc bảo đảm an toàn khi tham gia giao thông bằng xe máy cho cán bộ, nhân viên là một yêu cầu bức thiết, đặc biệt khi mà quy định về đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông vừa được ban hành, nhân ngày 8 tháng 3, tôi trực tiếp phát động toàn cơ quan Quân khu đội mũ bảo hiểm, chiếc mũ màu xanh quân phục có logo Quân khu 5 kèm lời nhắc nhở “an toàn cho bạn” vừa chính quy thống nhất, được các cấp đồng tình hưởng ứng. Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam - Nguyễn Khắc Nghiên biểu dương lực lượng vũ trang Quân khu đi đầu trong lĩnh vực này.

Ngày tháng trôi qua, công việc vẫn tiến triển đều đặn, cho đến ngày 3 tháng 2 năm 2009, tôi được nhận huy hiệu 40 năm tuổi Đảng và một tháng sau nhận Quyết định 198/QĐ-TT ngày 10 tháng 2 năm 2009 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phùng Quang Thanh trao quyết định nâng lương Thiếu tướng (từ hộ số 8,60 lên 9,20). Tuổi quân của tôi theo quy định của Luật Nghĩa vụ quân sự (miền Bắc) thì 18 tuổi mới được nhập ngũ, còn (miền Nam) thì 16 tuổi được tính tuổi quân. Nhưng tôi tham gia cách mạng từ tháng 10 năm 1962 (12 tuổi) và tháng 3 năm 1963 (13 tuổi) vào bộ đội. Như vậy thời gian tham gia cách mạng là 47 năm, 5 tháng. Tuổi quân thì tính đủ 45 năm (3.1965 - 3.2010). Thêm một tuổi quân cũng quan trọng, nhưng điều hạnh phúc hơn là tôi đã được thỏa chí làm trai, được đóng góp công sức cho quê hương, đất nước, cuộc đời vẫn thanh thản: Đi đâu rồi cũng phải về/Giữ tròn khí tiết tình quê tình đời...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 03:54:32 pm
Trở về quê mẹ

Đi bao nơi rồi cũng trở về với vùng biển thân thuộc quê mình, nơi đó có một miền trời nước bao la, cảnh đẹp nên thơ, kỷ niệm thủa thiếu thời của mảnh đất Hà Quảng, với những con người “ăn sóng nói gió” hào phóng như biển trời và những gì thân thiết khổ đau mãi khắc sâu trong tâm tưởng đã nuôi dưỡng tố chất trong tôi. Song cái để lại trong tôi hơn 40 năm xa nhà đi chiến đấu giải phóng quê hương, bảo vệ Tổ quốc cũng là bảo vệ cho quê hương được yên ấm thanh bình để hôm nay trở lại nơi chôn nhau cắt rốn tôi không thể giấu nỗi xúc động từ trong tâm khảm của mình với quê hương:

Điện Dương yêu thương

Về Hà My bồi hồi con sóng vỗ
Vào Hà Gia thương cây lúa lên đòng
Sông Cổ Cò ngày đêm thao thức
Phù sa bồi đắp những cánh đồng
Ra Hà Quảng,
Qua Cồn Chờ, Dốc Đó
Năm tháng giặc, dồn một tấc không đi
Chuyện còn đó anh hùng thời đánh Mỹ
Bao kẻ thù vùi xác nơi đây
Diệt cơ giới Hồ Văn Biển (Nguyễn Cây)
Lê Ngọc Giá trung kiên xây cơ sở
Cho quê mình đổi mới hôm nay
Điện Dương ơi! Long lanh bờ cát mịn
Hàng dương xanh con sóng vỗ bờ
Thuyền ra khơi ngư trường làm chủ
Đánh bắt xa bờ đầy ắp cá, tôm
Dọc đường 6, khách sạn, sân gôn
Khu sinh thái, nhà hàng, làng cá
Mùa trăng lên đón bè bạn gần, xa
Vào Hội An gặp sông Hoài, cửa Đại
Xuôi sông Hàn cùng Đà Nẵng vươn xa
Điện Dương, Điện Dương ơi!
Bao biến cố thăng trầm lịch sử
Biển một bên, sông một bên
Chặn Bắc mùa đông, ngăn Nam mùa hạ
Ký ức cuộc đời chảy dọc biển Đông
Điện Dương ơi!
Mẹ cha đã hóa thân vào cát
Ngàn đời sóng hát với thời gian
Về Hà My ngắm Cù Lao Chàm lộng gió
Biển nước, mây trời bỗng hóa thành thơ
Chùm hoa lông chông đuổi bắt dưới trời Nam
Hàng dương xanh ôm ấp đất vào lòng
Như tình ta đẹp mãi trăng rằm
Điện Dương, Điện Dương ơi!
Con yêu người mãi mãi
Sóng vỗ bờ
Thuyền rẽ sóng ra khơi.


Điện Dương, tháng 3.1963 - 3.2010


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 03:56:14 pm
Ngẫm cuộc đời

Tôi sinh năm Canh Dần 1950, trải qua thuở thiếu thời lận đận long đong, việc học hành chưa trọn. Tôi đã sớm giác ngộ cách mạng và cầm súng đánh giặc ở tuổi 12 (1962) và được nhập vào Đội công tác binh địch vận Đ64 lúc 13 tuổi (1963). Ở vào tuổi ăn, tuổi chơi nhưng tôi đã được biên chế vào Tiểu đoàn 1 - R20 Quảng Đà (1965) đến ngày 19 tháng 5 năm 1965, tiểu đoàn được thành lập tại thôn Giáng Hòa, xã Đại Thắng, huyện Đại Lộc. Ngày 28 tháng 5 năm 1965, tiểu đoàn đánh thắng trận đầu tại thôn Văn Quật, xã Xuyên Tân, huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Đà.

Là chiến sĩ liên lạc của đại đội, trên đường chạy công văn xuống các khẩu đội đang chiến đấu, khi thấy quân địch xông vào trận địa cối của đơn vị khi đó quân số tổn thất quá nhiều, tôi đã cùng các anh khẩu đội cối 81 ly của Trà Thanh Lân kiên quyết đánh trả quân địch cho đến khi trận đánh kết thúc mới trở về đại đội. Sau trận tổng kết chiến đấu, tôi được tặng danh hiệu Dũng sĩ quyết thắng, rồi biên chế về làm xạ thủ đại liên, súng phòng không 12,7 ly và lần lượt được bổ nhiệm Tiểu đội bậc phó, Tiểu đội bậc trưởng, chiến đấu ngay trên quê hương yêu dấu của mình.

Đến tháng 12 năm 1966, được sự quan tâm của Đảng, quân đội và nhờ phúc ấm của tổ tiên, tôi được ra miền Bắc vừa học văn hóa, vừa an dưỡng, vừa học Trường Sĩ quan Lục quân với tâm nguyện được trở về chiến đấu giải phóng quê hương.

Ngày 5 tháng 1 năm 1968, ra trường về giữ chức vụ trợ lý tuyên huấn trung đoàn, đại đội phó, quyền đại đội trưởng - Tiểu đoàn 445 Trung đoàn 3 Sư đoàn 320b Quân khu Hữu Ngạn, rồi trợ lý tác huấn Trung đoàn 95 sư đoàn 325 Mặt trận B5 và được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam ngày 15 tháng 5 năm 1968, chính thức ngày 15 tháng 2 năm 1969 lúc mới tròn 18 tuổi. Từ tháng 6 năm 1968 đến tháng 4 năm 1970, huấn luyện quân tăng cường vào Tây Nguyên đến tháng 5 năm 1971 làm trợ lý tác huấn trung đoàn. Từ tháng 5 năm 1971 đến tháng 4 năm 1976, tôi được bổ nhiệm các chức vụ: Tiểu đoàn phó 1, Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn phó Trung đoàn 95, Sư đoàn 325. Chiến đấu hàng trăm trận với các hình thức chiến thuật ở Mặt trận B5, “mùa hè đỏ lửa” ở Quảng Trị, đặc biệt 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972, rồi cùng đoàn cán bộ của Quân đoàn 2 về tham gia tác chiến phòng ngự ở Thượng Đức - Quảng Đà (1974). Tôi cùng đồng đội lập nhiều thành tích xuất sắc được tặng thưởng huân chương và các danh hiệu dũng sĩ, chiến sĩ thi đua. Đặc biệt là vào ngày 20 tháng 12 năm 1973 Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 95, Sư đoàn 325, Mặt trận B5, do tôi làm Tiểu đoàn trưởng được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ngay trên chiến trường Quảng Trị vừa giải phóng.

Năm 1976 - 1977, học tại Học viện Lục quân, ra trường tiếp tục giữ chức Phó Trung đoàn trưởng Trung đoàn 95, đến năm 1980 giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 18, Sư đoàn 325 Quân đoàn 2.

Đất nước hòa bình chưa được nguôi yên, biên giới Tây Nam rền súng giặc. Từ tháng 12 năm 1978 đến đầu năm 1979 tôi cùng Trung đoàn 95 tham gia giải phóng Campuchia. Tháng 3 năm 1979, tôi lại cùng Trung đoàn 95 và Trung đoàn 18 chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc ở phía Bắc cho đến những năm 1982.

Tháng 3 năm 1983 đến tháng 7 năm 1985, tôi được đi đào tạo cán bộ chỉ huy tham mưu chiến dịch - chiến lược tại Học viện Quân sự Cao cấp (nay là Học viện Quốc phòng).

Tháng 9 năm 1985 đến tháng 2 năm 1989, về giữ chức Phó Sư đoàn trưởng - Tham mưu trưởng rồi Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh 2 - Quân khu 5 lúc mới 35 tuổi và được phong quân hàm đại tá ba sao (tháng 12 năm 1987). Từ tháng 9 năm 1985 đến tháng 2 năm 1989, chỉ huy sư đoàn chiến đấu giúp bạn tại Đông Bắc Campuchia và chiến đấu truy quét bọn phỉ và FULRO ở Nam Lào.

Tháng 3 năm 1989 đến tháng 3 năm 1990, tôi được đi học ngoại ngữ tại Học viện Kỹ thuật Quân sự ở Vĩnh Yên rồi sang học dự khóa tại trường Vôlôxilốp (Liên Xô cũ); tháng 4 năm 1990 đến tháng 2 năm 1993, giữ chức Quyền Sư đoàn trưởng rồi Sư đoàn trưởng Sư đoàn 307 Quân khu 5. Sau 10 năm chiến đấu ở nước bạn Campuchia về tiếp tục chiến đấu truy quét FULRO bảo vệ biên cương của Tổ quốc trên cửa khẩu 19-Đức Cơ, Gia Lai và cả vùng đất rộng lớn Tây Nguyên. Chủ quyền an ninh biên giới bình yên, sư đoàn cơ động về đứng chân tại Đức Phổ, Quảng Ngãi làm lực lượng cơ động cho Quân khu trên các hướng phòng thủ.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 03:58:29 pm
Tháng 3 năm 1993 đến tháng 11 năm 1998, tôi về lâm thời rồi giữ chức Phó Tham mưu trưởng Quân khu 5, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Bộ Tham mưu Quân khu, Đảng ủy viên Quân khu nhiệm kỳ 1995 - 2000.

Tháng 12 năm 1998 đến tháng 2 năm 2003, tôi là Phó Tư lệnh Quân đoàn 3, Đảng ủy viên Quân đoàn nhiệm kỳ 2000 - 2005.

Tháng 3 năm 2003 đến tháng 3 năm 2004, tôi giữ chức Phó Cục trưởng Cục Quân huấn, đến tháng 5 năm 2004, giữ chức Cục trưởng, Bí thư Đảng ủy Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu, Ủy viên Hội đồng khoa học, Ủy viên Hội đồng Thi đua Bộ Quốc phòng.

Tháng 3 năm 2006, tôi được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm giữ chức Phó Tư lệnh Quân khu 5, Đảng ủy viên Quân khu nhiệm kỳ 2005 - 2010.

Với 59 tuổi đời (tính thời điểm thông báo nghỉ chuẩn bị hưu tháng 2 năm 2009) cái tuổi mà ở quê nhà đã được gọi là lão, có 47 năm 5 tháng tham gia cách mạng, 45 năm quân ngũ (theo quyết định nghỉ hưu tuổi quân tính từ 16 tuổi), hơn 40 năm tuổi Đảng. Trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau kể cả chức vụ chính quyền hay cương vị về Đáng, nhờ cái tâm, cái đức mà tổ tiên để lại và được học tập, rèn luyện trong quân ngũ mà tôi đã kiên trì phấn đấu vươn lên không biết mệt mỏi và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Quân đội giao phó. Trải qua nhiều chiến trường ác liệt, bằng trí thông minh và lòng dũng cảm, tôi đã cùng đồng đội chiến đấu trên khắp các chiến trường: Mặt trận Quảng Đà, Quảng Trị, Tây Nguyên, Campuchia, Nam Lào... đã cùng toàn dân, toàn quân thần tốc, táo bạo quyết thắng, đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch ở Sài Gòn - Gia Định giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Giúp bạn là tự giúp mình”.

Bước chân tôi, từ trong tăm tối biết “rũ bùn đứng dậy” cùng số phận của quê hương, dân tộc mà gần trọn cuộc đời của tôi đã qua những chặng hành quân, chiến đấu từ miền sông Thu quê hương đến sông Thạch Hãn, Thành cổ Quảng Trị vào sông Hậu, sông Tiền đến Mê Kông, rồi quay ra sông Kỳ Cùng biên giới phía Bắc hay đến miền đất đỏ bazan Tây Nguyên đầy nắng và gió, qua tận những thảo nguyên nước Nga xa xôi, biết bao những tấm lòng nhân hậu của nhân dân đùm bọc, chở che, nuôi dưỡng tôi suốt một đời trai trẻ và trưởng thành.

Vào dịp 60 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-2004), tôi được Đảng, Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng đến tháng 3 năm 2009 được nâng lương và tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba. Ra đi từ tuổi thiếu niên khi về ở độ lục tuần, tôi được thưởng 17 huân chương các loại nhiều năm được phong tặng Chiến sĩ thi đua, Chiến sĩ quyết thắng, Dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt máy bay, dũng sĩ diệt cơ giới và vinh dự lớn nhất được làm “Bộ đội Cụ Hồ”. Trong đời quân ngũ đầy cam go, cùng với việc phấn đấu hoàn thiện nhân cách người chiến sĩ, người chỉ huy, người cộng sản tôi thường viết văn, làm thơ để trải lòng mình và cũng vì tổ tiên và có lẽ cả ông trời đã ban tặng cho chút đam mê, năng khiếu... Những vần thơ mang đậm hơi thở của thực tiễn chiến đấu, thao trường và thắm tình quân dân của tôi đã giục giã, động viên bộ đội hăng hái đánh giặc, chăm chỉ luyện rèn, vượt qua thiên tai để cứu dân ra khỏi nơi nguy hiểm và sau bão lũ cùng đồng bào khắc phục hậu quả đem lại sự bình yên cho nhân dân...

Thơ tôi làm để ngợi ca Tổ quốc, ca ngợi đồng chí, đồng đội, tình mẹ, tình chị, tình em... Vì thế, thơ theo tôi trên khắp các chiến trường, các nẻo đường và vùng đất mà tôi đã qua bằng nhiều thể loại đã được in ấn, xuất bản, đồng thời được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc với sự thể hiện rất thành công của các ca sĩ trong và ngoài quân đội, có sức truyền cảm đã làm rung động trái tim người nghe. Những tác phẩm đã in gồm có: Thơ như: Dáng núi (2003); Mẹ ơi (2004); Nắng muộn (2010); Nhạc có: Khúc tình ca (2004); abum thơ nhạc (2004); Bút ký có: Ký ức chỉ huy (2006); Một quãng đời tôi (2007); Thời hoa lửa (2010). Đặc biệt nhân ngày 27 tháng 7 năm 2010, Đài phát thanh truyền hình Đà Nẵng đã có chương trình “Trang văn nghệ”, “Người chiến sĩ ấy” có chân dung vị tướng - nhà thơ...

Những trải lòng của tôi ở các chương và đôi dòng về “Ngẫm cuộc đời” không biết có trùng lặp với cụm từ “Biết nhiều khổ lắm” hay không?, mà tôi cứ đi, cứ viết. Bởi tôi nghĩ rằng mình là đứa con sinh ra trên mảnh đất “Ngũ phụng tề phi”. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng bào các dân tộc tỉnh Quảng Nam son sắt thủy chung với Đảng, một lòng theo cách mạng để giải phóng quê hương khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam vượt qua bao khó khăn, ác liệt, hy sinh, mất mát đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, làm nên truyền thống “Trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”. Ngày nay, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Nam cùng cả nước thực hiện công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 03:59:10 pm
Cùng với các huyện nói chung, huyện Điện Bàn nói riêng đã có nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Năm 1976, được Đảng, nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và là huyện có đối tượng chính sách nhiều nhất: 1.565 Mẹ Việt Nam anh hùng, 37.000 thương binh, liệt sĩ, trong đó có 18.000 liệt sĩ, 19 đơn vị và 27 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang đặc biệt có Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ có 9 con trai liệt sĩ là niềm tự hào của cả dân tộc.

Tôi sinh ra trên bãi cát ven biển Hà Quảng xã Điện Dương rất đỗi tự hào về truyền thống cách mạng của xã nhà. Tháng 12 năm 1998, được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, một cờ đơn vị anh hùng diệt Mỹ, một cờ đơn vị kháng chiến, 8 huân chương chiến công, 51 huân chương giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba. Có 1.240 liệt sĩ, so với số dân trong chiến tranh thì cứ 6 người thì có 1 liệt sĩ, 1 gia đình có 9 liệt sĩ, 2 gia đình có 7 liệt sĩ, 1 gia đình có 6 liệt sĩ, 2 gia đình có 5 liệt sĩ, 63 gia đình có 3 - 4 liệt sĩ. Trong 2.020 hộ gia đình toàn xã có 820 hộ gia đình liệt sĩ, 1.470 hộ gia đình có công với cách mạng, có 152 Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ diệt xe cơ giới, Dũng sĩ diệt máy bay, có 191 bảng vàng gia đình danh dự và 377 bảng gia đình vẻ vang. Ngoài ra trên mảnh đất kiên gan, bất khuất này đã có 2.717 người chết và 1.313 người bị thương tật vì bom đạn chiến tranh, hơn 150 bà mẹ được phong tặng và truy tặng: “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Đồng chí Nguyễn Cây, mang tên Hồ Văn Biển được phong tặng và liệt sĩ Lê Ngọc Giá được truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Và 332 thương binh các hạng. Trong chiến công chung của Đảng bộ và nhân dân tỉnh và huyện nhà, dòng họ Đàm Trần trong xã Điện Dương cũng đã đóng góp một phần xứng đáng vào chiến công hiển hách đó.

Và có phải từ mảnh đất có hai di sản văn hóa nổi tiếng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới đó là: Phố cổ Hội An và khu di tích Mỹ Sơn đã đi vào huyền thoại; cùng với các loại hình hoạt động văn hóa như: hát đối, hát bội, hò khoan, chèo bã trạo, cùng với chứng tích Núi Thành trận đầu đánh Mỹ đã tạo ra những giá trị văn hóa độc đáo, vô giá mà người Quảng Nam trong chiến tranh cũng như khi đất nước thống nhất đi đến đâu từ Nam chí Bắc từ miền ngược đến miền xuôi, nơi nào có người Quảng Nam sinh sống hoặc công tác có ai đó hỏi về cội nguồn của mình họ đều thốt lên một câu: “Quảng Nam đói hay sao mà bỏ xứ đi nhiều thế?...”. Đúng, tôi cũng như dân Quảng quê tôi không cãi bướng mà dùng triết lý phản biện để mọi người hiểu thêm nguồn gốc, lịch sử hình thành, tiếp cận phong cách của người Quảng Nam tại sao chúng tôi phải xa xứ, phải tham gia cách mạng ngay từ những ngày niên thiếu để rồi khám phá bao điều mới mẻ về thế giới xung quanh về chí làm trai khi quê hương bị địch giày xéo.

Quảng Nam là một tỉnh nằm ở ven biển thuộc vùng duyên hải miền Trung, với những con người “ăn sóng nói gió” hào phóng như biển trời, nuôi dưỡng tố chất ở trong họ một con người mạnh mẽ, khẳng khái, táo bạo góp phần cùng cộng đồng lấy nghĩa nước làm trọng là khí phách anh hùng, là bản sắc độc đáo của dân tộc Việt Nam như Bác Hồ đã dạy: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lộ”. Đó cũng là hành trang để người dân quê tôi “hay cãi” mà đứng thẳng lên chứ không chịu sống quỳ.

Tôi viết “Dấu chân trên cát” ở vào tuổi 60 và mới nghỉ hưu được 6 tháng (1-3-2010 - 19-8-2010) đầu óc vẫn minh mẫn, sức khỏe tốt, sáng đi bộ cùng vợ 4 cây số, chiều ra sân chơi tennis và tham gia các hoạt động xã hội có ý nghĩa cho đời nhất là làm thơ, viết bút ký đều đặn. Mới nhất, đã xuất bản Thời hoa lửa tháng 3 năm 2010; thơ - Nắng muộn tháng 7 năm 2010. Cái chính là viết được gì để lại cho con cháu sau này hiểu thêm về cuộc đời của cha, ông và cố làm cho tốt để trả ân, trả nghĩa cho quê hương, đất nước, cho người đã sinh thành, dưỡng dục để mình có được cái gì ngày hôm nay. Duy có một điều mà tôi day dứt nhất vẫn chưa làm được là tìm hài cốt của người cha thân yêu nhất trong một trận chống trả quân Nam Hàn và hy sinh vào ngày 20 tháng 1 năm 1967. Khi ấy cha tôi mới 57 tuổi và lúc đó tôi cũng chỉ 17 tuổi đang học tại Trường Sĩ quan Lục quân. Đến ngày thống nhất đất nước trở về, nghe anh trai và dân làng kể lại là lúc ông hy sinh thì du kích bí mật rút lui để bảo toàn lực lượng, bà con hàng xóm thì đã sơ tán ra Mỹ Khê, chỉ còn lại một số người cơ sở bám trụ cùng du kích cũng bị sát hại cùng ngày, nên khi nghe tin mẹ tôi và bà con từ Mỹ Khê, Đà Nẵng trở về thì bọn khát máu đã phi tang mọi người xuống cùng một cái giếng ngay cạnh nhà tôi, rồi dùng thuốc nổ để hủy diệt thân thể người quá cố...

Uất hận trào dâng, anh em tôi cố làm nguôi lòng mẹ tôi nhờ bạn chiến đấu là Đại tá Đặng Thành Nhơn - Chủ nhiệm Thông tin Quân khu 5 người có khả năng “ngoại cảm” về tìm và chỉ ngay cái giếng của nhà tôi vào những năm 60 của thế kỷ XX anh em tôi đào hầm bí mật cạnh đó để cha tôi nuôi giấu cán bộ Huyện ủy là chú Minh Hoàng. Anh em tôi thương lượng với Phùng Tấn Thành con của bà Ổi, người đang sống ngay trên mảnh đất nơi tôi cất tiếng chào đời để xin một khoảnh đất xây mộ cho ông rồi báo cáo xã xin đặt mộ thứ hai của cha tôi tại nghĩa trang liệt sĩ của xã. Thế là cha tôi đang nằm cả hai nơi nhưng nơi nào là có hài cốt của cha chúng tôi vẫn không tài nào lý giải được. Chắc rằng cho đến khi anh em chúng tôi về cõi vĩnh hằng mới may sao biết được nơi cha mình yên nghỉ...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 04:43:45 pm
Tôi mạnh dạn viết “Dấu chân trên cát” để cho cháu con sau này hiểu cuộc đời của cha mình chưa làm được cái nợ phải trả công lao trời biển của ông nội. Do thăng trầm của lịch sử trong một cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam 20 năm mà gia đình của cha, ông phải di dời 5 - 7 chỗ đến chỗ nào cũng không được yên thân đó là nỗi đau đáu của tôi chưa làm được để đưa chính thức hài cốt của cha vào nghĩa trang quê nhà mà phụng thờ hương khói...

Giờ đây, ngồi viết tôi vẫn cứ nghĩ suy có phải do ảnh hưởng của gia đình và quê hương dòng họ mà gia phả Đàm Trần qua hàng trăm năm vẫn tồn tại và phát triển đã đúc kết nên truyền thống hào hùng để con, cháu dù đi đâu, ở đâu, làm gì cùng phải cố gắng vươn lên làm rạng rỡ hào khí của liệt tổ. liệt tông: “Họ Đàm Trần vốn dòng dõi học hành thanh bạch, tính người phần nhiều thật thà, thẳng thắn, thích giản dị, tự do. Ghét sự luồn cúi, xu nịnh. Biết kính những danh lợi phù nhân, biết yêu phận nghèo hèn để giữ lấy phẩm giá. Tính đến nay họ Đàm Trần đã hơn 20 đời hun đúc nên nhiều bậc trung hiền rực rỡ trong sử sách. Đã xây dựng một nền gia giáo lương thiện, kiệm cần, dòng dõi thanh cao. Con cháu phải được học nền gia giáo nhà ta để giữ lấy dòng máu trong trẻo của Tổ tiên được lâu bền”. Ngày 22 tháng 2 năm 1990 Bộ Văn hóa đã có Quyết định số 28A7HCĐ công nhận di tích lịch sử - văn hóa Đền thờ Đàm Công Hiệu ở xã Hương Mặc, huyện Tiên Sơn tỉnh Hà Bắc (nay là Từ Sơn - Bắc Ninh).

Xuôi ngược thời gian, đi bao nơi tôi vẫn nhớ về vùng biển thân yêu, nơi đó có một miền trời nước bao la cảnh đẹp nên thơ, kỷ niệm thuở thiếu thời và quá khứ gian truân đầy bi hùng của một vùng quê kiên trung bất khuất luôn khắc sâu trong tâm tưởng của mình trên đường đi bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương. Mỗi một chặng đường đi qua dẫu đầy gian khó hy sinh nhưng tôi luôn tâm niệm nhờ phúc ấm của ông bà “phù hộ độ trì” để tôi vững bước trưởng thành, để dành thời gian đi cảm ơn những người cưu mang đùm bọc tôi.

Đó là vào những năm 1978, sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế tham gia giúp bạn giải phóng Campuchia, cứu dân tộc bạn thoát khỏi khỏi họa diệt chủng của bọn Pôn-pốt - Iêng Xa-ri đến 1979 ra bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc rồi về đóng quân tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Hà Bắc, tôi mới có dịp ghé lại thôn Ninh Động, xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc để thăm gia đình chị Lếnh nơi mà những năm 1970 - 1971, Trung đoàn 95 Sư đoàn 325 đóng quân. Tiểu ban Tác huấn phân tôi làm trợ lý tổng hợp cùng anh Sách, trợ lý chiến thuật được bố trí ở nhà chị để yên tĩnh làm việc. Chị và một cháu nhỏ 3 tuổi, chồng là công nhân làm ở khu gang thép Thái Nguyên chủ nhật mới được về. Khi đơn vị đóng quân tại nhà dân, nhưng chỉ tiêu tăng gia mỗi người một tháng phải nộp 10kg rau xanh hoặc quy ra hành là 1kg... Sau mỗi buổi làm việc về, thấy tôi ngồi bần thần trước cửa, chị hỏi vui: “Có cô nào chọc ghẹo không mà buồn thế hả chú?”. Tôi cười và đem chuyện đơn vị giao khoán rau xanh ra kể, chị nói luôn tưởng cái gì khó chứ rau xanh quá đỗ, rồi chị mách đường: - Hằng ngày chú cứ đi làm việc, lúc rảnh rỗi bày cháu Yên học, hoặc chú cháu dẫn nhau đi chơi, đến tháng ra vườn chị cắt rau hoặc nhổ hành mà cân...

Tôi như mở cờ trong bụng và thầm cảm ơn chị rồi “bật mí” cứ chiều đến dắt cháu Yên ra vườn cũng nhổ cỏ bắt sâu và đến tháng thực hiện lời hứa với chị đem rau và hành đến bếp cân đều đặn. Nhà bếp cứ khen sao Hùng có vườn rau tốt thế? Tôi mãn nguyện và khoe đó là ruộng phần trăm của chị chủ nhà cho tôi làm đấy... Tôi không những đạt và vượt chỉ tiêu tăng gia mà còn được Trung đoàn khen là làm công tác dân vận tốt. Chị không những là ân nhân của tôi mà còn là người đã cưu mang cậu ruột Ngô Trường Thuận của tôi vào tháng 10 năm 1971 từ Trạm An dưỡng Nam Hà lên thăm không may bị ốm do bệnh hen phế quản. Chị cùng tôi đưa cậu đến Viện 110 ở Bắc Ninh điều trị. Trong khi tôi lo đi huấn luyện lớp sinh viên mới nhập ngũ, chị thay tôi chăm sóc cho đến khi cậu xuất viện về đơn vị. Từ đó tình cảm của tôi là đứa con xa xứ được gia đình chồng và gia đình chị coi như con trong nhà và tôi cũng không quản ngại bất cứ một điều chi khi chị cần đến. Thế rồi vào cuối tháng 11 năm 1971, chị chuyển dạ đứa con thứ 2 khi chồng ở xa, gia đình chồng lại neo đơn, do biết trước việc sinh nở chị giao hết vườn rau và nhà cửa cho tôi trông nom và dặn:

- Nếu chị trở dạ, chú sang gọi bà đỡ ngay cạnh nhà cô Phức rồi gà trong chuồng mỗi ngày thịt 1 con nấu đông cho chị, còn lại chú và cháu cùng ăn... Lúc này tôi mới thấy lúng túng, 1 thanh niên 20, 21 tuổi đầu biết chi chuyện sinh nở. Nhưng lại là quân nhân nên tôi cứ dạ để chị yên tâm, mọi việc em sẽ làm được. Đêm đó, chị bảo tôi và cô Phức cùng bà đỡ chuyển đi trạm xá, khả năng chị khó sinh. Bởi, tôi biết chị là một nông dân thực thụ nên mọi việc hàng ngày chị lao động không kém gì đàn ông, hơn nữa hoàn cảnh của chị thuộc vào người đặc biệt. Trong một lần trời mưa chị kể cho tôi nghe:

- Chị không phải tên là Lếnh, vào những năm 1945, quê chị tận Nam Định trong một gia đình nghèo đông con, trong đó có 2 người chị và 1 người con trai nữa khi sinh ra thì bố chị chết do đói, mẹ chị đem 2 người con lên ga Sen Hồ ở huyện Việt Yên nơi có cái chợ tên là Lếnh rồi bỏ 2 chị em ở đó. Cho đến khi bà mẹ đói cũng chết, họ nhặt chị về nuôi rồi đặt tên là Lếnh, rồi lấy ngay người con trai của gia đình chồng chính là nơi chị được làm con...


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 04:45:46 pm
Vì lẽ đó mà khi tôi ở trong nhà chị và biết tôi là người miền Nam cũng xa quê hương gia đình thiếu thốn tình thương như chị trước đây, nên việc đưa chị đi sinh rồi đưa chị trở về mẹ tròn con vuông trong cái làng Ninh Động ai cũng rất quý mến, coi tôi như người con của làng. Nay có dịp về thăm cảm ơn chị và bà con biết tôi đã trở thành một sĩ quan cấp tá chỉ huy một trung đoàn, ai ai cũng tấm tắc khen.

Năm 1986, khi cùng đoàn cán bộ Quân khu 5 do Thiếu tướng Đoàn Y Thanh - Phó Tư lệnh Quân khu dẫn đầu ra thăm các đơn vị phía Bắc làm kinh tế, tôi có dịp đến huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng để hỏi thăm gia cảnh bác sĩ Điện - Chủ nhiệm Quân y Trung đoàn 95 hy sinh ở mặt trận Tây Nam năm 1978, nhưng không ai biết tin tức vợ con của anh Điện đã chuyển đi đâu? Do thời gian không cho phép, tôi đành lòng cáo từ thành phố “Hoa phượng đỏ” để trở về với mảnh đất miền Trung - Tây Nguyên.

Vào những năm 1986 đến 2003, tôi mới có dịp đi 7 tỉnh đồng bằng miền Trung và 4 tỉnh Tây Nguyên, nơi đó có những năm tháng hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và giai đoạn đất nước vào thời đổi mới và cũng là nơi đã nâng bước cất cánh cho tôi được đi thăm viếng cảm ơn các già làng, trưởng bản, các buôn, thôn... Nơi mà đồng bào các dân tộc đã nhường cơm xẻ áo khi tôi đánh giặc, chỉ đường tuần tra biên giới, phục lót, truy kích đánh bắt bọn FULRO và bóc gỡ địch ngầm còn cài cắm trong các dãy biên cương những năm tháng hòa bình. Thăm viếng phụng dưỡng các gia đình có công với nước và cơ sở cách mạng bằng lệ phí công tác của mình trong đó có mẹ Việt Nam anh hùng K’sor Hơru có 4 con là liệt sĩ ở xã Ia Hrung huyện Ia Grai tỉnh Gia Lai... đặc biệt là hội đồng hương Quảng Nam đang sinh sống ở thành phố Plei Ku, Gia Lai do bác Dương Thôi, làm chủ tịch cứ đến ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch hàng năm là bà con tề tựu về trụ sở Ủy ban nhân dân phường Hội Phú để gặp mặt động viên nhau phát huy truyền thống quê hương Quảng Nam để góp phần xây dựng quê hương mới ở Tây Nguyên. Trong đó chí cốt là đoàn kết toàn dân: Kinh cũng như đồng bào các dân tộc thiểu số, người không đạo cũng như người có đạo đều kiên quyết chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch giữ yên bình cho làng xóm và Tây Nguyên. Biết tôi là Phó Tư lệnh - Binh đoàn Tây Nguyên, nên mỗi lần họp, chú Thôi đều thông báo tôi đến tham gia nói chuyện và văn nghệ cùng bà con. Mỗi lần như vậy, tôi cảm thấy mình đang sống trong vòng tay êm ái của cha mẹ, quê hương rồi đem chuyện đó về kể lại với huyện, tỉnh mỗi khi có hội hè để biết thêm người con xa xứ nhưng vẫn một lòng hướng về nơi chôn nhau cắt rốn. Cũng trong những lần hoạt động đó, tình cảm của tôi đã gây ấn tượng mạnh trong lòng bà con: “Sĩ quan cao cấp trong quân đội mà răng nó gần gũi dữ rứa!” càng thôi thúc tôi công tác tốt hơn. Cho đến một ngày cuối tháng 2 năm 2003, chú Thôi và bà con đồng hương biết tôi sắp chia tay núi rừng để đi nhận công tác mới; mặc dầu tôi chưa thông báo rõ ngày đi nhưng chú Thôi và một số anh em như Thành, Cảnh, Đường tìm đến chia tay. Tôi quá bất ngờ và chưa chuẩn bị gì, nhân thể Hoàng Vinh, chiến sĩ Nhà Văn hóa của Binh đoàn vừa phổ mấy bài nhạc trong tập thơ “Dáng núi” của tôi và các cháu trong đội tuyên truyền văn hóa do Thành phụ trách muốn ghi một cuộn băng làm kỷ niệm trước khi tôi đi...

Chiều hôm đó, ngày 28 tháng 2 năm 2003, tôi đưa tiền cho Thành ra mua mấy đĩa thịt cầy và ít gà, rau, bánh về liên hoan luôn thể. Chú Thôi và các bạn đồng hương vừa nghe ca nhạc vừa cụng ly nhưng chẳng ai gắp “mồi”, tôi mới vỡ lẽ là bà con không dùng thịt cầy. Thấy tôi lo lắng chú Thôi an ủi: “Tao đã cho người đi mua thịt thỏ rồi nhân đây chú và mấy em có chút quà tặng Hùng trước khi lên đường...”. Tôi cầm món quà từ tay chú mà hơi ấm tỏa sang. Tôi như được lớn thêm lên trên mỗi bước đường mỗi làng quê và mỗi một người thân mình đã gặp đã được ho cưu mang. Tôi thầm hứa trước bà con xứ Quảng dù đi đâu làm gì trước nhân dân tôi luôn “trọng đạo nghĩa nhân”.

Từ tháng 3 năm 2003 đến tháng 2 năm 2006, tôi ra công tác tại Cục Quân huấn, Bộ Tổng Tham mưu ở Hà Nội. Thời gian này tôi lại ngược lên thôn Khoan Mè, xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây để thăm nhà bác Nhàn nơi mà tôi tá túc học tập những năm 1967 - 1968. Đi tìm địa chỉ không khó, nhưng lúc đến nơi cả chủ nhà và khách đều nhìn nhau chưa biết quen nhau từ bao giờ. Bởi khi tôi học, tuổi mới 17, 18 bây giờ đã trên 50 lại mang cấp hàm Thiếu tướng ai mà không ngờ ngợ... Mấy anh em cùng đi là người Bắc nên dễ tiếp cận với gia đình, khi 2 bác chủ nhà đã gần 80 các con cháu đều ở riêng, nên không ai còn nhớ kỷ niệm xưa. Tôi mạnh dạn nói:

Bác còn nhớ cái chú học viên bị cảm nắng mà bác gái ngồi thâu đêm bón cháo rồi tìm lá trầu về xông? Còn 2 em thì đi giặt quần áo chiến thuật rồi cắt cỏ để anh làm ngụy trang không? Anh là Trần Minh Hùng, quê Quảng Nam học lục quân khi trường sơ tán về đây đó mà... Lúc này người con trai đầu mới hiểu ra và liến thoắng: “Em nhớ rồi anh Hùng hồi ớ đây hay hát vọng cổ, bài chòi cho bọn trẻ nghe đó mẹ ạ. Con còn nhớ khi anh đi dã ngoại “tập trận” ở Hoà Bình về mang nhiều cam, quýt cho bọn em ăn đã thích...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 04:46:55 pm
Chia tay gia đình bác Nhàn, kể từ khi tôi học đến nay đã gần nửa thế kỷ mà nhà cửa, vườn tược vẫn mang đậm “Hồn quê”. Tôi không biết mình có làm gì được nhiều hơn nữa để giúp bà con thoát khỏi cảnh túng bấn cứ quanh quẩn với người nông dân ở cái vùng núi đá ong quanh năm cằn cỗi này? Chỉ có con đường “Công nghiệp hóa nông thôn” may ra mới đỡ nghèo.

Và sau đó, tôi tìm về thôn Cổ Liển, xã Cổ Đông, huyện Tùng Thiện để hỏi thăm gia đình anh Lê Văn Điển - Trung úy nguyên là Đại đội trưởng Đại đội 2, Tiểu đoàn 445, Trung đoàn 3, Sư đoàn 320b - Quân khu Hữu Ngạn, người giới thiệu số 1 cho tôi vào Đảng (15-5-1968) rồi đưa quân vào chiến trường B3 Tây Nguyên, sau đó tôi về Trung đoàn 95 Sư đoàn 325 nên chưa có thời gian gặp lại. Nay đến nơi hỏi ra thì không còn ai biết anh chuyển đi đâu, chỉ một số bạn bè ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 có biết và nói anh đã từ trần...

Từ nguồn tin đó tôi lên thôn Vật Lại, hỏi thăm Đoàn Văn Đỉnh - Chuẩn úy, nguyên Trung đội trưởng, Trung đội 3 của đại đội tôi ngày đó, thì được biết anh Đỉnh đang công tác ở Trường Sĩ quan Hóa học và chúng tôi gặp nhau một lần vào đầu năm 2003, sau đó anh nghỉ hưu và từ trần do lâm bệnh hiểm nghèo... Rồi ngược sông Đà lên Phú Thọ thăm gia đình Ky, người chiến sĩ lái xe theo tôi suốt chặng đường từ Hướng Hóa, Quảng Trị đến chiến trường Tây Nam 1978 và cùng chia sẻ với tôi khi Nhung qua đời để về Bắc Thái, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Bắc, bao buồn vui tôi đều có em bên cạnh. Xuống Vĩnh Yên thăm Đỗ Quang Dự, nguyên Chủ nhiệm Hậu cần Sư đoàn 2 Quân khu 5 những năm 1987 - 1989, thăm Trần Xuân Ca - nguyên Tham mưu phó Trung đoàn 95 đã cùng chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị năm 1972, thăm các thầy cô giáo khoa ngoại ngữ và gia đình anh Quang, thợ cắt tóc của Học viện Kỹ thuật quân sự đã cùng chia sẻ với tôi khi học tập ngoại ngữ tại đây. Sau đó tôi trở về Hà Nội đi Hưng Yên thăm Đặng Quế - nguyên Chủ nhiệm Hậu cần Trung đoàn 95 vào những năm 1978 - 1980 xuống Hải Dương thăm Toan - nguyên Chính trị viên Đại đội 8, Tiểu đoàn 5 của tôi vào những năm 1973 - 1974, ngược lên Hà Nội thăm Quốc Hùng, Thanh Sơn, Lâm, Tế, Quy, Duy là các chiến sĩ những năm 1970 - 1972 thuộc Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 95 Sư đoàn 325 Mặt trận B5 chiến đấu ở Trị - Thiên từ 1972 - 1975. Sang Gia Lâm thăm Hùng cũng là chiến sĩ Đại đội 8, Thành, nhân viên quân lực Tiểu đoàn 5 nhìn chung các em đều trưởng thành, trong đó có Vũ Quốc Hùng - Thiếu tướng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Bộ Quốc phòng, còn lại là thượng, đại tá đương chức và nghỉ chuẩn bị hưu. Tháng 9 và tháng 10 năm 2010, về Đông Hưng - Thái Bình thăm Đại tá Đinh Tiến Hoặc - Nguyên Phó Trung đoàn trưởng về Chính trị (Trung đoàn 18, Sư đoàn 325, Quân đoàn 2) cùng với tôi những năm 1980-1983; ra Đồ Sơn - Hải Phòng thăm Tiến, chiến sĩ cắt tóc và Toán - trợ lý cán bộ Trung đoàn 95 Sư đoàn 325.

Cùng thời gian, này tôi được Nguyễn Tiến Dũng - Đại tá, Trưởng ban Khoa học Công nghệ và Lê Đình Hùng - Trưởng phòng Hậu cần Hành chính, Thái - nhân viên camera về làng Me, Hương Mặc, Từ Sơn, Bắc Ninh để tìm họ Đàm Trần qua những thông tin được lưu ở bia đá. Đến đây tôi mới hiểu sâu hơn dòng họ Đàm Trần được ghi trong gia phả ở tập 1 thành phố Hồ Chí Minh do nhiều tác giả lược ghi, được xuất bản năm 2000 ghi rõ rằng: “Gốc tích ở làng Me, Từ Sơn, Bắc Ninh”. Theo bút tích của cụ Đàm Duy Huyên, năm 1953 thì: “Họ Đàm ta nguyên trước ở thôn Ngô Tiền, mãi đến thời Hậu Lê mới lấn sang thôn Ngô Trực và thôn Bãi Tháp. Họ Đàm dòng dõi khá, hiền lành, khẳng khái, có khiếu thông minh, nếu biết cố gắng học hành thì thật chẳng kém họ nào...”.

Theo giới thiệu của chú Đàm Thanh Bình - Tiến sĩ, Ủy viên Ban liên lạc các dòng họ Việt Nam: Trải qua bao bước thăng trầm của lịch sử quê hương, đất nước, dòng họ Đàm Trần di cư đi khắp mọi nơi như La Khê, Tiên An, Yên Hưng, Quảng Ninh... và đến năm nào không rõ các cụ Thủy Tổ đã về đất Mỹ Khê, Sơn Trà, rồi thôn Hà Quảng, xã Điện Dương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam lập nghiệp sinh sống cho đến ngày nay. Cứ vào ngày 3 tháng 8 âm lịch hàng năm, từ các miền Bắc - Trung - Nam lại tụ họp tại nhà thờ tổ ở làng Me, Hương Mặc, Bắc Ninh để tri ân tiên tổ và cháu con đoàn tụ. Chính vì thế mà tôi may mắn khi về đây được biết thêm các vị lão thành như Thượng tướng Đàm Quang Trung - nguyên Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước; Trung tướng Đàm Văn Ngụy - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Tư lệnh Quân khu 1; Trung tướng Đàm Đình Trại - nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Thiếu tướng Đàm Công Thìn - nguyên Viện trưởng Viện Kiểm sát Quân sự Trung ương; bà Đàm Thị Loan, con gái họ Đàm, chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đầu tiên, phu nhân cố Đại tướng Hoàng Văn Thái... cũng đã về đây viếng thăm tông tổ.

Ra đi lúc tuổi thiếu niên, lúc về tóc đã nhuộm màu sương gió. Quê hương, gia đình và những người bạn, những đồng đội thân thương vẫn luôn là điểm tựa, là bến đỗ bình yên cho tôi được ngày hôm nay và cứ có dịp là tôi trở ra Thành cổ Quảng Trị, thăm bến vượt Nhan Biều, thăm các làng Như Lệ, Tích Tường, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong đã một thời che chở cho tôi chiến đấu và trưởng thành, tôi thành kính thắp nén hương lên đài tưởng niệm ở Thành cổ, lên công sự Bắc cầu sắt Quảng Trị và giếng nước, nơi đó có anh Quang lấy thân mình che chắn cho tôi rồi anh hy sinh, nơi đó có mộ em Phụng người chiến sĩ du kích cùng sát cánh chiến đấu với chúng tôi và ra đi trong một trận pháo kích của quân thù khi tuổi đời 18 đôi mươi... Ngược đường 9 lên Sa Mưu, Khe Sanh, Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn và cầu Đắc Krông, nơi đã để lại bao nhiêu ký ức của một thời trai trẻ: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 04:47:30 pm
Cứ thế tôi rong ruổi theo đường Hồ Chí Minh vào thành phố mang tên Bác thăm gia đình Năm Thành - nguyên Trưởng phòng Quân huấn - Nhà trường, Bộ Tham mưu, Quân khu 7, người bạn đồng hương vừa là đồng nghiệp những tháng ngày trên thao trường đất “miền Đông gian lao mà anh dũng” để thắp nén hương vĩnh biệt cho cả 2 vợ chồng anh đều về cõi vĩnh hằng do căn bệnh hiểm nghèo, mỗi người ra đi chỉ cách nhau một năm... Lên Đà Lạt thăm gia đình Thiếu tướng Đức - nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng, Thiếu tướng Hớn - nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Ninh Thuận là những người anh, người đồng chí và cũng là bạn học những năm 1983 - 1985, mà tôi đã có dịp giúp các anh tác nghiệp bản đồ khi lớp Bổ túc 8 vào mùa thi còn chúng tôi lớp đào tạo 5 lại nghỉ hè... Thăm vợ chồng cháu Mai và Thắng do tôi đi hỏi và cưới vợ khi Mai là Đại đội trưởng cối 120 ly của Trung đoàn 101, Sư đoàn 325. Thắng là sinh viên trường Đại học Nông nghiệp I tại Từ Sơn, Hà Bắc, bây giờ hai cháu sống hạnh phúc, làm ăn khấm khá. Thăm Tuân, Tiếu hai người bạn chiến đấu thời Quảng Trị 1972 vừa là đồng hương Quảng Nam và cũng có một thời làm thầy giáo cho tôi ở Học viện Lục quân vào những năm 1976 - 1977. Thăm vợ chồng 2 em Hoàng Kỳ Lân và Liên, Lân là chiến sĩ công vụ đã từng lấy thân mình che chắn mảnh pháo để cứu sống tôi trên chiến trường Tây Nam Campuchia năm 1978 và em cũng là người luôn bên cạnh tôi trong những lúc thiếu thốn tình thương. Có một hôm sau trận đánh luồn sâu ở Kốp Sa La, tây bắc thị xã Căm Pốt (Campuchia) về lại sở chỉ huy Trung đoàn nằm ven sông Căm Pốt dưới căn hầm chữ A, Lân chột dạ thổ lộ với tôi rằng: “Ước chi em là con gái sẽ nguyện cùng anh đi suốt cuộc đời...”. Tôi mắng yêu em. “Nói dại thế ra tau với mày là... à?”. Em chui đầu vào nách tôi và thở đều... Bây giờ em đã có vợ và 2 con ngoan học giỏi và vừa được phong Phó Giáo sư, là Trưởng khoa Tham mưu Học viện Lục quân. Tôi mừng vì em đã thực hiện đúng lời hứa với tôi trước khi đi học, tôi coi em như đứa em út của gia đình và cũng thầm mong cuộc đời binh nghiệp của em sẽ suôn sẻ hơn tôi...

Trở về với mảnh đất miền Trung - Tây Nguyên, tôi lại ngược Thu Bồn, Vu Gia - hai con sông đầy vơi con nước lững lờ gáng nặng phù sa chảy vào cõi vô bờ. Tôi thả vào dòng sông những cánh hoa sim tím và vô vọng. Chị ơi! Chị ở đâu? Chị Bùi Thị Xuân Mai của em, giờ nằm ở phương nào? Đây là nỗi đau mất mát thứ hai sau sự hy sinh của cha tôi - chị Mai là người chị nuôi tôi thời ở Tiểu đoàn 1 - R20 Quảng Đà trên đường đi công tác rồi chị đi mãi không về hy sinh năm 1970. Cứ mỗi độ vào dịp 27 tháng 7 ngày thương binh liệt sĩ và Tết âm lịch hàng năm, tôi về quê thắp hương cho cha, rồi lên thắp hương cho chị. Tôi coi chị như người mẹ thứ 2 đã dưỡng dục, cưu mang tôi những năm tháng đánh Mỹ. Được chị và gia đình cưu mang. Tôi da diết nhớ thương chị mà vẫn chưa tìm được hài cốt để đưa về quê nhà hương khói cho trọn nghĩa làm em.

Lẽ đời là vậy, nên từ khi về nghỉ hưu tôi tự nhủ mình: “Hưu thì nghỉ chứ việc nghĩa, việc đời không được nghỉ...”. Từ đó, hàng năm cứ vào dịp Tết Nguyên đán tôi lại đi thăm các gia đình cơ sở cách mạng, vào ngày 7 tháng 8 hàng năm cùng các đoàn cựu chiến binh Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 lên viếng nghĩa trang liệt sĩ xã Đại Lãnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Nơi đây các anh đã hóa thân vào cỏ cây, mây gió cho Thượng Đức phát triển xanh tươi như ngày hôm nay. Tôi ra Thừa Thiên - Huế thăm gia đình Sơn - Nhật - Bính các người bạn chiến đấu của Quân đoàn 2 thời Quảng Trị 1972 và năm 1978 ở Campuchia (riêng Nguyễn Trọng Bính đã từ trần vào ngày 1-4-2010).

Ngoài ra, hễ nơi nào có việc hiếu, việc nghĩa bạn bè đồng nghiệp rủ nhau thì tôi lại khăn gói lên đường nhất vào mùa mưa lũ sau cơn bão số 11 năm 2009. Đoàn nhà văn, nhà thơ, nhà báo và văn nghệ sĩ thành phố Đà Nẵng do Đại tá Lê Anh Dũng - Trưởng đại diện Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân và Tạp chí Văn hóa Quân sự tại Đà Nẵng dẫn đầu về xã Quế Lâm, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam để tặng hàng cứu trợ cho các em học sinh trường tiểu học bị cơn bão tàn phá. Rồi trở về Đà Nẵng tham gia đoàn “Rước nước sông Hàn - nơi hẹn hò của những huyền thoại” do XQ Việt Nam tổ chức, tôi được giải “Người đàn ông có bước chân đĩnh đạc...”. Ôi, thật là vui cho cái tuổi xế chiều mà vẫn còn nhiều em “để ý” càng thôi thúc tôi say mê với công việc sáng tác của mình và vào dịp kỷ niệm 35 năm giải phóng thành phố Đà Nẵng (29.3.1075 - 29.3.2010), tôi được cơ quan Đại diện Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân và Tạp chí Văn hóa Quân sự tại Đà Nẵng tổ chức ra mắt tập bút ký “Thời hoa lứa” ủng hộ quỹ nạn nhân chất độc da cam thành phố Đà Nẵng. Khi nghe quyên góp xây dựng tượng đài “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, tôi tìm đến Đài tiếng nói Việt Nam đăng ký ủng hộ. Thành phố Đà Nẵng phát động lòng hảo tâm của mọi tầng lớp nhân dân ủng hộ xây dựng Bệnh viện ung thư, tôi cũng xăng xái góp sức... Tất cả đều được cấp giấy ghi nhận “Tấm lòng vàng”. Tôi suy nghĩ, như vậy cũng chưa thấm vào đâu mà việc tri ân phải làm cả cuộc đời, từ thế hệ hôm nay cho đến thế hệ mai sau cũng chưa bù đắp hết sự hy sinh to lớn của cha ông đã thể hiện bằng chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một khí phách anh hùng bất khuất của cả một dân tộc không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ bùng cháy đến đỉnh cao trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trường kỳ gian khổ trong thế kỷ XX để giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.

Đó là bản anh hùng ca bất diệt, là cội nguồn bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, tạo nên sức mạnh mới trên chặng đường xây dựng và phát triển đất nước vì hạnh phúc nhân dân, đời đời nhớ ơn những người đã làm nên lịch sử để Tổ quốc Việt Nam trường tồn. Tôi tự nhủ lòng mình:

“... Mặt hồ đâu phẳng lặng
Nhật, nguyệt lúc vơi đầy
Chung, riêng còn sâu nặng
Nhân, nghĩa vẹn trước sau...”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 04:49:56 pm
PHỤ LỤC

NHỮNG SẺ CHIA CỦA BẠN BÈ QUA
“DẤU CHÂN TRÊN CÁT” CỦA TRẦN MINH HÙNG

ĐINH DUY NGUYÊN
Nguyên Phó Chủ nhiệm Chính trị,
                                                                                                             
Bộ Tổng Tham mưu - cơ quan Bộ Quốc phòng

Trong những năm tháng hoạt động cách mạng và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trần Minh Hùng đã gắn bó với quê hương, với anh em, đồng đội với một tấm lòng son sắt, thủy chung, ngọt bùi chia sẻ, với một tình yêu lớn cách mạng, kháng chiến và tình đồng chí nồng ấm, thiêng liêng.

Và cũng từ cuộc đời chiến đấu đầy gian khổ hy sinh với một tình yêu lớn, Trần Minh Hùng đã viết về quê hương tự đáy lòng gan ruột của mình với tất cả nghĩa tình sâu nặng nhất, nhiều trang viết xúc động. Đồng chí, đồng đội gặp lại anh những nghĩ suy về mảnh đất Quảng Nam “đau thương và anh dũng” nhưng cũng là mảnh đất “Trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”. Đồng đội, cũng gặp lại anh trên mỗi chặng đường đánh giặc, trên các chiến trường, nơi đương đầu với bom đạn khốc liệt của địch, với pháo bầy, bom B-52 rải thảm và gặp anh trong cả những giây phút tĩnh lặng đầy suy tư, trăn trở về cuộc đời, sự nghiệp.

Những bài viết của anh như còn in dấu rõ nét nơi chiến trường Quảng Trị đỏ lửa năm nào qua “Trận đánh mừng Xuân”, hay “Trước giờ lịch sử”. Đó là những kỷ niệm không thể nào quên trong cuộc đời chỉ huy binh nghiệp và cũng là thời khắc không thể nào quên về sự hy sinh, sự chia ly không hẹn trước với anh em đồng đội để kỷ niệm đó mãi mãi đi theo anh trên con đường tiếp tục chiến đấu sau này.

Mảnh đất ấy là Quảng Trị, Triệu Phong, là dòng Thạch Hãn êm đềm trong đêm trăng đưa tiễn và cũng là dòng sông Thu Bồn của Điện Bàn, Đại Lộc, Quảng Nam quê hương anh, nơi có những người bạn mà suốt đời anh vẫn không quên. Những câu chuyện của Minh Hùng tưởng chừng như “Ngẫm cuộc đời” nhưng không chỉ bó hẹp trong cái riêng ấy mà là của tất cả chúng tôi, anh em, đồng đội với những tình cảm sâu nặng nghĩa tình, gắn bó cái riêng với cái chung, cái tôi với cái chúng ta trong sự nghiệp lớn. Những bài viết của anh chứa chan tình người, tình đồng đội, sâu nặng nghĩa Đảng, tình dân, đậm đà tình cảm quê hương của một người con nguyện suốt đời chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp của mình.

Mỗi chặng đường anh đi, mỗi mảnh đất anh đặt chân đến đều in đậm trong tâm thức của anh qua từng trang viết với một suy nghĩ trăn trở. Ở đâu cũng thấy bóng dáng anh, tâm trí anh đi sâu vào “giữa hậu phương lớn”“về với Khu 5”...

“Dấu chân trên cát” không phải là tất cả mà chỉ là một góc nhỏ cuộc đời chiến đấu của một con người, một trái tim nhân hậu Trần Minh Hùng với đồng bào đồng chí, với quê hương, đất nước và với anh em, bè bạn. Nhưng một góc nhỏ cuộc đời với nỗi niềm tâm sự ấy đã toát lên niềm khát vọng thiêng liêng của một thế hệ đi theo cách mạng và kháng chiến, nguyện suốt đời chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp ấy. Và cũng từ những trang viết mộc mạc, chân tình đó, toát lên hoài bão, ước vọng thiêng liêng của không chỉ một trái tim dũng cảm biết sống, chiến đấu cho sự nghiệp chung mà là của cả thế hệ trẻ Việt Nam ta những năm 50, 60 của thế kỷ trước, đã biết ngẩng cao đầu mà sống, chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Tôi nghĩ, sau khi tập sách được xuất bản, bạn bè sẽ được chia sẻ với anh nhiều hơn trên từng trang viết với những kỷ niệm không thể nào quên. Và những trang viết ấy sẽ trở thành niềm tự hào, xúc động thiêng liêng của anh em đồng chí, nhất là những người đã cùng anh chung sức trong những năm tháng cuộc đời chiến đấu và nâng bước chúng ta đi những chặng đường tiếp theo.

Xin cảm ơn Trần Minh Hùng, người đồng chí, đồng đội, người thủ trưởng, người bạn thân thiết đã có nhiều năm gắn bó máu thịt với nhau trong cuộc đời chiến đấu đầy gian khổ nhưng cũng rất đáng tự hào vừa qua.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 05:56:27 pm
“VĂN” TRONG TƯỚNG “VÕ” QUÝ BIẾT CHỪNG NÀO

Nhà báo ĐẶNG TRUNG HỘI

“Nắng muộn” Tập thơ thứ tư của Thiếu tướng Trần Minh Hùng. Trong lời thưa với bạn đọc, ông thổ lộ “Tôi không phải nhà thơ. Thơ tôi viết là nhật ký chiến trường, thơ tôi làm để ca ngợi Tổ quốc, ngợi ca tình đồng chí, tình yêu quê hương, tình chị, tình mẹ, tình em...”.

Ông khiêm tốn nói vậy thôi, chứ thực ra những dòng “nhật ký” như ông nói, nếu không có bề dày trải nghiệm, không có một tấm lòng, đặc biệt là không có tâm hồn thi sĩ, thì không thế có những vần thơ hồn nhiên, chân chất, mộc mạc, chân thành và rất lính như “Áo quân phục đỏ bụi đường thuốc đạn/Thả lòng mình với hoa lá cỏ cây” hoặc “Mỗi vần thơ nhen cho hồn thêm lửa”, để rồi “Năm tháng đời mình nuôi lớn những vần thơ”.

Vâng! đúng là như vậy. Tôi cho đây là những trải nghiệm hết sức sâu lắng của vị tướng suốt hơn 40 năm trường cầm súng, có mặt ở hầu hết các chiến trường ác liệt. Có lẽ việc quân đè nặng hai vai, trong suốt quãng đời làm lính, rồi cầm quân, ông không có thời gian để viết. Bởi vậy, khi “việc quân xong đến việc riêng”, chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn, từ năm 2003 đến nay, ông đã xuất bản 4 tập thơ, 2 album thơ, nhạc, 3 tập văn xuôi...

Có nhà báo đã hỏi tôi về sức viết, về cảm thụ thơ Thiếu tướng Trần Minh Hùng. Tôi trả lời nôm na rằng, ông làm thơ là một nhu cầu, là để “giải thoát” những kìm nén bấy lâu nay chất chứa trong lòng. Bởi vậy, thơ ông vừa hồn nhiên, vừa sâu lắng như chính con người ông vậy. Tôi đồ rằng, Trần Minh Hùng đã cầm bút là viết ngay, viết liền một mạch. Dự buổi gặp mặt nữ cựu quân nhân thời chiến tranh chống Mỹ, ông gặp lại hình ảnh chị hộ lý đã chăm sóc ông ở chiến trường, để rồi ngay sau đó ông kê giấy lên dùi viết liền mạch bài thơ “Thu Bồn ơi”, để rồi sau này được nhạc sĩ Phan Ngọc phổ bài “Thu Bồn dòng sông ơi” khá nổi tiếng. Năm tháng lăn lộn cùng bộ đội ở các chiến trường, đặt chân về quê, ngoài những giây phút thăm hỏi bà con hàng xóm, ngồi ở bậu cửa của ngôi nhà nhỏ, hình ảnh quê hương qua bao thăng trầm ập về, ông viết ngay bài “Điện Dương yêu thương”. Sở dĩ tôi nói thơ ông viết từ cọng rơm, gốc rạ, viết từ dòng sông quê, từ con sóng vỗ bờ là thế, cảm xúc tràn về là ông viết ngay, viết hối hả như sợ ai viết mất, vì vậy thơ ông không cầu kỳ về câu chữ, không gò bó về niêm luật, cứ tuôn trào như dòng chảy, như “Biển nước mây trời bỗng hóa thành thơ”, đây là những hạt vàng lấp lánh. Nghe tin chiến sĩ trẻ Rơ Chăm Thuyên, người dân tộc thiểu số, mới 10 tháng tuổi quân, 19 tuổi đời hy sinh khi lao xuống dòng lũ dữ cứu đồng đội, trên đường đến viếng Thuyên, ông viết “Binh nhất Rơ Chăm Thuyên ơi!/Tên em vang vọng núi đồi Cao Nguyên...”.

Tiếng là tướng quân, nhìn “tướng tá” ông người ta thấy toát ra từ dáng đi, giọng nói rặt là nhà quân sự. Đọc những tác phẩm của ông viết về công tác huấn luyện, chiến đấu, người ta thấy một tướng quân Trần Minh Hùng mưu lược, dạn dày trận mạc, ít ai biết rằng phía sau hình ảnh ấy, trong sâu thẳm trái tim của con người ấy, lại chất chứa những nhanh nhạy của một nhà báo, lại ấp ủ biết bao “tinh chất” của đời. Sở dĩ tôi nói vậy, bởi chính những phát hiện có tính báo chí, những tâm sự bằng thơ của ông đã nói lên điều ấy.

Tôi muốn nói đến “chất báo” trong con người tướng quân Trần Minh Hùng, không phải do những tác phẩm báo chí của ông đã đăng trên các báo và tạp chí, điều tôi muốn nói đến đấy là sự nhanh nhạy, sự cảm nhận, sự phát hiện vấn đề của “nhà báo” không chuyên Trần Minh Hùng. Đang đi trên đường, thấy hình ảnh những thiếu niên đầu không mũ bảo hiểm, chở hai, chở ba lạng lách trên đường, ông lấy ngay máy ảnh (vật bất ly thân), lúc nào cũng sẵn trong người, kịp thời ghi lại... đang cùng bạn bè nhâm nhi ly cà phê sáng, thấy cụ già “80” xuống đường làm vệ sinh, ông bỏ dở câu chuyện “chộp” ngay... các phóng sự ảnh của ông về các lĩnh vực phê bình; biểu dương người tốt, việc tốt được đăng trên các báo, đều đầy tính thời sự, đầy sức thuyết phục, có giá trị giáo dục cao. Chẳng biết có phải do bẩm sinh hay không, mà ngay từ thuở còn là “lính tò toe”, Trần Minh Hùng đã có những bức ảnh để đời. Chọn trong tập ảnh kỷ niệm của ông trên các cương vị, trong các đợt diễn tập, hoặc ngay tại chiến hào; có thể tìm thấy trong các bức ảnh ấy không khí hết sức thời sự của hoàn cảnh cụ thể. Tôi cho rằng đấy là những phút lóe sáng của nghề báo, mà các nhà báo chuyên nghiệp cần học hỏi.

Các cụ xưa dạy “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, nhưng với Thiếu tướng Trần Minh Hùng “nghệ” nào cũng “tinh” cả. Chụp ảnh, viết báo, làm thơ, viết văn; đặc biệt là chỉ huy đánh giặc và chỉ đạo huấn luyện bộ đội... ai cũng thừa nhận ông là người nhiều năng lực “Văn võ toàn tài”. Ai đó nói rằng, bởi Trần Minh Hùng đa tài nên hai chữ “lận dận”, nó cứ “bám” lấy ông. Tôi thì lại nghĩ khác, có lẽ Trần Minh Hùng là một con dao “pha”, nên nơi nào cần là tổ chức nghĩ đến ông, điều động ông. Qua các cương vị công tác càng thêm khẳng định ông mà thôi. Một lần trong lúc cà phê “cà pháo”, tôi nửa đùa, nửa thật hỏi ông: “Anh có buồn không khi bạn bè cùng thời...”, ông cười mà rằng: “Ai nghĩ sao thì tùy. Riêng mình, mình cảm thấy cuộc đời quân ngũ cho mình nhiều điều bổ ích, nhiều sự trưởng thành. Và mình đã cống hiến trọn đời trong màu áo lính một cách trọn vẹn, hết mình, không cảm thấy hổ thẹn với lương tâm. Hai chữ “lận đận”, có chăng là khi về hưu, họ không tính tuổi quân của mình lúc 13 tuổi đã cầm súng đánh giặc. Họ chỉ tính tuổi quân cho mình ở tuổi 16 (!)”.

Tôi không đồng ý với nhận định của ai đó, khi nói rằng “tướng quân sự” lại “lấn sân” sang lĩnh vực thơ ca làm gì cho “rách việc”. Đây chẳng phải là chuyện “lấn sân”, cũng không phải “cố” để có tác phẩm “đánh bóng” bản thân. Bởi văn chương có “cố” cũng chẳng được. Và với Thiếu tướng Trần Minh Hùng, tính cách Trần Minh Hùng, chẳng lấy việc mình làm thơ, viết văn để “đánh bóng” bản thân làm gì, bởi chính con ngươi ông, bề dày công tác của ông đã nói lên tất cả. Trần Minh Hùng làm thơ, viết văn như tôi đã nói ở phần đầu, đấy là sự giải thoát và cả để tri ân đồng chí, đồng bào, để động viên bộ đội. Sẽ quý biết bao, sẽ hơn ngàn vạn lần những lời động viên suông, khi hình ảnh một đơn vị quân đội đóng quân ở một cánh rừng hẻo lánh, được chính thủ trưởng cấp trên của mình chụp ảnh, viết bài đăng báo. Nhân văn là đấy, tài cầm quân cũng từ những việc tưởng là “nhỏ nhặt”, tưởng là “lấn sân”, tưởng là “rách việc” ấy...

Một vài dòng về Thiếu tướng Trần Minh Hùng khi được đọc những tác phẩm của ông. Tôi không dám nhận xét, lại càng không dám đánh giá, bình luận gì. Tôi chỉ có một cảm nhận rằng, con người ông là vậy, việc gì cũng năng nổ, việc gì đã làm là làm tới nơi tới chốn, làm cho bằng được, làm có hiệu quả. “Văn” trong tướng “Võ” quý biết chừng nào.

Đà Nẵng, ngày 28 tháng 9 năm 2010


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 05:59:09 pm
CHUYỆN TRÒ CÙNG VỊ TƯỚNG LÀM THƠ

Nhà thơ LÊ ANH DŨNG
                                                                                                                 
(Bài đăng báo Công an thành phố Đà Nẵng
ngày 2-6-2007)

Đến nay, Thiếu tướng Trần Minh Hùng, Phó Tư lệnh Quân khu 5 đã gần 60 tuổi đời, hơn 40 tuổi quân. Từ vùng quê biển Hà My (Điện Dương, Điện Bàn, Quảng Nam) xinh đẹp và thơ mộng nhưng bị kẻ thù xâm lược giày xéo, năm 1963, người thanh niên Trần Minh Hùng xung phong vào quân ngũ.

Dường như thời ấy, với hào khí yêu nước, hào khí cả dân tộc ra trận, hành trang ra trận của các anh, trong chiếc ba lô ấm áp quân tư trang, thư từ, không thiếu cuốn nhật ký chép thơ, sáng tác thơ, dẫu là thơ “con cóc”. Cũng bởi thế anh Hùng tập tành làm thơ, hát thơ phục vụ cách mạng.

Thấm đẫm chất dân ca bài chòi Khu 5, thơ ông viết ra không để mong được đăng báo, mà dành riêng cho mình, để trong đáy balô, đôi lúc muốn tỏ bày, thì đọc lên cho đồng đội nghe. Thời đánh giặc, trên tất cả các chiến trường Khu 5, Quảng Trị, rồi nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn... ông đều làm thơ, đồng đội thuộc thơ ông. Thời bình, thơ ông vẫn “vang mãi khúc quân hành” ngợi ca tình đồng chí, đồng đội, tình quê hương, tình mẹ, tình chị, tình em với dòng chảy chân thành, mộc mạc - đó là thứ tinh đã chưng cất qua bao khốc liệt của chiến tranh, thiên tai, bão lũ và qua chiêm nghiệm của thời gian.

Ông làm thơ cập nhật như việc nhà binh. Vừa mới tặng tập Một quãng đời tôi còn thơm mùi giấy, tôi chưa kịp đọc hết, ông đã gửi tiếp bản thảo tập thơ Biếc xanh màu lá nhờ tôi góp ý. Cầm trên tay bản thảo, tôi ngạc nhiên, rồi sửng sốt trước sức sáng tạo cường tráng của ông.

Bản thảo đã được cấp giấy phép xuất bản, tôi xăng xái nhờ người trình bày bìa, rồi chạy sang Công ty cổ phần in và dịch vụ Đà Nẵng kiểm tra, rồi vội vàng báo cáo kết quả công việc mà Thiếu tướng ủy nhiệm. Ông lại đương công tác trên địa bàn quen thuộc Tây Nguyên, tôi đành “phỏng vấn” qua... điện thoại.

- Là một người lính kinh qua nhiều cuộc chiến tranh, xông pha nhiều trận mạc, Thiếu tướng đến với “nàng thơ” từ khi nào?

- Từ năm 1963, ngay từ lúc đặt chân vào quân ngũ, tôi đã làm thơ rồi. Hồi đó tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng kẻ thù, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, thơ tôi cũng nằm trong ý thức đó. Thơ hay, dở chưa cần bàn, miễn sao có nhiều đồng đội, đồng chí, đồng bào đồng tình, ủng hộ dễ nhớ, dễ thuộc, thôi thúc yêu thương, thôi thúc căm thù, thôi thúc hành động là tốt rồi.

- Nhưng thơ vẫn là thơ, nó như men rượu, men tình, “chưa mưa đà thấm, chưa nhấm đà say”.

- Đúng thế, bây chừ, qua vài tập thơ, anh em bạn bè, đồng đội, rồi các văn nghệ sĩ góp ý, phê bình, mình cũng phải cố gắng vượt qua chính mình, phải sàng lọc, nâng cấp thơ mình lên để khỏi rơi vào văn vần, ca dao. Có men tình thì thơ mới say, mới hay.

- Ngoài thế mạnh là chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang, ông tâm đắc đề tài gỉ trong đời sống hiện nay?

- Là cội nguồn dân tộc, bản sắc văn hóa, là nơi chôn nhau cắt rốn của mình, là mẹ, là chị, là em, là cái đẹp, là tình yêu...

- Hành trang của người chiến sĩ không thể thiếu văn hóa, văn nghệ, trong đó có thơ ca. Theo Thiếu tướng, làm thế nào để ngày càng có nhiều cán bộ, chiến sĩ đọc thơ, mê thơ và sáng tác thơ?

- Tôi nghĩ, từ khi có cuộc sống, có tình yêu, thì loài người đã có thi ca. Đời lính với điều lệnh, điều lệ, kỷ luật nghiêm túc, nền nếp chính quy, tác phong “có lệnh là đi” nếu không có thì ca lãng mạn, chắp cánh ước mơ, bồi đắp tâm hồn..., thì không khéo trở thành người máy. “Đầu súng” cần có “trăng treo”. Để bộ đội thích đọc thơ, yêu thơ, mê thơ, theo tôi cần có nhiều nhà thơ, nhiều nhà thơ mặc áo lính làm thơ hay đi sâu vào ngõ ngách tâm tư, tình cảm, khát vọng của dân tộc, của người lính. Người lính cũng tìm đọc những cái mình thiếu để bồi bổ, nâng cao tâm hồn mình. Trong xây dựng môi trường văn hóa quân đội, những phòng Hồ Chí Minh, phòng đọc sách, tủ sách đại đội, văn hóa văn nghệ thao trường, các tờ báo tường, báo liếp, giao lưu thơ nhạc, đêm thơ chiến sĩ, các chương trình “Chiến sĩ làm thơ”, “Chiến sĩ bình thơ”, “Chiến sĩ nghe thơ”... cũng góp phần “thơ hóa” cho bộ đội. Tùy theo hoàn cảnh, điều kiện của các đơn vị, lãnh đạo, chỉ huy nên mở rộng quan hệ, mời các nhà thơ trong và ngoài quân đội vào đọc thơ, giao lưu thơ với bộ đội. Riêng tôi, có hứng chí làm thơ. Thơ là đứa con tinh thần của mình, là cái riêng của tâm hồn mình, là hương hoa của đời sống người lính. Nhờ có “nàng thơ” luôn cặp kè bên mình, tâm hồn tôi được thăng hoa hơn, có ý nghĩa hơn, cuộc sống quân ngũ đáng yêu hơn.

- Cảm ơn Thiếu tướng, chúc ông có nhiều bài thơ mới, nhiều bài thơ hay! Nếu có thể được, xin ông đọc cho nghe một bài thơ mới viết.

- May quá, mình mới vừa sáng tác xong. Đọc ngay nhé, có gì biên tập giùm: Mỗi lần về lại Tây Nguyên / Nhịp xoang nghiêng phía nỗi niềm phận duyên / Việc quân xong, nhớ việc riêng / Mặt trời xuống núi biết tìm em đâu?


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 06:00:40 pm
MẢNH ĐẤT NUÔI ANH THÀNH DŨNG SĨ

HỒNG VÂN
                                                                                                                                        
(Bài đăng báo Quảng Nam,
ngày 12, 13-12-2009)

Thiếu tướng Trần Minh Hùng, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 5 là người con của làng Hà Quảng, xã Điện Dương, Điện Bàn, Quảng Nam. Mảnh đất nằm giữa sông và biển, giữa là bãi cát dài và hẹp quanh năm rì rào sóng gió đã thổi vào tâm hồn anh tình yêu quê hương, đất nước đắm say, nâng bước anh đi suốt cuộc đời binh nghiệp, từ người lính trở thành dũng sĩ diệt Mỹ, từ con một người đánh cá nghèo trở thành tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, từ dăm chữ học được ở trường làng trở thành người làm thơ không chuyên, tác giả của hàng trăm bài thơ đầy xúc cảm...

Nhà văn Lép Tônxtôi đã từng nói với sự cường điệu cố ý rằng tất cả những tri thức thu thập được trong quãng đời về sau của ông thì chẳng có gì quan trọng hơn so với những gì ông đã hiểu biết được trong thời thơ ấu. Trần Minh Hùng có lẽ thế. Anh chịu ảnh hưởng của gia đình và tuổi thơ nhọc nhằn mà sôi động, lòng yêu nước, bất khuất có trong huyết quản về cụ tổ từng tham gia phong trào Cần Vương bị giặc Pháp hành hình. Nhà làm biển, đông con, quanh năm túng thiếu nhưng cha mẹ anh vẫn chắt chiu cho anh đi học. Những cái chữ đôi khi rướm máu vì những hình phạt nghiêm khắc của ông giáo khả kính đã giúp anh hiểu rõ hơn giá trị của sự học, khám phá bao điều mới mẻ về thế giới xung quanh, về chí làm trai khi quê hương bị địch giày xéo.

13 tuổi, cậu bé Trần Minh Hùng hăm hở theo các anh chị rải truyền đơn, làm giao liên, tham gia biểu tình, ném lựu đạn vào đội hình địch, rồi được làm thành viên nhỏ nhất của Đội công tác Đ.64. 15 tuổi, đánh trận đầu tiên cùng R.20 Quảng Đà, trở thành dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt máy bay khi còn rất trẻ, 22 tuổi đã là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 anh hùng, một trong những đơn vị chủ lực góp phần giữ vững Thành cổ Quảng Trị lịch sử, rồi tiếp tục tiến lên mặt trận Tây Nguyên. Đất nước hoàn toàn giải phóng, anh có mặt trong đội hình Trung đoàn 95 bảo vệ biên giới Tây Nam, tham gia giải phóng Campuchia khỏi nạn diệt chủng, làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 307, Sư đoàn 2, Tham mưu phó Quân khu 5, Phó Tư lệnh Quân đoàn 3, Cục trưởng Cục Quân huấn - Bộ Quốc phòng, Phó Tư lệnh Quân khu 5. Mảnh đất Hà Quảng, với những con người “ăn sóng nói gió” hào phóng như biển trời; nuôi dưỡng tố chất ở anh, một người chỉ huy mạnh mẽ, táo bạo, lập nhiều chiến công nhưng cũng chính sự khẳng khái ấy ít nhiều làm cuộc đời binh nghiệp của anh gặp thăng trầm. Có điều anh chẳng lấy đó làm buồn. Dồn hết tâm huyết vào nhiệm vụ, những mảng công tác quân sự anh đảm nhiệm bao giờ cũng được thực hiện sâu sát, quyết liệt. Bàn chân anh có luôn đồng hành cùng người lính trên thao trường huấn luyện, bão lụt, về biên giới, hải đảo xa xôi, nêu tấm gương người cán bộ miệng nói tay làm, hết mực thương yêu chiến sĩ.

Bận bịu việc quân nhưng anh vẫn dành thời gian làm thơ và đã lần lượt xuất bản 4 tập: Biếc xanh màu lá, Dáng núi, Mẹ ơi, tập nhạc Khúc tình ca. Đó là chưa kể tập hồi ký Một quãng đời tôiKý ức chỉ huy. Thơ anh là nhật ký chiến trường, cùng anh lưu giữ bao kỷ niệm trong cuộc đời quân ngũ. Anh nói rằng, chính mảnh đất quê nghèo đã cho anh ngọn nguồn yêu thương và cảm xúc vô tận, cho anh tâm hồn lãng mạn cách mạng. Đó là tình cảm kính trọng về người cha liệt sĩ một lòng sắt son với nước, về người mẹ tuyệt vời “Nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng / Biết hy sinh nên chẳng nói nhiều lời”, về người bạn đời cùng làm du kích lúc thiếu niên với bao buồn vui nhung nhớ: “Ai đi xa, đi thật xa / Lòng vẫn nhớ quê nhà, nhớ lắm / Nhớ sông Thu soi bóng dừa xanh thắm / Nơi đó có mối tình cháy bỏng tim ta” (Quê hương).

Một chị y tá Xuân Mai bên sông Thu chăm sóc anh trong những ngày ở R.20, sau đó hy sinh trên đường làm nhiệm vụ khiến anh nhớ thương, day dứt suốt mấy mươi năm. Một chiến sĩ quân tình nguyện trẻ măng, ngã xuống khi vừa xung trận hay hình ảnh mẹ Việt Nam Anh hùng K’so H’rú ở Gia Lai ôm chầm hài cốt con mình vừa tìm được, ôm cả màu cờ Tổ quốc vào lòng... đều làm anh xúc động khôn xiết.

Có lần khi chưa cấm đốt pháo, anh vào Ủy ban nhân dân xã Điện Dương xin đốt dây pháo nhỏ bên mộ cha mình ở nghĩa trang liệt sĩ. Lãnh đạo xã thật sự bất ngờ khi một sĩ quan cao cấp quân đội mà vẫn khiêm nhường đến vậy. Anh lại nghĩ khác. Dù cấp bậc gì anh vẫn là người con của quê hương và làm được gì cho địa phương là anh sẵn sàng. Anh vui mừng trước bước phát triển vượt bậc của xã. Hàng năm vào dịp Tết Nguyên đán, anh luôn về thăm, tặng quà Ủy ban nhân dân xã, đóng góp ý kiến về kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, nhất là trong công tác quân sự địa phương. Anh nói chuyện truyền thống với thanh niên sắp lên đường tòng quân, tặng sổ tiết kiệm cho gia đình nghèo, neo đơn; tự nguyện đóng góp tiền để xây dựng các công trình nhà văn hóa thôn, đình làng, các quỹ khuyến học. Còn nhớ trận bão số 6-2006, xã bị thiệt hại nặng nề, anh cùng đoàn cán bộ Quân khu về kiểm tra, kịp thời huy động lực lượng bộ đội giúp dân sửa chữa hàng trăm ngôi nhà, trường học, giúp bà con ổn định cuộc sống. Với cấp ủy, chính quyền huyện Điện Bàn, nhiều năm nay, Thiếu tướng Trần Minh Hùng đã trở nên rất quen thuộc. Những ngày lễ tết, sự kiện chính trị của địa phương, anh luôn có mặt, cùng với hơn chục vị tướng lĩnh khác của huyện tham gia đóng góp ý kiến phát triển kinh tế, giáo dục truyền thống. Em trai anh, Đại tá Trần Minh Chín, Trưởng phòng Cán bộ Quân khu cũng là người tâm huyết với quê. Vợ và hai con trai anh; vợ, hai con trai của anh Chín đều là bộ đội. Anh trai Trần Minh Thọ từng là xã đội trưởng thời chống Mỹ, cứu nước, sau này là Bí thư Đảng ủy xã Điện Dương, đã nghỉ hưu, cháu trai Trần Minh Hoàng nay là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Đại gia đình của anh đã thực sự là vốn quý của địa phương.

Ra đi lúc tuổi thiếu niên, lúc về tóc nhuộm màu sương gió, quê hương vẫn là điểm tựa, là niềm vui để anh được chở che. Có lẽ thế mà gần tuổi lục tuần, người ta thấy Thiếu tướng Trần Minh Hùng vẫn rất trẻ và vẫn bóng bẩy, chỉn chu trong ăn mặc như xưa. Trên bàn làm việc của anh, có cuốn sổ dành cho thơ, trong đó có rất nhiều bài đang hoàn chỉnh về mảnh đất đã sinh ra mình. Nhưng câu thơ anh thích nhất, được ghi trang trọng trong tập hồi ký “Một quãng đời tôi” lại là câu thơ của Đỗ Trung Quân: “Quê hương nếu ai không nhớ/Sẽ không lớn nổi thành người”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 06:05:48 pm
THỜI HOA LỬA

NGUYỄN SỸ LONG
                                                                                                                               
(Bài đăng báo Quân đội nhân dân
ngày 28-5-2010)

Nhà xuất bản Quân đội nhân dân vừa ra mắt bạn đọc cuốn “Thời hoa lửa” của Thiếu tướng Trần Minh Hùng, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 5.

Cuốn sách là tâm sự của một vị tướng đã kinh qua cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc; làm nhiệm vụ quốc tế; xây dựng quân đội trong thời kỳ mới. Cũng là đề tài chiến tranh, nhưng Thiếu tướng Trần Minh Hùng có lối viết rất khác, lối viết của người không chuyên đã trực tiếp cầm quân đánh giặc. Vì thế, đọc “Thời hoa lửa” độc giả sẽ hiểu sâu hơn về trận đánh bẻ gãy chiến dịch “Tám thơm” của địch mà cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn R20 (Bộ đội Quảng Nam) là những người trực tiếp chiến đấu và tình cảm nhân dân dành cho đơn vị: “Tiểu đoàn 1 - R20 đang ở đâu mà chẳng thấy về diệt bọn Mỹ cho bà con rảnh tay chặt mía hè”. Sự đằm thắm, hóm hỉnh của người lính chiến cũng được ông phác họa qua câu nói: “Nếu Mười gọi Bảo bằng anh, Bảo sẽ giới thiệu đứa em út của đại đội làm em trai Mười, đồng ý chứ”.

Trò chuyện với một số bạn đọc, Thiếu tướng Trần Minh Hùng không giấu nổi xúc động: “Tôi muốn mọi người cảm nhận sự gian khổ ác liệt của chiến trường Trị Thiên bằng câu chuyện của người trong cuộc, chia sẻ nỗi đau trước sự hy sinh của đồng đội”. Đó là những khó khăn, gian khổ khi tổ chức bến vượt Nhan Biều qua sông Thạch Hãn, chiến đấu giữ vững Thành cổ Quảng Trị... Nhiều bạn đọc đã không cầm được nước mắt trước cảnh tượng: “Khi hai chúng tôi vừa đến đầu cầu sắt phía Bắc thị xã Quảng Trị để hướng dẫn xe vào khu vực giao hàng, bỗng từ hướng Đông máy bay C130 thả trải pháo sáng rực cả khúc sông Thạch Hãn, rồi lao xuống chặn đầu đoàn xe, lửa cháy ngút trời, tiếng kêu xao xác, đất đá văng tứ tung. Tôi vội nhảy xuống công sự bên đường để tránh, cùng lúc anh Quang đè lên người tôi. Một mảnh bom oan nghiệt găm thẳng vào lưng anh, tôi gượng dậy băng bó, nhưng do vết thương quá nặng, anh đã ra đi mãi mãi”. Tất cả được gói gọn trong chương hai “Trị Thiên thời hoa lửa”.

Đất nước hòa bình, ông lại rong ruổi trên “Dặm dài những nẻo biên cương” để chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế. Những câu chuyện mà Thiếu tướng Trần Minh Hùng ghi lại đặc biệt gây xúc động như “Cái vỏ đạn” khi đơn vị ông thực hiện nhiệm vụ tiễu trừ quân Pôn-pôt...

Khác với các nội dung trước, chương ba “Trên thao trường huấn luyện” là những kinh nghiệm được ông đúc rút trong chỉ đạo, tổ chức huấn luyện chiến đấu, xây dựng quân đội thời kỳ mới. Đọc “Thời hoa lửa”, độc giả còn bắt gặp một tình yêu quê hương, đất nước tha thiết của người con, người chiến sĩ đã chiến đấu trên suốt rẻo biên giới của đất nước. Đồng thời, tác phẩm cũng cung cấp cho người đọc một cái nhìn vừa tổng thể, vừa tỉ mỉ về cuộc sống của các xã vùng biên giới Tây Nguyên.

Tâm sự trong buổi giới thiệu tác phẩm, Thiếu tướng Trần Minh Hùng giãi bày: “Tôi viết cuốn sách này để dâng tặng quê hương và đồng đội nhân dịp kỷ niệm 35 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước”.


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 06:42:55 pm
(https://i.imgur.com/vauHDp8.jpg)

(https://i.imgur.com/5iPNUNb.jpg)

(https://i.imgur.com/U9zGzoV.jpg)

(https://i.imgur.com/JCtc7cV.jpg)


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 06:44:32 pm
(https://i.imgur.com/8oppiSW.jpg)

(https://i.imgur.com/aPySIWZ.jpg)

(https://i.imgur.com/6mKRLIx.jpg)

(https://i.imgur.com/uy9rf2H.jpg)


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 06:45:56 pm
(https://i.imgur.com/9dQzqq3.jpg)

(https://i.imgur.com/pnxE6J7.jpg)

(https://i.imgur.com/O96HVst.jpg)

(https://i.imgur.com/2D3Hkq1.jpg)


Tiêu đề: Dấu chân trên cát - thiếu tướng Trần Minh Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2022, 06:47:17 pm
(https://i.imgur.com/TwYuZ8J.jpg)

(https://i.imgur.com/BD5LWM1.jpg)

(https://i.imgur.com/VfQgzUN.jpg)

(https://i.imgur.com/EIxzQ8t.jpg)