Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 14 Tháng Năm, 2024, 08:07:35 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Xuân giải phóng  (Đọc 41513 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #40 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 11:44:48 pm »


        Mở rộng và củng cố vùng giải phóng miền núi; có thể giải phóng một số thị xã, mở rộng hành làn chiến lược, nối liền Tây Nguyên với miền Đông; miền Đông với đồng bằng sông Cửu Long, cải thiện một bước thế chiến lược của ta.

        Phát triển và đẩy mạnh phong trào đô thị.

        Ra sức xây dựng ba thứ quân, làm chuyển biến nhanh so sánh lực lượng, có lợi cho ta.

        Kết hợp với tiến công ngoại giao, buộc địch lập chính phủ thi hành hiệp định, hoặc chính phủ liên hiệp ba thành phần, thực hiện các quyền tự do dân chủ, để có điều kiện đẩy mạnh phong trào đô thị lên nữa.

        Về kế hoạch tác chiến cụ thể: năm 1975 tổ chức ba đợt tiến công.

        Đợt 1, từ tháng 12 năm 1974 đến tháng 2 năm 1975: tiến công có mức độ. Ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Mục đích của đợt này là mở vùng đồng bằng Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và các vùng cũ Chương Thiện-Rạch Giá-Cần Thơ-Cà Mau-các kênh Dương Văn Dương, Nguyễn Văn Tiếp, nam bắc lộ 4-Mỹ Tho. Ở miền Đông, sư đoàn trung đoàn hay sư đoàn, đánh từng trận chắc thắng, diệt Bù Na-Bù Đăng, giải phóng một đoạn đường 14, từ Bù Đăng đến Đồng Xoài.

        - Có đánh Đồng Xoài không? Có đồng chí hỏi.

        - Chưa, vì phải huy động nhiều lực lượng, nhất là nếu địch phản ứng mạnh để chiếm lại, và ta cũng chưa chủ trương sử dụng nhiều xe tăng và pháo lớn ở đây.

        - Lúc nào mới cho dùng?

        - Đợt 2. Như vậy là đợt đầu, mới tập dượt cho chiến trường miền Đông, diệt 1 vài chi khu quận lỵ. Ở các chiến trường khác: Trị Thiên-Khu 5-Tây Nguyên, chỉ hoạt động nhỏ của lực lượng địa phương, còn lực lượng chủ lực, thì chuẩn bị cho đợt 2.

        Phòng họp im phăng phắc. Mọi người đang chờ đợi một cái gì. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, bước lại gần tấm bản đồ quyết tâm treo trên giá, vừa tiếp tục báo cáo vừa chỉ:

        - Đợt 2, từ tháng 3 năm 1975 đến tháng 6 năm 1975, là đợt chủ yếu. Ta tập trung lực lượng sư đoàn 10, sư đoàn 320 và các trung đoàn độc lập 95A, 25, mở chiến dịch quy mô lớn ở nam Tây Nguyên. Đây là hướng tiến công chủ yếu của toàn miền. Tính chất của chiến dịch rất kiên quyết, nhiệm vụ của chiến dịch là tiêu diệt cụm cứ điểm Đức Lập, mở thông hành lang đường 14 nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ; diệt vài trung đoàn; đánh thiệt hại nặng sư đoàn 23 ngụy; giải phóng một số quận lỵ trong tỉnh Đắc Lắc; có thời cơ thì chiếm Buôn Ma Thuột. Trên hướng bắc Tây Nguyên, sử dụng sư đoàn 968, nghi binh, kéo dài lên hướng này, kìm chân chúng lại, tạo điều kiện cho chiến trường chính hoàn thành nhiệm vụ. Các trung đoàn 95A và 25 thì cắt đường 19, đường 21 lâu dài. Hướng phát triển là Gia Nghĩa ở phía nam, Cẩm Ga ở phía bắc Buôn Ma Thuột. Sau khi làm nhiệm vụ ở Đức Lập, hai sư đoàn sẽ đánh quân giải toả, có thời cơ thì mở rộng vùng nông thôn Phú Bổn, giải phóng Cheo Reo.

        Phối hợp với chiến trường nam Tây Nguyên, trên chiến trường Trị Thiên, Quảng Đà, Quân đoàn 2 và lực lượng địa phương đẩy mạnh hoạt động nhằm tiêu diệt và giữ chân hai sư đoàn dự bị của ngụy là sư đoàn dù và sư đoàn thuỷ quân lục chiến; đồng thời, tạo điều kiện cho lực lượng địa phương phá bình định. Trị Thiên cũng còn một nhiệm vụ rất quan trọng nữa là cắt dài ngày đường quốc lộ số 1, đoạn Huế-Đà Nẵng.

        Ở Khu 5, giải phóng các quận lỵ ở vùng giáp ranh, nằm lọt sâu vào trong căn cứ của ta như Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Hà. Trực tiếp, phối hợp với nam Tây Nguyên sẽ dùng sư đoàn 3 của Khu 5 cắt dài ngày đường 19 đoạn Phú Phong-An Khê.

        Ở đồng bằng sông Cửu Long, tổ chức chiến dịch tổng hợp với quy mô hai sư đoàn: sư đoàn 5 và sư đoàn 3, diệt các yếu khu, chi khu, mở rộng hành lang biên giới Kiến Phong-Kiến Tường, tạo điều kiện cho đồng bằng trực tiếp phá bình định, giành dân, mở vùng, hoàn thành thế liên hoàn Vĩnh Trà-Bến đã tạo được trong đợt 1, áp sát Cần Thơ, khôi phục lại vùng 4 Kiến Tường, có điều kiện thì giải phóng Cà Mau.

        Ở miền Đông Nam Bộ, dùng sư đoàn 9 (thiếu) và trung đoàn 26 diệt Dầu Tiếng hoặc Bến Củi, Bầu Đồn, Chà Rày, mở thông hành lang qua Hậu Nghĩa, phối hợp với mặt trận biên giới Kiến Phong-Kiến Tường, có điều kiện thì giải phóng Mộc Hóa. Trên quốc lộ 14, sử dụng sư đoàn 7, tiêu diệt Kiến Đức; phối hợp với lực lượng ở nam Tây Nguyên, tiêu diệt Gia Nghĩa.

        Về phía Đông, dùng một bộ phận của sư đoàn 7 và lực lượng tập trung của Khu 6, giải phóng khu vực Vỏ Đắc-Tánh Linh, hoàn chỉnh cho được một khu vực giải phóng rộng lớn, đã tạo ra được trong đợt 1, cắt đường quốc lộ 1 ở đoạn Long Khánh-Bình Tuy.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #41 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 11:47:19 pm »


        Đợt 3, sẽ diễn ra từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1975, phát triển thắng lợi đã đạt được, ta tiếp tục đẩy mạnh hoạt động ở Trị Thiên, Khu 5, diệt địch, giữ vững và mở rộng hành lang, tiếp tục mở vùng mở mảng ở đồng bằng, đánh giao thông, hậu cứ; đồng thời, tranh thủ thời gian, củng cố lực lượng, sẵn sàng phương án đón thời cơ.

        Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền vừa nói đến “thời cơ”, cả hội nghị đều ngước mắt lên nhìn đồng chí.

        Thiếu tướng nói:

        Như Bộ Chính trị đã dự kiến, thời cơ có thể xuất hiện sát gần, hoặc ngay trong thời gian ta đánh mạnh nhất; cũng có thể xảy ra ngay trong mùa mưa ở Nam Bộ; trong đợt 3 hoặc trong những tháng cuối năm 1975 như khi bầu cử tổng thống ngụy. Ta sẽ thực hành chia cắt chiến lược, tiêu diệt quân phòng thủ, đánh quân giải toả, đồng thời đẩy mạnh tiến công binh vận, đẩy binh biến, ly khai…

        Để được cụ thể hơn, đồng chí nhấn mạnh:

        - Tập kích những đòn thật mạnh, diệt các cơ quan đầu não, trung tâm thông tin, sân bay, căn cứ, hậu cứ, kho tàng… diệt và làm rối loạn các hoạt động ứng cứu lẫn nhau, sẵn sàng lực lượng, kịp thời hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy và binh sĩ ngụy ở những nơi có điều kiện, bung ra lớn. Các quân khu, quân đoàn, có kế hoạch kết hợp nổi dậy và tiến công ở trọng điểm và các đô thị, nhằm diệt cơ quan đầu não, diệt nhiều sinh lực địch, hỗ trợ cho phong trào quần chúng và binh sĩ ngụy…

        Báo cáo xong thiếu tướng Lê Ngọc Hiền lui về chỗ ngồi. Tôi nhìn các đồng chí lãnh đạo, cảm thấy lo lo: rõ ràng là các đồng chí, chưa thật thỏa mãn với kế hoạch vừa trình bày. Điều này, trong bộ phận làm kế hoạch, chúng tôi cũng đã dự đoán từ trước. Kế hoạch đợt 1, đợt 2, thì xem chừng không có vấn đề gì, và cũng tương đối rõ ràng, cụ thể, nhưng đợt 3 và nhất là kế hoạch thời cơ thì chưa đạt; kế hoạch năm 1976, thì chưa hình thành.

        Tiếp đó, Thượng tướng Hoàng Văn Thái, đứng dậy, bổ sung: “Trong đợt 1, ở Nam Bộ, ta nên sử dụng lực lượng như thế nào cho đợt 2, vẫn còn được sung sức. Các đồng chí ở Miền muốn đánh Đồng Xoài ngay trong đợt đầu. Như vậy, có cái lợi là ta có cơ hội diệt từng chiến đoàn địch, từng quận lỵ ngay trong đợt đầu. Đó là bước nhảy vọt đối với Miền Đông, và tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho đòn đánh phá bình định ở đồng bằng. Nhưng vì Đồng Xoài nằm trên một địa bàn rất quan trọng, rất cơ động và là một quận lỵ lớn, nên nếu tiêu diệt ngay từ đầu, các nơi chưa có kế hoạch phối hợp, địch chưa phát hiện ra hướng tiến công chủ yếu của ta nhưng cũng rất sẵn sàng, nên có khả năng chúng sẽ tăng thêm 1-2 lữ đoàn trên hướng này. Nếu ta đánh Bù Na-Bù Đăng hay một nơi hơi xa xa hơn Đồng Xoài thì nhẹ đánh viện ngay từ đầu. Bước sang đợt 2, khi ta đánh Đức Lập, vì còn sung sức nên cũng có thể phối hợp mở luôn Kiến Đức, để tạo ra một vùng giải phóng hoàn chỉnh, một căn cứ địa rộng như thế, thì dù Mỹ có vào như trước kia, ta vẫn còn cái thế vững chắc. Đợt 2, Mỹ có thẻ nhảy vào. Khả năng này dù ít đến đâu, khi làm kế hoạch cũng vẫn phải dự tính đến. Hướng Đức Lập, ta sẽ đánh nhau sư đoàn 23 ngụy và các liên đoàn biệt động quân. Sư đoàn dù cũng có thể đến tham chiến. Phải tính như vậy, để bố trí được lực lượng. Tôi thấy nên đặt vấn đề chia cắt chiến lược mạnh hơn nữa: Trị Thiên, Quảng Đà, bắc Tây Nguyên, Miền Đông. Đợt 3, có thể có tình hình chính trị; nhưng chưa rõ sẽ diễn biến ra sao đây. Cho nên, ta không đặt vấn đề sử dụng hết lực lượng trong mùa mưa, trừ trường hợp có thời cơ thuận lợi đặc biệt. Tình huống này thì Quân đoàn 2 phải áp sát Huế, Đà Nẵng; sẽ cơ động toàn bộ lực lượng ở Tây Nguyên và miền Đông. Trường hợp thật đặc biệt, mới cơ động Quân đoàn 1.

        Dường như thông cảm với nỗi lo âu của chúng tôi, Đại tướng Văn Tiến Dũng đỡ lời trước:

        - Kế hoạch trình bày hôm trước chưa được chặt lắm, vì còn thiếu nội dung đợt 3. Cần nghiên cứu kỹ thêm để đề ra nhiệm vụ cho các chiến trường. Hiện nay, trọng tâm của ta là giành thắng lợi ở đồng bằng. Để cho được vững chắc hơn, để có điều kiện xây dựng lực lượng ở đồng bằng thành những đơn vị cấp sư đoàn, tác chiến quy mô lớn, bằng binh chủng hợp thành, nhất thiết phải có những hành lang nối liền đồng bằng với căn cứ. Chủ lực ở miền Đông, phải phối hợp, thực hiện nhiệm vụ này.

        Trong kế hoạch đợt 2, phải nghiên cứu cách đánh thế nào cho địch vỡ ra, mà ta chỉ dùng ít lực lượng thôi. Chúng ta không loại trừ khả năng ngụy suy sụp nhanh chóng. Cần phải tính đến phản ứng của địch sẽ như thế nào. Trước nguy cơ bị sụp đổ. Mỹ phải cứu. Chúng sẽ không tuyến bố gì nhưng cứ làm. Khi ta đánh mạnh, phong trào đô thị lên, thời cơ sẽ xuất hiện thì chính cũng là lúc phải cảnh giác. Phải theo dõi chặt lực lượng răn đe của chúng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #42 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2017, 08:16:20 am »


        Khi đại diện Bộ Tổng tham mưu báo cáo kế hoạch, mọi người đều có sẵn bản báo cáo trước mặt, vừa nghe vừa theo dõi từng trang, không khí hơi căng thẳng. Nhưng đến khi thảo luận, thì hầu hết không khí lại rất cởi mở, thoải mái. Từng đồng chí đại biểu, mỗi khi phát biểu, đều cầm sẵn bản Nghị quyết của cấp mình trong tay, nhưng cũng chẳng thấy ai giở ra cả, dường như đã thuộc lòng cả rồi, hoạ hoằn lắm mới lật một vài trang, tìm vài con số xác minh.

        Lúc đầu, tôi đinh ninh rằng cuộc hội nghị lịch sử này chỉ kéo dài trong mấy ngày là cùng. Lần này thì không phải thế. Cuộc họp kéo dài tới những 20 ngày!

        Chỉ riêng vấn đề đánh giá, nhận định tình hình, tuy nói là bổ sung vào bản dự thảo của Bộ Tổng tham mưu, nhưng cũng đã mất đứt cả tuần lễ rồi. Từng đại biểu điểm lại tình hình chiến trường mình phụ trách, nêu lên diễn biến từ khi có Nghị quyết 21 đến nay, và đặc biệt là tình hình gần đây nhất. Những con số thống kê kết quả diệt địch, hạ đồn, giải phóng đất đai v.v… So với bản báo cáo của Bộ Tổng tham mưu cũng không khác nhau bao nhiêu; nhưng những ý kiến nhận xét đều mang nhiều nét khá độc đáo của từng địa phương.

        Từ trước đến nay, ở Bộ Tổng tham mưu, việc nắm tình hình các đô thị không được đầy đủ lắm, và cũng nặng về hoạt động của các lực lượng vũ trang hơn là tình hình phong trào. Lần này, vấn đề này được đề ra nghiên cứu kỹ hơn.

        Những đợt sóng ngầm, trong suốt cả năm 1974, đang lay chuyển hệ thống chính quyền Việt Nam Cộng hoà ở đồng bằng sông Cửu Long, dần dần tràn về ven đô và vào thành phố. Quần chúng ở trong các khu vực đặc biệt này, mặc dù số ngày được hưởng hoàn toàn độc lập, chỉ vừa đủ đếm được trên đầu ngón tay, suốt 30 năm đấu tranh trong vùng kìm kẹp, mặc dù đối phương đã dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt nhất để mua chuộc, dụ dỗ, phân hóa, lừa bịp, đe dọa, đồng bào vẫn son sắt một lòng với cách mạng. Sau Tết Mậu Thân, dò biết ta đã xây dựng được những bàn đạp tiến công ở ven đô, nên địch đã dùng phi pháo đánh phác rất ác liệt, “đập nát vùng ven”. Họ lùa đồng bào vào các khu đồn, bắt phải mặc áo trắng khi đi ra ngoài làm đồng, để dễ phân biệt với Việt công. Thấy đồng bào tuân theo răm rắp, họ cho là chính sách gom dân đã thành công. Ngờ đâu, đồng bào mặc áo trắng, chạy vào ấp là để dễ bề đi lại, để che mắt địch, để tiếp tế cho cách mạng. Và chính bây giờ, chính những đồng bào ấy lại cởi áo trắng ra, chạy về vùng giải phóng. Họ thấy rõ hơn ai hết, Mỹ đã ra đi, thì sớm muộn gì rồi chính quyền Cộng hoà miền Nam cũng sẽ sụp đổ; thế quân sự so với trước ngày ký Hiệp định khác nhau rất nhiều. Họ muốn chiếm lại Lộc Ninh lắm chứ, nhưng đã không thể nào chiếm nổi, lại phải bỏ cả Tống Lê Chân.

        Năm 1973, chỗ mạnh của quân đội Cộng hòa là quân số, trang bị. Nhưng chỗ mạnh này, suốt cả năm 1974, cứ ngày càng giảm dần và nhất là sa sút về mặt tinh thần. Chỗ mới bây giờ là mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt, nhất là trong đám chóp bu. Từ Cao Văn Viên đến các tướng tá bên dưới đều cho rằng: nếu tiếp tục đánh nữa thì tiếp tục thua, nên chán ngán chiến tranh. Chiến lược ngày càng thua, chiến thuật ngày càng bế tắc. Ai cũng muốn thêm vây, thêm cánh, Thiệu muốn đưa người của mình vào; Khiêm cũng chẳng vừa; Mỹ thì muốn đưa những sĩ quan trẻ, huấn luyện, đào tạo theo kiểu Hoa Kỳ; gạt những người của Pháp hãy còn rơi rớt chút ảnh hưởng của Pháp ra một bên; nhưng khốn nỗi, số người này lại không có kinh nghiệm và cũng chẳng có uy tín gì.

        Đề cập đến những phương thức đấu tranh ở vùng ven, đồng chí Phạm Hùng phát biểu sôi nổi:

        - Tình hình vùng Sài Gòn khác với các nơi. Với hệ thống cứ điểm dày đặc, đường sa chằng chịt cùng với những cuộc hành quân càn quét liên miên ở bắc Củ Chi, Trảng Bàng, kết hợp với những hoạt động đêm ngày của bọn Phượng Hoàng, Thiên Nga… định cố đánh bật mọi lực lượng chính trị, vũ trang của ta ra xa thành phố. Đã có những ý kiến lo ngại. Quân uỷ Miền chúng tôi bám chắc tình hình, chỉ đạo kịp thời, chỉ rõ nguyên nhân vì sao miền Đông lại chuyển chậm hơn các nơi khác, và đề ra cách khác phục. Vấn đề là có quán triệt quan điểm bạo lực, không ngừng tiến công cách mạng hay không thì mới gọi là quán triệt Nghị quyết 21. Để phá bình định có kết quả, phải có phương thức đúng cho từng nơi. Nói quán triệt quan điểm bạo lực mà không chuẩn bị lực lượng thì chỉ nói suông mà thôi. Không như ở đồng bằng; ở đây lực lượng ta mỏng hơn, yếu hơn địch nhiều. Cho nên, muốn nhanh, phải dùng một bộ phận chủ lực đến tăng cường cho địa phương.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #43 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2017, 08:18:19 am »


        Khi toàn bộ chiến trường đều sôi nổi phá bình định, khí thế đang lên, thì không vì lý do gì mà lại rị mọ, phải lắp nguyên si các bài bản, kinh nghiệm cũ, cứ phải răm rắp tuân theo một trình tự nhất định, đi dần từ tranh chấp đến giải phóng. Phải mạnh dạn, đưa thẳng lực lượng vào. Vấn đề là phải giao nhiệm vụ cho chi bộ, đảng viên và các tổ chức quần chúng cho cụ thể, để khi có lực lượng của trên đến, thì phát huy được nhanh chóng sức mạnh tổng hợp. Vùng Chợ Gạo đã làm như thế, nên chỉ trong một thời gian ngắn, trong số 23 xã trắng thì giải phóng được 21 xã, tất cả đều có chi bộ. Cũng theo kinh nghiệm này, các vùng có nhiều đồng bào tôn giáo, hay di cư, làm đều có kết quả. Tây Ninh, Hố Nai… đều có chi bộ Đảng… “Một trong những thành tựu đáng kể là đến đầu mùa khô 1974 là sáu đoàn đặc công, mỗi đoàn tương đương một trung đoàn đứng chân được trên các địa bàn chung quanh Sài Gòn-Gia Định, Nhà Bè, Long Bình, Biên Hoà, Lái Thiêu. Đơn vị tập trung của thành phố cũng đứng sát ven đô.

        Trong nội đô Sài Gòn, phong trào đấu tranh cũng không kém phần sôi nổi. Mỹ khó, ngụy càng khó. Để thắng thế bị động, chúng đưa ra hết phong trào này đến phong trào khác. Nhưng ai còn lạ gì những phong trào gọi là để chống đối, của nhóm công giáo, phật giáo, những nhà báo đã ngốn no đô la Mỹ, do ngụy quyền Sài Gòn đưa ra, nhằm xoa dịu quần chúng, tháo gỡ ngòi nổ đấu tranh. Ý đồ của họ là rất thâm độc: đưa ra các phong trào này cốt để có sẵn lực lượng ủng hộ Thiệu trong những lúc Thiệu gặp khó khăn nhất, để tập trung lực lượng chống ta sau này nhưng trước mắt là để ngăn chặn những đòn tiến công chính trị trong mùa khô tới. Nhưng đồng bào ta rất tỉnh táo. Họ nhận ra ngay đó là con đẻ của Mỹ, nên chẳng ai thèm hưởng ứng. Những phần tử tiến bộ tỏng đồng bào công giáo, phật giáo, trí thức, tư sản khong tham gia đã đành, lại còn ra mặt phản đối. Các linh mục tiến bộ cũng thế. Rất buồn cười là ta giải thích mãi, họ mới chịu ủng hộ, dù chỉ là bề ngoài. Lợi dụng cơ hội này, ta đưa cơ sở của ta vào, kiên trì giải thích cho họ và giúp họ phát triển lực lượng, khôi phục lại các tổ chức công khai của ta trước đây: Mặt trận nhân dân cứu đói, phong trào phụ nữ đòi quyền sống, phong trào bảo vệ Hiệp định Paris, liên hiệp công đoàn đô thành, uỷ ban bảo vệ công nhân và lao động, tổ chức báo nói, v.v… lần lượt ra đời. Các khẩu hiệu do ta đưa ra đều vượt qua đầu Mỹ, ngụy. Phong trào ngày một lên cao, đi sâu vào các đường phố, các xí nghiệp, 36 chợ ở đô thành và cả những nhà cao lớn, thậm chí còn len lỏi được vào cả giữa đám ngụy quyền… những cái loa tuyên truyền, những tờ báo lá cải, ra sức xuyên tạc, nói xấu cách mạng, nhưng nói chẳng ai nghe, trái lại quần chúng cách mạng thì tin tưởng, mong chờ… các tầng lớp trung gian không ai còn sợ cộng sản nữa. Người dân Sài Gòn, đến nay vẫn còn giữ lại trong lòng những kỷ niệm sâu sắc, những hình ảnh cao đẹp của anh chiến sĩ giải phóng trong Tết Mậu Thân. Ở những phường, những hẻm, ngụy kìm rất chặt, ác ôn lùng sục đêm ngày chẳng tìm ra được gì, chỉ thấy đây đó những cái bàn thờ. Thờ ai?-Các chiến sĩ cách mạng đã hy sinh trong trận tiến công. Ngụy tha hồ tô son, trát phấn cho chế độ của họ; nhưng thực tế phũ phàng cứ phơi ra trước mắt, vô cùng tai ác: một nền kinh tế què quặt dựa vào viện trợ Mỹ, kiếp theo đóm ăn tàn không làm sao ổn định nổi tình hình, để có phương hướng mà tiến lên. Cuộc sống trước mắt còn phải chạy ăn từng bữa toát mồ hôi thì còn nói gì đến việc triển khai kế hoạch hậu chiến, hứa hẹn một tương lai huy hoàng, rực rỡ? Thời kỳ vàng son, mỗi năm nhập hàng tỷ đô la đã qua rồi, nay chỉ còn một con đường trước mắt là đi xuống dốc. Những khó khăn về quân sự, chính trị, kinh tế giao thoa cộng hưởng với nhau, đặt ngụy quyền Sài Gòn đứng trước một tình thế nguy ngập, không lối thoát.

        Chúng ta không phải chỉ biết có đấu tranh quân sự, chính trị mà thôi, mà cũng hết sức chăm lo đến việc xây dựng vùng giải phóng, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để cho vùng ta không những có ưu thế về quân sự, chính trị; mà còn có cả ưu thế về kinh tế nữa. Những mầm mống xã hội chủ nghĩa cũng sớm được nẩy sinh và phát triển trong lúc chiến tranh vẫn còn ác liệt. Chúng ta đã chi ruộng đất cho nông dân, đã tổ chức vần công, đổi công, hợp tác xã tín dụng. Công tác y tế, văn hóa đều được phát triển. Tuy chưa làm được bao nhiêu và đang gặp nhiều khó khăn, thiếu thôn; nhưng đồng bào thấy được tính ưu việt của chế độ ta là hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Hơn 4 vạn rưởi Việt kiều ở Campuchia chạy về, đời sống cũng dần dần ổn định.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #44 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2017, 08:22:02 am »


        Khi nói đến nguyên nhân thắng lợi của năm 1974, các đại biểu của Khu 5 phân tích sâu sắc. Các đồng chí đã đề ra câu hỏi:

        - Vì sao, sau khi có Hiệp định, chỉ trong vòng hai tháng, ở Khu 5, địch đóng thêm gần 400 đồn bốt, ta mất 20 vạn dân và gần đây, chỉ trong vòng 4 tháng, từ khi có Nghị quyết 21, ta đã bức rút được 850 đồn bốt, diệt 5 chi khu, giành lại 14 vạn dân? Nguyên nhân chính, theo các đồng chí, là phương châm tiến công còn nặng về phòng ngự. Sau đó, được sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, có uốn nắn lại; nhưng trong mùa đông cũng chưa có chuyển biến gì nhiều; vì tổ chức còn chuệch choạc. Muốn tiến công phải giải quyết một loạt vấn đề: tư tưởng, tổ chức, lực lượng, công tác bảo đảm, chỉ huy, chỉ đạo, v.v… từ trên xuống dưới. Từ tháng 9 năm 1973 ta chỉ cài lại thế, và phải đến tháng 4 năm 1974 trở đi mới có chuyển biến mạnh.

        Thắng lợi của Khu 5 tuy mới là bước đầu, nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng. Qua tiến công, thấy rõ đối phương suy yếu, bị động, tinh thần giao động mạnh, còn ta thì khí thế tiến công và nổi dậy đâu đâu cũng sôi nổi như ở Nam Bộ - Cả thế và lực đều được phát huy ngày càng mạnh lên - Tuy đối phương còn đông, trang bị mạnh, phòng ngự rộng, nhưng sức chiến đấu kém. Cũng như ở Nam Bộ, quân chiếm đóng, mỗi khi ta bị tiến công, đối phó rất yếu; nhiều nơi phải dùng chủ lực đển giải toả lại bị chủ lực ta đánh bại cuối cùng phải giãn ra, cùng với quân địa phương đi bình định, lấn chiếm, cho nên thiếu quân cơ động mỗi khi bị ta tiến công. Về ta, ở Khu 5 đã xuất hiện tình hình mới, bộ đội địa phương của ta tuy chưa mạnh, nhưng áp đảo được quân địa phương của họ, đã diệt được từng trung đội, đại đội trong và ngoài công sự khá phổ biến. Quần chúng trong nhiều khu dồn dân và nổi dậy phá kìm, trụ lại hoặc bung về vùng ta. Qua đó mà thấy khả năng đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, đánh bại âm mưu lấn chiếm bình định, và còn có thể mở ra nhiều mảng lớn.

        Song song với những hoạt động ở đồng bằng ta cũng đẩy mạnh cao trào đấu tranh ở Tây Nguyên. Ở đây, đối phương có 2 sư đoàn, 4 liên đoàn biệt động quân, và một số rất đông quân địa phương. Nhưng, sau chiến thắng Đắc Pét, Iasúp, Mang Đen, địch buộc phải co về phòng ngự ở đông bắc Kon Tum và tây thị xã Plây Cu. Ở Đắc Lắc, bộc lộ nhiều khu vực sơ khoáng. Tiếp tế cho Tây Nguyên, chủ yếu là dựa vào hai đường quốc lộ 19-21. Nhưng nhược điểm của chiến trường rừng núi đặc biệt này là chỗ khác, nơi mà những máy tính điện tử của Mỹ, dù có hiện đại đến đâu cũng đành phải bó tay: con người Tây Nguyên. Số người dân tộc trong bộ máy chính quyền Cộng hoà miền Nam họ cũng như trong quân đội khá đông, nhưng theo nhận xét thì sức chiến đấu kém vì tinh thần rất yếu. Theo nhận định của ta, tinh thần yếu không phải là do không có tinh thần mà là do mâu thuẫn rất sâu sắc giữa chính quyền Nguyên Văn Thiệu và đồng bào các dân tộc ít người. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, cũng có thể nổ ra những phong trào chống đối rộng khắp trong các tầng lớp, kể cả trong binh lính. Theo đánh giá chung trong hội nghị, thì khâu yếu nhất là Tây Nguyên, yếu cả về quân sự, chính trị, kinh tế. Trong trường hợp ta đánh lớn, bị thiệt hại nặng, thì có khả năng tan rã lớn, và cũng có thể nổ ra phong trào chống Thiệu của các tầng lớp người Thượng.

        Đồng chí Võ Chí Công phát biểu tiếp:

        - Chúng tôi đang chuẩn bị cho một cuộc đồng khởi lớn và có khả năng giành lại vùng nông thôn đồng bằng trong năm 1975 này. Phương pháp tiến hành ở Khu 5, cũng gần giống như Nam Bộ: dùng chủ lực ta để thu hút, giam chân chủ lực địch. Tuy lực lượng địa phương chúng còn đông, nhưng nếu ta biết tập trung vào từng nơi, từng lúc thì vẫn có thể thực hiện được ưu thế ở nơi đó, lúc đó; làm thành trọng điểm, gỡ từng khu vực một, hết nơi này đến nơi khác. Cho đến nay, địch chưa lấp lại được những nơi mà vừa rồi ra mới mở ra. Vùng căn cứ Khu 5 đã hoàn chỉnh được một bước quan trọng. Hậu phương của ta được ổn định, quần chúng thấy ở vùng ta dễ làm ăn hơn vùng địch vì ít ác liệt hơn và rất đáng ngạc nhiên là vùng địch đói, vùng ta no. Kế hoạch năm 1975 của Quân khu, không nên chỉ đóng khung trong khu vực Phước Lâm-Tiên Phước mà thôi, tôi đề nghị Bộ Chính trị giải phóng luôn cả Sơn Hà-Trà Bồng-Sa Huỳnh. Và về kế hoạch tiến công chiến lược năm 1975 cho toàn miền Nam, Khu uỷ chúng tôi đề nghị: tranh thủ thời cơ, mở cuộc tiến công lớn, tiêu diệt địch, giải phóng Tây Nguyên, kết hợp đưa lên cao trào tiến công và nổi dậy, giành đại bộ phận nông thôn đồng bằng, tạo điều kiện và thúc đẩy bùng nổ cách mạng ở thành phố, giành thắng lợi, làm thay đổi hẳn cục diện cách mạng. Về chỉ tiêu của năm 1975, yêu cầu chủ lực của Bộ và của Miền diệt cho được từ 3 đến 5 sư đoàn bộ binh địch. Riêng để giải phóng Tây Nguyên, phải tiêu diệt cho được sư đoàn 23, sư đoàn 22 và một số tiểu đoàn biệt động quân, chủ yếu là đánh trong lúc chúng đang vận động. Giải quyết được Buôn Ma Thuột thì lực lượng Tây Nguyên vào Nam Bộ, chẳng cần phải đánh Plây Cu, Kon Tum làm gì, để cho lực lượng địa phương chúng tôi thanh toán sau. Trong kế hoạch này, Khu 5 sẽ để sư đoàn 3 tham gia trên đường 19, sau đó sẽ quay về đồng bằng, cùng với sư đoàn 2 và lữ đoàn 52 giải phóng đoạn từ Phù Mỹ ra sông Vệ, cắt địch ra từng mảnh và mở rộng vùng giải phóng dần ra từ nam Đà Nẵng đến bắc Khánh Hoà…”
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #45 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2017, 08:25:31 am »


        Tôi ngồi nghe, ngây người, có nhiều lúc quên cả ghi chép. Những lúc ấy, tôi đưa mắt hỏi đồng chí Võ Quang Hồ có bỏ sót đoạn nào không? Đồng chí Hồ mỉm cười, gật đầu trả lời. Màn kịch câm của chúng tôi không lọt khỏi mắt của Trung tướng Trần Văn Trà. Đồng chí lặng lẽ, lật tấm vải trải bàn màu xanh hoà bình lên, mỉm cười, khi phát hiện ra một cái lỗ nhỏ và cái micrô đặt ở dưới gầm bàn. Đến giờ nghỉ giải lao, đồng chí đến thẳng chỗ chúng tôi nói:

        - Các cậu làm ăn kém qua; kỹ thuật rất xoàng. Trắng trợn quá!

        Tôi trả lời:

        - Chúng tôi ghi lại những lời phát biểu của các anh để rồi còn làm biên bản, thảo nghị quyết cho đỡ vất vả thôi. Và cũng để cho con cháu ta sau này nữa, chúng biết được lời ăn tiếng nói của cha ông, chứ có như ở trại David của các anh trong Liên hiệp bốn bên đâu…

        Gọi là giải lao, những chẳng thấy mấy ai nghỉ cả. Các đồng chí lãnh đạo, cứ từng đôi một, đi cặp kè bên nhau quanh hiên nhà, ngoài sân, râm ran trao đổi ý kiến: một cuộc họp lớn trong nhà chưa đủ, bỗng hoá thành nhiều cuộc họp nhỏ. Hoa quả, nước chanh, bia, nước suối để ở phòng bên hầu như không ai đụng đến.

        Có một vấn đề đã được đặt ra ngay khi mới bắt tay vào làm kế hoạch, được hội nghị thảo luận sôi nổi suốt mấy tuần liền: Mỹ có vào hay không? Mỹ vào như thế nào? Rất nhiều người phát biểu về vấn đề này. Đồng chí Võ Chí Công nói ngắn gọn và dứt khoát:

        - Chúng ta có nói một cách dứt khoát là dù Mỹ có vào trở lại, thì ta cũng quyết đánh và quyết thắng to hơn trước mà thôi. Năm 1965, Mỹ có 3 vạn cố vấn, ta còn đang ở trong thế yếu, huống gì ngày nay, với 2 vạn tên Mỹ, và lại đang ở trong thế bị động chiến lược như thế này… Năm 1965 ta dám đánh Mỹ; năm 1968 ta dám nổi dậy, thì nay ta còn sợ ai nữa?

        Ý kiến của Thủ tướng Phạm Văn Đồng được cả hội nghị tán thưởng. Đồng chí đứng dậy, người hơi chờm ra phía trước, nói chầm chậm từng câu một.

        - Ta phải nghĩ đến một chữ mà ta thường nói: Giai đoạn mới. Đây là Hiệp định Paris, là Mỹ phải rút quân. Đối với Mỹ, rút được quân ra khỏi Việt Nam là một thắng lợi rất lớn. Trước kia, Kenerdy lúc mới lên, tỏ ra hăng lắm, muốn dùng chiến trường Việt Nam để đe dọa, ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc, đang có nguy cơ lan rộng ra trên toàn thế giới. Nhưng nó không làm, nói mà không làm… Đến như Rích Uê mà còn không dám vào nữa là, vì biết có vào cũng chẳng được gì. Cho nên, Pháp thua, nó cứ để cho thua. Đến năm 1964-1965, do tình hình ở miền Nam bức bách quá, nên Mỹ rất lúng túng, liều lĩnh, bày trò lừa bịp quốc hội để đưa cho được lính Mỹ vào miền Nam, đồng thời ngăn chặn miền Bắc. Nhưng cuối cùng chẳng thu được kết quả gì. Miền Nam ta thắng lớn. Tết Mậu Thân rung động rất dữ. Đánh miền Bắc chỉ thu được kết quả là làm cho ta thêm cứng rắng thêm thôi. Johnson cảm thấy lung lay sự nghiệp; thấy không thể đánh được; Mc Namara dần dần cũng sáng ra; còn Oét-mo-len thì đành ngửa tay xin thêm 20 vạn quân nữa. Cuối cùng, chẳng những không đưa thêm một tên lính nào nữa sang đây, mà còn phải rút quân. Bọn ngụy thấy nguy đòi ta cũng rút ra; ta kiên quyết không rút; Mỹ đành chịu, vì có như thế thì mới ký được và Mỹ mới ra được. Nhiều dẫn chứng cho thấy, Mỹ mắc vào chiến tranh Việt Nam, bị mất không biết bao nhiêu mà kể; từ đỉnh cao tụt xuống dưới thấp. Cái chung mất đã đành, từng cá nhân cũng mất.

        Thủ tướng nắm tay, dằn từng tiếng:

        - Cuối cùng, mới rút ra được kết luận: lao vào cam kết là chết. Rút ra, để mặc Sài Gòn. Rút ra, đưa được tù binh Mỹ về là quý hóa ghê gớm lắm rồi. Có bao giờ một tổng thống mà xuýt vào tù?

        Mọi người cười ồ.

        Mỹ vào hay ra là cả một chiến lược của nó. Không phải muốn vào thì vào, muốn ra thì ra một cách dễ dàng được. Mà vào để đạt mục đích gì? Vào bằng không quân, cũng là một sự can thiệp bằng quân sự, và cũng chẳng cứu vãn được gì. Cho nên tôi nói: có cho kẹo nó cũng chẳng dám vào là thế.

        Quay về phía chúng tôi, Thủ tướng nói:

        - Các đồng chí cứ ghi đúng như thế vào biên bản đi. Tất nhiên, là ta phải đề phòng cái ngu ngốc, điên dại của nó. Đề phòng để yên chí mà làm. Thủ tướng đưa bàn tay lên trước mắt, khoát qua khoát lại, nói chầm chậm:

        - Câu kết luận cuối cùng là: Mỹ không đáng sợ. Với dư luận quốc tế, ta không lo. Ta sẽ có cách làm cho mọi người trên thế giới thấy vấn đề độc lập, giải phóng đối với chũng ta là thiêng liêng, chính đáng lắm. Về mặt ngoại giao, đối với Mỹ, ta cũng đã hết sức chủ động. Ta đề ra, bắt nó phải nghe, nếu không nghe, ta cũng có cách làm rồi, để đạt được mục đích của chiến tranh là đánh thắng và thắng vĩnh viễn… Ta có 2 cái mạnh, lợi thế chính trị và năng lực tổ chức của những người cộng sản. Đây là một cuộc chiến tranh chính trị, một cuộc chiến tranh nhân dân, thì nó cũng vô pháp…”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #46 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2017, 08:29:06 am »


        Đầu mùa Xuân 1965, cũng tại đây đã có một cuộc họp của 5 đồng chí trong Bộ Chính trị, để nghiên cứu tình hình khi có tin đích xác là Mỹ sẽ đưa quân vào miền Nam. Nhìn lại hôm nay, tôi thấy gần đủ mặt các đồng chí lãnh đạo-trừ đồng chí Nguyễn Chí Thanh. Vấn đề đề ra thảo luận hôm nay, cũng gần như 10 năm về trước. Mỹ vào như thế nào và ta sẽ đánh Mỹ như thế nào? Cùng chung một đề tài, mà tư thế khác biết bao nhiêu, tuy khoảng cách thời gian chỉ vẻn vẹn trong vòng một thập kỷ. Khi nói đến những hy sinh, mất mát, thì 10 năm thật là quá dài, những nghĩ đến những sự tiến bộ, vươn lên của một dân tộc, một quân đội thì thật là quá ngắn, quá nhanh. Nhớ lại câu nói của đồng chí Nguyễn Chí Thành, với cán bộ Bộ Tổng tham mưu lúc bấy giờ; “Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm đánh Mỹ, chúng mình phải nghiên cứu tìm ra cách đánh như thế nào để thắng Mỹ?”.

        Năm 1966, trong một dịp đi công tác vào miền Nam, tôi được gặp lại anh ở miền Đông Nam Bộ. Lúc bấy giờ đã có những trận Núi Thành - Plây Me - Vạn Tường - Bầu Bàng v.v… Anh lại nói: “Nó quyết tâm đánh Mỹ thì chưa đủ; mà còn phải có phương pháp đánh Mỹ nữa. Nếu chỉ ngồi nghe người ta hù dọa thì chẳng bao giờ dám hạ quyết tâm đánh Mỹ. Nào là cao xạ 37 ly không hạ được thần sấm, con ma; một quân đoàn bộ binh của ta, đầu nhọn đuôi dài, cũng không diệt nổi một tiểu đoàn quân Mỹ v.v… Đảng mình đã cân nhắc kỹ mới hạ quyết tâm. Sau một năm, trên chiến trường miền Nam, ta đã có nhiều phương pháp đánh Mỹ rất độc đáo, phong phú. Bây giờ, thì anh em cán bộ dưới đơn vị có hỏi cách đánh thế nào, thì mình cũng đã có sẵn những câu trả lời cho họ được rồi!”.

        Trước đây, Mỹ tưởng chắc ăn nên nhẩy vào miền Nam; còn ngày này, nếu có vào cũng chỉ là để cùng với ngụy chia xẻ những thất bại, nỗi nhục nhã mà thôi. Cái “quyết” trước kia là quyết đánh; cái “quyết” hôm nay là cái “quyết” kết thúc, và kết thúc thắng lợi.

        Nếu dừng lại ở đây thôi, thì có lẽ những buổi thảo luận đã không đến nỗi kéo dài đến như vậy. Vấn đề đặt ra, còn phức tạp hơn nhiều. Làm thế nào để đánh cho ngụy nhào, mà Mỹ không vào? Yêu cầu lần này khác hẳn với trước đây một năm. Bây giờ thì đánh không phải để rồi ngồi lại thương lượng, rồi lại đánh nhau. Chiến tranh sẽ trở lại. Thậm chí, cũng không ai đặt vấn đề đánh thế nào để hạn chế sự can thiệp của Mỹ; và như vậy, không ít thì nhiều, sẽ ảnh hưởng đến tư tưởng của quân đội và nhân dân; mà phải đặt vấn đề một cách dứt khoát là phải đánh thế nào để Mỹ, dù có điên cuồng đến đâu cũng không có cách gì trở lại được. Để đạt được yêu cầu ấy, chỉ đạo chiến tranh phải hết sức sáng suốt, tài tình, phải nhìn xa trông rộng, và phải có một trình độ nghệ thuật quân sự đạt đến đỉnh cao, có thể vận dụng nghệ thuật để giành thắng lợi nhanh chóng, vững chắc, ngoài dự kiến của đối phương; và biết kết thúc chiến tranh theo ý định của mình. Cuộc họp lần này tiến hành giữa lúc chiến trường Nam Bộ vào đợt 1 năm 1975. Súng nổ giòn giã. Theo sự phân công trong Cục tác chiến, tôi phải nắm tình hình diễn biến các chiến trường thật chắc, chuẩn bị thật đầy đủ như một thí sinh trước khi bước vào phòng thi vấn đáp. Quả đúng như vậy. Đồng chí nào cũng vậy, mỗi buổi sáng, vừa bước vào phòng họp, trong lúc chờ đợi mọi người đến đông đủ là đến ngay chỗ có treo bản đồ chiến sự, hỏi han tinh tức các nơi. Các đồng chí đại diện Trung ương Cục, thì chăm chú theo dõi kỹ hơn và tỏ ra rất phấn khởi; các đồng chí khác thì vì chưa thuộc địa hình nên chủ yếu là xem trên bản đồ. Khi mọi người đến đông đủ, anh Ba bảo tôi báo cáo tóm tắt tình hình chiến sự:

        - “Sau khi có ý kiến khêu gợi của Bộ, đợt 1, Nam Bộ mở màn đánh Đức Phong, chứ không đánh Đồng Xoài như đã dự kiến trước đây. 22 giờ ngày 22 tháng 12, bộ đội đặc công Phước Bình diệt chi khu Bù Đốp. Sau 45 phút, ta dứt điểm. Ở Đức Phong, ngày 14 tháng 12 mới nổ súng, vì trước đó, pháo không chiếm lĩnh trận địa được, chậm mất một hôm. Sau 3 giờ chiến đấu, ta làm chủ chi khu quân sự. Trên hướng Vĩnh Thiện, ngày 13 tháng 12, trung đoàn 201 chưa dứt điểm được, do hiệp đồng pháo chưa khớp, chuyển sang bao vây, sáng 14 tháng 12 thì dứt điểm, đồng thời với Đức Phong. Trên hướng Bù Na, đặc công bị lộ, chuyển sang đánh bằng binh chủng hợp thành đến 1 giờ sáng ngày 15-12, địch rút chạy. Ta vây diệt, làm chủ yếu khu và phát triển tiến công đến cầu 38, bắt 120 tên, bức rút 4 chốt trên đường 14, 3 chốt trên đường 311. Như vậy là đường 14 nối thông được từ Đức Phong đến cầu 11. Kết quả chung, sau 5 ngày chiến đấu, từ 13 đến 17 tháng 12, ta đã tiêu diệt và bức rút gần 50 đồn bốt, giải phóng một đoạn đường gần 100 cây số, giải phóng chi khu Đức Phong, yếu khu Bù Na, diệt 300, bắt 500 địch, ra trình diện 400, thu 4 pháo 105, 6.000 viên đạn, giải phóng một vạn rưởi dân”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #47 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2017, 08:32:06 am »


        Đồng chí Hoàng Văn Thái cắt ngang lời tôi:

        - Lệnh cho bộ tư lệnh Mặt trận cho chuyển đạn và pháo ra khỏi đồn cho xa, đừng để máy bay ném bom mất. Sáu nghìn viên đạn pháo lúc này là quý lắm đấy nhé! Ngoài này ta phải nhồi lắp từng viên một.

        “Ở Trà Vinh, đối phương đã phải co kéo lắm mới rút được hai tiểu đoàn của sư đoàn 7 và hai chi đoàn thiết giáp về đối phó với hai trung đoàn chủ lực và bốn tiểu đoàn tỉnh. Ở Hậu Giang, đến ngày 17 tháng 12, ta dứt điểm chi khu Hưng Long, và phát triển ra chung quanh, đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 21 đến giải toả. Ta đã hình thành thế bao vây Chương Thiện, lên sát lộ vòng cung Cần Thơ và mở một số vùng trong phạm vi hai tỉnh Cà Mau và Sóc Trăng. Ở biên giới Kiến Tường, Đồng Tháp Mười; địch điều hai trung đoàn của sư đoàn 9 và hai trung đoàn thiết giáp lên Mộc Hóa, Tuyên Bình, Tuyên Nhơn để tổ chức phòng thủ vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu, nhằm ngăn chặn ta từ bên kia biên giới. Ba trung đoàn của sư đoàn 7 cũng dàn ra ở Giáo Đức, kênh Nguyễn Văn Tiếp, Cai Lậy, kênh Ba Tháp. Mặc dù địa hình rất trống trải, lại phải vượt qua nhiều kênh rạch, những bãi sình lầy của bưng biền, sư đoàn chủ lực của ta vẫn dứt điểm được quận lỵ hành chính Tuyên Nhơn và các điểm chung quanh, mở rộng và đứng vững trên tuyến Vàm Cỏ Tây, một địa bàn quan trọng ở vùng đồng bằng, tạo thế uy hiếp quốc lộ 4., con đường chiến lược nối liền miền Tây với Sài Gòn-Gia Định. Chỉ trong vòng 15 ngày, triển vọng diệt 3 đến 4 vạn địch, 1.000 đồn bốt, giải phóng 40-50 vạn dân thấy có nhiều khả năng đạt được. Cái mới là ta dứt điểm được một chi khu ở đồng bằng…”.

        Chưa có lần nào như lần này, không khí hội nghị thay đổi từng ngày một, ngày sau sôi nổi hơn ngày trước. Cũng có thể là do những vấn đề đặt ra để thảo luận là những vấn đề bức xúc, nhưng một phần nữa là do những diễn biến trên chiến trường Nam Bộ trong lúc này. “Tin mừng thắng trận nở như hoa”. Điện từ chiến trường tới tấp báo tin chiến thắng: ngày 22 tháng 12 một bộ phận của sư đoàn 7, cùng với lực lượng Bình Phước diệt chi khu Bù Đốp lưu vong”. “Tội nghiệp” cho cái chi khu bất hạnh này! Trong 10 ngày, hai lần bị diệt ở hai nơi: chạy trời không khỏi nắng! Đến 5 giờ 30 ngày 26 tháng 12, một trung đoàn tăng cường của sư đoàn 7 tiến công chi khu Đồng Xoài; đến 15 giờ giải phóng toàn bộ khu vực này. Một bộ phận địch trên quốc lộ 14, chạy về tổ chức phòng ngự ở thị xã Phước Long, núi Bà Rá và chi khu Phước Bình.

        - Lực lượng địch ở khu vực Phước Long bao nhiêu? Ta sử dụng bao nhiêu lực lượng? Anh Ba hỏi:

        Trung tướng Trần Văn Trà đỡ lời cho tôi:

        - Địch có ba tiểu đoàn bảo an. Có khả năng gần đây tăng thêm một tiểu đoàn nữa. Tổng quân số khoảng 4 nghìn tên, chưa kể phòng vệ dân sự. Chúng có 16 khẩu pháo từ 105 đến 155 ly; một chi đội cơ giới; đóng trong 40 đồn bốt. Ta có sư đoàn 7 thiếu trung đoàn 3 và một số tiểu đoàn độc lập. Theo chỉ thị của Bộ, đánh Đồng Xoài chúng tôi chỉ dùng pháo 105 ly lấy của địch và pháo mang vác, còn pháo 130 ly và xe tăng T.54 thì để làm dự bị cho chắc tay. Nhưng, đánh Phước Long thì đề nghị Bộ cho sử dụng vài đại đội xe tăng và pháo 130 ly. Sau đợt này, sang tháng 1 năm 1975, sư đoàn 3 sẽ xuống đồng bằng, trên địa bàn tây sông Vàm Cỏ Tây, còn trung đoàn 429 đặc công thì thọc xuống đóng ở ven đô. Như vậy, thì ta có thể kìm chặt lực lượng của Quân đoàn 3 ngụy. Quy luật ở đây, nếu ta hoạt động mạnh ở Tây Ninh-Suối Đá, thì sư đoàn 25 ngụy phải lo giữ ở phía đó. Chúng sợ mất Tây Ninh lắm. Sư đoàn 5 ngụy thì bất cứ tình huống nào cũng không thể rời khỏi quốc lộ 13, vì chúng biết có sư đoàn 9 của ta hãy còn lởn vởn ở lọ 7-Bến Cát. Nó phải án ngữ bắc Sài Gòn và rất sợ mất Tân Uyên-Phú Giáo. Nay ta đánh Đồng Xoài thì sư đoàn 18 ngụy phải lo giữ Hoài Đức-Long Khánh, cũng không rút đi đâu được, may ra thì chỉ lấy được một trung đoàn để đối phó với Võ Đắc-Tánh Linh. Chúng tôi chỉ lo sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến, trước sau rồi chúng cũng rút về trong này. Đề nghị Bộ cho các chiến trường phối hợp và cho sư đoàn 316 vào Nam Bộ sớm chừng nào hay chừng ấy.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #48 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2017, 08:35:13 am »


        Thượng tướng Hoàng Văn Thái, tay nắm tẩu thuốc, nói:

        - Hoạt động ở Nam Bộ lúc này thật sôi nổi, và cũng có phần đột xuất đấy. Nhưng, đành phải chịu vậy thôi, vì các đơn vị chủ lực trên các chiến trường khác đều đang gấp rút chuẩn bị cho đợt chỉnh là đợt 2. Tuy ta chỉ dùng lực lượng địa phương để hoạt động cầm chừng, tiêu hao địch, giữ thế nhưng sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến không rút khỏi vùng 1 được đâu. Anh không lo…

        Từ trước đến nay, sự hợp đồng tác chiến giữa Cục tác chiến và Cục quân báo luôn luôn giữ được chặt chẽ. Giữa hai cơ quan, thường xuyên có những cuộc họp để trao đổi tin tức, cùng nhau nghiên cứu tình hình, Mỗi cơ quan có nhận định riêng theo cách nhìn của mình khi báo cáo lên Bộ Tổng tham mưu. Ý kiến có nhiều lúc không thống nhất; và như thế cũng có cái lợi là để cấp trên dễ cân nhắc, suy nghĩ để tìm câu kết luận cuối cùng. Lần này, các đồng chí ở Cục 2 không khỏi ngạc nhiên vì chẳng thấy Cục tác chiến thông báo gì, mà địch thì nhốn nháo cả lên: chiếc tàu chở máy bay Anh-téc-brai-đơ đang ở căn cứ Subic, bỗng nhiên chở một lực lượng đặc biệt, phóng như điên về phía bờ biển Việt Nam; sư đoàn 3, thuỷ quân lục chiến Mỹ ở Okinawa cũng cấm trại và ở trong tình trạng khẩn cấp. Rõ khổ cho binh lính, sĩ quan của cái Hạm đội 7 này! Cũng như mấy đơn vị khác ở tây Thái Bình Dương; năm nào cũng vậy, họ mất đứt những đêm đón Noel về những ngày mừng năm mới, chẳng còn được ăn món thịt ngỗng cổ truyền, vì một lẽ rất dễ hiểu là những ngày, tết, ngày lễ này thường trùng hợp với những ngày mở màn của hoạt động mùa khô ở chiến trường Việt Nam. Cứ lắp đi lắp lại cái chiến lược răn đe vô tích sự này, nên mỗi khi có động dạn bất cứ ở đâu, thì Toà nhà trắng và Lầu năm góc lại lôi họ từ trong các hộp đêm ở Tokyo, Đài Bắc, Hong Kong, Bankok ra để đi làm con ngoáo ộp. Mấy hôm nay, tàu bè cứ lảng vảng ngoài khơi biển Nha Trang, hết vào lại ra. Thà không có thì thôi, chứ làm cái lối rập rình, rập rưỡi như thế này, chỉ càng làm cho ta dễ kết luận: cái thùng rỗng thì kêu nhiều. Tha hồ mà diễu võ giương oai, ta vẫn một mực, bình thản như không, “có cho kẹo nó cũng chẳng dám vào!”.

        Từ chỗ “đánh cho ngụy nhào mà Mỹ không vào”, hội nghị bước sang vấn đề thời cơ một cách rất tự nhiên. Mấy tháng nay, làm kế hoạch đến điểm này gần như bị tắc lại. Nó là cái gì đây? Lúc nào thì thời cơ đến, và sẽ đến như thế nào? Không thể nào làm kế hoạch tác chiến mà chỉ nói trong chủ trương, phương hướng không thôi-dù đó là kế hoạch tác chiến chiến lược-còn mục đích, yêu cầu, thời gian, biện pháp, sử dụng lực lượng, bảo đảm vật chất v.v… thì lại cứ nói chung chung: nếu có điều kiện thì… Như vật kế hoạch thiếu chặt chẽ, và khi giao nhiệm vụ cho các đơn vị thì cũng chưa được dứt khoát, còn có chỗ hở, được thì làm, không thì thôi. Trong một lần nghỉ giải lao, đồng chí Võ Chí Công có trao đổi với tôi: “Các đồng chí dự kiến khi có thời cơ, thì dùng bao nhiêu lực lượng để giải quyết Đà Nẵng? Lấy ở đâu ra những lực lượng ấy, và sẽ đánh bằng chiến thuật gì?”. Tôi chỉ trả lời được một cách rất chung chung là: “Đó là một căn cứ liên hiệp mạnh, địa thế rất thuận lợi cho bên phòng ngự vì có núi bao bọc chung quanh. Vả lại, địch có thể phát huy được mọi thứ hoả lực của lục quân, không quân, hải quân, nhưng nhân dân ra ở đây, vốn có truyền thống đấu tranh. Muốn đánh Đà Nẵng, phải có ít nhất 3 quân đoàn trở lên, diệt nó ở ngoài trước cho nhiều, rồi mới thọc vào trong được”. Lại đi vào nguyên tắc tác chiến rồi!

        Thực ra, trong quá trình làm kế hoạch, các đồng chí trong Bộ Chính trị, cũng như Quân uỷ Trung ương, cũng đã có những ý kiến khêu gợi, hướng dẫn chúng tôi: năm 1975, không loại trừ có khả năng sẽ có thời cơ thuận lợi. Điều kiện cụ thể là gì? Quân đội Cộng hoà bị tiêu diệt một số lớn, các sư đoàn có nguy cơ tan rã; ở nông thôn đồng bằng và vùng núi, ta căn bản diệt được lực lượng kìm kẹp; làm chủ đại bộ phận, xây dựng lực lượng vũ trang, chính trị đều khắp; còn ở đô thị, phong trào quần chúng đấu tranh lên cao, buộc Thiệu phải đổ, hoặc Mỹ phải thay; hay là khi tình hình quốc tế cho phép. Có phải là chờ cho đến lúc, cả bốn điều kiện ấy xuất hiện, hay ít nhất cũng có một vài điều kiện xuất hiện, thì cục diện chiến trường mới thay đổi hẳn không? Lúc bấy giờ, ta sẽ nắm thời cơ và phát triển như thế nào?
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #49 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2017, 09:33:43 pm »


        Ý kiến trao đổi trong hội nghị lần này, tương đối rõ ràng. Tinh thần chung là ta phải tạo ra thời cơ, chứ không thể nào bị động chờ thời cơ đến, đặt hy vọng vào một sai lầm của đối phương, một sự kiện ngẫu nhiên nào đó. Tất nhiên là logic của chiến tranh không chỉ nằm tỏng cái đúng của ta mà thôi, mà còn nằm trong cái sai của đối phương nữa. Năm 1975, đối phương sẽ ở trong tình thế khủng hoảng triền miền về mặt chính trị. Nhưng phong trào chính trị ở miền Nam, chỉ có thể buộc Mỹ phải thay Thiệu, chứ trước mắt thì chưa đủ mạnh để lật đổ Thiệu. Còn Thiệu là còn đàn áp. Giá có biểu tình, xuống đường, tuyệt thực, hay là có hành động gì khác, thì nó cũng không ngại gì mà không thẳng tay khủng bố, bắt bớ, chém giết. Đưa phong trào lên chưa đúng lúc, hay quá mức, thì sẽ bị đàn áp, nhưng làm chậm, hay làm yếu một chút, thì nó lại bỏ mất thời cơ. Trong điều kiện ở miền Nam lúc này, ta có lực lượng quân sự, chính trị mạnh, để tạo thời cơ, phải đánh mạnh. Trong một thời gian ngắn, tiêu diệt cho đươc từ 3-5 sư đoàn; mà phải diệt thật nhanh, để chúng không kịp khôi phục lại, mới đánh tụt được quân sự của chúng, mới có nguy cơ tan rã lớn; ở đồng bằng, thì phải phá kế hoạch bình định, giành bảy triệu dân trở lên; ở vùng ven, thì xây dựng được các lõm du kích; các lực lượng vũ trang chính trị, bám chắc trên địa bàn quan trọng. Đạt được tình hình nói trên, mới có bung ra và mới có chuyển biến lớn có lợi cho ta. Như vậy là trong một thời gian dài, thời cơ quân sự sẽ tạo ra thời cơ chính trị; và ngược lại, thời cơ chính trị binh vận lại tạo ra thời cơ quân sự, theo kiểu nổ dây chuyền. Mỹ thay Thiệu sớm, hay chờ đến tháng 10 năm 1975 mới thay, nhân dịp bầu cử; đều do hoạt động của ta cả và cũng đều là thời cơ tốt đối với ta.

        Về vấn đề này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói:

        - Lần này bàn kế hoạch 75-76, phải nắm vững yêu cầu. Tinh thần của ta là phải làm thật kiên quyết, thật tập trung. Đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh sống mái với kẻ địch. Năm 1972, trong chiến dịch Quảng Trị, ta cũng đã tạo ra được thời cơ rất tốt. Lúc đó Huế cũng đã rung động dữ, nhưng ta mới chỉ đưa được một lực lượng không lớn lắm, vượt qua sông Quảng Trị; vì đường sá chưa thông, công tác bảo đảm theo không kịp, nên nó gượng lại được, đưa được sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến ra phản kích chiếm lại Thành cổ…

        Thời cơ lúc đầu có thể đến với mức bình thường. Nếu ta lợi dụng tốt, sẽ tạo ra thời cơ mới cao hơn và từ đó mà phát triển thành đột biến. Cho nên nói thời cơ, phải có kế hoạch thật sự và có sự chuẩn bị đầy đủ, để lợi dụng triệt để. Kế hoạch phải ghi rõ: Phải có trận tiêu diệt lớn ở Tây Nguyên bằng dánh địch đang vận động. Cần nói rõ diệt từ 3-4 sư đoàn trong một đợt hoạt động mạnh, chứ không được kéo dài lê thê. Kế hoạch phải đạt mức cao: diệt địch ở Tây Nguyên . Có thể sau Buôn Ma Thuột, nó rút Tây Nguyên, Trị Thiên sẽ dao động. Ta sẽ giải phóng Huế. Nếu lúc đó ta mỏi mệt, chậm chạp, thời tiết mưa xuống, thì mất cả cơ hội. Cho nên, phải có kế hoạch bao vây, chia cắt lớn ngay từ bây giờ; không để cho địch co cụm chiến lược, rút về miền Đông. Không nhất thiết trong năm 1975 này, ta sẽ không cơ động quyết định 1. Phải tập trung nó lại, huấn luyện cho tốt, luôn luôn sẵn sàng. Phải hết sức khẩn trương, hết sức tập trung. Nếu có thời cơ thì ta lợi dụng, nếu chưa thì ta càng mạnh thêm.

        Đề cập sang vấn đề đấu tranh ngoại giao, đồng chí Lê Đức Thọ nói ngay: “Năm 1975, ngoại giao chưa tạo ra vấn đề gì lớn cả. Bây giờ nếu có ngồi lại thì chắc cũng là để kéo dài đàm phán, để tranh thủ mở rộng mà thôi. Tháng giêng năm 1975 này, nó sẽ đi đó đi đây, gặp nơi này nơi kia, và sẽ đề nghị gặp ta, đưa ra một số điều kiện. Về vấn đề này, rồi đây sẽ bàn thêm. Thế ta chưa mạnh, thì ngoại giao chẳng giải quyết được vấn đề gì.

        Ta cần phải hiểu: ai xé Hiệp định Paris? Nó xé chứ ta xé à? Ai tập trung quân đánh ta trước, năm 1973? Nó đã không ngại khi đánh ta; thì ta cũng chẳng ngại gì khi đánh nó. Chiến tranh cũng đã đến mức ngang với trước rồi, có gì mà phải hạn chế?

        Kissinger có nói với tôi: “Các ông hoà hợp thế nào được với Thiệu? Lần sau các ông đánh, thì các ông đánh rất tập trung và đánh mau”. Nó còn nhắn nhủ với ta là: “Trừ Đà Nẵng, Sài Gòn ra, còn thì đánh đâu thì đánh”. Các đồng chí Ý đánh giá tình hình các nước tư bản đang trên đà khủng hoảng; ở Trung Đông tình hình cũng găng lắm. Vừa rồi Kisinger cũng có đi Ấn Độ, Afghanistan, xem ra cũng chẳng có kết quả gì”.

        Anh Ba cười, nói:

        - Trong lúc này, mà còn chạy đi đây đi đó tìm giải pháp cho vấn đề Việt Nam thì thật là không đúng lúc mà cũng chẳng đúng nơi.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM