Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Cha ông ta đánh giặc => Tác giả chủ đề:: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 12:30:55 am



Tiêu đề: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 12:30:55 am
Tên sách: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.

Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
Năm xuất bản: 2005
Số hoá: ptlinh, UyenNhi05



Ban chủ nhiệm:
Thiếu tướng PGS TS. TRỊNH VƯƠNG HỒNG
Đại tá TS. LÊ ĐÌNH SỸ
Đại tá TRẦN BÍCH 

Chủ biên:
Trung tướng GS, TS. HOÀNG PHƯƠNG
Đại tá NGUYỄN VĂN MINH

Phân công biên soạn:
Đại tá NGUYỄN VĂN MINH:
Chương IV, Mở đầu và Kết luận
Đại tá TS. HỒ KHANG: Chương II
Thượng tá Ths. NGUYỄN XUÂN NĂNG:
Chương I và Chương III


CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN

Nhân kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc (30-4-1975 - 30-4-2005). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp với Viện Lịch sử quân sự Việt Nam xuất bản tập 11 trong bộ sử lớn Lịch sử quân sự Việt Nam với tiêu đề Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.

Bằng phương pháp lịch sử và lôgíc, các tác giả đã cố gắng tái hiện các sự kiện lịch sử chính yếu cuộc chiến đấu của dân tộc ta trong 21 năm ròng rã chống lại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc vừa khái quát vừa tương đối đầy đủ trong bốn chương của cuốn sách.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

Tháng 3 năm 2005
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 12:33:53 am
MỞ ĐẦU

Việt Nam nằm ở gần giữa khu vực châu Á, uốn hình chữ S hoa, phần cong hướng ra biển, trải dài từ chòm Lũng Cú ở phía bắc đến tận mũi Cà Mau ở phía nam. Diện tích đất liền tính số tròn 330.000 km2. Dân số những năm đầu thế kỷ XX xấp xỉ 30 triệu người, gồm 54 dân tộc trong cộng đồng người Việt chung sống hoà thuận, sát cánh bên nhau chống thiên tai và giặc ngoại xâm xây đắp nên non nước Việt Nam thống nhất toàn vẹn.

Việt Nam đất không rộng, người không đông, nhưng nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nên trên lãnh thổ nước ta thực vật và động vật vô cùng phong phú, đa dạng về chủng loại và giống loài. Trong lòng đất và thềm lục địa có nhiều khoáng sản, nhiều loài san hô quý hiếm và hàng trăm loài cua, tôm, cá, đồi mồi sinh sống đem lại nguồn lợi lớn cho đất nước, nhất là những nguyên liệu chiến lược, cần thiết cho công nghiệp như thiếc, ăngtimoan, tungxten. . . là những kim loại quý.

Nằm trên đường hàng hải chiến lược và đường không trực tiếp nối liền ấn Độ Dương và Thái Bình Dương với các quần đảo của châu Đại Dương, Việt Nam giữ vị trí xung yếu trên ngã tơ đường biển quan trọng của khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Lợi thế địa - chính trị ấy cũng đồng thời là những thách thức gay gắt đối với bản lĩnh dân tộc. Chi tính từ thế kỷ thứ X (sau công nguyên) đến những thập niên của đầu thế kỷ XX, nhân dân ta đã phải tiến hành nhiều cuộc kháng chiến chống xâm lược để bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc, bảo vệ nòi giống Lạc Hồng.

Từ trong nhũng cuộc chiến đấu chính nghĩa ấy của nhân dân ta đã hun dúe nên truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng Việt Nam.  Đặc biệt, đất nước ta đã sinh ra Chủ tịch Hồ Chí linh - người anh hùng dân tộc vĩ đại đã lãnh đạo toàn dân Việt Nam làm cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Người đã cùng Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo quân và dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong hoàn cảnh so sánh lực lượng ta yếu hơn địch và cuối cùng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp đinh Giơnevơ, rút quân khỏi Việt Nam, công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.

Đây là “lần đầu tiên trong lịch sử một nước thuộc địa nhỏ, yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của các lực lượng hoà bình dân chủ và chủ nghĩa xã hội toàn thế giới” 1.  Đây cũng là lần đầu tiên về mặt pháp lý quốc tế, thế giới công nhận một nước Việt Nam độc lập, có chu quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không thể chia cắt. 

Song. do tình hình chính trì thế giới phức tạp, tuy ta chiến thắng, nhưng so sánh lực lượng trên bình diện chiến lược cũng như trên chiến trường ta chưa mạnh hơn hẳn địch trong khi đó đế quốc Mỹ đang tìm cách can thiệp xâm lược Việt Nam, các nước lớn trong phe ta lại có sự thoả hiệp ép ta ký Hiệp đinh Giơnevơ, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia đôi đất nước. Tuy hiệp định quy định vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời, không được coi là ranh giới chính trị hay lãnh thổ, nhưng đế quốc Mỹ đã lợi dụng sự suy yếu của Pháp phá hoại Hiệp đinh Giơnevơ, xâm lược miền Nam Việt Nam bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới.

Cuộc “chiến tranh đơn phương” do Mỹ tiến hành bắt đầu diễn ra rất quyết liệt ở phần phía nam của Tổ quốc. Hoà bình chưa được vãn hồi. Nỗi đau chia cắt lại trùm lên cả dân tộc.  Sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước của nhân dân ta chưa hoàn thành. Cuộc đấu tranh còn phải tiếp tục.

Lúc này, nhân dân Việt Nam vừa phải lo hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, đưa miền Bắc bước vào chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà.

Dưới mắt của đế quốc Mỹ, một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa là trở lực lớn của chung trên con đường bành trướng xuống khu vực Đông Nam châu Á giàu tài nguyên thiên nhiên. Cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp kết thúc mà phần thắng thuộc về nhân dân Việt Nam. Đế quốc Mỹ bàng hoàng lo sợ “cộng sản kiểm soát toàn bộ vùng Đông Nam Á sẽ làm cho vị trí của Mỹ ở cái mắt xích gồm các đảo ngoài khơi Thái Bình Dương trở nên mong manh và sẽ phá hoại nghiêm trọng lợi ích an ninh cơ bản của Mỹ ở Viễn Đông”2.

Đó là lời lẽ nguỵ biện lộ rõ bản chất xâm lược của một tên sen đầm quốc tế.  Âm mưu của đế quốc Mỹ là bằng mọi giá phải chiến cho được miền Nam Việt Nam làm căn cứ quân sự, ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản tràn xuống Đông Nam Á, giữ các nước còn lại trong quỹ đạo của Mỹ.


_____________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 10, tr. 12.
2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam, VNTTX dịch, phát hành tháng 8-1971, t.1, tr. 39.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 12:35:49 am
Cuộc vũ trang xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ, xét về quy mô tập trung lực lượng, vũ khí, phương tiện kỹ thuật chiến tranh, về tính chất hiện đại và ác liệt tăng theo thời gian 21 năm với năm chiến lược quân sự, là cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất trong thế kỷ XX. Đế quốc Mỹ còn vận động 34 nước đồng minh của Mỹ tham gia đóng góp lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, trang bị kỹ thuật, huấn luyện, cho Mỹ sử dụng lãnh thổ làm căn cứ tiến hành chiến tranh xâm lược; và năm nước đưa quân chiến đấu sang Việt Nam: Nam Triều Tiên, Ôtxtrâylia (Úc), Thái Lan, Philíppin, Niu Dilân (Tân Tây Lan), Tây Ban Nha và Đài Loan cũng đưa sang Việt Nam 43 cố vấn, chuyên gia giúp Mỹ. Do đó, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và đồng minh của Mỹ lúc đầu là cuộc chiến đấu không cân sức. 

Quá trình xâm lược Việt Nam, những thành tựu khoa học kỹ thuật quân sự nước Mỹ đạt được trong thế kỷ XX đều được đế quốc Mỹ sử dụng trong cuộc chiến tranh Việt Nam (trừ vũ khí nguyên tử) theo hướng cuộc chiến tranh tăng cường tư bản 1. Vì thế, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là cuộc chiến đấu dài ngày nhất. gian khổ, ác liệt nhất, phức tạp nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. 

Chống lại đế quốc Mỹ, một tên đế quốc đầu sỏ giàu mạnh nhất thế giới, hung hãn, liều lĩnh và bịp bợm, xảo quyệt, cầm đầu phe đế quốc là chuyện “động trời”, khiến cho cả loài người tiến bộ hồi hộp, lo âu!

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta lại diễn ra trong bối cảnh ba dòng tháp cách mạng thế giới đang ở thế tiến công, nhưng phe xã hội chủ nghĩa lại xuất hiện những bất hoà, dẫn đến mâu thuẫn về đường lối ngày càng sâu sắc - nhất là hai nước lớn Liên Xô, Trung Quốc. Tuy Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đều thống nhất chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam nhưng đường lối đấu tranh, phương pháp cách mạng của Liên Xô - Trung Quốc và một số nước xã hội chủ nghĩa khác không thống nhất đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng ta. Các đảng và các nước anh em - nhất là hai nước lớn - muốn giữ cách mạng trong thế thủ để duy trì đường lối chung sống hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau.

Tình hình đó đã tác động không nhỏ đến cuộc kháng chiến của nhân dân ta, làm cho ta vừa có thuận lợi lại vừa có khó khăn lớn. Mỹ là đế quốc giàu mạnh nhất thế giới, rất ngoan cố xảo quyệt, quyết chiếm bằng được miền Nam nước ta, trong khi ta chưa đủ mạnh, phải vừa đánh, vừa xây dựng lực lượng, tích luỹ kinh nghiệm, vừa tranh thủ sự ủng hộ của các nước anh em để tạo nên sức mạnh tổng hợp, đánh thắng địch từng bước, tiến lên đánh thắng địch hoàn toàn. Vì vậy, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra liên tục trong 21 năm và được phân chia thành năm thời kỳ (périod Time):

- Thời kỳ thứ nhất, từ tháng 7-1954 đến hết năm 1960: Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam thông qua bộ máy cai trị độe tài phát xít Ngô Đình Diệm. Nhân dân ta vừa đấu tranh đòi địch phải thi hành Hiệp đinh Giơnevơ 1954, vừa giữ gìn và tích trữ lực lượng, tạo thời cơ, tiến lên cao trào đồng khởi giành chính quyền ở nông thôn.

- Thời kỳ thứ hai, từ năm 1961 đến giữa năm 1965: Đế quốc Mỹ phát động cuộc chiến tranh đặc biệt quyết tiêu diệt lực lượng cách mạng và bình định miền Nam Việt Nam.  Nhân dân ta tiến hành chiến tranh cách mạng, đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ. 

- Thời kỳ thứ ba, từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đế quốc Mỹ thực hành chiến lược chiến tranh cục bộ, đưa quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào miền Nam, mở các cuộc phản công chiến lược hòng giành lại thế chủ động chiến trường và cứu ngụy quân, ngụy quyền khỏi sụp đổ, đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân chống Việt Nam dân chủ cộng hòa. Quân - và dân ta đẩy mạnh chiến tranh nhân dân đánh thắng cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, buộc đế quốc Mỹ phai xuống thang chiến tranh, đi vào đàm phán với ta tại Pa ri.

- Thời kỳ thứ tư, từ đầu năm 1969 đến tháng 1-1973: Đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, rút dần quân Mỹ về nước, đồng thời mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào. Quân và dân ta cùng với bạn đánh thắng địch trên chiến trường Đông Dương và đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam lần thứ hai của đế quốc Mỹ, đặc biệt là đánh thắng cuộc tập kích đường không vào Hà Nội, Hải phòng bằng máy bay B52 trong 12 ngày đêm tháng 12-1972, buộc Mỹ phải ký Hiệp đinh Pari, chấm dứt chiến tranh. lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ta giành dược tháng lợi quyết định.

- Thời kỳ thứ năm, từ tháng 1-1973 đến tháng 4-1975: Mỹ tiếp tục thực hiện chiến lược Việt Nam hóa, ủng hộ chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định Pa ri. Ta đấu tranh buộc địch thi hành hiệp định, đánh thắng các cuộc hành quân càn quét, hành quân bình định của quân đội Sài Gòn, tạo thế, tạo lực mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy, giành toàn thắng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


___________________________ 
1. Chiến tranh tăng cường tư bản: Khi các máy móc, phương tiện kỹ thuật hiện đại, vũ khí công nghệ cao được sử dụng nhiều hơn sức lao động của người lính ở chiến trường thì gọi là tăng cường tư bản. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ là cuộc chiến tranh tăng cường tư bản.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 12:37:32 am

Cuộc chiến đấu của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai vô cùng phức tạp và ác liệt. Thời kỳ sau tính chất phức tạp, ác liệt hơn. tinh vi hơn thời kỳ trước trên nhiều bình diện. Vì “thua keo này” đế quốc Mỹ “bày keo khác” xảo quyệt hơn cường độ chiến tranh tăng lên gấp bội, vì chúng quyết tâm giành thắng lợi trên thế mạnh, áp đặt ý muốn của chúng cho nhân dân Việt Nam.

Song, sự xảo quyệt và ngoan cố của Mỹ không làm lay chuyển ý chí của nhân dân Việt Nam được giác ngộ lý tưởng cách mạng cao, có tinh thần yêu nước nồng nàn và tinh thần cảnh giác cách mạng thường trực, không phút lơi là.  Trong từng thời kỳ chiến tranh, đế quốc Mỹ dù đã cố gắng tối đa nhưng vẫn bị thất bại nặng nề, chúng luôn luôn ở thế bị động chống đỡ. Càng lao sâu vào cuộc chiến tranh, càng cố tăng quân, tăng phương tiện kỹ thuật hiện đại, đế quốc Mỹ càng mắc kẹt vào thế trận của chiến tranh nhân dân Việt Nam, nên chúng không đảo ngược được chiều hướng đang thua của chúng.

Kết quả là mùa Xuân năm 1973 “Mỹ cút”, mùa Xuân năm 1975 “ngụy nhào”. Miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Nước Việt Nam độc lập hoà bình. một năm sau thì thống nhất nước nhà về mặt nhà nước; không có cuộc “tắm máu” như Mỹ tuyên truyền. Sự kiện lịch sử này làm chấn động địa cầu, làm thế giới kinh ngạc.

Thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn cửa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thiên anh hùng ca bất diệt của nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại nhất của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” 1

Vì thế, cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam trở thành một đề tài lịch sử lớn, nghiên cứu tái hiện được như nó có là vô cùng quan trọng và cần thiết không chỉ cho hôm nay, mà cả cho ngày mai vì sự trường tồn của Tổ quốc và dân tộc.

Những vấn đề về nguyên nhân chiến tranh; về cuộc đấu trí, đấu lực giữa Việt Nam và Hoa Kỳ; về những nhân tố đưa đến thành công hoặc thất bại của mỗi bên tham chiến; về nguyên nhân thắng lợi của người Việt Nam và tác động của kết quả cuộc chiến tranh đối với thế giới đương đại, v.v. vẫn còn là những đề tài hấp dẫn, thu hút nhiều nhà khoa học chính trị quân sự tiếp tục nghiên cứu. 

Trên tinh thần tôn trọng sự thật, khách quan, khoa học và vì trách nhiệm đối với lịch sử, với đồng đội, đồng chí và đồng bào đã ngã xuống cho cuộc kháng chiến thắng lợi, các tác giả nghiên cứu, tái hiện một cánh khái quát, hệ thống 21 năm chiến đấu anh hùng, mưu trí và đầy sáng tạo của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời cố gắng phân tích, lí giải, làm rõ những nhân tố cơ bản góp phần tạo nên sức mạnh kháng chiến thắng lợi trong tập 1 1 và tập 12, của bộ Lịch sử quân sự Việt Nam.

Tập 11 viết diễn biến cụ thể và khái quát cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 21 năm, được chia làm bốn chương, mỗi chương gói trọn các sự kiện của một thời kỳ lịch sử.  Riêng Chương II gồm cả hai thời kỳ từ khi Mỹ phát động cuộc chiến tranh đặc biệt rồi leo thang thành cuộc chiến tranh cục bộ ở đỉnh cao, bị đánh bại, chúng buộc phải xuống thang chiến tranh.

Trong hai thời kỳ này, quân dân Việt Nam thực hiện phương châm thắng địch từng bước, đánh thắng từng hình thức chiến thuật, chiến lược của địch, tiến lên giành thắng lợi quyết định. Cả hai hình thức chiến lược chiến tranh đặc biệt và chiến lược chiến tranh cục bộ hợp thành một chiến lược chung - chiến lược chiến tranh chông nổi dậy, một trong hai bộ phận hợp thành chiến lược quân sự toàn cầu phản ứng linh hoạt của đế quốc Mỹ thời Kennơđi và Giônxơn.

Tập thể tác giả đã cố gắng tiếp cận đến chân lý khách quan của lịch sử để mong góp phần cùng bạn đọc quan tâm đến lịch sử đi sâu nghiên cứu “cuộc đụng đầu lịch sử” không tuyên bố giữa Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược cùng bè lũ tay sai để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm hữu ích.


________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật. Hà Nội, 1977, tr. 5-6. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 10:06:07 pm

Chương I

ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ PHÁ HOẠI HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ,
 ÁP ĐẶT CHỦ NGHĨA THỰC DÂN MỚI, TIẾN LÊN ĐỒNG KHỞI

I- ĐẾ QUỐC MỸ PHÁ HOẠI HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ,
XÂM LƯỢC MIỀN NAM BẰNG CHỦ NGHĨA THỰC DÂN MỚI


Những năm 50 của thế kỷ XX, đế quốc Mỹ đã toan tính nhảy vào Việt Nam nhưng vì lúc đó thực dân Pháp - đồng minh của Mỹ đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và Đông Dương lần thứ nhất. Bởi vậy, Mỹ đành can thiệp bằng cách viện trợ tiền của, vũ khí, kỹ thuật quân sự cho Pháp. Tính ra viện trợ của Mỹ chiếm 78,2o/o tổng chi phí chiến tranh Đông Dương của Pháp.

Bằng viện trợ, đế quốc Mỹ hy vọng Pháp sẽ kéo dài cuộc chiến tranh tạo cho Mỹ cơ hội tốt nhất để thay chân Pháp. Điều này được thê hiện trong Bị vong lục về Đông Nam Á của Mỹ:

1. Chính sách của Mỹ là không chấp nhận điều gì khác ngoài thắng lợi về quân sự ở Đông Dương. 

2 . Lập trường của Mỹ là tranh thủ sự ủng hộ của Pháp đối với lập trường này nếu không được như vậy thì Mỹ sẽ kiên quyết phản đối mọi thương lượng về Đông Dương tại Giơnevơ.

3. Trong trường hợp không thực hiện được điều hai nói trên thì Mỹ sẽ đề ra các biện pháp cấp bách với chính phủ các nước liên kết nhằm tiếp tục cuộc chiến tranh ở Đông Dương mà không có sự ủng hộ của Pháp, nếu cần thiết 1

Mỹ chưa kịp hành động theo lập trường trên đây thì Điện Biên Phủ thất thủ, 16.000 sĩ quan, binh lính Pháp và Âu - Phi bị chết, bi thương và bị bắt làm tù binh, rồi Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam và Đông Dương được ký kết.

Chiến thắng của Việt Nam đã dội về nước Mỹ như một tin sét đánh, làm cho cả Nhà Trắng và Lầu Năm Góc bàng hoàng, sửng sốt. Những người cầm đầu nước Mỹ lúc đó lo sợ: “Mất Đông Dương sẽ gây nguy hiểm cho nền an ninh của Hoa Kỳ. Quyền kiểm soát của cộng sản ở Đông Dương sẽ đe doạ các nguồn nguyên hếu thiết yếu, làm yếu lòng tin của các quốc gia Đông Nam Á2.

Lời lẽ trên đây của Mỹ là sự lừa bịp trắng trợn, thể hiện bản chất phản động, xâm lược của tên sen đầm quốc tế tự cho mình cái quyền áp đặt ý muốn của họ cho các dân tộc trên thế giới.  Việt Nam và Đông Dương độc lập, hoà bình, thống nhất không bao giờ là mối đe doạ nền an ninh nước Mỹ cách nủa vòng trái đất.

Chính trong thời điểm này, chiến lược quân sự của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương đang chuyển trọng tâm từ Đông Bắc Á xuống Đông Nam á mà tiêu điểm là Việt Nam và Đông Dương. Nghị quyết của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ NSC-124/2 ngày 25-6-1952 đã xác định Đông Dương là khu vực có tầm quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Mỹ phải bảo vệ Đông Nam Á bằng cách ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản từ Việt Nam, Đông Dương tràn xuống.

Để thực hiện âm mưu xâm lược và chính sách bành trướng của Mỹ trên đây, trước 13 ngày Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và Đông Dương được ký kết, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Nam Việt Nam làm thủ tướng bù nhìn thay Bửu Lộc, coi như việc đã rồi. Vậy mà ngày 27-7-1954 để lừa bịp dư luận trong nước và thế giới, ông Biđôn Mít (Walter Bedell Smith), Trưởng phái đoàn Mỹ tại Hội nghị Giơnevơ tuyên bố lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ là ghi nhận các thoả hiệp quân sự và Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị ngày 21-7-1954 và hứa: Sẽ không dùng đến vũ lực để làm tổn hại đến các văn kiện ấy 3.


____________________________
1. Xem: Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mv về cuộc chiến tranh Việt Nam, Tlđd, t.1, tr. 46-47.
2. Văn kiện 15 Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ, ngày 5-8-1953.  Tài liệu mật Lầu Năm Góc Mỹ, Trung tâm Thông tin Khoa học kỹ thuật - Bộ Quốc phòng dịch .  
3. Xem: Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ..., Sđd, t. 1, tr.60.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 10:08:15 pm

Cùng lúc đó ở Oasinhtơn, Tổng thống Mỹ Aixenhao lại tuyên bố với báo chí rằng: Hoa Kỳ không tham dự vào những quyết định của Hội nghị Giơnevơ và không bị ràng buộc vào những quyết định ấy. Rõ ràng những tuyên bố của Hoa Kỳ hoàn toàn trái ngược nhau, nhằm để che đậy việc làm phi nghĩa của họ.

Trong khi nhân dân ta ở miền Bắc cũng như miền Nam tích cực thực hiện những quy định của Hiệp định Giơnevơ và Tuyên bố cuối cùng của hội nghị, như chuyển quân tập kết, tiếp quản những vùng quân Pháp rút đi và bàn giao những vùng cách mạng quản lý trong kháng chiến cho quân đội liên hiệp Pháp, thì đế quốc Mỹ tìm mọi cách phá hoại Hiệp định Giơnevơ, từng bước ép Pháp rũ bỏ trách nhiệm một bên thi hành hiệp định, nhảy vào miền Nam thay Pháp, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới Mỹ, thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta.

Việc phá hoại Hiệp đinh Giơnevơ đầu tiên của Mỹ là tiếp sau vụ dựng Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng bù nhìn, chúng lập ra “Uỷ ban di cư Bắc Việt” để vận động và cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam và dùng biệt kích, gián điệp phá hoại các công trình công cộng, gây rối loạn trật tự an ninh miền Bắc.

Lợi dụng Pháp bị suy yếu vì cuộc chiến tranh Việt Nam và đang mắc kẹt trong cuộc chiến tranh Angiêri, nền kinh tế kiệt quệ, đế quốc Mỹ ép Pháp phải thực hiện các điều khoản mà Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ đưa ra ngày 8-8-1954:

1. Mỹ trực tiếp viện trợ cho Ngô Đình Diệm không qua tay Pháp.

2 . Mỹ trực tiếp chỉ huy và huấn luyện quân đội nguỵ miền Nam.

3. Buộc Pháp phải rút hết quân khỏi Nam Việt Nam. 

4. Loại bỏ Bảo Đại và những ảnh hưởng của Pháp ở Việt Nam.

Sau khi Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ đưa ra bốn chính sách lớn này đúng một tháng, Mỹ lôi kéo các nước đồng minh ký Hiệp ước Manila (Philíppin) lập ra tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO)1 và đặt Việt Nam, Lào, Campuchia dưới sự bảo hộ của tổ chức này. Thực chất, đây là một liên minh chống cộng khu vực mà Mỹ dựng lên làm chỗ dựa cho chúng xâm lược Việt Nam.

Ngày 17- 11- 1954, Côlin, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ được cử sang Sài Gòn làm đại sứ, thực thi chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, Cô lin đề ra kế hoạch sáu điểm:

1. Bảo trợ chính quyền Diệm, viện trợ thẳng cho Chính phủ Sài Gòn không qua tay Pháp.

2. Xây dựng lại “Quân đội quốc gia” Việt Nam 15 vạn quân do Mỹ huấn luyện, trang bị.

3. Bầu cử Quốc hội Việt Nam để hợp pháp hoá chính quyền Sài Gòn.

4. Định cư cho số công giáo miền Bắc di cư và vạch kế hoạch cải cách điền địa.

5. Thay đổi chế độ thuế khoá, dành ưu tiên cho hàng hoá Mỹ vào miền Nam Việt Nam.

6. Đào tạo cán bộ hành chính cho Diệm. 

Tháng 12- 1954, tướng Êly, Tổng Tư lệnh quân viễn chinh Pháp thay mặt Chính phủ Pháp đã ký với Cô lin, Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn thoả hiệp cam kết cùng lo việc huấn luyện cho quân nguỵ, song trên thực tế, việc này hoàn toàn do tướng Ô Đanien, Trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) đảm nhiệm thực hiện.

Tháng 1- 1955, Ngô Đình Diệm gửi công hàm cho Cô lin, yêu cầu từ nay, Hoa Kỳ đảm trách hoàn toàn vấn đề tổ chức và huấn luyện quân đội, chỉ có tướng Ô Đanien là người chịu trách nhiệm huấn luyện cho các lực lượng quân đội.


____________________________
1. Khối SEATO gồm các nước Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Thái Lan, Philíppin, Pakitstan, do Mỹ cầm đầu.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 10:10:25 pm

Ngày 25-4-1956, Bộ Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương phải giải tán. Quân đội liên hiệp Pháp rút dần khỏi Nam Việt Nam, rũ bỏ trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954, mà Pháp là một bên đã ký kết. Đến cuối tháng 6-1956, toàn bộ quân viễn chinh Pháp rút hết, chấm dứt vĩnh viễn vai trò của Pháp ở Việt Nam .

Cùng với việc gạt Pháp, Mỹ tìm mọi cách tiêu diệt các thế lực thân Pháp nhằm xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Pháp, xây dựng cơ cấu chính trị, quân sự trung thành với Mỹ. Để làm việc này, Mỹ không từ một thủ đoạn thâm hiểm nào, từ dùng địa vị, vật chất để mua chuộc, lôi kéo đến dùng sức ép chính trị để gạt bỏ, dùng sức mạnh quân dội để tiêu diệt. . . 

Đối với bộ máy nguỵ quân, nguy quyền cũ, khi Pháp bị gạt bỏ thì không còn cơ sở để tồn tại. Lúc này, lực lượng nguỵ quân thân Pháp tập hợp xung quanh Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham mưu trưởng quân nguỵ ra sức chống Diệm.  Trong hai tháng 10 và tháng 11-1954, lực lượng này đã ba lần mưu toan lật đổ Diệm nhưng không thành.

Trước tình hình đó, Mỹ ép Pháp thông qua Bảo Đại buộc tướng Nguyễn Văn Hinh phải rời ghế Tổng Tham mưu trưởng để sang Pháp cư trú chính trì. Tháng 10-1955, Mỹ lại bày trò trưng cầu dân ý phế truất Bảo Đại, đưa Diệm lên làm Tổng thống chính quyền Sài Gòn.

Bên cạnh lực lượng nguy quân, một đối thủ khá lợi hại của Mỹ - Diệm trong những năm đầu tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam là lực lượng vũ trang của các giáo phái thân Pháp. Lực lượng này bao gồm quân Bình Xuyên (5.000 - 8.000 cảnh sát, 2.500 binh lính vũ trang) đang khống chế Sài Gòn và các vùng phụ cận; tín đồ Cao Đài có vũ trang (15.000 - 20.000) chiếm các vùng tây bắc Sài Gòn; lực lượng vũ trang Hoà Hảo (10.000 - 15.000) kiểm soát một số khu vực ở đồng bằng sông Cửu Long.

Đây là lực lượng được Pháp nuôi dưỡng và cho hưởng đặc quyền cát cứ ở một số địa phương. Quyền lợi của họ gắn liền với Pháp. Lúc đầu, Mỹ chủ trương dùng biện pháp mềm dẻo, vừa mua chuộc, dụ dỗ, vừa đe doạ để phân hoá, lung lạc, lôi kéo lực lượng Bình Xuyên, Cao Đài, Hoà Hảo đứng về phía Diệm. Kết quả, nhóm Cao Đài liên minh của Trịnh Minh Thế đầu hàng Diệm. Còn phái Bình Xuyên của Bảy Viễn (Lê Văn Viễn) và nhóm Hoà Hảo của Ba Cụt (Lê Quang Vinh) chống lại.

Tháng 4 - 1955, Mỹ - Diệm huy động lực lượng lớn quân nguỵ ở Nam Bộ liên tục mở các cuộc hành quân dài ngày với quy mô từ 1 đến 2 sư đoàn để tiêu diệt lực lượng vũ trang giáo phái. Mở đầu là chiến dịch Hoàng Diệu (từ tháng 4 đến tháng 10- 1955) đánh vào rừng Sác diệt lực lượng của Bình Xuyên. Tiếp đó, từ tháng 5 đến tháng 12-1955, chiến dịch Đinh Tiên Hoàng ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long mà trọng điểm là vùng Đồng Tháp Mười, Ô Môn, Thốt Nốt diệt lực lượng Hoà Hảo của Năm Lửa (Trần Văn Soái), Ba Cụt. Cuối cùng, từ tháng 2 đến tháng 6, chúng mở chiến dịch Nguyễn Huệ trên hướng Tây Ninh thuộc miền Đông Nam Bộ tiêu diệt lực lượng còn lại của Cao Đài.

Như vậy, trong vòng hơn một năm (từ tháng 4-1955 đến tháng 6-1956) Mỹ - Diệm đã thanh toán xong lực lượng vũ trang giáo phái. Theo số liệu của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hoà thì “Hoà Hảo và cao Đài có 600 bị giết và bị thương, 1.100 bị bắt, 7.758 ra hàng. Nếu kể cả Bình Xuyên, tổng số ra hàng là 5 trung đoàn và 1 tiểu đoàn được cho gia nhập vào quân đội Diệm theo cách xen kẽ1.. 

Đồng thời với việc thanh toán lực lượng vũ trang giáo phái ở Nam Bộ, trên địa bàn Khu V, Trị - Thiên, Mỹ - Diệm dùng lực lượng quân sự để tiêu diệt lực lượng các đảng phái tay chân của Pháp như Đại Việt, Quốc dân Đảng... nhằm loại bỏ tận gốc ảnh hưởng của Pháp, trừ hậu hoạ sau này.  Vừa tìm mọi cách để gạt bỏ Pháp và các thế lực thân Pháp, Mỹ gấp rút xây dựng chính quyền tay sai, tiến hành cải tổ nguỵ quân làm công cụ thực hiện chính sách xâm lược thực dân kiểu mới.

Về xây dựng chính quyền tay sai, quan điểm của Mỹ là:

Phải có một chính quyền mạnh, có hiệu quả và trung thành.  Điều này được thể hiện rõ trong Bị vong lục của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quàn Mỹ gửi Bộ Quốc phòng ngày 4-8-1954: “Điều tuyệt đối cần thiết là phải có một chính phủ dân sự mạnh và ổn định nắm chính quyền2 .


____________________________
1. Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - nguỵ trên chiến trường B2, Ban Tổng kết chiến tranh B2 xuất bản, 1984, tr.48.
2. Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Tlđd, t. 1 , tr. 17.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 10:13:01 pm

Đ lét, Bộ trưởng bộ Ngoại giao Mỹ trong tuyên bố ngày 11- 11-1954 cũng nói rõ: “Miền Nam Việt Nam cần có một chính phủ đủ sức tiễu trừ các phần tử nổi loạn”. Để xây dựng chính quyền này, Mỹ đã sử dụng con bài Ngô Đình Diệm - một tín đồ - Thiên chúa giáo có dòng dõi quan lại từ thời Pháp, nhưng lại có đầu óc bài Pháp. Diệm đã được Xpenman (Spellman) - Hồng y giáo chủ Mỹ nuôi dưỡng và đào tạo từ năm 1948. 

Tháng 6 - 1954, dưới sức ép của Mỹ, Bảo Đại phải bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng bù nhìn. Thời gian đầu, khi chính quyền tay sai còn mong manh, lại có quá nhiều thế lực chống đối, nên chính quyền Diệm luôn chao đảo, không vững vàng. Diệm là một kẻ độc tài gia đình trị nên càng lắm kẻ thù. Vì vậy, cuối năm 1954, Cô lin, Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đã đưa ra giải pháp thay thế Diệm. Song thực tế lúc đó, Mỹ không tìm được ai hơn Diệm nên vẫn phải ủng hộ ông ta. 

Chính Ngoại trưởng Mỹ, Đa lét đã tuyên bố. “Đầu tư ở miền Nam Việt Nam là chính đáng. Không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục ủng hộ ông Diệm. Chúng ta không cần biết một người lãnh đạo xứng đáng nào khác1.  Nhằm hợp thức hoá chính quyền tay sai, tháng 10-1955, Mỹ - Diệm tổ chức cuộc “trưng cầu dân ý”, phế truất Bảo Đại, đưa Diệm lên làm Tổng thống, tuyên bố thành lập chính thể Việt Nam Cộng hoà.

Tháng 3-1956, dưới sự bảo trợ của Mỹ, Diệm tổ chức tuyển cử, bầu ra Quốc hội. Tháng 10-1956, Diệm ban hành hiến pháp của “nền Đệ nhất Cộng hoà”. Đến đây, Mỹ đã hoàn thành một bước cơ bản việc áp đặt chủ nghĩa thực dân mới bằng xây dựng được một chính quyền tay sai “hợp hiến, hợp pháp” giả hiệu.

Vốn là một chính phủ bù nhìn do Mỹ dựng lên bằng viện trợ đô la và vũ khí, không có cơ sở chính trị, xã hội. Để tạo chỗ dựa cho chính quyền, tháng 8 - 1954, Diệm thành lập Đảng Cần lao nhân vị do Ngô Đình Nhu, em ruột của Diệm cầm đầu Đảng lấy học thuyết “Duy linh” làm hệ tư tưởng.

Theo một số tướng lĩnh trong chính quyền Sài Gòn thì “Thuyết nhân vị của ông Ngô Đình Nhu là một thứ pha trộn mình Ngô đầu Sở, chắp vá một mớ tư tưởng hổ lốn, góp nhặt mỗi thứ một ít, từ giáo lý Thiên chúa giáo đến chủ nghĩa nhân vị của Maniê, pha thêm thuyết nhân ái của Khổng Tử, cộng thêm vài nét của chủ nghĩa tư bản lẫn lộn với chủ nghĩa duy linh chống cộng2.

Đảng Cần lao nhân vị thu hút tới 7 vạn đảng viên, chủ yếu là các cha cố, tín đồ công giáo, công chức và sĩ quan trung, cao cấp. Đảng được tổ chức thống nhất từ trên xuống dưới. Theo linh mục Cao Văn Luận - nguyên Viện trưởng Viện đại học Huế, một nhân vật thân tín với Diệm thì “Trong hầu hết các trường hợp, viên chức cao cấp nhất của chính quyền, tại một địa phương hay một cơ quan nào đồng thời cũng là lãnh tụ địa phương của Đảng Cần lao3. Đảng được coi là nòng cốt của chế độ Diệm cả về phương diện chính trị tinh thần cũng như thực lực lãnh đạo.

Bên cạnh Đảng Cần lao nhân vị, Diệm còn tổ chức ra Phong trào cách mạng quốc gia (10-1954) mà nòng cốt là giới công chức và nhân viên chính quyền Sài Gòn do Trần Chánh Thành đứng đầu, hoạt động với khẩu hiệu “Chống cộng sản, chống phong kiến, chống thực dân”, nhưng thực chất là chống cách mạng, chống nhân dân, đi theo Mỹ, tôn thờ Diệm.  Tổ chức này phát triển cả ở nông thôn và thành thị, thu hút khá đông lực lượng, hình thành một số liên đoàn như Liên đoàn phụ nữ, Liên đoàn thanh niên. . .

Ngoài Đảng Cần lao nhân vị và Phong trào cách mạng quốc gia, Diệm còn cho phép thành lập một số tổ chức thuộc tầng lớp trên như Tập đoàn công dân của Trần Văn Lắm (cuối năm 1954); Phong trào tranh thủ tự do của Bùi Văn Thinh. Các tổ chức này đều tích cực ủng hộ chính quyền Diệm về mọi mặt, nhất là về tài chính.

Một số các tổ chức chính trị phản động khác do Ngô Đình Diệm dựng lên ở miền Nam vào thời gian này là Tổng liên đoàn lao động của Trần Quốc Bửu, Thanh niên cộng hoà, Phụ nữ liên đới... nhằm phục vụ cho chế độ độc tài gia đình trị của ông ta.


____________________________
1. Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Tlđd, t.1, tr. 17.
2. Hoàng Linh - Đỗ Mậu: Tâm sự tướng lưu vong, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1991, tr.179.
3. Cao Văn Luận: Bên dòng lịch sử, Nxb. Trí Đăng, Sài Gòn, 1972, tr.315.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 10:15:37 pm

Về mặt hành chính, Mỹ - Diệm xây dựng một bộ máy cai trị từ trung ương đến tận thôn, xã. Ở trung ương, ngoài Quốc hội là cơ quan lập pháp, có Tổng thống và kèm theo đó là Phủ Tổng thống với các Bộ Quốc phòng, Ngoại giao, Nội vụ, Kinh tế, Tư pháp, Y tế, Công dân vụ, Lao động, Giáo dục, Công chánh giao thông, Cải tiến nông thôn, Tài chính . . . Tổng thống vừa là quốc trưởng, vừa là thủ tướng, có quyền lực tuyệt đối về mọi linh vực chính trì, quân sự, ngoại giao. . .

Giúp việc Tổng thống có Phủ Tổng thống. Dưới Phủ Tổng thống có các cơ quan trực thuộc như Nha Tổng giám đốc công vụ, Nha Tổng giám đốc kế hoạch, Nha Tổng giám đốc ngân sách và ngoại viện, Nha Tổng thư ký thường trực quốc phòng, Học viện Quốc gia hành chính...

Bên cạnh đó, để cho có vẻ dân chủ, Mỹ - Diệm cũng tổ chức các cơ quan kiểm soát hoạt động của bộ máy hành chính như: cơ quan thanh tra tổng quát và thanh tra chuyên môn.  ở địa phương, bộ máy hành chính của Diệm có các cấp: phần, tỉnh, đô thành, quận, xã. ở các phần, Diệm thiết lập chế độ đại biểu chính phủ làm nhiệm vụ trung gian giữa trung ương và các tỉnh trưởng. Cấp tỉnh, đô thành, thành phố, có các tỉnh trưởng, đô trưởng. Cấp quận có các quận trưởng. Tất cả đều do tổng thống bổ nhiệm trực tiếp (các quận thuộc đô thành Sài Gòn) hoặc theo đề nghị của tỉnh trưởng. Ở cấp xã, Diệm lập hội đồng xã. Để nắm chắc bộ máy hành chính cấp này, Diệm không thực hiện chế độ bầu cử hội đồng mà chỉ định những phần tử tin tưởng, gắn bó với chính quyền Diệm vào bộ máy đó.

Về vấn đề này, Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ đã viết:

Ông Diệm đã bãi bỏ các hội đồng hương chính cổ truyền do dân cử vì sợ cộng sản có thể giành được quyền bính trong các hội đồng đó. Sau đó ông thay thế cơ quan dân cử đó bằng những người được chỉ định từ bên ngoài tới, đám di cư và những người công giáo trung thành với ông1 .

Cơ chế của chính quyền Diệm ngay từ đầu đã lộ rõ là một chính quyền độc tài, phát xít không có dân chủ. Mọi quyền bính đều thuộc quyền Diệm - Nhu và gia đình ông ta, nên đã gây ra sự bất bình với chế độ trong nhân dân miền Nam.  Mặc dù buổi đầu Mỹ - Diệm đã xây dựng được bộ máy chính quyền tay sai độc tài khá hoàn chỉnh với bộ mặt “hợp hiến”, “hợp pháp” giả hiệu, song về bản chất đây chỉ là một sản phẩm ngoại lai do Mỹ dựng lên, hoạt động chủ yếu theo sự điều khiển của Mỹ, bằng nguồn viện trợ của Mỹ để thực hiện âm mưu áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ vào miền Nam Việt Nam.

Chính Lầu Năm Góc Mỹ đã thú nhận:

Không có sự giúp đỡ của Mỹ, hầu như chắc chắn là Diệm không thể củng cố được chỗ đứng của mình ở Việt Nam trong thời gian từ 1955 - 1956. Không có viện trợ của Mỹ trong những năm sau đó, chế độ của Diệm và hầu như chắc chắn là một Nam Việt Nam độc lập không thể nào sống sót được… Nam Việt Nam cơ bản là sản phẩm của Mỹ2

Đồng thời với việc xây dựng chính quyền tay sai, Mỹ gấp rút cải tổ quân nguỵ do Pháp để lại và từng bước nâng cao chất lượng nguỵ quân làm công cụ thực hiện chính sách xâm lược thực dân kiểu mới.

Sau Hiệp đinh Giơneuơ, tổng số quân nguỵ do Pháp để lại có 216.997 tên, bao gồm 179.997 quân chính quy và 37.000 quân phụ lực, biên chế cao nhất mới đến cấp chiến đoàn lưu động, còn phổ biến là tiểu đoàn (tổng số 179 tiểu đoàn, trong đó có 98 tiểu đoàn chủ lực và 81 tiểu đoàn khinh quân trang bị gọn nhẹ) 3.

Tháng 8-1954, Mỹ có kế hoạch cải tổ quân nguỵ thành quân đội quốc gia do Mỹ trực tiếp huấn luyện và trang bị. Để làm việc này, Mỹ tăng cường viện trợ và giành một khoản ngân sách đáng kể vào việc xây dựng quân đội Sài Gòn. Năm 1955, tổng số viện trợ của Mỹ cho chính quyền Sài Gòn là 320.300.000 đô la, trong đó Mỹ dành đến 234.800.000 đô la cho viện trợ quân sự. Tính bình quân hàng năm, viện trợ quân sự chiếm tới 70 % tổng số viện trợ của Mỹ cho Nam Việt Nam.


____________________________
1, 2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Tlđd, t. 1, tr. 74, 35.
3. Xem: Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trên chiến trường B2, Sđd, tr.51.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 10:27:54 pm

Cũng từ năm 1955, Phái bộ Huấn luyện quân sự hỗn hợp Pháp - Mỹ (TRIM) trước đây, được Mỹ đổi thành Phái bộ Huấn luyện tác chiến lục quân (CATO) và Phái bộ Trang bị và cung cấp (TERM). Các tổ chức này đều do Phái bộ viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) chỉ huy, chuyên lo việc huấn luyện, tác chiến và trang bị cho quân đội Sài Gòn.

Cùng với sự ra đời của các tổ chức này, một hệ thống cố vấn quân sự Mỹ được hình thành từ Bộ Quốc phòng xuống đến các quân khu, quân đoàn, sơ đoàn, trung đoàn và các trung tâm huấn luyện quân đội nguỵ. Thậm chí, các tiểu đoàn ở gần giới tuyến, Mỹ cũng cắm cố vấn trực tiếp.

Tháng 7- 1955, Mỹ - Diệm đề ra kế hoạch xây dựng quân đội chính quy gồm 155.000 tên. Gần một năm ráo riết bắt lính, đến tháng 6-1956, quân số địch là 147.462 tên, trong đó lục quân 140.000 tên được tổ chức thành 10 sư đoàn (4 sư đoàn dã chiến và 6 sư đoàn khinh chiến 1, 13 trung đoàn độc lập và lực lượng tổng dự bị gồm 1 liên đoàn dù (5 tiểu đoàn), 1 liên đoàn lính thuỷ đánh bộ (2 tiểu đoàn), 4 tiểu đoàn kỵ binh thiết giáp và 11 tiểu đoàn pháo. Không quân có 3.462 tên. Hải quân 4.000 tên 2. Đó là chưa kể lực lượng bảo an (47.517 tên), dân vệ và cảnh sát thuộc Bộ Nội vụ. 

Sau hai năm cải tổ, quân đội nguỵ đã có những biến đổi căn bản. Từ những đơn vị nhỏ lẻ (cấp chiến đoàn là cao nhất), nay được tổ chức thành trung đoàn, sư đoàn với đủ các binh chủng hải, lục, không quân. Nội dung và chương trình huấn luyện tuy vẫn dựa theo kế hoạch cũ của Pháp nhưng phương pháp huấn luyện do Mỹ trực tiếp thực hiện nên có nhiều cải tiến.

Từ năm 1957, sau khi cải tổ một bước quân đội nguy, dẹp xong lực lượng vũ trang giáo phái, Mỹ - Diệm bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm xây dựng quân đội. Phương pháp, mục tiêu của kế hoạch này là chú trọng chất lượng hơn số lượng, lấy lục quân làm chủ yếu, tổ chức tương đối chính quy và hiện đại, có thể tác chiến trên mọi địa hình.

Về quân số, định vẫn duy trì ở mức trên dưới 150.000, song về tổ chức bỏ hình thức sư đoàn dã chiến và khinh chiến, thống nhất tên gọi là sư đoàn bộ binh. Từ 10 sư đoàn, định chấn chỉnh còn 7 sư đoàn.  Ba sư đoàn khinh chiến (Sư đoàn 12 ở Kon Tum, Sư đoàn 13 ở Tây Ninh và Sư đoàn 16 ở Quảng Trị) được bổ sung cho 7 sư đoàn.

Các cơ quan chỉ đạo chiến lược, chiến thuật. Bộ Tư lệnh Hải quân, các bộ tư lệnh quân đoàn lần lượt được tổ chức.  Không quân, hải quân cũng từng bước được kiện toàn.  Bên cạnh đó, để xây dựng đội quân tay sai trung thành với Mỹ, Diệm đã gửi nhiều sĩ quan đi học ở các trường quân sự ở các nước tư bản, nhất là ở Mỹ. Từ năm 1954 đến năm 1959 đã có 3.500 sĩ quan Sài Gòn sang học tập tại Mỹ.

Điều 9 trong Bản tuyên bô’ cuối cùng của các nước tham dự Hội nghị Giơnevơ ghi rõ: Những nhà đương cục có thẩm quyền ở vùng Bắc và vùng Nam Việt Nam cũng như ở Lào, Campuchia không được dung thứ những hành động báo thù cá nhân hoặc tập thể đối với những người đã hợp tác bất cứ dưới hình thức nào về một trong hai bên trong thời gian chiến tranh hoặc đối với gia đình những người đó.

Mặc dù quy định như vậy, nhưng Mỹ và Ngô Đình Diệm bất chấp pháp lý quốc tế, chúng đã tiến hành khủng bố, trả thù dã man những người yêu nước, người kháng chiến cũ ở miền Nam. Tiêu biểu là các vụ tàn sát đẫm máu ở Kim Đôi (2-8-1954) làm 17 người chết, 67 người bị thương. Vụ Hà Lam - Chợ Được ở Quảng Nam (9-1954) làm 31 người chết, 36 người bị thương. Vụ Ngân Sơn, Chí Thạnh ở Phú Yên (7-9-1954) làm 64 người chết, 76 người bị thương. Vụ Mỏ Cày ở Bến Tre (13-9-l954) làm 17 người chết, 500 người bị thương. Vụ Chiêu Đàn (23-9-1954), Cây Cốc (1-10- 1954) thuộc Quảng Nam làm 105 người chết, 186 người bị thương. Vụ thảm sát Bình Thành, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp (12-11- 1954)   có 33 người bị chết, 9 người khác bị thương. Tháng 1-1955, Mỹ - Diệm lạl dìm xuống đập Vĩnh Trinh (Quảng Nam) 22 người. Tháng 7- 1955, lực lượng Quốc dân Đảng theo Diệm càn vào huyện Hướng Điền (Quảng Trị) giết chết 92 đồng bào ta. Mỹ - Diệm đã vi phạm nghiêm trọng các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về cấm trả thù những người đã từng hoạt động kháng chiến.


__________________________________
1. Sư đoàn dã chiến là những sư đoàn có biên chế, trang bị mạnh, được huấn luyện tác chiến chính quy để đảm đương nhiệm vụ chủ yếu là ngăn chặn quân chủ lực của miền Bắc vào. Sư đoàn khinh chiến là sư đoàn được tổ chức biên chế, trang bị gọn nhẹ hơn, đảm nhận nhiệm vụ chủ yếu là bảo đảm an ninh nội địa, kết hợp tiếp sức chi viện cho các sư đoàn dã chiến khi cần. 
2. Xem: Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trên chiến trường B2, Sđd, tr.51.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 10:28:55 pm
Từ đầu năm 1955, Mỹ - Diệm thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng”. Bước đầu tiên, chúng mở một số chiến dịch thí điểm ở Khu V để rút kinh nghiệm. Đó là các chiến dịch Phan Châu Trinh (2-1955) đánh phá các tỉnh Trung Bộ mà Quảng Nam là trọng điểm.

Chiến dịch Giải phóng (4-1955) đánh phá Quảng Ngãi và bắc Bình Định. Chiến dịch Trịnh Minh Thế (5-1955) đánh toàn bộ các tỉnh Khu V.  Sau bước đầu thí điểm, từ giữa năm 1955, Mỹ - Diệm chính thức phát động “tố cộng, diệt cộng” giai đoạn 1 trên toàn miền Nam.

Ý định của địch là đánh trên diện rộng trước, sau đó đánh vào chiều sâu, tập trung vào nơi có phong trào cách mạng phát triển, đánh cả người hoạt động cách mạng và dân thường, lấy đánh vào Đảng Cộng sản làm mục tiêu quyết định nhất, vừa tiêu diệt được con người, vừa khủng bố tinh thần làm cho người cộng sản, người có cảm tình với cộng sản hoặc khuất phục chúng, hoặc bị tiêu diệt, còn dân thường thì căm thù cộng sản mà đứng về phía Chính phủ quốc gia.

Để đạt mục tiêu trên, Mỹ - Diệm tổ chức bộ máy chỉ đạo tố cộng rất chặt chẽ và thống nhất từ trên xuống dưới. Cao nhất là Hội. đồng chỉ đạo tố cộng bao gồm tất cả các bộ trưởng trong Chính phủ do Diệm trực tiếp làm Chủ tịch. Dưới Hội đồng chỉ đạo tố cộng là Uỷ ban tố cộng Trung ương với các ban thường trực gồm đại diện Bộ Công an, Thông tin, Quốc phòng... Nhiệm vụ của Uỷ ban tố cộng Trung ương là trực tiếp chỉ đạo phong trào tố cộng ở các tỉnh các cơ quan và đào tạo cán bộ làm công tác tố cộng ở cấp trung ương. Giúp việc cho uỷ ban này có các Ban Tuyên huấn, Học tập, Kiểm thảo, Khai thác . . .

Ở cấp tỉnh có Uỷ ban tố cộng tỉnh. Mỗi bộ lại có một uỷ ban chỉ đạo theo ngành dọc xuống các cơ quan trực thuộc bộ mình. Huyện, xã có Uỷ ban chỉ đạo tố cộng của huyện, xã.  Thậm chí, liên gia cũng có bộ phận làm công tác tố cộng cấp liên gia.

Tố cộng giai đoạn 1 của địch được tiến hành qua ba đợt.  Đợt 1 từ ngày 15-5 đến cuối tháng 8-1955, trọng điểm là các tỉnh miền Trung. Đợt 2 từ tháng 9 đến tháng 11-1955, trọng điểm là nội bộ cơ quan nguỵ quyền. Đợt 3 từ tháng 11-1955 đến tháng 5- 1956, làm rộng rãi ở các tỉnh. Trong mỗi đợt, chúng lại chia ra làm nhiều bước, sau mỗi bước lại có điều chỉnh, rút kinh nghiệm.

Thông thường, mỗi đợt chúng thực hiện các bước cơ bản sau:

Bước một: Phân loại nhân dân. Tuỳ theo mức độ thân sơ của người dân với cách mạng mà chúng xếp: Loại A gồm cán bộ, đảng viên và những người kháng chiến cũ. Loại B gồm những gia đình có người đi tập kết hoặc có quan hệ mật thiết với những người kháng chiến cũ. Loại C gồm những người không có dính dáng gì đến cách mạng.

Bước 2: Trên cơ sở phân loại nhân dân, chúng mở các lớp học tập với những nội dung phù hợp với từng đối tượng kết hợp tuyên truyền xuyên tạc sự thật, nói xấu cách mạng, gây tâm lý hoài nghi trong nhân dân.

Bước 3: Chúng tổ chức các buổi tố cộng, bắt mọi người phải tố giác cộng sản (kể cả người thân trong gia đình), xé cờ Đảng, đốt ảnh Bác Hồ, tuyên bố ly khai Đảng. Ai không làm, chúng cho là phản quốc.

Kết thúc giai đoạn 1 tố cộng, Mỹ - Diệm đạt được một phần ý đồ của chúng là gây hoang mang, lo sợ trong dân chúng, tạo nên mối nghi ngờ về lòng tin của nhân dân với cách mạng. Đồng thời qua đây chúng thanh lọc được những người không ăn cánh với chúng, sát hại, bắt giam một số cán bộ, đảng viên của ta. Chỉ tính từ tháng 7-1955 đến tháng 2-1956, Mỹ - Diệm đã giết hại, giam cầm 93.362 cán bộ, đảng viên và những người yêu nước.

Các chiến dịch tố cộng, diệt cộng ác liệt của Mỹ - Diệm đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên dao động, mất lòng tin, không giữ vững được khí tiết người cộng sản đã ra đầu hàng, tự thú với địch.

Sau thành công bước đầu của giai đoạn 1, từ giữa năm 1956, Mỹ - Diệm triển khai tiếp giai đoạn 2, trọng điểm là các tỉnh Nam Bộ; đồng thời Ngô Đình Diệm ngang nhiên tuyên bố không thi hành Hiệp định Giơnevơ, không hiệp thương với miền Bắc, không tổng tuyển cử.

Từ đây, Mỹ - Diệm tăng cường đánh phá với quy mô lớn và rất tàn bạo đối với nhân dân miền Nam. Chúng công khai đưa vào hiến pháp những điều khoản phủ nhận chủ nghĩa cộng sản, “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”. Những kinh nghiệm của tố cộng giai đoạn 1 được Mỹ - Diệm tận dụng triệt để trong giai đoạn 2. Tất cả những điểm trên làm cho tố cộng, diệt cộng giai đoạn 2 của Mỹ - Diệm trở nên rất khốc liệt.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 10:57:35 pm

Bắt đầu từ ngày 24-6-1956 đến ngày 24-2-1957, địch sử dụng 2 sư đoàn bộ binh (Sư 11 và Sư 13), 6 trung đoàn độc lập 4 hải đoàn xung phong kết hợp với các đoàn tố cộng và bộ máy kìm kẹp ở cơ sở mở cuộc hành quân mang tên Thoại Ngọc Hầu càn quét, đánh phá các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Mục tiêu cuộc hành quân này là tiêu diệt cơ sở cách mạng, thanh toán lực lượng vũ trang của ta và tàn quân của Hoà Hảo, củng cố, phát triển chính quyền nguỵ.

Đồng thời, chúng sử dụng 1 sư đoàn bộ binh, 2 trung đoàn độc lập, 1 hải đoàn xung phong cùng với lực lượng bảo an mở cuộc hành quân Trương Tấn Bửu (từ ngày 10-7-1956 đến ngày 24-2-1957), càn quét các tỉnh miền Đông Nam Bộ (kể cả Sài Gòn - Chợ Lớn) nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng và tàn quân Bình Xuyên, Cao Đài, kiểm soát chặt chẽ vùng biên giới, tái lập an ninh nông thôn, hỗ trợ cho các đoàn tố cộng, thực hiện chiến dịch tố cộng, diệt cộng ở vùng này. 

Từ ngày 1-10 -1957 đến tháng 12-1957, Mỹ - Diệm lại mở tiếp cuộc hành quân mùa Thu với lực lượng 1 sư đoàn tăng cường, 1 trung đoàn độc lập, 1 thiết đoàn tăng, thiết giáp, 4 hải đoàn xung phong cùng lực lượng bảo an, dân vệ đánh miền Tây Nam Bộ lần thứ hai nhằm củng cố kết quả tố cộng ở đây và ngăn trở hoạt động của ta, bảo vệ vựa lúa của chúng ở đồng bằng sông Cửu Long.

Trong năm 1958, ở miền Đông Nam Bộ, đích mở hai cuộc hành quân lớn là cuộc hành quân Nguyễn Trãi (từ ngày 20-4 đến ngày 20- 11-1958) đánh lại cả 8 tỉnh miền Đông và cuộc hành quân Hồng Châu (trong cùng thời gian) càn quét ngoại ô Sài Gòn.

Với thủ đoạn đánh phá vô cùng thâm hiểm như chà đi, xát lại nhiều lần, phân vùng, chia ô để đánh, đánh cả ngày lẫn đêm, dùng biệt kích, thám báo, thụp bắt bất ngờ cơ sở ta, sử dụng bọn đầu hàng, tự thú chỉ điểm, dùng hình thức chiến tranh tâm lý để khủng bố, uy hiếp, lung lạc tinh thần cán bộ, nhân dân . . . địch đã gây cho ta những tổn thất nặng nề.

Chỉ tính riêng miền Tây và Trung Nam Bộ, trong 6 tháng đầu năm 1958 đã có 16 chi bộ tan vỡ, 1.457 cán bộ, đảng viên bị địch bắt và sát hại. Toàn miền Nam, đến cuối năm 1958, Mỹ - Diệm đã giết hại khoảng 68.000 cán bộ, đảng viên, bắt giam 466.000 người và tra tấn thành thương tật 680.000 người. 

Mặc dù che giấu sự thật tàn ác của Mỹ - Diệm trong các chiến dịch tố cộng, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng phải thừa nhận: “Chiến dịch tố cộng bắt đầu từ mùa Hè năm 1955, có từ 50.000 đến 100.000 người bị bắt giam vào các trại tập trung, nhiều người bị giam giữ chẳng phải là cộng sản” 1

Ở Quảng Nam, Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định, Tây Ninh, Mỹ Tho là những nơi cách mạng bị thiệt hại nhiều nhất trong các đợt tố cộng, diệt cộng của Diệm. Nhiều đảng bộ, chi bộ cơ sở, số đảng viên bị địch bắt và giết gần hết, có chi bộ phải “lột xác” tới ba, bốn lần mới duy trì được hạt nhân lãnh đạo. Tư tưởng cán bộ, đảng viên diễn biến phức tạp, một số đồng chí bi quan, dao động. Đấu tranh chính trị đơn thuần không thể hạn chế được hành động đánh phá dã man của địch, không thể bảo vệ được cơ sở, không thể duy trì được phong trào, nhưng đấu tranh vũ trang tự vệ thì sợ sai với chủ trương của Đảng, v.v. .

Trong tình hình đó, đầu năm 1957, Liên khu uỷ V chủ trương chuyển một bộ phận đảng viên, cán bộ hoạt động bí mật ra đống hợp pháp để tổ chức hệ thống lãnh đạo hợp pháp trong lòng địch, kết hợp với hệ thống lãnh đạo không hợp pháp bên ngoài, lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Việc ra công khai sống, hoạt động hợp pháp của cán bộ, đảng viên sẽ làm từng bước từ xã đến huyện, tỉnh, liên tỉnh.

Hầu hết cán bộ, đảng viên đều thấy chủ trương này khó thực hiện, nhưng vì chủ trương của Khu uỷ, nên phải miền cưỡng chấp hành.  Tỉnh Bình Thuận chuyển gần 500 cán bộ, đảng viên ra hợp pháp; Khánh Hoà chuyển 300 cán bộ ra hoạt động hợp pháp đều bị địch bắt và hy sinh. Bình Thuận số cán bộ hy sinh nhiều do tên Nguyễn Xuân Viên, Thường vụ Tỉnh uỷ ăn cắp vàng, tiền của cách mạng rồi chạy sang hàng ngũ địch khai báo.

Đây là một chủ trương sai lầm. Do đó, mới thực hiện trong thời gian ngắn đã bị tổn thất lớn: hơn 70% cấp uỷ xã, 60% huyện uỷ viên, 40% tỉnh uỷ viên các tỉnh đồng bằng hy sinh và bị bắt. Nhiều xã, huyện không còn cán bộ, đảng viên lãnh đạo. Việc chuyển cán bộ ra hợp pháp mãi đến năm 1958 mới có lệnh chấm dứt, nhưng đã bị thiệt hại lớn rồi, phải sửa sai, làm lại từ đầu để gây dựng phong trào.


_______________________
1. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Tlđd, t.1 , tr.74.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 10:59:25 pm

Giữa lúc ta đang gặp khó khăn, sai lầm trong chủ trương đấu tranh thì Mỹ - Diệm đẩy mạnh các chiến dịch tố cộng, diệt cộng với những biện pháp nham hiểm, phát xít hơn.  Ngày 23-3-1959, Ngô Đình Diệm đưa ra Luật 10/59, công khai lê máy chém đi khắp nơi. Với luật này, chúng lập các toà án quân sự đặc biệt lưu động để xét xử, buộc tội những người yêu nước chỉ với hai hình thức tử hình và khổ sai chung thân.

Trong năm 1959, trên toàn miền Nam, chúng mở 279 cuộc hành quân, trong đó có 156 cuộc cấp từ tiểu đoàn đến sư đoàn. Năm 1960, chúng mở tới 2.185 cuộc hành quân (tăng gấp 8 lần so với năm 1959). Trọng điểm càn quét của địch tập trung chủ yếu vào các tỉnh thuộc miền Trung và Tây Nam Bộ như Bến Tre, Trà Vinh, Định Tường, Rạch Giá, Cà Mau và các vùng chiến khu của ta ở miền Đông Nam Bộ như chiến khu D, Dương Minh Châu, Long Nguyên, một số tỉnh xung quanh Sài Gòn, vùng giáp ranh giữa Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Chính sách tố cộng, diệt cộng tàn ác và những cuộc càn quét khủng bố đẫm máu của Mỹ - Diệm chỉ gây thêm căm thù trong nhân dân đối với chế độ. Đây là một trong những nguyên nhân chính nổ ra cơn bão táp cách mạng vào cuối năm 1959 đầu năm 1960.

Nằm trong chính sách xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ, bên cạnh việc xây dựng nguỵ quân, củng cố nguỵ quyền và thực hiện tố cộng, diệt cộng đánh phá phong trào cách mạng miền Nam, Mỹ thực thi một số chương trình cải cách về kinh tế nhằm làm cho kinh tế miền Nam phát triển ngày càng lệ thuộc vào Mỹ.

Điểm mấu chốt để thực hiện chính sách kinh tế là sử dụng viện trợ kinh tế làm đòn bẩy, tạo nên điểm tựa cho chủ nghĩa thực dân mới Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Nhưng Mỹ không viện trợ bằng đô la mà bằng hàng hoá, nói cách khác, đó là viện trợ thương mại hoá. Đây là cách làm cho hàng hoá Mỹ tràn ngập thị trường miền Nam, trong số đó, có cả hàng hoá vốn ế thừa ở Mỹ từ lâu không tiêu thụ được.

Trên danh nghĩa là hàng viện trợ của Mỹ cho Việt Nam, nên nhiều thứ hàng hoá được nhập tự do mà không phải đóng một loại thuế nội địa nào. Chính loại hàng này đã bóp chết một số ngành sản xuất hàng hoá ở trong nước, làm cho kinh tế miền Nam chẳng những không phát triển được mà còn mất cân đối nghiêm trọng. Tệ hại hơn, phần lớn hàng nhập vào miền Nam là hàng tiêu dùng, là nông sản phẩm - những thứ mà lẽ ra ở miền Nam có thể làm ra được để xuất khẩu.

Bằng viện trợ thương mại hoá, Mỹ làm cho kinh tế miền Nam ngày càng phụ thuộc vào Mỹ. Tờ Thời báo Việt Nam xuất bản ở Sài Gòn lúc đó đã đánh giá: “Viện trợ Mỹ không tới chúng ta dưới hình thức tài chính . . . chúng ta không nhận được đô la . . .  chúng ta nhận được hàng tiêu dùng. . . qua chương trình viện trợ thương mại hoá. Điều này đang làm cho chúng ta vĩnh viễn phụ thuộc vào viện trợ Mỹ” 1 .

Không chỉ sử dụng con bài viện trợ kinh tế làm đòn bẩy, nhằm tư bản hoá hình thức bóc lột ở nông thôn làm cơ sở tồn tại cho chủ nghĩa thực dân mới và tạo điều kiện thuận lợi để bình định nông thôn miền Nam, Mỹ - Diệm tiến hành chương trình cải cách điền địa. Chương trình này bắt đầu từ năm 1955 với Dụ số 2 (8-1-1955) và Dụ số 7 (3-2-1955). Cả hai dụ này đều xác định mối quan hệ giữa tá điền và chủ điền. Dụ số 2, nêu rõ tá điền phải nộp 15 đến 25% hoa lợi cho chủ điền, còn Dụ số 7, nêu quyền của điền chủ: “Có thể trở lại bất cứ lúc nào để tiếp tục thi hành khế ước” .

Ngày 22-10-1956, Diệm lại ra Dụ số 57, dụ này quy định mỗi địa chủ được giữ lại 100 ha ruộng đất. Số còn lại chính quyền Diệm sẽ “truất hữu” bằng cách mua lại để bán cho tá điền, phân chia “giúp tá điền trở thành điền chủ2.
 
Đây thực chất là một trò lừa bịp vì trong kháng chiến chống Pháp, nông dân miền Nam được cách mạng chia một phần rất lớn ruộng đất của địa chủ đã chạy vào vùng định tạm chiếm. Theo số liệu thống kê, chỉ tính Liên khu V, nông dân đã được cách mạng chia và tạm giao trên 750.000 ha ruộng các loại.

Việc phân phối lại ruộng đất như Diệm làm chẳng qua là nhằm xoá bỏ thành quả mà cách mạng đã đem lại cho nông dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, buộc người nông dân phải thừa nhận về mặt pháp lý quyền sở hữu ruộng đất của địa chủ qua việc lập lại “khế ước tá điền”.


____________________________
1. Thời báo Việt Nam, số ra ngày 24-9-1960. 
2. Lâm Quang Huyên: Cách mạng ruộng đất ở miền Nam Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1958, tr.34.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 11:00:52 pm

Thâm hiểm hơn, Mỹ còn dùng viện trợ kinh tế thành lập Ngân hàng phát triển nông thôn, cho nông dân vay tiền sản xuất, tổ chức ra nông hội, các hợp tác xã mua bán nhằm ràng buộc nông dân vào chính quyền cơ sở, thông qua đó mua chuộc, lừa mị, lôi kéo nông dân, cô lập cách mạng. Đây là một thủ đoạn hết sức thâm hiểm của Mỹ - Diệm, bộc lộ bản chất phản động “giấu mặt trá hình” của chính sách thực dân mới ở nông thôn Việt Nam. 

Đồng thời với việc thực hiện chương trình cải cách điền địa, tháng 4- 1957, Mỹ - Diệm cho ra đời cái gọi là chính sách tái định cư và cứu tế dân di cư, bằng việc xây dựng các khu dinh điền. Núp dưới danh nghĩa là một tổ chức sản xuất nông nghiệp để giải quyết đời sống cho dân nghèo, đặc biệt là dân di cư từ miền Bắc vào, các dinh điền được thiết lập trên các vùng cao nguyên hẻo lánh và xung yếu dọc biên giới nhằm mục tiêu chủ yếu là xây dựng tuyến ngăn chặn từ xa, từng bước bao vây, cô lập cách mạng.

Chính Diệm - Nhu đã xác định : “Khu dinh điền là biện pháp xẻ đường đưa dân vào chiến khu, mật khu Việt cộng, dùng dân để đẩy cộng sản ra khỏi vùng đó, và dinh điền là nơi cung cấp tin tình báo, nơi xuất phát để hành quân ngăn chặn xâm nhập” 1.   

Còn Brâu – Trưởng Phái đoàn viện trợ kinh tế Mỹ thì tuyên bố. Phải làm cho các khu dinh điền trở thành những cứ điểm bao vây bọn Việt cộng. Với ý đồ như vậy, Mỹ - Diệm tổ chức bộ máy chỉ đạo để thực hiện chương trình này rất chặt chẽ và thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tổng uỷ phủ di cư bị giải thể, thay vào đó là Tổng uỷ phủ dinh điền, đứng đầu là tổng uỷ trưởng (ngang bộ trưởng) . Tổng uỷ phủ có các nha: kỹ thuật, Tài chính, Định cư. . . và các ban An ninh, Thanh tra, Công chính... chịu trách nhiệm điều hành và vạch kế hoạch hành động.

Để dồn dân vào các khu dinh điền, Mỹ - Diệm một mặt ra sức tuyền truyền, mua chuộc, lừa mị nhân dân, mặt khác, chúng tăng cường khủng bố, cưỡng ép. Thậm chí chúng còn vin vào lý do quy hoạch, sắp xếp nhà cửa ở thành phố, thị xã để đẩy hàng trăm gia đình lên các dinh điền. 

Với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, sau gần hai năm thực hiện (từ tháng 4-1957 đến đầu năm 1959), trên toàn miền Nam, Mỹ - Diệm đã dồn được 128.374 người, trong đó có 90.436 người là dân di cư từ miền Bắc vào 84 khu dinh điền, khai phá 12.322 ha đất canh tác. Riêng Nam Bộ, chúng xây dựng được 7 khu gồm 47 điểm ở Phước Long, Kiến Phong, Kiến Tường, có cả những khu dành cho các gia đình binh sĩ nguỵ ở dọc biên giới huyện Mộc Hoá (Long An), Tân Uyên, Bời Lời (Thủ Dầu Một) . . .

Phần lớn dân chúng bị dồn ép, cưỡng bức vào các khu dinh điền, không chịu nổi cuộc sống khắc nghiệt, bị o ép mọi bề ở nơi rừng thiêng, nước độc này, nên cuối năm 1958, số bỏ trốn ngày càng tăng. Trước tình hình đó, Diệm đã từng bước thay thế mô hình khu dinh điền bằng khu trù mật, vận dụng rộng rãi ở cả vùng cao nguyên và đồng bằng. Mục tiêu đặt ra cho việc xây dựng các khu trù mật là nhằm bình định, khống chế dân, cô lập phong trào cách mạng ngay ở địa bàn cơ sở. 

Biện pháp chủ yếu để thực hiện chương trình xây dựng khu trù mật là dùng bạo lực đàn áp để dồn dân vào từng khu vực lớn, xung quanh có hàng rào, hệ thống hầm hào công sự, tháp canh để kiểm soát dân ra vào.

Tháng 3-1959, khu trù mật đầu tiên được Diệm làm thí điểm ở Vị Thanh - Hoà Lựu (Cần Thơ). Sau đó, chúng cho triển khai rộng ra các vùng. Mỗi khu trù mật tập trung 2.000 đến 3.000 dân, được tổ chức thành ba khu vực: Khu tập trung dân, khu công thương và khu hành chính, đặt dưới quyền quản lý của một liên cơ quan gồm cán bộ hành chính địa phương, chuyên viên kiến thiết và đại biểu quân sự. 

Tuy không bị đày ải tới những vùng rừng núi hoang vu như khu dinh điền, song dân trong các khu trù mật lại bị bộ máy chính quyền ở đây kiểm soát chặt chẽ, gắt gao. Đời sống của nhân dân trong các khu trù mật cơ cực không kém gì khu dinh điền. Nỗi bất bình của người dân đối với chế độ ngày một tăng. Chính vì vậy, khi phong trào đồng khởi nổ ra, các khu trù mật cũng bị phá hàng loạt.


____________________________
1. Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trên chiến trường B2, Sđd, tr.67.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Sáu, 2009, 11:03:24 pm

Như vậy, có thể nói chương trình cải cách kinh tế nói chung, cải cách điền địa nói riêng của Mỹ - Diệm thực chất chỉ là một trò lừa bịp, mị dân, một sự thay đổi về hình thức bóc lột. Nó chẳng những không làm cho kinh tế miền Nam phát triển, không mang lại quyền lợi gì cho đại bộ phận nông dân miền Nam, những người lao động chân chính, mà chỉ làm cho kinh tế miền Nam ngày càng lệ thuộc vào đế quốc Mỹ. Đây chính là mặt trái của chủ nghĩa thực dân mới về kinh tế.

Bộ Quốc phòng Mỹ đã thừa nhận: “Chương trình cải cách điền địa của Mỹ - Diệm không phải là phân chia ruộng đất cho người nghèo mà rút cuộc chỉ lấy lại những thứ Việt Minh đã chia để trả về cho địa chủ. Năm 1960, 75% đất đai vẫn nằm trong tay 15% dân số” 1.

Cùng với áp đặt chủ nghĩa thực dân mới về chính trị, quân sự kinh tế, Mỹ luôn coi văn hoá là một trong những công cụ quan trọng để xâm lược và nô dịch. Văn hoá thực dân mới được Mỹ tìm cách đưa vào Nam Việt Nam ngay trước khi Mỹ thế chân Pháp.

Bản tuyên bố về chính sách năm 1952 của Mỹ về các mục tiêu ở Đông Nam Á đã xác định: “Đối với các nước Đông Nam Á, nước Mỹ phải tăng cường các hoạt động tuyên truyền về văn hoá cho thích hợp với khu vực đó để thúc đẩy nhân dân ngày càng đến với thế giới tự do” 2.

Khi Mỹ đã trực tiếp nhảy vào Nam Việt Nam thì văn hoá Mỹ tràn ngập, khiến các báo chí xuất bản ở Sài Gòn hồi đó đã kêu lên: “Có thể trông thấy rất rõ tại miền Nam Việt Nam sự tràn ngập của phim ảnh, báo chí, ti vi Mỹ, sản phẩm Mỹ, sự mua chuộc các nhà trí thức, văn nghệ sĩ, ký giả . . . Sự xâm nhập vào các cơ quan giáo dục dưới hình thức cố vấn cũng là một hình thức xâm lăng văn hoá thô bạo của người Mỹ ở đây3

Để chỉ đạo và điều hành các hoạt động văn hoá ở miền Nam, ngay sau khi dựng lên chính quyền tay sai thực dân mới ở Sài Gòn, Mỹ đã đưa vào miền Nam nhiều đoàn cố vấn để giúp chính quyền Ngô Đình Diệm xây dựng hệ thống tổ chức và điều hành bộ máy thống trị văn hoá. 

Không chỉ làm cố vấn, Mỹ còn trực tiếp xuất bản một số tạp chí bằng tiếng Việt để tuyên truyền cho văn hoá Mỹ như Diễn đàn Mỹ, Đối thoại, Triển vọng, Hương quê, Thế giới tự do..., hoặc mua chuộc chủ bút của một số tờ báo, tạp chí tiếng Việt như Sáng tạo, Hiện đại, Thế kỷ XX, Gia đình, Nghiên cứu chính trị . . . để các báo này tuyên truyền tư tưởng văn hoá độc hại trong các tầng lớp nhân dân lao động ở miền Nam.

Các tổ chức văn hoá như Mặt trận bảo vệ tự do văn hoá, Hội Việt Nam văn hoá châu á , Hội văn hoá Việt Nam, Hội văn hoá Duy linh, Trung tâm văn hoá Việt Nam . . . cũng được chính quyền Sài Gòn cho phép thành lập. Mục đích không có gì khác là cổ suý cho văn minh, văn hoá Âu - Mỹ, chà đạp lên bản sắc văn hoá tốt đẹp của dân tộc.

Có thể nói, với hệ thống tổ chức hoạt động văn hoá khá chặt chẽ và những thủ đoạn lừa bịp, Mỹ - Diệm đã thực hiện một thứ văn hoá thực dân mới vô cùng độc hại ở miền Nam, lấy tư tưởng chống cộng làm mục tiêu chủ yếu. Với việc làm này, Mỹ -Diệm nhằm đánh vào truyền thống và bản sắc văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta, đánh vào sức mạnh đoàn kết, thống nhất của nhân dân ta.

Là một bộ phận của văn hoá, giáo dục dưới chế độ của Mỹ - Diệm cũng được chúng biến thành công cụ để thống trị của chủ nghĩa thực dân mới. Nhiệm vụ của nền giáo dục mà Mỹ áp đặt ở miền Nam là: “Vũ trang cho thanh niên một tinh thần quốc gia mãnh liệt, một ý chí bền bỉ đấu tranh cho tự do, dân chủ4, nhằm hướng họ vào con đường chống cộng làm tay sai cho Mỹ.


____________________________
1. Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ, Sđd, tr.40.
2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Tlđd, tr.74.
3. Lịch sử Việt Nam 1954-1955, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.170.
4. Văn hoá nguyệt san - Sài Gòn, q. 3 - 4, tháng 4-1965, tr.438.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Sáu, 2009, 12:24:07 am

Khác giáo dục dưới thời chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp chỉ chú trọng việc đào tạo quan lại, viên chức, sĩ   quan. . . làm trung gian giữa bộ máy cai trị thuộc địa của Pháp với dân bản xứ, chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ đào tạo nhiều loại cán bộ tay sai cho bộ máy nhà nước, quân đội, cảnh sát riêng. âm mưu của Mỹ muốn gạt bỏ tất cả ảnh hưởng của Pháp, nên đã từng bước xây dựng nền giáo dục mới theo kiểu Mỹ, đào tạo ra những con người trung thành với Mỹ, lệ thuộc vào Mỹ.

Đến đây, đế quốc Mỹ đã hoàn thành bước đầu việc áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới đối với nhân dân miền Nam, khác hẳn với chế độ thực dân cũ mà Pháp đã xây dựng trước đó: Chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm - một sản phẩm tất yếu của chế độ thực dân mới, đó là chính quyền phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá và ngoại giao. Chính quyền đó là cộng sự đắc lực của đế quốc Mỹ để tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực hiện chia cắt lâu dài đất nước ta.

Với việc áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm đã vi phạm toàn bộ các điều khoản của Hiệp đinh Giơnevơ và Bản tuyên bô’ cuối cùng của 9 nước thành viên tham gia hội nghị, trong đó có Hoa Kỳ, tước mất quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân miền Nam Việt Nam, dồn họ vào bước đường cùng. Muốn sống, nhân dân miền Nam buộc phải đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bọn tay sai để tự giải phóng khỏi xiềng xích của chủ nghĩa thực dân mới Mỹ. “Tức nước” ắt “vỡ bờ”, nhân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đứng lên đấu tranh chính trị, tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang tự vệ và đồng khởi đánh thắng hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới thời Aixenhao.


II- ĐẤU TRANH ĐÒI ĐỊCH THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ,
GIỮ VỮNG VÀ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG


Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam và Đông Dương được ký kết. Các nước tham gia hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia.

Theo hiệp định, quân đội Pháp phải rút khỏi các nước Đông Dương. Tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức ở từng nước để thống nhất đất nước. ở Việt Nam, thời hạn để tổ chức tổng tuyển cử là tháng 7- 1956.  Hiệp định Giơnevơ đánh dấu bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Từ đây cuộc đấu tranh của nhân dân ta chuyển sang một giai đoạn mới với những đặc điểm mới. 

Một là, từ chiến tranh chuyển sang hoà bình. Nếu trước đây toàn bộ cuộc đấu tranh, toàn bộ công tác của ta đều tiến hành trong hoàn cảnh chiến tranh, thì nay: “Chúng ta công tác và phấn đấu trong hoà bình. Đó là một sự biến đổi rất lớn, ảnh hưởng tới toàn bộ công tác của chúng ta” 1

Hai là, Bắc, Nam tạm thời chia làm hai miền. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng thuộc về ta. Miền Nam từ chỗ có chính quyền, quân đội cách mạng, nay quân đội, cán bộ tập kết ra Bắc, chính quyền giải tán, phần đất từ nam vĩ tuyến 17 trở vào tạm thời do đối phương kiểm soát. Đất nước không còn trong tình trạng chiến tranh đối chọi nhau mà chuyển sang  đấu tranh hoà bình để thống nhất Tổ quốc. Đây cũng là cuộc đấu tranh gay go, phức tạp.

Ba là, từ nông thôn chuyển vào thành thị, từ phân tán chuyển sang tập trung, miền Bắc có điều kiện cần thiết để kiến thiết một quốc gia hoàn chỉnh. Điều này đòi hỏi lãnh đạo phải tập trung, thống nhất. Đó “là một biến đổi lớn, đồng thời cũng là một cuộc đấu tranh gian khổ” . 

Bốn là, quan hệ giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia cũng có những thay đổi. Tuy tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hữu nghỉ giữa ba nước vẫn không ngừng được tăng cường và củng cố, nhưng tình hình không phân biệt ranh giới trong chiến tranh không còn nữa, mối quan hệ ba nước phải đặt trên cơ sở mới.

Năm là, thế chân Pháp, đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất của dân tộc ta. Đây là một tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực kinh tế, quân sự to lớn, nhất định chúng sẽ gây cho ta nhiều khó khăn gian khổ, hy sinh trên con đường đi tới thắng lợi cuối cùng.


_______________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.  Chính trì quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.284-285.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Sáu, 2009, 12:29:53 am
Trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhận định: “Đế quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương” và “đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương” 1

Hội nghị đã sớm đề ra phương châm, sách lược đấu tranh của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn trước mắt là: “Chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp, dựa trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được mà phấn đấu để thực hiện  hoà bình ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương, củng cố hoà bình và thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc” 2 .

Hội nghị cũng lưu ý toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta:

“Đấu tranh để giành lấy và củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc là một quá trình đấu tranh gian khổ và phức tạp. Chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo trước mọi âm mưu của đế quốc Mỹ, hiếu chiến Pháp và phe lũ. Chúng ta phải ra sức đấu tranh đến cùng, luôn luôn bồi dưỡng và nâng cao tinh thần phấn đấu, nắm vững ngọn cờ hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang trong giai đoạn trước mắt” 3

Sau Hội nghị Giơnevơ, trước sự chuyển biến của tình hình, từ ngày 5 đến ngày 7-9-1954, Bộ Chính trị đã họp và ra nghị quyết: Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng.

Trên cơ sở phân tích những đặc điểm và tình hình mới của cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ của cách mạng nước ta là: “Đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến. . . để củng cố hoà bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng Quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, đặng củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc” 4

Đối với miền Nam, Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn hiện tại là: “Lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, củng cố hoà bình, thực hiện tự do, dân chủ (tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do đi lại...), cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành động tiến công của địch, giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta” 5.

Bộ Chính trị cũng chỉ rõ phương châm của ta lúc này là:

“Tranh thủ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp, kết hợp công tác hợp pháp với công tác không hợp pháp. Đối với các tổ chức quần chúng và tổ chức đảng thì cố tranh thủ cho được tồn tại hợp pháp và hoạt động hợp pháp. Hình thức đấu tranh kịch liệt (như khởi nghĩa và chiến tranh du kích) cần đình chỉ ngay; những hình thức như biểu tình, đình công, bãi khoá, bãi thị, v.v., cũng cần sử dụng một cách thận trọng và phải tiến hành trên nguyên tắc có lý, có lợi, có mức, đừng để bọn phản động khiêu khích và tạo cơ hội cho bọn thực dân Pháp phá hoại đình chiến và nguỵ quyền khủng bố” 6.

Trước yêu cầu phát triển mau lẹ của tình hình, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 đã kịp thời chỉ ra phương hướng hành động cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta nói chung, ở miền Nam nói riêng. Nó thể hiện quyết tâm của toàn thể dân tộc ta trong cuộc đấu tranh để thống nhất Tổ quốc. Nhưng đây cũng là một nghị quyết có biểu hiện tư  tưởng hữu khuynh trong đấu tranh (phải “đình chỉ ngay” những cuộc đấu tranh du kích, khởi nghĩa) có tác động tiêu cực hạn chế các phong trào đấu tranh của nhân dân. 

Để phù hợp với tình hình mới, kịp thời chỉ đạo cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam, Bộ Chính trị quyết định giải thể Trung ương Cục miền Nam, thành lập Xứ uỷ Nam Bộ và Liên khu uỷ Khu V trực thuộc Trung ương Đảng. Riêng hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị tạm thời giao cho Liên khu uỷ Khu V phụ trách.


_______________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 15, tr.225.
2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.227, 287.
5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 15, tr.308, 310.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Sáu, 2009, 11:26:12 pm

Tháng 10-1954, tại căn cứ Chắc Băng (Cà Mau), Hội nghị thành lập Xứ uỷ Nam Bộ được tổ chức. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hữu Lầu, Hoàng Dư Hưởng, Phan Văn Đáng, Lê Toàn Thư, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Văn Linh, Phạm Thái Bướng, Nguyễn Minh Đường, Phạm Văn Xô, Phan Đức, Văn Viên được cử lành uỷ viên chính thức. Các đồng chí uỷ viên dự khuyết là Mai Chí Thọ, Võ Văn Kiệt, Võ Văn Khánh. 

Tại hội nghị, đồng chí Lê Duẩn được cử làm Bí thư và Phạm Hữu Lầu, Phó Bí thư Xứ uỷ. Sau hội nghị, Nam Bộ được tổ chức thành ba liên tỉnh uỷ và Khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn.  Liên tỉnh uỷ miền Đông Nam Bộ do đồng chí Phan Đức (Hai Đức) làm Bí thư. Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam Bộ do đồng chí Nguyễn Minh Đường (Sáu Đường) làm Bí thư. Liên tỉnh uỷ miền Tây Nam Bộ do đồng chí Phạm Thái Bướng (Ba Bướng) làm Bí thư. Khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư. Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến được phân công phụ trách công tác quân sự ở Nam Bộ. 

Những tháng đầu năm 1955, đế quốc Mỹ ráo riết thực hiện mưu đồ thế chân Pháp, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Chính quyền Diệm, theo lệnh Mỹ ra sức phá hoại Hiệp đinh Giơnevơ, cự tuyệt hiệp thương tổng tuyển cử.  Trước tình hình đó, tháng 3-1955, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ bảy. Đây là hội nghị trung ương đầu tiên kể từ khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết.

Hội nghị nhấn mạnh: “Đế quốc Mỹ đang trực tiếp can thiệp vào miền Nam ngày càng sâu, đẩy dần thực dân Pháp xuống địa vị phụ thuộc. Chúng cấu kết với phái thực dân Pháp phản hiệp định và dựa vào bọn địa chủ phong kiến và tư sản mại bản phản động nhất ở nước ta do Ngô Đình Diệm đứng đầu, hòng phá hoại hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ của nước ta, cụ thể là phá hoại kết quả của hiệp định đình chiến, phá hoại thống nhất của Việt Nam, chuẩn bị gây lại chiến tranh chống Đông D ương” 1 .

Hội nghị chỉ rõ: “Sách lược của ta hiện nay là: chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ; triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ và Pháp, giữa bọn thân Mỹ và bọn thân Pháp, giữa phái thực dân Pháp thân Mỹ và những phần tử thực dân Pháp chống Mỹ; đoàn kết bất cứ người nào mà ta có thể đoàn kết được, tranh thủ bất cứ người nào mà ta có thể tranh thủ được trung lập bất cứ người nào mà ta có thể trung lập được, cốt nhằm phân hoá kẻ thù đến cao độ và cô lập chúng, đồng thời kiếm thêm nhiều bạn cả trong nước và ngoài nước”2.

Hội nghị Trung ương lần thứ bảy đề ra những công tác cụ thể cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải thực hiện trong năm 1955 là:

1. Tiếp tục đấu tranh để thi hành hiệp định đình chiến, củng cố hoà bình và tiến tới thực hiện thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử tự do.

2. Củng cố miền Bắc về mọi mặt.

3. Giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam.

4. Thực hiện mở rộng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất trong toàn quốc.

5. Đẩy mạnh công tác ngoại giao, tăng cường đoàn kết hữu nghị với các nước bạn và tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới.

Năm tháng sau Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, tháng 8-1955, nhận thấy tình hình có những phát triển mới, Ban Chấp hành Trung ương triệu tập họp Hội nghị lần thứ tám.  Xem xét, phân tích những diễn biến ở miền Nam, một lần nữa Trung ương khẳng định:

“Kẻ thù cụ thể trước mắt của chúng ta hiện nay là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng. . .  Đế quốc Mỹ là kẻ thù đầu sỏ nguy hại nhất” 4. Nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của nhân dân ta lúc này là: “Đấu tranh kiên quyết và bền bỉ để thực hiện thống nhất nước nhà, đồng thời để củng cố hoà bình, ngăn ngừa chiến tranh trở lại ở Đông Dương” 5.


______________________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 16, tr.206, 207.
3, 4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập Sđd, t. 16, tr.207, 571, 572.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Sáu, 2009, 11:28:11 pm

Về vấn đề thống nhất đất nước, hội nghị chủ trương thực hiện thống nhất Việt Nam trên cơ sở độc lập và dân chủ và bằng phương pháp hoà bình. Đây là cuộc đấu tranh rất gian khổ và phức tạp nên Trung ương xác định thống nhất dần từng bước, nhưng cần nhận rõ “mỗi bước là một quá trình đấu tranh gay go” . Muốn giành được thắng lợi “cần phải mở rộng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất trong toàn quốc, tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình từ Bắc đến Nam” 1 .

Hội nghị thông qua cương lĩnh của Mật trận dân tộc thống nhất nhằm “Tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình trong cả nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng, giành thống nhất nước nhà, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” 2.

Hội nghị nhấn mạnh, muốn thống nhất nước nhà, “điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời phải giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam” 3.

Đường lối để củng cố miền Bắc là: “Củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội . . . Củng cố miền Bắc phải luôn luôn chiếu cố miền Nam . Củng cố miền Bắc và chiếu cố miền Nam không thể tách rời” 4.

Trung ương đặc biệt lưu ý, mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, đoàn thể và quần chúng nhân dân phải khắc phục tư tưởng sai lầm cho rằng: “Để chiếu cố miền Nam nên hạ thấp yêu cầu củng cố miền Bắc. Đồng thời cũng đề phòng tư tưởng chỉ đơn thuần củng cố miền Bắc, không chú ý đến chiếu cố miền Nam một cách thích đáng” 5.

Cũng do Nghị quyết Trung ương đề ra “chiếu cố miền Nam” mà nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và quân đội thắc mắc, hoài nghi. Một câu hỏi đặt ra là cách mạng ở miền Nam là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cả nước, tại sao lại “chiếu cố”? 

Trong khi đó cuộc chỉnh đốn tổ chức, sắp xếp biên chế trong quân đội năm 1958, ta giảm 8 vạn quân, trong đó bộ đội miền Nam ở Khu V, Nam Bộ tập kết nhiều trung đoàn, tiểu đoàn đánh giỏi, có uy tín trong nhân dân, quen thuộc địa hình chiến trường bị đưa về các nông trường quân đội làm kinh tế trong khi miền Nam đang cần họ.

Đây là chủ trương phù hợp với tình hình lúc bấy giờ nhưng còn những nhược điểm, hạn chế huy động sức mạnh cho miền Nam. Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống Mỹ - Diệm trong hoàn cảnh các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô, Trung Quốc đang thi hành chính sách chung sống hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau, đế quốc Mỹ giàu mạnh và ngoan cố quyết biến miền Nam nước ta thành một quốc gia riêng biệt chống cộng, lại có pháp lý của Hiệp đinh Giơnevơ ràng buộc trong chừng mực nhất định, nếu miền Bắc công khai ra mặt đấu tranh trực diện thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng.

Do vậy “chiếu cố miền Nam” là “sách lược của Đảng”, bảo đảm cho miền Bắc tham gia đấu tranh một cách bí mật, tránh kích thích địch gia tăng hành động quân sự quá sớm khi ta thưa chuẩn bị đầy đủ. Tuy nhiên, chiếu cố miền Nam đã hạn chế một phần sự chi viện cho miền Nam những năm đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ và chống địch tố cộng, diệt cộng, đến khi cách mạng miền Nam yêu cầu đưa đấu tranh vũ trang lên, thì ta không có đủ lực lượng tại chỗ, nên bỏ lỡ một số cơ hội giành thắng lợi lớn.

Mặc dù vậy, các nghị quyết Hội nghị Trung ương bảy và tám, Hội nghị Bộ Chính trị về cơ bản đã vạch ra đúng đường lối và chiến lược cách mạng Việt Nam nói chung, miền Nam nói riêng.

Dưới ánh sáng của đường lối cách mạng đó, nhân dân ta ở miền Nam ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết đã bước vào thời kỳ đấu tranh mới đói quyền dân sinh, dân chủ và hoà bình, đòi đối phương thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ. Mở đầu cho phong trào đấu tranh này là những cuộc mít tinh, biểu tình có tính chất biểu dương lực lượng, hoan nghênh Hiệp định Giơnevơ được ký kết, rầm rộ nổ ra ở khắp nơi trên toàn miền Nam.


____________________________
1, 2, 3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 16, tr.573, 574, 576, 577.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Sáu, 2009, 11:29:05 pm

Ngày 1-8-1954, nhân ngày ngừng bắn ở Nam Bộ, 50.000 đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn mít tinh mừng hoà bình. Đây là cuộc mít tinh lớn đầu tiên nổ ra ở trung tâm chính trị lớn nhất miền Nam. Đó là tiếng sấm báo hiệu cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn đấu tranh chính trị đòi địch thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ. 

Cùng với Sài Gòn - Chợ Lớn, tại các thành phố lớn như Huế, Đà Nẵng trong ngày 1-8-1954, mít tinh, biểu tình cũng diễn ra sôi nổi. Ở Đà Nẵng, cuộc biểu tình lôi kéo tới 25.000 người tham gia, còn ở Huế, số người tham gia lên đến 15.000. 

Cũng trong ngày 1-8-1954, tại Sài Gòn, dưới sự chỉ đạo của Khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn, các đại biểu trí thức và lao động đã tập hợp nhau lại, lập ra tổ chức Phong trào bảo vệ hoà bình Sài Gòn - Chợ Lớn. Mục đích của phong trào, như lời hiệu triệu đã nêu rõ là nhằm làm cho hoà bình ở Đông Dương được củng cố, quyền tự do, dân chủ được bảo đảm, sự thống nhất nước Việt Nam được thực hiện bằng tổng tuyển cử tự do.


Phong trào đã thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp trí thức yêu nước và tiến bộ. Những trí thức nổi tiếng và có uy tín như Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Giáo sư Phạm Huy Thông, Giáo sư Trần Kim Quang, Luật sơ Trịnh Đình Thảo, Giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng. . . được cử vào Đoàn Chủ tịch của phong trào.

Không chi có trí thức, mà đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động thuộc các cơ sở sản xuất, các đoàn thể tiến bộ, các tổ chức quần chúng. . . cũng tham gia phong trào. Phong trào lan nhanh từ Sài Gòn ra Huế và các tỉnh khác ở miền Nam.  Phong trào còn có quan hệ với cả Uỷ ban quốc tế giám sát và kiểm soát đình chiến.

Trước sự phát triển mạnh mẽ và mau lẹ của phong trào, chính quyền Diệm hoảng sợ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, bắt giữ một số lãnh tụ của phong trào như Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Giáo sư Phạm Huy Thông, Giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng. . . Mặc dù vậy, nhân dân ta ở cả miền Nam và miền Bắc kiên quyết đấu tranh đòi Diệm phải trả tự do cho những người bị bắt. Dư luận thế giới cũng ủng hộ, lên án hành động khủng bố của Diệm.

Vì vậy, đã bốn lần Mỹ - Diệm đưa các chiến sĩ của Phong trào bảo vệ hoà bình Sài Gòn - Chợ Lớn ra toà, nhưng cả bốn lần chúng đều không dám công khai tuyên án. Chỉ tính trong tháng 12-1954 đã có 3.000 trí thức, 4.000 công, thương gia, 10.000 sinh viên ký kiến nghi đòi trả tự do cho những người trong Phong trào bảo vệ hoà bình bị bắt. Cùng với sự ra đời và hoạt động của Phong trào bảo vệ hoà bình, phong trào đấu tranh chống địch khủng bố, tàn sát những người kháng chiến cũ cũng diễn ra hết sức quyết liệt. 

Tại Bến Tre, ngày 13-9-1954, hơn 1 vạn nông dân của 6 xã thuộc huyện Mỏ Cày biểu tình chống chính quyền Diệm khủng bố. Địch xả súng bắn vào đoàn biểu tình làm 1 1 người chết, 36 người bị thương. Chúng bắt đi 200 người. Căm phẫn trước hành động dã man của kẻ thù, hàng vạn đồng bào huyện Mỏ Cày, Bình Đại xuống đường biểu tình hô vang khẩu hiệu “Đả đảo Mỹ - Diệm khủng bố nhân dân”, “Mỹ - Diệm phải tôn trọng Hiệp định Giơnevơ”. Quân của Diệm bắn chết 5 người, làm bị thương 17 người, bắt đi 30 người.  Không khí đấu tranh càng thêm sôi sục. Cuộc đấu tranh lan ra toàn tỉnh Bến Tre và cả Nam Bộ.

Ở Khu V, ngày 15-9- 1954, 5.000 đồng bào Kinh, Thượng - huyện An Khê biểu tình chống địch khủng bố, đàn áp. Tại các tỉnh Trung Bộ, đấu tranh chống Mỹ - Diệm khủng bố diễn ra khắp nơi. Ngày 21-1 1-1954, nhân dân xã Tịnh Thiện, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi lợi dụng mâu thuẫn giữa các nhóm tay sai ở địa phương đã bao vây, bí mật thủ tiêu 8 tên cảnh sát nguỵ từ quận Sơn Tịnh kéo xuống xã khủng bố nhân dân.

Bên cạnh phong trào bảo vệ hoà bình và đấu tranh chống định khủng bố, một số phong trào đấu tranh khác nổi lên ở nhiều nơi, tập hợp được đông đảo quần chúng tham gia như: phong trào đoàn kết giúp đỡ chống đói và đấu tranh đòi chính quyền Diệm cứu đói của nhân dân Quảng Trị - Thừa Thiên; phong trào cứu tế nạn nhân bị tai nạn do Diệm gây ra trong các cuộc xung đột với giáo phái ở Sài Gòn; phong trào chống cướp đất đuổi nhà; phong trào chống các trò hề “trưng cầu dân ý”, “bầu cử quốc hội”; phong trào đấu tranh của công nhân lao động đòi quyền dân sinh, dân chủ, đòi cải thiện đời sống và tôn trọng tự do nghiệp đoàn . . .


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Sáu, 2009, 11:30:55 pm

Nổi bật là phong trào đòi hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Phong trào phát triển khá rầm rộ kể từ khi Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ra tuyên bố. “Sẵn sàng mở hội nghị hiệp thương với nhà đương cục ở miền Nam bắt đầu từ ngày 20-7-1955 để bàn vấn đề tổ chức tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc vào tháng 7-1956”.

Cũng trong tháng này, Mặt trận Liên Việt Nam Bộ kêu gọi các tầng lớp nhân dân và ngoại kiều đấu tranh đòi mở hội nghị hiệp thương. Hưởng ứng lời kêu gọi này, ngày 3-7-1955, công nhân và nhân dân lao động Sài Gòn tổ chức hai cuộc biểu tình lớn đòi hiệp thương tổng tuyển cử và trả tự do cho những người trong Uỷ ban cứu trợ nạn nhân chiến tranh.

Trong đợt ngày 20-7-1955, riêng ở Nam Bộ có 500.000 lượt người tham gia.  Tại miền Trung, trong tháng 7 và tháng 8- 1955, ở hầu hết các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận, Ninh Thuận, nhân dân liên tiếp biểu tình, đưa kiến nghị đòi hiệp thương. Cùng thời gian này, nhân dân Thừa Thiên mít tinh, lấy được 7 vạn chữ ký gửi lên chính quyền nguỵ đòi chấm dứt khủng bố, đòi hoà bình.  Ngoài các phong trào kể trên, ở miền Nam còn có phong trào đấu tranh của đồng bào miền Bắc bị cưỡng ép di cư vào Nam.

Có thể nói, từ giữa năm 1954 đến cuối năm 1955, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam diễn ra sôi nổi và rộng khắp, thu hút đông đảo quần chúng tham gia.  Nội dung đấu tranh hết sức phong phú, từ đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ đến chống khủng bố, đàn áp... nhưng tập trung nhất vẫn là đòi địch phải thi hành đúng Hiệp định Giơnevơ.  Phong trào đã thu được kết quả, làm phân hoá hàng ngũ kẻ thù, buộc địch phải chùn bước.

Mặc dù vậy, trong hai năm đầu đấu tranh chính trị đòi địch thi hành Hiệp định Giơnevơ, ta còn thiếu sót trong việc vận dụng phương châm, sách lược và tổ chức đấu tranh, có nơi sớm bộc lộ lực lượng, phong trào bị tổn thất trước sự khủng bố của địch, nhất là khi địch tiến hành các chiến dịch tố cộng.

Thực tiễn hai năm đấu tranh chính trị, chứng tỏ, với “chế độ độc tài phát xít của tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ phản động nhất” mà Mỹ dựng lên ở miền Nam, thì đấu tranh bằng phương pháp hoà bình là không có hiệu quả. Đảng phải kịp thời chuyển hướng đấu tranh tìm ra phương pháp và hình thức thích hợp, nhằm giữ gìn và phát triển lực lượng để khi có thời cơ kịp thời phát động quần chúng đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân.

Tháng 6- 1956, Bộ Chính trị họp và ra nghị quyết về tình hình, nhiệm vụ và công tác miền Nam. Bộ Chính trị khẳng định: "tính chất cuộc vận động cách mạng của ta ở miền Nam là dân tộc và dân chủ. Nhiệm vụ cách mạng của ta ở miền Nam là phản đế và phản phong kiến” 1.

Tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp nên cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam nhất định phải kéo dài và có nhiều khó khăn, gian khổ. Bởi vậy chúng ta phải chọn:

“Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của các giáo phái chống Diệm” 2.

Bộ Chính trị chủ trương: “Cần củng cố lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang. Tổ chức tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết” 3. Bộ Chính trị coi việc củng cố Đảng ở miền Nam là một trọng tâm công tác có tính nhất quyết định.

Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6-1956 đánh dấu sự chuyển hướng rất quan trọng trong chỉ đạo cách mạng ở miền Nam. Nghị quyết chỉ ra những vấn đề cơ bản của cách mạng miền Nam như vấn đề vũ trang tự vệ để bảo vệ phong trào đấu tranh của quần chúng, bảo vệ cơ sở và cán bộ, vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng, vấn đề xây dựng Đảng và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ - Diệm.


________________________
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 17, tr.224, 225, 228.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Sáu, 2009, 11:34:24 pm

Hai tháng sau, Hội nghị Bộ Chính trị, tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn - Uỷ viên Bộ Chính trị, người trực tiếp thay mặt Ban Chấp hành Trung ương chỉ đạo cách mạng miền Nam, qua hoạt động thực tiễn tại miền Nam, kết hợp vận dụng quy luật đấu tranh cách mạng vào hoàn cảnh cụ thể của ta, đã thảo ra Đề cương Đường lối cách mạng miền Nam. 

Đề cương khẳng định: “Chính quyền miền Nam hiện nay không phải chỉ là một chính quyền của đế quốc, phong kiến bại trận, nó là một chính quyền thực dân kiểu mới của một đế quốc xâm lược đương muốn gây chiến tranh, là đế quốc Mỹ. . . Chính bọn đế quốc xâm lược muốn gây chiến tranh này đương cầm đầu bọn phong kiến Ngô Đình Diệm hiếu chiến, trả thù, sự câu kết ấy đã phát sinh ra một chế độ độc tài phát xít tàn ác thâm độc” 1.

Vì vậy, nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là “Phải đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Mỹ - Diệm, thực hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính chất độc lập dân tộc, để giải phóng nhân dân miền Nam ra khỏi ách đế quốc, phong kiến, độc tài phất xít Mỹ - Diệm để cùng với toàn quốc thực hiện hoà bình, thống nhất, độc lập dân tộc” 2.

Đường lối cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chỉ đạo cách mạng miền Nam. Tài liệu này cùng với các nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị đã chỉ đạo cách mạng miền Nam chuyển hướng đấu tranh đúng đắn.

Dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng và Đường lối cách mạng miền Nam, tháng 12-1956, Xứ uỷ Nam Bộ đã triệu tập hội nghị nhằm đánh giá tình hình, đề ra phương hướng và nhiệm vụ cấp bách cho cách mạng miền Nam. 

Xứ uỷ nhận định: “Chế độ Diệm là chế độ độc tài, độc đoán cá nhân, gia đình và một nhóm người thân tín Diệm, chúng là tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ, chúng đang thực hiện một chính sách hung bạo, thẳng tay áp bức bóc lột nhân dân, tích cực phá hoại hoà bình, thống nhất, âm mưu chia cắt nước ta lâu dài, ráo riết chuẩn bị chiến tranh đánh miền Bắc” 3.

Xứ Uỷ đề ra nhiệm vụ cho các đảng bộ ở Nam Bộ: “1-Chống chính sách phát xít của Mỹ - Diệm về chính trị, kinh tế, đòi tự do cơm áo; 2- Chống chính sách gây chiến, đòi hoà bình thống nhất, trước hết đòi quan hệ hai miền; 3- Xây dựng thực lực của ta, chủ yếu là củng cố Đảng, củng cố khối công - nông liên minh, mở rộng mặt trận dân tộc, đi sâu vào các cơ sở chính quyền của Diệm” 4.

Ở Khu V, cuối năm 1957, cán bộ, đảng viên trong khu đã được quán triệt Nghị quyết Bộ Chính trị (6-1956) và học tập tài liệu Đường lối cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn. Giữa năm 1958, Liên khu uỷ họp ra nghị quyết về xây dựng căn cứ địa cách mạng và bước đầu xây dựng lực lượng vũ trang.

Liên khu uỷ chủ trương: “Cần củng cố lực lượng vũ trang và nửa vũ trang hiện có và xây dựng căn cứ địa cách mạng làm chỗ dựa, đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang” 5.

Dựa vào điều kiện cụ thể của địa phương, Liên khu uỷ chỉ đạo đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở miền núi và xây .  dựng căn cứ địa miền núi. Phương châm hoạt động là: “kết hợp đấu tranh vũ trang bộ phận với đấu tranh chính trì . . .  phải biết kết hợp đấu tranh vũ trang tự vệ hay đấu tranh vũ trang bộ phận trong những hoàn cảnh nhất định, mức độ nhất định nhằm mục đích hạn chế tính chất phát xít của địch, mở rộng cơ sở chính trị của ta” 6.


_____________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 17, tr. 787.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 17, tr. 788.
3, 4. Xứ uỷ Nam Bộ: Nhiệm vụ năm 1957, tài liệu lưu trữ Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
5. Nghị quyết Liên khu uỷ V (giữa năm 1958), tài liệu lưu trữ Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
6. Chỉ thị của Liên khu uỷ V về xây dựng căn cứ miền núi cuối năm 1958, tài liệu lưu trữ Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Sáu, 2009, 11:35:17 pm

Đến đây có thể thấy, từ giữa năm 1956, với Nghị quyết Bộ Chính trị, rồi Đường lối cách mạng miền Nam, Nghị quyết Xứ uỷ Nam Bộ, Liên khu uỷ V, Đảng ta đã có chuyển hướng rõ rệt về đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam, trong đó vai trò của lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang được chú ý hơn. Nhờ vậy phong trào cách mạng ở miền Nam từ năm 1957 có chuyển biến rõ rệt.
 
Đấu tranh chính trị tuy không sôi nổi, rầm rộ thành những đợt, những cao trào như thời gian trước, song mỗi năm, số lượt người tham gia đấu tranh vẫn tăng lên. Nếu năm 1957 chỉ có 2 triệu lượt người tham gia đấu tranh, thì năm 1958 là 3,7 triệu và năm 1959 lên tới gần 5 triệu lượt.  Nội dung đấu tranh tập trung vào đòi các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, chống độc tài phát xít. . .

Các cuộc đấu tranh được tổ chức chu đáo, có sự lãnh đạo chặt chẽ hơn.  Tiêu biểu là cuộc biểu tình ngày 1-5-1957 ở Sài Gòn có tới 28 vạn người tham gia. Ngày 1-5-1958, cũng ở Sài Gòn, biểu tình lên tới nửa triệu người. Quyết liệt hơn cả là đấu tranh chống địch tố cộng, diệt cộng. Phong trào này diễn ra rộng khắp với nhiều hình thức phong phú. ở các tỉnh Bà Rịa, Long An, Bến Tre, Chợ Lớn, bà con nông dân viện cớ bận việc đồng áng từ chối học tập tố cộng do địch tổ chức. Nếu không tránh được, khi địch bắt học thì bà con thay nhau chất vấn đội tố cộng làm buổi học không có kết quả.

Ở Khu V, địch bắt dân tập trung tại sân đình làng hoặc trụ sở nguỵ quyền xã học tập tố cộng, phát giác cán bộ nằm vùng, ly khai Đảng, xé cờ Tổ quốc, v.v. . Nhiều người vin cớ ốm đau không đi. Một số bị địch lùa đến chỗ tập trung thì phần đông bà con ngồi im, không “tố”, không hô khẩu hiệu, nhưng lại phẫn nộ đả đảo tố cộng, vạch trần bộ mặt phản động bán nước của bọn tay sai. 

Ở huyện Đại Lộc (Quảng Nam), nhân dân đã biến buổi học tố cộng thành cuộc đấu tranh vạch mặt kẻ thù, đòi chính quyền phải trả tự do cho những người bị bắt và trừng trị bọn ác ôn.  ở nhiều nơi, nhân dân ta kết hợp đấu tranh chống địch tố cộng với chững bắt lính, chống dinh điền, chống cướp đất, chống tăng tô . . .

Nét nổi bật trong phong trào đấu tranh chống địch tố cộng của nhân dân miền Nam trong những năm 1957 - 1959 là sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa đấu tranh của nông dân ở nông thôn với các tầng lớp nhân dân lao động ở thành thị, đặc biệt là sự liên kết của phong trào công nhân. Hầu như mỗi khi có một cuộc đấu tranh của ngành sản xuất nào đó lập tức các ngành khác cùng hưởng ứng, tạo nên quy mô lớn. Chẳng hạn khi công nhân bến tàu Lăng Tô đình công một tuần đòi tăng lương (1957) thì có hàng ngàn công nhân Thương Khẩu ủng hộ. Công nhân hãng dầu Catex bãi công (28-2- 1958) thì công nhân hãng dầu Shell, đèn Chợ Quán, công nhân xe lửa... cùng phối hợp đấu tranh. 

Sự phối hợp trên chứng tỏ ý thức chính trị, trình độ tổ chức, chỉ đạo đấu tranh của cán bộ, đảng viên cũng như các tầng lớp nhân dân lao động được nâng lên rõ rệt. Điều này càng chứng minh chất lượng đấu tranh chính trì đã cao hơn thời gian trước.

Do chỉ sử dụng hình thức đấu tranh hợp pháp, đấu tranh chính trị đơn thuần nên nhiều tổ chức đảng ở cơ sở các tỉnh đồng bằng tan vỡ. Tình hình cách mạng miền Nam mỗi lúc một khó khăn. Các cấp uỷ đảng Nam Bộ, Khu V bắt đầu chú trọng xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang tuyên truyền, vũ trang tự vệ, xây dựng căn cứ để yểm trợ cho đấu tranh chính trị chống địch tố cộng, diệt cộng.

Từ giữa năm 1957 những khu căn cứ cách mạng hình thành: căn cứ U Minh (Tây Nam Bộ), Đồng Tháp Mười (Trung Nam Bộ), Chiến khu Dương Minh Châu, Chiến khu Đ đồng Nam Bộ) có từ thời chống Pháp, nay được xây dựng và củng cố. Nét mới đáng chú ý trong thời kỳ này là ở Nam Bộ, trong khi chống địch tố cộng dồn dân, một số gia đình kháng chiến cũ, gia đình có người đi tập kết và quần chúng cách mạng ở các huyện Ngọc Hiển, Trần Văn Thời, Cái Nước, Thới Bình (Cà Mau) đã vào rừng cư trú từ phía nam U Minh đến rừng đước Ngọc Hiển, hình thành những làng rừng đầu tiên. Tỉnh uỷ Cà Mau lãnh đạo xây dựng những làng rừng này thành những căn cứ cách mạng.

Đến cuối 1958, tỉnh Cà Mau đã xây dựng được 15 làng rừng với 20.000 dân. Đây là những làng, xã cách mạng tự do đầu tiên được thiết lập ở miền Nam, là những căn cứ đứng chân của lực lượng cách mạng, nơi tích trữ vật chất cho kháng chiến.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Sáu, 2009, 11:44:01 pm

Tại vùng căn cứ miền Đông Nam Bộ, Xứ uỷ tập trung các đội nhóm vũ trang và điều thêm 2 đại đội từ miền Tây Nam Bộ lên thành lập được 6 đại đội vũ trang (C50, C60, C70, C80, C200, C300). Một số tỉnh thành lập đơn vị vũ trang. Đến cuối năm 1957, toàn Nam Bộ đã có trên 30 đại đội vũ trang.  Tháng 10-1957, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của miền Đông Nam Bộ cỡ tiểu đoàn chính thức được thành lập 1. Đó là Tiểu đoàn 250. Giữa năm 1958, Bộ Tư lệnh miền Đông Nam Bộ được tổ chức để chỉ huy lực lượng vũ trang Đông Nam Bộ. 

Ở Khu V, mùa Hè năm 1958, Liên khu uỷ họp, quyết định xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Tây Nguyên và miền tây các tỉnh Trung Bộ. Cuối năm 1958 đã có nhiều trung đội vũ trang đứng chân trên các vùng căn cứ miền Trung được thành lập tại các vùng căn cứ địa cách mạng.

Nhận thấy tầm quan trọng của Tây Nguyên trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, mùa Thu năm 1958, Trung ương đã ra chỉ thị về nhiệm vụ trước mắt ở Tây Nguyên, trong đó nêu rõ: “Xây dựng Tây Nguyên thành căn cứ cách mạng của ta ở miền Nam, phá âm mưu xây dựng trung tâm căn cứ của Mỹ - Diệm, tạo điều kiện đón thời cơ, tranh thủ chủ động trong mọi tình thế” 2 .

Cuối năm 1958, nhiều căn cứ đã hình thành ở Hiên (Quảng Nam), Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tư (Quảng Ngãi), Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ Lồ, Ma Dù (Phú Yên), Bác Ái (Ninh Thuận) . . .

Cùng với sự hành thành và phát triển của các lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng, từ năm 1957 hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ gian xuất hiện ngày càng nhiều ở khắp các địa phương. Cuối năm bắt đầu có những trận đánh của các đơn vị tập trung cỡ nhỏ nhằm hạ uy thế địch, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, bảo vệ cán bộ và giải quyết một phần nhu cầu vũ khí, trang bị của các lực lượng vũ trang.

Chống địch tố cộng, diệt cộng lúc này không chỉ đấu tranh chính trị đơn thuần, mà đã có vũ trang hỗ trợ. Nhân dân miền Nam khéo kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với vũ trang hỗ trợ trong những điều kiện cụ thể đã đẩy lùi địch từng bước, những tên ác ôn, những đội bình định đêm đêm phải về quận hoặc căn cứ quân sự của chúng để lẩn trốn. 

Thanh thế của cách mạng đã cắm rễ sâu trong nhân dân, củng cố niềm tin cho họ. Lực lượng vũ trang cách mạng tuy còn nhỏ, nhưng chẳng những nó hỗ trợ trực tiếp cho nhân dân đấu tranh chính trị chống địch tố cộng, mà còn mở những trận tiến công đánh vào nới đóng quân của địch, diệt đồn bốt và sinh lực, làm cho địch hoang mang. Nổi bật trong những tháng cuối năm 1957 là các trận tiến công của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ.

Ngày 10-8-1957, bộ đội tỉnh Thủ Dầu Một, Đại đội 20 của Tây Ninh, Đại đội 60 của miền Đông tiến công thị trấn Minh Thạnh (Thủ Dầu Một), diệt bọn cảnh sát và quân nguỵ, làm chủ thị trấn, thu 10 xe GMC, nhiều vũ khí, lương thực, tiền bạc và các chiến lợi phẩm khác. Tuy không diệt được nhiều sinh lực địch, song đây là một trận đánh có quy mô tương đối lớn của lực lượng vũ trang tập trung miền Đông Nam Bộ vào thời điểm đó, gây tiếng vang lớn.

Hơn một tháng sau, ngày 18-9-1957, lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hoà (Đại đội 250) tiến công Trại Be, một cơ sở khai thác gỗ của Trần Lệ Xuân, đồng thời cũng là vị trí quân sự án ngữ phía nam Chiến khu Đ do một tiểu đoàn bộ binh và một số cảnh sát dã chiến, thám báo nguy đóng giữ. Bị đánh bất ngờ, quân địch ở đây không kịp trở tay, ta nhanh chóng diệt 1 đại đội, làm thiệt hại nặng 2 đại đội khác, thu 80 xe quân sự và 80 khẩu súng.

Tháng 12-1957, địch dùng một tiểu đoàn càn vào căn cứ của ta, lực lượng vũ trang ta ở miền Đông tổ chức trận phục kích ở Lò Than (Biên Hoà) diệt 1 đại đội địch, bẻ gãy cuộc càn của địch.

Cùng vào thời gian này, ở đồng bằng sông Cửu Long, lực lượng vũ trang các tỉnh tích cực hoạt động vũ trang, tuyên truyền. ở Cà Mau, Tiểu đoàn Ngô Văn Sở diệt ác ôn, phát động quần chúng đấu tranh chống địch tố cộng. ở Sóc Trăng, Tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng phục kích diệt 1 trung đội biệt kích của quận Phước Long, thu 12 súng, sau đó đột nhập vào thị trấn Ngã Năm, tuyên truyền phát động quần chúng đấu tranh.


_______________________________
1. Danh nghĩa là tiểu đoàn, thực chất quân số chỉ tương đương đại đội.
2. Những sự kiện lịch sử Đảng, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985, tr. 102. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 12:04:51 am

Ở tỉnh Vĩnh Long, Tiểu đoàn Trần Hưng Đạo tiến công địch ở xã Loan Mỹ, huyện Tam Bình diệt 1 trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Bước sang năm 1958, hoạt động vũ trang, tuyên truyền đã trở thành phổ biến. Hàng loạt tên ác ôn khét tiếng bị trừng trị ở Cà Mau, Cần Thơ, Bến Tre . . .  nhiều đồn bốt địch bị tiến công, tiêu diệt.

Trong lúc đó, ở miền công Nam Bộ đã xuất hiện những những trận đánh quy mô tương đồi lớn như trận tiến công quận lỵ Dầu Tiếng (10-10-1958), ở phía bắc thị xã Thủ Dầu Một, cách Sài Gòn khoảng 70km. Lực lượng địch ở đây có 2 tiểu đoàn cộng hoà, 1 đại đội và 1 trung đội bảo an cùng lực lượng cảnh sát, dân vệ tại chỗ. Lực lượng ta có 2 đại đội của miền Đông, bộ đội tỉnh Tây Ninh, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, tổng cộng khoảng 1.500 người.

Đêm 10 rạng ngày 11-10- 1958, trận đánh bắt đầu. Ta nổ súng khống chế đồn Bến Củi rồi tiến công vào quận lỵ Dầu Tiếng. Sau 30 phút chiến đấu, ta diệt và làm bị thương 200 tên, bắt 30 tên, thu nhiều súng và đồ dùng quân sự, làm chủ quận lỵ suốt 24 giờ. Quân địch đóng ở 20 đồn bốt xung quanh hoang mang bỏ chạy.

Đây là trận đánh lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, cũng là trận đầu tiên trong không chiến chống Mỹ ta đánh diệt chi khu, quận lỵ. Những trận đánh này thể hiện thế và lực mới của cách mạng ở miền Nam đang lên có tác dụng củng cố niềm tin, động viên, khích lệ nhân dân miền Nam đấu tranh chống Mỹ - nguỵ.

Nhìn chung, trong năm 1958, cách mạng miền Nam chuyển biến tích cực. Hoạt động diệt ác, trừ gian diễn ra liên tục đã phần nào hỗ trợ cho đấu tranh chính trị của quần chúng phát triển, ta đã tạo được những nhân tố cơ bản để tiến lên. Mặc dù vậy, đường lối đấu tranh chưa được xác định cụ thể cho sát với thực tế diễn biến của tình hình. Việc chỉ đạo thực hiện cũng thiếu thống nhất, trong khi đó Mỹ - Diệm đẩy mạnh tố cộng, diệt cộng gây cho ta tổn thất không nhỏ. Cách mạng ở miền Nam vẫn chưa ra khỏi thời kỳ khó khăn.


III- XÂY DỰNG, CỦNG CỐ MIỀN BẮC LÀM “CÁI GỐC”, “CÁI NỀN”
CHO CUỘC ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM


Trong lúc nhân dân ta ở miền Nam kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới thì ở miền Bắc, nhân dân ta khẩn trương xây dựng, củng cố miền Bắc về mọi mặt, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Miền Bắc là cái nền, cái gốc của cuộc đấu tranh hoàn thành giải phóng dân tộc, thực hiện thống nhất nước nhà” 1.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương bảy (3- 1955) và Hội nghị Trung ương tám (8- 1955) cũng xác định: Miền Bắc là chỗ đứng của ta, bất kể tình huống nào, miền Bắc cũng phải được củng cố. “củng cố miền Bắc về mọi mặt cũng là nhiệm vụ rất quan trọng, vì miền Bắc có được củng cố ta mới có đủ lực lượng để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc” 2.

Để củng cố miền Bắc, việc đầu tiên chúng ta phải làm là tiếp thu, tiếp quản các vùng quân Pháp rút đi. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề bởi trong quá trình rút khỏi miền Bắc, thực dân Pháp cấu kết với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai thực hiện nhiều thủ đoạn nham hiểm như dụ dỗ, cưỡng ép dân di cư vào Nam, phá hoại, di chuyển những tài sản, vật tư, máy móc, đốt hoặc lấy đi các hồ sơ, tài liệu, đóng cửa các nhà máy, hãng buôn, trường học, sa thải công nhân. . . gây cho ta nhiều khó khăn trong việt tiếp thu và sử dụng các cơ sở kinh tế, văn hoá chúng để lại.

Chúng còn cho nổ mìn phá hoại các công trình công cộng, những di tích lịch sử, văn hoá như chùa Một Cột (Hà Nội), cầu Đồng Lạc (Vĩnh Yên), cầu Thạch Lỗi (Sơn Tây), Nhà máy điện Uông Bí... gây ra những vụ phá rối trật tự trị an ở Bùi Chu (Nam Định), Phát Diệm (Ninh Bình), Ba Làng (Thanh Hoá) , Diễn Châu (Nghệ An) . . .


_____________________________
1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.8, tr.189. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 16, tr.209.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 12:06:28 am

Quá trình tiếp quản các thành phố, thị xã, nông thôn là quá trình nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đấu tranh chống địch di chuyển, phá hoại tài sản, cưỡng ép đồng bào di cư và tổ chức xây dựng chính quyền nhân dân.  Tại Hà Nội, dưới sự lãnh đạo của Trung ương, Thành uỷ Hà Nội đã chỉ đạo công nhân, viên chức và các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống các thủ đoạn phá hoại của địch.  Công nhân Nhà máy điện Yên Phụ, Nhà máy điện Bờ Hồ, Nhà máy nước, Nhà máy xe lửa Gia Lâm, Ga Hàng Cỏ...  đấu tranh giữ máy móc thiết bị, bảo đảm điện, nước phục vụ nhân dân trong những ngày tiếp quản.

Tại các cơ sở y tế như Bệnh viện Bạch Mai, Phủ Doãn, các công sở, trường học... nhân viên, công chức các cơ quan tìm mọi cách giấu thuốc men, dụng cụ y tế, các hồ sơ, tài liệu, phương tiện... không cho địch đốt phá hoặc mang đi. 

Trong vòng 80 ngày thực hiện tập kết chuyển quân theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, Hà Nội đã có 20 cuộc đấu tranh, đáng chú ý là hai cuộc đấu tranh lớn của công nhân Nhà máy điện Yên Phụ và Nhà máy điện Bờ Hồ. Kết quả, ta buộc địch phải trả lại hết số than mà chúng đã chuyển đi, bảo đảm đủ số than dự trữ cho đến ngày tiếp quản. 

Hải Phòng, Quảng Ninh - vùng 300 ngày chuyển quân, tập kết - tình hình diễn ra phức tạp hơn nhiều. Đấu tranh ở đây khá quyết liệt. Tiêu biểu là đấu tranh của 2.000 công nhân và nhân dân lao động chống địch tháo dỡ Nhà máy nước Hải Phòng ngày 26- 11- 1954. Địch đàn áp làm 7 người bị thương nặng, 250 công nhân bị bắt. Tính đến tháng 3- 1955, ở Hải Phòng đã diễn ra hơn 100 cuộc đấu tranh, Hồng Gai có 30 cuộc với hàng vạn công nhân mỏ than tham gia.

Vấn đề quan trọng nhất trong việc tiếp quản theo tinh thần Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 là “phòng ngừa tình trạng hỗn loạn: phòng ngừa bọn phản động, bọn lưu manh, côn đồ lén lút trong thành phố lợi dụng thời cơ quấy rối, phòng ngừa những hành động vô tổ chức, vô kỷ luật, vô trật từ có thể xảy ra trong một số bộ đội và đơn vị, trong một số dân quân du kích ở nông thôn và quần chúng nông dân vào thành” 1.

Nhận thức sâu sắc điều này, các tổ chức đảng hết sức coi trọng công tác giáo dục cán bộ, đảng viên, bộ đội, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, giữ vừng ý chí chiến đấu.  Tám chính sách của Chính phủ đối với các thành thị mới được giải phóng và 10 điều kỷ luật đối với quân đội, cán bộ, nhân viên làm công tác tiếp quản được quán triệt đầy đủ tới từng người. Nhờ vậy, việc tiếp quản các thành thị lớn và vùng nông thôn mới giải phóng ở miền Bắc được.thực hiện tốt đẹp. Từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 8-1954, ta tiếp quản nhanh gọn các vùng nông thôn. Ngày 10-10-1954, Thủ đô Hà Nội được hoàn toàn giải phóng. Ngày 16-5-1955, tên lính viễn chinh cuối cùng của thực dân Pháp phải rút khỏi miền Bắc nước ta. Một nửa đất nước Việt Nam hoàn toàn về tay nhân dân .

Cùng với tiếp quản vùng mới giải phóng, Đảng, Nhà nước ta và nhân dân miền Bắc lo đón tiếp và bố trí công việc, học tập cho 120.000 cán bộ, bộ đội, đồng bào miền Nam tập kết; tiếp thu 68.000 quân nhân, cán bộ và đồng bào yêu nước bị Pháp bắt trong kháng chiến trao trả cho ta theo quy định của Hiệp định Giơnevơ. Đây là một công việc lớn, dù có nhiều khó khăn, Đảng, Nhà nước ta đã tập trung công sức, tiền của chăm lo cho lực lượng này vẹn toàn, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Song song với những việc trên, để củng cố miền Bắc, trước hết phải kiện toàn chính quyền nhân dân các cấp, đồng thời hoàn thành cải cách ruộng đất vì “có đẩy mạnh cải cách ruộng đất mới đoàn kết được đại đa số nhân dân, củng cố được công - nông liên minh, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng; mới có thể khôi phục kinh tế một cách nhanh chóng và có thêm điều kiện tăng cường Quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng” 2.

Cải cách ruộng đất đã được Đảng và Nhà nước ta tiến hành từ cuối năm 1953, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta bước vào giai đoạn quyết liệt. Bước đầu, ta làm thí điểm ở 6 xã thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (từ ngày 25-12-1953 đến ngày 30-3-1954).  Miền Bắt được hoàn toàn giải phóng, Đảng ta chủ trương tiếp tục hoàn thành cải cách ruộng đất nhằm chia ruộng đất cho nông dân, xoá bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ.


_____________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 15, tr.291.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 16, tr.210.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 12:08:08 am

Sau đợt 1 làm thí điểm, đợt 2 cải cách ruộng đất được bắt đầu từ ngày 23- 10- 1954 đến ngày 15- 1-1955 ở 210 xã thuộc các tỉnh Thái Nguyên (22 xã), Phú Thọ (100 xã), Bắc Giang (22 xã) và Thanh Hoá (66 xã).

Đợt 3 cải cách ruộng đất được tiến hành từ ngày 18-2-1955 đến ngày 20-6-1955 ở 466 xã thuộc các tỉnh Phú Thọ (106 xã), Bắc Giang (84 xã), Vĩnh Phúc (65 xã), Sơn Tây (22 xã), Thanh Hoá (115 xã), Nghệ An (74 xã).

Đợt 4 từ ngày 27-6 đến ngày 31-12-1955) được thực hiện ở 859 xã thuộc Phú Thọ (17 xã), Bắc Giang (1 xã), Vĩnh Phúc (111 xã), Bắc Ninh (60 xã), Sơn Tây (71 xã), Hà Nam (98 xã), Ninh Bình (47 xã), Thanh Hoá (207 xã), Nghệ An (5 xã), Hà Tĩnh (227 xã).

Đợt cuối cùng và cũng là đợt lớn nhất được tiến hành từ ngày 25-12-!955 đến ngày 30-7-1956 tại 1.720 xã thuộc 20 tỉnh và 2 thành phố Hà Nội, Hải Phòng. Trong đợt này, ta đã  tịch thu, trưng thu, trưng mua của địa chủ 334.000 ha ruộng đất chia cho nông dân.

Trong toàn bộ cuộc cải cách ruộng đất, ta đã tịch thu, trưng thu, trưng mua 810.000 ha ruộng đất, 106.448 trâu, bò, 148.565 ngôi nhà và 1.846.000 nông cụ các loại do giai cấp địa chủ chiếm giữ chia cho 2. 104. 138 hộ nông dân lao động 1.
 
Với thành tựu này, ta vĩnh viễn xoá bỏ chế độ phong kiến về chiếm hữu ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, giải phóng giai cấp nông dân, tăng cường và củng cố khối liên minh công - nông. Từ người nô lệ lên địa vị làm chủ là sự đổi đời của nông dân miền Bắc. Mơ ước ngàn đời của họ đã được thực hiện. Đó là thắng lợi to lớn của cải cách ruộng đất, là thành quả của cách mạng dân tộc, dân chủ. 

Mặc dù vậy, trong cải cách ruộng đất, chúng ta đã phạm nhiều sai lầm, nhất là trong việc chỉ đạo thực hiện. “Đó là những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến, kéo dài về nhiều mặt, những sai lầm về những vấn đề nguyên tắc, trái với chính sách của Đảng, trái với nguyên tắc và điều lệ của một Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, trái với chế độ pháp luật của Nhà nước dân chủ nhân dân. Những sai lầm đó không những đã hạn chế những thắng lợi đã thu được, mà lại gây ra những tổn thất rất lớn cho cơ sở của Đảng, của chính quyền, của các tổ chức quần chúng, ảnh hưởng tai hại đến chính sách mặt trận của Đảng ở nông thôn cũng như ở thành thị, ảnh hưởng nhiều đến tình cảm và đời sống bình thường của nhân dân ta, làm cho tình hình nông thôn căng thẳng, ảnh hưởng đến tinh thần đoàn kết và phấn khởi trong Đảng và trong nhân dân, đến công cuộc củng cố miền Bắc, đến sự nghiệp đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà” 2.

Trong chỉnh đốn tổ chức đã vi phạm điều lệ, nguyên tắc của Đảng, phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài nhiều mặt, đã xử lý oan nhiều cán bộ, đảng viên, gây căng thẳng ở nhiều vùng nông thôn. Nguyên nhân sai lầm này là do không nắm vững những biến đổi về sở hữu ruộng đất, về giai cấp địa chủ và chế độ phong kiến ở nông thôn miền Bắc sau năm 1954. 

Mặt khác, không giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, áp dụng máy móc, giáo điều kinh nghiệm của nước ngoài nên quá trình chỉ đạo, cán bộ ta đã cường điệu tính chất đấu tranh giai cấp ở nông thôn, ngả sang tả, đánh nhầm vào nội bộ Đảng, nội bộ nông dân. Lợi dụng sai lầm cải cách ruộng đất, một số văn nghệ sĩ từng đi theo kháng chiến đã dao động, hoài nghi chính sách của Đảng, quay sang viết báo, làm thơ, viết văn. . . đả kích, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, chế độ của Nhà nước, truyền bá tư tưởng tự do tư sản. Họ cho xuất bản tờ báo Nhân văn và tập san Giai phẩm in những nội dung độc hại trên.

Đợt cải cách ruộng đất sắp kết thúc, nhiều đơn, thư kêu oan của những cán bộ cách mạng bị quy sai đã đến Trung ương và Bác Hồ, giúp cho Đảng nhận ra sai lầm trong cải cách và chỉnh đốn tổ chức, lập tức Đảng chỉ thị phải sửa chữa sai lầm ngay.


______________________________
1. Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1968, tr. 136.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 17, tr.439-540.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 12:10:02 am

Ngày 18-8-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào nông thôn và cán bộ, đảng viên. Người nêu rõ thắng lợi to lớn của cải cách ruộng đất và chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình thực hiện. Người nêu hướng sửa chừa khuyết điểm và kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tăng cường đoàn kết xung quanh Đảng và Chính phủ để xây dựng, củng cố miền Bắc, làm nền tảng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.  Đồng thời với sửa sai cải cách ruộng đất, ta đã đóng cửa báo Nhân văn và tập san Giai phẩm, mở đợt học tập chấn chỉnh công tác văn nghệ, củng cố lập trường, nâng cao tư tưởng cho văn nghệ sĩ cách mạng.

Hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng (9-1956) chủ trương: “Kiên quyết sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, phát huy những kết quả và thắng lợi đã thu được. . . Nhằm đoàn kết nội bộ, đoàn kết nhân dân, ổn định nông thôn, gây tinh thần phấn khởi, để đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành tốt công tác cải cách ruộng đất và trên cơ sở đó đẩy mạnh công cuộc củng cố miền Bắc, tranh thủ miền Nam và đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà” 1

Với thái độ nghiêm khắc, tích cực và thận trọng, đến cuối năm 1957, việc sửa sai cơ bản đã hoàn thành. Theo báo cáo của các khu, tỉnh ở đồng bằng và trung du, trong số 63. 113 hộ bị quy là địa chủ trong cải cách ruộng đất, đến tháng 9-1957 có 31.844 hộ đã được sửa sai không bị quy là địa chủ nữa. Khu tự trị Việt Bắc, theo báo cáo, đã có 1.861 hộ trong tổng số 2.245 hộ bị quy là địa chủ được sửa sai.  Kết quả sửa sai đã củng cố lòng tin của nhân dân, cán bộ đối với Đảng, làm ổn định tình hình chính trị, giữ vững được trật tự trị an chính quyền nhân dân được củng cố, khối đoàn kết toàn dân được giữ vững, vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường.

Đây chính là những tiền đề cơ bản để chúng ta khôi phục và phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, củng cố quốc phòng.  Cùng với hoàn thành cải cách ruộng đất, trước tình hình miền Bắc bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, Đảng chủ trương tập trung nỗ lực cao nhất để hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá, ổn định và bước đầu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân.

Nông nghiệp là ngành sản xuất chính, đồng thời cũng là ngành bị tàn phá nặng nề nhất trong chiến tranh. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, có 144.300 ha ruộng đất bị hoang hoá, nhiều đê, đập bị hơ hỏng.  Để nhanh chóng phục hồi nông nghiệp, trước tiên phải khôi phục những ruộng đất bỏ hoang, khôi phục và phát triển thuỷ nông, củng cố và tăng cường hệ thống đê điều, đẩy mạnh sản xuất phân bón, gây dựng lại số trâu, bò bị thiệt hại trong chiến tranh, giúp dân lựa chọn giống tốt, cải tiến nông cụ và phương thức canh tác.

Với những biện pháp trên, đến năm 1957, trên 125.000 ha trong tổng số 144.300 ha ruộng đất bỏ hoang được khai phá, 8 hệ thống thuỷ nông được phục hồi cùng với 4 hệ thống thủy nông khác bảo đảm tưới tiêu cho 628.000 ha (tăng gần gấp đối so với năm 1939). Nhờ vậy, sản lượng lương thực thu hoạch được tăng nhanh. Năm 1956, miền Bắc sản xuất được hơn 4 triệu tấn lương thực năm 1939 là 2,5 triệu tấn).

Sau nông nghiệp là công nghiệp. Đi lên từ điểm xuất phát rất thấp kém, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nên công nghiệp miền Bắc sau giải phóng chiếm tỷ trọng không đảng kể. Cuối năm 1954, giá trị sản lượng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp chỉ chiếm l,5%. Để đáp ứng yêu cầu cải thiện nhanh chóng đời sống công nhân, việc khôi phục công nghiệp cần chú ý phục hồi và xây dựng ngay một số công xưởng chế tạo hàng cần thiết cho đời sống nhân dân, xưởng sửa chữa phương tiện giao thông vận tải và một số công xưởng thuộc công nghiệp nhẹ, bỏ vốn ít mà hiệu quả nhanh.

Nhờ có chủ trương và giải pháp đúng đắn, trong 3 năm (1955-1957), ta đã khôi phục được 19 xí nghiệp ở vùng tự do, 9 xí nghiệp ở vùng mới giải phóng, xây dựng mời 18 cơ sở. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh tăng từ 28 tỷ đồng năm 1955 lên 232 tỷ đồng năm 1957. Tỷ trọng công nghiệp hiện đại trong tổng giá trị công - nông nghiệp tăng từ 1,5% năm 1954 lên 9,3% năm 1957 2.

Giao thông vận tải cũng là một trong những lĩnh vực bị chiến tranh tàn phá nặng. Nó không chỉ bị địch phá mà cả ta cũng phá một phần khi thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”. Cả miền Bắc có 1.152 km đường sắt thì có tới trên 1. 000 km bị phá; đường ôtô bị phá 10.700 km. Giao thông vận tải có vị trí đặc biệt trong việc khôi phục và phát triển kinh tế, là cầu nối giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng này và vùng khác, và ra cả nước ngoài. Khôi phục mạng lưới giao thông vận tải bảo đảm nhu cầu đi lại của nhân dân và phát triển sản xuất, củng cố quốc phòng là yêu cầu cấp thiết ở miền Bắc sau giải phóng.


___________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 17, tr.558.
2. Xem: Ba năm khôi phục kinh tê, phát triển văn hoá (1955-1957), Cục Thống kê Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1959, tr.42.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 12:39:51 am

Nhận thức rõ điều này, ngay trong năm đầu sau giải phóng, Nhà nước đã đầu tư khá lớn vào lĩnh vực giao thông. Cả giao thông vận tải và bưu điện,  số vốn đầu tư năm 1954 chiếm 54,40% tổng số mức đầu tư cho xây dựng và kiến thiết cơ bản. Năm 1956, tỷ trọng đó là 28,4%, năm 1957 là 20,9%.

Nhờ vậy, giao thông vận tải được khôi phục nhanh chóng. Đường sắt cả bốn tuyến với tổng chiều dài 657 km, 168 cầu, cống được phục hồi sau 3 năm (1955-1957). Đường bộ khôi phục được 1.624 km, sủa chừa lớn 1.660 km, làm mới gần 600 km đường trục chính. Vận chuyển do vậy tăng đáng kể. Năm 1956, tổng sản lượng vận chuyển hàng hoá bằng đường sắt vượt 2 1% kế hoạch, đường thuỷ vượt 17%, đường ôtô đạt 86% kế hoạch vận chuyển hàng hoá nhưng lại vượt 70% kế hoạch vận chuyển hành khách. 

Về thương nghiệp, Nhà nước đẩy mạnh phát triển mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán. Năm 1955, cả miền Bắc mới có 4 tổng công ty chuyên nghiệp, năm 1956 tăng lên 6 tổng công ty và năm 1957 là 10 tổng công ty. Số cửa hàng bán lẻ và thu mua năm 1955 là 474, năm 1957 tăng lên 906.  Doanh thu năm 1954 là 64.900 triệu đồng, năm 1955 đã tăng lên 237.000 triệu đồng. Mạng lưới hợp tác xã mua bán ở nông thôn phát triển nhanh. Năm 1955 mới có 35 cơ sở và 122 cửa hàng bán lẻ, năm 1957 đã có 154 cơ sở, 609 cửa hàng, mức bán lẻ tăng 33,7 lần so với năm 1955 1.
 
Ngoại thương tuy chiếm tỷ lệ thưa cao trong nền kinh tế, nhưng kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời đến lúc này, ta mới thực sự có nền ngoại thương theo đúng nghĩa của nó. Phương hướng phát triển ngoại thương được Quốc hội xác định cụ thể là: “Phát triển trao đổi hàng hoá với các nước bạn, tranh thủ buôn bán với nước Pháp và các nước Đông Nam á theo nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, bình đẳng và hai bên cùng có lợi” 2.

Cùng với khôi phục kinh tế, cải thiện đời sống vật chất cho nhân dân, các ngành văn hoá, giấc dục cũng từng bước được phát triển nhằm nâng cao đời sống tinh thần, góp phần xây dựng tiềm lực con người, phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Với chính sách ngu dân, thực dân pháp đã để lại hậu quả nặng nề về văn hoá khi miền Bắc được giải phóng. Có tới 3,5 triệu người ở độ tuổi từ 12 đến 50 thất học, mù chữ. Nhiệm vụ cấp bách đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân ta lúc này là phải xoá bỏ nạn mù chữ trong nhân dân. Đảng và Nhà nước ta chủ trương củng cố và phát triển bình dân học vụ, đẩy mạnh bổ túc văn hoá cho cán bộ, công nhân viên, quân đội và nhân dân.

Chưa bao giờ phong trào bình dân học vụ và bổ túc văn hoá phát triển rộng như những ngày này. Kết quả là từ năm 1955 đến năm 1957, miền Bắc có hơn 1 triệu người thoát nạn mù chữ. Số người được bổ túc văn hoá cấp I và cấp II tăng nhanh (năm 1955 là 124.000 người, năm 1956 lên 632.000 người).

Đi đôi với củng cố, phát triển bình dân học vụ, đẩy mạnh bổ túc văn hoá, Đảng và Nhà nước chủ trương thống nhất và củng cố ngành học phổ thông, chú trọng phát triển giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp.

Về giáo dục phổ thông, hai hệ thống giáo dục ở vùng tự do và vùng tạm chiếm trước đây được thống nhất thành hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm. Nhiều trường cấp I, cấp II,  cấp III ở vùng đồng bằng, miền núi được mở thêm 18 trường học sinh miền Nam nội trú được xây dựng. Năm học 1956-1957, toàn miền Bắc có 65 vạn học sinh phổ thông, trong đó học sinh dân tộc là 6 vạn em.

Giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp, trong những năm thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá, Nhà nước đã mở thêm 6 trường đại học, 16 trường trung học chuyên nghiệp. Số sinh viên đại học tăng nhanh.  Năm 1955- 1956, miền Bắc mới có 1.122 người, năm học 1956-1957 đã tăng lên 2.984 người. Học sinh trung học chuyên nghiệp năm học 1955-1956 mới có 2.780 người, năm học 1956-1957 tăng lên 7.933 người 3.


_________________________
1. Xem: Lê Hữu Chính: Kinh tế thương nghiệp Việt Nanh dân chủ cộng hoà, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1962, t.1, tr. 92. 
2. Lý Ban: Vấn đề ngoại thương của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.28.
3. Xem: Ba năm khôi phục kinh tế phát triển văn hoá, Sđd, tr. 140.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 12:41:31 am

Đồng thời với phát triển giáo dục, trên lĩnh vực văn hoá cũng có những chuyển biến tích cực. Tàn dư văn hoá tư sản, phong kiến lạc hậu từng bước bị đẩy lùi, những thói hơ, tật xấu, mê tín, dị đoan trong xã hội được bãi bỏ. Nền văn hoá mới từng bước được xây dựng. Đội ngũ văn hoá, văn nghệ phát triển. Mạng lưới y tế phát triển rộng khắp, công tác khám, chữa bệnh được quan tâm thích đáng hơn. Tính đến năm 1960, toàn miền Bắc có 263 bệnh viện, 300 trạm y tế, nhà hộ sinh.

Ba năm thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá (1955-1957), trong điều kiện hết sức khó khăn cả về khách quan và chủ quan, hậu quả của những năm chiến tranh khá nặng nề, địch lại ra sức phá hoại nhiều mặt, song với nỗ lực vượt bậc, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Chế độ người bóc lột người về căn bản đã bị xoá bỏ, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bước đầu được thiết lập nhân dân lao động trở thành người chủ của đất nước. 

Nhờ đó, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đã đạt mức của năm 1939. Kinh tế quốc doanh đã năm toàn bộ hoặc phần lớn một số ngành then chốt (ngân hàng, xây dựng cơ bản, đường sắt 100%, ngoại thương 98, 1%). Văn hoá, giáo dục, y tế phát triển nhanh chóng, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện.

Đánh giá những kết quả đã đạt được sau ba nạm khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Nhân dân ta ở miền Bắc đã ra sức khắc phục khó khăn, lao động sản xuất, thu được những thành tích to lớn trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, bước đầu phát triển văn hoá, giảm bớt khó khăn và dần dần cải thiện đời sống cho nhân dân, ở cả đồng bằng và miền núi. Cải cách ruộng đất căn bản đã hoàn thành, công việc sửa chữa sai lầm phát huy thắng lợi trong nhiều địa phương đã làm xong và thu được kết quả tốt. Nông nghiệp đã vượt hẳn mức trước chiến tranh. Công nghiệp đã khôi phục các xí nghiệp cũ, xây dựng một số nhà máy mới.  An ninh trật tự được giữ vững, quốc phòng được củng cố” 1

Tiếp sau kế hoạch khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá, nhằm đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, tháng 11-1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ở miền Bắc thực hiện kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá (1958-1960) với nhiệm vụ cơ bản là:

1. Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, khâu   chính là đẩy mạnh hợp tác hoá nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh. 

2. Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp làm khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lương thực, đồng thời sản xuất công nghiệp, tăng thêm tư liệu sản xuất và giải quyết phần lớn hàng tiêu dùng.

3. Trên cơ sở sản xuất phát triển, nâng cao thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, nhất là nhân dân lao động, tăng cường củng cố quốc phòng.  Với quyết tâm cao, nhân dân miền Bắc đã thu được những thành tích đáng kể.

Trong cải tạo nông nghiệp, nếu tháng 6- 1958, toàn miền Bắc mới có 134 hợp tác xã, đến cuối năm 1958 con số này đã tăng lên 4.721 và tháng 11-1960 đã có 41.401 hợp tác xã với 85% tổng số hộ và 76% diện tích đất canh tác. Đây là thắng lợi có ý nghĩa quan trọng đối với nông thôn và nông dân miền Bắc. Nó tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp phát triển, bảo đảm lương thực, thực phẩm cho nhân dân, góp phần chi viện nhân tài, vật lực cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam.

Với việc cải tạo công, thương nghiệp tư bản tư doanh, trong ba năm (1958-1960), có 783 hộ tư sản công nghiệp (100%), 826 hộ tư sản thương nghiệp chiếm 97,l%), 319 hộ tư sản vận tải cơ giới (99%) được cải tạo 2. Toàn bộ cơ sở công, thương nghiệp tư bản tư doanh sau cải tạo được tổ chức thành các xí nghiệp công tư hợp doanh, các xí nghiệp hợp tác , công nhân được giải phóng khỏi sự bóc lột của giai cấp tư sản, trở thành chủ nhân của các xí nghiệp. 


_____________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.483.
2. Xem: 50 năm hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.  Sự thật, Hà Nội, 1979, tr.143.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 12:43:04 am

Cùng với cải tạo nông nghiệp và công, thương nghiệp, Chính phủ chủ trương đẩy mạnh việc cải tạo thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ. Đến cuối năm 1960, 81% thợ thủ công đã vào các hình thức hợp tác xã. Toàn miền Bắc có tới 2.760 hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp (không tính các hợp tác xã đánh cá, làm muối, khai thác gỗ), thu hút 87.969 thợ thủ công vào con đường làm ăn tập thể.

Cũng thời gian này, 60% số người buôn bán nhỏ được cải tạo tham gia vào các tổ mua bán hoặc hợp tác xã mua bán. Đến giữa năm 1961, 180.000 tiểu thương (chiếm 80%) được tổ chức lại, trong đó có trên 60.000 người chuyển hẳn qua sản xuất, 3.000 người được chuyển sang hoạt động trong lĩnh vực mậu dịch quốc doanh.

Đi đôi với cải tạo các ngành kinh tế, Đảng, Nhà nước rất chú trọng đến việc phát triển các ngành kinh tế đó.  Để phát triển nông nghiệp, ngoài việc động viên các ngành, các cấp phát huy vai trò trách nhiệm và khả năng của mình, Nhà nước đã tăng cường đầu tư vốn gần gấp đôi so với kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế ba năm trước đó (bình quân mức đầu tư mỗi năm của Nhà nước cho nông nghiệp trong kế hoạch ba năm 1958-1960 là 57,5 triệu đồng/năm, trong khi đó mức đầu tư bình quân mỗi năm trong kế hoạch khôi phục phát triển kinh tế năm 1955-1957 chỉ có 29,3 triệu đồng).

Với sự đầu tư thích đáng của Nhà nước và nỗ lực cao của giai cấp nông dân cộng với sự tác động tích cực của quan hệ sản xuất mới, nông nghiệp miền Bắc sau ba năm thực hiện kế hoạch từ năm 1957 đến năm 1960 đã có tổng sản lượng nông nghiệp tăng bình quân mỗi năm 5,6%. Năm 1959 sản lượng lương thực miền Bắc đạt 5.193.000 tấn thóc, so với năm 1939 tăng gấp hơn hai lần. Năm 1960, mặc dù mất mùa do thiên tai, sản lượng lương thực tuy không bằng năm 1959 nhưng vẫn tăng 30 vạn tấn so với năm 1957. 

Đối với công nghiệp, đầu tư của Nhà nước tăng gấp ba lần so với kế hoạch ba năm trước đó (đầu tư Nhà nước cho công nghiệp trong kế hoạch năm 1955-1957 là 172,2 triệu đồng thì đến kế hoạch năm 1958-1960 tăng lên 544,5 triệu đồng).  Phương châm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển công nghiệp trong kế hoạch năm 1958-1960 là: ra sức phát triển công nghiệp sản xuất các tư liệu sản xuất, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. 

Thực hiện phương châm này, Nhà nước tập trung vào xây dựng một số cơ sở công nghiệp lớn. Trong ba năm 1958-1960, ta đã xây dựng và mở rộng 130 công trình công nghiệp trên hạn ngạch, trong đó có một số cơ sở công nghiệp nặng như Khu gang thép Thái Nguyên, Nhà máy cơ khí Hà Nội, Nhà máy điện Uống Bí, Vinh, Thanh Hoá. . .  Nhà máy Supe phốt phát Lâm Thao, Nhà máy phân lân Văn Điển. . .

Kết thúc kế hoạch ba năm cải tạo, phát triển kinh tế (1958-1960), giá trị sản lượng công nghiệp của miền Bắc đã chiếm 41% tổng giá trị kinh tế quốc dân tăng 10% so với năm 1957). Công nghiệp quốc doanh chiếm 90,8% sản lượng công nghiệp...

Đồng thời với khôi phục, cải tạo, phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, để miền Bắc trở thành hậu phương lớn, làm “cái gốc’, “cái nền” cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, vấn đề xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng được chú trọng và là một trong những nhiệm vụ chiến lược của Đảng và nhân dân ta.

Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 xác định: Tăng cường Quân đội nhân dân là một nhiệm vụ rất quan trọng của Đảng, Chính phủ và toàn thể nhân dân ta.  Cần phải xây dựng Quân đội nhân dân thành một quân đội cách mạng, chính quy, tương đối hiện đại.  Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống ‘thực dân Pháp, Tổng Quân uỷ đã tập trung chỉ đạo các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ tập kết chuyển quân, khẩn trương chấn chỉnh một bước tổ chức và cải tiến trang bị, chuẩn bị bước vào xây dựng chính quy, hiện đại.

Các đại đoàn bộ binh 303, 308, 312, 316, 325, 320 ra đời từ trong kháng chiến chống Pháp nay được thống nhất tên gọi là sư đoàn bộ binh.

Các đơn vị bộ đội miền Nam tập kết, bộ đội tình nguyện tại Lào, Campuchia và một số đơn vị chủ lực của khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện trên miền Bắc được biên chế thành 8 sư đoàn và 5 trung đoàn bộ binh. Trong đó, bộ đội Liên khu V tập kết được xây dựng thành 2 sư đoàn (305, 324) và 1 trung đoàn (120). Bộ đội Nam Bộ tập kết được xây dựng thành 2 sư đoàn (330, 338). Bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Lào và Campuchia được xây dựng thành 1 sư đoàn (335) và 1 trung đoàn (640).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 12:44:48 am
Một số trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực và địa phương thuộc Liên khu Việt Bắc và Liên khu III được tập trung xây dựng thành 3 sư đoàn (350, 328, 332). Hai trung đoàn 148 và 246 chủ lực Liên khu Việt Bắc chuyển thành trung đoàn bộ binh độc lập trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh.  Lực lượng pháo binh (2 trung đoàn) thuộc Đại đoàn công pháo 351 (thành lập trong kháng chiến chống Pháp) và một số phân đội pháo binh của các chiến trường được tập trung xây dựng thành 3 sư đoàn (675, 45, 349) trực thuộc Bộ Tư lệnh pháo binh.

Lực lượng công binh thuộc Đại đoàn công pháo 351 (1 trung đoàn) và các tiểu đoàn, đại đội công binh các chiến trường được tập trung xây dựng thành 4 trung đoàn (333, 444, 555, 506) thuộc Cục Công binh.

Lực lượng phòng không thuộc Bộ Tổng tư lệnh và một số phân đội súng máy của các chiến trường được xây dựng thành Sư đoàn 367.

Một số trung đoàn chủ lực và tiểu đoàn bộ đội địa phương thuộc vùng ven biển được tập trung xây dựng thành 5 trung đoàn (269, 271 thuộc Liên khu IV; 244, 713 thuộc Khu Tả  Ngạn, 248 thuộc Khu Đông Bắc) và Tiểu đoàn 500 thuộc Liên khu IV.

Một số tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương các tỉnh có biên giới với nước bạn Lào được chuyển thành bộ đội biên phòng (có 10 tiểu đoàn).

Đến cuối năm 1956, toàn quân căn bản hoàn thành việc chấn chỉnh tổ chức, biên chế và trang bị. Với kết quả này, quân đội ta từ đơn thuần là bộ binh, hoạt động phân tán trên chiến trường ba nước Đông Dương đã được tập trung xây dựng thành một quân đội có các binh chủng, biên chế và trang bị tương đối thống nhất. Đây là cơ sở ban đầu để chúng ta xây dựng quân đội chính quy và tương đối hiện đại theo kế hoạch 5 năm xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng (1955-1959) mà Tổng Quân uỷ đã xác định.

Tháng 3-1957, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn mới là: “Bảo vệ công cuộc củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và an ninh của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ yếu là chủ nghĩa đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai” 1.  Để làm tốt nhiệm vụ trên, Trung ương chỉ đạo phải tích cực xây dựng Quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy, hiện đại.

Cũng tại hội nghị này, Trung ương Đảng đã phê chuẩn kế hoạch 5 năm xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng (1955-1959) mà Tổng Quân uỷ đã chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị từ năm 1955. Đây là lần đầu tiên kể từ khi thành lập quân đội ta được xây dựng theo một kế hoạch dài hạn và tương đối toàn diện. Nội dung cơ bản của kế hoạch bao gồm các vấn đề:

1. Tổ chức biên chế.

2. Cải tiến vũ khí, trang bị.

3. Đẩy mạnh huấn luyện chính quy trên cả bốn mặt quân sự, chính trị, văn hoá, thể lực.

4. Huấn luyện cán bộ là khâu trung tâm của công tác huấn luyện bộ đội.

5. Thực hiện các điều lệnh chung của quân đội.

6. Kiện toàn cơ quan tham mưu các cấp, nhất là Bộ Tổng tham mưu.

7. Xây dựng và nâng cao cơ sở vật chất trong quân đội lên chính quy và tương đối hiện đại.

8. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị.


_____________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 18, tr. 194- 195.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 12:46:51 am
Nhằm quán triệt sâu sắc Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, tháng 5-1957, một đợt sinh hoạt chính trị trong quân đội được tổ chức với lớp đầu tiên cho cán bộ cao cấp toàn quân và cán bộ trung cấp thuộc các cơ quan Bộ Quốc phòng. Lớp học vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện. Người kêu gọi cán bộ trong lớp học: “... Phải đề cao trách nhiệm phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ xây dựng quân đội trước mắt là hoàn thành tốt chỉnh huấn cán bộ sơ cấp và chiến sĩ” 1 .

Sau lớp học đầu tiên hai tháng, các lớp học dành cho cán bộ trung, sơ cấp và chiến sĩ trong toàn quân được tiến hành.  Theo báo cáo của Tổng cục Chính trị tại Hội nghị Tổng Quân uỷ (mở rộng) tháng 3-1959: “Qua học tập, cán bộ, chiến sĩ được giác ngộ bước đầu về chủ nghĩa xã hội. . . Một số cán bộ mắc sai lầm đã tỉnh ngộ. Những kẻ cơ hội hoặc mang tư tưởng đối địch với Đảng đã dần tự lột mặt nạ” 2

Đúng một năm sau Hội nghị Trung ương lần thứ 12, Tổng Quân uỷ quyết định điều chỉnh kế hoạch 5 năm xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng với nội dung chủ yếu:

1. Giảm tổng quân số, cải tiến trang bị, vũ khí, xây dựng các đơn vị binh chủng chính quy, tương đối hiện đại.

2. Xúc tiến việc đào tạo cán bộ, xây dựng hệ thống nhà trường quân đội.

3. Đẩy mạnh công tác huấn luyện và nghiên cứu khoa học quân sự, tận dụng khả năng của quân đội trong việc xây dựng kinh tế.

Về thời gian thực hiện kế hoạch, Tổng Quân uỷ quyết định kéo dài thêm 1 năm (đến năm 1960) cho phù hợp với kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá của Nhà nước. 

Ngay trong tháng 3- 1958, sau khi Tổng Quân uỷ điều chỉnh kế hoạch, Bộ Quốc phòng ra quyết định thống nhất tổ chức, biên chế, trang bị các đơn vị trong lục quân (kể cả đơn vị địa phương) và những đơn vị đầu tiên của không quân, hải quân.

Theo đó, lục quân, ngoài bộ binh là binh chủng chủ yếu được tổ chức thành 7 sư đoàn (308, 312, 320, 304, 324, 325, 330), 6 lữ đoàn (216, 350, 305, 338, 335, 341) và 12 trung đoàn độc lập (19, 42, 46, 50, 53, 120, 148, 238, 244, 246, 248, 271), còn có các đơn vị binh chủng như phòng không, pháo binh, công binh, thông tin, thiết giáp, vận tải, phòng hoá... 

Mỗi sơ đoàn bộ binh được biên chế 8.689 người gồm 3 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo binh và các đơn vị bảo đảm với trang bị gồm 6.645 súng bộ binh, 200 khẩu pháo mặt đất và súng cối, 42 khẩu pháo và súng máy cao xạ, 281 ôtô vận tải và kéo pháo, 37 máy vô tuyến điện và nhiều khí tài khác. 

Lữ đoàn bộ binh được biên chế 3.500 người gồm 4 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ và các phân đội thông tin, công binh, trinh sát, vận tải, phòng hoá, quân y.

Không quân biên chế 2.000 người, tổ chức thành 1 trung đoàn không quân vận tải 919 và 1 trung đoàn không quân chiến đấu, sẵn sàng đón cán bộ, chiến sĩ đang học tập, huấn luyện ở nước ngoài về.

Hải quân có 1.300 người, biên chế trong 2 đoàn tàu tuần tiễu ven biển 130, 135 với 4 tàu trọng tải 50 tấn và 24 tàu trọng tải 79 tấn.

Tháng 1-1959, Cục Không quân và Cục Hải quân trực thuộc Bộ Tổng tham mưu chính thức được thành lập.  Với sự điều chỉnh về biên chế các đơn vị lục quân và các quân, binh chủng, năm 1960, quân đội ta đã có tỷ lệ bộ binh và các binh chủng kỹ thuật khá cân đối (51% bộ binh, 49% binh chủng kỹ thuật) .

Cùng với điều chỉnh biên chế tổ chức quân, binh chủng, các quân khu trên miền Bắc cũng được tổ chức lại cho phù hợp với thế bố trí chiến lược chung và yêu cầu chỉ đạo xây dựng quân đội trong tình hình mới.


_______________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.392.
2. Báo cáo của Tổng cục Chính trị tại Hội nghị Tổng Quân uỷ tháng 3- 1959, lưu trữ Bộ Quốc phòng, hồ sơ 235/QUTW.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 12:48:12 am

Theo sắc lệnh số 017/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 3-6-1957, miền Bắc được chia thành 6 quân khu là Quân khu Việt Bắc, Quân khu Đông Bắc, Quân khu Tây bắc, Quân khu Hữu Ngạn, Quân khu Tả Ngạn và Quân khu 4. Các quân khu có nhiệm vụ chỉ đạo mọi công việc chuẩn bị tác chiến, huấn luyện bộ đội, duy trì trật tự an minh ở địa phương thời bình, chỉ đạo chỉ huy các lực lượng vũ trang quân khu tác chiến thời chiến. Dưới quân khu, các cơ quan quân sự địa phương cấp tỉnh, huyện, xã được thống nhất tên gọi là tỉnh đội, huyện đội, xã đội.

Các tổng cục và cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng được chấn chỉnh một bước cho phù hợp với yêu cầu chỉ đạo và tăng cường hiệu lực chỉ huy. Tổng cục Cán bộ được tổ chức lại thành Cục Cán bộ thuộc Tổng cục Chính tn. Tổng cục Quân huấn được tổ chức thành Cục Quân huấn thuộc Bộ Tổng tham mưu. Cục Quân giới sáp nhập với Cục Quân khí lấy tên là Cục Quân giới thuộc Tổng cục Hậu cần . . . 

Trên cơ sở kiện toàn biên chế tổ chức và thống nhất trang thiết bị trong toàn quân, công tác huấn luyện cũng từng bước đi vào nề nếp. Từ giữa năm 1957, việc huấn luyện tác chiến hiệp đồng binh chủng cấp trung, sơ đoàn đã được tiến hành ở một số đơn vị. Nhiều cuộc diễn tập cấp sư đoàn được Bộ Tổng tham mưu tổ chức đạt kết quả tốt. Nhờ vậy, sức chiến đấu của quân đội được nâng cao.

Vào thời điểm này ở miền Nam, hoạt động quân sự hỗ trợ cho đấu tranh chính trị được tăng cường. Tháng 2-1959, Tổng Quân uỷ triệu tập hội nghị mở rộng bàn việc thực hiện nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam. Tổng Quân uỷ quyết định đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng quân đội cách mạng chính quy, hiện đại mà Hội nghị Trung ương lần thứ 12 đã đề ra, chuẩn bị sẵn sàng đưa một bộ phận lực lượng quân chính quy miền Bắc vào miền Nam chiến đấu. 

Tháng 5-1959, Tổng Quân uỷ quyết định thành lập cơ quan nghiên cứu việc mở đường vận tải trên bộ để đưa lực lượng, vũ khí chi viện cho miền Nam. Cơ quan mang tên Phòng nghiên cứu công tác chi viện miền Nam. 

Ngày 19-5-1959, Đoàn vận tải quân sự 559 chính thức được thành lập. 440 cán bộ, chiến sĩ thuộc Sư đoàn 305, quê ở miền Nam tập kết ra Bắc được tuyển chọn để lập ra Tiểu đoàn 301 vận tải đường bộ - lực lượng nòng cốt đầu tiên của Đoàn 559, làm nhiệm vụ khai phá, mở đường chiến lược xuyên Trường Sơn vào Nam.

Tháng 8-1959, sau bao khó khăn, vất vả, Tiểu đoàn 301 đã đưa được 500 kg hàng đầu tiên vào đến Pa Lin (tây Thừa Thiên) giao cho Khu V. Đến cuối năm 1959, bằng sức người gùi thồ bộ, Tiểu đoàn 301 đưa đến trạm Pa Lin 1.667 súng bộ binh, 188 kg thuốc nổ, 788 dao găm và nhiều đồ dùng quân sự khác. Cũng theo con đường xuyên Trường Sơn mới mở, 500 cán bộ, chiến sĩ, nhân viên cơ yếu, thợ sửa chữa vũ khí hành quân bộ vào tăng cường cho miền Nam. 

Song song với vận tải đường bộ, để tăng cường việc đưa vũ khí vào miền Nam, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của chiến trường, tháng 7-1959, Tổng Quân uỷ quyết định tổ chức tuyến vận tải trên biển mang tên Đoàn 759. Lực lượng đầu tiên của đoàn là Tiểu đoàn 603. Để giữ bí mật, tiểu đoàn hoạt động dưới danh nghĩa là Tập đoàn đánh cá sông Gianh. 

Đêm 30 tết Canh Tý (đầu năm 1960 dương lịch), Tiểu đoàn 603 vận tải biển chở 10 tấn vũ khí rời bến sông Gianh tiếp tế cho miền Nam. Chuyến đi không thành công vì gặp bão lớn. Tổng Quân uỷ quyết định tạm dừng việc tiếp tế chi viện cho miền Nam theo đường biển để tiếp tục nghiên cứu thêm và đề nghị Bộ Chính trị điện cho các tỉnh miền Nam đưa thuyền ra Bắc nhận vũ khí để vừa rút kinh nghiệm, vừa thăm dò đường, bến bãi để tiếp tục tổ chức tuyến vận tải biển.

Nhìn lại chặng đường sáu năm (1954-1960) xây dựng và củng cố miền Bắc, có thể thấy, thành tựu mà nhân dân miền Bắc đạt được rất đáng tự hào. Miền Bắc không những đã khôi phục, cải tạo và phát triển một cách có hiệu quả kinh tế, văn hoá qua hai lần thực hiện kế hoạch ba năm (1955-1957 và 1958-1960) mà còn củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân từng bước chính quy, hiện đại.

Trong những thành tựu đó, đáng chú ý là chúng ta đã hoàn thành công cuộc cải cách ruộng đất, xác lập được quan hệ sản xuất mới trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân và công cụ đắc lực để bảo vệ chính quyền ấy là Quân đội nhân dân vững mạnh. Đây là những cơ sở vững chắc để miền Bắc trở thành “cái gốc”, “cái nền” cho cuộn đấu tranh giải phóng miền Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 01:13:12 am

IV- MIỀN NAM ĐỒNG KHỞI

Đầu năm 1959, cách mạng miền Nam đứng trước tình thế cực kỳ nghiêm trọng do Mỹ - Diệm phát xít hoá đến cao độ. Cán bộ, đảng viên, quần chúng bức xúc, khát khao chờ đợi Đảng chỉ ra con đường và phương pháp cách mạng cho phép nhân dân miền Nam đứng lên đánh đổ quân thù. 

Đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và đòi hỏi của lịch sử, tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng). Hội nghị đã kiểm điểm tình hình trong nước từ khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đề ra nhiệm vụ, đường lối cách mạng chung của cả nước và đường lối cách mạng miền Nam. 

Hội nghị phân tích đặc điểm của cách mạng Việt Nam từ sau năm 1954, do sự can thiệp xâm lược của đế quốc Mỹ, nhân dân miền Nam ngày càng bị đẩy đến bước đường cùng, mất hết quyền tự do, đời sống cơ cực, nên đế quốc Mỹ và tập đoàn bán nước Ngô Đình Diệm không chỉ là kẻ thù của nhân dân miền Nam mà là kẻ thù của cả dân tộc Việt Nam.  Điều đó làm nổi bật hai mâu thuẫn cơ bản của cách mạng Việt Nam:

Một là, mâu thuẫn giữa một bên là đế quốc Mỹ xâm lược và giai cấp địa chủ, phong kiến, tư sản mại bản quan liêu thống trị miền Nam với một bên là dân tộc Việt Nam, nhân dân cả nước Việt Nam bao gồm nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam.

Hai là, mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc.  Hai mâu thuẫn này tuy tinh chất khác nhau, nhưng quan hệ biện chứng, thể hiện sự đối kháng gay gắt giữa dân tộc Việt Nam mong muốn hoà bình, thống nhất với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở miền Nam hiếu chiến. 

Trên cơ sở phân tích một cách khách quan, khoa học đặc điểm, tính chất và các mâu thuẫn cơ bản của cách mạng Việt Nam, hội nghị khẳng định: “Hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau, song song tiến hành, ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau, trợ lực mạnh mẽ cho nhau, nhằm phương hướng chung là giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội” 1.
 
Hội nghị đề ra nhiệm vụ chung của cả nước là: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững hoà bình; thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước; ra sức củng cố miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới” 2

Về đường lối cách mạng miền Nam, hội nghị chỉ rõ, miền Nam đã trở thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ. Chính quyền Ngô Đình Diệm là chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, của bọn phong kiến và tư sản mại bản thân Mỹ phản động nhất ở miền Nam. Mâu thuẫn chủ yếu ở miền Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam và đế quốc Mỹ, mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam, trước hết là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến mà tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm là kẻ cầm đầu.

Hội nghị chỉ ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là: “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” 3. Trước mắt, phải “đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh phong đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới” 4


____________________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t, 20, tr.62, 63.
3. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 20, tr. 63, 81.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 01:15:23 am

Về phương hướng phát triển của cách mạng ở miền Nam, hội nghị khẳng định: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng à chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân” 1 .

Hội nghị cũng lưu ý: “Cách mạng ở miền Nam vẫn có khả năng hoà bình phát triển, tức là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần dần thay đổi cục diện chính trị ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Khả năng đó hiện nay rất ít, song Đảng ta không gạt bỏ khả năng đó, mà cần ra sức tranh thủ khả năng đó” 2. Nhưng, “vì Mỹ - Diệm quyết tâm bám lấy miền Nam, chúng không thể tự nguyện từ bỏ chính quyền, từ bỏ hành động bạo lực nhằm tiêu diệt cách mạng ở miền Nam và xâm lược miền Bắc, cho nên Đảng ta vẫn phải tích cực chuẩn bị về mọi mặt theo phương hướng căn bản là khởi nghĩa đánh đổ chế độ Mỹ - Diệm” 3.

Để đạt được mục tiêu của cách mạng miền Nam, hội nghị cho rằng cần phải có một quá trình đấu tranh lâu dài, gay go, gian khổ và phức tạp. Trong quá trình đó, ‘hình thức đấu tranh chính trị là chủ yếu. Song do quân thù quyết dìm cách mạng trong máu lửa, do nhu cầu của phong trào cách mạng ở miền Nam, cho nên trong một chừng mực nhất định và ở những địa bàn nhất định, đã xuất hiện những lực lượng vũ trang tự vệ và vũ trang tuyên truyền để trợ lực cho đấu tranh chính trị. Đó là điều cần thiết” 4

Xác định Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, Trung ương dự kiến: “Trong những diều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới: đó là chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta” 5 .

Về sách lược đấu tranh, trong tình hình phức tạp của cách mạng ở miền Nam, hội nghị chủ trương: “Phải biết triệt để lợi dụng mâu thuẫn nội bộ của chế độ Mỹ - Diệm, luôn luôn chủ động và tranh thủ thêm bạn, bớt thù, làm cho hàng ngũ cách mạng ngày càng lớn mạnh, thế lực của địch ngày càng suy yếu và bị động” 6.

Để làm được việc đó, trong công : tác phải làm cho tổ chức đảng không ngừng ăn sâu trong quần chúng, phải nắm vững các phương châm khéo công tác, khéo che giấu lực lượng, khéo kết hợp các hình thức đấu tranh . . . tích cực xây dựng cơ sở, tích trữ lực lượng. . .

Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cách mạng miền Nam. Nghị quyết đã đề ra một cách toàn diện đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam. Nó đáp ứng kịp thời yêu cầu cấp bách của cách mạng miền Nam và nguyện vọng của quần chúng nhân dân lúc bấy giờ. Nhờ vậy, nó đã tạo bước tiến nhảy vọt cho phong trào cách mạng ở miền Nam.

Mặc dù vậy, do tình hình lịch sử trong và ngoài nước lúc đó Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 phải nhấn mạnh đấu tranh chính trị là chính, chưa đặt nặng vị trí, vai trò của đấu tranh vũ trang, khiến cho cấp uỷ ở một số địa phương nhận thức chưa thật đầy đủ tinh thần cơ bản của nghị quyết và ý định của Trung ương, dẫn đến vận dụng một cách máy móc  hoặc lúng túng trong chỉ đạo thực hiện, làm hạn chế đến kết quả hoạt động đấu tranh, thậm chí có nơi bị tổn thất. 

Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp đợt 1 tháng 1-1959, đến tháng 5-1959 họp đợt 2, văn bản chính thức của nghị quyết mới được thông qua. Trong khỉ đó, tại chiến trường miền Nam, do tình hình quá bức xúc, các cấp uỷ đảng ở địa phương và đảng viên, cán bộ nằm vùng, nắm bắt được chiều hướng phát triển của tình hình cách mạng đã mạnh dạn phát động quần chúng ở một số nơi có đủ điều kiện nổi dậy đập tan bộ máy chính quyền cơ sở của địch, giành quyền làm chủ, tạo đà cho Nghị quyết 15 vào đến miền Nam nhanh chóng đi vào cuộc sống. Tiêu biểu cho Công cuộc nổi dậy đầu tiên ở Khu V là Vĩnh Thạnh (Bình Định) và Bác Ái (Ninh Thuận). 

Vĩnh Thạnh - một huyện miền núi phía tây tỉnh Bình Định, có diện tích khoảng 140 km2, dân số gần 5.500 người, phần đông là dân tộc Bana. Từ rất sớm, đồng bào Bana ở đây đã hun đúc nên truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm.


_______________________________
1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr.82, 83, 84, 85.   
5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 20, tr.85, 86.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 01:16:18 am
Tháng 5-1955, Mỹ - nguỵ thế chân Pháp vào tiếp quản Vĩnh Thạnh nhưng đến năm 1957, chúng vẫn không thiết lập được chính quyền tay sai ở các làng bản thuộc huyện Vĩnh Thạnh. Trước tình hình đó, địch chủ trương gom dân về gần quận lỵ để dễ bề kiểm soát và thanh lọc “cán bộ nằm vùng”, cắt đứt mối liên hệ giữa dân với Đảng.

Kế hoạch của địch là gom sáu xã ở rìa rừng trước. Tà Lốc, Tà Léc là hai làng địch chọn gom thí điểm. Địch bắt các già làng về quận ép phải đưa dân xuống vùng xuôi. Già làng tìm kế hoãn binh nhận đưa dân xuống quận nhưng phải đến Tết âm lịch và yêu cầu phải để cho dân phát rẫy làm nương, xuống xuôi mua bán bình thường. Địch chấp thuận yêu sách của các già làng. Tranh thủ thời gian này, đồng bào chuẩn bị vật chất, dụng cụ lao động, sẵn sàng dời làng. Đồng bào làng Tà Lốc, Tà Lốc luôn nuôi ý nghĩ phải vào rừng dù khổ cực cũng cam chịu, chứ không xuống xuôi. Ý chí kiên quyết của đồng bào làng Tà Lốc, Tà Lốc là ngòi nổ của cuộc nổi dậy ở Vĩnh Thạnh. 

Ngày 6-2- 1959 (tức ngày 29 tháng Chạp năm Mậu Tuất - 1958), chỉ còn bốn ngày nữa là đến hẹn xuống quận, đồng bào ở ba làng Hà Ri, Tà Lốc, Tà Lốc nhất loạt nổi dậy, bỏ làng cũ vào rừng sâu (Đắc ló) lập làng mới, sống bất hợp tác với địch. Ngay sau đó, tám làng khác là hai làng Tà Diệt, hai làng Kon Rơn và các đàng Kon Ria, Kon Rít, Kon Đơn, Bờ Nậm thuộc hai xã Vĩnh Hảo, Vĩnh Hiệp cũng nổi dậy dời làng vào rừng sâu.

Sau khi dời làng vào rừng sâu, nhân dân đã chủ động tổ chức cắm chông, thò, gài cạm bẫy ở tất cả các con đường vào làng cũ và làng mới. Mỗi làng còn tổ chức một tiểu đội tự vệ tuần tra canh gác ngày đêm sẵn sàng chiến đấu.

Ngày 17-2-1959, một đại đội bảo an do tên Đinh On, người làng Hà Ri phản bội dẫn đường kéo lên khủng bố làng mình. Du kích làng phát hiện, dùng ná diệt tên trung uý chỉ huy và ba tên lính. Số còn lại hoảng sợ tháo chạy. Du kích diệt một số nữa. Cuối cùng địch phải rút.  Sau đó, địch còn nhiều lần tổ chức càn quét vào Vĩnh Hảo, Vĩnh Hiệp nhưng đều thất bại.

Không giành được thắng lợi bằng tiến công quân sự, địch quay sang dùng biện pháp vừa đe doạ vừa chiêu dụ. Để bớt căng thẳng và tranh thủ thời gian chuẩn bị thêm lực lượng và vật chất, Huyện ủy Vĩnh Thạnh chủ trương đưa Vĩnh Hảo ra công khai ở thế hợp pháp. Nhưng địch lại lật lọng.  Tháng 4- 1959, nhân dân Vĩnh Hảo một lần nữa nổi dậy dời làng sống bất hợp pháp để chống giặc.

Cuộc nổi dậy của nhân dân Vĩnh Hảo lần này lôi cuốn các xã vùng cao huyện Vĩnh Thạnh cùng nổi dậy. Toàn huyện, gần 60 làng lớn nhỏ với 5.000 dân chuyển lên thế làm chủ đấu tranh công khai với địch. Chỉ còn bốn làng thuộc xã Vĩnh Bình do địa hình trống trải, lại làm lúa nước nên phải duy trì thế hợp pháp. 

Cuộc nổi dậy ở Vĩnh Thạnh là cuộc nổi dậy đầu tiên ở miền núi Khu V, nổ ra trước khi có Nghị quyết Trung ương 15. Điều này chứng tỏ trước sự bức bách, o ép của địch, không chịu nổi, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã dũng cảm kiên quyết dời làng sống bất hợp tác với địch.

Thắng lợi của cuộc nổi dậy ở Vĩnh Thạnh đã cổ vũ các vùng lân cận thuộc huyện An Lão, Bình Khê, Hoài Ân vũ trang tự vệ chống địch.  Chỉ một ngày sau cuộc nổi dậy ở Vĩnh Thạnh, đêm 7-2-1959 (tức đêm 30 Tết Kỷ Hợi), nhân cơ hội bọn địch bỏ về nhà ăn tết, cán bộ, đảng viên nằm vùng trong khu tập trung Brâu, huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận đã vận đống nhân dân nổi dậy phá khu tập trung, bung về buôn làng cũ làm ăn, xây dựng căn cứ.

Học tập kinh nghiệm của Brâu, tháng 4- 1959, đồng bào ở khu tập trung Tầm Ngân cũng nổi dậy phá khu tập trung, chạy lên núi lập làng mới. 5.000 dân thuộc huyện Bác Ái thoát khỏi ách kìm kẹp của Mỹ - Diệm.

Để bảo vệ thành quả của cuộc nổi dậy, Huyện uỷ Bác Ái đã tổ chức đơn vị vũ trang đầu tiên của huyện và các tổ đội bảo vệ buôn làng, xây dựng làng chiến đấu, tăng cường sản xuất, ổn định đời sống. Nhờ vậy, địch nhiều lần càn quét, đánh phá căn cứ Bác Ái đều không thành. 

Vĩnh Thạnh, Bác Ái hai cuộc nổi dậy ở hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều ở vào một tình thế hết sức bức xúc không thể đấu tranh chính trị đơn thuần đối với chế độ độc tài phát xít, cai trị nhân dân bằng lưỡi lê và súng đạn. Phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Mỹ - Diệm, mới tự giải phóng được khỏi xiềng xích nô lệ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 01:17:35 am

Giữa năm 1959, nghị quyết Trung ương 15 được phổ biến tới các tỉnh Khu V, tiếp sau là các tỉnh Nam Bộ. Nghị quyết 15 đến các tỉnh miền Nam không cùng một thời gian, nhưng đến đâu nó cũng mang đến một luồng sinh khí mới, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đón nhận với lòng khát khao mong đợi từ lâu. Khát vọng của nhân dân được giải quyết.  Mọi người vui sướng, săn sàng vào trận. Nghị quyết Trung ương 15 đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng vốn đã âm ỉ lâu ngày thành những đám cháy lan toả khắp đồng bằng, rừng núi và đô thị.

Do tương quan lực lượng giữa ta và địch ở từng vùng khác nhau nên nổi dậy ở các vùng không đều nhau. ở những nơi liền kề với các căn cứ kháng chiến cũ, ta có điều kiện xây dựng, tổ chức lực lượng vũ trang tương đối khá.  Đây cũng là nơi địch có nhiều sơ hở. Điển hình như miền tây các tỉnh Khu V và Tây Nguyên, vùng giáp căn cứ U Minh, Đồng Tháp Mười (Nam Bộ). Tại đây, từ mùa Thu năm 1959, nhiều cuộc nổi dậy chống chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, trong đó nổi bật là khởi nghĩa Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi.

Trà Bồng là một trong bốn huyện miền núi (Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tư) phía tây Quảng Ngãi. Dân Trà Bồng chủ yếu thuộc bơn dân tộc Kinh, Cor, Cà Dong, Hơ rê, nơi có truyền thống đấu tranh chống đế quốc, thực dân từ rất sớm.

Tháng 10-1954, Mỹ - nguy tiếp quản Trà Bồng và các huyện miền tây, nhưng phải đến cuối năm 1955, địch mới xây dựng được bộ máy cai trị cấp quận. Từ giữa năm 1956, địch củng cố được bộ máy cai trị ở các huyện đồng bằng, bắt đầu đàn áp dã in an các cơ sở cách mạng qua các chiến dịch tố cộng, diệt cộng. Cán bộ, đảng viên tổn thất, hy sinh nhiều, số còn lại phải dạt lên rừng.

Nhận thấy những điều kiện thuận lợi của miền núi, Tỉnh uỷ Quảng Ngãi đã chủ trương xây dựng các huyện miền tây thành căn cứ cách mạng của tỉnh.  Tháng 2- 1958, Tỉnh uỷ Quảng Ngãi họp quán triệt Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6-1956 và thảo luận Đường lối cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn.

Tháng 5- 1958, Tỉnh uỷ họp nghe phổ biến ý kiến chỉ đạo của khu uỷ và ra nghị quyết xây dựng căn cứ miền tây và đẩy mạnh đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền ở miền núi. 

Tháng 6-1958, Tỉnh uỷ Quảng Ngãi triệu tập Hội nghị miền tây mở rộng tại làng Búp xã Trà Phong (Trà Bồng) để triển khai việc thực hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ về xây dựng căn cứ, tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang, chính trị, chuẩn bị khởi nghĩa.

Nhằm tập hợp lực lượng toàn dân đoàn kết, thống nhất hành động, chuẩn bị tiến tới vũ trang khởi nghĩa, ngày 7-7-1958, Tỉnh uỷ Quãng Ngãi tổ chức Đại hội nhân dân các dân tộc Trà Bồng tại Gò Rô thuộc xã Trà Phong. Đây là Hội nghị Diên Hồng thời chống Mỹ của nhân dân Quảng Ngãi. Tham dự đại hội có 200 đại biểu thuộc các dân tộc Kinh, Cor, Cà Dong Hơ rê của bốn huyện miền tây Quảng Ngãi.

Các đại biểu dự hội nghị đều nói lên ý chí, quyết tâm chững Mỹ - Diệm của dân tộc mình: “Đoàn kết xung quanh Đảng, Bác Hồ, dốc lòng hợp sức để đánh đổ Mỹ - Diệm. Mọi người, không phân biệt dân tộc, già, trẻ, gái, trai phải tham gia lực lượng vũ trang, luyện tập quân sự, làm vũ khí. . . sẵn sàng nổi dậy giành chính quyền” 1.

Sau đại hội, nhân dân các dân tộc miền tây Quảng Ngãi khẩn trương củng cố căn cứ, xây dựng phát triển lực lượng, tích trữ lương thực, thực phẩm, tìm kiếm vù khí... sẵn sàng nổi dậy. Ngày 3-3-1959, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh được tổ chức mang phiên hiệu 339. Đơn vị có 33 cán bộ, chiến sĩ (có 27 thanh niên dân tộc Cor).

Tháng 6-1959, Nghị quyết Trung ương 15 được phổ biến đến Quảng Ngãi. Nghị quyết đã mang lại niềm vui vô bờ bến cho các đồng khí lãnh đạo của tỉnh. Nó giúp Tỉnh uỷ nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của cách mạng miền Nam, chỉ ra phương châm, phương pháp đúng đắn, xoá đi băn khoăn, lo ngại, củng cố niềm tin vững chắc vào con đường mà tỉnh đã lựa chọn.


_____________________________
1. Báo cáo về Đại hội Gò Rô ngày 7-7-1958, tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Ngãi.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 01:31:22 am

Vào thời gian này, Mỹ - Diệm đang ráo riết chuẩn bị cho bầu cử Quốc hội bù nhìn. Chúng đưa quân đi càn quét khắp nơi, nhằm hỗ trợ cho các chiến dịch tuyên truyền, dụ dỗ, mua chuộc nhân dân. Ở miền tây Quảng Ngãi, chúng đưa Sư đoàn 22 nguỵ đánh phá ác liệt hòng khuất phục, bắt nhân dân phải đi bỏ phiếu.

Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ Quảng Ngãi chủ trương: chuẩn bị sẵn sàng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, tìm mọi cách làm thất bại cuộc bầu cử của địch, kiên quyết bảo vệ căn cứ cách mạng, sẵn sàng khởi nghĩa giành chính quyền ở vùng cao.

Thực hiện chủ trương này, ngày 19-8- 1959, tỉnh thành lập đơn vị vũ trang thứ hai mang phiên hiệu 89. Đơn vị gồm 36 cán bộ, chiến sĩ, phần đông là người dân tộc Rè và Cà Dong. 

Giữa lúc nhân dân Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi khẩn trương chuẩn bị, thì ngày 23-8-1959, địch điều quân lên Trà Bồng, bủa vây các xã, dùng sức mạnh quân sự buộc dân phải đi học tập, bầu cử. Ở một vài nơi trong huyện đã diễn ra đụng độ giữa ta và địch. Tình hình chuyển biến mau lẹ và phức tạp.

Ngày 25-8-1959, Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ngãi họp bất thường và chủ trương: “Tìm mọi cách tổ chức cho nhân dân tránh né không đi bầu cử và tránh xô xát với địch, triệt để chuẩn bị đầy đủ hơn cho cuộc khởi nghĩa vũ trang rộng lớn. Nếu địch lấn tới khủng bố quần chúng thì kiên quyết lãnh đạo nhân dân cầm vũ khí đánh trả để bảo vệ cán bộ, bảo vệ cơ sở, giữ vững khí thế cho quần chúng. Riêng đối với vùng trung tâm căn cứ thì bất luận thế nào cũng không cho địch xâm nhập, phải trừng trị chúng ngay lúc mới đặt chân lên” 1 .

Càng gần ngày bầu cử, địch càng ráo riết lùng sục, vừa dụ dỗ, vừa đe doạ đồng bào. Những cuộc đấu tranh chống địch cưỡng bức đi bầu cử càng quyết liệt. 

Ngày 27-8-1959, địch càn vào Trà Phong trong lúc đồng bào đang đào hầm bố phòng. Chúng bắn chết một thanh niên, làm bị thương hai thanh niên khác. Lòng căm thù, phẫn uất dồn nén trong nhân dân bấy lâu nay đã thổi bùng thành ngọn lửa đấu tranh không gì cưỡng lại được. 

Mờ sáng ngày 28-8- 1959, cuộc khởi nghĩa Trà Bồng đã nổ ra. Với sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, 16.000 đồng bào các dân tộc Trà Bồng nhất loạt nổi dậy, đánh chiếng, mõ, rúc tù và vang trời, bao vây lùng diệt quân địch. Trước khí thế nổi dậy mãnh liệt của nhân dân, địch hoảng sợ chạy trốn vào các thôn, nóc. Một số tên chạy thục mạng về đồn Eo Chim và quận lỵ.

Bộ máy kìm kẹp của địch ở cơ sở bị đập tan. Các hòm phiếu bị phá bỏ. Khởi nghĩa giành được thắng lợi to lớn. Toàn huyện có 16 xã nguy quyền bị quét sạch, 7 đồn bị bức rút, 161 tên địch bị diệt, hàng trăm tên bị thương, nhiều tên ác ôn có nợ máu với nhân dân bị trừng trị. 

Từ vùng cao Trà Bồng, cuộc khởi nghĩa lan nhanh ra các huyện khác ở miền tây như Sơn Hà, Ba Tư, Minh Long.  Huyện Sơn Hà có 9 trên 10 xã được giải phóng. Ba Tơ có 11 xã giành quyền làm chủ. Còn ở Minh Long, nhiều vùng đất đai thoát khỏi sự kìm kẹp của Mỹ - Diệm. 

Khởi nghĩa Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi là cuộc khởi nghĩa lớn nhất không chỉ ở Khu V mà cả miền Nam lúc bấy giờ. Đó là cuộc tiến công có ý nghĩa chiến lược, là trận đột phá khẩu xuất sắc của quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Tỉnh uỷ Quảng Ngãi vào khâu yếu nhất của chủ nghĩa thực dân kiểu mới Mỹ ở miền Nam Việt Nam, giành quyền làm chủ một vùng rộng 3.600 km2 có tầm chiến lược quan trọng.

Đây là sản phẩm đầu tiên của việt vận dụng Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 với sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị và vũ trang để đánh đổ chính quyền nguỵ ở cơ sở. Khởi nghĩa Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi “mở ra một trang sử mới đấu tranh chính trị và vũ trang song song, là đỉnh cao nhất trong phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Quảng Ngãi lúc bấy giờ... Nó có giá trị lớn và đã cung cấp được nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc vận dụng Nghị quyết 15 không chỉ ở Quảng Ngãi mà ở trong toàn khu” 2.


________________________________
1. Nghị quyết Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ngãi ngày 25-8-1959. Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Ngãi.
2. Phát biểu của đồng chí Võ Chí Công - Bí thư Khu uỷ khu V - tại Hội nghị sơ kết cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và Tổng kết tình hình đấu tranh 1954 - 1960 của Quảng Ngãi, tháng 2-1960, tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Ngãi.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 01:35:04 am

Cùng thời gian với khởi nghĩa Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi, ở Nam Bộ, nắm được tinh thần Nghị quyết Trung ương 15, một số địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long đẩy mạnh hoạt động vũ trang, gây cho địch nhiều thiệt hại. 

Đêm 25 rạng ngày 26-8-1959 ở Cà Mau, Tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng kết hợp với du kích xã Khánh An, tiến công đồn Vàm Cái Tàu, cách thị xã Cà Mau 10 km, diệt trung đội dân vệ và Hội đồng xã Khánh An, bắt sống 12 tên, thu 57 súng các loại. Được sự hỗ trợ của Tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng, các xã Khánh Bình Đông, Khánh Bình Tây, Khánh Lâm . . . thuộc huyện Trần Văn Thời nổi dậy vây đồn, diệt ác ôn, giải tán tề nguỵ, giành quyền làm chủ.

Đêm 23-9-1959, tại Rạch Giá, Tiểu đoàn Ngô Văn Sở kết hợp với cơ sở nội tuyến tiến công tiêu diệt chi khu quận lỵ Xẻo Rô, diệt 20 tên, bắt 50 tên, trong đó có tên quận trưởng, thu 50 súng các loại. Đây là trận tiến công vào chi khu quận lỵ đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long.

Với việc đánh chiếm được quận lỵ, chiến thắng Xẻo Rô có tác dụng động viên, cổ vũ và hỗ trợ đắc lực cho các xã xung quanh quận ly nổi dậy ‘ diệt ác ôn, phá vỡ bộ máy kìm kẹp của địch. 

Tại tỉnh Kiến Phong, ngày 26-9-1959, Tiểu đoàn 502 của tỉnh đã tổ chức phục kích, đánh thắng cuộc càn của Chiến đoàn 42 đặc nhiệm quân Cộng hoà ở Giồng Thị Đam (xã Tân Hội Cơ, huyện Hồng Ngự), diệt 74 xuồng, bắt sống 105 tên (có cả tên đại úy tiểu đoàn trưởng), thu 365 súng các loại, có 11 súng trung liên và cối. Số tù binh ta đưa về Gò Quản Cung giáo dục rồi phóng thích tại chỗ.

Buổi chiều, Tiểu đoàn 2 của địch mở cuộc càn vào Gò Quản Cung (nơi Tiểu đoàn 502 lui về sau trận đánh ở Giồng Thị Đam) bị Tiểu đoàn 502 đánh diệt thêm một số. Lực lượng địch còn lại vội tháo lui.  Kết quả, trong cả hai trận, ta loại khỏi vòng chiến đấu Tiểu đoàn 3, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 2 của Chiến đoàn 42, Sư đoàn 23 nguy.

Trận Giồng Thị Đam - Gò Quản Cung là trận đánh lớn nhất tính tới thời điểm đó không chỉ ở đồng bằng sông Cửu Long mà trên toàn miền Nam. Nó gây tiếng vang lớn, có tác dụng củng cố niềm tin và cổ vũ khí thế đấu tranh của nhân dân, nâng cao uy thế cách mạng.

Sau thắng lợi của trận Giồng Thị Đam - Gò Quản Cung, hoạt động vũ trang của ta ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long sôi nổi hẳn lên. Báo cáo tình hình Quân khu 5* tháng 12-1959 của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hoà thừa nhận: “Tình hình đặc biệt nghiêm trọng bởi ngoài các vụ khủng bố, ám sát thường xuyên, hoạt động vũ trang của Việt cộng gia tăng. Nhiều vụ phục kích các toán tuần tiễu của ta và đột nhập vào các cơ sở hương thôn Việt cộng còn tấn công cả ban ngày bằng súng máy và phóng lựu vào Châu Thành, tỉnh Kiến Tường. Rõ ràng Việt cộng tiếp tục theo đuổi chủ trương tập trung và vẫn cố gắng tạo thế chủ động với các hoạt động táo bạo như chấp nhận giao tranh... nhất là ở các tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường, An Xuyên, Kiên Giang...” 1

Tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện ở nhiều vùng nông thôn miền Nam, nhất là Nam Bộ, đúng như đồng chí Lê Duẩn đã đánh giá: Cuối năm 1959, đầu năm 1960, “chế độ thống trị ở miền Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Tuy ở thành thị địch còn tương đối mạnh, nhưng trong nhiều vùng nông thôn rộng lớn, địch không thể cai trị nhân dân một cách bình thường được nữa, nguy quyền cơ sở nhiều nơi đã suy yếu và bất lực, còn quần chúng nhân dân, đặc biệt là đông đảo nông dân thì sục sôi cách mạng đã tỏ ra kiên quyết và sẵn sàng chiến đấu sống chết với quân thù. Đó là điều kiện chín muồi, cho phép phát động quần chúng nông thôn nổi dậy khởi nghĩa từng phần đập tan khâu yếu nhất trong hệ thống cai trị của địch” 2.

Tháng 11- 1959, Xứ uỷ Nam Bộ triệu tập Hội nghị lần thứ tư Xứ uỷ nhận định: “Trong thời gian qua, với chính sách võ lực tàn bạo của địch, về mặt nào đó, địch đã chủ động thực hiện âm mưu của chúng, ta phải bị động đối phó hằng ngày với địch. Nhưng xét về căn bản thì tuy ta có gặp một số khó khăn mới, tùy từng nơi từng lúc ta có bị động đối phó với địch, nhưng nhìn về toàn cục thì đường lối chính trị hoà bình dân tộc dân chủ của ta ở thế chủ động, ta ngày càng tranh thủ được đông đảo các từng lớp nhân dân theo đường lối chính trị của ta.


_________________________________
* Quân khu 5 theo tổ chức quân sự nguỵ bao gồm các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
1. Tóm tắt tình hình Quân khu 5 trong tháng 12-1959 của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, tài liệu lưu trữ Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
2. Lê Duẩn: Hăng hái tiến lên dưới ngọn cờ vĩ đại của cách mạng tháng Mười, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1969, tr.41.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 01:37:59 am

Trái lại địch bị động về toàn cục, chúng không thể cai trị được theo ý muốn của chúng. Chính do lực lượng chính trị đông đảo của quần chúng, chủ yếu là công nông đã làm thất bại về căn bản chính sách phản động của địch trong mấy năm qua. Thắng lợi căn bản ấy của phong trào cách mạng miền Nam làm cho tình hình chính trị, kinh tế, xã hội miền Nam càng khủng hoảng trầm trọng hơn, nội bộ địch càng mâu thuẫn hơn, địch sẽ gặp nhiều khó khăn mà không sao chúng thoát ra được. Tình hình ấy sẽ làm cho địch càng bị động, càng bị cô lập hơn” 1.

Xứ uỷ chỉ rõ những hạn chế của phong trào là sử dụng vũ trang tuyên truyền hỗ trợ thúc đẩy đấu tranh chính trị chưa đúng mức, có nơi cố thủ quá, đối phó với địch chưa tương xứng, có nơi không dám sử dụng cho nên địch có lấn lướt uy thế đấu tranh của quần chúng làm thiệt hại cơ sở cách mạng khá trầm trọng.

Xứ uỷ rút ra bài học thắng lợi trong mấy năm qua là:Ta đã biết dựa vào lực lượng đấu tranh chính trị của quần chúng là chủ yếu, lấy đấu tranh chính trì rộng rãi của quần chúng là chính và giữ thế công khai hợp pháp của phong trào. Điều đó có ý nghĩa hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh chống các chính sách của địch để đưa cách mạng tiến lên.

Xứ uỷ đề ra nhiệm vụ căn bản trước mắt là:

1. Giữ vững và đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng, lấy đấu tranh chính trị rộng rãi và mạnh mẽ của quần chúng làm chính, đồng thời kết hợp hoạt động vũ trang để chống chính sách khủng bố tàn bạo, chính sách bóc lột vơ vét, chính sách cướp nước và bán nước nô dịch dân tộc và gây chiến của Mỹ - Diệm. Ngăn chặn và đẩy lùi từng bướt mọi chính sách của địch, đẩy địch vào thế bị động và cô lập hơn nữa về chính trị, tạo điều kiện thuận lợi tiến tới đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.

2. Ra sức xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng cách mạng. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng tồn tại trong phong trào, tích cực tích trữ và bảo tồn lực lượng cách mạng để khi có điều kiện nắm lấy thời cơ chiến thắng hoàn toàn kẻ địch, giành lấy thắng lợi cuối cùng 2.
 
Để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ căn bản trước mắt thành công, Xứ uỷ nhắc nhở các đảng bộ địa phương: “Cần phải tích cực khắc phục kịp thời những khuynh hướng sai lầm của tư tưởng bi quan, dao động, hữu khuynh, rụt rè, co rút, không dám đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng, đồng thời chống tư tưởng manh động phiêu lưu, nôn nóng muốn dốc lực lượng ra đấu tranh, hoặc muốn phát động du kích chiến tranh, coi thường khả năng đấu tranh chính trị của quần chúng. . .

Cần phải nhận rõ rằng: mọi hoạt động võ trang hiện nay đều nhằm phục vụ cho phong trào đấu tranh chính trị, hỗ trợ thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền khi có đủ điều kiện và thời cơ thuận lợi. Do đó eần thấu suốt nguyên tắc “sử dụng lực lượng võ trang hiện nay chỉ là một chiến thuật để phục vụ chiến lược đấu tranh chính trị của quần chúng, mở rộng sự sử dụng có tính chất chiến lược là sai lầm nhưng không sử dụng theo phương châm chiến thuật kịp thời có mức độ thì cũng không đúng” 3 .

Giữa lúc khí thế cách mạng đang lên, quần chúng đang ở vào tình thế “không thể sống như trước được nữa”, còn chính quyền Diệm cũng “không thể tiếp tục thống trị theo ý muốn của chúng”, Nghị quyết Xứ uỷ Nam Bộ lần thứ tư và Nghị quyết Trung ương 15 được phổ biến đến các đảng bộ đã thổi bùng phong trào nổi dậy đồng loạt ở Nam Bộ, tạo nên một cao trào cách mạng làm chuyển biến cục diện chiến trường.

Ngay sau khi Hội nghị Xứ uỷ, tháng 12- 1959, Hội nghị Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam Bộ (gồm các tỉnh Long An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Kiến Tường, Kiến Phong, An Giang) được tổ chức. Hội nghị nhận định: Các tỉnh miền Trung Nam Bộ đã trải qua một thời kỳ đen tồi, cơ sở cách mạng bị tổn thất, có nơi tổn thất nghiêm trọng, nhưng lực lượng lãnh đạo và quần chúng nhân dân vẫn một lòng, một dạ quyết tâm kháng chiến đến cùng.

Trước tình hình bức xúc trong toàn khu, mặt khác được chiến thắng Giồng Thị Đam - Gò Quản Cung khích lệ, quán triệt Nghị quyết Trung ương 15 và Nghị quyết Xứ uỷ lần thứ tư Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam Bộ chủ trương:


_______________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 20, tr. 978-979. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 20, tr. 985-986.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 20, tr.987-988.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 09:53:04 am

Đối với các tỉnh tiếp giáp căn cứ Đồng Tháp Mười, kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang hỗ trợ nhân dân nổi dậy, phá thế kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ thôn ấp, mở rộng căn cứ du kích, xây dựng lực lượng vũ trang, chuẩn bị nổi dậy khởi nghĩa đồng loạt.

Đối với các tỉnh do địch kiểm soát hoàn toàn, ta có ít cơ sở, cần phải khẩn trương tổ chức, xây dựng lực lượng chính trị, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường hoạt động diệt ác, hỗ trợ cho khởi nghĩa. 

Liên tỉnh uỷ quyết định tháng 1-1960, phát động quần chúng nổi dậy trong toàn khu (Khu VIII) .  Nhằm bảo đảm cho cuộc nổi dậy thắng lợi, Liên tỉnh uỷ chỉ đạo các tỉnh có lực lượng vũ trang mạnh, hoạt động có hiệu quả, khí thế cách mạng đang lên phải hỗ trợ cho các tỉnh phong trào còn yếu. Cụ thể: Kiến Phong hỗ trợ An Giang, Kiến Tường; Long An hỗ trợ Mỹ Tho, Gò Công. 

Thực hiện chỉ đạo của Liên tỉnh uỷ, trong tháng 1-1960, hàng loạt tỉnh ở Trung Nam Bộ đã đồng loạt nổi dậy. Trong số đó, nổi bật nhất là cuộc đồng khởi của nhân dân Bến Tre. Đây là một tỉnh nhỏ ở đồng bằng sông Cửu Long, Bến Tre cũng là nơi có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường. 

Trong các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, hàng loạt cán bộ, đảng viên tỉnh Bến Tre bị địch bắt và thủ tiêu. Nhiều cơ sở đảng, cơ sở quần chúng bị tan vỡ. Tính đến cuối năm 1959, địch đã sát hại 2.519 cán bộ, đảng viên, bắt 17.000 người.  Trong 115 xã chỉ có 18 xã có chi bộ đảng. Mặc dù vậy địch không khuất phục nổi người dân Bến Tre.  Cuối năm 1959 đầu năm 1960, tình thế cách mạng xuất hiện, Tỉnh uỷ Bến Tre, dưới sự chỉ đạo của Liên tỉnh uỷ Trung Nam bộ đã tổ chức cho nhân dân nổi dậy làm cuộc đồng khởi thành công.

Cuộc đồng khởi bắt đầu vào ngày 17-1-1960 từ ba xã điểm là Định Thuỷ, Bình Khánh, Phước Hiệp thuộc huyện Mỏ Cày, sau đó lan nhanh ra toàn huyện Mỏ Cày và các huyện khác trong tỉnh.

Tại Định Thuỷ, 8 giờ sáng, tổ hành động diệt Tổng đoàn dân vệ Minh Đạt (11 tên) do Đội Tý chỉ huy, một tổ khác kết hợp với cơ sở nội tuyến vận động anh em binh sĩ ở đồn Vàm Nước’ Trong nổi dậy phá đồn, diệt ác ôn, giải tán tề xã thu vũ khí.

Sát với Định Thuỷ là Phước Hiệp. Cuộc nổi dậy ở đây bắt đầu lúc 18 giờ. Các tổ hành động cùng nhân dân bao vây đồn đần vệ và trụ sở Hội đồng xã. 20 giờ tổ hành động dùng loa truyền quân lệnh của Tiểu đoàn 502 gọi địch trong đồn ra hàng, nhưng chúng ngoan cố chống cự 1.

Lúc này, với số súng thu được của địch ở xã Định Thuỷ, tỉnh đã lập bốn tiểu đội vũ trang. Lập tức, một tiểu đội được điều sang hỗ trợ cho Phước Hiệp. Nhưng cả đêm 17-1, ta không giải quyết được đồn . Sáng 18- 1 , địch tăng cường lính bảo an từ quận về ứng cứu, bị ta đánh diệt; bọn địch trong đồn hoảng sợ, đang đêm (18-1), chúng bỏ đồn chạy về quận.  Thừa cơ, nhân dân san bằng đồn và trụ sở Hội đồng xã, giải tán tề xã, tề ấp, giải phóng toàn xã vào sáng ngày 19-1-1960. 

Ở xã Bình Khánh, địch đánh hơi thấy quần chúng chuẩn bị nổi dậy, chúng tăng cường lực lượng công an quận về xã để giữ an ninh. Ngày 18-1-1960, tổ hành động dùng mưu cướp súng địch, bắt sống chúng rồi nổi trống mõ phát lệnh đồng  khởi. Quần chúng bao vây đồn dân vệ, lùng bắt tề điệp, phát loa kêu gọi địch đầu hàng. Địch chống trả quyết liệt. Một tổ vũ trang của tỉnh được điều tới hỗ trợ. Đến ngày 20- 1- 1960, đồn Bình Khánh bị san bằng, toàn xã được giải phóng.

Đồng khởi hoàn toàn thắng lợi tại ba xã điểm. Từ đây phong trào lan nhanh ra toàn tỉnh. Trong vòng một tuần lễ (từ ngày 17 đến ngày 24-l-1960), 47 xã thuộc các huyện Mỏ Cày, Giồng Trộm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú đều nhất tề nổi dậy. Có 22 xã giải phóng hoàn toàn, 25 xã khác giải phóng cơ bản.


________________________
1. Bến Tre cho đến lúc đồng khởi vẫn chưa thành lập được một đơn vị vũ trang nào, để làm nòng cốt trong việc diệt ác trừ gian, hỗ trợ nhân dân nổi dậy, thanh niên được tập hợp thành những tổ hành động lấy danh nghĩa Tiểu đoàn 502.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 09:54:59 am

Trong tuần lễ đồng khởi, trên 300 tề điệp, dân vệ, ác ôn bị bắt, 37 đồn bị bức rút, bức hàng. Ta thu 150 súng cùng nhiều đạn và lựu đạn. Với số vũ khí thu được của địch, tỉnh thành lập đại đội vũ trang đầu tiên mang phiên hiệu 264. 

Cùng với Bến Tre, thực hiện chủ trương chung của Liên tỉnh uỷ Trung Nam Bộ, các tỉnh Long An, Kiến Phong, Kiến Tường, Mỹ Tho, Gò Công và An Giang cũng phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ nông thôn.

Mặc dù không thống nhất về thời gian (có tỉnh thì nổi dậy tháng 1, có tỉnh tháng 2) do đặc điểm riêng của mỗi tỉnh, nhưng đợt đồng khởi lớn đầu tiên đã diễn ra trên khắp các tỉnh miền Trung Nam Bộ. Nhìn chung, các tỉnh đều giành được thắng lợi với những mức độ khác nhau, có tỉnh thắng lợi còn hạn chế (Gò Công, Mỹ Tho) . Song những thành công và chưa thành công trong đợt đồng khởi lớn này đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu trong chỉ đạo khởi nghĩa của Đảng ta.

Các tỉnh miền Tây Nam Bộ, do so sánh tương quan lực lượng địch, ta ở đây khác với các tỉnh miền Trung Nam Bộ, nên Liên tỉnh uỷ miền Tây không có chủ trương nổi dậy đồng loạt trong toàn khu (Khu IX) mà tuỳ điều kiện cụ thể từng tỉnh tổ chức cho quần chúng nổi dậy theo khả năng của mình.

Tại Cà Mau, ngày 6- 1 1- 1960, một bộ phận của Tiểu đoàn Ngô Văn Sở tiến công cứ điểm Hòn Khoai (cách đất liền 20 km), sau đó bộ đội cùng du kích và nhân dân nổi dậy diệt và bức rút các đồn dân vệ, giải phóng các xã Viên An, Tân ân.  Phong trào phát triển đến tận thị xã Cà Mau. 

Ở Rạch Giá, ngày 13-2-1960, Đại đội 202 của Tiểu đoàn Ngô Văn Sở tập kích địch tại Xẻo Cạn. Ngày 15-2-1960, Đại đội 203 (Tiểu đoàn Ngô Văn Sở) tiến công chi khu Gò Quào.  Cùng thời gian, Tiểu đoàn Lê Quang ở Hà Tiên hỗ trợ nhân dân trong khu trù mật Ba Thê phá tan hệ thống kìm kẹp, đốt hết nhà cửa trở về quê cũ. . . Cùng với các trận đánh của lực lượng vũ trang, quần chúng khắp nơi trong toàn tỉnh nổi dậy, phá vỡ hệ thống kìm kẹp của địch ở cơ sở, giành quyền làm chủ. :

Cũng như Rạch Giá, Cà Mau, hầu khắp các tỉnh khác ở miền Tây Nam Bộ đã nổi dậy khởi nghĩa giải phóng nhiều vùng rộng lớn. Cùng với phong trào nổi dậy đồng loạt, lực lượng vũ trang địa phương (tỉnh, huyện, xã) vừa hình thành và phát triển đã phát huy ngay vai trò tích cực của mình, làm nòng cốt cho quần chúng đấu tranh giành quyền làm chủ. 

Một tuần sau đồng khởi ở Bến Tre, ngày 25- 1- 1960, tại miền Đông Nam Bộ, trận đánh Tua Hai gây tiếng vang lớn.  Năm 1959, Xứ uỷ đã chỉ thị cho Ban quân sự Liên tỉnh miền Đông Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động vũ trang và phải đánh cho được một trận lớn làm thôi động toàn miền, tạo cơ sở cho nhân dân đồng loạt khởi nghĩa giành chính quyền ở cơ sở. 

Tháng 1-1960, Hội nghị cán bộ quân sự miền Đông Nam Bộ họp ở Bàu Giá (Tây Ninh) . Sau khi cân nhắc, tính toán các phương án, hội nghị đã quyết định đánh Tua Hai - căn cứ Trung đoàn 32 nguỵ.

Tua Hai thuộc Tràng Sụp, xã Thái Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh) nằm trên đường 22 đi Kông Ông Chàm (Campuchia) cách thị xã Tây Ninh 7 km. Lực lượng định đóng trong căn cứ, theo phúc trình của Đại tá Nguyễn Hữu Có - Tư lệnh Quân khu 1 nguỵ, là 1.694 tên. Trong số đó, 180 tên đang hành quân bảo vệ an ninh trong dịp Tết. 200 tên được phép về nhà, 424 tên biệt phái công tác xa, còn lại trong căn cứ 890 tên, có 343 tân binh. Đây không chỉ là căn cứ trung đoàn mà còn là nơi huấn luyện biệt kích và bàn đạp để quân nguỵ mở các hành quân đánh phá căn cứ cách mạng. 

Tua Hai cũng là nơi ta xây dựng được cơ sở nội tuyến khá mạnh. Tại đây ta tổ chức cả một chi bộ chịu sự lãnh đạo từ bên ngoài của một huyện uỷ viên, có lúc là tỉnh uỷ viên chuyên trách.

Tham gia đánh Tua Hai có 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội đặc công trực thuộc Ban Quân sự Miền cùng bộ đội địa phương tỉnh Tây Ninh. Chỉ huy trận đánh có các đồng chí: Nguyễn Hữu Xuyến - Chỉ huy trưởng, Mai Chí Thọ - Chính trị viên, Lê Thanh - Chỉ huy phó 1.


____________________________
1. Xem: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tây Ninh - Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Chiến thắng Tua Hai và phong trào đồng khởi ở miền Đông Nam Bộ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.173.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 09:56:00 am

Nhằm vào đêm 28 Tết (tức đêm 25 rạng ngày 26-1-1960), khi binh lính địch đã về nghỉ Tết khá đông, ta nổ súng tiến công căn cứ. Bị đánh bất ngờ, địch hoảng loạn không kịp đối phó.

Nguyễn Hữu Có trong phúc trình ngày 1-2-1960 đã thừa nhận: “Sức kháng cự của Tiểu đoàn 1 và 2, Trung đoàn 32 dường như không có vì bị tấn công bất ngờ và các kho vũ khí bị chiếm . . . sự kháng cự của đội trọng pháo rất yếu ớt vì đa số binh sĩ không có súng” 1.
 
Sau 3 giờ, ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Kết quả, ta diệt Sở Chỉ huy Trung đoàn 32, diệt và làm tan rã Tiểu đoàn 1 và 2, tiêu hao Tiểu đoàn 3, bắt giáo dục thả tại chỗ 500 tù binh, thu gần 1.000 súng các loại. Địch thú nhận, chúng chết và bị thương 76, mất 783 súng các loại. 

Tua Hai là trận đánh lớn diệt được nhiều địch, thu được nhiều vũ khí nhất của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam kể từ sau khi Hiệp đinh Giơnevơ được ký kết. Nó đánh dấu bước phát triển mới về trình độ tổ chức, chỉ huy và hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang miền Đông.

Điều quan trọng hơn là chiến thắng mang ý nghĩa chính trị to lớn. Địch hoang mang không biết rõ thực lực ta ra sao mà dám tiến công vào căn cứ trung đoàn chủ lực mạnh của chúng. Nhiều tên ác ôn, thậm chí cả Tỉnh trưởng Tây Ninh lo sợ một căn cứ trung đoàn còn bị ta tiến công như vậy thì việc tiến công vào thị xã chắc cũng không khó khăn gì. Điều này làm cho chúng ăn không ngon, ngủ không yên, đêm đến phải trốn đi nơi khác vì sợ “chủ lực Bắc Việt tiến công” .  Tua Hai như tiếng kèn hiệu lệnh cho cuộc nổi dậy đồng loạt không chỉ ở Tây Ninh mà cả miền Đông Nam Bộ. 

Ở Tây Ninh, chỉ trong một thời gian ngắn sau chiến thắng Tua Hai, quân và dân trong tỉnh đã nhất tề đứng lên, quét sạch bộ máy kìm kẹp của địch ở nông thôn, dồn địch về thị xã, thị trấn, gỡ 30 đồn trong tổng số 60 đồn bốt của địch.  Trong 49 xã, tỉnh giải phóng hoàn toàn 24 xã, giải phóng cơ bản 19 xã. Tề điệp và dân vệ tan rã từ 70 đến 80%. Lực lượng vũ trang Tây Ninh phát triển nhanh chóng.

Tháng 2- 1960, tỉnh thành lập tiểu đoàn đầu tiên: Tiểu đoàn 14. Các huyện có các đại đội C40 (Châu Thành), C41 bến Cầu), C315 (Dương Minh Châu), C245 (thị xã)... Các xã xây dựng các đội du kích (trong 49 xã, có 44 xã lập đội du kích).

Đến hết quý I năm 1960, hầu khắp các tỉnh ở miền Đông Nam Bộ đều đã nổi dậy tiến công địch giành quyền làm chủ ở mức độ khác nhau.

Nằm giữa địa bàn miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn - Gia Định tuy không nổi dậy đồng loạt, mạnh mẽ như các tỉnh khác bởi lực lượng địch tập trung ở đây quá mạnh. Song, trong hai tháng 2 và 3-1960, nhân dân các xã Phú Mỹ Hưng, Nhuận Đức và một số ấp thuộc xã An Nhơn Tây, Trung Lập, Bắc Củ Chi (tỉnh Gia định) đã nổi dậy giành quyền làm chủ. 

Ở nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn, Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị. Trọng tâm hành động là mở đợt đấu tranh vạch trần tội ác chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, đồng thời kết hợp đòi quyền dân sinh, dân chủ cho quần chúng lao động.  Tính chung, trong đợt đồng khởi lớn đầu tiên (đầu năm 1960) với hai ngọn cờ tiêu biểu là Bến Tre và Tây Ninh, ta đã làm tan rã một mảng lớn bộ máy kìm kẹp của địch ở cơ sở. 

Thắng lợi bước đầu này đã làm cho địch hết sức cay cú và hoang mang. Để trấn an tinh thần binh lính nguỵ và giành lại những gì đã mất, Diệm một mặt, tăng cường hành quân càn quét các vùng nông thôn ở đồng bằng Nam Bộ, nhất là các trọng điểm Bến Tre, Kiến Phong, Kiến Tường, Long An...  mặt khác, chúng tăng cường kiểm soát chặt chẽ dân chúng, đóng thêm đồn bốt. . . Mặc dù vậy, Mỹ - Diệm không ngăn nổi phong trào của quần chúng, ngược lại còn bị thêm tổn thất. 

Ngày 25-3-1960, quân đội Sài Gòn mở cuộc hành quân lớn với gần 10.000 quân gồm lính thuỷ đánh bộ, dù, biệt động...  đánh vào ba xã điểm đồng khởi của tỉnh Bến Tre là Bình Khánh, Phước Hiệp và Định Thuỷ. Đi đến đâu chúng bắn giết, đốt phá, cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ tới đó. Tỉnh uỷ quyết định phát động quần chúng đấu tranh trực diện với địch, đồng thời huy động phụ nữ kéo ra quận, tố cáo tội ác đòi địch phải rút quân. Lực lượng vũ trang bám trụ bên trong, lừa thế đánh địch, bảo vệ cơ quan lãnh đạo và nhân dân, đồng thời tìm cách rút khỏi vòng vây an toàn.


__________________________
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tây Ninh - Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Chiến thắng Tua Hai và phong trào đồng khởi ở miền Đông Naln Bộ, Sđd, tr. 178 .


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 09:58:37 am
Ngày 1-4, nhân dân ba xã Định Thuỷ, Bình Khánh, Phước Hiệp “tản cơ ngược ra thị trấn Mỏ Cày, tố cáo lính địch càn quét, cướp của giết người, hãm hiếp phụ nữ, đưa kiến nghị đòi chính quyền tỉnh phải rút quân khỏi ba xã điểm, bồi thường thiệt hại cho dân. Trước sức đấu tranh của quần chúng, tên đại diện cho Diệm, Tỉnh trưởng Bến Tre và tên đại tá chỉ huy cuộc hành quân phải ra lệnh lui quân. Trong cuộc đấu tranh này, “Đội quân tóc dài” của phụ nữ Bến Tre ra đời. Đó là điểm nổi bật và cống hiến xuất sắc của phong trào đồng khởi Bến Tre về sự kết hợp các phương thức đấu tranh vũ trang, chính trị, binh vận (ba mũi giáp công).

Tháng 7-1960, Xứ uỷ Nam Bộ tổ chức Hội nghị lần thứ năm. Hội nghị nhận định: “Từ Hội nghị Xứ uỷ lần thứ tư (9-1959) đến nay, do chúng ta chấp hành đúng đắn nghị quyết của Trung ương Đảng: đẩy mạnh đấu tranh chính trị có kết hợp với hoạt động võ trang, lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu, tình hình chung ở nông thôn Nam Bộ đã biến chuyển có lợi cho cách mạng. Uy thế quần chúng lên cao, tương quan lực lượng giữa ta và địch có những thay đổi quan trọng:

“Chính sách khủng bố ác liệt và quân sự quy mô của chúng không thể làm cho quần chúng chùn bước. Mặc dầu chúng cố gắng xuyên tạc tình hình thực tế ở nông thôn, cố lừa bịp quần chúng và nội bộ chúng, gian xảo đổ lỗi cho bọn tay sai bên dưới, nhưng chúng cũng không thể che giấu bộ mặt thật. Dơ luận rộng rãi trong và ngoài nước chẳng những kết án chính sách tàn bạo của chúng mà ngày càng thấy rõ chúng đang suy yếu và nhất định bị sụp đổ. . .  Trước phong trào quẩn chúng, trong thời gian qua, địch đã phô bày tất cả những nhược điểm không thể khắc phục được” 1 . . .

Trên cơ sở nhận định và đánh giá trên, Xứ uỷ đề ra phương hướng công tác trước mắt là: “Phát động các từng lớp nhân dân ở nông thôn cũng như ở thành thị một phong trào đấu tranh rộng rãi mạnh mẽ để giữ vững thắng lợi và tiếp tục tiến công chính trị làm cho địch càng thất bại và bị động hơn nữa trên mọi mặt, nhằm đánh lui từng bước âm mưu, chính sách của địch, đưa phong trào tiến lên từng bước dần dần tạo điều kiện và thời cơ cho cuộc khởi nghĩa đánh đổ toàn bộ chính quyền Mỹ - Diệm. Ra sức tích cực xây dựng lực lượng vũ trang và bố trí rộng khắp để đủ sức ứng phó với mọi tình thế. Tích cực xây dựng căn cứ cách mạng” 2

Về nhiệm vụ cụ thể, Xứ uỷ xác định: “Tích cực đẩy mạnh đấu tranh chính trị có kết hợp đấu tranh vũ trang đúng mức để tiếp tục phá thế kìm kẹp, giữ vững và mở rộng thế chủ động ở nông thôn, đồng thời phải hết sức chú trọng đẩy mạnh phong trào đô thị” 3 .

Phát huy thắng lợi của đồng khởi đợt 1 và để kỷ niệm lần thứ 15 ngày Nam Bộ kháng chiến (23-9- 1945), Xứ uỷ chỉ thị cho các tỉnh Nam Bộ nhất loạt nổi dậy vào tháng 9- 1960.  Thực hiện chỉ đạo của Xứ uỷ, Liên tỉnh uỷ miền Tây Nam Bộ quyết định phát động toàn khu nổi dậy đồng loạt vào ngày 14-9-1960, còn Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam Bộ chọn đúng ngày Nam Bộ kháng chiến (23-9).

Toàn Nam Bộ bừng bừng khí thế đồng khởi đợt 2, giải phóng thêm nhiều xã ấp, gỡ hàng loạt đồn bốt, diệt hàng trăm tên ác ôn.  Tính đến cuối năm 1960, toàn Nam Bộ ta đã đánh 1.602 trận, diệt 16.500 tên địch, thu 5.400 súng, bức rút và diệt 175 đồn bốt, nhân dân đã giành được quyền làm chủ 865 xã trong tổng số 1. 193 xã toàn Nam Bộ. Riêng ở Trung Nam Bộ có 505 xã thì ở 400 xã, tề ấp bị quét sạch.  Miền Tây Nam Bộ, 50% số tề xã bị tan rã, 1/3 số tề còn lại tê liệt.

Phân Cục tình báo Trung ương Mỹ ở Sài Gòn thừa nhận: “Vào cuối năm 1960, toàn bộ vùng nông thôn nam và tây nam Sài Gòn và một số vùng phía bắc Sài Gòn đã bị cộng sản kiểm soát ½ và bao vây Sài Gòn. Đấu tranh chính trị phát triển mạnh ở các tỉnh Kiến Hoà (Bến Tre), Vĩnh Long, Long An, Định Tường, An Xuyên, Ba Xuyên, An Giang, Bình Dương, Tây Ninh và Bình Tuy” 4

Thắng lợi của đồng khởi ở Nam Bộ tác động mạnh đến phong trào cách mạng trên toàn miền Nam.  ở Trị - Thiên, với đặc điểm là khu đệm nối giữa miền Bắc xã hội chủ nghĩa và miền Nam, để tránh kích thích địch gia tăng hành động quân sự quá sớm và để tránh những ảnh hưởng không có lợi về chính trị và đối ngoại, Đảng chỉ đạo:Hoạt động quân sự hạn chế, không rầm rộ. Chấp hành chỉ đạo của trên, Tỉnh uỷ Quảng Trị và Thừa Thiên chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang tự vệ, nắm thời cơ phát động quần chúng nổi dậy ở miền núi.


_________________________
1, 2 . Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập , Sđd, t. 21, tr.1059-1060, 1072.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 21, tr.1073.
4. Lê Quốc Sản: Cuộc đọ sức thần kỳ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991, tr.83.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 10:03:40 am

Ở Khu V, sau khởi nghĩa ở Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi, địch tăng cường khủng bố, đàn áp gây cho ta nhiều khó khăn. Đầu năm 1960, mặc dù số cơ sở bị vỡ đã giảm bớt, một số cơ sở bị đánh phá đã được phục hồi, một số cơ sở mới được xây dựng, phong trào cách mạng ở Liên khu V căn bản đã được giữ vững, song điều kiện để cho những cuộc nổi dậy cục bộ ở các tỉnh đồng bằng phát triển thành cao trào đồng khởi như ở Nam Bộ thì chưa đủ.

Từ thực tiễn tình hình liên khu, tháng 4-1960, Hội nghị Liên khu uỷ Khu V chủ trương: “Mạnh dạn phát động quần chúng ở căn cứ miền núi vũ trang chống địch càn quét, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang của tỉnh, khu, khẩn trương xây dựng Tây Nguyên thành căn cứ địa vững chắc để làm chỗ dựa cho đồng bằng” 1.

Sau Hội nghị Liên khu uỷ, tháng 7- 1960, Liên khu uỷ quyết định mở đợt hoạt động đấu tranh chính trì kết hợp với quân sự trong toàn khu nhằm mở rộng và phát triển Tây Nguyên và miền tây các tỉnh đồng bằng thành một khu căn cứ tương đối hoàn chỉnh, giành quyền làm chủ ở một số khu vực giáp ranh miền núi với đồng bằng, phá lỏng thế kìm kẹp ở đồng bằng.

Mở đầu đợt hoạt động, ngày 31-7-1960, đơn vị 2/9, lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận tiến công vào khu tập trung Bắc Ruộng và chi khu quân sự quận ly Hoài Đức. Chỉ sau ít phút chiến đấu ta diệt và bắt sống 300 tên địch, thu 150 súng các loại, giải phóng 5.000 dân khỏi khu tập trung. 

Chưa đầy một tháng sau - trận Bắc Ruộng, ngày 29-8-1960, tại Ninh Thuận, một bộ phận lực lượng vũ trang Liên tỉnh 3* cùng lực lượng vũ trang tỉnh tiến công hai đồn Tà Lú, Ma Ty, bao vây đồn Suối Đầu trong suốt ba ngày buộc lực lượng địch ở đây phải tháo chạy. Hơn 5.000 đồng bào bị dồn về đây đã nổi dậy phá banh khu tập trung trở về quê cũ làm ăn. Cùng thời gian, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tỉnh Khánh Hoà, hàng vạn đồng bào trong các khu:dồn Gia Lê, Thác Trại, Cây Dầu, Tà Lương, Suối Hai nổi dậy phá khu dồn trở về làng cũ.

Trên địa bàn Tây Nguyên, dưới sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhân dân các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc cùng nổi dậy phá các khu tập trung, trở về làng cũ làm ăn và xây dựng chính quyền cách mạng. Tính chung, toàn khu đến cuối 1960, đã có 3.200 thôn trên 5.721 thôn ở miền núi, nhân dân đã giành được quyền làm chủ.

Ở đồng bằng, đáng chú ý là cuộc nổi dậy của nhân dân Tuy Hoà (Phú Yên). Tại đây, thực hiện chỉ đạo của tỉnh đối với các huyện đồng bằng trong việc diệt ác trừ gian, Tuy Hoà đã chọn những tên ác ôn khét tiếng để tiêu diệt. Trong số này có tên Y Chi - cảnh sát quận. Việc trừng trị hàng loạt tên ác ôn đã làm cho quân nguỵ trong huyện hoang mang, ngược lại quần chúng bừng bừng khí thế cách mạng, đòi nổi dậy đánh đổ chính quyền địch ở cơ sở.

Trong bối cảnh đó, Tỉnh uỷ quyết định phát động quần chúng nhân dân vùng lên. Điểm nổi dậy đầu tiên là Hoà Thịnh. Theo kế hoạch đã vạch sẵn, đêm 22- 12- 1960, Đào Công Văn - Trung đội trưởng trung đội dân vệ là cơ sở nội tuyến của ta, tập trung toàn bộ vũ khí của trung đội lại và tuyên bố cho quân lính tự do đi lại, chơi bời tạo điều kiện cho các đội vũ trang công tác của huyện đánh trụ sở Hội đồng xã, mít tinh tuyên bố giải tán nguỵ quyền tay sai, thành lập chính quyền nhân dân tự quản. 

Đồng khởi ở Hoà Thịnh thắng lợi, kéo theo các xã khác như Hoà Đồng, Hoà Tân, Hoà Xuân, Hoà Hiệp, Hoà Mỹ cũng vũ trang nổi dậy diệt ác, phá kìm xoá bỏ chính quyền địch, lập chính quyền nhân dân tự quản. Đây là huyện đồng bằng đầu tiên của Khu V đồng khởi thành công. Đến cuối năm 1960, ở đồng bằng, ta đã xây dựng được cơ sở ở 904 trên 3.829 thôn. Tuy phong trào còn nhỏ yếu nhưng đây là một chuyển biến quan trọng của các tỉnh đồng bằng.

Nhìn lại một năm đồng khởi, dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương lần thứ 15, với sự năng động, nhạy bén, sáng tạo của các đảng bộ địa phương trên toàn miền Nam, phong trào đồng khởi đã nổ ra và giành được thắng lợi. Bằng bạo lực chính trị của quần chúng là chủ yếu, có lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân ta đã nổi dậy, đánh đổ chính quyền địch ở cơ sở, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân trên nhiều vùng nông thôn rộng lớn từ Nam Bộ đến rừng núi Tây Nguyên và đồng bằng Khu V.


________________________________
1. Nghị quyết Liên khu uỷ Liên khu V (4-1960), tài liệu lưu trữ tại Phòng Khoa học Công nghệ Môi trường Quân khu 5.
* Gồm các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 10:26:50 am

Tính đến cuối năm 1960, ta đã giành quyền làm chủ ở 1.363 xã trên toàn miền Nam, (trong đó, Nam Bộ là 984 xã, Khu 5 là 379 xã), giải phóng 5.600.000 1 dân. phong trào đã huy động tời hàng triệu người tham gia đấu tranh chính trị trực diện, giành 17 vạn héc ta đất bị Mỹ - Diệm cướp trả về cho nông dân.

Đây “thực chất là cao trào khởi nghĩa của quần chúng, bao gồm những cuộc khởi nghĩa từng phần để giành thế mạnh về chính trị, xây dựng một hình thức chính quyền ở thôn, xã, hình thành bước đầu lực lượng vũ trang của nhân dân. Những cuộc khởi nghĩa từng phần đầu tiên như thế chỉ có thể là kết quả của phong trào đấu tranh chính trị lâu dài, quyết liệt của quần chúng, của một phong trào sâu rộng, không phải chỉ trong mấy xã mà tạo thành thế liên hoàn bao gồm nhiều huyện, nhiều tỉnh, có như thế, thành quả của khởi nghĩa mới giữ được” 2

Thắng lợi của đồng khởi trong những năm 1959 - 1960 thật vĩ đại. Nó đã “giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ” 3 . Nó đánh dấu một bước nhảy vọt quan trọng của cách mạng miền Nam, từ thế giừ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công, phát triển cao trào cách mạng ra toàn miền Nam với sự kết hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự. 

Đồng khởi ở miền Nam thắng lợi có ý nghĩa chiến lược to lớn, chẳng những thể hiện thành công đường lối độc lập, tự chủ của Đảng ta trong tình hình quan điểm chính trị của hệ thống xã hội chủ nghĩa phức tạp, mà còn chứng tỏ cho thế giới biết không phải miền Bắc xúi giục như Mỹ - Diệm tuyên truyền vu khống, mà tự thân đồng bào miền Nam nổi dậy chống chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm được Mỹ nuôi dưỡng.

Sau đồng khởi, dư luận trên thế giới (kể cả ở Mỹ) đều thừa nhận rằng do chế độ Diệm - Nhu độc tài đàn áp dã man những người kháng chiến cũ, nên “tức nước” phải “vỡ bờ”, nhân dân Nam Bộ phải nổi dậy chống chính quyền Diệm, đó là cuộc nổi dậy không có sự can thiệp của miền Bắc. Do đó, khi cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở miền Nam chống cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, được nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ.

Giữa lúc cao trào đồng khởi của nhân dân miền Nam diễn ra mạnh mẽ, tại Thủ đô Hà Nội, từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960 đã diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng. Dự đại hội có 525 đại biểu chính thức, 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn nửa triệu đảng viên cả nước.

Nhiệm vụ của đại hội là:

- Quyết định đường lối chung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đường lối đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.

- Quyết định đường lối tổ chức để tăng cường sức chiến đấu và sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới của cách mạng.

- Bầu Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng. 

Đại hội xác định nhiệm vụ cách mạng của cả nước: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới” 4 .
 
Ngày 20- 12- 1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Mặt trận chủ trương “đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và nhân sĩ yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ, thực hiện độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới hoà bình, thống nhất Tổ quốc” 5.



________________________________
1. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 1 10.
2. Lê Duẩn. Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội,1985, tr.40. 
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 34, tr. 214.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, i 21, tí. 512.
5. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1961, tr.9.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 04:43:43 pm

Sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống Mỹ - Diệm. Nó đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng và là một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá về sự kiện trọng đại này: “Một mặt trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một lực lượng tất thắng. Hiện nay, trong cuộc đấu tranh anh dũng chống chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm, đồng bào ta ở miền Nam cũng có “Mặt trận dân tộc giải phóng” với chương trình hoạt động thiết thực và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Do đó, có thể đoán rằng đồng bào miền Nam nhất định sẽ thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thững nhất, Nam - Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà” 1.

Từ sau tháng 7- 1954, nhân dân ta bước vào cuộc đấu tranh mới với đặc điểm đất nước tạm thời chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, nửa nước phía bắc có hoà bình, nửa nước phía nam cuộc chiến tranh đơn phương do Mỹ tiến hành bằng các chiến dịch tố cộng, diệt cộng bằng Luật 10/59, đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, bằng những cuộc càn quét, ruồng bố của quân đội, cảnh sát, chính quyền Ngô Đình Diệm đã dìm phong trào cách mạng ở miền Nam trong biển máu. Hiệp định Giơnevơ bị Mỹ phá hoại, cách mạng Việt Nam ở miền Nam bị thoái trào.

Trong khi đó công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc còn mới mẻ, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu. Địch lại ra sức phá hoại hòng ngăn cản sự phát triển của miền Bắc. Khó khăn chồng chất đè nặng lên đôi vai người dân miền Bắc vừa được giải phóng. Những năm đầu sau Hiệp định Giơnevơ, Trung ương Đảng chưa có đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp sát với tình hình cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng trong hoàn cảnh Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa thực thi đường lối cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau.

Đây là thời kỳ cách mạng Việt Nam ở miền Bắc cũng như ở miền Nam gặp muôn vàn khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua.

Song, từ trong khó khăn, vấp váp, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch kịp thời rút kinh nghiệm và nghiên cứu tiếp thu ý kiến của Đảng bộ miền Nam, đã ra Nghị quyết 15 xác định mục tiêu và phương hướng tiến lên của cách mạng Việt Nam:

Miền Bắc phải tiến lên chủ nghĩa xã hội làm “cái gốc”, “cái nền” cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà; miền Nam phải lấy sức mạnh vũ trang để đánh đổ chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, lập nên chính quyền cách mạng của nhân dân. Nghị quyết Trung ương 15 đáp ứng kịp thời nguyện vọng của nhân dân miền Nam đã thổi bùng những cuộc khởi nghĩa từng phần thành phong trào đồng khởi, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới thời Aixenhao, đưa phong trào cách mạng Việt Nam ở miền Nam chuyển sang thời kỳ tiến hành chiến tranh cách mạng với phương pháp đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị trên cả ba vùng chiến lược.


Chương II

ĐÁNH THẮNG CÁC BƯỚC LEO THANG CHIẾN TRANH,
GÓP PHẦN LÀM PHÁ SẢN CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ TOÀN CẦU PHẢN ỨNG LINH HOẠT CỦA ĐẾ QUỐC

I- ĐÁNH THÂNG CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA MỸ Ở MIỀN NAM

Cuộc Đồng khởi năm 1960 của nhân dân ta ở miền Nam đã đánh sập bộ máy cai trị của chế độ Diệm ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, Khu V, Tây Nguyên, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới mà Mỹ - Diệm đã dày công xây dựng từ năm 1955 đến năm 1959, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang thời kỳ phát triển mới.


______________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr.349.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 04:45:37 pm

Vào lúc đó, tình hình Lào cũng diễn biến bất lợi cho Mỹ. Ngày 9-8-1960, Đại uý Coongle cầm đầu một bộ phận sĩ quan, binh lính thuộc lực lượng dù, làm đảo chính lật đổ chính quyền Phuminôxavẳn thân Mỹ, và yêu cầu Việt Nam dân chủ cộng hoà giúp đỡ cuộc kháng chiến của Lào.

Nội chiến ở Lào bùng nổ. Với sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng Pa thét Lào đẩy mạnh tiến công, giải phóng nhiều vùng quan trọng.  Theo đề nghị của Chua - Thủ tướng Chính phủ Liên hiệp Lào, Liên Xô, Trung Quốc bắt đầu viện trợ vũ khí cho Lào. 

Trước tình hình đó, Mỹ định đưa 30.000 quân của các nước trong khối Hiệp ước SEATO vào Đông Dương theo kiến nghị của Ngoại trưởng Mỹ Đến Raxeơ, nhưng không được Anh và Pháp ủng hộ. Hơn nữa, theo Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara, trước khi có bất cứ cam kết gì ở Đông Dương, Mỹ còn phải “cân nhắc, so sánh Lào với các vấn đề thế giới khác” 1.

Bởi vì, lúc bấy giờ, vấn đề Béclin đã trở nên căng thẳng đến mức Bộ Quốc phòng Mỹ “đang dự tính chuyển 6 sư đoàn - khoảng 90.000 quân chiến đấu, đến châu Âu”, nếu vậy “’không thể tưởng tượng được rằng Mỹ lại có khả năng làm như vậy và tiến hành một cuộc chiến ở Đông Nam A mà không có cuộc tổng động viên” 2.  Cũng vào thời điểm này, chiến lược quân sự toàn cầu Trả đũa ồ ạt cùng với những chính sách và các phương pháp thực hiện chiến lược đó được triển khai từ năm 1953 qua hai nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ, đã không mang lại kết quả như tính toán ban đầu của Mỹ.

Mỹ chẳng những không ngăn chặn được sự lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô, Trung Quốc mà còn bị Liên Xô vượt lên về chế tạo vũ khí hạt nhân, tên lửa đạn đạo, tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân 3. Phong trào giải phóng dân tộc ở các châu lục đang dâng lên mạnh mẽ...

Lên thay Aixenhao làm Tổng thống nước Mỹ trong lúc chính sách đối ngoại của Mỹ đang đứng trước những thách thức lớn lao, Kennơđi và chính quyền ông ta, trên cơ sở đánh giá lại toàn bộ tình hình thế giới và trong nước, đã chấp nhận phương hướng chiến lược quân sự toàn cầu mới do M. Tay lơ đề xướng, mang tên Phản ứng linh hoạt.

Thực hiện chiến lược mới này, Mỹ vẫn tiếp tục duy trì và phát triển lực lượng hạt nhân chiến lược làm “lá chắn”, làm công cụ răn đe; đồng thời phát triển lực lượng thông thường để tiến hành cuộc chiến tranh hạn chế, đảm bảo cho Mỹ tránh được đụng độ với các nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa, nhưng lại vẫn có thể giành được thắng lợi ở các nơi khác bằng cách chủ động tạo ra ưu thế trong từng cuộc chiến tranh cụ thể do Mỹ lựa chọn như cuộc chiến tranh Việt Nam.

Căn cứ vào việc sử dụng lực lượng và phương thức tiến hành chiến tranh hạn chê’ được phân thành hai hình thức là chiến tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ. Hai hình thức chiến tranh hạn chế này là bộ phận quan trọng trong chiến lược quân sự toàn cầu mới của Mỹ, được giới quân sự Mỹ đánh giá là công cụ hiệu quả để phản ứng linh hoạt, đáp lại những thách thức quân sự đặt ra cho nước Mỹ; là lưỡi kiếm tiến công sắc bén vào những nơi nguy hiểm nhất đối với quyền lợi của Mỹ và đồng minh.

Cuối năm 1960, ở miền Nam Việt Nam, phong trào cách mạng phát triển, uy hiếp mạnh chế độ Ngô Đình Diệm. Xuất phát từ nhận định đấy là phong trào nổi dậy của lực lượng tại chỗ do miền Bắc xúi giục, chính quyền Kennơđi quyết định chuyển sang dùng chiến tranh đặc biệt để đối phó. Đặc điểm của loại chiến tranh này là sử dụng quân đội tay sai bản xứ làm công cụ tiến hành chiến tranh với đô la, vũ khí của Mỹ, do Mỹ chỉ huy.

Để triển khai thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt, Mỹ đã cử sang miền Nam Việt Nam “phái đoàn kinh tế đặc biệt” do E. Stalây thuộc Viện Nghiên cứu Stanphót dẫn đầu, giúp Diệm xây dựng chương trình bình định miền Nam.

Cuối tháng 7-1961, phái đoàn này trình lên Tổng thống Mỹ Kennơđi bản báo cáo trong đó yêu cầu chính phủ Mỹ tăng thêm viện trợ về quân sự và kinh tế, phục vụ cho kế hoạch bình định miền Nam. Kế hoạch này gồm ba giai đoạn, trong đó, giai đoạn 1 là giai đoạn mang ý nghĩa quyết định.


______________________________
1,2. Robert S.Mc Manara: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995 tr.50.
3. Năm 1953, Mỹ mất độc quyền bom khinh khí và đến năm 1957, việc Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên của trái đất đã làm chấn động sâu sắc chính giới Mỹ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 04:47:25 pm

Giai đoạn này dự kiến trong vòng 18 tháng (kể từ giữa năm 1961 đến cuối năm 1962) sẽ cơ bản bình định xong miền Nam bằng cách triển khai mạnh mẽ việc dồn dân vào 16.000 ấp chiến lược để triệt phá cơ sở cách mạng ở vùng nông thôn; phát triển quân đội Sài Gòn gồm quân chính quy, bảo an, dân vệ, đồng thời tăng cường lực lượng yểm trợ Mỹ nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam; thiết lập hệ thống cứ điểm chốt chặn ở biên giới và giới tuyến quân sự tạm thời, tăng cường tuần tra, kiểm soát vùng biên để ngăn chặn chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam; đẩy mạnh các hoạt động chiến tranh bí mật chống phá miền Bắc, hỗ trợ cho nỗ lực bình định ở miền Nam. 

Tiếp đó, ngày 10-8-1961, một phái đoàn nữa do hai thành viên của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ là Tay lo và Rôstâu dẫn đầu sang miền Nam. Phái đoàn này sau khi tìm hiểu tình hình tại chỗ, đã đề xuất một chương trình tham gia có giới hạn mà thực chất là “quan điểm tổng quát của Mỹ về vai trò mới của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam” 1. Vai trò mới này tuy bề ngoài Mỹ vẫn cố giấu mặt, trá hình nhưng thực chất, bằng việc “tham gia có giới hạn”, Mỹ đang cố gắng giành toàn quyền chỉ huy, điều hành cuộc chiến tranh về tay mình.

Những kiến nghị của phái đoàn Tay lo - Rôstâu chính là sự bổ sung vào những chủ trương của phái đoàn Stalây đưa ra hồi tháng 7-1961 để trở thành một kế hoạch hành động tương đối hoàn chỉnh của Mỹ trong chiến lược chiến tranh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam. Kế hoạch này được Hội đồng An ninh quốc gia và Tổng thống Mỹ Kennơđi chính thức chấp thuận trong bản Bị vong lục ngày 22-11-1961: Về hành động an ninh quốc gia số 111, nhan đề: Giai đoạn đầu của chương trình Việt Nam .

Ngày 8-2-1962, phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) được chuyển thành Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ (MACV) do Đại tướng P. Hakin (Paul Harkins) thay Mácga làm Tư lệnh. Dưới quyền chỉ huy điều hành của MACV, số lượng cố vấn và các đơn vị yểm trợ Mỹ không ngừng tăng lên.  Nếu năm 1960, hai lực lượng này ở miền Nam mới chỉ 1.077 tên, thì năm 1962, con số đó lên tới 10.640 tên, bao gồm 2.360 cố vấn và 8.280 quân yểm trợ.

Ngoài lực lượng cố vấn và các đơn vị yểm trợ, Mỹ còn đưa vào miền Nam một khối lượng lớn vũ khí, thiết bị chiến tranh, tăng thêm viện trợ quân sự và kinh tế cho chính quyền và quân đội Sài Gòn.  Với sự tăng viện của Mỹ, quân đội Sài Gòn nhanh chóng gia tăng về số lượng 2, cải tiến về biên chế, tổ chức, hệ thống chỉ đạo, chỉ huy; đổi mới công tác huấn luyện theo phương hướng đối phó hiệu quả với chiến tranh du kích và phong trào nổi dậy của nhân dân. Lực lượng bảo an, dân vệ cũng tăng nhanh về số lượng, được trang bị các loại vũ khí mới, từng bước đủ khả năng thay thế các đơn vị chủ lực làm nhiệm vụ “phòng thủ diện địa”.

Từ cuối năm 1962, các đơn vị hoàn chỉnh thuộc lực lượng đặc biệt Mỹ được đưa vào làm nhiệm vụ xây dựng, phát triển lực lượng đặc biệt của quân đội Sài Gòn. Lực lượng này đảm nhiệm vai trò nòng cốt trong hệ thống các đồn trại dân sự chiến đấu được thiết lập ở những vùng tranh chấp, trên các tuyến hành lang, dọc theo đường biên giới với Lào và Campuchia, nhằm hỗ trợ cho công tác bình định, mở rộng vùng kiểm soát, chống thâm nhập và tạo thế bao vây, chia cắt các vùng căn cứ, các tuyến hành lang vận chuyển của ta.

Để tăng cường khả năng chỉ huy và tận dụng hiệu quả lực lượng quân đội vào công tác bình định, từ tháng 4-1961, hệ thống tổ chức chiến trường theo từng quân ri khu được chuyển thành vùng chiến thuật. Mỗi vùng chiến thuật do một quân đoàn chủ lực đảm nhiệm với đủ thành phần quân địa phương và các quân binh chủng yểm trợ (pháo binh, công binh, thiết giáp, biệt động, biệt kích, không quân, hải quân...).Dưới vùng chiến thuật là khu chiến thuật. Tiếp đó là tiểu khu (tỉnh), khi khu (quận, huyện).

Lực lượng yểm trợ Mỹ được bố trí xuống từng vùng chiến thuật. Cố vấn Mỹ có mặt khắp các vùng chiến thuật, khu chiến thuật, tiểu khu chiến thuật và các trung tâm huấn luyện, các cơ quan điều hành tác chiến . . .

Phục vụ cho chiến lược chiến tranh đặc biệt, Mỹ bỏ tiền thuê hàng chục cơ quan nghiên cứu, trường đại học, tổ hợp công nghiệp . . . nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, đưa vào sản xuất nhiều loại thiết bị, vũ khí mới; nghiên cứu, thử nghiệm các chiến thuật chống du kích, chống nổi dậy; thiết lập cơ quan phát triển khả năng tác chiến nhằm ứng dụng những phát minh, sáng chế mới trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự vào cuộc chiến tranh Việt Nam.


_______________________
1. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ..., Tlđd, t.1, tr. 141.
2. Từ 7 sư đoàn bộ binh năm 1960, lực lượng chính quy của quân đội Sài Gòn tăng tới 9 sư đoàn bộ binh, một số tiểu đoàn dù, tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ với tổng quân số 206.000 tên vào năm 1963.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 04:47:54 pm
Diệm còn mời Thom sơn (Thompson), một chuyên gia của quân đội Anh dày dạn kinh nghiệm chống chiến tranh du kích ở Malaixia, làm cố vấn cho chính quyền Sài Gòn; cử các phái đoàn sang nghiên cứu kinh nghiệm chống du kích, dồn dân ở Malaixia, Philíppin...

Tại miền Nam Việt Nam, bộ máy chỉ đạo bình định của chính quyền Sài Gòn và hệ thống cố vấn Mỹ lồng xen được thiết lập, củng cố từ trung ương tới các tỉnh. Chúng dự tính gom 10 triệu nông dân vào 16.000 ấp chiến lược trong tổng số 17.000 ấp trên toàn miền Nam. 

Với sự tăng viện về đô la, vũ khí, thiết bị chiến tranh, đội ngũ cố vấn và lực lượng yểm trợ Mỹ, trong những năm 1961 - 1962, chính quyền và quân đội Sài Gòn dồn sức vào việc gom dân, lập ấp chiến lược bằng nhiều thủ đoạn và biện pháp khốc liệt, đẫm máu. Chúng mở nhiều cuộc hành quân càn quét sử dụng các loại vũ khí, khí tài hiện đại và triển khai các chiến thuật tân kỳ như “thiết xa vận”, “trực thăng vận”; vận dụng các thủ đoạn tác chiến “bủa lưới phóng lao”, “trên đe dưới búa”, “phượng hoàng vồ mồi” đánh phá dữ dội phong trào cách mạng miền Nam, đánh sâu vào toàn bộ hệ thống căn cứ kháng chiến của ta . . .


Hỗ trợ cho nỗ lực bình định ở miền Nam, Mỹ - Diệm đẩy mạnh cuộc chiến tranh bí mật chống phá miền Bắc. Chúng tung nhiều toán biệt kích, gián điệp vào sâu trong nội địa móc nối với bọn phản động phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, dùng máy bay U2 trinh thám vùng biên giới Việt - Lào nhằm chuẩn bị cho việc mở rộng chiến tranh.

Đối với Lào, từ giữa năm 1961, Mỹ công khai thiết lập phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự (MAAG) cho phái thân Mỹ, gồm 16.000 nhân viên; tăng cường viện trợ quân sự, thúc đẩy quân nguỵ Lào mở các cuộc tiến công vùng giải phóng Pa thét Lào, đẩy mạnh nỗ lực bình định ở các vùng chúng kiểm soát. Đối với Campuchia, Mỹ gia tăng sức ép hòng buộc nước này phải từ bỏ chính sách trung lập, ngấm ngầm chi tiền cho thế lực thân Mỹ Lon non - Trích Ma tắc chống phá và tiến tới lật đổ Chính phủ Xihanúc. 

Toàn bộ nỗ lực chiến tranh trên đây của Mỹ đặt cách mạng miền Nam trước thử thách mới, buộc nhân dân ta ở vào tình thế phải tiến hành kháng chiến để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Tháng 1-1961, Bộ Chính trị họp bàn về phương hướng nhiệm vụ, công tác trước mắt của cách mạng miền Nam, đã nhận định rằng: Mỹ và chính quyền Sài Gòn quyết dùng bạo lực tiêu diệt cách mạng, nên phương hưởng giành thắng lợi sắp tới của ta phải bằng cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa của nhân dân để lật đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam.

Muốn vậy, phương châm đấu tranh giờ đây là: Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự. Cũng tại cuộc họp này, một loạt vấn đề quan trọng liên quan tới sự phát triển trước mắt cũng như lâu dài của cách mạng miền Nam như xây dựng lực lượng chính trị và quân sự, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, xây dựng căn cứ địa, thống nhất cơ quan chỉ đạo các cấp, tăng cường công tác chính trị - tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. . . cũng được Bộ Chính trị chú trọng đề cập.

Cũng trong tháng 1 - 1961 , thực hiện chủ trương tăng cường chỉ đạo của Trung ương đối với cách mạng miền Nam mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định lập Trung ương Cục miền Nam thay cho Xứ uỷ. Đây là một bộ phận của Ban Chấp hành Trung ương, gồm một số uỷ viên Trung ương được Ban Chấp hành Trung ương cử ra và uỷ nhiệm chỉ đạo toàn bộ công tác đảng ở miền Nam 1. Trung ương Cục miền Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Bộ Chính trị thay mặt Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Các cấp uỷ quân khu cũng được tăng cường những cán bộ dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo phong trào.

Ngày 25-2-1961, Bộ Chính trị quyết định đổi Tổng Quân uỷ thành Quân uỷ Trung ương 2; Quân uỷ Trung ương có nhiệm vụ chỉ đạo công tác quân sự ở miền Nam. 


___________________________
1. Đồng chí Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) - nguyên Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ được cử làm Bí thư Trung ương Cục. Các đồng chí Trần Lương (Trần Nam Trung), Phan Văn Đáng (Hai Văn), Nguyễn Văn Xô, Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt, Phạm Thái Bướng (Ba Bướng), Trần Văn Quang là uỷ viên.
2. Quân uỷ Trung ương gồm 14 đồng chí: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn, Chu Văn Tấn, Song Hào, Hoàng Văn Thái, Lê Quang Đạo, Trần Văn Trà, Trần Quý Hai, Nguyễn Văn Vịnh, Trần Độ. Đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bí thư Quân uỷ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 04:50:49 pm

Ngay sau khi kiện toàn lại tổ chức, Quân uỷ Trung ương đã họp bàn những nội dung công tác lớn về việc chi viện và tổ chức lực lượng quân sự ở miền Nam. Trong phiên họp ngày 23-3-1961, Thường trực Quân uỷ Trung ương đã quyết định phương hướng cho cách mạng miền Nam.

Theo đó, về lực lượng, chọn lựa cán bộ, nhân viên công tác ở các ngành cần thiết, có kinh nghiệm, đưa vào phục vụ việc xây dựng lực lượng tại chỗ ở miền Nam; đồng thời, đưa các khung cán bộ hoặc các đơn vị đầy đủ quân số vào làm nòng cốt cho việc xây dựng, tăng cường lực lượng vũ trang và trực tiếp chiến đấu. 

Về vật chất, trước hết và chủ yếu là vũ khí, khí tài, thuốc chữa bệnh. Về đường chi viện, chủ yếu là bằng đường bộ, theo các hướng: đường trong nước, đường dọc theo biên giới Việt - Lào và đường đi sâu vào nội địa nước bạn Lào.  Trong điều kiện các chiến trường ở miền Nam dễ bị chia cắt để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương quyết định điều chỉnh địa giới các khu và thành lập bộ tư lệnh các quân khu. Toàn Nam Bộ chia thành các quân khu Đông Nam Bộ (T1), Trung Nam Bộ (T2), Tây Nam Bộ (T3) , Sài Gòn - Gia Định (T4) . Khu vực miền Trung chia thành Khu V và Khu VI.

Ngày 27-7-1961, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Quân khu 6 được thành lập.  Về mặt lãnh đạo, chỉ huy các quân khu ở Nam Bộ và Khu VI đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục miền Nam; Khu V trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng. 

Tháng 9-1961, đề án về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị được Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương thông qua, làm cơ sở cho việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang miền Nam. Đề án xác định rõ phương hướng cơ bản của nhiệm vụ trọng đại này là phát triển lực lượng tại chỗ và đưa dần các đơn vị chủ lực từ miền Bắc vào.

Lúc này, các xí nghiệp quốc phòng trên miền Bắc được lệnh khẩn trương sửa chữa và sản xuất một số loại vũ khí như súng trường, súng cối, tiểu liên, đạn và lựu đạn để đáp ứng yêu cầu trước mắt của lực lượng vũ trang miền Nam. Đoàn vận tải 559 cũng được tăng thêm quân số, trang bị thêm phương tiện để đẩy mạnh công tác vận chuyển, bảo đảm hành quân chi viện chiến trường. 

Những chủ trương đúng đắn, kịp thời và sự nỗ lực cao của Đảng và nhân dân ta là đảm bảo cho lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam từng bước phát triển.  Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang miền Nam được thống nhất lại, lấy tên là Quân giải phóng miền Nam. Tháng 7-1961, Trung ương Cục quyết định thành lập trung đoàn chủ lực miền Nam mang mật danh Q761*.

Sự ra đời của trung đoàn chủ lực đầu tiên này đánh dấu bước phát triển mới của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Đồng thời, lực lượng du kích, bộ đội địa phương cũng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng.

Đến cuối năm 1961, các quân khu đã xây dựng được 11 tiểu đoàn bộ đội chủ lực, quân số mỗi tiểu đoàn khoảng 500 người, trang bị chủ yếu là vũ khí từ miền Bắc đưa vào và một số thu được của địch. Bộ đội địa phương các tỉnh, huyện trên toàn miền Nam có khoảng 24.500 người. Du kích, tự vệ các địa phương có khoảng 100.000, trang bị bằng các loại vũ khí tự tạo và thu được của địch. Hệ thống tổ chức, chỉ huy từ miền xuống quân khu, tỉnh, huyện, xã cũng từng bước được củng cố, kiện toàn. Vùng giải phóng, vùng căn cứ dược giữ vững, mở rộng, tạo chỗ đứng chân vững chắc cho lực lượng vũ trang, lực lượng cách mạng miền Nam. .

Song song với quá trình xây dựng và phát triển lực lượng, quân dân các địa phương miền Nam đồng thời đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang trên ba vùng chiến lược rừng núi, nông thôn đồng bằng, đô thị. Vượt qua những thử thách, khó khăn, trong năm 1961, quân, dân miền Nam đã đánh hơn 15.000 trận lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên địch, thu hàng nghìn khẩu súng các loại.


_____________________________
* Trung đoàn gồm hai tiểu đoàn bộ binh, một số phân đội trợ chiến và ba cơ quan là tham mưu, chính trị, hậu cần. Mãi đến ngày 9-2-1962, hai tiểu đoàn (I và 2) cùng các đơn vị trực thuộc mới được bổ sung đủ quân số và trung đoàn mới chính thức làm lễ ra mắt tại Trang Dài (Tây Ninh) với tên gọi Trung đoàn 1 bộ binh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 05:52:37 pm

Được sự hỗ trợ của đòn tiến công quân sự, phong trào đấu tranh chính trị tiếp tục có bước phát triển rộng khắp. Hơn 33 triệu lượt người đã tham gia các cuộc đấu tranh chính trị trực diện với kẻ thù và làm công tác binh vận. Mặc dù địch điên cuồng phản kích nhưng vùng giải phóng rộng lớn xuất hiện trong phong trào đồng khởi vẫn được giữ vững và củng cố với hơn một vạn thôn, xã và xấp xỉ 6 triệu dân. Nhờ đó, nguồn nhân lực và hậu cần tại chỗ đảm bảo được một phần quan trọng cho sự phát triển của lực lượng cách mạng.

Tuy nhiên, năm đầu chuyển từ khởi nghĩa vũ trang sang chiến tranh cách mạng, quân dân các địa phương miền Nam chưa tích luỹ được nhiều kinh nghiệm về tổ chức lực lượng về xây dựng và phát triển thế trận chiến tranh nhân dân trên ba vùng chiến lược, về sự kết hợp phương châm “hai chân”, “ba mũi”... Vì vậy, ở nhiều địa phương, phong trào đấu tranh còn yếu, lực lượng còn bị tổn thất lớn . . . 

Bước vào năm 1962, tình hình này cũng chưa được cải thiện. Lúc này, một số lượng lớn cố vấn, một số đơn vị “yểm trợ chiến đấu’ và các đơn vị biệt kích Mỹ cùng nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại được đưa vào miền Nam.  Được Mỹ tăng cường chi viện và dưới sự điều hành của hệ thống cố vấn Mỹ, quân đội Sài Gòn, suốt năm 1962, ráo riết và liên tục mở hàng ngàn cuộc hành quân càn quét, hành quân bình định với quy mô lớn, nhỏ và thời gian dài, ngắn khác nhau, đánh phá dữ dội các vùng căn cứ, vùng giải phóng, hỗ trợ cho chương trình bình định, thực hiện kế hoạch dồn, gom 10 triệu nông dân miền Nam vào 16.000 ấp chiến lược mà thực chất là các trại tập trung  1 hòng tách Việt cộng ra khỏi dân chúng để dễ bề tiêu diệt.

Trong các cuộc hành quân đó, quân đội Sài Gòn dưới sự điều hành của cố vấn Mỹ dùng trực thăng chở quân và xe thiết giáp M. 113 có sức cơ động nhanh, bất ngờ mở các cuộc tiến công vào bất cứ khu vực nào. Với trực thăng vũ trang và các loại pháo lớn, nhỏ, quân Mỹ có thể bắn quá hoặc chi viện hoả lực cho các đơn vị quân đội Sài Gòn một cách kịp thời và mạnh mẽ, trong mọi điều kiện thời tiết, địa hình.

Dựa vào ưu thế áp đảo trên không, trên sông nước, trong một thời gian dài (từ giữa năm 1961 đến hết năm 1962), Mỹ và quân đội Sài Gòn đã gây tổn thất nặng nề cho lực lượng cách mạng miền Nam, gây hoang mang trong nhân dân và một bộ phận các đơn vị vũ trang Quân giải phóng non trẻ. Trong nhiều trường hợp, bộ đội, du kích ta hoàn toàn bị bất ngờ, không cách nào chống đỡ, buộc phải phân tán nhỏ lẻ, rút lui dưới sự quần đảo, truy đuổi gắt gao của máy bay trực thăng vũ trang Mỹ trên bầu trời hay bị sự truy kích của xe thiết giáp M. 113 trên mặt đất. Đã có không ít đơn vị vũ trang cấp đại đội, trung đội Quân giải phóng bị loại khỏi vòng chiến đấu; nhiều cán bộ, chiến sĩ bị bắt; nhiều làng mạc, thôn ấp, vùng giáp ranh, vùng giải phóng, vùng căn cứ kháng chiến bị bom đạn và chất độc hoá học tàn phá nặng nề; nhiều khu vực hậu cứ nằm sâu giữa bơng biền hay miền rừng núi. . . bị uy hiếp dữ dội và liên tục. 

Thiếu đi sự hỗ trợ của đòn tiến công quân sự, phong trào phá ấp chiến lược ở nhiều địa phương miền Nam bị chống lại, bị chùng xuống. Các cấp lãnh đạo, chỉ huy, ở chừng mực nào đó, tỏ ra lo lắng và lúng túng trong việc đề ra phương hướng, biện pháp chỉ đạo quân và dân ta đối phó với các thủ đoạn tác chiến mới của kẻ thù.

Kết quả là trong 9 tháng đầu năm 1962, địch đã gây cho ta những thiệt hại nặng nề: 36.200 người hy sinh, bị thương và bị bắt, trong đó có 25.000 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Vùng đồng bằng sông Cửu Long địch lấn chiếm 2 triệu dân, cơ sở cách mạng bị bật ra ngoài các thôn xã, du kích, cán bộ phải phân tán sang các xã bạn chưa bị địch dồn, nhờ chỗ đứng chân. Vùng đồng bằng Khu V chỉ còn 904 thôn có cơ sở với 700 đảng viên trong tổng số 3.829 thôn, do đó địch lập ấp chiến lược khá dễ dàng...  vấn đề thiết yếu và cấp bách đặt ra cho quân và dân ta ở miền Nam lúc bấy giờ là: để đánh thắng các biện pháp chiến lược của địch trong cuộc chiến tranh đặc biệt, cần phải tìm cách đánh thắng các chiến thuật mới của quân đội Sài Gòn.


_____________________________
1. Có thể hình dung về mô hình ấp chiến lược mà Mỹ - Diệm ra sức xây dựng ở các địa phương miền Nam thời kỳ này như những trại giam trá hình. Chung quanh mỗi ấp là ba lượt hàng rào (bằng tre và dây thép gai) bao bọc, giữa mỗi hàng rào có hào rộng 2 m, sâu 1, 5 m có cắm chông, gài mìn. ở bốn phía của hệ thống hàng rào và hào giao thông này là những bốt gác. Khi đêm xuống, các cổng ra vào ấp đều đóng kín. Ở những nơi xung yếu, bên cạnh ấp có đồn lính bảo an. Trong mỗi ấp có một ban trị sự, đứng đầu là những tên ấp trưởng, ấp phó khét tiếng tàn ác. Các hộ gia đình trong ấp được phân loại để giám sát, khống chế lẫn nhau. Mỗi ấp có một nhà thờ Thiên chúa giáo. Tất thảy mọi sinh hoạt như học tập, cải huấn, đấu tố ma chay, cưới xin... đều diễn ra tại nhà thờ và phải xin phép ban trị sự ấp.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 05:54:07 pm

Trước tình hình trên, Trung ương Cục Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam phân công các uỷ viên, các cán bộ dày dạn kinh nghiệm xuống tăng cường cho các tỉnh, các đơn vị, địa phương. Tháng 11-1962, Hội nghị dân quân, du kích Nam Bộ lần thứ nhất được triệu tập tại căn cứ Dương Minh Châu nhằm đúc rút kinh nghiệm để chỉ đạo việc đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, thống địch càn quét, phá ấp chiến lược và xây dựng làng xã chiến đấu.

Để đưa phong trào cách mạng miền Nam tiến lên trong năm 1963, từ ngày 6 đến ngày 10-12-1962, Bộ Chính trị họp bàn và ra Nghị quyết về tình hình, phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị khẳng định rằng sau một năm đương đầu với chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ, phong trào cách mạng miền Nam “vẫn bảo tồn và phát triển được lực lượng, đã gây cho địch nhiều thiệt hại và giành thêm những thắng lợi mới” 1.

Tuy vậy, trong quá trình phát triển, phong trào cách mạng miền Nam cũng gặp những khó khăn và biểu lộ những nhược điểm mới: lực lượng của Đảng phát triển chưa đều, sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng tuy đã có tiến bộ, nhưng đôi khi còn chủ quan, bị động, lúng túng, thiếu linh hoạt, sắc bén; lực lượng vũ trang nhìn không còn yếu, thành phần giữa các thứ quân chưa cân xứng, căn cứ địa và các vùng giải phóng còn hẹp, sự chỉ đạo của Trung ương chưa được tập trung và chưa nâng lên mức tương xứng với yêu cầu chỉ đạo tình hình một nửa nước có chiến tranh 2.

Căn cứ vào tình hình thực tiễn đấu tranh giữa ta và địch và để đưa cuộc cách mạng của ta ở miền Nam phát triển lên một bước vững chắc, phù hợp với mọi khả năng có thể xảy ra, Nghị quyết Bộ Chính trị chỉ ra một số phương hướng công tác sắp tới, tập trung vào các mặt như phát triển du kích chiến tranh mạnh mẽ và rộng khắp, đẩy mạnh phong trào phá ấp chiến lược, ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường công tác mặt trận, đẩy mạnh công tác đô thị, xây dựng Đảng về mặt tư tưởng và tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng...

Những tháng cuối của năm 1962 và đầu năm 1963, lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương miền Nam khẩn trương chuẩn bị mọi mặt, rút kinh nghiệm, tìm cách đánh địch, chống càn, phá ấp chiến lược sao cho eo hiệu quả, thì trận ấp Bắc nổ ra. Đây là cuộc đụng đầu về quân sự quy mô tương đối lớn so với trước đó, diễn ra giữa lúc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đang dồn sức mong hoàn tất kế hoạch bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, dự tính kết thúc vào giữa năm 1963 và trong khi quân, dân ta đang gấp rút tìm cách đương đầu và đánh thắng lực lượng quân sự địch, trước hết là các thủ đoạn chiến thuật của chúng Ấp Bắc gồm hai ấp nhỏ là Tân Bình và Tân Thới thuộc xã Tân Phú Trung, huyện Cai Lây, tỉnh Mỹ Tho (tỉnh Tiền Giang ngày nay) .

Nhìn trên bản đồ, đó là một rẻo màu xanh ba bề bị bao bọc bởi đồng lúa, sình lầy, hệ thống kênh rạch; xa về phía nam chừng 3- 4 km là lộ 4 (nay là Quốc lộ 1) và xa hơn về phía tây chừng 6 km là con lộ 12. Còn về phía bắc và phía đông, rẻo đất này cách các con kênh Nguyễn Văn Tiếp, Nguyễn Tấn Thành chừng 2-3 km. Trên địa bàn có chiều dài khoảng 4 km, chiều rộng chừng 400 m ấy, ngày 2-1-1963, đã diễn ra cuộc đọ súng không cân sức nếu xét về quân số, vũ khí, hoả lực, trang bị kỹ thuật.

Lực lượng ta ở đây chỉ có 1 đại đội tăng cường thuộc Tiểu đoàn 261 chủ lực Khu VIII, 1 đại đội bộ đội địa phương tỉnh Mỹ Tho, 1 trung đội trợ chiến, 1 trung đội địa phương huyện Châu Thành cùng lực lượng dân quân, du kích tại chỗ, do Tiểu đoàn trưởng Hai Hoàng (tức Nguyễn Văn Điều) chỉ huy. 

Về phía địch, chúng sử dụng vào đây 3 tiểu đoàn của Sư đoàn 7 thuộc Vùng 4 chiến thuật, 1 chiến đoàn bảo an tỉnh Định Tường, 1 tiểu đoàn dù thuộc lực lượng dự bị chiến lược Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, một số đại đội biệt kích, dân vệ, và 51 cố vấn Mỹ. Hỗ trợ cho lực lượng này là 3 tàu chiến bao vây ở hướng đông bắc, 1 chi đoàn thiết giáp lội nước M. 113 chở quân đột phá, 15 trực thăng và 7 máy bay vận tải C. 123 chở quân đổ bộ và quân dù, 5 trực thăng vũ trang có gắn súng liên thanh và các dàn hoả tiễn chi viện hoả lực 8 máy bay ném bom, 4 chiếc L.19 làm nhiệm vụ trinh sát và chỉ huy, hàng chục khẩu pháo, cối yểm trợ hành quân và đánh phá mục tiêu...

Thoạt đầu, chỉ huy cuộc tiến công là viên Đại tá Tơ lệnh Sơ đoàn 7 Bùi Đình Đàm và viên cố vấn sư đoàn Giôn Pôn Van (John Paul Vang); tiếp đó, có thêm viên Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn 4 Huỳnh Văn Cao, Thiếu tướng Tham mưu trưởng liên quân Trần Thiện Khiêm tham gia. Mục tiêu của cuộc tiến công này là nhằm tiêu diệt gọn đơn vị chủ lực Quân giải phóng miền Nam, qua đó  chứng tỏ hiệu lực và sức mạnh của quân đội Sài Gòn với trang bị, vũ khí, hoả lực yểm trợ và chỉ đạo của cố vấn quân sự Mỹ.


_________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 23, tr.814.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 816-817. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 05:55:29 pm

Không nao núng quyết tâm lực lượng vũ trang ta tại ấp Bắc kiên quyết trụ lại và chống càn. Dựa vào hệ thống công sự trận địa hầm hào được chuẩn bị sẵn, quân ta đã chiến đấu ròng rã suốt một ngày, đánh thắng các đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 450 tên (trong đó có cố vấn và nhân viên kỹ thuật Mỹ), bắn rơi 5 trực thăng, phá huỷ 3 xe bọc thép, đánh chìm 1 tàu chiến sông, làm thất bại hoàn toàn cuộn hành quân đầy tham vọng của địch. Khi màn đêm buông xuống, các đơn vị của ta bí mật vượt qua vòng vây của địch, rút lui an toàn về căn cứ Đồng Tháp Mười. 

Chiến thắng ấp Bắc gây tiếng vang lớn đối với dư luận trong nước và trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ. Đây là lần đầu tiên trên địa hình đồng bằng lực lượng vũ trang giải phóng và du kích ta đã thực hiện thắng lợi trận đánh quy mô cỡ tiểu đoàn với lực lượng địch đông hơn gấp 10 lần, có trang thiết bị, vũ khí, hoả lực và sức cơ động vượt trội; đánh thắng các chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận của địch, mở ra khả năng hiện thực ta có thể đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ. “Kể từ trận ấp Bắc, Mỹ thấy không thể thắng được ta” và “đã công khai nói lên sự mất tin tưởng đó” 1

Phát huy khí thế chiến thắng, ngày 8-4-1963, Trung ương Cục miền Nam quyết định phát động phong trào Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công. Từ đây, lực lượng vũ trang ta trên khắp các chiến trường chẳng những kiên quyết trụ lại đánh địch, chống càn mà còn chủ động mở nhiều đợt tiến công quân sự, hỗ trợ đắc lực cho phong trào phá ấp chiến lược, củng cố và mở rộng vùng giải phóng, vùng làm chủ. 

Trong cuộc chiến đấu đó, vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, quân, dân các địa phương miền Nam vừa phát triển lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân trên ba vùng chiến lược, vừa đẩy mạnh tiến công địch cả về chính trị, quân sự, binh vận, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn đánh thắng các nỗ lực chiến tranh của địch. Năm 1963, quân, dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7 vạn tên (có 600 tên Mỹ), phá huỷ, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại, thu một khối lượng lớn các loại vũ khí,  phá 2.895 ấp chiến lược trong số 6.164 ấp mà địch lập ra, phá thế kìm kẹp và giải phóng gần 9 triệu dân. . . 

Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang đang trên đà lớn mạnh, tháng 10-1963, Bộ Chính trị quyết định thành lập Quân uỷ Miền và Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam, thay cho Ban quân sự Miền.  Những thắng lợi trong năm 1963 của quân dân ta trên các chiến trường tác động mạnh tới phong trào đấu tranh của nhân dân vùng đô thị, ảnh hưởng sâu sắc tới mâu thuẫn nội bộ chính quyền Diệm và giữa chính quyền Diệm với Mỹ.

Biểu hiện tập trung những tác động đó là sự bùng nổ cuộc đấu tranh của Phong trào Phật giáo bắt đầu từ Huế vào tháng 5-1963 và phong trào này, ngay lập tức, đã lan nhanh ra khắp miền Nam đặc biệt là ở Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn. Đỉnh cao của phong trào là việc hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 1l-6- 1963 để phản đối chính quyền Diệm đàn áp Phật giáo.

Ngay sau đó, ngày 16-6, 70 vạn người dân Sài Gòn đã xuống đường biểu tình, làm rung chuyển chính quyền Ngô Đình Diệm. Mỹ buộc phải thay ngựa giữa dòng bằng cách bật đèn xanh cho tướng lĩnh Sài Gòn do Dương Văn Minh cầm đầu làm đảo chính lật đổ anh em Diệm - Nhu (1- 11-1963) mong tạo thế ổn định về chính trị để Mỹ đẩy mạnh nỗ lực chiến tranh.

Sau ngày Diệm - Nhu bị lật đổ, Tổng thống Mỹ Kennơđi bị ám sát (22- 11- 1963), Phó Tổng thống Giônxơn thay Kennơđi tiếp tục tăng viện trợ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn, đẩy mạnh nỗ lực chiến tranh hòng giành một thắng lợi quyết định trong khuôn khổ chiến lược chiến tranh đặc biệt vào cuối năm 1965. Song, từ sau Diệm đổ, chính quyền Sài Gòn luôn luôn xáo động, không ổn định, những cuộc đảo chính, phản đảo chính, thanh trừng lẫn nhau liên tiếp xảy ra. Ngày 30-1-1964, Nguyễn Khánh lại lật đổ Dương Văn Minh vừa thay Diệm.

Tháng 12-1963, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara cầm đầu phái đoàn quân sự cấp cao sang khảo sát tình hình tại Việt Nam đã đề nghị Tổng thống Mỹ Giônxơn triển khai ngay một kế hoạch bí mật chống phá miền Bắc Việt Nam và điều chỉnh lại chiến lược của Mỹ cho phù hợp với tình hình hiện tại. Theo đó, Mỹ yêu cầu Chính phủ Sài Gòn bố trì lại toàn bộ lực lượng quân đội nhằm bảo đảm cho các tỉnh xung quanh Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long; tăng nhân viên quân sự, nhân viên phái đoàn quân sự Mỹ (MACV); chuẩn bị các chương trình bình định thiết thực và hiệu quả.


___________________________
1. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Sđd, tr. 69.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 05:58:08 pm

Các đề xuất trên đây của Mắc Namara, sau đó, được Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân đưa ra kiến nghị khẩn cấp nhằm cứu vãn tình hình miền Nam, tập trung vào ba nội dung chủ yếu:

- Mở rộng quyền hạn Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

- Đẩy mạnh các hoạt động chống phá miền Bắc Việt Nam và ngăn chặn sự thâm nhập từ miền Bắc qua Lào vào miền Nam Việt Nam.

- Tăng lực lượng yểm trợ Mỹ vào miền Nam Việt Nam.

Trước chuyển biến mới của tình hình trong nước và quốc tế Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họp Hội nghị lần thứ chín (tháng 12-1963) đã ra Nghị quyết quan trọng về đường lối và chủ trương lãnh đạo cách mạng miền Nam.  Về cách mạng miền Nam, hội nghị chủ trương trong khi kiên trì phương châm chiến lược đánh lâu dài, “cần tranh thủ thời cơ thuận lợi, tập trung lực lượng, quyết giành cho được những thắng lợi có tính quyết định trong mấy năm tới” 1 . Hội nghị đề ra hai mục tiêu chủ yếu mà cách mạng miền Nam phải phấn đấu trong thời gian trước mắt:

1. Tiêu diệt từng bộ phận quân đội địch, tạo điều kiện làm tan rã hoàn toàn lực lượng quân sự, chỗ dựa chính của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam;

2. Làm thất bại kế hoạch gom dân, lập ấp chiến lược của địch.

Để thực hiện các mục tiêu chủ yếu trên đây, không những quân, dân miền Nam phải cố gắng vượt bậc mà Đảng và nhân dân miền Bắc cũng phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về chính trị, tơ tưởng và tổ chức; phải tăng cường chi viện kịp thời, mạnh mẽ về mọi mặt cho cách mạng miền Nam; đồng thời ra sức tăng cường lực lượng kinh tế và quốc phòng miền Bắc, nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của địch. 

Về đường lối quắc tê, hội nghị chủ trương cùng các đảng anh em khôi phục và tăng cường đoàn kết giải quyết cáe mối bất đồng trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tích cực ủng hộ phong trào chống chủ nghĩa đế quốc và thực dân, ra sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới. kể cả nhân dân Mỹ, đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. 

Lúc này, Mắc Namara và Taylo lại sang Sài Gòn (từ ngày 8-3 đến ngày 12-3-1964) 2 để biểu thị sự ủng hộ của Mỹ đối với chính quyền Nguyễn Khánh và đốc thúc chính quyền này đẩy mạnh nỗ lực chiến tranh. Sau đó, khi về Mỹ, phái đoàn Mắc Namara - Taylo đệ trình lên Giônxơn nhưng kiến nghị mới và những kiến nghị này đã được Tổng thống Mỹ phê duyệt, trở thành bị vong lục Về hành động an ninh quốc gia số 288, ngày 17-3-1964, mà nội dung cơ bản là tăng cường hiệu lực chỉ huy trực tiếp của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, tăng viện trợ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn, tiến hành các hoạt động khiêu khích, đe doạ, phung phá, gây sức ép đối với miền Bắc Việt Nam. . .

Trên thực tế, từ những tháng đầu năm 1964, Mỹ thay đổi toàn bộ giới lãnh đạo cao cấp Mỹ ở Sài Gòn, tăng lực lượng cố vấn, yểm trợ Mỹ từ 22.400 người năm 1963 lên 26.200 năm 1964 tăng viện trợ vũ khí, thiết bị chiến trường cho quân đội Sài Gòn, điều chỉnh thế bố trí chiến lược trên chiến trường, đẩy mạnh chương trình bình định, đặc biệt ở những vùng “ưu tiên quốc gia”; tăng cường các hoạt động chống phá miền Bắc, tìm cách lôi kéo, gây sức ép đối với chính phủ hai nước Lào, Campuchia và ra sức lợi dụng mâu thuẫn Xô - Trung hòng cô lập cách mạng Việt Nam. 

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, công tác chỉ đạo và chi viện cho chiến trường miền Nam được xúc tiến mạnh mẽ. Quân uỷ Trung ương tăng cường một số cán bộ có kinh nghiệm xây dựng chủ lực và chỉ huy tác chiến tập trung vào Nam Bộ, Tây Nguyên, Khu V*; chỉ đạo Miền và các quân khu khẩn trương xây dựng lực lượng chủ lực, hình thành từng bước các bộ chỉ huy chiến dịch. Một số trung đoàn chủ lực được huấn luyện và trang bị rời hậu phương miền Bắc vào Nam, tăng cường cho khối chủ lực sẵn có trên chiến trường. Trong điều kiện cuộc chiến tranh ngày càng gia tăng cả về quy mô và cường độ, để xây dựng Tây Nguyên thành chiến trường đánh tiêu diệt lớn, ngày 1-4-1964, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Tây Nguyên, lấy mật danh là Mặt trận B3. Miền Đông Nam Bộ cũng từng bước được xây dựng thành chiến trường đánh tiêu diệt lớn . . .


_________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd t. 24, tr.839.
2. Tướng Uyliam Oétmolen thay Háckin làm Tư lệnh các lực lượng quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam; Mác xoen Taylo thay Cabốtlốt làm Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn.
* Đồng chí Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn, Chu Huy Mân, Trần Độ Hoàng Cầm, Nguyễn Hoà...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 05:58:59 pm

Ngày 27-3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt tại Hà Nội. Đây là cuộc vận động chính trị lớn đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở thời điểm trọng đại, khi đế quốc Mỹ đang ráo riết chuẩn bị mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Trong Báo cáo chính trị đọc tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, nếu đế quốc Mỹ “liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất bại thảm hại”.

Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phổ biến rộng rãi trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Tháng 4 - 1964, Ban Bí thư ra chỉ thị phát động phong trào thi đua “mỗi người làm việc bằng hai”, ra sức xây dựng bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam.  Được hậu phương miền Bắc chi viện khá mạnh mẽ và toàn diện, lực lượng cách mạng miền Nam tiếp tục có bước phát triển, đặc biệt là lực lượng vũ trang ba thứ quân.

Đến cuối năm 1964, lực lượng vũ trang miền Nam đã có 11 trung đoàn và 15 tiểu đoàn chủ lực, 25 tiểu đoàn và 90 đại đội bộ đội địa phương, 20 vạn du kích. Sự phát triển của lực lượng vũ trang ba thứ quân, đặc biệt là sự lớn mạnh của khối chủ lực gắn liền với việc mở rộng hậu phương, căn cứ địa tại chỗ trên các chiến trường. Vào năm 1964, các căn cứ địa của cách mạng miền Nam từ miền tây các tỉnh đồng bằng Trung Bộ và Tây Nguyên đến miền Đông Nam Bộ tới Trung và Tây Nam Bộ đã thành một hệ thống liên hoàn. Vùng giải phóng tiếp tục được củng cố, mở rộng. . .

Trên cơ sở thế trận và lực lượng được tăng cường, quân, dân các chiến trường, các địa phương miền Nam hên tiếp mở các đợt hoạt động quân sự và phá ấp chiến lược trên diện rộng. Lực lượng vũ trang ba thứ quân đẩy mạnh tiến công địch, chặn đánh quyết liệt các cuộc hành quân càn quét của chúng. Trong quá trình đó, trình độ tác chiến của lực lượng vũ trang ta, nhất là của bộ đội chủ lực ngày càng được nâng lên; tác chiến của bộ đội chủ lực nâng từ quy mô cấp tiểu đoàn lên đến trung đoàn. Nhiều trận đánh, chủ lực và bộ đội  địa phương ta tiêu diệt gọn từng tiểu đoàn địch như trận tiêu diệt Tiểu đoàn 17 quân đội Sài Gòn .

Ở Bến Tre (tháng 5-1964), trận An Lão (tháng 8-1964), trận Kỳ Sanh ở Quảng Nam (tháng 8-1964) . . . Trong khi đó, ở vòng trong, lực lượng đặc công, biệt động mở các cuộc tập kích táo bạo vào một số căn cứ và cơ quan đầu não địch như trận tập kích sân bay Tân Sơn Nhất (ngày 18-l-1964), phá huỷ 60 máy bay; đánh mìn rạp Kinh Đô (ngày 16-2-1964) làm chết và bị thương 150 lính Mỹ; trận đánh tàu Card trọng tải 15.000 tấn, chở 19 máy bay lên thẳng cập cảng Sài Gòn (ngày 2-5-1964), giết chết 15 tên Mỹ, khiến địch kinh hoàng.

Kết hợp chặt chẽ với đòn tiến công quân sự, quân, dân các địa phương miền Nam đẩy mạnh phong trào phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, vùng làm chủ. Điểm nổi bật của phong trào chống phá bình định thời kỳ này là tính rộng khắp của phong trào, là sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng và hiệu quả giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng nhân dân; là sự hình thành hệ thống làng xã chiến đấu liên hoàn ở những vùng mới giải phóng. . .

Kế hoạch bình định năm 1964 của địch, về cơ bản đã phá sản. Số ấp chiến lược địch gom được lúc cao nhất trong tháng 6-1963 là 7.512, sụt xuống 4.672 ấp cuối năm đó và chỉ còn 3.300 ấp cuối năm 1964, nhưng ngay cả số ấp còn lại thì cũng chỉ có khoảng 5% là đạt tiêu chuẩn mà chúng đề ra.  Nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa những thắng lợi, quân và dân ta ở miền Nam đã giành được, tháng 9-1964, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp, đề ra chủ trương tranh thủ thời cơ cố gắng đánh bại hoàn toàn quân nguy trước khi quân Mỹ nhảy vào. Bộ Chính trị giao cho Quân uỷ Trung ương Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị kế hoạch chiến lược và chỉ đạo lực lượng vũ trang Miền và các quân khu thực hiện các trận đánh lớn, tiêu diệt và làm tan rã đài bộ phận quân đội Sài Gòn.

Tăng cường cán bộ lãnh đạo cho cách mạng miền Nam, tháng 9-1964, Bộ Chính trị cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Uỷ viên Bộ Chính trị, vào miền Nam. Cùng đi với đồng chí có nhiều cán bộ cao cấp, những người nhiều kinh nghiệm xây dựng chủ lực, lãnh đạo và chỉ huy tác chiến tập trung. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, tháng 10-1964, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị mở đợt hoạt động Đông Xuân 1964 - 1965 trên khắp chiến trường miền Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 10:20:47 pm

Chấp hành chỉ thị của Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, sau một thời gian chuẩn bị, các chiến trường mở một số chiến dịch tiến công quy mô tương đối lớn, thời gian dài, trên một địa bàn rộng.

Ở miền Đông Nam Bộ, Quân uỷ, Bộ chỉ huy Miền mở chiến dịch Bình Giã, sử dụng 2 trung đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn hoả lực Miền, 2 tiểu đoàn chủ lực Quân khu 7, 1 tiểu đoàn chủ lực Quân khu 6 và các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, du kích các xã, ước tính lên tới 7.000 quân, tiến công địch trên một địa bàn rộng khoảng 500 km2 thuộc các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hoà, Bình Thuận.

Ngày 2- 12-1964, chiến dịch Bình Giã mở màn bằng trận tiến công ấp chiến lược Bình Giã của Đại đội 445 bộ đội địa phương tỉnh  Bà Rịa. Tuy trận đánh không thành, nhưng buộc địch phải điều Tiểu đoàn biệt động quân 38 xuống phía tây nam Đức Thạnh để giữ ấp Bình Giã. Đêm 7- 12, quân ta đánh lại ấp Bình Giã và pháo kích chi khu quân sự Đất Đỏ. Địch buộc phải mở cuộc hành quân Bình Tuy 33 trong khu vực tứ giác Đức Thạnh - Xuân Sơn - Xuân Khai - Long Nhung nhằm diệt và đẩy lực lượng ta ra khỏi khu vực tác chiến.

Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt và kéo dài đến ngày 3- 1-1965 mới kết thúc. Trong khoảng thời gian đó, quân ta kết hợp các chiến thuật phụt kính, bao vây tiến công vào các cánh quân cửa lực lượng biệt động, lính thuỷ đánh bộ, lính cộng hoà nguy ở phía tây lộ, phía nam Bình Giã và ở Quảng Giáo, lộ 15, Hoài Đức, Tánh Linh, v.v.. Kết quả của chiến dịch Bình Giã, ta tiêu diệt 1.755 tên, bắt 193 tên, phá huỷ một số lớn phương tiện chiến tranh của địch, thu nhiều vũ khí, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá từng mảng ấp chiến lược ven đường số 2, đường số 15 thuộc các huyện Đất Đỏ, Long Thành, Nhơn Trạch, giải phóng huyện Hoài Đức, mở rộng căn cứ Hát Dịch nối với Chiến khu Đ và căn cứ của tỉnh Bình Thuận thuộc Khu VI.

Chiến thắng Bình Giã đánh dấu sự phá sản của chiến lược chiến tranh đặc biệt là không tránh khỏi. Bộ Quốc phòng Mỹ thú nhận “Bình Giã là một thất bại trông thấy của quân đội Sài Gòn”. Qua Bình Giã “Quân đội Việt Nam cộng hoà không đủ sức đương đầu với Việt cộng” 1

Ở Khu V, Bộ Tư lệnh Quân khu sử dụng Trung đoàn 2 chủ lực quân khu (thiếu 1 tiểu đoàn), Tiểu đoàn 409 đặc công, cùng lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Bình Định và hai huyện An Lão 2, Hoài Nhơn tiến công chi khu quân sự An Lão mở đầu đợt hoạt động Đông Xuân trên địa bàn Khu V, nhằm diệt địch phát động nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược giải phóng vùng đồng bằng phì nhiêu nơi đây. 

Trận đánh diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8- 12- 1964. Toàn bộ lực lượng địch chiếm đóng ở An Lão bị loại khỏi vòng chiến đấu, quân tăng viện cũng bị ta đánh thiệt hại nặng; thương vong lên tới gần 700 tên. Được đòn quân sự hỗ trợ, nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm, giải phóng hoàn toàn huyện An Lão. 

Với chiến thắng An Lão, lần đầu tiên ở Khu V, bộ đội ta vận dụng thành công chiến thuật vây điểm, diệt viện và đánh dịch đổ bộ đường không, mở ra khả năng bộ đội ta đánh tiêu diệt từng đơn vị lớn địch, phá vỡ từng khu vực phòng thủ rộng của chúng. Đây là bước phát triển mới về thế và lực của lực lượng vũ trang Khu V.

Phối hợp với chiến dịch An Lão, các địa phương khác trên địa bàn Quân khu 5 đẩy mạnh tiến công quân sự, hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân. Lực lượng vũ trang quân khu tiến công cứ điểm Chóp Chài - cách thị xã Tuy Hoà 9 âm về phía tây và diệt gọn lực lượng cứu viện. Lực lượng vũ trang Quảng Nam đánh địch trong thị xã Tam Kỳ, pháo kích cứ điểm Cây Sanh. Tại Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà, lực lượng vũ trang ta tiến công vào một số căn cứ, chi khu, quận lỵ địch, đánh thắng nhiều cuộc càn của chúng. 

Sau chiến thắng An Lão, Quân khu 5 mở tiếp đợt hoạt động mùa Xuân năm 1965, tiến công và nổi dậy rộng khắp, trọng điểm trên ba hướng là Bình Định và đông Gia Lai, Quảng Nam, bắc Kon Tum. Lực lượng vũ trang ta tiến công địch ở cứ điểm Việt An (Quảng Nam), ở Dương Liễu - Đèo Nhông (hướng Bình Định), tập kích trại lính Mỹ Hôlôuây và sân bay Cù Hanh (ở thị xã Plâyku), tiến công các đồn bốt ở Đắc Giao, Đắc Long. Đánh thắng cuộc phản kích của hai trung đoàn chủ lực quân Sài Gòn và một tiểu đoàn lính biệt động lên Kon Tum . . .


________________________
1. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ..., Tlđd, t.2, tr.25. 
2. An Lão là một huyện thuộc tỉnh Bình Định, nằm gọn trong khu vực thung lũng sông An Lão với chiều dài 22 km và chiều rộng 4 km. Địch thiết lập tại đây một chi khu quân sự do hai đại đội bảo an, một trung đội lính cộng hoà và một trung đội súng cối trấn giữ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 10:22:42 pm

Kết quả đợt hoạt động Đông Xuân 1964 - 1965, đặc biệt đòn tiến công của chủ lực Quân giải phóng trên các chiến trường miền Nam, đã đẩy chiến lược chiến tranh đặc biệt đứng trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn. Trước tình hình đó, chính quyền Mỹ một mặt ráo riết chuẩn bị cho sự thay đổi chiến lược chiến tranh, mặt khác, gia tăng cáe hoạt động chống phá miền Bắc và đẩy mạnh nỗ lực quân sự ở miền Nam. 

Ngày 7-2- 1965, Mỹ dùng không quân mở cuộc tiến công Mũi lao lửa 1 (Fleiming Dart 1), đánh phá Vĩnh Linh, Đồng Hới (Quảng Bình). Tiếp đó, ngày 13-2, chúng mở tiếp Mũi lao lửa 2, đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 19 trở vào. Bắt đầu từ ngày 2-3, chúng triển khai chiến dịch ném bom, bắn phá rộng rãi miền Bắc với tên gọi Sấm rền (Rolling Thunder) . 

Ngày 8-3-1965, 2 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng. Cuộc chiến đã vượt quá khuôn khổ chiến lược chiến tranh đặc biệt, mang những yếu tố của một cuộc chiến tranh cục bộ. . . Chiến tranh đang lan ra miền Bắc .

Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1965) chủ trương “chiến thắng eho kỳ được cuộc chiến tranh đặc biệt ở mức độ cao nhất của địch ở miền Nam và tích cực chống lại và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại và phong toả bằng không quân, hải quân của địch ngày càng ác liệt hơn ở miền Bắc.  Đồng thời chúng ta phải hết sức cảnh giác và chuẩn bị sẵn sàng đối phó để có thể thắng địch nếu chúng biến cuộc chiến tranh ở miền Nam hiện nay thành cuộc chiến tranh cục bộ, hoặc chúng gây ra cuộc chiến tranh cục bộ ở cả hai miền Nam Bắc chúng ta” 1.

Nhiệm vụ cơ bản trước mắt của quân và dân ta là: “Tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh đặc biệt ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng cả nước giành thắng lợi quyết   định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra” 2.

Đối với miền Bắc, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương chủ trương: Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, hết sức coi trọng nhiệm vụ phòng thủ. . . để chống lại có hiệu quả cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ, tích cực chi viện cho miền Nam và giúp đỡ cách mạng Lào. Trong tình hình cả nước có chiến tranh với mức độ và hình thức khác nhau, Trung ương xác định: “Miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn, nhưng hậu phương ấy cũng đang có chiến tranh hạn chế và đang trực tiếp chiến đấu” 3. Vì vậy, trong hội nghị này, Trung ương quyết định chuyển hướng xây dựng nền kinh tế miền Bắc vào thời chiến để một mặt phù hợp với tình hình địch đánh phá, mật khác đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội thời chiến.

Bằng Nghị quyết 11, Ban Chấp hành Trương ương Đảng đã chủ động đi trước một bước chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức, về chiến đấu và xây dựng cho nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc bước vào cuộc đọ sức trực tiếp với quân Mỹ.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương Đảng và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hội nghị chính trị đặc biệt, và Sắc lệnh động viên thời chiến (27-4-1965), Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho eáe chiến trường đẩy mạnh tác chiến của bộ đội chủ lực, có những đợt hoạt động về chiến dịch cùng một lúc trên nhiều hướng, kết hợp tiến công quân sự với khởi nghĩa của quần chúng ở từng khu vực. 

Tháng 5- 1965, cuộc tiến công Hè Thu của quân dân ta trên chiến trường miền Nam bắt đầu.

Ở miền Đông Nam Bộ, Trung đoàn 1 (Trung đoàn Bình Giã) và Trung đoàn 2 chủ lực Quân giải phóng đánh chiếm phần lớn thị xã Phước Long, và chi khu quân sự Phước Bình, đập vỡ tuyến phòng thủ mạnh của quân đội Sài Gòn ở Sông Bé (11-5-1965). Tiếp đó, trong ba ngày từ ngày 9-6 đến ngày 12-6-1965, quân ta mở đợt hai chiến dịch, tiến công chi khu quân sự Đồng Xoài phía nam thị xã Phước Long 34 km - cứ điểm mạnh của địch trùm lên ngã tư quốc lộ 14 và tỉnh lộ 2, bảo vệ phía bắc Sài Gòn; đánh tan các cánh quân giải cứu, làm chủ toàn bộ chi khu quân sự này của địch.


___________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 26, tr. 105.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 26, tr. 109, 110.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 10:26:32 pm
Sau chiến dịch, Trung đoàn 2 được vinh dự mang tên Trung đoàn Đồng Xoài Trung tuần tháng 7-1965, các đơn vị chủ lực Quân giải phóng bước vào đợt ba, tiến công địch ở Bầu Bàng, đánh chiếm Bù Đốp, buộc địch rút khỏi Bù Gia Mập. Ngày 22-7-1965, chiến dịch Đồng Xoài kết thúc. Từ đây, trên chiến trường Nam Bộ, quân chủ lực Sài Gòn có chiều hướng co lại, né tránh đụng độ với chủ lực ta.

Ở Khu V, từ ngày 29-5-1965, Trung đoàn 1 chủ lực Quân khu 5 và lực lượng vũ trang địa phương huyện Sơn Tịnh tiến công cứ điểm Gò Cao (còn gọi là Ba Gia) - một trong ba cứ điểm thuộc khu tam giác phòng ngự phía tây tỉnh Quảng Ngãi, mở đầu chiến dịch tây Sơn Tịnh (hoặc còn gọi là chiến dịch Ba Gia). Sau ba ngày chiến đấu có sự phối hợp chặt chẽ của nhân dân và du kích, quân ta đã đánh diệt quân địch trong cứ điểm, đánh tan cát cánh quân ứng cứu, hoàn toàn làm chủ trận địa, tiêu diệt, đánh thiệt hại 4 tiểu đoàn địch.  Trung đoàn 1 sau đó mang tên là Trung đoàn Ba Gia.

 Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Khu V, một trung đoàn .  chủ lực của ta tiến công tiêu diệt một chiến đoàn chủ lực địch, trong đó có 1 tiểu đoàn thuộc lực lượng tổng trù bị chiến lược của quân nguỵ. Chứng tỏ sức mạnh và trình độ đánh tiêu diệt của chủ lực Quân giải phóng được nâng lên một bước mới.

Nhân đà thắng lợi, nhân dân các huyện Sơn Tịnh, Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Sơn Hà nổi dậy phá 100 ấp chiến lược, giải phóng hoàn toàn 27 xã với 20 vạn dân giành quyền làm chủ.

Bộ Quốc phòng Mỹ nhận xét về trận Ba Gia như sau: “Trận này kéo dài trong mấy ngày và kết thúc bằng sự thất bại hoàn toàn của quân đội Việt Nam cộng hoà. Hai tiểu đoàn bị tiêu diệt hoàn toàn. Ba Gia là một tin khẩn cấp hoặc ít nhất cũng khẩn cấp đối với một số sĩ quan Mỹ đã được chứng kiến trận đó” 1.

Cuối tháng 5-1965, ở Tây Nguyên, Trung đoàn 320 và Tiểu đoàn 952 tiến công tiêu diệt quận ly Lệ Thanh, phục kích và giành thắng lợi trên đường 19- tây, bắt sống tên Phó tỉnh trưởng Plâyku; bao vây Đức Cơ. ở hướng Kon Tum, cuối tháng 6-1965, Trung đoàn 101 đánh chiếm cứ điểm PÔ Cô, trại lực lượng đặc biệt Tumơrông; lực lượng vũ trang Kon Tum tiến công tiêu diệt một số chốt từ Đắc Tô đến Đắc Pét . . .

Bước sang tháng 7- 1965, trên chiến trường Khu V, Trung đoàn 1 Quân giải phóng trở lại hoạt động ở Ba Gia. Tại đây, trung đoàn nổ súng tiến công cứ điểm Gò Cao lần thứ hai và giành thắng lợi: diệt Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 51 quân Sài Gòn, phá huỷ 8 xe quân sự, thu 170 khẩu súng các loại. Sau trận này, trung đoàn rút về đứng chân tại Vạn Tường. . .   

Đòn tiến công quân sự của lực lượng vũ trang ba thứ quân trên khắp chiến trường hỗ trợ cho nhân dân các địa phương nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng. ở Khu V, kết thúc đợt hoạt động Hè năm 1965, ta đã phá hàng trăm ấp chiến lược, đưa tổng số ấp chiến lược bị phá trên toàn khu lên tới hơn 2.000 trong tổng số 2.800 ấp mà địch đã lập. Ở Nam Bộ, ta phá rã, phá banh 4/5 tổng số ấp địch lập tại đây.

Đợt hoạt động Hè Thu 1965 là đòn tiến công quyết định làm thất bại kế hoạch Giônxơn - Mắc Namara. Trong đợt hoạt động này, bằng việc kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng, mà chiến dịch tiến công Đồng Xoài và Ba Gia là điển hình hợp thành cột mốc đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của chiến lược chiến tranh đặc biệt, đẩy chính quyền Sài Gòn lún sâu thêm vào cuộc khủng hoảng chính trị.

Dù vậy, với tiềm lực và sức mạnh quân sự, kinh tế dồi dào, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mỹ chưa từ bỏ âm mưu xâm lược Việt Nam.  Sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân, dân ta, đứng trước thử thách to lớn do hành động phiêu lưu quân sự mới của đế quốc Mỹ trên cả hai miền Nam, Bắc.


II- XÂY DỰNG MIỀN BẮC THÀNH HẬU PHƯƠNG CHIẾN LƯỢC CỦA CẢ NƯỚC,
ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA KHÔNG QUÂN, HẢI QUÂN MỸ


Chống phá miền Bắc là một nỗ lực thường xuyên, gắn bó chặt chẽ và ngày càng gia tăng theo nhịp độ chiến tranh trên bộ ở miền Nam của đế quốc Mỹ.

Về phía ta, ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc được xác định là nền tảng, là gốc rễ của sự nghiệp đấu tranh hoàn thành độc lập dân tộc thống nhất Tổ quốc. Củng cố, xây dựng miền Bắc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9- 1960) chủ trương phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, biến miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước; xem đó là nhân tố giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước, đối với sự đấu tranh thống nhất nước nhà.


__________________________________
1. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ..., Tlđd, t.2, tr.88.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:07:31 pm
Nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) mà đại hội đề ra nhằm hiện thực hoá đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc trong thời kỳ quá độ. Trong 5 năm đó, phải ra sức phấn đấu thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc. “Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là một bước rất quan trọng của nhân dân ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nó có tác động rất lớn đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà” 1 .

Theo phương hướng đó, từ năm 1960 đến năm 1965, miền Bắc dồn sức thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.  Tháng 7-1961, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) bàn về phát triển sản xuất nông nghiệp, chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ trên lĩnh vực quan trọng này trong 5 năm là: “Tích cực củng cố, phát triển hợp tác xã nông nghiệp và nông trường quốc doanh làm cơ sở vững chắc để phát triển nông nghiệp.

Kết hợp việc hoàn thiện quan hệ sản xuất mới với phát triển sức sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho nông nghiệp; kết hợp chặt chẽ việc phát triển hợp tác hoá với thuỷ lợi hoá dần dần và cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật, tiến tới một bước cơ bơi ới hoá, nhằm hướng mở rộng diện tích bằng tăng vụ và khai hoang, đồng thời ra sức thực hiện thâm canh tăng năng suất theo phương châm toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, giải quyết tốt vấn đề lương thực là trọng tâm, đồng thời hết sức coi trọng cây công.nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi, mở mang thêm nghề rừng, nghề cá và các ngành, nghề phụ; sử dụng tốt sức lao động tập thể là chính, đồng thời tận dụng sức lao động trong gia đình xã viên” 2

Tiếp theo Hội nghị lần thứ năm, tháng 4- 1962, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ bảy bàn về phát triển công nghiệp. Quán triệt chủ trương công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra là: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại” 3. Hội nghị đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ và chỉ tiêu phấn đấu của sự nghiệp xây dựng và phát triển công nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất; xác định những biện pháp thực hiện cụ thể.

Phát biểu tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cái thìa khoá của việc phát triển nông nghiệp là chỉnh đốn tốt ban quản lý hợp tác xã Cái thìa khoá của việc phát triển công nghiệp là cơ sở thì đẩy mạnh quản lý xí nghiệp và cán bộ, công nhân phải thạo kỹ thuật; các cơ quan lãnh đạo thì phải đi sâu đi sát, phục vụ sản xuất” 4. Người mong các đại biểu dự hội nghị “nghiên cứu thật kỹ, phổ biến thật khắp và chấp hành thật đúng hai nghị quyết thứ năm và thứ bảy của Trung ương, biến quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của quần chúng” 5

Thực hiện các nghị quyết trên đây của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và tuân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khắp nơi trên miền Bắc, phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa dấy lên mạnh mẽ và sôi nổi trong mọi ngành, mọi cấp, mọi giới 6. Nhiều cuộc vận động lớn cũng được phát động trong nông nghiệp, công nghiệp, giáo dục, lực lượng vũ trang...

Mặc dù những tháng cuối năm 1964, đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân chống miền Bắc, buộc ta phải gấp rút tăng cường lực lượng quốc phòng, không thể tập trung sức người, sức của cho việc hoàn thành kế hoạch đề ra, nhưng đến cuối năm 1965, các mục tiêu cơ bản trên các lĩnh vực của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất cũng được thực hiện.

Trên 90% hộ nông dân đã vào hợp tác xã trong đó có 50% là hợp tác xã bậc cao. Năm 1960, toàn miền Bắc có 4.300 hợp tác xã bậc cao thì đến năm 1965, con số đó tăng lên 18.600. Gần 700 hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn thóc trên một héc ta mỗi năm. Về công nghiệp toàn miền Bắc có 1.132 xí nghiệp, trong đó 205 xí nghiệp trung ương. Tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm công - nông nghiệp từ 42,4% năm 1960 lên 53% năm 1965. 90% hàng tiêu dùng thiết yếu và một phần tư liệu sản xuất do các ngành công nghiệp trung ương và địa phương đảm bảo. Ngoài ra, hệ thống giao thông vận tải, bưu điện cũng được mở rộng và nâng cấp, được trang bị thêm phương tiện, máy móc, thiết bị mới...


_____________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 21, tr.595.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t 22, tr. 421-422. .
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.926.
4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 391, 392.
6. Điển hình của các phong trào thi đua thời kỳ này là hợp tác xã Đại Phong trong nông nghiệp, Nhà máy cơ khí Duyên Hải trong công nghiệp, Trường phổ thông cấp II Bắc Lý trong giáo dục, phong trào “Ba nhất” trong lực lượng vũ trang.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:08:18 pm

Kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, các ngành kinh tế chủ lực đạt được bước tiến khá vững chắc. Được như vậy, một phần do sự hỗ trợ tích cực của các ngành tài chính, ngân hàng, ngoại thương. . . Hoạt động của các ngành này hoàn toàn do Nhà nước quản lý, điều hành nhằm mục tiêu bao quát là phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá và củng cố quốc phòng, an ninh miền Bắc, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân.

Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội, tiếp tục xoá bỏ tàn tích của chế độ cũ, nhiệm vụ chủ yếu thời kỳ này của sự nghiệp văn hoá, giáo dục là xây dựng nền văn hoá mới và con người mới Việt Nam.

Theo định hướng đó, giáo dục phổ thông và đại học tiếp tục nỗ lực gắn việc học tập với thực tiễn, với điều kiện Việt Nam. Việc học tập của con em nhân dân lao động, của các dân tộc ít người được chú trọng. Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách khuyến khích giáo viên miền xuôi lên dạy học ở miền núi, ở vùng sâu, vùng xa; nhiều người trong số đó suốt đời gắn bó với sự nghiệp giáo dục vùng cao, xem đấy là quê hương thứ hai của mình. Chính quyền các cấp tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học ở địa phương. Con em những gia đình thuộc diện chính sách như thương binh, liệt sĩ, gia đình nghèo, gia đình có 3 con trở lên, con em các dân tộc ít người, vùng cao, vùng sâu đi học được miễn, giảm học phí, nhận học bổng của Nhà nước...

Nhờ đó, sự nghiệp giáo dục có bước phát triển. So với những năm từ 1954 - 1955, đến năm 1964, số học sinh phổ thông tăng gấp 3,5 lần. Tiếp đó, trong năm học 1965 - 1966, dù chiến tranh phá hoại trở nên ác liệt nhưng trên miền Bắc, số học sinh đến trường 4.969.000, đạt tỷ lệ cứ 4 người dân miền Bắc có 1 người đi học.

Sự nghiệp giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp cũng đạt kết quả đáng tự hào. So với những năm đầu sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, số học sinh đại học và trung học chuyên nghiệp năm 1964 tăng hai lần. 21.332 cán bộ đại học và trên 55.000 cán bộ trung học được đào tạo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Họ có mặt khắp mọi miền đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng miền Bắc, củng cố quốc phòng, an ninh.

Con số trên đây tuy chưa nhiều, nhưng so với gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp thì đó là một thành tựu lớn. Dưới thời bị thực dân Pháp thống trị, tổng số người Việt Nam có trình độ đại học chưa quá 200 người, 95% dân số Việt Nam mù chữ. Trước ngày giải phóng, toàn miền Bắc còn 3,5 triệu người ở độ tuổi từ 12 - 50 chưa biết đọc, biết viết. Sau gần 10 năm nỗ lực phấn đấu, đến năm 1965, hầu hết dân số trên miền Bắc đã được xoá mù.

Cùng với sự nghiệp giáo dục, nền văn hoá mới đa dạng và phong phú, truyền thống và hiện đại đã hình thành và phát huy tác dụng trong công cuộc xây dựng đời sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc. Hầu hết các văn nghệ sĩ từng trải qua một thời chiến tranh nay tiếp tục gắn bó chặt chẽ với quần chúng lao động, ra sức khám phá và sáng tạo để xây dựng các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị, phản ánh sâu sắc hiện thực cuộc sống lao động và chiến đấu của toàn dân, toàn quân ta trên cả hai miền Bắc, Nam.

Nền văn học, nghệ thuật nói riêng, sự nghiệp văn hoá, giáo dục nói chung trên miền Bắc thời kỳ này, bằng những hoạt động và cống hiến cụ thể của mình, đã góp phần quan trọng hun đúc ý chí, tình cảm và đạo đức cách mạng trong sáng, bồi đắp tình thương yêu giai cấp, thương yêu đồng chí, đồng bào và tình cảm quốc tế cao cả cho mọi tầng lớp nhân dân, xứng đáng là vũ khí sắc bén của Đảng trên mặt trận tư tưởng.

Mạng lưới y tế, vệ sinh phòng bệnh phát triển rộng khắp các địa phương trên miền Bắc, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng tới miền núi. Đến năm 19665, 70% số huyện có bệnh viện, 90% số xã đồng bằng và 78% số xã miền núi có trạm y tế với đội ngũ những người thầy thuốc tận tuỵ. Đội ngũ này ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng.  So với năm 1960, đến năm 1965, đội ngũ y, bác sĩ và dược sĩ được đào tạo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa tăng gấp năm lần.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:08:50 pm
Do mạng lưới y tế phát triển nên các loại dịch bệnh được phát hiện kịp thời và được phòng trừ tích cực. Bên cạnh đó, phong trào rèn luyện sức khoẻ, thể dục thể thao, trong đó có những môn thể thao quốc phòng, phát triển rộng rãi trong nhân dân, trong trường học, xí nghiệp, công trường và trong các đơn vị quân đội . . .

Mười năm sau ngày giải phóng và gần 5 năm triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, toàn Đảng, toàn dân miền Bắc bền bỉ và sáng tạo trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới với chế độ xã hội ưu việt, với nền kinh tế có bước tiến tương đối vững chắc về cơ cấu, về thành phần, về năng suất. Nền kinh tế - xã hội đó đang dần đi vào thế tương đối ổn định với hai ngành sản xuất chính - công nghiệp và nông nghiệp; với hai hình thức sở hữu bao trùm - quốc doanh và tập thể. Trên nền tảng đó, sức mạnh quân sự - quốc phòng của miền Bắc được tăng cường.

Tháng 2-1961, Bộ Chính trị họp nhận định về kết quả 5 năm xây dựng quân đội tiến lên chính quy, tương đối hiện đại và thông qua nhiệm vụ quân sự 5 năm lần thứ hai (1961 - 1965) nhằm đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố nền quốc phòng toàn dân, đáp ứng đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới.

Sau hội nghị, các đơn vị tập kết từ miền Nam ra được tổ chức thành các lữ đoàn bộ binh gọn nhẹ, sẵn sàng cơ động vào miền Nam; các sư đoàn trực thuộc Bộ được biên chế đủ quân số, trang bị mạnh, trong đó, một số được biên chế theo khung thời bình - nghĩa là có khung cán bộ và quân số rút gọn, đảm bảo khi cần có thể nhanh chóng bổ sung đủ quân số và trang bị. Các quân chủng, binh chủng cũng kiện toàn về biên chế và tổ chức, tăng cường về lực lượng và trang bị. 

Nhằm đáp ứng đòi hỏi của tình hình, tháng 10-1962, bộ đội phòng không và không quân hợp nhất thành Quân chủng Phòng không - Không quân gồm 12 trung đoàn và 17 tiểu đoàn. Hệ thống ra đa triển khai thành mạng trinh sát cảnh giới phòng không quốc gia. Một số sân bay được tu bổ, phục hồi, xây dựng mới.

Lực lượng hải quân xây dựng 4 tiểu đoàn ven biển làm nhiệm vụ tuần tiễu, vận tải, săn ngầm. Các đơn vị phòng thủ biển tổ chức thành lực lượng tác chiến binh chủng hợp thành, bố trí ở các trọng điểm.

Đến năm 1965, bộ đội chủ lực miền Bắc từ 16 vạn (năm 1960) tăng tới 27 vạn. Mặc dù giải thể trong các năm từ 1960 đến 1964 nhưng từ năm 1965, bộ đội địa phương được xây dựng lại và trong vòng một năm, đã từ 18.000 (1959) lên tới 46.000 (1965). Bên cạnh lực lượng thường trực, lực lượng hậu bị cũng được chú trọng xây dựng. Năm 1962, gần 1 triệu người ở độ tuổi từ 18 đến 45 đăng ký ngạch dự bị.  Lực lượng này được quản lý chặt chẽ, hằng năm có tổ chức tập dượt việc động viên. Dân quân tự vệ từ 1 triệu (1960) tăng tới 1.670.000 (năm 1965).

Nền quốc phòng miền Bắc là nền quốc phòng toàn dân. Nền quốc phòng đó dựa vào sức mạnh của đông đảo quần chúng nhân dân có giác ngộ cao về chính trị, được tổ chức chặt chẽ. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp thường xuyên chăm lo việc giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức chính trị và ý thức quốc phòng trong mọi tầng lớp nhân dân; phát động nhiều cuộc vận động lớn, nhiều phong trào thi đua yêu nước; tổ chức cho các tầng lớp nhân dân học tập nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách. . .

Thông qua các hoạt động này, sự nhất trí về chính trị, tinh thần trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ngày càng được củng cố. Dựa trên cơ sở đó, Nhà nước đã huy động nhân dân tham gia đóng góp vào việc xây dựng các công trình quân sự, các hệ thống phòng thủ ven biển, các tuyến giao thông chiến lược. . . 

Một nội dung lớn của sự nghiệp củng cố nền quốc phòng là giải quyết mồi quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Thể hiện sự kết hợp giữa hai linh vực này, các nông trường, lâm trường của quốc doanh và của quân đội cũng như các tập đoàn sản xuất của cán bộ miền Nam tập kết được chăm lo xây dựng. Các cơ sở kinh tế đó được bố trí ở những địa bàn có ý nghĩa chiến lược về chính trị, kinh tế, quân sự.

Trên thực tế, từ năm 1965, nhiều nông trường, lâm trường trở thành địa bàn đóng quân, đảm bảo hành quân cho các đơn vị quân đội vào Nam chiến đấu, đồng thời, mạng đường liên xã, liên huyện và liên tỉnh cũng được tu bổ, nâng cấp hoặc xây dựng mới, vừa phục vụ cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, vừa đảm bảo cho việc vận chuyển chi viện chiến trường những năm chống chiến tranh phá hoại. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:10:06 pm

Nhìn chung, 10 năm sau ngày hoà bình lập lại và gần 5 năm triển khai kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, với sự nỗ lực lớn lao của toàn dân, toàn quân ta, miền Bắc tiếp tục có sự chuyển biến sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập vững chắc, đưa người lao động lên địa vị làm chủ xã hội thật sự. Do đó, niềm tin vào chế độ mới của nhân dân miền Bắc càng cao, công cuộc .xây dựng miền Bắc càng tiến triển.

Tháng 6- 1964, nhận thấy tình hình Mỹ leo thang mở rộng phạm vi đánh phá miền Bắc bằng không quân, hải quân, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về tăng cường công tác phòng không nhân dân, sẵn sàng chiến đấu cao.  Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trì, lực lượng vũ trang gấp rút chấn chỉnh biên chế, tăng cường về số lượng. Các đơn vị được lệnh nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu.

Quân chủng Phòng không - Không quân hoàn chỉnh phương án chiến đấu, triển khai lực lượng theo hướng tập trung hoả lực bảo vệ các khu vực mục tiêu chủ yếu, đồng thời hình thành lực lượng chiến đấu tại chỗ, rộng khắp.

Quân chủng Hải quân, từ tháng 7-1964, chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tăng cường tuần tiễu dọc bờ biển, tổ chức Bộ Tư lệnh tiền phương ở vùng biển Quân khu 4.

Các quân, binh chủng khác cũng gấp rút vạch phương án chiến đấu, đảm bảo giao thông trong điều kiện địch đánh rộng ra miền Bắc. Các địa phương tập dượt chiến đấu và phục vụ chiến đấu, sơ tán, phân tán tài sản và nhân dân. . .

Với nỗ lực chuẩn bị và sẵn sàng chiến đấu cao, quân, dân miền Bắc kiên quyết trừng trị các hoạt động phá hoại, khiêu khích của địch.

Trong các ngày 1 và 2-8-1964, các máy bay T.28 của lực lượng phái hữu Lào được Mỹ sử dụng đánh phá các đồn biên phòng Nậm Cắn và Noọng De của ta ở Nghệ An.

Trong khi đó, ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, tàu khu trục Ma đốc (Maddox) được lệnh tiến sâu vào hải phận nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Một phân đội tàu phóng lôi của hải quân ta đã đuổi đánh, buộc tàu Ma đốc phải rút ra vùng biển quốc tế. Ngày hôm sau, mồng 3-8- 1964, Mỹ tiếp tục điều thêm tàu khu trục Tớcnơ Gioi (C. Turner Joy) cùng tàu Mađốc trở lại vịnh Bắc Bộ.

Theo kế hoạch đã được sắp đặt, nên mặc dù tàu hải quân ta đã vào neo đậu tại căn cứ, đêm 4-8, tàu chiến Mỹ vẫn phát tín hiệu bị đối phương tấn công (!). Ngay lập tức, Giônxơn lệnh cho không quân Mỹ mở các cuộc tiến công gọi là “trả đũa” nhằm vào các mục tiêu trên miền Bắc, đồng thời yêu cầu Quốc hội thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, trao quyền cho Tổng thống Mỹ “Tiến hành mọi biện pháp cần thiết kể cả việc sử dụng lực lượng vũ trang để giúp đỡ bất kỳ quốc gia nào là thành viên hoặc nước bảo trợ của Hiệp ước phòng thủ Đông Nam Á yêu cầu giúp đỡ” 1 .

Ngày 5-8-1964, không quân Mỹ mở cuộc tiến công mang mật danh Mũi tên xuyên, sử dụng 64 lần chiếc máy bay bất ngờ đánh phá miền Bắc Việt Nam. Mạng ra đa cảnh giới của ta kịp thời phát hiện các tốp máy bay địch trên từng hướng bay vào miền Bắc, thông báo cho các lực lượng phòng không ta giáng trả kịp thời và mãnh liệt bắn rơi 8 máy bay phản lực và bắn bị thương 2 chiếc khác, diệt và bắt giặc lái Mỹ.

Đó là chiến công đánh thắng trận đầu của quân, dân miền Bắc trong cuộc đọ sức với lực lượng không quân, hải quân hùng hậu của nước Mỹ. Chiến công đó làm cho đế quốc Mỹ sửng sốt, bàng hoàng, vì trong lịch sử sử dụng không quân của Mỹ chưa có trận nào lần đầu bất ngờ ném bom đối phương lại bị bắn rơi nhiều máy bay như trận ngày 5-8-1964. Điều đó chứng tỏ tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao và kỹ thuật xạ kích điêu luyện của lực lượng vũ trang nhân dân miền Bắc. Trận thắng này càng củng cố niềm tin và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc.


_________________________
1. Giô dép A. Am tư: Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr. 95-96.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:10:55 pm

Sau ngày 5-8-1964, lực lượng không quân Mỹ tăng cường ở Thái Bình Dương, lục quân và lính thuỷ đánh bộ Mỹ được chọn lựa đã đặt trong tình trạng chiến đấu và sẵn sàng hành động. Không quân Mỹ tăng nhanh các phi vụ đánh phá miền Bắc, đặc biệt trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn. 

Trong khi đó, tình hình ở Lào cũng diễn biến phức tạp, do âm mưu và hành động của Mỹ nhằm củng cố vị trí của Mỹ và phái hữu ở Lào, cô lập cách mạng miền Nam. Từ tháng 6-1965 Mỹ bắt đầu ném bom vùng giải phóng Lào với nhịp độ ngày càng gia tăng. Sang tháng 8, không quân Mỹ ném bom và rải chất độc xuống vùng Trung và Hạ Lào. Tiếp đó, dưới sức ép của Mỹ, Hoàng thân Phuma đồng ý để Thái Lan đưa quân can thiệp vào Lào (19-12-1964), cho Mỹ oanh tạc hành lang vận chuyển chiến lược Bắc - Nam dọc theo biên giới Lào - Việt.

Theo dõi sát toàn bộ diễn biến của tình hình liên quan, tháng 1-1965, Hội đồng Quốc phòng họp dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ và phương hướng công tác trước mắt của miền Bắc là tăng cường công tác phòng thủ, trị an, sẵn sàng chiến đấu; ra sức xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, tích cực xây dựng và củng cố miền Bắc về mọi mặt.

Từ đầu năm 1965, thực hiện chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với thời chiến, các cơ quan đảng, nhà nước gấp rút chấn chỉnh, sắp xếp, kiện toàn về tổ chức và lề lối làm việc; thực hiện đúng chức năng, giản tiện hoá các thủ tục hành chính, kịp thời giải quyết những vấn đề cấp thiết của cuộc sống lao động và chiến đấu đầy khẩn trương đặt ra. 

Mùa Hè năm 1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập hội nghị cán bộ bàn về nhiệm vụ chỉ đạo hai nhiệm vụ chiến lược đã quyết định: Trong tình hình mới, các cấp uỷ đảng phải thực hiện sự chuyển biến mạnh mẽ cách suy nghĩ, lề lối làm việc, phong cách lãnh đạo; huyện uỷ phải lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp ở cơ sở; tỉnh uỷ phải nắm chắc tình hình sản xuất nông nghiệp, công nghiệp địa phương và đảm bảo giao thông vận tải trên địa bàn tỉnh mình.

Cũng những tháng năm này, Ban Bí thư đề ra các chỉ thị thúc đẩy cuộc vận động xây dựng chi bộ “bốn tốt” tăng cường sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức và đội ngũ cản bộ, đảng viên thực sự sâu sát quần chúng, gắn bó máu thịt với nhân dân, phát hiện và giải quyết các vấn đề nảy sinh từ hiện thực cuộc sống lao động và chiến đấu một cách kịp thời, hiệu quả.

Trong các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền, các ngành sản xuất, cơ cấu cán bộ và công nhân viên được tổ chức, sắp xếp lại cho phù hợp với tình hình. Các vùng trung du, miền núi được tăng cường thêm cán bộ. Một số cán bộ, đảng viên trong các cơ quan dân sự được động viên vào lực lượng vũ trang hoặc chuyển sang công tác trên mặt trận giao thông vận tải.

Nhằm đặt cơ sở cho việc huy động sức người, sức của phục vụ nhu cầu thời chiến trên cả hai miền, Chính phủ ban hành một số văn bản pháp quy điều chỉnh việc phân bố lại lao động như Điều lệ tạm thời huy động và sử dụng dân công thời chiến; Điều lệ về việc tăng cường lực lượng lao động trong các cơ quan, xí nghiệp; Điều lệ về nghĩa vụ lao động trong chiến tranh. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật quy định cụ thể việc bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tính ‘ mạng và tài sản nhân dân; việc giữ vững trật tự, an ninh; việc quản lý giá cả, thị trường; việc thực hiện chính sách hậu phương quân đội cũng lần lượt được ban hành. 

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - tổ chức tập hợp ý chí và nguyện vọng của mọi người Việt Nam yêu nước tiếp tục được củng cố, mở rộng dựa trên nền tảng vững chắc là khối liên minh công - nông. Các tổ chức quần chúng phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Hoạt động của các tổ chức này - mà tiêu biểu là Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Phụ lão, Hội Mẹ chiến sĩ, Đội Thiếu niên tiền phong. . . đã phát huy vai trò, tác dụng trong việc tập hợp, động viên người dân hậu phương đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống lao động sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Đó thực sự là một trong những nhân tố đảm bảo sự vững vàng, ổn định của hậu phương miền Bắc thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. 

Chuyển hướng nền kinh tế từ thời bình sang thời chiến, miền Bắc tập trung vào việc xây dựng và phát triển kinh tế vùng, kinh tế địa phương nhằm đảm bảo cho mỗi vùng, miền, mỗi địa phương chủ động hơn trong việc duy trì và đẩy mạnh sản xuất, tự cung, tự cấp những mặt hàng thiết yếu trong điều kiện chiến tranh ác liệt.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:12:17 pm

Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 14-6-1965 chỉ rõ: Trong khi chuyển hướng các ngành kinh tế phải quán triệt sâu sắc các nguyên tắc và phương hướng sau: tập trung cao độ, tự cung tự cấp cao độ 1.  Báo cáo của Hội đồng Chính phủ tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khoá III, tháng 4-1966, khẳng định: “phát triển kinh tế địa phương với tốc độ nhanh hơn bình thường, đó là phương hướng cơ bản để làm cho bất cứ nơi nào cũng có thể phát huy được lực lượng của mình để đánh địch theo đường lối chiến tranh nhân dân” 2.

Theo phương hướng trên, trong công tác quản lý kinh tế, trung ương chỉ nắm những khâu cơ bản và những vật tư chủ yếu; các địa phương được trao quyền rộng rãi hơn, đặc biệt là quyền lập kế hoạch và dự toán ngân sách cấp tỉnh. Nhà nước không đề ra những kế hoạch kinh tế dài hạn mà chỉ thực hiện kế hoạch hằng năm và hai năm để cho việc chỉ đạo, điều hành sản xuất thích ứng hơn với sự biến động của tình hình thời chiến, phù hợp với những thời gian ngắn khôi phục kinh tế sau mỗi lần địch ngừng đánh phá . . .

Trên mặt trận nông nghiệp, miền Bắc tập trung đẩy mạnh hai ngành sản xuất chính là trồng trọt và chăn nuôi, đặc biệt là ở các vùng trung du, miền núi. Đồng thời, để tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp, Nhà nước luôn chăm lo chỉ đạo việc cải tiến công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp; chỉ đạo các địa phương thực hiện kế hoạch phân bố lại lực lượng lao động trong các ngành nghề; chỉ đạo việc áp dụng các biện pháp khoa học và kỹ thuật mới cũng như tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thuỷ lợi, cải tiến công cụ, phát triển các hình thức chăn nuôi tập thể với quy mô phù hợp với hoàn cảnh thực tế từng địa phương.

Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp những năm chiến tranh được chuyển hướng theo phương châm “tích cực bảo vệ, duy trì và phát triển sản xuất”. Các cơ sở sản xuất - công nghiệp, trước hết là những ngành then chất, được khẩn trương sơ tán, phân tán, che chắn hoặc tăng cường lực lượng phòng không bảo vệ.

Nhà nước chủ trương đầu tư phát triển công nghiệp địa phương chú trọng xây dựng các xí nghiệp vừa và nhỏ. Tổng số vốn đầu tư vào khu vực này trong 3 năm từ năm 1965 đến năm 1967 tăng gấp 33 lần so với tổng số vốn đầu tư ba năm trước đó. Nhờ vậy, bên cạnh các xí nghiệp sản xuất trung ương một mạng lưới công nghiệp địa phương với hàng nghìn xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ đã hình thành trong điều kiện chiến tranh ngày càng gia tăng. 

Gắn với công tác chuyển hướng tư tưởng, tổ chức và chuyển toàn bộ hoạt động kinh tế miền Bắc sang thời chiến, Đảng, Nhà nước còn ban hành các chính sách nhằm động viên mạnh mẽ khí thế lao động, chiến đấu và phục vụ chiến đấu của người hậu phương; nhiều phong trào thi đua sôi nổi, nhiều cuộn vận động lớn được phát động.

Tại những vùng trọng điểm máy bay, tàu chiến Mỹ đánh phá, mọi sinh hoạt của nhân dân, kể cả việc học hành, đều chuyển sâu xuống lòng đất. Các hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp, ngư nghiệp ở mọi địa phương và ở nhiều nhà máy, xí nghiệp . . .  đều thành lập các tổ xung kích bám ruộng đồng, bám biển, bám cơ sở, tiếp tục giữ vững sản xuất.

Khắp miền Bắc, trên bờ bãi, ruộng đồng, đường làng, ngõ xóm và quanh sân kho hợp tác hoặc ở ngã ba, ngã tư, hệ thống hầm, hào trú ẩn được đào đắp Xã viên ra đồng đều khoác áo rơm chống mảnh bom, mảnh đạn. Ngư dân khi ra khơi, vào lộng đều mang theo phao bơi, dây dòng phòng khi thuyền bị địch đánh đắm. Một số địa phương ven biển, người già và trẻ em được dời sâu vào phía trong, lập làng xóm mới quanh các gò, đồi để tránh sự đánh phá của hải quân địch; nam giới trụ lại làng cũ, duy trì sản xuất và sẵn sàng đánh địch. Một bộ phận dân cư thành  thị cũng sơ tán về nông thôn làm ruộng hoặc tham gia vào mạng lưới lưu thông, phân phối . . . Trên các đường phố của Thủ đô Hà Nội cũng như các thành phố, thị xã trên miền Bắc, một hệ thống hầm trú ẩn bằng bêtông có nắp đậy được xây dựng, đảm bảo cho mọi người đi đường khi có máy bay oanh tạc đều có nơi trú ẩn.

Duy trì và phát triển sản xuất, ổn định đời sống và bảo đảm an toàn cho nhân dân trong sinh hoạt, lao động, chiến đấu những năm chống chiến tranh phá hoại thực sự là kỳ tính của hậu phương miền Bắc. Mặc dù ruộng đồng, làng mạc liên tục bị dội bom, thiên tai thường xuyên uy hiếp, đại bộ phận lực lượng lao động trẻ khoẻ phải ra mặt trận và con số này ngày càng tăng theo nhịp độ chiến tranh trên cả hai miền nhưng nền nông nghiệp hợp tác hoá miền Bắc, về cơ bản, vẫn được giữ vững và phát huy hiệu quả.


________________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 26, tr.205-206.
2. Viện Luật học: Sơ thảo lịch sử Nhà nước và pháp luật, Nxb.  loa học xã hội, Hà Nội, 1983, tr.142.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:13:59 pm

Nhận thức rõ vai trò, vị trí của quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp nông thôn, Đảng và Nhà nước thường xuyên quan tâm tới sự nghiệp củng cố các hợp tác xã nông nghiệp. Giữa những ngày đạn bom, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian tới thăm các địa phương trên miền Bắc.

Đầu tháng 1-1967, về thăm Thái Bình - tỉnh đầu tiên đạt 5 tấn thóc trên một héc ta đất gieo trồng, Người căn dặn bà con nông dân: “Các hợp tác xã nông nghiệp là đội quân hậu cần của quân đội chiến đấu ngoài mặt trận. Các xã viên hợp tác là chiến sĩ sản xuất, cần phải cố gắng như chiến sĩ ngoài mặt trận” 1

Sự quan tâm của Đảng Nhà nước và của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên, cổ vũ giai cấp nông dân tập thể miền Bắc vượt qua thử thách khó khăn, tăng cường đoàn kết, ra sức củng cố hợp tác xã, duy trì sản xuất, tăng chi viện chiến trường. Nhờ đó, mặc dù chiến tranh diễn ra ngày càng ác liệt, một bộ phận quan trọng lực lượng trẻ, khoẻ phải rời ruộng đồng, làng mạc tham gia lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến nhưng nền nông nghiệp hợp tác hoá ở mọi địa phương trên miền Bắc vẫn được củng cố, một số mặt còn có bước phát triển.

Năm 1965, toàn miền Bắc có 31.651 hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, bao gồm 19.035 hợp tác xã bậc cao, 12.616 hợp tác xã bậc thấp, thu hút 2.810.800 hộ gia đình vào hợp tác xã thì con số đó, đến năm 1968, là 22.162 hợp tác xã, trong đó, 17.839 hợp tác xã bậc cao, 4.223 hợp tác xã bậc thấp, thu hút tới 3.049.800 hộ gia đình nông dân 2. Trong hơn 4 năm, kể từ năm 1964 tới năm 1968, số hộ nông dân miền Bắc vào hợp tác xã sản xuất nông nghiệp từ 84% lên tới 94,9 %. Điều đó chứng tỏ rằng, trong khói lửa chiến tranh, quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa ở nông thôn miền Bắc vẫn được củng cố và tăng cường, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có bước phát triển mới cả về quy mô, trình độ quản lý. . .

Những năm chiến tranh công việc ở hậu phương, trên ruộng đồng chủ yếu dồn xuống đôi vai người phụ nữ. Trong điền kiện đó, việc các hợp tác xã nông nghiệp với quan hệ sản xuất mới được củng cố, tăng cường là một trong những thành tựu đáng tự hào của nông nghiệp và nông thôn miền Bắc. Đó cũng là một nhân tố căn bản tạo nên sức mạnh, tính bền vững của hậu phương miền Bắc trong bao thử thách ngặt nghèo và khốc liệt của chiến tranh.

Vì rằng, hợp tác xã và chính bằng hình thức tổ chức sản xuất đó, là sự đảm bảo cho nông thôn, nông dân, nông nghiệp miền Bắc - nguồn cung cấp sức người, sức của cho sự nghiệp kháng chiến diễn ra trên cả hai miền, có điều kiện để khắc phục sự thiếu hụt về nhân lực, mới có thể bền bỉ vượt qua bao thử thách do chiến tranh và thiên tai đặt ra, duy trì và giữ vững sản xuất cả về diện tích, năng suất; ổn định mọi mặt của đời sống thường ngày, động viên và ìàm yên lòng lớp lớp thanh mền nam, nữ rời ruộng đồng làng mạc lên đường ra trận.

Cho dù năng suất lúa thời kỳ này tăng chưa đều, chưa vững chắc nhưng khắp nơi trên miền Bắc, đã xuất hiện hàng nghìn hợp tác xã đạt và vượt 5 tấn thóc trên 1 héc ta đất gieo trồng hai vụ lúa, điều mà trước đó chỉ là ước mơ của người nông dân, là chỉ số mà nền nông nghiệp miền Bắc chưa bao giờ đạt tới.

Nếu năm 1965, toàn miền Bắc chỉ mới có 640 hợp tác xã thuộc 7 huyện đạt chỉ tiêu trên thì đến năm 1968, con số đó tăng lên tới 1.121 hợp tác xã thuộc 8 huyện. Tỉnh Thái Bình, huyện Thanh Trì (Hà Nội), huyện Đan Phượng (Hà Tây) . . . là những đơn vị đầu tiên đạt 5 tấn thóc trên 1 héc ta trên toàn bộ diện tích trồng lúa của tỉnh, huyện. Các tỉnh khác như Hải Hưng, Nam Hà... đạt hơn 4 tấn thóc trên 1 héc ta. Riêng Hải Dương, hằng năm, mức đóng góp của tỉnh cho nhà nước đạt từ 17 đến 19 vạn tấn lương thực.

Bên cạnh phần đóng góp nghĩa vụ, do năng suất tăng, nên bình quân lương thực trên mỗi đầu người những năm này vẫn được bảo đảm ở mức trên dưới 270 kg. Được như thế là nhờ sự nỗ lực của giai cấp nông dân, sự quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện của Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp trên mặt trận nông nghiệp.


____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.193.
2. Thế Đạt: Nền nông nghiệp Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8-1945, Nxb. Nông nghiệp. Hà Nội, 1981, tr.141.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:14:34 pm

Thời kỳ này, các phong trào cải tạo ruộng đồng, làm thuỷ lợi, đắp bờ vùng, bờ thửa, làm bèo hoa dâu, đưa các giống mới vào gieo trồng và các biện pháp kỹ thuật mới . . .  được người nông dân hưởng ứng mạnh mẽ. Nhà nước đào tạo hàng chục nghìn cán bộ, nhân viên kỹ thuật cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn. 

Sản xuất công nghiệp những năm chiến tranh, về căn bản, vẫn được giữ vững. Các cơ sở sản xuất công nghiệp sau khi di chuyển, sơ tán, phân tán về những vùng an toàn đã nhanh chóng đi vào sản xuất. Một điểm nổi bật trong sản xuất công nghiệp thời kỳ này là sự phát triển của ngành công nghiệp địa phương. Do chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp địa phương - một chủ trương đúng đắn trong điều kiện chiến tranh lan rộng, nên thời kỳ này, số xí nghiệp công nghiệp địa phương tăng nhanh so với công nghiệp trung ương.

Toàn miền Bắc năm 1965 có 1.323 xí nghiệp, trong đó 205 xí nghiệp trung ương và 927 xí nghiệp địa phương. Đến cuối năm 1968, con số đó lên tới 1.352 xí nghiệp, bao gồm 277 xí nghiệp trung ương và 1.075 xí nghiệp địa phương. Tương ứng với sự phát triển đó, tốc độ bình quân về giá trị sản lượng hàng năm của công nghiệp địa phương tăng trong khi của công nghiệp trung ương giảm. Trong các ngành công nghiệp nặng và các ngành công nghiệp nhẹ, tình hình cũng diễn ra tương tự.

Thời kỳ từ năm 1966 đến năm 1970, bình quân hàng năm, công nghiệp nặng chỉ tăng 0,5%, thì công nghiệp địa phương tăng 1,4%. Công nghiệp nhẹ, công nghiệp địa phương hướng nỗ lực vào việc phục vụ sản xuất nông nghiệp, đáp ứng các nhu cầu của đời sống nhân dân và của quốc phòng. Trên thực tế, những năm chiến tranh, đã hình thành một mạng lưới cơ khí nông nghiệp. Nhiều tỉnh, công nghiệp địa phương vươn lên đảm bảo một số máy móc phục vụ nông nghiệp như máy công cụ, máy bơm, xà lan...

Công nghiệp các tỉnh trung du, miền núi cũng có bước phát triển mới, bao gồm cả công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. . . Nhìn chung, mỗi tỉnh trên miền Bắc bấy giờ trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh với hai ngành sản xuất chính là nông nghiệp và công nghiệp, có thể tự cung, tự cấp đến mức cao, bảo đảm ổn định đời sống và hậu cần cho cuộc chiến đấu tại chỗ.

Các ngành tài chính, ngân hàng, nội thương, ngoại thương cũng hướng vào việc phục vụ những nhu cầu bức thiết mà hiện thực cuộc sống sản xuất và chiến đấu đặt ra lúc bấy giờ. Trong chiến tranh, dù ngân sách bội chi, sản xuất lưu thông, phân phối gặp nhiều trở ngại... nhưng nhờ động viên được nguồn thu trong nước và sử dụng có hiệu quả viện trợ của các nước anh em; nhờ cải tiến, tăng cường các mặt quản lý kinh tế, tài chính, giữ vững chế độ hạch toán, củng cố hệ thống thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã . . . nên nhìn chung, giá cả thị trường tương dối ổn định, ít đột biến, thị trường có tổ chức vẫn được giữ vững, giá các mặt hàng thiết yếu không tăng.

Mạng lưới thương nghiệp, được hình thành trước chiến tranh và củng cố, phát triển trong chiến tranh, đã đóng góp quan trọng vào việc ổn định đời sống hậu phương và trở thành một bộ phận lực lượng hậu cần tại chỗ của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ. 

Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế thời kỳ này phải đối mặt với những thách thức lớn lao. Những loạt bom đầu tiên dội xuống miền Bắc nhằm cả vào những công trình văn hoá, những cơ sở giáo dục. Trong 4 năm từ năm 1965 đến năm 1968, 1.558 trường học trên miền Bắc - trong đó có 7 trường  đại học, bị bom đạn Mỹ phá huỷ, nhiều thầy, cô giáo và nhiều học sinh bị giết hại . . .

Duy trì và đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, hàng vạn lớp học với hàng chục vạn thầy, cô giáo và học sinh các cấp học phổ thông cũng như nhiều trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, đại học được sơ tán khỏi thành phố, thị xã, thị trấn tới các vùng nông thôn đồng bằng, trung du và miền núi.

Trong khi đó, ở mọi làng quê, trường lớp được phân tán vào trong dân, nhiều nơi, nhà dân thành lớp học. Xung quanh trường lớp đều có luỹ đất, hệ thống hầm, hào phòng tránh bom đạn và phi pháo địch. Tại nhiều địa phương, nhất là các tỉnh thuộc Khu IV, lớp học được đào sâu vào lòng đất, giờ học chuyển vào ban đêm. Chương trình giảng dạy, học tập được cải tiến cho phù hợp với điều kiện mới.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:28:45 pm

Dù cơ sở trường, lớp, đồ dùng giảng dạy, giấy, bút. sách, vở và những điều kiện thiết yếu liên quan tới sự nghiệp giáo dục rất thiếu thốn, nhưng khắp mọi địa phương, phong trào thi đua Dạy tốt học tốt vẫn dấy lên mạnh mẽ. Dưới bom đạn đánh phá của máy bay Mỹ, học sinh đầu đội mũ rơm vẫn ngày ngày cắp sách đến trường.

Nếu năm đầu chống chiến tranh phá hoại, toàn miền Bắc có 3,5 triệu học sinh phổ thông thì đến năm 1968, con số đó lên tới 4,7 triệu em. Hầu hết các huyện đều có trường phổ thông cấp III, các xã đều có trường phổ thông cấp I và nhiều xã có trường phổ thông cấp II. Chương trình giáo dục phổ thông vẫn như thời kỳ trước, gồm 10 năm, ba cấp học.

Công tác bổ túc văn hoá tiếp tục được duy trì với hệ thống trường, lớp ngày càng mở rộng. Ngoài hệ thống trường, lớp bổ túc văn hoá cấp I, cấp II, cấp III, các tỉnh, thành miền Bắc trong những năm này còn tổ chức trường “ba đảm đang” dành riêng cho phụ nữ, trường phổ thông lao động, trường thanh niên dân tộc... Hệ thống trường lớp này hằng năm thu hút hàng vạn học viên. Năm học 1967 - 1968, có hơn một triệu học viên theo học các lớp bổ túc văn hoá. 

Giáo dục đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp thời kỳ này vẫn tuôn giữ vững mục tiêu và chỉ tiêu đào tạo, số lượng trường và hệ đào tạo ngày càng tăng lên. Từ con số 16 trường năm đầu chiến tranh, đến năm học 1967-1968, miền Bắc có 35 trường đại học với đội ngũ giáo viên từ 2.750 (năm 1965) tăng lên 6.727 (năm 1968); sinh viên từ 29.800 (năm 1965) tăng lên ~8.200 (năm 1968). Ngoài số học viên đào tạo trong nước, Chính phủ còn chọn cử một số gửi sang đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa. Số trường và số lượng học sinh các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp cũng mỗi năm một tăng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: Mặc dù giặc Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc ác liệt, chúng không những đã thất bại thảm hại trên mặt trận chính trị, quân sự, mà ta đã thắng chúng cả trên mặt trận giáo dục và đào tạo cán bộ. Mái trường xã hội chủ nghĩa chẳng những là nơi truyền thụ kiến thức mà còn trang bị cho học sinh những phẩm chất cao đẹp của con người mới Việt Nam. Các thế hệ thanh niên lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa đã lần lượt lên đường chiến đấu, công tác với vốn kiến thức vững và niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.

Gắn bó chặt chẽ với cuộc sống chiến đấu, sản xuất của quân dân ta thời kỳ này, các ngành văn hoá - nghệ thuật đã phục vụ đắc lực cho sự nghiệp chống Mỹ trên mặt trận tư tưởng. Nhiều nhà văn, nhà thư, nhà báo, nhà nhiếp ảnh, - quay phim, hoạ sĩ. . . khoác ba lô vào chiến trường miền Nam, vào tuyến lửa Khu IV, lăn lộn với thực tiễn chiến đấu và lao động đầy hy sinh gian khổ ở khắp mọi miền, sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị, phản ánh sâu sắc chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Công tác xuất bản, mạng lưới phát hành, hệ thống thư viện, công tác bảo vệ, sưu tầm, khai thác, phát huy các giá trị của văn hoá truyền thống. . . cũng được Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp chú trọng thúc đẩy và mở rộng. Một số cuộc hội nghị khoa học về dân cư, về thời kỳ Hùng Vương được tổ chức. Tháng 11-1965, giữa lúc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, nhân dân ta vẫn tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đó là một trong những biểu hiện trình độ dân trí của một dân tộc văn minh đang phải đối mặt với sức mạnh bạo tàn của kẻ xâm lược.

Trước đòi hỏi cấp bách của tình hình, công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân trên hậu phương miền Bắc nhanh chóng được tăng cường. Ngành y tế chỉ đạo các địa phương chủ động phổ cập kinh nghiệm sơ cứu, cấp cứu cho nhân dân; mở các lớp tập huấn, các khoá đào tạo ngắn ngày cho đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế cơ sở. Mạng lưới y tế cơ sở phát triển thành hệ thống sâu rộng. Từ 5.289 trạm xá, 475 bệnh viện, 7 cơ sở điều dưỡng năm 1964, đến năm 1968, toàn miền Bắc có 6.043 trạm xá, 981 bệnh viện, 50 cơ sở điều dưỡng.

Tương ứng với sự gia tăng về số lượng các cơ sở y tế trên đây, đội ngũ cán bộ, công nhân viên ngành y - dược cũng có bước phát triển mới cả về số lượng và chất lượng. Trong lửa đạn chiến tranh, miền Bắc không hề xảy ra dịch bệnh; sức khoẻ của nhân dân vẫn bảo đảm là sự nỗ lực, là sự tận tuỵ và phấn đấu không mệt mỏi của những người “chiến sĩ áo trắng” trên mặt trận thầm lặng nhưng không kém phần gian khổ, khó khăn này.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:29:22 pm

Đồng thời với quá trình chuyển hướng về tư tưởng, tổ chức và xây dựng kinh tế, nền quốc phòng miền Bắc cũng gấp rút được tăng cường, lực lượng vũ trang ba thứ quân nhanh chóng được mở rộng. Trên lĩnh vực nóng bỏng này, Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền thường xuyên chăm lo công tác giáo dục, động viên chính trị trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; giáo dục sâu rộng tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, làm cho mọi người thấu suốt và nhận thức sâu sắc vai trò, nhiệm vụ của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam, với cách mạng hai nước Lào và Campuchia... 

Ngày 20-4-1965, Quốc hội khoá III kỳ họp thứ hai đã thông qua Luật sửa đổi và bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự, kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của quân nhân. Ngày 21-4-1965, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định Lệnh động viên cục bộ và ngày 5-5-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký công bố lệnh này. Theo đó, một bộ phận sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị và một bộ phận công dân thuộc ngành dự bị quân đội nhưng chưa phục vụ tại ngũ sẽ được động viên vào lực lượng vũ trang.

Sau ngày ban hành Lệnh động viên cục bộ và kể từ đó trở đi miền Bắc dấy lên các phong trào “cử người đi đánh Mỹ”, thanh niên “ba sẵn sàng”, phụ nữ “ba đảm đang”, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”... Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng chục nghìn thanh niên nam, nữ được gọi vào quân đội, vào lực lượng thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, chiến đấu và công tác khắp các nẻo đường của đất nước có chiến tranh. So với đầu năm, đến cuối năm 1965, khối chủ lực miền Bắc tăng từ 195.000 quân lên tới 400.000, các binh chủng tăng gấp ba lần. Riêng Quân .  chủng Phòng không - Không quân phát triển vượt bậc, không chỉ pháo phòng không mà còn có binh chủng tên lửa đất đối không, ra đa cảnh giới, không quân tiêm kích. Lực lượng này được bố trí thành thế trận liên hoàn, rộng khắp, nhiều tầng hoả lực. . .

Gắn liền với sự phát triển của khối chủ lực, ngành hậu cần quân đội cũng nhanh chóng được tăng cường. Nhiều cán bộ hậu cần đã khuyển ra công tác ở các cơ quan dân, chính, đảng được điều động trở lại quân đội. Cơ quan Tổng cục Hậu cần được tổ chức, biên chế lại cho phù hợp với thời chiến. 

Bên cạnh khối chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ tăng nhanh về số lượng. Năm 1964, dân quân tự vệ chiếm tỉ lệ 8% so với dân số miền Bắc thì đến cuối năm 1965, tỉ lệ đó lên tới 10%. Những năm 1966 - 1967, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ tổ chức thành nhiều tiểu đoàn, đại đội, được trang bị từ súng máy cao xạ 12,7 mm, 14,5 mm đến cao xạ 37 mm, 100 mm.

Lực lượng phòng thủ bờ biển cũng có sự phát triển mạnh, bao gồm các đơn vị pháo binh bờ đối biển của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ. Các thôn xã vùng ven biển tổ chức thêm nhiều đội tuần tra và tăng cường hoạt động nhằm nhanh chóng phát hiện, đập tan sự đột nhập, phá hoại của lực lượng biệt kích, thám báo thâm nhập từ biển vào bờ.

Các lực lượng vận tải và đảm bảo giao thông như công binh, vận tải quân sự, vận tải nhà nước, vận tải nhân dân...  theo nhịp độ gia tăng của chiến tranh cũng ngày càng lớn mạnh. So với năm 1965, đến năm 1968, số trung đoàn công binh trên miền Bắc tăng gấp 1,2 lần, số tiểu đoàn công binh tăng gấp 2 lần, số đại đội công binh tăng gấp 26 lần. Lực lượng vận tải quân sự của Bộ Quốc phòng và của các quân khu tăng gấp 4 lần. Lực lượng vận tải nhà nước cũng tăng mạnh, trong đó, một bộ phận được huy động làm nhiệm vụ vận tải quân sự. Ngoài ra, lực lượng vận tải nhân dân, với phương tiện và phương thức vận tải thô sơ nhưng rất hiệu quả, cũng nhanh chóng được tăng cường, đặc biệt ở những vùng trọng điểm giao thông.

Toàn bộ lực lượng phòng không, phòng thủ biển và lực lượng vận tải, bảo đảm giao thông trên miền Bắc được bố trí thành thế trận chiến tranh nhân dân vừa tập trung, vừa rộng khắp. Thế trận đó đảm bảo cho quân, dân hậu phương thực hành phương châm chủ động tiến công địch ở mọi nơi mọi lúc và sáng tạo nhiều cách đánh máy bay, tàu chiến địch; nhiều phương thức vận chuyển và đảm bảo mạch máu giao thông mưu trí, táo bạo, hiệu quả, vô hiệu hoá các thủ đoạn đánh phá cũng như nhiều loại vũ khí, khí tài hiện đại của đối phương.

Với quyết tâm cao, lực lượng được tăng cường, cơ cấu tổ chức và bố trí thế trận hợp lý, vũ khí và phương tiện không ngừng được cải tiến, lực lượng phòng không, phòng thủ biển và lực lượng đảm bảo giao thông ba thứ quân thực sự là lực lượng nòng cốt phát động toàn dân tham gia chống chiến tranh phá hoại, bảo vệ hậu phương miền Bắc. Vì vậy ngay từ những ngày đầu và trải suốt bốn năm sau đó, khi lực lượng không quân, hải quân hùng mạnh của Mỹ liên tục “leo thang” đánh phá với quy mô ngày càng mở rộng, với cường độ ngày càng khốc hệt, với những thủ đoạn thường xuyên cải tiến và bằng những bộ vũ khí, khí tài rất hiện đại. . . , lực lượng phòng không, phòng thủ biển và lực lượng vận chuyển, đảm bảo giao thông miền Bắc chẳng những giáng trả đích đáng không quân, hải quân Mỹ, mà còn chi viện kịp thời cho tiền tuyến miền Nam và Lào.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:30:49 pm

Chỉ trong năm 1965, 834 chiếc Thần sấm, Con ma của lực lượng không quân, hải quân Mỹ đã bị bắn hạ trên vùng trời miền Bắc. Năm 1966, nhịp độ và quy mô đánh phá của máy bay, tàu chiến Mỹ tăng lên - kể cả việc máy bay ném bom chiến lược B52 bắt đầu được sử dụng đánh phá miền Bắc, cũng là năm lực lượng phòng không ta đánh thắng giòn giã, hạ 773 chiếc máy bay các loại.

Giữa những ngày cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt ở kháp hai miền Nam, Bắc, trong Lời kêu gọi ngày 17-7-1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định mạnh mẽ ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam:

“Giônxơn và bè lũ phải biết rằng: chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. . . Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!” 1 .

Theo Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân, dân cả nước tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh các hoạt động tiến công quân địch.

Trên mặt trận chống chiến tranh phá hoại, cuộc chiến đấu diễn ra ngày càng ác liệt. Theo cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara, “các cuộc không kích chống miền Bắc Việt Nam tăng từ 25.000 vụ năm 1965 lên 79.000 vụ năm 1966 và 108.000 vụ năm 1967, và số lượng bom đạn ném xuống đây tăng từ 63.000 tấn lên 136.000 tấn, rồi 226.000 tấn” 2.

Bom đạn Mỹ đã gây ra cho miền Bắc những tổn thất to lớn về người và của. Cơ quan phân tích Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) ước tính, chiến dịch Sấm rền của không quân Mỹ đã sát hại 13.000 người miền Bắc trong năm 1965, 24.000 người trong năm 1966, và khoảng 29.000 người trong năm 1967; phần lớn trong số đó là dân thường. Hầu hết hệ thống  giao thông, cầu đường, nhà ga, kho tàng bệnh viện; nhiều cơ sở kinh tế, công trình công cộng, hệ thống thuỷ sợi. . . bị đánh đi đánh lại nhiều lần, trong đó có 391 trường học, 92 cơ sở y tế 149 nhà thờ, 79 ngôi chùa, 25 trong số 30 thị xã và 3 trong 5 thành phố trên miền Bắc bị phá huỷ.

Trong lửa đạn chiến tranh, miền Bắc vẫn bền lòng vững chí. Kiên quyết trừng trị đích đáng các hành động leo thang chiến tranh của Mỹ, ngày 20-3- 1967, pháo binh ta ở bờ bắc sông Bến Hải bắn phá mãnh liệt căn cứ quân sự Dốc Miếu ở bờ nam, cùng với pháo mang vác ở bờ nam phối hợp bắn vào điểm cao 241, Cồn Tiên, loại khỏi vòng chiến đấu 1.000 tên Mỹ, phá huỷ, phá hỏng 17 đại bác, 57 xe quân sự, 5 máy bay lên thẳng. 

Năm 1967, lưới lửa phòng không miền Bắc tiếp tục cánh trả quyết liệt các bước leo thang của không quân Mỹ, bắn hạ hơn 1.000 máy bay, bảo vệ vững chắc nhiều khu vực mục tiêu trọng yếu. Trong năm này, ngoài việc tập trung đánh cắt toàn bộ hệ thống giao thông’ và các hệ thống mục tiêu quân sự kinh tế như sân bay, các trận địa phòng không, công nghiệp, điện lực, kho dự trữ nhiên liệu..., địch còn mở các đợt  đánh phá dữ dội nhằm vào Hà Nội, Hải Phòng trong tháng 4, tháng 5, tháng 8, tháng 9, tháng 10.

Phán đoán chính xác âm mưu, thủ đoạn đánh phá của địch lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ bầu trời Hà Nội, Hải Phòng, đã chiến đấu dũng cảm, bắn rơi nhiều máy bay, bắt sống nhiều giặc lái.  Đặc biệt, từ ngày 24 đến ngày 28- 10-1967, gần 500 lần chiếc máy bay Mỹ luân phiên đánh phá các khu vực mục tiêu nội, ngoại thành Hà Nội. Đây là đợt đánh phá vào Hà Nội lần thứ năm và là đợt sử dụng lực lượng không quân lớn nhất của Mỹ kể từ khi cuộc chiến tranh phá hoại bắt đầu.

Lực lượng phòng không bảo vệ vùng trời Hà Nội lúc này thường xuyên có tới 22 đến 26 tiểu đoàn hoả lực gồm pháo cao xạ, tên lửa phòng không. Ngoài ra, tham gia đánh địch còn có các tổ đội súng máy của dân quân, tự vệ. Nhiều nơi, dân quân, tự vệ bố trí trận địa đánh máy bay trên các toà nhà cao tầng của Thủ đô Với quyết tâm cao, dựa vào thế trận được chuẩn bị từ trước, lực lượng phòng không ta đã đánh trả hiệu quả, bắn hạ 45 chiếc, bắt sống nhiều giặc lái. Chiến thắng trên vùng trời Hà Nội, Hải Phòng có ý nghĩa quan trọng. Chiến thắng đó làm thất bại âm mưu gây sức ép tối đa hòng uy hiếp tinh thần kháng chiến của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ở miền Bắc, buộc miền Bắc phải ngừng chi viện cho cách mạng miền Nam.


___________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.108.
2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ..., Tlđd, t.2, tr.185.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:42:18 pm

Từ tháng 4- 1968, khi buộc phải ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, không quân, hải quân Mỹ tập trung đánh phá dữ dội mang tính huỷ diệt vùng tuyến lửa Khu IV từ Thanh Hoá trở vào nhằm ngăn chặn đến mức cao nhất luồng hàng chuyển vận từ Bắc vào Nam. Trung bình mỗi ngày, máy bay địch xuất kích 300 đến 350 lần chiếc. Trong 7 tháng từ tháng 4 đến tháng 10- 1968) mảnh đất Khu IV đã phải chịu số trận ném bom tăng 2,6 lần, với mật độ bom đạn tăng 20 lần so với toàn bộ số bom .đạn Mỹ sử dụng trong năm 1967. 

Kiên quyết đánh thắng âm mưu ngăn chặn của địch, trong khi sử dụng một bộ phận lực lượng thích hợp bảo vệ các mục tiêu phía bắc vĩ tuyến 20, Bộ Tổng tham mưu đã điều các sơ đoàn phòng không vào đánh địch trên vùng trời Khu IV.  Với lực lượng được tăng cường, bộ đội phòng không đã tổ chức các đợt tác chiến bảo vệ giao thông vận tải với quy mô lớn, tập trung hàng chục trung đoàn pháo cao xạ, tên lửa phòng không. Một bộ phận Không quân nhân dân Việt Nam cũng được lệnh xuất kích đánh máy bay địch trên vùng trời, vùng biển Quân khu 4. Hơn 7 tháng liên tục chiến đấu, lực lượng phòng không trên địa bàn các tỉnh Khu IV đã bắn rơi 425 máy bay của Mỹ.

Suốt những năm chống chiến tranh phá hoại, tại nhiều địa phương khác trên miền Bắc, lực lượng phòng không ba thứ quân chiến đấu ngày càng hiệu quả, bắn rơi hàng trăm máy bay. Trong chiến công chung, Trung đội nữ dân quân xã Hoa Lộc (Hậu Lộc, Thanh Hoá) đã bắn rơi một máy bay A.4D ngày 16-6-1967, trở thành đơn vị nữ dân quân đầu tiên trên miền Bắc dùng súng bộ binh bắn rơi máy bay Mỹ. Trung đội lão dân quân xã Hoằng Trường (Hoằng Hoá, Thanh Hoá) đã bắn trúng hai máy bay, nêu tấm gương “tuổi cao chí càng cao” của giới phụ lão miền Bắc. Trước đó, Tiểu đoàn tên lửa 84 thuộc Trung đoàn 283 đã bắn tan xác chiếc B52 đầu tiên trên vùng trời Vĩnh Linh.

Những năm bom đạn, trên mọi miền của hậu phương miền Bắc, xuất hiện biết bao tấm gương sáng chói của các cá nhân và đơn vị anh hùng như đảo Cồn Cỏ, cầu Hàm Rồng, Quân chủng Phòng không - Không quân, Binh chủng Ra đa - Tên lửa, Đại đội nữ pháo binh Ngư Thuỷ (Quảng Bình), đất lúa Thái Bình - quê hương của phong trào “5 tấn”, mẹ Suốt chèo đò đưa bộ đội qua sông trên dòng Nhật Lệ, anh hùng Nguyễn Viết Xuân, Phạm Ngọc Lan, Thái Văn A, Ngô Thị Tuyển. . .

Vừa đánh trả các bước leo thang của không quân Mỹ, quân dân ta đồng thời đối phó với các hoạt động của hải quân Mỹ vùng ven biển miền Bắc. Trong những năm 1965 - 1966, tàu chiến Mỹ liên tục đánh phá các cửa sông, bến cảng, làng mạc, các đảo ven bờ từ vĩ tuyến 20 trở vào. Lực lượng pháo binh bờ biển của ta đánh giỏi, bắn cháy 35 tàu địch, bắn bị thương nhiều chiếc khác.

 Từ tháng 2-1967, địch mở rộng phạm vi đánh phá lên phía bắc vĩ tuyến 20 và tăng cường các hoạt động phong toả các cửa sông, lạch biển, bến phà cũng như các khu vực tiếp nhận hàng hoá từ bên ngoài vào miền Bắc... Trong những năm này, thêm hàng chục lần tàu chiến địch bị trúng đạn của pháo binh bờ đối biển miền Bắc. Năm 1968, địch tập trung một lực lượng pháo hạng mạnh ngày đêm nã đạn vào các tỉnh ven biển Khu IV nhưng cũng chính năm này, thêm 32 tàu địch bị trúng đạn của pháo binh bờ đối biển.

Nhận xét về hiệu lực đánh trả của pháo binh ta, một tờ báo Mỹ viết: “Trong khi đánh nhau với pháo bờ biển miền Bắc Việt Nam, các tàu chiến Mỹ đã gặp phải sự chống trả ngày càng có hiệu lực. Các tàu khu trục và tuần dương phải chạy nhanh qua vùng nguy hiểm để bắn vào mục tiêu trên bờ” 1.

Trên mặt trận giao thông vận tải, ngay từ đầu và suốt những năm chống chiến tranh phá hoại, Đảng, Nhà nước, quân đội đã đề ra một loạt biện pháp lớn nhằm tăng cường khả năng đảm bảo giao thông thông suốt trước sự đánh phá ngăn chặn quyết liệt của máy bay, tàu chiến Mỹ: quyết định thành lập lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước (ngày 21-6-1965); điều động, tăng cường cán bộ cho công tác giao thông vận tải; huy động một lực lượng lớn dân công hoả tuyến phục vụ công tác bảo đảm giao thông; thành lập Ban điều hành giao thông Trung ương (tháng l0-1965) và các ban điều hành, ban đảm bảo giao thông các tỉnh, huyện; sử dụng một bộ phận lực lượng phòng không mạnh đánh địch, bảo đảm giao thông; tăng cường lực lượng vận tải công binh, làm đường, bắc cầu, phà, rà phá bom, mìn nổ chậm...


_________________________________
1. Báo Mỹ Người hướng dẫn khoa học đạo Thiên Chúa, số ra ngày 22-7-1967.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:42:53 pm

Ngoài ra, theo sự thoả thuận giữa Đảng, Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc, từ cuối năm 1965 và 1966, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã cử 5 chi đội (1 chi đội tương đương 1 sư đoàn) công binh và phòng không sang giúp nhân dân ta bảo vệ một số mục tiêu ở các tỉnh biên giới phía bắc, xây dựng, sửa chữa và nâng cấp một số tuyến đường bộ, đường sắt từ biên giới Việt - Trung về Hà Nội. Đảng và Chính phủ Trung Quốc còn viện trợ cho Việt Nam lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng, thuốc chữa bệnh và nhiều vũ khí, khí tài quân sự nhẹ.

Cùng với Trung Quốc, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên cũng cử 442 phi công, thợ máy lần lượt sang giúp Việt Nam chiến đấu, thành lập một Trung đoàn không quân - Trung đoàn 927 bảo vệ các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên. Trong những năm này, ở các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô, Hunggari, Tiệp Khắc, Ba Lan, Cuba, v.v. dấy lên phong trào thanh niên tình nguyện sang giúp Việt Nam đánh Mỹ. Đảng và Chính phủ Liên Xô chẳng những viện trợ vũ khí, khí tài, thiết bị quân sự hiện đại như xe tăng, máy bay, pháo tầm xa, tên lửa, ra đa mà còn cử hàng trăm cố vấn sang giúp nhân dân Việt Nam đánh Mỹ.

Trong khi đó ở trong nước, từ năm 1965, tuyến vận tải chiến lược 559 nhanh chóng được tăng cường về mọi mặt. Ngoài quân số trong biên chế 16.800 người tính đến cuối năm 1965 và tiếp tục tăng trong các năm tiếp theo, đoàn còn được phối thuộc một số trung đoàn, tiểu đoàn công binh, cao xạ và hàng nghìn nam, nữ thanh niên xung phong. Toàn bộ lực lượng này tổ chức thành hai bộ phận, một bộ phận cơ động gồm những đơn vị công binh, pháo phòng không, bộ binh và một bộ phận tại chỗ gồm các binh trạm, đảm nhiệm việc vận chuyển, bảo vệ giao thông, đưa đón bộ đội hành quân trên các cung đường được phân công. . .

Để hoàn thành nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ bộ đội Trường Sơn và lực lượng thanh niên xung phong đã chủ động quy hoạch, xây dựng và mở rộng mạng đường gồm 6 trục dọc, 21 trục ngang, đường vòng tránh, đường nghi binh lừa máy bay địch, các cẩu, bến vượt, bãi trú quân, bãi đậu xe; tổ chức và tăng cường hệ thống binh trạm, khu kho, trạm sửa chữa, bệnh xá, đài quan sát, trạm điều phối giao thông. . . .trên các trục đường.

Với quyết tâm cao, trí thông minh sáng tạo và sức chịu đựng bền bỉ kiên cường, lực lượng bảo đảm giao thông trên miền Bắc và trên tuyến vận tải chiến lược 559 đã vượt qua bao thử thách đầy gian khổ, hy sinh, đêm ngày bám cầu đường, trận địa, trụ vững ở những trọng điểm đánh phá của máy bay, tàu chiến Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông.

Bên cạnh đó, các địa phương trên miền Bắc, đặc biệt là những tỉnh thuộc tuyến lửa Khu IV, đã huy động một bộ phận lớn nhân dân tham gia đảm bảo giao thông, chuyển vận hàng hoá qua các vùng trọng điểm. Những năm tháng ấy, đã có tới 183 triệu lượt người ở miền Bắc đã tham gia đào đắp 35 triệu mét khối đất đá san lấp hố bom. Làng xóm ven các trục đường giao liên và đường ôtô trở thành nơi tạm dừng của bộ đội và thanh niên xung phong trên đường hành quân vào Nam, thành nơi ẩn giấu của những đoàn xe vận tải, nơi tập kết, cất giấu hàng hoá chi viện cho tiền tuyến . . .

Giao thông vận tải những năm chống chiến tranh phá hoại là mặt trận nóng bỏng, nơi diễn ra cuộc đọ sức, đọ lửa, đọ ý chí và trí tuệ giữa quân, dân miền Bắc với vũ khí, sắt thép và bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ.

Trong cuộc đối chọi đó, ỷ vào tiềm lực và sức mạnh quân sự, kinh tế vốn có, phía Mỹ đã sử dụng một lực lượng hùng hậu không quân, hải quân đánh phá, phong toả, ngăn chặn gắt gao bằng nhiều thủ đoạn, nhiều loại vũ khí, bom đạn thường xuyên cải tiến và với cường độ, quy mô ngày càng mở rộng, ngày càng quyết liệt . . . khiến cho toàn bộ hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, cầu cống, bến cảng, bến đậu, khu tập kết hàng hoá... trên miền Bắc và trên tuyến vận tải chiến lược 559 bị uy hiếp, bị hư hỏng, bị tàn phá nặng nề.

Thế nhưng, với nghị lực phi thường, lực lượng đảm bảo giao thông vận tải miền Bắc và trên toàn tuyến 559 bằng quyết tâm “sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng cảm”, “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, đã không quản gian khổ, hy sinh, mở thêm nhiều tuyến đường vòng tránh, hình thành thêm nhiều bến vượt nhiều cầu, phà, bến ngầm dự trữ; cải tạo, sửa chữa, nâng cấp hàng nghìn kilômét đường giao thông nông thôn, xoá dần thế “độc tuyến”, “độc bến”; tích cực cải tiến về phương thức vận chuyển, về tổ chức lực lượng, bố trí thế trận giao thông. . .


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 28 Tháng Sáu, 2009, 11:43:27 pm

Vùng sông, biển, bộ đội, thanh niên xung phong, dân quân, tự vệ thành lập các tổ, đội quan sát, rà phá, tháo gỡ bom, mìn, thuỷ lôi. Họ thực sự là những con người “gan vàng, dạ ngọc”; có mặt tại những địa bàn nóng bỏng, quan sát, đánh dấu điểm bom rơi, phát hiện những quả bom nổ chậm, những bãi mìn hẹn giờ, những bãi thuỷ lôi để kịp thời rà phá, tháo gỡ. Trên mặt trận sông nước nói riêng và trên mặt trận giao thông vận tải nói chung, những năm chống chiến tranh phá hoại, đã ngời sáng biết bao tấm gương anh dũng hy sinh khi đang làm nhiệm vụ.

Đó là Trung đội nữ dân quân công binh do Võ Thị Đơn chỉ huy trụ bám trên xung phong anh hùng ở Ngã ba Đồng Lộc - điểm giao hội của quốc lộ 15 và tỉnh lộ 20, một huyết mạch giao thông sống còn của tuyến vận chuyển chiến lược Bắc - Nam, là Đội thanh niên xung phong 25 trên đường 20 - con đường mang tên “Quyết thắng”, Đại đội thanh niên xung phong 759 Quảng Bình . . . Vừa đánh thắng không quân, hải quân Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông, hậu phương lớn miền Bắc đồng thời vươn lên đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của tiền tuyến lớn miền Nam.

Dựa trên nền tảng của chế độ xã hội mới ưu việt được xây dựng trong 10 năm hoà bình (1954-1964), tiếp tục được củng cố trong khói lửa chiến tranh, Đảng, Nhà nước đã ban hành và chỉ đạo các cấp, các ngành tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, chế độ hợp với điều kiện cụ thể của miền Bắc lúc đó, hợp với lòng dân nên đã phát huy mạnh mẽ sức mạnh và tiềm năng to lớn của nhân dân phục vụ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Nhiều phong trào thi đua yêu nước được dấy lên mạnh mẽ, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các thành phần xã hội tham gia; nhiều địa phương, đơn vị, cá nhân điển hình xuất hiện trên các lĩnh vực sản xuất, công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu đảm bảo giao thông, chi viện chiến trường. . . là biểu thị ý chí, quyết tâm kháng chiến của quân, dân miền Bắc. Dù chiến tranh gây ra những tổn thất nặng nề về người và của, tác động tới toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng. . . nhưng miền Bắc vẫn chứng tỏ trong thực tế là một hậu phương bền vững, được tổ chức chặt chẽ.

Hậu phương đó chẳng những kiên cường trong lửa đạn thà còn vươn lên đáp ứng nhu cầu về người và vật chất cho sự nghiệp kháng chiến trên cả hai miền. Hằng năm, miền Bắc dành 20% tổng sản phẩm lương thực cung cấp cho lực lượng vũ trang, động viên hàng chục vạn con em lên đường chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Nếu năm 1959, miền Bắc chi viện cho cách mạng miền Nam 542 người thì con số đó, tới năm 1964, tăng lên 17.475 người. Trong hai năm 1966, 1967, hơn 36 vạn thanh niên miền Bắc được động viên vào quân đội thường trực, gần 15 vạn cán bộ, chiến sĩ vào Nam chiến đấu, 44.000 người tham gia lực lượng thanh niên xung phong.  Năm 1968, hơn 14 vạn cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc hành quân vào Nam tham gia cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Cũng những năm từ năm 1965 đến năm 1968, miền Bắc đã tổ chức vận chuyển vào Nam khối lượng vật chất lớn gấp 10 lần so với những năm 1961 - 1964.

Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc và cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam của đế quốc Mỹ ngày càng bị thất bại nặng nề, các mục tiêu chiến lược mà phía Mỹ đề ra ban đầu không thực hiện được. Sa lầy ở Việt Nam, nước Mỹ lâm vào cuộc khủng hoảng về chính trị và kinh tế, khủng hoảng về chiến lược quân sự và chính sách đối ngoại. Trong nước, sự phân hoá giữa phái chủ chiến và chủ hoà, giữa các tầng lớp nhân dân với chính quyền liên bang. . . ngày càng gay gắt, tạo nên áp lực chính trị ngày càng tăng đối với chính quyền và đối với cá nhân Tổng thống Mỹ Giônxơn . . .

Trên thế giới, Mỹ ngày càng bị cô lập trong vấn đề Việt Nam. Ngày càng có nhiều tiếng nói phản đối, lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Ngày 1 1-5- 1966, Toà án quốc tế Béctơrăng Rút xen được thành lập. Trong các phiên họp tháng 5-1966 và tháng 11- 1967, với những bằng chứng thực tế, toà án này đã kết luận: Chính phủ Mỹ phạm tội ác xâm lược chống nhân dân Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế. Kết luận đó có ý nghĩa chính trị to lớn, tác động mạnh tới dư luận thế giới, nhất là dư luận ở nước Mỹ và các nước phương Tây. 

Trong những điều kiện đó, để che giấu các hành động chiến tranh xâm lược và những thất bại trên chiến trường, cũng như để làm lạc hướng dư luận, từ năm 1967 trở về trước, song song với các bước leo thang chiến tranh ở cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam, chính quyền Giônxơn đồng thời ráo riết xúc tiến các thủ đoạn ngoại giao - cả công khai và bí mật, hòng ép ta trên thế mạnh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 29 Tháng Sáu, 2009, 12:20:23 am

Thấu hiểu bản chất xâm lược và hiếu chiến của địch, với những kinh nghiệm dạn dày trong đấu tranh ngoại giao, những năm 1965, 1966, 1967, Đảng và Chính phủ ta trong khi kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh quân sự chính trị, đã chủ động tiến công địch về ngoại giao, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn.

Tháng 1-1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) ra nghị quyết mở mặt trận ngoại giao và khẳng định: “Chúng ta tiến công địch về ngoại giao bây giờ là đúng lúc”. Để kéo Mỹ xuống thang, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, Bộ Chính trì Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968.

Trên thực tế, cuộc tổng tiến công và nổi dậy táo bạo này của quân và dân ta đã mở ra một giai đoạn mới - giai đoạn vừa đánh vừa đàm phán mà ở đó chủ trương nhất quán của Đảng ta là kéo Mỹ xuống thang để đánh thắng hoàn toàn ý chí xâm lược của Mỹ.

Nhìn chung lại, qua hơn bốn năm leo thang đánh phá miền Bắc, các mục tiêu chiến lược mà Mỹ đề ra trong cuộc chiến tranh này đã không thực hiện được. Quân, dân miền Bắc vẫn bền tâm, vững chí, đoàn kết chặt chẽ xung quanh Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, vừa sản xuất, vừa chiến đấu và tăng sức chi viện cho chiến trường miền Nam. Hậu phương lớn miền Bắc được bảo vệ vững chắc đã phát huy mạnh mẽ vai trò và tác dụng có ý nghĩa thường xuyên quyết định đối với cuộc chiến đấu của quân, dân ta trên chiến trường miền Nam trong cuộc đương đầu trực tiếp với quân chiến đấu Mỹ.


III- ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ CỦA ĐẾ QUỐC MỸ,
BUỘC CHÚNG PHẢI XUỐNG THANG CHIẾN TRANH (1965-1968)


Sau bốn năm (1961-1964) tiến hành chiến lược chiến tranh đặc biệt, mặc dù đã bỏ ra nhiều tiền của và công sức, thi hành nhiều thủ đoạn và biện pháp, nhưng phía Mỹ vẫn không dập tắt được phong trào cách mạng miền Nam. Ngược lại, trong bốn năm đó, cách mạng miền Nam không ngừng lớn mạnh cả về lực lượng quân sự, chính trị; thế trận chiến tranh nhân dân phát triển trên cả ba vùng chiến lược rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị. . .

Đến mùa Hè năm 1965, chiến tranh đặc biệt được Mỹ đẩy tới đỉnh cao, song, bị quân dân ta ở miền Nam đánh thắng hoàn toàn. Để cứu vãn chính quyền, quân đội Sài Gòn khỏi sụp đổ, chính quyền Mỹ liền đưa quân Mỹ vào miền Nam và thay đổi chiến lược từ chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ, nhằm tiếp tục thực hiện âm mưu xâm lược và thống trị miền Nam bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới.

Tiếp theo việc đưa 2 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ vào Đà Nẵng và mở chiến dịch Sấm rền, ngày 1-4-1965, Tổng thống Mỹ L. Giônxơn quyết định đưa thêm một bộ phận quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam, tăng cường lực lượng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc và xúc tiến việc thăm dò khả năng triển khai quân một số nước đồng minh vào miền Nam . . .

Quyết định này 1 đánh dấu sự thay đổi về chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam: từ chỗ đóng vai trò cố vấn, hậu thuẫn cho chính quyền và quân đội Sài Gòn, Chính quyền Mỹ đã bắt đầu “Mỹ hoá” cuộc chiến tranh.

Để có một tập đoàn tay sai trung thành tuyệt đối với Mỹ, tạo thế ổn định về chính trị ở miền Nam để Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ, ngày 19-6-1965, đế quốc Mỹ ủng hộ nhóm tướng trẻ Thiệu - Kỳ làm cuộc đảo chính lật đổ Nguyễn Khánh, lập chính quyền quân sự ở Sài Gòn.


_________________________________
1. Quyết định ngày 1-4-1965 của Giônxơn được cụ thể hoá bằng 11 biện pháp thực hiện trong Bị vong lục số 328 - NSAM của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ, ngày 6-4-1965; trong đó có bốn biện pháp chủ yếu như sau:
- Tăng thêm 18.000 đến 20.000 quân vào miền Nam.
- Triển khai 2 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ, 1 phi đoàn của lính thuỷ đánh bộ và những bộ phận kết hợp về chỉ huy và hỗ trợ. 
- Thay đổi nhiệm vụ của các đơn vị lính thuỷ đánh bộ đã triển khai ở miền Nam Việt Nam theo hướng sử dụng lực lượng này một cách tích cực hơn.
- Thăm dò khả năng triển khai quân sự của một số nước đồng minh của Mỹ vào miền Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 29 Tháng Sáu, 2009, 12:22:53 am

Ngày 17-7-1965, Tổng thống Mỹ Giônxơn chấp thuận đề nghị tăng số quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam lên 44 tiểu đoàn và chính thức phê chuẩn kế hoạch chiến lược tìm và diệt của tướng W. Oétmolen - Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV). Theo đó, Mỹ sẽ hoàn tất các mục tiêu chiến lược của cuộc chiến tranh cục bộ ở miền  Nam từ hai năm đến hai năm sáu tháng. Kế hoạch này chia làm ba thời kỳ (Périod Time):

- Thời kỳ thứ nhất, từ tháng 7 đến tháng 12-1965, triển khai các đơn vị chiến đấu Mỹ và quân một số nước đồng minh của Mỹ vào miền Nam, ngăn chặn sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn, hoàn thành việc triển khai lực lượng, chuẩn bị cho các cuộc hành quân giành lại thế chủ động chiến trường.

- Thời kỳ thứ hai, từ tháng 1 đến tháng 6-1966, mở cuộc phản công chiến lược tìm và diệt ở không vùng ưu tiên đã được xác định, tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng miền Nam, phá chiến tranh du kích, giành lại quyền chủ động chiến trường, tổ chức các hoạt động bình định nông thôn.

- Thời kỳ thứ ba, từ tháng 7- 1966 đến tháng 6-1967 (hoặc cùng lắm là đến cuối năm 1967), mở tiếp các cuộc tiến công tìm và diệt những đơn vị chủ lực Quân giải phóng còn lại, phá căn cứ kháng chiến và tiêu diệt cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam, hoàn thành về cơ bản kế hoạch bình định nông thôn, rút quân Mỹ về nước.

Theo Bộ Quốc phòng Mỹ, ý nghĩa cơ bản trong chiến lược tìm và diệt là “đưa cuộc chiến tranh đến tận xứ sở của kẻ địch, làm cho kẻ địch không thể tự do đi lại ở bất cứ nơi nào trên đất nước... Và giáng cho kẻ địch những đòn thật nặng nề” 1. Với quyết định trên đây, Tổng thống Mỹ Giônxơn đã đưa nước Mỹ “vượt qua ngưỡng cửa, bước vào cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Á” 2.

Từ đây, cả ba quân chủng hùng hậu của lực lượng quân sự Mỹ là lục quân, không quân, hải quân đóng vai trò quyết định chủ yếu trên chiến trường Việt Nam.  Sau quyết định ngày 17-7-1965, các đơn vị sừng sỏ và  khét tiếng của quân đội Mỹ như Sư đoàn bộ binh số 1 (Anh cả đỏ), Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Sư đoàn dù 101 (thiên thần mũ đỏ), Sư đoàn bộ binh số 25 (Tia chớp nhiệt đới) Sư đoàn bộ binh số 4, Lữ đoàn dù 173, Trung đoàn kỵ binh thiết giáp số 11 . . . cùng một khối lượng lớn vũ khí, thiết bị chiến trường đổ vào miền Nam...

Chỉ một thời gian ngắn (trong vòng 8 tháng), Mỹ đã hoàn thành việc đưa 20 vạn quân Mỹ với vũ khí, trang bị hiện đại vào miền Nam và triển khai trên các vị trí có tầm quan trọng chiến lược, sẵn sàng mở các cuộc hành quân tìm và diệt. Nhóm Nghiên cứu đặc biệt do tướng Uy lơ - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ đứng đầu, bảo đảm với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara và Tổng thống Mỹ Giônxơn rằng: “Không có lý do gì chúng ta lại không thể thắng, nếu đó là quyết tâm của chúng ta” 3.

Quả thật, niềm tin của giới lãnh đạo cao cấp Mỹ về thắng lợi nhanh chóng, dễ dàng khi đưa quân vào chiến trường miền Nam Việt Nam dựa trên những nền tảng vững chắc vốn có của nước Mỹ về tiềm lực và sức mạnh kinh tế quân sự khổng lồ; về “truyền thống ‘ chưa hề bại trận khi đưa quân ra ngoài biên giới tham chiến; về sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Quốc hội Mỹ khi chính Quốc hội thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, một “bản tuyên chiến đề trước ngày” mở đường cho chính quyền Giônxơn ném hàng vạn con em Mỹ vào chiến trường Việt Nam.

Khi quyết định đưa quân vào Việt Nam, nền kinh tế nước Mỹ liên tục tăng trưởng, quân đội được huấn luyện tốt nhất và được trang bị những vũ khí, phương tiện chiến tranh rất hiện đại. . . Vả lại, đến lúc này, mâu thuẫn Xô - Trung chẳng những không được khắc phục mà ngày càng gay gắt đã làm rạn nứt khối đoàn kết các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đế quốc Mỹ nhận thấy đây là thời cơ rất quan trọng cần phải lợi dụng để đưa quân Mỹ vào Việt Nam . . . 

Bối cảnh trên đây cho thấy cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang đứng trước bước ngoặt mới, phải đối diện với một tình thế rất hiểm nghèo. Toàn thế giới dõi theo tình hình đang diễn biến ngày càng căng thẳng ở Việt Nam với sự lo lắng, rằng liệu Việt Nam - đất nước nhỏ bé, thua kém Mỹ nhiều lần về tiềm lực, sức mạnh kinh tế, quân sự, có đương đầu nổi với cỗ máy quân sự khổng lồ và rất hung hãn của Mỹ không? Và liệu cuộc chiến tranh này có được kiểm soát hay lan nhanh ra khu vực hoặc trở thành chiến tranh thế giới? Ngay cả trong một bộ phận cán bộ, nhân dân ta ngày ấy cũng xuất hiện sự lo lắng, băn khoăn khi các đơn vị quân Mỹ ồ ạt đổ vào miền Nam và máy bay Mỹ ngày đêm gầm rít trên bầu trời miền Bắc...


_________________________________
1, 2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ..., Tlđd, t.2, tr.137,136.
3. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ..., Tlđd, t.2, tr.153.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 29 Tháng Sáu, 2009, 12:24:16 am

Ngay sau chiến lược chiến tranh đặc biệt ở miền Nam bị quân, dân ta đánh bại, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lường tính tới khả năng Mỹ sẽ leo thang chiến tranh, đưa quân Mỹ vào tham chiến, đã chủ động chỉ đạo chuẩn bị phương án sẵn sàng đối phó với tình huống này, mà Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), tháng 3- 1965 là một minh chứng về sự chủ động, sáng tạo và kiên quyết của Đảng ta.

Tiếp theo, ngày 20-7-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi khẳng định quyết tâm sắt đá của đồng bào, chiến sĩ cả nước: “Dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn” 1

Thực hiện phương hướng, nhiệm vụ mà Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ ra và Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền Bắc chuyển nhanh mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến, tăng cường lực lượng vũ trang. Tại miền Nam, các chiến trường, các địa phương lược lệnh gấp rút tăng cường lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân, khẩn trương tìm hiểu khả năng thực tế của quân Mỹ, bằng những trận phủ đầu. Qua đó, xây dựng cách đánh Mỹ và thắng Mỹ. 

Sau khi đổ bộ lên bãi biển Chu Lai, ngày 29-4-1965, Tiểu đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ thực hiện nhiệm vụ mở rộng khu vực tuần tra trinh sát bảo đảm an ninh quanh căn cứ Chu Lai đã càn quét vào xã Bình Đông, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Các chiến sĩ đặc công, trinh sát Quân khu 5 và du kích xã chặn đánh quyết liệt, diệt hơn 70 tên Mỹ, bắn rơi 1 máy bay trực thăng, bắn đứt xích một xe tăng M48. Đây là trận đánh Mỹ đầu tiên của quân và dân ta ở miền Nam. Tuy trận đánh quy mô nhỏ, nhưng các nhà quân sự, các học giả Mỹ đã liệt nó vào “những trận đánh quyết định” trong cuộc chiến tranh Việt Nam, vì đó là trận đánh dấu mốc “quân chủ lực Mỹ bắt đầu tham chiến”.

Tiếp theo, ngày 16-5- 1965, tại miền Đông Nam Bộ, ta tập kích sân bay Biên Hoà. Địch thú nhận trong trận này, 15 máy bay bị phá huỷ, 25 chiếc khác bị hư hại nặng, 21 lính Mỹ bị chết và 64 lính khác bị thương.

Hai trận đánh ngày 29-4 và ngày 16-5 thể hiện tinh thần dũng cảm, sáng tạo, dám đánh của lực lượng vũ trang giải phóng. Tuy vậy, ta vẫn chưa tìm được cách đánh Mỹ hữu hiệu.  Ngày 26-5-1965, Đại đội 2, Tiểu đoàn 70 lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Quảng Nam chủ động tập kích một đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ trên Núi Thành - điểm cao khống chế phía tây căn cứ Chu Lai, thuộc xã Kỳ Liên, huyện Tam Kỳ (nay là xã Tam Nghĩa, huyện Núi Thành), loại khỏi vòng chiến đấu 140 tên địch, thu toàn bộ vũ khí và đồ quân dụng. . .

Trận Núi Thành có ý nghĩa là trận tìm được cách đánh Mỹ đầu tiên “tìm Mỹ mà diệt, gặp Mỹ là đánh”. Nó là kinh nghiệm đánh Mỹ quý báu của quân, dân ta ở miền Nam.  Ngày 18-8- 1965, tại thôn nhỏ Vạn Tường thuộc xã Bình Hải, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, cách căn cứ Chu Lai 17 km về phía đông nam, Trung đoàn 1 chủ lực Quân khu 5, Đại đội 21 bộ đội địa phương, dân quân, du kích đã đánh thắng cuộc tiến công tìm diệt mang tên ánh sáng sao (Starlite) của Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 900 tên, bắn cháy 22 xe tăng, xe bọc thép và 13 máy bay.

Trong trận này, quân Mỹ hoàn toàn chủ động lựa chọn chiến trường tác chiến ven biển phù hợp với khả năng, sở trường của lính thuỷ đánh bộ, lại thuận lợi cho việc sử dụng hoả lực phối hợp của không quân, hải quân, xe tăng, pháo binh. Nhưng từ chủ động tiến công, quân Mỹ buộc phải chuyển sang bị động và cuối cùng chúng bị thua.

Qua trận Vạn Tường có thể khẳng định Việt Nam có khả năng đánh thắng được Mỹ, nó xua tan nỗi băn khoăn trước đây là liệu ta có đánh được Mỹ không? Và đánh Mỹ bằng cách nào?  Sau trận Vạn Tường, nhiều trận đánh phủ đầu quân viễn chinh Mỹ diễn ra liên tục ở Khu V, Trị - Thiên, Đông Nam Bộ, nhưng nổi bật nhất là chiến dịch Plâyme - Tây Nguyên - khai triển từ ngày 19-10 đến ngày 20-1 1-1965.

Trong quãng thời gian đó có các trận kịch chiến giữa Quân giải phóng Tây Nguyên với Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ trong các ngày 17, 18, 19, tại thung lũng Ya Trăng, dưới chân núi Chư Ông. Quân giải phóng Tây Nguyên đã đánh bại cuộc hành quân Lưỡi lê bạc của Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ, diệt 1.700 tên Mỹ, diệt gọn 1 tiểu đoàn Mỹ. Phía Mỹ thú nhận trong trận này quân Mỹ chết 300 tên và số bị thương gấp 3-4 lần số chết. Trung tướng H. Moore, nguyên là Tiểu đoàn trưởng chỉ huy trận Ya Trăng cho rằng: “Đây là trận đánh làm thay đổi cuộc chiến tranh Việt Nam”.


____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.470.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 29 Tháng Sáu, 2009, 12:26:17 am
Có thể nói, chiến thắng Plâyme bước đầu định đoạt số phận của chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của đế quốc Mỹ, mở ra tiền đề đánh thắng chiến lược chiến tranh cục bộ của chúng.  Chiến thắng Plâyme biểu hiện sự mưu trí của Bộ Chỉ huy điều hành chiến dịch và sức tiến công mãnh liệt của bộ đội ta 1 khiến kẻ thù kinh sợ.

Trận thắng này đã giáng đòn quyết liệt vào uy thế quân Mỹ, làm lung lay lý thuyết mới về chiến tranh bằng máy bay lên thẳng của Mỹ khi nó vừa được áp dụng lần đầu tiên vào chiến trường Việt Nam, làm cho một bộ phận trong giới lãnh đạo cao cấp Mỹ bắt đầu nản lòng.

Sự nản lòng đó được biểu hiện rõ nhất ở lời tuyên bố với giới báo chí của Mắc Namara sau khi ông ta nghe báo cáo trực tiếp về trận Ya Trăng, rằng: “Cuộc chiến tranh mà Mỹ theo đuổi ở Việt Nam sẽ là cuộc chiến tranh lâu dài” 2. Điều này là hoàn toàn trái ngược với tính toán và kế hoạch chiến lược ban đầu của Mỹ. 

Chiến dịch Plâyme bang diễn ra, tại Nam Bộ, lực lượng vũ trang ta diệt và bức rút 16 vị trí địch ở Gò Công, Tân An, Chợ Lớn. Ngày 8- 11- 1965, chủ lực Miền tiến công Lữ đoàn dù 173 nổi danh thiện chiến của Mỹ ở Đất Cuốc - cách Biên Hoà 30 âm về phía bắc. Ngày 12-1 1-1965, Lữ đoàn 2, Sơ đoàn bộ binh số 1 Anh cả đỏ Mỹ bị chủ lực Miền tiến công tại Bầu Bàng. Tám ngày sau đó, quân ta phục kích quân Mỹ tại Cẩm Xe. . .

Các trận đánh này của Quân giải phóng miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên Mỹ, phá huỷ, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Đặc biệt trong tháng 12, ở Khu V, bộ đội chủ lực quân khu đánh chiếm quận ly Hiệp Đức, bao vây cứ điểm Việt An: Quân nguy bị diệt, quân Mỹ buộc phải nhảy vào cứu nguy.

Ngày 9-12, 5 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đổ quang An Lý, Cầu La, La Ngà, Chiêm Sơn. Trung đoàn 1 (Ba Gia) chủ lực quân khu tổ chức các trận địa phục kích từ chợ Cẩm Khê đi Quán Rường. 11 giờ ngày 18- 12, quân Mỹ lọt vào trận địa phục kích của ta. Bộ đội ta nổ súng đánh tan đội hình hành quân của địch, diệt hàng trăm tên Mỹ. Bọn Mỹ sống sót tháo chạy, bộ đội ta được lệnh bám sát Mỹ mà diệt, để tránh thương vong do phi pháo địch.

Sau trận này, đồng chí Lê Hữu Trữ, chỉ huy chiến dịch, tổng kết thành khẩu hiệu hành động “Bám thắt lưng Mỹ mà đánh”. Ta lại tìm ra một cách đánh Mỹ hữu hiệu. Với khẩu hiệu “Tìm Mỹ mà đánh, gặp Mỹ là diệt” trong trận Núi Thành, “Bám thắt lưng Mỹ mà đánh” trong trận Việt An, “Nhằm thẳng quân thù mà bắn” trong trận chiến đấu phòng không ở Cha Lo, đến 10 kinh nghiệm đánh Mỹ của Củ Chi, quân, dân ta đã tìm và hoàn thiện cách đánh Mỹ, nó không chỉ có giá trị chiến thuật mà vượt lên trên đó mang ý nghĩa chiến lược.

Cùng thời gian trên đây, ở nhiều địa phương khác, quân dân miền Nam đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và binh vận. Xung quanh hệ thống căn cứ quân sự Mỹ như Đà Nẵng, Chu Lai, An Khê . . . , những làng xã chiến đấu của ta xuất hiện trong những năm chiến tranh đặc biệt, được tổ chức lại thành các “vành đai du kích diệt Mỹ”.

Đây là thế trận chiến tranh nhân dân độc đáo, một hình thức tiến công địch sáng tạo - tiến công tại căn cứ xuất phát hành quân của các đơn vị quân Mỹ. Trên miền Bắc, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ không uy hiếp được tinh thần kháng chiến của người hậu phương, không ngăn được luồng chi viện đang ngày càng tăng lên từ miền Bắc vào miền Nam.

Tháng 12-1965, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họp dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị nhận định: “Ngày nay, mặc dầu đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn.  Tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở nên gay go, ác hệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có đủ lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch” 3.


________________________________
1. Tại thung lũng Ya Trăng, đã diễn ra cuộc giao tranh đẫm máu theo kiểu giáp lá cà. Trong nguy khốn, địch sử dụng cả máy bay ném bom B52 rải thảm, dùng xăng đặc đốt trụi các cánh rừng và dùng pháo hạng nặng bắn tới 4.000 quả đạn để yểm trợ cho quân Mỹ hoặc để phi tang xác đồng bọn. 
2. Harold G. Moore - Joseph L. Galloway: Đã một thời chúng tôi là lính... và trẻ trung, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam dịch và ấn hành, Hà Nội, 1993, tr. 395.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd.  T. 26, tr. 633.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 29 Tháng Sáu, 2009, 12:28:14 am
Với niềm tin lớn lao vào sức mạnh toàn dân tộc, hội nghị quyết định: “Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đê quốc Mỹ trong bất   kỳ tình huống lào đê bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước, tiên tới thực hiện hoà bình thông nhất nước nhà...  Kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trên chiến trường chính miền Nam” 1.

Về phương châm chỉ đạo chiến lược Hội nghị chủ trương: “Trong hoàn cảnh cụ thể hiện nay, trên cơ sở tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, chúng ta cần cố gắng đền cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền đề tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết đinh trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam” 2 .

Để đạt được mục tiêu trên đây, Ban Chấp hành Trung ương nêu rõ: “Cần nắm vững phương châm dựa vào sức mình là chính, nhưng đồng thời chúng ta hết sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và viện trợ quắc tê, vì đó là một nhân tố quan trọng góp phần quyết định vào thắng lợi của nhân dân ta” 3

Nhiệm vụ của nhân dân miền Bắc được Hội nghị Trung ương lần thứ 12 xác định: “Vừa sản xuất, vừa chiến đấu để bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, động viên sức người, sức của tăng cường chi viện miền Nam, ra sức giúp đỡ cách mạng Lào, đồng thời tích cực đánh thắng địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước ta” 4.
 
Triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, về quân sự, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo các chiến trường nắm vững tư tưởng chiến lược tiên công, chủ động bám sát địch, kết hợp tác chiến của ba thứ quân, dùng hình thức tiến công và phản công để làm thất bại các cuộc hành quân tìm diệt chia quân Mỹ, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị và phong trào chống phá địch bình định.

Tiếp đó tháng 2- 1966, quân uỷ Trung ương xác định vùng rừng núi, mà trọng điểm là Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, là chiến trường tiêu diệt chủ lực địch; đồng thời đẩy mạnh tác chiến ở chiến trường Khu V, làm chuyển biến chiến trường Trị - Thiên thành hướng chiến lược quan trọng, đẩy mạnh chiến tranh du kích và đánh vận động nhỏ ở chiến trường Khu VIII Khu IX.

Trong lúc quân dân ta gấp rút chuẩn bị mọi mặt theo phương hướng, nhiệm vụ mà Trung ương Đảng, Quân uỷ Trung ương đã xác định, thì ở miền Nam, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) cũng đang ráo riết chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966.

Cuối năm 1965, hơn 20 vạn quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ (trong đó có 184.314 lính Mỹ) đã được đưa vào miền Nam và triển khai xong ở các địa bàn chiến lược. Đầu năm 1966, chúng lại đưa thêm một số trung đoàn, lữ đoàn, một sở chỉ huy sư đoàn cùng Tập đoàn Không quân số 7 vào miền Nam. Toàn bộ quân Mỹ, quân Sài Gòn, quân một số nước đồng minh của Mỹ đã hợp thành đội quân 72 vạn tên. Địch sử dụng lực lượng mạnh đánh trên năm hướng thuộc hai chiến trường trọng điểm là miền Đông Nam Bộ và Khu V:

- Hướng thứ nhất, tây bắc Sài Gòn, gồm Củ Chi, Bến Cát, Chiến khu Đ, Chiến khu Dương Minh Châu (còn gọi là Chiến khu C). Trên hướng này, địch nhằm tìm diệt Sư đoàn 9 chủ lực Miền, phá căn cứ kháng chiến...

- Hướng thứ hai, đông Sài Gòn, từ sông Đồng Nai đến Bà Rịa: Trên hướng này, địch nhằm bảo vệ đường 15, sông Lòng Tàu, căn cứ quân sự Biên Hoà . . .

- Hướng thứ ba, nam Phú Yên.

- Hướng thứ tư, bắc Bình Định.

- Hướng thứ năm, nam Quảng Ngãi.


___________________________________
1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr. 634-635, 637-638, 640, 643-644.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 29 Tháng Sáu, 2009, 12:31:37 am

Ba hướng phản công sau, thuộc địa bàn Khu V, địch nhằm tìm diệt các Sư đoàn 3, Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu V, bảo đảm an ninh cho hệ thống căn cứ quân sự Mỹ dọc theo bờ biển miền Trung và quốc lộ 1 , hỗ trợ việc bình định đồng bằng đông dân Khu V.

Ngoài năm hướng trên đây, địch còn mở nhiều cuộc hành quân càn quét, hành quân bình định khắp các địa phương miền Nam. Hỗ trợ cho nỗ lực quân sự trên chiến trường, không quân, hải quân Mỹ gia tăng cường độ đánh phá miền Bắc Việt Nam.

Với binh lực hùng hậu, sử dụng các thành tựu khoa học quân sự tiên tiến mà Mỹ mới đạt được trong thập kỷ 60 của thế kỷ XX, giới lãnh đạo Oasinhtơn và Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn tin chắc sẽ nhanh chóng đè bẹp được đồi phương. 

Ngày 8-1-1966, quân Mỹ và chư hầu chính thức mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất đánh ra miền Đông Nam Bộ, mở đầu là cuộc hành quân Marôđơ của Lữ đoàn dù 173 đánh vào Bầu Trai, Hậu Nghĩa; Sư đoàn Anh cả đỏ, 2 trung đoàn thiết giáp và quân lục đánh vào Củ Chi, Bến Cát. Đầu tháng 2, quân Mỹ tiến xuống phía đông Sài Gòn và Chiến khu Dương Minh Châu.

Đến ngày 19-1-1966, quân Mỹ đánh ra nam tỉnh Phú Yên mở đầu cuộc phản công Khu V. Ngày 28-1-1966, địch sử dụng 20.000 quân, gồm Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Sư đoàn Mãnh hổ Nam Triều Tiên và quân nguỵ Sài Gòn đánh bắc Bình Định, trọng điểm là khu vực chợ Cát.

Ở Phú Yên, Lữ đoàn 1, Sư đoàn dù 101 Mỹ, Lữ đoàn Rồng xanh Nam Triều Tiên đánh phá khu vực đèo Cả, Hảo Sơn, yểm trợ cho hướng bắc Bình Định của quân Mỹ. ở nam Quảng Ngãi, địch sử dụng 5 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ, 5 tiểu đoàn quân cộng hoà mở cuộc hành quân Diều hâu đôi (Double Aighle) đánh vào Đức Phổ, Ba Tư, Mộ Đức. 

Về phía ta, trong khi chỉ đạo quân, dân các chiến trường, các địa phương đẩy mạnh tiến công quân địch, lãnh đạo, chỉ huy các cấp và bộ đội ta bám sát diễn biến tình hình, vận dụng 6 phương thức tác chiến chiến lược do Quân uỷ Trung ương đề ra, chặn đánh quyết liệt các hướng phản công của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Qua cuộc chiến đấu đánh thắng cuộc hành quân Grimg của quân Mỹ, quân, dân Củ Chi đúc rút được 10 bài học và kinh nghiệm đánh Mỹ và thắng Mỹ mà Đại hội dũng sĩ diệt Mỹ do Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn tổ chức ngày 7-2-1966 kịp thời phổ biến cho các chiến trường 1. . .
 
Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng và phát triển trong những năm đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt, vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm các phương thức tác chiến chiến lược, kết hợp chặt chẽ các cách đánh kết hợp tiến công quân sự và đấu tranh chính trị, binh vận, quân và dân ta liên tục phản công và tiến công bẻ gãy nhiều cuộc hành quân tìm và diệt của quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ.

Phối hợp với các cuộc tiến công của bộ đội chủ lực trên hướng chính, các đơn vị đặc công, biệt động, đơn vị pháo cối chuyên trách, lực lượng du kích vành đai diệt Mỹ. . . đã đánh vào các căn cứ xuất phát hành quân, cơ quan đầu não chỉ huy trong thành phố, thị xã; đánh vào hệ thống kho tàng, sân bay, bến cảng, các tuyến giao thông huyết mạch. . . của địch.


__________________________________
1. Nội dung cơ bản của 10 bài học của quân, dân Củ Chi:
- Ai cũng đánh được Mỹ.
- Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ.
- Nhiều cũng đánh, ít cũng đánh, một người, một tổ cũng đánh được.
- Ở đâu cũng đánh được Mỹ.
- Lúc nào cũng đánh được Mỹ.
- Địch phản công là cơ hội tốt để tiêu diệt chúng.
- Đánh phía trước, đánh trong hậu cứ địch, đánh đều khắp...
- Đánh cả làng, xã, ấp chiến đấu và ngoài xã, ấp chiến đấu; chỉ cần quyết tâm tìm Mỹ mà đánh, tìm Mỹ mà diệt. 
- Có khả năng thắng tất cả mọi binh chủng của Mỹ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 29 Tháng Sáu, 2009, 12:33:31 am

Những khu vực địch tập trung- đánh phá ác liệt như vùng ven Sài Gòn, Củ Chi, Bến Cát lực lượng vũ trang ta vẫn trụ bám kiên cường, tổ chức các cuộc tiến công vào quân địch hành quân hoặc trú đóng.  Bằng cách đánh táo bạo, dũng cảm và thiên biến vạn hoá trên đây, nhân dân và lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã đánh thiệt hại Sư đoàn 1, Sư đoàn 25 bộ binh và Lữ đoàn dù 173 của Mỹ và quân đội Sài Gòn ở Củ Chi, Bến Cát, Nhà Đỏ - Bông Trang, Võ Xu, Bình Tuy, Dốc Bà Nghĩa, tỉnh lộ 16, Núi Lá... Chủ lực Quân khu 5 tiến công địch ở tây Sơn Tịnh bắc Quảng Ngãi), đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Đông Giáp . . .

Như vậy là gọng kìm tìm diệt đã bị bẻ gãy. Còn mục tiêu bình định nông thôn do quân đội Sài Gòn đảm nhận trong cuộc phản công lần thứ nhất cũng không sáng sủa gì. Kết hợp chặt chẽ phương châm đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đánh địch bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận), quân và dân ta đã phá vỡ kế hoạch bình định 900 ấp, củng cố 1.900 ấp trong năm 1966 do Tổng thống Mỹ Giônxơn và Nguyễn Văn Thiệu vạch ra tại Hội nghị Hônôlulu tháng 4-1965.

Đến tháng 6-1966, quân và dân ta ở Nam Bộ đã phá sạch 2.668 ấp chiến lược. Ở Khu VI, ta phá 238 ấp trong tổng số 360 ấp địch xây dựng, giải phóng 203.345 dân. Khu V, Tây Nguyên, Trị - Thiên vùng giải phóng mở rộng với 2. 125.000 dân giành quyền làm chủ và 233.000 dân đang trong vùng tranh chấp. 

Như vậy, đến giữa năm 1966, quân Mỹ và chư hầu không tìm diệt được các đơn vị chủ lực Quân giải phóng, không đạt chỉ tiêu bình định các vùng trọng điểm nông thôn miền Nam, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) buộc phải kết thúc cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất sớm hơn dự định. Trong khi đó, mục tiêu ổn dình chính quyền và quân đội Sài Gòn, khai thông các tuyến giao thông chiến lược, giải toả áp lực quanh các thành phố, thị xã, căn cứ quân sự Mỹ. . . cũng bị phá vỡ. Nhiều đô thị lớn của địch như Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng... nhiều tuyến giao thông như quốc lộ 1, đường 15 từ Vũng Tàu đi Biên Hoà... vẫn bị ta gây áp lực.

Thất bại trong cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất là thất bại có ý nghĩa chiến lược đầu tiên của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. .  Nó đã tác động sâu sắc đến nội bộ chính quyền và quân đội Sài Gòn. Từ tháng 3 đến tháng 6-1966, Hội đồng quân sự do Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu ra lệnh cách chức Nguyễn Chánh Thi - Tư lệnh Quân đoàn 1. Nhân việc này, 24 giờ sau khi Thi bị cách chức, sĩ quan và binh lính ủng hộ Thi tại Huế, Đà Nẵng tuyên bố li khai chính quyền Trung ương Sài Gòn .

Sinh viên, học sinh, tăng ni, phật tử. . . ở các thành phố miền Trung xuống đường biểu tình với khẩu hiệu chống Mỹ - Thiệu. Tại Đà Lạt, sinh viên, học sinh bãi khoá, tổ chức biểu tình, kêu gọi đồng bào bãi thị; đoàn biểu tình đã chiếm đài phát thanh, truyền đi các tin tức đấu tranh và phát bản tuyên bố “Việt Nam mười muốn, mười không” (muốn hoà bình, độc lập , tự quyết . . . , không muốn bị đàn áp, bị bóc lột, không muốn làm lính đánh thuê . . .) . Đài này phát liên tục những lời tố cáo Thiệu - Kỳ. Các khẩu hiệu chống Mỹ viết bằng tiếng Anh xuất hiện trên đường phố Huế, Đà Nẵng.  Sư đoàn 1 quân cộng hoà mặc quân phục diễu binh qua các đường phố Huế hô to khẩu hiệu đòi lật đổ Chính phủ của Thiệu.

Phối hợp với phong trào ở Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt và các thành phố khác ở miền Trung, thanh niên, học sinh và đông đảo các tầng lớp nhân dân Sài Gòn tổ chức liền “sáu đêm không ngủ”, thu hút hàng vạn người tham gia mỗi đêm . . . Phong trào đấu tranh này đã lan rộng ra 29 thành phố, thị xã toàn miền Nam, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nỗ lực chiến tranh của Mỹ.

Giữa tháng 6-1966, chính quyền Sài Gòn mới lập lại được quyền kiểm soát ở Huế, Đà Nẵng. Dù vậy, qua sự kiện này, uy thế và hiệu lực của chính quyền, quân đội Sài Gòn đã lại bị tổn thương, sa sút nghiêm trọng. Mâu thuẫn giữa Mỹ và nguỵ quyền Nguyễn Văn Thiệu phát sinh. Oasinhtơn nhận thấy: “Đến giữa năm 1966 tình hình đã trở nên rõ ràng là sức mạnh quân sự của Mỹ không thể nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam” 1.

Như vậy Mỹ không thực hiện được chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh, mà có nguy cơ chiến tranh sẽ kéo dài, Mỹ sẽ bị sa lầy.  Đây là điều Mỹ chưa bao giờ nghĩ tới. Vì nếu chiến tranh kéo   dài sẽ gây bao nhiêu hiểm nguy về quân sự, chính trị, kinh tế, về uy tín của nước Mỹ trước con mắt của thế giới phương Tây, mà Tổng thống đương nhiệm Mỹ không lường hết được.


__________________________________
1. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, t.4, tr.l, bản đánh máy, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 29 Tháng Sáu, 2009, 12:45:02 am

 Đối với miền Bắc Việt Nam, mặc dù đã sử dụng một khối lượng lớn bom đạn, áp dụng nhiều thủ đoạn đánh phá, và chịu nhiều tổn thất về máy bay, người lái, nhưng chiến dịch Sấm rền đã không bẻ gãy được ý chí của quân và dân Thủ đô - Hà Nội, không ngăn chặn được miền Bắc tiếp tế cho miền Nam, chỉ gây ra chết chóc, tàn phá cho người dân, chất chồng cao tội ác của Mỹ chống lại loài người.

Mùa Hè năm 1966, hội nghị chuyên đề bí mật bao gồm một tập thể các nhà khoa học danh tiếng của Mỹ dưới sự đỡ đầu của Chính phủ Mỹ để nghiên cứu toàn bộ kết quả cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, đã đi đến kết luận rằng: “Tính đến tháng 7-1966, các hoạt động ném bom của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam đã không có ảnh hưởng trực tiếp đáng kể nào đến khả năng của Hà Nội trong việc tiến hành và hỗ trợ các hoạt động quân sự ở Nam Việt Nam” 1.

Tình hình đó, cộng với những thất bại của quân Mỹ trên chiến trường miền Nam, khiến cho Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara “phải suy tính lại vai trò của toàn bộ chiến dịch oanh tạc trong cố gắng của Mỹ.  ông rất đau khổ biết rõ tình trạng bất lực của các hoạt động thâm nhập vào Nam và không thấy biểu hiện gì chứng tỏ oanh tạc có khả năng bẻ gãy ý chí của Hà Nội” 2

Những cố gắng chiến tranh của Mỹ trên cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam trong mùa khô 1965-1966 không đạt được mục tiêu dự định là một bất ngờ lớn, một thất bại có ý

Những cố gắng chiến tranh của Mỹ trên cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam trong mùa khô 1965-1966 không đạt được mục tiêu dự định là một bất ngờ lớn, một thất bại có ý nghĩa chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Thất bại đó càng khiến cho phong trào phản đối chiến tranh, phản đối chính quyền tăng nhanh ở Mỹ; khiến cho nhiều quan chức cao cấp Mỹ hoài nghi về chính sách và cách thức tiến hành chiến tranh của chính quyền Giônxơn.  Dù vậy, Mỹ vẫn ráo riết tăng quân và phương tiện chiến tranh, chuẩn bị mở tiếp cuộc phản công chiến lược lần thứ hai trong mùa khô 1966-1967.

Về phía ta, sau thắng lợi mùa khô 1965-1966, theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, quân, dân các chiến trường, các địa phương miền Nam sử dụng một bộ phận lực lượng vũ trang thích hợp, đánh bồi vào quân Mỹ, phá kế hoạch chuẩn bị của chúng; đồng thời tích cực chuẩn bị lực lượng và thế trận đương đầu mới với địch trong cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, mùa khô 1966-1967.

Để đẩy mạnh phong trào cách mạng ở Quảng Trị, Thừa Thiên tiến lên ngang tầm đòi hỏi của tình hình, hỗ trợ tích cực cho phong trào các tỉnh đồng bằng Khu V, Nam Bộ, trực tiếp là vùng đồng bằng Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, tháng 4-1966, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định tách Trị - Thiên ra khỏi Khu V, thành lập Khu uỷ Trị - Thiên, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị.

Căn cứ vào nhiệm vụ của Bộ Chính trị giao cho, Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Quân khu Trị - Thiên đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu uỷ Trị - Thiên.  Tiếp đó, để buộc địch phải bị động về mặt chiến lược, phân tán hơn nữa khối chủ lực cơ động, ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh trên bộ ra nam Quân khu IV, tháng 6- 1966, Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Mặt trận đường 9 –bắc Quảng Trị 3 (Mặt trận B5).

Đây là những quyết định kịp thời, đúng đắn, thể hiện quyết tâm tạo hướng tiến công mới của ta vào nơi yếu của địch trên chiến trường miền Nam, buộc Mỹ phải đưa lực lượng lên chiến trường rừng núi. Ta thực hiện đánh tiêu diệt chiến dịch, chiến lược đối với quân cơ động chiến lược Mỹ - nguỵ bằng lực lượng chủ lực mạnh của ta ở miền Bắc, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường khác tiến công và nổi dậy.

Sau ngày thành lập, một bộ phận chủ lực cơ động miền Bắc được triển khai trên Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị, bắt đầu tiến công vào tuyến phòng thủ tây đường 9, tuyến ngăn chặn địa đầu phía bắc của địch ra Huế, Đà Nẵng bị đe doạ. Tình hình đó buộc Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ phải tăng quân ra hướng Trị - Thiên, đưa tổng số quân Mỹ và quân nguỵ Sài Gòn có mặt trên chiến trường này lên tới 41.900 tên, trong đó có 16.750 binh sĩ Mỹ.



___________________________________
1, 2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ..., Tlđd, t.2, tr.140, 149.
3. Mặt trận này gồm địa bàn ba huyện là Do Linh, Cam Lộ, Hướng Hoá; bắc giáp Vĩnh Linh, Quảng Bình, tây giáp Trung - Hạ Lào, đông giáp biển Đông, nam giáp huyện Hải Lăng, sông Ba Lòng, thị xã Quảng Trị.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 29 Tháng Sáu, 2009, 10:29:43 pm
Trong khi lực lượng địch bị rút ra hướng Trị - Thiên, quân, dân ta trên các chiến trường mở chiến dịch tiến công Bình Long (Nam Bộ), bắc Phú Yên (Khu V), bắc Kon Tum và tây Gia Lai (Tây Nguyên) ; đồng thời chặn đánh quyết liệt các cuộc hành quân của địch ra vùng Tam Quan bình Định), Tuy Hoà (Phú Yên) . . . chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu mùa khô 1966-1967.

Đến tháng 10-1966, khối chủ lực cơ động Quân giải phóng đã lên tới 8 sư đoàn bộ. binh, 1 sư đoàn pháo binh, một số trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh và binh chủng. Về tổ chức chiến trường, ngoài việc thành lập Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị, ta còn tổ chức Đặc khu quân sự rừng Sác (5-1966), thành lập Khu X gồm hai tỉnh Quảng Đức, Phước Long của Khu VI và tỉnh Bình Long của Khu VII . . .

Công tác củng cố tổ chức, biên chế, huấn luyện, đảm bảo vũ khí, trang bị và lương thực, thực phẩm, dự kiến phương án tác chiến, cũng được các chiến trường, các địa phương xúc tiến gấp rút. 

Về phía địch, tháng 10-1966, Giônxơn triệu tập hội nghị khối SEATO nhằm động viên các nước đồng minh châu Á tham gia mạnh mẽ hơn nữa vào chiến tranh Việt Nam. Tháng 11-1966, Bộ Quốc phòng Mỹ quyết định tăng thêm quân vào miền Nam, đạt tới mức 469.000 quân Mỹ vào giữa năm 1968. Không quân, hải quân Mỹ được lệnh tăng cường đánh phá một loạt mục tiêu quân sự, kinh tế trên miền Bắc; ngăn chặn quyết liệt trên tuyến vận tải 559... 

Mùa khô 1966-1967, Mỹ tung vào cuộc phản công chiến lược lần thứ hai một lực lượng lớn bao gồm 20 sư đoàn và 10 lữ đoàn, trung đoàn chủ lực (có 7 sư đoàn và 4 lữ đoàn Mỹ), 4.000 máy bay, 2.500 xe tăng, xe bọc thép, 2.540 khẩu pháo, 500 tàu, thuyền chiến đấu cùng hàng chục vạn tấn bom đạn, chất độc hoá học.

Nếu tính cả số quân nhân Mỹ trên Hạm đội 7, ở các căn cứ quân sự Mỹ tại Thái Lan, Nhật Bản, Philíppin, Guam tham gia chiến tranh Việt Nam, thì tổng cộng quân được sử dụng vào cuộc phản công chiến lược lần này vượt xa số quân tham gia cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, gần 1 triệu 20 vạn quân Mỹ, quân đội Sài Gòn và một số nước đồng minh của Mỹ. Riêng quân Mỹ có 60 vạn. Ngoài ra, Mỹ, chính quyền Sài Gòn còn tung vào cuộc phản công hàng vạn tên tề điệp ác ôn, hàng trăm “đội bình định”…

Với nỗ lực quân sự lớn và bằng những thủ đoạn quân sự, ngoại giao, tâm lý chiến kết hợp, giới cầm quyền Oasinhtơn cũng như giới lãnh đạo quân sự Mỹ hy vọng cuộc phản công chiến lược lần này sẽ giành thắng lợi, làm chuyển biến cục diện chiến trường vào giữa hoặc cuối năm 1967 có lợi cho Mỹ để bước vào năm 1968 - năm bầu cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 1969-1972.

Nhằm mục tiêu đó, nếu mùa khô 1965- 1966, địch đánh ra năm hướng thì giờ đây, toàn bộ nỗ lực quân sự của lực lượng chiến đấu Mỹ hiện có trên chiến trường miền Nam chủ yếu dồn vào một hướng miền Đông Nam Bộ, trọng điểm chiến khu C, D. Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tập trung 7 sư đoàn, 5 lữ đoàn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn, quân một số nước đồng minh mở liền ba cuộc hành quân lớn quy mô cấp quân đoàn.

Ngày 14-9- 1966, địch mở cuộc hành quân áttơnborơ (Atteleboro) với 30.000 quân Mỹ và quân Sài Gòn hòng đánh đòn bất ngờ vào căn cứ Dương Minh Châu, tiêu diệt chủ lực, phá căn cứ, kho tàng của ta.

Phán đoán được ý đồ của địch, Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền quyết định sử dụng Sư đoàn 9, các đơn vị pháo cối, đặc công, bộ đội địa phương, dân quân, du kích Dầu Tiếng, Tây Ninh và tự vệ cơ quan chủ động mở chiến dịch Tây Ninh nhằm đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của địch. Lực lượng ta bố trí sẵn sàng trên những khu vực dự kiến địch sẽ tiến quân, thành thế trận liên hoàn hỗ trợ cho nhau giữa phía trước, phía sau, giữa các thứ quân: chủ lực, địa phương, dân quân, du kích và tự vệ cơ quan...

Dựa trên thế trận đó, lực lượng vùng căn cứ liên tục chặn đánh và tiến công vào đội hình hành quân của các đơn vị Mỹ, bẻ gãy nhiều mũi tiến quân và gây cho chúng nhiều thiệt hại về sinh lực, phương tiện chiến tranh. Sau 72 ngày đêm đối phó với lực lượng vùng căn cứ trong một thế trận bất lợi cho Mỹ, ngày 24- 1 1-1966, Oétmolen phải chấm dứt cuộc hành quân, rút toàn bộ lực lượng còn lại ra khỏi khu vực căn cứ Dương Minh Châu trong khi các mục tiêu đề ra cho cuộc hành quân không thực hiện được.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 29 Tháng Sáu, 2009, 10:30:44 pm

Sau cuộc hành quân này, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ dồn sức mở tiếp cuộc hành quân Xiđa Phôn (Cidar Fall) - cuộc hành quân lớn cấp quân đoàn thứ hai đánh vào vùng tam giác Bến Súc - Củ Chi - Bến Cát là khu vực bàn đạp của ta uy hiếp Sài Gòn từ phía bắc.

Dựa vào hệ thống công sự, địa đạo được cấu trúc vững chắc và hóc hiểm, quân dân Củ Chi, Bến Cát, Trang Bàng đã bám trụ kiên cường, liên tục tổ chức các trận tập kích vào đội hình trú đóng ban đêm của quân Mỹ. Nhân lúc địch đang lo đối phó với lực lượng vũ trang tại chỗ của ta thì chủ lực Quân giải phóng miền Nam phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ của Quân khu Sài Gòn - Gia Định mở các cuộc tiến công vào bên sườn, sau lưng các đơn vị quân Mỹ, gây cho chúng nhiều thiệt hại về sinh mạng và phương tiện chiến tranh.

Sau gần một tháng đánh phá ác liệt (từ ngày 3 đến ngày 26- 1- 1 966) , nhưng địch không tiêu diệt được một đơn vị chủ lực nào của ta, không phá được chiến tranh du kích. Trái lại, lực lượng vũ trang ta trụ bám và dựa vào hệ thống công sự, địa đạo đánh cho quân Mỹ bị tổn thất nặng nề. Ngày 26-1-1966, địch buộc phải chấm dứt cuộc hành quân, dồn 15.000 dân về thị xã Bình Dương. Thành uỷ, Sở Chỉ huy Bộ Tư lệnh Sài Gòn - Gia Định cùng Trung đoàn 16 chủ lực Miền vẫn tiếp tục trụ bám ở vùng “đất thép” Củ Chi.

Tuy bị thất bại liên tiếp trong hai cuộc hành quân tìm diệt, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ vẫn chưa chịu từ bỏ mục tiêu tìm diệt cơ quan đầu não và chủ lực Quân giải phóng miền Nam, tạo nên bước ngoặt có lợi cho Mỹ trong năm 1967. Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ huy động 45.000 quân, 1.200 xe tăng và xe bọc thép, hơn 250 trọng pháo, 17 phi đoàn máy bay mở cuộc hành quân Gianxơn Xi ti (Junction City) - một cuộc hành quân lớn nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam - đánh vào căn cứ Dương Minh Châu.

Căn cứ Dương Minh Châu (chiến khu C) là khu vực rừng núi rộng lớn, thưa dân thuộc tỉnh Tây Ninh. Hình thành trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tiếp tục được củng cố trong kháng chiến chống Mỹ, căn cứ này là nơi đứng chân của Trung ương Cục, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Bộ Chỉ huy Miền để chỉ đạo cuộc kháng chiến, cùng các đơn vị trực thuộc như bệnh viện, đài phát thanh, trường đào tạo, kho tàng. . . Hệ thống cơ quan, kho tàng, bệnh viện, trường học, nhà xưởng... được bố trí dọc theo triền suối cạn, ẩn dưới tán rừng, trong các công sự nửa chìm nửa nổi, nối liền với nhau bằng mạng giao thông hào chằng chịt.

Ngay từ giữa năm 1966, trên cơ sở phán đoán ý đồ của Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ trong cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, Bộ Chỉ huy Miền đã triển khai kế hoạch củng cố bộ đội và tổ chức phòng thủ căn cứ theo phương châm trụ bám đánh địch tại chỗ. Sau khi đánh bại cuộc hành quân Xiđa Phôn, căn cứ Dương Minh Châu được tổ chức thành 13 “huyện”, mỗi “huyện” chia thành từng “ấp”, từng “xã” chiến đấu có hệ thống công sự, trận địa, hầm hào vững chắc và liên hoàn hỗ trợ cho nhau. Lực lượng bộ đội, cán bộ, nhân viên các cơ quan phương huyện và du kích các xã, bám trụ địa bàn, đánh địch tại chỗ, phối hợp với bộ đội chủ lực.

Như vậy, trước khi địch triển khai cuộc hành quân, trong căn cứ Dương Minh Châu đã hình thành ba thứ quân và được bố trí thành thế trận chiến tranh nhân dân liên hoàn, có chiều sâu, chi viện, hỗ trợ cho nhau thuận lợi. Đây là sự vận dụng sáng tạo chiến lược chiến tranh nhân dân trên một địa bàn dân cơ ít và thưa thớt của Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền. 

Ngày 22-2-1967, địch chính thức mở cuộc hành quân Gianxơn Xi ti đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu. Địch đổ quân bao vây kín phía biên giới Campuchia với ý đồ không cho cơ quan đầu não của ta chạy thoát, dùng Sư đoàn 25 và Trung đoàn thiết giáp 11 Mỹ từ phía nam căn cứ đánh vào Sóc Ky, Tà Dạt. Nhưng điều làm cho quân Mỹ bất ngờ là khi chúng vừa tiến đến khu vực Sóc Ky, Tà Dạt đã bị lực lượng du kích cơ quan được trang bị súng chống tăng B40 , B41, súng phòng không 12,7 mm, cùng tiểu đoàn thông tin, công binh đánh diệt 36 xe tăng, xe bọc thép và hơn 600 tên Mỹ, bắn rơi 42 máy bay, chặn đứng mũi đột kích hướng chủ yếu của chúng.

Trong khi đó, Sơ đoàn 9 chủ lực Miền sử dụng những phân đội nhỏ liên tục tiến công hai bên sườn, sau lưng đội hình hành quân của địch, diệt một đại đội, một chi đội xe bọc thép, loại khỏi vòng chiến đấu 360 tên. Quân Mỹ buộc phải co cụm ở lộ 1, 4 và 22 chững đỡ bị động. Bị tiến công liên tục ở Bảy Bàu, Ang Khắc, Cà Tum, Bàu Cỏ, Tráng A Lầu, Tà Xia, Bến Ra... quân Mỹ phải rút bỏ cụm chốt Đồng Rùm (11-3), kết thúc giai đoạn một cuộc hành quân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 29 Tháng Sáu, 2009, 10:31:17 pm

Ngày 15-3, địch lật cánh sang hướng đông nhằm bao vây, thọc sâu vào trung tâm căn cứ, mở đầu cho giai đoạn hai cuộc hành quân. Sư đoàn 9 chủ lực Miền bố trì điều chỉnh đội hình, đón đánh địch ở Đồng Rùm, Đồng Pan, Chà Dư, v.v. . Trong các ngày từ ngày 18 đến ngày 20-3, du kích cơ quan, bộ đội địa phương liên tục chặn đánh Lữ đoàn dù 173, Trung đoàn thiết giáp 11 ở Bầu Tràm, Bàu Cột; Lữ đoàn 3 Sơ đoàn 4, Lữ đoàn 1 Sư đoàn 25, Lữ đoàn 2 Sư đoàn Anh cả đỏ ở Đồng Rùm, Đồng Kèn. Sư đoàn 9 tiến công cụm quân Mỹ ở Đồng Rùm , Chà Dư. . .

Ngày 11-4, quân Mỹ rút chạy khỏi Đồng Rùm; ngày 16-4, rút khỏi Đồng Kèn, ngày 10-4, các cụm quân Mỹ ở Tràng Ba Vùng, Bàu Cột tháo chạy, làm cho các cánh quân địch trên toàn tuyến chiến dịch nao núng và tan vỡ. Trước tình hình đó, ngày 13-4, quân Mỹ rút khỏi Sóc Con Trăng. Cuộc phản công của quân Mỹ thực tế đến đây chấm dứt. Nhưng mãi đến ngày 15-5-1967, Oétmolen mới tuyên bố chấm dứt cuộc hành quân. .

Kết quả 83 ngày chiến đấu ròng rã, ta loại khỏi vòng chiến 11.000 tên địch, bắn rơi, phá huỷ 160 máy bay, 992 xe tăng và bọc thép, 112 pháo, cối, tiêu diệt, đánh thiệt hại 8 tiểu đoàn và 11 đại đội Mỹ, 10 chi đoàn xe tăng, xe bọc thép:.. 

Đánh thắng cuộc hành quân Gianxơn Xi ti có ý nghĩa chiến lược to lớn. Đây là cố gắng sử dụng quân Mỹ lớn nhất và cũng là cuối cùng trong cuộc chiến tranh Việt Nam của Lầu Năm Góc, nhưng không thu được kết quả, khiến cho chính quyền Mỹ cảm thấy họ sẽ bị đánh bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Cùng với cuộc hành quân tiến công vào Dương Minh Châu, địch mở liên tục 980 cuộc hành quân quy mô tiểu đoàn, sư đoàn đánh vào các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, ven Sài Gòn - Gia Định, Khu VI, Tây Nguyên, Khu V và Trị - Thiên nhằm hỗ trợ cho kế hoạch bình định và phối hợp với hướng chính Đông Nam Bộ. Song, tất cả những cuộc hành quân trên đều bị quân và dân các địa phương danh thắng, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên Mỹ, nguy, Nam Triều Tiên.

Gọng kìm tìm diệt bị bẻ gãy, chương trình bình dính - gọng kìm thứ hai của cuộc phản công chiến lược lần này của địch cũng bị thất bại nặng nề. Theo kế hoạch, địch dự định trong năm 1967 sẽ bình định 3.500 ấp trên toàn miền, tập trung vào các vùng “ưu tiên quốc gia”. Mục tiêu chủ yếu của chương trình bình định là nhằm triệt phá phần lớn cơ sở cách mạng trong vùng nông thôn để tách lực lượng vũ trang khỏi sự đùm bọc, che chở của nhân dân. Đó là biện pháp mà R.  Cômơ (Robert Komer) - đặc phái viên bình định của Giônxơn, quan niệm như “nhát dao đâm vào tim Việt cộng”.

Để đạt mục tiêu trên, ngoài việc đào tạo gấp rút cán bộ bình định tung xuống nông thôn, Mỹ và chính quyền Sài Gòn còn sử dụng hầu hết toàn bộ quân đội Sài Gòn kết hợp với lực lượng bảo an, dân vệ, cảnh sát. . . mở hàng nghìn cuộc hành quân càn quét, liên tục đánh phá, chà đi xát lại nhiều vùng nông thôn. Không quân và các trận địa pháo của Mỹ dội xuống vùng giải phóng, vùng tranh chấp một khối lượng lớn bom đạn và chất độc để tàn sát dân thường, huỷ hoại mùa màng, nhà cửa, khủng bố tinh thần của nhân dân ta.

Chúng còn dùng những biện pháp bạo lực nhằm cưỡng bức người nông dân phải bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả tổ tiên để vào sống trong các ấp đời mới, ấp tân sinh mà thực chất là biến tướng của mô hình ấp chiến lược thời Ngô Đình Diệm. Bên cạnh đó, trong năm 1967, địch còn triển khai các chương trình kinh tế, chính trị, văn hoá... để hỗ trợ và thúc đẩy công việc bình định tiến triển . . .

Những biện pháp trên đây của địch khiến cho cuộc đấu tranh chống phá bình định của quân, dân ta gặp nhiều khó khăn. Trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ và phức tạp đó, có một bộ phận nông dân, thậm chí cả cán bộ, đảng viên không chịu nổi thiếu thốn, hy sinh... đã bỏ vào vùng địch hoặc ra đầu thú, đầu hàng. Nhưng nhìn chung, quân, dân ta kiên trì phương châm ba bám, đẩy mạnh ba mũi giáp công, chặn đánh quyết liệt các cuộc hành quân càn quét, hành quân bình định của địch, trừng trị đích đáng bọn tề điệp nằm vùng, bọn tay sai ác ôn và các đoàn cán bộ bình định, gây mất ổn dính và vô hiệu hoá chính quyền cơ sở địch ở nhiều nơi, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, vùng làm chủ. . .


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 29 Tháng Sáu, 2009, 10:33:02 pm
Do những cố gắng trên đây, trong mùa khô 1966- 1967, ta giành thêm 390 ấp, xã, nâng tổng số xã, ấp được giải phóng lên 700 xã và 6.750 ấp. Chính quyền Sài Gòn chi còn kiểm soát được 5.400 ấp trong tổng số 16.293 ấp trên toàn miền. Theo đánh giá của phía chính quyền Sài Gòn, chương trình bình định năm 1967 chỉ đạt được 13% so với kế hoạch đề ra ban đầu.

Tại các vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát, khống chế, đặc biệt các đô thị lớn, phong trào đấu tranh chính trị ngày càng phát triển. Năm 1967, tuy không bùng nổ thành cao trào nhưng phong trào đi dần vào chiều sâu, gắn chặt với mục tiêu chung của toàn dân tộc là chống Mỹ và tập đoàn tay sai Thiệu - Kỳ.

Mùa khô 1966-1967, hơn một triệu lượt đồng bào các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long biểu tình chống địch càn quét, bắn pháo, rải chất độc khai quang. . . , hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích phát triển. Trong các thành phố lớn, những tháng đầu và các tháng 7, 8, 9 của năm 1967, học sinh, sinh viên, tăng ni phật tử, công chức, nhà buôn và các tầng lớp xã hội khác tổ chức biểu tình, hội thảo với nội văn hoá dân tộc, chống sự du nhập lối sống Mỹ; đòi Thiệu - Kỳ phải từ chức, đòi chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hoà bình cho xứ sở. . .

Đưa quân chiến đấu vào Việt Nam, Mỹ hy vọng giúp đỡ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn đủ sức tự đứng vững để thực hiện mục tiêu chính trị của chiến lược chiến tranh cục bộ. Thế nhưng, ngược với mong muốn của Mỹ, quân đội và chính quyền đó ngày càng thêm phụ thuộc vào sự có mặt của đội quân viễn chinh, cơ sở xã hội của chính quyền Sài Gòn ở các thành thị và nông thôn bị mất dần. “Những cố gắng ban đầu của Chính phủ Việt Nam cộng hoà nhằm định ra các chương trình bình định và phát triển nông thôn đã thất bại, vì đó là những chương trình đầu đuôi lẫn lộn được vạch ra một cách vụng về” 1.

Thực tế đó khiến nhiều quan chức cao cấp trong Chính phủ Mỹ ngao ngán: “Sự thật không đáng phấn khởi chút nào... Vì, cũng như những năm 1961, 1963, 1965, đến . năm 1967, Mỹ đã không tìm ra được một “công thức” hoặc “chất xúc tác” nào để rèn luyện họ” 2

Đến năm 1967, cuộc chiến tranh cục bộ đã không diễn ra suôn sẻ theo tính toán ban đầu của giới lãnh đạo nước Mỹ.  Ngược lại, việc bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam sau ba năm leo thang chiến tranh đã đặt Mỹ đứng trước tình thế bế tắc cả về chiến lược và chiến thuật trên chiến trường, gây ra cho chính quyền Oasinhtơn một loạt vấn đề nan giải về kinh tế, chính trị, xã hội trong nước.

Chiến tranh kéo dài và chi phí cho cuộc chiến tranh ngày càng tăng đã làm thâm thủng nặng nề ngân sách Chính phủ liên bang - đến năm 1967, con số thâm hụt đó đạt tới 25,3 tỷ đô la. Hệ quả tất yếu là nạn lạm phát tăng nhanh, khiến nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái, giá cả tăng vọt, sản xuất có biểu hiện đình trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, 3,8 triệu lao động Mỹ thất nghiệp hoàn toàn. .

Tình hình đó, cộng với số binh sĩ Mỹ chết trên chiến trường Việt Nam ngày càng gia tăng, đã làm cho xã hội Mỹ bị chia rẽ sâu sắc. Làn sóng biểu tình chống chiến tranh và các hình thức phản đối chính quyền, phản đối chiến tranh ngày một dâng cao. Giới lãnh đạo nước Mỹ và ngay trong nội bộ chính quyền Giônxơn, bị phân hoá thành phe chủ hoà và phe chủ chiến (sách báo Mỹ gọi là phái bồ câu và phái diều hâu).

Đặc biệt, ngày càng nhiều nghị sĩ Quốc hội Mỹ đòi giảm bớt cam kết, hạ thấp các mục tiêu của Mỹ ở Việt Nam, tìm một giải pháp nhằm sớm đưa nước Mỹ thoát khỏi vũng lầy chiến tranh. Xu hướng thay đổi lập trường đó trong Quốc hội Mỹ đang trở thành áp lực chính trị ngày càng tăng đối với chính quyền Mỹ và với cá nhân Tổng thống Giônxơn. 

Đứng trước thái độ của dư luận và sức ép từ phía Quốc hội, nội bộ Chính phủ Mỹ càng thêm phân hoá trong vấn đề chiến tranh Việt Nam. Tháng 4-1967, Oétmolen được Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ hậu thuẫn mạnh mẽ đã chính thức đề nghị Tổng thống Mỹ tăng tiếp quân vào miền Nam theo hai mức 3.


______________________________
1. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh Việt Nam. . . , Tlđd, tr. 12. 
2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam, Tlđd, t.2, tr.180.
3. Mức một, tăng thêm 100.000 quân. Đây là mức mà Oétmolen cho là tối thiểu;
Mức hai, tăng thêm 201.250 quân, đưa tổng số binh lính Mỹ ở miền Nam đạt tới 671.616 người vào giữa năm 1968.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 04 Tháng Bảy, 2009, 12:51:05 pm
Trong khi đó, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ hối thúc Tổng thống Mỹ cho phép mở rộng chiến tranh mặt đất sang Lào, Campuchia và phần đất phía nam của miền Bắc Việt Nam; leo thang đánh phá toàn bộ hệ thống mục tiêu trên miền Bắc và phong toả chặt cảng Hải Phòng; tăng thuế và gọi lực lượng trù bị để bù vào số quân thiếu hụt ở các căn cứ quân sự Mỹ trên khắp thế giới do phải dồn cho chiến trường Việt Nam. Nhưng nếu chấp nhận những yêu cầu trên đây của giới tướng lĩnh thì số phận chính trị của bản thân Tổng thống Mỹ Giônxơn sẽ không còn hy vọng gì trong cuộc bầu cử sắp tới vào năm 1968.

Vì thế, khi toàn bộ các đề nghị trên đây vừa được tiết lộ thì sự bất đồng về quan điểm một cách gay gắt giữa phái quân sự và dân sự trong Chính phủ Giônxơn nổi lên ngay lập tức, đến nỗi các tham mưu trưởng liên quân Mỹ tuyên bố họ sẽ công khai từ chức nếu các đề nghị nói trên của họ bị bác bỏ.  Trước tình hình đó, Giônxơn đành phải chọn con đường mà Tài liệu mật Lầu Năm Góc gọi là “leo thang từng bước” hoặc là “o ép từ từ” hòng dung hoà sự bất đồng trong nội bộ Chính phủ.

Mùa Thu năm 1967, Giônxơn quyết định tăng thêm 55.000 quân sang miền Nam Việt Nam - thay vì 200.000 quân như Oétmolen đề nghị; chấp thuận yêu cầu oanh tạc thêm 57 mục tiêu ở miền Bắc Việt Nam - chứ không mở rộng chiến tranh trên bộ sang Lào, Campuchia, nam khu IV và không phong toả cảng Hải Phòng như Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ yêu cầu. Còn việc động viên quân trù bị như đề nghị của giới quân sự Mỹ, Giônxơn xem như một hàng rào chính trị mà ông không muốn vượt qua.

Như thế, mặc dù muốn nghiêng về giới quân sự hiếu chiến nhưng Tổng thống Mỹ Giônxơn vẫn buộc phải thận trọng trong việc tính toán bước đi của Mỹ ở Việt Nam sao cho vừa tránh được dư luận trong nước, ổn định được nội bộ để có thể bước vào năm vận động tranh cử một cách xuôi chèo mát mái. . . 

Tại Hà Nội, ngay sau khi cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, mùa khô 1966- 1967 của quân Mỹ kết thúc, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương điện gửi lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường, trong đó nhấn mạnh việc tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo đợt tiến công Hè Thu năm 1967 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đợt hoạt động Đông Xuân năm 1967-1968.  Đồng thời, để củng cố bộ máy chỉ đạo cách mạng miền Nam nhằm đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới, ngày 19-5-1967, Bộ Chính trị điện cho Trung ương Cục thông báo quyết định thành phần Bộ Chỉ huy Miền, Quân uỷ Miền; lưu ý Trung ương Cục cần chú ý tăng cường cán bộ cho Khu uỷ, Bộ Tư lệnh Khu VII, Khu IX, đặc biệt là Khu VII.

Sau ngày Đại tướng Nguyễn Chí Thanh mất (ngày 6-7-1967), Trung ương Đảng cử đồng chí Phạm Hùng vào thay, giữ chức Bí thư Trung ương Cục. Tiếp đó, bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo của Khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn cũng được Trung ương Đảng kiện toàn 1

Cũng ngay sau ngày đánh thắng cuộc phản công chiến lược lần thứ hai và bắt đầu từ đó trở đi, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương chỉ đạo sát sao việc soạn thảo, bổ sung, từng bước hoàn chỉnh bản Dự thảo kế hoạch chiến lược Đông Xuân 1967- 1968 nhằm thực hiện chủ trương tận dụng thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong năm 1968, theo phương hướng đánh lớn. Nhiều đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường được triệu tập ra Hà Nội để tham gia xây dựng kế hoạch chiến lược quan trọng này.

Trong quá trình bàn bạc, Quân uỷ Trung ương nhận thấy: nếu cứ tiếp tục mở các đợt hoạt động quân sự và đấu tranh chính trị như những năm trước, đánh theo cách đánh cũ thì khó tận dụng được thời cơ có lợi để tạo nên chuyển biến chiến lược trên chiến trường, chiến tranh vẫn sẽ nhùng nhằng, giằng co, kéo dài.

Nhưng mặt khác, trước đối thủ có quân số đông, hoả lực dồi dào, khả năng cơ động cao, tiếp ứng nhanh, lại chiếm ưu thế áp đảo trên không, trên sông, trên biển như quân Mỹ thì phương án bao vây để tiêu diệt lớn đội quân này hoặc đánh bật chúng ra khỏi miền Nam... rõ ràng là không hiện thực.


________________________
1. Ngày 27-9-1967, đồng chí Lê Đức Thọ điện gửi đồng chí Nguyễn Văn Linh thông báo quyết định cử đồng chí Nguyễn Văn Linh xuống làm Bí thư Khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn kiêm Chính uỷ, Bí thư quân khu; đồng chí Trần Văn Trà làm Tư lệnh, Phó Bí thư Khu uỷ và Phó Bí thư quân khu; đồng chí Võ Văn Kiệt làm Phó bí thư Khu uỷ, trực tiếp làm Bí thư Thành uỷ Sài Gòn...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 04 Tháng Bảy, 2009, 12:51:37 pm
Vì thế, Quân uỷ Trung ương quyết định: hướng sức mạnh chủ yếu của chiến tranh cách mạng miền Nam vào đô thị - nơi đặt các cơ quan đầu não của địch. Trong 5 ngày từ ngày 20 đến ngày 24- 10- 1967, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng bàn về chủ trương và kế hoạch táo bạo này.

Hội nghị xác định rất rõ: cho đến thời điểm này, thời cơ chiến lược đã xuất hiện. Muốn chớp thời cơ đó, Bộ Chính trị quyết định: về phương pháp, dùng tổng công kích - tổng khởi nghĩa; về hướng tiên công, nhằm vào đô thị trên toàn miền; về phương thức, tiên công và nổi dậy đồng loạt; về thời điểm, bắt đầu vào dịp Tết Mậu thân 1968.

Tiếp sau hội nghị này, tháng 11-1967, Bộ Chính trị họp tiếp để bàn cụ thể về Kế hoạch Tổng khởi nghĩa ở các đô thị miền Nam.

Sau Hội nghị Bộ Chính trị, các chiến trường, các địa phương bắt tay vào chuẩn bị trực tiếp cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Với thời gian còn lại 3 tháng, hướng đánh lớn. Nhiều đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường được triệu tập ra Hà Nội để tham gia xây dựng kế hoạch chiến lược quan trọng này.

Trong quá trình bàn bạc, Quân uỷ Trung ương nhận thấy: nếu cứ tiếp tục mở các đợt hoạt động quân sự và đấu tranh chính trị như những năm trước, đánh theo cách đánh cũ thì khó tận dụng được thời cơ có lợi để tạo nên chuyển biến chiến lược trên chiến trường, chiến tranh vẫn sẽ nhùng nhằng, giằng co, kéo dài.

Nhưng mặt khác, trước đối thủ có quân số đông, hoả lực dồi dào, khả năng cơ động cao, tiếp ứng nhanh, lại chiếm ưu thế áp đảo trên không, trên sông, trên biển như quân Mỹ thì phương án bao vây để tiêu diệt lớn đội quân này hoặc đánh bật chúng ra khỏi miền Nam... rõ ràng là không hiện thực.

Vì thế, Quân uỷ Trung ương quyết định: hướng sức mạnh chủ yếu của chiến tranh cách mạng miền Nam vào đô thị - nơi đặt các cơ quan đầu não của địch.

Trong 5 ngày từ ngày 20 đến ngày 24- 10- 1967, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng bàn về chủ trương và kế hoạch táo bạo này. Hội nghị xác định rất rõ: cho đến thời điểm này, thời cơ chiến lược đã xuất hiện. Muốn chớp thời cơ đó, Bộ Chính trị quyết định: về phương pháp, dùng tổng công kích - tổng khởi nghĩa; về hướng tiên công, nhằm vào đô thị trên toàn miền; về phương thức, tiên công và nổi dậy đồng loạt; về thời điểm, bắt đầu vào dịp Tết Mậu thân 19ớ8.

Tiếp sau hội nghị này, tháng 11-1967, Bộ Chính trị họp tiếp để bàn cụ thể về Kế hoạch Tổng khởi nghĩa ở các đô thị miền Nam.

Sau Hội nghị Bộ Chính trị, các chiến trường, các địa phương bắt tay vào chuẩn bị trực tiếp cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Với thời gian còn lại 3 tháng, việc chuẩn bị trở nên vô cùng gấp gáp.

Ba tháng đó các chiến trường, các địa phương phải khẩn trương hoàn tất một khối lượng công việc khổng lồ và rất phức tạp: xây dựng và hoàn chỉnh phương án, kế hoạch công kích, khởi nghĩa; tổ chức, điều động, bố trí lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị; phân chia chiến trường; tổ chức hệ thống đảm bảo hậu cần; triển khai mạng lưới giao liên từ căn cứ xuống vùng ven, vào nội thành; chuẩn bị khu vực, địa điểm cất giấu lực lượng và địa bàn xuất phát tiến công; điều tra các mục tiêu và nắm tình hình cũng như quy luật hoạt động của địch ở nội đô.

Đồng thời, huy động lực lượng bí mật bằng nhiều đường, nhiều loại phương tiện vận chuyển vũ khí vào nội thành cất giấu. . . Để khắc phục mâu thuẫn giữa thời gian quá ngắn và nội dung chuẩn bị quá nhiều, các địa phương, các chiến trường đã phân cấp, phân hướng, trên dưới đồng thời chuẩn bị.

Trong điều kiện thời gian gấp, chiến trường chia cắt, hơn một triệu quân Mỹ, quân đội Sài Gòn, quân một số nước đồng minh của Mỹ với bộ máy kìm kẹp cùng mạng lưới tình báo, gián điệp, chỉ điểm giăng rộng và trà trộn khắp mọi nơi nhưng quá trình chuẩn bị của ta vẫn giữ bí mật tuyệt đối và cơ bản hoàn tất trước khi ngày giờ nổ súng bắt đầu.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 04 Tháng Bảy, 2009, 12:55:58 pm
Cùng với quá trình chuẩn bị, các chiến trường mở đợt hoạt động Thu Đông 1967. Đợt hoạt động này nằm trong khuôn khổ giai đoạn 1 của kế hoạch tác chiến chiến lược.  Mục đích của đợt hoạt động này là trực tiếp tạo thế, tạo lực cho Tết Mậu Thân, buộc địch phải phân tán binh lực, nghi binh làm lạc hướng chú ý của chúng, tạo thêm điều kiện cho quá trình chuẩn bị của ta.

Vì thế, ở vùng ven đô thị và vùng nông thôn đồng bằng, lực lượng vũ trang ta được lệnh duy trì các hoạt động như lệ thường. Trong khi đó, chủ lực Quân giải phóng liên tiếp mở các chiến dịch có quy mô tương đối lớn ở khu vực rừng núi nhằm đánh bồi vào quân Mỹ, phá kế hoạch chuẩn bị phản công lần thứ ba của chúng và lôi kéo, ghìm chân một bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ tại vòng ngoài. 

Chiến dịch Lộc Ninh - đường 13 của chủ lực miền Nam (27-10 đến 10-12-1967) ở khu vực rừng núi miền Đông Nam Bộ; chiến dịch Đắc Tô của lực lượng vũ trang Tây Nguyên đầu tháng 11- 1967) được mở ra là nhằm mục tiêu đó.

Qua các chiến dịch này, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn cho rằng: “Đối phương đã bị những thiệt hại nặng nề đến nỗi nỗ lực chính của Việt cộng và quân Bắc Việt Nam hiện nay phần lớn chỉ giới hạn ở vùng biên giới Nam Việt Nam” 1
 
Cùng với các hoạt động trên chiến trường miền Nam trong Thu Đông 1967, cơ quan chỉ đạo chiến lược đã đề ra các biện pháp nghi binh nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của bộ chỉ huy đối phương: tung bản tác chiến giả vào chiến trường, phóng thích hai tù binh “giặc lái” Mỹ về đoàn tụ với gia đình nhân dịp Nôen năm 1967, nhắc lại tuyên bố ngày 28-1-1967 của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, rằng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà sẽ nói chuyện với Chính phủ Hoa Kỳ sau khi phía Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc vô điều kiện . . .

Toàn bộ những hoạt động trên đây của ta không lọt qua sự chú ý của giới lãnh đạo nước Mỹ và Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn. Vào cuối năm 1967, họ đã đi tới nhận định rằng: trong năm 1968, trọng tâm hoạt động của đối phương sẽ là chống phá bình định, mở một số trận đánh dọc miền biên giới, tiến công các mục tiêu ở hai tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên, tìm cách bảo tồn lực lượng, cố gắng duy trì mức độ giao tranh như năm 1967.

Xuất phát từ nhận định này, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ chủ trương tiếp tục mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba, mùa khô 1967- 1968 mà hướng chủ yếu vẫn lại là miền Đông Nam Bộ và hướng quan trọng là Trị - Thiên nhằm duy trì thế giằng co, tránh mọi sự đảo lộn bất ngờ, chờ cho kỳ bầu cử Tổng thống mới ở Mỹ kết thúc sẽ tính toán bước đi tiếp theo. 

Ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp và hạ quyết tâm chuyển chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định 2. “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định” 3.

Về mục tiêu chiến lược của Tổng. công kích và tổng khởi nghĩa, Bộ Chính trị chỉ rõ: “đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc” 4.

Về hướng tiến công chiến lược, Bộ Chính trị quyết định sử dụng lực lượng quân sự của ta “căng địch ra khắp chiến trường. . . , điều động lực lượng quân sự của địch ra các chiến trường quan trọng và sử dụng những quả đấm mạnh đánh quỵ các binh đoàn chủ lực của địch” 5.


_
________________________
1. Neil Sheehan: Lời nói dối hào nhoáng, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, t.2, tr.392.
2. Nghị quyết này của Bộ Chính trị sau đó được Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1968) thông qua và trở thành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng. 
3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 29, tr. 50, 53, 54.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 04 Tháng Bảy, 2009, 12:57:48 pm
Đó là đòn đánh chính của bộ đội chủ lực trong tổng công kích. Một đòn chính nữa “phải nhằm vào các thành thị quan trọng, kết hợp lực lượng xung kích về quân sự với lực lượng chính trị cửa quần chúng ở các thành thị và vùng nông thôn kế cận vùng dậy đánh sụp các cơ quan đầu não của Mỹ và nguỵ” 1

Bộ Chính trị xem “đó là đòn ác liệt nhất, đánh vào óc, tim, mạch máu của địch và, cũng là cách đánh tốt nhất để thực hiện ba mũi giáp công trong cả ba vùng chiến lược, để tiêu diệt sinh lực địch đến mức cao nhất làm sụp đổ chỗ dựa chính trị của địch và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng” 2

Căn cứ vào Nghị quyết Bộ Chính trị được Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh gấp rút hoàn chỉnh lần cuối phương án tổng công kích - tổng khởi nghĩa và xác định cụ thể: cùng với đòn tiên công của bộ đội chủ lực ở hướng phôi hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là đường 9 - Khe Sanh, nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiên công chiến lược đánh vào thị xã, thành phố quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng nông thôn và đô thi, mở đầu cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Gia Định, Đà Nẵng, Huê, trọng điểm là Sài Tròn - Gia Định, Huế - Đà Nẵng và các thành phố lớn.

Theo kế hoạch đã định, ngày 12-1-1968, liên quân Lào - Việt nổ súng mở màn chiến dịch tiến công Nậm Bạc, tiêu diệt địch ở Bắc Lào. Cùng lúc đó, tại miền Nam Việt Nam, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực Quân giải phóng bắt đầu rời căn cứ, hướng về các trung tâm dân cư và đô thị. Đồng thời, một số sư đoàn chủ lực miền Bắc tập kết xung quanh khu vực rừng núi Khe Sanh, hình thành thế bao vây, uy hiếp căn cứ quan trọng này của địch.

Trước tình hình đó, ngày 13-1-1968, Oétmolen buộc phải ra lệnh huỷ bỏ kế hoạch mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba, lui các đơn vị quân Mỹ về giữ vùng quanh Sài Gòn; huỷ bỏ các cuộc hành quân mang mật danh York ở các tỉnh phía bắc; lệnh cho Sơ đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ thôi không từ Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ mà cùng Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196 Mỹ chuyển ra tỉnh Thừa Thiên, tăng cường cho mặt trận phía bắc. –

Giữa lúc đó, đêm 20- 1- 1968, các đơn vị chủ lực ta tiến công tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, uy hiếp tuyến phòng thủ đường 9 của địch. Chiến dịch này vừa mở ra đã thu hút tâm trí của giới lãnh đạo nước Mỹ.

Giônxơn chỉ thị cho tướng Tay lo lập phòng Tình hình đặc biệt tại Nhà Trắng và đích thân theo dõi diễn biến chiến sự Khe Sanh từng giờ. Ám ảnh vì một Điện Biên Phủ, Giônxơn lệnh cho các tham mưu trưởng liên quân Mỹ phải viết cam kết giữ vững Khe Sanh bằng mọi giá; lệnh cho Oétmolen hằng ngày phải gửi về Oasinhtưn báo cáo tình hình chiến sự Khe Sanh. 

Tại miền Nam, Oétmolen thành lập Sở chỉ huy tiền phương của Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Vùng 1 chiến thuật để kịp thời chỉ huy toàn bộ lực lượng quân Mỹ và quân Sài Gòn ở mặt trận phía bắc và nhằm đối phó với ta ở Khe Sanh.  Toàn bộ lực lượng này, vào cuối tháng 1-1968 lên tới 40% .  tiểu đoàn bộ binh và thiết giáp mà Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ hiện có trong tay.

Các hoạt động nghi binh chiến lược, đặc biệt chiến dịch Khe Sanh mở màn trước Tết Mậu Thân 10 ngày, đã làm cho Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn và giới lãnh đạo Oasinhtưn bị lạc hướng. Trong khi phía Mỹ dồn tâm trí và lực lượng ra hướng đường 9 - Khe Sanh thì đêm 29 rạng ngày 30- 1- 1968, quân, dân các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung và Tây Nguyên đồng loạt tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay, sở chỉ huy... của địch, mở màn cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy 3

24 giờ sau khi quân dân các tỉnh ven biển miền Trung và Tây Nguyên nổ súng mở màn, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt nổ ra ở khắp các tỉnh và thành phố lớn miền Nam.  Bộ binh, đặc công, pháo binh, biệt động... ta, ngay từ đầu, đã đánh mạnh, đánh trúng các mục tiêu trọng yếu của địch ở Sài Gòn, Huế, Quảng Trị, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt, Tây Ninh, Bến Tre, Biên Hoà, Mỹ Tho, Cần Thư, Trà Vinh, Châu Đốc, Vĩnh Long, Cà Mau, Sóc Trăng, Rạch Giá . . . Hầu hết các cơ quan đẩu não, hệ thống căn cứ quân sự, các tuyến giao thông huyết mạch, hệ thống kho tàng, sân bay, bến cảng. . . của địch trên khắp miền Nam bị đồng loạt tiến công.


____________________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 29, tr.53, 54.
3 . Việc các địa phương Quân khu 5 nổ súng tiến công sớm hơn một ngày được giải thích là bởi trước Tết, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà công bố đổi lịch, tức ngày mồng một Tết Mậu Thân chậm hơn lịch cũ một ngày. Các địa phương Quân khu 5 nổ súng theo lịch cũ miền Nam. nên giờ nổ súng sớm hơn một ngày nếu so với lịch mới miền Bắc.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 04 Tháng Bảy, 2009, 12:58:11 pm
Sài Gòn - Gia Định là trọng điểm thứ nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Tại đây, để bảo vệ trung tâm chính trị, quân sự và kinh tế của chúng, Mỹ - nguỵ đã bố trí nhiều loại lực lượng, hình thành nhiều tuyến phòng thủ vững chắc, thiết lập một mạng lưới tình báo, gián điệp, mật vụ cùng hệ thống đồn bốt, trạm kiểm soát giăng khắp mọi nơi.

Dù vậy, ngay từ phút nổ súng đầu tiên, các đội biệt động trang bị gọn nhẹ đã bất ngờ và đồng loạt đánh vào các mục tiêu như Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu quân nguỵ, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh, Toà đại sứ Mỹ. Tuy nhiên, các mục tiêu khác, như Tổng nha cảnh sát, Biệt khu Thủ đô, khám Chí Hoà, nhà riêng Nguyễn Văn Thiệu..., ta không đánh được - vì lực lượng biệt động hoặc bị ngăn chặn trên đường hành quân hoặc bị nhầm mục tiêu.

Trong khi đó, lực lượng vũ trang của các ban, ngành, đoàn thể như Thanh niên, Công đoàn, Hoa vận, Phụ vận. . . cơ động đánh địch trên đường phố Sài Gòn. Các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu cũng tiến công mạnh vào những mục tiêu được quy định. 

Trên hướng đông và đông bắc thành phố, các đơn vị thuộc Phân khu 4 và Phân khu 5 đánh địch trên đường 13, khu vực Bình Triệu, xa lộ Biên Hoà, ngã tư Hàng Xanh...

Ở hướng tây nam, lực lượng Phân khu 2 phối hợp với Trung đoàn bộ binh 16 và lực lượng đặc công tiến công sân bay Tân Sơn Nhất, trụ bám đánh địch phản kích ở khu vực cầu Tham Lương. ở hướng nam, các tiểu đoàn mũi nhọn Phân khu 3 đánh chiếm khu vực Phú Định, lò Gốm, chợ Thiếc, cầu Nhị Thiên Đường, phường Bến Đá, phường Hùng Thái, phường Đa Phước.

Ở hướng bắc và đông bắc, lực lượng vũ trang Phân khu 1 đánh chiếm Bộ Chỉ huy thiết giáp nguỵ ở trại Phù Đổng, chiếm một phần Bộ Chỉ huy pháo binh nguỵ ở trại Cổ Loa, căn cứ tiểu đoàn pháo binh ở trại Nỏ Thần, căn cứ 80 quân cụ, căn cứ 60 truyền tin...

Xung quanh Sài Gòn - Gia Định, một loạt các căn cứ quân sự, trụ sở quân đội và chính quyền Sài Gòn ở Biên Hoà, Bình Dương, Hậu Nghĩa, Long An. . . cũng bị tiến Công.

Tại Huế - thành phố lớn thứ ba miền Nam với dận số 15 vạn người tính đến thời điểm cuối năm 1967, ngay từ đầu, hầu hết các cơ quan đầu não chính quyền và quân đội Sài Gòn ở Vùng 1 chiến thuật bị ta đánh chiếm. Rạng sáng ngày 1-2-1968, phần lớn cố đô Huế đã lọt vào tay Quân giải phóng.

Sáng ngày 3-2, quần chúng bắt đầu nổi dậy lùng diệt, truy quét ác ôn và tàn binh nguỵ, phá bỏ ách kìm kẹp, thiết lập chính quyền cách mạng. Tại một loạt thị xã, thị trấn, quận lỵ khác trên toàn miền Nam, nhiều mục tiêu trọng yếu trong nội đô cũng bị ta đánh chiếm. Nhiều nơi, nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ, truy lùng bọn ác ôn, giúp đỡ bộ đội dưới nhiều hình thức như chỉ đường, tiếp tế lương thực, cứu chữa thương binh, dựng chướng ngại vật trên đường phố. . .

Đòn tiến công bất ngờ và mãnh liệt vào đô thị buộc Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ phải co lực lượng từ các nơi về ‘cứu nguy, bỏ ngỏ vùng nông thôn. Nắm vững thời cơ, quân, dân các địa phương đẩy mạnh tiến công và nổi dậy giành chính quyền làm chủ ở nhiễn nơi, giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn.

Bị tiến công rộng khắp ở đô thị và nông thôn, thoạt đầu, địch lúng túng chống đỡ. Nhưng ngay sau đó, chúng nhanh chóng điều động lực lượng, tổ chức phản kích. Cuộc chiến đấu giành giật các mục tiêu trong và ven đô thị - đặc biệt là Sài Gòn, Huế, diễn ra vô cùng quyết liệt do địch chiếm ưu thế áp đảo về quân số và hoả lực.

Tại Sài Gòn, lực lượng chiến đấu trong thành phố của ta bị bao vây bốn mặt, bị tổn thất nặng nề: gần 80% chiến sĩ biệt động bị hy sinh và bị bắt, 50% lực lượng các tiểu đoàn mũi nhọn bị thương vong, một số tiểu đoàn khác khi rút quân chỉ còn 1/5, 1/10 quân số...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 04 Tháng Bảy, 2009, 01:00:45 pm
Ở Huế, quân ta liên tục đánh địch phản kích và trụ vững suốt 25 ngày đêm, sau đó, đêm 22-2- 1968, được lệnh rút ra để bảo toàn lực lượng. . .

Từ tháng 3- 1968 trở đi, áp lực của ta xung quanh các đô thị giảm dần. Trên thực tế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (đợt 1) đã kết thúc. Trong gần hai tháng, quân và dân ta ở miền Nam đã tiến công mãnh liệt vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ. Chúng ta đã đánh mạnh, đánh trúng 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trong số 11 bộ tư lệnh sư đoàn quân Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, các tiểu khu, chi khu và hàng trăm các căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay, bến cảng, đường giao thông.

Đặc biệt ta đã đánh chiếm và làm chủ Toà đại sứ Mỹ ở Sài Gòn trong nhiều giờ, đã làm cho Nhà Trắng, Lầu Năm Góc Mỹ và phương Tây sửng sốt, kinh ngạc. Như vậy, đây là lần đầu tiên sau nhiều năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, toàn bộ hệ thống phòng thủ đô thị của Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn bị tiến công; hậu phương, hậu cứ chiến tranh của chúng trở thành chiến trường, nơi đọ sức quyết liệt giữa các bên tham chiến trong nhiều tuần, nhiều tháng.

Trong cuộc đọ sức đó, bằng lối đánh táo bạo và dũng mãnh, lực lượng vũ trang ta đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá huỷ, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh của địch, giáng đòn quyết liệt vào uy thế của quân đội Mỹ trên chiến trường Việt Nam, làm suy giảm vị trí và ảnh hưởng của chính quyền và quân đội Sài Gòn ở cả thành thị lẫn nông thôn.

Thành công đó của Tết Mậu Thân và những tác động mãnh liệt của nó đã dội về nước Mỹ, khiến giới lãnh đạo Mỹ phải kinh hoàng, phải soát xét lại toàn bộ đường lối và cách thức tiến hành chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.

Dưới tác động của sự kiện Tết Mậu Thân, giới lãnh đạo cao cấp Oasinhtơn lần đầu tiên nhận thấy những nỗ lực quân sự của Mỹ ở Việt Nam “không chỉ không có tận cùng mà còn vô vọng” 1; nếu Mỹ vẫn tiếp tục theo đuổi chiến tranh Việt Nam theo chiến lược cũ thì phải gánh chịu hậu quả “không thể kể xiết cho vị tri kinh tế của Mỹ ở trong nước cũng như ở nước ngoài, cho sức mạnh quân sự của Mỹ ở những nơi khác và cho đời sống chính trị của Mỹ nữa” 2. . .

Thực tế đó đã buộc Tổng thống Mỹ Giônxơn, vào đêm 31-3-1968, đơn phương tuyên bố chấm dứt thời kỳ mà ở đó, Mỹ cam kết đưa các lực lượng quân Mỹ vào cuộc chiến tranh trên bộ ở miền Nam Việt Nam, giảm dần vai trò chiến đấu trực tiếp của quân đội Mỹ, vai trò này sẽ trao cho quân đội Sài Gòn; đồng thời, chấm dứt mọi hành động của không quân, hải quân chống nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ vĩ tuyến 20 trở ra, sẵn sàng cử đại diện đàm phán với phía Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cuối cùng, ông tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tiếp theo.

Về chiến lược quân sự, Mỹ quyết định bỏ chiến lược tìm và diệt thay vào đó bằng chiến lược quét và giữ.  Với quyết định ngày 31-3-1968, Chính phủ Mỹ mặc nhiên thừa nhận sự thất bại của chiến lược chiến tranh cục bộ ở Việt Nam. Ngày 31-3, do đó, đã mở ra “một chương rất  nhiều ý nghĩa trong lịch sử can thiệp của Hoa Kỳ: cuộc chiến tranh Việt Nam đã đi đến hồi kết thúc”  3 đối với Hoa Kỳ. 

Sau Tết Mậu Thân, nhằm “đẩy địch vào thế thất bại liên tiếp ngày càng suy yếu, tan rã, không sao gượng dậy được làm cho chúng thất bại trên chiến trường, thất bại ở các thành thị lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ”, Bộ Chính trị quyết định mở tiếp đợt tiến công tháng 5 và tháng 8- 1968 mà hướng chính vẫn nhằm vào đô thị.

Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thực tế không như đợt 1, trong đợt này các chiến trường, các địa phương được lệnh đánh theo khả năng. Để phối hợp chặt chẽ với đấu tranh ngoại giao, đợt tiến công tháng 5 và tháng 8 đều được thực hiện trước các phiên họp tháng 5 và tháng 8-1968 tại Hội nghị Pa ri.



_____________________________
1. Ký ức của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - Clácclípphớt về cuộc họp với giới chức quân sự cấp cao sau Tết Mậu Thân 1968, Tạp chí Lịch sử quân sự dịch, số 1-1993.
2. G. Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980, t.1, tr.312.
3.Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Tlđd, tr.569.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 04 Tháng Bảy, 2009, 01:03:24 pm

Thực hiện quyết định của Bộ Chính trì, vào lúc 0 giờ 30 phút ngày 5-5- 1968, quân dân các chiến trường miền Nam đã đồng loạt tiến công bằng bộ binh và pháo binh vào 31 thành phố, thị xã, 58 thị trấn, quận lỵ; đánh trúng 10 bộ tư lệnh quân đoàn và sư đoàn, 30 sân bay, 20 căn cứ xuất phát hành quân của địch . . . Trong đợt này, chiến sự diễn ra ác liệt ở trọng điểm Sài Gòn - Gia Định và khu vực đường 9 - Khe Sanh.

Ở Sài Gòn - Gia Định: pháo binh ta đã nã đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất, Sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, tân cảng Sài Gòn, Tổng Nha cảnh sát, Biệt khu Thủ đô; đặc công, biệt động đột kích Đài truyền hình, cầu Phan Thanh Giản; chủ lực Miền và các tiểu đoàn mũi nhọn cùng bộ đội địa phương đánh sâu vào nội đô, chiếm giữ ngã tư Bảy Hiền, Trường đua

Phú Thọ, quận lỵ Gò Vấp, cầu chữ Y, cầu Bình Lợi, cầu Bình Hoà... trụ lại và đánh địch phản kích trong một số ngày.  Tại đường 9 - Khe Sanh, ta tăng thêm lực lượng, đánh bại các cuộc hành quân giải toả của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn, siết chặt vòng vây xung quanh Tà Cơn, dồn địch lâm vào tình thế bị uy hiếp nghiêm trọng.

Trước tình hình đó, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải lệnh rút bỏ Khe Sanh nhằm bảo toàn lực lượng (tháng 6-1968) - sau khi đã bị hao tổn hàng nghìn quân và hàng trăm máy bay.

Sau đợt tiến công tháng 5, ta mở tiếp đợt tiến công tháng 8-1968. Trong đợt này, ta sử dụng pháo binh là chủ yếu đánh vào một số mục tiêu ở 27 thành phố, thị xã và 100 thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự địch . . .

Mặc dù bồi tiếp đòn nặng vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, nhưng nhìn chung, do tiến công liên tục và kéo dài trên quy mô rộng lớn, lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị của ta trong năm 1968 bị tổn thất nặng nề: 111.306 cán bộ, chiến sĩ và quẩn chúng cách mạng đã anh dũng hy sinh và bị thương.

Mặt khác, trong khi dồn sức tiến công vào đô thị, ta bỏ hở trận địa nông thôn. Lợi dụng tình hình này, địch tung quân đẩy bật chủ lực ta ra xa; đồng thời mở các chiến dịch bình định, đánh phá và tranh chấp quyết liệt những vùng chúng vừa bị mất.

Kết hợp với đánh phá bằng bộ binh, địch thẳng tay tàn sát nhân dân ta mà vụ Sơn Mỹ 1 là một điển hình ; sử dụng máy bay và pháo binh dội đạn ào ạt vào vùng tranh chấp, vừng giải phóng, triển khai các hoạt động Phượng Hoàng 2 đẫm máu và khét tiếng. . . Với nỗ lực và thủ đoạn mới, lại biết lợi dụng sơ hở của ta ở nông thôn, từ giữa năm 1968 trở đi, địch dần lấy lại những khu vực bị mất trước đó.

Thế trận và lực lượng chiến tranh nhân dân ta trên các chiến trường bị suy giảm, bị tổn thất; cách mạng miền Nam đứng trước tình thế đầy khó khăn và thử thách nặng nề. Tuy nhiên, địch cũng không đảo ngược được thế thua chúng buộc phải xuống tiếp một nấc thang chiến tranh. Ngày 1- 11- 1968, Mỹ đơn phương tuyên bố chấm dứt hoàn toàn mọi hành động chống phá nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, chấp nhận nói chuyện trực tiếp với đại diện của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại hội nghị bốn bên ở Pari. 

Ngày 2-11-1968, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ra tuyên bố. Việc Mỹ chấm dứt không điều kiện ném bom, bắn phá trên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sau 4 năm chồng chất tội ác tày trời đối với nhân dân miền Bắc Việt Nam và sau 5 tháng làm bế tắc cuộc nói chuyện tại Pari, đánh dấu một thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam ở cả hai miền.

Đó cũng là thắng lợi của phe xã hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hoà bình, một thắng lợi của nhân dân toàn thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ.


______________________________
1. Vụ thảm sát Sơn Mỹ diễn ra ở vùng thị xã Quảng Ngãi ngày 16-3-1968. Một đơn vị quân Mỹ xả súng bắn chết cùng lúc hơn 500 người dân thường vô tội.
2. Tháng 7-1968, địch lập Uỷ ban Phượng Hoàng các cấp nhằm đánh phá cơ sở cách mạng miền Nam bằng các hoạt động ám sát, bắt cóc; nhân viên gồm những tên được tuyển mộ trong bọn ác ôn, nhận lương và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 04 Tháng Bảy, 2009, 01:10:38 pm

Mặc dù phạm một số sai lầm, khuyết điểm về chỉ đạo và  thực hiện như “chủ quan trong việc đánh giá tình hình, cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó” 1, sau đợt 1, ta chậm chuyển hướng về giữ trận địa nông thôn. . . nhưng “cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) vẫn giữ một vị trí to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ” 2.

Ngày 23-4- 1994, Bộ Chính trị họp, sau khi nghe các ý kiến của các đồng chí cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư về Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, Bộ Chính trị kết luận như sau: “Tết Mậu Thân thắng rất lớn, mà nhất là đánh bại ý chí xâm lược Mỹ, tạo nên bước ngoặt quyết định của chiến tranh. Nhưng sau đó ta chuyển chậm, chủ trương tiếp tục các đợt tiến công vào các đô thị khi không còn điều kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược để địch gây cho ta nhiều khó khăn và tổn thất” 3 .

Từ năm 1961 đến năm 1968 là khoảng thời gian mà ở đó, đế quốc Mỹ lần lượt triển khai hai chiến lược chiến tranh hòng tiếp tục âm mưu xâm lược và thống trị miền Nam bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Cuộc chiến leo thang với quy mô ngày càng mở rộng và cường độ ngày càng khốc liệt trên cả hai miền Nam, Bắc trở thành cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược.

Trong cuộc đụng đầu lịch sử đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân, toàn quân ta đã triển khai và thực hiện có hiệu quả đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, đẩy mạnh chiến lược tiến công, đương đầu và đánh thắng các bước leo thang chiến tranh, làm phá sản chiến lược chiến tranh đặc biệt và chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.

Những thất bại liên tiếp, toàn diện và ngày càng nặng nề trong nỗ lực xâm lược Việt Nam đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới đời sống chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội của. nước Mỹ, làm suy giảm vị thế của Mỹ trên trường quốc tế Trong những điều kiện đó, giới lãnh đạo cao cấp Mỹ buộc phải tính toán, cân nhắc và thay đổi lại chiến lược quân sự toàn cầu, chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Về phía Việt Nam, giành thắng lợi trong cuộc đương đầu với lục quân, không quân, hải quân Mỹ trên khắp hai miền, quân và dân ta đã tạo ra cơ sở vững chắc để đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tiếp tục phát triển theo phương hướng chiến lược mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.


Chương III

ĐOÀN KẾT CHIẾN ĐẤU BA NƯỚC ĐÔNG DƯƠNG
ĐÁNH THẮNG MỘT BƯỚC QUAN TRỌNG CHIẾN LƯỢC
VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH, BUỘC ĐẾ QUỐC MỸ PHẢI KÝ HIỆP ĐỊNH PARI

I. ĐẾ QUỐC MÝ TIẾP TỤC XÂM LƯỢC VIỆT NAM BẰNG CHIẾN LƯỢC
 VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH VÀ MỞ RỘNG CHIẾN TRANH SANG CAMPUCHIA VÀ LÀO

Sau bốn năm đưa quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam và dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam, chẳng những Mỹ không đạt được một mục tiêu nào trong bốn mục tiêu đã đề ra 1, mà còn bị quân và dân ta đánh cho thất bại nặng nề, làm phá sản hoàn toàn chiến lược chiến tranh cục bộ.


__________________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 34, tr.215, 216.
3. Kết luận của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 23-4-1994, số 215-BBK/BCT.
4. Bốn mục tiêu Mỹ đề ra là:
- Tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng, phá chiến tranh du kích;
- Bình định nông thôn miền Nam;
- Củng cố nguỵ quân, nguỵ quyền, ổn định an ninh; Ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc, bóp nghẹt cách mạng miền Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 04 Tháng Bảy, 2009, 01:14:57 pm
Thất bại này đã tác động sâu sắc đến tình hình  chính trị nước Mỹ, Níchxơn trong ngày nhậm chức Tổng thống (20-1-1969) đã phải thú nhận: “Nước Mỹ đang có khủng hoảng về tinh thần, mắc kẹt trong chiến tranh, cấu xé và chia rẽ nội bộ.

Cuộc chiến tranh Việt Nam đã gây ra căng thẳng gay gắt với nước Mỹ không riêng về mặt kinh tế, quân sự mà cả xã hội cũng như chính trì. Sự bất đồng cay đắng đã xé rách cơ cấu đời sống tinh thần nước Mỹ và, bất kể kết quả chiến tranh như thế nào, vết xé rách vẫn còn lâu mới lành” 1

Níchxơn và những chiến lược gia Mỹ nhận thấy chiến lược quân sự toàn cầu phản ứng linh hoạt thời Kennơđi, Giônxơn không có khả năng ngăn chặn và đẩy lùi phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân á - Phi - Mỹ Latinh, mà tiêu biểu là Việt Nam, nó đã tỏ ra lỗi thời trước cuộc tiến công của ba dòng thác cách mạng thế giới. 

Để cứu vãn tình hình đang thua, Tổng thống Mỹ Níchxơn sau nửa năm cầm quyền đã đề ra học thuyết Ních xởn và chiến lược quân sự toàn cẩu răn đe thực têl thay ‘ thế cho chiến lược phản ứng linh hoạt.

Nội dung chủ yếu của học thuyết Níchxơn là:

1. Chia sẻ trách nhiệm: Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho các nước đồng minh. Các nước đồng minh phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong khu vực. 

2. Xây dựng sức mạnh: Mỹ gánh chịu phần chủ yếu về lực lượng hạt nhân chiến lược, nhưng các nước đồng minh phải cùng Mỹ chung sức gánh vác việc xây dựng lực lượng tác chiến trên khu vực chiến trường.

3. Thương lượng: Mỹ thương lượng với các nước đồng minh thành lập những liên minh khu vực, thương lượng giải quyết xung đột xảy ra giữa các nước thứ ba, thương lượng với Liên Xô về việc hạn chế sự phát triển vũ khí chiến lược. 

Mục tiêu tập trung của học thuyết Níchxơn là ra sức phá hoại phe xã hội chủ nghĩa, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc duy trì và củng cố sự thống trị của chủ nghĩa thực dân kiểu mới Mỹ trong phạm vi toàn cầu . . . 

Chiến lược quân sự toàn cầu mới dùng sức mạnh làm nản lòng đối phương, một cách thực tê, gọi tắt là chiến lược răn đe thực tê chủ trương: duy trì lực lượng mạnh để giữ thế cân bằng và răn đe, đồng thời giữ mọi cam kết của Mỹ với đồng minh trên cơ sở cùng nhau chia sẻ trách nhiệm, nhưng Mỹ vẫn khẳng định vai trò lãnh đạo đối với “thế giới tự do”. 

Việt Nam hoá chiến tranh là sự áp dụng đầu tiên của học thuyết Ních xởn vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, mà thực chất là chính sách dùng người Việt đánh người Việt bằng vũ khí, kỹ thuật của Mỹ, do Mỹ điều khiển.  áp dụng học thuyết Níchxơn vào Việt Nam, trước tiên Mỹ điều chỉnh chủ trương phi Mỹ hoá thành chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh.

Nếu trước đây Giônxơn chủ trương phi Mỹ hoá nhằm đẩy quân nguỵ ra phía trước, quân Mỹ đứng phía sau yểm trợ bằng pháo binh, không quân để tránh cho quân Mỹ khỏi bị thương vong và từng bước rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự. Nay chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh là một kế hoạch hoàn chỉnh cả về quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao nhằm tiếp tục thực hiện âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là chiếm giữ miền Nam Việt Nam, nhưng quân Mỹ lui về phía sau để rút dần về nước, giảm bớt sự dính líu của quân chiến đấu Mỹ trên bộ. 

Le đơ (Laird) - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ coi Việt Nam hóa chiến tranh là học thuyết Níchxơn trong hành động, là “biện pháp kết thúc sự tham gia của Mỹ, bước mở đầu tăng cường lực lượng đồng minh ở châu Á”, “Việt Nam hóa nghĩa là chuyển dần cho người Việt Nam trách nhiệm về tất cả các mặt của cuộc chiến tranh và trách nhiệm quản lý các công việc của họ: Có một chính phủ mạnh hơn, một nền kinh tế mạnh hơn, một lực lượng cảnh sát mạnh hơn” 2

Níchxơn đánh giá: “Chính sách này thoả mãn được mục tiêu của chúng ta (Mỹ) là giảm bớt sự dính líu của Mỹ” 3. - Ngày 18-2-1970, Ních xởn công bố nội dung chính sách Việt Nam hóa chiến tranh: là một chương trình nhằm tăng cường khả năng tự vệ của chính phủ và nhân dân Nam Việt Nam bằng kế hoạch ba giai đoạn:


__________________________
1. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr.187-188.
2. Tuyên bố của Le đơ ngày 26-9-1969.
3. Thông điệp của Níchxơn ngày 25-2-1971.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 05 Tháng Bảy, 2009, 01:53:36 pm
Giai đoạn 1: Từng bước chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho quân nguỵ, rút dần quân chiến đấu trên bộ của Mỹ ra khỏi Nam Việt Nam.

Giai đoạn 2: Chuyển giao nhiệm vụ trên không cho quân đội Sài Gòn, làm cho quân nguỵ đủ sức đương đầu với lực lượng cách mạng, giữ vững được Việt Nam và Đông Dương trong quỹ đạo của Mỹ.

Giai đoạn 3: Hoàn tất những mục tiêu của Việt Nam hoá chiến tranh. Củng cố kết quả đã đạt được. Việt cộng suy yếu và chiến tranh sẽ tàn lụi.

Trong ba giai đoạn đó, theo Mỹ, giai đoạn 1 (dự kiến thực hiện từ năm 1969 đến giữa năm 1972) là giai đoạn quan trọng nhất được chia làm ba bước để thực hiện:

Bước 1 (từ năm 1969 đến giữa năm 1970): Bình định một số vùng đông dân quan trọng. Xoá bỏ hoàn toàn các cơ sở cách mạng ở vùng ta kiểm soát. Rút một số đơn vị chiến đấu của Mỹ ra khỏi chiến trường Việt Nam. Khống chế và đẩy lùi lực lượng vũ trang giải phóng, làm cho ta không hoạt động được ở quy mô từ đại đội trở lên.

Bước 2 (từ giữa năm 1970 đến giữa năm 1971): Bình định được tất cả các vùng đông dân quan trọng. Làm cho lực lượng vũ trang cách mạng bị phân tán nhỏ, không hoạt động được từ cấp đại đội trở lên ở những vùng căn cứ. Hoàn thành kế hoạch hiện đại hoá quân nguy, rút phần lớn quân Mỹ về nước.

Bước 3 (từ giữa năm 1971 đến giữa năm 1972): CƠ bản bình định xong cả miền Nam. Lực lượng vũ trang cách mạng không còn hoạt động được ở các vùng căn cứ trên biên giới Lào, Campuchia. Quân nguỵ đủ sức đương đầu với khối chủ lực miền Bắc Việt Nam. Rút hết quân chiến đấu trên bộ của Mỹ về nước.

Để thực hiện kế hoạch chiến lược này, Mỹ đề ra các biện pháp cụ thể:

1. Phát triển và hiện đại hoá quân nguỵ để có đủ sức đối phó với ta, thay thế dần quân Mỹ bằng cách ráo riết bắt lính, tăng cường và đổi mới trang bị, vũ khí, ‘huấn luyện cấp tốc cho quân nguỵ về kỹ thuật, chiến thuật.

2. Ra sức xây dựng nguỵ quyền mạnh, ổn định an ninh, phục hồi và phát triển kinh tế Nam Việt Nam. 

3. Bình định cho được nông thôn và kiểm soát được đại bộ phận dân chúng. Đây là biện pháp chiến lược chủ yếu của Việt Nam hoá chiến tranh nhằm tiêu hao và đẩy lùi chủ lực ta ra khỏi các vùng đông dân, nhiều của, xây dựng cơ sở xã hội cho bọn tay sai, củng cố nguy quyền. . 

4. Bao vây đánh phá kinh tế, đánh phá đường hành lang vận chuyển chiến lược, cắt đứt sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, tăng cường chiến tranh ở Lào, mở rộng chiến tranh sang Campuchia, xúc tiến liên minh khu vực, đảm bảo cho Việt Nam hoá chiến tranh thành công. 

5. Xúc tiến thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt, tranh thủ hoà hoãn giữa các nước lớn, đặc biệt là triệt để lợi dụng Trung Quốc, hạn chế viện trợ cho ta, tiến tới cô lập cách mạng Việt Nam và Đông Dương, buộc ta phải chấp nhận những điều kiện của Mỹ trong cuộc thương lượng tại Hội nghị Pa ri. 

Những biện pháp chiến lược nêu trên chứng tỏ bản chất ngoan cố hiếu chiến và thâm độc của đế quốc Mỹ. Việt Nam hoá chiến tranh không phải là sự rút lui, chịu thua để tìm một lối thoát gọn ghẽ cho Mỹ. Trái lại, Níchxơn đang tìm mọi cách giành giật với ta để kết thúc chiến tranh trên thế mạnh. 

Thực hiện kế hoạch của chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, Mỹ gấp rút củng cố và phát triển quân nguỵ có đủ sức đảm nhận toàn bộ trách nhiệm về an ninh của Nam Việt Nam và làm lực lượng nòng cốt cho Khơme hoá, Lào hoá chiến tranh của Mỹ; đồng thời đẩy mạnh chương trình bình định, mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 05 Tháng Bảy, 2009, 01:54:21 pm
Việc phát triển quân nguỵ miền Nam được Níchxơn coi là nội dung chủ yếu thứ nhất của Việt Nam hoá chiến tranh.  Theo tính toán của Níchxơn, mỗi năm quân nguỵ phải tăng từ 50.000 đến 100.000 quân, để đến cuối năm 1971 quân đội chính quy Việt Nam cộng hoà đạt 1.100.000. 

Trong kế hoạch này, Mỹ chú trọng phát triển cả ba quân chủng hải, lục, không quân, nhưng ưu tiên củng cố và phát triển lục quân. Nếu năm 1969, lục quân nguỵ chia thành bốn loạt (lực lượng xung kích; lực lượng chống xâm nhập; lực lượng bảo vệ đô thị; lực lượng yểm trợ xây dựng nông thôn) thì từ năm 1970 trở đi, lực lượng này được tổ chức thành hai loại:

1 . Lực lượng lưu động làm nhiệm vụ thường xuyên đánh phá căn cứ, hệ thống tiếp vận của ta, đẩy lùi, ngăn chặn chủ lực ta trở lại hoạt động trong nội địa.

2. Lực lượng lãnh thổ làm nhiệm vụ bảo đảm an ninh nội địa, bình định nông thôn.

Các sư đoàn chủ lực bộ binh được bổ sung quân số, hoàn thiện biên chế. 1 sư có 12 tiểu đoàn, một trung đoàn có 4 tiểu đoàn. Các đơn vị biệt kích được cải tổ thành các tiểu đoàn biệt động quân biên phòng (37 tiểu đoàn).  Hoả lực yểm trợ cho lục quân cũng được tăng cường. 

Trong ba năm từ năm 1968 đến năm 1970, Mỹ - nguy đã xây dựng thêm 20 tiểu đoàn pháo từ 105 đến 175 mm, trang bị thêm 600 khẩu đại bác, đưa tổng số pháo của quân nguỵ lên 1.300 khẩu và 10.000 súng cối các loại. Xe tăng, thiết giáp từ 1.037 chiếc năm 1968 lên 1.879 chiếc năm 1972.

Địch rất quan tâm xây dựng khối bộ binh cơ động, dù, thuỷ quân lục chiến. Khối bộ binh cơ động năm 1968 mới có 50 tiểu đoàn, chiếm tỉ lệ 18,6%, đến cuối năm 1970 tăng lên 90 tiểu đoàn (đạt tỉ lệ 42%) .

Với sự phát triển lục quân như trên, đến tháng 6-1970, theo Mỹ, quân nguỵ có thể đảm nhận hầu hết nhiệm vụ chiến đấu trên bộ.

Ngày 1-7-1970, Bộ Tư lệnh Lục quân nguỵ ở miền Nam chính thức được thành lập. Cùng với lục quân, hải quân cũng được phát triển. Cuối năm 1971 đầu năm 1972 lực lượng này đã lên đến gần 50.000 quân, với 1.600 tàu các loại hoạt động trên biển và trên sông.

Không quân nguy được củng cố và kiện toàn, quân số tăng nhanh từ 35.000 người năm 1968 lên hơn 50.000 người năm 1971. Với lực lượng dã được tăng cường. năm 1970, không quân nguỵ được tổ chức lại thành 6 sư đoàn, 1 phi đoàn liên lạc. 1 phi đoàn vận tải, 5 phi đoàn trực thăng, 3 phi đoàn khu trục.

Mỹ đã trang bị cho bộ binh quân đội Sài Gòn 70.000 súng M. 16 - loại súng trường cực nhanh và hiện đại nhất của quân đội Mỹ lúc đó và 30.000 súng phóng lựu, 10.000 súng máy các loại.

Bên cạnh lực lượng chủ lực, Mỹ còn chú trọng xây dựng, phát triển quân địa phương (bảo an dân vệ và phòng vệ dân sự), đây là lực lượng quân sự trực tiếp làm nhiệm vụ bình định và kìm kẹp đồng bào ta ở nông thôn. Từ năm 1969, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã xây dựng thêm nhiều đại đội, trung đội bảo an, dân vệ, và phòng vệ dân sự; bảo đảm mỗi xã có 2 trung đội phòng vệ dân sự, đưa dần lực lượng này thay thế cho dân vệ, lấy dân vệ đôn lên bảo an, bảo an đôn lên bổ sung cho quân chính quy.

Công tác đào tạo, huấn luyện cũng được Mỹ quan tâm nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng quân nguỵ. Đến đầu 1970, Mỹ - nguỵ đã mở 23 trung tâm huấn luyện 25 trường quân sự cho các cấp, các quân, binh chủng.  Sau ba năm thực hiện kế hoạch phát triển và hiện đại hoá quân đội, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã thu được kết quả đáng kể.

Quân số lính nguỵ tăng nhanh, vũ khí. trang bị được hiện dại hoá với tỉ lệ khá cao (vũ khí đạt 98,7%, quân xa cơ giới đạt 100%, thiết giáp, chiến xa đạt 99%, vô tuyến điện các loại đạt 75%), Cơ Cấu, tổ chức được củng cố thêm một bước. Dù vậy, quân nguỵ cũng không thể sánh được với quân Mỹ về chất lượng. Việc thay thế dần quân Mỹ bằng quân nguỵ đương nhiên tạo ra thế bất lợi cho chúng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 05 Tháng Bảy, 2009, 02:16:05 pm
Nội dung chủ yếu thứ hai của chiến lược Việt Nam hoá theo Níchxơn là vấn đề bình định.

Trong Việt Nam hoá chiến tranh. bình định không chỉ là một biện pháp chiến lược quan trọng mà còn là mục đích xâm lược của Mỹ. Vì vậy, Níchxơn coi bình định là trận cuối cửng, ai thắng trận này sẽ thắng cuộc chiến tranh. Theo Mỹ và chính quyền Sài Gòn thì bình định, dồn dân vào các ấp Tân sinh, ấp Đời mới là biện pháp chiến lược quyết định sự tồn vong của chế dộ Sài Gòn và sự thành bại của Việt Nam hoá chiến tranh.

Cho nên, Mỹ và nguỵ quyền miền Nam chia bình định làm nhiều giai đoạn để thực hiện: Bình định cấp tốc (từ tháng 11-1968 đến tháng 6-1969); Bình đinh phát triển nông thôn (từ tháng 7-1969 đến tháng 6-1970); Bình đinh đặc biệt (từ tháng 7- 1970 đến tháng 2- 1971) rồi chương trình Cộng đồng tự vệ và phát triển nông thôn từ tháng 3-1971 đến tháng 3-1972), v.v..

Biện pháp cơ bản hàng đầu để thực hiện bình định là tăng cường mở rộng và đẩy mạnh quy mô, mật độ hành quân càn quét. Từ năm 1969, các cuộc hành quân càn quét của quân đội Mỹ, nguỵ tăng lên một cách đột ngột so với các năm trước đó, nhất là chiến trường Nam Bộ.

Năm 1968 có 2.192 cuộc hành quân càn quét, năm 1969 tăng lên 4.344 cuộc, song chỉ riêng 10 tháng đầu năm 1970 đã có tới 6.745 cuộc hành quân từ cấp tiểu đoàn trở lên. Nếu tính cả hoạt động dưới cấp tiểu đoàn, thì năm 1969 có 10.980 cuộc, năm 1970 tăng lên 23.783 cuộc 1.
 
Cùng với tăng cường và đẩy mạnh hành quân càn quét, địch còn sử dụng tổ chức Phượng hoàng do Phân cục tình báo của Mỹ ở Sài Gòn lập ra từ cuối năm 1967 dưới danh nghĩa là Văn phòng phụ tá đặc biệt (OSA) để đánh phá cách mạng, hỗ trợ cho chương trình bình định từ năm 1969. 

Tổ chức này phát triển nhanh với quy mô to lớn và sâu rộng từ trung ương đến địa phương với phương thức hoạt động rất thâm độc như sử dụng các tổ chức tình báo, cảnh sát chìm kết hợp khai thác những đối tượng đầu hàng. đầu thú của ta, điều tra phân loại hạ tầng cơ sở cách mạng. Trên cơ sở đó phát hiện cộng sản nằm vùng hoặc những người có cảm tình với cách mạng để bắt giam và tiêu diệt.

Theo đánh giá của chính quyền Sài Gòn, từ năm 1969 đến giữa năm 1970 là thời kỳ bình định đạt kết quả tốt nhất..  Trong thời gian này địch đã chiếm lại được đại bộ phận vùng nông thôn giải phóng, kiểm soát được thêm nhiều dân. Chỉ tính riêng năm 1969, địch đã kiểm soát thêm được 2.622 ấp (tăng 34 %) và 2.932.700 dân (tăng 16.6%) so với năm 1968. 

Từ tháng 6- 1970, chương trình bình định của địch mới bị chặn lại. Những năm 1971 - 1972 công tác bình định của địch càng gặp khó khăn hơn. Cuối năm 1971, theo báo cáo của địch thì chúng đã kiểm soát được 7.194 ấp, chiếm 64,4% tổng số ấp loại A và B (loại ấp có an ninh vững - theo phân loại của địch) và 14,6 trệu/17 triệu dân toàn miền Nam lúc bấy giờ. Song theo đánh giá của Tômxơn (Thom xon) - cố vấn bình định của Níchxơn sau khi đi kiểm tra 117 xã ở miền Nam thì: “An ninh bấp bênh, 70% số xã có chế độ cộng sản, nếu không giải quyết ngăn chặn thì ngày nào đó cộng sản sẽ lật đổ chế độ” 2

Một biện pháp chiến lược không kém phần quan trọng mà  Mỹ dã thực hiện trong Việt Nam hoá chiến tranh là mở các cuộc phản kích ra vòng ngoài nhằm đánh phá hậu phương, đánh phá vùng giải phóng, đánh phá căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến, đánh phá hệ thống giao thông tiếp tế hậu cần để cô lập và làm suy yếu lực lượng cách mạng. 

Không kể các cuộc hành quân hồ trợ trực tiếp cho công tác bình định. trong 3 năm (từ năm l969 đến năm 1971) Mỹ - nguỵ đã mở tất cả 27.968 cuộc hành quân phàn kích từ cấp tiểu đoàn trở lên. trong đó có 724 cuộc quy mô cấp sư đoàn trở lên. 4208 cuộc cấp trung đoàn với hàng chục ngàn lần chiếc máy bay chiến thuật và máy bay B 52 rải khoảng 62.3.113 tấn bom.


________________________
1. Theo Tài liệu tổng kết hành quân hàng năm của Trung tâm hành quân Bộ Tổng tham mưu Quân đội Việt Nam cộng hoà (nguỵ).
2. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Sđd, tr.201.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 05 Tháng Bảy, 2009, 02:35:53 pm
Địch tập trung chủ yếu vào việc đánh phá căn cứ, hành lang tiếp tế, cơ sở hậu cần, kinh tế nhằm ngăn chặn ta từ xa, thu hẹp phạm vi vùng giải phóng và đẩy chủ lực ta ra xa tận biên giới.

Cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống chính sách Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ trong những năm 1969 - 1970 vô cùng gian khổ và quyết liệt. Ta và địch đều cố giành nhau từng tấc đất, từng xóm làng. Địch dồn dân vào ấp Tân sinh, ta đấu tranh phá ấp, giải phóng dân. Trong cuộc dấu tranh đó địch đã gây cho ta muôn vàn khó khăn. Đây là một trong những thời kỳ khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua. 

Do ta bị tổn thất trong Tết Mậu Thân và các cuộc Tổng tiến công đợt 2, dợt 3 năm 1968 và đánh giá không sát đúng tính chất phức tạp, nham hiểm của chính sách Việt Nam hoá chiến tranh. địch lại ngăn chặn tuyến hành lang chiến lược ác liệt, tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam bị gián đoạn. làm cho đời sống của bộ đội và nhân dân vùng giải phóng thiếu thốn, sức chiến đấu giảm sút.

Ở Tây Nguyên, toàn bộ gạo tồn lại của năm l968 chỉ bằng 1/3 số tồn kho năm 1967. Dự trữ lương thực đến giữa năm 1969 chỉ nuôi được bộ dội trong khoảng 1 tuần. Ở cực nam Trung Bộ và Trị - Thiên. do địch (đánh phá ác liệt, nhất là việc chúng dùng chất độc rải thảm, phát quang cộng với thiên tai, mất mùa dẫn đến nạn đói hoành hành nghiêm trọng. Bộ đội trực tiếp chiến dấu ở tuyến trước chỉ được cấp phát mỗi người một ngày từ 1 đến 3 lạng gạo, tuyến sau chỉ ăn củ rừng, khoai, sắn thay cơm . . .

Ở Khu V, mỗi chiến sĩ trực tiếp chiến đấu một ngày ăn nửa lon gạo; còn cán bộ. chiến sĩ cơ quan thì 8 người mới được một lon gạo. Vì thế Khu V phải giải thể Sư đoàn 3. còn Sư đoàn 2 và các trung đoàn 141, 220 cùng một số đơn vị thu dung, phục vụ phải dưa ra đường 9 - bắc Quảng Trị.

Ở Tây Nguyên, các đơn vị không trực tiếp chiến đấu được đưa ra miền Bắc, một số đơn vị chiến đấu bổ sung cho B2. Các trung đoàn 66, 24, 28, 95, Tiểu đoàn 631 còn lại phải cơ động vào nam Tây Nguyên ăn gạo từ Campuchia chuyển sang. Ở Nam Bộ, địch lấn và chiếm lại gần hết vùng giải phóng của ta ở đồng bằng. Có nơi như ở Trà Vinh, Vĩnh Long chỉ qua hai đợt bình định cấp tốc, vùng giải phóng từ 182 ấp chỉ còn 1 ấp, vùng tranh chấp từ 192 ấp giảm còn 178 ấp. Lực lượng vũ trang ta ở đây cũng giảm sút rất nhanh, nhất là Tây Nam Bộ. Chỉ 6 tháng đầu năm 1969 du kích xã, ấp tại Tây Nam Bộ bi tổn thất trận 15.000 người. Bộ đội chủ lực quân khu 8 từ 2 trung đoàn dồn lại còn 1 : Quân khu 9: ba trung đoàn dồn lại còn một trung đoàn và một tiểu đoàn. Vùng giải phóng bị thu hẹp, mất bàn đạp và chỗ đứng chân ở đồng bằng. các sư đoàn 5.7.9 chủ lực Miền bị đẩy lên tận biên giới Campuchia.  Thừa cơ hội này. địch tăng cường hành quân, càn quét, lấn chiếm.

Trận chiến trường miền Đông Nam Bộ. Sư đoàn 1 kỵ binh không vận. Sư đoàn 101 dù. Sư đoàn 25 bộ binh cơ giới Mỹ luân phiên đánh phá dọc biên giới Việt Nam - Campuehia. Ở Tâỵ nam Bộ. Sư đoàn 21 bộ binh và Liên đoàn 4 biệt động nguỵ chốt chặn biên giới đoạn từ Kiến Tường đến kênh Vinh Tế.

Ở Khu V. Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ, Sư đoàn Amêricơn: Lữ đoàn dù 173 Mỹ cùng Lữ đoàn 2 Rồng Xanh thuỷ quân lục chiến và Sư đoàn Bạnh Mã (Nam Triều Tiên) đánh vào vùng căn cứ ta ở Giằng, Đại Lộc (Quảng Đà). An Lão, Kim Sơn, Núi Bà (Bình Định). Cây Vừng, Kỳ Lộ, Sông Hình (Phú Yên) . . . 

Cách mạng miền Nam dang đứng trước những thủ thách nghiêm trọng. Cục diện chiến trường tạm thời có lợi cho địch.  Trước tình hình đó, tháng 4-1969 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn biện pháp tháo gỡ khó khăn. 

Bộ Chính trị nhận định, lợi dụng lúc ta khó khăn, định tập trung lực lượng phản kích quyết liệt trên nhiều hướng, làm cho lực lượng vũ trang, chính trị của ta bị tiêu hao, cơ sở của ta tiếp tục bị vỡ,vùng giải phóng bị thu hẹp. Tuy vậy, địch không mạnh mà là hành động điên cuồng trong thế thua, vì thất bại, suy yếu buộc phải xuống thang chiến tranh, nhưng lại muốn xuống thang trên thế mạnh, đó là một mâu thuẫn vốn có trong chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ. Mâu thuẫn đó càng bị khoét sâu khi chiến tranh kéo dài.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 05 Tháng Bảy, 2009, 03:33:02 pm
Bộ Chính trị chủ trương động viên những nỗ lực cao nhất của cả hai miền tiến công và nổi dậy tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực nguỵ, phá vỡ phương trình trình định, đánh đổ và làm suy yếu nguỵ quyền các cấp từ trung ương đến địa phương; khôi phục và mở rộng vùng giải phóng, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải từ bỏ ý đồ kết thúc chiến tranh, rút quân Mỹ về nước trên thế mạnh. 

Thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm tăng cường công tác tơ tưởng, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang trên cả hai miền Nam - Bắc. 

Tại Hà Nội, tháng 5- 1969, Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân được tổ chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện thân mật với các đại biểu dự hội nghị. Bác chỉ thị cho quân đội: “Phải xây dựng lực lượng thật tốt, chất lượng thật cao. Luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu giỏi. bảo vệ tốt miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chú ý tiết kiệm sức người và sức của, giữ gìn thật tốt vũ khí, trang bị” 1

Cùng với việc tổ chức hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị về Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng và điều chỉnh sôllượng bộ đội thường trực một cách thích hợp nhằm bảo đảm cho các đơn vị làm tốt nhiệm vụ chiến đấu ở miền Nam, bảo vệ miền Bắc, giúp cách mạng Lào và phát triển lực lượng khi cần thiết. Một đề án chấn chỉnh lực lượng do Bộ Tổng tham mưu đề xuất đã được . 

Quân uỷ Trung ương phê duyệt. Theo đó. các sơ đoàn, trung đoàn bộ binh chủ lực của Bộ Tổng tư lệnh và các quân khu được kiện toàn đủ quân số và trang bị. Khối cơ quan, đơn vị phục vụ thuộc quân: binh chủng, quân khu, nhà trường giảm bớt để tăng cường lực lượng trực tiếp chiến đấu. Đến cuối năm 1969. toàn quân đã kiện toàn một bước biên chế tổ chức các đơn vị. rút được 13.200 cán bộ. chiến sĩ tăng cường cho chiến trường.

Nhằm lao dám sức chiến đấu cho lực lượng vũ trang ở miền ~vam trong Lình hình mới. quân uy Trung ương và I3ộ Thông tơ lệnh quyết định diều động nhiều đơn vị với đủ quân số và trang bị vào chiến trường, đồng thời điều chỉnh các đơn vị chủ lực ở chiến trường cho phù hợp với khả năng bảo dám vật chất cũng như đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới trên từng địa bàn.

Vừa củng cố tổ chức, các lực lượng vũ trang ta ở miền Nam vừa tiếp tục tiến công và phản công dịch. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1969, ta đã mở hai đợt hoạt động lớn.

Đợt hoạt động Xuân (từ ngày 22-2 đến ngày 30-3-1969) và đợt hoạt dộng Hè (từ ngày 11-5 đến ngày 2-6-1969).  Trong đợt hoạt động Xuân, quân và dân ta ở miền Nam đã đánh vào 36 thành phố, thị xã, trên 100 quận lỵ, nhiều kho tàng, sân bay, sở chỉ huy của Mỹ - nguỵ, loại khỏi vòng chiến đấu nhiều sinh lực địch.

Đợt hoạt động hè các lực lượng vũ trang ta đánh vào 830 mục tiêu của địch, trong đó có 57 căn cứ, sở chỉ huy từ cấp trung đoàn trở lên, 41 sân bay quân sự. Đáng chú ý trong đợt hoạt động này: ngoài những trận đánh vừa và nhỏ nhằm tiêu hao một bộ phận lực lượng địch. ta mở được một số chiến dịch và trận đánh lớn như chiến dịch Đắc Tô II ở Tây Nguyên (từ ngày (5-5 đến ngày 17-6-1969) chiến dịch Long Khánh ở miền Đông Nam Bộ (từ ngày 5-5 đến ngày 20-6-1969).

Ở Trị - Thiên. ta chặn đánh quyết liệt các cuộn tiến công của địch vào tuyến vận tải chiến lược ở các khu vực Côcava, Tam Tanh. A Lưới, A Bia. trong đó trận đánh ở đồi A Bia là trận đánh dẫm máu nhất đối với quân Mỹ. A Bia được báo chí Mỹ và phương Tây đặt cho cái tên là Hamburger (Đồi băm thịt), còn Thượng nghị sĩ Mỹ Kennơđi thì chua xót nhận xét: cuộc tiến công lên núi A Bia là vô dạo đức, là dã man, là vô nghĩa, vô trách nhiệm. Không thể đem sinh mệnh của người Mỹ làm vật hy sinh vì lòng tự ái quân nhân” 2.
 
Mặc dù trong nùa đầu năm 1969, ta tiếp tục tiến công,  tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận lớn lực lượng định, song do hoạt động liên tục và bị tổn thất nặng trong năm 1968, ta chưa có thời gian củng cố, nguồn tiếp tế từ miền Bắc vào gặp nhiều khó khăn, lực lượng và cơ sở vật chất có hạn, trong khi đó: địch phản kích quyết liệt, nhất là sau đợt hoạt động Hè đã đẩy đại bộ phận chủ lực ta bật lên vùng rừng núi.


_______________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.454.
2. AP ngày 21 -5- 1969.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 06 Tháng Bảy, 2009, 10:45:31 pm
Mặc dù trong mùa đầu năm 1969, ta tiếp tục tiến công,  tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận lớn lực lượng định, song do hoạt động liên tục và bị tổn thất nặng trong năm 1968, ta chưa có thời gian củng cố, nguồn tiếp tế từ miền Bắc vào gặp nhiều khó khăn, lực lượng và cơ sở vật chất có hạn, trong khi đó: địch phản kích quyết liệt, nhất là sau đợt hoạt động Hè đã đẩy đại bộ phận chủ lực ta bật lên vùng rừng núi.

Ở nông thôn đồng bằng, lực lượng vũ trang địa phương cũng bị tiêu hao nặng. Mùa mưa năm 1969. địch tiếp tục lấn tới đẩy mạnh bình định cấp tốc giành lại nông thôn đồng bằng và đánh phá các căn cứ ở miền núi, các hành lang vận chuyển tiếp tế của ta, kết hợp với các hoạt động tình báo, gián điệp thông qua chương trình Phượng hoàng gây cho ta nhiều khó khăn.

Ngày 6-6- 1969, Đại hội đại biểu quốc dân toàn miền Nam đã bầu ra Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Đây là một sự kiện quan trọng có ý nghĩa to lớn của nhân dân miền Nam. Chính phủ vừa thành lập là đại diện chân chính cho cách mạng miền Nam trong mọi hoạt động, nhất là khi mặt trận đấu tranh ngoại giao đang diễn ra sôi nổi.

Chính phủ cách mạng ra đời còn là một đòn giáng mạnh vào nguỵ quyền thối nát, tay sai của đế quốc Mỹ. Việc thành lập Chính phủ là một cuộc vận động trung lập, mở rộng hàng ngũ của mặt trận cách mạng, là đòn tiến công chính trị mạnh me phối hợp với cuộc tiến công quân sự và giải pháp 10 điểm về ngoại giao của ta, nâng cao uy tín cách mạng miền Nam trên thế giới. 

Tính chất của Chính phủ lâm thời là Chính phủ liên hiệp động rãi. tập hợp các lực lượng tán thành hoà bình, trung lập, độc lập dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính phủ có nhiệm vụ đoàn kết nhân dân miền Nam chiến đấu đánh bại đế quốc Mỹ, lật đổ nguỵ quyền tay sai phản động đưa miền Nam Việt Nam phát triển theo con đường độc lập, hoà bình, dân chủ trung lập, phồn vinh tiến tới thống nhất đất nước.

Chính phủ có hệ thống chính quyền chặt chẽ từ trên xuống dưới bao gồm thành phố, tỉnh, huyện, xã, khu phố hợp thành một cơ cấu thống nhất hoàn chỉnh.

Mặt trận dân tộc giải phóng, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt Nam và các đoàn thể cách mạng khác vẫn hoạt động mạnh mẽ, làm hậu thuẫn cho Chính phủ lâm thời.

Tháng 7- 1969, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị lần thứ chín: Hội nghị đánh giá: Từ Xuân 1969 đến nay, trên cơ sở quán triệt quyết tâm chiến lược của Trung ương, ta đã có một bước tiến bộ rõ rệt trong việc vận dụng phương châm phương thức đấu tranh và xây dựng cả về mặt quân sự và chính trị . . .

Nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ to lớn của chiến trường, ta vẫn chưa tạo ra được những chuyển biến nhảy vọt có ý nghĩa quyết định. . . Bên cạnh những thắng lợi và những - ưu điểm lớn, chúng ta còn nhiều khuyết điểm và khó khăn. . .  Mũi tiến công binh vận còn quá yếu, du kích chiến tranh phát triển chậm và không đều. . . Việc bổ sung lực lượng, công tác bảo đảm vật chất cho chiến trường còn nhiều thiếu sót và nhiều nơi đang gặp khó khăn 1.

Nguyên nhân của những khuyết điểm trên là các cấp lãnh đạo chưa nhận thức đầy đủ và vận dụng chưa linh hoạt chu trương của Trung ương vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương: chưa thấy hết âm mưu và thủ đoạn mới của địch. 

Trung ương Cục đã đề ra nhiệm vụ trước mắt cho quân và dân Nam Bộ là: “Động viên sự nỗ lực phi thường của toàn Đảng, toàn quân toàn dân ra sức phát huy thắng lợi đã giành được, kiên quyết khắc phục các khuyết điểm và nhược điểm, nắm vững và sáng tạo thời cơ tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa với ba mũi giáp công đến đỉnh cao nhất kết hợp với tấn công ngoại giao, khẩn trương xây dựng lực lượng quân sự và chính trị; phát triển thế tiến công chiến lược một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ trên cả ba vùng chiến lược, đánh bại chiến lược quét và giữ, chính sách bình định và các mục tiêu, biện pháp phòng ngự của địch, đánh bại âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh và chủ trương “Phi Mỹ hoá” chiến tranh của chúng, đánh cho Mỹ phải rút quân đánh cho nguỵ phải suy sụp và ta giành được thắng lợi quyết định” 2.



________________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t 30. tr.326,327, 340.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 06 Tháng Bảy, 2009, 10:48:15 pm
Trung ương Cục chỉ rõ: để thực hiện nhiệm vụ trên: phải làm tốt những công tác lớn sau:

1. Đẩy mạnh tiến công quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang: Phối hợp hoạt động của ba thứ quân trên các chiến trường, ra sức tiêu diệt. tiêu hao và kìm chân lực lượng lớn Mỹ, nguỵ ở đô thị, mặt khác căng địch ra trên các chiến trường nông thôn đồng bằng, miền núi: tập trung chủ lực mạnh trên chiến trường có lợi, kéo địch ra dể tiêu diệt sinh lực và mở rộng vùng giải phóng. tập trung những cố gắng cao nhất. đẩy mạnh tiến công quân sự kết hợp chặt chẽ với tiến công chính trị và ngoại giao, giành thắng lợi lớn nhất, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của địch: đồng thời tạo ra thế và lực mạnh, tạo ra thời cơ mới để giành thắng lợi quyết định trong thời gian tới và bảo đảm đánh thắng địch trong mọi tình huống.

2. Tăng cường công tác dân vận làm cơ sở đẩy mạnh phong trào chính trị và binh vận tiến kịp tình hình mới.

3. Ra sức phát huy vai trò của chính quyền cách mạng, tăng cường lãnh đạo công tác an ninh, đẩy mạnh mặt trận kinh tế. tài chính, ra sức mở rộng và xây dựng căn cứ địa.

4. Xây dựng Đảng mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức để hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tình hình mới. 

Về tổ chức chiến trường, Trung ương Cục quyết định lập lại Khu VII gồm Phân khu 4, tỉnh Biên Hoà, Bà Rịa, Long Khánh và Đặc khu Rừng Sát. Các quận nội thành Sài Gòn trước kia tách về các phân khu, nay nhập lại như cũ. Đồng chí Nguyện Văn Linh - Phó Bí thư Trung ương Cục kiêm Bí thư Thành uỷ Sài Gòn.

Miền Tây Nam Bộ cũng được tăng cường lãnh đạo, chỉ huy. Đồng chí Võ Văn Kiệt được cử làm Bí thư Khu ủy, đồng chí Lê Đức Anh làm Tư lệnh Quân khu 9. 

Ở Khu V, tháng 9- 1969, Quân khu uỷ cũng họp và chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của quân khu là: “diệt kẹp,  giành dân”. Mọi hoạt dộng tác chiến của bộ đội khu lực cũng như bộ dội dịa phương đều phải nhằm đạt được mục tiêu này.  Muốn vậy, cùng với phát triển lực lượng vũ trang địa phương, phải tập trung củng cố các dợn vị chủ lực, phải giành được những trận lớn làm chuyển biến tình hình. 

Giữa lúc toàn đảng. toàn dân. toàn quân trên cả hai miền nỗ lực khắc phục mọi khó khăn dể đưa cách mạng miền nam tiến lên, thì ngày 2-9-1969. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Người mất đi là một tổn thất lớn cho đất nước và dân tộc đang anh dũng kháng chiến chống Mỹ, không có gì bù đắp được cho cách mạng Việt Nam, làm chấn động sâu sắc tình cảm, niềm tin, ý chí của đồng bào, chiến sĩ cả nước. 

Nén đau thương thành hành động cách mạng, làm theo Di chúc của Người, quân và dân ta ở miền Nam mở các cuộc tiến công và phản công đánh thắng địch càn quét vào khu vực Đỗ Xá (căn cứ của quân khu 5), vùng nam bắc lộ 4 (căn cứ của Quân khu 8), vùng rừng núi phía bắc miền Đông Nam Bộ (căn cứ Bộ Tư lệnh Miền), U Minh (căn cứ quân khu 9). 

Tháng 11- 1969, lực lượng vũ trang Quân khu 9 đập tan kế hoạch “nhổ cỏ” U Minh lần thứ nhất của Mỹ - nguỵ: Chiến thắng này một lần nữa khẳng định vai trò của bộ đội chủ lực, đồng thời nó chứng minh với sự phối hợp chặt che của ba thứ quân, ta có thể đánh thắng các cuộc hành quân càn quét quy mô lớn của địch, bảo vệ vững chắc căn cứ.

Trên địa bàn Tây Nguyên. ta mở chiến dịch Buprăng - Đức Lập (29- 10 đến 5- 12-1969) tiến công vào tuyến phòng thủ của địch ở tây nam thị xã Buôn Ma Thuộc. Sau hơn một tháng chiến đấu liên tục, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã loại khỏi vòng chiến đấu các chiến đoàn 220, 53 và một chiến đoàn hỗn hợp. Đây là một chiến công lớn của lực lượng vũ trang Tây Nguyên sau chiến dịch Đắc Tô II hồi giữa năm 1969. Nó chứng tỏ sức chiến đấu liền bỉ, dẻo dai của bộ đội chủ lực Tây Nguyên. 

Mặc dù nửa cuối năm 1969 Các lực lượng vũ trang ta trên các chiến trường đã có nỗ lực rất lớn, song việc chống phá các kế hoạch bình định của địch nhất là vùng đông dân cư ở đồng bằng sông Cửu Long và Khu V ta vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Đến cuối năm 1969 địch đã lấn chiếm hầu hết vùng đồng bằng sông Cửu Long trừ căn cứ U Minh, Đồng Tháp Mười và một số lõm giải phóng ở phía bắc đường 4. Khu V và Tây Nguyên, nếu năm 1968 số dân vùng giải phóng là 1.110.000 người thì năm 1969 chỉ còn 838.000 người.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 06 Tháng Bảy, 2009, 11:06:11 pm
Trên toàn chiến trường, địch lập 5800 ấp chiến lược, đóng 6.964 đồn bốt, kiểm soát 10.000.000 dân. Vùng giải phóng và vùng làm chủ của ta từ 1.114 xã với 7,7 triệu dân năm 1968, nay tụt xuống còn 590 xã với 4.7 triệu dân. Ngay các vùng căn cứ và vùng giải phóng mà ta đã làm chủ cũng thường xuyên bị địch bao vây. Tình hình này làm một số cán bộ, chiến sĩ và nhân dân lo ngại, có người bi quan, giao động. 

Tháng 1-1970, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập. Hội nghị phân tích sự phát triển cục diện chiến trường từ đầu Xuân Mậu Thân, chủ yếu là đánh giá lại tình hình năm 1969, vạch rõ những thiếu sót về chỉ đạo sau đợt tiến công Tết, đánh giá âm mưu thủ đoạn mới của địch và đề ra những chủ trương, nhiệm vụ công tác lớn.

Nghị quyết khẳng định: “Sang năm 1969, quân và dân ta dã nỗ lực vượt bậc, tiếp tục phát huy thế chiến lược tiến công. . . Mặc dù địch ra sức giành giật quyết ]iệt với ta. gây cho ta một số khó khăn. đồng thời ta cũng có những thiếu sót và những chỗ yếu, song về căn bản dịch không sao gỡ được khỏi thế phòng ngự. xuống thang và thất bại” 1.

Nghị quyết chỉ rõ những mặt yếu và hạn chế của ta là:

“Hoạt động của bộ đội chủ lực tiến lên không đều, có chiến trường còn chưa phát huy hiệu lực lớn, đặc biệt là chiến tranh du kích chưa được dẩy mạnh đúng tầm chiến lược của nó. Việc phá âm mưu bình định, giành dân của địch chưa được coi trọng đúng mức.

Về mặt đấu tranh chính trị, nhất là ở các thành thị, phong trào chưa phát triển kịp với tình hình. chưa khai thác hết khả năng to lớn của ta. Công tác binh vận còn yếu.  Việc giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, chúng ta làm chưa tốt, có nơi vùng giải phóng bị thu hẹp. Việc động viên sức người, sức của tại chỗ để bồi dưỡng lực lượng ta cũng còn hạn chế.

Việc xây dựng lực lượng vũ trang, nói chung có tiến bộ, nhưng còn chưa cân đối về nhiều mặt. Chất lượng bộ đội chủ lực chưa tiến kịp yêu cầu của nhiệm vụ tác chiến. Bộ đội địa phương chưa được tăng cường đúng mức, có nơi còn yếu. Lực lượng du kích phát triển chậm” 2.

Sau khi phân tích những mặt mạnh, yếu của ta, âm mưu và chủ trương chiến lược mới của địch, Hội nghị Trung ương lần thứ 18 đề ra nhiệm vụ trước mắt cho quân và dân ta là:

“Động viên nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự và tiến công chính trị, kết hợp với tiến công ngoại giao, vừa tiến công địch vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh; đánh bại âm mưu Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ,  đánh bại âm mưu xuống thang từng bước, kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh hòng duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới của chúng ở miền Nam nước ta: làm thất bại thế chiến lược phòng ngự của địch, tạo nên chuyển biến mới trong cục diện chiến tranh giành thắng lợi từng bước di đến giành thắng lợi quyết định. đánh cho Mỹ phải rút hết quân. đánh cho nguỵ phải suy sụp. tạo điều kiện cơ bản dể thực hiện một miền Nam độc lập( dân chủ hoà bình. trung lập tiến tới thống nhất đất nước” 3.

Để hoàn thành nhiệm vụ này, Trung ương chỉ ra những công tác lớn:

1. Đẩy mạnh tấn công quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang.

2. Đẩy mạnh đấu tranh chính trì và xây dựng lực lượng chính trị ở thành thị.

3. Đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị ở nông thôn, phát động cao trào nổi dậy của quần chúng, ra sức giành dân, giữ dân, mở rộng vùng giải phóng, dành bại kế hoạch bình định nông thôn của địch.

4. Đẩy mạnh công tác binh vận, địch vận.


__________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 31 . tr.94.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 31, tr.39.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t 31. tr.117.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 06 Tháng Bảy, 2009, 11:08:18 pm
Đối với miền Bắc, Trung ương xác định: “Có nhiệm vụ tích cực khắc phục những hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát triển một bước nền kinh tế, tiếp tục đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến lên; ra sức tăng thêm tiềm lực kinh tế và quốc phòng, củng cố hậu phương vững mạnh; đồng thời hết lòng chi viện cho miền Nam để góp sức lớn nhất cùng đồng bào miền Nam danh thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, làm tròn nghĩa vụ thiêng liêng của hậu phương lớn đối với tiến tuyến lớn” 1.

Lúc này ở Lào, cuộc chiến tranh đặc biệt được Mỹ đẩy lên với quy mô và cường độ ngày càng cao, cuộc hành quân Cù Kiệt do Mỹ chỉ đạo tháng 8- 1969 có thể xem như một cuộc hành quân điển hình cho việc áp dụng học thuyết Níchxơn ở Lào theo công thức quân nguỵ Viêng chăn cộng với hậu cần và hoả lực tối đa của không quân Mỹ.

Với sự chi viện đắc lực của không quân Mỹ và một lực lượng lớn quân hỗn hợp gồm cả phỉ Vàng pao, nguỵ Viếng Chăn và lính Thái Lan (12.000 tên) cuộc hành quân đã gây thiệt hại dáng kể cho cả ta và bạn Lào. Trên 200 bản làng, 3.000 nóc nhà bị phá huỷ hàng ngàn dân thường thuộc cán bộ tộc Lào bị thương vong, hàng ngàn người phải dời làng đi nơi khác. Lực lượng vũ trang Pa thét Lào và Trung đoàn 174 bộ đội tình nguyện Việt Nam mặc dù chặn đánh địch quyết liệt, diệt được một số, nhưng sức địch quá mạnh, cuối cùng ta phải rút ra ngoài để củng cố, chỉ để lại một tiểu đoàn cùng quân đội bạn giữ bàn đạp tiến công.

Lợi dụng cơ hội này, dịch mở rộng phạm vi đánh chiếm ra những vùng xung quanh Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, tiến gần tới phía tây Nghệ An.

Nhằm khôi phục lại địa bàn chiến lược vừa bị mất, đập tan cuộc hành quân Cù Kiệt, tạo thế thuận lợi cho cách mạng Lào phát triển. từ ngày 25-10-1969, ta và bạn phối hợp mở chiến dịch phản công mang tên chiến dịch 139 (còn gọi là chiến dịch Toàn Thắng). Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 2 sư đoàn (316, 312) , Trung đoàn 866 bộ binh, Trung đoàn 16 pháo binh. 6 tiểu đoàn đặc công, công binh và 10 tiểu đoàn bộ binh, 1 đại đội xe tăng của Pa thét Lào, đồng chí Vũ Lập được cử làm Tư lệnh, đồng chí Huỳnh Đắc Hương làm Chính uỷ chiến dịch.

Chiến dịch bắt đầu vào mùa mưa. hệ thống đường sá kém phát triển, thường xuyên bị sụt lở, lầy lội, địch lại liên tục đánh phá ác liệt, việc chuẩn bị vật chất, tập kết và triển khai đội hình chiến đấu gặp rất nhiều khó khăn. Đến đầu tháng 2- 1970, giai đoạn tạo thế chiến dịch mới xong.

Ngày 11-2-1970, bộ dội tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pa thét Lào bắt đầu nổ súng tiến công địch ở Cánh Đồng Chum. Sau 3 ngày tiến công. ta hoàn toàn làm chủ trận địa, địch phải rút toàn bộ lực lượng khỏi Cánh Đồng Chum vào ngày 21-2-1970.  Cùng thời gian: ở hướng tây, bộ đội Pa thét Lào tiến công Salaphucun, buộc dịch rút bỏ Xiêng Khoảng (25-2-1970). 

Phát huy thắng lợi, ngày 18-3-1970, liên quân Lào - Việt tiến công giải phóng Sảm Thông, uy hiếp sào huyệt của lực lượng đặc biệt Vàng Pao ở Long Chứng. Địch phải rút lực lượng từ các quân khu 1, 2, 3 về tăng cường phòng thủ Long Chứng và tổ chức phản kích chiếm lại Sảm Thông. Đây cũng là lúc mùa mưa ở Lào bắt đầu. Việc vận chuyển tiếp tế của ta gặp khó khăn. Bộ Chỉ huy quyết định kết thúc chiến dịch để bảo toàn lực lượng, tổ chức chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng Lào.

Ta loại khỏi vòng chiến đấu 6500 tên, diệt 5 tiểu đoàn, đánh thiệt hại 4 tiểu đoàn. Nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại của địch bị phá huỷ và phá hỏng. Khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng được giải phóng. Với chiến thắng trong chiến dịch mang tên 139 Đông Xuân năm 1970, ta đã đập tan cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ và tay sai trong việc tăng cường chiến tranh dặc biệt ở Lào, khôi phục và mở rộng vùng giải phóng Lào, làm thất bại âm mưu ngăn chặn và bóp nghẹt cách mạng miền Nam của Mỹ. 

Trên chiến trường miền Nam Việt Nam, tháng 3-1970, Quân giải phóng Tây Nguyên mở chiến địch Đắc Siêng (bắc Kon Tum). Từ ngày 31-3 đến ngày 28-4-1970, ta tiêu diệt 361 tên địch. bắt sống 86 tên khác, thu 122 súng các loại bắn rơi, phá huỷ 17 máy bay. Với chiến thắng Đắc Siêng, Tây Nguyên đã sáng tạo một cách đánh mới, vừa bao vây vừa công kích liên tục để đánh tiêu diệt các đơn vị địch đóng quân dã ngoại. 


________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 31 . tr. 124, 125. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 09 Tháng Bảy, 2009, 04:04:14 pm
Ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Khu V, Trị - Thiên, chiến tranh du kích sau một thời gian chìm lắng, nay phát triển mạnh. tiêu diệt các đồn bốt nằm cô lập của địch, hỗ trợ cho nhân dân phá thế kìm kẹp của địch, giải phóng được nhiều vùng địch dã lấn chiếm trước đây. Các đơn vị chủ lực cơ dộng bắt đầu di chuyển xuống các vùng ven đô thị và vùng giáp ranh tạo ra một thế đứng mới, thế chủ động trên các chiến trường.

Giữa lúc cách mạng Việt Nam ở miền Nam đang hồi phục và trên đà phát triển, ngày 18-3-1970, đế quốc Mỹ chỉ huy bọn tay sai Lonnon - Xirích Matắc làm cuộc đảo chính lật đổ Chính phủ trung lập Vương quốc Campuchia do Hoàng thân Xihanúc đứng đầu. Tình hình Campuchia xấu đi rõ rệt.

Mới lên cầm quyền, Lonnon đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và Cộng hoà miền Nam Việt Nam buộc lực lượng ta phải rời khỏi Campuchia trong vòng 48 giờ: trong khi đó chúng đưa quân nguỵ Phnôm Pênh áp sát biên giới Việt Nam từ Tây Ninh, Kiến Tường đến Châu Đốc, Hà Tiên.  Cách mạng Việt Nam ở miền Nam. Lào. Campuchia đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng. 


II- ĐỘNG VIÊN NỖ LỰC CAO NHẤT ĐOÀN KẾT VỚI NHÂN DÂN CAM-PU-CHIA
KIÊN QUYẾT ĐÁNH THẮNG ÂM MƯU VÀ HÀNH ĐỘNG MỞ RỘNG CHIẾN TRANH
RA TOÀN CÕI ĐÔNG DƯƠNG CỦA MỸ.

Sau cuộc đảo chính lật đổ Chính phủ Xihanúc, ngày 4-4-1970, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chỉ thị cho Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền (B2), Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chuẩn bị sẵn sàng lực lượng và kế hoạch tác chiến để khi bạn yêu cầu, sẽ giúp đỡ bạn giành quyền làm chủ ở các tỉnh tiếp giáp với ta.

Bộ Chính trị nhắc các chiến trường “cần nghiên cứu tổ chức, bố trí lại lực lượng cho thích hợp với tình hình mới, bảo đảm đẩy mạnh tiến công ở miền Nam, giúp cách mạng Campuchia có hiệu lực, vừa mạnh, vừa vững chắc, chủ động và lâu dài” 1.

Ngày 24-4- 1970, Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương được tổ chức tại một địa điểm ở Trung Quốc, gần biên giới Việt Nam - Lào nhằm tăng cường đoàn kết giữa nhân dân ba nước Đông Dương chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. Hội nghị gồm những người đứng đầu nhà nước: Việt Nam dân chủ cộng hoà - Phạm Văn Đồng;   Cộng hoà miền Nam Việt Nam - Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Vương quốc Campuchia - Hoàng thân Xihanúc. và Pa thét Lào - Hoàng thân Xuphanuvông. Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa - Chu Ân Lai cũng tham gia hội nghị.

Tại hội nghị. Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát biểu: Trên đà thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở ba nước chúng ta. và trong tình hình rất nghiêm trọng hiện nay do sự can thiệp và xâm lược của đế quốc Mỹ gây ra, Hội nghị cấp cao của nhân dân Đông Dương lần này là hội nghị tăng cường đoàn kết, siết chặt hàng ngũ của nhân dân Campuchia nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam để kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu ngoan cường và quyết liệt, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn...

Các đại biểu tham dự hội nghị căm phẫn lên án hành động xâm lược của dế quốc Mỹ và thống nhất quyết tâm lãnh đạo nhân dân ba nước đoàn kết chiến đấu chống Mỹ và bè lũ tay sai của mỗi nước. Hội nghị đã ra một bản Tuyên bố chung có tính chất cương lĩnh đấu tranh của nhân dân ba nước Đông Dương, đồng thời cũng là hiến chương về mối quan hệ đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam - Lào - Campuchia. 

Chưa đầy một tuần sau Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương, ngày 30-4-1970, đế quốc Mỹ huy động 10 vạn quân Mỹ và quân nguỵ Sài Gòn vượt biên giới, tiến công xâm lược Campuchia, nhằm xoá bỏ nền trung lập Campuchia, đưa nước này vào quỹ đạo của Mỹ, phá “đất thánh của Việt cộng” trên đất Campuchia, cắt đứt hành lang vận chuyển của ta qua cảng Xihanúcvin, bao vây, uy hiếp cách mạng miền Nam Việt Nam từ hướng tây.

Những hành động của đế quốc Mỹ được Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta chỉ rõ: Đây là một trong những sai lầm chiến lược rất quan trọng của Mỹ, ta phải nắm lấy dể đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ba nước Đông Dương sang giai đoạn phát triển mới. Đông Dương trở thành một chiến trường thống nhất, là đặc điểm mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.


______________________
1. Điện Bộ Chính trị gu Trung ương Cục miền Nam ngày 4-4-1970, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 09 Tháng Bảy, 2009, 04:11:45 pm
Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục và Quân uỷ Miền phải quán triệt nhiệm vụ của lực lượng vũ trang ta trong tình hình mới: “Đoàn kết chiến đấu với nhân dân Campuchia, cùng nhau chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, phối hợp chặt chẽ với bạn, làm thất bại âm mưu quân sự của địch trên chiến trường Campuchia, giữ vững và mở rộng cho được những địa bàn đứng chân của ta và căn cứ của bạn, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân Campuchia và của Việt kiều, bảo đảm các đường giao thông chiến lược và các cơ sở hậu cần của ta, đồng thời tích cực giúp cách mạng Campuchia phát triển và củng cố theo phương hướng đã định, chủ động đánh nhanh, đánh mạnh, đánh liên tục nhằm tạo nên một chuyển biến có lợi cho ta trong một thời gian ngắn trong khi địch chưa kịp củng cố, đồng thời chuẩn bị đối phó với khả năng khó khăn và kéo dài...” 1.

Bộ Chính trị đánh giá: “Campuchia là một địa bàn khá quan trọng về mặt quốc tế, nên ta cần ngăn chặn và hạn chế sự tập hợp của các lực lượng phản động quốc tế, ta phải làm nhanh, làm mạnh... phát động được nhân dân Campuchia nổi dậy càng mạnh mẽ bao nhiêu, càng làm cho bọn đế quốc và lực lượng phản động khác lăm le can thiệp vào Campuchia phải lúng túng bấn nhiêu” 2.

Trên tinh thần đoàn kết chiến đấu mà Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương đã xác định, đồng thời thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, ta đã phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở cuộc phản công nhằm đánh thắng âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương của đế quốc Mỹ.

Cuộc phản công được mở trên cả hai hướng. Hướng đông và đông nam có các sư đoàn 1, 5, 7, 9 bộ đội chủ lực Miền dưới sự lãnh đạo và chỉ huy trực tiếp của đồng chí Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục và đồng chí Hoàng Văn Thái - Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Miền, từ Nam Bộ đánh sang. Hướng đông bắc có các trung đoàn 24, 95 và Tiểu đoàn 631 độc lập do các đồng chí Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh và Trần Thế Môn - Chính uỷ Mặt trận Tây Nguyên chỉ huy, từ Tây Nguyên tiến sang và từ Hạ Lào đánh xuống. 

Mặc dù chưa quen chiến trường mới với điều kiện địa hình phức tạp, thời gian chuẩn bị gấp. nhưng với quyết tâm cao, các lực lượng vũ trang ta đã phối hợp chặt chẽ với bạn chiến đấu giành thắng lợi lớn. Chỉ sau hai tháng (cuối tháng 4 đến cuối tháng 6-1970), ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên địch, trong đó có hàng ngàn tên Mỹ 3, phá huỷ trên 1.500 xe quân sự, trong đó có 750 xe tăng và xe bọc thép,  thu 113 xe vận tải, hơn 5.000 súng các loại, 400 tấn đạn, 1.570 tấn gạo, 100 tấn thuốc và nhiều đồ dùng quân sự khác. 

Ta đã giúp loạn giải phóng hoàn toàn , 5 tỉnh Đông Bắc Cam Pu Chia với hơn 4 triệu dân.

Thắng lợi quân sự trên chiến trường cùng vòi phong trào phản đối mạnh mẽ của nhân dân thế giới, kể cà nhân dân Mỹ. ngày 30-6-1970. Níchxơn phải tuyên bố rút quân khỏi Campuchia. Đây là thất bại nặng nề đầu tiên của việc ứng dụng học thuyết Níchxơn trên chiến trường ba nước Đông Dương.

Nhân cơ hội quân Mỹ, nguỵ Sài Gòn đang bịị sa lầy ở chiến trường Campuchia. các lực lượng vũ trang giải phóng tiến công vào hàng loạt căn cứ dịch ở các thành phố. thị xã và tuyến phòng thủ vòng ngoài của chúng trên toàn miền nam Việt Nam.

Ở Trị - Thiên. Sư đoàn 324 cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến công vào tuyến giữa hệ thống phòng thủ tây Thừa Thiên.

Khu V. Sư đoàn 2 và chủ lực Mặt trận 4 tiền công tuyến phòng thủ cơ bản của địch ở Thượng Đức, Hiệp Đức, các căn cứ đóng quân của Lữ đoàn 198. Lữ đoàn 11. Sư đoàn Amêricơn, Sư đoàn 3 tiến công cứ điểm Núi Lá và cùng với lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định tiêu diệt 15 cứ điểm địch ở Hoài Ân. Hoài Nhơn, Phù Mỹ.


_____________________
1. Điện của Bộ Chính trị gửi Trung ương Cục, Quân uỷ Miền, ngày 3-5-1970. 
2. Điện của Bộ Chính trị gửi Trung ương Cục, Quân uỷ Miền, ngày 3-5-1970.
3. Theo Tổng kết 4 tháng (tháng 3,4,5,6) của nguỵ Sài Gòn, có 7.450 tên nguỵ và 2.765 tên Mỹ bị diệt.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 09 Tháng Bảy, 2009, 04:20:12 pm
Ở Tây Nguyên, ta vây ép cụm cứ điểm Đắc Siêng đánh bại các cuộc phản kích của trung đoàn 42 nguỵ. 

Tại cực nam Trung Bộ, ta liên tục tập kích vào căn cứ Sông Mao. đánh thiệt hại Sở Chỉ huy nhẹ Sư đoàn 23 và Sở Chỉ huy Trung đoàn 44 nguỵ.

Ở Nam bộ, ta liên tục tiến công vào các cứ điểm, sở chỉ huy các chiến đoàn, sư đoàn nguỵ, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân lấn chiếm của dịch, bảo vệ vững chắc căn cứ của ta. 

Cùng với đòn tiến công quân sự trên mặt trận chống phá bình định. quân và dân ta ở miền Nam cũng thu được kết quả khả quan. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1970 ở đồng bằng sông Cửu Long đã bao vây, bức rút gần 1.000 đồn bốt. phá lỏng 1.600 ấp chiến lược và khu dồn dân. làm chủ 320 ấp với 40 vạn dân.

Ở Khu V. từng mảng hệ thống cứ điểm địch bị phá vỡ, gần 2.000 tên ác ôn đầu sỏ bị tiêu diệt, chương trình bình định của địch từ đầu năm 1970 đã chững lại. Những thắng lợi của ta trong nửa đầu năm 1970 trên chiến trường ba nước Đông Dương dã mở ra bước ngoặt mới để ta đưa cuộc kháng chiến vượt qua những khó khăn ác liệt, tiếp tục phát triển đi lên trong những năm sau.

Từ khi Níchxơn công khai mở rộng chiến tranh xâm lược sang Campuchia và Lào, nhân dân Mỹ càng nhận ra rằng chính phủ dã lừa dối họ thật sự. Chiến tranh chẳng những không chấm dứt như hàng triệu người dân Mỹ cũng như trên thế giới mong đợi, mà ngày càng lan rộng, ác liệt hơn trước. Họ phẫn nộ lên tiếng phản đối chính quyền Níchxơn.

Phong trào chống chiến tranh Việt tam, chống Chính phủ Níchxơn bùng lên mạnh mẽ dưới hình thức biểu tình, tuần hành của các tầng lớp nhân dân Mỹ. Hơn 200 tổ chức chống chiến tranh của Uỷ ban phối hợp toàn quốc đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam được thành lập ở hầu hết các bang nước Mỹ, thu hút hàng vạn công dân Mỹ tham gia, đặc biệt cuộc bãi khoá của sinh viên Mỹ thuộc 100 trường cao đẳng và dại học tháng 5-1970, phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của chính quyền...

Phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam không chỉ diễn ra ở nước Mỹ mà lan rộng trên toàn thế giới. Có đến 160 triệu thanh niên thuộc nhiều nước ớ khắp các châu lục ghi tên tình nguyện sang giúp nhân dân Việt Nam đánh Mỹ. 

Ở 16 nước châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh và châu Âu có phong trào hiến máu và quyên góp tiền ủng hộ nhân dân Việt Nam. Cảm động trước những tấm lòng cao cả ấy, nhân dân Việt Nam mãi mãi ghi sâu những đóng góp đầy tình hữu nghị của bè bạn trên thế giới.

Những cuộc đấu tranh đó đã tác động đến nhiều nghị sĩ Quốc hội Mỹ. Họ đứng về phía nhân dân tiến bộ Mỹ phản đối chiến tranh. Ngày 6-4- 1970, Quốc hội Mỹ buộc phải bỏ phiếu chấm dứt hiệu lực Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, tước quyền sử dụng quân đội Mỹ ở nước ngoài của Tổng thống. Ngày 30-6, Thượng nghị viện Mỹ thông qua Quyết định bổ sung cấm việc sử dụng quân Mỹ ở Campuchia. Cùng ngày, Níchxơn phải tuyên bố rút quân Mỹ khỏi Campuchia. Đó là thất bại có tính chất chiến lược của Níchxơn và chính quyền hiếu chiến Mỹ.

Chiến tranh còn diễn biến phức tạp và ác liệt trên nhiều mặt, những gì ta và bạn giành dược trong năm 1969 và nửa năm đầu 1970 là rất quan trọng, có ý nghĩa chiến lược mở ra thời cơ và thế chiến lược mới cho cách mạng ba nước Đông Dương. Từ nay ba nước Đông Dương có một vùng căn cứ cách mạng rộng lớn bao gồm vùng Đông Bắc Campuchia, Hạ Lào và Đông Nam Bộ, Tây Nguyên nối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. .

Mặc dù ta đã giành được những thắng lợi to lớn, nhưng đến lúc này, nhiều vấn đề mới đặt ra trong sự phát triển của từng chiến trường và cục diện chiến tranh cần phải nghiên cứu giải quyết, Bộ Chính trị Ban Chạp hành Trung ương Đảng thấy cần kịp thời đề ra những chủ trương: quyết sách lãnh đạo, đưa cách mạng tiến lên.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 09 Tháng Bảy, 2009, 04:23:30 pm
Trên tinh thần đó, ngày 19-6- 1970, Bộ Chính trị họp ra Nghị quyết về Tình hình mới ở bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta. Bộ Chính tn nhận định: Tình hình Campuchia là sự kiện nổi bật nhất trong thời gian gần đây trên bán đảo Đông Dương, tuy đã bị thất bại nặng nề, nhưng “do bản chất cực kỳ ngoan cố của chúng, lại do chúng còn có tiềm lực, đế quốc Mỹ sẽ tìm cách kéo dài chiến tranh, vừa xuống thang vừa phản công bộ phận, vừa rút quân Mỹ, vừa tiếp tục những hành động phiêu lưu trong thế bị động và thất bại, chúng còn tìm cách mở rộng chiến tranh xâm lược ra các nước trên bán đảo Đông Dương theo phương thức và hạn độ chúng cho là thích hợp và có lợi, nhằm phối hợp với Việt Nam hoá chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, và để đàn áp cách mạng Campuchia, Lào.  Đồng thời chúng sẽ dựa vào các bọn tay sai để xây dựng tuyến chiến lược mới bao gồm miền Nam Việt Nam - Campuchia - Lào và Thái Lan, ra sức tập hợp những lực lượng phản động khác ở châu á nhằm tiếp sức cho đế quốc Mỹ trên chiến trường Đông Dương...” 1.

Trước âm mưu xảo quyệt và hành động phiêu lưu của đế quốc Mỹ. “Mặt trận đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương chống Mỹ đã phát triển lên một bước mới rất cơ bản” 2.

Từ nhận định trên, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cho quân và dân ta là:

“Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cả hai miền nước ta, tăng cường khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương, trở thành một khối thống nhất có một chiến lược chung. kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai” 3

Miền Nam Việt Nam đủợe Bộ Chính trị xác định là chiến trường quan trọng nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Đông Dương. Quân chủ lực nguỵ Sài Gòn là lực lượng nòng cốt để thực hiện Việt Nam hoá. Khơme hoá, Lào hoá chiến tranh. Vì vậy. chúng ta phải “kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến, kết hợp chặt chẽ hơn nữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận, tiếp tục xây dựng thế tiến công chiến lược mới ngày càng mạnh mẽ, tiêu diệt thật nhiều lực lượng quân sự của Mỹ - nguỵ, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng quân đội nguỵ tay sai, tập trung lực lượng đậ.p tan kế hoạch bình định và âm mưu Việt Nam hoá chiến tranh làm thất bại chiến lược phòng ngự, kéo dài chiến tranh của chúng”4

Trên cơ sở nhiệm vụ chung, mỗi chiến trường có đặc điểm và tính chất khác nhau, Bộ Chính trị cho rằng Campuchia là chiến trường mới mở. Tại đây đang diễn ra một kiểu chiến tranh xâm lược rất đặc biệt với lực lượng tham gia không chỉ có tay sai bản xứ với sự viện trợ của Mỹ, mà có lúc quân Mỹ cũng trực tiếp tham gia, lại có quân nguỵ Nam Việt Nam làm nòng cốt.

Thắng lợi của nhân dân Campuchia không những có tác dụng quyết định đối với cách mạng nước này mà còn có tác dụng quan trọng đối với cách mạng miền Nam Việt Nam và Lào. Nhiệm vụ của chúng ta là phải “ra sức giúp đỡ bạn và phối hợp với bạn nắm vững thời cơ: tiếp tục phát triển thế tiến công liên tục. đùa cách mạng Campuchia tiến lên mạnh mẽ” 5. Vấn đề quan trọng là phai tiêu diệt quân nguỵ Nam Việt Vam vì đây là lực lượng nòng cột trên chiến trường này. Do đó phải có chủ trương và biện pháp cụ thể để thực hiện.

Lào là một chiến trường quan trọng. Từ khi chiến tranh mở rộng sang Campuchia, vị trí của chiến trường này càng trở nên hiểm yếu, nhất là Trung, Hạ Lào vì đó là hành lang nối liền hậu phương miền Bắc nước ta với chiến trường miền Nam và Campuchia, chúng ta cần ra sức giúp đỡ bạn và phối hợp với bạn tiếp tục khuếch trương thắng lợi vừa qua, kiên quyết tiến công địch về mọi mặt, đưa cách mạng Lào tiếp tục tiến lên” 6.

Nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết trong thời gian tới là “giúp đỡ bạn và phải hợp với bạn mở rộng và xây dựng vùng Trung. Hạ Lào thành căn cứ địa ngày càng vững mạnh. phải có kế hoạch sẵn sàng đánh bại các cuộc tiến công lớn hoặc những hành động lấn chiếm, bảo vệ hành lang chiến lược của ta” 7.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Đông Dương dòi hỏi phải có một chiến lược chung. Chiến lược đó hướng vào mục đích “đánh bại âm mưu kéo dài và tăng cường chiến tranh xâm lược của dế quốc Mỹ trên chiến trường Đông Dương, giành thắng lợi từng bước. tiến lên giành thắng lợi quyết định trên các chiến trường, đuổi dế quốc Mỹ ra khỏi bán đảo Đông Dương, miền Nam Việt Nam, Campuchia và Lào” 8.


___________________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 31, tr.229-230, 227
3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 31. tr.238-239. 250.
5, 6, 7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd t.31, tr. 253,254, 454, 255. 239-240.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:24:15 pm
Miền Bắc lúc này, không chỉ là hậu phương lớn của tiền tuyến miền Nam mà còn là hậu phương chung của cả cách mạng Lào và Campuchia. Nhiệm vụ của chúng ta ở miền Bắc là: phải ra sức động viên sức người sức của chi viện cho tiền tuyến góp phần lớn nhất của mình vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta ở miền Nam cũng như của nhân dân hai nước Campuchia và Lào” 1

Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6-1970 là sự phát triển của Nghị quyết Trung ương 18 (1-1970). Nó thể hiện tầm nhìn chiến lược rộng lớn và sâu sắc của Đảng ta. Nghị quyết đã đáp ứng kịp thời yêu cầu của tình hình đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả bán đảo Đông Dương. 

Nhằm động viên hơn nữa nỗ lực của quân và dân miền Bắc phát huy sức mạnh của hậu phương lớn phục vụ các chiến trường, tháng 6- 1970. Bộ Chính trị quyết dính thành lập Hội đồng chi viện Trung ương. Đồng chí Đỗ Mười, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ dược cử làm Chủ tịch.

Cũng trong tháng 6- 1970, Quân uỷ Trung ương tổ chức hội nghị bàn các biện pháp cấp bách nhằm phát triển lực lượng, củng cố tuyến vận tải chiến lược. Từ đây Đoàn 559 được sáp nhập thêm Mặt trận 968 và Đoàn chuyên gia quân sự 565 ở Hạ Lào để xây dựng thành một đơn vị tương đương cấp quân khu do Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy. Đồng chí Đồng Sỹ Nguyên dược cử làm Tư lệnh, đồng chí Đặng Tính làm Chính uỷ. 

Cùng với củng cố y phát triển tuyến vận tải chiến lược, quân uỷ Trung ương chủ trương đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng chủ lực mạnh làm trụ cột cho cả chiến trường Đông Dương. Theo phương hướng này, các sư đoàn chủ lực 308, 304, 312, 324 được tập trung củng cố, huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến dấu và khả năng cơ động. Các sư đoàn 325, 320B được chuyển từ nhiệm vụ huấn luyện quân bổ sung thành sư đoàn cơ động trực thuộc Bộ. Sư đoàn 316 làm nhiệm vụ ở Lào được tăng cường thành phần binh chủng .  Một số đơn vị binh chủng như pháo binh, dặc công, thông tin: công binh được xây dựng thêm, bộ đội chủ lực ở miền Nam cũng dược xây dựng đủ mạnh để có thể đánh những trận tiêu diệt lớn.

Trong lúc ta đang củng cố. tăng cường phát triển lực lượng, thì Mỹ - nguỵ ở miền Nam đẩy mạnh kế hoạch bình định, giành được một số vùng nông thôn đồng bằng dông dân ở Nam Bộ và Khu V, tạo điều kiện thuận lợi cho địch bắt lính, tăng quân. Đến cuối năm 1970 quân đội Sài Gòn đã có 70 vạn trong đó có 35 vạn quân chính quy. Quân ngụy Lon Non ở Campuchia cũng được Mỹ chú trọng xây dựng từ 4 vạn (tháng 3-1970). đến cuối năm đó tăng lên 12 vạn tên.  Nguỵ Lào có 6 vạn (tăng 1 vạn), chưa kể 10 tiểu đoàn quân Thái Lan vẫn hoạt động trên chiến trường này. Quân Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam lúc này vẫn còn gần 40 vạn.

Tuy đã bị thất bại liên tiếp trên chiến trường ba nước Đông Dương, song Mỹ - nguỵ vẫn ngoan cố tiếp tục thực hiện các mục tiêu của Việt Nam hoá chiến tranh, trước mắt là củng cố thế phòng ngự của chúng ở Nam Việt Nam, cố giữ cho tình hình Campuchia không xấu thêm và giằng co với ta ở Lào.

Để đạt dược mục tiêu trên, Mỹ cho rằng phải cắt đứt được hoàn toàn tuyến vận tải chiến lược của ta làm cho các lực lượng chiến đấu của ta ở chiến trường không còn nguồn chi viện về người và vật chất - kỹ thuật, lúc dó cách mạng miền Nam sẽ tàn lụi: Việt Nam hoá chiến tranh sẽ thành công. Một trong những trọng điểm mà Mỹ nhằm vào là khu vực đường 9 - Nam Lào. Thẹo địch đây là nơi tập trung nhiều kho tàng dự trữ chiến lược của ta. là cuống họng của tuyến vận tải chiến lượ 559.

Vì vậy, chúng sử dụng một lực lượng lớn mở cuộc hành quân mang tên Lam Sơn 719 đánh vào khu vực này. Cùng vời cuộc hành quân Lam Sơn 719, Mỹ - nguỵ còn mở cuộc hành quân Toàn thắng 1-71 đánh sang vùng Đông Bắc Campuehia và cuộc hành quân Quang Trung 4 dành ra vùng ngã ba biên giới tại tỉnh Kon Tum. cùng một lúc mở ba cuộc hành quân tại ba địa điểm trên tuyến hành lang chiến lược Bắc - Nam, âm mưu của Mỹ là phân tán lực lượng chủ lực ta để chúng tập trung đánh sang Nam Lào: đồng thời thực hiện chia cắt kép tuyến hành lang chiến lược cửa ta ở ba điểm Sêpôn, Atôpơ. Mỏ Vẹt - Lưỡi câu, trọng điểm là Sêpôn.

Sớm nhận rõ âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù. từ tháng 6-l970, Bộ Chính trị dã nhận định mùa khô năm 1970 – 1971, địch có thể mở những cuộc tiến công với quy mô vừa và lớn vào vùng Trung và Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia.



_________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 31, tr.239-240.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:24:32 pm
Mùa Hè năm 1970. Bộ Tổng tham mưu bắt đầu vạch kế hoạch tác chiến, chuẩn bị chiến trường và điều động lực lượng ém sẵn ở các hướng dự kiến địch có thể tiến công lớn.  Ở khu vực đường 9, các lực lượng thuộc mặt trận B4. B5 gấp rút điều chỉnh lực lượng, tổ chức thế trận sẵn sàng đánh địch. Sư đoàn 2 chủ lực quân khu 5 cũng được bí mật điều động từ Quế Sơn lên khu vực này. Các cơ quan tiền phương của Tổng cục Hậu cần, Đoàn 559 gấp rút xây dựng tuyến hậu cần chiến dịch.

Tháng 11-1970, các trạm hậu cần và các cụm kho chiến dịch bắt dầu được xây dựng. Một số đoạn đường mới được mở thêm, bảo đảm cho các đơn vị vận tải cơ giới vận chuyển vật chất vào các khu tập kết chiến dịch. Tính đến tháng 1-1971, dự trữ vật chất của các binh trạm thuộc Đoàn 559 trên các hướng chiến dịch đã đạt 6.000 tấn, cùng với dự trữ của Bộ, có thể bảo đảm cho 5 đến 6 vạn quân tác chiến trong thời gian từ 4 đến 5 tháng.

Cùng với điều chỉnh lực lượng, chuẩn bị hậu cần, nhằm bảo đảm cho nhiệm vụ tác chiến, đáp ứng yêu cầu tình hình, tháng 10-1970, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Binh đoàn 70 gồm các sư đoàn bộ binh 304, 308, 320, Trung đoàn pháo 43, Trung đoàn cao xạ 241 và các đơn vị binh chủng khác. Đại tá Cao Văn Khánh được cử làm Tư lệnh, Đại tá Hoàng Phương làm Chính uỷ. Đây là binh đoàn đầu tiên của quân đội ta được thành lập làm nhiệm vụ cơ động chiến lược, chiến dịch. Nó là tiền đề cho sự ra đời của các quân đoàn chủ lực sau này. 

Nhờ chủ động chuẩn bị trước một bước về lực lượng và vật chất nên ngay sau khi địch mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 (30-1-1971), Bộ Chính trị đã khẳng định: đây là bước phiêu lưu quân sự cực kỳ nghiêm trọng của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng:

Nhất thiết phải đánh thắng trận này dù có phải động viên sức người sức của và hy sinh như thế nào, vì đây là một trong những trận có ý nghĩa chiến lược.  Thắng trận này, không những ta giữ được tuyến vận tải chiến lược, tiêu diệt được một bộ phận quan trọng quân chủ lực địch, phá huỷ một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của chúng, làm thất bại cố gắng cao nhất trong quá trình thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh, tạo chuyển biến căn bản có tính chiến lược cho phong trào cách mạng ba nước Đông Dương.

Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định mở chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ - nguỵ ở đường 9 - Nam Lào.
Ngày 6-2-1971, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 với mật danh Bộ Tư lệnh 702 được thành lập do thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh, thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính uỷ, Đại tá Cao Văn Khánh - Phó Tư lệnh, Đại tá Phạm Hồng Sơn - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng, Đại tá Hoàng Phương - Phó Chính uỷ, Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng được cử làm đại diện của Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh tại mặt trận, chỉ đạo chiến dịch.

Lực lượng tham gia chiến dịch, nòng cốt là Binh đoàn 70 với 3 sư đoàn bộ binh 308, 304, 320; Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu 5, Sư đoàn 324 chủ lực Quân khu Trị - Thiên, các lực lượng tại chỗ của B4 (Mặt trận Trị - Thiên) và B5 (Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị), 4 trung đoàn pháo mặt đất, 3 trung đoàn cao xạ, 3 trung đoàn công binh, 4 tiểu đoàn thiết giáp, một số tiểu đoàn đặc công của Bộ và lực lượng Đoàn 559. 

Từ ngày 30- 1- 1971, khi địch bắt đầu triển khai lực lượng chuẩn bị xuất phát tiến công, thì các lực lượng chiến đấu của ta trên toàn mặt trận cũng nhanh chóng tổ chức đội hình, tạo thế trận sẵn sàng đánh địch. Các bộ phận thuộc Đoàn 559 khẩn trương chấn chỉnh tổ chức, bổ sung nhiệm vụ cho phù hợp với yêu cầu chiến đấu.

Một số cán bộ cơ quan ở các binh trạm và kho được rút bớt để tổ chức thêm lực lượng chiến đấu: lực lượng phòng không dược tăng cường để bảo vệ tuyến vận chuyển, các kho tàng gần các trọng điểm địch đánh phá được sơ tán để bảo dám an toàn. Các đơn vị thuỷ Binh đoàn 70 và Sư đoàn 2 khẩn trương hành quân đến các vị trí tập kết. Các lực lượng của B5 cũng gấp rút được triển khai theo phương án đánh địch đã xác định.

Đến ngày 7-2-1971, việc bố trí lực lượng theo kế hoạch chiến địch về cơ bản đã hoàn tất. Ngày 8-2- 1971, địch chính thức mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh theo đường 9 sang Nam Lào. Dưới sự yểm trợ đắc lực của không quân và hoả lực Mỹ, 7 trung đoàn bộ binh, dù, thiết giáp nguỵ Sài Gòn hình thành ba cánh vượt biên giới đánh sang Nam Lào.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:25:04 pm
Cánh chủ yếu do Chiến đoàn đặc nhiệm bao gồm Lữ đoàn 1 dù, 2 thiết đoàn số 11 và 17 theo đường 9 qua Lao Bảo đánh chiếm Bản Đôn, Sêpôn. Hai cánh khác ở phía bắc có Lữ đoàn 3 dù, Liên đoàn 1 biệt động quân và phía nam do Sư đoàn 1 bộ binh đảm nhiệm chiếm các điểm cao phía bắc đường số 9 và phía nam sông Sêpôn, khu vực Sai, Mường Noọng, bảo vệ hai bên sườn cho cánh quân chủ yếu.

Ngay khi địch vừa xuất phát hành quân, Bộ Tư lệnh mặt trận ra lệnh cho các lực lượng tại chỗ đánh ngăn chặn, làm chậm bước tiến của địch, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực cơ động đánh những trận tiêu diệt lớn.

Ở phía bắc đường 9, trong những ngày đầu tiên, lực lượng tại chỗ đã bắn rơi hàng chục máy bay lên thẳng của địch khi chúng đổ quân ương khu vực này. Kết hợp với lực lượng tại chỗ, các đơn vị thuộc Binh đoàn 70 kịp thời cơ động lực lượng đến tiến công vào cánh quân bảo vệ sườn phía bắc của địch.  Đến ngày 3-3-1971, Lữ đoàn 3 dù và Liên đoàn 1 biệt động quân bảo vệ sườn phía bắc bị ta đánh thiệt hại nặng.

Phía nam, các chốt, điểm tựa phòng ngự trên các điểm cao do lực lượng tại chỗ của Đoàn 559 đảm nhiệm đánh địch đạt kết quả tốt và cùng với Sư đoàn 324 (thiếu) đẩy lùi được mũi tiến công phía nam của địch và đánh thiệt hại cánh quân này.

Trên hướng chủ yếu - trục đường số 9, trong hai ngày 8 và 9-2-1971, Trung đoàn 24 - Sư đoàn 304 và lực lượng tại chỗ của Đoàn 559 đã chặn đánh và bẻ gãy nhiều đợt tiến công vượt biên giới của quân nguỵ Sài Gòn, giữ vững điểm cao 351 .

Ngày 10-2-1971, địch dùng một lực lượng lớn với trên 100 xe tăng, thiết giáp chở Chiến đoàn đặc nhiệm có sự chi viện mạnh của hoả lực pháo binh, vượt qua trước điểm cao 351 lên Bản Đôn. Đồng thời chúng dùng máy bay lên thẳng đổ Tiểu đoàn 9 dù xuống Bản Đôn. Do điểm cao 351 cách xa đường (khoảng 400 in), địch lại dùng tốc độ cao kết hợp thả khói màu che khuất; hệ thống phòng ngự ở Bản Đôn của ta chưa đủ mạnh và chắc, nên ta đã để mất Bản Đôn. 

Từ ngày 10-2, một mặt, ta sử dụng lực lượng vây chặt địch tại Bản Đôn, kiên quyết không cho chúng phát triển lên Sêpôn, mặt khác, ta tiếp tục đánh cắt đường số 9 (đoạn Lao Bảo - Bản Đôn), nhằm chặn tiếp tế đường bộ và cô lập địch.  Hai cánh quân địch bảo vệ sườn phía bắc và nam đường 9 bị đánh thiệt hại nặng, lực lượng chủ yếu của địch bị ta vây chặt ở Bản Đôn không phát triển được, chúng buộc phải đưa lực lượng dự bị chiến lược vào tham chiến.

Ngày 28-2-1970, Lữ đoàn 2 dù, 2 thiết đoàn 4 và 7 (lực lượng phát triển lên Sêpôn theo kế hoạch chúng đã dự tính) được tung vào tăng cường phòng thủ Bản Đôn và bảo vệ đường 9, đoạn Lao Bảo - Bản Đôn.

Trong khi ở mặt trận chính, địch bị ta đánh thiệt hại trên các hướng phải co cụm chống đỡ không thực hiện được ý đồ đánh chiếm Sêpôn, thì ở tuyến sau, các lực lượng của Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị liên tiếp tổ chức các trận phục kích giao thông, pháo kích và tập kích vào các căn cứ hậu cần, sở chỉ huy của địch ở Khe Sanh, Sa Mưu, Đông Hà, Ái Tử . . . gây nhiều tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, ngụy.

Bị bất ngờ vì chủ lực ta xuất hiện sớm ngoài dự kiến, lại bị đánh thiệt hại nặng ngay từ đầu, nên địch lúng túng tìm cách đối phó. Trong thế bất lợi đó, để tiếp tục thực hiện ý đồ của cuộc hành quân, địch đã tăng cường thêm lực lượng và chuyển cánh phía nam (do Sư đoàn 1 bộ binh đảm nhiệm) thành hướng chủ yếu để phát triển lên Sêpôn. 

Từ ngày 3 đến ngày 6-3-1971, địch dùng máy bay lên thẳng đưa phần lớn Sư đoàn 1 bộ binh xuống chiếm các điểm cao 660, 723, Phu Rệp, Phu Om ở nam đường 9. Sau khi tạo được bàn đạp, chúng đổ 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 2 Sư đoàn 1 xuống đông bắc Sêpôn. Đồng thời, từ Bản Đôn, địch cũng tổ chức một mũi theo đường 9 đánh lên Sêpôn để phối hợp với 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 2 Sư đoàn 1 . 

Quyết không cho địch chiếm Sêpôn và tiến xuống Sađi - Mường Noọng, Bộ Tư lệnh chiến dịch điều Trung đoàn 64 của Sư đoàn 320 lên phía tây để tăng cường giữ Sêpôn, dùng Sư đoàn 2 (thiếu) tiến công tiêu diệt Sư đoàn 1 bộ binh nguỵ Sài Gòn. Các Trung đoàn 2 của Sư 324, Trung đoàn 102 của Sư 308 và Trung đoàn 24 của Sư 304 đánh cắt đường 9 đoạn Lao Bảo - Bản Đôn và đánh địch từ Lao Bảo về Hướng Hóa.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:26:16 pm
Sau khi Sư đoàn 1 của địch bị diệt, Sư đoàn 308 có nhiệm vụ tiêu diệt địch ở Bản Đôn. Với sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị chủ lực cơ động với lực lượng tại chỗ, ta đã ngăn chặn các cánh quân địch. 

Ở cánh nam, khi địch vừa đổ quân xuống chiếm các điểm cao nam đường 9, chúng đã bị các lực lượng tại chỗ diệt 8 đại đội, bắn rơi 40 máy bay lên thẳng.

Ở đường 9, các trung đoàn 24 và 102 kiên cường đánh địch giải toả, diệt trên 300 tên, phá huỷ và phá hỏng nhiều xe tăng, xe bọc thép.

Ở Bản Đôn địch vẫn bị bao vây chặt. Các mũi quân địch đánh lên Sêpôn, chúng không thực hiện dược. Đường bộ bị cắt, đường không bị khống chế, hàng vạn tên nguỵ Sài Gòn ở đường 9 - Nam Lào lâm vào tình thế khốn đốn.

Chính Oétmolen đã thú nhận: “Quân Bắc Việt Nam phản công quyết liệt. Sức ép của họ hết sức nặng nề, hoả lực bắn máy bay của họ hết sức ác liệt, đến mức trong một số trường hợp không thể tiếp tế được, mà việc dùng máy bay trở thành phương tiện duy nhất còn lại. Thế rồi bắt đầu một việc làm khó khăn nhất trong tất cả hoạt động quân sự, rút lui trước cuộc tiến công mãnh liệt của đối phương” 1.
 
Vậy là dù đã đến cách Sêpôn 1 km, quân nguỵ Sài Gòn vẫn buộc phải tháo chạy dưới làn đạn truy kích mạnh mẽ của quân ta.

Bộ Chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho các đơn vị chuyển sang tiến công trên toàn tuyến, kiên quyết cắt đứt đường rút lui của chúng, không cho chúng rút nhanh, rút có tổ chức, rút an toàn, tập trung lực lượng đánh trận then chốt quyết định.  Ở hướng chính, trên cơ sở thế trận bao vây, ta tập trung lực lượng đánh tập đoàn chiến dịch chủ yếu của địch đang co cụm ở Bản Đôn.

Ngày 13-3-1971, quân ta bắt đầu đột phá Bản Đôn. Trước sức tiến công mãnh liệt của ta, ngày 18-3, địch bắt đầu rút khỏi Bản Đôn. Ta công kích vào toàn bộ khu vực Bản Đôn.  Đến ngày 20-3, ta đã diệt 1.762 tên, bắt sống 107 tên, thu và phá huỷ 113 xe quân sự, 24 khẩu pháo, bắn rơi 52 máy bay lên thẳng, trong đó có Lữ đoàn dù 3, bắt sống đại tá Nguyễn Văn Thọ - Lữ đoàn trưởng.

Hỗ trợ cho hướng chính, ở cánh nam, ngày 16-3-1971, Sư đoàn 2 được tăng cường 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 tiến công tiêu diệt đại bộ phận Trung đoàn 1 Sư đoàn 1 ngụy ở điểm cao 723 (Phu Rệp).

Ngày 20-3, Sư đoàn 2 tiếp tục tiến công diệt 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 2 - Sư đoàn 1 ở điểm cao 660. Ngày 22-3, Sư đoàn 324 đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn 147 thuỷ quân lục chiến ở điểm cao 550.

Ngày 23-3-1971, toàn bộ địch ở đường 9 - Nam Lào bị ta quét sạch. Chiến dịch kết thúc thắng lợi sau 45 ngày chiến đấu quyết liệt Ta diệt 2 lữ đoàn (Lữ đoàn dù 3 và Lữ đoàn 147 thuỷ quân lục chiến), 1 trung đoàn bộ binh (Trung đoàn 1 - Sư đoàn 1) và 5 tiểu đoàn khác tiểu đoàn 39 biệt động quân, Tiểu đoàn 8 dù, Tiểu đoàn 2 - Trung đoàn 3, Tiểu đoàn 2 và 4 Trung đoàn 2 - Sư đoàn 1), 4 thiết đoàn (4,7,11 và 17), 8 tiểu đoàn pháo (3 tiểu đoàn pháo của Sư đoàn 1, 2 tiểu đoàn pháo của Sư đoàn dù, 1 tiểu đoàn pháo của Lữ 147, 1 tiểu đoàn pháo của Biệt động quân và 1 tiểu đoàn pháo của Lữ đoàn kỵ binh không vận), đánh thiệt hại nặng Sư đoàn dù, Sư đoàn 1 bộ binh, Sư đoàn thuỷ quân lục chiến, bắn rơi và phá huỷ 556 máy bay (có 505 máy bay lên thẳng), 43 tàu, xà lan, 1. 138 xe quân sự (có 528 xe tăng và xe bọc thép), 112 khẩu pháo và súng cối cỡ lớn.

Đây là thắng lợi rất to lớn có ý nghĩa chiến lược, đúng như Bộ Chính trị đã đánh giá: Thắng lợi trên mặt trận đường số 9 - Nam Lào đã đánh bại một bước quan trọng, mở ra triển vọng hiện thực đánh bại hoàn toàn chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh và học thuyết Níchxơn ở Đông Dương của đế quốc Mỹ. Lực lượng tinh nhuệ nhất của Sài Gòn bị đánh quỵ cũng làm gục luôn vai trò nòng cốt của chúng để thực hiện học thuyết Níchxơn dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương, do đó thắng lợi có ý nghĩa rất lớn đối với cục diện chiến tranh, không những ở miền Nam nước ta mà cả ở hai nước bạn. . .


___________________
1. Oétmolen: Một quân nhân tường trình (Hồi ký), Nxb. Gorden City Doubldat and Company, New York, 1976, Thư viện Trung ương quân đội dịch, bản đánh máy, tr.97.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:27:36 pm
Thắng lợi này là thắng lợi rực rỡ của đường lối chống Mỹ, cứu nước, của đường lối quân sự, của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta trong giai đoạn địch tiến hành chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, đỉnh cao của quá trình phiêu lưu mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương. Ta đã nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, tạo thế trận mới, tạo thời cơ chiến lược mới, phối hợp chặt chẽ giữa quân và dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia... theo tinh thần Đông Dương là một chiến trường, đẩy mạnh diệt địch và đánh phá bình định, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao.

Đây là thành công trong việc vận dụng nghệ thuật chiến dịch, điển hình là trong một chiến dịch tiêu diệt lớn, dã phát triển sáng tạo cách đánh được xây dựng qua quá trình chiến tranh cách mạng mang kiểu cách Việt Nam. Đồng thời nó cũng cho ta nhiều kinh nghiệm rất cơ bản trong việc chỉ đạo tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang, nhất là đối với bộ đội chủ lực” 1.

Để có thắng lợi này, bộ đội ta thương vong không ít, 2.163 đồng chí hy sinh, 6.176 đồng chí bị thương. Ngày 31-3-1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng dã gửi thư khen ngợi cán bộ, chiến sĩ trên Mặt trận đường 9 - Nam Lào đã “đánh giỏi, thắng giòn giã, lập chiến công xuất sắc”. 

Song song với cuộc hành quân Lam Sơn 179, địch sử dụng lực lượng tới 23.000 quân, có 15 phi đoàn máy bay Mỹ yểm trợ mở cuộc hành quân Toàn thắng 1- 71. Mục tiêu mà không đặt ra trong cuộc hành quân này là phối hợp với đường 9 - Nam Lào, phân tán lực lượng ta, tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực Quân giải phóng, phá căn cứ, kho tàng, hệ thống giao thông chiến lược, giải toả đường 7, lập phòng tuyến ngăn chặn ở Đông Bắc Campuchia. 

Cùng với đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Lào, trên hướng Campuchia, ta bẻ gãy cuộc hành quân Toàn thắng 1-71, loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên địch (có 15.000 nguỵ Phnôm Pênh, 180 tên Mỹ, bắn cháy 1.500 xe quân sự (có 750 xe tăng, xe bọc thép), bắn rơi 200 máy bay các loại phá hỏng 180 khẩu pháo.

Đây là thắng lợi có ý nghĩa rất quan trọng. Thắng lợi này đã đập tan cố gắng cuối cùng của địch đánh sang Campuchia, tiêu diệt một số sinh lực quan trọng của chúng, phối hợp và chia lửa với chiến dịch phản công đường 9 - Nam Lào và chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Quang Trung 4 ở Tây Nguyên. 

Sau thất bại của cuộc hành quân Toàn thắng 1- 71, địch tập trung lực tương cố giữ cho được Snun hòng duy trì bàn đạp tiến công lấn chiếm vùng căn cứ cách mạng, hạn chế mọi hoạt động của lực lượng vũ trang ta trong mùa mưa năm 1971.

Snun là một thị trấn thuộc tỉnh Krachiê, cách thủ đô Phnôm Pênh 184 km về phía đông bắc và cách Sài Gòn 136 km về phía bắc, cách biên giới Việt Nam - Campuchia 20 km, nằm ở đầu mối giao thông then chốt nối đường 13 và đường số 7, có vị trí chiến lược quan trọng. Lực lượng địch đóng ở đây có 1 chiến đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn 5, 1 tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp và Trung đoàn thiết giáp số 1 của quân đội Việt Nam cộng hoà nguỵ miền Nam Việt Nam). 

Từ ngày 25-5-1971, Sư đoàn 5 và Sư đoàn 7 chủ lực Miền phối hợp với quân và dân Campuchia tổ chức bao vây và tiến công mạnh vào quân địch ở Snun. Địch phản kích quyết liệt hòng nới rộng vòng vây của ta. Sau 5 ngày cố thủ, địch đã bị ta đánh thiệt hại nặng. Trước tình thế nguy ngập, trưa 30-5-1971, địch tháo chạy khỏi Snun theo đường 13 về Việt Nam.  Bộ đội ta tiếp tục truy kích.

Đến ngày 31-5, toàn bộ chiến đoàn bộ binh địch cùng Trung đoàn thiết giáp số 1 và Tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp bị tiêu diệt. 1.500 tên địch chết và bị thương, 300 tên bị bắt, gần 200 xe quân sự bị tịch thu và phá huỷ, 40 máy bay bị bắn rơi. Đây là một trong những trận đánh hay, thắng lớn của bộ đội ta trên chiến trường Đông Bắc Campuchia.


_______________________
1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975 - Những sự kiện quân sự, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam xuất bản, 1988, tr.241-242.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:28:03 pm
Cuộc hành quân Quang Trung 4 trên địa bàn Tây Nguyên bắt đầu từ ngày 27-2-1971. Lực lượng địch tham gia trong cuộc hành quân này là Trung đoàn 42 thuộc Sư đoàn bộ binh 23, Liên đoàn 2 biệt động quân. Địch triển khai hành quân trong khi các đơn vị chủ lực Tây Nguyên đang chuẩn bị đợt tác chiến Xuân Hè 1971 trên hướng Đắc Siêng.

Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên lập tức chuyển phương án sang phản công địch. Từ ngày 27-2 đến ngày 4-3-1971, các trung đoàn 66, 28, 31 đã đánh thiệt hại nặng các tiểu đoàn 1 và 2 của Trung đoàn 42, Tiểu đoàn 22 biệt động quân ở khu vực Ngọc Tô Ba. .  Vừa ra quân đã bị tổn thất nặng, địch phải rút khỏi Ngọc Tô Ba về phòng ngự trên tuyến Lây Cần - Đắc Mót - Tân Cảnh.

Lực lượng vũ trang Tây Nguyên từ phản công chuyển sang tiến công, hướng chủ yếu nhằm vào điểm cao Ngọc Rinh Kua - một vị trí quan trọng trên tuyến phòng ngự cơ bản của địch ở bắc Tây Nguyên. Tại điểm cao này, ngày 31-3-1971, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 66 cùng Đại đội đặc công 19 đã đánh diệt một tiểu đoàn địch, làm chủ trận địa.  Ngay ngày hôm sau, Đại đội 8 pháo binh thuộc Trung đoàn 40 dùng chính những khẩu pháo đã thu được ở Ngọc Rinh Rua bắn phá căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh.

Mất Ngọc Rinh Rua, tuyến phòng ngự của dịch bị vỡ một mảng quan trọng.  Quân đoàn 2 nguỵ vội mở cuộc hành quân Quang Trung 6 nhằm giải toả khu vực này. Liên tục từ ngày 1 đến ngày 16-4-1971, địch dùng tới 20 tiểu đoàn thuộc các sư đoàn 22, 23, Liên đoàn 2 biệt động quân, Lữ đoàn 2 dù ra phản kích, song không chiếm lại được vị trí đã mất, ngược lại chúng còn bị diệt thêm 3 tiểu đoàn, 9 tiểu đoàn khác bị đánh thiệt hại nặng. Quân uỷ Trung ương đã gửi điện khen bộ đội Tây Nguyên “Đánh giỏi, lập công xuất sắc, trưởng thành nhanh chóng”.

Như vậy, trên cả ba hướng địch mở các cuộc hành quân lớn là Đông Bắc Campuchia, đường 9 - Nam Lào và vùng Ngã ba biên giới đều bị ta đánh bại. Ta không chỉ tập trung lực lượng bẻ gãy ba cuộc hành quân lớn, trên các chiến trường từ Trị - Thiên đến Nam Bộ, các lực lượng vũ trang ta hoạt động tích cực gây cho địch nhiều thiệt hại.

Ở Trị - Thiên, ta chặn đứng cuộc hành quân Lam Sơn 720 với ý đồ đánh lên miền tây Thừa Thiên của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 600 tên, bắn rơi 30 máy bay. 

Khu V, quân và dân Quảng Nam làm phá sản cuộc hành quân Quyết thắng 20B của 12 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 2 nguỵ đánh vào các huyện Đại Lộc, Quế Sơn.  Nam Bộ, quân ta đánh vào các hậu cứ, sở chỉ huy sân bay và các cụm phòng ngự của địch dọc biên giới thuộc các tỉnh Bình Long, Phước Long, Tây Ninh.

Những thất bại liên tiếp trên chiến trường ba nước Đông Dương cho thấy quân chủ lực nguỵ Sài Gòn không thể đảm đương nổi vai trò xung kích trên bán đảo Đông Dương, chúng đã suy yếu nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Mỹ chủ trương xây dựng, phát triển nguỵ Lonnon với hy vọng lực lượng này có thể tự đảm đương nhiệm vụ đối phó với phong trào cách mạng ở Campuchia để quân chủ lực Sài Gòn rút về Nam Việt Nam.

Cuộc hành quân lớn dầu tiên mà quân nguỵ Phnôm Pênh thực hiện trong chính sách Khơme hoá chiến tranh của Mỹ là hành quân Chenla II bắt đầu từ ngày 20-8-1971.  Bộ Tư lệnh Miền sử dụng Sư đoàn 9 và C40 (bộ đội bảo vệ căn cứ) mở chiến dịch phản công, kiên quyết đánh bại cuộc hành quân của địch.

Suốt 100 ngày đêm chiến đấu liên tục, các lực lượng vũ trang ta đã phối hợp chặt chẽ với bạn, bao vây chia cắt, cô lập địch ra từng khúc trên suốt tuyến đường 6 dài 60 km từ Snun tới Côngpông Thom để tiêu diệt từng bộ phận. Ngày 13- 11, ta mở cuộc tiến công tiêu diệt Lữ đoàn 17 của địch ở Run Luông. Ngày 28, 29- 11 ta đánh chiếm 9 vị trí ngoại vi từ Ba Rá đến Côngpông Thom . Đến ngày 1-12-1971, hầu hết các vị trí then chốt của địch đều bị ta chiếm. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, Lonnon ra lệnh rút toàn bộ lực lượng khỏi đường 6.

Ngày 3-12-1971, cuộc hành quân Chenla II của địch kết thúc. Trên 12.000 tên nguỵ Lon Non bị tiêu diệt, gần 2.000 tên (có 1.000 dân vệ) bị bắt sống. Trong số này, có nhiều tên là chỉ huy tiểu đoàn, lữ đoàn. Với thắng lợi này ta đã giáng một đòn rất nặng vào âm mưu Khơme hoá chiến tranh của Mỹ, định dùng ngụy Lon Non làm lực lượng cơ động mạnh đánh vào sau lưng ta. Đồng thời, ta tăng thêm uy thế chính trị cho cách mạng Campuchia và phát huy mạnh mẽ quyền chủ động trên chiến trường.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:28:23 pm
Ở Lào, sau thất bại đường 9 - Nam Lào (3-1971), cao nguyên Bôlôven (6- 1971), Mỹ vẫn ngoan cố tìm cách khống chế khu vực Cánh Đồng Chum - một vùng chiến lược quan trọng, nhằm giữ lợi thế về quân sự và chính trị ở Lào, hòng kiềm chế, thu hút một bộ phận chủ lực ta ở đây, tạo điều kiện cho nguỵ Sài Gòn rảnh tay hoạt động ở Nam Việt Nam.

Lợi dụng mùa mưa , từ tháng 7- 197 1, Mỹ đưa quân đánh thuê Thái Lan và phỉ Vàng Pao từ Sảm Thông - Long Chúng lấn chiếm vùng Cánh Đồng Chum. Lực lượng địch sử dụng vào cuộc hành quân này lên tới 33 tiểu đoàn. Kế hoạch của chúng là đánh chiếm toàn bộ Cánh Đồng Chum và theo đường 7 tiến đến sát biên giới Việt - Lào. Song kế hoạch này không thực hiện được. Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng Lào đã ngăn chặn, đẩy lùi các cuộc tiến công của địch, buộc chúng phải co lực lượng về phòng ngự tại khu vực Cánh Đồng Chum.

Tháng 12-1971, ta và bạn mở chiến dịch tiến công khôi phục lại Cánh Đồng Chum. Ngày 18-12-1971, chiến dịch mở màn. Chỉ sau ba ngày (từ 18 đến ngày 20- 12- 1971), ta phá vỡ toàn bộ tập đoàn phòng ngự vòng ngoài của định từ Cánh Đồng Chum đến Mường Sủi gồm các cụm phòng ngự Phu Tâng - Phu Tợn - Phu Keng, địch phải bỏ Cánh Đồng Chum rút về Sảm Thông - Long Chúng. Bộ đội ta tiếp tục truy kích địch. 

Giải phóng Cánh Đồng Chum là thắng lợi to lớn của cách mạng Lào, đánh dấu bước tiến mới về nghệ thuật tổ chức và trình độ tác chiến tập trung hiệp đồng binh nhung của bộ đội ta và bạn. Với chiến thắng này, quân Thái Lan - chỗ dựa của quân nguỵ Lào bị giáng một đòn nặng.

Cùng với những thắng lợi to lớn về quân sự trên chiến trường ba nước Đông Dương, mặt trận chống phá bình định ở miền Nam Việt Nam cũng giành được những kết quả đáng kể.

Theo nhận định của Bộ Chính trị, năm 1971, địch tập trung lực lượng đánh sang Lào và Campuchia, ở trong nước, chủ lực địch còn lại mỏng và sư hở. Đây là điều kiện thuận lợi để ta phá chương trình bình định của chúng. Bộ Chính trị đã điện cho Trung ương Cục, Quân uỷ Miền và các khu uỷ ở miền Nam “đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, đập tan kế hoạch bình định của địch”.

Được sự chỉ đạo kịp thời của Bộ Chính trị, từ Trị - Thiên, Khu V, Tây Nguyên đến đồng bằng Nam Bộ, phong trào chống phá bình định phát triển.  ở Trị - Thiên, đến cuối năm 1971, ta đã giải phóng thêm 40 thôn xã vùng giáp ranh và tranh chấp với địch, làm chủ về ban đêm 117 thôn, xây dựng được cơ sở cách mạng ở 472 thôn trong tổng số 841 thôn. Kế hoạch bình định của địch bị đẩy lùi một bước.

Khu V, lực lượng vũ trang và nhân dân bức hàng loạt cứ điểm, đồn bốt địch ở các tỉnh Quảng Đà, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên... Từng mảng hệ thống ấp chiến lược và khu dồn dân của địch được giải phóng.  Nổi bật trong năm 1971 là phong trào chống phá bình định ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là vùng căn cứ U Minh.

Từ đầu năm 1969, địch nhiều lần tổ chức những cuộc hành quân lớn nhằm bình định lấn chiếm U Minh nhưng đều thất bại. Cuối năm 1970. địch tổ chức cuộc hành quân lấn chiếm lần thứ ba với lực lượng gồm 2 sư đoàn (Sư đoàn 9 và Sư đoàn 21 bộ binh), 2 liên đoàn biệt động quân, Lữ đoàn B thuỷ quân lục chiến, Thiết đoàn 9 và nhiều giang đoàn có sự yểm trợ của không quân. Đây là cuộc hành quân quan trọng nhất trong toàn bộ kế hoạch bình định của địch ở đồng bằng sông Cửu Long.

Rút kinh nghiệm hai lần trước, địch không tập trung quân đánh phá ồ ạt mà phân tán thành từng bộ phận nhỏ, đánh lấn từng bước, chiếm đến đâu củng cố đến đó. Với những thủ đoạn nham hiểm, biện pháp đánh phá ác liệt, địch đã gây cho ta nhiều thiệt hại. Ở U Minh, tính bình quân trong những ngày này, mỗi người dân phải gánh chịu tới 700 kg bom đạn, rừng tràm bị huỷ diệt đến 70%. 

Tháng 6- 1971, về cơ bản địch đã chiếm được U Minh Thượng, một phần U Minh Hạ, chúng còn đặt kế hoạch “tô dày”, “lấp kín” U Minh, sau đó mở rộng lấn chiếm nam Cà Mau.  Trước tình hình trên, được sự chỉ đạo của Trung ương Cục Bộ Tư lệnh Miền, Đảng uỷ - Bộ Tư lệnh Quân khu 9 tập trung lực lượng 3 trung đoàn (2, 10 và 20) mở đợt phản công đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm U Minh của địch.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:28:45 pm
Theo dự kiến, đêm 7 rạng ngày 8-9-1971, cuộc phản công bắt đầu. Song kế hoạch bị lộ, nên từ chiều ngày 6-9, địch đã bắn pháo vào khu vực ta ém quân, đồng thời dùng trực thăng đổ quân bao vây. Ta buộc phải nổ súng sớm. Chỉ sau 2 giờ chiến đấu ta đã diệt gọn Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 33 và Đại đội trinh sát thuộc Sư đoàn 21 nguỵ. Địch đưa Trung đoàn 31 đi cứu nguy cũng bị Trung đoàn 2 chặn đánh làm thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn.

Đêm 7 rạng ngày 8-9-1971, Trung đoàn 10 diệt căn cứ Nỗng Cạn (xã Khánh Lâm). Đây là Sở Chỉ huy nhẹ của Trung đoàn 32, có 1 tiểu đoàn địch đóng giữ. Cùng đêm, Trung đoàn 20 đánh thiệt hại nặng căn cứ Rọ Ghe.  Ngày 12-9-1971, đợt phản công vào U Minh kết thúc. Ta diệt 1 căn cứ, 1 đồn, 2 sở chỉ huy nhẹ cấp trung đoàn, 2 tiểu đoàn, 5 đại đội, đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn khác, loại khỏi vòng chiến đấu 2.057 tên địch.

Chiến dịch Nhổ cỏ U Minh lần thứ ba của địch bị thất bại. Chương trình bình định ở miền Tây Nam Bộ bị chững lại Căn cứ U Minh được giữ vững, củng cố và mở rộng.  Phối hợp với U Minh, bộ đội đặc công Quân khu 9 đánh thiệt hại nặng căn cứ Xẻo Rô và chi khu Thứ Ba. Trung đoàn 1 ở Long Mỹ đánh quỵ 11 đại đội bảo an, diệt 3 đồn ở xã Xà Phiên. Trung đoàn 3 hoạt động ở Vĩnh Trà diệt một số đồn bốt tạo thế mới cho phong trào. ở Sóc Trăng, bộ đội đặc công diệt chi khu Phú Lộc. ở Cà Mau, Tiểu đoàn 3 U Minh tập kích địch ở Rau Dừa và cùng với bộ đội, du kích huyện Cái Nước diệt 5 đồn ở tuyến Bình Hưng, đưa 11.000 dân trở về quê cũ làm ăn.

Cuộc chiến đấu chống phá địch bình định ở Trung Nam Bộ, Đông Nam Bộ diễn ra không kém phần quyết liệt. Tại Trung Nam Bộ, từ ngày 30-3 đến ngày 1-5- 1970, Quân khu 8 liên tiếp mở ba đợt hoạt động A, B, C để đánh phá bình định, mở vùng. Tuy nhiên sau hai đợt hoạt động (A, B), ta bị tiêu hao nhiều, lực lượng bổ sung thiếu nên không mở được đợt C. 

Sang năm 1971, lợi dụng lúc địch tập trung đội phó với ta trên hướng đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và vùng Ngã ba biên giới, Quân khu 8 đẩy mạnh đánh phá bình định. Cuối năm 1971, phong trào chống phá bình định ở Khu VIII đã có chuyển biến rõ rệt.

Miền Đông Nam Bộ, năm 1970, tình hình chống phá bình định còn nhiều khó khăn. Năm 1971, lợi dụng lúc địch đánh sang Campuchia và bị ta đánh bại ở đó, quân và dân Đông Nam Bộ kết hợp tiến công quân sự với đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng giải phóng các sở cao su nằm trên tỉnh lộ 2 như Tráng Lớn, Xà Bang, Quang Minh, Tân Việt Nam, Hoà Lạc, Việt Cường. . . Ta khôi phục và xây dựng được cơ sở ở một số vùng địch tạm chiếm; củng cố thế trận chiến tranh nhân dân ở vùng Đất Đỏ, chiến khu Minh Đạm tỉnh Bà Rịa.

Trên toàn miền Nam, năm 1970, địch kiểm soát được 7.200 ấp và khu dồn, đến năm 1971 chúng chỉ còn kiểm soát được 4.860 ấp, khu dồn. Chương trình bình định của địch thụt lùi một bước nghiêm trọng. Chính Tômxơn (Thom son) - một chuyên gia về bình định trong một báo cáo mật gửi cho Níchxơn, đã thừa nhận: Tình hình bình định nông thôn đang suy sụp Lực lượng làm nhiệm vụ an ninh yếu. Chủ lực buộc phải đối phó ở vòng ngoài không thể rút về được. Tinh thần quân địa phương kém, nhất là sau Nam Lào và Snun. Do đó, nếu Việt cộng đánh mạnh, chương trình bình định có thể thất bại.

Thắng lợi về quân sự cũng như trên mặt trận chống phá bình định đã thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị, binh vận phát triển. Ở Huế, năm 1971 có 68 cuộc đấu tranh chính trị do Tỉnh uỷ Thừa Thiên tổ chức đòi Mỹ rút về nước, đòi lật đổ chính quyền tay sai với 65 vạn vượt người tham gia.

Tại Sài Gòn - Chợ Lớn, phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên và nhân dân lao động đều tập trung vào khẩu hiệu đòi Mỹ phải rút nhanh, rút hết, đòi hoà bình, độc lập. Trong ba tháng (từ tháng 12-1970 đến tháng 2-1971) đã có 37 xe Mỹ bị đốt cháy. Nhiều truyền đơn phản đối sự có mặt của Mỹ ở Việt Nam được rải khắp các phố, chợ và cả trước Toà Đại sứ Mỹ.  Phong trào Nghe đồng bào tôi nói và nói cho đồng bào tôi nghe lan rộng trong học sinh, sinh viên từ Huế đến Sài Gòn. 

Nổi bật hơn cả trong phong trào học sinh, sinh viên ở các thành phố lớn là đấu tranh chống chế độ quân sự hoá học đường của nguỵ. Ở Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ, nhiều phòng quân sự học đường đã bị đốt. Sinh viên còn thành lập các ban vận động đòi bỏ chương trình huấn luyện quân sự học đường, tổ chức mít tinh, biểu tình, bãi khoá với các khẩu hiệu: Chương trình huấn luyện quân sự học đường là âm mưu khát máu của đế quốc Mỹ, Mỹ cút, ngụy nhào, quân sự học đường dẹp. . .

Cuối năm 1971, học sinh, sinh viên lại một lần nữa thể hiện vai trò của mình trong việc cùng nhân dân chống bầu cử Hạ viện và Tổng thống độc diễn của Mỹ - nguỵ.  Phong trào không chỉ giới hạn trong học sinh, sinh viên.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:39:36 pm
Trong công nhân cũng diễn ra những cuộc đấu tranh lớn. Đáng chú ý là đấu tranh của công nhân Hãng pin Con Ó.  Cuộc đấu tranh được sự đồng tình ủng hộ của các nghiệp đoàn nên đã giành được thắng lợi.

Ở các vùng nông thôn nổi lên phong trào đấu tranh của nông dân chống đích cào nhà, gom dân . . .

Trong năm 1971 , phong trào đấu tranh chính trị ở miền Nam có bước phát triển mới góp phần quan trọng đẩy nguỵ quân, nguỵ quyền Sài Gòn suy sụp tinh thần, hỗ trợ tích cực cho ta giành thắng lợi to lớn trên mặt trận quân sự, chính trị. Khối chủ lực cơ động của quân đội Sài Gòn bị đánh quỵ, phải co về phòng ngự chiến lược và chiến dịch. Chương trình bình định bị chặn lại. Kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh của địch bị đẩy lùi một bước nghiêm trọng. Ta đã dần dần giành lại thế chủ động trên chiến trường.

Trung ương Cục miền Nam khẳng định: mặc dù ta và địch còn giằng co quyết liệt nhưng tình hình nông thôn đã vượt qua thời kỳ khó khăn nghiêm trọng nhất. Ta đã chặn địch lại được, đã đánh lùi chúng ở nhiều nơi và đang tạo ra những điều kiện hết sức cơ bản để tiến lên đánh bại chúng” 1.

Đó là những cơ sở để Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương xác định quyết tâm chiến lược giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải thương lượng với ta ở Pan trong thế thua để chấm dứt chiến tranh, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị mọi mặt để kiên trì cuộc kháng chiến trong trường hợp chiến tranh kéo dài.


III- CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC NĂM 1972 Ở MIỀN NAM
VÀ CHIẾN THẮNG B52 Ở MIỀN BẮC, HIỆP ĐỊNH PARI ĐƯỢC KÝ KẾT.

Những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của ta trên chiến trường ba nước Đông Dương trong năm 1971 đã tạo ra một cục diện mới có lợi cho ta. Một thời cơ lớn của cách mạng đã xuất hiện .

Tháng 5- 1971, Bộ Chính Trị Trung ương Đảng họp xác định nhiệm vụ cần kíp cho quân và dân ta là: Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến  trường miền Nam và cả chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh cửa Mỹ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Campuchia và ở Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời, chuẩn bị, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài 2.

Sau Hội nghị Bộ Chính trì, tháng 6- 1971, Quân uỷ Trung ương họp để nghiên cứu tình hình và bàn biện pháp thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị. Quân uỷ Trung ương nhận định: “Tình hình đang chuyển biến mau lẹ đòi hỏi ta phải có một sự cố gắng cao nhất, tranh thủ thời gian, khắc phục khó khăn, nhược điểm, xây dựng thế và lực của ta trên chiến trường lên nhanh hơn nữa, kịp thời nắm lấy thời cơ, hành động bất ngờ, giành lấy thắng lợi cao nhất, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh rút hết quân Mỹ, đánh cho nguỵ quân, nguy quyền tan rã, sụp đổ một bước nghiêm trọng” 3

Về địch, Quân uỷ Trung ương nhận thấy: Mặc dù bị thất bại nặng nề trong Xuân Hè 1971, nhưng đế quốc Mỹ chưa từ bỏ âm mưu cơ bản của chung là “bám giữ miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia, duy trì chủ nghĩa thực dân mới bằng Việt Nam hoá chiến tranh, làm cho ta suy yếu phải chịu thua, hoặc chúng chấm dứt được chiến tranh bằng thương lượng trên thế mạnh” 4.


_______________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ 11, tháng 10-1971, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
2. Xem: Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 5-1971, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
3, 4. Nghị quyên Quân uỷ Trung ương, tháng 6-1971, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:41:05 pm
Quân uỷ Trung ương xác định quyết tâm chiến lược năm  1971- 1972 là : “Tập trung mọi cố gắng, đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả ba vùng chiến lược ở miền Nam Việt Nam và khắp cả chiến trường Đông Dương” 1.

Quân uỷ dự kiến ba hướng tiến công chiến lược trong năm 1972: “Hướng chủ yếu số 1 là chiến trường biên giới Campuchia và miền Đông Nam Bộ, hướng chủ yếu thứ hai là chiến trường Tây Nguyên; hướng phối hợp quan trọng là miền núi tây Trị - Thiên”. Trị - Thiên tuy là hướng phối hợp quan trọng “nhưng lại gần miền Bắc, có điều kiện bảo đảm hậu cần, vì vậy cần phải gấp rút chuẩn bị để có thể đánh lớn khi cần thiết hoặc có lợi 2.

Phương hướng hoạt động chung cho toàn chiến trường miền Nam là: “Phối hợp đòn chủ lực mạnh ở rừng núi với phong trào tiến công nổi dậy mạnh ở đồng bằng phong trào đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang mạnh ở đô thị, tiến công vào ba chỗ dựa của chính sách Việt Nam hoá chiến tranh, tạo nên một cục diện mới có lợi cho ta trong trường hợp ngừng bắn, tạo điều kiện để đưa phong trào cách mạng tiến lên một cách vững chắc trong tình hình mới” 3

Đối với miền Bắc, Quân uỷ Trung ương nhấn mạnh: Phải ra sức củng cố và nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu cho các lực lượng vũ trang nhằm đối phó với các đợt oanh tạc của không quân, hải quân địch, tiêu diệt biệt kích và tập kích nhỏ, đánh bại mọi hành động xâm lược phiêu liêu quân sự của địch. Muốn vậy cần có lực lượng cơ động mạnh sẵn sàng đối phó kịp thời, khi cần thiết có lực lượng bổ sung đầy đủ cho miền Nam.

Tháng 2-1972, Quân uỷ Trung ương họp. xác định:

Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là tập trung chỉ đạo chiến tranh và tăng cường miền Nam. Nhân lúc Mỹ - nguỵ vừa thua to trên cả chiến trường ba nước Đông Dương, nước Mỹ lại đang ở vào thời điểm chính trị nhạy cảm của cuộc chạy đua vào Nhà Trắng, Quân uỷ Trung ương quyết định nắm lấy thời cơ thuận lợi, tập trung lực lượng đánh bại địch bằng ba đòn chiến lược:

- Một là, đòn tiến công của bộ đội chủ lực trên những hướng và chiến trường có lợi cho ta, nhằm tiêu diệt lớn và đánh quỵ lực lượng chủ lực nguỵ.

- Hai là, đòn tiến công và nổi dậy ở các vùng nông thôn đồng bằng quan trọng. Kết hợp tiến công quân sự, chính trị và binh vận, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích và phong trào nổi dậy của quần chúng.

- Ba là, đòn đấu tranh của nhân dân các đô thị, kết hợp đấu tranh cách mạng của quần chúng, làm rối loạn hậu phương địch, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ của nguỵ quyền Sài Gòn và mâu thuẫn giữa Mỹ với tay sai. 

Căn cứ vào kết quả công tác chuẩn bị của ta và sự thay đổi về thế bố trí chiến lược của ta và địch trên chiến trường, ngày 11-3-1972, Thường vụ Quân uỷ Trung ương họp, chính thức quyết định phương hướng cuộc tiến công chiến lược năm 1972 như sau: Trị - Thiên, trước xác định là hướng phối hợp quan trọng, nay chuyển thành hướng chiến lược chủ yếu. 

Miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên hướng chủ yếu số 1 và 2, nay cùng với Khu V đẩy mạnh tác chiến quy mô vừa và lớn tạo thành một cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam nhằm: Tiêu diệt lớn quân địch và mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới.

Về hướng tiến công chiến lược chủ yếu, Quân uỷ Trung .  ương xác định đây là một trong những hướng chiến lược rất quan trọng. Tại đây, ta sẽ mở một chiến dịch quy mô lớn, một chiến dịch hợp đồng binh chủng, một chiến dịch tổng hợp cả về quân sự và chính trị. Nhiệm vụ của chiến dịch:

1. Tiêu diệt thật nhiều lực lượng quân sự, thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, nhất là quân chủ lực của chúng, đập vỡ tuyến phòng thủ của địch, phát triển tiến công thắng lợi.


_____________________
1, 2, 3. Nghị quyết Quân uỷ Trung ương tháng 6-1971, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:41:56 pm
2. Phối hợp với phong trào quần chúng ở đồng bằng, đô thị, các vùng địch còn kiểm soát, hỗ trợ cho quần chúng tiến công và nổi dậy, phá kìm kẹp giành quyền làm chủ, đánh bại kế hoạch bình định của địch, củng cố thế ba vùng vững mạnh của ta .

3. Giải phóng những khu vực có điều kiện và khi có thời cơ thuận lợi, ra sức mở rộng vùng giải phóng của ta. 

4. Thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng đích, phối hợp chặt chẽ với các chiến trường khác. 

5. Rèn luyện và phát triển lực lượng quân sự và chính trị của ta về mọi mặt.

Trong các nhiệm vụ trên, nhiệm vụ hàng đầu có tính chất quyết định là tiêu diệt thật nhiều lực lượng quân sự địch, nhất là quân chủ lực của chúng, nhanh chóng làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta để tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, từ cuối năm 1971, công tác chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị vật chất cho cuộc tiến công chiến lược đã được khẩn trương tiến hành. Trên tuyến vận tải chiến lược, Đoàn 559 vừa củng cố mở rộng tuyến đường Đông Trường Sơn, vừa xây dựng con đường kín Tây Trường Sơn. Nhờ vậy trong mùa khô 1971- 1972, khối lượng hàng vận chuyển từ miền Bắc vào các chiến trường tăng gấp hai mùa khô năm 1970 - 1971.

Cùng với mạng đường chiến lược, mạng đường chiến dịch cũng được gấp rút xây dựng. Trên các chiến trường, bộ đội công binh, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến và nhân dân địa phương mở đường chiến lược Bắc - Nam đến Lộc Ninh và xẻ núi bạt đồi mở nhiều tuyến đường ngang chạy từ tây sang đông, nối trục đường chiến .  lược xuống các vùng tây Trị - Thiên, tây Quảng Nam. 

Với hệ thống đường chiến lược, chiến dịch khá hoàn chỉnh, từ hậu phương miền Bắc, vật chất chi viện cho chiến trường miền Nam vào đầu năm 1972 tăng vọt. Chỉ trong quý I năm 1972, lượng hàng mà Đoàn 559 vận chuyển tương đương cả năm.

Cùng với vật chất, quân bổ sung cho các mặt trận cũng được tăng cường. Nhiều sư đoàn, trung- đoàn bộ binh, pháo binh, công binh, cao xạ, tăng thiết giáp cùng hàng ngàn thợ sửa chữa, cán bộ kỹ thuật được điều động vào chiến trường. Lực lượng tại chỗ cũng được củng cố, xây dựng.

Ở miền Đông Nam Bộ, Bộ Tư lệnh Miền thành lập Sư đoàn 75 pháo binh và Trung đoàn 26 thiết giáp. Quân khu 5, Sư đoàn 3 bộ binh được bổ sung đủ quân số và trang bị, quân khu thành lập thêm Sư đoàn 711 bộ binh. Chiến trường Trị-Thiên, bộ tăng cường 7 trung đoàn pháo xe kéo từ 85 mm trở lên và một số tiểu đoàn độc lập. Đây là chiến dịch triển khai pháo binh lớn nhất của ta gồm 14 loại pháo, đạn miền Bắc hiện có, trừ hai loại pháo phòng thủ bờ biển chưa dùng. Pháo binh ta hình thành ba cấp: pháo chiến dịch, pháo sư đoàn và pháo đi cùng đội hình trung đoàn bộ binh tiến công. Pháo binh chiến dịch triển khai trên một chính diện rộng từ 50 đến 100 km, nghĩa là từ phòng tuyến nam - bắc đường 9 đến Huế.

Bộ Tư lệnh chiến dịch được tổ chức để chỉ huy hướng chủ yếu này gồm các dông chí: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng tham mưu trưởng - Tư lệnh chiến dịch, Thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị - Chính uỷ kiêm Bí thơ Đảng uỷ chiến dịch. Các đồng chí Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cương, Doãn Tuế, Hồng Sơn, Anh Đệ, Lương Nhân, Lê Tự Đồng, Hoàng Minh Thi được cử làm Phó Tư lệnh, Phó Chính uỷ chiến dịch. Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ đạo hướng chiến lược quan trọng Trị - Thiên.

Ở Tây Nguyên, ta mở chiến dịch Đắc Tô. Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm các đồng chí: Trương Chí Cương (Tư Thuận), Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Chính uỷ chiến dịch. Đồng chí Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh, đồng chí Trần Thế Môn - Phó Chính uỷ.  Tại miền Đông Nam Bộ, Trung ương Cục, Quân uỷ, Bộ Chỉ huy Miền mở chiến dịch Nguyễn Huệ. Trung tướng Trần Văn Trà được cử làm Tư lệnh chiến dịch, Thiếu tướng Trần Độ Chính uỷ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:43:02 pm
Ngày 23-3-1972 Bộ Chính trị chính thức thông qua kế hoạch tiến công chiến lược năm 1972. Trong lúc ta đang gấp rút dồn sức chuẩn bị cho chiến dịch, địch vẫn chủ quan cho rằng: “Từ năm 1969 đến nay, hầu hết các đơn vị chủ lực cộng sản đã rút ra ngoài biên giới không yểm trợ cho hạ tầng cơ sở được. Từ đó đến nay, hạ tầng cơ sở của cộng sản vẫn thưa được phục hồi. Cộng sản còn ở thế bị động về chiến lược, chiến thuật và đang thiếu thốn trầm trọng, nhất là đạn dược, tinh thần cán binh giảm sút, tuyển mộ khó khăn, số hồi chánh tăng, mức độ hoạt động của cộng sản trong năm 1972 sẽ tương tự như 6 tháng cuối năm 1971. Có thể việc chống phá bình định được tăng cường hơn và đẩy mạnh hoạt động trong dịp bầu cử Tổng thống Mỹ tháng 11- 1972” 1

Với nhận định trên, địch vẫn giữ thế bố trí lực lượng mạnh ở hai đầu và tăng quân ra các vùng biên giới để bịt kín hành lang, phá cơ sở hậu cần của ta.

Ở Trị - Thiên, địch bố trí 2 sư đoàn bộ binh tăng cường, 3 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp 13 tiểu đoàn và 5 đại đội pháo binh với 258 khẩu pháo cùng 4 tiểu đoàn, 94 đại đội bảo an, hơn 5.000 cảnh sát... Lực lượng này phòng thủ trên hai tuyến đường 9 - Quảng Trị và Thừa Thiên, lấy Quảng Trị làm trọng điểm. ở Tây Nguyên, địch củng cố tuyến phòng thủ Đắc Tô - Tân Cảnh do Sư đoàn 22 nguỵ đảm trách.

Khi phát hiện Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2-Quân khu 5 có mặt ở Tây Nguyên, địch liền điều Lữ đoàn 2 dù và tiếp sau là cả Sư đoàn dù nguỵ từ Sài Gòn ra cùng với Tiểu đoàn 11 biệt động quân tổ chức thêm tuyến phòng ngự lâm thời bên bờ tây sông Pô Cô để ngăn chặn ta và tăng cường củng cố tuyến phòng ngự cơ bản bắc Kon Tum.

Ở Nam Bộ, để giữ cửa ngõ Sài Gòn, đề phòng ta tiến công, địch củng cố tuyến phòng thủ biên giới chạy dọc theo các tỉnh Bình Long, Tây Ninh. Ba sư đoàn chủ lực 9, 25, 18 và 456 xe tăng, thiết giáp, 396 khẩu đại bác, 67 liên đội, 146 đại đội bảo an cùng hàng chục vạn dân vệ, phòng vệ dân sự được bố trí phòng giữ trên hai hướng đường 22 và đường 13, trong đó đường 22 là hướng chủ yếu. Địch tin rằng, ta không có khả năng đánh lớn vào các tuyến phòng ngự của chúng để chọc vào đô thị và vùng đông dân, mà chỉ mở đợt hoạt động vừa trên hướng Tây Nguyên và đánh phá bình định ở đồng bằng.

Tết Nguyên đán Nhâm Tý (1972) qua đi, địch không thấy ta có hoạt động gì lớn, chúng càng chủ quan. Đột nhiên, ngày 30-3-1972, ta đồng loạt nổ súng tiến công vào các tuyến phòng thủ đường 9 - Quảng Trị, Kon Tum (Tây Nguyên) rồi miền Đông Nam Bộ. Địch hoàn toàn bất ngờ cả về thời gian, hướng chủ yếu cũng như quy mô, cường độ cuộc tiến công.  Chúng lúng túng, bị động điều quân đối phó khắp nơi. 

Trên hướng chủ yếu Quảng Trị, đúng 11 giờ ngày 30-3, cùng lúc pháo binh ta thực hiện “bão táp 1” đánh vào tuyến phòng thủ nam - bắc đường số 9, tiêu diệt căn cứ Động Toàn, Ba Hồ, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang, Đầu Mầu. Ta đã đập vỡ hoàn toàn vỏ cứng của tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch đánh chiếm nhiều bàn đạp quan trọng, tiêu diệt một bộ phận lớn lực lượng địch, phát động được quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ.

Ngày 2-4-1972, ta cùng 34 khẩu pháo 130 mm bắn 3.700 viên đạn vào điểm cao 241, buộc Trung đoàn 56 nguỵ xin ta ngừng bắn để đầu hàng. Được pháo chiến dịch chi viện mạnh mẽ, Trung đoàn 24 (Sư 304) được tăng cường 1 đại đội xe tăng tiến công điểm cao. Chỉ sau vài giờ chiến đấu, quân ta hoàn toàn làm chủ căn cứ.

Cùng ngày, trung đoàn 27 và 48 (Sư 320) đánh thiệt hại cánh quân địch phản kích tại Cùa (gồm 1 trung đoàn thiết giáp và 1 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến) hỗ trợ nhân dân nổi dậy giải phóng hoàn toàn huyện Cam Lộ.

Ngày 3-4-1972, pháo binh ta tập trung bắn dồn dập hơn 6.000 quả đạn vào căn cứ Mai Lộc và miếu Bái Sơn, yểm trợ mạnh mẽ cho Trung đoàn 66 (Sư 304) tiến công Sở Chỉ huy Lữ đoàn 147 thuỷ quân lục chiến ở Mai Lộc, Trung đoàn 36 - Sư đoàn 308 tiến công miếu Bái Sơn. Tiểu đoàn bảo vệ Sở Chỉ huy Lữ đoàn 147 không chống cự nổi trước sức tiến công của ta đã tháo chạy và bị diệt gần hết. Ta giải phóng toàn bộ khu vực này.


____________________
1. Kế hoạch quân sự hỗn hợp AB 147 của Bộ Tổng Tham mưu quân lực Việt Nam cộng hoà, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 03:46:11 pm
Trung đoàn 36 sau khi tiến công miếu Bái Sơn buộc Trung đoàn 57 nguỵ rút chạy, đã vượt sông Cam Lộ đuổi đánh Trung đoàn 5 ngụy đến tận phía bắc thị trấn Đông Hà. Tiểu đoàn bộ binh cơ giới của trung đoàn nhanh chóng thọc sâu về phía đông thị trấn. Song, trên đường cơ động, tiểu đoàn bị máy bay địch ném bom trúng đội hình phải dừng lại củng cố. Quân địch ở Đông Hà vô cùng hoang mang, nhưng lực lượng ta ở phía sau lên không kịp, ta bỏ lỡ cơ hội đánh chiếm Đông Hà sớm hơn dự kiến.

Tính đến ngày 4-4- 1972, sau 6 ngày tiến công liên tục ta đã phá vỡ tuyến phòng thủ đường 9 - bắc Quảng Trị của địch, diệt 4 căn cứ trung đoàn, 7 căn cứ tiểu đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu Trung đoàn 56, đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 2 và Lữ dù 147, giải phóng hoàn toàn hai huyện Gio Linh, Cam Lộ. 

Ở Tây Nguyên, ngày 30-3-1972, cùng lúc với tiếng súng mở màn chiến dịch ở hướng chính Trị - Thiên, Trung đoàn 52 và một tiểu đoàn của Trung đoàn 48 - Sư 320 tiến công vào tuyến phòng thủ tây sông Pô cô, vây ép Tiểu đoàn dù 2 ở điểm cao 1.049 và các chốt phụ cận, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn dù 2. Địch buộc phải đưa tiếp Lữ đoàn dù 3 ra tuyến phòng thủ tây sông Pô Cô.

Để nhanh chóng đập vỡ tuyến phòng thủ ngăn chặn của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch giao cho Trung đoàn 48 - sư đoàn 320 tiến công diệt Tiểu đoàn dù 11 ở điểm cao 1.01(5 (căn cứ Sácli). Đợt tiến công đầu tiên không thành, Trung đoàn 64 phải củng cố và rút kinh nghiệm, đến ngày 14-4 mới tiến công tiếp. Tiểu đoàn 11 dù bị diệt, tuyến phòng ngự của địch bị chọc thủng. Sư đoàn dù ngụy phải co về giữ tuyến phòng ngự cơ bản Võ Định - thị xã Kon Tum. .

Hai ngày sau tiếng súng ở Trị - Thiên và Tây Nguyên nổ, ngày 1-4-1972, tại miền Đông Nam Bộ, chiến dịch Nguyễn Huệ cũng mở màn. Địa bàn chiến dịch trải dài trên bốn tỉnh nằm ở phía bắc Sài Gòn là Bình Long, Phước Long, Tây Ninh và Bình Dương. Hướng chủ yếu của chiến dịch là đường 13, hướng thứ yếu là đường 22. Trên hướng chủ yếu, cụm cứ điểm Lộc Ninh được chọn làm khu quyết chiến then chốt mở đầu, thị xã Bình Long (còn gọi là thị xã An Lộc hay Hớn Quản) được chọn làm khu quyết chiến then chốt của chiến dịch .

4 giờ sáng ngày 1-4-1972, ta nổ súng tiến công tuyến phòng thủ Xa Mát - Bàu Đựng do Chiến đoàn 49 nguỵ đóng giữ. Đến 2 giờ 40 phút ngày 2-4-1972, ta làm chủ cứ điểm Xa Mát, diệt một bộ phận Chiến đoàn 49, sau đó phát triển tiến công Chiến đoàn 46 đóng ở phía bắc Thiện Ngôn. 

Trong lúc trên hướng thứ yếu đường 22, cuộc tiến công của ta diễn ra ác liệt, thì ở hướng chủ yếu đường 13, bộ đội ta dang triển khai lực lượng. Đến cuối ngày 4-4-1972, toàn bộ đội hình chủ yếu của chiến dịch (gồm 3 sư đoàn bộ binh, 8 tiểu đoàn pháo cối, 1 tiểu đoàn xe tăng, các tiểu đoàn đặc công. . .) chiếm lĩnh xong các vị trì xuất phát tiến công. Sư đoàn 5 bao vây cụm cứ điểm Lộc Ninh, Sư đoàn 9 bố trí ở phía bắc thị xã Bình Long. Sư đoàn 7 chốt chặn dọc theo đường 13 tử nam thị xã đến bắc Chân Thành. –

Khu phòng thủ Lộc Ninh do Chiến đoàn 9 - Sư đoàn 5 bộ binh nguỵ phụ trách. Tại đây, dựa vào hệ thống cứ điểm cấu trúc vững chắc, kết hợp với lực lượng cơ động mạnh, địch tổ chức thành hai tuyến phòng ngự: phía trước là hệ thống cứ điểm tiền tiêu cặp sát biên giới Việt Nam - Campuchia gồm Hoa Lơ, Lộc Tấn, Bù Đốp - do Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 chiếm đóng. Cụm này còn được tăng cường một lực lượng cơ động mạnh gồm Thiết đoàn 1 (thiếu) và Tiểu đoàn biệt động quân 74 để ngăn chặn ta từ xa. Phía sau là cụm cứ điểm Lộc Ninh với một lực lượng hạn chế, chủ yếu để bảo vệ cơ quan như Sở Chỉ huy Chiến đoàn 9, chi khu, trận địa pháo, sân bay và kho tiếp liệu.

5 giờ 30 phút ngày 5-4-1972, cuộc tiến công vào cụm cứ điểm Lộc Ninh bắt đầu. Sư đoàn 5 được tăng cường Trung đoàn 3 - Sư đoàn 9, 1 trung đoàn pháo cối và hoả tiễn, 2 đại đội xe tăng do thượng tá Bùi Thanh Vân (út Liêm) chỉ huy đánh vào chi khu Lộc Ninh. Bị đánh bất ngờ, địch lúng túng đối phó. Chúng vội điều Tiểu đoàn 2 - Chiến đoàn 9, Thiết đoàn 1 và tiểu đoàn biệt động 74 từ Hoa Lư, Lộc Tấn về cứu nguy. .

Sáng 6-4-1972, toàn bộ đội hình cứu viện của địch lọt vào trận địa phục kích của ta tại Cửa Chùm Bao (cách thị trấn Lộc Ninh 2 km về phía bắc). Ta nổ súng diệt toàn bộ Thiết đoàn 1 và Tiểu đoàn 74 biệt động quân. Tiểu đoàn 2 luồn rừng chạy về phía nam cũng bị ta chặn đánh diệt gần hết.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 04:06:49 pm
Tuyến phòng thủ tiền tiêu xung yếu của địch trên đường 13 cùng lực lượng cơ động mạnh của địch bị xoá sổ, cụm cứ điểm Lộc Ninh bị cô lập. Sáng 7-4-1972, ta mở đợt công kích vào Lộc Ninh, đến trưa, ta làm chủ hoàn toàn, đại tá Nguyễn Công Vĩnh - Chỉ huy trưởng chiến đoàn bị bắt. 

Ngày 8-4-1972, bước một chiến dịch Nguyễn Huệ kết thúc. Đây cũng là lúc ở Khu V ta mở chiến dịch tổng hợp bắc Bình Định. Không gian chiến dịch rộng 1.200 km2 bao gồm cả vùng giáp ranh, vùng ven biển trải dài trên các huyện Tam Quan, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ thuộc tỉnh Bình Định. 

Sau 24 ngày chiến đấu quyết liệt (8-4 - 2-5-1972), Sư đoàn 3 chủ lực Quân khu 5 cùng đặc công quân khu và lực lượng vũ trang địa phương đã diệt Liên đoàn bảo an 48, Chiến đoàn đặc nhiệm 40, định thiệt hại nặng Trung đoàn 41, giải phóng các huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân và nửa phía bắc huyện Phù Mỹ với trên 20 vạn dân.

Ở đồng bằng sông Cửu Long, để phối hợp với cuộc tiến công chiến lược trên toàn Miền, Quân khu 9 mở đợt tiến công mang tên là Chiến dịch Nguyễn Huệ II lấy U Minh, Chương Thiện làm trọng điểm 1, Vĩnh Trà là trọng điểm 2. Đêm 6 rạng ngày 7-4- 1972, Trung đoàn 2 (thiếu) và lực lượng vũ trang quân khu tiến công chi khu, quận lỵ Ngang Dừa, diệt một bộ phận Trung đoàn 31 - Sư 21 và 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 16 - Sư đoàn 9 nguỵ. Trung đoàn 10 diệt căn cứ Bà Thầy, Nỗng Cạn (xã Khánh Lâm - Cà Mau), Trung đoàn 3 diệt yếu khu Thầy Phó (xã Hữu Thạnh, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long). Đến ngày 10-4-1972, quân, dân trong quân khu đã diệt, bức rút, bức hàng 170 đồn, 1 chi khu, 5 căn cứ tiểu đoàn và 4 yếu khu.

Quân khu 8, thực hiện chủ trương chung, mở đợt hoạt động có tính chất phối hợp, tạo thế trên địa bàn ba tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong. Đêm 6 rạng ngày 7-4-1972, Trung đoàn 88 đột phá vào khu vực kênh Dương Văn Dương, diệt đồn Kinh Quận, 2 trận địa pháo ở Kinh Quận và Mỹ An, bức rút 3 đồn khác.

Cùng thời gian này, Trung đoàn 11 - Sư đoàn 7 nguỵ bung ra đánh phá tuyến kênh Nguyễn Văn Tiếp. Trung đoàn 1 chủ lực quân khu đã tổ chức đánh diệt tiểu đoàn Rồng Xanh của Trung đoàn 11 nguỵ tại khu vực kênh 10. Hướng Mỹ Tho, Tiểu đoàn 514 đánh thiệt hại nặng chi khu Tân Hiệp , . . .

Như vậy, từ Trị - Thiên đến đồng bằng sông Cửu Long, cuộc tiến công chiến lược của ta đã diễn ra gần như đồng loạt và đều khắp với một nhịp độ ngày càng tăng.  Đây cũng là thời điểm Níchxơn quyết định Mỹ hoá trở lại cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân.  Trước hành động điên cuồng của đế quốc Mỹ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi quân và dân cả nước nêu cao quyết tâm cảnh giác cao, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng địch trong mọi tình huống. Trung ương quyết định tiếp tục đẩy mạnh cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, thực hiện cho được những mục tiêu chiến lược đã đề ra.

Lúc này, tại mặt trận Quảng Trị, ta chuẩn bị tiến công đợt hai. Địch đang co cụm lớn ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang, Quảng Trị, nhưng trong từng cứ điểm, địch không đóng tập trung mà phân tán đóng từng tuyến bao quanh căn cứ. Chúng dùng “chiến thuật di tản”, dùng xe tăng, xe bọc thép bao quanh làm vỏ cứng ngăn chặn ta. Ở các căn cứ này, địch có 6 trung đoàn bộ binh, 4 thiết đoàn tăng, thiết giáp, 5 tiểu đoàn pháo (90 khẩu).

Kế hoạch của Bộ Tư lệnh chiến dịch là tập trung pháo diệt Đông Hà, ái Tử, La Vang, Quảng Trị. Trong tiến công đợt một, ta thu được pháo địch. nên thành lập thêm 8 đại đội tại chỗ đưa vào các cụm pháo biên chế.

Để thực hiện bước 2 giai đoạn 1, từ ngày 14 đến ngày 26-4, ta tập trung súng B72, B40, B41, ĐKZ bố trí nhiều tầng áp sát Đông Hà, đánh vỡ tuyến ngăn chặn bằng vành đai xe tăng của địch, buộc chúng phải phân tán đối phó, tạo thuận lợi cho lực lượng ta áp sát, tổ chức “bão táp 3” đánh vào Ái Tử, Lai Phước, La Vang.

Lúc 5 giờ chiều ngày 27-4, ta dùng 4 tiểu đoàn pháo bắn 3.500 viên đạn vào Đông Hà; 3 tiểu đoàn pháo bắn 2.500 viên vào ái Tử; 3 tiểu đoàn pháo bắn 3.000 viên vào Lai Phước; 3 tiểu đoàn pháo bắn 3.000 viên vào La Vang. Được pháo binh chiến dịch hỗ trợ mạnh mẽ, tối ngày 27-4, các đơn vị bộ binh thuộc sư đoàn 308, 304 cùng xe tăng đánh chiếm, làm chủ căn cứ Đông Hà, Ái Tử, Lai Phước.  Sáng ngày 30-4, địch ở căn cứ La Vang và thị xã Quảng Trị hốt hoảng rút chạy.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 04:07:09 pm
Trưa ngày 1-5-1972, địch thực hiện ý đồ lui quân có tổ chức để bảo toàn lực lượng. Song, chúng bị các đơn vị của Sư đoàn 324 chặn đánh ở cầu Nhùng, cầu Dài, cầu Bến Đá.  Không thực hiện được ý đồ lui quân có tổ chức, địch phải bỏ lại toàn bộ xe, pháo, tháo chạy tán loạn. Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Tư lệnh Sư đoàn 3 lên trực thăng chạy về Đà Nẵng. Các cố vấn Mỹ cũng dùng máy bay chạy thẳng về Sài Gòn.

18 giờ ngày 2-5-1972, ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Đây là tỉnh đầu tiên ở miền Nam được giải phóng. Ta đã đập tan hệ thống phòng ngự mà địch cho là kiên cố nhất miền Nam. Mất Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế trực tiếp bị uy hiếp. Nguyễn Văn Thiệu lập tức điều ngay 3 lữ đoàn và 2 trung đoàn từ Sài Gòn, Đà Nẵng ra Huế, đồng thời gấp rút bổ sung quân số, trang bị cho những đơn vị vừa bị tổn thất, nhằm tái chiếm Quảng Trị. Lực lượng dịch ở Thừa Thiên từ 2 sư đoàn tăng lên 4 sư đoàn bố trí tập trung trên hai hướng: hướng đường 1 và đường 12. 

Về ta, sau khi giải phóng Quảng Trị nhân khi địch đang rối loạn, Bộ Chính trị chỉ đạo Bộ Chỉ huy chiến dịch nắm lấy thời cơ, tiếp tục phát triển tiến công, kết hợp với nổi dậy của quần chúng, tiêu diệt đại bộ phận quân địch, giải phóng tỉnh Thừa Thiên (kể cả thành phố Huê). Song, qua hai đợt chiến đấu liên tục, lực lượng chiến đấu trực tiếp bị tiêu hao, sức khoẻ giảm sút, binh khí kỹ thuật, đạn dược chưa bổ sung kịp.  Địch lại tăng cường lực lượng củng cố tuyến phòng thủ với những thủ đoạn mới. Vì vậy đợt tiến công thứ ba của ta (từ ngày 20 đến ngày 26-6) vào tuyến phòng thủ sông Mỹ Chánh không thành công.

Từ cuối tháng 6- 1972, khi địch bắt đầu cuộc phản công tái chiếm Quảng Trị, chiến sự diễn ra ác liệt. Đại bác địch từ tàu chiến ngoài biển Quảng Trị bắn như mưa vào Thành cổ kết hợp với máy bay ném bom phá huỷ toàn bộ nhà cửa, phố phường, gây thương vong cho hàng ngàn dân và bộ đội. Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị diễn ra trong 81 ngày đêm (28-6 - 16-9- 1972) vô cùng ác liệt.

Trong quá trình đó, từ Pari, Cố vấn Lê Đức Thọ nhiều lần điện về nước yêu cầu lực lượng vũ trang miền Nam cố giữ vững và phát huy những thắng lợi đã giành được để tạo áp lực với Mỹ ở Hội nghị Pa ri. Tại mặt trận Quảng Trị, mỗi đêm ta phải bổ sung cho Thành cổ một đại đội bộ binh.

Vì phải đánh theo yêu cầu đàm phán, nên khi không còn điều kiện giữ Thành cổ mà không chuyển hướng tiến công cho phù hợp, vẫn cố bám trụ, để bộ đội thương vong nhiều, nhưng cuối cùng phải rút khỏi Thành cổ Quảng Trị. Đó là một khuyết điểm trong chỉ đạo chiến dịch. Bộ Chính trị theo dõi sát tình hình trong nước cũng như tại Hội nghị Pari quyết định phương án đấu tranh về vấn đề chính trị ở miền Nam và vấn đề quân miền Bắc ở miền Nam, Lào, Campuchia. Bộ Chính trị chỉ đạo cho phái đoàn ta ở Pari nên “thắt” và “mở” trên hai vấn đề then chốt trên.

Ở Trì - Thiên, lực lượng ta được lệnh rút khỏi Thành cổ Quảng Trị, lập trận địa phòng ngự, đánh địch ở phía nam sông Mỹ Chánh. Cán bộ, chiến sĩ các đơn vị kiên cường trụ bám đánh bại các đợt phản kích của địch, giữ vững trận địa.  Đây là một bản anh hùng ca tuyệt vời về lòng trung thành, ý chí quả cảm và sự hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của quân và dân ta trên chiến trường trọng điểm này. 

Ở Tây Nguyên, sau khi chọc thủng tuyến phòng thủ ở tây sông Pô Cô, các lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã áp sát cụm phòng ngự Đắc Tô - Tân Cảnh, trong đó, căn cứ 42 là vị trí then chốt. Lực lượng địch ở đây có Sở Chỉ huy nhẹ Sư đoàn 22, Trung đoàn 42, 1 tiểu đoàn pháo và Trung đoàn thiết giáp số 14.

Đêm 23 rạng ngày 24-4-1972, Sư đoàn 2 (thiếu) được tăng cường Trung đoàn 66, Tiểu đoàn 37 đặc công, dưới sự chi viện đắc lực của pháo binh đã tiến công căn cứ 42. Đến 11 giờ ngày 24-4 ta hoàn toàn làm chủ căn cứ. Lê Đức Đạt - Tư lệnh Sư đoàn 22 và tên đại tá cố vấn Mỹ chết tại trận. Vi Văn Bình - Phó Tư lệnh và toàn bộ Bộ Tham mưu Sư đoàn 22 bị bắt sống. Đây là lần đầu tiên ở chiến trường Tây Nguyên và cũng là lần đầu tiên ở miền Nam quân ta đánh tiêu diệt cấp sư đoàn địch, mở ra khả năng đánh tiêu diệt chiến dịch và chiến lược của Quân giải phóng miền Nam. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 04:07:40 pm
Cũng trong ngày 24-4, Tiểu đoàn 10 dặc công và Tiểu đoàn 60 - Trung đoàn Ba Gia tiến công sân bay Đắc Tô 2, diệt Trung đoàn 47 ngụy. Thừa thắng, ta phát triển tiến công giải phóng Diên Bình, quận lỵ Đắc Tô và Lông H’ Rinh. 

Đắc Tô - Tân Cảnh bị diệt, địch ở thị xã Kon Tum hỗn loạn, song ta không tận dụng được thời cơ để phát triển tiến công ngay thị xã Kon Tum. Đúng một tháng sau, khi địch đã trấn tĩnh và củng cố, đêm 24 rạng ngày 25-5-1972, ta mới đột phá thị xã.

Sau hai ngày chiến đấu, ta chiếm được Dinh Tỉnh trưởng, Sở Chỉ huy Trung đoàn 53, khu kho 40 - 41, hai phần ba Biệt khu 24 và một phần sân bay. Địch phản kích quyết liệt Chúng thả bom cháy và chất độc hoá học vào đội hình quân ta. Sư đoàn 2 gặp khó khăn. Cuộc chiến đấu trong thị xã diễn ra quyết liệt suốt hơn 10 ngày. Cả ta và địch đều thương vong và tổn thất nặng.

Thấy khả năng không giải phóng được thị xã, đêm 5 rạng ngày 6-6-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định rút quân ra khỏi thị xã để củng cố.  Chiến dịch bắc Tây Nguyên Xuân Hè 1972 kết thúc. 

Tại miền Đông Nam Bộ, sau khi chiếm được thị trấn Lộc Ninh, Bộ Tư lệnh Miền chỉ thị cho Bộ Tư lệnh chiến dịch Nguyễn Huệ, tranh thủ lúc địch đang rối loạn, chuyển lực lượng xuống phía nam tiến công chiếm lĩnh thị xã Bình Long. 

Ngày 13-4-1972, Sư đoàn 9 bắt đầu nổ súng tiến công thị xã Bình Long. Song tình hình địch lúc này đã thay đổi so với trước. Ngày 9-4-1972, địch phá cầu Cần Lê gây khó khăn cho ta trong việc cơ động lực lượng, đồng thời chúng mở cuộc hành quân Toàn thắng 72 C với lực lượng gồm Chiến đoàn 7 và Liên đoàn 3 biệt động quân, giải toả khu vực quanh thị xã Ngày 11-4, địch dùng máy bay lên thẳng bốc Chiến đoàn 8 từ Lai Khê đổ xuống thị xã, đưa tổng số quân ở thị xã lên 3 lữ đoàn tăng cường.

Trong 2 ngày 12 và 13-4, chúng lại đưa Sư đoàn 21 và 1 trung đoàn thiết giáp từ miền Tây Nam Bộ lên chốt chặn đường 13, (đoạn Lai Khê - Bàu Bàng). Cuộc tiến công vào thị xã Bình Long của ta gặp khó khăn. Đến ngày 15-5-1972, ta vẫn chưa dứt điểm được thị xã. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Miền chủ trương: không tiến công thị xã nữa mà chuyển sang bao vây cô lập Bình Long, thu hút, kìm chân địch trên đường 13, tạo điều kiện cho hướng khác phát triển.

Từ ngày 16-5-1972, thực hiện nhiệm vụ chốt chặn trên đường 13, ta đã chiến đấu quyết liệt đẩy lui nhiều đợt phản kích của địch. Cuộc tranh chấp giữa ta và địch trên đường 13 đoạn từ nam Bình Long đến bắc Chân Thành kéo dài suốt 4 tháng liền với những trận đánh lớn quyết liệt. Đến ngày 1-9-1972, bằng trận Bàu Bàng, ta kết thúc 135 ngày đêm đánh cắt giao thông trên đường 13, làm phá sản kế hoạch giải toả cho Bình Long. Chiến dịch tiến công Nguyễn Huệ đến đây về cơ bản đã chấm dứt.

Giữa lúc ta đang thắng lớn trên mặt trận quân sự, chính trị, thì Tổng thống Mỹ Níchxơn sang thăm Trung Quốc từ ngày 21 đến ngày 28-2-1972. Tiếp sau đó, Níchxơn thăm Liên Xô từ ngày 20 đến ngày 29-o-1972. Âm mưu của Níchxơn là vận động hai nước lớn Xô - Trung cắt giảm viện trợ làm cho ta giảm sức chiến đấu và ép ta phải chịu những điều kiện áp đặt của Mỹ tại Hội nghị Pari.

Tuy kết quả không theo ý muốn của Mỹ, nhưng là hành động “đáng tiếc” của hai người bạn lớn vô hình chung đã tiếp tay cho Mỹ.  Mặc dù vậy, cuộc tiến công của quân và dân miền Nam vẫn không giảm và tại Hội nghị Pa ri ta vẫn kiên quyết giữ đúng nguyên tắc. không hạ thấp chỉ tiêu. 

Đồng bằng sông Cửu Long, sau đợt hoạt động tạo thế (từ đầu tháng 4 đến cuối tháng 5- 1972), ngày 10-6- 1972, chiến dịch tiến công tổng hợp của Quân khu 8 mở màn.  Từ cuối tháng 5-1972, Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương ‘Cục và Quân uỷ Miền điều chủ lực xuống đồng bằng sông Cửu Long để triển khai chiến dịch này. Địa bàn chiến dịch gồm năm tỉnh: Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, Gò Công và Bến Tre.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 04:08:39 pm
Đây là địa bàn trọng yếu của đồng bằng sông Cửu Long. Tại đây lực lượng địch có Sư đoàn 7, Trung đoàn 6 thiết giáp, một liên đoàn đặc nhiệm hải quân, 5 giang đoàn, Liên đoàn 41 biệt động quân cùng lực lượng bảo an dân vệ cảnh sát dã chiến tại địa phương.

Về phía ta có Sư đoàn 5 chủ lực Miền (mới từ miền Đông xuống), C30B (tương đương sư đoàn gồm các trung đoàn 24, 207, 271 và các đơn vị binh chủng như Trung đoàn 28 pháo binh, Tiểu đoàn đặc công, Tiểu đoàn thông tin), các trung đoàn 1, 88, 320, và 3 tiểu đoàn đặc công, 2 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn công binh (Quân khu 8), bộ đội các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Kiến Tường, Kiến Phong, Bến Tre.

Quyết tâm của ta là dùng một bộ phận chủ lực bất ngờ thọc sâu chọc thủng tuyến ngăn chặn biên giới và phá vỡ tuyến ngăn chặn trung tâm Đồng Tháp Mười, bảo đảm hành lang vận chuyển, nhanh chóng thọc sâu xuống đường 4, tiến công dứt điểm một số quận lỵ, chi khu, làm đòn bẩy phát động quần chúng nổi dậy giải phóng phần lớn tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường và một phần Kiến Phong, sau đó phát triển mở vùng ở Gò Công và Bến Tre .

Chiến dịch diễn ra ba đợt.

Đợt 1 (10-6 - 30-6-1972): Chủ lực Miền đột phá tuyến biên giới, thọc sâu xuống Vùng 4 Kiến Tường. Quân khu 8 và địa phương phối hợp mở mảng ở nam - bắc đường 4, tiêu diệt một bộ phận sinh lực dịch, mở thông hành lang tạo điều kiện cho chủ lực Miền phát triển.

Mở đầu, ngày 10-6-1972, Trung đoàn 2 - Sư đoàn 5 nổ súng tiến công chi khu Long Khối. Cùng ngày, một bộ phận của Sư đoàn 5 cùng đặc công và bộ đội dịa phương vây ép căn cứ Gò Măng Đa, căn cứ Thạnh Trị. Pháo binh Miền pháo - kích thị xã Mộc Hoá.

Tại khu vực trọng điểm nam - bắc đường 4, lực lượng vũ trang quân khu và địa phương mở mảng Ba Dừa, đánh viện từ lộ Ba Dừa đến sông Ba Rài. Các tỉnh Mỹ Tho, Bến Tre, Kiến Phong phối hợp hoạt động. Kết thúc đợt l, ta toại khỏi vòng chiến đấu 5.000 tên địch, diệt gọn một tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng 8 tiểu đoàn khác, bức rút, bức hàng 50 đồn, giải phóng 2 xã, 30 ấp với trên 30.000 dân.

Từ ngày 3 đến ngày 31-7-1972, ta mở đợt 2 nhằm thu hút địch lên tuyến biên giới, phát huy ưu thế chủ lực Miền cùng lực lượng vũ trang ớ!a phương tiến công tổng hợp, mở mảng, mở vùng -nam đường 4, tạo thế đứng chân vững chắc để phát triển thế tiến công.

Với đợt hoạt động này, ta đã đánh quỵ Liên đoàn 41 biệt động quân (lần 2). Chiến đoàn A bảo an Bến Tre. diệt 7 tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng 13 tiểu đoàn. giải phóng 5 xã và nhiều ấp. mở ra nhiều mảng, hình thành các khu vực giải phóng tương đối liên hoàn, tạo thế đứng chân cho lực lượng vũ trang và cơ quan chỉ đạo các cấp Đồng thời. ta đã hình thành thế chiến dịch trên hai khu vực: biên giới và nam - bắc đường 4. đưa trọng điểm chiến dịch xuống trung tâm Đồng Tháp Mười (nam - bắc đường 4), tạo thế căng kìm địch trên nhiều hướng, ta có điều kiện phát triển, mở mảng. mở vùng: ...

Từ ngày 6-8 đến ngày 10-9-1972, ta mở tiếp đợt 3 nhằm “động viên nỗ lực ba thứ quân kết hợp tiến công và nổi dậy đánh bại một bước bình định của dịch giành thắng lợi ở chiến trường, góp phần giành thắng lợi ngoại giao ở Pa ri. phát triển thế tiến công, mở mảng nam - bắc lộ 4, phát triển mở mảng ở Bến Tre, mở lõm ở Gò Công, Chợ Gạo. Kiến Phong, căng kéo, đánh bại địch lấn chiếm đường số 1  Campuchia” 1
 
Trong dợt này, các cuộc phản công trên đường số 1 chống lấn chiếm Kôngpông Trò Béc và tiến công tổng hợp ở nam - bắc đường 4, mở mảng ở Bến Tre, Gò Công, Kiến Phong là những hoạt động nổi bật.

Tính chung. trong toàn chiến dịch (từ ngày 10-6 đến ngày 10-9-1972), trên địa bàn Quân khu 8, ta dã loại khỏi vòng chiến đấu 34.500 tên dịch (diệt 23.000, bắt l.5000 làm tan rã 10.000) bắn rơi 60 máy bay, phá huỷ 126 xe M113, 179 xe quân sự khác, 73 tàu, xuồng chiến đấu trên sông, 37 khẩu pháo, 21 kho, thu 3.222 súng các loại, 261 máy thông tin PRC 25, giải phóng 27 xã, 228 ấp với 240.000 dân. 


________________________
1. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Chiến dịch tiên công tổng hợp quân khu 8 năm 1972. Hà Nội, 1987. tr.70.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 07:27:44 pm
Thắng lợi của chiến dịch tổng hợp Quân khu 8 dã làm thay đổi một bước quan trọng thế và lực giữa ta với dịch trên chiến trường có lợi cho cách mạng, đặt cơ sở cho quân và dân Quân khu 8 cũng như đồng bằng sông Cửu Long tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong chặng đường tiếp theo.

Vào thời điểm này, ở Quân khu 9, đợt hoạt động kéo dài gần 5 tháng (7-4 – 25-8-1972) mang tên chiến dịch Nguyễn Huệ II cũng vừa kết thúc. Kết quả trong toàn dợt hoạt động, lực lượng vũ trang quân khu dã tiêu diệt, tiêu hao và làm tan rã gần một vạn tên dịch. diệt 4 chi khu, 2 yếu khu. 6 căn cứ trung đoàn, tiểu đoàn, dành chìm: cháy 213 tàu xuồng trên sông, phá huỷ 234 xe quân sự. 129 khẩu pháo. bắn rơi 151 máy bay, phá huỷ 5l kho, phá sập 51 cầu, thu 8.896 súng các loại: giải phóng 400 ấp với khoảng 800.000 dân. 

Đến đây, cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của ta trên chiến trường miền Nam mà trọng điểm là Quảng Trị đã giành được thắng lợi to lớn, loại khỏi vòng chiến đấu gần 20 vạn tên địch trong đó về bộ binh có 2 sư đoàn, 9 trung đoàn và 38 tiểu đoàn bị tiêu diệt, 1 sư đoàn, 10 trung đoàn và 31 tiểu đoàn bị đánh thiệt hại nặng. Lực lượng các binh chủng có 12 trung đoàn thiết giáp và 17 tiểu đoàn pháo bị diệt.  Nhiều tuyến phòng ngự cơ bản trên những địa bàn xung yếu của dịch bị phá vỡ. Vùng giải phóng của ta được mở rộng tạo thế liên hoàn từ Trị - Thiên, Khu V vào đến đồng bằng sông Cửu Long. Chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ bị đẩy đến bờ vực của sự phá sản.

Cùng với thắng lợi ở miền Nam trong năm 1972, trên chiến trường Lào, ta và bạn phối hợp thực hiện thành công chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng giữ vững địa bàn dã giải phóng.

Ngày 21-5-1972. Mỹ huy động 40 tiểu đoàn quân nguỵ Lào và quân Thái Lan mở cuộc hành quân lấn chiếm Cánh Đồng Chum. Dựa vào thế trận dã chuẩn bị bộ đội tình nguyện Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội giải phóng Lào anh dũng đánh bại nhiều cuộc tiến công của địch giữ vững trận địa.

Cuộc chiến dấu bảo vệ Cánh Đồng Chum kéo dài gần nửa năm (21-5 -  15-11-1972) qua nhiều trận đánh ác liệt, nổi bật là trận phản đột kích tại khu vực Cha Hô, Bản Hai, Bản Phồn (nam Cánh Đồng Chum) ngày 26-10-1972. Ta và bạn đã dành bại hoàn toàn cuộc hành quân lấn chiếm Cánh Đồng Chum của quân nguỵ Viêng Chăn và quân đánh thuê Thái Lan, loại khỏi vòng chiến đấu 5.607 tên dịch, bắt 179 tên: đánh thiệt hại nặng 3 GM và 3 tiểu đoàn quân Thái Lan.

Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Lào, quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Lào thực hiện thắng lợi chiến dịch phòng ngự với quy mô lớn; phối hợp có hiệu quả với cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của quân và dân miền Nam.

Ở miền Bắc, ngay sau khi Mỹ huy động lực lượng lớn không quân và hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai (6-4- 1972), Chính phủ ta đã ra tuyên bố: “không một sức mạnh tàn bạo nào, không một sự đe dọa láo xược nào lay chuyển được quyết tâm của nhân dân Việt Nam chiến dấu vì độc lập tự do của Tổ quốc” 1.

Vận dụng kinh nghiệm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất để đánh trả kịp thời bước leo thang ồ ạt của Mỹ, công tác phòng không nhân dân ở các địa phương được đẩy mạnh. Các đơn vị phòng không chủ lực và địa phương được điều chỉnh, tăng cường thêm lực lượng, và cơ động linh hoạt.  Chỉ trong vòng hơn một tháng, từ ngày 6 đến ngày 8-5-1972, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 90 máy bay, bắn cháy và bắn bị thương 20 tàu chiến Mỹ.

Sau một tháng đánh phá ác liệt miền Bắc, Mỹ không ngăn cản được miền Bắc chi viện cho miền Nam. Trái lại trên chiến trường miền Nam. Quân giải phóng ngày càng đánh mạnh và thắng lớn.

Trước tình hình đó, chính quyền Níchxơn tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở Việt Nam, mở rộng quy mô đánh phá miền Bắc, sử dụng những biện pháp quyết liệt để ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam.


_________________________
1. Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà, ngày 11-4-1972.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:16:34 pm
Từ ngày 9-5-1972, Mỹ bắt đầu dùng máy bay thả thuỷ lôi và mìn từ trường xuống tất cả các cửa sông, các cảng biển và trên nhiều vùng ven biển khác tử Móng Cái đến Vĩnh Linh.  Đồng thời, không quân địch mở nhiều dợt dành phá ác liệt vào tất cả các tuyến giao thông đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, dành phá các kho, đặc biệt là kho xăng, các cơ sở sản xuất công nghiệp và cả những vùng đông dân cư...

Đáng chú ý, từ tháng 6-1972 máy bay chiến lược B52 hoạt động thường xuyên với quy mô và cường độ ngày càng lớn, tập trung ở các khu vực Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An. Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ trên miền Bắc ngày càng trở nên ác liệt, bởi chính quyền Níchxơn không chỉ mở rộng quy mô và cường độ đánh phá mà còn dùng các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện dại nhất như các loại máy bay cải tiến, những loại bom, mìn và khí tài điện tử điều khiển bằng la de.

Song, với một ý chí và quyết tâm cao, dưới sự chỉ đạo đúng đắn của quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng các lực lượng phòng không - không quân của ta vừa đánh vừa rút kinh nghiệm, sáng tạo. cải tiến nhiều khí tài điện tử công hiệu cao, cách đánh độc đáo. Nhờ vậy trong vòng gần 6 tháng (9-5 – 22-10-1972) quân, dân miền Bắc đã bắn rơi 561 máy bay, bắn chìm. bắn cháy 60 tàu chiến địch, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ. 

Vượt qua sự đánh phá ác liệt và phong toả gắt gao của không quân và hải quân Mỹ, hàng hoá từ ngoài chuyển vào miền Bắc và từ miền Bắc đến các chiến trường miền Nam và Lào vẫn được bảo đảm. Năm 1972 số lượng hàng tiếp tế cho chiến trường tăng 1,7 lần so với năm 1971. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu, vừa ra sức sửa chữa nhà cửa, xây dựng phục hồi những thị trấn, thành phố bị bom Mỹ tàn phá, vừa tích cực khai hoang, phục hoá, gieo trồng đúng mùa vụ. Trên mặt trận này, nông dân kiên trì bám ruộng đồng, công nhân bám nhà máy, xí nghiệp, tăng năng xuất lao động, làm ra nhiều của cải đáp ứng yêu cầu dời sống và chiến đấu.

Năm 1972 mức thu mua lương thực tăng 1,5 lần so với năm 1971.  Cũng trong năm này, hai vạn thanh niên tòng quân vào bộ đội, hàng triệu lượt người tham gia thanh niên xung phong và dân công hoả tuyến sửa dường, bắc cầu đảm giao thông. 

Thất bại trên chiến trường miền Nam và không đạt được các mục tiêu trong chiến tranh phá hoại miền Bắc, lại bị nhân dân thế giới và chính nhân dân Mỹ phản đối mạnh mẽ, ngày 22- 10- 1972, Níchxơn tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra.

Trên cơ sở những thắng lợi về quân sự và chính trị trên cả hai miền Nam - Bắc, ta tranh thủ đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, tăng cường hoạt động quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các chính phủ và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Đặc biệt là hoạt động của phái đoàn ta tại Hội nghị Pari.

Ngày 8- 10-1972, trong cuộc gặp riêng với đại diện chính quyền Mỹ. đoàn đại biểu Chính phủ ta tại Hội nghị Pari về việt Nam đã đưa ra dự thảo văn bản Hiệp dịnh về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam gồm 10 chương. 

Ngày 17- 10- 1972, tại cuộc đàm phán ở Pari, các bên tham gia hội nghị đã thông qua văn bản Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam. Cũng tại phiên họp này, phía Mỹ thoả thuận với ta ngày 22-10-1972 sẽ ký tắt hiệp định tại Hà Nội, ngày 31-10-1972 sẽ ký chính thức tại Pari.

Song, Mỹ lại cố tình dây dưa, trì hoãn, không chịu thực hiện thoả thuận trong phiên họp ngày 17- 10, mà đòi ta phải sửa đổi nhiều điều khoản trong bản dự thảo hiệp định tháng 10 với lý do khó khăn từ phía Sài Gòn. Ý đồ của Mỹ là làm yên lòng Nguyễn Văn Thiệu để khỏi mang tiếng là “bỏ rơi một đồng minh” và tranh thủ thời gian củng cố nguỵ quân, nguỵ quyền để sau khi hiệp định được ký kết, chính quyền Sài Gòn vẫn đứng vững.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:17:30 pm
Trước thái độ lật lọng của đế quốc Mỹ, ngày 26-10- 1972, Chính phủ ta đã ra tuyên bố nêu rõ lập trường chính nghĩa, thái độ thiện chí của ta đồng thời vạch trần sự tráo trở của chính quyền Mỹ, đòi Mỹ phải thực hiện nghiêm chỉnh những vấn đề đã thoả thuận. Bản tuyên bố khẳng định: “Chính quyền Níchxơn không có thái độ nghiêm chỉnh và thiện chí thương lượng nhằm chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam, mà chỉ kéo dài đàm phán để lừa dối dư luận, che đậy âm mưu duy trì nguỵ quyền Sài Gòn để tiếp tục chiến tranh xâm lược Việt Nam và Đông Dương” 1

Đồng tình với tuyên bố của Chính phủ ta, nhiều nước trên thế giới đã lên tiếng ủng hộ. Một làn sóng đấu tranh đòi Mỹ phải ký ngay hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu cho hoạt dộng này là Đại hội Liên hiệp công đoàn thế giới họp ở Bucarét Thủ đô Rumani, ngày 1-11-1972 đã ra tuyên bố hoàn toàn ủng hộ lập trường của Việt Nam và tố cáo thái độ lật lọng của Mỹ.

Sau khi tái trúng cử Tổng thống nước Mỹ, Níchxơn có hàng loạt hành động ngang ngược trái với những điều ông ta đã cam kết trước đó. Tại Hội nghị Pari, Mỹ yêu cầu sửa 126 điểm trong dự thảo hiệp định tháng 10. Phái đoàn ta ở Hội nghị Pa ri kiên quyết bác bỏ những đòi hỏi vô lý đó, đòi Mỹ nghiêm chỉnh thực thi những điều đã thoả thuận.

Ở miền Nam, chúng ồ ạt đưa vũ khí vào và đốc thúc quân nguỵ phản kích quyết liệt hòng giành giật lại những nơi vừa bị mất. Ở miền Bắc, địch tập trung lực lượng kể cả B52 đánh phá ngăn chặn quyết liệt các tuyến giao thông từ nam vĩ tuyến 20 trở vào nhất là ở các trọng điểm Bến Thuỷ, sông Gianh, Long Đại Quán Hầu, Linh Cảm... Chúng còn ngang nhiên tiến hành các chuyến bay trinh sát ra bắc vĩ tuyến 20 nhằm chuẩn bị cho một đợt đánh lớn.

Theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình, từ đầu tháng 11-1972, Bộ Tổng Tham mưu dã nhận dính: “Địch sẽ tập trung đánh phá ác liệt từ Thanh Hoá trở vào, đồng thời có nhiều khả năng chúng sẽ dành phá lại phía bắc. Do đó, trong khi tiếp tục chỉ đạo cuộc chiến đấu bảo vệ giao thông ở phía nam, ta phải nâng cao cảnh giác, tích cực chuẩn bị, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu ở phía bắc để đối phó có hiệu quả khi địch đánh trở lại”.

Trên cơ sở nhận dình này, một số đơn vị phòng không dã được tăng cường vào nam vĩ tuyến 20. Nhiều trận đánh ác liệt với không quân địch đã diễn ra trên dịa bàn này.  Đêm 22- 11- 1972, Trung đoàn tên lửa 263 đã bắn rơi B52 tại Nghệ An. Quân chủng Phòng không - Không quân dã tổ chức rút kinh nghiệm, tìm ra cách đánh B52.

Ngày 24-11-1972, Quân uỷ Trung ương lưu ý các đơn vị phòng không: đế quốc Mỹ có thể liều lĩnh dùng B52 đánh phá các vùng trọng điểm Hà Nội, Hải Phòng, các chân hàng, đầu mối giao thông, các vùng đông dân, dùng hải quân đánh phá tăng cường bờ biển.

Ngày 27-11-1972, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho các lực lượng vũ trang: Có nhiều khả năng, địch sẽ đánh phá trở lại toàn miền Bắc với mức độ ác liệt hơn, kể cả việc dùng B52 đánh phá ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng. Vì vậy, nhiệm vụ của Quân chủng Phòng không - Không quân là tập trung mọi khả nàng nhầm đúng đối tượng B52 mà tiêu diệt. 

Thực hiện sự chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng, các lực lượng phòng không - không quân ở miền Bắc khẩn trương tiến hành hàng loạt công tác chuẩn bị, điều chỉnh lực lượng cho đợt chiến dấu mới có thể xảy ra. Đến ngày 4- 12, khi Bộ Tổng Tham mưu điện cho các đơn vị: Địch sẽ dùng B52 đánh rộng trên toàn miền Bắc, thủ đoạn có thể bất ngờ, ồ ạt, đánh ngay vào Hà Nội, Hải Phòng thì mọi công việc chuẩn bị đã cơ bản hoàn thành. Nhiệm vụ phòng không sơ tán được tiến hành khẩn trương. Nhân dân thành phố Hà Nội và Hải Phòng đi sơ tán về các vùng nông thôn, chỉ còn lại lực lượng thanh niên và những người lớn tuổi có sức khoẻ và kinh nghiệm ở lại giữ gìn trật tự.


______________________
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.II, tr.565.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:18:00 pm
Ngày 13-12-1972, Hội nghị Pari đi vào bế tắc. Đây cũng là thời điểm Níchxơn chính thức phê chuẩn kế hoạch tập kích ồ ạt bằng không quân quy mô lớn chưa từng có ở bắc vĩ tuyến 20 với mật danh Lainơbêchcơ (Linebacker II).

Theo kế hoạch, Mỹ tập trung toàn bộ lực lượng không quân trên các căn cứ ở Thái Lan và tàu sân bay, lấy các đơn vị máy bay chiến lược B52 cất cánh từ Utapao thuộc miền Nam Thái Lan và đảo Guam ở ngoài khơi Thái Bình Dương làm lực lượng đột kích chính. Hà Nội được chọn làm mục tiêu đánh phá chủ yếu. Hải Phòng cùng với khu vực giao thông đường sắt phía bắc sông Hồng là mục tiêu bổ trợ quan trọng.

Mục đích của cuộc tập kích là phá hoại tiềm lực kinh tế và quốc phòng của miền Bắc, đánh phá huỷ diệt, gây khủng khiếp trong nhân dân, buộc ta phải trở lại bàn thương lượng trên thế yếu và chấp thuận các đòi hỏi có lợi cho phía Mỹ. Qua cuộc tập kích Lainơbêchcơ II, Níchxơn thể hiện giữ vững cam kết ủng hộ Thiệu và răn đe ta: nếu hiệp định được ký mà ta vi phạm thì Mỹ không ngần ngại dùng sức mạnh quân sự trả đũa.

Ngày 18-12-1972, cuộc tập kích bắt đầu. Đây là cuộc tập kích dường không quy mô lớn nhất, hiện đại nhất, tàn bạo nhất trong lịch sử không quân của đế quốc Mỹ. Cách đánh cơ bản của chúng trong cuộc tập kích chiến lược này là lấy không quân chiến lược B52 làm lực lượng chủ yếu, đánh tập trung từng đợt vào ban đêm, kết hợp dùng lực lượng không quân chiến thuật đánh phá dai dẳng kéo dài cả ban ngày, kết hợp đánh đội hình lớn và đội hình nhỏ lẻ ở mọi độ cao (lớn, trung bình và thấp), áp dụng các thủ đoạn nghi binh và gây nhiễu phức tạp kết hợp dùng các loại vũ khí hiện đại có điều khiển tự động với vũ khí thông thường.

Song, nhờ được chuẩn bị tốt cả về tư tưởng và tổ chức với cách đánh linh hoạt, sáng tạo, ngay trong ngày đầu tiên xịch đánh phá, ta đã bắn rơi 3 máy bay B52. Tính chung trong toàn đợt, ta bắn rơi 81 máy bay trong đó có 34 máy bay B52, 5 F111, 21F4, 12A7, 1 F105, 4A6, bắt sống hàng trăm giặc lái. Đây là thất bại lớn nhất của đế quốc Mỹ trong hai cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.

Thắng lợi này cùng với thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam trong năm 1972 đã buộc đế quốc Mỹ phải ngồi lại bàn Hội nghị Pari, chấp nhận những nội dung cơ bản của dự thảo hiệp định ngày 20-10-1972 mà trước dó chúng đã từng lật lọng đòi sửa đổi.

Ngày 30-12-1972, Níchxơn tuyên bố ngừng ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam dân chủ cộng hoà và đề nghị ta họp lại Hội nghị Pari.  Từ ngày 8 đến ngày 13- 1-1973, cuộc gặp riêng giữa Cố vấn Lê Đức Thọ và đại diện phía Mỹ Kítxinhgiơ dã diễn ra.  Ngày 23-1-1973 Hiệp định Pari về Việt Nam được ký tắt.  Ngày 27- 1- 1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam dã được ký chính thức và bắt dầu có hiệu lực từ 9 giờ ngày 28- 1-1973. Theo hiệp định, Mỹ cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ và chư hầu về nước, chấm dứt sự dính líu quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam...

Đây là thắng lợi rất to lớn của nhân dân ta. tạo cơ sở vững chắc để ta tiến lên đánh cho “nguy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Đến đây, sau bốn năm triển khai chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh, sự áp dụng đầu tiên của học thuyết Níchxơn vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với mục tiêu là làm tàn lụi cuộc chiến đấu của nhân dân ta, buộc nhân dân ta phải chấp nhận một chính quyền thực dân mới, đế quốc Mỹ không thực hiện được ý đồ của chúng.

Quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đã vượt qua những thử thách ác liệt, đoàn kết chiến đấu cùng nhân dân Lào, Campuchia, đánh bại từng bước leo thang, mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương của Mỹ.

Thắng lợi giòn giã trên chiến trường ba nước Đông Dương trong những năm 1970 - 1971, đặc biệt là cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trưởng miền Nam trong năm 1972 và trận Điện Biên Phủ trên không ở miền Bắc cuối năm 1972, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa ri, về cơ bản ta đã làm phá sản chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh của chúng.

Điều này đồng nghĩa với việc Học thuyết Níchxơn - một bước điều chỉnh chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ bị lung lay tận gốc. Thắng lợi này có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, bởi từ đây, Mỹ phải rút quân ra khỏi miền Nam, so sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi căn bản có lợi cho ta.

Từ đây, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh buộc dịch thi hành Hiệp đinh Pari, tạo thế, tạo lực, mở cuộc Tổng tiến công và nồi dậy giành toàn thắng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:19:59 pm
Chương IV

TỔNG TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM

 I- ĐẤU TRANH THI HÀNH HIỆP ĐỊNH PARI,
PHÁT TRIỂN THẾ VÀ LỰC CỦA CÁCH MẠNG

Bị thất bại trong cuộc chiến tranh, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pa ri về Việt Nam, công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Đúng ngày 29-3-1973, toàn bộ quân Mỹ ở miền Nam cuốn cờ rút về nước, chấm dứt sự xâm lược của chúng. 

Tướng Wayand, Tư lệnh quân Mỹ và đồng minh của chúng ở miền Nam cũng nhập vào số 2.501 lính Mỹ cuối cùng lặng lẽ bước ra sân bay Tân Sơn Nhất, rời khỏi Việt Nam dưới sự giám sát của Quân giải phóng. Mỹ rút, nhưng chiến tranh chưa chấm dứt do mưu đồ của Mỹ vẫn tiếp tục dùng chính quyền, quân đội Sài Gòn thực hiện chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh. Bởi vậy, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn (MACV) được thay thế bằng Cơ quan tuỳ viên quốc phòng Mỹ (DAO) do tướng Giôn Muray điều khiển.

DAO thực chất là Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ trá hình sẽ điều khiển và giám sát các hoạt động quân sự, chính trị của quân đội, chính quyền Sài Gòn chống phá cách mạng sau khi Hiệp định Pari có hiệu lực. Mục tiêu trước mắt của Mỹ là lợi dụng hiệp định, lợi dụng những sư hở mất cảnh giác của ta, lấn chiếm đất, giành thêm dân, hòng xoá thế da báo, đẩy lực lượng cách mạng, nhất là bộ đội chủ lực Quân giải phóng khỏi vùng đồng bằng và đô thị.

Mặc dù buộc phải ký Hiệp định Pari, công nhận ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát tồn tại song song tạm thời trong thời gian quá độ tiến tới Tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam, Tổng thống Mỹ Níchxơn ngang nhiên tuyên bố trên các phương tiện thông tin đại chúng là y chỉ thừa nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là hợp pháp duy nhất ở miền Nam Việt Nam.

Điều này phơi bày âm mưu thật sự của tập đoàn cầm quyền Níchxơn trong vấn đề giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng các điều khoản Mỹ đã cam kết trong Hiệp định Pari. Níchxơn, Kítxinhgiơ và Thiệu quan niệm Hiệp định Pari chỉ là mảnh giấy, nên không ép buộc phải tuân theo.

Với ý đồ đen tối trên đây, trước Hiệp định Pari được ký kết ba tháng, đế quốc Mỹ đã hối hả đưa sang Việt Nam 625 máy bay các loại, 500 khẩu đại bác, 400 xe tăng, xe bọc thép, nhiều tàu chiến và các loại phương tiện chiến tranh hiện đại khác, tăng lượng dự trữ vật chất chiến tranh cho chính quyền Sài Gòn lên gần hai triệu tấn 1

Tháng 10-1972, sau khi đồng chí Lê Đức Thọ trao dự thảo hiệp định cho phía Mỹ, Kítxinhgiơ liền điện cho Bâncơ (Bunker) ở Sài Gòn phải nhắc Thiệu “Nỗ lực tối đa chiếm thêm càng nhiều đất đai có thể được, đặc biệt các vùng quan trọng đông dân quanh Sài Gòn” 2.

Do vậy, Hiệp định Pari vừa ký, chính quyền Sài gòn đã lợi dụng lúc giao thời xua quân đi lấn chiếm vùng giải phóng của Chính phủ Cách mạng lâm thời, thực hiện chiến dịch tràn ngập lãnh thổ mà chính quyền Sài Gòn đã hoạch định từ giữa năm 1972 khi thấy Mỹ có thể ký Hiệp định Pari với Hà Nội, rút quân Mỹ về nước là xu thế không thể đảo ngược.

Hành động chống phá Hiệp định Pari đầu tiên của dịch là hồi 5 giờ ngày 27- 1- 1973, quân đội Sài Gòn dùng 200 xe tăng. xe bọc thép và Lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ số 147, được pháo binh mặt đất và pháo trên hạm tàu yểm trợ, đánh chiếm cảng Cửa Việt.

6 giờ ngày 28-1, trước Hiệp định Pari có hiệu lực một giờ, quân đội Sài Gòn đã đóng chốt 7 cụm từ nam cảng Cửa Việt đến Long Quảng, - Chánh Hội. Mất Cửa Việt: Đông Hà, Dốc Miếu, Quán Ngang bị uy hiếp, tuyến vận tải chiến lược qua đường 9 bị đe doạ. Cửa Việt bị địch chiếm, nhưng chỉ huy lực lượng phòng thủ Cửa Việt của ta không sử dụng quân đội đánh chiếm lại, vì sợ vi phạm hiệp định.


____________________
1. Theo số liệu trong Tuyên bố ngày 3-11-1973 của Bộ Ngoại giao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về việc Mỹ vi phạm Hiệp định Pari.
1. Lưu Văn Lợi – Nguyễn Anh Vũ: Cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 1996. tr.304.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:20:29 pm
Trung tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng tham mưu trưởng kiêm Tư lệnh chiến dịch Quảng Trị biết địch chiếm Cửa Việt, đã ra lệnh cho đồng chí Cường và Đào Dũng chỉ huy phòng thủ hướng Cửa Việt phải lập tức đánh chiếm lại cảng, đồng thời báo cáo xin ý kiến Bộ Tổng tư lệnh. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đồng ý với ý kiến của đồng chí Lê Trọng Tấn và điện ra lệnh “phải dành chiếm lại ngay, lấy lại Cửa Việt cho bằng được”! Và dặn là phải cố gắng đưa xe tăng T54 vào. 

Đồng chí Lê Trọng Tấn trực tiếp ra lệnh cho Lữ đoàn xe tăng 203 và các trận địa pháo 130 mm hiệp đồng tác chiến chi viện cho Cửa Việt, đồng thời cho các sư đoàn bộ binh tuyển chọn 9 đội súng chống tăng điều khiển bằng hữu tuyến; phân công các đồng chí Cao Văn Khánh, Doãn Tuế, Phó Tư lệnh chiến dịch trực tiếp chỉ huy.

Sau thời gian khẩn trương chuẩn bị tư tưởng cho bộ đội và tổ chức lực lượng, viện lý do cần thay quân như địch đã làm hôm trước, ta đưa xe tăng và các đội chống tăng áp sát đội hình địch. Ngày 31-1-1973, dưới sự chi viện mạnh mẽ của pháo binh biến dịch và xe tăng, Trung đoàn bộ binh 101, thuộc Sư đoàn 325, hai tiểu đoàn bộ binh 47 và 10, thuộc Sư đoàn bộ binh 304, Tiểu đoàn bộ binh cơ giới 66 phối hợp với Sư đoàn bộ binh 320 phản công tiêu diệt quân địch, lấy lại Cửa Việt, đẩy địch lùi về vị trí cũ trước ngày 27-1-1973.  Được bộ đội chủ lực hỗ trợ, lực lượng vũ trang Quảng Trị luồn vào sau lưng địch, diệt ác, mở vùng làm chủ thêm 46 thôn, ấp.

Tuy phải ký Hiệp định Pa ri, nhưng mưu toan của chính quyền Sài Gòn là xoá thế “da báo”, “cài răng lược” giữa vùng của Chính phủ Cách mạng lâm thời với vùng chúng còn tạm thời kiểm soát để tạo thế có lợi tiếp tục lấn chiếm các vùng còn lại. Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho cảnh sát, quân đội thẳng tay đàn áp, khủng bố nhân dân miền Nam một cách dã man. Thiệu cho phép bắn giết tại chỗ không thương tiếc những người biểu tình hoan hô hiệp định, hoan hô hoà bình, bắn chết những quân nhân, viên chức đào ngũ hoặc tìm cách tiếp xúc tỏ tình anh em với những người cách mạng”.

Thiệu doạ sẽ diễn ra một cuộc “tắm máu” sau khi Mỹ rút là điều không tránh khỏi. Đồng thời với việc dùng quân đội, cảnh sát hành quân càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng, thực hiện chiến dịch tràn ngập lãnh thổ, chính quyền Thiệu tìm mọi cách ngăn cản, phá hoại triển khai Ban liên hợp quân sự bốn bên và hai bên trung ương, khủng bố các Tổ liên hợp quân sự khu vực. 

Theo thoả thuận của bốn bên tại Hội nghị Pa ri, chính quyền Sài Gòn có trách nhiệm cho máy bay đón Đoàn đại biểu của Chính phủ Cách mạng lâm thời trong Ban liên hiệp quân sự hai bên và bốn bên tại sân bay Thiện Ngôn vào Tân Sơn Nhất. Nhưng phía Sài Gòn đã tráo trở, đúng vào giờ và địa điểm hẹn đón đoàn ta, chúng đã cho máy bay ném bom sân bay Thiện Ngôn - nơi đoàn ta đang đợi.

Do ta cảnh giác, đoán trước được âm mưu của địch, nên đoàn đã khôn khéo tránh không bị thiệt hại. Qua việc này thấy rõ phía Mỹ và Sài Gòn cố tình vi phạm nghiêm trọng các điều khoản của Nghị định thư về các ban liên hợp quân sự. Khi đoàn ta đã vào được Trại Đa vít (Davis), phía Mỹ và Sài Gòn tìm mọi cách gây khó khăn cho đoàn ta từ việc đi lại, ăn ở trong khu vực Trại Đa vít.

Chúng còn dùng tổ chức Thiên Nga trong ngành an ninh quân đội cải trang làm nhà thầu cung cấp hậu cần cho phái đoàn ta trong Trại Đa vít, rồi bí mật đặt máy nghe trộm tin tức. Ngay trong phiên họp đầu tiên bốn bên, phía Mỹ gây rắc rối đòi các thành viên trong đoàn ta trình giấp uỷ nhiệm, mặc dù các thành viên trong Ban liên hiệp quân sự của ta đã có thẻ ngoại giao và được các bên thông báo cho nhau ở Hội nghị Pari.

Mỹ và Sài Gòn còn tìm đủ thứ lý do để không thực hiện 11 điều ưu đãi và miễn trừ cho phái đoàn Liên hợp quân sự bốn bên và hai bên trung ương của ta. Nghiêm trọng hơn là chính quyền Thiệu tổ chức lực lượng quân đội, cảnh sát phục kích, gây rối, hành hung các đoàn ta trong Tổ liên hợp quân sự các khu vực.

Ở khu vực 4 Phan Thiết, đoàn ta bị quân đội Sài Gòn phục kích bắn chết 4 đồng chí. Ở Plâyku, Buôn Ma Thuộc, Huế, Đà Nẵng, Đức Phổ, Tam Kỳ... cảnh sát nguỵ giả danh côn đồ khiêu khích, hành hung các đoàn ta, kết hợp với bắn pháo, ném bom đã gây cho ta nhiều thương vong, không triển khai được các ban liên hợp quân sự khu vực, để phía Sài Gòn dễ thao túng, phá hoại hiệp định.

Chúng còn sơn lên máy bay, xe bọc thép các ký hiệu của Uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế, Uỷ ban liên hợp quân sự, giả danh các tổ chức này xâm phạm các vùng giải phóng của ta, nhưng họ lại lớn tiếng tố cáo ta vi phạm hiệp định, đưa tên lửa SAM2 vào Quảng Trị, bao vây đồn Tống Lê Chân,- bắn rơi máy bay của Uỷ ban quốc tế ở Ly Tôn . . .

Tống Lê Chân là vị trí cô lập nằm sâu trong vùng giải phóng tỉnh Bình Phước (Bình Long và Phước Long cũ) do một đại đội biệt kích đóng giữ, vì không có đường tiếp tế, chúng buộc phải bỏ chạy. Còn vụ Ly Tôn (huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị), một máy bay lên thẳng của Uỷ ban quốc tế do phi công Mỹ lái cố ý bay chệch hành lang quy định, xâm phạm vùng kiểm soát của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, bị bộ đội ta bắn rơi làm chết hai sĩ quan Hungari, 2 sĩ quan Inđônêxia.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:21:20 pm
Mỹ và Sài Gòn lợi dụng việc này tố cáo ta vi phạm hiệp định, kích động dư luận thế giới. Nhưng hai đoàn Hungan và Ba Lan trong Uỷ ban quốc tế ủng hộ ta đấu tranh đã thuyết phục Uỷ ban kết luận “vụ Ly Tôn” là lỗi của người lái máy bay bay sai hành lang quy định. 

Trong khi ở trong nước, chính quyền Sài Gòn được Mỹ ngấm ngầm ủng hộ, phá hoại việc -thi hành hiệp định, thì tại hội nghị La Celle Saint Cloud từ ngày 19-3 đến ngày 30-5- 1973, Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời và Đoàn đại biểu của chính quyền Sài Gòn họp bàn việc thi hành Hiệp định Pari, nhưng phía Sài Gòn luôn giở luận điệu “miền Bắc xâm lược miền Nam”, miền Bắc phải rút quân. Họ phủ nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời, phủ nhận thực tế ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội: hai vùng kiểm soát mà Hiệp định Pari đã long trọng công nhận. Họ đòi giải quyết vấn dề miền Nam theo khuôn khổ Hiến pháp của Sài Gòn.

Rõ ràng chính quyền Sài Gòn đã vi phạm nghiêm trọng các điều khoản của Hiệp định Pari mà họ là một bên trong bốn bên đã ký. Tại Hội nghị La Ceue Saint Cloud, Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời tập trung đấu tranh dòi phía Mỹ và Sài Gòn nghiêm chỉnh thực thi ba vấn dề cấp bách mà Hiệp đinh Pari đã quy định là: ngừng bắn, trao trả người của hai bên bị bắt; thực hiện tự do, dân chủ.

Theo Hiệp định Pari quy dính, trong thời hạn 90 ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực (kể từ 24 giờ GMT ngày 27- 1- 1973, tức là 7 giờ ngày 28- 1- 1973) hai bên miền Nam Việt Nam sẽ bàn bạc thống nhất ký một hiệp định về các vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam. Nhưng do chính quyền Sài Gòn ngoan cố phá hoại, nên những cuộc thảo luận tại Hội nghị La Celle Saint Cloud không đi đến kết quả. Ngày 25-4- 1973, Bộ trưởng Nguyễn Văn Hiếu nhân danh Chính phủ Cách mạng lâm thời dưa ra đề nghị 6 điểm:

1. Chấm dứt ngay mọi xung đột, triệt để tuân theo mọi điều khoản vc ngừng bắn.

2. Trao trả ngay tất cả nhân viên dân sự bị bắt, bị giam giữ tại miền Nam Việt Nam.

3. Bảo dàm ngay và dầy đủ các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam.

4. Thành lập Hội đồng quốc gia hoà giải và hoà hợp dân tộc.

5. Tiến hành tổng tuyển cử tự do và dân chủ ở miền Nam Việt Nam.

6. Giải quyết vấn đề lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam.

Sáu điểm Bộ trưởng Nguyễn Văn Hiếu đưa ra được dư luận đồng tình ủng hộ. Nhiều chính phủ, nhiều tổ chức chính trị - xã hội trên thế giới lên tiếng ủng hộ lập trường đúng đắn và có thiện chí của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Giáo hoàng J.Pôn VI cũng bày tỏ cảm tình với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và hoan nghênh việc ký Hiệp định Pari. 

Tại Sài Gòn, trong phiên họp của Ban liên hợp quân sự hai bên ở Tân Sơn Nhất, Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn, Trưởng đoàn Ban liên hợp quân sự hai bên của Chính phủ Cách mạng lâm thời cũng đưa ra đề nghị 5 điểm nhằm thúc đẩy ngừng bắn lâu dài, chấm dứt xung đột. Song, bị phía Sài Gòn phản dối. Họ luôn luôn xuyên tạc sự thật, trì hoãn việc trao trả nhân viên dân sự, quân sự bị bắt, bị giam giữ còn lại của hai bên.

Qua quá trình đấu tranh căng thẳng, đến tháng 3- 1974. Sài Gòn mới trao trả cho ta 5.075 nhân viên dân sự, 130 nhân viên quân sự mà lẽ ra họ phải trao trả trong năm 1973. Cuộc đấu tranh chống chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định Pari diễn ra gay gắt. Tiếng súng trên chiến trường vẫn không chấm dứt. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ngoan cố và xảo quyệt chủ trương thực hiện khẩu hiệu “Trên hoà bình, dưới chiến tranh, ngoài hoà hợp, trong bình định lấn chiếm”.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:51:31 pm
Chỉ tính từ ngày Hiệp đinh Pa ri có hiệu lực đến tháng 3- 1974, suốt từ Quảng Trị đến Cà Mau, lợi dụng sự kìm chế của ta, quân đội Sài Gòn liên tiếp mở 40.000 cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm vùng kiểm soát của Chính phủ Cách mạng lâm thời, trong đó có nhiều cuộc hành quân quy mô cấp sư đoàn hoặc tương đương lấn chiếm vùng giải phóng Cửa Việt (Quảng Trị), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Ngô Trang, Trung Nghĩa (Kon Tum), Làng Dịt, Đức Cơ (Gia Lai), Vùng 4 Kiến Tường, Vùng 20-7 và Chương Thiện (đồng bằng sông Cửu Long), vùng bắc Củ Chi, Tràng Bàng, Tống Lê Chân (Đông Nam Bộ)... Nhiều vùng giải phóng có từ trước năm 1968 như vùng Gò Nổi huyện Điện Bàn, vùng Đại Lộc huyện Duy Xuyên (Quảng Nam)... chính quyền Thiệu cũng ngang nhiên lấn chiếm.

Tính đến tháng 10-1973, chính quyền Sài Gòn đã lấn chiếm thêm 900 ấp, xã, đóng thêm 530 đồn, bốt. Theo số liệu tổng kết của chính quyền Sài Gòn thì số ấp quân sự loại A năm 1972 chúng mới kiểm soát được 4.721 ấp, nhưng cuối năm 1973 đã tăng lên 5.508 ấp. Cũng trong thời gian này, phía chính quyền Sài Gòn leo thêm một nấc thang nghiêm trọng, bất chấp sự phản đối của nhân dân trong nước và quốc tế, chúng mở các chiến dịch ném bom, bắn pháo có tính chất huỷ diệt dối với các thị trấn, làng mạc, khu dông dân cơ trong vùng kiểm soát của Chính phủ Cách mạng lâm thời, gây nên cảnh tàn phá, chết chóc đau thương chẳng kém thời kỳ chiến tranh.

Đầu tháng 3-1973, Quân uỷ Trung ương họp đánh giá tình hình miền Nam về quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao dể có chủ trương cho phù hợp, nhằm chặn đứng hành động lấn chiếm đất đai, phá hoại hoà bình của địch. Các đồng chí trong Quân uỷ Trung ương phát biểu rất sôi nổi, nghiêm túc tự kiểm điểm trách nhiệm của mình và nêu ra những suy nghĩ về phương hướng chỉ dạo cách mạng miền Nam, giúp cho Quân uỷ kết luận: Địch đang tìm mọi cách phá hoại hiệp định, phá hoại hoà bình... Địch sẽ mở những cuộc hành quân an ninh, cảnh sát, tiếp tục đẩy mạnh bình định, diệt hạ tầng cơ sở cách mạng.

Quân uỷ Trung ương xác định: Chúng ta chủ trương ra sức củng cố hoà bình, đòi triệt để thi hành hiệp định, tích cực phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt, luôn sẵn sàng dập tan mọi hành động của địch chống phá hiệp định, gây lại chiến tranh. Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang là ra sức củng cố tổ chức, nàng cao chất lượng chiến đấu nhằm đáp ứng yêu cẩu mới của cách mạng, đồng thời xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tham gia đấu tranh chính trị của quần chúng, xây dựng căn cứ địa và vùng giải phóng vững mạnh ở miền Nam, luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu đập tan mọi âm mưu gây lại chiến tranh của địch.

Ngày 27-3-1973, Bộ Chính trị họp mở rộng, đánh giá tình hình thi hành Hiệp định Pa ri, đề ra phương hướng đấu tranh đối với Mỹ và thảo luận phân công giữa Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam trong việc chỉ đạo các phái đoàn liên hợp quân sự của ta ở Trại Đa vít. . .

Kết luận hội nghị, dông chí Lê Duẩn nhất trì dể Trung ương Cục trực tiếp chỉ đạo các Ban liên hợp quân sự: Quân uỷ Trung ương chỉ đạo quân sự. Đồng chí Lê Duẩn khẳng định: Mỹ đã thực sự rút quân, nhưng chưa chấm dứt dính líu; nguỵ còn ngoan cố phá hoại hiệp định. Ta cần tranh thủ xây dựng mọi mặt, đấu tranh quy trách nhiệm cho Mỹ, buộc đối phương phải thi hành hiệp định.

Trong những tuần lễ đầu thi hành hiệp định chưa thể coi ở miền Nam thật sự hết tình trạng chiến tranh. Nguyên Văn Thiệu ra lệnh cho quân đội dẩy mạnh hành quân càn quét, hành quân bình định, tiếp tục chiến dịch tràn ngập lãnh thổ, lấn chiếm vùng giải phóng của Chính phủ Cách mạng lâm thời, hòng triệt tận gốc hạ tầng cơ sở cách mạng ở thôn, ấp. 

Chính quyền Thiệu coi đó là nhiệm vụ trọng tâm năm 1973, có thể “giải quyết toàn bộ 75% cuộc chiến tranh”. Nguyễn Văn Thiệu nói “thắng là đây, mà thua cũng là đây”. Rõ ràng chính quyền Sài Gòn được Mỹ ủng hộ đã đặt nhiệm vụ lấn chiếm, bình dính, diệt trừ cộng sản là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, chứ không phải nhiệm vụ thực thi Hiệp định Pari. 

Theo dõi sát tình hình thi hành hiệp định, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận thấy địch tìm mọi cách không thi hành hiệp định, chúng chỉ lợi dụng hiệp định để chống phá ta. Tháng 6- 1973, Bộ Chính trị họp với các đồng chí bí thư, tư lệnh từ chiến trường ra, chủ trương: Kiên quyết giữ vững hoà bình, không chủ động gây ra xung đột quân sự, gây ra nội chiến, ra sức giữ vững và phát huy những thắng lợi đã giành được, củng cố và tăng cường thực lực về mọi mặt, tranh thủ thuận lợi mới, khả năng mới, để đưa cách mạng tiến lên bằng cao trào chính trị có lực lượng vũ trang hậu thuẫn. Đây là chủ trương đúng phù hợp với tình hình lúc bấy giờ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:52:08 pm
Dựa vào chủ trương của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Trung ương Cục miền Nam và Khu uỷ Khu V, Mặt trận Tây Nguyên dã chỉ đạo cho các lực lượng vũ trang, chính trị, binh vận kiên quyết đấu tranh chống địch lấn chiếm, giữ vững những vùng đã giải phóng. giữ vững hoà bình, đồng thời tích cực thực hiện kế hoạch thời cơ, tranh thủ cắm cờ, giữ đất xác định chủ quyền của mình. 

Trong ba tháng đầu năm 1973, những cuộc cắm cờ, lấn đất giành dân diễn ra ồ ạt, căng thẳng, quyết liệt giữa ta và địch suốt từ bờ nam sông Bến Hải đến tận mũi Cà Mau. Ta cắm cờ, địch đem quân đánh phá nhổ cờ của ta, cắm cờ của chúng. Địch cắm cờ, ta lại nhổ; cứ thế giằng co quyết liệt suất hai tháng sau khi Hiệp định Pari có hiệu lực. Thương vong của hai bên ta và địch ngày càng tăng lên.

Tuy vậy, ở các chiến trường, một mặt ta kiềm chế, tìm mọi cách tiếp xúc với phía bên kia để bàn việc thi hành hiệp định, mặt khác nơi nào địch ngoan cố lấn chiếm, ta buộc phải đánh trả. Tình hình miền Nam lúc này vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh, nhiều nơi đã im tiếng súng, nhưng nhiều nơi khác cuộc chiến lại rất ác liệt.

Các cuộc tiếp xúc giữa bộ đội ta với quân đội Sài Gòn tại các “nhà hoà hợp” có thuốc lá Điện Biên, chè Thái Nguyên từ miền Bắc gửi vào, hai bên cùng hút thuốc, uống nước, bàn chuyện ngừng bắn, quan hệ, hoà bình, nhưng rồi đâu lại vào đấy Ngừng bắn, hoà hợp ở chỗ này, địch lại lấn chiếm ở chỗ khác.

Ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu xảo trá và ngoan cố quá mức, buộc lực lượng vũ trang giải phóng phải phản công diệt và đẩy lùi quân ngụy Sài Gòn khỏi các vùng chiếm đóng trái phép như Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Ngô Trang, Đắc Rơ Cót (Kon Tum), Cái Bè, vùng bắc Cai Lậy, vùng 4 Kiến Tường, Chương Thiện (đồng bằng sông Cửu Long), Củ Chi, Trang Bàng, Tống Lê Chân (Đông Nam Bộ)... 

Quân và dân ta đang tích cực phản công và tiến công giành lại những vùng đã bị địch lấn chiếm, phong trào đang lên, thì tháng 5- 1973, Khu uỷ Khu VIII mở hội nghị phổ biến chỉ thị của Trung ương Cục và Quân uỷ Miền. Đồng chí Dương Cự Tẩm, Chính uỷ quân khu truyền đạt chỉ thị của Miền về công tác lãnh đạo chính trị, giáo dục tư tưởng cho lực lượng vũ trang là: Rút lực lượng vũ trang về phía sau để củng cố, xây dựng: tránh thế “da báo”, “cài răng lược”, đấu tranh buộc địch thi hành hiệp định, tiến tới thành lập Chính phủ liên hiệp ba thành phần. Đồng chí Bảy Hiệp (Lê Thái Hiệp) trong Ban Nghiên cứu của Trung ương Cục được cử đến dự cũng phát biểu nhấn mạnh phải ổn định tình hình.

Đây là một chủ trương sai lầm, nhiều cán bộ cấp khu, tỉnh phản ứng, không nhất trí với chủ trương trên, dã nổ ra cuộc tranh luận gay gắt, nhưng vì chỉ thị của trên nên phải miễn cưỡng thi hành. Sai lầm nghiêm trọng hơn nữa là cũng trong thời gian này (cuối tháng 5- 1973) Ban Binh vận Miền triệu tập hội nghị binh vận từ cấp huyện trở lên để phổ biến chủ trương đấu tranh, nói là của Trung ương lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu binh vận là chiến lược. Ta phải hoà hợp dân tộc, xoá bỏ hận thù, phải “xanh vỏ, đỏ lòng”, biến người của địch thành người của ta, thực hiện 5 cấm chỉ:

1. Cấm tấn công địch.

2. Cấm pháo kích.

3. Cấm đánh địch càn quét.

4. Cấm xây dựng xã, ấp chiến đấu.

5. Cấm diệt đồn bốt. Đánh đồn phải xin chỉ thị của Quân uỷ Miền.

Đây là chủ trương hết sức tai hại, thể hiện tư tưởng hoà bình chủ nghĩa, mất hết ý chí chiến đấu, mất cảnh giác cách mạng đã gây ra những tổn thất về sinh mệnh, của cải, đất đai, làm cho cuộc đấu tranh của nhân dân lao đao.

Ở Khu V, mặc dù không có “5 cấm chỉ”, nhưng do không nhận thức được tính chất phức tạp của cuộc dấu tranh mới và âm mưu xảo quyệt của dịch: một số cán bộ lãnh đạo nảy sinh tư tưởng sợ gây căng thẳng, muốn hoà hoãn với địch, giữ thế ổn định, nên phân tán các sư đoàn chủ lực thành những đơn vị nhỏ tăng cường cho các tỉnh đưa về nông thôn cùng nhân dân giữ đất.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:52:24 pm
Trong khi đó, một số địa phương lại chủ trương rút lực lượng vũ trang cắm trong vùng sâu tạo thế “cài răng lược” về vùng giải phóng để không tạo ra sự đối đầu quyết liệt với địch... Kết quả là nhiều xã ở Quảng Nam đã giải phóng từ năm 1960, trong chiến tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ, địch không làm gì được, thì nay bị địch lấn chiếm, đảng viên bị tách khỏi quần chúng.

Ở Tây Nguyên, bộ đội chủ lực không phân tán thành những đơn vị nhỏ, nhưng phải giăng ra trên các tuyến trực tiếp tiếp xúc, bị động chống đỡ vất vả với các cuộc tiến công lấn chiếm của quân đội Sài Gòn, chỉ khi ta tập trung lực lượng tiến công tiêu diệt căn cứ Chư Nghé (Lệ Minh) thì địch mới co lại.

Kết quả chủ trương sai lầm và những nhận thức lệch lạc trên đây đã tạo cho chính quyền Sài Gòn những tháng đầu năm 1973 tiến công lấn chiếm các vùng giải phóng của ta mà không bị trừng trị. Từ ngày 21-1 đến ngày 5-3-1973, địch đã vi phạm hơn 344.000 vụ, gồm 39.000 cuộc hành quân lấn chiếm, 250.000 cuộc hành quân cảnh sát, hành quân bình định; hơn 36.000 vụ bắn phá bằng đại bác. 17.000 lượt máy bay trinh sát vũ trang và ném bom vùng giải phóng.

Chính quyền Sài Gòn đã bắt giam, tra tấn dã man 40.000 người dân yêu nước, yêu hoà bình, tán thành ngừng bắn, hoà hợp dân tộc Chúng đã bắn chết, làm bị thương 10.000 người dân vô tội khác. Chỉ lấy ví dụ một tỉnh Quảng Ngãi, từ ngày 28- 1-1973 đến ngày 28- 12-1973, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã cho quân lính càn quét triệt hạ 85 thôn, xã, giết 1.400 dân thường, thiêu huỷ 10.000 ngôi nhà dân, 92 trường học, phá nát gần 4.000 mẫu ruộng, vườn.

Trước tình hình trên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng kịp nhận thấy ta có khuyết diềm và sơ hở trong chủ trương đấu tranh, đánh giá địch chưa đúng, chủ quan coi thường địch... Do đó nhiều nơi ở chiến trường ta đối phó bị động trước hành động vi phạm hiệp định của địch. 

Ngày 28-6- 1973, Quân uỷ Trung ương họp, nhận định tình hình đấu tranh thi hành hiệp định có thể diễn ra hai khả năng: hoặc là hoà bình được duy trì, Hiệp định Pa ri từng bước được thực hiện, phong trào cách mạng miền Nam có điều kiện thuận lợi phát triển; hoặc là chiến tranh tiếp tục dưới hình thức và mức độ khác trước, vừa lấn chiếm và chống lấn chiếm, vừa đấu tranh hoà bình hoà hợp dân tộc.

Nếu chiến tranh diễn ra, một khi quân Mỹ đã rút về nước, chúng khó có khả năng quay trở lại. Mỹ có thể dùng không quân, hải quân bắn phá, yểm trợ cho quân nguỵ Sài Gòn, nhưng chúng không thể đảo ngược được tình thế. Quân uỷ Trung ương chủ trương, cố gắng cao nhất thực hiện khả năng một, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó với khả năng hai. Nghị quyết Quân uỷ Trung ương được Bộ Chính trị nhất trí thông qua.

Song, diễn biến ở chiến trường trên thực tế khả năng một không diễn ra. Địch tiếp tục vi phạm hiệp định ngày càng nghiêm trọng hơn, nhưng chúng lại tố cáo vi phạm.  Cuối tháng 6- 1 973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 21. Hội nghị kéo dài nhiều ngày thảo luận tình hình bảy tháng thi hành Hiệp định Pari, thấy rõ những khuyết điểm của lãnh đạo là đánh giá âm mưu địch không đúng, chủ trương đấu tranh không sát với tình hình, chủ quan, hữu khuynh, mất cảnh giác, làm cho nhiều địa phương không nắm chắc chủ trương “hoà hợp dân tộc” của Trung ương, đấu tranh lừng chừng, do dự, chập choạng về phương hướng, khiến địch lợi dụng thừa cơ lấn chiếm vùng giải phóng, giành dân ở các vùng tranh chấp, vùng giáp ranh, nhiều nơi ta đã bị mất thế “cài răng lược”.

Tại hội nghị này, tổng kết 18 năm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Ban Chấp hành Trung ương rút ra được những bài học kinh nghiệm giành thắng lợi có tính quy luật là luôn luôn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công và phương pháp cách mạng bạo lực, dựa trên lực lượng chính tn và lực lượng vũ trang, thực hiện phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, đánh địch bằng ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định: âm mưu của đế quốc Mỹ là tiếp tục dùng nguỵ quyền Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành một quốc gia riêng với chế độ chính trị thân Mỹ. Mỹ sẽ viện trợ mọi mặt quân sự, kinh tế, tài chính để chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu thực hiện ý đồ của Mỹ là tiến công lấn chiếm xoá bỏ vùng kiểm soát của Chính phủ Cách mạng lâm thời.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:53:38 pm
Chính sách cơ bản của Mỹ đối với Nam Việt Nam vẫn là thực hiện học thuyết Níchxơn, áp đặt cho được chủ nghĩa thực dân kiểu mới Mỹ, chia cắt lâu dài đất nước ta.  Để thực hiện âm mưu chiến lược trên đây, đế quốc Mỹ cố duy trì chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và đội quân nguỵ tay sai, giúp đỡ, viện trợ cho chúng tăng cường sức mạnh về mọi mặt, dùng bạo lực phản cách mạng để duy tn sự thống tn của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Âm mưu trước mắt của Mỹ là duy trì sức mạnh ở mức độ nhất định để thực hiện chiến lược ngăn đe thực tế ở Đông Nam á, kiềm chế phong trào cách mạng Việt Nam và Đông Dương, Đông Nam Á, tạo điều kiện bao vây, bóp nghẹt cách mạng Việt Nam. Mỹ còn lợi dụng xu thế hoà hoãn trên thế giới, lợi dụng mâu thuẫn trong phe xã hội chủ nghĩa, dùng những thủ đoạn ngoại giao, quan hệ văn hoá, kinh tế và chính sách cân bằng lực lượng giữa các nước lớn, giữa các nước trong khu vực để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, nguỵ quân, nguỵ quyền miền Nam có những mặt yếu rất cơ bản là chính trị, mà chỗ mạnh tạm thời về quân sự của chúng không thể bù đắp được. Chính sách cai trị độc tài phát xít của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã gây ra những bất bình trong nhân dân, do đó sự chống đối của nhân dân đối với chính quyền Sài Gòn tay sai Mỹ ngày càng mạnh mẽ.

Cho nên quá trình phát triển của chính quyền Sài Gòn là quá trình đi xuống. Trong khi đó, từ sau khi quân Mỹ rút về nước, mặc dù ta còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung thế và lực của cách mạng miền Nam mạnh hơn bất kỳ thời nào trước đó. So sánh lực lượng đôi bên, ta mạnh hơn hẳn địch.

Song, trong những tháng đầu thi hành hiệp định, địch chủ động tiến công ta; ta bị động đối phó là do ta có khuyết điểm, mất cảnh giác chứ không phải do địch mạnh. Từ nhận định đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 chỉ rõ thời cơ chiến lược sẽ đến. Phương hướng chủ động, tích cực có lợi nhất cho sự nghiệp cách mạng của cả nước hiện nay là “luôn luôn giương cao ngọn cờ hoà bình và chính nghĩa, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải thi hành hiệp định để thắng địch.

Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết, vừa cơ bản trong giai đoạn mới” 1.

Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới được Hội nghị Trung ương lần thứ 21 xác định là: “Tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đoàn kết toàn dân, đấu tranh chống đế quốc Mỹ, giai cấp tư sản mại bản và bọn địa chủ phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tập trung mũi nhọn vào đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít, tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ, đang thống trị trong vùng địch kiểm soát; đẩy lùi và thắng địch từng bước; đi đến xoá bỏ chính quyền tay sai của Mỹ, xoá bỏ chế độ thực dân mới, thiết lập một chính quyền dân tộc dân chủ thật sự, thực hiện hoà hợp dân tộc, thoát ly hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ” 2.

Hoàn thành được cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong điều kiện có pháp lý của Hiệp định Pa ri là một quá trình đấu tranh lâu dài, gay go, phức tạp trên nhiều mặt. Ta phải kéo địch xuống từng bước và thắng chúng từng bước, tạo thời cơ tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trong quá trình đấu tranh thực hiện một chính quyền thật sự dân tộc dân chủ, cách mạng miền Nam có thể trải qua nhiều bước quá độ và chỉ có thể giành được thắng lợi bằng con dường bạo lực cách mạng. Vì vậy, cách mạng miền Nam phải luôn luôn nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công trong bất cứ hoàn cảnh, điều kiện nào.

Trước mắt, cách mạng miền Nam phải hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đoàn kết toàn dân, đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao một cách hết sức chủ động, linh hoạt, tuỳ theo từng lúc, từng nơi mà kết hợp giữa các mặt trận đó cho thích hợp để buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari về Việt Nam, không ngừng giữ vững, phát triển lực lượng, cách mạng về mọi mặt, thắng địch từng bước và chủ động trong si tình huống, đưa cách mạng miền Nam tiến lên.


__________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.34, tr.233. .
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.233.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:54:31 pm
Để hoàn thành nhiệm vụ trước mắt, ta phải lấy khẩu hiệu hoà bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc để tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, phân hoá hàng ngũ địch, cô lập tập đoàn thống trị tay sai Mỹ ở miền Nam. Đồng thời chú trọng củng cố liên minh công nông, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tích cực tranh thủ lực lượng thứ ba.

Hội nghị Trung ương lần thứ 21 còn chỉ ra rằng, địch đang dùng hành động quân sự đánh phá, lấn chiếm vi phạm nghiêm trọng Hiệp định Pari một cách có hệ thống. Ta phải sử dụng lực lượng vũ trang và chính trị kiên quyết phản công và tiến công địch để giữ vững và phát huy quyền chủ động mọi mặt của cách mạng. Hướng phản công và tiến công của ta phải nhằm mục tiêu đánh bại kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch, đặc biệt là vùng đồng bằng và vùng giáp ranh.

Đối với vùng giải phóng (cả căn cứ địa), nhiệm vụ của ta là đoàn kết toàn dân, toàn quân, vừa sản xuất, vừa chiến đấu phải xây dựng mạnh cả về chính trị, quân sự, kinh tế và phải giữ vững vùng giải phóng bằng mọi cách.  Đối với vùng tranh chấp giữa ta với địch, ta phải giữ vừng thế và lực của cách mạng, từng bước chuyển lên phải nắm cho được dân, xây dựng và phát triển được thực lực của ta. Từ đó đưa phong trào đấu tranh của Duẩn chúng tiến lên.  Phương châm đấu tranh của ta vẫn kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp. Tuỳ lực lượng so sánh ở từng vùng mà vận dụng các hình thức và phương pháp đấu tranh cho phù hợp, linh hoạt và chủ động.

Đối với vùng địch kiểm soát, ta cấn lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp chống các hình thức đàn áp, kìm kẹp của địch, đòi chính quyền địch phải thực hiện các yêu cầu thiết thân của quần chúng gắn với việc đòi thi hành Hiệp định Pa ri. Phải nắm cho được quần chúng thông qua việc vận động đòi các quyền dân sinh, dân chủ. Lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi từng việc, từng khẩu hiệu cụ thể nhơ đòi được tự do đi lại làm ăn, chống sinh hoạt giá cả đắt đỏ, chống thất nghiệp, v.v.. tránh chung chung, từ đó nâng dần phong trào lên. Thông qua phong trào đấu tranh mà xây dựng, củng cố tổ chức đảng, tổ chức quần chúng.

Đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 xác định: “Hoàn thành giải phóng dân tộc là sự nghiệp cách mạng chung của cả nước. Giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó là quy luật phát triển hiện nay của sự nghiệp cách mạng cả nước . . .

Phải tranh thủ những điều kiện thuận lợi hiện có, ra sức khôi phục và phát triển nền kinh tế quốc dân, phù hợp với nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới, làm cho miền Bắc xã hội chủ nghĩa tiến bộ nhanh chóng về mọi mặt, luôn luôn làm chỗ dựa vừng chắc cho cuộc đấu tranh cách mạng nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.

Trong khi đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội và củng cố quốc phòng, miền Bắc phải tiếp tục làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với cách mạng miền Nam và tích cực đấu tranh để Hiệp định Pa ri về Việt Nam được thi hành nghiêm chỉnh.

Phải tăng cường chi viện cách mạng miền Nam trên các mặt đấu tranh chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao. Góp phần xây dựng vùng giải phóng về mọi mặt kinh tế, văn hoá, giao thông vận tải, quốc phòng. Phải có kế hoạch toàn diện của miền Bắc để chi viện cách mạng miền Nam- trong mọi tình huống” 1.

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lẩn này còn xác định nhiệm vụ của nhân dân ta đối với Lào và Campuchia là đoàn kết, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng và giúp đỡ nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ và xây dựng đất nước theo con đường của mỗi nước là nguyên tắc chủ đạo trong mối quan hệ của nhân dân ta với nhân dân Lào, Campuchia.

 Đảng ta chủ trương tăng cường đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa và tăng cường đoàn kết quốc tế nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của các tổ chức dân chủ quốc tế để tạo sức mạnh đánh thắng địch.


______________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.241-242.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:55:49 pm
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trước mắt, tạo điều kiện tiến lên hoàn thành nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 đề ra tám công tác chính cần nắm vừng và làm thật tốt:

Một là, trong bất kỳ tình huống nào, ta cũng phải nắm vững lực lượng vũ trang, củng cố, phát triển và tăng cường ba thứ quân thật vững mạnh.

Hai là, giành dân, giành quyền làm chủ của nhân dân ở khắp nông thôn, thành thị là nhiệm vụ chính trị hàng đầu hiện nay của phong trào cách mạng miền Nam. 

Ba là, tiến hành công tác binh vận, một mũi tiến công rất quan trọng để buộc địch từng bước phải đi vào hoà bình, hoà hợp dân tộc và làm tê liệt, tan rã hàng ngũ địch.

Bốn là, thành thị là nơi ta có khả năng tập hợp nhiều lực lượng để đấu tranh chính trị mạnh mẽ với địch. Do đó cần nắm vững yêu cẩu tập hợp và tổ chức quần chúng cơ bản, đặc biệt coi trọng công tác vận động công nhân xây dựng thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào, thành lực lượng nòng cốt trong mặt trận đấu tranh của nhân dân thành thị. Phải làm cho phong trào của từng ngành, từng giới trở thành lực lượng chính trị mạnh trong phong trào đấu tranh của nhân dân thành thị.

Năm là, ra sức xây dựng và củng cố vùng giải phóng là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong tình hình mới. Vùng giải phóng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, quân sự kinh tế, văn hoá để làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh.

Sáu là, tăng cường công tác mặt trận và công tác của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Tiến tới hình thành một mặt trận rộng hơn Mặt trận dân tộc giải phóng, nhằm đoàn kết, tranh thủ các giai cấp, tôn giáo, dân tộc, các nhân sĩ, các lực lượng hoà bình, dân tộc, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài để chững Mỹ và tay sai.

Bảy là, công tác ngoại giao phải nắm vững pháp lý của Hiệp định Pari về Việt Nam, giương cao ngọn cờ hoà bình và lập trường chính nghĩa của ta, kiên quyết, kịp thời vạch trần trước dư luận trong nước và dư luận thế giới về mọi âm mưu, hành động vi phạm Hiệp định Pari của địch. Tranh thủ Việt kiều ở nước ngoài tán thành và ủng hộ các giải pháp của ta . . .  Chỉ đạo đấu tranh ở Hội nghị hiệp thương hai bên miền Nam Việt Nam ở Pari, ở các phiên họp của Ban liên hiệp quân sự hai bên trung ương và các phiên họp khác có liên quan đến việc thi hành hiệp định.

Tám là, công tác đảng phải tăng cường lãnh đạo tư tưởng mà nội dung chủ yếu là làm cho cán bộ, quân và dân thấu suốt sâu sắc tình hình, nhiệm vụ, phương hướng, chủ trương, chính sách của Đảng trong giai đoạn mới, bồi dưỡng tinh thần cách mạng tiến công, kiên trì cách mạng, nâng cao cảnh giác, chống mọi khuynh hướng hoà bình chủ nghĩa. Ra sức nâng cao công tác tổ chức của Đảng lên ngang tầm với nhiệm vụ chính trị trước mắt. Đảng bộ miền Nam phải mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải đoàn kết, nhất trí để lãnh đạo cách mạng. . .

Ngày 6-7-1973, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng kết luận Hội nghị. Đồng chí nêu rõ: chúng ta luôn nêu cao ngọn cờ hoà bình, chính nghĩa, đấu tranh thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari. Chúng ta không muốn gây ra chiến tranh, gây ra nội chiến, nhưng nếu kẻ địch ngoan cố tiếp tục chiến tranh, thì ta sẽ tiến hành chiến tranh cách mạng để thắng địch, giải phóng hoàn toàn miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà.

Ban Chấp hành Trung ương nhất trí cao với kết luận của đồng chí Lê Duẩn.  Sau hội nghị, Trung ương phân công đồng chí Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị và đồng chí Vũ Tuân, Chánh văn phòng Trung ương Đảng tổng hợp, rà soát, chỉnh lý nội dung, bố cục, ngôn ngữ đúng với ý kiến của Ban Chấp hành Trung ương và kết luận hội nghị của đồng chí Bí thư thứ nhất.

Cuối cùng, Nghị quyết 21 được Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trì thông qua ngày 13-10-1973 và khẳng định “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiên công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiên lên” 1 . Đây là quyết tâm lớn của Đảng, thể hiện nguyện vọng và ý chí của toàn dân, toàn quân ta.


________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.232.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:56:28 pm
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành trung ương lần thứ 21 (khoá III) là một trong những văn kiện lịch sử, có ý nghĩa rất quan trọng, là phương hướng chỉ đạo đưa cách mạng Việt Nam ở miền Nam vượt qua một trong những thời điểm gay go nhất của cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai.

Nó là đường lối cơ bản chỉ đạo cách mạng và chiến tranh cách mạng ở miền Nam sau thắng lợi của Hội nghị Pari, làm chuyển biến tình hình cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong giai đoạn kết thúc chiến tranh từ cuối năm 1973 đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 toàn thắng. 

Sau khi có Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương soi sáng, tư tưởng hữu khuynh, do dự trong một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và những sai lầm, vấp váp trong chỉ đạo đấu tranh ở các chiến trường được khắc phục. Từ Quảng Trị đến các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, quân và dân ta đều kiên quyết phản công, tiến công đẩy lùi địch lấn chiếm vùng  giải phóng mà không sợ vi phạm Hiệp định Pari.

Quân và dân ta chẳng những phản công tại các khu vực chúng hành quân càn quét, lấn chiếm, mà còn giành quyền đánh thẳng vào các căn cứ xuất phát hành quân của địch nhơ thị xã, thành phố, căn cứ. Đây là nét mới trong tiến công dịch thời kỳ sau khi có Hiệp định Pari. 

Ở chiến trường đồng bằng ven biển Khu V, ta và địch vẫn ở trong thế giằng co, địch lấn chiếm, ta chống lấn chiếm. ớ vùng giáp ranh, Sư đoàn 2 và Sư đoàn 3 chủ lực Quân khu 5 phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định phản công đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm của sư đoàn 2 và 22 nguỵ, đồng thời tiến công tiêu diệt các điểm chốt của quân nguỵ ở phía đông huyện Quế Sơn, phía tây huyện Hoài Nhơn, giữ vững ba khu vực bàn đạp quan trọng Hiệp Đức (Quảng Nam), Ba Tơ (Quảng Ngãi), Hoài Ân (Bình Định). ớ các khu vực này, ta xây dựng thế phòng ngự vững chắc, bộ đội chủ lực của ta và chủ lực địch trực tiếp tiếp xúc với nhau. 

Ở Tây Nguyên, chủ lực ta và chủ lực địch cũng ở hình thái trực tiếp tiếp xúc với nhau ở bắc Kon Tum, Thanh An, Đức Cơ (Gia Lai). Ngày 22-9-1973, các chiến sĩ Sư đoàn 320 tiến công tiêu diệt cứ điểm Chư Nghé (Lệ Minh) do Tiểu đoàn biệt động biên phòng 80 của nguy đóng giữ. Chiến thắng Chư Nghé là đòn trừng trịích đáng của quân, dân Tây Nguyên, đánh vào hành động phá hoại Hiệp định Pari của địch.

Trận ChưNghé làm lộ rõ âm mưu và khả năng của địch là nếu ta đánh mạnh thì chúng co lại, phản ứng yếu ớt; nếu ta phân tán lực lượng dàn mỏng trên các tuyến tiếp xúc đấu tranh chính trị, binh vận, tflì địch lấn tới, hành quân càn quét thực hiện chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm các vùng đã giải phóng của ta.

Chiến thắng Chơ Nghé ngoài ý nghĩa trừng trị địch vi phạm Hiệp định Pari, nó còn mở ra cho ta triển vọng và thời cơ phát triển tiến công tiêu diệt các cứ điểm đóng sâu trong vùng căn cứ để hoàn chỉnh vùng giải phóng, tạo thế chiến trường.

Lúc này địch đang tập trung lấn chiếm bình định vùng đồng bằng sông Cửu Long. Kế hoạch bình định trong năm 1973, địch dự kiến tiến hành ba bước:

- Bước một, từ tháng 3 đến tháng 5, tập trung lấn chiếm bình định Chương Thiện.

- Bước hai, từ tháng 6 đến tháng 9, lấn chiếm, bình định U Minh.

- Bước ba, từ tháng 10 đến tháng 11-1973, bình định Cà Mau và củng cố các vùng đã lấn chiếm được. 

Thủ đoạn của địch là tập trung lấn chiếm, bình định từng khu vực trọng điểm, sau đó phát triển rộng ra xung quanh. Dùng quân sự để lấn chiếm, bình định là chính, kết hợp với thủ đoạn hoà hoãn tiếp xúc ở một số vùng khác, làm cho ta mất cảnh giác. Những nơi hoà hoãn địch dùng phong toả kinh tế, kết hợp với chiến tranh chính trị và tâm lý để gây sức ép và lôi kéo quần chúng.

Mục tiêu lấn chiếm, bình định Chương Thiện địch nhằm vào ba huyện Long Mỹ, Gò Quào, Giồng Riềng.  Ngày 3-2- 1973, địch dùng Sư đoàn 21 lấn chiếm đóng đồn ở kênh 13 xã Vĩnh Viễn, chi khu Ngang Dừa, Long Mỹ, Ngã Năm, Thạnh Phú... Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết tâm sử dụng lực lượng chủ lực quân khu kiên quyết tiến công và phản công tiêu diệt quân địch, giải phóng đất đai.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:56:55 pm
Ngày 6-5- 1973, bộ đội ta mở loạt trận tiến công vào các cánh quân của dịch đi càn quét và các đồn bốt của chúng ở vùng kênh 13, chi khu Long Mỹ, Ngang Dừa và Giồng Riềng, đánh thiệt hại 4 tiểu đoàn bảo an, bức địch rút bỏ hệ thững đồn bốt ở khu vực này. Ngày 15-5-1973, pháo binh Quân khu 9 bắn phá sân bay Trà Nóc, phá hỏng 8 máy bay, làm nổ một kho đạn... 

Tỉnh Sóc Trăng, lực lượng vũ trang dành bại địch lấn chiếm ở huyện Mỹ Xuyên, Vĩnh Châu- Lich Hội Thượng, Mỹ Tú, diệt nhiều sinh lực địch, giữ vững địa bàn.

Cà Mau, quân và dân trong tỉnh kiên quyết tiến công địch lấn chiếm, mở rộng vùng làm chủ dọc tuyến sông Bảy Tháp. 

Ở Vĩnh Trà, trong 15 ngày đầu tháng 5, Trung đoàn 3 phối hợp với nhân dân đánh diệt hội đồng xã nguy ở Thới Hoà, diệt 3 đồn địch ở xã Thới Thuận, phục kích dịch đi càn ở Bình Ninh, Tam Bình diệt một số đội bảo an, bảo vệ được các xã đã giải phóng.

Trong đợt tiến công tháng 5, Quân khu 9 đã diệt, bức hàng, bức rút 73 đồn. Thắng lợi quan trọng trong đợt chống địch lấn chiếm là ta đã giữ được vùng ruột Hậu Giang (Chương Thiện), làm cho kế hoạch lấn chiếm Chương Thiện đợt 1 của địch bị thết bại nặng. Ta giữ vững được địa bàn then chốt, củng cố và mở rộng vùng giải phóng, phát triển vùng tranh chấp, làm chuyển biến vùng kìm kẹp và đô thị, thu hút kìm chân lực lượng địch ở Chương Thiện, tạo thuận lợi cho các tỉnh trong quân khu tiến công giành thắng lợi.

Bị thất bại, nhưng nguỵ quyền Sài Gòn không từ bỏ âm mưu lấn chiếm vùng giải phóng, chúng vừa lớn tiếng tố cáo ta vi phạm hiệp định, vừa tập trung quân lấn chiếm bình định đợt 2. Song, qua đợt 1, lực lượng địch có bước suy yếu mới, nên chúng phải hạ thấp chỉ tiêu, yêu cầu lấn chiếm so với đợt 1.

Lần này địch tập trung lấn chiếm Chương Thiện và phong toả U Minh. Trước hết là hoà hoãn với ta ở khu vực Ba Hồ để đưa lực lượng xuống lấn chiếm vùng tây nam Long Mỹ. Trong đợt lấn chiếm này, địch chủ trương vừa chiếm đất, giành dân vừa cướp lúa gạo để ép dân phải theo chúng, đồng thời cũng để triệt nguồn tiếp tế lương thực cho bộ đội ta, chúng gọi đây là kế hoạch Trần Khánh Dư.

Để thực hiện kế hoạch Trần Khánh Dư, địch vẫn duy trì Sư đoàn 7 bộ binh ở Tiền Giang để yểm trợ và lấn chiếm Vùng 4 Kiến Tường; Sư đoàn 9 yểm trợ và lấn chiếm cướp lúa gạo ở tỉnh Sóc Trăng, - Bạc Liêu; Sư đoàn 21 đảm trách yểm trợ và lấn chiếm các tỉnh Chương Thiện, Rạch Giá, Cà Mau, trọng điểm là Chương Thiện. Địch điều thêm 7 tiểu đoàn bảo an của các tỉnh Bến Tre, Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong về Chương Thiện, nâng tổng số đơn vị địch ở vùng ruột Hậu Giang (Chương Thiện) lên 68 tiểu đoàn.

Nắm được âm mưu, kế hoạch lấn chiếm đợt 2 của địch, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 hạ quyết tâm lãnh đạo lực lượng vũ trang và nhân dân kiên trì bám trụ địa bàn, kiên quyết đánh bại địch càn quét lấn chiếm, bình định và cướp lúa gạo. Địa bàn trọng điểm tác chiến được Bộ Tư lệnh Quân khu 9 xác định: Vùng ruột Hậu Giang. Bộ Tư lệnh quân khu chỉ đạo cho các đơn vị chủ lực, địa phương đánh mạnh, liên tục ở Chương Thiện, thu hút, kìm chân và tiêu diệt một bộ phận lấn chiếm quan trọng của quân đội Sài Gòn, tạo thuận lợi cho các tỉnh trong quân khu tiến công và nổi dậy hoàn chỉnh vùng giải phóng.

Nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, kết hợp đánh vừa, đánh nhỏ đều khắp, kết hợp tiến công và nổi dậy, trong tháng 6- 1973, Trung đoàn 20 chủ lực Quân khu 9 bao vây tiến công Liên đoàn biệt động quân số 7 ở Rạch Chùa. diệt Tiểu đoàn 86, đánh thiệt hại tiểu đoàn 62 và 76. Ở phía nam Long Mỹ, trung đoàn bộ binh 2 và 10 chủ lực quân khu tiến công diệt 6 đồn, hoàn chỉnh vùng giải phóng nam Long Mỹ.

Ở phía bắc huyện Long Mỹ, ngày 8-6- 1973, Trung đoàn 16 - Sư đoàn 9 nguỵ đổ quân chiếm khu vực Đồng Gò, Xẻo Môn Cạn, đánh chiếm Cái Cao. Sáng ngày 9-6, Tiểu đoàn 309 tiến công vào các cụm quân địch, tiêu hao một số số địch còn lại buộc phải rút về Cần Thơ củng cố, nhưng chúng lại đưa Tiểu đoàn bảo an 428 xuống thay thế. Ngày 1 1 6- 1973, địch tiếp tục lấn chiếm Cái Cao. Tiểu đoàn 309 của ta bám trụ tại chỗ, đánh bại cuộc lấn chiếm của quân nguy, giữ vững vùng làm chủ.

Tháng 9- 1973, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết định mở đợt hoạt động quân sự rộng khắp trong toàn khu, đánh bại âm mưu lấn chiếm bình định của địch. Chấp hành mệnh lệnh của quân khu, ngày 10-9- 1973, Trung đoàn 10 tiến công địch đóng ở đồn Chùa Miên, Xẻo Chích. Bộ đội địa phương và du kích huyện Thạnh Trị đánh địch lấn chiếm vùng Mỹ Quái, bao vây bức địch rút đồn Láng Sơn, Mỹ Tho.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:57:21 pm
Trong thời gian này, bộ đội tỉnh Sóc Trăng tiến công căn cứ số 1, chặn đánh thiệt hại các tiểu đoàn bảo an 482, 428, 535. Trung đoàn 1 chủ lực quân khu tiến công địch ở khu vực Lái Hiếu, lấn sát thị xã Vị Thanh (tỉnh lỵ Chương Thiện), địch buộc phải đưa quân chi viện cho Vị Thanh.

Tại khu vực Giồng Riềng, Trung đoàn 20 chủ lực quân khu hoạt động mạnh, địch phải đưa Trung đoàn 31 quân cộng hoà lên giải toả. Nhưng, lực lượng vũ trang địa phương ở các tỉnh cùng nhân dân tích cực tiến công, căng kéo địch và tiêu hao chúng, làm cho kế hoạch lấn chiếm, cướp lúa gạo của địch bị thất bại. 

Tháng 10- 1973, quân nguỵ Sài Gòn chuẩn bị lấn chiếm vùng tây nam Long Mỹ và khu vực phía nam sông Cái Lớn, khu Gò Quao. Nhưng chúng vừa triển khai, pháo binh Quân khu 9 lập tức bắn phá chi khu Gò Quao, làm thiệt hại Sở Chỉ huy hành quân của Trung đoàn 33 - Sư đoàn 21, Chỉ huy sở tiểu khu Chương Thiện, Sở Chỉ huy Liên đoàn bảo an tỉnh An Giang và Bộ Chỉ huy Hải quân nguỵ. Ngày hôm sau, bộ đội đặc công của ta đánh chìm 5 tàu địch, buộc chúng phải rút tất cả về Vị Thanh.

Cùng thời gian này, các chiến sĩ Trung đoàn 10 tiến công diệt 4 đồn ở xã Vĩnh Thuận Đông, uy hiếp chi khu Long Mỹ. Trung đoàn 20 đánh kìm chân địch ở tuyến sông Cái Bé, diệt một chi đoàn thiết giáp nguy, phá hỏng 22 xe Mi 13. Trung đoàn 2 của quân khu tiến công địch ở chi khu Ngang Dừa.  Trung đoàn 20 nhân đà thắng lợi, mở rộng tuyến sông Cái Bè (Giồng Riềng). Các đơn vị bộ đội tỉnh Cẩn Thơ đẩy mạnh tiến công địch ở Vĩnh Tường, Vĩnh Chèo và kênh Xàng Xà No (Vị Thanh).

Trong khi trên địa bàn Chương Thiện quân ta thắng lớn, đánh bại hoàn toàn cuộc lấn chiếm Chương Thiện lần 2 của quân đội Sài Gòn, thì ở các tỉnh Cần thơ, Rạch Giá, Cà Mau, ta kìm giữ và tiêu hao lực lượng Sư đoàn 2 1 nguỵ, thú hồi và mở rộng vùng giải phóng dọc tuyến sông ông Đốc, mở thông hành lang vận tải U Minh đi Cà Mau . . . 

Ở Trung Nam Bộ (Quân khu 8), từ tháng 12- 1973 đến tháng 2-1974, quân và dân ta đánh bại các cuộc hành quân của Sư đoàn 9 nguy lấn chiếm các lõm giải phóng ở kênh Tám (từ Ngã sáu đến Ngã ba Mỹ Thiện) diệt 400 tên địch, đồng thời dành bại cuộc hành quân lấn chiếm Vùng 4 Kiến Tường của Sư đoàn 7 nguỵ, đánh thiệt hại 1 tiểu đoàn, giữ vững khu vực ngã ba Bằng Lăng.

Như vậy. cuộc chiến đấu chống địch phá hoại Hiệp định Pari, lấn chiếm các vùng giải phóng của quân và dân ta đã giành được thắng lợi lớn. Cuối năm 1973, cục diện chiến trường miền Nam có những chuyển biến lớn có lợi cho cách mạng. Nguỵ quân, nguỵ quyền Sài Gòn có bước suy yếu mới toàn diện.

Chúng không thực hiện được mục tiêu lấn chiến bình định các vùng đông dân, nhiều lúa gạo, nhất là các tỉnh đồng bằng miền Tây, miền Trung, miền Đông Nam Bộ và Khu V, Tây Nguyên; trong khi đó, nền kinh tế, tài chính của chính quyền Sài Gòn hoàn toàn phụ thuộc Mỹ. Quốc hội Mỹ đang xem xét viện trợ năm tài khoá 1973 - 1974 cho chính quyền Sài Gòn, nhưng có khả năng sẽ bị cắt giảm đến mức thấp nhất. Điều này khiến cho Sài Gòn gặp muôn vàn khó khăn, đạn được, trang bị cho quân đội bị hao hụt không được bổ sung đủ, sức chiến đấu của quân đội Việt Nam cộng hoà (nguỵ) giảm sút nghiêm trọng.

Về ta, sau Hiệp định Pari, sự lãnh đạo có nhiều sai lầm như đánh giá không đúng âm mưu địch, nặng về chỉ đạo đấu tranh hoà bình, hoà hợp, tiếp xúc với địch, mất cảnh giác, giăng lực lượng ra giữ các tuyến trực -tiếp tiếp xúc với địch, không kiên quyết đánh trả trừng trị địch vi phạm, để mất đất mất dân. Trung ương kịp thời nhận ra khuyết điểm đã chuyển hướng chỉ đạo đấu tranh và xác định con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng.

Nghị quyết 21 của Trung ương đã chỉ đạo cho quân và dân ta hành động đúng đắn, kiên quyết đấu tranh.  nên đã giành được những thắng lợi lớn, tạo được thế mới, lực mới có điều kiện và khả năng đưa cách mạng tiến lên từng bước vững chắc. Xu thế phát triển của tình hình ngày càng có lợi cho ta hơn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 10:59:01 pm
Trên cơ sở những thắng lợi đã giành được trong cuộc đấu tranh sau Hiệp định Pa ri, ngày 24- 10- 1973. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Quân đoàn 1 mang tên Binh đoàn Quyết thắng. Đây là quân đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội ta, gồm các sư đoàn 308, 312. 320B bộ binh, Sư đoàn phòng không 367, Lữ đoàn công binh 299.  Trung đoàn thông tin 40, do Thiếu tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Hoà làm Chính uỷ.  Tháng 10- 1973, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chủ trương nhân thời cơ thuận lợi mở đợt hoạt dộng quân sự:

Đánh bại một bước quan trọng kế hoạch bình định lấn chiếm phân tuyến của địch, giành dân, giành quyền làm chủ ở vùng đồng bằng và vùng ven đô thị đông dân, nhiều của. Từng bước đưa phong trào đấu tranh chính trị ở thành thị tiến lên, đồng thời chuẩn bị lực lượng, cơ sở, tạo điều kiện và thời cơ đẩy tới cao trào cách mạng.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh, các mặt trận, quân khu ở miền Nam mở đợt hoạt động quân sự Xuân Hê 1974 nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế chiến trường áp sát các căn cứ và đô thị địch.

Miền Đông Nam Bộ, tháng 3-1974. ta mở chiến dịch đường số 2 Bà Rịa - Long Khánh đánh bại địch lấn chiếm, giữ vững địa bàn. Cùng thời gian này. ở tây nam Sài Gòn, ta tiến công địch ở Tabăngrôboong. hoàn chỉnh vùng giải phóng dọc biên giới tỉnh Tây Ninh – Campuchia, mở thông hành lang chiến lược từ miền Đông Nam Bộ xuống miền Tây và liền Trung Nam Bộ (khu IX, Khu VIII).

Tháng 5- 1974, Bộ Chỉ huy Miền sử dụng Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 tiến công địch ở khu vực Bến Cát - Rạch Bãp, phá vỡ tuyến phòng thủ trung gian của địch ở đường 7 ngang, ngăn chặn quân chủ lực địch đưa quân bình định vùng giáp ranh Sài Gòn và lấn chiếm Lộc Ninh. Chiến thắng đường 7 (ngang bến Cát - Rạch Bắp) tạo thế chiến lược mới trên chiến trường miền Đông, lực lượng ta đứng chân vững chắc trên tuyến vành đai Sài Gòn-Gia Định.

Ở Quân khu 8, địch lấn chiếm mất Vùng 4 Kiến Tường - địa bàn quan trọng nối với căn cứ Đồng Tháp Mười và vùng biên giới Campuchia. Qua đợt hoạt động mùa khô năm 1974, quân và dân Quân khu 8 giải phóng được 9 xã, diệt 150 đồn, bốt, phá tan hệ thống kìm kẹp của địch ở vùng kênh Hai Tám, kênh Dương Văn Dương và vùng tây huyện Cái Bè.  Tuy vậy, đến cuối tháng 7- 1974 ta vẫn chưa khôi phục được Vùng 4 Kiến Tường.

Quân khu 9, trong 15 ngày đầu tháng 3-1974, bộ đội chủ lực quân khu phối hợp với lực lượng tỉnh Vĩnh Long mở 32 điểm ở nam bắc sông Mang Thít. Tháng 4- 1974, bộ binh và pháo binh quân khu cùng bộ đội địa phương tiến công diệt 1 giang đoàn thuyền, 1 chi đoàn xe Mi 13 ở khu vực Xẻo Rô, gỡ hết các đồn, bốt địch ở nam sông Cái Lớn. Ta thu hồi tuyến sông ông Đốc địch đã lấn chiếm trước đó, mở thông hành lang từ U Minh đi Cà Mau, v.v..

Kết quả 6 tháng đầu năm 1974, quân và dân Quân khu 9 diệt 263 dồn, bốt. Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn 309 quân khu và tỉnh là những đơn vị lập thành tích xuất sắc.

Trong đợt hoạt động Xuân Hè năm 1974 trên toàn miền Nam, ta đã mở rộng, hoàn chỉnh vùng giải phóng, tạo được thế liên hoàn giữa các quân khu. các tỉnh, các chiến trường. Trong cuộc tiến công này nổi bật và sôi động nhất là Tây Nguyên và chiến dịch tiến công Nông Sơn - Trung Phước - Thượng Đức ở Quảng Đà, Quảng Nam (Khu V). 

Ở Tây Nguyên, sau chiến thắng Chư Nghé. trong các ngày 16, 17-3- 1974, trên hướng Kon Tum, Sư đoàn 10 đánh diệt Tiểu đoàn biệt động quân 95 và 2 đại đội của Tiểu đoàn biệt động 62 ở Com Rẫy. Trung đoàn 24 - Sư đoàn 1 0 đánh căn cứ Con Rốc, diệt Tiểu đoàn bảo an 270, bảo vệ con đường 220 vu hồi phía dông thị xã Kon Tum nối với đường 19 đông Plâyku, giải phóng một vùng rộng, buộc địch phải co về tuyến hòng ngự trước ngày 27-1-1973.

Thừa thắng, ngày 15-5, Sư đoàn 10 và Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 304, Trung đoàn pháo binh 40 tiến công, tiêu diệt chi khu, quận lỵ Đắc Pét, tiếp sau diệt chi khu, quận lỵ Măng Đen, bức địch rút khỏi quận lỵ Măng Bút. Các vị trí cuối cùng của địch ở bắc và đông thị xã Kon Tum được hoàn toàn giải phóng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 11:52:23 pm
Ở Gia Lai, ngày 8-3- 1974, Sư đoàn 320 tiến công căn cứ Lệ Ngọc - một trong những cứ điểm mạnh bảo vệ vòng ngoài Sở Chỉ huy Quân đoàn 2 ngụy và sân bay Cù Hanh. Ngày 14-4-1974, Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) tiến công cứ điểm 711, 601 diệt Tiểu đoàn biệt động quân 82, một chi đoàn xe bọc thép M113.  Ngày 30-5-1974 Trung đoàn 25 tiến công cứ điểm Ia Xúp, diệt Tiểu đoàn bảo an 211 (Đắc Lắc).

Vùng giải phóng phía tây các tỉnh Tây Nguyên được giải phóng hoàn chỉnh, tạo thuận lợi cho ta mở đường ôtô và đặt đường ống dẫn dầu chạy suốt Tây Nguyên đến miền Đông Nam Bộ, hình thành thế trận vây hãm quân địch trong các thị xã Buôn Ma Thuộc, Plâyku, Kon Tum, Quảng Đức từ hướng tây. 

Hoà cùng chiến thắng ở Tây Nguyên, bộ đội chủ lực Quân khu 5 được tăng cường Sư đoàn 304 mở đợt hoạt động quân sự tiến công địch ở Thượng Đức, Nông Sơn - Trung Phước, đường 16 Quế Sơn. Ngày 18-7- 1974, Sư đoàn 2 chủ lực quân khu có pháo binh chi viện, nổ súng đánh Nông Sơn - Trung Phước. Đây là cụm cứ điểm liên hoàn gồm 10 vị trí lớn, nhỏ trải dài trên 4 km. Địch có khoảng 2.000 tên, trong đó có Tiểu đoàn biệt động biên phòng 78.

Ngày ta tiến công, địch đưa Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 56 thuộc Sư đoàn 3 quân cộng hoà lên thay cho Tiểu đoàn 78. Địch hoàn toàn bất ngờ khi pháo binh ta xuất hiện bắn thẳng trực tiếp, phá tan 38 trong số 41 lô cốt, gây hoang mang lớn cho sĩ quan, binh lính địch. Được pháo binh chi viện có hiệu quả, Sư đoàn 2 đánh chiếm căn cứ Nông Sơn - Trung Phước, đến 17 giờ 15 phút ta làm chủ hoàn toàn trận địa.

Ngày 29-7- 1974, Sư đoàn 304 (thiếu) tiến công Thượng Đức ở phía tây huyện Đại Lộc, cách Đà Nẵng 40 km. Đây là cụm cứ điểm mạnh để bảo vệ vòng ngoài căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng. Lực lượng địch trong căn cứ có Tiểu đoàn biệt động quân 79, 2 đại đội bảo an, 1 đại đội cảnh sát dã chiến, 16 trung đội dân vệ. Đợt tiến công đầu tiên không thành. Ngày 6-8- 1974, Sư đoàn 304 tiến công lần thứ hai, đến ngày 7-8 ta chiếm toàn bộ căn cứ, diệt Tiểu đoàn biệt động 79 và 10 trung đội bảo an, dân vệ, giải phóng quận lỵ Thượng Đức và 4 xã ven quận lỵ với 13.000 dân.

Cùng với cuộc tiến công của Sư đoàn 304. Trung đoàn 38 tiến công dịch trên tuyến phòng thủ ngoại vi huyện Quế Sơn, diệt nhiều địch. Lữ đoàn 52 và 1 đại đội xe bọc thép K63 của Trung đoàn 574 cùng lực lượng vũ trang Quảng Ngãi tiến công chi khu quận lỵ Minh Long, diệt và làm tan rã toàn bộ quân dịch đóng ở đây, giải phóng huyện Minh Long. 

Lúc này do vị trí quan trọng của Thượng Đức, địch đưa Sư đoàn dù nguỵ, lực lượng dự bị chiến lược từ Trị - Thiên vào cùng Sư đoàn 2 nguỵ quyết chiếm lại Thượng Đức. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, kéo dài hơn 100 ngày liên tục Đầu tháng 12-1974, dịch thấy không còn khả năng tái chiếm Thượng Đức, chúng buộc phải rút lui, chuyển về phòng giữ Đà Nẵng.

Thượng Đức là trận thử sức với lực lượng tinh nhuệ dự bị chiến lược của quân nguỵ Sài Gòn, ta đã thắng. Địch phải bỏ cuộc. Từ trận Thượng Đức, Nông Sơn - Trung Phước đến Đắc Pét, Com Rẫy, Ia Xúp Tây Nguyên cho thấy rõ khả nàng chiến đấu của khối chủ lực cơ động của ta hơn hẳn chủ lực cơ động của địch.

Chiến tranh đã bước vào giai đoạn cuối. Thời cơ chiến lược mới cũng bắt đầu xuất hiện rõ dần.  Trên mặt trận đấu tranh chính trị có những chuyển biến mới. Ngày 18-6-1974, tại Sài Gòn, 301 linh mục đạo Thiên Chúa ra tuyên cáo lên án chính quyền Thiệu tham nhũng, hiếu chiến, độc tài. Các tổ chức Mặt trận nhân dân cứu đói, Uỷ ban bảo vệ quyền lợi lao động ra đời, tập hợp các tầng lớp nhân dân chống Thiệu - Kỳ, đòi Thiệu - Kỳ từ chức, đòi thi hành Hiệp định Pa ri, đòi thả tù chính trị, đòi có công ăn việc làm.

Trong khi dó, ở Mỹ, Tổng thống Níchxơn buộc phải từ chức (tháng 7- 1974) do vụ bê bối Oatơghết. Phó Tổng thống Mỹ G.Pho (G.R.Ford) lên thay. Pho cam kết tiếp tục ủng hộ Thiệu. Nhưng thực tế khả năng viện trợ của Mỹ cho Sài Gòn giảm 50% trong khi nền kinh tế nguỵ và hậu cần chiến tranh lệ thuộc Mỹ tới 90%.

Quốc hội Mỹ quyết định cắt giảm viện trợ cho chính quyền Sài Gòn từ 1 tỉ 500 triệu đô la về quân sự và 800 triệu đô la về kinh tế năm tài khoá 1974 - 1975 xuống còn 700 triệu đôla về quân sự, 400 triệu đô la về kinh tế. Sự cắt giảm viện trợ của Mỹ khiến cho nguỵ quyền Nguyễn Văn Thiệu vô cùng hoang mang. So sánh lực lượng ta mạnh hơn hẳn địch.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 11:53:01 pm
Vấn đề đặt ra trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh là ta phải có đủ sức mạnh đánh tiêu diệt lớn quân địch, nếu chỉ sử dụng các sư đoàn độc lập hoặc phối hợp như hiện nay không còn thích hợp nữa, mà cần phải có những binh đoàn chủ lực cơ động binh chủng hợp thành lớn, làm quả đấm quyết định.

Vì vậy, tiếp sau thành lập Quân đoàn 1 (10-1973), Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Quân đoàn 2, tháng 5- 1974, mang bí danh Binh đoàn Hương Giang, do Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Linh, Chính uỷ. Quân đoàn 2 gồm các sư đoàn 304, 305, 324 bộ binh, Sư đoàn phòng không 673, Lữ đoàn pháo binh 164, Lữ đoàn xe tăng 203, Lữ đoàn công binh 219, Trung đoàn thông tin 463.

Tại miền Đông Nam Bộ, ngày 20-7- 1974, Quân đoàn 4, mang bí danh Binh đoàn Cửu Long được thành lập gồm Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 bộ binh, Trung đoàn pháo mặt đất 24, Trung đoàn phòng không 71, Trung đoàn đặc công 429 và 3 tiểu đoàn thông tin, do Thiếu tướng Hoàng Cầm làm Tư lệnh, Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện, Chính uỷ.

Các quân đoàn chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời, chứng tỏ qua chiến đấu, quân đội ta đã trưởng thành vượt bậc về tổ chức, chỉ huy, về tư tưởng, chính trì và tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô ngày càng lớn, đáp ứng nhiệm vụ nặng nề trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh.

Cùng với sự ra đời của các quân đoàn chủ lực cơ động, khối chủ lực các quân khu, mặt trận ở miền Nam được củng cố vững mạnh và phát triển. Mặt trận Tây Nguyên có 2 sư đoàn và 2 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn đặc công, 1 trung đoàn xe tăng, 2 trung đoàn pháo binh, 1 trung đoàn cao xạ, 1 trung đoàn thông tin, 1 trung đoàn công binh. Quân khu 5 có 2 sư đoàn bộ binh, 2 trung đoàn pháo mặt đất, 1 trung đoàn pháo cao xạ, 1 trung đoàn xe tăng, thiết giáp, 1 trung đoàn thông tin, 2 trung đoàn công binh và hàng chục tiểu đoàn, đại đội đặc công, biệt động, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang địa phương và dân quân du kích.

Quân khu Trị - Thiên có 3 trung đoàn bộ binh và một số đơn vị binh chủng. Nam Bộ có Sư đoàn 6 bộ binh ở miền Đông, Sư đoàn 8 ở miền Trung, Sư đoàn 4 ở miền Tây; Trung đoàn 812 ở Khu VI; Trung đoàn Quyết Thắng ở Sài Gòn - Gia Định, cùng hàng chục đoàn, đội, tiểu đoàn đặc công, biệt động, trinh sát ở vùng ven đô và nội thành.

Trên miền Bắc, công cuộc khôi phục, phát triển kinh tế tăng trưởng khá so với những năm chiến tranh phá hoại, đời sống nhân dân ổn định. Năm 1973 và năm 1974, hơn 200.000 tấn vật chất cùng 80.000 quân được chuyển vào Nam. Riêng chiến trường Nam Bộ xa nhất cũng tiếp nhận dự trữ được 45.000 tấn vật chất đủ cung cấp cho 20.000 người hoạt động trong 6 tháng.

Rõ ràng, đến thời điểm này, thế và lực của cách mạng mạnh hơn hẳn thế và lực của nguỵ quân, nguỵ quyền Sài Gòn. Tình hình trên đây đã tạo ra thời cơ mới rất thuận lợi, giúp Bộ Chính trì Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương vạch kế hoạch chiến lược và hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975- 1976.


II. QUYẾT TÂM VÀ KẾ HOẠCH CHIẾN LƯỢC
GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM CỦA BỘ BỘ CHÍNH TRỊ

Dưới ánh sáng của Nghị quyết 21 của Trung ương, những tháng cuối năm 1973 và đầu năm 1974, quân và dân ta ở miền Nam đã giành được những thắng lợi rất quan trọng trên mặt trận quân sự, chính trị và phung phá bình định. Ta đã tạo được thế mới và lực mới eho cách mạng miền Nam phát triển đi lên.

Từ tháng 3- 1973, một tổ chức lâm thời mang tên Tổ trung tâm được thành lập để giúp Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh theo dõi tình hình miền Nam và quốc tế, vạch kế hoạch chiến lược trình Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tổ trung tâm gồm một số cán bộ cục Tác Chiến Bộ Tổng tham mưu: Vũ Lăng, Cục trưởng Cục Tác chiến; Võ Quang Hồ, Lê Hữu Đức, Phó Cục trưởng Cục Tác chiến. Đồng chí Lê Trọng Tấn, Phó Tổng tham mưu trưởng trực tiếp chỉ đạo tổ, đến đầu năm 1974, đồng chí Hoàng Văn Thái, Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất trực tiếp chỉ đạo.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 11:53:17 pm
Tổ trung tâm làm việc hết sức khẩn trương, nghiêm túc, qua nhiều lần khảo nghiệm thực tế, xin ý kiến của các đồng chí lãnh đạo cấp cao Đảng và quân đội, bổ sung, chỉnh lý đến 5 lần mới viết xong Dự thảo đề cương Kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam... mang số hiệu 133/TGL, ngày 16-5-1974. 

Ngày 21-7-1974, tại Đồ Sơn (Hải Phòng) đồng chí Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân và là người trực tiếp chỉ đạo Tố trung tâm vạch kế hoạch chiến lược, báo cáo với đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng về kế hoạch chiến lược đã dự thảo và công việc chuẩn bị cho hội nghị Bộ Chính trị sắp tới.

Sau khi trao đổi ý kiến với đồng chí Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn về so sánh lực lượng giữa ta và dịch sau Hiệp định Pari, tình hình quốc tế có liên quan, phương hướng và kế hoạch chiến lược giành thắng lợi trong năm 1975 và vài năm tiếp sau, đồng chí Lê Duẩn nêu ý kiến: Thắng lợi lớn của việc ký Hiệp định Pa ri là Mỹ phải công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ nước Việt Nam, Mỹ phải rút quân, còn ta thì ở lại, hành lang chiến lược Bắc - Nam nối liền thông suốt. Ta đang ở thế thắng, thế đi lên. Nguy quyền miền Nam đang ở thế thua, thế đi xuống. Do đó, kế hoạch chiến lược cần phải nghiên cứu kỹ cách đánh thế nào để thắng to, thắng nhanh, Mỹ không trở tay kịp, các nước có ý đồ can thiệp cũng khó can thiệp được. Phải nghiên cứu phát huy sức mạnh tổng hợp, bảo đảm bí mật, giành cho được bất ngờ, bất ngờ càng cao thì thắng lợi càng lớn. Chú ý đẩy mạnh đấu tranh chính trị, kết hợp chặt chẽ với đòn quân sự và đấu tranh ngoại giao. 

Tiếp tục nghiên cứu ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn, kết hợp ý kiến của một số đồng chí trong Bộ Chính trị, ý kiến của đồng chí Tổng Tư lệnh và các dông chí trong Bộ Tổng tham mưu và tình hình mới nhất ở chiến trường, Tổ trung tâm soạn thảo bản đề cương mới Kế  hoạch giành thắng lợi chiến lược ở miền Nam mang số hiệu 172/TG1 .

Ngày 26-8- 1974, bản dự thảo đã xong. Bản dự thảo khẳng định thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của trận Thượng Đức, thể hiện rõ thế và lực của ta mạnh hơn hẳn thế và lực của địch. Thời cơ lớn của cách mạng miền Nam đã xuất hiện. Bản dự thảo kế hoạch đề xuất Tiến hành ba đòn chiến lược trên cả ba vùng, trong đó đô thị có tầm quan trọng quyên định, đặc biệt là Sài Gòn - Gia Định và Đà Nẵng. Hướng tiên công chủ yếu là Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.

Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam được chia làm hai bước. Bước một, năm 1975, mở cuộc tiến công rộng khắp ba vùng, đánh bại về cơ bản chương trình bình định của địch, diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng chủ lực nguỵ. Bước hai, năm 1976, tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam. 

Trong thời gian này, Trung ương Cục miền Nam và Quân uỷ Miền gửi cho Ban Chấp hành Trung ương và Quân uỷ Trung ương kế hoạch hoạt động mùa khô 1974 - 1975 với quyết tâm giành thắng lợi quyết định để tiến lên hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. 

Như vậy, ý tưởng và quyết tâm của hậu phương lớn với tiền tuyến lớn gặp nhau ó điểm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong thời gian ngắn nhất là một trong vài năm tới.  Vấn đề còn lại là phương án hành động sao cho giành thắng lợi nhanh nhất, gọn nhất, bất ngờ nhất, ít tốn xương máu nhất.

Ngày 30-9-1974, Hội nghị Bộ Chính trị khai mạc, thảo luận tình hình miền Nam và kế hoạch tác chiến chiến lược do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo. Đồng chí Lê Duẩn chủ trì hội nghị. Hội nghị giành hai ngày nghe Bộ Tổng tham mưu trình bày tình hình miền Nam trong chín tháng năm 1974 và kế hoạch tác chiến.

Đồng chí Hoàng Văn Thái, Phó Tổng tham mưu trưởng báo cáo về tình hình địch: Địch đã bị thất bại nghiêm trọng trong âm mưu và kế hoạch bình định năm 1974. Chúng dang suy yếu toàn diện cả về quân sự, chính trị, kinh tế. Tuy quân của chúng còn đông, nhưng bị Mỹ cắt giảm viện trợ xuống mức thấp nhất, trang thiết bị, vũ khí cũ không được thay thế đủ số lượng, đạn được thiếu. Tinh thần sĩ quan, binh lính Sài Gòn rêu rã, số đào ngũ tăng gấp nhiều lần những năm trước. Do đó, quân chủ lực Sài Gòn không đủ sức đối phó với các cuộc tiến công của ta.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 11:54:13 pm
Về phía ta, phong trào đấu tranh chống Mỹ - Thiệu phá hoại hiệp định của các tầng lớp nhân dân miền Nam lên cao - nhất là vùng đô thị. Vùng giải phóng được mở rộng liên hoàn. Khối chủ lực Quân giải phóng tiến bộ nhiều trong tác chiến hiệp đồng binh chủng, tinh thần, ý chí chiến đấu được hun đúc, nâng cao, nhưng còn phải nâng cao hơn nữa tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh địch trong thành phố, thị xã. Đồng chí Hoàng Văn Thái đề nghị cho tuyển thêm 15 vạn quân vào cuối năm 1974 và 6 vạn nữa vào đầu năm 1975 để đủ lực lượng dự trữ thực hiện kế hoạch thời cơ giành thắng lợi hoàn toàn.

Tiếp theo, đồng chí Lê Trọng Tấn, Phó Tổng tham mưu trưởng báo cáo Dự thảo kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976 và riêng kế  hoạch năm 1975. Kế hoạch chiến lược gồm hai bước:

Bước một, năm 1975 tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng và phương tiện tiến công lớn và rộng khắp nhằm tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, giải phóng thêm nhiều vùng đất đai, đánh bại về cơ bản chương trình bình định của địch, mở thông hành lang Tây Nguyên di miền Đông Nam Bộ à xuống ba tỉnh Khu V, từ Tây Ninh xuống Sài Gòn, Tây Ninh di Long An; mở địa bàn áp sát Sài Gòn và các căn cứ trọng yếu của địch.

Kế hoạch chiến lược năm 1975 chia làm ba đợt:

Đợt 1, từ tháng 12- 1974 đến tháng 2- 1975, tiến công có mức độ, chủ yếu hoạt dộng ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ.

Đợt 2, từ tháng 3 đến tháng 6-1975. Đây là đợt chủ yếu, mở chiến dịch tiến công quy mô lớn trên chiến trường nam Tây Nguyên và các chiến dịch phối hợp ở miền Đông Nam Bộ, bắc Khu V và Tn - Thiên. Ở đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục tiến công và nổi dậy, dành phá bình định, mở vùng giải phóng liên hoàn.

Đợt 3, từ tháng 8 đến tháng 10-1975, phát triển thắng lợi của đợt 2 bằng đẩy mạnh hoạt động quân sự ở Khu V và Trị - Thiên, đồng thời tích cực chuẩn bị lực lượng sẵn sàng thực hiện phương án thời cơ.

Bước hai, năm 1976 thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Hướng chiến lược và nhiệm vụ của từng chiến trường, Bộ Tổng tham mưu đề nghị :

Trị - Thiên, Quảng Đà là chiến trường đánh phá bình định, tiêu diệt lực lượng chủ lực, địa phương địch, giải phóng đại bộ phận nông thôn, thực hiện chia cắt chiến lược. 

Tây Nguyên - trọng điểm nam Tây Nguyên là chiến trường chủ yếu của chủ lực đánh tiêu diệt lớn lực lượng địch.  Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và vùng ven Sài Gòn là chiến trường chủ yếu dành phá bình định nhằm tạo thế bao vây cô lập Sài Gòn.

Miền Đông Nam Bộ, chiến trường của chủ lực đánh tiêu diệt lớn quân chủ lực dịch, mở mảng, mở vùng, mở hành lang từ Tây Ninh đi Khu VIII, Kiến Phong đi Kiến Tường, tạo bàn đạp áp sát Sài Gòn, Mỹ Tho.

Bộ Tổng tham mưu dự kiến thời cơ chiến lược có thể xuất hiện trong ba tình huống:

- Khi ta đánh mạnh vào đợt 2.

- Ngay trong mùa mưa ở Nam Bộ.

- Những tháng cuối năm 1975 khi nguy quyền Sài Gòn tổ chức bầu tổng thống.

Phương hướng hành động “kiềm chế Mỹ, đánh đổ nguỵ, hạn chế chiến tranh trong phạm vi miền Nam, đồng thời sẵn sàng đối phó với phản ứng của Mỹ bằng không quân, hải quân, quân cứu hoả” 1.



________________________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.134.  


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 11:54:46 pm
Trong báo cáo của Bộ Tổng tham mưu, đồng chí Lê Trọng Tấn cũng trình bày cụ thể về kế hoạch hậu cần chiến lược để các chiến trường làm cơ sở vạch kế hoạch tác chiến cho phù hợp; về khả năng đảm bảo vật chất của ta để đánh lớn, nhất là đạn pháo cho năm 1975 của ta chỉ còn 96 vạn viên pháo xe kéo và đạn cối, trong đó có 24 vạn viên đạn pháo 120 mm, 85 mm, 130 mm, 152 mm. Vì vậy, sử dụng pháo binh phải hết sức tiết kiệm; về khả năng can thiệp trở lại của Mỹ v.v..  Bộ Chính trị thảo luận rất sôi nổi, tranh luận, đề cập toàn diện về tình hình địch, ta, về thời cơ chiến lược, về kế hoạch chiến lược một năm và hai năm.

Về địch, Bộ Chính trị nhất trí khẳng định ta mạnh hơn hẳn địch. Mỹ đã rút khỏi miền Nam thì khó có khả năng can thiệp trở lại khi ta đánh lớn, can thiệp bằng lục quân rất khó vì Quốc hội Mỹ đã cấm tổng thống đưa quân ra nước ngoài khi chưa có ý kiến của Quốc hội, can thiệp bằng không quân thì không giải quyết được chiến trường. Nhưng cho dù có can thiệp thế nào thì chúng cũng không cứu vãn được sự sụp đổ của nguỵ quân, nguỵ quyền miền Nam.

Về kế hoạch chiến lược, Bộ Chính trị thấy hai năm 1975 và 1976 đều có vị trí quan trọng, nhưng năm 1975 là năm bản lề, vì nó tạo điều kiện cho năm 1976 giành thắng lợi cuối cùng. Năm 1975 ta bắt đẩu tiến công ở nam Tây Nguyên kết hợp đánh phá bình định của địch ở đồng bằng sông Cửu Long, Khu V.

Tình thế cách mạng đã chín muồi. Hội nghị Bộ Chính trị nhất trí duyệt kế hoạch chiến lược cơ bản đã dự thảo mang số hiệu 172/TG 1 ngày 26-8- 1974 do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo. Bộ Chính trị thống nhất nhấn mạnh tầm quan trọng của thời cơ, khi thời cơ chiến lược xuất hiện: “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.

Bộ Chính trị đề ra hướng chiến lược cho bộ đội chủ lực phải chuẩn bị cả hai hướng:

- Tây Nguyên - trọng điểm nam Tây Nguyên là hướng chiến lược rất quan trọng.

- Miền Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng. 

Tây Nguyên được chọn làm chiến trưởng chủ yếu trong cuộc tổng tiến công lớn và rộng khắp năm 1975.  Sáng ngày 8-10- 1974, đồng chí Lê Duẩn kết luận hội nghị nêu rõ sự nhất trí và quyết tâm cao của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương là hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam trong hai năm 1975, 1976 như kế hoạch chiến lược đã xác định.

Đồng chí nói: Do sự phát triển của tình hình, Bộ Chính trị hạ quyết tâm hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam. Lúc này chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn. Để thực hiện quyết tâm chiến lược ấy phải có chiến lược tổng hợp của chiến tranh nhân dân? toàn dân, toàn diện. Quân đội là lực lượng quyết định.  Cần phải có kế hoạch xây dựng, tác chiến rất cấp bách với tinh thẩn khẩn trương quyết thắng.

Bộ Chính trị quyết định động viên nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền mở cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân nguy, đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, tiến tới thống nhất nước nhà. Mọi công việc chuẩn bị phải tiến hành hết sức khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để bảo đảm đánh mạnh, thắng nhanh và triệt để nhất trong thời gian hai năm 1975, 1976. Đây là thời cơ thuận lợi không cho phép ta chần chừ, do dự.

Ngay sau khi Hội nghị Bộ Chính trị kết thúc, Tổ trung tâm, Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu, bổ sung, viết hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược, đồng thời điện truyền đạt nhiệm vụ cho các chiến trường về kế hoạch quân sự bước đầu được Bộ Chính trị và Quân uỷ thông qua.

Trong lúc Bộ Chính trị đang họp thảo luận kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm, thì tại Tây Nguyên, lực lượng vũ trang khẩn trương chuẩn bị mở chiến dịch nam Tây Nguyên theo nhiệm vụ Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh giao cho mặt trận lần thứ nhất, tháng 9-1974. Khu vực tác chiến lúc đấu chủ yếu là Thuần Mẫn, Đức Lập.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 11:55:01 pm
Đang chuẩn bị theo phương án của nhiệm vụ được giao tháng 9-1974, thì ngày 13-11-1974, Mặt trận Tây Nguyên được Bộ Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ lần thứ hai. Nhiệm vụ lần này được mở rộng quy mô lớn hơn, nặng nề hơn trước. Cụ thể:

- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, diệt, làm bị thương từ 4 đến 5 vạn tên, trong đó diệt từ 3 đến 4 trung đoàn bộ binh, thiết giáp, đánh thiệt hại từ 1 đến 2 sư đoàn chủ lực ngụy, làm giảm nhanh quân số của chúng. Mở thông hành lang chiến lược từ đường 14 qua Gia Nghĩa xuống đường 20 nối với miền Đông Nam Bộ từ Tây Nguyên xuống ba tỉnh Khu V.

- Giải phóng nhân dân và phần lớn vùng đất bằng nam Plâyku và Cheo Reo, xung quanh Buôn Ma Thuộc. Tích cực  phối hợp với mặt trận đánh phá bình định ở đồng bằng. Cụ thể diệt từ 3 đến 4 tiểu khu, chi khu, từ 1 đến 2 tỉnh lỵ Gia Nghĩa và Cheo Reo.

- Đánh phá giao thông khi có thời cơ thì thực hiện cắt đứt đường 19, 14, 21, trọng điểm là đường 19. 

- Phát triển đấu tranh chính trị trong các thị xã, ra sức xây dựng các cơ sở tự vệ mật, các đội biệt động, diệt ác ôn, tạo thế làm chủ cơ sở.

Đến lúc này, mục tiêu thị xã Buôn Ma Thuộc vẫn chưa được xác định trong nhiệm vụ của chiến dịch Tây Nguyên, mà chỉ gắng sức giải phóng Đức Lập, Thuần Mẫn, Kiến Đức và vùng đất bằng xung quanh Buôn Ma Thuộc, xung quanh Plâyku và Cheo Reo.

Bộ Chính trị thấy cần phải có thời gian nghiên cứu đánh giá tình hình ta, địch kỹ hơn, sát hơn, nhất là khả năng can thiệp trở lại của Mỹ khi ta đánh lớn, mới đủ cơ sở khoa học hạ quyết tâm chiến lược chắc thắng. Do vậy, chiến dịch Tây Nguyên vẫn chưa được Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương giao tiến công Buôn Ma Thuộc. Đây là thể hiện trách nhiệm cao và sự thận trọng, nghiêm túc, cân nhắc kỹ lưỡng từng tình huống, từng nhiệm vụ của từng chiến trường của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương.

Đã hơn hai tháng trôi qua kể từ Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10- 1974, tình hình miền Nam và quốc tế có nhiều biến chuyển có lợi cho ta. Đợt hoạt động quân sự Đông Xuân năm 1974 - 1975 không rầm rộ, sôi động như mọi nam trước, nhưng kết quả tốt, đáng khích lệ, ta tạo được một thế trận áp sát các đô thị miền Nam.

Tây Nguyên đang triển khai làm đường chiến dịch, chiến đấu ở nam Tây Nguyên, các đơn vị tham gia chiến dịch bắt đầu hành quân vào vị trí tập kết, vận chuyển vật chất lót sẵn cho chiến dịch, đồng thời thực hiện nghi binh chiến dịch, bắn pháo vào Kon Tum, Plâyku, đánh lạc hướng sự chú ý của tình báo địch.

Ở miền Đông Nam Bộ, chiến dịch đường 14 - Phước Long khai triển. Đêm 12-12-1974, ta bắt đấu tiến công chi khu Bù Na, nhưng không thành. Ngày 13 ta tiếp tục tiến công chi khu Bù Đốp, vây ép Bù Na, đánh chiếm Vĩnh Thiện, đến ngày 16- 12, ta quét sạch hệ thống đồn bốt địch từ đông bắc Đồng Xoài đến Kiến Đức và từ Ngã ba Liễu Đức đến cầu Phước Tín.

Ở Trị - - Thiên và Quân khu 5, Quân đoàn 2 hoạt động phía tây thành phố Huế, Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu 5 đánh địch, tạo bàn đạp phía tây và tây nam Đà Nẵng, Tam Kỳ. Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tiến công và nổi dậy giải phóng nhiều vùng nông thôn, tạo được thế trận áp sát phía nam Sài Gòn và đường số 4 . . .

Địch buộc phải chuyển từ hành quân tiến công lấn chiếm sang phòng ngự trên toàn chiến trường. Quân chủ lực Sài Gòn có 13 sư đoàn, 19 liên đoàn biệt động, 6 sư đoàn không quân, 2.000 xe tăng, thiết giáp, 1.500 đại bác các loại và nhiều hạm đội trên sông, cùng hơn 1 triệu cảnh sát, phòng vệ dân sự được bố trí như sau:

Ở Quân khu 1, địch bố trí 4 sư đoàn (Sư đoàn thuỷ quân lục chiến, sư đoàn bộ binh 1, 2, 3), 4 liên đoàn biệt động quân, 21 tiểu đoàn và một số đại đội pháo gồm 418 khẩu, 5 thiết đoàn và 6 chi đội tăng, thiết giáp gồm 449 xe, Sư đoàn 1 không quân có 373 máy bay các loại, trong đó có 96 máy bay chiến đấu. Phần đông lực lượng này tập trung giữ Huế, Đà Nẵng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 11:55:23 pm
Ở Quân khu 2, địch bố trí 2 sư đoàn (22,.23), 8 liên đoàn biệt động, 14 tiểu đoàn và nhiều đại đội pháo gồm 382 khẩu, 5 thiết đoàn và 13 chi đội tăng, thiết giáp gồm 477 chiếc, 2 sư đoàn không quân (sư đoàn 6 và Sư đoàn 2), trong đó có 138 máy bay chiến đấu. Số quân trên rải ra phòng giữ 12 tỉnh đồng bằng và Tây Nguyên. Riêng Tây Nguyên địch bố trí Sư đoàn 23 (thiếu), 7 liên đoàn biệt động quân, 1 sư đoàn không quân, 5 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo, 37 tiểu đoàn bảo an. Phần lớn lực lượng này, địch tập trung vào phía bắc Tây Nguyên phòng giữ Kon Tum, Plâyku; còn Buôn Ma Thuộc, địch chỉ bố trí Trung đoàn 53 (thiếu 1 tiểu đoàn), 1 tiểu đoàn tăng, thiết giáp, 2 tiểu đoàn bảo an, cảnh sát.  Tổng quân số khoảng 8.000 tên.

Ở Quân khu 3, địch bố trí 4 sư đoàn chủ lực sư đoàn dù, các sư đoàn bộ binh (18, 5 và 25), 7 liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn và nhiều đại đội pháo gồm 376 khẩu, 7 thiết đoàn và 15 chi đội xe tăng, thiết giáp gồm 655 xe, 2 sư đoàn không quân, trong đó có hơn 250 máy bay chiến đấu A37, F5E. Toàn bộ quân địch triển khai theo hình vòng cung từ tây bắc, bắc và đông bắc bảo vệ Sài Gòn từ xa. 

Ở Quân khu 4, địch bố trí 3 sư đoàn chủ lực (sư đoàn bộ binh 7, 9 và 21), 18 liên đoàn bảo an, 15 tiểu đoàn và 55 đại đội pháo gồm 380 khẩu, 5 thiết đoàn và 17 chi đội tăng, thiết giáp gồm 493 xe. 1 sư đoàn không quân trong đó có 72 máy bay chiến đấu; 586 tàu: xuồng chiến đấu trên sông. Quân chủ lực địch tập trung giữ Cần Thơ, Chương Thiện, đường số 4 và tuyến biên giới.

Cách bố trí lực lượng của dịch như trên bộc lộ nhược điểm của thế trận phòng ngự trên toàn chiến trường. Mạnh ở hai đầu Trị - Thiên và Sài Gòn, yếu và sơ hở ở Khu V. Riêng ở Tây Nguyên địch cũng mắc sai lầm tương tự, tập trung lực lượng phòng giữ Kon Tum, Plâyku, để mỏng yếu, sư hở ở Đắc Lác, Quảng Đức. Khi ta nổ súng thực hành chia cắt chiến dịch, đường 14, 19, 21 bị cắt đứt thì tập đoàn phòng ngự địch ở bắc Tây Nguyên hoàn toàn bị giam chân, mắc kẹt, Buôn Ma Thuộc bị cô lập.

Trong khi đó, Mỹ giảm viện trợ cho nguỵ quyền Sài Gòn từ 1.026 triệu đô la năm tài khoá 1973 - 1974 xuống còn 700 triệu đô la năm tài khoá 1944 - 1975. Nguyễn Văn Thiệu phải kêu gọi quân lính tác chiến “kiểu con nhà nghèo”. Hoả lực chi viện bằng không quân, pháo binh giảm 60% vì thiếu bom, đạn; sức cơ động giảm 50% vì thiếu phương tiện. Cuộc chiến tranh diễn ra quy mô ngày càng lớn, nhưng ta thì chủ động, mạnh lên với khí thế mới, địch thì ngày càng suy yếu, bị động.

Đã có thêm những nhân tố và sự kiện mới giúp Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương hạ quyết tâm cuối cùng. Ngày 18-12-1974, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng họp tại khu “Nhà con Rồng” Bộ Quốc phòng để thảo luận kế hoạch chiến lược và thông qua quyết tâm lần cuối cùng. Dự họp Bộ Chính trị mở rộng lần này có các đồng chí trong Quân uỷ Trung ương, các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường Nam Bộ và Khu V, các Phó Tổng tham mưu trưởng.

Đồng chí Lê Duẩn khai mạc hội nghị. Đồng chí nêu rõ yêu cầu lần này hội nghị phải thảo luận, bàn cho kỹ để đi đến hạ quyết tâm lần cuối cùng cho đúng và chính xác, không sợ mất thời gian. Đồng chí Lê Ngọc Hiền, Phó Tổng tham mưu trưởng trình bày dự kiến kế hoạch chiến lược năm 1975. Đây là bản dự thảo được Bộ Chính trì duyệt hồi tháng 10 có bổ sung, điều chỉnh một số nội dung của kế hoạch.

Tất cả các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Quân uỷ Trung ương và các đồng chí ở Nam Bộ, Khu V đều lần lượt phát biểu ý kiến. Trong ba ngày đầu hội nghị, các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Quân uỷ Trung ương đều phát biểu xoay quanh phương pháp tác chiến, tình hình địch, ta, chọn hướng tiến công. Các ý kiến đều đồng ý với phương án của Thường trực Quân uỷ Trung ương chọn hướng chính là Tây Nguyên, mục tiêu đầu tiên là Buôn Ma Thuộc.

Ngày 22-12-1974, Hội nghị nghỉ họp để tham dự mít tinh kỷ mềm 30 năm thành lập Quân đội nhân dân (22-12-1944 - 22-12-1974). Nhân dịp này, Đảng, Nhà nước, Quốc hội tuyên dương công trạng và quyết định thưởng Huân chương Sao Vàng cho quân đội. Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng trân trọng gắn Huân chương Sao Vàng lên Quân kỳ Quyết thắng trong tiếng vỗ tay nhiệt liệt. Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt quân đội ta phát biểu và hứa quyết tâm: Các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam kiên quyết giương cao lá cờ Quyết thắng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho trong giai đoạn mới, xứng đáng với phần thưởng cao quý của Quốc hội, Chính phủ, xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng và nhân dân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 11:55:38 pm
Việc tuyên dương công trạng và tặng thưởng Huân chương Sao Vàng cho quân đội trong dịp này là nguồn động viên, khích lệ quân đội và lực lượng vũ trang kịp thời của Đảng, Nhà nước, có tác dụng nâng cao sĩ khí và tinh thần chiến dấu của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang trên cả hai miền Bắc - Nam, tạo nên một phong trào thi đua quyết thắng “đánh cho nguỵ nhào” trong toàn quân, toàn dân.

Ngày 23- 12- 1974, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng tiếp tục làm việc. Tình hình chiến trường diễn biến mau lẹ từng ngày có lợi cho cách mạng. Bộ Chính trị đang họp, thì một tin vui từ miền Đông Nam Bộ đưa tới: 5 giờ 35 phút ngày 26-12, Quân đoàn 4 tiến công chi khu Đồng Xoài, hình thành thế bao vây, cô lập thị xã Phước Long. Đồng chí Phạm Hùng và Trần Văn Trà đang tham gia Hội nghị Bộ Chính trị xin ý kiến đồng chí Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp cho đánh luôn Phước Long và xin một đại đội xe tăng, một đại đội pháo 130 mm chi viện. Đồng chí Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp đồng ý và lệnh cho Bộ Tổng tham mưu điện cho Quân đoàn 4 thi hành.

Ngày 31-12, Quân đoàn 4 được tăng cường Trung đoàn bộ binh 16, hai tiểu đoàn pháo cao xạ, một đại đội xe tăng tiến công địch ở thị xã Phước Long. Bộ đội ta nổ súng diệt hệ thống đồn bốt, hoả điểm vòng ngoài và chiếm khu quân sự Phước Bình, chiếm núi Bà Rá làm bàn đạp. Địch tập trung lực lượng đánh ngăn chặn các đường tiến vào thị xã. Một đơn vị bộ binh của ta lọt vào trong thị xã và bị bao vây. Địch cho máy bay ném bom, bắn phá dữ đội vào đội hình quân ta.

Tư lệnh Quân đoàn 4 Hoàng Cầm quyết định dùng pháo 130 mm bắn mạnh vào thị xã và cho các mũi bộ binh, xe tăng bỏ qua các ổ đề kháng vòng ngoài còn lại, đánh thẳng vào các mục tiêu bên trong thị xã, thực hiện chiến thuật ngoài đánh vào trong đánh ra. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, giằng co suốt sáu ngày liền. Địch lợi dụng công sự, các điểm chắn đã xây sẵn, chống cự quyết liệt. Quân đoàn 4 xốc lại đội hình, sáng ngày 6-1-1975, tổ chức tiến công đồng loạt từ nhiều hướng vào thị xã mạnh mẽ và kiên quyết, đè bẹp sức kháng cự của địch. Đến 19 giờ cùng ngày ta hoàn toàn làm chủ thị xã diệt 1.160 địch, bắt 2.140 tên khác, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long. Đây là một tỉnh nằm án ngữ cửa ngõ phía tây bắc Sài Gòn được giải phóng hoàn chỉnh.

Mỹ - Thiệu làm rùm beng “sự kiện Phước Long”, chúng tố cáo ta vi phạm hiệp định. Một bộ phận Hạm đội 7, trong đó có tàu sân bay chạy bằng năng lượng nguyên tử Intơpraidơ được điều đến bờ biển Nam Việt Nam; Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Ôkinaoa đặt trong tình trạng báo động khẩn cấp. Quân chủ lực Việt Nam cộng hoà được điều đến mặt trận Phước Long, mở các cuộc phản công tái chiếm thị xã, hòng đẩy ta ra xa khu vực đường 14 - Phước Long. Nhưng các cuộc phản công của quân chủ lực nguy đều bị ta đánh bại.

Cuối cùng cả Mỹ lẫn nguỵ buộc phải lờ “sự kiện Phước Long”. J.Xlixingiơ (J.Schlesinger), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ buộc phải tuyên bố “đây chưa phải là một cuộc tiến công ồ ạt của Bắc Việt Nam”. Còn đại sứ Mỹ Ma tin (Martin) ở Sài Gòn thì nói với Thiệu “Việc yểm hộ của Mỹ lúc này chưa được phép”. 

Qua “sự kiện Phước Long” ta thấy quân chủ lực nguỵ suy yếu nghiêm trọng, chúng không đủ sức phản kích chiếm lại những vùng đã mất. Mỹ cung khó có khả năng can thiệp trở lại bằng lực lượng quân sự. Chiến thắng đường 14 - Phước Long nói lên khả năng mới nhất của quân và dân ta, khẳng định ta có dầy đủ tinh thần và lực lượng mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Chiến thắng Phước long có thể coi đó là đòn trinh sát chiến lược cực kỳ xuất sắc và thành công, nó cho ta hiểu biết chính xác khả năng của Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn. Nó là nhân tố mới rất quan trọng đề Hội nghị Bộ Chính trị khẳng định quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. 

Sáng ngày 8- 1- 1975, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, kết luận hội nghị: Cuộc họp lần này có đông đủ các đồng chí Nam Bộ và Khu V ra dự. Chúng ta rất phấn khởi đạt sự nhất trí cao, quyết tâm hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam trong hai năm, tiến tới thống nhất đất nước. Hiện nay ta đang ở thế chủ động; ta đã tạo được thế chiến lược liên hoàn từ Trị - Thiên đến đồng bằng sông Cửu Long. Ta đã xây dựng được những quả đấm chủ lực mạnh, cơ động, tạo được bàn đạp xung quanh Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 11:59:00 pm
Về cách đánh chiến lược phải kết hợp chặt chẽ tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công trên khắp ba vùng chiến lược. Phải nắm vững chiến lược tổng hợp, luôn luôn tạo ra sức mạnh mới, đánh liên tục và bất ngờ, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, thắng dịch tại sào huyệt quan trọng của chúng là Sài Gòn - Gia Định. Chúng ta đồng tình với kế hoạch chiến lược năm 1975 Bộ Tổng tham mưu trình bày. ở Nam Bộ có ba nhiệm vụ quan trọng: vừa đánh ở đồng bằng, vừa diệt chủ lực địch, vừa ép đô thị. ở Khu V, Tây Nguyên thì đồng tình đánh mạnh ở Tây Nguyên, mở đầu từ Buôn Ma Thuộc.

Hội nghị hoàn toàn nhất trí với kết luận của đồng chí Lê Duẩn.

Bộ Chính trị khẳng định: Chúng ta đang dửng trước thời cơ chiến lược to lớn nhơ hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Bộ Chính trị thông qua kế hoạch chiến lược hai năm 1975, 1976 và dự kiến nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Ngày 9-1-1975, Thường trực Quân uỷ Trung ương họp quán triệt và triển khai quyết định của Bộ Chính trị. Tham dự cuộc họp có các đồng chí Chu Huy Mân, Võ Chí Công, Lê Trọng Tấrl, Hoàng Minh Thảo. Trọng tâm cuộc họp bàn về chiến dịch Tây Nguyên.

Các đồng chí dự họp đều nhất trí đánh Buôn Ma Thuộc là đòn đột phá bất ngờ đối với địch, sẽ có nhiều khả năng phá vỡ hệ thống phòng ngự của địch ở Vùng chiến thuật 2, làm rung chuyển Tây Nguyên, phá vỡ thế trận phòng ngự của địch ở Quân khu 2, tạo ra thế chiến lược mới để thực hiện kế hoạch chiến lược hai năm 1975 - 1976. Thường trực Quân uỷ Trung ương xác định rõ, cụ thể nhiệm vụ chiến dịch nam Tây Nguyên, mục tiêu then chốt quyết định và mục tiêu quan trọng.

Cuối cùng, dông chí Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân uỷ Trung ương kết luận hội nghị. Đồng chí xác định rõ khu vực và mục tiêu tiến công, nhiệm vụ của chiến dịch, hướng phát triển, sử dụng lực lượng và gợi ý cách đánh. Đồng chí nhấn mạnh đến phương châm mạnh bạo, bí mật, bất ngờ 1
 
Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh giao cho đồng chí Lê Ngọc Hiền, Phó Tổng tham mưu trưởng đi ngay vào chiến trường, phổ biến chỉ thị của Thường vụ Quân uỷ Trung ương ngày 9- 1- 1975 về nhiệm vụ chiến dịch nam Tây Nguyên cho Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên.

Ngày 21-l-1975, đồng chí Lê Ngọc Hiền đến chiến trường, phổ biến chính thức nhiệm vụ chiến dịch nam Tây Nguyên là: Phải tiêu diệt từ 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, từ 1 đến 2 trung đoàn thiết giáp, nhiều tiểu đoàn bảo an, trung đội dân vệ. Cố gắng dành quỵ hoặc tiêu diệt 1 sư đoàn, đánh thiệt hại nặng Quân đoàn 2 nguy. Giải phóng phần lớn hoặc hoàn toàn tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức gồm ba thị xã Cheo Reo, Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuộc. Trọng điểm là tỉnh Đắc Lắc, mục tiêu then chất quyết định là Buôn Ma Thuộc, mục tiêu quan trọng là ba quận lỵ Đức Lập, Thuẫn Mẫn, Kiến Đức. Hướng phát triển là Cheo Reo, Gia Nghĩa.Cheo Reo là hướng phát triển chủ yếu. 


III- BUÔN MA THUỘT - ĐÒN ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC MỞ ĐẦU CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975. CUỘC TIẾN CÔNG HUẾ - ĐÀ NẴNG GIẢI PHÓNG CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG TRUNG TRUNG BỘ

Sau Tết âm lịch, tại Sở Chỉ huy của đại diện Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh bên bở sông Đắc Đam, Đại tướng Văn Tiến Dũng thay mặt Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, tuyên bố thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên 2.
 
- Trung tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh.

- Đại tá Đặng Vũ Hiệp, Chính uỷ.

- Thiếu tướng Vũ Lăng và các Đại tá Phan Hàm, Nguyễn Năng, Nguyễn Lang, Phó Tư lệnh.

- Đại tá Phí Triệu Hàm, Phó Chính uỷ.

- Đồng chí Nguyễn Quốc Thước phụ trách tham mưu, người dự thảo kế hoạch tác chiến, vẽ bản đồ quyết tâm chiến dịch theo sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh chiến dịch.


________________________
1. Đại tướng Văn Tiến Dũng: Đại thắng mùa Xuân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr.37.
2. Bộ Tư lệnh Mặt trận với tính chất, nhiệm vụ là Bộ Tư lệnh chiến dịch, để khỏi trùng tên Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên đã có trước, từ đây chúng tôi dùng tên Bộ Tư lệnh chiến dịch (B.T).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 18 Tháng Bảy, 2009, 12:19:16 am
Bên cạnh Bộ Chỉ huy chiến dịch, có đồng chí Bùi San đại diện Thường vụ Khu uỷ khu V cùng một bộ phận cơ quan.  Các hướng chiến dịch thành lập các ban chỉ đạo tác chiến phối hợp trên từng hướng do đồng chí bí thư tỉnh uỷ và tỉnh đội trưởng các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức phụ trách.

Từ ngày 17 đến ngày 19-2-1975, trên cơ sở quyết tâm và kế hoạch tác chiến của Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh chiến dịch họp mở rộng, thảo luận kỹ về so sánh lực lượng, về bố trí thế trận và cách đánh. Hội nghị quyết định tập trung lực lượng mạnh, chủ yếu vào Buôn Ma Thuộc, Đức Lập, Thuần Mẫn. Mục tiêu then chốt quyết định là Buôn Ma Thuộc. Sau đó, phát triển tiến công tiêu diệt địch, giải phóng Cheo Reo, Gia Nghĩa và các chi khu, quận lỵ trong ba tỉnh. Đắc Lắc là trọng điểm.

Cách đánh chiến dịch là bí mật triển khai lực lượng, cắt đường 19, 14, 21 ngăn chặn lực lượng ứng cứu của địch; đánh Đức Lập và Thuần Mẫn để kéo địch ở Buôn Ma Thuộc ra tiêu diệt, làm cho Buôn Ma Thuộc sư hở, cô lập. Dùng lực lượng binh chủng hợp thành tiến công tiêu diệt địch, giải phóng Buôn Ma Thuộc. 

Bộ Tư lệnh chiến dịch dự kiến kế hoạch tác chiến theo hai phương án:

- Một là, đánh địch khi chúng chưa tăng cường phòng ngự dự phòng.

- Hai là, dịch đã tăng cường phòng ngự dự phòng. 

Về chỉ đạo, Bộ Tư lệnh chiến dịch nêu rõ trong công tác chuẩn bị lấy phương án thứ hai làm cơ bản, nhưng trong thực hiện phải cố gắng tạo thời cơ đánh dịch theo phương án thứ nhất.

Đêm 25-2- 1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch thông qua phương án tác chiến chiến dịch trước đại diện quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh. Trên tấm bản đồ quyết tâm chiến dịch có ghi rõ nhiệm vụ, sử dụng lực lượng, các mũi tiến công vào mục tiêu then chốt Buôn Ma Thuộc. Các đồng chí Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh chiến dịch và Đặng Vũ Hiệp, Chính uỷ ký quyết tâm lên tấm bản đồ. Đại tướng Văn Tiến Dũng ký phê chuẩn.

Đây là thể hiện quyết tâm giải phóng Tây Nguyên và niềm tin chiến thắng của quân dân ta trong thực hiện kế hoạch chiến lược năm 1975. Một phong trào thi đua: Mừng Đảng, mừng xuân, ra quân đại thắng, quét sạch quân thù, giải phóng Tây Nguyên được phát động trong lực lượng vũ trang và nhân dân Tây Nguyên.

Một khí thế thi đua lập công mới dâng lên sôi nổi. Dưới tán lá xanh của rừng đại ngàn, các đơn vị bộ binh, xe tăng, pháo binh, cao xạ, công binh, đặc công, thông tin, vận tải và cán bộ, chiến sĩ cơ quan chiến dịch hối hả làm đường, bắc cầu, vận chuyển vật chất. . . chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc tiến công.

Theo nhiệm vụ mới, các trung đoàn công binh 7 và 575, các tiểu đoàn công binh của các sư đoàn bộ binh vừa làm xong mạng dường chiến dịch, chiến đấu khu vực Đức Lập, Kiến Đức đã phải chuyển hướng làm đường vào Buôn Ma Thuộc. Thời gian gấp gáp, mạng đường vào Buôn Ma Thuộc phải qua địa hình trống trải, nhiều nương rẫy và ấp chiến lược các chiến sĩ công binh phải trinh sát đánh dấu các tuyến dường, vừa làm, vừa chỉnh hướng tránh nương rẫy và ấp chiến lược.

Ngày 31-1-1975, Trung đoàn công binh 575 từ phía bắc Đức Lập mang theo hai máy húc Hồng Kỳ hành quân sang phía bắc thị xã Buôn Ma Thuộc, bắt đầu sửa chữa, khôi phục con đường 50 và 48, mở mới tuyến dường 50B cùng hai nhánh 50C, 50D dài 61 km. Trung đoàn công binh 7 làm tuyến đường 51 cùng hai nhánh 57B, 57C dài 75 km vào hướng Buôn Ma Thuộc.

Bảo vệ các tuyến đường mới mở và đường dây thông tin hữu tuyến từ Sở Chỉ huy chiến dịch đến vị trí tập kết của các đơn vị, các cụm kho chiến dịch là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, yêu cầu phải tuyệt đối bí mật và an toàn. Nếu để lộ thì phải trả giá bằng tính mạng và xương máu. Bởi vậy, các đơn vị phải đi xa cách đường hàng năm, sáu cây số chặt cây, lá về nguỵ trang cho đường, đồng thời bám sát và tránh địch. Khi địch nghi ngờ mở cuộc hành quân lùng sục bộ đội phải tạm dừng thi công. Quá trình làm đường phải nguy trang và xoá dấu vết sao cho địch không phát hiện được.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 18 Tháng Bảy, 2009, 12:19:37 am
Lúc này, hậu cần chiến lược bắt đầu giao hàng ở Kon Tum, Gia Lai. Đẩu tháng 1 - 1975 sẽ giao hàng ở Đắc Lắc. Số lượng hàng hoá trung ương chi viện cho mặt trận rất lớn, lên đến hàng chục vạn tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốn chữa bệnh, xăng dầu...

Chưa bao giờ Tây Nguyên được tiếp nhận một khối lượng lớn hàng hoá nhiều chủng loại đến thế.  Hậu cần chiến dịch phải huy động toàn bộ xe tô, xe đạp thồ và lực lượng vận tải bộ, các bệnh viện, các cơ quan ra mặt đường vận chuyển đạn, gạo, đến các cụm kho chiến dịch rồi theo những con đường quân sự làm gấp chuyển hàng đến. sư đoàn 10, 320, 316, trung đoàn 95B, 25, 198. Các đơn vị pháo binh, xe tăng có phương tiện thì tự vận chuyển cho đơn vị mình.

Đầu tháng 3- 1975, hàng dự trữ cho các đơn vị đạt 78% kế hoạch, trong đó lương thực, thực phẩm đạt 114% kế hoạch, vũ khí đạt 83% kế hoạch, xăng dầu đạt 24% kế hoạch. 

Bên cạnh các đoàn xe tô chở đầy hàng, những đơn vị vận tải mang nặng hàng hoá ngày đêm hướng vào Buôn Ma Thuộc, các đơn vị Bộ tăng cường cho Tây Nguyên cũng hối hả hành quân: Sư đoàn 968 từ Lào sang; Sư đoàn 316 từ Nghệ An vào; Trung đoàn 95B, Trung đoàn cao xạ 232, Trung đoàn công binh 575 thuộc Đoàn 559; 1 tiểu đoàn đặc công của Bộ; 1 tiểu đoàn cầu phà, 1 tiểu đoàn và 1 đại đội thông tin, 1 tiểu đoàn vận tải, 1 đại đội trinh sát, 1 trung đội khí tượng, 3 trạm sửa chừa xe pháo, Đội điều trị 48 và 8.000 quân bổ sung lần lượt đến Đắc Lắc.

Ngoài ra còn có các đơn vị phối thuộc và phối hợp: Sư đoàn 3 - Quân khu 5 đến khu vực đường 19 phía đông An Khê; Trung đoàn bộ binh 271, Tiểu đoàn 14 đặc công của Miền đến Gia Nghĩa; Tiểu đoàn 21, Sư đoàn 470 thuộc Đoàn 559 đến Bản Đôn. Quân đông, mỗi tiểu đoàn biên chế trên dưới 400 người - một kỷ lục chưa từng có ở chiến trường.

Các đơn vị cũ của Mặt trận Tây Nguyên đã kinh qua chiến đấu hiệp đồng binh chủng lớn, quen thuộc chiến trường; các đơn vị bổ sung, phối hợp, phối thuộc đã từng lập công ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, ở chiến dịch Quảng Trị, miền Đông Nam Bộ, Khu V, lại được chuẩn bị kỹ về tư tưởng, chính trị, kỹ thuật và chiến thuật đánh thành phố trước khi bước vào chiến dịch, có quyết tâm rất cao.

Ở Tây Nguyên nói chung, Đắc Lắc nói riêng, quân ta trội hơn hẳn quân địch về số lượng và chất lượng, lại được bố trí trong thế trận vững chắc liên hoàn, hình thành những quả đấm mạnh ở khu vực tác chiến then chốt của chiến dịch. 

Trung tuần tháng 12-1974, sau khi ta giải phóng Phước Long, địch vẫn còn nhận định ta có thể đánh với quy mô lớn hơn năm 1974, nhưng không bằng năm 1968 và năm 1972.  Ta chưa có khả năng đánh những thành phố, thị xã lớn. Yêu cầu chủ yếu của cộng sản trong năm 1975 là giành cho được hai triệu dân ở đồng bằng sông Cửu Long, mở rộng vùng căn cứ ở miền núi để thúc ép chính quyền Sài Gòn thi hành Hiệp định Pari.

Về hướng tiến công, địch cho rằng ta sẽ đánh Quân khu 3, chủ yếu là Tây Ninh. Về thời gian, địch phán đoán ta sẽ đánh trước hoặc sau Tết và kéo dài hết mùa khô.  Do nhận định như vậy, Thiệu ra lệnh cho quân đội, cảnh sát mở các cuộc hành quân bình định cấp tốc, lập tức liên tục trong 3 tháng kể từ ngày 1-1-1975 nhằm phá kế hoạch chuẩn bị của ta.

Cũng do nhận định sai lầm đó, mà địch không thay đổi thế bố trí chiến lược mạnh hai đầu, mỏng yếu ở giữa, chúng cũng chưa có kế hoạch tăng cường lực lượng cho Quân khu 2, trong đó có Tây Nguyên. Song, đến ngày 23- 1-1975, tình báo địch lại phát hiện Trung đoàn 25 của ta đang di chuyển sang đường 21, Sư đoàn 10 ở Kon Tum di chuyển về hướng nam Tây Nguyên. Đích phán đoán ta sẽ đánh Đức Lập, Gia Nghĩa, mở thông hành lang với Đông Nam Bộ. Lập tức Trung đoàn 53 nguỵ mở cuộc càn quét ra vùng Quảng Nhiêu, Buôn Hồ, Trung đoàn 45 được điều đến Buôn Hồ, lùng sục phía tây Thuần Mẫn. Biệt kích, thám báo đổ xuống thăm dò ở khu vực đóng quân của Sư đoàn 320. 

Càng gần đến ngày nổ súng, tình hình càng trở nên phức tạp căng thẳng. Mạng đường sá và cầu phà hướng thị xã Buôn Ma Thuộc chưa hoàn thiện một số đơn vị đang trên đường vào vị trí tập kết; địch lại tăng cường lùng sục ở khu vực ta đang chuẩn bí. Nếu địch phát hiện được lực lượng và sự chuẩn bị của ta, tất chúng sẽ điều quân ngăn chặn. gây khó khăn cho ta.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 18 Tháng Bảy, 2009, 12:19:55 am
Trước tình hình dó. Bộ Tư lệnh chiến dịch họp, phân tích từng hành động của địch, phán đoán ý đồ của chúng và đi đến kết luận: Những hoạt động lùng sục của dịch mới có tính chất thăm dò cục bộ, chúng chưa tìm được lực lượng của ta và hướng chính của chiến dịch. Đây là một nhận định rất quan trọng và sáng suốt.

Trên cơ sở nhận định dó, Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương: Kiên trì, giữ bí mật ý định và lực lượng ta ở khu vực tác chiến chủ yếu. Tích cực hoạt động nghi binh chiến dịch trên hướng Kon Tum, Plâyku. Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 320 hành quân lên phía tây tránh dụng độ với địch, phải xoá sạch dấu vết không để chúng phát hiện, giữ bí mật lực lượng; lệnh cho Sư đoàn 968 tăng cường hoạt động ở hướng Kon Tum, Plâyku để giữ chân Trung đoàn 44, thu hút Trung đoàn 45 về lại Plâyku. 

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch, Sư đoàn 320 bí mật. nhanh chóng hành quân lên phía tây đường 14, chỉ dể lại một bộ phận trinh sát bám địch; Sư đoàn 968 tiến công diệt các chốt địch trên đường 19 tây, bức rút dồn Tầm, đánh chiếm dãy điểm cao 605, Chơ Kra, Chơ Gội nằm trong tuyến phòng thủ phía tây nam thị xã Plâyku, đồng thời bắn pháo vào Kon Tum, Plâyku, dùng lực lượng đánh chiếm,  cắt đứt một đoạn đường 14 ở phía nam Tân Phú. Những hoạt động đó của ta, buộc địch phải tăng cường phòng giữ bắc Tây Nguyên: Trung đoàn 45 nguỵ phải bỏ dở cuộc càn quét phía tây Thuần Mẫn, vội vã rút về Thanh An, giữ mặt phía tây nam thị xã Plâyku.

Thời gian còn lại cho công tác chuẩn bị rất ngắn. Mạng đường sá cánh bắc còn cách Buôn Ma Thuộc từ 10 đến 15 km.  23 giờ ngày 9-3, Trung đoàn công binh 575 mới khai thông trục đường 50B và 2 nhánh 50C, 50D nối với đường xuất phát tiến công của xe tăng. Thời gian này, Trung đoàn 7 cũng hoàn thành trục đường 51, 57B, 57C.

Còn lại dốc phía nam ngầm Kơmuya khi nổ súng sẽ dùng bộc phá san bằng.  Trung đoàn 29 thông tin thi đua với các chiến sĩ công binh, đã gấp rút mắc đường dây hữu tuyến cho Trung đoàn 148 (Sư đoàn 316), Trung đoàn 198 đặc công, Trung đoàn 95B bộ binh, Trung đoàn 273 xe tăng, Trung đoàn 675 pháo binh, Trung đoàn 575 công binh và cụm kho 10B ở hướng bắc; nối đường dây Sở Chỉ huy chiến dịch với Sư đoàn 320 ở Thuần Mẫn, Sư đoàn 10 ở Đức Lập, Sư đoàn 316 ở tây Buôn Ma Thuộc.

Bộ Tư lệnh chiến dịch điều khiển các đơn vị bí mật tiến vào vị trí tập kết đã quy định; theo dõi, đôn đốc Trung đoàn 95B vượt đường 14 sang hướng đông Buôn Ma Thuộc cùng Trung đoàn 198 đặc công nổ súng đúng kế hoạch.  Sau khi các đơn vị triển khai trên hướng chính chiến dịch an toàn, bí mật, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho Trung đoàn 95 nổ súng cắt đường 19 đoạn phía đông thị xã Plâyku. 

Đêm ngày 3 rạng ngày 4-3, Trung đoàn 95 bất ngờ tiến công tiêu diệt hệ thống đồn bốt và các chốt địch trên đường 19 từ ngã ba Lây Bôn đến ấp Phú Yên, làm chủ đoạn đường dài 20 km. Trên đường 19 đoạn từ An Khê đến Bình Khê, hồi 5 giờ 30 phút cùng ngày, Sư đoàn 3 - Quân khu 5 tiến công địch ở phía bắc Che Chẻ, chốt lăng Mai Xuân Thưởng, Đồi Đá Chóp Nõn, điểm cao 308, 309, Định Quang, v.v., làm chủ các mục tiêu trên.

Đường 19 từ Plâyku đi Quy Nhơn bị cắt đứt.

Chiến dịch Tây Nguyên mở màn.

8 giờ ngày 4-3- 1975, Thường vụ Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh chiến dịch họp nhận định tình hình: Ta vẫn giữ được bí mật, bất ngờ và điều địch vào dúng ý đồ của ta. Thường vụ Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm: Đánh địch theo phương án thứ nhất, địch chưa tăng cường phòng ngự dự phòng.

Bộ Tư lệnh chiến dịch theo dõi kiểm tra chặt chẽ Sư đoàn 320 và Sư đoàn 10; lệnh cho Sư đoàn 968 tăng thêm đạn pháo đánh vào Kon Tum, Plâyku; Trung đoàn 149 - Sư đoàn 316 nhanh chóng vượt đường 14 vào nam thị xã Buôn Ma Thuộc; Tiểu đoàn 6 - Trung đoàn 24 chuẩn bị đánh Mê Van; 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 95B cùng Tiểu đoàn 21 chặn địch ở Bản Đôn; đề nghị đại diện Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho Sư đoàn 3 Quân khu 5 ở An Khê, Bình Khê hoạt động mạnh hỗ trợ cho Trung đoàn 95A.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 18 Tháng Bảy, 2009, 12:20:15 am
Ngày 5-3-1975, Trung đoàn 25 cắt đường 21, làm chủ đoạn phía nam Chư Cúc; Trung đoàn 9 - Sư đoàn 320 đánh cắt đường 14 đoạn phía bắc Thuần Mẫn. Tập đoàn phòng ngự của địch ở Tây Nguyên bị chia cắt với dông bằng Khu V; Buôn Ma Thuộc bị cô lập. Ta đã thực hiện hoàn hảo việc chia cắt chiến lược giữa Tây Nguyên với các tỉnh duyên hải miền Trung, cắt đứt các con đường tiếp tế của địch từ các căn cứ liên hợp quân sự, hậu cần ở Cam Ranh, Quy Nhơn, Chu Lai, Đà Nẵng lên Tây Nguyên, chia cắt chiến dịch giữa Buôn Ma Thuộc với bắc Tây Nguyên.

Tuy vậy, cường độ các trận đánh của ta trên các hướng nghi binh chưa đủ độ để buộc địch phải xử lý ở Buôn Ma Thuộc. Địch vẫn bị thu hút vào hướng Kon Tum, Plâyku. Điều này chứng tỏ nghệ thuật nghi binh lừa địch của ta tài giỏi đến mức điêu luyện, điều khiển địch theo ý muốn. Bởi vậy, trong các ngày 4, 5, 6, 7-3, địch dùng Liên đoàn 4 biệt động quân và Lữ đoàn 3 kỵ binh cùng với lực lượng bảo an giải toả đường 19, đối phó với Trung đoàn 95A. 

Ở hướng đông đường 19 - An Khê, địch dùng trung đoàn 40, 42 thuộc Sư đoàn 22 quân cộng hoà đối phó với Sư đoàn 3 - quân khu 5. Trên đường 21. địch sử dụng 1 chi đoàn xe tăng, thiết giáp, cùng với học viên Trường biệt động quân ở Dục Mỹ và lực lượng bảo an đối phó với Trung đoàn 25 ở tây Khánh Dương.

Địch bị giam chân, bị động đối phó với ta ở các hướng phối hợp, Bộ Tư lệnh chiến dịch cho Sư đoàn 320 đánh Chư Xê (nam Thuần Mẫn) để kéo Trung đoàn 53 ngụỵ ra đối phó.  Sau khi tiêu diệt địch ở Chư Xê, ngày 8-3- 1975, Trung đoàn . 48 - Sư đoàn 320 được tăng cường 2 khẩu pháo 105 mm: 3 khẩu pháo 85 mm bắn thẳng, tiến công chi khu quân sự Thuần Mẫn. 6 giờ nổ súng, đến 7 giờ 20 phút, Trung đoàn 49 diệt 1 tiểu đoàn bảo an, 2 trung đội cảnh sát, làm chủ Thuần Mẫn. Đây là mục tiêu quan trọng đấu tiên của chiến dịch. 

Lực lượng địch trong thị xã Buôn Ma Thuộc bị ép chặt từ phía bắc, chúng đang bàng hoàng, lo sợ, thì sáng ngày 9-3, Sư đoàn 10 và Trung đoàn pháo binh 40, tiến công chi khu quân sự, quận lỵ Đức Lập. Đây là tuyến phòng thủ vững chắc của địch bao gồm 5 cứ điểm nằm trên đường 14 phía tây nam thị xã Buôn Ma Thuộc. Trong ngày 9: Sư đoàn 10 chỉ chiếm được căn cứ Núi Lửa, căn cứ 23. Địch chống cự quyết liệt, đội hình tiến công của Sư đoàn 10 bị chặn lại. Sư đoàn 10 điều chỉnh đội hình, củng cố lực lượng, tiếp tục tiến công sang ngày 10-3 mới dứt điểm. Mục tiêu quan trọng thứ hai của chiến dịch đã bị tiêu diệt.

Như vậy, đến ngày 9-3- 1975, quân ta đã cài xong thế chiến lược và chiến dịch Tây Nguyên. lo Cũng trong ngày 9-3- 1975, Phạm Văn Phú, Tư lệnh quân đoàn 2, Quân khu 2 nguỵ đáp máy bay xuống Buôn Ma Thuộc kiểm tra tình hình. Buôn Ma Thuộc vẫn yên tĩnh, nhưng đề phòng ta tiến công, Phạm Văn Phú chỉ thị cho cấp dưới phải kiểm soát chặt chẽ việc phòng thủ thị xã và giao cho Vũ Thế Quang, Phó Tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh làm Tư lệnh chiến trường. Đến lúc này, địch vẫn không phát hiện được ý đồ của ta, chúng cho rằng ta đánh Thuần Mẫn, Đức Lập là để nghi binh.

Để giam chân địch tại chỗ, không cho lực lượng ở Kon Tum, Plâyku và các nơi khác ứng cứu cho Buôn Ma Thuộc, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho Trung đoàn 675 pháo nòng dài sẵn sàng bắn phá sân bay Hoà Bình nếu địch đổ quân tăng cường cho thị xã và lệnh cho Tiểu đoàn 33 hoả tiễn sẵn sàng đánh sân bay Cù Hanh (Thị xã Plâyku) không cho địch cơ động bằng đường không ứng cứu cho Buôn Ma Thuộc, trói chặt lực lượng địch ở Kon Tum, Plâyku. 

Đến giờ nổ súng, lực lượng địch về cơ bản không thay đổi so với trước đó. Ở Buôn Ma Thuộc có Sở Chỉ huy tiền phương Sư đoàn 23 (gọi là căn cứ 23), Trung đoàn 53 bộ binh (thiếu 1 tiểu đoàn), 1 tiểu đoàn tăng, thiết giáp, 1 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn bảo an và cảnh sát, tiểu khu Đắc Lắc. Tổng số khoảng 8.000 tên.

Buôn Ma Thuộc là thị xã lớn ở Tây Nguyên, diện tích khoảng 25 km2 chạy dài trên một vùng đồi bằng với bình độ từ 420 đến 480 m, là thị xã có tầm quan trọng về chính trị, quân sự, kinh tế ở Tây Nguyên.

Chiều ngày 9-3- 1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch phát lệnh tiến công. Đêm 9 rạng ngày 10, rừng Tây Nguyên vẫn nép mình lặng lẽ dưới trăng. Nhưng từ vị trí tập kết quân ta tiến vào chiếm lĩnh trận địa.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 18 Tháng Bảy, 2009, 12:20:37 am
1 giờ 35 phút ngày 10-3-1975, cuộc tiến công mục tiêu then chốt quyết định Buôn Ma Thuộc bắt đầu. Trung đoàn 198 đặc công táo bạo luồn sâu, bất ngờ nổ phát súng đầu tiên, tiến công sân bay Ngã Sáu, sân bay Hoà Bình ở phía đông, khu kho Mai Hắc Đế ở phía tây, tây nam thị xã. Cửa ngõ phía đông, phía tây và tây nam vào Buôn Ma Thuộc đã mở.  Pháo binh chiến dịch, hoả tiễn ĐKZB, H12 bắt đầu bắn vào căn cứ Sư đoàn bộ Sư đoàn 23 nguỵ. Lợi dụng tiếng súng tiến công dồn dập của đặc công và tiếng rít của đạn hoả tiễn, các đơn vị bộ binh, xe tăng, pháo tầm xa nhanh chóng vượt sông Xêrêpốc tiến vào chiếm lĩnh tuyến xuất phát xung phong.

6 giờ ngày 10-3, Trung đoàn 95B và xe tăng vượt qua cửa ngõ sân bay lên thẳng ở phía đông thị xã do đặc công chiếm giữ đánh chiếm Ngã Sáu. Cùng lúc, ở hướng tây, tây nam thị xã các đơn vị bộ binh đánh tiêu diệt các cứ điểm Chư Bua, Chư Duê, điểm cao 491. Hệ thống cứ điểm vòng ngoài thị xã trên cả ba hướng nam, tây nam, tây bắc của địch bị quân ta tiêu diệt.

7 giờ 10 phút, pháo binh tầm xa chiến dịch bắn vào Sư đoàn bộ Sư đoàn 23, tiểu khu Đắc Lắc, khu thiết giáp, khu pháo binh địch. Các chiến sĩ Trung đoàn 148 - Sư đoàn 316 áp sát đội hình, bộc phá liên tục mở cửa đánh chiếm khu pháo binh, khu thiết giáp, hậu cứ Tiểu đoàn 1 - Trung đoàn 53 nguy. Sau đó, Trung đoàn 148 và xe tăng tiến theo đường Phan Bội Châu, đánh địch co cụm ở khu vực Trường trung học Bồ Đề, phát triển sang Ngã Sáu hợp điểm với Trung đoàn 95B.

Ở hướng tây, địch phản kích chiếm lại khu kho Mai Hắc Đế, chặn đường tiến của Trung đoàn 174. các Chiến sĩ đặc công Trung đoàn 198 phối hợp với Trung đoàn 174 đánh chiếm lại khu kho, diệt 2 xe GMC, 2 xe M113. Thừa thắng, Trung đoàn 174 tiến công địch, chiếm khu tiếp liệu. ở hướng tây, mũi thọc sâu binh chủng hợp thành của Tiểu đoàn 4 - Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 cùng với xe tăng Trung đoàn 273 vượt qua các ổ đề kháng vòng ngoài, đánh chiếm khu vận tải, khu truyền tin, đến 16 giờ đánh chiếm doanh trại của Tiểu đoàn 23 quân y, áp sát căn cứ Sư đoàn bộ Sư đoàn 23.

Sự có mặt của mũi thọc sâu Tiểu đoàn 4 sát cơ quan đầu não địch trong thị xã, khiến cho chúng vô cùng hoang mang, kêu cứu khẩn thiết. Tên Vũ Thế Quang, Tư lệnh chiến trường Buôn Ma Thuộc và tên Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Đắc Lắc bỏ căn cứ lần trốn ra rừng cà phê. 

Ở hướng nam thị xã, tiểu đoàn 7 và 8 - Trung đoàn 149 - Sư đoàn 316 vượt qua suối ỉa Tam đánh vào khu tiếp vận, Sở Thú y, Ty Ngân khố, khu cư xá sĩ quan ở đường Lê Lợi; Tiểu đoàn 9 phải bôn tập đoạn đường dài 8 km tiến công vào sân bay Hoà Bình ở phía đông thị xã.

Cùng với cuộc tiến công thị xã Buôn Ma Thuộc, ở hướng Gia Nghĩa, tỉnh ly của tỉnh Quảng Đức, Trung đoàn 271 bộ binh, Tiểu đoàn 14 đặc công diệt địch trong ấp Nhân Cơ, Nhân Hải, áp sát sân bay Nhân Cơ.

Trong ngày 10-3-1975, mặc dù địch phản kích mạnh trên bốn hướng, nhưng bộ đội ta kiên cường chiến đấu, làm chủ phần lớn các mục tiêu trong thị xã.

Đêm 10-3- 1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch họp đánh giá tình hình tiến công ngày đẩu vào mục tiêu then chốt quyết định và chủ trương:

- Tập trung lực lượng nhanh chóng tiêu diệt Sở chỉ huy Sư đoàn 23 và các mục tiêu còn lại trong thị xã. 

- Triển khai lực lượng sẵn sàng dành địch phản kích, khẩn trương tiêu diệt các căn cứ bàn đạp Bản Đôn, Chư Nga, Buôn Hồ, không cho lực lượng cơ động bên ngoài của địch dựa vào đó giải toả Buôn Ma Thuộc.

- Đưa các dợn vị cao xạ áp sát thị xã bảo vệ đội hình tiến công của ta, bảo vệ nhân dân. Điều Sư đoàn 10 sang phía đông Buôn Ma Thuộc làm lực lượng dự bị và sẵn sàng đánh địch phản kích.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:34:55 pm
Ngày 11 -3-1975, sau khi pháo binh chiến dịch bắn phá mãnh liệt các mục tiêu trong thị xã, từ bốn hướng, quân ta dồn tập tiến công vào căn cứ Sư đoàn bộ Sư đoàn 23. Địch điên cuồng chống cự quyết liệt. Đến 1 giờ ngày 1 1 -3-1975, toàn bộ quân địch đã bị diệt và bị bắt làm tù binh. Cuộc tiến công vào mục tiêu then chốt quyết định của chiến dịch toàn thắng.

Thị xã Buôn Ma Thuộc với 96.000 dân hoàn toàn được giải phóng. Cờ đỏ sao vàng và cờ Mặt trận dân tộc giải phóng tung bay khắp nóc nhà dân, công sở, trường học trong các khu phố Lê lợi, Nơ Trang Lơn, Trần Hưng Đạo, v.v.. Nhân dân di sư tán, tối ngày 11 bắt dầu rải rác kéo nhau về. 

Hai tên Vũ Thế Quang và Nguyễn Trọng Luật chạy trốn ra rừng cà phê ngoài thị xã bị các chiến sĩ trung đoàn 24 và 174 bắt sống. Vũ Thế Quang khai là: chúng hoàn toàn bất ngờ, cả người Mỹ cũng phán đoán các ông không có khả năng đánh những thị xã lớn, cùng lắm năm 1975 các ông chỉ có thể đánh thị xã cỡ nhỏ như An Lộc, Gia Nghĩa... 

Thừa thắng, trong các ngày 12, 13, 14-3, quân ta tiến đánh các cán cứ 45, cầu Thọ Thành, Buôn Hồ, Chơ Pao, Đạt Lý, ấp Châu Sơn, Chư Nga. Bản Đôn, làm mất các căn cứ bàn đạp để phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuộc của địch. 

Lúc này, Sư đoàn 10 đã di chuyển sang phía đông Buôn Ma Thuộc sẵn sàng trong tư thế đón đánh địch phản kích.  Từ ngày 13 đến ngày 16-3, dưới sự yểm trợ của không quân. Quân đoàn 2 nguỵ cho trung đoàn 45 và 44 thuộc Sư đoàn 23 bộ binh đổ xuống Phước An, khu vực điểm cao ()81 phía đông bắc căn cứ Hoà Bình, liên kết với Liên đoàn biệt động quân 21 theo đường 21 phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuộc.

Ngày 14-3-1975, dưới sự yểm trợ của pháo binh chiến dịch, Sư đoàn 10 và xe tăng ta tiến công cụm quân địch ở điểm cao 581, diệt cụm quân của Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 45 nguy. Ngày 15, ta tiếp tục tiến công lực lượng địch co cụm ở Ngã ba Nông Trại và căn cứ 53 ở sân bay Hoà Bình.

Căn cứ 53 bị diệt, tàn quân của trung đoàn 44, 45 ở khu vực 581 bị đánh tan, đã hốt hoảng chạy về co cụm ở quận lỵ Phước An.  Ngày 17-3, Sư đoàn 10 tiến công giải phóng Phước An. địch còn lại chạy về Chư Cúc. Nhưng ngay trong ngày, Trung đoàn 25 ở phía đông Chư Cúc đánh diệt một đại đội đang chạy về Khánh Dương, khoá chặt đường về đồng bằng của dịch. Ngày 18-3-1975, Sư đoàn 10, xe tăng Trung đoàn 273 tiến công tiêu diệt và bắt sống toàn bộ số quân còn lại của Sư đoàn 23 nguỵ, giải phóng vùng đông bắc tỉnh Đắc Lắc. 

Thắng lợi của trận đột phá Buôn Ma Thuộc và trận đánh thắng cuộc phản kích chiến dịch của Sư đoàn 23 nguỵ, đã đẩy nguỵ quân, nguỵ quyền miền Nam đến cảnh cùng quẫn, tan rã nhanh chóng, mở đầu bước suy sụp mới không gượng dậy được của chúng.

Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên nhận định: Trong tình hình Buôn Ma Thuộc bị mất, phương thức phòng thủ thành phố, thị xã mất hiệu nghiệm. Cuộc phản kích của Sư đoàn 23 là phương thức tích cực nhất trong phòng ngự về chiến dịch bị đánh bại, các căn cứ bàn đạp không còn, nên có thể dịch sẽ rút lui khỏi Tây Nguyên để bảo toàn lực lượng. Và như vậy, trận Buôn Ma Thuộc đã vượt ra ngoài phạm vi thắng lợi của một chiến dịch, mang ý nghĩa và tầm vóc chiến lược, đẩy địch mắc sai lầm về chiến lược. 

Nhận định đúng đắn này được minh chứng bằng chỉ thị ngày 14-3-1975 của Nguyễn Văn Thiệu rằng: “Quân viện bị cúp thiếu đạn và tiền, dịch đánh mạnh hơn năm 1968, 1972; Kon Tum, Plâyku người ít, kinh tế không có, rút quân về cứu Buôn Ma Thuộc và giữ vùng duyên hải” 1.

Cũng trong ngày này, Đại sứ Mỹ Matin đang ở Oasinhtơn gửi cho Thiệu một bức thư an ủi và hứa hẹn viện trợ với điều kiện “Nếu như có thể có cơ hội trong vài tuần tới để Quân lực Việt Nam cộng hoà đánh một trận đẹp mắt với quân Bắc Việt Nam để công chúng Mỹ thất rõ thì điều đó có tác dụng. Phản ứng chính trị ở đây (Mỹ) sẽ rất tốt, nếu có sự kiện như vậy... Tôi có thể bảo đảm chắc chắn với Ngài rằng Tổng thống Pho và các ông Bộ trưởng Quốc phòng, Ngoại giao (Mỹ) đều quyết tâm khi cuộc tranh cãi ở Hoa Thịnh Đốn chấm dứt thì các Ngài cũng sẽ được nguồn của cải cần thiết” 2



_________________________
1. Trích phúc trình của Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2, Quân khu 2 nguỵ lên Nguyễn Văn Thiệu ngày 7-4-1975, tài liệu lưu Bộ Tham mưu Binh đoàn Tây Nguyên.  
2. Thư Matin gửi cho Nguyên Văn Thiệu, ngày 14-3-1975, lưu tại bảo mật Binh đoàn Tây Nguyên.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:47:19 pm
Kết quả lời hứa hẹn của Matin là Tổng thống G.Pho ra lệnh lập cầu hàng không chở hàng quân sự khẩn cấp tăng viện cho quân nguy. Những chiếc máy bay vận tải khổng lồ C5 Galaxi chở hàng trăm khẩu pháo hạng nặng và những quả bom CBU55 của Mỹ đổ xuống sân bay Tân Sơn Nhất để chính quyền Thiệu giết hại đồng bào mình trong giờ phút tuyệt vọng.

Mặc dù được Mỹ an ủi, hứa hẹn, nhưng đêm 14-3-1975, địch bắt đầu rút lui chiến lược khỏi Tây Nguyên, mở đầu bằng việc Sư đoàn 6 không quân ở sân bay Cù Hanh đốt giấy tờ vơ vét đồ đạc chen chúc nhau lên máy bay di tản về Sài Gòn.

Tiếp những ngày sau, các đài quan sát của ta phát hiện báo về Sở Chỉ huy chiến dịch là từng đoàn xe địch hàng trăm chiếc từ ngã ba Mỹ Trạch theo đường 7 chạy về Phú Bổn; đồng thời lúc này Quân uỷ Trung ương điện cho biết địch đã rút bỏ Kon Tum, Plâyku và lệnh cho Bộ Chỉ huy chiến dịch đôn đốc Sư đoàn 320 khẩn trương đánh địch rút lui. 

Cuộc truy kích thần tốc của Sư đoàn 320 trên đường số 7, Tây Nguyên được hoàn toàn giải phóng.

Để bảo đảm an toàn cho cuộc rút lui khỏi Tây Nguyên, địch điều liên đoàn biệt động quân số 6 và 23 tăng cường cho Lữ đoàn 2 kỵ binh bảo vệ đoạn đường từ Ngã ba Mỹ Trạch đến quận Sơn Hoà, yểm trợ cho công binh sửa đường, bắc cầu vì đường số 7 đã hư hỏng nặng. Điều Liên đoàn biệt động quân số 7 ở Kon Tum về án ngữ đoạn đường từ Cheo Reo đến đèo Tu Na. Đoạn đường còn lại giao cho quân địa phương hai tỉnh Phú Bổn, Phú Yên bảo vệ. 

Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng Sư đoàn 320 tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp, 1 cụm pháo binh chiến dịch đuổi đánh địch. Trung đoàn 95B đơn vị đánh Buôn Ma Thuộc đang làm dự bị cho Sư đoàn 10 ở đường 21 được điều sang làm dự bị cho Sư đoàn 320. Quyết tâm của ta là tiêu diệt toàn bộ tập đoàn quân rút chạy của địch không cho chúng về co cụm ở Phú Yên, Khánh Hoà.

Đêm 16-3-1975, Tiểu đoàn 9-Trung đoàn 64 được lệnh bôn tập chặn địch ở phía đông nam thị xã Cheo Reo, tỉnh lỵ của tỉnh Phú Bổn. Bộ đội ta phải vượt các dãy núi đá tai mèo sắc nhọn, chạy tắt xuống đường số 7, trong khi địch di chuyển bằng ôtô. Cuộc chạy đua của các chiến sĩ Tiểu đoàn 9 với địch hết sức khẩn trương, quyết liệt.

16 giờ ngày 16-3, các chiến sĩ Tiểu đoàn 9 mới tới được đường 7 đoạn đông nam thị xã Cheo Reo 4 km. Đại đội 11 của Tiểu đoàn 9 nhờ ở gần nên đến trước các đơn vị 5 tiếng động hồ. Xe địch một số ít đã chạy đến Củng Sơn, nhưng đại bộ phận tập đoàn rút chạy của Quân đoàn 2 vẫn còn ở Cheo Reo. Tiếp theo cuộc bôn tập của Tiểu đoàn 9 là toàn bộ Trung đoàn 64; sau Trung đoàn 64 là Trung đoàn 48, Trung đoàn 49 (E9) và cơ quan sư đoàn. 

Sáng ngày 17-3, quân địch chạy khỏi Cheo Reo khoảng 4 km gặp trận địa phục kích của Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64. Bộ đội ta nổ súng chặn đầu. Đang còn hoảng sợ, cả đoàn xe cơ giới của địch lao ra hai bên đường, chạy hàng năm, hàng bảy, một số tên lái xe sợ quá bỏ cả xe chạy về lại Cheo Reo.

Sáng ngày 18-3, địch củng cố đội hình dùng hai thiết đoàn tăng, thiết giáp mở đường chạy về Củng Sơn. Tiểu đoàn 9 kiên cường đánh chặn. Cầu Ca Nu sập. Đường tắc nghẽn, địch bỏ xe chạy vào rừng, tìm cách lội qua sông Ba. Nhưng, trung đoàn 64, 48, 49 đã đuổi kịp, chặn đánh, diệt và bắt hàng trăm xe, hàng ngàn tên giặc.

Một phi đội máy bay A37 bảo vệ sườn của đội hình hành quân bộ của quân nguỵ, hốt hoảng ném bom nhầm xuống Liên đoàn 7 biệt động quân, làm chết, bị thương một tiểu đoàn, phá hỏng một số xe tăng, thiết giáp.  Tên chuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy cuộc tháo chạy, phải kêu lên: “Tổn thất quá nặng nề gần như tan rã”, “Liên đoàn 23 biệt động quân thường xuyên phải đối đầu với Sư đoàn 320, thường xuyên bị tấn kích” 1.


_________________________
1. Phúc trình của Phạm Duy Tất, tài liệu lưu Bộ Tham mưu Quân đoàn 3.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:47:43 pm
Trong ngày 18-3, Tiểu đoàn 1-Trung đoàn 48 vây diệt 1 tiểu đoàn bảo an ở Cầu Cháy, cắt dứt đường 7 từ Phú Thiên di Cheo Reo. Để tạo thế vây diệt toàn bộ quân địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 320 nhanh chóng đánh chiếm thị xã Cheo Reo, nơi tụ điểm của tàn quân dịch. Được chi viện của pháo binh chiến dịch, Trung đoàn 48 mở dợt tiến công vào sân bay, toà hành chính, tiểu khu Phú Bổn, khu cố vấn Mỹ, trại lính Ngô Quyền, Ty Cảnh sát, Ty Chiêu hồi. Đài phát thanh. Sau 6 giờ chiến đấu liên tục đến 22 giờ ngày 18-3, thị xã Cheo Reo được giải phóng. Bộ đội ta tiêu diệt một bộ phận lực lượng chủ lực và địa phương Quân đoàn 2. 

Giữa lúc Sư đoàn 320 tiến công địch, giải phóng thị xã Cheo Reo, thì ở bắc Tây Nguyên, trong ngày 18-3, Trung đoàn 29 thuộc Sư đoàn 968 cùng lực lượng địa phương giải phóng thị xã Kon Tum; Trung đoàn 95A cùng với lực lượng tỉnh Gia Lai giải phóng thị xã Plâyku.

Ngày 19-3, Trung đoàn 19-Sư đoàn 968 giải phóng Thanh Bình.

Trên đường số 7, ngày 21-3, Trung đoàn 64 đuổi kịp lực lượng địch chạy trước, vây diệt chúng ở Phú Túc. Ngày 22-3, diệt địch ở Ga Pui, Trung đoàn 64 tiến sát Củng Sơn. 

Ngày 24-3-1975, Trung đoàn 64 và hai tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Phú Yên phối hợp tiến công địch ở Củng Sơn. Lực lượng địch ó đây khoảng 6.000 tên, 40 xe tăng, xe bọc thép. 12 giờ ngày 24 ta bắt đầu tiến công đến 18 giờ cùng ngày, Củng Sơn được giải phóng.

Số địch còn sống sót chạy về Tuy Hoà khoảng 11 xe M113 và một bộ phận Liên đoàn 6 biệt động quân.  Cuộc truy kích thần tốc của Sư đoàn 320 trên đường số 7 kết thúc thắng lợi. Quân ta tiêu diệt gọn tập đoàn rút chạy của Quân đoàn 2 nguỵ, gồm 4 liên đoàn biệt động quân 6, 7, 23, 25, các trung đoàn thiết đoàn số 3, 19, 21, 1 tiểu đoàn chủ lực cộng hoà, cơ quan Quân đoàn 2, nhân viên kỹ thuật Sư đoàn 6 không quân và sân bay Cù Hanh; bắt gần 8.000 tên; thu 1.400 xe các loại (có 90 xe tăng, 34 xe M113). 

Ngày 23-3, Sư đoàn 3-Quân khu 5 và Trung đoàn 95A giải phóng An Khê . Trên đường 21, Sư đoàn 10 và Trung đoàn 25 đánh chiếm Khánh Dương, diệt và làm tan rã Trung đoàn 40 thuộc Sư đoàn 22 nguy và 4 tiểu đoàn bảo an. 

Ở Quảng Đức, ngày 20-3, Trung đoàn 21 đánh chiếm Kiến Đức và ngày 24-3 giải phóng thị xã Gia Nghĩa. 

Ngày 25-3-1975, toàn bộ Tây Nguyên-một địa bàn chiến lược được hoàn toàn giải phóng.

Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên biểu hiện sinh động bước phát triển cao nhất của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, vì chiến dịch Tây Nguyên khai triển trong điều kiện lực lượng và thế trận của địch còn nguyên vẹn, tinh thẩn, ý chí của quân đội Sài Gòn tuy có sa sút nhưng quyết tâm của chúng chống cự đến cùng và còn hy vọng giành thắng lợi.

Thắng địch trong điều kiện như vậy không phải dễ, ta phải có lực lượng mạnh và nghệ thuật quân sự phát triển đến đỉnh cao, đánh địch thiên biến vạn hoá, xuất quỷ nhập thẩn mới chiến thắng giòn giã như vậy. 

Ngày 26-3-1975, theo Quyết định số 54/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng, Quân đoàn 3 được thành lập. Ngày 27-3, tại Sở Chỉ huy chiến dịch phía tây quận ly Thuần Mẫn, Đại tướng Văn Tiến Dũng công bố quyết định trên.

Quân đoàn 3 lấy phiên hiệu B3, về sau mang tên Binh đoàn Tây Nguyên, do Thiếu tướng Vũ Lăng làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp, Chính uỷ. Quân đoàn 3 gồm Sư đoàn 10, Sư đoàn 320, Sư đoàn 316 bộ binh, Trung đoàn đặc công 198, Lữ đoàn pháo binh 40, Lữ đoàn pháo binh 675, 3 trung đoàn pháo cao xạ 593, 232, 234, Lữ đoàn xe tăng 273, Lữ đoàn 7 công binh, Trung đoàn thông tin 29 và một đại đội tên lửa phòng không chiến thuật A72. Tổng quân số từ 45 đến 47.000 người. 

Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng chủ lực Tây Nguyên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tác chiến giai đoạn cuối cuộc chiến tranh.  Tiến công giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tỉnh Trung Bộ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:48:00 pm
Khi mặt trận Tây Nguyên nổ súng tiến công địch ở thị xã Buôn Ma Thuộc, thì ở Trị-Thiên, Quân đoàn 2 mở chiến dịch tiến công phía tây thành Huế, đánh địch cả vùng giáp ranh và đồng bằng; Sư đoàn 2 và lực lượng vũ trang Quân khu 5 mở đợt hoạt động ở phía tây và tây nam thành phố Đà Nẵng, thị xã Tam Kỳ nhằm phối hợp, chia lửa với Tây Nguyên, đồng thời tạo bàn đạp, đón thời cơ tiến công giải phóng Huế, Đà Nẵng.

Tại Nam Bộ, đêm 10-3-1975, nhân dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tiến công và nổi dậy diệt chi khu Hựu Thạnh, vây lấn yếu khu Thầy Phó, giải phóng chi khu Thuận Thới, Ba Kè, làm chủ đoạn sông Mang Thít. Tiếp đó ta diệt 50 đồn bốt địch, áp sát thị xã Vĩnh Long.

Ở Trà Vinh, quân ta giải phóng các huyện Càng Long, Châu Thành, Duyên Hải, Cái Ngang, Cầu Kè.

Ở Cần Thơ, ta diệt đồn ông Tháp, dành chiếm căn cứ Bà Đầm, giải phóng các xã Trường Xuân, Trường Thành, Kênh Xàng, Ô Môn. Ngày 6-4, Quân khu 9 sử dụng Sư đoàn 4 và Trung đoàn 161 tiến công sân bay Trà Nóc và thị xã Cần Thơ.

Ở Quân khu 8, ngày 1 1-3, Sư đoàn 8 tiến công căn cứ Ngã Sáu diệt 2 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 7 nguỵ, phá vỡ hệ thống đồn bốt dịch ở khu vực kênh Mới và kênh Nguyễn Văn Tiếp B. Tiểu đoàn đặc công 283 diệt các dồn địch phía đông bắc Ngã Sáu và Hậu Mỹ, mở vùng giải phóng từ huyện Cái Bè tỉnh Mỹ Tho đến Mỹ An, Kiến Văn tỉnh Sa Đéc; Trung đoàn 88 diệt các đồn địch ở phía bắc Cai Lây và phối hợp với Tiểu đoàn công binh 341 cắt đường 12, hình thành thế bao vây Mỹ Tho.

Trên tuyến biên giới Kiến Tường-Long An, Sư đoàn 5 và lsư đoàn 3 bộ binh cùng một số đơn vị binh chủng và bộ đội địa phương tỉnh Kiến Tường, Long An, Tây Ninh mở thông hành lang từ Tây Ninh xuống vùng Đồng Tháp Mười, thực hiện đánh cắt đường 4, tạo bàn đạp tây nam Sài Gòn. 

Miền Đông Nam Bộ và Khu VI, lực lượng vũ trang và nhân dân tiến công địch nhiều nơi, giải phóng một vùng rộng thuộc tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông và 12 xã phía nam Long An; các đội đặc công, biệt động diệt địch ở Phú Hoà Đông, Tân Thạnh Tây, Tổng Thôn, Thới Mỹ; pháo kích sân bay Biên Hoà, căn cứ Đồng Dù, gây cho địch nhiều thiệt hại.  Trung đoàn 812-Quân khu 6 tiến công địch, giải phóng Di Linh, tiến lên Đà Lạt phối hợp với Trung đoàn dặc công 198 Tây Nguyên, giải phóng thành phố Đà Lạt và toàn tỉnh Lâm Đồng.

Sự phối hợp nhịp nhàng của các chiến trường đã tạo cho Tây Nguyên phát triển tiến công thuận lợi, giành thắng lợi nhanh chóng. Khi bộ đội Tây Nguyên đang truy kích địch trên đường 7 và tiến công thị xã Cheo Reo, thời cơ giải phóng dải đất Trung Trung Bộ xuất hiện. Ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị họp bổ sung quyết tâm chiến lược từ giải phóng miền Nam trong hai năm trước đây, thay bằng giải phóng miền Nam trong năm 1975 và ra lệnh mở cuộc tiến công Huế-Đà Nẵng. 

Nắm bắt được thời cơ, ngày 19-3-1975: các lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị chuyển sang tiến công giải phóng thị xã và toàn tỉnh Quảng Trị. Địch buộc phải co về phòng thủ phía nam sông Mỹ Chánh. Tuyến phòng thủ phía bắc Quân khu 1 bị đập vỡ, Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân khu 1, Quân đoàn 1 kêu gọi binh linh “tử thủ Huế”. Y thề thốt “Việt cộng bước qua xác tôi mới vô được cố đô Huế”. Còn Nguyễn Văn Thiệu thì tuyên bố trên Đài phát thanh Sài Gòn “Đà Nẵng, Huế, Quân khu 3, Quân khu 4 sẽ giữ đến cùng”. 

Bước vào cuộc tiến công Huế - Đà Nẵng, Quân khu Trị-Thiên được tăng cường Trung đoàn bộ binh 46; Quân đoàn 2 được bổ sung thêm Sư đoàn 325 (thiếu Trung đoàn 95) và Trung đoàn 9 thuộc Sư đoàn 304; Quân khu 5 có thêm Sư đoàn 304 (thiếu).

Lực lượng được tăng cường mạnh, lại tạo được bàn đạp áp sát Huế từ phía tây và tây nam, nên sau khi có lệnh tiến công Huế hai ngày, ngày 21-3, Quân đoàn 2, lực lượng vũ trang Quân khu Tn-Thiên từ ba hướng bắc, tây, nam tiến công Sư đoàn 1 bộ binh và Lữ đoàn thuỷ quân lục chiến 147 nguỵ, đánh thiệt hại nặng các đơn vị này. Bộ đội ta cắt đứt, cô lập Huế với Đà Nẵng ở đoạn quốc lộ 1 từ Mũi Né đến Bái Sơn, tiến hành bao vây Huế.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:48:17 pm
Hàng ngàn xe tô đủ các loại chở người di tản từ Huế vào Đà Nẵng bị quân ta cắt đường 1 phải quay lại trong cảnh hỗn loạn. Xe ùn tắc trên quốc lộ 1 thành hàng dài. Pháo binh tầm xa của ta bắn chế áp căn cứ Mang Cá, Đống Đa, sân bay Phú Bài. Đường bộ bị cắt đường không bị triệt, địch chỉ còn một lối thoát là chạy ra cửa Thuận An và Tư Hiền.

Thành phố Huế rối loạn, vì xe cộ và binh lính nguỵ cùng gia đình họ và một số nhân dân nháo nhác chen lấn, dẫm đạp lên nhau chạy ra cửa Thuận An, Tư Hiền. Biết được ý đồ tẩu thoát của địch, pháo binh tầm xa của ta bắn khống chế cửa Thuận An, Tư Hiền, không cho tàu địch cập bến đón tàn quân nguỵ rút lui. 

Ngày 25-3-1975, các cánh quân của ta kịp hợp vây, tiến công tiêu diệt và bắt làm tù binh toàn bộ quân địch rút chạy ra cửa Thuận An và Tư Hiền, đồng thời tiến công vào thành phố Huế, diệt Sở Chỉ huy Quân đoàn 1 tại Mang Cá, chiếm Ngọ Môn, Toà Thị chính, Ty Cảnh sát, cắm lá cờ chiến thắng lên đỉnh Phú Văn Lâu. 10 giờ 30 phút ngày 25-3-1975, thành phố Huế được hoàn toàn giải phóng.

Hai tỉnh phía bắc miền Nam là Quảng Trị và Thừa Thiên được giải phóng, tập đoàn phòng ngự mạnh của địch ở Quân khu 1 về cơ bản đã bị đập nát. Ta tiêu diệt và làm tan rã 58.772 tên địch thuộc Sư đoàn 1 bộ binh, Lữ đoàn thuỷ quân lục chiến 147; Lữ đoàn 1 kỵ binh thiết giáp, liên đoàn biệt động quân 14 và 15. Ta phá huỷ và thu 140 xe tăng, xe bọc thép, 800 xe quân sự các loại. Với thắng lợi này ta đã đập tan ý đồ co cụm về Đà Nẵng của địch, áp sát lực lượng vào phía bắc thành phố.

Mất Huế, nhưng địch vân chủ quan cho rằng ta phải còn củng cố mới đủ sức tiến công tiếp. Chúng hy vọng tranh thủ thời gian đó củng cố lại lực lượng, tử thủ Đà Nẵng đến cùng.

Ở phía nam Huế, ngày 21-3, Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu 5, đánh chiếm Tuần Dưỡng, cắt quốc lộ 1 từ Tam Kỳ ra Đà Nẵng, đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 5 thuộc Sư đoàn 2 nguỵ, uy hiếp Tam Kỳ.

Ngày 22-3, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh nhận định không loại trừ khả năng địch cũng sẽ rút bỏ Đà Nẵng nếu ta tiếp tục đánh mạnh. Bộ điện yêu cầu Khu V tích cực đánh Đà Nẵng theo phương án đã dự kiến.

Chấp hành lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, trong ngày 24 và 25-3, Sư đoàn 2 chủ lực quân khu phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương Quảng Nam, tiến công ùêu diệt và làm tan rã Trung đoàn 4, Trung đoàn 5 thuộc Sư đoàn 2 quân cộng hoà, giải phóng thị xã Tam Kỳ, áp lực lượng sát phía nam Đà Nẵng. 

Ở Quảng Ngãi, 7 giờ ngày 24-3, dưới sự chi viện hoả lực của Trung đoàn pháo 576, các chiến sĩ Lữ đoàn 52 cùng các tiểu đoàn đặc công 403, 406 và Tiểu đoàn 7 của tỉnh có xe tăng yểm trợ cùng lúc tiến công địch trong thị xã Quảng Ngãi. Nhưng trước đó, lực lượng chỉ huy tiểu khu Quảng Ngãi, Trung đoàn 6 bộ binh, Liên đoàn biệt động quân 11, Thiết đoàn xe tăng 4 đã chạy về căn cứ Chu Lai. 

Ngày 25-3, toàn tỉnh Quảng Ngãi được giải phóng. Bọn địch sống sót cởi bỏ quân phục, vứt bỏ súng đạn, mặc quần áo dân sự, chạy trốn về địa phương. Mất Quảng Ngãi, địch bỏ căn cứ Chu Lai chạy về Đà Nẵng, nhưng đường 1 bị cắt, thành phố Đà Nẵng bị bao vây, chúng buộc phải chạy dồn ra biển rồi bị bắt làm tù binh.

Trước tình hình khốn quẫn, bi đát của quân nguỵ, ngày 24-3-1975, nhân danh Tổng thống Việt Nam cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu gửi công điện thượng khẩn cho các tư lệnh quân khu, binh chủng để trấn an tinh thần và cổ suý binh sĩ chiến đấu đến cùng.

Công điện của Nguyễn Văn Thiệu viết: “Đất nước đang hiện trải qua một cơn thử thách nghiêm trọng. Tình hình hiện tại rất đỗi gây hoang mang trong quân đội và dân chúng. Hôm nay tôi thấy cần lưu ý thêm quý vị về các sự kiện sau đây:

Thứ nhất, nhân danh Tổng Tư lệnh tối cao quân lực, tôi rất hãnh diện về tinh thần chiến đấu dũng cảm của toàn thể chiến hữu các cấp trong thời gian qua. .


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:50:15 pm
Thứ hai, những việc làm của Chính phủ và quân lực trong những ngày qua là do những quyết định còn đảm được.  Để bảo toàn lực lượng ta hầu đủ khả năng giữ vững những vùng đông dân cư và trù phú của đất nước: tôi nhấn mạnh ngày 20-3-1975 là tất cả những phần đất còn lại sẽ được bảo vệ đến cùng.

Thứ ba, mọi tin đồn và suy diễn bừa bãi trái với các sự kiện nêu trên đều nằm trong kế hoạch cộng sản toan dùng chiến tranh cân não để phá hoại tinh thần chiến đấu của quân, dân ta.

Do đó, tôi ân cần nhắc nhở quý vị lưu tâm thi hành các điểm sau đây:

1. Phải luôn luôn bình tĩnh trước mọi tình hình, phải đối phó có kế hoạch trong phạm vi trách nhiệm.
 
2. Phải luôn đề cao cảnh giác đừng để bị bất ngờ. 

3. Lệnh chiến đấu và giữ đất, bảo vệ dân phải kiên quyết và triệt để thi hành.

4. Phải duy trì kỷ luật tối đa, những hành động hèn nhát trước mặt quân địch phải được trừng trị nhanh chóng và mạnh mẽ để làm gương. .

5. Phải giữ vững tinh thần của anh em binh sĩ, đừng nản lòng trước nghịch cảnh và khó khăn.

6. Phải bảo vệ tối đa quân dụng và chiến cụ.

                                                           Sài Gòn, ngày 24-3-1975
1

Công điện thượng khẩn vừa đến tay các tư lệnh quân khu, binh chủng, thì ngày 25-3-1975, ta giải phóng Huế và toàn tỉnh Quảng Trị, bao vây Đà Nẵng.

Nguyễn Văn Thiệu lại hoả tốc gửi công diện cho các tư lệnh quân khu 1, 2, 3. 4  và Tư lệnh Biệt khu Thủ đô (Sài Gòn): “Tiếp theo công điện số 013/TT-CĐ. ngày 24-3-1975, sau đây là nghiêm lệnh của tôi:

Thứ nhất, tất cà những tỉnh, những phần đất hiện còn đến ngày hôm nay 20-3-1975 phải được tử thủ bảo vệ đến cùng.  Mọi nơi phải nỗ lực tiêu diệt tối đa địch, chặn đứng đà tiến quân của dịch, cùng cố phòng thủ, vận dụng mọi sáng kiến và phương tiện dể phản công.

Thứ hai, các vị tư lệnh quân đoàn, quân khu chậu trách nhiệm chỉ thị, hướng dẫn và kiểm soát mọi cấp chỉ huy đơn vị và chỉ huy lãnh thổ thuộc quyền chấp hành tuyệt đối nghiêm lệnh này.


Sài Gòn, ngày 25-3-1975
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu”.

Trong khi Thiệu ra nghiêm lệnh “tử thử” Đà Nẵng và những phần đất còn lại, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh nhận thấy địch đã bị mất Huế, Tam Kỳ, dù chúng có muốn giữ Đà Nẵng cũng không giữ được. Quân uỷ Trung ương quyết định mở mặt trận tiến công Đà Nẵng với tư tưởng chỉ đạo kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng.

Để chỉ huy trận tiến công Đà Nẵng, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà do Trung tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Thượng tướng Chu Huy Mân, làm Chính uỷ.  Cũng trong ngày 25-3-1975, căn cứ tình hình diễn biến thuận lợi cho ta, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương lại bổ sung quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975.

Bộ Chỉ huy Mặt trận Quảng Đà mới thành lập, Tư lệnh, Chính uỷ và cơ quan người còn ở phía bắc, người ở phía nam, chưa gặp nhau được để bàn bạc thống nhất chỉ huy, chỉ liên lạc trao đổi bằng thông tin hữu tuyến và vô tuyến, nhưng ngày 29-3, Quân khu 5 và Quân đoàn 2 đã nổ súng tiến công địch trong thành phố Đà Nẵng.


________________________
1. Tài liệu lưu tại Bảo mật Bộ Tham mưu Quân đoàn 3.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:52:04 pm
Tại đây, lực lượng địch còn khoảng 75.000 tên, gồm 15 tiểu đoàn chủ lực thuộc Sư đoàn 3 bộ binh, Sư đoàn thuỷ quân lục chiến, tàn quân của Sư đoàn 1 Sư đoàn 2, Sư đoàn 1 không quân với 373 máy bay các loại, 114 khẩu pháo, 70 xe tăng, xe bọc thép và Liên đoàn biệt động quân 12, v.v.. Địch tổ chức phòng ngự hai tuyến trong và ngoài dày đặc.

5 giờ ngày 28-3, pháo 130 mm, Đ74, hoả tiễn của ta đặt tại đèo Mũi Trâu, đèo Hải Vân, và tây nam Đà Nẵng, bắn phá mãnh liệt căn cứ quân sự Hòn Bằng, Trà Kiệu, Vĩnh Điện, sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn, cảng Sơn Trà.

Bị đòn tập kích hoả lực bất ngờ và áp đảo, quân địch trong thành phố Đà Nẵng hoảng loạn, hàng ngàn tên lính trốn về nhà lo di tản vợ con; tổ chức Quân đoàn 1, Quân khu 1 bắt đầu tan rã.

Sáng ngày 29-3, Quân đoàn 2 và xe tăng ta đánh chiếm Lăng Cô, đèo Hải Vân, diệt Lữ đoàn thuỷ quân lục chiến 258, chiếm kho xăng Liên Chiểu, diệt căn cứ Đá Đen, đập tan tuyến ngăn chặn vòng ngoài của Sư đoàn 3 nguỵ, đánh chiếm Toà thị chính, Trung tâm huấn luyện Hoà Cầm, sân bay Đà Nẵng.

Ở hướng nam, lực lượng vũ trang Quân khu 5 đánh chiếm sân bay Nước Mặn, bán đảo Sơn Trà, căn cứ Bà Rén, Duy Xuyên rồi vượt qua các ổ đề kháng vòng ngoài, tiến thẳng chiếm Sở Chỉ huy Quân đoàn 1 nguỵ, phối hợp với Quân đoàn 2 đánh chiếm sân bay, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân.

15 giờ ngày 29-3-1975. thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam được hoàn toàn giải phóng. Quân đoàn 1, Quân khu 1 cùng với Sư đoàn thuỷ quân lục chiến, Sư đoàn không quân nguỵ bị diệt, tan rã và bị bắt làm tù binh. Ta thu và phá huỷ, phá hỏng 69.000 khẩu súng các loại, 138 xe tăng, thiết giáp, 115 máy bay cùng toàn bộ cơ sở vật chất trong cán cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng và hai tỉnh Quảng Tín, Quảng Đà. 

Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam (Quảng Đà và Quảng Tín) được hoàn toàn giải phóng nối liền với các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà và Tây Nguyên sạch bóng quân thù, tạo ra thế chiến lược mới, làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về chiến lược hoàn toàn có lợi cho cách mạng miền Nam.

Đến ngày 29-3-1975, địch còn lại không nguyên vẹn Quân khu 3 và Quân khu 4 với hai quân đoàn chủ lực cơ động, nhưng thế trận phòng ngự của địch tan vỡ từng mảng, chúng hoàn toàn mất quyền chủ động. Địch sa sút và tan rã lớn.

Trong khi đó ta càng đánh càng mạnh và càng thắng to, lực lượng được bổ sung hùng hậu đang nắm vững thế chủ động tiến công, cho nên ngày 31-3-1975, Bộ Chính trì họp-nhận định: Cuộc chiến tranh cách mạng dã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt một ngày bằng 20 năm, thời điểm Tổng tiến công vào sào huyệt cuối cùng của địch đã chín muồi. Bộ Chính trị quyết định giải phóng Sài Gòn-Gia Định trong thời gian sớm nhất-chậm nhất là trong tháng 4-1975 không thể để chậm.

Đây là quyết tâm chiến lược rất chính xác và sáng suốt, chính xác đến từng ngày. Điều này nói lên rằng Đảng ta mà tập trung là Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương hết sức nhạy bén, sáng suốt, chủ động điều khiển cuộc chiến tranh kết thúc đúng với ý định của mình.

Trong ngày 1-4, đồng chí Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân điện khẩn cấp cho các động chí Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà đang lãnh đạo, chỉ huy cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở miền Nam, giải thích rõ ý kiến của Bộ Chính trị và nêu phương án giải phóng Sài Gòn dể các đồng chí ở chiến trường nghiên cứu trước, chuẩn bị sẵn sàng hành động.

Trong bức điện, động chí Võ Nguyên Giáp viết: “Trước đây, giữa hai phương án cơ bản, một là bao vây dài ngày tạo diều kiện rồi mới dứt điểm: hai là, tiến công táo bạo ngay từ dầu, đánh nhanh, dứt điểm nhanh thì nay nên chọn phương án 2, tức là làm thật nhanh, thật táo bạo; đồng thời có sự chuẩn bị để trong điều kiện nào đó nếu cần thì chủ động chuyển sang phương án 1 cũng nhằm giành thắng lợi cuối cùng trong một thời gian ngắn. Vì vậy, bất ngờ hiện nay là ở khâu khẩn trương. Một mặt cần cơ động lực lượng nhanh chóng, thần tốc; mặt khác, sử dụng ngay lực lượng hiện có để kịp thời hành động, không chờ lực lượng đông đủ mới làm ăn. Theo ý nghĩa đó, mà Bộ Chính trị khẳng định từ giờ phút này trận quyết chiến chiến lược Sài Gòn đã bắt đầu. Thời gian hiện nay phải tính từng ngày. Phải thần tốc, thần tốc toàn thắng nhất định toàn thắng1.


________________________
1. Điện văn số 957/TK, ký tên Văn. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:52:40 pm
Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đề ra tư tưởng chỉ đạo và phương châm hành động chiến dịch là: Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. 

Ngày 28-3-1975. trước Đà Nẵng thất thủ một ngày, 18 giờ ngày 1-4-1975, tướng Uâyoen. Tham mưu trưởng lục quân Mỹ trở lại Sài Gòn trực tiếp vạch kế hoạch phòng thủ giúp chính quyền Sài Gòn chống lại nhân dân ta và lập cầu hàng không chở hàng khẩn cấp tăng viện cho quân nguỵ.

Mỹ và Sài Gòn đã từng nhận định năm 1975 “Việt cộng chưa có khả năng đánh chiếm những thành phố. thị xã lớn”, đến khi ta giải phóng miền Trung rồi, chúng vẫn cho ta “chưa đủ sức tiến công Sài Gòn ngay, vì phải lo củng cố”.

Từ nhận định này, Uâyoen dã giúp Thiệu ra sức lập phòng tuyến mạnh ngăn chặn ở Phan Rang-Xuân Lộc và Tây Ninh. Theo chúng, nếu ta liều lĩnh mở tiếp cuộc tiến công, thì chúng sẽ ngăn chặn sát thương lực lượng ta trên các tuyến phòng thủ vòng ngoài này và giằng co với ta cho đến mùa mưa, tạo điều kiện phản công chiếm lại những vùng đã mất ở miền Trung và Tây Nguyên.

Quyết tâm và kế hoạch của địch dựa trên lực lượng còn lại của chúng đến lúc này là 7 sư đoàn bộ binh được trang bị hiện đại, 2 quân đoàn, 5 liên đoàn biệt động quân, 12 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp, 33 tiểu đoàn pháo binh, 1.360 máy bay chiến đấu các loại, 1.500 tàu, xuống chiến đấu trên biển và trên sông cùng hàng chục vạn bảo an, cảnh sát, dân vệ... đó là lực lượng rất đông không thể xem thường.

Hơn nữa 4 tàu vận tải lớn LST, cùng tàu sân bay Hen cốc, 15 máy bay lên thẳng và 300 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đến bờ biển Nam Việt Nam để thị uy và sẵn sàng chi viện cho quân nguỵ nếu cần. 

Ngày 2-4-1975, Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng quân nguỵ hô hào “quyết tâm giữ phần đất còn lại, cố thủ từ Phan Rang trở vào”. Trung tướng nguỵ Đồng Văn Khuyên phổ biến cho các sĩ quan Bộ Tổng tham mưu rằng: “Theo lệnh ông Thiệu, bằng bất cứ giá nào cũng phải cố thủ từ Ninh Thuận vào, nếu cần sẽ đem hết lực lượng đánh xả láng tại đó”.

Địch tăng cường cho tuyến phòng thủ Phan Rang thêm 1 lữ đoàn nhảy dù, 1 liên đoàn biệt động quân, một số dợn vị xe tăng, thiết giáp, pháo binh và cử Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư lệnh chiến trường. Kế hoạch của địch còn tuyển thêm tân binh, thu nạp số tàn quân đang lần trốn để củng cố và xây dựng lại 3 sư đoàn bộ binh và sư đoàn thuỷ quân lục chiến.

Từ chiến dịch Tây Nguyên đến chiến dịch Huế - Đà Nẵng, ta đánh đâu được đó, thắng như chẻ tre, nhưng ta không chủ quan coi thường địch trong khi chúng đang củng cố lực lượng, xây dựng các tuyến phòng thủ mạnh từ xa để chống lại ta, cho nên, ta phải chuẩn bị kỹ càng, chu đáo mọi mặt về tinh thần, lực lượng, vật chất thì mới chiến thắng nhanh chóng và đỡ tốn xương máu.

Do vậy, trong cuộc họp ngày 31-3-1975, đồng thời với quyết định chiến lược cực kỳ quan trọng là giải phóng Sài Gòn-Gia Định trong tháng Tư, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng chi viện chiến trường do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch; Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị và Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Phan Trọng Tuệ làm Phó Chủ tịch. Toàn bộ sức mạnh của đất nước, của dân tộc được huy động vào trận quyết chiến cuối cùng.


IV. CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH –
TRẬN QUYẾT CHIẾN CHIẾN LƯỢC CUỐI CÙNG

Cả nước vào trận đánh cuối cùng hừng hực khí thế chiến thắng với tinh thần một ngày bằng 20 năm. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên cả hai miền Nam-Bắc dốc hết sức mình thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị là giải phóng Sài Gòn trước ngày 1-5-1975.

Từ đầu tháng Tư. trên tất cả các nẻo đường của đất nước: đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển, đường không, hàng ngàn xe tô, hàng trăm đoàn thuyền nan, thuyền gỗ, 32 tàu biển, hàng chục đoàn tàu hoả, hàng trăm lấn chiếc máy bay vận tải chở đầy hàng và bộ đội, ngày đêm hối hả nối đuôi nhau vượt cung, tăng chuyến ra tiền tuyến với khẩu hiệu: Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:53:10 pm
Trên các đỉnh đèo của đường Trường Sơn, ở những bến phà dọc quốc lộ 1, cán bộ, chiến sĩ công binh, thanh niên xung phong, những chiến sĩ cảnh sát ngày đêm túc trực đôn đốc các đơn vị hành quân, giải quyết ùn tắc, phân luồng đường, hướng dẫn cho từng đơn vị, từng đoàn xe ưu tiên vượt lên trước kịp yêu cầu của chiến dịch.

Hội đồng chi viện chiến trường đã động viên toàn bộ xe tô quân sự, xe chở khách, vận tải của Nhà nước ở miền Bắc và xe thu được của địch, xe của nhân dân các tỉnh đã giải phóng vận chuyển vật chất, kỹ thuật, súng đạn và bộ đội vào tập kết ở Khu VI, Dấu Tiếng, Lộc Ninh.

Các sân bay Gia Lâm, Vĩnh Phú, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng, Plâyku ngày đêm náo nhiệt, ồn ào vì tiếng động cơ của các loại máy bay vận tải, trực thăng, máy bay chở khách cất cánh chở bộ đội, binh khí kỹ thuật, đạn gạo, sách báo, phim ảnh và cả hàng tấn bản đồ Sài Gòn - Gia Định mới in xong tại Hà Nội vào phát cho các đơn vị tham gia cuộc tiến công.

Các bến cảng sông Hồng, sông Gianh, sông Mã, sông Hàn, cảng Hải Phòng, Cửa Hội, Thuận An, Cửa Việt và Đà Nẵng, bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân chạy đua với thời gian, bốc xếp hàng hoá, thiết bị, kỹ thuật quân sự từ các tàu biển lên bờ, kịp cho các đoàn xe, đoàn tàu vận tải của Bộ Giao thông vận tải, của hải quân chuyển tiếp vào Nam. 

Nhờ khí thế cả nước vào trận quyết chiến lịch sử mà chỉ trong thời gian ngắn, ta đã huy động được 17.670 xe tô. 32 tàu biển, 130 toa xe lửa và hàng trăm lần chiếc máy bay vận chuyển hàng chục vạn tấn vật chất, hàng chục ngàn bộ đội vào mặt trận Sài Gòn.

Chỉ tính trong 11 ngày chuẩn bị nước rút từ ngày 15 đến ngày 26-4, ta đã đưa vào chiến trường miền Đông 24.000 tấn vũ khí, 25.000 tấn lương thực, 1.000 tấn xăng dầu, 1.000 tấn thuốc chữa bệnh. Ta đã tổ chức 5 trạm trung tu sửa chữa xe, pháo, súng, đạn dọc đường trên các hướng tiến vào Sài Gòn, bảo đảm đủ và kịp thời nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu cho các đơn vị. 

Riêng Cục Hậu cần Miền huy động lực lượng sửa chữa cầu đường và mở đường mới, chuyển hàng hoá, vũ khí vào các cụm kho chiến dịch. Trục đường 14 từ Đồng Xoài di Cây Gáo, Bến Cầu được gấp rút thi công. Các Đoàn hậu cẩn 814 ở hướng đông và đông nam; Đoàn hậu cần 210 ở hướng bắc và đông bắc; Đoàn hậu cần 325 ở hướng tây bắc; Đoàn hậu cần 2.401 ở hướng tây; Đoàn hậu cần Quân khu 8 ở hướng nam và tây nam đã mở rộng các tuyến đường chiến dịch trên các hướng với tổng chiều dài 1.790 km.

Trong những ngày cuối chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh, hậu cần Miền đã vận chuyển 10.000 người từ tuyến sau lên tuyến trước thành lập thêm 8 tiểu đoàn bộ binh, huy động 4.000 xe tô các loại, 656 thuyền máy, canh, 1.736 xe đạp thồ, 63.324 dân công hoả tuyến vận chuyển đạn, gạo vào các kho chiến dịch trên năm hướng tiến công. Hậu cần Miền còn thành lập 15 bệnh viện dã chiến, 17 đội điều trị với tổng số 10.000 giường để phục vụ điều trị thương, bệnh binh.

Đó là chiến công rất lớn của các ngành, các cấp và của toàn dân. Nếu không vì sự nghiệp cao cả giải phóng Sài Gòn-Gia Định trong tháng Tư, thì không thể nào huy động được lực lượng đông đảo để vận chuyển một khối lượng vật chất, binh khí. kỹ thuật lớn như vậy.

Cùng với việc vận chuyển vật chất, súng đạn, thiết bị, kỹ thuật quân sự, các binh đoàn chiến lược binh chủng hợp thành của quân đội ta vừa dành địch, mở đường, vừa hành quân thần tốc, táo bạo vào mặt trận Sài Gòn trên cả năm hướng: bắc, tây bắc, đông, đông nam, tây nam. Mỗi hướng tiến công, lực lượng chủ lực cơ động của ta có từ 30.000 người đến 50.000 người và hàng ngàn xe cơ giới, tăng và thiết giáp. Riêng lực lượng trong nội thành có 26.000 cán bộ, chiến sĩ đặc công, biệt động, an ninh vũ trang, tự vệ đã ém sẵn (chưa tính lực lượng phòng không, không quân, tên lửa, hải quân).

- Hướng bắc: Quân đoàn 1, do Thiếu tướng Nguyễn Hoà làm Tư lệnh, Thiếu tướng Hoàng Minh Thi, Chính uỷ. Quân đoàn gồm các sư đoàn bộ binh 320B, 312; Lữ đoàn pháo binh 45; Lữ đoàn tăng, thiết giáp 202; Sư đoàn pháo cao xạ 367; Lữ đoàn công binh 299; Trung đoàn thông tin 40 và cơ quan. Tổng quân số khoảng 30.000 người.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:54:37 pm
Bộ Tổng tham mưu còn tăng cường cho cánh quân phía bắc Lữ đoàn pháo binh 38 và 3 tiểu đoàn pháo độc lập, Sư đoàn cao xạ 377; Trung đoàn tên lửa-263 và 3 trung đoàn bộ binh 249, 239, 279.

Riêng Sư đoàn 308 được giao nhiệm vụ đứng ở Quảng Bình để bảo vệ miền Bắc và làm lực lượng dự bị chiến lược. 

- Hướng tây bắc: Quân đoàn 3 do Thiếu tướng Vũ Lăng làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp, Chính uỷ. Quân đoàn gồm các sư đoạn bộ binh 320, 316 và lo; Trung đoàn đặc công 198: Trung đoàn xe tăng 273; hai trung đoàn pháo binh 40 và 675: hai trung đoàn cao xạ 232 và 234, hai trung đoàn công binh 575 và 7; Trung đoàn thông tin 29 và cơ quan. Tổng quân số khoảng 46.000 cán bộ, chiến sĩ.

- Hướng đông nam: Quân đoàn 2 do Thiếu tướng Nguyễn Hữu An làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Linh, Chính uỷ. Quân đoàn gồm Sư đoàn 325, Sư đoàn 304 và Sư đoàn 3 Sao Vàng của Quân khu 5; Lữ đoàn pháo binh 164; Lữ đoàn xe tăng 203; Lữ đoàn công binh 219; Sư đoàn cao xạ 673 và cơ quan.  Tổng quân số khoảng 40.000 người và 2.276 xe tô, xe tăng, thiết giáp.

- Hướng đông: Quân đoàn 4 do Thiếu tướng Hoàng Cầm, Tư lệnh, Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện, Chính uỷ. Quân đoàn gồm Sư đoàn 341, Sư đoàn 6, Sư đoàn 7 bộ binh; Lữ đoàn 52 của Quân khu 5 phối thuộc.

Đầu tháng 4-1975, sau khi giải phóng chi khu Dầu Tiếng, thị xã An Lộc và Chơn Thành ở phía bắc và tây bắc, Quân đoàn 4 nhanh chóng chuyển xuống phía đông, tiến công giải phóng Đà Lạt, Di Linh và toàn tỉnh Lâm Đồng, áp sát tuyến phòng thủ Xuân Lộc do Sư đoàn 18 nguỵ đóng giữ. 

- Hướng tây nam: Đoàn 232 và lực lượng chủ lực Quân khu 8, Quân khu 9 do Trung tướng Lê Đức Anh làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Văn Tưởng, Chính uỷ.

Lực lượng hướng tây nam gồm, Sư đoàn 5, Sư đoàn 3, Sư đoàn 8, Sư đoàn 9 bộ binh; các trung đoàn bộ binh độc lập 16, 88, 24, 27B và cơ quan. Tổng quân số khoảng 42.000 cán bộ, chiến sĩ. 

Đêm ngày 7-4, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh cho các cánh quân đang tiến về hướng Sài Gòn: “Mệnh lệnh

1. Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng.

2. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên và chiến sĩ1.

Các đơn vị nhận được mệnh lệnh trong đêm mồng 7-4, đã tăng tốc độ hành quân, vừa di vừa đánh địch, mở đường đến vị trí tập kết chiến dịch đúng quy định. Các dợn vị binh chủng kỹ thuật của Bộ tăng cường cho cánh bắc ở xa, mang vác cồng kềnh, đơn vị cuối cùng cũng đến vị trí tập kết chậm nhất vào ngày 26-4-1975.

Trong những ngày này, Thành uỷ và Thành đội Sài Gòn-Gia Định đã đưa 1.700 cán bộ cơ sở nằm vùng xuống các xã, phường, quận, huyện nội, ngoại thành vận động và tổ chức cho quần chúng sẵn sàng nổi dậy, tiếp tế cơm nước cho bộ đội khi chủ lực Quân giải phóng đánh vào nội đô.

Thành uỷ và Thành đội còn cử hàng trăm chiến sĩ biệt động, tự vệ thành ra ngoại Ô đón, dẫn đường cho các cánh quân của ta tiến công vào các mục tiêu then chốt: sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu, Dinh Độc Lập, Nha Cảnh sát đô thành và Biệt khu Thủ đô.


______________________
1. Điện số 157 II/ĐK: TK gửi 0 giờ 30 phút ngày 7-4-1975, số lưu 450/ĐB.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:55:59 pm
Ngày 8-4-1975, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân làm Tư lệnh; Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục làm Chính uỷ. Các đồng chí Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Lê Trọng Tấn, Trung tướng Đinh Đức Thiện, làm Phó Tư lệnh chiến dịch; Trung tướng Lê Quang Hoà, Phó Chính uỷ; Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền Quyền Tham mưu trưởng chiến dịch.  Riêng Trung tướng Lê Trọng Tấn, Lê Quang Hoà còn kiêm Tư lệnh và Chính uỷ cánh quân Duyên Hải đông và đông nam Sài Gòn. Trung tướng Lê Đức Anh, kiêm Tư lệnh Đoàn 232 cánh quân tây nam.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung ương Cục phụ trách công tác nổi dậy: đồng chí Võ Văn Kiệt được cử làm Bí thư Thành uỷ Sài Gòn-Gia Định tổ chức lãnh đạo quần chúng nổi dậy và phụ trách công tác tiếp quản sau khi thành phố được giải phóng.

Ngay sau khi thành lập, Bộ Tư lệnh chiến dịch họp thảo luận đề ra cách đánh sao cho có hiệu lực nhất, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các quân, binh chủng, các lực lượng quân sự, chính trị, binh vận và nhân dân, đánh đon quyết định kết thúc chiến tranh nhanh nhất, gọn nhất, ít tốn xương máu nhất và giữ cho thành phố Sài Gòn nguyên vẹn.

Đây là nhiệm vụ khó khăn nhất đòi hỏi trí tuệ của Bộ Chỉ huy phải vượt trội về mọi mặt, phải sáng suốt và táo bạo, khoa học.  Sau khi cân nhắc, tính toán kỹ về ta, về địch và các phương án có thể xảy ra, Bộ Chỉ huy chiến dịch đi tới nhất trí cách đánh chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định là:

Dùng một bộ phận lực lượng thích hợp trên từng hướng, đủ sức hình thành bao vây, chia cắt, chặn giữ quân địch lại không cho chúng co cụm uề Sài Gòn, tiêu diệt và làm tan rã tại chỗ các sư đoàn chủ lực của địch phòng thủ đòng ngoài, đồng thời dùng lực lượng mạnh, nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chối ở vùng ven, mở đường cho các binh đoàn đột kích binh chủng hợp thành cơ giới hoá mạnh đã được tổ chức chặt chẽ, tiên nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng vào năm mục tiêu đã được chọn lựa trong nội thành. 

Để tạo thuận lợi cho các binh đoàn dột kích thọc sâu nhanh vào nội đô, Bộ Chỉ huy chiến dịch sử dụng lực lượng đặc công. biệt động thành, các lực lượng an ninh vũ trang và tự vệ thành phố đánh chiếm trước và giữ các cầu qua sông.  các bàn đạp trên các trục đường cho quân ta tiến quân. Tập trung pháo binh dành mạnh vào các mục tiêu trong sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu nguỵ. Lực lượng pháo cao xạ tên lửa triển khai quanh Sài Gòn khống chế bầu trời, bảo vệ đội hình tiến công của quân ta và bảo vệ nhân dân. 

Trong lúc Bộ Chỉ huy chiến dịch xác định cách đánh, thì phi công Nguyễn Thành Trung lái chiếc máy bay phản lực F5E của Mỹ, ném bom Dinh Độc Lập rồi bay ra vùng giải phóng, hạ cánh xuống sân bay thị xã Phước Long an toàn 1
 
Trận bom của Nguyễn Thành Trung có ý nghĩa rất lớn, làm cho địch hoang mang, rối loạn hơn, nội bộ của chúng nghi kỵ lẫn nhau, có tác dụng thúc đẩy nhanh quá trình suy sụp, tan rã của chính quyền, quân đội Sài Gòn, tạo thuận lợi cho các binh đoàn chiến lược của ta triển khai thế trận. 

Khi các binh đoàn chủ lực binh chủng hợp thành từ miền Bắc, từ Tây Nguyên và miền Trung lần lượt tiến về hướng Sài Gòn-Gia Định, thì lực lượng vũ trang Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ và Trung Nam Bộ, cùng các đơn vị đặc công, biệt động, pháo bình chuyên trách ở vùng ven đô đã đẩy mạnh hoạt động quân sự, tiến công địch khắp nơi, giải phóng được một số lõm ở vùng sâu Long An, Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, mở thông hành lang từ miền Đồng Nam Bộ qua Đồng Tháp Mười xuống miền Tây Nam Bộ; làm chủ được những đoạn đường giao thông quan trọng trên quốc lộ 1 , quốc lộ 4, quốc lộ 22, quốc lộ 20 và 10...

Ngày 9-4-1975, lúc 5 giờ 30 phút, pháo binh Quân đoàn 4 bắn phá tuyến phòng thủ Xuân Lộc-Long Khánh. Sau trận tập kích hoả lực, từ các hướng dông và đông bắc, các chiến sĩ Sư đoàn 6, Sư đoàn 7, Sư đoàn 341 cùng với xe tăng tiến công ồ ạt vào khu cố vấn, khu nhà lính, khu thông tin, sở chỉ huy địch trong thị xã Xuân Lộc.

______________________
1. Phi công Nguyễn Thành Trung được Tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1994.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:56:19 pm
Sư đoàn 18 nguỵ chống trả quyết liệt. Địch dùng không quân, pháo binh yểm trợ cho bộ binh mở nhiều đợt phản kích, quyết đẩy lùi quân ta ra khỏi thị xã. 

Xuân Lộc khu vực phòng thủ trọng yếu của địch ở Quân khu 3, bảo vệ Sài Gòn từ phía đông. Đây là tuyến phòng thủ vòng ngoài rất mạnh, ngăn chặn quân ta tiến vào Sài Gòn bằng hai trục đường số 1 và đường 20. Địch giữ được tuyến phòng thủ này, thì tuyến phòng thủ Biên Hoà-Nhơn Trạch-Bà Rịa-Vũng Tàu chưa bị uy hiếp trực tiếp, sân bay Biên Hoà, Tân Sơn Nhất vẫn hoạt động được.

Do tầm quan trọng đặc biệt đó, địch khẩn cấp tăng viện cho Xuân Lộc 1 tiểu đoàn bộ binh điều từ Bình Tuy về, cùng với Lữ đoàn dù số 1 và 3 thiết đoàn tăng, thiết giáp số 315, 318, 322 ; Liên đoàn biệt động quân 33; Trung đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 bộ binh; đồng thời điều 2 lữ đoàn thuỷ quân lục chiến từ Vũng Tàu về bảo vệ tổng kho Long Bình và làm dự bị cho Xuân Lộc.

Sáng ngày 10 4, Quân đoàn 4 tiếp tục tiến công, làm chủ một số mục tiêu trong thị xã. Địch ngoan cố tập trung toàn bộ lực lượng phản kích dữ đội, làm cho tình hình chiến sự phát triển hết sức phức tạp. Trận đánh Xuân Lộc, thắng hay thua ở đây đối với quân đội nguy đều có ý nghĩa liên quan đến sự tồn vong của chế độ Sài Gòn, đến việc kéo dài chiến tranh, kéo dài ngày sụp đổ của chúng để hy vọng tìm được giải pháp thương lượng với ta.

Do vậy, địch sẽ chống cự đến cùng khi không còn đủ sức chống cự được nữa mới thôi. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, gay go, cả ta và địch đều bị thương vong nặng nề. Không thể tiếp tục cách đánh như cũ được nữa, Bộ Chỉ huy Miền và Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định thay đổi cách đánh: Không tiếp tục tiến công vào thị xã Xuân Lộc, rút lực lượng ra ngoài đánh tiêu diệt các đơn vị địch đến phản kích đứng chân chưa vững, thiếu công sự ẩn nấp; dùng pháo tầm xa bắn khống chế sân bay Biên Hoà, thực hành chia cắt Xuân Lộc với Biên Hoà, cắt đường số 2 Biên Hoà đi Bà Rịa. Thượng tướng Trần Văn Trà từ Lộc Ninh xuống Quân đoàn 4 chỉ đạo và đôn đốc quân đoàn thực hiện cách đánh mới. Đây là quyết định đúng, kịp thời của Bộ Chỉ huy Miền và Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4.

Rút khỏi Xuân Lộc, Quân đoàn 4 tiếp tục cuộn tiến công, đánh chiếm Túc Trưng, Kiệm Tân, tiêu diệt Chiến đoàn 52 của Sư đoàn 18 nguỵ, theo đường 20 phát triển đánh địch ở ngã ba Dầu Dây, cắt đường số 1 về Sài Gòn, đánh lui Lữ đoàn 3 ky binh từ Biên Hoà ra phản kích. Xuân Lộc bị cắt lìa khỏi Sài Gòn.

Trong tình thể tuyệt vọng, Bộ Tổng tham mưu nguy quyết định dùng máy bay C130 chở 2 quả bom CBU55 ném xuống khu vực tập kết của quân ta lúc 14 giờ ngày 12-4 để hòng ngăn chặn sự thất thủ của Xuân Lộc. Nhưng bom rơi xuống xã Bảo Vinh, Long Khánh. Một quả nổ đốt cháy toàn bộ không khí trong vùng, làm hàng trăm người chết và bị thương. Đây là hành động tội ác trước lúc giẫy chết của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Giữa lúc Quân đoàn 4 chuyển lực lượng đánh địch ở ngã ba Dầu Dây, ngày 14-4, cánh quân hướng đông nam sử dụng Sư đoàn 3 Sao Vàng Quân khu 5, tăng cường Trung đoàn bộ binh 25 của Tây Nguyên tiến công vào cụm phòng ngự tiền tiêu của tuyến phòng thủ Phan Rang.

Cũng trong ngày 14-4, theo đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn, Bộ Chính trị gửi đến mặt trận bức điện số 37/TK lúc 19 giờ: “Đồng ý chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Thay mặt Bộ Chính trị, ký tên Lê Duẩn.

Chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định được mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh là hợp với ý nguyện của toàn dân, thể hiện niềm tin của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chiến dịch này sẽ chiến thắng trọn vẹn, không một thế lực nào có thể ngăn cản được, nó tăng thêm sức mạnh cho bước chân thẩn tốc của quân và dân ta nhanh đến điểm hẹn lịch sử-giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam trước ngày Quốc tế lao động 1-5-1975.

Tiếp tục tiến công vào tuyến phòng thủ Phan Rang, trong hai ngày 14 và 15-4, Sư đoàn 3-Quân khu 5 và Trung đoàn 25 Tây Nguyên chiếm được một số cứ điểm ngoại vi. Địch chống cự quyết liệt. Nếu không tăng cừơng lực lượng tiến công thì ta và địch có thể giằng co, tốc độ phát triển tiến công sẽ chậm, Trung tướng Lê Trọng Tấn và Lê Quang Hoà chỉ huy cánh quân Duyên Hải bao gồm cả Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4, quyết định sử dụng một bộ phận Quân đoàn 2 vào chiến đấu để tăng sức đột kích.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:58:00 pm
Sáng ngày 16-4, được pháo binh chiến dịch chi viện mạnh mẽ, một bộ phận Sư đoàn 325-Quân đoàn 2, Sư đoàn 3-Quân khu 5 và Trung đoàn 25 Tây Nguyên được tăng cường xe tăng, thiết giáp, tiến công địch trong thị xã Phan Rang và sân bay Thành Sơn, diệt và bắt toàn bộ quân địch cố thủ ở đây, trong đó có tên Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và tên Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, giải phóng thị xã Phan Rang và tỉnh Ninh Thuận. 

Chiến thắng ở Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến tình hình cách mạng Campuchia. Ngày 17-4-1975, Quân giải phóng Campuchia tiến vào Phnôm Pênh, bọn nguỵ quân, nguỵ quyền Campuchia tay sai Mỹ lập tức đầu hàng không điều kiện.

Phnôm Pênh được giải phóng là sự kiện chính trị lớn của đất nước Chùa Tháp và cả chiến trường Đông Dương.  Sự kiện này cho thấy rõ đế quốc Mỹ bị suy yếu nhiều mặt trên chiến trường Đông Dương. Thấy không thể cứu vãn được chính quyền Lon Non và Nguyễn Văn Thiệu, ngày 18-4-1975, Lầu Năm Góc Mỹ mở cuộc hành quân Diều hâu rút khỏi Campuchia và, Tổng thống Mỹ G.R.Pho ra lệnh di tản người Mỹ khỏi Sài Gòn.

Nguỵ quyền, nguy quân Nam Việt Nam nhìn sang Campuchia thấy tình cảnh bi đát của bọn tay sai “cùng hội cùng thuyền” với nỗi lo sợ, hốt hoảng và tâm trạng thất vọng đối với vai trò cứu vớt, đỡ đấu của Mỹ trong lúc lâm nguy. 

Chính trong ngày này (18-4), Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng nguy trình lên Tổng thống Thiệu: “Quốc gia đang trong tình trạng-nguy ngập thật sự.  Sự sống còn chỉ có thể tính từng ngày, từng tuần, không thể tính từng tháng. Với khả năng trù bị dồi dào, hoả lực của địch trội hẳn so với các đơn vị của ta, việc chống trả sẽ rất khó khăn. Hệ thống ra đa gần như bị tê liệt, vì hệ thống kiêm báo Đà Nẵng, Plâyku, Buôn Ma Thuộc, Phan Rang không còn. Hai phi trường chính Biên Hoà, Sài Gòn có thể bị tê liệt trong thời gian gần đây. Với số phi cơ hiện hữu 1.200 chiếc, không lực Việt Nam còn đủ nhân sự điều hành” 1. Đây là lời cáo chung trước lúc bình minh của chính quyền tay sai ở Nam Việt Nam.

Ngày 19-4-1975, Quân đoàn 2 giải phóng thị xã Phan Thiết và tỉnh Bình Thuận, thần tốc tiến vào Long Khánh, phối hợp với Quân đoàn 4 đánh chiếm Xuân Lộc. 

Ngày 21-4-1975, Quân đoàn 4 được tăng cường Trung đoàn 95B-Sư đoàn 325 và pháo, đạn Quân đoàn 2 thu được, mở cuộc tiến công mạnh mẽ đè bẹp mọi sức kháng cự của địch, tiêu diệt và làm tan rã Sư đoàn 18 và toàn bộ lực lượng địch tăng viện, giải phóng Xuân Lộc và toàn tỉnh Long Khánh. Cánh cửa thép phía đông tiến vào Sài Gòn đã mở. 

Trong ngày này, Nguyễn Văn Thiệu bắt buộc phải từ chức, Trần Văn Hương lên thay làm Tổng thống nguy quyền.  Trong khi Nguyễn Văn Thiệu đọc bài diễn văn từ chức, chửi rủa thủ Mỹ, thì Trần Văn Hương thề thốt hứa trước Quốc hội lưỡng viện Sài Gòn là sẽ cùng với binh sĩ tử thủ đến cùng, nhưng chỉ một tuấn sau, Hương cũng chuồn nốt. 

Ngày 22-4-1975, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng điện cho Bộ Chỉ huy chiến dịch: “Thời cơ quân sự và chính trị để mở cuộc Tổng tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày, kịp thời phát động tiến công địch trên các hướng, không để chậm.  Nếu để chậm thì không có lợi cả về quân sự và chính trị. Kịp thời hành động lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Hiện nay thời cơ thúc đẩy chúng ta phải có hành động nhanh nhất. Nắm vững thời cơ lớn chúng ta nhất định toàn thắng” 2.

Nhận được điện của đồng chí Lê Duẩn, Bộ Chỉ huy chiến dịch họp rà soát lần cuối cùng và duyệt chính thức kế hoạch chiến dịch Hồ Chí Minh.

Bộ Chỉ huy chiến dịch nhận thấy giữa lòng Sài Gòn còn  có các động chí của ta trong Ban liên hợp quân sự hai bên do Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn làm trưởng đoàn ở tại Trại Đa vít, cần phải được bảo vệ khi đại quân ta tiến công vào Sài Gòn.


___________________
1. Phúc trình ngày 18-4-1975 của Trần Văn Đôn, tài liệu lưu Bảo mật Bộ Tham mưu Binh đoàn Tây Nguyên.
2. Đại tướng Văn Tiến Dũng: Đại thắng mùa Xuân..., Sđd, tr.256.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:58:19 pm
Phái đoàn ta ở Trại Đa vít đã đào hầm ẩn nấp và công sự chiến đấu, sẵn sàng phối hợp với quân ta đánh vào Tân Sơn Nhất. Nhưng Bộ Chỉ huy chiến dịch thấy chưa thật yên tâm đã giao cho các đơn vị (Quân đoàn 3) đánh vào Tân Sơn Nhất phải nhanh chóng đến Trại Đa vít bắt liên lạc với phái đoàn quân sự của ta; đồng thời chỉ thị cho pháo binh biết khu vực đoàn ta đang ở để bảo đảm an toàn cho cán bộ, chiến sĩ ở đó.

Ngày 23-4-1975, cánh quân hướng đông tiến công giải phóng thị xã Hàm Tân và toàn tỉnh Bình Tuy, áp sát lực lượng vào Biên Hoà.

Thế trận tiến công đã hình thành, nhưng gần đến ngày mở màn chiến dịch bao nhiêu công việc bề bộn cần phải khẩn trương hoàn tất trước giờ tổng công kích. Cán bộ cao cấp, trung cấp của Sở Chỉ huy chiến dịch, cũng như cơ quan các quân đoàn tất bật xuống các đơn vị cơ sở ở các cánh đôn đốc, kiểm tra và giúp các đơn vị khẩn trương hoàn thành mọi công tác chuẩn bị.

Công tác binh, địch vận cũng được tiến hành gấp rút tạo điều kiện cho họ hiểu về cách mạng mà đứng về phía nhân dân. Chính sách tù hàng binh, chính sách vùng mới giải phóng, chính sách đối với tôn giáo, tư sản, các nhà buôn và ngoại kiều, đối với nguỵ quân và nhân viên nguỵ quyền được gấp rút soạn thảo, thông qua và phổ biến rộng rãi trong dân chúng, nhằm làm cho nhân dân, các tầng lớp xã hội, những gia đình có người thân trong hàng ngũ địch yên tâm khi Quân giải phóng đánh vào thành phố. 

Theo kế hoạch đã định, sáng ngày 27-4, các hướng đồng loạt tiến công ở vùng ven đô, riêng hướng tây nam, Đoàn 232 phải cắt cho được quốc lộ 4 đoạn từ cầu Bến Lức đến phà Mỹ Thuận để chuẩn bị đánh vào nội thành. Lúc 17 giờ ngày 26-4-1975, Quân đoàn 2 nổ súng tiến công vào tuyến phòng thủ của địch ở hướng đông và đông nam. Chiến dịch Hồ Chí Minh mỏ màn!

Sau trận tập kích hoả lực của pháo binh Quân đoàn 2 vừa dứt, Sư đoàn bộ binh 304 ào ạt đánh chiếm Trường huấn luyện thiết giáp và một phần căn cứ Nước Trong. Sư đoàn 325 đánh chiếm chi khu Long Thành, vượt đường 15, giải phóng Phước Thường, bao vây Long Tân. Sư đoàn 3 Sao Vàng-Quân khu 5 có xe tăng dẫn đầu đột kích, đánh chiếm chi khu Đức Thạnh, đến 15 giờ ngày 27-4 giải phóng thị xã Bà Rịa, phát triển tiến công về hướng Vũng Tàu.  Quân đoàn 4 đánh chiếm chi khu Trảng Bom, diệt và làm tan rã Lữ dù 3, Lữ đoàn thuỷ quân lục chiến 468, phát triển tiến công về hướng Biên Hoà.

Ở hướng tây nam, Sư đoàn 5, Đoàn 232 tiến công đánh tan Sư đoàn 22 nguỵ, cắt đứt quốc lộ 4 đoạn Bến Lức đi Tân An, ngăn chặn Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 nguy, tạo thuận lợi cho Sư đoàn 8-Quân khu 8 đánh chiếm ngã ba Trung Lương đi Tân Hiệp, Long Định trên quốc lộ 4. Công binh Quân khu 8 và bộ đội địa phương chiếm đoạn Cai Lây đi An Hữu, mở cửa cho Đoàn 232 đánh chiếm đầu cầu An Ninh, Lộc Giang trên sông Vàm Cỏ để đưa Sư đoàn 9 và binh khí, kỹ thuật-lực lượng đột kích chủ yếu ở hướng tây nam qua sông.

Ở hướng bắc, Quân đoàn 1 đánh diệt một số trận địa pháo binh địch, chiếm Bình Mỹ, làm chủ quốc lộ 16, đưa lực lượng thọc vào Bến Cát, Lái Thiêu, bao vây Phú Lợi. 

Ở hướng tây bắc, ngày 24-4, pháo binh Quân đoàn 3 và các sư đoàn 320, 316 từ nhiều hướng bắn phá căn cứ Đồng Dù, Tràng Bàng, Gò Dầu Hạ, đến ngày 28-4, pháo binh ta diệt được 11 trong số 18 trận địa pháo binh cố định và cơ động của địch.

Trước đó, ngày 20-4, Trung đoàn 174-Quân đoàn 3 cùng lực lượng địa phương Tây Ninh đánh chiếm và làm chủ nhiều đoạn quốc lộ 22 và quốc lộ 1. Trung đoàn 49 nguỵ đóng ở Tây Ninh, Bến Kéo, Cẩm Giàng, Trà Võ bị cắt rời khỏi Sư đoàn 25 và cô lập khỏi tuyến phòng thủ tây bắc Sài Gòn.

Trong lúc trên các hướng, các quân đoàn chủ lực cơ động tiến công, tiêu diệt lực lượng địch, chiếm căn cứ bàn đạp ven đô thì các đơn vị đặc công, biệt động đánh chiếm các đầu cầu khống chế và giữ các đầu mối giao thông vào thành phố.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:58:43 pm
Trung đoàn đặc công 116 đánh chiếm và giữ cầu xa lộ Biên Hoà, Bộ Chỉ huy tiếp vận và kho xăng dầu Long Bình. Trung đoàn đặc công 113 đánh chiếm cầu Ghềnh, cầu Biên Hoà, căn cứ Chiến đoàn 15 thiết giáp, Trung tâm tiếp vận Hốc Hà Thức. Trung đoàn đặc công 115 đánh chiếm cầu Tân An và chi khu quân sự Tân An, cầu Rạch Cát, chiếm giữ đầu cầu Bình Phước ở phía tây, chiếm cầu Mới (Gò Cấp) và Trung tâm phát tín Quán Tre. Trung đoàn đặc công 117 tiến công Liên đoàn 8 biệt động quân ở Tân Tạo, đánh chiếm cầu Bà Hom. Trung đoàn đặc công 429 đánh chiếm trạm ra đa Phú Lâm, chiếm các ấp ở Bình Đông, căn cứ Kỷ Thủ ôn, cầu Nhị Thiên Đường (trên đường 5). Trung đoàn 10 làm chủ Phước Khánh, ngã ba Động Tranh, chốt chặn đường bộ, đường sông, bắn chìm nhiều tàu giặc, không cho địch chạy ra cửa sông Nhà Bè tẩu thoát.

Khi các đơn vị đặc công đánh chiếm và giữ các đầu mối giao thông vào Sài Gòn, thì các đơn vị biệt động thành tiến công căn cứ pháo binh Cổ Loa, căn cứ thiết giáp Phù Đổng, chiếm cầu An Phú Đông. Đội biệt động Z31 phối hợp với Trung đoàn 1 Gia Định giải phóng xã Xuân Thới Thượng, phát triển tiến công, giải phóng Tân Thới Nhất. 

Cũng trong ngày 27 và ngày 28-4, Tiểu đoàn 8 và Z22 đánh chiếm cầu Rạch Chiếc. Pháo binh chiến dịch đánh phá tê liệt sân bay Biên Hoà. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 nguỵ buộc phải chạy về Gò Vấp để tránh bị tiêu diệt.  Qua hai ngày chiến đấu, vành đai phòng thủ Sài Gòn trên bốn hướng về cơ bản đã bị quân ta đánh nát, các cửa vào nội đô đã mở.

Trước tình thế này, ngày 28-4-1975, Trần Văn Hương phải nhường chức Tổng thống nguy quyền cho Dương Văn Minh. Minh vừa tuyên bố nhậm chức, không quân ta do Đại uý phi công Nguyễn Thành Trung dẫn đường dùng 5 máy bay A37 lấy được của Mỹ, ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, gây nỗi hoang mang, lo sợ cho cả Mỹ và Sài Gòn. Đây là trận chiến đấu hiệp đồng tuyệt đẹp, biểu hiện sinh động sự phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam giai đoạn kết thúc chiến tranh.

Tân Sơn Nhất về quân sự là căn cứ lớn của địch để cơ động lực lượng, ném bom, yểm trợ cho quân lực Việt Nam cộng hoà hành quân càn quét hoặc hành quân phản kích hoàn toàn bị tê liệt, trói chặt lực lượng địch trong nội đô, không ứng cứu cho nhau được.

Tổng thống Mỹ G.R.Pho bắt buộc phải huỷ bỏ chiến dịch di tản bằng máy bay có cánh cố định, chuyển sang chiến dịch mang mật danh Người liều mạng bằng máy bay lên thẳng đầy mạo hiểm.

Từ giờ phút này, trên bầu trời Sài Gòn ngày cũng như đêm, từng đàn máy bay lên thẳng Mỹ từ biển Đông bay vào, vội vã hạ xuống các mái nhà bằng cao tầng trong thành phố, bốc những người Mỹ và người Việt Nam từng làm tay sai cho Mỹ. 

Cuộc tiến công của ta phát triển rất thuận lợi, mặc dù trên cả bốn hướng đông, bắc, tây bắc, tây nam, cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Đồng chí Lê Duẩn theo dõi sát tình hình cuộc tiến công đã điện cho Bộ Chỉ huy chiến dịch chỉ đạo cho các cánh quân của ta trên các hướng không được dừng lại; thừa thắng phải đánh mạnh hơn nữa, liên tục tiến công, thực hiện ngoài đánh vào, trong đánh ra, đê bẹp hoàn toàn sức kháng cự của địch, bắt chúng phải đầu hàng không điều kiện, thực hiện đúng ý đồ của Bộ Chính trị là giải phóng Sài Gòn-Gia Định trước ngày 1-5-1975. 

Theo tinh thần đó, 5 giờ ngày 29-4-l9?5, quân ta trên các hướng đồng loạt nổ súng đánh chiếm bàn đạp vùng ven Sài Gòn-Gia Định.

Cũng vào giờ phút này, thấy không thể cứu vãn được Sài Gòn sụp đổ, các phi công ngụy đã lái 23 chiếc máy bay F5E và 28 máy bay A37 chạy sang Thái Lan. Theo sự sắp đặt trước của Mỹ, khi những chiếc máy bay hạ cánh, chạy trên đường băng và dừng lại, lập tức những nhân viên Mỹ đã chở sẵn chạy đến sơn lên máy bay lá cờ Mỹ thay cho lá cờ ba sọc của nguỵ quyền Sài Gòn.

Và 244 máy bay, 35 tàu chiến Nam Việt Nam treo cờ Mỹ chạy trốn sang Philíppin. Những chiếc máy bay và tàu chiến đó tức khắc thuộc về Mỹ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 07:59:00 pm
Trên hướng tây bắc, 2 giờ 30 phút ngày 29-4, Sư đoàn 320-Quân đoàn 3 triển khai xong lực lượng bao vây căn cứ Đồng Dù. Các cụm pháo binh của trung đoàn 40, 675 của quân đoàn tập trung bắn phá căn cứ Đồng Dù, yểm trợ cho bộ binh mở cửa đột phá, tiến công tiêu diệt Trung đoàn 50 và Sư đoàn bộ Sư đoàn 25, bắt tên Chuẩn tướng Lý Tòng Bá.

Sư đoàn 316-Quân đoàn 3 đánh chiếm căn cứ Trảng Bàng, tiêu diệt và bắt làm tù binh trung đoàn 46 và 49, Sư đoàn 25 nguỵ. Lợi dụng căn cứ Đồng Dù đã bị Sư đoàn 320 vây chặt và tiến công, Trung đoàn đặc công 198 luồn sâu vào bên trong, đánh chiếm cầu Bông trên đường số 1, cầu Sáng trên đường 15 là hai con đường độc đạo chạy giữa cánh đồng lúa Hậu Nghĩa và Củ Chi vào Sài Gòn, đánh tan Tiểu đoàn 87 biệt kích dù. Đại đội 10-Trung đoàn 64-Sư đoàn 320 cùng với đặc công chốt giữ cầu.

Lúc này, mũi thọc sâu binh chủng hợp thành Sư đoàn 10-Quân đoàn 3 nhanh chóng vượt qua Đồng Dù, bỏ qua các ổ đề kháng vòng ngoài đánh chiếm bàn đạp Hoóc Môn, thành Quan Năm, Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Một đơn vị của Sư đoàn 10 phối hợp với Trung đoàn 1 Gia Định đánh chiếm cầu Tham Luông.

21 giờ ngày 29-4, Sư đoàn 10-Quân đoàn 3 đến ngã ba Bà Quẹo, và đề nghị trên cho đánh sân bay Tân Sơn Nhất ngay trong đêm. 

Tin quan trọng này được cấp báo lên Bộ Chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh.

23 giờ Bộ Chỉ huy chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 10 dừng lại chờ hiệp đồng chung và giao cho Quân đoàn 8 đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu nguy, coi đó là nhiệm vụ chính thức của quân đoàn, không phải nhiệm vụ phát triển hiệp đồng như đã giao trước đây.

Ở hướng bắc, Quân đoàn 1, Sư đoàn 312 đã bao vây Phú Lợi, tiêu diệt một bộ phận tàn binh của Sư đoàn 5 nguỵ từ Bến Cát chạy về Bình Dương. Sư đoàn 320B tiến đến phía bắc Lái Thiêu 3 km.

Tại khu vực Búng nằm trên đường 13, địch rút chạy về Lái Thiêu, Quân đoàn 1 đã bao vây, đánh bắt khoảng 7.000 tên. Cánh quân phía bắc còn cách Sài Gòn khoảng 30 km.

Ở hướng đông, lúc 6 giờ 45 phút, Sư đoàn 325-Quân đoàn 2, đánh chiếm Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, phát triển đến Cát Lái lúc 24 giờ. Cùng lúc, ta đưa pháo 130 mm vào Nhơn Trạch, bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất. Sư đoàn 304-Quân đoàn 2 đánh chiếm căn cứ Nước Trong, ngã ba Long Bình lúc 10 giờ 40 phút. Sau đó, phát triển tiến công địch trên quốc lộ 5 và đánh địch phản kích ở nam Long Bình. 

Binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 2 vừa đánh địch, mở đường, vừa hành tiến đến phía bắc cấu xa lộ Đồng Nai lúc 24 giờ bắt liên lạc với Đoàn đặc công 116 đang giữ cầu.

Sư đoàn 3-Quân khu 5 tiến công giải phóng thành phố Vũng Tàu lúc 16 giờ 15 phút.

Sư đoàn 6-Quân đoàn 4 được tăng cường Trung đoàn 209 của Sư đoàn 7 bộ binh, đánh chiếm căn cứ thiết giáp của Sư đoàn 18 nguỵ lúc 17 giờ, phát triển tiến công vào Biên Hoà. Cuộc chiến đấu ở đây vô cùng ác liệt, vì địch ở Hố Nai ngoan cố chống cự.

Đoàn đặc công 116 vừa giữ cầu xa lộ Đồng Nai, bảo đảm đường tiến quân của binh đoàn thọc sâu Quân đoàn 2, vừa đánh chiếm cầu Ghềnh lần thứ hai và chặn cửa sông Nhà Bè, diệt một số mục tiêu địch ở ngoại vi Sài Gòn. 

Sư đoàn 341-Quân đoàn 4, tiến công căn cứ Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 ngụy ở Biên Hoà, nhưng địch đã chạy về Gò Vấp trước đó. Sư đoàn 341 phát triển tiến công đập tan nhiều ổ đề kháng của địch, tiến đến ngã ba Hố Nai, gặp chướng ngại vật nguy hiểm, phải vòng qua phía bắc đánh xuống Biên Hoà, diệt một tiểu đoàn địch ngăn chặn ở ga Long Lạc, tiến vào sân bay Biên Hoà, chiếm căn cứ Sư đoàn 3 không quân. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 09:48:20 pm
Trung đoàn 270 của Sư đoàn 341 phối hợp với Sư đoàn 6 bộ binh đánh chiếm căn cứ tiếp vận Hốc Bà Thức, sau đó vòng qua Hố Nai đánh chiếm khu kho Long Bình.

Thời gian này, sư đoàn 7 binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 4 tiến theo quốc lộ 1 đánh diệt một tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến và một bộ phận của Trung đoàn 82-Sư đoàn 18 nguỵ ra ngăn chặn, phá huỷ 40 xe tăng, xe bọc thép và xe GMC, sau đó phát triển vào Tam Hiệp, phối hợp với đơn vị bạn giải phóng thành phố Biên Hoà.

Ở hướng tây nam, Sư đoàn 3-Đoàn 232 đánh chiếm quận lỵ Đức Hoà, bức địch rút khỏi Đức Huệ, giải phóng thị xã Hậu Nghĩa, mở thông sông Vàm Cỏ Đông. Sư đoàn 9 đánh chiếm ngã ba Vĩnh Lộc, một bộ phận của sư đoàn phát triển đánh địch về hướng Bà Quẹo.

Các trung đoàn 24 và 88 độc lập cùng với Sư đoàn 5, Sư đoàn 8-Quân khu 8 tiếp tục đánh cắt đường 4, đường 10, phát triển tiến công địch ở Cẩn Giuộc và Hưng Long, cầu Nhị Thiên Đường. Các đơn vị đặc công diệt Liên đoàn 8 biệt động quân ở Tân Tạo, Bà Hom, đánh chiếm Trung tâm ra đa Phú Lâm. Bộ đội địa phương huyện Bình Chánh đánh chiếm phân chi khu Tân ục, Tân Hoà, quận Tân Bình.

Đêm 29 rạng ngày 30-4, từng đoàn máy bay lên thẳng Mỹ bật đèn sáng, bay rối loạn trên bầu trời Sài Gòn; rồi đổ xuống mái nhà bằng cao tầng sứ quán Mỹ và 12 mái nhà cao tầng khác trong thành phố, chở người di tản tháo chạy vội vã. Lúc này, Dương Văn Minh cử một phái đoàn gồm các ông Nguyễn Văn Diệp, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Văn Hạnh, Tô Văn Cáng vào Trại Đa vít tiếp xúc với Phái đoàn liên hiệp quân sự của ta.

19 giờ cùng ngày, phái đoàn thứ hai do ông Nguyễn Ngọc Liễng 1 dẫn đầu vào Trại Đa vít thăm dò ngừng bắn, bàn giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Đoàn ta tiếp họ và giới thiệu tuyên bố ngày 26-4 của Chính phủ ta cho họ rõ. Họ hứa về báo cáo với Dương Văn Minh và sẽ thực hiện Tuyên bố ngày 26-4 của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Các sứ giả của Chính quyền Sài Gòn cảm ơn đoàn ta và cáo từ ra về. 

Lúc này, pháo nòng dài 130 mm của ta bắt đầu bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu, nếu để họ ra về sẽ không an toàn, cán bộ ta mời họ ở lại Trại Đa vít cho đến khi chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi. 

Cũng trong ngày 29-4, lúc 16 giờ, Trung tướng Nguyễn Hữu Có đến nhà riêng của Dương Văn Minh. Minh đang ăn cơm với Lý Quý Chung. Minh nói: “Anh tới trễ quá, tôi đã chỉ định Trung tướng Vĩnh Lộc làm Tổng Tham mưu trưởng rồi.  Anh đi ngay đến Bộ Tổng tham mưu, Vĩnh Lộc đang ở đấy, anh giúp được việc gì thì giúp”.

Nguyễn Hữu Có hỏi: “Tình hình này đã có giải pháp gì chưa?”. Minh trả lời: “Mai có giải pháp tốt đẹp vào hồi 8 giờ”. Ngay sau đó, Nguyễn Hữu Có đến Bộ Tổng tham mưu gặp Vĩnh Lộc và các tướng tá trong Bộ Tổng tham mưu, thăm hỏi xã giao xong, 17 giờ Nguyễn Hữu Có họp với Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá cho Vĩnh Lộc, Đại tá Nguyễn Khắc Tuân giúp việc cho Lộc, Đại tá Thanh phụ trách Tổng Hành dinh, Đại tá Nguyễn Ngọc Thân nhân viên Phòng I.

Thanh báo cáo: Các trưởng phòng Bộ Tổng tham mưu đã chạy hoặc đi lo gia đình, binh lính ước lượng còn 200 người (thường ngày có 5 đại đội Tổng Hành dinh), chẳng còn ai để chỉ huy. Nguyễn Ngọc Thân, Trưởng phòng I báo cáo không nắm được các đơn vị, đề nghị: “ngày 30 ra lời kêu gọi trên đài phát thanh là mọi quân nhân phải về trình diện tại đơn vị gốc kể cả Bộ Tổng tham mưu”.

18 giờ, Nguyễn Hữu Có gọi điện cho Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 nguỵ, không gặp tướng Toàn, chỉ gặp Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tham mưu trưởng quân đoàn. Tường cho biết: Bộ Tư lệnh Quân đoàn hiện ở Gò Vấp. Khoảng 11 giờ, Toàn có đáp máy bay xuống Bộ Tư lệnh, nhưng ngay sau đó đi Vũng Tàu. Tường bảo: “Không còn chỉ huy được nữa, binh lính thấy chạy lung tung”.


__________________________
1. Họ là những nhân sĩ, trì thức có cảm tình với cách mạng. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 09:49:20 pm
19 giờ, Nguyễn Hữu Có nói chuyện với Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 đang đóng ở nam cầu sông Đồng Nai. Đảo cho biết: “Còn 2 tiểu đoàn giữ ngã tư xa lộ và đường đi Long Thành. Sư đoàn 18 thương vong hơn một nửa quân số, tinh thần hoang mang”. Giọng Đảo lạc đi: “Việt cộng 3 sư đoàn đang tiến, thế không đánh được không giữ được quá 8 giờ ngày 30-4”.

Nguyễn Hữu Có lại gọi điện cho tướng Khôi, Tư lệnh Lữ đoàn 3 kỵ binh. Khôi báo cáo: “Thiết giáp đã hết đạn, hết xăng, hứa sẽ chiến đấu, nhưng không có đạn, có xăng để rút”.

21 giờ, Nguyễn Hữu Có gọi điện cho Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 phụ trách các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Nam nói: “Các đơn vị Quân đoàn 4 còn nguyên, biết Cao Văn Viên đã chạy, Nam hứa sẽ tuân lệnh Bộ Tổng tham mưu-. Nhưng ngay sau đó y đã trốn ra ngoài để di tản. 

23 giờ, Nguyễn Hữu Có gọi điện cho tướng Niêm, Tư lệnh Sư đoàn 22 ở Long An, nhưng Niêm đã chạy lúc 14 giờ; gọi cho Sư đoàn 5 và Sư đoàn 25 đều mất liên lạc.

Nguyễn Hữu Có gọi điện nói chuyện với Nguyễn Văn Huân ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Huân báo cáo: “Lái Thiêu đã bị tràn ngập, địch đang tiến về hướng Sài Gòn có khoảng 80 xe môtôva chở quân và thiết giáp, pháo binh đã đi qua Trung tâm huấn luyện Quang Trung.

Có hỏi :

- Anh có nhìn nhầm không?

- Không nhầm? Huân trả lời” 1.
 
Nguyễn Hữu Có và Vĩnh Lộc vẫn cho là Huân nhìn nhầm Sư đoàn 25 ở Đồng Dù đang di chuyển-.

Nắm xong tình hình, Nguyễn Hữu Có thấy bi đát, không còn hy vọng, vì mấy sư đoàn trấn thủ vòng ngoài đã mất hết, không còn gì để đánh, để thương lượng. Vĩnh Lộc ngoan cố ra lệnh cho thiết giáp, lính dù chặn ở Gò Vấp, ngã tư Bảy Hiền, không quân ném bom từ ngã tư Bảy Hiền đến trại huấn luyện Quang Trung. Nói xong, Vĩnh Lộc chuồn khỏi Bộ Tổng tham mưu, di tản.

4 giờ sáng ngày 30-4, Nguyễn Hữu Có điện báo cáo tình hình cho Dương Văn Minh và hỏi có giải pháp gì không?  Dương Văn Minh trả lời: “8 giờ sáng có giải pháp rồi, hoà hợp, ngừng bắn. Cứ yên tâm và vui vẻ đi ngủ đi”.

Nguyễn Hữu Có cảm nhận tình hình nguy kịch đến nơi rồi, không thể yên tâm được, liền gọi Nguyễn Hữu Hạnh đi gặp Dương Văn Minh để trình bày tình hình. Lúc này Có thấy Minh hơi hoảng hốt, lặng lẽ mặc áo quần rồi cùng Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Hữu Hạnh đến Phủ Thủ tướng tìm Vũ Văn Mẫu. 

Mẫu báo cáo: “Đại sứ Pháp vẫn bảo đảm liên lạc với Mặt trận”. Dương Văn Minh gọi điện cho Thích Trí Quang, hỏi: “Thưa Thầy! Người Thầy cho đi liên lạc với Mặt trận đã về chưa?

- Chưa về! Quang trả lời.

- Vấn đề sáng nay như vậy chưa có kết quả? Minh hỏi.

- Không xong! Quang trả lời.

- Tôi tin nơi Thầy, bây giờ Thầy nói vậy tôi biết tin ai, còn đánh gì nữa, giải pháp gì nữa? Minh nói.


_______________________
1. Lời khai của Tướng Nguyễn Hữu Có, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Quân lực Việt Nam cộng hoà (nguỵ) đã về hưu, tài liệu lưu trữ bảo mật Bộ Tham mưu Quân đoàn 3.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 09:51:04 pm
- Tôi tu hành chỉ biết về chính trị, còn quân sự Đại tướng quyết địnnh lấy? Quang trả lời” 1.

Lúc này, hãng thông tấn Mỹ báo tin Đại sứ Mỹ Ma tin đã lên máy bay chuồn khỏi Sài Gòn.

Dương Văn Minh đặt mạnh ống nghe xuống máy, ngồi lại trong phòng, đưa ra ý kiến “Tuyên bố thành phố bỏ ngỏ”, rồi chỉ thị cho Vũ Văn Mẫu viết Tuyên bố kêu gọi đơn phương ngừng bắn và bàn giao chính quyền cho cách mạng. Chuẩn tướng, phụ tá Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh viết nhật lệnh ra lệnh cho quân đội Sài Gòn ở nguyên vị trí, hạ vũ khí không được chống cự, tìm cách tiếp xúc với Quân giải phóng.

Thế là, chút hy vọng mỏng manh của Mỹ và bọn tay sai miền Nam đã tan biến!

5 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh phát lệnh Tổng công kích đánh vào nội đô thành phố Sài Gòn-Gia Định. Đài Tiếng nói Việt Nam trong buổi phát thanh sáng đã truyền đi bài xã luận của báo Nhân dân, trong đó có đoạn “Đồng bào cả nước ta hướng về Sài Gòn-Gia Định, chờ đón tin thắng trận oanh liệt và tỏ lòng tin vững chắc rằng quân và dân thành phố anh hùng này nhất định làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đối với Tổ quốc” 2

Từ bốn hướng, quân ta ồ ạt tiến đánh năm mục tiêu then chốt đã định và cùng với nhân dân tiến công và nổi dậy giành toàn thắng cho chiến dịch.

Ở hướng tây nam, Sư đoàn 9-Đoàn 232, sau khi chiếm bàn đạp Vĩnh Lộc, phát triển vào ngã tư Bảy Hiền, đánh chiếm Bộ Tư lệnh biệt khu Thủ đô. Một bộ phận của Sư đoàn 9 chiếm khu Tân Tạo, Trạm ra đa Phú Lâm, phát triển đến Trường đua Phú Thọ (15 giờ) .

Sư đoàn 5 đánh tiêu diệt và làm tan rã Sư đoàn 22 và Liên đoàn 6 biệt động quân, giải phóng thị xã Tân An, chi khu Thủ Thừa. Trung đoàn 16 đánh chiếm cầu An Lạc, cầu Bình Điền, phát triển diệt địch cùng nhân dân giải phóng Quận 5, Quận 6. Trung đoàn 24 và bộ đội đặc công đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, cầu Chữ Y, chiếm Bộ Tư lệnh cảnh sát quốc gia lúc 10 giờ 30 phút. Trung đoàn 88 đánh chiếm cầu ông Thìn, ngã ba An Phú, phát triển diệt địch, chiếm khu Nhà Bè.

Bộ đội đặc công vùng ven cùng nhân dân đánh địch, làm chủ quận Tân Bình, quận Bình Chánh và đặc khu Rừng Sát. 

Trên hướng tây bắc, Quân đoàn 3, Trung đoàn 24, Sư đoàn 10 bắt đấu đột phá tiêu diệt địch ngăn chặn ở ngã tư Bảy Hiền. Máy bay địch đội bom xuống đường phố từ cổng số 5 sân bay đến ngã ba Bà Quẹo, yểm trợ cho quân dù phản kích.

Đánh tan lực lượng địch cố thủ ở ngã tư Bảy Hiền, Trung đoàn 24 và 1 tiểu đoàn xe tăng của Trung đoàn tăng, thiết giáp 273 phát triển tiến công vào cổng số 5. Địch ngăn chặn quyết liệt, 3 xe tăng T54 của ta bị bắn cháy, nằm cản giữa đường. Trung đoàn 24 tăng cường cho mũi tiến công pháo 85 mm, đánh tan quân địch, mở thông cổng số 5.

Tám giờ 45 phút, chiến sĩ biệt động Sài Gòn Nguyễn Thị Trung Kiên dẫn đường, Trung đoàn 24 và xe tăng quân đoàn chia làm hai mũi đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất, tiêu diệt quân địch kháng cự, chiếm Bộ Tư lệnh dù, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 không quân, bắt liên lạc với phái đoàn quân sự hai bên của ta tại Trại Đa vít.

11 giờ 30 phút, Trung đoàn 24 hoàn toàn làm chủ sân bay Tân Sơn Nhất, và kéo lá cờ chiến thắng lên đỉnh cột cờ trong sân bay.

Trung đoàn 24 đang diệt địch ở cổng số 5, đột phá vào sân bay, Trung đoàn 28-Sư đoàn 10 và Tiểu đoàn 2 xe tăng-Trung đoàn 273 đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu nguy. Chiếc xe tăng mang số hiệu 815 do Đại đội phó Đỗ Hồng Kỳ chỉ huy cùng tổ cắm cờ Trần Lựu, Nguyễn Duy Tân của Đại đội 10 tiến vào Tổng Hành dinh quân nguỵ, cắm lá cờ của Chính phủ Cách mạng lâm thời lên đỉnh cột cờ ở giữa trước ngôi nhà Bộ Tổng tham mưu đúng 11 giờ 30 phút.


______________________
1. Lời khai của Tướng Nguyễn Hữu Có, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Quân lực Việt Nam cộng hoà (nguỵ) đã về hưu, tài liệu lưu trữ bảo mật Bộ Tham mưu Quân đoàn 3.
2. Xã luận báo Nhân dân, số ra ngày 30-4-1975.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 09:51:48 pm
Các chiến sĩ Trung đoàn 28 chia nhau kiểm soát các phòng làm việc của ngôi nhà, thu toàn bộ con dấu, cờ, ấn kiếm của Bộ Tổng tham mưu nguỵ. Liền sau đó, Trung đoàn 48-Sư đoàn 320B đánh chiếm trận địa pháo, sân bay lên thẳng gần cổng số 2, chiếm khu Thông tin, Tổng Cục tiếp vận . . . phát triển đến nhà làm việc của Bộ Tổng tham mưu, cắm cờ ở góc trái toà nhà, cùng với Trung đoàn 28 phát triển chiếm nhà ở Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, làm chủ toàn bộ khu vực dinh thự Bộ Tổng tham mưu nguỵ.

Lúc này, Trung đoàn 64-Sư đoàn 320-Quân đoàn 3 đã nhanh chóng phát triển sang Quận 1, hợp đồng với đơn vị bạn đánh chiếm Dinh Độc Lập. Nhưng Trung đoàn 64 đến nơi, đơn vị bạn đã chiếm xong Dinh Độc Lập, Dương Văn Minh và nội các Vũ Văn Mẫu đã tuyên bố đầu hàng cách mạng vô điều kiện, Trung đoàn 64 dùng một đại đội đánh chiếm khu cơ xá sĩ quan Mỹ.

Quá trình chiến đấu ở đây, 4 chiến sĩ của Trung đoàn 64 đã anh dũng ngã xuống, 12 chiến sĩ khác bị thương. Đó là những giọt máu cuối cùng của cán bộ, chiến sĩ ta đổ xuống đường phố Sài Gòn, góp phần cho chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. 

Hướng bắc, Quân đoàn 1, Sư đoàn 312 diệt căn cứ Phú Lợi, phát triển tiến công làm tan rã Sư đoàn 5 nguỵ, giải phóng tỉnh Bình Dương. Binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 1, Sư đoàn 320B tiến công địch ở Lái Thiêu lúc 6 giờ 30 phút, sau đó phát triển đánh chiếm khu vực cầu Vĩnh Bình, cầu Bình Phước, mở đường cho Trung đoàn 48 và Tiểu đoàn 66 xe tăng thuộc Lữ đoàn 202 tiến vào nội đô. Trung đoàn 48 trên dường tiến đánh diệt Lữ đoàn 3 ky binh tại cầu Bình Triệu, vượt qua ngã tư Phú Nhuận, theo đường Võ Tánh tiến vào cổng số 2 và 3, phối hợp với Trung đoàn 28-Sư đoàn 10-Quân đoàn 3 tiến công, làm chủ toàn bộ Bộ Tổng tham mưu nguỵ.

Hướng đông, 7 giờ sáng ngày 30-4, Sư đoàn 6-Quân đoàn 4 cùng với Trung đoàn 3-Sư đoàn 34 1 tiến công chiếm Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 nguy, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 không quân, sân bay Biên Hoà, đánh tan quân địch ngăn chặn ở Hố Nai.

Sư đoàn 341, Quân đoàn 4, đánh chiếm sân bay Biên Hoà, sau đó phát triển sang Thủ Đức, một bộ phận vượt cầu Ghềnh, tiến vào nội đô.

Sư đoàn 7-Quân đoàn 4 sau khi đánh tan địch ngăn chặn ở Tam Hiệp, phát triển vào nội đô đánh chiếm Bộ Chỉ huy thuỷ quân lục chiến, căn cứ hải quân, Bộ Quốc phòng, cảng Bạch Đằng, Đài Phát thanh. 

Sư đoàn 3-Quân khu 5 giải phóng Vũng Tàu lúc 9 giờ, phát triển tiến công chiếm Cần Giờ.

Sư đoàn 325-Quân đoàn 2, sau khi đánh chiếm Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ, Cát Lái trong ngày 29, đã tổ chức vượt sông Sài Gòn, tiến công địch, giải phóng Quận 9 và Thủ Thiêm.

Binh đoàn thọc sâu Quân đoàn 2 do Sư đoàn 304 và Lữ đoàn xe tăng 203 vượt cầu xa lộ Đồng Nai, đánh tan quân địch ngăn chặn, thần tốc tiến về hướng Dinh Độc Lập.

Giữa lúc cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân ta đang phát triển sôi nổi với nhịp độ một ngày bằng 20 năm, thì lúc 9 giờ 30 phút, Đài Phát thanh Sài Gòn phát tuyên bố thành phố bỏ ngỏ, kêu gọi đơn phương ngừng bắn, bàn giao chính quyền của Dương Văn Minh và nội các Vũ Văn Mẫu cho cách mạng.

Nhưng Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương điện khẩn cấp, chỉ đạo “Tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch, tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của địch” 1 .


_______________________
1. Trích điện số 149/TK lúc 10 giờ ngày 29-4-1975 của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương gửi Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, lưu tại Cục Cơ yếu Bộ Tổng tham mưu, Hồ sư số 215/ĐB.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 09:52:42 pm
Tiếp tục cuộc tiến công, Đại đội xe tăng của binh đoàn thọc sâu Quân đoàn 2 do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy, dẫn dầu đội hình tiến chiếm Dinh Độc Lập. Xe tăng 390 do Nguyễn Văn Tập lái đã húc đổ cánh cổng sắt, tiến sát thềm nhà Dinh Độc Lập. Bùi Quang Thận cầm cờ chạy lên tầng thượng của Dinh, giật bỏ lá cờ ba que, treo cờ Mặt trận dân tộc giải phóng lên dình cột cờ cao nhất của Dinh Độc Lập, lúc này đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975.

Đồng thời với Bùi Quang Thận cắm cờ, Đại uý Trung đoàn phó Trung đoàn 66 bộ binh Phạm Xuân Thệ cùng một số cán bộ, chiến sĩ đơn vị được Nguyễn Hữu Hạnh dẫn đường tiến vào phòng Khánh tiết. Dương Văn Minh và nội các Vũ Văn Mẫu đã tề tựu đông đủ chờ sẵn.

Tiếp sau Phạm Xuân Thệ là Trung tá Bùi Tùng, Chính uỷ Lữ đoàn xe tăng 203 và Nguyễn Tuấn Tài, Lữ đoàn trưởng cũng vào phòng Khánh tiết. Dương Văn Minh vội đứng dậy: “Chúng tôi đang đợi các ông đến để bàn giao”. Ta tuyên bố. Các ông đã bị bắt; cá ông không còn gì để bàn giao; các ông phải tuyên bố đẩu hàng không điều kiện.  Dương Văn Minh chấp nhận, đến Đài Phát thanh đọc bản tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Trung tá Bùi Tùng đọc lời chấp nhận đầu hàng của Tổng thống nguỵ quyền Dương Văn Minh.

Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng!

Cùng với cuộc Tổng tiến công giải phóng Sài Gòn-Gia Định và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trên đất liền, Bộ chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo cho hải quân và Quân khu 5 tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo do quân đội Sài Gòn chiếm đóng ở biển Đông. Đây là phần đất rất quan trọng có vi trí chiến lược về quân sự và kinh tế không thể tách rời Tổ quốc Việt Nam.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã chỉ đạo lực lượng vũ trang phối hợp với du kích và nhân dân tiến công và nổi dậy giải phóng Cù Lao-Chàm, Cù Lao Ré ngày 30-4. Ngày 1-4, nhân dân đảo Cù Lao Xanh nổi dậy giải phóng đảo. Ngày 10-4, bộ đội đặc công tỉnh Khánh Hoà và một tiểu đoàn của Trung đoàn 19, Sư đoàn 968 giải phóng đảo Hòn Tre. Và, đến ngày 27-4, ta giải phóng Cù Lao Thu (Khánh Hoà) và toàn bộ các đảo ven biển Trung Bộ.

Trước tình hình cuộc tiến công của ta phát triển thuận lợi giải phóng toàn bộ Tây Nguyên và các tỉnh đồng bằng miền Trung, ngày 9-4-1975, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho Quân khu 5 và hải quân dùng lực lượng thích hợp chớp thời cơ đánh chiếm, giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, nếu để chậm, quân đội các nước khác chiếm, tình hình trở nên rất phức tạp không chỉ trên mặt trận quân sự, mà cả mặt trận đấu tranh chính trị và ngoại giao.

Vì vậy, tiến công địch trên biển Đông cũng phải thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Bộ Tổng tư lệnh dự kiến cuộc chiến đấu trên biển có thể sẽ gay go, ác liệt, vì ở đó có Hạm đội 7 Mỹ và tàu chiến các nước đang hoạt động. Trong chiến đấu, yêu cầu cán bộ, chiến sĩ ta phải hết sức bình tĩnh xử trí tốt các tình huống, phải dũng cảm, mưu trí và sáng tạo, đánh đúng đối tượng. 

Bộ Tổng tư lệnh gợi ý thời cơ đánh chiếm đảo khi địch rút toàn bộ hoặc rút đại bộ phận thì đánh chiếm ngay. Nếu quân nước ngoài chiếm thì kiên quyết đánh chiếm lại.

Ngày 23-4, Quân uỷ và Bộ Tổng tư lệnh điện tiếp cho Bộ Tư lệnh Quân khu 5:

1. Tích cực chuẩn bị, có thời cơ đánh chiếm các đảo còn lại của ngụy miền Nam đang chiếm, sau đó tổ chức phòng thủ.

2. Hiện nay các đảo của Tưởng, của Phi đang chiếm đóng khu vực Nam Sa, chỉ theo dõi nắm tình hình hoạt động ở các đảo đó. Trường hợp quân Tưởng và quân Phi chiếm trước một số trong bốn đảo của nguỵ miền Nam trước khi ta đến, thì cần đánh chiếm lại. Trường hợp bộ đội bạn đã chiếm trước thì ta chủ trương lên xen kẽ như điện của anh Văn trước đây.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 09:54:07 pm
3. Đối với các đảo khác trong khu vực Nam Sa nếu chưa có ai chiếm mà ta thấy chiếm có lợi thì chiếm ngay và cắm cờ xác định chủ quyền” 1

Sự chỉ đạo đánh chiếm lại các đảo ở biển Đông của Quân uỷ Bộ Tổng tư lệnh kịp thời, cụ thể, phù hợp với chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, đã tạo thuận lợi cho bộ đội ta đánh chiếm đảo không gặp trở ngại gì lớn.

Hải quân của ta chuẩn bị đánh chiếm các đảo rất kỹ. Các tàu vận tải quân sự 673, 674, 675 thuộc Trung đoàn đặc công hải quân 126 do Trung đoàn trưởng Mai Năng chỉ huy được nguỵ trang giả dạng tàu đánh cá, bí mật xuất phát và tiếp cận các đảo. Tàu 673 do Nguyễn Ngọc Quế, Đội trưởng Đội 1 chỉ huy dùng xuồng và phao cao su bí mật đổ bộ lên đảo.

Đúng 4 giờ 30 phút ngày 14-4, ta nổ súng tiến công địch. Sau 45 phút chiến đấu, ta diệt và bắt 39 tên thuộc Tiểu đoàn bảo an 371 quân đội Sài Gòn, giải phóng đảo Song Tử Tây. Chiến sĩ Lê Xuân Phát kéo cờ Tổ quốc lên cột cờ trên đảo, xác định chủ quyền của Tổ quốc.

Ngày 25-4, quân ta đánh chiếm đảo Sơn Ca. Ngày 27-4, giải phóng đảo Nam Yết, Sinh Tồn. Ngày 28-4 ta giải phóng đảo Trường Sa và An Bang. Toàn bộ quân địch trên các đảo bị bắt làm tù binh. Bộ đội ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Quân uỷ Trung ương khen ngợi “hoàn thành nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược”.

Kể từ ngày tiếng súng tiến công vào Buôn Ma Thuộc mở đẩu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, quân và dân các tỉnh miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long liên tục tiến công và nổi dậy, phối hợp và chia lửa với Tây Nguyên, miền Trung, làm cho địch phải bị động đối phó trên nhiều hướng chiến lược.

Cuộc tiến công và nổi dậy của quân, dân miền Đông, miền Tây, miền Trung Nam Bộ đã trói chặt Quân đoàn 4 nguy tại chỗ, diệt và làm tan rã chúng, cùng với toàn bộ lực lượng bảo an, dân vệ, đập tan chính quyền ấp, xã, huyện, tỉnh của địch, thực hiện phương châm: “tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”. 

Ngày 30-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, nguy quyền trung ương tuyên bố đầu hàng cách mạng vô điều kiện cũng là lúc quân, dân ta ở miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn các tỉnh Long An, Bình Dương, Tây Ninh, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu, đảo Phú Quốc. 

Ngày 1-5-1 975, quân và dân ta tiếp tục tiến công và nổi dậy, giải phóng các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Vĩnh Long, Chương Thiện, Cà Mau, Long Xuyên, Kiến Tường, Sa Đéc, Côn Đảo và Châu Đốc.

Như vậy, đến ngày 1-5-1975, toàn bộ các tỉnh, thành phố trên đất liền, các đảo và quấn đảo ở biển Đông trên toàn miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. 

Thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là thắng lợi vĩ đại nhất, có ý nghĩa lịch sử cực kỳ to lớn và tầm vóc thời đại sâu sắc.

Từ nay giang sơn gấm vóc Việt Nam được thu về một mối, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị và hoạ chia cắt đất nước của chủ nghĩa thực dân, dế quốc, mở ra một trang sử mới cho Tổ quốc và dân tộc Việt Nam: độc lập, tự do, thống nhất, trường tồn và phát triển, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. 

Thắng lợi này là thắng lợi của đường lối chính trị giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và đường lối quân sự, ngoại giao đúng đắn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thắng lợi của chiến lược chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam biết thắng địch từng bước, tạo thời cơ thuận lợi mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quân địch, kết thúc chiến tranh theo ý định của mình. 


________________________
1. Điện số 991/TK cậu Vũ gửi anh Hai Mạnh, anh Hoàng ngày 23-4-1975, ký tên Thái, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 09:55:56 pm
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là sự kết tinh những truyền thống anh hùng, phẩm chất cách mạng trong sáng của quân và dân Việt Nam được tôi luyện trong suốt thế kỷ đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà tập trung là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; thắng lợi của trí tuệ Việt Nam và nền văn hoá Việt Nam “bắt nguồn từ lòng yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu nước, yêu độc lập, tự do, hoà bình, từ lòng nhân ái, trọng chính nghĩa, ghét gian tà, thấm đượm chủ nghĩa nhân văn cao cả và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lại biết tiếp thu những tinh hoa của nền văn hoá thế giới” 1 để bồi đắp cho mình.
 
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh là kết quả của những năm tháng cả nước lao động cần cù và sáng tạo, tích luỹ của cải vật chất và sức người cho cuộc tổng tiến công. Hậu phương lớn miền Bắc anh hùng đã vì tiền tuyến, mà thắt lưng buộc bụng “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, cùng với tiền tuyến lớn miền Nam ra trận, chung sức đánh giặc. 

Đó còn là thắng lợi to lớn của sức mạnh đoàn kết dân tộc, sức mạnh đấu tranh của nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, chống Mỹ, sức mạnh của phe xã hội chủ nghĩa giúp đỡ về tinh thần, vật chất, phương tiện, kỹ thuật, chuyên gia đặc biệt sự giúp đỡ có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc là chỗ dựa vững chắc của nhân dân Việt Nam tăng thêm mềm tin và sức mạnh cho kháng chiến thắng lợi.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 khẳng định: Trong thời đại ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông, kinh tế còn kém phát triển, song biết đoàn kết chặt chẽ, kiên quyết chiến đấu, mưu trí sáng tạo, dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác-Lênin, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, được nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức lạnh thời đại thì hoàn toàn có khả năng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược dù đó là những tên đế quốc đầu sỏ giàu mạnh hơn mình gấp bội.


KẾT LUẬN

Việt Nam đánh thắng đế quốc Mỹ là một bất ngờ lớn đối với nhân loại trong thế kỷ XX. Bất ngờ vì nước Mỹ một siêu cường, một đế quốc giàu mạnh nhất thế giới trên nhiều bình diện, một sen đầm quốc tế chưa từng bị thua trận lần nào trong các cuộc chiến tranh do Mỹ khởi xướng hoặc tham gia trước đó, nay bị Việt Nam một nước nhỏ và nghèo vừa ra khỏi cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, chưa kịp hồi phục, đánh bại.

Việt Nam thắng Mỹ, Chính phủ Mỹ cũng đã thừa nhận họ thua trận, nhưng không cắt nghĩa được căn nguyên vì sao họ thua. Nó giống như một câu chuyện huyền thoại, vượt ra ngoài trí tưởng tượng của nhiều người. Bất ngờ hơn nữa là cuộc chiến tranh diễn ra trong hoàn cảnh nước Việt Nam bị chia cắt, kinh tế nghèo nàn, trang bị vũ khí lạc hậu lại đánh thắng một nước Mỹ siêu cường thống nhất, hơn 200 triệu dân, có nền khoa học-công nghệ phát triển cao, có kho vũ khí dự trữ khổng lồ, hiện đại và tinh xảo, có đội quân đông.

Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống xâm lược Mỹ nổi rõ đặc điểm là “không cân sức”. Lúc đầu nhiều người cho rằng Việt Nam khó có thể đương đầu nổi, vì trứng không thể chọi với dá được. Mỹ ý thức rõ điều chúng hơn hẳn đó nên khi các nhà báo Pháp nói với các sĩ quan Mỹ là “họ đã thử sức ở đây, nhưng không ăn thua”, thì các sĩ quan Mỹ trả lời một cách tự mãn rằng: “Chúng tôi không phải là quân đội của một cường quốc châu Âu đang suy tàn bị Đức đánh bại năm 1940. Chúng tôi là quân đội của Hoa Kỳ. Các ông cứ đi mà xem... chúng tôi không bao giờ thua trong các cuộc chiến tranh” 2.

Năm đời Tổng thống Mỹ kế tiếp nhau điều hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam cũng đều chung một suy nghĩ như các sĩ quan Mỹ. Chính Giônxơn, Tổng thống Hoa Kỳ trong bài phát biểu tại Trường đại học Giôn Hốpkin ở bang Bantimo ngày 7-4-1965, cũng khẳng định: “Chúng ta sẽ không bị thất bại... chúng ta sẽ không rút lui và công khai dưới bóng một thoả hiệp vô nghĩa... Và, chúng ta phải chuẩn-bị cho một cuộc chiến vẫn tiếp diễn lâu dài” 3.


___________________________
1. Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh-Trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975-Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2000, tr.440.
2. Neil Sheehan: Sự lừa dối hào nhoáng-John Paul Van và nước Mỹ ở Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, t.2, tr.4.
3. Mc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và bài học về cuộc chiến tranh Việt Nam , Sđd, tr. 185.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 09:57:48 pm
Chính vì đánh giá đối phương quá thấp, đánh giá mình quá cao và tin tưởng sẽ chiến thắng một cách dễ dàng, nên đế quốc Mỹ áp dụng và thực thi chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” như thực dân phản động Pháp trước đây. Ngay khi đưa quân xâm lược Việt Nam, các nhà vạch chiến lược Hoa Kỳ đều thống nhất với kế hoạch chiến lược ba giai đoạn của tướng Oétmolen, mà giai đoạn cuối cùng sẽ kết thúc vào năm 1967, quân đội Mỹ sẽ chiến thắng, rút quân về nước.

Nào ngờ cuộc chiến tranh lại kéo dài, nước Mỹ phải huy động sang Việt Nam hơn 2 triệu 500 ngàn lượt lính Mỹ tham chiến, chi phí trung bình mỗi năm xấp xỉ 30 tỷ đô la. Từ chủ động gây ra cuộc chiến tranh, chủ động áp dụng các chiến lược, Mỹ trở thành bị động, lúng túng, từ chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”, phải “leo thang” từng bước, đánh kéo dài và đẩy cuộc chiến tranh xâm lược đến đỉnh cao và vượt quá những cuộc chiến tranh thông thường về số quân, vũ khí, trang bị hiện đại và chi phí. Tham vọng của đế quốc Mỹ là tiêu diệt lực lượng cách mạng, bình định miền Nam, biến nơi này thành căn cứ quân sự của Mỹ để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản xâm nhập xuống Đông Nam châu á, răn đe phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Để thực hiện âm mưu đó, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh đơn phương thời Aixenhao, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam. Bị thất bại trong cuộc chiến tranh đơn phương, đế quốc Mỹ liền tiến hành chiến lược chiến tranh đặc biệt, rồi leo thang thành chiến tranh cục bộ, chiến tranh Việt Nam hoá thời Kennơđi, L. Giônxơn, R.  Nichxơn.

Đồng thời với cuộc chiến tranh trên bộ ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã gây ra cuộc chiến tranh không quân, hải quân chống miền Bắc Việt Nam. Chúng đã ném xuống Việt Nam 15 triệu tấn bom, đạn và hơn 100 triệu lít chất độc hoá học, hòng biến Việt Nam thành hoang mạc, không còn sự sống. 

Bom đạn của Mỹ đã buộc nhân dân Việt Nam phải cầm súng chiến đấu chống xâm lược Mỹ để bảo vệ thành quả của cách mạng đã giành được trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, khôi phục sự thống nhất, toàn vẹn của Tổ quốc đúng với nguyện vọng và ý chí của toàn dân Việt Nam. 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần Không có gì quý hơn độc lập, tự do, quân và dân Việt Nam chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử đối với đế quốc Mỹ, dẫu biết phải hy sinh nhiều của, nhiều người, đất nước sẽ bị tàn phá, nhưng nhân dân Việt Nam quyết không sợi “Còn non, còn nước, còn người. Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay?” 1.

Bước vào cuộc kháng chiến thống Mỹ, cứu nước, so sánh lực lượng giữa ta và địch lúc đầu là cuộc chiến đấu không cân sức ta phải “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu đánh mạnh”, “lấy đoản binh thắng trường trận”. Quy luật chiến tranh là mạnh được yếu thua, không có chuyện may rủi. Quá trình kháng chiến ta tìm mọi cách phát huy tiềm lực của đất nước, của nhân dân thành sức mạnh dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, của quốc tế thành sức mạnh tổng hợp để đánh thắng địch.

“Biết địch, biết ta, trăm trận, trăm thắng” cũng là một trong những quy luật giành thắng lợi trong chiến tranh. Vận dụng quy luật này, Đảng ta, nhân dân ta biết rõ mình và cũng nhìn thấu được bản chất, khả năng của đối phương, nên trong quá trình kháng chiến đã hạn chế được điểm mạnh của địch, khoét sâu mâu thuẫn và điểm yếu của chúng, dần dần tạo cho mình thế chủ động chiến trường, chủ động về chiến dịch, chiến đấu, làm cho địch luôn luôn ở thế bị động.

Đế quốc Mỹ ỷ vào sức mạnh, tiến hành chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh. Quân và dân ta không bị hút vào chiến lược và cách đánh của Mỹ, mà bình tĩnh, chủ động thực hiện chiến lược đánh lâu dài, biết thắng địch từng bước, tạo thời cơ mở cuộc Tổng tiến công giành thắng lợi quyết định. Địch sử dụng những cuộc hành binh chính quy, kết hợp với không quân, pháo binh, xe tăng tiến công trận địa để diệt chủ lực ta.


___________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.511.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 09:59:16 pm
Nhưng ta lại tiến hành chiến lược chiến tranh nhân dân, kết hợp tác chiến của chiến tranh nhân dân địa phương với tác chiến của chiến tranh nhân dân các binh đoàn chủ lực, kết hợp đánh lớn, đánh vừa với đánh nhỏ trên khắp ba vùng chiến lược, kết hợp quân sự với chính trị, binh vận, sáng tạo nhiều cách đánh “thiên biến vạn hoá” buộc đối phương phải đánh theo cách đánh của ta.

Địch muốn phân tán lực lượng ta để tiêu diệt ta, ngược lại, ta lại bao vây đánh căng kéo chúng, buộc chúng phải dàn mỏng bị động, đối phó. Địch dùng hoả lực mạnh để chế áp, sát thương ta, nhưng ta lại sử dụng chiến thuật đánh gần, áp sát “bám thắt lưng Mỹ mà đánh”, nên sức mạnh vốn có của Mỹ là hoả lực, binh khí, kỹ thuật hiện đại và sức mạnh cơ động bị ta hạn chế.

Trong các trận đánh ở thung lũng Ya Trăng ~plâyme) trong các ngày 15, 16, 17-11-1965, mặc dù Mỹ đã dùng cả máy bay B52 yểm hộ chiến thuật cho bộ binh, lính Mỹ đã bị giết 300 tên, bị thương nhiều gấp 3-4 lần số chết. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara đánh giá “đây là trận giao tranh lớn đầu tiên giữa hnh Mỹ với hnh Bắc Việt Nam . . . Nhiều binh sĩ Mỹ đã chiến đấu can đảm và anh dũng. Nhưng quân Bắc Việt Nam đã lựa chọn địa điểm, thời gian và thời lượng tham chiến (ý nói quyền chủ động chiến thuật, chiến dịch)” 1.
 
Và, do đó Yạ Trăng “sẽ được coi là một trong những nơi mà người lính chiến đấu Mỹ bị ném vào một cuộc thử thách gay gắt nhất của chiến tranh”, và “tướng Mỹ đã phải đánh theo cách đánh mà kẻ thù lựa chọn, chứ không phải theo cách đánh của chúng tà” 2.

Như vậy là từ chủ động vạch kế hoạch chiến lược chủ động áp đặt cách đánh, chủ động gây ra chiến tranh và tăng cường cuộc chiến tranh đó tới mức cao nhất, nhưng, đế quốc Mỹ phải đương đầu với cả một dân tộc đã kinh qua cuộc kháng chiến chống Pháp, được tổ chức và vũ trang tốt, có quyết tâm rất cao, nên chúng dần rơi vào thế bị động toàn diện: bị động về chiến lược, bị động chiến trường, bị động vềi chiến dịch và cách đánh, bị động giữa phân tán và tập trung, giữa tiến công tìm diệt và phòng ngự...

Trong chiến tranh, bên nào nắm quyền chủ động thì bên đó nắm chắc phần thắng trong tay. Đây là một trong những quy luật giành thắng lợi. Trong suốt 21 năm kháng chiến, ta luôn tìm cách nắm quyền chủ động và giữ quyền đó trong mọi tình huống, nên từng bước đánh thắng các chiến lược và mọi thủ đoạn của địch. Ta càng đánh càng mạnh, càng mạnh càng thắng to. Mỹ và chính quyền Sài Gòn càng đánh càng bị động, suy yếu và cuối cùng phải chịu thua.

Sở dĩ, Đảng ta, nhân dân ta chuyển yếu thành mạnh, biến những khó khăn thành những thời cơ thuận lợi là vì ta có chính nghĩa. Đây là điều kiện cực kỳ quan trọng đầu tiên. 

Có chính nghĩa, Đảng ta mới dựa được vào dân, được dân tin, dân mến, quy tụ được toàn dân kết thành một khối thống nhất vững bền trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt trận dân tộc giải phóng, kiên quyết chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Có chính nghĩa, nên Đảng ta và nhân dân ta nắm.  bắt được quy luật khách quan, đánh giá đúng tương quan lực lượng của địch, tạ trong sự phát triển, phát huy được mặt  mạnh, hạn chế được mặt yếu của mình, bình tĩnh, chủ động, tin tưởng vào tương lai và sáng tạo trong chủ trương, đường lối và phương châm, phương pháp cách mạng và kháng chiến.

Có chính nghĩa, nên được nhân dân tiến bộ trên thế giới kể cả nhân dân Mỹ, đặc biệt là nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa đồng tình ủng hộ về tinh thần, vật chất, góp phần cho nhân dân ta tạo sức mạnh tổng hợp đánh thắng địch. 

Trong suất cuộc chiến tranh, nhờ chính nghĩa mà Việt Nam không đơn độc, cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt, bạn bè quốc tế càng nhiệt tình ủng hộ, quân, dân ta càng vừng mềm tin, ý chí chiến đấu càng kiên cường.

Trái lại, Mỹ và đội quân tay sai Mỹ tiến hành một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Phi nghĩa nên chính quyền Mỹ và Sài Gòn phải bưng bít sự thật, phải công bố những thông tin giả để lừa dối nhân dân, quân đội Mỹ, lừa dối đồng minh phương Tây và thế giới.


________________________
1. Mc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và bài học về Việt Nam, Sđd, tr.223.
2. Thời báo Niu Oóc, ngày 21-11-1965.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 10:00:18 pm
Nhưng những người cầm quyền nước Mỹ không thể bưng bít sự thật, lừa dối mọi người được mãi. Lính Mỹ bị đẩy sang Việt Nam cầm súng bắn giết những người dân mà họ không có thù hận gì, dần dần nhận ra rằng họ bị chính phủ họ lừa dối. Họ không biết mình chiến đấu vì mục đích gì? Cho ai?... Sự thật về cuộc chiến tranh Việt Nam được những cựu chiến binh và linh Mỹ, những nhà báo chân chính vạch trần, tố cáo trước công luận, đã thức tỉnh nhân dân và thanh niên Mỹ.

Do đó, đã có hàng vạn thanh mền Mỹ đốt thẻ quân dịch, trốn ra nước ngoài, không phịu đi lính sang Việt Nam và hàng trăm cuộc biểu tình, tuần hành của nhân dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh của chính quyền Oasinhtơn, đòi chấm dứt chiến tranh, đòi hoà bình cho Việt Nam...

Tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh làm cho chính phủ và những chiến lược gia Mỹ không nắm được quy luật khách quan, duy ý chí, không đánh giá đúng mình, đúng người, do đó không đề ra được chính sách phù hợp, đường lối vạch ra chắp vá, bị động, luôn luôn bị tác động bởi mâu thuẫn giữa sự giàu có về kinh tế, sức mạnh quân sự, nhưng do phi nghĩa và đặc điểm của thời đại chi phối, lại phải tiến hành xâm lược bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới, nên đế quốc Mỹ không thể sử dụng hết sức mạnh quân sự của chúng trên một chiến trường cách xa nước Mỹ nửa vòng trái đất. Mâu thuẫn giữa mục đích “giấu mặt, trá hình” để áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, nhưng buộc phải tiến hành chiến tranh, nên nhanh chóng bị lộ mặt, bị nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới phản đối. Chiến tranh càng kéo dài thì đế quốc Mỹ càng bị cô lập.

Bị chi phối và tác động của những mâu thuẫn đó, những nhà cẩm quyền nước Mỹ luôn bị động, không đề ra được đường lối, phương châm, phương pháp tiến hành chiến tranh có hiệu quả, luôn luôn mắc sai lầm về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, nên dẫn chúng đến thất bại. Đường lối quân sự của Mỹ “nặng về vật chất và kỹ thuật quân sự, coi nhẹ yếu tố tâm lý và chính trị”, nghĩa là một “đường lối trực tiếp và không khôn khéo nên Hà Nội và Việt cộng luôn ở thế mạnh hơn so với Mỹ” 1
 
Sức mạnh của chiến tranh là sức mạnh của nhiều yếu tố con người, vũ khí, kỹ thuật, chính trị, tinh thẩn, văn hoá, hậu phương và quốc tế, tổ chức, cách đánh, v.v.. Đảng ta, nhân dân ta biết rõ điều đó, cho nên đã khéo kết hợp các yếu tố trên thành hệ thống thững nhất để tạo sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, thực hiện tư tưởng chiến lược tiến công, sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng, lực lượng chính trì của quần chúng và lực lượng vũ trang nhàn dân, tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngoại giao; đánh địch bằng ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược. 

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh thế giới chia làm hai phe đối kháng, các mối quan hệ chiến lược, các mâu thuẫn giữa hai phe và các nước lớn rất phức tạp. Tình hình đó tác động, chi phối hoặc ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, ít hoặc nhiều đến việc hoạch định đường lối, chiến lược và phương châm, phương pháp tiến hành kháng chiến của ta. Nếu Đảng cẩm quyền, người lãnh đạo quốc gia không vững tay chèo, trí tuệ không sáng suốt, vượt trội, dễ phạm phải sai lầm: Một là, run sợ choáng ngợp trước sức mạnh của kẻ thù không dám chống lại; hai là, chủ quan, liều lĩnh đánh bừa không tính đến hậu quả tai hại khôn lường.

Bình tĩnh và sáng suốt, kiên định và mưu lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không mắc những sai lầm đó, mà biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến của bạn bè nhưng vẫn giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, biết tính toán một cách khoa học giữa sự kết hợp hài hoà lợi ích dân tộc quốc gia với lợi ích quốc tế, biết kiềm chế địch không cho chiến tranh lan rộng làm cho tình hình Đông Dương và Đông Nam á thêm phức tạp, bạn bè thêm lo lắng, bận tâm; biết hy sinh để bảo vệ bè bạn và phe xã hội chủ nghĩa.

Trên tinh thần đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối kháng chiến và chiến lược tiến hành chiến tranh độc lập, tự chủ, mạng đậm nét truyền thống chống ngoại xâm và bản sắc văn hoá dân tộc, đề ra phương pháp cách mạng và các bước đi phù hợp với khả năng của nhân dân, tiềm lực của đất nước.


_________________________
1. Tổng kết cuộc chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, Bản đánh máy, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, t.6, tr.7-8.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 10:03:28 pm
Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Đó là, chiến lược chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện với tư tưởng chiến lược tiến công, đánh địch bằng cả hai lực lượng, ba thứ quân trên cả ba vùng chiến lược; kết hợp chặt chẽ chiến tranh nhân dân các binh đoàn chủ lực với chiến tranh nhân dân địa phương, kết hợp tiến công với nổi dậy, kết hợp phương châm đánh lâu dài, thắng địch từng bước với tạo thời cơ mở cuộc Tổng tiến công giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, kiềm chế và thắng địch ở miền Nam, bảo vệ miền Bắc và phe xã hội chủ nghĩa.

Khi nửa triệu quân Mỹ nhảy vào miền Nam, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đề ra chiến lược “đánh cho Mỹ cút” rồi “đánh cho ngụy nhào”; lượng được sức mình, ta không đề ra đánh tiêu diệt quân Mỹ, mà đánh bại ý chí của chúng, ta không tiêu diệt sạch quân ngụy, mà chỉ đánh cho chúng nhào. Thực tiễn cuộc kháng chiến diễn ra đúng như vậy... Đây là đường lời, chiến lược, phương châm, phương pháp kháng chiến đầy sáng tạo và độc đáo chưa có tiền lệ trong lịch sử các cuộc chiến tranh chống xâm lược, giành độc lập trên thế giới trước đó. 

Trên cơ sở dường lối chiến lược độc lập, tự chủ, nhân dân ta đã chủ động mở đầu cuộc kháng chiến, chủ động chuyển các giai đoạn chiến lược dể đưa cuộc kháng chiến tiến tới, chủ động kết thúc cuộc chiến tranh bằng phương pháp mỏ cuộc tổng tiến công đánh thẳng vào các đô thị lớn kết hợp với nổi dậy của quần chúng nông thôn. giành toàn thắng. 

Đường lối độc lập, tự chủ còn biểu hiện toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chăm lo xây dựng hậu phương chiến lược miền Bắc vững mạnh, làm chỗ dựa cho tiền tuyến lớn miền Nam, động thời tích cực xây dựng, phát triển hậu phương trực tiếp ở chiến trường để làm chỗ đứng chân, xây dựng lực lượng quân sự, chính trị, tích trữ lương thảo cho cuộc kháng chiến. Nhờ đó, dù dịch ra sức dành phá các tuyến hành lang, các vùng hậu cứ, quân và dân ta ở miền Nam vẫn giữ vừng nhịp độ và cường độ các cuộc tiến công. .

Thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng xét cho cùng là thắng lợi của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh:

Quyết định thắng lợi của chiến tranh có nhiều nhân tố, nhưng nhân tố cơ bản nhất là con người... Địch thua ta chủ yếu vì nó không đối phó nổi với hàng chục triệu bộ óc không bao giờ ngừng tìm tòi sáng tạo phương thức, phương pháp đánh nó trong mọi tình huống, đánh nó theo muôn hình vạn trạng1.

Con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh là con người phát triển toàn diện ở tầm cao và chiều sâu mới của tâm hồn trong sáng, cốt cách nhân ái, bản sắc văn hoá Việt Nam, là những con người được giáo dục, rèn luyện, giác ngộ lý tưởng cách mạng, hoà quyện tính giai cấp và dân tộc, truyền thống và hiện đại. Nhưng, nhân tố con người chỉ đóng vai trò quyết định của cuộc kháng chiến khi được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, rèn luyện, tổ chức. Cho nên, nói: “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ là thắng lợi của con người cũng có nghĩa là thắng lợi của sự nghiệp bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người mà Đảng ta đã nâng lên tầm chiến lược” 2 .

Nguyên nhân thắng lợi bao trùm-nguyên nhân của mọi nguyên nhân- và cũng là bài học kinh nghiệm chiến thắng cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện tập trung là đánh giá so sánh lực lượng chính xác, đề ra đường lối kháng chiến và cách mạng đúng đắn, sáng tạo, tổ chức toàn dân đánh giặc chặt chẽ, linh hoạt, mưu trí, sáng tạo.

Quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến, Đảng ta luôn kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn luôn đổi mới và tự chỉnh đốn, coi đó là cơ sở để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến, là kim chỉ nam định hướng đúng đắn cho Đảng ta vạch ra đường lối, chiến lược, phương pháp thắng địch từng bước, tiến lên đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai.


______________________
1. Nghị quyết Bộ Chính trị, ngày 3-11-1973.
2. Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi và bài học, sđd tr.273


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 10:07:19 pm
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1 . Giô dép A.Amtơ: Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985.

2. Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước-Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1976.

3. Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975-Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.

4. Ban Tổng kết-Lịch sử Bộ Tổng tham mưu: Thống kê số liệu chiến tranh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Tài liệu lưu tại Ban Tổng kết-Lịch sử Bộ Tổng tham mưu.

5. Ban Tổng kết-Lịch sử Bộ Tổng tham mưu: Tổng kêí Bộ Tổng tham mưu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997.

6. Ban Tổng kết chiến tranh B2: Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ-nguy trên chiến trường B2, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
7. Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo Tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

8. Ban Tổng kết chiến tranh Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh: Cuộc chống Mỹ, cứu nước ở Sài Gòn-Gia Định, Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.

9. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tây Ninh, Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Chiến thắng Tua Hai và phong trào đồng khởi ở miền Đông Nam Bộ, kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb. quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.

10 Lý Ban : Vấn đề ngoại thương của Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1960.

11. Nguyễn Thị Bình và tập thể tác giả: Mặt trận dân tộc giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Hội nghị Pa ri về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

12. Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không: Lịch sử Quân chủng Phòng không, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.

13. Bộ Tư lệnh Quân chủng Không quân: Lịch sử Quân chủng không quân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.

14. Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân: Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985.

15. Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công: Lịch sử Đặc công, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1987.

16. Bộ Tư lệnh Binh chủng Pháo binh: Lịch sử Pháo binh Quân đội nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991 .

17. Bộ Tư lệnh Binh đoàn 12-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Đường Hồ Chí Minh, một sáng tạo chiến lược của Đảng, kỷ yếu Hội thảo khoa học. Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.

18. Bộ Tư lệnh Quân khu 5-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Vành đai diệt Mỹ trên chiến trường Khu V-một sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002.

19. Bộ Tư lệnh Quân khu 4-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Mặt trận giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu 4 trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.

20. Bộ Tư lệnh Quân khu 5: Khu V - 30 năm chiến tranh giải phóng, t.2, t.3, Nxb. Đà Nẵng, 1989. 

21. Bộ Tư lệnh Quân khu 7 : Miền Đông Nam Bộ kháng chiến, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.

22. Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 8-30 năm kháng chiến, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.

23. Bộ Quốc phòng Mỹ: Tóm tắt tổng kết chiến tranh Việt Nam, Tài liệu lưu trữ Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

24. Lê Hữu Chính: Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dân chủ cộng hoà, t.1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1962.

25. G.Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, t.1, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 10:07:53 pm
26. Lý Thực Cốc: Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

27. Chiến trường Trị-Thiên Huế  trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1985.

28. Cục Thống kê: Ba năm khôi phục kinh tê, phát triển văn hoá 1955-1957, Hà Nội, 1959.

29. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970.

30. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.

31. Nguyễn Anh Dũng: Về chiến lược quân sự toàn cầu của đế quốc Mỹ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990.

32. Phạm Văn Đồng: Thắng lợi vĩ đại, tương lai huy hoàng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975.

33. Phạm Văn Đồng: Vì sao Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986.

34. Võ Nguyên Giáp: Vị trí chiến lược của chiến tranh nhân dân địa phương, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1973.

35. Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổquôc, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979.

36. Võ Nguyên Giáp: Đường lối quân sự của Đảng là ngọn cờ trăm trận trăm thắng của chiến tranh nhân dân ở nước ta, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1973.

37. Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, t.1, t2, t.3, t.4, t.5, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1964-1978.

38. V.Gaiduk: Liên bang Xôviêt và cuộc chiến tranh Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1998.

39. L.B. Giônxơn: Cuộc đời làm Tổng thông của tôi, Nxb. Buy sét Saxten, Pari, 1972.

40. L.B. Giônxơn: Về cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, VNTTX phát hành, Hà Nội, 1972.

42. Phong Hiền: Chủ nghĩa thực dân kiểu mới Mỹ ở miền Nam Việt Nam, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1984.

43. Lâm Quang Huyên: Cách mạng ruộng đất ở miền Nam Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.

44. Nguyễn Tiến Hưng: Từ Toà Bạch ốc đền Dinh Độc Lập, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 1990.

45. Hậu phương miền Bắc cung cấp người, vật chất cho chiến trường miền Nam từ 1959-1975, lưu trữ Bộ Quốc phòng, số 791 .

46. George C.Heenring: Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

47. Hội đồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ: Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.

48. Henry Kissinger: Những năm ở Nhà Trắng, (Hồi ký), Thư viện Quân đội sao lục, Hà Nội, 1982.

49. Khu VI kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

50. Cao Văn Luận: Bên dòng lịch sử, Nxb. Trí Đăng, Sài Gòn, 1972.

51. Cao Văn Lượng: Lịch sử cách mạng miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1960, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.

52. Cao Văn Lượng, Phạm Quang Toàn, Quỳnh Cư: Tìm hiểu phong trào đồng khởi ở miền Nam Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981.

53. Lưu Văn Lợi: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1954- 1995), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996.

54. Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ-Kítxinhgiơ, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996.

55. Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Tiếp xúc bí mật Việt Nam-Hoa Kỳ trước Hội nghị Pa ri, Viện Quan hệ quốc tế ấn hành, Hà Nội, 1990.

56. Lực lượng vũ trang Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1981.

57. Hồ Chí Minh: Với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 10:08:32 pm
58. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996-2000.

59. Mười tám năm chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1974.

60. Một số văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước , Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985.

61. Hoàng Linh - Đỗ Mậu: Tâm sự tướng lưu vong, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1991.

62. Mai cơn Mách: Cuộc chiến tranh mười ngàn ngày, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990.

63. R.Mc Namara: Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và bài học Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

64. R.Mc Namara, Jame SG.Blight: Cuộc tranh cãi không dứt, Tổng cục II (Bộ Quốc phòng) dịch, lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

65. W.Oétmolen: Tường trình của một quân nhân, Thư viện quân đội dịch, Hà Nội, 1982.

66. Đặng Phong: 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu thị trường giá cả ấn hành, Hà Nội, 1991.

67. Pi tơ A.Pu lơ: Nước Mỹ và Đông Dương từ Rudơven đến Níchxơn, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986.

68. Quân khu III-Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1986.

69. Quân khu IV-Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 1994.

70. Quân khu V-Thắng lợi và những bài học trong kháng chiến chống Mỹ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1981.

71. Trần Văn Trà: Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng, t.1, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992.

72. Trần Văn Trà: Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng, t.2 Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1982.

73. Bùi Công Trừng: Miền Bắc trên con đường tiên lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1961.

74. Bùi Đình Thanh, Nguyễn Công Bình, Cao Văn Lượng: Tám năm đấu tranh anh dũng và gian khổ của đồng bào miền Nam, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962. 

75. Đoàn Thêm: Việc từng ngày hai mươi năm qua (1945-1965), Nam chí Tùng thư, Sài Gòn, 1966.

76. Tây Bắc-Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.

77. Trận đánh 30 năm, ký sự lịch sử (2 tập), Nxb. Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1994.

78. Thủ đô Hà Nội kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.

79. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (2 tập), TTXVN dịch và phát hành, Hà Nội, 1971.

80. Tài liệu mật Lầu Năm Góc (nhiều tập), Trung tâm Thông tin Khoa học kỹ thuật dịch, Hà Nội, 1980. 

81   Mắc xoen Ta lo: Tiếng kèn ngập ngừng, Thư viện Quân đội dịch, Hà Nội, 1965.

82. Thành uỷ-Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Cuộc Tổng tiên công và nổi dậy Mậu Thân 1968, kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb.  quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998.

83. Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sứ Sài Gòn - Chợ Lớn-Cia Định kháng chiến (1945-1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. 1994.

84. Tổng cục Hậu cần: Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.

85. Tổng cục Thống kê: 30 năm phát triển kinh tế, văn hoá của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1978.

86. Tổng cục Thống kê: Niên giám thông kê mười năm xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, Hà Nội, 1970.

87. Phạm Thành Vĩnh: Các văn tự bán nước của Ngô Đình Diệm hay là những hiệp nghị xâm lược và bất bình đẳng của đế quôc Mỹ về Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1963.

88. Viện Kinh tế học: Cách mạng ruộng đất Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1968.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 11
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 19 Tháng Bảy, 2009, 10:09:47 pm
89. Viện Kinh tế học: 45 năm kinh tế Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

90. Viện Lịch sử Đảng: Những sự kiện lịch sử Đảng, t.3, t.4, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1982-1985.

91. Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Xứ uỷ - Trung ương Cục miền Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

92. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975-Những sự kiện quân sự, Hà Nội, 1988.

93. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Hà Nội, 1991.

94. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, t.2, Hà Nội, 1994.

95. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-/975, tập 1, 2, 3, 4, 5, 6; Nxb.  Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996-2003.

96. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Mấy uấn đề chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.

97. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997 .

98. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Đại thắng mùa xuân 1975, nguyên nhân và bài học, kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.

99. Viện Mác-Lênin-Viện Lịch sử Đảng: Bước mở đầu thời kỳ lịch sử vẻ vang, kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1987.

100. Viện Mác-lênin-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Nghiên cứu văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986.

101. Viện Mác-lê nin: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, t 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

102. Viện Sử học: Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.

103. Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam 1954-1965, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.

104. Việt Bắc-30 năm chiến tranh cách mạng, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992.

105. Việt Nam con số và sự kiện, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990.

106. Văn hoá, văn nghệ miền Nam dưới chế  độ Mỹ-nguy Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1979.

107. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t 16-35, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002-2003.

108. Văn kiện đại hội, t.1, Hà Nội, 1960.

109. Lê Quốc Sản: Cuộc đọ sức thần kỳ. Nxb. quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.

110. Trường Sơn: Cuộc hành trình năm ngàn ngày đêm, Nxb. Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1992. 

111. Nây Sihân: Sự lừa dối hào nhoáng-Giôn Pôn Van và nước Mỹ ở Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. 1990. 

112. H.Y. Schanđơlơ: Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ L.Giônxơn và Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.

114. Sức mạnh Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976.


- HẾT TẬP 11 -