Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 13 Tháng Năm, 2024, 09:28:20 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11  (Đọc 126085 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #100 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2009, 10:45:31 pm »

Mặc dù trong mùa đầu năm 1969, ta tiếp tục tiến công,  tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận lớn lực lượng định, song do hoạt động liên tục và bị tổn thất nặng trong năm 1968, ta chưa có thời gian củng cố, nguồn tiếp tế từ miền Bắc vào gặp nhiều khó khăn, lực lượng và cơ sở vật chất có hạn, trong khi đó: địch phản kích quyết liệt, nhất là sau đợt hoạt động Hè đã đẩy đại bộ phận chủ lực ta bật lên vùng rừng núi.

Ở nông thôn đồng bằng, lực lượng vũ trang địa phương cũng bị tiêu hao nặng. Mùa mưa năm 1969. địch tiếp tục lấn tới đẩy mạnh bình định cấp tốc giành lại nông thôn đồng bằng và đánh phá các căn cứ ở miền núi, các hành lang vận chuyển tiếp tế của ta, kết hợp với các hoạt động tình báo, gián điệp thông qua chương trình Phượng hoàng gây cho ta nhiều khó khăn.

Ngày 6-6- 1969, Đại hội đại biểu quốc dân toàn miền Nam đã bầu ra Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Đây là một sự kiện quan trọng có ý nghĩa to lớn của nhân dân miền Nam. Chính phủ vừa thành lập là đại diện chân chính cho cách mạng miền Nam trong mọi hoạt động, nhất là khi mặt trận đấu tranh ngoại giao đang diễn ra sôi nổi.

Chính phủ cách mạng ra đời còn là một đòn giáng mạnh vào nguỵ quyền thối nát, tay sai của đế quốc Mỹ. Việc thành lập Chính phủ là một cuộc vận động trung lập, mở rộng hàng ngũ của mặt trận cách mạng, là đòn tiến công chính trị mạnh me phối hợp với cuộc tiến công quân sự và giải pháp 10 điểm về ngoại giao của ta, nâng cao uy tín cách mạng miền Nam trên thế giới. 

Tính chất của Chính phủ lâm thời là Chính phủ liên hiệp động rãi. tập hợp các lực lượng tán thành hoà bình, trung lập, độc lập dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính phủ có nhiệm vụ đoàn kết nhân dân miền Nam chiến đấu đánh bại đế quốc Mỹ, lật đổ nguỵ quyền tay sai phản động đưa miền Nam Việt Nam phát triển theo con đường độc lập, hoà bình, dân chủ trung lập, phồn vinh tiến tới thống nhất đất nước.

Chính phủ có hệ thống chính quyền chặt chẽ từ trên xuống dưới bao gồm thành phố, tỉnh, huyện, xã, khu phố hợp thành một cơ cấu thống nhất hoàn chỉnh.

Mặt trận dân tộc giải phóng, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt Nam và các đoàn thể cách mạng khác vẫn hoạt động mạnh mẽ, làm hậu thuẫn cho Chính phủ lâm thời.

Tháng 7- 1969, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị lần thứ chín: Hội nghị đánh giá: Từ Xuân 1969 đến nay, trên cơ sở quán triệt quyết tâm chiến lược của Trung ương, ta đã có một bước tiến bộ rõ rệt trong việc vận dụng phương châm phương thức đấu tranh và xây dựng cả về mặt quân sự và chính trị . . .

Nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ to lớn của chiến trường, ta vẫn chưa tạo ra được những chuyển biến nhảy vọt có ý nghĩa quyết định. . . Bên cạnh những thắng lợi và những - ưu điểm lớn, chúng ta còn nhiều khuyết điểm và khó khăn. . .  Mũi tiến công binh vận còn quá yếu, du kích chiến tranh phát triển chậm và không đều. . . Việc bổ sung lực lượng, công tác bảo đảm vật chất cho chiến trường còn nhiều thiếu sót và nhiều nơi đang gặp khó khăn 1.

Nguyên nhân của những khuyết điểm trên là các cấp lãnh đạo chưa nhận thức đầy đủ và vận dụng chưa linh hoạt chu trương của Trung ương vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương: chưa thấy hết âm mưu và thủ đoạn mới của địch. 

Trung ương Cục đã đề ra nhiệm vụ trước mắt cho quân và dân Nam Bộ là: “Động viên sự nỗ lực phi thường của toàn Đảng, toàn quân toàn dân ra sức phát huy thắng lợi đã giành được, kiên quyết khắc phục các khuyết điểm và nhược điểm, nắm vững và sáng tạo thời cơ tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa với ba mũi giáp công đến đỉnh cao nhất kết hợp với tấn công ngoại giao, khẩn trương xây dựng lực lượng quân sự và chính trị; phát triển thế tiến công chiến lược một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ trên cả ba vùng chiến lược, đánh bại chiến lược quét và giữ, chính sách bình định và các mục tiêu, biện pháp phòng ngự của địch, đánh bại âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh và chủ trương “Phi Mỹ hoá” chiến tranh của chúng, đánh cho Mỹ phải rút quân đánh cho nguỵ phải suy sụp và ta giành được thắng lợi quyết định” 2.



________________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t 30. tr.326,327, 340.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #101 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2009, 10:48:15 pm »

Trung ương Cục chỉ rõ: để thực hiện nhiệm vụ trên: phải làm tốt những công tác lớn sau:

1. Đẩy mạnh tiến công quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang: Phối hợp hoạt động của ba thứ quân trên các chiến trường, ra sức tiêu diệt. tiêu hao và kìm chân lực lượng lớn Mỹ, nguỵ ở đô thị, mặt khác căng địch ra trên các chiến trường nông thôn đồng bằng, miền núi: tập trung chủ lực mạnh trên chiến trường có lợi, kéo địch ra dể tiêu diệt sinh lực và mở rộng vùng giải phóng. tập trung những cố gắng cao nhất. đẩy mạnh tiến công quân sự kết hợp chặt chẽ với tiến công chính trị và ngoại giao, giành thắng lợi lớn nhất, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của địch: đồng thời tạo ra thế và lực mạnh, tạo ra thời cơ mới để giành thắng lợi quyết định trong thời gian tới và bảo đảm đánh thắng địch trong mọi tình huống.

2. Tăng cường công tác dân vận làm cơ sở đẩy mạnh phong trào chính trị và binh vận tiến kịp tình hình mới.

3. Ra sức phát huy vai trò của chính quyền cách mạng, tăng cường lãnh đạo công tác an ninh, đẩy mạnh mặt trận kinh tế. tài chính, ra sức mở rộng và xây dựng căn cứ địa.

4. Xây dựng Đảng mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức để hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tình hình mới. 

Về tổ chức chiến trường, Trung ương Cục quyết định lập lại Khu VII gồm Phân khu 4, tỉnh Biên Hoà, Bà Rịa, Long Khánh và Đặc khu Rừng Sát. Các quận nội thành Sài Gòn trước kia tách về các phân khu, nay nhập lại như cũ. Đồng chí Nguyện Văn Linh - Phó Bí thư Trung ương Cục kiêm Bí thư Thành uỷ Sài Gòn.

Miền Tây Nam Bộ cũng được tăng cường lãnh đạo, chỉ huy. Đồng chí Võ Văn Kiệt được cử làm Bí thư Khu ủy, đồng chí Lê Đức Anh làm Tư lệnh Quân khu 9. 

Ở Khu V, tháng 9- 1969, Quân khu uỷ cũng họp và chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của quân khu là: “diệt kẹp,  giành dân”. Mọi hoạt dộng tác chiến của bộ đội khu lực cũng như bộ dội dịa phương đều phải nhằm đạt được mục tiêu này.  Muốn vậy, cùng với phát triển lực lượng vũ trang địa phương, phải tập trung củng cố các dợn vị chủ lực, phải giành được những trận lớn làm chuyển biến tình hình. 

Giữa lúc toàn đảng. toàn dân. toàn quân trên cả hai miền nỗ lực khắc phục mọi khó khăn dể đưa cách mạng miền nam tiến lên, thì ngày 2-9-1969. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Người mất đi là một tổn thất lớn cho đất nước và dân tộc đang anh dũng kháng chiến chống Mỹ, không có gì bù đắp được cho cách mạng Việt Nam, làm chấn động sâu sắc tình cảm, niềm tin, ý chí của đồng bào, chiến sĩ cả nước. 

Nén đau thương thành hành động cách mạng, làm theo Di chúc của Người, quân và dân ta ở miền Nam mở các cuộc tiến công và phản công đánh thắng địch càn quét vào khu vực Đỗ Xá (căn cứ của quân khu 5), vùng nam bắc lộ 4 (căn cứ của Quân khu Cool, vùng rừng núi phía bắc miền Đông Nam Bộ (căn cứ Bộ Tư lệnh Miền), U Minh (căn cứ quân khu 9). 

Tháng 11- 1969, lực lượng vũ trang Quân khu 9 đập tan kế hoạch “nhổ cỏ” U Minh lần thứ nhất của Mỹ - nguỵ: Chiến thắng này một lần nữa khẳng định vai trò của bộ đội chủ lực, đồng thời nó chứng minh với sự phối hợp chặt che của ba thứ quân, ta có thể đánh thắng các cuộc hành quân càn quét quy mô lớn của địch, bảo vệ vững chắc căn cứ.

Trên địa bàn Tây Nguyên. ta mở chiến dịch Buprăng - Đức Lập (29- 10 đến 5- 12-1969) tiến công vào tuyến phòng thủ của địch ở tây nam thị xã Buôn Ma Thuộc. Sau hơn một tháng chiến đấu liên tục, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã loại khỏi vòng chiến đấu các chiến đoàn 220, 53 và một chiến đoàn hỗn hợp. Đây là một chiến công lớn của lực lượng vũ trang Tây Nguyên sau chiến dịch Đắc Tô II hồi giữa năm 1969. Nó chứng tỏ sức chiến đấu liền bỉ, dẻo dai của bộ đội chủ lực Tây Nguyên. 

Mặc dù nửa cuối năm 1969 Các lực lượng vũ trang ta trên các chiến trường đã có nỗ lực rất lớn, song việc chống phá các kế hoạch bình định của địch nhất là vùng đông dân cư ở đồng bằng sông Cửu Long và Khu V ta vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Đến cuối năm 1969 địch đã lấn chiếm hầu hết vùng đồng bằng sông Cửu Long trừ căn cứ U Minh, Đồng Tháp Mười và một số lõm giải phóng ở phía bắc đường 4. Khu V và Tây Nguyên, nếu năm 1968 số dân vùng giải phóng là 1.110.000 người thì năm 1969 chỉ còn 838.000 người.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #102 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2009, 11:06:11 pm »

Trên toàn chiến trường, địch lập 5800 ấp chiến lược, đóng 6.964 đồn bốt, kiểm soát 10.000.000 dân. Vùng giải phóng và vùng làm chủ của ta từ 1.114 xã với 7,7 triệu dân năm 1968, nay tụt xuống còn 590 xã với 4.7 triệu dân. Ngay các vùng căn cứ và vùng giải phóng mà ta đã làm chủ cũng thường xuyên bị địch bao vây. Tình hình này làm một số cán bộ, chiến sĩ và nhân dân lo ngại, có người bi quan, giao động. 

Tháng 1-1970, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập. Hội nghị phân tích sự phát triển cục diện chiến trường từ đầu Xuân Mậu Thân, chủ yếu là đánh giá lại tình hình năm 1969, vạch rõ những thiếu sót về chỉ đạo sau đợt tiến công Tết, đánh giá âm mưu thủ đoạn mới của địch và đề ra những chủ trương, nhiệm vụ công tác lớn.

Nghị quyết khẳng định: “Sang năm 1969, quân và dân ta dã nỗ lực vượt bậc, tiếp tục phát huy thế chiến lược tiến công. . . Mặc dù địch ra sức giành giật quyết ]iệt với ta. gây cho ta một số khó khăn. đồng thời ta cũng có những thiếu sót và những chỗ yếu, song về căn bản dịch không sao gỡ được khỏi thế phòng ngự. xuống thang và thất bại” 1.

Nghị quyết chỉ rõ những mặt yếu và hạn chế của ta là:

“Hoạt động của bộ đội chủ lực tiến lên không đều, có chiến trường còn chưa phát huy hiệu lực lớn, đặc biệt là chiến tranh du kích chưa được dẩy mạnh đúng tầm chiến lược của nó. Việc phá âm mưu bình định, giành dân của địch chưa được coi trọng đúng mức.

Về mặt đấu tranh chính trị, nhất là ở các thành thị, phong trào chưa phát triển kịp với tình hình. chưa khai thác hết khả năng to lớn của ta. Công tác binh vận còn yếu.  Việc giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, chúng ta làm chưa tốt, có nơi vùng giải phóng bị thu hẹp. Việc động viên sức người, sức của tại chỗ để bồi dưỡng lực lượng ta cũng còn hạn chế.

Việc xây dựng lực lượng vũ trang, nói chung có tiến bộ, nhưng còn chưa cân đối về nhiều mặt. Chất lượng bộ đội chủ lực chưa tiến kịp yêu cầu của nhiệm vụ tác chiến. Bộ đội địa phương chưa được tăng cường đúng mức, có nơi còn yếu. Lực lượng du kích phát triển chậm” 2.

Sau khi phân tích những mặt mạnh, yếu của ta, âm mưu và chủ trương chiến lược mới của địch, Hội nghị Trung ương lần thứ 18 đề ra nhiệm vụ trước mắt cho quân và dân ta là:

“Động viên nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự và tiến công chính trị, kết hợp với tiến công ngoại giao, vừa tiến công địch vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh; đánh bại âm mưu Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ,  đánh bại âm mưu xuống thang từng bước, kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh hòng duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới của chúng ở miền Nam nước ta: làm thất bại thế chiến lược phòng ngự của địch, tạo nên chuyển biến mới trong cục diện chiến tranh giành thắng lợi từng bước di đến giành thắng lợi quyết định. đánh cho Mỹ phải rút hết quân. đánh cho nguỵ phải suy sụp. tạo điều kiện cơ bản dể thực hiện một miền Nam độc lập( dân chủ hoà bình. trung lập tiến tới thống nhất đất nước” 3.

Để hoàn thành nhiệm vụ này, Trung ương chỉ ra những công tác lớn:

1. Đẩy mạnh tấn công quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang.

2. Đẩy mạnh đấu tranh chính trì và xây dựng lực lượng chính trị ở thành thị.

3. Đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị ở nông thôn, phát động cao trào nổi dậy của quần chúng, ra sức giành dân, giữ dân, mở rộng vùng giải phóng, dành bại kế hoạch bình định nông thôn của địch.

4. Đẩy mạnh công tác binh vận, địch vận.


__________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 31 . tr.94.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 31, tr.39.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t 31. tr.117.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #103 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2009, 11:08:18 pm »

Đối với miền Bắc, Trung ương xác định: “Có nhiệm vụ tích cực khắc phục những hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát triển một bước nền kinh tế, tiếp tục đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến lên; ra sức tăng thêm tiềm lực kinh tế và quốc phòng, củng cố hậu phương vững mạnh; đồng thời hết lòng chi viện cho miền Nam để góp sức lớn nhất cùng đồng bào miền Nam danh thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, làm tròn nghĩa vụ thiêng liêng của hậu phương lớn đối với tiến tuyến lớn” 1.

Lúc này ở Lào, cuộc chiến tranh đặc biệt được Mỹ đẩy lên với quy mô và cường độ ngày càng cao, cuộc hành quân Cù Kiệt do Mỹ chỉ đạo tháng 8- 1969 có thể xem như một cuộc hành quân điển hình cho việc áp dụng học thuyết Níchxơn ở Lào theo công thức quân nguỵ Viêng chăn cộng với hậu cần và hoả lực tối đa của không quân Mỹ.

Với sự chi viện đắc lực của không quân Mỹ và một lực lượng lớn quân hỗn hợp gồm cả phỉ Vàng pao, nguỵ Viếng Chăn và lính Thái Lan (12.000 tên) cuộc hành quân đã gây thiệt hại dáng kể cho cả ta và bạn Lào. Trên 200 bản làng, 3.000 nóc nhà bị phá huỷ hàng ngàn dân thường thuộc cán bộ tộc Lào bị thương vong, hàng ngàn người phải dời làng đi nơi khác. Lực lượng vũ trang Pa thét Lào và Trung đoàn 174 bộ đội tình nguyện Việt Nam mặc dù chặn đánh địch quyết liệt, diệt được một số, nhưng sức địch quá mạnh, cuối cùng ta phải rút ra ngoài để củng cố, chỉ để lại một tiểu đoàn cùng quân đội bạn giữ bàn đạp tiến công.

Lợi dụng cơ hội này, dịch mở rộng phạm vi đánh chiếm ra những vùng xung quanh Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, tiến gần tới phía tây Nghệ An.

Nhằm khôi phục lại địa bàn chiến lược vừa bị mất, đập tan cuộc hành quân Cù Kiệt, tạo thế thuận lợi cho cách mạng Lào phát triển. từ ngày 25-10-1969, ta và bạn phối hợp mở chiến dịch phản công mang tên chiến dịch 139 (còn gọi là chiến dịch Toàn Thắng). Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 2 sư đoàn (316, 312) , Trung đoàn 866 bộ binh, Trung đoàn 16 pháo binh. 6 tiểu đoàn đặc công, công binh và 10 tiểu đoàn bộ binh, 1 đại đội xe tăng của Pa thét Lào, đồng chí Vũ Lập được cử làm Tư lệnh, đồng chí Huỳnh Đắc Hương làm Chính uỷ chiến dịch.

Chiến dịch bắt đầu vào mùa mưa. hệ thống đường sá kém phát triển, thường xuyên bị sụt lở, lầy lội, địch lại liên tục đánh phá ác liệt, việc chuẩn bị vật chất, tập kết và triển khai đội hình chiến đấu gặp rất nhiều khó khăn. Đến đầu tháng 2- 1970, giai đoạn tạo thế chiến dịch mới xong.

Ngày 11-2-1970, bộ dội tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pa thét Lào bắt đầu nổ súng tiến công địch ở Cánh Đồng Chum. Sau 3 ngày tiến công. ta hoàn toàn làm chủ trận địa, địch phải rút toàn bộ lực lượng khỏi Cánh Đồng Chum vào ngày 21-2-1970.  Cùng thời gian: ở hướng tây, bộ đội Pa thét Lào tiến công Salaphucun, buộc dịch rút bỏ Xiêng Khoảng (25-2-1970). 

Phát huy thắng lợi, ngày 18-3-1970, liên quân Lào - Việt tiến công giải phóng Sảm Thông, uy hiếp sào huyệt của lực lượng đặc biệt Vàng Pao ở Long Chứng. Địch phải rút lực lượng từ các quân khu 1, 2, 3 về tăng cường phòng thủ Long Chứng và tổ chức phản kích chiếm lại Sảm Thông. Đây cũng là lúc mùa mưa ở Lào bắt đầu. Việc vận chuyển tiếp tế của ta gặp khó khăn. Bộ Chỉ huy quyết định kết thúc chiến dịch để bảo toàn lực lượng, tổ chức chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng Lào.

Ta loại khỏi vòng chiến đấu 6500 tên, diệt 5 tiểu đoàn, đánh thiệt hại 4 tiểu đoàn. Nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại của địch bị phá huỷ và phá hỏng. Khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng được giải phóng. Với chiến thắng trong chiến dịch mang tên 139 Đông Xuân năm 1970, ta đã đập tan cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ và tay sai trong việc tăng cường chiến tranh dặc biệt ở Lào, khôi phục và mở rộng vùng giải phóng Lào, làm thất bại âm mưu ngăn chặn và bóp nghẹt cách mạng miền Nam của Mỹ. 

Trên chiến trường miền Nam Việt Nam, tháng 3-1970, Quân giải phóng Tây Nguyên mở chiến địch Đắc Siêng (bắc Kon Tum). Từ ngày 31-3 đến ngày 28-4-1970, ta tiêu diệt 361 tên địch. bắt sống 86 tên khác, thu 122 súng các loại bắn rơi, phá huỷ 17 máy bay. Với chiến thắng Đắc Siêng, Tây Nguyên đã sáng tạo một cách đánh mới, vừa bao vây vừa công kích liên tục để đánh tiêu diệt các đơn vị địch đóng quân dã ngoại. 


________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 31 . tr. 124, 125. 
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Bảy, 2009, 11:10:23 pm gửi bởi UyenNhi05 » Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #104 vào lúc: 09 Tháng Bảy, 2009, 04:04:14 pm »

Ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Khu V, Trị - Thiên, chiến tranh du kích sau một thời gian chìm lắng, nay phát triển mạnh. tiêu diệt các đồn bốt nằm cô lập của địch, hỗ trợ cho nhân dân phá thế kìm kẹp của địch, giải phóng được nhiều vùng địch dã lấn chiếm trước đây. Các đơn vị chủ lực cơ dộng bắt đầu di chuyển xuống các vùng ven đô thị và vùng giáp ranh tạo ra một thế đứng mới, thế chủ động trên các chiến trường.

Giữa lúc cách mạng Việt Nam ở miền Nam đang hồi phục và trên đà phát triển, ngày 18-3-1970, đế quốc Mỹ chỉ huy bọn tay sai Lonnon - Xirích Matắc làm cuộc đảo chính lật đổ Chính phủ trung lập Vương quốc Campuchia do Hoàng thân Xihanúc đứng đầu. Tình hình Campuchia xấu đi rõ rệt.

Mới lên cầm quyền, Lonnon đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và Cộng hoà miền Nam Việt Nam buộc lực lượng ta phải rời khỏi Campuchia trong vòng 48 giờ: trong khi đó chúng đưa quân nguỵ Phnôm Pênh áp sát biên giới Việt Nam từ Tây Ninh, Kiến Tường đến Châu Đốc, Hà Tiên.  Cách mạng Việt Nam ở miền Nam. Lào. Campuchia đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng. 


II- ĐỘNG VIÊN NỖ LỰC CAO NHẤT ĐOÀN KẾT VỚI NHÂN DÂN CAM-PU-CHIA
KIÊN QUYẾT ĐÁNH THẮNG ÂM MƯU VÀ HÀNH ĐỘNG MỞ RỘNG CHIẾN TRANH
RA TOÀN CÕI ĐÔNG DƯƠNG CỦA MỸ.

Sau cuộc đảo chính lật đổ Chính phủ Xihanúc, ngày 4-4-1970, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chỉ thị cho Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền (B2), Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chuẩn bị sẵn sàng lực lượng và kế hoạch tác chiến để khi bạn yêu cầu, sẽ giúp đỡ bạn giành quyền làm chủ ở các tỉnh tiếp giáp với ta.

Bộ Chính trị nhắc các chiến trường “cần nghiên cứu tổ chức, bố trí lại lực lượng cho thích hợp với tình hình mới, bảo đảm đẩy mạnh tiến công ở miền Nam, giúp cách mạng Campuchia có hiệu lực, vừa mạnh, vừa vững chắc, chủ động và lâu dài” 1.

Ngày 24-4- 1970, Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương được tổ chức tại một địa điểm ở Trung Quốc, gần biên giới Việt Nam - Lào nhằm tăng cường đoàn kết giữa nhân dân ba nước Đông Dương chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. Hội nghị gồm những người đứng đầu nhà nước: Việt Nam dân chủ cộng hoà - Phạm Văn Đồng;   Cộng hoà miền Nam Việt Nam - Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Vương quốc Campuchia - Hoàng thân Xihanúc. và Pa thét Lào - Hoàng thân Xuphanuvông. Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa - Chu Ân Lai cũng tham gia hội nghị.

Tại hội nghị. Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát biểu: Trên đà thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở ba nước chúng ta. và trong tình hình rất nghiêm trọng hiện nay do sự can thiệp và xâm lược của đế quốc Mỹ gây ra, Hội nghị cấp cao của nhân dân Đông Dương lần này là hội nghị tăng cường đoàn kết, siết chặt hàng ngũ của nhân dân Campuchia nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam để kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu ngoan cường và quyết liệt, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn...

Các đại biểu tham dự hội nghị căm phẫn lên án hành động xâm lược của dế quốc Mỹ và thống nhất quyết tâm lãnh đạo nhân dân ba nước đoàn kết chiến đấu chống Mỹ và bè lũ tay sai của mỗi nước. Hội nghị đã ra một bản Tuyên bố chung có tính chất cương lĩnh đấu tranh của nhân dân ba nước Đông Dương, đồng thời cũng là hiến chương về mối quan hệ đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam - Lào - Campuchia. 

Chưa đầy một tuần sau Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương, ngày 30-4-1970, đế quốc Mỹ huy động 10 vạn quân Mỹ và quân nguỵ Sài Gòn vượt biên giới, tiến công xâm lược Campuchia, nhằm xoá bỏ nền trung lập Campuchia, đưa nước này vào quỹ đạo của Mỹ, phá “đất thánh của Việt cộng” trên đất Campuchia, cắt đứt hành lang vận chuyển của ta qua cảng Xihanúcvin, bao vây, uy hiếp cách mạng miền Nam Việt Nam từ hướng tây.

Những hành động của đế quốc Mỹ được Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta chỉ rõ: Đây là một trong những sai lầm chiến lược rất quan trọng của Mỹ, ta phải nắm lấy dể đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ba nước Đông Dương sang giai đoạn phát triển mới. Đông Dương trở thành một chiến trường thống nhất, là đặc điểm mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.


______________________
1. Điện Bộ Chính trị gu Trung ương Cục miền Nam ngày 4-4-1970, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #105 vào lúc: 09 Tháng Bảy, 2009, 04:11:45 pm »

Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục và Quân uỷ Miền phải quán triệt nhiệm vụ của lực lượng vũ trang ta trong tình hình mới: “Đoàn kết chiến đấu với nhân dân Campuchia, cùng nhau chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, phối hợp chặt chẽ với bạn, làm thất bại âm mưu quân sự của địch trên chiến trường Campuchia, giữ vững và mở rộng cho được những địa bàn đứng chân của ta và căn cứ của bạn, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân Campuchia và của Việt kiều, bảo đảm các đường giao thông chiến lược và các cơ sở hậu cần của ta, đồng thời tích cực giúp cách mạng Campuchia phát triển và củng cố theo phương hướng đã định, chủ động đánh nhanh, đánh mạnh, đánh liên tục nhằm tạo nên một chuyển biến có lợi cho ta trong một thời gian ngắn trong khi địch chưa kịp củng cố, đồng thời chuẩn bị đối phó với khả năng khó khăn và kéo dài...” 1.

Bộ Chính trị đánh giá: “Campuchia là một địa bàn khá quan trọng về mặt quốc tế, nên ta cần ngăn chặn và hạn chế sự tập hợp của các lực lượng phản động quốc tế, ta phải làm nhanh, làm mạnh... phát động được nhân dân Campuchia nổi dậy càng mạnh mẽ bao nhiêu, càng làm cho bọn đế quốc và lực lượng phản động khác lăm le can thiệp vào Campuchia phải lúng túng bấn nhiêu” 2.

Trên tinh thần đoàn kết chiến đấu mà Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương đã xác định, đồng thời thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, ta đã phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở cuộc phản công nhằm đánh thắng âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương của đế quốc Mỹ.

Cuộc phản công được mở trên cả hai hướng. Hướng đông và đông nam có các sư đoàn 1, 5, 7, 9 bộ đội chủ lực Miền dưới sự lãnh đạo và chỉ huy trực tiếp của đồng chí Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục và đồng chí Hoàng Văn Thái - Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Miền, từ Nam Bộ đánh sang. Hướng đông bắc có các trung đoàn 24, 95 và Tiểu đoàn 631 độc lập do các đồng chí Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh và Trần Thế Môn - Chính uỷ Mặt trận Tây Nguyên chỉ huy, từ Tây Nguyên tiến sang và từ Hạ Lào đánh xuống. 

Mặc dù chưa quen chiến trường mới với điều kiện địa hình phức tạp, thời gian chuẩn bị gấp. nhưng với quyết tâm cao, các lực lượng vũ trang ta đã phối hợp chặt chẽ với bạn chiến đấu giành thắng lợi lớn. Chỉ sau hai tháng (cuối tháng 4 đến cuối tháng 6-1970), ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên địch, trong đó có hàng ngàn tên Mỹ 3, phá huỷ trên 1.500 xe quân sự, trong đó có 750 xe tăng và xe bọc thép,  thu 113 xe vận tải, hơn 5.000 súng các loại, 400 tấn đạn, 1.570 tấn gạo, 100 tấn thuốc và nhiều đồ dùng quân sự khác. 

Ta đã giúp loạn giải phóng hoàn toàn , 5 tỉnh Đông Bắc Cam Pu Chia với hơn 4 triệu dân.

Thắng lợi quân sự trên chiến trường cùng vòi phong trào phản đối mạnh mẽ của nhân dân thế giới, kể cà nhân dân Mỹ. ngày 30-6-1970. Níchxơn phải tuyên bố rút quân khỏi Campuchia. Đây là thất bại nặng nề đầu tiên của việc ứng dụng học thuyết Níchxơn trên chiến trường ba nước Đông Dương.

Nhân cơ hội quân Mỹ, nguỵ Sài Gòn đang bịị sa lầy ở chiến trường Campuchia. các lực lượng vũ trang giải phóng tiến công vào hàng loạt căn cứ dịch ở các thành phố. thị xã và tuyến phòng thủ vòng ngoài của chúng trên toàn miền nam Việt Nam.

Ở Trị - Thiên. Sư đoàn 324 cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến công vào tuyến giữa hệ thống phòng thủ tây Thừa Thiên.

Khu V. Sư đoàn 2 và chủ lực Mặt trận 4 tiền công tuyến phòng thủ cơ bản của địch ở Thượng Đức, Hiệp Đức, các căn cứ đóng quân của Lữ đoàn 198. Lữ đoàn 11. Sư đoàn Amêricơn, Sư đoàn 3 tiến công cứ điểm Núi Lá và cùng với lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định tiêu diệt 15 cứ điểm địch ở Hoài Ân. Hoài Nhơn, Phù Mỹ.


_____________________
1. Điện của Bộ Chính trị gửi Trung ương Cục, Quân uỷ Miền, ngày 3-5-1970. 
2. Điện của Bộ Chính trị gửi Trung ương Cục, Quân uỷ Miền, ngày 3-5-1970.
3. Theo Tổng kết 4 tháng (tháng 3,4,5,6) của nguỵ Sài Gòn, có 7.450 tên nguỵ và 2.765 tên Mỹ bị diệt.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #106 vào lúc: 09 Tháng Bảy, 2009, 04:20:12 pm »

Ở Tây Nguyên, ta vây ép cụm cứ điểm Đắc Siêng đánh bại các cuộc phản kích của trung đoàn 42 nguỵ. 

Tại cực nam Trung Bộ, ta liên tục tập kích vào căn cứ Sông Mao. đánh thiệt hại Sở Chỉ huy nhẹ Sư đoàn 23 và Sở Chỉ huy Trung đoàn 44 nguỵ.

Ở Nam bộ, ta liên tục tiến công vào các cứ điểm, sở chỉ huy các chiến đoàn, sư đoàn nguỵ, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân lấn chiếm của dịch, bảo vệ vững chắc căn cứ của ta. 

Cùng với đòn tiến công quân sự trên mặt trận chống phá bình định. quân và dân ta ở miền Nam cũng thu được kết quả khả quan. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1970 ở đồng bằng sông Cửu Long đã bao vây, bức rút gần 1.000 đồn bốt. phá lỏng 1.600 ấp chiến lược và khu dồn dân. làm chủ 320 ấp với 40 vạn dân.

Ở Khu V. từng mảng hệ thống cứ điểm địch bị phá vỡ, gần 2.000 tên ác ôn đầu sỏ bị tiêu diệt, chương trình bình định của địch từ đầu năm 1970 đã chững lại. Những thắng lợi của ta trong nửa đầu năm 1970 trên chiến trường ba nước Đông Dương dã mở ra bước ngoặt mới để ta đưa cuộc kháng chiến vượt qua những khó khăn ác liệt, tiếp tục phát triển đi lên trong những năm sau.

Từ khi Níchxơn công khai mở rộng chiến tranh xâm lược sang Campuchia và Lào, nhân dân Mỹ càng nhận ra rằng chính phủ dã lừa dối họ thật sự. Chiến tranh chẳng những không chấm dứt như hàng triệu người dân Mỹ cũng như trên thế giới mong đợi, mà ngày càng lan rộng, ác liệt hơn trước. Họ phẫn nộ lên tiếng phản đối chính quyền Níchxơn.

Phong trào chống chiến tranh Việt tam, chống Chính phủ Níchxơn bùng lên mạnh mẽ dưới hình thức biểu tình, tuần hành của các tầng lớp nhân dân Mỹ. Hơn 200 tổ chức chống chiến tranh của Uỷ ban phối hợp toàn quốc đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam được thành lập ở hầu hết các bang nước Mỹ, thu hút hàng vạn công dân Mỹ tham gia, đặc biệt cuộc bãi khoá của sinh viên Mỹ thuộc 100 trường cao đẳng và dại học tháng 5-1970, phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của chính quyền...

Phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam không chỉ diễn ra ở nước Mỹ mà lan rộng trên toàn thế giới. Có đến 160 triệu thanh niên thuộc nhiều nước ớ khắp các châu lục ghi tên tình nguyện sang giúp nhân dân Việt Nam đánh Mỹ. 

Ở 16 nước châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh và châu Âu có phong trào hiến máu và quyên góp tiền ủng hộ nhân dân Việt Nam. Cảm động trước những tấm lòng cao cả ấy, nhân dân Việt Nam mãi mãi ghi sâu những đóng góp đầy tình hữu nghị của bè bạn trên thế giới.

Những cuộc đấu tranh đó đã tác động đến nhiều nghị sĩ Quốc hội Mỹ. Họ đứng về phía nhân dân tiến bộ Mỹ phản đối chiến tranh. Ngày 6-4- 1970, Quốc hội Mỹ buộc phải bỏ phiếu chấm dứt hiệu lực Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, tước quyền sử dụng quân đội Mỹ ở nước ngoài của Tổng thống. Ngày 30-6, Thượng nghị viện Mỹ thông qua Quyết định bổ sung cấm việc sử dụng quân Mỹ ở Campuchia. Cùng ngày, Níchxơn phải tuyên bố rút quân Mỹ khỏi Campuchia. Đó là thất bại có tính chất chiến lược của Níchxơn và chính quyền hiếu chiến Mỹ.

Chiến tranh còn diễn biến phức tạp và ác liệt trên nhiều mặt, những gì ta và bạn giành dược trong năm 1969 và nửa năm đầu 1970 là rất quan trọng, có ý nghĩa chiến lược mở ra thời cơ và thế chiến lược mới cho cách mạng ba nước Đông Dương. Từ nay ba nước Đông Dương có một vùng căn cứ cách mạng rộng lớn bao gồm vùng Đông Bắc Campuchia, Hạ Lào và Đông Nam Bộ, Tây Nguyên nối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. .

Mặc dù ta đã giành được những thắng lợi to lớn, nhưng đến lúc này, nhiều vấn đề mới đặt ra trong sự phát triển của từng chiến trường và cục diện chiến tranh cần phải nghiên cứu giải quyết, Bộ Chính trị Ban Chạp hành Trung ương Đảng thấy cần kịp thời đề ra những chủ trương: quyết sách lãnh đạo, đưa cách mạng tiến lên.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #107 vào lúc: 09 Tháng Bảy, 2009, 04:23:30 pm »

Trên tinh thần đó, ngày 19-6- 1970, Bộ Chính trị họp ra Nghị quyết về Tình hình mới ở bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta. Bộ Chính tn nhận định: Tình hình Campuchia là sự kiện nổi bật nhất trong thời gian gần đây trên bán đảo Đông Dương, tuy đã bị thất bại nặng nề, nhưng “do bản chất cực kỳ ngoan cố của chúng, lại do chúng còn có tiềm lực, đế quốc Mỹ sẽ tìm cách kéo dài chiến tranh, vừa xuống thang vừa phản công bộ phận, vừa rút quân Mỹ, vừa tiếp tục những hành động phiêu lưu trong thế bị động và thất bại, chúng còn tìm cách mở rộng chiến tranh xâm lược ra các nước trên bán đảo Đông Dương theo phương thức và hạn độ chúng cho là thích hợp và có lợi, nhằm phối hợp với Việt Nam hoá chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, và để đàn áp cách mạng Campuchia, Lào.  Đồng thời chúng sẽ dựa vào các bọn tay sai để xây dựng tuyến chiến lược mới bao gồm miền Nam Việt Nam - Campuchia - Lào và Thái Lan, ra sức tập hợp những lực lượng phản động khác ở châu á nhằm tiếp sức cho đế quốc Mỹ trên chiến trường Đông Dương...” 1.

Trước âm mưu xảo quyệt và hành động phiêu lưu của đế quốc Mỹ. “Mặt trận đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương chống Mỹ đã phát triển lên một bước mới rất cơ bản” 2.

Từ nhận định trên, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cho quân và dân ta là:

“Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cả hai miền nước ta, tăng cường khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương, trở thành một khối thống nhất có một chiến lược chung. kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai” 3

Miền Nam Việt Nam đủợe Bộ Chính trị xác định là chiến trường quan trọng nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Đông Dương. Quân chủ lực nguỵ Sài Gòn là lực lượng nòng cốt để thực hiện Việt Nam hoá. Khơme hoá, Lào hoá chiến tranh. Vì vậy. chúng ta phải “kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến, kết hợp chặt chẽ hơn nữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận, tiếp tục xây dựng thế tiến công chiến lược mới ngày càng mạnh mẽ, tiêu diệt thật nhiều lực lượng quân sự của Mỹ - nguỵ, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng quân đội nguỵ tay sai, tập trung lực lượng đậ.p tan kế hoạch bình định và âm mưu Việt Nam hoá chiến tranh làm thất bại chiến lược phòng ngự, kéo dài chiến tranh của chúng”4

Trên cơ sở nhiệm vụ chung, mỗi chiến trường có đặc điểm và tính chất khác nhau, Bộ Chính trị cho rằng Campuchia là chiến trường mới mở. Tại đây đang diễn ra một kiểu chiến tranh xâm lược rất đặc biệt với lực lượng tham gia không chỉ có tay sai bản xứ với sự viện trợ của Mỹ, mà có lúc quân Mỹ cũng trực tiếp tham gia, lại có quân nguỵ Nam Việt Nam làm nòng cốt.

Thắng lợi của nhân dân Campuchia không những có tác dụng quyết định đối với cách mạng nước này mà còn có tác dụng quan trọng đối với cách mạng miền Nam Việt Nam và Lào. Nhiệm vụ của chúng ta là phải “ra sức giúp đỡ bạn và phối hợp với bạn nắm vững thời cơ: tiếp tục phát triển thế tiến công liên tục. đùa cách mạng Campuchia tiến lên mạnh mẽ” 5. Vấn đề quan trọng là phai tiêu diệt quân nguỵ Nam Việt Vam vì đây là lực lượng nòng cột trên chiến trường này. Do đó phải có chủ trương và biện pháp cụ thể để thực hiện.

Lào là một chiến trường quan trọng. Từ khi chiến tranh mở rộng sang Campuchia, vị trí của chiến trường này càng trở nên hiểm yếu, nhất là Trung, Hạ Lào vì đó là hành lang nối liền hậu phương miền Bắc nước ta với chiến trường miền Nam và Campuchia, chúng ta cần ra sức giúp đỡ bạn và phối hợp với bạn tiếp tục khuếch trương thắng lợi vừa qua, kiên quyết tiến công địch về mọi mặt, đưa cách mạng Lào tiếp tục tiến lên” 6.

Nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết trong thời gian tới là “giúp đỡ bạn và phải hợp với bạn mở rộng và xây dựng vùng Trung. Hạ Lào thành căn cứ địa ngày càng vững mạnh. phải có kế hoạch sẵn sàng đánh bại các cuộc tiến công lớn hoặc những hành động lấn chiếm, bảo vệ hành lang chiến lược của ta” 7.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Đông Dương dòi hỏi phải có một chiến lược chung. Chiến lược đó hướng vào mục đích “đánh bại âm mưu kéo dài và tăng cường chiến tranh xâm lược của dế quốc Mỹ trên chiến trường Đông Dương, giành thắng lợi từng bước. tiến lên giành thắng lợi quyết định trên các chiến trường, đuổi dế quốc Mỹ ra khỏi bán đảo Đông Dương, miền Nam Việt Nam, Campuchia và Lào” 8.


___________________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 31, tr.229-230, 227
3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 31. tr.238-239. 250.
5, 6, 7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd t.31, tr. 253,254, 454, 255. 239-240.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #108 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2009, 03:24:15 pm »

Miền Bắc lúc này, không chỉ là hậu phương lớn của tiền tuyến miền Nam mà còn là hậu phương chung của cả cách mạng Lào và Campuchia. Nhiệm vụ của chúng ta ở miền Bắc là: phải ra sức động viên sức người sức của chi viện cho tiền tuyến góp phần lớn nhất của mình vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta ở miền Nam cũng như của nhân dân hai nước Campuchia và Lào” 1

Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6-1970 là sự phát triển của Nghị quyết Trung ương 18 (1-1970). Nó thể hiện tầm nhìn chiến lược rộng lớn và sâu sắc của Đảng ta. Nghị quyết đã đáp ứng kịp thời yêu cầu của tình hình đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả bán đảo Đông Dương. 

Nhằm động viên hơn nữa nỗ lực của quân và dân miền Bắc phát huy sức mạnh của hậu phương lớn phục vụ các chiến trường, tháng 6- 1970. Bộ Chính trị quyết dính thành lập Hội đồng chi viện Trung ương. Đồng chí Đỗ Mười, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ dược cử làm Chủ tịch.

Cũng trong tháng 6- 1970, Quân uỷ Trung ương tổ chức hội nghị bàn các biện pháp cấp bách nhằm phát triển lực lượng, củng cố tuyến vận tải chiến lược. Từ đây Đoàn 559 được sáp nhập thêm Mặt trận 968 và Đoàn chuyên gia quân sự 565 ở Hạ Lào để xây dựng thành một đơn vị tương đương cấp quân khu do Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy. Đồng chí Đồng Sỹ Nguyên dược cử làm Tư lệnh, đồng chí Đặng Tính làm Chính uỷ. 

Cùng với củng cố y phát triển tuyến vận tải chiến lược, quân uỷ Trung ương chủ trương đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng chủ lực mạnh làm trụ cột cho cả chiến trường Đông Dương. Theo phương hướng này, các sư đoàn chủ lực 308, 304, 312, 324 được tập trung củng cố, huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến dấu và khả năng cơ động. Các sư đoàn 325, 320B được chuyển từ nhiệm vụ huấn luyện quân bổ sung thành sư đoàn cơ động trực thuộc Bộ. Sư đoàn 316 làm nhiệm vụ ở Lào được tăng cường thành phần binh chủng .  Một số đơn vị binh chủng như pháo binh, dặc công, thông tin: công binh được xây dựng thêm, bộ đội chủ lực ở miền Nam cũng dược xây dựng đủ mạnh để có thể đánh những trận tiêu diệt lớn.

Trong lúc ta đang củng cố. tăng cường phát triển lực lượng, thì Mỹ - nguỵ ở miền Nam đẩy mạnh kế hoạch bình định, giành được một số vùng nông thôn đồng bằng dông dân ở Nam Bộ và Khu V, tạo điều kiện thuận lợi cho địch bắt lính, tăng quân. Đến cuối năm 1970 quân đội Sài Gòn đã có 70 vạn trong đó có 35 vạn quân chính quy. Quân ngụy Lon Non ở Campuchia cũng được Mỹ chú trọng xây dựng từ 4 vạn (tháng 3-1970). đến cuối năm đó tăng lên 12 vạn tên.  Nguỵ Lào có 6 vạn (tăng 1 vạn), chưa kể 10 tiểu đoàn quân Thái Lan vẫn hoạt động trên chiến trường này. Quân Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam lúc này vẫn còn gần 40 vạn.

Tuy đã bị thất bại liên tiếp trên chiến trường ba nước Đông Dương, song Mỹ - nguỵ vẫn ngoan cố tiếp tục thực hiện các mục tiêu của Việt Nam hoá chiến tranh, trước mắt là củng cố thế phòng ngự của chúng ở Nam Việt Nam, cố giữ cho tình hình Campuchia không xấu thêm và giằng co với ta ở Lào.

Để đạt dược mục tiêu trên, Mỹ cho rằng phải cắt đứt được hoàn toàn tuyến vận tải chiến lược của ta làm cho các lực lượng chiến đấu của ta ở chiến trường không còn nguồn chi viện về người và vật chất - kỹ thuật, lúc dó cách mạng miền Nam sẽ tàn lụi: Việt Nam hoá chiến tranh sẽ thành công. Một trong những trọng điểm mà Mỹ nhằm vào là khu vực đường 9 - Nam Lào. Thẹo địch đây là nơi tập trung nhiều kho tàng dự trữ chiến lược của ta. là cuống họng của tuyến vận tải chiến lượ 559.

Vì vậy, chúng sử dụng một lực lượng lớn mở cuộc hành quân mang tên Lam Sơn 719 đánh vào khu vực này. Cùng vời cuộc hành quân Lam Sơn 719, Mỹ - nguỵ còn mở cuộc hành quân Toàn thắng 1-71 đánh sang vùng Đông Bắc Campuehia và cuộc hành quân Quang Trung 4 dành ra vùng ngã ba biên giới tại tỉnh Kon Tum. cùng một lúc mở ba cuộc hành quân tại ba địa điểm trên tuyến hành lang chiến lược Bắc - Nam, âm mưu của Mỹ là phân tán lực lượng chủ lực ta để chúng tập trung đánh sang Nam Lào: đồng thời thực hiện chia cắt kép tuyến hành lang chiến lược cửa ta ở ba điểm Sêpôn, Atôpơ. Mỏ Vẹt - Lưỡi câu, trọng điểm là Sêpôn.

Sớm nhận rõ âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù. từ tháng 6-l970, Bộ Chính trị dã nhận định mùa khô năm 1970 – 1971, địch có thể mở những cuộc tiến công với quy mô vừa và lớn vào vùng Trung và Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia.



_________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 31, tr.239-240.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #109 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2009, 03:24:32 pm »

Mùa Hè năm 1970. Bộ Tổng tham mưu bắt đầu vạch kế hoạch tác chiến, chuẩn bị chiến trường và điều động lực lượng ém sẵn ở các hướng dự kiến địch có thể tiến công lớn.  Ở khu vực đường 9, các lực lượng thuộc mặt trận B4. B5 gấp rút điều chỉnh lực lượng, tổ chức thế trận sẵn sàng đánh địch. Sư đoàn 2 chủ lực quân khu 5 cũng được bí mật điều động từ Quế Sơn lên khu vực này. Các cơ quan tiền phương của Tổng cục Hậu cần, Đoàn 559 gấp rút xây dựng tuyến hậu cần chiến dịch.

Tháng 11-1970, các trạm hậu cần và các cụm kho chiến dịch bắt dầu được xây dựng. Một số đoạn đường mới được mở thêm, bảo đảm cho các đơn vị vận tải cơ giới vận chuyển vật chất vào các khu tập kết chiến dịch. Tính đến tháng 1-1971, dự trữ vật chất của các binh trạm thuộc Đoàn 559 trên các hướng chiến dịch đã đạt 6.000 tấn, cùng với dự trữ của Bộ, có thể bảo đảm cho 5 đến 6 vạn quân tác chiến trong thời gian từ 4 đến 5 tháng.

Cùng với điều chỉnh lực lượng, chuẩn bị hậu cần, nhằm bảo đảm cho nhiệm vụ tác chiến, đáp ứng yêu cầu tình hình, tháng 10-1970, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Binh đoàn 70 gồm các sư đoàn bộ binh 304, 308, 320, Trung đoàn pháo 43, Trung đoàn cao xạ 241 và các đơn vị binh chủng khác. Đại tá Cao Văn Khánh được cử làm Tư lệnh, Đại tá Hoàng Phương làm Chính uỷ. Đây là binh đoàn đầu tiên của quân đội ta được thành lập làm nhiệm vụ cơ động chiến lược, chiến dịch. Nó là tiền đề cho sự ra đời của các quân đoàn chủ lực sau này. 

Nhờ chủ động chuẩn bị trước một bước về lực lượng và vật chất nên ngay sau khi địch mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 (30-1-1971), Bộ Chính trị đã khẳng định: đây là bước phiêu lưu quân sự cực kỳ nghiêm trọng của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng:

Nhất thiết phải đánh thắng trận này dù có phải động viên sức người sức của và hy sinh như thế nào, vì đây là một trong những trận có ý nghĩa chiến lược.  Thắng trận này, không những ta giữ được tuyến vận tải chiến lược, tiêu diệt được một bộ phận quan trọng quân chủ lực địch, phá huỷ một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của chúng, làm thất bại cố gắng cao nhất trong quá trình thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh, tạo chuyển biến căn bản có tính chiến lược cho phong trào cách mạng ba nước Đông Dương.

Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định mở chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ - nguỵ ở đường 9 - Nam Lào.
Ngày 6-2-1971, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 với mật danh Bộ Tư lệnh 702 được thành lập do thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh, thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính uỷ, Đại tá Cao Văn Khánh - Phó Tư lệnh, Đại tá Phạm Hồng Sơn - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng, Đại tá Hoàng Phương - Phó Chính uỷ, Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng được cử làm đại diện của Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh tại mặt trận, chỉ đạo chiến dịch.

Lực lượng tham gia chiến dịch, nòng cốt là Binh đoàn 70 với 3 sư đoàn bộ binh 308, 304, 320; Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu 5, Sư đoàn 324 chủ lực Quân khu Trị - Thiên, các lực lượng tại chỗ của B4 (Mặt trận Trị - Thiên) và B5 (Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị), 4 trung đoàn pháo mặt đất, 3 trung đoàn cao xạ, 3 trung đoàn công binh, 4 tiểu đoàn thiết giáp, một số tiểu đoàn đặc công của Bộ và lực lượng Đoàn 559. 

Từ ngày 30- 1- 1971, khi địch bắt đầu triển khai lực lượng chuẩn bị xuất phát tiến công, thì các lực lượng chiến đấu của ta trên toàn mặt trận cũng nhanh chóng tổ chức đội hình, tạo thế trận sẵn sàng đánh địch. Các bộ phận thuộc Đoàn 559 khẩn trương chấn chỉnh tổ chức, bổ sung nhiệm vụ cho phù hợp với yêu cầu chiến đấu.

Một số cán bộ cơ quan ở các binh trạm và kho được rút bớt để tổ chức thêm lực lượng chiến đấu: lực lượng phòng không dược tăng cường để bảo vệ tuyến vận chuyển, các kho tàng gần các trọng điểm địch đánh phá được sơ tán để bảo dám an toàn. Các đơn vị thuỷ Binh đoàn 70 và Sư đoàn 2 khẩn trương hành quân đến các vị trí tập kết. Các lực lượng của B5 cũng gấp rút được triển khai theo phương án đánh địch đã xác định.

Đến ngày 7-2-1971, việc bố trí lực lượng theo kế hoạch chiến địch về cơ bản đã hoàn tất. Ngày 8-2- 1971, địch chính thức mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh theo đường 9 sang Nam Lào. Dưới sự yểm trợ đắc lực của không quân và hoả lực Mỹ, 7 trung đoàn bộ binh, dù, thiết giáp nguỵ Sài Gòn hình thành ba cánh vượt biên giới đánh sang Nam Lào.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM