Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Chín, 2022, 07:54:11 am



Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Chín, 2022, 07:54:11 am
- Tên sách: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
- Tác giả:
- Nhà xuất bản: Hải Phòng
- Năm xuất bản: 2003
- Người số hóa: macbupda, dungnuocgiunuoc


* Điều hành nội dung biên soạn:
VÕ AN ĐÔNG       ĐT: 031.701040
ĐÀO NGỌC QUẾ       ĐT: 031.838558
NGUYỄN HUY TRƯỜNG    ĐT: 031.876862

* Cộng tác viên:
NGUYỄN ĐỨC NHIẾP
HOÀNG VĂN CƯƠNG
ĐÀM MINH
MAI THỊ PHÚC

* Đại diện ở Kiến An:
NGUYỄN VĂN HẢI

* Đại diện ở Hà Nội:
VŨ XUÂN HÒA

* Đại diện ở Hải Dương:
PHẠM BÁCH
NGUYỄN ĐÌNH MẬU
DOÃN THẾ LÂN

* Đại diện ở Hưng Yên:
NGUYỄN NGỌC KHẢI ĐT: 0321. 862355


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Chín, 2022, 07:54:46 am
CHI HỘI LỊCH SỬ QUÂN SỰ HẢI PHÒNG
TỔ CHỨC DÂNG HƯƠNG ANH HÙNG DÂN TỘC NGÔ QUYỀN


Ngày 15-2-2003, được sự hỗ trợ của Thành hội Khoa học lịch sử và Phòng di tích lịch sư Bảo tàng Hài Phòng, Chi hội lịch sử quân sự gồm 50 hội viên và các vị đại diện một số đình có thờ Ngô Quyền đã trang trọng tổ chức lễ dâng hương và trao đổi, ôn lại chiến công oanh liệt xưa của vị anh hùng dân tộc Ngô Quyền tại đình Hàng Kênh thuộc quận Lê Chân.


Một hồi chiêng, trống mở đầu buổi lễ. Các đại biểu đứng nghiêm và lần lượt vào dâng hương trước ban thờ; buổi lễ tiến hành uy nghi nhưng rất đơn giản, nhanh, gọn.

Sau đó, ông Ngô Đăng Lợi, chủ tịch Hội sử Hải Phòng giới thiệu thân thế, sự nghiệp, chiến công lịch sử đánh thắng quân Nam Hán tại sông Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938 của vị anh hùng dân tộc Ngô Quyền. Chiến công này có ý nghĩa đã chấm dứt 1000 năm dân ta phải tủi nhục sống dưới chế độ Bắc thuộc và mở ra kỷ nguyên độc lập, tự chủ của đất nước Ngô Quyền đã dám xưng vương ngang hàng với vua nước Tàu ở phương Bac biểu thị ý chí độc lập, tự chủ rất cao.


Công đức của Ngô Quyền đã được sử sách ghi rõ, nhưng ở đất Hải Phòng, từ lâu đời dân ta đã dựng lên khoảng 30 đình ở các làng để cung kính thờ phụng vị anh hùng dân tộc này. Dưới chế độ ta hiện nay để tưởng nhớ, giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ, cũng đã có 1 quận mang tên Ngô Quyền, trường học Ngô Quyền, công ty Ngô Quyền, v.v...


Tiếp theo, Phòng di tích lịch sử Bảo tàng, đại diện Hội sử Hải Phòng giới thiệu kiến trúc cổ của đình Hàng Kênh.

Các đại biểu dự buổi dâng hương và trao đổi đều có nguyện vọng sẽ tìm hiểu sâu hơn nửa công đức của Ngô Quyền, đều nhận định lễ lổ chức dâng hương này về tâm linh có hiệu quả sâu sắc.

Cũng có ý kiến mong Thành hội lịch sử, Chi hội lịch sử đề nghị với sở Văn hóa Thông tin và lãnh đạo thành phố cho phép hội đủ các địa phương có thờ Ngô Quyền tổ chức lễ dâng hương và trao đổi ý kiến tương tự.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Chín, 2022, 07:56:29 am
A- CÁC BÀI VIẾT VỀ HẢI PHÒNG

TỪ NGHỊ QUYẾT 24 CỦA THƯỜNG VỤ THÀNH ỦY HẢI PHÒNG ĐẾN CHỈ THỊ 100 CỦA BAN BÍ THƯ TRUNG ƯƠNG VÀ NGHỊ QUYẾT 10 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ KHOÁN TRONG NÔNG NGHIỆP"1
(Đầu đề bài do Ban biên tập tự đặt)


ĐOÀN DUY THÀNH
(Chủ tịch Phòng TM và CN Việt Nam,
nguyên ủy viên Trung ương Đảng nguyên Phó thủ tướng Chính phủ,
nguyên Bí thư Thành ủy Hải Phòng)

Trích từ tác phẩm: "Đảng lãnh đạo kinh tế và đảng viên làm kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ".
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2002, trang 12 - 21.


Từ sau khi miền Bắc được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân Pháp cho đến khi giải phóng miền Nam, chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược, với 10 năm thống nhất đất nước, cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội (1954 - 1985), Đàng lãnh đạo nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Qua 30 năm ấy, tình hình kinh tế nước ta đã diễn ra như thế nào?


Bắt đầu là cuộc cải cách dân chủ, trước hết trong nông nghiệp mà chúng ta gọi là "cải cách ruộng đất". Mục đích cuộc cải cách này là đem lại ruộng đất cho dân cày, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của nông dân từ ngàn đời nay là "người cày có ruộng" nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển sản xuất, phá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến nông thôn, xóa giai cấp địa chủ, phú nông, tạo cho lực lượng sản xuất nông nghiệp bung ra để giải quyết vấn đề lương thực, tạo điều kiện cho nông dân làm giàu. Nhưng do nóng vội, muốn đưa nhanh quan hệ sản xuất mới vào nông nghiệp để thu hút đông đảo nông dân vào làm ăn tập thể một cách vội vàng, mệnh lệnh, trong khi trình độ quản lý của ta rất kém, công cụ sản xuất chủ yếu là thủ công, con trâu cái cày; sau này có một số máy cày nhập ngoại... Nhưng do không biết quản lý cùng với tệ tham nhũng phát sinh, nên câu nói: "Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà" đã trở thành câu ví von trong dư luận xã hội, còn lao động trong hợp tác xã thì rong công, phóng điểm, ngày công không đáng là bao, có nơi chỉ có 150g thóc/ngày công. Cán bộ quản lý hợp tác xã làm ít hưởng công nhiều, làm cho hợp tác xã ngày càng nghèo, nông dân không phấn khởi sản xuất. Nhiều câu ca dao lưu truyền trong nồng thôn phê phán cán bộ xã, hợp tác xã thời đó như: "Mỗi người làm việc bằng hai. Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe", "Mỗi người làm việc bằng ba. Để cho chủ nhiệm xây nhà, xây sân"...


Từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, với bộ máy cồng kềnh, sản xuất không hiệu quả, sau khi thống nhất đất nước, tổ chức bộ máy càng phình to. Do hậu quả chiến tranh kéo dài, Nhà nước phải ban hành nhiều chính sách ưu tiên ưu đãi mà hiệu quả kinh tế không cao, sản xuất không phát triển, nông nghiệp vẫn đình đốn do cơ chế quản lý hợp tác xã kiểu cũ, công nghiệp củng không phát triển… Nền kinh tế hoạt động theo cơ chế mệnh lệnh, chỉ huy bao cấp, làm được bao nhiêu đều được phân phối theo giá thấp hơn giá thành, hoặc có lãi không đáng kể. Do đó, nền kinh tế hầu như không có tích lũy; chu kỳ sản xuất sau ngân sách Nhà nước lại phải bù cho doanh nghiệp mới có thể sản xuất được một lượng hàng hóa như chu kỳ trước ít thấy có doanh nghiệp chu kỳ kế hoạch sau tăng hơn chu kỳ trước; còn kế hoạch Nhà nước có tăng hàng năm bao nhiêu phần trăm còn lệ thuộc vào Liên Xô và các nước anh em viện trợ cho vay nhiều hay ít. Bởi vậy, trước khi lập kế hoạch hàng năm, khoảng quý III năm trước, Nhà nước ta đã phải cử các phái đoàn sang các nước anh em đàm phán, xem họ cho vay và viện trợ được bao nhiêu, khi có kết quả cụ thể ở trong nước mới làm kế hoạch cho năm sau... Vì thế trong thời gian đó mới có câu nói cửa miệng là "ông Nghị vác bị đi xin..."1 (Đồng chí Lê Thanh Nghị là một nhà cách mạng lớn của Đảng và Nhà nước ta, nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, người ký Chỉ thị số 100/BBT tháng 1-1981 cho mở rộng khoán sản phẩm trong toàn quốc). Đồng chí Lê Thanh Nghị là người kiên nhẫn ít nói, chịu đựng gian khổ, có lần sang Liên Xô, một đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chú tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô tiếp và có nói: Đồng chí Việt Nam cần những gi thì nói thôi... Nhưng anh Nghị vẫn nói đầy đủ những vấn đề mình chuẩn bị, nói hàng tiếng đồng hồ, phía Liên Xô nếu chưa đáp ứng đúng yêu cầu, thì anh Nghị xin gặp cấp cao hơn nhằm bảo đảm đủ số lượng đã dự kiến từ ở nhà. Một câu chuyện do đồng chí Phạm Hùng, nguyên Thủ tướng Chính phủ kể với tôi: "Anh Nghị không những là cán bộ lãnh đạo có tâm huyết, mà còn là người đồng chí rất kiên cường trước kẻ thù. Khi bị Pháp giam tù ở Côn Đào với tôi, mỗi khi xếp hàng vào san (salle) tù để ngủ, bọn cai ngục dùng dùi cui đánh đập anh em, anh Nghị bao giờ cũng đi sau cùng, đi rất đàng hoàng, không bao giờ chạy, xô đẩy anh em, địch càng đánh anh Nghị càng đi chậm rãi, không ngó qua ngó lại, cứ bình tĩnh đi bình thường như không có việc gì xảy ra".


Những con người như thế, khi nước mất nhà tan, khi bị tù đày, phẩm giá con người bị chà đạp, đã đem dũng khí của mình để đáp lại đòn tra tấn dã man của quân thù; khi đất nước vắng bóng quân thù thì phụ trách kinh tế, lúc chưa tìm được cách làm như thế nào để đạt hiệu quả, cho dân được ấm no, thì nhẫn nhục kiên trì đi xin viện trợ để có nguyên liệu sản xuất, phục hồi kinh tế, xây dựng kinh tế, có gạo, có mì cho dân, ăn...


Tôi nhớ thời kỳ anh Nghị chuẩn bị ký Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, anh đã xuống Hải Phòng kiểm tra tình hình sản xuất nông nghiệp, xem thực tế của Hải Phòng ra sao, anh nghe báo cáo rất tỉ mỉ. Anh em chúng tôi có 4 người, gồm anh Hữu Thọ, anh Chương - Phó Văn phòng Trung ương, anh Hồng Chương chuyên viên và tôi viết dự thảo Chỉ thị 100 cho Ban Bí thư. Anh Nghị rất thận trọng, xem đi xem lại từng chữ; sau khi Chỉ thị được thực hiện 6 tháng, anh Nghị gọi tội lên hỏi, Chỉ thị 100 thực hiện thế nào mà nhiều người nói quá! Chú xem có gì không mà họ kêu thế! Tôi báo cáo với Anh là, Anh yên tâm, mọi việc ở Hải Phòng đều tốt cả, vừa qua tôi có đi mấy tỉnh nông nghiệp, nông dân phấn khởi, sản xuất vui vẻ. Chị Thanh (phu nhân anh Nghị) nói chen vào: "Anh ở trên này lo lắm, cứ bảo gọi chú lên hỏi xem sao, chắc hôm nay nghe chú báo cáo Anh yên tâm...". Năm 1989, Việt Nam xuất khẩu 1,6 triệu tấn gạo, tôi là Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, ký xuất khẩu chuyến gạo đầu tiên, tôi đến báo cáo anh Nghị (lúc này Anh đã nghỉ, sức khỏe đã yếu), Anh phấn khởi lắm! Nhưng Anh rưng rưng nước mắt, tôi nghĩ chắc Anh xúc động lắm, thấy đất nước không phải đi chạy ăn từng bữa, hết anh Nghị đi nước ngoài xin mì, anh Đỗ Mười chạy gạo trong nước, anh Đồng Sĩ Nguyên điều động phương tiên giao thông, điều động nơi thừa sang nơi thiếu hết sức vất vả - sang năm 1990 xuất gạo được nhiều hơn và cuối năm 1990, anh Lê Thanh Nghị của chúng ta qua đời. Một con người bị địch tra tấn không hề có tiếng kêu, không khai báo một lời có hại cho cách mạng, khi nghe dân no, có đủ lương thực thì khóc - người cộng sản là như thế đó...

Đảng ta, trước hết là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng lúc nào cũng vì nhân dân mà phục vụ.

Đặc điểm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ờ miền Bắc nước ta trước đây là vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa đấu tranh giải phóng miền Nam, cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ cực kỳ to lớn và khó khăn. Đó là thời kỳ Đảng ta phải vận dụng hai quy luật khác hẳn nhau, phía này thì xây, phía kia phải chống. Chỉ có trí tuệ Việt Nam mới bảo đảm được thắng lợi của cả hai chiến lược cách mạng đó. Nói như vậy không phải là ta tự kiêu về thành quả của mình, mà để biết mình biết người, tranh thủ thời gian, tranh thủ bè bạn năm châu bốn biển ủng hộ mình, phân hóa kẻ thủ, tạo thế tạo đà cả về chính trị, kinh tế, thực hiện lý luận bốn mũi giáp công, ba vùng chiến lược... để đi đến quyết sách cho giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong thời kỳ đó, Đảng ta xác định chính sách kinh tế ở miền Bắc phải làm gì, khu giải phóng miền Nam làm gì, và khu địch hậu làm gì... Đó là kế sách, phải thông minh mun lược, bảo đảm hậu cần cho chiến trường. Đó là những thời gian mà trí tuệ Việt Nam đã được phát huy cao độ và đã thắng lợi trước nhứng khó khăn, thử thách ác liệt nhất.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Chín, 2022, 07:57:14 am
Song, kinh nghiệm làm kinh tế của lịch sử để lại không nhiều. Tư tưởng "trọng nông, khinh thương" của cha ông để lại, cùng với việc tiếp thu lý luận Mác - Lênin duy ý chí và giáo điều đã ngẫu nhiên phù hợp với nhau, làm cho cuộc cách mạng ruộng đất vốn đơn giản, nhưng lại trờ nên rất phức tạp. Từ khẩu hiệu tả khuynh trước năm 1930 để lại: "trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" đến tư duy xóa bỏ giai cấp địa chủ, dù nam hay nữ, ngay cả một số địa chủ kháng chiến, đã hiến ruộng đất hay địa chủ kiêm công thương gia. Do đó, mặc dù Luật cải cách ruộng đất đều có chiếu cố đúng mức, nhưng đến khi thực hiện thì lại cho rằng, "hổ đực hay hổ cái đều ăn thịt người cả..." nên đã làm quá tả, dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, phải sửa sai vô cùng gian khổ. Bác Hồ phải đứng ra xin lỗi đồng bào, lại một tư tưởng lớn vì dân vì nước xuất hiện khi giải phóng được nửa nước, biết bao gian nguy để có ngày hạnh phúc. Người đáng được hưởng hạnh phúc đầu tiên lại là người phải gánh chịu lỗi lầm của tư tưởng tả khuynh, giáo điều, sao chép kinh nghiệm, xa rời thực tế, đem lại sự bất hạnh cho Người. Nhưng Người vẫn là Bác Hồ muôn vàn kính yêu của dân tộc vì Người là mẫu mực, thấy sai phải sửa, nói đi đôi với làm, nên sai lầm trong cải cách ruộng đất tuy rất nghiêm trọng nhưng lòng dân đã sớm yên vì Người nói sửa sai là sửa ngay. Đó cũng là điều chúng ta phải lấy đó răn mình, làm kinh tế phải sâu sát, phải tính toán hiệu quả. Vì tất cả đều là xương máu của đồng bào, đồng chí, là mồ hôi nước mắt của mọi thành viên trong xã hội.


Sai trước được sửa, thì sai sau lại đến. Nhưng lần này sửa sai sau nhẹ nhàng hơn, không như mức độ sai lầm trong cải cách ruộng đất, máu chảy đầu rơi; mà thực chất là ấu trĩ tả khuynh, làm mà không biết kết quả cụ thể ra sao! Với nỗi niềm lo lắng là phải làm ăn tập thể, phải cùng chung sức, chung lòng cùng làm, nghe ra ai cũng thấy hay và đều muốn theo điều mong ước tốt đẹp đó, nhưng còn hệ quả ra sao thì mọi người không ai biết trước được. Đó cũng là điều dễ hiểu, vì đã có mô hình nào đấu, mà vừa làm vừa tìm hiểu. Chúng ta đã sai lầm ở chỗ làm ồ ạt, không tuân theo quy định, nguyên tắc đã đề ra là: tự nguyện, cùng có lợi, dân chủ... Chúng ta nói không đi đôi với làm, muốn đốt cháy giai đoạn, mà lúc đó ai cũng cho là phải, cần tập trung nhanh tài sản, ruộng đất vào hợp tác xã để cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thời bấy giờ, chẳng ai dám nhận là tài giỏi, dù đã có người đi nghiên cứu nước bạn, nhưng khi về chỉ nói hay thì ai chẳng muốn! Đến khi nhìn thấy sản xuất không tăng, ruộng bỏ hoang hóa, lúa chín đầy đồng không ai ra gặt, đói thì cứ đói, khi hết viện trợ về lương thực thì ta mới thực sự tỉnh ngộ. Nhưng thấy rõ thực trạng đó là ở cấp cơ sở, còn trên tỉnh, thành phố, Trung ương thì lại có nhiều ý kiến, nhiều quan điểm khác nhau, không thống nhất cách giải quyết, từ đó mới sinh ra khoán chui khoán lủi để "tự cứu mình" khỏi chết đói.


Trước tình hình ngày càng khó khăn gay gắt, viện trợ lương thực hết, ngoại tệ để nhập lương thực không còn, những đồng chí lãnh đạo chủ chốt lúc đó là những nhà lý luận, nhà thực tiễn nổi tiếng nên dễ nhận thấy điều bất hợp lý và vô lý, vì một nước nông nghiệp lại không có gạo ăn, dân phải khổ sở, đã có người chết đói. Đó là những hình ảnh trực quan đau buồn, day dứt lương tâm nhưng nhà cách mạng lão luyện, mẫn cảm lúc bấy giờ để quyết tâm tìm ra những giải pháp mới để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.


Trong hoàn cảnh đó, tôi đã báo cáo với anh Ba (tên gọi thân mật của đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư lức đó) về khoán sản phẩm nóng nghiệp ở Hải Phòng. Anh Ba nghe 3 giờ đồng hồ. Sau khi tôi trình bày và phân tích, anh Ba đã đồng ý ngay và nói: "Đúng rồi, làm đi, làm đi, không phải hỏi ai nữa...". Nói lại câu chuyện này để chúng ta thấy tính nhạy bén, sáng tạo, minh mẫn của Tổng Bí thư của ta đến nhường nào! Nhưng tôi hiểu, trong lúc này (1979 - 1980), khi bàn định những quyết sách của đất nước là do ba đồng chí chủ chốt, là anh Ba, anh Năm (đồng chí Trường Chinh), anh Tô (đồng chí Phạm Văn Đồng) bàn bạc và quyết đinh, nhất là vấn đề hóc búa này. Tuy tôi đã biết, có lúc đồng chí Trường Chinh đã phê phán đồng chí Kim Ngọc - Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú (năm 1966) về khoán trong nông nghiệp, nhưng tôi nghĩ anh Trường Chinh cũng là nhà lý luận, nhà thực tiễn lớn đã vì dân vì nước mà làm cách mạng, nên tôi cứ mạnh dạn báo cáo với anh Trường Chinh (dù đã có ý kiến anh Ba), vì nếu anh Trường Chinh không đồng ý, cũng khó mở rộng ra cả nước. Nếu tôi cứ làm chui lủi, chỉ được một bộ phận nhân dân có gạo ăn, mà việc làm lại phi pháp. Từ suy nghĩ đó, tôi đã kiên trì báo cáo với anh Trường Chinh năm lần, và mời anh về Hải Phòng xem thực tế. Đến lần thứ 5 thì Anh không những chỉ đồng ý, mà còn động viên: "đồng chí đã nắm được thực tế, nắm được lý luận, đồng chí cố gắng làm để thành hiện thực cho cả nước...". Hai anh đã đồng ý rồi nhưng cũng có lúc anh Trường Chinh còn phân vân, có lần anh nói hơi gay gắt với tôi. Tôi lại đến báo cáo với anh Tô. Anh Tô rất chú ý lắng nghe, và hỏi tôi ý anh Ba và anh Trường Chinh thế nào, tôi báo cáo với anh Tô là anh Ba đồng ý rồi, anh Trường Chinh chưa trả lời, mới chỉ nghe tôi báo cáo và đi xem thực tế, tôi sẽ đến báo cáo tiếp với anh Trường Chinh. Anh Tô không nói gì, nhưng thái độ tỏ ra vui. Tôi nghĩ, anh Tô đã đồng ý, nhưng còn đợi ý kiến anh Trường Chinh để cho cả ba anh chủ chốt trong Bộ Chính, trị cùng đồng ý. Đó chính là thời kỳ đổi mới quyết định trong nông nghiệp để cho ra đời Chỉ thị 100 cua Ban Bí thư tháng 1-1981 và Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về khoán trong nông nghiệp mà ngày nay ta thường gọi là khoán 10.


Còn một tình tiết trong chỉ đạo mà tôi muốn nhắc đến đó là cuộc họp sơ kết khoán sản phâm trong nông nghiệp tới xã viên ở Hải Phòng và phổ biến Chỉ thị 100 của Ban Bí thư. Cuộc họp quan trọng này được tổ chức tại Hải Phòng do đồng chí Võ Chí Công - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng chủ trì hội nghị. Trong hội nghị này, cũng có đại biểu chưa thông với Chỉ thị 100, có những ý kiến nói ngược lại. Nhưng khi kết luận hội nghị, đồng chí Võ Chí Công nói: "Khoán là đúng rồi, các đồng chí đừng sợ, nếu khoán làm cho trời sụp đổ, tôi sẽ chịu trách nhiệm...". Trong những bước ngoặt lịch sử trong chiến tranh cũng như trong hòa bình xây dựng kinh tế, phải có những đồng chí dám quyết đoán như vậy mới đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng vượt qua được khó khăn, có lúc khắc nghiệt, nếu do dự kéo dài, chỉ khổ cho nhân dân, gây tổn thất cho cách mạng.


Lúc đó nếu không có sự thống nhất của ba đồng chí lãnh đạo chủ chốt, để dẫn đến sự thống nhất trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, mở đầu cho công cuộc đổi mới của Việt Nam chuyển dần sự chỉ đạo kinh tế của Đảng ta từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, sẽ có sự chậm trễ mà hậu quả sẽ không lường được. Nhất là sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ta không còn viện trợ về mọi mặt, đặc biệt là lương thực cho lực lượng vũ trang, cán bộ công nhân viên chức và lao động phi nông nghiệp thì tình hình nước ta sẽ ra sao?


Khi nền nông nghiệp bắt đầu chuyển đổi cơ chế quản lý thì Đảng và Nhà nước đã từng bước chuyển đổi cơ chế trong công nghiệp với 3 phần kế hoạch, dần dần làm cho sản xuất công nghiệp khôi phục và khởi sắc.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Chín, 2022, 07:58:01 am
VỀ NGHỊ QUYẾT SỐ 24-NQTU CỦA
BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ỦY HẢI PHÒNG


BAN BIÊN TẬP


Về Nghị quyết quan trọng này, trong cuốn "Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng tập 3 năm 1975 - 2000" do Nhà xuất bản Hải Phòng năm 2002, đã viết tóm tắt như sau:

Ngày 27-6-1980, Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng ra Nghị quyết số 24-NQTU về "Củng cố hợp tác xã nông nghiệp nhằm đấy mạnh sản xuất lương thực thực phấm". Nội dung chủ yếu của Nghị quyết là cải tiến quản lý trong các hợp tác xã nông nghiệp, thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, gắn trách nhiệm của người lao động đến sản phẩm cuối cùng.


Nghị quyết 24-NQTU ra đời là kết quả của gần một năm nghiên cứu thực tiễn trước yêu cầu cấp thiết đổi mới cách quản lý trong nông nghiệp của lãnh đạo thành phố và một số huyện.

Khoán sản phẩm tạo sự thống nhất giữa trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích của Nhà nước, tập thể và người lao động. Hình thức trả công lao động này phù hợp với nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng phân phối bình quân, định suất không hợp lý với đặc điểm sản xuất nông nghiệp trong điều kiện thủ công với điều kiện khả năng của kinh tế tập thể ở thời kỳ này của nước ta. Vì vậy nó đã phát huy cao tính tự giác trong lao động, nêu cao trách nhiệm cá nhân của người lao động với sản phẩm cuối cùng.


Cơ chế khoán mới tạo ra động lực lớn với ý nghĩa trao quyền làm chủ trực tiếp cho xã viên, tăng cường huy động các nguồn lực sẵn có, phát huy tác dụng trong sản xuất và đời sống ở nông thôn.

Việc thực hiện "Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động'' ở Hải Phòng được Trung ương và các địa phương trong cả nước chú ý. Trước nhưng suy thoái về kinh tế, trong đó có nòng nghiệp, từ thực tế Vĩnh Phú và Hải Phòng, Trung ương Đảng đã nghiên cứu rút kinh nghiệm và xây dựng cơ chế khoán mới trong công nghiệp. Ngày 18-1-1981, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị 100 CT/TW về: Cải tiến công tác khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp".


Tiếp đến, tháng 4-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10/NQTW về đổi mới quản lý nông nghiệp (thường gọi là khoán 10).

Theo phần phụ lục của cuốn "Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng", chúng tôi giới thiệu danh sách Ban Thường vụ của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa 7 (từ tháng 7-1979 đến tháng 1-1983) đã ra Nghị quyết 24-NQTU ngày 27-6-1980 như sau:

1   Bùi Quang Tạo   Bí thư Phó Bí thư
2   Đoàn Duy Thành   Phó Bí thư thường trực
3   Nguyễn Văn Bút   Ủy viên Thường vụ
4   Trần Thắng   - nt -
5   Hoàng Xuân Lâm   - nt -
6   Nguyễn Dần   - nt -
7   Lê Thành Dương   - nt -
8   Võ An Đông   - nt -
9   Trịnh Thái Hưng   - nt -
10   Nguyễn Mạnh   - nt -
11   Lê Danh Xương   - nt -

Theo Ban biên tập chúng tôi, vào thời điểm năm 1980 thì đồng chí Nguyễn Văn Bút đã về hưu trí và đồng chí Nguyễn Mạnh đã từ trần.

Chủ trì và nòng cốt ra Nghị quyết 24-NQTU là đồng chí Bí thư Bùi Quang Tạo và đồng chí Phó Bí thư Đoàn Duy Thành.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Chín, 2022, 07:59:30 am
ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP VỚI
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG HẢI PHÒNG

VÕ AN ĐÔNG
(Nguyên Tư lệnh BTL 350)


Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ xưa tới nay vẫn dành cho LLVT Hải Phòng một sự chăm sóc ân cần và một mối tình cảm đặc biệt.

Từ trước và trong thời chống Mỹ, có lẽ do vị trí đặc biệt trong phòng thủ bờ biển của quốc gia, nên đã được Đại tướng - Tổng Tư lệnh săn sóc nhiều tới lực lượng vũ trang Hải Phòng. Sau đây, với tư cách là Tham mưu trưởng, sau là Tư lệnh BTL 350 (HP), đã nhiều lần tiếp xúc, tôi xin kể lại một số sự kiện qua một số bút tích và hình ảnh lịch sử hiện vẫn còn do bản thân tôi hoặc nhà truyền thống của BCHQS Hải Phòng còn lưu giữ được để nói lên sự quan tâm và tình cảm của Đại tướng đối với LLVT Hải Phòng.


Từ trước năm 1965, Đại tướng xem đại đội 6, tiểu đoàn 8, trung đoàn 50 tập chạy toàn đại đội rất nhanh và có kỷ luật nên Người đã khen ngợi: "Đại đội chạy nhanh như gió". Từ đó, cho đến cả ngày nay, đại đội được mệnh danh là "Đại đội gió" vẫn luôn giữ truyền thống thể dục, thể thao. Ngày 20-11-2001, sau khi trung đoàn 50 được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Đại tướng lại đến thăm, nghe chỉ huy trung đoàn báo cáo tình hình đơn vị và tỏ ý khen ngợi trung đoàn từ thời chống Pháp và thời chống Mỹ đã lập nhiều chiến công, xứng đáng với danh hiệu Anh hùng mà Nhà nước vừa ban tặng.


Khoảng năm 1966, Hải Phòng bị máy bay Mỹ đánh phá ác liệt, đồng chí Đỗ Chính lúc đó là chính ủy BTL 350, đã hướng dẫn Đại tướng lên chòi cao để quan sát trận địa ở nội thành và nhận chỉ thị phải đánh trả máy bay địch và công tác phòng không nhân dân, giữ gìn tiềm lực của nhân dân và hết sức chi viện cho chiến trường miền Nam.


Trong 12 ngày đêm tháng 12 năm 1972, đế quốc Mỹ mở một trận tập kích chiến lược bằng không quân chủ yếu đánh vào Hà Nội và Hải Phòng, nhưng chúng đã bị thất bại rất nặng nề buộc phải ngừng ném bom vào ngày 30-12-1972, và đi đến ký kết Hiệp định Pa-ri vào ngày 27-1-1973.


Sau ngày 30-12-1972, Đại tướng đã về Hải Phòng để kiểm tra sẵn sàng chiến đấu. Đồng chí Đỗ Chính, chính ủy BTL 350, đã báo cáo trên bản đồ về kế hoạch và kết quả chiến đấu của lực lượng vũ trang trên địa bàn thành phố Bao cáo đại ý: Ngay từ khi bắt được tín hiệu địch sẽ bắn phá đêm 17-12 Ban quân sự Thành ủy đã hạ lệnh sơ tán khẩn cấp cho trên 10 vạn dân sơ tán ra khỏi nội thành và tất cả các lực lượng vũ trang phải ở tư thế sẵn sàng chiến đấu cao. Trong 12 ngày đêm, đêm và ngày nào địch cũng đánh phá (trừ đêm 25-12 là lễ Nôen), ác liệt nhất là đêm 19-12 và đêm 26-12-1972, chúng sử dụng cả máy bay B52 thả bom rải thảm trên đường 5, khu vực Thượng Lý, Sở Dầu và phố Trần Nguyên Hãn. Các lực lượng vũ trang của ta đã hiệp đồng chặt chẽ, bắn trả địch rất ròn rã, kết quả ta đã bắn rơi 17 máy bay (có 4 máy bay B52) trong tổng số 81 máy bay của cả Hà Nội và Hải Phòng trong suốt đợt và Hải Phòng đã bắt sống được một số giặc lái, đã kịp thời đưa giải lên Hà Nội trình diện tại cuộc họp báo có cả phóng viên nước ngoài, thiết thực góp vào cuộc đấu tranh ngoại giao, gắn chặt với đấu tranh quân sự. Về công tác phòng không nhân dân, thực hiện lệnh "sơ tán khẩn cấp" ngày 17-12, trước 1 ngày địch mở trận tập kích chiến lược công tác thông báo, báo động được kịp thòi đảm bảo cho cán bộ và dân sinh hoạt bình thường trong thòi chiến, công tác an ninh trật tự vẫn được duy trì tốt đẹp.


Về đảm bảo giao thông, thì nhờ có dự trữ từ trước các vật liệu cát, đá, sỏi nên ta đã san lấp các hố bom trên đường số 5, một thời gian vài hôm đã thông xe. Việc chống phong tỏa trên biển đã được lực lượng Hải quân, tự vệ của ngành đường biển và dân quân địa phương vẫn kiên trì rà phá thủy lôi, cơ bản đã thông luồng lạch, có thể đảm bảo tàu quốc tế ra vào Cảng sau khi ký hiệp định Pari.


Đại tướng tỏ ý khen ngợi quân dân Hải Phòng đã thiết thực hiệp đồng với Hà Nội, lập nên "Điện Biên Phủ trên không". Nhưng đồng chí cũng nhắc nhở miền Nam còn chưa được giải phóng nên miền Bắc trong đó có Hải Phòng còn phải lo chi viện đủ số lượng và chất lượng cho miền Nam. Đồng chí cũng chỉ thị một khi hiệp định Pari được ký kết thì Hải Phòng phải lo giải quyết hậu quả chiến tranh còn rất nặng nề và phải làm kinh tế kết hợp với quốc phòng đỡ gánh nặng cho đất nước.


Về Nhà khách thành phố, Đại tướng đã hội đàm với Bí thư Thành ủy là Trần Kiên. Ngoài việc chung ra, đồng chí Trần Kiên báo cáo một cách tự hào về sáng kiến lập ra Ban quân sự Thành ủy từ tháng 12-1965, do Bí thư Thành ủy trực tiếp làm trưởng ban. Ban quân sự Thành ủy về thực chất là cơ quan thường trực của Thành ủy về chỉ đạo chiến đấu và phục vụ chiến đấu, làm nhiệm vụ điều hòa và phối hợp với các đơn vị trên địa bàn. Ban quân sự đã phát huy tác phong rõ nhất trong đợt 12 ngày đêm vừa qua trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu.


Tiếp theo, Đại tướng đã cùng với BTL 350 xuống tại chân núi Cột Cờ (Kiến An) gặp mặt cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 14 pháo cao xạ, biểu dương đơn vị đã bắn rơi 2 máy bay Mỹ bảo vệ sân bay Kiến An, nhắc nhở đơn vị rằng miền Nam lúc đó còn chưa giải phóng, đơn vị phải sẫn sàng đợi lệnh đi chi viện chiến trường.


Sau đó, Đại tướng xuống tại trận địa pháo 100mm của trung đoản tự vệ Cảng Hải Phòng. Trong suốt cuộc chiến tranh phá hoại, hỏa lực của tự vệ Cảng Hải Phòng đã hòa cùng lưới lửa phòng không của thành phố, bắn rơi nhiều máy bay, đặc biệt trong 12 ngày đêm năm 1972, pháo cao xạ 100mm đã hiệp đồng với hỏa lực tầm cao của sư đoàn 363 bắn rơi một máy bay B52. Ngoài ra, cán bộ, công nhân, tự vệ Cảng đã ngoan cường rà, phá thủy lôi. Về sau này được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình khoa học "phá thủy lôi và bom tứ trường, từ năm 1965 đến 1972" và được tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".


Đến nay, Đại tướng, tuy đã thôi giữ trọng trách trong Đảng, Nhà nước và quân đội, song ảnh hưởng và uy tín của Người vẫn còn sâu đậm trong quân và dân ta, đặc biệt là đối với cán bộ chiến sĩ đường 5 và Hải Phòng vẫn luôn kính trọng và trìu mến vẫn coi Đại tướng vẫn là "Người anh cả của quăn đội nhân dân" như những ngày nào. Vì thế, tháng 8 năm 1998, Ban biên tập sách "Đường 5 anh dũng quật khởi” đã vinh dự được gặp Đại tướng trong một căn nhà, được coi nhà bảo tàng riêng của Người, đã chứa đủ các bức trướng, những tấm ảnh, nhưng kỷ vật quý giá của các đơn vị và địa phương trong toàn quân gửi tặng. Ban biên tập kính tặng Đại tướng 4 tập đầu của sách "Đường 5 anh dũng quật khởi" được chụp ảnh chung với Đại tướng và nhận được lời hứa sẽ giới thiệu cho cuốn sách. Chỉ một tháng sau chúng tôi đã nhận được lời giới thiệu, xin trích đăng - toàn văn lời giới thiệu đó đã được đăng trên trang đầu của tập 5 của tập: "Đường 5 anh dũng quật khởi" xuất bản năm 1998: "Đường 5 đã được Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh tuyên dương là "mặt trận điền hình nhất đánh vào địch hậu". Những bài học kinh nghiệm chiến đấu của quân dân đường 5 có giá trị vô cùng quý báu. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chiến trường đường 5 trải dải trên một diện rộng, đã diễn ra nhiều trận đánh giỏi, nhiều gương chiến đấu ngoan cường, dũng cám, nhiều, cách đánh địch mưu trí táo bạo... chưa được ghi lại. Những nhân chứng sống của thời đánh Pháp ở địa phương thưa vắng dần, cần kịp thời có kế hoạch khẩn trương khai thác. Tôi hoan nghênh các cán bộ quân đội từng giữ những cương vị lãnh đạo, chí huy các lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Pháp ở địa phương nay đã nghỉ hưu, đứng ra tổ chức biên soạn bộ sách nhiều tập nói về cuộc chiến đấu ở đường 5".

VÕ NGUYÊN GIÁP


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Chín, 2022, 08:00:15 am
Tháng 9-1998, sau khi Hội khoa học lịch sử và Chi hội LSQS Hải Phòng tổ chức cuộc sinh hoạt sử về "chống Mỹ phong tỏa sông, biển vùng Hải Phòng" định ra một tập kỷ yếu, báo cáo với Đại tướng được Đại tướng tán thành và tư viết có chữ ký của Người lời giới thiệu in trên trang đầu của cuốn kỷ yếu nhan đề là "Chống Mỹ phong tỏa sông biển vùng Hải Phòng". Xin trích đoạn lời giới thiệu đó để ta thấy tầm nhìn chiến lược của một lãnh đạo quân đội sâu sắc như thế nào: "Chiến công đánh bại cuộc phong tỏa đường biển, đường sông của đế quốc Mỹ tại Cảng Hải Phòng và vùng phụ cận biểu thị quyết tấm lớn và đầy mưu trí sáng tạo của quân và dân ta, là một công hiến vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, lại có ý nghĩa làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự của ta trên chiến trường sông biển. Ý nghĩa ấy càng có tầm quan trọng trong khi quân uà dãn ta đang đứng trước nhiệm vụ chiến lược bảo vệ chủ quyền đất nước trên hàng nghìn cây số bờ biển và trên vùng biển bao la trong đó có hàng nghìn đảo và quần đảo, có quần đảo Vạn lý Trường Sa"...


Ngày 6-8-1998, nhân dịp Ban liên lạc nghĩa quân chiến khu Trần Hưng Đạo tổ chức kỷ niệm 53 năm ngày thành lập chiến khu và 90 năm ngày sinh của Trung tướng Nguyễn Bình, Đại tướng viết thư, có đoạn: "... Tôi cũng mong các đồng chí tập hợp được những tư liệu lịch sử về Trung tướng Nguyễn Bình, người đã có cống hiến xứng đáng không những với chiến khu (Trần Hưng Đạo) mà cả về sau này với cuộc kháng chiến Nam Bộ trên cương vị Tư lệnh chiến trường Nam Bộ...".


Ngày 11-4-2000 (sau 1 tháng Bộ Quốc phòng tổ chức) Thành ủy, UBND thành phố Hải Phòng cũng làm lễ tưởng niệm liệt sĩ Trung tướng Nguyễn Bình và làm lễ trao tặng pho tượng Nguyễn Bình cho Bảo tàng Hải Phòng. (Trước đó, Hội khoa học lịch sử còn trao tặng tượng Nguyễn Bình cho đình Kiền Bái (Thủy Nguyên, Hải Phòng) và cho chùa Bắc Mã (Đông Triều, Quảng Ninh). Quân dân Hải Phòng thực hiện lời nhắc nhở của Đại tướng là tập hợp những tư liệu lịch sử về Nguyễn Bình thì qua 8 tập của bộ sách "Đường 5 anh dũng quật khởi" riêng năm 2001, đã có 9 tác giả mô tả về chiến khu và Nguyễn Bình. Các bài trên tuy không thành một thể thống nhất, nhưng là nguồn tư liệu lịch sử quý hiếm về Nguyễn Bình và chiến khu.


Tết năm 1999, các chiến sĩ cũ của E42 tới chúc Tết tại nhà riêng của Đại tướng. Bản thân tôi (Võ An Đông) đã có thời làm trung đoàn trưởng E42, được cử ra phát biểu. Không hiểu sao, tuy bản thân đã nhiều lần gặp tiếp xúc, nhưng lần đó thấy không khí ấm cúng lạ thường, lại thấy Đại tướng bình tĩnh khoan thai rất mực, mà bản thân thấy thương mên Đại tướng đến cực độ, sinh ra xúc động trong lòng không nói hết lời đã chuẩn bị từ trước, mà chỉ nghẹn ngào, lắp bắp nói một câu: "Thưa Đại tướng, trước đây cũng như về sau này, dù tình huống thế nào, chúng tôi, các chiến sĩ của Trung đoàn 42 lúc nào cùng coi Đại tướng là người Anh Cả của quân đội, của chúng tôi".


Sau khi trò chuyện thân mật, ra ngoài sân, tôi đã được vinh dự chụp chung với Đại tướng một bức ảnh mà đến nay vẫn treo ở nhà, coi đó là một tình cảm bao la của Đại tướng đối với cá nhân tôi.

Tiếp sau đoàn của E42, các đoàn của trung đoàn 50, của đoàn 151 điều trị thương bệnh binh (đều là đơn vị cũ của BTL Hải Phòng) cũng được vinh dự tới gặp chúc mửng Đại tướng. Sau đó mọi người đều hân hoan, giữ được những ấn tượng tốt đẹp.


Ngày 24-7-2002, Đại tướng đã đến thăm hợp tác xã Bạch Đằng của anh Trịnh Trọng Giữ, vốn là bộ đội, nay chuyển ngành về nhà làm chủ nhiệm. Năm 2001, Hợp tác xã và cá nhân anh Giữ làm kinh tế giỏi nên đã được Chính phủ tặng bằng khen vì: "Đã có nhiều thành tích thực hiện nhiệm vụ kinh tế từ năm 1999 đến năm 2001, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Đại tướng nghe kỹ báo cáo, rồi nhắc nhở "Anh em tự hào ưới thành tích lớn nhưng không mảy may tự mãn!".


Ngày 24-7-2002, đánh dấu ngày Đại tướng về thăm là ngày đáng nhớ đối với toàn thể HTX (ảnh trên bìa).

Đại tướng Võ Nguyên Giáp là vị tướng lĩnh cao cấp, dưới sự chỉ đạo của Bác Hồ và Bộ Chính trị, đã góp phần tạo nên những bước ngoặt của chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, người cộng tác gần gũi với Võ Nguyên Giáp ngay từ thuờ mới sơ khai sinh ra QĐND đã trả lời phỏng vấn bài báo nhan đề là "Võ Nguyên Giáp vẫn là Tổng Tư lệnh thân yêu những ngày nào”1 (Toàn văn bài phỏng vấn đã đăng trên tập 12 "Đường 5 anh dũng quật khởi") đánh giá là: "... Tuy nhiên, tôi vẫn nói được rằng Võ Nguyên Giáp là một trong những nhân vật lớn của lịch sử Việt Nam thế kỷ 20. Riêng trên lĩnh vực quân sự Võ Nguyên Giáp là nhân vật nổi bật ở hàng đầu trong phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta và có thể, trên toàn thế giới”.


Cuối cùng, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo đã kết luận: "Anh Văn (Võ Nguyên Giáp) đúng là một con người có bản lĩnh, bản lĩnh lớn bởi vì anh đã bình tĩnh và bình tĩnh vượt qua những năm tháng sóng to gió lớn của cuộc chiến tranh nhân dân giải phóng và chính cuộc đời mình.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Chín, 2022, 08:02:02 am
QUÂN KHU 3 CHI VIỆN TRÊN NỬA TRIỆU QUÂN
CHO CHIẾN TRƯỜNG MIỀN NAM


Đại tá TRƯƠNG VĂN THUÂN
(Nguyên phó phòng Quân lực Quân khu 3)

Cùng với lực lượng 3 thứ quân chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu bảo vệ miền Bắc, quân và dân Quân khu 3 đã hết lòng, hết sức tổ chức lực lượng chi viện cho chiến trường miền Nam, thực hiện nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.


Quân và dân miền Nam chẳng nhưng không bị cô lập bởi sự ngăn chặn của giặc Mỹ, mà quân và dân miền Bắc chi viện ngày càng nhiều cho miền Nam. Trong đó có quân và dân Quân khu 3.

Là một cán bộ quân lực của Quân khu, tôi nhận thấy quân và dân QK 3 rất chủ động và sáng tạo trong nhiệm vụ tổ chức chi viện. Hàng năm thường thường xây dựng từ 50 - 70 tiểu đoàn. Đã thành thường lệ năm nào cũng thế. Khi Bộ Quốc phòng giao cho Quân khu xây dựng 40 tiểu đoàn thì Tư lệnh Đặng Kinh và Chính ủy Nguyễn Quyết nâng lên 60 tiểu đoàn, nếu Bộ giao 50 tiểu đoàn thì Quân khu nâng lên 70 tiểu đoàn, cứ như thế trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ.


Cái khó là làm thế nào để tạo ra người, ra chất cho 50 - 70 tiểu đoàn, hàng năm phải có từ 200 - 280 cán bộ tiểu đoàn, 800 - 1120 cán bộ đại đội, 1600 - 2240 cán bộ trung đội, 2400 - 3600 cán bộ tiểu đội và từ 35.000 - 50.000 chiến sĩ với yêu cầu phải đủ số lượng, chất lượng cao.
   

Trước hết phải tạo ra nguồn, ra chất đội ngủ cán bộ.

Nếu không có đội ngũ cán bộ với số lượng hùng hậu và chất lượng cao thì không thể xây dựng được lực lượng chi viện tốt.

Từ xác định như vậy, Quân khu đã chỉ đạo tạo nguồn tạo chất bằng nhiều biện pháp có hiệu quả như: Lựa chọn cán bộ đưa đi đào tạo ở trường quân chính Quân khu và ở Bộ, chủ yếu là cán bộ tiểu đoàn và đại đội; chỉ đạo cho các tỉnh đội, sư đoàn bồi dưỡng, đào tạo cán bộ trung đội, các trung đoàn đào tạo cán bộ tiểu đội; phân công cho cán bộ cấp trên kèm cặp bồi dưỡng cấp dưới, cấp trưởng bồi dưỡng cấp phó, để sẵn sàng thay thế; tất cả các tỉnh, các trung đoàn, các sư đoàn và cơ quan các cấp phải sẵn sàng phát triển đơn vị một thành hai; chỉ đạo cho trung đoàn B50 trung đoàn pháo 178, các binh chủng công binh, thông tin v.v... phấn đấu toàn trung đoàn, toàn đơn vị trở thành cán bộ; ngoài ra thường xuyên tổ chức học tập tại chức, nghiên cứu những chiến lệ, tổ chức diễn tập chỉ huy và cơ quan các cấp, diễn tập thao binh, tổ chức sơ kết, tổng kết... nhằm không ngừng nâng cao trình độ tổ chức quản lý, chỉ huy cho cán bộ các cấp.


Tạo nguồn, tạo chất trong tuyển quân, thực hiện nghĩa vụ quân sự cũng không kém phần gay go quyết liệt.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày càng quyết liệt. Việc chi viện ngày càng nhiều. Thực tế thương binh ở chiến trường chuyển ra ngày càng nhiều; chiến tranh phá hoại ác liệt; đời sống nhân dân khó khăn; ảnh hưởng chiến tranh tâm lý, giữa cái sống và cái chết, v.v... có tác động rất lớn đến nhiệm vụ tuyển quân.


Nhưng Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 3 đã thống nhất cao với cấp ủy và chính quyền các tỉnh, thành là: “Tuyển quân tuy khó khăn nhưng tinh thần chống Mỹ, cứu nước của nhân dân rất cao, nguồn thanh niên tuyển quân có tiềm năng rất lớn. Nhưng muốn hoàn thành nhiệm vụ tuyển quân, trước hết phải tập trung xây dựng cơ sở chính trị ở thôn, xã, khu phố, cơ quan, xí nghiệp v.v... vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là chi bộ, Đảng bộ cơ sở, đội ngũ cán bộ, đảng viên và các đoàn thể quần chúng, trên cơ sở đó để vận động quần chúng, thực hiện khẩu hiệu đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Lấy việc xây dựng quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược làm nội dung xây dựng cơ sở. Đây là vấn đề có ỷ nghĩa then chốt trong tuyển quân".


Quân khu đã củng các tỉnh, Thành ủy cử hàng ngàn cán bộ các cấp, dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất của cấp ủy Đảng địa phương đi sâu xuống từng chi bộ, Đảng bộ cơ sở, đi sâu vào từng cán bộ, đảng viên và nhân dân để tuyên truyền giáo dục và tìm ra những khâu yếu, người yếu, bàn cách khắc phục, tạo nên sự nhất trí cao từ chi bộ, Đảng bộ, đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trên cơ sở đi sâu vào từng người, từng nhà nắm chắc những thuận lợi, khó khăn của tửng người, từng nhà về tư tưởng, về hoàn cảnh kinh tế chính trị, về sức khỏe, đạo đức và lối sống của từng người từng nhà để phân loại ai là người đủ tiêu chuẩn tuyển quân, ai tạm miễn hoãn, ai vì sức khỏe v.v... Trên cơ sở đó thành bản thống kê thông qua chi bộ, đưa ra công bố công khai toàn dân tham gia ý kiến dân chủ cho thật công bằng hợp lý và hội đồng nghĩa vụ thông qua cuối cùng và ra quyết định gọi thanh niên nhập ngũ. Cách làm này tạo nên sự đoàn kết nhất trí rất cao trong toàn Đảng bộ và toàn dân. Gần như trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, tất cả các thôn, xã, các khu phố, các xí nghiệp v.v... đều đù và thừa quân. Thóc thừa cân, quân thừa người đã trở thành cao trào thi đua đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân dân Quân khu 3.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Chín, 2022, 08:02:37 am
Tạo nguồn đã khó, nhưng làm thế nào để hiến được trên 60 vạn quân trở thành chất lượng, mỗi người có đủ bản lĩnh quyết đánh và biết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Trên 60 vạn quân ai cũng có tư tưởng vững vàng, có chiến thuật và kỹ thuật giỏi, có sức khỏe bền bỉ dẻo dai, đi bất cứ đâu, quyết đánh và biết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong mọi điều kiện.

Với đặc điểm thanh niên hầu hết là 18 - 19 tuổi, vừa rời ghế nhà trường chưa được thử thách, sức chịu đựng còn non, lần đầu tiên phải xa nhà. Nhiệt tình hăng hái, có trình độ văn hóa, tiếp thu nhanh. Nhưng khi gặp khó khăn gian khổ, nguy nan dễ bị dao động, nếu không được giáo dục, rèn luyện tốt. Đây là một thực tế khách quan, đòi hỏi việc giáo dục, rèn luyện phải hết sức cụ thể, tỉ mỉ, phải hết sức khoa học và tận tình, chu đáo.


Theo sự chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh Quân khu đã dựa vào sự cộng tác và giúp đỡ của các tỉnh thành phố tổ chức một loạt các đơn vị trung, sư đoàn chuyên trách, tổ chức tuyển quân, quản lý, xây dựng, huấn luyện và dẫn quân vào bổ sung cho chiến trường như trung đoàn 2, trung đoàn 5, trung đoàn 8, trung đoàn 42, trung đoàn 27, 568, sư đoàn 330 ở Tả ngạn và đoàn 332 Hữu ngạn, v.v....


Các đơn vị đã sớm đúc kết nhiều kinh nghiệm như: khâu tuyển quân đã đưa cán bộ về các địa phương cùng Đảng, chính quyền, các cơ quan, đoàn thể và nhân dân địa phương đi sâu vào từng người, từng nhà. Nắm chắc từng người, từng nhà, thực hiện ba gặp, bốn biết. Đó là gặp cấp ủy Đảng và chính quyền, gặp các đoàn thể và nhân dân địa phương, gặp bản thân và gia đình thanh niên định tuyển để biết được tư tưởng, biết hoàn cảnh kinh tế, chính trị, biết sức khỏe, biết phẩm chất đạo đức từng người, thực hiện chỉ tiêu tuyển người nào chắc người đó, làm cơ sở vững chắc cho giai đoạn xây dựng huấn luyện đơn vị nhanh và chất lượng cao. Kể cả nguồn phát triển Đảng cũng không cần thời gian đi thẩm tra lại lai lịch.


Việc huấn luyện và rèn luyện cũng phải rất khoa học, rất tỉ mỉ và cụ thể, phải tích cực, chủ động nhưng phải tiến dần từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, học đến đầu, chắc đến đó. Từ chỗ gần như thanh niên chưa biết gì về quân sự, sau 3 tháng huấn luyện, tư tưởng phải vững vàng, phải giỏi các động tác kỹ thuật, sử dụng thành thạo từ 2 đến 3 loại súng và các kỹ thuật khác, thành thục các động tác chiến thuật hiệp đồng trong đội hình tiểu đội, trung đội tấn công và chốt giữ các loại mục tiêu, hoặc rèn luyện hành quân xa, mang vác nặng, lúc đầu chỉ đeo 2 hòn gạch đi trên địa hình bằng phẳng 3 - 5km, sau nâng dần lên đi 10km, đeo 5 - 6 hòn gạch, tiếp tục nâng dần lên 10 hòn gạch, 15 hòn, đi từ 20 - 25 km. Lúc đầu mỗi tuần hành quân 1 - 2 tối, cuối cùng có thể đi liên tục hàng tuần lễ, mang vác trên vai 30 - 40 kg cảm thấy không có gì khó khăn; một khi chiến kỹ thuật đã thành thạo, sức khỏe đã dẻo dai, có tác động rất lớn đến lòng tin của từng người, cùng củng cố quyết tâm quyết đánh và nhất định đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.


Khâu cuối cùng là tổ chức cho anh em đi phép, thu quân, xuất phát, dẫn quân vào bổ sung cho chiến trưởng.

Đây là khâu cuối cùng, là đích kết quả cuối cùng của nhiệm vụ chi viện chiến trường, cũng là khâu kiểm nghiệm quá trình quản lý giáo dục, xây dựng, huấn luyện và rèn luyện đạt kết quả cao hay thấp.

Trước khi lên đường ra mặt trận, việc tổ chức cho anh em nghỉ phép về thăm   nhà, thăm quê là tình cảm đòi hỏi khách quan của nhân dân. Biết rằng ra trận không thể tránh khỏi sự mất mát, nhưng trước khi đi, chiến sĩ được về thăm nhà thì mọi người sẵn sàng tiễn chồng và con em mình xẻ dọc Trường Sơn vào Nam đánh Mỹ và mỗi chiến sĩ cũng hăng hái lên đường. Phải tổ chức tàu xe đưa đón thật nhanh gọn, an toàn. Phải về hiệp đồng với từng địa phương đón anh em về phép, cùng với mọi gia đình và địa phương động viên thu quân nhanh gọn, làm lễ xuất quân lên đường đúng thời gian quy định. Để làm tốt việc này, cán bộ từ tiểu đội đến tiểu đoàn phải dẫn anh em về nghỉ phép và nghỉ sau anh em ít nhất là 2 ngày và phải trả phép trước anh em 2 ngày để thu quân. Hầu hết các đơn vị đều thu quân nhanh gọn, đúng   thời gian. Chỉ một số các đơn vị thiếu ít quân nhưng không ảnh hưởng đội hình lên đường.


Từ lúc xuất phát đến quá trình hành quân bàn giao cho chiến trường đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ: vai ngàn cân, chân vạn dặm, đói, khát hết ngày này sang ngày khác hàng tháng trời, ốm đau, bệnh tật xuất hiện. Địch thì tìm đủ mọi thủ đoạn đánh phá, ngăn chặn như máy bay, pháo kích, phục kích, biệt kích; vượt qua mọi địa hình thời tiết ác liệt v.v... và v.v... để đến đích bàn giao cho chiến trường; cứ thế, cứ thế hết đợt này, sang đợt khác, hết năm này sang năm khác suốt cuộc trường kỳ chống Mỹ, cứu nước.


Nhiều cán bộ đã xây dựng và dẫn quân đi nhiều đợt, nhiều anh em vì sự nghiệp chi viện mà đã mãi mãi nằm lại ở chiến trường, nhiều cán bộ ra về đã phải mang bệnh tật và thương tật trong người suốt cuộc đời. Tuyệt đại đa số anh em ra đến miền Bắc phải nằm an dưỡng từ 3 - 6 tháng mới tiếp tục trở về công tác.


Nhiều đơn vị khi giao quân xong xin ở lại cùng đơn vị chiến đấu nhưng không được chiến trường chấp thuận vì Bộ đã quy định khung cán bộ phải ra Bắc để tiếp tục xây dựng và đưa quân vào bổ sung!

Quân và dân Quân khu 3 đã tích cực, chủ động sáng tạo vượt muôn ngàn khó khăn gian khổ, liên tục tạo ra nguồn, ra chất, liên tục xây dựng, liên tục chi viện cho miền Nam đánh Mỹ suốt cuộc kháng chiến trường kỳ với trên sáu trăm ngàn quân (600.000).


Đây là những năm tháng oanh liệt và hào hùng góp phần đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam của quân và dân Quân khu 3.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Chín, 2022, 08:03:58 am
QUÂN KHU 3 TỔ CHỨC TIẾP ĐÓN, NUÔI DƯỠNG, ĐIỀU TRỊ, GIẢI QUYẾT QUYỀN LỢI CHÍNH SÁCH CHO TRÊN HAI MƯƠI BỐN VẠN THƯƠNG BỆNH BINH TRONG CHỐNG MỸ


Đại tá TRƯƠNG VĂN THUÂN
(Nguyên Phó phòng Quân lực Quân khu 3)


Năm 1967, Quân khu Tả Ngạn và Hữu Ngạn đã nhận được chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng chuẩn bị tiếp nhận TBB ở chiến trường chuyển ra.

Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu coi đây là một nhiệm vụ chính trị quan trọng nó tác động trực tiếp đến tinh thần chiến đấu của cán bộ và chiến sĩ trên chiến trường, đồng thời cũng tác động trực tiếp đến hàng triệu bà mẹ ở hậu phương tiếp tục động viên chồng, con ra trận chống Mỹ, cứu nước.


Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu bàn bạc và trí cao với cấp ủy và chính quyền các tỉnh và thành phố phát động toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong khu "Làm tốt công tác thương bệnh binh". Chủ trương này được các Đảng bộ, chính quyền và nhân dân toàn Quân khu hưởng ứng tích cực.


Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng, nhưng rất khó khăn và phức tạp, càng về cuối cuộc chiến tranh càng ác liệt, thương bệnh binh ở chiến trường chuyển ra càng nhiều và rất khẩn trương. Nhưng khi chuyển TBB ở miền Nam ra, không ít TBB thiếu giấy báo thương, thiếu giới thiệu sinh hoạt Đảng, thiếu quyết định cấp chức, khen thưởng v.v... Có thương binh nặng không còn biết mình sẽ ở đơn vị nào? bị thương trong trường họp nào? trận nào? ai là người chỉ huy, v.v...


Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để chăm sóc nuôi dưỡng và giải quyết mọi quyền lợi chính sách cho thương bệnh binh được tận tình, chu đáo. Nhưng phải đứng thủ tục nguyên tắc. Đây thực sự là một yêu cầu hết sức khó khăn phức tạp.


Quân và dân Quân khu 3 phải thường xuyên tiếp nhận TBB trong điều kiện địch đánh phá ác liệt trên dọc đường và trên địa bàn toàn Quân khu. Cơ sở vật chất trang thiết bị hết sức khó khăn, từ doanh trại nhà ở, giường nằm, tủ, bàn ghế, thuốc men đến cán bộ chuyên môn về ngành y vô cùng thiếu thốn. Về lương thực, thực phẩm cũng không phải dễ dàng.


Nhưng nhờ có chủ trương phát động toàn Đảng, toàn quân chăm sóc, nuôi dưỡng thương, bệnh binh nên đã phát huy được sức mạnh tổng hợp, đưa công tác thương bệnh binh vào nền nếp ngày càng chất lượng mang tính toàn dân, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây của quân và dân Quân khu 3.


Về tổ chức, Bộ Tư lệnh Quân khu đã thống nhất với các tỉnh, thành phố: Cơ quan Quân khu và các tỉnh đội cử ra một bộ phận gồm tham mưu, chính trị, hậu cần giúp cho cấp ủy và người chỉ huy trực tiếp chỉ đạo công tác TBB. Bộ Tư lệnh Quân khu đã chỉ thị cho các đơn vị chọn những cán bộ chiến sĩ tốt, những y, bác sĩ có trình độ chuyên môn khá, thành lập các đoàn an điều dưỡng TBB. Phân chia các đoàn tiếp đón TBB là sĩ quan, phân ra trung cấp và sơ cấp trực thuộc quân khu. Còn thương bệnh binh là hạ binh sĩ, người của tỉnh nào đưa về tỉnh đó, mỗi tỉnh thành lập 1 đoàn như đoàn 251, 253, đoàn 581, 582, 583 trực thuộc Quân khu, các đoàn 151 Hải Phòng, 153 Thái Bình, 155 Hải Hưng, 157 Hà Bắc, 540 Hà Nam Ninh, 587 Hòa Bình, v.v... mỗi đoàn có từ 5-   6 khung tiểu đoàn đón TBB.


Ngoài các đoàn như trên, Quân khu còn có viện quân y 7, viện 5 và một số các đội điều trị. Bên cạnh đó còn có bệnh viện 108, 103 và các bệnh viện các huyện, các tỉnh (dân y) hỗ trợ. Chỉ một thời gian rất ngắn, toàn quân khu đã triển khai đón hàng vạn TBB, cùng một lúc nhân dân ở hầu hết các tỉnh đã huy động hàng vạn ngày công, hàng vạn tấn vật liệu gạch ngói, tre gỗ, xi măng, sắt thép đến làm đủ nhà, đủ giường, đủ bàn ghế cho TBB. Còn thi đua giữa xã này với xã khác, huyện này với huyện khác làm nhà đẹp nhất, đóng giường nằm, bàn ghế đẹp nhất cho TBB. Về lương thực, thực phẩm ưu tiên đủ và tốt nhất cho TBB. Nhân dân còn thường xuyên tổ chức đoàn thể đến thăm và động viên TBB là con em của mình.


Từ đó TBB đã sớm ổn định về vật chất, vui vẻ tinh thần, yên tâm điều trị cho bệnh tật và vết thương chóng lành.

Tư tưởng chỉ đạo của Quân khu là: Giáo dục và xác định cho cán bộ, chiến sĩ và nhân viên phục vụ phải: "Đi sâu vào từng người, tìm hiểu và chăm sóc giải quyết khó khăn cho từng người về quyền lợi, chế độ, chính sách một cách thật tận tình chu đáo, đồng thời phải hết sức chặt chẽ về thù tục nguyên tắc".


Giải quyết về quyền lợi và cơ sở vật chất đã khó, nhưng giải quyết về nguyên tắc và quyền lợi chính trị còn khó gấp bội. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để xác định giấy báo thương, giấy giới thiệu sinh hoạt Đảng, quyết định phong cấp chức, quyết định khen thưởng được đầy đủ và chính xác, chặt chẽ và đúng nguyên tắc.


Các đoàn an điều dưỡng, các tỉnh và quân khu đã nghiên cứu và thực hiện việc này rất công phu, rất tỉ mỉ và cụ thể bằng nhiều biện pháp: Phát động cho TBB tự khai như: ở đơn vị nào? Cán bộ đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn là ai? Tham gia chiến đấu và bị thương trong trận nào? Có ai cùng chiến đấu chuyển ra Bắc? Có ai cùng sinh hoat Đảng ở chi bộ, ở tiểu đoàn với mình, v.v... Công việc này phải làm thường xuyên, liên tục hết đợt thương binh này đến đợt thương binh khác.


Dựa vào bản kê khai này, các đoàn an điều dưỡng lại cử cán bộ rà lại tất cả thương bệnh binh trong đoàn mình và đi tất cả các đoàn TBB trong quân khu, ngoài quân khu xem có những ai biết, ai cùng bị thương, cùng sinh hoạt Đảng với thương binh đã khai? Cách làm này đã xác minh rõ rất nhiều trường hợp rất chính xác vì thường một trận đánh có rất nhiều người cùng đơn vị tham gia, cũng chuyển thương ra Bắc. Có những trường hợp phải điện vào hỏi chiến trường, nhiều trường hợp phải nghiên cứu lại hồ sơ khi đơn vị còn ở miền Bắc. Có những trường hợp chưa được rõ ràng đành phải động viên anh chị em chịu thiệt thòi chờ đợi, xác minh sau, bởi vì nguyên tắc về Đảng, về chính trị không thể châm chước! Nhưng vẫn phải chăm sóc đầy đủ tinh thần và vật chất cho TBB.


Tính từ 1967 đển hết 1975 và sau 1975 mấy năm nữa quân và dân Quân khu 3 đã tiếp đón, chăm sóc, điều trị 241.824 TBB, trong đó có 52.916 sĩ quan và 188.908 hạ sĩ. Đã giải quyết bổ sung trở lại quân đội, phục viên, chuyển ngành 219.309 đồng chí gồm: 48.113 sĩ quan và 171.168 hạ sĩ. Số còn lại là TBB nặng và những trường hợp vướng về nguyên tắc thủ tục phải tiếp tục giải quyết sau.


Đây là một đóng góp lớn của quân và dân Quân khu 3, đã góp phần thực hiện một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với TBB.

Đây là một chủ trương đúng mà Quân khu đã thống nhất với cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương phát động toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tạo thành sức mạnh tổng hợp, hoàn thành và hoàn thành xuất sắc công tác thương bệnh binh. Đó còn là kết quả của việc giáo dục động viên mọi người làm công tác thương bệnh binh với tinh thần tất cả cho TBB. Bằng tác phong sâu sát, cụ thể, bàn bạc tập thể và giải quyết triệt để cho từng thương bệnh binh. Tạo nên sự đoàn kết nhất trí rất cao từ thương bệnh binh, đến cán bộ chiến sĩ phục vụ, đến các tỉnh, thành phố và quân khu. Đây là một vấn đề có ý nghĩa chính trị rất lớn đồng thời củng chứng tỏ sự lãnh đạo và chỉ đạo của các cấp rất chặt chẽ và toàn diện. Cũng phải khẳng định rằng ý thức tổ chức kỷ luật của TBB rất tốt, lúc khó khăn anh em càng thể hiện rất rõ bản chất Anh bộ đội Cụ Hồ, chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng và của quân đội.


Đối với TBB nặng, Quân khu ủy đã có nghị quyết chuyên đề: "Không những phải chăm sóc, chữa cho thương binh lành bệnh mà còn phải áp dụng những tiến bộ của khoa học, tập luyện cho những người có thương tật trở thành người hoạt động bình thường".


Thực hiện chủ trương này, viện quân y 7, viộn 5, các đội điều trị, đoàn an dưỗng đã tích cực áp dụng kỹ thuật điẻu trị đạt kết quả tốt, đó là: Viện 7 đã rèn luyện cho TB Phương cứng khớp 3 năm không đi lại được như: đồng chí Trịnh chân co gấp 100%; đồng chí Sang bị thương mất, xương bánh chè đã trở lại hoạt động bình thường, và đồng chí Lê Văn Hiến bị chấn thương cột sống liệt hoàn toàn sau 2 năm luyện tập đồng chí Hiến đã bỏ nạng đi lại được đồng chí Hiến đã được Chủ tịch Tôn Đức Thắng tặng huy hiệu Bác Hồ vào năm 1970.


Những gương phục vụ tiêu biểu của những cán bộ chiến sĩ trong hàng ngàn cán bộ chiến sĩ tiêu biểu:

Đó là trung tá Phạm Thọ Hàn chính ủy 155 Hải Hưng, anh Hóa chính ủy 251, anh Phạm Thái chính ủy 581 anh Vĩnh, anh Lương Đang đoàn trưởng 151, anh Quang anh Dũng đoàn trưởng và chính ủy 253... Các đồng chí các anh đã lăn lộn suốt năm này qua năm khác, hết lòng vì thương bệnh binh. Có lúc thương bệnh binh nóng lên chửi mắng vào mặt nhưng các anh vẫn cười, vẫn thân thiện. Chính những cử chỉ đó đã toát lên tinh thần thực sự yêu thương TBB và cũng từ đó đã giáo dục cảm hóa TBB nhận lấy khuyết điểm về mình và càng yêu thương, quý mến các anh hơn. Những cán bộ đầy phẩm chất như các anh thật đáng quý.


Nhân bài viết này, tôi xin gửi lời chào đến tất cả các anh, các chị đã từng làm công tác thương bệnh binh ở Quân khu 3 những năm tháng đầy khó khăn nhưng rất hào hùng nói trên.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 26 Tháng Chín, 2022, 08:15:40 am
KHU ĐỘI NGÔ QUYỀN TRONG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI


Trích hồi ký của PHẠM BẠT TỤY
(Nguyên chỉ huy trưởng Khu đội)


Năm 1964 - 1972, tôi là khu đội trưởng Khu đội Ngô Quyền. Ngày 18-7-1966, máy bay Mỹ đánh trận đầu tiên vào khu vực Cửa Cấm, phá hủy nhà máy điện Cửa Cấm Hải Phòng. Tôi xuống ngay trận địa, thấy có hàng trăm người ở nhà máy Điện, nhà máy Sắt tráng men, nhà máy Thủy tinh, xí nghiệp Hóa chất, xí nghiệp Lông vũ, xưởng đóng tàu 1 bị thương vong và bị sập hầm, còn hơn 600 quả bom bi chưa nổ. Các trận địa pháo của bộ đội phòng không sư đoàn, các đơn vị cao xạ 37mm của nhà máy Thủy tinh và súng máy 12,7mm của nhà máy điện, xưởng đóng tàu 1, Sắt tráng men đều có người thương vong. Tôi hội ý nhanh với BCH khu đội chỉ lấy một số tự vệ là công binh thu nhặt hết bom bi, cứu người còn ở dưới hầm, còn ngăn chặn không cho người ngoài vào khu Cửa Cấm. Quả nhiên đợt bom thứ 2 trút xuống, chỉ có mấy tự vệ ở lại bị thương vong, đảm bảo dân không ai bị thương vong.


Thủ đoạn máy bay Mỹ ở ngoài biển đánh vào thành phố thường bay sát mặt nước, làm cho ra-đa của ta khó phát hiện, tên lửa, cao xạ không bắn được địch bay sát mặt nước. Còn lực lượng đánh máy bay tầm thằp thì phải bố trí ở khu vực đầm lầy toàn sú, vẹt, đạn dược, lương thực vận chuyển rất khó, lại không có nước ngọt, ngày đêm muỗi dĩn đốt liên tục rất cực khổ.


Cho nên, chúng tôi hội ý với các lãnh đạo Đảng, giám đốc, công đoàn, tự vệ các nhà máy, hợp tác xã và quyết định chia thành 4 cụm chiến đấu: 1/ Cụm Nam Triệu ở sát biển, 2/ Cụm ở Đình Vũ, 3/ Cụm Sông Cấm, 4/ Cụm gọi là Xe Tô Ga Len (Nhà máy Toa xe, Xí nghiệp ô tô vận tải Phòng và Nhà máy Len Hải Phòng). Các cụm đều đưjc trang bị súng 12,7mm, chỉ có nhà máy Thủy tinh có đại pháo 37mm. Riêng cụm Xe Tô Ga Len có 4 khẩu 12,7mm còn là súng trường bố trí trên gác cao ở 4 góc và trung đoàn. Tự vệ Cảng Hải Phòng có đại đội pháo 100mm và đại đội 14,5mm bốn nòng.


Các đồng chí lãnh đạo Đảng, chính quyền, quân sự đều đến thăm động viên. Một lần đồng chí Tố Hữu, Bí thư Trung ương Đảng đến thăm. Có anh em nêu khó khăn là máy bay Mỹ bay nhanh, rất hiện đại, bắn khó trúng thì đồng chí Tố Hữu trả lời: "Nó bay nhanh và hiện đại thỉ ta phải 3 sẵn sàng: 1/ Sẵn sàng trực tại súng suốt ngày đêm 2/ Sẵn sáng quan sát, bám chắc mục tiêu. 3/ Sẵn sàng bóp cò".


Anh em theo lời trên nghiêm chỉnh thực hiện 3 sẵn sàng, nhưng khi thực hiện điều đó, phải rất cực khổ vất vả. Kết quả ngày 20-4-1967, tự vệ đã phối hợp với bộ đội phòng không sư đoàn 363 bắn rơi 5 máy bay Mỹ. Ngày 25-4-1967, có 175 lần chiếc máy bay Mỹ tới đánh thì toàn khu (quận) có các khẩu pháo cao xạ và 150 trận địa súng trường của trên 1 vạn lượt tự vệ tham gia chiến đấu đã góp phần củng thành phố bắn rơi 12 máy bay Mỹ, bắt sống một giặc lái ở cửa Nam Triệu. Hôm đó, có phái đoàn Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa dân chủ Đức đến thăm nhà máy Thủy tinh do nước Đức viện trợ xây dựng. Khi dứt tiếng súng, phái đoàn đã cho nghe băng ghi âm, có tiếng hô bắn máy bay của tôi (Phạm Bạt Tụy) và tiếng reo hò máy bay cháy trên bầu trời nhà máy Thủy tinh. Đoàn đã tặng tôi huy chương vinh dự của quân nhân Đức tại trận địa. Sau này nhà máy Thủy tinh được tặng huân chương Chiến công hạng 3 vì đã bắn rơi máy bay Mỹ.


Đảo Long Châu cũng thuộc về quân sự của Khu đội Ngô Quyền đã bị Mỹ đánh phá 238 trận. Tôi và đồng chí Lê Trung Dũng, khu đội phó thay nhau ra đảo Long Châu hướng dẫn chỉ huy phá bom, giải quyết hậu quả. Khi đi ra và đi về phải đi bằng ca nô vượt sông biển, dài hơn 70km, có hàng trăm quả thủy lôi chờ nổ nên lúc đi và về rất nguy hiểm.


Có đêm 2 giờ sáng, tôi và đồng chí Lê Trung Dũng phải xuống Cát Bi, có 1 quả bom chưa nổ. Hai người cùng nỗ lực tháo được đầu bom chưa nổ mang về khu đội Ngô Quyền. Đây là đầu nổ thứ 14 mà Dũng đã tháo được. Tại đường Lê Lợi, có một quả bom rơi trước đền Tiên Nga làm tắc đường, hàng ngàn người không có lối đi. Sau đó tôi cũng 3 cán bộ khu đội khiêng bom đi qua hồ Tiên Nga ra cánh đồng phá hủy. Đại tá Đỗ Chính, chính ủy BTL 350 khen ngợi, nhân dân thành phố bàn tán xôn xao: Khu đội Ngô Quyền dũng cảm khiêng bom nổ chậm.


Bất cứ ở đâu nghi ngờ có bom, cán bộ khu đội Ngô Quyền phải đến, cùng với tự vệ là công binh, đào bới tìm kiếm bom đạn. Chúng tôi phải làm công việc nguy hiểm chết người này kéo dài trong 8 năm mới giải quyết hết bom đạn ở địa bàn Ngô Quyền, bảo đảm cho nhân dân được an toàn, không ai bị thương vong.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 26 Tháng Chín, 2022, 08:16:35 am
DÂN QUÂN XÃ HOÀNG CHÂU BĂT GIẶC LÁI MÁY BAY MỸ,
"MỐI HẬN NAM TRIỆU ĐƯỢC TRẢ"!


NGUYỄN ĐỨC NHIẾP
(Chi hội lịch sử quân sự Hải Phòng)


Trong lao động sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, vật lộn với quân thù có hàng nghìn câu chuyện sâu sắc đáng ghi nhớ. Nhưng, trong khuôn khổ bài viết này chỉ xin nêu một câu chuyện sâu sắc có hai chi tiết liên quan. Đó là : "Dân quân xã Hoàng Châu bắt giặc lái máy bay Mỹ và mối hận Nam Triệu đã được trả".


I/ Mối hận Nam Triệu

Ngày 31-8-1966, trung đội súng máy cao xạ của trung đoàn phòng không 252 phục kích trên đảo Đình Vù, phối hợp với dân quân tự vệ các xã Tràng Cát, Nam Hải, Đằng Hải, Đông Hải (huyện An Hải) bắn rơi tại chỗ 1 máy bay RF8, tên giặc lái nhảy dù xuống cửa biển Nam Triệu, cách trận địa của quân ta khoảng 500 mét. Nhưng do thuyền của quân ta ra chậm và hiệp đồng chiến đấu giữa dân quân và bộ đội chưa chặt chẽ, nên tên giặc lái được đồng bọn cứu thoát.


Thiếu tướng Hoàng Sâm, Tư lệnh Quân khu 3 đã nghiêm khắc phê bình các lực lượng vũ trang Hải Phòng về việc này.

Cùng với quân dân Hải Phòng, quân dân huyện đảo Cát Hải coi đây là mối hận Nam Triệu, càng thêm quyết tâm bắt bằng được giặc lái máy bay Mỹ.

Bộ tư lệnh 350 cử thiếu tá Nguyễn Sỹ Đô, trưởng ban dân quân của Bộ tư lệnh ra Cát Hải chỉ đạo việc xây dựng lực lượng và tổ chức bắt giặc lái máy hay Mỹ khi chúng nhảy dù.


II/ Dân quân xã Hoàng Châu bắt sống giặc lái máy bay Mỹ

Ngày 1-11-1966, đại đội pháo cao xạ 172 bắn rơi 1 máy bay A4. Tên giặc lái nhảy dù xuống cửa biển Nam Triệu, gần xã Hoàng Châu (huyện Cát Hải), xã đội trưởng Hoàng Viết Dung chỉ huy trung đội dân quân bơi thuyền ra bắt giặc lái. Một số chiến sĩ công an vũ trang phát hiện giặc lái nhảy dù cũng bơi thuyền lao về phía dù rơi. Các thuyền đánh cá của ngư dân các xã Hoàng Động, Trung Hà (huyện Thủy Nguyên) đang kéo lưới gần đó cũng lao ra bắt tên giặc. Cùng lúc này hàng chục chiếc máy bay cường kích, máy bay lên thẳng của địch ở hạm đội 7 bay vào tìm cách cứu tên giặc lái vừa nhảy dù, chúng bắn phá uy hiếp dữ dội xung quanh, ngăn chặn không cho thuyền của quân ta tới gần tên giặc lái, đồng thời bắn phá các xã Hoàng Châu, Phù Long (huyện Cát Hải) và đảo Đình Vũ nhằm ngăn chặn lực lượng tiếp ứng của quân ta.


Quyết không để cho chúng cứu thoát tên giặc lái, từ Sở chỉ huy phòng không thành phố, đồng chí Trần Kiên, Bí thư Thành ủy kiêm Trưởng ban quân sự thành phố chỉ huy các lực lượng phòng không đánh trả máy bay địch, yểm hộ cho các lực lượng bắt tên giặc lái. Bị bắn trả quyết liệt, các máy bay địch phải bay nâng độ cao, giãn ra xa bắn yểm hộ cho chiếc thủy phi cơ tới hòng giải cứu đồng bọn. Trận chiến đấu trên vùng biển cửa Nam Triệu diễn ra hết sức quyết liệt. Hai thuyền của dân quân Thủy Nguyên và Cát Hải bị máy bay địch bắn trúng, hai chiến sĩ dân quân hy sinh, một bị thương. Nhưng tất cả không hề nao núng. Anh em nhanh chóng cởi áo bịt lỗ thủng ở lòng thuyền không cho nước tràn vào rồi tiếp tục lao thuyền về phía tên giặc lái. Lúc này số máy bay địch được huy động làm nhiệm vụ giải cứu tên giặc lái lên đến 20 chiếc. Chúng ném bom, bắn xối xả vào các thuyền của quân ta. Bầu trời, mặt nước vùng cửa biển Nam Triệu sôi sục, mịt mù khói lửa. Một thuyền của công an vũ trang bị trúng đạn, ngay lập tức, đồng chí Vũ Đức Thắng cùng hai chiến sĩ ôm súng bơi sang thuyền của dân quân xã Hoàng Động vừa bắn trả địch vừa lao nhanh về phía mục tiêu. Khi chiếc thủy phi cơ của địch hạ độ cao, chuẩn bị thả thang dây cho tên giặc lái leo lên thì chiếc thuyền của công an vũ trang do đồng chí Lê Xuân Tỉnh chỉ huy cũng vừa kịp lao tới đè đầu tên giặc lái đang ngoi ngóp trên mặt nước. Hai thuyền của dân quân Cát Hải cũng vừa áp mạn. Đồng chí Đoàn Hồng Sâm, dân quân xã Hoàng Châu cùng đồng chí Lê Xuân Tỉnh túm được tên giặc lái lôi thốc lên và bắt hắn nằm sấp xuống ván thuyền. Các trận địa pháo cao xạ của quân ta trên bờ cùng các tay súng của bộ đội, dân quân trên các thuyền đánh cá vẫn đánh trả quyết liệt các tốp máy bay địch, hất chúng bay lên cao và ra xa bờ. Thuyền chưa vào tới bến, dân quân và nhân dân xã Hoàng Châu đã ùa ra mép nước bốc cả thuyền và tên giặc lái vượt qua bãi cát vào rừng phi lao ven biển.


Tính từ lúc đại đội 172 nổ súng bắn rơi máy bay địch đến khi bắt được tên giặc lái, trận chiến đấu kéo dài 60 phút. Đây là tên giặc lái máy bay Mỹ đầu tiên bị bắt trên cửa biển thành phố Hải Phòng.

Có được chiến công trên là do quân dân Cát Hải cùng các đơn vị bộ đội phòng không, công an vũ trang, dân quân đánh cá và trực chiến của các xã thuộc hai huyện Thủy Nguyên và An Hải có quyết tâm cao và hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ.

"Mối hận Nam Triệu" đã được trả.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 26 Tháng Chín, 2022, 08:17:16 am
NIỀM VUI NGÀY ẤY


TRỊNH TRỌNG GIỮ


Ngày 12-9-2002, đài TNVN liên tục thông báo về cơn bão gần - cơn bão số 3 với sức gió mạnh tới cấp 7, cấp 8, biển động dữ dội, làm tôi ruột rối như tơ vò, bởi ngày mai 13-9-2002 đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư BCH TW Đảng CSVN về thăm HTX Bạch Đằng.


Tôi lo và mọi người trong HTX cũng lo nhưng vẫn hăm hở chuẩn bị để đón đồng chí Lê Khả Phiêu với tinh thần quý trọng nhất. Những tấm panô, áp phích, khẩu hiệu chào mừng đồng chí Lê Khả Phiêu vẫn được dựng lên, căng kéo ở những nơi đông người qua lại. 15 giờ 30 phút hôm 12-9 trời bắt đầu mưa, gió giật từng cơn. Tôi khoác áo mưa đi kiểm tra, động viên mọi người cần quản lý và bảo vệ những gì đã được chuẩn bị đón đồng chí Lê Khả Phiêu trong niềm vui thực sự đầm ấm. May thay, trời mưa to một lúc rồi tạnh vì bão số 3 đã đổi hướng.


Ngày 13-9-2002, đồng chí Lê Khả Phiêu về thăm khu vực sản xuất và trụ sở HTX. Cờ băng, khẩu hiệu còn nguyên vẹn, lộng lẫy dưới nắng ban mai của một ngày tạnh ráo. Niềm vui của cán bộ, xã viên HTX Bạch Đằng thực sự được nhân đôi: Trời quang mây tạnh, đồng chí Lê Khả Phiêu về thăm. Hai bên đường người đông nghịt chờ đón. Đúng 8 giờ, đồng chí Lê Khả Phiêu cùng với đồng chí Nguyễn Văn Thuận, Phó Bí thư thường trực Thành ủy Hải Phòng, các đồng chí Nguyễn Sĩ An, Bí thư Huyện ủy An Hải, đồng chí Đỗ Khắc Hòa, Chủ tịch UBND huyện và đại diện các ban ngành đến thăm khu vực sản xuất của HTX, thăm con tàu "Rồng Biến 15" đang được xã viên HTX gấp rút hoàn thành. Thay mặt cán bộ, xã viên HTX Bạch Đằng, tôi - Trịnh Trọng Giữ, chủ nhiệm HTX - báo cáo với đồng chí Lê Khả Phiêu, đồng chí Nguyỗn Văn Thuận và các đồn chí trong đoàn về sự tiến bộ trong công nghệ đóng tàu của HTX Bạch Đằng, lai lịch con tàu mang tên "Rồng Biển 15" sắp được hạ thủy. Nghe tôi báo cáo, nhìn những người thợ (phần lớn là Hội viên Cựu chiến binh và lực lượng đoàn viên thanh niên trẻ) mồ hồi nhễ nhại căn chỉnh hàn gán không phút nghỉ ngơi để con tàu sớm đưa vào sản xuất đồng chí Lê Khả Phiêu hài lòng về tinh thần làm việc của xã viên HTX và chúc Hải Phòng sẽ có nhiều Rồng Biển bay lên!


Trên đường về, gần đến trụ sở HTX, đồng chí Lê Khả Phiêu đột ngột rẽ ngang hỏi anh thanh niên bên đường tên tuổi, địa chỉ và công việc anh đang làm. Rồi đồng chí căn dặn thanh niên phải học tập, rèn luyện để xóa đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới. Cử chỉ và lời nói của đồng chí Lê Khả Phiêu thực bình dị mà thấm thìa. Ai cũng thấu hiểu về nỗi lo của đồng chí trong chiến lược vun đắp cho thế hệ trẻ. Đến trụ sở HTX, các cháu thanh thiếu niên và xã viên đến tặng hoa đồng chí Lê Khả Phiêu trong niềm vui náo nức của ngày đầu gặp gỡ. Một lần nữa, tôi thay mặt HTX Bạch Đằng báo cáo kết quả gần 20 năm xây dựng và phát triển của HTX; đặc biệt nhấn mạnh về hoạt động của đơn vị trong năm 2002 mà thành phố Hải Phòng chọn là năm doanh nghiệp. Đồng chí Lê Khả Phiêu khen ngợi chúng tôi về tinh thần vượt khó để phát triển trong điều kiện hết sức ngặt nghèo của cơ chế thị trường. Đồng chí động viên cán bộ, xã viên cố gắng hơn nữa củng nhau chung sức, chung lòng xây dựng HTX ngày càng vững mạnh, cùng hòa nhập với nhiều Rồng Biển khác bay lên, bay cao và bay xa hơn nữa!


Tôi thay mặt xã viên, hứa với đồng chí Lê Khả Phiêu quyết tâm thực hiện bằng được lời của đồng chí căn dặn và tặng đồng chí Lê Khá Phiêu tượng nữ tướng Lê Chân một thời đã góp phấn làm nên chiến thắng trong lịch sử chống xâm lăng, bảo vệ Tổ quốc. Đồng chí Lê Khả Phiêu nhận kỷ vật lưu niệm trong tiếng hát về thành phố Cảng do Đội văn nghệ không chuyên của HTX thể hiện. Tiếng cười, tiếng vỗ tay vang từng đợt, từng đợt.


Trước khi rời HTX Bạch Đằng, đồng chí Lê Khả Phiêu đã dành nhiều thời gian chụp ảnh chung với nhiều người nhưng vẫn còn "bao nhiêu người" chưa được chụp chung với đồng chí. Cán bộ, xã viên HTX Bạch Đằng xã Đông Hải, huyện An Hải, thành phố Hải Phòng vẫn mong đồng chí Lê Khả Phiêu có ngày trở lại...


Kỷ niệm về niềm vui, nỗi nhờ, sau ngày 13/9/2002 Ban chủ nhiệm gồm có tôi và 3 xã viên tiên tiến có thành tích xuất sắc trong sản xuất là Nguyễn Trung Quỳ, Dương Ngọc Bích và Trịnh Văn Linh về thăm xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa - quê hương đồng chí Lê Khả Phiêu, đồng thời mua đá tại quê hương đồng chí để về khắc bia kỷ niệm ngày đồng chí Lê Khả Phiêu về thăm.


Hai tấm bia kỷ niệm ngày về thăm HTX Bạch Đằng của hai đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước: Đồng chí Lê Khả Phiêu và Đại tướng Võ Nguyên Giáp được đặt ở vị trí trang trọng trong trụ sở của HTX như dấu ấn lịch sử ghi nhận sự quan tâm của lãnh đạo và bước trưởng thành của HTX Bạch Đằng.


Xã viên và nhân dân đi làm hàng ngày qua lại, cán bộ trong Ban chủ nhiệm mỗi lần giao ban nhìn tấm bia lưu niệm lại nhớ "Niềm vui ngày ấy" càng quyết tâm xây dựng HTX Bạch Đằng thêm vững mạnh như lời của đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng bí thư BCH TW Đảng CSVN vả Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên Tổng tư lệnh QĐND Việt Nam về thăm HTX Bạch Đằng đã dặn dò.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 26 Tháng Chín, 2022, 08:18:14 am
NHỚ VỀ MỘT ĐỒNG CHÍ LÃO THÀNH CÁCH MẠNG


TRỊNH TRỌNG GIỮ


Hoàn thành nghĩa vụ quân sự, tôi nghỉ ở nhà đã được gần hai tháng. Cũng như mọi anh em bộ đội xuất ngũ khác hay như một số người về hưu, tất nhiên tôi phải kiếm một việc gì đó để làm. Nhưng lúc này thì chưa, tôi muốn tranh thủ những ngày nghỉ để tìm hiểu về quê hương mình một miền đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạn. "Con chim có tổ, con người có tông", tôi còn muốn tìm hiểu cội nguồn về dồng họ Trịnh ở Phương Lưu quê tôi.


Tôi xem lại mấy trang nhật ký vừa viết và những điều mình ghi chép được về họ Trịnh. Tôi đang đọc và suy ngẫm thì có tiếng người. Tôi ngẩng lên và nhận ra ngay bác Nguyễn Văn Y - anh họ cùng làng. Bác Y giới thiệu hai người bạn cùng đi là bác Nguyễn Thắng - Chủ nhiệm hợp tác xã Bạch Đằng và bác Vũ Hồng - kế toán, còn bác Y phụ trách kế hoạch. Bác Y nói tiếp:

- Ba chúng tôi có nhã ý đến thăm sức khỏe của chú đồng thời mời chú tham gia xây dựng hợp tác xã của quê hương, chú thấy thế nào?

Bác Y nói ngắn gọn và thực sự cầu thị. Tôi chưa biết trả lời thế nào bèn đáp lại với một giọng hết sức khiêm tốn:

- Rất cám ơn các bác, liệu vào hợp tác xã tôi có làm được gì không? Cả ba bác cùng cười:

- Làm được! Làm được! Cùng làm rồi ta sẽ có cách.

Hóa ra các bác ấy biết khá rõ về tôi: Sau năm 1975, tuy vẫn trong quân đội song trên thực tế, tôi đã làm kinh tế.

Tôi được điều về xí nghiệp cơ khí Trung Dũng thuộc Bộ tư lệnh 350. Xí nghiệp có cả một dây chuyền sản xuất bao gồm sửa chữa xe máy, cơ khí, mộc, đúc, sửa chữa sà lan... Tôi khá thạo những công việc kể trên.

Cuối cùng, tôi nhận lời. Chúng tôi cùng chúc nhau vui vẻ.

Sau tối hôm đó tôi được biết thêm về hợp tác xã Bạch Đằng.

Hợp tác xã được thành lập, trước hết có sự gợi ý của đồng chí Đoàn Duy Thành, Bí thư Thành ủy. Đó là năm 1984, đồng chí Bí thư và đồng chí Lê Danh Xương - Phó Bí thư thường trực, đã bàn với một số ngành có liên quan về việc xây dựng hợp tác xã. Với ý tưởng đó, ngày 10-12-1984, UBND huyện An Hải ra quyết định thành lập, lấy tên là hợp tác xã Bạch Đằng, làm nhiệm vụ vận tải thủy bộ trong bến tàu khách Bắc Nam tại Cảng Đoạn Xá thuộc xã Đông Hải nhằm hạn chế những tiêu cực trong công tác bốc xếp, vận tải.


Tại sao nhiệm vụ này lại được giao cho hợp tác xã Bạch Đằng? Vì tình hình trật tự, trị an ở bến tàu khách lúc đó rất phức tạp. Các đồng chí lãnh đạo thành phố muốn có một đội ngũ bốc xếp thật trong sạch, có tinh thần trách nhiệm và tính kỷ luật cao. Chính vì vậy xã viên hợp tác xã phải phần lớn là thương binh, bệnh binh, cán bộ hưu trí vốn là sĩ quan quân đội. Tuy tất cả, từ cán bộ đến xã viên chỉ có 30 người nhưng 30 người ấy phải là một khối vững chắc và nhiệt huyết.


Những năm ấy hợp tác xã Bạch Đằng đã hoàn thảnh tốt nhiệm vụ được giao, không phụ lòng mong mỏi của lãnh đạo. Sau một thời gian hoạt động, bến tàu khách không còn, hợp tác xã Bạch Đằng chuyển sang sản xuất cơ khí, sửa chữa tàu, sà lan để sử dụng những thợ sắt, thợ hàn có tay nghề giỏi ở địa phương và cũng phù hợp với sức khỏe một số cán bộ, nhân viên là thương bệnh binh chuyển về làm tại hợp tác xã. Công việc hoàn toàn phù hợp với khả năng của tôi. Theo đề nghị của Ban chủ nhiệm, tôi tham gia vào hợp tác xã từ tháng 11 năm 1987 và được xã viên bầu làm Phó chủ nhiệm. Từ đó, tôi luôn làm việc bên cạnh bác Thắng và được bác giúp đỡ chân tình như ruột thịt.


Bác Nguyễn Thắng sinh năm 1917 tại thôn Ngô Xá, xã Tiên Nội, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam trong một gia đình nông dân nghèo. Bố mẹ mất sớm, bác phải lên Hà Nội kiếm sống. Năm 16 tuổi bác được cách mạng giáo dục và được hoạt động trong tổ chức của Đảng. Năm 1949 bác làm Bí thư Huyện ủy đầu tiên của huyện Hải An (nay là huyện An Hải), tức huyện tôi. Sau đó tham gia Thường vụ Tỉnh ủy Kiến An, Thường vụ Thành ủy Hải Phòng. Năm 1963 bác lên Hà Nội làm chuyên viên Bộ Nông nghiệp. Bác Thắng xây dựng gia đình với bác gái Đỗ Thị Liên (cùng hoạt động cách mạng với bác) ở làng Xích Thổ, xã Hồng Thái, huyện An Hải. Cuộc đời bác Nguyễn Thắng được cách mạng dẫn dắt và hạnh phúc của gia đình bác cũng được cách mạng vun đắp; công ơn ấy với bác thật là sâu nặng. Năm 1983 khi được nghỉ hưu, bác Thắng đã từ Hà Nội trở lại Hải Phòng.


Tôi còn nhớ vào một buổi chiều trên đê sông Cấm. Phóng tầm mắt chỉ thấy ngút ngàn sông nước, lau sậy và đất bãi sình lầy, tôi thấy ngại bởi sự tôn tạo mặt bằng làm cơ sở sản xuất kém gì "việc lấp biến vá trời". Bác Thắng biết được khó khăn ấy và cũng biết được cái lo của chúng tôi. Bác chỉ tay xuống vùng bãi "chúng tôi ngần ngại", quyết đoán:

- Cơ sở sản xuất của chúng ta ở đây!

Rồi bác trầm ngâm, giọng trở nên xa xăm:

- Trước kia nhiều chiến sĩ cách mạng đã qua lại vùng này, bởi nó là cửa ngõ, là điểm cuối cùng của đường 5 nối liền Hà Nội với Hải Phòng. Chính lau sậy, sình lầy nơi đây đã che chở, bảo vệ cho các chiến sĩ ta. Nhưng trong tâm niệm hồi ấy ai cũng mong muốn sau này nơi đây không còn cảnh đìu hiu, heo hút nữa mà sẽ trở nên giàu đẹp. Chính vì vậy hôm nay chúng ta, con em của những chiến sĩ cách mạng năm ấy, những anh "bộ đội Cụ Hồ" phải đắp vùng, lấn bãi tạo dựng mặt bằng để góp phần biến nơi đây trở thành khu công nghiệp, thỏa lòng ước mong của những người đi trước, góp sức cùng toàn dân "xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" như lời Bác Hồ căn dặn.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 26 Tháng Chín, 2022, 08:18:49 am
Bác vừa nói vừa xắn quần lội xuống, chúng tôi vội vàng lội theo, đất phủ sa đỏ quánh, mát rượi...

Cách mặt bằng hợp tác xã khoảng 500m có hai tàu kéo công suất 600 mã lực, bị máy bay Mỹ bắn chìm trong chiến tranh, nằm dưới lòng sông, hợp tác xã mua để dỡ về làm nguyên liệu sản xuất. Đã gần hai tháng, hầu hết xã viên bám trụ để trục vớt phá dỡ. Hôm nay, đồng chí chủ nhiệm trực tiếp chỉ đạo để hoàn thành công đoạn cuối trong lúc chờ nước to. Dưới ánh trăng trong, chúng tôi ngồi quanh nghe bác kể:

- Cách đây gần 40 năm, xã Đông Hải thường bị địch lùng sục. Đêm nào cũng có tiếng súng, tiếng kêu. Để đưa người của ta vào hoạt động trong lòng địch là rất khó khăn. Với cương vị là bí thư, tôi bàn với các đồng chí trong Huyện ủy tìm cách gạt bỏ chánh tổng cũ, chọn và đưa ông Nguyễn Văn Hiệp - người địa phương - ở làng Hạ Đoạn, xã Đông Hải ra làm chánh tổng. Sự bố trí khéo léo đã thành công, từ đó "cụ chánh mới" đã che chở, dẫn dắt cán bộ hoạt động một cách an toàn, có hiệu quả. Tuy vậy, bọn mật thám vẫn thường theo dõi, giải tán những tụ điểm đông người. Tôi lại bàn với tổ chức chọn hai cán bộ cơ sở tốt, giả làm vợ chồng để hoạt động che mắt địch. Hai cán bộ đó là Nguyễn Văn Cốt và Phạm Thị Ghi.

Bác Thắng dừng lại như để nhớ về kỷ niệm xưa rồi kể tiếp:

- Không ngờ đôi "vợ chồng giả" ấy sau lại trở thành đôi uyên ương thực sự và được tổ chức tán thành. Nay họ đã "lên cụ" và vẫn thương yêu nhau. Chúng ta phải học tập về nhân cách, lối sống và lòng chung thủy của 'hai cụ". Đáng tiếc, ngày nay có những người tha hóa, bị đồng tiền cám dỗ mà mất thủy, mất chung...

Giọng bác Thắng trầm xuống, chúng tôi im lặng suy ngẩm... Tối hôm ấy chúng tôi đã trục vớt được hai tàu theo đúng kế hoạch.

Năm 1997, Bác Thắng yếu đi nhiều nên quyết định lên Hà Nội ở với con. Trước khi đi, cụ nhượng lại ngôi nhà cho hợp tác xã làm trụ sở và căn dặn chúng tôi phải vượt khó đi lên, xây dựng hợp tác xã Bạch Đằng thực sự vững mạnh.


Buổi chia tay giản dị, ấm cúng và cảm động. Người Bí thư Huyện ủy đầu tiên, từ năm 1949, của huyện Hải An; người chủ nhiệm đầu tiên của hợp tác xã Bạch Đằng là bác Thắng khi chia tay chẳng những không mang theo gì cả mà còn để lại cho chúng tôi một cơ ngơi và cả ngôi nhà của mình; nhưng hơn tất cả, đó là tinh thần tiến công cách mạng đến củng, biến không thành có và một lòng nhân ái sâu sắc.


Sau khi cụ Nguyễn Thắng bàn giao công việc về Hà Nội, nhớ cụ và cũng thể hiện lòng biết ơn người đã tạo dựng cơ sở ban đầu của hợp tác xã, một hôm ban chủ nhiệm chúng tôi "khăn gói" lên Hà Nội thăm cụ. Trong ngôi nhà tập thể đơn sơ ở P18, phố Hoàng Hoa Thám, phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, chúng tôi thấy một cụ già mái tóc bạc phơ ngồi bên bộ sa lông cải tiến đã cũ cặm cụi làm việc. Cụ cho biết sáng sáng vẫn tập thể dục, đi bộ để tăng sức khỏe làm việc. Đối với cụ, thời gian không còn nhiều nên phải giữ sức để viết: Viết về những kỷ niệm thời chiến tranh cũng như xây dựng trong hòa bình của bản thân và đồng chí, đồng bào; xác nhận những người có công trong thời kỳ hoạt động bí mật để Nhà nước thực hiện đền ơn, đáp nghĩa được đúng đôi tượng, bảo đảm sự công bằng xã hội.


Nhìn tấm huy hiệu 50 tuói Đảng, ảnh Bác Hồ về thăm Kiến An trịnh trọng treo nơi làm việc và một cụ già cặm cụi viết, tôi nhận ra mạch nguồn sự sống khát vọng vươn lên của một con người hết lòng vì dân, vì nước. Tôi cảm phục vô cùng, nói bao nhiêu lời, viết bao nhiêu chuyện cũng không hết được sự cống hiến của cụ với dân, với nước.


Cụ Thắng hỏi tình hình làm ăn của hợp tác xã. Chúng tôi thưa với cụ: Theo lời dặn của cụ, hợp tác xã Bạch Đằng đã phát triển không ngừng, nay đã có trên 10 tổ sản xuất, sản lượng hàng hóa đã có tới chục tỉ đồng. Hàng trăm xã viên có việc làm, thu nhập ổn định. Năm 2000 - 2001, 4 xã viên của hợp tác xã đã được công nhận là chiến sĩ thi đua cấp quận, huyện, được UBND huyện An Hải và UBND thành phố tặng nhiều bằng khen, xứng đáng với tên gọi của dòng sông đã đi vào lịch sử.


Cụ Nguyễn Thắng gật đầu hài lòng. Chúng tôi lại kể, vùng Đoạn Xá cho tới suốt đảo Đình Vũ nay đã và đang trở thành một khu công nghiệp sầm uất, một tương lai rực rỡ của Hải Phòng. Cụ trầm ngâm, đôi mắt long lanh.


Chúng tôi hiểu thoáng chốc trong cụ là hình ảnh những năm tháng gian khó của cách mạng, những lau lách đìu hiu của một vùng sình lầy đất bãi, nhứng năm đầu xây dựng hợp tác xã Bạch Đằng...

Chúng tôi xiết chặt bàn tay cụ, muốn nói mà không thể nên lời.

Thay mặt những người lớp sau của hợp tác xã, chúng tôi xin tỏ lòng biết ơn cụ và xin hứa với cụ mãi mãi xứng đáng với sự tin cậy, gửi gắm và lòng mong mỏi của cụ.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 26 Tháng Chín, 2022, 08:19:31 am
SỨC TRẺ Ở HỢP TÁC XÃ BẠCH ĐẰNG


TRỊNH TRỌNG GIỮ


Cuộc họp của ban quản lý HTX Bạch Đằng bàn về triển khai kế hoạch sản xuất, kinh doanh năm 2002 lần này được mở rộng tới các đồng chí đảng viên, đoàn viên thanh niên trong HTX. Phần đầu kế hoạch sản xuất, kinh doanh của HTX được thông qua một cách nhanh chóng. Sang phần 2 bàn về san lấp để mở rộng 1.500m2 mặt bằng tại mom bãi khu B cống Phú Xá thì chưa ai dám quyết. Sự bàn cãi khá căng, nhất là các đồng chí có tuổi, làm việc lâu năm càng không dám chắc thành công. Bởi mỏm bãi khu B nước xoáy, lại sâu đến vài ba mét nước. Ba lần HTX đầu tư trên 100 triệu đồng với những tay "cứng cựa" nhận thầu đều thất bại. Bây giờ lại bàn san lấp, trong lúc HTX đang gặp khó khăn là điều hết sức mạo hiểm. Những bậc "lão thành” phán quyết "tốt nhất là hãy tạm dừng". Một số góp ý: "Không nên mở rộng, bởi quá tốn kém". Với cương vị là chủ nhiệm chủ trì hội nghị, tôi nhìn sang phía thanh niên trẻ hỏi lần cuối để lấy biểu quyết. Hỏi vậy, nhưng tôi tin rằng các đồng chí thanh niên - sức trẻ của HTX - chưa "đủ tầm" để lật ngược "ý chí" của các lão làng. Trong khi hỏi, tôi nghe có tiếng thầm thì khen ngợi về kế hoạch táo bạo ấy. Thành công nó sẽ tạo ra cảng nước sâu cho tàu thuyền cập bến an toàn. Từ tiếng "thầm thì" tôi "lóe sáng" và tuyên bố cuộc họp tạm nghỉ, sau sẽ bàn tiếp.


Đêm ấy, tôi không ngủ. Trời rét căm căm. Nhìn trên lịch bàn là ngày 26-3-2002, ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Tôi nhớ lại: Cũng ngày này cách đây 32 năm (1970 - 2002), tôi là Thường vụ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trực tiếp làm Bí thư chi đoàn nghiệp vụ I thuộc Xí nghiệp Cơ khí 2-9 Hải Phòng. Chi đoàn tôi đã nhận với Đảng ủy và Ban giám đốc phóng dạng vỏ tàu không số phục vụ Hải quân. Ngày đầu nhận nhiệm vụ cũng đúng vào ngày 26-3, đồng chí Nguyễn Ngọc Riêm, Giám đốc xí nghiệp nhiều đêm thức trắng bên sàn họa cầm đèn soi, giúp tôi hoàn thành những đường phóng dạng cuối cùng, để sáng hôm sau, ngày 27-3-1970 - cả chi đoàn nghiệp vụ I chúng tôi bắt tay vào việc. Trong vòng 12 ngày đêm làm việc với tinh thần "Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên", chi đoàn chúng tôi đã phóng dạng thành công chiếc vỏ tàu không số, bàn giao trước thời gian kế hoạch cho cơ sở sản xuất.


Sự nhiệt tình và tính sáng tạo trong công việc của đoàn viên thanh niên Xí nghiệp Cơ khí 2-9 Hải Phòng năm xưa khiến tôi tự tin hơn về sức trẻ của HTX Bạch Đằng hôm nay. Tôi thở phào nhẹ nhõm và yên tâm đi ngủ, thấy lòng mình ấm hơn mặc dầu bên ngoài trời rét đến cóng lạnh.


Sáng hôm sau, tôi đến văn phòng sớm hơn mọi ngày để triệu tập các đồng chí đoàn viên thanh niên khỏi văn phòng và các bộ phận sản xuất, cung ứng, quản lý, kế hoạch, kỹ thuật trình bày về phương án san lấp 1.500m mỏm bãi khu B tại cống Phú Xá để vừa có cảng nước sâu như tiếng "thì thầm" hôm trước, vừa mở rộng mặt bằng xây dựng nhà kho, bến bãi tập kết hàng hóa... Sau khi trình bày về lợi ích vô cùng lớn, tôi kết luận: Mặc dầu khó khăn nhưng là vấn đề cốt lõi để HTX tồn tại lâu bền, phát triển theo hướng hiện đại hóa. Việc này, thanh niên - sức trẻ làm nòng cốt, các đồng chí thấy thế nào? Câu hỏi của tôi vừa dứt, các cánh tay giơ lên và những lời phát biểu hùng hồn trái ngược với các "lão làng" hôm trước. Họ quyết tâm san lấp để mở rộng bến bãi, tạo cảng nước sâu thu hút tàu thuyền cập bến. Tiếp đó là tiếng vỗ tay, thể hiện sự đồng tâm nhất trí. Với khí thế "lấp biển", tôi giao ngay nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Trung Quỳ, Phó chủ nhiệm, trực tiếp phụ trách lực lượng thanh niên thực hiện phương án san lấp. Đúng ngày 30-3-2002, hơn 20 đoàn viên thanh niên cùng với lực lượng phụ trợ tiến ra bãi. Với tinh thần vượt khó đi lên giành chiến thắng, lăn lộn trên mặt bằng, nhiều sáng kiến, cải tiến được áp dụng như: Dùng cọc bê-tông tận dụng đóng sâu để thay kè đá, dùng gầu máy xúc ấn cọc, thay búa máy, bảo đảm kỹ thuật, tiết kiệm được vài chục triệu đồng. Kết quả 1.500m2 bến bãi đã hoàn thành, sức trẻ đã chiến thắng.


Với chiến công ấy, HTX lại giao tiếp cho các đồng chí thanh niên nhận đóng mới và hoàn chỉnh chiếc tàu vận tải 250 tấn trên mặt bằng các anh vừa san lấp. Không chút đắn đo, những gương mặt trẻ mở đất hôm qua, nay lại lao vào việc mới. Thực hiện nhiệm vụ lần này không chỉ dùng cơ bắp mà còn phải có kỹ thuật, bởi sản phẩm tạo ra là con tàu gắn liền với sông nước, cuộc sống của thủy thủ và tài sản của HTX. Chỉ cần sơ suất nhỏ về kỹ thuật tạo dáng, hàn cắt, lắp ráp... dẫn đến thiệt hại khôn lường. Vì thế tập thể thanh niên đã bàn khá kỹ, phân công từng nhóm chuyên môn phụ trách từng khâu, phụ trách chung là đồng chí Phó chủ nhiệm HTX. Sau 30 ngày vất vả, dáng tàu đã được định hình, phần vỏ đang được hoàn chỉnh từng phần thì ngày 24/7/2002 Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã về thăm HTX Bạch Đằng, nhân kỷ niệm 55 năm ngày thương bình liệt sĩ. Đại tướng ra tận hiện trường, đứng bên cạnh con tàu đang được các đồng chí thanh niên gấp rút hoàn thành. Tôi đứng bên cạnh Đại tướng báo cáo về công trình của thanh niên và kết quả thực hiện đóng mới con tàu sản phẩm đầu tay của tuổi trẻ. Đại tướng gật đầu khen ngợi. Còn các đồng chí thanh niên nét mặt rạng rỡ tự hào thấy mình đã thực hiện, lời khuyên của Đại tướng: "Thanh niên Việt Nam là lực lượng đông đảo của dân tộc, có chí khí kiên cường và nghị lực sáng tạo to lớn. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dàn tộc, đặc biệt là trong thế kỷ 20. Các anh chị em, các cháu thanh niên gái, trai đã cùng với toàn thể đồng bào làm lên những thành tích oanh liệt, biến huyền thoại thành lịch sử. Trong thời đại mới, tôi tin và mong rằng thanh niên Việt Nam ta nói chung, đặc biệt là thanh niên trong lực lượng vũ trang tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, có trí lớn, có tài cao, học tập giới, lao động và rèn luyện giỏi. Sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng trong mọi tình huống, lập nên chiến công hiển hách trong xây dựng đổi mới cũng như trong báo vệ đất nước, chiến thắng bằng dược nghèo nàn và lạc hậu. Cùng toàn dân đưa Tổ quốc Việt Nam ta tiến lên nhanh và vững tiến kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa, xã hội dưới ngọn cờ quyết thắng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 26 Tháng Chín, 2022, 08:20:27 am
NGƯỜI CỦA MỘT THỜI


TRỊNH TRỌNG GIỮ


Nhận được giấy mời dự cuộc họp mặt của "Đoàn tự vệ chiến đấu huyện Hải An" nhân kỷ niệm 55 năm ngày truyền thống các lực lượng vũ trang Hải Phòng, mặc dù công việc cuối năm rất bận, tôi vẫn quyết định đi. Cuộc họp này đối với tôi là rất quan trọng. Những người bao nhiêu năm nay suốt từ tuổi thơ cho đến tận bây giờ, tôi vẫn được nghe nói đến như nghe những câu chuyện cổ tích thì nay sẽ được gặp, được nói chuyện, được siết chặt những bàn tay trải qua bao nhiêu năm tháng thăng trầm vẫn săn sắt, vẫn ấm nóng như tràn đầy sức trẻ. Và quả thật, tôi đã không lầm, đường dẫn tới hội trường xã Đằng Hải hôm nay náo nức khác thường. Các cụ cười nói râm ran. hồ hởi, gặp nhau tay bắt mặt mừng. Tôi đến các cụ đã ngồi kín hội trường. Những chiến sĩ "Đoàn tự vệ chiến đấu Hải An" năm xưa, nay râu tóc bạc phơ, nhưng cụ nào cũng mạnh khỏe, trên ngực đầy huân chương, huy chương kỷ niệm chương và huy hiệu 40, 50 năm tuổi Đảng, nét mặt ai cũng rạng rỡ, tràn đầy tự hào của những người làm nên chiến thắng.


"Đoàn tự vệ chiến đấu Hải An" ra đời trong phong trào Việt Minh ở huyện Hải An. Hồi đó, để có vũ khí cho tự vệ chiến đấu, các chiến sĩ đã thu gom sắt thép, lập các lò rèn để làm gươm, giáo. Đoàn đã góp phần vào việc khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện và thành phố, đánh sân bay Cát Bi (lần thứ nhất), đêm 22-7-1945, chiếm pháo đài Vạn Mỹ đêm 19-8-1945. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Đoàn tấn công và chiếm sân bay Cát Bi (lần thứ hai) trong 3 ngày đêm, từ 21 đến 23-11-1946; góp phần giữ vững mặt trận Cầu Rào suốt nửa tháng trời, từ 26-11 đến 19-12-1946; tiếp đó lại cùng 3000 chiến sĩ bộ đội chủ lực đánh vào nội thành và sân bay Cát Bi lần nữa vào đêm 20/3/1947...


Suốt 9 năm chống Pháp, Đoàn đã cùng nhân dân Hải An lập nhiều chiến công, đặc biệt đã làm hậu thuẫn cho bộ đội tập kích lớn vào sân bay Cát Bi trong đêm 6 rạng ngày 7/3/1954, góp phần vào chiến thắng Điện Biên Phủ.


Tôi đã đọc quyển "Đoàn tự vệ chiến đấu Hái An" và được biết Đoàn trước sau có tới hơn 560 chiến sĩ. Nên không khỏi cảm thấy bùi ngùi vì nhận ra với số các cụ có mặt hôm nay thì thiếu vắng quá nhiều. Cụ Trần Cư, người lãnh đạo "Đoàn tự vệ chiến đấu Hải An", người tôi đã có dịp gần gũi, đã cùng làm việc lâu dài nhất, nay cũng đã khuất, không có mặt trong cuộc gặp hôm nay.


Đứng trước đài tưởng niệm khói hương nghi ngút, tôi như thấy hình bóng đồng chí Trần Cư vẫy chào những người đồng đội thân yêu của mình...

Cụ Trần Cư, nguyên là cán bộ lãnh đạo Việt Minh, huyện Hải An, nguyên Chủ tịch UBND huyện Hải An khi nghỉ hưu đã một thời làm Phó chủ nhiệm hợp tác xã Bạch Đằng của chúng tôi ngày nay. Cụ Trần Cư sinh năm 1920 tại thôn Đức Phong, xã Đại Đồng, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng trong một, gia đình nông dân nghèo, tham gia hoạt động cách mạng từ năm 18 tuổi, dáng người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, sống bình dị và rất vui tính. Ai mới gặp lần đầu, không nghĩ cụ là cán bộ lãnh đạo của nhiều cơ quan Nhà nước. Tôi gặp cụ lần đầu năm 1988, lúc đó cụ đã nghỉ hưu nhưng ngoài việc làm Phó chủ nhiệm hợp tác xã, còn đảm nhận nhiệm vụ Trưởng đoàn cán bộ kháng chiến Hải An. Cụ có trí nhớ rất tốt, tôi còn nhớ: lần đầu cụ đến nhà tôi, sau khi dạo quanh vườn rồi vào nhà ngâm các đồ vật, cái gì cụ cũng chăm chú nhìn, như tìm kiếm điều gì. Bỗng nhiên cụ ngồi vào bàn nói với giọng dứt khoát một trăm phần trăm:

- Chú Giữ này, vết sẹo bỏng bên hông của chú còn hay đã mờ rồi?

Tôi giật mình và ngỡ ngàng một lúc rồi mới bình tâm nói:

- Dạ, còn ạ!

Tôi vui vui nghĩ thầm: Có lẽ ông cụ còn là thầy tướng số nữa chắc?

Biết tôi bối rối, cụ kể:

- Năm 1949 tôi về công tác tại địa phương có đến nhà chú vì đấy là cơ sở cách mạng. Lúc đó chú còn bé lắm. Gia đình chú khá giả nhưng các cụ chỉ lao động thuần túy nên địch ít để ý. Tôi bàn với hai cụ về việc đào hầm bí mật trong nhà để khi có động là chúng tôi xuống hầm cho an toàn. Các cụ đồng ý và cũng từ đấy nhà chú là chỗ đi về, trú ngụ của cán bộ, bộ đội hoạt động bí mật trong vùng địch tạm chiếm. Ngày ấy, đồng chí Nguyễn Văn Y - là cán bộ cách mạng, cũng là cháu của hai cụ, thường đóng giả làm thầy giáo dạy học trong nhà và làm lực điền cho nhà chú, nhằm che mắt địch để hoạt động. Để chuẩn bị cho kế hoạch vượt ngục của tù chính trị bị địch nhốt ở căng Đoạn Xá, tôi cũng đóng giả lực điền cho nhà chú, ngày ngày cùng đồng chí Y đi cày. Hôm ấy hai chúng tôi về sớm thấy cụ bà bê nồi nước sôi để tuốt cá nhám làm gỏi, chú lễ mễ theo sau, cụ bà để nồi nước xuống, chú chạy theo ngã, nước sôi đổ vào đùi, chú khóc thét lên, tôi vội bế chú ra vườn, ngắt lá bỏng, nhai đắp cho chú nhưng vết bỏng vẫn phồng bằng bàn tay úp, mọng nước, khi khỏi thành vết sẹo dài.


Bấy giờ, tôi mới rõ nguyên nhân vết sẹo bên đùi và thán phục về trí nhớ của cụ. Cả tôi và cụ cùng cười rất to, sau tiếng cười, tôi hỏi cụ:

- Thế hôm đó, có giải thoát được tù chính trị ra không ạ?

Nét mặt cụ Cư đang vui bời tiếng cười bỗng trầm lại. Cụ buồn rầu:

- Tiếc lắm! Ngày hôm sau theo "đường dây" của ta cho biết thì khoảng chín rưỡi sáng bọn Tây sẽ dẫn tù vào trong làng để lấy rơm. Tôi liền bố trí người của ta đón các đồng chí vượt ngục. Nhưng do sự phối hợp chưa chặt chẽ, các đồng chí tù chính trị phát lệnh sớm nên khi anh em tù chạy, người của ta không đón được. Mất phương hướng, anh em tù nhốn nhác chạy về phía cánh đồng làng Phương Lưu. Bọn Pháp đuổi theo bắn xối xả. Ba đồng chí hy sinh, chỉ một số chạy thoát. Nhiệm vụ không hoàn thành trọn vẹn, các chiến sĩ vẫn có người đổ máu, chúng tôi buồn lắm...


Câu chuyện đang vui bỗng trầm xuống. Cụ Trần Cư cầm chén nước, tay run run không thể nào uống nổi. Tôi thấy ân hận bởi vô tình đã gợi lại cho cụ một kỷ niệm đau buồn. Tôi từng là người lính, là người anh của đứa em cũng bị bom đạn cướp đi những gì đáng lẽ sinh ra ở đời em tôi phải được hưởng nên tôi hiểu thế nào là nỗi đau của tình đồng đội, đồng chí, tình cảm đối với người thân. Từ đó mỗi lần nói chuyện với cụ Cư tôi không bao giờ nhắc đến chuyện cứu những người tù vượt ngục của cụ; thậm chí còn không nhắc cả đến vết sẹo do bị nước sôi của mình, sợ cụ lại liên tưởng đến chuyện cũ.


Tôi tự nhủ : Phải hết sức cố gắng trong công việc để cụ buồn...

Năm 1989, hợp tác xã Bạch Đằng có kế hoạch trục vớt con tàu đắm dưới sông Cấm. Phó chủ nhiệm hợp tác xã Trần Cư dẫn một tốp xã viên đi khảo sát để đánh nổi. 69 tuổi mà cụ bước đi thoăn thoát như không hề có dấu hiệu của tuổi tác Nước to, anh em xã viên phải lặn. Nhưng không có phương tiện để lặn sâu nên việc khảo sát không thực hiện được. Trước khó khàn tường chừng bỏ dở, Phó chủ nhiệm Trần Cư nghĩ ra sáng kiến: Dùng ống cao su ngậm vào mồm để thở dưới nước. Thời gian lặn được lâu hơn, có điều kiện tiếp cận với con tàu nhờ vậy, tàu đã được trục vớt đỡ tốn kém và an toàn. Sau đợt trục vớt con tàu thành công, tôi gặp cụ Cư tò mò hỏi: do đâu cụ lại có sáng kiến ấy. Cụ kể:

- Chả là thế này, những năm kháng chiến tụi tôi đi khảo sát kẻ vẽ, lập bản đồ sân bay Cát Bi để cung cấp cho Ban tham mưu lập kế hoạch tiêu diệt khu sân bay ấy. Sau khi hoàn thành kẻ vẽ, lập sơ đồ, về đến cầu Rào gặp lính ngụy, chúng nghi vấn gọi chúng tôi lại. Không còn cách nào khác, chúng tôi nhìn nhau như hiểu ý rồi vụt chạy mỗi người một ngả. Tôi chạy vào ngõ cụt, phía trước là ao bèo, tôi sợ ngạt, vội bứt cộng đu đủ nhảy xuống ao rồi ngậm vào mồm để thở, nhờ đó tôi thoát được vòng vây của địch. Khi hợp tác xã trục vớt tàu, cần phải lặn, tôi nghĩ ngay đến cách đó, kết quả con tàu đã được nổi đưa vào bờ một cách an toàn.


Nghe kể, tôi vừa cảm phục vừa nghĩ, hóa ra những năm tháng kháng chiến gian khổ trước đây của cụ và các cụ tiền bối không những để lại cho họ những phẩm chất đẹp và còn có ích cho những công việc của ngày hôm nay.


Những chiến công thẩm lặng của các cụ chỉ là phần nhỏ trong cả cuộc đời của các chiến sĩ "Đoàn tự vệ chiến đấu Hải An nhưng đã để lại cho con cháu biết bao bài học về lý tưởng, nhân cách và vốn sống. Hôm nay trở về họp mặt sau những lời chào hỏi, cùng với niềm vui tay bắt mặt mừng, họ lặng lẽ nhìn nhau qua gương mặt đôn hậu. Tôi nhận thấy: Cuộc sống còn khó khăn nhưng các chiến sĩ "Đoàn tự vệ chiến đấu Hải An" vẫn vượt lên cùng với cộng dồng xây dựng cuộc sống mới. Họ ít kể về mình, mặc dầu trên ngục đầy những huân chương; sự khiêm tốn làm họ càng lớn lao. Xin biết ơn những tấm lòng, những con người tiền bối đã góp phần làm nên chiến thắng, làm nên ngày hôm nay.

Đằng Hải, ngày 23 thảng 11 năm 2001


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 26 Tháng Chín, 2022, 08:21:42 am
BỐN LẦN ĐƯỢC GẶP ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC THỊNH*
(Đăng trong tập sách "Lê Đức Thịnh – Hồi ký và kỷ niệm")


TRỊNH TRỌNG GIỮ


Những người công nhân nói chung ở một xí nghiệp thường ít được tiếp xúc với các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của thành phố. Riêng tôi, một điều rất may mắn được làm việc với đồng chí Lê Đức Thịnh, nguyên Chủ tịch UBHC thành phố, tới 4 lần. Mỗi lần đối với tôi là một kỷ niệm không bao giờ quên được.


Lần đầu tiên xảy ra trong một bối cảnh hết sức đặc biệt. Khoảng 9h30 sáng ngày 29-6-1967, khi tiếng còi báo động vang lên chưa dứt thì các loại súng phòng không mặt đất của ta đã nhất tề nhả đạn, khói lửa mịt mùng xen lẫn tiếng gào rít của máy bay Mỹ. Bọn giặc trời vào đánh lén rất nhanh. Tự vệ Xí nghiệp cơ khí 2-9 chúng tôi không kịp về vị trí, đành tự chọn địa điểm để bắn trả máy bay địch. Chưa đầy hai phút, máy bay Mỹ đã chuồn để lại cảnh nhà tan, người chết ở khu phân xưởng vỏ của Xí nghiệp 2-9 và Xí nghiệp ngói Quỳnh Cư, cạnh đường 5, một xe ô tô bị trúng đạn rốc-két, 3 đồng chí bộ đội chết tại trận. Một đồng chí bị thương nặng được chúng tôi đưa đi cấp cứu. Vừa giải quyết xong hậu quả cuộc chiến, cả đội tự vệ chúng tôi mệt lử. Vào lúc 10 giờ 30 phút, mọi người được tin đồng chí giám đốc xí nghiệp và đồng chí Chủ tịch UBHC thành phố Lê Đức Thịnh đến thăm. Niềm vui bất ngờ, khiến chúng tôi xúc động. Sau khi nghe đồng chí Lê Văn Ao, trực chiến xí nghiệp, báo cáo, đồng chí giám đốc nhiệt liệt hoan nghênh sự phối hợp tác chiến của đơn vị và nhấn mạnh: "Càng gần đến ngày thắng lợi, giặc Mỹ càng điên cuồng đánh phá miền Bắc ác liệt. Một trong các trọng điếm đánh phá của chúng là cầu phà các đường giao thông huyết mạch và cơ quan đầu não. Riêng Hải Phòng, trọng tâm đánh phá của giặc Mỹ là đường số 5, trong đó có Xí nghiệp 2-9". Rồi đồng chí cùng đồng chí Chủ tịch UBHC thành phố đi khảo sát thực địa, đề ra nhiệm vụ cho Xí nghiệp: Quyết tâm bám trụ sản xuất, bảo vệ Hải Phòng và tuyến đường 5, mạch máu giao thông quan trọng của cả nước thực hiện khẩu hiệu "Địch đến ta đánh, địch đi ta lại tiếp tục sản xuất". Các đồng chí đề ra nhiệm vụ trước mắt của xí nghiệp là: Phân chia nhỏ các địa điểm để sản xuất, trong đó ngành vỏ do đồng chí Nguyễn Danh Bút và ngành hoàn chỉnh do đồng chí Nguyễn Xuân Mận chốt tại vị trí của xí nghiệp, vừa sản xuất vừa chiến đấu bảo vệ đường 5. Còn ngành ca-nô 2 do đồng chí Hoàng Trọng Liên, trưởng ngành chốt tại cảng Vật Cách có nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu bảỏ vệ cảng. Ngành ca-nô An Hồng do đồng chí Trần Văn Điển chốt tại xã An Hồng, huyện An Hải, vừa sản xuất vỏ ca-nô vừa trực chiến bán máy bay Mỹ. Ngành đồng chí Phạm Văn Tuyên chốt sau nhà triên lãm thành phố gần bờ sông Lấp, có nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu, bảo vệ cầu xe lửa. Ngành đồng chí Trịnh Văn Yết chốt bên bờ sông Cấm vừa sản xuất vừa bảo vệ nhà máy Sắt tráng men nhôm, điện Cửa Cấm. Ngành thứ 6 là ngành do đồng chí Nguyễn Văn Đoài, ngành trưởng, chốt tại bến phà An Dương vừa sản xuất vừa chiến đấu bảo vệ phía Tây Nam thành phố. Ngành cơ khí do đồng chí Nguyễn Văn Thăng, ngành trưởng, sơ tán lên xã Bắc Sơn vừa sản xuất vừa chiến đấu bảo vệ máy móc, tài sản, thiết bị. Bộ phận văn phòng cũng chuyển lên xã Bắc Sơn để bảo vệ hồ sơ tài liệu của xí nghiệp. Sau khi giao nhiệm vụ và bố trí các địa điểm trực chiến, đồng chí Nguyễn Ngọc Riêm mời đồng chí Lê Đức Thịnh phát biểu. Bằng giọng nói ấm áp, kiên quyết, đồng chí cân nhắc nói chậm từng lời cốt để ai cũng biết công việc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ miền Bắc lúc này là hết sức quan trọng, là thời cơ để chiến thắng... Đồng chí Lê Đức Thịnh nói: "... Giặc Mỹ có ý định phong tỏa Hải Phòng, biến Hải Phòng thành hòn đảo đơn độc, chặn đứng tiếp viện của Cảng Hải Phòng đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Quân, dân Hải Phòng phải thế hiện quyết tâm, đập tan âm mưa đó, chứng minh cho bọn Mỹ biết ý đồ của chúng mãi mãi không bao giờ thực hiện được. Thành ủy, UBHC thành phố rất tin tưởng vào lực lượng sản xuất, chiến đấu của Xí nghiệp cơ khí 2-9, xí nghiệp gắn với ngày Quốc khánh của đất nước...".


Lời nói của đồng chí Lê Đức Thịnh càng làm vừng thêm lòng tin tưởng của cán bộ, chiến sĩ tự vệ xí nghiệp lúc này. Sau buổi họp, đồng chí Giám đốc giao cho tôi đưa đồng chí Lê Đức Thịnh đi thăm nơi ở và một số ụ súng thường trực chiến đấu của các chiến sĩ tự vệ trung đội 1. Lần đầu tiên tôi được gặp đồng chí Lê Đức Thịnh là như thế.


Còn lần thứ hai vào tháng 12 năm 1981, tôi với cương vi trưởng ban kế hoạch của xí nghiệp Trung Dũng, thuộc Bộ tư lệnh 350 thành phố Hải Phòng lên Hà Nội để xin kế hoạch vạt tư chế tạo mìn, lựu đạn. Lúc này đồng chí Lê Đức Thịnh là Phó chủ nhiệm ủy ban kế hoạch Nhà nước. Tôi đinh ninh đồng chí Lê Đức Thịnh sẽ không nhận ra mình. Mười ba năm rồi còn gì với lại đồng chí còn biết bao công việc... Tôi nín thở, chăm chú theo dõi nét mặt đồng chí Lê Đức Thịnh khi xem giấy giới thiệu. Một phút sau, đồng chí Lê Đức Thịnh ngẩng lên hỏi tôi:

- Có phải trước đồng chí làm việc ở Xí nghiệp cơ khí 2-9 không? Tôi đã gặp đồng chí sau một trận máy bay định oanh kích khu vực ngói Quỳnh Cư, cạnh đường số 5?

Đồng chí hỏi liên tiếp như vậy. Tôi bất ngờ rồi vui vẻ đáp:

- Vâng ạ!

Đồng chí Lê Đức Thinh cúi xuống, ký vào giấy giới thiệu rồi đưa cho tôi và nói:

- Các đồng chí cố gắng hoàn thành nhiệm vụ nhé!

Tôi đáp: "vâng!", ra về với niềm vui tự hào vì có người lãnh đạo 13 năm sau vẫn còn nhớ tới mình, khiến tôi càng tích cực công tác, hoàn thành nhiệm vụ mà đồng chí Lê Đức Thịnh đã căn dặn.

Lần thứ ba tôi lại gặp đồng chí Lê Đức Thịnh vào ngày mồng 9 tháng 1 năm 1997. Lúc đó, Ban liên lạc tiểu đoàn Hải Đà (tiểu đoàn Hải Phòng - Đà Nẵng kết nghĩa) lên để gặp đồng chí Lê Đức Thịnh - người đã ký quyết định khai sinh ra tiểu đoàn. Thời gian đó đồng chí là Chủ tịch UBHC thành phố Hải Phòng. Khi chúng tôi đến nhà, vợ chồng đồng chí Lê Đức Thịnh cùng ra đón chúng tôi. Tôi thật sững sờ vì thấy đồng chí già đi nhiều quá. Vì ngưỡng mộ đồng chí, tôi không nghĩ đồng chí già đi nhanh thế, dẫu biết rằng "sinh, lão, bệnh, tử” ai cũng phải trải qua. Cuộc đời thật khắc nghiệt, nó cứ cướp đi tuổi thanh xuân của mỗi người để rồi không bao giờ gặp lại. Nhìn đồng chí Lê Đức Thịnh – vị lão thành cách mạng sống trong ngôi nhà đơn sơ với bộ bàn ghế cũ, trên bàn để cuốn sách "Đường 5 anh dũng quật khởi" tập 2, có lá thư của đồng chí Đỗ Mười gửi cán bộ, đảng viên, công nhân ngành bưu điện Hải Phòng - có lẽ đồng chí đang xem dở, tôi càng thấy kính trọng những vị tiền bối đã hy sinh vì dân vì nước. Trong lúc tôi đang mải ngắm đồng chí Lê Đức Thinh thì đồng chí Đại tá Võ An Đông - nguyên Tư lệnh trường Bộ tư lệnh 350 Hải Phòng - Trưởng đoàn, giới thiệu với đồng chí Lê Đức Thịnh. Đồng chí Võ An Đông nói:

- Thưa đồng chí! Hôm nay các đồng chí trong Ban liên lạc tiểu đoàn Hải Đà - Hải Phòng đến thăm đồng chí và gia đình, đồng thời xin bút tích lưu niệm vào sổ vàng truyền thống của tiểu đoàn.

Sau khi nghe nguyện vọng của chúng tôi, đồng chí Lê Đức Thịnh vui như gặp người nhà. Chân chậm, mắt mờ, đồng chí Lê Đức Thịnh vẫn nhận ra chúng tôi, bắt tay từng người, từng người một, rồi ngồi xuống bên cạnh đồng chí Võ An Đông. Đồng chí chậm rãi nói:

- Tiểu đoàn Hải Đà thành lập trong thời kỳ chiến tranh ác liệt. Thành phố Đà Năng kết nghĩa với Hải Phòng lúc ấy đang cần lực lượng, vũ khí, lương thực của Hải Phòng chi viện để giành chiến thắng. Vì vậy theo sáng kiến của Thành ủy, UBHC thành phố, tiểu đoàn Hải Đà được thành lập gồm toàn những con em ưu tú của Hải Phòng, tình nguyện vào chi viện cho chiến trường Đà Nẵng. Kể từ ngày thành lập đến nay đã gần 30 năm, tôi vẫn còn nhớ.

Rồi đồng chí Lê Đức Thịnh đứng dậy vừa ôm vai từng người vừa định nói tiếp điều gì. Song có lẽ đồng chí Lê Đức Thịnh nhận ra còn thiếu vắng đồng đội, sợ chạm vào vết thương lòng nên đồng chí dừng lại cười và nói to (cốt đế chúng tối không nhận ra điều mất mát):

- Các đồng chí uống nước đi!

Chúng tôi đồng loạt nâng cốc, nhìn nhau hiểu lòng đồng chí và chắc đồng chí Lê Đức Thịnh cũng hiểu được chúng tôi qua sự bối rối. Đồng chí Lê Đức Thịnh hứa sẽ có bút tích của mình trong sổ vàng truyền thống của tiểu đoàn Hải Đà. Rồi chúng tôi lại nâng chén chè đậm đặc hương vị quê hương…


Còn lần thứ tư tôi được gặp đồng chí Lê Đức Thịnh vào ngày 17-5-1999. Ngày ấy Ban liên lạc tiểu đoàn Hải Đà tổ chức kỷ niệm 25 năm ngày thành lập tiểu đoàn (17-5-1974 - 17-5-1999) tại hội trường BCHQS Hải Phòng. Buổi kỷ niệm hôm ấy có đồng chí Đại tá Thái Thanh Hùng, ủy viên thường vụ Thành ủy, Phó chỉ huy trưởng BCHQS Đà Nẵng. Đồng chí Lê Đức Thịnh tuy không được khỏe nhưng cũng gắng gượng đến dự. Đồng chí Thái Thanh Hùng ôm hôn đồng chí Lê Đức Thịnh trong tình cảm hai thành phố kết nghĩa. Khi được mời phát biểu, nói đến sự hy sinh anh dũng của dân tộc nói chung, của tiểu đoàn Hải Đà nói riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nước mắt đồng chí Lê Đức Thịnh nhòa đi, mấy lần phải dừng lại lau nước mắt. Cả hội trường lặng đi, mấy lần phải dừng lại lau nước mắt. Cả hội trường lặng đi, vì nỗi đau đè nặng… Tiếng thút thít đâu đó ở phía sau hội trường… Nước mắt tôi cũng trào ra.


Không ngờ hôm ấy lại là lần cuối cùng tôi được gặp đồng chí. 6 giờ 50 phút ngày 7-2-2001, đồng chí Lê Đức Thịnh đã đi vào cõi vĩnh hằng, hình ảnh và bút tích trong sổ vàng truyền thống của tiểu đoàn Hải Đà và lời động viên, căn dặn của đồng chí còn mãi mãi trong tôi.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 26 Tháng Chín, 2022, 08:22:38 am
Kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam 30/4

EM TÔI


TRỊNH TRỌNG GIỮ


Em tôi - Trịnh Quốc Gìn - đã mất đến nay được gần 3 năm. Nhìn nấm mồ nhỏ nhoi, cỏ mọc, vài hang chuột đục khoét nham nhở làm cho mồ em càng trở nên hiu quạnh, mà lòng tôi thắt lại. Bất chợt tôi nghĩ tới câu Kiều của cụ Nguyễn Du: "sè sè nấm đất bên đàng". Có phải em tôi cũng là "phận bạc Đạm Tiên Trong lúc mộng mơ khấn vái, tôi sực tỉnh. Không! Em tôi còn có cả gia đình, bạn bè và xã hội. Nhìn nấm mồ, trước hết tôi tự trách mình và thấy thương Gìn hơn bao giờ hết. Tôi thắp hương lạy em tôi trong những ngày qua và những ngày mình nóng giận trước đó. Nỗi đau giằng xé, tôi nghĩ liên miên về dòng tộc, gia đình: Bố mẹ sinh ra hai anh em tôi giáp nhau, tôi là Trịnh Trọng Giữ và em tôi là Trịnh Quốc Gìn. Cặp từ "Gìn Giữ" bố mẹ tôi đặt, thật là đẹp và thấu đáo của một cụ đồ kỹ tính. Lớn lên, tôi và em tôi đều trong quân ngũ và cũng thật sự giữ gìn phẩm chất của anh bộ đội Cụ Hồ. Sự gắn bó trong cuộc đời và cả tên gọi, tôi càng thương em tôi. Một lần tôi đến thăm Gìn ở Yên Tử. Gìn ghẻ từ đầu đến chân, bôi thuốc xanh lè. Tôi chăm chú nhìn, những vết ghẻ lở loét, em tôi vội che đi vì sợ tôi lo lắng. Ngay cả trong lúc điên loạn (Gìn là thương binh hạng 1/4 mảnh đạn còn găm trong đầu) Gìn vẫn nghe lời tôi. Tôi còn nhớ như in: Vào hồi 14h30’ ngày 16-10-1999 tôi đi làm gặp Gìn mắt đỏ sọc, mặt hơi tái. Tôi vội hỏi Gìn: Nắng thế này em đi đâu? Cần gì anh mua cho, về đi. Em tôi ngoan ngoãn trở về. Giờ nghĩ lại tôi cứ thương thương và cũng chưa cắt nghĩa được, vì sao nó lại sợ tôi đến thế.


Người ta thường nói "Giận quá mất khôn" vì bệnh tật. Theo bác sĩ Nguyễn Quang Hưng - Viện quân y 7 cho biết : "Đồng chí Gìn còn một mảnh đạn trong đầu không mổ ra được... nếu mổ sẽ dẫn đến tử vong. Còn mảnh đạn trong đầu, khi di chuyển sẽ đè vào các dây thần kinh gây điếc, hoặc làm mờ mắt và hoang tưởng dẫn đến tử vong bất cứ lúc nào..." Bệnh của em tôi là thế mà nhiều lúc tôi cứ bắt nó làm theo ý mình, nhất là những khi có công việc nó điên loạn làm những điều "quá mức" tôi càng thấy giận. Chẳng hạn ngày 6-4-1983 bố tôi mất, cả nhà đang cuống lên, người khóc, người thăm, người lo công việc mai táng. Trăm thứ đổ vào đầu tôi, tôi đang bù đầu. Bỗng trong buồng có tiếng đạp cửa, rồi có người chạy vụt ra, tôi nhìn thấy Gìn mặt đầy "sát khí". Như con hổ xổng chuồng, Gìn chạy về phía cánh đồng, mọi người bỏ cả công việc chạy theo. Gìn chạy rất nhanh, cách nhà hơn một cây số, Gìn nằm vật xuống bờ ruộng. Trước cảnh tượng bất ngờ "trong lúc tang gia bối rối" tôi nghĩ giận Gìn và định "mặc kệ". Nhưng rồi nghĩ đến em Gìn còn khổ hơn tôi: Nó mất bố, trong lúc không biết gì về nỗi đau nhân thế. Nghĩ vậy, tôi sắp xếp khâm liệm cho bố rồi chạy ra chỗ em. Từ đầu đến chân Gìn đầy bùn đất, mắt đỏ sọc lên bọt mép sùi ra. Em tôi như một tàu lá héo năm dưới những cánh tay khiêng về. Thương bố, giận em nhưng rồi lại thương em bởi nó vì chiến tranh đã được một ngày nào sống hạnh phúc? Nhiều lúc thấy những cặp vợ chồng trẻ trạc tuổi em tôi dắt con đi trên đường phố tôi càng thấy nẫu ruột. Thật là thương, bao nhiêu điều tôi đều dành cho em. Ngày 1-6 tôi dẫn con tôi vào cửa hàng mua quà thăm chú Gìn: "Đến bệnh viện, tôi đang hy vọng, bởi Gìn sẽ được sự ưu ái bất ngờ. Bao nhiêu là quà của anh, của cháu, chắc em tôi mừng lắm". Nhìn thấy Gìn gục đầu vào giường, tôi vui lắm, gọi:

- Gìn ơi ! Cháu vào thăm chú đây này!

Tôi đẩy con ra cầm gói quà đến sát Gìn, hy vọng được đáp lại của tình máu mủ.

Bỗng Gìn trợn mát, giằng lấy gói quà đáp xuống đất, con tôi sợ quá khóc òa lên. Còn tôi run lên vì tức giận và buồn tủi. Vết thương chiến tranh đã làm mất đi tất cả, anh em cũng không nhận ra nhau. Tôi đành lặng lẽ an ủi con, nói những điều tốt về chú Gìn của nó. Bỗng con tôi hỏi:

- Bố ơi! Thế chú Gìn còn thương con không?

- Có chứ, bây giờ chú ốm để chú nghỉ, khi nào chú khỏe chú lại thương con.

Con tôi lại giục:

- Thế bố kể về chú Gìn đi!

Và tôi lại bắt đầu kể:

- Chú Gìn ở nhà rất chịu khỏ chăn nuôi, trồng cây. Ai cho đồng nào cũng chắt chiu mua con giống, cây giống về nuôi trồng. Có khi chú còn tự mình ra chợ mua ngan về nuôi. Nuôi được mấy ngày rồi lại bán, cây thì trồng chỗ này rồi lại đánh đi trồng chỗ khác. Những chiếc gáo hỏng cứ ngồi gò, hàn, miệng nói lảm nhảm...

Bỗng con tôi hỏi:

- Sao vậy hở bố?

Tôi đáp:

- Chú Gìn bị thương, mảnh đạn của giặc Mỹ còn găm trong đầu nên mất trí nhớ, thường lẩm bẩm. Con phải thông cảm và thương chú.

Con tôi còn hỏi nữa. Tôi ghé sát vào tai nó, nói khẽ:

- Để cho chú Gìn ngủ.

Bố con tôi đặt gói quà, thương em mà không làm gì được. Con tôi cứ ngoái lại rân rấn nước mắt nhìn chú nửa ngồi, nửa nằm mà ngủ.

Hôm nay 30-4 kỷ niệm 27 năm ngày giải phóng miền Nam, nhìn ngôi mộ của em, nhớ lại chuyện xưa, tôi ước ao Trịnh Quốc Gìn còn sống, dù tôi trăm bề cực khổ vì nó. Nghĩ thế, tôi lặng lẽ đắp lại mộ và không quên làm việc thay việc làm hàng năm mà Trịnh Quốc Gìn vẫn làm đó là: Vào đài liệt sĩ tưởng niệm và tháp hương tất cả cho đồng đội - những người một thời cầm súng bảo vệ Tổ quốc, để có đất nước Việt Nam độc lập tự do và thống nhất liền một dải, nhân dân, mỗi gia đình và thế hệ trẻ chúng ta được ấm no hạnh phúc như ngày hôm nay.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 26 Tháng Chín, 2022, 08:24:11 am
GÌN... ƠI!


TRỊNH TRỌNG GIỮ


Hai anh em tôi sinh ra ở một miền quê êm ả, thuộc thôn Phương Lưu, xã Đông Hải, thành phố Hải Phòng. Tôi là Trịnh Trọng Giữ, còn em tôi là Trịnh Quốc Gìn. Cái tên mà bố mẹ đặt cho hai anh em cũng có nghĩa là phải Giữ - Gìn. Ấy thế mà chiến tranh đã cướp đi, đã tách hai từ vốn đẹp đẽ là vậy để còn chữ cô đơn và tôi cũng trở thành dằn giữ. Thế mới biết chiến tranh do Mỹ gẫy ra tàn ác đến nhường nào, nó còn để di chứng cho bao thế hệ. Chính tôi, là một trong hàng nghìn, hàng vạn nạn nhân đang hàng ngày bị di chứng của chiến tranh đè nặng. Nếu không có chiến tranh thì ý nguyện của bố mẹ tôi, chúng tôi và muôn đời con cháu vẫn được giữ gìn không bao giờ bị đổ vỡ, cuộc sống mới mỗi ngày sẽ càng tốt đẹp hơn lên. Chiến tranh làm đảo lộn, và triệt hạ tất cả! Dù đó chỉ là một cái tên gọi. Sự mất mát dai dẳng đến đau lòng, xuyên suốt cuộc đời tôi, mặc dù chiến tranh đã qua đi hơn nửa thế kỷ.


Tôi và em tôi sớm được rèn luyện trong một gia đình lao động. Lớn lên mới 20 tuổi tôi đã là công nhân của một xí nghiệp quốc doanh và em tôi kém tôi 3 tuổi đang học cấp III. Với dáng người mảnh dẻ, nước da trắng xanh, vui tính và hay đọc truyện, em tôi được nhiều bạn bè yêu quý. Năm 1967 em tôi vừa tròn 20 tuổi, đang học lớp 9 trường cấp III An Hải thì trúng tuyển nghĩa vụ quân sự. Ngày em tôi, Trịnh Quốc Gìn, lên đường bảo vệ Tổ quốc, cả nhà tôi vui lắm! Bởi Gìn đã làm anh bộ đội Cụ Hồ. Bố mẹ tôi làm cơm cúng gia tiên, rồi mời họ hàng, bạn bè, xóm giềng lân cận vui "bữa cơm nhạt" tiễn em tôi. Mẹ tôi không ăn cứ nhìn em tôi, còn bố tôi cười vui nhưng nhấc lên lại đặt xuống, nhấm nháp qua quít. Chỉ có chỗ em tôi là rất vui. Cánh thanh niên chúc nhau bao nhiêu điều may mắn, hạnh phúc, thành đạt. Họ tặng em tôi những thứ mà người lính thường thiếu. Đó là những tấm khăn tay thêu chữ, sổ sách, giấy bút và cả những con tem, phong bì ghi sản địa chỉ người nhận. Còn sổ lưu niệm của em tôi thì đầy chữ "Gìn ơi!" - Tiếng gọi của ngày tiễn bạn.


Sau ngày hôm đó, tôi tiễn em tôi đến trụ sở Ủy ban huyện An Hải nơi tập kết lính mới. Lúc chờ xe, anh em tôi dặn nhau đủ thứ, với tâm trạng buồn vui lẫn lộn. Khi đơn vị đến đón, em tôi lên ô tô. Tôi đạp xe đuổi theo vẫy vẫy đến khi đoàn xe khuất bóng. Tôi gọi với:

- Gìn... ơi!

Từ ấy, sau những giờ làm việc tôi lại nhớ người em "có lớn, chưa có khôn". Tôi bỗng thấy thương em, nhất là những lúc tôi có lỗi với nó.

Ngày 23 tháng 3 năm 1968, nghĩa là sau 6 tháng em tôi nhập ngũ, khi được tin em tôi tập huấn ở xã Lưu Kiếm, huyện Thủy Nguyên, tôi đến thăm nhưng không gặp. Tôi ngồi nhìn các anh bộ đội đi qua, người nào cũng giống em tôi từ quân phục, tuổi tác đến tính tình, nhưng Gìn thì hoàn toàn không thấy. Tôi ra về lòng đầy thất vọng và thầm nghĩ: "Gìn... ơi!".


Tình anh em ruột thịt, khiến tôi lúc nào cũng nhớ tới em nhớ tới một người lính còn rất trẻ. Hai tháng sau, vào ngày 2 tháng 5 năm 1968, tôi lại được tin em tôi chuyển đến Yên Tử Quảng Ninh. Thời gian này máy bay Mỹ bắn phá ác liệt. Không ngày nào không có bom rơi, đạn nổ. Tôi vẫn quyết định đi Quảng Ninh. Ngày tôi đi thăm em, bố mẹ tôi không ngủ chuẩn bị hành trang, quà cáp để tôi đi. Chuyến phà bến Đun đầu tiên chỉ có tôi với vài ba người. Qua phà tôi đạp xe đến Uông Bí, vào Năm Mẫu rồi đến Khe Giang, nơi em tôi đóng quân. Rất may ngày hôm ấy tôi đi mệt nhưng không một lần bị máy bay Mỹ oanh tạc. Đến Khe Giang tôi tìm gặp Ban chỉ huy đại đội và được biết em tôi ở B2, C3, E5, F320 hiện đang ngoài bãi tập. Tôi chờ, chờ mãi... rồi cái giây phút ấy cũng đến. Từ trên đồi cao em tôi vác 10 cây tre to bằng cổ tay, quần áo dài vát vai, mặc độc chiếc quần đùi đi về phía tôi. Anh em trông thấy nhau rồi nhưng tôi vẫn phải chờ. Vì em tôi đang giờ lao động, tập trung quân số, xong đâu đó tôi mới được gặp. Tôi rất thông cảm vì "kỷ luật là sức mạnh của quân đội". Khi em tôi chạy ra, anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Chuẩn bị bao nhiêu ý mà tôi chẳng nói được gì, lặng lẽ mở xôi, gà đun đẩy nhau ăn. Vừa ăn tôi vừa ngắm em tôi. Còn em tôi vụng dại che những vết ghẻ bôi thuốc xanh lè. Để phá tan không khí nặng nề trong lần gặp gỡ, em tôi (chứ không phải là tôi) chủ động giải thích:

- Lính chúng em ai cũng vậy, ghẻ từ đầu đến chân, bởi môi trường, nguồn nước chưa quen. Ai chưa ghẻ chưa phải là bộ đội Yên Tử! Chúng em phải luyện khổ để đến chỗ khổ hơn đánh địch. Địch thua ta do nhiều nguyên nhần nhưng một trong nhiều nguyên nhân đó là, chúng ta chịu được khổ.

Em tôi nói một mạch, giọng như chính trị viên. Tôi mừng, vì em tôi đã lớn khôn trong quân ngũ. Tôi nhìn em tôi, không biết nói gì, vì thực sự nó đã hơn tôi. Tôi đánh trống lảng:

- Em chặt tre làm gì?

- Chúng em chặt tre, đan phiên để lợp lán trại.

Rồi em tôi hỏi thăm họ hàng, cô bác ở địa phương. Có lẽ em tôi muốn làm vợi đi nỗi lo của tôi:

- Bố mẹ có khỏe không? Anh chị và các cháu thế nào? Anh kể cho em nghe đi!

Tôi bắt đầu kể. Em tôi chăm chú nghe rồi lăn ra ngủ dưới gốc cây bóng mát. Tôi lần từng nốt ghẻ lờ loét đầy mình em tôi, không cầm được nước mắt. Bỗng em tôi choàng dậy, tôi vội nói:

- Anh đeo chiếc đồng hồ này cho em để làm kỷ niệm.

Em tôi ngoan ngoãn như một đứa trẻ, giơ tay để tôi đeo.

Sau lần đó, còn rất nhiều lần tôi đến Yên Tử, Quảng Ninh thăm em tôi và đồng đội.

Lần cuối cùng vào ngày 5 tháng 6 năm 1968, lần ấy, tôi không gặp. Em tôi đã vào Nam chiến đấu.

Tôi thẫn thờ bâng khuâng như có lỗi với em. Nắm cơm mang theo mà không sao nuốt được.

Ngày lại ngày qua đi, vắng bặt tin em Gìn tôi. Thời gian này máy bay Mỹ bắn phá ngày một ác liệt hơn. Khoảng chín giờ rười ngày 13 tháng 2 năm 1972 cả nhà tôi giật mình vì thấy một anh bộ đội tìm hỏi. Tôi đinh ninh có việc chẳng lành. Anh bộ đội vào chuyện:

- Thưa hai bác, cháu là Nguyễn Xuân Nguyên ở thôn Đốc Hậu, xã Toàn Tháng, huyện Tiên Lãng, là đại đội phó đại đội 2 tiểu đoàn 19, Đoàn vận tải 559 cùng đơn vị với anh Trịnh Quốc Gìn và cùng vào Nam chiến đấu. Cháu và anh Gìn bị thương được đơn vị đưa ra Bắc điều trị. Cháu đã khỏe xin phép về thăm nhà để rồi tiếp tục trở lại đơn vị. Còn anh Gìn vẫn tiếp tục điều trị ở bệnh viện Kinh Môn, Hải Dương.

Nghe đến đây, mẹ tôi òa khóc:

- Ối con ơi! Bao nhiêu năm mẹ không đưực tin con, bây giờ lại thế này!

Cả nhà tôi lặng đi. Sợ kinh động hàng xóm, tôi khuyên mẹ tôi bình tĩnh để anh Nguyên kể tiếp. Anh Nguyên nói với mẹ tôi:

- Gìn không sao đâu, cũng như con bị qua loa thôi mà!

Có lẽ vì nể anh, hay tin là sự thực, mẹ tôi im lặng trong tiếng nấc. Anh Nguyên như muốn tiếp thêm sức mạnh cho sự chịu đựng của mẹ tôi và gia đình, anh tiếp tục kể về em tôi như kể về chiến công của người lính.

- Anh Gìn người nhỏ bé nhưng sức chịu đựng dẻo dai. Trên đường hành quân, có đồng chí phải cõng nhưng anh Gìn vẫn đeo hai ba lô, chuyện tếu như pháo rang. Khi qua một quả núi bình tông tôi hết nước, anh Gìn đưa bình nước của mình cho tôi nói rất chân thành: "Nước đây, anh uống đi em không khát!".

Tôi biết trong lời nói đó là sự chịu đựng. Anh chịu khát vì đồng đội còn khát hơn anh. Tôi hiểu ra, tình đồng đội của người lính ở chiến trường là vậy. Họ sống vì đồng đội, chứ không phải chỉ riêng mình. Anh Nguyên kể tiếp:

- Ngày 16-10-1971, đơn vị chúng tôi chốt tại Gia Lai - Công Tum. Máy bay Mỹ phát hiện, chúng ném bom liên tục, chà đi, xát lại hơn một tiếng đồng hồ. Cả khu rừng xơ xác, nhiều đồng chí hy sinh. Anh Gìn bị thương trong trường hợp máy bay Mỹ quay trở lại bắn phá lần hai, khi anh Gìn đang cứu kho gạo. Quả bom nổ gần, cây cổ thụ đè lên người anh cùng bao gạo. Khi chúng tôi chạy đến, anh Gìn còn thoi thóp, đơn vị đưa anh ra Bắc điều trị. Một tháng sau, tôi bị sốt rét rừng nặng quá, buộc phải về tuyến sau gặp anh Gìn...

Câu chuyện anh Nguyên kể, gia đình tôi theo dõi không bỏ một chi tiết nào. Khi anh Nguyên về, gia đình tôi chuẩn bị ngay để tôi đến thăm em tôi. Tôi đạp xe vội vã. Máy bay Mỹ ném bom, tôi xuống hầm ẩn; ẩn rồi lại đi. Mười tám giờ hôm đó tôi đến bệnh viện Kinh Môn. Em tôi nằm trên giường, hai mắt nhắm nghiền, chân tay cứng đờ, không cử động. Tôi khẽ gọi:

- Gìn... ơi!

Hình như em tôi không nghe thấy, miệng vẫn lặng im. Em tôi mất thật rồi sao. Mặc dầu hai, ba lần tôi vẫn cố gọi. Người bác sĩ trực ca thấy tôi tuyệt vọng nói như khuyên:

- Anh cứ yên tâm, đồng chí Gìn chấn thương sọ não, thần kinh rối loạn, chúng tôi sẽ cố gắng điều trị, sức khỏe sẽ dần được hồi phục.

Tôi không biết nói gì, ngồi thờ thẫn nhìn em. Nỗi đau đè nặng, lòng tôi trống trải và có phần ân hận vì không gặp được em lần cuối ở Yên Tử, Quảng Ninh. Bây giờ gặp lại em như thế này đây. Tôi nguyền rủa chiến tranh đã cướp đi bao nhiêu mạng sống, phá tan bao nhiêu hạnh phúc gia đình. Mặc dầu ở Kinh Môn đã tối, tôi vẫn về. Đến 1 giờ sáng hôm sau mới tới nhà và được biết: Từ lúc tôi đi, cả nhà tôi không ngủ. Thấy tôi về, bố mẹ tôi hỏi:

- Em làm sao rồi?

Tôi kể lại, pha trộn tràn trề hy vọng cốt để bố mẹ tôi yên tâm. Mẹ tôi vào bàn thờ thắp hương, lần tràng hạt khấn vái Đức Phật đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn phù hộ cho em tôi tai qua nạn khỏi.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 26 Tháng Chín, 2022, 08:24:58 am
Tháng 2 năm 1972 bệnh tình đã đỡ dần, em tôi về điều dưỡng ở đoàn 151 thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Điều trị gần nhà, tôi có điều kiện đến thăm em tôi hơn. Có một lần bảy giờ sáng ngày 25/12/1972 tôi đến nhà bác Tâm thuộc xã Nam Am, huyện Vĩnh Bảo - nơi em tôi sơ tán điều trị. Hỏi, không ai biết em tôi ở đâu! Tôi và mọi người tìm toáng lên. Linh tính, tôi chạy ra cánh đồng, thấy một mô đen hình người. Tôi vội chạy đến thì đúng là em tôi - Trịnh Quốc Gìn ngồi trên bờ ruộng, hai tay ôm nồi nước giải của nhà chủ, đầu gục xuống. Hai chân buông xuống ruộng, ba đến bốn con đỉa đang hút máu căng mọng! Tôi hoảng quá khẽ gọi:

- Gìn... ơi!

Em tôi ôm nồi nước giải, miệng hét to:

- Xung phong!... Xung phong! Bắn!... Bắn!

Tôi đuổi theo nhưng không dám chạy nhanh vì sợ em tôi ngã, mảnh nồi đất vỡ ra đâm vào người. Bác Tâm chủ nhà nói: "Chú Gìn cứ trái gió, trở trời là vậy!".

Năm 1973 Hải Phòng thành lập tiểu đoàn Hải Đà mang tên Hải Phòng, Đà Nẵng kết nghĩa. Tôi lên đường nhập ngũ và được biên chế vào tiểu đoàn này. Trước khi lên đường vào Nam chiến đấu, Tết năm 1973, tôi và em tôi đều được về quê Cái Tết của một gia đình đoàn tụ ý nghĩa và vui, không ngờ lại là cái Tết đau lòng. Hôm ấy là ngày mùng 3 Tết, mưa dầm trời rét, nhà tôi hóa vàng để anh em tôi trả phép người về bệnh viện, người lên đường vào Nam chiến đấu. Cả nhà đang vui vẻ bỗng có tiếng kêu thất thanh:

- Ông Gìn ở dưới bếp làm sao rồi kìa!

Cả nhà tôi chạy xuống bếp. Em tôi mặt tái nhợt, mắt trắng giã, đờ đẫn. Máu chảy từ cổ xuống áo. Em tôi tự chặt ngón tay mình! Con dao và hai đốt tay còn nguyên trên thớt! Tôi vội băng, rồi đèo em tôi đến bệnh viện. Cuộc sống của em tôi là vậy. Cứ trái gió trở trời là sinh chuyện đau lòng. Những lúc lên cơn, em tôi uống cả dầu hỏa, đâm đầu xuống ao... Cái chết lúc nào cũng rập rình, sẵn sàng cướp đi mạng sống của em tôi.

Ngày trả phép, tồi trăm bề lo lắng về số phận của em tôi. Bệnh em tôi mỗi ngày một nặng. Tháng 4 năm 1973 em tôi được chuyển về điều trị tại bệnh viện tâm thần thuộc huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Ngày 1-5-1976 tôi được nghỉ phép lên thăm. Đến cổng bệnh viện tôi nhìn thấy chị y tá dắt em tôi dạo choi. Tôi ngắm nhìn cảnh "lương y như từ mẫu". Chị y tá nhẹ nhàng đặt tay lên vai em tôi như bảo: Ngồi xuống. Em tôi ngồi xuống, bỗng vụt đứng dậy tát mạnh vào mặt chị y tá, rồi ôm ghì lấy chị. Tôi sợ quá vất cả xe, bỏ cả túi chạy tới kêu thất thanh:

- Gìn... ơi! Sao lại thế!

Tôi và chị y tá gỡ tay em tôi ra. Mắt em tôi đỏ sọc, tay run run. Tôi nhìn chị y tá hỏi:

- Chị có sao không?

Chị y tá chưa biết tôi là ai nói:

- Không sao anh ạ ! Chúng tôi ở đây thường chịu cảnh như thế này quen rồi. Sau cơn mê, anh Gìn tốt lắm! Anh thường kể cho chúng tôi nghe về bệnh tật của anh, về cha mẹ và gia đình.

Làm quen với chị y tá, tôi tự giới thiệu là Trịnh Trọng Giữ, anh ruột của Trịnh Quốc Gìn. Chị y tá kêu lên:

- Thảo nào giống nhau như đúc.

Rồi chị dẫn em tôi về phòng điều trị và dẫn tôi đến Ban lãnh đạo bệnh viện.

Đêm ấy, tôi ngủ chung giường với em tôi. Hai anh em trò chuyện rồi ngủ lúc nào không biết. Hai giờ sáng em tôi rú lên, người co dúm lại, răng nghiến chặt, bọt mép tràn ra. Tôi ôm chặt em tồi vào lòng. Em tôi dẫy đạp. Đầu tôi đập vào thành giường máu chảy ướt hết tóc và áo may ô. Tôi gọi y tá trực. Đèn dầu tối, mọi người xúm lại. Tôi đau quá không nói được. Các thầy thuốc điểm huyệt, tiêm cho em tôi. Chị y tá ban trưa, vén tóc, tìm vết thương và băng bó cho tôi. Ba mươi phút sau em tôi tỉnh lại đòi uống nước. Em tôi nhìn chằm chặp vào cái đầu quấn khăn trắng của tôi rồi ngủ tiếp.


Tháng 6 năm 1989, tôi được nghỉ hưu về quê tham gia xây dựng HTX Bạch Đằng. Sống ở quê, tôi có điều kiện chăm sóc em tôi hơn. Một con người bằng xương, bằng thịt, thực sự mà lúc tình, lúc mê. Thương em, tôi dành cho em tất cả! 14 giờ 30 ngày 16 tháng 10 năm 1999 tôi đi làm, ra đến cổng gặp em tôi Tôi gọi bằng một giọng hết sức trìu mến:

- Gìn... ơi ! Gìn đi đâu đấy?

Thấy em tôi đờ đẫn, mặt hơi tái, tôi dỗ dành:

- Về đi! Nắng thế này đi đâu? Em có ăn gì không? Cần gì anh mua cho.

Em tôi nhìn tôi một lát rồi nói:

- Em xin anh cái lưỡi dao cạo.

Tôi giật mình vì quá thương em tôi không dám nghĩ tới điều mình sợ, vội nói:

- Về đi, tối anh mua cho.

Cùng lúc đó thím Lý, vợ em tôi dẫn em tôi về nhà.

Do bận bịu công việc của hợp tác xã, 19 giờ 30 cùng ngày tôi mới về. Đến ngõ, thấy điện sáng, người đông nghịt, tôi đoán có sự chẳng lành nhưng không nghĩ việc lại khủng khiếp như vậy. Vào sân nhà, cháu tôi đã nói:

- Ông Gìn đi rồi!

Tôi bàng hoàng, chạy vội sang nhà em tôi, mọi người đang gào khóc.    Tôi như cái máy, dãn mọi người ra, ôm em tôi, lắc lắc cái thân hình tàn phế:

- Làm sao thế này, người còn nóng (nhưng tôi không biết rằng đó là cái nóng của nắng chứ không phái là cái nóng của máu), gọi xe cấp cứu chưa? Em tôi không thể chết được.

Tôi nói một thôi, một hồi vừa trách móc, vừa giục giã. May thay xe cấp cứu vừa đến. Vì gia đình tôi đã gọi từ trước. Làm thủ tục xong, bác sĩ trả lời:

- Không chữa được, đã tắt thở!

Cả nhà tôi gào lên tuyệt vọng!

Đám tang em tôi đông lắm. Người nối người dài gần cây số. Vòng hoa của xã, của các đoàn thể trong đó có vòng hoa của Hội cựu chiến binh. Những dòng chữ nghẹn ngào "Vô cùng thương tiếc đồng chí Trịnh Quốc Gìn". Tôi cứ khụy xuống, bám phía sau quan tài mà gào lên: "Gìn... ơi!".


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Mười, 2022, 07:42:34 am
TỔNG TRUNG HÀNH (XÃ ĐẰNG LÂM) MỘT CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG


NGUYỄN ĐỨC NHIẾP
(Chi hội LSQS Hải Phòng)


Tổng Trung Hành, huyện Hải An, tỉnh Kiến An ngày xưa - nay là xã Đằng Lâm, huyện An Hải, thành phố Hải Phòng - là một căn cứ địa cách mạng của miền duyên hải Bắc Kỳ.

Với vị trí, địa lý quan trọng và tình hình chính trị, kinh tế, xã hội qua các thời kỳ đất nước Việt Nam bị ngoại bang đô hộ, đất Trung Hành tự ngàn xưa với truyền thống đấu tranh bất khuất kiên cường của người dân đã được các bậc tiền bối lập nên căn cứ địa chống giặc ngoại xâm.


Cuộc sống đói nghèo cùng cực, nhiều người dân Trung Hành phải rời nơi "chôn nhau cắt rốn" đi lang thang khắp mọi miền đất nước để kiếm sống, hòa mình vào các cuộc đấu tranh cách mạng chung của dân tộc ở nhiều nơi và ngay tại quê hương.

- Hai bố con cụ Bùi Quang Phò, ông Bùi Quang Phì, cùng người người, lớp lớp kế tiếp như các ông: Phạm Văn Duyệt, Hoàng Văn Quýnh, Cao Văn Nhiêu, Phạm Công Tiện, Bùi Quang Hợi, Vũ Văn Hồng, Đỗ Công Hình, Vũ Đình Lượng, Vũ Đình Quỳ, Bùi Quang Rĩnh, Nguyễn Viết Chất, Nguyễn Văn Tích, Nghiêm Thượng Mường, Nghiêm Thượng Canh, Vũ Đình Sầm, Bùi Quang Tuyến, Phan Văn Nhài, Nguyễn Danh Lém, Bùi Quang Nhỡ, Phạm Văn Đích, Ngô Bá Ngọ, Vũ Đình Nhữ, Đặng Bá Thuần, Khoa Kim Mỹ, v.v... là những nhân chứng lịch sử đã viết nên trang sử vàng cho quê hương Trung Hành từ những năm 1925 - 1945.


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Với truyền thống yêu nước và tinh thần trung dũng - kiên cường của người dân Trung Hành xưa, nay là xã Đăng Lâm, nên Xứ ủy Bắc Kỳ và Liên tỉnh ủy B1 (Liên tỉnh ủy B gồm các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh ngày nay) đã cử các đồng chí: Nguyễn Đức Cảnh, Tô Hiệu, Nguyễn Lương Bằng, Bùi Lâm, Nguyễn Công Hòa, Nguyễn Đức Cúc (tức Nguyễn Văn Linh) cùng số đồng chí khác lần lượt về đây bí mật gây dựng phong trào.


Sau đó, tại trường tiểu học Trung Hành, theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hải Phòng, Chi hội Thanh niên cách mạng đồng chí hội của giới trí thức, học sinh nhà trường được thành lập do đồng chí Phạm Văn Duyệt làm Bí thư2 (Đồng chí Phạm Văn Duyệt, năm 1946 là Chủ tịch UBKCHC huyện Hải An). Chi hội này sau trở thành chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Trung Hành.


Tiếp đến tháng 6-1930, Tỉnh bộ Hải Phòng lại tăng cường thêm đồng chí Hoàng Văn Trành về chỉ đạo. Giữa tháng 6-1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Phi Vân, tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Hải Phòng, cũng tại đình làng Trung Hành đã thành lập Ban cán sự Đảng huyện Hải An để lãnh đạo chung toàn huyện, gồm các đồng chí Hoàng Văn Trành làm bí thư, và các ủy viên là Phạm Văn Duyệt, Cao Văn Nhiêu, Phạm Công Tiện.


Trung Hành đã trở thành một cơ sở quan trọng của những cán bộ Trung ương, Xứ ủy, Liên tỉnh ủy qua lại hoạt động. Trung Hành còn là cầu nối mọi liên lạc và chỉ đạo của Xứ ủy, Liên tỉnh ủy với phong trào đấu tranh cách mạng tới Hải Phòng, Kiến An và khu mỏ Hòn Gai. Trung Hành cũng là trạm đầu cầu quan trọng trong hệ thống đường dây liên lạc của Trung ương Đảng với bộ phận Cộng sản đặt ở Trung Quốc.


Dưới sự trực tiếp chỉ đạo của Ban cán sự Đảng huyện Hải An, những hoạt động chủ yếu của chi bộ Đảng Trung Hành thời kỳ này là giao nhận và chuyển tải tài liệu của Đảng, các sách báo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài, do các đồng chí Hồ Tủng Mậu, Trần Phương Đồn, Trần Văn Tuệ đi tàu biển chuyển về cảng Hải Phòng, cùng những văn bản chỉ thị của Trung ương về Hải Phòng, Hải An, ra Quảng Yên xuống các cơ sở và ngược lại. Đồng chí Bùi Quang Phì đã tổ chức được tổ xe kéo trá hình chuyên làm nhiệm vụ này hoàn thành trót lọt. Đồng thời mở rộng hành lang an toàn cho những đường dây bí mật để tuyên truyền, vận động, tổ chức xây dựng các Hội ái hữu, từ thiện, Hội truyền bá quốc ngữ. Các đoàn thể cứu quốc dấy lên phong trào đấu tranh với chính quyền bảo hộ đòi quyền tự do dân chủ, dân sinh, chống phạt vạ, chống sưu cao thuế nặng và đàn áp, khủng bố nhân dân.


Có Đảng lãnh đạo nên phong trào đấu tranh chung của quần chúng nhân dân nổ ra dồn dập, thu hút được mọi tầng lớp nhân dân tham gia hoạt động sôi nổi. Trên địa bàn huyện Hải An đã nổ ra hai cuộc đấu tranh lớn mang tính quần chúng rộng rãi ở đảo Đình Vũ và làng Trung Hành1 (Tư liệu lưu trữ tại Bảo tàng Hải Phòng, số B/ĐT 25), là:

1- Ngày 7/9/1930, tức ngày rằm tháng 7 năm Canh Ngọ. Đồng chí Phạm Văn Duyệt đã trực tiếp chỉ huy hơn 300 người là những nông dân, diêm dân, thanh niên, học sinh địa phương võ trang, giương cao cờ búa liềm và biểu ngữ: "Phản đối độc quyền muối", "Chống khủng bố", "Đả đảo thực dân Pháp", tuần hành, thị uy quanh đảo Đình Vũ. Hoảng hốt trước khí thế đấu tranh của đoàn người diễu hành, bọn quan lính nhà Đoan muối phải trốn chạy về Ninh Tiếp (đảo Cát Hải). Thừa thắng, đoàn biểu tình làm chủ hải đảo, tổ chức mít tinh và phá kho lấy muối chia cho dân.

2- Cùng ngày, tại Trung Hành, hơn 100 học sinh trường tiểu học đã tổ chức mít tinh kêu gọi toàn trường bãi khóa, rầm rộ tiến về huyện lỵ Hải An đưa kiến nghị: "Phản đối thái độ hống hách, đánh mắng học sinh của những giáo viên thân Tây", yêu cầu chuyển họ đi nơi khác. Tri huyện Hải An Nguyễn Tất Đắc và Đốc học phải chấp nhận đơn kiến nghị.


Tin đấu tranh thắng lợi ngày 7-9-1930 ở Đình Vũ và Trung Hành được truyền tụng, trở thành nguồn cổ vũ lớn lao cho phong trào đấu tranh cách mạng. Tờ Tin tức của Trung ương Đảng đã kịp thời thông báo đi khắp nơi.


Phong trào đấu tranh cách mạng ở Trung Hành (Hải An, Hải Phòng) đang lên mạnh thì Pu-giôn, Chánh sở mật thám Bắc Kỳ đưa quân lính về lùng sục vây bắt một số cán bộ, đảng viên và khủng bố nhân dân. Các đồng chí Phạm Văn Duyệt, Cao Văn Nhiêu, Phạm Công Tiện, Bùi Quang Phì cùng những đồng chí khác lần lượt bị mật thám Pháp bắt cầm tù và bắn giết. Cơ sở bị phá vỡ nghiêm trọng. Phong trào tạm thời lắng xuống chuyển sang hoạt động theo hình thức mới và bảo vệ cơ sở.


Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp lên cầm quyền.

Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ. Các đồng chí Phạm Vãn Duyệt, Bùi Quang Phì cùng một số đồng chí khác lần lượt được ra tù trở về địa phương cùng các đồng chí Lương Thế Dân, Ngô Kim Tài, Trần Ngôn Hoạt, Trần Viết Diệu và Nguyễn Bình chắp nối, củng cố lại cơ sở và phát triển phong trào cách mạng ở Trung Hành, tiếp tục lãnh đạo nhân dân đấu tranh bước vào giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII (ngày 19-5-1941) của Trung ương Đảng, phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng.


Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời mở ra một trang sử đấu tranh mới cho Đảng bộ và nhân dân xã Đằng Lâm.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Mười, 2022, 07:43:49 am
Kỷ niệm 56 năm ngày truyền thống Cát Bi trung dũng - kiên cường (23/11/1946 - 23/11/2002


ĐẢNG BỘ, CHÍNH QUYỀN, NHÂN DÂN XÃ ĐẰNG LÂM
QUYẾT TÂM ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

ĐỖ DUY MỊCH
(Huyện ủy viên Huyện ủy An Hải,
Chủ tịch UBND xã Đằng Lâm)


Cách đây 56 năm, ngày 23-11-1946, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh và ủy ban Bảo vệ thành phố Hải Phòng, huyện Hải An, quân dân xã Đằng Lâm đã cùng lực lượng tự vệ chiến đấu và nhân dân Hải An nhất tề nổi dậy bố trí trận địa bao vây đánh chiếm sân bay Cát Bi, lập nên truyền thống Cát Bi trung dũng - kiên cường.


Trong thời kỳ chống giặc Pháp xâm lược, xã Đằng Lâm là địa bàn hoạt động kháng chiến của nhiều tổ chức cách mạng, là đầu mối giao thông liên lạc giữa nội thành với ngoại thành của liên tỉnh Hải - Kiến và các tỉnh, thành lân cận.


Quân đội Pháp quyết tâm bình định vùng này, đã ra sức tập trung các binh đoàn mạnh để càn quét, đàn áp, khủng bố nhân dân, nhằm triệt phá các cơ sở kháng chiến. Và tổ chức xây dựng ngụy quyền, ngụy quân.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân quân tự vệ và nhân dân đã phối hợp với bộ đội chủ lực, công an, điệp báo, kiên cường bám sát địa bàn hoạt động, kết hợp giữa đấu tranh chống địch và bảo vệ nhân dân với giữ vững đường dây giao thông liên lạc. Đồng thời tiến hành binh, địch vận làm tan rã hàng ngũ địch.


Từ sự kiện Hải Phòng tác chiến (20-11-1946) đến ngày giải phóng Hải Phòng (13-5-1955), dân quân du kích xã Đằng Lâm đã hiệp đồng cùng các xã bạn trừng trị 31 tên tề ngụy phản động, bắt đưa ra vùng tự do giáo dục, cải tạo một số tên khác, làm trong sạch địa bàn khu vực. Đã vận động 40 binh sĩ ngụy quân đào ngũ, dem theo vũ khí về với nhân dân, góp phần làm tan rã cả tiểu đoàn lính ngụy số 93 Bắc Việt đóng quân trên địa bàn Hải An trong thời gian 300 ngày đấu tranh thực hiện hiệp định Genève. Bảo vệ an toàn lực lượng cán bộ kháng chiến về địa bàn hoạt động. Tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị bộ đội chủ lực về tập kích các đồn bốt địch trong nội thành Hải Phòng, nội huyện Hải An. Đặc biệt là trận đánh sân bay Cát Bi trong đêm 20-3-1947 của Đoàn quân Trung Dũng; trận tập kích sân bay Cát Bi trong đêm 7-3-1954 của bộ đội Kiến An.


Toàn xã Đằng Lâm có 58 gia đình đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, bộ đội về hoạt động. Nhiều tấm gương anh dũng kiên cường. Điển hình là các anh hùng liệt sĩ: Hùng Sơn, (Bí thư chi bộ Đảng), Đỗ Doãn Năm, Bùi Quang Hiến, Nguyễn Ngọc Liêu, Hoàng Bá Đạo, Đinh Văn Ao, Khoa Kim Khoát, cùng 10 đồng chí khác. Một số cán bộ, đảng viên, nhân dân bị sa vào tay giặc dù bị tra tấn cực hình như các đồng chí: Khoa Kim Mỹ, Khoa Kim Khoát, Vũ Khắc Lạc, Đặng Bá Thuần, Nguyễn Thế Thọ, Nguyễn Viết Đắc, Trần Đức Đạt, Khoa Năng Bùn, Vũ Thị Bé, v.v... vẫn kiên định lập trường cách mạng, không đầu hàng giặc, kiên quyết giữ vững chân lý: "Sống ở trong tù trung kiên, bất khuất".


Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Đằng Lâm hỗ trợ đắc lực lực lượng phòng không, bảo vệ các cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, giao thông, vận tải của thành phố Cảng Hải Phòng và sân bay Cát Bi. Đồng thời còn là hậu phương trực tiếp đón nhận các cơ quan, trường học, bệnh viện và nhân dân nội thành sơ tán về.


Tất cá 5 thôn xóm trong xã đều có các trận địa pháo cao xạ tên lửa, các đơn vị thông tin liên lạc. Quân dân xã Đằng Lâm vừa sản xuất vừa chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Vượt qua bom đạn, thủy lôi phong tỏa của quân thù, Đảng bộ, chính quyền và lực lượng vũ trang địa phương tạo thành pháo đài thép bảo vệ thành phố, góp phần bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, trong đó có cả máy bay B52 ; hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ chi viện sức người, sức của cho chiến trường. Đã có 1050 thanh niên xung phong nhập ngũ và tái ngũ "Xẻ dọc Trường Sơn" đi chiến đấu ở các chiến trường. Trong đó có 107 liệt sĩ đã anh dũng hy sinh cho độc lập tự do của Tổ quốc.


Tổng kết 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xã Đằng Lâm đã được Nhà nước phong tặng các danh hiệu:

- 01 Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

- Cấp bằng Tổ quốc ghi công cho 118 liệt sĩ.

- Xếp loại thương, bệnh tật cho 49 thương bệnh binh.

- Tặng thưởng 346 huân, huy chương các loại cho tập thể và cá nhân.   

- Tặng kỷ niệm chương cho 6 chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày và các dũng sĩ diệt Mỹ, thanh niên xung phong hỏa tuyến, cùng những bằng khen và các phần thưởng cao quý khác.

Từ công cuộc đổi mới đến nay, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Đằng Lâm phát huy sức mạnh đoàn kết, tự lực, tự cường khắc phục khó khăn, năng động sáng tạo để phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng bảo vệ quê hương. Về nông nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Thực hiện luân canh tăng vụ, nâng cao năng suất, bình quân đạt từ 10,5 tấn - 10,7 tấn/ha/năm. Hơn 50% diện tích canh tác được cải tạo, chuyển sang luân canh rau màu, hoa, cây cảnh... từ 3 - 4 vụ/năm, tạo giá trị từ 50 - 60 triệu đồng/ha. Phong trào cải tạo vườn tạp, quy hoạch ao hồ, đầm để ươm trồng và nuôi thả các loại cây con có giá trị kinh tế cao, phát triển mạnh, sâu rộng trong toàn xã. Xuất hiện ngày càng nhiều các loại hình sản xuất tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ (chiếm tỷ trọng 50%) vừa đem lại hiệu quả cho kinh tế gia đình vừa góp phần giải quyết tốt vấn đề lao động và việc làm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 11% một năm. Đời sông nhân dân được cải thiện, không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 0,67%.


Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân cơ bản được đầu tư, cải tạo. Sự nghiệp giáo dục, y tế được chăm lo, có nhiều chuyển biến về chất. Hoạt động văn hóa, TDTT trong nông thôn khởi sắc, góp phần nâng cao sức khỏe, dân trí, đời sống tinh thần của nhân dân. Quốc phòng, an ninh thường xuyên được duy trì liên tục nhiều năm hoàn thành xuất sắc. Đơn vị dân quân, công an xã Đằng Lâm đến nay vẫn giữ vững danh hiệu "Quyết thắng". Đảng bộ xã nhiều năm đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Các đoàn thể quần chúng hoạt động có hiệu quả, thường xuyên được củng cố về tổ chức, đổi mới nội dung hoạt động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao.


Toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân xã Đằng Lâm nêu cao tinh thần thi đua yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.

NGUYỄN ĐỨC NHIẾP ghi


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Mười, 2022, 07:45:17 am
KỶ NIỆM ĐỒNG ĐỘI


NGUYỄN THẾ THỌ
(Nguyên Phó chủ tịch UBKCHC xã Đằng Lâm)


Từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, xã Đằng Lâm đã có đoàn thể tư vệ cứu quốc, mà tôi (Nguyễn Thế Thọ) làm liên lạc.

Một hôm, anh Khoa Kim Mỹ (Hội trưởng) đi họp huyện về nói với các anh Bùi Đức Nhữ, Đặng Bá Thuần là tổng Trung Hành ta phải thành lập trung đội tự vệ chiến đấu để chuẩn bi tổng khởi nghĩa.

Thế rồi trung đội tự vệ chiến đấu được ra đời gồm:

- Bùi Đức Nhữ, trung đội trưởng.

- Đặng Bá Thuần, trung đội phó.

- Khoa Kim Mỹ, chính trị viên.

- Nguyền Thế Thọ, liên lạc viên và là thư ký của Ban chỉ huy.

Chiến sĩ thì tuyển chọn trong các hội tự vệ cứu quốc ở 6 xã: Trung Hành, Lực Hành, An Khê, Thư Trung, Kiều Sơn và Đông An được hơn 30 người.

Sau ngày giành chính quyền cách mạng ở địa phương (24-8-1945) có quân Tàu Tưởng đến Hải Phòng làm nhiệm vụ tước khí giới quân Nhật. Ủy ban cách mạng lâm thời xã đi mua được số súng trường đủ các loại Nhật, Pháp, Nga, Tàu Pặchoọc... súng đã khóa nòng không mở được "quylát", phải nhờ mấy ông là lính khố đỏ, khố xanh biết sử dụng mới mở được. Khi bắn thử, súng bị cướp cò nổ đánh "đoàng!" cả lũ giật mình. Các cụ gật gù khen "Súng tốt thật, chưa bóp cò đã nổ". May mà không có người chết. Đúng là "điếc không sợ súng".


Về sau có các đồng chí Giao, Thu, Cận là giải phóng quân về xã huấn luyện quân sự, vũ thuật, vũ khí cho tự vệ. Bài tập là những động tác cơ bản và cá nhân chiến đấu. Vũ khí thì dùng gậy tre đẽo nhọn đâm vào không khí.


Về chính trị thì có các anh ở huyện bộ về giảng bài: Thế giới có hai phe và bốn mâu thuẫn, lịch sử cách mạng Việt Nam, v.v... Chúng tôi luyện tập hăng say lắm. Ngày nào trên bãi cỏ, trong sân đình cũng đông người, vì có cả người đến xem tự vệ tập. Thi thoảng có tốp lính Tàu đi qua nhìn vào xì xồ... Bọn tôi lại lầm rầm hát nhại mấy câu:

"Đoàn quân Tàu ô đi sao mà ốm thế,
Bước chân phù lang thang trên con đường Việt Nam...
……………………………………………………

Trong thời gian này có một kỷ niệm sâu sắc mà chúng tôi ghi nhớ mãi. Đó là một lần Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái về thăm, ông nói chuyện thời sự, tặng cho đơn vị 20 thùng thóc = 600kg và căn dặn anh em phải tích cực học chính trị, tập quân sự.

Tháng 3-1946 (ngày mồng 8), quân Pháp vào Hải Phòng thay thế quân Tàu theo hiệp định sơ bộ 6-3. Bọn lính lê dương kéo về đóng ở sân bay Cát Bi, hàng ngày nghênh ngang vào làng khiêu khích, trêu ghẹo phụ nữ. Tự vệ chúng tôi ngứa mắt lắm, nhưng không được bắn, phải theo lệnh cấp trên. Lòng căm thù nung nấu, mong muốn được xung phong cho hả dạ.


Thế rồi, tháng 11-1946, Hải Phòng tác chiến, có lệnh cho Đoàn tự vệ chiến đấu huyện Hải An đánh sân bay Cát Bi. Trung đội tự vệ Đằng Lâm làm nhiệm vụ bố trí phục kích, bao vây và tấn công vào sân bay Cát Bi từ hướng bắc, ngay bên cạnh làng.


Từ mờ sáng ngày 23-11-1946, tổ xung kích gồm: Nguyễn Thế Thọ, Vũ Xuân Luân, Vũ Đình Tâng và Nguyễn Viết Sòng được lệnh ngụy trang đột nhập sân bay bắn phá uy hiếp địch. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, tại Sở chỉ huy Mặt trận xuất hiện cờ lệnh báo tấn công sân bay. Từ bốn phía, quân dân ta lập tức reo hò xung phong vào truy kích địch khi chúng rút chạy ra hướng biển. Trong sân bay, bãi xăng dầu, kho bom đạn bốc cháy ngùn ngụt cùng những tiếng nổ rầm trời. Đơn vị tự vệ Đằng Lâm đã góp phần làm nên chiến công đầu oanh liệt này. Toàn Đoàn tự vệ chiến đấu huyện Hải An rất phấn khởi khi nhận được điện khen của Bộ Tổng tham mưu và huy chương Tổ quốc ghi công của UBKC, Chiến khu III. Đồng thời thương tiếc hai đồng chí Phạm Văn Nhâm và Nguyễn Văn Đạo trong đội tự vệ chiến đấu xã Tràng Cát đã hi sinh khi làm nhiệm vụ đốt phá kho xăng dầu, bom đạn địch. Quân ta làm chủ sân bay từ trưa ngày 23-11-1946. Và ngày này (23-11-1946) đã trở thành ngày truyền thống Cát Bi trung dũng - kiên cường của quân dân huyện Hải An.


Sáng ngày 24-11, quân Pháp từ Hải Phòng chia làm nhiều mũi tiến đánh sân bay Cát Bi. Nhưng bị lực lượng tự vệ các xã Đằng Giang, Đằng Lâm, Đằng Hải chặn đánh, chúng phải quay về Hải Phong đem theo các xác chết.


Sáng ngày 27-11, một trung đoàn bộ binh cơ giới Pháp có máy bay hộ tống rầm rập tiến quân theo trục đường Trần Quốc Toản (nay là đường Lạch Tray) kết hợp với tiểu đoàn dù nhảy xuống đánh phá sân bay Cát Bi.


Trên đường hành quân, chúng tràn vào các làng xóm ven đường đốt phá nhà cửa, bắn giết nhân dân chưa kịp đi tản cư va sục tìm Việt Minh sao vuông" để tiêu diệt.

Bằng những súng đạn của địch thu được trong trận ngày 23-11 lại có thêm đơn vị vệ quốc đoàn phối hợp, Đội tự vệ Đằng Lâm đã chiến đấu kiên cường, bắn trả quyết liệt quân thù, vật lộn với giặc ngay trong lũy tre, trên đường ngõ làng xóm quê hương. Vì đêm 26-11 bộ phận chủ lực mạnh của Đoàn tự vệ chiến đấu Hải An phải bí mật chuyển đi bổ sung cho mặt trận Hải - Kiến nên lực lượng ta quá mỏng. Và trận chiến đấu ngày 27-11 kết thúc, giặc Pháp đã chiếm được sân bay Cát Bi, để lại trên chiến trường, dọc đường hành quân những xác chết, những vết máu loang lổ.


Bên ta, các đồng chí Bùi Quang Hiến, Nguyễn Ngọc Liêu, Hoàng Bá Đạo và những đồng chí khác của Đội tự vệ Đằng Lâm cùng Đoàn tự vệ chiến đấu Hải An đã anh dũng hy sinh để lại niềm thương tiếc cho quân dân địa phương.


Từ ngày ấy (27-11-1946), quê hương tôi trở thành vùng sâu địch hậu. Trung đội tự vệ chiến đấu xã Đằng Lâm và Đoàn tự vệ chiến đấu huyện Hải An phải phân tán đi nhận nhiệm vụ mới theo yêu cầu của tổ chức, tiếp tục chiến đấu trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước đến ngày Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất.


Hòa bình lập lại. Để phát huy truyền thống "Cát Bi trung dũng - kiên cường" ngày 23-11-1946, chúng tôi, những người đã hoàn thành nghĩa vụ công dân còn sống, đã nhóm họp thành lập Ban liên lạc Đoàn tự vệ chiến đấu huyện Hải An nhằm động viên nhau cống hiến phần còn lại của cuộc đời cho quê hương, đất nước. Chúng tôi đã cử người sưu tầm, biên soạn lịch sử của địa phương, ôn lại quá khứ hào hùng, để giáo dục truyền thống cho lớp trẻ hướng tới tương lai.


Tập sách lịch sử trên đã có tác dụng thiết thực giúp cho việc đi tìm đồng đội, thực hiện Nghị định 28/CP của Chính phủ. Các đồng chí Nguyễn Văn Lựu (xã Nam Hải); Lê Danh Tác, Đỗ Văn Hấp (xã Đông Hải); Nguyễn Văn Nân (xã Tràng Cát) và một số đồng chí khác hy sinh hồi đầu kháng chiến chống Pháp đã được đồng đội tìm về với danh hiệu liệt sĩ.


Riêng trường hợp đồng chí Nguyễn Ngọc Liêu (tự vệ thôn Lực Hành, xã Đằng Lâm) đã bị giặc Pháp bắn chết chặt xác vứt xuống sông Cầu Rào ngày 27-11-1946 đã được sách lịch sử Đoàn tự vệ chiến đấu huyện Hải An (1945 - 1955) xác nhận, được Bộ Lao động - thương binh và xã hội nhắc đến trong bản số 1808 ngày 6-6-2000 gửi UBND thành phố Hải Phòng UBND huyện An Hải đề nghị làm thủ tục công nhận liệt sĩ. Đồng chí Nguyễn Ngọc Liêu đã được truy tặng danh hiệu liệt sĩ, hiện hài cốt đã được tìm về an nghỉ tại nghĩa trang xã Đằng Lâm.


Chắc chắn sẽ còn những đồng chí khác đã hy sinh trong nghiệp kháng chiến cứu nước bị thất lạc sẽ được đồng đội tìm về. Vì đạo lý của dân tộc Việt Nam là: "Uống nước nhớ nguồn" và chính sách của Nhà nước Việt Nam là "Ăn quả nhớ người trồng cây".

NGUYỄN ĐỨC NHIẾP ghi


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Mười, 2022, 07:48:25 am
DẤU ẤN NGƯỜI XƯA TRONG CÁC DÒNG HỌ
Ở XÃ ĐẰNG LÂM NGÀY NAY


ĐỖ AN HÃNH
(Nguyên Chủ tịch UBND xã Đằng Lâm)


Xã Đằng Lâm là nơi hội tụ của 14 dòng họ từ nhiều nơi trên đất nước đến sinh cơ lập nghiệp, tạo dựng cuộc sống lâu dài. Đó là các dòng họ : Bùi, Đỗ, Nguyễn, Vu, Đinh, Lê, Trần, Hoàng, Đặng, Đoàn, Ngô, Phạm, Phùng, Khoa...


Đến ngày nay dù đã qua nhiều biến cố lịch sử nhưng hầu hết các dòng họ đều bảo tồn được tộc phả, ghi chép những cống hiến vào sự nghiệp dựng nước, giữ nước và mở mang dân trí của tổ tiên, ông cha từ các thế hệ trước để lại.


Đã tạo dựng thành truyền thống quý báu nhắc nhở các lớp con cháu luôn tưởng nhớ, biết ơn. Và phấn đấu noi theo, kế tục, làm sáng tỏ dấu ấn người xưa như:

* Dòng họ Bùi:

Vào triều đại nhà Hậu Lê (thế kỷ thứ XV) có cụ tổ là Bùi Đức Đô được phong chức Tể tướng triều đình (nay là Thủ tướng Chính phủ). Nhân dân địa phương gọi cụ là Bùi Chúa Đô. Cụ bà là Mạc Thị Huệ, (em gái vua Minh Đức Mạc Đăng Dung).

Và các cụ khác, sau:

- Cụ Bùi Phúc Thọ, là Đô đốc thiếu bảo Hoa Quận Công.

- Cụ Bùi Chính Tín là Diên khánh hầu.

- Cụ Bùi Viêm Sinh là Thái bảo...

* Dòng họ Đỗ:

Cụ tổ là Đỗ Quý Công, chức vụ Phủ quân. Cụ bà là Từ Hạnh lệnh nhân Bùi Thị Hiệu (theo tư liệu khắc vào bia đá, niên hiệu Tự Đức năm thứ 22 (1869).

* Dòng họ Nguyễn:

Theo tư liệu của bia Văn Miếu và sách "Những ông Nghè đất Cảng" của tác giả Ngô Đăng Lợi, Chủ tịch Hội sử học Hải Phòng, thì cụ tổ Nguyễn Đôn (tức Nguyễn Truân) sinh năm 1439, đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ năm Bính Tuất (1466), giữ chức vụ Hữu thị lang thuộc triều đại vua Lê Thánh Tông (năm 1469).

* Dòng họ Vũ:

Tại từ đường ở làng Trung Hành treo bức đại tự: "Vũ Quốc Công" và đôi câu đối:
   "Thập bát Quận công truyền thế phả,
   Úc niên tổ Vũ chấn gia thanh".

Trên bàn thờ hiện diện ba ngôi tượng của ba vị thượng tổ, là các Tướng công: Vũ Đình Thái, Vũ Khắc Phục, Vũ Cương Nghị.

Trong tộc phả có kèm theo các bản sắc phong cho 18 vị Quận công với các chức danh như: Đô đốc phủ, Thượng tướng quân, Cẩn y vệ, Đô đốc chỉ huy sứ... Sắc phong ghi rõ tên từng vị Quận công bằng chữ Hán với quốc ấn đóng áp lai, từ triều đại vua Lê Thần Tông (năm 1649) đến triều đại các vua Tự Đức, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định thuộc nhà Nguyễn của thế kỷ XIX sau này.


Các dòng họ khác cũng căn cứ vào phả tích để hàng năm hội tụ các lớp con cháu về từ đường tế tổ, tưởng nhớ, tri ân công đức người xưa.

Người trưởng tộc chịu trách nhiệm quản lý dòng họ mình duy trì việc cúng tổ, đôn đốc việc thực hiện xây dựng khu dân cư văn hóa mới ở nông thôn được Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc địa phương coi như một thành viên trong hệ thống tổ chức hành chính sở tại.


Phong trào khuyên học trong các dòng họ được tổng kết trao tặng phần thưởng danh dự cho những con cháu là trò ngoan, học giỏi, đỗ đạt, thành tài.

Đồng thời, trong "sự nghiệp trồng người", "Vì tương lai các thế hệ mai sau", đều được Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể, nhân dân xã Đằng Lâm coi trọng. Cơ sở vật chất cho giáo dục được xây dựng, tu bổ, mua sắm thêm. Các trường học mẫu giáo, mầm non, tiểu học, trung học khang trang. Trên địa bàn còn có Trung tâm giáo dục thường xuyên Hải An. Nội thất các trường lớp được trang bị đầy đủ theo yêu cầu của từng môn học. Đội ngũ giáo viên đủ, được xã cùng các bậc phụ huynh học sinh chăm lo về mọi mặt, yên tâm gắn bó với địa phương, dạy học tốt góp phần mở mang dân trí cho quê hương Đằng Lâm.


Tổng kết nhiều năm học, phong trào thi đua "Hai tốt" của giáo viên, học sinh Đằng Lâm đều đạt chất lượng cao. Đã thu hút được cả các con em bộ đội, cán bộ, công nhân viên chức các cơ quan, đơn vị đứng chân trên địa bàn đến trường học tập.


Qua những lần khảo sát của các đoàn thanh tra giáo dục, các trường học ở xã Đằng Lâm đều được xếp loại tốt, đạt các danh hiệu như: Trường tiên tiến, trường chuẩn cấp quốc gia, v.v...

Ngày 03-11-1998, Đoàn cán bộ hội thảo về giáo dục của huyện An Hải đến tham quan đã có nhận xét: "Nhiều trường học tiên tiến cấp thành phố cũng chưa có được cảnh quan "xanh - sạch - đẹp" như trường trung học cơ sở xã Đằng Lâm".


Được kế thừa và biết phát huy truyền thống hiếu học tự ngàn xưa của tổ tiên, ông cha, con em nhân dân xã Đằng Lâm, người người, lớp lớp có tư chất thông minh, sáng tạo, học hành tấn tới, có tư cách đạo đức tốt. Trong quá khứ và hiện tại đã có nhiều người thành đạt, đóng góp cho quê hương, Tổ quốc những trí thức xã hội chủ nghĩa, phục vụ công tác trên mọi lĩnh vực: Khoa học, kỹ thuật, văn hóa, xã hội, như các ông: Bùi Đức Đóa, Nguyễn Đắc Động, Khoa Năng Giao, cùng số ông, bà khác... là những sĩ quan trung cao cấp trong quân đội, như: Đại tá Nguyễn Văn Lân, dòng họ Nguyễn, người làng Trung Hành, hiện nay là Phó tư lệnh Bộ tư lệnh Quân khu Ba, đồng thời là đại biểu Quốc hội khóa XI. Nhiều người là những giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân đã và đang đảm nhiệm các chức trách công tác chủ chốt trong các tổ chức Đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân ở mọi miền đất nước từ cơ sở đến Trung ương và làm nghĩa vụ quốc tế.


Những vị này đã góp phần làm rạng rỡ dấu ấn người xưa mãi mãi trường tồn trong các dòng họ ở xã Đằng Lâm.

NGUYỄN ĐỨC NHIẾP ghi


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Mười, 2022, 07:52:20 am
XÃ AN ĐỒNG - ĐƠN VỊ ANH HÙNG
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN


NGUYỄN HỮU TRÍ


Xã An Đồng từ cội nguồn lịch sử

Vùng đất An Đồng có lịch sử địa lý hành chính khá sớm từ thời Vua Hùng dựng nước, việc hoạch định các đơn vị hành chính tuy có thay đổi nhưng các địa danh cổ, các thôn như Văn Tra, Văn Cú, Vĩnh Khê, Cái Tắt, Nam Phú v.v... vẫn được giữ đến ngày nay. Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, ta đã thành lập 2 xã: xã Đồng Xuân và xã Lý Thường Kiệt. Năm 1949 xâ Lý Thường Kiệt đổi tên thành xã Đồng Tiến; xã Đồng Xuân sáp nhập thành xã Đồng Thái, nhưng đến năm 1956, thành lập xã Đồng Tâm. Cả 2 xã được đưa về huyện Hải An năm 1966 về huyện An Hải.


Ngày 14-2-1987, theo Quyết định số 33 QĐ-HĐBT sáp nhập 2 xã Đồng Tâm và Đồng Tiến thành xã An Đồng ngày nay gồm các thôn: Văn Tra, Văn Cứ, Vĩnh Khê, Cái Tắt, Trang Quan, An Dương Đoài, 2 cụm dân cư dọc theo đại lộ Tôn Đức Thắng và đường 208. Diện tích tự nhiên của xã rộng 637,69ha dân số tính đến năm 1998 là 11.994 người. Xã An Đồng là vùng đất có lợi thế bởi nằm giáp nội thành Hải Phòng, thị trấn An Dương và các con sông Tam Bạc, Lạch Tray cho nên phát triển kinh tế - xã hội được thuận lợi, là địa bàn trọng yếu về quốc phòng của thành phố Hải Phòng. Đời sống văn hóa của người An Đồng xưa mang đậm văn hóa truyền thống làng xã cổ truyền, giữ gìn những thuần phong mỹ tục như thờ cúng tổ tiên, thờ ông tổ của dòng họ, tục thờ những người có công với làng, với nước làm thành hoàng tại đình làng, đặc biệt tại lễ hội làng Văn Cú xưa vẫn có trò chơi chọi gà nổi tiếng. Cùng với quá trình hàng ngàn năm chống xâm lăng giữ gìn đất nước, người An Đồng vẫn giữ và phát huy truyền thống yêu nước, tạo dòng chảy liên tục đến ngày nay.

Xây dựng chính quyền cách mạng - Sự kiện "Hải Phòng" 20-11-1946 và thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

Xã An Đồng, dưới thời thuộc Pháp, tổ chức của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, sau này là của Đảng, ảnh hưởng sâu sắc, khơi dậy lòng yêu nước của dân; tiêu biểu là đồng chí Vũ Văn Tấn, người con ưu tú của xã An Đồng đã tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1927, và vợ đồng chí là Nguyễn Thị Phương Hoa, vốn quê ở làng Vĩnh Khê đã tham gia vào Ban lãnh đạo Việt Minh huyện An Dương. Ngày 19-8-1945, Ban lãnh đạo việt Minh huyện và các đội tự vệ tiến vào huyện đường, tên tri huyện đầu hàng vô điều kiện, ta tuyên bố thành lập UBCM lâm thời huyện. Bà Nguyễn Thị Phương Hoa được tham gia UBCM lâm thời huyện. Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa giành chính quyền nổ ra ở Hải Phòng, nhân dân và tổ chức Đoàn thanh niên cứu quốc tiến vào nội thành tham gia cuộc mít tinh tại Nhà hát lớn thành phố.


Ngày 20-11-1946, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm thành phố Hải Phòng, gây ra "sự kiện Hải Phòng". Sau 7 ngày đêm chiến đấu, lực lượng ta rút ra ngoài lập mặt trận Cam Lộ - An Dương mang mật danh là mặt trận C. Tại đây, ta đã xây dựng hai tuyến phòng thủ, tuyến 1 dọc theo đường 5 từ Cam Lộ đến Quán Toan, tuyến 2 theo ven sông Tam Bạc và ven theo sông Lạch Tray. Nhân dân và tự vệ 2 xã Đồng Xuân và Lý Thường Kiệt và các xã khác đã đóng góp công của xây dựng các trận địa chiến đấu. Phòng tuyến Cam Lộ đã đánh lui địch nhiều, nhưng kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19-12-1946), địch đánh chiếm đường 5, chiếm Cam Lộ - Quán Toan và uy hiếp huyện lỵ An Dương. Ta vẫn giữ vững tuyến 2 ven sông Tam Bạc và sông Lạch Tray, thì ngày 16-2-1947, địch chiếm huyện lỵ An Dương. Từ đó, xã An Đồng (lúc đó là xã Đồng Tâm, Lý Thường Kiệt) trở thành một xã địch hậu. Trong suốt thời kỳ kháng chiến, chúng đóng các bốt như bốt Vĩnh Khê, bốt Rế, v.v…, ra sức càn quét, bắt phu, bắt lính, bắt giết cán bộ còn bám đất, bám dân. Nhưng cơ sở của ta, tuy phải rút vào bí mật, vẫn tiếp tục duy trì kháng chiến một cách thích hợp như thôn nào cũng đào hầm bí mật, nuôi dưỡng che giấu cán bộ, cơ quan lãnh đạo của huyện An Dương bí mật đóng ngay trên địa bàn xã. Thôn Vĩnh Khê, Văn Cú là nơi cán bộ quân sự, dân, Đảng thường ra vào hoạt động; thôn Văn Tra là nơi đặt cơ quan của văn phòng Huyện đội; thôn Văn Tra còn là nơi đặt trạm liên lạc của Thành ủy. Hệ thống tề ngụy dần bị vô hiệu hóa, du kích phối hợp với bộ đội đột nhập quấy rối bốt Rế, phá đường sắt đoạn Quỳnh Cư, Mỹ Tranh, An Lạc. Du kích còn dẫn đường cho bộ đội dùng nội ứng đánh các bốt Cam Lộ, Nhà Vuông. Đặc biệt cán bộ, du kích và nhân dân xã đã tham gia chuẩn bị tập kích Sở Dầu vào ngày 18-6-1953, đốt cháy hàng chục triệu lít xăng dầu. Du kích và nhân dân đã chuẩn bị lương thực và một số thuyền nan để chuyển quân, và nuôi quân báo ta nhiều ngày đột nhập trinh sát vẽ sơ đồ trận đánh và sau trận đánh bộ đội rút ra tập kết về làng Vĩnh Khê, Văn Tra, Văn Cú được dân che chở, đảm bảo rút ra ngoài an toàn.


Hiệp định Genève được ký kết. Vùng Hải Phòng trong đó có xã An Đồng là khu tập kết 300 ngày. Xã An Đồng phải đấu tranh quyết liệt chống âm mưu vơ người vét của, phá cầu Rế của địch, chống cưỡng ép đồng bào di cư vào miền Nam, v.v… Đồng thời xã còn phát triển công tác bịnh, ngụy vận. Xã đã vận động một tiểu đoàn địa phương Ninh Bình đóng tại khu Da Bò (xã Đồng Tiến cũ) ra hàng ta và tiểu đoàn 62 bỏ ngũ gần hết.


Đúng ngày 10-5-1955, toàn xã An Đồng được giải phóng. Suốt gần 10 năm kháng chiến chống Pháp, địa bàn xã luôn được chọn là căn cứ bàn đạp của Thành ủy Hải Phòng (năm 1947 - 1949), của Huyện ủy An Dương những năm 1952 - 5/1955. Xã An Đồng đã đào hàng ngàn mét hào giao thông, hầm bí mật, hàng ngàn ki-lô-gam gạo, thuốc men, đã chống phá hàng trăm trận càn quét và tuần tiễu của địch, phối hợp với bộ đội đánh 15 trận, đặc biệt đã phối hợp làm nên chiến thắng Sở Dầu, đã góp phần đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt giúp Thành ủy Hải Phòng, Huyện ủy An Dương.


Trong kháng chiến chống Pháp, xã An Đồng ngày nay đã có 63 người hy sinh, 242 người tình nguyện đi bộ đội chiến đấu, có 50 liệt sĩ chống Pháp, 11 gia đình được tặng Bằng có công với nước.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Mười, 2022, 07:53:24 am
Xã An Đồng góp phần đánh bại 2 cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ.

Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, ngay từ năm 1965 công tác phòng không nhân dân của xã An Đồng (xã Đồng Tâm và xã Đồng Tiến cũ) do Chủ tịch UBHC xã làm trưởng ban đã được coi trọng, từ việc đào trên 6.000 hầm hố phòng không các loại ở trong nhà, ngoài vườn, trường học, dọc theo các trục đường giao thông và trụ sở làm việc đến công tác sơ tán người già, trẻ em tới nơi an toàn, đến việc đón tiếp 10 cơ quan, trường học sơ tán về địa phương. Nhiệm vụ phục vụ chiến đấu và chiến đấu được quân dân xã hoàn thành xuất sắc. Xã đã dành 20 ha đất cho sư đoàn 363 và các đơn vị khác xây dựng trận địa bắn máy bay địch. Hàng vạn ngày công đâ được huy động giúp bộ đội làm công sự pháo, làm đường kéo pháo, đình thôn Văn Tra là nơi để vũ khí, khí tài cho bộ đội. Riêng dân quân xã tổ chức thành 8 trung đội tại chỗ chiến đấu và phục vụ chiến đấu; chiến đấu cơ động gồm 3 trung đội 12,7mm và súng liên thanh bắn máy bay bay thấp. Ngoài ra xã còn hình thành 1 trung đội công binh rà phá bom mìn, tiểu đội quan sát bom mìn, đội cứu sập hầm, đội đảm bảo giao thông và đội sẵn sàng thay thế pháo thủ bộ đội khi cần thiết.


Do có sự chuẩn bị tốt và huấn luyện chu đáo, dân quân của xã đã chiến đấu có kết quả, tiêu biểu là trận đánh ngày 11-5-1966, trong những ngày từ 3 đến ngày 6-3-1967, ngày 16-12-1967. Trong các trận ấy, dân quân xã đã phối hợp với bộ đội bắn rơi 1 máy bay Mỹ. Sau mỗi trận đánh phá, đã nhanh chóng giải quyết hậu quả, chôn cất các liệt sĩ, cứu chữa thương binh, tu sửa, củng cố trận địa...


Trung đội công binh dân quân xã còn rà, phá bom nổ chậm địch phong tỏa tuyến đường 208, phong tỏa bến phà An Dương, thả bom bi trên các khu đồng ruộng Cái Tắt, Văn Tra, Văn Cú, Đồng Giới. Nhiệm vụ phá bom, đảm bảo giao thông thông suốt, đảm bảo sản xuất và tính mạng nhân dân đã được hoàn thành xuất sắc.


Sau mấy năm Mỹ ngừng ném bom miền Bắc thì tới năm 1972 địch lại gây ra chiến tranh phá hoại lần 2 ở Hải Phòng bất đầu từ đêm 16-4-1972. Tại xã Đồng Tiến có 5.000 phuy xăng của trên sơ tán về cũng bị ném bom bị bốc cháy, còn một số phuy xăng chưa bị cháy đã được dân quân vận chuyển tới nơi an toàn. Tiếp theo ngày 7-5-1972 và những tháng sau, kể cả 12 ngày đêm tháng 12-1972 xã An Đồng còn bị Mỹ thả bom B52, bom bi bắn phá các thôn ác liệt, một số bộ đội và nhân dân bị hy sinh, nhà cửa bị phá hủy, hầm hố bị phá sập, dân quân đã kịp thời giải quyết hậu quả, đảm bảo sức chiến đấu và ổn định đời sống nhân dân, rà phá bom, mìn trên các tuyến đường bộ và đường sông, chuyển quân chi viện, tổng cộng đã có 613 thanh niên đi bộ đội (12,5% dân số xã), có gia đình có 4 đến 5 con nhập ngũ.


Hiệp định Pari đã được ký kết, sau đó 4-1975 là đất nước hòa bình thống nhất, xã đi vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế, đáng chú ý nhất có công trình kinh tế kết hợp với quốc phòng Cái Tắt (khởi công năm 1983, khánh thành ngày 2-9-1984).


Xã An Đồng chính thức thành lập năm 1987 từ thời đổi mới đến nay.

Kế thừa và phát huy truyền thống đánh giặc, xây dựng đất nước từ ngàn xưa, đặc biệt trong thời chống Pháp và chống Mỹ, kế thừa từ các xã Lý Thường Kiệt và Đồng Xuân, sau này là xã Đồng Tâm, Đồng Tiến, xã An Đồng được thành lập đúng lúc đất nước thực hiện đổi mới, lại nằm giữa đô thị Hải Phòng và thị trấn An Dương, việc mở rộng đại lộ Tôn Đức Thắng và cầu An Dương 1 và 2 tạo thời cơ và thuận lợi rất cơ bản cho xã.


Được các Nghị quyết của Trung ương và Thành ủy Hải Phòng, dưới sự chì đạo trực tiếp của Huyện ủy và UBND huyện An Hải, Đảng bộ đã trải qua nhiều kỳ đại hội, đến nay Đảng ủy, chính quyền và nhân dân xã An Đồng đã đưa sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa. Cho đến năm 1998, năng suất lúa đạt 90,1 tạ/ha, sản lượng lương thực đạt 2.471 tấn, chăn nuôi đạt 210 tấn thịt lợn, 50 tấn thủy sản, 56 tấn gia cầm và hàng ngàn tấn rau xanh. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đạt 22 tỷ đồng. Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển sâu rộng, phòng chống các tệ nạn xã hội, chống tệ nghiện hút, phòng chống tội phạm đều có kết quả. Về quốc phòng, công tác huấn luyện dân quân tự vệ, tuyển quân luôn đạt và vượt mức chỉ tiêu trên giao. Hưởng ứng phong trào "Đền ơn đáp nghĩa", việc chăm sóc các gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với nước, trong các dịp lễ, tết ngày 27-7 hàng năm, xã đều tổ chức tiếp xúc, thăm hỏi, tặng quà. Tổng số theo thống kê xã có 145 liệt sĩ chống Pháp và chống Mỹ, có 90 thương binh, từ năm 1995 có 5 "Bà mẹ Việt Nam anh hùng". Nét nổi bật là dân thôn Cái Tắt năm 1993 còn xây dựng đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, một công trình rất hiếm thấy trên miền Bắc Việt Nam.


Với những thành tích xuất sắc, toàn diện như vậy, Đảng bộ liên tục giữ vững danh hiệu trong sạch, vững mạnh, chính quyền và các đoàn thể đạt danh hiệu tiên tiến xuất sắc, năm 1998 xã được thành phố chọn làm thí điểm triển khai quy chế dân chủ ở cơ sở.


Từ năm 1997, xã An Đồng đã được UBND thành phố công nhận đạt tiêu chuẩn nông thôn mới, được Nhà nước tặng thưởng huân chương Lao động hạng ba. Bà Nguyễn Thị Mỹ, Chủ tịch UBND xã cũng được tặng thưởng huân chương Lao động hạng ba, 28 năm liên tục là Chiến sĩ thi đua cấp huyện, cấp thành phố và năm 2000 là Chiến sĩ thi đua toàn quốc (không kể khi còn làm xã đội trưởng dân quân xã Đồng Tiến, bà Mỹ còn được Nhà nước tặng thưởng huân chương Chiến công hạng ba và huy hiệu Bác Hồ).


Ngoài ra, Chính phủ đã tặng 2 cờ thi đua xuất sắc cho An Đồng những năm 1998 - 1999. UBND thành phố, UBND huyện An Hải còn tặng cờ đơn vị thi đua xuất sắc 10 năm đổi mới (1989 - 1998).

Do xã An Đồng tạo được mô hình mới trong thời kỳ đổi mới cả về đổi mới tư duy, về phương thức lãnh đạo và về cách làm kinh tế, nên nhiều cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, như đồng chí Đỗ Mười nguyên Tổng Bí thư Đảng về thăm ngày 12-1-1998, Chủ tịch nước Trần Đức Lương ngày 9-2-2002 về thăm và trồng cây đa lưu niệm, đoàn quốc tế như đoàn đại biểu Châu Á, Bộ trưởng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bí thư Thành ủy và Chủ tịch UBND thành phố và UBND huyện An Hải cũng lần lượt về thăm và động viên phong trào.


Một vinh hạnh lớn đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã An Đồng, là ngày 28-4-2000, Nhà nước đã phong tặng danh hiệu cao quý: "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Vinh quang thay cho Đảng bộ, quân dân xã An Đồng.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Mười, 2022, 07:56:38 am
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG THÀNH PHỐ
THAM GIA CÔNG TRÌNH THỦY NÔNG "CÁI TẮT”

VŨ VĂN SỬU


Công trình thủy nông Cái Tắt, hay gọi là công trình "Cống Cái Tắt” thuộc xã Đồng Tiền (nay là xã An Đồng) nằm giữa đường 5 (đại lộ Tôn Đức Thắng) và đường 208. Theo phương án của công trình, thi công trên 3 công đoạn:

- Đắp nền đường từ đường 208 dài 159m.

- Đào móng cống xây cống Cái Tắt.

- Lấp đoạn sông rộng 75m.


1. Đắp nền đường:

Triển khai công đoạn này, lực lượng vũ trang thành phố tập trung 6 đơn vị, đưa các phương tiện thuyền gỗ, cầu lao, mai, kéo cắt đất tiến hành đào, bốc đất từ vùng Quỳnh Hoàng (xã Hùng Vương, An Hải), chuyển tải đất bằng thuyền gỗ dọc trên 2km sông Rế đắp nền đường dài 159m, tổng số đào, đắp được 16.000m3 (đồng thời LLVT thành phố cũng tham gia đắp đường chân cầu An Dương).

Thời gian ngày 30-3-1984, công trình đắp nền đường và đoạn đường chân cầu An Dương đều hoàn thành bàn giao để Công ty Cầu đường tiến hành rải đá.


2. Đào móng cống:

Lúc đầu việc đào móng cống do Công ty Công trình thủy lợi trực tiếp chỉ đạo nhưng do tốc độ thi công rất chậm, không đảm bảo kế hoạch đóng cọc xây cống, nên ngày 25-12-1983, ông Cao Văn, Phó chủ tịch UBND thành phố, quyết định giao cho công trường của Bộ chỉ huy thành phố thi công. Ngày 26-12-1983 lực lượng vũ trang lúc đó gồm có đoàn 31 QK3, bộ đội trung đoàn 180, tiểu đoàn 15 công binh, đoàn 174, đại đội 4, cán bộ cơ quan BCHQS Hải Phòng và phòng biên phòng và dân quân các nơi, hàng ngày có tới 2000 công đào, vác đất rất nhanh. Quá trình đào móng cống phát sinh tình huống phức tạp như đất nước sình lầy, sạt xệ, lại phải xử lý như cắm trên 4.918 cọc tre, ốp ghép 838m phên chống sạt xệ, độn 440kg rơm chống cát đùn chảy v.v... Ngoài ra, đơn vị lại phải nghỉ ăn Tết âm lịch mà vẫn nhanh chóng thi công ngay, tổng cộng đã đào vác đất 17.699m3 đất.


Sau 55 ngày, tức ngày 20-3-1984, móng cống đã hoàn thành và bàn giao. Ông Đào Mạnh Giang, Phó giám đốc Sở Thủy lợi đã nhận xét "Lực lượng vũ trang đào móng cống rất nhanh, xử lý kỹ thuật tốt, phát huy sáng kiến có giá trị, tiết kiệm được 1.700m3 đất là một móng cống lý tưởng”.


3. Phương án lấp sông:

Ngay tử ngày 15-9-1983, phương án lấp sông đã được chuẩn bị. Các sà lan của xí nghiệp 771 (BCHQS Hải Phòng) và của HTX Dương Thành đã vận chuyển 7.500m3 đá từ Thủy Nguyên về tập kết sẵn tại 2 bãi cạnh cống Cái Tắt, và dân quân một số xã đào, bốc chuyển 2000m3 đất từ vùng Quỳnh Hoàng (xã Hùng Vương) cũng về tập kết ở cạnh cống Cái Tắt.


Ngày 30-4-1984, cống vẫn chưa dẫn được dòng chảy, ông Cao Văn Phó chủ tịch thành phố phải lệnh hoãn việc lấp sông, điều tàu hút bùn để mở rộng dòng chảy đến ngày 5-7-1984 mới rút ra ngoài. Sáng ngày 8-7-1984, mới triển khai việc lấp sông. Bộ đội trung đoàn 603 thông tin QK3, đoàn sà lan 771 và của HTX Dương Thành, trung đoàn 180 (BCHQS Hải Phòng), dân quân các huyện Kiến An, Đồ Sơn, các đội chuyên làm đất đấu tập trung sức bốc chuyển đất, đá, thả những rọ sắt đá lấn từ 2 mố lấn ra. Anh em đã liên tục lao động từ 6h30 sáng đến chiều.


Làm liên tục trong 31 ngày, khối đất, đá bốc chuyển trên 27.912m3, xử lý kỹ thuật 4.333m3 đất. Kết quả ngày 9-8-1984 công trình bàn giao cho Công ty Cầu đường rải đá.

Ngay 2-9-1984, cụm công trình Cái Tắt cùng với cầu An Dương đã được khánh thành. Một công trình có ý nghĩa rất lớn về kết họp kinh tế với quốc phòng, nối tuyến đường giao thông huyết mạch từ đường 5 qua cống Cái Tắt vào thành phố. Ngăn mặn, giữ nước, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Một công trình đã chứa đựng biết bao mồ hôi công sức, kể cả xương máu của các lực lượng vũ trang, các đơn vị làm kinh tế, dân quân và bà con thôn Cái Tắt xã An Đồng.

Gần 20 năm trỏi qua, công trình cống Cái Tắt vẫn sừng sững vững chắc biểu tượng cho lòng dũng cảm, ý chí sắt gang của những người xây dựng ra nó.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Mười, 2022, 08:06:43 am
ĐỀN THỜ BÁC HỒ Ở THÔN CÁI TẮT XÃ AN ĐỒNG


TRỊNH MINH HIÊN
(Phó chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Hải Phòng)


"Uống nước nhớ nguồn” không chỉ là một tình cảm tốt đẹp mà còn có một ý nghĩa tâm linh từ lâu đời của nhân dân ta. Chính vì thế, nó đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Đối với Bác Hồ, nhân dân đã thể hiện những tình cảm thiêng liêng sâu sắc ấy qua một số hình thức tưởng niệm như sau:

1- Xây dựng Lăng Bác tại Thủ đô Hà Nội. Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật hiện đại, đồng thời cũng là một công trình văn hóa - lịch sử.

2- Lập viện bảo tàng Hồ Chí Minh ở Trung ương và chi nhánh ở một số địa phương.

3- Dựng tượng Bác ở ngoài trời. Tính đến nay trong cả nước có 20 nơi dựng tượng Bác ở ngoài trời.

4- Một hình thức nữa, có phần phổ biến hơn là lập bàn thờ Bác ở di tích đình, miếu, chùa...

Hiện tượng này đã xuất hiện ở nước ta, kể cả ở Hải Phòng hàng chục năm nay. Thông thường, ở đầu hồi bái đường di tích, người ta lập bàn thờ; phía trên treo một lá cờ Tổ quốc, rồi tiếp đến là ảnh chân dung hoặc tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh bán thân đặt ở trên bàn thờ và một bát hương với mâm ngũ quả hoặc hương hoa. Ngày rằm, mồng một người ta thăp hương bàn thờ Bác, bàn thờ Phật, bàn thờ Thành hoàng.

5- Cũng ở dạng thờ Bác nhưng ở mức cao hơn là dựng đền thờ Bác và coi đây là một công trình tưởng niệm về Bác Hồ.

Ngay sau khi Bác đi xa, ở Long Đức, Trà Vinh nhân dân đã dựng đền thờ. Sau đó, ở đồng bằng sông Cửu Long, nhiều ngôi đền thờ Bác được dựng lên. Những ngôi đền ấy đã tồn tại suốt thời kỳ chống Mỹ, cứu nước đến ngày nay. Tại các khu di tích như Kim Liên (Nghệ An), Pác Bó (Cao Bằng), Tân Trào (Tuyên Quang), bên cạnh di tích về Bác Hồ, nhà trưng bày bổ sung, đã xuất hiện những ngôi nhà tưởng niệm mà thực chất cũng là những ngôi đền thờ Bác. Chẳng những nhân dân mà nhiều vị lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước khi đến thăm khu di tích cũng vào nhà tưởng niệm thắp nén hương viếng Bác.


Tại Hải Phòng, từ năm 1993 đã có một ngôi đền thờ Bác Hồ ở thôn Cái Tắt, xã An Đồng, huyện An Hải. Trên diện tích hơn 60 mét vuông người ta đã dựng lên một kiến trúc theo dáng dấp cổ, 2 tầng mái, lợp ngói mũi hài. Tám góc mái với 8 đầu đao uốn cong vươn lên cao. Trên nóc đắp hình mặt trời ở giữa dải hoa văn. Đền thờ Bác ba mặt có lan can xây theo kiểu tường hoa. Đền có cửa mặt chính và 2 cửa phụ đi ra lan can 2 bên. Đền làm bằng gỗ sến, táu.


Từ dưới sân nhìn lên đã thấy 4 chữ to đậm: Đền thờ Bác Hồ. Bước lên trên theo bậc ngũ cấp là tới hành lang mặt chính diện.

Bên trong trang trí đơn giản nhưng trang trọng: Tượng Bác Hồ được tạc bằng gỗ quý; với nét mặt hiền từ, đôn hậu, Bác ngồi ở tư thế song thất, tay phải cầm bút để trên đầu gối, bàn tay trái nâng quyển sách mở. Tượng ngồi cao chừng 1,10m đặt trong khám thờ sơn son thiếp vàng. Cao hơn một chút ở hai bên phải và trái đặt bài vị thờ thân phụ và thân mẫu Bác. Phía trên treo bức đại tự với dòng chữ: Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh!


Bên phải, ghi câu nói của Bác Hồ ở đền Hùng khi Bác nói chuyện với đơn vị bộ đội vào tiếp quản thủ đô Hà Nội (1954):

"Các vua Hùng đà có công dựng nước,
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".

Còn bên trái, ghi lời dặn của Bác trong dịp Bác về Hải Phòng nói chuyện với đại biểu nhân dân thành phố Hải Phòng ngày 30 tháng 5 năm 1957: "Toàn dân đoàn kết nhất trí thì chúng ta xây dựng được nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chú, tự do, giàu mạnh".


Hai bên cột có đôi câu đối ca ngợi công đức của Bác. Một đôi câu đối của 1 cụ già trên 80 tuổi người thôn Cái Tắt. Còn một đôi, theo lời ban quản lý đền thờ Bác, các cụ sưu tầm được và do Chủ tịch Mao Trạch Đông tặng Bác:

"Chí khí tráng sơn hà, kim cổ anh hùng duy hữu nhất,
Minh tinh quang nhật nguyệt, Á, Âu hào kiệt thị vô song".

Gian chính có một bàn thờ, giữa đặt bát hương, hai bên có bộ đỉnh thờ bằng đồng và đôi hạc đắp bằng xi măng rất đẹp.

Tóm lại: Nhìn tổng thể đây là một ngôi đền đẹp, khang trang thể hiện lòng kính yêu, biết ơn sâu sắc của nhân dân thôn Cái Tắt, xã An Đồng, huyện An Hải, thành phố Hải Phòng với Bác Hồ.

Điều đáng nói ở đây là công trình tưởng niệm Bác không bổ bán vảo bất kỳ ai mà là do tự đáy lòng của nhân dân địa phương kính yêu, nhớ ơn Bác đã tự nguyện đóng góp: Người có của góp của, người có công góp công, củng nhau xây dựng trong 6 tháng thì hoàn thành (tháng 3 năm 1993 đến ngày 2 tháng 9 năm 1993).


Ban quản lý đền thờ Bác Hồ hầu hết là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Nhiều người đã là lính Cụ Hồ trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp và có thời kỳ ở đơn vị bộ đội bảo vệ Trung ương Đảng và Bác Hồ tại Việt Bắc.


Đại diện cho những người này là ông Nguyền Văn Lương, Trưởng ban xây dựng, rồi Trưởng ban quản lý kiêm Trưởng làng văn hóa Cái Tắt. Ông Phạm Văn Ngọc là người thiết kế ngôi đền. Nhân dân thôn Cái Tắt và bà con thập phương là những người góp ý, góp của, góp công để xáy dựng thành công ngôi đền.


Ban liên lạc CCB trung đoàn 246, đoàn Tân Trào anh hùng, đơn vị bảo vệ Trung ương Đảng và Bác thời kháng chiến chống Pháp hết sức ủng hộ và ngày nay lấy nơi đây là địa điểm sinh hoạt hàng năm của mình.


Đền thờ Bác Hồ ở thôn Cái Tắt đã thực sự là nơi góp phần tích cực giáo dục đạo đức, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Ngày nay, bà con cô bác cũng như lớp trẻ thanh thiếu niên có thể về đây thăm một công trình văn hóa do dân tự làm và thắp hương viếng Bác. Trên thực tế, theo Ban quản lý đền thờ Bác cho biết, số người đến viếng Bác ở đây lên tới trên 3 vạn lượt người, không chỉ có người Hải Phòng mà còn có người Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Hà Nam, Nghệ An, Thái Nguyên...


Vào năm 2002, Chi hội lịch sử quân sự Hải Phòng đã đến đền thờ Bác Hồ ở thôn Cái Tắt tưởng niệm, thắp hương và có buổi tiếp xúc thân mật, cảm động với đại diện Đảng ủy, UBND xã An Đồng.

Hàng năm vào ngày sinh nhật Bác (19/5) và ngày giỗ Bác (2/9), được sự đồng ý của UBND xã An Đồng, Ban quản lý đền thờ Bác đã tổ chức lễ dâng hương viếng Bác và các hình thức văn nghệ như ca hát, ngâm thơ về Bác...


Quỹ công đức của đền thờ Bác đã dành ra nuôi 3 cháu: một cháu con thương binh nặng, một cháu nhiễm chất độc màu da cam và một cháu mồ côi không nơi nương tựa của xã An Đồng.

Vào tháng 12 năm 1994, Viện bảo tàng Hồ Chí Minh ở Hà Nội và Bảo tàng Hải Phòng đã cử cán bộ về đền thờ Bác đề tọa đàm với Ban quản lý đền thờ Bác. Cán bộ nghiên cứu của Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, sau khi khảo sát đã lập một bản lý lịch về công trình tưởng niệm này (ngày 25/12/1994).


Ngày 8/10/1995, báo Nhân dân số 41 (349) đã nói tới đền thờ Bác ờ Cái Tắt, An Hải, Hải Phòng. Tạp chí Xưa và nay của Hội khoa học lịch sử Việt Nam, số 10 (20) tháng 10/1995 đã viết bài: "Có một ngôi đền thờ Bác Hồ ở Hải Phong”.


Đền thờ Bác Hồ ở Cái Tắt đã được xây dựng và tồn tại đến nay là tròn 10 năm (1993 - 2003) và là đền thờ Bác đầu tiên được xây dựng ở miền Bắc.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã An Đồng, Ban quản lý đền đã làm được nhiều việc tốt.

Hy vọng rằng các cơ quan chuyên môn tiếp tục hướng dẫn tốt hơn để nơi đây ngày càng phát huy được tác dụng chính trị, văn hóa, đáp ứng tinh cảm sâu nặng của nhân dân với Bác Hồ.


Ghi chú: ông Hoàng Cương, Chi hội khoa học lịch sử quân sự bổ sung thêm:

Năm 1989, nhân dân thôn Cái Tắt đã lập ban thờ Bác ngay trong đền thờ Phạm Tử Nghi. Sau một thời gian, nhân dân thấy cần phải xây dựng một đền thờ riêng để thờ Bác.

Công trình được khởi công từ tháng 3-1993. Tiền để xây dựng công trình không phải bổ bán cho dân mà do lòng dân tự nguyện đóng góp, người góp công, kẻ góp của. Công có 116 người làm công đức lúc khởi công. Tên tuổi những người đó được khắc trên bảng đá đặt ngay trong đền thờ Bác để lưu truyền cho đời sau.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Mười, 2022, 08:07:42 am
28 NĂM LIÊN TỤC GIỮ CHỨC CHỦ TỊCH XÃ


HOÀNG CƯƠNG
(Chi hội LSQS Hải Phòng)


Đó là bà Nguyễn Thị Mỹ quê ở Vĩnh Khê, xã An Đồng, huyện An Hải, Hải Phòng. Hiện là Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã An Đồng anh hùng.

An Đông là một xã ven đô do 2 xã Đồng Tâm và Đồng Tiên hợp nhất từ cuối năm 1987. Địa bàn rộng, dân số đông, bình quân ruộng đất thấp lại là vùng chiêm trũng, đất đai chua mặn, sản xuất thuần nông, độc canh. Tập quán canh tác lạc hậu, nhân dân làm không đủ ăn, là một xã nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề.


Sau 7 năm làm xã đội trưởng xã Đồng Tiến (từ năm 1967 đến năm 1974), bà được nhân dân tín nhiệm bầu làm chủ tịch xã liên tục 13 năm cho đến năm 1987, hai xã Đồng Tâm và Đồng Tiến hợp nhất bà vẫn được nhân dân tín nhiệm bầu làm chủ tịch xã cho đến nay.


Gần 30 năm với trách nhiệm là chủ tịch xã, bà đã quy tụ được sức mạnh đoàn kết trong đội ngũ cán bộ và nhân dân địa phương hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu kế hoạch huyện giao, là xã có phong trào khá toàn diện.


Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, An Đồng là một địa bàn trọng điểm có nhiều trận địa pháo cao xạ bảo vệ thành phố. Là địa điểm sơ tán của Công ty xăng dầu Hải Phòng. Có sông đào Lạch Tray, bến phà, cầu treo An Dương là nút giao thông quan trọng ra vào thành phố. Trong những năm chiến tranh phá hoại, đế quốc Mỹ đã sử dụng 350 lượt máy bay, trong đó có trên 40 lượt máy bay B52 đánh vào địa bàn xã trên 200 trận, ném gần 6000 quả bom các loại, bắn 100 quả tên lửa gây thiệt hại nặng nề về người và của cho nhân dân trong xã. Bắt nguồn từ lòng yêu nước thương dân, căm thủ giặc Mỹ, bà đã nêu cao ý chí kiên cường dũng cảm, không sợ hy sinh gian khổ, sẵn sàng xả thân vì dân, vì nước. Chỗ nào khó là bà có mặt. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã An Đồng đã phối hợp với bộ đội chủ lực chiến đấu dùng cảm góp phần bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, rà phá bom mìn, giải tỏa bến phà An Dương, đảm bảo giao thông đường 5 thông suốt, góp phần quan trọng vào thắng lợi của thành phố Cảng.


Cụ thể năm 1971 địch oanh tạc phá trận địa Trang Quan, An Dương. Chúng đã bỏ bom vào xóm Trại làng Cái Tắt. Gia đình ông Kiêm, ông Cù, chị Mai có nhiều người bị thương vong. Bà đã trực tiếp chỉ huy lực lượng dân quân đến giải quyết hậu quả, cùng với anh chị em dân quân khiêng vác những người bị thương đi cứu chữa.


Năm 1972, địch ném bom xuống sân vận động làng Đồng Giới là địa điểm sơ tán xăng của Công ty xăng dầu Hải Phòng. Bà đã trực tiếp chỉ huy trung đội dân quân cơ động nhanh chóng đến nơi địch ném bom cùng với đơn vị bạn sơ tán kịp thời 300 phuy xăng về nơi an toàn.


Đặc biệt đêm ngày 22/12/1972, giặc Mỹ sử dụng máy bay B52 ném bom rải thảm từ Trang Quan An Dương Cái Tắt đến Vĩnh Khê. Bom trúng một trận địa pháo An Dương, một số pháo thủ bị thương vong không còn khả năng chiến đấu. Bà đã lập tức có mặt điều động tiểu đội dân quân thôn An Dương đến trận địa làm nhiệm vụ tải đạn và thay thế một số pháo thủ tiếp tục chiến đấu.


Sau khi địch đánh phá, bà lại cùng anh chị em dân quân làm công tác cứu thương và thu gom hài cốt. Bản thân bà đã thu nhặt từng phần thi thể của liệt sĩ bỏ vào áo quan để chôn cất.

Địch bỏ bom nổ chậm xuống sông đào Lạch Tray nhằm phong tỏa giao thông. Bà đã trực tiếp chỉ huy đội công binh của xã kết hợp với đơn vị công binh của huyện, có sáng kiến dùng tấm tôn có gắn cục nam châm từ trường kéo trên mặt sông phá hủy liên tiếp 16 quả bom nổ chậm, giải tỏa thông suốt giao thông thủy bộ ở khu vực bến phà và cầu treo An Dương.


Trên mặt trận kinh tế, bà luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để xóa được đói, giảm được nghèo, làm cho đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng cao. Từ ý thức trách nhiệm đó, bà đã đề xuất ý kiến với tập thể lãnh đạo Đảng ủy, HĐND và UBND tích cực chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, mạnh dạn đưa giống mới, kỹ thuật mới, con giống mới vào thâm canh tăng năng suất, kiên cố hóa kênh mương, thủy lợi chủ động tưới tiêu cho nông nghiệp. Xây dựng mô hình làm ăn kinh tế giỏi. Nhờ đó tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm tăng 10 - 12%. Năng suất lúa trước kia chỉ đạt dưới 3 tấn thóc/ha, đến năm 1990 đạt 7,2 tấn/ha/năm, đến năm 2000 là 10,5 tấn/ha/năm, tăng 35,3% so với năm 1990. Các con gia súc, gia cầm năm sau cao hơn năm trước. Tổng số đàn lợn năm 1994 có 5.420 con, đến năm 2002 là 18.500 con, tăng 176%.


Từ sản xuất độc canh, tự cấp tự túc đã chuyển sang sản xuất hàng hóa. Phong trào chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phát triển nhanh, lành mạnh, năm sau cao hơn năm trước. Phong trào thi đua làm giàu từ đất đi lên, làm giàu chính đáng phát triển mạnh. Đến nay có trên 1.227 gia đình làm kinh tế giỏi và có 34 mô hình trang trại, là một xã có nhiều trang trại nhất của huyện.


Nhờ kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện về ăn ở, học tập, chứa bệnh và phương tiện đi lại. Đến nay có 99% gia đình được ngói hóa, trong đó có 25% gia đình có nhà mái bằng, nhà cao tầng, 31% gia đình có xe máy; 98% gia đình có đài và máy nghe nhìn. Toàn xã có 15 máy cày, 45 xe ô tô tải và 6 xe du lịch.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 06 Tháng Mười, 2022, 08:08:29 am
Trong 16 năm đổi mới, bà đã lãnh đạo xã dầu tư trên 10 tỷ đồng để xây dựng điện, đường, chuồng trại. Hiện nay toàn xã có 35 km đường nhựa, 4 trường cao tầng, 7 trường mầm non. Trạm xá xã đạt tiêu chuẩn quốc gia, 6 làng văn hóa trong đó có 1 làng đạt tiêu chuẩn cấp thành phố. 100% đường ngõ xóm được đổ bê tông hóa, 100% gia đình có điện thắp sáng. Toàn xã hiện nay có 53,84% hộ kinh tế khá và giàu; 45 hộ kinh tế trung bình, hộ nghèo còn 1,16%.


Là chủ tịch xã phụ trách khối nội chính, trực tiếp làm trưởng ban thực hiện Nghị định 29, 36, 40, 87, NQ09 và Chỉ thị 406 của Chính phủ ở một địa bàn rộng, dân số đông, giáp ranh với 2 quận nội thành. Tình hình xã hội có nhiều diễn biến phức tạp.


Nhờ làm tốt công tác giáo dục, quán triệt các NQ, NĐ, chỉ thị của Chính phủ cho các ngành, đoàn thể và nhân dân ở cụm dân cư. Lấy những nội dung cơ bản của NĐ, NQ lồng ghép với nội dung bản hưong ước xây dựng làng văn hóa để các dòng họ tộc và nhân dân thực hiện. Tổ chức đăng ký cam kết thực hiện hương ước của làng. Phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Bản thân bà đã dũng cảm đương đầu trực tiếp đứng ra giải quyết nhiều vụ việc hết sức phức tạp, gây rối an ninh, anh em thương binh trong nội thành đến địa phương lấn chiếm đất đai có tổ chức đông người. Bằng nhiều biện pháp thuyết phục, cứng rắn, giải quyết thấu tình đạt lý nên đã nhanh chóng ổn định tình hình, lập lại trật tự trị an. Tài sản của Nhà nước và của nhân dân được bảo đảm an toàn. Không có đơn thư khiếu kiện vượt cấp.


Đặc biệt năm 1997 Nhà nước mở rộng quốc lộ 5 đi qua địa phương, sử dụng 15 ha đất phải di chuyển 425 hộ dân, di chuyển hơn 1000 ngôi mộ, trong đó có hơn 200 ngôi đồng bào công giáo từ rất lâu đời. Bà được phân công làm trưởng ban trực tiếp lãnh đạo giải phóng mặt bằng. Nhờ làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, nhân dân, thực hiện công khai, công bằng về giá cả đền bù do Nhà nước quy định. Đối với các trường hợp rắn khó, bà đã đến tận gia đình giải thích chính sách, vận động bà con chấp hành chủ trương của trên. Kết quả năm 2001 đã giải tỏa 65 hộ trên đường máng nước thuộc hệ thống đường cấp nước cho nhân dân thành phố. Năm 2002 giải tỏa 69 hộ nằm trong quy hoạch xây dựng của thành phố. Hoàn thành kế hoạch giải phóng mặt bằng đúng thời gian quy định. Bảo đảm tiến độ thi công, không có trường hợp nào phải cưỡng chế.


Là chủ tịch xã trực tiếp làm trường ban phòng chống tệ nạn xã hội, bà đã chỉ đạo ngành y tế mở nhiều lớp cai nghiện tại xã. Kết hợp với MTTQ cùng các đoàn thể đi vận động các gia đình có đối tượng nghiện hút tự nguyện góp tiền cùng với kinh phí của UBND xã đề tổ chức cai nghiện. Mặc dầu bận nhiều công việc nhưng bà vẫn dành thời gian đến các gia đình có con, cháu nghiện và lớp học để động viên vể cả tinh thần và vật chất, Ủy ban còn giúp đỡ tiền vốn và giải quyết việc làm cho các cháu khi đi cai nghiện về làm ăn sinh sống. Đến nay đã 6 năm, các đối tượng được đi học tập cai nghiện về không tái nghiện, đời sống của họ được ổn định, một số anh em đã xây dựng được nhà, có người đã mua được xe máy. Gia đình hạnh phúc, nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống cộng đồng.


Trong suốt 42 năm công tác từ chủ nhiệm HTX, xã đội trưởng và 28 năm liên tục làm chủ tịch xã, bà đã được sự tín nhiệm của huyện bầu vào BCH Huyện ủy An Hải 8 khóa. Trong đó có 1 khóa là ủy viên thường vụ Huyện ủy. Là đại biểu HĐND liên tục 16 khóa.


Có lần được gặp bà, tôi tâm sự: Tại sao đã đến tuổi được nghỉ ngơi rồi mà chị không xin nghỉ cho khỏe. Có sợ người ta cho là tham quyền cố vị không? Bà trả lời: Tôi muốn nghỉ lắm chứ. Nhưng dân không cho nghỉ, Đảng khống cho nghỉ thì tôi phải làm chứ. Niềm vui sướng nhất của tôi là được dân tin yêu. "Nghe dân nói, nói dân, nghe và được dân tin" là chỗ đứng của tôi trong 28 năm làm chủ tịch.


Với con người như thế, công lao, thành tích như thế, nữ chủ tịch xã Nguyễn Thị Mỹ xứng đáng được nhận những phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước.


Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước:

- Chủ tịch nước tặng thường Huân chương Kháng chiến hạng 3.

- Huân chương Chiến công hạng 3

- Huy hiệu Bác Hồ

- Huy hiệu Chiến sĩ thi đua quyết thắng


Trong thời kỳ đối mới:

- Thủ tướng Chính phủ cấp bằng khen

- Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng 3.

- Bằng khen của UBND thành phố và Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố về 10 năm đổi mới.

- UBND thành phố, Bộ Lao động TBXH, Bộ Giao thông Vận tải cấp bằng khen.

- Là đại biểu đi dự Đại hội cựu chiến binh toàn quốc lần thứ 2 và lần thứ 3.

- Là điển hình xuất sắc bông hoa phượng đỏ của thảnh phố trong phong trào thi đua yêu nước thời kỳ đổi mới.


Từ năm 1994 - 2002 được các ngành, đoàn thể cấp trung ương tặng: Huy chương vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, Huy chương danh dự Đoàn thanh niên, Huy chương vì sự nghiệp dân số, Huy chương cựu chiến binh vì sự nghiệp và phát triển nông thôn, Huy chương vì sự nghiệp sức khỏe nhân dân, Huy chương vì giai cấp nông dân Việt Nam, Huy chương vì sự nghiệp giáo dục, Huy chương vì sự nghiệp Đại đoàn kết toàn dân, Huy chương vì sự nghiệp phát triển nông nghiệp, Huy chương vì sự nghiệp lao động thương binh xã hội.


28 năm liền là chiến sĩ thi đua cấp huyện, cấp thành phố. Năm 2000 là chiến sĩ thi đua toàn quốc và đang được Thành phố đề nghị Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:36:54 am
B- CÁC BÀI VIẾT VỀ TỈNH HƯNG YÊN

CÓ MỘT HÒA THƯỢNG NHƯ THẾ!
(Ghi theo lời kể của Hòa thượng Thích Thanh Tứ)


VŨ XUÂN HÒA


Trong kháng chiến chống Pháp, ở địa bàn trong cả nước cũng như ở tỉnh Hưng Yên, nhiều thanh niên học sinh, sinh viên, công nhân, nông dân, còn có một số nhà tu hành tự nguyện gia nhập lực lượng vũ trang như nhà sư Lê Minh Chiếu đã từng là chính trị viên đại đội và tu sĩ Hoàng Khá đã từng là cán bộ đại đội tỉnh Hưng Yên. Cùng thời gian đó có nhà sư Trần Văn Long đã từng là cán bộ trung đội thuộc đại đội 24 huyện Phù Cừ (Hưng Yên), nay là Hòa thượng Thích Thanh Tứ, là Phó chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là đại biểu Quốc hội khóa 11, kiêm Ủy ban các vấn đề xã hội, là Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam, là Phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản, là Phó chủ nhiệm Hội đồng tư vấn tôn giáo của ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là ủy viên đoàn chủ tịch Ủy ban hòa bình Việt Nam, là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Hội chữ thập đỏ Việt Nam, lả ủy viên Ban chấp hành Trung ương Hội người cao tuổi Việt Nam, là ủy viên Trưng ương Hội bảo trợ người tàn tật và mồ côi Việt Nam.


Hòa thượng sinh năm 1923, ở thôn Miêu Nha, xã Song Mai, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Thuở nhỏ, nhà nghèo đã sớm xa cha mẹ đi ở chùa Nho Lâm, rồi chùa Đống Long ở huyện Kim Động và một số chùa ở tỉnh Hưng Yên. Những tưởng rằng núp bóng cửa Thiền, ăn mày cửa Phật, mong rũ bỏ được kiếp sống trần ai, khổ hạnh, nhưng bọn thực dân Pháp, bọn lý trưởng, cường hào bóc lột làm cho cuộc sống đồng bào và dân lao động khổ sở, điêu đứng, hàng triệu người chết đói làm cho Hòa thượng thức tỉnh, không thể rao giảng cho mọi người làm điều thiện, tránh diều ác trong lúc kẻ thù từng ngày từng giờ bắn giêt dân lành, áp bức bóc lột đồng bào của mình.


Vì thế, Hòa thượng đã trăn trở suy nghĩ tìm cách bắt mối để hoạt động cách mạng trong giới tăng ni, phật tử ở Hưng Yên từ khi mới 17 tuổi. Tháng 3 năm 1945, trước nạn đói khủng khiếp do bọn phát xít Nhật bắt nhổ lúa trồng đay, thu vét thóc của dân để trong kho, Hòa thượng đã cùng mọi người dưới sự lãnh đạo của Việt Minh đi phá kho thóc của Nhật ở Đống Long (Kim Động) để chia cho dân nghèo, cứu sống được nhiều người. Trong lúc đó, Hòa thượng đã cùng mọi người vác cờ đỏ sao vàng đi giành chính quyền trong Cách mạng Tháng 8-1945 ở thị xã Hưng Yên. Rồi Hòa thượng tham gia bộ đội ở đơn vị đại đội 24 huyện Phù Cừ (Hưng Yên), về sau đã từng là cán bộ trung đội thì trận càn lớn có phi pháo yềm hộ cho 4 binh đoàn cơ động (GM) đánh vào khu bắc và trung huyện Phù Cừ mở trận càn Trái Chanh ngày 25-9-1951. Bên ta có 3 đại đội tỉnh bố trí tại thôn Phú Mãn, Long Cầu và các thôn Phan Xá, Tống Xá, Ngũ Lão, Thọ Lão và đại đội 24 bố trí tại thôn Viên Quang. Trận đánh diễn ra rất quyết liệt từ sáng đến tối ngày 25-9-1951. Kết quả là địch đã thất bại không đạt được mục tiêu trận càn, bên ta thì thắng lợi rất lớn ở cả 2 khu vực Long Cầu, Phú Mãn và Phan Tống Xá, tiêu diệt 1050 tên, thu nhiều vũ khí, bắt hàng trăm tẽn địch cả Âu Phi và ngụy, đặc biệt là ta đã giữ vững trận địa tại các làng, đẩy lùi mọi đợt xung phong của địch, bảo vệ cho dân cả vùng1 (Về diễn biến trận chống càn "Trái Chanh", xin tham khảo Hồi ký của Võ An Đông ở tập 1 (tái bản) và Hồi ký của Nguyễn Tất Đào ở tập 3 (tái bản sách “Đường 5 anh dũng quật khởi")).


Tối ngày 25-9-1951, các đơn vị của tỉnh được lệnh luồn càn đi nơi khác, để lại đại đội 24 Phù Cừ tiếp tục bám đất, bám dân trong địa bàn huyện. Đại đội 24 đã phân tán nhỏ lẻ hoạt động cùng với dân quân, du kích xã. Lúc đó Hòa thượng được vẻ thôn Kim Phương phía nam Phù Cừ cùng với nửa tiểu đội của trung đội 2 ở trong nhà anh Dược, là cơ sở có hầm bí mặt. Hầm này được đào dưới 1 đống rơm để tránh địch dùng thuốn sắt để dò tìm, cửa hầm được bố trí ở trong chuồng lợn.


Thời gian đó, địch đánh hơi thấy trong làng có bộ đội, chúng phối hợp với chỉ điểm tổ chức bao vây. Sáng ngày 29-10-1951, chúng lùng sục làng Kim Phương. Chúng phát hiện được hầm bí mật nên đã bắt được Hòa thượng cùng với 1 tiểu đội trưởng và 2 chiến sĩ. Chúng bắt tập trung ra đình Kim Phương. Về phần Hòa thượng trước sau chỉ khai mình là bộ đội được cử đi huấn luyện và tuyển tân binh đang ở tạm tại Kim Phương. Lời khai báo khớp với thực tế lúc đó. Sau khi bị tra tấn, Hòa thượng vẫn một mực không nói gì khác, vẫn giữ nguyên lời khai ban đầu. Chúng đưa về giam ở bốt La Tiến (Phù Cừ) rồi đưa về bốt Lực Điền (Yên Mỹ), đưa về Sặt và đưa về giam ở Hải Dương, cuối cùng đưa về Hà Nội, giam ở Hỏa Lò, Nhà Tiền và trại giam Thanh Liệt, ở tại các nơi giam cầm, tra tấn, địch vẫn không khai thác gì hơn, cho nên đến cuối năm 1953 chúng buộc phải trả tự do cho Hòa thượng.


Trở về quê nhà, Hòa thượng tiếp tục tham gia công tác, chiến đấu cho đến ngày hòa bình năm 1954. Rồi Hòa thượng trở về quy y nơi cửa Phật cho đến nay. Hòa thượng thường giảng giải cho Phật tử những điều dễ hiểu, gắn đạo Phật với đời thường, làm điều thiện, tránh điều ác, không mê tín dị đoan.


Không chỉ lo việc đạo mà Hòa thượng rất sốt sắng đến việc đời. Hòa thượng là một trong những người sáng lập ra "Quỹ đền ơn đáp nghĩa" của Đài truyền hình Việt Nam từ năm 1993. Quỹ đã nhận được hàng trăm tỷ đồng từ Nam chí Bắc để giúp đỡ cho các gia đình liệt sĩ, thương bệnh binh, người có công với nước, người bị di chứng trong chiến tranh, người tàn tật, xây dựng lớp học cho trò nghèo, v.v... Hòa thượng không chỉ làm mạnh ở Trung ương mà còn khuyến khích ở các tỉnh, thành phố, quận, huyện, xã, phường làm thành một phong trào sâu rộng trong toàn quốc về "Đền ơn đáp nghĩa và xóa đói giảm nghèo”.


Hòa thượng rất tâm đắc là đạo Phật vào Việt Nam từ lâu đời nhưng khác với các nước khác là đạo Phật ở Việt Nam gắn liền với dân tộc và Tổ quốc. Trong kỳ bầu cử Quốc hội khóa 11 được sự giới thiệu của ủy ban Mặt trận Tổ quốc, giới Phật giáo Việt Nam và bà con Phật tử, Hòa thượng đã được bầu vào Quốc hội khóa 11.


Trong các hoạt động, làm nhiều công tác xã hội, dù ở cương vị nào, Hòa thượng luôn gương mẵu, hết lòng với công việc, được mọi người quý trọng.


Hòa thượng Thích Thanh Tứ là một tấm gương sáng để mọi người học tập và noi theo. Chúng ta rất tự hào có một vị Hòa thượng như thế!


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:37:43 am
SƯ BÀ THAM GIA ĐÁNH GIẶC


NGUYỄN THỊ DUNG
(Nguyên hội phó Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hưng Yên)


Cuối năm 1949, Pháp chiếm đóng toàn tỉnh Hưng Yên. Theo chủ trương của Tỉnh ủy, tất cả các ban ngành phải đơn giản, gọn nhẹ và phải đưa cán bộ về công tác tại các huyện.

Tháng 2-1950, tôi được Tỉnh hội phụ nữ Hưng Yên phân cồng về huyện Yên Mỹ công tác. Sáng ngày 20-2-1950, tôi từ biệt Tỉnh hội đi vào vùng địch hậu. 4 giờ chiều, tôi được trạm giao thông dẫn đi qua cánh đồng Tam Thiên Mẫu, về thôn Quảng Uyên xã Minh Châu (Yên Mỹ) gặp anh Hòa là cán bộ nông hội, được giới thiệu sang gặp anh Thiện là Thường vụ Huyện ủy đang ở xã Việt Cường. Ngày thứ ba, tôi được gặp anh Thiện, cho biết là chị Tuyết (đã từ trần) hiện đang ở phía bắc huyện, chưa gặp ngay được, trước mắt anh Thiện phân công tạm thời phụ trách phong trào phụ nữ của 6 xã gồm Minh Châu, Việt Cường, Thanh Long, Quang Phục, Hoàn Long, Dân Chủ.


Ngày 3-3-1950, tôi đi theo anh Chúc, cán bộ thanh niên về xã Dân Chủ, giới thiệu tôi vào Chùa Chằng là cơ sở của ta. Chùa Chằng cách bốt Kênh Cầu khoảng 500 mét, bọn địch đứng ở chòi cao trên bốt nhìn xuống có ai ra vào nó cũng biết. Khi vào chùa, gặp sư bà Đàm Hợi, khoảng 45 tuổi, người gầy cao, da ngăm đen, khỏe mạnh, nhanh nhẹn. Sư bà lấy nước cho uống và báo cáo tình hình cơ sở. Bà tuy mồm nói chuyện vừa lấy giấy gói 4 phẩm oản, một nải chuối đưa cho chúng tôi, vừa dặn từ nay nếu có về thì về ban đêm và vào cổng sau để bọn địch không phát hiện được. Bà sư đang dặn dò thì chú tiểu chạy vào báo tin bọn địch ở bốt Kênh Cầu đã ra khỏi bốt rồi. Bà vội vàng dẫn chúng tôi ra cổng sau, chỉ chúng tôi sang thôn Đồng Than. Bà sư vừa vào chùa thì bọn địch cũng vừa ập tới. Chúng vặn hỏi sư bà, có 2 cán bộ Việt Minh mới vào chùa, gọi họ ra đây nếu không chúng nó sẽ dốt chúa. Sư bà bình tĩnh trả lời: Nhà chùa đang bận làm cỏ ở ngoài đồng, không có ai vào chùa cả, nếu có nhà chùa xin chịu tội. Bọn địch lục soát mọi nơi, không thấy gì, chúng đe dọa mấy câu rồi rút về đồn.


Mặc dù bị bọn địch ở bốt Kênh Cầu theo dõi, sư bà hàng ngày vẫn đến các thôn có bốt như Từ Hồ, Nga Nhân Lý giả vờ đi lễ, nắm tình hình địch về báo cáo cho cán bộ. Đến đầu năm 1951, vì bị lộ, bọn địch cấm bà không được ra khỏi chùa. Bị o ép quá, sư bà báo cáo lên huyện và được huyện cho bà về trụ trì tại chùa Vũ, xã Hoàng Hữu Nam ở sát đường 39 và gần đường 5. Đến chùa Vũ một thời gian, bà lại tiếp tục công tác đào hầm bí mật, nuôi dưỡng cán bộ và dân quân và bà còn đến các thôn có bốt địch giả vờ đi lễ chùa để nắm tình hình. Ngoài ra, bà còn đưa cán bộ nữ giả làm đệ tử mang hương hoa đi lễ như chị Thắng vào chùa Nho Lâm, như đưa chị Lợi về thôn Rồng để bắt liên lạc với thôn Liên Hạ và thôn Rồng.


Năm 1954, hòa bình được lập lại, sư bà được mời vào Ban chấp hành Hội Phật giáo huyện Yên Mỹ. Năm 1955, sư bà được bầu vào Ban chấp hành Hội Phật giáo tỉnh Hưng Yên. Năm 1965, khi 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên được hợp nhất thành tỉnh Hải Hưng, sư bà lại được tham gia vào Ban chấp hành Hội Phật giáo tỉnh Hải Hưng. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp và sau hòa bình lập lại, bất kỳ ở lĩnh vực nào sư bà cũng hoạt động tích cực.


Năm 1990, sư bà được phong chức, Thượng tọa. Năm 1996, cụ qua đời, thọ trên 80 tuổi.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:39:47 am
KỶ NIỆM VỀ MỘT LẦN QUAY PHIM TRẬN ĐÁNH MÌN TÀU ĐỊCH
(Theo Tạp chí Thế giới Điện ảnh số 2 (10-2000))


TRỊNH HOÀNG MẠNH TÙNG


LGT: Tôi tình cờ gặp được ông Trịnh Hoàng Mạnh Tùng ở Huế. Ông sinh năm 1929, tại Hưng Yên, tham gia kháng chiến từ năm 16 tuổi. Năm 1954 ông về công tác ở Bộ Văn hóa. Sau ngày giải phóng miền Nam - thống nhất đất nước, ông phụ trách triển lãm tại thành phố Hồ Chí Mình về cuộc đời, hoạt động của Bác Hồ; làm hiệu phó Trường Đại học Mỹ thuật Huế.


Hiện nay, với vai trò chủ nhiệm CLB hưu trí quận 2 - thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù bộn bề nhiều công việc, nhưng ông đã biên tập một số tác phẩm lịch sử truyền thống như: "Kiên Giang và xứ sở anh hùng", "Trại giam, tù giam Phú Quốc"... Và, điều làm tôi đặc biệt quan tâm trong câu chuyện của ông, đó là ông đã từng bố trí, bảo vệ cho nhà điện ảnh Quang Huy quay những thước phim tư liệu nổi tiếng về trận đánh cháy tàu địch trên địa phận Văn Lâm - Hưng Yên năm 1954. Những thước phim quý giá đó, ngày nay còn lưu lại và được tái hiện trong bộ phim "Việt Nam trên đường thắng lợi".

Sau đây là bài viết của ông về lần kỷ niệm ấy...


NGUYỄN THANH TÚ


Sau ngày giải phóng Thủ đô (10-10-1954), tôi về công tác ở Bộ Tuyên truyền, sau là Bộ Văn hóa vẫn gặp lại anh Quang Huy, khi ấy anh phụ trách Xưởng phim Thời sự - Tài liệu trung ương. Dẫu bận rộn với muôn vàn công việc, chúng tôi vẫn nhớ về một kỷ niệm trong kháng chiến chống quân xâm lược Pháp.


Vào cuối năm 1953, trên Trung ương cử anh Quang Huy về Hưng Yên quay một số hình ảnh kháng chiến của nhân dân trong vùng địch tạm chiếm. Tôi được Ty Tuyên truyén - Văn nghệ tỉnh phân công đi cùng anh Quang Huy lên địa bàn huyện Văn Lâm, nơi có đường sắt Hà Nội - Hải Phòng và quốc lộ 5 chạy qua. Từ cơ quan tỉnh đóng ở khu du kích Ân Thi phải lên đường từ 3 giờ chiều để sập tối có thể vượt qua đường 39 ở khoảng giữa 2 đồn địch Trường Xá và Cầu Ngàng (Kim Động), rồi đêm ấy và cả ngày hôm sau đi ngược lên Khoái Châu, Yên Mỹ để đến tối tới được trạm giao thông bí mật ở một làng sát đường 5, theo đường dây giao thông vượt qua đường 5 và đường sắt sang phía bắc huyện Văn Lâm giáp với huyện Thuận Thành (Bắc Ninh). Đường sắt qua địa phận Văn Lâm từ Như Quỳnh đến Cẩm Giàng (Hải Dương) địch bố trí hệ thống đồn bốt canh phòng dày đặc, cứ cách khoảng 1 km lại có một đồn canh; dọc theo phía nam đường sắt là hàng rào kẽm gai.


Đêm cuối tháng chạp năm ấy trời tối đen như mực, ruộng đồng khô nứt nẻ. Chúng tôi vượt qua đường 5 đến cách đường sắt 30 m, chờ cho giao thông viên lên trước dò đường trở lại báo không có địch phục kích, chúng tôi mới lần lượt leo rào vượt qua đường sắt. Đã có kinh nghiệm vượt qua đây mấy lần, đêm ấy tôi mang theo đôi dép cao su, đến nơi xỏ vào leo rào kẽm gai không bị thủng chân.


Một ngày giáp Tết nguyên đán, chúng tôi bàn với các đồng chí ở xã, bố trí cho "ém quân" sau rặng tre của một nhà dân ở làng Như Quỳnh (Như Quỳnh cách Hà Nội 17 km) để quay cảnh tàu địch. Sáng hôm ấy, một đoàn tàu chở đầy lính lê dương chạy qua nhưng không thể nâng máy lên quay được. Chỉ hơn một phút đoàn tàu đã lướt qua. Tôi hỏi anh Quang Huy: -Thế nào? Anh tiếc: - Trượt rồi, gần quá, bọn lính trên tàu súng ống lăm lăm chĩa xuống 2 bên đường, nhô máy quay sợ bị lộ ngay (rặng tre chỉ cách đường sát gần 20 m).


Thôi được, trượt keo này ta bày keo khác.

Chúng tôi lại bàn với lãnh đạo huyện và xã bố trí cho du kích đánh mìn tàu địch để quay. Nhưng để bà con ăn Tết xong đã, vì đánh mìn thì chắc chắn là địch sẽ khủng bố. Vì vậy cũng có kế hoạch bố trí lực lượng nhân dân sẵn sàng ra quân đấu tranh với địch.


Mìn chôn được ngụy trang khéo léo tuyệt vời, sáng ra lính địch đi tuần không phát hiện được. Theo quy luật hoạt động của địch thì khoảng 9-10 giờ sáng là đến tàu quân sự. Gần đên giờ ấy, một chị du kích cải trang ra đồng cắt cỏ, lấy chân hất nhẹ hòn đá chèn cách dây dẫn, để khi tàu chạy tới mìn chập pin sẽ nổ liền. Hôm ấy là sáng mồng 4 Tết năm Giáp Ngọ (1954).


Tổ quay phim và lực lượng đấu tranh đều đã sẵn sàng. Một đoàn tàu chở dầu từ phía Hải Dương lên vừa lăn bánh tới, chạm mìn. Những toa xi-téc chồm lên nhau đổ vật sang bên đường. Những cột khói lửa bốc cao. Anh Quang Huy đã thu gọn những hình ảnh đó vào máy quay phim 16 ly. Bọn địch ở đồn Lạc Đạo và Đông Mai không dám ra khỏi đồn mà nổ súng như vãi đạn vào các làng ven đường sắt. Vẫn trong những bộ quần áo ngày Tết, bà con chạy tản ra cánh đồng sau làng về phía Thuận Thành để tránh đạn. Như còn tiếc rẻ, anh Quang Huy còn quỳ xuống bờ ruộng quay thêm cảnh này.


Địch bắn cả đạn AT vào làng Đông Mai làm chết một bà già. Ngay sau đó, bà con đã tổ chức đấu tranh theo kế hoạch đã dự kiến trước. Hàng chục người khênh thi hài bà lên bốt Lạc Đạo, rồi tiếp sau hàng trăm người liên tục kéo lên đòi địch phải bồi thường thiệt hại. Cuộc đấu tranh diễn ra đến tận chiều, địch phải chịu bồi thường 800 đồng tiền Đông Dương để mai táng cho bà già làng Đông Mai.


Những thước phim quý giá ấy nay vẫn còn lưu trong bộ phim Việt Nam kháng chiến và bộ phim Việt Nam trên đường thắng lợi mà nhà điện ảnh Liên Xô, Các Men sang giúp ta cùng với các nhà điện ảnh của ta như Mai Lộc, Bùi Đình Hạc, v.v... thực hiện vào cuối năm 1954 - 1955.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:41:07 am
XÃ MINH TÂN, HUYỆN PHÙ CỪ, HƯNG YÊN NHỮNG NGÀY ĐẦU
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP


VÕ VĂN TRÀ
Nguyên phó chủ tịch UBHC,
(Tỉnh ủy viên tỉnh Hưng Yên 1955-1960)


Đã trên 50 năm trôi qua, nhưng nhớ lại những ngày đầu trong kháng chiến chống Pháp, tôi rất xúc động và tự hào về lòng yêu nước, hăng hái tích cực tham gia ủng hộ kháng chiến của cán bộ và nhân dân xã Minh Tân huyện Phù Cừ quê hương tôi. Thời gian đó tôi làm Bí thư chi bộ xã (1947-1949).


Xã Minh Tân chúng tôi được thiên nhiên tạo cho một địa hình lý tưởng, xung quanh 4 mặt đều là sông, đi lại đều phải bằng thuyền, xã như một hòn đảo nhỏ. Cũng do địa hình thuận lợi như vậy, "Đất lành chim đậu" cho nên vào năm 1946 để chuẩn bị cho kháng chiến toàn quốc, UBKCHC Liên khu 3 và UBKCHC tỉnh Hưng Yên chọn và quyết định lấy chùa Sậy thuộc thôn Duyệt Văn của xã làm công binh xưởng để sản xuất và sửa chữa vũ khí cho liên khu, các lực lượng vũ trang trong tỉnh và mặt trận đường 5 lấy phiên hiệu là X-E do Cục Quân giới của Quân khu 3 chuyển về. Tháng 10-1949, địch chiếm đóng hầu hết các huyện miền Nam Hưng Yên, toàn tỉnh hầu như nằm trong vùng tạm chiếm của địch. Thế nhưng riêng xã Minh Tân được Tỉnh ủy Hưng Yên chọn là nơi đặt văn phòng tỉnh ủy. Đồng chí Vũ Thơ là Bí thư Tỉnh ủy thời gian đó đã nhiều ngày làm việc ở đây. Sau khi đồng chí Vũ Thơ được điều đi, đồng chí Trần Quốc Thái được điều về làm Bí thư tỉnh ủy thay đồng chí Vũ Thơ. Đồng chí Trần Quốc Thái cũng chọn nơi này làm văn phòng Tỉnh ủy. Thực ra đây là một địa điểm an toàn, đảm bào bí mật và thuận lợi cho việc chỉ đạo quản và dân toàn tỉnh. Cuối năm 1951, đồng chí Lê Thanh Nghị là Bí thư Khu ủy Khu 3 trên đường đi Việt Bắc theo đường dây cũng nghỉ ở đây.


Cuối năm 1947, tôi làm Bí thư chi bộ xã Minh Tân đã cùng chi bộ và nhân dân tự nguỵện đóng góp cho công binh xường. Nhường toàn bộ khu đình: Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ, toàn bộ sân chùa Sậy dùng để sắp xếp bố trí máy móc thiết bị sản xuất và kho tàng. Ba thôn: Duyệt Văn. Duyệt Lễ, Nghĩa Vũ sấp xếp nhường nhà cửa cho 150 anh em công nhân ăn ở và làm ca kíp. Ngoài ra nhân dân còn tự nguyện đóng góp hàng ngàn ngày công để vận chuyền máy móc thiết bị từ bến đò Sậy vào địa điểm đình và chùa Sậy. Thời gian đó chưa có phương tiện gì ngoài thủ công và đôi vai của mình. Mặc dầu rất vất vả và khó khăn, nhưng ai nấy đều vui và tự hào là đã đóng góp sức mình cho kháng chiến.


Nguyên liệu thiếu, chi bộ đã vận động nhân dân bằng mọi cách thu gom hàng tấn gang, sắt thép. Riêng chùa Sậy đã ủng hộ một quả chuông nặng 120kg để cồng binh xưởng đúc đạn.

Xưởng thiếu gỗ làm mộc mác, nhân dân đã ủng hộ gỗ mít, gỗ đa. Xưởng thiếu nhân lực, chi bộ đã cùng nhân dân vận động được 33 anh em thanh niên vào làm việc (sau này trong số này có 3 anh em hy sinh được công nhận là liệt sĩ, 4 anh em là thương binh)


Ngoài ra còn cử anh chị em dân quân, du kích canh gác ngày đêm bảo vệ an toàn cho công binh xưởng. Năm 1948 địch cũng đã đánh hơi thấy địa điểm này, chúng cho máy bay oanh tạc thả bom. Nhưng rất may là chúng thả chệch ra ngoài khu vực sản xuất và kho tàng.


Lúc đó, ta còn nghèo, lại gặp nhiều khó khăn. Xã đã cùng với công binh xưởng huy động hàng trăm ngày công đào và tháo gỡ bom, lấy thuốc nổ làm mìn, làm lựu đạn bộc phá để cung cấp cho các đơn vị chiến đấu.


Lãnh đạo công binh xưởng lúc đó có các đồng chí: Phạm Hữu Hạnh, Phạm Văn Ty, Lê Hữu Độ, Phạm Khắc Cự. Chỉ từ năm 1947 đến năm 1949, công binh xưởng đã sản xuất được 22.000 quả mìn, lựu đạn, bộc phá, sửa chữa được hàng trâm súng các loại. Đặc biệt đã sản xuất được súng SKZ theo thiết kế của kỹ sư Trần Đại Nghĩa.


Cuối năm 1949, địch phát hiện và đã tăng cường phá ta. Chúng đã dùng xe lội nước mới qua được sông Sậy. Cũng cuối năm đó xưởng rút sang Thái Bình để sáp nhập vào Sở Quân giới Liên Khu 3, 4. Xưởng tuy rút đi nhưng vẫn để lại một bộ phận kho, trong đó có nhiều vỏ mìn và vỏ lựu đạn.


Năm 1950 - 1951, địch 3 lần oanh tạc ta bằng bom phá, bom napan, tàn phá sạch thôn Duyệt Văn. Chúng bắn đại bác từ bốt Cầu Tràng cầm canh vào Chùa Sậy. Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ và Chùa Sậy hầu như bị bom đạn san bằng.

Với lòng yêu nước, căm thù giặc, nhân dân xã Minh Tân lúc đó đã có câu ca dao truyền miệng:

"Đốt nhà bà Lại làm ngay
Bà còn chiến đấu với mày dài lâu"


Tuy bị oanh tạc bắn phá nhưng vẫn còn một đơn vị nhỏ trụ tại đây do đồng chí Nguyền Khắc Hiếu chịu trách nhiệm giữ kho, nhận vũ khí chuyển đến và cấp phát cho các đơn vị. Xã đã cùng với khu đào hàng chục hầm bí mật để cất giấu, bảo vệ vũ khí tuyệt đối an toàn.

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh lúc đó như:

Đồng chí Võ An Đông - nguyên Tỉnh đội trưởng.

Đồng chí Mai Văn Hách - nguyên Chủ tịch UBND tỉnh.

Đồng chí Võ Văn Trà - nguyên Phó chủ tịch UBND tỉnh.

Đồng chí Nguyễn Hữu Đạt - nguyên Huyện đội trưởng huyện Phù Cừ.

Đồng chí Lê Hữu Độ - nguyên Phó giám đốc Xưởng X- E.

Các đồng chí này đã từng có mặt ở xã Minh Tân trong thời gian đó, đã chứng kiến cán bộ và nhân dân đã đóng góp nuôi dưỡng cùng đơn vị xây dựng công binh xưởng và bảo vệ kho vũ khí được an toàn tuyệt đối, góp phần nhỏ bé vào thắng lợi của tỉnh nhà.


Ngày nay đất nước đă được hoàn toàn độc lập, thống nhất trên đà công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhân dân xã Minh Tân vẫn giữ trọn được địa danh: chùa Sậy là nơi "Đất lành chim đậu" và là niềm tự hào của những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Nên chăng trong lịch sử đấu tranh về quân sự, chính trị của tỉnh nhà nên ghi nhận địa danh này và cũng là niềm tự hào chung của tình ta và riêng của xã Minh Tân.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:43:55 am
MỘT SỐ BÀI CA DAO TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

VŨ KHANG
(Nguyên Phó giám đốc sở VHTT Hải Hưng)


Chiếc gậy hành quân
   Những đêm mưa tối mịt mùng
   Hành quân bộ đội rất cần gậy tre
   Biết tin bộ đội đi xa
   Mẹ tôi ra chặt giậu tre sau nhà
   Mỗi anh, một gậy làm quà
   Giúp anh chiến sĩ đường xa, mẹ mừng!


Bàn chông giết giặc
   Một bàn chông
   Hai bàn chông
   Vài chục chiếc bàn chông
   Gài vào ngõ xóm đường thôn
   Mỗi bàn là một mồ chôn quân thù
   Giặc Tây có mắt như mù
   Một tên giẫm phải, trăm tên lo hết hồn
   Mỗi lần giặc phải đi càn
   Là lần khiếp sợ cụm mìn, bẫy chông.


Chị em du kích Hoàng Ngân
   Chị em du kích Hoàng Ngân
   Sản xuất, đánh giặc tinh thần đều cao
    Ngày thì cấy lúa trồng rau
   Đêm đêm luyện tập súng, dao, chông, mìn
   Tinh thần chiến đấu sẵn sàng
   Giặc đến là đánh, giặc tan lại làm.


Quả chuông
   Quả chuông là quả chuông đồng
   Cũng dốc một lòng cùng với toàn dân
   Ba hồi vang tiếng chuông ngân
   Nguyện làm vũ khí dịệt quân bạo tàn
   Mai ngày quân Pháp nát tan
   Chuông chùa ta lại ngân vang sớm chiều1 (Tháng 10-1940, Sư cụ Đặng Văn Cân và Sư ông Nguyễn Quốc Ân ở chùa thôn An Tảo, huyện Tiên Lữ, đã tặng đơn vị Quân giới đóng tại đây, quả chuông nặng 300kg để làm vũ khí)


Hũ gạo kháng chiến
   Một nắm gạo thơm
   Hai nắm gạo thơm
   Bó vào trong chiếc hũ con
   Nhà nhà tiết kiệm, sớm hôm cũng làm
   Một tháng hai lần
   Cả làng góp lại sẽ thành kho lương
   Phòng khi bộ đội qua đường
   Phòng khi chiến đấu giữ làng, giữ dân
   Gạo này dành để nuôi quân
   Ăn no đánh thắng là dân vui mừng2 (Trong những năm kháng chiến, ở các địa phương đâu cũng có phong trào "hũ gạo kháng chiến". Cứ mỗi lần thổi cơm, mỗi nhà lại bỏ một nắm gạo vào hũ, dành để nuôi quân)


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:45:59 am
DU KÍCH XÃ HOÀNG LONG PHỐI HỢP CHIẾN ĐẤU
VỚI ĐƠN VỊ 110 HUYỆN YÊN MỸ ĐÁNH ĐỊCH TRÊN ĐƯỜNG 206

HOÀNG CHẠCH
(Nguyên thôn đội trưởng thôn Đại Hạnh xã Hoàng Long)


Bốt Kênh Cầu thuộc địa bàn xã Dân Chủ có ba bề sông nước bao bọc, có một viên quan 3 người Pháp chỉ huy.

Nó là một tiền đồn án ngữ vững chắc cho đồn Bần Yên Nhân, nó khống chế và kiểm soát một vùng rất rộng lớn.

Nay vẫn con người trinh sát lầm lỳ, dũng cảm, gan dạ này, đồng chí Chính của chúng ta.

Một thời gian khá dài nắm được quy luật của địch. Đợt này chúng đi tuần một trung đội gồm 3 tiểu liên, 1 súng ngắn, còn súng trường đầy đủ và 2 máy dò mìn, xuất phát từ bốt Kênh Cầu đến cổng đồn Bần Yên Nhân thì quay lại. Đồng chí Chính báo cáo về Huyện đội Yên Mỹ như thường lệ.


Được sự phân công, đồng chí Dương Mạnh Tiến C trưởng C110 Yên Mỹ triệu tập B206 và B39 về tại thôn Đại Hạnh để phổ biến quán triệt nhiệm vụ và hướng dẫn sa bàn cho đến khi các tổ đều thông suốt.


Ngay tối hôm đó, dưới sự chỉ huy của đồng chí C trưởng Dương Mạnh Tiến nhằm hướng đường 206 thẳng tới, vừa chiếm lĩnh trận địa, vừa quan sát thực địa cho thật cụ thể.

Đội hình bố trí như sau: Hai khẩu đội trung liên do đồng chí Phương, đồng chí Hoàng Uyên phụ trách, trong đó có tôi Hoàng Chạch, đồng chí Dĩ, đồng chí Được, đồng chí Giai và đồng chí Phi, hai khẩu đội này đều nấp trong bụi hóp ở đầu xóm nam Kênh Cầu chỉ cách đường 206 khoảng 50m, cách cổng bốt 250m. Chờ cái đuôi của tụi địch đi khỏi thì hai khẩu đội này phải nhanh chóng di động ra mặt đường.


Một khẩu bắn tập hậu, xiên táo một băng, để hàng ngang xông lên, còn khẩu kia thì bắn thốc vào cổng đồn, không cho chúng ra cứu trợ. Khẩu moóc do đồng chí Tấc bố trí ở Buộm bắn cầm canh vào bốt.


Còn biên chế cứ hai bộ đội một du kích, bằng 20 tổ tam tam chế rải hàng ngang từ đầu xóm Nam đến đền Cầu Lác.

Do thiên nhiên ưu đãi, quân ta đều ngồi trong những ruộng lúa nếp quýt cứng cây không đổ, chỉ cách mặt đường khoảng chín, mười mét sẵn sàng chờ hiệu lệnh.

Vào khoảng 6 giờ 30 hôm ấy thì bộ đội và du kích chúng ta bắt đầu xóa tên bọn này trong sổ thiên đình.

Bắt đầu 1 tên, 2 tên, rồi 3 tên cứ thế lừng lững dẫn xác vào trận địa của ta.

Nhận được tín hiệu của đồng chí C trưởng Dương Mạnh Tiến, thế là hai khẩu đội trung liên xông lên mặt đường tiến hành nhiệm vụ đã được phân công trước, rồi cả hàng ngang xông ra mặt đường như vũ bão, khiến kẻ địch mất hồn không kịp trở tay. Trận này ta tiêu diệt 8 tên, bắt sống 21 tên, còn 7 tên trà trộn vào nhân dân đi chợ rồi nhảy xuống sông trốn thoát.


Ta thu toàn bộ vũ khí còn lại, phía ta đồng chí Tiến C trưởng bị thương nhẹ qua phần mềm.
 

PHỤC KÍCH ĐỘN THỔ THẮNG LỢI

Sau đó vào khoảng hai tháng, vần cái bốt Vĩnh An này. Vẫn con người trinh sát là đồng chí Chính. Khi đã nắm chắc quy luật của địch, cứ tờ mờ sáng hàng ngày là chúng cho một tiểu đội mang theo vũ khí và máy dò mìn, xuất phát từ bốt này đến cổng bốt Kênh Cầu có tính chất bảo toàn trong một ngày để bọn chúng liên lạc với nhau bằng xe nhà binh. Đồng chí Chính kiên trì bám sát đúng 15 ngày đêm liền, rồi báo cáo về ban chỉ huy Huyện đội Yên Mỹ.


Đồng chí huyện đội phó Tư Tuyến muốn thực hiện nhìn thấy thực tế, cùng với đồng chí Chính đến thực địa rồi trở về thôn Đại Hạnh gập B206. B này do anh Thanh Thức và anh Kiểu chỉ huy. Sau khi quán triệt phương châm tác chiến rồi triển khai xuống trung đội học tập sa bàn để thông suốt nhiệm vụ của từng bộ phận, ban chỉ huy thôn, xã đội chúng tôi gồm anh Chiều, anh Bạt, anh Hoàng Chạch, anh Nhàn, anh Cao, anh Đương (Dục) được kết hợp.


Ngay đêm đó, trung đội thành một hàng dọc, do đồng chí Tuyến chỉ huy trưởng hành quân, thẳng tiến đến địa điểm đã định để chiếm lĩnh trận địa.

Đội hình bố trí như sau: Đồng chí Kiểu và tôi phụ trách một khẩu đội trung liên, bố trí ngay gốc cây đa cạnh đường, có nhiều dãy dây leo um tùm. Chúng tôi có nhiệm vụ khi thấy địch xuất hiện tới gần khoảng 10m, thì bắn ve hết một băng, để hàng ngang xông lên diệt địch, chứ không được bắn xiên táo vì yêu cầu của trận đánh là bắt sống hoàn toàn.


Còn anh Tư Tuyến, anh Thanh Thức, anh Chiều, anh Bạt thì bố trí trong cái vỏ lò gạch, (mùa mưa họ không đun) và 9 tổ tam chế bố trí thành hàng ngang, cự ly 5m một hố độn thổ cách đường đi của địch khoảng 12m sẵn sàng nghe ngóng chờ đợi tín hiệu.


Thời gian buổi sáng nay sao mà khắc nghiệt thế! Càng hồi hộp chờ đón địch thì càng mất tăm. Mãi khi ông mặt trời lên khỏi ngọn tre, nhân dân trong vùng đang đổ ra đồng làm việc, lác đác có người xuôi chợ Bần kẻ ngược chợ Xuân Cầu mà bóng dáng của chúng vẫn chưa xuất hiện. Đồng chí Kiểu ghé tai tôi nói nhỏ, hay là bị lộ rồi, tình huống này thật khó xử. Vừa dứt lời thì nhìn thấy từ phía xa 1 tên trên vai đeo súng dẫn đầu lù lù đang tiến về phía mục tiêu. Giây phút căng thẳng hồi hộp chờ đợi thì cả tiểu đội địch đã lọt vào phòng tuyến của ta. Lập tức đồng chí Tuyến trong vỏ lò gạch chìa tay làm hiệu lệnh, thế là trung liên bắt đầu nhả đạn vừa dứt một băng, thì 9 tấm hóa trang cùng lúc lật ra, rồi các chiến sĩ đồng loạt hỏ xung phong lao vào trận địa.


Bọn địch bị tấn công bất ngờ, hồn phách lên mây, ngồi sụp xuống đường giơ thẳng 2 tay lên trời, giọng run rẩy, thằng thì kêu "con hàng", thằng kêu "cháu xin hàng". Kết quả thắng lợi hoàn toàn, ta bắt sống 11 tên, tiêu diệt 1 tên, thu 12 khẩu súng trường Mỹ.

Có ca dao:
   Chúng mày là chó giữ nhà
   Ra khỏi cống bốt quân ta diệt liền
   Dù bay xảo quyệt cuồng điên
Cuối cùng số phận gắn liền với nhau.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:46:49 am
Nói về Hoàng Ngân


MAI THỊ PHÚC


   Thời kỳ Nhật đảo chính Tây
   Hoàng Ngân vượt ngục trước ngày thành công
   Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng
   Chị về gặp Bác trên vùng núi cao
   Năm bốn chín chị qua đời
   Tên chị sáng ngời mảnh đất Hưng Yên
   Du kích mang tên Hoàng Ngân
   Phấn khởi hào hùng giải phóng quê hương
   Vẻ vang phụ nữ Hưng Yên
   Đến năm hai nghìn danh hiệu được trao
   Anh hùng lực lượng vũ trang
   Niềm tin phấn khởi tự hào chị ơi!
   Xứng danh phụ nữ Việt Nam
   Hải Phòng tên phố, tên đường Hoàng Ngân
   Huy hiệu, tượng đài Hưng Yên
   Thắm tình nặng nghĩa tôn vinh đời dời.

Ngày 01 tháng 01 năm 2003


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:49:35 am
HUYỆN KHOÁI CHÂU - ĐƠN VỊ ANH HÙNG
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

 
KHOÁI CHÂU, HUYỆN ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN


LÊ THỊ THANH
(Bí thư Huyện ủy Khoái Châu)


Huyện Khoái Châu nằm ở phía tây bắc của tỉnh Hưng Yên. Phía bắc giáp Văn Giang, nam giáp Kim Động, Ân Thi, đông giáp Yên Mỹ, tây giáp tỉnh Hà Tây ngăn cách bởi sông Hồng. Quá trình hình thành và phát triển của mảnh đất Khoái Châu gắn liền với nền văn minh lúa nước sông Hồng. Huyện Khoái Châu ngày nay có diện tích tự nhiên 13.086 ha, trong đó diện tích đất canh tác là 7.274 ha; bao gồm 25 xã, thị trấn, với số dân 185.000 người.


Khoái Châu tự hào là mảnh đất "Địa linh nhân kiệt", giàu truyền thống lịch sử, truyền thống vãn hóa. Đến nay huyện Khoái Châu đã có 22 di tích được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hóa. Đặc biệt là cụm di tích thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung, một trong bốn vị Thánh bất tử trong tâm thức người Việt Nam. Với đền Đa Hòa, đền Dạ Trạch nổi tiếng linh thiêng và kiến trúc đẹp, là nơi Nguyễn Trãi đã cầu mộng được “Thánh ý" giúp Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh đem lại "thái bình thịnh trị" cho đất nước. Quê hương Khoái Châu đã sinh ra Trạng nguyên Nguyễn Kỳ và 22 vị tiến sĩ, đã đem tài trí của mình giúp nước, an dân. Khoái Châu có vinh dự lớn là quê gốc của bà Hoàng Thị Loan thân mẫu của Bác Hồ.


Khoái Châu cách thủ đô Hà Nội khoảng 20km về phía đông nam, giữ vị trí chiến lược quan trọng trong quá trình dựng nước và giữ nước. Trên mảnh đất này đã từng chứng kiến những chiến công hiển hách của tổ tiên còn lưu trong sử sách và trong lòng người dân Việt Nam. Năm 545, từ căn cứ địa Dạ Trạch, Triệu Quang Phục đã tiến hành kháng chiến trường kỳ thắng lợi chống lại quân xâm lược nhà Lương. Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống (891), dưới sự chỉ huy thao lược của Lê Hoàn, quân và dân ta vây hãm chặn đánh quân Tống ở dọc tả ngạn sông Hồng, tướng nhà Tống Trần Khâm Tộ, Quách Quận Biên, Triệu Phục Huân bị quân ta đánh cho đại bại ở trận Tây Kết. Mùa hè năm 1285, trên dòng sông Hồng lịch sử diễn ra trận quyết chiến của quân dân ta, dưới sự lãnh đạo của người Anh hủng dân tộc Trần Quốc Tuấn với một cánh quân lớn nhất của đội quân xâm lược Nguyên - Mông, đội quân hùng mạnh nhất thế giới thời đó. Cửa sông Hàm Tử, tướng giặc Toa Đô bị chém đầu; tại Tây Kết hàng trăm chiến thuyền giặc bị nhấn chìm1 (Trong trận Tây Kết - Hàm Từ, một trong những tướng có công lớn tà Nguyễn Khoái được nhá Trần phong cho một vùng ấp gọi là Khoái Lộ, sau gọi là Khoái Châu. Huyện Khoái Châu ngày nay có tên nguồn gốc từ dó).


Truyền thống yêu nước, khí phách kiên cường bất khuất trong lịch sử đã cổ vũ nhân dân Khoái Châu tiếp tục đứng lên đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Tháng 3-1883, khi quân Pháp hạ thành Hưng Yên, Đinh Gia Quế (quê Tân Dân - Khoái Châu) cùng Nguyền Thiện Thuật dựng cờ "Nam đạo cần vương - Bình Tày phạt tội" chiêu mộ nghĩa quân vùng lên khởi nghĩa. Không có rừng già, núi đá hiểm trở, nhưng nhân dân Khoái Châu hết lòng che chờ ủng hộ nghĩa quân. Hầu hết các thôn, xã của huyện đều là làng chiến đấu, là kho lương của nghĩa quân, lập nên căn cứ địa Bãi Sậy giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ, một căn cứ chiến đấu kiên cường tồn tại nhiều năm với tinh thần quật khởi.


Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, văn thân yêu nước đều bị thất bại. "Dân tộc Việt Nam đang đứng trước một cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất về con đường cứu nước”1 (Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam tập I, NXB Sự thật - Hà Nội, 1981 tr: 40) thì Nguyễn Ái Quốc sau nhiều nam bôn ba đã tìm thấy con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc. Từ khi ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin rọi tới, thanh niên Khoái Châu đã khống nề gian khổ, hy sinh, một lòng một dạ đi theo cách mạng.


Cuối năm 1928, trên địa bàn huyện Khoái Châu đã có chi bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Sài Thị. Đây là chi bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đầu tiên của tỉnh Hưng Yên. Cuối nấm 1929, chi bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội Sài Thị chuyển thành chi bộ Đông Dương cộng sản Đảng Sài Thị. Ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản Đông Dương ra đời, cấp trên đã cử cán bộ về Sài Thị chuyển chi bộ Đông Dương cộng sản Đảng Sài Thị thành chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương Sài Thị. Ngay từ khi thành lập với 7 đồng chí đảng viên đầu tiên, chi bộ đã hoạt động tích cực in tài liệu như “Tiếng súng đêm đông", "Chính sách giặc Pháp", ... rải truyền đơn kêu gọi nhân dân vùng lên đánh giặc đuổi thực dân Pháp. Dưới ngọn cờ của Đảng, lòng yêu nước và tinh thần bất khuất của nhân dân Khoái Châu đã được nhân lên gấp bội. Mặc dù bị thực dân Pháp và bè lũ tay sai điên cuồng khủng bố, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng tự vệ đã ra đời. Khắp các thôn, xã trong huyện, thanh niên, phụ nữ hăng hái tình nguyện tham gia, các hình thức đấu tranh chính trị, kinh tế và đấu tranh vũ trang được kết hợp khéo léo, đã cổ vũ lôi cuốn các tầng lớp nhân dân hướng theo Mặt trận Việt Minh.


Nhạy bén chớp thời cơ, người người, nhà nhà hành động theo hiệu lệnh của Việt Minh biểu tình thị uy có vũ trang, vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng chưa đầy một tuần (từ 15-8 đến 20-8-1945), bộ máy ngụy quyền từ huyện đến xã bị nhân dân ta đạp đổ hoàn toàn.


Chính quyền cách mạng non trẻ được thành lập, đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách: Thực dân Pháp rắp tâm trở lại xâm lược nước ta, nạn đói hoành hành trên khắp quê hương, lũ lụt uy hiếp đê sông Hồng. Trong khó khăn chồng chất càng thể hiện rỏ ý chí anh hùng và sức mạnh đoàn kết của nhân dân Khoái Châu.


Đầu năm 1947, trên tuyến đường 5, các cuộc hành quân của giặc Pháp bị quân dân địa phương và bộ đội đánh trả quyết liệt. Thời gian này, nhân dân Khoái Châu đã chia sẻ khó khăn với đồng bào thủ đô, xây dựng làng chiến đấu, phá cầu, đắp ụ lập chướng ngại vật, chặn giặc trên đường bộ, cốn bè tre trên sồng Hồng cản giặc trên đường thủy, lực lượng vũ trang địa phương sẵn sàng nổ súng khi giặc tới.


Khoái Châu có vị trí chiến lược quan trọng là kho người, kho của. Do vậy địch tập trung lực lượng càn quét cướp phá hết sức dã man, chúng lập hệ thống đồn, bốt, tháp canh dày đặc. Những cuộc khủng bố trắng của giặc đã để lại tội ác đẫm máu.

   "Đống xương Thiết Trụ, vũng máu Nghi Xuyên,
   Cây đa Dông Táo còn in hận thù".

Vượt lên ác liệt hy sinh, với lòng tin sắt son vào thắng lợi. Ngay từ trong những năm đen tối nhất, nhân dân Khoái Châu vẫn hết lòng vì cách mạng. Sống trong những ngày gian khổ ác liệt mới càng thấm thìa sự gắn bó máu thịt giữa dân với Đảng. Dưới những lũy tre xanh, dưới mái tranh nghèo..., đâu đâu cũng có hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, du kích. Ban ngày nhân dân đương đầu với sự khủng bố bằng súng đạn, bằng bạo lực của kẻ thù, ban đêm nhân dân lại đón cán bộ, du kích luồn về diệt ác, phá tề.


Cuối năm 1952 đến đầu năm 1954, quân và dân Khoái Châu cùng với bộ đội chủ lực liên tiếp tấn công các đồn bốt địch, với lối đánh đa dạng, áp dụng trong từng thời điểm như: tập kích ở bốt Đông Tảo, mật tập ở bốt Phương Trù, Đào Viên, Vân Trì, bao vây đánh lấn, bức hàng ở bốt Thiết Trụ... giành thắng lợi.


Các lực lượng vũ trang nhân dân của huyện đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp trên quê hương Khoái Châu. Với lối đánh du kích đã làm cho kẻ thủ không biết đâu là trận địa. Trong cánh cửa nhà, trên cành cây giữa những đường làng đâu đâu cũng có những quả mìn treo trên đầu giặc. Đội du kích Sông Giàn (Đại Hưng) một trong những điển hình trong việc vận động, tổ chức, xây dựng lực lượng cách mạng quần chúng. Đây là đội du kích đầu tiên ở khu nam Khoái Châu làm bàn đạp để tấn công địch. Với hệ thống hầm hào quanh làng, cách đánh phục kích, tập kích, hầm chông, cạm bầy... đã đánh lui nhiều trận càn lớn của địch và làm cho chúng bị nhiều tổn thất. Từ đầu năm 1952, các xã trong huyện đều có đội nữ du kích Hoàng Ngân, đây là lực lượng quan trọng trong vùng địch hậu, là người bạn chiến đấu của lực lượng vũ trang huyện. Với tinh thần "Cô gái Bãi Sậy sông Hồng" bất thần "Đòn gánh đánh Tây", các chị đã phối hợp và đánh độc lập hàng trăm trận lảm cho quân giặc khiếp vía, kinh hồn. Tiêu biểu là đội nữ du kích Hoàng Ngần xã Đông Kết do đồng chí Trương Thị Tám chỉ huy đã đánh nhiều trận1 (Đường 5 anh dũng quật khởi tập XII trang 130) cướp được nhiều vũ khí của giặc. Phong trào nữ du kích Hoàng Ngân đã góp phần to lớn vào nghệ thuật chiến tranh nhân dân, hình thành thế trận "thiên la địa võng” làm cho kẻ thù khiếp sợ. Trong vùng địch hậu, phụ nữ là lực lượng chính giúp đỡ cán bộ, du kích, đặc biệt là thương binh. Từ 1952 - 1954, xã Đại Tập mặc dù nằm trong tầm kiểm soát gắt gao của địch vẫn tập trung phục vụ thương binh ở các nơi trong tỉnh về trạm quân y - đóng tại địa bàn xã. Trong 3 năm đã có hơn 1000 thương binh được cứu chữa khỏi, trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Trong quá trình phục vụ thương binh, các mẹ, các chị đã không quản hiểm nguy, chăm sóc thương binh, như người thân. Nhiều người dân xã Đại Tập ăn ngô, ăn sắn nhường gạo nuôi dưỡng thương binh.


Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp trên quê hương Khoái Châu chính là thắng lợi rực rỡ của việc tổ chức thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng. Những hình thại quân sự trên mảnh đất này là biểu hiện ưu thế của đường lối chiến tranh nhân dân ở vùng đồng bằng. Là biểu hiện cụ thể của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật lãnh đạo bám đất, bám dân, đánh địch bằng chính trị, quân sự, binh vận, địch vận, bằng lực lượng của toàn dân mà đơn vị bộ đội huyện và dân quân du kích làm nòng cốt.


Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng bộ và nhân dân cùng các lực lượng vũ trang nhân dân huyện Khoái Châu đã được Nhà nước tặng thưởng 1 huân chương Quân công hạng nhất, 3 huân chương Kháng chiến, 2 huân chương chiến công hạng nhất, nhiều cán bộ, du kích được tặng huân chương cao quý khác.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:50:30 am
Miền Bắc được giải phóng, Đảng bộ và nhân dân Khoái Châu củng nhân dân cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng miền Bắc XHCN, chi viện sức người sức của giải phóng miền Nam Với tinh thần "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, đã có hơn 25.000 thanh niên Khoái Châu lên đường nhập ngũ, nhiều thanh niên đã viết đơn bằng máu để được tòng quân xung phong vảo tuyến lửa. 10 vạn tấn lương thực, 4 vạn tấn thực phẩm đã được chuyển vào chiến trường, 3714 người con ưu tú của quê hương đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp thống nhất đất nước, 2358 thương binh đã hiến dâng một phần xương máu của mình cho độc lập tự do của Tổ quốc. Liệt sĩ Nguyền Văn Liệu (Đại Hưng), liệt sĩ Phạm Ngọc Yểng (Việt Hòa), đồng chí Phạm Tuyên (Tân Dân) đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Chị Lê Thị Lục (An Vỹ) đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động.


Giặc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc, quân và dân Khoái Châu anh dũng chiến đấu chia lửa với miền Nam. Bầu trời Khoái Châu đã diễn rạ nhựng trận chiến đấu quyết liệt giữa hệ thống phòng không của bộ đội và dân quân với máy bay Mỹ, bảo vệ quê hương, bảo vệ thủ đô Hà Nội. Đại đội du kích xã Đông Tảo, xã Bình Minh đã bắn rơi tại chỗ một máy bay AD4 của Mỹ. Giặc Mỹ điên cuồng rải hàng trăm quả bom xuống địa bàn huyện, lực lựợng vũ trang địa phương phối hợp với bộ đội dũng cảm phá nhiều bom nổ chậm của địch, để đảm bảo tính mạng và tài sản cho nhân dân. Liệt sĩ Nguyễn Vân Cư (Bình Minh) đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến đấu này.


Trong chiến tranh ác liệt, các công tác y tế, giáo dục vẫn được duy trì, trường học vẫn mở cửa, học sinh đến trường bằng những chiếc mũ rơm trong những lớp học sơ tán. Với niềm lạc quan tin tưởng vào chiến thắng, "Tiếng hát át tiếng bom" trong những ngày đánh Mỹ mãi mãi là trang sử hào hùng của quê hương Khoái Châu.


Trong sự nghiệp xây dựng và bảo bệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng bộ vả nhân dân cùng các lực lượng vũ trang của huyện Khoái Châu đã được tặng thưởng 1 huân chương Quân công hạng nhất, 5 huân chương Kháng chiến, 6 huân chương Lao động, 146 bà mẹ được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 19068 người được Nhà nước khen thưởng huân, huy chương cao quý các loại. Đặc biệt huyện Khoái Châu và 7 xã (Bình Minh, Đông Tảo, Thuần Hưng, Đại Hưng, Phùng Hưng, Đại Tập, Đông Kết) đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Các xã Anh hùng được trải khắp ở các khu Đông, Tây, Nam, Bắc của huyện Anh hùng.


Hiện nay, trong công cuộc đổi mới, với truyền thống đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, thông minh, sáng tạo, Đảng bộ và nhân dân Khoái Châu đã tìm ra hướng đi cho riêng mình: Tập trung chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển các ngành kinh tế khác.


Năm 2002, tốc độ tăng trường kinh tế đạt 10,06%, thu nhập bình quân đầu người đạt 4,66 triệu đồng/năm. Năng suất lúa đạt 12,2 tấn/ha, thu nhập bình quân 1 ha canh tác 34,5 triệu đồng/năm. Số hộ nghèo còn 5,3%, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên 1,03%. Nhu cầu ăn ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên rõ rệt, dịch vụ ngân hàng phục vụ cho sản xuất kinh doanh có nhiều đổi mới, công tác thông tin liên lạc được phát huy, đến nay toàn huyện có 4000 máy điện thoại, bình quân 45 người/1 máy. Trong cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư đến nay toàn huyện có 32900 gia đình văn hóa, đạt 71% số hộ trong huyện, có 38 làng văn hóa, đạt 39% số làng trong huyện. (21/25 xã, thị trấn có làng văn hóa).


Đã thực hiện dồn thửa đổi ruộng ở 25/25 xã, thị trấn. Năm 2002 đã chuyển đổi được 98 ha diện tích đất trũng sang chăn nuôi, thả cá. Hiện nay toàn huyện có 700 ha trồng cây ăn quả ngoài đồng (trong đó có 53 ha cây cảnh). Chăn nuôi gia súc, gia cầm chuyển biến mạnh mẽ. Mô hình phát triển trang trại được nhân rộng, toàn huyện đã có 100 trang trại các loại (trong đó có 58 trang trại đạt tiêu chí của tỉnh, 41 trang trại đạt tiêu chí liên bộ).


Cơ cấu kinh tế đang có bước chuyển biến tích cực, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại chiếm tỷ trọng cao. Công tác an ninh - quốc phòng luôn được củng cố và tăng cường, an ninh nông thôn được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng được đặc biệt quan tâm, việc thực hiện các chính sách xã hội được đẩy mạnh, phong trào thi đua xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vứng mạnh đi vào chiều sâu, có hiệu quả thiết thực.


Trong những năm vừa qua, mặc dù phát triển công nghiệp còn gặp khó khăn, nhưng các khu vực kinh tế của huyện cơ bản đã được hình thành. Tinh thần quyết chiến, quyết thắng trong lịch sử kháng chiến bảo vệ Tổ quốc đang được phát huy trong thời kỳ đổi mới, với ý chí quyết tâm chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu. Đảng bộ, quân và dân Khoái Châu nỗ lực vượt qua mọi thử thách, tận dụng tốt mọi điều kiện, thời cơ, phát huy mạnh mẽ nội lực để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nòng nghiệp, nông thôn, tô thắm thèm truyền thống huyện Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:52:23 am
SUY NGHĨ VỀ ĐẢNG BỘ - QUÂN DÂN KHOÁI CHÂU TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP 1947 - 1954


NGUYỄN TRƯỜNG XUÂN
(Nguyên Bí thư Huyện ủy huyện Khoái Châu)


Tôi gắn bó trực tiếp với Đảng bộ Khoái Châu từ tháng 3-1953 đến tháng 4-1954 với chức năng Bí thư Huyện ủy.

Nhân dịp này, với tấm lòng kính phục mến yêu, tôi gửi đến đồng chí, đồng báo, chiến sĩ một số suy nghĩ về Đảng bộ, quân dân Khoái Châu trong cuộc kháng chiến chống giặc Pháp xâm lược từ 1947 - 1954, trong đó có góp phần nhỏ bé của tôi.


Cuộc khởi nghĩa tháng 8-1945: Khoái Châu ta đã giành chính quyền rất sớm, từ 15-8 đã đánh chiếm huyện lỵ bắt địch đầu hàng và thu 30 khẩu súng trường và tài liệu của chúng. Như vây Khoái Châu: là huyện thứ hai đánh thắng địch, giành chính quyền, sau Phù Cừ 14-8. Giành được chính quyền, Đảng bộ, nhân, dân Khoái Châu đã một mặt xây dựng chính quyền cách mạng, đồng thời phát động phong trào chống đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm và đã khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang ở khắp thôn xóm, đồng thời với việc động viên thanh niên vào bộ đội vệ quốc quân. Trong đó có những người đã có mặt chiến đấu, công tác trong chiến trường, phía Nam thời gian đó.


Đây là thời kỳ sơ khai, những thành tích và chiến công chưa nhiều, nhưng "vạn sự khởi đầu nan" nên những thành công ban đầu này rất có ý nghĩa tạo đà cho những bước đi sau này của huyện.

Khoái Châu đã hy sinh người, của đánh giặc bảo vệ phía bắc huyện từ 1947 đến 1950. Sau khi đánh chiếm các huyện phía bắc Hưng Yên gồm Văn Giang, Vốn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào..., giặc Pháp đã lấn chiếm xuống các xã bắc huyện gồm các xã Mễ Sở - Bình Minh - Dạ Trạch - Cấp Tiến - Tân Dân - Dân Tiến và đã chiếm đóng lập quận hành chính tại Thiết Trụ 25-4-1947 - tháng 9-1947 lập đồn Đông Tảo xã Cấp Tiến. Cùng với các đồn binh Từ Hồ, Lực Điền thuộc nam Yên Mỹ và những đồn hương dũng và bọn phản động nơi này, họp thành hành lang bảo vệ vùng chiếm đóng bắc Hưng Yên, nam Hà Nội của chúng, là lực lượng bình định chiếm đóng của địch ở miền bắc Hưng Yên đồng thời là chỗ dựa để thường xuyên mở các trận càn quét quấy phá các huyện hậu phương phía nam tỉnh. Đặc biệt khi chiếm đóng, địch rất hung ác, điển hình là quận trưởng Giáp Ngọc Phúc, tên việt gian khát máu đã biến Bãi Nhãn thôn Thiết Trụ thành nơi bắn giết, chôn sống hàng trăm chiến sĩ cách mạng và thường dân. Những vụ tàn sát đẫm máu ở thôn Thiết Trụ - Đông Tảo đã để lại mối thù muôn đời muôn kiếp với kẻ thù. Trước tình hình mất còn, quân dân nơi đây đã bất khuất, chịu đựng gian khổ hy sinh, đánh giặc cứu quê hương. Những trận diệt ác ôn, xóa bỏ ngụy quyền diễn ra liên tiếp. Những trận du kích đánh chống càn thường xuyên, đặc biệt đã có những trận đánh diệt đồn hương dũng, giết bắt phản động đã làm kẻ thù khiếp sợ như trận đánh mìn giết 18 tên lính trên đường Thiết Trụ - Từ Hồ, trận chống càn tại phố Phủ thắng lợi, làm cho đại đội Com-măng-đô của địch thiệt hại phải rút lui, trận diệt đồn tổng dũng Đông Tảo, trận Thiết Trụ diệt đồn này 2 lần theo thời gian khác nhau, thu nhiều súng, đạn dược.


Cùng với việc đánh địch bằng vũ trang, nơi đây còn sử dụng nhiều hình thức đấu tranh chính trị, kinh tế, địch vận. Như vậy, quân dân Khoái Châu đã hoàn thành nhiệm vụ làm lá chắn ngăn chặn kẻ thù, góp phần quan trọng bảo vệ vùng tự do nam Hưng Yên từ 1947 đến đầu 1950.


Đảng bộ, quân dân Khoái Châu đã kiên cường chống phá âm mưu chiếm đóng, bình định của địch từ đầu 1950 đến khi kết thúc chiến tranh chống Pháp.

Ngày 22-12-1949, địch mở trận càn Diabolo chiếm đóng miền nam tỉnh. Khoái Châu là một trọng điểm. 4 đồn binh mới mọc ra tại Lạc Thủy, Nghi Xuyên, Vua Bơi, Đào Viên, đồng thời mau chóng mở rộng hệ thống tháp canh, hương đồn như: Trung Châu, An Vĩ, Sài Quất. Tính đến hết 1951 chúng đã hình thành lực lượng chiếm đóng bình định toàn huyện với 86 đồn binh lớn nhỏ gồm các đồn Liên hiệp Pháp, bảo an binh dọc đường 39, dọc sông Hồng từ một đại đội đến tiểu đoàn. Còn lại là vệ sĩ tổng dũng, hương dũng chiếm đóng khắp 84 thôn.


Với bộ máy kìm kẹp như vậy, quân dân, Đảng bộ Khoái Châu đã phải chịu đựng sự hy sinh vô cùng to lớn - người của, cơ sở kháng chiến bị khủng bố, nhiều cán bộ, đảng viên đã bị bắt, bị giết.

Song cũng thời gian này, sức mạnh toàn dân được khơi dậy, những tấm gương anh dũng, những chiến công và trí tuệ đánh giặc của Khoái Châu được nhân lên gấp bội.

Đã đánh địch nhiều trận trong cuộc càn quét xuống nam huyện và chủ động tiến công diệt địch như trận diệt đồn nghĩa dũng thôn Đức Nhuận Thượng ngày 1-1-1950, trận diệt vị trí địch thôn Đông Tảo 4-1-1950 và các trận diệt địch bằng binh vận tại Hậu Đền... Đồng thời cùng với việc diệt phản động, trừ gian, chống Pháp âm mưu lập ngụy quyền, tháp canh hương đồn suốt từ 1950 đâ là cuộc chiến đấu đẫm máu giữa đôi bên địch, ta. Kết quả ta đã ngăn chặn một phần âm mưu của giặc, rèn luyện tinh thần chiến đấu của quân dân, Đảng bộ, tạo cho cuộc chiến đấu tiếp sau!


Đến khi có Nghị quyết Tỉnh ủy Hưng Yên tháng 12-1950 về đấu tranh chống địch phủ hợp với từng vùng, rồi đến cuộc chống phá hệ thống bình định của địch, mở đầu từ Thọ Lão, Phù Cừ tháng 3-1951 của bộ đội tỉnh, Khoái Châu đã tranh thủ làm tan rã hệ thống hương tổng dũng của địch. Với tinh thần tự lực của cơ sở địa phương, không ỷ lại và biết kết hợp với bộ đội cấp trên đánh địch, đó là thời gian từ 1951 đến cuối 1952.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười, 2022, 07:53:26 am
Sau khi đã cơ bản diệt, phá hệ thống bình định, quân dân Khoái Châu tiến lên giai đoạn chiến đấu mới - chống càn quét của địch, bảo vệ căn cứ kháng chiến. Điển hình là trận càn Lạc Đà 1952 trên một tháng đã cùng bộ đội tỉnh đánh trên 100 trận, giết nhiều địch; trận càn "Con cá" khu vực xã Tân Dân 3-4-1952. Qua chống càn, quân dân Khoái Châu đã trưởng thành, tiến lên bước mới trong việc diệt địch, giải phóng quê hương.


Ngày 3-1-1952 diệt đồn Thiết Trụ lần thứ nhất bằng địch vận, sau đó giúp bộ đội diệt đồn Lạc Thủy bằng địch vận kết hợp với cường tập phá vỡ hệ thống chiếm đóng đê sông Hồng của địch.

Một kỳ tích mới quân dân Khoái Châu đã hiệp đồng cùng bộ đội tỉnh trong 9 tháng tử 6-1953 đến 3-1954 đã diệt 5 đồn địch từ cấp đại đội đến tiểu đoàn. Trong đó có đại đội địch lính Âu Phi tại Nghi Xuyên. Tiểu đoàn binh chủng hợp thành gồm đại đội xe tăng, đại đội pháo binh và hai đại đội bộ binh tại đồn Vân Trì. Đêm 19 rạng ngày 20 tháng 6 năm 1953 diệt đồn Đào Viên; trận diệt đồn Phương Trù 10-7-1953; trận Vân Trì đêm 15 rạng 16-8-1953; trận Thiết Trụ lần thứ hai 9-11-1953; ngày 26-3-1954 diệt đồn Nghi Xuyên. Đến đây, Khoái Châu đã diệt hết các đồn địch, chỉ còn lại đồn Phương Trù địch đã đóng trở lại. Đặc biệt những trận đánh thắng này là chiến thuật mật tập. Cả ta và địch rất ít bị thương vong, mà ta thu toàn bộ vũ khí, bắt gọn tù binh, trận đánh diễn ra nhanh gọn, một lối đánh thần kỳ của bộ đội ta.


Điều đáng tự hào là đại đội địa phượng của huyện đã tham gia chiến đấu cùng bộ đội tỉnh với trình độ tác chiến có đẳng cấp cao và độc lập tác chiến trong từng trận, diệt nhiều sinh lực địch, thu vũ khí, bắt tù binh.


Cùng với việc diệt địch trong đồn phòng ngự, ta còn liên tục đánh nhiều trận phục kích trên đê sông Hồng, đường 39, bao vây đánh địch tại đồn Vua Bơi và hương dũng thôn Cao Quán.

Rồi đến chiến dịch Điện Biên Phủ mở ra, quân dân Khoái Châu đã làm hết mình vì tiền tuyến bằng cung cấp nhiều tân binh và đảng viên cho cấp trên mở rộng lực lượng, tham gia chiến đấu của du kích nhiều xã tại đường 5 trong đó có một đại đội được tách ra từ đại đội của huyện thành đại đội 10 cung cấp cho tỉnh chuyên làm nhiệm vụ chiến đấu tại phía bắc tỉnh.


Đến khi ký hiệp định đình chiến - tại khu tập kết 80 ngày, Đảng bộ, nhân dân Khoái Châu đã tranh thủ gọi con em còn trong đội ngũ địch trở về, và hăng hái làm địch vận, góp phần làm tan rã những đội quân ngụy về trú quân tại địa phương, có ngày hàng trăm tên, có cả những xe cơ giới vận tải, xe chỉ huy cũng ra đầu hàng.


Khoái Châu còn có tấm lòng nhân ái cao trong việc xây dựng, bảo vệ, phục vụ thương bệnh binh tại, xã Đại Tập trong những năm địch hậu.

Sở dĩ huyện nhà làm được chiến công lịch sử như vậy là bắt nguồn từ truyền thống đánh giặc, cứu nước oanh liệt từ xa xưa, như việc xây dựng căn cứ cho Triệu Quang Phục, đánh thắng quân nhà Lương tại Dạ Trạch, giúp quân nhà Trần "Cầm hồ Hàm Tử quan" trong chiến dịch diệt quân Nguyên Mông thế kỷ XIII, là việc xây dựng căn cứ và giúp nghĩa quân Tán Thuật đánh Pháp trên 10 năm tại vùng bắc huyện, gọi là Bãi Sậy...


Nó còn bắt nguồn từ hoàn cảnh thời cuộc nên không đứng dậy bảo vệ quê hương, thì kẻ thù xâm lược Pháp lại biến nơi này thành nô lệ mất nước, bị mất hết quyền sống, mà Khoái Châu có vị trí chiến lược với chúng, là nơi bóc lột của chúng.


Những yếu tố cơ bản nhất là sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh tạo thành, mà cụ thể là Khoái Châu đã sớm nhất tỉnh có những người cộng sản lãnh đạo cách mạng tại thôn Sài Thị, rồi từ cơ sở nơi đây nuôi dưỡng nhân lên qua các thời kỳ, nên đã sản sinh ra thế hệ kế tiếp ứng với thời cuộc, đáp ứng sự lãnh đạo của Đảng, hoàn thành sứ mệnh cứu dân, cứu nước của mình.


Song công bằng mà xét, bên cạnh thành công kỳ vĩ ấy, huyện nhà cũng phạm những sai sót làm hạn chế thắng lợi và làm tổn thất người, của không đáng có.

Đó là thời gian từ 47 - 50 chưa thật tranh thủ ở mức cao nhất diệt địch, chưa sử dụng triệt để hình thức đấu tranh chính trị, bảo vệ nhân tài, vật lực vùng tạm chiếm, vùng giáp ranh nên sự tổn thất là quá nặng nề.


Còn chủ quan không chuẩn bị chu đáo, bảo vệ vùng tự do phía nam huyện nên khi trận càn Diabolo diễn ra bị tổn thất, để địch mau chóng hình thành hệ thống bình định, làm hạn chế chiến công diệt địch, bảo vệ lực lượng kháng chiến.


Là sự tả khuynh trong gần suốt 1950 trong việc đấu tranh vũ trang, phá tề trừ gian, bỏ qua dùng hình thức đấu tranh chính trị thích hợp để hạn chế âm mưu địch, bảo vệ lực lượng kháng chiến, chờ thời cơ tiến lên nên thời gian này sự tổn thất người, của là không nhỏ, trong đó nhiều đảng viên chủ chốt bị bắt, bị giết như Bí thư Huyện ủy Thông, ủy viên thường vụ Bích...


Một sự kiện không bình thường là bọn phản động thôn Cao Quán mọc ra gây khó khăn cho ta tại đường 39 thuộc Đồng Tiến, trong lúc đó quân dân Khoái Châu đã diệt gần hết các đồn binh tại dọc đường 39, đó cũng là sai lầm của lãnh đạo huyện.


Kết luận lại: Lịch sử kháng chiến chống Pháp của Khoái Châu nằm trong lịch sử chung, cũng là sự vận động có tính biện chứng quan hệ địch ta, nhưng cũng có đặc thù riêng: sự hy sinh bất khuất đến cao độ, tinh thần thượng võ rất cao trong chiến đấu diệt địch, hầu hết các đảng viên từ lãnh đạo cấp huyện, cấp xã đã là tấm gương kiên cường dũng cảm đi đầu trong chiến trận. Có tinh thần trách nhiệm cao trong huy động nhân tài vật lực cho tiền tuyến và trình độ trí tuệ của các lực lượng vũ trang mà tiêu biểu là đại đội địa phương huyện trong tài năng đánh địch. Đó là niềm tự hào có ý nghĩa lịch sử của Khoái Châu.


Còn những sai sót, nhưng đây cũng là trách nhiệm chính trị của Đảng bộ mà những người lãnh đạo có liên quan cần thấy rõ, trong đó có cá nhân tôi.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Mười, 2022, 07:54:13 pm
NỐI TIẾP TRUYỀN THỐNG ĐÁNH GIẶC CỦA TỔ TIÊN,
QUÂN DÂN HUYỆN KHOÁI CHÂU (HƯNG YÊN)
ĐÃ ĐÁNH THẮNG TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP


VÕ AN ĐÔNG
(Nguyên Tỉnh đội trưởng Hưng Yên)


Từ ngày 22-12-1949, quân Pháp đã chiếm đóng toàn tỉnh Hưng Yên, huyện Khoái Châu cũng bị chiếm đóng trên sông Hồng có các vị trí Thiết Trụ, Phương Trù, Lạc Thủy, Nghi Xuyên, dọc đường 39 có vị trí Đào Viên, Vân Trì,  ở giữa huyện Pháp cắm vị trí Vua Bơi (Yên Mỹ). Năm 1950 - 1951, mọc lên một loạt hương đồn, tháp canh ở các làng.


Bọn Pháp và tay sai đã khống chế lực lượng kháng chiến, bắt bớ, tàn sát nhân dân và cán bộ. Một số cán bộ bám đất, bám dân nêu cao gương dũng cảm hy sinh như đồng chí Hà Tài Cáp, cán bộ Huyện đội; đồng chí Thông, Tỉnh ủy viên kiêm Bí thư Huyện ủy Khoái Châu đã bị giặc bắt và giết hại không tiếc tay. Phong trào tạm thời bị lắng xuống, cơ quan và bộ đội huyện bị bật khỏi địa bàn.


Nhưng từ cuối tháng 10 năm 1951, được chiến thắng Biên Giới và Nghị quyết Tỉnh ủy tháng 12-1950 cổ vũ và soi sáng, sau khi bộ đội tỉnh (C27) đã tiêu diệt bốt Thanh Sầm (Kim Động) đã khuếch trương chiến thắng tới các xã phía nam huyện Khoái Châu. Nhân dân, du kích huyện Khoái Châu nhân đà đó đã tự động đứng lên quật khỏi phá tan bốt hương dũng, phá tề ở Thọ Nham, Phó Nham, Sài Quất, Tiểu Quan, Đại Quan, Ngọc Nha, các xã ngoại bối cho đến xã Dạ Trạch (Ông Đình, Yên Vĩnh). Chỉ còn lại có bốt Dương Trạch (xã Tân Dân) phản động thì đêm 16-11-1951 đã bị bộ đội tỉnh tiêu diệt, phá sập lô cốt, buộc bọn hương dũng phải đầu hàng. Khuếch trương chiến thắng, ta đẩy mạnh công tác địch vận đã làm nội ứng diệt bốt Thiết Trụ (1-1952) và bốt Lạc Thủy (2-1952), cả 2 bốt này đều nằm trên đê sông Hồng. Do đó, cơ sở Đảng, chính quyền, đoàn thể, dân quân du kích ngày càng củng cố vững chắc, nên mặc dầu địch mở chiến dịch "Lạc Đà" (tháng 5-1952), chúng tàn phá rất nặng nề, quân dân Khoái Châu đã kiên cường đánh trả, vẫn giữ vững khu du kích, không cho phép địch lập lại ngụy quyền ở xã, thôn. Ngược lại, vào mùa khô năm đó, nhất là khi quân chủ lực ta mở chỉến dịch ở Tây Bắc, dân quân du kích huyện đã tiến sát các vị trí địch như Thiết Trụ, Vân Trì, v.v..., vây hãm chúng, buộc chúng phải tiếp tế bằng máy bay hoặc tàu chiến trên sông, nhưng bộ đội huyện và du kích chỉ có khả năng buộc địch phải co lại, cố thủ bên trong vị trí, còn ta vì chưa có những vũ khí công đồn và vì chưa tìm ra cách đánh thích hợp nên cũng chưa có khả năng nhổ hẳn vị trí địch. Trạng thái nhập nhằng đó ta thì chỉ bao vây địch, còn địch thì cố thủ trong vị trí, không chịu đầu hàng ta, kéo dài từ cuối năm 1952 tới tháng 5-1953, khi mà bộ đội tỉnh tìm ra cách đánh rất có hiệu quả để tiêu diệt các vị trí địch có công sự vững chắc, như đêm 10-5-1953 tiêu diệt vị trí địch ở Bần Yên Phú quy mô cỡ tiểu đoàn, và đêm 20-6-1953 tiêu diệt vị trí Đào Viên là cấp quận hành chính ngụy ờ ngay trên đường 39 thuộc huyện Khoái Châu. Chiến thắng trên đã tạo được dư âm sâu sắc tới nhân dân và lãnh đạo huyện Khoái Châu. Theo sự gợi ý của Bí thư Huyện ủy, đồng chí Tống Đăng Bổn lúc đó là Huyện đội trưởng Khoái Châu tới gặp Tỉnh đội Hưng Yên nói lên nguyện vọng không chỉ đơn thuần bao vây vị trí địch, mà muốn tiêu diệt vị trí địch, mở rộng địa bàn kháng chiến, xin được bộ đội huyện học tập và phối hợp thực tế chiến đấu theo cách đánh mới này, lúc đó gọi là chiến thuật mật tập, "nở hoa trong lòng địch" hay gọi nôm na là chiến thuật "sờ địch”.


Tỉnh đội thấy bộ đội huyện Khoái Châu một lòng muốn thực hiện cách đánh "mật tập" này nên đã bố trí một trung đội huyện phối hợp với C27 của tỉnh đánh tiêu diệt bốt Phương Trù nằm trên đê sông Hồng. Cách phối hợp là trung đội huyện do đồng chí Nguyễn Đình Chức, Huyện đội phó chỉ huy. Trận này do đồng chí Đào Cơ tiểu đoàn phó tỉnh chỉ huy (Đào Cơ cũng có lúc làm Huyện đội phó huyện Khoái Châu); việc sử dụng máy điện thoại nói thầm để thống nhất chỉ huy các mũi là cái mới trong chiến thuật (máy điện thoại phải bỏ tất cả chuông ra ngoài, thông tin với nhau bằng cách nói thầm với nhau).


Đêm 10-7-1953 (1 tháng sau ta tiêu diệt vị trí Đào Viên) trong 15 phút ta đã diệt bốt Phương Trù, bắt nhiều tù binh, vũ khí thu được có một khẩu DKZ 57mm, sau này bắn trọng thương một ca nộ trên sông Hồng ngày 10-11-1953.


Sau hôm bốt Phương Trù bị diệt, bốt Vua Bơi đóng ở giữa huyện hoảng hốt bỏ chạy, địch đã chiếm đóng trở lại bốt Phương Trù, nhưng khu du kích được mở rộng ra các xã ở giữa huyện. Sau trận này, bộ đội huyện đã rút kinh nghiệm, bằng thực tế chiến đấu học tập phối hợp cách đánh “mật tập" của tỉnh.


Đêm ngày 15-8-1953, bộ đội huyện lúc đó gọi là C10 lại cùng với C25 và C27 của tỉnh tiêu diệt bốt Vân Trì nằm trên đường 39 là vị trí lớn, quy mô có một tiểu đoàn hỗn hợp gồm bộ binh, pháo binh, xe tăng, thiết giáp. Tỉnh đội đã tổ chức 3 mũi tiến đánh, trong đó có C10 (bộ đội Khoái Châu) đàm nhiệm mũi thứ 3 tự tổ chức trinh sát từ phía đông, vượt qua cầu Vân Trì đánh vào. Huyện đã giới thiệu em Đào Thị Liêm, 15 tuổi, làm phu bên trong vị trí địch, giúp cho bộ đội nắm rõ tình hình bố trí pháo, xe tăng, chỗ ở bọn lính địch.


Khi diễn biến chiến đấu, mũi của C10 (Khoái Châu) đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, đã vượt qua cầu diệt xe thiết giáp, bắt được nhiều tù binh, làm chủ trận địa. Ngày 16-8-1953, địch dùng xe tăng, có máy bay yểm trợ tới các xã như Phùng Hưng, Đại Quan, Liên Khê, Ngọc Nha thì bị du kích xã tiêu diệt một số. Bọn chúng phải mò mẫm mãi mới tới Vân Trì, thu dọn xác chết rồi rút bỏ hoàn toàn vị trí này, do đó khu du kích huyện lại được mở rộng. Trận này đã được Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh tuyên dương công trạng, tặng thưởng huân chương Quân công hạng ba cho các đơn vị tham gia.


Tiếp theo đêm 10-11-1953, vị trí Thiết Trụ lại bị tiêu diệt bằng "mật tập" lần thứ hai (lần I bị tiêu diệt bằng nội ứng tháng 1-1952 và sau trận "Lạc Đà", địch đã đóng lại vị trí này hồi 5-1953). Khi bao vây vị trí, C10 (Khoái Châu) đã "sờ" vào sát vị trí địch, nên lập công đầu thuộc về C10. Tỉnh đội đã sử dụng kết quả trinh sát của C10, hạ quyết tâm sử dụng C27 của tỉnh và C10 tiêu diệt vị trí này bằng "mật tập", trong đó C10 đảm nhiệm mũi diệt địch trên đê, còn C27 tiêu diệt địch ở bên trong đê.


Diễn biến chỉ có một tình huống xảy ra là mãi tới 4 giờ sáng mới nổ súng (theo kế hoạch 1 giờ sáng). Anh em C10 chiếm lĩnh trận địa từ trước 1 giờ, chờ đợi mãi, sinh ra sốt ruột lo lắng, nhưng sau nhờ có Tỉnh đội buộc một vài cán bộ còn do dự phải hạ lệnh xung phong, nên tuy có chậm nhưng vẫn thắng lợi trọn vẹn trong 15 phút. Từ đó, Thiết Trụ được giải phóng, địch không dám đóng trở lại.


Từ cuối năm 1951, quân dân huyện Khoái Châu về cơ bản nổi lên phá tan hệ thống tháp canh, hương đồn, mở rộng khu du kích.


Năm 1952, quân dân huyện đã thừa thắng làm địch vận nội ứng diệt vị trí Thiết Trụ và Lạc Thủy, đánh nhiều trận phục kích, chống càn quét, nhất là trong chống càn "Lạc Đà", tổ chức nuôi dưỡng thương bệnh binh của tỉnh ở các xã ngoại bối đê, đặc biệt đã bao vây vị trí địch, chia cắt bọn chúng ra từng mảnh.


Đặc biệt từ 6 tháng cuối năm 1953, bộ đội huyện Khoái Châu (lấy phiên hiệu là C32, sau là C10) đã nhạy bén nắm bắt chiến thuật "mật tập", đã cùng với bộ đội tỉnh tiêu diệt gọn 3 vị trí địch là Phương Trù (7-1953), Vân Trì (8-1953), Thiết Trụ lần 2 (11-1953), nếu tính thêm bộ đội tỉnh diệt vị trí Đào Viên (6-1953) và Nghi Xuyên (26-3-1954) như vậy trên địa bàn Khoái Châu đã có tổng cộng 5 vị trí địch bị tiêu diệt bằng phương pháp độc đáo "mật tập", thu nhiều vũ khí, bắt nhiều tù binh và làm chủ trận địa, mở rộng địa bàn kháng chiến. Đến khi đình chiến (7-1954), toàn huyện chỉ còn có vị trí Phương Trù địch chiếm đóng trở lại trên đê sông Hồng và vị trí hương dũng Cao Quán trên đường 39.


Điểm đặc sắc là C32 (tức C10) của Khoái Châu là đơn vị duy nhất trong số các huyện của tỉnh có cách đánh mật tập được thành thục có hiệu quả cao, trong 6 tháng đã diệt 3 vị trí, giành thắng lợi ròn rã.

LLVT huyện Khoái Châu xứng đáng với truyền thống đanh giặc của cha ông xưa, góp phần giành và giữ độc lập cho nước nhà.


Ghi chú: Tham khảo 2 bài của Đào Ngọc Quế: Trận tiêu diệt Thiết Trụ (lần thứ 2) ngày 8-11-1953 quyển ''Đường 5 anh dũng quật khởi" tập 1 tái bản lần 2 và bài Tiêu diệt bốt Vân Trì “Đường 5 anh dang quật khởi" tập 2 tái bản lần 1.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Mười, 2022, 07:55:24 pm
HAI LẦN ĐÁNH TÀU CHIẾN ĐỊCH TRÊN SÔNG HỒNG


Đại tá ĐÀO NGỌC QUẾ


Trung đội 20 phục kích đánh tàu địch trên bến sông thôn Lan Đình

Năm 1953, trên đê sông Hồng thuộc địa phận huyện Khoái Châu - Hưng Yên chỉ còn lại các bốt Thiết Trụ (đóng lần hai), Phương Trù (đóng lần hai) và Nghi Xuyên bảo vệ tuyến sông Hồng của địch. Hàng ngày, thường có một đoàn tàu chiến của địch hoạt động từ Hưng Yên lên Hà Nội, rồi lại từ Hà Nội về Hưng Yên làm nhiệm vụ bảo vệ dọc hai bờ sông Hồng.


Ban chỉ huy Tỉnh đội Hưng Yên giao cho đại đội 10 nghiên cứu phương án đánh tầu chiến của địch trên sông Hồng.

Đầu năm 1953, trung đội trưởng trung đội 20 Nguyễn Quang Từ trực tiếp nhận nhiệm vụ tổ chức chỉ huy trận đánh này từ ban chỉ huy đại đội 10. Anh đã chọn khúc sông thuộc địa phận thôn Lan Đình xã Nguyễn Huệ (Khoái Châu) làm nơi bố trí trận địa. Theo kế hoạch được duyệt, quân giới của Tỉnh đội làm một quả bộc phá 100kg có gắn kíp điện, dòng dây dẫn điện vào bờ sông dùng pin điện gây nổ. Có phao, khi thả xuống sông, quả bộc phá này chỉ nổi lưng chừng cách mặt nước khoảng 2m. Một tổ chiến sĩ bơi lặn giỏi được tuyển chọn trong trung đội, làm nhiệm vụ trinh sát dòng chảy, độ sâu của từng đoạn sông và nghiên cứu chỗ đặt bộc phá, dòng dây vào bờ chổ ngồi điểm hòa. Một bộ phận hỏa lực được phân công bắn chặn địch nếu chúng đổ bộ hoặc tử bốt Nghi Xuyên gần đó đi càn quét...


Ngay từ đêm, mọi công việc chuẩn bị cho trận đánh đã được triển khai. Trung đội trưởng Từ trực tiếp chỉ huy tổ điểm hỏa đánh địch. 4 giờ sáng, mọi công việc đã được hoàn tất. Các chiến sĩ bình tĩnh chờ tàu địch đến.

Vào khoảng gần 9 giờ, một đoàn tàu chiến của địch từ phía Hà Nội rẽ sóng lướt tới. Trung đội trưởng Từ ra lệnh cho các chiến sĩ nhằm vào chiếc tàu đi giữa chuẩn bị điểm hỏa. Khi con tàu lọt vào vị trí thả bộc phá, cũng là lúc bùng lên một tiếng nổ long trời. Trên các tàu chiến khác, quân địch hoảng loạn bắn các loại súng các cỡ, đạn bay rào rào sang hai bờ sông. Hỏa lực của ta cũng nhằm thẳng vào các tàu chiến địch nổ giòn giã. Chúng không dám đổ quân lên bờ, rồi chạy về hướng thị xã Hưng Yên.


Chiếc tàu chiến địch bị trúng bộc phá của ta chỉ bị hư hại nặng, nhưng một số lính ngồi ở trên boong bị chết tại chỗ. Những tên bị bộc phá hất xuống sông chết, mấy ngày sau xác nổi trôi lềnh bềnh phía hạ nguồn. Trận này, tuy ta không đánh chìm được tàu chiến của địch nhưng làm cho chúng rất hoảng sợ.


Chiến công đánh tàu địch của Trung đội 14 tại đền Chánh - Đa Hòa

Vận tải đường thủy trên tuyến sông Hồng có vị trí rất quan trọng của địch từ Nam Định đi Hưng Yên và Hà Nội. Vì vậy, sau trận đánh trên, các tàu chiến của địch vản phải hoạt động tiếp tục trên tuyến này. Song, đề phòng quân ta phục kích, chúng nghiên cứu thay đổi phương thức hoạt động trước đây bằng cách vài ngày mới tổ chức một đoàn tàu quân sự qua lại.


Trung đội 14, đại đội 10 lại được cấp trên giao nhiệm vụ nghiên cứu đánh tàu chiến địch lần thứ hai. Trung đội trưởng Đào Ngọc Quế và chính trị viên Nguyễn Quốc Thanh quán triệt quyết tâm đánh đến từng chiến sĩ trung đội. Trung đội 14 bố trí phục kích tại khu vực đền Chánh - Đa Hòa1 (Đền Chánh - Đa Hòa nay là xã Bình Minh, huyện Khoái Châu), xã Mễ Sở, huyện Khoái Châu. Một khẩu đội DKZ 57 ly của đơn vị trợ chiến Tỉnh đội phối hợp tác chiến do đồng chí Cường chỉ huy.


Vào một ngày tháng 10-1953, trung đội 14 triển khai chiến đấu với trang bị vũ khí gồm 2 khẩu đội trung liên, súng trường, tiểu liên đầy đủ. Đặc biệt, đề phòng quân địch từ các tàu chiến đổ bộ lên bờ, các chiến sĩ ta được trang bị khá nhiều lựu đạn, thủ pháo. Mờ sáng, trên hệ thống công sự đào dọc bờ sông Hồng, trung đội 14 đã trong tư thế sẵn sàng tiêu diệt địch.


Khoảng 9 giờ, một đoàn tàu chiến địch từ phía Hà Nội xuôi sông Hồng lọt vào trận địa bố trí của ta. Mệnh lệnh chiến đấu được phát ra. Các chiến sĩ khẩu đội DKZ đã bắn liền ba phát. Cùng lúc, từ các công sự, các cỡ súng của ta đồng loạt bắn thẳng vào các tàu chiến địch. Một tàu địch bị trúng đạn súng DKZ 57 ly vào đuôi tàu, một số lính địch ở trên các boong tàu bị diệt. Bọn chỉ huy các tàu chiến địch không dám cho quân đổ bộ mà hè nhau dắt tàu bị thương tăng tốc tháo chạy về hướng thị xã Hưng Yên...


Trận này, mặc dù không đánh chìm được tàu chiến địch vì súng DKZ 57 ly chỉ đủ sức làm hỏng tàu địch chứ không thể đánh chìm được, nhưng một lần nữa đã gây cho chúng nỗi sợ hãi kinh hoàng trước sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang ta. Với các chiến sĩ trung đội 14, đây cũng là một chiến công nhỏ góp vào sự nghiệp lớn kháng chiến chống Pháp giành thắng lợi.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Mười, 2022, 08:03:08 pm
NHỮNG TRẬN ĐÁNH HÓA TRANG XUNG QUANH BỐT VUA BƠI
(KHOÁI CHÂU)


Đại tá ĐÀO NGỌC QUẾ


1. Diệt Tây giữa chợ Phủ Khoái Châu

Năm 1952, các đồn hương dũng, tổng dũng của địch trên địa bàn huyện Khoái Châu (Hưng Yên) bị ta tiêu diệt. Các bốt lớn của chúng vẫn còn. Trong đó có bốt Vua Bơi nằm giữa phố Phủ Khoái Châu. Vì thế, các làng chung quanh bốt và phố Phủ vẫn còn trong cảnh làng tề do địch kiểm soát.


Giữa phố Phủ Khoái Châu có một cái chợ họp hàng ngày, gọi là chợ Phủ. Nhân dân quanh vùng thường ngày đi chợ mua bán rất đông. Bọn Tây và lính ngụy trong bốt cũng thường rủ nhau ra chợ ăn nhậu, mua bán, ve gái. Nhân dân rất căm ghét chúng, mong chờ bộ đội về diệt giặc.


Ban chỉ huy Huyện đội Khoái Châu đã giao nhiệm vụ cho trung đội 14 nghiên cứu hóa trang đánh địch trong chợ tạo điều kiện cho ta xây dựng cơ sở, bao vây, cô lập địch.

Nhận nhiệm vụ, đồng chí Nguyễn Khắc Phụng (tức Vũ Định), trung đội trưởng trung đội 14, đại đội 32, đã họp với lãnh đạo các xã Kim Ngưu, An Vĩ (nằm chung quanh phố phủ - Khoái Châu) bàn phương án phối hợp đánh địch. Hàng ngày, một số nam, nữ du kích cùng các chiến sĩ bộ đội cải trang như những người dân thường vào chợ Phủ mua bán, nắm tình hình địch hoạt động và báo cáo kịp thời về chỉ huy trung đội để quyết định phương án tác chiến phù hợp. Hầu hết bọn Tây và lính ngụy ra chợ Phủ; đều không mang vũ khí, vì chúng cho là địa bàn an toàn gần bốt.


Trung đội trưởng Phụng quyết định phương án hóa trang đánh địch ngay trong chợ Phủ. Vào một ngày tháng 2-1952, 5 nam nữ du kích cùng 5 bộ đội ăn mặc như mọi người dân, vào chợ mua sắm hàng hóa. (5 chiến sĩ B14 gồm có các đồng chí: Nguyễn Khắc Phụng, B trưởng; Trần Huy Nghĩa, Nguyễn Văn Bảng, Nguyễn Văn Đến, Nguyễn Văn Bát). Đồng chí Phụng mang súng ngắn. Đồng chí Bảng mang theo một tiểu liên "tuyn" giấu trong quang gánh của một nữ du kích cải trang. Còn lại, vũ khí của họ là đòn gánh. Mật hiệu được thống nhất: nếu có Tây thì gọi là "cá chép", có lính ngụy thì gọi là "cá mè". Tình hình đánh địch thuận lợi sẽ do chỉ huy trung đội đi từ phía làng An Vĩ vào chợ, quyết định...


Chỉ lát sau, một du kích ra thông báo mật hiệu: Có 1 "cá chép" đang trêu ghẹo phụ nữ ở giữa chợ! Trung đội trưởng Phụng ra lệnh cho toàn tổ đi nhanh vào chợ. Tên quan một Tây và cả mấy tên lính ngụy đang vây quanh chỗ mấy cô hàng xén. Rất bình tĩnh, đồng chí Phụng áp sát thằng Tây rút súng lục bắn liền ba phát. Lập tức, các chiến sĩ Bát, Đến cùng rút đòn gánh phang túi bụi vào thằng Tây. Anh chị em du kích thì lớn tiếng: "Việt Minh đánh bốt, bà con ơi!". Quang cảnh chợ tán loạn. Lúc này đồng chí Bảng đã lấy khẩu tiểu liên "tuyn" trong quang gánh nhưng không dám bắn, sợ vào bà con trong chợ. Anh quay lại dùng báng súng đánh tiếp, thằng Tây ngã lăn đang kêu rống. Mấy thằng lính ngụy hoảng sợ, vứt hết cả hàng hóa chạy tháo thân. Một tên đội ngụy nhảy qua mấy gánh rau, lao xuống thửa ruộng gần đấy. Đồng chí Nghĩa vội đuổi theo, dùng đòn gánh đánh trúng đầu tên địch. Nó ngã quy. Anh băng đến, nhưng nó vùng ngay dậy đánh trả. Mặc dù tên đội ngụy to khỏe hơn, nhưng với lòng căm thù giặc, anh Nghĩa đã vật ngã và ghì nó nằm úp xuống đất. Anh đánh tiếp đến khi tên này không chống cự được anh mới chịu rút ra cánh đồng. Gặp một ông lão chăn vịt đưa cho anh chiếc nón và cái gậy, anh ngụy trang làm người chăn vịt rồi băng qua cánh đồng tìm về đơn vị. Trong lúc trung đội trưởng Phụng cho người đi tìm Nghĩa thì anh xuất hiện. Mọi người mừng rỡ ôm lấy anh sung sướng. Nhìn thấy trên đầu anh rớm máu, một chiến sĩ kêu lên: "Ôi! Anh Nghĩa bị thương rồi!". Thì ra trong lúc quần nhau với tên đội ngụy, anh đã bị nó đánh vào đầu bị thương.


Kết quả trận hóa trang đánh địch này, ta diệt 1 quan một Tây và 1 tên đội ngụy. Bên ta chỉ có đồng chí Nghĩa bị thương nhẹ. Cũng từ đó, bọn địch ở bốt Vua Bơi mỗi khi ra chợ Phủ Khoái Châu đều phải bố trí lực lượng bảo vệ, không chủ quan như trước.


Đồng chí Dũng (Xược), Huyện đội trưởng Khoái Châu, đã làm bài thơ tặng các chiến sĩ tham gia trận đánh, như sau:

   Một ngày chợ Phú
   Cổng bốt Vua Bơi
   Tây - ngụy ra chơi
   Ngang nhiên ve gái
   Một đoàn bộ đội
   Du kích hóa trang
   Đàng hoàng vào chợ
   Thằng Tây mặt đó
   Ve gái giữa đường
   Vũ Định chặn đường
   Bắn luôn ba phát    
   A trưởng là Bát
   Đòn gánh phang liền
   Anh Bảng tiến lên
   Nện luôn báng súng
   Anh Đến đòn ống
   Cùng đánh vào đầu
   Tên giặc vỡ đầu
   Ngã lăn giãy chết
   Một thằng đội sếp
   Vội chạy tháo thân
   Anh Nghĩa quyết tâm
   Một mình bắt giặc
   Giết chết kẻ thù
   Du kích hô to
   Việt Minh phá bốt
   Cả chợ hỗn độn
   Kêu thét vang trời
   Quân ta rút lui
   An toàn tuyệt đối
   Nhân dân phấn khởi
   Đón mừng bộ đội
   Chiến thắng trở về
   Giữ vững lời thề
   Quyết tâm giết giặc.



Ghi chú:

* Vũ Định là bí danh của đồng chi Nguyễn Khắc Phụng, B trưởng B14. Quê anh ở Cốc Phong, Khoái Châu. Sau này, anh đã hy sinh trong cuộc chiến đấu chống Mỹ ở miền Nam.

* Anh Bảng quê ở Đa Hòa, Khoái Châu (đã từ trần).

* Anh Bất quê ở Yên Cảnh Hạ, Khoái Châu. Anh hy sinh trong kháng chiến chống Pháp khi bao vây bốt Thiết Trụ năm 1952.

* Anh Nghĩa hiện nghỉ hưu ở Mễ Sở - Văn Giang.

* Anh Đến quê ở ấp Cự Hiên, xã Kim Ngưu, Khoái Châu; hiện nay ở Thọ Sơn, Lục Nam, Bắc Giang.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Mười, 2022, 08:04:05 pm
2. Tên đội ngụy đền tội trong làng An Vĩ

Sau trận phối hợp hóa trang đánh địch thắng lợi trên, bọn giặc ở bốt Vua Bơi đã tăng cường củng cố hệ thống phòng nhì, chỉ điểm. Một thời gian sau, thấy không có chuyện gì xảy ra, chúng lại chủ quan. Một số lính ngụy trong bốt mon men ra các làng tề chung quanh ăn nhậu, ve gái...


Đồng chí Nguyễn Minh Chức, bí thư chi bộ xã An Vĩ, đề nghị lực lượng bộ đội huyện Khoái Châu phối hợp với du kích địa phương tiêu diệt bọn này. Trung đội 14 lại được trên giao nhiệm vụ về An Vĩ cùng lãnh đạo địa phương nghiên cứu phương án đánh địch.


Hàng ngày, bọn lính ở bốt Vua Bơi thường kéo nhau vào làng An Vĩ, tụ tập ở một vài quán giải khát ăn uống, tán mấy cô gái bán hàng. Chúng đi thành từng nhóm dăm, ba tên; cũng có khi cả chục tên vào quán xả láng. (Chúng thường đi người không, chỉ khi nào hành quân vây quét mới mang theo vũ khí). Trinh sát báo cáo về chỉ huy trung đội. Các đồng chí Đào Ngọc Quế B trưởng và Dương Hữu Lộ chính trị viên B chỉ huy trung đội 14, quyết định sử dụng một lực lượng nhỏ cải trang như bọn lính ngụy, vào làng An Vĩ đánh địch. Sau khi thống nhất mật khẩu, ám hiệu, các chiến sĩ đểu thể hiện quyết tâm chiến đấu cao.


Vào một ngày tháng 10-1952, chỉ huy trung đội quyết định, triển khai đánh địch. Du kích xà An Vũ do đồng chí Chúc phụ trách được phân công nắm tình hình địch hoạt động trong làng, nhất là nơi có các quán hàng mà bọn lính ngụy thường tụ tập. Đi cùng tổ bộ đội chiến đấu là một du kích làm nhiệm vụ dẫn đường.


Một du kích cải trang làm người câu cá, làm nhiệm vụ quan sát địch tình. Đồng chí Quế, đồng chí Chúc chỉ huy trận đánh củng lực lượng chiến đấu nằm ém trong một nhà dân ngoài cánh đồng. Từ đây, các anh có thể quan sát được người du kích câu cá làm ám hiệu để có thể ra lệnh xuất kích nhanh chóng.


Khoảng 9 giờ, người du kích câu cá làm ám hiệu có một số lính ngụy vào làng. Lập tức chỉ huy ra lệnh, đồng chí Quyết, tiểu đội trưởng (quê ở Tân Dân) trong trang phục lính ngụy đeo lon cai, cùng 5 chiến sĩ cải trang là lính ngụy, theo sát một du kích dẫn đường vào làng An Vĩ. Vừa đến quán nước giữa làng, các anh thấy có hai tên lính ngụy đang ngồi uống nước. Chúng phát hiện ra ta, liền vội vàng bỏ chạy. Tiểu đội trưởng Quyết cùng đồng đội đuổi theo, nổ luôn một tràng tiểu liên làm một tên ngã gục, còn tên kia sợ hãi giơ tay rối rít xin hàng. Các chiến sĩ ta giải tên này về căn cứ. Nó khai tên là Đôn, quê ở thị xã Hưng Yên, hôm nay tên đội rủ đi chơi thì bị bắt.


Thấy quân ta nổ súng ở làng An Vĩ, bọn địch ở bốt Vua Bơi vội vàng huy động lực lượng chia làm hai mũi lên bao vây. Nhưng lúc này quân ta đã rút lui an toàn, thu 1 quả lựu đạn và dao găm. Bọn địch phải gọi trực thăng đưa tên đội bị thương nặng về Hà Nội cấp cứu, nhưng trên đường đi tên này đã chết.


Thế là sau hai trận đánh hóa trang của quân ta, lính ngụy ở bốt Vua Bơi không còn dám đi lại nghênh ngang như trước. Phong trào du kích các xã An Vĩ, Kim Ngưu qua đó cũng hoạt động mạnh, khống chế tiến tới bao vây cô lập địch trong bốt Vua Bơi. Trước tình thế nguy khốn khi quân ta tiêu diệt bốt Phương Trù ngày 10-7-1953 thì địch ở bốt Vua Bơi cũng phải cho quân rút chạy về bốt Lực Điền. Và chỉ một ngậy sau, nhân dân các xã chung quanh bốt Vua Bơi đã nổi dậy san phẳng bốt này. Như vậy, toàn bộ khu trung tâm huyện Khoái Châu không còn đồn bốt địch và trở thành một khu du kích mạnh.


Ghi chú:

- C10, C32 là tên cùng một đơn vị của bộ đội địa phương Khoái Châu thời chống Pháp.

- Đồng chí Quyết đã hy sinh trong trận diệt bốt Phương Trù 10-7-1953.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Mười, 2022, 08:10:35 pm
CHUYẾN “ĐỐI NGOẠI” ĐẶC BIỆT CỦA CHÚ LIÊN LẠC
HUYỆN ĐỘI KHOÁI CHÂU


Đại tá ĐÀO NGỌC QUẾ



Năm 1952, phần lớn các đồn bốt giặc trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đã bị bộ đội ta tiêu diệt. Trên đê sông Hồng và đường 39 chỉ còn lại một số đồn bốt. Song chúng thường xuyên bị bộ đội và dân quân du kích tấn công, bao vây chặt.


Vào một ngày tháng 8 năm 1952, một tốp máy bay Hen-cát của địch đi bắn phá một số khu vực phía nam tỉnh Hưng Yên. Thì một chiếc khu trục bị trúng đạn bốc cháy, lao về đến xã Tân Châu (huyện Khoái Châu) thì rơi xuống cánh đồng ngô khu ngoại bối. Tên giặc lái vội nhảy dù thoát chết. Tiếng hò reo bắt giặc lái của dân quân du kích và nhân dân địa phương:

- Máy bay địch rơi rồi! Mau bắt giặc lái nhảy dù...!

- Bắt sống, đừng để nó trốn thoát!...

Nơi tên giặc lái nhảy dù xuống chỉ cách bốt Phương Trù chừng 1km đường chim bay. Tên đồn trưởng bốt Phương Trù vừa nhận được điện của cấp trên, đã vội vàng trực tiếp chỉ huy một trung đội lính ngụy đến ứng cứu. Khi chúng đến nơi, hiện trường chi còn lại những đám cháy mảnh xác máy bay nằm rải rác. Lúc này, tại trụ sở chỉ huy của Huyện đội Khoái Châu, tên giặc lái bị thương dã được dân quân du kích đưa về cứu chữa. Một cán bộ địch vận giỏi tiếng Pháp là đồng chí Nguyễn Văn Trung (quê thôn Đa Hòa, xã Mễ Sở)* (Nay là xã Bình Minh, huyện Khoái Châu) phối hợp với Huyện đội Khoái Châu lấy lời khai của tên giặc lái. Y khai tên là Jean Fabert, quốc tịch Pháp, cấp bậc đại úy lái máy bay thuộc lực lượng không quân Pháp. Y tỏ thái độ hối hận về những tội ác mà y và đồng bọn đã gây ra đối với nhân dân ta, đồng thời rất cảm động và vô cùng biết ơn các chiến sĩ ta băng bổ vết thương và đối xử khoan hồng, nhân đạo. Jean Fabert cho biết, viên đại úy sếp bốt Phương Trù người Pháp là bạn thân của y, yêu cầu ta cho phép y viết thư cho viên sếp bốt để báo tin cho đồng đội và gia đình ở Pháp, rằng mình còn sống và được đối xử tử tế. Được sự chỉ đạo của cấp trên, Huyện đội Khoái Châu, cùng cơ quan địch vận cho phép Jean Fabert viết thư cho viên sếp bốt Phương Trù, coi đây là dịp tuyên truyền binh vận để địch hiểụ rõ lòng nhân đạo của chúng ta đối với tù hàng binh. Hôm sau, Jean Fabert đã thảo xong bức thư. Đồng chí Nguyễn Văn Trung dịch bức thư sang tiếng Việt. Lời lẽ khiêm tốn, Jean Fabert thông tin cho người thân và bạn bè về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, về lòng nhân đạo cao cả của bộ đội và du kích Việt Nam đối với y. Jean Fabert mong muốn mọi người thân hãy yên tâm chờ đợi ngày y trở về đoạn tụ sau khi chiến tranh kết thúc.


Các đồng chí Huyện đội Khoái Châu phân vân chưa biết chọn ai đưa vào bốt Phương Trù cho viên sếp bốt. Chuyện tưởng như đơn giản song lại rất phức tạp, bởi người đưa thư được coi như một... "nhà ngoại giao" đại diện cho Việt Minh huyện Khoái Châu được cử đến để "giải quyết công việc" với viên sếp bốt. Cân nhắc mãi, Ban chỉ huy Huyện đội Khoái Châu mới quyết định giao nhiệm vụ này cho Phạm Văn Phúc, một liên lạc viên tuổi đời vừa tròn 15. Tuy còn rất trẻ nhưng Phúc đã tỏ ra là một liên lạc có bản lĩnh, thông minh, mưu trí vả dũng cảm, nhiều lần hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong hoàn cảnh khó khăn. Các đồng chí Huyện đội gặp Phạm Văn Phúc động viên:

- Tên sếp bốt Phương Trù rất cáo già. Nhưng lãnh đạo tin vào lòng trung thành và tính kiên nhẫn, tháo vát của em!...

Chú liên lạc Phạm Văn Phúc chân thành nói:

- Em xin hứa làm tròn nhiệm vụ, dù có phải hy sinh!...

Huyện đội Khoái Châu chuẩn bị cho Phúc nhiều tình huống đối thoại phức tạp với viên sếp bốt Phương Trù. Trong khi ấy, ta cũng nhận được một bức thư của viên sếp bồt Phương Trù gửi cho "Chỉ huy bộ đội Việt Minh huyện Khoái Châu" với nội dung đại ý: Vì lòng nhân đạo cao cả, xin cho hắn biết tình hình về tên tù binh phi công Jean Fabert để hắn thông báo cho cấp trên và gia đình, y ở Pháp biết. Chỉ huy Huyện đội Khoái Châu đã viết thư trả lời viên sếp bốt Phương Trù đồng ý yêu cầu đề nghị của họ, đồng thời cùng yêu cầu họ phải bảo đảm an toàn cho người đưa thư và không được cho lính càn quét các vùng chung quanh. Hôm Phạm Văn Phúc lên đường, chú mặc một bộ quan áo màu gụ còn mới, đầu đội chiếc mũ be-rê, cổ quấn chiếc khăn bông trắng; bên vai đeo chiếc túi công văn trong có bức thư của Jean Fabert kèm giấy ủy nhiệm và thư trả lời của Ban chỉ huy Huyện đội Khoái Châu cùng một vài số báo Cứu Quốc xuất bản gần nhất và tập truyền đơn có ảnh Bác Hồ. Nhằm hướng bốt Phương Trù, chú từ phía làng Đông Kết băng qua con đê làng Mạn Xuyên, bình tĩnh rảo bước. Khi đến gần cổng bốt, bỗng một tràng súng liên thanh của địch bắn ra uy hiếp. Phạm Văn Phúc bèn dừng lại, chụm hai tay lên miệng làm loa, nói to:

- Tôi là liên lạc của Việt Minh đem thư vào cho ông sếp bốt đây!...

Nói xong, chú giơ tay lên cao vẫy và đi nhanh về phía cổng bốt. Một bầy lính ngụy, súng nhăm nhăm trong tay hướng về chú liên lạc. Một tên hô: "Đứng lại!" rồi chạy tới kiểm tra giấy tờ, vũ khí. Thấy chú liên lạc của Việt Minh chỉ đi người không, chúng dẫn Phúc vào vọng gác ngồi chờ rồi điện ngay cho viên sếp bốt. Mấy tên lính bu quanh chú liên lạc hòi thăm đủ thứ chuyện ờ vùng kháng chiến. Lợi dụng tình hình ấy; Phạm Văn Phúc rút mấy tờ báo Cứu Quốc và truyền đơn đưa cho chúng xem rồi tranh thủ kể chuyện sự lớn mạnh của Việt Minh và đời sống của dân vùng kháng chiến. Tên nào tên nấy cứ dỏng tai ra mà nghe.


Chừng nửa giờ sau, viên sếp bốt đi ra, cùng đi có chừng mươi tên lính bảo vệ. Thấy người đại diện của Việt Minh là một chú liên lạc lanh lẹn, viên quan ba sếp bốt giơ tay lên vành mũ kê-pi chào theo kiểu nhà binh một cách lịch sự. Không một chút lúng túng, Phạm Văn Phúc cũng chào lại bằng một câu tiếng Việt:

- Xin chào ông sếp bốt!...

Viên sếp bốt bắt tay Phúc rồi mời chú cùng đi về khu nhà khách. Cùng tiếp chú còn có một viên thông ngôn người Việt. Viên sếp bốt ra hiệu cho tên lính hầu nhận giấy ủy nhiệm kèm thư của Ban chỉ huy Huyện đội Khoái Châu và thư của viên phi công Jean Fabert từ tay chú liên lạc. Một tên lính hầu khác rót rượu và bày bánh kẹo mời khách. Chú nói với người thỏng ngôn rằng mình không biết uống rượu, chỉ ăn chút bánh kẹo đáp lễ. Viên quan ba sếp bốt xem xong thư, rồi trao đổi với người thông ngôn bằng tiếng Pháp.    Người thông ngôn nói lại với chú liên lạc:

- Ông sếp bốt rất cảm ơn các ngài Việt Minh đã hết lòng nhân đạo cứu sống viên phi công là bạn của ông ta. Ông sếp có nhã ý mời khách ăn bữa cơm trưa và chờ nhận thư phức đáp.

Phạm Văn Phúc ngỏ lời cảm ơn, chỉ xin ngồi chờ nhận thư phúc đáp của viên sếp bốt.

Chiều hôm ấy, viên quan ba sếp bốt Phương Trù chuyển cho Phạm Văn Phúc bức thư gửi cho viên phi công Jean Fabert. Ông ta biểu thị lòng cảm phục người đại diện Việt Minh nhỏ tuổi, thông minh, đĩnh đạc. Viên sếp bốt cùng người thông ngôn tiễn chú liên lạc ra tận cổng gác trên đê. Ông ta thân mật bắt tay chú, miệng nở nụ cười rồi nói một câu tiếng Việt chưa sõi: "Cảm ơn ngài liên lạc Việt Minh nhỏ tuổi!". Phạm Văn Phúc cũng mỉm cười, giơ tay chào từ biệt rồi đàng hoàng rảo bước trên con đường đê về đơn vị.


Tại cơ quan Huyện đội Khoái Châu, Phạm Văn Phúc đã báo cáo kết quả chuyến đi "đối ngoại" của mình với các đồng chí lãnh đạo Huyện đội, đồng thời chuyển bức thư của viên quan ba sếp bốt Phương Trù gửi viên phi công Jean Fabert cùng thư gửi “ông chỉ huy trưởng Việt Minh huyện Khoái Châu". Đồng chí Nguyễn Văn Trung lại làm nhiệm vụ dịch nội dung hai bức thư đó sang tiếng Việt. Ai nấy đều ghi nhận kết quả chuyến đi của chú liên lạc và cùng nói vui rằng: Đây là thắng lợi có ý nghĩa của cuộc "đối ngoại” đầu tiên của Huyện đội Khoái Châu!


Về sau, Phạm Văn Phúc còn có một vài lần chuyển thư của Huyện đội Khoái Châu cho viên sếp bốt Phương Trù. Cũng từ đó, người ta thấy lính ở bốt này không đi càn quét các làng chung quanh nữa...

Những hình ảnh một thời chiến đấu của thế hệ cha anh ngày ấy, giờ đây vẫn được người đương thời tôn vinh, nhắc nhở. Hơn 50 năm qua, chú liên lạc Phạm Văn Phúc của Huyện đội Khoái Châu năm nào, nay đã trở thành một ông già ở tuổi xưa nay hiếm, ông quê ở xã Phú Nham, nay đã nghỉ hưu, cùng gia đình về ở thôn Đông Tảo nam, xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu - Hưng Yên. Và mỗi khi có dịp, câu chuyện làm công tác ”đối ngoại" năm nào của ông vẫn được kể lại một cách say sưa, hấp dẫn.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Mười, 2022, 08:16:32 pm
TRẬN ĐÁNH ĐỊCH TẠI THÔN UYỂN - KHOÁI CHÂU


ĐÀO DOÃN ÚC
(Chiến sĩ B60, C32
nay ở thôn Xuân Đình xã Hàm Tử,
Huyện đội Khoái Châu)


Địch đóng bốt Nghi Xuyên sát sông Hồng thuộc xã Trí Tân huyện Khoái Châu (Hưng Yên). Chúng thường mở các trận càn để xua giãn lực lượng ta; chúng thường bắt cán bộ, bộ đội, nhân dân ta đem đi bắn ở bờ sông tại bốt Nghi Xuyên.


Tháng 10-1952, ban chỉ huy Huyện đội Khoái Châu ra lệnh cho B60, C32 và du kích các xã khu nam huyện Khoái Châu bao vây vị trí Nghi Xuyên. Bộ đội và du kích đào công sự xung quanh bốt, xiết chặt vòng vây, bắn tỉa lính địch. Chúng bị thiếu thốn về lương thực, phải tiếp tế bằng máy bay và ca-nô, tàu chiến. Địch được sự yểm trợ của máy bay, chúng liều mạng càn vào rặng nhãn xã Trí Tân. Bộ đội B60 bố trí tại thôn Uyển đánh trả quyết liệt, chúng buộc phải tháo chạy về bốt. Ban chỉ huy trung đội đã giao cho tôi nhiệm vụ theo dõi tình hình địch. Tôi đã cải trang ra bờ rào sát bốt, nghe thấy binh lính địch sẽ tung biệt kích vào xã Thuần Hưng. Tồi đã kịp thời về báo cáo với Ban chỉ huy rằng địch sẽ địch theo con đường Uyển, nên bộ đội B60, C32 đã dàn trận địa vào đêm 9-11-1952. 10 giờ sáng ngày 10-11-1952 địch từ bốt Nghi Xuyên tiến quân vào làng, lọt trận địa ta. Ban chỉ huy trung đội ra lệnh nổ súng, địch bị đánh bất ngờ, hoảng sợ chạy tán loạn. Bộ đội bị thương một số, ban đêm, bộ đội được lệnh rút. Sáng ngày 11-11-1952, chúng huy động máy bay, đại bác bắn phá dữ dội, chúng lại liều mạng càn vào thôn Uyển để thu xác đồng bọn nhưng bộ đội ta đã rút sang làng bên. Theo tin dân và binh lính trong bốt nói, chúng đã bị chết và thương 40 tên.


Hôm khác chúng lại mò ra khỏi bốt, cướp của bà Tám 3 con bò chăn ở bờ đê. Tôi và đồng chí Nguyễn Hữu Chỉnh, du kích xã Nhuế Dương đã chiến đấu buộc chúng phải chạy về bốt nên gia đình bà Tám đã lấy lại 3 con bò. Ta lại tiếp tục bao vây vị trí làm cho bọn địch rất nguy khốn về lương thực, không dám đi càn vào các xã, thôn gần đó.


Năm 1953, ngày 26-3, tiểu đoàn 54 của bộ đội tỉnh đã đánh tiêu diệt bốt Nghi Xuyên, giải phóng cho các xã khu nam huyện Khoái Châu an tâm sản xuất cho tới ngày đình chiến.


Nhưng từ, sau khi ta chiến thắng tại Điện Biên Phủ, trong lúc giãy chết, ngày 6-6-1954 tàu chiến địch trên sông Hồng bắn vào khu vực dân công đang đắp đê Nghi Xuyên. Ngày 16-6-1954, máy bay địch lại ném 24 quả bom làm đứt 3 đoạn đê Nghi Xuyên, rạn nứt 230m đê, làm chết 17 người bị thương 30 dân cộng đang đắp sửa đê.


Mặc dù vậy, nhân dân vẫn kiên cường tổ chức đắp đê được an toàn, không để xảy ra lũ lụt cho tới ngày nay năm 2003.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Mười, 2022, 08:17:48 pm
TRẬN ĐÁNH CÀN TẠI AN CẢNH HẠ XÃ BÌNH KIỀU


ĐÀO DOÃN ÚC


Bốt Thiết Trụ thuộc xã Bình Minh án ngữ miền bắc huyện Khoái Châu và huyện Văn Giang, trước có quận hành chính, có tên quận trưởng là Giáp Văn Phúc, cùng tên Đinh Văn Lực khét tiếng gian ác, thường đem quân đi vây càn, phá cơ sở, bắt và giết cán bộ và một số dân, gây nhiều tội ác man rợ. Cuối năm 1951, bộ đội đã đánh bốt Thiết Trụ, phá tan các bốt hương đồn, tháp canh từ huyện Văn Giang tới Khoái Châu, mở thành một khu du kích liên hoàn rộng lớn.


Sau đó, trong trận càn Lạc Đà, tháng 5-1952 chúng tái chiếm lại bốt Thiết Trụ để bảo vệ vành đai Hà Nội và sân bay Gia Lâm. Bộ đội và du kích lập tức bao vây vị trí này làm cho binh lính địch vô cùng hoang mang, lo sợ.

Ngày 7-10-1952, bọn chúng từ khu quân sự Hải Dương (Zone Hai Duong) có phi pháo yểm trợ đến giải vây cho bốt Thiết Trụ. Địch đã từ bốt Lực Điền huyện Yên Mỹ chia làm nhiều mũi tiến quân đến thôn An Cảnh Hạ xã Vĩnh Long (nay là xã Bình Kiều) thì bị bộ đội C27 của Tỉnh đội Hưng Yên và B60 Huyện đội Khoái Châu chặn đánh nổ súng ngay loạt đạn đầu, đánh trúng vào chỉ huy địch làm cho bọn lính lúc này như rắn không đầu, hoang mang hoảng sợ, tên nào tên nấy bỏ chạy, có những tên vì sợ quá chui vào đống rạ, rơm giơ tay xin hàng. Kết quả ta đã bắt sống được 32 tên, không kể những tên bị chết , và bị thương bỏ xác tại trận. Âm mưu của địch định cất vó ta và giải vây cho bốt Thiết Trụ bị thất bại.


Bộ đội và du kích vẫn tiếp tục bao vây chặt chẽ bốt Thiết Trụ. Chiến sĩ C32 huyện Khoái Châu trong khi bao vây đã mò vào sát hàng rào, ụ súng của địch, tạo điều kiện tốt cho C27 thuộc Tỉnh đội Hưng Yên phối hợp với đơn vị C32 thuộc Huyện đội Khoái Châu đã dùng chiến thuật mật tập tiêu diệt bốt này vào đêm 8-11-1953.


Ghi chú: Xin xem bài "Trận tiêu diệt bốt Thiết Trụ (lần thứ 2) ngày 8-11-1953" của Đào Ngọc Quế tại tập 1 sách "Đường 5 anh dũng quật khởi" tái bản trang 97 - trang 100.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Mười, 2022, 08:18:56 pm
CUỘC CHIẾN ĐẤU KHÔNG CÂN SỨC


VĂN TÂN
(Cán bộ quê xã Đại Tập, đơn vị Anh hùng)


Ngày 31-5-1948, địch tung binh đoàn Sô-va-nhắc (Sovagnac) gồm 3000 quân, có phi pháo yểm hộ, thọc sâu vào vùng tự do phía nam tỉnh Hưng Yên thuộc các huyện Khoái Cháu, bắc Kim Động và trung Ân Thi. Cuộc hành quân lớn và sâu sắc của địch với nhiều tham vọng:

- Tiêu diệt trung đoàn chủ lực của Liên khu 3 đang đóng trên địa bàn Hưng Yên.

- Tiêu diệt các đơn vị của tỉnh và các huyện ở vùng tranh chấp, diệt cơ quan đầu não tỉnh Hưng Yên.

- Phá sự chuẩn bị kháng chiến ở vùng tranh chấp, giải tỏa sức ép đối với vùng tạm chiếm.

Đường 39 bị ta phá hoại, địch tiến quân rất chậm chạp, nhưng suốt đoạn đường từ Lực Điền qua Bô Thời tới Trương Xá, ta cũng không tổ chức được trận đánh nào, mãi tới khi cánh quân địch tới Cầu Đìa mới bị ta đánh. Địch thọc sâu xuống phố Cầu Ngọc (Ân Thi) dừng quân tại đây. Chúng thực hiện chiến thuật "mai rùa", ban ngày hành quân đi càn quét rộng ra các vùng xung quanh, tối đến chúng lại rút về đóng chốt ở Cầu Ngọc. Sau 3 ngày chúng thọc xuống chợ Thi, thuộc xã Hồng Quang. Trung đoản 64 đã tổ chức trận đánh lớn, quần lộn với địch từ cầu Thi, chợ Thi và phố Thi, diệt gần 300 tên, buộc địch phải chấm dứt cuộc hành quân và rút theo đường 39. Trên đường rút lui, chứng có 2 máy bay khu trục bắn dọc theo hai bên đường và bay lượn trên đường rút. Chúng cho mìn giật đổ 3 cột điện cao thế ở đoạn đường từ Trương Xá lên "Giếng Vàng” thuộc xã Hồng Tiến (Khoái Châu) và cho máy bay hạ cánh xuống đường 39 lấy xác và thương binh của chúng.


Cuộc hành quân lớn này không đạt được mục tiêu lả tiêu diệt trung đoàn chủ lực của ta. Tuy chúng có càn quét vào khu vực có cơ quan đầu não của tỉnh, nhưng nhờ có sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh, các cơ quan và nhàn dân đã phân tán kịp thời và được bảo vệ an toàn. (Lúc này, đồng chí Nguyễn Khai, Thường vụ Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch ủy ban kháng chiến tỉnh, đồng chí Phạm Quốc Dân làm Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh).


Sau khi địch rút quân, nhân dịp kỷ niệm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2-9 năm ấy, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến - hành chính tỉnh Hưng Yên tổ chức mít tinh tại Đền Xá xã Trần Phú (Ân Thi) vào buổi tối, tập trung tất cả cán bộ, nhân viên các cơ quan, ban ngành xung quanh tỉnh vả các gia đình có cơ quan, bộ đội đóng quân gần đó tới dự. Sau kết thúc mít tinh, các gia đình được mời ở lại liên hoan mặn với cán bộ, nhân viên có mặt tối hôm đó.


Tôi còn nhớ cái đèn thắp bằng dầu lửa của Nhật Bản, kết cấu bấc đèn lộn ngược như đèn điện, đèn của một người dân ở làng Tè, Cốc (Kim Động) đem đến phục vụ mít tinh, tác dụng ánh sáng ngang với đèn "măng sông".


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Mười, 2022, 08:24:43 pm
C. CÁC BÀI VIẾT VỀ TỈNH HẢI DƯƠNG

KẺ SẶT QUÊ TÔI

PHẠM VĂN QUÝ


Lời B.B.T: Ông Phạm Vân Quý quê ở xã Tráng Liệt (Kẻ Sặt) huyện Bình Giang có sưu tầm và biên soạn một số sự kiện và mẩu chuyện lịch sử trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Chúng tôi xin trích đăng một số bài của ông Phạm Vãn Quý.


Phá kho thóc Nhật

Khoảng 12h trưa hôm ấy vảo trung tuần tháng 7-1945. Tuy trời đã sang thu nhưng vẫn còn rớt lại cái nắng cuối hè vào buổi trưa làm cho cái nóng vẫn còn hầm hập. Đường làng ngõ xóm đang lắng chìm trong cái oi bức. Nước sồng Sặt đầu nguồn vẫn còn cao đổ về dâng bởi những cơn mưa lớn. Song có những chiếc thuyền đinh vẫn vào bến bốc hàng lên xuống. Lúc này dân Sặt đã có ai đấy mơ màng trong giấc ngủ ban trưa, và còn nhiều người bàng hoàng sợ hãi sau cái nạn chết đói tháng 3-1945 vừa qua vì nó cướp đi hàng triệu sinh linh người Việt Nam. Nhưng đối với Kẻ Sặt của chúng ta, người dân còn có tình thương yêu lá lành đùm lá rách, nên đã phần nào cứu được nhau trong cơn đói khát khủng khiếp hiểm nghèo do phát xít Nhật gây nên. Nhưng không đủ sức cứu hàng ngàn người tụ tập về chợ Sặt. Những người đó đa số là dân Thái Bình vả Hà Nam, vì họ cũng bị áp bức bóc lột, bị đàn áp dưới roi da, gông cùm xiềng xích của phát xít, thực dân, cùng bọn phong kiến tay sai. Nên họ đã phải kéo nhau đi tha phương cầu thực, hành khất khắp mọi nơi. Nhưng dù ở đâu thì cảnh đói khổ năm 1945 chẳng khác gì, vì Tổ quốc đang bị thực dân, phát xít xâu xé, khắp nơi nhân dân đều bị áp bức bóc lột cả. Chợ Sặt và làng Sặt cứ mỗi ngày người hành khất khắp nơi đến càng tăng lên. Tuy là chợ lớn, làng lớn nhưng sức chứa chỉ có hạn, việc cứu tế cũng có mức độ của các nhà hảo tâm. Vì thế số người kéo đến càng đông thì số người chết đói lại càng tăng. Từ lác đác một vài xác chết, rồi con số xác chết ngày một tăng lên cấp số nhân. Nếu cộng lại đã có hàng ngàn người chết đói ở tại Kẻ Sặt. Tuy làng Sặt không chết đói nhưng do ảnh hưởng của môi trường nên cũng có hàng ngàn người chết vì bệnh dịch sốt địch kỳ sau tháng 3 năm 1945.


Tuy vụ lúa chiêm năm 1945 có thu hoạch được nhưng bị bọn phát xít Nhật và tay sai ra sức thu gom nhập kho gọi là đóng thuế liên đoàn. Khi kho đã đầy đủ thì chúng dùng xe, thuyền chuyển đi nơi khác đốt thóc lấy than làm gì đó. Trước cảnh tượng áp bức bóc lột tàn nhẫn của phát xít Nhật và bọn tay sai, nhân dân Kẻ Sặt cùng chung lòng nung nấu hờn căm với nhân dân cả nước. Đồng thời vào thời điểm này Kẻ Sặt đã có ánh sáng của cách mạng soi tới lòng dân Sặt, do đó đã có người dám đứng lên hô hào nhân dân đấu tranh cướp thóc gạo của giặc đã thu gom.


Như trên tôi đã kể, giữa trưa đầu mùa thu đang tĩnh mịch, không khí thì ngột ngạt bao trùm lên cả làng quê. Bỗng tiếng trống cửu liên ở điếm tuần khu Hạ nổi lên dồn dập làm tan đi giấc mơ màng yên tĩnh của mọi nhà. Tiếp đó là tiếng hò reo la hét ầm làng và tiếng hô vang: "Không cho Liên đoàn đem thóc cho Nhật đốt". Chỉ trong chốc lát đường làng nhộn nhịp cả lên, cứ hết tốp này đến tốp kia, người cầm thúng, người mang dành ào ào tíu tít theo nhau ra bến Cầu Vồng.


“Trước đây Cầu Vồng tiếp giáp giữa phố Sặt và làng Sặt, có cống to để tiêu nước cốt thủy từ trong làng, ngoài phố ra sông lớn tiếp ngay cửa cống là một nhánh sông Sặt là bến cảng xuất nhập hàng hóa cho các loại thuyền lớn đi về. Ở trên cạnh cống là một cổng làng lớn xây cuốn theo kiểu cầu vồng, do đó gọi là cống Cầu Vồng làng Sặt".


Ở ngay cống Cầu Vồng đã có ông Vệ Chi và các anh Công, Hầu, Chữ đã có mặt và hô hào thôi thúc mọi người nhảy xuống thuyền đã xếp đầy ắp thóc đang chuẩn bị nhổ sào. Thế là mọi người ào ào nhảy xuống, kẻ rạch bao, người xúc vào dành, vào thúng, người khỏe thì vác cả bao, có người lăn bao xuống sông cho người ở dưới kéo đi. Mặc cho bọn ngụy quyền bảo an dùng roi da đánh tới tấp, nhưng rồi chúng lại bị quần chúng chống trả quyết liệt và lên án nó nên bọn bảo an phải bó tay đứng nhìn các thuyền mủng nhỏ chuyển thóc dưới sông và người kéo các bao thóc dưới sông đi ven sông về làng. Cảnh nhộn nhịp chỉ trong một tiếng đồng hồ, sức mạnh của quần chúng không gì cản nổi. Cả hai thuyền đinh thóc đã sạch trơn rồi. Tên quan huyện mới điều lính lệ vác súng ra đe dọa nhân dân và đứng gác bảo vệ cho phu khuân vác số thóc còn lại ở trên bờ xuống ba chiếc thuyền đinh để chuyển đi. Nhưng vào tối hôm đó, ông Vệ Chi và anh lãnh đạo ban trưa lại hô hào nhân dân ra cướp ba thuyền thóc đó. Thế là tiếng trống cửu liên nổi lên liên hồi, bà con dân nghèo lại tập trung làm náo động cả khu Cầu Vồng lên. Nhưng lần này đám người tiến ra thì bị bọn lính lệ dùng súng ngăn lại, và tên quan huyện mới đổi về nó hung ác cũng có mặt tại đó. Nó lên tiếng dọa dẫm nhưng ông Vệ Chi và anh em lãnh đạo vẫn thôi thúc xông ra xuống thuyền. Tên quan huyện dã man nó trực tiếp cầm súng bắn thẳng vào đám người, một viên đạn gém làm bị thương gần ba chục người. Sau đó, tiếng hò la chửi rủa và đả đảo bọn chúng. Vì lúc đó chưa có lệnh đấu tranh vũ trang, do đó ông Chi và anh em lãnh đạo hô hào cho người bị thương đi cấp cứu và tạm nhượng bộ để chờ thời cơ mới.


Sau đó khoảng nửa tháng, nhân dân Sặt được sự lãnh đạo trực tiếp của Mật trận Việt Minh huyện và cộng với tinh thần đấu tranh của bà con nông dân các làng ven Sặt. Rồi vào một buổi chiều đầu mùa thu năm 1945, bầu trời Kẻ Sặt trong xanh, không khí nóng nực đã dịu dần, không gian yên tĩnh, song trong lòng người dân nghèo khổ thì ai nấy đều đang hướng về Việt Minh cách mạng. Lúc này theo nhịp sống của quê hương, mọi người đã ra đồng làm lụng, kẻ lao động nghề này nghề nọ. Đột nhiên mọi người lại nghe thấy tiếng trống cửu liên vang lên thôi thúc và có tiếng hò reo, các đoàn người đang tiến về phía cổng huyện lỵ, và lần này còn mang theo cả cờ đỏ sao vàng nữa chứ. Nhưng chưa phải là cướp chính quyền mà là phá cướp kho thóc liên đoàn chúng xây ngay cổng huyện lỵ. Mọi người, mọi nơi, mọi ngả cộng vào cùng số dân Kẻ Sặt cắp quang thúng, dành, mủng ầm ầm náo nhiệt cả một khu phố Sặt, rồi tiến vào phá cửa nhà kho. Chỉ trong mấy tiếng đồng hồ cái kho thóc chứa mấy ngàn tấn đã bị bà con dân nghèo lấy sạch trơn. Vì lần này chắc là có sự lãnh đạo của Mật trận Việt Minh nên bọn tớ thầy quan huyện, lính lệ run sợ như đồ chó chết, án binh bất động không dám phản ứng lại.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Mười, 2022, 08:25:29 pm
Giành chính quyền huyện

Tình hình Kẻ Sặt có nhiều thời cơ tốt đẹp, nhất là sau những vụ ám sát trừng trị bọn việt gian tay sai của phát xít, thực dân và vụ quần chúng nhân dân Kẻ Sặt cướp hai thuyền thóc, vụ nhãn dân mấy xã cướp kho thóc Liên đoàn ngay cổng huyện lỵ thì tinh thần và khí thế cách mạng của địa phương sôi nổi sẵn sàng vùng lên.


Chớp thời cơ chung của toàn quốc và thế giới, Bộ chỉ huy của Mặt trận Việt Minh huyện Bình Giang được khai hội bí mật tại Phố Sặt. Được biết lúc đó là do đồng chí Thu quê Sãi cùng các đồng chí Vũ Ái, Mạc Xá, Vũ Thế thôn Bằng Trai và các đồng chí Việt Minh của huyện, còn ở Kẻ Sặt có các đồng chí Vinh, Hàm, Tráng, Chử, Công, Hầu được tham gia. Sau buổi khai hội đó vào một ngày mùa thu tháng Tám năm 1945, khoảng 13h cũng là những ngày tháng náo nức mong đợi của mọi tầng lớp nhân dân mong mỏi có ngày được độc lập tự do. Nhất là lớp dân nghèo thì giờ phút thiêng liêng đó đã tới rồi.


Tùng! Tùng! Tiếng trống liên hồi hòa vào cùng tiếng súng trường, súng kíp đùng đoàng và đoàng đoàng quyện vào không gian với tiếng reo hò âm vang náo động cả một vùng trời Kẻ Sặt quê tôi. Chỉ trong phút chốc đã có lớp lớp người người, từng đoàn ở các ngả đường mang theo cờ đỏ sao vàng. Người cầm súng, cầm gậy, cầm giáo, cầm mác, vẻ mặt của mọi người hăm hở sát khí căm thù đang trùng trùng tiến về vây kín huyện lỵ tại Kẻ Sặt. Lúc này còn có người chưa biết Việt Minh là ai thì hôm nay trong không khí náo động của toàn huyện thì mới hay là những người quần nâu áo vá, những người nông dân, công nhân nghèo đã vùng lên làm Việt Minh đó. Trước lúc đoàn người tiến vào huyện đường thì có một chàng trai khoảng trên dưới 40 tuổi mặc bộ đồ xanh tím than đứng lên gốc cây bàng cổ thụ ngay cổng huyện, một tay giơ cao cái mũ, một tay giương khẩu súng ngắn và miệng hô vang để thúc giục đoàn người tiến lên. Lúc mới nhìn đã mấy ai biết được người đó là gì, và khẩu súng thật hay khẩu súng gỗ. Khi loạt súng trong tay người đó nổ vang đùng đoàng hòa vào tiếng reo hò của đoàn người các ngả tiến vào hô vang khẩu hiệu: "Mặt trận Việt Minh muôn năm", "Nhân dân ta vùng lên giành lấy chính quyền", "Đả đảo bọn phát xít và tay sai". Rồi một đoàn tiến thẳng vào huyện đường, chỉ mấy phút sau thấy bọn lính lệ đi từ trong các nhà ra ngoài sân huyện và xếp thành hàng nghiêm chỉnh dưới sự chỉ huy của tên Đội Tốn (Đội Tốn là người gốc Sặt, trước cách mạng y là kẻ hung hãn gian ác có hạng), nhưng lúc đó nó ngoan ngoãn chấp hành lệnh của Việt Minh do đó được khoan hồng. Tên Tốn cố gắn g hết sức mới hoàn hồn và hô to được mấy câu với bọn thuộc hạ: "Anh em giao nộp súng cho Mặt trận Việt Minh và xin được khoan hồng để trở về gia đình làm ăn". Sau lời đầu hàng của Đội Tốn là nhửng anh em có sự chuẩn bị và chỉ là những người quần nâu áo vá đã dùng ngay trước mặt bọn lính lệ để tiếp nhận vũ khí và nói lời gì với bọn chúng rồi cho bọn chúng lần lượt bước ra khỏi huyện đường với vẻ mặt tên nào tên đó còn sợ hãi bàng hoàng. Còn anh em lả Việt Minh thì có một ông đứng ra chỉ huy và triển khai từng tốp ra các vị trí đã định sản. Lúc này cờ đỏ sao vàng đã pháp phới tung bay trên cửa huyện đường.


Từ giờ phút thiêng liêng đó đã chấm dứt cuộc đời hàng ngàn năm phong kiến và 80 năm nô lệ thực dân Pháp và phát xít. Còn nói về tên quan huyện mới về nhận chức được mấy tuần là Hà Trường Thịnh. Bản thân Thịnh vẫn còn rất trẻ và về giữ huyện chưa gây tội ác gì với nhân dân nên y được thầy giáo Hiến (lúc đó chỉ huy Việt Minh và sau ngày cách mạng thành công là Chủ tịch UBKCHC tỉnh Kiến An và sau là ủy viên Thường vụ Quốc hội) đứng ra bảo lành cho Thịnh vì Thịnh đã ngoan ngoãn giao tài liệu, thẻ ngà, triện đồng và ra lệnh cho lính lệ phải đầu hàng ngay Việt Minh.


Sau đó, Ủy ban cách mạng lâm thời của huyện được thành lập ra mắt quần chúng nhân dân cả huyện Bình Giang và các làng, xóm, xã, thôn, bọn ngụy quyền, cường hào hương lý đều ra đầu thú, và đầu hàng bàn giao chính quyền cho nhân dân Ủy ban cách mạng lâm thời huyện Bình Giang gồm các anh Vũ Ai tức ông Hoàng Tâm làm Chủ tịch. Thầy giáo Vũ Thê làm Phó chủ tịch. Ông Vũ Duy Tiêu là Tư pháp trừ gian nội chính. Anh Cường + Lâm + Tiến Đen chỉ huy cảnh vệ và sau này là anh Vũ Điếm tức Hồng Vũ chỉ huy quân sự của huyện cho đến năm 1947.


Còn nói về người thanh niên tiếng như chuông, tay cẩm súng lục cầm mũ và mặc bộ đồ xanh công nhân lúc tiến vào huyện đó là ông Vũ Duy Tiêu, sau đó ở Ủy ban Cách mạng lâm thời. Đến năm 1950 là Chủ tịch UBKCHC Bình Giang và bị địch cuốc hầm bắt đi Phú Quốc tháng 4 năm 1951 (trận Reptile) và hòa bình được trao đổi.


Vinh dự cho quê tôi cuộc giành chính quyền huyện đã có số anh em được tham gia để hô hào nhân dân Kẻ Sặt cùng tham gia giành chính quyền huyện lúc đó gồm có các anh: Vinh, Chữ, Công, Tráng, Hoàn, Hầu và một số anh em khác. Sau đó bọn ngụy quyền đầu hàng thì chính quyền cách mạng lâm thời Kẻ Sặt được thành lập và ra mắt quần chúng nhân dân vào cuộc mít tinh khổng lồ và cũng cuốn theo thành lập các tổ chức đoàn thể nhân dân Sặt.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 24 Tháng Mười, 2022, 08:26:54 pm
Kháng chiến bùng nổ

Tháng 12 năm 1946, thực dân Pháp bội ước hiệp định 8-3-1946. Chúng gây chiến tranh với ta từ cầu Rào Hải Phòng và rồi lan ra các thành phố khác. Bác Hồ và Chính phủ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cuộc kháng chiến bùng nổ toàn cõi Việt Nam và rồi sau lan sang Lào và Campuchia. Từ đó lại có hàng lớp thanh niên Kẽ Sặt lên đường nhập ngũ. Còn ở lại quê hương thì trung đội dân quân tự vệ và thanh niên cứu quốc được nhân dân trang bị cho 30 khẩu súng trường cùng gươm giáo để chuẩn bị cho chiến đấu giữ làng. Song do yêu cầu chiến lược tác chiến, do đó đến tháng 2 năm 1947 anh em tự vệ và thanh niên cứu quốc Kẻ Sặt lại được đi bổ sung cho các đơn vị chủ lực của tỉnh, huyện. Một số được chuyển vào các cơ quan như Tình báo Cục, Phản gián và một số anh em ở lại địa phương đào hào đắp ụ để cùng bộ đội chiến đấu.


Ủy ban cách mạng lâm thời được chuyển thảnh ủy ban kháng chiến hành chính lúc đó là ông Đào Văn Hiện làm Chủ tịch, ông Phạm Văn Lũng Phó chủ tịch, ông Phạm Văn Bàng làm chủ nhiệm Xã bộ Việt Minh. Các anh Công, Quy, Nhàn làm chỉ huy lực lượng dân quân tự vệ. Anh Giỏi làm trưởng ban thông tin tuyên truyền, chị Đức đại biểu phụ nữ và một số đại biểu hội đồng.


Mùa xuân năm 1947 trời còn giá lạnh, tuy ở Kẻ Sặt kẻ thù chưa tràn tới nhưng không khí chiến tranh đã sôi động do âm vang của tiếng súng giặc và của ta chiến đấu trên dọc đường số 5 từ Hải Phòng về Hà Nội. Để thực hiện vườn không nhà trống tiêu thổ kháng chiến, đồng thời căn cứ vào sự nhận định của cấp trên chỉ đạo, thì Kẻ Sặt sẽ là mục tiêu chiếm đóng sớm và lâu dài của địch, do đó lãnh đạo của Kẻ Sặt quyết định hướng dân nhân dân đi tản cư vào các làng xa mặt trận. Từ đó nhân dân Kẻ Sặt lại một lần nữa sơ tán quyết liệt để hường ứng lời kêu gọi của Tổ quốc và góp phần đánh giặc. Còn lại là dân quân tự vệ kết hợp cùng bộ đội chủ lực tỉnh, huyện đào hào đắp ụ xung quanh làng hình thành chiến hào để chiến đấu. Đường 38 thì đào hố chống xe tăng và chông mìn. Các nhà lớn tiêu thổ phá sạch, thực hiện vườn không nhà trống.


Buổi đầu và những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khí thế hào hùng phục vụ chiến đấu của quân và dân Kẻ Sặt được dâng lên mạnh mẽ, thực hiện các kế hoạch tác chiến và kết hợp với bộ đội để đánh giặc được chuẩn bị chu đáo. Cái Tết nguyên đán cổ truyền của dân tộc đầu xuân 1947 năm đó nhân dân Kẻ Sặt được tổ chức ăn Tết long trọng khắp các làng xộm của các huyện như: Bình Giang, Ân Thi, Thanh Miện, Ninh Giang và sang cả Quýnh Phụ, Quỳnh Côi (Thái Bình).


Còn lực lượng ở lại thì ăn Tết ra sao? Sáng mùng 1 thì ổn cả. Sáng mùng 2 giặc tấn công vào xã Bắc Sơn, Đô Lương phía Thi, đạn pháo bay qua Kẻ Sặt nhưng Kè Sặt vẫn im lặng trong tầm súng giặc và triển khai chiến đấu. Lúc này UBKCHC và văn phòng các đoàn thể của xã chuyển sang đóng tại đình thôn Châu Khê. Sau trận đó thì cả mặt trận khu Sặt vẫn được im lìm tiếng súng tới gần hai tháng sau. Mà chỉ có tiếng xe tăng, xe tải gầm rú dọc đường 5 vọng vào khu Thánh đường. Còn anh em bộ đội và tự vệ du kích, Phòng mật trinh sát vản tiếp tục tuần phòng và củng cố công sự. Thế rồi sự chuẩn bị và chờ đợi nó đã đến. Sáng sớm ngày 22 tháng 2 năm Hợi 1947 lúc màn sương đêm còn đen đặc phủ kín bầu trời, vào khoảng 4h đạn pháo của kẻ thù từ phía đường số 5 xé màn đêm rót xuống quanh Kẻ Sặt. Tiếng gầm rú của đạn đại bác thu dần lại. Có quả rơi quanh làng và nhiều quả rơi tới tấp lên mái nhà, đường làng, xóm phố. Đạn pháo làm rung đất dậy trời làm inh tai nhức óc những chiến sĩ ta đang chờ giặc đến.


Khi mặt trời vừa ló rạng đông làm tan đi màn sương đêm thì cũng là lúc giặc Pháp mở đợt tấn công vào Sặt bằng các loại súng to nhỏ từ phía cầu Sặt. Tuy đã bị ta đánh nghiêng ngả nhưng chúng vẫn bám để vượt qua tiến vào đường phố Kẻ Sặt. Thuyền cao su giặc vượt sông Sãi, sông Huệ Lai tiến sang rồi mở đợt xung phong tiến vào Sặt. Mặc dù ụ trung liên của ta đặt tại Trường ga cũ nay là đo đạc. Hỏa điểm đó nhả đạn, rồi ụ đại liên tại Cầu Vồng ta nhả đạn. Nhưng vì lực lượng của ta có hạn, vũ khí thì thô sơ. Về địch, chúng huy động lực lượng gấp mười ta, chúng có xe tăng đại bác máy bay yểm trợ để chúng cố đánh chiếm lấy mặt trận Kẻ Sặt, vì vậy sau mấy giờ chiến đấu quân ta được lệnh rút lui để bảo toàn lực lượng. Khi rút ra, ta phải chiến đấu phá thế bao vây gọng kìm của địch vì địch đã vây kín Kẻ Sặt. Nhưng lực lượng bộ đội, dân quân, tự vệ của ta rút theo sườn đê và đường 20 về tuyến dưới được an toàn. Bọn địch vào cướp phá Kẻ Sặt và bắt được số dân, rồi chúng bắn chết một số, rồi chúng đem đi số người về đóng tại lò vôi Lý Toán. Sau địch xây bốt ngay đầu cầu về Thịnh Vạn. Đến đêm đó lực lượng tạ lại tiến vào giữ các chốt cũ Kẻ Sặt. Khoảng 11h ngày sau địch lại cho quân từ cầu Sặt tràn vào, quân ta nổ súng chiến đấu giết được 2 tên sát ụ súng tại Cầu Vồng thu được vũ khí. Địch rút chạy, ta lấy được hai xác giặc đưa về chợ Ngọc Cục để khuếch trương chiến thắng. Nhưng đến 14h địch lại mở đợt tấn công ta. Trận chiến lại diễn ra quyết liệt, mấy ngày sau bộ đội chủ lực rút về đóng ở các xã vùng ven Sặt. Chỉ để lại trung đội Hồng Vũ chốt lại cùng dân quân tự vệ Sặt chốt giữ chống càn. Cho đến tháng 3 ta thì có một tiểu đội quyết tử quân của tỉnh đội Hải Dương về bổ sung và chốt điểm cao trên tháp chuông đồng hồ nhà thờ Kẻ Sặt. Và cũng từ đó ta đã phải đánh nhau với địch nhiều trận quyết liệt như trận tháp chuông và các trận đánh tại khu phố Sặt, khu Cầu Vồng. Tiêu biểu là anh Sam bộ đội huyện đã dũng cảm phục ngay khu nhà trống sát Cầu Vồng. Khi địch tiến vào làng anh đã giật mìn và ném tới tấp vào đội hình địch hàng chục quả lựu đạn đã làm cho địch chết và bị thương nhiều. Cũng từ đó Kẻ Sặt càng ngày càng trở thành chiến trường quyết liệt giữa ta và địch, giành đi giành lại hơn nửa năm trời cho đến tháng 7-1947 địch quyết tâm chiếm đứt lấy Sặt làm căn cứ quân sự hành chính. Âm mưu địch đã thực hiện được lập tề, xây đồn bốt và hàng chục boong ke tháp canh kiên cố. Xây sân bay, xây nhà tù, dựng lên các tổ chức ngụy quyền đi chiêu dân về theo địch. Bọn tề phản động thì ra sức bắt thanh niên đi lính cho địch và quậy phá cơ sở của ta bằng mọi cách. Lúc đó địch đã phong tỏa cả đồng bằng Bắc Bộ do đó dân Sặt buộc phải về vùng địch tạm chiếm để sống. Lực lượng lãnh đạo công khai của ta tạm thời phải rút ra các làng ven để gây cơ sở ở nội tuyến. Các đảng viên được cử về hoạt động bí mật và xây dựng cơ sở trong nhân dân do đó mặc dù bị sống kìm kẹp nhưng ta đã phát triển được nhiều nhân tố yêu nước và tham gia hoạt động kháng chiến, cụ thể có gia đình đã nuôi giấu cán bộ cấp trên ngay ở nhà mình. Tham gia các cuộc đấu tranh chống mọi âm mưu của địch và vận động nhân dân gửi tiền, gửi áo len ra ủng hộ kháng chiến. Có các anh chị em du kích bí mật đã phục vụ cho các trận đánh bốt và giết tề trừ gian và các mặt công tác khác. (Đã ghi trong cuốn lịch sử Đảng).


Kết hợp giữa lực lượng nội tuyến và ngoại tuyến, cán bộ và nhân dân Kẻ Sặt đã lập được nhiều chiến công, thành tích xuất sắc. Trong 8 năm kháng chiến chống thực dân Pháp đã vinh dự được đóng góp vào chiến thắng chung cùng nhân dân cả nước. Nhiều anh chị em đã được Nhà nước tặng huân huy chương Kháng chiến và Chiến thắng, nhiều gia đình đã được Tổ quốc ghi công.


Và nay Kẻ Sặt đang vững bước đi lên.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Mười, 2022, 09:24:07 pm
VƯỢT RA NGOÀI VÒNG VÂY CỦA ĐỊCH


ĐÀO ĐỨC CHÍNH
(Nguyên Chủ tịch UBKCHC huyện Thanh Miện,
nguyên Phó chủ tịch UBKCHC tỉnh Hải Dương)


Chú thích của BBT: Trận Trái Chanh gồm 4 binh đoàn cơ động (GM) của Pháp có phi pháo yểm hộ, ngày 25-9-1951 đã bị bộ đội và du kích tỉnh Hưng Yên và huyện Phù Cừ chặn đánh quyết liệt ở các thôn Long Cầu, Phú Mãn và Phan Tống Xá (thuộc huyện Phù Cừ) tiêu diệt 1.050 tên Âu Phi, thu nhiều vũ khí, bắt tù binh, còn phía ta thì giữ vững trận địa cho tới hết ngày 25-9. Kết quả làm chậm bước hành quân của địch; về mũi từ phía Hưng Yên sang Thanh Miện tạo chỗ sơ hở phía sườn này của địch (xem tập 1 tái bán bài của Võ An Đông trang 48 - 67, tập 3 trang 165 - 172 bởi của Nguyễn Tất Đảo, những người đã trực tiếp chỉ huy trận này).


Trong cuộc chiến tranh trường kỳ gian khổ của nhân dân ta chống thực dân Pháp, năm 1951 là năm tỉnh Hải Dương gặp nhiều khó khăn nhất. Nhiều cán bộ, bộ đội và thanh niên ta bị bắn giết và bị địch bắt. Đồng chí Vũ Hồng Vũ (Tỉnh đội trưởng tỉnh Hải Dương) cùng một số cán bộ tiểu đoàn, đại đội, trung đội, tiểu đội, bị địch bắt từ hầm bí mật ở huyện Bình Giang trong trận Rep-tin vào tháng 5-1951.


Ở đây, tôi kể lại cuộc vượt ra ngoài vòng vây của địch trong trận Trái Chanh của cơ quan hành chính tỉnh Hải Dương trong thế vô cùng hiểm nguy.

Tháng 4-1951, khi tôi đang làm Chủ tịch UBKCHC huyện Thanh Miện, được Tỉnh ủy và Ủy ban tỉnh Hải Dương điều động lên tham gia làm ủy viên ủy ban tỉnh. Lúc đó, bộ máy làm việc của Ủy ban tỉnh tổ chức rất đơn giản, gọn nhẹ để dễ cơ động. Ngoài đồng chí Trần Tạo (tức Dương Quang Thùy), Phó bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch UBKCHC tình phụ trách chung về công tác chính quyền, trực tiếp làm trưởng ban chỉ đạo chống càn quét tỉnh, đồng chí Hoàng Sĩ Thục (Phó chủ tịch) làm nhiệm vụ thường trực Ủy ban, phụ trách văn phòng và công tác nội chính. Hai ủy viên khác là đồng chí Phạm Vân Tuệ phụ trách kinh tế - tài chính, đồng chí Vũ Đức Nhuận phụ trách ngân hàng. Ba bộ phận công tác Ủy ban nói trên ở ba nơi khác nhau để tránh phi pháo của địch, dễ luồn lách khi có chiến sự. Tôi lên công tác của Ủy ban tỉnh lúc đó là để làm các phần việc mà đồng chí Hoàng Sĩ Thục đang chờ quyết định của cấp trên điều động ra ngoài vùng tự do công tác cho phù hợp với tình hình sức khỏe.


Ngày 25-9-1951, địch huy động quân cơ động với phi pháo, xe cơ giới, tàu chiến, mở trận càn lớn Trái Chanh đánh vào một số huyện của hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, kéo dài trong 5 ngày từ 25 đến 29-9-1951.

Chiều ngày 27-9-1951, từ nơi Ủy ban tỉnh đóng cơ quan ở xã Tân Quang, huyện Ninh Giang, chúng tôi nhận được tin: Từ huyện Bình Giang và bắc huyện Thanh Miện, địch đã vượt qua sông Neo và tới đó sẽ đóng quân dọc đường 39 ngang từ thôn An Nghiệp đến thôn Hoàng Bộ (Thanh Miện), về phía địch đã rải quân trên đường 17 và tàu chiến tuần tiễu trên sông Gùa (giữa 2 huyện Thanh Hà và Tứ Kỳ). Về phía tây, địch đã rải quân khắp ba huyện Ân Thi, Phù Cừ, Tiên Lữ thuộc tỉnh Hưng Yên. Về phía nam, trên sông Luộc thuộc hai huyện Ninh Giang và Thanh Miện, tàu chiến và ca nô địch qua lại suốt ngày đêm. Như vậy, đã rõ ý đồ của địch là dồn lực lượng kháng chiến của ta vào nam huyện Thanh Miện và tây nam huyện Ninh Giang để cất vó, dù ở trên mặt đất hay dưới hầm bí mật.


Kiểm tra hầm bí mật thì hầm nào cũng có nước và ít nhiều bị hư hỏng, không bảo đảm ở dưới hầm trong mấy ngày địch đóng quân ở trên. Đồng chí Chủ tịch vắng mặt ở cơ quan, tôi quyết định đưa cơ quan vượt ra ngoài vòng vây địch ngay đêm đó. Một số cán bộ quân sự bị bắt ở dưới hầm bí mật trong trận càn Rep-tin tại huyện Bình Giang là một bài học xương máu. Theo hướng nào trong tình hình địch đã bủa vây tứ phía cũng không ít khó khăn, nguy hiểm. Cân nhắc mọi lẽ, tôi thấy đi ngược hướng tiến quân của địch, luồn ra sau lưng địch, đi lên phía bắc huyện Thanh Miện và nam huyện Bình Giang là thuận hơn cả. Thanh Miện và Bình Giang là hai huyện mà tôi và đồng chí Hoàng Sĩ Thục có một thời gian dài làm Chủ tịch huyện ở những nơi đây nên thông thuộc địa hình, địa vật. Vả lại, có điều kiện quan sát các làng xóm và dân tình ở những nơi bị địch tàn phá để sau đó Ủy ban tỉnh có kế hoạch trợ giúp nhân dân gặp khó khăn về đời sống và nhà ở. Để tranh thủ sự nhất trí của mọi người, tôi triệu tập một cuộc họp cơ quan và mời đồng chí Hoàng Sĩ Thục đang nghỉ ở gần đó đến dự. Sau khi nghe tôi thông báo và phân tích tình hình, nói rõ chủ trương và hướng đi, giờ khởi hành, mọi người đều nhất trí và giao cho tôi vừa là người chỉ huy, vừa là người dẫn đường. Việc chuẩn bị rất gấp sau đó: chôn cất tài liệu, vật dụng làm việc, chuẩn bị bữa cơm chiều sớm hơn mọi ngày. Chỉ mang theo một máy chữ nhỏ, con dấu Ủy ban và ít giấy tờ cần thiết bọc trong một mảnh ni-lông do một nhân viên bảo vệ phụ trách. Mỗi người chỉ được mang theo một bộ quần áo để thay đổi.


Đúng 7 giờ tối, cuộc hành trình bắt đầu và mọi người đều mặc quần đùi, đi chân đất. Đoàn tất cả có 10 người. Ngoài đồng chí Hoàng Sĩ Thục và tôi, còn có 8 người khác: đồng chí Phạm Văn Kính (mới được Ủy ban cử làm Chánh văn phòng thay đồng chí Vũ Công Long được điều động lên công tác ở Liên khu 3), 3 đồng chí cán bộ văn phòng là Phạm Tất Đạt (sau này là Giám đốc Sở Ngoại thương), Nguyễn Đức Sơn (sau này là Giám đốc Sở Lương thực), Nguyễn Thị Thảo và 4 đồng chí khác làm nhiệm vụ bảo vệ, liên lạc, công tác đội, cấp dưỡng. Trong đầu óc tôi chỉ còn một băn khoăn (không dám nói ra) là sức khỏe của đồng chí Hoàng Sĩ Thục, hai bàn chân đau cố tật vẫn đi tập tễnh của đồng chí Phạm Văn Kính (sau này là Chủ tịch UBND thành phố Hải Dương). Tôi quy định về cách đi: từ xã Tân Quang (Ninh Giang) qua cánh đồng Ba Tổng, nơi xa địch đóng quân, mọi người cứ thẳng người lần theo các bờ ruộng để đến nam Thanh Miện. Sau đó mọi người phải bò hoặc đi trong tư thế ngồi xổm trong ruộng lúa hoặc trên các bờ ruộng cho đến khi vượt qua đê phía bắc sông Neo để tránh địch phát hiện thấy. Tôi đi đầu để dẫn đường và mọi người theo sát liền để khỏi bị lạc trong đêm tối. Yêu cầu là phải cố gắng để vượt qua đê phía bắc sông Neo trước 12 giờ đêm. Quãng đường này chỉ chừng 5 cây số nhưng vì đi đêm, cách đi và phải vượt một con sông và hai con đường có địch đóng quân nên thời gian phải kéo dài như vậy. Khi đến cánh đồng xã Tứ Cường, mọi người giật mình vì bỗng có tiếng lạch sạch từ ruộng lúa vụt lên, ngỡ là bị địch phục kích. Nhưng đó chỉ là mấy con chim đi ăn đêm (có thể là những con vạc), thấy động vội bay vọt lên.


Cách đường 39 ngang chừng 30 thước, tôi ra hiệu mọi người dừng lại tôi nhỏm đầu qua ngọn lúa nhìn quan sát kỹ trên mặt đường: Cứ cách chừng 50 thước lại thấy một cái lều bạt của bọn lính Pháp ngủ ở phía trong, cạnh đó ngổn ngang các loại súng máy, xe tăng, xe lội nước. Tôi nghĩ bụng: Người mệt ngủ say, xe cộ và súng ống cũng nằm im như chết. Chỉ có vài tên lính Pháp vác súng đi lại canh gác, xem chừng cũng rất mệt mỏi, vừa đi chậm bước vừa ngủ gật. Chờ chúng đi về phía Đò Neo, tôi ra hiệu cho mọi người bò nhanh vượt qua đường sang ruộng lúa bên kia để rồi lại tiếp tục cách đi như trước ra đê phía nam sông Neo. Cách đê chừng vài chục thước, tôi lại lặp lại các động tác như trước khi vượt đường 39 ngang. Con đê cao và quen thuộc nhìn rất rõ. Nhìn lâu, không thấy một bóng người qua lại. Vì có hệ thống đồn bốt ở trên đê phía bắc nên địch không cài quân ở đây, tôi đi lên mặt đê và gọi mọi người nhang chóng vưựt đê để ra bờ sông. Sông nhỏ, nước nông, rất dễ qua. Có một hai người kém bơi lội thì đã có cô Thảo và một chàng trai kèm sát bên vì hai nhân vật này đã từng vượt sông Luộc vừa rộng vừa nước chảy siết. Qua sông, chúng tôi nhằm thẳng vị trí Pháp ở Hoành Bồ để tiến đến, tuy mạo hiểm nhưng lại có sự bất ngờ đối với địch. Từ Hoành Bồ đến Đò Neo chỉ có hơn một cây số, hai đẩu có hai bốt Liên hiệp Pháp và ở giữa có 4 bốt tề binh phản động là Thanh Xá, Phương Quan, Phí Xá, An Lạc. Đêm đã khuya, trên đê thỉnh thoảng có một xe lính Pháp đi tuần tra suốt dọc đê. Chờ chiếc xe đi khuất, chúng tôi vượt qua đê lên phía bắc. Đi một quãng xa, chúng tôi bảo nhau ngồi lại trên một bờ ruộng to nghi xả hơi.


Vượt qua hai đoạn đường có địch, tuy rất nguy hiểm nhưng không ai tỏ ra mệt mỏi mà lại thấy tinh thần phấn chấn vì đã vượt qua được hai cửa ải. Điều lo ngại của tôi lúc ra đi lại không xảy ra. Các đồng chi Thục, Kính không chịu thua các anh chị em khác. Trái lại, có lần dọc đường đi, đồng chí Hoàng Sĩ Thục vừa dí dỏm, vừa nghiêm nghị nói với cô Thảo "mày phải lập tức lấy đất sát lên cổ chân đến đùi, nếu không địch phát hiện ra cái đùi trắng hếu liền xả súng đến thì chúng tao chết oan cả lũ".


Ngồi nghỉ, tôi nhìn đồng hồ đeo tay có dạ quang thì thấy mới 11 giờ rưỡi đêm. Chỉ sau mười phút, tôi giục mọi người tiếp tục lên đường để đi tới đích trước khi trời sáng rõ. Đi một quãng, cách làng Đông La chừng 500 thước, tôi nhìn thấy trên một mô đất có người ngồi, tôi ra hiệu cho mọi người dừng lại vì nghi là bị địch phục kích. Đồng chí bảo vệ đi cùng lăm lăm khẩu Si-ten (súng máy hạng nhẹ) để đề phòng có sự bất chắc. Nhìn mãi, tôi vẫn chỉ thấy có một người, không hề cử động. Tôi hô: "Ai đấy, giơ tay lên". Người ngồi đó bỗng giật mình, nói lắp bắp "Tôi ở trong làng ra đơm cá". Tôi nghe, nhận ngay ra tiếng đồng chí Nguyễn Văn Hiếu, Chủ tịch UBKCHC xã Hồng Quang. Tôi lên tiếng hỏi: "Có phải ông Hiếu không?" Nhận ra tiếng tôi, ông Hiếu đứng dậy và đi lại gần chúng tôi. Ông Hiếu phản ánh tình hình địch mấy ngày qua và cho biết: Đêm đó, bọn GAMO (quân thứ hành chính lưu động) vẫn còn ở lại thôn Đông La để lập tề. Sau đó ông dẫn chúng tôi sang thôn Nhữ Xá để gặp đồng chí Kế, Bí thư chi bộ xã Hồng Quang. Đến đây, đồng chí Hiếu dẫn đến một gian lều gianh lụp xụp, bên trong chỉ đủ rải một chiếc chiếu rách. Trên đó có chiếc ấm sành đựng nước, mấy chiếc bát, cái điếu cày và một đèn hoa kỳ vặn nhỏ ngọn. Ở đó, đồng chí Kế và mấy thanh niên nông dân đang rì rầm nói chuyện. Đồng chí Hiếu lên tiếng và giới thiệu chúng tôi. Đêm đã khuya, địch còn ở làng bên và chúng tôi đã vất vả trên chặng đường nguy hiểm từ chập tối nên câu chuyện chỉ vội vàng vài phút rồi các đồng chí địa phương đưa chúng tôi đến một vài gian lều khác ở cạnh làng để nghỉ cho đỡ mệt. Đồng chí Kế đích thân chỉ cho chúng tôi biết mấy chiếc hầm bí mật ở dưới bụi tre và dặn nếu động sẽ đến báo để chúng tôi xuống hầm hoặc luồn qua bụi tre ra ngoài cánh đồng lúa.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Mười, 2022, 09:25:19 pm
Sáng hôm sau, chúng tôi đều dậy thật sớm (khi trời còn tối) gặp lại các đồng chí địa phương trước khi đi lên ấp Bình Cách (thuộc huyện Bình Giang). Đến đây, một vài cán bộ trong ấp rất mừng rỡ khi thấy chúng tôi từ tỉnh về ngay sau trận càn quét lớn của địch, nhất là biết trong đoàn có đồng chí Hoàng Sĩ Thục, người đã làm Chủ tịch UBKCHC huyện Bình Giang trong những năm trước đây. Nhân dân trong ấp mới đi sơ tán về, nghe tin đều chạy ùa đến. Nhân dân trong ấp chạy ngược chạy xuôi, bảo nhau lục soát xem lương thực, thực phẩm cất giấu còn sót lại gì đem ra làm bữa liên hoan chung và đãi khách. Một lúc sau, bữa ăn được dọn ra, có đông người dự. Thức ăn là rau luộc chấm muối, ít tép khô, trứng trưng. Đũa tre mới vót. Bát ăn không đủ, phải rửa cả mảnh chai, mảnh sành để làm bát. Nhìn bữa ăn, chúng tôi không khỏi mủi lòng về đời sống khổ cực của nhân dân trong hoàn cảnh chiến tranh. Chúng tôi chưa kịp ngồi thì một bà đứng tuổi, đon đả vồn vã ra mời và đọc luôn hai câu thơ (không biết lấy ở đâu ra):

"Thằng Tây vơ vét quá nhiều
Mừng nhau chi bữa tiệc nghèo vậy thôi"

Nhân dân ta - cả những người nông dân bình thường, ít học mà rất thích văn thơ như vậy, dù trong lúc chiến tranh tàn phá rât khốc liệt. Sau “bữa tiệc đạm bạc" ấm tình người với nhân dân hàng ấp, các đồng chí cán bộ văn phòng Ủy ban tỉnh ở lại ấp Bình Cách, còn tôi với các đồng chí Hoàng Sĩ Thục cùng hai bảo vệ, liên lạc đi lên các thôn xã phía bắc huyện Bình Giang. Những nơi chúng tôi đến, quang cảnh đều điêu tàn, chỉ có một ít thanh niên ở lại làng sản xuất, cùng bộ đội đánh giặc và ẩn nấp dưới hầm bí mật. Ngay chiều tối hôm đó, chúng tôi quay về bắc huyện Thanh Miện và đến nhà anh Thùy ở thôn Đông Bích (cơ sở kháng chiến của huyện Thanh Miện) để tiếp tục sang hom sau đi thăm các làng thuộc hai xã Hồng Quang và Ngô Quyền, ở đây còn tiện cho việc theo dõi tình hình chiến sự diễn ra ở phía nam huyện Thanh Miện và tây nam huyện Ninh Giang. Chỉ một ngày, chúng tôi đã đi khắp những nơi cần đến. Ngày 30-9-1951, nhờ đồng chí Vấn, Bí thư chi bộ xã Ngô Quyền đã liên lạc trước, chúng tôi vào một làng tề sâu gần các đồn bốt, nơi đồng chí Luật, Bí thư chi bộ xã Đoàn Kết ở đó. Làng này do bị địch o ép tứ phía phải lập tề, nhưng nhân dân một lòng một dạ theo kháng chiến, cơ sở vững mạnh, ban tề là người của ta, nhưng vẫn do ta lãnh đạo. Chúng tôi làm việc với đồng chí Luật ngay tại nhà đồng chí do anh em bảo an (du kích của ta) canh gác. Đồng chí Luật cho chúng tôi biết tình hình ở đây trong những ngày địch càn quét. Đồng bào (đàn bà và trẻ em) ở vùng căn cứ du kích chạy vào đây rất đông và được đón tiếp chu đáo. Sếp Anh (sếp bốt Châu Quan), liên lạc với ta từ năm trước, chẳng những tỏ thái độ tốt khi nhân dân và cán bộ chạy đến và còn tìm cách giải thoát cho một số gia đình cán bộ bị địch bắt. Khi chúng tôi và đồng chí Luật đang trao đổi thì bỗng nghe thấy mấy tiếng súng nổ và du kích vào báo là có một tốp lính ngụy ở bốt bên cạnh sắp vào làng. Đồng chí Luật vội đưa chúng tôi đến một gian buồng của mẹ đồng chí, mở nắp hầm bí mật ở dưới gầm giường để chúng tôi xuống rồi đồng chí ngụy trang và đi ra ngoài. Một lúc sau, nắp hầm lại mở để chúng tôi lên tắm rửa vì hầm có bùn nước. Khi đó mới rõ là bọn lính ngụy vào làng "xin đểu” hoặc mua rẻ lợn, gà để ăn tươi. Sau bữa cơm trưa ở đây, tôi nhắc đồng chí Luật vận động nhân dân các làng tề không bị thiệt hại bí mật giúp nhân dân vùng căn cứ du kích dựng lại nhà ở và có lương ăn để sản xuất. Nhân lúc đó, tôi nói vui với đồng chí Bí thư ở trong tề chẳng còn sợ bom đạn là gì. Đồng chí vội trần tình các khó khăn của cán bộ kháng chiến nằm trong vùng địch bị chiếm đóng với hai câu thơ:

"Một ngày sống cảnh tự do,
Còn hơn chín tháng nằm co trong tề"

Chiều hôm đó (tức 30-9-1951) chúng tôi trở lại nhà đồng chí Thùy ở thôn Đông Bích xã Hồng Quang. Đến đây, được tin địch đã rút hết ở phía nam. Ngay tối,đó, chúng tôi tập trung anh em lại và theo đường dây liên lạc xuống phía nam Thanh Miện. Cô giao liên dẫn chúng tôi đến làng Tòng Hóa (lúc ấy thuộc xã Lê Hồng) để qua sông Cửu An sang đất Phù Cừ, rồi lại qua sông Cửu An để trở về xã Chi Lăng. Ngày 20-10-1951, đồng chí Chủ tịch tỉnh Trần Tạo cùng trở về đây, cho biết tình hình địch - ta trong trận càn quét và nghe chúng tôi phản ánh cảnh tàn phá, dân tình những nơi đã qua. Đồng chí Chủ tịch tỉnh cùng Ủy ban quyết định trích 20 tấn thóc thuế chôn cất còn an toàn để giúp đỡ những gia đình gặp khó khăn nhất, đồng thời tổ chức một cuộc vận động nhân dân các nơi (kể cả nhân dân trong vùng tề) để khôi phục lại chỗ ở và có lương ăn để sản xuất. Tối hôm đó, đồng chí Chủ tịch giao cho đồng chí Tứ (người cần vụ đắc lực của đồng chí) kiếm sao được một con gà để nấu cháo chiêu đãi anh chị em trong cơ quan. Một bữa cháo gà hiếm có trong chiến tranh mà đồng chí Tứ lại là người đầu bếp giỏi cũng như kỹ thuật đào hầm bí mật của đồng chí mà nhiều người ca ngợi.


Mấy hôm tiếp sau, có đồng chí thoát chết trong trận Man-darine (Trái Quýt) ở Thái Bình chạy về cho biết: Đồng chí Phạm Văn Tuệ, ủy viên Ủy ban tỉnh bị địch bắt ở huyện Duyên Hà. Đồng thời, đồng chí Hoàng Sĩ Thục có quyết định đi nhận công tác mới. Trong lúc đó, Chính phủ có chủ trương thống nhất quản lý tài chính trong toàn quốc, tiến hành thu thuế nông nghiệp thay cho thuế điền thổ và thành lập ngành tài chính ở các tỉnh. Công tác kinh tế - tài chính trong chiến tranh lúc đó chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và đời sống, nhất là giải quyết đời sống của bộ đội, cán bộ, đồng chí Chủ tịch và Ủy ban tỉnh giao cho tôi phụ trách kinh tế - tài chính, trực tiếp làm Trưởng ty Tài chính từ đó cho đến khi lên công tác ở Văn phòng Thủ tướng Chính phủ (nâm 1959).


Câu chuyện "Vượt ra ngoài vòng vây của địch" chỉ là một việc bình thường trong chiến tranh chống Pháp nhưng đã để lại trong tôi những kỷ niệm sâu sắc về tình người về sự gắn bó giữa cán bộ và nhân dân trong lúc phải đương đầu với kẻ thù có sức mạnh gấp nhiều lần.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Mười, 2022, 09:27:20 pm
DU KÍCH XÃ LAM SƠN DÙNG MÌN ĐÁNH THẮNG TRẬN ĐẦU


TRƯƠNG VĂN THUÂN
(Nguyên Tiểu đội trưởng du kích xã Lam Sơn)


Đúng như thông báo huyện đội Thanh Miện, địch đã thành 2 hướng từ Gia Lộc đánh sang, từ Bình Giang đánh xuống càn vào thị trấn Thanh Miện (Thọ Trương). Tối hôm trước, xã đội cho biết: địch càn về quân số đông, chắc chắn có cả máy bay, đại bác... Về ta, lực lượng du kích có hơn một đại đội, nhưng chỉ có một khẩu súng trường với 10 viên đạn, 10 quả lựu đạn, 35 quả mìn gồm 6 mìn dưa, 29 mìn muỗi.


Xã đội quyết định chỉ để tiểu đội du kích tập trung ở lại đánh địch, còn lực lượng du kích phân tán ra giúp đỡ nhân dân cất giấu thóc lúa, hướng dẫn tản cư và chuẩn bị sẵn sàng đánh tập kích địch ban đêm nếu chúng trú quân ở lại.


Xã đội trưởng Trần Văn Chải và chính trị viên Đỗ Nhạn họp với tiểu đội du kích, đưa ra câu hỏi Địch đông, ta ít vũ khí lại kém, làm thế nào diệt được địch?

Nguyễn Văn Lư bảo: "Một khẩu súng 10 viên đạn, không đánh bằng súng được".

Hoàng Đình Kính thì nêu: "10 quả lựu đạn đánh tập kích đêm thì tốt, chứ ban ngày địch đông đánh khó khăn”. Phạm Văn Mưu và Văn Lăng tiểu đội phó thì khẳng định "đánh mìn nhất định tiêu diệt được địch. Bí thư chi bộ, chính trị viên Đỗ Nhạn lại hỏi đánh mìn bằng cách nào? Toàn tiểu đội đều nhất trí: Đánh bằng hai cách: Dùng dây cử người giật và đánh tự động ở những nơi địch có thể tập trung như đình và chùa thôn Thọ Trương, chùa thôn Kim Trang, huyện đường, khu nhà ông Lệ Nhượng và đánh hai ổ mìn giật ở Ba Toa, ở phố Trương.


Xã đội trưởng và chính trị viên kết luận: Thống nhất địa điểm và phương pháp đánh mìn như trên. Thời gian tiểu đội phải hoàn thành chuẩn bị xong trước 7h ngày mồng 8 tháng tư năm Bính Tuất (1948). Nhưng đúng vào ngày bụt sinh bụt đẻ, phải để các cụ đi chùa xong mới hoàn chỉnh hố mìn ở hai chùa. Khi đã chôn mìn xong phải cử người canh gác và khi địch rút, du kích phải về trước dân gỡ mìn để đảm bảo an toàn cho nhân dân. Chỉ để hai người ở lại giật mìn, còn toàn tiểu đội rút ra ấp Lam Sơn để bảo toàn lực lượng và chuẩn bị nắm địch tập kích ban đêm. Cả tiểu đội đều xung phong ở lại giật mìn, xã đội trưởng mới thống nhất cử Trương Văn Thuân và Phạm Văn Mưu ở lại giật mìn. Dự kiến giật xong sẽ rút ra ngoài làng, trường hợp không rút được thì xuống hầm bí mật.


Khoảng 7 giờ ngày mồng 8 tháng tư, máy bay bà già của Pháp đã bay trên bầu trời bắc huyện Thanh Miện chỉ điểm cho pháo binh bắn vào 2 thôn Thọ Trương và Kim Trang. Dân làng theo hướng dẫn của dân quân du kích cất giấu đồ đạc, gồng gánh, bồng bế nhau, dong trâu bò... vừa chạy, vừa khóc mếu.


Phía bắc địch đã tiến xuống chợ Thông, phía đông nam địch đã tiến đến Bất Nạo. Súng nổ dữ dội ở xã Đoàn Tùng và xã Lê Bình do lực lượng vũ trang ở đây đánh trả địch quyết liệt.

Khoảng 10 giờ địch tập trung pháo bắn dồn dập vào Thọ Trương, nhà cửa đổ ngổn ngang, có nhà đã bốc cháy. Pháo binh địch vừa dừng thì các cỡ súng của địch bắn vào trong làng, đồng thời từ bắc, tây, nam có tiếng hò a la xô ầm lên. Tôi đợi mải không thấy mìn của Mưu giật. Tôi vội chạy lại cống Đình Giữa đã thấy địch vào chùa Trương và đang tiến vào làng. Tôi chạy lại chỗ ổ mìn giấu được dây mìn xuống ao, chạy qua nhà ông Thích, sang góc vườn ông Ngôi, vừa tụt xuống ao 7 sào nhà ông giáo Hứa, lặn một hơi chui vào hầm thì cũng là lúc địch đã đến nóc hầm. Chúng đặt khẩu đại liên ngay ngả ba cổng nhà ông Áp chỉ cách chỗ tôi mấy mét. Thỉnh thoảng chúng lại bắn một băng đại liên vu vơ. Địch gọi nhau í ới, bắt lợn, bắt gà của dân. Có thàng chửi đổng "Đ... mẹ nó, đi càn kiểu này dễ toi mạng lắm".


Tôi ngồi dưới hầm vừa mệt, vừa đói, vừa ngứa vì quần áo ướt từ sáng. Đang tự trách mình chôn 2 ổ mìn giật sao dốt thế, để địch vô hiệu hóa mất. Tôi lo tiểu đội không hoàn thành nhiệm vụ trận đánh và lo không biết đồng chí Mưu có rút ra hoặc xuống hầm kịp khống? Vừa lúc đó có hai tiếng nổ ủng oàng, tôi đoán là hai quả mìn Lư và Kinh chôn ở cổng nhà Lệ Nhượng đã nổ. Sau hai tiếng nổ, chỗ mìn nổ cách hầm của tôi chỉ khoảng 30m. Sau khoảng 2 phút, thăng ngụy binh chạy từ chỗ mìn nổ về chỗ khẩu đại liên vừa thở vừa nói: "Hai thằng chúng tao suýt toi mạng, vừa qua khoảng 10m thì mìn nổ, may mà có bụi tre không thì hết đời. Tao nhìn rõ thằng Tây quan hai và thằng gác-đờ-co bảo vệ cho nó chết ngay tại chỗ. Chúng nó đang hò hét nhau ở chỗ mìn nổ". Được tin này tôi phấn khởi hẳn lên, người như hết đói, hết mệt, thế là mìn của du kích chúng tôi đã diệt được địch.


Khoảng 16 giờ địch hò nhau tập trung về chùa Thọ Trương. Sau đó trong làng vắng lặng chỉ còn tiếng tre, gỗ nổ đốp đốp của những nhà đang cháy!

Sau trận đánh, cả Đảng bộ và nhân dân cùng dân quân du kích vô củng phấn khởi vì du kích đã dùng mìn diệt 2 thằng Tây, trong đó có thằng quan hai. Có người bảo đáng đời cho thằng giặc mũi lõ, về đây mà đốt phá, cướp bóc.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Mười, 2022, 09:28:12 pm
GIẶC TÚM MẤT ĐUÔI ÁO MÀ KHÔNG BẮT ĐƯỢC TÔI!


TRƯƠNG VĂN THUÂN
(Ghi theo lời kể của VŨ VẰN VIẾT
nguyên giao thông xã Lam Sơn)


Tối ngày 1-5-1951, tôi - Vũ Văn Viết cùng Trần Thị Núi - Hội trưởng phụ nữ xã, Vũ Thị Lý - Chi ủy viên xã đội phó được chi ủy và Ủy ban kháng chiến - hành chính xã phân công vào thôn Thọ Trương (thôn tề hai mang) để vận động nhân dân và thanh niên chống địch bắt thanh niên đi lính ngụy và đưa thanh niên ra vùng tự do tòng quân giết giặc.


Nhá nhem tối, từ thôn ấp Lam Sơn, ba chúng tôi tắt qua cánh đồng Sẩm chiếu thẳng về cửa chùa thôn Thọ Trương, đến cây đa cửa chùa không đi theo đường mà luồn qua chân tre đi thẳng vào xóm Đồng Rối rồi đi sang xóm Quang Trung.


Tôi đi trước, theo sau là đồng chí Núi và đồng chí Lý. Trời mưa dầm, tối đen như mực. Mới khoảng 19h 30’ chúng tôi đã vào giữa làng. Mới chập tối mà dân làng đã yên lặng như tờ. Tôi vuốt nước mưa trên mặt, nhìn lại phía sau đồng chí Núi và Lý vẫn đi sau tôi, mỗi người chỉ cách nhau độ 2m. Trời tối, vào trong làng thấy yên, nên chúng tôi cũng hơi chủ quan.


Từ cổng nhà ông Bống, chúng tôi tiến theo sang cổng nhà ông Trịnh đi theo đường đến cầu ao Trang, chúng tôi chuẩn bị vào nhà ông Hy trước như đã định. Vừa đến khóm tre ở gần cổng tôi thấy kịch một cái, tôi dừng lại thì thấy tiếng giày đinh của địch nện xuông đường và xông thẳng về phía tôi. Tôi quay ngoắt lại, chân chạy, mồm kêu “địch, địch". Đồng chí Núi và Lý nhanh như cắt chạy tắt qua nhà nọ, sang nhà kia để tránh địch, còn tôi địch đã túm được đuôi áo. Tôi cố chạy thục mạng, thằng địch cố kéo lại tạo thành một lực khá mạnh làm đứt đuôi áo cũ của tôi. Tôi lao mạnh về phía trước, còn thằng địch ngã lăn kềnh về phía sau. Nhân thời cơ đó, tôi chạy biến vào đêm tối, tắt qua các nhà làm địch mất mục tiêu. Rất may là chiếc áo của tôi đã cũ, nếu không tôi đã bị địch bắt.


Trên đường trở về căn cứ, cả ba chúng tôi cứ thắc mắc không biết tại sao chúng tôi cách địch chỉ vài mét mà địch không bắn? Nhưng về đến ấp Lam Sơn mới vỡ lẽ là địch tổ chức phục kích ở tất cả các xóm, nhưng nhân dân đều có tín hiệu báo cho ta biết nên các tổ khác được an toàn. Địch không bắn chúng tôi có lẽ địch sợ lộ các ổ phục kích khác của chúng.


Cán bộ và nhân dân ấp Lam Sơn biết tin, mặc dầu đêm đã khuya nhưng cũng ồ ra xem chiếc áo của tôi đã bị mất đuôi mà địch không bắt được tôi. Có người bảo anh Viết đấy chứ tôi thì nhũn người nằm quay ra đấy, chứ không chạy được. Có người lại hỏi tại sao anh Viết bị thọt chân từ bẩm sinh mà sao lại chạy nhanh thế? Chính bản thân tôi cũng không thể tưởng tượng được rằng tại sao lúc ấy tôi lại có sức mạnh phi thường như vậy. Nhưng điều quan trọng tôi tự thấy là trong mọi trường hợp phải hết sức tỉnh táo, bình tĩnh mới có đủ sức mạnh để đối phó với địch.


Đây là kỷ niệm sâu sắc trong đời hoạt động cách mạng của tôi.

Chiếc áo bị địch cướp mất đuôi của tôi trở thành một kỷ vật quý trong thời chống thực dân Pháp, tôi giữ gìn nó suốt thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ. Nhưng rất tiếc khi tôi làm Chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Thanh Miện, vợ tôi ở nhà không biết đã mang chiếc áo quý giá này lau nhà, thành thử nay không còn nữa.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Mười, 2022, 09:31:07 pm
D. CÁC NƠI VIẾT VỀ BỘ SÁCH “ĐƯỜNG 5 ANH DŨNG QUẬT KHỞI”


* Trong báo cáo tại Đại hội Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hải Phòng nhiệm kỳ IV về tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác nhiệm kỳ 1997 - 2002 có đoạn viết ở trang 15: "Chúng ta còn phải dành sự khăm phục cho cụ Võ An Đông và các cộng sự, cộng tác viên của cụ đã làm nên bộ sách lịch sứ hết sức phong phú, sống động và cung cấp nhiều tư liệu quý về con đường 5 trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp - bộ sách "Đường 5 anh dũng quật khởi".



* Ông Lê Quốc Khánh, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hải Phòng, đã có khuyến nghị gửi Ban biên tập sách "Đường 5 anh dũng quật khởi" như sau:

Theo đề cương trong dự kiến của quý Ban muốn có các tập sách mang tính quy nạp, đúc kết, hệ thống hóa các sự kiện và nhân vật qua hơn 10 tập trước đây. Việc làm này là rất cần thiết và rất nên làm vì yêu cầu bảo lưu lại ký ức xưa, là tài pản quý báu của các lực lượng vũ trang nhân dân, là tư liệu góp phần giáo dục lịch sử hiện nay và mai sau...

Theo tôi, có 2 vấn đề Ban lưu ý:

1. Thống nhất quan điểm: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân”. Nên viết sao làm rõ đậm nét về vai trò của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân, quốc phòng an ninh nhân dân (không dân cũng chịu).

2. Thống nhất về phương pháp viết, trình bày để sao người đọc dễ hiểu, dễ biết.

Ngày 5-11-2002


* Ông Quản Đức Khiêm, nguyên Phó giám đốc Công ty Du lịch Toserco Hải Phòng, trong thư gửi ông Võ An Đông trong Ban biên tập có đoạn viết:

"Đọc hơn 10 tập "Đường 5 anh dũng quật khởi" không ai không khâm phục các anh trong Ban biên tập, nếu không có những người tâm huyết, có trinh độ và cách làm như vậy thì không thế có những tập sách ấy. Những câu chuyện, những hồi ký mà các anh đưa vào sách thật là những trang anh hùng, đầy tự hào của quân dân Hải Phòng – Hải Dương - Hưng Yên... là những tấm gương cho lớp lớp con cháu mai sau, mà dù thời gian có trôi đi thì những câu chuyện, những hồi ký... đó sẽ mãi mãi chẳng mờ phai, mãi mãi sinh động trong lịch sử cách mạng.

Kính mong tác phẩm "Đường 5 anh dũng quật khởi" sẽ còn tiếp tục ra nhiều, nhiều hơn nữa”.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Mười, 2022, 09:33:54 pm
* Bà Đặng Ngọc Dung, là một nữ hội viên Câu lạc bộ Bạch Đằng có bài thơ "Vẽ chân dung", đăng toàn văn dưới đây:

Vẽ chân dung

(Kính tặng Đại tá Võ An Đông quý mến)


   Tôi vẽ chân dung của một người
   Bình sinh ít nói nhưng hay cười
   Hiền như Phật, Bụt mà cương nghị
   Làm việc cần cù chẳng phút ngơi.
   Đó là Đại tá Võ An Đông
   Tư lệnh 350 Hải Phòng
   Nổi tiếng mưu cơ và trí dũng
   Trọn đời vì nước, tấm gương trong.
   Tuổi xanh cầm súng giữ biên cương
   Ngang dọc tung hoành chốn chiến trường
   Nay đã già nua, sức đã yếu
   Cầm ngay cây bút viết bao chương.
   Lịch sử tươi xanh cứ hiện dần
   Từng trang đẫm máu, quyện tình dân
   Đêm khuya phòng vắng, trời mưa lạnh
   Gió rét căm căm buốt tận chân.
   Đại tá An Đông vẫn đắm say
   Ghi ghi, chép chép suốt đêm ngày
   Ngời ngời trang sử như viên ngọc
   Lóng lánh một thời quý lắm thay.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Mười, 2022, 09:34:41 pm
NGUYỄN XUÂN NGẠC
Hội Văn học Nghệ thuật Hải Phòng

Lòng dân

Tặng đồng chí Võ An Đông

   Năm mươi năm về trước
   Từ núi ngàn Việt Bắc anh về
   Thấm thìa lời thư của Bác:
   "Các chú phải khéo đánh giặc
   Nhưng cũng phải khéo tránh giặc".
   Đồng chí tháng năm sống chết cùng anh
   Mỗi lời quí tựa ngọc
   Hướng dẫn quần chúng đấu tranh
   Từ thấp lên cao
   Hợp pháp hay không hợp pháp
   Miễn là, người là tin tưởng... ủng hộ ta.
   Anh bộ đội Cụ Hồ
   Ngủ hầm - hành quân giữa đạn khói, lửa, máu
   Gắn mình với bao triền sông lúa
   Mái đầu xanh, dần... chuyển bạc
   Mãi say ngồi kể lại
   Bài học
         lòng - dân.

Một người lính già

   Thời Matxcơva
      Bataixcơ...
   Học viên học - viện, lại qua... giúp bài
   Thời - phong - tỏa, ông vẫn qua
   Động viên, nghiêng cánh..., bao la khuông trời
   Lính già - lính trẻ thỏa cười:
   "Con ma", "Thần sấm"..., rớt ngoài biển sông.
   Nhớ quê, Viên Nội..., sông Bùng
   Thoảng xuôi dòng Đáy, một vùng tơ giăng
   Đường 5, rực lửa tháng năm
   Biệt danh, một Võ An Đông lên đường
   Hậu phương - tiền phương - chiến trường
   Từng trang hồi - ức ngọc - vàng tươi nguyên.
   Người lính già, tám mươi niên
   Hành quân với một niềm tin diệu kỳ
   "Hừng đông, bừng sáng..., thầm thì
   Nơi đường xuyên đáo, tôi về..., thăm ông.

22-12-2002


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Mười, 2022, 09:35:40 pm
* Sau đây là hai bài của báo Quân khu Ba nhan đề "Có một bộ sách ra đời như thế", xuất bản tháng 8-2002, và "Những cựu chiến binh viết lịch sử quân sự "đăng số Xuân Quý Mùi năm 2003". Chúng tôi xin đăng nguyên văn 2 bài báo nói trên.

CÓ MỘT BỘ SÁCH RA ĐỜI NHƯ THỂ


Có nhiều người đã biết về con đường số 5 huyền thoại, cũng đã có nhiều bài viết về con đường số 5 Lịch sử, một trong những con đường huyết mạch có tầm quan trọng chiến lược về chính trị, kinh tế, quân sự đối với cả nước trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược cũng như trong hòa bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nhưng còn ít người biết đến việc bộ sách "Đường 5 anh dứng quật khởi" đã xuất bản được 12 tập mà tác giả của bộ sách là những cựu chiến binh ở tuổi 70 - 80, là nhân chứng một thời, thầm lặng lao động trong gần 7 năm liền (1996 - 2002).


Ban liên lạc đồng đội Tỉnh đội Hải Hưng (Hải Dương - Hưng Yên) tại Hải Phòng mà các hội viên đều là những nhân chứng lịch sử trên đường số 5 oai hùng xưa, muốn làm một việc gì đó góp phần xây dựng truyền thống quê hương và để đền ơn đáp nghĩa với những người đã hy sinh trên mặt trận đường 5. Các hội viên trong Ban liên lạc đã đề xuất, họp bàn và tổ chức viết về lịch sử đường 5 qua hơn 5 thập kỷ đáng ghi nhớ. Năm 1995, Ban liên lạc đồng đội Tỉnh đội Hải Hưng mà tổ trung tâm chỉ có 3 người là đại tá Võ An Đông, đại tá Đào Ngọc Quế và ông Nguyễn Huy Trường cùng các cộng tác viên đã tích cực đảm bảo lo liệu, biên soạn rồi phát hành với phương châm lấy sách nuôi sách.


Ban đầu Ban liên lạc rất lo lắng về đầu ra cho sách, rồi cơ quan bảo trợ cho việc xuất bản? Thế rồi mọi lo lắng của các cụ được thu xếp ổn thỏa. Trước hết là Hội Khoa học lịch sử Hải Phòng mà trực tiếp là Chủ tịch Ngô Đăng Lợi đã tán thành bảo trợ. Lại được Ban giám đốc Nhà xuất bản Hải Phòng nhiệt tình ủng hộ, tạo điều kiện xin phép xuất bản, kiểm chứng nội dung. Cuốn "Đường 5 anh dũng quật khởi" tập 1 được xuất bản vào quý 4-1996. Từ đó đến nay đã xuất bản được 12 tập (tới tháng 5-2003 đã xuất bản được 14 tập), bình quân mỗi năm xuất bản 2 tập, với gần 200 trang in mỗi tập. Điều đáng mừng là bộ sách đă thu hút được nhiều người viết trong gần 7 năm liền về lịch sử, cuộc sống chiến đấu của nhân dân dọc con đường nổi tiếng này. Và đáng mừng nữa là, 4 tập đầu đã tái bản lần 1, riêng tập 1 đã tái bản lần 2, có tập in tới 2.800 cuốn.


Để đảm bảo đủ điều kiện cho 12 tập sách ra đời, ngoài sự ùng hộ của các cơ quan chức năng, tổ biên soạn và mạng lưới cộng tác viên chia nhau đi khắp các vùng quê thuộc các tỉnh, thành phố dọc đường 5, vừa để động viên các nhân chứng viết bài, vừa để vận động cơ quan, đơn vị kể cả các cá nhân ủng hộ, chủ yếu bằng cách mua sách. Tiền thu từ bán tập sách này dùng để in tập tiếp theo. Thật là quý khi tập 1 đang in chưa đủ kinh phí thì được ông Đặng Vân Cảo, lúc đó là Phó bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng thay mặt Ban thường vụ Tỉnh ủy ứng hộ 5 triệu đồng. Nhiều cơ quan xí nghiệp ủng hộ 500.000 đồng đến 10 triệu đồng và cứ thế, dần dần kinh phí đủ cho 12 tập ra đời. Nhiều tác giả có bài viết đã ùng hộ tiền nhuận bút của mình vào quỹ xuất bản bộ sách như Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, ông Nguyễn Văn Kha... Có nhiều đơn vị vừa tài trợ vừa mua sách, vừa tham gia viết bài về đơn vị mình. Rồi những nhà kinh doanh từng là cựu chiến binh hoặc con em các chiến sĩ cũ đường 5 đang điều hành sản xuất ở các doanh nghiệp đã trân trọng cha anh mình và dành phần tài trợ để bộ sách được in ấn, ra mắt bạn đọc. Với tính chất tập họp hồi ký của các nhân chứng lịch sử, bộ sách chưa thể hệ thống hóa các sự kiện theo thời gian và địa bàn như các bộ sử chính thống, nhưng là tư liệu quý cho các nhà khoa học, các nhà sử học nghiên cứu, phân tích chọn lọc.


Càng trận trọng hơn khi các tác giả của bộ sách là những cựu chiến binh tuổi xưa nay hiếm, đơn giản chỉ muốn kể lại để thế hệ trẻ hiểu thêm truyền thống đánh giặc giữ nước của quê hương. Những tư liệu đúc kết của đồng đội và chính họ góp phần làm tái hiện nên bức tranh toàn cảnh cuộc chiến tranh, khơi dậy lòng tự hào cho lớp người đã trải qua cuộc chiến khốc liệt và mài mãi cho thế hệ sau. Nếu không có cái tâm của những con người đối với lịch sử đường 5, kể chuyện về đường 5 thì biết bao tư liệu, sự kiện về đường 5 sẽ cứ lặng lẽ trôi vào dĩ vãng... Bởi quỹ thời gian của những người lính già đầu bạc không còn nhiều và không ai có thể viết thay họ được. Góp phần quan trọng vào thành công của bộ sách trước hết là Đại tá Võ An Đông. Quê ông ở Hà Đông, nhưng ông sống chiến đấu và gắn bó với mảnh đất Hưng Yên. Ông từng là Tỉnh đội trưởng Hưng Yên từ những năm 50 của thế kỷ 20 đầy gian khổ, rồi Tư lệnh Bộ tư lệnh 350 (Hải Phòng), mặc dù đã 80 tuổi nhưng ông vẫn sốt sắng, dẻo dai đi lại các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng tìm bạn chiến đấu cũ, tìm lại quá khứ anh hùng với trách nhiệm chủ biên của bộ sách. Ông Nguyễn Huy Trường quê Kim Thành, Hải Dương, nguyên là đội trưởng giao thông chiến S20, "Vua mìn" ở mặt trận Tứ Kỳ, Cẩm Giàng, Kim Thành (Hải Dương), mặc dủ đã ở tuổi "thất thập cổ lai hy" nhưng vẫn nhiệt tình lặn lội đi tìm đồng đội và những di tích xưa để lấy tư liệu và vận động đồng đội viết bài. Rồi đại tá Đào Ngọc Quế, nguyên là Chánh án Tòa án quân sự Quân khu 3, Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, mặc dù đã ngoài 70 tuổi nhưng trong ông còn nhớ mãi trận đánh nổi tiếng ở căn cứ Vân Trì, Khoái Châu (Hung Yên). Người chiến sĩ xuất thần trong các động tác tiềm nhập cứ điểm gỡ mìn, cắt hàng rào năm xưa, nay lại đặc trách đầu ra cho bộ sách. Và trong 12 tập sách đã hội tụ được gần 200 tác giả không chuyên với gần 400 bải viết.


12 tập sách "Đường 5 anh dũng quật khởi" ra đời đã nhận được sự cô vũ của đông đảo bạn đọc, đây là nguồn động viên rất lớn để những người lính già đầu bạc làm tiếp những tập sau, để viết được nhiều hơn, nói được nhiều hơn về đồng đội, về đơn vị mình trong những năm chiến đấu xưa. Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng những trang viết về lịch sử đường 5 còn mãi với thời gian. Bộ sách là một tập hợp những tư liệu để giáo dục truyền thống - một nội dung quan trọng của nhiệm vụ giáo dục quốc phòng. Mô hình làm sách "Đường 5 anh dũng quật khởi" đáng được trân trọng và nhân rộng.

NGUYỄN ÁI


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 14
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 31 Tháng Mười, 2022, 09:36:19 pm
NHỮNG CỰU CHIẾN BINH VIẾT LỊCH SỬ QUÂN SỰ


Giữa bộn bề công việc của cuộc sống hôm nay, nhiều người lo làm ăn kiếm sống, làm giàu hoặc an phận, hường thụ, vui thú tuổi già, nhưng có một số người đã nghỉ hưu vẫn tâm huyết với công việc, sưu tầm, nghiên cứu biên soạn lịch sử và truyền bá kiến thức lịch sử trong nhân dân. Họ tình nguyện dành thời gian, công sức, tiền cúa cho công việc âm thầm lặng lẽ này. Dó là hơn 40 cán bộ quân đội tuổi từ 65 - 80, hội viên Chi hội lịch sử quân sự, thuộc Hội khoa học lịch sử Hải Phòng - những nhân chứng lịch sử một thời trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước.


Đi tiên phong trong số họ lả đại tá Võ An Đông 82 tuổi, nguyên Thành đội trưởng Hải Phòng qua nhiều thời kỳ, một trong những người tổ chức, xây dựng và duy trì mọi hoạt động của chi hội. Ông đã viết hàng chục hồi ký, bút ký lịch sử quân sự về cuộc chiến đấu anh hùng của quân dân Hải Phòng, quân dân khu Tả Ngạn sông Hồng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ông còn vận động hàng trăm nhân chứng lịch sử trong và ngoài thành phố tham gia viết hồi ký cho bộ sách "Đường 5 anh dũng quật khởi", dự kiến 10 tập, đã xuất bản 13 tập và ông là trường ban biên tập. Ông Nguyễn Đức Nhiếp 73 tuổi, nguyên chiến sĩ đoàn tự vệ Hải An năm xưa đã dày công tìm tài liệu biên soạn và tự lo kinh phí xuất bản cuốn sách "Lịch sử đoàn tự vệ chiến đấu Hải An'' (1945 - 1955). Ông Vũ Văn Sửu 75 tuổi, người trực tiếp tham gia chiến đấu ở nội thành Hải Phòng khi thực dân Pháp gây ra sự kiện "20-11-1946", tuy bị bệnh cao huyết áp, sức khỏe yếu nhưng ông vẫn cố gắng viết một tiểu công trình, và cả bản đồ minh họa, xác định rõ 14 tiểu khu chiến đấu, tên người chỉ huy từng tiểu khu ở nội thánh Hải Phòng trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (chứ không phải 11 hay 13 tiểu khu như một số sách đã viết) để tư vấn cho Bảo tàng Hải Phòng. Các ông Hoàng Minh, Vũ Long Vân, Trần Văn Khánh, Đàm Minh... viết nhiều chuyên đề, cung cấp cả nhân chứng, vật chứng về một số sự kiện, nhân vật lịch sử quan trọng của Hải Phòng, Quân khu 3, trong một sô cuộc hội thảo khoa học được giới sử học đánh giá cao. Các ông Nguyền Đức Hòe, Đoàn Nhâm, Vũ Sửu còn là những báo cáo viên thời sự, phổ biến kiến thức lịch sử, kể chuyện chiến đấu cho hội viên và nhân dân.


Những năm qua, khắc phục khó khăn về kinh phi, chi hội đã tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa thiết thực. Nổi bật nhất là những cuộc hội thảo khoa học về "Ngày Hải Phòng giải phóng", "Tưởng niệm liệt sĩ Dương Hữu Miên, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn", "Chống phong tỏa sông biển vùng Hải Phòng" và xuất bản tập kỷ yếu về sự kiện này, hội thảo nhân kỷ niệm 40 năm, 50 năm chiến thắng Cát Bi, tổ chức cho hội viên thăm quan, giao lưu lịch sử, qua đó tư vấn đóng góp tư liệu, hiện vật xây dựng Bảo tàng Hải Phòng, bảo tàng Hải quân, nhà truyền thống LLVT Hải Phòng. Bằng phương pháp giám định khoa học và phản biện, với những luận cứ vững chắc, chi hội đã tư vấn cho Bộ CHQS thành phố lấy ngày 20-11-1946 là ngày truyền thống LLVT Hải Phòng và đã được Bộ Tư lệnh Quân khu Ba chấp nhận; tư vấn cho lãnh đạo thành phố gắn biển di tích lịch sử ở Nhà hát thành phố, Bưu điện Hải Phòng, Nhà ga Hải Phòng và đang đề nghị gắn biển di tích lịch sử Bến Nghiêng (Đồ Sơn), là những địa danh ghi dấu nhưng chiến công oanh liệt của quân dân Hải Phòng trong các cuộc chiến đấu chống xâm lược. Các hội viên còn tích cực vận động nhân dân tham gia sưu tầm và bảo tồn di tích, di vật lịch sử, nghiên cứu biên soạn lịch sử của nhiều địa phương và các ngành; đóng góp xây dựng tượng đài Nguyễn Bình, Nguyễn Văn Tố...


Tự nguyện nhưng say sưa và nghiêm túc, trung thực, khách quan, tự tìm ra việc, tự trang trải tài chính, phấn đấu đóng góp nhiều nhất cho sự nghiệp khoa học lịch sử thành phố; góp phần giáo dục lịch sử, xây dựng lòng tự hào dân tộc, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước trong nhân dân, đó lả phẩm chất của mỗi hội viên, là phương châm, mục tiêu hoạt động của Chi hội lịch sử quân sự Hải Phòng.

MINH NGỌC


Ghi chú: Bến Nghiêng đã được thành phố gắn biển rồi. Chi hội LSQS đang đề nghị gắn biển di tích "Cầu tàu Đồ Sơn" là điểm xuất phát của "Đường mòn Hồ Chi Minh trên biển".