Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 13 Tháng Năm, 2024, 01:28:20 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ván bài lật ngửa  (Đọc 132133 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #200 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 11:06:47 pm »

Một cái gì như bất nhẫn dâng lên trong lòng Luân. Dung thông cảm tâm trạng của Luân. Tiễn Giám mục lên xe, còn riêng hai người, Dung ngồi sát Luân:

- Anh cứ buông thả tình cảm, em thấy như vậy không có hại gì. Chúng ta là con người. Vả lại, ông ấy chưa hề có ý định xấu về anh.

Dung cung cấp cho Luân nhiều tin mới, chúng củng cố thêm nhận định của Luân: “Bravo” của Nhu chính là tín hiệu cho phía đảo chánh hành động.
Chuông ngoài cổng reo. Thạch mở cổng. Chiếc xe tải to sầm sơn màu vàng của hãng BGI vào sân. Mấy người khuân các két bia, nước ngọt xuống. Một nhân viên đi vào nhà, với quyển sổ thanh toán trên tay.

Luân sửng sốt một giây.
- Mời ông ngồi! - Luân chỉ ghế cho nhân viên của hãng BGI. Anh nói khẽ vào tai Dung:
- Khi người ta xuống xong các thứ, nhận xong vỏ chai, em bảo Thạch mời tất cả ra chỗ Thạch đãi họ... Lý do? Lấy sinh nhật bé Lý...

Dung hiểu. Cô liếc nhanh “nhân viên” BGI - và cô đoán: Anh Sáu Đăng. “Nhân viên” BGI mỉm cười với cô.

...Mỹ dứt khoát loại Diệm bằng hình thức đảo chính. Đó là điều Mỹ cố tránh song không tránh khỏi. Diệm tuy là tay sai của Mỹ nhưng lại không ngoan ngoãn. Y có mặt “tương đối độc lập” của y. Từ khi lên cầm quyền, Diệm bắt tay xây dựng một triều đại kiểu hoàng đế mà không xưng hoàng đế: “Tổng thống suốt đời”. Y dựa vào thế lực Thiên Chúa giáo phản động cực đoan di cư và dân di cư nói chung, dựa vào các phần tử tư sản thuộc gia đình và vây cánh y thay chân số thân Pháp và dựa vào quân đội, cảnh sát. Nhưng, giữa Mỹ và y có một khoảng cách và khoảng cách đó lớn dần. Y muốn thâu tóm mọi quyền hành, Mỹ muốn chia xẻ quyền hành cho nhiều nhóm để kìm chế lẫn nhau. Từ khi nhân dân miền Nam đồng khởi và Mặt trận Dân tộc Giải phóng ra đời, Mỹ - Diệm mất quyền kiểm soát ở nông thôn. Mỹ rút ra kết luận là vì Diệm thực hiện sai lệch chính sách của Mỹ nên Cộng sản mới giành được thắng lợi.
Mỹ buộc phải đưa thêm cố vấn vào miền Nam và đến mức phải thành lập cả một Bộ chỉ huy, thực chất là Bộ chỉ huy viễn chinh hay ít ra cũng là tiền thân của Bộ chỉ huy ấy. Với mấy lần cảnh cáo quân sự không kết quả, Mỹ dùng sức ép chính trị thông qua phong trào Phật giáo. Tiếng là phong trào Phật giáo, kỳ thực gần như mọi giới, mọi tầng lớp đều chống Diệm, dựa danh nghĩa Phật giáo. Mỹ hiểu được điều đặc biệt ấy; nếu để các nhà sư tiến bộ lãnh đạo thì phong trào sẽ phát triển về phía mở ra khả năng thương lượng với Mặt trận, nghĩa là Mỹ sẽ thất bại. Cho nên Mỹ phải tung tay sai vào lèo lái phong trào Phật giáo, và bây giờ thêm phong trào học sinh, sinh viên. Tất cả màn chính trị sục sôi là giáo đầu cho một cú quân sự mà cú quân sự sẽ chớp nhoáng để ta không kịp khai thác. Mỹ nắm được một số tướng và thỏa thuận với Pháp một số tướng vốn là người của Pháp. Yêu sách của Pháp, như De Gaulle tuyên bố ở Nam Vang, đặt Nam Việt trong quy chế trung lập, Mỹ ỡm ờ, nhưng chắc chắn cốt lợi dụng Pháp, không đời nào chịu nhả Nam Việt. Có thể có những khả năng sau đây: Nếu Diệm đổ, một ê kíp tay sai gồm cả thân Mỹ và thân Pháp điều khiển khá cuộc chiến tranh, Mỹ khỏi đưa thêm quân vào mà đẩy lùi chính sách liên minh với Pháp; nếu ê kíp mới tỏ ra kém khả năng, sẽ có thay đổi tay sai, loại những người thân Pháp, chỉ để bọn thân Mỹ độc quyền, trong trường hợp này, đẩy lùi được ta thì Mỹ vẫn giữ mức quân như hiện nay, hoặc tăng thêm chút ít nữa; nếu cả giải pháp đó không thu kết quả thí chiến cuộc sẽ thay đổi quy mô, chưa đoán trước quy mô tới đâu song chắc chắn sẽ là cuộc chiến tranh lớn và chiến tranh của Mỹ.
Về Diệm, hoặc y đề kháng hoặc y đầu hàng. Y đề kháng, có lợi cho phong trào - nhân rối loạn mà quét ấp chiến lược. Y bị hạ bệ và lưu vong, mâu thuẫn chưa dàn xếp, diễn tiến sẽ còn phức tạp.
Về phong trào Phật giáo, nhất định phân hóa. Số chân tu và số quần chúng yêu nước hiện nay đang say, họ căm ghét Diệm mà chưa thấy cái nguy hiểm của Mỹ, nhưng sớm muộn gì họ cũng sẽ thấy. Về phong trào sinh viên, học sinh, đang phân hóa, đã có một số nhận thức chống Diệm đồng thời phải chống Mỹ - số này còn nhỏ nhưng chắc chắn sẽ lớn nhanh.
Tương quan chung chưa cho phép ta làm cái gì vang dội nếu đảo chánh xảy ra. Đó là thời cơ tập hợp lực lượng, tiến công chính trị, phá ấp chiến lược, khiến nội bộ Mỹ ngụy không ổn định.
Riêng “Kỵ sĩ”, phải bám cho được vị trí hợp pháp - nghĩa là vẫn được Mỹ tin dùng. Có thể tham gia đảo chánh đến mức nào đó và tùy tình hình mà xử lý.
Anh Sáu Đăng tranh thủ phổ biến mấy nhận định lớn cho Luân. Luân báo cáo tình hình những ngày qua.
- Anh không được liên lạc với cô Mai và chị Cả, rất nguy hiểm. Từ nay, anh khỏi báo cáo tình hình, chúng tôi có điều kiện nắm khá đủ. Anh chỉ có việc hành động theo phương hướng đã vạch, khi cần, chúng tôi trực tiếp móc liên lạc, không sử dụng điện đài hay hộp thơ. Nghĩa là cắt đứt tất cả. Anh phải dấn thân sâu hơn và càng ít dấu viết liên hệ với cách mạng càng có lợi. Chỉ khi nào thật bức bách thì anh hoặc cô Dung đến chỗ này... - Anh Sáu Đăng chấm nước viết lên mặt bàn.
- Tôi cần một số người trung kiên tiếp tay, - Luân đề xuất - Chẳng hạn các đồng chí cho tôi một lái xe, một thư ký, một nhóm bảo vệ...
- Lái xe thì anh Thạch. Tin cậy được, tuy Thạch không hiểu công việc của anh và cô Dung. Thư ký có lẽ không cần, cô Dung làm tốt hơn. Nhóm bảo vệ thì để xem...
- Xin chọn cho ba Đảng viên thật trung kiên, vào dân vệ hay bảo an ở ba nơi, báo cho tôi biết, tôi sẽ điều...
- Để chúng tôi bàn thêm. Số người tốt anh liên hệ từ trước nên tùy lúc mà sử dụng như Nguyễn Thành Động, Trương Tấn Phụng, thậm chí Phan Cao Tòng, thiếu tướng Lâm. Riêng Lê Khánh Nghĩa thì không được. Nghĩa có việc của anh ta.

Luân báo cáo cho anh Sáu biết Jones Stepp chú ý đến Nghĩa khi hỏi Thạch. Anh Sáu hơi cau mày:
- Vậy là có một lỗ dò nào rồi. Tại sao tình báo Mỹ chú ý đến Nghĩa?

Tất nhiên Luân không biết.
- Tôi sẽ thử tìm nguyên nhân...
- Không cần! - Anh Sáu dứt khoát - Chúng tôi lo chuyện đó. Vợ của Thạch tốt, nhưng hình như binh vận Mỹ Tho định qua chị ta tranh thủ Thạch. Việc này hơi rối. Nếu chúng tôi ngăn thì sẽ lộ anh - anh em Mỹ Tho cũng có người ngờ ngợ về anh, do anh em Bến Tre thông báo. A.07 phê bình dữ lắm... Jones Stepp tin anh, nhưng Williams Porter còn đang thẩm tra thêm anh. Có hai tay mà anh phải hết sức đề phòng, một tay tôi đã nói lúc gặp anh trên Đất Ung, tức John Hing. Tay kia là Mai Hữu Xuân. Chúng tôi vẫn có kế hoạch bảo vệ anh, nhưng anh không cần biết.

Bây giờ, Luân mới nhìn kỹ anh Sáu. So với lúc gặp ở Đất Ung, anh Sáu có vẻ khỏe hơn. “Nó cũng là mặt báo hiệu phong trào mạnh”, Luân nghĩ - và, qua cách nói của anh Sáu, Luân hiểu ta thâm nhập nhiều ngả vào các cấp ngụy quân, ngụy quyền, tình báo của ta phát triển rộng. Nội việc anh Sáu có thể ung dung vào thành, đến nhà Luân bằng một xe của hãng BGI thì đã rõ.
- Nhu nhiều lần ngỏ ý muốn thương lượng với ta. Tôi xin ý kiến anh.
- Chúng tôi biết, qua nước thứ ba. Song, Nhu đánh đòn gió thôi. Bây giờ, còn gì để thương lượng, mặc dù ta biết một sự ủng hộ nào đó của ta giúp Diệm đề kháng lâu hơn... Song, để làm gì? Tôi nghĩ anh nên bắt đầu tính đến sự tồn tại của anh sau thời kỳ Diệm.

Luân báo cáo về James Casey và John Hing với các trương mục ngân hàng.
- Tốt thôi! - Anh Sáu bảo - Anh đừng vồ vập nhưng cũng đừng từ chối... Cũng là một thử thách nữa.
- Chúng nói nhiều đến vũ khí. Sau Diệm, chiến tranh có thể...
- Đó là một khả năng. Ta đang cố gắng tránh khả năng đó. Nhưng, tránh được hay không, bây giờ chưa thể nói trước. - Anh Sáu Đăng thở dài.
- Chiến tranh có nghĩa là tàn phá! - Luân cũng thở dài - Tôi đã nghiên cứu ở học viện Fort Brag, đọc nhiều tài liệu về chiến tranh hiện đại. Trong chương trình, học viện giảng cho chúng tôi sử dụng cả bom nguyên tử chiến thuật... Tôi nghĩ không chỉ như là Triều Tiên. Hơn Triều Tiên!
- Vì vậy, trách nhiệm của anh càng nặng...
- Tôi có một thắc mắc: bọn CIA biết rằng tôi không có lực lượng để làm đảo chính, tại sao chúng chi tiền cho tôi. James Casey nói rõ như vậy... - Luân hỏi.
- Đó là cái cớ thôi. Ý định của chúng là tách anh ra khỏi Nhu với hai mục đích: Anh chống lại kế hoạch đảo chính thì kế hoạch sẽ khó thực hiện; khó sửa soạn vai mới cho anh. - Anh Sáu Đăng giải thích.
- Anh có thể cho tôi biết tin các bạn chiến đấu cũ? - Luân chuyển sang chuyện tình cảm.
- Lưu Khánh đã về Nam, đang chỉ huy một đơn vị. Vũ Thượng xuất ngũ rồi, tôi không rõ làm gì... Anh Tư đang làm đại sứ ở Liên Xô.
- Sức khỏe của anh Hai.
- Anh Hai ra Bắc năm 1957, sau nhiều lần suýt bị bắt. Chắc anh biết tin của anh Hai sau đại hội Đảng lần thứ III. Anh Hai khỏe. A.07 cũng khỏe.
- Còn về Francisci, - Anh Sáu như chợt nhớ - Cũng có thể có cái gì hay hay, A.07 được bạn Pathet Lào báo về một vụ đụng độ giữa họ với nhóm phỉ U Ba Thiên và được cánh Francisci hỗ trợ. Bạn hơi lạ vì Francisci không bao giờ hành động kiểu đó. Khi được thư anh, tôi mới vỡ lẽ. Francisci là một tay giang hồ, do giang hồ, gã phục những lối hảo hớn như anh.

Anh Sáu Đăng hơi mỉm cười. Luân thấy má nong nóng.
- Cũng có lúc, phải tỏ ra hảo hớn. Anh khá lắm.
- Sa thế nào rồi?
Anh Sáu không trả lời, chỉ cười.
- Còn Lục?
- Đừng hỏi... Không có cái gì xấu xảy ra với họ, anh biết vậy là đủ... Quyến, tôi đoán thế nào anh cũng hỏi - đang học, ở xa.
- Saroyan rất tốt với anh. Song, anh nên chú ý Jones Stepp... - Anh Sáu trở lại công việc.
- Tôi hiểu. Jones Stepp cũng hiểu lằn mức trong quan hệ giữa chúng tôi.
- Fanfani viết nhiều bài hay... Cả anh chồng, cung cấp các ảnh rất giá trị. A.07 cho rằng anh đã ảnh hưởng đến quan điểm của Fanfani.
- Không hẳn... Cô ta rất độc lập trong nhận định và rất cứng về nghề nghiệp.
- Tình hình ra và Bắc Kinh mỗi ngày mỗi xấu thêm. Đường lối chủ nghĩa của Bắc Kinh dẫn họ vào vũng lầy phản bội. Cho nên, Lâm Sử là một mũi mà anh không thể coi thường.
- Các anh mình đánh giá về tướng Minh thế nào?
- Không khác đánh giá của anh: có tinh thần quốc gia chừng mực nào, tự trọng nhưng kém kinh nghiệm chính trị. Trong các hoạt động trước mắt, Minh là bình phong, người tổ chức là Andre, nhưng người thật lợi hại là Đỗ Mậu.
Tiện thể , Luân báo cáo với anh Sáu về vợ Huỳnh Hữu Hiền mà Luân nghĩ là trò chơi của Nhu.
- Chưa chắc! Chưa biết ai xỏ mũi ai... Andre không quá kém về kinh nghiệm dâu...
Chuyện chung coi như xong.
- Ta cụng một ly! - Anh Sáu đột nhiên đề nghị và anh cùng Luân uống cạn cốc bia.
- Tôi được A.07 cho phép thông báo với anh: Do thành tích của anh, của đồng chí Dung, Nhà nước quyết định thăng anh vượt cấp từ trung tá lên đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam và đồng chí Dung là đại úy Công an Nhân dân kể từ ngày 1-1-1963. Anh được tặng Huân chương Quân công hạng nhất, đồng chí Dung, hạng ba....

Luân vừa nghe xong, không tự chủ được nữa, bật khóc...
Đoàn thể, Tổ quốc chăm sóc anh và Dung chu đáo đến mức không ngờ tới. Bao nhiêu hình ảnh cũ bỗng vụt hiện trong đầu anh. Kể từ khi anh hiểu cách mạng - trên chuyến xe lửa vào Nam, bạn học của anh, Quý, soi vài tia sáng - đến nay gần 20 năm, trong 20 năm đó, số phận chia đều: một nửa trong tư thế một cán bộ công khai đảm đương các chức vụ khác nhau, sống tập thể có anh có em, sinh hoạt Đảng đều đặn, hòa lẫn với đồng bào; một nửa ngược hẳn - anh phải mang bộ quần áo ngụy, phải nghe, phải nhìn, phải nói, phải làm những điều đôi khi tự chúng sỉ vả anh, chen giữa đám nhơ nhuốc, vượt những thử thách kỳ quặc, luôn giữ vai kịch đến khốn khổ. Từng giây, từng phút anh đặt mình trước bao nhiêu ống kính, bao nhiêu ngọn đèn pha soi anh từ đủ phía. Từng phút, từng giây anh phải đối phó với tráo trở, lừa gạt, lật lọng, gian trá, nham hiểm, láo khoét. Anh từng phát sợ - không phải sợ kẻ thù mà sợ anh: chừng ấy chất độc liệu có len lỏi phần nào vào cơ thể anh không và nếu cuối cùng rồi, anh tìm thấy trong mùi tanh tưởi một chút nước hoa thoang thoảng, thì sao? Không! Không phải những cuộc đọ trí, đọ súng nao núng anh. Sự cám dỗ: Quyền lực, tiền, gái... Anh tự nghĩ, nếu cạnh anh không có Dung. Công lao mà Đảng đánh giá, thật sự thuộc về người anh yêu, vai trò Dung dường khiêm tốn song quyết định, anh hiểu hơn ai hết. Và, xét cho cùng, anh chưa làm được bao nhiêu so với lòng tin cậy của các anh...

Qua nước mắt, Luân nhìn ra ngoài sân. Dung đang tiếp mấy người của BGI. Cô rót bia, dịu dàng mời khách. Ngay việc đó, phải đâu không ý nghĩa gì cả....
Anh Sáu im lặng. Anh muốn Luân vơi đi bao nhiêu dồn nén.
- Tin của ông cụ và ông chú Dung? - Luân hỏi.
- Ông cụ còn khoẻ, rất nhớ Dung... Song chỉ có thể động viên ông cụ thôi, ông cụ tỏ ra người có nghị lực. Còn đồng chí Thuận, chú Dung, cũng khỏe... - Anh Sáu hơi mỉm cười - chỉ mỉm cười thôi Luân cũng đoán ra người cán bộ tình báo già dặn hẳn đang thực hiện một công việc có thể quanh quẩn đâu đây...
Hai người bắt tay nhau thật chặt.
- Vùng giải phóng lan sát ven Sài Gòn, tôi nói để anh hiểu. Nếu thấy không thể tiếp tục đứng được. Anh ra hướng nào cũng an toàn cả.
- Cám ơn anh. - Luân nói - Nhưng sẽ không có việc tôi đào ngũ đâu!
Anh Sáu Đăng nghiêm mặt:
- Sao lại đào ngũ? Tôi ra lệnh cho anh: nếu cảm thấy không an toàn thì lập tức ra khu ngay. Tôi tin anh chấp hành đúng kỷ luật của Đảng...
- Tôi xin hứa!
Hai người không dám ôm hôn nhau...
Khi chiếc BGI ra khỏi cổng, Dung lững thững vào nhà.
Luân bất thần ôm chầm Dung, xốc cô lên. Dung bối rối. Từ khi yêu nhau, chưa bao giờ Luân có cử chỉ sôi nổi như vậy.
- Anh! Coi chừng chị Sáu thấy...

Luân không nói, bế Dung vào phòng ngủ, hôn Dung tới tấp. Dung không hiểu, không thể hiểu, cái đắm say mà Luân trao cho Dung hôm nay - ngay đêm tân hôn cũng không đến thế.
Dung muốn hỏi nhưng đến lượt cô, chỉ còn có thể cắn nhẹ vào vành tai Luân: Anh yêu của em...
« Sửa lần cuối: 13 Tháng Tám, 2008, 11:22:58 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #201 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 11:07:01 pm »

Nhu gọi Luân vào dinh Gia Long.

- Ngày mai, tôi gặp phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc. Anh cùng gặp với tôi.
Nhu đẩy cặp hồ sơ dầy cộm cho Luân. Luân chưa vội mở cặp. Chẳng có gì bí mật. Và Luân thừa biết vụ Phật giáo đối với Nhu không phải trong hồ sơ này mà ở chỗ khác - ở mẹo của Ngô Trọng Hiếu.

Nói chung, nhà chiến lược, nhà tư tưởng Ngô Đình Nhu sau các biến cố dồn dập, thu hình lại chỉ còn là nhà ảo thuật, một mưu sĩ tầm thường. Về mặt này, Nhu kém xa bất kỳ một kẻ bẻm mép, ma cô nào của đất Sài Gòn.
- Anh cùng đi với tôi một lúc. - Nhu mời.
Luân ngỡ Nhu muốn thả bách bộ với anh. Nhưng không, Nhu đưa anh vào một phòng nhỏ.
“Anh ta định cho mình xem một kế hoạch gì đây?”. Căn phòng có bậc thềm. Đèn bật sáng. Đến đây thì Luân hiểu: Nhu giới thiệu với anh nhà hầm xây dưới dinh Gia Long - Luân biết việc đó, tuy không trực tiếp dính líu.
Qua bậc thềm hẹp, hai người xuống một gian hầm rộng hình chữ nhật khoảng trên 20 mét nằm theo chiều từ đường Công Lý qua đường Pasteur, phía sau dinh Gia Long. Luân ước cách mặt đất khá sâu. Nhu và Luân thường ngồi bên trên và bây giờ thì Luân hiểu: thảm cỏ xanh mượt chính là nóc hầm.
Hầm chỉ có hai cửa, cửa sắt dày. Một cửa thông với bốn lối xuống hầm: từ phòng ngủ của Tổng thống, từ phòng ngủ của Nhu, từ tầng dưới dinh và từ văn phòng của Tổng thống. Một cửa đi lên mặt đất, dùng cho lính bảo vệ, với lỗ thông hơi và một công sự bố trí đại liên. Hầm chia nhiều phòng nhỏ: Tổng thống có phòng khách, phòng ngủ và phòng tắm. Nhu cũng có ba phòng. Một hành lang nối các phòng.
Hầm vừa xây xong, mùi vôi nồng nặc. Chưa trang trí nội thất, ngay quạt và máy điều hòa không khí.
Luân cảm giác đây là một chiến hạm, một thứ hầm trú ẩn. Hình như hầm của tướng De Castries ở Điện Biên Phủ kiên cố hơn...

Nhu đưa Luân vào một phòng. Phòng đặt đầy máy thu phát vô tuyến điện và điện thoại. Bốn nhân viên - tất cả đều là liên quân của Liên binh phòng vệ, đứng lên chào.
- Cho tôi liên lạc với tướng Huỳnh Văn Cao! - Nhu bảo. Máy phát siêu tần số nhấp nháy đèn.
- Nhu đây!
- Chào ông cố vấn! Cao đây... Xin nghe chỉ thị.
- Không có chỉ thị gì. Tôi cùng đại tá Nguyễn Thành Luân kiểm tra hệ thống thông tin thôi. Tốt lắm, nghe rõ lắm... Chào thiếu tướng.
- Chúc sức khỏe ông cố vấn và đại tá...

Mặt Nhu thoáng nét thỏa mãn.
- Cho tôi đại tá Bùi Đình Đạm!

Câu chuyện lặp lại. Nhu gọi Nguyễn Khánh tận Pleiku, gọi Nguyễn Văn Thiệu ở Củ Chi, gọi Tôn Thất Đính, Huỳnh Hữu Hiền, gọi cả Nguyễn Cao Kỳ, gọi Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền... Đâu cũng răm rắp. Hai đường dây chạy thẳng đài phát thanh quốc gia và quân đội. Riêng tại đây, một đài phát thanh “bỏ túi” với công suất 2.000 Watt.

- Hầm này chịu được bom tấn! - Nhu bảo Luân khi họ theo bậc thang trở lên.
- Anh có đặt đường dây thẳng với sứ quán Mỹ không? - Luân chợt hỏi...
- Chưa... mà cần không?
- Cần... Tôi nghĩ là cần...
- Nội sáng nay, sẽ có đường dây đó...

Hai người thả bách bộ quanh dinh. Khoảng trời bên ngoái quá cao rộng, Luân so sánh với căn hầm. Thế là chế độ Ngô Đình Diệm bằng lòng một căn hầm vào chục thước vuông, trong khi họ từng làm chủ cả 170.000 cây số vuông và tham vọng làm chủ 340.000 cây số vuông của cả nước Việt Nam.

Anh bỗng nhớ Phạm Công Tắc - giáo chủ đòi những 40 cây số vuông kia...
Hai người gặp Diệm, cũng đang thả bách bộ.
- Chú Nhu đưa Luân xem căn hầm chưa? Đẹp, chắc, tiện hỉ?
Họ định dùng căn hầm làm gì? Luân lại bỗng nhớ Hitler, vào những ngày cuối cùng...

Và, cách đây vài tháng, Luân đọc một tin trên báo: một thợ may đường Lê Thánh Tông bị đâm chết giữa đêm. Dung nói riêng với anh: người thợ may tình cờ thấy người ta chở đất lên các xe tải, anh ta không thể sống... Có lẽ là tin thêu dệt. Theo quan sát của Luân, hầm không có lối thông ra ngoài. Một hầm cố thủ hơn là hầm tẩu thoát...

---
(1) Bán chạy, ăn khách
(2) Chúng tôi bị tước đoạt tất cả
« Sửa lần cuối: 13 Tháng Tám, 2008, 11:24:41 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #202 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 09:35:37 pm »

Chương 8

Mỹ đào hố dưới chân ông Diệm (Business Week):
Chúng ta - nước Mỹ - sẽ phải hậu thuẫn cho một cuộc đảo chính quân sự ở Sài Gòn để chấm dứt chế độ thối nát mà sự kéo dài của nó đồng nghĩa với sự tiêu tốn đôla lẫn uy tín của nước Mỹ một cách ngu xuẩn. Hãy đào hố dưới chân viên Tổng thống hoàn toàn mất cảm giác về tất cả những gì xảy ra quanh ông ta...

Nếu có một người hùng (Washington Post):
Rốt cuộc, nước Mỹ vẫn phải trở lại ngón sở trường của mình là dùng một hoặc một số tướng nào đó trong quân đội Nam Việt để hạ bệ ông Diệm. Hẳn ông Dean Rusk sẵn sàng hỗ trợ, ít nahats, về tinh thần cho một cú đấm như vậy. Công việc của "người hùng" Nam Việt sẽ đơn giản vô cùng so với một số "người hùng" mà Mỹ xây dựng ở Nam Mỹ bởi dân chúng đang căm ghét đến độ có thể xẻ thịt ông Diệm đồng thời một số nhà sư khét tiếng chống Cộng cùng một số bộ hạ của họ trong các trường đại học nắm chặt xu hướng này, không để có kẽ hở cho Cộng Sản lợi dụng.

Uy tín Hoa Kỳ sẽ lên cao (Newsweek)
Hạ bệ ông Diệm lúc này là nâng cao uy tín của Tổng thống Kennedy và Hoa Kỳ - những người cứu rỗi Nam Việt thoát ách cai trị gớm ghiếc của một chế độ trở thành thù địch của nhân dân, nhưng liệu rằng hạ bệ ông Diệm, công cuộc chống Cộng đạt hiệu quả cao hơn không? Còn có ý kiến phân vân và có lẽ người phân vân hơn cả là Tổng thống Kennedy.

Báo cáo mật: Người nhận: Cố vấn Ngô Đình Nhu.
Tổng thống Kennedy vừa họp với ngoại trưởng Dean Rusk và hai thượng nghị sĩ Church và Fulbright. Sức ép của Bộ Ngoại giao và Thượng viện mạnh đòi Kennedy lật đổ Tổng thống ta. Thái độ của đại sứ Bửu Hội rất bất lợi cho chính phủ ta. Trong số nhân vât Mỹ thù địch Việt Nam Cộng hòa, đáng kể hơn hết là Roger Hilsman, Averell Harriman, Paul M. Kattenburg. Người sau chót nay là giám đốc Việt Nam vụ tại Bộ ngoại giao, trước đây là sĩ quan tình báo OSS, đã từng dính líu vào bọn phiến loạn chống ta năm 1955. Ký: Hà Như Chi.

Đài tiếng nói Hoa Kỳ (Buổi tiếng Việt): Nhờ bạn mua dùm một chai Whisky tại P.X.
Điện mật. Nơi nhận: các tỉnh trưởng. Đài tiếng nói Hoa Kỳ vừa phổ biến ám hiệu cho bọn phản loạn hành động phá rối an ninh quốc gia. Lệnh các tỉnh trưởng: a) Theo dõi chặt chẽ tình hình các thế lực từ trước có dấu hiệu bất mãn, đặc biệt các nhà sư. b) Theo dõi động tĩnh các đơn vị quân đội, kể cả quân vùng chiến thuật và tổng trừ bị trú đóng tai địa phương, nhất là sự đi lại của các tướng, trong đó, hễ tướng Nguyễn Hữu Có đến đâu thì phải giám sát và báo cáo ngay. c) Huy động các hiệp hội, thân hào gửi điện công khai ủng hộ Tổng thống, kết án chính phủ Hoa Kỳ xúi giục đảo chính và cảnh cáo các thế lực tay sai ngoại bang. d) Theo dõi các hoạt động của Việt Cộng về quân sự, chính trị. Điện này chỉ tỉnh trưởng nhận và thi hành. Ký: Ngô Đình Nhu.
Những triệu chứng (Helen Fanfani - Financial Affairs). Tôi học bậc tiểu học ở Sài Gòn. Bài giảng nhập môn về triệu chứng các bệnh, tôi nhớ đoạn tóm tắt bênh thương hàn như sau: đau đầu, nhức mỏi, rối loạn đường tiêu hóa... Chế độ Sài Gòn đang có các triệu chứng của một bệnh có lẽ nguy hiểm hơn thương hàn. Điều đặc biệt là con bệnh cố gắng để cho tất cả loại vi trùng thêm sức mạnh phá hủy cơ thể đồng thời thày thuốc thi nhau cho các loại và liều lượng thuốc trái ngược nhau, hình như không vì con bênh, hoắc có vì con bênh, nhưng không nhằm cứu chữa.

Ngày 26 tháng 10, tôi có mặt trong buổi Tổng thống Ngô Đình Diệm tiếp các đoàn thể dân chúng Việt Nam. Tôi đã dự nhiều lần tiếp khách nhân lễ Quốc khánh này. Không khí năm nay buồn tẻ và ông Diệm không còn thói quen thịnh nộ khi một cái gì trái ý ông xảy ra. Một bộ trưởng cài nút áo cẩu thả, nếu trước kia, sẽ là cái cớ để ông lên lớp: ông thậm chí không chú ý đến lễ phục của chính ông. Trước giờ tiếp khách độ 5 phút, tôi gặp ông lững thững ngoài vườn, trong bộ quần áo màu xám nhạt, tay chống gậy, đội mũ len, giống như ông đi thăm dinh điền, săm soi mấy hòn non bộ nhỏ vừa đắp xong.

Một loạt tướng lĩnh chào ông. Ông hững hờ bắt tay họ và hoàn toàn lơ đễnh khi tướng Tôn Thất Đính đi giật lùi ra cửa - cử chỉ mà ông rất ưa thích trước kia.

Sau khi nghe các lời chúc tụng - rõ ràng, ông không nghe - ông nói, giọng cực kỳ ai oán:
- Chế độ này tuy còn nhiều khuyết điểm song còn hơn nhiều chế độ khác. Người ta chê nó là độc tài, nhưng tôi ngại sẽ còn những thứ độc tài khủng khiếp hơn. Với các vị đại biểu cho hội đoàn, tôi nói rõ: Tôi tiến thì theo tôi, tôi lùi thì bắn tôi, tôi chết thì trả thù cho tôi...

Tổng thống Diệm nói bấy nhiêu - một vài bà sụt sịt khóc. Ông nhắc câu nói của một người Âu xưa, nhưng hình như ông nhập thân vào nó.
Buổi tiếp khách quốc nội diễn ra độ nửa giờ. Tôi xuống thềm khi gặp ông Nhu. Ông chào tôi. Tôi kinh ngạc: ông gầy xọp, nét mặt chảy xệ và đen xạm, trông già hẳn. Bỗng nhiên, tất cả gợi cho tôi nhớ bức ảnh to đăng trong số Paris Match tháng 7 năm 1958: Vua Faycal của xứ Irak bị lực lượng đảo chính giết trong cảnh vàng son...

Nhà ngoại giao yêu cầu giấu tên bảo tôi: một số tướng lĩnh Nam Việt muốn lật đổ ông Diệm nhưng Bộ ngoại giao Hoa Kỳ trả lời lững lờ: "Hoa Kỳ không xúi giục đảo chính, sẽ không ngăn cản sự thay đổi chính phủ, và sẽ không từ chối viện trợ kinh tế và quân sự cho chế độ mới nếu nó tỏ ra có khả năng tăng cường hiệu quả nỗ lực quân sự, đảm bảo được dân chúng hậu thuẫn để chiến thắng Cộng Sản" Thật ra, câu trả lời chẳng phải lững lờ chút nào. Nó cho thấy Mỹ nghiêng hẳn về giải pháp thanh toán chế độ ông Diệm sau gần mười năm do dự mãi.

Tổng thống Mỹ dè dặt- ông ngại hậu quả việc thay Diệm không sáng sủa. Chính Tổng thống Mỹ đích thân yêu cầu tờ NewYork Time gọi Haberstam phóng viên thường trú ở Sài Gòn về Mỹ vì ông này nói nhiều đến sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam - điều Kennedy rất muốn tránh từ sau vụ "Vịnh Con Heo" ở Cuba thất bại. Tuy nhiên, chắc chắn Tổng thống Mỹ đang bị thuyết phúc.
Ông Diệm hiểu hơn ai hết điều đó. Và, tự ông, đã là một triệu chứng của biến cố mà mọi người, có thể đếm được theo vòng quay của kim đồng hồ...
Điện mật: Gửi ngoại trưởng Dean Rush. Mọi cái xấu có thể xảy ra, nhưng sẽ không thể xấu hơn tình hình mà chúng ta đang chứng kiến. Ký: Cabot Lodge.

*
* *
Luân đang ăn sáng. Anh sắp cùng Nhu tiếp phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc thì hai người khác không hẹn cùng đến: thiếu tướng Lâm và trung tá Nguyễn Thành Động.
- Các anh ăn sáng chưa? - Luân hỏi. Và anh biết liền, họ chưa ăn.
Dung và chị Sáu, mấy phút sau, đã bày phần ăn gồm trứng, thịt nguội cho hai người. Động ăn ngấu nghiến. Anh rời Bến Tre từ bốn giớ sáng.
- Đài Hoa Kỳ "bật đèn xanh" rồi! - Động nói, khi ba người uống cà phê ở phòng khách.
- Anh có cách gì bàn với Nhu giao tôi chỉ huy Liên binh phòng vệ không? - Thiếu tướng Lâm đặt thẳng vấn đề.
Luân lắc đầu:
- Làm sao việc đó xảy ra được! Nhu tin Lê Quang Tung và rất nghi anh.
- Thật là chó đẻ! Lúc này mà chỉ có hai tay không... - Lâm bực dọc.
- Tôi khống chế Bến Tre không khó. Song, chỉ là một tỉnh.. Tôi không thích vấy máu ăn phần mà muốn làm cái gì vang dội hơi. Thằng Phụng cũng chỉ được mấy tiểu đoàn ở Kiến Tường. Tôi gợi ý thằng Lê Khánh Nghĩa, nó chết nhát, bảo: đợi cái đã... - Động sôi sục.
- Đại tá biết thằng thiếu úy tên Tường không? - Lâm hỏi.
- Biết...
- Thằng đó là cái chó gì mà nó xộc vô nhà tôi, bảo tôi hợp tác và hợp tác để khử Ngô Đình Nhu... Tôi mà thèm khử Ngô Đình Nhu... Tôi muốn tóm cổ nó giao cho An ninh, song nghĩ chẳng dại giúp thêm cho bọn bồi bếp...
- Thiếu tướng quan hệ với Tôn Thất Đính ra sao? - Luân hỏi.
- Không quan hệ - Lâm lắc đầu quầy quậy... - Không chơi với bọn điếm...

Luân nhìn hai người một lúc.
- Theo tôi, điều cần đối với mọi người có ý muốn tốt vào lúc này là nên nghĩ xem nếu một sự kiện lớn xảy ra xong rồi, có thể làm gì và làm với cái gì... Lúc bấy giờ, chính những người có ý muốn tốt mới thật sự làm chủ công việc. Hiện nay, không phải lúc.

Động không đồng ý ra mặt: "Bây giờ chầu rìa sẽ chầu rìa suốt đời!"
Thiếu tướng Lâm, trái lại, gật đầu: "Tôi phục đại tá! Đúng, tình thế rối như canh hẹ.. Đôi khi, vài đơn vị cũng có thể nổi đình nổi đám. Hạ Diệm hết còn là chuyện bí mật - ngoài quán hủ tiếp, nguòi ta cũng bàn. Nhưng, sau Diệm? Đúng..."

Thái độ của thiếu tướng Lâm giúp Nguyễn Thành Động bớt bộp chộp - "Có lẽ phải như vậy... Tôi sẽ gặp Trương Tấn Phụng, Lê Khánh Nghĩa..."
- Gặp Phụng thì được, còn Nghĩa có lẽ không nên. Như trung tá nói, Nghĩa nhát... nguy hiểm.. - Luân lựa lời.
- Nó nhát, nhưng tụi này bạn thân với nhau.
Hai người khách vừa ra khỏi nhà thì điện thoại reo. Thiếu úy Tường gọi Luân.
- Xin nhắc "phương án Y".. - Giọng Tường trịnh thượng.
- Mọi phương án đều do tôi định - Luân xẵng giọng. Các thứ mà anh và thầy của anh rêu rao chỉ là bọt xà phòng... Anh cần "Phương án Y" lắm phải không, hành động duy nhất chứng tỏ các anh có mặt. Nếu anh có thể thực hiện được thì anh tự làm lấy...
- Tôi nhắc C.7... - Tường lắp bắp.
- Không có C.7! Tôi khôgn thích lối cắn lén hèn nhát.
- Ông sẽ ân hận!
- Anh có muốn ân hận ngay bây giờ không? - Luân gác máy.

*
* *

Bản tường trình những hoạt động của phái đoàn điều tra Liên hợp quốc, theo thứ tự thời gian (trích)
- Do văn thư ngày 4-9-1963, đệ lên ông Tổng thư ký Liên hiệp quốc những đại diện thường trực của 14 nước: A Phú Hãn, Angieri, Cambot, Tích Lan, Ghine, Ấn độ, Indonesia, Mông Cổ, Nigieria Hồi Quốc, Ruanda (Rwanda), Xiẻa Léon (Sierraleone), Xômali, Trinite (Trinite) và Tôbago (Tobago), về sau có thêm hai nước Mali và Nêpan (Népal) đã xin ghi vào chương trình nghị sự khóa 18 cua Đại hội đồng Liên hiệp quốc một vấn đề mới mệnh danh là "sự vi phạm nhân quyền tại miền Nam Việt Nam". Văn thư này được phát cho tất cả hội viên của Liên hiệp quốc, ngày 9-9-1963. Ngày 13-9-63 một bản giải thích sự việc trên cũng được trao cho tất cả hội viên của tổ chức này.
- Trong phiên họp thứ 1232 ngày 7-10-1963, Đại hội đồng đã xét đến điểm 77 của nghị trình. Sau khi đại diện nước Tích Lan trình bày khái quát vấn đề, ông Chủ tịch Đại hội đồng tuyên bố có nhận được hai văn thư của ông trưởng phái đoàn đặc ủy của Việt Nam Cộng hòa tại Liên hiệp quốc và đọc hai văn thứ ấy? Một trong hai văn thư, đề ngày 4-10-63, có lời mới như sau:

" Tôi được lệnh của chính phủ tôi trao một bức thư mời, qua sự trung gian của ngài và của ông Tổng thư ký Liên hiệp quốc; một số đại diện các nước hội viên đến viếng Việt Nam trong một ngày gần đây để nhận xét tường tận thực trạng sự giao thiệp giữa chính phủ và tập đoàn Phật giáo Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa trân trọng cảm tạ ngài nếu được ngài vui lòng giúp đỡ cho sự thành lập phái đoàn quan sát ấy".

Sau đó, đại diện Côxta Rica (Costa Rica) đề nghị Đại hội đồng nên nhận lời mời nói trên đến tại chỗ quan sát một cách đứng đắn và tỉ mỉ tất cả các dữ kiện sẵn có: ông chủ tịch yêu cầu Đại hội đồng chấp nhận lời đề nghị ấy, với những lời lẽ như sau:

"Tôi yêu cầu Đại hội đồng cho biết có ai phản đối gì về ý kiến của Costa Rica đề nghị, trước khi thảo luận nên chấp nhận lời mời của chính phủ Cộng hòa Việt Nam cử một phái đoàn gồm một số đại diện của các nước hội viên đến Việt Nam để điều tra sự việc và phúc trình cho đại hội đồng để đại hội đồng bằng vào phúc trình ấy mà xét xử."

Sau lời tuyên bố của ông Chủ tịch, đại diện Liên Xô đề nghị Đại hội đồng nên yêu cầu hai đồng chủ tịch của Hội nghị Geneve năm 1954 nhờ Ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến, mở một cuộc điều tra và phúc trình cho hai đồng chủ tịch, để hai vị này phúc trình lại cho Đại hội đồng trước khi khóa họp thứ 18 của Liên hiệp quốc bế mạc. Đại biểu Anh quốc đưa ra những nghi ngờ về quyền năng của hai đồng chủ tịch, cũng như của Ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến về vấn đề này. Sau hai phát biểu ý kiến trên, đại diện xứ Costa Rica tuyên bố sẽ đệ trình một dự án giải quyết vấn đề này, và yêu cầu ngưng phiên họp. Đề nghị này được 80 phiếu tán thành, không một phiếu nào phản đôi, 5 phiếu trắng.
- Trong phiên họp khoáng đại thứ 1239 của Đại hội đồng, ngày 11-10-63, ông chủ tịch đã tuyên bố như sau:

"Trong phiên họp khoáng đại thứ 1234, tôi đã được đại hội cho phép chấp nhận bức thư đề ngày 4-10-63 trong ấy ông trưởng phái đoàn đặc ủy của Việt Nam Cộng hòa nhân danh chính phủ ông, mời quý vị đại diện một số nước hội viên sang Việt Nam trong một ngày gần đây. Vì thế, tôi đã cử một phái đoàn gồm quý vị đại diện các nước hội viên: A Phú Hãn, B Tây (Braxin), Tích Lan, Cost Rica, Đahomay (Dahomey), Marốc và Nê pan
Ông Prazwak, đại sứ A Phú Hãn là trưởng phái đoàn. Nhiệm vụ của phái đoàn, như đã định rõ trong văn thư ngày 4-10- 63, là đến Việt Nam Cộng hòa để nhận xét tại chỗ tình hình của sự liên lạc giữa chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Phật giáo đồ của nước ấy.
Phái đoàn phải lên đường càng sớm cáng hay để bản phúc trình được đệ lên đại hội đồng trong khóa này".
- Sau khi phái đoàn điều tra của Liên Hợp Quốc tại Miền Nam Việt Nam được ông Chủ tịch đại hội đồng thành lập như trên, ông Tổng thư ký Liên hợp quốc đã bổ xung vào phái đoàn những nhân viên của văn phòng sau đây: Chánh thư ký: ông John P.Humphey. Nhân viên báo chí: ông Valieri J.G Stavridi. Phụ tá chánh thư ký: ông Ilban Lutem. Phụ tá chánh thư ký: ông Alain L.Dangeard (nhân viên hành chính và tài chính).
Văn phòng Ủy hội kinh tế tại châu Á và Viễn Đông ở Vọng Các có cung cấp cho phái đoàn một phụ tá, thông dịch viên Việt ngữ, ông The Pha Thay Vilaihongs và một thông dịch viên Anh ngữ và Pháp ngữ, cô G.Bazinet.
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Tám, 2008, 09:40:39 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #203 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 09:42:11 pm »

Khi đến Sài Gòn, ngày 24-10-63, lúc 0 giờ 30, phái đoàn đã được ông Phạm Đăng Lâm, Tổng thư ký Bộ ngoại giao và các nhân viên khác trong Bộ tiếp đón. Trước sự hiện diện của phóng viên báo chí trong nước và ngoài nước, ông trưởng phái đoán đã lặp lại đại khái nội dung lời tuyên bố mà ông đã nói trước khi khởi hành. Ông nhắc lại sứ mệnh và dự định của phái đoàn là điều tra tại chỗ, nghe nhân chứng, và thu thập những lời khiếu nại. Sau khi lặp lại lời kêu gọi với các thành phần liên hệ đừng biểu tình, và nói thêm: "Chúng tôi đến đây với ý chí muốn biết rõ sự thật và tường trình các sự việc".

- Các nhân viên của phái đoàn đến khách sạn Majestic lúc hai giờ sáng. Ông trưởng phái đoàn liền triệu tập ngay một phiên họp của phái đoàn để nghiên cứu dự án chương trình mà chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã đề nghị. Theo dự án này thì phái đoàn ở Sài Gòn ba ngày đầu, rồi đi Vũng Tàu để thăm viếng một ngôi chùa, lên Đà Lạt thăm viếng nhiều ngôi chùa khác, các trường học và các thắng cảnh. Trong chương trình cũng có dự trù thăm viếng chùa chiền và thắng cảnh ở Huế, Phan Rang, Phan Thiết, Ba Xuyên và Vĩnh Bình; ngày cuối cùng sẽ dành cho sự thăm viếng một ấp chiến lược. Vì thời giờ đã quá khuya, ông trưởng phái đoàn đề nghị nên xem xét chương trình dự trù cho ngày đầu là ngày 24-18-63 mà thôi. Phái đoàn chấp nhận chương trình của ngày đầu là: viếng thăm xã giao ông Bộ trưởng Ngoại giao và ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, yết kiến ông Tổng thống Việt Nam Cộng hòa và dự buổi tiệc do ông Bộ trưởng Bộ nội vụ khoản đãi.

- Về các phần sau trong chương trình, phái đoàn ngỏ ý cần có thì giờ xem xét sau. Phái đoàn cũng quyết định tin cho chính phủ biết phái đoàn không nhận đề nghị của chính phủ là đài thọ tất cả chi phí tại chỗ của phái đoàn. Nhưng vị đại diện của chính phủ bảo rằng, vì lý do an ninh, chính phủ phải đảm nhiệm sự di chuyển của phái đoàn ở trong xứ; phái đoàn đã chấp nhân đề nghị ấy. Nhận thấy khi vừa đến nơi, những chiếc xe hơi chở nhân viên phái đoàn đều cắm quốc kỳ mỗi nước của nhân viên phái đoàn và quốc kỳ Việt Nam, ông trưởng phái đoàn yêu cầu tất cả các xe hơi đều chỉ cắm cờ Liên Hợp quốc, bởi vì mỗi nhân viên của phái đoàn không đại diện cho nước họ mà cho Liên hợp quốc. Chính phủ Việt Nam đồng ý là công xa của ông trưởng phái đoàn thì cắm cờ Liên hợp quốc và cờ Việt Nam, còn các xe khác thì không cắm cờ gì hết.

- Trong phiên họp sau, ngày 24-10, phái đoàn nghiên cứu chương trình của chính phủ cho những ngày 25 và 26 tháng 10. Dự án của chương trình ngày thứ hai dự trù một cuộc yết kiến ông Tổng thống, một cuộc hội kiến với ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị của Tổng thống và sự viếng thăm ba chùa ở Sài Gòn để họi đàm với những hội viên của các hội Phật giáp. Phái đoàn quyết định chấp thuận chương trình ngày 25-10, nhưng ngỏ ý muốn chính phủ dời vào ngày cuối của phái đoàn tại Việt Nam, buổi tiếp tân mà Bộ trưởng Bộ ngoại giao định tổ chức vào rối ngày 25-10. Phái đoàn cũng được chính phủ mời đến dự chính thức cuộc duyệt binh trong ngày Quốc khánh 26 tháng 10. Phái đoàn quyết định nhận lời mời, vì nghĩ rằng, khi Đại hội đồng Liên hợp quốc chấp nhận thư mời của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, cũng đã tiên đoán các trường hợp như thế rồi. Nhưng trước khi nhận lời, phái đoàn đã được chính phủ cam đoan là sẽ không đề cập một điều gì về phái đoàn trong các bài diễn văn đọc hôm ấy.

- Phái đoàn cũng quyết định báo tin cho chính phủ Việt Nam biết phái đoàn mong muốn hạn chế đến mức tối thiểu các lễ lạt, tiệc tùng và các cuộc du ngoạn. Mặt khác, phái đoàn sẽ ngỏ ý cho các nhân viên chính phủ mà phái đoàn sẽ tiếp xúc trong hai ngày đầu biết rằng phái đoàn muốn tự sắp đặt lấy cuộc điều tra và chương trình hoạt động của mình.

- Trong buổi hội kiến đầu tiên với phái đoàn, ngày 24-10, ông Bộ trưởng Bộ ngoại giao, trong khi nhắc lại lời mời của chính phủ Việt Nam, có đoạn nhắc với phái đoàn rằng phái đoàn sẽ được hoàn toàn tự do di động và ông hứa sẽ làm những gì ông có thể làm được để giúp đỡ phái đoàn trong nhiệm vụ thu thập sự việc một cách khách quan và vô tư. Ông nói thêm: "Chúng tôi không hoàn toàn; sự hoàn toàn không có trong thế giới này, Chính phủ không hoàn toàn, các Bộ trưởng không phải là các vị thánh, nhưng chúng tôi sẽ rất hân hạnh nghe những ý kiến của các ngài và cố gắng sửa chữa những khuyết điểm của chúng tôi". Ông trưởng phái đoàn ghi nhận những lời cam kết ấy và sau khu nhắc lại nhiệm vụ của phái đoàn, có cho ông Bộ trưởng hay rằng chương trình làm việc của phái đoàn sẽ được trực tiếp giao cho ông hay gián tiếp thông qua trung gian của ông Tổng thư ký Bộ ngoại giao, người đã được cử làm đại diện của chính phủ bên cạnh phái đoàn. Trong một cuộc thăm viếng xã giao của phái đoàn cũng trong ngày ấy tại Bộ nội vụ, ông Bộ trưởng cũng nói lại những cam kết và sự hợp tác của chính phủ, tương tự nhu những lời của ông Bộ trưởng Ngoại giao.

- Sau khi thi hành xong chương trình của ngày đầu, trong ấy có cuộc yết kiến Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, sáng thứ hai 25-10 trong khi hội đàm với ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị Tổng thống phủ, phái đoàn có đề cập một lần nữa về những họat động của phái đoàn. Theo lời yêu cầu của phái đoàn, ông Nhu hứa sẽ gửi tất cả những tài liệu mà chính phủ có được trong vụ Phật giáo cho phái đoàn. Ông cũng hứa để cho phái đoàn đến thăm các trại giam trong ấy có những nhà sư bị bắt trong những vụ lộn xộn mấy tháng trước, và các trại thanh niên trong ấy một số thanh niên được gửi đến để "thảo luận với chính quyền".

- Chương trình ngày 25-10 gồm có cuộc đi thăm các chùa Xá Lợi, Ấn Quang và Giác Lâm. Đến phút cuối cùng, cuộc viếng thăm chùa Ấn Quang bị bãi bỏ; khi phái đoàn đòi hỏi một sự giải thích về sự thay đổi chương trình ấy, thì người ta bảo rằng các vị tăng ni ở chùa ấy, nhất là bà Diệu Huệ, cũng như ngài Hội chủ Thích Tịnh Khiết bị mệt trong buổi chiều ấy vì tuổi già. Sự đi thăm chùa Ấn Quang, dự trù vào buổi chiều, đã bị hoãn lại bởi chính phủ, như thế là chính phủ đã thay đổi chương trình mà không hỏi ý kiến của phái đoàn. Sau đó, phái đoàn được biết rằng sư bà Diệu Huệ và ngài Hội chủ Thích Tịnh Khiết, thật ra chiều hôm ấy, có đợi tiếp phái đoàn tại chùa Ấn Quang. Về sau, phái đoàn được chính quyền cam kết rằng phái đoàn có thể đến thăm chùa Ấn Quang bất luận lúc nào, nhưng tốt hơn là về buổi sáng, và hai nhân vật nói trên sẽ có ở đấy.

- Căn cứ vào sự hợp tác của chính phủ mà ông Nhu, cố vấn chính trị và ông Bộ trưởng ngoại giao đã cam kết trong những cuộc hội kiến, phái đoàn đã trao cho ông Tổng thư ký Bộ ngoại giao ngày 26-10, một bản tổng lược ghi những điểm chính trong chương trình hoạt động của phái đoàn. Trong bản ấy, phái đoàn ngỏ ý muốn hủy chương trình dự trù cho những ngày từ 27 đến 29 tháng 10, mà chính phủ đã đề nghị, và phái đoàn mong muốn để dành ba ngày ấy để đi thăm các trại thanh niên, các tăng ni bị giữ trong các nhà giam và chùa Ấn Quang. Phái đoàn cũng mong được đi Huế ngày 30 tháng 10, như chính phủ đã dự trù trong chương trình, để gặp ông đại biểu chính phủ và nhân dịp ấy, triệu tập một buổi họp có tính cách thông tin để am tường tình hình của đô thị ấy, thăm chùa Từ Đàm, các chùa khác và hội đàm với một số nhân vật mà phái đoàn sẽ trao danh tánh cho chính phủ biết rõ. Phái đoàn cũng quyết định hủy bỏ tất cả những cuộc tiếp tân và thăm viếng thắng cảnh tại Huế. Những ngày cuối tuần dành để nghe nhân chứng ở Sài Gòn. Phái đoàn ngỏ ý hy vọng sẽ rời Việt Nam chậm lắm là vào ngày thứ hai 4 tháng 11.

- Chương trình phác họa trong bản tổng lược ấy đã được chính phủ thỏa thuận, nhưng chính phủ đề nghị phái đoàn nên đến thăm vùng Vĩnh Bình là nơi có nhiều Phật giáp đồ gốc Khmer, vì chính phủ cũng bận tâm đến lời khiếu nạu, tại Liên hợp quốc và các nơi khác, cho rằng có sự tàn sát dân thiểu số ở vùng ấy. Phái đoàn quyết định trong hiện tại chưa xét đến đề nghị ấy.

- Buổi chiều 26-10, phái đoàn đã thảo một bản công bố mời những ai muốn làm nhân chứng hãy đến gặp phái đoàn hay gởi đến chp phái đoàn một bản khiếu nại. Như đã dự định trước, bản công bố ấy sẽ gửi cho báo chí trong nước và ngoại quốc, và đồng gửi đến cho ông Bộ truỏng Ngoại giao với một bức thư đính theo báo tin cho biết là bản công bố ấy đã được phổ biến. Phái đoàn hành động như thế trong phạm vi của nhiệm vụ mình và yêu cầu sự giúp đỡ của chính quyền để bản công bố kia được phổ biến rộng rãi.

- Bản công bố của phái đoàn, gửi đi ngày 26-10 đã được phổ biến bằng Anh ngữ và Pháp ngữ trong bản tin tức của Việt tấn xã. Những nhật báo Anh ngữ và Pháp ngữ trong nước đã đăng tải đúng nguyên văn trong ngày hôm sau. Theo sự thăm dò trong làng báo Việt ngữ, phái đoàn cũng nhận thấy bản công bố ấy đã được dịch đăng trong một số nhật báo Việt ngữ.
Nhưng vì theo các báo ngoại quốc, thì báo chí Việt Nam không đăng tải trọn vẹn bản công bố nói trên, nên phái đoàn quyết định sẽ xem xét kỹ lưỡng các báo xuất bản tại đây. Chính phủ hứa sẽ giúp đỡ phái đoàn. Tuy thế, phái đoàn ước lượng rằng những phương tiện thông tin địa phương đến một mức độ vừa phải, trong sự phổ biến kêu gọi các nhân chứng và những người khiếu nại nói trên.

- Ngày 31-10, ông trưởng phái đoàn đến gặp Bộ trưởng Ngoại giao để thảo luận về vấn đề có thể thẩm vấn nhà sự Thích Trí Quang, hiện xin tỵ nạn tại sứ quán Hoa Kỳ hay không.
Ông Bộ trưởng tuyên bố "theo quốc tế công pháp, một cá nhân được hưởng sự tỵ nạn không có quyền hoạt động gì hết và cũng không được tiếp xúc với người nào, nếu không có sự ưng thuận của chính phủ xứ ấy. Ông còn nói thêm: Trong trường hợp như thế chính phủ phản đối mọi sự tiếp xúc của nhà sư Thích Trí Quang với phái đoàn hay với một người nào khác; chính phủ chỉ có thể chấp nhận một sự gặp gỡ như thế nếu nhà sư này được trao trả cho chính quyền".
Ông Bộ trưởng có phát biểu ý kiến là phái đoàn đã tiếp xúc với các giáo phái Đại thừa tại Việt Nam, thì ít nhất, cũng nên đi viếng thăm một giáo phái của Tiểu thức. Cuộc viếng thăm này có thể trù liệu vào ngày thứ bảy. Ông Trưởng phái đoàn trả lời ông sẽ hỏi ý kiến của phái đoàn về vấn đề này; phần ông, ông không thấy có gì trở ngại.
- Ngày 30-10, báo chí quốc tế có đăng tải một điện tín cho biết rằng một nhân viên của phái đoàn đã đến thăm ông đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Đây là cuộc viếng thăm có tính cách riêng tư và thân hữu, nhưng để đánh tan mọi sự hiểu lầm, phái đoàn nghĩ rằng ông trưởng phái đoàn nên đề cập đến cái điện tín ấy trong buổi hội đàm với ông Bộ Trưởng Ngoại giao. Vì thế ông trưởng phái đoàn cam đoan với ông bộ trưởng rằng buổi viếng thăm trên không liên quan gì đến phái đoàn và có tính cách hoàn toàn riêng tư.

- Ngày 29-10, phái đoàn được ông Bộ trưởng nội vụ cho biết có 10 nhà sư định tự thiêu trong dịp phái đoàn sang thăm Việt Nam. Một trong những vị sư ấy đã thi hành dự định trên ngày 27-10. Chính phủ đã bắt được năm vị trước khi họ chưa kịp hành động. Phái đoàn yêu cầu được gặp năm nhà sư ấy, nhưng chỉ gặp được một người vào chiều 30-10. Cũng trong buổi chiều ngày ấy, phái đoàn đến thăm Bệnh viện Đô Thành, ở đây có những nạn nhân của những vụ xung đột từ trước đang được điều trị. Phái đoàn có nghe một nhân chứng tự nguyện đến cung khai tại khách sạn Majestic, trụ sở của phái đoàn.

*
* *

Bản tường trình tất nhiên không thể đi sâu vào một số chi tiết chỉ liên quan đến vài thành viên của phái đoàn và bản thân giờ giấc cũng không đúng như văn bản.

Nửa giờ sau khi ngày hai mươi bốn tháng mười bắt đầu, phái đoàn đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất. Họ được đại biểu chính phủ đón tiếp nồng nhiệt và, vào giờ đó, thành phố đang giới nghiêm, không một dân thường có mặt. Những chiếc xe hơi sang trọng đưa tất cả phái đoàn về khách sạn Majestic, cạnh bờ sông. Phòng tiện nghi cao nhất dành cho từng người. Sau bữa ăn nhẹ, có chút rượu, phái đoàn đi nghỉ. Bấy giờ đã gần ba giờ sáng, trưởng đoàn yêu cầu các thành viên mười một giờ sáng sẽ dùng bữa và họp nội bộ để mười lăm giờ chính thức gặp mặt bộ trưởng Bộ ngoại giao bàn về chương trình hoạt động của phái đoàn.
Khách sạn Majestic được đặt dưới sự bảo vệ của cảnh sát dã chiến và gần như bị cô lập.

Tám giờ sáng, đại sứ X. trong phái đoàn đang ngủ say thì cửa phòng hé mở. Ông tỉnh giấc, vươn người một cách thỏai mái - năm giờ ngủ liền đã giúp ông sảng khóai.
Một nữ nhân viên rón rén bày khay cả phê ngay trên chiếc bàn con cạnh giường. Đại sứ X. qua ánh sáng hắt từ ngoài vào, nhìn trọn bộ ngựccuar cô nhân viên. Ông trỗi dậy, vào phòng vệ sinh. Khi ông rửa mặt, tấm kính to in càng nổi hơn cô nhân viên - cô mặc minijupe, như dềnh dàng xếp chăn gối trên giường ông.

Đại sứ X. không kịp cạo râu, ông trở ra, ngồi cạnh khay cà phê.
- Xin mời ngài.. - Cô gái nói tiếng Anh - Có quá sớm và phiền ngài không?
- Không! Cám ơn...
- Ngài dùng sữa hay đường? - Cô gái, bấy giờ chỉ cách đại sứ X. có vài tấc, cúi người mở hộp đường, dù đại sứ chưa trả lời. Nhưng cô nghe rõ từ cổ hộng đại sứ tiếng ấm ứ.

Đại sứ X. giả như ngăn cô gái, ông cầm tay cô. Cô gái để yên. Nhưng, khi đại sứ kéo mạnh cô vào ông thì cô vùng ra, lùi xa mấy bước. Chiếc áo bật nút, một bên vai cô phơi trần cùng phần trên bộ ngực đồ sộ.
- Xin lỗi! - Đại sứ lắp bắp...

Nhưng cô gái nhoẻn cười và trở lại khay cà phê. Cô đã nhìn rõ đôi mắt đờ đẫn và cả gân trên thái dương đại sứ giật. Lần này, đại sứ đứng hẳn dậy. Cô gái lọt vào vòng tay màu nâu của ông. Một cuộc giằng co kéo dài chừng ba bốn phút, cứ mỗi lần thoát ra khỏi tay đại sứ, thân thể cô gái mất đi một chút che đậy. Và sau cùng...

Không chỉ riêng ở phòng đại sứ X. Phòng đại sứ Y, Z... quang cảnh đại khái như vậy.
Mười giờ ba mươi, phái đoàn ngồi vào bàn ăn. Câu chuyện rời rạc. Mười ba giờ, cuộc họp nội bộ chóng vánh.

Đêm hai mươi bốn rạng hai mươi lăm màn hấp dẫn không diễn trong vài tiếng đồng hồ mà bắt đầu từ giữa đêm đến tận sáng.
Theo chương trình, phái đoàn sắp gặp cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu. Sau bữa ăn, họ nghỉ vài tiếng đồng hồ. Và khi thức dậy, các đại sứ X, Y, Z đều thấy trên bàn một phong bì, các bức ảnh khổ carte postale rơi ra, ảnh màu với những ghi nhận điển hình nhất...
Hội kiến với ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị Tổng thống phủ (Biên bản tốc ký của phái đoàn Liên hợp quốc).
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Tám, 2008, 09:44:24 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #204 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 09:46:00 pm »

Ông cố vấn chính trị: - Vấn đề chính yếu đặt ra đúng là một vấn đề chậm tiến chung cho nhiều xứ. Vấn đề Phật giáo chỉ là một khía cạnh của vấn đề chính. Những phong trào chính trị, xã hội và tôn giáo tiến triển khá mạnh từ khi xứ sở vừa mới thu hồi độc lập. Nhưng cán bộ lại thiếu trong các phong trào ấy cũng như trong guồng máy chính phủ. Chính phủ bắt buộc phải nhờ đến chuyên viên ngoại cuộc trong mọi lĩnh vực (hành chính, giáo dục, v.v...) nhưng họ đều có chủ thuyết riêng và sự hiện diện của họ trong cơ quan mang đến điều lợi và bất lợi, đó là động lực phát sinh sự tranh chấp. Phong trào Phật giáo cũng ở trong tình trạng ấy. Phong trào Phật giáo phát triển mạnh nhưng cán bộ không đủ, do đó có nhiều sự sai lệch không tránh khỏi. Tôi nghĩ rằng đường lối chính phủ Việt Nam cũng có những lệch lạc. Vấn đề tự do không phải là vấn đề độc nhất mà dân tộc Việt Nam phải giải quyết, vấn đề chính yếu là vấn đề công bằng. Phải động viên các từng lớp dân chúng vào việc kỹ nghệ hóa. Khi nào những đặc quyền chính trị, kinh tế và xã hội chưa lọai trừ được thì chưa có thể động viên được dân chúng. Người ta không thể tách rời vấn đề quân sự và kinh tế khỏi vấn đề xã hội. Trong khối thứ ba, đâu đâu cũng thế, xứ nào cũng có vấn đề, đối với bạn cũng như thù. Nếu quý ông có những câu hỏi cần phải nêu ra, tôi sẽ sung sướng trả lời, trong phạm vi có thể.

Ông trưởng phái đoàn: Ông nói rằng vấn đề Phật giáo là vấn đề chậm tiến. Ông quan niệm như thế nào? Như thế phần nào có nghĩa là Phật giáo phát triển không bằng các cộng đồng khác?
Ông cố vấn chính trị: Vấn đề Phật giáo bắt nguồn trong những ngày tàn của thời kỳ thực dân và có lẽ xa hơn nữa, trước đệ nhị thế chiến không lâu. Không riêng về Phật giáo, những tổ chức chính trị và tôn giáo khác, nhất là Khổng giáo, cũng đều có những vấn đề như thế. Lúc bấy giờ có sự trỗi dậy của tất cả dân tộc châu Á, nguyên nhân vì đường lối chính trị của Nhật Bản. Đường lối của Hitler và chủ nghĩa phát xít đã gây ra sự khủng hoảng tâm lý ở châu Á và đặc biệt là ở Việt Nam. Hầu hết các đảng phái chính trị ở Việt Nam muốn cố gắng bí mật phát triển đều ít nhiều bị chủ nghĩa phát xít chi phối. Vào thời kỳ ấy cũng có sự phục hưng trên bình diện tôn giáo. Đây là một hiện tượng để xác nhận phẩm giá của Việt Nam về địa vị của mình trên trường quốc tế. Đối với Phật giáp, sự phục hưng không đóng một vai trò quan trọng lắm trong những ngày tàn của thời kỳ thực dân và sự kiện ấy có nhiều lý do: theo cổ truyền của xứ sở, tinh thần tự trị của chùa chiền đã ăn sâu trong Phật giáo Việt Nam. Mỗi ngôi chùa là một giáo đường riêng biệt. Mỗi vị trụ trì và bổn đạo làm thành một cộng đồng độc lập. Giáo lý nhà Phật và tính tình người Việt Nam đều mang màu sắc cá nhân. Vấn đề tu dưỡng chỉ là việc riêng của mỗi người. Vì thế, những cố gắng bị phân tán, không hợp nhất, tuy lúc đó đã có một phong trào để đi đến thống nhất. Sự suy tưởng nội tâm của Phật giáo và tính tình người Việt tạo nên một hiện tượng ly tán. Dù muốn hay không, phải công nhận rằng có nhiều vấn đề quan trọng cần giải quyết và người ta tự hỏi không biết Phật giáo có thể giải quyết nó như thế nào. Thật thế, sự tranh đấu cho độc lập là một sự đấu tranh vũ trang, cần đổ mái, trong khi Phật giáo chủ trương hỷ xã, bất bạo động. Như vậy làm thế nào Phật giáo có thể đại diện cho một uy quyền thần bí khả dĩ tập hợp phong trào chống thực dân? Dù muốn hay không, nước Việt Nam phải được kỹ nghệ hóa vào đệ nhị thế chiến khi xứ sở bị Nhật Bản xâm nhập, người ta cảm thấy từ trước nước Việt Nal không sản xuất gì hết, thật là một khoảng trống không trong lãnh vực kỹ nghệ.

Do đó người ta phải tìm ra một uy quyền thần bí để kích động khả năng quốc gia vào công cuộc kỹ nghệ hóa. Vấn đề Phật giáo hiện nay cũng ở trong một hoàn cảnh tương tự. làm thế nào Phật giáo có thể giải quyết sự cần thiết vừa chống Cộng vừa kỹ nghệ hóa xứ sở? Có những vấn đề thế tục cần đặt ra cho những quốc gia trong khối thứ ba: phải tìm một giải pháp hữu hiệu giữa Đông và Tây. Phật giáo có thể giải quyết nhiệm vụ cấp bách và hiện hữu ấy không? Và chính trong điều kiện ấy, phong trào Phật giáo lại phục hưng. Những vấn đề ấy đã có từ năm một nghìn chín trăm ba mươi ba. Năm rôi còn ở Balê và vào thời ký đó đã có những vấn đề. Chúng tôi thành lập những câu lạc bộ tập hợp những bạn hữu khác chủng tộc để nghiên cứu những vấn đế cấp bách cho tương lai. Bắt đầu năm một nghìn chín trăm bốn mươi lắm, những tư tưởng ấy trải qua nhiều thử thách cay chua. Phong trào Độc lập liền bị đặt dưới quyền kiểm soát của Cộng Sản. Những năng lực nhiệt thành đều bị ảnh hưởng của Cộng Sản. Người ta không thể áp dụng nguyên tắc thống nhất cho nhiều xu hướng dân chủ phức tạp. Người ta không thể hợp nhất các lực lượng chống thực dân. Vào lúc đó phong trào Phật giáo cùng phát khởi. Có những cuộc thảo luận sôi nổi để xem người ta đứng về phía Cộng Sản hay chống lại. Chính lúc bấy giờ phong trào Phật giáo cứu quốc cũng ra đời một lần với phong trào Công giáo cứu quốc. Những tổ chức ấy hoạt động khá mạnh, nhất là ở Bắc và Trung vì được tập hợp dưới quyền chỉ huy của Cộng Sản và nằm trong mặt trận đấu tranh của Cộng Sản. Ở miền Nam cũng có một phong trài tôn giáo cùng một xu hướng như trên, nhưng ở trong hoàn cảnh khác: Giáo phái Hòa Hảo và Cao Đài được quân đội viễn chinh võ trang để chống Cộng. Phong trào Phật giáo bành trướng mạnh nhờ phong trào tranh thủ Độc lập. Đây là những hiện tượng lịch sử bộc phát vì liên hệ đến sự tồn vong của Việt Nam. Mỗi tổ chức tìm một cách củng cố theo phương thức riêng của mình: Phật giáo, Gia tô giáo cũng như đảng phái chính trị. Nhưng sự củng cố ấy bị lôi kéo giữa Cộng Sản và Đế quốc. Tình hình hiện tại chỉ là sự nối tiếp của tình hình lúc bấy giờ, Phong trào Phật giáo là một phong trào chính đáng của một tổ chức bị thực dân đàn áp và muốn phát triển vào những ngày tàn của thực dân.

Đó là một phong trào chính đáng, nhưng lại phát triển trong những điều kiện không thuận lợi. Phong trào ấy bị lôi kéo giữa Đông và Tây. Mỗi chủ nghĩa đều cố tìm cách lợi dụng phong trào ấy. Những điều vừa trình bày là quan điểm của nhà sử học và xã hội học. Quan điểm của chính phủ lại khác. Chính phủ đứng ngòai vòng tôn giáo. Sự liên lạc giữa chính phủ và phong trào tôn giáo đều dựa vào tính chất thế tục. Nước chúng tôi là một nước chậm tiến muốn tối tân hóa và vì thế phải giải quyết một số vấn đề : động viên quần chúng vào sự đòi hỏi của chiến tranh (vì chiến tranh đối với chúng tôi là bắt buộc) và kỹ nghệ hóa là điều cần thiết cho sự tiến hóa. Nhưng không nên quên thực tại: phong trài Phật giáo bị lôi kéo giữa Đông và Tây. Chính phủ không có một đường lối chính trị nào chống Phật giáo hết, nhưng ngay trong Phật giáo cũng có những vấn đề riêng. Trong tất cả các tổ chức đều có công tác ngấm ngầm do bàn tay Đông và Tây điều khiển. Cho đến cơ quan hành chính và quân đội cũng có sự len lỏi của chủ nghĩa ngoại lai. Ấy là một nhu cầu lịch sử do hoành cảnh chính trị dựa trên địa lý đặc biệt vủa Việt Nam gây nên. Hoa Kỳ chủ trương phát triển tự do để giải quyết vấn đề chậm tiến. Nhưng tự do không phải là giải phóng. Mà giải phóng theo Cộng Sản chủ trương lạ không phải là tự do. Vị cứu tinh không phải là người có tư tưởng tự do, người có tư tưởng tự do không hẳn là vị cứu tinh. Đứng trước hai quan niệm trái ngược ấy, cần phải dứt khoát. Phật tử cũng ở trong tình trạng bối rối như tín đố tôn giáo khác. Viện trợ Hoa Kỳ rất quý báu đối với chúng tôi, nhưng lại chứa mầm phân hóa: Làm thế nào động viên được quần chúng với một thứ tự do không chịu trút bỏ đặc quyền, trái lại người ta còn đề nghị chúng tôi cứ bảo vệ đặc quyền trên con đường tiến hóa! Thật là một chuyện thần thoại.

Ông trưởng phái đoàn: Ông đã nhắc lại bất bạo động là một nguyên tắc của Phật giáo, nhưng chúng tôi đọc trong nhiều báo chí lại thấy các đoàn thể Phật giáo bị tố cáo là có bạo hành. Ông có thể giải thích cho chúng tôi rõ điều ấy không?

Ông cố vấn chính trị: Trong một cuộc phục hưng nào cũng có sự trở về nguồn. Nếu Phật giáo muốn trở về nguyên thủy thì sự kiện ấy chỉ có thể do một thiểu số ưu tú là những thánh nhân chân chính mà sứ mạng là nói cho chúng ta, những người đang tham gia chiến tranh và góp phần vào công cuộc kỹ nghệ hóa, rằng vật chất không phải là tất cả. Các vị thánh nhân ấy nhắc cho ta, những kẻ đang lao động trong bùn lầy, rằng có một lý tưởng về giá trị tinh thần và sự suy tư, một sức mạnh có thể đập tan sự phản ứng liên tục của thuyết duy vật. Ấy là sứ mạng tôn giáo. Nhưng trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, phong trào Phật giáo đã đi lạc hướng, đã trở thành công cụ chính trị và đi đến mức muốn lật đổ chính phủ. Có rất nhiều nguyên nhân tâm lý đã thúc đẩy các nhà Phật giáo có sự lệch lạc trên. Về nội dung, Phật giáo đứng trước hai thực tế trái ngược (tại miền Nam Việt Nam mà thôi) nếu trở thành một lực lượng chính trị thì không còn là Phật giáo thuần túy nữa.
Đó là mâu thuẫn căn bản ở Việt Nam, và Phật tử từng đau khổ vì mâu thuẫn ấy. Họ thấy những phong trào tôn giáo khác phát triển mạnh hơn rồi họ suy luận là bị đàn áp. Những tôn giáo khác như Hồi giáo, Thiên Chúa giáo tự mình giải quyết những vấn đề thế tục. Phật giáo không phải như thế vì là một tôn giáo chủ trương hoàn toàn thoát tục. Phật tử khi thấy các tôn giáo khác phát triển, kết luận là mình bị bắt nạt. Có nơi tổ chức đưa dân cả toàn xã vào Thiên Chúa giáo. Tín đồ Phật giáo khi thấy nhiều xã theo Công giáo thì lại tưởng đó là áp lực của Chính phủ. Nhưng khi đọc các tài liệu, người ta mới thấy Chính phủ rất lo lắng về sự trở về với Chúa từng loạt như thế, Chính phủ không khuyến khích điều ấy vì đó là Cộng Sản trá hình. Sự kiện này gây cho chúng tôi thiệt hại nhiều vào năm 1960 khi chiến tranh phá hoại phát khởi. Chính phủ Diệm xích mích với hàng giáo phẩm Gia tô về phong trào rửa tội toàn khối ấy. Lực lượng an ninh phải canh chừng những xã ấy nhiều hơn xã khác, nhất là phong trào di cư. Phật tử lập luận rằng chính phủ khuyến khích Gia tô giáo hơn Phật giáp vì trong số 1 triệu dân di cư từ Bắc vào Nam có đến 700.000 tín đồ Gia tô. Người ta tưởng đó là vì Tổng thống Việt Nam Cộng hòa là một tín đồ Gia tô. Người ta không thấy đấy là một vấn đề tổ chức. Trên bình diện thế tục, Gia tô giáo được tổ chức chặt chẽ hơn nên có cả giáo khu được tập hợp và chỉ huy để rời quê hương, trong khi ấy Phật tử lại tản mát và không được tổ chức. Lúc bấy giờ chính phủ Diệm còn yến, ông vừa mới về nước và chính phủ trước đó đã vơ vét hết tiền bạc. Trong ngân khố quốc gia chỉ còn đủ trả lương cho công chức trong một tháng. Những vị Bộ trưởng đều không có lương, vợ tôi nuôi tất cả mọi người. Chúng tôi sống ở đây như đi "picnic". Vì chính phủ yếu và kém tổ chức, nên Tổng thống phải hỏi người Pháp (tướng Salan) có thể giải quyết cho bao nhiêu người di cư vào Nam. Họ trả lời không quá 25.000 trong khi số di cư có đến hàng triệu. Họ đến Hải Phòng và người Pháp bị tràn ngập. Thật là kinh khủng. Người ta đợi hàng tháng để xuống tàu, bao nhiêu của cải mất sạch. Ông Diệm không có phương tiện gì hết. Người Pháp trở nên bi quan, không ngờ tín đồ công giáo đông như thế. Ông Diệm phải nhờ đến người Mỹ vì không cò một cơ quan nào lo việc ấy hết. Vị Bộ trưởng của chính phủ Diệm phụ trách di cư lại chống phong trào ấy. Ông cho rằng về phương diện chính trị, tốt hơn nên để họ ở lại ngoài Bắc vì họ là lực lượng chống đối Cộng Sản, nếu đưa vào Nam mà không làm vừa lòng họ, họ sẽ trở thành lực lượng chống chính phủ. Đó là điều làm cho Phật tử nghĩ rằng Chính phủ ưu đãi tín đồ Công giáo.

Ông trưởng phái đoàn: Theo một bản tuyên bố của Chính phủ, tất cả tổ chức bất hợp pháp đều bị tiêu diệt. Có phải tất cả những tổ chức ấy đềy là của Phật tử không? Và có bao nhiêu tổ chức như thế?

Ông cố vấn chính trị: Âm mưu ấy được tổ chức do Ủy ban liên phái. Ủy bạn này chỉ đại diện cho một thiểu số Phật tử Việt Nam thôi. Số còn lại, không đồng ý và về phương diện tình cảm, họ đau khổ trước sự kiện ấy. Những kẻ âm mưu là đạo hữu của họ và đối với những kẻ ấy, họ có một sự liên kết tinh thần. Người ngoại quốc lợi dụng điều ấy. Cuộc âm mưu thành hình được nhờ những kẻ xúi giục ngoại quốc và nhất là báo chí Mỹ đã đưa dư luận quốc tế lên chống Chính phủ. Tất cả những tổ chức ấy đều do Ủy ban liên phải điều khiển.

Ông trưởng phái đoàn: Quân đội và chính quyền đã khám phá nhiều tài liệu. Chúng tôi có thể xem được bao nhiêu?

Ông cố vấn chính trị:: Quý ông có thể xem tất cả.
Ông Gunewardene: Có bao nhiêu Phật tử trong Chính phủ?
Ông cố vấn chính trị: Ba phần tư.
Ông Gunewardene: Trong hàng ngũ tướng lãnh?
Ông cố vấn chính trị: Trong mười bày vị tướng thì có mười bốn vị Phật tử, thuần túy hay không, tôi không được rõ, và ba tín đò Gia tô trên hình thích.
Ông Gunewardene: Có bao nhiêu Phật tử trong quân đội?
Ông cố vấn chính trị Cúng một tỷ lệ như trong dân chúng. Nhưng đa số thờ cúng tổ tiên, thờ cúng những người quá cố. Họ không đến chùa. Việt Nam không phải là một xứ sùng đạo. Đúng hơn, người Việt Nam không muốn ràng buộc vì giáo điều. Họ đến chùa khi bênh hoạn hay đau khổ. Ngòai ra, họ không đến làm gì.
Ông Gunewardene: Ai là tưởng chỉ huy Quân đoàn thủ đô? Có phải là một phật tử không?
Ông cố vấn chính trị: Thiếu tướng là một Phật tử. Nhưng cho đến này, đối với chúng tôi, đó không phải là một điều quan trọng đểu đánh giá trị.
Ông Gunewardene: Nhưng đối với Phật tử điều ấy có làm họ băn khoăn không?
Ông cố vấn chính trị Chúng tôi không muốn đi sâu vào những nhận xét ấy. Người ta có thể thay đổi tôn giáo. Như tôi chẳng hạn, tôi là tín đồ Gia tô, nhưng chống Giáo hội.
Ông Correa De Costa: Cũng trong vấn đề này, tôi xin đặt câu hỏi sau: Trong điều kiện như thế thì làm sao lại nảy sinh vấn đề đỏi hỏi của Phật giáo?
Ông cố vấn chính trị: Trong hoàn cảnh lịch sử của các nước chậm tiến, Phật tử đã đi lệch con đường giáo lý vì thiế cán bộ để nghiên cứu. Với tư cách là tín đồ Gia tô, như tôi chẳng hạn, tôi nghĩ rằng, Hội nghị Công đồng thế giới hiện nay chỉ có kết quả tốt đẹp nếu có sự cải cách trong việc nghiên cứu Thần học. Sự tiến triển về hoạt động của Gia tô giáo không đi đôi với phẩm chất của việc nghiên cứu Thần học. Hiện nạy những nhà Thần học Gia tô ở đâu? Lẽ dĩ nhiên là không phải trong các vị Hồng y. Họ chỉ là cán bộ.
Ông Amor: Có những trại thanh niên ở Sài Gòn; chúng tôi có thể đi xem được không?
Ông cố vấn chính trị:: Có, những trại ấy cách đây vài cây số.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #205 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 09:48:39 pm »

Khi phái đoàn Liên hợp quốc dời dinh Gia Long, Nhu bảo Luân: - Để cho họ điều tra. Càng nhiều nhân chứng càng tốt. Tất nhiên, có nhân chứng nọ, nhân chứ kia... Ta không cần các biên bản tốc ký hoặc ghi âm, dù hàng đống cũng được. Ta cần kéo dài thời gian. Sau "Bravo", mọi thứ coi nhu mất hết giá trị. Sức mạnh, bây giờ là tiếng nói của sức mạnh. Tôi sẽ mở một tiệc thật lớn để tiễn họ và tôi sẽ ghi bằng phim vẻ mặt tiu nghỉu của họ. Tôi tin một trong số họ thích kéo dài cuộc điều tra. Về phương diện này, Ngô Trọng Hiếu làm việc không đến nỗi tồi...

Luân ngồi trên xe về nhà, suy nghĩ khác Nhu. Ngô Trọng Hiếu không thể xỏ mũi toàn thể phái đoàn và trò gài bẫy này sẽ vô hiệu hóa nếu những gã đại sứ dại gái kia thú nhận - cá nhân họ mất chức, song câu chuyện Phật giáo vẫn còn nguyên trong chương trình nghị sự, nếu không nói là cũng sự lột mặt của các đại sứ ậm ờ thì bản thân chế độ cũng tự lột mặt, chẳng một tí sạch sẽ, tha hồ cho báo chí thế giới bêu rếu và càng thúc đẩy Tổng thống Mỹ hạ bàn tay còn phần nào do dự xuống bàn cờ; các con cờ nhảy tung cả lên, đôi luyến tiếc cuối cùng của ông với Ngô Đình Diệm sẽ tan biến...

Về cuộc gặp gỡ, Luân có thể nhận diện ai rơi vào cái bẫy của Ngô Trọng Hiểu - những câu hỏi mở đường cho chính phủ như lời họ thú tội - nhưng một đại sứ đã gặp Cabot Lodge, nghĩa là gặp cả Bộ tham mưu Mỹ tại Sài Gòn đủ điều chỉnh mọi chuệch choạc. Suốt cuộc gặp gỡ, Luân không nói, ngoài cái bắt tay xã giao với khách. Và Luân biết liền ai đã gặp Cabot Lodge qua cái siết tay hơi mạnh so với người khác. Cabot Lodge hẳn đã giới thiệu Luân. Cái nực cười nhất là Nhu dám đổ cho Cộng Sản tổ chức cả xã vào đạo Thiên chúa - sự ngụy biện trơ tráo báo hiệu khả năng suy nghĩ của Nhu mỗi lúc mỗi tối hơn.

Một khách không hẹn đợi Luân. Một Linh mục. Người gầy, đeo kính trắng, nho nhã. Ông tự giới thiệu, Luân mới biết ông là Linh mục - bề ngòai ông như một trí thức bình thường, sơ mi trắng ngắn tay, quần tropical cũ, đi xăng - đan. Luân nghe tiếng Linh mục từ lâu, giảng viên đại học, người Huế, thuộc nhóm mà Nhu liệt vào danh sách "đầu bò". Ông có cái tên đẹp như tên phụ nữ: Kim Huệ.

- Chúng ta nên bắt đầu từ đâu, thưa Cha? - Luân cười.

Linh mục không cười. Nét căng thẳng hiện rõ trên vẻ mặt khôi ngô của Linh mục - ông không thể quá tuổi ba mươi.

- Tôi muốn xác định phạm vi trao đổi. Đại tá là người có đạo, tôi là Linh mục, nhưng đây là cuộc nói chuyện bình đẳng giữa hai người có thể có chung mối quan tâm về tình hình miền Nam và tình hình giáo hội... Tôi nói lại, không chỉ tình hình giáo hội mà tình hình những người theo đạo Thiên Chúa, đặc biệt là đạo Thiên Chúa La Mã.

- Cám ơn Cha đã cho phép... Tuy vậy, con vẫn thấy Cha chưa nêu chủ điểm của cuộc trao đổi...
- Trước hết, để thực hiện nguyên tắc bình đẳng, tôi đề nghị chúng ta theo cách xưng hô thế tục - gọi nhau là anh, xưng là tôi... Không phải lúc nào cách xưng hô trong đạo cũng thích hợp cả... Còn chủ điểm? Anh hiểu hơn rôi. Chế độ ông Diệm đang thoi thóp...
- Và, tôi là thành viên của chế độ đó, không dễ thở... - Luân lại cười.
- Chưa hẳn... Tôi không làm nghề tình báo, không có nguồn tin bên trong song tôi hiểu anh và chế độ ông Diệm chưa bao giờ hòa đồng. - Linh mục Kim Huệ nghiêm mặt.
- Phong trào Phật giáo không hề uy hiếp những người như Linh mục... - Luân nói.
- Đâu phải vì nghĩ rằng phong trào Phật giáo uy hiếp chúng tôi, mà tôi đến đây. Anh không có tư cách thay mặt cho Phật giáo. Tôi đã gặp những người cầm đầu Phật giáo và vì vậy, tôi lo...
- Anh đã gặp thầy Thiện Hoa chua?

Bây giờ, Linh mục Kim Huệ mới cười:
- Tôi đoán không sai. Người mà anh quan tâm là thầy Thiện Hoa, thầy Trí Tịnh, thầy Thiện Hòa, hòa thượng Thiện Luật, hòa thượng Tịnh Khiết... Tôi biết đêm đẫm máu chùa Xá Lợi, anh có mặt. Có người cho rằng anh vào chùa để làm nội ứng cho Trần Văn Tư. Ít người nói vậy thôi...
- Thích Đức Nghiệp là một!
- Đúng... Có người nói anh muốn tạo chân đứng sau này...
- Lập luận của ông Thích Tâm Châu...
- Đúng.. Thậm chí, có một lá thư từ Mỹ gửi về dặn các nhà sư coi chừng anh. Anh là người của cơ quan tình báo Mỹ...
- Của Thích Nhất Hạnh!
- Đúng!
- Có lẽ ông ta nói không sai.. Ông ta là người của Mc. Cône - Luân châm biếm.
- Thích Nhất Hạnh có là CIA hay không, tôi không rõ và cũng chẳng cần rõ. Nếu anh có tài liệu, thì ông ta cũng chỉ có thể đạt cái mức nhân viên tình báo Mỹ thôi. Còn anh, nếu ông ta nói đúng, thì theo tôi, phải đảo ngược: Tình báo Mỹ là nhân viên của anh!

Luân mỉm cười để che cái chớp giật trong người. Linh mục Kim Huệ đáo để thật!
- Tôi suy đoán, hoàn toàn theo logich học, dựa trên các hiện tượng rời rạc... Anh đã góp phần không nhỏ vào tình cảnh khốn quẫn hiện nay của chế độ ông Diệm, nghĩa là của Mỹ... Nhân tiện, tôi thuật cho anh nghe cuộc đấu khẩu giữa tôi và Thích Đức Nghiệp. Ông ta cho rằng nếu mai kia ông Diệm dời khỏi chính trường là do công của Phật giáo, chủ yếu là do công của Phật giáo - không có các vụ tự thiêu, không có các chịu đựng tai họa, không có cuộc vận động quốc tế... thì ông Diệm vĩnh viễn là ông Diệm... Tôi bảo: Không có Mặt trận giải phóng, không có quân Giải Phóng, không có một nửa nước độc lập, không có cuộc đấu tranh chống Pháo kiên quyết kéo dài chín năm, liệu có thể có phong trào Phật giáo với quy mô vừa qua không? Ông Thích Đức Nghiệp lắc đầu, lắc đầu một cách yếu ớt. Tôi nói thêm: Tuy hằng triệu người đứng trong hàng ngũ Phật giáo, tín đồ thật sự là bao nhiêu? Ông ta cũng tiếp tục lắc đầu yếu ớt. Tôi biết một số người theo Công giáo có mặt trong các cuộc biểu tình...

- Nhưng không thể không đánh giá đúng cống hiến của Phật giáo... - Luân ngắt lời Kim Huệ.
- Tôi không nghĩ khác... Chính tôi nói thẳng với thầy Thiện Hoa những ý trên, thầy Thiện Hoa gật đầu: Đạo pháp và dân tộc gắn chặt, cái nền chính là dân tộc... Tôi gặp anh để nêu lên hai câu hỏi: một, cái gì tiếp sau biến động hôm nay. Tốt hay xấu cho đất nước, nghĩa là cho hòa bình và cho cả thống nhất. Hai, người theo đạo Chúa cần làm gì, có thể làm gì...
Luân trầm ngâm. Anh mời thuốc lá, Linh mục không hút. Câu hỏi lớn quá. Tâm trạng những người như Kim Huệ bao quát quá. Nó cũng là câu hỏi và tâm trạng của Luân.

Thấy Luân chưa trả lời, Kim Huệ nói thêm, rất sôi nổi:
- Thay đổi chế độ, mong ước ấy không riêng của Phật giáo. Nhưng, cái gì đang chờ chúng ta? Ông Diệm nói một câu tiên tri: Cái sẽ tới còn ghê rợn hơn... Có thể như vậy không?
- Thay đổi chế độ? - Luân hỏi vặn Kim Huệ - Sẽ không có một thay đổi đến mức đó... Anh hiểu chế độ chỉ là ông Diệm?
Kim Huệ phản ứng thật nhanh: - Tôi đính chính. Thay đổi bộ máu bản xứ của người Mỹ...
- Nếu anh đã nhận thức được như vậy thì anh đã tự trả lời...
- Nghĩa là, đối với đất nước vẫn xấu?
- Có thể xấu hơn, đồng thời có thể ít xấu hơn...
- Có thể... mơ hồ quá. Khả năng nào nhiều?
- Nếu để cho diến tiến của tình hình trong phạm vi một cuộc đẩy cây giữa hai phía - ông Diệm và Mỹ, tức là giữa những người do Mỹ khống chế - thì khả năng đầu nhiều hơn...
- Tôi không tin Mặt trận khoanh tay...
- Cũng như anh, tôi không hiểu chuyện ngoài bưng, ngoài rừng...
- Anh không hiểu, tôi đồng ý... Không hiểu cụ thể...
- Còn anh?
- Tại sao tôi phải úp mở: Tôi có hiểu, tuy chẳng sâu.
- Anh nghe tôi: Ván bài cần bốn tay chơi. Anh và tôi mới nghĩ đến ba. Thiếu một. Một quan trọng nhất, sẽ trả lời câu hỏi của anh.
- Phải chăng, theo anh, trả lời câu hỏi này liên quan đến câu hỏi thứ hai của tôi?
Luân lắc đầu:
- Lực lượng Công giáo chưa thể có sức nặng... Tôi nói lực lượng không mù quáng.
- Năm một nghìn chín trăm sáu mươi ba này khác những năm một nghìn chín trăm năm mươi bốn, một nghìn chín trăn năm mươi lăm...
- Tôi hy vọng. Song, tôi không ảo vọng. Rất có thể sau khi có một đổi thay nào đó? - ta cứ giả định đi - điều anh và tôi hy vọng sẽ lớn ra... Phải làm gì, với một Linh mục, nghĩa là với sự ràng buộc của giáo hội, tôi không dám nói. Anh cũng thấy, một trong những cái dấy lên phong trào phản đối hiện nay là chính sách ưu đãi Công giáo của Tổng thống...
- Nhưng, không phải tất cả Linh mục, thậm chí Giám mục đều nhận và tán thành một ân sủng như vậy.
- Tôi đồng ý. Dẫu sao, ấn tượng mà dân chúng ghi trong đầu không quá bị bóp méo... Tôi hỏi anh một câu - bởi anh hỏi tôi hàng chục câu - có bao nhiêu Linh mục suy nghĩ và muốn hành động như anh?
- Suy nghĩ như tôi, nhất định đông, nhất là số Linh mục trẻ từ Châu Âu về. Còn muốn hành động?
Linh mục Kim Huệ nhún vai.
- Anh có thể hiểu sức mạnh mà những ngườ như anh cần, dựa vào đâu để tạo ra không?
Linh mục Kim Huệ cười rộ:
- Tôi không phải quá trẻ...
Sau cái bắt tay thật chặt, hai người từ giã nhau như đôi bạn thân.
Phái đoàn Liên hợp quốc thẩm vấn các nhân chứng (trích)

* Nhân chứng số 1
- Ông trưởng phái đoàn: Theo ý ngài, những lời tố cáo chính phủ Việt Nam đã vi phạm các quyền tín ngưỡng Phật giáo đồ có căn cứ không? Nếu có, chúng tôi mong được ngài cho biết càng nhiều càng tốt những bằng chứng về những vi phạm ấy.
- Nhân chứng: Những tố giác về những vi phạm của chính phủ đối với việc tu hành hay với Phật pháp bắt nguồn từ bốn tỉnh ở Trung Việt, cách đây đã ba hay bốn năm. Bốn tỉnh ấy là: Phú Yên, Bình Định, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Còn những tố giác khác, tôi không được biết rõ. Những đoàn thể Phật giáo của các tỉnh ấy đã đệ đơn khiếu nại lên chính phủ và lên Tổng hội, đại diện cho họ ở Sài Gòn. Những đơn ấy quý ông có thể tìm thấy trong những tập tài liệu. Chắc quý ông cũng đã biết đến năm nguyện vọng đã được trình lên chính quyền trong mùa hè năm nay. Tôi không được biết những tố giác khác. Tại Việt Nam, 80% dân chúng là Phật tử, mà những lễ lạt của Phật giáo lại không được Tổng thống nhìn với một con mắt có thiện cảm như các lễ lạt của Thiên Chúa giáo. Thí dụ ngày lễn Noel được tổ chức một cách to tát và chính phủ tham gia vào các lễ tại nhà thờ.
- Ông trưởng phái đoàn: Có phải, như một số người đồn, phong trào Phật giáo đã bị xúi giục, bằng cách này hay cách khác, bởi Cộng Sản, Việt Cộng hay tay sai ngoại quốc không? Ngài, hoặc những người quen biết với ngài, có ai là nạn nhân của sự xúi giục ấy không?
- Nhân chứng: Tất cả vụ này phát khởi từ Huế. Như quý ông đã biết, ở đây trong ngày lễ Phật đản, vấn để lá cờ Phật giáo được nêu lên. Biến cố này đã gieo mầm bất an vào đến Sài Gòn, và cứ thế mà tiếp tục mãi. Riêng về phần tôi, tôi không bị ai xúi giục cả.
- Ông Gunewardene: Ở Huế, có sự xúi giục nào không?
- Nhân chứng: Tôi không được biết.
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Tám, 2008, 09:54:46 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #206 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 09:49:12 pm »

* Nhân chứng số 3

- Ông trưởng phái đoàn: Ngài có biết phái đoàn đến gặp ngài hôm nay không?
- Nhân chứng: Vâng, tôi có biết đại diện của Liên Hợp quốc sẽ đến điều tra về tình hình Phật giáo đồ ở miền Nam Việt Nam. Tôi là phát ngôn viên của Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo. Tôi ở chùa Xá lợi.
- Ông Correa Da Costa: Ủy ban liên phái là gì? Nhiệm vụ của nó thế nào?
- Nhân chứng: Ủy ban có nhiệm vụ đòi hỏi quyền tự do tín ngưỡng tại Việt Nam Cộng hòa bằng một chính sách bất bạo động.
- Ông Correa Da Costa: Ủy ban liên phái được thành lập ngày nào?
- Nhân chứng: Đã năm tháng nay.
- Ông Correa Da Costa: Sau những vụ lôi thôi ở Huế?
- Nhân chứng: Vâng, tất cả giáo phái Phật giáo đã hợp tác với Ủy ban từ ngày ấy.
- Ông Correa Da Costa: Có khoảng mười chín giáo phái Phật giáo quan trọng tại Việt Nam. Vậy có bao nhiêu phái tham dự trong Ủy ban?
- Nhân chứng: Trong mười sáu giáo phái ở miền Nam Việt Nam, mười bốn giáo phái có đại diện trong Ủy ban liên phái.
- Ông Correa Da Costa: Hai giáo phái nào không tham dự?
- Nhân chứng Giáo phái Cổ Sơn Môn và Tịnh độ tông.
- Ông Correa Da Costa: Vì sao họ không tham dự?
- Nhân chứng: Vì họ cộng tác với chính phủ.
- Ông Correa Da Costa: Có những mối liên quan như thế nào giữa Ủy ban liên phái và Tổng hội Phật giáo?
- Nhân chứng: Tổng hội Phật giáp thành lập từ năm 1951, 1952 và gồm có tăng già, cư sĩ của tập đoàn Phật giáo.
- Ông trưởng phái đoàn: Từ khi bị bắt, ngài có bị hành hạ không?
- Nhân chứng: Thật khó trả lời câu hỏi của ngài trong lúc này. Tôi ước mong ngày thông cảm cảnh ngộ hiện tại của tôi. Tôi không thể trả lời nơi đây được.

* Nhân chứng số 6:
- Ông trưởng phái đoàn: Ngài bị bắt giam lúc nào?
- Nhân chứng: Ngày 20-8-1963
- Ông trưởng phái đoàn: Lúc mấy giờ?
- Nhân chứng Lúc hai giờ sáng.
- Ông trưởng phái đoàn: Cảnh sát có phá cửa khi họ bắt ngài không?
- Nhân chứng Có.
- Ông trưởng phái đoàn: Cửa chùa hay cửa phòng ngài??
- Nhân chứng: Họ phá cửa sắt mà thôi. Tôi ở trong phòng, họ đến đập cửa và gọi tôi ra.
- Ông trưởng phái đoàn: Ai?
- Nhân chứng: Những sĩ quan.
- Ông trưởng phái đoàn: Những sĩ quan quân đội hay của cảnh sát?
- Nhân chứng: Những sĩ quan và binh sĩ của quân đội.
- Ông trưởng phái đoàn:: Ngài có bị đánh đập không?
- Nhân chứng: Một ít thôi.
- Ông Volio: Thế nào? Họ đánh bằng tay hay bằng gậy?
- Nhân chứng: Bằng tay.
- Ông trưởng phái đoàn: Vì sao họ đánh ngài?
- Nhân chứng: Họ không nói lý do vì sao cả.
- Ông Gunewardene: Những quân nhân đến đây có vũ trang không?
- Nhân chứng: Tôi không biết họ có lọai súng gì. Họ cầm súng như thế này (phái đoàn biết đó là súng có lưỡi lê).
- Ông Gunewardene: Họ đem ngài đi đâu?
- Nhân chứng: Họ dẫn tôi tới một nơi xa và không biết nơi ấy là đâu cả.
- Ông Gunewardene: Họ giao ngài cho ai canh gác?
- Nhân chứng: Họ dẫn tôi đến chỗ ấy lúc hai giờ sáng và đến bốn giờ sáng họ lại đưa tôi đến một nơi khác rồi giam tôi vào trong một xà lim.
- Ông Gunewardene: Ngài bị giam trong ấy mấy ngày?
- Nhân chứng: Vào khoảng một tuần lễ.
- Ông Gunewardene: Họ đối đã với ngài như thế nào?
- Nhân chứng: Tôi không bị ngược đãi.
- Ông Gunewardene: Đêm ngài bị bắt có bao nhiêu nhà sư ở trong chùa?
- Nhân chứng: Vào khoảng mười.
- Ông Gunewardene: Họ đề bị bắt cả?
- Nhân chứng: Vâng.
- Ông Koirala: Người ta cho rằng Cộng Sản, Việt Cộng và những nhân viên ngoại quốc khác, là nguyên nhân của các vụ lôi thôi ấy, ngài nghĩ sao?
- Nhân chứng: Tôi chỉ biết tu mà thôi, tôi không thể nói được việc ấy.

* Nhân chứng số 26.
- Trưởng phái đoàn: Anh có phải là phật tử không?
- Nhân chứng Tôi là Phật tử.
- Trưởng phái đoàn: Anh bị bắt khi nào?
- Nhân chứng: Ngày hai mươi tám tháng tám.
- Trưởng phái đoàn: Anh có dự các cuộc biểu tình của sinh viên không?
- Nhân chứng: Có.
- Trưởng phái đoàn: Anh có bị đánh đập không?
- Nhân chứng: Không.
- Trưởng phái đoàn: Bao nhiêu sinh viên tham dự cuộc biểu tình?
- Nhân chứng: Hơn một nghìn sinh viên.
- Ông Gunewwardene: Bao nhiêu bị bắt và bị giam?
- Nhân chứng: Tám trăm bị giam, rồi được thả ra.
- Ông Gunewwardene: Anh biểu tình để chống đối gì?
- Nhân chứng: Vì tôi nghĩ rằng đó là việc phải làm sau các biến cố xảy ra, và đó là lý do khiến tôi tham dự cuộc biểu tình. Tôi không biết tôi có bị các phần tử ngoại lai khai thác hay lợi dụng không. Lúc khởi đầu đó là một phong trào thuần túy, không có sự can thiệp nào từ bên ngoài cả, nhưng về sau - theo ý tôi, có một phần nào.

* Nhân chứng số 34:
- Ông Amor: Anh có phải là Phật tử không?
- Nhân chứng: Tôi không phải là Phật tử, không phải theo Thiên chúa giáo, cũng không phải là Cộng Sản. Tôi không có tôn giáo.
- Ông Correa De Costa: Vì sao anh bị bắt.
- Nhân chứng: Tôi không phải là Cộng Sản. Tôi bị bắt vì có liên hệ với các tổ chức chính trị.
- Ông Amor: Anh nghĩ gì về vấn đề Phật giáo?
- Nhân chứng: Tôi không lưu tâm đến vấn đề ấy. Là một sinh viên khoa chính trị học, tôi nhìn vấn đề dưới một khía cạnh khác.
- Ông Pinto: Với tư cách sinh viên khoa chính trị học, vấn đề Phật giáo không làm anh xúc động một tí nào sao?
- Nhân chứng: Như mọi sinh viên khoa chính trị học theo dõi những mục tiêu chính trị, không phải tôi không bị xúc động vì vấn đề Phật giáo, nhưng tôi cho nó chỉ có một tầm quan trọng nào đó thôi. Do đó, phản ứng của tôi không phải là phản ứng của một công dân thường.
- Ông Koirala: Anh có tham dự các cuộc biểu tình không?
- Nhân chứng: Tôi không tham sự biểu tình, nhưng tôi là thủ lĩnh một nhóm sinh viên và tôi không quên cho biết quan điểm của tôi trong mọi cơ hội. Tôi không đi theo nhóm biểu tình ngòai lộ.
- Ông Gunewrdene: Anh có phát biểu ý kiến về vấn đề Phật giáo không?
- Nhân chứng: Từ lâu, tôi đã phát biểu ý kiến và tôi chống chính phủ này, nhưng, vì lí do tôn giáo, thật rất khó khăn. Tôi muốn rằng các Phật tử bị bắt được thả ra.
- Ông Koirala: Anh có nghĩ rằng vấn đề Phật giáo là triệu chứng của một sự bực bội rộng lớn hơn trong xứ này không?.
- Nhân chứng: Những người thấy điều ấy có thể có cảm tình nồng nhiệt với phong trào trên, những người không thấy gì có thể bị đánh lạc.
- Pinto: Anh có bị đánh đập không?
- Nhân chứng: Trường hợp tôi là một trường hợp đặc biệt. Vì người ta biết rằng tôi là thủ lĩnh một nhóm chính trị trong sinh viên, không bao giờ tôi bị đánh đập, người ta để tôi yên. Lẽ tất nhiên, có thể khác đối với những người khác. Trong quá khứ, tôi không bị phiền lụy gì, còn vai trò của tôi trên trường chính trị, bao giờ tôi cũng được xem như một thủ lĩnh; do đó, người ta đối xử với tôi rất tử tế, người ta cố gắng không đụng tới tôi, nếu không có lý do khác, về các vấn đề chính trị, người ta để tôi làm điều gì tôi muốn.
- Ông Gunewardene: Như một người không có tôn giáo, anh nghĩ gì về việc quân đội tấn công các chùa chiền?
- Nhân chứng: Tôi không thấy điều đó. Tôi chỉ nghe nói, nhưng không thấy tận mắt...
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Tám, 2008, 09:55:45 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #207 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 10:09:24 pm »

Chương 9

Theo Thùy Dung thì Nhu ngửi được đôi chút về quả bóng căng thẳng sắp vỡ nhưng lại cố giữ vẻ bình thản. Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia hiểu rõ việc phải làm khi “bravo” khởi sự; đích thân Nhu chỉ thị cho ông chi tiết của kế hoạch. Bản danh sách dài đặc - những người sẽ bị bắn ngay khi súng nổ, những người sẽ bị biệt giam để khai thác, những người an trí lâu dài… Chỉ kể nhân vật tiếng tăm, Thuỳ Dung đếm trên hai trăm ngàn, trong đó, loại một - loại phải chết không cần hỏi cung lên đến hàng chục, đứng đầu là tướng Có, đại tá Đỗ Mậu, tướng Xuân, thiếu tá Nguyễn Bá Liên… Riêng tướng André, Nhu nghĩ sao không rõ – có thể người vợ Huỳnh Hữu Hiền đã vô hiệu hoá tướng này – nên không có tên trong danh sách. Minh Lớn cũng không có tên. Luân biết danh sách tại chỉ huy sở của Tôn Thất Đính. Nhu hoàn toàn không bàn với Luân, anh ta tự ghi tên và đích danh đánh máy – theo Luân, chỉ đánh máy bốn bản, Nhu giữ một, còn ba bản thì giao cho Tổng Giám đốc cảnh sát, Tôn Thất Đính và Tổng Uỷ trưởng tình báo.

Tôn Thất Đính thắc mắc về trường hợp của Minh Lớn. Tất nhiên, giả vờ thắc mắc. Luân nhún vai. Anh không khó phát hiện cái gượng gạo của Đính.
- Với tôi, cả bản danh sách đều vô lý!
Đính kinh ngạc thật sự:
- Đại tá không tán thành sự phân loại này?
- Tôi không tán thành toàn bộ kế hoạch “bravo”…
- Ồ! – Đính kêu to - Vậy mà tôi vẫn nghĩ đại tá là tác giả của bản kế hoạch…
- Tôi không thích! Đơn giản như vậy…
- Nhưng, chính ông cố vấn cử đại tá chịu trách nhiệm với tôi… hoặc chính xác hơn, chỉ huy tôi.
- Thiếu tướng đã nghe ông Nhu nói về vai trò của tôi. Đó là quyết định của ông Nhu và tôi không còn cách nào khác hơn là chấp hành. Nhưng, tôi không chỉ huy và ngay cả cùng chịu trách nhiệm tôi cũng thấy mình không đủ tư cách…
- Ở đây, không có vấn đề tư cách xét theo cấp bậc. Nhưng tôi đồng ý: từ khi được giao trách nhiệm, đại tá lơ là. Tôi cho rằng đại tá kín đáo, tế nhị…
- Thưa thiếu tướng, điều cật vấn lương tâm tôi ở chỗ khác. Tại sao? Tại sao phải có “bravo” và tại sao lại phải có “bravo tiếp theo” - Giọng Luân bình thản, đều đều.

Mặt Tôn Thất Đính biến sắc. Anh ta mất tự chủ, đánh rơi bản danh sách xuống bàn, ngó Luân trân trối. Dù cho năm phút trước giờ cử sự, Luân vẫn có thể gông cổ Đính và thế là mọi thứ tan tành… Liệu lão thầy bói có phải là người của Luân không? “Bravo tiếp theo” là quy ước của Đính với nhóm André.
Luân liếc Đính, gần như đọc rành rọt từng ý nghĩ ẩn hiện trong đầu viên tướng có bộ vó lấc cấc và đầy tâm địa phản trắc. Nói chung, Luân ít giao du với Đính vì nhiều lẽ. Lúc Luân vừa nhập vào gia đình họ Ngô thì Đính chưa có tiếng tăm gì, cấp bậc rất thấp, lại thuộc hoàng tộc, là đối tượng mà Diệm rất nghi ngờ. Đính thích phô trương dòng dõi vua chúa trong khi họ “Tôn Thất” đông đến hàng vạn, những râu ria nhà Nguyễn. Đính vốn cao ngạo, tốt nghiệp trường võ bị Pháp, xem Luân như gã vô danh tiểu tốt ở bưng biền, nhảy phóc tận bếp núc nhà Ngô, nơi mà Đính rất thèm nhưng không được. Sau cùng, Đính nổi tiếng ăn chơi trác táng còn Luân giữ một cuộc sống gần như mô phạm. Trong công vụ, hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhưng ngoài cái bắt tay xã giao họ chưa lần nào nói chuyện riêng ngay với tư cách sĩ quan chớ chưa phải bạn bè.

Những năm gần đây, qua các tin đồn đại, Đính bắt đầu ngại Luân: một tay mưu trí, lập được nhiều công, Mỹ tin cậy như một thứ con bài dự trữ. Dự một số cuộc họp quân sự, nghe Luân thuyết trình hoặc phát biểu, Đính thay đổi dần cách nhìn Luân - một gã hiểu biết nhiều, sắc sảo. Và Đính tự thấy mình kém hơn. Ít thạo chính trị. Đính càng gờm Luân - cả sợ, phục và ganh. Luân hiểu Đính kỹ và sâu hơn là Đính hiểu Luân. Một tay rỗng tuếch, háo danh, ngang với háo quyền lực, háo tiền và háo gái, ti tiện trong cư xử - nịnh bợ Diệm. Tệ hơn Trịnh Minh Thế, Nguyễn Đình Thuần và các loại đầu cơ khác. Trong bàn cờ này, Nhu quá chủ quan, bị lòng tin của Diệm lôi cuốn nên không bao giờ mang tâm địa của Đính ra mổ xẻ - nếu làm việc đó, Nhu thừa sức lột mặt Đính khi Đính trở cờ. Tất nhiên, Đính trở cờ vào những ngày gần đây thôi, song không phải không có những triệu chứng dễ thấy. Nhu bước vào thế “đánh xả láng” và anh ta nghĩ rằng mọi tính toán của anh ta đã thật chi li, thật chặt. Phòng thủ từ xa, Nhu có Huỳnh Văn Cao và Nguyễn Khánh. Vùng 3 và đô thành có Đính, tiếp cận có Bùi Đình Đạm, sư trưởng ở Mỹ Tho và Nguyễn Văn Thiệu, sư trưởng ở Củ Chi, hải quân thuộc Hồ Tấn Quyền, không quân thuộc Huỳnh Hữu Hiền, liên binh phòng vệ có Lê Quang Tùng. Cảnh sát thì khỏi cần bàn. Nhu ngại Nguyễn Bá Liên, chỉ huy thiết giáp song, mỗi Liên sẽ chẳng làm nên trò trống gì. Gia đình Liên đồng hương với Diệm, Diệm khi thất thế đã nhờ cậy cha của Liên, Diệm không ưa Liên: đòi hỏi của anh ta về chức tước, theo Diệm, hơi lố. Đúng ra, nếu trước kia yêu cầu xin lên chức của Liên không khó thoả mãn - Diệm từng đặc cách phong quân hàm cho hàng trăm sĩ quan – nhưng sau này Nhu khuyên Diệm nên thận trọng đối với đồng hương bởi thiên hạ xầm xì khá rộng và Mỹ nhiều lần không bằng lòng. Nhu nắm chắc Liên bất mãn và chờ dịp phản bội.

Điều hệ trọng khác, rất quyết định, ấy là bộ máy thông tin của Nhu bị nhiễu - người ta giấu Nhu. Nhu lờ mờ về quyền lực của bản thân mà không hiểu rằng đại sứ quán Mỹ mới đúng là một thứ Phủ tổng thống hạng siêu và lũ bộ hạ của Nhu - cả bộ hạ chính trị lẫn mật vụ - hướng về đường Hàm Nghi hơn là về Dinh Gia Long. Vụ Phật giáo càng thúc đẩy chúng canh chừng cái lắc, cái gật của Cabot Lodge

- Tôi và đại tá đều có tín ngưỡng tôn giáo là Phật giáo chứ không phải Công giáo, song cả hai chỉ mong điều thiện… - Tôn Thất Đính ấp úng.

Luân cười mỉm: “Tôn Thất Đính mà cũng định thuyết giảng về tôn giáo!”.
- Ở đây không có chuyện về tôn giáo, về ước vọng. Ở đây chỉ có chuyện những quân nhân phục tùng kỷ luật. Tôi không tán thành kế hoạch “bravo” và những cái tương tự, song tôi sẽ chấp hành…
- Nghĩa là? – Đính hỏi đột ngột. Hỏi xong biết hớ. Đính cúi lượm bản danh sách, che giấu bối rối.
- Nghĩa là tôi thực hiện chỉ thị của thiếu tướng! Tôi muốn nhắc, ngoài “bravo” còn có “horse tail”…
Đính ngó Luân một lúc, hơi lâu
- Horse tail? Cái đuôi ngựa? Cái mô?
- Rồi chúng ta sẽ biết!

Viên tướng bắt tay Luân thật chặt. Khi Luân rời trại Lê Văn Duyệt, Đính hối hả gọi điện cho Trần Văn Đôn. Hai người gặp nhau, Đính thuật lại lời của Luân. Đôn trầm ngâm nghe, sau đó bảo:
- Mỹ bật đèn xanh rồi. Bất kể thằng Luân thuộc cánh nào nó cũng không dám cãi lại Mỹ.
- Có đúng là Mỹ bật đèn xanh không? – Đính vẫn do dự - Tướng Harkin thế nào?
- Harkin thì giữ quan điểm khác. Ông ta đã loan báo một bộ phận quân đội Mỹ sẽ về Mỹ ăn Noel này. Tạm thời, không hé ra chút gì cho Harkins biết. Nhưng người chỉ huy ở đây là Cabot Lodge…

Cabot Lodge sốt ruột lắm rồi…
- Tôi ngại Harkins! Ông ta mà trở quẻ thì chúng minh tiêu tùng sạch! Tuy chỉ có chục nghìn lính Mỹ, chúng nó có thể ngăn trở chúng ta…
- Đừng lo! Cứ theo kế hoạch. Tôi có thể đảm bảo với thiếu tướng. Không có gì trục trặc từ phía Mỹ…

Cam đoan hăng hái với Tôn Thất Đính như vậy nhưng Trần Văn Đôn gặp liền Conell
- Tôi được phép nhân danh đại sứ Cabot Lodge chính thức thông báo với các tướng lãnh Việt nam cộng hoà rằng nếu các tướng lĩnh dám hành động và hành động thắng lợi thì sẽ không hề xảy ra một trong những điều sau đây: Mỹ can thiệp vào nội tình Việt Nam cộng hoà, Mỹ ngưng viện trợ cho chính phủ mới. Tôi chỉ nhắc ông: hành động của các ông thất bại. Mỹ không giúp được gì, kể cả cho tị nạn chính trị. Về tướng Harkins, hãy đặt ông ấy trước việc đã rồi. Ông ấy là quân nhân và chỉ biết nghe lệnh của tổng thống nước Mỹ.
- Còn Nguyễn Thành Luân? – Đôn hỏi.

Conell cười khẩy
- Ông ta được nhiều cây dù che như đại sứ, thống tướng Taylor, tướng Harkins, tướng Jones Stepp nhưng tôi nghĩ rằng ông ta không gây rối cho các ông…
- “Horse tail” là cái gì?

Mặt Conell vụt tái:
- Ai nhắc tên đó với trung tướng?
- Nguyễn Thành Luân nói với tướng Đính.
- Thế à…Một ám hiệu gì đó, tôi không rõ… - Conell lấy lại bình tĩnh.

André không kịp nhận xét thái độ hoảng hốt của Conell.
- Tại sao Luân biết “horse tail”? – Conell lầm bầm.
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Tám, 2008, 10:14:49 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #208 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 10:15:27 pm »

Sáng 31/10, Ngô Đình Nhu làm hai việc: trả lời nữ ký giả Suzane Lebin và trả lời đài truyền hình Mỹ CBS

Với nữ ký giả, Nhu nói toạc: ông Cabot Lodge luôn luôn hành động chống lại chúng tôi với một thành kiến bất di bất dịch mà quan thái thú tại một xứ bảo hộ có thể có được trước đây ba mươi năm với một xứ bảo hộ. Tổng thống Ngô Đình Diệm cố gắng một cách hết sức để chứng minh rằng mỗi trò chơi của ông Cabot Lodge chắc chẳng chỉ có thể làm lợi cho Cộng Sản và đang rơi vào bẫy Cộng Sản nhưng càng cố gắng chứng minh sự thật thì ông Lodge lại càng hiểu ngược ý chúng tôi. Ông Lodge có gan buộc tôi và vợ tôi rời khỏi Việt Nam. Cô thử tưởng tượng nếu đại sứ Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn lên tiếng buộc tổng thống Kenedy phải ra lệnh cho bào đệ của ông là thượng nghị sĩ Robert Kenedy và em dâu phải dời Mỹ thì gia đình Kenedy sẽ phản ứng như thế nào? Theo những gì chúng tôi được nghe, được thấy thì ông đại sứ Cabot Lodge không hề làm phận sự đại sứ tại một quốc gia đồng minh có chủ quyền là nâng cao tinh thần chiến đấu và hợp tác của quân đội Mỹ được gửi đến đây giúp chúng tôi chống Cộng Sản, ông ta chỉ lo việc âm mưu chống lại chính phủ hợp pháp mà ông ta đã trình uỷ nhiệm thư.

Nữ ký giả Lebin cười duyên dáng
- So sánh của ông cố vấn cũng như bà cố vấn về vai trò của ông bà và vai trò của ông bà Robert Kenedy có vẻ không hợp lý lắm… Ở đây, người Mỹ muốn nói một tình trạng khác…
- Họ nói rằng chúng tôi lộng quyền chứ gì? – Nhu hậm hực.
- Đại khái như vậy…
- Họ không hiểu phương Đông!
Và Nhu bồi tiếp một nhận xét, lấy của Bayard Talor từ giữa thế kỷ trước:
- L’Amérique est un angle-saxon retombe dans une semi-barbarie*
Lebin vẫn duyên dáng ghi câu ấy
Với hãng CBS, Nhu trả lời – chưa bao giờ Nhu trả lời với báo chí kiểu đó.
- Chế độ Việt Nam cộng hoà và Cộng sản Việt Nam khác nhau, hết sức rõ ràng song khác nhau về ý thức hệ trong khi chúng tôi cùng một huyết thống. Còn chúng tôi với Mỹ, chăng có gì chung cả!
Bài Nhu trả lời nữ ký giả Lebin và đài truyền hình CBS chỉ mấy giờ sau, nằm trên bàn giấy của tổng thống Kenedy.

*
**
Sáng ngày 1/11/1963 - nhằm thứ sáu và mười sáu tháng chín âm lịch Quý Mão. Một buổi sáng bình thường khi mùa mưa chấm dứt. Trời trở mát dù nắng vẫn chói chang.
Đô đốc Harry De Felt, tổng tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương đến Dinh Gia Long chào từ biệt tổng thống Diệm sau mấy ngày công cán tại Việt Nam. Trưa nay, đô đốc dời Sài Gòn. Cùng đến Dinh Gia Long với Felt có đại sứ Cabot Lodge. Việc Lodge đến Dinh Gia Long khiến Diệm vui. Trong mươi ngày nay, Lodge không gặp Diệm, thậm chí, vài lần Diệm phải gõ cửa đại sứ quán mà Lodge viện đủ cớ không tiếp. Người ta xem như Lodge trả đũa Diệm: khi Lodge nhận chức đại sứ, Diệm cũng viện đủ cớ không tiếp Lodge.

Nhưng, bây giờ, Lodge đã ngồi giữa phòng khách Dinh Gia Long.
- Tin đồn đảo chính ngày càng rộng - Diệm bảo thẳng hai người khách – Tôi muốn nghe ý kiến của đô đốc và đại sứ.

Felt cười xã giao ngó Lodge. Dĩ nhiên, người phải trả lời là Lodge.
- Tổng thống biết đấy, tin đồn bao giờ cũng chỉ là tin đồn… - Lodge, với tất cả thái độ tự nhiên đã giúp cho ly sâm banh mà họ vừa cụng thêm ngọt
- Chính sách của Tổng thống Mỹ trước sau cũng chỉ nhằm thắt chặt tình bạn bè giữa hai nước. Tôi rất vui mừng khi thấy không khí chính trị vài hôm nay được cải thiện ở Sài Gòn và Huế - Lodge nhấn mạnh.
- Đúng, tôi đã ra lệnh thả tất cả những người bị bắt từ tháng năm đến nay qua các biến động… - Diệm thoả mãn
Felt và Lodge chào Diệm. Ông tiễn họ ra tiền sảnh.

Quanh Dinh Gia Long, những chiếc xe bọc thép nằm bất động - từ vài tháng nay, chúng túc trực để ngăn ngừa các cuộc biểu tình. Ngoài ra, tất cả đều im ắng. Hôm nay, ngày lễ các Thánh, công sở nghỉ. Hơn nữa, Liên binh phòng vệ chỉ để lại thủ đô vài đại đội, phần lớn được điều ra vùng có chiến sự theo lệnh của Nhu. Kế hoạch “bravo” dự kiến tạo bất ngờ: Liên binh phòng vệ không quân ở Sài Gòn nghĩa là không có điều gì bất trắc xảy ra cả. Các tướng lĩnh và phe đối lập nhất định mất cảnh giác, Nhu sẽ tóm gọn, bằng lực lượng của Tôn Thất Đính. Đẩy lực lượng của Lê Quang Tung đi xa thủ đô theo gợi ý của Đính, Nhu đánh giá cao gợi ý ấy…

Đúng là Cabot Lodge sổt ruột. Diệm đã thay đổi nước cờ - ông giải toả tất cả các chùa, thả một số tăng ni và Phật tử, học sinh sinh viên bị bắt. Phái đoàn điều tra của Liên hiệp quốc sửa soạn một báo cáo chính thức gửi Tổng thư ký Uthant. Nếu đại hội đồng liên hiệp quốc và dư luận thế giới biết được báo cáo này, kế hoạch thanh toán Ngô Đình Diệm gặp trở ngại hầu như khó vượt qua, bởi không phải ai khác mà chính tổng thống Kenedy ra lệnh đình chỉ mọi kế hoạch. Trong trường hợp đó, Cabot Lodge trở thành cái bia của mọi đường bắn: Diệm, tướng lĩnh Nam Việt, Harkins và luôn Kenedy cùng Bộ quốc phòng.

Đã có thêm mấy vụ tự thiêu nữa – song tác dụng kích động giảm hẳn so với trước kia. Kéo dài tình trạng hiện nay đưa đến một loạt hậu quả - tất cả sẽ trút trách nhiệm lên đầu viên đại sứ: Việt Cộng đánh rã hệ thống ấp chiến lược trên một diện rộng. Diệm hồi phục thế lực có nghĩa là chiến dịch thanh trừng nội bộ quân đội Nam Việt mở đầu với mức hung hãn chưa từng thấy mà “những người bạn của Mỹ” sẽ hoặc bị xoá sổ hoặc bị về vườn. Diệm rất có thể đi một bước tai hại – công khai nêu vấn đề thương lượng với Việt Cộng…

Điện mật. Gửi đại sứ Cabot Lodge. Đài tiếng nói Hoa Kỳ sẽ phát lời nhắn tin: Bạn khỏi mua Whisky ở P.X. Lý do: tình hình có vẻ không cần các biện pháp dự kiến. Tổng thống bắt đầu lo ngại. Ký: Dean Rusk và Marc Cone.

Điện mật.Gửi ngoại trưởng Dean Rusk. Khoan phát lời nhắn tin tai hại ấy. Sẽ có kết quả trong vài giờ nữa. Ký: Cabot Lodge

Người giúp Cabot Lodge thở phào là Ngô Đình Nhu. Conell đã báo cáo với Cabot Lodge vào sáng nay. Nhu quyết định ngày giờ nổ “bravo” và Đính đang sửa soạn bấm nút.

Điện mật. Gửi ngoại trưởng Dean Rusk. Khi đô đốc Felt trên đường về Honolulu, mọi việc sẽ tiến triển như dự kiến. Ký: Cabot Lodge

Điện đàm giữa Mai Hữu Xuân và Trần Văn Đôn
Xuân: Tại sao tôi được lệnh thả tất cả những người bị giam ở Quán Tre… Lệnh đó rất xấu…
Đôn: Thiếu tướng khoan thực hiện. Sẽ thả vào giờ nào, tôi thông báo sau…
Xuân: Nhưng Cao Xuân Vỹ đến kiểm tra… Tôi là chỉ huy trưởng của trung tâm, không thể không thi hành lệnh của ông cố vấn.
Đông: Cứ tìm cách trì hoãn…

*
**
Bức thư đặt trên bàn tướng André. Đó là bức thư tay, phong bì màu trắng, trên góc in hàng chữ: Đại sứ quán Việt Nam Cộng hoà tại Hiệp chủng quốc Mỹ. Nếu không có dấu hiệu đặc biệt như vậy, tướng André không bóc ra. Hàng đống thư trên bàn, đều là thư riêng, số không ít là của các nhân tình…Đồng hồ chỉ mười giờ hơn, xé phong bì ra, một phong bì thứ hai mầu hồng, thoảng mùi nước hoa. Ngó nét chữ, André biết là ai gửi cho mình. Kèm theo trang giấy là mấy tấm ảnh màu. Tướng André tần ngần ngắm mấy bức ảnh. Kỷ niệm cũ vụt sống dậy. Bãi biển. Biệt điện Ban Mê Thuột, Đà Lạt. Ngay tại đây, trên salong này, và một tấm ảnh mới nhất: bãi biển Ý. Cô ta vẫn còn rất hấp dẫn. André tìm một cách so sánh: vợ Huỳnh Hữu Hiền tất nhiên mơn mởn hơn song ấn tượng lưu lại trong ông chưa thể sâu bằng cô ta.

Anh yêu,
Em viết cho anh mấy dòng giữa cuối thu ở Mỹ. Em nhớ anh, muốn gọi điện nhưng ngại. Anh hiểu chứ. Em biết anh chóng quên em bởi cô gì vợ của viên chỉ huy không quân. Phần em, không bao giờ quên anh, quên những phút sống cạnh anh…
Bức thư ngắn thôi và ngoài lời lẽ nhớ nhung không len một câu chính trị nào. André đọc nhiều lần bức thư, đặt tấm ảnh trước mặt…
- Mụ phù thuỷ giở trò!
André giật thót người - Đỗ Mậu đứng sau lưng tự bao giờ
- Tốt nhất hãy vứt cả thư lẫn ảnh vào bếp… - đốt cái quá khứ chẳng hay ho đi - Giọng Đỗ Mậu lạnh lùng.
André uể oải xếp thư, ảnh cho vào ngăn kéo
- Thời gian không còn dài, trung tướng nên tập trung… Hoặc chúng ta được mọi thứ, hoặc sẽ bị bắn chết như con chó.

André vẫn ngồi bất động. Đỗ Mậu bực dọc nện mạnh gót giầy, ra khỏi phòng. André trông theo, tóc của viên đại tá vừa mọc lởm chởm, phảng phất một cái gì rất man rợ. Phần Đỗ Mậu, ông ta suy tính, khi ngồi vào bàn viết. Ông ta gọi điện thoại. Hai mươi phút sau, một chiếc xe đỗ trước sân. Vợ Huỳnh Hữu Hiền trong bộ quần áo bó sát người, nổi bật những đường nét khêu gợi nhất, nhí nhảnh gõ cửa phòng André.
Đỗ Mậu cười – khi ông ta cười, gương mặt dài như thêm hiểm hóc. Đồng hồ chỉ mười một giờ. Phòng André vẫn đóng chặt. Mười một giờ ba mươi, Đỗ Mậu gõ cửa. Vợ Huỳnh Hữu Hiền bước ra, kéo vội fermenture, chưa kịp chải tóc và tô lại son môi, tất bật lên xe. Điện thoại từ phòng tướng André tất bật gọi đi các hướng…

*
**
John Hing đi lại trên thảm len, nhiệt độ điều hoà mát rượi.
Mọi người căng thẳng theo dõi bước đi lại rất nhẹ nhàng của John Hing. Họ lọt thỏm giữa những ghế bành quá rộng. Trong ngôi nhà này, ngôi nhà hình như John Hing mướn khi cần bàn những việc tối mật. Tầng dưới, người ta đang sửa soạn khai trương một hiệu buôn máy thu thanh - hiệu của lão Loẻng. Khách do Lý Kai thông báo, phải đổ xe cách nhà khá xa, cuốc bộ đến, kín đáo lướt qua cánh cửa, theo cầu thang lên lầu. Thế giới người Hoa đủ mặt. Tần Hoài, chủ Đại La Thiên. Bá Thượng Đài, “vua sắt”, Tào Phu, giám đốc Mekong Rice Export, Diệu Thọ, chủ Vạn An Đường, Tôn Phương Truyền, tuỳ viên sứ quán Trung Hoa dân quốc, Lâm Sử, đại diện Trung Cộng ở Sài Gòn và Lý Kai. Thế giới người Hoa đa dạng ấy đau đáu chờ ý kiến phát lạc của Dương Tái Hưng – đúng hơn, của John Hing.

- Giá mà Nghị Lực cũng đến – John Hing vẫn đều bước, liếc qua số người gần như chiêm ngưỡng hắn, tiếc rẻ. Hắn đã gợi ý cho Lý Kai và Lâm Sử song không ai có cách gì lôi Nghị Lực đến cuộc gặp mặt này. Chính Lý Kai phản ứng.

- Cho thằng cha đó biết cuộc họp, nó dám mang mìn đến chào chúng ta!

John Hing hiểu rằng quyền lực của hắn dù sao cũng có giới hạn và với nhóm Nghị Lực, tức là với nhóm người Hoa giống như Nghị Lực, đôla không lung lạc nổi.
- Sao? – John Hing bỗng hất hàm hỏi Lý Kai
- Ông muốn nhắc Mã Tuyên?… Và không nhận lời. Va bảo việc của va chẳng dính dấp gì tới chúng ta.
- Buôn lậu á phiện mà không dính dấp tới chúng ta? – John Hing cau mày. Thôi được, tôi sẽ dạy cho Mã Tuyên bài học…
John Hing xem đồng hồ tay. Hắn đứng lại, bắt đầu nói, tiếng Bắc Kinh:
- Các vị, cục diện mới bắt đầu diễn ra trong vài giờ nữa. Tôi không thể nói cho các vị chi tiết của cục diện song tôi đoán chắc rằng điều sẽ xảy ra, đưa đến một tình thế ở Nam Việt, thậm chí, rộng hơn, khác hẳn tình thế mà chúng ta từng chứng kiến từ hàng chục năm nay. Chắc ở đây, trong các vị, có hai sự quan tâm không hoàn toàn giống nhau. Ông Lâm Sử và ông Tôn Phương Truyền nghĩ nhiều đến các vấn đề chính trị, các vị còn lại đặt câu hỏi: cục diện thay đổi ảnh hưởng thế nào về kinh doanh. Riêng ông Lý Kai, câu hỏi đặt biệt hơn: Ông sẽ làm việc với ai… Về chính trị, chúng ta sẽ sống với những điều kiện cởi mở so với trước và do đó, kinh doanh cũng cởi mở hơn. Tôi xin lưu ý các vị: những ngành mà gia đình ông Diệm độc quyền sẽ được trao cho ai đủ khả năng. Sẽ thêm một ngành mới, cực kỳ rộn rịp – tôi muốn nói ngành thầu xây dựng và cung cấp các loại nhu cầu cho quân sự, không chỉ đóng khung trong phạm vi quân lục Việt Nam cộng hoà. Đương nhiên, sự cạnh tranh cũng hết sức ráo riết: các hãng thầu nước ngoài, các tướng tá và các chính khách ở Nam Việt…

John Hing ngưng nói, tư thế hoàn toàn thung dung dù hắn đang đề cập đến vận mệnh của triều đại
- Liệu ông Diệm còn tồn tại không? – Lâm Sử hỏi, giọng rụt rè
- Tôi nghĩ là còn – Tôn Phương Truyền nói thay John Hing - Tưởng thống chế không muốn vị trí của tổng thống Diệm bị xé rách.
John Hing cười - nụ cười mà ai cũng thấy là trịnh thượng.
- Ông Tưởng Giới Thạch, ông Mao Trạch Đông không quyết định được bất cứ mức nào ở cục diện Nam Việt. Người có khả năng tác động là ông Hồ Chí Minh. Chúng ta cố gắng hạn chế một tác động như vậy. Lẽ ra, ông Lâm Sử giữ vai trò lớn hơn, nhưng ông không giữ nổi, lời khuyên của Trung Cộng không được Việt Cộng nghe theo. Việt Cộng bỏ các nguyên tắc quân sự của ông Mao, họ đang sáng tạo một hình thức chiến tranh tiến công mới, không lấy nông thôn bao vây thành thị mà mở rộng ở cả hai vùng, không trường kỳ mai phục mà đánh luôn bằng cả quân sự lẫn chính trị, kết hợp với vận động binh lính và khai thác các khả năng liên hiệp trong nội bộ chế độ Nam Việt, khai thác cả cái khả năng từ phía Pháp, luôn trong chính giới Mỹ, họ xây dựng lực lượng trung đoàn và chắc trung đoàn không là quy mô cuối cùng…Ông Diệm sẽ ra sao? Xin phép các vị, tôi không thể tiết lộ. Tuy nhiên, ta hãy cứ xem ông Diệm chỉ là cái bóng. Sự không ngoan hơn cả là các vị bám các tướng lĩnh. Tôi cho rằng, phần ông Lâm Sử, một chuyến vào khu Dương Minh Châu hết sức cần thiết - nếu thuận tiện, ông ra Hà Nội, đường bay Nam Vang - Thượng Hải của Air France vẫn đều đều. Ông Tôn Phương Truyền, tôi nghĩ ngài Trần Thành, ngài Lý Long Thần rất thích hợp để Đài Loan đứng vững tại Nam Việt. Tôi không cần giấu giếm, hãng thầu BRJ – RMK mà tôi có cổ phần, đang sửa soạn nhận các lô thầu lớn – xây sân bay, quân cảng. .. Chúng tôi sẵn sàng nhận thêm các cổ phần mới.

Tại sao các vị bỏ lỡ cơ hội? Còn bao nhiêu mảnh đất mới hậu cần cho quân đội Nam Việt, dịch vụ cho quân đội Mỹ và … (John Hing cười rất tươi) không ai trong chúng ta từ chối nếu Việt Cộng yêu cầu vũ khí, lương thực, thuốc men, quân trang… Vấn đề là giá cả và họ trả bằng loại tiền gì.
John Hing nói như đùa. Những người có mặt đều nhẩm tính, có lẽ trừ Lâm Sử.
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Tám, 2008, 10:22:01 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #209 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 10:23:18 pm »

- Ông Lý Kai, ông không thất nghiệp đâu! – John Hing ngó Lý Kai – ông không đủ tiền mua cổ phần song ông vẫn tìm ra tiền, dễ dàng thôi. Nếu lát nữa, tất cả các vị nhanh chân về nhà và năm yên trước khi cục diện ngã ngũ thì riêng ông, ông Lý Kai, ông phải hành động. Người Mỹ dặn tôi không được đụng đến Nguyễn Thành Luân, chính tôi đã ghi tên Luân vào một trương mục ngân hàng, nhưng suy nghĩ kỹ, tôi thấy phải xoá gã đại tá này trong lúc hỗn loạn. Mỹ sửa soạn cho Luân vài trò mới, tôi không thích. Vai trò mới phải thuộc về người của tôi, viên tướng tư lệnh Tây Nguyên… Tôi tiết lộ có sớm không? Không… Ông Lý Kai, ông nhớ chưa? Sẽ có người giúp ông… Còn bây giờ… - John Hing xem đồng hồ tay.
- Tay hãy nghe bản tin của đài Hà Nội, tiếng Quảng Đông…
John Hing mở máy thu thanh và mở luôn máy ghi âm.
- Tôi luôn luôn ghi âm các bài của đài Hà Nội, chúng ta rất cần…
Phát thanh viên giới thiệu chương trình, mở đầu là bài bình luận của bình luận viên chính trị của Thông tấn xã Giải Phóng mang tên Đại Nghĩa, nhan đề “Khai thác thời cơ, kiên quyết tấn công địch, đánh bại quốc sách ấp chiến lược, giành thắng lợi to lớn”.
“Mỹ - Diệm hục hoặc đến mức không còn thu xếp nổi, nhất thiết nội bộ chúng ta sẽ phát sinh đấu đá, có thể đẫm máu. Mỹ nhân lòng căm thù của dân chúng vùng tạm chiếm đối với Ngô Đình Diệm, lợi dụng được một bộ phận theo đạo Phật và giới học sinh, sinh viên, trí thức. Ngô Đình Diệm không can tâm chịu làm vật tế thần cho sự phá sản của chính sách Mỹ ở miền Nam Việt nam, nhất định chống cự lại. Kẻ thù đang ỉ vào tình trạng suy yếu và rối loạn. Trong hàng ngũ nguỵ quân ngụy quyền bắt đầu xuất hiện những lực lượng được thực tế thức tỉnh, muốn chấm dứt chế độ độc tài gia đình trị đàn áp tự do dân chủ đồng thời thoát khỏi số kiếp nô lệ Mỹ và cảnh chết chóc. Thời cơ trước mắt hết sức lớn lao. Trọng tâm của phong trào cách mạng hiện nay là nổi dậy phá tan cái gọi là quốc sách ấp chiến lược, giành quyền kiểm soát ở nông thôn; phong trào ở thành thị là tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước, yêu hoà bình, tán thành độc lập và trung lập, đòi những ai thay thế Ngô Đình Diệm phải lập tức tôn trọng quyền tự do tổ chức, tự do ngôn luận, trả tự do cho những người bị giam giữ vì lý do chính trị. Mặt trận dân tộc giải phóng sẵn sàng xem xét khả năng đi đến giải pháp ngừng xung đột vũ trang, nếu Mỹ rút khỏi miền Nam và cầm quyền Sài Gòn thừa nhận nguyên tắc độc lập và trung lập. Mặt trận cũng sẵn sàng tiếp xúc với bất cứ lực lượng nào tán thành đường lối hợp tình hợp lý ấy…”

Bài bình luận vừa dứt, John Hing tắt máy
- Việt Cộng đã ngửi được một cái gì rồi! Sắp tới, đề tài trung lập sẽ hấp dẫn ngay một số tướng lĩnh của Việt Nam cộng hoà. Trung lập đồng nghĩa với chống Mỹ. Hơn nữa, trung lập sẽ được De Gaulle đón nhận với tất cả sự hài lòng và Sihanook luôn luôn là chiếc loa rao hàng… Chống trung lập! Các vị nhớ cho, chống trung lập là nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta…

Cuộc họp giải tán, Lý Kai ở lại độ nửa giờ. John Hing, Lý Kai và một người nữa bàn một kế hoạch nhằm vào Nguyễn Thành Luân. Người thứ ba là thiếu uý Tường.

*
**
Mười hai giờ, Luân và Dinh Gia Long như đã hẹn với Nhu. Bữa cơm trưa chỉ gồm Diệm, Nhu và Luân. Trong bữa cơm, Nhu thông báo đầy đủ các chi tiết kế hoạch “Bravo” với Diệm. Trái với thường lệ, Diệm chỉ nghe và sau đó uể oải đứng lên - Diệm ăn không ngon miệng. Ông không nói một lời. Luân hiểu rằng Diệm phó mặc cho Nhu và có lẽ ông không tin lắm “bravo” sẽ cất đi gánh nặng đang đè lên sinh mệnh của chế độ ông.

Diệm về phòng riêng, bước hơi lảo đảo dù hôm nay ông không uống bất kỳ một thứ rượu gì

- Tổng thống không được khoẻ! – Luân nhận xét.
- Không! Anh Tổng thống lo lắng thôi. Tôi cam đoan mọi sự sẽ trót lọt, nhưng anh vẫn ngại… - Nhu giải thích.
- Tổng thống ngại cái gì?
Nhu nhún vai: tâm trạng bất ổn, cái gì cũng ngại cả…
- Tổng thống đánh giá thiếu tướng Đính thế nào?
- Một trong những tướng mà Tổng thống tin cậy nhất. Chỉ xếp sau Huỳnh Văn Cao…
Luân mỉm cười:
- Tôi biết anh không tin tướng Đính. Nhưng tôi tin. Sau vụ này Đính sẽ là Tổng tham mưu trưởng. Tôi đã báo cho Đính biết. Còn tướng Cao, tại sao anh không tin?
- Tôi chưa nói là tôi không tin… Song, anh có thấy tướng Cao hơi lố trong khi báo bẩm với Tổng thống…
- Tôi hiểu! Bất kỳ việc gì anh ta giải thích là nhờ hoặc Đức mẹ hoặc các Thánh báo mộng… Đức giám mục thích anh ta. Tổng thống cũng vậy. Tôi không đần độn đến mức lầm lạc kiểu bịa đặt của anh ta, Song, chức tư lệnh quân đoàn 3 kiêm Tổng trấn Sài Gòn mà tôi hứa sẽ giữ anh ta trung thành với chúng ta.
Luân không muốn tranh luận. Những chức tước kia phải đâu chỉ do mỗi Nhu có quyền ban phát.
- Anh thấy đại tá Thiệu thế nào? – Luân hỏi.
- Thiệu, sư 5 hả…
- Phải…
- Anh ta theo đạo
Lại một cách giải thích đơn giản nữa.
- Còn non hai giờ, chúng ta nên soát xét các dự định. Đúng mười bốn giờ, sau khi đài phát thanh tuyên cáo của Uỷ ban cứu quốc do tôi làm chủ tịch, Cao Xuân Vỹ sẽ đưa Tổng thống lên Đà Lạt bằng trực thăng đang túc trực trên sân Tao Đàn có máy bay chiến đấu bảo vệ. Từ mười bốn giờ năm, lịnh giới nghiêm ban hành. Cuộc lục soát, vây ráp bắt đầu và chấm dứt trước mười lăm giờ. Toà án đặc biệt xử ngay, lấy luật 10/59 làm cơ sở. Tôi sẽ trao cho đại sứ Cabot Lodge bức thư gửi tổng thống Mỹ và trước mười bảy giờ, phái đoàn Liên hiệp quốc phải rời Sài Gòn. Tài liệu về âm mưu phản nghịch khá phong phú, tướng Đính sẽ họp báo… Sáng mai, Uỷ ban cứu quốc sẽ trình diện. Cao Xuân Vỹ từ Đà Lạt về, tổ chức một cuộc biểu dương thanh niên lớn nhất lịch sử nước ta – tôi nghĩ trên một triệu – và tôi sẽ nói chuyện từ khán đài dựng sau Nhà thờ Đức Bà. Đại tá Đỗ Cao Trí thay Mai Hữu Xuân, toàn bộ Quán Tre dùng tạm giam các phần tử chống đối trước khi chuyển chúng ra Côn Sơn, Phú Quốc… Cũng từ mười bốn giờ, anh chính thức mang quân hàm thiếu tướng, phụ tá Chủ tịch Uỷ ban cứu quốc về các vấn đề chính trị an ninh và quốc phòng. Uỷ ban cứu quốc gồm chủ tịch và các phụ tá, quyền lực tập trung cao. Chính phủ, quốc hội giải tán. Đoàn thể chỉ còn thanh niên và phụ nữ, đều quân sự hoá. Phóng viên báo chí nước ngoài nhất loạt bị trục xuất. Đóng cửa phi cảng…

Nhu nói giọng tin tưởng chắc nịch – đúng hơn, anh ta tỏ ra tin tưởng. Luân lặng lẽ hút thuốc.
- Hình như anh có điều gì băn khoăn? – Nhu hỏi
- Tướng Minh, tướng Đôn, tướng Xuân, đại tá Đỗ Mậu…
- Ồ! – Nhu vỗ tay vào đùi – Toàn là bọn không có lính! Tướng Minh Lớn không là cái gì khiến anh quan tâm. Số kia, lát nữa anh sẽ gặp họ khi toà án đặc biệt làm việc… Tôi nắm chắc giờ này họ ở đâu, đang làm gì… Anh phải công nhận Tôn Thất Đính không chỉ biết ngủ với gái.
Nhu xô ghế, đứng lên.
- Anh không nên về nhà. Còn không mấy giờ nữa – Nhu xem đồng hồ - Bây giờ kém năm là mười ba giờ. Chúng ta đợi đúng sáu mươi lăm phút…
Nhu vào phòng làm việc, bảo Luân theo
- Alô! Tướng Đính đấy phải không? Nhu đây… Tình hình thế nào? Ổn cả. Tốt…
- Alô! Cao Xuân Vỹ, xem trực thăng sẵn sàng chưa? Tốt. Liên lạc với Huỳnh Hữu Hiền chặt không… Đúng, cho ba chiếc AD6 hộ tống…
- Alô! Lê Quang Tung… Nhờ đảm bảo liên binh phòng vệ quay về thật nhanh nhé…
- Alô! Chuẩn đô đốc Hồ Tấn Quyền… Không sao, tôi gọi trước cấp bậc đại tá hợp lý thôi…
- Alô! Đại tá, tổng giám đốc nha cảnh sát quốc gia… Tiếp cận các đối tượng cả rồi chứ.. So đồng hồ với tôi nhé…. mười ba giờ sáu phút…
Nhu quay điện thoại như chong chóng. Một nhân viên vào báo với Luân:
- Thưa đại tá! Bà Saroyan muốn gặp đại tá ở điện thoại văn phòng…
Luân ra hiệu cho Nhu, Nhu gật đầu, Luân sang phòng bên cạnh.
- Alô! Luân đây… Hiểu rồi, Saroyan yên tâm. Cảm ơn Saroyan. Tôi sẽ chú ý. Có. Tôi biết Lý Kai và Tường…
Luân quay điện thoại cho Dung
- Alô! Em nhớ không nên về nhà. Saroyan đã nhờ Jones cho một bán đội quân cảnh Mỹ giữ nhà ta… Thôi nhé.
Luân trở lại phòng Nhu. Nhu đang chăm chú nghe băng thu thanh tuyên cáo của Uỷ ban cứu quốc.
- Có một đoạn không hay lắm. Tức là không mạnh lắm, tôi muốn sửa song không còn thì giờ. Tôi sẽ bổ sung sau
Nhu bấm chuông, một sĩ quan vào.
- Anh mang băng này đến đài phát thanh, trao cho ông Ngô Trọng Hiếu… Anh hiểu? Đi ngay!
Viên sĩ quan rời phòng. Nhu gọi địên thọai cho Ngô Trọng Hiếu.
- Chỉ được phát đúng giờ quy định. Hễ nhân được băng, báo liền. Băng có dấu đảm bảo. Ông còn đủ thì giờ để kiểm tra…
Nhu lại bấm chuông. Một sĩ quan vào. Luân biết anh ta là đại uý Đỗ Thọ, cháu gọi Đỗ Mậu là chú ruột nhưng là tuỳ viên của Tổng thống, rất được Tổng thống tin cậy.
- Chú mời Tổng thống sửa soạn… sắp đến giờ rồi.
Đỗ Thọ hấp tấp sang phòng Diệm
Nhu ngả người lên ghế
- Mệt quá… - Anh ta cố kềm một cái ngáp. Đồng hồ chỉ mười ba giờ hai mươi
- Tôi định kéo dài chế độ quân sự chừng một năm. Đến quốc khánh 1964, Uỷ ban cứu quốc giải tán.
Chuông điện thoại reo. Nhu nhấc máy:
- Alô!
Anh ta che máy, bảo Luân:
- Nhà tôi gọi từ Nữu Ước…
- Alô, anh nghe đây… Em ngủ muộn quá. Bây giờ ở Mỹ đã một giờ sáng… Không có gì đáng ngại… Anh khoẻ. Em thế nào? Mệt lắm hả? Hả, Lệ Thuỷ thế nào? Ở Pháp ổn thôi. Cả nhà bình yên. Có thể. Anh sẽ điện cho em… Tổng thống sắp đi nghỉ trên Đà Lạt. Thế à, em đã đọc bài trả lời của anh. Tất nhiên, phải cứng mới được. Hôn em. Chúc em ngủ ngon. Anh và anh Luân đang làm việc, anh sẽ chuyển lời của em…
- Nhà tôi hỏi thăm anh, cô Dung, cu Lý. Nhà tôi định ghé Tokyo và muốn tôi sang đó… - Nhu gác máy bảo Luân
Mười ba giờ ba mươi súng nổ rộ. Nhu cau mày:
- Sao nổ trước những ba mươi phút?
Nói thế nhưng Nhu vẫn ngồi trên ghế đốt thuốc. Diệm vừa vào phòng, mặt hơi tái.
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Tám, 2008, 10:27:03 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM