Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: hoi_ls trong 18 Tháng Chín, 2013, 02:12:20 pm



Tiêu đề: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Chín, 2013, 02:12:20 pm
CHÂN DUNG VỊ TƯỚNG ANH HÙNG, LIỆT SĨ KIM TUẤN


Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 2012.

Khổ 14,5 x 20,5
Số trang: 220

Số hóa: hoi_ls




(http://img818.imageshack.us/img818/9461/niy9.jpg)


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Chín, 2013, 02:14:14 pm
(http://imageshack.us/a/img844/92/7udq.jpg)


(http://imageshack.us/a/img818/5803/rthn.jpg)


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Chín, 2013, 02:22:01 pm
LỜI TỰA CỦA ĐẠI TƯỚNG PHÙNG QUANG THANH


Nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày sinh của đồng chí Kim Tuấn (2.7.1927 - 2.7.2012) - nguyên Tư lệnh Quân đoàn 3, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tôi hoan nghênh việc tổ chức, xuất bản cuốn sách “Chân dung vị Tướng Anh hùng, Liệt sĩ Kim Tuấn”.

   Tuy chưa phản ánh thật đầy đủ, nhưng với trên ba mươi bài viết của người thân và đồng đội cùng những tư liệu quý, cuốn sách đã khắc họa những nét cơ bản chân dung Thiếu tướng Anh hùng, Liệt sĩ Kim Tuấn: Là thanh niên giàu lòng yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng và tham gia quân đội. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đồng chí Kim Tuấn lần lượt đảm nhiệm các cương vị chỉ huy từ trung đội, đại đội đến sư đoàn, quân đoàn; liên tục chiến đấu trên các chiến trường Liên khu 3, Trị Thiên, Tây Nguyên, Sài Gòn - Gia Định lập nhiều chiến công vang dội. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia, đồng chí là Tư lệnh Quân đoàn 3 chỉ huy nhiều chiến dịch giành thắng lợi lớn, góp phần giúp nhân dân nước bạn đập tan chế độ diệt chủng và xây dựng xã hội mới; đồng chí đã hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ quốc tế cao cả.

Cuộc đời chiến đấu của đồng chí Kim Tuấn là tấm gương cao đẹp về sự cống hiến hy sinh cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân; cho sự nghiệp xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của lực lượng vũ trang nhân dân ta.


  Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Cuốn sách “Chân dung vị Tướng Anh hùng, Liệt sĩ Kim Tuấn” có ý nghĩa thiết thực trong việc giáo dục truyền thống, nhất là bồi dưỡng lòng yêu nước cho thế hệ trẻ trong lực lượng vũ trang nhân dân. Chúng ta cần có thêm những cuốn sách như thế để góp phần vào sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hà Nội ngày 2 tháng 7 năm 2012
(http://img69.imageshack.us/img69/4200/93n8.png)
Đại tướng PHÙNG QUANG THANH
Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Chín, 2013, 02:25:48 pm
LỜI ĐIẾU CỦA QUÂN ỦY TRUNG ƯƠNG



  Thưa đồng chí Kim Tuấn thân mến,
   Thưa các đồng chí,


  Đồng chí Kim Tuấn tức Nguyễn Công Tiến, Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó Bí thư Đảng ủy Quân đoàn, Tư lệnh Quân đoàn 3, đã hy sinh hồi 14 giờ ngày 17 tháng 3 năm 1979 trong khi đang làm nhiệm vụ ở mặt trận.

   Thật vô cùng đau xót trước tổn thất to lớn này của Đảng, của quân đội và của gia đình đồng chí.

  Đồng chí Kim Tuấn sinh năm 1927, quê ở xã Phúc Lâm, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Sơn Bình.

   Được giác ngộ trong cao trào Cách mạng tháng Tám, tháng 4 năm 1946, đồng chí tham gia quân đội, tháng 8 năm 1948 đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí liên tục chiến đấu ở chiên trường đồng bằng Liên khu 3, trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí đã chiến đấu trên nhiều chiến trường ở miền Nam và đã được rèn luyện trưởng thành từ chỉ huy trung đội, đại đội lên tới sư đoàn, quân đoàn.

   Qua các cương vị chỉ huy, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh, chỉ thị, ý chí tấn công, tác phong xông xáo, tỉ mỉ, cụ thể và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Đồng chí còn được anh em trong đơn vị tin yêu và bạn bè quý mến về tinh thần đoàn kết thương yêu đồng đội và đức tính gương mẫu, khiêm tốn, giản dị, cần cù.

  Trong những năm gần đây với cương vị Tư lệnh Quân đoàn, đồng chí đã đem hết tài năng, sức lực và trí tuệ của mình cùng với Đảng ủy và Bộ Tư lệnh lãnh đạo, chỉ huy đơn vị chiến đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Đồng chí đã tỏ ra là một cán bộ vững vàng, có tinh thần chiến đấu bền bỉ, có năng lực hành dộng và có phẩm chất tốt đẹp.

   Trên 30 năm liên tục chiến đấu, đồng chí Kim Tuấn đã cống hiến trọn cuộc đòi mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của nhân dân, cho sự nghiệp xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của các lực lượng vũ trang nhân dân ta.

   Đồng chí đã được Nhà nưóc tặng thưởng:

   - Một Huân chương Quân công hạng Hai.
   - Một Huân chương Chiến công hạng Hai.
   - Một Huân chương Chiến công hạng Ba.
   - Một Huân chương Chiến thắng hạng Hai.
   - Ba Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba.
   - Hai Huân chương Chiến sĩ Giải phóng hạng Hai, hạng Ba.

  Và mới dây, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nưóc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định truy tặng đồng chí Huân chương Quân công hạng Nhất.

   Đồng chí mất đi, Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta mất một người con trung hiếu, Quân đội ta mất một cán bộ gương mẫu, chúng ta mất một người đồng chí, đồng đội trung thực vô tư, gia đình mất một người con, người chồng, người cha thân yêu.

  Đồng chí Kim Tuấn không còn nữa, nhưng tinh thần và đức tính của đồng chí còn sống mãi trong lòng chúng ta.

   Càng thương tiếc đồng chí bao nhiêu, chúng ta càng quyết tâm phấn đấu bảo vệ vững chắc và xây dựng thành công Tô quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ra sức phấn đấu xây dựng Quân đội ta ngày càng lớn mạnh, chính quy, hiện dại, tinh nhuệ, thiện chiến, đập tan mọi âm mưu và hành động xâm lược nước ta của các thế lực thù địch, phản động..., hoàn thành thắng lợi sự nghiệp cách mạng vẻ vang của nhân dân ta trong giai đoạn mới của cách mạng.

  Đồng chí Kim Tuấn thân mến!

  Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân đội ta mãi mãi ghi nhớ công lao của đồng chí.

   Vĩnh biệt đồng chí, chúng tôi, những người bạn chiến đấu của đồng chí nguyện biến đau thương thành sức mạnh sẽ tiếp tục phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó.

   Xin vĩnh biệt đồng chí!


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Chín, 2013, 02:33:25 pm
CHÚ KIM TUẤN THIÊNG LIÊNG ! 1
 

NGUYỄN CÔNG TIẾN 2
 

   Nhân tròn 55 năm ngày thương binh liệt sĩ 27 tháng 7 năm 2002, Đảng và Nhà nước tổ chức kỷ niệm trên toàn quốc.

   Nhân tròn năm sinh thứ 75 và năm thứ 23 chú yên nghỉ ở đây, gia đình ta tổ chức trọng thể lễ tưởng niệm chú - người thương binh - liệt sĩ cấp tướng duy nhất của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

   Tôi là Thịnh và các em cùng gia đình chú ở Hà Nội và chú Hải đại diện cho các em và gia đình ở Hải Phòng đến thắp hương cho chú.

   Dự buổi lễ hôm nay còn có các ông chú, ông cậu và nhiều anh chị em trong ba họ Nguyễn Công, Hoàng Xuân, Lê Huy bên nội, bên ngoại gần gũi cũng đến thắp hương tưởng nhớ chú.

   Chú Kim Tuấn linh thiêng!

Khói hương trên mộ chú hòa quyện vào hương thơm nghĩa trang Mai Dịch và các nghĩa trang liệt sĩ trên toàn quốc đã thơm càng ngát thơm hơn, lan tỏa đến tất cả mọi nơi yên nghỉ của hàng vạn người con ưu tú của dân tộc đã hy sinh cho cách mạng. Nhiều người cho đến nay còn chưa tìm thấy, chưa quy tập được. Trong số này cũng có cả người thân của chúng ta mà đến hôm nay mới được rõ, có 3 liệt sĩ trong họ Hoàng Xuân:

  + Một là liệt sĩ chống Pháp - Hoàng Xuân Quang, cậu em mẹ Hoàng Thị Bính của chúng ta. Hôm nay ông Hoàng Xuân Sắc em ruột của ông Quang cùng gia đình cũng có mặt ở đây.

   + Hai là liệt sĩ Hoàng Xuân Khang, em chúng ta hy sinh ở chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Liệt sĩ Khang là con ông cậu Hoàng Xuân Đài hiện đang sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Các anh chị em ruột cùng gia đình của liệt sĩ Khang là Hoàng Xuân Lộc, Hoàng Thị Diệp, Hoàng Thị Mai... cùng gia đình và nhiều người ruột thịt cũng đều có mặt tại đây.

   + Ba là liệt sĩ Hoàng Xuân Định, anh họ của chúng ta hy sinh ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ.

   Còn hai liệt sĩ nữa là hai anh em ruột Nguyễn Văn Dương, Nguyễn Văn Tương hy sinh năm 1967 và 1969 trong kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Quảng Trị. Liệt sĩ Dương và Tương là anh ruột của cháu Nguyễn Thụy Khuê, con rể chú, chồng cháu Nguyễn Thị Thanh Hà.

   Xin báo cáo qua với chú mấy điểm như vậy.

  Để nghị chúng ta để 1 phút mặc niệm chung thêm lần nữa.

  Chú Kim Tuấn thiêng liêng!

   Trong bài tưởng niệm chú ở đây nhân ngày thương binh liệt sĩ 27 tháng 7 năm 1997 cách đây 5 năm tôi đã nói: “Chúng tôi ngưỡng mộ chú bao nhiêu thì cũng tỏ lòng thương nhớ, kính trọng và biết ơn thầy, u bấy nhiêu vì đã hiến dâng cho dân tộc ta một người con anh hùng”.

  Hôm nay nhân buổi lễ này, tôi cũng tỏ lòng quý trọng và biết ơn đối với thím Khuê. Thím là một tấm gương tiêu biểu đáng kính của phụ nữ Việt Nam. Tôi không thể nói hết những đức tính cao đẹp của thím ở đây mà chỉ nói gọn là: trong sự nghiệp vẻ vang của chú có phần công lao đóng góp rất lớn của thím. Đối với gia đình, thím là người con hiếu thảo, chăm sóc cha mẹ cả nội lẫn ngoại trọn vẹn, lại một mình nuôi hai con trưởng thành như ngày nay thật công lao không nhỏ.

   Đối với hai cháu Hà - Hiệu, bác cũng biểu dương hai cháu đã phát huy được truyền thống gia đình, noi gương bố rèn luyện, tu dưỡng, học tập, công tác ngày càng tiên bộ và đã trở thành những sĩ quan cao cấp trong Quân đội, thật đáng khen ngợi lắm. Trong gia đình, các cháu cũng đã thể hiện là những người con hiếu thảo hết lòng chăm sóc bố mẹ, ông bà bên nội, bên ngoại và đối xử với các bác, các cô, các chú và anh chị em trong họ hàng rất tốt, được mọi người tin yêu quý mến.

  Các cháu Thụy Khuê - chồng Hà và Thu Thủy - vợ Hiệu bác cũng có lời khen ngợi là những người con rất tốt, rất xứng đáng là rể quý, dâu hiền của gia đình.

Thưa chú Kim Tuấn kính mến!

  Bài đọc của cháu Nguyễn Công Hiệu đã nói lên đầy đủ tâm tư, tình cảm của mọi người trong gia đình, khẳng định sự mạnh mẽ, vững vàng, hứa hẹn tiền đồ rực rỡ của gia đình, xứng đáng với danh thơm được thừa hưởng của chú, một người con ưu tú do Đảng, Nhà nước và Quân đội đào tạo.

   Cuộc đời chú đã được người đời nói, ca ngợi trên sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng. Các nhà văn, nhà sử trong đó có cụ Hoàng Đạo Thúy là người thầy của chú ở Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khóa I đã viết rất cảm động về chú trong một bài ngắn nhưng cô đọng in trên báo Nhân dân khi cụ còn sống, vài năm sau khi chú hy sinh anh dũng.

  Nhà văn Tú Hào - bạn ở Mặt trận Tây Tiến năm xưa cũng mới có bài viết ngắn gọn rất nổi bật về chú in trong cuốn “55 năm Tây Tiến” xuất bản tháng 5 năm 2002.

   Đặc biệt hôm nay cũng tới dự tại đây có người anh rể của tôi, Đại tá Nguyễn Văn Vĩnh (đã nghỉ hưu), tác giả một số bài viết rất tâm huyết về chú và là người thường hay nói chuyện với tôi về chú.

  Từ đầu tháng 7, Tạp chí Truyền hình cũng trân trọng đăng ảnh chú và bài viết về gia đình vẻ vang đã sinh thành cô con gái giỏi giang Nguyễn Thị Thanh Hà của chú. Anh em bà con họ hàng thân thuộc rất đỗi cảm động và tự hào khi thấy xuất hiện hình ảnh gia đình chú trên vô tuyến truyền hình Việt Nam nhiều lần dịp này. Mỗi người đều nghĩ phải có trách nhiệm giữ vững và phát huy truyền thông vẻ vang do chú gây dựng nên. Người đời sẽ còn nói, viết và ca ngợi về chú nhiều bằng các thể dạng nghệ thuật phong phú khác nhau.

  Năm 2000 vừa qua, tập “Chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh” do Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương và Hội đồng khen thưởng Nhà nước phát hành đã gửi đến biếu tận nhà ta. Đây là cuốn lịch sử ghi lại hình ảnh, thành tích của tất cả các anh hùng lao động và anh hùng các lực lượng vũ trang với đầy đủ các gương mặt từ chiến sĩ đến cấp tướng đã hy sinh và còn sống, duy nhất chú là Anh hùng, Liệt sĩ cấp tướng.

   Viết, nói về chú sẽ vẫn còn nhiều điều xoay quanh phẩm chất chính trị nhân văn, tinh thần yêu nước cao vời vợi, sẵn sàng xả thân mình không hề tính toán, lòng yêu thương con người vô hạn.

   Về tài năng quân sự, chắc hẳn vẫn xoay quanh bản lĩnh chỉ huy. Nội dung này còn có thể khám phá, khai thác, nói và viết nhiều.

   Suốt 32 năm cầm quân từ cấp đại đội đến cấp quân đoàn, chú đã thể hiện là một vị tướng chỉ huy tác chiến có nhiều phẩm chất phong cách mẫu mực: dũng cảm, mưu trí, tốc chiến tốc quyết, xuất quỷ nhập thần, giành thắng lợi vang dội mà tổn thất ít máu xương chiến sĩ.

   Ngay từ khi là một cán bộ sơ cấp, chú đã tỏ ra khôn ngoan, mưu trí, linh hoạt và kiên quyết. Những đức tính ấy luôn được phát huy trong quá trình tiến lên làm cán bộ trung, cao cấp, cán bộ cấp tướng có uy tín, có tầm cỡ trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Tôi còn nhớ như in buổi hành quân đêm tác chiến chống giặc Pháp càn quét vùng Cao Phong - Hòa Bình đầu năm 1947. Trong cuộc hành quân ấy, tôi đã đi trong hàng quân do chú chỉ huy. Chú đã phái trinh sát dùng đá ném vào bờ bụi rậm rạp ven rừng, những nơi nghi ngờ nhằm thăm dò phát hiện địch trước khi cho bộ đội vượt qua một bản của đồng bào Mường, tránh không để cho bộ đội bị bất ngờ. Hành động đó không có sách vở nào dạy, không có người thầy nào đã có sáng kiến như thế để truyền lại cho người đại đội trưởng 20 tuổi đời lúc đó xử trí tình huống sắc sảo, rất cẩn tắc như vậy. Do bí mật hành quân trong đêm, đòn đánh của ta đã tạo nên một đòn bất ngờ làm địch không kịp trở tay và nhanh chóng giành thắng lợi. Độc đáo thay và rất đỗi phù hợp hoàn cảnh tác chiến địch - ta lúc bấy giờ.

  Kể từ trận đánh đầu tiên khi chỉ huy cấp đại đội phục kích quân Pháp ở đèo Kém trên đường 6 kéo lên Hòa Bình và nhiều trận đánh khác ở cấp tiểu đoàn rồi cấp sư đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ và Tây Nguyên của chú đều có đặc điểm riêng về giành thắng lợi.

  Đặc biệt, trận tấn công chớp nhoáng đánh đòn sấm sét vào quân đoàn 2 ngụy - Sài Gòn rút chạy trên đưòng số 7 ở đoạn Cheo Reo - Phú Bổn ngày 16, 17 tháng 3 năm 1975 là một mẫu mực giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Thắng lợi đó đã góp phần quan trọng vào thế đánh địch như chẻ tre sau đó của bộ đội, hành quân thần tốc và thần tốc hơn nữa nhằm tiêu diệt địch, đánh sập hoàn toàn bộ máy quân sự và cai trị của Mỹ - ngụy, kết thúc công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà ngày 30 tháng 4 năm 1975.

  Trận này đã được đúc kết đưa vào chương trình giảng dạy ở các trường quân sự Việt Nam.

  Vẻ vang thay Tướng quân Kim Tuấn!

   Gia đình, họ hàng, anh em, con cháu thân thuộc vô cùng tự hào về chú. Xin hứa tiếp tục phấn đấu cho xứng đáng vói danh hiệu cao quý của Nhà nước đã phong tặng chú.

   Chúng tôi vô cùng thương tiếc, biết ơn chú cùng tất cả các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh cho chúng tôi được hưởng cuộc sống yên bình ngày nay.

  Một lần nữa chúng tôi xin hứa sống, chiến đấu không ngừng vì mục tiêu bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, làm cho dân giàu nước mạnh, đưa nước ta trở thành một nước tiên tiến có chế độ ưu việt, không kẻ thù xâm lược nào có thể khuất phục được.

---------------------------------------------------------
1. Bài phát biểu của gia đình trong lễ tưởng niệm Anh hùng, Liệt sĩ Kim Tuấn, Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 nhân kỷ niệm 55 năm ngày TBLS 27-7-2002.

2. Anh của Thiếu tướng Kim Tuấn



Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Chín, 2013, 02:38:26 pm
NHỮNG DÒNG TÂM SỰ


LÊ THỊ TÚ KHUÊ *
 

   Anh sinh năm 1927 trong một gia đình viên chức đông con (10 con). Bố anh làm Trưởng ga Lai Khê - Hải Phòng. Quê anh, làng Phúc Lâm, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai - Hà Tây (nay là Hà Nội), là một làng nghề chuyên môn làm giò chả, nên mẹ anh mở một cửa hàng làm mặt hàng này tại Hải Phòng. Chính cửa hàng này đã nuôi sống cả gia đình.

    Lúc nhỏ anh cũng rất vất vả, là con thứ hai trong gia đình nên ngoài việc học hành, anh cũng phải làm lụng bươn chải cùng gia đình kiếm sống. Từ năm 1945, ở địa phương anh đã tham gia các phong trào Việt Minh trong hàng ngũ học sinh. Năm 1946, anh nhập ngũ vào học tại Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khoá I (trường quân sự đầu tiên của nước ta). Ra trường anh bắt đầu cuộc đời quân ngũ cho đến lúc hy sinh tại Mặt trận Cam-pu-chia, trong lúc giúp nước bạn giải phóng đất nước khỏi nạn diệt chủng của Khơ-me đỏ.    

    Anh ngã xuống ngày 17 tháng 3 năm 1979, lúc anh vừa 52 tuổi đời, 33 tuổi quân, trên cương vị Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn 3, Phó Bí thư Đảng ủy Quân đoàn. Cũng trong năm 1979, anh được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, do Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký.

  Chúng tôi cưới nhau vào mùa xuân năm 1956. Câu chuyện chúng tôi biết nhau rất bất ngờ và thật đơn giản. Năm 1954, hoà bình lập lại, Hà Nội được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của thực dân Pháp. Bố mẹ tôi đều tham gia kháng chiến đã cùng cơ quan từ Chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Tôi được nghỉ phép về thăm nhà (lúc đó tôi dang công tác trong quân đội, thuộc Trung đoàn 248, một đơn vị chủ lực của Liên khu Việt Bắc). Về đến nhà tôi gặp ông chú ruột, chú tôi cũng là bộ đội về họp tại Hà Nội. Tôi và chú cùng đi thăm lại những nơi quen thuộc của Hà Nội sau nhiều năm xa cách, đến bờ hồ Hoàn Kiếm thì gặp anh Kim Tuấn, anh là bạn học cùng Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khoá I với chú tôi. Hai người tay bắt mặt mừng, nói chuyện với nhau quên cả sự có mặt của tôi, làm tôi cứ phải lẽo đẽo theo sau. Anh Kim Tuấn theo phép lịch sự xã giao thỉnh thoảng quay lại hỏi thăm tôi mấy câu, nhưng chỉ một lúc sau anh đã quay hẳn lại nói chuyện với tôi, đến lúc này chính chú tôi lại là người phải lẽo đẽo theo sau (sau này anh nói lại, anh đã mến tôi từ cái nhìn đầu tiên khi mới gặp và không thể dứt ra được nữa).

   Tôi về đơn vị trả phép, gần một tháng sau đồng chí Chính ủy của đơn vị gọi tôi lên nói là có việc. Tôi lên gặp thì đã thấy anh Tuấn ngồi đó, thấy anh tươi cười tôi cũng đoán ra được sự việc. Đồng chí Chính ủy nói ngắn gọn mấy câu là anh Tuấn đến gặp xin tìm hiểu đồng chí đó, tôi mỉm cười và đi ra ngoài. Mới đầu tôi cũng rất ngỡ ngàng vì không biết gì nhiều về anh. Anh đưa ra bức thư của bố mẹ tôi và của chú tôi. Thì ra anh đã nói với gia đình tôi rồi. Anh giới thiệu với tôi về anh, về gia đình anh, mới đầu tôi chỉ nghe, nhưng sau nói chuyện thấy anh cũng có những điểm đáng mến, toát lên ở anh là một con người thành thật, rõ ràng, rất đàn ông, đầy chất lính, một con người đáng tin cậy. Sau vài lần gặp gỡ và qua những lá thư, tôi đã nhận lời tìm hiểu. Lúc này anh ở Sư đoàn 320 đóng ở Kiến An. Tôi đóng quân ở Phả Lại cách nhau khoảng 40km, nhưng điều kiện, phương tiện đi lại rất khó khăn nên ít gặp nhau.

  Nhưng một việc bất ngờ đầy may mắn đã đến với chúng tôi, anh có quyết định chuyển công tác về làm Tham mưu phó Sư đoàn 332, Quân khu Đông Bắc. Đơn vị tôi, Trung đoàn 248 của Việt Bắc cũng chuyển về Đông Bắc. Cả hai đơn vị của anh và tôi đều đóng quân ỏ thị trấn Tiên Yên thuộc tỉnh Quảng Ninh.

   Anh là cán bộ cấp trung đoàn nên lập gia đình phải báo cáo lý lịch của đối tượng tìm hiểu để cấp trên xét về mặt chính trị. Lúc đầu tôi cũng tự ái cho rằng mình đã là một quân nhân, việc gì phải khó khăn như vậy, anh đã động viên tôi và nói rằng, đây là quy định của tất cả mọi cán bộ quân đội ở cấp đó trở lên.

   Đầu năm 1956, sau khi được trên đồng ý, một tháng sau chúng tôi tổ chức lễ cưới. Đám cưới của chúng tôi rất đặc biệt. Sau này tôi dự rất nhiều đám cưới của nhiều người, nhưng cũng chẳng thấy có đám cưới nào được tổ chức như thế.

   Tiên Yên lúc đó là một thị trấn hẻo lánh với đồi núi vây quanh, dân hầu hết là người Hoa và các dân tộc thiểu số, vì thế mà khi có việc vui, được phép là anh em đi dự rất đông. Mới đầu lễ cưới định tổ chức trong hội trường, nhưng bộ đội đến dự đông, không đủ chỗ nên phải kéo ra sân tập của đơn vị. Lúc này hoà bình mới lập lại, tình hình khá yên tĩnh, không sợ bị địch quấy phá nên có thể tập trung đông người được. Gia đình chúng tôi về dự chỉ có bố mẹ hai bên, bố mẹ tôi ở Hà Nội, bố mẹ anh ở Hải Phòng, hồi đó việc đi lại rất khó khăn, các cụ về dự phải đi bằng tàu thủy, vì thế anh em họ hàng không có ai ngoài bố mẹ.

   Về vật chất lúc đó chúng tôi chưa có lương, mỗi tháng được phụ cấp mấy cân gạo tính theo tiền (4 hào/lkg). Chúng tôi chỉ có thể tổ chức được một bữa cơm mời bố mẹ hai bên và một số chỉ huy các đơn vị, số tiền còn lại dồn vào mua đường trắng, nhờ bộ phận anh nuôi nấu nước chè (chè tươi ở đó rất sẵn) đổ vào các thùng quân dụng, mỗi thùng nưóc chè đổ vào mấy cân đưòng, đó là tiệc mời các anh em đồng đội đến dự. Không biết có ai phổ biến cho anh em mà mỗi người khi đến đều mang theo 1 cái ca. Tôi nhớ lúc đó, mỗi người lính chúng tôi đều được phát một chiếc ca có vẽ ba lá cờ Việt - Trung - Xô do Trung Quốc sản xuất. Ai muốn uống nước thì tự rót lấy, không có tiếp tân.

   Lễ cưới diễn ra trong nửa tiếng đồng hồ theo đúng thủ tục. Chủ hôn rồi hai gia đình phát biểu những lời dặn dò tâm huyết. Sau đó là văn công sư đoàn biểu diễn văn nghệ, tất cả kéo dài từ 7 giờ tối đến 10 giờ đêm. Bộ đội xếp thành đội ngũ đến dự, rồi lại xếp thành đội ngũ ra về, những bó đuốc sáng rực khắp các nẻo đường.

   Đám cưới của chúng tôi hết sức đơn giản, không hoa, không rượu, không chụp ảnh, quà tặng là những quyển sổ tay bút máy, những vần thơ vui. Có đơn vị mang đến thùng rất to, bọc giấy đỏ, mọi người đều tò mò không hiểu là cái gì. Anh Tuấn nói đùa, các cậu cứ mở ra mà xem, không đợi nói hết, anh em ùa đến mở ra. Thật bất ngờ đó là một đôi sam biển, có lẽ mới mua ở chợ về nên còn tươi nguyên và với lời chúc “Suốt đời quấn quýt như đôi sam này”. Quần áo cô dâu, chú rể vẫn là những bộ quân phục bạc màu.

   Đám cưới tuy đơn giản nhưng rất tưng bừng vui vẻ, chan hòa tình đồng chí, đồng đội. Sau này khi có dịp gặp lại nhau, nhiều anh em vẫn nhắc lại kỷ niệm xưa, coi đây như một đám cưới rất hay, rất lạ và đầy ấn tượng.

----------------------------------------------------------
* Vợ Thiếu tướng Kim Tuấn


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Chín, 2013, 02:42:52 pm
   Sau ngày cưới chúng tôi thường ở xa nhau, mỗi người một đơn vị. Tôi không biết nhiều về công việc của anh, anh là người luôn giữ nguyên tắc bí mật trong công tác, biêt thế nên không bao giờ tôi hỏi. Thường câu chuyện tập trung xoay quanh vấn đề các con và gia đình... Chỉ những khi anh về, tôi mới biết thêm một chút ít công việc của anh qua các đồng chí cùng đi kể lại.

  Anh là người rất quan tâm đến chiến sĩ và những người xung quanh, ở chiến trường anh thường được cung cấp thuốc bổ như sâm, nhung và các loại cao dùng để bồi dưỡng sức khỏe khi làm việc. Chiến trường là nơi rất gian khổ, thiếu thốn đủ mọi bề, nên việc bồi dưỡng sức khỏe để có sức làm việc đối với người chỉ huy là điều hết sức cần thiết. Nhưng mỗi lần anh đi thăm các đơn vị quân y, bao nhiêu thuốc bổ thuộc tiêu chuẩn của mình, anh đều đưa cho các bác sĩ để dùng cho thương, bệnh binh. Còn với mình, anh cho rằng khỏe rồi nên không cần thiết phải dùng đến. Có lần đồng chí công vụ giữ lại một ít cho anh, nhưng anh lại bảo đem đưa nốt.

   Đối với anh em công vụ, lái xe, những người gần gũi anh, anh đều rất quan tâm, như đồng chí Nguyễn Văn Hai lái xe, lấy vợ nhiều năm nhưng chưa có con vì không có điều kiện về gặp gia đình. Khi anh về công tác tại Hà Nội ít ngày, anh đều cho đón vợ đồng chí lên nghỉ ở chiêu đãi sở để có dịp vợ chồng gần gũi nhau (quê đồng chí Hai ở Thái Bình). Có lần được nghỉ vài ngày ra bãi biển chơi, anh cũng cho đón vợ đồng chí lên cùng đi.

   Đối với các đồng chí khác cũng vậy, anh là người sống rất tình cảm, rất tâm lý. Nếu có điều kiện là anh về thăm tận nhà như đồng chí Thịnh công vụ quê Phú Thọ, đồng chí Luân, đồng chí Ngôn lái xe quê Hải Dương. Cho đến nay anh đã mất trên 30 năm, những ngày giỗ anh các đồng chí không quản đường xa, tuổi đã nhiều, vẫn về thắp cho anh một nén hương, và những lời khấn thật cảm động. Đồng chí nào không về được đều gọi điện hỏi thăm trong ngày giỗ, ngày Tết Nguyên đán. Gia đình chúng tôi rất trân trọng tình cảm của các đồng chí, thật đáng quý biết bao, tình cảm của các đồng chí thật tình nghĩa, trong sáng, vô tư mà chỉ có ở những người lính “Bộ đội Cụ Hồ”.

   Đối với gia đình, anh là người rất tình cảm và chu đáo chúng tôi ít được gần gũi nhau, đơn vị anh ở xa, rồi những chiến dịch, những trận đánh liên miên. Mỗi năm chúng tôi chỉ có thể gặp nhau vào những ngày anh về họp ở Hà Nội, tình cảm và những lời động viên thường qua những lá thư, chúng tôi đã hẹn với nhau dù bận đến đâu mỗi tuần cũng gửi cho nhau một lá thư. Anh đã thực hiện đúng như vậy, khi nào rỗi rãi thì viết rất dài vài trang giấy, khi nào bận hoặc đang chiến dịch, anh vẫn viết nhưng chỉ vài dòng, thư có lúc gửi tay các anh em ra công tác, nhưng chủ yếu vẫn là qua đường quân bưu. Có những lá thư chỉ một tuần đến nơi, nhưng có những lá thư đi trên đường mất hàng tháng hoặc hơn nữa, khi về đến nơi, những dòng chữ trong thư đã nhòe đi vì mưa nắng. Tôi đã xếp những lá thư theo thứ tự ngày tháng. Đây là món ăn tinh thần, nó đã động viên người ở hậu phương cũng như ở tiền tuyến yên tâm. Đối với tôi nó rất quan trọng, nó là nguồn động viên tôi khắc phục khó khăn, nuôi dậy con một mình trong hoàn cảnh rất căng thẳng của chiến tranh với nhiều khó khăn phải khắc phục.

  Nhưng thật đáng tiếc, năm 1976, lúc gia đình tôi chuyển nhà từ khu 1A Hoàng Văn Thụ về khu tập thể Nam Đồng, hôm đó anh cũng có nhà, chúng tôi đã đọc lại những bức thư, nhớ lại những kỷ niệm, anh nói “Hòa bình rồi việc trao đổi thư từ tin tức cũng dễ dàng hơn”, chúng tôi thống nhất đem đốt những bức thư này. Tôi không thể nghĩ rằng anh lại hy sinh trong những ngày đất nước đã hoà bình. Đến nay lòng tôi vẫn day dứt, tự trách mình, giá như vẫn còn lưu giữ được những quá khứ đáng nhớ của mình trong những lá thư đầy kỷ niệm này.

   Anh là người quan tâm đến gia đình một cách rất cụ thể, thiết thực. Khi về đến nhà sau những ngày dài ở xa, đầu tiên là anh sửa xe đạp. Nhà lúc đó chỉ có 2 xe đạp, 1 cho tôi đi làm, 1 cho hai con đi học. Đó là những phương tiện rất cần thiết, không có thì rất khó khăn. Anh biết thế nên lần nào về, anh cũng đều mang xc đạp ra sửa chữa lau dầu cho mẹ con ỏ nhà có phương tiện tốt để đi lại. Có lần anh vừa tháo xe đạp ra để chữa thì có lệnh từ trong báo ra là phải về đơn vị ngay có việc gấp. Lúc đó cơm đã dọn ra, nhưng anh vẫn cố tận dụng thời gian để lắp lại chiếc xe đạp, không kịp cả ăn cơm, vơ vội chiếc bánh mỳ mang lên ô tô để vừa đi vừa ăn.

  Cuối năm 1978 anh được điều động về Bộ Tổng Tham mưu nhận công tác mới. Lúc đó anh là Tư lệnh Quân đoàn 3. Công việc đã bàn giao xong cho người thay thế. Anh về qua Thành phố Hồ Chí Minh để mua quà cho gia đình trước khi ra Bắc, chính tại thời điểm này, anh lại được cấp trên giao nhiệm vụ quay lại quân đoàn, theo lời anh Lê Đức Thọ sau này nói lại với gia đình (anh Thọ lúc đó là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) “Vì anh Kim Tuấn có nhiều kinh nghiệm ở chiến trường, nên vào thời điểm đó, chúng tôi lại phải quyết định anh quay trở lại giúp nốt cho chiến trường Tây Nam”. Anh đã sẵn sàng quay lại nhận nhiệm vụ chiến đấu giải phóng đất nước Cam-pu-chia khỏi nạn diệt chủng và anh đã hy sinh.

   Sau này anh Lê Đức Thọ nhiều lần đến thăm gia đình Trong ngày giỗ anh Tuấn, anh có vẻ băn khoăn như ân hận một điều gì. Tôi đã nói vói anh, anh Tuấn mất đi gia đình rất đau xót, hụt hẫng nhưng tôi rất hiểu những quyết định của anh, lúc đó anh là người chỉ huy cao nhất, quyết định của anh là vì công việc, là sự cần thiết của chiến trường. Tôi là người đảng viên cộng sản, tôi hiểu rõ điều này. Gia đình tôi không trách gì anh, chiến đấu là phải có hy sinh, nó rơi vào ai người đó phải chịu, biết bao xương máu đã đổ ra trong cuộc chiến tranh này. Gia đình tôi đã xác định, không oán trách ai cả.

   Sau này, lúc anh Lê Đức Thọ đã ốm nặng, anh vẫn có lần đến thăm gia đình tôi, anh đi phải có người dắt, rất yếu. Tôi rất cảm động về việc làm này, rất tình nghĩa và rất có trách nhiệm.

   Cuộc đời chinh chiến của anh có nhiều lúc rất nguy hiểm, cận kề với cái chết, xong không bao giò anh nói lại, sợ ở nhà lo lắng. Có một lần tôi xêp ba lô cho anh, thấy áo quân phục anh thủng lỗ chỗ. Hỏi anh, anh chỉ cười. Đồng chí công vụ cho anh kể lại: hầm của anh bị bom bi thả ngay ngoài cửa hầm, may anh ở sâu bên trong nên không việc gì, quần áo phơi ở gần cửa hầm đều bị bom làm thủng. Tôi đã cất chiếc áo này giữ làm kỷ niệm. Lần sau về anh mang bỏ đi, anh nói “Giữ lại làm gì để cả nhà phải lo lắng, anh không chết được đâu, bom đạn nó tránh anh”. Thực ra anh đã có lần bị thương, 1 mảnh đạn vẫn còn nằm trong người (anh là thương binh loại 5/6).

   Có lần hành quân trong rừng, đồng chí đi sau chống gậy chọc phải 1 tổ ong đất. Cả đoàn bị ong đốt, anh bị ong đốt nhiều nhất, quân y đã rút ra từng ngòi ong và cho anh uống thuốc giải độc, song anh vẫn bị đau nhiều, sốt rất cao. Một tuần sau, Bộ triệu tập về họp, anh về, các vết ong đốt vẫn còn sưng, nhưng anh vẫn tỏ ra vui vẻ. Anh bảo được ong đốt thế này chắc sẽ sống lâu, không sao cả. Ba ngày họp xong anh về ngay đơn vị, anh vẫn còn sốt. Mọi người khuyên anh nên đi nằm bệnh viện ít ngày, vì ở Trung ương có điều kiện thuốc men đầy đủ hơn, anh nói “Ra họp nhận chỉ thị thì phải về phổ biến triển khai ngay chứ nằm bệnh viện là thế nào”. Tôi biết anh là người như thế đấy, nhiệm vụ bao giờ cũng là trên hết, ít khi nghĩ đến bản thân mình.

  Tôi nhớ lại những năm tháng cuối cùng của anh. Cuối năm 1978, anh đột ngột về, anh nói “May quá anh lại về họp mấy ngày nhận nhiệm vụ, nhưng cũng là dịp để gặp em và các con”. Tôi hơi ngỡ ngàng vì không bao giờ anh nói như thế, kể cả những lần đi B dài, nay hòa bình đi lại dễ dàng hơn mà sao lại bảo là may. Ban ngày anh vào Bộ Tổng Tham mưu làm việc, tối về anh tranh thủ đi liên hệ việc làm cho con gái đầu lòng của chúng tôi. Cháu vừa tốt nghiệp đại học. Đi thăm con trai đang học năm thứ hai Đại học Kỹ thuật quân sự ở Vĩnh Yên, anh làm rất hối hả không đúng vối tác phong của anh thường ngày.

   Trong chiến tranh anh đi lại bằng ô tô, xe đón tận nhà tôi không phải tiễn. Từ ngày hoà bình anh ra Bắc, vào Nam bằng máy bay. Lần nào anh đi tôi cũng xin nghĩ việc để đi tiễn anh ra sân bay Nội Bài, anh vào sân bay là tôi ra về. Nhưng lần này rất lạ, vào sân bay rồi anh lại quay ra tới hai lần có vẻ bồn chồn. Anh dặn tôi và chú lái xe, khi nào nhìn thấy máy bay bay rồi mới được về và như có vẻ băn khoăn điều gì. Sau nghĩ lại tôi thấy đây có lẽ linh tính mách bảo một điều gì không lành mà anh cảm thấy.

   Được tin anh mất, tôi choáng váng, đất như sụp dưới chân. Các đồng chí trong quân đoàn ra nói lại diễn biến sự việc khi anh bị thương, tôi nghe nhưng hầu như không hiểu gì cả, tất cả đều mơ hồ. Sau ít ngày anh Đặng Vũ Hiệp, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị nói lại tình hình vói tôi.

  Đoàn xe của anh đang trên đường làm nhiệm vụ thì bị địch phục kích, anh bị thương nặng, đồng chí bác sĩ đi với anh hy sinh ngay từ phút đầu, điều kiện và phương tiện cấp cứu gặp nhiều khó khăn. Anh bị hôn mê có một lúc tỉnh lại, anh dặn dò các đồng chí đứng xung quanh và nhờ nhắn lại gia đình, sau đó anh lại hôn mê tiếp và không bao giờ tỉnh lại nữa.

   Anh dặn lại tôi, cố gắng nuôi dạy các con trở thành những người có ích cho xã hội và anh gửi lời xin lỗi tôi.

  Anh mất lúc 9 giờ sáng ngày 17 tháng 3 năm 1979 tức ngày 20 tháng 2 âm lịch.

  Tim tôi như ứa máu, nhưng tôi xác định phải bình tĩnh, hêt sức bình tĩnh, vững vàng, sự việc đáng sợ nhất đã xảy ra rồi, không thể lấy lại được nữa, phải sắp xếp lại cuộc sống gia đình khi không còn anh, và điều quan trọng là phải thay anh làm chỗ dựa vững chắc cho các con.

   Ngày tháng qua đi nhìn lại đã trên 30 năm, các con anh đã trưởng thành, con gái Nguyễn Thị Thanh Hà, con trai Nguyễn Công Hiệu đều đã có gia đình riêng, êm ấm, hạnh phúc, có 4 cháu nội, ngoại. Các cháu đều ngoan, học tốt. Có cháu đã tốt nghiệp đại học, có cháu đang là sinh viên.

  Hai con anh đã trở thành những sĩ quan cao cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam và từ lâu đã trở thành những đồng chí của anh, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Tôi hiện nay tuổi đã cao, sức khỏe yếu nhưng vẫn cố gắng sống vui, sống có ích chờ ngày về gặp lại anh ở cõi vĩnh hằng.

Hà Nội, ngày 17 tháng 3 năm 2011


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Chín, 2013, 02:06:35 pm
KÝ ỨC VỀ ANH TÔI

NGUYỄN CÔNG HẢI*


   Trong gia đình gồm 10 anh chị em, Thiếu tướng Kim Tuấn là con thứ 2 và tôi là trai thứ 7, ở nhà anh có tên gọi Cường, nổi bật là người con hiếu thảo, trung hiếu vẹn toàn.

   Trong mắt chúng tôi, anh là người anh có tình bằng hữu, độ lượng, hay khuyên bảo các em những điều đúng đắn và tiến bộ để trở thành những người chân chính, cao thượng.

   Ký ức về anh đưa tôi trở về những ngày thơ ấu được anh bế ẵm, chăm sóc hồi trước những ngày “chạy loạn” khoảng cuối năm 1945 đầu 1946. Khi về Lai Khê - nơi cha tôi làm Trưởng ga thời đó, những lúc rỗi rãi, anh thường bế tôi lên tàu xuôi ngược một vài ga chơi. Đến chiều, anh lại dắt tôi ra sông tắm rửa sạch sẽ trước giờ ăn cơm. Đó là những kỷ niệm êm đẹp, thắm tình huynh đệ ruột thịt thuở hàn vi của tôi về anh.

   Tiếp bước thầy tôi bất chấp hiểm nguy và tích cực tham gia cùng dân quân cách mạng tiến hành tước vũ khí, bắt lính Nhật đồn trú tại ga Lai Khê giải về chiến khu vào tháng 8 năm 1945, anh đã hăng hái nhập ngũ và vinh dự sớm được vào học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn danh giá thời đó.

   Đầu năm 1947, thầy u tôi được tổ chức lên kế hoạch đưa về Hải Phòng đang bị địch chiếm làm cơ sở liên lạc của kháng chiến cùng 2 người anh khác của tôi, dưới anh Kim Tuấn, hoạt động quân báo. Thỉnh thoảng, người liên lạc chuyển thư của các anh tôi ở vùng kháng chiến gửi về nên thầy u tôi và các anh đang hoạt động quân báo rất phấn khởi, yên tâm, tin tưởng kháng chiến sẽ thắng lợi. Do có kẻ khai báo mà mạng lưới quân báo ở Hải Phòng bị địch phát hiện, hai người anh tôi hoạt động quân báo ở đó bị bắt. Sau đó chúng tôi bị mất liên lạc một thời gian, khi đường dây được nối lại thì gia đình tiếp tục nhận được thư của các anh từ vùng kháng chiến gửi về. Cha mẹ tôi rất vui mừng và càng quyết tâm ủng hộ kháng chiến.

  Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu đã buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hoà bình ở Việt Nam. Theo Hiệp định, Hải Phòng phải chờ thêm 300 ngày mới được quân Pháp trao trả. Nhân dân Hải Phòng phải chứng kiến cảnh náo loạn của những người di cư vào Nam. Sau đó là cảnh tiêu điều vắng lặng trước ngày trao trả thành phố. Những ngày đó, ban đêm có lệnh thiết quân luật nên nhà nào nhà nấy đóng cửa từ 6 giờ chiều. Ban ngày, rất ít người ra đường nên phố xá vắng tanh vắng ngắt. Thỉnh thoảng, mới có một toán tuần tra liên hợp gồm 2 lính quân cảnh Pháp đi cùng 2 chiến sĩ công an áo vàng của ta chậm rãi thị sát thành phố. Đài phát thanh Sài Gòn tung tin là Việt Minh sẽ chỉ tiếp quản được môt thành phố chết. Nhưng ngược lại, 6 giờ sáng ngày 13 tháng 5 năm 1955, mấy anh em tôi trèo lên gác hai hé mở cửa ghé mắt nhìn xuống đường thì thấy ngay trước cửa nhà mình có một xc thiết giáp chở đầy lính Pháp quân phục chỉnh tề, súng ống đeo vai đang hướng mắt về phía ngõ Đồng Lùn vẻ lo sợ. Anh em tôi ra ban công nhìn sang ngõ Đồng Lùn và vô cùng ngạc nhiên vì được chứng kiến một khung cảnh vô cùng sống động của sự hồi sinh. Quân Pháp rút đến đâu, tức khắc đường phố được nhuộm đỏ cờ cách mạng đến đấy. Từ ngõ Đồng Lùn đến tận ngã tư trại lính khố xanh là cả một rừng cờ dỏ sao vàng nhanh chóng treo đầy cửa các nhà. Nhân dân thì ùa cả ra đường nhảy múa, cười nói rộn rã tưng bừng, mừng thành phố được giải phóng. Anh em chúng tôi vội quay vào chuẩn bị cờ để ngay sau khi quân Pháp rút khỏi cửa nhà là mang cờ ra treo ngay.

  Cũng ngày hôm đó, nhân dân Hải Phòng tưng bừng dựng cổng chào, chăng đèn kết hoa, còn thiếu nhi thì theo các chú bộ đội tập hát những bài ca cách mạng như: Hò kéo pháo, Giải phóng Điện Biên... để kịp sáng hôm sau đón đoàn quân chiến thắng trở về.

  Thật không thể bao giờ quên được hình ảnh đoàn quân về tiếp quản Hải Phòng sớm hôm đó, đi đầu là đội quân nhạc kèn trống vang lừng, theo sau là đội ngũ các anh bộ đội đều bước và cuối cùng là đoàn xe cơ giới. Nhân dân vui mừng đổ xô ra đứng hai bên vỉa hè chào đón đoàn quân chiến thắng trở về.

   Một bất ngờ lớn, khoảng 19 giờ hôm đó, có hai người đầu đội mũ cốt tre phủ lớp vải xanh lá cây, bên trên là tấm lưới ngụy trang với ngôi sao vàng lấp lánh. Một người mặc bộ quần áo đại cán bốn túi, người kia mặc bộ áo hai túi, chân đi giày vải màu xanh lá cây, đó là hình ảnh bình dị của các anh Bộ đội Cụ Hồ khi về giải phóng Hải Phòng. Hai ngươi lặng lẽ đến trước cửa nhà tôi thì đứng lại quan sát, rồi người trước người sau bước vào nhà. Đó là cuộc về thăm gia đình của anh tôi sau mười năm xa cách, nó không ồn ào nhưng vô cùng xúc động. Cha tôi phát hiện ra người đi trước là anh tôi. Cụ sửng sốt hỏi: “Anh Cường đấy à?”. Người lính đi sau vội kính cẩn nói: “Thưa cụ, đây là đồng chí Kim Tuấn ạ”. Mọi người vỡ òa lên vì ngạc nhiên. Không tả hết niềm vui mừng, xúc động của giây phút tái ngộ hôm ấy. Cha mẹ, anh em mừng rỡ lao đến ôm chầm lấy anh. Thầy u cùng nắm tay anh hỏi: “Có đúng anh Cường đấy không?”, “Dạ, đúng con đây ạ. Nhưng bây giờ con là Kim Tuấn ạ. Sáng nay, trong đoàn quân đi qua nhà, con đã nhìn thấy thầy u, nhưng bây giờ con mới về thăm thầy u và các em được ạ”. Thầy tôi xúc động hỏi: “Anh vẫn được lành lặn và khoẻ mạnh đấy chứ?”. Anh đáp: “Dạ, con bị trúng nhiều viên đạn, nhưng may mắn là được các bác sĩ quân y kịp thời gắp ra và cứu sống. Hiện nay, vẫn còn mấy mảnh đạn nữa chưa lấy ra được đấy ạ”. Lặng một lát, anh ngậm ngùi nói tiếp: “Còn nhiều anh em khác kém may mắn hơn thì đã hy sinh”. Không khí buổi tái ngộ bỗng trở nên trầm lắng, đau buồn bởi sự thương tiếc những tấm gương hy sinh.

  Chiến thắng trở về, anh mới 28 tuổi, nhưng đã là môt cán bộ chỉ huy dày dạn chiến trận của Đại đoàn 320 và còn chưa có vợ. Còn tôi, đã đủ lớn để làm liên lạc giữa thầy tôi và anh, cũng như là người để anh có thể tâm sự lúc rỗi rãi.

   Thầy tôi thường sai tôi sang Kiến An gọi anh về. Đến chiều, sau khi ăn cơm xong anh đạp xe về gặp thầy tôi. Trong câu chuyện, bao giờ anh cũng xưng hô lễ phép, một điều thầy hai điều con. Tuy đơn vị đóng ở gần, nhưng thỉnh thoảng anh mới về nhà chơi. Nhà vắng vẻ vì phần lớn mọi người đã thoát ly, chỉ còn tôi ở nhà nên anh hay tâm sự với tôi. Anh nói: “Chiến tranh làm mình quên nhiều kiến thức đã học trước đây” và tỏ ra tiếc nuối vì không có điều kiện học cao hơn. Anh chấp nhận sự hy sinh vì nghĩa lớn của dân tộc, vì Tổ quốc để có ngày hôm nay.

   Rồi một hôm anh hỏi: “Cậu có biết bài Tình ca Tây Bắc không?”. Tôi trả lời là có. Anh nhờ tôi chép cho anh một bản. Tôi sưu tầm và chép cho anh một bản. Hôm sau anh về, tôi mang đàn ghi ta ra dạo đầu rồi vừa đệm đàn vừa hát cho anh nghe. Thế là anh hát theo tôi. Nhưng anh không thuộc lời nên chỉ hát theo kiểu không phát lời và chỉ ngậm miệng phát ra âm tì tí ti... Hai anh em cùng say sưa hát, trong không khí thân mật đó tôi hỏi anh: “Đi bộ đội chiến đấu chắc là vui lắm phải không anh?”. Anh chậm rãi nói nhiều điều với tôi: “Chiến tranh không phải là trò chơi trận giả như của các cậu đâu. Nó vô cùng khốc liệt. Những vết thương trên thân thể mình chứng minh điều đó. Nhưng mình không hãi hùng, đầu hàng hay có ý xin phục viên, chuyển ngành, mà vẫn sẽ phục vụ lâu dài trong Quân đội”. Sau đó, anh tâm sự: “Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất. Cậu hãy cố gắng chăm chỉ học hành, hăng hái tham gia các hoạt động tập thể, sẵn sàng cống hiến đời mình cho lý tưởng cao đẹp của Bác Hồ: Trung với nước - Hiếu với dân”. “Bất cứ làm việc gì cũng phải nhằm đến cái đích chiến thắng. Muốn vậy, phải vận dụng tối đa trí tuệ để kịp thời đưa ra những quyết định đúng đắn thì mới giành được thắng lợi”... “Mình là một thương binh nên rất thấu hiểu nỗi đau thể xác của đồng đội bị thương”. Mãi sau này tôi mới thấu hiểu hết lời của anh. Đó là thời gian thanh bình, ngắn ngủi nhưng chan chứa kỷ niệm ban đầu êm đẹp của anh em tôi.

   Sau đó, anh em tôi mỗi người mỗi ngả. Đầu đời, khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường, nhưng tôi dã không chần chừ xếp bút nghiên hăng hái nhập ngũ. Tuy nhiên, tôi không có duyên binh nghiệp, nhưng tôi vẫn tự nghiên cứu thêm binh thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh để có thể hiểu những điều anh nói ở trên. Điều cốt tử trong chiến trận là phải đè bẹp được ý chí của đối phương. Muốn vậy, phương án tác chiến phải hội đủ hai điều kiện: cần là ĐÚNG và đủ là TRÚNG thì mới đánh tan được ý chí của đối phương, mới tiêu diệt được nhiều quân địch.
 Trước ngày Mỹ ném bom miền Bắc, anh được đi học lớp quân sự cao cấp ỏ Trung Quốc, rồi chiến tranh đã cuốn anh ra sa trường đúng vào thời gian tôi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nên từ đó anh em tôi ít có điều kiện gặp nhau. Một lần, ngẫu nhiên tôi gặp anh về Hà Nội họp. Tôi hỏi thăm sức khoẻ và hỏi xem anh “thắng” những trận nào. Anh điềm đạm trả lời: “Đơn vị mình tham gia nhiều trận, gần đây nhất đã thắng trận ở Khe Sanh và bắt được một viên sĩ quan cao cấp Sài Gòn”. Sau lần gặp đó anh đi rất lâu, giữa hai anh em không còn mối liên lạc nào nữa.

   Chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 đã giải toả tất cả. Nhưng rất lâu sau ngày chiến thắng, anh mới về thăm vợ con, gia đình bố mẹ và anh em. Anh tâm sự: “Trong suốt đời binh nghiệp, chiến thắng Cheo Reo gây ấn tượng lớn nhất đối với mình. Đó là một chiến thắng vang dội nhờ trí tuệ. Vì thế thương vong, tổn thất cho ta đã được giảm thiểu đến mức thấp nhất. Còn binh lính và sĩ quan địch bị bắt và ra đầu hàng rất đông. Chiến thắng này đã tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Sư đoàn 320”. Tôi nói: “Buôn Ma Thuột là một quyết định đúng và có sự chuẩn bị kỹ càng công phu, đánh trúng điểm huyệt của đối phương khiến chúng phải rùng mình. Nhưng Buôn Ma Thuột mới chỉ làm suy yếu đối phương chứ chưa hạ gục được nó. Phải đến Cheo Reo, là một ứng phó tức thời của ta, nhưng lại vượt ngoài tầm địch dự kiến những điểm bị phục kích, nên là đòn chính xác trúng tử huyệt, đè bẹp hoàn toàn ý chí của đối phương, tạo tiền đề vững chắc nhất, quyết định nhất dẫn đến thắng lợi cuối cùng của chiến dịch Hồ Chí Minh”.

  Đất nước đã thống nhất, nhân dân bắt đầu hưởng những ngày thanh bình hằng mơ ước. Nhưng, anh tôi, một thương binh, vẫn hiến thân cho binh nghiệp, vẫn một lòng một dạ “Trung với nước, hiếu với dân”. Lý tưởng đó đã không bao giờ phai nhạt trong tâm trí anh tôi. Vẫn phép công làm trọng, vẫn giữ trọn hiếu hữu gia phong. Không vướng gợn bụi bẩn trần gian, vẫn cùng đơn vị vững vàng trấn thủ biên cương để chống thiên tai địch họa cho dân cho nước. Rồi hoá thân, thoả “Chí làm trai bọc thân da ngựa” và thanh thản trở về với đất mẹ Việt Nam thân yêu. Anh để lại cho đồng đội, gia đình: vợ con, cha mẹ, anh em và tôi niềm thương tiếc khôn nguôi.

  Những dòng ký ức này em kính cẩn dâng lên hương hồn anh, người anh trai ruột thịt bình dị, khiêm nhường, cao thượng, vị tha, trung hiếu vẹn toàn, cầu mong anh sớm được siêu thoát.

Lán Bè, Hải Phòng
0 giờ 30 phút, ngày 5 tháng 6 năm 2011

---------------------------------------------------------
* Em của Thiếu tướng Kim Tuấn


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Chín, 2013, 02:10:29 pm
NHỚ ANH KIM TUẤN


NGUYỄN CÔNG THÁI*
 

   Thiếu tướng Kim Tuấn (tức Nguyễn Công Tiến), sinh năm 1927, là con trai thứ hai của hai cụ Nguyễn Công Hưng và Hoàng Thị Bính, quê ở xã Phúc Lâm, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ, nay là xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.

  Được giác ngộ trong phong trào Cách mạng tháng Tám, tháng 4 năm 1946, ông Nguyễn Công Tiến tham gia quân đội (học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn - khóa I) và kể từ đó ông có tên gọi Kim Tuấn. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 8 năm 1948.

  Trong kháng chiến chống Pháp, ông liên tục chiến đấu ở đồng bằng Liên khu 3.

  Trong kháng chiến chống Mỹ, ông đã tham gia đóng góp trên các chiến trường trong cả nước, đặc biệt là chiến dịch Tây Nguyên, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

   Ông đã được rèn luyện trưởng thành từ chỉ huy trung đội, đại đội lên tới sư đoàn, quân đoàn.

   Qua các cương vị chỉ huy, ông luôn nêu cao tinh thần nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh, chỉ thị, ý chí tấn công, tác phong xông xáo tỉ mỉ, cụ thể và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Ông còn được anh em trong đơn vị tin yêu và bạn bè quý mến về tinh thần đoàn kết, thương yêu đồng đội và đức tính gương mẫu, khiêm tôn, cần cù, giản dị.

   Từ cuối năm 1977, với cương vị Tư lệnh Quân đoàn 3, Thiếu tướng Kim Tuấn đã đem hết tài năng, sức lực và trí tuệ của mình cùng với Đảng ủy và Bộ Tư lệnh lãnh đạo, chỉ huy đơn vị chiến đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đánh địch bảo vệ biên giới lãnh thổ phía Tây Nam nước ta và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả, giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi nạn diệt chủng Khơ-me đỏ.

  Ngày 17 tháng 3 năm 1979, trên đường truy kích địch ở phía Tây Cam-pu-chia, Thiếu tướng Kim Tuấn đã bị địch bắn lén và anh dũng hy sinh tại đây.

   Trên 30 năm liên tục chiến đấu, Thiếu tướng Kim Tuấn đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của nhân dân, cho sự nghiệp xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

   Do những thành tích và công lao đóng góp đó, Thiếu tướng Kim Tuấn đã được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương cao quý (Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhì,...) và truy tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, đặc biệt ông đã được ghi danh trong tập “Chân dưng Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh” do Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương biên soạn và ấn hành.

   Sau khi mất, Đảng, Nhà nước và quân đội đã tổ chức lễ tang Thiếu tướng Kim Tuấn vô cùng trọng thể tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội với sự tham dự của nhiều đồng chí lãnh dạo cấp cao của Đảng, Chính phủ và các tướng lĩnh quân đội (đồng chí Lê Đức Thọ - Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam; Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam,...), cùng nhiều cán bộ cấp cao các quân chủng, binh chủng, các quân khu, quân đoàn trong toàn quân đã đến viếng và chào tiễn biệt Thiếu tướng Kim Tuấn.

  Trong lời điếu của Quân ủy Trung ương do Thượng tướng Trần Văn Trà - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đọc có đoạn viết: “Đồng chí Kim Tuấn mất đi; Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta mất đi một người con trung hiếu; Quân đội ta mất đi một cán bộ gương mẫu, chúng ta mất đi một đồng chí, đồng đội trung thực, vô tư; gia đình mất đi một người con, người chồng, người cha thân yêu.

  Đồng chí Kim Tuấn không còn nữa nhưng tinh thần và đức tính của đồng chí còn sống mãi trong lòng chúng ta.

  Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân đội ta mãi mãi ghi nhớ công lao của đồng chí”.

  Linh cữu Thiếu tướng Kim Tuấn phủ Quốc kỳ được đặt trên một cỗ xe kéo pháo, nòng vươn cao hướng về phía trước, xung quanh xe phủ đầy hoa.

   Trời Hà Nội hôm đó trong xanh, nắng dịu. Khi đoàn xe tang đi qua các dãy phố dẫn tới nghĩa trang Mai Dịch, hai bên hè phố tấp nập người qua lại, nhiều người đứng lại hồi lâu ngắm nhìn đoàn xe tang đi qua với đôi mắt ngỡ ngàng vì được tận mắt chứng kiến buổi tang lễ trọng thể khác thường.

  Một sự ngẫu nhiên vào những ngày đó cả nước Việt Nam, đặc biệt hôm cử hành tang lễ Thiếu tướng Kim Tuấn tại Hà Nội, trên các dãy phố khi đoàn xe đi qua đều rợp trời cờ hoa, được tô điểm nổi bật bởi các băng-rôn đỏ rực sáng chói dòng chữ vàng: “Việt Nam bách chiến bách thắng”. Bởi chính những ngày cuối tháng 3 năm 1979 đó, biên giới phía Bắc đã giải quyết ổn thỏa, nhân dân Hà Nội và cả nước ăn mừng chiến thắng và nhiều người trong số họ có may mắn được đưa tiễn Thiếu tướng Kim Tuấn về nơi an nghỉ cuối cùng.

  Mộ Thiếu tướng Kim Tuấn đặt tại khu bên phải Đài tưởng niệm nghĩa trang Mai Dịch.

  Hình ảnh của Thiếu tướng Kim Tuấn được Ủy ban nhân dân xã Tân Ước trân trọng đặt tại nhà truyền thống của xã. Tên tuổi của Thiếu tướng Kim Tuấn cũng đã được khắc ghi trên bia ghi danh các anh hùng, liệt sĩ của xã.

  Hình ảnh của Thiếu tướng Kim Tuấn còn được đặt trang trọng bên phải bàn thờ Tổ dòng họ Nguyễn Công, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, Hà Nội.

   Gia đình Thiếu tướng Kim Tuấn hiện nay ở nhà số 8, ngõ 102/25, Trường Chinh, Hà Nội.

   Vợ là bà Lê Thị Tú Khuê - Bác sĩ nghỉ hưu, nguyên Trưởng phòng Y tế kiêm Bệnh viện trưởng Bệnh viện Nhà máy dệt 8/3, Hà Nội.

  * Con gái: Nguyễn Thị Thanh Hà - Tiến sĩ, Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, Trưởng ban Phụ nữ Quân đội.

   Con rể: Nguyễn Thụy Khuê - Giám đốc Xí nghiệp sửa chữa Ô tô Tổng cục Đưòng sắt Việt Nam.

  * Con trai: Nguyễn Công Hiệu - Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, hiện công tác tại Bộ Quốc phòng.

  Con dâu: Nguyễn Thị Thu Thủy - Cử nhân, hiện đang công tác tại Công ty Tư vấn Xây dựng Thủy lợi Việt Nam.

   * Các cháu nội:
  - Nguyễn Tú Uyên - Cử nhân Ngân hàng, công tác tại MB, Hà Nội.
   - Nguyễn Quỳnh Như - Sinh viên Đại học Công đoàn, Hà Nội.
   - Nguyễn Công Sang, còn nhỏ.

   * Cháu ngoại: Nguyễn Tuấn Linh - Sinh viên Đại học FPT, Hà Nội

---------------------------------------------------------
* Em của Thiếu tướng Kim Tuấn


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Chín, 2013, 02:17:10 pm
KÝ ỨC VỀ ANH TÔI - THIẾU TƯỚNG KIM TUẤN


NGUYỄN CÔNG CHƯƠNG*
 

    Khi còn nhỏ anh tôi đã rất hiếu động. Năm 1940, anh thường cùng một số bạn bè tập trận giả ở các hầm nổi ở ga Gia Lâm do Pháp xây dựng để tránh máy bay Nhật ném bom. Anh đặc biệt hay trêu con một người Pháp, có lẽ là Trưởng ga Gia Lâm lúc bấy giờ. Một lần anh tôi dùng vòi nước phun vào thằng bé này, u tôi bắt gặp đã mắng anh tôi rằng: “Con cứ hay trêu nó rồi thế nào cũng có lần bố mẹ nó trông thấy, họ sẽ đánh con đau không biết đường nào mà kể và đến lúc đó thì không ai can được đâu”.

  Vào khoảng năm 1944, những đêm trăng sáng anh thường để các em ngồi lên xe goòng rồi đẩy xe chạy bộ trên đường ray từ ga Lai Khê đến Phạm Xá hay chân cầu Lai Vu, rồi lại đẩy xe về. Khi nhớ về những giây phút đó tôi vẫn cảm thấy vô cùng vui, thú vị và đó là những kỷ niệm không bao giờ tôi có thể quên, những kỷ niệm mà trong đó vẫn thấp thoáng bóng hình của người anh trai yêu quý. Anh tôi có gương mặt phúc hậu, đôi mắt sáng, da dẻ hồng hào, căng đầy sức sống, càng lớn anh càng đẹp trai, anh là con người giản dị, đúng mực, quần áo thường không cầu kỳ nhưng luôn chỉnh tề, gọn gàng Anh hay hát, cởi mở và trên gương mặt luôn thường trực nụ cười, anh có nụ cười rất dẹp, bừng sáng và hiền hậu.

  Khoảng tháng 6 năm 1945 sau một bữa cơm chiều, tôi ngồi gần đó nghe được một số ý trong cuộc trò chuyện giữa thầy tôi và anh Kim Tuấn nói chuyện, mà đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ mãi. Thầy tôi tâm sự: “Lúc này, nước ta có nhiều đảng phái, tổ chức mà phe phái nào cũng nói hay về mình và có phe còn nói xấu các phe cánh, đảng phái khác. Nhưng dư luận chung và thực tế chỉ thấy Việt Minh là có ảnh hưởng lớn hơn cả, được mọi người mến mộ, tin theo. Trong hoàn cảnh này nhiều thanh niên băn khoăn không biết nên lựa chọn con đường nào đi cho đúng, theo ý thầy con nên theo Việt Minh để giúp dân cứu nước”. Quả nhiên vài ngày sau dó, anh tôi không làm tập sự ở ga Lai Khê nữa. Anh đã tìm đường đến với Việt Minh. Rồi một thời gian sau có tin anh tôi đang theo học tại Trường Võ bị Trần Quốic Tuấn, cả nhà tôi ai nấy đều vui mừng.

  Xong khóa học, anh tôi được trở về thăm gia đình mấy ngày, trông anh đã khác trước rất nhiều. Đầu đội mũ chào mào nghiêng về một bên, quần áo chỉnh tề, chân đi đôi giày da cao cổ lại có đôi ghệt cài chặt bên trên cổ chân. Đúng là con người vừa được rèn luyện trong quân ngũ, tác phong của anh hết sức đĩnh đạc, nhanh nhẹn và đặc biệt anh luôn mang bên mình chiếc kèn ácmônica và thổi những bài hát ca ngợi cách mạng.

  Năm 1958, khi hay tin Thành đội Hà Nội lấy một số học sinh cấp III và sinh viên học ở Hà Nội vào bộ đội, anh Kim Tuấn đã động viên tôi viết đơn nhập ngũ. Bút tích lời đề nghị của anh tôi gửi Thành đội Hà Nội xin cho tôi nhập ngũ như sau: “... vào quân đội để học tập, rèn luyện chặt chẽ, sau này sẽ phục vụ tốt hơn cho xã hội”.

   Điều đáng nói ở đây, người đề nghị này là người đã ở trong quân ngũ 13 năm, trải qua bao vất vả hiểm nguy trong kháng chiến chống Pháp và đã bị thương mấy lần. trong người còn vài mảnh đạn và suýt chết hai lần.

   Sau khi tôi đã nhập ngũ, anh thường xuyên viết thư thăm hỏi tôi về mọi mặt, nêu phương hướng phấn đấu học tập, rèn luyện cho tôi. Khi tôi bị bệnh, sức khỏe giảm sút không thể phục vụ trong quân đội được nữa, anh tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng, gửi cho tôi nhiều thư từ để thăm hỏi, bàn cách giải quyết, thể hiện sự quan tâm, thông cảm với tôi một cách ân tình. Sau này qua nhiều dịp trò chuyện về anh, tôi còn được biết không chỉ riêng tôi mà tất cả các thành viên khác trong gia đình, thậm chí một số người thân trong họ tộc cũng nhận được sự quan tâm, thăm hỏi rất thường xuyên, chu đáo của anh.

   Dưới đây tôi xin ghi lại một vài ý trong cuộc nói chuyện giữa anh Kim Tuấn với người anh cả của tôi (Tiến - Thịnh) và tôi vào thập niên 60 thế kỷ XX. Vào một buổi sáng đầu năm 1963, anh Kim Tuấn vừa tới cổng Bộ Quốc phòng thì gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nhìn thấy anh, Đại tướng ra hiệu cho xe dừng lại, hai người trao đổi với nhau mấy câu. Sau khi biết anh tôi được đề bạt lên làm Cục phó Cục Quân lực thì Đại tướng chúc mừng và cho rằng anh tôi phù hợp có thể phát triển tốt hơn ở các đơn vị trực tiếp chiến đấu. Sau đó anh Tuấn tâm sự cũng tự nhận thấy điều Đại tướng nói có lý, bởi ở đơn vị chiến đấu là nơi anh tôi có thể phát huy tốt nhất khả năng tổ chức chỉ huy, nên anh đã nhanh chóng đề đạt ý định đó với cấp trên. Ít lâu sau, anh tôi nhận quyết định trở lại Sư đoàn 320.

  Những cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 320 chuyển sang Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân mà tôi đã gặp khi còn tại ngũ, hoặc một số đồng chí công an Hải Phòng trước đây cũng ở Sư đoàn 320 mà tôi gặp sau này, khi biết tôi là em trai anh Kim Tuấn, đều hết lòng khen ngợi anh tôi và còn kể cho tôi nghe chuyện chiến đấu, cách anh tôi chỉ huy các trận đánh ra sao. Qua những lời kể đó, tôi biết được trong kháng chiến chống Pháp mặc dù còn trẻ tuổi nhưng anh đã tham gia hoặc tổ chức một số trận đánh khá táo bạo và nhạy bén trong xử lý các tình huống. Có lẽ vậy mà theo thiển ý của tôi mới có sự cất nhắc nêu ở trên.

  May mắn thay, nhờ có quyết định hết sức đúng đắn và sáng suốt của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà sau này anh tôi đã có dịp được thể hiện tài năng xuất chúng trên trận mạc trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, trận đánh Cheo Reo - Phú Bổn ở Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và cuộc tiến công chớp nhoáng sang Cam-pu-chia góp phần giúp nhân dân nước bạn thoát khỏi nạn diệt chủng.

  Nhưng cũng chính trong trận đánh này mà anh tôi đã ra đi mãi mãi, để lại sự tiếc thương vô hạn cho toàn thể gia đình và các đồng chí, đồng đội của anh.

   Từ lúc còn nhỏ, anh Kim Tuấn đã ít có cơ hội được sống gần gũi với gia đình vì phải trọ học ở những nơi xa chỗ thầy tôi làm. Từ năm 1945 đến năm 1979, anh phục vụ trong quân đội, nay chiến trường này mai chiến trường khác suốt từ Bắc chí Nam rồi lại sang tận cả Lào, Cam-pu-chia. Thời gian anh dành cho gia đình không có nhiều, nhưng anh vẫn thường xuyên quan tâm, hỏi han, dạy dỗ các con cẩn thận. Chính vì vậy, cả hai con anh đều trưởng thành, học hành giỏi giang và đều tiếp bước cha mình rèn luyện, làm việc trong quân đội, phụng sự đất nước. Cuộc đời và sự nghiệp của anh mãi mãi là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Chúng tôi kính trọng, yêu mến và tiếc thương anh rất nhiều.

Hải Phòng, ngày 9 tháng 7 năm 2011


--------------------------------------------------------
* Em của Thiếu tướng Kim Tuấn


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Chín, 2013, 02:19:31 pm
BỐ VẪN LUÔN Ở BÊN CHÚNG TÔI


Đại tá, Tiến sĩ NGUYỄN THỊ THANH HÀ*
 

   Đến hôm nay bố tôi đã “đi xa” tròn 33 năm, nhưng hình ảnh của ông, những dấu ấn của ông vẫn hàng ngày, hàng giờ hiện hữu thật gần gũi, luôn là niềm tự hào, là tấm gương sáng có sức ảnh hưởng to lớn, định hướng mỗi chúng tôi (các con, cháu của ông) trong từng bước đi hướng về phía trước, tiếp bước con đường ông đã lựa chọn, góp phần bảo vệ những thành quả, những mục tiêu cả cuộc đòi ông đã cống hiến, đã phải đổ máu và hy sinh.

   Ở độ tuổi tôi, lớn lên trong thòi kỳ đất nước có chiến tranh, cả nước ra trận, hướng về tiền tuyến, cũng giống những người con khác có bố là bộ đội, thời gian chúng tôi được sống với bố thật là ít ỏi; riêng đối với chị cm tôi, từ lúc nhận biết được về bố cho đến lúc ông hy sinh, có lẽ thời gian chỉ được tính bằng một số ít ỏi của tháng, ngày cộng lại. Nhưng một điều kỳ lạ là những người thân trong gia đình, họ hàng đều nói ở chúng tôi có dáng dấp, những phẩm chất và nét tính cách của ông. Điều này chỉ có thể lý giải, có lẽ là tuổi thơ của chúng tôi cho đến khi trưởng thành, chúng tôi thường xuyên phải xa cả bố và mẹ, bố tôi liên tục đi chiên đấu trên các chiến trường, mẹ tôi ở lại Hà Nội làm việc, sau đó lại đi học xa nâng cao trình độ, 2 chị em chúng tôi bắt đầu bước vào tuổi cắp sách đến trường thì đã phải đi sơ tán xa mẹ, vì vậy mọi sự chỉ bảo, dạy dỗ của bố, mẹ dành cho chúng tôi chủ yếu đều là qua các bức thư. Đến giờ phút này, có nhiều lời dặn dò chỉ bảo của bố tôi vẫn còn in đậm dấu ấn trong lòng tôi, những việc bố đã làm, tình cảm, sự quan tâm của bố dành cho tất cả mọi người, từ những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng đội, đến những người thân cận, gần gũi với bố luôn là những bài học đầy ý nghĩa có sức ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành nhân cách của chúng tôi, chi phối đến cách nhìn nhận, xem xét, giải quyết từng sự việc, ảnh hưởng đến cách ứng xử của chúng tôi trong mọi mối quan hệ, để lại những dấu ấn đậm nét trong từng bước trưởng thành của chúng tôi sau này.

   Tôi vẫn còn nhớ, mặc dù bố tôi rất bận công việc, nhưng trong ký ức tôi, ông là người luôn chu đáo, quan tâm đến mọi người, không nề hà làm bất cứ một công việc gì, từ những việc nhỏ nhất. Thời điểm chiến tranh chống Mỹ chưa xảy ra, lúc đó tôi còn nhỏ xíu, mỗi khi bố tôi về nhà, cứ chủ nhật đến bố tôi đều cố gắng thu xếp thời gian, dẫn hai chị em chúng tôi đi chơi vườn Bách Thảo, hướng dẫn để chúng tôi nhận biết về thiên nhiên hoặc dẫn chúng tôi ra Hồ Tây hóng mát, để cảm nhận thấy sự bình yên của Hà Nội trong hòa bình của những năm đầu thập niên 60 thế kỷ XX. Biết món lươn rất bổ cho con trẻ, bố tôi thường tự tay mổ lươn để chế biên món ăn cho con, dạy con biết kính trên nhường dưới, lễ phép với người lớn, không được tò mò việc của người khác, không được tham lam, biết chia sẻ với bạn bè cùng lứa. Một dấu ấn mà tôi không thể quên được, khi tôi bước vào tuổi dậy thì, bài học đầu đời giúp tôi chuẩn bị đón nhận và biết cách xử lý khi thấy có sự biến đổi về tâm, sinh lý của tuổi dậy thì lại do chính bố tôi hướng dẫn. Lúc ấy đang chiến tranh, mẹ tôi đi học xa, trong một lần bố có việc ra họp tại Bộ Quốc phòng để chuẩn bị cho một chiến dịch mới, bố đã giúp mẹ hướng dẫn chỉ bảo tôi, từ những kinh nghiệm tưởng như đơn giản nhất.

   Bố tôi cũng rất quan tâm đến việc dạy con tính tự lập, phải biết thích nghi với mọi môi trường, hoàn cảnh. Lúc chúng tôi còn nhỏ, hai chị em tôi đứa không thích món ăn này, đứa không thích món ăn kia, nhưng bố đã khuyên và dạy chúng tôi cần tập và phải ăn được tất cả các loại thức ăn, vì theo bố, nêu không sau này sống trong tập thể sẽ khó hòa nhập như vậy sẽ khổ và luôn bị đói. Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ xảy ra lúc tôi mói 7 tuổi, em tôi mới hơn 4 tuổi, lúc ấy mẹ tôi muốn các con đi sơ tán theo bà ngoại (hai chị em tôi là “con đầu cháu sớm” của ông bà ngoại tôi, ông bà ngoại tôi đều xuất thân từ gia đình tư sản Hà Nội, có nhiều điều kiện nên rất chiều cháu) nhưng bố tôi sợ con cái được chiều chuộng quá sẽ sinh ỷ lại, khó cứng cáp nên người và đã quyết định cho chúng tôi đi sơ tán với ông bà nội cùng 6 cm nhỏ khác là con của các cô, các chú em bố tôi. Chính từ những ngày này, mặc dù tôi còn nhỏ tuổi, sinh ra trong gia đình chỉ có 2 người con, nhưng đã được làm người chị lớn tuổi nhất trong số các cháu của ông bà nội. Từ đây, trong tôi đã hình thành những phẩm chất của người chị cả, biết quan tâm, quán xuyến, chăm lo cho các em, và cũng từ hoàn cảnh như vậy, tính chu đáo, nhường nhịn và có trách nhiệm trong mọi công việc (như theo lời mọi người nhận xét) đã tạo nên phẩm chất bên trong con người tôi.

   Đến giờ phút này, khi tôi đang tham gia làm công tác phụ nữ trong quân đội, nhìn lại những việc ông dã làm cách đây năm chục năm, với gia đình, với mẹ tôi và con gái của ông, tôi vẫn thầm cảm phục ông với những quan điểm tiến bộ, vì sự bình đẳng và phát triển của phụ nữ. Thời ấy cách đây hơn nửa thế kỷ, chưa hề có quy định nào về việc kế hoạch hóa gia đình, thế mà bố mẹ tôi dã thống nhất với nhau chỉ sinh 2 con. Bố tôi biết rằng mình không có điều kiện ở gần gia đình, không có điều kiện giúp vợ chăm sóc, nuôi dạy con cái, và với quan điểm đã sinh con thì phải có trách nhiệm nuôi con đến nơi đến chốn, phải dạy con trở thành những người có ích cho xã hội, chính từ quyết định này nên sau này mẹ tôi mới có điều kiện đi học tập để trở thành một bác sĩ, có cơ hội để phấn đấu trở thành một giám đốc bệnh viện, được phát huy mọi khả năng, đóng góp được nhiều cho xã hội đến tận lúc tuổi nghỉ hưu. Đối với tôi là con gái, cũng như các em gái của ông, bố tôi luôn thể hiện sự quan tâm cụ thể hơn, chu đáo hơn so với con trai và các em trai của mình. Tôi nhớ mãi, thời đó đất nước còn khó khăn, tất cả hàng hóa nhu cầu thiết yếu hàng ngày đều phải phân phối, tôi bước vào tuổi thiếu nữ mà quần áo một năm chỉ được mua một bộ, phụ nữ thời đó tất cả đều mặc quần lụa hoặc quần phíp, rất dễ bị bục rách, hàng ngày tôi đi học bằng xe đạp nên gấu quần thường xuyên bị xích xe cắn nát, phải khâu vá chằng đụp. Bố tôi ở xa không có điều kiện về, nhưng đã thấu hiểu sự khó khăn của con gái, ông đã nhờ một người bạn chiến đấu viết thư cho bác gái ở nhà đang công tác tại một “cửa hàng mậu dịch”, có điều kiện hơn, ưu tiên bán cho con gái một miếng vải may quần, chiếc quần được may thêm lần đó đã là cứu cánh cho tôi trong lúc quần tôi rách nát, ấn tượng đó đọng mãi trong tôi cho đến tận bây giờ. Đối với các em gái của bố tôi, khi nào có điều kiện, ông cũng ưu tiên giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần, tạo cho các cô cảm giác có bàn tay vững chãi của người anh trai che chở, nâng đỡ.

  Sự quan tâm của bố tôi không phải chỉ dành cho người thân trong gia đình, mà cả với bạn chiến đấu, với cấp dưới. Tôi đã được nghe kể lại rất nhiều câu chuyện về bố tôi qua anh em đồng đội, bạn bè thân thiết của ông, để hiểu thêm về con người của ông, nhưng đấy là những lời kể lại, còn với chúng tôi, cũng đã cảm nhận về đức tính này của ông trong những đợt ông về họp hay công tác gần nhà. Mỗi lần về, mặc dù thời gian không nhiều, nhưng bao giờ bố tôi cũng sắp xếp thời gian đi thăm gia đình các bạn chiến đấu không có điều kiện ra công tác, đi thăm gia đình từ chú lái xe đến chú công vụ đi theo mình, khi có điều kiện giúp đến đâu, bố tôi cũng cố gắng làm hết khả năng của mình đến đấy. Tôi vẫn nhớ, có một chú lái xe cho bố tôi tên Hai, quê ở Thái Bình, chú xây dựng gia đình được mấy năm mà vẫn không có con, do đi công tác miết, không có điều kiện được về nhà. Trong một lần ra Hà Nội công tác, bố tôi đã thu xếp để chú đón vợ lên, tổ chức một chuyến đi nghỉ cùng với gia đình tôi, để cô chú cũng được nghỉ ngơi, đồng thời cũng là cơ hội để được gần nhau. Từ chuyến đi nghỉ đó, cô chú đã sinh được con và đến bây giờ, con cái của cô chú đề huề và đều đã trưởng thành. Với những tình cảm và sự quan tâm của bố tôi, đã để lại những dấu ấn không phai trong lòng mọi người, đến giờ phút này, hơn 30 năm đã trôi qua, nhưng cứ mỗi năm, đến ngày giỗ ông, rất nhiều đồng đội cùng một thời gian khó vẫn luôn nhớ tới ông, người ở gần trực tiếp đến thắp nén hương, người ở xa gọi điện hỏi thăm, tất cả tình cảm đó đểu xuất phát từ tình cảm chân thành của mỗi người mà gia đình chúng tôi rất trân trọng.

   Suốt chiều dài các cuộc chiến tranh, những cuộc về thăm gia đình của bố tôi chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay, mỗi lần về nhà bao giờ cũng kết hợp với một công việc nào đó do Bộ triệu tập, mỗi lần bố tôi về dều gắn liền với một kỷ niệm không bao giờ quên. Thời gian chúng tôi đi sơ tán cùng ông bà nội, mỗi khi về Hà Nội công tác hay hội họp, bố đều tranh thủ thời gian lên nơi chúng tôi sơ tán để thăm ông bà nội và các con, thường bố tôi tranh thủ về vào lúc nửa đêm, chỉ có thể dành được thời gian 1-2 tiếng rồi lại phải đi ngay, chúng tôi được đánh thức vào lúc nửa dêm, chưa kịp hết ngái ngủ thì đã đến giờ bố phải đi... Một lần, vào năm 1969, lúc tôi 12 tuổi, em tôi 9 tuổi, một nỗi đau mà cả dân tộc Việt Nam không ai có thế quên, Bác Hồ ra đi mãi mãi, cả nước tiếc thương, cả nước để tang Bác, chúng tôi tuy ở nơi sơ tán xa xôi, nhưng ai cũng được đeo một băng tang đcn ở trước ngực, hướng về Thủ đô tiễn đưa Bác. Cũng chính trong ngày đau buồn đó, Bác Hồ lại là người tạo ra cơ hội để chúng tôi được gặp bố. Khi có tiếng xe ô tô đến gần nhà và thấy bố tôi xuất hiện, cả nhà đều ngỡ ngàng vì biết bố đang đóng quân ở một nơi rất xa, bố tôi giải thích được cấp trên gọi về viếng Bác và đứng trong một tốp túc trực linh cữu Bác, sau khi đưa tiễn Bác xong, bố tranh thủ về thăm chúng tôi rồi lại quay lại chiến trường ngay, ngày hôm đó chúng tôi thấy bố rất buồn, vẻ mặt trầm lặng, ít nói. Bố chụp với cả gia đình một bức ảnh kỷ niệm rồi lại ra đi. Bức ảnh đó đến nay vẫn còn gây cho chúng tôi cảm xúc không thể nào quên, vì tất cả mọi người có mặt trong bức ảnh, từ người lớn đến trẻ con, đều đeo băng để tang Bác trước ngực. Một lần khác, bố tôi được triệu tập ra Hà Nội làm việc gấp, chúng tôi thấy trên người bố có nhiều vết sưng đen, bố giấu để mọi người không lo lắng, nhưng tôi cảm nhận thấy bố bị sốt và rất đau, tối đến lại gọi chú công vụ vào bôi thuốc, sau chúng tôi mới được chú công vụ nói lại, trước đó mấy ngày, bố tôi đi hành quân trong rừng, chẳng may bị sa vào một tổ ong đất, bị cả đàn ong xông vào đốt khắp người, thế mà bô tôi cắn răng không nói một lời, chúng tôi vừa thương ông, vừa cảm phục sự chịu đựng của ông, rồi ông lại quay trở vào đơn vị ngay sau 2 ngày làm việc, trên mình vẫn chưa hết các vết ong đốt...

   Ngày 17 tháng 3 năm 1979, ngày gia đình chúng tôi phải chấp nhận một nỗi đau không thể nguôi ngoai, bố tôi đã hy sinh anh dũng trên chiến trường Tây Nam, rời xa chúng tôi ra đi mãi mãi. Từ nay, chúng tôi không bao giờ còn được gặp lại bố nữa. Mẹ con chúng tôi giờ đây sẽ chỉ còn biết nương tựa vào nhau. Điều cả gia đình chúng tôi vẫn còn được an ủi, khi sau này được nghe đồng đội của bố nói lại, trưốc khi mất, bố vẫn còn trăng trối lại nhiều điều, bố nhận hết trách nhiệm về mình, bố dặn dò lại anh em đồng đội, bố gửi lời xin lỗi gia đình... Trong lòng mỗi chúng tôi dâng lên niềm tự hào, sự trân trọng, kính phục bố vô bờ. Cả gia đình tôi, mà trên hết là mẹ tôi đã thật kiên cường vượt qua nỗi đau mất mát, vững vàng chèo lái con thuyền gia đình chúng tôi đến ngày hôm nay, và có thể tự hào nói với bố tôi rằng, cả gia đình đã tiếp bước cha ông, đã phấn đấu làm được tất cả những gì mà ông hằng mong muốn, kiên định với con đường mà ông đã lựa chọn, góp phần giữ gìn, bảo vệ những thành quả mà ông đã phải hy sinh máu xương.

   Ngay sau khi ông mất được một tháng, tôi đã quyết định tham gia quân đội, từ đó đến nay, bao nhiêu năm ông mất thì cũng từng ấy năm tôi trong quân ngũ, trưởng thành từ những bước đi đầu tiên đến nay đã trở thành sĩ quan cao cấp trong quân đội, trải qua nhiều bước thăng trầm của đời sống xã hội, nhưng tôi vẫn tin tưởng và kiên trì tiếp bước ông, tự hào đã đi theo con đường mà ông đã gắn bó cả cuộc đời. Con trai duy nhất của tôi, chưa một lần được gặp mặt ông, nhưng cháu luôn tự hào về ông, tự hào vì được mang tên của ông trong tên gọi của mình “Tuấn - Linh”. Tên gọi đó sẽ gắn với cháu suốt cuộc đời, như một lời nhắc nhủ ông vẫn hàng ngày, hàng giờ hiện hữu cùng với cả gia đình, với bố mẹ cháu và với riêng cháu. Anh linh của ông sẽ luôn ở bên cạnh chúng tôi, đưa đường chỉ lối cho mỗi chúng tôi đi đúng hướng trên con đường hướng tới tương lai.

---------------------------------------------------------
* Con của Thiếu tướng Kim Tuấn


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Chín, 2013, 02:32:18 pm
BỐ TÔI


Đại tá NGUYỄN CÔNG HIỆU*
 

   Đó luôn là hình ảnh cao đẹp, sâu đậm và lắng đọng nhất trong đời tôi. Mặc dù lúc ông mất đi tôi mới 19 tuổi và thời gian ông ở nhà cùng gia đình khi còn sống quá ít ỏi, nhưng hình ảnh của ông vẫn luôn hiển hiện rõ nét, hàng ngày, hàng giờ trong tâm trí chúng tôi. Ông định hướng, dẫn dắt chúng tôi từng bước, từng bước ổn định, vươn lên trong cuộc sống và đắp xây tương lai.

   Thời còn nhỏ đi học, gia đình tôi sống trong khu tập thể quân đội, phần lớn các bác, các chú đều làm việc trong Thành, hết giờ về với gia đình rất vui vẻ, đầm ấm. Thấy các bạn phần lớn đều có bố mẹ dẫn dắt từng bước đi, chỉ bảo từng lời ăn tiếng nói, tôi tự cảm thấy mình chịu thiệt thòi, nhiều lúc thấy buồn và tủi thân so với chúng bạn vì bố luôn công tác xa nhà. Những lúc khó khăn, tôi càng nhớ bố nhiều và ước muốn được sống như các gia đình khác có bố, có mẹ mọi việc sẽ thuận lợi, suôn sẻ hơn. Bố nhận biết rõ điều đó nên thường xuyên viết thư động viên chúng tôi. Trong một lá thư bố tôi viết, gia tộc mình, nội ngoại có nhiều người tham gia quân đội, nhưng đều công tác ở hậu phương, vì thế bố đại diện trực tiếp tham gia chiến đấu, đó là lẽ công bằng, phải có người tham gia chiến đấu thì mới giành được thắng lợi. Gia đình mình dẫu có khó khăn nhưng phải cố gắng khắc phục để bố yên tâm làm tròn trách nhiệm này.

   Bố đặc biệt quan tâm đến việc học hành của chúng tôi, mỗi lần về bố lại nhắc nhở phải học hành cho tốt để có kiến thức sau này phục vụ xã hội được nhiều hơn. Bố cũng rất quan tâm đến đầu tóc, trang phục của chúng tôi vì biết ông không thường xuyên gần gũi chỉ bảo, sợ chúng tôi dễ đua đòi sinh hư. Nên từ nhỏ tôi bao giờ cũng để tóc ngắn như bộ đội, quần áo gọn gàng để bố tôi yên lòng nơi tiền tuyến.

  Sau đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta bước vào giai đoạn khó khăn, quyết liệt hơn nên bố tôi càng ít có điều kiện về họp kết hợp thăm gia đình. Dù rất ít nhưng mỗi lần bố ghé về qua nhà, là một lần tôi cảm giác vừa mừng vừa lo. Mừng vì biết bố khoẻ mạnh, còn sống và bản năng do quá ít được gặp bố nên mong mỏi những dịp này để gần gũi, để học bố điều hay lẽ phải. Hơn nữa, cái mừng của những gia đình có người thân ngoài chiến trường cũng chịu thiệt thòi hơn nhiều so với các gia đình mà mọi người cùng ở hậu phương. Bởi sau mỗi trận thắng lón, cả nước hân hoan mừng vui, nhưng tôi cùng gia đình chỉ thực sự vui khi nhận được thư của bố, vì thời đó không liên lạc được bằng điện thoại, thư từ Nam ra Bắc phải sau hàng tháng mới nhận được. Trận đánh này kế tiếp trận đánh khác, chiến trường này kế tiếp chiến trường kia, vất vả khó khăn chồng chất đè nặng lên vai những gia đình ở hậu phương trong suốt quãng thời gian thiếu vắng đàn ông ngoài chiến trận, nhưng niềm vui thực sự chỉ đến với họ bao giờ cũng bị chậm lại hàng tháng so với mọi người, đó là còn may mắn hơn so với những gia đình có người thân bặt vô âm tín.

   Còn nỗi lo của những gia đình có người thân ngoài chiến trường bom đạn gần kề cái chết càng căng thẳng, nặng nề hơn rất nhiều, bởi nỗi lo đó không đơn thuần là sự vất vả khó khăn về vật chất, phương tiện sinh hoạt thiếu thốn, mà là nỗi lo dai dẳng về tinh thần bởi sự hy sinh mất mát luôn rình rập, có thể ập đến bất cứ lúc nào đối với người thân. Có thời gian, ba mẹ con tôi sơ tán 3 người 3 nơi, sau hàng tháng trời mẹ mới nhận được một lá thư của bố, còn tôi và chị tôi chỉ biết được tin về bố sau đó một vài tháng khi mẹ tới thăm chúng tôi bằng chiếc xe đạp cọc cạch, mà hồi đó thường chỉ di vào ban đêm để tránh máy bay địch ném bom, trên những quãng đường dài cả trăm cây số. Mỗi lần gặp mẹ tới thăm, chúng tôi mừng mừng, tủi tủi. Ba mẹ con tôi vừa lo cho sức khoẻ, sự an toàn của nhau ở hậu phương và có cùng chung nỗi lo cho bố ở chiến trường xa. Từng ngày, từng giờ mong mong, chờ chờ chỉ một mảnh giấy cỏn con vượt qua bao lửa đạn từ chiến trường gửi về, khi sớm, khi muộn, lúc còn nguyên vẹn, lúc rách nát bươm chỉ còn lại vài nét chữ, xác nhận sự vẫn tồn tại trên cõi đòi này của người cha, người anh chúng tôi nơi lửa đạn.

Đó mới là nỗi lo lớn nhất đối với các gia đình ở hậu phương. Nỗi lo này trải dài năm tháng của cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Niềm mong ước lớn nhất của chúng tôi trong những năm tháng đó là chiến tranh mau chóng chấm dứt và bố tôi nguyên vẹn trở về. Bởi đôi lần về công tác kết hợp thăm gia đình, nhìn những vết sẹo dài trên cả 2 bờ vai bố, tôi không khỏi xót xa lo lắng, nhưng thấy bố thanh thản, không hề tỏ ra quan tâm đếm xỉa hay phàn nàn gì về những vết đau vết sẹo đó, kể cả khi trái gió trở trời càng làm tôi thêm cảm phục ông. Nhiều người vết thương nhẹ hơn nhiều cũng tìm cách xuất ngũ hoặc xin về tuyến sau hoặc thoái thác nhiệm vụ, đều bị ông phê phán đả phá kịch liệt với tinh thần “đất nước còn giặc thì chúng ta còn phải đi đánh giặc”.

  Cuộc chiến tranh cuối cùng dã bước vào giai đoạn quyết định, tin chiến thắng dồn dập trên các trang báo và Đài Tiếng nói Việt Nam, tôi nghe vừa mừng ta thắng trận có sự đóng góp của bố mình, vừa lo cho ông nơi đầu sóng ngọn gió liệu có “ổn” hay không, bởi bom đạn có chừa ai đâu.

  Ngày 30 tháng 4 năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, cả nước tưng bừng phấn khởi. Hoà cùng niềm vui dân tộc, gia đình tôi càng hướng sự tập trung dõi theo xem bố đang ở đâu. Hết chiến tranh không phải đi sơ tán nữa, ba mẹ con tôi luôn ở bên nhau, đỡ vất vả hơn, nhưng do ở gần nên nỗi lo về bố hàng ngày cứ âm ỉ truyền lan từ người này sang người kia. Nay mẹ tôi nghe tin người ở cơ quan mới nhận được thư của chồng nơi xa, mai chị tôi về kể chuyện nhà đứa bạn mới đoàn tụ..., mẹ tôi chỉ biết lắc đầu, thở dài. Lúc đầu, nỗi lo trong gia đình tôi còn ở cấp số cộng, nhưng sau đó đã nhanh chóng tăng lên theo cấp số nhân, đặc biệt kể từ khi chúng tôi biết việc có nhà hàng xóm mói nhận được tin con ở chiến trường Nam Bộ, họ hết đỗi mừng rỡ. Nhưng khi mở phong thư ra, người mẹ đổ gục ngay xuống, bởi đó là tờ giấy báo tử!

   Biết thế, nhưng cứ thế, từng giờ, từng ngày chúng tôi vẫn mong mỏi, chờ đợi người đưa thư, dù chỉ một phần trăm - một phần nghìn tia hy vọng, cũng còn quý giá hơn hàng ngàn, hàng vạn lần sự thực đau lòng mà gia đình người hàng xóm đã phải gánh chịu.

   Như thấu hiểu nỗi lòng người hậu phương, sau đó ít lâu, chúng tôi nhận được thư bố. Mẹ tôi run rẩy bóc phong bì, rút vội lá thư bên trong ra để đọc cho thật nhanh. Biết bố vẫn khoẻ mạnh, cả gia đình thở phào nhẹ nhõm. Chiến tranh đã kết thúc, niềm vui trọn vẹn vỡ oà.

   Ba tháng sau khi giải phóng miền Nam, cấp trên tổ chức đưa gia đình tôi vào Thành phố Hồ Chí Minh thăm bố. Ngồi trên máy bay, tôi tưởng tượng, bố chắc là gầy và đen bởi cuộc chiến quá ác liệt và những vết thương trên mình làm cho sức khoẻ bố không được như xưa. Khi máy bay hạ cánh và còn đang lăn bánh trên đường băng, tôi đã nhìn thấy bố cùng một số anh em trong đơn vị ra đón. Bố tôi vẫn to lớn như xưa, dưới ánh mặt trời của miền Nam, da bố tôi hồng hào, khoẻ mạnh. Bố vẫy tay, cười rất tươi, nụ cười rạng rỡ của người “thắng trận”. Hình ảnh này tôi không bao giờ quên, mãi mãi và mãi mãi không bao giờ quên.

   Trong những ngày tái ngộ sau bao năm đó, chúng tôi được bố đưa đi tham quan khắp nơi của thành phố mới được giải phóng, những nơi vừa mới xảy ra chiến sự ác liệt, nơi xe tăng thiết giáp, ô tô của địch cháy rụi nằm ngổn ngang dọc hai bên đường mà ta chưa kịp thu dọn. Quả là một cuộc chiến tranh vĩ đại, thần thánh.

  Sau 10 ngày nghỉ ngơi chan chứa tình yêu thương, bù đắp cho những ngày xa cách dài đằng đẵng và sâu thăm thẳm của chiến tranh, bố nói với mẹ là không nghỉ thêm được nữa, bởi đất nước mới giải phóng còn rất nhiều việc phải làm. Tuy mẹ được nghỉ 1 tháng vào thăm, nhưng mẹ tôi đồng cảm ngay với bố. Tôi biết trong lòng mẹ không thật thoải mái, nhưng bên ngoài vẫn tỏ ra vui vẻ để bố tôi yên lòng.

   Sau đó, thỉnh thoảng bố tôi cũng ra Hà Nội họp, làm việc thời gian ngắn. Tình cảm và sự gắn bó của bố với gia đình họ tộc càng mặn nồng, hạnh phúc và niềm vui ngập tràn đẩy lùi nỗi buồn lo và sự xa cách thời chiến tranh.

  Thời gian đó, mỗi lần ông về tôi rất mừng nhưng cũng rất lo bởi bố tôi là một người cực kỳ nghiêm khắc, nhất là đối với tôi, ông càng khắt khe với mong muốn con trai mình phải là người lao động thực thụ có ích cho xã hội và gia đình. Có lẽ bởi chiến tranh không có điều kiện thường xuyên, trực tiếp dạy bảo con cái mình nên ý nguyện và khát khao của ông đối với chúng tôi càng trở nên mạnh mẽ, nó lớn lên cùng năm tháng và tuổi thơ ấu của chúng tôi.

   Năm 1977, ông thực sự xúc động khi biết tin sau tốt nghiệp phổ thông, tôi thi dỗ vào Học viện Kỹ thuật Quân sự, nên khi ra công tác ngoài Bắc ngắn ngày, ông vẫn dành chút thời gian quý báu tới thăm tôi lúc đó còn đang xộc xệch trong bộ quân phục học viên mới tinh, động viên tôi kế tiếp con đường ông đã chọn.

   Đất nước đã có hoà bình, nhưng tôi thực sự giật mình sau khi nghe mẹ kể lại chuyện trước khi trở về đơn vị lần đó, bố trao lại chùm chìa khoá của mình cho mẹ tôi (gia đình 4 người, mỗi người 1 chùm chìa khoá riêng để tiện cho việc sử dụng) và nói rằng, đợt này đi lâu hơn, ít về nên sợ mang theo sẽ thất lạc. Tôi thấy mẹ tôi sững sờ. Sau này mẹ nói với chúng tôi: “Cầm chùm chìa khoá bố đưa, mẹ thấy lạnh cả người”. Mẹ tôi biết là nói hớ, sợ chúng tôi không yên tâm nên mẹ chữa lại ngay “Thôi, để khi nào bố về lại đưa bố giữ”. Tôi không nói ra nhưng trong lòng thấy bất an.

   Việc ông trao lại chùm chìa khoá cho gia đình sau khi tới thăm tôi lần đầu tiên tại Học viện và cũng là lần cuối cùng phải chăng là điềm báo trước, là định mệnh(?!). Sau đó ông đi công tác xa và mãi mãi không bao giờ trở lại.

   Có một điều tôi không biết những người con mất cha trong hoàn cảnh tương tự có tâm trạng giống như tôi hay không? Đó là vào những ngày nửa cuối tháng 3 năm 1979, khi tôi và cả gia đình bằng chính tay và mắt mình cùng chỉnh sửa trang phục trên thân hình nguyên vẹn của ông trong lễ nhập quan và luyến tiếc đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang Mai Dịch, nhưng mãi sau dó tôi vẫn luôn nghĩ rằng phải chăng có sự nhầm lẫn, hay do ông đi làm nhiệm vụ đặc biệt được tổ chức phân công ở rất xa và luôn hy vọng một ngày nào đó ông sẽ trở về với gia đình, với con cháu. Mong mãi, chờ mãi cả chục năm sau mà chưa thấy ông trở về, có những lần trong mơ nghĩ rằng ông không về nữa, tôi khóc rưng rức, nước mắt đầm đìa, khi tỉnh dậy mới biết là mình khóc thật. Tôi là người rất ít mơ ngủ, nhưng duy chỉ với ông, tôi khóc trong mơ và khi tỉnh dậy tôi mới biết là mình khóc thật, nước mắt đầm đìa.

   Khi còn nhỏ tôi chưa nhận thức được, lớn lên chiến tranh luôn là vật cản ngăn cách cha con tôi. Nói về ông, tôi thấy hai điểm nổi bật là tính nhân văn, tinh thần tương thân tương ái và luôn đặt lợi ích chung, vì mục đích cao cả lên trên hết. Bởi lẽ sau thời trai trẻ phần nào đã tích luỹ được ít nhiều kinh nghiệm, bố tôi được điều về công tác tại cơ quan Bộ Tổng Tham mưu Bộ Quốc phòng, nơi mọi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đều mong ước có cơ hội đặt chân tới, chứ chưa dám nói có điều kiện công tác tại đó kể cả trong thời bình cũng như thời chiến. Thời gian ấy, nhà tôi được phân về ở khu tập thể 1A Hoàng Văn Thụ (đường Hoàng Diệu) theo tiêu chuẩn chung mỗi cán bộ công tác trên cơ quan Bộ lúc đó dược phân 1 gian nhà, nhưng do cương vị là Cục phó Cục Quân lực, bố tôi được bố trí ở 2 gian. Bố bàn với mẹ tôi rằng nhiều anh em khác trong cơ quan còn đang rất khó khăn không có nơi ăn chốn ở, nhà mình con còn nhỏ, bản thân bố tôi lại hay đi công tác xa, nên chăng trả lại 1 phòng để cơ quan bố trí cho 1 gia đình khác vào ở, mẹ tôi đồng ý và điều đó đã sớm được thực hiện. Khi bố tôi đã ổn định công việc và cuộc sống gia đình yên ấm với một căn nhà nhỏ thì giặc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Trong hoàn cảnh đó thì ở hậu phương hay tiền tuyến cũng đều có thể đóng góp cho sự nghiệp chung. Nhưng hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ông đã đề nghị cấp trên tình nguyện được trực tiếp ra trận chỉ huy chiến đấu. Kể từ đó, ông tham gia khắp các chiến trường trên cả nước, đóng góp toàn bộ mồ hôi, xương máu của mình cho sự nghiệp chung của nước nhà, cho tới khi ông trút hơi thở cuối cùng trên chiến trường Tây Nam.

   Nghĩ về ông chính là chúng tôi nghĩ về một hình ảnh cao đẹp đáng kính nhất không phải trên sách vở, trên áp phích quảng cáo, mà ông chính là hình ảnh chân thực bằng xương bằng thịt, ông chính là người thân yêu nhất trong gia đình chúng tôi. Ông đã đi xa, nhưng hình ảnh của ông mãi mãi là niềm tự hào, là tấm gương sáng chói lọi cho các thế hệ con cháu dòng tộc nội ngoại học tập, noi theo.

Tháng 7 năm 2011


----------------------------------------------------------
* Con của Thiếu tướng Kim Tuấn


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Chín, 2013, 02:54:08 pm
(http://imageshack.us/a/img22/9108/el3h.jpg)


(http://imageshack.us/a/img593/5642/aiam.jpg)


(http://imageshack.us/a/img12/4163/3us0.jpg)


(http://img208.imageshack.us/img208/6772/7hvh.jpg)


(http://imageshack.us/a/img716/3146/dyyu.jpg)


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Chín, 2013, 03:00:47 pm
(http://imageshack.us/a/img17/6694/5djr.jpg)


(http://imageshack.us/a/img109/8137/0peb.jpg)


(http://imageshack.us/a/img7/1695/0nmi.jpg)


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Chín, 2013, 04:41:27 pm
NHỮNG ĐIỀU TỐT ĐẸP ĐỌNG LẠI TRONG TÔI
ĐỐI VỚI ANH KIM TUẤN - NGUYÊN TƯ LỆNH QUÂN ĐOÀN 3


Trung tướng NGUYỄN QUỐC THƯỚC

   Tôi không được trực tiếp nhiều với anh Kim Tuấn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhưng những thời gian công tác, chiến đấu bên nhau đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc về anh.

   Tôi nhớ sau hòa bình lập lại năm 1954, một lần vào khoảng năm 1961-1962, đồng chí Trần Văn Trân - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 325 và tôi là trợ lý tác huấn Sư đoàn về dự lớp tập huấn quân sự ngắn ngày tại Trường Trung cao quân sự Bộ Quốc phòng tại Hà Nội, lúc này tọa lạc tại Trường Albert Saraut cũ, nay là địa điểm cơ quan Trung ương Đảng. Ban phụ trách học viên gồm 3 đồng chí đều là Trung tá (quân hàm Trung tá lúc này toàn quân cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay) trong đó có hai đồng chí rất trẻ, đẹp trai, đó là Trung tá Trần Văn Trân - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 325 và anh Kim Tuấn. Các học viên lớp chúng tôi đều trầm trồ khen cán bộ cấp Sư đoàn ta trẻ thật, và đúng như vậy, nhiều đồng chí học viên cấp dưới tuổi đời hơn hai anh, nhưng mọi người đều tỏ vẻ thán phục và kính trọng.

   Mỗi buổi lên lớp khi anh Kim Tuấn điều hành buổi học, với phong cách điềm đạm, chậm rãi và nhỏ nhẹ, anh nhắc mọi học viên cần tập trung để buổi học đạt kết quả. Tôi vốn bạo miệng nên có lần đã nói với anh: tôi tháp tùng đồng chí Sư đoàn trưởng, tôi đi học, nếu đồng chí Sư đoàn trưởng được điểm 4 hay điểm 5 (lúc này cho điểm 5 tuyệt đối theo kiểu Liên Xô). Nên tôi chỉ là đại úy trợ lý quèn mà được điểm 3 hay cao hơn, điểm 4 thì tôi cũng gần bằng đồng chí Sư đoàn trưởng rồi, và tôi ít ra phải là Sư đoàn phó hoặc Sư đoàn trưởng rồi. Anh vừa cười mỉm (rất có duyên) vừa nghiêm túc nhắc nhẹ: thế sau này cậu có phải trở thành Sư đoàn trưởng không? Không học tốt, sau này làm sao đảm trách được cương vị mới khi được trao, hay đề nghị để cho đi học đã rồi về mới làm? Câu nói nhẹ nhàng nhưng đầy tính nghiêm túc và chân tình đã để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc về một đồng chí cấp trên đối với một đồng chí cấp dưới chưa từng quen biết... Và từ đó đến giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, mỗi người trên một chiến trường, không gặp nhau, nhưng ấn tượng đó mãi đọng lại trong tôi...

  Mãi đến đầu năm 1972, để chuẩn bị cho chiến dịch lớn Bắc Tây Nguyên, Bộ tăng cường cho Mặt trận Tây Nguyên nhiều đơn vị bộ binh, binh chủng cấp sư đoàn, trung đoàn của Bộ và Quân khu 5, trong đó có Sư đoàn 320, chủ lực của Bộ, vừa giành chiến thắng lớn trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, do đồng chí Kim Tuấn làm Sư đoàn trưởng, đồng chí Phí Triệu Hàm làm Chính ủy. Lúc này “liên tưởng” lại hình ảnh 10 năm về trước tại lớp tập huấn quân sự trung cao cấp của Bộ, tôi lại được nhắc đên tên anh với lời dặn dò lúc bấy giờ. Rất mừng được gặp lại anh trên địa bàn chiến lược quan trọng trong thời điểm có ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, với tên tuổi của Sư đoàn 320 mà anh lại là người chỉ huy, tin rằng sẽ góp phần tạo bước ngoặt quan trọng trên chiến trường. Và đúng như suy nghĩ của tôi, Sư đoàn 320 với truyền thống của mình, tuy mới từ chiến thắng vang dội trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào trở về, với vai trò người đứng đầu giàu kinh nghiệm, từ chân ướt chân ráo, đã mở màn thắng lợi cho chiến dịch Bắc Tây Nguyên vói một chiến thắng quan trọng: tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn dù, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn dù khác, quả đấm thép của quân lực Việt Nam Cộng hòa, và trong chiến dịch đó với thời gian chưa đầy 1 tháng (30.3 - 24.4.1975), lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Tân Cảnh - Đắc Tô, tiêu diệt 1 sư đoàn thiếu quân ngụy, 2 tiểu đoàn dù cùng nhiều đơn vị binh chủng khác, lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, ta giải phóng hầu hết địa bàn tỉnh Kon Tum (còn lại thị xã Kon Turn, 1 vùng giáp ranh và 2 cứ điểm đơn độc). Chiến thắng trận đầu của Sư đoàn 320 trên chiến trường Tây Nguyên do anh làm Sư đoàn trưởng lại gợi nhớ cho tôi về anh 10 năm về trước, và tự nghĩ rằng quân đội đã đào tạo được những người chỉ huy trẻ sau chống Pháp để có những cán bộ dày dạn, tài năng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Và từ đây tôi cùng anh tiếp tục cùng nhau theo đuổi cuộc kháng chiến chông Mỹ cho đến ngày toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975. Tiếp đến cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, cùng lực lượng cách mạng Cam-pu-chia giải phóng hoàn toàn đất nước, cứu dân tộc Khơ-me khỏi họa diệt chủng, trong đó vai trò Quân đoàn 3 do anh làm Tư lệnh đã trực tiếp giải phóng 3 trên 7 quân khu của Pôn Pốt, trong đó có 1 trung đoàn trực tiếp cùng các lực lượng của Bộ và bạn Cam-pu-chia, thực hành vu hồi giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh. Cũng tưởng rằng anh sẽ cùng Quân đoàn đi đến tận cùng của cuộc giải phóng, quét sạch tàn quân Pôn Pốt trên lãnh thổ Cam-pu-chia, nhưng chính những ngày cuối cùng đó, anh đã vĩnh biệt chúng ta trong đợt chuẩn bị tổ chức quét sạch quân địch tại căn cứ cuối cùng của chúng giáp biên giới Thái Lan, trước khi chuẩn bị nhận nhiệm vụ cao hơn. Anh đến với chiến trường Tây Nguyên vào một thời khắc lịch sử có ý nghĩa chiến lược quan trọng, và anh vĩnh viễn ra đi cũng trong đội hình đó cũng vào một thời điểm quyết định của nhiệm vụ quốc tế cao cả, để lại bao tiếc thương cho đồng đội, cấp dưới; một chiến thắng vang dội, nhưng không trọn vẹn đối với toàn Quân đoàn...

   Trở lại thời khắc quyết định trên chiến trường Tây Nguyên, đầu năm 1975, khi Bộ quyết định mở chiến dịch Nam Tây Nguyên rồi lại quyết định thành chiến dịch Tây Nguyên. Một cuộc đấu tranh gay gắt trong quá trình chuẩn bị phương án chiến dịch, nhất là đối với mục tiêu then chốt quyết định “đánh chiếm, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột”. Cuộc đấu tranh, phân tích, cọ sát để tìm ra phương án tối ưu với một niềm tin chắc thắng, theo quyết định cuối cùng của Quân ủy Trung ương. Khi thảo luận phương án đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột, lúc này anh vẫn là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320, một trong hai quả đấm mạnh của Mặt trận Tây Nguyên, tôi phụ trách Tham mưu trưởng chiến dịch, trong trao đổi riêng ngoài hành lang, anh hỏi tôi: Cậu xem liệu phương án đánh thị xã đã chắc thắng chưa, vì chưa thấy làm rõ việc huy động tổng lực toàn chiến trường Tây Nguyên nhằm triệt tiêu sức mạnh của quân khu 2, quân đoàn 2 ngụy tạo thế và lực cho trận đánh then chốt quyết định. Anh có nêu một ý phù hợp với ý kiến chỉ đạo của Bộ tư lệnh chiến dịch: phải dùng lực lượng mạnh khống chế sức mạnh của địch trên chiến trường Tây Nguyên, tạo thế so sánh lực lượng tại trận then chốt quyết định ta phải mạnh tuyệt đối hơn địch. Sự đồng thuận đó đã tạo sự nhất trí cao khi Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định Sư đoàn 320, một quả đấm thép của Tây Nguyên đảm nhiệm tạo bức tường thép trên đường 14 ngăn chặn và đánh bại toàn bộ chủ lực địch từ hưóng bắc, hướng quyết định, tràn xuống, anh hoàn toàn nhất trí. Và khi chiến dịch mở ra, Sư đoàn 320 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tạo cho các đơn vị đột phá nhanh chóng giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột chỉ chưa đầy hai ngày. Và quan trọng hơn, ở thời điểm quyết định của chiến dịch, tạo đột biến chiến lược cho thời cơ giải phóng miền Nam trước mùa mưa 1975, khi Buôn Ma Thuột bị tiêu diệt, thế trận Tây Nguyên bị vỡ, toàn bộ lực lượng địch ở Bắc Tây Nguyên tháo chạy theo đường 7. Dưới sự chỉ huy của anh và tập thể Thường vụ Đảng ủy Sư đoàn, Sư đoàn 320 nhanh chóng truy kích, chặn đánh tập đoàn lực lượng quân đoàn 2, quân khu 2, ngụy quân, ngụy quyền, tiêu diệt, bắt sống, làm tan rã toàn bộ lực lượng địch, cùng địa phương giải phóng hoàn toàn Phú Yên, cùng các mũi khác của chiến dịch và lực lượng tại chỗ giải phóng hoàn toàn 3 tỉnh Trung Trung Bộ, triệt phá hoàn toàn thế chiến lược địch, cô lập hoàn toàn thế trận địch thành 2 khu vực: Huế - Đà Nằng và cực Nam Trung Bộ - Nam Bộ. Chiến thắng vang dội có ý nghĩa chiến lược chiến dịch Tây Nguyên, với thành tích của Sư đoàn 320, tôi lại liên tưởng đến anh về chuyện cũ 10 năm về trước, những dấu ấn này càng làm sâu đậm thêm những kỷ niệm, những ấn tượng về anh...

   Trước cuộc tổng tiến công phối hợp với lực lượng cách mạng bạn giải phóng Cam-pu-chia, cứu nhân dân Cam-pu-chia khỏi họa diệt chủng tháng 1 năm 1979, Quân đoàn 3, lúc này do anh làm Tư lệnh có nhiệm vụ đập tan tuyến phòng ngự của 2 sư đoàn Pôn Pốt tại Công Pông Chàm do tên Bộ trưởng Son Xen trực tiếp chỉ huy, mở đưòng cho Sư đoàn 10 vượt sông Mê Kông vu hồi từ phía sau cùng các mũi của chiến dịch giải phóng Phnôm Pênh, đồng thời thọc sâu theo đường 6 giải phóng hoàn toàn quân khu Bắc và Tây Bắc Cam-pu-chia. Suy nghĩ vì nhiệm vụ nặng nề của Sư đoàn 320 lúc này do anh Khuất Duy Tiến chỉ huy, anh trao đổi làm sao tập trung được sức mạnh binh chủng hỏa lực của Quân đoàn bảo đảm cho Sư đoàn 320 nhanh chóng mở toang cánh cửa thép, để Sư đoàn 10 thực hiện nhiệm vụ thọc sâu vu hồi chiến dịch. Nếu Sư đoàn 10 tiến chậm sẽ khó khăn cho các mũi tiến công chính diện vào Phnôm Pênh. Lúc này muốn tiến công thị xã Công Pông Chàm, phải tổ chức tiến công vượt sông Mê Kông bằng sức mạnh, nơi hẹp nhất cũng gần 1 cây số. Phương án xác định là tranh thủ bí mật vượt sông bằng một lực lượng phải đi trước bí mật đánh chiếm đầu cầu bên kia sông, thu hút sự đối phó của địch tại đó để chủ lực Sư đoàn với toàn bộ xe tăng, xe lội nước, pháo binh, cao xạ của Quân đoàn chi viện tối đa bằng phương pháp bắn trực tiếp, vượt sông bằng phương tiện cầu phà hiện đại. Trường hợp phân đội bí mật không thực hiện được thì chuyển sang tiến công vượt sông bằng sức mạnh. Để tăng cường hỗ trợ chỉ huy cho Sư đoàn, anh giao cho tôi, Phó Tư lệnh quân đoàn đi cùng sở chỉ huy Sư đoàn, cùng anh Tiến xử lý tình huống trong trường hợp bất trắc. Và đúng như dự kiến, khi phân đội phái đi trước bí mật vượt sông, gần đến tiền duyên địch trên bờ Tây, địch phát hiện và tập trung hỏa lực ngăn chặn. Thấy không còn thời cơ bí mật tiếp cận, anh Tiến và tôi hội ý, nhanh chóng chuyển sang tiến công bằng sức mạnh. Toàn bộ hỏa lực của các đơn vị và pháo 105 ly, 155 ly, 85 ly, các đại đội pháo cao xạ 57 ly, 37 ly cùng hỏa lực pháo trên xe tăng đều bắn trực tiếp vào tuyến tiền duyên địch và sau 20 phút hệ thống địch bên kia sông bị tê liệt. Phát hiện địch tháo chạy khỏi tuyến tiền duyên, anh Tiến lệnh cho xe tăng, lội nước cùng bộ binh vượt sông bằng thuyền phà công binh và 15 phút sau bộ phận đi đầu đã tiếp cận được tiền duyên địch, bảo đảm cho toàn bộ đội hình Sư đoàn 320 nhanh chóng phát triển, đập tan sức đề kháng của 2 sư đoàn địch trong thị xã, mở thông đường cho Sư đoàn 10 thực hiện thọc sâu theo nhiệm vụ được giao vượt kế hoạch ban đầu. Sau 7 ngày, Quân đoàn 3 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, giải phóng khu Đông Bắc, khu Bắc và Tây Bắc Cam-pu-chia và góp phần giải phóng Thủ đô Phnôm Pônh, vượt yêu cầu chiến dịch đề ra. Những gì Sư đoàn 320 do anh trực tiếp chỉ huy, ở những thời điểm quyết định nhất, những chiến dịch quyết định nhất, từ chiến dịch Xuân Hè 1972, đặc biệt là chiến dịch chiến lược Tây Nguyên tháng 3 năm 1975, tên của Sư đoàn, tên của anh không chỉ ghi đậm trong tôi, mà đã in sâu trong tình cảm của các đồng chí lãnh đạo, cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Tây Nguyên cùng các cấp ủy và nhân dân địa phương. Đến đây, từ những năm tháng sau hòa bình chống Pháp đến chiến thắng vang dội trên chiến trường Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 30 tháng 4 năm 1975, tiếp đến thắng lợi của Quân đoàn 3 trên chiến trường Cam-pu-chia mà anh là Tư lệnh đang mở ra nhiều trang sử mới đầy hứa hẹn đối với anh, với niềm tin của cấp trên, đồng cấp và cán bộ, chiến sĩ. Nhưng tiếc là có lúc trong sự đời trời lại không chiều lòng người như vậy. Sự việc đưa đến kết cục sự nghiệp của anh không được trọn vẹn, không chỉ riêng cho anh mà cho Quân đội ta nói chung.

  Vào thời điểm sắp kết thúc nhiệm vụ trên chiến trường Cam-pu-chia, Bộ quyết định Quân đoàn 3 mở một đợt truy quét vào sào huyệt cuối cùng của bọn Pôn Pốt tại khu vực biên giới Bát Tam Bang, nơi tiếp giáp với Thái Lan, truy bắt bọn đầu sỏ đang thiết lập căn cứ để chuẩn bị đối phó với ta trên khu vực núi cao biên giới giáp Thái Lan, nhiệm vụ rất khẩn trương, để phối hợp trên toàn tuyến biên giới. Sau khi trao đổi thống nhất ý định chiến dịch, lúc này chỉ có anh và tôi, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng. Riêng anh Phạm Sinh về họp tại Sài Gòn. Vào một ngày đầu tháng 3 năm 1979, anh giao nhiệm vụ cho tôi cùng một số trợ lý sáng hôm sau trở về Siêm Riệp đê giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 31 hiện đang truy quét và trấn giữ vùng Xiêm Riệp, nhanh chóng thu quân về Bát Tam Bang để tham gia chiến dịch, còn anh ở Sở chỉ huy tại Bát Tam Bang để chỉ đạo cơ quan tác chiến - tham mưu hoàn thành kế hoạch chiến dịch và các văn bản chiến dịch. Lúc này bọn Pôn Pốt tan rã nhưng ráo riết hoạt động phục kích tiêu hao ta trên tất cả các tuyến đường đi qua vùng rậm rạp và các phum sóc. Do đó mọi công việc chuẩn bị cho cuộc đi rất chặt chẽ với kế hoạch nghi binh chu đáo, có xe bọc thép, xe ô tô vận tải giả làm đoàn vận chuyển để nghi binh kế hoạch cơ động của cán bộ. Đột nhiên 4 giờ sáng hôm sau, anh gọi cơ quan dậy và phổ biến ý định mới. Anh nói, nhiệm vụ rất khẩn trương, anh phải trực tiếp về Siêm Riệp để giao nhiệm vụ cho đồng chí Tê - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 31 phải khẩn trương thu quân về cho kịp ngày N của Bộ, và để làm việc với Quân khu 7. Anh nói thêm: Ở nhà công việc chủ yếu là hoàn chỉnh các kế hoạch, mệnh lệnh, chỉ lệnh, việc này cậu Thước thông thạo hơn nên cậu Thước ở nhà để chủ trì cùng anh em chuẩn bị chờ mình về thông qua cho kịp, còn mình ở nhà không thạo làm kế hoạch. Với phong cách của anh rất kiên quyết, anh em đề nghị anh ở nhà chủ trì chung còn đồng chí Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng đi là đúng cương vị, chức năng. Anh nhất quyết không nghe và chỉ thị mọi người thực hiện đúng theo ý định của anh. Anh cùng một bộ phận cơ quan xuất phát và anh nói mình đi dần trước các lực lượng thiết giáp, xe vận tải lên tiếp tục đi theo sau. Và ngày 16 tháng 3 năm 1979, ngày đau xót của Quân đoàn, sự việc không ai mong muốn lại đã xảy ra: Anh bị thương nặng trên đưòng xuống giao nhiệm vụ cho đơn vị vào thời điểm cuối cùng của cuộc chiến tranh và anh vĩnh viễn ra đi để lại sự nghiệp dang dở của cuộc đời mà Đảng, Nhà nước đang đặt bao kỳ vọng ở anh. Trong bài thơ tiễn Quân đoàn trở về đất Mẹ làm nhiệm vụ trên tuyến biên giới phía Bắc của đồng chí Lê Đức Thọ - Ủy viên Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo cuộc tổng tiến công, đã nhắc đến anh như một biểu tượng của tinh thần quốc tế của một “chiến sĩ cách mạng Việt Nam”. Cấp trên, đồng chí, đồng đội, bạn bè và gia đình cùng những ai quen anh, thậm chí nghe tên anh đều sững sờ với nỗi tiếc thương vô hạn, sự ra đi của anh là mất mát lớn đối với quân đội, đối với đất nước. Anh đột ngột, vội vàng ra đi không một lời vĩnh biệt, chia tay - nhưng hình ảnh của anh, sự nghiệp anh để lại mãi mãi vẫn trong trái tim của mọi người thân và đồng đội. Cầu chúc anh được thanh thản tại cõi vĩnh hằng. Xin anh hãy yên lòng khi các thế hệ đi sau của Quân đoàn 3 và Sư đoàn 320 vẫn tiếp tục noi gương anh, phát huy truyền thông của Quân đoàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mới ngay tại nơi ra đời của Quân đoàn.

Hà Nội, ngày 7 tháng 11 năm 2011


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Chín, 2013, 04:44:29 pm
THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KIM TUẤN - TƯ LỆNH QUÂN ĐOÀN
LIỆT SĨ, ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN


Trung tướng KHUẤT DUY TIẾN


       - Người đảng viên cộng sản kiên cường.

       - Người chỉ huy quả cảm, thao lược sáng tạo ở cương vị nào cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

   - Một sĩ quan say nghề binh nghiệp; chăm lo xây dựng, rèn luyện đơn vị nâng cao sức chiến đấu đáp ứng đòi hỏi của chiến trường; càng đánh càng mạnh, càng trưởng thành; lập nhiều chiến công vang dội được vinh danh và lưu truyền trong sử sách.

   - Là quân nhân đức độ, mẫu mực, nghĩa tình, thương yêu đồng chí, đồng đội!

   Đây là lời tâm sự của những sĩ quan, chiến sĩ là nuôi quân, công vụ, văn thư, liên lạc đã từng sống bên anh trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; chiến đấu bảo vệ biên giới quốc gia; làm nhiệm vụ quốic tế giúp nước bạn Cam-pu-chia thoát khỏi thảm họa diệt chủng; đều thừa nhận và vô cùng thương tiếc anh ra đi quá sớm. Một tổn thất quá lớn, quá nặng nề đối với chị Tú Khuê - người vợ rất mực thủy chung, yêu thương tin cậy, hết lòng chăm sóc nuôi dạy, dìu dắt các con thay chồng; hai cháu Nguyễn Thị Thanh Hà, Nguyễn Công Hiệu mất ngươi cha vô vàn kính yêu và thương nhớ vô cùng của thân nhân họ hàng nội ngoại!

   Nhà nước và quân đội mất một vị tướng trẻ tài năng đang nở rộ!

   Đồng chí, đồng đội mất một người bạn chiến đấu rất mực tin yêu, kính trọng!

   Đối với tôi ngay từ buổi đầu gặp anh đã để lại những ấn tượng tốt đẹp. Tôi là chiến sĩ liên lạc Đại đội 737, Tiểu đoàn 884 nay là Đại đội 9, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320; anh là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 3 trực tiếp đi với đại đội tôi trong trận chiên đấu chống càn. Ngày đầu tháng 10 năm 1951 tại làng Tam Dương, Thạch Lỗi, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, địch phát hiện tiểu đoàn trú quân tại đây, chúng đã huy động 3 tiểu đoàn quân cơ động cùng với quân địa phương và pháo binh ở các căn cứ Phúc Nhạc, Chùa Cao, Yên Mô, có máy bay yểm trợ nhằm bao vây tấn công tiêu diệt lực lượng ta. Trận đánh không cân sức, địch dựa vào cả thế và lực áp đảo ngay từ giờ phút đầu. Cuộc chiến giữa lúc ác liệt nhất thì tiểu đoàn trưởng, chính trị viên tiểu đoàn bị thương nặng rời khỏi trận địa. Anh thay thế tiếp tục chỉ huy, nhanh chóng tổng hợp tình hình, xử lý tình huống gay cấn nhất một cách điềm tĩnh, quả đoán cùng với hành động xông xáo, dũng cảm lanh lợi, kịp thời điều chỉnh thế trận và cách đánh hợp lý, cổ vũ tinh thần chiến đấu của bộ đội giữ vững trận địa đánh lại các đợt tấn công của địch có hiệu quả, lần lượt bẻ gãy từng mũi tấn công ác hiểm của địch, chuyển ưu thế trận đánh về ta, đánh bại hoàn toàn cuộc tấn công của địch, bắt tù binh, thu vũ khí.

   Kết thúc trận đánh, anh điều chỉnh lại đội hình, ra lệnh cho các phân đội lần lượt rời khỏi trận địa trật tự; tổ chức thu dọn chiến trường, giải quyết thương binh tử sĩ, giao nhiệm vụ cho từng đơn vị, từng cán bộ được phân công; giải quyết mọi hậu quả sau chiến đấu, quan hệ với chính quyền, lực lượng vũ trang địa phương ổn định tình hình nhân dân. Tôi còn nhớ, anh giao nhiệm vụ cho anh Thụy - Đại đội phó đại đội tôi cùng bộ phận ở lại hoàn thành các nội dung thật tỉ mỉ, cụ thể. Đặc biệt việc giải quyết thương binh tử sĩ, anh dặn đi dặn lại thật chi tiết rõ ràng, còn bắt anh Thụy nhắc lại; ngay cả đối với thương binh địch để lại chiến trường, anh nhắc phải cứu chữa chu đáo nhờ dân đưa vào bệnh viện, đối xử nhân đạo.

   * Bài học đầu tiên dạy tôi trong đời quân ngũ: Thế nào là dũng cảm, thế nào là điềm tĩnh, thế nào là quả đoán, thế nào là xông xáo, lanh lợi trong chiến đấu? Thế nào là vững chãi trong cơn nguy cấp? Thế nào là chiến đấu dũng mãnh, xả thân vì danh dự của đơn vị, vì trách nhiệm của bản thân, vì sinh mạng của đồng chí, đồng đội?

   * Bài học đầu tiên, người thầy đầu tiên, tấm gương dầu tiên dẫn dắt tôi vào đời quân ngũ. Tôi ước muốn noi theo và làm được những việc như anh đã làm, nó nung nấu, thôi thúc tôi học theo anh, làm theo anh ngay từ sau trận đánh này trong suốt 50 năm cuộc đời quân ngũ. Tuy đã nghỉ hưu và ở tuổi 81 mà trận chống càn Tam Dương - Thạch Lỗi và hình ảnh anh Kim Tuấn - người chỉ huy, người thầy, người anh tôi tôn kính đã dạy tôi bài học đầu tiên của đời quân ngũ vẫn sống trong lòng tôi, vẫn cùng đi vói tôi tham dự những ngày truyền thống của Sư đoàn 320 và thăm hỏi bạn bè đồng đội, ôn lại những kỷ niệm không thể nào quên thời kỳ sống bên nhau trong chiến tranh.

   Tiếp đến trận đánh xảy ra tại làng Tiên Yên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, đêm ngày 3 và ngày 4 tháng 1 năm 1952. Tiểu đoàn 884 (Tiểu đoàn 3) cùng một bộ phận chỉ huy nhẹ của Trung đoàn 48 và một phân đội của Tiểu đoàn pháo 834 dừng lại trú quân để đêm 4 tháng 1 năm 1952 tiếp tục vượt sông Đáy sang Nam Định vào Thái Bình.

   Địch phát hiện huy động 2 tiểu đoàn Âu - Phi, binh đoàn cơ động số 4 (GM4) và 1 tiểu đoàn ứng chiến địa phương cùng xe tăng, thiết giáp, pháo binh, cả pháo tàu chiến trên sông Đáy và máy bay chiến đấu nhằm bao vây tấn công tiêu diệt lực lượng ta.

  Chúng sử dụng sức mạnh pháo binh, xe tăng, máy bay đánh phá dữ dội phá sập nhà cửa, cày xới lũy tre làng, ào ạt xung phong, giành giật từng bờ tre, từng đoạn đường làng, từng căn nhà ngõ xóm, trận đánh diễn ra hết sức ác liệt; anh trực tiếp quan sát, nắm chắc tình hình diễn biến chiến đấu trên từng huống; nhanh chóng điều chỉnh thế bố trí đội hình các đại đội kết hợp với lực lượng địa phương đón đánh bẻ gãy từng mũi tấn công của địch. Hành động chỉ huy xông xáo, kiên cường, dũng mãnh trước sức áp đảo của địch, dù bị thương 2 lần anh nghiến răng chịu đựng, tiếp tục chỉ huy cho đến kết thúc thắng lợi hoàn toàn trận đánh mới chịu đi quân y. Trước tình huống ác liệt nhất, anh bình tĩnh nhất, tỉnh táo nhất, xử lý, quyết đoán sắc bén chuyển thế trận từ bị địch áp đảo sang thế chủ động tấn công dồn chúng vào thế bị động, khích lệ khí thế chiến đấu của quân và dân chuyển từ thế giành giật quyết liệt từ 5 giờ sáng đến 2 giờ chiều ngày 4 tháng 1 năm 1952 địch tháo chạy, ta chuyển sang truy kích diệt và bắt 200 tên có 1 quan ba và 1 quan hai Pháp, phá hủy 2 xe bọc thép, 2 pháo 57 ly, thu hàng trăm súng bộ binh, tiểu đoàn lập thành tích chiến đấu xuất sắc, được tặng Huân chương Quân công hạng Hai và lấy địa danh chiến đấu phong tặng danh hiệu “Tiểu đoàn Tiên Yên”. Trận đánh được vinh danh ghi vào tổng kết quân sự và phổ biến cho toàn quân học tập.


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Chín, 2013, 04:47:05 pm
  Từ đầu năm 1952, phối hợp với chiến trường toàn quốc, Đại đoàn 320 vượt qua sông Đáy, sông Hồng xuyên thủng các phòng tuyến ngăn chặn của địch thọc sâu vào Thái Bình, phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân tiêu diệt, kìm giữ, giam chân chủ lực địch, đánh phá đồn bốt, giải tán tề ngụy, mở rộng căn cứ kháng chiến, giành, bảo vệ dân phát động phong trào nhân dân chiến tranh.

   Sau đợt hoạt động tác chiến giành thắng lợi lớn cuối tháng 4 năm 1952, Đại đoàn được lệnh đưa chủ lực ra khu căn cứ tổng kết rút kinh nghiệm củng cố lực lượng, sẵn sàng bước vào đợt hoạt động kế tiếp.

  Tiểu đoàn 3 được lệnh ở lại phối thuộc với Trung đoàn 52 tiếp tục hoạt động đánh địch.

   Nhiệm vụ của tiểu đoàn cùng với lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân 3 huyện: Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải tiếp tục đánh địch giữ vững và mở rộng căn cứ kháng chiến, xây dựng củng cố chính quyền địa phương, bảo vệ nhân dân. Bằng nhiều phương thức tác chiến phong phú kết hợp với hoạt động tích cực của chính quyền, lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân tham gia hưởng ứng, tiểu đoàn đã liên tiếp chiến đấu, chiến thắng, đứng vững trong vòng vây của địch gần một năm, từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 11 năm 1952, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

   Từ ngày 20 tháng 10 đến ngày 6 tháng 11 năm 1953, chấp hành mệnh lệnh của Bộ, Đại đoàn 320 tổ chức thực hành chiến dịch đánh bại cuộc hành quân mang tên Hải Âu (Mouette) đánh ra vùng tự do Tây Nam Ninh Bình, Bắc Thanh Hóa của địch.

   Ngày 24 tháng 10 năm 1953, Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 do Tiểu đoàn trưởng Kim Tuấn trực tiếp chỉ huy phối hợp với quân bạn đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân của 1 tiểu đoàn lính lê dương và 1 tiểu đoàn ngụy Thái có xe tăng thiếp giáp, pháo binh, máy bay chi viện từ Ghềnh, Bỉm Sơn tiến vào vùng Sòng Cạn, Dốc Giang, bằng hình thức vận động phục kích thần tốc đột phá bất ngò vào đội hình của địch tiêu diệt 1 tiểu đoàn Âu - Phi (300 tên) bắn rơi 2 máy bay. Trận đánh hay, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, được ghi vào lịch sử tổng kết và phổ biến toàn quân học tập.

THỜI KỲ ĐÁNH PHÁP

  Anh là Tiểu đoàn trưởng có công lớn xây dựng rèn luyện Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 48 từ đơn vị hoạt động phân tán từng đại đội độc lập riêng lẻ một vùng về tập trung đội hình xây dựng cách đánh quy mô hiệp đồng tiểu đoàn, trung đoàn; từ một tiểu đoàn bình thường trở thành một trong những tiểu đoàn chiến đấu dày dạn, gan dạ trong đội hình Đại đoàn 320, có nhiều trận đánh hiệu suất cao, lập nhiều thành tích xuất sắc, được tặng thưởng huân chương cao quý các loại, được lấy địa danh trận đánh đặc biệt xuất sắc phong tặng danh hiệu “Tiểu đoàn Tiên Yên” đóng góp xứng đáng chiến công xuất sắc vào sổ vàng truyền thống của Đại đoàn, được Bộ Tổng Tham mưu ghi vào lịch sử tổng kết và phổ biến toàn quân học tập.

THỜI KỲ ĐÁNH MỸ

  Đầu tháng 11 năm 1967, từ miền Bắc, toàn Sư đoàn 320 hành quân mang vác nặng đi bộ vượt Trường Sơn, qua sông Bến Hải tới Bắc Quảng Trị. Ngày 27 tháng 12 năm 1967 được Bộ tư lệnh mặt trận giao nhiệm vụ tham gia Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Lần đầu tiên đánh địch trên địa hình rừng núi, đối tượng tác chiến chủ yếu là quân đội Mỹ. Trận đánh mở đầu của Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 64 ngày 24 tháng 1 năm 1968 phục kích đoàn xe cơ giới của Mỹ từ Đông Hà theo đường 9 đi Khe Sanh, trên đoạn đường từ cầu Thiện Xuân đến chân điểm cao 288 (Động Mã) khoảng 2.000m thuộc huyện Cam Lộ. Trận đánh diễn ra nhanh gọn loại khỏi vòng chiến đấu trên 100 lính Mỹ, phá hủy 10 xe (có 2 xe tăng) và một số trận kế tiếp nam, bắc đường 9, tây dường số 1; phối hợp với Mặt trận Khe Sanh. Kết thúc hoạt động tác chiến đợt I vào cuối tháng 2 năm 1968.

   Bước vào đợt II, anh Kim Tuấn được chỉ định Quyền Tư lệnh Sư đoàn (anh Sùng Lãm sang Mặt trận B4). Thông qua sơ kết hoạt động đợt I, kết hợp khai thác kinh nghiệm đánh Pháp thời kỳ Đại đoàn 320 vượt qua sông Đáy, sông Hồng thọc sâu tác chiến sau lưng địch ở các tỉnh Nam Định, Thái Bình..., anh mạnh dạn đề xuất chủ trương lật cánh từ tây đường số 1 sang đông đường số 1, chuyển đội hình Sư đoàn từ rừng núi xuống đồng bằng ven biển, thọc thẳng vào nơi phòng thủ hiểm yếu của địch.

  - Đưa Trung đoàn 48, Trung đoàn 52 vượt sông Bến Hải đoạn Cửa Tùng vào ém quân tại các làng Mai Xá Thị, Đại Độ, Thượng Độ, Lâm Xuân, Nhĩ Hạ, Xóm Xoi... các điểm ven biển. Tổ chức các trận đánh địch giải tỏa, thường xuyên uy hiếp đánh phá cảng Cửa Việt.

  - Đưa Trung đoàn 64 giữ chốt Ngã Tư Sòng, áp sát Đông Hà, lập chốt An Bình nam Quán Ngang, cắt đoạn đường số 1 Đông Hà đi Quán Ngang, Dốc Miếu, thường xuyên đánh phá gây rối loạn khu tứ giác.

   Buộc địch phải đưa chủ lực ra ứng chiến, tạo thòi cơ tiêu diệt, thu hút giam chân chủ lực địch, phối hợp trực tiêp với Mặt trận Huế đang diễn ra quyết liệt.

   Chủ trương và phương án tác chiến thật mạo hiểm, táo bạo song có cơ sở bảo đảm chắc thắng, được tập thể Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 thống nhất; thực hiện được mệnh lệnh Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 giao cho.

   Kết quả, Sư đoàn đứng vững trong vòng vây của địch trên 4 tháng (từ cuối tháng 2 đến cuối tháng 6 năm 1968), liên tiếp đánh bại các trận tấn công giải tỏa của sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3; sư đoàn kỵ binh bay số 1 Anh cả đỏ; lữ dù 173 quân đội Mỹ và sư đoàn 1 quân ngụy với quy mô khác nhau, bằng các trận đánh hiệu suất cao, bắt tù binh, thu vũ khí, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, rút được nhiều bài học thiết thực, đơn vị trưởng thành; chứng minh chủ trương và phương án tác chiến đợt II là đúng đắn. Đơn cử một vài trận điển hình:

   - Ngày 1 tháng 3 năm 1968, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 52 tại làng Mai Xá Thị, huyện Do Linh, sau 5 giờ chiến đấu ác liệt, đánh bại nhiều đợt tấn công có xe tăng, máy bay, pháo binh yểm trợ của một tiểu đoàn lính Mỹ, 1 tiểu đoàn quân ngụy, ta diệt tại chỗ 200 lính Mỹ, bắn cháy 5 xe tăng, trận đầu ra quân thắng lợi chứng minh chủ trương tác chiến đợt II là đúng. Tiểu đoàn 6 được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất.

   - Ngày 29 tháng 3 năm 1968, Đại đội 7 Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 52 giữ chốt tại làng Lâm Xuân đường đi cảng Cửa Việt, bẻ gãy đợt hành quân “Lam Sơn 303” của 5 tiểu đoàn Mỹ - ngụy cùng 30 xe tăng được máy bay, pháo binh yểm trợ, bằng cách đánh chốt kết hợp vận động tấn công, Tiểu đoàn 5 đã giữ vững trận địa, diệt 400 tên (có 300 lính Mỹ) bắn cháy 9 xe tăng. Đại đội 7 được tặng danh hiệu “Đại đội gang thép” và Huân chương Chiến công hạng Nhất. Trận này đồng chí Trung đội phó Nguyễn Văn Ngữ được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

  - Ngày 1 tháng 4 năm 1968 tại Lại An, Phố Con, Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 52 đã chặn đánh tiêu diệt một đại đội quân ngụy, đánh thiệt hại nặng một đại đội, diệt 200 tên, bắt 40 tên (có tên trung úy đại đội trưởng), bắn cháy 2 xe tăng, thu nhiều vũ khí.

  - Đêm 28 tháng 4 năm 1968, Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 giữ chốt ở Ngã Tư Sòng. Ngày 29 đến ngày 30 tháng 4 năm 1968 đánh lui nhiều đợt tấn công của địch diệt 100 tên, bắn cháy 3 xe tăng, bắn rơi 2 máy bay trực thăng.

  - Cùng ngày 29 tháng 4 năm 1968, Đại đội 11 Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64 giữ chốt tại làng An Bình Nam căn cứ Quán Ngang diệt gọn 1 đại đội ngụy, thu 26 súng, 1 máy vô tuyến điện. Đại đội 11 được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba.

   Cùng ngày, Đại đội 9 Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64 giữ chốt Kim Đâu diệt gần 100 địch, trong đó diệt gọn một trung đội thu 3 súng.

  - Đêm 29 rạng 30 tháng 4 năm 1968, Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 52 cùng lực lượng bạn phối hợp xây dựng trận địa tại Xóm Xoi, Đại Độ, Thượng Nghĩa bắn cháy và chìm 4 tàu vận tải của địch hơn 10.000 tấn hàng và bắn bị thương 1 chiếc khác làm náo loạn cảng Cửa Việt.

   - Ngày 1 và 2 tháng 5 năm 1968, Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 52 và Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 tại Đại Độ, Thượng Độ, Xóm Xoi, Đình Tổ, Cửa Việt đã diệt gọn tiểu đoàn 2 đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn Mỹ, loại khỏi vòng chiến 500 tên, bắn cháy 9 xe tăng, thu nhiều vũ khí, trang bị.

   - Ngày 4 tháng 5 năm 1968, Tiểu đoàn 7, Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 đánh trận chốt kết hợp vận động tấn công tây Ngã Tư Sòng diệt 115 lính ngụy có 2 tên Mỹ cố vấn thu nhiều súng và tài liệu.

   Cùng ngày, Đại đội 9 Tiểu đoàn 9 giữ chốt An Bình Nam Quán Ngang, đánh tan 3 đợt tấn công của 2 đại đội quân ngụy giữ vững chốt, được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba.

   Cuối tháng 6 năm 1968, Sư đoàn được lệnh lật cánh chuyển sang đánh địch theo trục đường 9 từ Cam Lộ đến Nam Hướng Hóa không cho địch chiếm một số điểm cao khống chế bắc đường 9.


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Chín, 2013, 04:49:27 pm
  Tháng 10 năm 1968, Sư đoàn 320 được lệnh của Bộ chuyển ra hậu phương củng cố lực lượng sẵn sàng chiến đấu.

  Tháng 4 năm 1969, Sư đoàn hành quân ra nam Thanh Hóa chấn chỉnh lực lượng ổn định biên chế tổ chức, tổng kết rút kinh nghiệm sau một năm đánh Mỹ trên chiến trường Bắc Quảng Trị (B5); tổ chức huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị nâng cao sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng nhận nhiệm vụ.

   Anh trực tiếp thông qua các nội dung tổng kết, duyệt các kế hoạch huấn luyện quân sự, trực tiếp chỉ huy xây dựng các thao trường trọng điểm như: thao trường đánh công sự vững chắc (Ao Mè); các thao trường đánh vận động; thao trường tổng hợp; các tiểu đoàn, trung đoàn lần lượt được kiểm tra qua các thao trường kể trên để đánh giá kết quả huấn luyện.

   Sư đoàn còn tổ chức các đợt diễn tập thực binh cấp tiểu đoàn, trung đoàn. Diễn tập chỉ huy cơ quan trung đoàn, sư đoàn. Diễn tập tổng hợp từ hành quân đường dài vượt qua địa hình phức tạp kết hợp đánh địch bằng các hình thức: tập kích, phục kích, vận động tiến công kết hợp chốt, đánh địch đổ bộ đương không, đánh công sự vững chắc... nâng cao trình độ cán bộ và cơ quan các cấp. Rèn luyện chiến binh có sức bền bỉ dẻo dai, thích nghi với mọi điều kiện khắc nghiệt của chiến trường; chiến đấu gan dạ và kỹ năng sử dụng binh khí trong tay thành thạo, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ từ tiểu đội, trung đội, đại đội đến quy mô đánh lớn hiệp đồng binh chủng.

  Qua một năm huấn luyện, Sư đoàn chuyển biến một bước dài trên các mặt chính trị, quân sự, hậu cần..., sức mạnh chiến đấu nâng lên một bước rõ rệt. Bộ đội phấn khởi, sẵn sàng chiến đấu cao.

  + Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1971 tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Sư đoàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ góp phần tích cực đập tan cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh bại một bước quan trọng Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ bằng đợt tác chiến chủ động tấn công quân ngụy Lào phía tây đường 9, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng từ Mường Phin - Đồng Hến của Trung đoàn 48 và các trận đánh tiêu diệt tiểu đoàn dù số 6, số 3 cùng sở chỉ huy lữ đoàn dù số 3; cùng đơn vị bạn tiêu diệt thiết đoàn 17 của Trung đoàn 64 khu vực Bản Đông - đông đường 9, chứng minh thời kỳ đứng chân ở phía nam tỉnh Thanh Hóa. Tổng kết chiến đấu rút kinh nghiệm kịp thời xây dựng chủ trương kế hoạch củng cố lực lượng giáo dục chính trị - huấn luyện quân sự của Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Sư đoàn là đúng đắn.

  + Từ tháng 1 năm 1972 đến tháng 3 năm 1975, Su đoàn tác chiến trên chiến trường Tây Nguyên.

  Đại hội Đảng bộ Sư đoàn lần thứ 6 ra nghị quyết hành động “Đi sâu - đi lâu đánh to thắng lớn, đánh đến thắng lợi hoàn toàn”.

  Dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Kim Tuấn và Chính ủy Phí Triệu Hàm, Sư đoàn bắt đầu hành quân vào Tây Nguyên, xuất phát từ ngày 7 tháng 12 năm 1971 đến mồng 9 tháng 2 năm 1972. Vừa vào đến Tây Nguyên Tư lệnh Sư đoàn Kim Tuấn và Chính ủy Phí Triệu Hàm nhận lệnh chiến đấu của Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tham gia chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972.

  Từ ngày 30 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1972, Trung đoàn 52 đánh thiệt nặng tiểu đoàn dù số 2 trên điểm cao 1049.

   Từ ngày 12 đến 15 tháng 4 năm 1972, Trung đoàn 64 tiêu diệt tiểu đoàn dù số 11 trên điểm cao 1015.

   Mở cửa bờ tây Pô Kô đưa chủ lực chiến dịch vào tiêu diệt địch, đánh chiếm căn cứ 42, Đăk Tô, Tân Cảnh mở rộng vùng giải phóng Bắc Kon Tum, tiến đánh thị xã Kon Tum.

   Từ cuối năm 1972 đến tháng 3 năm 1975, dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3), Sư đoàn hiệp đồng với các đơn vị bạn và dịa phương, củng cố, mở rộng vùng giải phóng, xây dựng bảo vệ chính quyền cách mạng và dìu dắt lực lượng vũ trang địa phương; kết hợp đánh trừng trị địch vi phạm Hiệp định Pa-ri.

   Trong thời gian này, Tư lệnh Kim Tuấn tranh thủ tổ chức các đợt tổng kết rút kinh nghiệm, khai thác, lắng nghe ý kiến của cán bộ, chiến sĩ, chọn lọc áp dụng vào các trận đánh đạt hiệu quả cao, sức chiến đấu của Sư đoàn nâng lên rõ rệt, trở thành sư đoàn mạnh của chiến trường.

   Song song với việc chăm lo rèn luyện quân sự nâng cao sức mạnh chiến đấu, tổ chức những trận đánh tiôu diệt địch, phá hủy căn cứ vững chắc của địch mở rộng vùng giải phóng, anh còn hết sức chăm lo trực tiếp chỉ đạo xây dựng kế hoạch và kiểm tra thực địa việc tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm cải thiện bữa ăn cho bộ đội, góp phần thực sự giải quyết khó khăn của chiến trường.

   Cùng với các trận chiến đấu mở rộng địa bàn đứng chân, anh rất coi trọng việc làm đường quân sự, thiết bị chiến trường, chuẩn bị cơ sở vật chất sẵn sàng bước vào chiến đấu khi thòi cơ đến; do đó Sư đoàn luôn luôn ở tư thế chủ động đánh địch.

CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN 1975

   Sau 2 trận then chốt quyết định: giải phóng Buôn Ma Thuột ngày 10 tháng 3 năm 1975 và đập tan lực lượng phản kích của quân đoàn 2 ngụy từ ngày 12 đến ngày 13 tháng 3 năm 1975 trên trục đường 21 từ điểm cao 581 đến Phước An, Chư Cúc của sư đoàn 23 ngụy gồm trung đoàn 45, trung đoàn 44 pháo đội 232 và sở chỉ huy nhẹ sư đoàn 23 do chuẩn tướng Lê Trung Tường chỉ huy.

   Tiếp đến trận then chốt quyết định thứ 3: Trận truy kích thần tốc trên đoạn đường số 7 Cheo Reo - Củng Sơn của Sư đoàn 320 do Tư lệnh Kim Tuấn trực tiếp chỉ huy từ ngày 17 đến 24 tháng 3 năm 1975. Tiêu diệt gọn toàn bộ tập đoàn địch thuộc quân đoàn 2, quân khu 2 ngụy đập tan ý đồ rút khỏi Tây Nguyên về giữ đồng bằng ven biển Khu 5, diệt và bắt 14.729 tên lính chủ lực (bắt 13.685 tên có 635 sĩ quan từ đại tá trở xuống), thu 5.759 súng các loại (có 79 pháo lớn) + 499 máy thông tin; thu và phá 2.000 xe (có 207 xe tăng, xe bọc thép) bắn rơi 6 máy bay.

   Đây là trận truy kích địch lớn nhất trong lịch sử chiến tranh cách mạng Đông Dương.

  Thừa thắng, Sư đoàn 320 từ Củng Sơn theo trục đường 7 hiệp đồng với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương tiêu diệt, địch co cụm cố thủ tại thị xã Tuy Hòa và các điểm phụ cận góp phần giải phóng Phú Yên.

   Cuối tháng 3 năm 1975, Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng, Quân đoàn 3 được thành lập, anh Kim Tuấn được bổ nhiệm Tư lệnh phó Quân đoàn, Sư đoàn 320 nằm trong đội hình Quân đoàn tiến về giải phóng Sài Gòn.

   Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Sư đoàn hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt xuất sắc: Đánh chiếm căn cứ Đồng Dù tiêu diệt căn cứ sư 25 ngụy mở cửa để chủ lực Quân đoàn tiến vào giải phóng Sài Gòn.

  Đại thắng mùa Xuân 1975 - miền Nam hoàn toàn giải phóng, tiến tới thống nhất đất nước.

  Trong thời gian đánh Mỹ từ cuối tháng 2 năm 1968 đến cuối tháng 3 năm 1975, ở cương vị Tư lệnh (Sư đoàn trưởng) Sư đoàn 320, anh đã tập trung cao nhất sức lực, trí tuệ xây dựng, rèn luyện sư đoàn từ một đơn vị quen tác chiến trên vùng đồng bằng sông Hồng, Quân khu 3 thời kỳ đánh Pháp, trở thành một sư đoàn thành thạo đánh địch trên các chiến trường rừng núi ven biển, ngang tầm với các sư đoàn mạnh trên chiến trưòng toàn quốc lập nhiều chiến công vang dội, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được tặng thưởng nhiều huân chương các loại cho cán bộ và tập thể. Được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Sư đoàn, 3 trung đoàn bộ binh, 7 tiểu đoàn, 5 đại đội và 7 đồng chí.

  Giữ vững truyền thống vẻ vang thòi kỳ đánh Pháp, viết thêm trang sử hào hùng vàng son trong thòi kỳ đánh Mỹ của Sư đoàn, tô đậm thêm 8 chữ vàng truyền thông: “Đoàn kết - Nghiêm túc - Dũng cảm -Chiến thắng”.


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 19 Tháng Chín, 2013, 04:52:29 pm
THỜI GIAN CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM
VÀ LÀM NHIỆM VỤ QUỐC TẾ GIÚP NƯỚC BẠN CAM-PU-CHIA THOÁT KHỎI HỌA DIỆT CHỦNG

   Là Tư lệnh, anh cùng Thường vụ - Bộ Tư lệnh Quân đoàn chấp hành nghiêm túc nghị quyết Bộ Chính trị và chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng.

   Căn cứ tình hình thực tế chiến trường; khả năng, trình độ tác chiến của đơn vị, đề xuất chủ trương, phương án tác chiến hợp lý với phương châm “Vừa chiến đấu vừa xây dựng củng cố”, Quân đoàn nhanh chóng vượt qua khó khăn, đánh bại quân địch, từng bước giữ vững và mở rộng địa bàn, tích cực giúp đỡ lực lượng cách mạng Cam-pu-chia. Thực hiện càng đánh càng trưởng thành. Với thế và lực mới, toàn binh đoàn bước vào cuộc tổng tiến công lịch sử mùa xuân năm 1979 bằng sức mạnh áp đảo, thần tốc vượt chặng đường 600km xung quanh Biển Hồ; giải phóng 6 tỉnh phía Bắc, Tây Bắc góp phần giải phóng hoàn toàn đất nước Cam-pu-chia. Nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng, cán bộ, chiến sĩ binh đoàn tiếp tục giúp bạn bảo vệ xây dựng chính quyền cách mạng, giúp dân trở về quê cũ phục hồi sản xuất; đồng thời nắm chắc thời cơ, đồng loạt tiến công truy quét, đập tan cơ quan trung ương và lực lượng chủ yếu của tàn quân địch ở vùng rừng núi Tây Nam Cam-pu-chia. Hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả.

   Trong 20 tháng chiến đấu, Quân đoàn đã tiêu diệt làm tan rã toàn bộ quân địch trên mặt trận đường 7 quân khu Đông, quân khu Tây Bắc, quân khu Bắc, cơ quan trung ương tàn quân Pôn Pốt, tham gia giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh, loại khỏi vòng chiến đấu 48.064 tên địch, phá hủy 6.369 súng các loại, 1.100 tấn đạn, 170 ô tô, 35 xe tăng thiết giáp, thu 53.239 súng các loại, 10.756 tấn đạn, hàng trăm ô tô, hàng chục xe tăng, 2 máy bay và nhiều tài liệu, tài sản quý bàn giao đầy đủ cho bạn; giải phóng 1,7 triệu dân, giúp bạn xây dựng chính quyền cơ sở tại 1.084 phum, 64 xã, 10 xí nghiệp, 3 bệnh viện; tổ chức xây dựng trang bị 1 tiểu đoàn, 13 đại đội địa phương, 1.106 đội du kích (6.055 người trang bị 3.483 súng các loại).

  Đánh giá về Quân đoàn trong nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia, Đại tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định: “Binh đoàn Tây Nguyên đã thực hiện được... đi đến đâu được bạn tin dân mến, kẻ thù khiếp sợ và ta thì trưởng thành”, “hoàn thành một nhiệm vụ không đơn giản nhưng rất vẻ vang” làm đẹp lòng Đảng, Chính phủ, nhân dân và mỗi gia đình Việt Nam ta.

  Ghi nhận những thành tích đặc biệt xuất sắc của Quân đoàn 3 trong xây dựng và chiến đấu, làm nhiệm vụ quốc tế, ngày 20 tháng 12 năm 1979, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Quân đoàn 3 và các đơn vị: Sư đoàn 10, Sư đoàn 320, Sư đoàn 31, Lữ đoàn xe tăng 273, Lữ đoàn công binh 7, Trung đoàn bộ binh 66, Trung đoàn bộ binh 48, Trung đoàn bộ binh 866, cùng bảy tiểu đoàn và đại đội, Ban Ngoại 1 (Viện quân y 211) cùng các đồng chí Thiếu tướng, Liệt sĩ Nguyễn Kim Tuấn, Tư lệnh Quân đoàn; chuẩn úy Nguyễn Đình Tâm (Lữ đoàn 273).

  Tiếp theo Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia tặng Huân chương Ăng Ko và lá cờ mang dòng chữ: “Tinh thần quốc tế vô sản trong sáng”...


NHỚ MÃI THÁNG 3 NĂM 1979

   Trong chiến dịch truy quét lớn, Quân đoàn 3 được Bộ giao nhiệm vụ: Đánh chiếm làm chủ các căn cứ chủ chốt phía tây Bát Tam Bang của địch; tiêu diệt làm tan rã toàn bộ tập đoàn chủ yếu, bắt sống chỉ huy đầu não trong đó có Pôn Pốt, Iêng Xa-ry và những tên đầu sỏ khét tiếng trên địa bàn Tà Sanh, Săm Lốt, Tức Sóc...

   Ngày 16 tháng 3 năm 1979, từ sở chỉ huy phía Nam Bát Tam Bang cùng bộ phận cơ quan Quân đoàn và lực lượng bảo vệ đi kiểm tra công tác chuẩn bị chiến đấu của Sư đoàn 10, Sư đoàn 31 đến Phum Tốc, Bắc Bát Tam Bang 40km thì gặp địch phục kích. Tuy địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn, nhưng Tư lệnh Nguyễn Kim Tuấn bị thương rất nặng, đã được kịp thời cứu chữa đưa đi bệnh viện lớn nhưng không qua khỏi. Anh đã ra đi ngày 17 tháng 3 năm 1979. Một tổn thất vô cùng lớn lao đến với Quân đoàn 3.

   Nguồn tin đột ngột trong lúc các đơn vị đang triển khai lực lượng vào trận đánh lớn quyết định, một không khí sôi động biến đau thương, lòng kính yêu thành sức mạnh áp đảo trên các hướng, các mũi siết chặt vòng vây tiến công liên tục dũng mãnh tiêu diệt địch giành thắng lợi quyết định. Góp phần quan trọng cùng các đơn vị bạn quét sạch quân địch trên đất nước Cam-pu-chia, giúp nhân dân nước bạn làm chủ vận mệnh của mình trên đất nước Chùa Tháp yêu quý.

   52 tuổi đời; 33 năm binh nghiệp trên các cương vị chỉ huy từ đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn, Tư lệnh Quân đoàn cùng với thành tích xuất sắc trong xây dựng, rèn luyện đơn vị và những chiến công vang dội được tôn vinh ghi chép vào lịch sử, những lòi truyền tụng của đồng chí, đồng đội; sự tin yêu của bạn, mến phục của nhân dân các địa phương, các chiến trường anh đã qua; trở thành những bài học, những kinh nghiệm sôi động để lại cho quân đội, cho đời.

  Anh đã dâng trọn đời mình cho Đảng, cho Tổ quốc; chiến đấu không ngừng vì chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, vì mục tiêu “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, vì sự lớn mạnh của quân đội, của Quân đoàn 3 - Binh đoàn Tây Nguyên; Sư đoàn 320 - Đại đoàn Đồng Bằng và ra đi ở độ tuổi đã trải nghiệm chín chắn trong cuộc sống; trí tuệ, sức lực, tài năng đang thời kỳ sung mãn.

   Để lại cho chị Tú Khuê một kỷ vật vô giá của tình nghĩa vợ chồng thủy chung son sắt. Đó là 2 viên ngọc lưu li lung linh tỏa sáng tượng trưng hai trái tim nồng thắm của anh chị vẫn sống, vẫn hòa nhịp trong căn nhà hạnh phúc.

   Tiến sĩ, Đại tá Nguyễn Thị Thanh Hà - con gái đầu đã từng đảm trách Phó Chủ nhiệm Chính trị Học viện Quân y - là một nữ sĩ quan điềm đạm, chân thực, sống có nội tâm, có bản lĩnh chính trị, được tín nhiệm; có khả năng tập hợp đoàn kết trong lĩnh vực phụ vận, được bổ nhiệm Trưởng ban Phụ nữ Quân đội.

   Đại tá Nguyễn Công Hiệu - con trai là một sĩ quan có kiến thức nghiệp vụ, có đạo đức, được tín nhiệm, đang đảm trách nhiệm vụ quan trọng trong cơ quan Bộ Quốc phòng.

  Các con, các cháu thường xuyên bên chị thay anh chăm lo, cổ vũ, động viên, tâm sự, sum họp đại gia đình hòa thuận hạnh phúc, mẫu mực, văn hóa. Gia đình trí thức của những người có học thức, có cha, ông là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; là tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam.

   Để lại tiếng thơm và lòng tự hào cho anh em, dòng họ, quê hương.

   Sống mãi trong lòng đồng chí, đồng đội:

  Một tấm gương chiến đấu hết mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì nghĩa vụ quốc tế trong sáng, vì danh dự của đơn vị, vì sinh mệnh của đồng chí, đồng đội!

   Một con người quang minh - cương trực - nghĩa tình!


Hà Nội, tháng 3 năm 2011


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 20 Tháng Chín, 2013, 10:40:37 am
(http://imageshack.us/a/img209/2708/qyni.jpg)


(http://imageshack.us/a/img853/6453/cplo.jpg)


(http://imageshack.us/a/img12/7751/fcpj.jpg)


(http://imageshack.us/a/img690/1158/6gx2.jpg)


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 20 Tháng Chín, 2013, 10:43:45 am
NHỚ VỀ ANH KIM TUẤN


Trung tướng KHUẤT DUY TIẾN


NGƯỜI CHỈ HUY, NGƯỜI ĐỒNG ĐỘI THÂN THƯƠNG - KÍNH TRỌNG!

  Nhân kỷ niệm 64 năm ngày Thương binh liệt sĩ, Ban liên lạc truyền thông Bạn chiến đấu Đại đoàn Đồng Bằng - Sư đoàn 320 tổ chức chuyến thăm Nghĩa trang liệt sĩ Đường 9 (huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị) dâng hương tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ trong đó có phần mộ tập thể 105 liệt sĩ thuộc Trung đoàn 48 và 108 liệt sĩ thuộc Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 và viếng Nghĩa trang Trường Sơn.

  Đoàn chúng tôi gồm các thế hệ chống Pháp, chống Mỹ, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Cam-pu-chia thoát nạn diệt chủng: ở độ tuổi trên dưới 80, 70, 60.

  Đi bằng ô tô, xuất phát lúc 6 giờ sáng từ Cột Cờ, Hà Nội đi Xuân Mai theo đường Hồ Chí Minh qua các vùng rừng núi miền tây các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị; đến 18 giờ qua cầu Hiền Lương sau đó ngủ đêm tại thị xã Đông Hà.

   Ngày hôm sau chúng tôi thực hiện nhiệm vụ lịch sử viếng thăm, hương khói và “trò chuyện” với các liệt sĩ tại nghĩa trang kể trên.

  Ngày xưa đi đánh Mỹ bằng cuộc hành quân mang vác nặng đi bộ vượt Trường Sơn từ rừng Cúc Phương vào tới huyện Cam Lộ, chiến trường B5 - Bắc Quảng Trị cần 35 - 40 ngày liên tục, ngày đi đêm nghỉ.

   Vào tới chiến trường Tây Nguyên (Bắc Kon Tum) cần 76-80 ngày.

   Nay đi từ Hà Nội tới Đông Hà cần 1 ngày. Hà Nội đi Plei Ku cần 2 ngày rưỡi.

   Xe vượt qua các vùng rừng núi năm xưa xác xơ do bom đạn, chất độc hóa học Mỹ cày xới, nay xanh tốt mỡ màng hồi phục theo đà đổi mối của đất nước. Nhìn thấy những vạt rau tàu bay, môn thục, chuối rừng, bống báng xanh tươi mơn mởn... lại nhó đến các buổi hành quân đường dài đến trạm nghỉ đêm, có bát canh rau rừng ăn với bữa cơm chiều mát ruột xua tan cái mệt mỏi một ngày hành quân; nhớ đến bát cháo củ mài; bát cháo, chờ bột bống báng thay bát sữa, thổi bổng báng hồi phục sức khoẻ nhanh chóng sau cơn sốt rét rừng hoặc quá mệt mỏi sau đợt hành quân. Rau rừng Trường Sơn là nguồn thực phẩm dồi dào cung cấp cho chiến binh trong thời đánh Mỹ - nhớ đến anh Kim Tuấn thường rất nghiêm khắc giảng giải nhắc nhở anh em, hái rau không được vặt cả thân cành, không được nhổ cả rễ, không triệt phá cây non... để nó còn hồi phục cho các đoàn hành quân đi sau, những người đến sau.

  Nhìn thấy các vạt rừng cây to, xanh rậm nhớ đến những bãi khách nghỉ đêm, lại như nghe thấy tiếng nói và nhìn thấy hành động của anh Kim Tuấn nhắc nhở cán bộ và anh em quân y chăm lo đến bữa ăn tối, giấc ngủ qua đêm và giữ gìn vệ sinh nơi ăn nghỉ, bảo vệ sức khỏe bộ đội trong cuộc hành quân đường dài di đánh Mỹ.

   Bao nhiêu ký ức trong cuộc chiến tranh đầy gian lao, ác liệt, bao khuôn mặt, bao nụ cười, bao tiếng nói, bao hành động của đồng chí đồng đội cứ hiện lên theo dọc đường đi của chúng tôi, mỗi khi qua một đoạn dường, một vạt rừng hầu như nhìn thấy đồng chí, đồng đội cùng đi ngồi trong xe với chúng tôi và các anh đang nói chuyện, đang bá vai chúng tôi trong chuyến đi lịch sử này.

  Giá như anh Kim Tuấn còn sống, chúng tôi sẽ mời anh cùng đi chuyến viếng thăm tình nghĩa này; chắc chắn anh chủ động tham gia trừ trường hợp đau yếu không đi nổi (nếu còn sống năm nay anh đã ở tuổi 85); vì anh là con người chỉ huy hết sức chăm lo đến sinh mạng cấp dưới; rất chú trọng đến thương binh tử sĩ trong chiến đấu, dù trận đánh lớn hay nhỏ anh đều hỏi cặn kẽ các trường hợp thương vong của cấp dưới và nghiêm khắc phê phán trường hợp để anh em thương vong do thiếu trách nhiệm của chỉ huy quản lý dơn vị và luôn căn dặn việc giữ gìn quân số, chăm lo sinh mạng đồng dội, thật nghiêm khắc nhưng chứa chan tình người.

   Nhớ chuyến đi chuẩn bị chiến trường Nam Lào tuyến Mường Phin, Đồng Hến, Pha Lan hầu hết là cán bộ từ tiểu đoàn trưởng trở lên, có một số đại đội trưởng chủ chốt cùng với lực lượng bảo vệ phục vụ hơn 200 người do Tư lệnh Kim Tuấn chỉ huy - xuất phát ngày 10 tháng 9 năm 1970, kết thúc vào cuối tháng 10 năm 1970. Đi bộ mang vác nặng vượt qua các trạm giao liên vào tới địa bàn nghiên cứu chưa được một tuần, địch sôi rét ập đến, quân số ốm cứ tăng dần từ 2 - 3% tới 20 - 30%, tới giữa tuần thứ 2 đã lên tới 50%, anh Kim Tuấn cũng bị sốt rét; song vì nhiệm vụ không thể nghỉ được, hàng ngày vẫn phải đi nghiên cứu địa hình, các lượng dự trữ thịt hộp, sữa, đường phải dồn ra bồi dưỡng cho lại sức tiếp tục thực hiện nhiệm vụ; chỉ còn để lại lượng dự trữ khẩn cấp; đặc tính của sốt rét là sau cơn sốt ăn rất khỏe, thèm tý thịt hộp, thèm vắt cơm trưa, lớn hơn thèm bát canh rau rừng... người nào người nấy mặt mũi thâm quầng, hốc hác. Anh Kim Tuấn hồng hào như thế mà nay da mặt tái xanh. Tuy ốm đau mệt mỏi về thể xác nhưng khí thế và trách nhiệm vẫn rất hăng say không bỏ buổi nào; anh Tuấn rất lo, chiều nào cũng hội ý nắm tình hình kết quả nghiên cứu, phổ biến kế hoạch ngày hôm sau, anh luôn luôn đôn đốc cán bộ và quân y chăm lo bữa ăn và uống thuốc phòng sốt rét, giữ gìn vệ sinh nơi ăn nghỉ, anh thường hỏi bữa ăn có canh rau cho bộ đội không; bao nhiêu đồng chí đã cắt cơn; bao nhiêu đồng chí thuyên giảm; mấy đồng chí phát bệnh thêm? miệng nói, tay làm, chân đi tới. Có buổi chiều anh cùng với đồng chí quân y, hậu cần xuống xem bữa ăn của anh em; có buổi tối cùng y sĩ soi đèn pin xem bộ đội ăn nghỉ thế nào; kiểm tra việc uống thuốc phòng 3 chống sốt rét ác tính của anh em đối với y tá và cán bộ đơn vị - mệt lắm nhưng anh vẫn gắng làm những việc vừa thể hiện trách nhiệm vừa để cổ vũ anh em.

   Tôi nhớ mãi - một bữa chiều anh em bắt được mớ cua đồng rất béo, ngoài gạch vàng ươm lại thêm những thỏi mỡ trắng tinh nấu nồi riêu cua rất thơm ngậy với rau tàu bay non và cây chuối rừng non thái nhỏ, lính sốt rét nhìn thấy đã thèm cồn cào, tôi bảo đồng chí y tá và công vụ mang lên cho anh Tuấn một ăng gô ăn cho giã sốt rét.

   Vừa đúng lúc anh, đồng chí y sĩ, đồng chí cần vụ vừa xới cơm thì anh em đưa ăng gô canh cua và một bát B52 rau tàu bay, chuối rừng. Anh em thưa Thủ trưởng Tiến biếu Thủ trưởng Tuấn bát canh cua ăn cho mát ruột và giã sốt rét nhanh. Anh vui vẻ nhưng chưa nhận vội và hỏi các đồng chí lấy đâu ra của quý này? Anh em thưa: bắt cua ở cánh đồng Mường Phin nhiều lắm anh ạ; chỉ đi 30 - 40 phút được một xoong 20 đầy ụ, cua rất béo rất thơm. Các đồng chí cho tôi nhiều thế tôi xin 2 phần 3 thôi. Còn để đồng chí khác nữa chứ. Thưa anh cm có đủ cả rồi ạ! Anh vui lòng nhận và nhắc đồng chí cần vụ chia ra 4 bát: anh một bát, đồng chí y sĩ một bát, cần vụ một bát, còn một bát đem lên cho đồng chí tác chiến trực ban cùng ăn hôm nay, cậu ấy cũng mệt lắm.

  Một hôm đi nghiên cứu vùng Phu-noong-hay, anh không thấy đồng chí Huỳnh - Chủ nhiệm Thông tin Trung đoàn tôi trong đội hình, tôi báo cáo đồng chí ấy bị sốt rét ác tính quật ngã 3 hôm rồi, nay đỡ xin đi, tôi yêu cầu hôm sau đi Đồng Hên sẽ đi, anh Tuấn hỏi cậu ấy mệt lắm không, tôi thưa đỡ nhiều rồi. Tối hôm dó anh cho đồng chí y sĩ mang xuống một nhánh sâm đưa cho đồng chí Huỳnh và nói lẽ ra thủ trưởng xuống thăm anh nhưng vì bận làm việc với trên (thực ra anh cũng rất mệt vì hôm đó leo núi nhiều mọi người đều mệt lử cả!). Thủ trưởng biếu anh củ sâm dùng cho chóng lại sức, thật khỏe mới đi thực địa, nhiệm vụ còn dài, phải giữ sức để làm tiếp, kiệt sức quá không làm được nhiệm vụ quan trọng thời gian tới đâu. Đồng chí Huỳnh vừa nhận củ sâm vừa khóc nói với đồng chí y sĩ, em báo cáo vói Thủ trưởng, anh rất biết ơn Thủ trưởng, tin này được loan truyền trong đội hình cán bộ đi trinh sát thực địa của Trung đoàn 64, ngay ngày hôm sau đã lan tới cả đoàn!

   Khi hoàn thành nhiệm vụ trinh sát địa hình trở về. Một đoàn quân khi đi hùng dũng là thế, mọi người hồng hào, rắn chắc; đi nhanh, đi gọn đến trạm nghỉ đúng giờ hoặc sớm hơn (mỗi trạm chỉ cần 4 đến 6 giờ) nay về đội hình kéo dài 6 đến 8 giờ mới vào hết trạm; có hôm xuất phát lúc 5 giờ 30 phút sáng đến xế chiều 16 giờ 30 phút, người cuối cùng mới tới trạm mệt mỏi uể oải; có nhiều hôm nghỉ ăn trưa 30 phút xong phải kco dài tới 1 giờ vì một số anh em lên cơn sốt phải mắc võng nằm nghỉ thêm, sau dậy chống gậy đi tiếp. Có hôm anh Tuấn cũng phải chống gậy cùng hành quân; anh em thương quá đề nghị anh nằm võng anh em khiêng cáng một đoạn cho đỡ mệt nhất là đoạn vượt dốc, nhưng anh nhất định từ chối; anh nói còn có những đồng chí mệt hơn tôi, các đồng chí xuống cáng hoặc đeo ba lô mang giúp súng anh em từng đoạn cho đỡ một. Tôi còn khỏe chán, cái sốt rét này càng leo dốc đổ mồ hôi là khỏe ra khối, các đồng chí không phải lo nhiều, cứ yên tâm, khi tôi quá một tôi sẽ đề nghị các đồng chí giúp. Từ chối một cách thật khéo, thật tế nhị - ai nói anh Kim Tuấn khô!

   Một hôm đường đi ngắn đến trạm giao liên sớm, anh em đi cải thiện rau rừng, cua suối, đơn vị tôi chặt được mấy đọt bống báng, bữa ăn tối đó cải thiện một chút, có hoa chuối rừng trộn với rau tàu bay non chấm mắm kem cùng với cua suối, mỗi người còn được một thỏi bống báng bằng hai ngón tay ăn mát ruột và huy động đường dự trữ được 5kg đưa 1kg nấu một xoong 20 chè bống báng, chia mỗi người một bát.

  Anh em mang biếu anh Tuấn một ăng gô chè và một bát B52 hoa chuối rau tàu bay, một thanh bống báng bằng bàn tay. Anh vui vẻ nhận và nói cậu về nói với Thủ trưởng Trung đoàn và anh em tôi rất cảm ơn sự quan tâm của anh em đối với tôi và hỏi các cậu lấy của quý này ở đâu và lấy vào lúc nào? Thưa Thủ trương hôm nay vào trạm nghỉ sớm, chúng em phát hiện vạt bống báng cách trạm chừng hơn 1 cây số, kết hợp vừa đi đón người tụt lại sau và cử người đi hái rau, bắt cua suối cải thiện luôn. Bống báng và rau rừng có nhiều không? Thưa Thủ trưởng vạt bống báng khoảng 300m2, còn hoa chuối rừng và rau tàu bay cũng kha khá. Thế vạt bống báng có nhiều không? Thưa Thủ trưởng còn thưa lắm, chúng em chỉ tỉa mấy cây to còn lại các cây non để nó còn lên tiếp, ừ thế là phải, mình chặt trụi hết thì lớp hành quân đi sau còn gì mà ăn, ngay cả rau rừng cũng vậy không nên vặt trụi cả gốc lẫn ngọn, gọi là triệt phá; phải để mọc tiếp phục vụ người đến sau; anh vừa nói vừa nhắc đồng chí công vụ xẻ ăng gô chè và chẻ thanh bống báng thành 4 phần đều nhau. Anh và đồng chí công vụ hai phần, còn hai phần anh bảo đưa cho đồng chí y sĩ và đồng chí tác chiến trực ban; rồi anh hỏi tiếp các đồng chí lấy đường ở đâu để nấu chè; anh em báo cáo thưa Thủ trưởng đơn vị dồn lại được 5 cân, Thủ trưởng Trung đoàn quyết định dùng 1 cân nấu chè, còn để dự trữ khẩn cấp; anh cười hiền hòa vẻ mặt hơi xúc động. Tối hôm đó anh cho đồng chí cần vụ mang xuống đưa cho đồng chí y sĩ của trung đoàn 8 lạng đường bảo anh Tuấn tham gia vào số đường dự trữ của đơn vị, đồng chí quân y sĩ không dám nhận báo cáo với Chủ nhiệm Hậu cần, Chủ nhiệm Hậu cần lại báo cáo vói Trung đoàn trưởng. Tôi bảo anh Tuấn cho cứ lấy đưa vào đường dự trữ và nói với đồng chí công vụ Trung đoàn 64 hết sức biết ơn Thủ trưởng Tuấn - người chỉ huy xử sự với cấp dưới, thuộc quyền thật tế nhị, thật có đầu có đuôi - đâu phải là nghiêm, là khô?


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 20 Tháng Chín, 2013, 10:45:08 am
THỜI KỲ HOẠT ĐỘNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG TÂY NGUYÊN

   Sau chiến dịch Bắc Kon Tum (từ ngày 30 tháng 3 dến tháng 6 năm 1972), từ trung tuần tháng 6 năm 1972, Sư đoàn được lệnh chuyển về đứng trên địa bàn huyện 4, huyện 5, tỉnh Gia Lai có “nhiệm vụ giữ vững, mở rộng vùng giải phóng từ ngã ba Hàm Rồng (đường 14 và ra dường 19 kéo dài) dến Bắc Phú Nhơn theo đường 14 và qua Bầu Cạn, Thanh An đến Ô Gia Tào biên giới Cam-pu-chia theo đưòng 19 kéo dài - mở các đợt hoạt động “phá ấp chiến lược giành dân, mở rộng vùng giải phóng; tạo thế đứng liên kết 3 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc làm bàn đạp để mở các trận đánh lớn khi thời cơ đến”.

   Quân số tiêu hao trong chiến đấu chưa được bổ sung, lực lượng còn lại bị đau yếu sốt rét, bệnh tật, ghẻ lở, hắc lào, ruồi vằn, bọ cạp... gây tác hại, một số thương binh, bệnh binh nhẹ mới ra viện sức khoẻ chưa bình phục thường chiếm 20 - 30% quân số. Việc điều chỉnh để đại đội bộ binh có biên chế từ 65 - 72 cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến đấu là điều hết sức khó khăn. Anh Tuấn trực tiếp xuống với Trung đoàn bàn tính xếp sắp hợp lý dồn quân số khỏe cho các đơn vị đi làm nhiệm vụ chiến đấu: Tiểu đoàn cần có 320 - 350 đồng chí, đại đội bộ binh từ 75 - 80 đồng chí; các phân đội hỏa lực phải đủ vũ khí, rút bớt số mang đạn, giao cho phân đội vận tải mang giúp... Còn lại các đơn vị phía sau sử dụng quân số yếu làm nhiệm vụ học chính trị, tăng gia sản xuất... Đồng thời, chỉ đạo việc tổ chức ổn định ăn, ở, phòng chữa bệnh cho đơn vị rất cụ thể; từ bữa ăn của bộ dội tiêu chuẩn ngày 1 lạng gạo cộng với 2,5kg sắn tươi; kết hợp hái lượm rau rừng đến việc làm nhà cửa, hầm hào trú ẩn xếp sắp doanh trại trật tự, bảo đảm đời sống đơn vị vui khỏe, lạc quan, an toàn, sẵn sàng chiến đấu.

   Anh cùng với cơ quan hậu cần, cán bộ đơn vị làm việc với lãnh đạo huyện 4, huyện 5 xây dựng kế hoạch sẵn sàng chiến đấu và xin đất tăng gia sản xuất, thành lập các đội tăng gia, phát nương trồng ngô, sắn, chăn nuôi gà, lợn... kết hợp mở lớp tập huấn cho y tá, y sĩ về phòng chữa bệnh cho đơn vị. Chỉ sau 6 tháng đến một năm ngô, sắn, lúa, khoai, vừng, lạc, rau quả, gà, lợn được thu hoạch.

   Vừa chiên đấu vừa tăng gia sản xuất, đời sống bộ đội được cải thiện rõ rệt, sức khỏe tăng lên, các loại bệnh tật bị đẩy lùi, da thịt trở lại rắn chắc; chiến sĩ vừa chiến đấu giỏi vừa tăng gia giỏi; y tá đại đội nắm chắc phác đồ điều trị sốt rét kể cả sốt rét ác tính, thành thạo cứu chữa các trường hợp do rắn độc, bọ cạp, ruồi vàng..., đồng thời mở các đợt tiến công san phẳng các cứ điểm địch: Đức Cơ, Đồn Tầm, Làng Dịt, Mỹ Thạch, Làng Kê; đánh bại các đợt phản kích, lấn chiếm của địch. Vùng giải phóng được mở rộng và giữ vững: các tuyến đường quân sự làm gấp được nối thông với địa bàn hoạt động, các kho trạm được mở thêm. Cuối năm 1974, cơ quan Bộ vào chuẩn bị chiến dịch Tây Nguyên 1975, thế đứng ở chiến trường Tây Nguyên nói chung và Sư đoàn 320 nói riêng đã vững chắc cả về thế trận và đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện rõ rệt. Quân số tham gia chiến dịch, tiểu đoàn bộ binh từ 450 đến 480 đồng chí, khỏe mạnh, lạc quan, sẵn sàng bước vào trận chiến đấu mới đầy tin tưởng.

   Thời kỳ mới đặt chân tới địa bàn Plei Ku, vừa rút từ Bắc Kon Tum tới chân ướt, chân ráo. Quân số đã thiếu do hao hụt trong chiên đấu, ốm đau sốt rét, bệnh tật cộng với thiếu đói trong chiến dịch còn được 2,5 lạng gạo/ngày; nay chỉ còn 1 lạng gạo cộng với 2,5kg sắn tươi mà phải đi, về 2 ngày rưỡi (lên tận Kon Tum, nương rẫy của đơn vị bạn tăng gia); thực phẩm thịt, sữa, đường, muối đều rất khan hiếm; chỉ có mắm kem, magi do Tây Nguyên tự chế. “Cái khó ló cái khôn”, anh em lấy ống bơ hộp thịt dùng đinh nhỏ đục lỗ xát sắn thành bột làm bánh ăn cũng ngon; anh em còn sáng tạo ra cách nạo sắn thành sợi như sợi miến hấp với gạo thành xôi sắn, ăn mềm dẻo ngon miệng no bụng, thế là thoát điệp khúc sắn luộc trùng trục; hái lượm thêm lá sắn non làm dưa, hoặc luộc vắt khô chấm magi hoặc mắm kcm. Có bữa cải tiến dùng rau tàu bay non với thân cây chuối rừng thái mỏng trộn lẫn chấm mắm kem, muối lạc ăn ngon... chỉ còn việc bảo quản khéo sắn củ để khi bóc vỏ còn tươi, làm bột, làm sợi không bị thối hoặc vào nhựa. Dần dần bộ dội thao tác thuần thục tạo cho bữa ăn ngon miệng cả người ốm, người khỏe; cuộc sống đi vào ổn dịnh, yên tâm chiến đấu, học tập xây dựng vùng giải phóng.

  Một hôm anh Tuấn xuống kiểm tra trung đoàn, anh đi rất sớm 7 giờ sáng đã đến đơn vị. Tôi cố ý mời anh ăn bữa cơm sáng tạo của chiến sĩ Trung đoàn 64 (tôi biết bao giờ anh đi kiểm tra đơn vị đều tính toán thời gian chặt chẽ theo nội dung định trước và thường mang theo cơm nắm, bi đông nước, kèm cả phong lương khô, tăng võng đầy dủ, làm việc xong ra về đến một đoạn đường nào đó ngồi ăn cơm, mắc võng nghỉ 20-30 phút rồi ra về). Tôi lần lần dẫn anh xuống các tiểu đoàn, xuống cơ quan hậu cần kéo dài thời gian và đưa một vài việc đề nghị anh cho ý kiến. Tôi biết anh sốt ruột, nhưng khéo đề xuất để anh không kết thúc sớm được - đến hơn 11 giờ mới kết thúc, tôi mời anh ở lại ăn trưa với anh em; trên bàn lúc đó đã bày sẵn bát đũa, đĩa rau tàu bay non trộn với hoa chuối rừng chấm mắm kem, đĩa rau lá sắn luộc vắt kiệt nước chấm muối vừng, đĩa bánh bột sắn, xoong sợi sắn trộn cơm; không có thịt thà gì cả, rất đạm bạc. Anh không nỡ từ chối, không nỡ ra về trước tình huống này. Anh chủ dộng vừa cười vừa nói như ra lệnh: còn ai nữa tất cả vào bàn thôi. Tôi và đồng chí Phó Chính ủy Trung đoàn, mấy đồng chí cùng đi với anh ngồi quanh chiếc bàn dã chiến, anh lên bát đũa đầu tiên và nhìn thẳng vào tôi với đôi mắt như cười tế nhị: 64 khéo chơi đấy! Các cậu làm những món gì mà thịnh soạn vậy? Đồng chí Phó Chính ủy giới thiệu từng món, anh đáp lại ngay: món tàu bay chuối rừng tôi ăn mãi rồi, chắc hôm nay 64 làm ngon lắm đây! Anh ăn rất thoải mái, ăn thật sự, anh khen món sợi sắn hấp cơm, khen rau tàu bay trộn hoa chuối rừng chấm magi, món bánh sắn anh không bình luận; anh khen bộ đội chóng hồi phục sức khỏe, khen quân y trung đoàn biết tổ chức phòng chữa bệnh cho bộ đội, khen hậu cần biết chăm lo bữa ăn cho đơn vị, khen chiến sĩ chịu khó cải thiện bữa ăn; anh trầm ngâm và trao đổi việc chống rách, chống rét cho anh cm, chú ý khâu vá, huy động điều chỉnh chăn màn trang phục dự trữ cho anh em quá thiếu.

   Bữa ăn vui vẻ, thoải mái, ăn xong anh còn nghỉ 40 phút mới về Sư đoàn.

   Tôi tranh thủ đề nghị một vài việc cần thiết của đơn vị, nhân lúc anh thoải mái tôi thưa với anh về chuyện anh thường từ chối không ăn cơm với dơn vị, sau buổi xuống kiểm tra, làm việc xong, nhất quyết ra về. Các đơn vị chưa hiểu hết anh, họ nghĩ anh khó tính, nguyên tắc quá, kỹ tính quá. Riêng tôi hiểu: thứ nhất anh thương anh em đang thời kỳ thiếu đói, thủ trưởng đến gây thêm rối bận cho đơn vị; thứ hai, anh ngại chiến sĩ hiểu lầm, trong khi đơn vị thiếu thốn bày trò tiếp đón tốn kém; thứ ba, anh muốn dành nhiều thời gian làm việc và sự thoải mái cho chỉ huy đơn vị.

   Thực ra anh em rất quý trọng anh, anh càng nghiêm khắc, càng bình dị anh em càng tôn trọng, yêu quý anh; nhất là đội ngũ đã sống với anh từ thời kỳ chống Pháp, và các đồng chí sống bên anh từ năm 1968 ở Bắc Quảng Trị, Đường 9 - Nam Lào, họ hiểu anh lắm; họ muốn gần gũi, muốn tâm sự với anh theo nghĩa anh em, đồng chí, đồng đội lắm đấy.

  Anh trầm ngâm rồi lái sang chuyện khác, hỏi cậu được mấy con, chị ấy vẫn làm dược sĩ bán hàng thuốc ở Sơn Tây? Tôi thưa được 4 con: 2 trai, 2 gái; anh cười, cậu vi phạm kế hoạch nhé. Tôi vâng đã trót! Anh cười và trở lại chuyện từ chối các lời mời ở lại ăn cơm với đơn vị khi kết thúc buổi làm việc.

   Cậu thấy: Bộ đội dang đói ngã người, ngày 1 lạng gạo cộng 2,5kg sắn tươi, thực phẩm toàn hái lượm rau rừng, ốm đau thiếu cả hộp sữa, cân đường, thậm chí lạng thịt hộp cũng chẳng kiếm đâu ra. Đơn vị mới về đóng quân còn một núi việc, mình ngồi ăn, nhìn anh em sao nuốt nổi miếng cơm đầy khó nhọc của anh cm, anh nói hơi xúc động - mình đi làm việc đã có khẩu phần đầy đủ, còn cả bánh lương khô, sữa bột, hộp thịt đầy đủ! Nên mình không muôn phiền đơn vị để anh em có nhiều thời gian làm công việc khác.

   Tôi đáp lại: Trung đoàn 64 hôm nay mời anh ăn bữa trưa với anh em chúng tôi. Anh có nhận xét gì về sự được, mất của trung đoàn khi được tiếp Thủ trưởng không? Anh trừng mắt nhìn tôi, có ý thăm dò: Cậu định giở trò gì nữa đây?

  Tôi thưa luôn, Trung đoàn 64 hôm nay mất một cái đáng mất và được những cái quý giá không thể mua bán đổi chác được. Thứ nhất mời anh ăn cơm với Trung đoàn bữa ăn đạm bạc nhưng anh ăn thực sự, ăn ngon lành, còn khen anh nuôi biết chế biến nấu nướng cải thiện bữa ăn cho bộ đội. Chứng tỏ anh đồng cảm, tin tưởng sự chịu đựng vượt qua khó khăn và trưởng thành của đơn vị.

  Thứ hai, qua buổi kiểm tra hôm nay chắc chắn anh nắm và hiểu sâu mặt mạnh, mặt yếu của đơn vị, thấy được những mặt tốt và vững chắc như anh đã nhận xét về Trung đoàn 64, chắc rằng các trung đoàn khác trong Sư đoàn ta còn có mặt tốt hơn, giúp cho Thường vụ và Bộ Tư lệnh có sự chỉ đạo tiếp, đưa Sư đoàn ta tiến thêm một bước mới. Còn mất thì mất cái đáng mất là sự hiểu sai về anh là chỉ huy quá nghiêm khắc, quá nguyên tắc, quá chặt chẽ, khô.

   Nét mặt anh thoáng thay đổi. Anh cười gượng nhưng đôi mắt vẫn rất tươi, long lanh. Anh nhìn tôi, vừa trìu mến vừa thân thương, thật khó tả! Anh nói vừa như dứt khoát vừa như hứa hẹn: Ừ! Từ nay tớ thay đổi, chỗ nào mời chén (anh dùng từ “chén”), tớ thấy chén được thì chén với anh em cho vui, được chưa?

  Tôi vui mừng vỗ tay hoan hô anh! Hoan hô anh trăm lần.

   Anh đứng dậy rất vui, bắt tay tôi thật chặt và ra về.

   Từ bữa đó trở đi cho đến mãi mãi sau này, khi anh đảm nhiệm Tư lệnh Quân đoàn, anh đã thay đổi hẳn cách xử sự trong cuộc sống; vẫn giữ được tính nguyên tắc, sự nghiêm khắc trong công việc, song rất hài hòa tế nhị. Các bữa làm việc ăn cơm với đơn vị hầu như anh không từ chối, ăn thoải mái, ăn thực sự, ăn một cách ngon lành không bao giờ so sánh, bình luận ngon, không ngon, nhiều, ít. Các đơn vị nhất là anh em nhà bếp khen hết lời: Thủ trưởng Tuấn người thành phố mà không “kén ăn”. Đơn vị càng hiểu, càng quý mến người chỉ huy của mình. Rất nghiêm khắc, rất nguyên tắc, nhưng hài hòa, tế nhị, dễ thương!

Hà Nội, tháng 8 năm 2011


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 20 Tháng Chín, 2013, 10:47:40 am
THIẾU TƯỚNG, ANH HÙNG, LIỆT SĨ NGUYỄN KIM TUẤN
SAY NGHỀ BINH NGHIỆP, SỐNG NGHĨA TÌNH


Thiếu tướng BÙI HUY BỔNG


   Cơ may giữa năm 1951. Tôi học ở Trung Quốc về làm Chính trị viên Đại đội 749 Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 Sư đoàn 320. Anh Kim Tuấn - Đại đội trưởng Đại đội 46 Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 48 sang làm Tiểu đoàn phó Tiếu đoàn 3, Trung đoàn 48. Anh Tuấn ở đồng bằng Bắc Bộ, còn tôi ở Việt Bắc đi học Trung Quốc về chưa quen biết nhau. Tình cờ, tôi đang huấn luyện và làm động tác thị phạm lao, đặt giá thiết và đánh bộc phá. sắp hết giờ buổi sáng, anh Tiến Tư - Đại đội trưởng chạy ra nói nhỏ: Chính ủy Phạm Ngọc Hồ theo dõi Bổng huấn luyện học quân sự cho đại đội từ sáng, đang đứng trong lùm cây. Tôi vội hô bộ đội nghiêm chạy vào báo cáo Chính ủy. Được Chính ủy biểu dương khen và giới thiệu: Anh Kim Tuấn về làm Tiểu đoàn phó, anh Tuấn bắt tay tôi, nói: “Từ nay hàng ngày hai anh em cùng làm chương trình và huấn luyện quân sự cho Tiểu đoàn”.

   Từ đó tôi có nguồn tình cảm mới bớt buồn nhớ đơn vị cũ, đi sâu cộng tác và tìm nết đẹp của anh Tuấn. Thấy ở anh Tuấn là con người vô tư, say sưa với trách nhiệm, say sưa với quân sự. Tâm đầu ý hợp, hàng ngày hết giờ tôi huấn luyện cho bộ đội, anh giữ lại khoảng 2 giờ để tìm hiểu chiến, kỹ thuật quân sự của Lâm Bưu như: Nội dung Tứ Khoái Nhất Mạn, Tứ Tổ Nhất Đội, Tam Mãnh, chiến thuật công kiên, cường tập đầu nhọn đuôi dài và bố trí phục kích. Anh nhắc bộ đội là học quân sự thì phải thật sự bình đẳng dân chủ, chỗ nào chưa rõ thì hỏi và làm lại bởi quân sự sai một ly là đi một dặm, “thất bại tổn thất”. Anh Bổng đã được học lý luận và động tác cơ bản chính quy, nắm chắc vấn đề và anh nói xin kết bạn, anh em tin nhau. Nói vậy nhưng tôi vẫn phải giữ đúng vị trí cấp trên cấp dưới, khiêm tốn, chặt chẽ.

   Anh Nguyễn Tiến Tư - Đại đội trưởng chuyển đơn vị khác, anh Hải Bằng - Đại đội trưởng biệt động Hà Nội về thay, nhưng sức khỏe yếu lại chưa quen chỉ huy chiến đấu tập trung nên trận tập kích Đồi Sim - Chợ Bến, Đại đội 749 làm dự bị, anh Tuấn đi cùng, rút kinh nghiệm, anh hỏi tổ chức thực hành và thu quân khi chiến thắng... có thể nói anh Tuấn là một cán bộ khiêm tốn, chân thật, say sưa tìm hiểu quân sự.

  Trận chống càn Tam Dương - Thạch Lỗi, khoảng tháng 9, tháng 10 năm 1951. Anh Tuấn là Tiểu đoàn phó, có anh Phong ở Bộ tổng điều về làm Tiểu đoàn trưởng, anh Thiện - Thường vụ Tỉnh ủy Hà Đông sang làm Chính trị viên, anh Khoan - Chính trị viên phó tiểu đoàn. Trận đánh tập trung không cân sức, địch dùng hỏa lực mạnh và chủ động càn quét, đồn bốt của chúng ở xung quanh Chùa Cao, Phúc Nhạc, Yên Mô. Về phía Tiểu đoàn 3, cán bộ mới điều chỉnh, nhiều chiến sĩ là tân binh, địa hình Tam Dương - Thạch Lỗi nhiều ao, ta có bố trí trận địa theo thế chân kiềng. Trận chiến đấu tuy thắng lợi, bắt được tù binh, thu được vũ khí, đuổi chúng về đồn bốt nhưng ta cũng bị tiêu hao nhiều. Anh Phong - Tiểu đoàn trưởng bị thương cụt chân, anh Thiện hy sinh. Đại đội 737, 761, 88 và Tiểu đoàn bộ bị thương vong nhiều, chỉ riêng Đại đội 749 bị thương vong ít. Anh Khoan là cán bộ cơ quan mới xuống chưa quen nắm đơn vị. Anh Tuấn lên chỉ huy, lãnh đạo chung. Anh gặp tôi động viên, Đại dội 749 đánh tốt, thương vong ít nên ở lại giải quyết hậu quả, anh cho mò hết liệt sĩ ở dưới các ao, cho bộ đội du kích chuyển về Xậu. Số còn lại bố trí đội hình phòng chúng cay cú tấn công lại và động viên ổn định dân. Còn đại bộ phận tôi cho rút hết sang núi Xậu củng cố, lúc này anh như con thoi đi lại nên bộ đội rất tin.

  Trận tập kích thị trấn Phát Diệm tháng 10 và tháng 11 năm 1951 phải bí mật lội đồng chiêm nước tới ngực. Ban chỉ huy tiểu đoàn lúc đó tuy có một mình anh Tuấn quen chỉ huy tác chiến, nhưng anh cũng chặt chẽ làm kế hoạch, đắp sa bàn, họp thông qua kế hoạch rồi xuống kiểm tra gói buộc quân trang, vũ khí để lội vào Phát Diệm. Anh đi đầu hàng quân cùng giao liên để dẫn đầu. Vào tới Phát Diệm, anh cho đơn vị tạm dừng. Anh cùng giao liên đưa từng đại đội vào vị trí, sau đó anh mới về sở chỉ huy. Thực ra chỉ huy chỉ có anh, anh Thạch Tâm và anh Khoan là cán bộ cơ quan mới về chưa quen chiến đấu; anh là người chỉ huy rất bình tĩnh, chín chắn, sâu sát bộ đội nên đánh Phát Diệm thuận lợi, khi thu quân anh nghiêm khắc với kỷ luật dân vận. Anh giao cho tôi 50 đồng chiến lợi phẩm và bảo: đồng chí ra sau phải thanh toán tiền lương và cam dân cho, không được nhận thứ gì của dân. Kỷ luật chiến trường đã phổ biến...

  Trận chống càn Tiên Yên, Yên Mô đó là trận vượt sông sang Nam Định bị lộ, địch tập trung lực lượng tàu chiến, máy bay, quân các đồn bốt: Chùa Cao, Phúc Nhạc, đường 10 bao vây làng Tiên Yên nhằm tiêu diệt tiểu đoàn ta. Ta phát hiện địch càn nên đã dàn thế chống càn, nhưng do lực lượng không cân sức, địch mạnh, ta có hạn, nhờ tinh thần dũng cảm mưu trí của bộ đội, ta phá được càn diệt được địch, thu vũ khí và bắt tù binh bảo vệ dân nhưng cũng bị tổn thất. Anh Tuấn và Thạch Tâm bị thương, anh Phương - Đại đội trưởng chủ công và Đạt - Chính trị viên 88 “trợ chiến” hy sinh, các đại đội 737, 761, 88 và Tiểu đoàn bộ đều bị thương vong, riêng Đại dội 749 thương vong ít. Ta chiến thắng bộ đội phấn khởi. Anh Tuấn gắng gượng gặp tôi giao nhiệm vụ thu quân về sau kiểm tra khắc phục hậu quả. Từ hành động chịu đau và minh mẫn của anh Tuấn làm cán bộ, chiến sĩ càng tin. Sau hai ngày rút ra để củng cố, anh Tuấn và Thạch Tâm đi điều trị, anh Độ về thay. Ngày thứ 3 tiểu đoàn vượt sông sang Nam Định, tới hôm sau đại bộ phận luồn qua sông sang Thái Bình. Riêng Đại dội 749 bị địch chặn, ở lại Nam Định phục kích. Ngày 27 Tết, đại đội đánh quân dịch từ Cổ Lễ đi Vô Tình, diệt 3 xe diệt hơn 30 tên, thu vũ khí, bắt tù binh trao cho địa phương. Anh Thạch Tâm đã bình phục, đi cùng Đại đội 749. Tiếp dó, Đại đội 749 tập kích địch ở làng “Phú Gia” không thành, tổ chức vượt sông sang Thái Bình được anh Anh Đệ đón phổ biến tình hình địch ta ở Tiên - Duyên - Hưng, giao nhiệm vụ cho Đại đội 749 làm dự bị cho tiểu đoàn đánh phục kích Hà Nguyên. Trận đánh thắng lợi, diệt 6 xe ô tô chở lính đi Buộm, thu vũ khí, bắt tù binh, phát triển xuống diệt Cầu Nại bao vây tiêu diệt quận lỵ Buộm - Giốc Văn nhanh gọn, ta ít thương vong. Anh Long Vĩ - Chính trị viên Đại đội 761 hy sinh, đơn vị khắc phục hậu quả và theo yêu cầu của địa phương, anh Đệ cho bao vây diệt phá cụm địch ở Cúc Đình - Phú Giáo, mở rộng vùng giải phóng. Khí thế phong trào quần chúng lên thì có lệnh Tiểu đoàn 884 về cùng trung đoàn để đánh tiêu diệt địch ở Quỳnh Côi. Đại đội 749 bao vây, thuyết phục bọn phản động đội lốt tôn giáo ở Yên Lập gần bốt Giống cạnh sông Trà Lý buộc chúng phải đầu hàng, nộp hơn 100 súng, đơn vị giao lại súng cho huyện. Đại dội 749 hành quân về trung đoàn thì có lệnh dừng lại, chuyển hướng vì anh Lê Quân và Lê Điện bị bom hy sinh ở Duyên Trang - Duyên Tục. Phát hiện và trên báo địch mở chiến dịch càn mang tên Thủy Ngân (Méc Quya) ở nam Thái Bình để vây diệt tiểu đoàn 1, trung đoàn 48. Toàn Tiểu đoàn 884 vượt sông Trà Lý về đánh tập hậu. Tiểu đoàn phục kích ở Đê Bóng - Trà Lý gần nam đường Kiến Xương, trong 3 ngày tiểu đoàn đánh được 2 trận, tiêu diệt gọn 2 đại đội công binh địch, bắt tù binh, thu vũ khí, ta ít thương vong. Anh Đệ nhận định địch sẽ quay về càn Quân Hành - Xuân Bảng, anh cho tiểu đoàn bố trí đánh, ta thắng, bắt tù binh, thu vũ khí, địch rút về thị xã nhưng ta cũng bị tổn thất. Ta rút qua đường 39 “Niêm Hạ”, số còn lại Đại đội 749 chốt ở Chi Lỗ, địch vây định diệt, nhưng bị Đại đội 749 đánh tan và tiếp đó tập kích địch chặn đưòng 39 ở “Niêm Hạ”, ta thắng lớn, không thương vong, cả đại đội về tập trung ở gần Văn Môn, “Trại Hủi”. Rút kinh nghiệm đợt hoạt động sang Thái Bình, anh Nguyễn Anh Bảo - Chính ủy Trung đoàn thay anh Hồ biểu dương tiểu đoàn và trao nhiệm vụ tiểu đoàn ở lại Thái Bình phụ trách 3 huyện phía nam: Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải, trực thuộc Trung đoàn 52. Anh Kim Tuấn về làm Tiểu đoàn trưởng, anh Đinh Thế Vinh thay anh Thạch Tâm làm Chính trị viên, anh Anh Độ về làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 64 là một cán bộ trung đoàn bị kỷ luật nhưng hoạt động ở địch hậu lâu năm có nhiều kinh nghiệm trình độ phán đoán địch nên chủ trương kế hoạch đánh địch ở bắc Thái Bình và Đê Bóng + Quân Hành - Xuân Bảng làm mọi cán bộ tín nhiệm ca ngợi, giúp cho Tiểu đoàn 884 đánh là thắng.

   Tiểu đoàn 884 ở lại Thái Bình do anh Kim Tuấn chỉ huy. Anh luôn là người vững vàng, bình tĩnh, tình nghĩa không chỉ với Trung đoàn 52 mà cả với địa phương và cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn 884. Tiểu đoàn ở lại Thái Bình gần một năm, giữ được địa bàn, vạch mặt được bản chất hành động dã man của bọn phản động đội lốt tôn giáo ở địa phương, Đại đội 761 đánh phục kích ở Tràng Lũ, Cao Mại đi Thanh Nê, diệt gọn một trung đội địch, bắt tù binh, thu vũ khí, ta bị thương nhẹ một chiến sĩ. Bộ đội và nhân dân phấn khởi. Tại các cuộc họp Đảng và quân chính tiểu đoàn, anh Tuấn luôn kêu gọi chống chủ quan, luôn có kế hoạch di động đội hình và giữ nghiêm kỷ luật dân vận.

   Cuối tháng 11 năm 1952, có lệnh Tiểu đoàn 884 vượt sông về Nam Định, tập trung toàn trung đoàn để đánh bốt Vô Tình, đánh càn cầu Gai và Nam Trực - Trực Ninh. Trung đoàn vừa hoàn thành đánh Phát Diệm lần 2 và tiêu diệt đồn Vô Tình, tiếp đó phục kích thắng lợi Cầu Gai, chống địch càn ở Trực Ninh - Nam Trực thắng lợi. Tháng 12 năm 1952, toàn trung đoàn rút ra Thanh Hóa chỉnh quân chính trị. Anh Kim Tuấn và Đinh Thế Vinh đi chỉnh huấn ở Bộ, ở nhà anh Vương Quang Đạt - Tiểu đoàn trưởng, tôi là Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy Tiểu đoàn 884 phụ trách chỉnh quân. Khoảng tháng 9, tháng 10 năm 1953 chỉnh quân xong, anh Tuấn về giữ chức Tiểu đoàn trưởng, tôi làm Tiểu đoàn phó, anh Đinh Thế Vinh làm Chính trị viên. Tiểu đoàn vận động ra Kim Tân - Sòng Cạn - Dốc Giang phá cuộc càn của địch (gọi là càn Tây Nam Ninh Bình) thắng lợi. Anh Tuấn được điều về làm Trưởng ban Tác chiến Đại đoàn, tôi sang Tiểu doàn 1 làm Tiểu đoàn phó, Phó Bí thư Tiểu đoàn ủy được một tháng, xong lại về làm Chính trị viên Tiểu đoàn 884.

   Tháng 6 năm 1967, anh Kim Tuấn làm Sư đoàn phó, tôi làm Phó Chủ nhiệm và tiếp đó là Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn. Hai anh em lại có dịp tâm tình kinh nghiệm và đời tư. Nhất là năm 1970, Bộ tổ chức Bộ Tư lệnh Mặt trận R “bảo vệ Mường Phin”, đẩy địch ở Pha Lan, chuẩn bị diệt Đồng Hến. Anh Tuấn làm Tư lệnh, anh Hải - Sư đoàn phó Sư đoàn 2 và anh Tô Đình Khản làm Sư đoàn phó. Lúc này, tôi phụ trách chính trị và Phó Chính ủy phụ trách công tác đảng, công tác chính trị. Lực lượng mặt trận có Trung đoàn 48 Sư đoàn 320, Trung đoàn 141 Sư đoàn 2 và số đơn vị của Bộ Tư lệnh 559. Tôi và anh Kim Tuấn có dịp như hình với bóng vì tôi biết tiếng Lào, hiểu địch, dân, địa hình Lào. Nên dù 4 anh em ở ba đơn vị, bốn chiến trường khác nhau nhưng rất ý hợp, đoàn kết nhất trí cao. Thấy ở anh Tuấn thực sự là con người giữ gìn dân chủ tập thể, họp bàn xong việc ai người đó làm, nghiêm túc tiếp thu ý kiến tập thể nên chủ trương tác chiến và vận động xây dựng cơ sở đều phù hợp với lãnh đạo địa phương. Mặt trận hoạt động được 6, 7 tháng giữ được Mường Phin, diệt được địch ở Pha Lan và Đồng Hến. Mặt trận R hoàn thành, anh Tuấn về làm Tư lệnh Sư đoàn 320, tôi làm Phó Chính ủy. Bộ điều Sư đoàn 320 vào Tây Nguyên, bình thường thì Tư lệnh và Chính ủy đi trước, nhưng hiểu nhau, anh Tuấn đề nghị tôi đi trước cùng anh chuẩn bị chiến trường, nhận nhiệm vụ do Bộ Tư lệnh B3 giao. Tuy anh Tuấn là Tư lệnh, có Chính ủy nhưng hễ có chủ trương đánh địch ở đâu anh cũng thường trao đổi với tôi về chủ trương, nhận định đến kế hoạch và khi đi trinh sát cũng như chỉ huy đánh địch là hai anh em rất hợp “Tuấn - Bổng”. Đặc biệt từ năm 1973 đến 1975, anh Tuấn - Tư lệnh Sư đoàn, tôi làm Chính ủy thì rất hợp ý tâm đầu nên xây dựng Sư đoàn chuẩn bị cho chiến dịch Tây Nguyên và xử lý đánh địch trong chiến dịch Tây Nguyên thuận lợi, thắng nhiều, thương vong ít, bộ đội tin tương, địa phương và dân mến, từ chuẩn bị đến chỉ huy xử lý đánh tiêu diệt dịch ở Cẩm Ga - Thuần Mẫn, Buôn Hồ, truy kích dịch ở Cheo Reo, Phú Bổn, đến Phú Yên. Thường là hai anh em đi ở với nhau, cùng nhau xử lý cả quân sự, chính trị, hậu cần rất tin nhau. Khi anh Tuấn lên Tư lệnh phó Quân đoàn 3, anh nói rất tiếc là tạm xa nhưng Bổng ở lại Sư đoàn 320, mình rất tin.

   Chiến thắng 1975 xong, anh Vũ Lăng và Kim Tuấn ra Hà Nội họp 2 lần, vợ chồng anh Lăng và Kim Tuấn đều xuống thăm động viên mẹ và vợ con tôi. Về đơn vị không ngày nào là anh Tuấn không điện tâm sự với tôi và thăm hỏi tình hình anh em cán bộ, chiến sĩ của sư đoàn.

  Qua những năm tháng công tác chiến đấu gần anh Kim Tuấn, thấy anh là cán bộ say nghề binh nghiệp, sống nghĩa tình. Nghiêm túc trong quan hệ quân dân và nam nữ, có lòng tự trọng cao, thấy việc khó khăn hoặc anh em ngần ngại thì tự mình đi làm không ngại hy sinh, gian khổ để chớp thời cơ cho đơn vị. Học tập noi gương anh, hứa xứng dáng là bạn, anh em kết nghĩa trọn nghĩa vẹn tình đến hơi thở cuối cùng.

Tháng 5 năm 2011


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 20 Tháng Chín, 2013, 10:49:52 am
ANH KIM TUẤN - NGƯỜI CHỈ HUY CỦA TÔI


Thiếu tướng NGÔ HUY PHÁT


   Anh Kim Tuấn là Thủ trưởng trực tiếp của tôi suốt thời gian đánh Mỹ. Anh là Sư đoàn trưởng, tôi là Trưởng ban Tác huấn rồi Tham mưu trưởng đến Phó Tư lệnh Sư đoàn 320 anh mới chia tay chúng tôi lên làm Phó Tư lệnh Quân đoàn 3. Tôi và anh có sự gắn bó mật thiết hàng ngày không chỉ về công việc giữa người chỉ huy và cơ quan tham mưu mà còn chia sẻ với nhau những vui lo trăn trở trước những thay đổi nhiệm vụ và diễn biến tình hình. Được tin anh mất khi tôi đã rời sư đoàn về học viện, một tổn thất quá bất ngờ, điều tưởng như không thể mà lại thành sự thật. Thương nhớ anh bao nhiêu càng căm hận bè lũ diệt chủng Pôn Pôt - Iêng Xa-ry và những thế lực đứng đằng sau, mặt người dạ thú bấy nhiêu.

   Dấu ấn về anh lắng đọng sâu sắc nhất trong tôi là lòng kính trọng, sự kính trọng ấy được bắt nguồn từ sự nể trọng: “Bản lĩnh vững vàng, nghị lực kiên cường trong gian khó quyết liệt” của anh. Anh là người dám nhận gian khó, dám xông vào gian khó và chính trong gian khó quyết liệt ấy đã tôi luyện anh thành người chỉ huy lãnh dạo trí dũng song toàn, dám làm, dám đánh, biết tìm biện pháp thủ đoạn, cách đánh hiệu quả quyết chiến quyết thắng quân thù. Không phải sau này mà ngay từ những năm cùng ở Trung đoàn 48 với anh hồi chống Pháp, khi anh làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3, tôi đã cảm nhận dược đức tính quý báu này của anh:

   - Trong trận chống càn Thủy Ngân (4-1952), theo kế hoạch, tiểu đoàn anh ở lại chiến đấu trong vòng vây cùng địa phương bảo vệ nhân dân. Tiểu đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vừa đánh vừa lui, kìm giữ địch từ Kiến Xương về Tiền Hải để các đơn vị khác và nhân dân kịp sơ tán cất giấu của cải, rồi tiểu đoàn kịp thời thoát vây trước khi địch cất vó. Ra phía sau anh đã tổ chức tiểu đoàn liên tiếp dánh các trận phục kích diệt các đoàn xe đi tiếp tế, sửa đường, khiến địch phải điều quân quay lại càn đã rơi vào trận địa phục kích, bị tiểu đoàn tiêu diệt rồi nhanh chóng cơ động đi hướng khác. Tôi nghĩ đây là một cách đánh mẫu mực vừa kết hợp phòng ngự tích cực tiêu hao địch vừa linh hoạt giành chủ động tiến công tiêu diệt địch trong chống càn.

   - Trước đó trận chống càn Tiên Yên (4-1-1952), tiểu đoàn anh cùng sở chỉ huy nhẹ Trung đoàn 48 trên đường sang Nam Định quá nửa đêm tạm dừng ở khu căn cứ du kích nhỏ hẹp Khánh Thiện (Yên Khánh - Ninh Bình) thì được tin địch đã tập trung quân sáng ra sẽ càn khu này. Anh đã biết dựa vào khu căn cứ và phối hợp chặt chẽ với địa phương nhanh chóng triển khai chiến đấu. Một ngày quần nhau quyết liệt với địch, cuối cùng ta vẫn giữ vững trận địa và còn phản kích truy đuổi địch tan tác chạy về đồn bốt xung quanh. Trận này đã được Bộ Tổng Tư lệnh tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì, tiểu đoàn anh được mang danh hiệu trận đánh “Tiểu đoàn Tiên Yên”; sau này Bộ Tổng Tham mưu tổng kết trận đánh in vào sách “Những trận đánh hay thời chống Pháp” phổ biến toàn quân học tập. Thành tích đơn vị đã được tôn vinh, trận đánh đã dược lưu danh sử sách, thật xứng đáng, có công anh.

  - Nhớ lại những ngày đầu đánh Mỹ, chiến dịch Bắc Quảng Trị, Tết Mậu Thân 1968, vào đợt II anh nhận nhiệm vụ Sư đoàn trưởng thay anh Sùng Lãm được trên điều vào tăng cường Mặt trận Trị Thiên. Nhiệm vụ Sư đoàn đợt này chủ yếu dánh thu hút kìm giữ địch, chủ yếu là quân Mỹ, càng nhiều càng tốt, để phối hợp chiến trường mà trực tiếp là với quân dân Trị Thiên đang giữ Huế và mặt trận phía Tây đánh vây hãm Tà Cơn, Thường vụ Đảng ủy Sư đoàn bàn thảo nhiều về chọn hướng hoạt động: Khu Tây rừng núi hay khu Đông đồng bằng ven biển. Cuối cùng Thường vụ quyết định chọn khu Đông. Đây là một quyết định đúng đắn dũng cảm vì đánh địch ở đây sẽ thu hút kìm giữ nhiều địch, nhiều cơ hội diệt địch nhất là Mỹ, nhưng thọc vào đây trận chiến sẽ rất quyết liệt, nhiều khó khăn phức tạp, tổn thất cao... vì đây là khu vực phòng ngự then chốt chủ yếu trên tuyến đầu được địch tổ chức xây dựng vững chắc nhất, bố trí lực lượng đông mạnh nhất và cũng nhạy cảm nhất ở miền Nam... nhưng vì miền Nam ruột thịt, Thường vụ Đảng ủy trong đó có anh là nòng cốt dã dám chấp nhận gian khổ hy sinh để hoàn thành tốt nhiệm vụ, kết quả với sự lãnh đạo chặt chẽ, chỉ đạo sát sao, bảo đảm các mặt kịp thời cùng với sự nỗ lực của toàn đơn vị, Sư đoàn đã đứng vững hơn 4 tháng trong vòng vây của địch, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thu hút kìm giữ nhiều địch, diệt nhiều đại đội, tiểu đoàn, đánh thiệt hại một số chiến đoàn, lữ đoàn Mỹ, ngụy... đã được Mặt trận, các đơn vị bạn khen, Sư đoàn đã trưởng thành nhanh, vững chắc trong gian khổ quyết liệt. Gian khổ hy sinh lớn lao ấy đã trở thành dấu ấn sâu sắc trong đồng bào Bắc Quảng Trị. Nhớ hồi tháng 4 năm 2005, Đoàn Cựu chiên binh Sư đoàn 320 do đồng chí Sùng Lãm dẫn đầu vào Quảng Trị thăm chiến trường xưa. Đoàn đã thăm Tỉnh ủy và một số huyện ở xa như Cam Lộ - Hướng Hóa, còn huyện gần do Đoàn tự đi có cán bộ Tỉnh đội hướng dẫn. Ở đâu đoàn cũng được đón tiếp trân trọng ấm cúng thân tình. Tối trước ngày về, đồng chí nữ Bí thư Huyện ủy Gio Linh đến gặp trực tiếp mời đoàn về thăm Gio Linh. Chúng tôi xin lỗi vì ngày mai đã ra về. Chị nói: “Đồng bào Gio Linh chúng tôi biết ơn Sư đoàn 320 nhiều lắm, các anh đi qua không ở lại là có lỗi, đồng bào sẽ trách chúng tôi, nếu các anh cứ đi tôi sẽ cho quân ra giữ xe các anh lại”. Lời trách cứ ấy vừa nặng nghĩa nặng tình, vừa cởi mở thân thương, chúng tôi làm sao đi được, đoàn ở lại một ngày, sáng thăm Gio Linh, chiều thăm Vĩnh Linh. Qua câu chuyện được biết đồng chí Bí thư Huyện ủy đã từng là nữ du kích, phục vụ nhiều đơn vị Sư đoàn ở Lâm Xuân - Nhĩ Hạ - Phổ Con - Ngã Tư Sòng, chị kể nhưng rồi chị nghẹn ngào nói: “Quyết liệt lắm... các anh kiên cường lắm... đồng bào chúng tôi biết ơn các anh nhiều lắm...”.

   - Cuối chiến dịch Tây Nguyên tháng 3 năm 1975, Sư đoàn đã cùng địa phương tiêu diệt tập đoàn dịch rút bỏ Tây Nguyên. Ai cũng mừng, có người liên hệ trận Dốc Giang - Sòng Cạn trong chiến dịch Tây Nam Ninh Bình tháng 10 năm 1953 nói: Anh có duyên đánh dịch rút lui, nhưng đâu có ai thông cảm nỗi lo lắng bức xúc trong anh mà mọi người chưa từng thấy ở anh khi nhận nhiệm vụ. Sau này anh nói, mình mừng có cơ hội diệt nhiều địch, nhưng rất lo trong tay chỉ nắm được 2 tiểu đoàn làm sao vây chặn hơn vạn quân địch đang rút lui có tổ chức, đại bộ phận sư đoàn đang hoạt động ở xa, nhanh nhất cũng bị mất 1-2 ngày mới về kịp, liệu có thể diệt gọn như mong muốn được không. Nỗi lo ấy khiến trên có phần gay gắt với anh khi giao nhiệm vụ: “Để địch chạy thoát là có tội với Tổ quốc, với nhân dân, với các chiến sĩ đã đổ máu hy sinh trên chiến trường mấy chục năm...”. Thực tế tất cả cũng đều vì trách nhiệm trước thời cơ lớn. Tuy vậy anh đã bình tĩnh, có quyết tâm đúng, có biện pháp tích cực vừa vây chặn dịch, vừa động viên bộ đội chạy bộ, vừa nỗ lực huy động mọi xe cơ giới lớn nhỏ của các bộ phận đón anh em về nên đã kịp thời vây diệt đại bộ phận địch ở Cheo Reo rồi nhanh chóng cơ động bộ đội phối hợp với bộ đội Phú Yên tiêu diệt khối đi đầu lọt lưới của địch đã bị chặn lại ở Quỹ Sơn, hoàn tất việc tiêu diệt tập đoàn rút bỏ Tây Nguyên của địch (được biết sau này anh Văn Tiến Dũng đã gặp anh Kim Tuấn trao đổi trên dưới thông cảm nhau).

   Tiếp đó một vấn đề lớn lại được đặt ra, xe pháo đi đường nào về giải phóng Phú Yên? Nếu theo đường vòng địch vẫn dùng thì phải đánh từ ngoài vào, dịch dễ co cụm về thị xã, trận chiến sẽ kéo dài. Sau trao đổi với công binh, anh đã có quyết định táo bạo giải phóng đoạn đường chết 7A từ Củng Sơn có thể đánh thẳng ngay vào thị xã sẽ tạo bất ngờ đánh nhanh diệt gọn. Đoạn đường này do ta phục kích đánh mìn nhiều, địch sợ bỏ không dùng nên có tên là đoạn đường chết. Anh bàn với công binh mở vệt bảo đảm an toàn cho các loại xe phương tiện lớn nhỏ, sau này củng cố tiếp. Anh trực tiếp đứng ra tổ chức và đôn đốc anh em làm. Sợ anh bị nguy hiểm, tôi đề nghị anh để chúng tôi làm, nhưng anh từ chối giao cho tôi nhiệm vụ tổ chức đưa các đơn vị vào vị trí tập kết, xe pháo sẵn sàng cơ động khi có lệnh. Kết quả đường chết được giải phóng trước thời hạn quy định, xe pháo vào chiếm lĩnh trận địa an toàn, chỉ trong 1 ngày ta làm chủ Phú Yên, 1, 2 ngày sau là truy quét cùng địa phương bảo dảm an ninh trong tỉnh. Tên chuẩn tướng Trần Văn Cẩm - phó tư lệnh quân khu 2 thoát chết ở Tây Nguyên về Phú Yên bị ta bắt làm tù binh, rất ngạc nhiên và khâm phục thấy ta đưa được xe pháo qua đoạn đường chết mà chúng không dám dùng.

  Ngoài cảm phục phong cách lãnh đạo chỉ huy của anh, tôi còn cảm mến tính ham hiểu biết của anh. Anh có thể trao đổi với bất cứ ai không câu nệ cấp bậc, chức vụ miễn là anh có thể thu nhận thêm những kiến thức, kinh nghiệm mà anh cần. Chính nhờ đó anh có những cải tiến thiết thực phục vụ chiến đấu, bảo quản khí tài: khi trên chiến trường ta sử dụng loại pháo lớn mới, anh đã sớm biết vận dụng đưa pháo lớn vào bắn trực tiếp trong đánh công sự vững chắc, vừa tiết kiệm đạn vừa tạo hiệu quả lớn; anh đã phát động bộ đội dỡ dây thép gai về làm đường dây trần (thông tin), thu hồi dây bọc về bảo quản dùng trong chiến đấu. Tôi nhớ hồi đầu năm 1965, một số anh em chúng tôi ở Cục Quân huấn được Bộ Tổng Tham mưu cử về dự hội thảo ở một sư đoàn bộ binh, với nội dung về tổ chức phòng ngự bờ biển ở Tiền Hải. Đến nơi mới biết anh là Tư lệnh Sư đoàn. Người cũ gặp nhau mừng vui, tôi và anh trò chuyện thăm hỏi nhau, khi biết tôi học ở Học viện Quân sự Trung Quốc về, anh tranh thủ tìm hiểu kinh nghiệm của bạn và những ý kiến vận dụng của tôi. Con người anh là thế.

   Chính nhờ tính ham tìm hiểu ấy, tôi thấy anh có tầm nhìn xa. Năm 1972, sau chiến dịch Bắc Tây Nguyên, Sư đoàn 320 chuyển về Gia Lai vừa củng cố lực lượng (lúc này sư đoàn chỉ còn 2 trung đoàn) vừa cùng địa phương đánh địch mở dân trên hướng đường 19 kéo dài, đường 14-20-21 (các huyện 4-5-6 tây nam Plei Ku). Thấy sư đoàn tập trung hoạt động trên đường 19 có ý kiến nêu: Nên đưa lực lượng hoạt động đều trên các hướng vừa phân tán đối phó của địch vừa hỗ trợ địa phương mở dân. Anh giải thích, lực lượng ta có hạn bổ sung cũng hạn chế, vì vậy trưóc mắt cần tập trung hoạt động dọc trục đường 19 nhằm diệt làm suy yếu nhanh lực lượng cơ động của địch, nhanh chóng mở rộng vùng giải phóng nam - bắc đường 19 nối liền vùng giải phóng Kon Tum - Gia Lai - Đắc Lắc - miền Đông Nam Bộ thành một dải, tạo thuận lợi cho vận chuyển chiến lược, đồng thời tạo thế uy hiếp Plci Ku khiến địch không ổn định, đưa quân đi đánh vừa phải lo quân giữ nhà. Thời cơ cho phép ta diệt cứ điểm lớn hoàn chỉnh khu giải phóng, sức phản ứng của địch hạn chế, ta đủ khả năng đối phó, nếu chúng thêm quân nơi khác về, lúc đó ta sẽ cơ động đánh địch ở đường 20 - 21 làm địch phải phân tán đối phó, ta càng có điều kiện giữ ổn định tình thế. Anh rất coi trọng mở đường quân sự làm gấp trong khu giải phóng, có kế hoạch nối thông với đường lâm nghiệp ra các dường 19, 14; trước mắt đỡ công vận chuyển, sau này cũng phải đánh lớn ở đây. Thực tiễn đúng như anh đã nghĩ, các hoạt động của Sư đoàn 320 các năm 1972-1974 đã là một bước chuẩn bị chiến trường tích cực cho đánh lớn vào năm 1975.

   Anh - con người điềm đạm, bình dị, chân tình, không quan cách được anh em cảm mến quý trọng. Suốt thời gian đánh Mỹ, anh dã cùng Sư đoàn gánh vác trách nhiệm nặng nề, chúng tôi thấu hiểu những nghĩa tình sâu nặng, công lao to lớn anh đã để lại cho Sư doàn. Riêng cá nhân tôi rất biết ơn những gì tốt đẹp anh đã dành cho tôi. Viết lại những dòng này như cảm thấy được sống lại những ngày hào hùng kháng chiến cùng anh, càng thấy thêm nhớ thương anh. Thấm thoát tôi đã ngoài tuổi 80, xa cách anh cũng hơn 30 năm rồi còn gì, nhưng hứa vói anh còn sống ngày nào còn vững một niềm tin như những ngày đã sống cùng anh, để không tủi thẹn khi gặp lại nhau sau này.

Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2011


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 20 Tháng Chín, 2013, 03:56:24 pm
THIẾU TƯỚNG KIM TUẤN - NGƯỜI CHỈ HUY MẪU MỰC


Thiếu tướng NGUYỄN VĂN ĐÁC


   Tôi là Nguyễn Văn Đác, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh về Chính trị Quân khu Thủ đô đã nghỉ hưu, tôi rất tâm đắc với đề xuất của các đồng chí, cần phải tìm hiểu, nghiên cứu viết nên sử sách về tấm gương đạo đức và tài thao lược quân sự của đồng chí Thiếu tướng Kim Tuấn, người chỉ huy mẫu mực trong chiến đấu, mà các cấp cán bộ của Sư đoàn 320 hồi đó ai cũng kính phục.

   Với bản thân tôi, thời đó là cán bộ cấp tiểu đoàn đến cấp trung đoàn nên có một thời gian dài dược trực tiếp cùng đồng chí Kim Tuấn công tác và trong chiến đấu; đồng chí Kim Tuấn là người cán bộ nghiêm túc, giản dị, sâu sát.

   Tôi xin kể lại hai mẩu chuyện nhỏ, nhưng với tôi trong đời là bài học lớn mỗi khi nghĩ về đồng chí Kim Tuấn:

   1. Sau khi Sư đoàn 320 chúng tôi tham gia chiến dịch Mậu Thân 1968 ở đường 9 Bắc Quảng Trị lập được nhiều chiến công, nhưng cũng rút được nhiều bài học kinh nghiệm về xây dựng ý chí chiến đấu, về chiến thuật chiến đấu của các cấp từ trung, đại đội dến sư đoàn.

   Năm 1969, toàn sư đoàn ra Thanh Hóa để củng cố mọi mặt sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới. Trong công tác củng cố tổ chức xây dựng lực lượng, Sư đoàn 320 được thành lập tiểu đoàn đặc công nằm trong đội hình chiến đấu của sư đoàn. Chúng tôi được quán triệt: Sau bị thất bại trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, địch sẽ chốt giữ các điểm cao để khống chế mọi hoạt động của ta và tránh bị tiêu diệt. Để đối phó với địch, đập tan âm mưu chốt giữ điểm cao của địch, cán bộ chúng tôi được đi tập huấn ở Bộ Quốc phòng về cách đánh mới, với phương châm tư tưởng chỉ đạo tác chiến là: “Vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt”. Để thực hiện phương châm tư tưởng tác chiến mới, các sư đoàn chủ lực thành lập tiểu đoàn đặc công để thực hiện luồn sâu, lót sẵn cùng lực lượng vây lấn tiêu diệt căn cứ dịch trên điểm cao.

   Tôi không còn nhớ cụ thể ngày tháng, chỉ biết là năm 1969 lúc đó sư đoàn còn đang đóng quân ở Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Tôi đang là Chính trị viên Tiểu đoàn 15 công binh của sư đoàn và đồng chí Trần Biền, Ban Quân báo của sư đoàn được đồng chí Kim Tuấn gọi lên giao nhiệm vụ chuẩn bị mọi mặt để thành lập Tiểu đoàn 19 đặc công của sư đoàn, trong vòng 3 tháng; sau đó đưa cán bộ ra Sơn Tây, Hà Nội để tập huấn kỹ, chiến thuật của bộ đội đặc công. Trong quá trình giao nhiệm vụ cho chúng tôi, đồng chí Kim Tuấn nói: “Tôi rất hiểu các đồng chí; đồng chí Đác thì ở công binh, đồng chí Biền thì ở cơ quan, nay về xây dựng đơn vị đặc công làm nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, Thường vụ và Bộ Tư lệnh Sư đoàn tin tưởng ở các đồng chí”. Sau đó đồng chí Kim Tuấn giao nhiệm vụ cho các cơ quan sư đoàn: Hậu cần, Tham mưu, Chính trị khẩn trương bảo đảm mọi mặt nhanh nhất cho Tiểu đoàn 19 đặc công. Sau khi các cơ quan sư đoàn phát biểu, đồng chí Kim Tuấn chỉ thị cụ thể hơn cho chúng tôi thứ tự các việc phải làm; sau khi đến Thanh Hóa, Tiểu đoàn 19 đặc công sẽ đóng quân ở xã Định Hải, huyện Nông Cống. Việc đầu tiên là xác định vị trí đóng quân của tiểu đoàn, nhất là vị trí của tiểu đoàn bộ. Nói đến đây đồng chí Kim Tuấn nhắc luôn ba cơ quan sư đoàn, ngày mai Phòng Chính trị điều ngay cho Tiểu đoàn 19 một cán bộ tham mưu tác chiến, một trợ lý hậu cần và xoong nồi bảo đảm cho tiểu đoàn bộ. Tiểu đoàn bộ có ổn dịnh thì mới có nơi mà tiếp nhận cán bộ và cơ sở vật chất từ các nơi về. Quán triệt chỉ thị của đồng chí Tư lệnh Sư đoàn, hơn một tháng sau, cơ quan sư đoàn và chúng tôi đã hình thành được bộ khung của Tiểu đoàn 19 gồm: Bốn đại đội (hay đặc công gọi là A đội), mỗi đội có 4 mũi (gọi là 4 trung dội), dưới mỗi mũi là tổ chiến đấu hay gọi là tiểu dội. Riêng Tiểu đoàn bộ đã đầy đủ các bộ phận, Ban chỉ huy gồm đồng chí Trần Biền, Tiểu đoàn trưởng; đồng chí Bính, Tiểu đoàn phó; đồng chí Đác, Chính trị viên; đồng chí Hảo, Chính trị viên phó; các trợ lý: tham mưu, chính trị, hậu cần đầy đủ và ai về đến đâu là giao nhiệm vụ, vào thực hiện đến đó. Sau khi tổ chức cán bộ đã cơ bản ổn dịnh, thực hiện chỉ thị của Tư lệnh Sư đoàn, chúng tôi chia nhau làm hai nhiệm vụ: Cán bộ quân sự ra Hà Nội, Sơn Tây tập huấn kỹ, chiến thuật của Binh chủng Đặc công, cán bộ ở đơn vị tiếp tục củng cố biên chế, nhận quân, nhận trang bị vũ khí, cơ sở vật chất. Sau ba tháng kể từ khi được đồng chí Tư lệnh Sư đoàn giao nhiệm vụ, tiểu đoàn đặc công của sư đoàn đã hoàn chỉnh và đi vào xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến dấu. Chúng tôi được sư đoàn chỉ dạo xây dựng thao trường trên đồi Ao Mè thuộc xã Công Bình, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa có địa hình tương đối sát với chiến trường để luyện tập. Những ngày hè oi ả và có đêm khuya mưa gió, giá lạnh, đồng chí Tư lệnh Kim Tuấn luôn gần gũi cán bộ, chiến sĩ để chỉ bảo, uốn nắn những thiếu sót khuyết điểm, ngay cả khi cán bộ ra Hà Nội, Sơn Tây tập huấn, đồng chí Kim Tuấn ra Bộ Quốc phòng công tác, cũng dành thời gian dến thăm anh em và căn dặn: “Đây là một cách đánh mới, yêu cầu phải tinh binh, tinh cán mới làm được, các đồng chí phải học tốt về mới ròn dược anh cm ở đơn vị, thời gian tập huấn không nhiều, các đồng chí phải tranh thủ học tập”.

  Trong suốt thời gian xây dựng cho dến khi đơn vị chúng tôi lên dường đi chiến đấu, đồng chí Kim Tuấn nhiều lần xuống kiểm tra đơn vị. Có lần đồng chí yêu cầu tôi báo cáo chất lượng cán bộ với nhiều nội dung, nhưng tôi nhớ nhất câu đồng chí hỏi: “Số cán bộ này có đồng chí nào không dám xung phong khi có lệnh?”. Thường vụ chúng tôi trả lời: “Thưa đồng chí Tư lệnh, chúng tôi đảm bảo 100% xung phong và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”. Đồng chí tươi cười bắt tay chúng tôi.

  Đến cuối năm 1970, đầu năm 1971, Tiểu đoàn 19 chúng tôi được vào chiến dấu ở đường 9, cụ thể là chúng tôi được tăng cường cho B5 dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh B5 do đồng chí Anh Độ làm Tư lệnh. Tiểu đoàn 19 đặc công được Phòng Đặc công của B5 trực tiếp giao nhiệm vụ. Tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, nhằm đánh bại quân Mỹ, ngụy đánh ra khu vực này để phá kho tàng, đường vận chuyển của ta từ Bắc vào Nam. Quân ngụy sẽ đi trước, còn phía sau trên đất Lao Bảo, Khe Sanh, đến Cam Lộ, Đông Hà dọc theo đường số 9 là quân Mỹ, nên chúng tôi có nhiệm vụ cùng với một số đơn vị khác đánh vào lực lượng Mỹ ở phía sau.

   Trận đánh đầu tiên của tiểu đoàn chúng tôi là một cụm xe tăng của Mỹ đóng ở Đồi Tròn (theo địa danh trong bản đồ). Theo yêu cầu phối hợp chiến dịch, công tác chuẩn bị rất khẩn trương, sau ba ngày đêm trinh sát nắm địch và phải nổ súng đúng thời gian quy định, chúng tôi đã tiêu diệt được 5 xe tăng, nhưng tổn thất của ta cũng lớn. Vì quá trình tiềm nhập tới hàng rào thứ ba, anh em dẫm phải mìn, pháo sáng tứ phía vụt lên, anh em phải chuyển sang cường tập, nhiều đồng chí phải nằm vắt người lên hàng rào để cho đồng chí khác vượt lên vào đánh trong trung tâm của căn cứ.

   Trận thứ hai trong chiến dịch này là Tiểu đoàn 19 đặc công được Bộ Tư lệnh B5 tăng cường cho Trung đoàn bộ binh 27 để vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt một lực lượng quân Mỹ đóng ở điểm cao 544 bắc Cam Lộ, Mỹ gọi điểm cao này là “Phu lơ”. Tiểu đoàn 19 chúng tôi được giao nhiệm vụ luồn sâu, đánh từ trong căn cứ đánh ra. Nhưng trong quá trình vây lấn, tấn, phá, địch ở đây không chịu nổi đã rút chạy bằng trực thăng và cũng là lúc kết thúc chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Tiểu đoàn 19 lại trở về với đội hình của sư đoàn để củng cố về mọi mặt. Thực hiện khẩu hiệu: “Đi lâu, đi sâu, đi đến thắng lợi hoàn toàn” của Đại hội Đảng bộ Sư đoàn, cuối năm 1971, Sư đoàn 320 do đồng chí Kim Tuấn làm Tư lệnh, đồng chí Phí Triệu Hàm làm Chính ủy được lệnh cơ động vào Tây Nguyên làm nhiệm vụ mới.

   Ở thời điểm ấy, khẩu hiệu: “Đi lâu, đi sâu, đi đến thắng lợi hoàn toàn” là khẩu hiệu hành động và thể hiện quyết tâm của toàn thể cán bộ, chiến sĩ sư đoàn. Chắc chắn đồng chí Kim Tuấn và đồng chí Phí Triệu Hàm đã nhận được nhiệm vụ của Bộ, đưa sư đoàn vào Tây Nguyên. Sư đoàn 320 chúng tôi từ năm 1967 đến năm 1971 làm nhiệm vụ chiến đấu ở Đường 9 - Bắc Quảng Trị, thường đánh giặc theo mùa. Mùa khô thì từ Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh vượt qua sông Bến Hải vào đánh địch ở bắc - nam đường 9; mùa mưa lại rút ra củng cố, cứ như vậy và anh em nói với nhau là “Ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam”. Mặt khác cán bộ các cấp sau mỗi dịp đi công tác, được ít ngày ghé về thăm quê hương. Hậu phương và tiền tuyến không xa lắm, tin tức cập nhật thường xuyên. Nên khẩu hiệu: “Đi lâu, đi sâu, đi đến thắng lợi hoàn toàn” là sáng suốt, là đúng, là trúng và thực sự đã như vậy. Ở Tây Nguyên, chúng tôi tham gia nhiều chiến dịch, năm 1972-1973 và cuối cùng là chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh với trận đánh ngày 29 tháng 4 năm 1975 tiêu diệt căn cứ Đồng Dù và có Trung đoàn 64 được lệnh tiến về Dinh Độc Lập, nơi tổng hành dinh của địch, cùng hội tụ trong ngày 30 tháng 4 và 1 tháng 5 năm 1975.

  2. Năm 1977, đồng chí Kim Tuấn lúc đó là Tư lệnh Quân đoàn 3. Tôi là Chính ủy Trung đoàn 64, Sư đoàn 320. Trung đoàn 64 được tăng cường cho Sư đoàn 10 từ tháng 10 năm 1977 đánh địch lấn chiếm ở Sa Mát - Tân Biên. Đến tháng 12 năm 1977 thì về đội hình chiến đấu của Sư đoàn 320 làm nhiệm vụ tiến công địch trên hướng biên giới Tây Nam. Chúng tôi đánh từ biên giới cùng xe tăng cắt rừng thọc sâu chia cắt đường số 7 giữa Tâng và Kờ-rếch. Sau khi nhiệm vụ hoàn thành, Trung đoàn 64 chốt ở ngã tư Tâng theo dội hình chân kiềng (2 trên, 1 dưới). Trong lúc chúng tôi đang kiểm tra điều chỉnh lực lượng thì chỉ huy Tiểu đoàn 8 ở phía trước báo về: Đồng chí Kim Tuấn, Tư lệnh Quân đoàn đến. Tôi và đồng chí Trung đoàn trưởng đến Tiểu đoàn 8 thì đồng chí Tư lệnh Kim Tuấn đã ở đài quan sát của Tiểu đoàn 8 ở trên một ngôi nhà 2 tầng, đồng chí hỏi đồng chí Trung đoàn trưởng Vũ Côi: Các đồng chí chí cho tôi xem địch đối diện bên kia là những mục tiêu nào, vị trí chỉ huy và hỏa lực, xe tăng của nó. Đồng chí Trung đoàn trưởng báo cáo, sau đó đồng chí Tư lệnh nhắc nhở, các đồng chí nắm địch chưa chắc, phải nắm lại và phải có một đồng chí chỉ huy trực tiếp ở phía trước chỉ đạo nắm địch và xử lý các tình huống.

   Qua hai kỷ niệm trong tôi về đồng chí Tư lệnh Kim Tuấn là một cán bộ không những chỉ có đức dộ, nghiêm túc mà còn có tác phong sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể trong xây dựng huấn luyện và trong chiến đấu dù ở cấp sư đoàn hay khi là Tư lệnh Quân đoàn. Đạo đức, tác phong ấy giáo dục, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ của Sư đoàn 320 nói riêng và Quân đoàn 3 nói chung là cơ sở phát triển và trưởng thành.


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 20 Tháng Chín, 2013, 03:58:15 pm
THIẾU TƯỚNG KIM TUẤN
TRỌN ĐỜI HY SINH CHO CÁCH MẠNG, CHO TỔ QUỐC


NGÔ KIM TUYẾT


   Tôi biết anh Kim Tuấn từ năm 1952 (tên khai sinh là Nguyễn Công Tiến, anh sinh năm 1927 tại xã Phúc Lâm, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, nhập ngũ năm 1946), sau khi thành lập Đại đoàn 320 được 1 năm. Sau chiến dịch Thu Đông 1952, đơn vị tôi được cấp trên giao nhiệm vụ đánh vào lực lượng đồn trú của Pháp ở Phát Diệm - Ninh Bình, tôi bị thương. Sau khi điều trị khỏi, tôi chuyển đơn vị từ Tiểu đoàn 1 sang Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 18 Đại đoàn 320), lúc đó anh Kim Tuấn là Tiểu đoàn trưởng.

   Trong chiến dịch Tây Nam Ninh Bình tôi được công tác gần anh hơn. Tiểu đội của tôi được tiểu đoàn sử dụng đi vũ trang trinh sát bảo vệ cho đoàn cán bộ của tiểu đoàn đi kiểm tra khảo sát thực địa. Tôi phụ trách tiểu đội đi cùng với đồng chí Kim Tuấn - Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Di - Đại đội trưởng Đại đội 761, đồng chí Bùi Huy Bông - Chính trị viên Đại đội 761 và một số đồng chí khác.

   Dãy đồi dài, nằm trong tuyến phòng thủ của địch, con đường 59 đi từ quốc lộ 1 đến ngã ba Rịa rồi đi Nho Quan là nơi địch bố trí Sở chỉ huy ở dây và cũng tại đây chúng bố trí hỏa lực dày đặc. Địch khả nghi đã nổ súng về phía chúng tôi, một viên đạn đã trúng báng súng khẩu súng côn của anh Di, không có ai bị thương vong. Đêm kiểm tra khảo sát thực địa hôm đó đã giúp cho đoàn nói chung và tiểu đoàn trưởng nói riêng nắm chắc hơn tổ chức, bố trí, sử dụng lực lượng và hoạt động tác chiến của địch để đề ra kế hoạch tác chiến đúng đắn. Qua các trận đánh ở Trại Ngọc, Phủ Đồi, ngã ba Rịa, Kim Tân, Phố Cát, trận truy kích địch rút chạy ra quốc lộ 1..., anh Kim Tuấn đã chỉ huy đơn vị tiêu diệt được nhiều địch, chiến thắng giờn giã, ta hoàn toàn làm chủ thế trận. Trong mắt tôi, anh là người chỉ huy quân sự tài giỏi, có bản lĩnh chiến đấu vững vàng, trận đánh lên Phủ Đồi phía tây nam tỉnh Ninh Bình là một minh chứng: sau khi địch tổ chức tấn công vào lực lượng của ta ban ngày nhưng chúng cũng không tiến được bao nhiêu, tôi đến chúng lại co cụm về trên ngọn đồi (ta gọi là Phủ Đồi) cao khoảng 100m, núi đá vôi, cây cối rậm rạp. Tối đó, anh tổ chức lực lượng tấn công dịch; sau khi sử dụng các loại pháo bắn cấp tập vào đội hình dịch làm tê liệt sinh lực và hỏa lực của chúng, anh lệnh cho các mũi sử dụng lực lượng bộ binh tiến công. Khi pháo binh ngừng bắn cũng là lúc bộ binh đã hoàn toàn làm chủ trận địa, trận này địch bị thiệt hại nặng nề, chỉ trong vòng một giờ đồng hồ ta đã chiếm được diểm cao Phủ Đồi, tiêu diệt nhiều tên địch. Sau trận đánh, anh sử dụng một lực lượng đủ mạnh ở lại để củng cố trận địa và sẵn sàng chiến đấu khi có lệnh, lực lượng còn lại anh cho lui về phía sau tổ chức liên hoan mừng chiến thắng, động viên tinh thần bộ đội, dưới ánh lửa bập bùng, trong khu rừng Cúc Phương (Vân Du) lại vang lên tiếng hát của các chiến sĩ Tiểu đoàn 884 Trung đoàn 48 với điệu xòe Thái quen thuộc được múa đi múa lại (inh noọng ơi, sao noọng òi...). Anh hòa vui cùng các chiến sĩ, anh bế bổng từng chiến sĩ văn nghệ, không phân biệt cấp trên, cấp dưới, làm cho đêm liên hoan đã vui càng vui và đầm ấm hơn, quên đi nỗi gian khổ hy sinh trong chiến đấu.

   Chiến dịch Tây Nam Ninh Bình kết thúc, đơn vị lại được lệnh mở chiến dịch giải phóng phòng tuyến sông Đáy. Trong đêm đông giá rét, hàng trăm chiếc thuyền nan được giao nhiệm vụ đưa đón các chiến sĩ qua sông. Mở màn chiến dịch là trận đánh bốt Hoàng Đan, rồi đến các bốt Kim Thanh, Kinh Khê, Phố Cà, Chùa Ông, Đục Khê, Yến Vĩ..., trong các trận đánh ta đều chiến thắng giòn giã, giải phóng và mở rộng vùng du kích; đồng bào phấn khởi đón bộ đội về ăn Tết cùng với gia đình.

  Đầu năm 1954, đơn vị được lệnh tiến sâu vào các vùng Chợ Cháy, Vân Đình, Hà Đông. Đêm 27 tháng 2 năm 1954, đơn vị được lệnh lao qua Quán Vòng tiến vào thôn An Thái, xã Trầm Lộng, huyện Ứng Hòa - Hà Đông, địch nắm được kế hoạch quân ta di chuyển, chúng cho 2 tiểu đoàn Âu - Phi cùng xe, pháo, có máy bay yểm trợ bao vây lực lượng của ta nhằm tiêu diệt quân ta. Với 2 trung đội (Trung đội 2 và Trung đội 3) của Đại đội 761 Tiểu đoàn 884 và một trung đội pháo tăng cường của tiểu đoàn dã chiến đấu kiên cường suốt từ 5 giờ sáng dến 17 giờ chiều cùng ngày, ta tiêu diệt khoảng 300 tên dịch, chúng phải cho trực thăng đến để chở thương binh về Hà Nội. Trong trận này tôi đã bị thương gãy chân, khẩu K50 bị hỏng nặng, tôi bị địch bắt, chúng đưa tôi về nhà thương Đồn Thủy, sau đó đưa về nhà tù Hỏa Lò - Hà Nội và giam ở đây. Đến ngày 16 tháng 6 năm 1954, chúng trao trả tôi về với quân đội ta tại Quán Giỏ - Bắc Giang. Sau khi được trao trả, tôi được điều động về Trung đoàn 52 của Đại đoàn 320. Đến tháng 9 năm 1955, tôi được phục viên.

  Năm 1955, thành phố Hải Phòng được giải phóng, Trung đoàn 48 Đại đoàn 320 về tiếp quản Hải Phòng. Tôi ra sân bay Cát Bi, nơi sở chỉ huy của Trung đoàn 48 Đại đoàn 320 đóng quân để lấy giấy báo thương tật, gặp một số anh cm đồng đội, nhưng không gặp anh Kim Tuấn do anh bận đi công tác xa.

   Trở về với cuộc sống đời thường, tôi tiếp tục công tác ở địa phương; tuy không liên lạc qua lại, nhưng tôi vẫn dõi theo sự công hiến và trưởng thành của anh trong cuộc đời binh nghiệp (anh đã trưởng thành từ người chỉ huy trung đội đến Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn 3). Từ năm 1977 đến năm 1979 trên cương vị Tư lệnh Quân đoàn, anh chỉ huy Quân đoàn 3 bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế tại Cam-pu-chia. Năm 1979, một tin đau xót đã đến với tôi, anh Kim Tuấn đã hy sinh trên đất bạn Cam-pu-chia; tôi bùi ngùi thương tiếc anh, một cán bộ quân đội, một sĩ quan cao cấp đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc liên tục hơn 30 năm (1946-1979), tham gia đánh Pháp, Mỹ và quân Pôn Pôt. Với thành tích dó, anh đã được Đảng và Nhà nưóc tặng: Huân chương Quân công: (hạng Nhất, hạng Nhì), Huân chương Chiến công (hạng Nhì, hạng Ba) và truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, năm 1979. Thiếu tướng, Anh hùng, Liệt sĩ Kim Tuấn là tấm gương sáng cho các thế hệ mai sau và là thần tượng của tôi trong cuộc kháng chiến gian khổ chống thực dân Pháp.

   Nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày sinh của anh, tôi có bài viết này là nén hương thơm tưởng nhớ tới anh, người chiến sĩ cách mạng kiên trung, đầy bản lĩnh và luôn dành tình thương yêu cho cán bộ và chiến sĩ. Cả Tiểu đoàn 884 luôn nhớ đến anh.

Hải Phòng, tháng 9 năm 2011


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 20 Tháng Chín, 2013, 04:00:05 pm
NHỚ MÃI ANH KIM TUẤN


TÚ HÀO


   Khi đến với Mặt trận Tây tiến, lớp cán bộ đại đội chúng tôi ngày ấy đa số còn ở tuổi dưới đôi mươi.

   Có người ở các đại đội độc lập rải rác khắp biên cương miền Tây, có người lại ở đơn vị tiểu đoàn, lâu lâu mới có dịp gặp nhau ngắn tại một cuộc họp do trung đoàn triệu tập.

   Ngoài mấy bậc văn nghệ sĩ mà tên tuổi sẽ còn được nhắc đến dài lâu, như nhà thơ Quang Dũng với bài thơ Tây tiến bất hủ, như Doãn Quang Khải với khúc quân ca hùng tráng Vì nhân dân quên mình, hay như các họa sĩ Văn Đa, Quang Thọ, chiến sĩ Tây tiến thường vẫn nhắc đến Như Trang, Việt Hổ, Vạn Thắng...

   Phần tôi, tôi còn nghĩ tới một đồng đội nữa, một con người làm tôi nhớ mãi, dù ít khi được gần gũi trên trận địa hay trong sinh hoạt đời thường về sau này, đó là Kim Tuấn. Anh cùng lứa với chúng tôi.

   Trong mỗi con người, tôi cứ nghĩ đều có một đặc điểm, một nét duyên thầm, nếu được phát hiện hoặc đã bộc lộ ra thì khó có thể phai mờ qua thời gian và không gian. Xin lấy ví dụ về con người Kim Tuấn, từ nụ cười đến tính cách của anh.

   Gần 55 năm đã qua, hơn nửa thế kỷ, nụ cười rộng mở hết sức hồn nhiôn của anh vẫn hiển hiện trong trí nhớ của tôi. Mỗi lần có dịp nhắc đến anh, khi nói chuyện với chị Tú Khuê (vợ anh Kim Tuấn), tôi được biết đó cũng là ấn tượng không bao giờ nhạt nhòa đối với chị và đối với cả hai người con của chị.

  Cô con gái lớn, cháu Nguyễn Thị Thanh Hà đã bảo vệ xuất sắc luận án Tiến sĩ, hiện là Đại tá, Trưởng ban Công tác Phụ nữ Quân đội. Cháu thứ hai là Nguyễn Công Hiệu cũng là Đại tá quân đội công tác tại Cơ quan Bộ Quốc phòng. Chị Tú Khuê cho tôi biết: Các cháu Thanh Hà và Công Hiệu từ nhỏ lớn lên, đi học rồi ra làm việc trong lúc bố các cháu cứ biền biệt xa nhà, nhưng tính tình vẫn thừa hưởng được từ bố các cháu vốn rất thuần hậu.

  Theo suy ngẫm của tôi, nét thuần hậu dễ gần của Kim Tuấn đã để dành cho người thân, cho bạn bè, cho đồng đội. Trong con người của anh còn bộc lộ một tính cách khác rất nổi trội: Tính quyết đoán trong ứng xử, trong chỉ huy chiến đấu.

   Tôi nhớ mãi hồi chiến dịch Tây Nam Ninh Bình (1953), tôi đã trực tiếp chứng kiến cuộc hành quân tốc chiến của Tiểu đoàn Tiên Yên dưới quyền chỉ huy của Kim Tuấn, chỉ ít phút sau khi nhận được lệnh trực tiếp của anh Văn Tiến Dũng từ sở chỉ huy tiền phương Đại đoàn 320.

   Các đơn vị trong Tiểu đoàn Tiên Yên cấp tốc xốc lại hành trang, vừa chạy vừa chỉnh đốn hàng ngũ. Tiểu đoàn trưởng Kim Tuấn vượt ngay lên đầu hàng quân ra tận mặt đường cái Kim Tân đi Rịa để chỉ thị cụ thể, giao nhiệm vụ ngắn gọn cho cấp dưới với thái độ rất quyết đoán, lắp ghép được đơn vị nào đủ biên chế, trang bị xong là cho lệnh xuất phát ngay tức khắc...

   Tiếng súng lớn nhỏ nổ ran lên ở phía trước và sở chỉ huy tiền phương đã nhận được qua máy bộ đàm với giọng nói trầm tĩnh quen thuộc của Kim Tuấn: “Báo cáo, Tiểu đoàn Tiên Yên vừa hoàn thành xong nhiệm vụ”.

   ... 22 năm sau.

   Ngay sau khi nghe tin chiến thắng Buôn Ma Thuật mở dầu chiến dịch Tây Nguyên lịch sử, được biết Bộ chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm đánh tiêu diệt toàn bộ quân địch rút chạy và lực lượng sử dụng gồm Sư đoàn bộ binh 320 được tăng cường, chúng tôi đều hết sức vui mừng. Riêng tôi như có linh tính mách bảo, tôi vững tin là anh Dũng, Tư lệnh Đoàn A.75 (là cơ quan dại diện Quân ủy Trung ương và tiền phương Bộ Tổng Tư lệnh ở chiến trường miền Nam) đã giao cho Kim Tuấn nhiệm vụ “băng rừng, cắt dường giao thông và chặn đánh, buộc địch ùn lại ở cả hai phía đông - tây”. Y hệt như 22 năm trước, Kim Tuấn đã từng một lần nhận mệnh lệnh tương tự của anh Dũng...

   Tôi đã có dịp được hỏi anh Dũng về chuyện đó và anh xác nhận đúng vậy. Trong hồi ký của mình, anh Dũng có viết: “... Sư đoàn 320 sau khi nhận lệnh đã hành quân cấp tốc trong đêm 16 tháng 3. Sáng 17 tháng 3 năm 1975, một đơn vị đã nhanh chóng băng qua rừng, cắt đường số 7, chặn được quân địch ở phía đông Phú Bốn... 16 giờ ngày 17 tháng 3, đơn vị tiếp theo của Sư đoàn ra tới đường 7, chặn dánh quân dịch ở đông nam Cheo Reo 4km... Cuộc đuổi đánh quân địch đã kết thúc thắng lợi... Ta dã tiêu diệt gọn tập đoàn rút chạy của quân đoàn 2 ngụy...” (trích “Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” - Đại tướng Văn Tiến Dũng - Nxb Chính trị quốc gia, H. 1996).

  Vị tướng quân tư lệnh một quân đoàn chủ lực lừng danh, người liệt sĩ Anh hùng quân đội Kim Tuấn mãi mãi là đồng đội thân thiết của Tây tiến, “đoàn binh không mọc tóc” của chúng ta!


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 20 Tháng Chín, 2013, 04:01:36 pm
THỬ LỬA TRẬN ĐẦU


LÊ DUY


    Đầu  tháng 12 năm 1946, tình hình hết sức khẩn trương căng thẳng, quân Pháp đã đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn (tháng 11) và đang khiêu khích ở Hà Nội.

   Tại bến xe điện Hà Đông, có 3 anh bộ đội đúng hẹn gặp nhau. Đó là Nguyễn Công Tiến (tức Kim Tuấn), Lê Huy Luyện (tức Lê Duy) và Bùi Công Khánh (tức Quách Hùng), những học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khóa 1 vừa tốt nghiệp ra trường, trên đường về nhận công tác ở Trung đoàn 35 thuộc Khu 2. Cả ba đều được điều động về Tiểu đoàn 60 ở Hòa Bình, lúc này đang trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

   Đến đơn vị vào sáng hôm sau, biết là những học viên võ bị, Tiểu đoàn trưởng giao cho soạn thảo một chương trình huấn luyện lính mới, trình duyệt ngay vào cuối giờ làm việc buổi chiều. Với sự thu nhận kiến thức ở trường, cùng tài liệu mang theo trong đó có cả cuốn “Ghi nhớ của người cai” bằng tiếng Pháp, ba anh em nhanh chóng thống nhất và nộp “quyển” vào lúc 15 giờ. Tiểu đoàn trưởng rất khen và giao luôn cho cả ba người bắt tay thực hiện, khẩn trương huấn luyện các trung đội tân binh vừa tuyển. Bước đầu mới ra trường, được như vậy, thật đáng phấn khởi.

   Sau khi quân Pháp nống ra chiếm đóng tuyến sông Đáy, Quách Hùng ở lại Tiểu đoàn 1, Lê Duy được cử về làm Đại đội trưởng, Kim Tuấn làm Đại đội phó Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 60 đóng tại Pheo. Các nhiệm vụ đóng cọc trên sông Đà, ngăn ca-nô địch ngược Hòa Bình, phá hoại đường số 6... đều hoàn thành chu đáo.

   Tháng 10 năm 1947, quân Pháp tiến công Việt Bắc. Chúng nhảy dù chiếm Phương Lâm, thị xã Hòa Bình. Tiểu đoàn 60 nhận nhiệm vụ bám đánh địch ở Phương Lâm, án ngữ Dốc Cun, bảo vệ các cơ quan tỉnh sơ tán ở các thung lũng quanh vùng.

   Sau khi đi khảo sát, thấy trận địa phòng ngự khá dài mà đại đội không có phương tiện chỉ huy, nên Lê Duy và Kim Tuấn tổ chức lại thành từng tổ, chọn những anh em gan dạ, khỏe mạnh đưa ra phía trước và các vị trí xung yếu. Súng máy đặt bắn chéo cánh sẻ. Các quả đạn pháo 70 ly của Nhật nhặt được ở sông Đà được lắp kíp và chôn thẳng đứng, ngăn bước tiến xe cơ giới địch. Đại đội chỉ huy chung và đặt chòi quan sát, quy định hiệu lệnh báo động là bắn 3 phát súng trường.

   Bộ đội sau mấy tháng ở rừng, lác đác một số anh em mắc bệnh sốt rét. Có nhiều ca sốt rét ác tính, quân số giảm. Đại đội phó Kim Tuấn phải lo nuôi quân, tổ chức một trạm xá ở phía sau.

   Trong khi chờ dịch đến, đại đội tranh thủ củng cố công sự. Các tổ có ụ chiến đấu khá chu đáo, lại bố trí thêm nhiều ụ dự bị bám dọc trục đường theo kiểu liên hoàn. Sáng kiến buộc đạn pháo 70 ly vào đầu ống nứa để khi ném xuống cắm đầu mà nổ được thử nghiệm thành công. Tiểu đoàn đi kiểm tra rất vừa ý, lại tăng cường lựu đạn để có thêm dự trữ.

   Một đêm mùa đông năm 1947, tổ nuôi quân đi phát cơm nắm cho các tổ chiến đấu phát hiện có địch, liền nổ 3 phát súng. Đài quan sát bị sương mù dày dặc cho mắt, không thấy địch nhưng cũng bắn theo. Có tiếng người kêu: “Bộ đội đừng bắn, chúng tôi là tù binh bị địch đẩy đi trước. Bọn Pháp đi ở phía sau đấy!”. Đại đội để cho số đồng bào bị địch bắt đi phu qua khỏi, rồi nổ súng vào các toán địch. Tiếng moóc-chiê, súng trường, tiểu liên, trung liên, lựu đạn nổ liên chi hồ diệp. Rừng núi âm vang từng hồi. Cây cối đổ rào rào. Có tiếng xe cơ giới của địch lên Dốc Cun. Để cho dịch đến gần, các tổ mới nổ súng. Địch công kênh nhau trèo lên ta-luy đánh vào sau lưng ta. Suýt nữa thì một tổ chiến đấu bị chúng bắt sống.

   Cuộc chiến đấu kéo dài từ 10 giờ dến 14 giờ. Địch chỉ tiến lên được hai phần ba dốc. Một xe cơ giới bị nổ tung vì đạn pháo 70 ly chôn ở mặt đường. Một khẩu đội moóc-chiê tan xác vì đạn pháo 75 ly buộc đầu ống nứa ném xuống bằng tay. Thịt xương quân địch văng lên các cành cây, bên bờ suối. Cuối cùng, chúng phải rút chạy, để lại nhiều xác chết. Bộ đội tuy mới đánh trận dầu nhưng rất hăng say, bám theo truy kích địch.

  Đêm hôm đó, đồng bào Phố Cun trở về, phấn khởi thấy nhà cửa, của cải còn nguyên vẹn. Dân phố ủng hộ bộ đội một bữa cháo gà và vịt bầu ngay tại công sự chiến đấu. Cũng đêm hôm dó, hổ về gầm thét vang cả khu rừng vì đánh hơi thấy thịt người.

  Năm ngày sau, Lê Duy được tiểu đoàn gọi lên dỉnh Dốc Cun đón cấp trên về thăm. Rất phấn khỏi vì vị Chỉ huy phó Chiến khu 2 xuống kiểm tra đơn vị lại là người thầy kính mến của Lê Duy và Kim Tuấn ở Trường Võ bị Trần Quôc Tuấn khóa 1: Thầy Vương Thừa Vũ.

   Ngay tại mặt đường, thầy Vũ biểu dương bộ đội vừa đánh thắng dịch. Sau đó, thầy bảo đưa đi xem các vị trí chiến đấu. Thầy rất vui lòng thấy kế hoạch bố trí chặt chẽ trong điều kiện lực lượng và vũ khí hạn chế. Thầy hứa cấp thêm một khẩu trung liên cào cào cùng một số lựu đạn và bảo Lê Duy phải bố trí thêm một tổ chiến đấu ở dưới ngã ba Chăm để phát hiện địch từ xa, đề phòng chúng lợi dụng đường rừng đánh tập hậu.

  Một tháng sau, địch lại đánh lên. Đúng như phán đoán của thầy Vũ, địch cho một trung đội lê dương có người địa phương dẫn dường từ làng Mát đánh tập hậu vào đại đội bộ. Nhờ có sự bổ khuyết của thầy Vũ, nên bộ đội đã sẵn sàng. Địch bị chặn lại ở chân dốc. Bị đánh phủ dầu, địch phải rút theo đường cái, lại bị các tổ chiến đấu bám đường đánh xuống. Nhiều tên bỏ xác tại trận.

  Dốc Cun là một mục tiêu nhức nhối của quân Pháp, cũng là nơi dịch nếm mùi thất bại. Dốc Cun cũng là trận thử lửa đầu tiên của Đại đội 1 và của hai cán bộ chỉ huy đại dội vừa tốt nghiệp ở trường ra.

   Năm 1948, Đại đội 1 được Chiến khu 2 khen thưởng. Đại đội trưởng Lê Duy được thưởng Huân chương Chiến sĩ hạng Nhì, Đại đội phó Kim Tuấn được thưởng Huân chương Chiến sĩ hạng Ba.


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 20 Tháng Chín, 2013, 04:02:54 pm
ANH HÙNG LIỆT SĨ KIM TUẤN
(Tức Nguyễn Công Tiến)


LÊ DUY


   Kim Tuấn gặp tôi lần thứ nhất ở tiền phương Bộ ở Tân Sơn Nhất khi ấy anh là Quân đoàn trưởng Quân đoàn 3 nhận nhiệm vụ tiến công hướng Công Pông Chàm lên Bát Tam Bang, còn tôi là đại diện Binh đoàn 14 cùng Bộ Tư lệnh Công binh bảo đảm cho Sư đoàn 15 (công binh chiến lược) mở đường thắng lợi và huy động 60 xe ô tô để chuyển quân sau khi mở đường...

  Lần thứ hai, tôi gặp anh tại tiền phương Bộ (ở Phnôm Pênh) khi đồng chí Lê Đức Anh giao nhiệm vụ cho Tư lệnh Quân đoàn 3 tiến công vào sào huyệt cuối cùng của bọn diệt chủng và giao cho Sư đoàn 15 công binh nối dài sân bay Bát Tam Bang, để phi cơ hạ cánh.

  Đồng chí Nguyễn Ất, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 15 bị ốm phải đi bệnh viện. Bộ giao nhiệm vụ trực tiếp cho tôi chỉ huy Sư đoàn 15 nối dài sân bay. Kim Tuấn hỏi tôi có khó khăn gì thì gặp Bộ Tham mưu Quân đoàn 3, anh sẽ giao cho Tham mưu trưởng Quân đoàn hợp đồng cụ thể giúp sức thêm.

   Chúng tôi bàn cách thực hiện: về kỹ thuật, giao cơ quan Sư đoàn 15 vạch kế hoạch, lấy nhân lực của một trung đoàn công binh, kết hợp thủ công với xe máy, với máy đào, máy ủi, xe lăn của Quân đoàn 3; vật tư dựa vào nguồn sẵn có, do khai thác làm sân bay trước đây còn để lại.

  Sư đoàn quan hệ với chính quyền Bát Tam Bang quy hoạch ruộng đất để mở đường bay, phục hồi đường sắt, cầu đường để vào rừng khai thác lấy gỗ, đá, than củi vận chuyển xi măng, nhựa đường phục vụ việc xây dựng sân bay. Kết quả sau một thời gian ngắn, công trình đã hoàn thành tốt đẹp.

  Tiếp đó, Sư đoàn 15 tổ chức bảo vệ tuyến đường Quân đoàn 3 vào Pai-lin, Poi-pét. Lúc này một sự việc đau xót đã xảy ra trên đường hành quân của quân đoàn. Bọn Pôn Pốt - Iêng Xa-ry mua chuộc một số lính Cam-pu-chia, nhân lúc Tư lệnh Quân đoàn xuất phát không dùng thiết giáp và xe tăng yếm hộ, để hành dộng. Chính tên lính Cam-pu-chia gác đường đã bắn B40 trúng vào xe của Tư lệnh Quân đoàn, làm cho Thiếu tướng Kim Tuấn bị thương nặng rồi hy sinh.

   Tôi đã lặng người đi vì thương tiếc khi nhận được tin này.


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 20 Tháng Chín, 2013, 04:04:18 pm
NHỚ MÃI NGƯỜI CHỈ HUY ANH HÙNG


TUẤN LỢI


   Trong danh sách tuyên dương các cá nhân và đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân do Hội đồng Nhà nước tặng thưởng ngày 22 tháng 12 năm 1979 có liệt sĩ Nguyễn Công Tiến quê ở huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Sơn Bình. Đó chính là vị chỉ huy xuất sắc Kim Tuấn, nguyên Tư lệnh Binh đoàn Tây Nguyên anh hùng.       

   Tôi gặp anh lần đầu vào ngày 10 tháng 1 năm 1979, trong buổi gặp mặt giữa đồng chí Chia Xim (hiện nay là Chủ tịch Quốc hội Cam-pu-chia) với đại diện lực lượng nổi dậy của bạn tại Bộ Tư lệnh tiền phương của Binh đoàn. Đồng chí Kim Tuấn kể cho chúng tôi biết về sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội tình nguyện Việt Nam và lực lượng nổi dậy Cam-pu-chia trong chiến dịch giải phóng vùng Đông Bắc Cam-pu-chia, nhất là về trận vượt sông Công Pông Chàm tháng 1 năm 1979.

   Dưới sự chỉ huy của anh, Binh đoàn Tây Nguyên nổi tiếng về lối đánh chính quy hiệp đồng binh chủng: nhanh, mạnh, dứt điểm và chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật chiến trường. Những cán bộ, chiến sĩ sống và chiên đấu bên anh còn nhắc mãi chuyện về tính kỷ luật chiến trường của người chỉ huy luôn luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên hết. Dạo ấy vào một ngày nắng như đổ lửa, hành quân gần 30km qua tỉnh Công Pông Chàm, dưới trời mùa khô, cơn khát tưởng như có thể đốt cháy con người. Đơn vị vượt qua một làng nhỏ không một bóng người, vì lúc bấy giờ nhân dân còn đang kẹt trong các khu rừng sâu do bọn Pôn Pốt canh giữ. Một chiến sĩ trẻ của tiểu đoàn X, Sư đoàn 10 tranh thủ hái mấy quả quýt ăn cho đỡ khát. Biết việc này, anh lệnh cho cả tiểu đoàn dừng lại giữa trời nắng chang chang yêu cầu chiến sĩ vi phạm kỷ luật đào một hố đất sâu để vùi những quả quýt ấy. Nhìn tấm lưng ướt đẫm mồ hôi, cặp môi khô và nhất là ánh mắt hối hận, ngượng ngùng của chiến sĩ ấy, anh Tuấn như không ghìm được lòng mình nữa. Chờ người chiến sĩ vùi xong xẻng đất cuối cùng, anh ôm chầm lấy người chiến sĩ đó như muốn nói rằng, chính anh cũng đang bị cơn khát giày vò như từng người lính, nhưng kỷ luật chiến trường, kỷ luật quân dân buộc mỗi người phải hành dộng đúng.

  Anh Tuấn tâm sự, là người chỉ huy cao nhất của một hướng tiến công ở vùng Đông Bắc này, tôi thấy bất kể lúc nào cũng phải rèn luyện cho chiến sĩ ta giữ vững phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”.

  Trong một chuyến công tác khác vào tháng 2 năm 1979, tôi đi cùng anh Tuấn và đồng chí Bu Thoong (hiện nay là Đại tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Cam-pu-chia) trên một chuyến máy bay lên thẳng. Khi về đến Phnôm Pênh, đồng chí Bu Thoong yêu cầu bay chậm trên bầu trời vài vòng để các anh quan sát. Có thời cơ, tôi lấy máy ảnh chụp toàn cảnh Thủ đô đất nước Chùa Tháp xinh đẹp đã bị bọn Pôn Pốt tàn phá man rợ. Anh Tuấn bảo tôi ngồi lên hai đầu gối anh rồi anh ôm lấy tôi để tôi nhoài người ra đưa máy ảnh qua cửa sổ máy bay chụp cho rõ.

   Tháng 3 năm 1979, đồng chí Trưởng đoàn chuyên gia Thông tấn xã Việt Nam giúp Thông tấn xã Cam-pu-chia, thông báo cho chúng tôi một tin đột ngột: Anh Tuấn đã hy sinh trong khi kiểm tra chiến trường ở tỉnh Bát Tam Bang; đồng chí hãy chọn phim, phóng một số ảnh của anh gửi về cho gia đình và đơn vị. Quá bất ngờ, tôi bật khóc và đồng chí Trưởng đoàn cũng sụt sùi. Làm sao cầm được nước mắt khi một con người giàu tình nghĩa với đồng đội, một tấm gương tận tụy với sự nghiệp quốc tế cao cả, một vị chỉ huy tài năng đã vĩnh viễn đi xa.

  Trong lễ truy diệu anh, đồng chí Bu Thoong nghẹn ngào: “Anh Kim Tuấn không chỉ là tấm gương sáng cho bộ đội Việt Nam mà còn là tấm gương sáng cho bộ đội Cam-pu-chia chúng tôi. Máu anh và máu của biết bao người con Viột Nam ưu tú đã đổ xuống trên đất nước Ăng Ko, sẽ tô thắm cho tình đoàn kết quốc tế, làm bền chặt thêm sự gắn bó keo sơn giữa hai Đảng, hai dân tộc Việt Nam - Cam-pu-chia”.


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 20 Tháng Chín, 2013, 04:06:30 pm
NHỚ MÃI NGƯỜI CHỈ HUY DŨNG CẢM, SÁNG SUỐT, BAO DUNG


LƯU BÁ QUẾ


   Từ ở cương vị đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, đại đoàn..., đồng chí Kim Tuấn vẫn luôn luôn có tình thương đồng đội chiến sĩ, và anh dũng, bình tĩnh chớp thời cơ đánh địch giành chiến thắng...

   1. Người đại đội trưởng có lòng bao dung, độ lượng và tình thương đồng đội.

  Năm 1951, sau ngày thành lập Đại đoàn 320 ở Mống Lá, Nho Quan, Ninh Bình, Trung đoàn 48 được lệnh hành quân lên phía bắc tỉnh Sơn Tây, phối hợp với chiến trường trung du: Vĩnh Yên, Phúc Yên, mở chiến dịch đánh địch giải phóng cho dân ở huyện Quảng Oai, thị xã Sơn Tây bị địch o ép, áp bức, kìm kẹp... Sau hai ngày hành quân cấp tốc, trung đoàn đã đánh địch trong ba ngày đêm 13, 17, 18 tháng 1 năm 1951 tiêu diệt 9 đồn bốt và bức rút 3 đồn địch, tiêu diệt và bắt hơn 100 tên địch, thu được 1 khẩu pháo 105 ly.

   Đại đội 46 do đồng chí Kim Tuấn là Đại đội trưởng, tấn công đánh đồn Vật Lại; chiến sĩ Chuyên mở đột phá khẩu vào trước bị dây thép gai “bùng nhùng” xé toạc áo hở cả lưng, quần rách bươm hở cả dùi... Nhưng đồng chí đã anh dùng tiêu diệt ổ đề kháng của địch để đồng đội xung phong vào tiêu diệt quân lính trong dồn. Đồn bị tiêu diệt xong, đồng chí Chuyên còn vòng ra phía sau để kiểm tra xem còn tên địch nào chạy trốn. Khi qua sân nhỏ đồng chí thấy trên dây phơi có một số quần áo của lính phơi, đồng chí có rút 1 bộ ka ki của địch mặc thay cho bộ quần áo đã rách bươm kia.

  Hôm sau tiểu đoàn tập trung quân, đồng chí Tiểu đoàn phó Quốc Hùng thấy chiến sĩ Chuyên mặc bộ ka ki ngụy, nên đã kết tội vi phạm kỷ luật chiến trường (đã lấy chiến lợi phẩm) và hạ lệnh kỷ luật ở mức cao nhất.

  Hai đồng chí Chính trị viên của Đại dội 44 và 48 cùng đồng chí Đại đội trưởng 46 Kim Tuấn có ý kiến. Đồng chí Kim Tuấn phân tích tình, lý cặn kẽ nên đồng chí Quốc Hùng đã rút lệnh kỷ luật đồng chí Chuyên (nhưng yêu cầu phải làm tự kiểm điểm ở đại đội).

   2. Người Đại đội trưởng Kim Tuấn trong trận chiến đấu ngày 19 tháng 1 năm 1951 là một tấm gương anh dũng quả cảm.

   Địch tiếp viện quân từ Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc sang phản công quyết liệt hòng tiêu diệt Trung đoàn 48 chủ lực của ta (quân địch đông tới hai trung đoàn, phi pháo mạnh). Để bảo toàn lực lượng, ta vừa đánh, vừa hỗ trợ cho nhau rút. Đồng chí Kim Tuấn - Đại đội trưởng Đại đội 46 nhận nhiệm vụ chặn dịch và rút cuối cùng. Ngoài khẩu súng lục đồng chí còn sử dụng 1 tiểu liên “S.Tcl”. Vừa chỉ huy đại đội, vừa trực tiếp đánh chặn địch quyết liệt để đơn vị bạn và đồng đội rút lui. Trên đường rút lui, ngoài nhiệm vụ chỉ huy, đồng chí còn băng bó cho 2 đồng chí và dìu 1 đồng chí bị thương qua cầu tre vượt sông Tích Giang vào khu rừng “Vu Quy Ngọc Nhị” huyện Quảng Oai, Sơn Tây.

   3. Người tiểu đoàn trưởng có tác phong linh hoạt, sáng suốt, dũng cảm và quyết đoán, chớp đúng thời cơ đánh địch bất ngờ giành chiến thắng.

   Trong chiến dịch Tây Nam Ninh Bình (1953), đồng chí Kim Tuấn đã là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 (Tiên Yên) Trung đoàn 48. Sáng ngày 28 tháng 10 năm 1953, tiểu đoàn lê dương cơ động và một tiểu đoàn ngụy Thái thọc sâu vào Sòng Cạn - Dốc Giang huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình hòng tiêu diệt quân ta. Tiểu đoàn Tiên Yên do đồng chí Kim Tuấn chỉ huy đã mấy ngày phục kích đón địch. Chớp thời cơ khi địch còn đang chân ướt chân ráo mới hành quân đến, Tiểu đoàn trưởng Kim Tuấn chỉ huy đơn vị vận động chiến chia cắt địch ra từng mảng để tiêu diệt. Bị đánh bất ngò, tiểu đoàn ngụy Thái tan rã, tiểu đoàn lê dương chống cự không nổi đành chạy về phía Rịa. Quân ta đã tiêu diệt và bắt gần 400 tên. Bắn rơi 1 máy bay trinh sát, 1 máy bay ném bom B26 của địch, góp phần vào chiến thắng chung của Đại đoàn 320. Tiểu đoàn Tiên Yên được Bộ Tổng Tư lệnh tặng “Huân chương Quân công hạng Ba”.

Ngày 15 tháng 9 năm 2011


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 10:10:53 am
NHỮNG KỶ NIỆM SÂU SẮC VỀ NGƯỜI ANH HÙNG,
LIỆT SĨ, THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KIM TUẤN


Đại tá PHẠM HỮU DẬT

 
Câu chuyện thứ nhất: BỌC BẢN ĐỒ

   Sau chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, tôi được điều lên công tác ở Ban Tác huấn Sư đoàn, lúc này toàn sư đoàn đang dốc sức hoàn tất mọi công tác chuẩn bị cho đợt “Đi sâu, đi lâu, đánh to thắng lớn, đánh đến thắng lợi hoàn toàn”. Tháng 11 năm 1971, đoàn cán bộ đi chuẩn bị chiến trường bắt đầu hành quân. Tôi được đồng chí Trưởng ban Tác huấn - Thiếu tá Nguyễn Văn Diệu giao nhiệm vụ di cùng Tư lệnh Sư đoàn, Đại tá Nguyễn Kim Tuấn, theo dưòng giao liên “Trạm Z”. Còn đội hình lớn đi và ăn nghỉ tại bãi khách của trạm giao liên.

   Hàng ngày khi đến trạm giao liên, nhiệm vụ của tôi là bố trí nơi ở của Tư lệnh, phân công vệ binh canh gác; nắm tình hình của trạm ra phổ biến cho đoàn ở bãi khách đồng thời nắm tình hình hành quân của đơn vị để báo cáo với Tư lệnh. Xong những công việc thưòng nhật, tôi thường mắc võng nằm cạnh Tư lệnh. Ông hỏi tôi nhiều việc về gia đình, về quá trình công tác. Một hôm ông hỏi tôi: cậu mang cái bọc gì trên nắp ba lô mà to vậy, tôi báo cáo với Tư lệnh đây là bọc bản đồ của Ban Tác huấn giao cho tôi mang vào chiến trường. Tư lệnh lại hỏi bản đồ vùng nào vậy, tôi trả lời là bản đồ toàn miền Nam. Nghe tôi trả lời, ông cười ngặt nghẽo, một lúc sau ông nói vói tôi: cậu giữ nghiêm kỷ luật như thế là tốt, đặc biệt là khâu bí mật. Nhưng là một trợ lý của cơ quan tham mưu mà cậu trả lời thiếu chính xác như vậy là không ổn, vì sư đoàn ta sẽ vào tác chiến trên một chiến trường nhất định, vậy thì bản đồ mang theo cũng chỉ ở khu vực đó thôi dúng không? Nghe ông nói rất chân tình, rất chuẩn xác nhưng lại rất nghiêm khắc, chính vì thái độ của Tư lệnh như vậy nôn tôi lại càng thấm thía. Sau này, tôi thường được cử đi theo Tư lệnh xuống các đơn vị, tôi cũng học được tác phong làm việc của Tư lệnh, đó cũng là những kinh nghiệm và những bài học bổ ích giúp tôi trong quá trình công tác trong quân đội sau này.



Câu chuyện thứ hai: “VẬY CÓ CHÍNH ỦY TRƯỞNG KHÔNG?”

  Tháng 7 năm 1972, sau 3 tháng nằm điều trị sốt rét ơ Kon Turn tôi trở về cơ quan công tác. Lúc này, Sư đoàn 320 đã chuyển xuống chiến trường Gia Lai. Vừa về đến cơ quan, tôi gặp Tư lệnh Kim Tuấn đang dứng nói chuyện với Trưởng ban Tác huấn Nguyễn Văn Diệu. Tôi báo cáo với Tư lệnh và Trưởng ban về tình hình sức khỏe và xin trở lại cơ quan công tác. Ngho tôi báo cáo xong, Tư lệnh cười bắt tay và nói với tôi “có cậu này về làm trực ban tác chiến thì tốt rồi”. Tôi hiểu câu nói của Tư lệnh đó là nhiệm vụ tôi phải làm trong thời gian tới.

   Sau 2 ngày tìm hiểu tình hình, sang ngày thứ 3 tôi chính thức đảm nhận nhiệm vụ tác chiến. Sư đoàn lúc này được tăng cưòng lực lượng nên địa bàn tác chiến trải khắp huyện 4, huyện 5 và kéo dài ra đến Thanh An, Lê Ngọc. Quá trình thực hiện nhiệm vụ tôi nhận được báo cáo của Tiểu đoàn 24 quân y ở khu vực đóng quân của đơn vị có một quân nhân tên là Nguyễn Đức Hải, không rõ của đơn vị nào, hàng ngày dùng thuốc nổ, lựu đạn đánh cá ở suối và dùng súng AK bắn thú rừng gần trạm phẫu của đơn vị gây mất an toàn, trật tự, đơn vị dã cho người ra can ngăn nhưng không dược. Tôi báo cáo với Tư lệnh Kim Tuấn về tình hình trên, ông lệnh cho tôi viết lệnh bắt giữ quân nhân Nguyễn Đức Hải đưa về giao cho Ban Bảo vệ giải quyết. Tôi viết xong đem sang xin chữ ký của Tư lệnh. Ông xem và gật gù nói xem ra cậu cũng hiểu về hành chính quân sự ra phết nhỉ, nhưng tôi hỏi cậu sư đoàn ta có chính ủy trưởng không? Tôi trả lời sư đoàn có Thủ trưởng Phí Triệu Hàm là Chính ủy và Thủ trưởng Bùi Huy Bổng là Phó Chính ủy. Đúng thế! Sao trong lệnh cậu lại viết là Tư lệnh trưởng, nhờ nhanh nhạy nên tôi nhận ra cái sai của mình, tôi báo cáo vâng em sai rồi, em sẽ sửa. Ông không trách mắng tôi mà chỉ ôn tồn nói: “Cậu viết lại lệnh cho chuẩn, chỉ đề là Tư lệnh Sư đoàn thôi, bỏ chữ trưởng đi rõ chưa”.

   Tuy là chuyện rất nhỏ, nhưng Tư lệnh rất cẩn thận và cũng rất kiên quyết, giúp tôi càng ngày càng trưởng thành trong công tác.



Câu chuyện thứ ba: “Ơ HAY, SAO CẢ SƯ ĐOÀN HÔM NAY LẠI KHÔNG CÓ GÌ”
.

  Tháng 8 năm 1974, tôi được đi cùng Tư lệnh Kim Tuấn xuống kiểm tra nắm tình hình sẵn sàng chiến đấu để chuẩn bị cho nhiệm vụ năm 1975.

   Hàng ngày theo chức trách tôi ghi chép lại toàn bộ kết quả làm việc của Tư lệnh, thống nhất kế hoạch với Trung đoàn 48 để báo cáo Tư lệnh, tối đến nắm tình hình của toàn sư đoàn báo cáo lại vói Tư lệnh.

   Sau bữa cơm chiều với Ban chỉ huy trung đoàn, ông về hầm nghe thời sự, tôi điện về trực ban tác chiến sư đoàn để nắm tình hình, sau đó báo cáo với Tư lệnh tóm tắt tình hình sư đoàn hôm nay không có vấn đề gì; nghe xong ông ngồi trên võng hút thuốc và nói vói tôi: “Ơ hay, sao cả sư đoàn hôm nay lại không có gì?”. Tôi liền bổ sung là báo cáo Tư lệnh tình hình không có gì đặc biệt ạ; ông cười và nói “Cậu này láu cá thật, báo cáo như vậy mói chuẩn”.

   Với lòng kính trọng đồng chí Tư lệnh Kim Tuấn, tôi kể lại những kỷ niệm và cũng là những bài học mà Tư lệnh đã dạy tôi trong quá trình tôi sống, chiến đấu, xây dựng Đại đoàn Đồng Bằng - Sư đoàn 320.


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 10:12:39 am
MỘT KỶ NIỆM VỚI TƯ LỆNH KIM TUẤN


Đại tá KHUẤT DUY HOAN


   Đầu năm 1973, tôi mới là Tiểu đội trưởng. Một hôm, bạn tôi là Nguyễn Trọng Luân ở trung đoàn bộ về đại đội nói với tôi: “Tớ nhìn thấy Sư trưởng rồi”. Tôi trừng mắt: “Bốc phét”. “Thật mà”, nó khẳng định: “Ông ấy xuống trung đoàn, mà cậu biết không, ông ấy nói chuyện với Trung đoàn trưởng Khuất Duy Tiến toàn bằng tiếng Pháp”.

   Hôm sau, Luân về trung đoàn bộ. Tôi cứ vẩn vơ nghĩ Sư trưởng bằng tuổi cha chú mình, đi đánh giặc mấy chục năm mà vẫn giỏi tiếng Pháp. Kỳ thật rồi bâng khuâng nghĩ cái vốn tiếng Nga học mấy năm ở trường đại học mà mình chỉ đọc được thôi, chứ người khác nói thì có nghe được mấy từ đâu.

  Mùa xuân năm 1975, khi chúng tôi đang đánh đuổi địch trên đường 7. Tại trận ngầm Củng Sơn, chúng tôi chốt lại phía nam sông Ba. Gặp anh Kiều Thế người Thái Nguyên đang là trợ lý chính trị trung đoàn. Anh ấy bảo: “Hoan này, Sư mình nằm trong đội hình Quân đoàn 3 rồi đấy”. “Thật thế à anh?”. Quân đoàn! Ôi cái tên Quân đoàn nghe như thời còn nhỏ xem phim, đọc truyện của Liên Xô chống phát xít ấy, nghe mà sướng. Anh Thế bảo: “Cậu biết ai là chỉ huy không? Thiếu tướng Vũ Lăng đấy, “cụ Tuấn” nhà mình là Tư lệnh phó”.

   Suốt chặng đường đuổi địch trên đường 7 đến gần Phú Yên, tôi cứ lâng lâng, bọn cùng trung đội chưa cậu nào biết mà mình đã biết được là lính Quân đoàn mới tinh, vừa thành lập được một tuần. Sư trưởng nhà mình là Tư lệnh phó. Oai không!

  Cái đêm nằm trong hang đá Phú Yên trước trận đánh giải phóng thị xã Tuy Hòa, tưởng tượng ra “cụ Tuấn” dáng cao to, phúc hậu nói tiếng Pháp mà cậu Luân kể lại, cứ hình dung ra bố mình. Bố mình đau dạ dày chứ nếu không biết đâu cụ cũng vào đây... Rồi chiến tranh kết thúc ở Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử. Tôi đi học và trở về làm Quản trị trưởng đại đội. Suốt cả thời gian ở Đồng Dù tôi chỉ nhìn thấy Sư đoàn trưởng Bùi Đình Hòe là “to nhất”. Thật may, trong ngày đón danh hiệu Sư đoàn Anh hùng, tôi mới được nhìn thấy Tư lệnh Kim Tuấn khi tôi đi trong đoàn diễu binh ngang qua lễ đài có vài giây. Trong bộn bề hân hoan và lại xa quá, tôi không thấy rõ, chỉ thấy Tư lệnh cười và vẫy chúng tôi như bao cán bộ khác trong niềm phấn khích ấy.

   Cho tới vài năm sau, trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, tôi mới được gặp vị Tư lệnh Quân đoàn có một lần và rồi ông ra đi cùng với biết bao người lính của mình, ông hy sinh lẫm liệt như những người lính trận. Tôi trưởng thành từ trận đầu ở Xa Mát, Đà Ha, tới Phum Sâm. Từ Chính trị viên đại đội lên Phó Tham mưu trưởng Trung đoàn. Mỗi trận đánh, mỗi mùa mưa, người lính Trung đoàn 64 chúng tôi luôn có sự dìu dắt ân tình của các thủ trưởng từ Sư đoàn trưởng Khuất Duy Tiến đến Tư lệnh Quân đoàn Kim Tuấn.

   Càng về sau, tôi càng hiểu để làm người chỉ huy đến cấp sư đoàn, quân đoàn trong chiến đấu cần phải có một cái đầu đủ sức chịu đựng. Sau trận vượt sông Công Pông Chàm bằng sức mạnh đầu năm 1979, khi về lại hậu phương, Thiếu tướng Khuất Duy Tiến bảo tôi: “Trước giờ G (giờ nổ súng), Tư lệnh Kim Tuấn hỏi tớ: Ai chỉ huy bến vượt 2? Tớ báo cáo: “Đồng chí Khuất Duy Hoan - Tham mưu phó Trung đoàn 64”. Tư lệnh lại hỏi: “Có phải Hoan Phum Sâm không?”. Tớ thưa: “Phải”. Tôi chợt bồi hồi xúc động nhớ đến trận chốt giữ Phum Sâm của Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64 do tôi làm Tiểu đoàn trưởng hồi đầu tháng 8 năm 1978. Trong giây phút nguy kịch nhất, khi xe tăng và lính Pôn Pốt tràn vào trận địa chỉ còn vài tay súng chốt giữ, tôi điện về trung đoàn và sư đoàn xin pháo binh bắn trực tiếp vào trận địa. Tư lệnh Sư đoàn Khuất Duy Tiến báo cáo Quân đoàn. Tư lệnh Kim Tuấn ra lệnh chỉ được bắn pháo đạn nổ trên không khi bộ đội đã ở hết trong hầm (sau này Thủ trưởng Tiến kể lại tôi mới biết). Thế đấy, một trận đánh mà người chỉ huy cấp trên lo đến từng chiến sĩ, sâu sát và hiểu đến từng chỉ huy cấp dưới hai, ba cấp. Tướng trận như ông lẽ nào Quân đoàn tôi không đánh thắng.

   Tôi gặp Tư lệnh Kim Tuấn chỉ ít ngày trước khi ông hy sinh. Khi ấy đơn vị tôi đang vào đợt truy quét địch ở Công Pông Xpư. Trận đánh kết thúc thì cơn mưa giông ập tới. Tôi đang cùng các phái viên trung đoàn kiểm tra trận địa. Đúng lúc ấy, Tư lệnh Quân đoàn Kim Tuấn đi qua, ông dừng lại hỏi: Đây là đơn vị nào? Chính trị viên đâu? Gọi cho tôi cán bộ tiểu đoàn. Được tin Thủ trưởng Quân đoàn tới, anh Nguyễn Thái Hiển - Chính trị viên tiểu đoàn và tôi vội chạy đến. Thoáng thấy nét mặt thủ trưởng buồn, ông hỏi: Cậu là Chính trị viên à? Vâng ạ - Thái Hiển trả lời. Bộ đội cậu đây phải không? Vâng ạ. Bộ đội cậu là phỉ? Vâng ạ. Cậu củng là phỉ? Vâng ạ. Chính trị viên Hiển biết mình lỡ lời rồi mà người cứ đứng ngây đơ ra, tôi cũng đứng ngây đơ ra. Tư lệnh quay đi trong dáng vẻ buồn rầu, tôi chợt thấy trên gò má sạm đen trận mạc của ông giọt nước mắt lăn nhanh. Ông không thể kìm được cơn giận khi nhìn thấy bộ đội đang cầm trên tay những quả vú sữa, những quả xoài chín mọng rụng đầy dưới gốc cây. Mặc dù ông biết những trái cây ấy bộ đội nhặt về cho anh em thương binh ăn tạm trong khi chờ xe đưa về tuyến sau cứu chữa. Vì ngày ấy theo quy định của trên, lính tình nguyện chúng tôi không được sử dụng bất kỳ thứ gì trên đất nưóc bạn, trừ củi đun và nước lã.

   Đã hơn ba mươi năm trôi qua. Tôi cũng đã trưởng thành đến cán bộ Quân đoàn. Càng nghĩ tôi càng thấy thương những người chỉ huy cấp trên của mình trước đây. Khi bước vào tuổi ngoài năm mươi, mắt phải đeo kính lão, xương cốt đã bắt đầu nhức mỏi mỗi khi trở trời, tôi lại nghĩ ở cái tuổi ấy các thủ trưởng ngày xưa vẫn xông pha trận mạc, đi nhiều hơn, lo nhiều hơn mà các ông vẫn vượt qua. Cái lúc Tư lệnh Kim Tuấn nhìn chúng tôi, những người lính trẻ như người con trai của mình đang đói, tôi hiểu người cha trong ông đang thương chúng tôi lắm.

  Viết những dòng kỷ niệm về ông, người Tư lệnh Quân đoàn một thời của tôi, tôi như đang nghĩ về chính người cha của mình...

Plei Ku, ngày 26 tháng 3 năm 2012


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 10:15:30 am
KỶ NIỆM VỚI THIẾU TƯỚNG TƯ LỆNH NGUYỄN KIM TUẤN Ở CUA CHỮ V


Đại tá LÊ HẢI TRIỀU


   Sáng ngày 12 tháng 3 năm 1979, tôi và anh Trần Đới lên chỉ huy Trung đoàn 66 nhận lệnh. Anh Bùi Thanh Sơn - Trung đoàn trưởng giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 8, như sau:

   - Tiểu đoàn 8 được tăng cường 2 khẩu pháo 85 ly nòng dài, 2 khẩu cao xạ 37 ly, 1 khẩu cối 120 ly và 15 xe vận tải chở quân có nhiệm vụ đột kích đánh chiếm khu vực Cầu Sắt, rồi hành tiến, tiến công và làm chủ khu “Địa chất”. Thời gian bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 13 tháng 3.

   Giao nhiệm vụ xong, anh Sơn hỏi lại:

   - Các đồng chí có ý kiến gì không?

   Anh Trần Đới:

  - Nhiệm vụ Trung đoàn giao, chúng tôi xin chấp hành và hứa sẽ hoàn thành nhiệm vụ.

   Tôi xem bản đồ, từ cầu sắt đến khu “Địa chất” dài hơn chục cây số. Tình hình địch ở đây chưa nắm được. Theo tin của ta khu “Địa chất” là căn cứ hậu cần khá lớn của địch. Không biết chúng bố phòng ra sao. Tôi đem những điều phân vân này báo cáo anh Bùi Thanh Sơn và đề nghị anh tăng cường cho tiểu đoàn một tổ trinh sát. Anh Sơn nhất trí điều một tổ trinh sát cho tiểu đoàn. Cuối cùng tôi đề nghị:

   - Thời gian rất gấp, đề nghị Trung đoàn cho các bộ phận tăng cường, trước hết là cán bộ chủ trì đầu giờ chiều nay có mặt ở Tiểu đoàn để dự hội nghị quân chính tiểu đoàn thống nhất phương án.

  Anh Sơn:

   - Tôi nhất trí đề nghị của anh Triều. Theo tin ta vừa nắm được thì khu “Địa chất” là căn cứ hậu cần của Pôn Pốt. Trong quá trình phát triển chiến đấu, các anh vừa đánh địch mở đường vừa tìm hiểu địch. Khi đánh vào khu “Địa chất” không được phá xe phá pháo, phải tận thu để bàn giao cho bạn.

  Mờ sáng ngày 13 tháng 3 năm 1979, Tiểu đoàn 8 chúng tôi bắt đầu xuất kích. Xe đi đầu giá súng 12,7 ly, một tiểu đội bộ binh, một tiểu đội trinh sát, một máy 2W. Tiếp đến là xe tôi và anh Đới, ngay sau là 2 khẩu 37 ly, 2 khẩu pháo 85 ly đi trong đội hình Đại đội 5. Sau đó là đội hình Đại đội 6, Tiểu đoàn bộ, Đại đội 8 hỏa lực và cuối cùng là Đại đội 7. Gần đến cầu sắt, chúng tôi cho xe đi đầu dừng lại, trinh sát nhanh chóng rời xe, nắm địch. Lực lượng chốt giữ cầu sắt của địch có chừng 1 đại đội. Chúng tôi lệnh cho cối 120 ly, cối 82 ly bắn phá khu vực đầu cầu. Địch bị cối 120 ly của ta bắn trúng đội hình nên chúng hốt hoảng chạy tán loạn. Tôi cho pháo 37  ly hạ nòng bắn vào mục tiêu. Đạn 37 bắn thẳng, vận tốc lớn, nên không nghe thấy tiếng đầu nòng làm bọn lính Pôn Pốt rất sợ. Chúng tôi cho bộ đội vượt qua cầu Sắt theo con đường đất truy kích địch. Hai bên đường là những bụi cây lúp xúp, bộ đội dùng súng 12,7 ly và AK bắn thăm dò vào những nơi nghi ngờ, nhưng không thấy địch phản ứng gì.

   Tôi nói với anh Đới:

   - Cho bộ đội phát triển tiến công nhanh, chúng ta đã đến gần khu “Địa chất”. Khu này trước kia Pôn Pốt bắt dân khai thác đá quý. Nhìn từ xa nhà mái tôn to nhỏ, có cả máy sàng đãi đá.

   Anh Đới bảo:

   - Ta cho cối 120 ly bắn chặn đường rút, rồi dùng 12,7 ly và pháo 37 ly bắn thẳng vào quân địch. Bọn chúng không chịu được đâu, ta bắn 5-7 phút cho bộ đội xung phong.

   - Tôi nhất trí, anh cho triển khai đi.

   Trước sức tiến công mạnh mẽ của ta, quân địch vội vàng vứt súng bỏ cả xe đang nổ máy tháo chạy. Tiểu đoàn 8 thu 36 xe ô tô (còn tốt), 2 khẩu pháo 105 ly và nhiều lương thực, thực phẩm. Trận đánh kết thúc lúc 12 giờ 30 phút ngày 13 tháng 3 năm 1979.

   Làm chủ khu “Địa chất”, tôi điện báo cáo Trung đoàn và đề nghị cho người đến lái xe, kéo pháo về. Trung đoàn điện cho chúng tôi: Triển khai đội hình khu vực “Địa chất”, chờ bắt liên lạc với Trung đoàn 24 từ Xăm Lốt đánh lên và sẽ cho người vào lấy xe, kéo pháo.

   Buổi chiều, tôi đang trao đổi công việc với anh Đới, bỗng nghe một tiêng nổ to như tiếng bộc phá. Lát sau, một pháo thủ chạy về, mặt tái nhợt, hổn hển:

   - Báo cáo Thủ trưởng, anh Thành, Trung đội trưởng hy sinh rồi.

   - Làm sao mà hy sinh? - Tôi hỏi lại.

   - Thủ trưởng lên trận địa pháo thì rõ.

  Tôi theo người pháo thủ, chạy lên. Nhìn Thành cả phần ngực và bụng giập nát. Tôi hỏi:

   - Làm sao lại thế này?

   Một pháo thủ trả lời:

   - Nghe trinh sát báo có một cụm địch cách hơn 1km, anh Thành cho nạp quả đạn, định bắn, không hiểu sao quả đạn lại không vào hết bầu nòng. Anh Thành loay hoay tháo ra cũng không được, đẩy vào cũng không được. Anh ấy lấy gậy sắt đánh vào hạt nổ, đầu đạn bay đi và lửa phụt lại vào người anh ấy.

  Tôi không trách Thành. Cái lỗi của cậu ta là bắn pháo chưa có lệnh. Khi gặp sự cố không báo cáo tìm cách xử trí mà hành động như vậy. Biết làm sao, chiến tranh mà. Suy cho cùng, Thành cũng chỉ lo việc đánh địch thôi. Tôi cho anh em khâm liệm Thành và dùng xe chở về hậu cứ.

   Hôm sau, chúng tôi được lệnh hành quân trở lại cua Chữ V, tiếp tục làm nhiệm vụ phòng ngự bảo vệ con đường vận chuyển của ta. Tối 15 tháng 3, anh Bùi Thanh Sơn điện cho tôi: “Sáng mai Tư lệnh Quân đoàn đến kiểm tra Tiểu đoàn 8. Anh phải bảo đảm an toàn cho Tư lệnh”.

   Tôi bàn với anh Đới:

   - Ngoài các tổ đã chốt, sáng mai cho một đại đội chia 3 tổ làm nhiệm vụ cảnh giới từ xa, cách khu vực chốt từ 1,5km đến 2km, hoạt động từ sáng đến chiều anh ạ.

   Đúng 8 giờ 30 phút, chúng tôi thấy đoàn xe đi từ phía đông lên. Đi đầu là 1 chiếc K63, tiếp sau là 3 chiếc Uoát. Đoàn xe đến cua Chữ V thì dừng lại. Tôi nghĩ chắc Tư lệnh ngồi trong xe bọc thép. Nhưng trong xe chỉ có một tiểu đội bộ binh. Tư lệnh ngồi ngay chiếc xe Uoát đi sau xe K63. Cùng đi có anh Bùi Thanh Sơn - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 66. Tôi và anh Trần Đới tiến lại gần Tư lệnh. Tư lệnh cười rất hiền và bắt tay anh em chúng tôi. Anh Sơn giới thiệu:

   - Báo cáo Tư lệnh đây là đồng chí Triều - Chính trị viên tiểu đoàn, người đã đón ông Hêng Xom Rin hồi tháng 10 năm 1978 ở Mé Mông, Mi Mốt, Công Pông Chàm. Còn đây là anh Trần Đới - Trợ lý tác chiến Sư đoàn vừa được giao làm Tiểu đoàn trưởng.

   Tư lệnh Kim Tuấn:

   - Tôi đã nghe thành tích của Tiểu đoàn 8 các đồng chí rồi. Các đồng chí đã góp phần cho cách mạng Cam-pu-chia thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước... Bây giờ các đồng chí cho tôi biết về cách bố trí phòng ngự và tình hình địch.

   Anh Trần Đới nói:

   - Báo cáo Tư lệnh, Tiểu đoàn 8 được giao nhiệm vụ bảo vệ cua Chữ V, một khu vực địch thường xuyên đánh phá hòng cắt con đưòng vận chuyển của ta. Phạm vi Tiểu đoàn bảo vệ là hơn 5km, chúng tôi bố trí ba đại đội, phía đông là Đại đội 5, ở phía tây là Đại đội 7, giữa cua Chữ V là Đại đội 6, Tiểu đoàn bộ và Đại đội 8. Chúng tôi tổ chức cho bộ đội đóng từng chốt cách mặt đường 500m về phía tây (phía địch). Sáng nay, chúng tôi tổ chức mỗi đại đội 3 tổ hoạt động rộng khoảng 2km, để phát hiện ngăn chặn địch đánh vào trận địa của ta.

   Thấy anh Trần Đói nói vậy, Tư lệnh khen:

  - Các đồng chí làm như thế là rất tốt. Phòng ngự tích cực, phải tổ chức nhiều tổ lùng sục phát hiện địch, đánh chúng ở ngoài trận địa, như vậy ta mói giữ thế chủ động được.

   Nói rồi, Tư lệnh bảo:

   - Bây giờ các đồng chí đưa tôi đến thăm một đơn vị làm nhiệm vụ phòng ngự.

   Chúng tôi đi trước, tiếp đến là Tư lệnh Kim Tuấn và những thành viên trong đoàn kiểm tra. Khi đến gần vị trí của Đại đội 6, anh em bí mật ngụy trang tốt, mọi người không phát hiện được. Đến khu vực chỉ huy đại đội, Đại đội trưởng Vũ Văn Tuấn đứng nghiêm báo cáo. Tư lệnh Kim Tuấn khen:

   - Các đồng chí giữ bí mật thế này là tốt! Tôi biểu dương ý thức cảnh giác cao của đại đội. Bộ đội sức khỏe thế nào, ăn uống có bảo đảm không? Tinh thần bộ đội ra sao?

   - Báo cáo Tư lệnh, bộ đội hôm trước đánh vào khu “Địa chất” thắng lợi, diệt được địch, thu được xe pháo, đơn vị không ai thương vong, anh em rất phấn khởi. Điều kiện sinh hoạt thì khó khăn, ăn uống kham khổ nhất là rau xanh không có nên số đông anh em đi kiết - Đại đội trưởng Tuấn nói.

   Quay sang anh Bùi Thanh Sơn, Tư lệnh Kim Tuấn hỏi:

   - Hậu cần sư đoàn, trung đoàn không lo cho bộ đội có rau xanh à?

   - Báo cáo Tư lệnh, trưóc đóng quân gần biên giới thì Sư đoàn, Trung đoàn còn đáp ứng được. Nhưng từ ngày vào sâu, nhất là làm nhiệm vụ truy quét thì không thể đáp ứng rau xanh được. Bộ đội phải ăn cá khô và đồ hộp.

   Nghe xong, Tư lệnh gật gật đầu như xác nhận, rồi nói vói mọi người:

   - Bộ đội ta rất tốt. Khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Dù khó khăn, nhưng các đồng chí vẫn giữ nghiêm chính sách dân vận và quan hộ quốc tế, không tơ hào của dân bạn. Các đồng chí tiếp tục động viên bộ đội khắc phục khó khăn, làm tốt công tác truy quét địch, không cho chúng quay trở lại phá hoại thành quả cách mạng của bạn.

   Nói rồi Tư lệnh gọi tôi và anh Trần Đới lại chụp ảnh, tôi đứng một bên anh Đói đứng một bên Tư lệnh ngay ở chốt phòng ngự cua Chữ V.

  Chia tay Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn 3 Kim Tuấn, nhưng hình ảnh vị tướng Tư lệnh quân đoàn ra trận địa động viên bộ đội, bất chấp hiểm nguy còn khắc ghi mãi trong tôi. Sự có mặt của Tư lệnh hôm ấy với Tiểu đoàn 8 ở cua Chữ V, đã tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi. Những ngày sau đó đơn vị đã tiến công đánh chiếm và làm chủ Pai Lin - một vị trí quan trọng trong tuyến phòng ngự của địch dọc biên giới Cam-pu-chia -Thái Lan.

  Mấy ngày sau, cả Tiểu đoàn 8 chúng tôi nhận được tin ngày 17 tháng 3 năm 1979, Thiếu tướng Nguyễn Kim Tuấn đã hy sinh trên đường đi kiểm tra Sư đoàn 31 ở Phum Tốc phía bắc thị xã Bát Tam Bang 40km. Tin Tư lệnh Quân đoàn hy sinh làm cho cả Tiểu đoàn chúng tôi đều vô cùng bàng hoàng thương tiếc ông. Nhất là những người đã từng gặp ông, nghe ông nói chuyện không ai cầm được nước mắt.

  Với tôi, hình ảnh Tư lệnh Kim Tuấn mãi mãi in sâu trong tâm khảm - một vị tướng thông minh, mưu lược, một vị tướng dũng cảm sẵn sàng đốì mặt với quân thù, một vị tướng luôn gần gũi thương yêu bộ đội như con em mình.

Hà Nội, cuối tháng 3 năm 2012


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 10:41:12 am
VỊ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN KÍNH YÊU


Đại tá NGUYỄN CÔNG DUNG


   Vào cuối tháng 2 năm 1975, chiến dịch Tây Nguyên đang trong giai đoạn cài thế, toàn bộ đội hình của Sư đoàn 320 đã vào vị trí tập kết sẵn sàng bước vào chiến đấu mở màn chiến dịch tại khu vực Cẩm Ga - Thuần Mẫn. Khi đó tôi đang là Phó ban Quân lực Sư đoàn, bỗng một hôm nhận được lệnh lên gặp Tư lệnh Sư đoàn, Đại tá Kim Tuấn để nhận nhiệm vụ.

   Nhận được lệnh, tôi vội vã lên sở chỉ huy ngay, ngồi chờ tại bàn làm việc trong hầm chỉ huy của Tư lệnh, tôi có đôi chút cảm thấy phân vân, lo lắng, không biết mình sẽ được giao nhiệm vụ gì mới đây, nếu được xuống đơn vị chiến đấu thì thật may mắn, nhất là khi chiến dịch lớn sắp mở màn. Một lát sau thì Tư lệnh đi kiểm tra đơn vị trở về, thấy tôi đang ngồi chờ, ông mỉm cười, ôn tồn hỏi: “Dung đó à? Đợi mình lâu chưa?”. Tôi đứng nghiêm báo cáo: “Báo cáo Tư lệnh, tôi vừa có mặt theo lệnh của đồng chí!”. Ông bảo tôi ngồi xuống rồi ân cần rót nưóc chè hãm trong bi đông ra bảo: “Uống nước đi đã, rồi chúng ta sẽ nói về nhiệm vụ của đồng chí”.

   Chờ tôi nhấp xong ngụm trà, ông ôn tồn nói:

   - Thế này đồng chí Dung ạ, sư đoàn ta sắp bước vào một chiến dịch lớn. Diễn biến chiến dịch sẽ rất mau lẹ và phức tạp. Công việc chỉ huy tác chiến ở sở chỉ huy sẽ rất bề bộn. Vì vậy tôi cần có một trợ lý ở bên cạnh để theo dõi, cập nhật tình hình và ghi chép nhật ký tác chiến một cách tỉ mỉ, khoa học. Xem xét các cán bộ ở cơ quan tham mưu sư đoàn thì thấy đồng chí là phù hợp hơn cả. Vì thế tôi quyết định điều đồng chí lên làm việc tại sở chỉ huy một thời gian, đồng chí thấy thế nào?

   Tôi suy nghĩ rất nhanh và trả lời:

   - Em thấy rất vinh dự được Tư lệnh tín nhiệm giao cho nhiệm vụ này.

   - Thế thì tốt! - Ông vui vẻ rót thêm trà vào chén cho tôi rồi ôn tồn nói tiếp: Công việc của người thư ký tác chiến không chỉ là ghi chép tỉ mỉ diễn biến từng ngày của chiến dịch, theo dõi sát sao tình hình diễn biến quân số, trang bị, sức chiến đấu của từng đơn vị mà còn phải ghi chép tỉ mỉ các chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, các ý kiến góp ý, đề nghị của các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Sư đoàn và của các đơn vị cấp dưới, đơn vị phối thuộc với mình. Ngoài ra, thư ký còn phải biết xếp thứ tự các nhiệm vụ, công việc cần ưu tiên, cần giải quyết nhanh để nhắc cho người chỉ huy nữa.

   Tôi ghi nhớ trong lòng và trả lời:

   - Báo cáo Tư lệnh, tôi đã rõ nhiệm vụ. Tuy nhiên trong khi thực hiện nhiệm vụ có điều gì tôi làm chưa tốt xin thủ trưởng nhắc nhở, giúp đỡ.

   Ông gật đầu tỏ vẻ hài lòng rồi đưa tôi sang Ban Tác chiến Sư đoàn, giới thiệu tôi và giao nhiệm vụ cho Trưởng ban Tác chiến và các thành viên trực tại sở chỉ huy phối hợp, giúp đỡ tôi thực hiện nhiệm vụ.

   Chiều hôm đó tôi mang ba lô, trang bị cá nhân, ôm đống sổ sách mới nhận về ở cùng hầm chỉ huy vói Tư lệnh. Trong cuộc đời chiến đấu của mình, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi được ở gần một vị chỉ huy cấp cao đến vậy nên ban đầu cũng có phần bỡ ngỡ. Ông hiểu ý nên đã luôn tỏ ra gần gũi, thân mật, tạo điều kiện cho tôi tự tin hơn trong sinh hoạt cũng như trong công việc của mình.

  Thực hiện mệnh lệnh của Tư lệnh, kể từ ngày 28 tháng 2 năm 1975, tôi bắt đầu ghi chép tỉ mỉ mọi diễn biến của chiến dịch và mọi động thái của sở chỉ huy cùng với các chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên và cách xử lý thực thi các mệnh lệnh đó của Bộ Tư lệnh Sư đoàn. Thi thoảng ông lại tới xem các ghi chép của tôi, nói chung ông rất hài lòng, nhưng cũng có khi ông góp ý nhắc nhở tôi phải ghi chép rành mạch tỉ mỉ hơn nữa. Và có lần ông còn nhắc:

   - Những việc này... cậu phải nhắc mình nhé. Khi vào chiến dịch, mọi việc sẽ rốì tinh lên, mình có thể quên những việc đó. Cậu phải thường xuyên nhắc mình mới được.

   Có lần có việc cần nhắc Tư lệnh, nhưng thấy ông vừa chợp mắt tôi ngại không gọi, sau đó bị ông phê bình:

   - Việc tác chiến là quan trọng. Sinh mạng của hàng trăm anh em phụ thuộc vào người chỉ huy. Giấc ngủ của mình chỉ là chuyện nhỏ, cậu phải nhớ điều đó.

   Trong sinh hoạt, lúc đầu tôi ý tứ tự xuống bếp ăn cơm. Sau đó ông không hài lòng nhắc tôi: “Ngay cả khi ăn, cậu cũng phải ở bên người chỉ huy. Từ nay nhắc công vụ lấy cả phần cơm của cậu về đây, anh em ta cùng ăn. Có khi vừa ăn vừa bàn công việc nữa đấy”.

  Những ngày chuẩn bị cho trận tiến công căn cứ Thuần Mẫn, mở màn cho chiến dịch Tây Nguyên, Tư lệnh làm việc không ngừng nghỉ. Trong những ngày ấy, tôi bỗng nhận ra một phẩm chất đặc biệt của Tư lệnh Kim Tuấn, đó là khi tình hình càng sôi động, công việc càng nhiều ông càng tỉnh táo. Ông nghe báo cáo tình hình, cho chỉ thị xử lý công việc, phối hợp hiệp đồng với các đơn vị, bộ phận luôn luôn trong tư thế bình tĩnh, đĩnh đạc, không bao giờ cáu gắt, nóng giận. Ngay cả trong những tình huống gay cấn nhất, như khi đội hình của sư đoàn có nguy cơ bị lộ vì có tin địch bắt được chiến sĩ thông tin của ta đi rải dây, hay khi địch đổ quân biệt kích thăm dò vào tới sát nơi đóng quân của các đơn vị, ông vẫn rất bình tĩnh, tỉnh táo. Vì thê ông đã phán đoán chính xác rằng về cơ bản đội hình của sư đoàn chưa bị lộ, và ra lệnh cho các đơn vị không được manh động, ngay cả khi địch sục vào tới vị trí giấu quân thì cũng chỉ cho phép từng bộ phận nhỏ lẻ nổ súng tự vệ khi thật cần thiết, quyết không được bộc lộ đội hình lớn. Có trường hợp các đơn vị để cho bộ đội đi lại, đun nấu lộn xộn, ông biết được lập tức gọi chỉ huy nghiêm khắc nhắc nhở, nhưng vẫn vói thái độ điềm tĩnh, không cáu giận khiến cán bộ cấp dưới vừa nể phục vừa không dám coi thường những lời nhắc nhở của ông.

   Tôi cũng đặc biệt ấn tượng cách phối hợp làm việc của Tư lệnh Kim Tuấn vói Chính ủy Bùi Huy Bổng và Tham mưu trưởng Trần Ngọc Chung. Với các vị chỉ huy này, Tư lệnh luôn biết lắng nghe nhưng cũng sẵn sàng bình tĩnh tranh luận, bảo vệ ý kiến của mình khi cần thiết. Vì vậy, sự phối hợp của các vị chỉ huy sư đoàn trong những ngày chiến dịch Tây Nguyên diễn ra luôn nhịp nhàng ăn ý. Vào trước ngày diễn ra trận Thuần Mẫn, Tư lệnh đã đồng ý cho Tham mưu trưởng Trần Ngọc Chung xuống Sở chỉ huy Trung đoàn 48 để cùng Trung đoàn trưởng Lê Quang Bình chỉ huy chiến đấu. Trước khi anh Chung đi, Tư lệnh Kim Tuấn đã ân cần căn dặn:

   - Khi nổ súng thì anh là người chỉ huy cao nhất tại mặt trận. Trong trường hợp có những diễn biến mới, phức tạp mà mất liên lạc với sư đoàn thì anh bàn vói anh Bình cứ hành động theo cách các anh cho là tốt nhất, đừng chờ ý kiến của chúng tôi mà lỡ thời cơ.

  Ngày diễn ra trận tiến công căn cứ Thuần Mẫn là ngày hết sức căng thẳng ở Sở chỉ huy Sư đoàn. Các cán bộ tham mưu, tác chiến có mặt tại sở chỉ huy đều bồn chồn, đứng ngồi không yên, nhưng Tư lệnh Kim Tuấn lại hết sức bình tĩnh, tự tin. Ông động viên mọi người: “Chúng ta đã chuẩn bị tốt thế trận thì không có lý do gì lại không đánh thắng, các cậu cứ yên tâm đi”. Quả đúng như lời của Tư lệnh, trận tiến công căn cứ Thuần Mẫn đã diễn ra nhanh gọn. Cú đềpa cho chiến dịch Tây Nguyên mùa Xuân năm 1975 đã thắng lợi giờn giã. Tuy vậy ngay cả lúc đó, Tư lệnh Kim Tuấn vẫn hết sức thận trọng, ông yêu cầu Tham mưu trưởng Trần Ngọc Chung phải đích thân kiểm tra lại trận địa, xác minh các thông tin cho thật chính xác rồi mới yêu cầu nối máy để ông trực tiếp báo tin thắng trận lên Bộ Tư lệnh chiến dịch và cơ quan đại diện Bộ Tổng Tham mưu lúc này đã có mặt tại chiến trường để thay mặt Bộ Tổng Tham mưu trực tiếp chỉ huy chiến dịch.

   Tôi không thể nào quên được thời điểm đặc biệt quan trọng trong cuộc đời cầm quân của Tư lệnh Kim Tuấn - đó là thòi điểm xuất hiện bước ngoặt của chiến dịch Tây Nguyên năm 1975, sau khi ta đã giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột và liên tiếp đánh tan các cánh quân đổ bộ giải tỏa hòng “tái chiếm” thị xã Buôn Ma Thuột của địch. Lúc đó đại bộ phận lực lượng của sư đoàn đang căng ra để làm nhiệm vụ cắt đường 14 và đánh địch đổ bộ ở khu vực Buôn Hồ. Đêm 16 tháng 3 năm 1975, bỗng có điện thoại trực tiếp từ đồng chí Lê Ngọc Hiền, Tổng Tham mưu phó, trực tiếp truyền đạt mệnh lệnh của Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng cho Tư lệnh Sư đoàn 320. Mệnh lệnh nói rõ: Địch bắt đầu rút toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 và Quân khu 2 khỏi Tây Nguyên. Hướng rút quân đã xác định là theo trục đường 14 rồi theo đường số 7 qua thị xã Cheo Reo (tỉnh lỵ tỉnh Phú Bổn) để về co cụm ở các tỉnh ven biển miền Trung. Quyết tâm của Bộ là kiên quyết không để quân địch ở Tây Nguyên thực hiện việc rút lui thành công. Lệnh cho Sư đoàn 320 sử dụng ngay Trung đoàn 64, cơ động thật nhanh xuống phía nam Cheo Reo, hình thành các trận địa chốt chặn, giam chân địch tại Cheo Reo, đồng thời cơ động các trung đoàn 48, 9 và các đơn vị trực thuộc về khu vực Cheo Reo để thực hiện bao vây tiến công liên tục, tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch rút chạy trên đường số 1, không để cho chúng có cơ hội co cụm về các tỉnh ven biển miền Trung.

  Nhận mệnh lệnh xong, Tư lệnh Kim Tuấn lặng đi trong giây lát rồi nhẹ nhàng bảo tôi:

  - Địch đã quyết định rút chạy khỏi Tây Nguyên theo đường số 7. Cấp trên lệnh cho sư đoàn ta phải chặn chúng lại ở Cheo Reo để tiến công tiêu diệt. Cậu sang gọi Chính ủy Bùi Huy Bổng qua đây để bàn việc tác chiến.

   Tôi lập tức chạy đi, một lát sau Chính ủy đã có mặt tại hầm chỉ huy. Hai vị chỉ huy mở bản đồ, bàn bạc với nhau rất nhanh rồi Tư lệnh yêu cầu nối máy làm việc vói Trung đoàn trưởng Trung đoàn 64 Phạm Quang Bào. Tôi vừa lắng nghe vừa ghi chép vào sổ nhật ký tác chiến mệnh lệnh của Tư lệnh:

- ... Trung đoàn 64 ngay lập tức ra lệnh cho toàn Trung đoàn cơ động trong đêm, bằng mọi giá phải vừa hành quân vừa giao nhiệm vụ, cắt rừng mà chạy, nếu cần thì đốt đuốc mà đi... trong thời gian nhanh nhất có thể được, đưa lực lượng vòng xuống phía nam Cheo Reo, xây dựng các trận địa chốt chặn để khóa chặt quân địch trong thung lũng Cheo Reo. Không câu nệ đội hình, đơn vị nào tới được điểm chốt chặn trước thì cứ nổ súng, vừa đánh địch vừa xây dựng trận địa. Các đơn vị tới sau cũng lập tức bước vào chiến đấu ngay, làm sao cho đội hình địch rối loạn, không kịp phản ứng. Sau đó mới hình thành các tuyến chốt chặn, không cho bất cứ tên địch nào thoát khỏi thung lũng Cheo Reo. Các đơn vị khác trong sư đoàn cũng sẽ tới ngay sau các đồng chí để cùng bao vây tiến công địch...

  Tôi không nhó thật chính xác câu chữ, nhưng tinh thần mệnh lệnh của Tư lệnh là như vậy. Đặc biệt giọng nói của ông khi ra lệnh rất dứt khoát nhưng vẫn ôn tồn, kiềm chê xúc động, có lẽ ông không muốn làm cấp dưới rối trí do những diễn biến quá nhanh của chiến dịch. Không khí ở sở chỉ huy trong thời điểm ấy thật vô cùng căng thẳng.

  Đêm hôm đó ông thức trắng. Cứ ba mươi phút ông lại yêu cầu trợ lý tác chiến liên lạc với Trung đoàn 64 xem bộ đội đã cơ động tới đâu và đánh dấu trên bản đồ. Cho tới khi Trung đoàn trưởng Phạm Quang Bào báo cáo về, đơn vị đầu tiên của Tiểu đoàn 9 do Tiểu đội trưởng Nguyễn Vi Hợi chỉ huy đã ra tới điểm chốt chặn và bắt đầu nổ súng đánh địch, Tư lệnh mới thở phào nhẹ nhõm. Sau này, đồng chí Nguyễn Vi Hợi được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nhưng từ ngày đó Tư lệnh đã đánh giá rất cao hành động của tiểu đội Nguyễn Vi Hợi. Ông từng nói rằng, lúc đó tuy mới chỉ có một tiểu đội ta xuất hiện, nhưng chỉ cần ta nổ súng là đội hình đang tháo chạy của địch đã hoảng loạn lên rồi.

   Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt phần lớn lực lượng địch tháo chạy bị dồn lại tại thị xã Cheo Reo, Sư đoàn 320 tiếp tục truy kích địch xuống tận đồng bằng ven biển, giải phóng tỉnh Phú Yên, bắt sống tên chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, phó tư lệnh quân đoàn 2 ngụy, viên tướng được tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh quân đoàn 2 và quân khu 2 địch, ủy nhiệm chỉ huy cuộc rút lui chiến lược khỏi Tây Nguyên. Tới đây, có thể nói cuộc truy kích lớn nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam đã thắng lợi trọn vẹn.

  Sau chiến thắng này, cuối tháng 3 năm 1975, để chuẩn bị cho nhiệm vụ mới, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã quyết định thành lập Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên). Tư lệnh Sư đoàn 320 Nguyễn Kim Tuấn được cấp trên bổ nhiệm chức Tư lệnh phó Quân đoàn.

   Trước ngày chia tay, ông gọi tôi lên và giao cho tôi nhiệm vụ mới, trở về làm Trưởng ban Quân lực Sư đoàn. Ông khen tôi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trong giai đoạn vừa qua và căn dặn: “Làm quân lực cũng phải hiểu rõ nhiệm vụ của cơ quan tác chiến và của các ngành khác nữa”. Lời dặn dò đó của Tư lệnh Kim Tuấn, tôi luôn ghi nhớ trong lòng, ngay cả sau này khi được giao nhiệm vụ ở những cơ quan quân lực cấp cao hơn. Tôi cũng luôn dõi theo bước tiến của ông trên cương vị Tư lệnh phó rồi Tư lệnh Quân đoàn cho đến khi đột ngột được tin ông đã hy sinh trên chiến trưòng khi đang chỉ huy Quân đoàn làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn.

  Hơn 35 năm đã trôi qua, hồi tưởng lại những ngày được trực tiếp phục vụ Tư lệnh Sư đoàn chỉ huy tác chiến trong một chiến dịch lớn, tôi càng thêm quý trọng tài năng và nhân cách của ông. Những người chỉ huy tài đức vẹn toàn như vậy thực sự là niềm tự hào không chỉ của Sư đoàn 320, Quân đoàn 3 mà của toàn thể Quân đội nhân dân Việt Nam.

Hà Nội, ngày 2 tháng 10 năm 2010


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 10:45:25 am
VỊ TƯỚNG ĐI SUỐT CUỘC ĐỜI TÔI


NGUYỄN XUÂN SANG


      Về Thành phố Hồ Chí Minh công tác, tôi tranh thủ đến thăm Trung tướng Khiếu Anh Lân, trong căn nhà gác nhỏ ở số 6 phố Trần Cao Vân. Thấy tôi, đứa cháu nội của anh gọi to:

   - Ông ơi, nhà ta có khách!

   - Thế hả, ông xuống đây.

Ông xuống mở cửa đón tôi. Sau giây lát ông hỏi:

   - Có phải cậu Sang đấy không?

   - Vâng, “Sang đen” - lính của Thủ trưởng đây.

   - Sau cậu tìm thấy nhà tớ?

   - Vậy anh quên, em từng làm nhiệm vụ đồ bản sao?

   - Khá lắm! - Ông khen.

   Trước kia tôi là lính của cơ quan tham mưu còn anh là Tham mưu phó Quân đoàn. Sau 20 năm xa cách, thầy, trò gặp lại nhau. Nhìn anh già đi nhiều nhưng đôi mắt còn tinh nhanh, bước đi đĩnh đạc, vẫn còn dáng dấp của một thời trai trẻ. Anh tiếp tôi trong căn phòng được bài trí gọn gàng, ngăn nắp. Anh chỉ tôi ngồi vào ghế rồi với tay lấy chai rượu trên tủ, rót vào 2 ly nhỏ, nâng ly rượu anh nói:

   - Nào, xin chúc mừng cuộc hội ngộ!

   - Cảm ơn, chúc sức khỏe Thủ trưởng.

   - Cậu uống đi, rượu nếp chính hiệu đấy, đứa cháu ở quê gởi vào cho.

   - Ngày xưa Thủ trưởng ít uống thì phải?

   - Thì tớ có nghiện bao giờ đâu, bây giờ già rồi ngâm ít thuốc bổ mỗi ngày uống một vài ly nhỏ cho nó dãn xương cốt.

   Rồi anh cưòi khà... khà..., vẫn nụ cười đôn hậu, cởi mở như ngày nào. Đặt ly rượu xuống bàn, thấy anh thay đổi sắc mặt, giọng nghẹn ngào:

  - Giá như giờ này anh Kim Tuấn còn thì hay biết mấy!

  Tôi thoáng thấy đôi mắt già nua của Trung tướng, qua tròng kính trắng có những ngấn lệ. Tôi xúc động nghĩ đến tình cảm của những người lính già năm xưa, trong gian khổ, ác liệt của chiến tranh, họ cùng nhau chia ngọt, sẻ bùi, đồng cam, cộng khổ, dễ gì quên nhau được.

  Khi anh Lân nhắc đến Tư lệnh Kim Tuấn, trong cổ tôi như có cái gì đó vưóng víu khó thở. Vì nỗi thương tiếc Thiếu tướng Kim Tuấn.

   Tôi có may mắn được sống gần ông từ cuối năm 1977. Hồi đó mấy đứa chúng tôi vừa được điều về tiểu đoàn vệ binh của Quân đoàn. Tôi đang loay hoay sắp xếp lại giá ba lô, nơi để giày, để dép... Bỗng có một ông “già” mái tóc đã điểm bạc, khuôn mặt phúc hậu, nước da sạm trắng bước vào, tôi lúng túng quay lại.

   - Cháu chào bác ạ.

   Ông xòe bàn tay đầy đặn xoa lên đầu tôi rồi ông cười vui vẻ như cảm thông với cách xưng hô của cậu lính trẻ. Ông hỏi tôi giọng thân mật:

   - Cậu tên gì?

   - Em là Sang - tôi đổi cách xưng hô.

   - Cái gì Sang?

   - Dạ, Nguyễn Xuân Sang ạ.

   - Cậu học lớp mấy rồi - Bố mẹ cậu có khỏe không?

   - Bố, mẹ em vẫn khỏe, còn em vừa học hết phổ thông.

   - À , quê cậu ở đâu?

  - Quê em ở Hà Nam Ninh.

   - Thế thì cậu nhập ngũ đợt tháng 6 phải không?

   - Vâng ạ!

   Ông căn dặn:

   - Các cậu mói vào chú ý nhất là sốt rét nên ngủ phải nằm màn, đi vào rừng, nếu bị rắn cắn phải ga rô phía trên chỗ “nó” cắn... Rồi như chợt nhớ ra điều gì, ông quay sang nói với anh Quýnh - Tiểu đoàn phó quân sự:

  - Cậu kiểm tra quân y xem, đã cho anh em uống thuốc phòng sốt rét chưa.

   - Báo cáo Thủ trưởng: Rõ ạ - anh Quýnh trả lời.

   Rồi ông quay ra, đi về phía nhà ăn, nhà bếp... Lúc này mấy anh lính cũ xì xào: Tư lệnh Quân đoàn đấy. Tôi giật mình. Đi lính vừa vào đến quân đoàn đã được gặp Tư lệnh, ghê thật...

  Hình như hiểu được suy nghĩ của tôi, anh Lân nói tiếp:

   - Anh Tuấn là người rất thương lính. Hồi ở Cam-pu-chia, tối nào anh ấy cũng điện kiểm tra, nắm tình hình đơn vị, nhất là quân số xem anh em mình thế nào? Trận nào quân “hao” nhiều, anh như ngồi trên đống lửa cứ đi ra, di vào... À, hồi đánh vào phía Bắc đường 7, khu vực điểm cao 105 của Sư đoàn 31. Cái tay gì chỉ huy, mất hơn chục quân nhỉ? Anh lắc đầu.

   Tớ quên tên. Sau này tay ấy phải đưa về phía sau... Hôm đó thấy anh Tuấn gắt um lên trong điện thoại: “Con nhà người ta mười bảy, mưòi tám tuổi đầu, gửi gắm các anh, các anh làm ăn thế hả? Hỏi rằng ai đẻ kịp cho các anh?”. Mình biết tối hôm ấy anh Tuấn không ngủ được.

   - Lúc đó em còn là lính tráng nghe nói Tư lệnh nóng tính lắm? - Tôi cắt ngang lòi anh.

  - Nói nóng cũng đúng, nhưng anh là người quyết đoán và nghiêm khắc.

   Bên ngoài, trời chuyển gió. Cơn mưa cuối mùa ào ạt ập tới. Không gian thu hẹp lại, tối hẳn đi. Nhìn những hạt mưa rơi, anh Lân thở dài:

   - Ở đời, có những cái không theo ý mình! Con người như thế mà hy sinh sớm quá. Cho đến bây giờ tớ vẫn băn khoăn, về việc ký văn bản cam đoan mổ cho anh Tuấn...

  - Thưa Thủ trưởng, điều này bây giờ tôi mới được nghe lần đầu. Nếu có thể...

   Tôi chưa nói hết câu, Trung tướng nói tiếp:

   - Tớ hiểu ý cậu rồi... Hôm đó anh Tuấn đi thông qua kế hoạch đánh Tà Sanh của Sư đoàn 31 tại Xiêm Riệp: Ngày hôm trước anh đang bị ốm, Thường vụ, Bộ Tư lệnh hội ý, cử người khác đi thay. Anh không nghe, anh bảo: “Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng, đánh vào sào huyệt cuối cùng của Pôn Pốt. Tôi là Tư lệnh Quân đoàn. Tôi phải đi”.

  Mọi người biết tính anh rồi, có ngăn cũng không được. Vì anh là một con người năng nổ, xông xáo nên phải đồng ý để anh đi. Đường lên Xiêm Riệp chưa an toàn nên Quân đoàn bố trí anh đi bằng xe bọc thép. Anh nói: “Có mình tớ lo gì, đi xe bọc thép nó tốn kém ra”. Nếu anh không đi xe bọc thép thì ngày mai anh nên đi bằng xe vận tải - mọi người góp ý như vậy. Vì ngày mai cũng có xe của hậu cần chở lương thực đi Xiêm Riệp -anh đồng ý. Nhưng hôm sau anh lại quyết định đi xe Uoát. Với tác phong của nhà chỉ huy quân sự, nên anh bỏ xe bảo vệ, vượt lên hàng đầu.

  Sau giây phút suy tư như nhớ ra điều gì, Trung tướng nói:

-  Mình nhớ rồi, hôm đó đúng vào ngày 16 tháng 3 năm 1979. Đang làm việc ở cơ quan, nhận được điện anh Tuấn bị phục ở núi Thơm, mình vội vàng xuống ngay chỗ phục kích. Anh bị thương nặng lắm, có nhiều mảnh đạn ở trong người anh. Các bác sĩ giỏi nhất được điều đến. Sau khi hội chẩn quyết định phải mổ, rồi yêu cầu mình ký vào bản cam đoan. Mình đắn đo mãi cuối cùng phải điện về Bộ Tư lệnh xin ý kiến và như cậu biết đấy mình đã ký, để sơ phẫu cho anh. Ngày mai mới có máy bay đưa anh về thành phố.

   Trời như sập xuống. Mưa xối xả. Những hạt mưa rơi vào mái tôn nghe đến rợn người.

   Ngừng trong giây lát, anh Lân trầm tư:

   - Giá như lúc đó có phương tiện nào đưa anh về ngay thành phố, nhưng cậu biết đấy đêm tối máy bay không xuống được mà đi bằng đưòng bộ, không an toàn.

   - Em nghe nói Thủ trưởng Tuấn mất trên máy bay?

  - Đau lắm cậu ơi! Trên chiếc trực thăng UH anh Tuấn tỉnh lại. Mình đã mừng, anh choàng tay ôm mình giọng thều thào: “Anh em mình có ai việc gì không”?

  - Mình giấu biệt chuyện cậu Hoa, cậu Quân bị hy sinh và trả lời: “Không ai việc gì đâu. Anh cứ yên tâm điều trị”. Mình thấy anh nói trong cơn thở gấp: “Lân này, có về Hà Nội gắng rẽ qua chỗ bà ấy nhà mình. Nói vói bà ấy dạy dỗ các con thành người, xin lỗi bà ấy và các cháu hộ mình. Cho mình... vĩnh... biệt”.

   - Cậu ơi - giọng Trung tướng lại nghẹn ngào: Trong cuộc đời bộ đội, mình đã chứng kiến nhiều hy sinh của đồng đội nhưng sự ra đi bất ngờ của anh là một mất mát quá lớn đối vói mình. Mình chỉ còn biêt ôm chặt anh vào lòng, nước mắt giàn giụa.

  - Đấy cậu thấy không? Một ông tướng, một vị Tư lệnh Quân đoàn lương tâm trong sạch trước khi chết còn lo cho đồng đội, vợ con, lo tiết kiệm cho quân đội, cho nhân dân từ lít xăng dầu. Quý thật!...

   Tôi thấy giọng ông gay gắt hơn, để ông bình tâm trở lại, tôi hỏi:

   - Vậy anh đã về Hà Nội lần nào chưa?

   - Mình về rồi, chị cũng còn khó khăn lắm có lúc chị cũng than phiền “anh ấy cứ đi biền biệt, vợ chồng lấy nhau mấy chục năm, nhưng ở với nhau có được bao nhiêu đâu”. Song chị lại nói: “Lấy chồng bộ đội là phải chấp nhận như vậy, nhưng được cái anh ấy quan tâm đến vợ con lắm. Viết thư luôn, đôi khi gửi cân đưòng, hộp sữa. Có lần tôi nói anh đừng gửi nữa ở nhà đã có tiêu chuẩn tem phiếu của em rồi. Anh không nghe, còn bảo: “Anh xin dùng một nửa là đủ rồi, gửi về cho con, nó bồi dưỡng để lấy sức mà học”. Đấy anh Lân xem thế có tức không cơ chứ?” và chị cười...

   Tôi để ý thấy nét mặt anh Lân vui hơn lúc trước, tôi cũng vui lây. Anh nói tiếp:

   - Đấy là trước kia. Còn bây giờ chị đã nghỉ hưu, các cháu trưởng thành cả rồi.

   Bỗng anh Lân dừng lại rồi đứng lên chắp hai tay phía sau đi đi, lại lại. Anh nói với tôi:

   - Những công lao và đóng góp to lớn của anh đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng danh hiệu cao quý nhất: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhưng cao quý hơn vẫn là những tình cảm chân thành của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn Tây Nguyên dành cho anh.

  Bên ngoài, tan cơn mưa, trời Sài Gòn trong xanh cao vời vợi.

Thành phố Hồ Chí Minh,
tháng 11 năm 2000


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 02:59:06 pm
NHỚ NỤ CƯỜI ANH KIM TUẤN


UYỂN - HOÀI


   Suốt những năm dài kháng chiến chống đê quốc Mỹ xâm lược, anh Kim Tuấn gần như thường xuyên xa nhà, chỉ thi thoảng về Hà Nội công tác kết hợp vài ba hôm thăm gia đình. Tuy thời gian hạn hẹp, anh Kim Tuấn vẫn quan tâm đến thăm vợ chồng tôi cùng hai cháu Phương, Nam còn nhỏ. Điều đó động viên chúng tôi rất nhiều. Nhớ lại những năm 1965-1975, cả nước vừa có chiến tranh khốc liệt, vừa phải sống trong nền kinh tế bao cấp thiếu thốn đủ thứ nhưng về mặt tinh thần thì thanh thản hơn, mọi người vô tư, quan tâm đến nhau, thông cảm và sẻ chia vui buồn, đoàn kết cùng nhau thực hiện lý tưởng chung đó là đánh đuổi giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước và xây dựng một xã hội no ấm, công bằng, văn minh. Tuy ít có dịp gặp nhau, nhưng chúng tôi luôn quý mến, kính trọng anh Kim Tuấn như người anh cả trong gia đình.

   Tôi khi ấy còn là một thanh niên “Ba sẵn sàng” và vợ đang công tác tại Nhà máy in Tiến Bộ. Tôi ở ngành nông nghiệp và cũng thường xuyên phải xa nhà đi các cơ sở địa phương. Vợ chồng tôi thường động viên nhau học tập gương anh Kim Tuấn - chị Tú Khuê, giỏi việc nước đảm việc nhà. Tôi nhớ một hôm vợ tôi đi làm về cầm theo một cái áo lính đã cũ sờn, nói là của anh Kim Tuấn gửi cho. Tôi vô cùng xúc động và rất quý chiếc áo đó, bởi nó đã từng thấm đẫm mồ hôi cùng bao nỗi vất vả nhọc nhằn của anh. Tôi đã mặc chiếc áo đó suốt mấy năm chiến tranh và cả một thời kỳ bao cấp. Hiện gia đình chúng tôi vẫn còn lưu giữ một tấm ảnh lớn mà tôi mặc chiếc áo lính anh tặng chụp cùng vợ con ở nơi sơ tán. Trong ký ức của chúng tôi, anh Kim Tuấn luôn là một người anh cả hiền lành, khiêm nhường, ít nói. Đã bao nhiêu năm trôi qua nhưng chúng tôi không thể nào quên được dáng dấp, giọng nói, ánh mắt và đặc biệt là nụ cười hiền hậu, thông cảm và sẻ chia, có sức truyền cảm lạ lùng của anh Kim Tuấn. Mỗi lần đến thăm chị Khuê và hai cháu Hà, Hiệu, chúng tôi như được gặp lại nụ cười và ánh mắt anh Kim Tuấn hiện hữu trên khuôn mặt của hai cháu đang trưởng thành theo bước cha mẹ mình.

  Cuộc đời chiến đấu và hy sinh của anh Kim Tuấn thật oanh liệt, hào hùng. Suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở nước bạn Cam-pu-chia, anh luôn dũng cảm, xông pha trên tuyến đầu.

  Đầu năm 1979, anh hy sinh khi đã hoàn thành sứ mệnh tiêu diệt bọn diệt chủng để bảo vệ nền độc lập cho nhân dân Cam-pu-chia.

  Từ lâu chúng tôi đã có ước nguyện đến thăm đất nước Cam-pu-chia láng giềng, là nơi anh Kim Tuấn đã anh dũng ngã xuống và cuối cùng điều đó cũng trở thành hiện thực. Vào tháng 9 năm 2009, vợ chồng tôi đã đặt chân tới đất nước Cam-pu-chia. Đi từ cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh) đến Thủ đô Phnôm Pênh có quảng trường và Tượng đài Quân tình nguyện Việt Nam. Đến Xiêm Riệp nơi có Ăng Ko Thom, Ăng Ko Vát nổi tiếng... Đi đến đâu chúng tôi cũng cảm nhận được sự hiền lành, hiếu khách, hữu nghị, bác ái của nhân dân Cam-pu-chia đang nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, nô nức xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp, giữ vững, phát triển tình đoàn kết anh em, đồng chí với Việt Nam, các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Trong suốt quãng thời gian thăm nước bạn Cam-pu-chia anh em, chúng tôi bồi hồi như được đồng hành cùng anh Kim Tuấn trên khắp các nẻo đường, đến đâu cũng như gặp lại nụ cười hiền hậu, ánh mắt chan hòa của anh.

  Về lại cửa khẩu Mộc Bài, chúng tôi lưu luyến chia tay đất nước Chùa Tháp xinh đẹp. Nhìn qua biên giới nước bạn, như còn đâu đây bóng hình anh Kim Tuấn đứng vẫy tay chào tạm biệt chúng tôi. Anh như còn tiếp tục sự nghiệp cao cả của mình.

Tháng 6 năm 2011


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 03:00:41 pm
LẶNG LẼ VÀ GIẢN DỊ NHƯ ANH


MẠC - THỦY


   Đấy là anh Kim Tuấn, một Anh hùng, Liệt sĩ của Quân đội nhân dân Việt Nam chúng ta.

  Đấy là một người anh, tuy đi xa đã hơn 30 năm nhưng bóng dáng vẫn hiển hiện gần gũi trong lòng mỗi chúng tôi, những người em trong gia đình. Anh Kim Tuấn và tôi cùng là con rể của ông bà các cháu. Tôi còn nhớ mãi những ngày đầu cuộc chiến tranh chống Mỹ, trong nhiều năm tháng chúng tôi đều gửi con nhỏ nhờ ông bà giúp đỡ, trông nom. Mỗi lần nghỉ phép thăm ông bà ngoại, anh Kim Tuấn chăm chỉ lo mọi việc giúp đỡ vợ con. Ngày hè nóng nực, anh xoay trần sửa chữa xe đạp cho vợ và các em, giặt giũ cả quần áo cho các con, các cháu. Tuy có cần vụ và lái xe riêng, nhưng anh để cho các chiến sĩ ấy được ghé về thăm nhà. Mọi việc anh tự phục vụ.

  Tôi cũng không quên những bữa ăn do anh tự nấu mọi món để “cải thiện” cho cả nhà, mặc dù thời ấy thực phẩm rất khó mua bởi thời chiến tranh và bao cấp. Ngày ấy mọi người cứ trêu tôi là không biết học tập anh Kim Tuấn khi cùng là con rể phải nhờ vả bên ngoại mọi thứ! Nhiều lần tôi phải mượn câu thơ của một đại thi hào để chống chế:

   “Anh giỏi sự
   Tôi tài ca!”.


  Thế là anh Kim Tuấn tủm tỉm cười và lại lặng lẽ chuyển sang tiết mục gấp, rồi là quần áo và dắt các cháu sang chùa Quán Sứ xem nhà sư tụng kinh, niệm Phật...

   Sau ngày giải phóng miền Nam, có lần từ Thành phố Hồ Chí Minh tôi đi xe đò qua Lái Thiêu, lên Thủ Dầu Một và tìm đến nơi làm việc của anh Kim Tuấn. Mới giải phóng, công việc bộn bề, anh vẫn thu xếp thời gian trưa, tối cùng tôi trò chuyện và tiễn tôi về tận Sài Gòn, nơi tôi đang đi thực tế cùng một số nhà văn, nhà báo.

   Ấn tượng không bao giờ quên khi nhớ về anh là một con người giản dị, lặng lẽ trong lối sống; nhiệt tình, năng nổ trong công việc. Hơn ba mươi năm đã qua, nhưng mỗi lần nhớ về anh, tôi lại thấy hiển hiện ánh mắt và nụ cười hiền dịu của anh.

Kỷ niệm ngày Thương binh, Liệt sĩ 27-7-2011


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 03:02:01 pm
ANH LẶNG LẼ - VÌ MỌI NGƯỜI
(Tưởng nhớ Anh hùng, Liệt sĩ Kim Tuấn)


NGUYỄN BAO


Khi đất nước vừa giành được chính quyền
Mới kịp viết những dòng đầu tiên:
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.

Khi mảnh đất Nam Bộ
Vừa bầm đen bóng giặc
Anh lặng lẽ đầu quân.

Anh âm thầm mượn giấy khai sinh
Từ chính anh ruột của mình
Cho đủ tuổi của người cầm súng.

Những năm tháng cách xa, ũủng âm thầm và lặng lẽ
Sau chiến sự nhọc nhằn, gian khó
Mỗi năm dành vài ngày phép ghé thăm nhà
Giúp vợ con lợp lại mái ngói xô
Đổ đầy bể nước,
Giặt vội chậu áo quần
                 trước lúc dắt con chơi.
Anh lặng lẽ
   ém quân
             những tháng năm dài
Rừng núi Tây Nguyên, xa khuất đường 19
Đợi ngày cùng đại quân
                       lao về phía biển
Chặn đường lui quân
                sống chết của quân thù!
Nhưng chiến tranh
               có bao chuyện không ngờ
Nào ai biết
              Anh bất ngờ
                       ngã xuống
Vì ngày mai đất nước
Vì hạnh phúc biết bao người thân thương
Biết ơn Anh
          Trọn một đời
                    lặng lẽ hy sinh!


Tháng 7 năm 2011


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 03:04:29 pm
MẤY LỜI TÂM SỰ KHI TÔI VIẾT BÀI THƠ:
“PHÚC LÂM, QUÊ HƯƠNG TƯỚNG KIM TUẤN”


HOÀNG THỌ VỰC*



   Mấynăm trước, tôi về quê dự việc làng. Đến lễ hội tôi có đọc bài thơ “Lễ hội Phúc Thụy” 12 khổ. Đọc xong, ông Hoàng Xuân Vũ có hỏi tôi: “Khổ thơ thứ 6 nói về Tướng Kim Tuấn thì ông có biết ông Kim Tuấn đã chỉ huy quân đội đánh tan đồn Phúc Lâm không?”.

   Tôi ngẩn người thú thật là “tôi đi xa không rõ lắm, tôi chỉ được các ông Thịnh, ông Thái là anh em ruột và ông Lộc là em họ kế về thành tích to lớn của Tướng quân Kim Tuấn, năm 1975 là Tư lệnh Sư đoàn 320 dự trận Buôn Ma Thuột ông Tuấn có đánh chặn địch ở Cheo Reo, Phú Bổn và đã thắng lớn, đánh tan rã cả quân đoàn 2 ngụy. Tiếp nhận hàng vạn tên lính ngụy đầu hàng. Đến cuối tháng 3 năm 1975 thì được vinh thăng là Tư lệnh phó Quân đoàn 3 của Quân đội nhân dân Việt Nam!”.

   Thế là ông Vũ bồi hồi kể về các năm 1951-1954 vùng quê Kẻ Chảy ta (gồm Phúc Lâm, Minh Thụy, Ước Lễ) đã bị giặc Pháp chiếm đóng. Chúng o ép nhân dân ta xây đồn bốt ở Phúc Lâm, cái đồn đó ở đầu làng ta lối rẽ lên Bồ Nâu để bắt phu, bắt lính khắp vùng nam Thanh Oai này.

  Ông Tuấn lúc đó (1951-1952) mới chỉ là Đại đội trưởng hoặc Tiểu đoàn trưởng thôi mà đã chỉ huy bộ đội ta phá tan cái đồn Phúc Lâm xây hình vuông. Ông Tuấn lúc đó còn trẻ lắm mới độ 24, 25 thôi mà tài đến thế. Sau đó, Pháp phá hẳn Chùa Phúc đi để xây cái bốt khác hình tròn. Đến năm 1954 được giải phóng, ta liền phá cái bốt đó và xây Ủy ban nhân dân và Phòng Truyền thống xã Tân Ước ở chính trên cái đồn đó. Tôi mừng quá, lần đầu tiên sau 60 năm tôi mới được ông Vũ, ông Tự kể về thành tích quê hương, nhớ lại những năm 1945-1950 giặc Pháp mạnh lắm, bắt hoặc giết được 1 tên lính Pháp, lính ngụy đâu phải là chuyện dễ dàng. Chỉ vài tên lính Pháp, lính ngụy ra khỏi đồn Thạch Bích -Thanh Oai để đi bắt gà, bắt lợn là dân làng ta đã phải chạy tản cư rồi. Đúng thế thật, năm 1949 giặc Pháp mấy lần tiến quân vào Ước Lễ giết người chặt đầu phơi thây ở Cổng Cầu và Quán Thanh Lương. Bà con ta rất lo sợ.

   Chính tôi phải đưa mẹ và các em vào Vân Đình, rồi chợ Sêu để định vào Thanh. Nhưng mới đi gần tới chùa Hương thì biết tin Pháp đã chiếm chùa Hương rồi. Tôi phải đưa gia đình lộn lại cầu Giậm vào chợ Bến, chợ Xồ rồi vượt đưòng số 6 vượt sông Đà để lên Việt Bắc. Khi đó tôi được tin mấy anh em của Kim Tuấn đã lên rừng kháng chiến. Đầu năm 1951, giải phóng thị xã Hoà Bình, tôi mới đưa gia đình vào Thanh Hoá.

   Viết đến đây tôi định thôi vì thấy tạm đủ rồi, nhưng tôi vẫn cảm thấy cần viết thêm về “gia phong” của gia đình Tướng Kim Tuấn mới thật là trọn vẹn:

   Năm 1996 có dịp ra Hà Nội, được gặp anh Thịnh là anh ruột của Tướng Kim Tuấn ngỏ lời mời: “Chẳng mấy khi ông cậu ra đây cháu muốn mời ông cậu xuống Hải Phòng thăm mộ và dự ngày giỗ của bố mẹ cháu”. Tôi lưỡng lự một lát rồi nói: “Lâu nay, tôi rất muốn xuống Hải Phòng thăm hai bác nhưng quá bận. Hôm nay anh ngỏ lời thế tôi phân vân lắm, nếu anh tổ chức đi ngay lúc này, hoặc chiều nay... cùng lắm là sáng mai thì tôi không thể nào từ chối được”. Thế là ngay hôm đó anh đã thu xếp để tôi được thoả mãn. Có đi tôi mới thấy tài tổ chức của một Đại tá quân đội. Anh ấy tính toán từng giờ từng phút của mọi nơi để chuyến đi thật thành công.

   Đến Hải Phòng, anh cho xe vào luôn chùa Đông Khê để thăm mộ hai bác. Nhìn thấy ảnh hai bác ở trên mộ tôi chảy nước mắt nghĩ tới công ơn của hai bác đối với gia đình tôi. Đó là năm 1955 tôi cưới vợ. Trong tuần trăng mật, tôi đưa vợ tôi từ Thanh Hoá ra thăm anh chị, đúng lúc anh chị hoàn thành ngôi nhà mới xây. Thế là vợ chồng tôi được hưởng cái ân huệ “mới tinh khôi” sang trọng dó. Hỏi trên đời còn có cái gì sung sướng hơn sự chiêu đãi quý báu của ông anh rể. Về nhà tôi đã làm thơ: Kính viếng hương hồn anh chị, có đoạn:

“Về thăm anh chị một ngày
Hải Phòng ướt đẫm mưa lầy đường trơn
Qua bao năm tháng gian truân
Hôm nay mới gặp người thân trong nhà
Ảnh còn lưu ánh mắt xưa
Mà âm dương đã cách chia đôi đường...”.


   Nhưng bất ngờ lớn nhất là khi làm lễ trước ban thờ ở nhà, tôi giật mình thấy bức Đại tự “Hiếu hữu gia phong” được bày trên bàn thờ kỳ lạ quá. Nó giống như in bức đại tự “Đại đức tất đắc” của bố mẹ tôi ngày xưa ở Hà Nội với hình ảnh rất dân tộc là một cành tre nằm vắt ngang ở mé trên với con chim nhỏ, nổi bật hàng chữ “Hiếu hữu gia phong” màu vàng trên nền then đen bóng loáng.

   Tôi ngẩn người ra ngắm mãi, rồi khẽ khàng thổ lộ: “Này anh Hải này, sao tôi thấy bức đại tự ở đây trang trí giống hệt bức đại tự ở trên nhà”... Tôi được anh Hải kể: “Bức đại tự đó là của ông ngoại tặng thầy cháu đấy”! Tôi ngỡ ngàng về sự tinh thông của thầy tôi đã sớm nhận ra những đức tính quý báu của người con rể, không bao giờ đánh mắng vợ con, không bao giờ cờ bạc rượu chè. Nuôi 9 người con đều nên người có ích.

   Anh Hải - một kỹ sư tài năng đã 2 lần được cử sang Liên Xô học tập lại kể tiếp về sự linh thiêng đến kỳ lạ của bức Đại tự. Số là những năm đầu kháng chiến, gia đình tản cư đi các nơi tới 1 năm. Lúc về, đi thuê chỗ khác, bức đại tự bị thất lạc ở tận đâu. Bất ngờ, một buổi sáng thấy hai người khiêng đi bán, đứng đúng ở trước cửa nhà cháu. Thế là bố mẹ cháu mua lại được, đúng là “Châu về Hợp Phố”... Mừng quá là mừng.

   Tôi nghĩ về gia đình riêng của Tướng Kim Tuấn:
   Con trai của anh là Nguyễn Công Hiệu, Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.
  Con gái là Nguyễn Thị Thanh Hà, Tiến sĩ, Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.

  Lại nghĩ tới lời Bác Hồ căn dặn toàn quân phải “trung với nước, hiếu với dân”. Nghĩ về bức Đại tự “Hiếu hữu gia phong” thì thấy gia đình quân đội của Tướng Kim Tuấn thật là “công tư vẹn toàn”.


---------------------------------------------------------
* Cậu của Thiếu tướng Kim Tuấn


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 03:06:39 pm
PHÚC LÂM QUÊ HƯƠNG TƯỚNG KIM TUẤN

HOÀNG THỌ VỰC

Phúc Lâm đình cũ có ao sen
Lễ hội lung linh vạn ánh đèn
Thờ đức Lữ Gia ngôi tể tướng
Bao phen chiến trận cứu dân đen.

Con cháu noi gương sáng của Người
Xông pha lửa đạn khắp nơi nơi
Giải phóng miền Nam, rồi giúp bạn
Kim Tuấn danh vang một tướng tài.

Giặc Pháp xây đồn ở Phúc Lâm
Bắt phu bắt lính khắp xa gần
Kim Tuấn đưa quân về dẹp giặc
Giải phóng quê hương, trợ giúp dân.

Ba mươi năm kháng chiến trường kỳ
Đánh cho Mỹ - ngụy phải suy vi
Cheo Reo sau trận Buôn Ma Thuột
Giải phóng Sài Gòn, sử sách ghi.

Tổ quốc vinh quang thống nhất rồi
Cao Miên còn máu chảy đầu rơi
Giúp bạn đánh tan quân Pôn Pốt
Tướng quân dính đạn giữa quê người.

Kim Tuấn người con của Phúc Lâm
Suốt đời chiến đấu cứu nhân dân
Hình ảnh sáng tươi phòng truyền thống
Vẻ vang dòng họ với quê hương.



Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 03:07:58 pm
LỄ HỘI PHÚC THỤY

HOÀNG THỌ VỰC

Đây ngôi đình Phúc trước ao sen
Điện chính lung linh vạn ánh đèn
Thờ đức Lữ Gia ngôi Tể tướng
Bao phen chiến trận cứu dân đen

Đình Minh gốc tổ với đôi rồng
Muôn đời cổ kính mái rêu phong
Chính điện sáng trưng ngày tế lễ
Câu đối hoành phi rực rỡ vàng

Áo đỏ uy nghi tóc bạc phơ.
Trang nghiêm quỳ lạy trước ban thờ
Chiêng trống hòa âm cùng sáo nhị
Xiết bao tưởng nhớ dáng Thầy xưa.

Chùa Minh cầu mới nối Tam Quan
Nhân đức Phật bà ngự giữa sân
Tiếng mõ cầu kinh rằm, mồng một
Độ trì đệ tử thoát trầm luân.

Chuông sớm chiều vang vọng xóm Ngô
Trông xa cao vút tháp Nhà Thờ
Nhớ ai cùng đóng bao vai kịch
Cho lắm chàng trai tiếc ngẩn ngơ

Giữa phòng truyền thống của quê hương
Tướng quân Kim Tuấn - một anh hùng
Pháp, Mỹ kinh hoàng, tan tác ngụy
Cạnh Đài liệt sĩ - đã ghi công.

Nâng cao dân trí những ngôi trường
Hai tầng vững chãi rộng khang trang
Bồi dưỡng nhân tài bao thế hệ
Giấc mơ muôn thuở của cha ông...

Sư tử đua tranh với múa rồng
Rừng cờ tán lọng nhạc âm vang
Các em các chị xênh xang múa
Tôn vinh kiệu Thánh rước Thành Hoàng.

Com lê, ca vát, áo dài nhung
Rất đẹp thêu hoa đỏ tím vàng
Các cụ ra Đình mừng thượng thọ
Hân hoan tóc bạc chít khăn hồng.

Tôi muốn hòa vui giữa đám đông
Chung vai sát cánh vỗ tay mừng
Chợt nhớ ra mình “lai hy cổ”
Bạn cũ nay toàn Cụ với Ông.

Tôi muốn góp vào đêm văn nghệ
Vài màn kịch hát với ngâm thơ
Cùng với Lạc, Vân, Thân, Quế, Khánh
Những ngày đánh Pháp đã xa mờ.

Hỡi các bà con giữa hội làng
Tôi muốn gửi lời thân mến thương
Muốn hóa thành cành đa cao ấy
Bên cầu muôn thuở ngắm quê hương.



Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 03:11:04 pm
KIM TUẤN - VỊ TƯỚNG ANH HÙNG

                             Thạc sĩ HOÀNG XUÂN KHÁNH*


Ba mươi năm
         trường kỳ kháng chiến
Nổi bật lên
        một trận Ban Mê
Núi rừng Tây Nguyên
               bao năm u uất
Vụt đứng lên
                 ào ạt tiến công
Cheo Reo
               thiên sử anh hùng
Chặn địch rút từ Plei Ku xuống
Hàng vạn viên đạn pháo ầm vang
Mấy ngày đêm núi rừng Cheo Reo rực lửa
Hàng ngàn xe tháo chạy
              chen nhau ngang ngửa
Trên trăm cây số đường rừng
               hàng vạn lính giặc bỏ súng quy hàng
Sư Ba hai mươi (F320)
                rực rỡ chiến công
Đánh tan tác quân đoàn 2 ngụy
Cả nước reo vui
Ảnh chiến bại in đầy trang báo Mỹ
Tổng thống Thiệu kinh hoàng lo sợ

Chiến thắng Cheo Reo đi vào lịch sử
Với Tướng quân Kim Tuấn Anh hùng
Cheo Reo cùng với Chi Lăng
Sáng bừng giáo án quốc phòng Việt Nam.



-----------------------------------------------------------
* Em họ Thiếu tướng Kim Tuấn


Tiêu đề: Re: Chân dung vị tướng anh hùng, liệt sĩ Kim Tuấn
Gửi bởi: hoi_ls trong 27 Tháng Chín, 2013, 03:13:18 pm
LÁ THƯ TỪ CHIẾN TRƯÒNG GỬI THẦY, U
CỦA THIẾU TƯỚNG KIM TUẤN


  Ngày 17 tháng 1 năm 1979
  Thưa thầy, u!


  Hôm nay những ngày đầu năm 1979 thắng lớn và cũng sắp đến Tết cổ truyền của dân tộc, sau khi hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu lịch sử, con về họp ở Thành phố Hồ Chí Minh, tương đối rỗi nên viết thư về thăm sức khỏe của thầy, u, các em trai gái dâu rể, các cháu cũng đồng thời là chúc Tết thầy u và mọi người trong gia đình sang năm mới luôn mạnh khỏe, vui vẻ, tiến bộ, mọi sự tốt đẹp.

   Còn con vẫn rất khỏe mạnh, ăn được ngủ được, luôn giữ vững mọi mặt tốt. Chiến đấu ở mặt trận được Đảng, Chính phủ hết sức chăm lo săn sóc, song dĩ nhiên do ta còn quá nghèo thiếu thốn cộng với sinh hoạt ở mặt trận khá vất vả, gian khổ nên bộ đội cần phải có một sự nỗ lực rất cao, phải có một sự khắc phục khó khăn chịu đựng gian khổ khá lớn. Tuy vậy phần lớn anh em ở mặt trận cũng đều thông cảm vói hậu phương, mọi người cũng đều có một sự nỗ lực rất to lớn đóng góp xương máu của cải vật chất và tinh thần của mình, chịu đựng thiếu thốn gian khổ để đóng góp cho mặt trận đánh thắng. Tới nay ta và bạn đã thắng, đánh đổ bọn Pôn Pốt - Iêng Xary và đã thực hiện được ba vấn đề lớn: đối với dân tộc ta đã bảo vệ được vững chắc Tổ quốc ở phía Tây Nam, đối với nhân dân Cam-pu-chia đã cứu được dân tộc này khỏi nạn diệt vong, thoát khỏi một chế độ vô cùng tàn bạo dã man không ai lường được để khôi phục được một nước Cam-pu-chia hòa bình, giàu đẹp ấm no hạnh phúc và đoàn tụ với Việt Nam; đối với loài người thì cũng đóng góp đánh bại được kế hoạch bành trướng xuống Đông Nam châu Á.

   Thắng lợi vừa qua thật là to lớn, vĩ đại, đạt được do có sự lãnh đạo thật là sáng suốt đúng đắn của Trung ương Đảng; có chính nghĩa; nhân dân Cam-pu-chia đồng tình ủng hộ và nhờ sự giúp đỡ của ta; hậu phương hết sức chi viện người và của cho mặt trận; bộ đội chiến đấu rất giỏi và dũng cảm, công việc chỉ huy tốt. Tuy vậy còn rất gian khổ vất vả và lâu dài thì mới diệt được hết mầm mống phản động, xây dựng một chế độ xã hội mới, một nền kinh tế mới, thật là vô cùng to lớn và phức tạp, trong công cuộc này bộ đội phải đóng góp rất to lớn và đảm nhiệm nhiệm vụ nặng nề nhất vì bộ đội có sức mạnh lớn.

   Gia đình ta rất may mắn là trong dịp này đã có sự đóng góp, con được tham gia từ đầu và chắc còn tham gia lâu dài, còn anh Thịnh thì cũng được tham gia trong trận đánh lớn vừa qua.

   Tết sắp tới và một năm mới sắp tới, con chúc thầy u, các em, các cháu ở nhà ăn Tết ngon, vui vẻ, sang năm mới mọi người khỏe mạnh, luôn vui vẻ, tiến bộ, mọi sự tốt đẹp.

                                                  Kính thư
                                                        Tuấn





Hết