Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 15 Tháng Năm, 2024, 12:12:14 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Xuân giải phóng  (Đọc 41519 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #140 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2017, 05:07:24 pm »

     
        Thực hiện kế hoạch trên, ngày 9 tháng 4 năm 1975, Bộ tư lệnh Miền sử dụng sư đoàn 7 và sư đoàn 341 tiến công vào Xuân Lộc. Do địch đinh ninh rằng ta sẽ đánh Tây Ninh, nên trong những tháng 2, 3 và đầu tháng 4, họ gần như đem hết cả lực lượng chủ lực về phía ấy. Mặt trận phía đông bị bỏ ngỏ. Mãi cho đến ngày 5 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Toàn mới phát hiện ra hướng tiến công chủ yếu của ta là hướng đông và Tây Ninh lại là hướng kìm chế, nghi binh để thu hút đối phương. Toàn vội vàng điều động lực lượng từ tây sang đông, chủ trương quyết giữ Long Khánh từ xa. Toàn giao cho Lê Minh Đảo, tư lệnh sư đoàn 18, phải giải toả quốc lộ 1 để nối liền với mặt trận Phan Rang, chiếm lại cho được núi Chứa Chan, một đài quan sát tuyệt vời ở miền Đông Nam Bộ, giữ vững Bình Tuy. Chủ trương này rất hợp với ý của Thiệu nhưng Lê Minh Đảo thì phản ứng mạnh. Theo Đảo thì trong tinh hình này, lực lượng cơ động không còn bao nhiêu, nên phải bỏ cả Bình Tuy, Xuân Lộc co về giữ Biên Hoà; nói gì đến chuyện vươn ra tận Phan Rang xa xôi. Đảo chấp hành mệnh lệnh một cách nửa vời; tập trung toàn bộ  lực lượng của sư đoàn 18 và một thiết đoàn chỉ giữ Xuân Lộc thôi. Ngoài ra, còn có tiểu đoàn 82 biệt động quân mới xây dựng lại và nhiều đơn vị địa phương, hai khẩu pháo 175, 10 khẩu phảo 155 và 20 khẩu pháo 105 mm. Cách bố trí thì phân tán trên các mỏm đồi và ở cả trong rừng cao su. Trước ngày nổ súng, Lê Minh Đảo rất xảo quyệt, đã bí mật rời sở chỉ huy và trung tâm hành quân vào trung tâm thị xã, làm cho các đài quan sát tiền tiêu của ta bị mất hút. Về phía ta, sư đoàn 7 đã tác chiến liên tục từ đợt 1 đến nay và đã thu được nhiều thắng lợi lớn. Là đơn vị chủ công trong trận Phước Long, tiếp đến là Định Quán, giải phóng Bảo Lộc, Di Linh, mà quân số thì chưa được bổ sung, cho nên sức chiến đấu có bị giảm sút. Sư đoàn 6 thì mới hình thành, còn sư đoàn 341, thì chân ướt chân ráo mới đến chiến trường. Vấn đề bảo đảm vật chất trên hướng này, đối với cơ quan hậu cần của Miền, thật là vô cùng vất vả, vì đường vận chuyển vừa xa, lại vừa cách núi, ngăn sông, hậu phương trực tiếp rất nghèo nàn. Một chiếc xe vận tải chở vũ khí, đạn dược xuất phát từ Đồng Xoài, phải mất cả tuần lễ mới đến được nới tiếp nhận.

        Sau những loạt pháo bắn chuẩn bị, trung đoàn 3 của sư đoàn 341, được xe tăng chi viện, tiến công từ phía bắc thị xã Xuân Lộc, phát triển thuận lợi, chiếm được dinh tỉnh trưởng, và đánh vào căn cứ biệt động quân. Đến ngày 10 tháng 4, đưa thêm một số tiểu đoàn vào để tăng thêm sức chiến đấu, chiếm được căn cứ này phía tây sân bay, khu vực chiến đoàn 45 và tập trung đánh phản kích. Trung đoàn 12 của sư đoàn 7, tiến công từ phía đông nhưng bị ngăn chặn, không mở được cửa, không thực hiện được việc chia cắt địch từ phía nam. Ngày hôm sau lại đưa nốt một bộ phận của trung đoàn 14 đến để cùng trung đoàn 11 cố đánh chiếm hậu cứu của chiến đoàn 52, đột phá vào hậu cứ của sư đoàn 18, chiến đoàn 43, nhưng tất cả đều bị ngăn chặn, không phát triển được vì đánh vào chỗ cứng trên một địa hình không thuận lợi. Sau ba ngày liên tục chiến đấu, bộ đội ta bị thương vong. Trên hướng sư đoàn 341, ngày đầu có thuận lợi như đã nói trên, nhưng đến ngày thứ ba cũng bị chặn lại. Bộ Tổng tham mưu quch nhận thấy tình hình trong lúc này mà để mất Xuân Lộc thì coi như Quân giải phóng đã đứng trước cửa ngõ Sài Gòn rồi. Hơn nữa, họ đang muốn tìm kiếm một chiến thắng vang dội. Vì vậy càng phải dốc hết sức tàn lực kiệt vào mặt trận này: máy bay oanh tạc suốt ngày, pháo binh bắn dồn dập, đồng thời cấp tốc chuyển toàn bộ lữ đoàn 3 kỵ binh, một lữ đoàn dù, một chiến đoàn xe tăng, từ mặt trận phía tây sang. Chiều ngày 13 tháng 4, lữ đoàn dù và sáu khẩu pháo 105 mm đến ngã ba Tân Phong. Sáng hôm sau, cánh này đánh vòng lên phía bắc, định hình thành thế bao vây tiểu đoàn 7, trung đoàn 209 của ta. Thế trận giằng co. Trước sức chống cự quyết liệt của địch, một số đơn vị của ta vẫn giữ các mục tiêu quan trọng trong thị xã mới chiếm được, một số đơn vị khác, phải rút ra ngoài, chuẩn bị đánh phản kích. Bộ tư lệnh chiến dịch cử trung tướng Trần Văn Trà đến kiểm tra tại trận và hướng dẫn cách đánh cho phù hợp: từ trạng thái tiến công chuyển sang bao vây, đánh thiệt hại nặng quân địch ở vòng ngoài, và dùng pháo binh tiêu hao ở bên trong. Kết quả là sau mấy ngày chiến đấu, lữ đoàn 3 kỵ binh bị chặn đứng ở Bàu Cá không tiến lên được để giải toả quốc lộ 1, nối liền với Xuân Lộc, thậm chí đến việc bắt liên lạc với chiến đoàn 52 ở Dầu Dây cũng không thực hiện được, vì tiểu đoàn 3 của chiến này cũng bị đánh thiệt hại nặng ở đồi Móng Ngựa, và đến ngày 15 tháng 4 thì phải rút về Long Bình qua ngã bắc Bầu Hàm. Lữ đoàn dù 1 cũng không tiến lên được và bị đẩy dần về phía Trảng Bom, Biên Hoà, lần lượt Túc Trung, Kiểm Tận và Dầu Dây được giải phóng, Xuân Lộc ngày càng bị cô lập. Tuyến phòng thủ Hố Nai-Biên Hoà bị uy hiếp.

        Trên mặt trận phía tây, thực hiện chủ trương cắt quốc lộ 4, đoàn 232 do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy, điều chỉnh lại kế hoạch không đánh Mộc Hóa trên tuyến biên giới, mà nhanh chóng thọc xuống la dùng sư đoàn 8 đánh Cai Lậy, cắt đường; sư đoàn 5 và một trung đoàn đánh Thủ Thừa, còn 3 trung đoàn khác thì áp sát Sài Gòn. Hai sư đoàn 3 và 9 sẵn sàng ở phí sau. Do đường sá lầy lội, phải vượt qua nhiều bưng sình, nên các đơn vị pháo binh, thiết giáp không theo kịp bộ binh. Để phối hợp kịp thời với Xuân Lộc, đêm 10 tháng 4, ta tiến công Tân An - Thủ Thừa. Vì không có hoả chi viện, trận đánh không thành công. Ta chuyển sang tiêu diệt các đồn bót nhỏ ở phía tây Tân An, mở rộng hành lang, củng cố vị trí đứng chân, tạo điều kiện để sau này đánh lớn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #141 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2017, 05:13:35 pm »


        Những trận đánh Xuân Lộc, Tân An không dứt điểm được, đối phương tuy lâm vào bước đường cùng, nhưng chưa phải đã tháo chạy. Tuy nhiên, cũng đã có tác động lớn: những đơn vị trực tiếp bảo vệ Sài Gòn như lữ đoàn dù, sư đoàn 18 đều bị đánh thiệt hại nặng. Trong lúc đối phương đang phải lo đối phó với đòn chủ lực, thì lực lượng địa phương, tranh thủ mở vùng, mở mảng, áp sát ven đô, tạo ra những bàn đạp rất thuận lợi cho cuộc tiến công sau này. Các trung đoàn 88 và 24, hai tiểu đoàn ở Long An diệt 45 bốt, phân chi khu, giải phóng 12 xã thuộc huyện Châu Thành, Cần Giuộc, Cần Đước, Tân Trụ, kết hợp với lực lượng đặc công tạo ra chỗ đứng chân vững chắc ở phía nam thành phố.

        Lực lượng cơ động của quân đội Cộng hoà đã sạch. Chỉ sau vài ngày chiến đấu, các tiểu đoàn địa phương 301-322 và 330 bị thiệt hại nặng và trung đoàn 12 của sư đoàn 7 cũng mất sức chiến đấu. Ngày 12 tháng 4, đành phải đưa sư đoàn 22 mới ở miền Trung chạy về, ra be bờ. Kể ra thì sư đoàn này cũng tạm gọi là có máu mặt hơn các đơn vị khác. Ở trung tâm Vạn Kiếp, ở Vũng Tàu, nó còn được bổ sung 4.600 quân, phần lớn mới từ các địa phương lên, nhưng không còn lấy một khẩu pháo nào. Tội nghiệp! Đứa anh cả của nó là sư đoàn 1, trước đấy hùng hổ là thế, mà nay chỉ còn có 2 sĩ quan và 40 lính; còn sư đoàn 3 thì vét được 1.000 lính với 20 khẩu súng trường.

        Các cấp chỉ huy ở trên dường như chẳng nắm được tình trạng bi đát này. Vài ngày đầu, thấy tình hình ở Xuân Lộc, Tân An, loé lên một tia hy vọng, đã vội vui mừng. Ngày 13 tháng 4, tướng Smith, tuỳ viên quân sự Mỹ đã gửi cho C.Brown, chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân, một bức điện nói về trận Xuân Lộc như sau:

        “1.Chúng ta đã bước đầu giành thắng lợi. Trong trận Long Khánh, quân lực Việt Nam Cộng hoà rõ ràng đã tỏ ra quyết tâm, ý chí và lòng dũng cảm để chiến đấu, dù cho tình thế bất lợi cho họ. Dù trận đánh mới chỉ qua giai đoạn 1, nhưng chúng ta có thể nói rằng, quân lực Việt Nam Cộng hoà đã thắng ở hiệp một.

        2.Trận đánh giành quyền kiểm soát ngã ba Dầy Dây và tỉnh lỵ Xuân Lộc từ ngày 9 tháng 4, với trận hoả lực mở màn gồm 3.000 đạn pháo, rocket và cối. Lực lượng Việt Nam Cộng hoà bị áp đảo về số lượng, đã bị đánh bật khỏi thị xã và nhiều xã ấp dọc quốc lộ 20. Nhưng, họ đã nhanh chóng phản công và vào đêm đầu tiên, sau khi trận đánh bắt đầu, họ đã đẩy được phần lớn quân địch ra khỏi Xuân Lộc, mặc dù Bắc Việt còn chiếm nhiều ấp xã.

        3.Không quân Việt Nam đã bảo đảm liên tục không yểm gần. Thiệt hại của địch kinh khủng. Số địch bị chết bỏ lại trên chiến trường hơn 1.200 tên, gần 30 xe tăng bỏ lại trên chiến trường. Ta thu gần 200 vũ khí.

        4.Lòng dũng cảm va tính tích cực của binh sĩ Việt Nam Cộng hoà, nhất là lực lượng địa phương Long Khánh, chắc chắn chỉ ra rằng: những binh sĩ này, nếu được trang bị đầy đủ và lãnh đạo tốt, thì ưu việt hơn hẳn đối thủ của họ. Trận Xuân Lộc như vậy đã giải quyết được vấn đề: Quân lực Việt Nam Cộng hoà có chiến đấu được hay không?”.

        Bước sang ngày 18 tháng 4, Nguyễn Văn Toàn phát hiện được trung đoàn 141 của sư đoàn 7 Quân giải phóng đang chuẩn bị bước vào chiến dịch, thì liền chiều hôm ấy, lệnh cho Lê Minh Đảo phải nhanh chóng bỏ Long Khánh, rút về phòng thủ Biên Hoà, sau khi Đảo vừa nhận được 400 quân bổ sung. Khác với cuộc rút lui “quân hồi vô phèng” ở Tây Nguyên một tháng trước đây, cuộc rút quân của tướng Đảo xem ra có vẻ bài bản hơn. Nhật ký chiến sự của sư đoàn 18 có ghi lại:

        Ngày 19: lữ đoàn dù và sư đoàn 18 tiếp tục phản công mạnh mẽ; chiến đoàn 48 hành quân mở đường tiếp tế như thường lệ; nhưng kỳ thực nhằm mục đích nghi binh và bảo đảm an toàn từ Xuân Lộc đến Long Đạo. Sư đoàn lệnh cho quân địa phương rút khỏi xã Cẩm Mỹ để cho sư đoàn bí mật co đội hình về gần Long Đạo. Cố tránh giao tranh để khỏi tạo ra tình hình khẩn trương trên đoạn đường này. Các chiến đoàn khác dùng tất cả các loại pháo với số lượng rộng rãi hơn, khác hẳn với những ngày trước.

        Ngày 20 tháng 4: 8 giờ sáng, tiểu đoàn dù được tăng cường một chiến đoàn xe bọc thép, một đại đội trinh sát, tiến công mạnh vào trung đoàn 141 Quân giải phóng. Pháo bắn mạnh vào các đơn vị chung quanh Núi Thị, di chuyển rầm rộ, làm như đến tăng cường cho tiểu đoàn 2, trung đoàn 43 đóng tại đây; kỳ thực là để vứt bớt pháo, vật liệu nặng. Trực thăng vận tải vẫn tiếp tục bay ra bay vào Xuân Lộc như mọi ngày, nhưng mang tiếp liệu vào mà là để mang vật liệu ra. Thời tiết xấu, nên chỉ được 3 lần chiếc ngày. Đến 20 giờ, trung đoàn 48 thiếu và ban chỉ huy cùng với 4 pháo, từ Núi Thị rút về Long Đao, triển khai đội hình, để sẵn sàng yểm hộ các đơn vị rút sau. Đến 22 giờ, trung đoàn 43 và tiểu đoàn 82 biệt động quân bắt đầu di chuyển, vượt qua đội hình của trung đoàn 48 và bố trí trên đoạn đường từ Cẩm Mỹ đến Xà Bang. Sau đó hai tiếng đồng hồ, trên 2.000 xe các loại của sư đoàn 18 và tiểu đoàn 2 của trung đoàn 52 và một đại đội trinh sát đi bảo vệ dọc đường. 3 giờ sáng ngày 21 tháng 4, tiểu đoàn ở Núi Thị rút sau cùng. Sau khi bắn liên tục để nghi binh, phá huỷ cả hai khẩu pháo 105 cuối cùng còn lại; đến 5 giờ thì đoàn cơ giới về phía Đức Thạnh. Các đơn vị lẻ tẻ cũng dần dần tập trung lại được ở đây; cho đến 12 giờ thì sư đoàn 18 về Long Bình; lữ đoàn 1 được tách ra khỏi sư đoàn để ở lại bảo vệ Bà Rịa…”

        Ngồi ở Tân Sơn Nhất nhìn ra, là một nhà quân sự như tướng Smith, lẽ nào lại nhìn một cuộc rút lui, mặc dù có bài bản hoá thành một cuộc phản công. Thử hỏi: người ngồi bên kia Thái Bình Dường, thì còn sai lầm đến tận đâu?
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #142 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2017, 05:15:43 pm »

       
Chương 19

THẦN TỐC

        Một bộ phận của Quân đoàn Quyết Thắng đang giúp dân đắp đê sông Đáy, thì chiều 17 tháng 3, được lệnh vào nam Quân khu 4 bảo vệ tuyến giao thông vận tải chiến lược, từ Long Đại đến Bãi Hà; đồng thời chuẩn bị sẵn sàng cơ động. Sư đoàn bộ binh 320B của Quân đoàn và một số đơn vị binh khí kỹ thuật thì vào chiến trường trước. Gác lại một bên nào xẻng, cuốc, quanh, gánh, sọt, nắm chắc lại tay súng, chuẩn bị lên đường. Về mặt tổ chức, cũng có vấn đề cần phải giải quyết. Tiếng rằng quân đoàn phải luôn luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, nhưng vừa qua, đã phải rút bớt một vài bộ phận đi tăng cường cho các mặt trận, cũng phải mất vài hôm mới bổ sung lại cho đầy đủ được.

        Đến ngày 24 tháng 3, thì lại có lệnh: toàn Quân đoàn thiếu sư đoàn 308, đi tham gia chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng. Toàn đơn vị như muốn bay lên phía trước. Muộn mất rồi, chưa đến nơi, thì Đà Nẵng đã giải phóng. Ngày 1 tháng 4, lại nhận lệnh mới: hành quân thần tốc, tập kết ở Đồng Xoài.

        Những người đứng ngoài cuộc có thể nghĩ rằng: cấp trên luôn luôn thay đổi quyết tâm như thế này, thì dưới khó chấp hành. Nhưng làm thế nào được? Chuyển biến trên toàn bộ chiến trường miền Nam trong tháng 3 năm 1975 quá nhanh, tình hình đổi thay từng giờ từng phút, không kịp lên bản đồ tình huống. Hôm trước, như thế là đúng, nhưng hôm sau thì lại không còn thích hợp nữa rồi. Trong một cuộc chiến tranh “theo quy ước” phòng tuyến xô tới, đẩy lùi là điều rất dễ hiểu; nhưng trong một cuộc chiến tranh nhân dân như thế này, trong cái thế cài răng lược không phòng tuyến thì diễn biến mới xem ra rất khác thường. Đối phương cứ yên trí là ta đánh từ vĩ tuyến 17 vào, thì lại mở màn từ Buôn Ma Thuột đánh ra; chưa kịp định thần, thì Quảng Trị xốc tới, Quảng Ngãi vùng lên, Đông Bắc sông Cửu Long nổi dậy. Nói như thế không có nghĩa là cuộc chiến tranh diễn biến không theo một quy luật nhất định nào. Cấp lãnh đạo, tất nhiên là đã nắm được lấy nó, đã dự kiến được tình hình và phải có biện pháp khắc phục. Đối với một binh đoàn, hàng mấy vạn người, xe cộ, phương tiện đi chật đường, chật sá; đang hành quân, bỗng đổi hướng, là một điều vô cùng phức ta. Ùn, tắc, lạc! Bộ Tổng tham mưu đã nhìn thấy trước vấn đề, nên cử một đoàn cán bộ khá đông, do đồng chí Thiếu thướng Phùng Thế Tài, Tổng tham mưu phó dẫn đầu, xuống giúp đỡ đơn vị, đôn đốc hành quân. Người ta thấy cả một đoàn cán bộ cấp cao ở các đơn vị, các trường, các viện tạm thời được trưng dụng về Bộ để cán bộ đốc chiến; đêm ngày chạy ngược chạy xuôi trong đội hình hành quân của Quân đoàn, kéo dài trên hàng trăm cây số, trên nhiều trục đường cách xa nhau, thúc trước đẩy sau, động viên, nhắc nhở. Vất vả vô cùng là đơn vị xe tăng, pháo binh, công binh, cao xạ, nhất là lúc phải rời trục đường quốc lộ 1, chuyển sang đường 9, để sang trục đường tây Trường Sơn, chưa được rải đá. Thông thường thì ở đây, đến tháng 5, mùa mưa mới bắt đầu. Nhưng năm nay, mưa lại đến sớm hơn. Những trận mưa đầu mùa đã biến những hố bụi thành những bãi lầy nhão nhoét, những vật cản đáng gờm nhất của các đơn vị xe, pháo, trên đường hành quân. Bụi có cái vất vả của bụi, còn bùn thì lại có cái vất vả của bùn; nền đường như có đá nam châm hút cứng lấy bánh xe, có khi hàng giờ không nhích lên được nửa thước. Lại kéo đẩy, kê kích; chiếc xe dấn lún ga, như muốn vỡ tung cả máy, vừa vượt được qua một hố bùn thì khẩu pháo kéo ở sau đuôi đã lao xuống đấy rồi. Trước đây, đã có lần ta đưa đi Nam Bộ, chỉ có một tiểu đoàn pháo và một tiểu đoàn xe tăng; mà phải mất ròng rã hai năm trời mới vào đến nơi, mà vẫn chưa đủ số. Xe pháo nằm ngổn ngang, rải rác dọc đường: giờ máy hết, xích hỏng, nhiên liệu cạn, phụ tùng thay thế sạch quẹt. Có trải qua cảnh ấy mới thấy được quyết tâm của bộ tư lệnh quân đoàn lầphỉ nâng tốc độ hành quân lên đến 150-200 cây số ngày, để kịp đến vị trí tập kết đúng theo mệnh lệnh quy đinh, là cả một sự nỗ lực phấn đấu phi thường.

        Trong lúc Quân đoàn Quyết Thắng phải vật lộn với mưa gió và đất đỏ ba dan, ở Lào và Tây Nguyên, thì Quân đoàn Hương Giang, hành quân theo đường quốc lộ số 1, cũng không kém phần vất vả.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #143 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2017, 02:23:37 am »


        Sau Đà Nẵng giải phóng, ngày 1 tháng 4, quân đoàn nhận được lệnh sơ bộ phải chuẩn bị cho sư đoàn 325 cùng với lữ đoàn xe tăng 203 vào tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Trong thời gian đơn vị làm công tác chuẩn bị, thì Trung tướng Lê Trọng Tấn bay về Hà Nội họp với Quân uỷ Trung ương và nhận nhiệm vụ mới. Chỉ riêng việc nắm quân, thu quân trong lúc chờ lệnh cũng đã khó lắm rồi: các đơn vị còn ở rải rác cách xa nhau hàng trăm cây số, một nửa xe và pháo của sư đoàn cao xạ 673 còn bị mắc kẹt ở Huế, trên các trục đường 73, 74, 14, tít trong rừng sâu; cơ quan của trung đoàn 245 thì còn lẹt đẹt ở Khe Sanh, trên quốc lộ 14. Đường sá bị tắc nghẽn vì mưa lũ, các tiểu đoàn bộ binh ở Thượng Đức trong tỉnh Quảng Nam, có nhiệm vụ đi vào nam lại phải vòng ra bắc Huế để theo đường số 1 đi vào. Gặp những trường hợp này, những người làm công tác tham mưu, nếu chỉ ngồi trong phòng, giở bản đồ mà đo đạc, tính toán để làm kế hoạch, thì nhất định sẽ bị phá sản. Còn đang loay hoay tính toán thì ngày 4 tháng 4, Trung tướng Lê Trọng Tấn và Trung tướng Lê Quang Hoà trên cương vị là Tư lệnh và Bí thư Ban cán sự binh đoàn Duyên Hải cũng vừa vào đến nơi, trực tiếp giao nhiệm vụ cho quân đoàn, cấp tốc hành quân vào Nam Bộ tham gia chiến dịch:

        - Trước mắt để lại sư đoàn 324 ở lại nam Quân khu 5 để bảo vệ hậu phương.

        - Được phối thuộc thêm sư đoàn 3 và lữ đoàn 52 Quân khu 5

        - Vừa đi vừa đánh, có khả năng phải đột phá Phan Rang, Phan Thiết.

        - Thời gian: trong vòng 13-15 ngày, phải có mặt ở Xuân Lộc.

        Trung tướng còn trao cho đơn vị bức thư động viên, đồng thời là hướng dẫn hoạt động của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

        “-Các đồng chí lên đường làm nhiệm vụ rất vẻ vang!

        Cần hoạt động thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Muốn vậy, chỉ huy và lãnh đạo phải luôn luôn nắm tình hình địch, ta; quán triệt tình thần hết sức tích cực, hết sức linh hoạt.

        Các đồng chí hãy nêu cao hơn nữa tinh thần quyết chiến quyết thắng, chiến đấu dũng cảm, đạp bằng mọi khó khăn trở ngại, cơ động nhanh, đột kích mạnh, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc”.

        Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc Việt Nam có một điểm rất đáng chú ý: những cuộc hành quân quy mô, thần tốc thường đưa đến những chiến thắng huy hoàn, mở ra những trang sử chói lọi nhất. Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, đều như thế cả. Phát huy truyền thống của cha ông, những con cháu của Bác cũng đang làm một việc như thế.

        Đường từ Đà Nẵng vào Sài Gòn dài trên 800 cây số, phải vượt khá nhiều đèo: Cù Mông, Đèo Cả, Rù Rì, Ro Tượng v.v… 50 con sông đó có 14 sông lớn, gần 600 cầu, cái dài nhất trên 1 cây số như cầu Đà Rằng qua sông Ba. Trước khi rút lui, đối phương đã phá hết các cầu trên đường quốc lộ 1. Chỉ tính riêng một đoạn trên 100 cây số, 6 cái cầu đã bị đánh gục: cầu Lâu, Bà Rén, Hương An, Kế Xuyên, Bà Bầu, An Tân. Như các đơn vị bạn, khó khăn rất lớn đối với quân đoàn là sức kéo thiếu nghiêm trọng, cố tập trung hết mức cũng chỉ bảo đảm cơ động được 30 phần trăm quân số. Còn một trở ngại nữa, là cụm địch ở Phan Rang tương đối mạnh. Như đã nói trên, Thiệu đã có lệnh là phải tử thủ nơi này; tổ chứ thành cụm chốt mạnh trên tuyến phòng thủ mới của quốc gia, để bảo vệ cho phần đất đai còn lại. Đối phương đã tập trung về đây một lực lượng khá đông: sư đoàn 2, từ Quảng Ngãi, Bình Định mới chạy về; lữ đoàn 2 dù, lữ đoàn 3 biệt động quân; sư đoàn 6 không quân. Tổng số lên đến trên 1 vạn chủ lực, ngoài ra còn lực lượng tại chỗ. Toàn bộ lực lượng nói trên, được sự chi viện rất mạnh của không quân và hải quân của quân đội Cộng hoà và còn có thể của Mỹ nữa. Với địa hình rất thuận lợi cho việc phòng thủ, với một chiến trường đã được chuẩn bị rất chu đáo, có sân bay, có bến cảng, có kho tàng; hệ thống đường sá khá tốt; quân đoàn đột phá qua cho được cửa ải này nào có phải dễ dàng gì. Trong khi đó, thì thời gian chuẩn bị lại quá ít, quân đoàn đáng đứng chân trên một địa bàn vừa mới giải phóng được vài hôm, trăm sự ngỡ ngàng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #144 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2017, 02:27:50 am »


        Bộ Tổng tham mưu cũng đã có dự kiến được khối lượng việc rất lớn của quân đoàn, nên đã cử một đoàn khá đông cán bộ, phái viên đốc chiến, theo sát giúp đỡ các đơn vị: thiếu tướng Nguyễn Bá Phát, tư lệnh hải quân, thiếu tướng Giáp Văn Cương, Phó tổng tham mưu trưởng; đại tá Hoàng Ngọc Diêu phó tư lệnh Phòng không-không quân, đại tá Đinh Thiện, tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần, đại tá Ngô Hùng… Người ta thường nói: cái khó bó cái khôn. Nhưng ở đây, trong lúc này thì lại khác: cái khó ló cái khôn. Không ít người nước ngoài thưa nhận rằng: dân tộc Việt Nam, trong nghệ thuật quân sự, đã sử dụng vũ khí, trang bị, phương tiện của địch để đánh địch, một cách đánh rất tài tình. Thật không ngoa tý nào! Để giải quyết tình trạng thiếu đạn lớn và thiếu sức kéo, sau khi được Bộ phê chuẩn, quân đoàn đã mạnh dạn lấy toàn bộ pháo 105 ly của địch, thay thế cho pháo 122 ly ở các sư đoàn, vì hai loại này, tính năng tác dụng tương đương nhau. Pháo địch có cái tốt là rất sẵn đạn, tìm đâu cũng có, rất tiện cho công tác bảo đảm, mà việc chuyển loại sử dụng, không mất nhiều thời gian. Tuy nhiên tuyệt đối không được máy móc, mà phải có sự lựa chọn thích hợp, với pháo cấp chiến dịch thì lại khác. Mặc dù thu được khá nhiều loại pháo 175, mà quân đội Cộng hoà hết lời ca tụng, đặt cho cái tên rất kêu “vua chiến trường”, thì bộ đội ta lại xếp cả lại một bên, đưa về phía sau, để giành cho các nhà bảo tàng sau này. Sơ tốc lớn, tầm bắn xa, không đủ để khắc phục những nhược điểm quá lớn của loại pháo này. Pháo chiến dịch của ta - những loại pháo 122 nòng dài, 130 ly, ưu việt hơn nhiều vì có sức cơ động lớn, rất hợp với chiến trường Việt Nam. Để khắc phục tình hình thiếu sức kéo, đồng thời giảm bớt những phức tạp về mặt kỹ thuật, các loại xe kéo pháo có bánh xích, đều được thay thế bằng các đầu máy kéo, các bánh xe cao su, vừa rất sẵn có, lại vừa cơ động hơn, và cũng ít phức tạp hơn trong công tác bảo đảm kỹ thuật. Toàn đơn vị như dấy lên một phong trào thi đua tận thu và tận dụng chiến lợi phẩm, có chọn lọc rất kỹ, để tăng cường thêm sức chiến đấu cho quân đoàn. Sáng kiến của lữ đoàn 164 trong việc sử dụng máy thông tin gắn trên xe có công suất lớn, đã giải quyết được khó khăn cho các cấp chỉ huy trong cuộc hành quân này.

        Để nâng thêm sức cơ động, Bộ còn phối thuộc cho đơn vị toàn bộ sư đoàn 517 vận tải, đơn vị Anh hùng

        Những sự thay đổi về mặt tổ chức, trang bị như trên không có ảnh hưởng gì lớn đến sức chiến đấu của quân đoàn. Nếu sư đoàn 324 là đơn vị có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, nhất là trong những năm gần đây liên tục tác chiến trên chiến trường Trị Thiên, nên rất dạn dày với bom đạn, phải ở lại để bảo vệ hậu phương, thì sư đoàn 3 của Quân khu 5 mới được phối thuộc cho quân đoàn cũng đã được thử thách rất nhiều trên dải đất miền Trung Trung Bộ.

        Mệnh lệnh của bộ còn nói rõ: Khi cần thiết phải đột phá vào Phan Rang. Như vậy có nghĩa là: lần này khác hẳn với những lần trước, phải vừa hành quân-hành quân thần tốc-lại vừa phải tác chiến. Vì vậy, việc tổ chức chỉ huy lần này cũng có những chỗ khác thường: Toàn quân đoàn được tổ chức ra làm nhiều khối, mỗi khối là một đơn vị binh chủng hợp thành, được tăng cường chỉ huy để có khả năng đọc lập giải quyết các mục tiêu trên đường đi. Công tác bảo đảm đường sá khá phức tạp, thì được phối thuộc bằng một trung đoàn thuyền của Đoàn Trường Sơn, nằm luôn trong đội hình của đoàn tiền trạm; cầu bê tông bị đánh hỏng, thì đã có sẵn cầu bê-lây của Mỹ lắp vào, rất nhanh, rất gọn; đường hỏng thì nhân dân địa phương đổ ra làm đường vòng, đường tránh, sông rộng thì ghép phà lớn như An Tân, Bà Bàu; sông hẹp thì dùng bao cát, vỏ thùng phi, nguyên vật liệu sẵn có ở các địa phương để làm ngầm cho xe qua. Công tác bảo đảm kỹ thuật cho một cuộc hành quân đường dài của một binh đoàn lớn, có đầy đủ binh khí, kỹ thuật cũng được giải quyết rất ổn thoả: mỗi lái xe, thợ sửa chữa, đều mang theo túi đồ nghề, có đầy đủ phụ tùng dự phòng. Mỗi khi đến trạm nghỉ, từ trưởng xe, nhân viên kỹ thuật, đến lái chính, lái phụ, đều bày biện dụng cụ ra làm công tác bảo dưỡng. Sinh hoạt của đơn vị cũng khác thường, mỗi xe là một lán trại, một hội trường, một lớp học để cho các chiến sĩ nghe tin chiến thắng, học tập nghị quyết, đấu tranh phê bình tự phê bình và cũng là một câu lạc bộ đẻ vui chơi ca hát. Xe còn lại bếp ăn, có đủ lương thực, thực phẩm, nồi niêu, xoong chảo, thậm chí đến cả củi đun nữa. Theo quy định chung, cứ mỗi lần dừng lại nửa tiếng đồng hồ, là phải có cái ăn ngay. Cảm động nhất và cũng lý thú nhất là cuộc hành quân thần tốc của trung đoàn 9. Vì không đủ xe, nên đơn vị phải đi bằng tầu biển từ Đà Nẵng vào Quy Nhơn. Ở đây, đã có sẵn hàng trăm xe của đồng bào vùng mới giải phóng. Cũng như ở Đắc Lắc, được các đảng bộ địa phương giáo dục và cổ vũ, rất nhiều bà con cô bác tình nguyện gia nhập vào đội hình hành quân của quân đoàn. Có xe, chồng là lái chính, con là lái phụ, vợ là nấu ăn, cả gia đình cùng chia sẻ nỗi gian lao vất vả với bộ đội và cùng nhau reo mừng, chia nhau niềm tự hào và niềm vui chiến thắng. Bất chấp cả bom đạn, không ai chịu bỏ cuộc. Kết thúc đợt chuyển quân, gần 50 gia đình còn xin cấp trên được ở lại phục vụ bộ đội, chờ đến ngày xong chiến dịch mới trở về.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #145 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2017, 02:30:51 am »


        Thị xã Phan Rang nằm trên đường quốc lộ số 1, trên ngã ba đường đi Đà Lạt, cách Sài Gòn 350 cây số. Ngày 1 tháng 4, sau khi đối phương tháo chạy khỏi Nha Trang, thì họ cũng bỏ luôn cả cái thị trấn nhỏ bé này. Nhưng Thiệu lại ra lệnh phải ở lại và đưa đến đấy một lực lượng khá đông để tử thủ.

        Đường từ hướng bắc đi vào thị xã, phải đi ven theo bờ biển, một bên là núi cao. Tiếp đến là một thung lũng hẹp, kẹp giữa hai sườn núi. Còn nắm được trong tay một lực lượng không quân khá lớn, một lực lượng hải quân chưa bị sứt mẻ bao nhiêu, nên Thiệu đặt nhiều tin tưởng vào khu vực phòng thủ này. Ngày 13, 14 tháng 4, sư đoàn 3 của Quân khu 5 và trung đoàn 25 mở đợt tiến công vào sân bay Thành Sơn, nhưng cũng chỉ mới chiếm được một vài điểm nhỏ ở rìa bên ngoài trên phía bắc. Tối ngày hôm ấy, đại quân đến. Sư đoàn 325, được lệnh tổ chức ra cụm pháo, tiến vào Du Long, để chi viện cho sư đoàn 3. Ý định của quân đoàn là đột phá trong hành tiến, đánh chiếm ngay thị xã và cảng Ninh Chữ, đồng thời phối hợp với sư đoàn 3, tiến công vào Thành Sơn. Cũng cần phải nói lên cho mọi người biết: gọi là chấm dứt mọi sự can thiệp bằng quân sự, nhưng mấy ngày trước đó, chiếc tàu mang tên Durnam của Mỹ đã lén lút chở quân đến để tăng cường cho Phan Rang và đã bốc đi 1.500 người. Đánh vào cảng Ninh Chữ là nhằm mục đích cắt đường rút lui của đối phương bằng đường biển và cũng là một đòn cảnh cáo đế quốc Mỹ.

        5 giờ sáng ngày 14 tháng 4, trung đoàn 101, sư đoàn 325 cùng với 20 xe tăng, hai tiểu đoàn pháo 105 tiến công vào thị xã Phan Rang. Địch tổ chức ngăn chặn quyết liệt tại cầu Phước Nhơn, trên đường vào thị xã. Pháo mặt đất và pháo biển bắn chặn từ Phước Nhơn đến Gò Đen, phối hợp rất chặt chẽ với máy bay ném bom, bắn rocket. Tiểu đoàn 1 của trung đoàn 25 cùng xe tăng, thiết giáp đánh địch trên cầu Hội Diêm. Sau 30 phút, phát triển vào đến khu vực nhà thờ ở phía bắc thị xã, thì chạm súng với lữ đoàn 31 biệt động quân. Tiểu đoàn 1 lần lượt diệt các điểm chốt phòng ngự từ Hội Diêm đến ngã ba Ninh Chữ, đánh tan nhiều đợt phản kích và chiếm được khu trường bắn, một vị trí phòng thủ khá vững chắc ở bắc thị xã 2 cây số.

        Trời sáng dần, máy bay hoạt động càng quyết liệt hơn, phối hợp hoả lực của súng máy đặt trên các nhà tầng, bắn như đổ đạn vào đội hình của đại đội đi đầu. Phối hợp chặt chẽ với quân phòng ngự ở chính diện, một cánh bộ binh khác vừa mới hồi phục lại, từ An Xuân, An Nhơn đánh tạt ngang với ý định chia cắt đội hình tiến công của ta. Từ 6 giờ đến 9 giờ sáng, gần 40 lần chiếc A37 điên cuồng ném bom, bắn phá vào đội hình ta. Ta bắn rơi một chiếc. Nhưng thương vong mỗi lúc một tăng dần. Trung đoàn trưởng Nguyên Văn Giảng, nắm lại đội hình, dùng tiểu đoàn 1 bộ binh và tiểu đoàn 4 thiết giáp, tổ chức thành 3 mũi tiến công, vượt qua lưới lửa, thọc nhanh vào trung tâm thị xã, đánh chiếm tiểu khu Phan Rang, toà hành hcính tỉnh và khu trung tâm thông tin. Trước hành động quả cảm, nhanh và mạnh của ta, hoả lực chi viện của địch mất hẳn tác dụng, địch nhanh chóng tan vỡ, 15 phút sau, đại đội 1 đã cắm cờ lên nóc toà nhà hành chính. Quân ta tràn vào thị xã như nước vỡ bờ. Nhân dân đổ ra đường, bất chấp lửa đạn, hò reo đón mừng bộ đội giải phóng. Trung đoàn được lệnh cho một bộ phận phát triển tiến công về phía cảng. Một chiếc tàu lớn, hốt hoảng chưa kịp rời bến, đã bị bắn cháy. Các đường rút lui đều bị cắt đứt. Cách đối phó đáng kể nhất của địch còn lại là dùng máy bay bắn bừa bãi vào xóm làng xung quanh.

        Trên hướng sân bay Thành Sơn, sư đoàn 3 và trung đoàn 25 đang gặp khó khăn. Hoả lực của địch vừa mạnh lại vừa có tổ chức, kết hợp chặt chẽ với hệ thống công sự khá vững chắc. Chả là cách đây nửa tháng, địch đã phát hiện sư đoàn 10 với toàn bộ binh, xe tăng, pháo binh đã vào đến Dư Long, ở phía bắc thị xã, rồi lại vòng về phía tây, vào chiến khu Bác Ái. Họ đoán là ta đánh chuẩn bị tiến công vào sân bay, nên có bao nhiêu bom đạn đều tập trung vào khu vực này. Nắm được tình hình này, bộ tư lệnh quân đoàn lệnh cho sư đoàn 325 dùng tiểu đoàn 2, tổ chức một mũi tiến công lên hướng sân bay để phối hợp. Vừa tiến ra khỏi ngã ba một cây số, đơn vị đã bị máy bay oanh tạc vào đúng giữa đội hình, cháy 4 xe. Đến gần trưa, 16 tháng 4, tiểu đoàn 1 cùng với xe tăng đang tiến về quận lỵ Tháp Chàm thì gặp địch, lập tức chia làm cánh: một cánh nhanh chóng chiếm quận lỵ, một cánh đánh dọc theo đường quốc lộ 11 rồi thọc vào sân bay từ phía nam. Bị đánh từ phía sau tới, địch tan vỡ, bỏ cả xe M113 chạy toán loạn. Vừa lúc ấy thì trung đoàn 25 cũng từ hướng bắc đánh xuống. Trong nháy mắt, ta hoàn toàn làm chủ sân bay, thu hơn 40 chiếc còn nguyên vẹn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #146 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2017, 02:33:32 am »


        Vì đặt quá nhiều tin tưởng vào kế hoạch tử thủ của Thiệu, nên chỉ trước đây vài hôm, CIA ở Sài Gòn còn phái ra Phan Rang một cán bộ cỡ bự, tên là Lew James, có thể là để phục vụ cho một âm mưu lâu dài sau này. Khốn nỗi! Trò chết, thày cũng chìm theo. Trong số tù binh lôi từ đám ruộng mía ra, có cả 3 người: trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, chuẩn tướng Sang và người Mỹ nói trên. Nghi và Sang đã nhanh trí vứt cả áo lính có đính sao, cố để giấu biệt tung tích; nhưng cái mũi lõ, và mái tóc quăn của Lew James, thì không viứt vào đâu được. Các chiến sĩ giải phóng đã cất được một mẻ lưới vô cùng đánh giá.

        Giao công tác tiếp quản lại cho địa phương, Binh đoàn lại tiếp tục dong ruổi. Hơn 12 tiếng đồng hồ sau, bộ phận đi đầu đã vào cách Phan Thiết 20 cây số. Hàng chục chiếc tàu chiến đã dàn sẵn dọc theo bờ biển, nã pháo, bắn chặn từ Vĩnh Hào vào đến Tuy Phong. Một trận đấu pháo lại diễn ra. Các đơn vị pháo 120 ly nòng dài và 130 ly lập tức hạ càng, chiến đấu. Chỉ mới mấy loạt đạn đầu khá chính xác, đã nhận chìm và bắn cháy 3 tàu. Đến Phan Thiết gần nửa đêm. Được địa phương cho biết có một số địch đang cụm lại ở ven sông. Để tranh thủ thời gian, ta tổ chức tiến công trong hành tiến. Đơn vị thiết giáp phái đi trước xông lên bắn mạnh vào các ổ đề kháng, nhanh chóng vượt qua cầu, chiếm hết các điểm quan trọng. Nhân dân cùng bộ đội tổ chức truy quét cho đến sáng hôm sau.

        Ngày 21 tháng 4, toàn bộ binh đoàn đã lần lượt vào tập kết ở Suối Cát, cách Xuân Lộc 15 cây số về phía bắc. Chưa kịp ăn uống gì, thì lại được lệnh phải quay lại giải phóng Hàm Tân. Địch ở đây là tàn quân của trung đoàn 40 và một số khá đông binh lính ở các đơn vị khác kéo về tổng số trên 5.000 tên. Suốt mấy ngày qua, bị lực lượng địa phương bao vây, kêu gọi, vẫn chưa chịu đầu hàng. Trước tình hình đó, sư đoàn 304 buộc phải phái ra trung đoàn 66, tiểu đoàn 5 thiết giáp và một tiểu đoàn lựu pháo để phối hợp. Biết có chủ lực ta đến, chỉ sau mấy loạt pháo bắn chuẩn bị, xe tăng và bộ binh xung phong lên, bọn địch đứa tháo chạy, đứa đầu hàng, 23 giờ ngày 22 tháng 4, ta đã hoàn toàn làm chủ thị trấn này.

        Trải qua 17 ngày đêm liên tục chiến đấu, với tốc độ đột phá trong hành tiến là 40 cây số ngày; tốc độ hành quân bình thường là 100 cây số ngày, qua 8 tỉnh, 18 thị xã, thị trấn, đánh 5 trận có hợp đồng binh chủng lớn, 3 trận đánh tàu, 9 trận đánh máy bay, cánh quân Duyên Hải đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Chỉ tính riêng sư đoàn cao xạ 673 của binh đoàn, trên chặng đường hành quân thần tốc này, đã đánh 36 trận, bắn rơi 11 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 2 tàu.

        Điều rất đáng mừng là số thương vong đã ít, mà trang bị hao hụt cũng chẳng có bao nhiêu. Toàn binh đoàn, từ cán bộ đến chiến sĩ, ai ai cũng cảm thấy lớn lên về nhiều mặt, vững tin ở sức chiến đấu của đơn vị, hăm hở chờ đón những nhiệm vụ nặng nề hơn trong những ngày sắp đến.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #147 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2017, 02:34:41 am »


Chương 20

SÓNG GIÓ BIỂN ĐÔNG

        Dưới con mắt của bọn thực dân Pháp trước kia, cũng như theo cách nhìn của Mỹ Thiệu ngày nay, những dảo và quần đảo trong vùng biển Việt Nam là những nơi từ bao đời nay nổi tiéng trên thiết giáp, không phải là nhở có rừng vàng, biển bạc, mà chủ yếu là vì có những nhà tù, những chuồng cọp hiếm thấy ở trần gian, như ở Phú Quốc, Côn Sơn…

        Những từng từng lớp lớp kẽm gai, những lô cốt bê tông cốt thép, tường cao, luỹ dày, tưởng như chưa đủ để ngăn chặn những cuộc vượt ngục, dẹp yên được những cuộc bạo loạn của tù nhân. Thiên nhiên là trở ngại lớn nhất đối với những ai mong mỏi thoát cảnh từ đày. Sóng gầm, gió rít, đã át hẳn tiếng hò hét đấu tranh, của những người mà thể xác đã bị đọa đầy đi đến chỗ chết dần chết mòn. Tường thành ở đây còn làm cho những người bị giam giữ, vốn đã bị cách ly, càng thêm cách ly với cái thế giới nhỏ bé bên ngoài: thị trấn Côn Sơn. Vì vậy trong ngôn ngữ Việt Nam, mỗi khi nói đến đảo, thông thường người ta liên tưởng ngay đến những nơi hoang vắn ở chân trời góc biển, đã đi đến đó là chẳng có ngày về.

        Chúng ta nhìn vấn đề hoàn toàn khác hẳn.

        Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi! Đất nước yêu quý của ta được những vành đai đảo và quần đảo chở che, xếp thành hàng lá chắn, án ngữ trước mặt, làm cho thêm đẹp, thêm giàu. Chúng ta vô cùng biết ơn tổ tiên mình đã sớm xác định chủ quyền trên những đảo và quần đảo lớn nhỏ, rải rác từ Bạch Long Vĩ đến Hoàng Sa, Trường Sa, đến tận Côn Sơn, Phú Quốc, mở rộng phạm vi lãnh thổ, vừa làm cho thế đứng của ta trên biển Đông thêm vững vàng, vừa làm cho nền kinh tế thêm phong phú, đa dạng, hứa hẹn cho đất nước một tương lai hạnh phúc ấm no.

        Cũng tại nơi này, ý chí đấu tranh của con người Việt Nam đã từng được đưa ra thử thách và đã từng chiến thắng: bọn đế quốc với dã tâm muốn đưa những bậc tiền bối của chúng ta đến đây để biến họ thành những thân tàn ma dại, nhưng họ lại biến nơi này thành trường học, để tôi luyện ý chí đấu tranh, để sau này, quật lại quân thù.

        Ngày nay và những ngày sắp đến, cồn cao, sóng dữ chưa phải đã êm, thiên nhiên hãy còn khắc nghiệt, và người ngoài hãy còn dòm ngó, sỉa sói. Nhưng theo gương của ông cha thuở trước, chúng ta và con cháu chúng ta sau này, không bao giờ tơ hào của ai một tấc đất, nhưng cũng quyết giữ trọn lời tuyên bố nghìn năm thuở trước: Nam quốc sơn hà nam đế cư…

        Trên tinh thần ấy, trong những ngày đầu tháng 4 năm 1975, Bộ Tổng tham mưu đã đi sâu nghiên cứu kế hoạch giải phóng các đảo và quần đảo, còn nằm trong tay đối phương.

        Có rất nhiều vấn đề cần phải đặt ra nghiên cứu:

        Trên mảnh đất miền Trung, họ đang tháo chạy, toàn bộ lục địa sớm muộn rồi cũng sẽ được giải phóng hoàn toàn, nhưng liệu họ có ngoan cố tới mức, liều chết bám chặt các đảo kia không? Lịch sử trên thế giới chẳng đã cho thấy những bọn phản động, sau khi bị tiêu diệt ở đất liền, còn dựa vào thế lực và ngoại bang, cố sống cố chết bám vào rẻo đất cuối cùng này, những hòn đảo xa xôi, để nuôi dưỡng giấc mộng phục thù, một ngày nào đó sẽ trở lại, khôi phục cơ đồ đó sao? Phương chi Mỹ đã từng rêu rao thành tích là đã xây dựng cho quân đội ngụy một lực lượng hải quân rất hùng hậu, đứng vào hàng thứ tư trong thế giới tự do. Trong giờ phút này, tuy lực quân đã bị tan tác, nhưng hải quân hãy còn gần như nguyên vẹn. Lại nữa, hạm đội 7, với bao nhiêu tàu chiến và cả một sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, hết vào lại ra, liệu chúng có mượn cớ để bảo đảm an ninh và giở trò khiêu khích gì chăng? Trên mặt bể, ưu thế của Mỹ đã rõ ràng.

        Từ lâu, các nhà địa chất đã xác định một khu vực dầu khí có trữ lượng lớn đang nằm ngủ yên dưới thềm lục địa này. Nếu có đánh nhau giằng co ở đây, không khéo lại diễn ra cái trò cò nghêo co kéo trong chuyện ngụ ngôn để cho ngư ông tóm cổ cả đôi, hưởng lợi, vui mừng.

        Ngày 4 tháng 4 năm 1975, Trung tướng Lê Trọng Tấn, thay mặt Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Hải quân và Bộ tư lệnh Quân khu 5 phải bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ có lợi nhất, giải phóng các đảo. Hành động phải hết sức kiên quyết. Tuyệt đối không được để bất cứ một lực lượng nào khác chiếm đảo trước ta. Đoàn 125 và 126 của hải quân thì chiếm các đảo xa, các lực lượng của quân khu giải phóng các đảo gần.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #148 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2017, 10:41:14 pm »


        Sau 5 ngày ráo riết chuẩn bị, ngày 10 tháng 4, 3 tàu rẽ sóng ra khơi! Bao nhiêu năm làm công tác vận tải, chi viện cho miền Nam, các tàu của đoàn 125 đều không mang số, thế mà lần này, đi đánh nhau, mỗi tàu lại mang một cái biển số to tướng: 673, 674 và 675.

        Trong công tác chi viện trước đó, ngoài kết quả lớn lao và thiết thực là ta đã được một số súng đạn, khá nhiều vào các chiến trường Nam Bộ, tạo điều kiện cho đồng bằng sông Cửu Long nổi sóng, còn có tác dụng là đào tạo cho hải quân Việt Nam một đội ngũ khá đông trưởng tàu và thuỷ thủ. Mỗi lần đi là một lần thử thách, nâng cao thêm bản lĩnh chỉ huy trong cách xử trí, đối phó với những tình huống vô cùng phức tạp diễn ra trên biển, đồng thời cũng là một dịp để rèn luyện nghiệp vụ hàng hải cho toàn đoàn.

        Các cán bộ và chiến sĩ hải quân đã có dịp làm quen với quần đảo Trường Sa, với các đảo Song Tử Tây, Vĩnh Viễn, Sơn Ca, Nam Yết, An Bang, Trường Sa v.v… trên bản đồ hàng hải của Mỹ, cả vùng biển này đều nằm trong “khu vực nguy hiểm” vì có rất nhiều đá ngầm, gió bão lại bất thường. Rải rác đó đây, xác một chiếc tàu bị mắc cạn tự bao giờ, nằm nghếch mũi lên, phơi xác trên bãi san hô giữa đại dương mênh mông, như nhắc nhủ những người gan góc nhất chớ có liều lĩnh, bén mảng đến nơi này. Hạm đội 7 của Mỹ, dù có hiện đại đến mấy, cũng phải kiêng nể những vật chướng ngại thiên nhiên, mọc ngầm dưới nước. Phát hiện được chỗ nhược điểm này của đối phương theo chỉ thị của đồng chí Lê Đức Thọ và đồng chí Võ Nguyên Giáp, ta đã nhanh chóng tổ chức những nơi này thành những kho trung chuyển hàng hóa tuyệt vời: vừa thuận tiện, lại vừa bí mật. Đi lại nhiều lần, cán bộ và chiến sĩ của các đoàn 125, 371 thuộc lòng vùng biển; đá ngầm, bãi san hô không còn là vật chướng ngại nguy hiểm nữa, ngược lại nó trở thành những vật che chở, bảo đảm cho công tác được an toàn. Thuyền trưởng Dương Tấn Kịch cùng với các thuỷ thủ từng trải của anh trở lại Trường Sa như về quê hương Cái Nước Năm Căn. Từng động cát, từng bụi cây, từng tảng đá, đều đã quen thuộc quá rồi.

        Biết được khả năng này của đơn vị bạn, trung tá Mai Năng, người chỉ huy trận đánh đặc biệt sắp đến, rất yên lòng về mặt hàng hải, nhưng không phải đã hết băn khoăn. Gần một tuần lễ nay, từ khi nhận nhiệm vụ, đêm ngày làm công tác chuẩn bị, từ người chỉ huy đến chiến sĩ, ai nấy cũng đều hồi hộp lo âu: trận chiến đấu sẽ diễn ra như thế nào? Đánh chiếm một mục tiêu là một hòn đảo, thì dùng chiến thuật gì? Bí mật tiếp cận, bí mật đổ bộ, rồi dùng chiến thuật đánh công sự vững chắc như xưa nay ta đã từng làm, hay là dùng pháo bắn chuẩn bị, bắn phá hoại, diệt cho kỳ hết các ổ đề kháng, rồi nhảy lên xung phong chiếm lĩnh? Là một đơn vị có nhiều kinh nghiệm tác chiến trên biển nhưng nhiệm vụ tác chiến theo kiểu này, kinh nghiệm hãy còn ít.

        Trước giờ xuất phát, thiếu tướng Hải quân Nguyễn Bá Phát, trong lúc giao nhiệm vụ và động viên anh em, đã không quên nhắc nhở, phải tranh thủ thời gian nghỉ ngơi, giữ gìn sức khỏe cho tốt, để dành sức cho những trận chiến đấu sắp đến. Trời không trăng nhưng đầy sao, người chiến sĩ hải quân nắm chặt tay lái, ra khơi lòng đầy haâ hoan tin tưởng. Tiếng máy tàu, tiếng sóng rẽ nước trước mũi tàu vang lên đều đều giữa đêm khuya. Nhìn về phía tây, bóng núi nhoà dần giữa màn đêm. Ánh điện của thành phố, lúc này hãy còn là một vệt trắng, cũng nhạt dần dưới chân trời.

        Qua ngày đầu hành quân, sóng yên biển lặng. Các chiến sĩ của đoàn 126, khi ở dưới nước thì vùng vẫy như cá kình, nhưng chưa quen đi tầu biển dài ngày nên sức khỏe hơi xuống. Đến nửa đêm 12 tháng 4, khi đến gần hạm đội 7, một chiếc máy bay lướt qua đội hình, lượn hai vòng, và bắn một loạt pháo sáng trước mũi tàu. Báo động toàn đoàn. Các chiến sĩ bật người dậy, lao vào các ụ súng. Xin chỉ thị cấp trên, được Bộ tư lệnh khu 5 trả lời tức khắc: “Kiên quyết đánh bất cứ ai”. Đây chẳng qua là một thủ đoạn răn đe, dọa dẫm, thử thách tinh thần nhau thôi, chứ đến lúc này, sự can thiệp của Mỹ đã chấm dứt rồi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #149 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2017, 10:43:52 pm »


        Sáng hôm sau, gặp sự cố mới: cái giá đòn gánh xu-páp của tàu 674 gẫy, tốc độ chậm lại. Lệnh của trên: “Tàu 673 của chỉ huy trưởng Mai Năng bứt lên trước, nhanh chóng chiếm cho được đảo Song Tử Tây để làm bàn đạp, sau đó sẽ phát triển xuống phía nam chiếm Sơn Ca, Nam Yết”. Vừa lúc ấy, tin kỹ thuật cho biết: một tàu lạ đang trên đường ra đảo. Một cuộc chạy đua từ hai hướng cùng lao đến một mục tiêu đang diễn ra trên mặt biển Đông. Mờ sáng, tàu 673 chỉ còn cách đảo 10 hải lý. Qua ống nhòm có bội số lớn, phát hiện có bóng người đi lại trên đảo: lá cờ vàng, ba sọc đỏ vẫn còn phấp phới bay. Địch chưa tháo chạy, chúng đang chờ lệnh. Dự kiến trận đánh sẽ gay go, quyết liệt. Trong lúc chờ đợi tàu 674, trung tá Mai Năng cho tàu mình chạy một vòng quanh đảo, để tìm hiểu thêm tình hình: phía bắc Song Tử Đông có một tàu đang mắc cạn; phía nam một tàu khác đang neo. Thì ra, không phải chỉ có quân đội ngụy Sài Gòn mà cả quân đội Philippin trên đảo Song Tử Đông cũng báo động đề phòng.

        Kết hợp những điều đã phát hiện về phía địch trong ngày của Mai Năng và sự hiểu biết về địa hình của Dương Tấn Kịch, kế hoạch tiến công được vạch ra nhanh chóng.

        Càng về khuya, gió càng lạnh. Đến 1 giờ ngày 14, sóng đã đến cấp 4. Chung quanh đảo, bọt bể trắng xoá và lân tinh sáng ngời. Mũi chính do đồng chí Huống và trung uý Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy, bị dạt ra khỏi nơi quy định khá xa; thuyền chi viện của hoả lực bị chìm khi đến gần bờ, vì va phải đá ngầm. Pháo sáng trên đảo bắn liên tục. Địch bắn rất rát trong vòng 30 phút. Vừa động viên nhau, giữ vững quyết tâm, vừa vận dụng kinh nghiệm chiến đấu cũ, bất chấp cồn cao sóng dữ, cuối cùng các mũi đều áp sát được mục tiêu. Trận chiến đấu bắt đầu lúc 4 giờ 30 ngày 14 tháng 4 kết thúc nhanh chóng trong vòng 30 phút. Bấy giờ cũng là lúc thấy xuất hiện một tàu của hải quân ngụy vừa ra đến nơi neo cách đảo không xa. Trâu chậm uống nước đục! Lá cờ nửa đỏ nửa xanh vừa được kéo lên đỉnh cột giữa, đang phấp phới tung bay.

        Các đơn vị khẩn trương điều chỉnh lại cách bố trí tổ chức mạng thông tin liên lạc, tranh thủ xây đắp tạm công sự; để củng cố dần dần thành bàn đạp vững chắc, dựa vào đó để sau này sẽ giải phóng tất cả các đảo còn lại.

        Sau ngày 30 tháng 4, tại bộ tư lệnh hải quân Cộng hoà Việt Nam trên đường Bạch Đằng, ta bắt được một quyển “nhật ký chiến sự”, có ghi lại tình hình trên mặt biển, những ngày sau khi mất đảo Song Tử Tây:

        “Ngày 14 tháng 4-tàu HQ 402 được lệnh khởi hành từ Vũng Tàu đi Trường Sa, rồi thẳng ra luôn Song Tử Tây để nắm tình hình và báo cáo về vì sao mất liên lạc.

        Ngày 15 tháng 4 phát hiện thấy hai tàu lạ ở gần đảo Sơn Ca. Lệnh cho các nơi, đặc biệt đảo Nam Yết phải chuẩn bị chiến đấu, đồng thời lệnh cho HQ 16 ra ngay Song Tử Tây, dùng vận tốc tối đa, nhanh chóng bắt liên lạc với HQ 402.

        Ngày 16 tháng 4, các tàu từ Cam Ranh trở vào phải yểm hộ cho Phan Rang, trong lúc ba khu trục Mỹ sẵn sàng ở Đông Phan Thiết.

        Ngày 17 tháng 4, HQ 402 báo cáo xác minh là Song Tử Tây đã bị chiếm. Hải quân đang tìm cách đổ bộ để lấy lại nhưng không được vì lực lượng ít, lên thì rất nguy hiểm, nên đã rút về Nam Yết lúc 20 giờ”.

        Cũng theo nhật ký này ghi lại, suốt cả mấy ngày sau đó, tình hình trên đảo Nam Yết rất căng thẳng. Vài ba chiếc tàu lạ thả xuống tiếp cận. Địch trên đảo phải bắn suốt cả đêm, tàu lạ mới chịu lùi ra xa.

        Ngày 24 tháng 4, họ nhận định: “Với sự xuất hiện nhiều tàu lạ trong khu vực Nam Yết-Sơn Ca, tàu HQ 17 yêu cầu xét đến việc rút khỏi các đảo này, vì không có khả năng đương đầu với những cuộc tiến công lớn sắp đến. Hạm trưởng ốm suốt mấy ngày liền, không ăn uống gì được, kỹ thuật kém, rada của HQ 14 hỏng, nếu không cho rút, có thể mất cả người lẫn tàu. Nếu quyết định giữ Nam Yết thì cần ba tuần dương hạm có đủ tiếp tế, đủ bác sĩ có khả năng giải phẫu và có đủ máy bay yểm trợ cho tàu”.

        Có được một bàn đạp vững chắc như Song Tử Tây, ngày 21 tháng 4, ta phát động tiến công đợt hai, giải phóng toàn bộ số đảo còn lại. Một tuần sau nhiệm vụ này mới hoàn thành.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM