31. Type 74
Type 74 - xe tăng chủ lực có số lượng lớn nhất trong lực lượng Phòng vệ Nhật Bản, được thiết kế từ năm 1962, nhưng nó chỉ được đưa vào sản xuất hàng loạt 11 năm sau đó, năm 1973. Trong quá trình thiết kế xe tăng mới trên các nguyên mẫu, những chi tiết với và thời này không ảnh hưởng nhiều đến quyết định cấu trúc của xe tăng. Trong chi tiết, trên hai nguyên mẫu đầu tiên dưới tên gọi STB-1 có pháo nạp đạn tự động, hệ thống cân bằng pháo – tăng, thiết bị điều khiển từ xa cho súng phòng không trong xe tăng, thậm chí còn được lắp động cơ bổ sung. Trong quá trình thử nghiệm các nguyên mẫu sau đó, một số chi tiết mới bị tháo bỏ, trong đó có hệ thống nạp đạn tự động, nhưng vấn đề này, cũng không ít dòng xe tăng hiện đại trên thế giới cũng gặp phải vấn đề này.
Giữa các xe tăng cùng loại của các quốc gia khác nhau, Typr 74 có khối lượng nhẹ hơn – 38 tấn, phù hợp với việc sử dụng trong điều kiện tại các khu vực có cầu tải trọng thấp. Sự giảm độ dày giáp bảo vệ thân xe và tháp pháo được điều chỉnh bằng tháp pháo dạng thuôn và tiếp nhận các tấm thép trước thân xe có độ nghiêng lớn. Điểm đặc biệt nhất của xe tăng – hệ thống treo thủy khí động của bộ phận truyền động. Nó cho phép thay đổi độ cách đất của xe tăng dao động từ 200mm đến 650mm, phụ thuộc vào địa hình khu vực, Type 74 có thể thay đổi góc nghiêng của mình. Trong quá trình di chuyển, Type 74 có thể thay đổi đồng thời kéo căng băng xích, để tăng sự cơ đông theo đất nền có độ nén, đặc khác nhau. Type 74 được trang bị hai kiểu băng xích với khớp kim loại pha cao su: trong huấn luyện – với các mắt xích không làm hư hỏng sự che phủ atfan của đường xá, còn trong chiến đấu – cao su pha kim loại hoàn toàn với tăng chiều rộng cho khả năng hoạt động trên các địa hình gồ ghề. Trên xe tăng, động cơ và hệ thống động lực được lắp chung một khối. Động cơ chữ V hai thì diezen 10 xilanh 10ZF 22WT của hãng “Mitsubisi” có hệ thống làm mát bằng không khí và 2 máy nén khí kiểu tua bin 720 sức ngựa tốc độ quay 2100 vòng/phút. Động cơ đa nhiên liệu, vì thế ngoài nhiên liệu diezen, có thể hoạt động trên động cơ xăng và dầu hỏa cho máy bay. Với sự giúp đỡ của hệ thống truyền động thủy lực MT75A kiểu “Cross – Draive” của hãng “Mitsubisi” đảm bảo cho 6 cơ chế truyền động trước và 1 cơ chế truyền động sau, ngoài ra, các bàn đạp ly tâm cũng được sử dụng chỉ khi xe dừng lại và bắt đầu khởi động. Động cơ và hệ thống truyền động được hãng “Mitsubisi” chế tạo theo giấy phép sản xuất của các công ty Đức và Mỹ.
Xe tăng Type 74 trang bị hệ thống bảo vệ khỏi các loại đạn có sức công phá mạnh và các trang bị đặc biệt có thể vượt nước sâu 4m. Trên xe tăng lắp pháo rãnh xoắn 105mm L7 của Anh, trang bị hệ thống cân bằng dọc – ngang. Cơ số đạn 55 viên, gồm các loại đạn tiêu chuẩn NATO – dưới cỡ nòng và đạn nổ xuyên thép. Không có hệ thống nạp đạn tự động. Trang bị bổ sung: súng đồng trục 7,62mm và súng máy phòng không 12,7mm. Trong thành phần hệ thống điều khiển hỏa lực có tổ hợp thước ngắm tiềm vọng quan sát ngày và đêm, bổ sung kính viễn vọng, máy tính đường đạn kỹ thuật số của hãng “Mitsubisi electric”. Trưởng xe có hệ thống kính tiềm vọng hỗn hợp (ngày và đêm) với máy do xe laze lắp chìm, tầm hiệu quả từ 300 đến 4000 mét. Sự ngắm, dẫn bắn có thể được thực hiện bởi pháo thủ hoặc chỉ huy. Hệ thống qua sát đêm – kiểu linh hoạt (sự chiếu sáng mục tiêu được thực hiện bởi đèn pha).
Trong 14 năm sản xuất từ 1974 đến năm 1988, quân đội Nhật nhận 873 xe tăng Type 74, vài chục pháo tự hành nòng ngắn 155mm, các xe cứu kéo bọc théo chạy xích đặc biệt, xe tăng làm cầu cũng được chế tạo trên gầm Type 74.
Các thông số chính:
Tên gọi: Type 74
Phân loại : xe tăng cơ bản
Kíp xe: 4 người
Khối lượng chiến đấu: 38 tấn
Chiều dài,m: 9,4
Chiều rộng:,m: 3,2
Chiều cao,m: 2,0-2,5
Khối lượng vũ khí:
Pháo chính/mm: 1/105;
Hỗ trợ: 1/7,62; 1/12,7
Độ dày giáp đầu: 110mm
Độ dày giáp bên: -
Động cơ: “Mitsubisi” 10ZF 22WT, diezen, 600 sức ngựa
Tốc độ tối đa: 53km/h
Tầm hoạt động: 300km.