Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 14 Tháng Năm, 2024, 05:51:53 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Xuân giải phóng  (Đọc 41512 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #20 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2017, 11:19:32 pm »


Chương 4

DỌC TRƯỜNG SƠN

        Sau những trận mưa đầu mùa, nước sông Trường Sơn lên to, đục ngầu. Chiếc com-măng-ca đưa tôi từ mặt trận Quảng Đà về Hà Nội, dừng lại khi bánh xe vừa chớm đến mép nước. Đồng chí lái xe mở cửa, xuống tháo dây cua roa. Xe chậm rãi bò xuống ngầm. Nó gầm gừ, nhảy chồm chồm trên đá đầu ông sư. Tôi nói:

        - Cố gắng vượt qua khỏi ngầm Bà Huỳnh này, nếu không thì tối đấy.

        - Thủ trưởng yên trí! Đồng chí lái xe đáp. Ngầm này thì đã thấm vào đâu. Đi trên đường Trường Sơn, đã nói đến ngầm thì Bung, A Vương Một, A Vương Hai, Ly Tôn còn tai ác gấp mấy đây kia. Nhưng, hễ ta ra được đến đường 14 rồi thì khỏi lo. Xe đoàn 559 chạy nhiều, nếu phải nằm lại thì nhờ họ co kéo lên giúp.

        Càng ra sâu, chiếc xe càng trở nên bướng bỉnh, nó chồm lên, chúi xuống, vật phải, vật trái, nghiên bên này, vẹo bên kia. Tiếng rú ga liên tục, xen lẫn với tiếng ùng ục của ống xả ở phía sau xe, tiếng nước tràn qua các khe cửa. Trừ đồng chí lái xe, ai nấy đều giữ thế: quần dài choàng trên cổ, xắn tay áo, ngồi chồm hổm trên đệm, tay bám chặt những thanh sắt của mui xe. Nhìn ra mặt sông, những đám bèo bọt, cành cây khô, đang bồng bềnh trôi, cứ tưởng như nước sông đang lên từng phút một. Có lúc, nước gần như nâng bổng cả chiếc xe lên, để táp vào những trụ cầu xiêu vẹo, đứng trơ thu lu giữa dòng sông, từ ngày du kích phá sập cầu, dưới thời Ngô Đình Diệm. Qua khỏi ngầm, nước trong xe lại tranh nhau thoát ra, qua các khe cửa. Mặt đường đất thịt, thêm nhão nhoét. Đồng chí lái xe chổm người ra trước, gần như úp cả bộ ngực vạm vỡ trên vòng tay lái, ngước mắt nhìn mặt đường, đánh tay lại, cố tránh những vệt bánh xe sâu hoắm, do đoàn xe vận tải vừa mới đi qua, đào lên. Đường trơn như mỡ, có lúc bánh xe không lăn về phía trước mà cứ rệ ngang, bất chấp cả tay lái. Càng nhấn ga, càng rú tợn, mà bánh xe thì cứ quay tít giữa đống bùn nhão nhoét, cả giờ không nhích lên được nửa bước. Tôi ngồi ở ghế trước nhìn cảnh vật lộn giữa người và máy, lo lắng: đường sá thế này, thì vận chuyển ra sao? Mang tiếng là trục đường chiến lược, mà còn xấu như thế này, thì trên các mạng đường chiến dịch ở các quân khu, quân đoàn, thi công toàn bằng tay với dụng cụ thô sơ, thì đường còn xấu đến đâu nữa? Hầu như đã trở thành quy luật, hằng năm, cứ sắp đến mùa mưa, Quân khu 5 mới bắt đầu nhận được hàng, vì ưu tiên phải dành cho các chiến trường xa. Do đó, Cục hậu cần quân khu, năm nào cũng tất bật, vất vả với thời tiết. Nhận đã khó, mà đưa đến tận tay người sử dụng ở Bình Định, Phú Yên là cả một chặng đường đầy gian khổ. Đi xe con, hai cầu, mà còn ì ạch thế này, thì với các lại xe vận tải chở nặng, leo dốc yếu, thì vất vả đến bao nhiêu! Thế này thì không biết trong năm 1974 này, liệu đoàn Trường Sơn có hoàn thành được kế hoạch vận tải hay không?

        Trên đường 14, xe chạy bon bon. Tôi rất đỗi vừa ngạc nhiên, vừa phấn khởi. Chỉ mấy tháng thôi mà chất lượng đường đã khác hẳn: mặt đường được rải đá, có đoạn được rải nhựa, cầu cống tuy còn phải làm tạm, nhưng cũng khá vững chắc và cũng đỡ được cái phiền phức là phải lội ngầm. Khác hẳn với cảnh vắng vẻ trên các trục đường chiến dịch ở quân khu, không khí trên đường chiến lược tấp nập, nhộn nhịp hẳn lên. Mùa thu sắp qua rồi: lẽ ra việc giao hàng cho các chiến trường phải kết thúc từ lâu; vì theo thường lệ, đến tháng này, trời đổ mưa xuống, đường sá lầy lội, tạm ngừng vận chuyển. Đoàn Trường Sơn, cứ đến dịp này là rút một phần lớn lực lượng ra Bắc để tổng kết, nghỉ ngơi và làm mọi công tác chuẩn bị, để đến cuối tháng 10, lại vào lại, và lao vào kế hoạch vận chuyển cho năm sau. Nam nay, khác hẳn. Các đoàn xe cắn đuôi nhau chạy vào không ngớt. Đến những đoạn dốc hay đường vòng, chiếc xe con phải nép sát bên lề đường, dựa vào vách núi, để nhường đường cho các xe vận tải rú ga, nặng nề bò lên dốc. Toàn xe din 130, chế tạo tại Liên Xô, mới tinh, phủ bạt kín. Những chiến sĩ lái xe, rất trẻ, ngồi lọt thỏm trong cabin quá rộng, mắt dán lên mặt đường, hai tay ôm ghì tay lái.

        Gần đến bến Giằng, chiếc xe con lại phải dừng lại, nép sang một bên, tránh một đoàn pháo cao xạ đang hành quân vào, giữa ban ngày. Những chiếc xe xích đồ sộ, kéo những khẩu pháo cao xạ 57 ly, choán gần hết mặt đường. Đường vòng còn hẹp, xe lại có đuôi, phải đánh tay lái rộng, nhưng nhỡ cưỡi lên đất mượn thì xe lao xuống vực sâu, dễ như chơi. Tất cả các pháo thủ đều xuống xe, cán bộ chỉ huy đi trước, tay cầm cờ, ra hiệu cho từng xe nhích dần lên phía trước. Tôi gặp đồng chí Cảnh, tham mưu phó quân chủng Phòng không-Không quân đi với đoàn xe pháo cao xạ. Đồng chí cho biết:

        - Lệnh của Bộ quá gấp, thành thử trang bị “B” cũng chưa nhận đủ. Lần này, toàn sư đoàn 377 chúng tôi ra quân, phấn khởi lắm.

        Đồng chí cũng cho biết thêm là sang tháng 12 này, sẽ đưa cả 2 trung đoàn tên lửa vào.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #21 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 04:03:11 pm »

       
        Cơ quan tình báo Mỹ và nguỵ thường bám các đơn vị tên lửa này như đỉa. Báo chí phương Tây không ngớt lời bình luận về chúng và cũng đưa ra rất nhiều giả thuyết. Năm 1972, tên lửa đã có mặt ở đường 9, đã lập thành tích bắn rơi B.52. Thế mà sau ngày nhừng bắn, phát hiện thấy tên lửa ở Quảng Trị, địch lại kêu la inh ỏi. Lần này thì tên lửa vào sâu hơn. Phát hiện ra việc này, chắc là thiên hạ tha hồ mà bán tán, đoán già, đoán non. Được cái hay là, tình báo Mỹ thường phát hiện sai những sự thật, những gì đã diễn ra trên đường Trường Sơn. Năm nào, một đoàn khách nước ngoài, đi trên mươi chiếc xe con, thì chúng kêu la inh ỏi là Việt cộng đã đưa vào miền Nam cả một binh đoàn cơ giới; ngược lại, khi cả một sư đoàn pháo cao xạ, pháo binh và xe tăng đi vào miền Nam như hiện nay, thì chúng lại im khô. Chỉ cần thoáng qua ai cũng có thể đoán biết: vận chuyển tấp nập ồ ạt như thế này, điều động các đơn vị binh khí kỹ thuật lớn như thế này vào chiến trường giữa mùa mưa lũ, đâu phải là việc bình thường?

        Một đám nữ thanh niên xung phong, đang hỳ hục xeo một quả bom to, đẩy nó ra bên vệ đường.

        Một cô gái, tay cầm cờ, ra hiệu cho xe tôi dừng lại từ xa.

        - Cái gì đấy?

        - Bom nổ chậm.

        Thấy có chiếc xe con ở chiến trường ra, vài cô gái bỏ đám đông, chạy đến, và rất hồn nhiên, như gặp lại người quen thân;

        - Này bố cho chúng con gửi cái thư. Hà Tây! Thái Bình! Hải Hưng! Một trận mưa phong thư không dán tem viết sẵn từ bao giờ, tới tấp bay vào trong xe.

        Những ai đã đi trên đường Trường Sơn, thường rất có cảm tình với đám thanh niên xung phong này. Với tuổi 19, 20, tốt nghiệp lớp 7, lớp 10, vừa rời ghế nhà trường, vượt hàng nghìn cây số để vào đây, chịu biết bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, thậm chí có thể hy sinh cả tính mệnh nữa. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của họ đã trôi qua với những năm tháng - mà không ai có nửa lời kêu ca phàn nàn - để đem lại mùa xuân vĩnh viễn cho đất nước. Công việc của họ, rất giản đơn, nhưng lại đầy ý nghĩa. Hôm xe ta bắt đầu lăn bánh đến đây, đồng bào dân tộc ít người trong vùng kéo đến xem rất đông. Họ không lạ gì với chiếc xe ô tô, nhưng cũng như những nhà vạch kế hoạch ở Lầu Năm Góc, chưa bao giờ họ nghĩ rằng, xe ô tô lại có thể đến được giữa rừng sâu núi thẳm, trong những ngày âm u, mưa lũ như thế này. Trong lịch sử chiến tranh thế giới, đã từng có nhiều trường hợp: một đội quân vượt qua được một nơi hiểm trở, không ai ngờ đến để đi đến đích, thì đội quân ấy thường mang lại chiến thắng.

        Chiều rồi! Liệu không thể vượt được khỏi dốc Giằng trước khi trời tối, chúng tôi ghé vào binh trạm 471, nhân tiện nắm thêm một số tình hình.

        Nhà khách của binh trạm nằm cheo leo bên bờ một con sống còn mang tên rất đẹp: Sông Thanh.

        Thượng tá Lạng, binh trạm trưởng, tiếp tôi rất thân mật. Vốn có quan hệ công tác lâu ngày, tôi thường ra vào đoàn Trường Sơn luôn, nên câu chuyện cởi mở ngay từ đầu.

        Đồng chí nói: Tổ chức vận chuyển của đoàn Trường Sơn, hiện đang có sự thay đổi lớn, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Đoàn quyết định bỏ các binh trạm đã tổ chức từ trước đến nay, để xây dựng thành các sư đoàn xe, sư đoàn công binh, sư đoàn cao xạ v.v… do đó tư lệnh trực tiếp chỉ đạo và chỉ huy.

        Năm 1972 trở về trước, đoàn Trường Sơn có 29 binh trạm; đến năm 1973, rút xuống còn 5, nay thì bỏ hẳn. Đoàn Trường Sơn không phải là một đoàn vận tải đơn thuần; vì ngoài việc vận tải hàng hóa vào miền Nam, đoàn còn có nhiệm vụ chuyển quân, giao liên, cũng chiếm một khối lượng công việc rất lớn. Đoàn phải tự mình mở đường, đánh địch mà đi, từng giờ từng phút, từng đoạn đường, phải luôn luôn đối phó với mọi thủ đoạn đánh phá, ngăn chặn của địch. Vì vậy, phải tuỳ theo tình hình địch hoạt động, tình hình đường sá, tình hình thời tiết v.v… mà tổ chức ra đội hình vận tải, có khi phải thay đổi hàng tuần một, vận dụng chiến thuật rất linh hoạt, khi thì lấy đội hình tiểu đoàn, xe khi thì tổ chức đội hình trung đoàn xe mà đi, phải hợp đồng chặt chẽ giữa các binh chủng vận tải, công binh, cao xạ v.v… chẳng khác gì khi chỉ huy binh chủng hợp thành. Người chỉ huy binh trạm phải nắm các đơn vị vận tải, công binh, cao xạ, giao liên, pháo binh, bộ binh v.v… để phối hợp kế hoạch, nếu không rất dễ bị tổn thất: khi bị máy bay địch đánh phá, mà gọi cho được cao xạ đến; đường bị tắc mà phải chờ cho người ta đưa công binh đến, thì hỏng mất công việc, tốn rất nhiều thời gian.
« Sửa lần cuối: 12 Tháng Hai, 2017, 04:10:36 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #22 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 04:07:07 pm »


        Đồng chí Lạng cho biết thêm: không có năm nào như năm nay. Khối lượng đưa vào “B” lên đến hàng chục vạn tấn; cho C, cho Khu cũng vài vạn tấn; và cho khối lượng dự trữ chiến lược ở trên tuyến cũng ngót 10 vạn tấn. Riêng B2, khối lượng đã nhập gấp 6 lần năm ngoái, còn yêu cầu thêm nữa vào cuối mùa mưa; B3 cũng nhiều. Thế mà binh trạm vẫn dứt điểm được trong tháng 5. Từ tháng 6 đến nay, phía Tây Trường Sơn, trời đổ mưa, binh trạm đã tập trung, lật cánh, chạy tuyến phía đông Trường Sơn để giao hàng cho Khu 5, gấp mấy lần năm 1973. Đây là chưa nói đến vấn đề chuyển quân, chuyển các đơn vị binh khí kỹ thuật… ngày nào cũng đi vào như trẩy hội. Ngoài ra, lại còn lắm cái đột xuất, như vận chuyển quân, vận tải vũ khí, đạn dược, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, cho các đồng chí đánh Đắc Pét, Nông Sơn, Thượng Đức… Đột xuất hơn nữa là vận chuyển một ngàn xe giải phóng và 1.500 tấn hàng hoá của Trung Quốc viện trợ cho Campuchia. Yêu cầu chiến trường đã lớn và gấp nhưng hàng hóa viện trợ của bạn vẫn phải bảo đảm. Nhưng binh trạm vẫn khắc phục hoàn thành nhiệm vụ. Mọi năm trên tuyến này, máy bay Mỹ canh cả ngày đêm. Trên các bến vượt quan trọng, trên các mỏm đèo: Tà Lê, Phu La Nhích, Chà Là, Sê Pôn, Bạc, hết B.52 rải thảm lại đến C.130 tọa đô. Đặc biệt, cái giống C.130, bụng nó chứa bao nhiêu xăng dầu không biết, mà nó cứ rà đi rà lại trên đầu, cả đêm không lúc nào ngớt, bám dai như đỉa.

        Thế mà vẫn chạy được, tất nhiên là có bị hạn chế và tổn thất. Trước kia, có năm phải bổ sung 100 phần trăm. Năm nay, những cái ấy hầu như không còn nữa. Máy bay của nguỵ, thì làm được gì. Chúng nó sợ pháo cao xạ của ta như sợ cọp, ban ngày còn hoạt động lẻ tẻ, vài ba chục lần chiếc, mà cũng chỉ trên đoạn từ đây vào đến Plây Cần thôi; ban đêm thì hoạ hoằn lắm, mới dám bén mảng đến. Cho nên, từ Plây Cần trở ra, là cứ bật đèn pha lên mà chạy, chẳng cần phải đi đèn gầm, lù mù như trước kia; lại còn tranh thủ lấn sáng, lấn chiều nữa, nên lợi đường lắm. Từ đây trở ra đường 9, thì chạy như ban ngày, như ở miền Bắc vậy. Chúng nó bây giờ, đã ít máy bay hơn, ít xăng dầu hơn, kỹ thuật lại kém; mà còn phải đối phó với ta ở dưới đồng bằng, thì lấy đâu ra máy bay, mà đánh phá hành lang này? Đã lâu lắm, vừa rồi mới thấy vài chiếc A.37 đảo qua đây một vòng, mới bị vài loạt cao xạ 57, đã lo cất tít lên cao, ném vung vít vài quả bom chiếu lệ thì trúng trật gì.

        Năm nay, quyết tâm của đoàn là sửa chữa, nâng cấp, đường, hạ độ dốc, mở đường vòng, rải đá, làm cầu. Tất cả những việc làm trên, đều nhằm nâng tốc độ xe lên, giảm bớt hư hỏng, nâng sức tải của từng đầu xe lên. Từ Bạc vào Bù Gia Mập, trước đây đi ba tháng, nay Bộ tư lệnh 559 đề ra định mức khép kín trong 9 ngày; anh em quyết tâm rút xuống còn 7 và có đơn vị còn đang phấn đấu rút xuống còn 5, trong mùa thi đua này. Một quân đoàn cơ động từ miền Bắc vào đến miền Đông Nam Bộ, nay cũng chỉ mất 15-20 ngày là cùng. Công tác vận tải, giao liên chuyển quân cũng như công tác tác chiến, khi tình hình khách quan đã thay đổi, thì cũng phải thay đổi cung cách làm ăn, cách tổ chức; nếu tư tưởng không thoát ra được, cứ rị mọ làm ăn theo lối cũ, thì mất thời cơ. Nếu bây giờ mà còn giữ cái tổ chức 25 binh trạm như trước, thì chỉ có mỗi một việc, bốc lên, dỡ xuống, kiểm kê cân đếm, giao nhận, cũng đủ hết ngày và tốn rất nhiều người. Cho nên, từ nay trở đi, sư đoàn nhận hàng một lần tại Đông Hà, rồi chạy một mạch vào thẳng, giao cho chiến trường, tiết kiệm được không biết bao nhiêu công và thời gian. Về mặt tổ chức, lấy trung đoàn xe làm đơn vị tấn công, chứ không đi từng đại đội, tiểu đoàn như trước. Mỗi chuyến đi, có bộ phận sửa chữa, phục vụ, theo sát đội hình, hỏng đâu sửa đấy. Chỉ huy, lãnh đạo cũng đi theo trong đội hình, nên không còn tình trạng rời rạc, lẻ tẻ, tuỳ tiện, bạ đâu nghỉ đấy, như trước nữa. Làm ăn theo lối công nghiệp mà!

        Đồng chí binh trạm trưởng còn cho biết, từ nay trở đi, thời tiết không còn là nhân tố quyết định trong công tác vận chuyển nữa. Mùa mưa ở miền Nam, cũng đồng thời là mùa khô trên đất Lào và ngược lại. Do đó, chỉ cần lật cánh qua lại, chuyển từ đông Trường Sơn sang tây Trường Sơn là có thể vận chuyển trong suốt 12 tháng trong năm.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #23 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 04:09:36 pm »


        Trong công tác vận tải, loại hàng hóa khó tính nhất là xăng dầu.

        Là loại hàng nước, nên không phải bạ đâu cũng để được, xe nào cũng chở được, mà phải có kho bể, có xe chuyên dùng. Nó lại dễ cháy. Chỉ một quả bom, một viên đạn bắn vu vơ làm cháy một xe, cũng đủ làm cho cả đoàn xe bị vạ lây. Những khó khăn ấy, đến nay căn bản đã được giải quyết. Với hơn vài nghìn cây số đường ống như thế này, công tác xăng dầu không còn là một mối lo nữa. Với cách đặt ống và với cách vận hành của ta, thì khó mà phá được. Những năm trước, từ sông Lam  trở vào, B.52 rải thảm liên tục và trong chiến dịch Nam Lào, quân đội Cộng hoà đổ quân ngay trên đường ống dẫn dầu, mà vẫn không làm gì nổi ta huống gì ngày nay, đã xuống dốc nhiều rồi. Thời tiết, đối với tuyến đường ống, thì tuy cũng còn có vấn đề, nhưng không còn như trước nữa.

        Đó là những điểm rất mới, những bước nhảy vọt trong công tác vận tải mà sau 15 năm-từ 1959 đến nay-ta mới tạo ra được, bằng trí óc và bằng sức lao động của hàng chục vạn con người.

        Những tiến bộ này, nhất định sẽ làm thay đổi quy luật hoạt động của ta trên các chiến trường, và là một điều rất bất ngờ với đối phương: mùa mưa cường độ hoạt động vẫn giữ được như mùa khô. Từ trước đến nay, thời tiết đã bắt buộc ta phải chia ra hai mùa hoạt động, vì các công tác bảo đảm, phải hoạt động theo mùa.

        Sáng hôm sau, rời binh trạm 471, chúng tôi đến đội trinh sát kỹ thuật chiến dịch, thuộc biên chế của Quân đoàn Quyết Thắng, từ mấy tháng nay, cùng tôi đi vào tham gia chiến dịch hè thu ở Quân khu 5. Toàn đội đóng trên điểm cao 600. Từ đường ô tô lên đến nơi ở và làm việc, mất non một tiếng đồng hồ. Dốc đứng. Với những người đi bộ thì cũng không có vấn đề gì lớn, nhưng đối đội trinh sát kỹ thuật này, vẻn vẹn chỉ có một nhúm người, mà phải khiêng hàng tấn máy móc, đưa lên đặt trên mỏm cao này, thì thật là vất vả vô cùng. Nước dùng phải lấy ở dưới vực sâu; nên chỉ riêng có mỗi một việc, đi lấy nước, để bảo đảm sinh hoạt, cũng đã mất mấy người chuyên trách rồi. Năm căn lều bạt vải, dựng thành hình chữ u vây quanh một cái sân nhỏ, buổi sáng là bãi thể dục, buổi chiều là bãi cầu lông và buổi tối là nơi sinh hoạt của bộ đội. Trươc cửa các lều vải, những giò hoa phong lan đẹp tro lủng lẳng. Bước vào, người khó tính đến đâu cũng vẫn hài lòng. Mặc dù sống trong hoàn cảnh dã chiến, mọi thứ đều thiếu thốn, nhưng đơn vị ăn ở rất quy củ, nền nếp. Nơi làm việc có đủ bàn, ghế; nơi thu thập tin tức, nơi họp hành, chỗ ăn, chỗ ngủ, ngăn nắp đâu ra đấy. Tôi thay mặt Bộ tư lệnh chiến dịch chuyển tặng anh em một ít quà, thuốc lá, chè và biểu dương kết quả đợt công tác vừa qua. Đồng chí Tình, đội trưởng báo cáo: “Sau mấy hôm mò mẫm, nay đã nắm được toàn bộ mạng của quân đoàn 1 nguỵ rồi, từ tiểu đoàn trở lên, kể cả sư đoàn dù và biệt động quân. Chúng báo cáo, thông báo gì cho nhau, chỉ sau 5 phút, là đội đã có tin và báo cáo về bộ tham mưu chiến dịch rồi”.

        Tôi không quên nhắc một kinh nghiệm còn nóng bỏng: “Làm công tác nắm địch, nếu chỉ tin vào những điều do chính miệng chúng nói ra, thì chết có ngày. Nó lừa ta thì sao? Hôm đánh Thượng Đức, chỉ có mấy thằng nghĩa quân nằm ngoài rào, mà nó dám báo cáo lên trên, là cả một đại đội, đang chực sẵn để phản kích lại ta vào trận nội. Khi phát hiện anh em ta tiếp cận, bọn này chạy mất, còn bọn trong đồn thì cứ nằm đấy mà yên chí, cả tin vào bọn bên ngoài. Có thế nó mới thua”.

        Về đến d bộ 473, trời đã sâm sẩm tối. Có lẽ đây là một đơn vị làm đường, luôn luôn di động, nay chỗ này, mai chỗ khác, nên cách ăn ở, trang hoàng ở đây khác với những nơi khác. Ẩn dưới những gốc cây cà phê, nhà phần lớn làm bằng gỗ, lắp ghép, cót ép, nhưng rất thoáng và đẹp. Từ cổng vào nhà khách có hai hàng rào “cây nhiệt đới”.Cô chiến sĩ gái nào đó, khéo tay đã cắt vài và nylon làm những cái hoa, sặc sỡ, đính vào các đầu mút anten, để cho nó mất cái vẻ nhân tạo, khỏi ai nhận ra đó là một thứ vũ khí giết người ghê gớm. Dọc theo các hành lang, treo lủng lẳng những máy thu tiếng động, xen kẽ những giò hoa phong lan thật đẹp. Trên bàn từ cái lọ hoa, hộp kính, đến hộp thuốc lá, khay trà, tất cả đều làm bằng thứ nguyên liệu hiếm có, sản xuất tại Hoa Kỳ: vỏ bom bi và pháo sáng. Có điều là thiếu mấy chữ Made in USA.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #24 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 04:13:32 pm »

     
        Nhìn các đồ vật xung quanh, tôi nghĩ. Giá lúc này có Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mac Namara và tướng Alfred Stabrird, người được giao nhiệm vụ xây dựng cái hàng rào điện tử nổi tiếng cả thế giới, chắc họ sẽ điên người lên mất: công sức của hàng nghìn nhà bác học, trí tuệ của hàng trăm trường đại học và viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm tiêu tốn hàng tỷ đô la, không biết bao nhiều mồ hôi và nước mắt của nhân dân Mỹ, lại hoá thành những đồ chơi như thế này ư? Lại còn có cả những máy ngắm ban đêm bằng tia hồng ngoại, những máy móc cực kỳ tinh xảo, có khả năng nhân ánh sáng lên gấp 7 vạn lần, để phát hiện ra du kích vào những đêm tối trời nhất; những máy đánh hơi người, những máy móc có thể phân biệt được màu lông, màu tóc của đối phương, cả những chữ cố trên xe nữa.

        Các tài liệu của phương Tây cho biết:

        - Năm 1966, chính phủ Mỹ tổ chức cuộc họp các nhà khoa học Mỹ để nghiên cứu các biện pháp ngăn chặn có hiệu quả. Phân viện Jason, có 47 nhà khoa học ưu tú nhất của Mỹ, sau 3 tháng nghiên cứu, đã rút ra kết luận: cần phải xây dựng tiếp một hàng rào điện tử qua khu phi quân sự bằng những công cụ mới được phát minh. Đó là hàng rào Mac Namara. Sau gần 1 năm thử nghiệm, tướng Mar Johnson, trong hội đồng tham mưu trưởng liên quân đã phát hiện ra hàng rào Mac Namara không có hiệu lực ngăn chặn đối phươg: để thành lập được một tuyến phòng thủ từ biển lên đến bờ sông Mekong, dài khoảng 200 dặm, không có chỗ nào bị chọc thủng, ít nhất cần đến 12 sư đoàn quân Mỹ, với sự tăng cường yểm trợ tương ứng của không lực. Đó là gánh nặng, hậu cần khó mà kham nổi.

        Sau tết Mậu Thân 1968, các chuyên gia và các nhà khoa học Mỹ đi đến kết luận: “Hàng rào điện tử Mac Namara đã thực sự bị vứt bỏ trong cuộc chiến tranh ngăn chặn này. Phải thay thế ngay bằng một giải pháp có hiệu quả hơn”. Họ muốn biến đây thành một chiến trường điện tử, chiến trường tự động hoá.

        Hàng trăm loại thiết bị được đưa vào sử dụng, các thiết bị phối hợp chặt chẽ với nhau thành tổ hợp hoàn chỉnh. Những máy tính điện tử khổng lồ, đặt tại Nakhon Phanom, trên đất Thái Lan, có nhiệm vụ phân tích các tiếng động, các rung động, để phân biệt xe cộ, xác định thời gian và địa điểm của những nguồn phát ra tiếng động ấy, rồi chuyển đến “điều khiển viên” tại trung tâm kiểm soát chiến trường, để ra lệnh cho máy bay đi đánh phá. Tuy nghe ghê gớm như vậy, nhưng tác dụng thực tế chẳng đáng là bao. Thành tích vô hiệu hóa những thứ này thuộc về các nhà khoa học, kỹ thuật của ta. Họ không có những máy đo lường tinh vi, những máy kiểm tra hiện đại, thiếu cả những phòng nghiên cứu. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, căm thù giặc cao độ, bằng trí thông minh, sáng tạo của mình, họ đã tìm mọi cách để vô hiệu hóa những máy móc tinh vi này. Ở đây anh em hóa kiếp nó thành những thứ đồ chơi như thế này; còn ở các trọng điểm đánh phá, anh em ta còn biết dùng nó để chỉ huy cả máy bay địch nữa! Cứ đặt nó vào chỗ nào mà mình muốn tập trung bom đạn vào đấy, rồi dùng băng ghi âm, phát ra mọi tiếng động như ý muốn của mình, thế là máy bay C.130 vù đến như ong, suốt cả đêm ném bom vô tội vạ. Xong một lần, lại phải đổi chỗ.

        Theo các đồng chí giao liên, chuyện đưa người vào ra trên đường dây, thì chính tại nơi có hàng rào điện tử ghê gớm này, lai là nơi sự đi lại của ta được an toàn và dễ dàng hơn cả. Là vì ở đây, máy móc đã thay thế con người. Quân lính Mỹ không bao giờ chúng dám đến đây phục kích, bắt người.

        Một giáo sư ở trường đại học Coóc-nen (Mỹ) kết luận: “Thắng lợi của người Việt Nam là một thí dụ vô song về sự toàn thắng của trí tuệ con người với máy móc” (Sức mạnh Việt Nam trang 463).

        Nói đến ý nghĩa triết học của chiến tranh Việt Nam, một người Nhật tên là Yoshishiga Kozsi cũng đã nói: “Ý chí chiến đấu không thể đo bằng máy tính. Binh lực và vũ khí có thể dùng máy tính điện tử mà lập biểu, chứ ý chí chiến đấu, thì lại không như thế. Hơn nữa, nó là biến động không ngừng. Trong chiến tranh Việt Nam, ý chí chiến đấu của Quân Mỹ ngày càng giảm sút, ngược lại ý chí chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam mỗi ngày một tăng, khoảng cách này ngày càng lớn. Như đã tiết lộ trong hồ sơ bí mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, họ hy vọng chắc chắn rằng: nếu ném bom thật nhiều, thì ý chí chiến đấu của nhân dân Việt Nam sẽ bị gãy. Nhưng rõ ràng điều đó là một sai lầm lớn”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #25 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 04:18:47 pm »

           
Chương 5

THAI NGHÉN-KHÊU GỢI

        Theo chị thị của trên, một số cán bộ của Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị làm việc với anh Ba-Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng, tại Đồ Sơn. Khu nghỉ mát này chẳng qua là một nơi thay đổi không khí; khác chăng với trên Hà Nội, là ở đây, được yên tĩnh hơn, ít người đến gặp hơn, để các đồng chí tập trung, nghiên cứu, suy nghĩ những vấn đề to tát hơn, có quan hệ đến vận mệnh của toàn Đảng, toàn dân.

        Lần này, đi Đồ Sơn, không phải chí có một mình thượng tá Võ Quang Hồ mà còn có cả thượng tướng Hoàng Văn Thái, trung tướng Lê Trọng Tấn nữa. Nhưng họ không đi thành một đoàn, mà xe ai nấy đi, xem như chẳng có liên quan gì đến với nhau cả. Như thế, cũng đỡ phiền phức cho những người tò mò, phải bận tâm để ý đến.

        Sau giờ nghỉ trưa, theo kế hoạch đã sắp đặt từ trước, cả ba người đến chỗ anh Ba. Một ngôi nhà nhỏ, một tầng lầu, nằm sát vệ đường, cạnh Pa-gốt-đông. Cả ba người bước vào nhà, anh Ba từ trên gác đi xuống, bắt tay mọi người, chỉ ghế mời ngồi.

        Trung tướng Lê Trọng Tấn báo cáo ngay tin sốt dẻo:

        - Khu 5 vừa diệt cụm cứ điểm Nông Sơn, giải phóng 2 vạn dân.

        - Có chủ trương giữ luôn không? Anh Ba hỏi.

        - Có. Cũng có thể giữ được. Từ khi có nghị quyết của Quân uỷ Trung ương, tháng 3 năm 1974 đến nay, Khu 5 đã có chuyển biến lớn. Các anh trong ấy đã thống nhất chủ trương là không nên phân tán chủ lực ra để gỡ các chốt, mà lại tập trung đánh những trận lớn, thôi động, thì cũng có thể gỡ được chốt. Mặc dù chiến dịch vừa rồi ở tây nam Tam Kỳ, kết quả còn hạn chế giải phóng được mấy trăm dân thôi, nhưng cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm bổ ích. Đang có đà.

        Anh Ba cười;

        - Khu 5 làm đúng bài bản rồi đấy! Tôi tin rằng chẳng bao lâu nữa, Khu 5 cũng sẽ lên kịp với đồng bằng sông Cửu Long thôi.

        Hôm nay mời các anh xuống đây, tôi muốn trao đổi với Quân uỷ và Bộ Tổng tham mưu một vài ý kiến: Chiến lược thực dân mới kiểu mới của Mỹ trong 20 năm qua là gì? Nó vào từng giai đoạn như thế nào? Mỗi giai đoạn đều có mục đích, yêu cầu chiến lược, chiến thuật và khả năng khác nhau. Ta phải nắm vững các quy luật của nó. Ý định chiến lược của ta khi ký Hiệp định Paris như thế nào? So sánh mạnh yếu giữa ta và địch sau Hiệp định Paris như thế nào? Tình hình Đông Nam Á, giữa hai phe hiện nay ra sao? Phương hướng hoạt động thế nào là thích hợp nhất? Thời cơ nào thì chấm dứt chiến tranh và chấm dứt như thế nào là có lợi nhất? Chúng ta cần phải đánh giá tình hình vừa qua, thật tỉnh táo và khách quan. Tôi cũng có nghe báo cáo về địch. Có những chỗ còn chưa rõ. Ngày nay, có phải là Mỹ mạnh lắm không? Có phải nó muốn làm gì thì làm không? Chúng ta không nhìn đối phương qua những bản thống kê, những con số, mà phải tìm cho ra quy luật của từng vấn đề, không phải chí thấy hiện tượng bên ngoài mà phải thấy thực chất bên trong, không phải chỉ thấy hiện tại trước mắt mà phải thấy chuyển hóa sau này. Tại sao năm 1954, Mỹ nhảy vào Việt Nam, gây ra chiến tranh đặc biệt, phát triển thành chiến tranh cục bộ, rồi bây giờ lại rút ra? Tại sao Mỹ không nhảy vào Việt Nam lúc cách mạng Trung Quốc tràn xuống phía Nam?

        Không chờ trả lời, anh tiếp:

        - Trước đó, năm 1945, Liên Xô đã tiêu diệt một triệu quân Nhật ở đông bắc Trung Quốc. Mỹ cho rằng, dù có đưa một triệu quâ Mỹ vào để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, chưa chắc đã làm được gì, vì một triệu quân Mỹ có hơn gì một triệu quân Nhật? Nếu Liên Xô không thắng đội quân Quan Đông này thì chắc là Mỹ cũng không ngần ngại gì mà không nhảy vào Trung Quốc để ngăn chặn cách mạng ở nước này. Nhưng sau đó, ở Triều Tiên, Mỹ lại nhảy vào, để ngăn chặn, không cho chủ nghĩa cộng sản tiến thêm nữa, để giữ lấy vị trí, để cứu chế độ tay sai khỏi sụp đổ, giữ lấy những nước còn lại. Lúc bấy giờ Liên Xô, Trung Quốc đoàn kết gắn bó với nhau: Trung Quốc đưa quân sang, Liên Xô giúp vũ khí. Do sẵn sàng lực lượng hai bên lúc đó, nó không tiến lên được, mà bạn ta cũng dừng lại ở vĩ tuyến 38. Như vậy, nó thấy rằng nó cứu được Nam Triều Tiên, giữ được một nước trong phe nó, nó thấy sức mạnh của nó có thể ngăn chặn được Liên Xô, Trung Quốc, mà không có nhiều khó khăn lắm, nó hùng hổ đứng ra nắm cả Đại Tây Dương-Thái Bình Dương, giữ Đông Nam Á, lập ra các khối SEATO, CENTO, NATO, bao vây phe ta…
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #26 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 04:22:37 pm »


        Năm 1954, nó nhảy vào Việt Nam trong lúc chúng ta đang thắng Pháp. Về hội nghị Geneva, Eisenhower đã nói: “Ở chiến trường thì nó thua, nhưng ở hội nghị thì nó được”. Do nó chặn được bước thắng lợi của ta, nó thấy chỗ mạnh của nó, nên nó quyết tâm nhảy vào Việt Nam để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản lan tràn xuống Đông Nam Á. Nó nhảy vào trên thế chiến tranh lạnh và có ưu thế rõ ràng về quân sự, chính trị, và kinh tế trên toàn thế giới. Nó có một chiến lược toàn cầu, “phản ứng linh hoạt”, có mấy phương án nắm lấy quân tay sai, được trang bị bằng vũ khí của Mỹ. Với vài ba sư đoàn, với vài vạn quân, nó cũng đã ngăn chặn được việc thành lập chính quyền tiến bộ cánh tả, làm đảo ngược được tình hình ở một nước như Dominica. Cùng một lúc, nó có thể tham gia vài ba cuộc chiến tranh như vậy, mà vẫn thắng được, mà vẫn chưa đụng chạm gì đến lực lượng mạnh mẽ dùng để đương đầu với các nước lớn, đặc biệt là Liên Xô. Hai cuộc chiến tranh rưỡi là như vậy!

        Ở miền Nam nước ta, ngay từ đầu, Mỹ dùng chính quyền Ngô Đình Diệm, phá hoại Hiệp đinh Geneva, không chịu tiến hành tổng tuyển cử, chủ trương vĩnh viễn chia cắt đất nước ta, kéo dài lãnh thổ Hoa Kỳ đến vĩ tuyến 17. Nó dùng chính quyền phản động này xua từng lữ đoàn, sư đoàn đi càn quét, khủng bố, lê máy chém đi khắp các nơi. Chính quyền Ngô Đình Diệm phát xít ghê gớm lắm: chúng nắm từng nhà một, đến nỗi, con ở chiến khu về mà mẹ phải la làng và đi báo cáo; vợ không dám nhận chồng, con không dám nhìn cha.

        Mặc dù đối phương đang diễu võ dương oai như vậy, lúc bấy giờ Đảng ta đánh giá chúng như thế nào? Chúng yếu về mặt chiến lược, càng thi hành những thủ đoạn phát xít, càng bộc lộ sự suy yếu mà thôi, cho nên ta chủ trương đồng khởi, nổi dậy. Có người khuyên ta nằm im, chờ thơi cơ. Thử hỏi đến bao giờ mới có thời cơ? Ta nhất định không nghe, vì không ai hiểu tình hình Việt Nam hơn ta. Ta cũng không chờ mong ai mang đến thời cơ cho ta, mà chính ta phải chủ động tạo ra thời cơ cho mình. Thực tế diễn biến, đã xác minh chủ trương của Đảng ta là hoàn toàn chính xác: chỉ một năm sau đó, chúng ta đã lấy lại toàn bộ vùng nông thôn là nơi yếu nhất. Đây là điều bất ngờ lớn đối với Mỹ… và đối với nhiều người khác.

        Năm 1960, thấy gay go, Mỹ tổ chức ra bộ chỉ huy ở miền Nam Việt Nam-MACV-để lãnh đạo chiến tranh đặc biệt. Chúng đã dùng những người chống cộng, chống du kích khét tiếng như Lansdale, Thompson, đem những kinh nghiệm đã thu thập được ở Mã Lai, Phi Luật Tân ra áp dụng ở miền Nam Việt Nam, bày trò gom dân, đuổi cá ra khỏi nước v.v… nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng còn non yếu. Nhưng thấy rõ so sánh lực lượng giữa ta và địch trong quần chúng, ta vẫn tiếp tục tiến công và nổi dậy ở cả đô thị nữa. Có người góp ý “Đánh đến đơn vị trung đội thôi nhé, đừng đánh lớn hơn!”. Sau những thắng lợi vang dội ở Ba Gia, Bình Giã, Mỹ thấy nguỵ quyền, nguỵ quân không giữ nổi, nên đưa 20 vạn quân Mỹ vào làm chiến tranh cục bộ ở miền Nam, gây chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Chúng muốn đóng lâu dài ở miền Nam, tiến lên thu hẹp miền Bắc xã hội chủ nghĩa và bao vây Trung Quốc, cắm cờ của chúng chung quanh Trung Quốc. Điều này, sau này khi Chu Ân Lai sang đây có nói với tôi. Nó đinh ninh rằng sẽ lui về phòng ngự, lực lượng ta ở miền Nam sẽ bị hao mòn, và miền Bắc sẽ trở lại thời kỳ đồ đá. Mỹ xua quân đi tìm diệt, hết Plây Me đến Attleboro, Junction City, v.v… bỏ trống các đô thị. Ta mở chiến dịch Khe Sanh, kéo địch ra đường 9, giữ nó lại mà đánh sau đó, dùng lực lượng tinh nhuệ, đánh thẳng vào Sài Gòn và tất cả các đô thị ở miền Nam, làm nên cái Tết Mậu Thân lịch sử.

        Một lần nữa, đối phương lại bị bất ngờ. Như vậy, ta đã thắng Mỹ ở mức cao nhất và như Trung ương đã đánh giá: Ta đã đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Mỹ thua cả về sức mạnh, cả về ý chí. Mọi mặt đều trở nên rối loạn: chính trị, quân sự, kinh tế, dự trữ vàng chỉ còn 10 tỷ đô la; trong nước rối loạn không thể tưởng tượng được. Nhưng điều mà Mỹ lo sợ nhất lại không phải là Việt Nam! Nhật, Tây Đức đã vùng lên về kinh tế, và nguy hiểm hơn nữa cho Mỹ là Liên Xô đã vượt lên Mỹ về vũ khí chiến lược. Mỹ ngày càng gặp khó khăn về kinh tế suy thoái, thất nghiệp ngày càng tăng, sức chống đối trong nội bộ nước Mỹ và trên thế giới ngày càng mạnh, đế quốc Mỹ ngày càng bị cô lập.

        Tình hình đó, buộc Mỹ phải ngồi lại đàm phán, xuống thang chiến tranh. Johnson nêu ra chiến lược “phi Mỹ hóa” và tiếp đó, Nixon phải “Việt Nam hóa chiến tranh” để giữ miền Nam Việt Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #27 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 04:25:42 pm »


        Đánh bốn năm trời, ghê gớm như vậy, muốn xoá ta không xoá được. Ta phá chiến lược toàn cầu của chúng, phá cả thế bao vây Trung Quốc. Hơn nửa triệu quân Mỹ và quân chư hầu không tìm được con đườn thắng lợi vinh quang, mà phải tìm con đường rút lui, rút lui mà giữ được thể diện mà còn có thể duy trì được cái gì đây. Mỹ thua, buộc phải rút ra, phải thừa nhận miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, còn quân chủ lực miền Bắc thì vẫn ở lại. Phải nhận như vậy là nhận trên thế yếu.

        Thực dân kiểu mới là gì? Là giữ cho tay sai ở miền Nam đững vững, trong khi Mỹ đang gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng, buộc phải rút ra; giữ được nông thôn, đô thị, quân nguỵ. Ra mà vẫn còn nhiều lực lượng ở lại. Đó là một triệu quân nguỵ, là nguỵ quyền được Mỹ viện trợ kinh tế, là hai vạn cố vấn. Nếu ta mạnh thì nó phải ra, ta không mạnh thì nó sẽ ở lại. Bây giờ thì nó đang ra đấy, chưa phải là đã vào lại. Để giữ miền Nam, nó hoà hoãn, ngoặc với các nước lớn để chặn miền Bắc lại. Nhưng, giữ miền Nam là một chuyện, còn nhảy vào miền Nam lại là chuyện khác. Mười năm nữa, nếu nó xây dựng được hải, lục, không quân của nguỵ mạnh lên, thì tình hình sẽ phức tạp, chứ không như bây giờ.

        Như vậy, từng giai đoạn, chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ có mục đích, có biện pháp và khả năng riêng của nó. Ta nói đến mức nào, chứ không nói hết được đâu. Có điều là phải luôn luôn cảnh giác, còn đế quốc thì ta phải luôn luôn sẵn sàng…

        Bây giờ tôi nói qua về ý định chiến lược của ta khi ký Hiệp định Paris. Ta biết rằng đế quốc Mỹ vì thua mà phải ra, chứ thâm tâm thì muốn ở lại. Cho nên chúng lại phải xoay thêm một chiến lược mới nữa là hoà hoãn. Nhưng, khó mà giữ Thiệu được thêm bốn năm nữa. Chúng sẽ chọn một tên tay sai khác, để thi hành Hiệp định một bước, để tranh thủ thời gian củng cố, xây dựng lực lượng, cố giữ cho nguỵ quyền đứng vững. Chúng sẽ tìm mọi cách để giữ miền Nam, vì nếu để mất miền Nam, thì rồi Lào, Campuchia cũng sẽ mất theo. Chúng có thể ve vãn nơi này nơi kia, để tác động vào ta, làm cho ta im bớt tiếng súng ở chiến trường, hạ thấp yêu cầu trên bàn hội nghị, chủ yếu là để làm nhụt ý chí và làm suy yếu sức mạnh của ta.

        Ta biết rằng, Mỹ còn có tiềm lực. Nó yếu thì yếu, nhưng vẫn còn nhiều khả năng. Nhất thiết ta không bao giờ được chủ quan mà cho rằng nó đã sức tàn, lực kiệt. Còn ta, tuy thắng lợi liên tiếp, nhưng sự viện trợ bên ngoài, cũng không thể lúc nào cũng đầy đủ và kịp thời như chủ quan ta mong muốn. Vì vậy, ta đã tạo ra một thế đi lên vững chắc nhất, một thế thắng vững chắc nhất. Ta ký Hiệp định Paris, đề ra hai chính quyền, hai quân đội, ba thành phần. Trên toàn chiến trường, ta vẫn giữ thế tiến công, đấu tranh buộc địch phải thi hành Hiệp định, thực thi dân chủ, phá thế kìm kẹp của chúng, đồng thời tranh thủ xây dựng lực lượng, mở rộng hành lang nối liền tiền phương với hậu phương. Tất cả những việc làm có thể tạo ra một thế mạnh mới, để tiến lên, khi Mỹ buộc phải ra đi, nghĩa là quân nguỵ đã suy yếu đi nhiều. Với chủ trương như vậy, ta có ý định giữ lại sức mạnh ở miền Nam để tiến lên, để tiếp tục phát triển thế tiến công bằng cách này hay cách khác, thích hợp với từng lúc từng nơi, để làm suy yếu lực lượng nguỵ thêm một bước, đi đến xoá bỏ chúng. Ý định của chúng ta là như vậy, và với hai khả năng cũng là như vậy. Không bao giờ ta dừng lại cả. Ta ký Hiệp định Paris rất là chủ động. Ta kiên quyết tiến công, nhưng cũng rất mềm dẻo, biết thắng địch từng bước, từng mục tiêu một. Con người Việt Nam là thế đấy, bao giờ cũng tấn công, biết tấn công và biết thắng địch. Địch mạnh hơn ta, ta phải biết tấn công để chặn địch lại, để kéo địch xuống; địch đã yếu đi, phải biết tấn công để đánh sụp địch, để giành thắng lợi hoàn toàn. Tư tưởng sợ sức mạnh của địch, cách này hay cách khác, đều gây khó khăn nguy hiểm cho cách mạng.

        Việt Nam ngày nay có khác gì trước không? Trước kia, Việt Nam là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á. Mỹ đánh Việt Nam để ngăn chặn, bao vây phe xã hội chủ nghĩa. Nhưng bây giờ, vấn đề Việt Nam không còn là vấn đề giữa hai phe nữa, mà đã trở thành vấn đề Đông Dương, vấn đề Đông Nam Á.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #28 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 08:21:06 pm »


        Các nước lớn đang giành giật nhau găng lắm ở khu vực Đông Nam Á này. Mai đây, không chừng họ có thể dùng quân sự để giải quyết với nhau. Họ tuyên bố: không ai được độc quyền làm chủ Đông Nam Á. Mỗi nước đều có mưu đồ riêng: Mỹ không muốn cho Trung Quốc, Nhật, Liên Xô xuống Đông Nam Á; Nhật, Trung Quốc cũng không muốn Mỹ nhảy vào khu vực này. Người ta ngại Việt Nam mạnh. Họ đang tìm cách làm cho Việt Nam yếu đi, tim mọi cách chia hai nước Việt Nam. Họ sợ ta thống nhất, vì họ biết rằng, một khi đã thống nhất được rồi, ta được độc lập thật sự, Lào, Campuchia cũng được độc lập thật sự, sẽ đoàn kết gắn bó với nhau, Đông Dương sẽ mạnh lên nhiều lắm. Thắng lợi của ta sẽ tạo ra tình hình mới ở Đông Nam Á này. Có lẽ vài mươi năm sau, cả thế giới còn chịu tác động bởi ảnh hưởng này. Vì thế, các nước đang tìm xem dùng cách nào để chặn lại ta lại. Ở Lào, Nhật muốn nắm nhưng cho rằng đi bằng đường quân sự không có lợi, mà nên đi bằng đường kinh tế, vì vùng này có nhiều tài nguyên, lại gần nước Nhật; còn Mỹ thì lại muốn có chính phủ liên hiệp, muốn cả Campuchia, miền Nam, cũng đều liên hiệp và để cho nó nắm. Mỹ không muốn cho Trung Quốc xuống Đông Nam Á và muốn dùng tiền để giằng Việt Nam lại…

        Như tôi vừa nói, hiện nay các nước chưa ai sẵn sàng cả; Mỹ thì đang rút ra, chưa phải là lúc vào lại. Cho nên mặc dù bọn Mỹ ở bên này có kêu gào đến mấy chăng nữa, viện trợ chỉ có chiều hướng giảm, không tăng. Nguỵ thì đang xuống dốc, còn ta thì đang ở thế thắng và đang tiến lên nhanh. Vì vậy, tôi nghĩ rằng nay là thời cơ thuận lợi nhất để kết thúc cuộc chiến tranh này, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Nếu để chậm năm bảy năm nữa, họ mạnh lên thì sẽ phức tạp vô cùng cho ta. Từ tình hình trong nước và tình hình thế giới mà rút ra kết luận đó. Nhưng còn một vấn đề nữa là thắng như thế nào cho tốt? Để chậm, thì sẽ không tốt đã đành, còn làm, mà làm không tốt, chầy chật, cũng sẽ thêm phức tạp. Làm tốt là làm nhẹ nhàng, làm nhanh, làm gọn, làm triệt để, làm trong một vài tháng, thì có lợi hơn là dây dưa, kéo dài ngày. Có như thế mới đạt được bất ngờ để không ai kịp trở tay, chứ nếu kéo dài ra thì các nước lớn sẽ tìm cách này, cách nọ để tăng thêm lực lượng, tiền của, để đối phó với ta. Có làm được như thế không? Tôi nghĩ rằng càn thiết và nhất định sẽ làm được…

        Cần phải phân tích thêm điểm này..

        Cách mạng, cuối cùng do so sánh lực lượng quyết định. Ta phải biết đánh giá địch, ta cho đúng: hiểu được mạnh yếu giữa ta và địch như thế nào, trong từng lúc, từng nơi. Ngô Đình Diệm, nó xây dựng ấp chiến lược, đề ra thành quốc sách, hai sông, ba núi, nghe ghê lắm. Đảng ta nhận định rằng: một thế mạnh trong thế yếu chung của chúng về chính trị. Địch tập trung quần chúng lại để kìm kẹp quần chúng; còn ta thì phát động quần chúng, đưa quần chúng ra đấu tranh với địch. Như vậy là ta ở vào thế mạnh của mình. Ta thấy rõ 1965-1966, Mỹ đưa vào miền Nam Việt Nam 20 vạn quân. Ta đánh giá ta mạnh, vì nó vào trong thế thua, vào trong lúc lực lượng ta đã ở trong thế bố trí đâu đấy cả rồi. Cho nên có Vạn Tường, có núi Thành, nhất là Vạn Tường: cả một sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ, gần một vạn tên, với bao nhiêu là tàu chiến, xe lội nước, máy bay, trực thăng yểm trợ, càn quét ở ngày rìa căn cứ Chu Lai, mà suốt cả một ngày ròng rã, từ sáng đến chiều, không làm gì nổi hai tiểu đoàn chủ lực của ta với lực lượng tại chỗ, lại bị thương vong nặng. Như vậy, thì nên đánh giá thế nào? Ta vẫn giữ được quyền làm chủ chiến trường và vẫn tiếp tục tiến công quân địch.

        Khi quân Mỹ lên đến 50 vạn và gần một chục vạn quân chư hầu, chưa nói đến mấy chục vạn quân nguỵ, ta lại đánh ngay vào Sài Gòn và trên 40 thị xã, thị trấn, cơ quan đầu não, kho tàng, buộc chúng phải co tất cả về để giữ căn cứ. Cho nên, nói đến mạnh yếu giữa ta và địch, là nói theo quan điểm cách mạng, đánh giá một cách tổng hợp cả thế và lực, cả quân sự và chính trị, cả khả năng và thời cơ, cả điều kiện khách quan và nghệ thuật lãnh đạo chủ quan trong một không gian và trong một thời gian nhất định. Không thể đem số lượng đơn vị, số lượng đồn bốt ra mà đánh giá mạnh yếu được. Ở Kế hoạch 9 vừa rồi ta 1 địch 8, ta tiến công, địch thua; ngược lại, ở Trị Thiên, ta 1 địch 2, ta phòng ngự, địch thực hiện được bình định, phân tuyến. Vì sao vậy? Ở Khu 9, các đồng chí trong ấy nắm rất vững quy luật của chiến tranh cách mạng và phong trào cách mạng, biết vận dụng nó một cách sáng tạo để tạo ra sức mạnh tổng hợp và giành thắng lợi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #29 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 08:24:39 pm »


        So sánh lực lượng giữa ta và địch, trước và sau Hiệp định Paris, có gì mới không? Đứng về logic mà nói, thì khi còn cả Mỹ, cả nguỵ mà ta cũng thắng được, có nghĩa lực đã mạnh; thì sau khi Mỹ rút ra ta phải mạnh hơn và phải thắng lớn hơn. Mỹ cũng lo sợ như vậy. Cho nên, hoãn đi hoãn lại việc ký kết, cố kéo dài thêm thời gian, để tranh thủ đối phó với ta. Năm1973, nó giành được chủ động, rõ ràng là ta có sai lầm ở nơi này hay nơi khác. Nó cứ vận động tiến lên, mà ta thì ngồi yên một chỗ; thậm chí, có nói rút lui, thủ tiêu chiến đấu, nên nó mạnh lên mà ta thì yếu đi. Nhưng nếu ta cứ vận động tiến lên một cách thích hợp, thì không những ta cũng mạnh như trước, mà có thể nói gấp đôi, gấp ba. Đến cuối năm 1973, đầu 1974, sau khi ra phản công và tấn công kiên quyết như Nghị quyết 21 đã chỉ ra, thì địch bộc lộ rất rõ những chỗ yếu của nó: tinh thần yếu, quân cơ động yếu, dự trữ giảm, thế bị động; quân địa phương, thì mặc dù có được sự che chở của hàng vạn đồn, bốt, nhưng sức kìm kẹp đã suy yếu, không dám đi hành quân và bị quần chúng bao vây. Sự kết hợp giữa các thứ quân của chúng, giữa lực lượng kìm kẹp và lực lượng vũ trang, chỉ có thể phát huy được trong tình trạng yên tĩnh, nghĩa là ta không đánh; trái lại khi đã bị đánh, thì đánh một, bị tan rã hai, ba, vì không còn có chủ lực, không còn có không quân yểm hộ che chở như trước kia. Ở đô thị, ở nông thôn, địch yếu về chính trị, về kinh tế, về  văn hóa, về xã hội; yếu về mâu thuẫn nội bộ, mâu thuẫn gay gắt với nhân dân, mâu thuẫn giữa Mỹ và tay sai…

        Còn ta thì sao? Ta có sức mạnh tổng hợp của lịch sử để lại, của cả nước, của một cuộc cách mạng và của thời đại đang lên. Ông cha ta đã để lại cho chúng ta, truyền thống kiên trì của 10 năm chống quân Minh, truyền thống dũng mãnh của 10 ngày thần tốc đuổi quân Thanh, lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy mưu trí, dũng cảm mà chinh phục kẻ mạnh. Ngày nay, đó là sức mạnh của hai ngọn cờ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và của của cả nước: miền Bắc, miền Nam. Vị trí và điều kiện lịch sử không cho phép bất cứ một ai chia cắt đất nước, chia sẻ hoà bình; không thể có nửa nước độc lập, nửa nước tiến lên xã hội chủ nghĩa. Trong lúc này miền Nam phải đấu tranh giành độc lập thống nhất; miền Bắc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải quyện lấy nhau. Nhờ có sức mạnh tổng hợp ấy, con người Việt Nam thông minh, yêu nước, thấm nhuần chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do” mới có phong cách đánh giặc riêng của mình, một người cũng mạnh, một sư đoàn cũng mạnh; một địa phương nhỏ cũng là pháo đài đánh giặc, biết căng địch ra, biết vây địch lại mà đánh. Có người nước ngoài đã nói với tôi: “Việt Nam đánh giặc ít chết, vì không sợ chết”, và họ cũng không hiểu vì sao, 20 năm địch đánh phá khốc liệt như vậy mà vẫn sống được, vẫn có ăn, có mặc, có nhà ở; trẻ con vẫn được học hành; tài năng, trí tuệ vẫn phát triển… Sức mạnh của ta là sức mạnh của ba dòng thác cách mạng, sức mạnh thường trực của thời đại đang tiến công vào dinh luỹ đế quốc chủ nghĩa. Trong quá trình phát triển chung của cách mạng thế giới và cách mạng trong nước, ta đã nắm được quy luật của nó, nhờ đó mà đánh bại liền mấy tên đế quốc, kể cả tên đế quốc đầu sỏ nhất là Mỹ.

        Đường lối quân sự của ta là đường lối vận dụng sức mạnh tổng hợp đó, đường lối chiến tranh nhân dân. Trong thời đại ngày nay có hai sức mạnh: sức mạnh nguyên tử và sức mạnh chiến tranh nhân dân. Sức mạnh nguyên tử đang bị chặn lại ở thế phòng ngự của hai phe, cho nên sức mạnh của chiến tranh nhân dân vượt hẳn lên và chiến thắng. Đó là sức mạnh cơ bản nhất.

        Chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân là gì? Chiến lược tổng hợp là gì? Nội dung nó đề cập đến nhiều vấn đề:

        Quy luật chiến tranh cách mạng ở miền Nam là nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy, đi đến tổng tiến công và nổi dậy để đánh bại quân thù; hay nói một cách khác: làm chủ để tiêu diệt, tiêu diệt để làm chủ. Đó là quá trình đấu tranh chính trị và quân sự, quân sự và chính trị (chính trị bao gồm cả binh vận và ngoại giao, khởi nghĩa của quần chúng và chiến tranh cách mạng, chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, giành thắng lợi từng bước, đi đến giành thắng lợi hoàn toàn. Trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm của lịch sử Việt Nam, đặc biệt từ Lê Lợi đến Quang Trung, chiến tranh đều diễn biến ra trên hình thái đó.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM