Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: quansuvn trong 27 Tháng Bảy, 2021, 07:16:30 pm



Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Bảy, 2021, 07:16:30 pm
Tên sách: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312 - 1945 - 1949
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2001
Số hoá: ptlinh, quansuvn


Ban chỉ đạo:
   - Trung tướng PHAN TRUNG KIÊN (Trưởng ban)
   - Thiếu tướng LÊ THÀNH TÂM (Ủy viên)
   - Trung tướng TS. NGUYỄN THỚI BƯNG (Ủy viên)
   - Thiếu tưởng TỘ KÝ (Ủy viên)
   - Đại tá ĐINH VĂN HUỆ (Thư ký công trình)

Người viết:
   - Thượng tá TS. HỒ SƠN ĐÀI (chủ biên, chương kết luận)
   - Thượng tá HỒ SĨ THÀNH (chương mở đầu, chương một)
   - Đại tá TRẦN PHẤN CHẤN (chương hai, chương ba)

Tư liệu:
   - Đại tá NGUYỄN VĂN LAI
   - Thiếu tướng CAO LONG HỶ
 

LỜI GIỚI THIỆU


Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, về sau phát triển thành Chi đội 12, rồi Trung đoàn 312 là đơn vị võ trang cách mạng được thành lập rất sớm ở miền Đông Nam Bộ từ sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công. Thành phần tham gia Giải phóng quân đa số là thanh niên nông dân ngoại thành phía bắc, tây bắc Sài Gòn, giàu lòng yêu nước và ý chí đấu tranh giành độc lập dân tộc. Điều đặc biệt là, Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa được đồng chí Lê Duẩn chỉ đạo xây dựng ngay từ đầu và có đội ngũ cán bộ lãnh đạo chí huy gồm toàn những đảng viên kỳ cựu, những cán bộ cốt cán từng được trui rèn trong quả trình vận động cách mạng 1930-1945, trong các nhà tù đế quốc Côn Đảo, Bà Rá, Tà Lài, có bản lĩnh kinh nghiệm hoạt động cách mạng và uy tín cá nhân cao. Vì vậy ngay từ những ngày đầu thành lập, đơn vị đã tập hợp được đông đảo thanh niên địa phương từ các huyện thuộc tỉnh Gia Định, tỉnh Chợ Lớn và công nhân, học sinh, trí thức từ thành phố Sài Gòn.


Tồn tại trong vong bốn năm (11-1945 - 11-1949), Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, Chi đội 12, Trung đoàn 312 đã lập được nhiều thành tích xuất sắc trên các mặt trận phục vụ kháng chiến, bám trụ giữ vững địa bàn, làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh nhân dân phát triển trên một hướng chiến lược vùng ven đô, xây dựng cơ sở chính trị, cơ sở kinh tế kháng chiến từ bên ngoài vào đến nội đô Sài Gòn, xây dựng và bảo vệ căn cứ địa và hành lang vận tải liên lạc cho Nam Bộ, cho Khu 7, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn và tỉnh Gia Định. Trong vô vàn gian khổ ác liệt, các thế hệ cán bộ chiến sĩ của đơn vị vẫn một mực trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, bền bỉ và dũng cảm chiến đấu, công tác, góp phần xây tạo nên những truyền thống vẻ vang của đơn vị, của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.


Sau ngày Trung đoàn 312 được sắp xếp lại trong các tổ chức đơn vị mới (11-1949), cán bộ chiến sĩ của đơn vị vẫn hăng hái tiếp tục chiến đấu, công tác và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trên cương vị mới, góp phần đắc lực vào sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhiều cán bộ, chiến sĩ của Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa năm xưa, nay đã trưởng thành, trở thành những cán bộ cao cấp, những tướng lĩnh trong bộ máy tổ chức của Đảng, Nhà nước và Quân đội.


Từ trước đến nay, lịch sử xây dựng, công tác và chiến đấu của Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, Chi đội 12, Trung đoàn 312 mới chỉ được đề cập rải rác, cục bộ trong các công trình tổng kết chiến tranh, biên soạn lịch sử quân sự của Quân khu 7 và các địa phương thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Chưa có một công trình lịch sử nào nghiên cứu trình bày một cách hệ thống, toàn diện quá trình hình thành, phát triển của đơn vị trên tất cả các mặt xây dựng, chiến đấu, công tác và xuyên suốt các giai đoạn lịch sử. Trong khi đó, tư liệu thành văn (gốc) còn lại không nhiều, tư liệu trí nhớ (nhân chứng lịch sử) đang ngày càng mai một đi.


Việc nghiên cứu biên soạn cuốn “Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, Chi đội 12, Trung đoàn 312 (1945-1949)” trước hết nhằm đáp ứng nguyện vọng tha thiết của đông đảo cựu chiến binh và thân nhân các cán bộ, chiến sĩ của đơn vị, của cố Thiếu tướng Tô Ký, vị chỉ huy, người Anh Cả kính mến của Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa; để ghi nhớ công ơn những người đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc; để góp phần giáo dục lịch sử truyền thống cho thế hệ trẻ; và sau cùng, để qua đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cho nhiệm vụ xây dựng lực lượng võ trang, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện lịch sử hiện nay.


Trong thời gian chưa đầy một năm, bộ phận nghiên cứu biên soạn đã cố gắng sưu tầm gom góp tư liệu, đối chiếu thẩm định từ nhiều nguồn lưu trữ khác nhau, bước đầu trình bày một cách hệ thống và tương đối đầy đủ quá trình lịch sử xây dựng, chiến đấu và công tác của đơn vị. Tuy nhiên, vì những lý do nằm ngoài nỗ lực chủ quan của những người nghiên cứu biên soạn, chắc chắn cuốn sách còn thiếu nhiều chi tiết cần được tiếp tục bổ sung hoặc một số chi tiết cần được chỉnh lý hoàn thiện thêm. Dù sao, đây cũng là một công trình nghiên cứu lịch sử được thực hiện công phu, có sự góp sức của nhiều nhân chứng lịch sử, và về cơ bản, đáp ứng được những yêu cầu cần có đối với một đề tài khoa học lịch sử quân sự.


Với ý nghĩa ấy, tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn “Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, Chi đội 12, Trung đoàn 312 (1945-1949)” cùng đông đảo bạn đọc.


Tháng 9 năm 2000
Trung tướng PHAN TRUNG KIÊN
ỦY VIÊN TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
TƯ LỆNH QUÂN KHU 7


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Bảy, 2021, 07:53:48 pm
Chương mở đầu
CHIẾN TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG CỦA GIẢI PHÓNG QUÂN
HÓC MÔN - BÀ ĐIỂM - ĐỨC HÒA


Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa là địa danh thuộc hai tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, nằm ở trung tâm miền Đông Nam Bộ.


Miền Đông Nam Bộ là cụm danh từ chỉ vùng đất phía đông của Nam Bộ, gồm Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh (theo sự phân chia địa lý hành chính năm 1945).


Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), miền Đông Nam Bộ là chiến trường trọng điểm của Nam Bộ, được tổ chức thành hai khu: Khu 7 và khu Sài Gòn - Chợ Lớn.

Tỉnh Gia Định nằm trong khu Sài Gòn - Chợ Lớn, án ngữ một địa bàn quan trọng bao quanh thành phố Sài Gòn từ các mặt tây bắc, bắc, đông và đông nam, gồm các quận Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức, Nhà Bè; nằm trên vùng đất miền Đông Nam Bộ, nơi ra đời của Giải phóng quân liên quận Hóc Món - Bà Điểm (thuộc tỉnh Gia Định) và Đức Hòa (thuộc tỉnh Chợ Lớn).


Hóc Môn là một trong bốn quận của tỉnh Gia Định (Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức, Nhà Bè), nằm về phía tây bắc thành phố Sài Gòn, cách trung tâm thành phố 20km.

Suốt dọc chiều dài phía đông của Hóc Môn1 (Ngày nay Hóc Môn chia thành huyện Củ Chi, Hóc Môn và quận 12) là sông Sài Gòn, dài 17 km, làm ranh giới tự nhiên giữa hai quận: Hóc Môn và Thuận An2 (Ngày nay Thuận An bao gồm các quận Lái Thiêu, Dĩ An (Thủ Dầu Một)) (Bình Dương). Ngoài ra còn có nhiều sông rạch nhỏ với các hệ thống kinh mương chằng chịt khắp huyện như: rạch Bến Cát, rạch Bà Hồng, Rạch Tra, kinh cầu Xáng từ Rạch Tra chảy qua cầu Bông đến cầu An Hạ (Đức Hòa - Long An). Sông ngòi trong quận chiếm 1/3 đất đai, bồi đắp phù sa cho những ruộng vườn dọc ven sông bôn mùa đều có hoa quả xanh tươi màu mỡ. Trong quá trình cách mạng, việc qua lại bằng giao thông thủy đã đóng góp lớn cho các cuộc kháng chiến chống xâm lược, của địa phương.


Hóc Môn có các tuyến đường bộ quan trọng như quốc lộ 1 cũ (nay là quốc lộ 22), xuất phát từ thành phố đi Tây Ninh sang Cam-pu-chia. Tỉnh lộ 15 từ tỉnh lỵ Gia Định (nay là quận Bình Thạnh) chạy qua Hóc Môn 7 km, từ cầu Đông Hưng Thuận (Chợ cầu) đến cầu Xáng lên các xã, huyện Củ Chi. Các tỉnh lộ 9, 14, 16, hương lộ 1, hương lộ 12 chia ngang xẻ dọc khắp các xã trong huyện và sang các huyện bạn thuộc các tỉnh Long An, Tây Ninh, Bình Dương... Do giao thông thủy bộ thuận lợi nên việc tiếp xúc giữa huyện với thành phố và các tỉnh bạn dễ dàng, nhanh chóng.


Huyện Hóc Môn nằm trên vành đai ngoại ô của thành phố Sài Gòn, là một địa bàn giao thông chuyển tiếp quan trọng cho việc giao lưu hàng hóa, việc tiếp xúc mọi hoạt động của thành phố về quân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội với các tỉnh bạn.


Hóc Môn chia làm ba vùng: Vùng đất gò, vùng đất triền và vùng đất trũng. Vùng đất gò và vùng đất triền gồm các xã xung quanh thị trấn. Hai vùng này có nhiều ruộng lúa, hoa màu, vườn trầu, tre trúc, và vườn cao su... Vùng trũng ven sông Sài Gòn chạy suốt dọc phần đất phía đông bắc với nhiều sông rạch chi chít. Đất đai khá phì nhiêu, màu mỡ, có nhiều ruộng lúa, mía, vườn cây ăn quả... Địa hình rất thuận lợi cho hoạt động cách mạng nên đã từng được chọn làm nơi đặt cơ quan đầu não của các đồng chí Trung ương, Xứ ủy, Tỉnh ủy Gia Định, lấy nơi đây làm cơ sở cho hoạt động cách mạng chỉ đạo chung cho thành phố và các tỉnh. Nơi đây, năm 1930 cũng đã có những chi bộ Đảng đầu tiên thuộc Đảng bộ huyện Hóc Môn ra đời và không ngừng phát triển.


Từ năm 1950 trở về trước, Hóc Môn (gồm cả quận 12 và huyện Củ Chi ngày nay) có 4 tổng và 25 xã, là một trong bốn quận của tỉnh Gia Định cũ. Phía bắc quận (Củ Chi hiện nay) là vùng đất cao, có nhiều rừng rộng hàng trăm héc ta trải dài tiếp giáp với các huyện Trảng Bàng (Tây Ninh), Bến Cát (Bình Dương), nối liền Hóc Môn với các căn cứ kháng chiến lớn nổi tiếng của nghĩa quân thời chống Pháp như vùng bưng. Từ Vườn Điều (Xuân Thới Sơn), có thể nối với bưng Tràm Lạc (Mỹ Hạnh - Đức Hòa), vượt sông Vàm Cỏ Đông rồi xuống tận Đồng Tháp Mười, về phía tây có vùng bưng Xuân Thới Tây, Xuân Thới Thượng, Tân Thới Nhứt tiếp giáp vùng Gò Mây, Vĩnh Lộc (Bình Chánh), có nhiều rừng cây thấp mênh mông như giồng Bằng Lăng nổi tiếng. Vùng rừng từ Tân An Hội chạy dài đến Truông Mít, tiếp cận vùng núi Bà Đen (Tây Ninh) và biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia. Những cánh rừng này là nguồn lợi đáng kể bị bọn thực dân Pháp độc chiếm chuyển thành những rừng cao su để thu lợi. Các khu rừng trên đây, ngày xưa là nơi trú ẩn hoạt động của nghĩa quân Trương Định rồi Trương Quyền để chống quân xâm lược Pháp. Sau khi Trương Định rút về Gò Công thì một bộ phận nghĩa quân Hóc Món, Củ Chi, Bến Cát rút về lập căn cứ ở núi Cậu; sau đó bị bọn phản bội dẫn quân Pháp ở Thủ Dầu Một lên tấn công. Năm 1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, các chiến sĩ cộng sản đã rút về đây để củng cố lực lượng chiến đấu. Trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, các vùng rừng này là những căn cứ địa vững chắc của quân, dân tỉnh Gia Định. Ở phía đông, vượt sông Sài Gòn là sang địa phận huyện Thuận An và Bến Cát của Bình Dương, nối liền Hóc Môn với các căn cứ kháng chiến hiểm trở nổi tiếng ở miền Đông Nam Bộ như chiến khu Bời Lời, Dương Minh Châu (Tây Ninh), chiến khu Đ (Đồng Nai), chiến khu Long Nguyên (Thủ Dầu Một).


Có thể nói huyện Hóc Môn kết hợp với các huyện Gò Vấp, Đức Hòa, Trảng Bàng, Bến Cát, Bình Chánh... tạo thành một khu vực chiến lược có tầm quan trọng sống còn đối với lực lượng cách mạng, tiên thoái đều thuận lợi1 (Căn cứ 4 xã Bình Mỹ, Bình Lý, Tân Mỹ, Đông Thạnh (hai bên Rạch Tra) và một phần làng Tân Thới Tam, Tân Thới Tứ, Tân Hiệp, Xuân Thới Sơn. Riêng xã Tân Xuân xây dựng được xã chiến đấu có địa đạo, có hàng rào sát quốc lộ 1, cách giếng nước Tân Thới Nhì 500m). Vì thế nên Hóc Môn còn được gọi là “vành đai đỏ” trong thời kỳ bí mật chống thực dân Pháp ở vùng ngoại vi Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 28 Tháng Bảy, 2021, 07:54:57 pm
Dân cư Hóc Môn mang những nét bản chất của người dân Nam Bộ. Họ là những người nông dân Việt Nam từ các miền Trung, Bắc, vì không chịu nổi áp bức bóc lột của bọn phong kiến Trịnh, Nguyễn, vì nghèo đói cơ cực quá không sống nổi nên đã rời bỏ quê hương di chuyển vào phương Nam tìm vùng đất mới để tạo dựng cuộc sống tự do, no ấm.


Người dân Hóc Môn xưa đã phải lao động gian khổ chống các thú dữ, chống với thiên nhiên khắc nghiệt, ra sức khai phá các rừng rậm, bãi hoang, chịu khó trồng tỉa, chăn nuôi, tạo những vùng đất hoang vu này trở thành những vùng đất canh tác màu mỡ.


Người dân sống chủ yếu là nghề nông, trồng lúa khoai và hoa màu rồi dần dần phát triển trồng cây ăn quả, đặc biệt là trồng trầu cau thành những vườn xanh tốt.

Bà Điểm nằm trong xã Tân Thới Nhứt quận Gò Vấp xưa. Bà Điểm lại ở sát cánh với huyện Hóc Môn, thuộc phần đất của 18 thôn Vườn Trầu, về địa lý hành chính liên quan mật thiết với Hóc Môn, nằm sát nách Sài Gòn, là cửa ngõ ra vào thành phố về phía tây bắc. Bà Điểm, Hóc Môn thuộc tỉnh Gia Định. Đầu thế kỷ XIX, đời vua Minh Mạng triều Nguyễn, Hóc Môn - Bà Điểm được gọi chung là 18 thôn Vườn Trầu. Khi đó 18 thôn Vườn Trầu phần lớn nằm trên đất Hóc Môn - Gò Vấp - Đức Hòa, dân cư trù phú, có nhiều vườn trầu, và nơi đây cũng trở thành vùng chuyên canh trồng trầu, cau.


Lịch sử 18 thôn Vườn Trầu gắn liền với sự phát triển vùng Sài Gòn, (tức Bến Nghé) của người Việt. Khi hình thành 18 thôn Vườn Trầu thì xung quanh vùng này còn là rừng rậm, có nhiều cọp beo nên đã nổi tiếng là “cọp dữ như cọp Vườn Trầu” và rất nhiều thú dữ khác.


Khi nói về lịch sử đấu tranh ngày xưa, Bà Điểm (có thời là quận Bà Điểm) thường được gọi chung với quận Hóc Môn trong tên gọi Mười tám thôn Vườn Trầu.

Quận Đức Hòa là địa phương thứ ba trong các địa phương hình thành liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa. Làng Mỹ Hạnh quận Đức Hòa là nơi diễn ra lễ ra mắt của Giải phóng quân liên quận.

Quận Đức Hòa trước năm 1945 là một trong bốn quận của tỉnh Chợ Lớn (gồm Cần Giuộc, Thủ Thừa, Đức Hòa, Trung Quận).

Tháng 10 năm 1945, khi Nam Bộ chia thành ba khu, thì tỉnh Chợ Lớn thuộc Khu 7 và Đức Hòa là một trong bốn quận của tỉnh Chợ Lớn (Đức Hòa, Trung Quận, Cần Giuộc và Cần Đước).

Ngày nay huyện Đức Hòa là một trong 14 huyện, thị của tỉnh Long An. Trung tâm Đức Hòa cách Tân An khoảng 40 km về hướng bắc, cách Sài Gòn 30 km về hướng tây.

Phía bắc Đức Hòa giáp huyện Củ Chi, Trảng Bàng (Tây Ninh), phía đông giáp huyện Hóc Môn, Bình Chánh (thành phố Hồ Chí Minh), phía nam giáp huyện Bến Lức, phía tây là sông Vàm Cỏ Đông và giáp huyện Đức Huệ của tỉnh Long An.


Địa hình Đức Hòa chia làm 3 khu vực: phía tây, giáp sông Vàm Cỏ dáng đất thấp, nhiều khu vực lầy lội và nhiều kênh rạch nhỏ. Ở giữa là vùng đất “giồng” tương đối cao ráo có nhiều làng mạc với các lũy tre xanh bao bọc, phía đông bắc là vùng đất thấp giáp thành phố Hồ Chí Minh.


Nhìn chung, địa hình địa thế Đức Hòa mang nhiều tính chất của đồng bằng miền Đông Nam Bộ, có pha trộn một số nét của đồng bằng Tây Nam Bộ.

Giao thông thủy ở Đức Hòa khá thuận lợi với sông Vàm Cỏ khá lớn chạy dọc suốt chiều dài của huyện và nhiều kênh rạch nhỏ hơn từ đó chạy sâu vào các cánh đồng, vừa dẫn nước tưới tiêu vừa là đường vận chuyển khá tốt bằng xuồng ghe.


Giao thông đường bộ ở Đức Hòa khá phát triển với trục lộ số 10 chạy giữa trung tâm và suốt chiều dài huyện. Đức Hòa còn có lộ số 6, lộ số 7 số 8 số 9 cắt ngang lộ số 10 và cách nhau tương đối đều tạo thành một mạng lưới giao thông khá cân đối trên tất cả các vùng của huyện. Lộ số 9 nối với lộ số 31 thông ra quốc lộ số 1A.


Đức Hòa có mối giao lưu kinh tế - xã hội tương đối rộng rãi trong vùng. Nhiều người dân Đức Hòa có mối thân tộc với dân ở Hóc Môn, Tân Bình, Bình Chánh, Củ Chi thành phố Hồ Chí Minh.

Như vậy, xét về mặt địa lý hành chính, Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa đều là những vùng đất của miền Đông Nam Bộ. Ba địa phương ở gần sát bên nhau, sát nách trung tâm Sài Gòn, cách Sài Gòn 20 đến 30 km. Hóc Môn - Bà Điểm nằm ở hướng bắc, Đức Hòa cách Sài Gòn 30 km về hướng tây.


Từ Hóc Môn - Bà Điểm đến Đức Hòa có thể đi bằng đường bộ, (lộ 10, lộ 8, lộ 9, lộ 7) và có đường liên tỉnh lộ thông ra quốc lộ số 1 bằng đường thủy từ Hóc Môn - Bà Điểm nhờ sông Sài Gòn chảy qua cầu Bông đến cầu An Hạ. Từ Đức Hòa, theo sông Vàm Cỏ có thể vận chuyển bằng xuồng ghe đến các huyện bạn một cách dễ dàng, nhanh chóng.


Về đặc điểm địa lý quân sự, do đặc điểm địa lý hành chính sát nách Sài Gòn, lại có những điều kiện thuận lợi về mặt hành chính, đi lại thuận lợi dễ dàng bằng các loại phương tiện thủy, bộ... nên Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa là những địa bàn quan trọng cho hoạt động cách mạng sau này.


Cư dân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa mang đặc điểm truyền thống của nhân dân Nam Bộ. Họ đều là những người dân từ Bắc, Trung di cư vào Nam để tránh cuộc phân tranh đẫm máu giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn (thế kỷ thứ XVI). Những người dân tha phương đã đoàn kết với nhau vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên, đấu tranh với thú dữ, và chiến đấu chống bệnh tật, có truyền thống yêu thương nhau “lá lành đùm lá rách” để sống và tồn tại. Trong cuộc sống họ đã từng đoàn kết bên nhau chống lại kẻ thù.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Bảy, 2021, 07:27:05 pm
Nhân dân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa vốn có truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh anh dũng chống kẻ thù xâm lược.

Từ năm 1859, quân xâm lược Pháp nổ súng lần đầu tiên tiến công thành Gia Định. Nhân dân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa gia nhập nghĩa quân do những người yêu nước chiêu mộ, tiêu biểu nhất là nghĩa quân do Trương Định lãnh đạo, đã đánh địch ngay tại trung tâm Gia Định. Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa là những căn cứ của quân nổi dậy; giúp nghĩa quân Trương Định đánh tan đồn Thuận Kiều.


Sau đó, nhân dân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa tiếp tục ủng hộ các cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Anh Thủ (1871) và Phan Công Hớn (1885) lãnh đạo.

Từ đầu thế kỷ XX, những tư tưởng cách mạng cấp tiến đã bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam. Do vị trí sát Sài Gòn và có địa thế lợi hại nên Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa trở thành địa bàn hoạt động khá mạnh của các nhóm và các tổ chức có tư tưởng tiến bộ. Tổ chức đầu tiên có tinh thần yêu nước hoạt động ở Gia Định - Chợ Lớn là hội kín Phan Xích Long lây tên là “Thiên Địa Hội”. Tổ chức này đã tập hợp khá rộng rãi những người nông dân yêu nước chống thực dân Pháp.


Đêm ngày 23 tháng 3 năm 1913, nghĩa quân vùng ngoại thành Hóc Môn - Bà Điểm cùng các tỉnh lân cận đột nhập vào nội thành tiến công một số cơ sở của Pháp như Sở thanh tra, Khám lớn Sài Gòn...

Đêm ngày 14 tháng 2 năm 1916 nghĩa quân dự kiến tiến công dinh thống đốc Nam Kỳ, Khám lớn Sài Gòn giải thoát cho Phan Xích Long nhưng kế hoạch bại lộ, bị đàn áp dữ dội và tan rã.

Năm 1925, nhà trí thức yêu nước Nguyễn An Ninh về nước để tuyên truyền tư tưởng cách mạng, ông đã chọn ngay Đức Hòa làm địa bàn hoạt động của mình. Nguyễn An Ninh đã gặp những người yêu nước ở Thiên Địa Hội. Những buổi lễ “trích máu ăn thề”, “kết nghĩa huynh đệ” của ông với những người yêu nước đã diễn ra ở Đức Hòa.


Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa cũng là nơi diễn ra mạnh mẽ phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh, đòi thả cụ Phan Bội Châu (1926)... là địa bàn hoạt động quan trọng của hội kín Nguyền An Ninh (1926 - 1929).


Có thể nói các phong trào trước khi có Đảng lãnh đạo đã diễn ra mạnh mẽ ở tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, trong đó nổi bật ở các huyện Đức Hòa (Chợ Lớn) và Hóc Môn - Bà Điểm (Gia Định). Các phong trào yêu nước đã khơi sâu lòng căm thù sâu sắc đối với thực dân Pháp và tay sai, khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân dân, tạo nên những tiền đề hết sức thuận lợi cho việc tập hợp, tổ chức quần chúng nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc.


Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ ở Gia Định, Chợ Lớn và các địa bàn miền Đông Nam Bộ. Đức Hòa là một trong những nơi ra đời các chi bộ Đảng đầu tiên ở Nam Bộ và trở thành căn cứ và nơi hoạt động của Xứ ủy. Ở Hóc Môn - Bà Điểm nổi lên cuộc đấu tranh chống sưu thuế của nông dân (tháng 6 năm 1930)... đã làm cho kẻ thù hoảng sợ. Ngày 4 tháng 6 năm 1930, 2000 công nhân Đức Hòa biểu tình đòi thực dân Pháp giảm sưu thuế, không được áp bức công nhân (do đồng chí Châu Văn Liêm, Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn lãnh đạo).


Ngày 1 tháng 8 năm 1930, Đảng bộ Gia Định chủ trương một cuộc đấu tranh bằng đồng khởi ở hai quận Hóc Môn - Bà Điểm. Từ đây, nhân dân Hóc Môn - Bà Điểm càng thêm khăng khít bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.


Sang đầu năm 1931, phong trào đấu tranh của quần chúng ở vùng nông thôn Hóc Môn - Bà Điểm - Gò Vấp vẫn diễn ra sôi nổi.

Từ những năm 1930-1931, phong trào đấu tranh của nhân dân Gia Định - Chợ Lớn lên rất cao, nhất là vùng Hóc Môn - Bà Điểm (Gò Vấp), Đức Hòa, các tổ chức Đảng phát triển nhiều đảng viên, cơ sở quần chúng ở địa phương như Nông hội đỏ càng tập trung thêm nhiều nông dân tích cực, quần chúng rất tin tưởng vào sức mạnh của Đảng, qua đó cơ sở quần chúng của Đảng được phát triển lan ra khắp vùng.


Cao trào 1932-1935, tình hình địa phương Hóc Môn - Bà Điểm rất căng thẳng, đế quốc Pháp đàn áp khủng bố cộng sản gay gắt càng làm cho khí thế đấu tranh của quần chúng ngày một tăng lên. Chúng tăng cường bộ máy cai trị, đưa tên cò Bataille khét tiếng, trưởng bót và tên Rigaut, phó bót cùng một tiểu đội lính Pháp về đóng tại Bà Điểm, hòng ngăn chặn sự đấu tranh của quần chúng mà chúng cho Bà Điểm là trung tâm của cộng sản.


Làn sóng khủng bố của thực dân Pháp đã tràn qua vùng Hóc Môn - Gò Vấp, làm cho một số tổ chức cơ sở bị tan rã, một số cán bộ, đảng viên bị bắt nhưng chỉ trong một thời gian ngắn thì Đảng khôi phục lại ngay, tổ chức Đảng ở cơ sở các làng vẫn được giữ vững và phát triển.


Trong cao trào 1936-1939, Bà Điểm, 18 thôn Vườn Trầu đã được Đảng chọn làm căn cứ địa cách mạng của Trung ương để lãnh đạo phong trào cách mạng trong cả nước.

Trong thời gian từ năm 1936 đến năm 1939, Trung ương Đảng đóng trụ sở tại Bà Điểm và mở nhiều cuộc hội nghị quan trọng nhưng không một đồng chí nào bị lộ, bị địch bắt tại đây; các đảng viên cơ sở và những quần chúng tốt đã đảm bảo bí mật và an toàn tuyệt đối cho các đồng chí Trung ương.


Cũng trong thời gian này ba địa phương: Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa hình thành một “vành đai đỏ” ở phía tây bắc Sài Gòn. Vành đai đấu tranh cách mạng ấy đã làm cho quân Pháp tốn không ít công sức để đối phó.


Những năm 1936-1939 là thời kỳ đấu tranh rất sôi nổi ở Gia Định (Hóc Môn - Bà Điểm) và Chợ Lớn (Đức Hòa). Đảng bộ đã vận dụng khá sáng tạo và linh hoạt sự chuyến hướng chỉ đạo chiến lược mục tiêu đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, chống phát xít nhưng trong tình hình cụ thể, Đảng bộ đã nhạy bén khai thác được những vấn đề nổi cộm nhất: ở Đức Hòa là quyền lợi của người trồng thuốc lá và trồng mía: Đòi quyền tự do trồng cây thuốc lá không hạn chế số lượng, đòi bỏ thuế đoan và thuế đi lại đối với người buôn bán thuốc lá; đòi bỏ thuế đoan và môn bài đối với loại thuốc đã xắt thành sợi. Cuộc đấu tranh đã thu được thắng lợi. Sau đó là cuộc đấu tranh của những người trồng mía đòi tăng giá mía. Cuộc đấu tranh của bà con nông dân được sự đồng tình ủng hộ của công nhân hãng đường và những người khuân vác, chuyên chở mía. Có được sự phối hợp hành động nhịp nhàng giữa bên ngoài và bên trong là do có sự chỉ đạo của huyện ủy về sự kết hợp giữa chi bộ nhà máy và “Nông hội đỏ”.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Bảy, 2021, 07:28:06 pm
Ở Hóc Môn - Bà Điểm, nhiều cuộc biểu tình của quần chúng nổ ra rầm rộ ở trong huyện, kết hợp với các cuộc biểu tình của công nhân hãng Ba Son. Bà con nông dân Hóc Môn - Bà Điểm đã tích cực đóng góp giúp đỡ công nhân kéo dài các cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi, thể hiện sự liên minh chặt chẽ giữa nông dân và công nhân, giữa nội thành, ngoại thành Sài Gòn - Gia Định trong cuộc đấu tranh chung giành thắng lợi.


Năm 1938, được sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Gia Định, quần chúng ba quận Hóc Môn, Gò Vấp, Đức Hòa phối hợp biểu tình kéo vào thị trấn Hóc Món đấu tranh đòi giảm thuế, đòi thi hành các quyền tự do dân chủ, đòi địa chủ giảm tô và chống bắt lính.


Phong trào Đông Dương Đại hội (1936-1939) có ý nghĩa to lớn, đã tập hợp đông đảo quần chúng tại địa phương vào trận tuyến mới của Đảng sau thời gian phong trào tạm lắng (1932-1935). Chính thắng lợi của phong trào này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng hoạt động được trong điều kiện lúc bấy giờ mà vẫn bảo đảm được an toàn cơ sở.


Qua các cuộc biểu dương lực lượng và đấu tranh của quần chúng, uy tín của Đảng ta thêm sâu rộng, trình độ giác ngộ chính trị và trình độ của quần chúng được nâng cao. Với phong trào Đông Dương Đại hội, Đảng đã tập hợp quần chúng, tập dượt họ, kiểm nghiệm họ để chuẩn bị cho cao trào đấu tranh mới. Các cơ sở Đảng ở Hóc Môn, Bà Điểm và Đức Hòa phát triển nhanh chóng, một lần nữa ba địa phương đã sát cánh bên nhau dưới sự lãnh đạo của tỉnh ủy trong các cuộc biểu tình, đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động.


Năm 1940 Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa lại sát cánh bên nhau kiên cường bất khuất trong khởi nghĩa Nam Kỳ. Tháng 11 năm 1940, các ủy ban khởi nghĩa quận tống đều họp kiểm tra sự chuẩn bị và đặt kế hoạch cho từng địa phương.


Quận Hóc Môn có nhiệm vụ vào quận lỵ tuyên truyền vận động quần chúng trong thị trấn, kêu gọi binh lính đi với cách mạng, triệt hạ đồn Hóc Môn và tiêu diệt bọn gian ác, đồng thời tiếp ứng cho Sài Gòn.

Quận Gò Vấp chịu trách nhiệm diệt bót Bà Điểm, bót Vườn Tiêu Tân Sơn Nhất, bót ngã năm Vĩnh Lộc; ngoài ra còn nhiệm vụ đưa quân vào tiếp ứng cho Sài Gòn.

Quận Đức Hòa có nhiệm vụ cướp chính quyền ở địa phương và chi viện cho Sài Gòn để phối hợp với cuộc binh biến của binh sĩ đồn Ô-ma.

Ngày 20 tháng 11 năm 1940, Thường vụ Xứ ủy ra lệnh khởi nghĩa. Thời gian khởi nghĩa được xác định vào đêm ngày 22 tháng 11 năm 1940. Lệnh đã gửi đi các tỉnh trong toàn xứ thì trưa ngày 23 tháng 11 năm 1940, đồng chí Phan Đăng Lưu ở ngoài Bắc vào, mang chỉ thị của Trung ương hoãn cuộc khởi nghĩa, nhưng lệnh khởi nghĩa đã xuống đến các cơ sở, không thể thu hồi lại được, nên cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã nổ ra. Trước giờ khởi nghĩa, các đồng chí lãnh đạo xứ và thành ủy đều bị bắt. Một số đảng viên phản bội đầu hàng đã khai báo với địch về chủ trương khởi nghĩa nên kế hoạch đã bị lộ.


Gia Định, Chợ Lớn và các vùng xung quanh thành phố, đêm ngày 22 tháng 11 năm 1940 vẫn tiến hành khởi nghĩa vì không bắt được liên lạc với Thành ủy và Xứ ủy.

Tại quận Gò Vấp, nghĩa quân đã tấn công các đồn bót địch Lăng Cha Cả, bót Vườn Tiêu, bót ngã năm Vĩnh Lộc và bót Phú Lâm...

Quận Hóc Môn huy động một lực lượng lớn quần chúng tham gia khởi nghĩa, cùng lực lượng nghĩa quân của 4 tổng chia thành 4 mũi tấn công áp sát dinh lũy tên quận trưởng Hóc Môn...

12 giờ đêm ngày 22 tháng 11 năm 1940, các cánh nghĩa quân tiến công đồn Hóc Môn. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, ta làm chủ tình hình, nhưng đến 4 giờ sáng thực dân Pháp cho hai đội quân từ Thủ Dầu Một và Gia Định đến giải vây.


Ở Đức Hòa, huyện ủy chủ trương tiếp cận thị trấn ngã ba Chùa Ông, sau đó trừ diệt một số tên ác ôn. Đến sáng ngày 23 tháng 11, quân Pháp đưa về thị trấn Đức Hòa một đại đội lính lê dương cùng xe bọc thép, máy bay yểm trợ mở cuộc càn vào xã Đức Hòa và vùng ven thị trấn.


Cũng như Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa và một số vùng Sài Gòn - Gia Định, cuộc khởi nghĩa không thành và bị thực dân Pháp khủng bố, trả thù đẫm máu.

Trước tình hình đó, để bảo tồn lực lượng, quận ủy Đức Hòa buộc phải phân tán lực lượng, chỉ để lại một số đồng chí còn giữ được bí mật ở lại bám cơ sở, số còn lại chia làm hai cánh.

Cánh thứ nhất do bí thư Nguyễn Văn Yến và đồng chí Huỳnh Văn Một chỉ huy rút về giồng Bốt, qua Hóc Môn - Bà Điểm rồi về Truông Mít - Tây Ninh.

Cánh thứ hai ít người hơn, do phó bí thư Lê Văn Lao chỉ huy rút về Mô Ba Làng - Hậu Thanh rồi nhập với nghĩa quân Thủ Thừa - Bến Lức, Trung Quận. Cánh quân do bí thư Nguyễn Văn Yên của Đức Hòa rút về Hóc Môn, gặp cánh quân quận Gò Vấp cũng rút về đây. Ba lực lượng Đức Hòa, Gò Vấp, Hóc Môn rút về làng Mỹ Hạnh (quận Đức Hòa - Chợ Lớn), được nhân dân tiếp tế lương thực, thực phẩm. Một cuộc họp giữa lãnh đạo và chỉ huy ba lực lượng được tổ chức để bàn việc thống nhất lực lượng.


Sau đó cánh lực lượng nghĩa quân Hóc Môn, Gò Vấp, Đức Hòa rút về rừng cao su Phước Vĩnh An (quận Hóc Môn). Ban lãnh đạo chỉ huy ba quận nhât trí cử ra Ban chi ủy Đảng để lãnh đạo gồm 7 đồng chí (2 đồng chí của tỉnh ủy và cán bộ xứ, 2 đồng chí của Đức Hòa, 1 đồng chí của Gò Vấp và 2 đồng chí của Hóc Môn), do đồng chí Nguyễn Văn Mùi (tức Hà Đăng Nam) làm bí thư và đồng chí Đặng Văn Cơ (Tỉnh ủy viên Gia Định làm phó bí thư).


Lực lượng nghĩa quân thống nhất ba quận Hóc Môn, Gò Vấp, Đức Hòa gồm khoảng 150 chiến sĩ (có 1 nữ) với 30 súng trường, 8 súng lửa và các loại lười lê, dao mác, một ít đạn và các dụng cụ khác.

Lực lượng nghĩa quân hoạt động đến cuối tháng 12 năm 1940 thì nhận được chỉ thị của Xứ ủy Nam Kỳ (do nữ đồng chí Nguyễn Thị Sao đưa đến) phân tán để trở về địa phương.

Như vậy, một lần nữa ba địa phương đã tổ chức thành một liên quân thống nhất dưới sự chỉ huy của một ban chi ủy Đảng lãnh đạo, tạo tiền đề cho việc tổ chức lực lượng sau này.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 30 Tháng Bảy, 2021, 07:28:44 pm
Phong trào cách mạng tạm lắng xuống do cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, các cơ sở Đảng đa số bị phân tán, một số đảng viên trụ cột bị bắt.

Đến cao trào 1941-1945, Đảng bộ tích cực hoạt động khôi phục cơ sở. Chỉ mấy năm sau, Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa lại hoạt động trở lại, trở thành địa bàn hoạt động mạnh của các tổ chức yêu nước như Thanh niên tiền phong, Thanh niên giải phóng và nhiều tổ chức khác.


Năm 1944, trong tỉnh Gia Định, thực dân Pháp và tay sai tề ngụy, mật thám, tuy bề ngoài còn hoạt động mạnh, nhưng bên trong đã rất rệu rã. Bọn phát xít Nhật hung hãn, chúng chiếm đóng và nắm hết các vị trí quan trọng trong tỉnh, trong đó có Hóc Môn, Gò Vấp, Bà Điểm... Hàng ngày thường xảy ra những vụ lính Nhật hoành hành, hạch sách nhân dân ta, thỉnh thoảng có những vụ xung đột đánh nhau với lính Pháp. Tuy Nhật - Pháp có mâu thuẫn nhau ngày càng gay gắt, nhưng đối với cách mạng nước ta thì chúng cấu kết nhau chặt chẽ để tiêu diệt.


Đầu năm 1945, Ban cán sự tỉnh Gia Định bổ sung thêm một số đồng chí để củng cố tỉnh ủy, chỉ đạo các quận ủy chuẩn bị cho cách mạng nổ ra khi có thời cơ.

Cuối năm 1944, đầu năm 1945, tình hình trong và ngoài nước có những chuyển biến hết sức khẩn trương. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đang bước vào giai đoạn kết thúc. Mâu thuẫn Nhật - Pháp ở Đông Dương ngày càng trở nên gay gắt.


Đêm ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, thay quyền thống trị ở Việt Nam dưới chiêu bài “cho Việt Nam độc lập”. Cách mạng Việt Nam lại một lần nữa dấy lên phong trào khởi nghĩa quyết liệt và rộng rãi khắp trong cả nước. Cho đến lúc này Đảng bộ Sài Gòn bước vào trực tiếp chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tổ chức Đảng thuộc Xứ ủy Giải phóng được bổ sung và củng cố lại. Mặt trận Việt Minh, vùng Hóc Môn, Bà Điểm, Đức Hòa phát triển mạnh mẽ.


Cũng trong tháng 3 năm 1945, hoạt động xây dựng lực lượng võ trang diễn ra sôi nổi. Nhân dân tự sắm sửa giáo mác, xà mâu và gậy tầm vông vạt nhọn, tự tìm cách lấy súng, đạn của Pháp Nhật tổ chức mò vớt súng của địch ở dưới sông, lấy súng của bọn lính làng, hội tề, địa chủ. Máy bay Mỹ bị Nhật bắn rưi tại Bàu Công gần chợ Hóc Môn 2 chiếc, Bà Trà - Tân Khánh 1 chiếc. Nhân dân tổ chức gỡ súng liên thanh trên những chiếc máy bay này để đánh giặc. Sau này khi chi đội sử dụng đại liên "trâu già”, giặc Pháp, Cao Đài, lính ngụy nghe tiếng súng nổ biết ngay gặp phải Chi đội 12. Các chi bộ Đảng tích cực hoạt động, củng cố tổ chức Đảng và các đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ lão cứu quốc.


Cùng với các đội võ trang chiến đấu của nông dân và công nhân, phong trào Thanh niên tiền phong ra đời và phát triển mạnh mẽ ở Gia Định, Chợ Lớn. Tại Đức Hòa tháng 4 năm 1945, Thanh niên tiền phong tổ chức đại hội có đến 10 ngàn người tham dự. Tháng 5 năm 1945, tổ chức Thanh niên tiền phong ra đời ở Hóc Môn - Bà Điểm.


Các đoàn thể Thanh niên tiền phong ngày đêm luyện tập đội ngũ, canh gác giữ gìn trật tự đường phố, tập hát những bài “Thanh niên hành khúc”, “Lên đàng”... hun đúc tinh thần yêu nước, nâng cao khí thế đấu tranh cho độc lập dân tộc, không khí hừng hực lửa chiến đấu.


Các quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa tổ chức “đội nghĩa quân Hóc Môn - Gò Vấp - Đức Hòa” (trong khởi nghĩa Nam Kỳ) bung ra võ trang tuyên truyền, tập hợp thêm lực lượng, sắm sửa vũ khí. Một bộ phận trong số họ gia nhập các tổ chức Thanh niên cứu quốc, Tự vệ chiến đấu và Thanh niên tiền phong ở địa phương. Một bộ phận tiếp tục duy trì tổ chức đơn vị du kích như cũ, phát triển lực lượng, sẵn sàng tham gia tổng khởi nghĩa.


Ngày 15 tháng 8 năm 1945, được tin Nhật đầu hàng đồng minh, ban cán sự quận Hóc Môn (tức quận ủy) trực tiếp chỉ đạo các đoàn thể theo dõi tình hình diễn biến hàng ngày để chuẩn bị cướp chính quyền.


Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Hà Nội cướp chính quyền thành công. Ngày 21 tháng 8 năm 1945, Xứ ủy triệu tập hội nghị ở Chợ Đệm lần thứ hai quyết định phát động khởi nghĩa, lấy Tân An làm thí điểm.

Ngày 20 tháng 8 năm 1945, Hóc Môn đã tổ chức mít tinh với hơn 1.000 quần chúng tham dự.

Ngày 24 tháng 8 năm 1945, Đức Hòa khởi nghĩa. Rạng sáng ngày 25 tháng 8, nhân dân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa cùng nhân dân Gia Định - Chợ Lớn kéo về Sài Gòn biểu tình, cướp chính quyền dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Gia Định.


Hai đoàn Hóc Môn - Bà Điểm nhập tại Tham Lương rồi kéo xuống Sài Gòn. Đoàn Đức Hòa gặp hai đoàn Hóc Môn - Bà Điểm tại đường Nô-rô-đôm (nay là đường Lê Duẩn), hợp thành một đoàn thống nhất của tỉnh. Cùng lúc đó các đoàn biểu tình của các quận Gò Vấp, Thủ Đức, Nhà Bè, Trung Quận, Lái Thiêu... và các đoàn của tỉnh Chợ Lớn, Tân An, Thủ Dầu Một, Biên Hòa... cùng hàng triệu nhân dân Sài Gòn tham dự mít tinh, tuần hành. Cả thành phố Sài Gòn là một biển người, một rừng cờ đỏ rực, những ngọn tầm vông nhọn cùng với giáo mác, súng gươm, bừng bừng khí thế khởi nghĩa, dạt dào niềm hạnh phúc của ngày độc lập đầu tiên.


Từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 8 năm 1945, các địa phương Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa đều giành chính quyền về tay nhân dân.

Cách mạng Tháng Tám thành công là một cuộc đổi đời, là kết quả của một quá trình vận động cách mạng từ năm 1930 đến năm 1945, trải qua 15 năm đầy hi sinh gian khổ, vượt qua mọi khó khăn thử thách, bất chấp sự đàn áp khủng bố khốc liệt của quân thù, nhất là trong khởi nghĩa Nam Kỳ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa một lòng một dạ tin theo Đảng chấp nhận mọi hy sinh xương máu, dù nhà cửa tan nát, tính mạng thiệt hại, vẫn không sờn lòng nhụt chí. Những người dân của Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa đã khăng khít bên nhau, cùng đi theo Đảng, quyết bảo bọc nuôi nấng bảo vệ Đảng trong lúc Trung ương Đảng hoạt động tại địa phương. Ba địa phương sát cánh bên nhau, thống nhất trong một tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng đứng lên lật nhào bọn đế quốc phong kiến, góp phần làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 31 Tháng Bảy, 2021, 07:25:28 pm
Chương một
GIẢI PHÓNG QUÂN HÓC MÔN - BÀ ĐIỂM - ĐỨC HÒA
(11-1945 - 3-1946)


I. NAM BỘ KHÁNG CHIẾN, SỰ RA ĐỜI CỦA GIẢI PHÓNG QUÂN HÓC MÔN - BÀ ĐIỂM - ĐỨC HÒA

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhân dân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa cùng nhân dàn Gia Định - Chợ Lớn phấn khởi hân hoan kéo về Sài Gòn dự cuộc mít tinh mừng lễ tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Nôrôđôm (sau nhà thờ Đức Bà) và diễu hành biểu dương sức mạnh quật khởi của quần chúng nhân dân Nam Bộ quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của Tố quốc.


Nhưng niềm vui mừng chưa tận hưởng thì bọn thực dân Pháp được quân Anh dung dưỡng đã từ trên lầu cao bắn nhiều phát súng xuỐng đoàn biểu tình đang tuần hành làm chết một chiến sĩ và bị thương một số người. Hàng triệu người đang có mặt rất phẫn nộ và hiểu ngay rằng đây là hành động của bọn thực dân Pháp âm mưu quay trở lại xâm chiếm Đông Dương. Lập tức, đội võ trang thanh niên xung phong và quần chúng xông lên vây bắt hàng trăm tên Pháp và bọn phản động, tước súng và đưa đi giam giữ.


Gần một thế kỷ bị nô lệ, bị áp bức bóc lột đến tận xương tủy bởi thực dân Pháp rồi phát xít Nhật, nhân dân Hóc Môn - Bà Điểm (Gia Định), Đức Hòa (Chợ Lớn) đã vùng lên cùng nhân dân Nam Bộ bẻ gãy xiềng xích nô lệ, đánh đổ hai kẻ thù Pháp - Nhật, giành lại độc lập tự do. Nỗi vui sướng và niềm tự hào của nhân dân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa cùng toàn thể dân tộc Việt Nam trong những ngày hội non sông rạng rỡ thì bọn thực dân Pháp được quân Anh giúp sức, âm mưu quay lại xâm chiếm Đông Dương lần thứ hai.


Liên tiếp từ ngày 5 đến ngày 20 tháng 9 năm 1945, phái bộ Anh đến Sài Gòn có một đại tá và 30 sĩ quan, những ngày sau đó chúng đòi chiếm dinh hành chính Nam Bộ (tức dinh thống đốc Nam Kỳ cũ). Ngày 11 tháng 9 năm 1945, tướng Gracey đến Sài Gòn cùng theo có một đại đội lính Pháp mặc quân phục Anh cùng tên đại tá Cédille. Chúng ra lệnh thả 3.000 tù binh Pháp và trả trang bị vũ khí lấy của Nhật. Tên Cédille nhận chức thống đốc Nam Kỳ, chúng tiến hành hàng loạt vụ khiêu khích, đòi tước vũ khí của quân ta.


Ngày 18 tháng 9 năm 1945, chúng ra lệnh giới nghiêm thành phố.

Ngày 20 tháng 9 năm 1945, chúng đòi ta giao các bót cảnh sát quận 2, quận 3. Sau nhiều lần khiêu khích, lúc 12 giờ đêm 22 tháng 9 năm 1945, quân Anh - Pháp phối hợp đã tiến đánh trụ sở của ủy ban cách mạng Nam Bộ và các công sở của ta. Trước tình hình trên, sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945, Xứ ủy và ủy ban cách mạng Nam Bộ mở hội nghị liên tịch tại trụ sở đường Cây Mai (Chợ Lớn) đã quyết định nổ súng kháng chiến và lập Ủy ban kháng chiến Nam Bộ do đồng chí Trần Văn Giàu làm chủ tịch, Ủy ban ra mệnh lệnh và lời kêu gọi nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn cùng nhân dân Nam Bộ đứng dậy cầm vũ khí bảo vệ Tổ Quốc đang lâm nguy, ra lệnh cho nhân dân tản cư gấp rút. Cuộc kháng chiến bùng nổ, quân dân ta trong khí thế hiên ngang của những người dân một nước độc lập, trong tinh thần sôi sục cách mạng, thề hi sinh tất cả chớ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Tinh thần và sức mạnh quật khởi trong Cách mạng tháng Tám của nhân dân ta, giờ đây đang sôi sục căm thù bọn giặc Pháp mưu toan cướp nước ta một lần nữa. Muôn triệu trái tim cùng hòa một nhịp đập, theo tiếng gọi của non sông, đứng lên quyết chiến đấu với quân thù.


Tại Hóc Môn, sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, chính quyền cách mạng vừa mới thành lập chưa thể hiện được sự thống nhất ý chí nên Đảng bộ chủ trương củng cố từ Ủy ban Cách mạng lâm thời quận xuống các làng. Việc phải giải quyết trước hết là vấn đề củng cố tổ chức, phải trên tinh thần đoàn kết hợp nhất giữa các đồng chí của hai nhóm Tiền phong và Giải phóng. Ủy ban cách mạng lâm thời quận được củng cố, đồng chí Nguyễn Văn Thức được tín nhiệm bầu chính thức Chủ tịch Ủy ban hành chính, hai đồng chí Lê Phẩm Thinh và Cao Đức Luốc được bầu là Phó chủ tịch và các ủy viên khác như: Phạm Đăng Bửu (tổng thư ký), Phạm Đăng Lâm (ủy viên tài chính), Lê Thanh Châu, Lâm Minh Tường, Lâm Quanh Minh và các ủy viên khác... Ủy ban đổi tên là Ủy ban hành chính quận Hóc Môn.


Tại Bà Điểm, tổ chức Ủy ban hành chính quận Bà Điểm do đồng chí Lê Ngọc Hương (Tư Điển) làm chủ tịch. Ủy ban trực tiếp lãnh đạo các làng thuộc phía tây bắc Gò Vấp.

Tại Đức Hòa, Ban cán sự bắt đầu tiến hành một loạt công tác cấp bách. Trước tiên là củng cố kiện toàn bộ máy lãnh đạo.

Với số cán bộ mới được giải thoát từ Côn Đảo về (Trần Trung Tam, Huỳnh Văn Bằng, Trần Văn Nhà, Huỳnh Văn Đại, Thuận, Thiện, Tiểu, Bùi Văn Tranh), Đức Hòa khôi phục lại quận ủy và phân công lại một số mặt công tác.


Đồng chí Bùi Tấn Triển (Tám Tranh) được cử làm bí thư quận ủy. Đồng chí Thuận làm chủ tịch Ủy ban kháng chiến, đồng chí Huy làm ủy viên chính trị, Huỳnh Văn Cảnh làm trưởng công an (“Quốc gia tự vệ cuộc”). Đồng chí Truyện làm ủy viên chính trị bộ đội Đức Hòa, đồng chí Tư Nhỏ chủ tịch mặt trận Việt Minh.


Sau khi được củng cố về tổ chức, quận ủy các địa phương nhanh chóng củng cố lực lượng võ trang, tự tạo, mua sắm, vũ khí, tổ chức luyện tập, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến. Tại Hóc Môn, quận ủy đã tổ chức 5 khu quân sự (khu 1, khu 2, khu 3, khu 4, khu 5); các khu quân sự tích cực chuẩn bị lực lượng.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 31 Tháng Bảy, 2021, 07:26:12 pm
Tại Đức Hòa, quận ủy chủ trương tăng cường củng cố lực lượng võ trang, “Tự vệ chiến đấu quân” được chuyển lên thành “chi đội giải phóng quân Đức Hòa”, do Huỳnh Văn Một làm chi đội trưởng.. Chi đội được biên chế thành 3 phân đội đóng trên từng khu vực. Sẵn sàng phát hiện và ngăn chặn quân Pháp.


Trong thời gian này vùng Gò Vấp, Hóc Môn có các lực lượng bộ đội của đồng chí Nguyễn Thược ở Phú Thọ Hòa, bộ đội của đồng chí Nguyễn Bá Bội, Nguyễn Văn Bâu ở Bà Quẹo, bộ đội của đồng chí Huỳnh Tấn Chùa ở Thuận Kiều... Bà Điểm, bộ đội của các đồng chí Tô Ký, Lý Của, Phan Văn Ngói, Cao Đức Luốc, Trần Văn Bằng, Nguyễn Minh Sanh, Lê Bình Đẳng... Ngoài ra còn nhiều bộ đội lẻ tẻ khác ở các làng.


Trong thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, quân Anh - Pháp bị quân ta bao vây chặt, các cuộc chiến đấu ở nội thành diễn ra suốt ngày đêm, ác liệt nhất là mặt trận cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Thị Nghè... quân ta diệt hàng trăm giặc Pháp và tay sai của chúng.


Được quân Anh - Ấn mở đường, giặc Pháp nống ra vùng ngoại ô phía bắc thành phố. Chúng kéo quân ra định chiếm cầu Tham Lương để làm bàn đạp đánh sâu ra vùng Bà Điểm, Hóc Môn, hòng chiếm 18 thôn Vườn Trầu, “vành đai đỏ” của thành phố. Cầu Tham Lương nằm trên quốc lộ 1 từ Sài Gòn đi Nam Vang (Cam-pu-chia) là con đường chiến lược quan trọng phía Tây Bắc thành phố.


Để ngăn chặn quân xâm lược Anh - Pháp đánh lấn ra ngoại vi thành phố, quận ủy Hóc Môn chủ trương lập các mặt trận cầu Tham Lương, cầu Bến Phân (chợ Cầu). Ngày 10-9-1945, quận ủy đã thành lập Ban chỉ huy thống nhất chiến đấu và quyết giữ các cầu này.


Sau 5 ngày đêm chiến đấu, lực lượng võ trang Hóc Môn - Bà Điểm đã giết và làm bị thương nhiều tên, ta giữ vững trận địa cầu Tham Lương không cho chúng qua.

Ở mặt trận cầu Bến Phân (chợ Cầu) do đồng chí Huỳnh Tấn Chùa chỉ huy, xung kích cảm tử ta đánh nhau ác liệt với quân Anh - Pháp đánh lấn ra, chặn đứng không cho chúng qua cầu...

Sau ngày 23 tháng 9 năm 1945, các lực lượng tự vệ, xung phong công đoàn nội thành Sài Gòn đã chiến đấu dũng cảm, bao vây ngăn chặn địch trong thành phố. Bấy giờ sư đoàn Cộng hòa vệ binh rút quân ra khỏi thành phố.


Một số đơn vị Đệ nhị, Đệ tam, Đệ tứ sư đoàn cùng một số lực lượng khác như bộ đội Hồng Tảo (HT29), bộ đội Bùi Thế Phiệt... diễn ra sự phân hóa sâu sắc. Những tên cầm đầu và nhiều bộ phận hoặc tự biến mình thành thổ phỉ hoặc quay về Sài Gòn đầu hàng giặc. Một bộ phận còn lại rút về Hóc Môn.


Trong thời gian đóng quân tại địa bàn Hóc Môn, Gò Vấp, bọn Đệ tam sư đoàn đã khủng bố chính quyền, cướp lương thực, thực phẩm, đoạt súng của tự vệ xã và du kích, cướp của nhân dân, bắt gái đẹp đem theo, thủ tiêu cán bộ địa phương... Còn Đệ tứ sư đoàn của Lý Hoa Vinh thì rút quân qua chợ Cầu, qua thị trấn Hóc Môn, Cây Sộp (Phước Vĩnh An) trụ lại ở xã Nhuận Đức. Chúng đã rút bộ phận tham gia mặt trận cầu Tham Lương, bắn chết 5 chiến sĩ của bộ đội đồng chí Sáu Ngói, tước vũ khí của một tiểu đội đồng chí Nguyễn Minh Sanh, chặn lấy lương thực thực phẩm của Hóc Môn gởi ra tiếp tế mặt trận. Chúng còn uy hiếp Ủy ban hành chính quận Hóc Môn đòi phải cung cấp 50 chiến sĩ tự vệ và giao nộp hết súng đạn, đến Tân Phú Trung và Trung Lập tự tiện chiếm kho thuốc của hãng thuốc Míc Pháp mà địa phương đang quản lý để đem bán lấy tiền. Đi đến đâu chúng cũng khủng bố chính quyền địa phương, cướp bóc nhân dân, bắt gái, tước vũ khí tự vệ đến đó. Dã man hơn chúng bắt anh em công nhân chở của cải cướp được đưa lên đào hầm cất giấu ở núi Cậu Dầu Tiếng, rồi giết hết số công nhân này. Vì tính chất phi nghĩa của chúng nên một số binh lính cấp dưới đồng tình làm binh biến kéo nhau nhập về Giải phóng quân.


Bộ đội Hồng Tảo (HT29) từ Gò Vấp rút về An Thành (Thủ Dầu Một) qua An Nhơn Tây (Hóc Môn) và Trảng Bàng (Tây Ninh)... Nói chung những sư đoàn bộ đội đó đều thổ phỉ hóa, không đánh giặc, chuyên đi cướp bóc, hãm hiếp, khủng bố nhân dân. Đây là một đội quân ô hợp, phi chính trị, rất phức tạp. Tại An Nhơn Tây, đồng chí Lâm Thành Hổ (vốn tham gia cách mạng từ năm 1938, được đồng chí Huỳnh Tấn Chùa cử đầu quân vào bộ đội Hồng Tảo để vận động binh sĩ mang súng trở về với cách mạng) đưa 1 tiểu đội gồm 12 người, 12 súng tách khỏi bộ đội Hồng Tảo gia nhập bộ đội Huỳnh Tấn Chùa.


Trước hành động xâm lược của giặc Pháp, với lòng yêu nước thiết tha và với khí thế hừng hực cách mạng sau ngày Tổng khởi nghĩa, chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng võ trang của ta đã phát triển hết sức nhanh chóng.


Tuy nhiên, thành phần hợp thành các đơn vị võ trang khá phức tạp, hầu hết chưa có kinh nghiệm chiến đấu và thiếu trang bị, từng đơn vị hoạt động chiến đấu độc lập, thiếu chỉ huy chung, thậm: chí một số đơn vị nằm ngoài sự lãnh đạo quản lý của tổ chức Đảng và chính quyền cách mạng địa phương. Tình hình đặt ra cần có một chủ trương đúng đắn nhằm thống nhất, xây dựng lực lượng võ trang cách mạng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của cuộc kháng chiến.


Ngày 25 tháng 10 năm 1945, Xứ ủy lâm thời Nam Bộ họp hội nghị mở rộng tại Thiên Hộ (Mỹ Tho), đề ra nhiệm vụ lãnh đạo đẩy mạnh công cuộc kháng chiến và củng cố, xây dựng lực lượng võ trang cách mạng ở Nam Bộ, đặt lực lượng võ trang dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Sau hội nghị mở rộng tại Thiên Hộ, Xứ ủy chỉ thị cho Gia Định: Nên thống nhất lực lượng võ trang của Đảng, tổ chức tập trung lại để đủ sức mạnh, bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân, đánh được quân thù.


Cuối tháng 10 năm 1945, tại một nhà dân ở đầu “Cầu Quang” chợ Hóc Môn, một số đồng chí tỉnh ủy Giải phóng, Xứ ủy họp, trong đó có mặt các đồng chí Tô Ký, Trần Văn Trà, Cao Đức Luốc, Phan Văn Voi, Hoàng Dư Khương, Ba Súng, Năm Râu, Sáu Ngói, Phan Đức, Hoàng Tường và Ba Nhỏ (Ba Nhỏ đại điện cho Huỳnh Văn Một). Hội nghị nhận định Pháp sắp tấn công chiếm đóng Hóc Môn - Bà Điểm, các sư đoàn và bộ đội Hồng Tảo không có hành động chống giặc mà nhiễu hại nhân dân. Hội nghị đã nhất trí thành lập một lực lượng võ trang thống nhất của ba quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa với tên gọi: Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 31 Tháng Bảy, 2021, 07:26:47 pm
Thực hiện chủ trương của Xứ ủy và Tỉnh ủy, lực lượng võ trang của 3 quận được tổ chức thống nhất thành đơn vị vào ngày 1 tháng 11 năm 1945 tại làng Mỹ Hạnh (quận Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn) lấy tên là “Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa”.


Ban Chỉ huy giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa bao gồm một số cán bộ Xứ ủy, tỉnh ủy viên tỉnh Gia Định, những đồng chí đảng viên cộng sản trung kiên từ những năm 1930-1940. Đó là các ủy viên chính trị Hoàng Dư Khương, Hoàng Tế Thế... và các ủy viên quân sự Tô Ký, Cao Đức Luốc, Huỳnh Văn Một, Huỳnh Tấn Chùa. Sau đó, Trần Văn Trà thay Hoàng Dư Khương làm ủy viên chính trị, Tô Ký giữ trách nhiệm chỉ huy trưởng.


Các bộ phận trực thuộc gồm: Bộ phận công tác chính trị (Hoàng Tế Thế phụ trách), bộ phận trinh sát địch tình (Hoàng Đức Tường phụ trách), bộ phận vũ khí trang bị (Cao Đức Luốc phụ trách), bộ phận tiếp tế vận chuyển (Phan Văn Voi phụ trách), bộ phận hồng thập tự (Tư Hiển phụ trách).


Về tổ chức Đảng để lãnh đạo quân sự, liên quận ủy Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa được hình thành do các đồng chí Nguyễn Oắng (bí thư) Huỳnh Văn Thớm, Phan Văn Voi, Trịnh Thị Miếng, nữ đồng chí Ba Đen, Lô Văn Đen là ủy viên. Giải phóng quân liên quận ngoài nhiệm vụ chiến đấu, đồng thời còn được giao nhiệm vụ làm nòng cốt thống nhất các lực lượng võ trang, chống lại các lực lượng quấy rối, bảo vệ cơ sở Đảng và tổ chức quần chúng.


Chấp hành nghị quyết hội nghị Tỉnh ủy và Xứ ủy, lực lượng ở các khu lần lượt kéo về Mỹ Hạnh. Ban chỉ huy về trước, đóng trụ sở tại nhà cai tổng Nhung. Do chiến đấu, các lực lượng về Mỹ Hạnh không đủ, thời gian đầu có: Lực lượng An Phú Xã của đồng chí Bảy Sanh, Sáu Sai, lực lượng khu vực bến đò Thủ Dầu Một của đồng chí Hai Của, đồng chí Phần, đồng chí Đắc. Đồng chí Bảy Voi và gia đình đồng chí Sáu Kim Nguyên ở Bà Điểm lên cùng ban Hồng thập tự 16 người (8 nam, 8 nữ trong đó có chị Ngà, chị Sáu, chị Tư, anh Bảy Khai từ Sài Gòn lên; lực lượng của đồng chí Sáu Ngói khoảng một trung đội ở chợ Hóc Môn ra) lực lượng “Quốc gia tự vệ cuộc” quận Hóc Môn về gia nhập.


Trong những ngày đầu lực lượng đã có tới trên 200 người, 160 súng. Những ngày tiếp sau đó, tự vệ các xã tiếp tục tới như tự vệ xã Tân Xuân gồm 4 người trong đó có anh Ba Tới phụ trách, lực lượng này tới Mỹ Hạnh được ghép chung với lực lượng của đồng chí Sáu Ngói, chính lực lượng tự vệ, du kích xã và nhân dân tự võ trang về Mỹ Hạnh làm cho số lượng giải phóng quân tăng nhanh. Có một số đồng chí tham gia Nam Kỳ khởi nghĩa 1940 rút về Truông Mít (Tây Ninh) chôn súng lẩn tránh nay cũng trở lại cùng với một số súng trường, lựu đạn.


Thông qua sự liên lạc giữa các đồng chí Sáu Ngói, Tư Thược, Bảy Sanh ở thành phần lực lượng giải phóng quân còn có 3 tiểu đội 20 súng của các anh Trần Văn Chói, Út Bưng, Út Liêm, Mười Tùng ở Trảng Bàng, sáp nhập vào. Đồng chí Trần Văn Trà và đồng chí Đức Sơn lo việc nắm quân số vũ khí, tổ chức bố trí lực lượng, phân chia khu vực hoạt động. Khu vực Vàm Cỏ Đông, cầu Mù U, gò Gió do cánh quân của đồng chí Huỳnh Văn Một phụ trách. Khu vực cầu Tham Lương, chợ Cầu, chợ Cây Xoài do đồng chí Huỳnh Tấn Chùa phụ trách, đồng chí Hai Của phụ trách cánh quân từ bến đò Thủ Dầu Một giáp An Phú Xã. Phân chia lúc đầu như vậy (đến sau ngày giặc Pháp tấn công chiếm căn cứ Mỹ Hạnh ngày 15 tháng 12 năm 1945, Giải phóng quân chia thành 3 đại đội: Đại đội 1 đo đồng chí Huỳnh Tấn Chùa, Bội, Châu phụ trách; Đại đội 2 do đồng chí Tô Ký, Bứa, Của, phụ trách; Đại đội 3 do đồng chí Sanh, Bằng phụ trách.


Ngày 1 tháng 11 năm 1945, Giải phóng quân làm lễ ra mắt trước nhân dân Mỹ Hạnh. Ngày ra mắt Giải phóng quân có mặt các đồng chí lãnh đạo Đảng: Cao Hồng Lĩnh, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Đức Thuận, Hoàng Tế Thế, Hoàng Dư Khương, Hồ Minh Định. Tổ chức lễ ra mắt khồng gì to lớn nhưng ảnh hưởng lan rộng nhanh khắp 3 quận Hóc Môn, Bà Điểm, Đức Hòa. Nhân dân ba địa phương vui mừng nói đây chính là lực lượng của Đảng, bộ đội của mình, từ nay không sợ ai uy hiếp. Nhân dân khen bộ đội giải phóng quân rất kỷ luật, không cãi cọ, đánh mắng, không bắn súng bừa bãi, không xâm phạm gì về tài sản của cải của nhân dân... được nhân dân tiếp tế lương thực, thực phẩm. Có địa phương cho cả xe ngựa, xe hơi để làm phương tiện vận tải, không cho luôn thì cũng giúp công, không lấy tiền. Bộ đội, cán bộ giải phóng quân đi công tác bằng xe ngựa không tốn tiền. Thuốc lá bộ đội hút không hết, có gia đình như ở chợ Bà Điểm gửi cho cả máy cán để cán vỏ đạn.


Trong thời gian trước, trong và sau ngày thành lập Giải phóng quân, các đồng chí Trung ương thường lui tới như các đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lĩnh, Trần Ngọc Danh. Đồng chí Lê Duẩn nói với Ban chỉ huy giải phóng quân: “Các đồng chí phải có trách nhiệm với Giải phóng quân, và nói rõ nhiệm vụ của Giải phóng quân, phương pháp, cách thức thực hiện nhiệm vụ và hoàn thành trách nhiệm của Ban chỉ huy. (Đồng chí Lê Duẩn sau khi tới Giải phóng quân, đã đi ra miền Bắc). Năm 1947 đồng chí Lê Duẩn trở lại Chi đội 12 (lúc này Giải phóng quân đã hình thành Chi đội 12, Chi đội 15). Các đồng chí Trung ương tới Giải phóng quân để giúp đỡ xây dựng nhưng đồng thời cũng là chỗ tin cẩn của các đồng chí để hoạt động cách mạng. Đồng chí Trần Văn Trà và đồng chí Tô Ký với ý thức tổ chức cao, khảng khái trước đồng chí Nguyễn Bình: “Trung ương phái anh vào đây, chúng tôi nghĩ rằng thống nhất các lực lượng võ trang lại là việc cần trước tiên, anh có thể tin vào chúng tôi, tin vào lực lượng Giải phóng quân này, lấy nó làm nòng cốt để thống nhất các lực lượng võ trang miền Đông”.    Chắc hẳn ý kiến này có liên hệ đến cuộc hội nghị quân sự đầu tiên của Khu 7 (tháng 3 năm 1946), thống nhất các lực lượng miền Đông Nam Bộ tổ chức thành 17 chi đội.


Bước đầu Giải phóng quân tổ chức cơ quan chính trị và cán bộ chính trị các cấp cho đến cấp tiểu đội. Nhờ có tài liệu của các đồng chí Trung ương gửi đến, trong đó gồm nhiều bài do đồng chí Cao Hồng Lãnh biên soạn như Việt Minh vấn đáp, anh em bộ đội có tài liệu học tập, nâng cao được nhận thức tư tưởng.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Tám, 2021, 07:07:12 pm
II. HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ CÔNG TÁC CỦA GIẢI PHÓNG QUÂN LIÊN QUẬN HÓC MÔN - BÀ ĐIỂM - ĐỨC HÒA (11-1945 -3-1946)

Sau khi thống nhất chỉ huy, Giải phóng quân đã thành lập các tổ chiến đấu thay phiên nhau vào mặt trận Sài Gòn hoạt động có tính chất thực tập, đồng thời chỉ đạo cho các lực lượng khẩn trương xây dựng phương án phòng thủ khu vực của mình.


Ở Đức Hòa, lực lượng Giải phóng quân bắt đầu phá một số đoạn đường đắp mô trên các lộ 7, 8, 9, 10, đóng cọc, làm cản trên sông Vàm Cỏ Đông và các con kênh lớn. Có nơi ta phải nhấn chìm từng xuồng chở đá để tạo cản trên sông. Trên các hướng chủ yếu của Đức Hòa, lực lượng Giải phóng quân đều có các chòi quan sát để có thế phát hiện địch từ xa, ở đầu làng, cuối xóm đều có vọng gác của tự vệ và du kích, đề phòng bọn gián điệp trà trộn. Ngoài ra, các lực lượng còn thống nhất qui định các ký hiệu báo động cho từng trường hợp.


Từ tháng 10 và tháng 11 năm 1945, Giải phóng quân đã đánh địch nhiều nơi như thành pháo thủ (R.A.C), đồn Bình Thới, đồn Cây Mai, đồn Phú Lâm, cầu Tham Lương, cầu Bến Phân, chợ Cây Xoài, Xuân Thới Thượng, Bàu Cua, Hóc Thơm, gò Gió; đánh địch lấn chiếm căn cứ Mỹ Hạnh (ngày 15 tháng 12 năm 1945). Ngày 1 tháng 1 năm 1946 đánh trận Cây Đào, sân bay Biên Hòa, Bình Ý, Tân Phong, sân bay Tân Sơn Nhất và vùng phụ cận Bà Quẹo, về mặt trận cầu Tham Lương, chợ Cây Xoài, cầu Bến Phân mở ra để ngăn chặn địch cho phía sau có đủ thời giờ chấn chỉnh các mặt, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Lực lượng của địch là bọn Anh-Ấn mà địa phương còn gọi là Chà Chớp đóng bên kia cầu Tham Lương hướng Sài Gòn lên, lực lượng ta chủ yếu là du kích, tự vệ, một số lực lượng tập trung của đồng chí Sáu Ngói giữ cầu. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Sáu Ngói, bộ đội tá dùng chai xăng ném vào đội hình đóng quân của địch, dùng cả khí đá và ống tre làm ống lói để gây tiếng nổ. Địch sử dụng cả đạn “đum đum” gây tiếng nố sau đội hình ta làm cho mọi người ngơ ngác.


Mặt trận cầu Bến Phân đo đồng chí Trương Văn Tuội (Bảy Tuội) chỉ huy chặn địch ở đây. Các lực lượng của ta ngày nghỉ đêm đánh, một chiến sĩ chiến đấu ở phía trước, hàng chục người lo phục vụ ở phía sau. Ban chỉ huy thống nhất các mặt trận cầu Tham Lương, cầu Bến Phân, chợ Cây Xoài do đồng chí Huỳnh Tấn Ghùa làm chỉ huy trưởng. Sở chỉ huy đóng tại Thuận Kiều. Đồng chí Chùa tên thật là Hòa, một đảng viên cũ từng tổ chức lãnh đạo, chỉ huy các đội tự vệ đỏ trong các cuộc đấu tranh năm 1931 và thời kỳ trước sau Nam Kỳ khởi nghĩa 1940. Đồng chí là người đã đóng góp lực lượng vào Giải phóng quân, đảm nhận chức chi đội phó chi đội 12, trực tiếp nắm một đại đội chiến đấu ở Đồng Tháp Mười, sau đó là quân khu Đông Thành. Đồng chí bị bệnh và mất ở đây năm 1947, được phong cấp trung đoàn trưởng. Trong chỉ huy, đồng chí thường mặc bộ bà ba đen, đội nón da, tay cầm gậy, đi hết mặt trận này đến mặt trận khác để động viên cổ vũ mọi người chiến đấu. Với chiến sĩ cán bộ dưới quyền đồng chị rất nhẹ nhàng, hết lòng chăm sóc. Đồng chí Hùynh Tấn Chùa là một hình ảnh đẹp về người chỉ huy lúc bấy giờ. Đồng chí Hồ Thị Hoa (Năm Bi) đảm nhiệm việc tiếp tế cho mặt trận cầu Bến Phân của đồng chí Bảy Tuội chỉ huy. Nhân dân địa phương đã chăm lo chu đáo cho bộ đội có cơm ăn với trứng, cá khô, mắm và dưa chuột.


Ngày 20 tháng 11 năm 1945, hội nghị quân sự Nam Bộ được tổ chức tại An Phú xã (Hóc Môn) do đồng chí Nguyền Bình triệu tập, có 49 đại biểu đủ các thành phần quân-dân-chính thuộc các tỉnh miền Đông tham dự. Mục đích hội nghị là thống nhất quân đội, thống nhất chỉ huy và chương trình hành động. Hội nghị đã nhât trí bầu đồng chí Nguyễn Bình làm Tổng tư lệnh Giải phóng quân, đồng chí Vũ Đức làm Chính ủy. Hội nghị An Phú Xã đã chấn chỉnh một bước lực lượng võ trang của thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và các tinh thuộc Khu 7. Ba địa phương Hóc Môn, Bà Điểm, Đức Hòa đều thuộc Khu 7.


Cuối tháng 11 năm 1945, một đơn vị giải phóng quân liên quận do các đồng chí Phan Văn Ngói chỉ huy trưởng, Bảv Lam chỉ huy phó, trên đường hành quân đã bất ngờ tiến công quân Nhật ở gò Gió (xã Mỹ Hạnh quận Đức Hòa). Trận đánh diễn ra quyết liệt, ta diệt nhiều tên, thu 16 súng. Bên ta 4 chiến sĩ hy sinh.


Trên dọc đường số 1, đường 15, trung đội Giải phóng quân do các đồng chí Lâm Thành Hổ, Nguyễn Thành Lân và Nguyễn Văn Bá (Lý Ngươn Bá) chỉ huy tổ chức đánh nhiều trận gây cho quân Pháp những thiệt hại đáng kể.


Đầu tháng 12 năm 1945, được viện binh bên Pháp sang, quán Pháp mở cuộc tiến công lớn ra vùng Gia Định - Chợ Lớn, với ý đồ tiêu diệt lực lượng Giải phóng quân và bộ phận đầu não chỉ huy của ta đang đóng ở Mỹ Hạnh. Các đơn vị do đồng chí Phan Văn Ngói, Võ Văn Tới, Bảy Khai, Bảy Tuôi chỉ huy đã phục kích sẵn sàng nổ súng. Hàng trăm quân Pháp có xe bọc thép mở đường và máy bay Hencat oanh tạc dữ dội, bằng hai gọng kìm định tiêu diệt quân giải phóng. Mặc dù lực lượng không cân xứng nhưng với tinh thần quyết chiến để bảo vệ quê hương, quân ta đã chiến đấu quyết liệt, giữ vững trận địa một tiếng đồng hồ, diệt nhiều giặc và bảo toàn lực lượng.


Ngày 18 tháng 12 năm 1945, tại ngã ba Tân Mỹ (Hóc Môn), một đơn vị giải phóng quân do đồng chí Nguyễn Văn Bứa chỉ huy đã chặn đánh cuộc hành quân của quân Pháp, giết chết một sĩ quan, làm bị thương nhiều tên. Chiến sĩ ta xung phong thu được 1 súng col 12 và một túi tài liệu mật của một tên sĩ quan Pháp.


Đầu tháng 1 năm 1946, Giải phóng quân liên quận đưa lực lượng đi lên mặt trận Lạc An (Biên Hòa) theo lệnh của Bộ Tư lệnh Khu 7. Toàn bộ lực lượng chia làm hai cánh: Cánh đi Tân Uyên do đồng chí Tô Ký chỉ huy, cánh đi Cây Đào, Cây Gáo do đồng chí Huỳnh Tấn Chùa chỉ huy. Các đơn vị quân Giải phóng quân đã dự một số trận đánh... Mặt trận Lạc An bị vỡ, lực lượng Giải phóng quân rút về Gia Định. Đêm 30 tết Bính Tuất (1946) hành quân về đến nơi, đại đội của đồng chí Nguyễn Thược trở về Bình Hưng Hòa (Gò Vấp), đại đội của đồng chí Nguyễn Văn Bứa về Tân Mỹ - Bình Lý (Hóc Môn), đại đội đồng chí Nguyễn Minh Sanh về An Phú Xã (Hóc Môn).


Ngày 4 tháng 2 năm 1946, đơn vị đồng chí Nguyễn Văn Bứa phối hợp với đơn vị đồng chí Trần Văn Bằng, tổ chức đánh bót cầu Bà Hồng (Làng Nhị Bình - Hóc Môn). Trận đánh diễn ra nhanh gọn, ta tiêu diệt hoàn toàn bót cầu Bà Hồng, thu toàn bộ vũ khí.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Tám, 2021, 07:07:51 pm
Cuối năm 1945, Giải phóng quân liên quận đã thu phục lực lượng công binh điện xa Gò Vấp của ông Chín Nghé phụ trách, sáp nhập vào Giải phóng quân. Lực lượng này ở trong thành ra đang trên đường đi theo Đệ tam sư đoàn lúc đó đã chạy về Đức Hòa. Ngoài bộ phận phục vụ lực lượng công bin)h điện xa có hai tiểu đội. Đồng chí Trần Văn Trà nói với anh em điện xa: “Các lực lượng trong thành ra muốn đánh Pháp thì ở đây cùng chúng tôi đánh, còn không muốn đánh Pháp thì rút ra đàng sau theo những bọn kia, bởi bọn kia không phải là người kháng chiến”. Lý lẽ nghe đơn giản nhưng đánh thẳng và đúng vào nguyện vọng nên bộ phận công binh điện xa đồng ý gia nhập Giải phóng quân. Nhưng vì lực lượng công binh điện xa và một số lực lượng trung thành do Đệ tam sư đoàn móc nối kéo ra nên chúng định tiêu diệt Giải phóng quân, và rủ cả ông Mười Trí phối hợp. Ông Mười Trí là người có uy tín với Đệ tam sư đoàn, nhưng không nghe theo chúng bởi ông biết lực lượng Giải phóng quân là lực lượng của Đảng, có thực lực, sức mạnh và được nhân dân ủng hộ. Vì ông Mười Trí không chịu phối hợp nên chỉ có Đệ tam sư đoàn kéo lên Mỹ Hạnh do Phạm Hữu Đức - phó tư lệnh Đệ tam sư đoàn cầm đầu. Chúng mang theo vũ khí và đòi trả công binh điện xa cho họ. Đồng chí Trần Văn Trà sau khi mời chúng ngồi đã ôn tồn nói “Các anh có kháng chiến không, tất cả các lực lượng này (công binh điện xa) kháng chiến. Chúng tôi tổ chức lực lượng để chống Pháp. Bộ đội, những người địa phương này sống chết ở đây để chống Pháp. Tại sao các anh lại rút ra phía sau? Nếu các anh là người kháng chiến hẳn hoi thì tới đây, cùng với chúng tôi đánh, chớ tại sao lại rút. Tại sao các anh tước vũ khí của những người dân quân khắp nơi để chống Pháp. Tại sao các anh lại nhũng nhiễu nhân dân. Nhân dân tại địa phương là những người tốt, tại sao bắt người ta lấy tiền nầy khác...”. Đồng chí Ba Trà nói rất có tình có lý và cứng rắn, trong khi lực lượng mạnh của Giải phóng quân bố trí bên ngoài, cố ý lộ bí mật lực lượng cho họ thấy. Biết không thể làm gì được, không có lý lẽ và đủ sức trấn áp vì đối phương rất chính nghĩa và rất mạnh nên họ bỏ về.


Có một bộ phận cỡ một trung đội do Phạm Hữu Đức chỉ huy tách Đệ tam sư đoàn về Vĩnh Lộc liên hệ với Giải phóng quân yêu cầu giúp đỡ. Lực lượng này sau hình thành Chi đội 5. Một tiểu đội khác rút về vùng Củ Chi, bị tước hết khí giới cho giải ngũ.


Hai tiểu đội công binh điện xa khi sáp nhập Giải phóng quân hình thành phân đội do đồng chí Sĩ chỉ huy, trong phân đội có hai nữ: chị Phụng và chị Quý, hai chị em ruột con một bác sĩ ở Bà Chiểu. Phân đội chiến đấu rất anh dũng. Trong trận Cây Đào ngàv 1 tháng 1 năm 1946 ở Biên Hòa, đồng chí Thiện và đồng chí Đồng hy sinh. Trận Bàu Trâm - An Phú Xã (ngày 19 tháng 3 năm 1946) 19 đồng chí hy sinh. Trong trận này chị Quý Gấp cứu và cõng thương binh, cuối cùng hy sinh cùng đồng đội.


Trong nhiệm vụ làm phân hóa Đệ tứ sư đoàn, các đồng chí lãnh đạo Giải phóng quân đã phân biệt rõ số phản động chỉ huy và đa số anh em binh sĩ. Trong quá trình làm không đề xảy ra đổ máu, như vận động Thanh niên cứu quốc quân quận Hóc Môn gia nhập Đệ tứ sư đoàn để làm nòng cốt, kêu gọi anh em binh sĩ mang súng trở về. Có nơi ta cử cán bộ quan hệ với cán binh họ để giác ngộ lôi kéo, cũng có trường hợp phải tổ chức đánh.


Lúc này, hoạt động trên địa bàn khu 4 và khu 5 Hóc Môn, có trung đội võ trang số 14 do đồng chí Võ Thái Hòa, làm trung đội trưởng và các đồng chí trong ban chỉ huy trung đội: Năm Sính, Lê Bình Đẳng, Bảy Miến. Biết được ý đồ lôi kéo của Lý Huê Vinh, tương kê tựu kế, Võ Thái Hòa đưa lực lượng nhập về Đệ tứ sư đoàn và được giao nhiệm vụ chỉ huy một đại đội (gồm trung đội 14 của Võ Thái Hòa và 3 trung đội của Đệ tứ sư đoàn). Cán bộ trung đội 14 triển khai thâm nhập các trung đội của Đệ tứ sư đoàn để nắm tình hình, tuyên truyền giác ngộ vận động anh em binh sĩ trở về với lực lượng kháng chiến. Nắm được âm mưu của Lý Huê Vinh định tiêu diệt cán bộ trung đội 14, được sự hướng dẫn kịp thời của đồng chí Võ Văn Hoa (cán bộ Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa), đồng chí Võ Thái Hòa đã chỉ huy đại đội bí mật rời khỏi nơi đóng quân của Đệ tứ sư đoàn về địa bàn đứng chân của Giải phóng quân tại Tân Phú Trung một cách an toàn. Sáng hôm sau, một trung đội khác (được trang bị đầy đủ) của Lý Huê Vinh kéo đến xin gia nhập. Cộng chúng, lực lượng của Đệ tứ sư đoàn được ta đưa về gia nhập Giải phóng quân có hơn 100 người với hơn 100 súng các loại, trong đó có 1 khẩu đại liên Nhật.


Bộ phận của Đệ tứ sư đoàn đóng ở Bàu Chứa còn khoảng 2 tiểu đội. Qua theo dõi nắm chắc tình hình, Trung đội 13 Giải phóng quân (do Sáu Bằng, Trung đội trưởng và Chín Tặng, Trung đội phó chỉ huy) tổ chức bao vây đánh úp. Khoảng 8 giờ tối, lợi dụng lúc chúng đang đánh bài, ta ập vào tước súng, thu tất cả 24 khẩu. Số binh sĩ Đệ tứ sư đoàn này sau khi được giải thích đều tình nguyện gia nhập Giải phóng quân và tổ chức thành 2 tiểu đội hành quân về khu vực giồng Ông Hòa, cánh quân do đồng chí Huỳnh Tấn Chùa trực tiếp chỉ huy.


Kể đó, Lý Hữu Phương đưa lực lượng còn lại về đóng ở Bàu Trăn, Bàu Tròn. Đồng chí Sáu Bằng gửi thư khuyên Lý Hữu Phương gia nhập Giải phóng quân, Lý Hữu Phương đồng ý và hẹn gặp tại Trảng Lắm. Trong cuộc họp, hai bên thỏa thuận tổ chức quân của Lý Hữu Phương thành một đại đội thuộc Giải phóng quân, các trung đội giữ nguyên. Ban chỉ huy có 2 người: Lý Hữu Phương làm đại đội trưởng, Trần Sáu (của Giải phóng quân) làm đại đội phó. Ta cử 5 cán bộ vào các cơ quan của đại đội, trong đó có đồng chí Lam làm liên lạc, Trần Khang làm thư ký, và 3 đồng chí (đồng chí Điểu và 2 người khác) làm ở bộ phận hậu cần.


Sự kiện kêu gọi vận động số binh sĩ của Đệ tứ sư đoàn về nhập Giải phóng quân đã góp phần làm rã Đệ tứ sư đoàn; đồng thời tăng cường cho Giải phóng quân một lực lượng đáng kể.

Ban chỉ huy Giải phóng quân còn cử nhiều cán bộ có uy tín về địa phương chiêu mộ phát triển lực lượng. Đồng chí Nguyễn Bá Bội về Phú Thọ Hòa, đồng chí Sáu Hâm vào nội đô Sài Gòn lo cả việc tuyển mộ thợ thuyền lập công binh xưởng, sưu tầm nguyên vật liệu làm súng đạn.


Tóm lại, Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa ra đời do Xứ ủy và Tỉnh ủy Gia Định tổ chức, lãnh đạo. Đây là tổ chức võ trang cách mạng đầu tiên do Đảng tổ chức xây dựng lãnh đạo sau ngày cách mạng Tháng Tám thành công ở miền Đông Nam Bộ; là đơn vị duy nhất có nhiều cán bộ Xứ ủy, tỉnh ủy và đảng viên kỳ cựu trực tiếp tham gia lãnh đạo, chỉ huy.


Ra đời từ đầu tháng 11-1945, đến tháng 3-1946, do yêu cầu phát triển lực lượng, chấp hành chỉ thị của Xứ ủy Nam Bộ, Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa đã phát triển thành Chi đội 12. Bộ phận Giải phóng quân ở Đức Hòa thành lập Chi đội 15. Một bộ phận khác về Khu 8 tham gia thành lập Chi đội 14 ở tỉnh Tân An và Chi đội 18 ở tỉnh Sa Đéc.


Các chi đội tiếp tục bước vào xây dựng tổ chức và làm tròn sứ mệnh cách mạng của mình trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược...


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Tám, 2021, 08:05:12 pm
Chương hai
CHI ĐỘI 12 (3-1946 - 3-1948)


Trên chiến trường Đông Nam Bộ, vào đầu năm 1946, sau khi thành lập Khu 7, các lực lượng võ trang trên danh nghĩa đã được thống nhất, trước hết là về mặt chỉ huy, nhưng các yếu tố khác nhìn chung đang còn là quá trình. Giặc vẫn đang ở thế tiếp tục lấn lướt. Các đơn vị cơ hội (như Đệ tam, Đệ tứ sư đoàn, Cao Đài, Hồng Tảo,...) đang thổ phỉ hóa, đầu hàng, phân hóa; sư đoàn Cộng hòa vệ binh tan rã và phân hóa; các lực lượng cát cứ giang hồ Bình Xuyên đang chuyển hóa hòa nhập quân đội cách mạng. Các đơn vị do cấp ủy, đảng viên hoặc người yêu nước lãnh đạo đang vừa chiến đấu vừa củng cố, tiếp tục xây dựng, tập hợp lực lượng vừa tạo thế kháng chiến lâu dài. Tuy nhiên, các lực lượng tích cực vẫn chưa hoàn chỉnh về tính thống nhất cả về chỉ huy lần biên chế và hoạt động.


Chỉ thị “Kháng chiến kiến quôc” (25-11-1945) của Trung ương Đảng néu rõ nhiệm vụ của Nam Bộ: “Cắt đứt liên lạc giữa các thành phố đã vào tay địch, phong tỏa những thành phố ấy về kinh tế, bao vây về chính trị, nhiễu loạn về quân sự. Phải áp dụng chiến tranh du kích đến triệt để và cổ động nhân dân thi hành bất hợp tác ở các thành thị quân địch làm chủ và thi hành “nhà không, vườn trông” nếu quân địch tràn về quê. Điều cốt tử là phải giữ vững liên lạc giữa các khu để thống nhất chỉ huy. Nơi nào rút khỏi thành thị thì quân ta phải lựa chọn nơi đóng quân ở những địa điểm chiến lược lợi hại: tiến có thể đánh, lui có thế giữ. Kế hoạch tiến công cũng như kế hoạch rút lui phải hết sức chu đáo”.


Để đáp ứng nhiệm vụ, yêu cầu do Trung ương đề ra, để tạo thế, tạo lực kháng chiến lâu dài, việc cấp bách đang đặt ra đôi với lực lượng võ trang là hoàn chỉnh sự thống nhất, từ thống nhất về chính trị, bản chất quân đội cách mạng, xác lập sự lãnh đạo của Đảng, đến thống nhất chỉ huy, thống nhất biên chế, thống nhất lực lượng.


Trong tình thế vô vàn khó khăn với hàng loạt công việc đang cấp bách đặt ra cho chiến trường Nam Bộ, ngày 6 tháng 3 năm 1946, Chính phủ ta và Chính phủ Pháp đã ký Hiệpi định sơ bộ. Hiệp định khẳng định một lần nữa tư thế độc lập của nước Việt Nam trước thế giới, đồng thời thể hiện chủ trương "hòa để tiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng trong tình thế đất nước đang có nhiều kẻ thù xâu xé. Đặc biệt đối với Nam Bộ, mặc dù thực dân Pháp đã đặt chiến trường này ra ngoài quy chế1 (Với âm mưu tái chiếm Đông Dương chưa hề thay đổi, thực dân Pháp cố tình không thi hành Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3, đặc biệt với âm mưu lập xư "Nam Kỳ tự trị”, Cedille, Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Nam Bộ ra tuyên bố, đại ý: Hiệp định không dính dáng gì đến Nam Bộ (!). Tướng Nyo Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở miền Nam Đông Dương. (3-1946) vận động tách Nam Bộ thành một xứ tự trị có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng) Hiệp định vẫn tạo ra sự hòa hoãn nhất định để các lực lượng kháng chiến có thời cơ củng cố, vượt qua những ngày khó khăn nhất.


Để tránh những khuynh hướng tư tưởng sai lầm như “tả khuynh”, không chịu hòa hoãn với Pháp, hành động tự phát vô tổ chức, sa vào âm mưu khiêu khích của kẻ thù và bọn phản động; đồng thời tránh mơ hồ, “hữu khuynh”, “cả tin” vào thiện chí hòa bình của thực dân Pháp, xem nhẹ việc chuẩn bị kháng chiến lâu dài, Trung ương Đảng nhắc nhở Nam Bộ phải tranh thủ thời cơ xây dựng lực lượng. Trong thư gửi đồng bào Nam Bộ ngày 11 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ là phải biết lợi dụng điều kiện thuận lợi sau Hiệp định sơ bộ để tăng cường lực lượng, chuẩn bị kháng chiến lâu dài.


Nhờ có chủ trương đúng đắrí và sự chỉ đạo kịp thời nên khi Pháp bất chấp Hiệp định sơ bộ 6-3, tăng cường càn quét và khủng bố thì quân dân Nam Bộ vẫn ở tư thế tiếp tục chiến đấu. Khi chiến sự tạm lắng, dù trong một thời gian ngắn, ta đã tranh thủ củng cố lực lượng. Việc trước mắt lúc bấy giờ là tổ chức thống nhất các lực lượng võ trang.


Trên chiến trường miền Đông lúc bấy giờ địch đang điên cuồng đánh phá, chia cắt, quyết tâm bình định các vùng ngoại vi thị xã, thị trấn, thiết lập vành đai an toàn Sài Gòn; trong lúc đó các “bộ đội” trên từng khu vực của ta đã phát triển đến mức đủ khả năng để tổ chức thành đơn vị tập trung để vừa phân chia địa bàn hoạt động vừa được chỉ huy thống nhất, tạo ra khả năng vừa tác chiến diệt địch, bảo vệ dân trên địa bàn mình vừa có thể chi viện cho địa bàn lân cận.


Tiếp sau Chi đội 1 (Thủ Dầu Một) là chi đội đầu tiên được thành lập từ hội nghị quân sự An Phú Xã ngày 20 tháng 11 năm 1945, nhiều chi đội khác đã lần lượt ra đời trước Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946: Các chi đội 2, 3, 4 (Bình Xuyên), 6 (Gia Định)... Sau Hiệp định, lần lượt trong các ngày 10, ngày 18 tháng 3 năm 1946, Khu trưởng Nguyễn Bình ký quyết định thành lập Chi đội 12, Chi đội 15 Vệ quốc đoàn1 (Giữa tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị chấn chỉnh, mở rộng và đổi tên Việt Nam Giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn - Quân đội nhân dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) từ giải phóng quân liên quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, trong đó Chi đội 15 gồm bộ đội Giải phóng quân Đức Hòa, Chi đội 12 gồm các đơn vị của Hóc Môn, Bà Điểm và một số đội võ trang ở các địa phương Trảng Bàng, Gò Vấp, Thủ Đức, Bến Cát...


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Tám, 2021, 08:06:29 pm
Cùng thời gian này, theo ý kiến đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Trần Văn Trà nhận nhiệm vụ về củng cố Khu 8 đang gặp khó khăn.

Thi hành quyết định của Khu trưởng, cuối tháng 3 năm 1946, tại ấp Giồng Ông Hòa (làng Mỹ Hạnh, quận Đức Hòa), các đơn vị võ trang Hóc Môn, Bà Điểm trong Giải phóng quân liên quận tổ chức thành lập Chi đội 12 Vệ quốc đoàn. Ban chỉ huy chi đội gồm: Tô Ký, Chi đội trưởng; Hoàng Tế Thế, Chính trị chỉ đạo viên; Huỳnh Tấn Chùa, Chi đội phó.


Về tổ chức, chi đội lúc bấy giờ tương đương cấp trung đoàn; không có biên chế cấp tiểu đoàn, đại đội tương đương tiểu đoàn về quân số; dưới cấp đại đội, có cấp trung đội và câp phân đội. Chi đội 12 khi thành lập quân số trên 2.000, được tổ chức theo hình thức “tam tam chế”: ba tiểu đội thành phân đội, ba phân đội thành trung đội, ba trung đội thành đại đội, ba đại đội thành chi đội.


Ban chỉ huy các đại đội bộ binh gồm:

Đại đội 1: Nguyễn Bá Bội đại đội trưởng sau đó Nguyễn Văn Tặng thay; Phạm Bá Tường, chính trị viên.

Đại đội 2: Nguyễn Văn Bứa, đại đội trưởng; Nguyễn Hồng Đào, chính trị viên.

Đại đội 3: Nguyễn Văn Bâu, đại đội trưởng.

Hỏa lực chi đội chủ yếu gồm khẩu trọng liên 13,2 li và một khẩu “hốt-kít” (gốc của bộ đội Sáu Ngói).

Các bộ phận trực thuộc của chi đội bộ gồm:

Văn phòng chi đội: Nguyễn Bá Khâm làm chánh văn phòng.

Ban chính trị: Nguyễn Hữu Đang phụ trách (sau đó các đồng chí Phạm Bá Tường, Nguyễn Trang lần lượt thay).

Ban liên lạc: Đào Văn Phát phụ trách.

Ban nhân sự: Trương Thành Hỷ phụ trách.

Quân y: Nguyễn Văn My, Trần Văn Sáng phụ trách.

Giữa năm 1946 ta thành lập dưỡng đường ở Tân Thông (Củ Chi), sau dời về Xóm Trại - An Nhơn Tây (đầu 1947). Sau đó an dưỡng đường chuyển thành quân y xá 3.

Quân giới: Ban đầu là Lý Hữu Phương, sau đó là Ngô Văn Năm và Chín Nghé phụ trách. Binh công xưởng do Ngô Văn Năm phụ trách.

Quân nhu: Bảy Voi phụ trách.

Tình báo: Nguyễn Thanh Tùng phụ trách.

Quân trang: Huỳnh Văn Sai phụ trách.

Sản xuất tự túc: có 3 đơn vị do các đồng chí Hồ Thị Bi, Nguyễn Thị Mừng và Võ Văn Hoa phụ trách.


Về tổ chức công tác đảng, công tác chính trị, từ Giải phóng quân chỉ có hệ thống chính trị viên, khi Chi đội 12 ra đời, chi đội ủy và chi bộ mới hình thành. Chi đội ủy đầu tiên gồm các đồng chí Hoàng Tế Thế, Tô Ký, Huỳnh Tấn Chùa... Sau khi đồng chí Hoàng Tế Thế qua đời, đồng chí Ngô Thanh Khiết là chính trị chỉ đạo viên.


Chi đội mở những lớp huấn luyện cán bộ tiểu đội, phân đội (và sau năm 1947 có cán bộ xã đội) như lớp quân chính ở Giồng Dinh do đồng chí Thung phụ trách.

Chi đội thành lập một đội tuyên truyền lưu động do đồng chí Nguyệt phụ trách.

Các đại đội đều có ban hợp xướng.

Ngay sau khi Chi đội 12 được thành lập, một bộ phận võ trang từ Trung Quận (Chợ Lớn) gồm đơn vị vùng thượng do Tư Bốn chỉ huy, đơn vị Bà Hom do Năm Miên chỉ huy đã về xin gia nhập chị đội.

Theo đề nghị của đồng chí Trần Văn Trà, Chi đội 12 cử 2 phân đội xuống Đồng Tháp Mười để góp phần xây dựng lực lượng võ trang của Khu 8. Đoàn xuống Khu 8 gồm nhiều cán bộ chỉ huy như Nguyễn Thược, Lê Văn Dọn, Phan Vũ Hòa, Lâm Thành Hổ, Nguyễn Văn Voi, Trương Văn Tuội...


Cơ quan ban chỉ huy Chi đội 12 đặt căn cứ đầu tiên tại Tân Mỹ (quận Hóc Môn).

Địa bàn hoạt động của chi đội gồm tỉnh Gia Định, nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn, Bến Cát (Thủ Dầu Một), Trảng Bàng và Châu Thành (Tây Ninh), bắc Thủ Thừa (Tân An, vùng Đức Huệ sau này), chủ yếu là Gia Định. Trên địa bàn tỉnh Gia Định còn có Chi đội 6 (thành lập vào đầu tháng 3 năm 1946) gồm lực lượng võ trang của các huyện Dĩ An, Gò Vấp. Thủ Đức, do các đồng chí Nguyễn Văn Dung làm chỉ huy trưởng, Phạm Văn Khung chính trị viên.


Sự ra đời của các chi đội mới đã thu hút sự chú ý của quân Pháp.

Ngày 8 tháng 4 năm 1946, quân Pháp mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Tân Mỹ - Bình Lý với lực lượng chủ yếu của Pháp tại quận lỵ Hóc Môn và lực lượng các đồn bốt xung quanh gồm quân lê dương, lính người Việt, lính người Miên. Chúng chia thành nhiều cánh, có thủy, bộ, máy bay trinh sát chỉ điểm. Phía sông Sài Gòn - Thủ Dầu Một có tàu đổ bộ, tàu tuần tra. Phía ta có đại đội 2 Chi đội 12 và đu kích địa phương.


Với quân đông, thế mạnh, từ bốn hướng, quân Pháp hùng hổ tiến vào mục tiêu. Thực hiện chủ trương đốt sạch, cướp sach giết sạch, chúng tiến đến đâu, bắn giết, hãm hiếp phụ nữ đốt nhà, cướp bóc đến đó. Quân ta chia ra từng phân đội triển khai chiến đấu. Địa hình sông rạch, sình lầy bất lợi cho cả hai bên: đối với địch, khó bao vây khép kín; đối với ta khó tiến, lui. Trận đánh diễn ra suốt một ngày. Với lực lượng ít và vũ khí kém hơn, quân ta vừa đánh vừa tạo thế rút lui an toàn, đã diệt làm bị thương khoảng 50 tên địch, ta hy sinh 20 cán bộ, chiến sĩ. Sau trận đánh, đơn vị làm lễ truy điệu trong niềm xúc động của cán bộ chiến sĩ toàn đơn vị.


Để trả thù cho đồng đội đã hy sinh, lực lượng du kích còng đại đội 2 tổ chức một loạt cuộc tiến công ban đêm, bất ngờ vào các chốt đóng quân của giặc Pháp, bót Bà Điểm (làng Tân Thới Nhứt), một số trụ sở của Pháp, tề ngụy.


Ở xã Vinh Lộc, địch phát hiện sự có mặt của Chi đội 12, Chi đội 4, một số ban công tác thành của thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngày 15 tháng 4 năm 1946 một đại đội Pháp hành quân càn quét khu vực ấp 4 và ấp 8. Chi đội 4, và Chi đội 12 tổ chức phục kích ở Tân Hòa, đánh trả quyết liệt, buộc địch phải rút chạy. Đây chỉ là trận đánh thăm dò của địch, chúng vừa xem xét lực lượng bộ đội ta, vừa tung gián điệp để thu thập thông tin chuẩn bị càn quét lớn trên toàn xã Vinh Lộc.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Tám, 2021, 08:07:24 pm
Nhằm tiêu diệt Chi đội 4, Chi đội 12, các ban công tác thành Sài Gòn - Chợ Lớn, hoặc trục xuất các lực lượng này, lấn chiếm địa bàn Vinh Lộc, ngày 22 tháng 6 năm 1946 quân Pháp sử dụng lực lượng trung đoàn thuộc địa số 11, mở cuộc càn lớn. Mũi thọc sâu của chúng nhằm vào ấp 4, trong đội hình bộ đội An Điền mới về từ đêm trước. Mặc dù chưa quen địa hình, bộ đội An Điền dũng cảm triển khai chiến đấu, đẩy lùi nhiều đợt xung phong của địch. Nhưng với lực lượng đông, quân địch đã tạo được thế bao vây. Sẵn sàng cứu nguy cho đơn vị ban, Chi đội 4 từ ấp 8 tổ chức tiến công từ sau lưng địch, cùng bộ đội An Điền phá vây, diệt nhiều địch buộc chúng bỏ lại xác, hai ngày sau mới lấy được. Bộ đội An Điền và Chi đội 4 hy sinh 43 cán bộ, chiến sĩ.


Cay cú, quyết tâm phục thù, giặc tiếp tục thăm dò và lại tung quân lớn từ nhiều hướng (Bà Điểm, Thái Hòa, Ngã Năm) tấn công ấp 4, ấp 8. Chi đội 4, Chi đội 12 và lực lượng dân quân của xã tổ chức chống càn, đốt cháy một xe quân sự, thu nhiều vũ khí, bẻ gãy cuộc càn.


Nhiệm vụ trừ gian diệt tề lúc bấy giờ cũng là một mặt hoạt động quan trọng không kém nhiệm vụ tác chiến. Xứ ủy viên Hồ Văn Long từng gặp đồng chí Tô Ký nêu vấn đề này: “Nhiệm vụ chủ yếu của các đồng chí bây giờ là trừ gian diệt tề, không để nó mọc lên, mà nó mọc lên là khó khăn lắm, hết sức khó...”


Khi đồng chí Tô Ký đưa bộ phận Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm rời địa bàn lên Lạc An, chỉ trong một thời gian ngắn đã có nhiều cán bộ xã, ấp từ Hóc Môn lên, đề nghị đưa lực lượng về địa phương vì tề điệp đang ngóc đầu dậy. Đáp ứng yêu cầu này, trên cơ sở bộ phận của đồng chí Hồ Thị Bi đang hoạt động ở thị trấn Hóc Môn, giữa năm 1946, Chi đội 12 cho thành lập Ban công tác số 12 do Hồ Thị Bi làm trưởng ban, đồng chí Huỳnh Văn Chỗ làm phó ban. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban công tác số 12 là diệt tề trừ gian, đánh du kích, đánh lẻ diệt bọn Pháp và lê dương. Địa bàn hoạt động là thị trấn Hóc Môn và khu vực xung quanh; về sau mới “phát triển địa bàn” vào nội thành Sài Gòn. Vũ khí ban đầu của Ban công tác số 12 chỉ là mấy quả lựu đạn và súng ngắn mà đồng chí Trần Văn Trà đã tặng cho đồng chí Hồ Thị Bi về “chiến công” lo Tết đầu năm 1946 tươm tất cho bộ đội Giải phóng quân mới từ Lạc An trở về. Từ số lựu đạn này, cùng với sử dụng dao búa Ban công tác số 12 đã tạo vũ khí chủ yếu bằng cách đánh địch lấy súng địch.


Ban công tác số 12 vừa ra đời, chỉ có 12 anh chị em đội viên có mặt tại thị trấn, đã lập nhiều chiến công đầu, tạo được một số súng. Tổ chiến đấu Lê Văn Giường, Hồ Văn Tiện, Lê Kim Hương phục kích trên đường lên trường học (cách đồn Hóc Môn 500 mét), bắn 2 phát súng, diệt 2 lính Pháp, thu 2 súng. Tại giếng nước Bà Cả (gần nhà việc làng Tân Xuân), một tổ của ban công tác hạ 2 tên Việt gian ác ôn khét tiếng, thu 2 súng, ở làng Tân Hiệp, có anh Nguyễn Thanh Cân chưa phải đội viên cũng lập công mang súng về cho đội. Được sự hỗ trợ của anh Tiện và anh Xển, chiến sĩ của ban, anh Cân đón đường bắn gãy chân một tên Pháp, cướp khẩu tôm-xông trong lúc tên này đang áp giải người gánh nước uống cho chúng ở gần bót cầu Xáng. Cũng ở làng Tân Hiệp, một tên lính Pháp thường ra chợ lấy xe ngựa của đồng bào, đẩy người đanh xe ra khỏi xe, vứt súng bên cạnh rồi tự cầm cương đánh ngựa với vẻ hứng thú. Anh Lê Văn Giường đã theo dõi việc này. Một lần, thừa lúc tên Pháp vừa quất roi cho ngựa chạy, lập tức anh nhảy lên bàn đạp sau xe, dùng búa đập mạnh vào đầu tên Pháp rồi chụp lấy súng, rút lui an toàn về Láng Chà (Tân Hiệp).


Để đảm bảo sự an toàn của nhân dân, Ban công tác số 12 cần một hậu cứ riêng ngoài dân. Đồng chí Hồ Thị Bi chọn Rỗng Ông Hồ. Đó là một con rạch giữa cánh đồng bưng sình lầy, dày đặc lau sậy và những dãy tre gai tạo nên rào, lũy kiên cố. Con rạch quanh co, nhiều ngóc ngách như hang động. Giữa “trận đồ bát quái” đó, lực lượng bám trụ dựa vào hai chiếc ghe có mái che. Để củng cố thế đứng, căn cứ được chia thành nhiều cụm nhiều tuyến, có vòng trong, vòng ngoài, canh gác cẩn mật, có ám hiệu, tín hiệu riêng. Chính từ nơi đây, Ban chỉ huy Ban công tác số 12 bàn định các phương án tiến công, và đây cũng chính là điểm xuất phát nhiều cuộc tiến công “xuất quỷ nhập thần” vào Hóc Môn, ven Sài Gòn.


Giặc Pháp chiếm đóng vùng Hóc Môn - Bà Điểm. Hàng ngày chúng tung quân ra càn quét, lùng sục, tấn công các căn cứ kháng chiến với mục tiêu ưu tiên là tiêu diệt lực lượng võ trang cách mạng, cụ thể ở Hóc Môn như Chi đội 12, Chi đội 6, Chi đội 4,... Nhưng chúng không đạt được ý định, lại bị quân ta đánh trả, gây thiệt hại. Ngay trong sào huyệt chúng ở thị trấn... du kích ta ngày đêm quấy rối, cùng với hoạt động ban ngày của Ban công tác số 12, của Quốc gia tự vệ cuộc (tức công an) và Quốc vệ đội quận (tức lực lượng võ trang của công an quận) liên tiếp thực hiện những đòn bất ngờ, đánh trúng, làm cho giặc Pháp và tay sai nơm nớp lo sợ, mất ăn mất ngủ. Chúng tìm mọi cách đối phó lại ta bằng các thủ đoạn vừa thẳng tay bắt, giết, vừa dụ dỗ “hợp tác” để tạo ra những tên phản bội, chỉ điểm, ác ôn. Những tên phản bội mặt trùm bao bố, đi nhìn mặt chỉ điểm cho giặc Pháp bắt cán bộ, chiến sĩ, đồng bào yêu nước. Hàng loạt người bị chúng bắn, cứa đứt cổ, quăng xác xuống sông. Trừng trị giặc Pháp và những tên tay sai đắc lực nhất của chúng tại Hóc Môn, các phân đội của Chi đội 12, Ban công tác số 12 phối hợp lực lượng Quốc gia tự vệ cuộc, Quốc vệ đội quận đã tổ chức nhiều trận phục kích, đột kích, bắt cóc, trừng trị tại chỗ... Những tên đã gây nhiều tội ác như “Tây mắt xanh”, tên quan hai Bri-đơ và nhiều tên Việt gian ác ôn đã phải đền tội.


Vào những tháng đầu năm 1946, quân Pháp liên tục mở những cuộc hành quân tiến công, bao vây nhằm diệt “tổng hành dinh Khu T, từ thị trấn Tân Uyên đến chiến khu Đ. Tháng 5 năm 1946, đầu não Khu 7 chuyển xuống Vườn Thơm, rồi lên phía biên giới bắc huyện Thủ Thừa (ngày nay thuộc huyện Đức Huệ) lập căn cứ gọi là Quân khu Đông Thành1 (Trước khi chuyển về Chợ Lớn, vùng đất này thuộc huyện Thủ Thừa (tỉnh Tân An) gồm các xã Mỹ Thạnh, Mỹ Quý, Bình Hòa và nửa xã Bình Thành. Khi xây dựng khu quân sự, các xã trên được tách ra thành 9 xã mới: Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây, Mỹ Thạnh Bắc, Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Tây, Bình Hòa Bắc, Bình Hòa Nam, Bình Thành Bắc, Thạnh Lợi Bắc (Thạnh Lợi Nam và Bình Thành Nam còn thuộc huyện Thủ Thừa)). Để tăng cường lực lượng xây dựng và bảo vệ Quân khu Đông Thành, đại đội 1 thuộc Chi đội 12 do Huỳnh Tấn Chùa, Chi đội phó trực tiếp chỉ huy, được điều lên hoạt động vùng Giồng Dinh, Giồng Lớn, Gồng Thổ Địa, Quéo Ba... Chi đội 12 còn lại hai đại đội: đại đội 2 đứng chân ở căn cứ Tân Mỹ - Bình Lý, hoạt động vùng nam Hóc Môn, Gò Vấp mở rộng lên Tây Ninh; đại đội 3 đóng ở căn cứ An Phú Xã, hoạt động vùng bắc Hóc Môn, cặp sông Sài Gòn, vùng Bến Súc, Trảng Bàng.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Tám, 2021, 07:30:06 pm
Sau khi giặc tiến công căn cứ Mỹ Hạnh, chi đội xây dựng thêm các căn cứ mới ở Tân Mỹ, Bình Lý, Mỹ Bình; ở An Nhơn Tây; ngoài ra còn xây dựng căn cứ công binh xưởng ở xã Chơn Bà Đen. Các căn cứ Tân Mỹ, Bình Lý, Mỹ Bình, An Nhơn Tây nằm trong vùng đồng dân cư, dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ; trừ căn cứ Chơn Bà Đen nằm trong vùng rừng núi, tương đối xa dân, là nơi đặt xưởng quân giới. Tân Mỹ, Bình Lý, Mỹ Bình, Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây... nằm sát địch, thường bị chúng càn quét, ít nhất mỗi tháng vài lần, nhưng sau mỗi trận càn, cơ quan, bộ đội, nhân dân trở lại công tác và sinh hoạt bình thường, chợ búa đông vui. Mặc cho địch càn quét, văn phòng chi đội chuyển từ nơi này sang nợi khác đều đóng trong nhà dân: nhà ông Sáu (chú của đồng chí Tô Ký) ở Bình Lý, nhà anh Bảy Khâm ở Mỹ Bình, nhà bà nội đồng chí Nguyễn Văn Bứa ở Tân Mỹ... Chính lòng dân hướng về cách mạng, tình quân dân gắn bó giải thích cho điều nói trên. Chính quyền, các đoàn thể địa phương hết sức tận tình với bộ đội.


Hoạt động trên một chiến trường tranh chấp quyết liệt, cán bộ, chiến sĩ hầu hết là người địa phương, am hiểu địa hình, biết người, biết việc, thậm chí gắn bó với địa phương không chỉ như mối quan hệ tiền tuyến hậu phương mà là quan hệ trách nhiệm, tình cảm với quê hương, bà con, gia đình, Chi đội 12 dần hình thành sở trường chống càn quét, bám trụ cùng địa phương đánh tiêu hao giặc chống lấn chiếm, giữ địa bàn bảo vệ dân, bảo vệ chính quyền cách mạng tại địa phương. Chi đội 12 không chỉ gắn với địa phương trong chiến đấu mà cả trong xây dựng lực lượng và phong trào chiến tranh du kích, xây dựng chính quyền và công tác vận động quần chúng.


Từ tháng 6 năm 1946, giặc Pháp liên tiếp mở các cuộc càn quét các vùng căn cứ kháng chiến như An Phú Đông, Tân Mỹ, An Phú Xã, Bến Nẩy, Vàm Rạch Tra, v.v... Các cuộc càn quét, tàn sát không chỉ nhắm vào bộ đội, cán bộ kháng chiến mà cả dân thường. Bộ đội vừa phải chống càn vừa giúp dân sơ tán.


Với vũ khí kém hẳn địch, bộ đội ta dũng cảm chiến đấu với tất cả trách nhiệm, tình cảm quê hương.

Trận Bến Nẩy diễn ra rất ác liệt. Quân ta hăng hái rượt địch ra đến đồng trống, diệt và làm bị thương nhiều tên giặc. Ta hy sinh gần một tiểu đội, một chiến sĩ bị bắt.

Ở An Phú Xã, ta chặn đánh địch trên đường 15, diệt 20 tên thu một số súng. Trả đũa trận này, giặc ném bom và bắn phá bừa bãi.

Ngày 23 tháng 6 năm 1946, với 4 thuyền chở lính, giặc Pháp theo đường sông Sài Gòn tiến vào Rạch Tra. Quân ta phục kích hai bên sông ở khu vực Vàm, bắn chìm 2 thuyền. Số còn lại, khoảng một đại đội tháo chạy lại tiếp tục bị đánh, đội hình tan rã.


Trả đũa cho những trận thua ở xã Vinh Lộc, ngày 28 tháng 8 năm 1946 (mùng 1 tháng 8 âm lịch), giặc Pháp càn từ Tân Hòa vào ấp 4. Càn đến đâu, bắn giết đến đó, chỉ trong một buổi sáng chúng đã giết 380 đồng bào ta.


Ở làng Nhuận Đức, sau khi đại đội 2 do đồng chí Nguyễn Văn Bứa chỉ huy tiêu diệt một xe chở lính lê dương ở gần cầu Bến Mương trên đường Củ Chi đi Bàu Cỏ, ngày 21 tháng 6 năm 1946 địch đưa quân vào 3 ấp Bàu Cạp, Bàu Chứa, Bàu Tròng càn quét trả thù. Chúng đốt trên 50 nóc nhà, gặp đàn ông là bắn, bất kể già hay trẻ.


Ở Tân Mỹ, ngày 14 tháng 10 năm 1946, với lực lượng khoảng 2000 tên Pháp và Việt gian, địch mở cuộc tiến công căn cứ kháng chiến. Chi đội 12 tổ chức chống càn gây cho chúng nhiều thiệt hại. Chúng quay ra trả thù nhân dân, bắt hai cụ già, bôn phụ nữ, 11 nông dân khác, quy tội là Việt Minh, bắn tất cả.


Ngày 20 tháng 10 năm 1946, quân Pháp nã pháo vào xã An Phú Đông, rồi đổ quân, ồ ạt càn vào xã, bắn giết, tàn phá dã man: bắn chết hàng loạt người trong đó có 5 cụ già bảy tám mươi tuổi, chặt đầu một thanh niên, hãm hiếp nhiều phụ nữ, đốt gần 250 ngôi nhà... Lực lượng ta gồm Chi đội 6, Chi đội 12, nhưng Chi đội 6 lâm vào thế bị bao vây, Chi đội 12 ở vị trí chia lửa, góp sức phá vây. Cuộc chiến đấu diễn ra suốt cả một ngày, quân ta diệt một tên quan ba Pháp, hai lính lê dương, làm bị thương một số tên khác. Phía ta gần 100 cán bộ, chiến sĩ, nhân viên và nhân dân bị bắt, bị bắn.


Trong một cuộc vây ráp vườn điều xã Xuân Thới Sơn, một trong những trạm dừng chân, liên lạc của lực lượng kháng chiến để đột nhập vào Hóc Môn, quân Pháp dồn mọi người trong khu vực vào thế không còn đường nào thoát. Chúng bắn chết tại chỗ 11 người, bắt đi gần 100 người, đưa về thị trấn Hóc Môn rồi lần lượt đưa đi bắn ở cầu Xáng (xã Tân Hiệp).


Trái với ý tưởng thực dân, sự tàn bạo của chúng càng nung nấu chí căm thù và lòng yêu nước của quân dân ta, tình đoàn kết quân dân thêm gắn bó, bộ đội quyết chiến, toàn dân kháng chiến.

Xã Trung Lập, một xã cách thị trấn Củ Chi 8 ki-lô-mét về phía tây bắc, vào những ngày trước toàn quốc kháng chiến vẫn còn nằm trong vùng tự do, lực lượng Vệ quốc đoàn lui tới nhiều, nhưng trên thực tế tính chất vùng du kích tranh chấp ở đây đang ngày càng rõ. Đây là một trong những trọng điểm càn quét của bán lữ đoàn lê dương số 131 (Sở chỉ huy đóng ở Camp des mares, dân gọi là thành Ô Ma, ven quốc lộ 1 (nay là quốc lộ 22), gần thị trấn Hóc Môn), một đơn vị khét tiếng đốt nhà, bắn dân trên vùng bắc, tây bắc Sài Gòn lúc bấy giờ. Đêm 16 tháng 12 năm 1946, hai đại đội 2 và 3 thuộc Chi đội 12, có mặt các đại đội trưởng, Nguyễn Văn Bứa, Nguyễn Thược, về đóng ở xóm Mới, ấp Ba Sòng, xã An Nhơn Tây.


Ngày hôm sau, 17 tháng 12, lúc trời mới tờ mờ sáng, quân Pháp càn vào xã Trung Lập. Đại đội 2 Chi đội 12 triển khai phục kích, giặc vừa bắt một con heo thì quân ta nổ súng, diệt gọn từng toán. Bị đánh bất ngờ, chúng hốt hoảng quay về bót. Đại đội 2 Chi đội 12 rời trận địa, sau đó về Bàu Đưng.


Trên toàn mặt trận các đơn vị thuộc Chi đội 6, Chi đội 11 tổ chức phục kích truy kích địch. Quân ta xung phong đốt toàn bộ số xe của chúng ở Trung Hưng. Địch chạy tán loạn, để lại trận địa gần 300 tên chết và bị thương. Quân ta đốt 14 xe, thu 2 đại liên 12,7 ly, 6 trung liên, gần 300 súng trường, tiểu liên, 1 súng cối 81 ly... Hai tiểu đoàn lê dương đã bị ta đánh thiệt hại nặng.


Trận Trung Hưng - Ràng không chỉ giành thắng lợi quân sự mà còn nâng khí thế bộ đội, gây lòng tin đối với dân, là một trong những chiến công xuất sắc nhất của quân dân Nam Bộ trước ngày toàn quốc kháng chiến.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Tám, 2021, 07:32:10 pm
Lực lượng Chi đội 12 cùng đi với đồng chí Trần Văn Trà xuống Khu 8 đã góp sức cùng các lực lượng ở Khu 8 hoạt động có hiệu quả. Các đồng chí Nguyễn Thược, Lê Văn Dọn, Hồ Văn Phầu tham gia xây dựng Chi đội 14. Ngày 24 tháng 4 năm 1946, phân đội 24 xuống Khu 8 với việc trước mắt là góp phần đối phó việc quân Pháp tiến công gò Bắc Chan. Lực lượng đã xuống tới kinh La gơrãng (sau này là kênh Dương Văn Dương), rồi tiếp tục đi sâu xuống đồng bằng. Bộ phận đồng chí Sáu Nâu cùng đồng chí Trần Văn Trà xuống Sa Đéc; Phân đội 24 do các đồng chí Lâm Thành Hổ, Trương Văn Tuội, Nguyền Văn Voi phụ trách đi Châu Đốc.


Ở Tân Châu, Hồng Ngự và vùng Hòa Hảo lực lượng này làm nhiệm vụ trừ gian diệt tề; xây dựng chính quyền cơ sở, công tác dân vận, tác chiến, về tác chiến đã đánh 2 trận, bắt 6 tù binh, thu nhiều súng (riêng trận đánh bót Đồng Ky thu 4 súng). Một đêm phân đội giải tán 12 ban hội tề phía bên kia sông Mê Công - Châu Giang xuống tới bến Chợ Nước (Tân Châu). Lúc phân đội mới xuống Đồng Tháp Mười, đồng bào tưởng là bọn Đệ tam sư đoàn (vì bọn này đã hoành hành tới Cao Lãnh) nên chạy trốn, bộ đội mượn gì cũng không cho mượn. Anh em đã tự lực mọi thứ, ăn cơm bằng gáo dừa... vận động quần chúng, diệt tề, chứng tỏ mình là bộ đội cách mạng,... dân mới hiểu ra và giúp đỡ tận tình. Phân đội còn góp sức vô hiệu hóa bộ đội Bernard vô chính phủ. Phân đội 24 đã vượt nhiều khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.


Tại Sa Đéc, bộ phận đồng chí Sáu Nâu đã vô hiệu hóa lực lượng “Lâm Hổ Hội” (khoảng một trung đội) do một tướng cướp chỉ huy, giao lực lượng này cho đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến, ủy viên quân sự tỉnh Sa Đéc. Tháng 7 năm 1946, tỉnh Sa Đéc thành lập Chi đội 18, đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến làm chi đội trưởng, Lê Quang Việt làm chính trị viên, Nguyễn Thược chi đội phó. Sau khi để lại một trung đội để thành lập Chi đội 18, số anh em còn lại trở về Chi đội 12.


Trên Quân khu Đông Thành, đại đội 1 do đồng chí Huỳnh Tấn Chùa chỉ huy cùng Chi đội 5 thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ căn cứ đầu não Khu 7. Một trong những đặc điểm ở vùng này là hoạt động của bọn Miên phản động ở các khu vực Ba Thu, Quéo Ba, Cốc Rinh; hoạt động của lực lượng võ trang Cao Đài phán động ở khu vực Bà Vệt, Trà Cao... Đại đội 1 Chi đội 12 được tăng cường đến để bảo vệ dân. Hoạt động chính của đơn vị là công tác dân vận, xây dựng và bảo vệ căn cứ, hoạt động sản xuất tự túc. Đồng chí Huỳnh Tấn Chùa trực tiếp phụ trách một lớp quân chính của chi đội, đào tạo cán bộ cho đơn vị và địa phương.


Nhìn lại về hoạt động quân sự, trên địa bàn được giao, do tương quan về lực lượng có lợi về phía địch, Chi đội 12 đã phân tán từng đại đội, trung đội, hoạt động chống càn là chủ yếu. Đại đội 2 do Nguyễn Văn Bứa chỉ huy đã thường xuyên tác chiến chống càn từ Tân Mỹ, Bình Lý, Mỹ Bình, Đông Thạnh, Nhuận Đức, An Nhơn Tây, Hố Bò đến Gò Nổi, Ba Sòng, Ràng, Sa Nhỏ, Bời Lời... ít nhất mỗi tháng đánh vài trận.


Sở trường chống càn, đồng thời kết hợp thế dân, thế các lõm căn cứ, Chi đội 12 đã tỏ rõ quyết tâm và đã thực hiện được quá trình giữ vững địa bàn trong tình thế địch liên tục đánh phá, góp phần tạo thế, tạo lực lượng và phong trào chiến tranh nhân dân địa phương.


Với âm mưu tái chiếm toàn bộ Đông Dương, sau khi đã cơ bản hoàn thành việc đánh chiếm Nam Bộ, quân Pháp từng bước gây hấn trên chiến trường Bắc Bộ. 20 giờ 3 phút ngày 19 tháng 12 năm 1946 quân và dân Hà Nội nổ súng chủ động mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc. Với tinh thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” quân dân Thủ đô nhất tề đứng lên, quyết chiến với quân xâm lược.


Trước đó, ngày 18 và 19 tháng 12 năm 1946, Ban Thường Vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động cả nước kháng chiến. Sau khi ban hành lệnh toàn quốc kháng chiến, sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước. Người xác định: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ!”.


Nhìn lại hơn chín tháng sau khi ra đời, nối tiếp Giải phóng quân liên quận, Chi đội 12 đã góp sức xứng đáng cùng quân dân Nam Bộ vượt qua một giai đoạn “từ cái thế bị “xô ngã” đến cái thế đứng vững được”1 (Trích trong "Báo cáo đồng chí Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn trong cuộc hội nghị cán bộ quân sự Nam Bộ" (tháng 9 năm 1949). Hồ sơ A93-LS/CCTQK7) để tạo điều kiện cho cả nước chuẩn bị và cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi. Về phần bản thân, bên cạnh hoạt động tác chiến, thành tích quân sự, tiếp nối Giải phóng quân liên quận, Chi đội 12 đã phát huy những cơ sở đã có, tiếp tục xây dựng về mọi mặt bảo đảm để tồn tại và hoạt động lâu dài.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Tám, 2021, 07:33:17 pm
Các chỉ huy Chi đội 12 đứng đầu là đồng chí Tô Ký đặc biệt quan tâm vấn đề quân giới.

Khi lực lượng đã phát triển thì quân giới là một trong hai vấn đề bảo đảm đặt ra một cách gay gắt nhất (lương thực và vũ khí). Khó khăn tưởng chừng không vượt nổi. Với suy nghĩ của đồng chí Tô Ký và đã được bàn bạc thống nhất, từ cuối năm 1945, đầu năm 1946 (lúc còn là Giải phóng quân liên quận) một phương án “giải quyết tình thế” bí mật đã được thực hiện: đưa bớt lực lượng trở về địa phương, phân tán, dựa vào dân, hoạt động một thời gian rồi đề ra kế hoạch hoạt động tiếp. Do đó đã có một thời gian các đồng chí Nguyễn Thược, Nguyễn Bá Bội dẫn một lực lượng trở về Phú Thọ Hòa.


Quân giới Chi đội 12 hình thành từ những tổ sửa chữa vũ khí thông thường: một tổ ở Bình Lý sau dời lên An Thành (Bến Cát), gọi là Ban A; một tổ ở Hố Bò, Phú Mỹ Hưng (Rừng Làng) gọi là Ban B (người của ban này chủ yếu từ Đệ tứ sư đoàn của Lý Hoa Vinh) do Lâm Ngọc Anh làm trưởng ban; một tổ ở Giồng Dinh (Đồng Tháp Mười) gọi là Ban C, chịu sự chỉ huy trực tiếp của Huỳnh Tấn Chùa, đầu năm 1948 chuyển về Xóm Trại, An Nhơn Tây.


Ban quân giới chi đội do Lý Hữu Phương phụ trách (em ruột Lý Hoa Vinh, đến năm 1948 ta mới phát hiện Lý Hữu Phương là gián điệp). Ngoài ra, còn tổ quân giới của ông Bảy Khai thành lập, không đặt dưới sự chỉ huy của Ban quân giới, đóng ở Gót Chàng, An Nhơn Tây (cơ sở vật chất ở đây còn yếu).


Văn phòng Ban quân giới khoảng 10 người, lúc đầu đóng ở xã Trung Lập, nằm cạnh đường số 2 (nhà lầu ông xã Tước); sau lần lượt dời về Bàu Chứa, Mít Nài, Xóm Bưng (xã Nhuận Đức). Hoạt động của ban chủ yếu là việc hành chính. Súng hư hỏng ở các đơn vị chuyển thẳng đến các ban A, B, C không xa ban Quân giới. Ban quân giới lo sưu tập nguyên, vật liệu tổ chức vận chuyển, nhận thành phẩm ở xưởng quân giới để cấp phát. Hoạt động sản xuất, sáng chế và sửa chữa phức tạp đều tập trung ở xưởng quân giới (công binh xưởng) chi đội, mật danh là bộ đội lưu động số 3. Xưởng hình thành giữa năm 1946 từ sự vận động đóng góp từ nhiều nguồn, trước hết là từ Sài Gòn, Chợ Lớn, gồm cả người và vật chất. Ban công tác thành (sau này là Ban công tác số 3) do đồng chí Nguyễn Văn Hâm (Sáu Hâm)1 (Sau ngày 23 tháng 9 năm 1945, đồng chí Sáu Hâm tổ chức "Ban vô hình" hoạt động trong lòng địch, có tham gia mặt trận Tham Lương. Mặt trận này thất thủ, đồng chí tham gia Giải phóng quân liên quạn và đổi "Ban vô hình" thành "Ban ám sát", trụ sở tại Cây Sộp làng Đông Hưng Thuận, hoạt động hướng vào nội thành. Khi Chi đội 12 thành lập, Ban ám sát gia nhập chi đội, sau thành ban công tác số 3) chỉ huy, là một trong những bộ phận vận động, đóng góp nhiều nhất cho xưởng. Đồng chí tổ chức đường dây đưa thư, nguyên vật liệu từ Sài Gòn ra chiến khu.


Ban chỉ huy xưởng gồm: Ngô Văn Năm1 (Ngô Văn Năm (Năm Danh) là chuyên viên kỹ thuật xưởng hải quân Ba Son, giỏi về kỹ thuật), giám đốc; Lư Đồng Sắt, phó giám đốc; Nguyễn Văn Bàng, chính trị viên. Khi Lý Hữu Phương bị xử lý (đầu năm 1948) Ngô Văn Năm kiêm chỉ huy Ban quân giới, phó chỉ huy là Lê Văn Nghé (Chín Nghé). Căn cứ đầu tiên của xưởng đặt tại Bời Lời. Căn cứ văn phòng Ban quân giới năm 1948 dời về Xóm Trại.


Không như những ban “rờ-sạc” tương đối gọn nhẹ, xưởng công binh máy móc nặng nề, di chuyển khó khăn; phải bố trí ở xa địch, trong rừng sâu, hết sức bí mật và có lực lượng bảo vệ. Vì vậy từ căn cứ đầu tiên Bời Lời xưởng chọn xã Chơn Bà Đen làm nơi đặt căn cứ lâu dài. Phan Văn Dỏng, đại đội phó đại đội 2 được cử phụ trách bộ phận chuyên việc bảo vệ căn cứ địa, đã nghiên cứu thực địa, tìm địa điểm đặt công binh xưởng theo tinh thần vừa an toàn, vừa có điều kiện phát triển. Trực tiếp bảo vệ xưởng do khoảng một trung đội thay phiên nhau phụ trách (3 tháng đổi một lần). Bảo vệ vòng ngoài do đơn vị Phan Văn Dỏng2 (Do không chịu đựng được gian khổ, sau này Phan Văn Dỏng bỏ ngũ rồi hàng giặc, phản bội kháng chiến) phụ trách. Vì bộ phận Dỏng quá mỏng nên chi đội phái đồng chí Võ Thái Hòa cùng một số anh em lên lập văn phòng thường trực tại Bàu Chanh để liên hệ giữa chi đội và xưởng. Bộ phận này có một tiểu đội hoạt động trên đất Tây Ninh nên lấy danh nghĩa là “quân báo Chi đội 12” tổ chức thành 5 trạm bảo vệ binh công xưởng, do đồng chí Võ Thái Hòa phụ trách chung. Đầu năm 1948, đại đội 2 cử đồng chí Nguyễn Văn Lai lên Bàu Chanh lập văn phòng, có con dấu văn phòng đại đội 2. Đồng chí Võ Thái Hòa, cùng 3 cán bộ khác trở về chi đội. Địa điểm đầu tiên của xưởng được chọn là Bến Trục nằm trên dòng Sanh Đôi. Hơn 20 công nhân các nghề từ các xưởng Ba Son, Faci, Bá Nghệ, Sở Mộ, Nhà đèn Chợ Quán... đã quy tụ về đây. Xưởng còn thu nạp çông nhân cao su Lộc Ninh, Dầu Tiếng,... Máy tiện, máy phay, bể rèn, đe, búa, máy bào, khoan tay... hầu hết được huy động từ trong thành ra.


Tại Bến Trục, xưởng đã phục hồi và làm được nhiều thành phẩm. Phục hồi một số lựu đạn ném có cần, nhồi thuốc đen.

Để thuận lợi hơn cho việc phát triển và có điều kiện chăm lo đời sống công nhân, xưởng dời đến căn cứ thứ hai (sau khi rời khỏi Bời Lời) ở Đồng Kèn. Tại đây xưởng phát triển mạnh mẽ về kỹ thuật, nghiên cứu chế tạo được một số vũ khí mới: lựu đạn ném, lựu đạn phóng có đuôi (bắn cầu vòng từ các ống phóng gắn ở đầu súng trường, dùng mã tử lực đẩy, dùng kim hỏa gây nổ như tromblon VB). Nghiên cứu từ súng và đạn trombon VB, lựu đạn phóng ngày càng hoàn thiện và được sản xuất hàng loạt đã gây hoang mang cho địch. Đại đội 2 là đơn vị được chọn sử dụng súng phóng lựu đầu tiên của công binh xưởng. Sau trận đánh địch càn ở xã Trung Lập (Củ Chi), đơn vị báo về, loại này đã phát huy hiệu lực, hơn một chục trái nổ giòn giữa đội hình địch, chúng tan tác bò càng, la ó “Việt Minh có mortier”. Xưởng còn sản xuất trái phóng truyền đơn vào thị xã, thị trấn, đồn bót địch.


Xưởng tiếp tục nghiên cứu, sản xuất thành công hàng loạt đạp lôi, địa lôi chôn, địa lôi điện tử để đánh các loại xa cơ giới. Đầu đạn pháo, bom nhỏ lép được chế lại thành mìn đánh xe bọc thép, xe tăng, trái nổ, phá công sự (pétard)... Xưởng còn phục hồi được súng ngắn để trang bị cho cán bộ chỉ huy, phổ biến cách làm đạp lôi cho dân quân, du kích tự làm để chống càn.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Tám, 2021, 07:23:07 pm
Nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho sản xuất, đảm bảo an toàn, đồng thời có điều kiện chăm lo đời sống công nhân, từ căn cứ Đồng Kèn, xưởng quân giới Chi đội 12 còn dời đến hai căn cứ khác là Đồng Rùm và suối Bà Chiêm. Ở các căn cứ này, xưởng tiếp tục tự nghiên cứu và tiếp thu kỹ thuật các xưởng khác, chế tạo thêm nhiều loại vũ khí mới: mìn cải tiến để đánh xe bọc thép, xe tăng; mìn phá công sự bê tông có thép; đạn lõm chống xe bọc thép (AT), phóng bằng một ống gắn đầu súng trường. Đặc biệt, thành tích nổi bật nhất của xưởng là bằng tự lực về cả kỹ thuật, vật liệu, xưởng đã cho ra đời các loại súng cối và đạn cối 50li, 60li, 65li1 (Cỡ nòng tùy thuộc cờ ống tuýp. Đạn lấy của địch nhỏ hơn nòng thì xưởng gia thêm đai sắt). Trong quá trình sản xuất, xưởng rất nghiêm ngặt về chất lượng, đặc biệt là sự an toàn, nhưng phải tiết kiệm từng quả đạn trong thử nghiệm. Nòng súng dược làm bằng các loại ống thép lấy ở bộ phận truyền lực của xe hơi địch bị ta dánh hỏng, ống thép ở bộ phận giảm xốc của càng máy bay; bệ súng làm bằng thép dàn xe hơi (chassis). Đạn cối làm bằng gan hòa thép; đuôi đạn làm bằng nhôm, nhôm tấm lấy ở các đồn điền, hoặc bằng đồng đúc từ lư đồng, mâm đồng (do nhân dân hiến cho kháng chiến). Kích cỡ nòng súng phụ thuộc vào kích cỡ ống thép mà ta thu được. Khẩu súng cối xuất xưởng đầu tiên có tấm biển đồng nhỏ ghi dòng chữ “Súng cối 65 li do công binh xưởng chi đội 12 sản xuất, số 001-1947”.


Một số khẩu cối do xưởng công binh Chi đội 12 sản xuất cùng đã được chi đội và Trung đoàn 312 (sau này) gửi tặng Khu 9, Trung đoàn 81-82.

Sau khi sản xuất được những khẩu súng cối, xưởng lại sản xuất súng máy kiểu “bren” nòng khương tuyến khoan bằng phương pháp thủ công, tiện bằng máy. Ngoài ra xưởng còn sản xuất những loại vũ khí thông thường, thiết thực như đạp lôi thủy lôi đánh tàu hoặc đánh cầu, các loại mũi chông sắt.


Như vậy, sản phẩm của công binh xưởng Chi đội 12 từ vũ khí thô sơ đến một số vũ khí bán tự động, tự động, không chỉ phục vụ cho chi đội mà còn phục vụ cả cho du kích và đơn vị bạn. Vũ khí cải tiến tạo ra cách đánh mới có hiệu quả, tạo lòng tin và niềm phấn khởi cho bộ đội. Trong quá trình sản xuất cũng đã qua một thời kỳ để lẫn những trái đạn, những quả mìn ruột giả, gây hại trong chiến đấu, gây nghi ngờ trong chiến sĩ, nhưng hiện tượng này đã được giải quyết dứt khoát, hoàn toàn chấm dứt sau khi phát hiện kẻ chủ mưu phá hoại là Lý Hữu Phương (gián điệp), nguyên trưởng ban quân giới.


Thành tích đạt được từ công binh xưởng Chi đội 12 là kết quả của quá trình nỗ lực nghiên cứu, học hỏi, sáng tạo của cả một tập thể đầy quyết tâm bao gồm cả các đồng chí lãnh đạo và đội ngũ công nhân. Bên cạnh giám đốc Ngô Văn Năm, người chủ trì nhiều công trình, là những đồng chí không chỉ là những cộng tác viên mà còn là những thành viên góp phần sáng tạo: phó ban quân giới Chín Nghé, phó giám đốc Lư Đồng Sắt, trưởng ban nguội Nguyễn Văn Thưa, trưởng ban tiện Lê Văn Quýnh, trưởng ban hóa học Nguyễn Văn Chừng... đặc biệt là sự quan tâm của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy chi đội: Tô Ký, Huỳnh Tấn Chùa, Nguyễn Văn Bứa. Giữa rừng sâu đầy thử thách, để có vũ khí cho bộ đội đánh giặc, đã bao năm anh em chịu đựng, vượt qua bao gian khổ, thiếu thốn, thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nguyên vật liệu, chịu đựng muỗi mòng, rắn rết, ve, vắt thú rừng, bệnh tật. Những năm đầu lên rừng sâu, có những dịch rận, ve hoành hành, nhiều anh em bị tấy sần mặt da, ngứa khắp người. Trong tình thế như vậy thời gian đầu có nhiều anh em đóng khố làm việc, có bộ quần áo chỉ dành khi đi ra ngoài. Nhiều đêm, cả đàn voi càn quanh xưởng, có con dùng vòi lay động cả nhà xưởng. Cọp và rắn chàm quạp luôn đe dọa mạng người. Ở Đồng Kèn, cọp đã cướp đi một em bé đang nằm bú mẹ, một liên lạc của bộ đội, một liên lạc của cơ quan hành chính xã. Nhưng mối đe dọa lớn nhất vẫn là bệnh sốt rét, hầu như không ai tránh khỏi. Có những lúc một viên ký ninh vàng ngâm vào một lít nước rồi chia đều có mỗi người một ngụm. Thợ tiện Nhiều (gốc thợ Ba Son) bị cơn sốt ác tính, bị chết, máu chảy ra từ tai, mắt, mũi, họng. Tính ra, xưởng Chi đội 12 với trên 100 cán bộ, chiến sĩ đã có 8 anh em nằm lại núi rừng. Đặc biệt vấn đề nước trở nên hết sức gay gắt. Để giữ bí mật, xưởng phải ở xa dòng suối, nhưng giếng đào sâu trên mười thước chưa chạm mạch. Vì vậy, nhiều lúc tiêu chuẩn nước mỗi người chỉ được một phần tư lít mỗi ngày, phải tận dụng cả những giọt sương buổi sáng đọng trên lá cây, hoặc lấy mồ hôi thay nước để “tắm”, nhất là anh em ở lò rèn.


Chi đội trưởng Tô Ký hàng tháng cùng đoàn “công-voa” xe bò hàng chục chiếc chở đầy vật liệu, thuốc men, lương thực vượt vòng vây địch từ Bời Lời, Bàu Gòn, Bàu Chanh vượt hàng chục đồn bót địch để lên thăm xưởng. Xúc động trước cảnh tình gian khổ của anh em, đồng chí nghẹn ngào: “Tôi thật không hiểu nổi các anh em binh công xưởng. Anh em cũng là người đâu phải sắt đá mà sức chịu đụng thật phi thường. Chỉ có đội ngũ giai cấp công nhân, có Đảng lãnh đạo mới được như vậy”.


Đồng chí Đặng Quang Hổ, chánh văn phòng của xưởng ghi không sót lời nào của người chỉ huy mỗi khi đồng chí đến thăm.

Thấy anh em quá thiếu thốn, cực khổ, có lúc đồng chí Tô Ký đặt vấn đề đưa xưởng xuống Củ Chi, về đồng bằng, gần dân cho đỡ cực khổ hơn. Ý kiến này không được công nhân tán đồng. Anh em nói:

- Anh Ba về thưa lại với Đảng, với ban chỉ huy... Bộ đội có nghĩa vụ giết giặc cứu nước, anh em công nhân quân giới có nghĩa vụ lo cho bộ đội... Bộ đội dám hy sinh trên chiến trường thì công nhân quân giới cũng dám hy sinh trên trận địa sản xuất... Nghĩa vụ yêu nước bình đẳng như nhau... về dưới không sản xuất được vũ khí nặng để phục vụ bộ đội đánh to thắng lớn. Các anh cứ yên tâm để anh em trên này và dành tâm trí vào việc lớn hơn...


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Tám, 2021, 07:23:54 pm
Sự sống còn của xưởng không chỉ do nỗ lực bản thân, mà còn một yếu tố rất quyết định là sự góp sức toàn đơn vị và nhân dân.

Anh em đến các cầu sắt tổ chức đánh địch và phá cầu để lấy sắt, tìm đào bom, pháo lép. Có những đêm đốt lửa để thu hút may bay địch đến ném bom tại một địa điểm đã chọn, hôm sau đến bới tìm bom lép. Các đồn điền, sở cao su là nơi ta vận động, tổ chức lấy hàng vạn chén mủ bằng nhôm, các loại sắt.


Nguồn lực trong dân rất quan trọng. Huyện “quê hương” Hóc Môn là nguồn thu nhập lớn. Trong huyện có những cuộc vận động nhân dân hiến góp các loại đồ đồng như lư đồng, chuông đồng... để đúc đạn, nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Bà con tích cực thu thập các loại vật liệu nhôm, đồng, sắt, sưu tầm, vận động mua hóa chất từ trong nội thành. Một trong những người tích cực vận động vật liệu, tiền bạc, thuốc men là ông Nguyễn Văn Điều (đốc học cũ), ủy viên ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Tây Ninh.


Việc vận chuyển, tiếp tế cho xưởng đòi hỏi hệ thống tổ chức, bảo vệ tỉ mỉ. Những ngày hình thành xưởng, vật chất, máy móc từ trong thành ra bằng nhiều đường, cả trên bộ, dưới sông. Đường bộ thì từ Phú Nhuận ra Tân Bình, phải đục tường một số nhà phố để đưa ra, đến gần sáng thì cho xuống hầm bí mật. Đường sông chở sắt, thép, máy móc, ngụy trang bằng cá chết, phân cá, tro trấu... để qua mắt các trạm xét của địch. Có cả một trung đội vận chuyển vật chất cho xưởng từ trong thành ra.


Việc chuyên chở hàng tiếp tế trực tiếp đến xưởng do đồng chí Sáu Ngói, trưởng trạm quân lương phụ trách. Bộ phận này có một tiểu đội võ trang do Hoàng Anh chỉ huy. Phương tiện vận chuyển chủ yếu là xe bò, được huy động từ trong dân, mỗi chuyến “công-voa” lên Tây Ninh để vào xưởng khoảng 10-15 chiếc, có chuyến đến 40 chiếc. Lực lượng bảo vệ các đoàn “công-voa” lấy ở các đại đội. Phụ trách lộ trình là Huỳnh Văn Lân (Út Lơ), trưởng ban liên lạc Chi đội 12 (đồng chí Út Lơ sau này là giám đốc Công ty cao su Tây Ninh). Các đồng chí Bảy Khai, Bảy Lam phụ trách việc tiếp nhận trong rừng già Chơn Bà Đen. Có những chuyến “công-voa” dành riêng những chiếc xe bò chở bánh trái, muối xả ớt... của phụ nữ Hóc Môn gởi cho xưởng. Đồng chí Hồ Thị Bi là một trong những người vận động tích cực để có những chuyến xe như vậy. Khi những chuyến “công voa” rời căn cứ của xưởng, thì chở súng đạn do xưởng sản xuất xuống chiến trường.


Bên cạnh vấn đề vũ khí, vấn đề lương thực luôn đặt ra môt cách gay gắt. Trước kia số quân chưa lớn, những việc như nuôi quân cứu thương không mấy khó khăn nhờ dựa vào dân. Khi quân số đã tăng thì việc đưa một bộ phận lực lượng về địa phương, phân tán, dựa vào dân để hoạt động một thời gian cũng chỉ là cách tạm thời để giải quyết tình thế thiếu vũ khí và đặc biệt là thiếu lương thực. Hướng giải quyết lâu dài là kết hợp chế độ cung cấp với tự túc, tự cấp và hậu cần nhân dân. Về chế độ cung cấp, theo quy chế Chi đội 12 được Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Gia Định bảo đảm tài chính, hậu cần. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh lúc bấy giờ, bên cạnh Chi đội 6, Chi đội 12, còn nhiều lực lượng khác, việc cung cấp cho cả hai chi đội là quá khả năng. Trước mắt Chi đội 12 phải tự túc, tự cấp. Đó cũng chính là phương hướng lâu dài, và trên phương hướng đó Ban kinh tế Chi đội 12 được thành lập.


Ban kinh tế Chi đội 12 có nhiều bộ phận, trong đó có hai bộ phận chính:

Bộ phận hoạt động hướng đô thị và nông thôn xung quanh, hoạt động kinh tế kết hợp hoạt động Ban công tác số 12 gồm các nội dung: tác chiến, binh vận, công tác vận động nhân dân (vận động chính trị và vận động ủng hộ vật chất), trực tiếp hoạt động kinh tế như sản xuất mua bán. Về mặt kinh tế, bộ phận này mang tên Ban kinh tế Chi đội 12, do Hồ Thị Bi (trưởng ban công tác số 12) làm trưởng ban, Bùi Thị Nếp phó ban.


Bộ phận làm kinh tế hướng nông thôn do đồng chí Võ Văn Hoa (Sáu Hoa) phụ trách.

Ngoài ra mỗi đơn vị đều có tổ chức bộ phận lo việc tự túc riêng.

Trên thực tế, hoạt động tác chiến, dân vận của Ban công tác số 12 có tác động trực tiếp đến hoạt động của Ban kinh tế. Ban tồn tại và hoạt động trong dân, diệt tề, trừ gian, diệt giặc, được dân tín nhiệm, che chở... như vậy có thuận lợi dể vận động sự ủng hộ về mọi mặt, cả về vật chất, đồng thời tạo cơ sở để tiến tới sản xuất, mua bán. Nhận nhiệm vụ, đồng chí Hồ Thị Bi được chi đội giao 300 đồng Đông Dương để làm vốn (số tiền này do đồng chí Trần Văn Trà để lại trước khi đi Khu 8 ). Đồng chí xác định ngay nhiệm vụ cho Ban công tác số 12, đặc biệt là đội “nữ binh” du kích là vừa hoạt động diệt ác, trừ gian đánh giặc vừa làm công tác vận động đồng bào ủng hộ kháng chiến. Dần dần Ban kinh tế tổ chức trồng thuốc lá, hoa màu, bán lấy tiền đi mua trâu bán lấy lãi phục vụ cho chi đội. Tại Hóc Môn, Ban kinh tế tổ chức hội đỡ đầu cho bộ đội, hội viên có các bạn hàng thịt, hàng vải, cá, tiệm “chạp phô”. Lực lượng đồng chí Hồ Thị Bi phát triển đến cấp tiểu đội, rồi trên cấp trung đội, dần hình thành hai đơn vị dưới sự chỉ huy của đồng chí Hồ Thị Bi: Ban công tác số 12 và đơn vị lưu động (phát triển thành đại đội 2804 khi thành lập Trung đoàn 312) vừa hoạt động quân sự vừa hoạt động dân vận, vận động ủng hộ kháng chiến, binh vận, sản xuất. Tầm hoạt động dần mở hướng tiến vào nội thành Sài Gòn-Chợ Lớn. Chị Bùi Thị Nên (Nếp), các anh Lu, Ninh... tổ chức Hội ủng hộ Vệ quốc đoàn ngay trong lòng địch hậu, không chỉ ở nội thành Sài Gòn-Chợ Lớn, mà còn mở về hướng Thủ Dầu Một (do anh Út Minh, chị Năm Mể chủ trì). Đặc biệt, ta tổ chức ra Hà Nội mua giấy đem về Sài Gòn bán lấy lãi. Ta còn vận động thầu làm đường trên quốc lộ 1, nhiều tháng họ ủng hộ đến hai cặp đầy giấy 100đ “bộ lư” ngân hàng Đông Dương và cũng chính anh em công nhân làm đường đã đào lỗ chôn mìn đánh xe giặc. Nhờ vậy, bộ đội có thuốc men, vải, hàng quân nhu, quân giới... để tồn tại và đánh giặc. Sau vụ tổ chức lấy gần một triệu đồng ở nhà dây thép Sài Gòn, tổ chức làm kinh tế ở nội thành bị lộ, một số người bị bắt.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 06 Tháng Tám, 2021, 07:25:13 pm
Ở hướng nông thôn, khi có chỉ thị 40 của cấp trên về sản xuất tự túc, đồng chí Tô Ký giao cho đồng chí Võ Văn Hoa (Sáu Hoa) một số tiền chỉ đủ mua nửa con trâu. Đồng chí Sáu Hoa đề đạt ý kiến và được đồng chí Tô Ký thống nhất tinh thần “phi thương bất phú”, với số vốn như vậy, phải tổ chức buôn bán mới ra tiền. Thực hiện ý kiến đồng chí Sáu Hoa, để tạo vốn đầu tiên, đồng chí Nguyễn Văn Bứa tổ chức cho đại đội 2 đón xe đò từ Cam-pu-chia về Sài Gòn trên quốc lộ 1 (nay là quốc lộ 22) đọc lời kêu gọi, tuyên truyền, thuyết phục các chủ xe và thương buôn vừa làm nghĩa vụ, vừa ủng hộ tiền bạc, hoặc bán một số hàng cho bộ đội “mua đi bán lại”... Trong một thời gian ngắn vừa vận động, vừa mua bán trâu bò, heo... vốn tăng lên năm, sáu ngàn đồng. Từ đó anh em mua trâu, bò, xe bò làm ruộng. Đồng chí Ba Mộc từ Bàu Chứa xuống Giồng Dinh lập Trại Ruộng. Bắt đầu gần như số không với nhiều sáng kiến, năng nổ, đồng chí Sáu Hoa đã chủ trì xây dựng được Ban sản xuất 40 người, làm 40 mảnh ruộng, cùng Ban kinh tế hoạt động tự túc cho đơn vị: trồng hoa màu, cây thuốc lá, làm mía, làm đường, lấy mủ cao su, làm củi bán, làm cá khô, lập quán cơm...


Đất của đốc phủ Đẩu ở Tân Mỹ, Bình Lý được trưng dụng để làm ruộng cho chi đội. Vườn cao su của ông Hai Khứ, chị Hai Bèn vùng kênh Lý Văn Mạnh đều hiến cho chi đội để khai thác mủ và làm củi bán. Các quán cơm của chi đội rải rác từ An Nhơn Tây lên Đồng Tháp (nhưng do bất lợi về bí mật quân sự, sau này đồng chí Tô Ký chủ trương giải thể hết quán xá).


Ở hướng nông thôn, căn cứ rừng núi còn một khối lượng sản xuất quan trọng nữa là hoạt động tự túc của các đơn vị.

Thực tế quá trình xây dựng, tồn tại và chiến đấu lúc bấy giờ đặt yêu cầu tất yếu là từng đơn vị tự túc. Như ở căn cứ Chơn Bà Đen, buổi đầu về đây, bộ đội ăn cả trái gùi để thay cơm, ăn cỏ đầu rìu, bò cạp nướng, nhện hùm, mối cánh... đào cả ụ mối tìm mật ong ruồi, được mấy giọt mật phải đổ mồ hôi... Có được bộ đồ lót cũng chỉ dành để mặc khi tiếp xúc với bên ngoài.


Trong toàn bộ quá trình xây dựng, đặc biệt về công tác bảo đảm quân nhu, quân lương, mối quan hệ giữa chi đội với dân là nét truyền thống sâu sắc được xây dựng và phát huy từ Giải phóng quân liên quận. Nhân dân cùng chi đội bám trụ, chiến đấu, sản xuất và công tác bảo đảm. Những lần tải gạo từ Gia Định sang Giồng Ông Hòa, trở về Gia Định, có lúc đi xa hơn, bộ đội đi thì dân cũng đi, một đại đội của chi đội đi thì có mấy đại đội dân cùng đi, mỗi chuyến đều gắn với một phương án đánh địch, canh đường để đảm bảo an toàn. Lúc khó khăn nhất, như năm 1946, bộ đội đói, dân cũng đói, chia sẻ cùng sống để đánh giặc. Có lần chi đội chở lên được một xe bò gạo tiếp tế tới Bàu Chanh, Bàu Gòn, đồng bào vì đói đổ ra xin, bộ đội cấp cho dân gần hết, chỉ chừa một ít để nấu cháo măng le, ăn với muối ớt. Dân thiếu, đói từ hạt gạo, củ khoai, nhưng gay go nhất là thiếu muối, có khi phải đốt tranh, đốt cây mắm lấy tro thay muối. Năm 1947 Chi đội 12 có muối dự trữ, bị ướt đem phơi, đồng bào vây quanh để lượm những hạt rơi vãi. Anh em chia cho mỗi người một chén nhỏ, đồng bào rất cảm động.


Ban quân y chi đội gồm các đồng chí Nguyễn Văn Mi, Sáu Sáng, Bồ, Văn Tô, Trương Kế Phước, Trang. Dưới ban là hệ thống “chân rết”: ban cứu thương văn phòng chi đội trưởng, ban cứu thương bên cạnh chi đội phó, quân y binh công xưởng1 (Nhân sự luân phiên từng thời kỳ 3 tháng, do chi đội cử lên xưởng, Cụ Thọ, Sáu Sáng, Ba Tường, Trịnh Khánh Chiêu... Khi có nhiều người bệnh, chánh văn phòng xưởng Đặng Quang Hỗ phụ giúp quân y xưởng) cứu thương, y tá các đại đội, tổ pha chế. Khoảng tháng 8, tháng 9 năm 1946 chi đội thành lập dưỡng đường chi đội, đóng ở Tân Thông, do chị Mười Điệp phụ trách. Đầu tháng 4 năm 1947 dưỡng đường đổi tên là quân y xá 3, đóng ở Rừng Làng, Xóm Trại, do đồng chí Nguyễn Anh Tường (Ba Tường) phụ trách. Ban quân y mở lớp cứu thương khóa Đỗ Bá Thông (tên một chiến sĩ y tá hy sinh) để đào tạo nhân viên cứu thương.


Ban quân y có Ban tiếp tế từ trong thành (có các đồng chí Cơ, Năm...) lo việc mua, huy động thuốc men, dụng cụ y tế gửi ra. Thuốc men thời kỳ chi đội đã dồi dào hơn. Hoạt động quân y không chỉ ở phía sau, mà còn bám sát bộ đội, ra phía trước; không chỉ hoạt động trong bộ đội mà còn cứu chữa, giúp dân nơi đóng quân. Không ít trường hợp chiến sĩ quân y cầm súng chiến đấu, nhiều chiến sĩ đã hy sinh như anh Đỗ Bá Thông, chị Quý... Lúc chưa có dưỡng đường, bệnh nhân nặng và thương binh được phân tán ở nhà dân, hằng ngày nhân viên quân y thay nhau đến lo cơm cháo, băng bó, thuốc men. Căn cứ quân y xá 3 ở một khu rừng chỉ dài dưới 2 ki-lô-mét, rộng dưới một ki-lô-mét, vẫn bám trụ, nhân viên y tế, thương bệnh binh đều được bảo vệ an toàn.


Ngay trước ngày toàn quốc kháng chiến, bức điện ngày 16 tháng 12 năm 1946 của Trung ương Đảng gửi Xứ ủy lâm thời Nam Bộ đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ Nam Bộ là không để cho Pháp đem hết tài sản chiếm được ở Nam Bộ ra đánh Trung, Bắc. Việc hành binh phải tìm cách có ý thức uy hiếp Sài Gòn...”.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 07 Tháng Tám, 2021, 04:58:08 pm
Nội dung kế hoạch đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam của thực dân Pháp gồm hai phần chính là “tách Nam Kỳ ra khỏi cuộc chiến tranh” và biến Bắc Bộ thành chiến trường chính. Để thực hiện ý định này, bộ tham mưu của tướng Valluy (Tổng tư lệnh các lực lượng Pháp ở Đông Dương từ tháng 6 năm 1946 đến tháng 5 năm 1948) vạch kế hoạch bình định Nam Bộ với tham vọng hoàn thành vào mùa thu năm 1947, coi đây là một khâu then chốt trong toàn bộ chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”. Kế hoạch được triển khai trên cả ba mặt chính trị, kinh tế, quân sự.


Về quân sự, ở Nam Bộ tướng Nyo (tư lệnh lực lượng Pháp ở Nam Đông Dương) bố trí lại chiến trường, bỏ bớt đồn bót lẻ, tập trung lực lượng chủ yếu xung quanh Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ1 (Lực lượng của Nyo tại Nam Bộ có 28.000 quân viễn chinh, 6.000 lính bảo an và khoảng 10.000 dân vệ), phát triển ngụy quân, phát triển chiến tranh gián điệp, mở các cuộc hành quân lớn vào các căn cứ kháng chiến và thường xuyên đánh phá vùng du kích, nhằm diệt các lực lượng cách mạng, dồn lực lượng kháng chiến vào một khu vực, từ đó dùng lực lượng lớn bao vây, tiêu diệt. Địch chia Nam Bộ làm ba tiểu khu và đặc khu Sài Gòn - Gia Định trực thuộc tổng hành dinh tướng Nyo. Sau đó Nyo lại chia ba tiểu khu thành sáu chi khu không theo ranh giới hành chánh mà theo yêu cầu quân sự, trong đó Chợ Lớn thuộc tiểu khu Vàm Cỏ, Gia Định thuộc tiểu khu Gia Định, trực thuộc bộ tư lệnh quân viễn chinh tại miền Nam Đông Dương.


Tháng 1 năm 1947, Khu trưởng Khu 7 triệu tập hội nghị quân sự toàn khu. Hội nghị đề ra nhiệm vụ quân sự năm 1947 với nội dung chủ yếu là: tiếp tục xây dựng, phát triển lực lượng võ trang đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh mạnh vào hậu phương địch, các cơ sở kinh tế của chúng ở nội thành Sài Gòn, vùng cao su và dọc các trục giao thông. Hội nghị cũng chủ trương thực hiện công tác dân vận, chống chính sách chia rẽ lựơng giáo của địch.


Trên chiến trường Khu 7, đặc biệt là chiến trường Tây Ninh, Gia Định (tập trung là khu vực Hóc Môn), một phần các tỉnh Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Tân An... từ cuối năm 1946 nổi lên vấn đề Cao Đài Tây Ninh, về vấn đề Cao Đài ở miền Đông cũng như vấn đề Hòa Hảo ở miền Tây và đối với tôn giáo nói chung, chính sách của Đảng và Chính phủ cách mạng là tôn trọng tín ngưỡng, đoàn kết dân tộc, chủ trương dùng biện pháp tuyên truyền, vận động quần chúng tín đồ, chỉ rõ âm mưu lợi dụng tôn giáo để thực hiện thủ đoạn dùng người Việt đánh người Việt của thực dân Pháp. Nhiều tín đồ Cao Đài nhận ra âm mưu của địch và các chức sắc cao cấp phản động, đã nhiệt tình ủng hộ kháng chiến. Tuy nhiên do nắm được tín đồ, chủ yếu là ở Tây Ninh, một số chức sắc cao cấp phản động đã cấu kết với thực dân Pháp tổ chức lực lượng võ trang Cao Đài, thực chất là một dạng ngụy quân, công cụ của thực dân Pháp, để chống phá cách mạng1 (Đầu năm 1946, Bazin, giám đốc sở mật thám liên bang được Pháp giao nhiệm vụ phục trách vấn đề Cao Đài, đã sử dụng con bài đầu tiên là Trần Quang Vinh, một chức sắc Cao cấp ở Tòa thánh Tây Ninh, để nắm tín đồ Cao Đài. Trong lúc đó chúng rước giáo chủ Phạm Công Tắc từ Madagasca trở về (28 tháng 8 năm 1946). Trong khi đại đa số đồng bào theo đạo Cao Đài yêu nước có quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm thì Phạm Công Tắc là một con người hết dựa vào Nhật đến dựa vào Pháp chống phá cách mạng đến cùng, nhưng khoác áo "chống Pháp, bảo vệ dạo”, “Vì Tổ quốc”, gây lẫn lộn trắng đen đối với tín đồ nhẹ dạ. Sau những cuộc mặc cả, Phạm Công Tắc đã bí mật ký kết với Pháp về việc xây dựng lực lượng võ trang Cao Đài dưới chiêu bài "Việt Nam phục quốc”, “bào sanh nhân nghĩa đại đồng”, ra “Thánh lệnh” (từ Tây Ninh) gấp rút tập hợp 5.000 thanh niên tín đồ để xây dựng quân đội Cao Đài-một dạng ngụy quân, đội lốt “tạm hòa hoãn với Tây đế chống Tây). Dưới chiêu bài “tạm hòa hoãn với Tây để chống Tây”, lực lượng này từ hoạt động thủ tiêu ngầm người kháng chiến đến công khai chống phá cách mạng từ Tây Ninh mở ra trên diện rộng hướng về phía ven Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn...


Bọn cầm đầu phản động trong Cao Đài đã vạch ra kế hoạch tạo phản gồm ba giai đoạn: chuẩn bị; ly gián đối phương (vừa chống Chính phủ cách mạng, chống Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 vừa tuyên bố “đánh lừa Tây để lấy súng Tây đánh Tây”, mua chuộc, lôi kéo người kháng chiến...); lật đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền của chúng. Thực dân Pháp tuy không hoàn toàn tin Cao Đài nhưng triệt để lợi dụng Cao Đài.


Trước tình hình này, cuối năm 1946, để dẹp loạn Cao Đài phản động, Bộ chỉ huy Khu 7 thành lập một liên quân gồm nhiều phân đội thuộc các chi đội 5, 6, 11, 15 và bộ đội Hoàng Thọ, gọi là “liên quân xung phong”, do Tham mưu trưởng Khu 7 Huỳnh Kim Trương chỉ huy. Liên quân mở đợt võ trang tuyên truyền lớn. Đêm 30 Tết đầu năm 1947 (ngày 24 tháng 1 dương lịch), thực dân Pháp làm lễ trao súng cho quân đội Cao Đài tại Tòa thánh Tây Ninh. Mấy ngày hôm sau, vào ban đêm liên quân xung phong bí mật đột nhập Tòa thánh, thực hiện võ trang tuyên truyền, vừa “thuyết pháp” tín đồ đừng nghe bọn phản động mà hại đạo, phản dân tộc, đồng thời cảnh cáo, phân hóa giới cầm đầu Cao Đài Tây Ninh.


Do tình trạng hoạt động rời rạc, Trịnh Khánh Vàng, Chi đội trưởng Chi đội 11 không chấp hành mệnh lệnh (sau đó Khu cử Nguyễn Văn Dung, Chi đội trưởng Chi đội 6 lên thay Trịnh Khánh Vàng), “liên quân xung phong” không ngăn được đà hoành hành ngày càng tăng của quân Cao Đài kể cả hành động cướp phá dân vùng kháng chiến và gây khó khăn lớn cho cách mạng. Chúng tràn qua đâu là ở đấy xơ xác, tiêu điều đến đó.


Vào khoảng thời gian này quân Pháp tổ chức cuộc càn lớn vào các làng Tân Xuân, Tân Thới Nhứt, Nhị Hòa, Vĩnh Lộc (ngày 24 tháng 1 năm 1947), Chi đội 12 phối hợp các chi đội 11, 6 chống càn giữ được các căn cứ.


Trước tình thế khẩn trương, Chính trị bộ ở Khu 7 chủ trương mở đợt tảo thanh nhằm loại trừ các phần tử, các thế lực phản động trong đạo Cao Đài. Để thực hiện việc này, đồng thời để tạo điều kiện rèn luyện tác chiến hiệp đồng trên chiến trường, Bộ chỉ huy Khu 7 quyết định thành lập các liên quân đặc nhiệm A, B.


Liên quân B lấy từ lực lượng các chi đội 1, 6, 11, 12, 15. Lực lượng Chi đội 12 tham gia liên quân B gồm đại đội 2 do Nguyễn Văn Bứa làm đại đội trưởng, Nguyễn Hồng Đào làm chính trị viên; đại đội 3 do Tư Đức làm đại đội trưởng, Nguyễn Văn Bâu làm chính trị viên.


Địa bàn hoạt động của liên quân B gồm khu vực Hóc Môn, Đức Hòa, Trảng Bàng, chủ yếu là dẹp loạn Cao Đài Tây Ninh, ngăn chặn quân phản động tràn xuống Gia Định (trong đó Chi đội 15 giữ phía bắc tỉnh Chợ Lớn)1 (Các đơn vị khác trong liên quân B: một đại đội của Chi đội 15 do đồng chí Hượt chỉ huy, Mạnh phó chỉ huy; một đại đội của Chi đội 11 do đồng chí Cao Hoài Sại chỉ huy; Minh chính trị viên; một đại đội của Chi đội 1 do Chung chỉ huy, Hình chính trị viên...)


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 07 Tháng Tám, 2021, 04:59:03 pm
Khu trưởng Nguyễn Bình ra bản hiệu triệu kêu gọi cán bộ chiến sĩ đồng tâm nhất trí chống quân phản động, hãy vì nhiệm vụ chung mà bỏ qua mọi xích mích nội bộ,...

Khu trưởng ủy nhiệm Tham mưu trưởng Huỳnh Kim Trương vừa trực tiếp chỉ huy liên quân B vừa toàn quyền chỉ huy mặt trận Tây Ninh; chi đội trưởng Chi đội 11 Nguyễn Văn Dung (nguyên chi đội trưởng Chi đội 6, được bổ nhiệm thay Trịnh Khánh Vàng) chỉ huy liên quân A.


Tuy nhiên, trong khi quân phản động tiến công ta bằng đủ mọi mặt quân sự, chính trị, kinh tế, thì tổ chức liên quân mới lại hoạt động thiếu ăn khớp, đồng bộ. Giữa lúc bọn phản động tập trung toàn lực cố quét lực lượng của ta trong tỉnh Tây Ninh thì thay vì mọi biện pháp chống giữ phải tập trung vào mặt trận xung yếu ấy theo sự ủy nhiệm của Khu trưởng, lại phân tán liên quân B ra làm B1, B2, B3, chuyển sang hoạt động ở phía bắc tỉnh Thủ Dầu Một1 (Viết theo “Báo cáo vấn đề Cao Đài - Bình Xuyên” của Chính trị bộ Khu 7. Hồ sơ A59-LS / CCTQK7)...


Nắm được ý định của ta, quân phiến loạn Cao Đài ở Tòa thánh Tây Ninh kịp thời chuyển hướng về “kế hoạch ba giai đoạn”, cấp tốc kéo quân ra các vị trí tiền đồn của quân Pháp, tấn công các cơ quan kháng chiến, bủa lưới gián điệp khắp nơi, hợp tác với quân Pháp phản công, vây đánh quân ta... Thế là lợi dụng được những sai lầm của ta, “chúng đã từ thế liệt chuyển sang thế ưu mà ta từ thế ưu chuyển sang thế liệt”2 (Trích “Báo cáo vấn đề Cao Đài - Bình Xuyên” của Chính trị bộ Khu 7. Tài liệu đã dẫn). Bọn phản động đã phát huy mạnh mẽ sự quả quyết và thâm độc trong việc mê hoặc, lợi dụng tín đồ trong các hoạt động võ trang, tình báo, lấy quần chúng làm lá chắn, làm bia đỡ đạn, tấn công địch vận về phía lực lượng võ trang cách mạng dưới chiêu bài “lập trường chống Tây”...


Trước tình thế mới Bộ chỉ huy Khu 7 chủ trương một phương án mạnh mẽ mới: Giao nhiệm vụ cho liên quân A giữ mặt bắc và mặt tây tỉnh Tây Ninh, không cho quân phản động tiến lên liên kết với các sóc Cao Miên (Kông Pông Chàm, Svay-riêng do thế lực thân Pháp không chế); liên quân B giữ mặt đông nam tỉnh Tây Ninh, chặn không cho quân phản động tràn xuống tỉnh Gia Định, cùng quân từ Tòa thánh đánh lên; Chi đội 15 giữ phía bắc tỉnh Chợ Lớn, không cho phản động tràn xuống. Tổ chức thêm liên quân 15 hoạt động trong vùng Hóc Môn, dọc theo quốc lộ 1, là trục giao thông mà quân phản động định chiếm làm đường chiến lược nôi Tây Ninh với Sài Gòn.


Tổ chức thêm liên quân C chặn phía tây nam tỉnh Tây Ninh, không cho phản động nối thông theo sông Vàm Cỏ Đông tràn xuống tỉnh Tân An. Liên quân gồm các đơn vị thuộc các chi đội 5, 12, 13, bộ đội Bình Xuyên. Lực lựợng Chi đội 12 trong liên quân C là đại đội 1 do đồng chí Huỳnh Tấn Chùa chỉ huy.


Bộ chỉ huy Khu chỉ định đồng chí Tô Ký, Chi đội trưởng Chi đội 12 thay đồng chí Huỳnh Kim Trương chỉ huy liên quân B, kiêm chủ tịch Ủy ban hành chánh tỉnh Tây Ninh (tháng 5 năm 1947). Ngoài ra Khu còn tổ chức các liên quân 17, 18. Liên quân 17 lấy lực lượng từ các chi đội 1, 6, 10, do Đào Sơn Tây chỉ huy, hoạt động ở khu vực Thủ Đức, Dĩ An, Lái Thiêu, Châu Thành, Tân Uyên. Liên quân 18 lấy lực lượng từ các chi đội 12 (đại đội 3), 6, hoạt động ở Hóc Môn, Gò Vấp, Bến Cát, do Nguyễn Thược chỉ huy. Bộ phận Chi đội 12 trong liên quân do Lâm Thành Hổ và Nguyễn Văn Voi chỉ huy.


Tháng 4 năm 1947 Xứ ủy Nam Bộ chỉ thị cho Khu 7 và các tỉnh: hết sức bình tĩnh, tranh thủ sự ủng hộ và tham gia kháng chiến của các tín đồ Cao Đài, mặt khác kiên quyết trừng trị những tên manh tâm làm tay sai cho giặc Pháp, chống lại cuộc kháng chiến. Cùng trong tháng, Tỉnh ủy Gia Định mở hội nghị tại An Phú Đông, kiểm điểm, rút kinh nghiệm một năm xây dựng và củng cố lực lượng trên địa bàn tỉnh. Riêng vấn đề Cao Đài, hội nghị chủ trương bắt bọn cầm đầu phản động, cử một số cán bộ, chiến sĩ làm công tác Cao Đài vận, giải thích cho đồng bào hiểu chủ trương của ta, đồng thời vạch trần âm mưu nham hiểm của thực dân Pháp và bọn phản động gây chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên do không quán triệt đầy đủ chỉ thị trên, một số cán bộ trong “chính trị bộ” khu đã quá tả cả trong nhận thức và chỉ đạo. Do đó, trong hoạt động các liên quân đợt này có những trận đánh có hiệu quả tốt nhưng đồng thời phạm những sai sót về công tác quần chúng.


Ngày 22 tháng 4 năm 1947, giặc Pháp huy động trên 200 lính Âu Phi và một đại đội lính Cao Đài phản động, chia làm hai cánh tiến vào các khu vực Mây Sắc, Cầu Trắng, Hố Bò (xã Phú Mỹ Hưng). Lực lượng liền quân B đang có mặt các đơn vị của Chi đội 6, Chi đội 12, Chi đội 11, tổ chức phục kích, đánh địch từ 8 giờ sáng. Quân ta đẩy lùi giặc xuống đường hào cao su và tổ chức bắn tỉa diệt nhiều tên. Đến 16 giờ, giặc rút lui, ta thu một số đại liên và một số súng trường.


Liên tục từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1947, Chi đội 12 phối hợp với các đơn vị bạn thường xuyên đánh địch càn quét ở địa bàn nông thôn phía tây bắc thành phố Sài Gòn, đặc biệt ở các căn cứ Hố Bò - Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây (Khu 5 Hóc Môn) và căn cứ Long Phước Thôn, đông Thủ Đức.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 07 Tháng Tám, 2021, 05:00:40 pm
Ngày 8 tháng 6 năm 1947, quân ta đánh trận chống càn 500 quân địch ở Gia Bẹ - Xóm Mới (xã Trung Lập, Khu 5 Hóc Môn) lập công xuất sắc. Lực lượng ta gồm liên quân B (đóng tại Gia Bẹ - Xồm Mới) và hai phân đội thuộc Chi đội 6 và Chi đội 12 (đóng tại Bàu Chứa). Mục tiêu càn của địch gồm Xóm Mới (Trung Lập), Ràng, Gò Nổi, Ba Sòng, Bầu Đưng, An Nhơn Tây Nhuận Đức, Bàu Chứa... có mặt đại đội 2 Chi đội 12, đại đội 3 Chi đội 11, một đại đội của Chi đội 1 và 1 đại đội của Chi đội 15.


Phán đoán đúng về địch, nắm chắc địa hình, từ 4 giờ liên quân B chia làm bốn cánh tổ chức bốn mặt trận (A, B, C, D) để đánh địch. 7 giờ pháo giặc từ Bến Cỏ bắn tới tấp vào Xóm Mới để nghi binh, hơn 200 quân Pháp từ Củ Chi, Suối Cụt, Trung Lập, chia làm hai mũi tiến vào Gia Bẹ. Chúng lọt vào vòng phục kích của ta. Ngay loạt súng đầu, quân ta đã hạ 10 lính Pháp. Chúng lùi lại bìa xóm rồi tổ chức tiến công nhiều đợt, nhưng đều bị bẻ gãy. Quân Pháp để lại một bộ phận bắn cầm chừng, còn đại đội bộ phận bí mật luồn qua phía phải, hợp với cánh quân thứ hai (khoảng 100 tên) vòng qua Gia Bẹ định đánh từ sau lưng ta. Chúng men theo suối, bị hai khẩu đại liên của ta phục sẵn, bắn hạ hàng chục tên Pháp. Chúng dàn hàng ngang dùng súng máy bắn xối xả vào trận địa ta. Vượt tình thế ác liệt, quân ta bốn mặt siết chặt vòng vây. Chúng hốt hoảng tháo chạy tán loạn. Ta truy kích diệt thêm nhiều tên. Trong suốt bảy giờ chiến đấu (từ 7 đến 14 giờ), liên quân B đã hành động linh hoạt, các phân đội Chi đội 6, Chi đội 12 chi viện kịp thời, gây bất ngờ cho địch, dồn chúng từ thế chủ động xuống thế bị động, rối loạn đội hình, cuối cùng bị truy kích. Chúng buộc phải bỏ lại trận địa 30 xác chết, ngoài ra còn số thương vong mang đi. Ta thu 11 súng (có 1 trung liên), 6 thùng đạn, một máy vô tuyến điện... Phía ta một chiến sĩ liên lạc hy sinh. Đồng bào hai bên đường số 1 hồ hởi chứng kiến cảnh những chiếc xe chở xác chết, chiến thương Pháp đang nối đuôi nhau về Sài Gòn.


Khoảng 14 giờ, cánh quân địch ở hướng Ràng, Xóm Mới chuẩn bị rút lui, nhưng cánh quân Pháp từ hướng Cây Xộp đang phát triển về hướng Bàu Chứa. Hướng lui quân duy nhất của các đơn vị liên quân B cũng là Bàu Chứa nhưng phải qua một cánh đồng bưng dài và rộng hơn một ki-lô-mét. Trong lúc đó có một đại đội của liên quân 18 do Lâm Thành Hổ và Nguyễn Văn Voi chỉ huy đóng ở khu vực Bàu Chứa, vẫn theo dõi chiến sự ở khu vực Xóm Mới, nhưng không rõ phía ta là đơn vị nào (vì liên quân B mới về đêm trước, chưa kịp liên lạc). Nghe tiếng súng hướng Xóm Mới đã lặng dần, nhưng ở hướng Cây Sộp địch đang kéo lên rất đông, đồng chí Lâm Thành Hổ định cho tạm lùi quân về Nhuận Đức. Đồng chí Nguyễn Văn Lai góp ý: “Bên Xóm Mới liên quân B đang đánh, anh Tô Ký ở bên đó... Lui quân từ Xóm Mới, ta chỉ có hướng duy nhứt là qua bưng về Bàu Chứa, nếu để địch lên làm chủ Bàu Chứa thì cả liên quân B hoàn toàn bị bao vây trên cánh đồng bưng này... Đề nghị anh cho đánh chặn địch từ Cây Sộp lên”. Đồng chí Lâm Thành Hổ đình ngay việc lui quân về Nhuận Đức và cho triển khai đội hình chiến đấu. Lấy ít chọi nhiều, các đồng chí Lâm Thành Hổ, Nguyễn Văn Voi đã chỉ huy đơn vị anh dũng chiến đấu, đạt được ý định không cho địch lên Bàu Chứa. 15 giờ cả hai phía lui quân.


Một số đơn vị thuộc liên quân B vừa chiến đấu từ Bàu Tròn rút về Gò Nổi lại đụng một lực lượng Cao Đài phản động từ cuối xóm Ba Sòng kéo đến chặn đánh. Mặc dù đã mệt, quân ta kiên quyết đánh trả, diệt nhiều tên Cao Đài phản động. Ta hy sinh thêm hai chiến sĩ.


Do lực lượng địch đã lên Bàu Chứa bị đánh chặn, liên quân B lui quân an toàn qua bưng về Nhuận Đức, đêm lại hành quân tiếp về Phú Mỹ Hưng, Hố Bò theo ý định phối hợp với liên quân A chuẩn bị đánh địch càn hôm sau, nhưng chúng đã bỏ dở kế hoạch càn quét.


Ở phía chiến khu Đông Thành, đại đội 1 Chi đội 12 do Nguyễn Bá Bội chỉ huy, Chi đội phó Huỳnh Tấn Chùa trực tiếp chỉ đạo đã tham gia hoạt động trấn áp Cao Đài phản động, chiến đấu chống giặc Pháp càn quét nhiều lần vào căn cứ, diệt nhiều tên.


Phối hợp với lực lượng Cao Đài phản động, quân Pháp mở những cuộc hành quân lớn vào các căn cứ kháng chiến.

Ngày 10 tháng 3 năm 1947, quân Pháp tiến công căn cứ Bộ chỉ huy Khu 7 ở chiến khu Đông Thành. Đoàn máy bay đa-kô-ta lượn qua căn cứ Giồng Dinh, bất ngờ tung ra từng tốp quân nhảy dù. Dưới đất cánh quân thủy theo sông Vàm Cỏ Đông đổ bộ, triển khai đội hình bao vây, chặn đường rút của quân ta. Lực lượng ta có mặt gồm đại đội 1 Chi đội 12 do Nguyễn Bá Bội chỉ huy, có mặt Chi đội phó Huỳnh Tấn Chùa, trung đội bảo vệ khu và Chi đội hải ngoại Trần Phú1 (Chi đội hải ngoại Trần Phú từ Thái Lan về đến vùng biên giới Quân khu Đông Thành chiều ngày 27 tháng 2 năm 1947 sau 2 tháng hành quân đầy gian khổ, tổng số quân 420 người. Ban chỉ huy chi đội gồm: Nguyễn Chánh, chi đội trưởng; Đỗ Huy Rừa và Lê Đuốc Sản chi đội phó; Nguyễn Văn Sáu chính trị viên, Lê Quán Trung và Dương Cự Tẩm, phó chính trị viên) do Nguyễn Chánh làm chỉ huy trưởng. Bộ phận Chi đội hải ngoại tại trận địa Giồng Dinh gồm một trung đội, được tăng cường trung đội bảo vệ khu. Tình huống bất ngờ, sau phút lúng túng ban đầu, quân ta nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu, kịp thời nổ súng khi nhiều tên địch còn lơ lửng trên không. Nhiều tên bị trúng đạn khi chưa chạm đất. Quân nhảy dù bị đánh bật ra đồng trống. Dù của chúng vướng vào đọt tre, lốm đốm trắng trên một vùng giồng. Ta diệt hai trung đội địch, thu nhiều súng đạn. Riêng trung đội hải ngoại thu 2 trung liên, 10 súng trường. Trung đội hải ngoại rút về giồng Thổ Địa, cách trận địa cứ khoảng 5 ki-lô-mét, tổ chức phòng ngự.


15 giờ ta tiếp tục nổ súng và đánh quân địch ở Thổ Địa. Đơn vị anh dũng chiến đấu, bẻ gãy các đợt tiến công của địch, thu 1 trung liên và 6 súng trường, đánh bại cuộc tiến công bất ngờ của địch vào căn cứ Bộ chỉ huy Khu 7.


Tin chiến thắng Giồng Dinh làm nức lòng đồng bào, chiến sĩ Đồng Tháp Mười và các tỉnh miền Đông. Riêng đối với Chi đội hải ngoại Trần Phú, đây là trận ra mắt đồng bào trong nước.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 07 Tháng Tám, 2021, 05:01:59 pm
Để tạo thế bảo vệ căn cứ đầu não Khu 7, tháng 7 năm 1947, với phương án nội công ngoại kích, đồng chí Huỳnh Tấn Chùa tổ chức cho đại đội 1 tiến công căn cứ Hiệp Hòa, do nội ứng phản trắc nên tình huống chiến đấu ác liệt, ta diệt được một số tên, nhưng đơn vị bị thiệt hại nặng, hy sinh hơn một tiểu đội. Hoạt động, chiến đấu trong tình cảnh thiếu thốn, gian khổ, cán bộ, chiến sĩ ở đây ốm đau nhiều. Sau trận chiến đấu ác liệt ở chiến khu Đông Thành đồng chí Huỳnh Tấn Chùa lâm bệnh nặng và qua đời ngày 22 tháng 7 năm 1947 (nhằm ngày 5 tháng 6 âm lịch) tại Giồng Ông Hòa. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đồng chí trăn trối lại với đồng đội: “Chôn tôi chỉ cần một chiếc áo cũ. Áo tôi mặc còn mới, anh em cởi ra mà dùng...” Đồng chí Huỳnh Tấn Chùa mất đi, quê hương Mười Tám Thôn Vườn Trầu Hóc Môn - Bà Điểm, Chi đội 12 mất đi người con, người chiến sĩ trung dũng, kiên cường, giàu nghị lực và đầy nhiệt huyết, đã từ vào tù ra khám đế quốc, đã vào sinh ra tử từ mặt trận cầu Tham Lương và đóng góp nhiều công lao xây dựng Giải phóng quân liên quận, Chi đội 12, chiến khu Đông Thành.


Tháng 10 năm 1947, liên quân 18 giải thể. Đại đội 3 thuộc Chi đội 12 được lệnh hành quân về Gò Vấp bảo vệ dân thu hoạch lúa mùa. Đại đội đã mở đợt hoạt động bao vây tập kích đồn bót địch ở chợ Cây Xoài, chợ Cầu, Quán Tre... phục kích đánh địch tuần tiễu ruồng bố dọc đường giao thông và trong các thôn ấp.


Nam Bộ là chiến trường xa Trung ương, trong quá trình chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ, quân dân Nam Bộ luôn được sự quan tâm đặc biệt, tình cảm đặc biệt và sự động viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tháng 2 năm 1946, Chủ tịch đã thay mặt Chính phủ tặng đồng bào Nam Bộ danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”. Ngày 23 tháng 9 năm 1947, kỷ niệm hai năm Nam Bộ kháng chiến, Người gửi thư cho đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ, Nam Trung Bộ:

“Hôm nay, cuộc kháng chiến oanh liệt ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ vừa đúng hai năm. Tôi trân trọng thay mặt Chính phủ và nhân dân toàn quốc, nghiêng mình trước linh hồn các chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh vì Tổ quốc.

Tôi gửi lời an ủi những chiến sĩ và đồng bào bị thương, bị địch bắt giam cầm hoặc đang bị khổ sở nơi địch đang chiếm đóng. Tôi gửi lời thân ái khen ngợi toàn thể đồng bào và chiến sĩ đang hăng hái chiến đấu.

Đã hai năm nay, chiến sĩ và đồng bào ta hy sinh nhiều tính mạng, tài sản, chịu nhiều cực khổ, gian nan. Song lòng yêu nước ngày càng nồng nàn, chí dũng cảm ngày càng bền chặt, sức chiến đấu ngày càng tăng gia, chí quyết thắng ngày càng vững chắc. Các bạn là dân xung phong của dân tộc, con yêu của nước nhà.”


Qua hai năm chiến đấu gian khổ, ác liệt, quân dân Nam Bộ nói chung, quân dân miền Đông nói riêng đã tạo được thế ổn định, đã phát triển lực lượng và phong trào chiến tranh nhân dân trên một chiến trường du kích. Sự quan tâm của Trung ương Đảng và Bác Hồ có sức cổ vũ lớn, nâng cao ý chí quyết chiến quyết thắng của toàn quân và toàn dân.


Tháng 11 năm 1947, Phòng Dân quân Nam Bộ được thành lập, hệ thống cơ quan dân quân lần lượt hình thành từ khu xuống tỉnh, huyện, xã. Lực lượng dân quân du kích và tự vệ phát triển mạnh ở xã ấp. Ở Hóc Môn, ở một trung đội dân quân được tổ chức với lực lượng gồm du kích do các xã cử lên và một số chiến sĩ Chi đội 12, do đồng chí Nguyễn Minh Đạt làm trung đội trưởng. Đồng chí Đạt trực tiếp huấn luyện chiến thuật du kích cho chiến sĩ tại Trảng Lắm. Ba tiểu đội dân quân được trang bị khá mạnh, linh hoạt phân tán, tập trung, vừa chống càn quét vừa làm nòng cốt xây dựng phong trào dân quân toàn huyện1 (Thực hiện Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 4 tháng 7 năm 1947 và quyết định của Ủy ban hành chính Nam Bộ về việc thống nhất tên gọi địa danh, địa giới hành chánh, tên cơ quan hành chánh và kháng chiến: - Làng đổi thành xã. - Quận đổi thành huyện. - Ủy ban hành chánh kiêm Ủy ban kháng chiến gọi là Ủy ban kháng chiến hành chánh). Hỗ trợ xây dựng lực lượng và phong trào dân quân du kích là một trong những nội dung hoạt động của các đơn vị võ trang tập trung nói chung, Chi đội 12 nói riêng.


Đến tháng 11 năm 1947, do bị tiến công liên tục, lực lượng phản động Cao Đài đã co về thế thủ, nội bộ rối ren. Chúng được Pháp xốc lại theo hướng ngụy binh Cao Đài. Đến tháng 4 năm 1948 tình hình mới ổn định dần.


Đến mùa thu năm 1947, quân viễn chinh Pháp ở Việt Nam được tăng viện 20.000 tên, phát triển được quân ngụy, tổng số binh lực của chúng lên 128.000 tên. Cao ủy pháp Bolaert tiếp tục thi hành chính sách xâm lược Đông Dương bằng vũ lực, tuyên bố không công nhận nước Việt Nam độc lập và đưa ra những quyết định nhằm thiết lập chế độ thực dân kiểu cũ ở Đông Dương. Salan được lệnh phải “bịt biên giới Việt-Trung, đè bẹp quân kháng chiến Việt Minh” ngay từ khi được cử sang phụ trách chiến trường Bắc Đông Dương. Thực hiện ý định trên, từ ngày 7 tháng 10 năm 1947, địch tập trung 12.000 quân mở cuộc tiến công lên Việt Bắc hòng diệt cơ quan đầu não kháng chiến và chủ lực của ta. Nắm được âm mưa địch, Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch Việt Bắc Thu Đông nhằm phá kế hoạch tiến công của chúng. Bộ Tổng Tư lệnh ra chỉ thị “các khu đánh mạnh để phối hợp với Việt Bắc”.


Hai tháng “chia lửa” với Việt Bắc, sự phối hợp của chiến trường Nam Bộ đã được Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh đánh giá là tích cực và có hiệu quả, góp phần đáng kể vào chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947.


Trên chiến trường Việt Bắc, quân ta đã bẻ gãy kế hoạch thu đông của Salan. Sự kiện này đánh dấu bước chuyển cuộc kháng chiến của nhân dân ta, từ “giữ vững và phát triển lực lượng ta, kềm chế, tiêu hao lực lượng địch” sang “phát triển chiến tranh du kích, chuẩn bị thế và lực để phản công”1 (Căn cứ thông báo kết luận ba vấn đề chỉ đạo chiến lược trong kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ủy quân sự Trung ương ngày 1 tháng 6 năm 1980 thì ba giai đoạn được xác định lại (trước gọi là phòng ngự, cầm cự, tổng phản công) mốc và tên như sau: - Giai đoạn 1 (từ ngày 23 tháng 9 năm 1945 đến sau chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947): “Giữ vững và phát triển lực lượng ta, kềm chế, tiêu hao lực lượng địch”; - Giai đoạn 2 (sau chiến thắng Thu Đông 1947 đến trước chiến dịch Biên Giới Thu Đông 1950): “Phát triển chiến tranh du kích, chuẩn bị thế và lực để phản công”; - Giai đoạn 3 (bắt đầu từ chiến dịch biên giới Thu Đông 1950 đến Đông - Xuân 1953-1954): “phản công và tiến công”) .


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Tám, 2021, 10:48:48 am
Kế hoạch Việt Bắc Thu Đông bị bẻ gãy, thực dân Pháp buộc phải chuyển chiến lược từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang đánh kéo dài, nhưng riêng đối với Nam Bộ, với quan điểm coi Nam Bộ là vùng trọng điểm bình định để biến Nam Bộ thành nơi dự trữ chiến lược cho cuộc tái chiếm Đông Dương, thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, chúng tập trung lực lượng (kể cả việc rút bớt lực lượng từ phía Bắc vào), quyết “bình định xong Nam Bộ vào tháng 6 năm 1948”. Trên địa bàn Khu 7, đến đầu nàm 1948, địch đóng quân tất cả 491 cứ điểm chính (không kể đồn bốt nhỏ), tổng số quân lên 25.438 tên (Pháp và lê dương 5.574 tên, lính ngụy và Cao Đài 19.864 tên).


Chủ trương về quân sự của Đảng ta trong giai đoạn này là: “Chuyển sang giai đoạn thứ hai, giai đoạn cầm cự, đánh táo bạo, phản công bộ phận nếu nước Pháp có biến cố lớn”1 (Trích văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng ngày 15 tháng 1 năm 1948. “Văn kiện Đảng về kháng chiến chống Pháp”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1986, tr.169-170). Phương châm tác chiến được đề ra là "du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ trợ”.


Thực hiện âm mưu mới, địch mở những cuộc hành quân lớn đánh các vùng căn cứ lớn, tăng cường càn quét vùng du kích, đánh phá rồi đóng đồn bót bao vây vùng căn cứ, tung biệt kích đột phá bất ngờ gây tổn thất cho lực lượng kháng chiến. Trên những vùng tranh chấp ta chỉ còn hoạt động ban đêm, nên thường bị động, bộ đội về đóng quân không được, đánh rồi phải rút ngay, do đó lực lượng kháng chiến tại chỗ phải có hầm bí mật. Hầm bí mật có nhiều kiểu, trong nhà, ngoài sân, ngoài vườn, ngay trong thị trấn... Ban công tác số 12 cũng phải có hầm bí mật. Đào hầm bí mật và đường hầm nối thông các hầm bí mật với nhau thành hệ thống địa đạo được triển khai thực hiện ở Phú Thọ Hòa, Tân Phú Trung, Phước Vĩnh An... Địa đạo trở thành một loại kiến trúc quân sự đặc biệt, vừa làm căn cứ địa vừa làm công sự chiến đấu có hiệu quả cho lực lượng võ trang và nhân dân địa phương, trong đó có bộ đội Giải phóng quân, Chi đội 12.


Từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 1 năm 1948, địch mở cuộc hành quân “Vê-ga” đánh vào một số cơ quan Nam Bộ và đầu não Khu 7 ở Đồng Tháp Mười. Lực lượng được huy động gồm 11 tiểu đoàn bộ binh (trong đó có bán lữ đoàn lê dương số 13), 3 thiết đoàn xe bọc thép, 2 đội xe lội nước bánh xích, 9 khẩu 105 li, 13 máy bay... Sáng ngày 14 tháng 1, địch cho máy bay, pháo binh bắn dọn bãi các xóm giồng, sau đó nhảy dù xuống khu vực nam giồng A Rặc và Giồng Lớn. Một cánh quân khác dùng tàu LCI đổ bộ lên phía tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông.


Bộ đội ta nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu. Khi quân nhảy dù Pháp vừa chạm đất, đại đội 1 Chi đội 12 do đại đội trưởng Nguyễn Bá Bội chỉ huy và 1 đại đội của Chi đội 5 nổ súng, diệt khoảng 90 tên, thu hơn 100 chiếc dù. Sau đó lực lượng ta phân tán rút ra ngoài, lợi dụng những đám cỏ đưng, bàng, bí mật tiếp cận các khu vực đóng quân của địch, thực hiện bắn tỉa, quấy rối. Liên tục bị quấy rối, lực lượng bị tiêu hao, tinh thần căng thẳng, muốn tìm diệt lực lượng ta nhưng chỉ đánh vào chỗ trống, ngày 18 tháng 1, quân Pháp buộc phải rút quân, kết thúc thất bại cuộc hành quân quy mô lớn nhất của chúng ở Nam Bộ từ sau ngày Nam Bộ kháng chiến.


Tiếp sau những cuộc hành quân không đạt mục tiêu và bị tổn thất ở chiến khu Đ và ở vùng kênh Nguyễn Văn Tiếp (Đồng Tháp Mười), ngày 14 tháng 2 năm 1948, đích thân tướng De Latour1 (Thay tướng Nỵo làm tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở miền nam Đông Dương từ tháng 4 năm 1947 đến tháng 10 năm 1949) chỉ huy 6.000 quân tiến công lại vùng căn cứ đầu não Khu 7 ở Giồng Dinh, Giồng Kên Kên. Lực lượng bảo vệ căn cứ kết hợp với đại đội 1 Chi đội 12, Chi đội 5 đánh phục kích, diệt gọn một đại đội địch. Cuộc hành quân này của địch lại không đạt mục tiêu.


Trước sự tiến công, lấn chiếm ồ ạt của địch, một số vùng từ cuối năm 1947 còn là vùng căn cứ của ta, sang năm 1948 dần biến thành vùng du kích, trong đó có một phần Trung Huyện, phần lớn huyện Trảng Bàng, hầu hết huyện Thủ Đức, một nửa huyện Hóc Môn, một phần vùng Gò Vấp, Tân Bình... Tuy nhiên, nhìn trên tổng thể, Nam Bộ đã hình thành chiến trường du kích cầm chân địch với sự hình thành phong trào chiến tranh nhân dân và lực lượng võ trang ba cấp: dân quân du kích xã ấp, du kích tập trung huyện, bộ đội tập trung địa phương được phân chia địa bàn hoạt động theo tỉnh, vùng. Tình hình cho thấy kế hoạch "bình định xong Nam Bộ vào tháng 6 năm 1948” của địch sẽ hoàn toàn thất bại.


Qua hai năm xây dựng và chiến đấu, tiếp nối nhiệm vụ, truyền thống của Giải phóng quân liên quận, Chi đội 12 Vệ quốc đoàn đã cùng quân dân Nam Bộ đánh bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh và bình định Nam Bộ để biến Nam Bộ thành hậu phương dự trữ chiến lược của thực dân Pháp, góp phần tạo thế tạo lực hình thành chiến trường du kích cầm chân, tiêu hao địch, đồng thời giữ vững vai trò là một trong những đơn vị nòng cốt xây dựng lực lượng võ trang ở miền Đông, tiến đến hoàn chỉnh sự thống nhất, nâng cao chất lượng chính trị quân đội cách mạng do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những thành tích đó thể hiện trên các mặt chiến đấu, xây dựng lực lượng, quan hệ với dân, quá trình tự lực tự cường.


Về chiến đấu, thực hiện nhiệm vụ quân sự nặng nề so với quy mô, tổ chức, chi đội đã cơ động trên một địa bàn tương đối rộng, liên tục chiến đấu, đặc biệt đánh địch càn quét, góp phần tạo thế, tạo lực cho sự hình thành chiến trường du kích trên một trong những vùng trọng điểm bình định của địch, đồng thời góp phần bảo Vệ căn cứ đầu não Khu 7.


Về mặt xây dựng lực lượng, chi đội luôn tự nâng cao chất lượng chính trị, tổ chức bằng những nội dung, việc làm cụ thể như xây dựng tổ chức Đảng từ chi đội, chi bộ, tổ đảng, hệ thống chính trị viên, chương trình giáo dục và huấn luyện chính trị, quân sự, đạt yêu cầu là một đơn vị của quân đội nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chi đội đóng góp một bộ phận cán bộ, chiến sĩ đáng kể với chất lượng cao, góp phần hồi phục và ổn định Khu 8, đồng thời cùng các đơn vị bạn giữ vai trò nòng cốt dẫn dắt xây dựng lực lượng và phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn hoạt động, thực hiện tốt chủ trương của Khu 7 là “ra sức xây dựng, phát triển lực lượng du kích rộng khắp, nhất là vùng địch hậu”. Bản thân các đồng chí Tô Ký, Hồ Thị Bi và nhiều cán bộ của chi đội nằm trong cấp ủy của huyện Hóc Môn. Chi đội cử nhiều cán bộ sang đảm trách công tác huyện đội (Võ Hồng Ưng, Ba Tới, Sáu Nâu...), cử hẳn một đại đội (sau này là đại đội 2806) xây dựng căn cứ Dương Minh Châu (ban đầu là huyện Chơn Bà Đen, sau đó là xã Chơn Bà Đen), cán bộ của đại đội này đảm nhiệm nhiệm vụ trong tất cả các tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận. Việc góp sức vô hiệu hóa, tước khí giới, phân hóa và làm tan rã các lực lượng cơ hội như đệ tam, đệ tứ sư đoàn cũng là một đóng góp đáng kể của chi đội vào quá trình thống nhất lực lượng võ trang ở miền Đông những năm đầu kháng chiến.


Về phát triển lực lượng, bên cạnh những đơn vị trong biên chế chính thức của chi đội như các đại đội 1, 2, 3, Ban công tác số 12, các đơn vị trực thuộc phục vụ, bảo đảm... còn lực lượng do chính một số cán bộ của chi đội xây dựng, hoạt động trên từng khu vực riêng, danh nghĩa là độc lập nhưng chịu sự chỉ đạo của chi đội (và sau này được thống nhất vào biên chế chính thức của Trung đoàn 312). Lực lượng này gồm ba đơn vị.


Đơn vị do các đồng chí Hồ Thị Bi, Đào Quang Xê, Huỳnh Văn Chỗ xây dựng bên cạnh Ban công tác số 12, hoạt động ở vùng Hóc Môn. Đơn vị này tương đương đại đội do Hồ Thị Bi làm chỉ huy trưởng, Đào Quang Xê làm chính trị viên, Huỳnh Văn Chỗ làm chỉ huy phó. Trong đơn vị có một tiểu đội nữ và một tiểu đội lê dương gồm những người lính lê dương bỏ hàng ngũ quân đội Pháp và vào khu tham gia kháng chiến. Trong số này có một người Đức, trong quá trình chiến đấu, lại sa vào tay giặc. Không chịu đầu hàng và bảo vệ lý tưởng chính nghĩa của mình, anh bị chúng quy tội “phản bội”, cho xe cán chết, bêu xác ở Hóc Môn.


Đơn vị do các đồng chí Nguyễn Thược, Lê Văn Dọn xây dựng (sau khi đi Khu 8 về) hoạt động vùng Phú Thọ Hòa, Bà Quẹo, Gò Vấp, Đức Hòa do Nguyễn Thược làm chỉ huy trưởng, Lê Văn Dọn làm chỉ huy phó.


Đơn vị các đồng chí Nguyễn Minh Sanh, Giáo Rõ, xây dựng hoạt động vùng An Phú Xã, dọc sông Sài Gòn lên Bến Súc, do Nguyễn Minh Sanh làm chỉ huy trưởng, Giáo Rõ làm chỉ huy phó.

Về mặt kỹ chiến thuật, chi đội đã hình thành sở trường vận động phục kích đánh địch càn quét và nâng cao một bước về tác chiến hiệp đồng qua hoạt động liên quân và hoạt động chống càn.

Cũng như Giải phóng quân liên quận, với bản chất là lực lượng do Đảng xây dựng, từ nhân dân mà ra, quá trình chiến đấu xây dựng, tự lực tự cường và gắn bó với dân có môi quan hệ tương hỗ nhau, từ đó mà tạo được căn cứ không xa địch và hậu phương tại chỗ từ vùng địch hậu ra vùng tranh chấp, vùng tự do, chính đó là điều quyết định để tồn tại và phát triển.


Trong khó khăn, thường xuyên giúp đỡ đơn vị bạn cũng là một đặc điểm của Chi đội 12. Trong tình thế tự lực là chủ yếu, chi đội đã giúp gạo, tiền, súng đạn hoặc nhiều hoặc ít cho các tỉnh Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bà Rịa, các chi đội 6, 1, bộ đội hải ngoại, đặc biệt là Chi đội 1. Có lần chi đội mới nhận 10 ngàn đồng tiền Đông Dương của chi đội giao ông Hòa đi miền Trung đổi mới về thì chị Chi, tài chính Chi đội 1 qua nói “Chi đội 1 không còn tiền mua gạo ăn”, đồng chí Tô Ký quyết định đưa hết số tiền này cho chị Chi mang về cho Chi đội 1.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Tám, 2021, 07:21:41 pm
Chương ba
TRUNG ĐOÀN 312 (3-1948 - 9-1949)


Năm 1948, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang đà phát triển “giai đoạn cầm cự” với phương châm “du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ trợ, nhưng cần mạnh bạo đẩy mạnh vận động chiến đi tới, khi đủ điều kiện thì kịp thời nâng vận động chiến lên địa vị quan trọng để chuyển sang giai đoạn phản công”1 (Trích Văn kiện Hội nghị cán bộ Trung ương từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 1 nam 1948) đặt ra yêu cầu đối với chiến trường Nam Bộ là trên cơ sở lực lượng võ trang ba cấp đông đảo, rộng khắp, cần tổ chức những đơn vị mạnh, xây dựng theo hướng tập trung, thống nhất, phát huy được vai trò nòng cốt lực lượng và phong trào chiến tranh nhân dân. Trong khi đó, trên chiến trường miền Đông lúc này, ngoài Trung đoàn Phạm Hồng Thái của Sài Gòn - Chợ Lớn (thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1947) và Trung đoàn 300 Dương Văn Dương ở Rừng Sác (thành lập tháng 2 năm 1948), các đơn vị võ trang tập trung đều mới tổ chức đến cấp chi đội, phát triển không đồng đều, thiếu sự thống nhất về tổ chức, biên chế, trang bị và khả năng hiệp đồng tác chiến. Sự chưa hoàn chỉnh về quá trình thống nhất còn biểu hiện ở tính địa phương, cục bộ ở nhiều đơn vị, đặc biệt là việc một bộ phận lực lượng Bình Xuyên bị bọn phòng nhì Pháp lũng đoạn, không chấp hành mệnh lệnh cấp trên, gây cản trở cho việc xây dựng lực lượng và hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu.


Trước tình hình đó, ngày 27 tháng 3 năm 1948, Khu ủy Khu 7 triệu tập hội nghị mở rộng toàn khu. Sau khi đánh giá tình hình, nhiệm vụ, tình hình và yêu cầu mới về xây dựng lực lượng võ trang, hội nghị quyết định nâng cao một bước quy mô tổ chức bộ đội trong toàn khu.


Từ tháng 4 năm 1948, Bộ chỉ huy Khu 7 xúc tiến việc thành lập các trung đoàn “Quân đội quốc gia Việt Nam”. Trung đoàn 312 được thành lập trên cơ sở phát triển Chi đội 12 Gia Định.


Ban chỉ Trung đoàn 312 gồm: Trung đoàn trưởng Tô Ký, Chính trị viên Ngô Thanh Khiết, các trung đoàn phó Nguyễn Văn Bứa, Nguyễn Văn Hâm.


Lực lượng trung đoàn được biên chế thành 3 tiểu đoàn gồm:

- Tiểu đoàn 934: tiểu đoàn trưởng Nguyền Văn Bâu, chính trị viên Nguyễn Hồng Đào, tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Tặng. Tiểu đoàn 934 gồm 3 đại đội 1, 2, 3, gốc từ 3 đại đội 1, 2, 3 của Chi đội 12.

- Tiểu đoàn 935: tiểu đoàn trưởng: Nguyễn Thược (Tư Thược), chính trị viên Nguyên Hữu Đang, các tiểu đoàn phó Nguyễn Minh Sanh và Hồ Thị Bi. Tiểu đoàn 935 gồm các đơn vị độc lập do các đồng chí Nguyễn Thược, Hồ Thị Bi, Nguyễn Minh Sanh xây dựng (hoạt động ở các khu vực Phú Thọ Hòa - Bà Quẹo, Hóc Môn, An Phú Xã), được biên chế thành các đại đội 2803, 2804, 2805. Đặc biệt đại đội 2804 có một tiểu đội nữ được trang bị 1 súng máy FM, 4 thôm-xơn, 3 mi mát, 1 mút tự động,...

- Tiểu đoàn 936: tiểu đoàn trưởng Nguyễn Bá Bội, chính trị viên Nguyễn Văn Bàng, sau là Huỳnh Văn Sai. Tiểu đoàn 936 thực chất là bộ phận của đại đội 2 Chi đội 12 ở Chà Dơ làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ Chơn Bà Đen, công binh xưởng, gồm một trung đội (do Nguyễn Thành Cánh chỉ huy trưởng, Nguyễn Văn Gấm chính trị viên); các bộ phận quân y, quân nhu, trinh sát, văn phòng (thứ hai) của đại đội 2 (do Nguyễn Văn Lai phụ trách). Các bộ phận này biên chế thành đại đội 2806 do Nguyễn Thành Cánh làm đại đội trưởng, Nguyễn Văn Gấm chính trị viên.


Giữa năm 1949, tiểu đoàn 936 được giao thêm nhiệm vụ chuẩn bị căn cứ cho Xứ ủy và Bộ Tư lệnh Nam Bộ ở vùng Chơn Bà Đen (chiến khu Dương Minh Châu sau này).

Các bộ phận trực thuộc trung đoàn gồm có:

Văn phòng: Nguyễn Ngọc Đôn, chánh văn phòng.

Ban tham mưu1 (Về ban tham mưu trung đoàn đến cuối năm 1948 mới thực sự hình thành theo chỉ thị số 46/LD của Khu ngày 18 tháng 11 năm 1948): Nguyễn Văn Bứa kiêm tham mưu trưởng và các đồng chí Trương Văn Ba (Ba Làng, tác chiến), Võ Thái Hòa (quân huấn).

Ban chính trị: Hoàng Đức Tường, sau là Phạm Bá Tường trưởng ban.

Ban quân nhu: Nguyễn Bá Khâm, trưởng ban.

Ban quân giới: Trần Văn Sáng trưởng ban.

Ban quân y: Trần Văn Sáng phụ trách.

Đoàn kinh tế: Võ Văn Hoa phụ trách.

Ban tài chính: Phạm Đăng Lâm phụ trách.

Ban quân lương: Đào Văn Phát phụ trách.

Quản lý binh công xưởng: Phan Văn Ngói phụ trách.

Ban quân trang: Huỳnh Văn Sai (trước khi được cử làm chính trị viên tiểu đoàn 936) phụ trách.

Ban nhân sự: Bảy Tùng và Bảy Thế phụ trách

Ban quân báo: Nguyễn Thanh Tùng, trưởng ban.

Ban thương binh: Trần Bá Thế phụ trách.

Quân y xá 3 sau đổi là quân y xá tiểu đoàn 934 Trung đoàn 312 do Nguyễn Ảnh Tường, kế đó là Trần Bửu Hên phụ trách, Lê Thị Ngà, chính trị hiệp lý viên.

Quân y xá 4 An Thành do Lê Trường Châu phụ trách, sau đổi là quân y xá tiểu đoàn 935 Trung đoàn 312 do Nguyễn Ảnh Tường phụ trách, Nguyễn Thị Phi Phụng, chính trị hiệp lý viên.

Dưới ban chính trị có các tiểu ban, tổ chuyên môn như: tiểu ban văn thư, tiểu ban cán bộ - kiểm tra Đảng, tiểu ban tuyên truyền lưu động, tiểu ban nghiên huấn và các tổ chuyên môn: điêu khắc, nghiên cứu, huấn luyện, ấn loát, tờ tin trung đoàn.


Trung đoàn ủy gồm các đồng chí: Ngô Thanh Khiết, Tô Ký, Nguyễn Văn Hâm, Nguyễn Hồng Đào, Nguyễn Hữu Đang.

Căn cứ đầu tiên của ban chỉ huy trung đoàn đặt tại Hố Bò - Phú Mỹ Hưng. Quân số toàn trung đoàn khoảng 2.500 (so với thời kỳ Chi đội 12 tăng 500).

Như vậy, trước yêu cầu "... đẩy mạnh vận động chiến đi tới, khi có đủ điều kiện thì kịp thời nâng vận động chiến lên địa vị quan trọng để chuyển sang giai đoạn phản cộng”, về tổ chức, các chi đội ở Nam Bộ nói chung, Chi đội 12 nói riêng đã thực hiện biên chế cấp trung doàn theo quy định thống nhất của Quân đội quốc gia Việt Nam. Đây là một bước phát triển về quy mô tổ chức theo yêu cầu phát triển về trình độ chỉ huy, trình độ chiến thuật, kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến trường.


Khi thành lập trung đoàn, đồng chí Tô Ký viết một bức tâm thư kêu gọi cán bộ, chiến sĩ toàn đơn vị động viên ý chí, quyết tâm, đoàn kết, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ. Lòng thương nước thương dân, ý chí quyết chiến vì tự do độc lập đọng lại trong câu khắc ghi lòng người: “ngày không rơi lệ mà rơi lệ lúc đêm thâu!”.


Các tiểu đoàn được phân chia khu vực hoạt động:

Tiểu đoàn 934: Khu vực Hóc Môn, Trảng Bàng; chỉ huy sở đặt tại Xóm Trại, An Nhơn Tây.

Tiểu đoàn 935: khu vực An Thành, Bến Cát; chỉ huy sở đặt ở An Thành (Bến Cát).

Tiểu đoàn 936: khu vực Chơn Bà Đen; chỉ huy sở đặt ở Chà Dơ.


Tháng 8 năm 1948, địch lại đánh lớn vào căn cứ Tân Mỹ. Từ sáng sớm, chúng chia quân làm ba mũi từ các hướng Cầu Dừa, Nhị Bình và Hóc Môn tiến vào đến Bến Đá (xã Đông Thạnh), du kích nổ súng để dụ chúng vào sâu. Địch coi thường du kích, đuổi theo đến nhà thờ Bến Đá, nơi có một lực lượng bộ đội đang phục kích do Trương Văn Ngàn chỉ huy. Quân ta nổ súng diệt ngay từ đầu hàng chục tên giặc. Mũi thọc sâu thứ nhất bị bẻ gãy, địch lại củng cố lực lượng chia thành hai mũi tiếp tục tiến vào. Đợt này cuộc chiến đấu quyết liệt hơn, hai bên bắn nhau dữ dội. Đồng chí Trương Văn Ngàn, người chỉ huy dũng cảm, động viên bộ đội xung phong, diệt tiếp hàng chục tên giặc, nhưng đồng chí bị trúng đạn, hy sinh. Trong lúc đó, các đồng chí Nguyễn Thành Voi, Cường, Cảnh từ bên kia sông đã kịp đưa quân vượt sông, mở mũi xuyên hông, diệt nhiều tên, buộc địch tháo chạy. Cánh giặc ở phía cầu Bà Hồng cũng hoảng sợ, rút lui, không cứu đồng bọn. Kết quả: ta đã bẻ gãy trận càn vào căn cứ Tân Mỹ, diệt trên 20 tên Pháp và tay sai.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Tám, 2021, 07:22:55 pm
Những nữ chiến sĩ đơn vị 2804 là con em nông dân Hóc Môn, phần lớn ở các xã Tân Hiệp, Tân Mỹ, Bình Lý... tuổi mười tám, đôi mươi, cắt tóc ngắn gọn, đồng phục nhà binh, đầu đội mũ mềm (hình bánh tiêu), trang bị súng nhẹ (như tiểu liên, cạc-bin, mút mát) và lựu đạn; các chiến sĩ nam được trang bị vũ khí bén, gọn (như FM, thôm-xơn, mút tự động Mỹ, mút Anh, Pháp, súng phóng lựu đạn). Đơn vị hoạt động trên địa bàn Hóc Môn, Gò Vấp và các vùng xung quanh.


Cuộc càn quét lớn của giặc Pháp vào Giồng Ồng Hòa (xã Mỹ Hạnh) có xe lội nước và máy bay yểm trợ, nhằm tìm diệt các đơn vị võ trang ta. Đơn vị 2804 lâm vào thế bị bao vây, đã chiến đấu quyết liệt suốt một ngày để phá vây. Trong cuộc chiến đấu này các nữ chiến sĩ tỏ rõ bản lĩnh ngoan cường, cùng đơn vị mở được vòng vây, về đến Voi Đá (xã An Nhơn Tây) lúc nửa đêm. Đơn vị đến Xóm Trại, chưa kịp nghĩ ngơi thì một đơn vị lê dương lại đột kích, định bắt sống tiểu đội nữ. Chị em bình tĩnh nổ súng chống trả. Chị Võ Thị Lan, tiểu đội trương bị trúng đạn, gãy cánh tay, tự buộc lại rồi cùng chị em tiếp tục vừa chiến đấu vừa lui về căn cứ. Cuộc đột kích của quân lê dương thất bại. Trong quá trình chiến đấu ở Hóc Môn, Gò Vấp, tiểu đội nữ thuộc đại đội 2804 là đơn vị tiêu biểu cho lớp thanh niên đang nối tiếp truyền thống yêu nước, bất khuất của Mười Tám Thôn Vườn Trầu.


Trên chiến trường bắc, tây bắc Sài Gòn, bên cạnh vùng địch kiểm soát là vùng du kích rộng lớn, đan xen lõm căn cứ và vùng tự do trong thế tranh chấp. Đặc biệt căn cứ An Nhơn Tây, khoảng từ năm 1947 trớ đi là căn cứ của tỉnh Gia Định, có chợ rất sung túc. Cũng như ở các vùng tự do khác, chợ ở đây lưu hành đồng tiền kháng chiến (thường gọi là tiền Cụ Hồ). Giặc đánh giá “An Nhơn Tây còn là Sài Gòn mất”, nên tập trung càn quét, xuất phát từ các hướng Trảng Bàng, Củ Chi, Bến Cỏ, có tháng đánh gần chục lần. Trận nào chứng cũng gặp “nhà không vườn trống”, nhưng khi trở về thì bị đánh. Chi đội 12 trước kia, các đơn vị Trung đoàn 312 có mặt ở đây lập nhiều thành tích chống càn, tạo thế bám trụ. Quân dân ở các căn cứ trong khu vực ba xã Nhuận Đức, An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng dựa lưng vào các xã Long Nguyên, Thanh Tuyền, An Thành, An Tây (huyện Bến Cát) nên mỗi khi giặc vào thì hoặc trụ lại trong rừng, hoặc sang sông (đến năm 1951, thế địch mạnh lên, chúng càn quét và đóng bót An Nhơn Tây, lực lượng ta mới bật sang sông).


Tháng 10 năm 1948, Bộ tư lệnh Nam Bộ được thành lập thay cho Ban quân sự Nam Bộ, Trung tướng Nguyễn Bình1 (Được phong hàm Trung tướng theo sắc lệnh số 115/SL ngày 25 tháng 1 năm 1948), Tư lệnh; đồng chí Phạm Ngọc Thuần, Chính ủy; đến tháng 6 năm 1949 đồng chí Dương Quốc Chính thay2 (Chức vụ của đồng chí Dương Quốc Chính viết theo Từ điển bách khoa quân sự Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996). Các bộ chỉ huy khu được đổi thành bộ tư lệnh khu. Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ được cử làm tư lệnh Khu 7, Nguyễn Văn Trí làm chính ủy. Nguyễn Văn Dung làm tư lệnh phó.


Tháng 8 năm 1948, thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, tỉnh Gia Định và huyện Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh) được tách ra, thành lập Khu Sài Gòn - Chợ Lớn trực thuộc Bộ tư lệnh Nam Bộ. Đến tháng 4 năm 1949 tổ chức Khu Sài Gòn - Chợ Lớn tương đối hoàn chỉnh và có hiệu lực. Bộ tư lệnh đầu tiên của Khu Sài Gòn - Chợ Lớn gồm: Tô Ký, Tư lệnh; Phan Trọng Tuệ, Chính ủy; Huỳnh Văn Một, Phó tư lệnh. Đồng chí Nguyễn Văn Hâm thay đồng chí Tô Ký làm trung đoàn trưởng Trung đoàn 312. Đồng chí Nguyễn Văn Bứa cũng được rút đi. Đồng chí Nguyễn Văn Bâu làm tham mưu trưởng.


Để tiếp tục hoàn chỉnh thế phối hợp nhịp nhàng hoạt động tác chiến trong và ngoài đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn, một mặt trận chung được thành lập, lấy tên là “Mặt trận quân sự thành Sài Gòn - Chợ Lớn”. Lực lượng mặt trận gồm 10 ban công tác thành ở nội đô và 4 tiểu đoàn tiếp cận xung quanh thành phố: một của Trung đoàn 306 ở Gò Vấp, một của Trung đoàn 312 ở Hóc Môn (tiểu đoàn 934), một của Trung đoàn 300 ở Cần Giuộc, một của Trung đoàn 306 ở Thủ Đức. Ban chỉ huy Mặt trận gồm: Nguyễn Văn Công, chỉ huy trưởng; Nguyễn Tứ Phương, chính trị viên.


Căn cứ của ban chỉ huy đặt bên cạnh căn cứ của Ủy ban kháng chiến - hành chánh thành Sài Gòn - Chợ Lớn, gần Thủ Thừa, bên bờ tả ngạn sông Vàm Cỏ Tây. Nhiệm vụ của ban chỉ huy là xây dựng kế hoạch tác chiến phối hợp trong và ngoài đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn rồi phân công các thành viên về các đơn vị phổ biến và tổ chức thực hiện. Đồng chí Nguyễn Văn Công về các trung đoàn 306, 312; đồng chí Nguyễn Tứ Phương về mười ban công tác thành.


Ở nội thành, để tăng cường khả năng chiến đấu, mười ban công tác được rút gọn về tổ chức, biên chế lại thành năm ban.

Ở ngoại thành, Khu cũng điều chỉnh lực lượng và phân công nhiệm vụ cho năm tiểu đoàn của các trung đoàn 300, 308, 306, 312 ở Nhà Bè, Cần Giuộc, Trung Huyên, Gò Vấp, Thủ Đức, Hóc Môn.

Các mặt quân giới, quân nhu, quân y, Trung đoàn 312 đã phát huy mạnh những cơ sở đã có từ Chi đội 12.

Xưởng quân giới tiếp tục phát triển cả về quy mô và kỹ thuật. Do được tăng cường trang bị hoặc tự chế, quy trình sản xuất của binh công xưởng được tổ chức lại theo dây chuyền, máy móc phần lớn thay cho sức người, chẳng hạn việc quay máy tiện bằng tay đã được thực hiện bằng sức thủy điện tự tạo, một sáng chế của Lâm Quang Son (con rể giám đốc Ngô Văn Năm). Xưởng tiếp tục cải tiến, hoàn thiện và sản xuất mới các loại vũ khí đòi hỏi kỹ thuật cao như súng cối, súng phóng đạn lõm, súng máy có nòng khương tuyến, sản xuất bazomin, bazoka, FT1, FT2, thủy lôi. Tuy nhiên, cùng tình trạng các xưởng của khu và các đơn vị lúc bấy giờ, xưởng Trung đoàn 312 vẫn rất khó khăn về tài chính, nguyên liệu, hóa chất. Thực tế trong chiến đấu, đạn “gốc” chỉ chiếm một số nhỏ, còn lại là đạn do xưởng “rờ-sạc”.


Về quân nhu, quân lương, Trung đoàn 312 tiếp tục tự mua, tự cấp một thời gian cho đến khi có chỉ thị của Xứ ủy xuống Tỉnh ủy Gia Định (...) mới bắt đầu có chế độ cung cấp, trực thuộc Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh tỉnh Gia Định. Mặc dù vậy, trước sau trung đoàn vẫn thực hiện phương châm tự lực, tự cường, tập trung vào vấn đề lương thực là chủ yếu. Các cơ sở làm kinh tế đều tiếp tục phát triền (trừ các hàng quán đã được đồng chí Tô Ký chỉ thị giải thể), đặc biệt là các cơ sở ruộng, rẫy từ bưng biền Đồng Tháp đến núi rừng Tây Ninh và Hóc Môn. Ngoài các bộ phận chuyên trách của trung đoàn, các đơn vị có điều kiện tăng gia tự túc đều phải khai thác triệt để. Đại đội 2806 ở căn cứ Chơn Bà Đen (căn cứ Dương Minh Châu sau này) có năm đốt cây làm rẫy đến 40 mẫu. Từ cán bộ đến chiến sĩ đều cầm dao, cầm cuốc khai hoang làm ra hạt gạo. Mồ hôi đổ, tay chai, rớm máu... mới có hạt gạo! Kết quả có lúc lúa gạo dồi dào, bắp khoai, bầu, bí... ăn không hết, một phần chế biến dự trữ. Ở Bàu Chanh, Trại Đèn anh em nuôi hàng trăm con gà. Có lúc trên giao trạm Trại Đèn của Chi đội 12 nuôi 12 tên “hàng binh” Au Phi với mức ăn cao hơn cả cán bộ, chiến sĩ Vệ quốc đoàn, chỉ trong một thời gian ngắn đàn gà Trại Đèn gần hết!


Có thể nói thời kỳ xây dựng Trung đoàn 312, bộ đội còn cực, nhưng không còn lo đói vì không có gạo. Súng đạn luôn phải thực hiện phương châm tiết kiệm, nhưng không còn phải quá dè sẻn như buổi đầu.

Các cơ sở quân y thời kỳ xây dựng trung đoàn đều phát triển về quy mô và trình độ bảo đảm với nhiệm vụ ngày càng phức tạp hơn. Ban quân y trung đoàn và các quân y xá đều có chính trị hiệp lý viên.

Dưỡng đường chuyển về Rừng Làng, xóm Trại, An Nhơn Tây đổi phiên hiệu là quân y xá 3 do Nguyên Anh Tường phụ trách, sau đổi thành quân y xá tiểu đoàn 934, do Trần Bửu Hên phụ trách, Lê Thị Ngà, chính trị hiệp lý viên và có thêm nhiều nhân viên.

Quân y xá 4 do Lê Trường Châu phụ trách, sau đối thành quân y xá tiểu đoàn 935 do Nguyễn Anh Tường phụ trách, Nguyễn Thị Phi Phụng làm chính trị hiệp lý viên và có thêm nhiều nhân viên.

Những năm 1948-1949, trung đoàn có một tổ bào chế do anh Bảy Ngà phụ trách, có các nhân viên A, Vĩnh... chuyên sản xuất, cung cấp nước dừa làm dịch truyền, pha chế thuốc tiêm quinacrin trị sốt rét, pha chế các loại thuốc thông thường: thuốc đỏ, thuốc tím, thuốc xanh, nước cất...


Tổ chức, nhiệm vụ, hoạt động các quân y xá đơn vị được nâng cao: dưới quân y xá trưởng, chính trị hiệp lý viên có bộ phận tiếp liệu, quan hệ với chính quyền địa phương về cơ sở vật chất, xây dựng lán trại cho thương, bệnh binh; có bộ phận nấu ăn, tải thương, liên lạc, số anh chị em chuyên môn chia làm ba tổ thay phiên nhau: tổ đi chợ, chăm sóc thương bệnh binh; tổ băng bó, rửa vết thương, giặt giũ băng, gạc; tổ tiêm thuốc cho thương, bệnh binh uống thuốc. Hàng đêm các tổ thay phiên nhau trực đúng giờ.


Về phẫu thuật (mổ, cưa, cắt) lúc đầu không có bác sĩ, chỉ có một y tá (ở thành ra) và một số cứu thương, phương tiện là dao mổ, kẹp, kéo, cưa thợ mộc và ê-te, cồn, i-ốt để khử trùng. Mặc dù vậy, nói chung các ca phẫu thuật vẫn an toàn, cứu được tính mạng cho thương, bệnh nhân. Điển hình như các trường hợp: Cưa bắp tay anh Phụ bị thương nát một phần cánh tay; cưa cổ tay anh Ba Hát, phía trong phần bàn tay bị nát; mổ cho một người dân ăn gùi bị kẹt nhiều hột trong ruột; mổ một ca sưng gan do lỵ a-míp; mổ cho một chị nông dân lấy thai chết trong bụng ra (do mụ vườn kéo đứt một cánh tay của thai lúc chị chuyển bụng)....


Với những cố gắng tận tình, anh chị em quân y xá đã được ban chỉ huy Trung đoàn 312 gửi giấy khen về thành tích những năm 1948 - 1949.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 20 Tháng Tám, 2021, 07:24:18 pm
Trung đoàn 312 có một định hướng căn cơ lâu dài về đào tạo cán bộ kế tiếp, trường thiếu sinh quân là một trong những chứng minh rõ nhất.

Cũng như các đơn vị khác trên chiến trường miền Đông, từ thời kỳ xây dựng chi đội cho đến sau khi thành lập trung đoàn, Chi đội 12, Trung đoàn 312 có một đội ngũ “chiến sĩ nhỏ”, gốc là những thiếu niên tự nguyện đầu quân, có trong danh sách biên chế, có số quân (chẳng hạn Cao Long Hỷ số 1431, Trương Văn Đa số 2125, Võ Hoàng Vân số 2128...), được giao các nhiệm vụ trinh sát, liên lạc ở các đại đội chiến đấu, các cơ quan chỉ huy, cơ quan quân báo chi đội, các đơn vị công tác thành... “Chiến sĩ nhỏ” thường rất dũng cảm, nhanh nhẹn, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, được khen thưởng, như các thiếu niên ở Ban công tác số 12 Nguyễn Thị Ky, Hồ Văn Xuân, Lê Văn Ê, Lê Văn Gáo, Nguyễn Văn Bé... Lê Văn Gáo là người đầu tiên ở Ban công tác số 12 lấy được súng giặc; Lê Văn Ê là người đã dùng thùng nước súp đổ lên mình Tây cướp súng Tây ngay trên xe,...


Khi đang làm chỉ huy trưởng Chi đội 12 kiêm chỉ huy trưởng liên quân B, đồng chí Tô Ký phát hiện riêng Chi đội 12 đã có trên 30 “chiến sĩ nhỏ”, có nhiều em ở các cánh liên quân B. Đồng chí đã bày tỏ quan điểm của mình về vấn đề này: “Đây là việc đáng mừng mà cũng là việc đáng lo. Mừng vì các em tuy tuổi còn nhỏ, chữ nghĩa còn ít, nhưng biết yêu nước, theo lời kêu gọi của Cụ Hồ tòng quân diệt giặc... Còn lo là trong trận mạc, hòn tên mũi đạn thì các em làm sao tránh đổ máu, hy sinh”. Mừng và lo, đồng thời thấy đây là nguồn lực lâu dài, đồng chí nói tiếp: “Phải tập trung các em về một chỗ nào đó, lập trường cho học chữ, khó thì khó, ta phải đào tạo các em thành nhân tài giúp nước sau này”.


Thực hiện ý định này, ngày 10 tháng 6 năm 1948, Trung đoàn trưởng Tô Ký ký quyết định số 06/TĐ thành lập trường Thiếu sinh quân Trung đoàn 312.

Ngày 5 tháng 7 năm 1948 lớp học đầu tiên của trường Thiếu sinh quân Trung đoàn 312 khai mạc tại sở cao su ở ấp Hố Bò xã Phú Mỹ Hưng, huyện Hóc Môn tỉnh Gia Định với 32 học viên thiếu sinh quân gốc là 32 “chiến sĩ nhỏ” tuổi từ 10 đến 16, phần lớn mới biết đọc, biết viết. Với khẩu hiệu: “Một chữ cũng thầy, hai chữ cũng thầy, người biết chữ dạy người chưa biết chữ”, các thầy giáo là những chiến sĩ Vệ quốc đoàn của trung đoàn đang cầm súng hoặc công tác.


Ba đồng chí được trung đoàn giao nhiệm vụ phụ trách lớp học này:

Nguyễn Ngọc Đôn, chánh văn phòng Trung đoàn 312, làm trưởng ban quản trị lớp.

Nguyễn Thành Long, trưởng ban huấn luyện đồng thời là thầy dạy văn hóa.

Võ Thái Hòa, trưởng ban tác chiến trung đoàn phụ trách chung.

Các thầy giáo gồm: Nguyễn Tấn Hạng, Trương Thành Hỷ, Nguyễn Trường Lũy, Nguyễn Văn Dân, thầy Cao, thầy Na, cô giáo Lê Thị Mộng Thanh.

Hồ Thị Bi được giao nhiệm vụ phụ trách công tác đảm bảo (ăn, mặc, thuốc men, giấy mực, sách vở...). Nói chung cơ sở vật chất của trường rất thiếu thốn. Ban đầu mọi việc ăn học, ngủ, nghỉ đều trên nền đất. Học viên đồng phục quần ngắn vải xanh, áo thun trắng ba lỗ. Mỗi thiếu sinh quân được phát một chiếc nóp. Nhiều thiếu sinh quân tự trang bị thêm cho mình một thanh kiếm bằng gỗ để canh gác, tuần tra ban đêm.


Ngoài dạy văn hóa, trường còn huấn luyện quân sự, tổ chức thể thao, văn nghệ.

Tháng 8 năm 1948, sau một tháng khai giảng, số học viên thiếu sinh quân Trung đoàn 312 tăng từ 32 lên 42.

Trung đoàn 312 là một trong những đơn vị đầu tiên có sáng kiến và chủ trương đúng trong việc đào tạo mầm non đất nước, tổ chức trường lớp qui củ, tạo cơ sở phát triển sau này.

Thầy Long được cử ra trường tiểu học Gia Định nghiên cứu, thu thập tài liệu về ngữ pháp, văn phạm; cùng đi có trò Vân theo để phụ thầy ghi chép.

Trên chiến trường Nam Bộ lúc bây giờ, hầu hết các trung đoàn đều có trường thiếu sinh quân. Bộ tư lệnh Nam Bộ khuyến khích việc này. Để khích lệ, Trung tướng Tư lệnh Nam Bộ Nguyễn Bình cho mở trại Đồng tử quân Nam Bộ, thời gian một tháng, ở xã Đốc Binh Kiều (thuộc tỉnh Mỹ Tho) trên Đồng Tháp Mười.


Thiếu sinh quân Trung đoàn 312 - Trung đoàn 306 được vinh dự thay mặt thiếu sinh quân Khu 7 chọn 30 “chiến sĩ nhỏ” đi dự cắm trại Đồng tử quân Nam Bộ. Thầy Long, thầy Hỷ đại diện Trung đoàn 312, thầy Hinh đại diện Trung đoàn 306 được ban chỉ huy hai trung đoàn giao nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy đưa đoàn Thiếu sinh quân Khu 7 từ miền Đông xuống miền Trung Nam Bộ. Với cuộc hành trình hết sức gian truân, vất vả, qua bao làng mạc, sông ngòi, qua “cánh đồng chó ngáp” bắc Thủ Thừa... ba thầy giáo, đã hoàn thành nhiệm vụ đón các em học sinh thiếu sinh quân đi đến nơi về đến chốn an toàn.


Đầu năm 1949, trường thiếu sinh quân Trung đoàn 312 phát triển lên trên 120 học viên, chia thành ba lớp. Trường lớp đã khang trang hơn trước: học có bàn, ngủ có phản... Uy tín của trường ngày càng tăng, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn đưa con em đến xin được học, nhân dân nhiều xã cũng đưa con em đến xin được đầu quân và học. Tình hình đó đặt ra cho trường những khó khăn lớn về việc nuôi dưỡng, giảng dạy. Sau gần 2 năm, hơn 30 thiếu sinh quân lớn tuổi (lúc đầu từ 14 đến 16 tuổi) đã học từ tháng 7 tháng 8 năm 1948 đạt trình độ vàn hóa lớp nhì “cứng”, nhưng non lớp nhất (tương đương lớp cuối cấp 1 ngày nay), nhưng trường lại không có tài liệu để hoàn chỉnh chương trình lớp nhất. Trung đoàn vẫn quyết định tìm mọi cách dạy các em học thêm cho trọn cấp. Bằng sự hiểu biết của các thầy cô, đồng thời cho người đi sưu tầm tài liệu, nhà trường quyết tâm thực hiện.


Cuối cùng trường thiếu sinh quân đã tổ chức thi cấp bằng “Tương đương sơ cấp tiểu học”. Văn bằng do Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Hâm và chính trị viên Ngô Thanh Khiết ký ngày 31 tháng 3 năm 1949. Ngày 2 tháng 4 năm 1949, đồng chí Tô Ký với cương vị Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Quân đội quốc gia Việt Nam, ký xác nhận. Học viên sau khi nhận bằng trở về cơ quan, đơn vị công tác và chiến đấu.


Trường thiếu sinh quân Trung đoàn 312 tiếp tục tồn tại và phát triển sau khi thành lập Liên trung đoàn 306 - 312 (và cho đầu năm 1950 được lệnh di chuyển xuống miền Tây Nam Bộ để tiếp tục dạy và học trong điều kiện thuận lợi, an toàn hơn).


Trường thiếu sinh quân Trung đoàn 312 trở thành một trong những biểu tượng không chỉ về tình cảm, sự quan tâm mà còn là quan điểm căn cơ lâu dài trong xây dựng đội ngũ kế tiếp của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy lực lượng võ trang thế hệ những năm đầu cuộc kháng chiến ba mươi năm.


Năm 1949, địch tập trung nỗ lực bình định Nam Bộ1 (Theo chủ trương củ Cao ủy Pignon, được xác định tại hội nghị phòng vệ Đông Dương ngày 4 tháng 2 năm 1947 tại Sài Gòn) bằng biện pháp chiến thuật De Latour2 (De Latour des Moulins thay Nyo làm tư lệnh quân viễn chinh ở Nam Đông Dương từ tháng 4 năm 1947. Viên tướng này chủ trương thực hiện chiến lược "siết chặt" và "vết dầu loang" để bình định Nam Bộ. Nội dung của chiến thuật này là: xây dựng các đồn, tháp canh dày đặc theo các trục giao thông, các điểm hiểm yếu, gọi là chiến thuật "đường và điểm" hay "chiến thuật mạng nhện"). Thực hiện chiến thuật này, trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định - Tây Ninh, trước khi rút bớt quân ra Bắc, tổng quân số địch lên tới 46.000 tên, số đồn bót, tháp canh lên tới 707 (toàn Nam Bộ 3.972 chiếc).


Về nhiệm vụ quân sự năm 1949, Hội nghị quân sự mở rộng Nam Bộ (3-1-1949) xác định nhiệm vụ ra sức phát triển lực lượng và phong trào chiến tranh du kích... về bộ đội tập trung, cần “chấn chỉnh, rèn luyện quân đội, cấp bách xây dựng chủ lực để đáp ứng với yêu cầu tác chiến mới”.


Tiếp theo cuộc vận động “luyện quân đội, lập chiến công” (gọi tắt là cuộc vận động “luyện quân lập công”) đã được đề ra từ tháng 12 năm 1947, đến cuộc vận động “rèn luyện cán bộ, chấn chỉnh quân đội” (gọi tắt là “rèn cán chỉnh quân”) theo nghị quyết Hội nghị cán bộ quân sự toàn quốc tháng 8 năm 1948, Nghị quyết Hội nghị quân sự mở rộng Nam Bộ tháng 9 năm 1949 lần nữa đặt mạnh việc rèn luyện quân đội, rèn luyện cán bộ, chấn chỉnh quân đội để nâng cao chất lượng lực lượng võ trang về mọi mặt, kể cả quy mô tổ chức để bắt kịp tình hình nhiệm vụ. Suốt những năm 1948, 1949 và cả về sau, bên cạnh nhiệm vụ quân sự, đó là nhiệm vụ lớn trong hoạt động của các đơn vị tập trung trong đó có Chi đội 12, Trung đoàn 312. Nội dung tập trung vào mục tiêu thống nhất tư tưởng trong quân đội trước nhiệm vụ tích cực chuẩn bị tổng phản công, nâng cao trình độ tổ chức, trình độ kỹ thuật, chiến thuật, năng lực chỉ huy, nền nếp kỷ luật.


Những yêu cầu về tình hình nhiệm vụ nói trên và những bước đã triển khai đang tiến đến một trong những quyết định quan trọng về quân sự ở Nam Bộ là tiếp tục nâng cấp lực lượng võ trang tập trung và xây dựng những đơn vị chủ lực, trên cơ sở các trung đoàn hiện có, thành lập các liên trung đoàn. Trung đoàn 312 cùng với Trung đoàn 306 hợp nhất lại thành liên trung đoàn 306-312.


Nhìn lại từ ngày thành lập Trung đoàn 312, cùng với việc giải quyết một cách cơ bản để cách mạng hóa những bộ phận Bình Xuyên (chủ yếu là Chi đội 9 của Lê Văn Viễn) còn bị gián điệp Pháp lũng đoạn, việc củng cố và phát triển tổ chức các đơn vị võ trang tập trung trên chiến trường miền Đông (cũng như trên toàn Nam Bộ) đã đánh dấu bước hoàn chỉnh quá trình thống nhất lực lượng võ trang trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Đây cũng là giai đoạn phát triển cao nhất của Trung đoàn 312 với tư cách là một tổ chức đơn vị độc lập. Trong năm 1948 và những tháng đầu năm 1949, với quy mô tổ chức mới về lực lượng võ trang tập trung, cùng với các đơn vị võ trang khác, Trung đoàn 312 đã đẩy mạnh các hoạt động chiến đấu và công tác, góp phần giữ được thế chiến trường du kích, đồng thời hoạt động mạnh vào hậu phương địch, gây cơ sở vùng địch hậu, bóp hẹp sự kiểm soát của địch, phá hoại kinh tế địch (đặc biệt là cao su), cắt đứt nhiều tuyến giao thông quan trọng, bảo vệ hành lang kháng chiến, về cơ bản bảo vệ được khu giải phóng, căn cứ địa, mùa màng, dự trữ của ta, mở rộng hoạt động sang chiến trường Cao Miên và thực hiện có hiệu quả công tác Cao Đài vận.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tám, 2021, 08:43:58 pm
PHỤ LỤC


DANH SÁCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, CHỈ HUY GIẢI PHÓNG QUÂN
LIÊN QUẬN HÓC MÔN - BÀ ĐIỂM - ĐỨC HÒA,
CHI ĐỘI 12, TRUNG ĐOÀN 312


I- GIẢI PHÓNG QUÂN HÓC MÔN - BÀ ĐIỂM - ĐỨC HÒA (1-11-1945 -3-1946):

1- TÔ KÝ - Chỉ huy trưởng.
2- HOÀNG DƯ KHƯƠNG - Xứ ủy viên phụ trách - Ủy viên chính trị.
3- TRẦN VĂN TRÀ - Chính trị ủy viên (thay Hoàng Dư Khương).
4- HOÀNG TẾ THẾ - Ủy viên chính trị.
5- HUỲNH TẤN CHÙA - Ủy viên quân sự.
6- HUỲNH VĂN MỘT - Ủy viên quân sự.
7- CAO ĐỨC LUỐC - Ủy viên phụ trách vũ khí.


II- CHI ĐỘI 12 (3-1946 -3-1948):

A- Ban chỉ huy chi đội:

1- TÔ KÝ - Chi đội trưởng.

2- HUỲNH TẤN CHÙA - Chi đội phó.

3- HOÀNG TẾ THẾ - Chính trị ủy vièn (chính ủy).


B - Các đại đội

1- Đại đội 1:
1- NGUYỄN BÁ BỘI - Đại đội trưởng.
2- NGUYỄN VĂN TẶNG - Đại đội trưởng.
3- PHẠM BÁ TƯỜNG - Chính trị viên.
4- TRƯƠNG VĂN BA - Đại đội phó.

2- Đại đội 2:
1- NGUYỄN VĂN BÚA - Đại đội trưởng.
2- NGUYỀN HỒNG ĐÀO - Chính trị viên.

3- Đại đội 3:
1- NGUYỄN VĂN BÂU - Đại đội trưởng.
2. LÂM THÀNH HỔ - Đại đội phó.
3- NGUYỄN VĂN VOI - Đại đội phó.

C- Các đơn vị độc lập:

1- Đơn vị số 1:
1- NGUYỄN THƯỢC - Chỉ huy trưởng
2- LÊ VĂN DỌN - Chỉ huy phó.

2- Đơn vị số 2:
1- HỒ THỊ BI - Chỉ huy trưởng.
2- ĐÀO QUANG XÊ - Chính trị viên.
3- HUỲNH VĂN CHỖ - Chỉ huy phó.

3- Đơn vị số 3:
1- NGUYỄN MINH SANH - Chỉ huy trưởng.
2- GIÁO RÕ - Chỉ huy trưởng.

D- Cơ quan và đơn vị trực thuộc:
1- NGUYỄN THANH TÙNG - Trưởng ban tình báo
2- NGUYỄN HỮU ĐANG - Trưởng ban chính trị.
3- NGUYỄN VĂN NGHÉ - Phụ trách ban quân giới.
4- ĐÀO VĂN PHÁT - Trưởng ban liên lạc.
5- HUỲNH VĂN SAI - Trưởng ban quân trang.
6- TRẦN VĂN ĐẢO - Trưởng ban tài chính.
7- PHAN VĂN NGÓI - Trưởng ban quân lương tiếp liệu.
8- TRẦN VĂN SÁNG - Trưởng ban quân y.
9- VÕ VĂN HOA - Trưởng ban kinh tế tự túc 1.
10- HỒ THỊ BI - Trưởng ban kinh tế tự túc 2.
11- HOÀNG ĐỨC TƯỜNG - Trưởng ban kinh tế tự túc 10.
12- NGUYỄN VĂN HÂM - Trưởng ban công tác số 3 (công tác thành).
13- HỒ THỊ BI - Trưởng ban công tác số 12 (công tác thành).
14- NGÔ VĂN NĂM - Trưởng ban quân giới kiêm quản đốc binh công xưởng
15- NGUYỄN ẢNH TƯỜNG - Trưởng quân y xá 3.
16- NGUYỄN BÁ KHẢM - Chánh văn phòng chi đội.


III. - TRUNG ĐOÀN 312 (Từ tháng 3 năm 1948 đến tháng 11-1949):

A - Ban chỉ huy trung đoàn
1- TÔ KÝ - Trung đoàn trưởng.
2- NGÔ THANH KHIẾT - Chính trị viên.
3- NGUYỄN VĂN BỨA - Trung đoàn phó.
4- NGUYỄN VĂN HÂM - Trung đoàn phó, Trung đoàn trưởng.

B - Ban chỉ huy các tiểu đoàn.

1- Tiểu đoàn 934:
1- NGUYỄN VĂN BÂU - Tiểu đoàn trưởng.
2- NGUYỄN HỒNG ĐÀO - Chính trị viên.
3- NGUYỄN VĂN TẶNG - Tiểu đoàn phó.

2- Tiểu đoàn 935:
1- NGUYỄN VĂN THƯỢC - Tiểu đoàn trưởng.
2- NGUYỄN HỮU ĐANG - Chính trị viên.
3- NGUYỄN MINH SANH - Tiếu đoàn phó.
4- HỒ THỊ BI - Tiêu đoàn phó.

3- Tiểu đoàn 936 (thiếu, ở Tây Ninh):
1- NGUYỄN BÁ BỘI - Tiểu đoàn trưởng.
2- NGUYỄN VĂN BÀNG, - Chính trị viên.
      HUỲNH VĂN SAI - Chính trị viên.

C- Các cơ quan và đơn vị trực thuộc:
1- NGUYỄN NGỌC ĐÔN - Chánh văn phòng, Hiệu trưởng trường Thiếu sinh quân.
2- NGUYỄN VĂN BÚA - Trưởng ban tham mưu.
3- NGUYỄN TƯỜNG TRANG,
             PHẠM BÁ TƯỜNG - Trưởng ban chính trị.
4- NGUYỄN BÁ KHÂM - Trưởng ban quân nhu.
5- PHẠM ĐĂNG LÂM - Trưởng ban tài chính.
6- NGUYỄN THANH TÙNG - Trưởng ban tình báo.
7- NGUYỄN VĂN NGHÉ - Phụ trách ban quân giới.
8- ĐÀO VĂN PHÁT - Trưởng ban liên lạc.
9- TRẦN VĂN SÁNG - Trưởng ban quân y.
10- VÕ VĂN HOA - Trưởng ban Kinh tế tự túc 1.
11- HỒ THỊ BI - Trưởng ban Công tác số 12 kiêm trưởng ban Kinh tế tự túc 2.
12- NGÔ VĂN NĂM - Trưởng ban quân giới, kiêm quản đốc binh công xưởng.
13- NGUYỄN ẢNH TƯỜNG,
     TRẦN BỬU HÊN - Trưởng Quản y xá 3, trưởng quân y xá tiểu đoàn 934.
14- LÊ TRƯỜNG CHÂU,
      NGUYỄN ẢNH TƯỜNG - Trưởng quân y xá 4, trưởng quân y xá tiểu đoàn 935.
15- VÕ THÁI HÒA - Hiệu trưởng Trường quân chính.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 27 Tháng Tám, 2021, 08:49:05 pm
DANH SÁCH MỘT SỐ ĐỒNG CHÍ TIÊU BlỂU TRƯỞNG THÀNH
TỪ GIẢI PHÓNG QUÂN, CHI ĐỘI 12, TRUNG ĐOÀN 312


Tính đến tháng 12 năm 2000, mới chỉ lập được danh sách gồm 600 cán bộ chiến sĩ thuộc Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, Chi đội 12, Trung đoàn 312. Trong số 600 đồng chí đó có:
- 83 liệt sĩ.
- 26 đồng chỉ là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 đến trước năm 1945.
- 5 đồng chí được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động.
- 3 đồng chí được bầu là ủY viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
- 9 đồng chí được phong quân hàm sĩ quan cấp tướng.
- 34 đồng chí được phong quân hàm sĩ quan cấp đại tá và thượng tá.
- 10 đồng chí được giao chức vụ tư lệnh, chính ủy, phó tư lệnh cấp quân khu.
- 56 đồng chí được đào tạo qua các trường đại học, sau dại học, nhà văn, nhà báo, các đồng chí được giao nhiệm vụ giám đốc, cục, vụ, tổng cục, tổng giám đốc, thứ trưởng và tương đương.


1. CÁN Bộ CHIẾN SĨ THUỘC GIẢI PHÓNG QUẦN, CHI ĐỘI 12, TRUNG ĐOÀN 312 LÀ LIỆT SĨ:
1- HUỲNH TẤN CHÙA.
2- NGUYỄN VĂN HÂM.
3- NGÔ THANH KHIẾT.
4- NGUYỄN HỒNG ĐÀO.
5- NGUYỄN BÁ BỘI.
6- NGUYỄN VĂN CƯNG.
7- NGUYỄN VĂN LIÊM.
8- NGUYỄN HỮU THẠNH.
9- TRẦN BỬU HÊN.
10- ĐÀO QƯANG XÊ.
11- NGUYỄN ĐỨC PHƯỚC.
12- NGUYỄN VĂN ĐÚNG.
13- NGUYỄN VĂN TẶNG.
14- CAO TẤN PHAN.
15- VƯƠNG TRUNG SINH.
16- HỒ VĂN XUÂN.
17- NGUYỄN THÀNH KHUÔN.
18- NGUYỀN VĂN BÉ.
19- NGUYỄN VĂN ĐẠN.
20- NGUYỄN VĂN NHƯNG.
21- ĐỒNG CHÍ HIỂN.
22- ĐỒNG CHÍ NÔ.
23- ĐỒNG CHÍ CẢI.
24- ĐỒNG CHÍ TIỀU.
25- ĐỒNG CHÍ PHU.
26- PHẠM THỊ QUÝ.
27- LẠI VĂN THUẬN.
28- ĐỖ BÁ THÔNG.
29- PHAN THÀNH CHUNG.
30- LÊ VĂN CHỖ.
31- NGUYỄN VĂN SÁNG
32- LÊ VĂN GÁO.
33- LÊ THÀNH Ê.
34- ĐỒNG CHÍ LY.
35- NGUYỄN VĂN QUÝT.
36- LÊ VĂN VƯỜNG (CHỪNG).
37- HÀ VĂN THANH.
38- LÊ VĂN XƯỜNG.
39- NGUYỄN HỮU CÓ (XẾNH).
40- NGUYỄN THỊ KY.
41- LÊ THỊ KIM ANH.
42- HỒ THANH MÀNH.
43- TRẦN NGHĨA SỸ.
44- ĐỒNG CHÍ KIỂU.
45- ĐỒNG CHÍ ĐỒNG.
46- NGUYỄN VĂN TỐT.
47- TRẦN VĂN SẮT.
48- TRỊNH ĐÌNH BỐC.
49- NGUYỄN VĂN BAY.
50- BÙI VĂN LÙ.
51- ĐỒNG CHÍ BE.
52- PHAN VĂN LƯỢNG.
53- TRƯƠNG VĂN TRINH.
54- ĐỒNG CHÍ HƯỞNG.
55- PHẠM VĂN KHEN.
56- LÂM XUYÊN.
57- HUỲNH VĂN XƯỚNG.
58- GIÁP VĂN HA.
59- LÊ NGỌC NHÂN.
60- ĐỒNG CHÍ NGƯƠN.
61- TRƯƠNG VĂN NGÀN.
62- ĐỒNG CHÍ THIÊN.
63- ĐỒNG CHÍ NHIỀU.
64- HỒ VĂN TIỆN.
65- HOÀNG ĐẠI NAM.
66- ĐỖ CHÍ NHIỀU.
67- HỒ VĂN TIÊN.
68- NGUYỄN VĂN HƯƠNG.
69- NGUYỄN VĂN HỚN.
70- ĐỒNG CHÍ THÔNG.
71- TẠ THỊ RỒI.
72- NGHIÊM XUÂN KHUÊ.
73- LÊ LAI.
74- TRẦN VĂN CHÓI.
75- ĐỒNG CHÍ ĐÃI.
76- ĐỒNG CHÍ NHỚ.
77- ĐỒNG CHÍ HẠ.
78- ĐỒNG CHÍ GIÁM.
79- ĐỒNG CHÍ TÙNG.
80- LÊ MINH TIỀU.
81- LÊ VĂN GIÀU.
82- ĐỒNG CHÍ PHƯƠNG (PHÉP).
83- ĐỒNG CHÍ SINH.

2. CÁC ĐỒNG CHÍ LÀ ĐẢNG VIÊN TỪ NĂM 1930 ĐẾN TRƯỚC NĂM 1945:
1- HOÀNG DƯ KHƯƠNG vào Đảng năm 1930.
2- TÔ KÝ vào Đảng năm 1937.
3- TRẦN VĂN TRÀ vào Đảng năm 1938.
4- HUỲNH TẤN CHÙA vào Đảng năm 1936.
5- HUỲNH VĂN MỘT vào Đảng năm.
6- CAO ĐÚC LUỐC vào Đảng năm 1936.
7- HOÀNG TẾ THẾ vào Đảng năm 1930.
8- PHAN VĂN VOI vào Đảng năm ...
9- LÊ BÌNH ĐẮNG vào Đảng năm 1940.
10- NGUYỄN VĂN HÂM vào Đảng năm 1940
11- NGUYỄN THƯỢC vào Đảng năm 1936.
12- NGUYỀN HỒNG ĐÀO vào Đảng năm 1936.
13- NGUYỄN BÁ BỘI vào Đảng năm ...
14- NGUYỄN HỮU ĐANG vào Đảng năm 1930.
15- VÕ VĂN HOA vào Đảng năm 1939.
16- HỒ THỊ BI vào Đảng năm 1936.
17- NGUYỄN VĂN BÂU vào Đảng năm 1936.
18- NGUYỄN MINH SANH vào Đảng năm ...
19- LÝ CỦA vào Đảng năm ...   
20- ĐỨC SƠN vào Đảng năm
21- NGÔ THANH KHIẾT vào Đảng năm 1930.
22- TRƯƠNG THỊ MỪNG vào Đảng năm 1936.
23- NGUYỄN THỊ SAO vào Đảng năm 1930.
24- NGUYỄN VĂN MƯỜI (Mười Đói)vào Đảng năm 1930.
25- VÕ VĂN THỜI vào Đảng năm 1940.
26- NGUYỄN VĂN MỨC vào Đảng năm 1940.

3. CÁC ĐỒNG CHÍ ĐƯỢC BẦU VÀO BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG:
1- TRẦN VĂN TRÀ.
2- NGUYỄN THỚI BƯNG (Út Thới).
3- BÙI THANH VÂN (Út Liêm).

4. CÁC ĐỒNG CHÍ ĐƯỢC TUYÊN DƯƠNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN, ANH HÙNG LAO ĐỘNG:
1- PHAN VĂN RI.
2- BÙI VĂN BA.
3- LÊ   VĂN THỌ (Núi).
4- HỒ THỊ BI.
5- NGÔ VĂN NĂM.

5. CÁC ĐỒNG CHÍ ĐƯỢC PHONG QUÂN HÀM SĨ QUAN CẤP TƯỚNG:
1- TRẦN VĂN TRÀ - Thượng tướng.
2- NGUYỄN THỚI BƯNG (Út Thới) - Trung tướng.
3- BÙI THANH VÂN (Út Liêm) - Trung tướng.
4- LÊ THANH - Trung tướng.
5- TÔ KÝ - Thiếu tướng.
6- VÕ VĂN THỜI - Thiếu tướng.
7- NGUYỄN VĂN BỨA (Hồng Lâm) - Thiếu tướng.
8- NGUYỄN VĂN ĐIỆP (Hai Dương)- Thiếu tướng.
9- CAO LONG HỶ - Thiếu tướng.

6. CÁC ĐỒNG CHÍ ĐƯỢC GIAO CHỨC VỤ TƯ LỆNH, PHÓ TƯ LỆNH VÀ CHÍNH ỦY CẤP QUÂN KHU:
1- TRẦN VĂN TRÀ.
2- TÔ KÝ.
3- HOÀNG DƯ KHƯƠNG.
4- HUỲNH VĂN MỘT.
5- NGUYỄN THƯỢC.
6- NGUYỄN THỚI BƯNG.
7- BÙI THANH VÂN.
8- NGUYỄN VĂN BÚA.
9- LÊ   THANH.
10- NGUYỄN HỒNG ĐÀO.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Chín, 2021, 02:34:33 pm
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VÕ TRANG
TRONG NHỮNG NGÀY ĐẦU KHÁNG CHIẾN


TÔ KÝ


Ngày 25 tháng 8 năm 1945, chánh quyền về tay Việt Minh (Việt Minh tức là cộng sản, từ nông thôn đến thành thị, các từng lớp nhân dân có tinh thần yêu nước đều hiểu ngầm hoặc công khai đều là như vậy). Từ ngày 25 tháng 8 năm 1945 đến ngày 23 tháng 9 năm 1945, trong nội thành ngoại thành, tùy theo quyền lợi, ý thức chánh trị khác nhau, hoạt động của các tầng lớp nhân dân diễn ra hết sức rầm rộ.


Tưởng Gracy, Tư lệnh Sư đoàn 20 của Anh ra lệnh cho Tư lệnh quân đội Nhật phải giữ trật tự ở Đông Dương, lệnh cho Nhật thả tù sĩ quan và lính Pháp bị bắt nhốt ngày 9 tháng 3 năm 1945 từ toàn quyền khâm sứ, thống đốc, các tỉnh trưởng, sen đầm, mật thám, v.v... Nhật phải thả hết. Anh tái võ trang cho bọn này. Sư đoàn 20 của Anh lần lượt nhảy dù xuống sân bay Tân Sơn Nhứt, bao gồm sĩ quan của Pháp cũng núp bóng cờ Anh nhảy theo. Bọn sĩ quan và lính Pháp tổ chức khiêu khích, treo cờ Pháp nơi này nơi khác. Các đảng phái một bộ phận của Cao Đài dựng “khải hoàn môn" để rước Cường Để, Cao Đài tự lập bộ đội. Hòa Hảo nói miền Tây của chúng tôi. Bình Xuyên chiếm Nam Sài Gòn, chưa theo hệ thống chánh quyền của thành phố Sài Gòn, 4 sư đoàn tự lập: Đệ nhứt, Đệ nhị, Độ tam, Đệ tứ sư đoàn - những người chỉ huy cấp sư đoàn đều la tay sai của Pháp, Nhựt trước đó.


Việc Pháp sẽ tái chiếm Sài Gòn, rồi Nam Bộ sẽ đánh ra cả nước ta, những người cách mạng không phải không biết. Những lời tuyên bố của Pháp, những đòi hỏi, những cử chỉ, hành động của chúng đã rõ ràng, chỉ còn là ngày giờ.


Phần ta tích cực chuẩn bị tinh thần, tư tưởng, sẵn sàng ứng phó với tình hình xấu sẽ xảy ra. Tổ chức những gì cần thiết cho kháng chiến như máy móc, những người có chuyên môn cần lúc kháng chiến lần lượt đưa ra ngoại thành. Chuẩn bị làm nhà không vườn trống, chuẩn bị lời kêu gọi không hợp tác toàn diện với quân xâm lược. Ngoại thành chuẩn bị đón nhận người nội thành ra như người thân, người cách mạng, giúp ăn ở chu đáo. Sơ tán lương thực ở các kho lương thực... Lập những phòng tuyến, đào đường, lập làng chiến đấu, thực hành triệt để bao vây chúng. Các mặt trận đã hình thành như: Bà Quẹo, cầu Tham Lương, cầu Thị Nghè, Hàng Xanh, cầu Bến Phân, Gò Vấp. Mặt khác tích cực tập luyện quân sự, vận động những đồn nhỏ của Nhật còn đóng rải rác trong địa phương đổi lương thực cho chúng để lấy súng, tổ chức những đội lặng lẽ tìm súng của Pháp, Nhật bỏ xuống sông, v.v... Bỏ vàng, tiền mua súng của Nhật.


Vấn đề đặt ra cấp bách lúc bấy giờ là kháng chiến chống xâm lược Pháp. Pháp có quân đội nhà nghề qua nhiều thế kỷ, đã từng đi xâm lược ở nhiều nước trên thế giới, có kinh nghiệm chiến tranh, tướng tá của chúng đã từng chỉ huy quân xâm lược khắp thế giới qua nhiều thế kỷ. Tôi biết rằng mình chưa từng cầm súng, chưa từng tổ chức quân đội và cũng chưa từng chiến trận bao giờ, vả lại lúc ấy vừa mới thoát khỏi nhà ngục của chúng mấy tháng, tuổi lại còn quá trẻ.


Trong những ngày sôi động trong nội thành Sài Gòn và các quận huyện phụ cận, tình hình hết sức khẩn trương. Chánh quyền từ thành phố đến các quận huyện ngoại thành còn ngổn ngang, xen lẫn những phần tử xấu. Bộ đội thì mạnh ai nấy tự lập, tự xưng là dân quân cách mạng, những người đứng đầu các lực lượng đó thì chống cộng.


Lực lượng công an (lúc đó tên gọi là Quốc gia tự vệ cuộc), cách mạng không nắm được, lúc này chưa phải là lực lượng tin cậy được của nhân dân, công nông rất e ngại, vẫn còn xem như sen đầm cảnh sát của Pháp - Nhật trước đó.


Lúc bấy giờ Thường vụ Tỉnh ủy Gia Định và bản thân tôi phải lo củng cố cấp xã, cấp huyện thuộc Gia Định, đặc biệt là xây dựng lực lượng võ trang. Bản thân đi kiếm những đồng chí cộng sản hoặc cảm tình với cách mạng, quy tụ lại - phân công nhau về địa phương lo xây dựng lực lượng dân quân, lo xây dựng lực lượng tập trung, vừa củng cố cơ sở vững chắc, đồng thời tạo điều kiện cho lực lượng tập trung chiến đấu. Lực lượng tập trung làm chỗ dựa cho địa phương xã huyện và ngược lại.


Xây dựng lực lượng tập trung thế nào? Như trên đã nói, từ nhỏ đến lớn tôi chưa biết nguyên tắc xây dựng quân đội. Đứng trước tình hình giặc Pháp bắt đầu xâm lược, yêu cầu là phải kháng chiến, tự nghĩ các triều đại của nước ta và Trung Quốc - những tướng tá có danh trong sử sách đã nêu, có người xuất thân từ những gia tộc võ biền, có những người không biết chữ chỉ biết võ nghệ, nhưng khi vào quân đội đó thì họ sẽ biết dần - thì mình cũng phải vậy.


Ban đầu tập hợp lại số đông, sau chia thành đội ngũ, trong số binh sĩ họ tự cử nhau lên chỉ huy. Phải tập đội hình, cách đi đứng theo lối quân Pháp, ở nhà dân, ở các đình làng lo quân lương, đặc biệt hết sức lo tìm kiếm vũ khí, tầm vông vạt nhọn, gươm mác là chủ yếu, nhưng mỗi tiểu đội hay trung đội phải từ 5 - 7 cây súng. Tổ chức theo mô hình lính tập của quân đội Pháp. Lúc bấy giờ, cuối năm 1945, ở tỉnh Gia Định chia ra nhiều khu vực, chiến đấu chống quân Pháp đánh lấn từ Sài Gòn ra các vùng phụ cận, phân chia khu vực hay mặt trận như sau: Hướng đông, đông bắc có mặt trận Thị Nghè, mặt trận Hàng Xanh, mặt trận Cầu Bông, xa hơn là mặt trận Thủ Đức. ngăn chặn chúng đánh lấn ra hướng đông bắc. Hướng bắc và tây bắc có mặt trận Cầu Bến Phân, mặt trận Gò Vấp, mặt trận Cầu Tham Lương, về phía nam có mặt trận Nhà Bè, láy nam có mặt trận Cây Gò, sau lui về phía sau là cầu An Lạc, ngã ba An Lạc. Mặt trận đông bắc và bắc do các đồng chí Nguyễn Văn Dung (tù Côn Đảo vừa về), anh Hai Công, anh Hai Trần Thắng Minh, anh Đào Sơn Tây, anh Trần Đình Xu, anh Nguyễn Văn Bảo,... chỉ huy. Mặt trận tây bắc có Tô Ký, Nguyễn Văn Hâm, Huỳnh Tấn Chùa, Nguyễn Văn Thược (Lâm Quốc Đăng), Nguyễn Bá Bội, Nguyễn Hồng Đào... chỉ huy. Mặt trận Nhà Bè, Rừng Sác do anh Trương Văn Bang chỉ huy và lực lượng Bình Xuyên. Mặt trận tây nam do anh Nguyễn Văn Bào chỉ huy và lực lượng Bình Xuyên do anh Ba Dương Văn Dương; ông Tám Mạnh, anh Hai Vĩnh, anh Năm Dương Văn Hà chỉ huy. Lực lượng này giữ phía nam Sài Gòn - Chợ Lớn là lực lượng mạnh nhứt, có nhiều vũ khí đã tự tạo trước nhiều năm Cách mạng Tháng Tám nổ ra. Bộ đội Bình Xuyên đánh nhà đèn Chợ Quán vào tháng 10 năm 1945 được Bác Hồ gởi điện khen. Anh Dương Văn Dương tử trận ở Bến Tre được truy tặng quân hàm thiếu tướng. Các mặt trận này chống giặc Pháp đánh lấn ra, phối hợp với chiến đấu trong thành. Mặt khác nhân dân trong nội thành chấp hành triệt để lệnh của Ủy ban lâm thời hành chánh Nam Bộ bất hợp tác, riệt tiêu các mặt lương thực, điện nước, v.v... Những người có nhiệm vụ thì ở lại nội thành. Những người già yếu, trẻ con, phụ nữ tản cư ra nông thôn, khẩn trương gồng gánh, bồng con, mang theo những thứ tùy thân, chăn màn quần áo. Lúc đó không có xe cộ, không có cả xe ngựa, xe bò, không phải như hiện nay xe nhiều, đường lớn bằng 3 năm 1945 mà vẫn kẹt.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Chín, 2021, 02:35:33 pm
Nông thôn thì chuẩn bị tiếp đón người trong thành ra. Thanh niên thì tập luyện quân sự, đốn cây, đào đường, rào làng ngăn giặc phân tán lúa gạo của các nhà máy.

Vào tháng 10, 11, 12 ngoài đồng lúa chín - đồng ruộng bát ngát mênh mông, không phải hẹp như ngày nay.

Mọi việc hết sức khẩn trương. Cấp ủy, ủy ban các cấp làm việc suốt ngày đêm, ngủ đứng, ngủ ngồi.

Một điều rất lạ đối với ngày nay, mặc dù kẻ ra người vào, chưa hề quen thuộc, ăn chung ở đụng, không nghe thấy cờ bạc, rượu chè, trai gái, trộm cắp, v.v... Thật là tinh thần ái quốc cao độ. Ai nấy già, trẻ trai hay gái, ở nông thôn hay thành thị ra nông thôn đều có một lòng vì nước, chỉ có Tổ quốc, Tổ quốc là tất cả. Tình hình mọi mặt đều mới lạ, xưa nay chưa từng thấy, nhưng rất trật tự, xã hội rất an toàn từ trong thành thị, ngoài nông thôn mọi người đều nhứt tâm quyết chiến, trong ngoài là một chiến trường.


Lâm thời hành chính Nam Bộ và Pháp ở Sài Gòn có những cuộc họp công tác ngoại giao do đồng chí Phạm Ngọc Thạch tiến hành. Anh là ủy viên đối ngoại của Ủy ban lâm thời hành chính Nam bộ.

Bọn Pháp mời anh Trần Văn Giàu là Chủ tịch, anh Tư Thạch là ủy trưởng ngoại giao - mời ăn cơm làm việc, thực chất là chúng dụ đến để bắt. Anh Sáu Giàu, anh Tư Thạch nhận lời, nhưng không đi dự, chúng không thực hiện được âm mưu “tịch bôi hạ sát”, đó là thủ đoạn thời phong kiến hay làm. Trong thời điểm này bọn Pháp muốn gặp Ủy ban Nam Bộ để làm gì? Ta cần gặp bọn Pháp để làm gì? Đồng sàng dị mộng - hai bên đều có ý định riêng.


Binh lực của Pháp không đủ đề lấn ra, nước Pháp là nước bại trận đầu tiên khi chiến tranh thế giới thứ 2 vừa mới khơi chiến. Pháp vừa bại trận vừa phải cung đốn mọi thứ cho phát xít Đức, nên khả năng tăng cường cho đội quân xâm lược tại Việt Nam bị hạn chế, chúng hòa hoãn để chờ viện binh. Phần ta hòa hoãn để củng cố tổ chức, động viên chánh trị. Củng cố tổ chức trên nhiều mặt, ổn định đồng bào vừa ra nông thôn, tuyển lựa những người có văn hóa, có nghề nghiệp như thầy thuốc, thầy giáo để tổ chức bình dân học vụ, chống nạn mù chữ, v.v...


Lựa những người trước là thợ sắt, hóa chất, thợ tiện, thợ hàn v.v... để chuẩn bị lập binh công xưởng. Đặc biệt là củng cố các trận địa, sắp xếp lực lượng chiến đấu ở mọi thôn xóm; phá hoại đường sá, chống cơ giới của chúng đánh lấn ra.


Chính phủ Trung ương cũng cần có hòa hoãn để chuẩn bị kháng chiến lâu dài, giữ được hòa bình càng lâu càng tốt, nên Chính phủ ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 và Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946 cốt để kéo dài hòa bình.

Đó là việc của Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ và của Chính phủ.

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Gia Định và chúng tôi không ảo tưởng ý tốt của Pháp, biết rõ âm mưu của chúng. Tranh thủ thời gian, chúng tôi phải gấp rút xây dựng lực lượng, kháng chiến phải lâu dài, có lực lượng mà không có vũ khí, có súng mà không có đạn, có đạn nhỏ trong chiến đấu không sát thương được nhiều, cần phải có đạn lớn. Muốn có những loại súng đạn này, cần phải có thợ ở sở Ba Son. Bàn với một vài người có nhiệt tâm nhứt để qua đây vận động anh em khác, nhứt là anh em thợ, tuy làm thợ trong thành, nhưng gia đình ở ngoài nông thôn (thợ bán công, bán nông), chủ yếu anh em thợ Ba Son ra kháng chiến hầu hết là người ở Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức. Anh em thợ các hãng, xí nghiệp, công nghiệp của Pháp lúc bấy giờ họ bàn bạc với nhau, ai có điều kiện thuận lợi, dầu mình có ra bưng biền kháng chiến, gia đình vợ con cũng không bị bắt bớ mới ra, còn những anh em gia đình ở nội thành chỉ ở lại các hãng xưởng cũ tiếp tục làm cho Pháp, nhưng có catalo (mẫu) mới bí mật đưa ra cho anh em thợ ngoài chiến khu. Từ cuối năm 1945, suốt trong 9 năm kháng chiến chống xâm lược Pháp, khi ngoài kháng chiến lập những binh công xưởng bước đầu đều nhận được anh em trong nội thành gởi ra hóa chất, máy tiện, máy bào, máy phay, sắt, ống tub để làm súng, mortier, làm mine, v.v... Phối hợp trong ngoài luôn luôn đều đặn mặc dù rất khó khăn.


Chi đội 12 tiếp nhận được vật liệu để sản xuất và các loại thợ giỏi như các anh Ngô Văn Năm đã từng làm giám đốc sở Ba Son thời Pháp - Nhật, anh Thưa, anh Lê Văn Quýnh, Lư Đồng Sắt, anh Xoài,v.v... Vật chất máy móc thì đưa ra bằng nhiều đường: đường bộ, đường sông. Đường bộ thì đi từ Phú Nhuận ra Tân Bình phải đục tường một số phố để đưa ra, đến gần sáng phải có hầm bí mật để cất giữ, đường thủy để chở sắt thép, máy móc, trên đổ cá chết, phân cá, tro trấu trên để che giấu các trạm khám xét của dịch. Người và máy móc đều qua các trạm trót lọt. Do đó đã xây dựng nên những công binh xưởng đồ sộ, sản xuất được các loại mine, sửa chữa các súng cũ, súng hư thành tốt, sản xuất tromblon V.B (súng phóng lựu đạn) có sức công phá, cả mortier 60 ly đến 120 ly, có gắn relai liếp sức, bắn xa cả 3km-4km tùy theo yêu cầu xa gần mà gắn thuốc đẩy tiếp sức.


Chi đội 12 rất coi trọng binh công xưởng.

Các binh công xưởng phải bố trí ở xa địch trong rừng sâu, mới có yên ổn sản xuất, vì các máy móc rất nặng nề, di chuyển rất khó khăn, nên công tác bảo vệ các xưởng phải cẩn trọng, vừa xa, vừa sâu, phải hết sức bí mật, có cả trung đội canh gác. Nhưng nơi đây rừng sâu, khí hậu không tốt, nên vấn đề bảo vệ sức khỏe, thầy thuốc, thuốc men, ăn ở vệ sinh rất được chú ý giữ gìn như ăn chín, uống chín, thuốc ngừa bệnh phải luôn luôn có dự trữ. Mỗi tháng bản thân tôi phái đến các binh công xưởng một lần, chở lương thực, thực phẩm, thuốc men, thơ gia đình của anh em và mang thơ về cho cả gia đình.


Chở vũ khí thành phẩm về và chở nguyên vật liệu lên để tiếp tục sản xuất, mỗi lần lên là hàng chục xe bò. Công tác vận chuyến do các anh Phan Văn Ngói, Nguyễn Văn Lam, Phan Văn Dĩa phụ trách. Vận động vật liệu, thuốc men tiền bạc do ông Nguyễn Văn Điều (Đốc học cũ), ủy viên kháng chiến hành chánh tỉnh Tây Ninh phụ trách.


Bảo vệ xưởng chỉ huy trung đội này do anh Nguyền Bá Hội, anh Nguyễn Văn Gấm, anh Sáu Nguyễn Văn Sai thay phiên nhau 3 tháng đổi 1 lần. Bảo vệ vòng ngoài do anh Út Dõng. Các công binh xưởng này, nhứt là công binh xưởng đóng ở rừng Tây Ninh sản xuất nhiều loại vũ khí, số lượng cũng nhiều đáp ứng tương đối kịp thời các yêu cầu tác chiến, như đánh giao thông phải có mine phá xe cơ giới, mine thổi để sát thương, công đồn phải có mìn thổi, phải có F.T để phá rào kẽm gai, phá nổ mine, lựu đạn địch gài để bảo vệ đồn (mở đột phá khẩu), tạo cho bộ binh xung phong, chống càn phải có những vũ khí thích hợp, v.v... Quân giới phát triển, tạo ra những cách đánh mới có kết quả, anh em bộ đội phấn khởi, do đó bộ đội phát triển về số lượng và chất lượng, ngày một trưởng thành. Mặc dù địa bàn xây dựng và tác chiến của Chi đội 12 hay Trung đoàn 312 là chiến trường du kích, nhưng càng đánh càng mạnh, dần dần xây dưng thành ba thứ quân: dân quân du kích, đại đội địa phương huyện, tiểu đoàn tập trung hay tiểu đoàn chủ lực của tỉnh. Tỉnh Gia Định Ninh có tiểu đoàn chủ lực 306.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Chín, 2021, 02:36:42 pm
Bộ máy chỉ huy của Trung đoàn 312 Tỉnh đội Gia Định đến năm 1948 đã hình thành đầy đủ: tham mưu, chánh trị, hậu cần đã hình thành, văn phòng của trung đoàn và tỉnh đội, sắp xếp cán bộ tương ứng nhiệm vụ đáp ứng xây dựng và tác chiến. Trong giai đoạn lịch sử này giữa tỉnh đội và trung đoàn coi như một, có nhiều lúc trung đoàn trưởng và tỉnh đội trưởng chỉ một người, có lúc bí thư tỉnh ủy kiêm nhiệm chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh - các chức vụ này từ năm 1950 đến năm 1953 tôi phụ trách cả.


Ban tham mưu nắm tình hình địch kịp thời, huấn luyện, quân số, trang bị đồ bàn, v.v...

Ban chánh trị giáo dục chánh trị, lãnh đạo tư tưởng xâv dựng tổ chức, tiểu ban dân vận, địch vận, Cao Đài vận hết sức chú trọng, vì địa bàn Trung đoàn 312 hoạt động có lực lượng võ trang của Cao Đài và nhân dân vào đạo Cao Đài rải rác cũng đông, do đó phải có một bộ phận chuyên trách.


Ban hậu cần có quân nhu, tài chính, cơ sở sản xuất: (trồng mía, làm ruộng), mua bán khá rộng lớn.

Quân nhu tính toán cung cấp các mặt cho các mặt hoạt động khác. Ngoài ăn mặc, thuốc men ra, có tiền sản xuất vũ khí, định mức nuôi quân, tác chiến, chánh trị; ít chú trọng công tác báo chí, tuyên truyền, hình ảnh lưu trữ, điện ảnh, hình ảnh bộ đội hành quân tác chiến và các hoạt động khác quá ít, lại thất lạc, nay hầu như không còn gì.


Công tác động viên khen thưởng ít được chú trọng, chỉ nghĩ rằng, mình đánh giặc để giành độc lập, chết. Hình thức “khen" sau khi thắng một trận nào đó thì cho con bò, heo, gà vịt ăn một bữa, coi đó như khen thưởng, nay nhìn lại: anh em quá thiệt thòi, vì không có chứng lý để báo cáo công lao, thành tích của đơn vị lớn nhỏ và cá nhân.


Tôi được biết anh Nguyễn Bình qua nhiều đồng chí cộng sản là những người từ Quốc dân đảng. Sau khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại, một số người như Nguyền Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Có Giang, Cô Bắc bị đế quốc Pháp bắn Quốc dân đảng bị phân liệt.,một số tích cực cách mạng thì qua hàng ngũ cộng sản, trong đây có nhiều người theo tôi biết có anh Trần Huy Liệu, anh Trần Xuân Độ, anh Nguyễn Phương Thảo (là Nguyễn Bình); một số chạy sang Trung Quốc làm tay sai cho Tưởng Giới Thạch. Một số khác làm tay sai cho thực dân Pháp như Nguyễn Tường Tam (Nhứt Linh), Vũ Hồng Khanh, những người ngày đầu cuộc kháng chiến tham gia một thời gian ngắn, sau đó sang hàng ngũ khác chống lại kháng chiến.


Anh Nguyễn Bình (Nguyễn Phương Thảo) đã tổ chức bộ đội chống Nhật chiếm đóng trên đất nước chúng ta trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Anh đã tổ chức Đệ tứ chiến khu, bản doanh ở vùng núi Đông Triều, chiến khu này nằm dọc ven biển từ Móng Cái - Hải Phòng - Tiên Yên, ngày nay còn nhiều người biết và còn ghi lại nhiều chiến tích. Cuộc kháng chiến ở Nam Bộ bắt đầu ngày 23 tháng 9 năm 1945, lúc bấy giờ tại Sài Gòn - Chợ Lớn có nhiều đơn vị - có 4 sư đoàn, lực lượng của Tổng công đoàn, của Bình Xuyên, của Trốt-kít (HT29) gọi là Hồng Tảo, lực lượng không kém phần ô hợp do Nguyễn Đình Thâu chỉ huy, các đơn vị này tự lập đều có chủ mưu và bàn tay ngầm đối lập với nhân dân với Đảng Cộng sản.


Sau những ngày 23 tháng 9 năm 1945 và tiếp theo những tháng 10, 11, 12 năm 1945, nhân dân hết sức phấn khởi vì đã giành được chánh quyền, nhưng nội tình thì hết sức rối ren, giữa Việt Minh mới - Việt Minh cũ chưa thống nhứt được, kế tiếp Lâm thời Xứ ủy Tiền phong, tức Việt Minh mới tan rã bỏ đi cả, các lực lượng võ trang “4 sư đoàn” gọi là dân quân cách mạng thì bỏ chạy, cướp bóc, sung công tài sản của nhân dân và của các địa phương như lúa gạo, heo, bò, xe cộ của nhân dân và một ít công quỹ của các tỉnh, quận.


Trong thời gian đó có các lực lượng địa phương do các quận, tỉnh thành lập và những người yêu nước chân chính tập hợp thanh niên, công nhân, nông dân có tinh thần yêu nước chống giặc đứng ra tổ chức những bộ đội để bảo vệ địa phương mình. Các quận, huyện, các tỉnh ở miền Đông Nam bộ đều đồng thời rầm rộ ra đời các lực lượng như vậy. Trong nội thành Sài Gòn thì có lực lượng Tổng công đoàn đứng đầu là anh Mười Thìn (trước đó làm ở Sở Vệ sinh Sài Gòn), Bà Rịa do anh Hứa Văn Yến, anh Huỳnh Văn Đạo (trước đó là công chức cho Pháp), anh Lương Văn Nho cũng thế. Biên Hòa anh Huỳnh Văn Nghệ sau thành Tư lệnh Quân khu 7. Thủ Dầu một có anh Huỳnh Kim Trương, anh Nguyễn Văn Thi. Gia Định từ Gò Vấp, Thủ Đức có các anh Nguyễn Văn Dung, Nguyễn Văn Công, Trần Thắng Minh, Đào Sơn Tây, Trần Đình Xu chỉ huy. Từ cầu Tham Lương lên Hóc Môn lên phía bắc Trảng Bàng. Quận Gò Vấp do Tô Ký, Huỳnh Tấn Chùa, Nguyễn Văn Hâm, Nguyễn Bá Bội, Nguyễn Văn Thược ... chỉ huy (từ Bà Quẹo lên Hóc Môn). Tỉnh Chợ Lớn do Huỳnh Văn Một, Nguyễn Văn Hượt chỉ huy, v.v... Các lực lượng này chưa thành lập được Bộ chỉ huy thống nhất, nhưng bên trong đều do đảng viên bí mật lãnh đạo, nên tự nhiên thống nhất về ý chí chống giặc ngoại xâm. Tuy chưa có bộ chỉ huy chung ở miền Đông và Sài Gòn-Chợ Lớn, nhưng đã liên kết nhau trong chiến đấu. Riêng lực lượng tỉnh Chợ Lớn, cụ thể là Đức Hòa và bộ đội Gia Định đã thống nhất lập Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa. Bộ Tham mưu Giải phóng Quân gồm các đồng chí Trần Văn Trà, Hoàng Dư Khương, Hoàng Tế Thế, Tô Ký chỉ huy, Tô Ký chỉ huy trưởng quân sự. Lúc đó được tin Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy phái đồng chí Nguyễn Bình vào để thống nhất tổ chức chỉ huy.


Vào tháng 10 năm 1945 anh Bình vào đến Lộc Ninh tỉnh Thủ Dầu Một bị Nhật còn canh gác đó bắt theo lịnh của quân Anh. Chúng chở anh Bình về tới Bưng Cầu (dưới Bến Cát trên Thủ Dầu Một, nay là tỉnh Bình Dương). Anh tự giải thoát nên giấy ủy nhiệm của Bộ tổng chỉ huy không còn, đó là theo lời báo cáo của anh tại cuộc họp tại xã An Phú Xã (Hóc Môn cũ). Tháng 11 năm 1945 cũng có đồng chí muốn biết rõ, anh Bình có giấy ủy nhiệm của Bộ tổng chỉ huy hay không? Nhưng có một số đồng chí biết anh từ ngoài Côn Đảo, biết anh từ Đệ tứ chiến khu kháng Nhựt vào. Điều quan trọng nhất lúc bấy giờ là phải thống nhứt các lực lượng quân sự ở Nam Bộ, đặc biệt là miền Đông Nam Bộ. Chung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn lực lượng võ trang cũng khá nhiều, nhưng rời rạc, không có sức chiến đấu. Anh Ba Bình là người có kinh nghiệm tổ chức, kinh nghiệm lành đạo quân đội, đứng tuổi hơn các đồng chí ở đấy nhưng tên tuổi chưa được những người khác có vai vế ở Sài Gòn, các đảng phái khác biết đến. Chỉ có nhân dân ở nông thôn hoặc một số công nhân và những anh chị em trong các nhà tù vừa mới ra biết và tin cậy, như thế không đủ trọng lượng uy danh đề thuyết phục các người tự lập bộ đội - không theo sự chỉ huy nào. Các người đó nói rằng họ tự lập các sư đoàn đó là do lệnh của Ủy ban lâm thời hành chánh Nam Bộ. Những ngày này Hành chánh Nam Bộ đã di dời nơi nào khóng rõ. Trước yêu cầu của tình hình bức thiết lúc đó, Hội nghị nhất trí tôn vinh anh Nguyễn Bình làm nhiệm vụ Tổng tư lệnh Giải phóng quân Nam Bộ theo hệ thống tổ chức của Quân đội Việt Nam. Cuộc hội nghị gồm có các anh: Hồ Ngọc Long (Chợ Lớn), Hoàng Tế Thế, Hoàng Dư Khương, Lê Minh Định là ủy viên Kỳ bộ Việt Minh (Giải phóng), Tô Ký, Thường vụ Tĩnh ủy Gia Định (giải phổng), có đầy đủ các đồng chí chỉ huy quân sự ở miền Đông. Thế là các lực lượng võ trang do nhân dân và từng đảng viên cộng sản tổ chức đã thống nhứt tổ chức chí huy và lãnh đạo từ tháng 11 năm 1945.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 01 Tháng Chín, 2021, 02:37:16 pm
Tiếp theo hội nghị nói trên, Hội nghị quân sự họp tiếp. Chúng tôi: Huỳnh Văn Nghệ, Tô Ký, Hứa Văn Yến (Hà Rịa), anh hai Dung (Gia Định). Huỳnh Văn Một (Chợ Lớn), anh Huỳnh Kim Trương, anh Nguyễn Văn Thi. Tây Ninh, Thủ Dầu Một v.v... lần lượt báo cáo binh lực của mình và địa phương đơn vị mình phụ trách. Trong cuộc hội nghị anh Ba Bình xác định mấy nhiệm vụ, công tác phải làm ngay:

Thống nhứt biên chế, danh hiệu Giải phóng quân Nam Bộ thống nhứt danh hiệu toàn quốc.

Nhiệm vụ của các đơn vị là lực lượng võ trang của địa phương chiến đấu chống lấn chiếm của giặc bảo vệ tài sản và tánh mạng của nhân dân, khi cần rút mỗi địa phương một số đơn vị tổ chức những trận đánh lớn, đánh nhiều ngày, vừa gây thiệt hại cho địch vừa có tiếng vang trong nước và thế giới, cho kẻ địch và nhân dân thấy ràng cuộc kháng chiến không phải tàn lụi mà có sức mạnh đánh lâu dài. Đánh kìm chân địch để miền Bắc kéo dài được hòa bình, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc (Trung ương vẫn biết rằng sớm muộn địch sẽ đánh Hà Nội).


Trong cuộc hội nghị này anh Bình có hỏi tôi và anh Tám Nghệ ở miền Đông nơi nào hiểm trở có núi rừng, anh Tám Nghệ trình bày với anh Bình một dãy rừng liên tiếp từ Tây Ninh-Thủ Dầu Một-Biên Hòa đến Bà Rịa, phía bắc của tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa là Sở cao su liền nhau, thỉnh thoảng có đứt đoạn nhưng không xa nhau mấy. Tôi trình bày với anh Bình trong rừng liên tiếp này chưa có đường giao thông liên hoàn nhau-chỉ có đường dọc không có đường ngang. Ngoài các tỉnh lỵ Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa (từ 30-40km) từ năm 1862 Pháp chiếm đến nay chưa tổ chức được hành chính, chúng chỉ tổ chức mấy điểm gọi là quận như quận Bà-Rá, quận Bù Đốp, quận Lộc Ninh - thật ra chỉ là một khu nhỏ nhà cửa lơ thơ do một người Pháp hoặc hai người Pháp cai trị, quanh quận và trong rừng sâu đều sóc của người Thượng, trước đó vào năm 1941 Pháp đã thả bom các sóc của họ, do người Pháp phá nương rẫy cùa họ, bị họ chém đầu một chủ quận người Pháp tên Morer. Tôi đã bị đày ở Talai thuộc Biên Hòa, sau dời qua Bà-Rá có tiếp xúc với các người Thượng. Người Thượng đã nói với chúng tôi “Thằng Tây nó giết mình mình phải giết nó”, các sóc đều có ý thức như vậy. Tôi báo cáo tình hình hậu phương anh Bình nghe. Anh Bình nói với chúng tôi: các đồng chí không có căn cứ, không xây dựng được lực lượng và tác chiến lâu dài.


Có căn cứ để có chỗ cho nghiên cứu, huấn luyện, sản xuất vũ khí, chữa bịnh, an dưỡng anh chị em yếu đau, có nơi nghỉ dưỡng sức, học tập, v.v... Các tỉnh phải có, quân khu phải có. Do các ý kiến này mà căn cứ chiến khu Đ-chiến khu Đ là chiến khu đỏ, vì lúc đó cũng gần hình thành khu xanh ở phía nam Sài Gòn. Có chiến khu Đ ở Biên Hòa - Bộ tư lệnh Khu 7 cũng hình thành vào lúc đó. Bộ tư lệnh gồm có: Tư lệnh Nguyễn Bình, các phó tư lịnh Huỳnh Văn Nghệ, Tô Ký. Không có chính ủy hay Chính trị viên. Các phó tham mưu trưởng: Nguyễn Văn Năm, Sơn Xuyên (tên thật là Adjudant Theo). Tổ trưởng tác chiến Võ Thái Hòa cơ quan Chính trị chưa hình thành, chỉ có mấy đồng chí phụ trách: Vũ Huy Xứng, Vũ Huy Phúc, Lê Thám. Hậu cần: anh Cao Văn Bổ, chủ nhiệm hậu cần bộ đội anh Tám Nghệ qua. Chánh văn phòng: Võ Bá Nhạc. Chánh võ phòng: Võ Tinh Quân Trưởng Phòng Tuyên truyền báo chí: Phạm Thiều.


Bộ tư lệnh vừa mới hình thành nhưng bộ máy còn đơn sơ chưa đủ cán bộ, bố trí vào các phòng ban vừa đủ biên chế và đủ năng lực công tác, chức năng của mỗi con người và phòng ban cũng chưa thạo việc, nhưng dầu sao nó cũng bắt đầu hình thành tổ chức đầu não các lực lượng võ trang của miền Đông Quân khu 7. Phần thì cán bộ các nơi mới tập hợp, chưa biết nhau mấy, nên các đơn vị đều làm việc và xin ý kiến trực tiếp với anh Bình.


Bộ tư lệnh đã ra đời nhưng nhà ở, cơ quan làm việc chưa có. Vấn đề làm doanh trại để ở, để làm việc do anh Tám Nghệ lo; còn ăn, phương tiện làm việc như máy đánh chữ, giấy má, gạo, thực phẩm một phần tại chỗ, khô mắm, Tô Ký lo. Lúc ấy chưa có VTĐ (vô tuyến diện), cả năm sau mới có. Đến 1947 Quân khu 7 dời về Chiến khu Đông Thành (Đức Huệ ngày nay). Đông Thành tức là thành công của miền Đông. Sở dĩ dời về đây với hai lý do: tiện việc tiếp tế, gần với căn cứ của Xứ ủy tại Đồng Tháp Mười.


Sau khi Bộ tư lệnh Quân khu 7 đã hình thành, chấn chỉnh tổ chức, biên chế lại các bộ đội, bất luận lớn nhỏ, đông hay ít của các tỉnh miền Đông thành các chi đôi: Chi đội 1 Thủ Dầu Một do anh Huỳnh Kim Trương, Chi đội trưởng; anh Nguyễn Văn Thi, Chi Đội phó; anh Nguyễn Văn Cần, Chánh trị viên (anh Trương và anh Cần là Ủy viên Trung ương Đảng Dân chủ, trong chi đội này có một đại đội là cảnh sát thời Pháp - Nhật chuyển sang). Chi đội 5 do Nguyễn Hữu Đức, Chỉ huy trưởng (thủ lãnh Đảng Huỳnh Long là đảng kiểu Nhật và thân phát xít Nhật). Kiều Xuân Giá (từ Thái Lan về, đảng viên cộng sản, bị Nguyễn Hữu Đức bắn chết 1947). Chi đội phó. Chi đội 6 do anh Nguyễn Văn Dung (cộng sản) tù Côn Đảo vừa về làm chi đội trưởng, anh Nguyễn Văn Công (vào Đảng trước 1945) làm chi đội phó, anh Trần Thắng Minh (trong Thanh niên yêu nước) làm chi đội phó. Ngoài ra còn các anh Trần Đình Xu, anh Hào (tự Mười Xu), v.v... Chi đội 10 anh Huỳnh Văn Nghệ, Chi đội trưởng; các anh Quang đen, Quang trắng (quên họ) làm chi đội phó, anh Nguyễn Văn Lung làm chỉ huy phó kiêm tham mưu trưởng. Chi đội 11 do anh Nguyễn Văn Vàng (Thiên chúa giáo), Chi đội trưởng, sau theo giặc, anh Tư Đẩu làm chi đội phó, v.v... Chi đội 12 Tô Ký Chi đội trưởng; Huỳnh Tấn Chùa, Chi đội phó; kế tiếp Nguyễn Văn Hâm, Chi đội phó. Các tiểu đoàn trưởng và phó có: Nguyễn Bá Bội, Nguyễn Hồng Đào, Nguyễn Văn Thược, Tám Lê Thanh... đều là đảng viên cộng sản, từng bị đế quốc bắt tù đày. Chi đội 13 là lực lượng công đoàn do anh Mười Thìn và anh Võ Văn Thạnh chỉ huy. Chi đội 14 do anh Trần Văn Trà thành lập, lúc mới thành lập do anh Trần Văn Trà phụ trách, sau khi hình thành anh Trà chỉ định anh Hồ Văn Phầu, đổi tên là Phan Vũ Hòa, người ở Chi đội 12 đưa xuống phụ trách, chi đội đóng ở Tân An. Chi đội 14 đổi phiên hiệu là Trung đoàn 320 trực thuộc Quân khu 8 khi quân khu được thành lập. Chi đội 15 nòng cốt của đơn vị là lực lượng hầu hết ở Đức Hòa, có một phần nhỏ của Trung Huyện do anh Nguyễn Văn Bào chỉ huy và một phần của Cần Đước, Cần Giuộc do anh Trương Vặn Bang chỉ huy. Còn những lực lượng khác cũng đóng trên địa bàn miền Đông, cụ thể là Chi đội 7 của Mai Văn Vĩnh, Chi đội 8 của Cao Đài Tây Ninh đóng ở xã Trung Lập Hạ, Trung Lập Thượng nay là huyện Củ Chi do Nguyễn Thành Phương và Trần Xuân Nam chỉ huy. Bộ đội của Bảy Viễn đóng ở Bà Quẹo, sau kéo lên đóng ở Cây Xộp, xã Nhuận Đức thuộc huyện Củ Chi... Các lực lượng này không thuộc quyền chỉ huy của Quân khu 7, chỉ liên lạc hữu hảo lỏng lẻo. Tại nội thành ban đầu có 3 ban công tác, sau đó 6 ban, rồi đến 10 ban. Các ban có người chỉ huy, lúc có 6 ban do anh Nguyễn Văn Hâm chỉ huy, đến khi có 10 ban do anh Nguyễn Văn Công chỉ huy. Nhiệm vụ là chiến đấu trong nội thành, đánh vào cơ quan đầu não, kho tàng, phương tiện kỹ thuật như kho bom đạn, xăng dầu, sân bay, những tên cầm đầu ngụy quân, ngụy quyền, những tên cực kỳ phản động tay sai đắc lực của thực dân Pháp.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Chín, 2021, 02:30:39 pm
VÀI HỒI ỨC VỀ BAN CÔNG TÁC
THÀNH SÀI GÒN SỐ 12 - CHI ĐỘI 12


HỒ THỊ BI


Tôi còn nhớ khoảng giữa tháng 10 năm 1945 có lệnh của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ: Tiêu thổ kháng chiến! Quyết tâm đánh giặc Pháp tái chiếm nước ta một lần nữa! Lúc bấy giờ giặc Pháp tiến đánh tới Hóc Môn. Trước tình thế đó, Ủy ban kháng chiến quận Hóc Môn ra lệnh đốt các kho lúa, phá sập các nơi giặc Pháp có thể đến đóng quân... Sự việc này xảy ra sau khi mặt trận Tham Lương và mặt trận Bến Phân, Chợ Cầu thất thủ.


Về ngày tháng, tôi nhớ khoảng 25, 26 tháng 11, quân đồng minh và cả quân Pháp, quân lê dương có xe tăng súng lớn, mượn cớ đi giải giới quân Nhật đang đóng ở sở cao su Huỳnh Công Tri... Nhưng thật sự thì khoảng rờ rờ mặt đất, lối 5 giờ sáng bọn chúng đã bao vây hết thị trấn Hóc Môn. Chúng nã súng bắn tối mặt tối mày. Tôi tưởng rằng nhà cửa phố xá đều sụp đổ hết sạch. Lúc bấy giờ Ban tiếp tế mặt trận của Ủy ban kháng chiến huyện Hóc Môn chúng tôi còn đóng ở vườn điều nhà dì Sáu Gát - em gái của đồng chí Năm, xã ủy viên xã Tân Hiệp (hiện nay là phường 5) - từ nơi đây ngày ngày chúng tôi góp thực phẩm để tiếp cho mặt trận, cho Ủy ban kháng chiến...    Nhưng sáng hôm đó, thì không kịp. Bọn giặc tràn tới. Đàn ông thanh niên đã chạy thoát hết. Trẻ con, bà già và phụ nữ không chạy kịp được, cứ trấn lại trong nhà. Khi yên tiếng súng chúng tôi chia nhau đi tìm bộ đội, tìm các cơ quan... thì thấy bọn địch đã đóng khắp cả huyện Hóc Môn rồi. Tôi đi thăm dò. Sáng hôm sau mới biết Ủy ban huyện đã rút về Thạnh Đông. Chúng tôi bàn với nhau: “Ta có Chánh phủ Cụ Hồ rồi, như con có cha, không thể để ai đè đầu cưỡi cố mình nữa. Nhất định Ủy ban, bộ đội rút ra ngoài là để tiếp tục chiến đấu. Như vậy mình phải mang lương thực đi theo để tiếp tế cho cơ quan, cho bộ đội, tiếp tế cho ủy ban...”. Các anh, các chị phấn khởi nhất trí. Tôi mừng lắm, lo sắp xếp để đi. Cháu ba tuổi, tôi mang đem gởi bà nội. Cháu Đa tám tuổi phải đi theo để giữ cháu Điệp giúp cho tôi rảnh tay công tác. Thế là chiều tối chúng tôi gom lại được sáu người, hai trai bốn gái. Tôi lớn tuổi hơn hết. Bọn tôi hẹn nhau lẻn ra bưng láng Chà để đi. Đêm đó trời tối như mực, lại mưa như trút. Bờ trơn, đường trơn mặc kệ. Phải dầm mưa mà đi. Càng tốt. Ai nấy đều bị té lên té xuống, té rồi đứng dậy, lại đi. Tất cả đều vui cười. Anh chị em chúng tôi còn phải khiêng thực phẩm theo, phải giữ cho thực phẩm khỏi bị ướt nước. Phần thì chưa lường biết cực khổ thế này, lại ngại địch phục kích, dè chừng bọn Việt gian lùng dấu... Đủ thứ lo sợ. Tôi lớn, động viên an ủi các em ráng chịu cực khổ, miễn sao gặp Ủy ban quận là yên tâm. Tôi còn nói có chịu cực khổ mới kháng chiến đánh Tây được. Có đánh Tây được, mới giành được độc lập. Nước độc lập thì mới hết cảnh làm trâu ngựa. Đời chị em mình cực khổ lắm... Tôi nói, mấy em nghe. Nhờ vậy mà đi suốt đêm mưa gió, khổ cực vô cùng, ai cũng ráng đi. Đường đi có chỗ phải qua cầu khỉ để đến ấp Bình Cát, xã Thạnh Đông. Cái cầu khỉ mới gian nan. Phần chưa quen, phần đường mưa, đất bùn trơn trợt, tôi lại phải con bồng, con dắt. Tội nghiệp mấy đứa nhỏ, chuyện người lớn, cực đành rồi, mấy đứa nhỏ biết gì, cũng chung chịu tình cảnh giặc giã Tây tà như người lớn! Qua được cái cầu, mừng hết hơi hết sức. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi vào nhà Ba Bửu, Ủy ban kháng chiến đóng ở đó. Cảnh tượng gặp nhau sau cơn thoát vây của giặc mới mừng làm sao. Mừng vui không kể xiết. Như chim nhập đàn, như cá nhập bầy.


Trời chưa sáng. Có thực phẩm tiếp tế, tất cả quây quần nấu nước ăn uống vui vẻ. Mọi người kể cho nhau những trường hợp nguy kịch nhất của mình vừa qua. Những câu chuyện hồi hộp gian nan và nói hoài không hết. Riêng tôi, coi như đã đạt được nguyện vọng rồi. Đưa được số anh chị em tới đây, gặp được Ủy ban, gặp được các anh là thắng lợi lớn lắm rồi. Tôi yên chí nằm bên các con tôi thiếp đi một lúc. Trời sáng, chúng tôi phân nhau mỗi người làm công việc của mình. Ai nấy nhận công việc trong niềm phấn khởi, yên chí. Mỗi người đều nghĩ: “Cuộc đời thoát ly gia đình đi kháng chiến chống Pháp bắt đầu từ đây!”. Mấy chị em anh em cảm thấy dạt dào phơi phới trong lòng, hăm hở lao vào mọi công việc, làm không nề hà không tiếc sức...


Trưa hôm sau, cơm nước xong, anh Danh, chị năm Nuôi, anh Tư Hùng gọi tôi ra riêng một chỗ:

- Chị có con còn nhỏ quá, không thể nào đi được. Rồi đây giặc lần tới nữa. Anh em còn phải rút đi xa hơn, đâu phải ở đây được. Thôi bây giờ chị và mấy em mới tới, quay trở về. Nuôi con cũng là trách nhiệm, cũng là cách mạng, về ở nhà có gì chị báo tin cho chúng tôi, cũng là kháng chiến chớ gì!


Tôi bủn rủn tay chân. Buồn quá, tôi nói gượng gạo để các anh chị chấp nhận:

- Tôi có con nhỏ thiệt. Nhưng đứa lớn giữ đứa bé. Tôi cũng rảnh rang lo tròn công tác. Sẽ không bận rộn gì đến các anh chị hay cơ quan.

Các anh chị lại nói:

- Không được đâu. Tình hình này giặc sẽ đánh mạnh. Rồi còn phải rút đi, phải chạy xa. Đi đứng cồng kềnh, đường sá đâu phải dễ dàng. Tội nghiệp các cháu!


Vừa nói, các anh đưa cho tôi 600 đồng để trở về làm ăn. “Làm ăn sanh sống tốt, cũng là cách mạng!”. Hai hàng nước mắt của tôi tự nhiên chảy dài. Không còn biết nói vào đâu được nữa. Đành thu xếp kéo nhau lục tục quay lại! Mới vui mừng đó, bây giờ mấy em mặt mày buồn xo. Tách đàn. Trở về! Ai nấy lòng đau như dao cắt!


Đi suốt một đêm, hết lội bưng đến qua cầu, qua xong được cầu khỉ, mấy em nó mệt đừ, mới vào cái chòi ruộng trống, trải rơm rạ ướt mèm, nằm ngủ ngon lành. Tôi có ngủ được đâu. Bao nhiêu câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu óc tôi: Đi nữa hay là về? Về thì về đâu! Về nhà, về ở nhà luôn hay đi nữa? Đi nữa thì đi đâu? - Trong khi đó mấy em thanh niên ngủ say giấc từ lâu. Chợt một ý mới nảy ra trong tôi: “Tiếp tục đi nữa! Không thể cứ yên ổn làm ăn, yên ổn làm mẹ của ba con như các chị khuyên, trong tình hình giặc giã như thế này được! Nước mất phải lo cứu nước cái đã!...”.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Chín, 2021, 02:31:38 pm
Sáng ra, mấy em xúm lại hỏi. Tôi buột miệng nói “Nhà nghèo mới biết con thảo. Nước loạn mới rõ tôi trung"... Mấy em nghe thích qua, hỏi dồn lại tôi:

- Vậy giờ tính sao chị Năm?

- Đi nữa chứ sao!

- Cách nào?

- Về gởi mấy đứa nhỏ rồi mình đi!

-  Nó nhớ chị nó khóc!


Một câu hỏi vô tình, đã làm tôi cứng họng. Tôi cùng muốn bật khóc, khi nghĩ ràng các con tôi sẽ nhớ mẹ, khóc. Một lúc lâu, tôi mới nói gượng để trả lời:

- Rồi sáp nhỏ sẽ quen...

Chiều tối hôm sau mò về tới làng. Trong làng bọn giặc đã lùng sục vào các gia đình cán bộ, những nhà mà chúng biết có người đi theo Việt Minh. Bọn chúng mới lấn chiếm tới Hóc Môn thôi, mà đã gây biết bao tai họa trong các làng xóm rồi. Người bị trúng đạn, người bị bắn chết, người bị bắt, người bị thương, bị làm nhục... Nhà bị cháy, nhà bị đóng bót, nhà bị đốt, cảnh tượng tan hoang... Bọn chúng bắt đầu xây đồn lũy. Dân tình bắt đầu khổ sở. Gặp bà con tôi cứ nói: “Bây giờ không phải như thời năm bốn mươi nữa đâu. Bọn chúng đến đâu rồi cũng sẽ bị đánh. Khắp nơi đều đánh. Nước mình đã có được Chánh phủ Cụ Hồ rồi. Nó hùng hổ vậy, nhưng không làm gì mình được đâu! Bà con mình một lòng ủng hộ kháng chiến, kháng chiến nhất định phải thành công. Không còn như hồi năm bốn mươi nữa đâu”. Nghe tôi nói, bà con sáng mắt lên: “vậy hả!”. Bởi ai cũng biết “năm bốn mươi” bọn giặc đối với xứ này thế nào rồi. Một biển máu. Rồi họ nói: “Phải đánh!.


Được một điều cái là sáu em cùng một lòng một dạ với tôi. Hai thanh niên trai là Đực và Lô. Bốn gái là Cẩm, Bia, Chồn và Hiền. Các em nói:

- Chị tính sao được thì tính. Chị đi đâu tụi tui theo đó!

Mò về tới xã Tam Hiệp là 7, 8 giờ tối. Tôi căn dặn các em điểm họp nhau để khuya lại tiếp tục đi nữa, chờ tôi gởi con. Cẩn thận coi chừng bọn đi ba-trui, bọn rình mò!

Xong đâu đó, tôi mới con cõng con bồng, cứ như vậy mà lần mò về nhà em tôi. Em tôi lúc đó là thanh niên cứu quốc của xã. Trong nhà lặng trang. Không đèn đuốc gì ráo. Cả làng, cả xóm, cả quận đều như vậy. Một không khí chết chóc bao trùm. Chó khóng dám sủa. Gà không dám gáy... Hai đứa nhỏ, tội nghiệp đã ngủ mèm tròn lưng, trên tay tôi. Nghe tiếng bước chân, con chó vện chực sủa mấy tiếng nho nhò. Tôi lên tiếng thì thám. Biết tiếng tôi, nó im. Em tôi nghe, vội vàng mở cửa:

- Chị về đó hả chị?

Rồi em lật đật đi giăng võng, tôi đặt cháu nằm xuống. Thằng anh một đầu, con em một đầu.

- Chị nghỉ đây hả chị?

- Không, chị phải đi. Mấy đứa nó đang đợi...

Thế rồi tôi bàn với em tôi về chuyện tôi cần đi và chuyện gởi con. Em tôi nhất trí. Tôi ra đi.

Bây giờ mới là lúc khổ tâm nhất của người mẹ. Bưng đèn lại nhìn con một lần nữa để tạm biệt con. Nước mắt tôi chảy dài. Thấy hai anh em đứa nằm ngoẻo cổ qua, đứa ngoẻo cổ lại, quần đùi, phơi bộ ngực ốm nhom, ruột gan tôi muốn đứt từng đoạn một... Tôi nghẹn ngào nói từng lời đứt khúc đứt quãng với em trai tôi:

- Cho cháu uống nước cơm quậy đường nghen em. Coi ai đó, bồng cho bú thép thêm...

Tôi cắn chặt môi để khỏi bật lên tiếng khóc. Tôi vội bước ra khỏi nhà. Nhưng chân cất lên không muốn nổi. Tôi lại quay lại nhìn con, rồi lại ngập ngừng đi. Hai chân bủn rủn. Tôi nghe tiếng em trai tôi thì thầm: “Đi, cẩn thận nghen chị. Tụi nó rình mò lùng sục dữ lắm...”. Tôi vô cùng cám ơn lời thì thầm của em. Em nhắc tới lũ giặc, làm cho lòng tôi sực tỉnh, cứng rắn lên được phần nào. Tôi nói:

- Không sao! Đừng lo cho chị - Tôi quay mặt lại thì thào những lời ruột thịt vào tai em - Chăm sóc cháu cho chị...


Và tôi bước nhanh như vọt chạy ra khỏi căn nhà tối om của em trai tôi. Trời đất cũng tối sầm. Lúc này mà tôi dừng lại, chắc không thể nào đi nổi nữa. Rất có thể đoạn đường tôi đi đụng địch. Nhưng tôi không hề nghĩ tới, mà lòng tôi chỉ quặn thắt lên nỗi đau xa con! Tôi chạy một mạch ra tới ấp bến đò. Tới ngang nhà anh Quan Tản, tôi dừng lại ngồi thở dốc. Tự nhiên, nước mắt tôi tràn ra ướt mặt. Tôi không lau chậm. Tôi muốn khóc lên cho thật to, để tiếng khóc của tôi sẽ xua đi tất cả những gì lớn vởn trong tâm trí tôi về con. Nhưng khóc cũng không thành tiếng. Chỉ là tiếng nấc cứ vang dội lên tự đáy lòng. Chừng như sực tỉnh, tôi vội đứng lên và tiếp tục chạy. Cứ chạy như vậy mà thấy nhẹ nhàng hơn. Rồi tôi cũng chạy tới được đúng chỗ hẹn: “Chòi Năm Mây”.


Không thiếu một ai. Thấy tôi, mấy em mừng ra mặt:

- Thế nào chị?

Tôi luống cuống nói: “Được, được mình đi thôi. Em nó ngủ rồi. Nó cũng chịu. Cậu nó như mẹ nó mà...”. Mấy em nó lại hỏi:

- Chớ bộ nó không khóc hả chị?

- Về, nó buồn ngủ, nó ngủ tuốt, cả hai anh em...

Nói gượng gạo vậy rồi tôi với mấy em nằm ngả lưng một chút, để dậy đi trước khi trời sáng.

Suốt đêm đó cho đến sao mai mọc, tôi không hề chợp được mắt! Có lúc tôi muốn bỏ mấy em ngủ đây, quay trở lại ôm con một chút. Nhưng rồi những dòng nghĩ ngợi liên miên bắt tôi nằm lại với mấy đứa em. Thật là một đêm kinh khủng trong cuộc đời. Cho đến bây giờ nhớ lại, tôi chưa thấy cái đêm nào dài bằng đêm đó. Đầu óc tôi cứ lẩn quẩn cái uẩn khúc giữa mẹ và con, giữa con và mẹ. “Con ơi, sau này các con lớn khôn, các con sẽ hiểu hết cho nỗi lòng của mẹ trong đêm nay. Vú sữa mẹ căng. Con thì khát sữa. Ôi cái đêm mà má phải xa con! Má phải tạm lìa con để làm nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Nếu như con lớn các con cũng làm, cũng hành động như má trước con của các con trong đêm nay... Vì Tổ quốc, cũng là vì cuộc đời mai sau cho các con đó. Sáng mai, khi tỉnh giấc, hoặc giả khi tiếng súng quân thù làm con tỉnh giấc, các con quờ quạng tìm không thấy mẹ, các con sẽ khóc. Các con sẽ khóc thét lên... Ôi, chỉ có người mẹ mới nghĩ và hiểu nổi hết tiếng khóc của con mình!... Hãy tha thứ cho má!... Không, hãy tự hào về má, tự hào về người mẹ của các con hôm nay!...


Sao mai đã mọc sáng chân trời đàng đông. Xa xa tiếng súng giặc vẫn cầm canh. Tôi lật đật kêu các em dậy. Lên đường!


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Chín, 2021, 02:32:44 pm
Sáng hôm sau nữa, mấy chị em chúng tôi tới Tân Mỹ - tức sau này kêu là Bình Mỹ, thuộc huyện Củ Chi, hồi đó là huyện Hóc Môn. Ý định của tôi là tìm cho được anh em mình để tháp tùng cho có sức mạnh cùng nhau trở lại, hoặc đứng lại, xây dựng cơ sở, tiếp tục tấn công giặc. Chớ cứ chạy hoài thì đất ở đâu mà chạy cho xiết. Rồi chúng lại đánh tới, lại chạy nữa, lại chạy nữa, và chạy mãi hay sao? May quá tôi gặp được bộ phận anh Ba Ca, anh Năm Quăn và anh Đức Sơn (các anh ở Mặt trận Việt Minh tỉnh Gia Định). Mấy anh hỏi:

- Chị đi đâu đó?

- Đi kiếm các anh chứ đi đâu!

Tôi bàn ngay với các anh về ý định của mình. Các anh nhứt trí.

- Chớ chị có mấy người?

- Sáu! Với tôi nữa.

- Chuẩn bị đi. Chiều mai chúng ta đi.

Nói vậy nhưng sự thật cũng chưa biết là sẽ đi đâu. Mà, mỗi người chỉ có cái túi đệm bàng (cây cói) thôi. Có gì đâu phải chuẩn bị!

Khi tôi trở về nói lại, các em mừng lắm. Bây giờ thì chắc chắn rồi. Chiều hôm sau kéo nhau đi. Đêm đó nước ròng. Mãi mười một giờ đêm mới qua được đò Thới Thuận. Đi về Trung Chánh Tây, dừng lại đó nghỉ. Vừa nằm đặt lưng một chút, anh Năm Quàn kêu dậy nấu cơm ăn, chuẩn bị, để sáng Tây vô anh em đói!


Cơm nước dọn dẹp xong đâu đó, cũng khoảng 5 giờ, còn rờ rờ đất, Tây đã bao giáp vòng rồi. Chúng bắn tối trời, tối đất. Ở đây toàn là rừng chồi, không có cây lớn, vườn trầu và đồng ruộng. Do đó mạnh ai nấy chạy. Chạy đâu cũng trống. Chui vô vườn trầu cũng thấy không được, lại chạy... Mãi đến hai giờ chiều, Tây mới rút. Gom lại kiểm điếm thì thấy thiếu anh Đức Sơn. Tỏa ra đi tìm Đức Sơn. Gặp bà con Trung Chánh nói thấy nó bắt được một người Bắc, ốm cao, đen dẫn về bót Phước An. Chúng tôi biết là Đức Sơn đã bị bắt rồi, mới về báo lại với anh Quăn, anh Khải. Các anh bàn:

- Tình hình gay go như vậy đó. Bây giờ ta nên phân tán. Tập trung nữa, không có lợi. Thôi thì chị và bộ phận của chị trở về, lo mần ăn. Rồi có tin tức gì thì chị tìm lại tụi tôi...


Trước tình thế này, thiệt tình tôi không biết nói sao. Các anh cũng nhiệt tình với mình, cho nhập bọn ngay. Nhưng địch đang bao vây mạnh... Đành phải quay trở về! Các anh đã nói vậy, bây giờ có bướng cũng không thể được. Anh Năm Quăn đưa cho chúng tôi mỗi người một trăm...


Vậy là coi như chúng tôi đã hai lần bị “giải ngũ”! Đêm hôm xuống tới Thạnh Mỹ Tây, tuy lặn lội có mệt nhọc, mà mấy chị em đều hồ hởi phấn khởi hết sức. Bây giờ phải dìu dắt nhau trở về, sáu chị em lòng nặng như chì. Đi hết muốn nổi. Cứ bè bè lội theo đường mương nước mà hai bên là dớn gai mọc um tùm. Đi suốt cả ngày, chân cẳng rã rời. Vậy mà hễ chỗ nào có rau mướp thì nhào vô hái. Cứ hái cả ôm để khi dừng lại nghỉ ở đâu cũng có rau mà luộc ăn.


Đi mãi, đi mãi theo biền sông Sài Gòn, về tới cửa Ba Rai thì tới nhà anh Tám Tưởng, xã Thới Tứ là năm giờ chiều.

Vừa trông thấy tôi, anh Tám Tưởng hỏi ngav:

- Chị ở trên về hả?

- Dạ!

- Có gì không mà về gàp?

- Có chớ! (tôi đã dặn trước các em - có gì cứ để tôi nói, tôi lo liệu).


Thế là mấy chị em kéo nhau vô nhà ảnh. Mấy chị em đi tắm rửa, lo cơm nước. Tôi ngồi lại nói chuyện với anh Tám. Tôi hỏi với một vẻ thận trọng:

- Tình hình mấy bữa nay có gì không?

- Ruồng rập mãi. Đám Việt gian nó lừng lên. Trong thị trấn bà con ai cũng sợ.


Chừng như nóng lòng nóng ruột, anh chụp hỏi tôi:

- Nè, chớ có gì không mà chị mới đi lại về gấp?

- Có chớ! - Tôi thấp giọng với vẻ quan trọng - Cậu Mười với anh Tư Thời bây giờ ở đâu?

- Còn ở ngoài vàm - Anh Tám nói khẽ như sợ ai nghe.

- Tôi muốn gặp ngay...

- Có gì gấp lắm không - Anh nhìn tôi và khẩn thiết, như thầm dọ hỏi, rồi nói - Ấy thì cũng ăn cơm rồi hãy đi chớ. Ăn cơm xong, tôi đưa chị đi nghen!

Tôi đồng ý. Cơm nước xong, anh Tám Tưởng, anh Năm Đực và tôi, ba người lặng lẽ kéo ra chỗ giồng Vàm Chợ. Trên đường đi tôi suy nghĩ nát nước: gặp ông Mười sẽ nói sao? Chẳng lẽ cứ nói thật là chúng tôi đã hai lần giải ngũ - hay là hai lần bị “loại ngũ": Có thực là như vậy. Nhưng nếu cứ nói y như vậy, các anh đâu có tin tưởng mình nữa để giao công việc? Đành phải nói khác! Kể ra thì cũng chẳng có tội. Vả lại nói thật có khi làm cho các anh hoang mang, chẳng lợi ích gì cả.


Trên đường đi, anh Tám Tưởng cứ hỏi tôi, có chuyện gì mà chị về sớm.

- Đề gặp cậu Mười, mình sẽ bàn luôn - tôi nói - có ông Mười rồi chúng ta cùng quyết định.

Khi vào đông đủ mọi người tôi mới trình bày. Tôi về đây là có chuyện gấp. Chớ không, tôi chưa về. Các anh bảo tôi về mau mau để gặp cậu với các anh đây bàn tính chuẩn bị cơ sở, chuẩn bị lương thực, chuẩn bị phong trào quần chúng, chuẩn bị điều tra nắm cho chắc chắn các anh sẽ đưa lực lượng về đánh. Mình đánh có chuẩn bị trước, mới chắc thắng. Nhất là các đoàn thể và dân quân tự vệ phải thật mạnh để làm cơ sở cho những trận đánh địch tốt... Rồi tôi hỏi:

- Các anh Tư Thới, anh Mười Nia, các anh ở Ủy ban xã ra sao?

- Tụi nó còn kia - Ông Mười nói - Nhưng tôi không để tập trung cô à. Bởi hổm rày chúng nó lùng sục dữ lắm. Phải phân tán, để có gì không bị bắt trọn ổ. Ngày lẫn đêm, nó bắt, nó hiếp người ta. Bắt cả heo gà... Còn bọn Việt gian chó chết ở thị trấn và các xã, chúng nó ngóc đầu dậy. Bà con sợ đám này hơn bọn Tây.

Tôi mới nói:

- Bởi vậy các anh biểu tôi phải về gấp. Bộ phận tôi ở lại đây cùng các anh lo chuẩn bị sẵn chiến trường. Có chuẩn bị thật tốt đánh mới ăn được!

Ông Mười Cu hăng hái hẳn lên:

- Vậy thì hay quá! - Rồi ông giục - Bây giờ tôi với cô vô trong kêu hết mấy chả lại bàn luôn. Vô đó cô nói gì thì nói. Còn công chuyện củng cố cơ sở địa phương thì chúng tôi lo, cô khỏi lo...


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Chín, 2021, 02:33:39 pm
Và chúng tôi kéo nhau vô xã Thới Tứ. Vô tới, gặp hết các anh, rất mừng. Các anh hỏi tình hình. Tôi nói sơ một lượt rằng ta rút đi là để chuẩn bị đánh lại. Sau đó ông Mười Cu nói (chính là sự giới thiệu của ông Mười Cu về bộ phận của tôi với các anh): - Ở trên các ảnh biểu cổ về dưới này với mình để chuẩn bị cơ sở, chuẩn bị chiến trường cho các ảnh về đánh. Cổ nói bây giờ nên làm thế nào củng cố đoàn thể. Mặt trận tuyên truyền giáo dục cho nhân dân, chuẩn bị sẵn sàng về trật tự trị an địa phương, cảnh giác bọn Việt gian, chặn nó lại, đừng cho nó phá làng phá xóm, đồng thời lo vấn đề kinh tế. Tôi thấy việc đó thời anh em mình cùng làm. Cổ cũng ở đây với chúng ta...

Tôi nói:

- Riêng về mặt củng cố chính quyền, đoàn thể, tổ chức tiếp tế, tự vệ, cậu với các anh lo. Còn tôi, cùng với dân quân tự vệ lo về mặt phòng gian bảo mật, trừ gian diệt tề, báo vệ địa phương cho nhân dân làm ăn và liên lạc với cấp trên để đưa lực lượng về...

Sau khi tôi nói vậy, cậu Mười Cu, Tư Thới, Hai Thứ, Tám Long... tỏ vẻ mừng lắm. Các anh nói hay lắm, chị cứ yên tâm đi, chúng ta sẽ cùng làm.

Và bắt đầu từ đó, chúng tôi có chỗ dựa là cơ sở địa phương, bàn đạp là xã Thới Tứ để tổ chức mọi điều kiện tấn công địch trên các địa bàn Hóc Môn.

Sự hình thành Ban công tác số 12 như tôi kể, bắt đầu là như vậy.

Dừng chân trên một cái nền từng mang truyền thống cách mạng của mười tám thồn Vườn Trầu, Ban công tác số 12 với tôi là trưởng ban, đã hình thành với năm tiểu đội hai tiểu đội nữ, hai tiểu đội nam và một tiểu đội nhi đồng (phần lớn những em gái 10, 11, 12, 13 tuổi, chuyên trinh sát nắm tình hình và điều địch vô rọ) - rồi chính họ - Ban công tác số 12 đó, đã làm cho bọn địch tại Hóc Môn phải điên đảo ngửa nghiêng vì những chiến công oanh liệt kiên cường giữa những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến ở phía tây Sài Gòn.


Ban công tác thành số 12 phần lớn là gái, họ đã bắt đầu từ hai bàn tay không với trái tim quyết tử giết giặc để giành lại độc lập tự do cho quê hương, cho đất nước. Giặc Pháp chiếm được Sài Gòn - Gia Định, chúng hy vọng rằng chĩ trong vòng ba tháng, rồi sáu tháng, rồi chín tháng... chúng sẽ quét sạch Việt Minh. Vì vậy trong khi chiến tranh đã lan ra khắp lục tỉnh Nam Kỳ, sự xuất hiện của 18 ban công tác thành đã làm cho quân Pháp đột ngột, mất ăn mất ngủ.


Người thì có rồi. Biên chế tổ chức cũng đã sẵn rồi. Chỗ đứng chân, chỗ dựa lưng cũng đảm bảo vững vàng cho ban công tác... Chỉ có súng! Còn súng nữa là đánh được. Muốn giữ được uy tín của chánh phủ mình trong dân, trong đồng bào các giới giữa lúc này hơn hết là phải đánh được địch. Cho nên, chuyện súng đạn là chuyện thiết yếu của ban công tác. Nghe đâu có súng chúng tôi bắt mối đi tìm. Nghĩ mà tức cho cái đám Đệ tam, Đệ tứ sư đoàn. Súng ống kìn kìn, phải đâu ít. Nghe Tây tới, vác súng bỏ chạy mất. Bình thường thì dùng súng dọa dân, hăm he Việt Minh... Không sao mà kể hết được chuyện phức tạp lúc đó. Chỉ nói Ban công tác số 12 lúc bấy giờ cần súng hơn cần cơm! Chúng tôi chạy tìm anh Bảy Tuội và anh Bá. Nghe các anh có nắm được lực lượng, tính tìm xin vài cây. Nhưng khi gặp thì các anh súng ống cũng chẳng được bao nhiêu, nên các anh làm sao cho được!


Biết các anh định đánh bót Ông Cò ở Bà Điểm, chúng tôi bàn nhau chuẩn bị tháp tùng để “ăn có”. May ra thì cướp được một vài cây. Tôi đích thân dẫn các anh vô mặt Chợ Cá. Nhưng các ảnh làm trật duộc thế nào, bị lộ. Chúng nó bắn cho một trận, không biết trời trăng gì hết. Khi rút ra, tôi lại lọt xuống một cái giếng vườn trầu. Lúc đó khoảng tháng 10, 11... giếng nước ngập tràn. May mà anh Bảy Tuội trông thấy, nắm kéo lên... Rốt cuộc về chẳng được cây nào. Từ đó tới sau, cứ đeo theo chực chờ hễ anh Bảy Tuội đánh là nhào vô “kiếm ăn”. Nhưng mãi cũng không được gì. Coi như là sự “tập dượt” của anh chị em thôi.


Càng ngày bọn chúng đánh đập bắt bớ nhân dân càng dữ. Nhứt là đám lính lê dương, chúng rất hung hăng. Thấy dân khổ, muốn cho có tiếng nổ mà chưa làm sao được. Nghĩ cũng ức. Lại cố gắng đi tìm các ông trước đây có mang súng, thì không còn thấy ông nào lai vãng đâu nữa. Sau đó tôi có nghe được anh Tường Trang ở Ban tuyên truyền của Giải phóng quân liên quận và anh Tư Tốt trên Mũi Lớn - cũng của Giải phóng quân, thế là tôi, chị Cần, anh Năm Đực lội đi tìm. Đi đến chiều tối, mới được gặp mấy ảnh. Mừng quá.

- Chị đi đâu?

- Lên tìm các anh, xin ít cây súng, ít lựu đạn để đánh một trận tại Hóc Môn. Bọn nó lộng dữ quá rồi. Không đánh mình mất hết đồng bào...

Tôi nói mãi, các anh cũng xiêu lòng. Anh Tường cho 5 trái lựu đạn và còn cho thêm bốn chiến sĩ. Được hai trái lựu đạn đốt. Ba trái dập. Mừng quá là mừng! Bây giờ mới tính toán cách đánh thế nào với số vốn liếng của mình có. Đang còn tính, thì Tây bố ở Nhị Bình. Tôi bỗng thấy ông Chín Cưng, ủy viên quân sự quận mang trên lưng trái lựu đạn Nhật chạy sang Thới Tứ. Tôi theo xin cho kỳ được. Tôi ham trái lựu đạn Nhật đó lắm, ổng xiêu lòng. Vậy là tổng số vũ khí của tôi có sáu trái lựu đạn. Bây giờ mới bí mật tổ chức tấn công. Nhưng không nói với xã. Cứ coi đây là lực lượng ở trên về, tổ chức một cuộc tấn công giặc ngay tại thị trấn Hóc Môn - ngày 12 tháng 12 năm 1945. Hai trái lựu đạn đốt, bố trí làm lịnh. Bốn trái kia thì chia ra bốn mũi tấn công. Khốn nỗi hai trái đốt không nổ! Nhưng các mũi kia đã thấy quá giờ quy định, không nghe nổ lịnh, cũng cương quyết tấn công luôn. Kết quả tiêu diệt được một tiểu đội địch, phá được một khẩu súng ở tại chùa Ông.


Trận đánh đã gây tiếng vang trong thị trấn Hóc Môn. Nhân dân rất phấn khởi. Đây cũng là đòn cảnh cáo bọn Việt gian, bọn phản động. Bọn chúng co đầu rụt cổ ngó thấy. Rất hay là anh chị em chiến đấu đều an toàn. Anh chị em ban công tác ai cũng vui mừng, hăng hái thêm lên.


Sau đó hai ngày, anh Trần Văn Trà sang gặp tôi. Anh nói không nghe lực lượng nào về, tại sao lại có tiếng nổ, có trận đánh tại thị trấn Hóc Môn. Tôi mới báo cáo đầu đuôi lại cho anh Trà nghe (lúc này anh Trà trong Bộ chỉ huy của Giải phóng quân). Anh cười và anh tặng cho tôi một cây súng lục 7,65 (bảy sáu lăm) với 24 viên đạn. Thiệt tình mà nói, hồi đó tôi quý cây súng đó hơn vàng. Và cũng chính nó, cây súng ấy, sau này đẻ ra bao nhiêu là súng khác, có súng, có cơ sở để sau này thành lập đại đội 2804.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 02 Tháng Chín, 2021, 02:34:13 pm
Ban công tác số 12, ngoài nhiệm vụ đánh địch, trừ gian, diệt tề, còn một nhiệm vụ nữa là làm kinh tế tự túc đế nuôi bộ đội, chủ yếu là nuôi Giải phóng quân. Khi ấy anh Trần Văn Trà có đưa cho Hồ Thị Bi 5.000 đồng (tiền Nhật - giấy 500 con rồng vàng) để làm vốn tổ chức kinh tế nuôi Giải phóng quân. Nhưng loại tiền này đâu còn xài được. Tuy vậy Ban công tác 12 anh chị em rất phấn khởi. Họ phấn khởi vì được công nhận là chiến sĩ trong hàng ngũ quân đội, phụng lãnh trách nhiệm của mình từ người chỉ huy của Giải phóng quân giao phó. Trong niềm phấn khởi này, có cả sự được dựa lưng vào Ủy ban kháng chiến địa phương, bám sát vào đoàn thể, sống và chiến đấu trong lòng của nhân dân Hóc Môn. Họ không còn thấy đơn độc bơ vơ nữa. Họ được dân đồng bào cả 7 xã và thị trấn ủng hộ. Nói một cách khác, họ được công nhận là chiến sĩ Vệ quốc đoàn làm nhiệm vụ chiến đấu, làm nhiệm vụ kinh tế nuôi quân và tuổi quân của họ được tính từ trận đánh vào thị trấn Hóc Môn: ngày 12 tháng 12 năm 1945.


Công việc tiếp tế lương thực thực phẩm, thuốc men áo quần, tiền bạc cho Giải phóng quân cũng là một việc làm xuất sắc của Ban công tác số 12. Hiệu quả lớn lắm. Mạng lưới công tác này hồi đó tổ chức rất rộng rãi. Tận dụng lòng yêu nước của mọi giới đồng bào từ ngoài thành cho tới nội thành, cho tới trong ruột Sài Gòn cùng góp sức lại nuôi bộ đội từ cái sinh hoạt bình thường cho đến những lần ăn tết kháng chiến, đặc biệt cái tết đầu tiên của kháng chiến, cái tết anh chị em mới xa nhà lần đầu bỡ ngỡ. Anh Trần Văn Trà chỉ thị cho tôi, nên làm thế nào để bộ đội ăn một cái tết đầu tiên trong kháng chiến, về vật chất cố gắng như được ở gia đình, về tinh thần là một kỷ niệm đối với cái tết kháng chiến, cái tết độc lập! Thế là tôi với tư cách trưởng ban công tác thành số 12 liền tính toán, bàn với Ủy ban kháng chiến, với Mặt trận, với đoàn thể... mở ra một hướng phân công, vận động trong nhân dân các nơi, các giới đồng bào một phong trào “Ủng hộ Giải phóng quân của mình ăn tết!”. Chiều 30 tết anh Trà và anh Đào Văn Phát chống ghe qua rỗng Ông Hồ nhận hai ghe lương thực thực phẩm với đủ thứ bánh phồng, bánh tráng, bánh tổ, bách ích, bánh tét, mứt, kẹo, rồi ổ hoa hầm, thịt kho tàu, cà-ri, bún... lại còn những khăn tay, thuốc thơm, thư của bà con, của nữ sinh trong thành gởi chiến sĩ Vệ quốc đoàn nữa... Các anh đem về cho bộ đội ăn tết, vui tết. Nơi đây cách địch không hơn ba cây số đường chim bay. Vậy mà bộ đội Giải phóng quân được hưởng một cái tết độc lập đầu tiên, cái tết kháng chiến đầu tiên, cái tết xa gia đình đầu tiên với đầy đủ vật chất như ở nhà và tinh thần thì lại phấn khởi hơn, ý nghĩa hơn. Và cũng nhân dịp nhận quà này, anh Trần Văn Trà thay mặt Giải phóng quân tặng lại cho anh chị em Ban công tác số 12 hai chục trái lựu đạn đốt và lựu đạn gạt. Cho cả hai trái bom ngạt nữa. Như vậy là quà tết của Giải phóng quân đối với Ban công tác số 12 đã thành là một cái kho vũ khí quá lớn. Thế là họ có điều kiện đánh địch nữa rồi!


Trong khi giao hàng và quà ăn tết cho Giải phóng quân thì bản thân Ban công tác số 12 chưa tính đến chuyện tết nhứt ăn uống ra sao, mà chỉ bàn với nhau là hãy đi đánh một trận để chào mừng cái tết đầu tiên kháng chiến đánh Tây cái đã. Đánh xong trong đêm ba mươi rồi về mới tổ chức tết. Tôi đưa ra sáng kiến như vậy. Anh chị em Ban công tác 12 nhất trí. Họ thảo ngay kế hoạch chiều ba mươi tết. Tận dụng đêm ba mươi trời tối đen như mực, tất cả hai mươi bốn anh chị em, có cả tự vệ của xã Thới Tứ, chia ra làm sáu mặt, với số võ khí vừa có, không đánh đêm mà đợi đánh đúng sáng sớm mùng một. Đêm, bố trí sắp xếp đường hướng, mục tiêu. Sáng lại, họp nhau nổ. Sáu mặt. Mỗi mặt ba. Có nam, có nữ. Khi tiến vào, nếu nó xét thì dùng dao găm khống chế, bắt sống. Nếu nó cự, đâm chết luôn, cướp súng. Chia ra như sau: mặt xóm Mắm, mặt Cầu Quan, mặt Nhà thương, mặt Công ty heo, mặt ngã ba Xuân Thới, xuống tẽ làm hai. Tất cả các mặt họp lại chọi lựu đạn vô cái bót nhà Tám Tuột... Nhưng họ thất bại: nguyên nhân do lựu đạn đốt không nổ. Lựu đạn gạt, anh chị em không biết cách gạt, cho nên chọi vào nó rớt như đất cục. Bọn Tây hô “ác-tăng-xông” rồi nó nằm xuống hết. Chẳng nổ. Chẳng chết thằng nào. Cái rủi cho họ là các trạm gác sáng mùng một đó nó không có gác, nên họ chẳng giết, chẳng bắt sống được tên nào! Coi như toàn bộ trận đánh thất bại. May mà anh chị em không ai sao cả. Lối trưa trưa khoảng trâu cày nửa buổi họ trở về, ai nấy mặt mày buồn xo. Tôi nói: “Không sao! Thất bại là mẹ thành công! Bây giờ tấn công đánh tiếp, buổi chiều! Lúc ấy thì chỉ có cây súng ru-lô của anh Ba Cọ - xã Xuân Thới Sơn và cây súng lục của Ban công tác (cây súng anh Trà cho), còn bao nhiêu là dao găm mã tấu. Họ đột nhập vô thị trấn để diệt tề và diệt những tên cảnh sát Việt gian tay sai rất phản động mà dân đã căm ghét, đã lên án. Trận đánh tiếp tục buổi chiều mùng một. Họ thành công. Đã diệt đúng một số tên độc ác, từng gây nợ máu trong nhân dân. Giết đúng những tên tay sai đắc lực cho bọn thực dân Pháp. Trận đánh chiều nay đã khử trừ được những con rắn độc ở Hóc Môn. Đối với bọn Pháp, tuy không giết được chúng nhưng cũng làm chúng lo lắng cho số phận trong những ngày sắp tới.


Chiều hôm ấy ở Ban công tác số 12, anh chị em rất phấn khởi. Tôi liền tổ chức ăn tết cho đơn vị ngay tối mùng một. Vừa là ăn tết vừa là ăn mừng chiến công đầu xuân của họ...


Quá trình hình thành và lớn lên của Ban công tác thành số 12 là như thế. Về sau Ban công tác số 12 phát triển thành đại đội 2804 trong Chi đội 12 (ngang với trung đoàn). Khi Chi đội 12 đổi lại là Trung đoàn 312 thì đại đội 2804 nằm trong biên chế của tiểu đoàn 935. Tôi được bổ nhiệm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 935 của Trung đoàn 312 (anh Tô Ký là trung đoàn trưởng).


Là trưởng ban công tác thành số 12, là đại đội trưởng đại đội 2804, là tiểu đoàn phó tiểu đoàn 935 trong Trung đoàn 312, và cũng là trưởng ban binh vận, trưởng ban xây dựng căn cứ địa Dương Minh Châu đầu tiên trong thời kháng chiến chống Pháp, tôi đã hoàn thành đầy đủ và tốt đẹp các nhiệm vụ của mình trước dân, trước Đảng. Cũng chính vì thế mà vào thời cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi được vinh dự lớn - trong cái vinh dự chung của những người con gái Nam Bộ cầm súng đánh Tây - ra chiến khu Việt Bắc gặp Bác Hồ!


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Chín, 2021, 07:10:30 am
TỪ MỘT BINH CÔNG XƯỞNG BỎ TÚI


MINH KHOA


Giữa năm 1947...

Hai chiếc xe bò lủi thủi giữa đêm khuya nặng nề ì ạch chui vào những con đường mòn ngoằn ngoèo sình lầy lội lõm tối như bịt mắt. Hai chiếc xe bò lúc lắc mãi rồi cũng đến được sân bóng của binh công xưởng. Họ đến từ lúc nào mà cả gian nhà rộng và dài trên hai chục mét của anh em thợ đúc nằm ngủ sắp lớp chẳng có ai hay biết. Anh em ngủ say như chết sau ca kéo dài từ bốn giờ chiều đến hai giờ sáng để dứt điểm mẻ gang đúc lựu đạn phóng cuối cùng.


Thông thường, cứ đều đều vào giữa tháng là có một đoàn “công-voa” vài chục chiếc xe bò đi từ căn cứ Hóc Môn tiếp tế lên tận binh công xưởng đang ẩn náu sâu trong rừng thẳm ở tận đất Tây Ninh giáp giới với Cam-pu-chia. Đoàn “công-voa” di chuyển rúng động cả một vùng. Tiếng xe lụp cụp lạc cạc dựng đứng anh em công nhân dậy dù đêm hôm khuya khoắt dù có người đang lên cơn sốt rên hừ hừ cũng bật dậy nhào xuống sàn chạy ào ra cửa rừng để đón chào những người anh em từ đồng bằng thành phố lên, mang theo biết bao những thứ mà họ đang ngóng trông mong đợi nào là gang, đồng, sắt thép, thức ăn cho binh công xưởng và còn gạo lức, muối sả (muối sả là món ăn được anh em ở đây xếp vào loại hàng có giá trị đứng đầu bảng). Muối sả là sản phẩm từ Hóc Môn của Bà Năm Bi úy lạo binh công xưởng, đầy một xe bò sau khi binh công xưởng gởi về tặng cây lựu đạn phóng mới tinh khôi và còn bao nhiêu thư từ của má thằng cu. Tôi còn trai tơ nhưng cũng mong có vài chữ của cô y tá Xóm Trại An Nhơn Tây hoặc chiếc khăn tay màu hồng với dòng chữ thêu “em gái hậu phương” tặng người chiến sĩ hẹn gặp mặt ngày khải hoàn. Đoàn “công-voa” xe bò của chi đội tiếp tế lên binh công xưởng chẳng thua kém gì đoàn “công-voa” của quân Pháp tiếp tế cho các đồn lẻ dọc theo quốc lộ 1, 13, 14. Đoàn xe bò Việt Minh cũng tiền hô hậu ủng với vài phân đội súng bén, đạn mới sẵn sàng bảo đảm sự an toàn đi đến nơi về đến chốn.


Nhưng lần này chỉ có hai chiếc xe bò “âm u lạnh lẽo” không được báo trước. Có điều gì đang chờ chúng tôi chăng? Lựu đạn lép, súng ống hư hỏng thỉnh thoảng cũng gởi theo xe bò lỉnh kỉnh kèm theo một bức thư chê trách hoặc “cò kè đòi bồi thường” ra lò nhưng cũng không có không khí như bữa nay. Hai chiếc xe bò chất đầy những thùng gỗ của binh công xưởng chung quanh chèn đầy rơm không cục cựa nhúc nhích được. Xe không chở kèm theo một thứ gì kể cả thức ăn cho xưởng và cho cả người, thế nhưng vẫn có một phân đội võ trang đi theo hộ tống, đang nằm la liệt mệt mỏi dưới sàn nhà chúng tôi. Họ cũng ngủ vùi không còn biết gì hết sau một chuyến hỏa tốc đi một mạch từ Củ Chi lên thẳng Tây Ninh không ghé trạm nào.


Đúng là có chuyện không bình thường.

Tiếng kẻng báo thức vừa dứt thì có lệnh truyền thống “Các trưởng ban nguội, tiện, rèn, đúc, hóa học có mặt tại văn phòng ngay lập tức”.

Chi đội trưởng Tô Ký đã ngồi bên cạnh giám đốc Ngô Văn Năm (Năm Dãnh). Anh Ba Tô Ký chỉ vào tôi:

- Hổ, mầy ghi ý kiến của anh em không được thiếu một lời, một chữ.

(Anh Ba Tô Ký biết tôi từ hồi thành lập Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa năm 1945. Gặp tôi thì anh gọi “thằng Hổ mầy”, mặc dù hơn năm mươi năm sau tôi đã ở tuổi 70 và đã làm ông nội, ông ngoại).


Giám đốc Năm Dành đọc thư của anh Hai Bứa. Bức thư khá dài kể rõ câu chuyện xảy ra về vũ khí mới của binh công xưởng đợt vừa rồi gởi về chi đội đã đem ra sử dụng ngay nhưng quả lựu đạn chưa kịp bay ra đã nổ ngay trong ống phóng làm bị thương 1 và chết 1 ngay tại chỗ. Đại đội phó đại đội 3 cũng bị thương nặng vì trái nổ tại nòng. Hai trận đánh ở hai điểm khác nhau cùng trong một ngày. Anh em oán trách về sự chết oan lẽ ra phải là địch, tại sao lại là ta. Anh em yêu cầu ban chỉ huy nhanh chóng điều tra kẻ phá hoại đang ẩn nấp trong binh công xưởng. Anh em từ chối không sử dụng bất cứ vũ khí nào của binh công xưởng sản xuất. Chiến sĩ đang hoang mang, họ mất lòng tin ở anh em công nhân.


Đọc đến đây giám đốc Năm thấy choáng váng. Bàn tay cầm lá thư run lập cập không tài nào kềm được. Ông là người biết rất rõ hơn ai hết, vì sao binh công xưởng sản xuất ra loại lựu đạn phóng nầy. Đơn vị đòi hỏi có loại vũ khí ném được xa hơn một trăm thước. Bộ đội rất mong điều này. Ông đã xin với anh Ba Tô Ký cho đi tìm trong các đơn vị bạn mượn về cho một cây “tromblon VB” loại súng phóng lựu cũ. Giám đốc Năm bỏ ra hai tuần lễ tháo rời toàn bộ khẩu súng và đo vẽ kỹ thuật từng bộ phận. Ông làm việc bất kể ngày đêm để sớm gởi trả khẩu súng con cưng của Chi đội 6.


Một thùng lựu đạn phóng được mang vào đặt giữa văn phòng. Chi đội trưởng Tô Ký nói:

- Tôi ra lệnh cho tập trung tất cả lựu đạn phóng của binh công xưởng sản xuất và hỏa tốc đem về đây.

Thùng lựu đạn được thận trọng khui ra. Các trưởng ban lần lượt xem xét từng quá đạn. Mặt giám đốc Năm vốn đã xanh vì mất máu do sốt rét kéo dài, một tháng ông đã lên cơn sốt trên hai mươi lần, da đã xanh càng tái thêm. Ông nói với giọng hơi lập cập:

- Đúng là quả đạn phóng của binh công xưởng này.

Ông Ngô Văn Năm vừa là thợ, vừa là thầy được nhiều người mến mộ. Cách mạng tháng 8 năm 1945 công nhân Ba Son đã bầu ồng làm giám đốc Hải quân công xưởng Ba Son. Xưởng Ba Son là nơi có phong trào cách mạng công nhân mạnh mẽ sớm nhất ở Sài Gòn trong cắc thập kỷ 20 - 30 - 40. Ba Son là nơi có tổ chức Công hội đỏ do Bác thợ Tôn Đức Thắng sáng lập. Giám đốc Năm Dãnh vốn tính tình hiền hòa, chơn chất. Ông chưa từng nói lớn tiếng hay nặng lời với bất cứ ai. Có lẽ ông cũng chưa hề cầm con dao cắt cổ con gà đã trói sẵn. Ông nắm trên tay mấy trang giấy học trò mà như cầm hòn đá tạ. Lòng ông trĩu nặng, quặn thắt. Ông chỉ thầm trách sao mình quá kém cỏi lại sờ mò vào cái món mà mình không hề được ai chỉ dạy đến nơi đến chốn. Kỹ thuật làm súng, làm chất nổ xưa nay bọn chủ Tây giữ rất bí mật, tuyệt đối không để cho người “thuộc địa” biết một tí gì. Ông làm việc ở Hải quân công xưởng Ba Son nhiều năm, biết làm nhiều thứ cho quốc phòng, sửa chữa tàu lớn chiến hạm nhưng thứ mà ông không hề biết là làm ra súng đạn. Trước yêu cầu bức bách của anh em chiến đấu ngoài mặt trận, ông đã dám liều lĩnh nghiên cứu loại lựu đạn phóng dựa theo mẫu của Anh, Pháp. Nguyên vật liệu từ Sài Gòn đưa lên, có thứ nào dùng thứ nấy “cây nhà lá vườn”. Lần nầy những tưởng đạt nguyện vọng mơ ước của chiến sĩ sau khi được thư của văn phòng chi đội từ Bình Mỹ gởi lên báo tin vui. Anh em đại đội 2, đơn vị được chọn sử dụng thí điểm súng phóng lựu đầu tiên của binh công xưởng đã hồ hởi kể lại rằng khi lựu đạn phóng ra nổ giòn giã từ giữa đội hình địch đang đi càn quét vào Trung Lập (Củ Chi). Bọn giặc đã nhốn nháo khi bị liền mười trái nổ như sét đánh từ trên đầu đã la ó Việt Minh có “moọc-chê” (súng cối), Việt Minh có “moọ-c chê”! Tất cả mạnh thằng nào thằng nấy chạy bò càng. Anh em ta tề tựu lại đông đủ để nghe phó giám đốc Lư Đồng Sắt đọc lá thư của văn phòng chi đội gởi về. Nghe đến đâu lòng sướng rơn đến đó, còn lần này cũng lá thư từ chiến trường nóng bỏng nhưng đọc đến đâu chúng tôi cảm thấy như chính mình bị trúng đạn. Cái đau nào phải ở ngoài da mà lần này vết xoáy của đầu đạn sâu tận trong tim gan, đó là sự hoài nghi của người chiến sĩ cầm vũ khí đối với anh em công nhân quân giới sản xuất ra vũ khí đó.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Chín, 2021, 07:11:15 am
Chi đội trưởng Ba Tô Ký tránh ánh mắt mất thần của giám đốc Năm. Ông là người biết rất rõ về ông Ngô Văn Năm. Trong lúc vui, ông tâm sự với lớp thợ trẻ chúng tôi. Ông là người thuộc nhiều tuồng tích truyện Tàu. Ông ví ông Năm như “Khổng Minh” trong Tam Quốc. Một Khổng Minh tài năng xuất chúng không phải với mưu toan làm bá chủ thiên hạ mà là một Khổng Minh có tài năng tiềm ẩn trong khoa học kỹ thuật và còn có khả năng quy tụ anh hùng hào kiệt trong giới thợ thuyền công nhân có tay nghề cao. Vì thế ông cố hết sức để mời cho bằng được ông Ngô Văn Năm về với Chi đội 12 dù gặp khó khăn trở lực nào, cũng như Lưu Bị ba lần cầu Khổng Minh rời khỏi lều cỏ phò Hán diệt Tào.


Số là ông Ba Tô Ký không hề quen biết với ông Năm Dành và cũng không một lần gặp mặt. Một đằng là nông dân đồng ruộng tận Bình Lý Hóc Môn, 17 tuổi tham gia cách mạng, 20 tuổi bị Pháp bắt đày lên căng Tà Lài - Bà Rá, còn một đằng là viên chức có danh vọng của Hải quân công xưởng Ba Son. Ông Ba Tô biết ông Năm qua tiếng đồn đại trong anh em thợ quê ở Hóc Môn-Bà Điểm, còn ông Năm chưa hề nghe ai nói về ông Ba Tô Ký. Ông Ba Tô Ký gửi thư nhiều lần đến cho ông Năm tận tay, tận nhà nhưng ông Năm không trả lời vì lòng còn ngổn ngang trăm mối.


Lúc bấy giờ quân Pháp núp theo chân quân đồng minh (Anh - Ấn) lấn chiếm vùng ven Sài Gòn. Trong một trận càn ông Năm bị bắt. Viên chỉ huy là quan tư hải quân biết ông Năm và ra lệnh thả ông với yêu cầu ông Năm trở lại Ba Son. Viên sĩ quan cao cấp hải quân biết ông Ngô Văn Năm là người trị thương cấp cứu chiến hạm La-mốt Bíc-kê (Lamotte Piquet) con cưng của hải quân Pháp từ mặt trận Xiêm Riệp - Bat-tam-bang. Với bản vẽ thiết kế kỹ thuật chính xác và tài ba của ông Ngô Văn Năm, các kỹ sư công nhân Ba Son với tay nghề siêu đẳng tuyệt diệu đã trả lại nửa thân tàu “cải tử hoàn sinh” cho chiến hạm sừng sỏ của hải quân Nhật bị ngư lôi đồng minh bắn đứt đôi. Kỳ công này làm chấn động giới quan chức hải quân Pháp-Nhật. Thế nhưng ông Ngô Văn Năm từ chối thẳng thừng việc trở lại Ba Son vì nơi đây đã biến thành xưởng sản xuất vũ khí đạn dược cung cấp cho quân Pháp tái chiếm Nam Bộ và Sài Gòn. Ông bị quản thúc tại nhà và hàng tuần phải ra trình diện với viên xếp đồn Quán Tre Một On, gã Tây lai vô cùng hiểm ác. Đồn Quán Tre ở cách nhà vài trăm mét. Ông Ba Tô Ký được tin nầy càng sốt ruột lo lắng. Cuối cùng ông theo ông Sáu Hâm, trưởng ban công tác thành Chi đội 12, bạn cùng làng với ông Năm về tận Quán Tre. Chỉ qua một đêm mà hai người trở thành đôi bạn tri kỷ tri âm. Ông Năm nhận lời về làm giám đốc cái lò rèn của Chi đội 12. Không ngờ vài tháng sau, anh em công nhân hãng xưởng Sài Gòn nghe tin giám đốc Ba Son Ngô Văn Năm ra chiến khu. Họ rủ nhau lục tục kéo ra bưng biền kháng chiến. Họ cùng hì hục mang vác đồ nghề của chính mình đang làm tại hãng xưởng và họ nài nỉ với vị chỉ huy chi đội để được về cái binh công xưởng bỏ túi của ông Ngô Văn Năm.


Có lẽ trong sự im lặng đó, anh Ba Tô Ký còn chua xót hơn ai hết. Một người chỉ huy đang đứng trước tình huống khó xử. Còn anh em công nhân ở đây lại trông chờ vào sự phán quyết của người chỉ huy tối cao, người mà anh em công nhân quý trọng hết sức đặc biệt, có cảm tình cũng hết sức đặc biệt. Sự đặc biệt này không phải đương nhiên mà có. Anh em biết tính của người chỉ huy của mình như người trong nhà. Một con người không bao giờ chịu ngồi yên, tính khí nóng nảy, khẳng khái. Sự trung thực bộc lộ ra tận ngoài da, bộc lộ ra từ cái nhìn của đôi mắt to trũng sâu dưới cặp chân mày hơi xếch rậm đen, bộc lộ ra trong lời nói, hành động và sự quyết đoán.


Nhớ lại những lúc còn trong trứng nước, binh công xưởng còn thuộc vào loại bỏ túi, công nhân lúc đầu chỉ có vài ba người làm mộc làm rèn từ sở cao su Dầu Tiêng... dần dần binh công xưởng quy tụ thêm thợ lành nghề từ các hãng xưởng có tiếng tăm ở Sài Gòn như Ba Son, Faci, Sở Mộ, Bá Nghệ, nhà đèn Chợ Quán, đề-pô xe lửa Sài Gòn, Dĩ An, nào thợ nguội thợ tiện, thợ đúc bậc thầy cũng kéo lên chiến khu. Đến nay từ con số lẻ đếm được trên đầu ngón tay leo đến con số trăm. Binh công xưởng muốn làm ăn yên ổn, trụ lại một chỗ lâu dài thì phải tìm nơi tận rừng sâu không vết chân người, nơi nước độc rừng thiêng. Làm sao quên được cảnh sốt rét hàng loạt. Không có thuốc uống làm ông thầy thuốc Thọ chạy đông chạy tây như gà mắc đẻ. Một viên ký ninh vàng ngâm một lít nước chia đều cho mỗi người một cốc. Riêng ông giám đốc có cơn sốt nhiều hơn nên được uống một lần đến hai cốc nước ký ninh vàng. Thuốc ký ninh đắng đến mức uống phải nín thở nuốt một lèo kẻo bị vọt ra hết. Thợ tiện Nhiều, thợ Ba Son, người quê Bà Điểm bị cơn sốt ác tính (hồi đó không biết là sốt ác tính) quật ngã chết tươi. Máu chảy ra từ tai, mũi, họng. Anh em đem chôn cạnh bìa trảng tranh gần xưởng. Chỉ vài ngày sau ra thăm mộ thì cọp đã moi xác ăn mất cánh tay. Cũng thật bất ngờ ngày hôm đó chi đội trưởng Ba Tô Ký lên thăm xưởng. Nước ở đây không có, vì phải ở xa sông suối để giữ bí mật. Giếng đào sâu trên mười thước mà chưa đụng mạch. Đào luôn cái thứ hai, thứ ba cũng đều như vậy. Mỗi người chỉ được chia một ca phần tư lít dùng trọn ngày. Thương nhứt là anh em lò rèn, gần lửa chỉ biết lấy mồ hôi làm nước tắm. Anh em nguội, tiện thì tắm bằng cách đốt lửa ngồi quanh đến chảy mồ hôi ướt đầm đìa mặt mày (như xông hơi) rồi chạy ra ngoài kỳ cọ. Một lúc sau lại vào ngồi cạnh đống lửa cao ngùn ngụt cho ra mồ hôi lần thứ hai. Ai muốn tắm thêm nữa thì tùy hỷ. Còn nước rửa mặt thì sáng mở mắt dậy, mạnh ai nấy ra đưa ngón tay chấm nhẹ vào từng chiếc lá đón lấy từng giọt sương rồi quệt ngay vào mắt. Mỗi bên mắt quệt một lần coi như rửa mặt xong. Ai thức dậy trễ sương bốc hơi hết ráng chịu. Anh em nói vui với nhau cọp không tắm, không rửa mặt, đánh răng cũng có người gọi bằng ông (dân làm rừng kiêng kỵ nên gọi cọp là ông ba mươi).


Anh em công nhân sốt nằm la liệt nhưng đến ca kíp thì phải ráng đi làm. Anh em thợ đúc thì lấy đêm làm ngày vì ban ngày không nấu gang nấu đồng được. Khói của đồng gang bốc lên từ xa máy bay địch dễ phát hiện. Còn thợ tiện thì máy chạy phải quay bằng tay. Phải chọn người thật khỏe mới đứng quay nổi liền trong vài tiếng đồng hồ. Phải thay người luôn.


Đàn ông ít khóc. Mà khi họ khóc là có chuyện lớn. Chi đội trưởng Ba Tô Ký khóc là chuyện càng khồng thể có được. Tôi dẫn anh Ba ra trảng nơi chôn thợ Nhiều. Mộ đã được đắp lại và gài cây găng đầy gai. Anh Ba tránh mọi người trông thấy. Anh ngồi chồm hổm xuống đất, khóc nức nở, khóc một cách xót xa. Từ nãy giờ anh cố nén khi đứng trước anh thợ Thông đang hấp hối. Biết chết mà đành bó tay vì không thuốc.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Chín, 2021, 07:12:43 am
Anh em công nhân được mời đến đông đủ. Tôi nhớ năm ấy trong xưởng không có nữ. Anh em ăn mặc đi lại thoải mái kể cả ở truồng. Mỗi người chỉ có một bộ quần áo và một bao bố tời làm mền. Tội nhất thợ rèn, thợ đúc gần lửa dễ bị phỏng. Rừng sâu, đêm khuya rất lạnh phải đốt lửa đế sưởi và phòng thú dữ. Anh Ba nhìn anh em khắp lượt. Gương mặt của họ không giấu được nỗi mệt nhọc vì bệnh tật, vì thiếu nước, vì ăn đói. Da mặt, da tay vàng như thoa nghệ. Giọng Anh Ba không bình thường như mọi khi. Anh cố nén:

- Tôi cho dời xưởng về Củ Chi. Ở lại đây ngày nào thì anh em sẽ tổn thất thêm. Cách mạng đang cần đến anh em công nhân, về đồng bằng có nhiều điều kiện dễ dàng hơn, anh em sản xuất vũ khí. Trước mắt anh em làm đạn và lựu đạn, còn chuyện làm vũ khí mới như kế hoạch của xưởng yêu cầu chế tạo súng cối sẽ tính sau. Tôi trở về bàn với ban chỉ huy chuẩn bị đón anh em về dưới ấy...


Anh Ba nói như nghẹn.

Ông Năm bật dậy một cách bất ngờ, một sự phản ứng chưa từng có của một con người trói gà không chặt. Tiếng của ông Năm không vấp một lần nào:

- Anh Ba cứ để anh em tôi ở lại đây. Bộ đội có nghĩa vụ giết giặc cứu nước. Anh em công nhân quân giới có nghĩa vụ lo cho bộ đội. Anh em bộ đội dám hy sinh trên chiến trường thì anh em công nhân quân giới cũng dám hy sinh trên trận địa sản xuất vũ khí của mình. Nghĩa vụ yêu nước đều bình đẳng như nhau. Anh Ba về thưa lại với Đảng, với ban chỉ huy chi đội. Các anh đế tâm trí vào việc lớn hơn.


Tiếng của ông Lư Đồng Sắt trưởng ban đúc rổn rang đầy vẻ phẫn nộ, bất chấp mọi lễ nghi quân phong quân kỷ:

- Ai về đồng bằng thì về. Còn Lư Đồng Sắt này sẽ thành lập binh công xưởng con con bám trụ lại đây. Ai chết thì chôn. Ai sống thì sản xuất súng đạn.

Không ngờ những lời nói tưởng như chống lại mệnh lệnh cấp trên lại được hoan hô nhiệt liệt. Sự hưởng ứng của anh em làm náo động cả phòng họp:

- Anh Ba để anh em ở lại làm nghĩa vụ của người công nhân quân giới, ở dưới không sản xuất được vũ khí nặng. Bộ đội muốn đánh to, thắng lớn thì phải có vũ khí hiện đại, súng to, đạn lớn...


Anh Ba Tô Ký hoàn toàn bất ngờ. Anh ngồi lặng đi. Từ trước đến giờ anh chưa bao giờ gặp phải sự phản kháng đáng yêu này. Có lẽ anh đang nuốt nước mắt vào trong.

Hồi ấy tình huốngg hoàn toàn khác với bây giờ. Anh em công nhân đang sống chết vì bộ đội lại là đối tượng bị anh em chiến sĩ đưa ra trước tòa. Lá thư thống thiết của anh em đang cầm vũ khí trên tay lại không tin vũ khí trên tay mình. Họ đang đối mặt một mất một còn với quân thù hàng giờ, hàng ngày. Cái sống cái chết chỉ cách nhau sợi tóc.


Cũng ông Lư Đồng sắt, bây giờ là phó giám đốc, vốn là người thợ đúc lành nghề của Ba Son, Faci, vẫn lời lẽ ngang ngang như cuộc đời trôi nổi của trẻ bụi đời ba chìm bảy nổi, trôi sông lạc chợ. Kinh nghiệm cuộc sống đọng lại trong anh quá dày:

- Thưa với anh Ba (lần đầu tiên tôi mới được nghe Lư Đồng Sắt thưa với cấp trên), chúng tôi không chối cãi những quả lựu đạn phóng này là của chúng tôi sản xuất ra. Vỏ lựu đạn này là khuôn mẫu của chính bàn tay Lư Đồng Sắt này đúc ra. Anh em bộ đội hồ nghi, trách mắng chúng tôi làm ẩu hại chết bộ đội. Điều đó là có thật, chúng tôi không chạy tội đâu. Nhưng anh cho phép chúng tôi xem xét lại bên trong ruột. Biết đâu cái vỏ ngoài là của chúng tôi còn ruột bên trong là của thiên hạ. Lư Đồng sắt này sẽ chịu xử bắn trước nếu xưởng cố tình phá hoại làm chết đồng đội của mình.


Anh em nhìn chằm chằm vào chi đội trưởng. Anh em cũng thừa biết chi đội trưởng đích thân áp tải hàng trăm quả đạn lên tận nơi là muốn làm rõ cái bên trong. Đoàn áp tải được chọn lọc và ra đi âm thầm lặng lẽ để giữ yên mọi bề.

Phó giám đốc Lư Đồng Sắt yêu cầu anh Ba Tô Ký cho người giám sát cùng đi với trưởng ban hóa học Nguyễn Văn Chừng. Anh Chừng chọn quả đạn “nghi ngờ nhất”.

Bốn người cùng đi ra phía gò mối.

Một lúc sau, bốn người trở lại. Trong số người kiểm tra có hai người của chi đội. Trưởng ban Chừng đặt các bộ phận đã tháo rời ra. Anh khều nhẹ chất trắng trắng quanh ngòi nổ (đề tô) một thứ bột trắng rơi từ từ xuống mặt tờ giấy quyến to. Anh dẫn giải:

- Đây là vôi bột tạm giữ “đề tô” đứng yên một chỗ. Bột vôi không được lèn chặt nên lấy ra rất dễ dàng đồng thời cũng để quả đạn khi phóng đi thì “đề tô” bị rung động mạnh lập tức nổ ngay... Tôi nghĩ rằng kẻ làm được việc này phải là người biết nghề và có thời gian giữ các thùng lựu đạn này để thay ruột.


Các thùng đựng lựu đạn phóng từ chi đội mang lên đều được mang về phòng hóa học. Anh em ban hóa học chia nhau mổ xẻ. Tất cả 247 quả đạn (xưởng gởi về 250 quả, đơn vị bắn mất ba) đều bị phá hoại cùng một kiểu cách.

Mọi việc coi như giải quyết sòng phẳng.

Năm tuần lễ sau! (anh em công nhân tính từng ngày sau khi đồng chí Tô Ký trở về chi đội).

Một đoàn “công-voa” bốn chục chiếc xe bò rầm rầm rộ rộ kéo vào binh công xưởng. Tiếng xe khua lụp cụp lạc cạc ầm ĩ vang động cả một khu rừng già mênh mông. Anh em bật dậy, nhảy xuống sàn, hò reo thúc giục, hộc tốc chạy ra cửa rừng. Hàng trăm bó đuốc, có người một mình cầm đến hai cây đuốc, men theo đường xe bò quanh co uốn khúc. Đuốc cháy sáng rực lung linh như một con rồng lửa đang lượn dưới rặng cây khi ẩn khi hiện. Hôm nay có điều gì đó không bình thường, nhưng chắc là điềm lành. Trời hửng sáng, chiếc xe bò cuối cùng mới vào đến sân bóng chuyền.


Chi đội trưởng Ba Tô Ký đi họp trên khu không về được. Ban chỉ huy chi đội có gởi thư cho giám đốc Năm. Đoàn xe có năm chiếc dành riêng một bữa tiệc đặc biệt chiêu đãi cho toàn thể công nhân quân giới. Phụ nữ Hóc Môn có riêng hai chiếc chở toàn muối sả ớt (kỳ này có thêm ớt). Còn lại rất nhiều món ăn cho binh công xưởng: sắt, thép, gang, đồng, nhôm và món ngon nhất là nhiều ống thép từ Sài Gòn gởi ra để làm nòng súng cối theo đơn đặt hàng của xưởng.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Chín, 2021, 07:14:56 am
Bữa tiệc nóng phải giải quyết ngay sáng hôm nay. Đoàn “công-voa” phải đi ngày đi đêm cho rau sống không héo. Chị Năm Hồ Thị Bi, được anh em chiến sĩ Chi đội 12 phong tặng danh hiệu là “vú sữa của chi đội” - người chị, người mẹ của chiến sĩ từ thời Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa. Chị Năm chỉ huy trung đội theo áp tải đoàn xe dài hằng cây số đi đến đâu như ong vỡ tổ dễ bị địch phát hiện. Chị Năm thay mặt cho ban chỉ huy chi đội trịnh trọng định thưa gởi vài lời thì bất ngờ phó giám đốc Lư Đồng Sắt với cặp mắt ngó thằng Tây trắng bắn trúng thằng Tây đen (mắt ông Tư Sắt bị lé nặng) khoát tay xin chị Năm tạm dừng lại vài phút. Chẳng ai biết ất giáp chuyện gì nữa đây. Ở vùng khỉ ho này ông Tư Sắt luôn lắm trò lạ.

- Hỡi các anh em đồng bào, đồng chí mình hãy lắng nghe một tin sốt dẻo long trời lở đất. Ai nghe được trọn câu thì tăng ngay tuổi thọ còn nghe nửa chừng thì chỉ cắt được một cơn sốt ngày hôm nay thôi. Nghe đây, nghe đây.

Quả tình bao nhiêu con người đang bàn tán rôm rả vội vàng nín khe.

Tư Sắt hắng giọng:

- Anh Ba Tô Ký nhắn với anh em mình rằng là... Ban chỉ huy chi đội giữ đúng lời hứa... rằng là... đã tìm ra được kẻ chủ mưu phá hoại vũ khí của xưởng gửi về cho bộ đội chiến đấu...


Tiếng Tư Sắt lại cà lăm lặp bặp không biết cố tình đóng kịch hay do quá xúc động trước sự thật bất ngờ này.

- Kẻ đó là ai?

- Là ai? Đọc tiếp đi. Là ai?

Tư Sắt nghiêm mặt rất buồn cười:

- Thủ phạm chính là tên trưởng ban quân giới Lý Hữu Phương!

Trời đất! Sao lại là trưởng ban quân giới chi đội.

Nhớ lại lúc bấy giờ, lớp thợ trẻ lứa tuổi mười tám, đôi mươi, chúng tôi còn quá ngây thơ về chính trị, không cho sự biến cố đó là cái gì đáng sợ nên vẫn thản nhiên. Còn những người thợ lớp đàn anh cha chú thì khác hẳn. Họ lo âu, ăn không ngon ngủ không yên. Họ thì thầm với nhau, có lúc hết đêm. Đôi mắt họ như có mây mù che lại. Họ bảo nhau đây là món nợ mà anh em mình có muốn trả nợ cũng không có cách gì ngoài hy vọng gởi gắm trọn vẹn vào người chi đội trưởng trung thực của mình. Tất cả nằm ngoài tầm tay của binh công xưởng. Và anh em công nhân có mặt tại đây đều là bị cáo. Một ngón đòn ác hiểm của con cáo già phòng nhì Pháp bắn một mũi tên xuyên qua lòng tin của anh bộ đội đang cầm súng trên sa trường mà lại chạm vào trái tim của anh em quân giới luôn quên mình vì nghĩa cả ngày đêm chăm lo sản xuất ra súng đạn tốt nhất, hiệu ứng nhất để tránh bớt thương vong cho người anh em ruột thịt đang đứng trước mũi tên hòn đạn của kẻ thù.


Anh Tư Lư Đồng Sắt chỉ mới xướng tên kẻ phản bội đã bắn mũi tên độc hại đó, anh em đã sướng quá vỗ tay vang động cả khu rừng cắt đứt đoạn sau cuôi lá thư. Có nhiều thợ trẻ ở đây chưa biết Lý Hữu Phương là ai? Và cũng có người chưa hiểu cái chức trưởng ban quân giới lớn cỡ nào mà làm được cái vụ việc tày trời như vậy. Tại sao một tên gián điệp phòng nhì của Pháp lại chui vào được tận sào huyệt cúa một chi đội nổi tiếng là trung kiên nhất vùng ven đô lúc thời buổi loạn ly ban đầu của chiến tranh và hắn lại leo lên được cái ghế nắm quyền sống chết các cơ sở sản xuất võ khí. Câu hỏi này đã đặt cho tôi vào giữa khu rừng già chưa có dấu chân người. Năm đó tôi mới 19 tuổi đời với 2 tuổi quân. Mãi nhiều năm sau này tôi mới giải đáp được câu hỏi này.


Lý Hữu Phương là ai? Thằng Nhung, thợ nguội, bạn trẻ cùng lứa với tôi hỏi nhỏ chú Tư Bụng, người thợ rèn già dân kỳ cựu ở Bà Điểm. Quả tình chú Tư Bụng cũng ú ớ về lai lịch của con người có tên là Lý Hữu Phương dám làm cái chuyện động trời đáng bị xử bắn một trăm lần về cái tội phản quốc, chớ không phải chỉ là chuyện phá hoại nội bộ.


Tôi sực nhớ ra là tôi đã gặp ông ta rồi.

Lần đó tôi được chi đội trưởng gọi đích danh từ Tây Ninh về văn phòng chi đội để kịp đi học ở khu. Lớp học do kỹ sư Bùi Minh Nên trực tiếp giảng dạy những tài liệu của kỹ sư Trần Đại Nghĩa từ Trung ương gởi vào để làm súng Ba-zo-ka, ba-zo-min (súng không giật, đạn lõm, mìn chống tăng). Nói là khóa học, lớp học nhưng chỉ có một thầy và một trò (nghe nói là để giữ bí mật tuyệt đối nên mỗi binh công xưởng cỡ lớn chỉ gởi đi học một người. Người này học xong trở về mới cho người khác đến học). Lớp học là một phòng thí nghiệm (thực ra là một cái chòi lợp bằng đưng) giữa trời nước mênh mông xung quanh chỉ có lau sậy. Vùng đất xưa nay nổi tiếng muỗi kêu như sáo thổi mà đỉa lềnh như bánh canh. Học trong một tháng, đúng 30 ngày, học trò cúi đầu chào thầy, ra trường với hai tay trắng không được mang theo một thứ tài liệu gì cả. Tất cả nằm trọng bộ nhớ là cái đầu.


Gặp anh Ba Tô Ký, tôi lúng túng trình cho người chỉ huy mấy dòng chữ viết tay của kỹ sư Bùi Minh Nên ghi trên trang giây học trò “Anh Đặng Quang Hổ học xong chương trình”. Kỹ sư Bùi Minh Nên ký tên và đóng dấu. Con dấu son đỏ chói và to hơn các loại con dấu đương thời mà tôi được thấy kể cả con dấu của Khu bộ trưởng Nguyễn Bình. Con dấu tròn ghi rõ "TỔNG GIÁM ĐỐC CÁC BINH CÔNG XƯỞNG KHU 7”.


Anh Ba cười tôi vẻ chế giễu, nửa đùa nửa thật:

- Thầy của mày đang ở xưởng về đó mà học. Mấy ông thợ cả ấy mới thật là bậc thầy.

Tôi tự ái:

- Tại anh cho tôi đi học chớ bộ.

Anh cười hề hề:

- Khu ra lịnh chi đội 12 phải có một thợ đi gấp. Mầy còn trẻ lại có học. Tao chọn mầy đâu có trật.

- Không cho mang tài liệu, bản vẽ về biết đâu mà mò.

- Cái thằng khéo lo chuyện của người lớn (hầu hết mấy anh chỉ huy đại đội, chi đội đều lớn tuổi và dân kỳ cựu Nam Kỳ khởi nghĩa xếp tôi vào hàng em cháu).

Anh Ba Tô Ký bỏ tôi lên chiếc xe đạp cọc cạch chở ra chợ An Nhơn Tây cho ăn một bụng hủ tiếu. (Bọn tôi ở Tây Ninh xem chợ An Nhơn Tây như chợ Sài Gòn, đông người và nhộn nhịp. Có nhiều hàng quán hơn bất cứ chỗ nào trong khu căn cứ kháng chiến vùng này).

Ăn xong, anh Ba bảo tôi:

- Tao đem mầy lại gởi đằng ban quân giới. Vài hôm nữa có công voa lên Tây Ninh.

Thế là anh Ba đèo tôi đến giao cho trưởng ban quân giới Lý Hữu Phương.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Chín, 2021, 07:16:16 am
Lý Hữu Phương mà tôi được gặp là một viên chức Việt kiều ở Nam Vang, dáng vẻ thư sinh nho nhã, nước da trắng trẻo, nói năng ôn tồn nhỏ nhẹ như con gái. Khác hẳn với đứa em trai là Lý Hữu Thế, trạc 20, rộng họng, cái miệng không bao giờ ngưng nói. Cây súng côn đeo xệ bên hông. Khó mà biết đây là hai anh em ruột.


Trưởng ban quân giới Lý Hữu Phương bắt chuyện với tôi một cách nhanh chóng và cũng nhanh chóng tỏ rõ thái độ có thiện cảm khi biết tôi là người Sài Gòn và là con nuôi của ông giám đốc Ngô Văn Năm, người cùng xóm, hai nhà ở sát đất nhau. Tôi cũng không có gì giấu giiếm với trưởng ban quân giới Lý Hữu Phương. Tôi cảm tình trước mối quan hệ đối xử “bình dân” của người có chức vụ cao nhất trong các binh công xưởng thuộc chi đội đối với một chú thợ trẻ vô danh tiểu tốt như tôi. Trưởng ban quân giới Lý Hữu Phương cho em út là Lý Hữu Thế dẫn tôi đi chơi khắp vùng An Nhơn Tây, Bời Lời... Tôi gặp cả chú Sáu Ngói - Trưởng ban tiếp tế cho binh công xưởng - đang tất bật đón nhận hàng từ Sài Gòn gởi vào những ống thép, ống gang, những cuộn dây đồng... và cũng tất bật chỉ bảo việc đưa lên xe bò những thứ cần đưa ngay lên Tây Ninh. Sân nhà chú Sáu Ngói cũng là sân của ban tiếp tế, nhộn nhịp hơn ngoài chợ An Nhơn Tây. Trưởng ban Lý đến đâu cũng được đón tiếp chào hỏi nồng nhiệt đầy thiện cảm và trọng nể. Đùng một cái nghe tin trưởng ban quân giới Lý Hữu Phương là gián điệp phòng nhì Pháp. Quả tình tôi như trên trời rơi xuống. Tuổi 19 - 20 của chúng tôi thời buổi ấy làm sao nhìn thấu suốt được những chuyện như thế - chuyện vượt ra tầm nhìn, tầm suy nghĩ của tuổi trẻ chưa một chút kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh giai cấp một sống một chết với kẻ thù thực dân Pháp vô cùng lợi hại, một con cáo già. Bây giờ nhớ lại chuyện cũ, tôi càng thấy thấm thìa một điều - một điều đã và đang có sự tranh cãi lẩn quẩn. Một đội ngũ toàn trẻ chưa chắc là toàn mỹ. Người già, người tích tụ nhiều kinh nghiệm bao giờ cũng là của hiếm rất cần thiết cho những lớp trẻ như tôi trong những cơn sóng gió, trong bước ngoặt của lịch sử. Già trẻ đều là vốn quý của đất nước. Không có tre làm gì có măng. Không có măng làm sao còn tre.


Trong lá thư dài của đồng chí Ngô Thanh Khiết, chính trị chỉ đạo viên chi đội (hồi ấy chỉ vào chức vụ của chính trị viên chi đội và sau này có lúc đổi lại là chính ủy trung đoàn) thì sự việc được phơi bày ra từng chi tiết.


Số là hôm đó, sau khi mọi việc đã rõ ràng, chi đội trưởng Ba Tô Ký yêu cầu xưởng làm gấp cho 10 thùng lựu đạn phóng ngon lành và có đánh dấu riêng một cách cẩn thận chỉ có chi đội trưởng và tiểu đội trinh sát đặc biệt mới biết. Đại đội trưởng áp tải do trưởng ban quân báo chi đội thủ vai. Những người đánh xe bò là những trinh sát viên của Ban quân báo. 10 thùng lựu đạn phóng được trưởng ban quân giới Lý Hữu Phương ký nhận và cho chuyển vào kho trong rừng làng (hồi đó xóm Trại An Nhơn Tây còn rừng). Giữa đêm khuya hôm đó có 2 bóng đen mở cửa kho. Khi 2 bóng đen khóa cửa kho và bước vào bìa rừng thì bị bắt sống. Trong 2 túi hàng của chúng có 10 quả lựa đạn phóng có đánh dấu binh công xưởng. Hai bóng đen đó là hai nhân viên quen thuộc của ban quân giới. Mọi việc xảy ra im ắng.


Sáng sớm hôm sau, chi đội trưởng Ba Tô Ký lệnh cho trưởng ban quân giới xuất kho phân phối ngay các thùng lựu đạn phóng vừa từ xưởng đưa về cho các đơn vị chuẩn bị chống càn theo như kế hoạch đã báo trước với Lý Hữu Phương - ngay khi chuyến “công-voa” chở vũ khí từ Tây Ninh vừa về đến ban quân giới. Trưởng ban quân giới Lý Hữu Phương vừa đến kho thì chi đội trưởng Tô Ký và Chánh trị chỉ đạo viên Ngô Thanh Khiết cùng đến. Các đơn vị xếp hàng chờ lãnh vũ khí. Lý Hữu Phương cho mở kho. Chi đội trưởng cho khui tất cả 10 thùng lựu phóng ra hết. Đại đội trưởng áp tải đến lấy ra 10 quả đạn lạ thận trọng đặt vào một thùng khác. Lý Hữu Phương tái mặt. Đôi lông mày rậm đen của chi đội trưởng đã cọ quậy. Hai tên bị bắt tối hôm qua bị dẫn đến. Lý Hữu Phương quỵ sụp xuống. Tên thứ tư là Lý Hữu Thế, em út của Lý Hữu Phương được phân công cất giấu những quả mìn chống tăng vào những kho chìm ngập trong nước, không cho quả nào nổ.


Bốn tên chờ ngày đưa ra tòa án binh xét xử.

Tiếng vỗ tay hoan hô lại vang dội.

Ôi, cám ơn các đồng chí đã phá án, cất gánh nặng trên vai của toàn thể anh em công nhân quân giới. Các bác thợ già rớm rớm nước mắt. Những người trên đầu có hai thứ tóc thấu hiểu hơn ai hết. Một sự thiếu bình tĩnh, thiếu sáng suốt của người chỉ huy chi đội thì sự tổn thất không thể lường hết được với sinh mạng bao nhiêu người ở binh công xưởng này. Thời buổi ban đầu của cuộc kháng chiến non trẻ biết bao là vụ việc ấu trĩ xảy ra đã phải trả giá bằng máu và nước mắt đó sao!


Tiếng cười nói ì xèo như chợ chồm hổm.

Lại cũng tiếng oang oang của ông bầu Lư Đồng Sắt:

- Lại còn một tin vui động trời nữa không thua kém gì tin ban nãy. Ai nghe thì tăng tuổi thọ...

Tin thứ hai nầy có người biết, có người không, số đông thì không biết vì anh em ở phân tán trong rừng làm việc thâu đêm, nhất là các thợ đúc.

Tư Sắt giơ tay cao ngoắc một cái, lập tức từ trong văn phòng ban giám đốc trưởng ban nguội Nguyễn Văn Thưa và trưởng ban tiện Lê Văn Quýnh trịnh trọng khệ nệ khiêng ra một vật nặng trùm kín mít đặt lên bàn giữa sân bóng chuyền. Giám đốc Năm Dãnh đến mời chị Năm Hồ Thị Bi đến bên cạnh bàn. Giọng của ông Năm nhỏ nhẹ:

- Có món quà nhỏ, anh em binh công xưởng gởi tặng ANH BA TÔ KÝ, ban chỉ huy chi đội và anh em đang chiến đấu.

Chị Năm giở chiếc khăn ra.

Một khẩu súng cối (moọc-chê) mới tinh oai vệ. Tấm biển đồng nho nhỏ ghi dòng chữ “SÚNG CỐI 65 LY DO BINH CÔNG XƯỞNG CHI ĐỘI 12 SẢN XUẤT - số 001 - 1947”

Lần nầy thì anh em trung đội áp tải nhảy cỡn lên ôm chầm lấy anh em công nhân. Anh em chiến sĩ ngoài mặt trận đang mơ có “moọc-chê” của mình để đánh lại địch. Chị Năm Hồ Thị Bi vuốt ve cây súng cối như vuốt ve âu yếm đứa con thơ chính mình đẻ ra.

...

Bánh tráng cuốn thịt heo luộc chấm mắm nêm có rau sống, chuối chát kèm với khế chua.

Một bữa tiệc khó quên.

Hằng năm, vào ngày Quốc khánh 2 tháng 9, anh em quân giới Chi đội 12 họp mặt tại nhà anh Lê Văn Quýnh (sau này là giám đốc binh công xưởng thay ông Ngô Văn Năm). Thông thường anh Ba Tô Ký đến rất sớm, nếu vắng mặt thì có một lá thư và một gói trà ngon hoặc một két bia. Năm nay, anh Ba Tô Ký vừa đi xa. Anh em yêu cầu tôi ghi lại đoạn hồi ký này coi như nén hương thành kính tưởng nhớ đến người chi đội trưởng đầy bản lĩnh vững vàng tay lái thuộc loại quý hiếm của anh em công nhân quân giới trong cuộc kháng chiến đánh Pháp.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Chín, 2021, 07:55:11 pm
QUÂN Y GIẢI PHÓNG QUÂN HÓC MÔN - BÀ ĐIỂM - ĐỨC HÒA,
CHI ĐỘI 12, TRUNG ĐOÀN 312


NGUYỄN ẢNH TƯỜNG
LÊ THỊ NGÀ


1. BAN HỒNG THẬP TỰ GIẢI PHÓNG QUÂN LIÊN QUẬN HÓC MÔN - BÀ ĐIỂM - ĐỨC HÒA (11-1945 -3-1946)

Sau tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng ở các địa phương đều có tổ chức ban hồng thập tự.

Tháng 9 năm 1945, giặc Pháp núp sau lưng quân đội Anh - Ấn lấn chiếm xung quanh thành phố Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn. Các ban hồng thập tự các địa phương tham gia phục vụ các mặt trận như ban hồng thập tự Gò Vấp phục vụ mặt trận Cầu Bông Gò Vấp - Cầu Bến Phân, ban hồng thập tự Bà Quẹo phục vụ mặt trận Bà Quẹo. Ban hồng thập tự Bà Điểm phục vụ mặt trận cầu Tham Lương...


Sau khi đi làm nhiệm vụ liên hệ với quân Anh - Ấn đóng ở cầu Tham Lương để lấy 15 xác chiến sĩ hy sinh ở mặt trận này về vài ngày thì anh Bảy Voi, cán bộ cách mạng ở Bà Điểm hướng dẫn đưa Ban hồng thập tự Bà Điểm lên Mỹ Hạnh gia nhập vào Giải phóng quân Liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa. Ban hồng thập tự liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa ban đầu có: bác Tá Đạt - trưởng ban, anh Tư Hiển - phó ban và các anh chị Nô, Cải, Tiều, Phú, Hưởng, Mi, Ngà, Tư, Sáu (Huỳnh Nguyên), Chín, Xalông, Nguyên, Hạnh, Ngao.


Tháng 10 năm 1945, khi công binh điển xa sát nhập với Giải phóng quân liên quận thì có thêm anh Sáu Lía, chị Phụng, chị Quý, chị Muôn, là cứu thương.

Tháng 11 năm 1945, Ban hồng thập tự có bốn anh chị em: anh Mi, chị Ngà, chị Tư, chị Sáu Huỳnh Nguyên đi phục vụ bộ đội ta đánh trận Cầu Gió Hóc Thơm do anh Ba Tô Ký chỉ huy.

Ngày 15 tháng 12 năm 1945, giặc Pháp tấn công từ Sài Gòn lên Mỹ Hạnh, bộ đội ta dàn trận đánh địch dọc theo lộ lớn nhằm tiêu diệt và ngăn chặn sức tấn công của chúng. Trong trận này, cứu thương mặt trận ta có năm anh em cứu thương anh dũng hy sinh. Đó là anh Hiển, Nô, Cải, Phu, Tiều cùng với một số anh em chiến sĩ.


Sau trận này Ban hồng thập tự được lệnh di chuyển theo bộ đội về Giồng Ông Hòa. Đến nơi thì có sáu anh chị em rời bỏ ngũ.

Tháng 1 năm 1946, Giải phóng quân liên quận đưa lực lượng lên mặt trận An Lạc (Biên Hòa). Trên đường đi từ Giồng Ông Hòa, An Phú Xã, Tân Uyển, Ban hồng thập tự có nhận thêm anh Khánh, cứu thương. Mặt trận Lạc An bị vở, lực lượng Giải phóng quân rút về Gia Định, đóng quân ở Tân Mỹ - Bình Lý - An Phú Xã (Hóc Môn).


Tháng 2 năm 1946, bộ đội ta tổ chức đánh trận Bàu Tràm An Phú Xã, chị Quý cứu thương đã anh dũng hy sinh ở mặt trận trong khi làm nhiệm vụ cứu chữa thương binh.

Tháng 3 năm 1946, liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa tổ chức thành Chi đội 12 - Quân khu 7.

Thời gian qua, Ban hồng thập tự Giải phóng quân liên quận ban đầu hầu hết anh chị em đều không biết chuyên môn, vì vậy hàng ngày kèm cặp, học tập lẫn nhau, thực tập băng bó vết thương, nẹp cẳng tay, cẳng chân, tiêm thuốc trên các bẹ chuối do người biết chỉ lại cho người không biết; hàng ngày đến thăm hỏi, chăm sóc sức khỏe, bệnh tật cho bộ đội. Dụng cụ, thuốc men chỉ có vài ba cái nồi để nấu ăn, một cái soong nhỏ để nấu ống chích, kềm kéo, một đôi bồ lớn đựng thuốc, bông băng gạc, dụng cụ y tế. Thuốc men chủ yếu là thuốc cao đơn hoàn tán của tiệm thuốc anh Hiển đem ra, còn thuốc Tây chỉ có Teinture d’iode, thuốc tím, thuốc xanh blue méthylène, oxy già, bông băng gạc, aspirin, Quinin, Đagénan. Trong mấy tháng đầu kháng chiến chống Pháp, Ban hồng thập tự của liên quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa tuy tổ chức, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trang bị thuốc men dụng cụ... đều quá thiếu và quá yếu, nhưng với tinh thần yêu nước nồng nàn, với tình thương yêu chăm sóc, cứu chữa cho anh em bộ đội như anh em trong gia đình, nhiều anh chị em đã anh dũng hy sinh ngoài mặt trận để cấp cứu thương binh nên được anh em bộ đội, anh em thương bệnh binh cảm mến và được các cấp chỉ huy tin tưởng.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Chín, 2021, 07:56:40 pm
2. BAN CỨU THƯƠNG CHI ĐỘI 12 (3-1946 -3-1948)

Sau khi mặt trận An Lạc bị vỡ, lực lượng Giải phóng quân liên quận rút về Gia Định, đóng quân ở Tân Mỹ, Mỹ Bình, Bình Lý, An Phú Xã (Hóc Môn). Đến tháng 3 năm 1946, tổ chức lại thành Chi đội 12 - Quân khu 7. Ban hồng thập tự Giải phóng quân cũng đổi tên là Ban cứu thương Chi đội 12 và tổ chức như sau:

- Ban cứu thương Văn phòng Chi đội 12 có 4 người: Anh Mi, chị Ngà, chị Tư, chị Sáu.

- Cứu thương bên Chi đội phó (anh Huỳnh Tấn Chùa) có: anh Sáu Sáng, chị Chín Rành, anh Mười Đành đóng ở Giồng Dinh (Đức Huệ).

Khoảng tháng 8-9 năm 1946, thành lập Dưỡng đường Chi đội 12. Một dưỡng đường ở xã Tân Thông huyện Củ Chi do chị Mười Điệp phụ trách, có các chị Ngà, Tư, Sáu, Lan, Út, Mắc, Nguyệt. Dưỡng đường thứ hai do anh Sáu Sáng phụ trách ở Giồng Dinh.

Tất cả dưỡng đường của Chi đội 12 đều ở trong nhà dân.

Ban cứu thương Chi đội 12 còn lại anh Mi và anh Trương Kế Phước.

- Cứu thương ở các đại đội chiến đấu có: anh Phan Thành Chung ở đại đội 1, anh Nguyễn Ánh Tường và anh Trần Bửu Hên ở đại đội 2, các anh Đỗ Bá Thông, Hoàng Duy Tưởng, Nguyễn Văn Mạch và anh Hách ở đại đội 3. Anh Thông và anh Hách trước ở bộ phận của bộ đội Lý Huê Vinh nhập vào với Chi đội 12. Từ năm 1947 về sau cứu thương các đại đội lần lượt được bổ sung thêm nhiều anh em nữa: Lâm, Inh, Trinh, Xuân, Rỡ, Cửu, Sĩ, Keo, Tua, Bé ...

Đầu năm 1947, dưỡng đường Chi đội 12 ở Tân Thông dời về rừng làng Xóm Trại xã An Nhơn Tây (Hóc Môn).

Tháng 4 năm 1947, dưỡng đường này đổi tên là quân y xá 3 Chi đội 12. Anh Ba Tô Ký đưa anh Tường (Nguyễn Ảnh Tường) ở đơn vị chiến đấu đến và giao nhiệm vụ làm quân y xá trưởng. Ở quân y xá 3 lúc bấy giờ có các anh chị: chị Ngà, Châu, Lan, Nguyệt, Út, Muôn, Điệp, chị Sáu Méo, Bảy Ủi, Phụng và các anh: Long Ô (Hai Ô), anh Đời, Lan, Gạo, Châm, Thế.


Đến tháng 4 năm 1948, quân y xá 3 Chi đội 12 đổi tên là Quân y xá tiểu đoàn 934 Trung đoàn 312 do anh Trần Bửu Hên phụ trách Quân xá trưởng, chị Lê Thị Ngà làm chính trị hiệp lý viên, nhân viên quân y xá có thêm các anh chị em: Tuyết, Lan, Quăng, Hạnh, Liên, Cao Long Hà, Phụ, Gạo.


Ban đầu quân y xá 3 Chi đội 12 ở trong hai nhà dân đã bỏ đi, ở sát bìa rừng làng Xóm Trại xã An Nhơn Tây, một nhà để cho 20 thương bệnh binh, một nhà ở bên ngoài đề cho nhân viên quân y xá ở và làm việc. Có một giếng nước dùng chung cho việc nấu nướng, ăn uống, tắm giặt cho thương bệnh binh và nhân viên. Cuối năm 1947 trở về sau, thương bệnh binh ngày đông, quân y xá có thêm nhiều người và do giặc càn quét vào vùng này thường xuyên hơn trước nên quân y xá tổ chức xây dựng thêm ba lán ở trong rừng đủ chứa 60 thương bệnh binh đồng thời xây cất nhà cửa, lán trại, đào giao thông hào, hầm bí mật... làm căn cứ thứ hai ở trong rừng, cách căn cứ bên ngoài trên 500 mét để lánh né, cất giấu thương bệnh binh, thuốc men dụng cụ, lương thực, thực phẩm khi giặc càn vào vùng này. Nhờ vậy trong nhiều năm liền quân y xá vẫn bám trụ được ở đây, thu dung điều trị, nuôi dưỡng tốt cho thương bệnh binh và nhân dân địa phương ở các xã xung quanh mặc dù địch thường xuyên dùng phi pháo bắn phá và tháng nào bọn Cao Đài phản động phối hợp với giặc Pháp cũng càn quét vào vùng này nhưng tất cả anh em thương bệnh binh và nhân viên của quân y xá đều được an toàn. Chỉ có một lần, buổi sáng, anh chị em đang chích thuốc, băng bó cho anh em thương bệnh binh thì có ba chiếc máy bay khu trục của giặc bay đến, bắn phá vào các lán trại thương bệnh binh. Sau hơn nửa giờ bắn phá của địch do tất cả anh em thương bệnh binh và nhân viên quân y xá kịp thời xuống hầm trú ẩn nên được an toàn, chỉ riêng cô Hạnh cứu thương bị thương trong lúc cô đưa anh em thương binh nặng xuống hầm trú ẩn. Ngoài ra có hai lần địch càn vào và đóng quân lại ban đêm ở Xóm Trại, quân y xá tổ chức di dời, đưa anh em thương bệnh binh đi lánh né. Lần đầu tổ chức di dời xuống rừng Cây Xộp xã Phước Vĩnh An (Củ Chi), lần thứ hai tổ chức di dời đưa anh em thương bệnh binh lên rừng Phú Mỹ Hưng. Nói chung hai lần tổ chức di dời đưa anh em thương bệnh binh đi lánh né, tất cả anh chị em quân y xá rất vất vả, mệt nhọc. Số anh chị em được phân công ở lại bảo vệ căn cứ phải hết sức khẩn trương, vừa theo dõi địch, vừa tranh thủ cất giấu lương thực, thực phẩm, thuốc men còn để lại rào rấp ngụy trang các đường sá vào căn cứ, đồng thời cài lựu đạn để đánh địch ở những điểm địch có thể vào phá căn cứ. Tất cả anh chị em còn lại phân công nhau khiêng cáng thương bệnh binh nặng, gồng gánh lương thực, thực phẩm, nồi niêu, soong chảo, thuốc men dụng cụ đi theo để nuôi dưỡng và chăm sóc anh em thương bệnh binh trong những ngày di dời lánh né địch. Mặc dù lần di dời nào cũng có nhiều khó khăn, mệt nhọc, vất vả, nhưng tất cả anh chị em đều quyết tâm vượt qua, đảm bảo hành quân đến căn cứ đã định trước khi trời sáng. Nhờ vậy hai lần tổ chức di dời đưa anh em thương bệnh binh đi lánh né trong thời gian giặc càn ở vùng này đều được an toàn không bị tổn thất.


Năm 1947, dụng cụ, thuốc men của quân y xá có rất ít, vài cái kẹp, vài cái kéo, vài ống chích, nồi niêu soong chảo của dưỡng đường cũ. Nhân dân xã An Nhơn Tây đi ghe bán củi ở chợ Thủ Dầu Một mỗi lần mua về cho quân y xá được vài hộp thuốc như: Quinobleu, Chlorure Calcium, solucamphre, Huile camphrée étherée, Quinine urethane, Cacodylate de soude, Aspirine, Quinacrine viên, Dagénan, Teinture d’iode, thuốc tím, cồn, bông băng... Ngoài thuốc men bà con còn mua giúp đường sữa cho Quân y xá để nuôi dưỡng anh em thương bệnh binh. Nhờ đó cũng tạm đủ điều trị cho anh em thương bệnh binh và anh em bị sốt rét, cảm cúm. Cho đến gần cuối năm 1947 mới nhận được thuốc men của Ban quân y chi đội.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Chín, 2021, 07:57:37 pm
Một ngày giữa năm 1947, anh em ở đại đội 3 Chi đội 12 khiêng về quân y xá anh Nguyễn Văn Phụ, chiến sĩ đại đội 3 bị thương ở cánh tay trong trận đánh chống càn ở xã Vĩnh Lộc ngày hôm trước. Phần cẳng tay phía ngoài, vết thương có ga-rô cầm máu đã bầm tím và mất hết cảm giác. Nhân dịp có mặt, anh bác sĩ Hồ Văn Huê, Giám đốc Sở Quân dân y Nam bộ đến thăm quân y xá, anh Tường mời anh bác sĩ Huê xem và cho ý kiến điều trị. Sau khi xem xét xong, anh bác sĩ Huê góp ý kiến là: “nên cắt bỏ phần cánh tay đã chết để cứu sống thương binh”.


Cắt bỏ cánh tay đã chết để cứu sống anh Phụ là một chỉ định hết sức đúng đắn của anh bác sĩ Huê, không còn cách nào khác được. Nhưng trong thực tế lúc này thì quả là có rất nhiều khó khăn. Ở quân y xá lúc bấy giờ vì không có bác sĩ, y tá rành nghề, thuốc gây mê hồi sức chỉ có éther, vài ống thuốc khỏe, dụng cụ phẫu thuật có một con dao mổ không có dao cắt đoạn, không có cưa để cưa xương, có 4 cái kẹp cầm máu. Tuy vậy, anh Tường vẫn quyết tâm thực hiện phẫu thuật cắt bỏ cánh tay đã chết để cứu sống anh Phụ theo ý kiến của bác sĩ Hồ Văn Huê. Quyết định này thật táo bạo nhưng anh quyết tiến hành vì anh dựa vào kinh nghiệm hồi còn ở địa phương, anh có phụ cho thầy Hai Xuyện (là y tá cũ) hai lần cưa cắt tay chân cho đồng bào ở địa phương bị giặc bắn. Không có cưa để cưa xương, anh Tường dùng cưa thợ mộc để cưa. Chị Ngà gây mê bằng éther với masque d’ombrédane chụp mũi theo hướng dẫn của anh Tường.


Hơn nửa giờ, cuộc phẫu thuật hoàn thành tốt đẹp nhưng anh Phụ vẫn còn ngủ do thuốc mê. Tất cả anh chị em cứu thương của quân y xá luôn ở bên cạnh anh Phụ để theo dõi vì đây là ca cưa cắt cánh tay đầu tiên của quân y xá. Khoảng nửa giờ sau anh Phụ bắt đầu tỉnh dậy, cựa quậy vài lần rồi mở mắt ra. Tất cả anh chị em đều vui mừng khôn xiết khi thấy anh Phụ tỉnh dậy. Thật là một không khí mới trước một thành công mới mà anh chị em chưa thấy bao giờ.


Với thuốc men ít ỏi của quân y xá, anh Phụ chỉ được điều trị sau mổ hằng ngày: một ống thuốc khỏe, một ống thuốc bổ, 4 viên Dagénan và thay băng. Ăn uống thêm đường sữa và trái cây (trái cây của đồng bào địa phương cho).


Với tinh thần lạc quan và sức đề kháng của anh Phụ, mười ngày sau vết mổ lành và một tháng sau anh Phụ khỏe mạnh, anh xin ở lại làm liên lạc cho quân y xá. Cũng như anh Gạo, cùng trận đánh địch ở xã Vĩnh Lộc với anh Phụ, anh Gạo bị thương bể xương trán, dài 5cm, rộng 2cm, màng não lòi ra nhảy phập phồng, ai thấy cũng sợ. Anh Gạo cũng được điều trị thông thường, sau một tháng vết thương lành hẳn, anh xin ở lại làm nhân viên quân y xá.


Việc cưa tay cứu sống anh Phụ được truyền đi khắp Chi đội 12 và lan rộng trong nhiều địa phương của quận Hóc Môn, nhất là ở hai xã An Nhơn Tây và Nhuận Đức nên bà con và các đoàn thể Hội mẹ, Hội chị chiến sĩ thường xuyên đến thăm viếng, tặng quà cho anh em thương bệnh binh.


Vài ngày sau cưa tay anh Phụ, một buổi trời vừa xế, có một anh nông dân trạc tuổi 30, đến quân y xá sắc diện buồn rầu và lo âu, tìm xin gặp anh Tường. Anh trình bày: anh ở Xóm Trại Giàng Bầu, cách quân y xá khoảng 6km, vợ anh đẻ khó, bà mụ vườn đỡ đẻ đã lôi đứt hết một cánh tay của thai nhi ra ngoài, thai nhi đã chết và còn trong bụng mẹ, nhưng nhà quá nghèo, ở trong vùng của chiến khu, anh không có phương cách nào để đưa vợ anh ra bệnh viện ở vùng địch để mổ được. Anh thiết tha nhờ anh Tường cứu giúp. Sau khi nghe anh trình bày xong, chúng tôi thấy anh Tường trầm ngâm suy nghĩ trong giây lát rồi nói với anh ấy rằng: “Được rồi chúng tôi sẽ giúp anh, anh về trước đi, chúng tôi chuẩn bị dụng cụ phẫu thuật, thuốc men rồi sẽ đến sau”. Anh Tường biểu chị Ngà chuẩn bị dụng cụ, thuốc men, còn anh thì đi lấy sách ra xem. Mấy ngày sau chúng tôi mới biết: “sở dĩ anh Tường nhận lời giúp mổ lấy thai nhi đã chết trong bụng vợ người nông dân vì tình thương cao độ và không còn cách nào khác, mặc dù anh Tường chưa thấy phẫu thuật bụng bao giờ, anh Tường phải lấy sách học phương pháp mổ dạ con lấy thai nhi”. Sau một giờ đọc sách, chị Ngà chuẩn bị dụng cụ, thuốc men cũng đã xong. Anh Tường biểu chị Ngà cùng đi theo phụ với anh. Anh nông dân kia vẫn chờ. Khi anh ấy dẫn anh Tường và chị Ngà về đến nhà, nhà nghèo xơ xác, chỉ có một cái giường tre để góc nhà, sản phụ vợ anh nằm dưới đất giữa nhà, lót tấm đệm cũ, lim dim, mệt nhọc, phía ngoài chân của chị là cánh tay của thai nhi để trong một mo cau mà bà mụ vườn đã làm đứt rời ra.


Trước cảnh khổ quá đau lòng ấy, anh Tường vừa xem mạch cho sản phụ vừa biểu anh chồng đi nấu một nồi nước sôi để pha nước muối sát trùng.

Cuộc phẫu thuật bắt đầu sau khi tiêm một ống thuốc ngủ (morphine) và một ống thuốc trợ sức. Anh Tường mổ chính, chị Ngà phụ. Với một con dao mổ, một cái kéo, bốn cái banh kẹp mạch máu, hai chiếc cái van farabeuf để banh thành bụng. Khắc phục mọi khó khăn, sau hơn nửa tiếng đồng hồ, anh Tường và chị Ngà hoàn thành cuộc mổ “lấy thai nhi đã chết trong dạ con ra, lau sạch ổ bụng bằng nước muối, đóng thành bụng lại”. Mổ vừa xong thì sản phụ cũng bắt đầu tỉnh lại. Chồng sản phụ và bà con lối xóm thấy sản phụ đã thoát nạn nên không ngớt lời cám ơn anh Tường và chị Ngà. Trời sắp tối, anh Tường cho thuốc để ở nhà tiếp tục điều trị cho sản phụ và ra về, lòng đầy vui sướng vì đã cứu được người, đồng thời cũng giúp cho gia đình sản phụ giải tỏa được một sự bế tắc vô cùng khó khăn trong đời sống.


Giữa năm 1947, anh Tường xin được ba chiếc kìm nhổ răng của anh Tư Chương, nha tá ở Chi đội 6. Anh Tường hướng dẫn anh Hai Ô phương pháp nhổ răng và giao cho anh Hai Ô phụ trách nhổ răng hư cho anh em bộ đội và chiều nào rảnh thì ra các xã An Nhơn Tây, Nhuận Đức nhổ giúp cho bà con ở hai xã này. Chỉ sau một thời gian ngắn bà con ở hai xã này rất quý mến anh Hai Ô, quý mến quân y xá 3 vô cùng. Ở xóm ấp nào lâu lâu không thấy anh Hai Ô đến thì bà con ở đấy nhắc nhở.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Chín, 2021, 07:58:15 pm
Đầu năm 1948, anh Tường đi học lớp y tá Pasteur ở Nam Bộ về. Anh xin phép vào thành phố Sài Gòn 7 ngày, khi trở ra, anh đem theo một số dụng cụ chuyên môn, kể cả cưa sắt để cưa xương, nhiều hơn dụng cụ mà Quân y xá 3 đã có và 2 quyển sách chuyên môn mà anh quý nhất là quyển huấn luyện y tá của bệnh viện Chợ Rẫy và quyền Hình ảnh và tên các loại dụng cụ phẫu thuật (Catelogue des instruments chirurgicals). Nhờ hai quyển sách này, anh Tường mở ngay lớp đào tạo cứu thương đầu tiên cho Chi đội 12. Thời gian học 3 tháng, chiều lên lớp, sáng thực hành và chăm sóc, điều trị anh em thương bệnh binh dựa theo chương trình huấn luyện y tá của bệnh viện Chợ Rầy. Thành phần được học là tất cả anh chị em làm công tác chuyên môn của quân y xá 3 (hơn 10 anh chị em). Mỗi đại đội chiến đấu được gởi đến học từ 1 đến 2 người, đồng thời đào tạo giúp cho 3 xã ở chung quanh quân y xá: xã An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Mỹ Hưng, mỗi xã được gửi 2 người đến học.


Lớp học này lấy tên “Lớp cứu thương Đỗ Bá Thông” (anh Đỗ Bá Thông là y tá của đại đội 3, anh dũng hy sinh trong trận chống giặc càn ở xã Vĩnh Lộc giữa năm 1947).

Lớp khai giảng giữa tháng 1 năm 1948, bế giảng giữa tháng 4 năm 1948, tại nhà ông Dài, chủ tịch ấp Xóm Trại xã An Nhơn Tây ở cạnh quân y xá 3 độ hơn 500 mét. Được gia đình ông chủ tịch Dài tận tình giúp đỡ về nhà cửa để làm lớp học, chuyên chở gạo thóc nuôi thương bệnh binh và lớp học nên quân y xá và lớp học được rất nhiều thuận lợi trong việc học tập và nuôi dưỡng, chăm sóc điều trị anh em thương bệnh binh.


Sau lớp học, tất cả anh chị em học sinh đều rất phấn khởi và tự tin vì thấy mình trưởng thành về chuyên môn vượt bực cả lý thuyết bệnh học, cả về thực hành theo chương trình huấn luyện y tá của bệnh viện Chợ Rẫy, ngoài ra còn biết rất nhiều về dụng cụ phẫu thuật mà người y tá thường không biết được. Lớp cứu thương bế mạc, anh chị em ở đơn vị nào trở về công tác ở đơn vị đó nhưng tình đoàn kết thương yêu nhau trong ngành quân y Trung đoàn 312 và dân y các xã trong huyện Hóc Môn càng gắn bó mật thiết hơn. Tất cả anh chị em ở 3 xã, sau khi học xong trở về được xã giao nhiệm vụ phụ trách y tế xã và thường xuyên đến quân y xá học tập thêm kinh nghiệm.


Dưỡng đường ở Giồng Dinh do anh Sáu Sáng phụ trách, đến tháng 4 năm 1947 đổi tên là quân y xá 2 Chi đội 12 có thêm anh Trường Châu và anh Minh Châu. Tháng 1 năm 1948, quân y xá này phục vụ bộ đội ta đánh giặc càn lớn vào Đồng Tháp Mười. Sau trận càn, các lực lượng của Chi đội 12 hoạt động ở vùng này tiếp tục đánh các đồn bót địch ở Đức Hòa, Đức Huệ, Trung Huyện, đến tháng 3 năm 1948 thì chuyển hướng hoạt động về Bến Cát (Thủ Dầu Một). Quân y xá 2 cũng được lệnh di dời về đóng ở Vườn Mít An Thành xã An Tây huyện Bến Cát và đổi tên là quân y xá 4 Chi đội 12. Anh Lê Trường Châu làm quân y xá trưởng. Anh Sáu Sáng về làm trưởng ban quân y Chi đội 12. Anh Trần Minh Châu ra làm y tá tiểu đoàn 935 Trung đoàn 312.


Từ giữa năm 1947 đến mấy tháng đầu năm 1948, bọn phản động trong Cao Đài thường xuyên kết hợp với giặc Pháp càn quét vào vùng này và có 2 lần chúng đóng quân lại ban đêm ở Xóm Trại xã An Nhơn Tây, rất gần quân y xá. Do đó quân y xá phải di dời để lánh né. Lần thứ hai di dời, khi trở về đến căn cứ là hơn 5 giờ chiều, có một cháu bé gái khoảng 12-13 tuổi ở xã Nhuận Đức bị pháo địch bắn đứt đến khuỷu cánh tay trái từ sáng, nhưng phải chờ địch rút đi gia đình mới đưa cháu đến quân y xá để cứu chữa giùm. Anh em ở lại giữ căn cứ nhận cháu vì biết thế nào chiều hoặc tối thì anh chị em quân y xá di dời, lánh né địch sẽ trở về. Anh chị em quân y xá mới trở về chưa ổn định nhưng anh Tường bảo các chị em chuyên môn chuẩn bị dụng cụ, thuốc men để cắt cánh tay cứu sống cháu bé. Nửa giờ sau, dụng cụ, thuốc men chuẩn bị xong. Trước khi phẫu thuật cháu bé chỉ được chích 1 ống thuốc khỏe và 1 ống thuốc ngủ (morphine). Khi cháu bé vừa ngủ, anh Tường cùng các chị em nhanh chóng làm phẫu thuật cắt cánh tay cho cháu bé, khoảng 20 phút xong. 15 phút sau cháu bé tỉnh lại. Gia đình cháu hết sức vui mừng, cám ơn tất cả anh chị em quân y xá.


Tất cả đang lo sắp xếp ổn định chỗ ăn ở cho anh em thương bệnh binh thì khoảng 8 giờ tối, chị Liên, hội trưởng hội phụ nữ ấp Xóm Bưng xã Nhuận Đức đến báo với anh Tường: ở gần nhà chị có cháu bé gái 10 tuổi, sáng nay chạy trốn giặc càn, trốn ngoài rạch đến chiều trở về, cháu bị đỉa chui vào âm đạo gây chảy máu nhiều, cháu và gia đình hết sức lo sợ, vì thế chị phải vào quân y xá nhờ anh Tường đến xem và lấy con đỉa ra giùm. Vì không thể rời quân y xá trong lúc này, để chị Liên khỏi thất vọng, anh thuyết phục chị Liên trở về cùng gia đình làm theo sự hướng dẫn của anh Tường thì chắc chắn sẽ lấy con đỉa ra được và anh Tường hứa với chị Liên: chừng nào không lấy con đỉa ra được, chị trở vào báo, anh Tường sẽ đến giúp.


Sáng hôm sau chị Liên trở vào quân y xá, vui tươi, hớn hở báo với anh Tường: Theo lời anh hướng dẫn, tôi về cùng gia đình lấy vôi ăn trầu khuấy thành nước, chấm vào hai đầu đỉa bám âm đạo và cả âm đạo, sau lần thứ ba thì con đỉa giẫy giụa bò ra khỏi âm đạo. Gia đình và cháu bé giờ đây rất vui mừng, cháu bé hết khóc.


Chị Liên thay mặt gia đình cháu bé và địa phương cám ơn sự giúp đỡ của quân y xá.

Dụng cụ thuốc men ban đầu chỉ có một số rất ít của Ban hồng thập tự xã Bà Điểm mang theo ra phục vụ cho lực lượng Giải phòng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa. Khi thành lập dưỡng đường Chi đội năm 1946 đến hết năm 1947, các dưỡng đường (sau là quân y xá chi đội) được nhân dân ở trong thành phố ủng hộ. Bên dưỡng đường (quân y xá 2) của anh Sáu Sáng ở Giồng Dinh được anh Lâm Xuyện (thầy Hai Xuyện), cán bộ Ban công tác 3 Chi đội 12, hoạt động vùng Chợ Lớn, thường xuyên liên hệ với nhà thuốc Phạm Hữu Hạnh ở đường Galiéni (nay là đường Trần Hưng Đạo). Ông Hạnh là người ủng hộ kháng chiến nên mỗi lần anh Lâm Xuyện đến hoặc cử người đến xin thuốc thì ông luôn đáp ứng được theo yêu cầu. Anh Lâm Xuyện cho anh em trong Ban công tác 3 đem ra xã Vĩnh Lộc rồi tổ chức đưa đến cho quân y xá 2 ở Giồng Dinh. Nguồn thuốc này duy trì được đến khi quân y xá 2 Chi đội 12 di chuyển địa điểm về Vườn Mít An Thành, huyện Bến Cát.


Hướng quân y xá 3, từ khi về rừng làng Xóm Trại xã An Nhơn Tây cho đến gần hết năm 1947, thuốc men, bông băng nhờ đồng bào vùng này đi bán củi ở chợ Thủ Dầu Một mua giùm, cuối năm 1947 trở về sau có hai anh: anh Cơ và anh Năm người của Ban tiếp tế mua đưa vào và một phần lớn thuốc dùng trong quân y Chi đội 12 là thuốc mua ở nhà thuốc ông Trương Kế An ở thị xã Thủ Dầu Một, một người yêu nước, ủng hộ kháng chiến, có con là Trương Kế Phước theo kháng chiến, đang là y tá Ban cứu thương Chi đội 12.


Từ khi Chi đội 12 tổ chức được 2 dưỡng đường giữa năm 1946 cho đến khi thành quân y xá Trung đoàn 312 tháng 3 năm 1948, thời gian chưa đầy 2 năm. Các quân y xá đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình: thu dung cứu chữa, điều trị tốt cho anh em thương bệnh binh và đồng bào ở địa phương, được anh em chiến sĩ và các cấp chỉ huy trong chị đội tin yêu, tin tưởng, được nhân dân địa phương cảm mến giúp đỡ, đùm bọc, che chở... tạo điều kiện thuận lợi cho các quân y xá đạt được nhiều thành công.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Chín, 2021, 07:59:18 pm
3. QUÂN Y TRUNG ĐOÀN 312 (3-1948 - 9-1949)

Cuối tháng 3 năm 1948, theo chủ trương của Bộ tư lệnh Quân khu 7, Chi đội 12 tổ chức lại thành Trung đoàn 312. Do đó Ban cứu thương Chi đội 12 cũng được đổi tên là Ban quân y Trung đoàn 312. Anh Trần Văn Sáng làm trưởng ban. Anh Nguyễn Văn Mi làm phó ban. Anh Lê Đăng Trang làm chính trị hiệp lý viên. Anh Trương Kế Phước trợ lý. Anh Hải, tiếp liệu.


Năm 1949, anh Bảy Ngà về thay anh Sáu Sáng và có thêm anh Nguyễn Văn Hưng (tự A) và anh Vĩnh trong tổ bào chế thuốc trực thuộc Ban quân y trung đoàn do anh Bảy Ngà phụ trách.

Quân y xá 3 Chi đội 12 đổi tên là quân y xá tiểu đoàn 934 Trung đoàn 312. Anh Trầm Bửu Hên phụ trách quân y xá trưởng. Chị Lê Thị Ngà làm chính trị hiệp lý viên. Có thêm các em: Tuyết, Lan, Quăng, Hạnh, Liên, Vân, Cao Long Hà. Quân y xá vẫn ở chỗ cũ của quân y xá 3 Chi đội 12.


Năm giờ chiều của một ngày trong tháng 4 năm 1948 anh em quân giới khiêng đến quân y xá một thương binh rất nặng là anh Ba Hát (Huỳnh Văn Hát). Anh Hát phụ trách phân xưởng chế tạo vũ khí của Trung đoàn 312 đóng ở rừng Bến Dược xã Phú Mỹ Hưng. Do nổ trái lựu đạn, anh bị choáng nặng vì sức ép và rất nhiều thương tích từ mặt đến bụng và hai cánh tay gây mất máu rất nhiều. Nếu anh em khiêng đến không nói là anh Ba Hát thì không thể nào nhận ra anh được, vì từ đầu đến bụng đều bị mảnh và thuốc nổ tàn phá nám đen, trông rất kinh sợ: tóc phần trước bị cháy quăn lại sát da đầu, ở giữa trán vỡ một miếng xương 4x3cm, não nhảy phập phồng; cặp mắt sưng híp, thuốc nổ cắm đầy giác mạc cả hai mắt, anh không còn nhìn thấy gì, từ cố đến bụng nám đen, chi chít mảnh và thuốc nổ; cẳng tay trái gãy hai xương, bàn tay lủng lẳng, bàn tay phải bị nát mất ngón cái, ngón trỏ mất 1/3. Máu ở khắp vết thương còn tiếp tục chẩy. Từ trước đến nay quân y xá chưa nhận một thương binh nào nặng như thế.


Sau khi kiểm tra xong tình trạng các vết thương và tình trạng choáng của anh Ba Hát, anh Tường hướng dẫn cho các chị Ngà, Muôn, Út, Châu... chích thuốc ngủ, thuốc khỏe, thuốc cầm máu để chống choáng và nâng đỡ cơ thể, đồng thời tiến hành rửa tất cả vết thương từ đầu đến bụng, riêng cẳng cánh tay trái phải cưa thì chưa xử trí được vì thương binh còn choáng nên chỉ cầm máu, băng bó cố định tạm thời chờ ngày hôm sau sẽ xử trí khi tình trạng thương binh ổn định. Sáng hôm sau thương binh hết choáng, ổn định lại nhưng giặc lại càn vào, quân y xá phải đựa tất cả thương bệnh binh, kể cả anh Ba Hát vào rừng để lánh né cả ngày.


Ngày hôm sau, ngày xử lý cắt đoạn cẳng tay để cứu sống anh Ba Hát nhưng anh Tường phải đứng trước một tình huống rất khó xử. Từ khi anh Ba Hát bị thương vào quân y xá đến giờ, luôn có mặt các em ruột của anh Ba Hát, nhất là anh Xướng và tất cả anh em quen biết; các anh ở cấp chỉ huy: anh Tô Ký, anh Bứa, anh Tư Thược... đến thăm, an ủi anh Hát nhưng với tâm trạng vô vọng. Các anh đều góp ý kiến với anh Tường nên xử lý anh Hát theo hướng vô vọng để giúp anh Hát tránh được khổ sở sau này.


Phẫu thuật cắt đoạn cẳng tay cho anh Hát lần này có khó khăn vì tình trạng thương binh bị nhiều thương tích nặng, vừa thoát choáng và mất máu. Nhưng so với phẫu thuật cắt đoạn cánh tay của anh Phụ hồi giữa năm 1947 thì có thuận lợi hơn nhiều: Từ anh Tường đến các chị em cứu thương trong quân y xá đều đã được học tập có trường lớp, có bài bản vững vàng. Dụng cụ phẫu thuật, thuốc men tuy có rất ít nhưng vẫn nhiều hơn năm 1947 gấp bội. Thuốc băng bó vết thương không dùng Teinture d’iode mà dùng thuốc đỏ trộn bột Sulfamide và 3 ngày mới thay băng một lần, thương binh không đau đớn, vết thương mau lành (phương pháp mới của bác sĩ Trần Nam Hưng đã được áp dụng điều trị thương binh ở quân y viện số 2 Nam Bộ). Ngoài ra còn có kinh nghiệm sử dụng tiêm nước dừa xiêm của Nhật để hồi sức thay thế dịch truyền.


Đúng vậy, lần này cắt đoạn cẳng tay của anh Ba Hát hoàn thành nhanh gọn, chỉ không đầy 30 phút đã xong và 15 phút sau anh Ba Hát tỉnh lại xin uống nước. Đến chiều, anh Ba Hát được truyền vào cơ thể một trái nước dừa xiêm khoảng một lít. Khi truyền vào được nửa trái, anh Ba Hát nói: bây giờ tôi khỏe lắm, hết mệt rồi. Thấy hiệu quả của nước dừa xiêm trong hồi sức rất tốt nên mấy ngày sau, ngày nào cũng truyền cho anh Ba Hát một trái nước dừa xiêm.


Sinh mạng của anh Ba Hát được cứu thoát nhưng còn đôi mắt anh không thấy đường, cùng vết thương nặng ở trán? Biết làm sao được!!!

Có thuốc nào thì dùng thuốc ấy vậy. Sau phẫu thuật cho đến những ngày sau, anh Hát được điều trị: chỉ được một lọ Pénicilline, còn lại là Daginan, mỗi ngày được truyền một trái nước dừa xiêm, một ống thuốc khỏe, một ống thuốc bổ. Rửa mắt bằng nước muối. Riêng ăn uống thì được nuôi dưỡng tối đa: đường sữa, thịt cá, trái cây... ăn nhiều bữa trong ngày, thèm thứ gì thì gia đình anh tìm mua đem vào cho ăn. Sáng ngày thứ tư, sau khi các anh chị em chăm sóc các vết thương và rửa mắt cho anh xong, anh nói: hôm nay tôi thấy được hình dáng của các chị. Một sự vui mừng vừa hé mở cho gia đình anh Ba Hát và cho tất cả anh chị em trong quân y xá. Bảy ngày sau, đôi mắt anh Ba Hát nhìn rõ lại được bình thường, các vết thương trên người anh lành nhiều trừ vết thương ở trán sau một tháng mới lành.


Trước những thương tích nặng của anh Ba Hát, gia đình và tất cả các anh chỉ huy Trung đoàn 312, anh em quen biết anh đều tỏ ý vô vọng khi đến thăm. Nhưng nay anh đã sống, các thương tích đều lành, hai mắt không còn mù nữa mà sáng tỏ lại bình thường. Đấy là sự thành công lớn của tất cả anh chị em quân y xá và gia đình anh Ba Hát đã đem hết tình thương của mình ngày đêm chăm sóc điều trị nuôi dưỡng. Thành công này đem lại dấu ấn và tâm cảm tốt đẹp lâu dài trong Trung đoàn 312, trong gia đình anh Ba Hát mà nhất là anh Ba Hát không bao giờ quên.


Khi thành Trung đoàn 312, quân y xá 4 Chi đội 12 đổi tên là quân y xá tiểu đoàn 935 Trung đoàn 312 vẫn do anh Lê Trường Châu làm quân y xá trưởng, chị Nguyễn Thị Phi Phụng làm chính trị hiệp lý viên và các anh chị em: Bán, Diêu, Duyên, Xuân, anh Tưới (ở quân y xá 3 sang), Kẹt, Phúc, Luận, Đởm, Hớn, Hiền, anh Tám Cỏi, anh Xem, Coi và ông Sáu Đệ.


Rút kinh nghiệm của quân y xá 3, quân y xá 4 Chi đội 12 về đây xây cơ sở nhà cửa, lán trại cho thương bệnh binh và nhân viên, đảm bảo thu dung điều trị được cho 60 thương bệnh binh. Có hai căn cứ, một ở Vườn Mít ngã ba Thùng thơ An Thành, căn cứ hai cách căn cứ một khoảng 1km sâu trong rừng xã An Điền huyện Bến Cát. Căn cứ nào cũng có giao thông hào, hầm bí mật để ẩn núp, cất giấu thương bệnh binh, thuốc men, dụng cụ... Khi giặc dùng phi pháo bắn phá hoặc càn quét vào vùng này, tổ chức phân công, phân nhiệm các tổ chuyên môn và không chuyên môn như quân y xá 3 Chi đội 12. Sau một thời gian, anh Trường Châu đi học, anh Ba Tường được Ban chỉ huy Trung đoàn 312 bổ nhiệm về thay anh Châu làm quân y xá trưởng.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 04 Tháng Chín, 2021, 07:59:57 pm
Tiếp tục học tập và phát huy kinh nghiệm mọi mặt của quân y xá 3 Chi đội 12 (tiểu đoàn 934 Trung đoàn 312), nhất là các phong trào thi đua, trong một thời gian không lâu quân y xá 4 Chi đội 12 (tiểu đoàn 935 Trung đoàn 312) đã đuổi kịp quân y xá 3 nên tất cả anh chị em quân y xá 4 đều vui sướng và tự tin ở mình nên càng ra sức học tập chính trị, chuyên môn, văn hóa... phục vụ thương bệnh binh ngày càng tốt hơn, chất lượng cao hơn, được anh em thương bệnh binh ngày càng quý mến, nhân dân và các đoàn thể của ba xã: An Tây, An Phú, An Điền che chở, giúp đỡ, thường xuyên đến thăm hỏi, tặng quà cho anh em thương bệnh binh.


Nhờ những kết quả trên nên suốt thời gian từ khi quân y xá về đứng chân ở đây cho đến khi bàn giao cho Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, quân y xá tiểu đoàn 935 Trung đoàn 312 nhiều lần bị giặc dùng phi pháo bắn phá vào căn cứ, nhiều lần giặc càn quét qua vùng này nhimg vẫn tự mình bảo vệ an toàn được về người và của, đứng vững trên địa bàn, phục vụ kịp thời thương bệnh binh của các đơn vị hoạt động và tác chiến ở trong huyện Bến Cát, được anh em bộ đội và các cấp chỉ huy yêu mến, tin tưởng.


Từ khi thành lập Trung đoàn 312 cho đến khi sáp nhập với Trung đoàn 306 thành Liên trung đoàn 306-312, ở các đại đội chiến đấu của Trung đoàn 312 không có y tá, mỗi đại đội có 2-3 cứu thương chăm lo sức khỏe, phục vụ cho đơn vị luyện tập, chiến đấu ngày càng cao trong những năm 1948-1949, điều trị anh em thương bệnh binh tại đơn vị, đồng thời tham gia học tập, rèn luyện cùng anh em trong đơn vị. Công việc nhiều, danh nghĩa là cứu thương đại đội nhưng thực tế anh em phải làm hết công việc quân y của đại đội với tinh thần vui tươi, hào hứng, phấn khởi nên tất cả anh em cứu thương đều được anh em trong đơn vị cảm mến, tin tưởng.


Ở tiểu đoàn 935 Trung đoàn 312 có anh y tá Trần Minh Châu phụ tráchmột thời gian dài. Ở tiểu đoàn 934-312 có anh y tá Phan Thành Chung phụ trách, anh đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ phục vụ đơn vị chiến đấu chống giặc càn vào Đồng Lớn - Sa Nhỏ hồi giữa năm 1949. Anh em trong đơn vị rất thương tiếc anh.


Đến giữa năm 1948, thuốc men dụng cụ ở hai quân y xá và các đơn vị chiến đấu khá hơn trước gấp bội. Riêng ở binh công xưởng Trung đoàn 312 ở suối Bà Chiêm (Tây Ninh) còn nhiều thiếu thốn vì đường tiếp tế vận tải xa. Ở đây anh em thợ của binh công xưởng giúp anh em Quân y tìm lấy nhiều cây thuốc trong rừng để trị bệnh cho anh em theo kinh nghiệm của đồng bào địa phương như: hoàng đằng, cốc bạch, mã tiền, cây lấu... đem về phơi khô, tán nhuyễn đóng thành viên (khuôn đóng viên do anh em thợ làm) để điều trị các bệnh: sốt rét, ghẻ lở, bổ, xổ, ho, lỏng lỵ đem lại kết quả rất tốt, và từ đó anh em ở đây không còn sợ thiếu thuốc để điều trị sốt rét rừng nữa.


Nhu cầu thuốc men trong trung đoàn ngày càng nhiều, nếu chỉ dựa vào thuốc thu mua trong vùng địch thì không đủ cung cấp cho các đơn vị. Ban quân y Trung đoàn 312 khắc phục mọi khó khăn thiếu thốn về dụng cụ pha chế và chai lọ đựng thuốc. Đến năm 1949, xây dựng được tổ bào chế thuốc Tây y do anh Bảy Ngà phụ trách và có các anh Hưng (tự A), anh Vĩnh và vợ anh Bảy Ngà giúp việc, đóng ở nhà dân, cạnh Ban quân y trung đoàn.


Tổ pha chế này, theo định kỳ hàng tháng pha chế các loại thuốc thông thường để cấp cho các đơn vị chiến đấu và quân y các cơ quan trong trung đoàn ngày càng được nhiều hơn như: Quinacrine pha để tiêm, thuốc bổ: CacodylatedeNa, Strychnine, nước cất. Các loại thuốc nước dùng ngoài da: thuốc đỏ, thuốc tím, Teinture d’iode, Bleu Méthylène... Nhờ đó thuốc dùng trong các đơn vị ngày càng được dồi dào, đầy đủ hơn trước.


Năm 1949, do nhu cầu ngày càng phát triển của ngành quân dân y Nam Bộ, Sở Y tế quân dân Nam Bộ tiếp tục mở các khóa học đào tạo y tá, dược tá cho các tỉnh và các đơn vị chiến đấu, nhờ đó quân y Trung đoàn 312 được cử một số anh chị em đi học hai khóa học này như: anh Mi, chị Ngà đi học lớp dược tá, anh Chung, anh Châu... đi học lớp y tá. Sau khi học xong, các anh các chị trở về trung đoàn tăng thêm chất lượng chuyên môn, góp phần làm cho ngành quân y Trung đoàn 3X2 càng vững mạnh thêm cho đến khi Trung đoàn 312 sap nhập với Trung đoàn 306 thành Liên trung đoàn 306-312.


Ngành quân y Trung đoàn 312 khi mới hình thành là Ban hồng thập tự xã Bà Điểm gia nhập Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa trở thành Ban cứu thương Chi đội 12 rồi đến Ban quân y Trung đoàn 312. Ban đầu đó là một tổ chức rất nhỏ bé, ít người, chỉ có một vài y tá và một số anh chị em được hướng dẫn tiêm chích, băng bó trong vài ngày gọi là cứu thương, dụng cụ thuốc men quá ít ỏi. Nhưng với tinh thần yêu nước nồng nàn, tình yêu thương đồng đội như người thân, các chiến sĩ quân y không sợ ác liệt, dám xung phong ra mặt trận để cứu chữa thương binh dù phải hy sinh tính mạng. Các anh chị: Hiển, Phu, Nô, Cải, Tiều đã anh dũng hy sinh cùng một số anh chị em chiến sĩ trong trận giặc Pháp tấn công lấn chiếm vùng Mỹ Hạnh ngày 15 tháng 12 năm 1945. Chị Quý hy sinh trong trận Bàu Trâm An Phú Xã tháng 2 năm 1946 trong lúc làm nhiệm vụ cấp cứu anh em thương binh ở mặt trận.


Hàng ngày các anh chị em quân y phân công nhau đến từng nhà dân có bộ đội đóng quân thăm hỏi, chăm sóc sức khỏe anh em chiến sĩ. Do đó Ban hồng thập tự được sự tin yêu của cấp chỉ huy đến anh em chiến sĩ ngay trong những tháng đầu sơ khởi.


Từ khi có tổ chức Ban cứu thương Chi đội 12, sau thành Ban quân y Trung đoàn 312, dưới sự chăm lo, chỉ đạo của Ban chỉ huy Chi đội 12 - Trung đoàn 312, với tình thương yêu bộ đội, yêu ngành, yêu nghề, phát huy tinh thần tự lực, anh chị em quân y luôn vươn lên khắc phục mọi khó khăn thiếu thốn để cứu chữa, chăm sóc, điều trị, nuôi dưỡng thương bệnh binh ngày càng tốt hơn. Anh dũng hy sinh trong chiến đấu như anh Đỗ Bá Thông, y tá đại đội 3 trong trận chống giặc càn giữa năm 1947 ở xã Vinh Lộc quận Tân Bình, anh Phan Thành Chung, y tá tiểu đoàn 934 Trung đoàn 312 hy sinh trong trận chống giặc càn ở Đồng Lớn - Sa Nhỏ giữa năm 1949. Đồng thời nhờ sự yêu thương đùm bọc, che chở của nhân dân khắp nơi trên địa bàn hoạt động của Chi đội 12 Trung đoàn 312 nên ngành quân y ngày càng lớn mạnh về mọi mặt, hoàn thành nhiệm vụ cứu chữa điều trị, nuôi dưỡng thương bệnh binh... ngày càng tốt hơn, chất lượng cao hơn. Từ quân y đại đội chiến đấu đến các quân y xá trung đoàn, được sự cảm mến, tin yêu của tất cả anh em chiến sĩ và các cấp chỉ huy trong trung đoàn. Cuối năm 1948, Ban chỉ huy Trung đoàn 312 cấp giấy khen về thành tích quân y mà tiêu biểu là quân y xá 3 Trung đoàn 312.


Từ khi sơ khởi là Ban hồng thập tự Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ Ban quân y Trung đoàn 312 tính gọn là bốn năm. Từ không biết một tí gì về tổ chức, nhiệm vụ quân y trong quân đội, không biết một tí gì về nguyên tắc cấp cứu, điều trị vết thương chiến tranh... trong 4 năm ngắn ngủi, tất cả anh chị em quân y Giải phóng quân - Chi đội 12 - Trung đoàn 312 đã ra sức phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ phục vụ bộ đội công tác và chiến đấu, phục vụ thương bệnh binh ngày càng tốt hơn góp phần xứng đáng của mình cho Trung đoàn 312 đủ sức đứng vững hoạt động, chiến đấu và chiến thắng địch trên địa bàn, bảo vệ được nhân dân trong vùng.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Chín, 2021, 08:14:53 pm
SẢN XUẤT TỰ TÚC NUÔI QUÂN


VÕ VĂN HOA


Tháng 7 năm 1946, anh Ba Tô Ký bảo tôi làm sản xuất.

Lúc đó tôi rất thắc mắc tại sao không cho tôi chiến đấu mà bắt tôi phải làm sản xuất. Anh Ba Tô Ký nói là trong lúc nầy có chỉ thị 40 của Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ, mỗi chi đội phải thành lập đoàn sản xuất tự túc (có nghĩa là tự lực cánh sinh tự cung tự cấp). Anh bảo tôi cố gắng, vì trong lúc nầy anh không thấy có ai mà chỉ có tôi làm được. Tôi nói: làm thì tôi có thể làm được, người có, ruộng có, nhưng trâu bò, phương tiện giống má đâu mà làm? Anh Ba Tô Ký nói với tôi là anh đã có bàn bạc với Hoàng Duy Khương rồi, tất cả thứ đó điều có phân công cho anh Lê Minh Định lo, còn cái “mộc” của Đoàn sản xuất, tôi đã lo xong rồi. Tôi đến gặp anh Lê Minh Định bàn về tiền bạc để mua sắm trâu, bò, dụng cụ và mọi thứ để dùng cho sản xuất, thì anh Lê Minh Định giao cho tôi 3000 đồng (tiền IDeo tức là thời Nhật Bản cai trị). Tôi thấy số tiền đó không đủ để mua sắm trâu, bò và dụng cụ cho sản xuất. Tôi trở về ghé qua anh Ba Tô Ký báo cho anh biết là tôi không thể làm được, không có trâu, bò không thể bắt anh em mình kéo cày, kéo bừa được. Tôi xin phép cáo từ ra về. Anh Ba Tô Ký nắm vai kéo tôi ngồi xuống, nói bây giờ ý của Sáu Hoa như thế nào? Tôi trả lời với anh là nếu tôi làm thì phải thành lập Đoàn kinh tế sản xuất thì tôi làm. Anh Ba Tô Ký nói là chỉ thị 40 là thành lập sanh sản tự túc, bây giờ anh bảo phải có thêm chữ kinh tế thì sai với chỉ thị 40. Tôi nói với anh Ba Tô Ký rằng, tiếng đời người ta thường nói “phi thương bất phú”, chỉ có đi buôn mới mau làm giàu. Anh Tô Ký hỏi: anh nói sản xuất không tiền, bây giờ đi buôn lấy đâu ra tiền mà buôn. Tôi trả lời là tôi có cách làm ra tiền, tôi cho anh em đón xe vận tải, kêu gọi họ đóng góp cho kháng chiến, chừng đó có vốn đi buôn, từng bước mua sắm trâu, bò, và tất cả phương tiện và đồ dùng cho sản xuất. Anh Ba Tô Ký nghe tôi xây dựng kế hoạch để làm ra tiền, thấy đúng nên anh bảo tôi về nghiên cứu kế hoạch làm cho tốt, tôi sẽ cho khắc cái mộc khác cho anh là: “Đoàn kinh tế sản xuất”. Làm xong tôi cho liên lạc mang xuống anh.


Tôi về suy nghĩ một đêm để thảo ra lời kêu gọi các đoàn xe vận tải chuyên chở trên tuyến đường Sài Gòn - Tây Ninh - Nam Vang phải đóng góp tiền bạc hàng tháng ủng hộ kháng chiến của Chính phủ Hồ Chí Minh. Viết xong, tôi mang đến anh Ba Tô Ký xin ý kiến để hoàn thành bản Lời kêu gọi rồi đưa anh em ấn loát in ra trên 100 bản.


Ngày hôm sau tôi đi tìm anh Hai Bứa, đại trưởng đại đội 2, nhờ anh ngày chủ nhật đem quân ém hai bên đường số 1, gần sở cao su Phan Văn Tư. Khi xe chở hàng từ Nam Vang về, tôi yêu cầu xe dừng lại, rồi cho xe quẹo vào sở cao su từ 50 đến 70 chiếc, mời tất cả tài xế ngồi lại một chỗ để nghe tôi đọc lời kêu gọi vận động và giải thích sự đóng góp ủng hộ cho kháng chiến hằng tháng mỗi xe 100 đồng. Trong lúc chúng tôi đang thực hiện công tác, mặc cho trời nắng gắt gay, heo gà kêu la inh ỏi, khi tài xế đã đồng ý đóng tiền thì anh em ghi biên nhận số xe đã đóng tiền rồi, cho xe đố chạy về Sài Gòn.


Chúng tôi đón xe lấy tiền ủng hộ kháng chiến chỉ có 1 tuần lễ, thì số tiền đã lên 7.000 - 8.000 đồng (tiền Đông Dương). Lấy được số tiền đó cho anh em bung ra buôn bán trâu, bò, heo. Lần hồi số tiền lời nhiều nên vốn lớn dần ra.


Khi tổ chức Đoàn kinh tế sản xuất tự túc xong rồi, tôi đặt văn phòng làm việc tại Xóm Trại xã An Nhơn Tây. Nhân sự trong văn phòng gồm có: 1 anh trưởng văn phòng, 1 anh thơ ký kiêm kế toán, 1 anh thủ quỹ, 1 anh lo quân nhu và trang bị cấp dưỡng, 1 anh phụ trách giao liên, 1 thơ ký đánh máy và 1 anh quản lý lo ăn uống cho anh em trong văn phòng. Có khoảng 30 người chuyên lo buôn bán trâu, bò, heo và các loại nông sản khác hoạt động trên địa bàn 2 quận Đức Hòa và Hóc Môn. Sau một thời gian buôn bán số tiền lời đã mua sắm được 4 cặp trâu, bò và 1 số dụng cụ, giống má để sản xuất.


Thấy rằng ông Ba Mộc có khả năng lo được sản xuất nên tôi phân công ông làm trưởng ban sản xuất khai thác tại Láng Đỉa 4 mẫu, rồi chuyển ông Ba Mộc qua làm ở Bến Mương vì ruộng ở đây tốt hơn, và gần nhà ông cho nên gia đình giúp đỡ luôn cả việc chăm lo đời sống cho anh em. Ông Mộc còn quản lý luôn cả trại sản xuất tại Nhuận Đức.


Còn phần làm ruộng ở Trung Lập, tôi đến bàn với ông Mười Xây (tức là Mười Trên), vợ chồng ông đồng tình ủng hộ, và sẵn sàng giao ruộng cho làm. Tôi phân công luôn cho ông làm trưởng trại. Ông giúp đỡ luôn cả giống và tất cả dụng cụ để sản xuất, đồng thời vợ ông là người chăm lo đời sống cho anh em thật chu đáo.


Trong lúc này mía của nhân dân Tân An Tây đã trổ cờ nên họ yêu cầu phải ép đường. Tôi đứng ra nhận làm và đến nhờ anh Hai Cảm phụ trách, thiếu phương tiện làm thì qua mượn của Hai Khứ, sản xuất ra được bao nhiêu đường đều bán cho nhân dân trong vùng.


Đến mùa đậu phộng, vì tiêu thụ không kịp, nhân dân yêu cầu ép dầu để tiêu thụ, tôi cho thu mua tất cả đậu của nhân dân, đồng thời dẫn theo một số anh em ra chợ Tân Phú Trung kéo 3 bọng dầu và tất cả dụng cụ cần thiết đế ép dầu rồi cho xe chở về sở cao su ở Bàu Xiêm, cho anh em làm lán trại, phơi đậu, sau khi đậu khô thì bắt đầu cho ép dầu. Có dầu rồi, tôi nhờ một Hoa kiều ở ấp Thượng xã Tân An Hội mang đi tiêu thụ và bán cho nhân dân trong vùng gồm dầu và bánh dầu.


Việc buôn bán đem lại lợi nhuận rất nhiều, và rất chạy hàng, lúc đó có rất ít người buôn bán.

Việc mua bán trâu, bò ở Căm-pu-chia thì phân công cho hai anh phụ trách là anh Tư Lố và anh Tư Dậy.

Khoảng tháng 6 năm 1947, anh Bảy Chiêu, Chủ tịch tỉnh Gia Định có gọi anh Ba Tô Ký và bảo rằng, hiện nay sở trà Bình Mỹ và sở trà Bình Lý do anh em thanh niên tỉnh đảm trách mà làm chẳng được gì. Vậy ban sản xuất của anh có nhận không? Sau đó anh Ba Tô Ký về bàn với tôi. Tôi đến xem và nhận luôn, anh Cang, Bí thư Tỉnh đoàn thanh niên lập biên bản bàn giao cho tôi.


Muốn sản xuất được trà bông lài phải là người có chuyên môn mới làm được, tôi phải cho người vào chợ Hóc Môn tìm người biết sản xuất trà bông lài. Tìm được một Hoa kiều, tôi mướn họ đứng ra lo sản xuất, cùng lúc đó tôi cho người về xã Tân Thới Hiệp thu mua bông lài, khi sản xuất được rồi, phải đem đi tiêu thụ. Nhưng những vùng ở trên này tiêu thụ không hết, cho nên lúc đó phải cho người mang về Khu 8 và Khu 9 để tiêu thụ mới hết được.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Chín, 2021, 08:15:27 pm
Việc mua trâu bò, heo các vùng phụ cận cũng chuyển hướng hoạt động, xuống tỉnh Mỹ Tho và đồng bằng sông Cửu Long. Lúc đầu cho anh em đến huyện Cái Bè, Long Mỹ, Cai Lậy, đưa đường xuống để tiêu thụ, và thu mua trâu, bò, heo. Đồng bào ở vùng này nghe anh em ở miền Đông xuống họ thương yêu và tận tình giúp đỡ từ ăn, ở cũng như chỉ dẫn thu mua từ nơi này đến nơi khác. Tôi phải thường xuyên kiểm tra và chỉ bảo cách giao tiếp, làm ăn phải thật thà, khi mình đi người ta nhớ, lúc ở phải cho người ta thương, nghĩa là thực hiện chính sách ba cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) cho nên được lòng dân mà ăn nên làm ra. Lúc bắt đầu chúng ta chỉ có một đoàn đi buôn bán, sau đó có được 2, 3 đoàn đi buôn bán, tất cả đều được lòng dân. Ví dụ mình chuyến đường xuống chợ Mỹ An, chợ này mấy chủ vựa nằm ở ven sông khi đưa hàng lên xuống dễ dàng như đường, trà, các loại dậu có bao nhiêu thì các chủ vựa cùng nhau mua hết không bao giờ ế hàng.


Khi tôi đến Đức Hòa để kiểm tra cơ sở của mình và xem xét tình hình, thì nhân dân ở đây bảo là mía của họ đã trổ cờ mà không có ai đến mua. Tôi đi một vòng ra bìa sông xem kỹ thì thấy mía còn rất nhiều mà đã trổ cờ hết. Nhân dân nói trước đây hãng đường Hiệp Hòa mua hết mía theo hợp đồng vụ mùa, nhưng hôm nay không có ai mua vì hãng đóng cửa, chủ hãng đã bỏ chạy sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 nổ ra, mía không bán được. Với tinh thần trách nhiệm vì dân phục vụ, tôi mạnh dạn hứa với nhân dân sẽ lo tất cả số mía đang bị trổ cờ. Sau đó tôi đi khắp vùng chuyên môn ép mía nấu đường để hợp đồng với các chủ lò đường đưa mía về lò để làm. Rất may mắn tôi gặp được chị chủ lò đường tên là Mai Thị Chuyện. Chị góa chồng, chồng chị bị giết, chị có một đứa con gái 5 tuổi, có 2 lò đường, 8 con trâu và 3 mẫu mía mà không có người phụ lo giúp. Tôi đem chuyện ép mía nấu đường bàn vớị chị. Nghe qua chị rất vui mừng và phấn khởi, sẵn sàng giao hết cho tôi quản lý để xây dựng kế hoạch sản xuất, trong đó gồm có: 2 lò đường, 8 con trâu, 3 mẫu mía, 1 nhà kho chứa các hóa chất để nấu đường và tất cả dụng cụ phục vụ cho việc sản xuất. Chị dẫn tôi đến gặp ông trưởng ấp xin phép sản xuất, ông đồng ý và rất vui mừng. Ông nói nếu tôi lo làm được việc này thì nhân dân ở đây mừng lắm. Ông trưởng ấp nói với tôi cứ tiến hành bố trí kế hoạch thực hiện đi, còn chuyện lên ủy ban xin phép, để ông nói chuyện với ủy ban. Hiện nay ủy ban đang lo lắm, rất sốt ruột vì mía của nhân dân trong xã đang trổ cờ mà không có kế hoạch giải quyết được cho nhân dân. Mình là chính quyền lo lắng cho dân mà lo không được thì mất ảnh hưởng lắm. Cho nên nếu anh đứng ra lo được thì Ủy ban rất đồng tình vậ ủng hộ đủ mọi phương diện để cho anh làm hoàn thành nhiệm vụ. Tôi trở về cơ quan của tôi ở giồng Ông Hòa thuộc xã Mỹ Hạnh, báo cho anh em biết tình hình sản xuất đường để anh em chuẩn bị phương tiện chở đường xuống chợ Mỹ An bán. Tôi cũng bảo Kê, cháu của tôi đi theo tôi xuống Hòa Khánh để gặp Mai Thị Chuyện chủ lò đường. Chị Chuyện cho làm gà, vịt, nấu xôi, nhang đèn đem đến lò vái cúng ông lò để khai trương. Tôi ở lại đó ba ngày xem công việc có trôi chảy không. Thấy anh em mình làm việc rất hăng hái đạt kết quả khá, tôi giao hẳn cho cháu Kê ở đó quản lý và lo đôn đốc anh em lo làm việc tốt, còn tiền bạc tôi chỉ để lại 200 đồng (tiền Cụ Hồ), rồi trở về cơ quan bố trí thêm ba người xuống phụ vận chuyển mía đem về lò. Khi sản xuất ra được đường thì cho người đưa xuống chợ Mỹ An bán, đem tiền về trả cho công nhân. Điều cần nói rõ là chị Chuyện chủ lò đường giao hết quyền cho tôi, tiền mướn lò, tiền mướn 8 con trâu, tiền mua 3 mẫu mía, và mướn tất cả dụng cụ phương tiện để sản xuất chị không lấy một đồng nào, cho nên công nhân làm ở lò đường coi như tôi là ông chủ lò chớ không phải là bà Chuyện. Sau khi thanh toán tiền cho công nhân xong, còn lại bao nhiêu thì tôi gởi hết về văn phòng ở An Nhơn Tây.


Lúc này công việc quá nhiều, một mình tôi phải giải quyết 5, 7 cơ sở, nơi này xong đến nơi khác, từ Tháp Mười về đến căn cứ An Nhơn Tây. Thấy tôi quá nhiều việc nên anh Ba Tô Ký mới bổ nhiệm thêm anh Phạm Đăng Lâm về làm phó đoàn kinh tế sinh sản tự túc. Tôi rất mừng vì có người gánh vác bớt công việc. Anh Phạm Đăng Lâm trước đã làm trưởng văn phòng chi đội, trung đoàn, nên giao cho anh trực ngồi tại văn phòng để giải quyết các vấn đề và giải quyết đời sống (cơm, áo, gạo, tiền), còn chi tiêu bất thường thì anh không quyết định chi. Công việc của Đoàn kinh tế sản xuất tự túc lắm chuyện theo từng ngành khác nhau, giải quyết việc này xong, vài ngày sau phát sinh chuyện khác, từ cơ sở sản xuất trà ở Bình Lý, qua lò đường ông Hai Cảm ở An Nhơn Tây rồi qua trại sản xuất của ông Mười Xây ở Trung Lập, trại sản xuất ông Ba Mộc ở Nhuận Đức... Tất cả những cơ sở này, anh em tận tâm tận lực cùng nhau lo lắng nên tôi cũng rất yên tâm. Vì lúc này có anh Phạm Đăng Lâm trực ở nhà giải quyết tất cả mọi sự việc, chỉ có trường hợp nào mới nảy sinh ra khó giải quyết anh mới chờ tôi về hoặc cho liên lạc đến tôi xin ý kiến giải quyết. Sau khi lo xong và phân công trách nhiệm xong cho các đơn vị rồi, tôi bắt đầu đi xuống giồng Ông Hòa ở Đức Hòa lo giải quyết các đội mua bán. Tôi cho họp tất cả anh em lại tổ chức thành 2 đội bổ sung thêm cho đủ người để lo việc mua bán. Vốn liếng và chỉ tiêu mọi việc đều đưa ra công khai bàn bạc dân chủ, anh em tự lựa chọn người mà anh em đã tín nhiệm bầu lên để giữ tài chính và giải quyết đời sống ăn, ở của anh em. Trong số anh em có người rành việc này, người biết chuyện nọ, anh em mình thì đông nhưng tập trung chỉ có 4 người am hiểu được công việc là: anh Bảy Sến, anh Minh, chị Năm Chói, và chị Là.


Tôi đến lò đường chỗ chị Chuyên, nơi cháu tôi là Kê quản lý để xem coi việc làm của nó lúc này ra sao, vì lúc đầu tôi chỉ đưa cho nó có 200 đồng. Chỉ có 15 ngày mà nó đã phục hồi thêm một lò đường nữa, và mượn một căn nhà của dân để làm bột mì, vì bên kia bờ sông dân trồng rất nhiều khoai mì phải làm bột mới tiêu thụ hết được. Bên đó họ đồng ý bán khoai mì cho mình để làm bột. Có một số người biết cách làm bột tình nguyện giúp đỡ chỉ dẫn mình cách thức làm, đồng thời ủng hộ cho mượn các thứ đồ dùng để làm ra bột như lu, hũ, khạp, và nia hay đệm để phơi bột, còn bao đựng bột khô thì mình cho người xuống mua ở Chợ Lớn. Khi bột đã được phơi khô và vô bao rồi thì cho người chở xuống Chợ Lớn bán. Hai chuyến hàng đầu mình bán giá quá rẻ, nên con buôn họ tranh nhau lên đến tận nơi sản xuất để mua hàng, cần nói thêm là chị Mai Thị Chuyên biết thằng Kê là cháu tôi, nên tất cả tiền bán đường chị đều lo tập trung cho nó để có vốn phát triển sản xuất. Chị Chuyên cũng lo hết mình cho việc chung. Chị lặn lội tìm mua mía khắp làng này qua làng khác để có đủ mía phục vụ cho sản xuất, không lúc nào lò đường bị ngưng trệ, còn phần đường và trà chở xuống chợ Mỹ An bán lúc đầu bán hơi chậm, nhưng nhờ anh em mình khôn khéo giao tiếp chào hàng, nên sau đó khách hàng luôn luôn chờ sẵn. Khi ghe hàng mình đến là có khách mua ngay. Bán xong lấy tiền đó thu mua heo trong vài ngày thì đầy ghe, vì ghe nhỏ nên chứa khoảng 50 con là đầy, khi trở về gần đến lộ số 10 về Đức Hòa thì ghe không thể đi được mà phải lùa heo đi bộ băng qua con lộ số 10, vòng qua Mỹ Hạnh, giồng Ông Hòa thì có thương lái heo chực sẵn ở đó tranh nhau mua. Số lượng mỗi người có thể mua từ 30 con đến 50 con tùy theo phương tiện chuyên chở của họ, họ giao cho các lò mổ ở Sài Gòn, nhất là giao cho lò mổ ở Hóc Môn và lò mổ ở Gò Vấp. Yêu cầu tiêu thụ cao, nhưng các đoàn thu mua của ta không đủ heo cung cấp cho họ. Do đó mà nhân dân đồn rằng quân của Sáu Hoa làm ăn có thời, bán hàng chạy như tôm tươi, mà số tiền lời cũng nhiều, có khi lời 20% và có khi lời đến 40% tùy theo chuyến hàng về mà giá cả thị trường quyết định lời nhiều hay ít. Tiếng lành đồn xa. Một hôm tôi ra Đức Hòa đi trên đường Hòa Khánh, gặp anh Năm Truyện, Chính trị viên Trung đoàn 308. Bắt tay chào hỏi rồi đi, nhưng tôi đi được khoảng chừng 15m, thì anh Năm Truyện gọi tôi lại. Anh Năm Truyện bảo rằng: Ban kinh tế của Trung đoàn 312 lúc này hoạt động lấn qua vùng hoạt động của Trung đoàn 308. Tôi thưa với anh Năm Truyện: “Anh thông cảm vì nhân dân ở đây kêu ca mía họ đã trổ cờ hết rồi mà không giải quyết tiêu thụ số mía này thì nhân dân phải chịu chết đói vì cuộc sống của họ chỉ trông vào số mía nói trên, cho nên tôi thực hiện tạm thời để giải quyết cho dân”. Anh Năm Truyện nghe tôi trình bày rõ ràng như vậy, anh mới đồng ý mà còn động viên tôi cố gắng giải quyết cho tốt mía của đồng bào, anh vỗ vai chúc sức khỏe tôi, chúc tôi hoàn thành tốt công việc.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Chín, 2021, 08:16:09 pm
Một lần anh Tám Cảnh (là anh của Huỳnh Văn Một) làm trưởng công an huyện Đức Hòa, than phiền tôi: Ban đêm cho nhân viên lùa heo qua đường số 10 dùng đèn pin rọi theo đường làm cho dân lo sợ, họ tưởng là giặc vào, chú Hoa phải bảo anh em đừng rọi đèn khi qua đường nữa, vì ý kiến phản ảnh của dân nên công an huyện báo lại anh em mình để thực hiện tốt hơn. Nếu ban đêm mình không thấy để heo đi lạc thì sáng mai mình đi tìm, ở đó không có ai bắt heo của mình đâu mà lo, còn một việc nữa là các trạm gác họ báo cáo lên cấp trên là vùng Đồng Tháp là vùng giải phóng, khu vực cấm địa mà các nhân viên kinh tế sinh sản của Trung đoàn 312 đi lại quá đông, các trạm gác xét giấy tờ toàn là giấy tờ của Đoàn kinh tế sinh sản tự túc của Trung đoàn 312 mà người ký tên là trưởng đoàn Võ Văn Hoa.


Trong quá trình hoạt động cách mạng tôi có bị địch bắt giam cầm ở bót Catina, dưới những chiếc sa-lan ở bên xóm Chiếu quận 4 bây giờ (nhân dân lúc đó họ gọi là salan cộng sản) rồi về khám lớn chờ ngày xét xử. Do tôi quen biết nhiều đồng chí ở các tỉnh cũng bị bắt giam chung với mình nên tên họ của mình các đồng chí đó biết rất rõ. Vấn đề thứ hai là nhờ chị Mười Thập, nếu ai đứng ra ngăn cản mà chị biết thì chị nói một tiếng là tất cả đều phải êm re chấp hành lệnh của chị. Vì thật ra mà nói miền Đông rất gian khổ, thiếu ăn thiếu đủ mọi phương diện, cho nên Đoàn kinh tế sinh sản tự túc giải quyết được những khó khăn cho nhân dân, làm kinh tế nuôi bộ đội để đánh giặc là một việc làm hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh cách mạng.


Tiếng là mua heo, trâu, bò tiếp tế, nhưng thực chất là mua bán kiếm lời để sử dụng vào nhiều việc nuôi dưỡng bộ đội. Cho nên anh em trong các đơn vị từ cán bộ đến chiến sĩ chưa hề ăn được một miếng thịt, chỉ trừ những ngày lễ hoặc ngày Tết nguyên đán, còn quanh năm suốt tháng ngày này sang ngày nọ thỉnh thoảng mới được ăn khô cá sặt, khô cá kèo, hoặc mắm ruốc, còn nói chung là ăn “thịt cọp” (thịt cọp là muối đâm với ớt nghe “cọp cọp”, gọi là ăn thịt cọp cho vui để ấn cho ngon cơm).


Trâu, bò ở Hóc Môn, Củ Chi, Đức Hòa lần lần cạn kiệt không đủ cung cấp cho thương lái. Tôi nghe anh em báo là ở bên Cam-pu-chia có chợ chuyên môn bán trâu, bò. Nhưng họ nhóm chợ vào ngày thứ năm và ngày chủ nhật. Tôi liền đi qua đó để thăm dò trước rồi về bố trí 1 tiểu đội có vũ trang theo tôi qua Cam-pu-chia mua bán với anh em Khơ-me. Việc mua bán giữa mình và anh em Khơ-me cũng dễ dàng. Bắt đầu từ đó tôi mua trâu, bò đem về rất nhiều. Trâu thì cho ăn đồng bưng có nước, còn bò thì cho ăn những cánh đồng gò ở xã Tân Phú Trung, cho nên nhân dân thấy bầy trâu, bò nào mà nhiều thì họ nói là trâu, bò của Đoàn kinh tế của ông Sáu Hoa. Trâu, bò thả như vậy nhưng thương lái muốn mua thì cứ đến ấp Đồn xã Tân Thới Nhì thì biết rõ trâu, bò về chưa và nhiều hay ít cứ liên lạc nơi đây là rõ. Mỗi kỳ trâu bò về tôi cho anh em chọn loại tốt để mình sử dụng. Qua nhiều đợt, chúng tôi chọn được 18 con trâu và 4 con bò tốt, khỏe để làm ruộng. Số ruộng ở Giồng Lớn, làm ruộng nước kết quả không nhiều. Nhờ qua lại buôn bán ở Cam-pu-chia, tôi được tin là ở Ba Thu có một sở ruộng rất lớn của một chủ đồn điền, sau Cách mạng Tháng Tám bỏ chạy về Sài Gòn. Tôi tìm đến xem, đúng là đất màu mỡ, chia thành từng ô thẳng tắp, mỗi ô 1 mẫu. Tôi đến gặp chính quyền xin nhận số đất ruộng trên để sản xuất nuôi bộ đội. Địa phương đồng ý và làm giấy bàn giao, tôi ký nhận. Tôi về tổ chức đưa anh em lên ngay chuẩn bị trang trại để ở và triển khai sản xuất.


Vào tháng 3 năm 1948, tôi nhận được thư của anh Ba Tô Ký mời về gấp để dự hội nghị cán bộ Trung đoàn 312. Hội nghị bàn 2 vấn đề lớn:

1. Lo cung cấp tiền bạc theo đúng yêu cầu của các ban ngành và bộ đội.

2. Chuẩn bị đầy đủ lương thực, thực phẩm cho đại hội “rèn cán chỉnh quân”.


Về yêu cầu cung cấp, hàng tháng phải cung cấp cho các bộ phận như: Bộ phận vũ khí của ông Chín Nghé 10.000 đồng để tìm mua nguyên vật liệu... để chữa vũ khí và “rờ-sạt” đạn dược, còn phần nào chuyển lên binh công xưởng ở Tây Ninh. Bộ phận quân y xá để mua thuốc men, bông băng, nhất là thuốc Ampi 3.000 đồng. Tiền mua gạo của đồng bào Phú Hòa Đông 3.000 đồng. Tiền mua vải 2.000 đồng. (Số tiền trên là tiền Đông Dương dùng ở vùng địch kiểm soát). Việc quan hệ mua bán trong nội thành do 2 bộ phận đường dây lo: Đường Thủ Dầu Một do anh Út Minh và chị Năm Mễ. Đường Sài Gòn do chị Năm Kỉnh và anh Đầy. Ngoài việc mua bán còn có nhiệm vụ giao nhận tin tức thư từ... của gia đình cán bộ chiến sĩ và nhận sự ủng hộ của đồng bào gởi ra chiến khu như vải, thuốc men...


Về chuẩn bị cho đại hội rèn cán chỉnh quân, phải có gạo và thức ăn cho độ 1.000 quân, về gạo giao cho anh Mười Đức lo. Tiền ăn: mỗi người 1 ngày ăn 8 đồng thì đến văn phòng Đoàn kinh tế sinh sản nhận. Theo anh Tô Ký trình bày trước cuộc họp là luyện tập, thảo luận quân sự và chính trị. Qua cuộc thi đua rèn luyện đế chuẩn bị thành lập 8 đại đội, tinh chế và chỉnh đốn tổ chức. Thành lập lại 2 tiểu đoàn 934, 935 hết 6 đại đội. Còn 2 đại đội: 1 đại đội do anh Bảy Tuội đại đội trưởng, nhiệm vụ đưa đường và ủng hộ đoàn áp tải gạo từ kinh 3 về, 1 đại đội do anh Năm Hương đại đội trưởng, nhiệm vụ vừa chiến đấu vừa hộ tông đưa đoàn xe chở lương thực, thực phẩm từ căn cứ lên bình công xưởng ở Tây Ninh.


Trong cuộc họp, nhiều ý kiến phát biểu, tình hình ngày càng khó khăn hơn. Quân số đông, độ 1.200 người gồm các đơn vị chiến đấu và các ban ngành, hai trường đào tạo là Trường thiếu sinh quân và lớp huấn luyện đào tạo cán bộ do anh Thung làm chủ nhiệm. Ngoài ra quân số còn rất đông mà không có công tác gì cả, nhưng cũng phải cung cấp hàng tháng. Anh Ba Tô Ký hứa là sẽ giải quyết, anh chị em muốn về thì giới thiệu về địa phương, còn ai muốn ở lại công tác gì giao cho Đoàn sinh sản.


Xong cuộc họp tôi về bàn với anh Phạm Đăng Lâm, phân công anh trông coi cơ sở sản xuất trà, lò đường, 2 trại sản xuất (làm ruộng). Còn tôi phải xuống Đức Hòa, Đồng Tháp để lo công việc sản xuất, mua bán và giải quyết một số công việc như trâu bò ăn lúa của dân, nhân dân kêu ca bờ ruộng bị sạt lở, chính quyền địa phương có ý kiên tìm cách khắc phục. Lúc bây giờ trong đoàn của tôi có 3 đại đội trưởng, ngoài tôi còn có anh Võ Văn Năm (thường gọi là Năm Già), anh Hứa Văn Minh. Ba chúng tôi rất lo, tìm cách giải quyết việc trâu bò ăn lúa và đi làm sạt lở bờ ruộng. Chúng tôi đặt dân làm một số giỏ để chụp vào mồm trâu, bò để khi lùa đi ngang qua những ruộng lúa thì không còn ăn lúa được nữa. Từ đó trở đi khi đi mua trâu phải mang theo giỏ buộc mồm trâu, bò để khỏi ăn lúa làm hư hại mùa màng của dân.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Chín, 2021, 08:16:43 pm
Khi chúng tôi mua được nhiều trâu, bò đưa về, trâu thì thả rong dưới đồng bưng ở xã Tân Phú Trung, còn bò thì bán tại Giồng Ông Hòa xã Mỹ Hạnh. Thương lái thường qua lại tại ấp Đồn thuộc xã Tân Thới Nhì của huyện Hóc Môn và một số thương lái người Hoa ở lò mổ Gò Vấp cũng thường đến. Tôi làm ăn quan hệ rất tốt với nhân dân địa phương, nên dân ở ấp Đồn rất ủng hộ và giữ bí mật để bảo vệ tài sản của cách mạng, nếu địch biết được thì sẽ bị mất trắng. Tôi cũng thường xuyên úy lạo cho anh em và cũng đóng thuế cho địa phương một số ít để tượng trưng. Có lần tôi gặp chị Năm Bi, chị bảo sao làm công tác lấy tiền nuôi quân mà lại đóng thuế? Tôi cười và nói với chị Năm Bi rằng: Một vài chục đồng mà xong việc, hơn là không? Lúc này có anh Thanh ở trong đơn vị, người quê tỉnh Rạch Giá, nghe tin và báo cho tôi biết là lúa trong nhân dân tỉnh Rạch Giá còn rất nhiều mà không có nơi tiêu thụ. Tôi bàn với anh Thanh, chị Năm Chói tổ chức thu mua rồi cho chở về tiêu thụ ở nhà máy xay lúa của Nam Long ở Chợ Lớn. Anh Thanh, chị Chói đồng ý và chị Năm Chói quyết tâm đi làm việc này mặc dù việc làm này đầy khó khăn và nguy hiểm đến tính mạng. Bàn xong, sẵn trong cặp có giấy giới thiệu mà anh Ba Tô Ký đã ký sẵn, tôi điền vào giấy giới thiệu anh Thanh và chị Chói để đi đến Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Rạch Giá xin liên hệ mua lúa trong nhân dân. Tỉnh đồng ý cho dân bán để tiếp tế cho miền Đông. Mọi việc đều xong, tiền “xanh” ngoài thành có bao nhiêu thì trả, còn thiếu lại bao nhiêu thì trả “đỏ” là tiền Cụ Hồ xài trong vùng kháng chiến. Anh Thanh và chị Năm Chói đi tìm đến chủ tàu Nguyễn Văn Kiệu để làm bình phong chuyên chở lúa đem về bán cho nhà máy lúa của Nam Long. Ông chủ tàu biết chở lúa cho Việt Minh nhưng vẫn làm, tàu của ông chuyên chở hàng mướn cho nên công việc cũng trôi chảy. Đây là công lao của chị Năm Chói. Chị Năm Chói làm ra tiền rất nhiều cho Đoàn kinh tế sản xuất để lo cho Trung đoàn 312.


Xuống Đức Hòa, Đồng Tháp để lo giải quyết việc buôn bán, lò đường, và vấn đề mua mía của nhân dân xong rồi, tôi trở lên Ba Thu khảo sát kiểm tra kỹ lại ruộng xem nơi nào tốt xấu. Tôi lựa được khoảng 40 mẫu ruộng tốt bàn giao cho anh em lo chuẩn bị giống má, phương tiện chuẩn bị làm mùa. Tiếp đó, tôi dẫn một đoàn sang Cam-pu-chia mua trâu, bò đem về bán cho Hóc Môn và Gò Vấp.


Đến khoảng năm 1951, ở Khu 5 An Nhơn Tây tình hình không được ổn định. Lúc bấy giờ có sự chỉ đạo ở trên là thành lập liên tỉnh lấy tên là “Gia Định Ninh”. Anh Ba Tô Ký làm tỉnh đội trưởng, anh Đào Sơn Tây làm tỉnh đội phó, anh Năm Truyện làm chính trị viên, anh Nguyễn Chí Sinh làm tham mưu trưởng, anh Phạm Đăng Lâm về làm trưởng văn phòng tỉnh đội. Một thời gian sau đó, do yêu cầu tình hình mới, cấp trên bố trí lại, anh Ba Tô Ký làm Bí thư Tỉnh ủy kiêm Tỉnh đội Gia Định Ninh. Lúc đó Tỉnh ủy và các ban ngành của tỉnh được lệnh rút về đóng quân tại xã Long Nguyên thuộc huyện Bến Cát. Khi đến Long Nguyên, tôi được anh Ba Tô Ký quyết định tôi làm trưởng tiểu ban quân nhu tài chính, anh Nguyễn Văn Giáo ở Trung đoàn 308 được phân công về làm phó ban, bộ phận II của quân nhu và tài chính về đóng ở Đức Hòa Thành, cho nên quyết định tôi kiêm luôn trưởng ban quản trị của nông trường B. Anh Hai Bào làm huyện đội trưởng huyện Đức Hòa. Hai Bào có khả năng lãnh đạo quân đội và dân quân Đức Hòa, rất có lợi cho việc vận chuyển áp tải lương thực, thực phẩm lên tận Long Nguyên. Lúc bấy giờ không chỉ lo cho quân đội mà là cho dân quân chính, vì Tỉnh ủy cũng lên đó.


Lúc này tôi xuống Đức Hòa, phân công anh Nguyễn Văn Giáo, phó ban làm nhiệm vụ thu thuế nông nghiệp và lo xay lúa cấp cho các đơn vị. Đơn vị đại đội cũ của trung đoàn thì ở lại địa phương để hoạt động, đại đội thương bệnh binh thì tập trung về ở Đức Hòa. Còn binh công xưởng thì do anh Tư Nhân và anh Tám Tác phụ trách đóng ở tại Giồng Nhỏ, quân số lúc đó khoảng 40 đến 50 người chuyên lo sản xuất súng và đạn dược, chuẩn bị gạo để áp tải lên Long Nguyên... Tôi còn tiếp nhận một số anh em nhân viên trước công tác ở Ban quân nhu và sản xuất của Trung đoàn 308 chuyển qua. Lúc này quân số của đơn vị tôi lên đến khoảng 350 người, nên tôi bố trí cho tất cả những anh em này về sản xuất tại nông trường. Bộ phận của anh Nguyễn Văn Giáo, phó ban đóng trụ sở tại Kênh Ba Ren, còn bộ phận của tôi lên đóng trụ sở tại Ba Thu. Anh Giáo làm việc rất siêng năng, rất tôn trọng nguyên tắc cấp phát tiền bạc, lương thực, thực phẩm và mọi thứ cần thiết mà Ban quân nhu và tài chính lo được. Hàng tuần anh đều đến gặp tôi để báo cáo và xin ý kiến giải quyết những vấn đề khó khăn. Ví dụ như những anh em huyện ủy viên của huyện Hóc Môn và một số chị em phụ nữ của tỉnh họ bám trụ sống ở nhà dân nhưng dân lúc đó quá nghèo chỉ giúp đỡ một phần nào, anh chị em bị thiếu thốn không đủ sống, nên thường xuyên anh chị em có đến Ban quân nhu, Ban tài chính xin cung cấp. Tôi bảo anh Giáo rằng tuy anh chị em đó không phải là bộ đội, nhưng anh cứ cung cấp cho họ, rồi anh nhớ ghi họ, tên, chức vụ của họ thuộc đơn vị nào là được rồi.


Thỉnh thoảng có một đoàn cán bộ Nam tiến, anh Nguyễn Chí Sinh tham mưu trưởng Gia Định Ninh giới thiệu qua tôi giải quyết cung cấp nóp, chăn mền, gạo, thực phẩm và cả tiền bạc nữa, rồi bố trí người đưa anh em đi các tỉnh miền Tây, vì anh em cán bộ ở miền Bắc mới vào không biết đường.


Tỉnh đội rút đi nhưng còn một bộ phận ở lại xã An Nhơn Tây và Phú Mỹ Hưng. Số anh em trụ lại đó gồm có anh Đào Sơn Tây, Tỉnh đội phó, anh Nguyễn Chí Sinh, Tham mưu trưởng và một số anh em cán bộ Ban tham mưu. Anh Nguyễn Chí Sinh làm việc rất tích cực và luôn luôn vui vẻ. Anh thường xuống các huyện Trảng Bàng, Hóc Môn và Đức Hòa để gặp ban chỉ huy của huyện làm việc. Mỗi lần đi xuống các huyện làm việc anh đều ghé qua tôi hỏi thăm công việc làm ăn của Ban quân nhu tài chính lúc này ra sao? Công tác có trôi chảy không và làm ăn buôn bán có hiệu quả không?


Công việc ngày càng nhiều, nào lo quân nhu, sản xuất, mua bán trâu, bò, heo... Việc nào tôi cũng đều phải ráng lo cho chu toàn, và thường xuyên đi kiểm tra tiền bạc lời lỗ bao nhiêu, giải quyết các việc phát sinh mới. Lúc bấy giờ các bộ phận cũ ở An Nhơn Tây không còn nữa mà phân tán. Công việc sản xuất đường vẫn tiếp tục trôi chảy không có gì thay đổi, lúc này có thêm các anh Võ Văn Năm và Hứa Văn Minh cũng đều là đại đội trưởng cùng lo mọi việc với tôi. Tôi trở về Ba Thu để chuẩn bị phân công sắp xếp lại, phân ra làm 3 trại sản xuất, mỗi trại có 8 người lo ruộng rẫy, và bộ phận 15 người xay lúa gạo chuẩn bị gạo sẵn sàng đưa về căn cứ tỉnh đội ở Long Nguyên. Bộ phận công tác tại Ban quân nhu gồm có 30 người, làm mọi việc vận chuyển lúa gạo thực phẩm và cất giấu từ Ba Thu về xã Long Nguyên. Bộ phận này do quân nhu cung cấp nuôi dưỡng. Ngoài ra các ban ngành khác đều phải tự túc.


Tiêu đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312
Gửi bởi: quansuvn trong 05 Tháng Chín, 2021, 08:17:12 pm
Có những việc cần nói thêm:

Có một người lớn tuổi đến xin làm việc phục vụ cách mạng anh tên là Mười Đối ở xã Bà Điểm huyện Hóc Môn. Anh nghe tôi về sản xuất ở vùng này, đi tìm mấy ngày nay mới gặp được. Khi đi anh chỉ mang theo cái túi quần áo, một cây gậy với cái nón lá. Tôi nói với anh Mười Đối là anh lớn tuổi rồi, ở đây với anh em, cách mạng nuôi anh cũng được, nhưng anh lại trả lời lớn tuổi thì mình làm những công việc nhẹ nhàng hơn, các em còn trai tráng, làm việc gì góp công góp sức phục vụ cho kháng chiến chống giặc ngoại xâm thì cũng tốt thôi. Anh tận tụy làm việc, ăn nói mực thước đàng hoàng, cho nên tất cả anh em đều cảm mến anh. Năm bảy ngày sau, anh em hỏi thăm anh thời gian trước anh có tham gia kháng chiến không? Rất chân thành anh nói là anh đã làm bí thư đầu tiên hồi năm 1930 ở xã Tân Thới Nhứt huyện Hóc Môn, đến năm 1948-1950 tình hình quá căng cơ sở của anh bị mất, phải tạm nghỉ. Được tin có bộ phận sản xuất ở đây, anh tìm đến xin việc.


Một hôm trời trưa nắng chói chang mà có một người lội từ Cóc Rinh, Tho Mo đến Ba Thu gặp tôi. Ai ngờ người đó là anh Phạm Ngọc Thạch. Anh đi từ sáng sớm bây giờ mới đến. Anh bảo rằng: các bác sĩ ở nội thành Sài Gòn có đóng góp tiền ủng hộ cho kháng chiến được 3.000 đồng (tiền Đông Dương), anh đưa cho tôi bảo tôi nhận số tiền ủng hộ này. Thật là một việc làm rất hiếm có. Rồi anh ở lại trại sản xuất ăn cơm trưa với anh em, thức ăn lúc đó chỉ có bông súng, rau lá hẹ ngoài ruộng và mắm kho. Cơm nước xong, anh nằm nghỉ đến 1 giờ 30 rồi về. Trong chuyến vận chuyền lương thực, thực phẩm lần này có cả anh Hai Bào và tôi cùng đi với lực lượng áp tải đưa hàng từ Đức Hòa lên căn cứ xã Long Nguyên, tôi mang theo 3.000 đồng của anh Phạm Ngọc Thạch giao lại cho anh Ba Tô Ký.


Việc cày cấy 40 mẫu lúa ở Đức Hòa đã xong, tôi nghe anh em báo cho biết vùng đất ở Tân Lập làm lúa sạ chạy nước rất tốt, nên tôi đi cùng hai cán bộ qua đó xem, thấy đất đai rất màu mỡ có thể làm ăn tốt. Nhưng đã có nhiều bộ phận sanh sản tự túc của các tỉnh đội miền Tây làm rồi. Nên tôi cùng anh em đo đạc được 40 mẫu, cắm nọc làm ranh giới và ghi bản nhận số đất này là đất của Tỉnh đội Gia Định Ninh. Khi thu hoạch vụ mùa xong, vào khoảng tháng 12 tôi cho tập trung một số anh em lùa trâu di chuyển lên Tân Lập cày đất mới, đến tháng 3 trời đổ mưa tôi cho bừa sạch trở lại. Khi bừa xong thì trời bắt đầu mưa hơi khá nước, tôi cho sạ lúa, gọi là “sạ lúa chạy nước” nghĩa là nước lên cao bao nhiêu thì lúa cũng phát triển theo nước bấy nhiêu. Nơi đây, chuột quá nhiều, nên tôi phải ở lại đó tổ chức bắt diệt chuột. Ban đêm anh em đi ruộng đập chuột mang về ăn không hết rồi bỏ, thấy tiếc quá. Tôi bảo anh em cứ chặt đầu, lột da, ngâm muối rồi đem phơi khô, làm lương khô ăn rất ngon.


Công việc nhiều, các bộ phận rải rác nhiều nơi rất khó khăn trong việc điều chỉnh quân số, có nơi thì thiếu người làm, có nơi thì thừa người, số chị em phụ nữ rất đông mà rút đi thì gặp khó khăn nên phải làm công tác tư tưởng từng người. Tôi tìm mọi cách vượt khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.


Đến tháng 2 năm 1952, anh Ba Tô Ký được lệnh của Trung ương gọi đi ra Bắc. Anh có gọi tôi và anh Hai Bào về gặp để bàn công việc và giao nhiệm vụ trong thời gian anh đi vắng. Anh nói lên những câu tạm từ giã để ra đi mang theo bao nhiêu thương nhớ trong lúc chia tay.


Tôi lo việc cấp phát lương thực, thực phẩm cho các ban ngành đóng ở Long Nguyên, Đức Hòa, việc sản xuất và các cơ sở sản xuất đường cũng như mua bán trâu, bò, heo. Nói chung công việc lúc này đã được sắp xếp đi vào nề nếp, mua bán hoàn toàn tự lực, về ruộng đồng thì vụ mùa nào làm theo vụ mùa đó. Khó khăn nhất là lúc đến mùa lúa chín phải cho người về huyện Đức Hòa tìm bà con nghèo chuyên gặt lúa mướn lên gặt. Còn lúa sạ cắt bó thành từng bó chất đống rồi cho xe trâu đến kéo đem về bãi để đạp ra lúa. Lúa phải phơi thật khô rồi đem cất giấu thật kỹ. Việc cất giấu lúa không phải là dễ dàng, tìm cách chống ẩm mốc, chống tai mắt của địch... Ngoài ra anh em còn phải trồng thêm rau để cải thiện.


Đến mùa khô, mùa đìa, ngòi rạch, tổ chức anh em tát nước, bắt cá làm mắm, làm khô để ăn quanh năm, và một phần cá khô sặt gởi về căn cứ ở Long Nguyên.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định đình chiến được ký, lực lượng ta tập kết ra Bắc. Lệnh trên bảo tôi phải giao hết tài sản, trâu, bò, ruộng cấy (40 mẫu) và lúa sạ (40 mẫu) lúa tốt. Lúa gạo và hàng chục máy may, đèn măng-sông giao cho địa phương xã, huyện. Còn trâu bò (13 con trâu và 4 con bò rất đẹp), xe cộ giao lại cho hội nông dân xã Ba Thu. Tôi mời ủy ban xã, hội nông dân làm biên bản bàn giao. Giao xong, tôi lo chuyển anh em tập trung xuống Cao Lãnh để đi tập kết ra miền Bắc.