Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 13 Tháng Năm, 2024, 01:25:12 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Người tình báo thầm lặng  (Đọc 7304 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
trungnn
Thành viên
*
Bài viết: 7


« vào lúc: 08 Tháng Ba, 2018, 07:52:09 am »

LỜI NÓI ĐẦU
Gần trung tâm thành phố Cần Thơ có con hẻm không nhỏ, thuộc đường Lê Lai. Hẻm này dẫn đến một khu dân cư, có đường ngang ngõ dọc, giống như một cư xá. Khu dần cư này hình thành một cách tự nhiên, không phải do chính quyển cũ qui hoạch.
Thời Pháp thuộc, vùng đất nơi này hoang vu, kinh rạch và sình lẩy ngập nước khi triều lên. Bẩn, đước, dừa nước mọc rậm rạp như rừng. Cho đến nay dừa nước cũng còn rất nhiều dọc theo con kinh sau lưng khu dân cư này.
Nơi đây từng là cửa ngõ vào ra thành phố của các nhà cách mạng, các chiến sĩ Việt Minh.
Ông giáo Lắm là thấy dạy học của nhiều cán bộ Việt Minh, trong đó có cố thủ tướng Phạm Hùng. Ông giáo với những người Việt Minh này xem nhau như chỗ thân tình. Ngoài tình thầy trò, ông còn truyền cho họ lòng yêu dân, yêu nước, và đạo đức của thánh hiển. Ông còn hay giúp đỡ những người làm cách mạng cả về vật chất.
Chính quyển thực dân xem khu đất này như cái gai trong mắt, nên bán giá rẻ như cho. Mục đích của họ, muốn tạo nơi đây thành khu dân cư, dựng nên lá chắn, ngăn chặn con đường xuất nhập của cán bộ Việt Minh. Chính vì vậy mà ông giáo Lắm mua được khu đất này. Ông vừa làm nhà để ở, vừa để có điều kiện giúp đỡ các chiến sĩ cách mạng. Và dần dần, nơi đây trở thành một cơ sở ngầm của Việt Minh.
Những thầy cô giáo khác, các bác sĩ, kỹ sư... thấy thầy giáo Lắm sống ở đây yên ổn, không bị ai quấy rầy, phiền nhiễu, nên rủ nhau đến mua đất làm nhà.
Lâu dẩn nơi đầm lầy nước đọng trở thành khu dân cư, đúng ý đồ của thực dân Pháp. Nhưng chính quyển thực dân cũng không thể nghĩ ra, điều họ muốn giống như con dao có hai lưỡi. Bởi vì, có khu dân cư thì các chiến sĩ cách mạng có chỗ dựa an toàn hơn.
Thời gian trôi, nơi đây phát tích dần. Các thế hệ sau, sinh ra ở vùng đất này, được học hành và trở thành kỹ sư, bác sĩ, thầy cô giáo. Đến thời chiến tranh chống Mỹ, nơi đây đã thành một khu dân cư khá đông đúc, trình độ dân trí cao. Trong đó tất nhiên còn có cả sĩ quan quân đội chính quyền Sài Gòn và ngược lại, cũng có nhiều người tham gia cách mạng.
Dân chúng gọi nơi đây là “Khu văn hóa”, một cách tự nhiên, không phải do chính quyển đặt tên hay công nhận.
Sau ngày đất nước hòa bình, những người từng làm việc cho chính quyền cũ, phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, lẩn lượt di tản, vượt biên hay định cư ở nước ngoài theo các diện khác nhau.
Nhiều cán bộ cao cấp trong chính quyền mới, thấy khu văn hóa này yên tĩnh, môi trường trong sạch, nên chọn làm nơi sinh sống.
Vào khoảng cuối thập niên bảy mươi của cuối thiên niên kỷ trước, có một gia đình từ bên Lào hồi hương, ông bà chủ gia đình không biết là vô tình hay hữu ý mà cũng tìm mua nhà trọng khu văn hóa này. Gia đình này không có gì nổi bật để mọi người xung quanh phải đặc biệt chú ý đến.
Khi mới vể đây, trong nhà chỉ có hai vợ chồng, đứa con trai út khoảng mười lăm, mười sáu tuổi và một thằng cháu ngoại, chưa đầy ba tuổi.
Nghe nói, các con lớn của ông bà đều đã trưởng thành và sống ở xa.
Ông bà khi đến đây đã quá trung niên, nhưng chưa đến tuổi nghỉ hưu. Thân hình cả hai ông bà hơi đầy đặn, mái tóc đã điểm bạc.
Những người hàng xóm rồi cũng biết, người đàn ông, là giám đốc một sở của tỉnh, còn bà vợ thì ở nhà nội trợ.
Nhưng quá khứ của hai ông bà như thế nào, chẳng ai biết một cách trọn vẹn.
Những năm cuối của thập niên tám mươi, ông bị bệnh tai biến mạch máu, thu xếp công việc để nghỉ hưu. Đó chính là khoảng thời gian mà ông bận rộn nhất, vì phải lo quá nhiều chuyện cho cơ quan hiện tại và cả cho cơ quan cũ, dù ông đã chuyển ngành khá lâu.
Ngày ấy, nếu ai đi ngang căn nhà này, tò mò nhìn vào cửa sổ của căn phòng đối diện với đường hẻm, thường nhìn thấy ông đang làm đủ thứ việc. Thường thì ông hoặc cặm cụi viết, hoặc kỳ cạch gõ trên chiếc máy đánh chữ Remington nhỏ gọn, cũ kỹ. Ông luôn bận rộn với công việc, chạy đua với thời gian, dường như sợ thần chết đến quá nhanh, trước khi hoàn thành sở nguyện.
Ở tỉnh Hậu Giang này có không ít người biết phần nào về quá khứ của ông. Trong số đó, có người là đồng đội, đồng chí, bạn thân... là đồng bào những nơi mà ông từng đặt chân đến. Nếu gom góp hiểu biết của từng người liên quan đến ông, thì có thể vẽ được chân dung của một con người với quá khứ thầm lặng mà không kém phần hào hùng này.
Câu chuyện sau đây nói về một con người thật, sự việc thật, nhưng đã qua ‘lăng kính” văn chương, khiến nó có thêm màu sắc tiểu thuyết và có chút hư cấu.
Logged
trungnn
Thành viên
*
Bài viết: 7


« Trả lời #1 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2018, 01:03:03 pm »

Chương I
TÌM ĐƯỜNG MƯU SINH
1.1
Anh Nguyễn Văn Độ tìm cách lặn lội từ Thái Lan qua thủ đô Viên Chăn của đất nước Vạn Tượng, mong tìm kiếm công ăn việc làm. Anh đã quá cái tuổi ba mươi lăm nên ráng tìm cơ hội vươn lên trong khoảng đời ngắn ngủi còn lại.
Người Việt vốn hay nói tắt, nên họ chỉ gọi tên nước Thái Lan là Thái. Và chẳng biết từ lúc nào, nước Vạn Tượng được người Việt gọi là Lào.
Thói đời vốn hay có trường hợp đứng núi này trông núi nọ.
Việt kiểu sinh sống ở Thái thường kháo nhau, Lào là một quốc gia nhiều tiềm năng, đất rộng mà dân cư thưa thớt nên dễ kiếm việc làm. Nếu chịu khó siêng năng cần cù thì ai cũng làm giàu ở xứ triệu voi này. Nhiều người còn nói, đất Lào có rất nhiều vàng. Mà vàng thì hấp dẫn bất kỳ ai có mộng làm giàu.
Anh Độ, họ Nguyễn, một Việt kiều, sống khá lâu ở Thái, quê gốc Thái Bình, nhà nghèo, cha mẹ mất sớm. Khi cha mẹ mất, anh mới là một cậu bé trên mười tuổi, họ hàng ly tán, chẳng biết nương tựa vào ai. Cậu bé tự làm thuê làm mướn nuôi thân. Ngay cả tên tuổi mình, anh cũng chưa chắc nhớ đúng, dù hiện giờ đã trở thành tên khai sinh, ghi trong hồ sơ lưu trữ.
Thời Pháp, quê anh Độ rất nghèo nên nhiều người theo nghề bị gậy, lưu lạc tứ xứ. Cậu bé Độ làm thuê bữa có bữa không. Những người làm thuê làm mướn tuy nghèo nhưng rất nhạy với thời cuộc. Họ rủ nhau đi lưu lạc tứ xứ để mong được nở mặt nở mày. Cậu bé Độ nghe người lớn bàn với nhau thì trong lòng rạo rực, giấc mộng hải hồ hình thành dần trong đầu. Một ngày kia, khi có người mở lời rủ đi xa làm thuê kiếm tiền, cậu chẳng hể lưỡng lự, bèn quyết bỏ xứ, theo vài người quen trong vùng lưu lạc kiếm ăn. Trôi nổi mãi theo đường bộ, đến đâu thì xin việc làm để kiếm tiền đi tiếp. Chẳng biết duyên số thế nào lại lưu lạc đến Thái Lan, làm công khắp nơi kiếm sống và lớn dần theo năm tháng.
Thái Lan, mấy trăm năm trước, người Việt gọi là nước Xiêm, hay Tiêm La, từng có rất nhiều người Việt đến đây sinh sống.
Có lẽ kể từ thời Nguyễn Ánh đem thân nhân và bộ hạ lánh nạn đến Xiêm thì đã có khá nhiều người Việt theo chân? Những người Việt này phát triển và hình thành cụm dân cư trên mảnh đất Phật giáo này?
Cho nên, người Việt xa xứ cũng thường lẩn mò đến đây để hội nhập và kiếm sống. Chính quyền Thái tuy thận trọng nhưng không ngăn trở làn sóng người nhập cư từ Việt Nam. Những lao động Việt thường siêng năng cẩn cù, khéo léo, lại chịu khó nên dễ kiếm việc làm. Nhờ những ưu điểm này mà được chính quyển Thái “ngó mắt đi hướng khác”, nghĩa là làm ngơ cho việc nhập cư trái phép.
Trong cuộc sống đầy biến động, cậu Độ biết được một điều quan trọng. Muốn thoát nghèo, thoát khổ, thì không có con đường nào tốt hơn sự học để thu thập kiến thức. Cậu tranh thủ mọi lúc rảnh rỗi, mọi cơ hội gần gũi người có học vấn, để tăng thêm hiểu biết.
Dần dần, đến khi trưởng thành, anh Độ đã trở thành người trí thức không bằng cấp. Vì không học chính qui nên chẳng có bằng cấp để biết anh học đến đâu, nhưng vốn hiểu biết và chữ nghĩa đủ để bạn làm ăn phải nể trọng.
Hơn ba mươi tuổi, anh Độ đọc thông viết thạo tiếng Việt và Thái, biết tính toán, và cũng đọc viết khá tiếng Pháp. Anh luôn nhớ mình là người Việt, dân của một nước thuộc địa Pháp, nên nếu muốn quay về bản xứ làm an thì phải biết vài chữ tiếng Tây để lận lưng. Vậy nên 
khi có điêu kiện tiếp xúc với người Pháp, anh đêu có gắng học thêm thứ tiếng của họ, kể cả đọc và viết. Không những thế, anh còn chịu khó đọc sách, báo bằng tiếng Pháp để có kiến thức về ngôn ngữ này.
Ngoài ra, anh Độ cũng biết, để có thể làm ăn trong điều kiện hiện nay ở Thái Lan cũng phải cần biết thêm tiếng Anh, nên anh đã chăm chỉ học thêm khi có thời gian rỗi.
Những bạn cùng làm ăn chung chỉ biết anh Độ thông thạo tiếng Pháp và Anh, nhưng chẳng biết trình độ thực của anh. Anh Độ không học ngoại ngữ qua trường lớp, nên khó có thể biết anh giỏi các thứ tiếng này ở mức độ nào. Nhiều người biết anh sử dụng tiếng Pháp thông thạo, dù phát âm chưa chuẩn chất giọng Paris.
1.2
Trên ba mươi, anh Độ là một người đàn ông gầy nhẳng, trắng trẻo vì chủ yếu làm việc trong mát. Với dáng vẻ gầy nên trông anh khá cao, so với người bình thường.
Anh Độ đã sớm biết, muốn không bị khinh khi và dễ kiếm công ăn việc làm, ngoài sự học, còn phải tạo cho mình phong cách của một kẻ có học vấn, có văn hóa. Vì vậy, anh đã cố học hỏi để dần tạo được bộ dáng của một công chức hay kiểu cách của một thầy ký.
Hằng ngày, ai gặp cũng đểu nhận thấy, ở anh là một con người ăn nói chững chạc, lịch sự, tế nhị, nhiều hiểu biết và hóm hỉnh. Không những thế, anh còn tạo dáng vẻ bề ngoài, từ trang phục cho đến râu tóc lúc nào cũng sạch sẽ, gọn gàng. Nếu không biết quá khứ, sẽ chẳng ai nghĩ anh là hạng người trôi sông lạc chợ đi tìm kế sinh nhai.
Nước Thái Lan người đông, việc ít. Những công việc nhẹ nhàng, lương cao bổng hậu chủ yếu dành cho người Thái. Cộng đổng người Việt sống nhờ ở đất Thái phải làm những công việc nặng nhọc mà lương bổng rất ít ỏi.
Đã có nhiều Việt kiều rủ nhau qua Lào sinh sống. Theo họ, xứ Lào dân thưa mà đất rộng, dù chỉ làm nông cũng đủ khá giả.
Sau một thời gian đắn đo, suy tính, anh Độ quyết định rời bỏ đất Thái Lan để sang Lào tìm thời vận. Anh vốn là người nghèo đang lo kiếm sống, nên cũng bị ảnh hưởng tư tưởng “đứng núi này trông núi nọ”.
Rất may, tiếng Thái và Lào khá giống nhau, chỉ khác chút ít về từ ngữ và phát âm, nên anh Độ có thể yên tâm rằng mình sẽ dễ dàng hội nhập được vào xã hội Lào. Anh hoàn toàn tự tin rằng, dù mình không có bằng cấp, nhưng đủ siêng năng và kiến thức để kiếm việc làm trên đất Lào.
Việt kiều sống ở đất Thái Lan bị kiểm soát rất gắt gao, nên việc rời đi nơi khác để làm ăn, sinh sống cũng khó.
Anh Độ vốn là người giao du rộng, bạn bè nhiều, nên dễ dàng nhờ giúp đỡ. Anh dự định sẽ qua Lào từ cửa khẩu Nông Khai. Tại cửa khẩu này qua Lào là gần Viên Chăn nhất, dân hai nước qua lại nhiều nên dễ tìm ra cơ hội thuận lợi. Lính biên phòng Thái và Lào kiểm tra việc qua lại của dân hai nước tại cửa khẩu này khá kỹ lưỡng.
Nhưng người xưa vẫn nói “chỗ nguy hiểm chính là nơi an toàn”. Ở đây có thể hiểu, chỗ bị kiểm soát chặt chẽ chính là nơi có nhiều sơ hở.
Đầu tiên, anh Độ nghĩ, có thể qua biên giới bằng đường công khai. Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu kỹ, anh biết rằng, chỉ có thể vượt biên lậu. Anh không có đủ giấy tờ hợp lệ để đi bằng con đường chính thức.
Con sông Mekong là biên giới tự nhiên của hai nước Lào, Thái. Tại Nông Khai, sông Mekong không rộng lắm, lại có nhiều ghe thuyền qua lại tấp nập. Đây chính là cơ hội để có thể vượt biên.
Như đã nói, anh Độ vốn có nhiều quan hệ bè bạn thân thiết. Qua giới thiệu của người bạn thân, anh tìm đến một người làm tài công tàu khách. Người này chuyên đưa rước người qua lại giữa hai nước. Anh tài công này vốn là một Việt kiều, gốc miền Tây Nam bộ, tên Nguyễn Văn Tầm, rất nhiệt tình và cũng nhiều mưu trí. Khi anh Độ đến gặp, chỉ giới thiệu vài câu anh Tâm đã tiếp nhận như với người bạn thân lâu ngày.
Anh Tâm thấp đậm, cơ bắp chắc nịch, da đen nhẻm, rất khó phân biệt anh là người Việt hay Thái. Chỉ khi nghe nói tiếng Việt với giọng miền Tây Nam bộ đặc sệt thì mới biết anh là dân Việt. Theo anh Độ biết, anh Tâm đã qua đây làm ăn gần chục năm nay, từ thời Việt Nam còn chiến tranh với người Pháp. Vì đã được giới thiệu trước nên anh Độ không ngại ngần nói với người bạn mới về dự định vượt biên của mình.
Khi nghe anh Độ nói ý định, anh Tâm suy nghĩ một lúc rồi nghĩ ra ngay một kế, nói:
- Chuyện này không khó, anh cứ làm như thế, như thế... ắt qua mặt được lính biên phòng. Lính canh cả hai nước đều quen biết tôi, chắc sẽ êm thôi. Nếu lỡ bị lộ cũng không sợ bị bắt, vì họ không có cớ nói là mình vượt biên.
Thật ra, anh Tâm chẳng phải suy nghĩ lâu, vì theo kế này, anh đã đưa nhiều bằng hữu qua lại giữa hai nước Lào, Thái.
Theo kế hoạch của anh Tâm, anh Độ thay quần áo thợ thuyền, bôi dầu mỡ khá lem luốc, xách thùng đổ nghề thản nhiên đi theo anh Tâm như người phụ việc. Anh Tâm xách cặp quần áo của anh Độ đi trước, gặp ai cũng chào hỏi rất thân thiện. Anh Độ tùy trường hợp, hoặc gật đẩu, hoặc một tay cầm thùng đồng nghề, bàn tay kia dựng trước ngực như phật hiệu, cúi đẩu chào.
Cứ thế mà hai người xuống tàu đò dễ dàng, chẳng ai để ý.
Khi tàu đò cặp bến trên đất Lào. Chờ hành khách lên bờ để qua trạm kiểm soát. Theo bổn cũ soạn lại, anh Tâm cầm cặp đi trước, anh Độ xách thùng đổ nghề theo sau. Gặp ai quen, thấy anh Tâm cúi chào, anh Độ cũng cúi chào, miệng cười tươi như đã quen biết lâu ngày. Lính biên phòng và những người chức trách bên Lào cũng quá quen biết với anh Tâm nên chẳng hỏi han gì. Chẳng ai để ý đến anh thợ ăn mặc lôi thôi, dầu mỡ dơ dáy, chẳng nhận ra nhân dạng.
Hai người đi ngang trạm gác ở biên giới Lào, giống như mọi lẩn anh Tâm vào phố tìm nơi sửa chữa máy tàu, chẳng ai hỏi đến. Lính gác bên Lào vốn không thích thêm việc, nên rất dửng dưng. Họ bận tìm kiếm những người nào có vẻ khả nghi.
Hai người thuê xe tuk tuk vào Viên Chăn. Từ cửa khẩu đến Viên Chăn chỉ hơn chục cây số. Họ thuê phòng trọ để tắm rửa, thay quẩn áo... rồi cùng đi ăn trưa.
1.3
Viên Chăn là thủ đô của Vương quốc Lào.
Theo nhận xét ban đầu của anh Độ, Viên Chăn là một thành phố nhỏ bé, xinh đẹp, với những căn nhà nhỏ, mái cong kèm những hoa văn mang màu sắc tôn giáo.
Những căn nhà này rất dễ hòa trộn với những ngôi chùa nhỏ nằm rải rác khắp thành phố.
Nhà và chùa chiềng ở Viên Chăn khá giống trên đất Thái, nơi anh Độ từng sống. Có lẽ do văn hóa hai nước cùng chung nguồn gốc? Hay là do ảnh hưởng lẫn nhau? Nước nào bị ảnh hưởng của nước kia thì chỉ các nhà nghiên cứu sử mới làm rõ được.
Ba nước Đông Dương có cả trăm năm lịch sử từng là thuộc địa của Pháp, vì vậy mà qui hoạch và nhiều kiến trúc nhà cửa, biệt thự ở Viện Chăn có nhiều nét giống với châu Âu. Các biệt thự, các tòa nhà tân thời phẩn nhiều giống kiến trúc Pháp.
Đường phố Viên Chăn không lớn, nhưng sạch sẽ, vỉa hè khá rộng. Khách bộ hành cảm thấy mát mẻ nhờ những cây cổ thụ mọc dọc vỉa hè, che nắng vào những ngày oi bức.
Viên Chăn có các cung điện, những dinh thự, biệt thự, ẩn mình một cách khiêm nhường dưới các tàng cây trong khuôn viên đất rộng rãi, êm ả, tạo nên cảm giác thanh bình, khó có thành phố nào trên thế giới giống như vậy.
Chỉ riêng ở Viên Chăn có đến hàng trăm ngôi chùa lớn nhỏ, làm cho anh Độ có ngay cảm giác, đây là vương quốc Phật giáo.
Thành phố Viên Chăn nằm gác mình bên bờ sông Mekong hùng vĩ.
Đoạn sông chảy ngang Viên Chăn không lớn. Từ bên này sông, nhìn thấy rõ nhà cửa, chùa chiền và sinh hoạt trên vùng đất của vương quốc Thái Lan. Cả hai vùng đất có điều gì đó rất giống nhau, khiến cho nhiều người nghĩ rằng hai quốc gia này chung một nền văn hóa.
Ăn trưa xong, anh Tâm hỏi:
- Ở đất Viên Chăn này anh có quen ai không?
- Thật ra thì chưa quen ai, nhưng có người bạn giới thiệu vài địa chỉ, có thể nhờ cậy được, anh đừng lo. Tôi là dân trôi sông lạc chợ từ nhỏ, lo gì không kiếm được chỗ tá túc.
Anh Độ tuy là người Bắc Việt, nhưng sống với người Nam bộ khá lâu, vì vậy mà giọng nói pha âm hưởng người Nam và ngôn từ cũng bị ảnh hưởng nhiều. Cái câu “trôi sông lạc chợ” vốn là của dân sông nước miền Tây Nam bộ.
- Anh có tiền chưa? Tôi đưa thêm cho, ít ra cũng phải đủ sống vài ngày để chờ cơ hội. Tối nay anh cứ tạm thời ngủ ở nhà trọ này, tôi đã thanh toán tiền đến trưa ngày mai.
Câu nói thật lòng này khiến anh Độ vô cùng cảm động, bởi nó mang đậm nét hào phóng của người Nam bộ, dù trong hoàn cảnh lưu lạc xứ người vẫn không làm phai mờ.
-Cám ơn anh, tôi cũng còn có chút tiền, tích lũy được trong thời gian đi làm.
-Vậy thì nên đổi ra tiền Lào để xài cho dễ. Thôi, anh ở lại đây nghen, tôi phải quay về tàu để kịp giờ cho chuyến sau. Anh biết nhà tôi rồi, có gì nhắn cho tôi hay. Nếu thấy bên Lào sống không được thì quay lại Thái với tôi.
-Cám ơn anh nhiều lắm. có địa chỉ mới, tôi sẽ báo cho anh biết.
Logged
trungnn
Thành viên
*
Bài viết: 7


« Trả lời #2 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2018, 01:04:41 pm »

Chương II
ỔN ĐỊNH VIỆC LÀM
2.1
Trên con đường tìm kế sinh nhai, anh Độ chơi thân với ba người con lớn của gia đình ông bà Bùi. Chính họ giới thiệu anh qua Lào, tìm đến ông bà Bùi nhờ nương tựa.
Theo địa chỉ anh Độ tìm đến nhà ông bà Bùi không mấy khó khăn. Viên Chăn quả là một thành phố không lớn.
Lúc đó là giờ nghỉ trưa. Anh Độ đã tính đúng thời điểm để kịp gặp ông Bùi. Anh bước đến gõ cửa.
Ông Bùi bước ra, nhìn thấy một người đàn ông còn khá trẻ. Tuy vậy theo dáng cách, thái độ chững chạc thì đã bước vào tuổi trung niên. Ông đã được các con báo trước, nên không ngẩn ngại hỏi:
- Cậu từ chỗ thằng Hùng đến tìm tôi?
Anh Độ đã nhìn thấy hình ông Bùi nhiều lần, nên khi thấy người đàn ông trung niên có dáng người thấp đậm thì nhận ra ngay, nhã nhặn nói:
- Cháu chào bác! cháu là bạn của các anh Hùng, Dũng và Cường. Cháu được các anh ấy giới thiệu đến gặp bác.
Ông Bùi hơn anh Độ khoảng chục tuổi, xưng hô là anh cũng được. Nhưng vì là bạn của con ông, nên anh Độ gọi bằng bác. Người Bắc vốn thích được kính trọng, nên lối xưng hô này khiến ông Bùi có thiện cảm.
- Mời cậu vào nhà, rửa mặt rổi ăn cơm trưa với chúng tôi.
- Cháu vừa từ bên Thái qua, đã ăn cơm ngoài tiệm rồi, xin bác và cả nhà cứ tự nhiên.
Ông bà Bùi là người gốc Bắc, đã có tuổi, ông họ Lê, vốn được giáo dục theo nho giáo xưa. Anh Độ đã biết qua về ông bà nên rất thận trọng trong giao tiếp. Người Bắc mà có ăn học như ông bà Bùi thì chuộng lễ giáo và cũng rất khắt khe.
Ông Bùi rất vui mừng vì được gặp bạn của các con, nên muốn hỏi nhiều điều, ông nói: “Cậu đừng khách sáo, nếu chưa ăn thì cùng ngồi xuống đây. Nếu ăn cơm rồi thì cũng cứ ngồi đây uống nước, nói chuyện cho vui”.
Sau vài câu chuyện, anh Độ đã hoàn toàn thuyết 
phục được ông Bùi, rằng mình chính là bạn thân của các con ông.
Ông bà Bùi khi biết đúng là bạn của các con nên trong lòng rất vui vẻ, thâm tâm sẵn sàng giúp đỡ người khách này.
2.2
Ông Bùi trước làm công nhân ở mỏ than Mạo Khê, Quảng Ninh, nhờ có học mà vươn lên đến chức cai. Sau đo ông qua Lào làm thầu xây dựng và cưới vợ, sanh con. Thời Đông Dương xảy ra chiến tranh với người Pháp, ông đem vợ con về xứ, vừa để cho họ biết quê hương. Nhân đó, ông cũng muốn tìm con đường làm ăn ít lệ thuộc nhất. Về đến quê nhà, ông hoàn toàn thất vọng. Ở quê nhà, chiến tranh còn ác liệt hơn trên đất Lào gấp nhiều lần. Ở Lào tuy có chiến tranh, nhưng bom đạn tránh xa Viên Chăn. Thế rồi ông lại đem vợ con quay lại Lào. Tuy nhiên, chiến tranh đâu có để cho ai đi lại dễ dàng, vì vậy mà ba cậu con trai lớn của ông bị thất lạc trong cơn chạy loạn. Mãi đến hai ba năm gần đây ông mới biết ba người con trai đã trưởng thành và làm ăn khá ổn định trên đất Thái. Tuy đã liên lạc được với nhau, nhưng ba người con đều vẫn chưa có cơ hội gặp lại bố  mẹ. Điều này khiến ông bà rất buồn, vẫn hằng mong cả nhà được đoàn tụ.
Gặp lại Độ, ông bà cảm thấy an ủi như gặp lại chính các con của mình. Nhìn người đàn ông này, ông bà đã có ngay hảo cảm. Khi biết anh Độ mới chân ướt chân ráo đến Viên Chăn, ông chủ động mở lời:
- Cậu mới qua Viên Chăn, chắc chưa có chỗ ở? Thôi cứ tạm ở nhà tôi, khi nào làm ăn khá thì hãy đi thuê nhà khác.
Ông Bùi nói vậy chẳng qua để khách đỡ e ngại. Khi nhắn tin, các con ông đã có nói về điều này, rằng cần phải cưu mang anh Độ thời kỳ mới chân ướt chân ráo sang Lào.
- Dạ, cháu cám ơn hai bác. Ban đầu có lẽ phải quấy quả hai bác. Hai bác cứ xem cháu như người nhà. Nếu cháu có điểu gì sai thì cứ trách mắng, cần gì thì cứ sai bảo.
- Tôi đâu dám, các con tôi đã gởi gắm thì tôi phải xem cậu như chính chúng vậy. Tạm thời tôi sẽ giới thiệu cậu vào làm ở hãng Calavy. Hay cậu cứ nghỉ vài ngày cho khỏe rồi tôi xem có thể bố trí cậu vào chỗ nào được.
Nói rồi, ông Bùi hỏi thêm anh Độ về những việc có thể làm để ông tiện giới thiệu. Anh Độ trình bày hết những khả năng của mình, những việc từng làm.
Bữa cơm chiều, mọi người lại nói chuyện vui vẻ. Mấy người con sau của ông Bùi hỏi han anh Độ tíu tít về các anh. Anh Độ lại có dịp nhắc đến ba người con của ông bà Bùi. Ông bà Bùi không cầm được nước mắt khi nghe nói đến ba người con thất lạc. Chuyện vãn một lúc, khi đã đủ thân tình, họ nói đến công sở, chợt ông Bùi như sực nhớ ra điều gì, nói:
- Trong thời gian làm thầu xây dựng cho hãng Calavy, chúng tôi có nhận khá nhiều thầy thợ Việt Nam, cả ở hai miền Nam, Bắc. Ngày nay, miền Bắc thuộc về chính quyền cộng sản nên chỉ còn thầy thợ đến từ miền Nam. Chủ hãng thích nhận người Việt, vì đa phần họ làm ăn siêng năng, cần cù và rất chí thú. Trong số thầy thợ này, từng có một người đàn ông, tên Nguyễn Văn Đan, từ Sài Gòn lên đây làm ăn. Tôi không nhớ chính xác ông Đan quê ở tỉnh nào, nhưng biết cũng là dần gốc Bắc như cậu, hình như là di cư vào Nam. Chúng tôi nhận ông Đan này làm thầy ký, ông ấy trạc tuổi cậu. Gần đây, chẳng hiểu nguyên nhân gì, thầy Đan bỏ về Sài Gòn rồi mất tin tức luôn. Hãng có nhắn tin tìm kiếm, nhưng thầy Đan vẫn bặt vô âm tín. Tôi e rằng thầy ấy hoặc đã mất, hoặc đã sang nước ngoài định cư rồi. Hiện nay giấy cư trú màu vàng của thầy ấy còn nằm trong beauraux của tôi.
Anh Độ suy nghĩ rất nhanh “biết đâu, đây là cơ hội cho mình”, bèn ướm lời nói: “Anh Hùng nói rằng bác có thể giúp cháu kiếm công ăn việc làm ở đây...”. “Tôi cũng đang nghĩ đến điều này. Cậu mới đến, chân ướt chân ráo, khó mà kiếm được việc làm dễ thở ở xứ này”.
- Cháu không tiện mở lời nhờ bác giúp đỡ...
- Tôi coi cậu như con cháu mình, nên sẽ giúp hết lòng.
Anh Độ nhận thấy tình cảm chân thật của ông Bùi, nên ướm thử:
- Bác có thể lấy giấy tờ của thầy Đan về đây cho cháu xem được không?
- Được, để mai tôi đem về cho cậu xem.
Hôm sau, đi làm về, ông Bùi đưa thẻ cư trú màu vàng mang tên Nguyễn Văn Đan cho anh Độ xem. Anh Độ chợt nghĩ ngay ra cách thức sử dụng thẻ này.
Trong giấy, thầy Đan trẻ hơn anh Độ khoảng ba tuổi, nhưng xem hình thì hai người xấp xỉ nhau. Anh Độ nói thật với ông Bùi: “Cháu định thay thầy Đan, như vậy đương nhiên là thư ký của hãng, bác không cần phải lo nghĩ đến chuyện xin việc cho cháu”.
- Làm như vậy được không? Tôi chưa biết cậu có thể làm được các công việc của thầy Đan?
- Cháu nghĩ là mình có thể đảm nhận được chân thư ký của hãng. Cháu có vốn tiếng Pháp đủ dùng, tiếng Anh cũng tạm được. Còn việc thay đổi giấy tờ thì không khó, vì lúc ở bên Thái tụi bạn cháu cũng có làm rồi. Cháu đã biết cách, bác chỉ cần tìm cách mượn bộ hồ sơ gốc của thầy Đan đem về đây, phần còn lại cháu sẽ chỉ cách bác làm.
Ông Bùi hơi có phần lo lo, nên lưỡng lự hỏi: “Nhưng lấy lý do gì để mượn bộ hồ sơ gốc?”
- Bác có biết ai giữ bộ hồ sơ gốc này không?
- Colonel Phào, tôi có quen với ông ta. Nhưng có lẽ phải chi ít tiền thì ông ta mới chịu lục tìm hồ sơ. Ở xứ này người ta không làm không công bao giờ.
- Ít tiền là bao nhiêu?, bác biết không?
- Khoảng mười lăm, hai chục đô Mỹ gì đó. Những trường hợp khó thì cũng không quá sáu chục đô Mỹ.
- Cháu nhờ bác đến gặp Colonel Phào, nói là hãng cẩn thẩm tra hồ sơ của thầy Đan để ký hợp đồng dài hạn với thầy ấy. Khi bác đem hồ sơ về đây cháu sẽ có cách. Có lẽ nhờ thế mà bác đỡ tốn công lo việc làm khác cho cháu.
- Được, ngày mai tôi sẽ thử. Cậu cứ đưa cho tôi ba mươi đô la Mỹ.
2.3
Chiều hôm sau, ông Bùi đi làm về, hớn hở đem túi hồ sơ của thầy Đan đưa cho anh Độ.
Xem hồ sơ, anh Độ thấy thầy Đan, quê ở Nam Định, vào Nam làm ăn từ thời Pháp chứ không phải dân di cư, thì vô cùng mừng rỡ. Trong bộ hồ sơ còn có bằng tú tài  do Tổng nha Giáo dục Pháp Taboulet ký. “Đúng là trời giúp. Nam Định thì mình cũng biết nhiều trong thời kỳ lưu lạc làm ăn”, anh thầm nghĩ.
Tối hôm đó, anh Độ khéo léo thay hình của mình vào tấm thẻ vàng của thầy Đan cùng với hình trong bộ hồ sơ gốc. Đồng thời anh học thuộc lòng những chi tiết ghi trong hồ sơ.
Ông Bùi vì có lời gởi gắm của các con, phần vì cùng là người Việt đến xứ người làm ăn nên tích cực giúp đỡ hết lòng. Như vậy, nhờ sự giúp đỡ của ông Bùi, anh Độ đã nghiễm nhiên trở thành thầy ký Đan.
Kể từ nay, anh Độ trở thành thầy ký Nguyễn Văn Đan. Vị trí đã ổn định, lương bổng cũng khá. Như vậy những lời đồn của các Việt kiều bên Thái không phải là vô căn cứ.
Kể từ đây, hàng xóm của ông bà Bùi biết anh Độ có hai tên. Tên Độ dùng để gọi bình thường, còn trong hồ sơ gốc thì có tên Đan.
Tuy vậy, anh Độ, hay thầy Đan vẫn muốn có một vị trí cao hơn, lương cao bổng hậu để thuê nhà, lo chuyện vợ con. Thầy đang độ tuổi sung mãn, nếu không có vợ rất dễ bị người dị nghị. Đàn ông sợ nhất là bị mang tiếng “bất lực”.
Sự mong muốn vươn lên của thầy Đan cũng hoàn toàn chính đáng mà. Thầy lại luôn nỗ lực và cảm thấy hình như mình có chút ít may mắn.
Thầy Đan vẫn ở tạm tại nhà ông Bùi. Trong buổi đẩu chân ướt chân ráo này, gia đình ông Bùi quả là chỗ dựa tốt cho thân phận long đong của thầy. Ông Bùi lúc này càng trở nên thân thiết với thầy Đan, bởi ông nhận thấy ở anh thầy ký này có rất nhiều tiềm năng ẩn tàng, có thể giúp cho ông thăng tiến trên đường hoạn lộ.
Ông Bùi cũng đã nhận thấy sự nguy hiểm trong việc giúp đỡ thầy Đan, vì vậy mà phải luôn tìm cách bao bọc, che đậy những sơ suất vô tình lộ ra của ông khách tên Độ này.
Bao che cho một người nhập cư lậu rõ ràng là phạm pháp. Thêm vào đó, hành động giúp người lạ thế thân một nhân viên trong công ty, quả là chuyện lớn tày trời mà ông Bùi chưa từng làm.
2.4
Ông bà Bùi tuy tốt bụng, nhưng vốn sống co cụm, ít giao thiệp với người ngoài. Ngoài một số Việt kiều thân quen và vài người Lào cùng làm việc, ông Bùi ít khi chịu mở rộng mối quan hệ. Thầy Đan nhận thấy điều này như con dao hai lưỡi. Ông bà Bùi ít quan hệ thì thần phận của thấy ít người để ý, nhưng cũng chính vì vậy mà thầy cũng ít có diều kiện làm quen với những người xung quanh. Thầy không tiện vượt qua chủ nhà để lân la làm quen với láng giềng, hàng xóm và đồng nghiệp.
Lại qua vài ngày, một hôm, trong bữa ăn, ông Bùi khoe là có quen với ông Khounta, giám đốc sở giao thông công chánh Viên Chăn. Thầy Đan nghe nói vậy thì làm như vô tình, nói:
- Người Việt ta có câu “Bán họ hàng xa, mua láng giềng gần”. Nay chúng ta sống trên đất Lào, chẳng họ hàng thân thích, nên phải tạo mối quan hệ thân mật với bà con láng giềng, bất kể Việt hay Lào, phòng khi tắt lửa tối đèn còn có nhau.
- Từ ngày gặp cậu, tôi mở mang tẩm mắt nhiều thêm. Mấy ngày nay tôi bắt đầu cởi mở với hàng xóm, thân mật hơn với đồng sự. Quả thật, họ nhìn tôi với con mắt khác, thân thiện hơn, nồng nhiệt hơn.
Thầy Đan nghe ông Bùi nói vậy, bèn hỏi:
- Hình như bác vừa nói là có quen ông gì đó ở Sở Giao thông Công chánh?
- Ông Khounta...
- Hay là hôm nào bác mời ông ta đến nhà đãi cơm để tạo thêm tình thân mật. Sở Giao thông Công chánh có nhiều công trình xây dựng lắm, bác mà quen thân được với ông ta thì chẳng thiếu việc làm đâu.
- Cậu mà không nói, tôi cũng không nghĩ ra. Theo cậu, ta nên đãi họ món ăn Việt hay Lào?
- Cháu nghĩ là, nên đãi họ món ăn Việt cho lạ miệng. Cháu nhờ bác mà có công ăn việc làm, lương cũng khá, thôi để cháu lo chuyện đặt món ăn, chỉ cần mượn nhà bác để tạo tình thân mật. Ngồi ngoài nhà hàng, mình bị hạn chế nhiều điều lắm.
- Ai lại thế, thôi thì tôi và cậu chia đôi tiền đặt món. Ở nhà đã có sẵn mấy chai rượu người ta biếu vẫn còn đó, đủ dùng rồi, cậu không cần mua thêm. Tôi chẳng bao giờ uống rượu một mình, nay nhân dịp này thì vui quá.
- Bác nên mời thêm vài nhân viên của ông Khounta cùng đến. Nguyên tắc làm việc thì quyền quyết định là ở ông ta, nhưng thừa hành lại là nhân viên cấp dưới. Họ mà cản trở thì ông Khounta muốn giúp cũng khó.
- Cậu nói chính phải, tôi sẽ lưu ý mời thêm vài nhân viên thân cận của ông Khounta.
Trưa ngày chủ nhật, ông Khounta cùng năm nhân viên thân cận vui vẻ đến nhà ông Bùi. Họ đến như một cuộc viếng thăm bình thường.
Ở nhà, bà Bùi cùng các con gái lo mấy món Việt cho khách lạ miệng. Trong đó có món chả giò chiên mà các gia đình Việt ít khi bỏ qua khi làm tiệc. Mùi xào nấu bốc lên thơm sực nức, khiến các thực khách càng cảm thấy đói cồn cào. Họ ngồi vui vẻ nói chuyện thân mật và ấm áp.
Ông Bùi và thầy Đan ngồi tiếp khách, trong khi chờ nhập tiệc.
Trước đó, khi mới bước vào nhà, ông Bùi và ông Khounta đã tay bắt mặt mừng, giới thiệu họ tên của mọi người để làm quen. Thầy Đan chắp tay cúi đầu theo nghi thức người Lào để chào mọi người.
Thầy Đan thầm nhẩm trong lòng để nhớ tên những vị khách quý này. “Biết đâu sẽ có lúc mình còn gặp lại nhau”, thầy nghĩ.
Logged
trungnn
Thành viên
*
Bài viết: 7


« Trả lời #3 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2018, 01:08:08 pm »

2.5
Trong tiệc, thầy Đan kín đáo gây sự chú ý cho khách bằng những câu chuyện hài hước, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn của La Fontaine, truyện thần thoại Hy Lạp... Những chuyện này, ai có học chương trình Pháp đều biết, nhưng do thầy kể rất có duyên, lại hợp hoàn cảnh, nên mọi người nghe rất chăm chú, cười hể hả, cứ như lần đẩu được nghe.
Bữa tiệc diễn ra rất vui, phần lớn là nhờ tài kể chuyện, lối nói đùa dí dỏm của thầy Đan.
Vì đã có chủ ý, thầy Đan khéo léo lồng vào các câu chuyện bằng cách thể hiện năng lực của mình, từ vốn tiếng Pháp, kiến thức kế toán, khả năng thực hiện các công việc quản lý... khiến ông Khounta mừng như vớ được vàng vì gặp con người quý hóa này.
Đến cuối tiệc thì sáu người khách đều tỏ ra mến thích người đàn ông gốc Việt trẻ tuổi, vui tính tên Đan này. Thậm chí ông bà Bùi và các con cũng vô cùng ngạc nhiên trước những hiểu biết rất rộng và vốn tiếng Pháp trau chuốt của thầy Đan.
Gần cuối tiệc, ông Khounta không ngẩn ngại mở lời với thầy Đan:
- Sở tôi rất cần một người như thầy. Thầy có sẵn lòng đến làm việc với chúng tôi không?
- Tôi rất quý mến ông và các vị ở đây, nhưng tôi đang làm cho hãng Calavy, lương bổng cũng khá và ổn định. Hãng chưa làm điều gì khiến tôi buồn phiền, nếu bỏ đi, liệu người ta có nghĩ xấu vể tôi.
- Tôi biết thầy đang khó xử, để tôi thương lượng với chủ hãng Calavy xin thầy qua làm việc với chúng tôi. Tôi xin cam đoan rằng khi qua làm với chúng tôi, thầy sẽ không bị thiệt thòi bất cứ điểu gì.
- Các ngài mới quen biết tôi mà đã tỏ lòng ưu ái, khiến tôi cảm động quá. Nhưng tôi còn phải hỏi ý kiến bác Bùi đây, vì ông ấy là ân nhân, giúp tạo công ăn việc làm cho tôi.
Ông Bùi, chỉ một thời gian ngắn sống và làm việc gần nhau nên đã biết được năng lực của thầy Đan, vội nói ngay:
- Cậu không cần phải hỏi nữa. Tôi biết, chỗ đứng của cậu là ở sở giao thông công chánh mới phát huy được hết năng lực. Tôi tiếp nhận cậu nên cũng có quyền cho cậu đi, cứ yên tâm về nơi mới. Cậu đừng quên chúng tôi là được.
Ông Bùi đã nghĩ đến việc, nếu thầy Đan về làm việc cho sở giao thông công chánh thì khác gì mình cắm người thân ở sở. Chắc chắn sẽ rất có lợi cho hãng của ông.
Khi mọi người ra về, thầy Đan nói với ông Bùi:
- Bác tốt với cháu quá. Hy vọng sau này bác cháu ta còn hỗ trợ cho nhau lâu dài.
Ngay ngày hôm sau, ông Khounta cho người trang trọng mời thầy Đan đem hồ sơ cá nhân đến văn phòng. Ông Khounta trực tiếp xem kỹ bộ hồ sơ, nhìn thấy trong đó có bằng tú tài do nha giáo dục Pháp Taboulet ký thì hoàn toàn yên tâm. ông bèn gọi thư ký đến làm thủ tục nhận ngay thầy Đan vào sở giao thông công chánh Viên Chăn.
Kể từ nay, thầy Đan đã chính thức là công chức Lào, làm việc tại Bureau Controle Auto (đăng kiểm xe), quản lý việc đăng ký, kiểm tra xe đang lưu hành.
Công việc mới, lương bổng cao giúp thầy Đan có thể thuê nhà để ở riêng, nhờ đó có thể giao tiếp rộng với đồng nghiệp, hàng xóm và bè bạn.
Nhà ông bà Bùi lúc đó có mấy cô con gái còn ở tuổi học trò. Thầy Đan tuy đã bước vào tuổi trung niên, nhưng bề ngoài vẫn còn rất trẻ, lại đang sống độc thần, vì vậy mà ở chung nhà thật không tiện.
Một hôm, thầy Đan nói với ông bà Bùi:
- Cháu nhờ hai bác mà có được cuộc sống ngày hôm nay, ơn này không bao giờ cháu dám quên. Ngày nay công ăn việc làm của cháu đã ổn định, có khả năng thuê nhà để ra riêng nên không dám làm phiền thêm hai bác.
- Cậu đã tìm được chỗ nào chưa?
- Có rồi bác ạ, cháu để ý có một căn ở xóm Saylom đủ rộng và yên tĩnh. Giá thuê cũng rẻ. Chủ nhà nói, nếu sau này cháu có đủ tiền thì sẽ nhượng lại luôn, khỏi phải thuê.
- Chúc mừng cậu! Chúng tôi mong cậu sớm ổn định, lập giá đình thoát khỏi cuộc sống độc thân nhé.
Logged
trungnn
Thành viên
*
Bài viết: 7


« Trả lời #4 vào lúc: 18 Tháng Tư, 2018, 01:03:50 pm »

Chương III
GIA ĐÌNH
3.1
Chủ nhật tuần đó, thầy Đan dọn về nhà mới. Người nhà gia đình ông Bùi giúp dọn dẹp như lo cho đứa con ra riêng. Thầy Đan vô cùng cảm động trước tấm thịnh lình của gia đình, nguyện trong lòng sẽ có ngày ơn đền nghĩa trả.
Đến nơi ở mới, thầy Đan giới thiệu với hàng xóm, rằng mình có tên gọi ở nhà là Độ. Vì vậy dân trong xóm thường vẫn gọi là anh Độ, hay ông Độ.
Như trước đây, thầy Đan bắt tay tạo mối quan hệ tốt với xóm giềng trong khu vực, không phân biệt Việt kiều hay người Lào.
Bẵng đi vài tháng, ông Bùi nhắn thầy Đan đến nhà chơi. Lời nhắn hình như có ý thôi thúc, dường như không bình thường.
Thầy Đan vội đến ngay, trong lòng nghĩ rằng mấy người bạn, tức con ông Bùi có nhắn nhủ gì chăng.
Khi đến nơi, ông Bùi mời thầy Đan vào phòng khách, ra hiệu người nhà ra ngoài. Ông mở lời:
- Vừa rồi có chị Mai, quen với vợ tôi, ở Sài Gòn qua Viên Chăn lấy hàng, có ghé thăm. Chị ấy nói, hiện đang cưu mang ba mẹ con một người phụ nữ, quê ở một tỉnh nào đó thuộc miền Tây. Cô ấy cũng lạc chồng mấy năm nay, không nơi nương tựa. Chị Mai khuyên cô ấy đi bước nữa để có nơi nương tựa mà nuôi con ăn học. Cô ấy có vẻ xiêu lòng. Tôi cũng có nói hoàn cảnh của cậu cho chị Mai nghe. Thôi nói gì cũng không qua nói thật, chúng tôi muốn làm mối cô ấy cho cậu. Đây là hình cô Bùi Thị Dễ và hai đứa con, cậu xem, nếu ưng ý thì tôi sẽ điện cho chị Mai tiến hành thủ tục.
Ông Bùi cười cười, nói:
- Vậy là cậu đổng ý. Người xưa có câu “im lặng tức là đồng ý”. Cái cô Dễ này trông cũng được đấy chứ, hai đứa con cũng rất kháu...
- Cháu thật lòng không còn lời nào để cám ơn bác.
Hơn một tháng sau thì mọi thủ tục kết hôn hoàn tất.
Một ngày đẹp trời năm 1960, thầy Đan ra sân bay Viên Chăn đón người vợ mới và hai con riêng của vợ.
Vợ chổng mới cưới qua giới thiệu của người ngoài, vậy mà khi gặp nhau họ mừng rỡ như có duyên với nhau từ kiếp trước. Các con của cô Dễ cũng nhanh chóng tiếp nhận người cha dượng.
Cô Dễ thứ Năm trong gia đình, theo cách gọi của người Nam bộ.
Thằng lớn tên Dũng, gần tám tuổi, đứa con gái nhỏ tên Phương năm tuổi.
Hai đứa tuy còn nhỏ nhưng rất dễ thương, dễ bảo, thầy Đan rất yêu thương chúng, vì vậy mà trong một thời gian ngắn, chúng đã xem người dượng này như cha ruột của mình.
Thầy Đan cũng xem hai đứa trẻ như con ruột nên xưng bố, gọi con rất tự nhiên. Thầy cho rằng, mình phải chủ động xé bỏ hàng rào ngăn cách trong tình cảm, phải làm sao biến cái gia đình này thành tổ ấm của mình.
Thầy Đan bàn với vợ đổi họ cho các con.
- Mình ạ, ta phải đổi họ cho thằng Dũng và con Phương theo họ của tôi để chúng dễ nhập học và có nhiều quyền lợi công dân Lào.
- Tôi ở xứ này như người lạ, mình nói gì tôi cũng nghe. Tôi tin mọi quyết định của mình đểu đúng đắn.
3.2
Vậy là, một thời gian ngắn, sau đám cưới đơn giản diễn ra, hai đứa bé được đổi họ mới là Nguyễn Văn Dũng và Nguyễn Thị Phương.
Thầy Đan dễ dàng liên hệ để cho hai đứa trẻ vào học tại trường Công giáo Esperance.
Viên Chăn tuy là một thành phố nhỏ, nhưng đối với bọn trẻ thì đã quá lớn, quá đẹp. Khi còn ở Việt Nam, bọn trẻ chỉ quanh quẩn ở mấy địa phương, thị trấn nhỏ của quê ngoại, như Tân Châu, Châu Đốc, hay đến quê nội ở Thạnh Trị, Sóc Trăng. Chúng chỉ đến Sài Gòn có vài ngày, trước khi sang Lào.
Trước khi sang Lào, Dũng được mẹ cho đi học ở Châu Đốc. Cả nhà sống trong căn nhà gỗ thuê lại ở xóm Hàng Xáo. Học xong, Dũng phải về nhà ngay để giúp mẹ việc nhà và trông em Phương, nên chẳng hể được hưởng tuổi thơ như những đứa trẻ khác. Châu Đốc là quê của bà nội, bà con họ hàng khá đông. Riêng bà nội có đến chín mười anh chị em, nay lại thêm con cháu nên dòng họ phát triển nhanh chóng. Khổ thay, thời buổi chiến tranh, loạn lạc, ai cũng phải lo cho bản thân và gia đình riêng, nên ba mẹ con sống rất khó khăn.
Anh em nó còn quá nhỏ để có thể biết ba đi đâu mà bỏ mẹ con cù bơ cù bất, không nơi nương tựa. Nó thương mẹ, thầm hứa ráng học thật giỏi để sau này đỡ đần cho mẹ và em. Má nó không thể nói cho biết, vể cha và hai người anh. Nó cũng không thể biết, vì sao má cứ phải đưa cả nhà đi đây, đi đó khắp các vùng quê ở miền Tây Nam bộ? Chẳng ai nghĩ, những chuyến đi này đã hình thành trong đầu bọn trẻ tình yêu thiên nhiên, yêu sông nước miền Tây và những cảnh đời trôi dạt bất định như các dê' lục bình bập bềnh trên sông.
Đến Viên Chăn, hai đứa trẻ như được đổi đời. Căn nhà mà bố dượng thuê làm bằng vật liệu gạch xây kết hợp cấu trúc gỗ. Đó là một căn nhà bình dân, nhưng đã được sửa chữa và trang bị nội thất theo nhu cầu của những gia đình khá giả. Căn nhà này là một cái gì quá tầm mơ ước của bọn trẻ. Thế rồi mỗi ngày một ít, cả nhà cùng nhau trang trí, sửa chữa thêm để căn nhà trở nên hoàn thiện dần.
Bọn trẻ nhanh chóng làm quen với bọn trẻ Việt và Lào trong xóm.
Trong xóm, những người Việt đến đây sinh sống chủ yếu là từ các tỉnh miền Bắc, nên chẳng bao lâu bọn trẻ phát âm tiếng Việt theo giọng Bắc và gọi má là mẹ.
Chủ nhật, bố dượng đưa hai đứa trẻ đi dạo phố Viên Chăn. Món ăn mà chứng thích nhất là kem, bọn trẻ gọi là “cà lem”. Bố dượng không bao giờ cho chúng ăn nhà hàng, nếu không có mẹ. Mẹ chúng vốn rất tiết kiệm, nên dù tiền bạc không thiếu, bà vẫn thích nấu ăn ở nhà.
Thế rồi, chẳng biết từ lúc nào hai đứa trẻ không còn gọi thầy Đan là bổ dượng, mà chỉ gọi là bố.
Đó cũng là lúc mà mẹ chúng có thai đứa em út.
Và gần giữa năm Tân Sửu (1961) thì thằng út ra đời. Bố mẹ đặt tên là Hiển, với mong muốn nó sẽ được hiển vinh.
Vậy là từ đây, thầy Đan chính thức có một gia đình để đùm bọc, lo lắng, che chở cho nhau.
Hàng xóm và đồng nghiệp đểu nhận thấy, gia đình này tuy rổ rá cạp lại mà rất đầm ấm, hạnh phúc. Vợ chồng tương thân tương ái, con cái ngoan hiển, học hành giỏi giang. Chính vì vậy mà ngoài sự kính trọng trước đây, hàng xóm còn thêm quý mến ông Độ.
Chẳng biết từ lúc nào, người dân trong xóm đã thân mật gọi bà Năm Để là bà Độ.
Lương bổng của thầy Đan tuy khá cao, đủ chi tiêu cho cả nhà. Nhưng ai có thể bảo đảm, cuộc sống sẽ mãi thuận buồm xuôi gió, công việc này sẽ mãi ổn định. Chính vì vậy mà hai vợ chồng bàn với nhau, thuê một cái sạp ở chợ Sáng (Marché du matin) để bà Độ kiếm thêm đồng ra đồng vào, đồng thời cũng bớt đi sự rảnh rỗi, dễ làm cho con người trở nên lười nhác.
Chợ Sáng, có nghĩa là chợ này chỉ hoạt động vào buổi sáng, đến khoảng 9 giờ thì giải tán. Các chủ sạp phải dậy từ rất sớm để bày hàng.
Vậy là từ đây, thầy Đan có thêm việc để lo. Sáng sáng, thầy dậy thật sớm, đưa vợ ra chợ, phụ dọn hàng. Sau đó quay vể cho các con ăn sáng, uống sữa, đưa đi học, đi nhà trẻ... Sau đó, thầy mới lo được đến những việc riêng, tức là chuẩn bị đi làm.
Tất bật vậy mà vui, mà hạnh phúc.
Logged
trungnn
Thành viên
*
Bài viết: 7


« Trả lời #5 vào lúc: 18 Tháng Tư, 2018, 01:05:33 pm »

3.3
Thầy Đan nay sống ở xóm Saylom này, luôn quan tâm đến hàng xóm láng giềng. Ai có gì khó khăn, thầy đểu lìm cách giúp đỡ.
Trong xóm, có một gia đình Việt kiểu. Anh chồng tên Nguyễn Văn Tải, thứ Hai trong gia đình, quê gốc ở Gò Công. Anh từng theo Việt Minh trong thời kháng chiến chín năm. Sau khi hòa bình lập lại, anh không có tiêu chuẩn đi tập kết, nên phải ở lại quê nhà. Chính quyển họ Ngô săn lùng những người theo kháng chiến, khiến anh phải luôn trốn tránh, rồi theo bạn bè lưu lạc qua Lào làm ăn, sinh sống. Tại đây, anh lấy vợ và lần lượt có ba người con, hai gái một trai.
Rủi thay, anh Tải lại bị bệnh thần kinh. Nguyên do có một lấn anh chứng kiến cảnh tượng quá đau lòng, quá rùng rợn.
Lần đó anh Tải cùng vài đồng đội đi công tác, bị lính Pháp phục kích đón bật. Anh và mọi người chạy tứ tán. Kẻ nào may mắn thì trốn thoát, người nào xui xẻo thì bị bắt.
Bản thân anh Hai Tải tuy trốn thoát, nhưng phải lẩn trốn trong bụi cây rậm rạp, không xa nơi bọn Pháp phục kích, chờ cơ hội, vì không thể chạy xa.
Bọn Pháp bắt được mấy người đồng đội của anh, bèn quyết định giết họ trước mặt dân trong vùng để thị uy. Để dân chúng sợ hãi, bọn Pháp trói những người bị bắt, sau đó thì dùng dao chặt đầu họ, khiến cho mau me đầm đìa. Tóc tai đầu lâu nào cũng bê bết máu, mắt mở trừng trừng dầy thù hận. Kế đến, chúng bắt dân chúng chặt cây tre tầm vông dài, làm thành những cọc nhọn, rồi cắm các đầu lâu này, rải rác theo dọc con đường làng. Ai đi ngang nhìn thấy cũng phải che mắt, không dám nhìn.
Không những thế, bọn Pháp còn cho quăng xác những người bị giết xuống mương. Chúng cho lính canh gác cả ngày lẫn đêm, không để dân lấy xác đem chôn. Hơn ba ngày sau, xác trương sình, hôi thúi quá, bọn Pháp mới cho dân vớt lên đem chôn.
Anh Tảị phải nhịn đói, chờ đến đêm hôm sau, đợi lính canh ngủ gà ngủ gật mới dám bò ra, trốn thoát được.
Chứng kiến lính Pháp giết những người đồng đội từng gắn bó với mình, một cách quá dã man như vậy, anh Hai Tải bị mất tinh thán. Mỗi lần nhớ lại cảnh đồng đội bị chặt đầu, máu chảy lai láng, mắt mở trừng trừng, anh vô cùng kinh sợ rồi sinh bệnh, ngày một nặng dần.
Thầy Đan biết được hoàn cảnh cùa gia đình anh Tải, bèn lưu tấm giúp đỡ. Thầy vốn là người nhân hậu, lại chẳng quan tâm đến chính trị, càng không quan tâm quá khứ người đó là ai, thuộc phe nhóm chính trị nào, chỉ cần có hoàn cảnh, đau khổ, khó khãn thì tìm cách giúp.
Qua Lào, anh Tải làm nghề phụ nhà hàng. Lần nọ, anh lên cơn động kinh, xé rách giấy phép cư trú dài hạn. Thầy Đan phải giữ giùm tấm giấy phép này, vì sợ bị mất thì anh Tải sẽ bị cảnh sát cư trú Lào làm phiển.
Lại một lần khác, chứng kiến cảnh người đồ tể của nhà hàng giết heo, anh Tải bèn nổi cơm động kinh, cầm dao tự đâm vào bụng.
Đang làm việc, thầy Đan được chị Tải bảo tin, vội xin phép chạy vể lo đưa anh đi bệnh viện. Thấy tình trạng bệnh viện ở Lào không có khả năng trị bệnh này, thầy bàn với chị Tải: “Phải đưa chú ấy về Sài Gòn để chữa chạy, bệnh viện ở Viên Chăn này không đủ điều kiện. Thím nên quyết định nhanh, may ra còn kịp”.
Thím Tải khóc nức nở, nói trong nước mắt:
- Nhưng chúng cháu không đủ tiền, không quen biết ai để lo các thủ tục này.
- Tôi cũng đã nghĩ đến những điều này rồi. Tôi sẽ liên
hệ với tòa sứ quán Việt Nam Cộng Hòa để họ giúp. Tôi cũng sẽ lo đủ vé máy bay cho cả chú lẫn thím.
- Nhưng còn mấy đứa nhỏ, nhà cháu chỉ có con Rồng Lớn là còn biết chút ít, làm sao nó có thể chăm sóc hai em được.
- Thím yên tâm, tôi sẽ tìm cách đưa chúng về sau, khi nào chú thím ổn định chỗ ở. Tạm thời chúng sẽ ở với gia đình tôi, nhà còn đủ chỗ ngủ mà.
- Ông bà tốt với gia đình con quá, ơn này biết bao giờ trả được.
- Ơn nghĩa gì đâu mà thím kể. Mình cùng là dân xa xứ, phải chăm sóc đùm bọc lẫn nhau.
Vào thời điểm này thầy Đan đã có chút địa vị đáng kể đối với chính quyền Lào và cộng đồng người Việt ở Viên Chăn. Thầy lại quen biết rộng, kể cả trong sứ quán Việt Nam Cộng Hòa, nên giải quyết chuyện này khá mau chóng.
Tất nhiên, bộ phận an ninh của sứ quán Việt Nam Cộng Hòa quan tâm rất sát những Việt kiểu có chút địa vị trong xã hội Lào. Họ nhanh chóng biết rõ lai lịch của ông Độ, tức thầy Đan. Họ có thể yên tâm là thầy Đan chắc chắn chẳng dính líu gì đến cộng sản. Ngày nay, thầy lại là người có danh giá trong xã hội Lào. Vì vậy, thầy Đan nhờ giúp đỡ điểu gì, nhân viên sứ quán Việt Nam Cộng Hòa chưa hể từ chối.
Logged
trungnn
Thành viên
*
Bài viết: 7


« Trả lời #6 vào lúc: 18 Tháng Tư, 2018, 01:06:56 pm »

Chương IV
CẮM RỄ
4.1
Khoảng năm 1964, một người bạn thân, từng quen biết khi làm ăn ở Thái gởi thư cho thầy Đan, có ý muốn chuyển địa bàn làm ăn. Ông tên Thiết, biết làm nhiều nghề, từ rèn, mộc, hồ vữa, cơ khí, điện tử. Ông Thiết cũng từng làm thầy giáo dạy tiếng Thái cho Việt kiều.
Thầy Đan lúc đó đã ổn định chỗ ở, việc làm và địa vị xã hội. Nhớ lại người bạn xưa, thầy viết thư rủ ông Thiết qua Lào làm ăn. Thầy viết đến lá thư thứ ba thì, ông Thiết trả lời ở bên Thái đang gặp chuyện không hay, muốn qua Lào kiếm việc làm.
Trước đó, thầy Đan nghĩ rằng, Việt kiểu cần có một ngôi trường học riêng để cho con cháu không quên tiếng nói và văn hóa Việt. Thầy bèn tìm hiểu một số Việt kiều có lòng hảo tâm tại Viên Chăn để bàn về việc này.
Nay nhân chuyện giúp ông Thiết, thầy quyết định tích cực xúc tiến việc mở trường học cho trẻ em Việt kiều. Sau khi tìm hiểu kỹ, thầy đến gặp bà Phố, một Việt kiều rất nhiệt tình với cộng đồng, ham hoạt động xã hội, để bàn bạc.
Thầy Đan mở lời:
- Người Việt ở Viên Chăn không có ngôi trường riêng cho con em mình. Việc giáo dục ở nhà phụ thuộc rất nhiều vào khả năng, học thức của cha mẹ và có nhiều gia đình ít được ăn học. Nếu để tình trạng này thêm một hai thế hệ thì bọn trẻ lớn lên ở Lào sẽ không còn biết tiếng Việt, xa rời văn hóa Việt Tôi rất đau lòng khi nghĩ đến chuyện bọn trẻ hoàn toàn nói tiếng Lào, ảnh hưởng văn hóa Lào, chỉ còn có giồng máu Việt. Chỉ một hai thế hệ, chúng sẽ không còn biết mình là người Việt Nam.
- Thầy nói đúng, nhưng chúng ta không đủ khả năng để mở một ngôi trường cho cộng đồng Việt ở đây.
Điểu này tuy khó, nhưng tôi thấy vẫn có khả năng. Chúng ta có thể tổ chức chơi hụi để lập vốn, vận động những người có tiển của đóng góp và ưu đãi cho con cháu họ, kêu gọi những người có học vấn cao tham gia dạy học,..
- Thầy nói làm cho tôi sáng ra, tôi cũng có thể đóng  góp chút ít, nhà tôi cũng có hai người làm giáo viên, đó là con gái và con rể cùa tôi.
Thầy Đan muốn bà Phố thêm quyết tâm bèn khơi dậy lòng tôn sùng đạo Phật và nêu những yếu tố khả thi khi mở trường học:
- Vậy thì chúng ta chia nhau đi kêu gọi thêm... Nếu ta mở trường thành công thì công đức cũng không nhỏ đâu. Tôi có một người bạn là giáo viên, từng làm quản lý trường lớp có nhiều kinh nghiệm. Anh ta đang ở bên Thái, nhắn tin cho tôi là muốn qua Lào làm ăn, khiến tôi nghĩ ra điều này nên bàn với bà. Có anh ta thì hoàn toàn yên tâm về mặt quản lý nhà trường. Anh ta còn có thể tham gia dạy môn tiếng Lào.
Bà Phố nói thêm:
- Chúng ta cũng phải nghĩ ra tên trường, sao cho chính quyền Lào không làm khó, mà vẫn đủ hấp dẫn bà con Việt kiểu.
- Tôi nghĩ, nên lấy tên một nhà vàn hóa người Pháp hay Anh, Mỹ gì đó thì chính quyền Lào sẽ chấp thuận ngay. Theo tôi, nên lấy tên một nhà văn hóa Pháp là trung dung nhất. Văn hóa Pháp còn ảnh hưởng rất lớn ở nước này mà. Hay là ta đặt tên trường là La Fontaine? Với tên này tôi tự tin rằng chính quyền Viên Chăn chấp nhận được.
4.2
Và thế là trường La Fontaine ra đời, dạy bằng tiếng Lào và Việt song song. Là trường tư thục, dạy theo giáo trình của Lào, bổ sung thêm tiếng Việt, gồm đọc, viết và nói.
Có trường, ông Thiết từ Thái qua ngay để nhận việc. Ông được bố trí ở ngay trong trường nên rất tiện chợ sinh hoạt. Mọi người đều gọi là “thầy Thiết”.
Con em Việt kiều có trường riêng cho mình, mà thầy Thiết cũng có chỗ ăn ở và việc làm. Các con và rể của bà Phố cùng tham gia dạy học ở đây. Con gái bà tên Quý và rể tên Kiếm đều là giáo viên lâu năm, nhiều kinh nghiệm.
Khi trường La Fontaine ra đời, ông Kiếm được cử làm hiệu trưởng.
Kể từ đó, tình bạn giữa thầy Đan và thầy Thiết càng thêm đậm đà, họ chia sẻ cho nhau đến những chuyện riêng tư nhất, mà ngay cả vợ con cũng không biết.
Một lần, thầy Thiết đến gặp thầy Đan, nói:
- Tôi có một người bạn, thuộc loại đàn anh, hoàn cảnh giống tôi nhưng học thức khá hơn. Anh có thể giúp cho anh ấy đến trường này, phụ với tôi trong nhiệm vụ  quản lý. Nếu để anh ấy vừa quản lý, vừa làm giáo viên luôn cũng tốt.
- Chà, chuyện này khó đấy. Gần đây cảnh sát quản lý cư trú kiểm tra rất gắt gao các trường hợp nhập cảnh. Tôi tuy có quen với mấy ông Commandant Văn Sỹ và Captitaine Phouma phụ trách cấp giấy phép cư trú cho ngoại kiều. Nhưng hiện nay người Mỹ trực tiếp giám sát, họ không dám ăn tiền để lo cho mình đâu.
- Anh thử nghĩ kỹ xem, còn có cách nào không?
- Để tôi thử. Khi mới đến đây tôi cũng làm cách này, nhưng bây giờ chưa biết còn hiệu nghiệm hay không. Tôi còn giữ giấy phép cư trú của cậu Hai Tải, nhưng đã bị xé rách. Hy vọng có thể phù phép được. Anh có tấm hình hồ sơ của người bạn ở đây không?
- Có vài tấm, để tôi đem đến cho anh...
Thầy Đan về nhà, kéo hộc bàn lấy giấy phép cư trú màu đỏ của anh Tải ra quan sát kỹ. Trong khi quan sát, thấy suy nghĩ đủ cách.
Cái khó đầu tiên là thay hình trên tấm thẻ bị xé này, sao cho thật khớp các đường rách. Kế đến làm sao rút được hổ sơ gốc ở cợ quan quản lý ngoại kiểu để thay hình trong đó cho phù hợp với tấm hình trong thẻ.
Chẳng biết vận hên tới, hay được thần phật giúp đỡ, đâu óc thầy Đan bỗng sáng ra. Thầy chợt nhớ ra một người.
Ngay chiều hôm đó, thầy Đan kiếm một cớ hợp íý, điện cho Colonel Rod Sylusa, hẹn vào ngày hôm sau, ra nhà hàng ăn trưa, ông Rod Sylusa này là một người mộ đạo, thường ăn chay niệm phật, thích làm điều thiện. Tuy mang lon Colonel, nhưng chưa ra trận đánh nhau bao giờ, ông là đại tá bàn giấy. Ông rất quý trọng thầy Đan, sau vài lần gặp nhau ở các Boun tại gia đình Sanannikọne.
Ông Rod Sylusa nhận thấy thầy Đan hiền lành, trung hậu, một kế toán trưởng đáng tin cậy của hãng S.V.Ạ, nên có nhiều hảo cảm, muốn kết tình thân hữu.
Khi nhận được điện, ông Rod Sylusa ra nhà hàng, nơi thầy Đan đang chờ.
Sau những câu xã giao, thăm hỏi gia đình và những vấn đề về phật pháp, thầy Đan mở lời:
- Tôi có người bạn tên Nguyễn Văn Tải, anh ta đã được nhận giấy phép cư trú đỏ, nhưng do lúc lên cơn đau, kiềm chế không được nên đã xé rách. Nay muốn đổi giấy khác, mong ông làm phước giúp giùm. Chi phí bao nhiêu, tôi sẽ chịu hết.
- Việc này khó đấy. Hiện nay cố vấn Mỹ thọc tay vào việc kiểm tra cấp phép cho ngoại kiều, để tránh tình trạng cộng sản Bắc Việt trà trộn vào Lào.
- Mình chặn người mới đến, còn cậu Tải này đến đây làm ăn từ lâu rồi. Anh ta chỉ làm nhà hàng, dạy học linh tinh, chứ có hoạt động chính trị gì đâu. Mình giúp cậu ta là giúp cả vợ con của cậu ấy, công đức không nhỏ dâu.
- Thầy đã thuyết phục được tôi. Thôi được, tôi sẽ qua bên sở công an ngoại kiều để mượn hồ sơ. Nếu phải có chi phí, tôi với thầy chiạ đôi.
Ông ta cười một cách hiền lành, rồi nói thêm: “Không lẽ để thầy hưởng công đức một mình”.
Vậy là chỉ ngày hôm sau, thầy Đan đã có trong tay bộ hồ sơ của anh Nguyễn Văn Tải. Thầy bèn lấy hình của người bạn ông Thiết thay hình anh Tải trong bộ hồ sơ gốc và cả trong giấy phép cư trú đã bị xé. Thầy Đan còn thận trọng ghi lại hết các chi tiết trong hổ sơ anh Tải để bạn ông Thiết học thuộc.
Tiếp theo, thầy Đan làm đơn xin cấp lại giấy phép cư trú giùm cho “anh Tải”. Thêm một ít tốn kém, chỉ trong một thời gian ngắn, Colonel Rod Sylusa đem giấy phép cư trú Nguyễn Văn Tải mới tinh đưa cho thẩy Đan.
Người bạn của ông Thiết tên Quảng, nay chính thức lấy tên Nguyễn Văn Tải, đến làm đốc học, kiêm giáo viên cho trường La Fontaine. Trong trường, ai cũng gọi là ông Hai, vì anh Tải thứ hai trong gia đình.
Cũng giống như thầy Đan, thầy Tải cũng có hai tên. Chính vì vậy, mọi người đểu gọi là thầy Hai Quảng.
Khi thầy Hai Quảng đến trường làm việc thì cũng nhanh chóng trở thành bạn thân cùa thầy Đan.
Sự việc này vào năm 1970.
Những chuyện giúp người cùa thầy Đan, như kể trên, rất nhiều và vô tư, nên được cả những người lao động nghèo, đến các nhân vật có tiếng tăm quý mến.
Logged
Trang: 1   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM