4. Mk VIII “Kromwell” (A27)
“Kromwell” được thiết kế cho việc thay thế cho dòng xe tăng hạng nhẹ dành cho bộ binh và với mục đích phát triển những loại xe tăng đủ mạnh, có thể thực hiện những nhiệm vụ cơ bản – hoạt động phía sau lưng (hậu phương) sau khi đột phá qua phòng tuyến của kẻ thù trên mặt trận. Cấu trúc của nó đã khắc phục được các điểm yếu của dòng xe tăng hạng nhẹ dành cho bộ binh trước đây – giáp đầu được tăng lên từ 65-75mm, tăng chu vi tháp pháo dành cho việc bố trí trên đó pháo chính 75mm thay cho pháo 40mm thông thường.
Nguyên mẫu xe tăng được thiết kế năm 1941, sự sản xuất hàng loạt “Kromwell” được thực hiện vào năm 1943, còn nó chỉ tham gia các hoạt động quân sự từ tháng 6 năm 1944. Nguyên nhân dẫn đến sự đình trệ này do nhiều khó khăn trong sự thích ứng của xe tăng với hệ thống động lực của động cơ dùng cho hàng không Rolls-Rois “Merlin”, được tiếp nhận trên phiên bản xe tăng “Metoer”. Hai hãng “Naffild” và không lâu sau là “Leiland motor” tham gia vào cuộc chạy đua này. Sau sự hiện đại hóa bộ phận truyền động của xe tăng “Crusader”, hình dáng bên ngoài của các xe tăng là tương đồng với nhau (đồng dạng). Tuy nhiên, nguyên mẫu của hãng “Naffild” được trang bị động cơ “Liberty” và không đáp ứng được yêu cầu hoạt động của khối thép nặng 27 tấn. Vì thế, loại xe tăng này với tên gọi A24 “Kromwell” I được sử dụng chủ yếu vào mục đích huấn luyện và được đổi tên thành “Kavalep”. Loại xe tăng “Kromwell” II của hãng “Leiland” mang tên A27 có động cơ hàng không “Merlin” 600 sức ngựa. Nhưng khi đó, theo định hướng của nền công nghiệp quân sự Anh năm 1941 định hướng đầu tiên nhằm vào việc sản xuất động cơ hàng không “Merlin”, hãng “Leiland motor” đã chuyển sang sản xuất xe tăng với động cơ “Lierty”, khác nhau ở mức độ hiện đại hóa (bộ hộp số truyền động mới và khả năng lắp đặt động cơ “Rolls - Rois” khi nó đáp ứng được yêu cầu). Phiên bản đó gọi là A27L “Cromwell” III để dành cho xe tăng với động cơ “Meteor”. Tên gọi “Cromwell” sau đó chỉ được duy trì đến A27M, còn A27L được đổi tên thành “Sentor”.
Tổng cộng từ giữa năm 1942, người Anh đã sản xuất khoảng 950 “Sentor”, 80 trong số đó dưới tên gọi CS, được trạng bị pháo nòng ngắn 90mm và tham gia các hoạt động quân sự tại Nooc măng đi. Một bộ phận “Sentor” được tái trang bị thành “Cromwell” bằng cách trang bị động cơ “Meteor”. Trong quá trính thử nghiệm và tinh chế lại có việc hoàn thành xong hệ thống truyền động. Điều đó làm cho “Cromwell” vào thời điểm đó, với tốc độ cao, khả năng cơ động cùng hệ thống vũ khí có hiệu quả cao, uy lực mạnh đã đáp ứng được yêu cầu của dòng tăng hạng trung bình thời kỳ này.
Phiên bản Mk I-III được trang bị pháo 57mm cũ, nhưng từ Mk IV đã được lắp pháo chính 75mm mạnh hơn. Từ năm 1943 đến 1945, đã có 1070 “Cromwell” với các biến thể khác nhau được xuất xưởng.
Không chỉ người Anh mới có thể sử dụng các “Cromwell” một cách thành công trong các trận chiến tại Châu Âu. “Cromwell” còn được người Ba Lan và Tiệp Khắc tiếp nhận trên mặt trận phía Tây. Tại Tiệp Khắc, “Cromwell” còn nằm trong lực lượng vũ trang đến đầu những năm 50 (Tk 20). Tại Anh, sau chiến tranh, nó được hiện đại hóa theo hướng trang bị pháo mới 83,8mm và nhận ký hiệu mới – FV401 “Charioter”. Từ năm 1956, các xe tăng này được chuyển đến Ai Len, Áo và Phần Lan. Trong các cuộc xung đột quân sự, “Cromwell” và các biến thể của chúng được sử dụng tới năm 1976. Đầu tiên chúng tham gia chiến tranh Triều Tiên, sau đó là các cuộc xung đột Arập – Israel. Vào một trong những cuộc xung đột đó, Quân đội Israel đã chiếm được 10 chiếc “Charioter” từ Tổ chức Giải phóng Palestin và sử dụng chúng chống lại quân Arập.
Các thông số chính:
Tên gọi: Mk VIII (A27M) Cromwell Mk IV
Phân loại: hạng trung
Kíp xe: 5 người
Khối lượng chiến đấu: 28
Chiều dài,m: 6,42
Chiều rộng,m: 3,05
Chiều cao,m: 2,49
Số lượng vũ khí:
Pháo chính/mm: 1/75
Hỗ trợ/mm: 2/7,92; 2/7,7
Độ dày giáp đầu: 76mm
Độ dày giáp bên: 38mm
Động cơ: “Meteor”, bộ chế hòa khí, 600 sức ngựa
Tốc độ tối đa: 61km/h
Tầm hoạt động: 277km.